|
Post by Can Tho on Mar 4, 2011 9:24:48 GMT 9
Nguyễn Ngọc Ấn Bảy Ngày Ở Quảng Trị
Phần 1 Tôi là một Y sĩ Trung úy mới tốt nghiệp khóa 18 Y Nha Dược sĩ Hiện dịch hồi tháng 12 năm rồi. Trong suốt thời gian còn học trong trường, trong đầu tôi, lúc nào tôi cũng nghĩ mình sẽ chọn Binh chủng Nhảy Dù khi ra trường nhưng hoàn cảnh làm tôi đã không thực hiện được ý muốn đó. Tôi chỉ có hai anh em, anh tôi, do học hành lận đận nên mặc dù hơn tôi hai tuổi nhưng anh đậu tú tài hai cùng năm 64 với tôi. Chán việc học hành, anh đã tình nguyện gia nhập vào trường Võ bị Đà Lạt khóa 21 và ra trường năm 66, đơn vị Lực lượng Đặc biệt. Sau bao nhiêu lần vào sinh ra tử ở các toán Delta, toán A, khi LLĐB giải tán và biến thành Biệt động quân Biên phòng cũng như đơn vị trừ bị cho LLĐB là Liên đoàn 91 Biệt cách Dù đổi thành Liên đoàn 81 Biệt cách Dù (9 nút cho nó hên) anh tôi trở thành người lính Biệt động quân. Chính vì lý do đó mà vào giờ đứng lên chọn đơn vị, tôi đã chọn Liên đoàn 5 BĐQ với ý định gia đình mình có hai anh em thì nên đi cùng binh chủng ...
Sau khi chọn đơn vị, chúng tôi, K.18 được đưa lên TYV Cộng hòa để học thêm khóa Giải phẫu Dã chiến 6 tuần. Vì vậy, ngày trình diện đơn vị của tôi là vào tháng 3/72 tại địa điểm hành quân của đơn vị tôi ở Kompong Trapek, Kampuchia. Tôi còn vui vẻ cho rằng mình được xuất ngoại dễ dàng khỏi cần visa hay passport gì cả!
Từ tháng 3/72 đến đầu tháng 4/72 là cuộc sống mới đầy xa lạ với người Y sĩ trẻ, trước giờ chưa bao giờ có kinh nghiệm được ngủ dưới lườn xe M-113 hay dang đầu ngoài nắng suốt ngày dưới cái nóng khủng khiếp của Kampuchia không một bóng cây ngoài những cây thốt nốt đơn lẻ trên vùng đất đỏ sỏi đá mênh mông. Tưởng là cực khổ nhưng thật tình cũng thấy rất vui vì lạ, lần đầu trong đời mà sống kiểu như thế nầy. Rút về Tây Ninh cuối tháng 3 tiếng là để dưỡng quân nhưng chỉ mấy ngày sau, cả đơn vị tôi được xe GMC đưa ra phi trường Trảng Lớn để chất lên bao nhiêu chiếc C-130 đang chờ sẳn.
Tôi có một nhận xét về QY/BĐQ. Khi Cục QY có nhiệm vụ đưa các Y sĩ tới các đơn vị, có ông quan lớn nào đó đã vẽ ra cái cấp số cũng như cái hệ thống điều hành cho các Y sĩ tới các đơn vị như Nhảy Dù, TQLC, Bộ binh v.v... Nhưng theo tôi, có lẽ mấy ông đó quên mấy thằng đàn em ra BĐQ. Lúc tôi ra đơn vị thì mỗi Liên đoàn BĐQ chỉ có hai bác sĩ, một đàn anh là Y sĩ trưởng, đàn em thì gọi là Y sĩ điều trị. Anh Y sĩ trưởng LĐ 5 BĐQ của tôi là Bác sĩ Huỳnh Kim Chung, khóa 13 trưng tập nghĩa là trên tôi một lớp và ra đơn vị trước tôi độ nửa năm. Tôi nhận thấy ngay từ ngày đầu, khi tôi hỏi anh Chung là trên tụi mình là ai thì anh Chung cũng không biết gì hơn tôi, anh cho biết, Tụi mình lãnh thuốc của LĐ 73 QY, còn thì giữa đám BĐQ "chằn ăn" nầy chỉ có 2 thằng tụi mình ráng sống và che chở lẫn nhau vì nếu có chuyện gì xảy ra không tốt cho mình, tao cũng không biết kêu ai để bênh vực mình nữa chớ không phải như các đơn vị tác chiến khác, họ có Tiểu đoàn QY sau lưng. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy, cho tới ngày tôi rời BĐQ để trở về đời sống dân sự, tôi còn nhớ ngày tôi ở tù ngoài Bắc về, tôi đã được BS Đào Hùng (K15 hay 16 HD?) là Y sĩ trưởng BĐQ Vùng 1 tới trại An Dưỡng 1 ở Hoà Cầm, Đà nẳng dẫn tôi đi chơi nầy khác các cái, nhờ vậy tôi biết Y sĩ trưởng BĐQ Vùng 1 là ai, chớ còn ai là Y sĩ trưởng BĐQ Vùng 3 là Vùng của tôi, tôi thiệt tình cũng không biết là ai nữa !!
Mà thật vậy, sống ở đơn vị tác chiến, may mà bản chất tôi cũng là thằng cao bồi, du côn, chịu đánh đấm (nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) nếu không nói thêm là gan lì, vậy mà ... từ các sĩ quan từ thiếu tá trở xuống tới tôi binh nhì, tôi thấy là chơi được! Nhưng mấy ông xếp từ trung tá trở lên, thật tình thấy khó sống với mấy ổng lắm.
Trở lại chuyện hành quân của tôi, khi tôi ra trình diện đơn vị thì BS Chung giới thiệu tôi với Trung tá LĐ trưởng rồi ngay ngày hôm sau có chuyến liên lạc bằng trực thăng (tôi cũng ra đơn vị bằng trực thăng theo một chuyển liên lạc từ hậu cứ ở Củ Chi), anh giao QY cho tôi rồi nhảy lên trực thăng và biến mất khỏi bầu trời Kampuchia. Từ đó cho tới lúc leo lên C-130 ở Trảng lớn, tôi không hề được gọi đi họp hành quân để biết tin tức căn bản gì cả (mình đang ở đâu, sắp đi đâu, có sắp đụng không, nếu đụng, đụng có nặng không?). Y cụ, thuốc men thì khi cần thêm, tôi nhờ ban Truyền tin gọi máy về hậu cứ để BS Chung gởi thêm lên trong chuyến trực thăng liên lạc hàng ngày với hành quân...
Bởi vậy, khi thầy trò chúng tôi 1 chục mạng, mang theo một chiếc jeep Hồng thập tự và một chiếc Dodge 4x4 với cái chữ thập to tướng hai bên hông xe, leo lên C-130 tôi thiệt tình không biết mình sắp đi đâu cho tới khi đáp xuống khoảng 5 giờ 30 chiều, tôi thấy 4 chữ Phi trường Phú Bài ở cổng phi trường. Lúc đó tôi mới biết mình đã ra tới Huế (lại được du ngoạn những chỗ từ trước đến giờ chưa bao giờ được đi!). Nói du ngoạn thiệt là mắc cở, tôi có được thấy Huế gì đâu? Đêm đó, 4/4/72, đoàn xe GMC chở LĐ 5 BĐQ chúng tôi chạy ào ào ra hướng Bắc. Hồi đầu, đệ tử Hải nẫu, trung sĩ y tá người Huế, "thổ công" ngoài nầy, nói mình chạy hướng Bắc là ra Huế đó ông thầy. Vì Phú Bài là ở hướng nam Huế làm tôi tưởng bở, cứ nghĩ chắc mình ra Huế, biết đâu tối nay có dịp lắc thử đò sông Hương. Xe chạy tới Huế, rồi đi thẳng luôn làm tôi ngỡ ngàng, bây giờ hỏi thằng Hải nẫu thì nó cũng hết biết mình đi đâu?
Trên đường xe chạy ra hướng Bắc, tôi thấy bao nhiêu người dân gồng gánh đi về hướng nam. Tôi thuộc địa lý nước VN mình nên tôi biết, những người đó phải là người dân ở tỉnh phía bắc Huế (còn tỉnh nào khác ngoài Quảng Trị?). Chắc là đụng ngoài đó rồi! Đêm đó, ngủ lại Hương Điền, trong một căn cứ cũ của Mỹ hồi trước, tôi đâu có biết đêm đó là đêm cuối cùng tôi ngủ không nghe tiếng súng trong thời gian tôi ở ngoài nầy...
Tôi đề tựa bài viết nầy là 7 ngày ở Quảng Trị là vì 7 ngày đó bắt đầu từ 27/4 cho đến 3/5/72 với bao nhiêu biến cố cho cá nhân tôi, cho lịch sử chiến tranh VN và hơn hết, sau nầy tôi mới biết, tôi là nhân chứng sống bằng mồ hôi, nước mắt (may mà không có máu!) trong cái mà nhà văn Phan Nhật Nam đã gọi là Đại lộ Kinh hoàng của Mùa hè đỏ lửa 1972.
Từ ngày 4/4 cho đến ngày 27/4, tôi được cái may mắn là trở về Saigon nhờ BS Chung trở ra thay cho tôi về hậu cứ nửa tháng. Do đó, tôi trở ra thay lại cho anh Chung vào ngày 20/4. Được cái, làm bác sĩ, kiếm máy bay đi vô đi ra cũng không khó lắm. Đơn vị tôi, LĐ 5 BĐQ ngày 20/4 có thể nói là tơi tả trông thấy. Hồi ở Kampuchia (tưởng chừng như kiếp trước) đi đánh nhau hoài bổ sung không đủ, mỗi đại đội tác chiến chỉ còn độ 5, 6 chục người. Từ ngày ra Quảng Trị tới nay đã gần tháng mà trước sau tôi chỉ thấy có một lần bổ sung quân số cho Liên đoàn là 200 tân binh. Thử chia đều 200 tân binh cho các đại đội thì Liên đoàn gồm 3 tiểu đoàn tức 12 đại đội, vậy mỗi đại đội nhận được khoảng 16 hay 17 người lính mới tò te có nghĩa một đại đội sẽ lên được gần 50 người nghĩa là cũng chỉ bằng phân nửa con số lý thuyết.
Tôi vì chữa trị cho các thương binh nên tôi biết. Bấy giờ, đại đội nào còn "ngon lành" cũng không quá 50 người, đa số đều là trên dưới 30 mạng, nghĩa là quân số chỉ là một trung đội, nhưng Chuẩn tướng Vũ văn Giai không cần biết chuyện đó. Ông ta giao một tuyến cho đơn vị là đại đội để giữ (thực tế là một trung đội, hỏi giữ sao được trong khi chính SĐ 3 BB của ông đã bỏ ngỏ Cửa Việt cho VC tràn qua đó để bọc hậu chúng tôi? Việc nầy sĩ quan ban 3 Liên đoàn, Đại úy Thọ, K19 Dalat, hồi ở trong tù CS ngoài Bắc nói cho tôi nghe trong nỗi tức giận của anh. LĐ 5 thì có nhiệm vụ lấy lại thị trấn Đông Hà là cái mũi cực bắc của chiến trường lúc đó, khi tôi sau khi đi tour về hậu cứ xong trở ra thì TĐ 33 của LĐ 5 đã đánh chiếm lại rồi nhưng vấn đề là làm sao giữ đây? Từ 20 tới 27/4, tôi nằm với BCH/LĐ ở một cái nghĩa trang 5 cây số phía nam Đông Hà và ăn pháo VC suốt ngày đêm. Không bao giờ có nghe tiếng đề pa vì chỉ nghe toàn tiếng nổ. Đêm đêm nghe ké máy truyền tin của Trung tâm hành quân để theo dõi trận chiến ở Đông Hà khi VC đang cố đánh đơn vị tôi ở đó để dành lại cái thị trấn mà theo tôi nghe nói, giờ nầy có còn gì đâu ngoài những đống gạch vụn?
Có chút an ủi cho tôi, tôi gặp mấy thằng bạn cùng lớp, BS Huỳnh Văn Chỉnh (tức ca sĩ Trung Chỉnh), chàng lúc đó ở TĐ 6 TQLC cũng như BS Phạm Đăng Hương, bạn thân chí cốt của tôi, ở LĐ 4 BĐQ đều đang có mặt ở mặt trận Quảng Trị. Chỉnh thì gặp giây lát nhưng chưa bao giờ tôi thấy cảm động như lúc đó, hai thằng ôm choàng lấy nhau vì đúng là trong tâm tư, chúng tôi giống như hai con người gặp nhau ở một hành tinh xa lạ, hoàn toàn khác lạ với mình. Gặp nhau, nhờ bạn mà như thấy lại mình là ai. Tự nhiên mới hôm nào còn là một SV Y khoa vi vút ở đất Saigon mà giờ nầy, súng nổ đạn bay không ngớt. Rồi tôi cũng gặp được Phạm Đăng Hương, thằng bạn thân đã cùng bắt tay ước hẹn ra BĐQ với tôi, BS Hương thì mới bị lật xe jeep, may mắn là trầy sơ sịa nhưng tứ chi còn nguyên vẹn.
Những ngày ngoài mặt trận Đông Hà, tôi thật tình có thể nói như một người bị overdosed. Làm thì làm chết bỏ, mổ nhỏ, may vá, moi miểng pháo, lựa thương trong khi trên đầu vẫn là đạn pháo bay ngang ào ào. Cuộc sống 24 giờ hết 23 giờ ở dưới hố cá nhân, thương binh được cứu chữa thì nằm trên băng ca ngay trên miệng hố, các y tá thì chạy lúp xúp để làm những gì tôi nhờ vả. Cái nguy hiểm là, thật tình nói bằng danh dự, tôi cũng có sợ nhưng sợ chắc không bao nhiêu vì tôi nghĩ, ai sao mình vậy, chỉ có cái chết của những người lính mới làm tôi rúng động.
Mặc dù là bác sĩ mới ra trường nhưng chúng tôi, ai cũng đã từng chứng kiến bao nhiêu cảnh chết chóc xảy ra trong các BV mình đã đi qua. Nhưng ở đây thật không thể tả cái chết sao cho xiết được. Tôi còn nhớ mãi một buổi chiều, lúc đó, QY LĐ 5 BĐQ hợp tác với QY Thiết đoàn 20 Kỵ binh (là Thiết đoàn duy nhất ở Vùng 1 lúc đó trang bị bằng xe tăng M48) để bác sĩ của hai đơn vị giúp nhau giải quyết thương binh.
Chiều hôm đó, một chiếc GMC chạy về chỗ QY chúng tôi, cửa xe mở ra và mấy người lính thiết giáp khiêng xuống một cái băng ca trên đó có cái gì cơ hồ không phải một người nằm vì nó ngắn ngủn và to hơn hình thù của một con người. Mấy người lính thiết giáp, nước mắt nước mũi nhoè nhoẹt, khiêng băng ca chạy ào đến chúng tôi (rất tiếc, vì tuổi già, tôi đã quên tên anh đàn anh một lớp ở Thiết đoàn 20 Kỵ binh năm 72). Thấy sự có mặt của những hai bác sĩ, họ đã đặt cái băng ca xuống đất và tranh nhau kêu gọi chúng tôi chữa cho người lính bạn họ đang nằm trên băng ca. Tthì ra trên băng ca là một thương binh. Tôi nghĩ còn gì ghê gớm hơn cảnh một người lính ngồi trong xe thiết giáp bị đạn B40 hay B41 bắn xuyên vào xe và cắt đứt tiện 2 chân của anh, dĩ nhiên anh đã chết từ lúc nào rồi. Bạn đồng ngũ đã bỏ anh lên băng ca khiêng về nơi QY đóng quân để nhờ bác sĩ cứu chữa. Anh tử sĩ, người ngắn ngủn vì mất hai chân, bạn anh đã đặt hai chân bên cạnh anh trong băng ca giờ nầy như một cái bồn đựng đầy máu. Trong đầu óc đơn sơ của những người lính trẻ, họ nghĩ bác sĩ như thần, như thánh, có thể chữa khỏi bất cứ cái gì, ngay cả làm cho người chết sống lại hay làm người bạn của họ gắn được hai chân trở lại… Tôi biết làm gì hơn là cũng đứng đó, nước mắt cũng chảy dài với họ?
Trung tá LĐT LĐ 5 BĐQ của tôi, nói thật, đã cho tôi những ngỡ ngàng không tả nổi. Như nói từ trước, tôi có bao giờ biết trước là LĐ bị đưa vào trận đánh lớn như thế nầy để dự trù thuốc men y cụ các cái? Thành thật mà nói, ngoài việc về hậu cứ moi lên, tôi cũng không biết thời gian từ dự trù gởi qua LĐ 73 QY tới lãnh về đơn vị tốn bao nhiêu thời gian nữa mà đơn vị tôi thì di động liền liền thì làm sao thực hiện được. Do đó, khi ra Quảng trị, QY của tôi chỉ mang tất cả y cụ thuốc men của cuộc hành quân di động bên Kampuchia gồm có vài thùng thuốc và 6 cái băng ca mà chỉ nửa ngày đụng trận là đều có thương binh nằm trên đó. Bao nhiêu thương binh khác không có băng ca để nằm.
Dĩ nhiên là khi tản thương về BV Quảng trị, mình có quyền đổi (trade) băng ca nhưng trong khi chờ đợi thì số thương binh đưa về cái nghĩa địa nơi BCH/LĐ đang đóng là con số hàng 3, 4 chục mỗi ngày. Làm sao tôi có thể để người chết nằm dưới đất? Thành ra thương binh của tôi, trong khi chờ tản thương thì phải nằm dưới đất. Cũng may Trời Phật độ cho tôi (hay cho đơn vị tôi?) không một trái pháo nào trong số hàng ngàn mỗi ngày bắn trúng vào chu vi BCH/LĐ nên không có cảnh người chết 2 lần, thịt da nát tan…
Nhưng vì tôi đã để thương binh nằm dưới đất nên bị Trung tá LĐT kêu lên lều chỉ huy để sỉ vả thảm thiết. Nào là thiếu chuẩn bị, không biết tính toán và hơn hết là... ngu! Nặng nhất là anh ta đã không tiếc việc xài tiếng "Đan mạch" với tôi không ngớt. Việc tiếng Đan mạch như tiếng đệm thì khác với tiếng Đan mạch xỉa vào người đối thoại, thí dụ trong câu nói, người ta lót chữ ĐM vào thì khác với ông Trung tá xếp tôi nói một tiếng là ĐM anh! Hai tiếng là ĐM anh! Dĩ nhiên, tôi không đi vào chi tiết việc tôi phản ứng ra sao nhưng chắc các bạn cùng khóa 18 HD cũng đoán được cái phản ứng của tôi… và từ hôm đó, ông Trung tá không nhìn mặt tôi mà tôi cũng đâu có hưỡn để nhìn mặt ảnh.
27/4/1972
Buổi sáng, Trung tá LĐT gọi tôi tới lều chỉ huy và ra lệnh tôi mang theo vài quân y tá về trình diện BV Quảng trị. Theo ông ta cho biết thì các bác sĩ của BV Quảng trị đã bỏ đi hết về Huế, vì vậy các thương binh đưa về đó chỉ còn được hưởng sự săn sóc của những y tá không đường chạy và các bà sơ ở cái nhà Dòng trong tỉnh mà thôi. Giờ thì chỉ còn cách đưa các bác sĩ ở các đơn vị đang tham chiến ngoài mặt trận trở về đó để lo cho thương binh của đơn vị họ chớ không còn cách nào khác. Được lệnh, tôi giao QY/LĐ lại cho ông Xê, y tá trưởng hành quân, mới thăng cấp thượng sĩ để mang trung sĩ Hải "nẫu" và hạ sĩ Long "đại liên" theo chuyến Dodge 4x4 chở thương binh chạy về Quảng trị.
Tuy hổm rày mang tiếng hành quân ngoài Quảng trị nhưng đây là lần đầu tiên tôi được dịp vào thành phố. Không riêng gì tôi là dân miền Nam cũng như hạ sĩ Long của tôi, trung sĩ Hải nẫu dân Huế đặc cũng chưa bao giờ có dịp đặt chân ra thành phố nầy. 3 thầy trò tôi (Hải lái xe) chạy từ phía bắc về, qua cầu Thạch Hản là tới ngã ba để quẹo trái vào thị xã. Con đường có hai hàng cây đầy bóng mát thật dịu, bù với cái nắng chang chang ở cái nghĩa địa BCH/LĐ đóng hổm nay. Ngay đầu con đường vào thị xã bên tay trái là tiền cứ của LĐ 5 BĐQ chúng tôi nhưng chúng tôi không ghé vào mà chạy thẳng vào bệnh viện ở quá nơi đó chừng vài trăm thước.
Bệnh viện Quân Dân Y Quảng Trị là ba dãy lầu khang trang xếp hình chữ U mà trong sân là mấy cây phượng đang vào hè nên hoa đỏ nở rộ trông thật xinh đẹp nhưng chúng tôi không có cơ hội bình an để thưởng thức cái đẹp nầy lâu hơn vì ngay khi đó, như để chào mừng chúng tôi, một loạt pháo kích đã nổ đùng ngay đâu đó và hai trái đã rơi vào ngay trong sân BV làm vẩn đục bầu trời yên tỉnh, tiếng người chạy kêu nhau dồn dập lao xao. Quen kiểu sống mấy hôm nay, ba thầy trò chúng tôi đã vội lao ra khỏi xe để nằm sát xuống đất. Hình như bọn Cộng quân chỉ bắn để hù doạ thị xã hay để chứng tỏ sự có mặt của chúng gần kề mà thôi nên sau loạt pháo đó thì mọi sự trở lại yên ắng khác thường, cái im lặng sau những tiếng nổ lớn nghe như đè nặng trong tim tôi.
Khi tôi tìm đến cái cửa đề hàng chữ "Bộ Chỉ huy Bệnh Viện" rồi bước vào, thay vì tìm thấy những người mặc quân phục thì tôi chỉ thấy một bà sơ đứng tuổi đang ngồi đánh máy. Khi thấy tôi vào, bà sơ ngẩng lên và hỏi tôi:
-Trung úy cần gì?
-Dạ thưa ma soeur, tôi muốn gặp sĩ quan nào đó của Bộ chỉ huy BV.
-Còn ai nữa đâu đây mà gặp. Mấy ổng đi Huế hết trơn mấy bữa nay rồi.
-Vậy thì mình ở đây làm việc ra sao hả ma soeur?
-Chúng tôi thuộc dòng tu gần nhà thờ La Vang, từ hôm chiến trường bùng nổ lớn thì Mẹ Bề trên đưa chúng tôi gồm mười mấy người tới giúp cho thương binh trong BV. Mấy bữa nay thì tình hình có vẻ găng quá, đồng bào thì bỏ chạy gần hết, có dịp ra phố Trung úy sẽ thấy. Còn mấy ông bác sĩ, nha sĩ , dược sĩ còn ở lại cho tới 2 hôm trước họ mới bỏ đi. À mà Trung úy là ai, tới BV có việc gì vậy?
-Dạ, chẳng dấu gì ma soeur, tôi là bác sĩ của LĐ 5 BĐQ nằm ngoài gần Đông Hà gần tháng nay, hôm nay ông xếp nghe nói các bác sĩ ở BV đã đi hết rồi nên ổng ra lệnh cho tôi về đây để lo việc điều trị cho thương binh của đơn vị tôi.
-À, thế thì tốt quá, ở đây hiện có mấy bác sĩ của TQLC, SĐ 3 cũng đang làm việc kiểu như bác sĩ vậy.
-Vậy xin ma soeur vui long cho biết vấn đề ăn ngủ ra sao, tôi còn mang hai y tá đi theo và trại bệnh chỗ nào để mình chắc là phải bắt tay vào làm việc ngay thôi.
Thế là ma soeur đưa thầy trò chúng tôi tới khu ăn ở của nhân viên BV rồi sau đó đưa luôn xuống trại bệnh. Theo lẽ thì BV Quân Dân Y Quảng trị cũng có khu Nội, Ngoại, Sản, Nhi và phòng Nha như lệ thường nhưng giờ nầy thì 99% bệnh nhân đều là ngoại thương hết và đa số là thương binh của các đơn vị TQLC, BĐQ và SĐ3 cũng như một số ít là Địa phương quân.
Giường bệnh không đủ và nếu để đó sẽ tốn chỗ nên đã dẹp đi đâu hết. Hiện thương binh nằm sắp hàng dài dài dưới đất vừa có lợi nằm được nhiều người hơn vừa tránh được miểng pháo tốt hơn. Được cái là tuy nằm dưới sàn nhưng là sàn gạch bông phải nói là sạch sẻ chớ không như nằm dưới đất ngoài BCH/LĐ ở nghĩa địa ngoài mặt trận. Phòng nào cũng có nhiều cửa sổ nên thoáng mát. Những bình "nước biển" được treo bằng những biện pháp vô cùng dã chiến do sáng kiến của nhân viên BV vì cái giá để treo cũng không đủ cung ứng cho nhu cầu. Điều tôi nhận thấy là không có bịt máu nào cả, chắc là ngân hàng máu đã hết sạch dự trữ, có ngon lành lắm cũng chỉ là Lactate Ringer là cùng.
Cái vui của tôi là ở đây, tôi được gặp lại các bác sĩ cùng lớp, Huỳnh Văn Chỉnh (TQLC), Bùi Thế Chung, Nguyễn Văn Thành Như, Trần Văn Nhung (SĐ3BB). Chúng tôi bỏ mấy phút để cười đùa với nhau. Trong hoàn cảnh xứ lạ quê người gặp nhau, lại thêm tình cảnh súng nổ đạn bay nguy hiểm không bút mực nào tả xiết, thì cái tình cảm anh em bạn bè cùng khóa sao thấy ấm lòng vô cùng.
Sau đó một chút là anh em y sĩ chúng tôi, người nào việc nấy, cắm đầu cắm cổ vào lo cho thương binh của mình với sự phụ giúp của các y tá mang theo về từ đơn vị. Cái gì thiếu hay muốn lấy thì hỏi các bà sơ, mấy bà có thể nói nêu tấm gương hy sinh phục vụ thật cao cả. Chúng tôi làm vì nghề nghiệp, vì tình đồng đội, vì sứ mạng, còn mấy bà sơ, giờ nào cũng có mặt, lo lắng phụ giúp cho chúng tôi hết lòng hết dạ. Tôi nghĩ, ngoài lý do thiêng liêng tôn giáo, có lẽ còn là tình người VN, trái tim biết đau khổ trước cảnh đổ máu của bao nhiêu chiến sĩ VNCH trẻ trung, đầy sức sống mà nay nằm rên siết hay mê man vì bom đạn của bọn Cộng quân.
Chúng tôi làm việc quên cả cơm trưa, tới khi nghe đói mờ người mới hay là bên ngoài trời đã tối. Nhà ăn trong BV lúc đó có nhà bếp cũng là mấy bà sơ lo, tôi không muốn làm phiền mấy bà thêm nên định rủ các bạn nhưng tìm không thấy ai bèn gọi hai quân y tá của tôi leo lên chiếc Dodge phóng ra tỉnh, trước là kiếm cái gì bỏ bụng, sau để nhìn qua ít ra cũng thấy Quảng trị cho dù hôm nay cái cảnh vật của thị xã thật không giống chi Quảng trị bình thường khi chưa có chiến tranh tràn tới.
Những con đường tráng nhựa loang lở vi dấu đạn pháo kích của Cộng quân, hình ảnh những người dân phóng xe thật nhanh như cố trở về nhà cho sớm sau những phút giây vì việc nào đó bắt buộc phải ra khỏi mái nhà gia đình. Đường xá vắng vẻ một cách lạnh lùng, đèn đường chỉ còn đôi ba bóng chiếu cái ánh sáng vàng vọt xuống lòng đường đầy lá rụng và rác. Rác khắp nơi vì không còn ai làm công tác vệ sinh thành phố nữa. Nhà nhà cửa đóng then cài, kể ra số người dân còn ở Quảng trị cũng không phải là ít, việc đó thì trong tương lai thật gần tôi sẽ thấy.
Không khí tuy đầu hè nhưng ở miền Trung về đêm thì trời cũng lành lạnh. Cái lạnh nầy rất lạ, từ trước đến giờ sống trong miền Nam tôi không cảm thấy bao giờ. Lạnh không nhiều nhưng mơ hồ như những mũi kim nhọn đâm vào trong xương tủy. Mới tối hôm qua còn nằm ngoài trận địa, theo lẽ tôi phải thấy lạnh hơn nhưng tôi đã không hề cảm thấy nó, có lẽ vì cái không khí chiến tranh đang đè nặng lên đơn vị, và chung quanh tôi, tuy im lặng về đêm nhưng tôi biết vẫn có bao nhiêu chiến hữu nằm đâu đó. Ở đây, cái vắng tanh trong một thành phố lạ làm cho tôi thấy lạnh hơn là nằm trong cái bãi tha ma phía nam thị trấn Đông Hà nhiều.
Sau cùng thì thầy trò chúng tôi cũng tìm được quán ăn nhỏ để cơm nước xong còn trở về Bệnh viện. Tôi thấy ngoài ba thầy trò chúng tôi, những người có mặt ngoài đường hay trong quán ăn với chúng tôi đều là những quân nhân mà hầu hết là đồ xanh của SĐ 3 BB hay địa phương quân tỉnh Quảng trị. Những sắc lính còn lại là rằn ri TQLC, BĐQ cùng với một số thiết giáp mũ đen. Nhưng sắc lính nào cũng vậy, đa số đều mang trên người bộ quân phục dơ bẩn với cát bụi hành quân và gương mặt thì ai cũng hốc hác. Từ cái máy cassette rẻ tiền bên trong quán vẫn còn tiếng rên siết nỉ non của cô ca sĩ nào đó tôi không biết tên đang nhớ tới người tình ngoài mặt trận đệm vào với tiếng pháo kích đì đùng từ xa xa vọng về. Chúng tôi lo thanh toán thật nhanh bữa cơm tối xong trở ra xe lái về BV.
Tối hôm đó, Hải nẫu và Long đại liên trở qua tiền cứ Liên đoàn ở gần bên BV trước là để ngủ bên đó, sau là để có chỗ cất chiếc xe Dodge 4x4 của QY LĐ. Còn tôi thì tìm phòng trực của các bác sĩ để ngủ. Lúc bình thường, tôi đoán quý đàn anh "tĩnh tại" chắc ai cũng có nhà riêng ngoài phố, chỉ có trực mới ở lại đêm trong BV nên phòng trực chỉ có hai giường. Bởi vậy khi đám khóa chúng tôi (năm bác sĩ và có một dược sĩ, một nha sĩ không biết thuộc khóa nào) gồm bẩy người ở các đơn vị về đây thì đúng là không có đủ giường. Được cái các bà sơ (cũng các bà sơ) đã lo liệu chu đáo trước rồi, sàn gạch thì đã được lau sạch sẽ, trên đó trải sẳn chăn mền các cái cho anh em chúng tôi. Tưởng chừng anh em chúng tôi lại có dịp bù khú cho bỏ nhưng cái mỏi mệt cũng như cái tinh thần căng thẳng đã làm cho anh em chúng tôi mới nằm xuống không lâu nhưng ai cũng đi vào giấc ngủ mặc cho tiếng súng xa xa cứ việc đì đùng ...
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 4, 2011 9:25:24 GMT 9
Phần 2 28-4-1972
Ánh nắng rực rở của một ngày mới chiếu qua cửa sổ đánh thức mọi người. Chỉ có một nhà vệ sinh nhỏ cho bác sĩ trực nên tôi em phải luân phiên xử dụng. Ai sửa soạn xong đi xuống nhà ăn trước vì các bà sơ có lo cho anh em ăn sáng rất tử tế. Khi ngồi ăn sáng ở nhà ăn, tôi nhìn lên cuốn lịch trên tường bổng giật mình, à, bửa nay là sinh nhật của mình! Trong bụng nghĩ, mặc dù tôi không bao giờ ăn mừng sinh nhật nhưng đúng là chưa bao giờ tôi có dịp hưởng ngày sinh nhật mình trong hoàn cảnh như thế nầy. Nhưng tôi đâu có ngờ, sự thể sẽ còn tệ hơn nhiều nữa vì trong đời tôi, sẽ không bao giờ có một ngày sinh nhật tệ hơn như vậy.
Một ngày làm việc quần quật ở trại bệnh và phòng mổ. Tất cả đều là ca thuộc Ngoại khoa. Chúng tôi giúp nhau trong các ca mổ lớn, mổ nhỏ cả lựa thương, cấp cứu các ca mới từ mặt trận chuyển về. Các bà soeurs có nhiều bà lúc trước có lẽ đã có học về y hoặc đã được huấn luyện đâu đó nên đóng vai trò y tá phòng mổ rất thông thạo. Phải nói, không có mấy bà soeurs thì chúng tôi đã không làm được việc gì hết vì mấy bà lo và yểm trợ chúng tôi đủ mọi thứ. BV Quảng trị tuy thiếu vắng nhân sự nhưng tình trạng y cụ thuốc men kể ra cũng còn khá đầy đủ. Nói chung nếu tình hình cho phép thì nội trong 10 ngày, tôi nghĩ, tất cả thương binh sẽ trở về trường hợp bình thường nghĩa là mọi người đều sẽ được săn sóc đúng mức, các bác sĩ sẽ không còn phải làm mờ mắt nữa và mỗi khi thương binh được đưa về sẽ được săn sóc chu đáo ngay. Nhưng khi tôi nói lên cái ý nghĩ đó thì các bạn tôi đứng gần đó cười ồ, tôi ngạc nhiên thì bà soeur phụ trách phòng Dược nói:
-Bác sĩ lạc quan và tận tâm thì nói thế thôi chứ tình trạng nầy kéo dài thêm một vài ngày nữa là mình hết trơn cả thuốc men và lương thực.
-Ủa ma soeur nói vậy thì làm sao ?
-Chúng tôi cũng đang lo ráo riết đây nhưng từ hơn tuần nay bệnh viện không có được tiếp tế gì hết vì lý do bệnh viện hiện đang thiếu chữ ký của các bác sĩ có thẩm quyền mà mấy ông thì đã bỏ về Huế cả rồi. Mọi thức từ thuốc men cho tới thức ăn, củi lửa đều được lấy ra xài từ phần dự trữ cũng như lấy từ...Nhà Dòng ra đó...
Tôi nghĩ mà bực mình cho các vị ở tuyến sau. Ỏ mặt trận lính chết và bị thương cũng không bổ sung quân số, đơn vị chỉ còn hơn 30 nghĩa là bằng quân số lý thuyết của một trung đội mà cứ phải đóng vai trò của một đại đội, rồi thương binh đưa về bệnh viện Quảng Trị, các bác sĩ đã trước hiểm nguy bỏ nhiệm sở, rồi tiếp tế cho bệnh viện không ai màng tới vì các cấp ở tuyến sau không thấy chữ ký của ai là người có thẩm quyền để xin thuốc men lương thực cả! Thật là cái vòng lẩn quẩn không lối thoát. Chỉnh nói:
-Mấy hôm trước tao đã chuyển một số thuốc men của Tiểu đoàn tao (TĐ 6/ TQLC) qua bệnh viện để có xài đó. Tụi SĐ 3 cũng vậy, tụi nó cũng chở thuốc trung đoàn nó qua đây, hỏi bọn thằng Như, thằng Nhung coi có phải không?
-Vậy thì tao cũng sẽ chuyển một mớ của Liên đoàn tao qua bệnh viện thôi... Tôi nói.
Mẹ Bề Trên chen lời :
-Các bác sĩ còn trẻ nên nhiều lưong tâm thật tốt. Nhưng cái nan giải vẫn còn nằm trong tình trạng lương thực vì thương binh đưa về càng nhiều thì lương thực càng trở thành khó giải quyết lắm ..
Anh em nhìn nhau nghẹn lời, hết ý kiến. Tôi bực tức nghĩ và tự hứa thầm rằng ngày nào đó, khi tôi ở được vị trí có quyền lực, tôi sẽ không chấp nhận những chuyện nầy xảy ra trong Quân đội mình nữa nhưng tôi lại nghĩ, đánh giặc kiểu nầy thì làm sao quân mình chống nổi Cộng quân để có thể có ngày mình lên làm lớn?
Buổi trưa, tôi tạt qua bên Tiền cứ của Liên đoàn ở bên cạnh BV để hỏi thăm chút chuyện về hậu cứ, sau đó trở lại BV khi nghĩ tới bao nhiêu thương binh còn nằm la liệt trên sàn nhà đang chờ mình. Nhưng ngạc nhiên cho tôi vô cùng là ngay dưới sân, trước phòng của các bác sĩ là một chiếc xe jeep "ở truồng," không kính, không mui, chỉ như cái hộp nằm trên 4 cái bánh xe mà trên đó ba lô chất lổn ngổn. Các bạn tôi thì còn đang loay hoay quanh đó, thấy tôi về tới, Như đã la lên:
-Thằng nầy hên thiệt, về đúng lúc. Lẹ lên Ấn ơi, theo chúng tao về Huế liền bây giờ đi kẻo trể.
-Mầy nói cái gì mà tao không hiểu gì hết vậy?
-Mầy ngu quá, bộ mầy không biết là Quảng Trị sắp mất đến nơi rồi hay sao? Tụi tao khó nhọc lắm mới kiếm ra chiếc jeep "ghẻ" này đó. Ở lại thì thác oan con ơi, còn theo tụi tao thì tối nay đã có thể ... lắc đò ở sông Hương được rồi.
Nhìn lại đám anh em bạn cùng lớp sắp sửa bỏ nhiệm sở, tôi thấy những người đồng nghiệp của mình, mặt họ nghiêm trọng và ai cũng tuồng như nửa thẹn thùng, nửa phải đành chịu trốn chạy, cái cảm giác kỳ lạ đó thật khó diễn tả. Rồi bản năng sinh tồn ở trong tôi làm tôi cũng nghĩ tới chuyện hiểm nguy khi ở lại vì Quảng Trị hiện đang ở vào chiều hướng thất thủ nên tôi nói:
-Cho tao mấy phút tao chạy lên phòng túm mớ đồ nhe tụi bây.
Nhưng khi tôi chạy vào toà nhà là khu chữa trị với các thương binh nằm đầy ra sàn nhà trên đường tới cầu thang dẫn lên phòng trực các bác sĩ thì một anh thương binh mặc đồ rằn ri chụp lấy chân tôi (vì anh ta nằm dưới đất):
-Tới ông thầy cũng bỏ tụi em nữa hay sao ông thầy?
Câu nói nầy đi vào tâm khảm tôi suốt đời không bao giờ tôi quên vì chính câu nói đó đã thay đổi cả cuộc đời của tôi sau nầy. Tôi đã vì nó mà quyết định ở lại Quảng Trị, vì ở lại Quảng Trị mà đời tôi đã phải quẹo sang một ngõ khác và rủi may cơ hồ như lẫn lộn... Chỉ biết lúc đó, tôi thấy lòng mình chùng xuống, sao ta lại có thể bỏ những thương binh ở lại để trốn chạy trước như vậy được? Lương tâm người y sĩ ở đâu ? Tôi mơ hồ như quên hết các dây liên hệ bản thân như gia đình, vợ con và cuộc đời của mình mà chỉ thấy trước mặt là danh dự, trách nhiệm mà thôi... Tôi quay ra ngoài sân gọi các bạn:
-Thôi tụi mầy đi đi, tao ở lại, đi đường bình an nhé.
-Mầy ở lại thiệt sao Ấn, đừng khùng mầy ơi. Mầy có ở lại cũng không làm được gì đâu. Mọi sự đã tan nát hết rồi ... Như còn cố thuyết phục tôi.
Mấy anh em QY mình nhảy lên ngồi lổn ngổn trên xe, Chung ngồi vào tay lái, Như còn quay lại nhìn tôi nói:
-Hy vọng gặp lại mầy ở Huế nghe Ấn...
Rồi xe chạy từ từ ra hướng cổng bệnh viện để lại chút bụi đường giữa buổi trưa nóng bức của một thành phố điêu tàn. Tôi cúi đầu quay trở vào và cầu nguyện thầm Xin vong hồn Cha phù hộ cho con... Rồi lặng lẽ trở về với thương binh. Chỉ còn Chỉnh của Thủy quân lục chiến ở lại với tôi. Ngoài ra còn có một hai anh chàng sĩ quan trợ y cũng ở lại vì không đủ chỗ trên xe, tôi còn biết gì hơn là đắm chìm vào công việc, hy vọng Trời Phật sẽ phù hộ cho mình cũng như cho các thương binh trong cái bệnh viện xấu số bị bỏ rơi nầy. Nhưng tuy làm việc không ngừng nghĩ, trong đầu tôi vẫn vương vấn chuyện các bạn bè sau chót (trừ Chỉnh) đã bỏ đi. Giờ nầy tụi nó tới đâu rồi ? Có về được tới Huế bình an? Có nhớ tới mấy thằng còn ở lại?
Khi mặt trời bắt đầu xuống thấp ngang với rặng Trường Sơn ở phía tây quốc lộ 1 thì không khí như chùng xuống nặng nề tới mức khó thở. Tôi cũng không hiểu vì sao nhưng linh tính như thức dậy cho tôi biết đêm nay sẽ có rất nhiều chuyện xảy ra. Nhìn chung quanh mình, ai cũng có vẽ trầm ngâm như mỗi người đều cảm thấy có cái gì bất thường đâu đây. Ánh sáng từ từ đổi dần từ ban ngày trở thành màu hồng đỏ như máu rồi sậm đi, chỉ còn lại vài tia đỏ như lửa của hoàng hôn đưa lên từ phía sau rặng núi hiện đã không còn màu xanh của cây rừng mà là một màu đen đầy hăm dọa. Nhìn ra phía cầu Thạch Hản, tôi thấy 2 chiếc M48 của Thiết đoàn 20 Kỵ binh đang dàn ngang bít cả lòng đường, những người lính mũ đen sau bửa cơm chiều đang ngồi trên thành cầu hút thuốc. Trong sân bệnh viện, những người lính bị thương nhẹ đang đi tới đi lui và nói chuyện với nhau. Còn chuyện gì nói khác hơn là nỗi nhớ nhà và niềm lo cho chiến sự tại chỗ hay đúng hơn là an ninh cá nhân của họ. Những người còn ở lại cũng như tôi đều trở lại phòng làm việc để ráng khâu vá thêm được chút nào hay chút nấy trước khi nghĩ tối. Công việc tuy có vẽ bình thường nhưng mơ hồ đâu đây có một cái gì bất thường ẩn hiện... Có lẽ đó là bóng của Thần Chết đang lảng vảng...
10 giờ đêm, tiếng súng dồn dập ngoài phía quốc lộ như đánh thức mọi người khỏi cơn hôn mê nặng nề để trở về với thực tế chiến tranh. Tôi rời ca làm việc chót để bước ra sân. Bất cứ gặp ai, trên mặt họ cũng đều mang một nét mặt giống nhau: thảng thốt ! Mọi người như tự hỏi: Cái gì xảy ra nữa đây? Rồi mình sẽ ra sao đây? Ra tới sân bệnh viện nhìn về phía quốc lộ thì tôi thấy hình như Cộng quân đang tấn công hai chiếc xe M48 trên cầu.
Dĩ nhiên đêm tối làm tôi không nhìn thấy bóng người nào cả, chỉ thấy lằn đạn tua tủa từ bốn phía bắn vào hai chiếc thiết giáp cũng như từ hai chiếc thiết giáp bắn trả. Những tiếng hô xung phong, tiếng súng AK dòn tan ròn rã hòa lẫn với tiếng M16 thanh tao và nhanh gọn thỉnh thoảng chen vào vài tiếng nổ lớn hơn và trầm hơn của những khẩu B40 cùng những tiếng nổ rã rời của lựu đạn hay M79 phóng ra đệm thêm những nốt nhạc đau thương cho bản hoà tấu bi thảm nầy. Văng vẳng có tiếng kèn thúc quân của quân chính quy Bắc Việt cùng tiếng nặng và chua của người đến từ miền Bắc. Những tia đạn lửa cắt đứt màn đêm đen với những vệt sáng chằn chịt đan vào nhau như một màng lưới của Tử thần. Tiếng nổ dồn dập. Hai chiếc thiết giáp cồng kềnh đứng chơ vơ giữa cầu cũng giống như cái bóng của hai anh khổng lồ cô đơn đang bị tấn công sát kề bởi những sinh vật nhỏ bé mà họng súng đại bác khổng lồ cũng như những khẩu đại liên đã không còn hiệu lực vì địch đã quá gần và tôi cảm thấy lo sợ cho những người lính hồi chiều còn đứng hút thuốc trên cầu, bây giờ các anh ra sao rồi, có còn tiếp tục chiến đấu trong hai chiếc xe đó hay đã ra đi ?
Long đại liên và Hải nẫu từ bên tiền cứ đã lái chiếc Dodge Hồng thập tự chạy sang bệnh viện và gặp tôi đang lóng ngóng bèn hoảng hốt gọi:
-BS ơi, sao ông còn đứng đó, VC đã vào thành phố rồi. Mình lo chạy đi thôi.
Sửng sốt, tôi chưa kịp nói gì thì tiếng súng đã bắt đầu nổ từ phía ngoài cổng bệnh viện. Cảnh tượng trong bệnh viện thì hổn độn ngoài tầm tay của mọi người. Tiếng thương binh kêu gào cũng như các bà soeurs chạy tới chạy lui trên các hành lang còn điện sáng choang. Hải nẫu bàn :
-Bây giờ mình mà lái xe Dodge nầy chạy ra cổng thì sẽ chết sớm hơn ai hết.
-Mình băng ngã hông bệnh viện về bên tiền cứ xem sao đi BS. Long đại liên bàn.
Trong trí óc của tôi, bỏ chạy là điều tôi ức nhất. Vì vậy, tôi đồng ý với Long đại liên liền. Tôi nói:
-Tao không ép, giờ nầy mạnh ai nấy lo. Tao sẽ chạy qua bên tiền cứ xem sao. Đứa nào muốn theo tao thì theo...
Rồi Long đại liên theo tôi vọt ra cửa hông bệnh viện, chạy qua một đám đất trống rồi tới tiền cứ của Liên đoàn. Còn Hải nẫu thì tôi không biết hắn làm gì nữa.
Cảnh tượng bên tiền cứ có vẽ lạc quan hơn một chút. Sĩ quan cũng như binh sĩ đều ôm súng ra nằm ở lề đường vì từ quốc lộ 1 ở ngõ rẽ vào thành phố, con đường cao hơn sân tiền cứ khoảng 1m nên tạo thành một bờ hào mà binh sĩ có thể dựa vào đó để chiến đấu một cách tương đối an toàn. Tôi nhìn trước ngó sau thấy có một cây súng carbine M1 không biết của ai để long lóc trên sân nên lượm lên, soát lại băng đạn và ôm nó ra nằm dựa vào lề đường như mọi người lòng nghĩ thầm: Muốn giết được ta cũng phải đổi bằng giá đắt chứ chẳng không. Đúng là ý nghĩ của một anh bác sĩ quân y mới ra đơn vị hai ba tháng! Tiếng Đ/úy Xuân: Đứa nào thò tay tắt cái máy đèn đi coi, để sáng trưng vầy có mà chết cả lũ ! Tôi thấy mình ngây thơ thật, đèn đóm trong tiền cứ tuy không sáng choang nhưng quá sáng so với cảnh vật chung quanh tối đen như mực. Khi máy điện ngưng chạy, khung cảnh như im ắng hẳn đi, chỉ còn tiếng nổ ngoài phía cầu vẫn còn dồn dập, Long đại liên nằm xuống bờ đường cạnh tôi nói nhỏ nhỏ: Em không có súng nhưng có mấy trái lựu đạn có gì chọi cũng đỡ há ông thầy. Bửa nay thầy trò mình chết sống có nhau há ông thầy ?
Mới dứt câu thì hình như Cộng quân nhận biết mục tiêu nên bắt đầu bắn vào tiền cứ xối xả. Tuy đạn không trúng ai nhưng có nằm làm mục tiêu của những viên đạn mới biết cái cảm giác lạ lùng và ghê rợn của nó, đồng thời máu trong người tôi như sôi lên, cơ thể tôi như phồng to lên cơ hồ muốn vỡ tung thân xác, cái cảm giác sợ hãi bị át đi bởi cái mùi thuốc súng khét lẹt và tôi thấy mình trở nên ngây dại, tay châm hẩm ôm khẩu carbine và định bụng sẽ chỉ bắn khi nào thấy bóng ai nhào lên tôi công mà thôi vì tôi biết mình chỉ có một băng đạn (không biết có đầy đạn không và nếu đầy thiệt tình tôi cũng không nhớ là phải có bao nhiêu viên đạn trong đó nữa) nên tôi tự nhủ mình sẽ phải tiện tặn tối đa. Tiếng súng Bắc quân nổ đều và dòn tan (tôi đoán là AK 47) rồi bất ngờ, họ đổi sang B40, quả đạn to như bắp chuối bắn thẳng mà bay cong cong hướng về phía anh em Biệt động quân mà nhờ nằm hồi lâu trong bóng tối, mọi người đã trở nên nhìn rõ cảnh vật chung quanh. Tiếng nổ của B40 nghe ghê rợn hơn tiếng AK nhiều nhưng nhìn quanh cũng chưa có tác hại gì, có điều tôi chợt thấy là đã có nhiều khoảng trống dựa bờ đường có nghĩa những người nằm thủ ở đó hồi nảy đã bỏ đi đâu mất. Ngay cả Long đại liên mới nói láp dáp cái gì là thầy trò mình bữa nay sống chết với nhau giờ cũng biến đâu mất tiêu! Tự nhiên tôi nghe cái sợ chợt dâng lên vì như một con chim lẻ bạn, cái tuyến dựa bờ đường dài mấy chục thước mà hiện giờ chỉ còn tôi và hai ba bóng người nữa mà tôi không biết là ai.
Một người quay sang gọi tôi nhỏ nhỏ : Bác sĩ đó hả bác sĩ, chạy đi ông ơi, tụi nó chạy cả rồi, tui cũng vọt bây giờ nhưng bỏ ông lại coi không được. Thôi tui đi đây! Rồi bóng người đó cùng với mấy người chung quanh cùng lúp xúp lùi lại và biến trong bóng đêm. Tôi không biết làm sao cũng đành đứng lên và chạy về phía hông tiền cứ tức là lại chạy ngang bệnh viện nhưng lần nầy lại không chạy xuyên bệnh viện mà là theo một con đường nhỏ sau lưng bệnh viện đi vào hướng thành phố. Theo con hẻm nhỏ đó là những người cùng cảnh ngộ như tôi nghĩa là chạy tránh cho xa chỗ đánh nhau càng nhiều càng tốt và riêng tôi lại càng không có định hướng chi cả? (biết hướng nào đâu mà định?).
Thì ra trong bóng đêm cùng nỗi lo sợ dâng lên trong lòng, người dân Quảng Trị đã bắt đầu bồng bế nhau ra khỏi nhà, tay xách nách mang, đi tìm một sinh lộ hầu ra khỏi vùng lửa đạn nầy. Tiếng súng sau lưng càng lúc nghe càng nhỏ dần đi trong khi số người chạy loạn càng lúc càng đông lên mà đa số là thường dân với rất nhiều phụ nữ và trẻ con. Cái điều không biết gọi là lạ lùng hay gì gì nữa nhưng rõ ràng, bao nhiêu người đông đúc, lũ lượt bồng bế dìu dắt nhau nhưng không một tiếng nói, một tiếng ồn nào cả. Ngay cả tiếng khóc của trẻ con, nửa đêm bị dựng đầu dậy trong giấc ngủ sao chúng mơ hồ cũng biết nổi hiểm nguy sau lưng để mà im thinh thích như chia xẻ với cha mẹ chúng niềm lo âu tột cùng của con sâu cái kiến trong lửa đạn vô tình.
Chạy chung với dân, tôi cảm thấy mình hèn hết sức vì trong bộ quân phục Biệt động quân mà chưa bắn một phát súng đã phải bỏ chạy nhưng tôi biết làm sao hơn khi gần như cả tiền cứ biến mất ngay sau lưng tôi, tôi phải làm sao chớ ? Nhớ từ lúc còn học ở trung học, mỗi lần ghi tên học môn nhiệm ý là thể thao là tôi lại bị đưa xuống phòng y tế để khám sức khỏe và lần nào cũng vậy, tôi đều bị bắt buộc phải chọn môn Hội họa thay vì Thể thao (bà bác sĩ trong trường cho rằng tim tôi không được bình thường nên bà không muốn cho tôi chơi thể thao). Mà đúng vậy, chơi thể thao món gì tôi cũng đều mau mệt hơn nguời khác, từ học võ, đánh bóng bàn và nhất là tuyệt đối không có vụ chơi đá banh thì tôi đâu có chạy theo trái banh được. Khi học Y khoa, tôi đã tự nghe tim mình cũng như nhờ các đàn anh chuyên về tim nghe thử thì mới biết là mình bị Loạn nhịp (Arythmie) do đó, tôi thường tránh những việc cần chạy hay làm nặng về thể xác lâu dài.
Hôm nay, khi rút ra khỏi tiền cứ thì vì nổi sợ Cộng quân sau lưng nên tôi lúc đầu cũng có chạy nhưng được một chút là tôi đã thở hào hển, sau đó tôi bắt đầu đi chậm lại, tuy không giống như người nhàn du nhưng cũng không giống người chạy loạn chút nào! Nay thì chung quanh tôi rất nhiều người dân Quảng trị cũng như tôi không biết phải chạy đi đâu nên tự nhiên cả một đoàn người như cùng đi với nhau mà không định hướng cũng như không ai dẫn đường ai hết, chỉ biết cố mà đi cho xa khỏi cái tiếng súng nghiệt ngã sau lưng ở hướng cầu Thạch hãn. Cứ người sau theo chân người trước mà thôi.
Con đường nhỏ trở thành con đường nhựa (tôi cũng chẳng biết về hướng nào) chẳng mấy chốc mà đã đông ngẹt người. Trong đêm tối, người ta dắt díu nhau, tay bồng tay bế, người đi xe hai bánh, kẻ đi chân, từng đoàn quân xa của những đơn vị không tác chiến, tất cả hòa lẫn cùng nhau hướng về một hướng chung: hướng xa tiếng nổ, hướng của bình yên. Những xe Dodge 4x4 mang dấu hiệu Hồng thập tự chở những thương binh trong bệnh viện bắt đầu tìm lối về hướng Nam. Những đơn vị tiếp liệu, những đơn vị văn phòng của quân đội cũng như dân sự với những xe GMC chiếu ra những tia đèn pha sáng rực về phía trước xé toạt đêm đen chiếu nổi bật những chiếc đầu lố nhố của đám người phía trước, đồ đạc cồng kềnh nhưng tất cả, chỉ trừ tiếng động cơ xe, đều im lìm một cách lạ lùng. Đạn ở phía sau vẫn nổ dòn, những tia lửa đạn vẫn chiếu sáng vụt lên bầu trời đêm và đoàn người vẫn âm thầm tiến bước.
29-4-1972
Trời vừa hừng sáng thì đoàn người đã tới một cái thị trấn đìu hiu, nhà cửa tuy còn nguyên vẹn nhưng cửa đóng then cài, không khí có vẻ xơ xác trong khi người chạy giặc thì đầy đường. Mọi người không hẹn mà ai cũng dừng chân lại nghĩ. Trời trong và xanh biếc như hứa hẹn một ngày nắng đẹp.
Bây giờ tôi mới thấy rõ là người ta đông đến hàng ngàn nguời vì đường sá đầy nghẹt người cũng như xe cộ thậm chí cả hai bên lề đường dốc thoai thoải cũng không còn chỗ trống. Nhiều người đi tìm nước uống ở hai bên đường, có người giở một nắm cơm hẩm ra ăn cho đỡ lòng. Một đêm thức trắng rồi còn gì. Đâu đây có tiếng trẻ con ọ ọe khóc. Các bà thì có người vạch áo cho con bú hoặc bơi xới tìm một thức gì đó cho con cái họ và cả chính họ để ăn dằn bụng. Tôi thì không quen ai cũng như không cảm thấy đói khát gì lại thêm cũng không biết đi đâu nên đứng lớ ngớ nhìn quanh nhìn quất mới thấy cái trụ sở của thị trấn.
Thì ra đó là quận lỵ Mai Lĩnh nằm về phía nam của thị xã Quảng Trị. Tôi tiếp tục đi dài dài theo quốc lộ 1 về hướng nam vì tôi có phải chờ ai và đi chung với ai đâu. Thế là tôi lầm lũi đi, trong trí nghĩ rằng nếu cần tới lúc chạy thì mình đâu có chạy được nên mình nên đi trước là vừa. Thế là tôi cứ đi. Con đường về Huế nghe đâu còn xa lắm, những 4, 5 chục cây số nữa thì phải. Trên con lộ thẳng tắp cũng có rất nhiều người cũng đi như tôi. Nhìn trước mặt như một con rắn khổng lồ uốn éo và di chuyển chầm chậm dài ngút tầm mắt. Trước mặt là hứa hẹn của một bình yên, sau lưng là súng nổ, đạn bay, nhà cháy, người chết... Không biết rồi mình sẽ ra sao? Liệu sẽ có đến được cuối đường? Mặt trời càng lên cao, cái nóng bức càng gia tăng thì sự mỏi mệt, lo âu, chán chường càng hiện rõ trên khuôn mặt con người trong dòng sông di tản.
Bây giờ, hiện diện trong đoàn người, ở gần khúc đầu của con rắn khổng lồ là những chiến xa M48, những thiết vận xa M113 cũng như những chiếc GMC, xe Hồng thập tự của quân đội cũng như dân chính, rồi xe tư nhân, và vô số xe hai bánh. Ở trên những quân xa chở lính tráng thì còn gọn ghẽ, còn trên những chiếc xe hai bánh của thường dân thì thôi đủ kiểu. Mùng màn chiếu gối, mọi đồ tế nhuyển mà trong phút khẩn cấp người ta đã dồn đại vào trong một cái bao, cái bị gì đó rồi túm, rồi mang, rồi cột và cả gia tài của họ nằm trên chiếc xe Honda hai bánh oằn oại dưới trọng tải của cả một đời người, một gia đình. Dù thường dân hay quân nhân, mặt người nào cũng đều hiện rõ nỗi lo âu, bồn chồn... và cả hốt hoảng nữa.
Đạn pháo kích bắt đầu rơi trên Quốc lộ 1 khoảng độ 10 giờ trưa khi đoàn người tới địa phận quận Hải Lăng (đó là tôi nghe người ta nói vậy). Những tiếng rú xé màng nhĩ của đạn pháo của Cộng quân như muốn xé luôn cả không gian và lòng người. Những tiếng nổ tiếp liền không ngớt bắn tan tác đội hình của con rắn khổng lồ đang chậm chạp trườn đi trên con đường định mệnh. Người ta chạy tràn ra hai bên đường tìm chỗ trú ẩn trong những gò cát trắng giống như cảnh một đàn kiến đang bò đi thành hàng lối bổng dưng bị phá vỡ phải chạy túa ra. Người nào xấu số trúng đạn từ những trái pháo đầu tiên thì chỉ còn nằm lại trên đường nhựa, nếu chưa chết thì chỉ còn chờ chết và chắc là chỉ mong một cái chết nhanh chóng hơn cho đỡ đớn đau. Đạn pháo vẫn tiếp tục rú xé trời và tiếp tục rơi. Cảnh hổn loạn làm sao tả cho xiết. Tiếng người réo gọi nhau, cha gọi con, vợ kêu chồng, tiếng rên khóc của những người "còn ở lại" thấy người thân vừa mới "ra đi" nhưng không ai còn được chút thời giờ để vuốt mắt người thân của mình cũng như quẹt đi hai hàng nước mắt của chính mình.
Nhiều người không chạy kịp đâu xa đành nằm xuống hai bên đường dựa theo con mương ở bìa những đồi cát ngút ngàn dọc theo con lộ. Cảnh con người dùng hai bàn tay trần cố bới cho cát trủng sâu thêm một chút để được thêm một chút an toàn thật não lòng, cát có nóng bỏng, tay có rướm máu nào có kể gì ? Người ta đang cố thu hình cho bé nhỏ lại, đang cố biến thành những con đà điểu chui đầu xuống cát để trốn tránh cái sự thật hãi hùng đang diễn ra chung quanh, có người thì đang khẩn cầu một Đấng Thiêng Liêng nào đó che chở cho họ ra khỏi cái thực tế đầy tai ương và vô vọng nầy. Trong khi đó thì miểng đạn cứ tiếp tục cày xuống mặt cát làm cát văng tung toé, những hạt cát nóng bỏng (vì nắng hay vì sức nóng của miểng đạn pháo chuyền sang?) văng vào mặt tôi cơ hồ như cắt đứt cả da thịt.
Trên đường nhựa, cảnh tượng còn thương tâm hơn nhiều. Một người mẹ đang bế một đứa bé độ chừng 6, 7 tháng, đi có giang ngồi trên nóc chiếc xe M113, dĩ nhiên cùng ngồi trên đó với chị còn chen chúc rất nhiều người khác. Khi đạn pháo kích bắt đầu nổ, chiếc xe thiết vận xa bổng quẹo ngang đột ngột - không ai hiểu anh tài xế định làm gì - Anh muốn chạy ngõ khác chăng ? Hay anh muốn quay trở về đường cũ? Chỉ biết có điều hai mẹ con bị xe giật bất ngờ rơi cả xuống đường, đứa bé vẫn còn trong tay mẹ nó. Chiếc xe vẫn còn tiếp tục giật lùi và bánh xích bắt đầu nghiến lên chân người mẹ. Người ta la ó rùm trời, người ngồi trên xe thiết vận xa lẫn kẻ trên đường ai cũng đều cố báo cho anh tài xế biết để anh ngừng lại nhưng... ai đã từng thấy xe M113 quẹo ngang mới thấy nó nhanh như thế nào. Và trí óc người mẹ cũng hoạt động nhanh như thế nào. Chỉ trong một tích tắc chót của cuộc đời, bánh xe đang nghiến dần lên mình bắt đầu từ chân mà người mẹ vẫn còn cố đẩy đứa bé lên phía đầu bà với hy vọng là nó sẽ ra ngoài tầm thụt lùi của chiếc xe ! Viết ra ở đây còn chậm hơn ngoài sự thật rất nhiều. Người đàn bà và đứa bé bị bánh xích xe nghiến dần bắt đầu tứ phía chân người mẹ lên cho đến qua khỏi đầu bà, hai tay bà vẫn còn giơ lên như cố đẩy đứa bé ra khỏi cái bánh xích nhưng rồi... cả hai mẹ con, tất cả đều bị bánh xích nghiền nát. Tiếng xương người bị cán rụm kêu lắc cắc và hình ảnh của máu thịt nhầy nhụa trên đường cũng như dính theo những mắc xích từ hai mẹ con trước đó 1 phút còn sống bình thường như mọi người là một hình ảnh vô cùng kinh khiếp tưởng chừng không bao giờ xóa mờ trong ký ức tôi được. Tôi cúi gục đầu xuống cát trong tâm trạng đớn đau vô biên của một hoàn cảnh bất lực.
Ở một nơi khác, một chiếc GMC phóng vội đã cán lên một chiếc Honda "dame" vô tình ở trước mặt nó. Cả người lái lẫn chiếc xe Honda đều bẹp dúm trong khi chiếc xe GMC vẫn hùng hổ càn lướt lên trên nạn nhân của mình. Một người đàn ông bị miểng pháo kích cắt đứt một miếng thịt thật lớn ở đùi đã ngồi quỵ xuống bên đường, sự đau đớn làm anh chảy nước mắt. Nhưng có lẽ anh đau hơn là vì mặc dù anh cố kêu nhưng người đàn bà mới giây phút trước còn là người vợ yêu quý của anh, nay đã làm ngơ bỏ chạy luôn không nhìn lại.
Những đứa trẻ mặt mủi lem luốt vì nước mắt, vì mồ hôi, mếu máo, ngơ ngác không biết phải làm gì giữa một cảnh tượng hãi hùng chưa bao giờ thấy, cha mẹ ơi, cha mẹ đâu rồi? Một bé gái chừng 9, 10 tuổi ngồi khóc nức nở bên xác một người đàn bà, dĩ nhiên là mẹ nó. Đạn nổ ư ? Xe chạy cán phải ư? Nào có biết gì. Bé chỉ còn là một cái xác ngây dại khi mẹ em bổng đột ngột ra đi, em có còn biết phải làm gì? Có lẽ được nằm xuống theo mẹ là điều tốt hơn cả cho em để em thoát ra khỏi tình cảnh nầy.
Ngoài những đạn pháo lớn, những loạt đạn từ những súng cá nhân hay cộng đồng từ hai bên đường vẫn tiếp tục bắn xối xả vào cái biển người đang hổn loạn như một bầy vịt đang lùng bùng trên con đường nhựa nóng bỏng nhuộm đỏ máu người. Một chiếc xe nhà binh chở 5, 6 người trên đó chạy thật nhanh về hướng nam qua khoảng cát dọc theo đường với hy vọng dùng vận tốc cao để tránh đạn. Cát trắng bay mù mịt theo làn bánh xe và rồi một tiếng nổ ầm, giữa đám bụi cát mù đó tung lên mấy thây người và chiếc xe đã nằm ngửa trên bãi cát với 4 bánh xe vẫn còn quay tít như một con thú vừa chết thật bất ngờ nên không chịu tin là mình đã chết nên nhịp tim vẫn chưa ngừng đập.
Bỏ rơi con lộ 1, con lộ của Thần Chết, bao nhiêu người đã chạy tràn ra 2 bên đường, cát trắng phau nóng bỏng thiêu đốt những đôi chân trần đã rơi mất giày dép, tóc tai rã rượi, mắt vẫn còn ướt long lanh cho giọt nước mắt không có thời giờ để chảy, mặt lem luốt mà chân vẫn chạy, quần áo, tư trang vung vãi đầy con lộ cũng như rải rác đầy cánh đồng cát trắng mênh mông trong khi súng vẫn nổ, tiếng rít của đạn bay vẫn chói tai và máu vẫn tuôn rơi, tung tóe trong cuộc thảm sát kinh hồn nầy. Trong khi đó thì các bụi sim vẫn nằm phơi trên cát khoe những cánh hoa tím xinh tươi phất phơ theo gió một cách vô tư ....
Tôi muốn gào to lên: Hởi người lính Bắc quân, các anh đã hài lòng chưa vậy ? Ai cũng biết chiến tranh là có máu đổ nhưng anh có tiết kiệm không những giọt máu của chính đồng bào anh, những thường dân vô tội vì sao mà bị thảm sát như một Tết Mậu Thân tái diễn trên quốc lộ 1 giữa trưa hè? Anh và đồng bạn núp ở hai bên đường có chút nào run tay không khi bóp cò súng nhắm vào những con người không có biện pháp tự vệ nào? Anh có mềm lòng chút nào không khi trông thấy kết quả của các anh đã thực hiện một cách thê thảm như vậy hay anh lấy làm thỏa mãn cho cái tác phẩm phi nhân đúng như anh đã dự trù ?
Hỏi các ông Tướng lãnh Quân đội và chính trị gia của VN Cộng Hòa, các ông có hài lòng chưa vậy? Ai cũng biết chiến tranh là có tiến, có thoái nhưng hỡi ơi, thoái kiểu các ông là các ông đưa quân lính (bằng lệnh hành quân) và cả thường dân (bằng những lời hứa hẹn láo khoét) vào chỗ chết trong khi các ông hễ có gì nguy hiểm là các ông lên trực thăng trước bay thẳng về chỗ an toàn? Khi máu đổ thịt rơi như vậy, các ông ở đâu và đang làm gì, uống rượu, ăn chơi hay nhảy đầm? Làm gì có chuyện các ông bỏ ra được một phút trong cuộc đời khốn nạn của các ông để suy nghĩ chuyện các ông đã làm và... hối hận?
Lúc đầu tôi cũng theo chân đồng bào chạy vào đồng cát nhưng chỉ chạy một lúc là tôi bắt đầu thấy khát dễ sợ. Nhìn chung quanh thì toàn cát và cát, những bụi sim vẫn theo gió phất phơ nhưng không có gì cho tôi có thể giải quyết được cái khát cả. Nhớ lại lần chót tôi có uống một chút gì là trước 10 giờ đêm qua, thời điểm Bắc quân tôi công vào thị xã Quảng Trị, bây giờ cái khát bắt đầu hành hạ tôi mà cái viễn tượng tìm ra nước uống vào lúc nầy thật hoang đường hết sức.
Tôi nghĩ thôi thì trở lại quốc lộ 1, trước là có thể tìm ra trong các xe bỏ nằm lại đó thế nào chẳng có lương thực, nước uống, mà sau nữa là biết đâu bọn Bắc quân sau khi tàn sát thỏa thích sẽ bỏ đi và con đường về Huế chờ đêm đến có thể tôi sẽ đi lọt được. Thế là tôi trở lại hướng con đường. Quả nhiên khi tôi trở lại tới quốc lộ 1 thì không còn pháo kích nữa mà không gian trở nên im ắng một cách khác thường, xác người cũng như xác xe cộ nằm chổng chênh, máu người cũng như xăng dầu loang lỡ mặt đường nhựa mà về trưa cái nóng của mặt trời hun đúc nên cơ hồ như có sắc khói bốc lên. Tôi đi thất thểu theo con lộ về hướng nam, quả nhiên chỉ một lát sau tôi đã tìm được nước uống trong một cái bình tong của lính trên mặt đường không biết của ai.
Trên đường không phải chỉ có một mình tôi mà còn nhiều người khác, quân nhân cũng như dân sự, đàn bà trẻ em cũng không thiếu gì, chắc mọi người cũng cùng chung ý nghĩ như tôi, đánh liều một cơ hội biết đâu đi lọt được tới nơi an toàn? Lần nầy thì con rắn khổng lồ của đoàn người không đông đặc như lúc sáng nhưng cũng rất đông và trước mặt tôi cho hết tầm mắt cũng toàn là người và người nhưng không còn xe cộ gì nữa chỉ trừ vài chiếc quân xa và một số xe hai bánh mà thôi. Những con người đi thất thểu như những cái xác không hồn, không ai có một lời nói nào với ai cả.
Hai anh chàng lính quân y của tôi thì ngay từ đêm qua đã không còn thấy tăm tích đâu nữa làm tôi thấy mình cô đơn kể gì ! Người ta chung quanh tôi, ai cũng mang trên mặt một nét sợ hãi cực kỳ vì không ai biết được cái gì sẽ xảy ra, cái gì đang chờ đón họ ở 100 mét trước mặt chớ đừng nói gì đến ngày mai sao quá xa vời. Những anh chồng thì tay túm tay mang đồ tế nhuyển còn sót lại, mặt hớt ha hớt hải trong khi những người đàn bà mang xách con thơ trong khi bọn trẻ con theo lẽ tuổi phải còn ngây thơ thì đang phải lếch thếch chạy theo cha mẹ trên đường chạy loạn và hầu như không ai màng đến chúng, chúng có biết thân thì phải cố mà bám sát lấy cha mẹ, mơ hồ trong cái trí khôn còn non nớt của chúng, chúng đã hiểu cái tai họa tày trời của chiến tranh đã đổ ụp xuống đầu chúng và cái cơ hội sống còn duy nhất là bám theo cha mẹ mà thôi. Tôi vừa thấy mệt vừa thấy chán nản vô cùng cho sự bất lực cùng cực của mình.
Tôi thất thểu đi như một con người đã đánh mất linh hồn, chân cứ bước không còn tri giác ... Bổng tôi nghe có tiếng gọi Ông thầy! Ông thầy! Ngoảnh mặt nhìn thì tôi thấy Hải nẫu đang ngồi ở tay lái một chiếc Dodge Hồng thập tự đang gọi tôi và tự dưng tôi thấy như mình sống lại. Tôi chạy vội đến rồi nhảy ngay lên xe. Hải nẫu hỏi ngay Ông thầy có sao không ?
-Tao thì không sao cả, có điều làm cách nào mà chú mầy còn ôm được chiếc xe của Liên đoàn hay vậy?
-Tui từ tối qua tới giờ lái chiếc xe nầy chớ ai, thằng Long đại liên cũng như ông thầy lạc đâu mất tiêu, tui cũng ráng tìm đường về Huế đây, may mà gặp ông thầy ...
-Long đại liên thì tao cũng không thấy nó đâu.
Rồi nhìn trên xe thấy đàng sau không chở gì cả, tôi chợt nghĩ ra còn bao nhiêu người bị thương ngay trước mặt mình, sao mình lại để xe trống, không chở ai hết? Tôi liền nói tiếp:
-Thấy người ta tội quá hả mầy, mình coi có ai đáng tội quá thì mình chở họ với.
Hải nẫu nói :
-Ông thầy tốt bụng thì nói vậy chớ mình chở ai bỏ ai hả ông thầy? Bây giờ thì coi như phó mặc cho số Trời, ai cũng có phần số hết trơn...
Trong khi hai người đang nói chưa được mấy câu thì đàng phía trước người ta đang ùn ùn chạy túa ra hai bên đường, có người còn chạy quay trở lại, lại có tiếng súng nổ về phía trước dồn dập. Việt Cộng! Việt Cộng đàng trước bà con ơi! Người ta bắt đầu chạy tứ tung, kẻ thì tràn vào hai bên đường, người thì chạy quay trở lại và chiếc xe Dodge của tôi phải bắt buộc dừng lại giữa đường, trước mặt, sau lưng, chung quanh chỗ nào cũng là người chạy loạn. Rồi pháo của Cộng quân lại bắt đầu rót vào con đường, Hải nẫu nói :
-Chắc là mình cũng phải quay trở lại quá ông thầy. Trở về kiếm Liên đoàn đi chung với đơn vị có lẽ không bị lùng bùng như vầy, hồi ở bên Kampuchia có lúc cũng tơi tả nhưng Liên đoàn đâu có sao, bây giờ chung quanh mình toàn là dân không mà mình thì có làm được gì, còn ở với Liên đoàn mà không có dân chung quanh thì mình còn đánh đấm được rồi lỡ có ăn đạn mà chết cũng hả dạ...
Không biết làm sao hơn nên tôi đành gật đầu. Hai thầy trò bèn cố quành xe trở lại và cố lách qua người ta để nhắm quay trở về hướng Bắc. Nhưng chỉ hơn 15 phút sau là xe đã trở lại khúc đường oan nghiệt hồi trưa, mới rời nơi đó có bao lâu nhưng khi nhìn lại thì tôi lại cảm thấy hãi hùng như thấy lần đầu. Xác xe cộ chổng chênh, xác người nằm chết trong đủ mọi hình thái, đồ đạc vương vãi cùng khắp và máu người tạo thành bao nhiêu vũng ở trên đường nhựa. Đây đó có vài đám khói vẫn còn bốc lên đen nghịch do những chiếc xe bị bắn cháy.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 4, 2011 9:25:54 GMT 9
Phần 3 Xe Dodge của hai thầy trò tôi không thể nào chạy trên đường được nữa nên Hải quẹo xuống bên đường để chạy tiếp. Bánh xe lún xuống cát tung lên tung tóe mà xe không tiến lên được là mấy, Hải phải sang số cho xe chạy cả 4 bánh để có sức kéo mạnh hơn nhưng sau cùng, chiếc xe bắt đầu tung khói lên mù mịt do nóng quá độ. Khói lên từ cái bình nước xe len qua nắp máy và cuồn lên đen nghịt, Hải lầu bầu :
-Hồi sáng bị bắn tứ tung chắc có viên trúng bình nước quá ...
Tôi thì dốt đặc về máy xe nên hỏi (nhưng hỏi xong chợt thấy câu hỏi thật ngây thơ!):
-Mầy liệu có thể sửa sao đó cho xe chạy đỡ được không ?
-Trời đất, ông thầy hỏi tui thiệt không biết đường mà trả lời. Họa là tui có phép thần thông chi mới có hy vọng...
Rốt cuộc Hải và tôi rồi cũng phải bỏ xe và bắt đầu đi bộ trở về hướng Quảng Trị. Hải vừa đi vừa lầu bầu chi đó mà tiếng Huế nói lí nhí tôi không nghe được nhưng tôi cũng mệt nên không buồn hỏi xem Hải nói gì. Lát sau thì Hải hỏi trống không :
-Giả sử đi về hướng Bắc cũng kẹt như đi về huớng Nam thì làm sao đây ?
Vì thấy Hải nói trống không nên tôi cũng không trả lời, chỉ lầm lủi bước. Tuy nhiên trong trí tôi cũng suy nghĩ thật nhiều về câu hỏi đó: Ờ nhỉ, mình sẽ phải làm sao đây nếu đi về hướng Bắc cũng bị kẹt luôn ? Hỏi mà không có câu trả lời thì... đành buông mặc xem câu chuyện ra sao? Cũng nhờ cái bình tong nước tôi lượm được nên hai người cũng không bị khát, còn cái đói hình như đi vắng tuy rằng từ chiều tối hôm qua tới giờ, tôi vẫn chưa có cái gì trong bụng.
Đường càng đi về hướng Bắc càng thưa người và dần dần trên đường chỉ còn hai thầy trò lầm lủi bước. Cũng may là không thấy bóng dáng Bắc quân đâu cả mà cũng không có một tiếng súng nổ gần. Tôi sực nhớ là hai người không có một vũ khí gì hết ngoài mấy dụng cụ tiểu phẫu lúc nào tôi cũng mang trên ngực áo. Mình không khác gì người dân thường chạy loạn cả, chỉ khác là không có gia đình cũng như mặc bộ đồ lính trên mình mà thôi... Không hiểu đơn vị ở đâu mà tìm nữa đây? Thôi kệ, tới đâu hay đó vậy ...
Khi trời vừa xế bóng về phía tây thì thành phố Quảng Trị đã thấy dạng xa xa. tôi gọi Hải phải cẩn thận vì không biết Bắc quân đã chiếm đóng Quảng Trị chưa, thế là hai người bèn đi xuống lề đường để từ trong thành phố nhìn ra sẽ khó thấy hơn và bước chân cũng dè dặt hơn nhiều. Tất cả vẫn im lặng một cách ghê rợn ... Rồi khi thành phố chỉ còn cách hai người trong gang tấc thì tôi chợt nhìn thấy trên cầu Thạch Hản, bên cạnh hai chiếc chiến xa M48 bị tôi công hồi đêm giờ đang nằm đó là một bóng người đang cầm súng đứng gác, nhìn rõ thì thấy anh chàng mặc đồ rằn ri, tôi mừng quá biết là Cộng quân chưa lấy được Quảng Trị, đồng thời Hải nẫu cũng nhìn thấy như tôi. Hai người cố bước nhanh và khi tới gần thì thấy anh lính mặc đồ Biệt động mà lại còn thuộc đại đội trinh sát của Liên đoàn nữa chớ. Thật tình mà nói, tôi mừng còn hơn bắt được vàng khi thấy lại đơn vị của mình...
Trở lại đơn vị thật là ấm áp đối với tôi sau những giờ xiêu lạc như đứa trẻ mồ côi giữa chợ đời tìm lại được mái ấm gia đình! Cả ngày nay, tôi đã chạy lung tung, đầu óc rối bùng, rồi mọi người lạc nhau tất cả, Bệnh viện Quảng Trị ở đâu mà tiền cứ Liên đoàn ở đâu? Bao nhiêu con người ngày hôm qua còn đầy ở thành phố Quảng Trị (thường dân cũng như lính, người lành mạnh cũng như thương bệnh binh, bao nhiêu người tục cũng như kẻ tu hành như mấy bà phước trong bệnh viện) sao đâu hết trơn rồi? Chỉ còn hai thầy trò tôi, lếch phếch trở lại đơn vị hiện đang đóng quân trong một miếng vườn hoang gần thị xã, mà chỉ là miếng vườn hoang thôi, còn ngôi nhà thường khi nằm trên miếng đất giờ cũng đã không còn nữa ...
Bọn Long mập, thượng sĩ Xê, mấy đệ tử Quân Y trong bụng không biết có ưa gì tôi không nhưng ngoài mặt, rõ ràng khi gặp lại Hải nẫu với tôi thì ai cũng cười vui và lo nấu ăn tối cho chúng tôi, còn mọi người đều đã ăn xong cả rồi... Bửa ăn chỉ là khẩu phần hành quân của lính, khui ra từ trong hộp nhưng sao ăn thấy ngon quá, tôi sực nhớ ra là từ đêm qua đến giờ tôi đã có cái gì trong bụng đâu ?
Buổi tối yên tỉnh không giống như tối hôm qua súng nổ rền trời, tôi nằm trên cái băng ca quen thuộc mà lòng tự dưng thấy nhẹ nhỏm và đi vào giấc ngủ một cách dễ dàng... Bốn phía yên tỉnh, chỉ có tiếng côn trùng kêu đêm một cách hồn nhiên như không có chuyện gì xảy ra... Nhưng theo như thượng sĩ Xê nói (ông ta thực tình có quá nhiều kinh nghiệm hành quân vì ngay lúc nầy, ông ta cũng đã trên 40 tuổi) mỗi khi yên tỉnh như thế có nghĩa là khác thường và cái khác thường nầy bảo đảm là chuẩn bị cho đánh lớn ngày hôm sau ..
30-4-1972
Quả nhiên khi trời mới vừa hừng sáng là bốn bề súng nổ vang rền. Lệnh Liên đoàn trưởng đưa ra là đơn vị bắt đầu đi về hướng nam, không biết đơn vị nào đi đầu, đơn vị nào đi cuối, chỉ biết là Quân Y của tôi thì tàng tàng đi theo Bộ Chỉ huy Liên đoàn. Thương binh không còn là vấn đề cho tôi nữa vì bao nhiêu thương binh đã di tản về bệnh viện Quảng Trị từ trước và đều... đi theo trọn cả thị xã sau trận tối qua.
Hôm nay lại đi bộ, khác với đi bộ ngày hôm qua là tôi không có cái cảm giác lạc lõng bơ vơ như ngày hôm qua. Đoàn quân lầm lũi đi, tôi mang trên lưng cái túi nhỏ (thay vì ba lô hành quân thì tôi không có) trong đó chỉ đựng có nước uống (rút kinh nghiệm hôm qua thật cần nước uống, đựng trong một cái chai Dextrose xài rồi) và một số y cụ, thuốc men. Còn đồ đạc cá nhân của tôi, từ cái quần đùi cho tới cái áo lót hay bộ đồ trận để thay đổi, tất cả đều đã mất hết. Thôi thì về tới Huế tính sau vậy. Hiện tôi chỉ lo là có đụng độ trên đường rồi có thương binh hay lính tử thương thì không biết làm sao mà khiêng vác theo đây. Tôi chỉ cố chia cho Quân Y mỗi người một chút để mang theo cho hết quân y cụ, thuốc men là tốt lắm rồi.
Đoàn người đi hàng một, không biết bắt đầu ở đâu và cuối cùng bao xa, chỉ biết rất dài và lặng thinh đi theo nhau, lúc lên đồi, lúc qua suối, có khi băng ngang những thửa ruộng lúa lên cao ngang đùi. Buổi trưa nghĩ một chút trên một ngọn đồi thông (không nhớ rõ có phải là thông hay không hay là cây dương?) để ăn trưa, cũng may Liên đoàn cũng còn lương khô hành quân mang theo chia cho mọi người trong Bộ Chỉ huy Liên đoàn nên cũng đỡ. Gió hiu hiu thổi làm xoa dịu cái mỏi mệt của đoạn đường vừa rồi. Kể ra chạy thì tôi không chạy được nhưng đi bộ thì không sao, ai tới đâu tôi tới đó. Nhớ lúc còn trong trường Y khoa, theo bạn đăng học khóa Nhảy Dù, khi thử thách "8 món ăn chơi" trong đó có món chạy 8km trong 1 giờ, tôi đã tưởng tôi bị loại vì ai cũng về trước 1 giờ, có mỗi mình tôi về khoảng 1 giờ 20 phút nhưng có lẽ phần nhờ tôi là SV Quân Y (việc nhảy dù chỉ để vui chơi văn nghệ!) phần 7 món thử thách kia tôi đã hơn trung bình nhiều nên tôi vẫn được nhập khóa...
Bây giờ thì sau khi chia nhau gói gạo sấy, uống miếng nước lã có pha thuốc lọc nước hôi rình, tôi nằm dựa gốc cây thông, nghe gió vi vu và bổng thấy mình hạnh phúc. Ôi sao cái hạnh phúc thật nhỏ nhoi và tầm thường, cái hạnh phúc là còn sống, còn ngồi giữa các anh em trong đơn vị dù cho đó là cái đơn vị đang trên đường rút lui, còn có miếng ăn dù không ngon lành gì chỉ để dằn cái bao tử cồn cào, còn có được điếu thuốc lá Quân tiếp vụ đắng tê cả lưỡi để gắn trên môi phì phà sau khi ăn, thế là nhất rồi... so với ngày hôm qua (tưởng chừng như hồi thế kỷ truớc) với đạn nổ, người chết tràn lan và hổn loạn trên đường số 1... Hôm nay thì thật bình yên ...
Sau khi nghĩ một lát thì cả đoàn quân bắt đầu đi tiếp. Suốt cả buổi chiều không có chuyện gì xảy ra. Nghe truyền miệng từ Liên đoàn ra là cứ đi như thế thì chiều hôm sau, cả Liên đoàn sẽ rút quân về tới Huế hay ít ra tới được tuyến bạn, tôi thấy phấn khởi lạ ...
Nhưng khi mặt trời vừa nằm ngang ngọn cây và ánh nắng không còn gay gắt nữa thì Liên đoàn đang đi ngang một ngôi làng nhỏ (dỉ nhiên tôi thì chẳng biết đấy là đâu hay cái làng nầy tên gì?) chỉ biết làng gồm dăm mái tranh sơ sài dột nát và miếng đất có cày xới chung quanh nhà. Đúng lúc tôi đang bước giữa những luống khoai mì bên cạnh một căn nhà thì súng bắt đầu nổ, tôi cũng không biết từ đâu bắn ra, ai bắn và bắn ai, tôi chỉ thấy những anh chàng Biệt động quân đi trước và sau lưng tôi nằm rạp cả xuống thì tôi nằm xuống theo mà thôi. Thật tình mà nói, tôi cũng không biết mấy anh chàng xung quanh tôi nằm xuống nhanh như vậy là để tránh đạn hay là vì đã trúng đạn? Nhưng do không có một tiếng rên siết nào cả nên tôi tạm kết luận là mọi người không sao trong khi đơn vị Bộ Chỉ huy Liên đoàn đang đi ngay vào ổ phục kích của địch. Súng bắt đầu nổ dử dội nhưng không có tiếng súng lớn, chỉ có tiếng nổ dòn dã của AK của địch và tiếng nổ cũng dòn nhưng ấm hơn của M-16 do đơn vị tôi bắn trả.
Tôi tuy căng mắt ra mà quan sát nhưng thiệt chẳng thấy địch đâu cả, chỉ biết đạn bay veo véo qua đầu, chung quanh tôi, các người lính BĐQ cũng bắn trả mãnh liệt. Thỉnh thoảng chen vào nhịp nổ dòn tan là những tiếng ì oành của lựu đạn cầm tay (tôi cũng không biết do bên nào ném ra!) Tôi chỉ biết trong thân phận một bác sĩ ngoài mặt trận, tôi không có vũ khí gì để bắn ai ngoài cây súng Colt .45 đơn vị phát cho mà theo tôi, tôi đã thấy quá nặng nề bên hông, vì vậy, tôi đã bỏ cây súng Colt trong bị mang trên lưng, trên mình tôi, dắt bên ngoài chiếc áo giáp chỉ toàn là dao kéo kềm mổ và... 1 quả lựu đạn trái chanh. Tôi thật cũng không biết mình dắt trái lựu đạn nhỏ xíu đó làm gì chỉ biết là vì tôi thấy nó xinh xinh nên mang theo chơi thôi! Tôi cũng nghe mấy anh lính nói là khác với loại lựu đạn MK-2, rút chốt ra rồi còn đổi ý gắn chốt trở vào, cái thằng trái chanh nầy tuy nhỏ con và dễ thương (giống như trái chanh mà thôi) nhưng hể rút chốt là phải ném đi, không có cái vụ đổi ý rồi đó ! Lại thêm nó tuy nhỏ con mà sức nổ cũng như công phá rất khốc liệt hơn hẳn trái lựu đạn "bự con" kia nữa ... Tôi thì chưa thử nhưng tôi cũng mong không có dịp để thử, chỉ mang trên cái móc áo giáp cho vui thôi! Và tôi không ngờ nó dính trên áo giáp cả tuần lễ nay mà cơ hồ tôi đã quên hẳn sự có mặt của nó. Hôm nay nằm sát đất, úp mặt, co người để tránh lằn đạn vô tình, tôi mới cảm thấy có nó, cái trái chanh cộm trước ngực tôi.
Đạn vẫn bay trên đầu, không biết cái gì văng tung toé lên người, không biết là miểng đạn hay đất cát nữa. Cái khổ của người không biết tác chiến là ai bắn ai thì bắn, còn tôi thực tình không biết đường đâu mà rờ, chỉ lo sao đạn nó vô tình, đừng ghé thăm tôi là đủ. Tại vậy mà tôi đã cúi mặt xuống đất, sợ thì thực tình tôi hoàn toàn không cảm thấy sợ hãi, tôi chỉ biết thực tế có ngóc mặt lên thì cũng không làm được gì mà có khi còn ăn đạn vô ích. Thế là tôi như tự đóng kín con người tôi với thế giới bên ngoài, súng nổ, đạn bay, tôi không nghe, không thấy vì tôi không muốn nghe, muốn thấy, tôi thả hồn mình đi xa, thật xa về tận Saigon, nơi có cái gia đình nhỏ của tôi với tiếng cười, tiếng nói bi bô của hai đứa con trai tôi, với bàn tay dịu dàng của vợ tôi, và với tình yêu chất ngất và đầy nước mắt của người yêu của tôi...
Tôi tưởng như tất cả với tôi giờ nầy chỉ còn là mộng ảo vì có muốn đóng kín cái cảm giác thật người của tôi lại cũng không được vì chen lẫn trong tiếng súng ầm ỉ vẫn có tiếng kêu đau đớn của những người bị trúng đạn, vẫn có tiếng rên siết của những người hấp hối muốn một lần chót được thấy mặt lại người thân.
Hởi anh là người lính Bắc quân hay Nam quân, anh có biết gì đâu ngoài việc bổn phận của một con sâu cái kiến, sống ở một Miền nào là phải đi lính cho Miền đó nếu không muốn họa vào thân, anh phải cầm súng để bắn vào những người không quen biết, không thù hằn, những người nói cùng thứ tiếng với anh, cái tiếng mẹ đẻ Việt Nam. Giờ nầy, các anh đang cố bắn giết nhau, tận tình, hăng say và vô tư như chối bỏ sự thật là anh chỉ là một con cờ không hơn không kém, một con cờ vô tri giác... Anh chỉ thức tỉnh lại khi nào một viên đạn, một miểng pháo ghim vào người anh, chưa đủ để làm anh chết mà chỉ đủ cho anh bất thần ngừng lại cái trò chơi súng đạn mà người khác đã bắt anh tham gia với những từ ngữ thật đẹp, thật kêu, nào là Giải Phóng Miền Nam, nào là chiến đấu bảo vệ tiền đồn của Thế giới Tự do, còn nhiều lắm, những từ ngữ văn hoa bóng bẩy mà anh giờ có thấy gì đâu, khi nằm đây, trong cái làng hoang vắng nầy cũng như tôi, anh không hề biết tên của nó, một mình, chung quanh thật đông người đang say mê bắn giết nhau mà anh cảm thấy mình thật trơ trọi, thật cô đơn, với cái đau oằn oại gây ra do viên đạn của Kẻ Thù không biết mặt biết tên đã ghim vào trong người. Máu anh vẫn chảy, nhưng không còn là chảy về tim mà là chảy ra nền đất Mẹ, nắm đất Việt Nam mà chỉ trong chốc lát, sự sống trong anh cũng sẽ chảy dần theo ra ngoài cái cơ thể gầy gò của anh để sau cùng thì cái đau đớn thể xác sẽ mờ đi với cái tối tăm dần dần che phủ trí óc anh và rồi anh cũng sẽ trở về cùng đất Mẹ ... Gia đình anh giờ nầy chắc đang trong buổi cơm chiều, bên ngọn đèn dầu thôn quê leo lét hay ánh đèn đô thị sáng trưng, nhưng có khác gì nhau đâu, gia đình nào cũng sẽ nghĩ tới anh, tới người chồng, người cha, người yêu đang xông pha ngoài trận mạc, họ đều làm giống nhau tất cả là cầu xin cho anh hai chữ bình an, họ cầu xin bằng một ngôn ngữ giống nhau, cầu nguyện một Đức Phật, một Chúa Jesus như nhau vì họ cũng là cùng giòng giống Việt Nam ...
Mãi suy nghĩ miên man mà trận chiến quanh mình không còn nằm trong trí tôi, tôi thả hồn theo dòng suy tư cho tới khi chiến trường đột nhiên trở nên im lặng tuyện đối một cách lạ lùng làm tôi chợt bừng tỉnh trở về thực tại. Trời đã tối mịt, xung quanh không còn một tiếng động, cái im vắng kỳ lạ và tự nhiên tôi thấy rợn người, tôi có cảm giác sợ hãi hơn là còn tiếng súng bắn nhau, bây giờ thì ngửa bàn tay không thấy mà quờ quạng chung quanh cũng không đụng một ai, mấy đệ tử đi ngay phía trước và phía sau tôi biến mất đâu cả rồi?
Tôi gọi nhỏ nhỏ: Ê, có đứa nào đó không ? Không có ai trả lời cả. Chỉ có tiếng côn trùng trong đêm vắng như đáp lời Tôi mà kêu to lên thôi. Không hiểu tình hình chiến sự tới đâu rồi sao kỳ lạ vậy ?
Tưởng chừng như tôi đã nằm yên lâu lắm nhưng thực tế nhiều lắm chừng 5, 10 phút thì chợt có ánh đèn pin lập lòe chiếu ngang chiếu dọc rồi ẩn hiện những bóng người đi tới đi lui, họ còn hô to "Hàng sống chống chết!" om sòm. Rồi họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Bắc "rặc," cái thứ tiếng Bắc không giống như những người Bắc di cư vào Nam năm 54 mà nặng hơn nhiều và ‘khó ngửi’ hơn nhiều. Đó là những anh lính Bắc quân đã làm chủ chiến trường ở ngôi làng vô danh vào một đêm mờ sương Quảng Trị.
Họ bắt đầu nói với nhau về cách đi tìm xem có thằng địch nào chưa chết thì giúp cho nó chết, còn thằng nào còn sống khoẻ thì bắt sống làm tù binh, lục soát tìm tài liệu v.v... Rồi họ chia thành hàng ngũ để tiến hành lục soát. Tôi không hiểu những người lính BĐQ của đơn vị tôi giờ ở đâu mà mọi bề đều im lặng, do bản năng sinh tồn cộng thêm bao nhiêu năm sinh hoạt ngoài trời trong Phong trào Hướng đạo nên tôi nhè nhẹ lăn đi từ từ để cố lánh xa dần cái phía của những người lính Bắc quân cho tới khi tôi đụng phải những cái rể xù xì gai góc của một bụi tre thì hết đường, tôi bèn nằm lại giả chết, tôi sửa soạn một tư thế nào cho thích hợp với một xác tử trận để nằm, rồi trong khi bọn Cộng quân đang xì xồ đàng xa, cách tôi chừng vài mươi thước thì tôi tiếp tục suy nghĩ xem làm thế nào cho giống mình đã chết, nếu không qua mặt được họ thì mình làm gì, nếu lỡ bị bắt sống thì làm sao, ôi, trăm ngàn câu hỏi trong đầu nhưng làm gì có câu trả lời, tôi chỉ còn biết cầu vong hồn Cha tôi giúp tôi cho qua cơn hoạn nạn nầy mà thôi ...
Bổng nhiên trên trời có tiếng phi cơ! Tiếng động cơ vang lên rất rõ và rất trong trẻo trong cái yên lặng của đêm. Ngay cả tiếng Bắc nặng nề của bọn Cộng quân cũng ngừng lại, thay vào tiếng "Hàng sống chống chết!" thì là Các đồng chí coi chừng, có thể cái bọn Ngụy trước khi rút chạy còn gọi phi cơ tới đánh bom chúng ta đấy! Có người nói chúng nó mà đánh bom tại đây thì chết bố cả cái bọn bị thương hay còn sống sót nằm lại đây sao? Có đứa trả lời chúng nó mà kể gì anh em đồng đội...
Có một giọng nói cất lên có vẻ là người cầm đầu cả bọn: "Các đồng chí nói nhiều quá, nhiệm vụ là lục soát chiến trường thì cứ lo mà hoàn tất, còn phi cơ có đánh bom xuống đây hay không thì chỉ chốc nữa biết ngay thôi mà!" Thế là bọn họ bắt đầu lục soát trở lại, tuy họ vẫn còn xa chỗ tôi nằm nhưng cái khoảng cách cũng không cách nào tránh khỏi bị thu ngắn dần, lòng hồi hộp hết chỗ nói nhưng biết làm gì được?
Tiếng nổ trái bom đầu tiên là tiếng nổ lớn nhất mà tôi nghe được từ bé đến giờ. Cái tiếng như lụa xé, như kính vỡ, tiếng chói chang và tức thở như lấp đầy không gian và làm đứng lại thời gian. Quả là phi cơ đã thả bom xuống ngôi làng nơi hai bên "đụng" nhau ngay hồi vài tiếng đồng hồ trước. Chắc là hai anh cố vấn Mỹ còn đi chung với bộ chỉ huy Liên đoàn gọi không yểm chớ chẳng không. Mà không phải chỉ thả có một trái bom, tôi thì có rành gì về không quân thả bom đâu nhưng tôi biết qua sách vở hay phim ảnh rằng phi cơ đi thả bom thường thường bay ít nhất là hai chiếc và không phải mỗi chiếc phi cơ chỉ có một trái bom, mà thực vậy, tiếng ồ ồ của phi cơ hồi nãy nghe văng vẳng nay đến gần nghe rền cả bầu trời và bom rớt xuống cũng không cho tôi đếm được là bao nhiêu trái.
Ánh sáng đi theo mỗi tiếng nổ sáng đỏ bầu trời đêm tuy ngắn trong vài giây nhưng chớp nháy liên tiếp theo loạt bom mơ hồ như trời chớp khi chuyển mưa nhưng ở đây, ánh sáng chớp lóe màu vàng đỏ chứ không sáng trắng và trong cái ánh sáng đỏ đó có hàm chứa một cái gì ghê rợn. Lý thuyết thì điểm thả bom là điểm thấp nhất của phi cơ rồi sau đó nó sẽ bay vút lên. Nếu không thả bom, người ở dưới đất vẫn bị chói tai vì tiếng động cơ quá lớn khi phi cơ xà xuống thật thấp, ở đây, thật không thể biết được có bao nhiêu chiếc phi cơ vì tiếng bom nổ quá lớn và ào ạt, át hẳn mọi sự sống dưới đất!
Đất hay đá hay miểng bom không biết nữa, cứ rơi ào ào, vi vút chung quanh tôi, rơi cả trên người tôi kèm theo tiếng nổ không dứt, tôi cố thu người vào gốc bụi tre, không hiểu đám rể tre nầy có che chở cho tôi được gì không nhưng dù sao đó là việc duy nhất tôi có thể làm được ở thời điểm nầy mà thôi. Nhờ vào ánh sáng của bom nổ mà tôi vẫn nhìn thấy được chung quanh mình còn có nhiều bộ đồ rằn ri cũng đang thu hình "đà điểu" giống như tôi trong đám rể tre. Tuy ở cảnh gần cái chết trong đường tơ kẻ tóc nhưng chợt thấy mình còn có nhiều người đồng cảnh, nhất là những người đó cùng chung một đơn vị với tôi, tôi thấy lòng như ấm lại phần nào...
Sau loạt bom thứ nhất thì không gian trở lại hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động từ bất cứ phe lâm chiến nào. Tôi không biết những anh Cộng quân giờ ở đâu, có rút đi chưa hay đang chúi đầu giống như tôi đâu đây để chờ yên hẳn sẽ trở lại lục soát tiếp, hay nằm yên chờ cho những người lính Nam quân ngây thơ, đứng lên, tạo ra bất kỳ tiếng động gì để họ có thể tiếp tục bắn giết. Cái chuyện bom nổ vừa rồi, tôi nghĩ, nếu tôi không hề hấn gì thì bên phía VC cũng không thể nào lăn đùng ra chết hết được. Chắc là chúng chờ bên nầy lên tiếng trước chớ chẳng không. Nghĩ thế tôi tiếp tục nằm yên và có thể những người lính trong đơn vị tôi cũng nghĩ vậy nên tôi không nghe tiếng động nào hết ngay cả gần sát bên tôi, nếu không có ánh sáng do bom nổ, thật không tài nào tôi tưởng tượng là có bao nhiêu người đang nằm sát trong cái đám tre nầy cùng với mình. Còn bọn Cộng quân thì đang nghĩ gì, tại sao họ cũng nằm yên không nhúc nhích ?
Câu hỏi chưa trả lời được thì loạt phi cơ trở lại bỏ bom lần thứ hai đã bắt đầu. Lần nầy thì không bất ngờ bằng và nhờ có "kinh nghiệm" hơn nên tôi không thấy sợ như lần trước, cũng ánh sáng chớp giật từng hồi kèm theo tiếng nổ xé trời, cũng đất đá hay miểng bom (?) rơi ào ào tứ tung. Cũng may, ngay chỗ tôi nằm không hề trúng một trái bom nào cả vì nếu có thì cái bụi tre với cái đám rể tre mong manh nầy thì làm sao chịu nổi ? Tôi nghĩ lan man, nếu một trái bom rơi trúng ngay bụi tre nầy thì mình ra sao nhỉ? Không biết cái xác mình còn có cái gì để lượm chôn được hay không (nếu người nhà mình tìm được tới cái bụi tre nầy) hay tất cả mọi người đang núp ở đây sẽ đồng loạt biến mất khỏi mặt đất, không biết mình sẽ có cảm thấy đau đớn gì hay không nhỉ? Chắc là không kịp nghe đau đâu, à mà chết như thế cũng không khổ bằng bị thương lê lết mất máu mà không được chữa trị rồi chết dần chết mòn... Mãi suy nghĩ lung tung rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết và bọn Cộng quân cũng không biết có lục soát tiếp không hay sau khi bị bom đánh hai lần, họ đã rút đi rồi?
01-5-1972
Mặt trời chưa mọc nhưng ánh sáng đã chan hoà trên mặt đất, trên bãi chiến chiều qua. Tôi bừng tỉnh dậy cũng đúng vào vị trí đêm qua nhưng hiện tại thì mọi sự đều trông thấy rõ ràng, tôi thấy mình nằm sát vào những rể tre chằng chịt của một bụi tre to tướng, xung quanh tôi là những người lính BĐQ trong BCH LĐ, có người đã mở mắt nhưng cơ hồ chưa biết mình đang nằm mộng hay sao mà gương mặt như ngơ ngác (chứ không phải còn ngáy ngủ) có người thì đã ngồi dậy và mặt mủi đăm chiêu, và có cả những người vẫn còn nằm yên, không biết đang còn ngủ hay đã chết từ đêm qua rồi ?
Có điều, mọi người đều cùng mặc một thứ quân phục như tôi vì rõ ràng chứ không phải nằm mơ, Liên đoàn đã bị phục kích trong cái làng nhỏ nầy chiều qua, tôi dụi mắt đôi ba lần như muốn chối bỏ thực tại thật đen tối như bây giờ. Nhìn ra xa xa cách bụi tre vài mươi thước thì thấy cái liếp khoai mì chiều qua giờ đã bị bom đạn đốn ngã rạp xuống, thấp thoáng có những bóng người nằm trong những tư thế ngược ngạo vì cái chết đã đến quá bất ngờ cũng như sức chạm của đạn bom rất mạnh nên thân xác con người chỉ là những mảnh giẻ bị xé tung toé ra mà thôi. Khi bom đạn rơi xuống từ trời cao thì có phân biệt địch hay bạn? Quân phục những xác chết thì màu sắc rằn ri của đơn vị tôi chen lẫn có quân phục màu xanh olive của Cộng quân, không biết bị đạn Nam quân bắn chết hay chết vì bom của Hoa Kỳ? Trong đó có ai là người đã lớn tiếng hô hào "Hàng sống chống chết" đêm qua hay không? Mọi người thức tỉnh hay chưa thức tỉnh đều trong vị thế yên lặng và quan sát vì có lẽ cũng như tôi, không ai biết mình phải làm gì trong tình trạng nầy ?
Rồi bổng có một đám lính Biệt động quân kéo đến mà người dẫn đầu là Đại úy Xê, trưởng ban Truyền tin của Liên đoàn. Xê là sĩ quan tốt nghiệp khóa 19 Võ Bị Dalat, theo lẽ ở tác chiến cầm quân thì cũng ở cấp thiếu tá nắm ít nhất là tiểu đoàn phó trở lên nhưng không hiểu vì sao anh đã chuyển ngành sang truyền tin nên giờ nầy cũng còn mang lon Đại úy và chỉ là trưởng ban Truyền tin mà thôi trong khi Liên đoàn có 3 Tiểu đoàn thì trừ Thiếu tá Danh (Tiểu đoàn 33) là khoá đàn anh (VBQG khóa 18) còn lại hai Tiểu đoàn trưởng kia (30 và 38) là các Thiếu tá Thủy và Khang đều là bạn đồng khóa của anh. Nay Đại úy Xê đứng ra tập họp đám tàn quân lại để dẫn đường trở về, không cần nói là cấp bậc anh cao nhất đám mà chỉ việc anh xuất thân khoá 19 Dalat cũng đủ cho vừa thấy tin tưởng vừa vững dạ hơn lên rất nhiều.
Anh Xê cho tập họp tất cả đám tàn quân lại để kiểm điểm và tổ chức lại hàng ngũ (không ngờ có những hơn 70 người -kể cả tôi - sống sót qua đêm vừa rồi mà hồi đêm tôi cứ ngỡ chỉ còn mình mình!) Rồi lệnh anh Xê đưa ra là tất cả chỉnh đốn đội hình theo anh để lên đường tiếp tục tìm về tuyến bạn. Lúc đó khoảng chừng 6 giờ sáng.
Trên đường đi, tôi có hỏi anh Xê là mình đang ở đâu và tuyến bạn ở đâu ? Còn bao xa nữa mới bắt liên lạc được với phe ta thì được anh trả lời là máy móc vô tuyến giờ mất sạch, có cách gì liên lạc được với ai? Anh hiện chỉ tìm hướng nam mà đi, dùng mọi thủ thuật di hành của quân đội để đi , mọi người ai cũng chỉ còn súng cá nhân mà thôi (M16) riêng tôi thì lượm được một cây carbine M -2 cũng cầm cho có với mọi người - không lẽ đi tay không ? đồ đạc cá nhân mọi thứ của tôi giờ không biết đâu mất cả rồi mà nhìn chung quanh mọi người cũng giống như tôi, không ai còn cái gì khác ngoài bộ đồ lính trên mình cùng ít đạn dược và một khẩu súng cá nhân - Tôi phân vân trong bụng không biết rồi ăn cái gì và uống cái gì để sống mà đi tiếp? Vì dưới con mắt quan sát của tôi, tôi không thấy ai mang cái gì có thể ăn được cả cũng như tôi thấy chỉ vài người rải rác có bình tong nước mà thôi... Nhưng mặc kệ, ai sao thì mình vậy, quý hồ là còn sống trở về tuyến bạn được là tốt rồi...
Khoảng gần 9 giờ sáng thì đám tàn quân dưới sự hướng dẫn của Đại úy Xê đang đi về hướng đông bổng đến một chiếc cầu nằm theo hướng đông-tây đã gãy sập khúc giữa tự lúc nào. Dòng sông chảy theo hướng bắc-nam không lớn lắm, bề ngang chỉ chừng 3, 4 mươi mét nhưng nước chảy khá mạnh. Anh Xê ra lệnh cho mọi người làm phao cá nhân từ những chiếc poncho, ai biết bơi thì bơi và nhường poncho lại cho người không biết bơi. Tuy nhiên số poncho vẫn không đủ cho số người không biết bơi.
Cũng may, hồi còn bé, tôi vẫn thường hay trốn học đi tắm sông. Nhà tôi hồi trước ở Bà chiểu, không có sông nào ngoài sông Saigon thì cấm bơi, sông cầu Bông tức rạch Nhiêu Lộc thì quá dơ nên anh em tôi vẫn thường cùng đám bạn nhỏ trong xóm đi bơi ở cầu Bình Lợi, sông vừa rộng vừa nước chảy mạnh nên nói chung, nguyên cái lũ trẻ năm xưa đứa nào cũng bơi rất giỏi với cái giá là lần nào về nhà, hai anh em tôi cũng bị Mẹ đánh đòn nên con sông nhỏ ở Quảng Trị nầy không làm tôi lo lắng chút nào. Tôi mang cả nón sắt, không bận tâm cởi cả đôi giày trận mà nhảy đùng xuống nước nguyên con.
Sau bao nhiêu căng thẳng tối qua, mặc dù chưa đi thoát tới đâu cả nhưng vẫy vùng dưới nước làm cho tôi thấy rất sảng khoái! Trong khoảnh khắc, tôi đã sang đến bờ phía đông, tôi còn nhìn quanh quất trên bờ và dưới nước với ý nghĩ tìm xem Đại úy Xê ở đâu. Bổng có tiếng kêu lớn: Anh Ấn ơi, cứu em với! Nhìn xuống nước thì tôi thấy Thiếu úy Bình (thuộc Ban 3 BCH/Liên đoàn) đang chới với tuy sắp đến bờ. Có lẽ Bình không biết bơi nên dùng poncho làm phao nhưng sắp đến bờ thì tuột tay hay sao đó nên đang lùng bùng dưới nước, không kịp nghĩ gì cả, tôi phóng trở xuống nước, bơi tới Bình để dìu anh vào bờ. Cũng may, Bình cũng biết nguyên tắc cấp cứu thủy nạn nên không làm trở ngại gì cho tôi trong việc cứu anh ta. Khi Bình với tôi chỉ còn vài sải tay nữa là tới bờ thì bổng tiếng súng nổ dòn dã và tiếng đạn bay veo véo rền cả buổi sáng yên tỉnh. Ngoái nhìn lại bờ phía tây, tôi thấy có 2 chiếc chiến xa của Cộng quân đang đậu lại với bao nhiêu lính ngồi đứng lổn ngổn trên đó, họ dùng súng cá nhân cũng như đại liên trên xe để bắn đám lính BĐQ hoặc đang chạy tháo thân bên bờ hoặc còn đang vật vả chiến đấu với dòng nước chảy...
Nói thì lâu nhưng thật ra chỉ trong tích tắc, tôi đẩy Bình vào bờ với ý nghĩ Bình sẽ chắc chắn không còn bị chết đuối nữa (còn có sẽ ăn đạn Cộng quân hay không thì chỉ có Trời biết) còn tôi thì quyết định phải tự cứu lấy thân, tôi lặn ngay thật sâu xuống nước và bơi thật mạnh xuôi theo dòng nước, khi hết hơi, tôi nổi lên và hít thật sâu và thật nhanh trước khi lặn trở lại. 3 lần nín hơi để lặn sâu và bơi theo dòng nước chảy và 3 lần nổi lên để thở , tôi ước lượng mình cũng đã đi xa khỏi vùng chiếc cầu gãy hơn 100 mét là ít, tôi nổi lên và thả ngửa theo dòng để nhìn lại thì thấy 2 chiếc chiến xa giờ đã nhỏ xíu, tôi không còn thấy hình dáng người nào rõ ràng nhưng tôi thấy được họ vẫn còn bắn theo những người lính đã tan hàng, đang chạy nhốn nháo như đàn kiến vỡ tổ hoặc đã lên được bên kia bờ hoặc đang còn đang bì bõm dưới nước.
Tôi không thấy cần lặn nữa mà bơi nhè nhẹ theo dòng nước để đi xa thêm nữa cho tới khi tôi chỉ còn nghe tiếng nổ xa xa nhưng không còn thấy ai nữa hết nhờ con sông đã quẹo sang hướng khác, tôi bắt đầu cặp vào bờ hướng đông rồi lên bờ. Người ướt sũng nhưng không thấy lạnh, lạ là tôi cũng không thấy sợ hãi gì cả mà lòng còn thấy vui mừng là mình vừa thoát chết một cách linh hoạt, bây giờ phải định hướng mà đi tiếp để tìm trở về tuyến bạn. Tôi nghĩ sở dĩ Đại úy Xê đi về hướng đông thay vì hướng nam là con đường gần hơn trở về tuyến bạn có lẽ vì anh ta biết được khu nầy có lẽ có nhiều quân Bắc vì hiện vẫn còn không xa quốc lộ 1 là mấy. Do đó tôi quyết định cứ tiếp tục đi về hướng đông cho tới khi nào cảm thấy đã xa quốc lộ 1 thì lúc đó tôi sẽ đổi về theo hướng nam thôi. Thế là tôi bắt đầu tiến bước nhìn về phía mặt trời trước mặt.
Lúc đầu thì tôi cứ lầm lũi bước không thấy mỏi mệt chi cả. Bốn phía không một bóng người. Cũng may địa thế ở đây chỉ là những độ dốc không cao và đất có trộn lẫn nhiều cát, tôi nghĩ có lẽ tôi còn cách bờ biển không xa lắm. Chừng gần trưa thì mặt trời lên cao, áo quần ướt đẫm nước sông của tôi đã khô tự bao giờ và tôi bắt đầu thấy khát. Cái đói cũng như những chuyện vệ sinh thường ngày (tiểu tiện hay đại tiện) sao không thấy là vấn đề gì, chỉ có cái khát bắt đầu trở lại làm tôi nhớ buổi sáng trên đường số 1, khi đoàn người và xe cộ bị pháo đánh tan tác và tôi chạy vào cánh đồng cát bên đường, lúc đó thật cái khát nước giống như bây giờ... Bốn phía là cát, lấy nước ở đâu ngoài cái ráng mà chịu đựng? Khi mặt trời ở trên đỉnh đầu thì chung quanh chỉ toàn là cát và cát, cái cát trắng to hạt và nóng bỏng... Rải rác có những lùm bụi nho nhỏ đong đưa theo gió. Tới gần tôi thấy những chùm hoa tím và có cả những trái nho nhỏ cũng màu tím mà mấy hôm trước tôi đã có dịp biết đó là bụi hoa sim, tuy chưa bao giờ ăn thử nhưng nhớ hồi còn ở Saigon có hai câu thơ tôi vẫn nghe hàng triệu lần:
Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương...
Tôi cũng ngắt một hai trái bỏ vào miệng. Vị không ngọt lắm nhưng cũng dễ chịu nhất là làm dịu cơn khát của tôi phần nào. Thế là tôi hái tất cả trái ở cái bụi sim đó ăn liền.
Không bao giờ tôi nghĩ có lúc mình cũng phải ăn trái sim đỡ đói khát như bây giờ và trớ trêu là tôi đang tìm về tuyến bạn trong khi đơn vị tôi hiện đã tan tác phương nào chớ không phải tìm người yêu nào cả!
Cái khát tạm giải quyết xong thì cái đói chừng như thức dậy. Tôi nằm nghĩ trên cát dưới cái bóng mát nhỏ xíu của bụi sim để tránh bớt cái nóng nung người của buổi trưa Quảng Trị, bốn phía chỉ cát và cát, không một bóng người, trên mình chỉ còn lại có một bộ đồ trận và vài cái dụng cụ tiểu phẫu, thử hỏi lấy cái gì mà ăn đây? Thôi thì nhịn đói cũng được, để nghĩ một chút rồi sẽ tính tới. Tưởng về gặp được đơn vị thì vững bụng rồi ai ngờ mình cũng trở lại cái cảnh cùng cực cô quạnh một mình giữa cái chốn không biết là đâu.
Một lúc sau, tôi bắt đầu đi tiếp về hướng đông (nhờ nhìn theo mặt trời). Khi mặt trời lên gần tới đỉnh đầu thì ước chừng mình đi cũng đã được 5, 3 cây số gì đó nên tôi định hướng mặt trời để quay về hướng nam. Có lẽ nhờ Trời thương nên chừng lát sau, tôi nhìn thấy có một chiếc xe thiết giáp nằm trên bãi cát, chiếc xe rõ ràng là của phe ta (kiểu gì thì cũng không biết, chỉ biết không phải là M-48 vì M-48 của Thiết đoàn 20 Kỵ Binh đóng quân chung với tôi mấy hôm trước nên tôi nhìn nó là biết liền) Tôi liền đi tới gần xem thử.
Tới nơi, thấy chiếc xe hoàn toàn vắng lặng như không có người, tôi liền leo lên pháo tháp nhìn vào thì chỉ có mùi khói xông ra, chắc là xe bị bắn trúng làm hư hại nên bị bỏ lại. Không có tăm dạng của người sống cũng như không có cả xác chết của ai cả, chiếc xe đứng lẻ loi một mình giữa đồng cát mông quạnh giống như tôi vậy. Tôi leo vào bên trong lục tìm xem có cái gì ăn được không. May quá, tôi thấy được mấy hộp đồ ăn của quân đội Mỹ nằm lăn lóc ở một góc liền túm cả bỏ vào trong một cái bị bằng vải lều cũng ở trong xe.
Sau đó, tôi liền rời khỏi xe và đi thật nhanh cho xa vì tôi sợ chiếc xe nằm chơi vơi giữa đồng cát thật dễ là mục tiêu cho mọi người chú ý và dĩ nhiên nếu đơn vị VC nào mà thấy nó thế nào chúng cũng sẽ tới lục soát. Ở giữa đồng cát mênh mông nầy thật không có chỗ núp nên nếu tôi ở gần đâu đó một vài cây số vẫn có thể bị nhìn thấy, vì vậy tôi liền tìm đến một bụi sim trên đường và khuất bóng chiếc thiết giáp chắc cũng đã xa để nằm trốn. Qua những sách vở tôi đã đọc, tôi biết được trong trường hợp của tôi, ban ngày nằm trốn đâu đó và di chuyển ban đêm là cách tốt nhất nhất là ở vào cái địa hình bốn bề trống trải như cái đồng cát nầy. Và tôi cũng không quên nhắm sẵn hướng để có thể đi đúng hướng nam đêm nay khi không còn có mặt trời để làm chuẩn nữa... Trăng hay sao gì thì chắc sẽ không có vì đêm qua, tôi nhớ rõ ràng trời đã tối đen như mực khi tôi nằm trong bụi tre khi máy bay oanh tạc...
Nằm trong bụi sim, tìm cách khui một lon thịt heo (mà mấy anh lính thường gọi là Heo nút lưỡi) lại còn tráng miệng một lon Fruit thingytail nữa chớ, thật sang (có điều cái thịt heo nút lưỡi nầy ăn không thiệt là mặn mà cái mặn nầy sẽ hành hạ tôi cho khát chết bỏ chớ chẳng không!). Tôi nghĩ mình đã sẳn sàng cho cuộc dạ hành, bây giờ tới đâu hay đó, tôi nằm nhắm mắt để tìm giấc ngủ để còn có thể đi sáng đêm nay...
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 4, 2011 9:26:21 GMT 9
Phần 4 Khi tôi choàng tỉnh dậy thì trời đã tối, không có trăng nhưng ánh sáng từ những vì sao trên nền trời trong vắt cho tôi thấy mờ mờ cảnh vật. Thế là tôi bắt đầu nhắm hướng nam thẳng tiến. Đêm đó tôi đã đi được khá xa (không biết là bao nhiêu xa) nhưng thời gian đi hướng đạo những ngày còn trẻ con đã giúp tôi rất nhiều trong việc định hướng cũng như những thủ thuật ẩn núp mà tôi đã phải dùng đến nhiều lần.
Có lần tôi nằm bên cạnh một con đường đất và cả một đoàn quân Cộng đi ngang vừa hát vừa đi rầm rộ, một lần khác đang đi trong một đám lau sậy cao hơn đầu người, suýt chút nữa tôi đã đi ngay vào một chỗ đóng quân của VC. Họ nói cười như chốn không người, có người thử cho máy xe chạy để xem xét máy móc (xe gì thì tôi không thấy và cũng không biết, tôi chỉ biết mình phải nhẹ nhàng đi vòng một vòng thật lớn để tránh qua nơi đó). Cái khó nhất là khi gặp một đám tre dầy đặc, tôi đã phải đánh vòng vì không có cách gì đi xuyên ngang bụi tre được nhưng khi đi vòng sang rồi thì mất hướng, không còn biết hướng nào là hướng nam nữa vì trời kéo mây nên nhìn lên không còn bóng dáng một vì sao nào để làm chuẩn nữa cả. Tôi phải ngồi lại nghỉ chờ mây kéo đi cho trời trong trở lại. Gặp mấy con sông tuy không to nhưng nước chảy cũng khá mạnh, tôi phải bơi qua nhưng mỗi lần bơi qua xong là phải định hướng lại -và còn bị lạnh nữa- Tuy nhiên khi trời vừa hừng sáng thì tôi thấy mình đang ở trong một đám cây khá rậm. Thế là tôi ngừng lại với ý định sẽ ngủ lại đây ngày hôm nay...
2-5-1972
Tưởng là ngủ dễ lắm sau một đêm đi với nhiều biến cố (bò, trườn, bơi vượt sông... và theo nguyên tắc sinh lý cơ thể bình thường, ban đêm là ai cũng phải ngủ, hễ không ngủ hoàn toàn thì sẽ bị buồn ngủ ghê gớm lắm, nhất là không ngủ mà còn nhiều hoạt động căng thẳng cả tinh thần lẫn thể xác) ai ngờ khi nằm xuống dưới một bụi cây, đầu óc tôi tự nhiên lại đi suy nghĩ vẩn vơ. Không hiểu tình hình chiến sự mấy hôm nay ra sao, mình còn phải đi bao nhiêu xa mới tìm được về tuyến bạn? Đi suốt đêm qua tôi dự trù một giờ đi trung bình được 5km, nhưng những lúc bò, trườn hay ẩn núp hoặc đi vòng quanh thì tôi nghĩ mình đi chừng 3km là quá lắm. Suốt đêm tôi đã đi khoảng 5 tiếng thì con đường có lẽ chừng 15km là cao nhất. Nhưng tuyến bạn ở đâu? Nếu phải đi về tới Huế thì khoảng đường Huế - Quảng Trị là 50km, tôi sẽ còn đi khoảng 2 hay 3 đêm nữa. Mình sẽ chỉ lo trốn cho kín ban ngày, còn đi 2 hay 3 đêm thật tình tôi không thấy lo chi.
Nhớ đọc chuyện Doctor Jivago, anh chàng đi những mấy tháng trong vùng tuyết giá để về được cái thành phố nhỏ xíu có nàng Lara ở đó... Tôi thấy mình còn có cơ hội hơn Jivago nhiều. Nhưng nghĩ tới Lara, tôi chợt nghĩ tới gia đình nhỏ của mình, với bà xã và hai đứa con. Bà xã tôi hôm tôi về phép vừa rồi bụng đã lớn tướng, bà ấy lại hay sinh sớm trước ngày, giờ nầy không biết ra sao rồi, nếu cũng sinh sớm như hai kỳ trước thì bữa nay cũng dám vào bệnh viện để sinh rồi chớ chẳng không, mà kỳ nầy không biết sinh con trai hay con gái đây? Cha chả, mình có 2 thằng rồi, giá kỳ nầy bả sinh được đứa con gái thì hay biết mấy, cả hai nhà nội ngoại gì lâu quá không có cháu gái, ai cũng trông mong con gái, nếu bà xã sinh được con gái thì mình nghỉ luôn là vừa... mà mình phải cố gắng mà về mới được nếu không con của mình sẽ lại mồ côi cha như mình hồi nhỏ... Nếu mình có mệnh hệ nào thì hai thằng con trai chúng còn nhỏ quá, không hưởng được gì của cha chúng đó là không kể đứa bé sắp sinh lại phải mất cha truớc khi mở mắt chào đời.
Tôi chợt thấy lòng mình lo lắng bội phần và cái trách nhiệm với gia đình, với mấy đứa con chợt làm cho lòng tôi chùn xuống, tôi có sai lầm không khi chọn đơn vị Biệt động quân để con tôi mất cha? Tôi coi trách nhiệm với quốc gia trước gia đình có đúng không? Tại sao cả một miền Nam, người ta cố tình trốn lính hay nếu đi lính lại cố chạy chọt cho ở đơn vị phía sau, còn tôi lại tình nguyện đi ra tuyến đầu khói lửa? Đúng hay sai? Nghĩ lan man một hồi rồi cái thiếu ngủ cộng thêm cái đói làm tôi thiếp đi.
Bỗng có tiếng người nói nghe gần gần làm tôi choàng tỉnh dậy, tôi nhìn quanh chợt thấy có mấy người mặc đồ xanh thường và đồ rằn ri Biệt động đang đi tới, tôi quên suy tính gì mà chỉ do lòng bồng bột mừng rỡ sau một ngày không thấy quân bạn nên lên tiếng kêu, mấy người đó nhìn thấy tôi cũng mừng rỡ không kém, có người nhìn ra tôi và họ lên tiếng kêu "Bác sĩ!" rồi họ kéo nhau tới xúm xít chung quanh tôi. Thì ra đó là mấy người lính cũng như có 2 người là Lao Công Đào binh trong đơn vị tôi, họ cũng chạy lạc đơn vị nhốn nháo tới đây. Lao Công Đào binh là những người phạm tội đào ngũ ở một đơn vị nào đó bị bắt lại, đưa ra Tòa Án Quân sự và bị xử một thời hạn tù nhưng không phải ở tù mà là bị đưa ra một đơn vị tác chiến để làm nhiệm vụ lao công chiến trường trong suốt thời hạn bị xử. Trong suốt thời gian đó, họ phải làm các công tác tạp dịch như tải thương, khiêng vác đạn dược, đào hầm đào hố, nói chung là họ làm mọi nhiệm vụ cực nhọc và nguy hiểm không kém người lính tác chiến chút nào.
Cái khác biệt là họ không có được hưởng bất cứ tiêu chuẩn nào của người lính chiến (như lãnh lương, mua Quân tiếp vụ hay quần áo "đầy đủ") mà còn lại không được trang bị súng đạn gì cả. Họ sống kham khổ, thiếu thốn mọi thứ, từ ăn mặc, đồ chống lạnh (như ở Quảng Trị trời về đêm cũng rất lạnh) cho tới thư từ ở nhà hay tiền bạc để mua sắm thêm vật dụng cần thiết (vì gia đình ở nhà của người lính Nam quân đã quá khổ tới độ người chồng phải đào ngũ, nay người chồng là LCĐB không có tiền lương gởi về thì làm gì người vợ ở nhà có tiền để gởi ra tiếp tế cho chồng?) Chỉ có về phương tiện y tế thuốc men, người khác thì không biết sao, riêng tôi vẫn thương cảm họ nên tôi đã đối xử với những người LCĐB không khác gì người lính thường trong đơn vị khi bị thương hay bị bệnh. Người LCĐB nào phục vụ đơn vị còn sống sót qua thời hạn bị trừng phạt (6 tháng hay 1 năm) sẽ được phục hồi binh quyền là trở lại làm binh nhì (là cấp thấp nhất trong quân đội) trong chính đơn vị anh ta làm lao công trong thời gian qua. Tuy họ là LCĐB nhưng bản chất họ cũng là người lính VNCH nên họ cũng chia xẻ với các người lính trong đơn vị mọi chuyện hiểm nguy như trong đơn vị tôi trong thời gian gần đây thì không thiếu những trường hợp người LCĐB cũng đã chụp lấy cây súng của đồng đội vừa ngã xuống để cố chiến đấu chống đỡ cho phòng tuyến của đơn vị mình. Giờ đây, nhóm họ gồm 6 người chỉ toàn cấp binh sĩ như rắn không đầu nên khi gặp tôi là một sĩ quan, họ mừng rỡ còn hơn cả tôi mừng khi thấy họ!
Điều đáng tiếc là tuy tôi là sĩ quan nhưng tôi chỉ là bác sĩ Quân Y nghĩa là về phương diện hành quân hay tác chiến tôi không hơn gì họ cả (nếu không nói là không bằng họ) nhất là trong trường hợp nầy thì tôi cũng chỉ có biết nhắm hướng Nam mà đi thôi. Tất cả mọi kỹ thuật di hành trong đêm đều là do kinh nghiệm đi Hướng đạo ngày còn trẻ con mà có! Dù sao thì cái cấp bậc cũng làm cho tôi đứng lên nhận lãnh trách nhiệm. Tôi giải thích tình hình của đơn vị rồi hướng dẫn họ kỹ thuật đi đêm, kỷ luật khi đi đường cũng như mục đích tối hậu là đi về Huế của tôi.
Trong bụng họ nghĩ sao thì không biết nhưng bên ngoài thì cả bọn 6 người có vẻ tin tưởng vào tôi rất nhiều và họ hứa là sẽ tuân lệnh tôi một cách tuyệt đối. Thế là lệnh đầu tiên tôi đưa ra là tất cả ngủ yên tại chỗ, tránh mọi trường hợp gây ra tiếng động (hay cả tiếng nói cũng phải nói nhỏ nhỏ) chờ đêm tối sẽ đi tiếp. Rồi mọi người chia ra những bụi cây gần đó để cố dỗ giấc ngủ.
Ngày hôm đó không có biến cố gì xảy ra, đám tàn quân của tôi chia nhau mấy hộp thịt còn lại của tôi và có vẻ lạc quan vì tin tưởng tôi sẽ là người đưa họ về tuyến bạn vì trong lòng ai cũng chỉ nghĩ tới chuyện cố vượt thoát về tuyến bạn là điều quan trọng hơn cả. Khi mặt trời lặn là anh em chuẩn bị lên đường. Ban ngày, tôi đã nhắm sẵn hướng Nam nên lúc bắt đầu đi là mọi người đi theo hướng đã định sẵn.
Chuyện phiêu lưu đi đêm và trốn địch thì diễn ra như trong phim xi nê, lại diễn ra như tuồng đêm trước, có những lúc cả bọn nằm yên bên cạnh một con đường đất trong khi một toán Cộng quân hàng trăm người xếp thành hàng tư, vừa đi vừa hát hò ồn ào ngay trên đường. Có lúc anh em bò trong đám lúa (hay lau sậy?) cao quá đầu ngang qua một trạm dừng chân của Cộng quân, nghe họ nói chuyện giọng Bắc um sùm, có khi đi ngang một xóm nhà nghe chó sủa gà gáy, lại có lúc lội qua một con sông nhỏ (không ai biết là sông gì?) Khổ nhất vẫn là khi phải đi vòng quanh một hàng tre dầy đặc mà vùng nầy sao nhiều tre quá vậy không biết, trời không trăng không sao, qua được bụi tre rồi thật tình không biết hướng nam là hướng nào nữa! May sao đám mây chợt vén ra lộ nguyên chùm sao Hiệp sĩ! Tôi định hướng nam rồi anh em đi tiếp. Bọn 6 người binh sĩ nầy tỏ ra rất phục tôi, có anh chàng đi cạnh tôi hỏi nhỏ nhỏ : "Ông là bác sĩ sao ông đi nghề quá vậy?" Đúng là trong xứ mù thằng chột làm vua!
Quá nửa đêm một chút thì anh em mừng thêm hơn nữa vì cả bọn gặp được bóng hai người cũng đang lầm lũi bước, lúc đầu chưa biết ai nên anh em nằm im sát đất, chừng hai người đó tới thật gần mới nhìn ra đó là hai ông Trung tá Liên đoàn trưởng và Liên đoàn phó! Thế là cả bọn nhập chung và tôi thấy vững lòng hơn nhiều vào cơ hội của mình. Trung tá Liên đoàn trưởng cho biết là anh em đã đi được đến đây cũng là giỏi rồi, bây giờ cũng tiếp tục như vậy nhưng là đi theo hai ông một khoảng xa xa vì đi chung chùm nhum với nhau một đám rất dễ bị lộ. Thế là cả bọn đi tiếp theo vết chân của hai ông sĩ quan nhà nghề kia.
Cho tới khoảng 4 giờ sáng thì đến một cái đầm nước mênh mông, trăng lại vừa mọc lên trên đỉnh đầu, trời trong và không mây nên mặt nước đầm im và phẳng như một tấm gương, Trung tá Liên đoàn trưởng cho biết nếu mình vượt nước kiểu bình thường rất dễ bị trông thấy nếu có ai tình cờ đứng trong bờ nhìn ra, tốt nhất là làm sao chỉ để cái đầu ló lên mặt nước mà thôi, càng cố tạo ra sóng nước ít chừng nào tốt chừng đó và mọi người phải tách xa nhau ra. Thế là anh em bắt đầu đi nhè nhẹ xuống nước, tuy cái đầm thấy mênh mông nhưng lội xuống mới thấy là rất cạn, Tôi phải bò lúp xúp dưới nước theo bóng hai cái đầu của hai ông Trung tá phía trước. Khi qua tới bờ bên kia thì trời đã sáng mờ mờ, mọi người lên một cái bãi vắng có nhiều lùm cây, ông Liên đoàn trưởng cho biết có thể ban ngày cái bãi nầy sẽ có nhiều người qua lại vì đó là vị trí đóng quân rất tốt nên Cộng quân có thể sẽ đến đây, do đó ông ra lệnh mọi người đi cả vào thửa ruộng đàng trước mặt để ẩn náu lúc ban ngày. Ông còn dặn là nếu có lạc nhau, hãy nhìn cái nóc chùa xa xa là mục tiêu, ông ta cho biết nơi đó theo bản đồ hành quân là có quân bạn ở đó, từ cái bãi nầy tới đó không còn xa nữa, chỉ độ 5 cây số là cùng và đêm nay, anh em có thể đến đó được trước nửa đêm. Ông ta còn dặn dò là khi gặp quân bạn coi chừng bị bắn lầm khi anh em len lén bò đến tuyến phòng thủ của quân mình. Rồi mọi người tạm chia tay chia nhau chui vào đám ruộng lúa để trốn lúc ban ngày...
3-5-1972
Sau hơn 3 ngày lặn lội đủ điều cũng như bao nhiêu lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, hôm nay tôi tự dưng thấy yên dạ hẳn lên, có lẽ nhờ tôi gặp được 2 ông Liên đoàn trưởng và Liên đoàn phó. Hai ông nầy đều mang cấp bậc trung tá, dĩ nhiên kinh nghiệm chiến trường cũng như lặn lội kiểu nầy chắc chắn là hơn tôi nhiều cũng như không lẽ đi với hai ông đơn vị trưởng mà không thành công sao? Vì thế sau khi chọn được một thửa ruộng tương đối nước thấp thấp một chút, tôi liền nằm ngay xuống đánh luôn một giấc. Nghe qua thì có vẻ vô lý vì ai mà nằm ngủ trong vũng nước được? Nhưng phần vì mực nước thấp chỉ ngang cổ chân (có lẽ vì người ta đã quên tát nước vào thửa ruộng nầy hay là đất trong thửa ruộng nầy vì lý do nào đó đã hút nước nhiều hơn các thửa ruộng khác nên mực nước mới thấp như vậy) phần thì tôi mấy đêm liền đâu có ngủ nghê gì đàng hoàng đâu nên cơn buồn ngủ đến thật nhanh. Tôi nằm ngửa và tưởng tượng như đang thả ngửa trong hồ tắm và bắt đầu nhắm mắt. Giấc ngủ khỏi dỗ cũng đến.
Mặt trời đã lên cao khi tôi bừng mắt dậy, mới có hơn 8 giờ sáng. Tôi có biết làm gì hơn là cố ngủ tiếp cho hết ngày, bụng đói, mắc đi vệ sinh, tôi cũng cố nhịn, lại còn tự nhủ: "Nín đi cầu thêm một bữa nữa thôi, có chết thằng tây nào!" Nhưng giấc ngủ có cố dỗ thế nào nó cũng không đến, nằm ngâm mình dưới nước lúp xúp mà ngủ sau khi mới thức dậy thật không phải dễ nên tôi không cách gì ngủ lại được nữa. Mà thức và nằm trong nước thì thật khó chịu, tôi bèn ngồi dậy cho bớt mỏi. Ruộng lúa ở đây khác ruộng miền Nam của tôi, lúa ở đây tuy không bị ngập nước như miệt Đồng Tháp, Hậu Giang nhưng cũng mọc cao như lúa sạ, nhờ vậy, ở vị thế ngồi thì tôi không lo bị ai trông thấy.
Thời gian trôi qua thật chậm. Bỗng có tiếng người nói chuyện. Tôi nhìn lên thì thấy có mấy người nhà nông đang mang cuốc, gàu, v.v... đi tới ngay trên bờ đê của thửa ruộng tôi đang núp trong đó. Tôi nhìn họ và thấy họ nhìn tôi. Tôi ra dấu bằng tay để cho họ đừng tỏ ra gì khác lạ và thật tôi cũng không hiểu họ có nhận thức gì không, chỉ biết họ kéo nhau đi thẳng sau chỉ một vài giây trùng trình... Thời gian lúc nầy như đứng lại. Nhìn đồng hồ tay mới có gần 9 giờ sáng. Tôi suy nghĩ lan man, tôi nửa muốn chạy trốn sang thửa ruộng khác vì sợ những người nông dân đó đi tố cáo tôi với Cộng quân, nửa lại nghĩ không lẽ họ là dân chính phủ miền Nam mà nỡ nào làm vậy, tần ngần, lưỡng lự một lát thì tôi chợt biết là quá trễ. Vừa nhổm đầu lên quá tầm cây lúa một chút là tôi đã thấy những thửa ruộng xa gần đều đầy người. Họ vẫn làm ruộng như thường lệ, tôi nghĩ chắc là họ không để ý gì tới tôi, giờ nầy mà chạy lúp xúp sang chỗ khác cũng không chắc hơn gì mà còn tạo sự chú ý của bao nhiêu người nông dân đang có mặt ở hiện trường. Mà càng nhiều người thấy tôi chừng nào thì cái xác xuất người ghét lính Cộng hoà càng tăng chừng ấy. Âu là nằm yên giao số phận vào tay những người nhà nông buổi sáng còn có cơ hội hơn.
Đồng hồ trên tay tôi chỉ đúng 1 giờ trưa khi tôi nghe tiếng bộ đội quát tháo ngay kề bên: "Hàng sống chống chết!" Quay nhìn thì thấy ruộng lúa rung rinh chớ ở vị trí ngồi tôi cũng không trông thấy gì hết. Chỉ nghe tiếng mấy anh chàng binh sĩ và LCĐB đi theo tôi từ hôm qua tới giờ đang léo nhéo: "Tụi tui chỉ là binh nhất thôi anh bộ đội ơi." Có người nói: "Tui là lao công đào binh." Mmỗi người một tiếng góp phần vào cái tình thế tuyệt vọng nầy. Nhìn qua kẽ lúa đong đưa, tôi thấy những người lính đang bị trói lại và bỏ đứng trên bờ đê trong khi bộ đội đang dàn hàng ngang để cày xới cái thửa ruộng nầy để tìm thêm lính Cộng hoà còn đang trốn trong đó mà tôi và có lẽ cả hai ông Tr/tá Liên đoàn trưởng và Liên đoàn Phó đều nằm trong thửa ruộng vuông vức nầy.
Từ lúc đầu, tôi vẫn còn mang theo quả lựu đạn trái chanh, tôi nghĩ thà chết còn sướng hơn bị Cộng sản bắt được nhưng khi ngón tay tôi để trên cái chốt lựu đạn, tôi như thấy hình ảnh các con tôi trước mắt, tôi còn sống thêm một phút là cái hy vọng còn trở về kéo dài thêm một phút để còn gặp lại các con tôi, còn tôi kéo cái chốt ra rồi thì không còn vãn hồi được nữa, mấy đứa nhỏ sẽ đi vào trường hợp của chính cha chúng nó là sẽ không bao giờ có cha nữa hết, phải chịu nhiều thua thiệt của cuộc đời như tôi đã phải chịu và chắc gì vợ tôi sẽ nuôi dạy con được như Mẹ đã nuôi dạy anh em tôi?
Khi tôi nghĩ tới đó thì tay tôi vùi quả lựu đạn xuống sình đất ruộng thật nhanh, vừa vặn một tên bộ đội chĩa mũi súng AK vào đầu tôi. Tôi giơ hai tay lên khỏi đầu, thế là xong, không biết xong cái gì nhưng chỉ trong một tích tắc, tôi nghĩ nếu để yên thì hai ông Trung tá cũng sẽ bị cùng chung số phận. Thôi thì đàng nào cũng bị bắt, ráng cứu để ai thoát được thì thoát nhất là hai ông Trung tá nầy có về được thì cái tin tôi bị bắt làm tù binh sẽ được kể lại một cách chính xác cho gia đình tôi để khỏi có cái cảnh mơ hồ không rõ.
Thế là tôi hô lớn: "Tôi là trung úy bác sĩ đây!" Tất cả những binh sĩ bị bắt nãy giờ ai cũng xưng mình là lao công đào binh, lính trơn hay cùng lắm chỉ là hạ sĩ quan cấp thấp như hạ sĩ mà thôi, bởi vậy bộ đội muốn lùng bắt cho hết "bọn Ngụy" còn trốn trong thửa ruộng nầy như nhân dân "tiến bộ" đã báo cáo nhưng không dè trong mẻ lưới nầy lại bắt được cả một tên sĩ quan ác ôn, trung úy mặc áo rằn ri mang hình đầu cọp thì thứ nầy có tội với nhân dân nhiều lắm đây, thế là bọn chúng ùa đến, có người nhảy tới đấm đá vào tôi, tuy những cú đấm đá thật không đáng gì, tôi có thể né tránh dễ dàng nhưng tôi vẫn giả vờ bị trúng để ngã xuống hầu tránh được cơn mưa đấm đá đang tới tấp giáng tiếp xuống người tôi. Ở một góc của thị trường (là cái góc độ bao gồm hai mắt có thể trông thấy được -champ visuel-) tôi thấy hình như có hai bóng người phóng từ thửa ruộng của tôi ẩn núp sang thửa ruộng kề bên. Nằm trong vị thế như con tôm trên bờ đê, hai tay ôm che lấy đầu, tôi vẫn còn nói nhỏ: "Chúc hai ông may mắn."
Tất cả tù binh bị bắt được đưa về một cái nhà của dân gần đó, ai cũng bị trói nhưng theo tôi, có lẽ tôi là người bị trói chặt nhất, hai ngón tay cái bị cột với nhau ở sau lưng rồi sợi dây vòng qua trước cổ tôi, tôi có cử động hai tay thế nào thì chính tôi làm tôi nghẹt thở. (Nhớ hồi nhỏ đi sinh hoạt Hướng đạo, tôi vẫn thích nút dây và cái kiểu trói nầy, tôi phải công nhận là kiến hiệu và đơn giản vô cùng cũng như không tài nào tự gỡ được). Tôi còn được hưởng quy chế đặc biệt là bị đánh đá túi bụi từ bờ đê về tới căn nhà, khi tôi bị xô sấp xuống sân trước nhà thì có tên trong đám dẫn tôi về nói: "Thằng nầy là trung úy rằn ri đây các đồng chí ơi!" Thế là thêm một đám trong nhà chạy ra đánh đá hùa thêm vào con người đang nằm dưới đất. Được cái trong đám nầy một là chắc không ai có võ nên không một cú nào hiểm độc cả, hai là họ chỉ mang dép râu hay đi chân đất nên đánh đá cũng không đau đớn gì, tôi chỉ việc co rúm người tối đa để che cho bụng, mặt và đầu (cỡ chúng mang botte de saut thì chắc tôi tiêu tán đường rồi!).
Lại có thêm một mụ già "ó đâm" ở đâu ra không biết cũng chạy vào đánh hôi, mụ ta vừa đánh vừa chửi tôi đủ điều thậm tệ, còn nói mấy hôm trước, chính tôi đã dẫn lính đến ăn cướp gà heo nhà mụ! (được cái là mụ chửi tùm lum bằng tiếng Quảng trị tôi chẳng hiểu gì cả, còn mụ đánh cũng chỉ như gãi ngứa mà thôi!). Thế là tội lỗi quá lớn với nhân dân! Rồi họ lại đánh đá tiếp có điều vì tôi gập người lại nên họ chỉ đánh đá được vào lưng, mông và chân tôi mà thôi. Bổng có người kêu: "Ối!" Chắc là hắn ta đá hụt tôi mà vào cục đá! (đất sân nhà nầy thật nhiều đá to). Nhưng làm gì thì làm, kinh nghiệm hồi đi học đánh nhau đã cho tôi biết, hễ đánh không lại là phải một là bỏ chạy, còn chạy không được thì giả bộ gục luôn để khỏi bị đánh thêm, đem áp dụng ở đây thì dĩ nhiên không chạy đâu được, tôi bèn đi cái đường bất tỉnh nhân sự! Quả nhiên chỉ thêm một hai cái đá nữa là màn đánh đập chấm dứt. Bọn họ liền quẳng tôi vào gốc bụi tre trong sân và để nằm đó, còn lại họ bàn tán lung tung chẳng đâu vào đâu.
Bỗng một toán bộ đội dẫn về một người đàn ông mặc đồ dân sự, anh nầy cũng bị trói và cũng bị đánh tơi bời như tôi nhưng khác tôi là đi theo đám bộ đội và anh ta là một người đàn bà, đầu tóc rối bù, nước mắt nước mũi chàm ngoàm, tay dắt theo một đứa bé gái chừng 3, 4 tuổi. Chị ta vừa đi vừa van lơn cho bộ đội để họ thả chồng chị ra nhưng bọn bộ đội như giả điếc, cứ thẳng tay đánh đập anh chồng. Khi về tới trong sân thì họ cũng xô anh chồng té sấp và cái đám ở sẵn trong nhà chạy ra đánh hôi.
Tôi nghe lỏm qua bộ đội nói với nhau thì anh đàn ông nầy là dân chiêu hồi về, hiện làm cán bộ xây dựng nông thôn của chính quyền miền Nam, trong nhà anh ta, bộ đội còn bắt được cả một cây súng carbine nữa. Do đó, đối với họ, anh nầy tội lỗi còn hơn tôi nhiều! Thế là sau khi nghĩ mệt vì đánh tôi xong, bọn họ lại bắt đầu màn khác mà lần nầy còn tệ hơn tôi nhiều vì anh ta đã phải chịu đựng trước mặt vợ con. Anh ta chỉ có gục đầu xuống mà chịu chớ không biết giả bất tỉnh như lại còn vợ anh ta thì quỳ hẳn xuống giữa sân, tay ôm hết chân anh bộ đội nầy rồi bị hất ra thì nhào tới ôm tới chân anh bộ đội khác vừa để khóc van xin tha chồng, kêu ca rằng chồng chị vô tội vừa để níu bớt số chân có thể đá chồng mình! trong khi con bé con không biết gì, cứ kêu đòi bố ẳm. Nó cứ kêu gào Ba! Ba! ẳm con! nghe đứt ruột. Trong cái cảnh khốn cùng nhất nầy, tôi vẫn còn thấy mình có phước hơn anh Xây dựng Nông thôn kia vì ít ra, tôi chỉ chịu đựng có một mình tôi, giá mà có Mẹ hay vợ con tôi ở đây, chắc tôi chết còn sướng hơn.
Nằm trong bụi tre gai thả hồn suy nghĩ vẩn vơ, tôi thấy thế là xong rồi, hết những ngày trốn tránh cũng như hết cả cuộc đời tôi đã vẽ ra cho mình. Không còn lý tưởng phục vụ cho ai mà chỉ còn cố tìm cách để sống còn. Không biết mình sẽ phải chịu bao lâu để được thả về, nhớ thằng Thuần em cô cậu của vợ tôi hồi năm 66 bị bên kia bắt ở trận Đồng Xoài, mặc dù anh ta là Th/úy Địa Phương Quân nhưng chỉ hai năm sau, bên kia đã thả anh ta ra làm cả nhà ngạc nhiên vì ai cũng nghĩ anh ta chết rồi. Mình bây giờ chắc cũng vậy, thôi ráng chịu đựng một chút nữa rồi trong vài năm, biết đâu sẽ được thả về chớ còn đợi hết chiến tranh chắc là tôi tự tử chết cho rồi quá vì chiến tranh đủ kiểu từ 45 tới nay đã hết đâu, nếu kéo thêm vài chục năm nữa mà mình thì phải sống trong tù thà chết ngay đi cho rồi... Nghĩ lan man, thôi thì tới đâu hay đó, mình sẽ vận dụng hết sức thủ thuật mưu sinh của Hướng đạo ngày xưa xem cuộc đời mình sẽ đi về đâu?
Chiều lại, bộ đội ngồi quanh quẩn ăn cơm trong sân nhà, không ai để ý gì đến các tù binh (và cả anh Xây dựng Nông thôn) đang bị trói ngồi trong sân. Anh em tiếp tục nhịn đói, tôi không biết đám lính của mình ăn lần chót hồi nào nhưng tôi thì đã lâu quá rồi, từ lúc leo vào trong chiếc chiến xa tìm được cái hộp "Heo nút lưỡi tới giờ!" Ngồi nghĩ quanh co, lòng buồn không tả...
Khoảng 7 giờ đêm, bộ đội tập họp tù lại để giải tất cả đi (đi đâu không ai biết) trong tư thế mọi người vẫn bị trói, giày dép bị bắt cởi ra hết. Riêng tôi thì cái đồng hồ đeo tay hiệu "Titoni" mà anh tôi trong dịp đi học khóa "Jungle Warfare" ở Mã Lai mua về cho tôi cũng như chiếc nhẫn cưới nhỏ xíu bằng vàng 18K và mấy ngàn đồng bạc còn trong túi đều bị tịch thu! Ôi, tự do đã mất rồi, cuộc sống tù binh bắt đầu với tôi... không biết bao giờ mới thấy lại miền Nam...
Nguyễn Ngọc Ấn - QYHD Khóa 18
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 24, 2012 9:39:04 GMT 9
Phương Nam, Ánh Sao Nơi Cuối Trời, Tháng 4-1975, Phần 1: Lệnh Triệt Thoái Bất Ngờ 03/23/2012 Cựu MX Lâm Tài Thạnh TĐ 9 TQLC
(Tự truyện 20 ngày là tù binh và vượt thoát từ Đà Nẳng đến Vũng Tàu -- từ 30/3/1975 đến 18/4/1975) Đường đi khó Không khó vì ngăn sông cách núi Mà khó vì lòng người ngại núi e sông (Ng. BáHọc)
Xin đừng hỏi vì sao, Tôi vẫn nhớ Mỹ Khê chiều sóng dậy, pháo rền vang Quân triệt thoái, Tàu không vào bến đỗ Lối sanh đào, vượt thoát phá vòng vây Trên đầu súng, khói vương niềm uất hận Chiến trận tàn, báo tử thiếu hồi chuông Đà thành mất, sử xanh còn ghi dấu Mãnh Hổ tình, huynh đệ nói chia ly Tim rướm máu, xót đau lời tan Cố tìm về quê Mẹ, đất phương Nam. (Tây Đô )
Những ngày trong tháng 3 và tháng 4-1975. 1. - Thành phố bỏ ngõ trong ngỡ ngàng. Tuyến kháng cự, phòng thủ sau cùng của Tiểu Đoàn 9 TQLC là đại chủng viện thánh Phaolồ (thuộc nhà thờ Chánh Tòa Công Giáo Đà Nẳng ) nằm dọc theo bãi biển Mỹ Khê, Non Nước trong bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng đây là một kiến trúc kiên cố với những bức tường che chắn, vững chắc có thể hạn chế sự xuyên thủng của các loại vũ khí cá nhân, tạo sự an toàn tối thiểu cho các quân nhân đang sẳn sàng chiến đấu, vị trí nầy được liên kết với nhau bằng nhiều dãy nhà cao tầng, rất tiện lợi và hữu ích cho việc quan sát, phòng thủ, ngăn chận các đợt tiến công, trong cuộc trì hoãn chiến không cân sức nhưng cần thiết nầy. (Xin xem Trận chiến sau cùng của TĐ 9TQLC / ĐSST 2004. Tác giả Cựu ĐÚy Đoàn Văn Tịnh Trưởng Ban 3 / TĐ 9). Kể từ 11:30 sáng Ngày 29 Tháng 03 Năm 1975, mọi cố gắng liên lạc với Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 369 TQLC và các đơn vị yểm trợ, chỉ được trả lời bằng sự im lặng khó hiểu. Trong lúc đang di chuyển ngang qua một phi đạo cũ trong căn cứ Non Nước, tình cờ Tôi gặp Đ/Úy Trần Văn Hên là bạn cùng Khoá 17TĐ, Đại ĐộiTrưởng Đại Đội Duyên Hải thuộc Tiểu ĐoànYểm Trợ Thủy Bộ TQLC.
Đ/Úy Hên là người nhận lệnh và có trọng trách thiết lập đầu cầu di tản, triệt thoái, v,v… (Trích thư của Đ/Úy Hên : Chiều ngày 26 tháng 3 năm 1975 nhận lệnh của Sư Đoàn, Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ chuẩn bị lập đầu cầu di tản cho các đơn vị TQLC tại bãi biển Non Nước vào sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975. ĐĐ Duyên Hải phụ trách an ninh bãi và phương tiện cấp cứu trên biển như áo phao, xuồng máy an toàn bải v..v..) (Tiểu Đoàn 9 hoàn toàn không biết về Lệnh HQ nầy). Tôi và Hên cùng nhau trao đổi một số chi tiết liên quan đến tình hình triệt thoái, lui binh. Hên khuyên Tôi phải rời căn cứ Non Nước, tìm một phương cách, giải pháp khác, để bảo toàn đơn vị. Chúng tôi chia tay nhau mà chưa ai biết được cuộc diện và số phận sẽ ra sao. Cuối cùng khoảng 12:30 trưa qua tần số liên lạc truyền tin với các đơn vị bạn, Tôi tiếp xúc được với Hà Nội ( Cố Thiếu Tá Trần Văn Hợp Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2 TQLC đã chết trong Trại Tù khổ sai Cộng Sản ở miền Bắc vào năm 1978 ). *** sau đây là đàm thoại giữa Tôi và Th / Tá Hợp mà Tôi còn nhớ như mới xảy ra. *** ----!!! _ Hà Nội đây Tây Đô. ** Tôi nghe Tây Đô 5 / 5. ----!!! _Hà Nội đang ở đâu? ** Tôi đang cưỡi cá. (lúc nầy các loa tăng âm của máy truyền tin PRC 25 theo lệnh Tôi đã được tháo bỏ để tránh sự xôn xao, bàn tán, bất lợi cho đơn vị ). ----!!! _ Hà Nội có số nhà của Hồng Hà Quang Trung ( Hải Quân ) cho Tôi, để Tôi 2 lần Lê Lai (liên lạc) yêu cầu họ vào “ Zulu ” ( di chuyển ) con cái Tôi. Im lặng trong vòng 1 phút . ** Tây Đô sẳn sàng chưa? Tôi ra dấu cho âm thoại viên Lương (?) chuẩn bị ghi xuống. ----!!! _ Hà Nội cho qua. Sau khi lập lại 4 con số chính xác cho âm thoại viên Lương. Tôi nhờ Anh Hợp báo cho phía Hải Quân biết trước, danh hiệu liên lạc của Tôi, nhằm tránh sự “ hiểu lầm địch xen vào tần số”. ** Anh Hợp trả lời OK và chúc Tây Đô may mắn. Cuộc điện đàm chấm dứt trong tiếng đạn nổ rền vang bởi các đợt pháo kích của pháo binh Cộng Sản, nhằm chuẩn bị mở đường cho các đơn vị chánh quy bộ binh Bắc Việt, còn đang trên đường “ tiến quân ” từ xa vào thành phố Đà Nẳng. Tôi lặng lẽ, trao trả ống liên hợp cho âm thoại viên Lương và tự hỏi với chính mình --- Làm sao đây? --- Kế hoạch nào có thể thực hiện được? --- để đưa đơn vị ra biển với tình hình gần như tuyệt vọng nầy, trong khi Đại Đội 3 ĐĐT là Tr / Úy Trương Văn Ba và Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc Tiểu Đoàn Phó còn đang cố gắng, tìm về với BCH Tiểu Đoàn 9, hiện nay “dậm chân” tại chổ vì các xuồng cao su của Công Binh TQLC có nhiệm vụ đưa toàn bộ Tiểu Đoàn 9 vượt qua nhánh nhỏ sông Hàn, nằm kế bên một trại cưa theo lộ trình, kế hoạch lui binh, triệt thoái của … để ra bãi biển Non Nước, đã không còn ai phụ trách, những quân nhân làm nhiệm vụ đã bỏ nhiệm sở, sự việc nầy gây khó khăn, làm chậm bước tiến của ĐĐ3, trên đường tìm về hội tụ cùng BCH Tiểu Đoàn lúc nầy đang chuẩn bị di chuyển hướng về vị trí phòng thủ sau cùng ở đại chủng viện (trước đó khi được báo tin về tình hình biến chuyển, không thuận lợi cho ĐĐ3 và Th / Tá Tiểu Đoàn Phó, Tôi đã bàn thảo với Th/Tá Lộc cho ĐĐ3 đổi hướng, len lỏi trong các xóm nhà ngoại ô, đi ngược về phía cầu Trịnh Minh Thế tìm đường khác đến điểm hẹn ). Tôi xử dụng máy liên lạc với không lực, chuyển qua tần số của Hải Quân. Sau vài lần gọi, Tôi nói chuyện được với hạm trưởng Hải vận hạm Ninh Giang 403 (Thiếu Tá Nam, ám danh đàm thoại là Nam Hổ?). Hiểu được sự cần thiết phải nhờ cậy Hải Quân, trong giây phút sanh tử nầy, nên Tôi phải xuống giọng gần như “năn nỉ ” hầu có thể cứu lấy đơn vị, nhưng tiếc thay với lý do địch pháo kích, thiếu an toàn nên Hải quân không thể vào “ủi bãi ” đón TĐ 9 trước 8 giờ tốí nay Ngày 29 Tháng 3 Năm 1975.
--- Cái gì --- *** Qua ống liên hợp Tôi hét lên --- Nam Hổ đây Tây Đô, các đơn vị chánh quy Bắc Việt chưa vào Đà Nẳng nếu chờ đến - 8 giờ tối - Tôi nghĩ rằng quá trể cho việc “ zulu ”; Nam Hổ có “ủi bãi ” thì chỉ vào lấy xác chúng tôi mà thôi ----
***. Im lặng trong khoảng một phút : --- Tây Đô đây Nam Hổ --- Tôi nghe --- Rất tiếc, lệnh trên không cho “ ủi bãi” lúc này, bạn ráng chờ đến tối, chúc may mắn. Không có sự lựa chọn nào khác, như dòng sông phải đổ ra biển, như cuộc tình khi không còn mộng đẹp ban đầu thì phải nói lời chia tay. Tôi đồng ý và khẳng định với hạm trưởng Hải Quân là TĐ9 TQLC sẽ giữ vững phòng tuyến cố thủ, chờ đợi đến giờ hẹn.
Tôi cũng yêu cầu hạm trưởng Hải Quân giữ liên lạc thường xuyên với Tôi. Một cảm nhận chua chát, cay đắng đè nặng lồng ngực, khi nghe lời chúc may mắn lần thứ hai trong ngày, từ hạm trưởng Hải Quân. Liệu có chiếc đũa thần nào, phép lạ nào mang lại may mắn cho cùng một lúc hơn 700 trăm chiến sĩ đang trong tuyệt tử lộ, với sự lạnh lùng, quên lãng như các cơn sóng vô tình không cảm xúc, đang đập vào bờ, cuốn trôi theo toàn bộ những gì đã bị bỏ lại, dọc theo bãi biển Mỹ Khê, kể cả những thân xác con người bất hạnh, nằm rải rác hay đang trôi nổi bồng bềnh ngoài biển khơi. Thật tội nghiệp, họ cũng chỉ là những con người bình thường, cũng “tham sanh húy tử ” như mọi con người khác, nhưng lúc nào cũng cố gắng thi hành “quân lệnh” đến khi biết, họ chỉ là những “con chốt chậm chân” trong ván cờ “báo tử thiếu hồi chuông” họ tìm sanh lộ, trong hy vọng tìm một lối về, đoàn tụ gia đình tổ ấm, với nắng đẹp phương Nam, tiếc thay sự may mắn đã không đến với họ. Tiếng kèn truy điệu, lá cờ của tổ quốc thân yêu, mãi mãi là “món nợ muôn đời” không thể trả, cho những “anh hùng vô danh” đã chết vào những giờ phút sau cùng của cuộc chiến. Báo cáo nào? Quân sử nào? sẽ ghi lại toàn bộ sự “lạnh lùng, tàn nhẫn của chiến tranh đây”.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn. ( Chinh phụ ngâm )
Sau vài phút suy nghĩ, Tôi tự lấy máy liên lạc nội bộ, đứng riêng ra một góc, không quá gần các quân nhân trong ban chỉ huy Tiểu Đoàn. Tôi không muốn những đối thoại, trao đổi giữa Tôi và Th/ Tá Lộc TĐPhó sẽ làm cho tinh thần quân nhân dưới quyền bị giao động. Tôi kể lại cuộc đối thoại giữa Tôi và Th/ Tá Hợp TĐ 2 cũng như lời hứa của Hải Quân…!! Chúng ta không thể kỳ vọng vào lời hứa của họ. Chúng ta phải tự lo liệu mà cứu lấy đơn vị!! Tôi kết luận và nói với Th/ Tá Lộc về kế hoạch “tự cứu” như sau : ĐĐ 3 dưới sự điều động của TĐPhó Lộc phải đổi hướng di chuyển, khi đi đến các xóm nhà có đông dân cư hành nghề đi biển, dọc theo con sông Hàn, bằng bất cứ giá nào, kể cả dùng “vũ lực ” thu, gom tất cả các phương tiện ghe, xuồng dùng vào việc đi biển và nếu cần thiết, bắt giữ luôn các ngư dân biết xử dụng các phương tiện đó, rồi xuôi theo nhánh sông Hàn ra điểm hẹn gặp. Tôi tại tọa độ X. Th / Tá Lộc cho biết: hiện nay ĐĐ3 đang bị quấy rối bắn tỉa bởi bọn đặc công Cộng Sản nằm vùng và du kích địa phương đang bám sát, dẩn đường cho quân chánh quy Bắc Việt truy kích. Anh còn cho biết thêm, qua tin tức của dân chúng chạy loạn, Thành Phố Đà Nẳng đã hoàn toàn bỏ ngỏ, toàn bộ các đơn vị của Quân Khu 1 đã “tan hàng” lúc giữa trưa mà chẳng có “trận đánh giữ sĩ diện nào được thực hiện” ngoại trừ 2 cánh quân còn đội hình và sẵn sàng tác chiến của Tiểu Đoàn 9 TQLC. Anh hoàn toàn đồng ý với kế hoạch Tôi đề xướng và sẽ cho Đại Đội 3 thi hành ngay lập tức. (--- Thiếu tá Lâm tài Thạnh, Tiểu Đoàn Trưởng/ TĐ9 TQLC người anh cả của đơn vị, cho tập hợp từ Tiểu Đội Trưởng trở lên nói những lời chân tình trước thuộc cấp --- tôi không bỏ đơn vị được, giờ phút nầy tôi và các anh em hãy tự lo liệu ! (Trích thư của Tr / Úy Lưu minh Quan). 3 giờ chiều Ngày 29 Tháng 03 Năm 1975, Tôi ra lệnh cho nhân viên truyền tin (Hạ sĩ 1Kim Anh và Vũ quang Bình người phụ trách quay đầu bò ) xử dụng máy truyền tin PRC 79. gởi công điện cuối cùng cho Tr/ úy Trần Trung (Chỉ huy hậu cứ TĐ 9 TQLC) nhằm mục đích cho hậu cứ biết rõ tình hình của đơn vị, còn đang tiếp tục chiến đấu, chưa bị thiệt hại nhiều, cũng như các tin tức liên quan đến những giây phút cuối cùng của Tiểu Đoàn. Tôi chỉ thị trong công điện là đích thân chỉ huy hậu cứ, phải thông báo cho thân nhân của mọi quân nhân Tiểu Đoàn 9 TQLC hiểu rõ tình trạng của đơn vị, hầu sau nầy trong tình huống xấu nhất, các thân nhân còn có được một sự an tâm tối thiểu về sinh mạng của người thân, kể cả có ngày để nhớ cho “lể giỗ” sau nầy!!!
Trong bóng chiều, ánh nắng cuối ngày, tắt dần về hướng Tây, mặt trời còn chút màu đỏ ráng, chiếu các tia nắng sau cùng trên các hàng cây nhấp nhô, mênh mông như một biển máu đang chờ đợi những con người “chí không nản, lòng không sờn” dù biết niềm tin khó thành hiện thực, khi dỏi mắt nhìn theo hình dạng các con tàu, xa dần nơi biển khơi. Tôi thật sự nát lòng, khi ra lệnh phá hủy máy truyền tin PRC79, phương tiện còn lại duy nhất có thể liên lạc tầm xa với thế giới tự do, vùng đất quê mẹ phương Nam, nơi đã sản sinh, nuôi dưởng, đào tạo Tôi nên người, để có một vị trí chỉ huy như hôm nay; đó cũng là nơi chan chứa những yêu thương vô vàn gắn bó, ràng buộc của Mẹ, Cha, Anh, Em, Bè bạn, của tình Chồng, nghĩa Vợ, của tiếng cười, khóc vô tư, hồn nhiên con trẻ. Nay mọi thứ đã bị cuốn trôi theo “cơn hồng thủy nghiệt ngã nầy” trong nổi nghẹn ngào, uất ức của những chứng nhân bất đắc dĩ.
Cuối cùng Tiểu Đoàn 9 TQLC đã không hoàn tất được cả 2 kế hoạch lui binh triệt thoái của chính đơn vị và của mình. (Riêng Tiểu Đoàn 9 TQLC vì phải bảo vệ cho 2 Tiểu Đoàn 2 và 6 rút nên bị địch tấn công, sau cùng bị kẹt lại trên bờ. **Trích “ Can trường trong chiến bại ” của phó đề đốc HVKỳ Thoại. Trang 271 dòng 18 - 20 ** )
Toàn thể chúng tôi trở thành tù binh của lực lượng võ trang Tỉnh Đội Quảng Nam Đà Nẵng rạng sáng Ngày 30 Tháng 3 Năm 1975 . (**Trích thư của cựu Tr/úy Lưu minh Quan Cựu ĐĐT / ĐĐ1 / TĐ 9: Bãi biển Mỹ khê, địa danh mà tôi phải ghi nhớ trong đời. .Trời càng tối, đêm hôm ấy tôi, Tây Đô (Th/tá Thạnh), Tân an (Đ/Úy Tịnh) Phú sĩ (Đ/ Úy Phán) phải luồn lách trong những đám rau lang và cây chuối để tìm lối ra lại TP Đà Nẵng hơn 1 giờ sáng thì bị du kích bắt giữ**). (**Trích thư T/ Úy Trương phước Dĩnh, Sĩ quan truyền tin TĐ9: Em có nhớ một chi tiết, xin nhắc anh, xem anh còn nhớ không, sự việc xảy ra chỉ có anh, Đ /úy Tịnh, truyền tin mang máy và tài xế của anh, việc xẩy ra trên đường trở về, sau khi anh xuống Lữ Đoàn 369 họp (Thứ Tư 26 tháng 3 năm 1975) có một con mễn (con mang) chận đầu xe của anh, sau này nghiệm lại thấy trùng hợp với câu người đời thường nói “ mễn (mang) lạc, nát làng” chỉ vài ngày sau Tiểu Đoàn mình tan hàng **) –(-Ghi chú : Sáng Ngày 28 Tháng 03 Năm 1975 T / Úy Trương phước Dĩnh, Sĩ quan truyền tin của TĐ9 nguyên quán ở Hội An, được Tôi cho đi phép để xem tình hình gia đình, cha, mẹ ra sao, không ngờ bất thình lình, lệnh tử thủ trong phiên họp 26 Tháng 03 Năm 1975 bị hủy bỏ, với lệnh mới TĐ9 TQLC phải cho phá hủy đạn dược dự trữ, cấp tốc di chuyển lúc 1130 tối Ngày 28 Tháng 3 Năm 1975 để về phòng thủ giữ Đà Nẵng. Sau cùng T/Úy Dĩnh may mắn lội ra biển, lên được tàu HQ với TĐ2 TQLC trong ngày 29 / 3 / 1975 ).
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 25, 2014 7:56:42 GMT 9
Nhớ chiến sĩ Việt Nam hy sinh giữ đảo Lời biển gọi cuối năm Hờn căm trừng mắt lửa - Hỡi Hoàng Sa, hỡi Hoàng Sa ... (Cố Hạm Trưởng HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà, chết nằm sấp trên Đài Chỉ Huy Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ 10) Bài Cho Hải Ðảo Hờn Căm Phạm Lê Phan Gia Ðịnh, chiều 30 Tết Giáp Dần (22/01/1974) Lời biển gọi cuối năm Hờn căm trừng mắt lửa - Hỡi Hoàng Sa, hỡi Hoàng Sa ... Mẹ Ðứng mũi Sơn Chà Gửi hồn ra Ðông Hải Ðảo nổi giận nên biển cuồn sống dậy Ôi, đất nước ông cha: tay đứt lòng đau Súng thét khơi xa, sao lửa đốt trong đầu Lòng mẹ bời bời: ruột mềm máu chảy Mắt mẹ trông vời, triền môi run rẩy: - Hỡi Hoàng Sa, hỡi các cháu con ta? Con cháu mẹ Năm mươi đứa làm anh hùng của bể Năm mươi con thành dũng sĩ Trường Sơn Bốn ngàn năm mài nhọn mũi căm hờn Phóng mắt hận, nghiến răng ghìm giặc Bắc. Cờ Nương Tử phất bay hồn xâm lược Gươm Mê Linh thét máu nhuộm đầu voi “Trèo lên đỉnh núi mà coi Dáng Bà quản tượng trăng soi ngời ngời”. Cửu Chân hề, Cửu Chân ơi! Gót nhi nữ ra khơi Ðạp tan luồng sóng dữ Chém cá tràng kình, rạng danh liệt nữ Dũng khí Nhụy Kiều gục mặt Bắc quân! Ngậm mối thù truyền kiếp mấy ngàn năm Con cháu mẹ từng nhọc nhằn u uất Đắm biển mò châu phơi rừng tìm ngọc Nanh vuốt sài lang nào kể gái hay trai Máu mỡ no nê muông thú một bầy Loài đỉa Hán vốn cuồng say máu Việt Nước độc rừng thiêng một đi là một chết Vạn người đi, không một bóng ma về Ðá Trường Sơn con khắc ngập câu thề: “Ðòi nợ máu phải đổi răng, đổi mắt!” Bạch Ðằng xưa nghẹn giòng muôn xác giặc Dù Hán, dù Mông nước đỏ cũng hôi tanh Tóc thú đuôi sam - gươm giáo Việt tung hoành. Vó ngựa Lý, Lê từng phen đạp Tống Ngọn giáo Ðinh, Trần vạch cõi Nam uy dũng, Ðầu Mãn Thanh vờn kiếm lộng Quang Trung. Trải an nguy son sắt vẫn một lòng Mỗi tấc đất một chiến công oanh liệt Mỗi tên người một anh hùng, nữ kiệt Mỗi gốc cây muôn xác quỉ vùi sâu Dòng Việt Nam chưa hề biết cúi đầu Dù giặc Bắc bạo tàn hơn súc vật! Hồn Nam Hải cuối năm Lạnh căm căm hơi bấc Bởi thương con mẹ lên đỉnh Sơn Chà “Ôi Hoàng Sa, hỡi Hoàng Sa Khôn thiêng nối gót mẹ cha mà về”. Hãy đứng thẳng mà đi Hởi đàn con từng khua sôi biển cả Cất cao đầu uống lời thề sông Hóa Hàm Tử, Vân Ðồn, Tây Kết, Chương Dương, Vươn chiến công kim cổ Bạch Ðằng Giang Xô cuồng vọng Bắc Kinh vào biển máu! Xưa ông cha mình giết Liễu Thăng, Hoằng Tháo Ðánh gục đầu Tôn Sĩ Nghị , Thoát Hoan. Giờ bè lũ Mao lại xâm phạm biên quan Xua hải tặc cuồng điên lên cướp đảo Ôi Hoàng Sa, hỡi Hoàng Sa yêu dấu Ðất đai ta một mảng cũng thịt xương Tổ quốc ta một tấc cũng tim gan Xương thịt đứt thì tim gan đau xót! Hỡi đàn con của Cửu Long bất khuất Ngạo nghễ trên vai hồn An Lộc, Tam Biên Mang trong tim giòng máu thép Trị Thiên Lời phạt Bắc thét run hồn biển cả. Chiều cuối năm, một mối thù chưa trả Xuân sắp về - trời bỗng nặng nề mưa ... (1) Nhà thơ Phạm Lê Phan sinh năm 1935 tại Thanh Hoá. Anh động viên khoá 3 phụ Thủ Đức (học ở Đà Lạt), nhưng không rõ lý do, trước khi mất miền Nam anh chỉ là một thượng sĩ già phục vụ tại phòng Văn Nghệ /cục Tâm Lý Chiến. Ngày 30 tháng Tư xảy ra, một thời gian ngắn sau vợ chồng anh và 9 đứa con đều bị đuổi đi kinh tế mới. Sau này các bạn HO qua Mỹ cho biết trong một chiều mấy cha con đi đánh vó ngoài sông, rủi sao anh bị sét đánh trúng và thiệt mạng. Phạm Lê Phan có để lại tập thơ Chiến Ca Mùa Hè và hơn 10 bài trong tập thơ này từng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc. Bài thơ trên là bài anh viết với tất cả cảm xúc hận đau khi nhìn giặc Tàu đánh chiếm Hoàng Sa của quê hương mình (năm 1974). (Hà Thúc Sinh). Nguồn: Phạm Lê Phan Tổ Quốc Ghi Ơn Danh sách tử sĩ Hoàng Sa - đang được các Cựu Hải Quân VNCH và mọi giới đồng bào nhật tu cho đầy đủ. (Trích chương 30, Hải chiến Hoàng Sa,Tác giả: Vũ Hữu San, Trần Đỗ Cẩm) Di ảnh một số anh hùng vị quốc vong thân bảo vệ Hoàng sa - January, 1974 - Nguồn: hoangsa74.tripod.com 1. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ 10 Số tử thương trên Hộ Tống Hạm Kỳ Hoà HQ 10 là 42 nhân viên (con số này hiện đang được phối kiểm). Sau đây là những chiến sĩ Hải Quân tử trận trên HQ 10. - Cố Hạm Trưởng HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà, chết nằm sấp trên Đài Chỉ Huy. - Tr. Úy Vũ Văn Bang, K19, SQ Đệ Tam, chết tại phòng CIC. Ngày rời Sài gòn đi công tác Tr. Úy Ban có mang tấm hình đứa con gái đầu lòng chưa đầy tháng theo và cho các SQ trên tàu xem. - Tr. Uý/Cơ Khí (CK) Ngô Chí Thành, K21, mặt bị cháy nám đen, hai chân hầu như lià khỏi thân người được đưa lên từ hầm máy. - Tr. Uý/CK Huỳnh Duy Thạch, Hàng Hải Thương Thuyền qua, đã lập gia đình rồi. - Tr. Uý Nguyễn(?) Văn Đông, HQĐB, chết mất mặt tại khẩu 76.2 ly ở sân trước. - Th. Uý Vũ Đình Huân , SQ/PhụTá trưởng phiên, chết trên Đài Chỉ Huy với Hạm Trưởng. - Th. S/Vận Chuyển (VC) Lễ không rõ nhiệm sở tác chiến ở đâu trên tàu. - TS/CK Nguyễn Tấn Sĩ. có lẽ đã chết tại hầm máy. - TS/Điện Tử (ĐT) Trung (?) lo truyền tin. - HS/VC Lê Văn Tây, trung học từ Ban mê thuột, ghì nòng súng cho đến giờ phút chót, chết ở sân lái. - HS/ Trọng Pháo (TP) Trứ tử thương tại khẩu hải pháo 76.2 ly tại sân mũi. - TS/TP Đức tử thương tại sân hải pháo 76.2 ly. - HS/GL Ngô(?) Văn Ơn. - TT/ĐT Thanh, tử thương tại phòng CIC, chìm theo chiến hạm. - TT/TP Thi Văn Sinh. Tử thương chìm theo chiến hạm. - TT/TP Mến bị thương và chết tại khẩu 42 bên tả hạm. - TT/CK Đinh Hoàng Mai, ghì súng cho đến giờ phút chót, đồng đội dưới bè đào thoát kêu không chịu xuống, hy sinh theo chiến hạm tại nhiệm sở đại bác 20 ly. - HS/VC Trứ, không rõ nhiệm sở, tử thương chìm theo chiến hạm. - TS/Thám Xuất Lê Anh Dũng, tử trận tại Trung Tâm Chiến Báo (CIC) HQ 10. Tổng số nhân viên đào thoát trên 5 chiếc phao tập thể là 28 người (biết rõ). Có 8 nhân viên (biết rõ con số nhưng không nhớ hết tên từng người) đã chết vì vết thương nặng hoặc sức quá yếu do thiếu nước và thực phẩm trước khi được tàu Hoà Lan cứu. Trong số 8 người này có: - HQ Đại Úy/Hạm Phó Nguyễn Thành Trí (chết lúc 2:00AM ngày 20/01/1974 vì vết thương ở trán), - TS/Giám Lộ Vương Thương ra đi khoảng trưa ngày 21/01/1974, - TS/Quản Kho Tuấn chết vào chiều 19/01/1974, - TS/Trọng Pháo Nam và 4 nhân viên kia trên những chiếc phao khác nên tôi không biết họ ra đi lúc nào. Vào đêm 22/1/1974 tàu Hòa lan vớt lên được 20 nhân viên từ 5 chiếc phao. Qua sáng ngày 23/1/1974 nhân phát giác một chiến hữu chết là - Th. S/Quản Nội Trưởng Châu ( kiệt lực, từ trần khi đang ngồi trên toilet ở tàu). Hoàng Sa, Việt Nam 2. Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư, HQ 4 Có hai chiến sĩ hy sinh: - HQ Th. Uý Nguyễn Phúc Xá - HSI/VC Nguyễn Thành Danh 3. Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng, HQ 5 Có ba chiến sĩ hy sinh gồm một Thiếu Uý và 2 Hạ Sĩ Quan không rõ tên. 4. Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ 16 - Trung sĩ Điện khí Xuân tử thương. Ông bị đứt cánh tay tại hầm máy 1, không cầm máu được. - Hạ Sĩ Quản Kho Nguyễn Văn Duyên. Trong 15 chiến sĩ đào thoát từ Hoàng Sa, được ghe đánh cá dân vớt về Quy Nhơn: Hạ sĩ Duyên bị kiệt sức chết khi vừa về tới Quân Y Viện Quy Nhơn. 5. Toán Người Nhái, Biệt Hải - HQ. Trung Uý Lê Văn Đơn, tử thương vì đạn Trung Cộng trong khi xung phong đổ bộ chiếm lại đảo. - HS Đỗ Văn Long tự Long Sandwich, tử thương khi đổ bộ, thuỷ táng. Tài liệu tham khảo: Lướt Sóng số đặc biệt về Hoàng Sa, phát hành 1974 Đặc San Hội Cựu Quân Nhân HQVN 1974 Lướt Sóng Xuân Quý Mùi 2003, “Phỏng Vấn HQ Trung Uý Nguyễn Đông Mai, người đã đào thoát bằng bè từ HQ 10, được thương thuyền Hoà Lan Kopionellia cứu vớt.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Feb 13, 2018 2:51:38 GMT 9
Gửi Em, Cô Gái Bình Long
Bài thơ dưới đây của một người lính Biệt Kích 81 vô danh. Anh là một hạ sĩ trẻ của Biệt-đội I. Tháng Giêng 1975 nhảy vào Phước Long. Bị thương và bị bắt. Trong giờ phút cuối cùng của đời người, anh đã cố viết được một bài thơ rất cảm động với mong muốn gửi tặng cô giáo Pha. Anh ấy đã chết sau đó 8 ngày và bài thơ đã được giao lại cho một người bạn đồng cảnh ngộ. Và anh bạn ấy đã học thuộc lòng mang tới vùng đất Tự Do từ lao tù cộng sản. Tựa bài thơ đó là “Gửi Em, Cô Gái Bình Long”.
Nhớ theo Hổ Xám vào An Lộc Ðội pháo trên đầu như đội mưa Múa kiếm đứng ngăn thù cửa Bắc Mà tưởng mình là Nguyễn Huệ xưa.
Trong tiếng đạn reo mù khói trận Bỗng gặp em, cô giáo như mơ Em ngồi rũ tóc trong hầm tối Ðọc tiếng kinh cầu, như đọc thơ.
"Lạy Chúa con là người ngoại đạo Nhưng tin có Chúa ngự trên trời" Chúa ơi, Biệt Kích là thi sĩ Thi sĩ cầm gươm như đi chơi.
"An Lộc địa sử lưu chiến tích Biệt Cách Dù vị quốc vong thân" Lời thơ hôm ấy sao hay quá Nghĩa trang buồn như tiếng lá rơi.
Pha hỡi, bây chừ em đâu nhỉ ? Cô giáo hôm xưa đã lấy chồng ? Chúc em hạnh phúc răng long bạc Còn anh hôm nay vào Phước Long.
Anh theo quân vào nơi hiểm địa Hét tiếng xung phong đến vỡ trời Bắn cháy xe tăng như uống rượu Mà tưởng em đang rót chén mời.
Bóng địch chập chùng nơi cửa ngõ Ba trăm quân đánh một sư đoàn Mãnh hổ nan địch quần hồ bại Anh thối binh về mà thấy oan.
Nửa chừng lại gặp cơn bão lửa Toán Delta bị kích giữa đàng Ôi lại Phước Long lưu chiến tích Anh bị trúng đạn giữa rừng hoang.
Và chừ giờ đang ngồi bó gối Tay xích chân xiềng trong trại giam Máu bụng vẫn tuôn ra như suối Anh biết mình thôi thế là tan.
Nhưng phút cuối anh vẫn nhớ Màu áo hoa dù nón mũ xanh Nhớ dáng em xưa cô giáo nhỏ Họa bút thành thơ như tiếng oanh.
"Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" Sá gì một cõi đi về đất Biệt Cách lưu danh, Biệt Kích đời.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 24, 2018 12:41:24 GMT 9
Hồi ký của Trung Tá Vũ Xuân Thông khóa 17/VBQG. cựu BĐT/Biệt Đoàn 1 Chiến Thuật Liên Đòan 81 Biệt Cách Nhãy Dù. Ông củng là Tài Tử chính trong phim "Người Tình Không Chân Dung" cùng nử tài tử Kiều Chinh
"Love me or hate me, both are in my favour, If you love me, I am in your heart, If you hate me, I am in your mind.
Những Cánh Thép Ngày Trước… – Vũ Xuân Thông K.17
Như một lời tri ân chân thành đến tất cả các chiến sĩ Không Quân của KLVNCH đã ngày đêm tích cực yểm trợ Liên Đoàn 81 BCND chiến đấu để bảo vệ quê hương gấm vóc và hai chữ “Tự Do” …
Cho tôi xin dù chỉ một lần Mơ làm cánh én giữa trời Xuân Tang bồng hồ thỉ mang chí lớn Rạng giống Tiên Rồng lính Không Quân
Công ty tôi đang làm nằm trên con đường Mirama Road, sát nách một phi trường lớn của Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ, nên bắt buộc mỗi ngày tôi phải đi và về trên con đường này. Và ngày nào cũng vậy, lộ trình của tôi đều đi qua khu bảo tàng Không Quân chứa đầy các loại phi cơ, từ thời có lỗ sĩ, từ thời tôi chưa được sinh ra trên cõi đời, cho đến những chiếc phi cơ của thời Đệ Nhị Thế Chiến và thời chiến tranh Việt Nam. Cái khu bảo tàng này lại nằm sát đường chỉ cách một cái hàng rào bằng lưới chống B-40 (chain link fence). Mỗi lần đi qua khu vực này, tôi đều lái xe chậm lại và không khỏi liếc nhìn vào đó dù tôi đã quá quen thuộc với những loại phi cơ đang nằm phơi trên bãi đậu.
Từ những chiếc Avia B 534, Bell P-39 Airacobra từ những năm 1934…đến những chiếc Gruman Hellcat hay Bearcat, những chiếc F-5, Skyraider cho đến những chiếc trực thăng trái chuối CH-46 đầu tiên, H-34 nặng nề, chiếc UH1, Cobra …và cả chiếc L-19 Bird Dog mong manh rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra mỗi ngày tôi còn phải nghe tiếng gầm rú của các loại phi cơ chiến đấu cất cánh và hạ cánh mỗi giờ, những ngày không khí ẩm thấp, tiếng cánh quạt của nhiều loại trực thăng nặng nề vang dội trên đầu đã thực sự gây cho tôi nhiều ấn tượng nhất.
Vì đó là những tiếng động đã quá quen thuộc với tôi hầu như đã tiềm ẩn trong trí nhớ tôi và không thể xóa nó đi được dù 37 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã từ cái nghiệp lính.
Năm nay tôi đã bước vào tuổi 75, vẫn phải đi làm, ngoài việc tiếp tục kiếm sống qua ngày trên mảnh đất tạm dung nầy, còn để ngăn ngừa sự thoái hóa của bộ óc càng ngày càng già nua …để rồi hủy hoại hết những điều cần phải nhớ. Tuổi già thì thường hay nói nhiều, nhớ nhiều về dĩ vãng. Thật ra con cháu tôi, chúng cũng thông cảm vì giờ đây tương lai của tôi, chỉ là đang bước dần tôi trạm cuối cùng, là cái nghĩa trang lạnh lùng nào đó.
Tôi là một người lính sống sót sau 15 năm khói lửa, 13 năm tù đày trong các trại tù khổ sai của cộng sản việt nam từ Bắc chí Nam, từ trại kỷ luật đến xà lim Chí Hòa. Thử hỏi cuộc đời của tôi còn lại gì ?
Cái gia tài của người lính như tôi còn lại há không phải là quá khứ của 15 năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta, những người lính đã sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt, vinh có nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó quên.
Ngay từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đã rất ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ qua hình ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50. Sau này khi bước chân vào bậc Trung Học Đệ Nhất Cấp tôi đã có ý định sau khi tốt nghiệp Trung Học tôi sẽ xin gia nhập vào Không Quân Việt Nam. Những mộng không thành vì khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Hòa tôi mới phát giác ra là thị lực của con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ mộng, nhìn bạn bè rộn ràng lên đường gia nhập Quân Chủng Không Quân mà thấy tủi thân. Cuối cùng đành phải chấp nhận cái thân phận chui bờ chui bụi của cái lính đánh trộm là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. May cũng nhờ quen thuộc lối đánh trộm (đôi khi chúng tôi cũng ăn trộm được nhiều kho vũ khí và lương thực của địch) nên cũng có chút tiếng tăm và chiến công góp phần với các quân binh chủng bạn, đã làm cho kẻ địch suy yếu. Nhưng nếu nói đến cái đơn vị bé tí teo và những chiến tích mà chúng tôi đã lập được cũng nhờ những đôi cánh thép, như một thứ bùa hộ mạng, như cái ô dù che chở trên đầu chúng tôi. Những đôi cánh thép đã mang chúng tôi đi hầu hết các chiến trường (ngoại trừ vùng IV chiến thuật vì lính BCD 81 không biết bơi).
Đã bao lần không quản ngại trước lưới lửa phòng không của địch tua tủa như pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra khỏi vùng vây địch. Qua hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đã mặc nhiên như gắn ngay sau lưng chúng tôi, đã chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn vị của chúng tôi đã gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn.
Xin cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ bể tâm sự và để nói hết những điều cần nói sau 37 năm dài. Vì không nói ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng ta từ lâu đã cư xử với nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí giang hồ. Tôi sẽ không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của chúng tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại những người đi vào chiến tranh với dáng vẻ hào hoa phong nhã, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy hễ xuất quân là quần áo rằn ri, lôi thôi lếch thếch…nào là ba lô, súng ngắn, súng dài, giây nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng truớc, đằng sau. Mỗi lần được bốc ra khỏi vùng hành quân thì ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy cũng chỉ đúng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi thắm thiết. Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống đồi núi dưới cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ trận lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chẩy theo hai bắp chân xuống đôi giày đi rừng.
Đêm nằm trên chiếc poncho gấp đôi, mồ hôi vẫn còn đọng ướt cả lưng. Cứ như thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm mới qua được một con suối còn lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bị đông nước, xong cùng nhảy xuống hụp cho ngập đầu rồi lại tiếp tục đi.
Ấy là những ngày không chạm địch, còn có thời gian ngồi xuống để thay một đôi vớ đã bốc mùi khó chịu. Những lần chạm địch thì coi như được phép quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi mình đã chưa ăn gì suốt một ngày qua, đã chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc thằng hay thua, lúc ấy mới biết mình còn đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm xấy. Còn các bạn tôi thật khỏe, ngồi trong buồng lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ quay về phi trường, đi thẳng vào Câu Lạc Bộ làm một ly cà phê đá, khỏe re trong lúc chờ cho các chuyên viên “check” tàu, tái trang bị bom đạn, “rocket” để chờ phi vụ tiếp theo.
Chưa nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi sau mỗi cuộc hành quân, cởi được bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới để cùng xuống phố phường uống vài chai “33”cho đã bù lại những ngày phải uống nước sông nước suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm nhảy nào lại đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép về về đủ mọi phương diện. Đôi khi có một tí tình còm để an ủi nhưng hễ chấm được cô nào vừa ý là y như rằng đã có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi !!!
Nói cho vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua thì thua rồi. Xưa còn trẻ đã không thắng các bạn, nay đầu đã bạc, chân mỏi gối mòn, hơi sức đâu mà ganh với đua . Trước khi nhắc lại những kỷ niệm đã qua, xin cho tôi nhắc lại một câu chuyện sau.
Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu Khu Phước Long, lúc này đang bị trên một sư đoàn địch vây hãm, các đơn vị địa phương hầu như đã tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội 811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa tiễn 122 ly và súng cối, các phi đoàn trực thăng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.
Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, cựu Đ/Tá Phan Văn Huấn và Đ/Tá Triệu đã trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nhìn từ trên trực thăng xuống thị xã Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được vì cả thị xã ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực phòng không của địch tua tủa bắn lên đây trời với đủ loại từ đại liên 50,súng cá nhân, 23 ly và 37 ly. Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại phòng không nổ ngang trời nhắm vào các phi tuấn A-37 va F-5 đang cố thả những trái bom và bắn rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.
Tôi chỉ còn trông cậy vào tài bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay vì đáp ngay xuống thị xã, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đã đáp xuống cạnh các khe suối cạnh thị xã, là những nơi khuất tầm quan sát của các tiền sát viên địch. Địch đã bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn phòng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đã bị địch chiếm mấy ngày trước. Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội (Biệt Đoàn -), không quá 300 người. Lực lượng trú phòng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái không còn bao nhiêu.
Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 chỉ còn không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ còn hơn 10 người đã dạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh còn Đại Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đã tan hàng, quân nhân còn lại cũng lẫn lộn trong hàng rào phòng thủ của Biệt Đội 811 của tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên 10 ngàn với đủ bộ xe pháo mã tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực nhưng với một hệ thống phòng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đã rơi vào vị trí bạn …phải chấp nhận thôi .Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi cơ này cũng khiến dịch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi. Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đã hạ được 4 chiến xa địch.
Vào lúc chạng vạng tối ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 ly và 105 ly, chúng thả một toán đặc công vào 2 lô cốt trống , nhờ phát giác kip thời nên đã bị tiêu diệt ngay sau đó.
Suốt trong thời gian từ ngày 4 tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa vì 1/2 khu vực thị xã đã rơi vào tay địch trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các phi vụ oanh kịch không hiệu quả, không còn pháo binh yểm trợ, không tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần còn lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong tình thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đã phải để lại hơn 60 xác đồng đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi. Tôi đã phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày 6 tháng 1 năm 1975.
Trong lúc đơn vị tôi còn đang tìm cách vượt qua vòng vây của địch thì ngày 7 tháng 1 năm 1975 đã có một buổi họp cao cấp của Quân Đội, giống như tòa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Thật là vô cùng phi lý nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi các phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231 237 … phi cơ L-19 còn đang bay tìm kiếm và bốc các toán đã vượt qua được vòng vây địch thì tại hậu phương họ đang bị kết tội.
Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc về tôi, người đã tự quyết định rút khỏi Phước Long, cao hơn là vì chỉ huy trực tiếp của tôi đã không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị trí mà gần như đã hoàn toàn chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi còn sống sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành mệnh lệnh nhưng rõ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đã ra lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đã thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.
Tôi đã ghi ở phần trước là giữa Không Quân và các anh em 81 BCND, ngoài tình huynh đệ chi binh, chúng tôi còn có một cái nghĩa “giang hồ”. Trong buổi họp, Đ/Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng 81 BCND đã dũng cảm tuyên bố trước mặt các tướng lãnh:
“Mất Phước Long, lý do tại sao quý vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần Liên Đoàn 81 chúng tôi vào chỗ chết đã đành bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng các anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, đã chết lây với chúng tôi, thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa, tôi cho là vô lý, nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả, tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm”
Mãi 2 ngày sau, tôi và Bộ Chỉ Huy mới thoát ra khỏi được vòng vây địch. Ban đêm di chuyển qua các bãi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch đang bám giữ các bãi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn (khoai mì), đã thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xã khoảng 5 đến 10 cây số. Tôi không còn máy để liên lạc với họ vì chiếc mày truyền tin PRC-25 cuối cùng đã bị Hiệu Thính Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy vọng được bốc ra. Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ tôi đã tử trận hoặc bị bắt . Còn đang kiểm điểm xem còn lại bao nhiêu người trong BCH của tôi, bất chợt tôi nghe lùng bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp vì tiếng quạt gió làm rung chuyển lớp không khí còn ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc chiếc trực thăng UH1 đã ở ngay phía trước. Anh em vội bẻ gẫy một số cây khoai mì, trong lúc đang ra dấu cho trực thẳng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn vào vị trí quanh bãi đáp. Vì số cây khoai mì còn nhiều nên trực thăng chỉ lơ lửng trên đầu ngọn cây khoai mì, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây mì chung quanh.
Vì đạn địch bắn quá gần nên phi hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đ/Úy Thành, sĩ quan liên lạc Không Quân (ALO) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái của chiếc trực thăng.
Khi anh em kéo tôi lên được trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống nắm lấy hai cổ tay của của Đ/Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra thì tôi mới kéo anh lên được. Nhưng Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên “Cho tàu đáp xuống” …khi chiếc trực thăng đã bốc lên cao khoảng 200 bộ , bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đã để vuột anh. Nhìn anh rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da bò xòe ra như một cánh bướm mất hút với tiếng la thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn…Cả phi hành đoàn đều cúi xuống nhìn anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn phòng không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời bãi .
Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 đó Tr/Uy Sơn (Sơn Rỗ) lái đã phải cất cánh với 32 nguời kể cả phi hành đoàn, nó đã bị quá tải (overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa vì nếu đáp sẽ không còn có thể cất cánh được nữa.
Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi còn là một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa bao giờ tôi phải ân hận như thế, đã để rớt Đ/Úy Thành. Hình ảnh của anh còn mãi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.
Có rất nhiều phi hành đoàn trực thăng đã chết lây theo chúng tôi. Vì là một đơn vị lấy phương tiện không vận và không yểm là con chủ bài, hầu hết các cuộc hành quân của Liên Đoàn 81 BCND đến nằm trong vùng địch và sau lưng địch, không nằm trong tầm pháo binh, có khi còn phải chuyển tiếp qua căn cứ tạm để tiếp nhiên liệu vì thời gian bay của trực thăng không đủ bảo đảm số thời gian bao vùng. Nếu nói một cách tàn nhẫn hơn thì dù 81 BCND chỉ là một đơn vị nhỏ nhưng đã làm thiệt hại rất nhiều phi cơ của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi đã sống hết đời quân ngũ trong chỉ một đơn vị duy nhất, 12 năm khởi đầu bằng nghề Toán Trưởng, leo lên đến được BCH/ Biệt Đoàn, tôi đã chứng kiến được nhiều điều đau xót. Quên sao được khi lần đầu tiên bước chân lên chiếc H-34 nặng nề như một con voi của Phi Đoàn 215 Thần Tượng, nhớ những Anh Vui, Vinh, Khôi, Mành, Trắng, Hiếu …Những con người hào hoa đã đưa chúng tôi vào những mặt trận “thắt cổ họng còn sướng hơn” như Bình Giả, Pleime, Đức Cơ, Đồng Xoài …và đã đón chúng tôi trở về trong niềm vui gặp lại vợ con, bằng hữu. Quên sao những bạn bè như Trọng, Vỹ, Bảo, Dõng, Duyên và hàng trăm phi công trẻ của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, những cánh bay mong manh L-19 thủng hàng chục lỗ đạn. Quên sao được những buổi hàng đoàn trực thăng đáp xuống sân căn cứ hành quân ở Suối Máu, Biên Hòa, phi hành đoàn ngồi chờ phi vụ với một khúc bánh mì, gói xôi đậu xanh mua vội ở Biên Hòa. Những con người đã từng đối đầu với gian nguy cùng với chúng tôi qua bao nhiều mặt trận mà cuộc sống vật chất không đủ để nuôi vợ con, nhưng vẫn cười vang mỗi lần gặp gỡ.
Chúng tôi đã không có đủ khả năng để đãi các bạn một bữa cơm trưa thanh đạm mà phải để các bạn bay về căn cứ, nuốt vội bữa cơm ở Câu Lạc Bộ, để rồi lại phải tiếp tục suốt buổi chiều, có khi trở về khi trời đã tối. Thế mà các bạn vẫn cười, không có một lời phiền hà. Chúng ta đã cùng chiến đấu để không vì miếng cơm manh áo của chính mình mà vì để bảo vệ miền Nam tự do, tránh được cái họa cộng sản.
Mỗi lần đi tham dự ngày họp mặt của các Quân Binh Chủng bạn, nhìn lại các chiến hữu xưa, nay đầu đã bạc trắng bỗng bùi ngùi nhớ lại thân phận mình. Nhớ tới tôi đã chưa một lần gửi lời cảm ơn các bạn, vì lòng nhiệt thành của các bạn, biết bao nhiêu lần chỉ vì để cứu một người lính 81 BCND trong vòng vây địch, để rồi lại phải hy sinh cả phi hành đoàn, chúng tôi đã phải chấp nhận những tổn thất về nhân mạng. Chúng ta khác kẻ thù, chúng ta quý nhân mạng hơn, dù chỉ là một người lính bình thường. Biết bao lần tôi chứng kiến những chiếc trực thăng bị nổ tung khi vừa vào bãi đáp, không một người sống sót. Sự tiếp cứu sau đó chỉ để mang về những xác người đã cháy đen!!! Còn gì buồn hơn khi thấy người phi công thoát ra khỏi chiếc A-37 bị bắn cháy, chiếc dù cứ trôi theo gió rồi rơi vào đất địch. Hãy cảm nhận nỗi đau khổ của anh em chúng tôi, những người tiếp cứu một phi công L-19 của Không Quân Việt Nam bị bắn cháy chỉ mang về một thi thể trần truồng. Địch đã xỉ nhục hay căm thù đến nỗi lột hết quần áo của một người đã chết thân thế không còn nguyên vẹn. Cái bản chất cầm thú của kẻ địch đã đối xử với một người đã chết còn như thế, thử hỏi đối với những chiến hữu của chúng ta rơi vào tay địch còn phải chịu đựng những khổ nhục như thế nào? Bao nhiêu chiến sĩ Không Quân đã hy sinh, bao nhiêu người đã rơi vào tay địch?
Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời còn âm u khói từ kho bom phi trường Biên Hòa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nhìn hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ý như một lời vĩnh biệt…đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đã cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.
Bây giờ những cánh bay ấy có thể đã nằm mục rã ở một vài bãi phế thải nào đó, hoặc năm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn còn nhiều, lòng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn còn và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do .
Cuộc chiến tranh này chưa bao giờ chấm dứt, nó chỉ được thay đổi hình thức mà thôi …
“Old soldiers never die; they just fade away.” General Douglas MacArthur"
Vũ Xuân Thông Liên Đoàn 81 BCND
Phim "Người tình không chân dung"
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 15, 2018 0:10:34 GMT 9
Chuyện Kỷ Niệm 43 năm trận chiến Khánh Dương tháng 3 1975
Mũ Đỏ Cù Lũ Nhí
Ai về Dục Mỹ Buôn Ma Thuột
Nếu có dừng chân ghé Khánh Dương
Chậm chân người hởi nhè nhẹ bước
Kẻo đạp lên mình các bạn tôi.
Ngày nào sinh tử thề hẹn ước.
Sao đành để lại một mình tôi
Đã mấy ĐÔNG về Anh vẫn đợi
Là bấy XUÂN qua thấy thẹn lòng
Mũ Đỏ Cù Lũ Nhí
Từ trước tới giờ có rất nhiều bài viết nói rằng Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù tham chiến Khánh Dương. Thật sự là Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù mới là Tiểu Đoàn tham dự trận Khánh Dương. Có rất nhiều người biết, nhưng không có ai đính chính chắc tại vì cùng là Nhảy Dù cả ai cũng vậy thôi. Nhảy Dù luôn nêu cao tinh thần đồng đội đó là truyền thống của Binh Chủng Nhảy Dù. LĐ3/ND đổ quân vào Khánh Dương trên hai chiếc Dương Vận Hạm Theo đích thân Tố Quyên thì chiếc Dương Vận Hạm LST 404 chở các TĐ 2, 5, 6 và ĐĐ3 Trinh Sát /ND. Còn chiếc Dương Vận Hạm LST 504 chở BCH/LĐ3, các ĐĐ Công Binh, Công Vụ, Truyền Tin và TĐ2 Pháo Binh Nhảy Dù. Chiếc LST 404 chở quân tới trước. Anh em Nhảy Dù ở trên đó cũng khá lâu trước khi xuống cảng vào sáng sớm Phía Hải quân cho người nhái và tàu nhỏ vây quanh LST 404, quăng lựu đạn liên tục xuống nước đề phòng đặc công VC. .
Trời gần sáng thì TĐ 2, 5, 6 và ĐĐ 3 Trinh Sát đổ quân xuống Cầu Đá. tôi gặp lại MĐ Liễu Hùng Nghị SQ /Tiền Sát /TĐ5 (không nhớ đề lô cho ĐĐ nào) người bạn cùng khóa TĐ16 Đồng Đế, cùng khóa Dù 329, cùng khóa CBSQ/PB lần cuối gặp nhau ở cây số 17 Huế. Tụi tôi rủ nhau ra ngoài uống cà phê.
Hai thằng sỉ quan nhỏ xíu mang 2 cây Colt 45 xệ xệ đi bộ ra ngoài cổng. Quân Cảnh có hỏi nhưng rồi cũng cho hai đứa ra. Chúng tôi lựa quán đối diện cổng có hai cô bán hàng khoảng tuổi 17, 18t ngồi xuống uống cà phê tán dóc với hai cô. Thì ba của hai cô bước ra. Khi biết chúng tôi là Nhảy Dù từ Đà Nẵng về. Ông không nói gì cả mà đi vào trong. Một lát sau ông lái chiếc La Dalat ra kêu 2 cô gái nói gì đó tôi không nghe. Tán dóc với 2 cô khoảng 15 phút tôi đứng dậy tính tiền, nhưng 2 cô nói: Hai anh đợi ba em một chút, còn tiền cà phê ba em dặn không được lấy. Chúng tôi ngồi xuống tiếp tục tán dóc không quên lợi dụng cơ hội xin tên và địa chỉ để nếu có dịp ra thăm hay thư từ làm quen.
Một lát xe La Dalat về không phải một xe mà là 3 chiếc trên xe đầy những bánh mì, thuốc lá, đồ hộp v. v. toàn là đồ ăn liền. Ông nhờ tụi tôi chuyển vào trong cho anh em Nhảy Dù. Không có gì là cảm động hơn, tôi ko nói được lời gì cả. Cái gì đó nghẹn trong cổ họng của mình.Một lát tôi mới có thể nói: Chuyện nầy để cháu dẫn chú vào gặp cấp cao hơn vì tụi con không có thẫm quyền. Sau khi cảm ơn 2 cô chúng tôi dẫn ông về cổng và trình bày sự việc. Xong chúng tôi chào ông về lại đơn vị của mình. Một lát sau bánh mì, thuốc lá, đồ hộp được phát ra cho anh em.
Không những vậy khi đoàn GMC chở LĐ3/ND đi qua thành phố Nha Trang tiến về Dục Mỹ thì rất là nhiều đồ đa số là thuốc lá từng cây, từng gói một quăng lên xe cho anh em. Không thể diển tả được tình cảm mà đồng bào Nha Trang dành cho anh em Nhảy Dù. Bao nhiêu mệt mỏi, thất vọng, bất mản vì tưởng được về Sài Gòn sau cuộc hành quân đầy gian nan, vất vả tại Thường Đức tan biến hết. Anh em LĐ3/ND vào Khánh Dương với quân số hao hụt nhưng khí thế hào hùng chưa từng có. LỰC BẤT TÒNG TÂM, SỨC NGƯỜI CÓ HẠN. Mũ Đỏ LĐ3/ND đã làm hết những gì có thể. Máu của anh em đổ tràn trên đèo Phượng Hoàng để đền đáp ân tình mà người dân Nha Trang đã dành cho họ.
Tôi được lảnh lương tháng 3, tháng lương cuối cùng của đời lính ở đèo Phượng Hoàng trước khi cuộc chiến xảy ra. lảnh lương có tiền tôi rủ Hiệp và Hùng 2 khinh binh Tr/Đội4/ĐĐ21 ra Dục Mỹ chơi. ĐĐ21/TĐ2 đang đóng an ninh cho Pháo Đội C2/TĐ2/PB/ND. Chúng tôi quá giang được xe GMC về Dục Mỹ trên xe có khoảng 10 Nhảy Dù của các TĐ/ND tôi có cấp bực lớn nhất. Xe ngừng ngay tại chợ Dục Mỹ. Chúng tôi vừa xuống xe thì từ trong quán nước bên đường một ông mặc đồ Dù hai bông mai đen một gạch dưới vẩy tay gọi lại đây lại đây. Tôi mặt mày xanh lè kỳ nầy là tiêu rồi. Nhanh như con sóc tôi la lên: “Tất cả tập họp, anh em sửa sang lại quân phục. Hiệp làm chuẩn một hàng ngang trước mặt ông. Ch/U Nguyễn Phạm Phúc SQ: 75/118249 trưởng toán 9 người trình diện Tr/Tá chờ lệnh”. Tôi la to và rỏ ràng từng chữ một cả chợ cũng còn nghe. Ai cũng quay lại nhìn chúng tôi chắc rất ư là khâm phục quân phong, quân kỷ của Nhảy Dù. Trúng tâm lý ông hiền từ hỏi; Đi đâu vậy? Sao tóc dài vậy. Tôi trả lời: Thưa Tr/T tụi em xuống chơ hớt tóc và mua ít đồ. Ông bảo: Nhớ về đơn vị sớm. Tôi mừng hơn bắt được vàng trả lời dạ, rồi đàng sau quây hô to: Tan hàng cố gắng rồi dọt lẹ, hú hồn... Nhưng vẫn nhớ bảng tên Phát đó là Tr/Tá Phát LĐT/LĐ3/ND.
Chúng tôi ăn sáng ở Câu Lạc Bộ A của Trường Pháo Binh, xong ra chợ Dục Mỹ mua đồ và uống cà phê. Cô Loan chủ quán nhận ra tôi ngay. Trước đây 7 tháng tôi là khách hàng thường trực của cô khi học CBSQ/PB. Cô có dáng người cao nước da trắng của con gái Đà Lạt Ở tới chiều chúng tôi đón xe về lại Đơn Vị. Tối đó thiết giáp rút lui, không hiểu tại sao lại bắn loạn xạ hai bên đường như sợ bị phục kích làmchết và bị thương lính của TĐ6. Tờ mờ sáng ĐĐ21 được lệnh hành quân. Ai rút không biết ĐĐ21 tiến lên giải vây cho TĐ6/ND đang bị tấn công. Tr/Uý Hà ĐĐT/ĐĐ21 điều các trung đội tấn công với pháo binh yểm trợ. Đóng quân trên đỉnh đồi nhỏ cách Quốc Lộ 21 khoảng trăm mét sau lưng BCH/TĐ6 Tôi bắn pháo vào cứ điểm xung quanh Buôn Ea Thi bên kia đường, đạn nổ từng tràng ngăn các cuộc tấn công. VC mấy lần bắn sẻ bằng CKC. tôi suýt chết trong gang tấc. Tr/Úy Hà cho Hiệp khinh binh bò lên nhưng bị một CKC khác bắn bể tay cầm M16. VC ở khắp nơi tấn công nhưng không làm gì được phòng tuyến vẫn vững vàng. Nhưng VC không để yên cho các căn cứ Pháo của ND. Với quân số đông áp đảo họ dể dàng bọc hậu, xuyên hông tấn công các căn cứ PB/ND. Không có quân tác chiến bảo vệ căn cứ PB/ND đều bị tràn ngập. Sau đó VC không đánh ĐĐ21 nữa mà đi vòng qua chúng tôi xuống Quốc Lộ 21 về Nha Trang, đi từng đoàn trên quốc lộ như đi diển hành theo đội hình thiết giáp và bộ binh tùng thiết.
Tr/U Hà ĐĐT21 phải cho mở đường máu xuống núi, iệp khinh binh dẫn đầu ĐĐ21 chỉ với BCH và Trung Đội 4 tràn xuống băng qua quốc lộ hội quân với BCH/TĐ6/ND của Tr/T Thành TĐT/TĐ6. Vừa tấn công xông qua được quốc lộ tôi nghe tiếng của Th/Sỉ Hùng Thường Vụ ĐĐ21: Pháo Binh có đây không? Vì sợ tôi theo không kip. Đó là lần cuối cùng tôi nói chuyện với Th/Sỉ Hùng (Th/Sỉ Hùng đã vỉnh viển ở lại cùng với rất nhiều anh em khác) Hiệp khinh binh chạy theo dụ́i vào tay tôi cây AK47 bá xếp và bảo: Ông giữ phòng thân khi nào về Nha Trang bán lấy tiền xài rồi cười ha hả. Chưa chi mà đã lo sợ về Nha Trang không có tiền xài. Trên nét mặt của người lính ĐĐ21 không có chút gì là lo lắng hay sợ sệt họ kỷ luật, hồn nhiên như là đang tham dự hành quân thao dợt. ĐĐ21 và BCH/TĐ6 cắt rừng, lội suối, nhổ chốt hướng về Dục Mỹ. VC phản ứng không kịp trong 2 ngày đầu rồi cái gì tới thì phải tới. Khi gom đủ quân VC bao vây và tấn công ĐĐ21 và BCH/TĐ6 Quân số ít ỏi. không liên lạc, tiếp tế, thiếu đạn dược và yểm trợ tan hàng là đều không tránh khỏi. Ngày 2 tháng 4 năm 1975 ĐĐ21 và BCH/TĐ6 tan hàng. Tr/T Thành TĐT/TĐ6, Tr/U Hà ĐĐT21 bị bắt.
ĐĐ21 và BCH/TĐ6 bị phục kích vào rạng sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975. Sau đợt tấn công đầu tiên và bất ngờ của VC vào đội hình ĐĐ21 anh em hy sinh rất nhiều, Tr/u Hà sắp xếp lại đội hình ra lệnh chiếm cao điểm vì ĐĐ21 đang ở triền suối Tôi theo Tr/u Hà xung phong lên chiếm cao điểm cây AK của Hiệp bây giờ mới hửu dụng. Tôi làm một tràng lấy tinh thần rồi theo chân Tr/u Hà và Trung Đội 4. AK, lựu đạn rải theo tôi phóng người nằm bẹp dưới gốc cây. Trái lựu đạn bay bổng rớt lăn trước mặt chừng 3 mét. Vì đang trên đà phóng người tới té xấp cạ̣nh gốc cây nên tôi bất lực khi thấy lựu đạn. Lấy tay ôm mặt dí người sát đất, Ầm tôi mở mắt ra sau tiếng nổ, , thấy xác Việt Tr/Đội 4 gục xuống. Việt cũng xung phong cũng trên đà phóng người tìm chổ ẩn núp vô tình đè trên trái lựu đạn hoặc là che mảnh cho tôi. Sống chết số trời. Tôi định thần nhìn qua thì không thấy Tr/u Hà đâu nửa chắc là đã lên tới đỉnh rồi. Tôi dạt qua trái cùng anh em. AK lại nổ nhiều anh em dính đạn ngả gục. Tôi đáp trả siết cò hết luôn băng AK dọt vào bụi rậm cắt đường xuống suối trở lại. Súng vẫn nổ dòn khắp nơi. Tôi men theo suối theo sau là 3 ND. Mà lạ lùng càng xuống suối tiếng súng càng xa lần chúng tôi tiếp tục đi... Tôi tìm một chỗ kính đáo gần con suối cả 4 người núp mình vào đó đợi trời tối sẽ̉ đi. Một lát sau chúng tôi nghe nhiều tiếng con gái giọng Bắc nói chuyên hình như đang lấy nước và giặt đồ. Thì ra chổ nầy là hậu cần của VC. Chúng tôi đã vô tình lọt và ổ VC mà cũng không ai ngờ là có 4 ND đang nằm kế bên. Đúng là chổ nguy hiểm nhất là chổ an toàn nhứt.
Rừng già nên trời tối rất nhanh. Học bài học xương máu vừa qua nên tôi quyết định đi sâu vào rừng càng xa Quốc Lộ 21 càng tốt trước khi đi xéo về Dục Mỹ Tôi chọn Dục Mỹ vì bản đồ tôi cầm chỉ tới đó thôi biết đi đâu bây giờ và lúc nào cũng nghĩ Dục Mỹ đang là tuyến chiến đấu vì có cả 3 Quân Trường ở đó (QT Pháo Binh, QT Lam Sơn, và QT Biệt Động Quân). Bỏ lại cây AK mà Hiệp đưa hết đạn rồi, hỏa lực còn lại 2 M16 với 2 băng đạn và Colt 45. Tôi dẫn đầu với chiếc la bàn trong tay người sau vịn vai người trước. trời tối đen như mực chúng tôi lên đường. Đi suốt đêm tới trời sáng, cẩn thân băng qua trảng tranh lớn tôi hối đi nhanh để vào lại trong rừng thì nghe tiếng gọi Nhảy Dù, Nhảy Dù. Xa chừng khoảng 30 mét là hai bộ đồ ND đứng lên từ bụi cây thấp kêu chúng tôi. Đó là 2 ND của TĐ5 thất lạc mấy ngày rồi gặp chúng tôi nên mừng lắm. Thế là chúng tôi có 6 người 2 TĐ2, 2 TĐ5 và 2 TĐ6 và thêm 1 con chó nhỏ. Chúng tôi đi không nghỉ để chạy với thời gian. Đi không kể ngày đêm khi mệt hoặc đói thì nghỉ nấu cháo húp mỗi người một ít xong cứ thế mà đi không hề biết ngày giờ chi cả Dọc đường chứng kiến xác của anh em ND rải rác khắp nơi. Tôi cẩn thận tháo thẻ bài cất giữ để khi về được Dục Mỹ thì báo tin đã gần chục cái. Lương thực thì chỉ có 2 bịch gạo tươi mà Nương đệ tử đã nhét vào túi cho tôi. Còn 2 đệ tử Nương và Hồng theo tôi không biết giờ nầy ở đâu đã lạc từ cú “tấp pi” đầu tiên của VC chắc là theo Tr/uy Hà. Hai bịch gạo và 1 con chó là lương thực của 6 người chúng tôi và đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi ăn thịt chó Một ngày vào buổi trưa chúng tôi nghe nhiều tiếng trực thăng bay trên đầu như là đang đổ quân tuy không cách nào liên lạc được nhưng lại tăng niềm tin cho chúng tôi. Tôi cắt xéo đường hướng về Dục Mỹ và cuối cùng cũng tới.
Từ trong rừng trên cao nhìn xuống Dục Mỹ sao im lìm quá không giống như đánh nhau. Và tôi cũng không nghe tiếng pháo binh từ lâu lắm rồi Chúng tôi vẫn đổ xuống Dục Mỹ vào buổi sáng sớm, lẻn vào một chòi canh rẩy của ai đó. Chúng tôi nhổ khoai mì nấu ăn xong lại tiếp tục vào rừng đi bọc vòng qua hướng khác. Tôi đã đoán được chuyện gì đã xảy ra với Dục Mỹ. Đói khát tả tơi chúng tôi lại xuống làng, lần nầy tôi quyết định xuống vào buổi chiều để tối đột nhập vào làng gặp dân hỏi thăm tin tức và tính đường khác chớ không thể ở mã̉i trong rừng được. Cũng như lần trước 4 người canh 2 người nấu. Ăn xong trời chưa tối chúng tôi nằm nghỉ rồi ngũ quên lúc nào không biết. Cái gì đó chọt vào ngực làm tôi thức dậy hai họng súng AK đang chỉa vào tôi. Hai ba người đè tôi xuống và trói chúng tôi lại. Khi biết tôi là sỉ quan người cán bộ trung niên tới hỏi đơn vị và cấp bực rồi dẫn chúng tôi ra ngoài lên xe Lam chở về chợ Duc Mỹ. Chúng tôi bị bắt bởi đơn vị quân dân mới thành lập ở Dục Mỹ nên cũng dể thở. Họ bỏ chúng tôi ngay chợ Dục Mỹ Ngay lúc đó có vài tên đơn vị chánh qui mặc dồ xanh đi qua, chúng chửi thề giọng Bắc gầm gừ như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi. “Địt Mẹ làm sao tụi bây xuống tới đây được” Dân chúng bu lại rất đông nhìn chúng tôi như che chở. Người cán bộ trung niên nói gì với tụi chính qui, mấy tên đó hậm hực bỏ đi. “Mấy anh ăn gì chưa để em nấu mì cho mấy anh” tiếng người con gái nghe quen quen. Tôi nhìn lên thì ra là CÔ LOAN chủ quán cà phê mà tôi quen. Người cán bộ trung niên không nói gì. Im lặng là đồng ý.. Chúng tôi được đưa vào tru sở nhìn vào tấm lịch treo tường NGÀY 9 THÁNG 4 NĂM 1975. Chúng tôi đã 7 ngày lang thang trong rừng kể từ ngày xa đơn vị. Cô Loan mang lại cho chúng tôi 6 tô mì và nước uống. Riêng tôi là ly chanh đường quen thuộc mà tôi thường gọi khi tới quán CÔ uống nước vì tôi không biết uống cà phê, và nhiều miếng thịt bò nằm dưới đáy tô mì. Ôi kỷ niệm không bao giờ quên được của những ngày cuối tháng 3.
Tặng và Tưởng Nhớ Các Bạn Tôi Những Người Một Lần Áo Hoa và Mũ Đỏ
Dạo đó anh đi mười bảy tuổi
Thiên Thần Mũ Đỏ Xứng đời trai
Vũ trụ mình ta chân đạp gió
Không gian lơ lửng bắt mây trôi
Ngang dọc tung hoành vùng hỏa tuyến
Giữ yên bờ cỏi đất Phương Nam
Thần Kinh thương nhớ tình lưu luyến
Đồng Khánh trường tan má đỏ hồng
Anh rời Hiệp Khánh vào chiến địa
Phong Điền nối tiếp Động Ông Đô
Thường Đức vang danh quân giặc khiếp
Vu Gia vượt sóng giữ sông xanh
Một không sáu hai đầy xác cộng
Sư ba lẻ bốn chốc tan tành
Mùa xuân năm ấy hoa mai rộ
Đại Lộc bình yên có Hoa Dù
Tháng ba mười sáu theo quân lệnh
Lướt sóng quân hành xuôi giang Nam
Bỏ lại sau lưng nhiều tình lở
Tiển Anh nước mắt ước vai nầy
Về mái trường xưa qua Đồng Đế
Được nhìn tượng đá đứng ngàn năm
Có người em gái nằm xỏa tóc
Để đợi anh về dẩu trăm năm
Nha Trang chào đón đoàn quân lạ
Dục Mỹ chiều nay ngập bóng Dù
Quân Đoàn Hai thối theo lộ 7
Để lại Nhảy Dù chốt Khánh Dương
Hai sư đoàn cộng tràn nhau xuống
Một Lử Đoàn Dù gắng tiến lên
Xung phong tiếp viện Buôn Ea Thi
Ngạo nghể trên tay viên đạn cuối
Nhảy Dù hai chử cố gắng thôi
Thiên Thần gẩy cánh ngàn thây đổ
Khánh Dương thương nhớ Lử Đoàn 3
Chí trai vị quốc không danh lợi
Vong thân bất nhục đáng anh hùng
Máu đào tươi thắm màu Mũ Đỏ
Xác thân tô điểm áo Hoa Dù
Nợ nước muôn đời trên vai nặng
Ơn nhà trọn kiếp mãi trong tâm.
Những ngày cuối tháng 3/2018
Mũ Đỏ Cù Lũ Nhí
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 26, 2018 6:20:35 GMT 9
Mùa Hè 1972 NHẨY DÙ TỬ CHIẾN VỚI BẮC QUÂN TẠI MẶT TRẬN QUẢNG TRỊ Mùa Hè 1972 NHẨY DÙ TỬ CHIẾN VỚI BẮC QUÂN TẠI MẶT TRẬN QUẢNG TRỊ . Mũ Đỏ Trương Văn Út (Útbạchlan) Mày cứ viết ra vài trang nhật ký Đọc nghe chơi coi thử khóc hay cười ? Tuổi học trò tuổi đời rồi tuổi lính Tuổi vào tù, tuổi vượt biển ra khơi (Trạch Gầm) Chúng ta, những người sinh trưởng tại nước Việt, nhất là ở miền Nam dưới thể chế Việt Nam Cộng Hoà miền nắng ấm ban mai lan toả bao nỗi niềm tự do, hạnh phúc, an bình của những năm 1955 – 1960 và chắc hẳn như bao học sinh ngày ngày cắp sách đến trường khó có thể quên được bài Tôi Đi Học của Thanh Tịnh: “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính, lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học….”. Và có tôi trong số những cậu học trò nhỏ đó nữa… Vâng, chính tôi với những ngày xưa còn bé cắp sách đến trường học hành, vui chơi cùng “đám học trò” ngây ngô bắt dế, đá gà, trèo cây hái trái, phá phách dễ thương trong xóm làng bình dị, mộc mạc có tiếng võng đu đưa kẻo kẹt và lời mẹ ru con à… ơi lẫn tiếng chim cu đồng gáy gọi nhau nghe buồn xao xác trong buổi trưa hè oi ả …! Cứ mỗi buổi tan trường, chào thầy cô phấn bảng trở về nhà, rồi lớn dần theo thời gian … tôi thường lang thang trên những con đường dưới hàng cây bóng mát, buông lời chọc ghẹo vẫn vơ với những nữ sinh trung học dung dăng tà áo dài phất phơ bay theo cơn gió nhẹ và đem về nhà nỗi tương tư dệt nên dăm đoá mộng diễm tuyệt lung linh và ôi…thời gian đầy hoa mộng đó vội qua mau như áng mây bay qua cửa sổ.! Khi bước chân vào Quân Ngũ phải hành quân miệt mài trên đoạn đường chiến binh, lặn lội đi suốt những con đường dài hun hút gió heo may…Những con đường mòn trên dãy núi rừng Trường Sơn bạt ngàn, lởn vởn những bóng ma trơi và thần chết chực chờ từng giây, từng phút để vung tay tử khí quơ mẽ lưỡi hái đoạt hồn chiến binh trong thâm lâm u ất…! Có lúc phải chặt cây choáng chằng chịt vừa đủ chỗ để chui qua dưới những bụi tre già dày đặc um tùm thăm thẳm mịt mùng… Đi ngày chưa tới, phải cố gắng đi đêm…Còn đâu những buổi ráng chiều nắng nhạt, nhàn du dung dăng dung dẽ thơ thẩn dưới những hàng dừa nghiêng ngã nên thơ “sao không thấy em lại để cùng anh thẩn thơ” đâu đấy thoảng nghe văng vẳng có tiếng sáo diều vi vu trên cánh đồng nội cùng với tiếng bao tiếng cười nói rộn rã của những cô học trò nghịch ngợm ở lứa tuổi trăng tròn…!!! Bây giờ là gót giày Sault dẫm lên chông gai, bùn lầy ướt sũng nước đọng mùa mưa, khô héo quắc queo mùa nắng cháy bõng da người trên khắp nẽo đường hành quân lùng và diệt địch trong những “mật khu bất khả xâm phạm” của địch quân…Còn đâu những bước chân dệt đầy mộng đẹp lứa tuổi học trò, bỏ lại sau lưng những mùa hè có hàng cây phượng trổ hoa nở đỏ thắm rực rỡ với tiếng ve sầu kêu vang và trao vội cho nhau vài hàng lưu bút ngày xanh còn thơm mùi mực mới…! Con đuờng gian khổ, hiểm nguy miệt mài bây giờ là con đường đi biết bao giờ đến đâu và về đâu, đi mãi rồi sẽ “nhỡ” một mai “rách áo” hồn bay vào hư vô với tử thần chực chờ đón tiếp và “anh trở về hòm gỗ cài hoa”…! Sống còn tồn tại hay từ giả cõi đời chỉ trong tích tắt cây kim gió đồng hồ quả thật là như loài phù du trên mặt nước vô tình ! Hạt lệ khô như gió nam Trường Sơn Qua bao tuổi tác bấy nhiêu buồn…! . Từ Trí Bửu tới Hạnh Hoa Thôn:Quận châu thành Mai Lĩnh nằm ở phía Đông- Nam cổ thành, cách non một cây số về hướng Bắc là làng Trí Bửu nằm ngay chính Đông, lên nữa là Hạnh Hoa Thôn, nơi đây là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 325 của CSBV, các đơn vị trực thuộc của Sư này gồm cả chiến xa, hoả tiển phòng thủ dọc theo con đường Duy Tân… Vào trung tuần tháng 5 năm 1972. Chúng tôi Lữ Đoàn II Nhẩy Dù (LĐ2ND) gồm có Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù (TĐ7ND), Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù (TĐ9ND),Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhẩy Dù (TĐ1PBND), Đại Đội 2 Trinh Sát Nhẩy Dù (ĐĐ2TSND) triệt xuất Kontum – Chiến Trường Tây Nguyên về hậu cứ, riêng Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù (TĐ11ND) sau trận “banh xà rong” bi hùng ở đồi Charlie vào ngày 17 tháng 4 năm 1972 Thiếu Tá Lê Văn Mễ Tiểu Đoàn Phó được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, cũng là ngày TĐ11ND chính thức mang khăn tang Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo trở về Sài Gòn tái bổ sung, chỉnh đốn quân sĩ và cũng được lệnh tăng cường ra Huế chuẩn bị tái chiếm Quảng Trị, trong khi Lữ Đoàn I Nhẩy Dù (LĐIND) và Lữ Đoàn III Nhẩy Dù (LĐIIIND) còn đang vất vả bảo vệ An Lộc. Ra đến Huế, tất cả tập trung ở căn cứ Hiệp Khánh (Sally) chờ lệnh xuất phát. Trong thời gian chờ lệnh và cũng đang chờ Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù (TĐ5ND) triệt xuất An Lộc trả về LĐIIND cho đủ “bộ tam sên 5-7-11”, các toán viễn thám TS2ND bung ra xa căn cứ thám sát thì phát hiện ngay địch quân đã nằm áp sát ở bên mình với bộ binh và thiết giáp tự khi nào rồi…!!! Quảng Trị đâu chưa thấy mà thấy chúng nó trước mặt, không chừng chưa kịp đánh nó thì chúng đã “tapi” đè bẹp mình rồi. Đại Tá Trần Quốc Lịch tính toán quyết định ngay là phải “Tiên Hạ Thủ Vi Cường” ra lệnh cho TĐ11ND thử lửa để phục thù rữa hận sau trận “rách áo” ở Charlie và quả thật không hổ danh “Song Kiếm Trấn Ải” lẫy lừng, TĐ11ND phối hợp với Pháo Binh Dù tác chiến chính xác đã chiến thắng vẻ vang trên đồi Trần Văn Lý với chiến tích là xác 20 xe Tank T54 bị bắn cháy và thi thể Bắc Quân phơi đầy trên chiến địa còn đang khét nóng mùi khói lửa…!!! Không cần tịch thu chiến lợi phẩm vì con đường phải đi trước mặt còn dài xa hun hút… Trận chiến ngoạn mục này đã làm cho tinh thần Quân Cán Chính địa đầu giới tuyến vùng lên theo chiến dịch Lam Sơn 72 trở về mái nhà xưa. Chỉ buồn cho ĐĐ2TS vì một Trung Đội giúp đỡ tiếp tế tản thương cho TĐ11ND mà phải banh xác bỡi “dính” một trái mìn chống chiến xa của quân…ta khiến cho Thiếu Úy Nguyễn Văn Oanh, Trung Sĩ Thạch On cùng 6 binh sĩ chết tại chỗ, 17 bị thương nặng nhẹ, số còn lại hồn phi phách tán. Hạ Sĩ Nhất Kim Chơi vừa khóc mếu máo vừa giận giữ chữi thề:” Mẹ,… Trinh Sát Nhẩy Dù không chết rừng chết bụi mà chết trên GMC…”! Buồn cay trên mí mắt đứng tròng đã bao lâu nay khô hóng vì không ngủ và gió cát nóng miền Trung …! Chỉ 5 ngày sau quân số của Trung Đội này được cấp tốc bổ sung đầy đủ với hơn 30 người. . Ngày N giờ G điểm:Toàn thể lực lượng quan quân Lữ Đoàn II Nhẩy Dù (LĐIIND) súng đạn mũ sắt ba lô vượt phòng tuyến bên bờ Nam sông Mỹ Chánh do Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Thuỷ Quân Lục Chiến của Robert Lửa Nguyễn Xuân Phúc (K16VBĐL) đang trấn thủ vào “thăm và viếng” Quảng Trị với 3 Sư Đoàn Chính Qui của CSBV, cùng đại pháo 130ly, hỏa tiễn phòng không, hoả tiễn chống chiến xa của Liên Sô ồ ạt tiếp viện trong vòng mấy tháng qua…chúng đã điều nghiên chiến trường và chuẩn bị chu đáo thế thượng phong đang chờ đón quân “Nhẩy Dù Nguỵ”… Lần giở trong ký ức Binh Pháp Tôn Ngô thấy “tức” cười. Muốn tấn công Thành phải dùng lực lượng gắp 5 lần quân phòng thủ, nay toàn thể lực lượng chủ lực phía quân ta chỉ có một mà dám tấn công bên địch mười, thì không bể đầu cũng sức trán, không chột cũng què, ấy vậy mà vì “Nhẩy Dù Cố Gắng” chỉ trong vòng ba ngày đêm từng bước, từng bước thầm đầu đội pháo, chân dẫm lên xác địch, tác xạ lao về phía trước vượt trên quãng đường vài ba cây số ngập tràn máu lửa, đạn bắn như đan lưới địa võng biết nơi nao là không phải là hoả ngục …? TĐ1ND1,TĐ5ND cũng đã tiến vào được La Vang, TĐ7ND đã vượt qua ngã ba Long Hưng áp sát vào vòng đai Cổ Thành Đinh Công Tráng, TS2 ND có lệnh theo đuôi TĐ7ND, sau đó đơn độc tách rời, rẽ về hướng Đông để tiên phong xâm nhập vào Quận Mai Lĩnh bằng kỹ thuật dạ hành ngụy trang tối đa, bảo toàn lực lượng để làm đầu cầu cho TĐ7ND của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Khôi Nguyên Khóa 16 VBĐL) và Thiếu Tá Nguyễn Lô (Sông Lô K18 VBĐL) “từng bước…từng bước thầm…đi vào hang lang sói…” cuối cùng toàn bộ TS2ND cũng “luồn” vào được mục tiêu “êm ái như mơ” địch không hề hay biết nên không một tiếng súng nổ “chơi”. Tôi và đám “con cái Trinh Thử” loại Chuột với M16, lựu đạn, M72 trang bị tận răng nằm “ém quân” hai đêm ba ngày bất động nằm “ưu ái” trong lòng địch, phải nhiều phen nín thở, nhịn ăn để tránh “đi đồng”, mở banh chong đôi mắt thăm dò trong đêm ngày, vểnh đôi vành tai nghe ngóng âm ba như loài dơi thính dò tìm động tĩnh chẳng khác gì những bóng ma vô hình, theo dõi thật sát từng bước chân của địch quân đang nhởn nha qua lại trên đường phố, đến đêm thứ hai nghe bỗng tiếng thì thào “trọ trẹ” nhẹ như tơ vàng trong máy: – Út Bạch Lan…! Sông Lô đây? Tôi trả lời với tiếng nói “thỏ thẻ” như gió thoảng hư không trên PRC25: – Tôi nghe! – Tôi sẽ gặp UBL lúc hai (2) giờ sáng đêm nay… chờ ! Tôi vui mừng không thể tả tâm trạng dường như trẻ thơ chờ mẹ đi chợ về, nỗi vui bỗng chốc trấn áp biết bao lo âu, chờ đợi làm căng thẳng thần kinh mấy ngày qua vì nghĩ đã bắt tay được với TĐ7ND tức không còn đơn độc trong lòng địch nữa…! Nhưng không phải như vậy, vì “Ôn” Sông Lô sau 10 phút “bắt tay” hàm thụ xong thì rời khỏi vùng địch ngay, trở về tuyến của Tiểu Đoàn cách xa gần cây số. Tôi xin mở ngoặc để “nói” thêm về “Ôn” Sông Lô Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó TĐ7ND, sau lên Trung Tá là một trong những Sĩ Quan Chỉ Huy kiệt xuất trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chí cho đến ngày tàn cuộc chiến 30-4-1975… và sau đó Sông Lô với dáng người như cây tùng trước gió bão vẫn anh hùng hiên ngang lừng lững với quần áo Nhẩy Dù rằn ri vượt trại giam, đón xe đò đi về đâu…khi tứ bề địch bủa lưới ? Khi còn bị giam trong tù (nguỵ danh Trại Cải Tạo) đảng Cộng Sản gian trá đề cử nhân viên đài Truyền Hình Saigòn xuống trại tù thu hình làm phóng sự tuyên truyền, bọn công an bắt Sông Lô cầm cuốc làm cỏ để quay phim, Sông Lô liền dõng dạc từ chối thẳng thừng :”Tôi không chơi được cái trò khỉ đó”! Mặc cho chúng muốn hành hạ bắn giết không hề chi, tất cả bạn đồng tù lo âu tưởng rằng Sông Lô cựu Tiểu Đoàn Trưởng Nhảy Dù danh tiếng lẫy lừng sẽ bị chúng giam cùm hoặc bắn bõ. Sông Lô thời chiến yên hùng lẫm liệt giữa chốn ba quân nay trong thân tù cũng hiên ngang lẫy lừng… đã khiến cho tên sĩ quan trưởng trại thán phục với nhận xét: “Họ là những người Sĩ Quan kiên cường đáng phục…” ! Và xin hãy đọc một trích đoạn trong bài viết của người bạn cùng trại tù ngoài Bắc với Sông Lô đăng trên báo Mạch Sống số 62 tháng 9-2007 do Phan Nhật Nam phụ trách trong mục Lịch Sử Qua Lời Kể: “Toán tử tội được dẫn đến trước những chiếc cột. Các anh có muốn nói điều gì không? Trưởng trại thoáng bối rối trước sự im lặng bình thản của năm người. Không một ai có dấu hiệu sợ hãi. Không có gì? Nguyễn Lô thay mặt các bạn trả lời (Bởi khi chấp cung, Lô đã xác nhận ông là người trách nhiệm độc nhất tổ chức vụ trốn trại). Nhưng đột nhiên, ông cười nhẹ.. Nếu cho hút điếu thuốc lào thì tốt lắm! Trưởng trại trầm mặt nghĩ ngợi (không hiểu Lô có ẩn ý gì vì yêu cầu quá nhỏ nhoi, bất ngờ) trước khi chấp thuận. Lô biết ý, giải thích: “Tôi có cái điếu mới, gởi ở các anh BK (đọc là Bê-Ka, Biệt Kích), tôi muốn hút cái điếu đó một lần chót!” -…Có đây! Có đây! Thưa ban (Ban Giám Thị), chúng tôi hiện giữ cái điếu của anh Lô. Viên trưởng toán Biệt Kích mau lẹ đứng dậy từ đám tù ngồi chật hội trường. Chiếc điếu được đưa tới, Sông Lô cầm lấy ung dung nói:” Mình chơi một điếu nghe mấy ông…? Những người bạn đưa mắt nhìn nhau. Hạnh nói nhỏ chán nản: – Hút làm gì Lô? – Thì cứ hút đi, trước sau cũng chết! Lô ngồi xuống, cho thuốc vào nỏ điếu, hâm cây đóm, kéo sâu hơi thuốc, thở khói lên trời. Ông cười nhẹ, đứng dậy, trao điếu cho các bạn và mời:”Làm một bi đi”! cựu Trung Tá Nhẩy Dù Nguyễn Lô nhìn quanh hội trường, đến với mỗi người tù, mặt ông không biến sắc..ký ức trận Ắp Bắc 1963,Pleime 1965, Cầu An Hòa – Tết Mậu Thân Huế 1968, Tổng Công Kích Đợt 2, Nghĩa Trang Người Pháp, Ngã Tư Bảy Hiền, Sàigòn 1968, Hạ Lào, Động Ông Đô, Chu Pao, La Vang, Quảng Trị 1972, Long Khánh tháng 4-1975.. .Đoạn đường mười hai năm một đời chiến đấu ông đi qua không một lần yếu đuối. Vậy hãy coi đây như chỉ là trận chiến cuối cùng trong đời, trận chiến không vũ khí, chỉ với những người bạn từng sống-chết và những người bạn tù ngồi im lặng dưới xa kia…. Nguyễn Lô thở hắt như lần trái đạn 57 ly bắn tung chiếc chiến xa và thân hình ông trước Thánh Đường Đức Mẹ LaVang, nơi quê hương Quảng Trị vào buổi chiều tháng 7 Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Ngày ấy cũng có nắng như hôm nay. Nhưng nắng miền Nam ấm, vàng tươi, sáng rỡ hơn… Có chiếc xe đổ nhanh dưới lưng đồi, trước bộ chỉ huy trại. Bóng người cán bộ VC chạy vội lên hội trường hô to:” Dừng lại! Dừng lại! Nguyễn Lô bình thản, tỉnh lạnh bảo với Hạnh và Bằng hai người bạn đứng gần kề bên cạnh: “ Cứ hút đi, đừng để ý làm gì”! Điều đáng nói là phong cách hút điếu thuốc lào cuối cùng của Sông Lô khinh bạt, lãng tử yên hùng của trang “Hảo Hán Lương Sơn Bạc” và hơn thế nữa chính là Kẻ Sĩ Đông Phương xem cái chết nhẹ tựa lông hồng quả thật là không hổ danh Cấp Chỉ Huy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà…!!!” (ngưng trích). Trở lại với hiện tiền trời nhá nhem ửng sáng, những tiếng động của xích sắt chiến xa càng lúc càng rõ dần, trước mặt xuất hiện lố nhố nón cối, AK, Đại Liên, B40-41 đang giàn hàng ngang tiến dần đến gần…oành…oành… oành… ầm… ầm… ầm… nhà bung mái ngói, cây cối gãy đôi, đất sỏi tung bay mù mịt. Trung Uý Cố Vấn Mỹ Terry Griswold chân tay run rẩy như thằn lằn đứt đuôi, hồn phi phách tán hét thất thanh trong máy: “Zulu…Zulu…Zulu right away! Right now…”!!! Mẹ, muốn rút lui phải có kế hoạch từng bước, nếu rút lui cái ào hỗn loạn vô trật tự là đưa lưng lãnh đạn chết ráo còn ai để mà rút lui. Tên Trung Úy Cố Vấn mới tốt nghiệp West Point, một năm sau lên Trung Úy được điều sang VN tham chiến trong toán Cố Vấn 162 của Nhẩy Dù. Tôi phải trấn an và chậm rãi bảo hắn:”Terry…listen…You and your man stay here with me, don’t move and wait for my order…”! Rồi phải “run” thôi, tháo bung “banh xà rong”dzọt lẹ với kỹ năng nhất bộ nhất biến “thao lược” nhuần nhuyễn xuất thần để bảo toàn lực lượng trong trình trạng sinh tử, tránh bị tiêu diệt là nghề của chàng, của TS2ND vốn là hậu thân của đơn vị 81 Biệt Cách Dù Lực Lượng Đặc Biệt với hỗn danh “Dog Run” chó chạy đường mòn. Chạy cũng có kỹ thuật của chạy, chạy tán loạn là táng mạng cả đám, mạnh ai nấy chạy là tự sát, bỏ xác một mình. Trong kỹ thuật tác chiến rút lui khó hơn tấn công rất nhiều, cho nên theo thứ tự rút lui với chiến thuật “nhẩy cóc”, thằng này rút trước rồi ở lại bảo vệ thằng rút sau, từng bước, từng bước thoát ra cái lưới đạn pháo đang phủ chụp lên cả đơn vị. ĐĐ2TS thoát ra được đồng ruộng, thằng què tay cõng thằng què chân, thằng què chân cà thọt lôi thằng không đi đứng được, đành bỏ lại 17 đồng đội đã ra đi nằm im lìm bất động, hơn 30 mạng máu me đầy người được TĐ6ND vừa được tăng cường từ mặt trận An Lộc giúp đở tản thương, thiếu tá Nguyễn Văn Tùng TĐP/TĐ6ND (Khóa 19 VBĐL) tử thương trong mặt trận này, trung tá Nguyễn Văn Đĩnh (Khóa 15 VBĐL) ôm xác khóa đàn em mắt lệ lưng tròng…! TS2ND lui về phía sau nghỉ “thở” ba ngày để chỉnh đốn lại hàng ngũ trong khi các Tiểu Đoàn Nhẩy Dù vẫn tiếp tục tiến chiếm từng ngôi nhà, dãy phố và áp sát cổ thành Đinh Công Tráng. TĐ11ND đã vào đến đường Nguyễn Hoàng phía chính Nam đang nới rộng về phía tây tới cầu Thạch Hãn với TĐ1ND và hai Biệt Đội 81Biệt Cách Dù cạnh sườn trái ở thôn Như Lệ Tích Tường. TĐ7ND sau khi bứng hết các hầm hố kiên cố chôn dấu dưới những gốc tre già bằng một cái giá sòng phẳng phải chăng, quần thảo với Bắc Quân để bước vào khu vực bến xe và sân banh Nguyễn Hoàng. TĐ6ND theo lộ trình của TS2ND đã chiếm lại chi khu Mai Lĩnh nới rộng về phía Bắc về hướng Trí Bửu. Như vậy là quân Nhẩy Dù đã kiểm soát hoàn toàn khu vực ngoại thành của thành phố Quảng Trị ở phía Tây-Nam, phía Nam và Đông-Nam. TĐ5ND được lệnh triệt thoái phòng tuyến La Vang, bọc sau lưng TĐ7ND song hành với TĐ6ND hướng về Trí Bửu phía chính Đông của Cổ Thành. TS2ND mượn đường TQLC từ hướng chính Đông, dùng thiết vận xa đưa đến điểm xuất phát là sông Nhung để cùng TĐ5ND thành hai mũi giáp công, cố chiếm cho bằng được Trí Bửu để làm bàn đạp đánh phá Cổ Thành Đinh Công Tráng. TS2ND vượt sông Nhung bằng phao dã chiến Poncho, con sông này có thượng nguồn từ trong dãy núi ở phía tây Quốc Lộ 1 chảy ra sông Vĩnh Định chỗ cầu Ba Bến. Sông Vĩnh Định có đầu nhánh phía tây chạy ngang chợ Sãi và thông với sông Thạch Hãn. Từ chỗ của tôi vượt sông để tới khu nghĩa địa phía chính Đông bìa làng chỉ cách xa khoảng vài trăm thước, bỗng nghe một tiếng cắc bùm, Thiếu Úy Lã Quý Khâm Tiền Sát Viên của TĐ1PBND đang đứng sát bên vai với tôi, bật ngã ngửa người ra phía sau mắt trợn trừng, môi mấp máy mấy cái rồi…đi! Tôi ngồi thụp xuống bên một mô đất lạ ra lệnh cho tất cả hiệu thính viên, kể cả 5 ông Cố Vấn Mỹ cuốn ngay lá Antenna PRC25 dấu dưới ba lô. Không biết có phải vì biến cố này hay không mà chỉ vài giờ sau toàn bộ Cố Vấn Mỹ được lệnh rời khỏi TS2ND ngay tức khắc. Trước mặt tôi quả là một khúc xương khó nuốt. Bên cạnh sườn trái của tôi TĐ5ND đã chiếm được 1/3 Trí Bửu, bằng mọi giá TS2ND phải trườn hay bò lên phía trước để giữ cạnh sườn phải cho TĐ5ND và hướng mặt về phía Cổ Thành. “Đường đi không khó vì ngăn sông, cách núi” đường chỉ có khoảng vài ba trăm thước… Nhưng khó vì đầu đội pháo, ngực đang phơi khơi khơi trước những họng súng Nga – Tàu và đạn đã lên nòng đang hờm sẵn chờ cho mục tiêu là thân thể chúng tôi lọt vào tầm ngắm rồi nhã hằng loạt đạn… ở phía Bắc của tôi chỉ khoảng 500 mét là Hạnh Hoa Thôn, theo tin tức của Phòng 2 Sư Đoàn Nhẩy Dù cho biết là một đơn vị lớn của Sư Đoàn 320B (SĐ320B) Bắc Quân đang trú đóng ở đó, Sư Đoàn nầy do tướng Nguyễn Sùng Lãm làm Sư Đoàn Trưởng và là Tư Lệnh Mặt Trận 7 Quảng Trị thuộc Quân Khu Trị Thiên được đưa vào tăng cường, chịu trách nhiệm khu vực thuộc quận Triệu Phong từ tây bắc Vĩnh Định ra tới Cửa Việt. Trung Đoàn 27 tại vùng Đông Hà, Động Lôn, Quai Vạc, Trung Đoàn 48 (Quang Sơn) của Trung tá Lê Quang Thúy trong Cổ Thành Đinh Công Tráng, Trung Đoàn 64 tại Cam Lộ, Định Xá, Bái Sơn. Trung Đoàn này tăng phái Tiểu Đoàn 9/64 cho Trung Đoàn 48 của SĐ320B cùng TĐ3 và TĐ8 địa phương của B4 trấn giữ Cổ Thành cùng khu vực làng Trí Bửu và Hạnh Hoa Thôn… Nếu họ muốn càn quét chúng tôi, chỉ cần một chi đoàn chiến xa T54 với bộ binh tùng thiết, dùng hỏa tập tấn công thì chỉ trong phút chốc chúng tôi sẽ trở thành mây khói, bởi lẽ không yểm của quân ta gần như bất khiển dụng trong việc yểm trợ cận phòng vì lưới đạn phòng không dày đặc đan giăng như Thiên La mắc cửi, pháo yểm cũng không thể diệt được Tank 54 và bộ binh địch chớp nhoáng sẽ tràn ngập….!!! Nỗi lo âu đó trong tôi hằng phút hằng giờ trong thế bối thủy, tiến không được mà lùi cũng không xong ? Thôi thì phải tử thủ, Triệu Tử Long – Tam Quốc Chí tân thời không thể buông tay chết đứng giữa trận tiền, đành phải liều “bung Dù” tử chiến với giặc trùng điệp hoặc sẽ tan tành rã đàn xẻ nghé…? Tôi xin tăng viện khẩn cấp M72, buổi sáng ngày hôm sau TĐ5ND tăng cường cho tôi 50 hoả tiễn, buổi chiều Lữ Đoàn cung cấp thêm 100 súng M72 để thủ sẵn. Các toán viên Viễn Thám ngụy trang như những cây di động nằm yên tại chỗ, chỉ di chuyển ban đêm khi trái sáng phụt tắt, rồi tiếp tục nằm yên khi trái sáng bục nở trên bầu trời, tất cả M72 kéo nòng, mở khóa an toàn, áp sát một căn nhà nào đó ẩn thân rồi nhanh nhẹn như một tên đạo chích đột nhập vào trong nhà, dùng lưởi lê “thích khách” Bắc Quân “êm re” không một tiếng động…và có lẽ mấy cán ngố Đặc Công, Tiền Sát Viên đã âm thầm gặp diêm vương nên cường độ pháo tập 130ly giảm dần và cũng vì tình trạng trộn trấu giữa ta với địch cùng ẩn náo, sống chung một nhà “người ơi mau về đây, cùng chung mái nhà” chẳng thằng nào nhận ra thằng nào và cũng vì các toán viên Viễn Thám mặc quân phục của VC và xử dụng súng AK47, dùng ám hiệu mật mã trên PRC25 đều bằng những con số y chang như Bắc Quân thì làm sao chúng có thể phân biệt trong thế tranh tối, tranh sáng mờ mờ nhân ảnh… cho nên chúng nó lần lượt bị “đâm sau lưng chiến sĩ” rồi trở thành liệt sĩ mà không biết tại sao và vì sao “em” đã vội “chia tay hoàng hôn” …?!… và cứ thế các Trung Đội Trinh Sát trám chỗ để các Toán Viễn Thám tiếp tục truy lùng và diệt địch, cho đến khi song hành với TĐ5ND chỉ còn cách bờ thành Đinh Công Tráng cửa Đông Quan khoảng 100 mét nằm trong tầm đạn đạo súng cối và đại liên 12ly7 từ trên cao của bờ thành rải như mưa xuống đầu chúng tôi…Bên trái là ĐĐ51ND của Trương Đăng Sĩ và ĐĐ52ND của Hồ Tường, tất cả lực lượng gọi là “Tiền Phương” này đều dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tố Quyên (Thiếu Tá Bùi Quyền Thủ Khoa K16 VBĐL). Bên phải của TS2ND là trùng trùng điệp điệp bóng dáng Bắc Quân…Bấy giờ lực lượng trừ bị hùng hậu Thuỷ Quân Lục Chiến còn ở xa chưa tới áp sát vì lệnh ở trên ! Chúng tôi trên đầu thì phải đội đạn 130ly sơn pháo, hoả tiễn 122ly, cối 82ly…từng giây phút, hằng giờ, trước mặt là một dãy hào sâu ngập nước với bức tường Cổ Thành dầy đặc kiên cố cao khoảng 12 mét. – Út Bạch Lan…Tố Quyên. – Tôi nghe Đích Thân. – UBL nghiên cứu thử xem có thể gửi hai con vịt tiềm (Viễn Thám) vào trong được không ? – Nhận 5 trên 5 Đích Thân. “Mission Impossible” !!! Xâm nhập vào mật khu rừng núi hay vào căn cứ địa của địch không mấy khó khăn, nhỡ bị phát hiện thì trổ tài…”dzọt”, sống còn hay tử vong mất xác là do số mạng, còn như nhận lệnh thi hành nhiệm vụ này chẳng khác gì Kinh Kha sang sông Dịch một đi không trở lại, không có đường về, cũng không có cơ may trở lại để kiếm đường về…! Tôi gọi Thiếu Úy Thông và Thiếu Úy Hiền hai Sĩ Quan trưởng toán vừa được bổ sung sau Mặt Trận Kontum, cả hai chưa có một chút kinh nghiệm gì về thoát hiểm mưu sinh để tôi “ban lệnh hành quân”. Nhìn hai đôi mắt đăm chiêu tư lự của hai Sĩ Quan trẻ độc thân này, lòng tôi bỗng chùng xuống không thể “hạ lệnh” một cách mạnh mẽ và dứt khoát được, vì biết rồi ta sẽ đưa họ vào cõi chết một cách oan uổng và phi lý cho dù “chuyên qua sông Dịch” là nghề của chàng…! Muốn tới được chân bờ thành đã khó vạn nan, rồi còn tìm cách nào để lên được tường thành rồi xâm nhập vào trong thì quả thật là liều lỉnh để tự sát, chỉ có cách duy nhất là làm sao đục thủng một lỗ tường thành thì họa may có thể …? Hiện tại TankM48 không có, pháo binh thì ở xa, phi cơ thả bom cũng chỉ đánh phá từ trên xuống không thể phá ngang hông được, đạn M72 hay 75 ly không giật công phá tường thành dầy 5-6 mét không hề hấn gì…! Tôi thật bối rối không biết phải tính toán như thế nào để xâm nhập qua bức tường thành chắn lối thật là “đá dựng ngàn năm hoang đường khói độc”…? Nếu liều lỉnh nhắm mắt xua lính cảm tử thi hành lệnh lúc này đồng nghĩa với cái chết, thì lòng can đảm chỉ là thể hiện tính chất cường bạo và vô trí tuệ mà thôi chẳng có ích gì…? Không thi hành thì lại mang tiếng hèn nhát trước địch quân đâu phải là Trinh Sát 2 Nhẩy Dù vốn xuất thân từ Lực Lượng 81Biệt Cách Dù ? Tôi gọi Tố Quyên trình bày những khó khăn trở ngại nói trên và xin cung cấp cho 6 sợi dây tuột núi cùng với móc câu. – UBL…tôi sẽ cố gắng…nhưng không hứa ! Như vậy là tôi phải chờ ! Tình hình biến chuyển từng phút, từng giờ, ĐĐ51ND (Trương Đăng Sĩ), ĐĐ52ND (Hồ Tường), ĐĐ54ND (Nguyễn Vũ Dương) và ĐĐ111ND (Đinh Viết Trinh) tăng phái dưới quyền điều động chỉ huy hành quân của Tố Quyên đã áp sát bờ thành đang chờ những phi tuần Không Quân Bảo Quốc Trấn Không “bay không ai tìm xác rơi “đang vần vũ trên bầu trời giáng sấm sét từng đợt đánh bom hạng nặng làm sập một góc tường thành thì may ra chúng tôi mới cảm tử chiến cho dù phải hy sinh nhiều chiến sĩ là phải đánh đổi bằng một cái giá rất đắt, nghĩ tới thâm tâm sinh nỗi bất nhẫn, nhưng rồi buột miệng: “chiến tranh mà” lẫn trong tiếng gầm rú của phi cơ và tiếng bom đạn nổ bùng vỡ xé trời xanh… và TS2ND chúng tôi đang trụ thế “nhất kiếm công thành” trước tuyến trận, đứng đầu sóng ngọn gió chịu áp lực từ phía Bắc càng lúc càng nặng nề. Quân số càng ngày càng hao hụt nhưng cũng phải cố gồng mình chịu đựng, vì nếu TS2ND bị chọc thủng thì Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của TĐ5ND bị đe dọa chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ. Đây là một điều ưu tư lo lắng từng phút từng giờ của Ông niên trưởng Tố Quyên (Bùi Quyền) Thủ Khoa Khóa 16 Võ Bị Đà Lạt lúc nào cũng 24/24 trên máy PRC25 với tôi và Chí Bệu (K20VBĐL) trưởng Ban 3 Hành Quân của Tiểu Đoàn. Chúng tôi tiên liệu Bắc Quân sẽ có một trận pháo cường tập và tấn công biển người và chờ đợi tới đâu hay tới đó…? Tố Quyên điều động ĐĐ54ND lo bảo vệ khu vực Đông Bắc Trí Bửu và tải thương, ĐĐ51ND và ĐĐ52ND nhào vào Cổ Thành…Không Quân Việt Nam với những phi tuần Khu Trục (Skyraider AH-1) do những Phi Công dày dạn chiến trường, tài trí siêu xuất đánh bom vào chỗ kỳ đài rất chính xác như “thảy lỗ”, thì lúc đó bỗng có 2 phi tuần Jet của Mỹ ở đâu bay vào vùng để yểm trợ thêm cho quân Nhẩy Dù công phá Cổ Thành, Cố Vấn Mỹ hỏi Tố Quyên có muốn xử dụng không ? Tố Quyên OK và chỉ cho Jet nó đánh ngay vào mục tiêu cùng chỗ phi tuần Việt Nam vừa đánh. Nhưng than ôi… “điều động tại nhân mà tai hoạ tại thiên” khói bụi từ chỗ mới bị bom đánh tỏa ra bị gió thổi bạt đưa về phía ĐĐ51ND và ĐĐ52ND thế là Pilot Mỹ chơi 2 pass Smart Bomb vào Smoke Targets đó, thành ra bom bên Mỹ mình giáng xuống quân ta tan tành “banh xác pháo”…!!! hoiquanphidung.com/Pictures/UBL4.jpg. Ngày N+21:– Út Bạch Lan…207. (Đại Tá Trần Quốc Lịch LĐT/LĐIIND) – Tôi nghe 207. – Qua bên kia. – Tôi hiểu ngay là qua tần số khẩn cấp đặc biệt của Lữ Đoàn. – Cố giữ cạnh sườn cho Tố Quyên và Minh Hiếu, trễ lắm trong vòng 48 tiếng đồng hồ sẽ có tăng viện thay thế. Lệnh này Minh Hiếu và Tố Quyên cũng biết, nhưng chỉ biết là sẽ có tăng cường lực lượng, nên kế hoạch mạo hiểm xâm nhập cổ thành hủy bỏ. Hai ngày sau tôi được lệnh chuẩn bị bàn giao phòng tuyến cho hai Biệt Đội 81 Biệt Cách Dù, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Phạm Châu Tài. Tại chão lửa Quảng Trị nầy gặp lại những bạn cũ dưới cơn mưa pháo như Đại Úy Dương Thiện Ngộ (BĐ3BCD), Đại Úy Lê Đắc Lực (BĐ4BCD), Đại Úy Nguyễn Sơn (BĐTS/BCD-Biệt Đội Thám Sát) lòng vui mừng trộn lẫn nỗi lo buồn vì đã bỏ lại hằng chục đồng đội chưa mang được xác của họ về cho vợ con gia đình, mà đơn vị đang xác xơ chỉ còn trên dưới 40 người, tinh thần mệt mỏi rã rời sau 21 ngày đêm chống đỡ xa luân chiến với một lực lượng địch quân đông gấp chục lần quân ta…! Sau khi giao lại chiến trường cho BĐ81BCD, đám thiên lôi TS2ND chúng tôi được lệnh rút về phía sau lưng bọc hậu cho TĐ5ND giữ đường tiếp tế tản thương đến sông Nhung, nơi đây chúng tôi gọi là “Bến Đò Đưa Xác”. Vừa rời khỏi phòng tuyến chừng 200 mét thì bị một cơn bảo táp tiếng súng lớn nổ vang rền đạn bay phủ chụp lên TS2ND như một mẽ lưới tử thần, chúng tôi nằm bẹp dí như những ngọn cỏ tại chỗ chịu trận…!!! Tôi hét lên trong máy:”Tố Quyên…Tố Quyên…bảo mấy đứa con của đích thân ngưng bắn ngay, nó đang bắn lên đầu chúng tôi…Tố Quyên…Tố Quyên…”! Hai phút sau. – UBL…check lại xem cho tôi biết ngay. Không có đứa con nào phía sau lưng của tôi nổ súng trong khoảng một giờ trước đây…? Lúc này là ĐĐ54ND đang bảo vệ Bộ Chỉ Huy của Tố Quyên. Hoàn hồn, lấy lại bình tĩnh phán đoán, tôi nhận ra ngay, tiếng nổ là B40,B41 và phòng không 12ly7 của Bắc Quân… Tôi vỡ lẽ và buột miệng:”thôi chết rồi …” TĐ5ND đã bị chặn hậu, đường giây tiếp tế cũng bị bít kín, như vậy TS2ND cũng không còn “đường xưa lối cũ có bóng tre che thôn làng” rồi, bây giờ là là con đường tử địa ! Tôi nghĩ chắc có thể Hổ Xám Phạm Châu Tài 81BCD cũng sẽ bị “gombi” không còn một mống nào thoát được khi bị tấn công cường tập với đại pháo 130ly, Tank T54, 12ly7, cối 82… và bộ binh của Bắc Quân…?! Cả đám chúng tôi tiến không được, thối cũng không xong, chỉ còn sự lựa chọn duy nhất là trực diện xông vào cửa tử để tìm sinh lộ với thân thể tàn tạ sức mòn lực kiệt, “chiến bào” rách bươm tơi tã…nhưng phải đồng thời “cứu chúa phò nguy”, chết vinh còn hơn bị hốt hết rồi sẽ bị sống nhục…! Tôi ra lệnh như hét:” Tất cả bõ Balô xuống, đưa M72 dồn cho Trung Đội 1 (chỉ còn 12 mạng), mỗi người 5 quả M72, kéo nòng, rút chốt an toàn sẵn sàng súng trên vai, nhắm vào căn nhà ngói nền cao phía trước khoảng 50 thước, quỳ dàn hàng ngang chờ lệnh…”. Trung Đội 2 và Trung Đội 3 cũng còn trên dưới 10 mống, cùng với tôi và ban Chỉ Huy Đại Đội, súng cá nhân và lựu đạn sẵn sàng… khi nghe loạt M72 đầu tiên thì phóng như bay khoảng chừng 20 mét rồi nắm bẹp xuống, chờ loạt thứ hai và thứ ba cứ tiếp tục nhào lên cho đến khi đến sát những khung cửa sổ nhà đỗ nát, khi tiếng nổ M72 của Trung Đội 1 chấm dứt tác xạ đợt 4, thì Trung Đội 2 và Trung Đội 3 bắt đầu dùng lựu đạn tung vào trong. Bắc Quân như lũ chuột: chuột cống, chuột chù, chuột nhắt…kinh hoàng tháo thân chạy bung ra ngoài, nón cối rơi rớt vung vãi dưới những họng súng M16 thiện nghệ của Trinh Sát 2 Nhẩy Dù, thây người ngã vật xuống, không một tên nào chạy thoát. Mày là Đặc Công hả? Tao là Trinh Sát Nhẩy Dù đây, mày là “giặc từ ngoài Bắc vô đây bàn tay bắn giết đồng bào” miền Nam, bàn tay đồ tể chúng mầy nhuốm máu anh em cùng dòng máu đỏ, da vàng Việt Nam của mày, thì làm sao tao có thể tha cho mày lúc này được..? Chúng mày chủ trương thà giết lầm còn hơn bỏ sót, còn tao thì chắc chắn không giết lầm cho nên không có cái vụ bỏ sót và lệnh của tao là:” Không để sót một thằng nào chạy thoát trong trận này” mặc dầu tao đã kiệt sức gần như muốn ngã quỵ…! Và chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ đánh xáp lá cà như tia chớp, nhoáng TS2ND đã quét sạch Đại Đội Đặc Công của Sư Đoàn 320B, xác chết quân địch và vũ khí ngỗn ngang chẳng cần thu nhặt dọn dẹp… Tố Quyên mừng lắm gọi tôi:”Thank you UBL…tôi sẽ cho 54 thay chỗ ngay bây giờ, UBL trở về bến đò đưa xác giúp cho tôi cõng thương binh và đem xác anh em “rách áo” về …” ! Ôi,.. đâu rồi “Con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngõ hồn dâng tái tê” em ơi… TS2ND nay còn đâu mái tóc thề, rách bươm tơi tả, te tua sau 21 ngày đêm sống trong bão lửa khốc liệt như trời long đất lỡ, súng nổ vang rền tứ phương, đạn bay lấp loáng vung vãi phủ chụp, cày bung thớ đất và trong nón sắt còn âm vang vọng lại như vỡ bung màng nhĩ, nay trở về như lạc lõng nẻo tâm hồn nào vương theo lối cũ…? Tôi ngồi nhìn dòng nước con sông Nhung hiền hòa cứ lững lờ trôi với tâm tư: Sông và nguồn có bao giờ tịch lặng…? Con nước xuôi dòng chuyển chở bao niềm… Tôi bỗng chạnh thương con sông Nhung vì trong dòng nước phù sa đầy vơi êm trôi kia có pha lẫn máu của Anh Em tử sĩ và thương binh nhỏ xuống hoặc thấm ướt qua làn vải áo trận bê bết đã tơi tã mấy ngày qua …! Nhìn những chiếc bè kết bằng thân chuối, bập dừa thay thuyền chở đưa xác tử sĩ qua sông, bên cạnh tôi còn hằng chục cái Poncho gói kín thân xác anh em chờ tiếp tục qua sông …Chúng tôi vừa khiêng, vừa cõng, vừa dìu dắt những đồng đội bị thương máu me đẫm ướt quần áo trận với tâm tư trĩu nặng, thần trí như con ốc hoang trôi dạt muốn bám vào những gốc cây bần, đám lau sậy hoang ven sông mà tìm nơi trú thân bình yên tạm trong giây phút…! Trong những Poncho đó là binh lính của TS2ND được Biệt Đội Thám Sát 81Biệt Cách Dù của Nguyễn Sơn “săn sóc” gói ghém cẩn thận trao lại cho tôi, còn những thương binh sẽ có “diễm phúc” ngồi chờ trực thăng tải thương có khi Pilot phải cắt giảm Throttle, hạ Collective để cho tàu OA (Overhead Approach) nếu bị 12ly7 đan lưới đạn đón chào và “may mắn” anh em sẽ được bốc về Nguyễn Tri Phương, Huế hay Duy Tân hoặc Đà Nẵng, rồi sau đó về Tổng Y Viện Cộng Hoà…và rồi anh sẽ trở thành “bại tướng cụt chân” tập làm quen với xe lăn, nạng gỗ hoặc mắt không còn thấy ánh sáng của cuộc đời…! Tôi tạm tiếp tục nhiệm vụ làm “tư lệnh” Bến Đò Đưa Xác như thế cho TĐ5ND và BĐ81BCD, đến khi không còn sức lực để khiêng, để cõng xác tử sĩ và thương binh nữa …!!! Tôi yêu cầu Lữ Đoàn tăng phái khẩn cấp cho TS2ND một tiểu đội Quân Y với 50 Poncho và 20 băng ca dã chiến, đồng thời ưu tiên bổ sung quân số. Chúng tôi rất cần những Poncho mới để gói lại những xác lâu ngày đã sình thối, chương phình làm bung rách nát lớp Poncho cũ, băng ca để khiêng những người bị thương nặng đem ra xa khoảng 500 mét, chất lên M113 chở ra Bộ Tư Lệnh SĐND ở Phong Điền. Hai ngày sau được bổ sung thêm 2 Sĩ Quan, 8 Hạ Sĩ Quan và 30 Binh Sĩ được lấy từ Quân Cảnh, Quân Lao, Lao Công Đào Binh, Hồi Chánh Viên tình nguyện trong QLVNCH…thôi thì có còn hơn không ! Trong những giờ phút và ngày tháng ở đây TS2ND chúng tôi bỗng trở thành lao công đào binh khiêng Poncho bọc xác đồng đội TĐ5ND và BĐ81BCD tiếp tục chất lên những chiếc bè kết bằng bập dừa “đưa anh sang sông” mà như dậy sóng ở trong lòng …! Ở Bến Đò Đưa Xác nầy tương đối bình yên, không còn những trận bão lửa, đạn nổ ầm vang tiếng 130 ly, B40, B41, AK47 với tiếng gào thét xung phong đằng đằng sát khí của kẻ thù như năm bảy ngày trước đây…Nhưng lại là những đợt sóng thương tâm dậy lên lao xao đau xót vô cùng khi cõng những đồng đội thân thể đẫm máu đang ngất ngư bơi qua bên kia sông Nhung, và rồi đêm nay, hay ngày mai không biết họ còn sống hay chết…! Chiến tranh mà! Cuộc chiến nào không có máu đổ thịt rơi, không có hủy diệt tàn phá, nhà cửa ruộng vườn mồ mả cha mẹ, ông bà, tổ tiên bị cày sới tung lên rơi rớt xuống từng mảnh vụn huống chi thân xác con người bằng da, bằng thịt sao không nát tan bởi một mảnh đạn sắt thép vô tình xuyên phá . – Út Bạch Lan…207. – Tôi nghe đích thân. – Vào tần số này để liên lạc với TĐ3TQLC. Dĩ nhiên cuộc đàm thoại nào với 207 cũng bằng ám số truyền tin. Như vậy là nguồn tin Thuỷ Quân Lục Chiến sẽ tăng cường cho mặt trận Trí Bửu là có thật. Nhưng không phải tăng cường mà là TQLC sẽ thay thế toàn bộ lực lượng Nhẩy Dù trong nhiệm vụ tái chiếm Cổ Thành Đinh Công Tráng. Trung Tướng Dư Quốc Đống TL/SĐND có lần đã nói với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn I rằng :”…Bảo tôi đánh giặc mà đánh như thế này thì làm sao tôi đánh..” và sau đó trên hệ thống liên lạc siêu tần số cơ hữu của Sư Đoàn Nhẩy Dù, sĩ quan truyền tin Võ Trung Tín đã nghe cuộc điện đàm giữa Trung Tướng Dư Quốc Đống và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng như sau: – Trung Tướng Đống:”Trưởng có thấy không, trước khi tấn công vào mục tiêu, Tổng Thống Thiệu ra lịnh tuyệt đối không cho phá hủy Cổ Thành, đến khi vừa vào được trong thành thì bom dội xuống trên đầu như thế nầy thì đánh giặc cái gì đây? Đánh giặc như thế nầy thì tôi không đánh nữa, Trưởng cứ cho ai vào đánh thì đánh đi”. – Trung Tướng Trưởng:”Thưa Trung Tướng được rồi, để sáng ngày mai tôi bay ra Sally gặp Trung Tướng sẽ bàn định lại”… Phía Đông Bắc của Nhẩy Dù hoàn toàn bỏ ngỏ, đại quân Thuỷ Quân Lục Chiến còn đang mở đường từ Cửa Việt ở xa khoảng gần hai cây số, nếu phòng tuyến của TS2ND tan vỡ thì TĐ5ND cũng vỡ, và theo vết dầu loang xuống phía Nam với TĐ6ND sẽ ảnh hưởng trầm trọng đến các lực lượng vòng đai phía chính Nam của Thành Phố Quảng Trị. Kế hoạch chiếm lại Cổ Thành Đinh Công Tráng như công dã tràng, mặc dù ĐĐ51ND của Đại Úy Trương Đăng Sĩ đã lên được bờ thành, nhưng liệu hai Biệt Đội 81BCD có chịu đựng nổi hay không khi phải tam đầu thọ địch…? Nếu hướng về tường thành là mục tiêu phải đến thì bên trái được “ấm lòng” vì dựa vào TĐ5ND, bên phải bị áp lực nặng nề với quân số chênh lệch như trứng chọi đá, phía sau lưng trống trơn, trong thế gọng kìm đó chỉ có thủ cầm hơi may ra chờ tăng viện, còn công thì bất khả thi chỉ biết ngạo nghễ ca vang “trên đầu súng Bắc Quân, Ta vì tổ quốc phải quên mình”. Hơn ai hết, Tướng Dư Quốc Đống đã thấy và biết điều đó, Ông không muốn những đứa em “đứa con” của Ông bị chết một cách oan uổng để được Tổ Quốc Ghi Ơn vì sự phối hợp hành quân, hợp đồng tác chiến một cách lỏng lẻo sơ hở tắt trách của cấp trên. Do đó mới có lệnh hoán chuyển toàn bộ phía Bắc,phía Đông, phía Tây cho Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến là lực lượng hùng hậu chưa sứt mẻ, quân số mỗi TĐ/TQLC trên dưới 800 người với chiến xa Tank M48 và đặc biệt được ưu thế không yểm trực tiếp cận phòng của Không Lực Hoa Kỳ. Hợp đồng tác chiến dưới quyền chỉ huy duy nhất với 3 Lữ Đoàn gồm có 9Tiểu Đoàn, 3Tiểu Đoàn Pháo Binh, 1 Thiết Đoàn Kỵ Binh…thì Thành Phố Quảng Trị đã nằm trong tay của Tướng Tư Lệnh Bùi Thế Lân rồi…?!!! Sư Đoàn Nhẩy Dù dạt qua hướng Tây Nam Thành Phố Quãng Trị nối vòng tay với Sư Đoàn 1Bộ Binh để giữ tuyến từ La Vang xuống Ba Lòng kéo dài tận phía tây Huế. Lúc nửa đêm về sáng tôi nghe tiếng gọi lạ trên PRC25 tần số Lữ Đoàn: – Út Bạch Lan…909 đây. 909 có một ám danh khác là Chương Thiện,Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh (K16ĐL TĐT/TĐ3TQLC) – Tôi nghe 909. – Thằng con đầu của tôi sẽ gặp UBL khoảng nửa giờ sau, đón nó giùm ? – Nhận 5/5…tôi đang chờ. Thằng con đầu của TĐ3TQLC là “thằng”…Đại Úy Nguyễn Kim Chung (ám danh C18) bạn cùng Khóa 22 Đà Lạt (K22ĐL) với tôi. Ba giờ sáng nó tới gặp tôi dưới ánh đèn pin quét qua quét lại, tôi nói với nó:”Chỗ này của tao, mày lo phối trí cho con cái nghỉ ngơi và đón Tiểu Đoàn rồi sáng nói chuyện”. Tờ mờ sáng ngày hôm sau, ngồi trước căn nhà lá nghiêng ngả đổ nát cạnh bờ sông, phía trước là sân gạch phơi lúa với Poncho sắp thứ tự (get line) để chờ chuyển về đi phép miên viễn nơi cõi vĩnh hằng, chung quanh đâu đó bên hiên nhà, dưới gốc cây lố nhố những “cây” bông băng trắng xóa, kẻ ngồi,người nằm, vài ba “ông thần” còn tỉnh táo lần mò trong ba lô lôi ra Beret đội lên đầu, mũ đỏ Nhẩy Dù, mũ xanh lá cây Biệt Đội 81Biệt Cách Dù chen lẫn nhau trong đám mũ xanh dương Thuỷ Quân Lục Chiến vừa mới tới còn khoẻ mạnh pha cà phê, mồi thuốc lá cho hai màu mũ thương binh đang nằm ngồi la liệt…! Định mệnh cũng có những trò chơi oái oăm lạ kỳ đun đẩy tôi vào hoàn cảnh cười không ra cười, khóc không ra khóc, tôi đang làm “giám đốc” bệnh viện dã chiến kiêm luôn “giám đốc” nhà xác mà thân chủ của tôi lại là gốc gác, cội rễ xuất thân binh nghiệp của tôi “một đời binh nghiệp hai màu mũ” 81BCD và ND…!!! Với ba ca cà phê dã chiến, Thiếu Tá Cảnh mắt đang dán chặt vào phóng đồ hành quân,thằng Chung cất tiếng hỏi tôi: – Trời ơi,…sao mày vầy nè Út…”?! – Vầy nè là vầy làm sao…? Mặt tôi râu ria xồm soàm, mắt sâu má hóp, quần áo rách bươm bê bết loang lỗ đầy vết máu sậm mầu khô, tươi còn bốc mùi ngay ngáy tanh hôi trong cơn gió nóng nhẹ thổi qua, thần khí tiêu tan, oai phong rũ liệt, chẳng có còn gì để nói, để cười, người về từ cõi chết, bây giờ đang sống ở địa ngục trần gian, chỉ cần định mệnh run rủi một quả đạn 130ly trúng ngay chỗ ngồi thì Thiên Thần Nhẩy Dù hay Lính Nhẩy Dù ngã xuống có mặt đất hướng dẫn đường lên Thiên Thai ngay…Viễn du trên thiên đường để đầu thai kiếp khác…?! Thằng Chung bật cười, cái cười đầy tự tin, nhưng có chút méo mó vì nó biết rồi chính “đương sự” sẽ cũng đi vào “con đường xưa em đi” của tôi đã đi qua, làm sao nhớ và có lối về không…? Nó tiếp tục hỏi nữa: – Tao nghe nói mày bị thương nặng, rồi bây giờ mày có sao không…?! – Có sao thì tao đâu có ngồi đây để đón mày, hay không bằng hên, đạn tránh tao chứ tao tài cán gì như Đoàn Dự mà lăng ba vi bộ để tránh được đạn chứ …? Nhưng đau ở chỗ đạn tránh tao để sơi tái thằng đứng bên cạnh mới buồn xót xa chứ…! Thiếu Tá Cảnh hỏi tôi: – Út cho tôi biết sơ sơ tình hình trong đó ra sao? Tôi nhận lệnh vào thay thế TĐ5ND và hai biệt đội 81BCD…? – Thưa Thiếu Tá…chua và cay và cam go lắm… ! Vì phía Bắc trống trơn, nên cứ lo sợ nó chơi xả láng một cú là mình mặc quần xà lỏn sáng về sớm…!!! Thiếu Tá Cảnh bật cười: – Tôi cũng chịu thua và sợ ông luôn, trạng huống này mà ông còn “tếu ngạo giang hồ” được…!!! Nhưng cứ yên tâm vì chúng tôi sẽ vào đó với thế liên hoàn của 3 Lữ Đoàn (LĐ147TQLC, LĐ369TQLC, LĐ258TQLC) cùng giờ phát xuất, Đông, Bắc và dần qua Tây, phía Tây thì nhẹ hơn vì có sông Thạch Hãn làm rào cản, chỉ có lo pháo từ Ái Tử thôi, còn cua (TankT54) của chúng nó, chúng tôi rang muối cũng khá nhiều rồi trên đường đổ bộ từ bờ biển đến đây. Thôi,… 9 giờ chúng tôi bắt đầu qua sông…để tôi gọi ngay cho Tố Quyên, chắc hắn mừng lắm. TS2ND chúng tôi được lệnh di chuyển về làng Vân Xá cách Huế 10 cấy số, hai ngày sau được lệnh ra phi trường Phú Bài để lên C130 bay về hậu cứ SàiGòn nghỉ phép xả trại 100% 15 ngày, để đi hớt tóc cạo râu, thay quần áo mới, tẩm bổ với những thang thuốc “hoàn hồn linh dược”, viếng mộ, thăm thương binh, cô nhi quả phụ… Trong khi chờ máy bay ở phi trường Phú Bài thì tôi thấy “thằng” Nguyễn Kim Chung mặt mũi băng trắng kín mít với đôi mắt còn tinh ranh. Chỉ mới hai ngày trước “tôi đưa em sang sông bằng Poncho hay bập dừa” mà bây giờ nó lại lội qua sông ở “Bến Đò Đưa Xác” theo tôi ra đây cùng về và ôi …” Anh về thủ đô gò má anh băng đầy bông” ở phiá gò má bên trái của nó ăn một viên “kẹo” AK47 làm thủng “dớt” cái quai hàm máu còn thấm ướt qua lớp band gaz quấn quanh. Tôi đùa lập lại câu hỏi mà nó hỏi tôi hai ngày trước đây khi “hội ngộ” ở Bến Đò Đưa Xác: – Trời ơi sao mày vầy nè Chung…? – Vầy nè là vầy làm sao …? Mẹ…tại tao không chịu luyện nội công lăng ba vi bộ như mầy, nên bị thằng Mộ Dung Phục nó chơi một phát vào mặt, may là không bị mất mặt chỉ bể má thôi…!!! Tôi và nó là hai thằng bạn thân cùng Khoá 22 Võ Bị Đà Lạt ôm nhau lăn ra đất cười ngặt nghẽo, méo mó bên cạnh một đám thương binh bốn màu mũ: Đỏ, Nâu, Xanh Lá Cây, Xanh Dương …!!! Sách Giáo Khoa Thư Tiểu Học: “thân thể người ta chia ra làm ba phần, đầu, mình và chân tay “…thì quan quân chúng tôi tay chân, đầu ngực băng bông trắng xóa, máu tươi thấm ướt “chiến bào” bao nhiêu ngày không được tắm rữa giặt giũ mùi “hương” máu còn thoang thoảng “riêng một góc trời”…!!! Nhưng ở đây nơi bình yên, tôi thấy trong ánh mắt của họ như không còn lưu lại một chút gì dù chỉ mõng mõng một tí thôi nét kinh hoàng lửa khói “thời qua” để “làm tan nát lòng nhau”, thay vào đó là niềm vui hân hoan “hôm nay đây còn vui trông thấy nhau” và rạng ngời lên một thứ tình cảm đồng đội chiến trường đã cùng vào sanh ra tử trong suốt một tháng trời lửa đạn vừa qua…!!! Họ vẫn còn sống và sắp sum họp với gia đình một thời gian dù dài hay ngắn để không còn nghe những tiếng gào thét tử thần của bom đạn, lửa khói bất chợt phủ chụp lên đầu và nín thở lắng nghe, chong mắt trong đêm đen dõi theo những tràng đại pháo của Bắc Quân cày sới mặt đất, hất tung những bạn đồng đội lên cao, rớt xuống rồi nằm im bất động. Họ sẽ hưởng được những ngày dưỡng thương, nghỉ phép trong an bình với gia đình vợ con… !!! Tôi chợt nghĩ đến những cán binh Bắc Quân “sinh Bắc tử Nam” tuổi đời còn non dại, bị bắt buộc hay bị khích động bởi những giáo điều láo lếu của Mao – Hồ rồi bị đưa đẩy vào chiến trường khốc liệt miền Nam như con thiêu thân lao vào ánh đèn sáng nóng 1000 watt, để rồi ngã gục, thịt nát, xương tan trên con đường đi không đến và chẳng có nẻo về…! Họ có cùng máu đỏ như tôi, da vàng mũi tẹt, cùng Lịch Sử một Mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc trăm con nên gọi nhau là “Đồng Bào”, cùng sinh trưởng trên mảnh giang sơn hình cong chữ S này… rồi truy tìm bắn giết lẫn nhau có gì vui làm hạnh phúc…? Đơn vị về đến hậu cứ, tôi giao hết cho Trung Úy Tài chỉ huy hậu cứ lo hết mọi thủ tục như sau mỗi cuộc hành quân, tôi vội vã ký giấy phép cho tất cả quân nhân trong đơn vị ngoại trừ nhân viên hậu cứ, nói với Hạ Sĩ Quan kế toán và tiếp liệu xoay sở tiền nong ứng trước cho mỗi người 10 ngàn để làm lộ phí về thăm gia đình, thăm cô nhi quả phụ rồi chờ tôi trở về cùng nhau ra Nghĩa Trang Quân Đội viếng mộ Tử Sĩ, thắp nén nhang cầu siêu hương linh quí Anh – Em là Hồn Thiêng Sông Núi hiển linh và siêu linh nơi cõi an lạc hạnh phúc…!!! Máu đã từ chối không chảy về tim nữa Thì thôi anh tìm một chỗ để yên nằm (The soldiers never die, they just fade away) Sau 15 ngày phép qua đi như một cơn gió thoảng, bây giờ nào là vợ con, thân nhân, bằng hữu…quyến luyến giữ chân muốn không rời xa ! Một ngày đêm trong vùng địch dài như bách nhật, 15 ngày phép với thân tình ngắn ngủi như chạy nước rút 100 mét ở thao trường. Trở ra vùng hành quân, TS2ND được lệnh tăng phái cho LĐIND làm lá bùa trấn yểm Thôn Như Lệ Tích Tường với TĐ1ND, sau đó tăng cường cho TĐ8ND lên Động Ông Đô, Đồi Gió Hú, tương đối dễ thở hơn Trí Bửu, Hạnh Hoa Thôn, bởi lẽ tất cả nỗ lực của hai bên đều dồn vào Quãng Trị để rút lá bài cuối cùng trên cái bàn thương thuyết bốn bên hình ôn hoàng hột vịt lộn ở Paris ! Đầu tháng 9 năm 1972 TQLC đã kiểm soát hoàn toàn thị xã Quãng Trị, chỉ còn cái nhân bánh chưng Cổ Thành ngày giờ cắm cờ đếm trên đầu ngón tay, Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC có thể khui sâm banh ăn mừng được rồi. Ngày 16 tháng 9 năm 1972: “cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…cờ bay…” do Đại Úy Giang Văn Nhân (K22VBĐL) thuộc TĐ3TQLC cắm trên một điểm cao nhất trong nội vi Cổ Thành, điểm cao nhất trên một đống gạch vụn, bởi thành phố giờ thành bình địa, không còn một ngọn cây, một nóc nhà nào nguyên vẹn, từ Trí Bửu có thể nhìn thấy dòng sông Thạch Hãn không cần phải leo lên cao, và từ Hạnh Hoa Thôn có thể thấy tháp chuông nhà thờ La Vang khi đi bộ trên đường Duy Tân vừa chiếm lại đêm qua bằng Máu! Máu của ai? Máu của cả hai bên Nam Quân và Bắc Quân, máu vương vãi khắp thôn làng thị trấn, ai có thể lấy thước đo bề dầy của máu đã đổ xuống thấm vào từng thớ đất quê hương à …ơi…”quê tôi nghèo lắm ai ơi, mùa Đông thiếu áo Hè thời thiếu ăn” này…! Để những lãnh tụ, lãnh đạo ngồi ở phủ, ở huyện và cả cái mảnh giấy “lộn” khốn nạn gọi là “Hiệp Định Paris” tháng giêng 1973 chỉ là thành quả, hệ quả đẩy đưa dìm chết toàn thể Quân – Dân miền Nam vào địa ngục dưới bàn tay cai trị ngu xuẩn và trả thù tàn bạo của tập đoàn Cộng Sản Bắc Việt và đây là lời nói uẩn lương của cố Tổng Thống Ronald W. Reagan Mỹ Quốc:”Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho hòa bình là ngàn năm đen tối cho các thế hệ sinh tại Việt Nam về sau”. Trước khi TQLC vẻ vang dựng lên lá cờ vàng ba sọc đỏ, thì ai đã trãi bao nhiêu xương máu lót đường…? đã có biết bao nhiêu thân xác Quân Dân Cán Chính vùng địa đầu giới tuyến ngã xuống chôn bờ, lấp bụi, lớp nhựa đường “Đại Lộ Kinh Hoàng” đã được phủ thêm độ dầy bằng lớp da thịt mỡ người chết phân huỷ dính khằn hong dưới trời nắng quái và mùa gió khô hóc quắc queo thổi qua, đâu đấy còn lặt lìa tử thi quân nhân vương vít đong đưa vạt áo trận trên quân xa hư hỏng vì đạn đạo pháo Bắc Quân…!!! Ôi,… tang thương ngất trời và tôi biết chắc chắn trong niềm hân hoan đại quân Thuỷ Quân Lục Chiến kéo vào Quãng Trị chiến đấu đem chiến thắng về cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã có Máu của chính đồng đội Thuỷ Quân Lục Chiến, Nhẩy Dù, Biệt Cách Dù, Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Không Quân, Hải Quân, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ, Cảnh Sát, An Ninh và cả quân xâm lăng Bắc Việt đã đỗ xuống thấm sâu vào lòng Đất Nước Việt thân yêu làm nên mầu mỡ cho mai hậu chăng ?. Chỉ có máu mồ hôi và nước mắt Nhỏ xuống thấm lòng đất tổ quê cha Tôi và Anh ai bảo vệ sơn hà ? Ai hại nước, lừa ai mà vẽ mặt …? Chiến thắng hay chiến bại đều phải trả một cái giá của nó. Sau Kontum Kiêu Hùng, Bình Long Anh Dũng, Quảng Trị Vùng lên…không biết các vị Tướng Tư Lệnh “khạc ra lửa, mữa ra khói”có ngồi độc ẩm Bồ Đào Mỹ Tửu Dạ Quang Bôi để nhớ câu “Cổ Lai Chinh Chiến Kỷ Nhân Hồi” ? Sau năm 1975, không biết các Tướng hai sao, ba sao và ba xạo của Bắc Quân vốn trở thành quán tính quen ngồi xổm ở cánh đồng Nông Cống ngập nước, hay khệnh khạng vung vít thế tiểu nhân đắc chí tự cười vang hô hố để quên câu:”Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt Khô”…?! Vì theo tài liệu đã được phổ biến từ những xung đột nội bộ lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam phía “Bên Thắng Cuộc” đã tiết lộ: Chính Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã cho Tướng Văn Tiến Dũng lên thay Tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy Chiến Dịch Xuân Hè 1972 vì chính Võ Nguyên Giáp đã khuyến cáo Chính Trị Bộ không nên tiến đánh Nam Việt Nam vào năm 1972 vì Quân Lực Miền Nam rất mạnh. Đúng như Giáp đã nhận định và kêu than sau thất bại Chiến Dịch Hè Xuân 1972 rẳng:” hơn 10 000 (mười ngàn) bộ đội ta đã bị chết ở Mặt Trận Trị Thiên không có được mấy ai trở về …”! Đêm đã khuya, người người an giấc, còn ta Viết như nhắn gởi với mười phương bằng hữu Huynh Đệ Chi Binh thân tình rằng ta nhớ lắm và mơ một ngày về…? Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi Các anh đi, đến bao giờ trở lại Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông Các anh về, mái ấm nhà êm Câu hát tiếng cười rộn ràng trong xóm nhỏ Các anh về, tưng bừng trước ngõ Xóm làng tôi còn nhớ mãi Hỡi đoàn người trai trẻ đấu tranh Các anh đi, đến bao giờ trở lại Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông… (Các Anh Đi – Văn Phụng) Nhưng cuộc chiến nầy vẫn chưa kết thúc ! Chúng ta, những người bị gọi là chiến bại vẫn còn cơ hội để giành lại đất nước. Thua một trận chiến (a battle) không có nghĩa là thua một cuộc chiến (a war). Điều kiện tiên quyết để thắng kẻ thù Cộng Sản Bắc Việt là chúng ta phải có quyết tâm tranh đấu và học hỏi, để tích cực tham gia thực hành. Quyết tâm sống và bảo vệ những điều mình yêu, tin và lý tưởng. Phải thắng chính bản thân trước khi thắng kẻ thù. Phương thức để chiến thắng Cộng Sản là: Chúng Ta không được hèn ngu, tất là phải có sự hiểu biết tròn đầy viên mãn về mọi mặt, phải có hệ thống tư tưởng làm căn bản cho sự nhận định, thông suốt đại biện chứng thế giới,phải có ý thức hệ, chủ thuyết giải quyết được vấn đề một cách triệt để, toàn diện và hướng thượng. Không được hèn, tất phải có lòng can đảm hơn người, đại đởm, không quản ngại gian nan khổ cực, quyết tâm là dám chết để tìm đường sống (kinh nghiệm trong trận chiến Quãng Trị). Nhưng không phải là liều lĩnh, vọng động quờ quạng, lấy sự can đảm mà thi hành theo sách lược bỡi hiểu biết Chu Tri cao hơn và đẹp hơn phù hợp với Nhân Bản, phát huy được Nhân Tính để đạt tới mức Nhân Chủ như một lý tưởng vươn tới tất yếu của loài Người. Chúng tôi tin rằng trước thời thế nầy, hầu hết người Dân Việt chúng ta ở trong cũng như định cư ở các quốc gia Tự Do – Dân Chủ trên thế giới trong đáy lòng ưu tư đến Dân Tộc – Đất Nước đều có cảm giác sâu sắc là chúng ta cần phải mạnh dạn hành động quyết liệt để đánh đỗ, tháo cởi gông cùm, xích xiềng do đảng Cộng Sản ngu dốt, tàn hại áp đặt cho Dân Ta ? Nhẩy Dù cố gắng . . Mũ Đỏ Trương Văn Út (Útbạchlan): Viết và tham khảo với cựu Trung Tá Bùi Quyền (Tố Quyên) Thủ Khoa Khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù hiện đang cư ngụ tại San Jose, California USA. Houston Ngày 28 Tháng 2 Năm 2016
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 3, 2019 16:54:58 GMT 9
Dak-Tô và Em Vương Mộng Long
Hôm sau, 29 tháng Năm, chúng tôi đổ dốc về hướng tây bắc. Chúng tôi di chuyển trong một địa thế tối nguy hiểm, hai bên là núi cao vách đứng, rừng rậm, tầm quan sát thật là hạn chế. Trưa hôm đó, hai tiểu đoàn BĐQ chui vào một khu rừng rậm rạp nằm về hướng tây bắc cao điểm 785. Tới chiều thì địch phát giác đoàn quân đang di chuyển, chúng chuyển quân bôn tập. Nơi ngã ba một con đường mòn chúng tôi bị địch chận đánh dữ dội. Phi pháo hoàn toàn bất lực vì mây mù, rừng rậm, cây cao.
Tôi nỗ lực đánh bật một gọng kìm của địch bên cánh phải. Đại đội 1/11 thoát ra ngoài vòng vây. Sau khi chiếm được một ngọn đồi nhỏ, tôi cho quân bố trí chờ quân bạn. Phía sau lưng tôi thật là hỗn loạn, súng nổ như pháo ran. Chúng tôi mất liên lạc với bộ chỉ huy tiểu đoàn trong thời gian hơn một tiếng đồng hồ. Tới khi tái liên lạc được với ông tiểu đoàn trưởng, tôi dẫn quân đánh ngược trở lại. Sau nửa giờ liều mạng, đánh vùi, tôi mới đẩy lui được lực lượng bao vây của địch quân. Tôi bắt tay được cánh quân của Đại úy Đàm vào lúc xế chiều.
Trong cuộc hỗn chiến vừa qua, Trung úy Khuê khúc Khanh đại đội trưởng đại đội 2/11 và Thiếu úy Trần dân Chủ xử lý thường vụ đại đội 4/11 đã bị thương nặng. Đại đội tôi thiệt hại khoảng mười người chết, và gần chục người khác bị thương.Tình hình tạm yên, tôi cho lệnh chôn cất những anh em vừa tử trận ngay trên ngọn đồi chúng tôi đang chiếm ngự.
Đêm 29 tháng Năm, trên vị trí tạm dừng quân, tôi lại đem hai cái ảnh ra, viết sau bức hình thứ nhứt,
"Dak-Tô, Tân-Cảnh 29/5. Mặt trận thật khốc liệt. Đại đội tôi chết và bị thương hết một nửa rồi. 9 giờ đêm, địch pháo kích dài dài. Đơn vị tôi đã bị bao vây, mười phần chỉ còn hy vọng có 1 phần thoát được.Tôi đem ảnh Loan ra ngắm. Lạy trời! Ngày mai sáng sủa hơn. Tôi yêu Loan vô cùng. Loan hiền lành và đôn hậu. Tôi phải vượt được trận này để về gặp vợ tôi. Vợ tôi, Loan yêu quý của tôi."
Thật là lạ lùng! Tôi chưa nói với cô ấy một lời nào, mà sao tôi có cảm tưởng như cô ấy đã là một phần của cuộc đời mình, như cô ấy đã là vợ mình, từ lâu lắm rồi. Cô ấy như một cái đích khiến tôi phải phấn đấu, để sống còn, để trở về. Mỗi khi nghĩ tới cô ấy, tôi lại thấy lên tinh thần. Trong tình thế này, tôi như con thuyền trong bão tố. Loan như ngọn hải đăng. Loan trở thành ánh lửa hi vọng, dẫn lối đưa đường cho tôi vượt qua hiểm nghèo.
Khi sương mù chưa tan, tôi kiểm điểm lại quân số, an ủi những người bị thương, tác động tinh thần thuộc cấp, rồi chuẩn bị lên đường,
"Dak-Tô, Tân-Cảnh 30/5. Sáng ra thấy một ngày thê thảm nữa. Anh em bị thương quá nhiều. Anh mang ảnh Loan ra ngắm, để tìm những hi vọng mong manh. Anh vẫn còn tin tưởng, có thể mở đường máu mà ra. Anh phải ra được để về với Loan, Loan yêu của anh. Những giờ phút đau khổ và tuyệt vọng nhất là những lúc anh yêu Loan nhất. Loan ơi! Loan!"
Vì số quân nhân bị thương rất đông, nên tôi được lệnh tránh né giao tranh. Trưa 30 tháng Năm, chúng tôi lại chạm địch. Dưới chân ngọn đồi không tên, có cao độ 700 mét, trận đánh đã kéo dài tới năm giờ chiều. Trong tình huống này, hai Tiểu đoàn Biệt Động Quân đã bị tách ra hai hướng khác nhau. Toán cố vấn Hoa-Kỳ của Tiểu đoàn 23/BĐQ không theo kịp đơn vị, nên họ nhập chung vào toán cố vấn của Tiểu đoàn 11/BĐQ. Cánh quân của TĐ11/BĐQ từ giờ này có sáu cố vấn. Vì sợ bị sa lầy trong vòng vây, chúng tôi đã xin pháo binh bắn liên tục để tạo một hàng rào chắn, rồi rút sang khu rừng bên hướng đông, ém quân chờ đêm xuống.
Tối 30 tháng Năm, chúng tôi lặng lẽ rời vị trí. Đường đi thật là chật vật, gian nan. Chúng tôi đi qua hai vị trí đóng quân cấp tiểu đoàn của địch, những vị trí này có cần anten cao, dây điện thoại, và nhà bếp với những cái chảo nấu ăn rất lớn.
Lúc chúng tôi vượt qua một con suối sâu thì cánh quân của đại úy tiểu đoàn trưởng bị lính gác của Cộng-Sản phát giác. Ông tiểu đoàn trưởng bị một tên giặc nắm tay hỏi mật khẩu, ông ta bèn dùng giọng Bắc Kỳ trả lời, "Bạn đây mà! Buông tôi ra!" Nhờ có bóng đêm che chở và giọng nói miền Bắc, ông tiểu đoàn trưởng thoát hiểm.
Đến khi toán quân đoạn hậu và đoàn tải thương tới bờ suối thì địch nổ súng. Đại đội tôi được lệnh dừng lại yểm trợ cho bộ chỉ huy tiểu đoàn và các đại đội bạn vượt lên phía trước. Địch không truy kích, nhưng trong tình thế này, ông tiểu đoàn trưởng không dám cho đơn vị quay lại cứu những quân nhân bị thương còn kẹt lại bên kia bờ. Một số thương binh, trong đó có hai ông đại đội trưởng đại đội 2/11 và 4/11 coi như mất tích kể từ giờ phút đó.
Rạng sáng ngày 31 tháng Năm, tôi rơi vào vị trí trú quân cấp đại đội của địch. Địch còn ngủ. Tôi ngửi được mùi khói do bùi nhùi chống muỗi của địch bốc lên từ các hầm hố cá nhân. Vì trời đã sáng rồi, thế chẳng đặng đừng, chúng tôi bắt buộc phải xung phong. Lựu đạn nổ ầm ầm. Tất cả các hầm hố địch đều bung lên vì lựu đạn. Chỉ có vài tên địch sống sót, bỏ súng, chạy thoát thân. Chúng tôi nhanh chóng thiết lập công sự phòng thủ, vì các đơn vị địch quanh vùng đang bắn báo động và bắt đầu chuyển dịch chặn đường tiến của chúng tôi.
"Xè!... Xè!... Oành!" Trái đạn súng cối đã rơi sát bên chân, khi tôi đang đi quanh vòng đai để đốc thúc anh em đào hầm hố. Một mảnh 82 ly cắm phập vào lưng bên vai trái, xô tôi về phía trước. Tôi thấy tay chân rũ liệt, mắt hoa, đầu óc tối xầm. Toàn thân tôi chợt nặng như chì. Tôi gục xuống như con chim bị ná. Y tá Đào lăn xả tới bên. Anh nhanh tay cởi cái áo "Sô" của tôi ra. Anh cắt bỏ phần trên chiếc áo trận tôi đang mặc để dễ bề băng bó vết thương cho tôi. Hạ sĩ Nguyễn phượng Hoàng và Hạ sĩ Phạm công Cường đặt tôi ngồi trong một hố cá nhân. Pháo địch tăng nhịp tới tấp. Mỗi lúc đạn bay "xè! xè!" tới gần, hai người đàn em này lại nằm đè lên miệng hố, dùng thân mình che chắn đạn, bảo vệ cấp chỉ huy của họ. Cái tình thày trò, huynh đệ chi binh ấy thật là cao quý, biết lấy gì so sánh nổi? Sau đó chừng nửa giờ, địch phát động đợt xung phong mở đầu cho một ngày kịch chiến. Hướng đại đội 4 và bộ chỉ huy tiểu đoàn bị đánh rất dữ dội. Mỗi khi địch tạm ngưng tấn công thì pháo cối của địch lại tái hoạt động. Cứ thế tình trạng tái diễn liên tục từ sáng cho tới xế chiều. Cũng may, hôm ấy trời quang mây tạnh, không quân Mỹ đã yểm trợ tiếp cận rất chính xác và hiệu quả, chặn đứng mọi đợt biển người của Cộng Quân.
Tôi bị lên cơn sốt cao. Chú Đào chích cho tôi 1 triệu đơn vị Pénicillin để phòng ngừa uốn ván. Sau đó chú Đào dùng băng cá nhân cột chặt tay trái tôi vào với thân mình, để cho tôi bớt cảm giác đau đớn. Chú Cường nấu vội cho tôi một ly cà phê. Tôi để cái bản đồ trước mặt. Vừa uống cà phê, tôi vừa nhìn cái ảnh của Loan. Lúc này, trong trí óc tôi hiện ra hình ảnh hai người đàn bà, mẹ tôi và Loan. Tay tôi cầm bút, và lòng tôi chùng hẳn xuống,
Tấn công "31/5 Tôi bị thương nặng rồi, thế là hết hy vọng em ơi! Loan ơi!"
Rồi những dòng chữ nhảy múa trước mắt tôi. Có lẽ vì đói bụng và vì mất quá nhiều máu, tôi ngất đi. Tôi ngất đi, rồi tỉnh lại, vài ba lần. Tới khi gunship yểm trợ cận phòng, y tá Đào mới dám bò sang để chích thêm một mũi Vitamin C cho tôi. Vết thương bắt đầu hành. Tôi run lập cập vì lên cơn sốt.
Tới năm giờ chiều, đại úy tiểu đoàn trưởng gọi tôi lên máy. Anh nói rằng sẽ cho y tá xuống khiêng tôi và đại đội tôi sẽ mở đường máu rút trước để bộ chỉ huy tiểu đoàn theo sau. Tôi từ chối đề nghị này. Tôi nói với anh rằng tôi tình nguyện đánh cản cho các đại đội bạn và bộ chỉ huy thoát chạy. Còn đơn vị tôi, tôi sẽ có kế sách sau. Khoảng mười phút sau, Đại úy Đàm và Đại úy Lạn bò sang vị trí đại đội 1/11. Hai người dơ tay chào tôi, mắt hai anh đỏ ngầu, lệ lăn trên má,
- "Vĩnh biệt Long nhé!"
Tôi ra lệnh cho đơn vị mình đồng loạt tác xạ yểm trợ cho các đại đội bạn tháo chạy. Khi quân bạn không còn trên vị trí, tôi mới chuẩn bị cho đại đội mở đường máu.
Sức tôi đã yếu lắm rồi. Tôi không thể tự di chuyển được. Trong tình trạng này, nếu thuộc cấp mang cáng tôi theo, tôi sẽ là gánh nặng cho họ. Hiện thời tôi còn một tay phải có thể xử dụng. Với ba khẩu M16 xếp trên miệng hố cùng gần hai chục băng đạn tôi có thể bắn cầm chừng trong mười phút để đồng đội rút đi.
Tôi ra lệnh cho chú Cường bò về phía trung đội súng nặng mời Thượng sĩ Thống, thường vụ đại đội lên gặp tôi ngay.
Đạn địch nổ như bắp rang, vậy mà người hạ sĩ quan già vẫn, bước xổng lưng, không chịu bò,
- Trung úy có bớt đau không? Hai cây đại liên hết đạn. Thằng Ngẫu (trưởng khẩu cối) cũng bị thương rồi. Hướng trung đội chỉ huy địch bắn rát quá, chắc tụi nó sắp xung phong. Tôi không bỏ tuyến lâu được đâu. Không có người chỉ huy, sợ vỡ tuyến mất. Trung úy có lệnh gì cho tôi vậy?
- Ông Đàm và ông Lạn chạy rồi. Bây giờ tôi ra lệnh cho ông hướng dẫn trung đội 2 và ban chỉ huy đại đội mở đường máu. Thượng sĩ Ngọ trung đội 1 và Thượng sĩ Lược trung đội 3 sẽ tiếp theo sau khẩu cối. Tôi bị thương nặng, không đi nổi. Tôi không muốn anh em chết lây vì tôi. Tôi sẽ ở lại, bắn yểm trợ cho ông và anh em rút đi. Làm ngay! Mau đi!
Thượng sĩ Thống chụp lấy cánh tay tôi, ông la lớn,
- Ủa! Trung úy điên hả? Trung úy ra lệnh cho tôi bỏ cấp chỉ huy mà chạy hả? Trung úy khinh tôi vừa thôi chứ! Trung úy nhớ lại đi! Ngày trung úy xuất viện trở về đại đội 1, tôi đang giữ chức thường vụ tiểu đoàn cho Đại úy Đàm. Tôi đã xin về làm thường vụ đại đội cho trung úy. Chỉ vì tôi quý mến trung úy. Mình đã sống cùng sống, chết cùng chết, bao lâu rồi! Vậy mà gặp lúc hiểm nghèo, trung úy ra lệnh cho tôi rút lui, để trung úy ở lại... Trung úy coi rẻ tôi! Trung úy nỡ lòng nào đối xử với tôi như thế? Đau khổ quá đi! Trung úy ơi!... hu... hu.. hu...
Ông thường vụ già khóc rống lên. Tôi cảm động, dơ tay bịt mồm ông ta lại,
- Rồi! Tôi hiểu rồi! Được rồi! Ông ở lại với tôi! Chúng mình bắn cản đường cho anh em chạy.
Thượng sĩ Thống nắm chặt tay tôi rồi la lớn,
- Tao với trung úy sẽ bắn cản cho tụi mày, đứa nào muốn chạy thì chạy về hướng triền đồi bên trái! Nhanh lên! Nhanh lên!
Tôi thấy từ tuyến phòng thủ bên trái, Thượng sĩ Ngọ và vài người nữa ôm súng đâm bổ xuống đồi. Một anh cố vấn Mỹ phóng theo những người này, miệng anh ta lảm nhảm như đang cơn mê sảng,
- My Lieutenant! My Lieutenant!
Hình như anh ta đã phát điên? Có lẽ người chỉ huy của anh ta đã chết hay thất lạc đâu rồi. Dưới chân đồi, hướng toán quân vừa rút chạy, từng tràng RPD nổ ròn. Tôi không rõ số phận anh lính Mỹ và Thượng sĩ Ngọ ra sao.
Mặc dù Thượng sĩ Thống đã hai, ba lần lớn tiếng ra lệnh cho đại đội rút chạy, nhưng tôi thấy không còn ai muốn rời vị trí nữa. Tôi kêu những quân nhân còn lại của trung đội 1 di chuyển sang lấp chỗ trống của những người chết nơi trung đội chỉ huy.
Súng lớn, súng nhỏ lại rền vang. Những quả lựu đạn chày tới tấp rơi trên vị trí của đại đội 1/11 cùng tiếng quân reo. Hình như bọn địch đang tiến lên thuộc sắc dân thiểu số Tày, Nùng, thượng du Bắc Việt, "Xung phóng xưởng! Xung phóng xưởng! Giết! Giết! Giết!..."
Nhiều tiếng thét đồng loạt, rợn người,
- "Xung phóng xưởng! Xung phóng xưởng! Giết! Giết! Giết!..."
Tiếng thét nghe thật lạ tai, thật man rợ. Nhưng những quân nhân Biệt Động Quân còn trụ lại trên ngọn đồi này vẫn kiên trì, không nao núng.
Chú Hoàng và chú Cường núp sau cái thân cây nằm ngã ngang ngay trước miệng hố cá nhân của tôi. Hai tay súng dày dạn này cứ từ tốn, đốn từng tên địch xuất hiện trong tầm ngắm.
Năm sáu quả lựu đạn chày bay tới, chạm thân cây gỗ, tưng lên, rơi ngược trở lại. Chừng một phút sau là những ánh lửa chớp nhóa, cùng với tiếng "Oành! Oành!..." rào rào, mưa đất đá. Khói đen bốc cao. Tôi cảnh cáo hai đứa đàn em,
- Coi chừng tụi nó nhào tới đó nghe Hoàng, Cường!
Thình lình một cái nón cối nhô lên, đối diện ngay mặt tôi, bên kia thân súc gỗ. Thấy tôi ngồi dưới hố nhìn lên, có lẽ tên lính Bắc-Việt giật mình, quay đầu tránh họng M16 đang chĩa ngay mặt nó. Tôi bóp cò. Một thân người cao lớn bật lên. Tên Bắc quân ngã ngửa, vắt người trên thân cây gỗ, đầu chổng ngược xuống đất, cái nón cối treo tòn ten ngay cổ. Hố cá nhân của tôi nằm sau cây gỗ, nên mặt tôi bất ngờ đối diện với một cái mặt nát bét, máu me, với đôi mắt lòi tròng nhìn tôi trân trân. Máu từ cái đầu vỡ phun xuống cái nón cối, rồi từ đó đổ xuống ngực tôi. Máu nóng tưới ướt hết phần trên ngực áo tôi. Cái băng cột tay trái tôi với người tôi trở thành mầu đỏ. Chú Hoàng vội nhoài người đẩy cái thây ma đó về hướng bên kia thân cây gỗ súc.
Hai đợt biển người của địch bị đẩy lui. Đợt thứ ba mở đầu với hàng loạt pháo 82 ly tập trung. Cối địch nhiều không biết cơ man nào mà kể, từ tứ phương, tám hướng, nã đạn xuống đầu chúng tôi. Cối vừa dứt, tiếng xung phong đã ở sát chân đồi. Trên tuyến phòng thủ bên phải tôi, khói M 26 và khói thủ pháo đen kịt, mù mịt. Nhiều bóng người chạy qua, chạy lại, lên, xuống.
Hướng bên trái, là nơi trung đội 1 của Thượng sĩ Ngọ đã bỏ trống, súng cũng nổ loạn xạ. Rồi xảy ra các cuộc vật lộn, tiếng "Huỳnh huỵch!... Huỳnh huỵch!" lẫn với tiếng la hét. Thì ra hai cánh quân của địch, từ hai hướng khác nhau, cùng xung phong lên một mục tiêu, đang đánh lầm nhau! Như vậy là, chúng đã tràn ngập vị trí đại đội tôi rồi!
Tôi để cái máy PRC 25 trên đùi, vào tần số không lục. Có tiếng điều không tiền tuyến Hoa-Kỳ từ L19 đang gọi các toán cố vấn của tiểu đoàn 11/BĐQ và tiểu đoàn 23/BĐQ. Không có tiếng trả lời.
Tôi đánh liều, kêu cứu bằng bạch văn,
- Mayday! Mayday!
- Who are you?
- A Ranger Commander!
- Any American is there?
Giờ phút này, tôi không thể cho người đi xác nhận xem có còn cố vấn Mỹ nào trên ngọn đồi này không. Tôi đáp liều,
- No one! We’ve been overrun! Bomb on the target! Please!
- Verify your name! Okay?
- Long! Lieutenant Long!
Một phút sau,
- Okay! Give me a target!
- Red smoke, Okay?
- Okay!
- Thank you!
Trái khói đỏ kẹp giữa hai đùi, tôi móc ngón tay trỏ vào khóa an toàn, rút chốt...
Tôi đặt quả khói hướng về phía địch đang tiến lên. "Boóc!" Khói phụt ra cuồn cuộn. Khói cuồn cuộn, đỏ tươi như máu...
Tôi chợt thấy lòng mình nhẹ tênh, nhẹ tênh, như buổi nào một mình dạo chơi thư thái bên bờ Biển Hồ nắng hanh, hiu hiu gió. Mắt tôi mờ đi,
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con là đứa con bất hiếu! Mẹ ơi!
Gió đưa khói bay lên, tới ngọn cây, chênh chếch về hướng tây...
- Em Loan ơi! Thôi nhé! Từ nay, chúng mình sẽ chẳng còn nhìn thấy nhau nữa! Cầu trời phù hộ cho em hạnh phúc một đời! Vĩnh biệt! Em ơi!...
Trái rocket từ L19 đã đánh trúng tàng cây trên đầu tôi. Khói trắng phủ một góc ngọn đồi. Có tiếng Phantom F4C trên cao. Rồi một ánh chớp chói lòa ào tới, mắt tôi bỗng tối om. Tôi lơ mơ như lạc trong cõi đầy sương mù. Tôi thấy Loan mặc áo dài trắng, tay ôm tập vở, từ sân trường bước ra, tiến về phía xe tôi đang chờ. Tôi thấy miệng người mình yêu dấu đang cười. Nụ cười của nàng thật là đôn hậu...
Tôi không biết rằng mình đã hôn mê trong bao lâu. Tôi tỉnh dậy, cựa mình, khi nghe tiếng chú Hoàng sụt sịt,
- Ông thày ơi! Ông thày bỏ tụi em sao? Ông thày ơi!... hu... hu... hu...
Thấy tôi nhúc nhích, chú Hoàng la bài hải như bé con thấy mẹ về chợ,
- Ông thày còn sống! Thái Sơn còn sống! Anh em ơi!
Chú Cường đỡ tôi ngồi lên miệng hố. Tôi mở mắt ra. Trời đã tối. Dưới ánh sáng mờ mờ, vài khuôn mặt đang chăm chú quan sát tôi. Tôi không nhìn rõ mặt từng người, nhưng tôi cảm thấy rằng, những đôi mắt nhìn tôi đang ướt lệ. Hỏa châu lập lòe soi trên chiến địa hoang tàn. Ngọn đồi giờ này trông thực ghê rợn, thê lương. Trên đồi, quân ta và quân địch chết xen kẽ nhau, không phân biệt được đâu là xác bạn, đâu là xác địch. Những tử thi đè lên nhau, có xác còn găm vào lưỡi lê gắn trên đầu súng AK hoặc M16. Một vài xác Biệt Động Quân cụt đầu, không rõ vì bị chém bằng dao đi rừng hay bằng mã tấu? Nhiều đợt sáp lá cà đã diễn ra, ngay sau khi Đại úy Đàm và ba đại đội bạn rút chạy. Cây gỗ chặn ngang trước hố cá nhân của tôi đã bị bom đánh văng đi đâu mất tiêu. Chú Hoàng và chú Cường bị sức bom đẩy lăn xuống cái hố bom cũ sau lưng tôi. Chú Cường trở thành điếc, không nghe được nữa. Vạt rừng hướng tây trước mặt tôi bị bom cày nát bươm. Thì ra, lúc khói trắng của trái rocket bốc lên, gió đổi chiều đông tây. Bom đã đánh nhích về hướng chân đồi vài chục mét. Nhiều đợt bom đã ồ ạt dội trên đội hình của Cộng Quân. Trận mưa bom này khiến quân địch tán loạn.
Có những tiếng rên nho nhỏ của người bị thương nằm rải rác đâu đây. Tôi cho lệnh chú Hoàng và Thượng sĩ Thống đi tìm những quân nhân còn sống, hoặc bị thương. Tôi không có thời giờ kiểm kê xem có bao nhiêu quân nhân BĐQ đã chết. Mười phút sau chúng tôi tập họp được hai mươi sáu người của đại đội 1/11. Bên bộ chỉ huy tiểu đoàn còn vài ba quân nhân, trong đó có Trung úy Hồ Bé, sĩ quan ban 3, anh này bị sốt rét, đang lên cơn, nằm mê man dưới hố cá nhân. Anh Bé không biết rằng bộ chỉ huy tiểu đoàn và ba đại đội 2, 3, 4/11 đã mở đường máu rút đi rồi. Trên sườn đồi hướng đông, chúng tôi tìm được ba cố vấn Mỹ sống sót, hai bị thương nặng. Các đại đội khác còn khoảng trên dưới mười người, đa phần bị thương vì thủ pháo và súng bắn tay. Những Biệt Động Quân thoát chết, mặt mũi người nào cũng nám đen vì khói bụi. Tôi cho lệnh số người còn lại này bố trí thành một vòng cung nơi triền tây bắc của ngọn đồi. Ban Quân Y của tiểu đoàn còn hai nhân viên. Họ bị thương không nặng lắm, nên có thể tiếp tay với Y tá Đào của đại độí 1/11 băng bó tạm thời cho thương binh.
Sau trận chiến, không còn cái máy truyền tin nào nguyên vẹn có thể xử dụng được. Thượng sĩ Thống và Binh nhì Mãng lãnh nhiệm vụ đi thu lượm những máy PRC còn vương vãi trên chiến trường. Sau đó chúng tôi săn nhặt các bộ phận còn xử dụng được của các máy truyền tin, lắp ráp được ba cái, đủ để liên lạc khi di chuyển. Tôi liên lạc được với Trung tá (K11 VB) Trịnh văn Bé, Liên đoàn phó LĐ2/BĐQ. Trung tá Bé nằm trên Căn Cứ Hỏa Lực số 6. Căn Cứ 6 nằm trên cao độ 1001 mét nên liên lạc truyền tin với chúng tôi rất dễ dàng. Trung tá Bé cho tôi tần số của một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 42 Bộ Binh nằm cách chúng tôi chừng năm cây số. Thì giờ cấp bách lắm rồi! Nếu không di chuyển khỏi nơi này gấp, địch sẽ quay lại, và cái chết coi như cầm chắc trong tay. Lúc kiểm kê số người bị thương hiện diện, tôi phát hiện ra hai cán binh Bắc-Việt bị thương nặng, nằm lẫn trong đám thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi không nỡ ra tay giết hai thương binh Cộng-Sản, nhưng chúng tôi không thể khiêng cáng họ theo được. Tôi cho lệnh băng bó, chích thuốc Penicillin cho họ, rồi để họ nằm lại trên chiến trường, không rõ ngày mai họ sẽ ra sao.
Lúc tôi ra lệnh di chuyển thì xảy ra chuyện rắc rối. Anh Trung sĩ cố vấn Terry Walker bò tới mượn tôi cái máy truyền tin để anh ta liên lạc với cấp chỉ huy của anh. Sau khi liên lạc được với Trung tá John Daniels, cố vấn trưởng, Trung sĩ Walker đề nghị tôi đóng quân tại chỗ, chờ ngày hôm sau sẽ có trực thăng tải thương, vì Trung sĩ Attaya bị đạn vỡ xương hông, và viên sĩ quan pháo binh Hoa-Kỳ (tôi không biết tên) cũng bị mảnh B40 ghim đầy mình, không thể đi theo chúng tôi được. Tôi trả lời anh ta rằng, mọi người phải đi khỏi nơi này, càng nhanh càng tốt. Vì nếu chúng ta nấn ná không đi, địch sẽ quay lại, rất nguy hiểm. Sau khi trao đổi với cấp chỉ huy của anh ta vài lời, Trung sĩ Walker rút súng Colt ra, chĩa nòng ngay ngực tôi, cảnh cáo,
- Nếu ông di chuyển, buộc lòng tôi phải giết ông!
Tôi cười,
- Anh không phải là người mới tới làm việc với chúng tôi. Anh đã biết tôi là người thế nào rồi. Tôi sẽ cho người luân phiên dìu những người bị thương nặng, kể cả hai người Mỹ.
Rồi tôi đổi giọng, dõng dạc,
- Hiện giờ tôi là cấp chỉ huy ở đây! Tôi ra lệnh cho tất cả di chuyển! Ai không tuân lệnh, tôi sẽ bỏ lại trận địa. Hãy cất súng đi và thi hành lệnh! Nếu không, anh sẽ không còn dịp để hối hận!
Nghe tôi trả lời dứt khoát như vậy, anh trung sĩ Mỹ ngẩn mặt ra. Anh ta cũng đã nhìn thấy, dù trong ánh hỏa châu lập loè, có năm sáu họng súng M16 đang chĩa vào đầu anh ta.
Anh thất vọng cúi đầu,
- Tôi xin lỗi ông!
Tôi cắt hai người phụ với Walker dìu hai viên cố vấn Mỹ bị thương. Rồi người lành dìu người què, chúng tôi lên đường. Tôi nằm trên võng, tấm bản đồ trên ngực, cái địa bàn trên tay. Tôi điều chỉnh hướng đi. Thượng sĩ Nguyễn hữu Thống và Hạ sĩ Voòng a Mãng mở đường. Bốn người (Hạ sĩ Cường, Hạ sĩ Hoàng, Hạ sĩ Xét và Binh nhì Vở) luân phiên khiêng võng cho tôi. Đoàn thương binh tiến rất chậm, nhưng đội hình tác chiến vẫn sẵn sàng. Trên đường, chúng tôi phải nổ súng hai lần để vượt qua hai trạm báo động của địch quân. Gần sáng, chúng tôi gặp địch vài lần nữa, nhưng vừa tao ngộ, chúng đã tháo chạy vào rừng. Hình như những toán Việt-Cộng đi lẻ trong khu vực cũng đang thất lạc đơn vị? Sáng mồng một tháng Sáu, đoàn quân của tôi bắt tay được một cánh quân của Trung đoàn 42 Bộ Binh, do Đại úy Nguyễn thanh Danh (K19 VB) chỉ huy. Một giờ sau, đoàn tàu tải thương đưa chúng tôi về đến phi trường Phượng-Hoàng. Tới chiều hôm đó cánh quân của Đại úy Đàm mới tới vị trí quân bạn.
--o--
Cũng như lần bị thương trước, tôi từ chối nằm trong phòng dành cho sĩ quan của Quân Y Viện Pleiku. Tôi muốn được nằm nơi phòng chính, cùng với những thương binh hạ sĩ quan và binh sĩ. Phòng chính thì đông vui hơn phòng sĩ quan nhiều. Tôi để hai cái ảnh của Loan dựa vào cái gối trên đầu giường bịnh của mình.
Hai ngày sau, một toán ba người đại diện Sư Đoàn 4 Hoa-Kỳ vào thăm Trại Ngoại-Thương 2/Quân Y Viện Pleiku. Họ đi thẳng tới giường tôi. Ông Tướng một sao Hoa-Kỳ, cao ngỏng, cao nghều, siết chặt tay tôi khen ngợi,
- Trung úy rất xuất sắc! Tôi thay mặt Quân đội Mỹ và thân nhân của hai thương binh Mỹ xin gửi tới trung úy lời cám ơn đã cứu mạng hai thương binh Mỹ trong trận đánh vừa qua ở Dak-Tô. Đại diện Đại Tướng... tôi xin trao tặng trung úy một huy chương Hoa-Kỳ.
Trung úy có thể ngồi dậy cho tôi choàng huy chương lên cổ trung úy được không?
Thấy hai tấm ảnh của Loan trên đầu giường, ông hỏi,
- Ai đấy? Có phải em gái trung úy đó không?
- Thưa Chuẩn tướng. Cô ấy là người tôi yêu. Cô ấy là động cơ giúp tôi vượt qua trận này. Ông hãy choàng huy chương cho cô ấy đi!
Ông Tướng cười lớn,
- Trung úy nói phải đó. Đôi khi những người thân ở hậu phương có ảnh hưởng rất quan trọng tới vận mệnh của chiến trường.
Sau khi một sĩ quan Mỹ tuyên đọc cái công lệnh ân thưởng huy chương cho tôi, ông Tướng Mỹ đặt cái hộp màu xanh đựng tấm huy chương đồng với chữ "V" xuống đầu giường, rồi nghiêm chỉnh choàng sợi dây đeo huy chương đó lên hình cô nữ sinh đệ tứ Trung Học Ban-Mê-Thuột. Ông cũng trao tặng tôi vài số báo Anh Ngữ có bài tường thuật chi tiết trận chiến đẫm máu vừa xảy ra ở Dak-Tô. Xong việc, ông lui lại một bước, đứng nghiêm, dơ tay chào tôi. Tôi lễ phép dơ tay chào lại. Tôi cám ơn ông đã tới thăm tôi và nhờ ông chuyển lời cám ơn của tôi tới quân đội Hoa-Kỳ vì họ đã tích cực yểm trợ chúng tôi qua trận đánh này.
Hôm sau nữa, phái đoàn ủy lạo của Quân Dân Chính Pleiku và Quân Khu 2 do Trung tướng Lữ Lan, Tư lệnh Quân đoàn II dẫn đầu, cũng tới thăm viếng thương binh. Ông Tướng Vùng đã có lần giáp mặt tôi khi ông đi thị sát chiến trường sau một trận đánh trong khu rừng già vùng hướng nam phi trường Cam-Ly, vào mùa mưa năm 1968.
Ông Tướng gắn cái nhành dương liễu lên ngực tôi rồi vỗ vai tôi, thân mật,
- Chú mi khá lắm!
- Vâng! Thưa Niên Trưởng, tôi còn sống đây!
Ông Tướng là Võ-Bị khóa đàn anh, còn tôi là Võ-Bị khóa đàn em khá xa. Anh em chúng tôi trao đổi với nhau bằng ngôn từ Võ-Bị. Người ngoài nhìn vào, khó thông cảm nổi.
Trong đoàn nữ sinh đi ủy lạo thương binh hôm ấy có vài ba cô học trò đã từng thăm Ngoại-Thương 2 trong dịp Tết Mậu-Thân. Vừa bước vào phòng, các cô nhận ra tôi ngay,
- Tội nghiệp! Anh trung úy này lại bị thương nữa rồi!
Các cô bu quanh hai cái ảnh tôi để trên đầu giường, xầm xì với nhau,
- Em gái anh ấy trông dễ thương quá!
Tôi lại được một cô hát cho nghe,
"Kiếp nào có yêu nhau, thì xin hẹn tới mai sau. Hoa xanh khi chưa nở, tình xanh khi chưa lo sợ..."
Sau đó, các cô em gái hậu phương ân cần trao cho tôi gói quà ủy lạo.
Thời gian này, bạn bè khóa 20 Võ Bị của tôi đều đã lên cấp đại úy, kể cả những bạn phục vụ ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II.
Riêng tôi (vì vụ Phật Giáo Miền Trung 1966) sau bao lần vào sinh, ra tử, vẫn còn lận đận, mang cái lon trung úy nhiệm chức. Còn 5 tháng nữa tôi mới hết hạn phạt treo lon trung úy thực thụ. Do đó, những tấm huy chương, những lời ngợi khen của thượng cấp, những bài ca của người hậu phương, là niềm an ủi lớn lao cho tôi, sau mỗi lần bị thương nặng phải nằm quân y viện.
Tôi đã từ chối ký tên vào Bản Y Bạ do Hội Đồng Y Khoa đề nghị ra Loại 2 không tác chiến.
Tình huynh đệ chi binh đã giữ chân tôi ở lại với binh chủng Biệt Động Quân.
Tình quân dân, hậu phương, tiền tuyến, của người Pleiku đã giữ chân tôi ở lại với Vùng 2 gió bụi mưa bùn.
Cuối năm 1969 tôi hết án phạt treo lon, được tính hồi tố cấp trung úy thực thụ kể từ ngày 1 tháng 11 năm 1967.
Giữa năm 1970 tôi được lên đại úy nhiệm chức. Dịp này, Trung tá Bùi văn Sâm, Liên đoàn trưởng LĐ2/BĐQ, đã hứa với tôi trong bữa tiệc khao lon ở vũ trường Mimosa, Pleiku, do ông khoản đãi,
"Một ngày sau khi ông có nghị định lên đại úy thực thụ, tôi sẽ giao tiểu đoàn cho ông."
Đầu năm 1971, Trung tá Sâm đã giữ lời, cho tôi chỉ huy tiểu đoàn, không qua chức tiểu đoàn phó.
Năm 1981, trước khi trút hơi thở sau cùng trong trại tù cải tạo Z30C, ông đã nài nỉ cán bộ Công- An Cộng-Sản chỉ huy trại giam cho phép ông được thấy mặt tôi lần cuối cùng. Cán bộ Việt-Cộng từ chối, không cho tôi vào thăm ông. Ông đã ra đi vào một ngày cuối đông.
Trung tá Bùi văn Sâm là một trong vài cấp chỉ huy nặng nghĩa, nặng tình, mà tôi không thể quên.
----o----
Sau trận Dak-Tô, những ngày còn nghỉ dưỡng thương, những ngày nghỉ hành quân, tôi lại tìm cách ghé Ban-Mê-Thuột thăm Loan. Tôi miệt mài vun đắp tấm tình yêu tôi dành cho nàng. Tôi và anh Biện sau đó không còn ở chung đơn vị. Nhưng dù ở cách xa nhau, bạn tôi đã thấy tôi giữ lời, "Chờ thì chờ, có sao đâu..." nên bạn tôi hết lòng ra sức giúp đỡ cho mối tình của tôi và em gái anh sớm đơm bông. Và từ đó, mỗi lần tôi về Hội-An thăm mẹ, mẹ tôi không còn nhắc câu, "Ở trong đó, con thương đứa nào, nhớ báo cho mẹ biết." Vì con bà đã báo cho bà biết nó thương ai rồi. Mẹ tôi đã không quản công khó đường xa, thường xuyên, đi, về, thăm gia đình bác Võ.
Mỗi khi gặp xóm giềng, mẹ tôi thường hãnh diện khoe,
- Con bé ấy con nhà giầu mà thật là đẹp người, đẹp nết. Một mình nó quán xuyến công việc trong nhà đâu vào đấy. Nó đã nhu mì hiền hậu, mà còn học giỏi nữa chứ! Thằng Long nhà tôi thật là có phúc...
Mối tình của chúng tôi đã trưởng thành, nở hoa, kết trái trong khói lửa chiến tranh. Chiến tranh càng leo thang, chiến tranh càng khốc liệt, chúng tôi càng cảm thấy yêu nhau hơn. Gần hai năm sau, khi vừa thi xong kỳ đệ nhứt lục cá nguyệt năm đệ nhị, nàng lên xe hoa về làm dâu Võ-Bị. Ba đứa con gái đầu của chúng tôi đều sinh ra vào những ngày tôi lặn lội nơi chiến trường. Đứa con trai út của chúng tôi chào đời ba tháng sau ngày Sài-Gòn thất thủ.
Mãi sau này, nàng kể lại,
"Nhận được thư anh, ba cứ cằn nhằn me mãi. Ba hỏi me rằng me có hứa hẹn gì với anh không mà anh dám gửi thư cho ba, cho em? Ngày đó em đã biết yêu là gì đâu? Đọc thư anh xong, em đã để lá thư trên bàn, mấy đứa em của em cũng len lén thay nhau đọc. Em còn đem lá thư đó hỏi ý kiến con Chên, bạn em, để tìm phương cách đối phó. Bởi thế, thư trả lời anh, em tô đậm câu, ‘em mong được làm em của anh thôi. Em chưa nghĩ tới việc lấy chồng.’
Sau đó, mẹ anh từ Hội-An vào thăm nhà. Mẹ anh nói vì anh sớm mồ côi cha, mẹ mong có cháu nối giõi. Mẹ anh cứ đi đi, về về, năn nỉ ba me. Me em thì thấy anh hiền lành, lại thương anh côi cút, ý me cũng muốn nhận anh làm con rể.
Thời gian này, em cũng chợt nhận ra, có điều gì là lạ đang thay đổi trong em. Em nghe quen tiếng anh nói, giọng anh cười, ánh mắt anh nhìn. Em thầm trách anh đã làm đời em xáo trộn. Em chỉ mong sống lại thời còn bé tí, vô tư. Em đã viết đầy trên bìa vở, những câu, ‘ước gì ta nhỏ lại năm bẩy tuổi...tuổi ấu thơ là tuổi thần tiên...tại ai mà mình cứ thương cứ nhớ, không học hành gì được cả...’ Nhưng những lúc vắng anh, em lại thấy buồn, thấy nhớ. Những ngày anh đi hành quân, em thấy lo. Từ khi biết yêu anh rồi, em tự nhủ thầm rằng, suốt đời em sẽ yêu mình anh thôi.
Ngày mẹ anh được ba em nhận lời cho em sẽ làm dâu của mẹ, em và mấy đứa bạn lên chùa Dược-Sư xin xâm. Được quẻ xâm, em dấu biến. Quẻ xâm thật là dễ sợ! Em không dám cho ai coi, kể cả anh. Mãi tới khi anh được tha về sau 13 năm tù cải tạo, tai ương qua rồi, em mới để anh xem Phật đã dạy gì trên lá xâm đó.Trong suốt bao nhiêu năm, nuôi con, chờ chồng, em đã làm theo lời khuyên trên quẻ, ‘Nhẫn tâm theo dõi con đường trượng phu.’ Và Trời Phật đã thương tình, ngó lại, phù hộ cho gia đình mình được xum họp, vẹn toàn, vạn sự bình an."
Chúng tôi đã cống hiến trọn vẹn tuổi trẻ của mình cho đất nước quê hương. Nay quê hương đất nước không còn. Người lính Biệt Động Quân và cô nữ sinh Ban-Mê-Thuột năm nào đã thành ông bà, nội, ngoại. Không biết thời gian còn được bao lâu nữa? Cho tôi có thể trả nợ cho nàng, như tôi đã hứa trong bức thư tỏ tình 40 năm về trước?
"Ừ, anh sẽ yêu Loan suốt một trăm năm. Loan ạ! Sống thiếu bao nhiêu năm, xuống dưới lòng đất, sau cuộc đời này, còn phải trả cho em đủ số, và hơn thế nữa."
Seattle, tháng 5 năm 2009 Vương Mộng Long
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2019 13:07:37 GMT 9
Cuộc Di Tản Đầy Máu và Nước Mắt Đại Tá Trịnh Tiếu
Không phải mãi hai ngày sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau vụ di tản rút quân bỏ miền Trung. Vào buổi tối ngày 17.3.1975, tại bữa cơm đãi một số Viên Chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại nhà ông Thomas Polgar, Trưởng CIA, ở Sài Gòn, Tướng Ðặng Văn Quang Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu, đã lật trang sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu. Rất giống người Nga tiêu diệt đội quân của Nã Phá Luân vào năm 1812 bằng cách bỏ đất để câu giờ hầu chấn chỉnh tổ chức quật ngược thế cờ, Tướng Quang cho rằng quyết định của ông Thiệu đi theo chiến lược đó sẽ đánh bại quân Bắc Việt. Tướng Quang nói ‘’Có thể mùa mưa sẽ giúp chúng tôi như thể Ðại Tướng mùa Đông đã giúp người Nga’’.
Tại Cao Nguyên Trung Phần, dân chúng không chờ giải thích. Họ thấy rõ quá rồi nên tự lo lấy.Khi quân Bắc Việt pháo kích Kontum, con đường dẫn xuống Pleiku tràn ngập dân di tản chạy trốn pháo kích. Trong khi các Ðơn Vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu rời các vị trí ở Pleiku và các phi cơ vận tải bay lên bay xuống phi trường suốt ngày đêm, người dân biết ngay đến lúc chạy theo Quân Ðội.
Vào đêm Chủ Nhật, một đoàn xe vận tải dài thòng âm thầm rời khỏi Pleiku từng cái một đèn sáng choang. Phóng viên Nguyễn Tư nghĩ nó ‘’giống như một đoàn xe đi chơi cuối tuần trở về nhà’’. Phía sau, những tiếng nổ lớn phát ra từ các kho đạn bị phá và bầu trời đen nghịt khói từ các bồn xăng đốt cháy.
Trong khi đoàn xe tiến về hướng Nam tung lên những đám bụi đỏ mờ mịt, từng đoàn người dân đi bộ dài như rắn bò hai bên Ðường Quốc Lộ song song với đoàn quân xa. Một vị Nữ Tu Công Giáo nhớ lại ‘’trẻ thơ và trẻ em được chất lên xe bò và người kéo đi. Mọi người đều hoảng hốt. Người ta cố thuê mướn xe bằng mọi giá’’. Trong ba ngày 16, 17, 18, tháng ba, cuộc di tản di chuyển êm thắm khỏi Pleiku và giữa các đoàn quân xa là hàng trăm dân sự đi theo cuộc di tản. Và cũng từ đó bắt đầu một đoàn công voa di tản đầy máu và nước mắt.
Ði được nửa đường tiến ra Duyên Hải, đoàn xe bị khựng lại để cho Công Binh Quân Ðoàn II cố làm xong chiếc cầu nổi ngang qua sông Ea Pa cách đèo Cheo Reo (Phú bổn) vài cây số. Tướng Phạm Văn Phú tiên liệu hai ngày sẽ sửa xong con Ðường số 7 nhưng mãi ba ngày vẫn chưa sửa xong cây cầu. Ðến chiều tối ngày 18.3, xe cộ và lính tráng đã đi được ba ngày và một đám dân tỵ nạn khổng lồ bị khựng lại dọc theo con đường và dồn cục tạm nghỉ ở chung quanh châu thành Tỉnh Phú Bổn. Cái châu thành nhỏ bé cheo leo này làm sao cung cấp đủ nhu cầu cho đoàn di tản này, nhiều người bỏ nhà ra đi chỉ có bộ đồ trên người.
Vì hoảng sợ, địch đe dọa phía sau, đói khát và có những băng lính không còn Cấp Chỉ Huy nữa sanh đạo tặc, đoàn người đòi cứ tiến đi không cần biết hậu quả ra sao. Trước tình thế hỗn quân hỗn quan này, các giới chức lãnh đạo không thể nào thuyết phục dân chúng và điều động xe cộ vũ khí thành một phòng tuyến phòng thủ. Và y như xảy ra khi quân Ðức bao vây khóa chặt Paris năm 1940, dân châu thành cũng chạy trốn, làm tắc nghẽn mọi con đường, Quân Ðội không thể nào di chuyển để bảo vệ họ trước kẻ địch. Tình hình đe dọa hỗn loạn. Cần phải có những bàn tay tổ chức. Nhưng Tướng Lê Duy Tất vẫn còn ở Pleiku với đoàn hậu vệ Biệt Ðộng Quân, trong khi Ðại Tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn xe, đã phải bỏ xe đi bộ đến Bộ Chỉ Huy ở Cheo Reo.
Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu di chuyển xuống Quốc Lộ số 7, Tướng cộng sản Văn tiến Dũng cũng đã bị đánh lừa theo kế hoạch của Tướng Phú. Trước khi khởi sự chiến dịch 275, Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh sư đoàn 320 về những con Ðường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể nào dùng nó như là lối thoát sau cùng. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Tây Phương nói dân chúng đang bỏ Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập và Hà Nội đánh tín hiệu ngày 16.3 báo cho biết Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã di tản về Nha Trang, Dũng mới bắt đầu nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch quân rút được không.
Ðến 4 giờ chiều cùng ngày, công điện của Hà Nội đến báo, tình báo Bắc Việt báo một đoàn xe dài từ Pleiku tiến về phía Nam xuống Ban Mê Thuột. Tin này làm cho Tướng cộng sản bối rối. Phải chăng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phản công hay là chạy trốn? Tình báo của Dũng cho ông ta câu trả lời ngay sau đó, đúng như tình hình diễn biến ở trên. Ðến lúc này bộ chỉ huy cộng sản mới dở bản đồ ra, chiếu đèn pin và dùng kiếng phóng đại dò tìm địch quân. Kiểm điểm lại, Tướng Dũng và Tướng Kim Tuấn, tư lệnh sư đoàn 320, mới biết bị Tướng Phú lừa ngay trước mắt, Tướng Dũng khiển trách Tướng Kim Tuấn, đồng thời phối trí các đơn vị di chuyển về tụ điểm Quốc Lộ 7 để tiêu diệt đoàn công voa di tản về Tuy Hòa.
Ðoàn xe Quân Dân miền Nam cầu mong sao cho thời gian chậm lại để đi kịp về miền biển không bị cộng sản tấn công. Nhưng không kịp nữa, khi màn đêm buông xuống ngày 18.3 lúc đoàn xe kẹt ở Cheo Reo, quân cộng sản bắt đầu pháo kích vào đám đông dân di tản. Họ hết còn bí mật nữa và kẻ thù ở trong tầm tay. Ðêm ngày 18.3, những đơn vị tiền phong của sư đoàn 302 đụng độ với đoàn xe Quân Ðoàn II ở Cheo Reo. Cùng lúc các đơn vị khác đụng độ với Ðoàn Quân hậu bị Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân ở Thị Trấn Thành An ngã tư Quốc Lộ 14 và Quốc Lộ 7. Ðại Tá Lý đi bộ mãi rồi cũng tới Bộ Chỉ Huy Cheo Reo kịp lúc để giúp điều động Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vào vị trí phòng thủ chống các cuộc xung phong của quân Bắc Việt ở lối vào Thị Trấn phía Tây. Ðồng thời, pháo binh Bắc Việt rót vào. Ðoàn xe cái đầu ở Cheo Reo nhưng cái đuôi vẫn còn ở Pleiku. Việt cộng tha hồ pháo kích. Sáng hôm sau, xác chết và xác bị thương lính tráng và dân nằm la liệt trên Ðường Phố Cheo Reo (Phú Bổn) cùng với hàng trăm xe cộ bị phá hủy hoặc bỏ rơi. Một phi công trực thăng Không Quân Việt Nam báo cá ‘’Khi tôi bay thấp, tôi có thể nhìn thấy hàng trăm xác chết nằm rải rác dọc theo con đường cạnh các xe còn cháy’’.
Mặc dù lực lượng cộng sản đã chiếm được Phi Trường Phú Bổn, Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vẫn còn giữ được lối vào châu thành và cây cầu phía Nam sửa xong. Ðây là một cú cải tử hoàn sinh, Ðại Tá Lý và các Cấp Chỉ Huy của ông có cơ hội ra lệnh cho đoàn xe lên đường trở lại với 2.000 xe nổ máy ầm ầm lăn bánh. Nhưng đoàn xe di chuyển không bao lâu, Tướng Phú cho trực thăng đến đón Ðại Tá Lý ra khỏi Cheo Reo. Thế là đầu không còn ai Chỉ Huy chỉ có Tướng Tất Chỉ Huy ở phía sau. Từ ngày 19 trở đi, Chỉ Huy đầu đoàn công voa là những Ðơn Vị Trưởng cấp Tiểu Ðoàn, Ðại Ðội mạnh ai lấy ra lệnh.
Bất kể hỏa lực của cộng sản, trực thăng của Không Quân Việt Nam bắt đầu đáp xuống bốc những người Lính và dân bị thương dọc theo con đường. Khi những người di tản được trực thăng chở đến Phi Trường Tuy Hòa, họ kể những chuyện khủng khiếp xảy ra cho họ. Ngày 19.3, đầu đoàn xe đã đến Sông Côn chỉ còn cách Tuy Hòa 40 km. Nhưng ở đoạn đuôi nửa đường giữa Cheo Reo và Sông Côn, quân Bắc Việt lại đánh ngang hông đoàn xe, lần này ở khoảng Thị Trấn Phú Túc. Không Quân Việt Nam được gọi đến oanh kích chặn tiến quân của địch nhưng đã nhầm lẫn bỏ bom xuống Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân (Làm tổn thất gần 1 Tiểu Ðoàn). Nhưng Liên Ðoàn này vẫn tiếp tục chiến đấu giữ cho con đường mở.
Ðoàn xe chạy qua Cheo Reo cho đến ngày 21.3 thì quân Bắc Việt chọc thủng các vị trí cố thủ của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, vượt qua chiếm châu thành và cắt đứt con đường. Trong số khoảng 160.000 người của đoàn xe di tản, nhiều người dân bị cô lập với Lính của Ba Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Theo lệnh Tướng Phú, Tướng Tất, vẫn còn ở phía sau đoàn xe, phải bỏ mọi vũ khí và quân trang nặng để chạy khỏi Phú Bổn càng nhanh càng tốt. Hàng ngàn người chạy vào rừng. Lính tráng với vợ con bên cạnh bị rượt bắt và tấn công nhiều lần. Một số ít giơ cờ lên được trực thăng đáp xuống bốc. Nhưng đa số cầm chắc bị đói và bị bắt.
Những người may mắn, các bà mẹ trẻ dính máu, các cụ già và phụ nữ người mặc áo dính bùn, và những người lính gào khóc, chân không, bước xuống trực thăng trước khi các phóng viên bủa ra hỏi thăm tin tức tại phi đạo Tuy Hòa. Các trực thăng bắt đầu chở thực phẩm và nước cho đoàn xe vẫn còn dài thòng di chuyển như con rắn vì đã có nhiều người đói.
Trong khi ở đuôi đoàn xe bị tấn công dữ dội và Tướng Tất cùng các Ðơn Vị còn lại cố chống trả bọc hậu, các Ðơn Vị đầu đoàn xe đã tiến vào ranh giới Tuy Hòa, trên con Sông Ba, cách Thị Trấn 20 cây số. Chiếc cầu nổi mà Tướng Cao Văn Viên hứa cũng đến kịp lúc, nhưng không kịp với lực lượng cộng sản đã đắp mô các ngã đường nằm giữa Sông và Tuy Hòa. Chiếc cầu không thể nào chở xe nổi đến chỗ Bắc nên phải mượn 4 phi cơ C-47 của Quân Ðoàn IV chở từng khúc đến.
Ngày 22.3, đúng một tuần sau khi đoàn xe di tản đầy máu và nước mắt rời Pleiku, chiếc cầu được bắc xong, đầu đoàn xe vội vã vượt qua con sông quá nặng làm chiếc cầu phao lật, người trong xe cộ phải lội sông. Nhưng đến cuối ngày, đoàn xe vẫn tiếp tục vượt qua khi chiếc cầu được sửa lật lại. Ngay cả đến thời thiết cũng tiếp tay cho cộng sản để làm cho đoạn cuối đoàn xe đến Tuy Hòa chưa hết nạn.
Trời nắng đột nhiên trở thành mưa gió lạnh lẽo cho người di tản. Không những thời thiết thay đổi xấu gây ra bệnh tật mà nó còn làm cho phi cơ quân sự không bay lên yểm trợ, chống trả những cuộc tấn công dưới đất của việt cộng. Từ ngày 22.3, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân bị kẹt đánh trong một trận đánh bọc hậu vừa đánh vừa lui trước nỗ lực rượt theo rất rát của quân cộng sản. Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân đã thu góp xe tăng và pháo binh để bảo vệ con đường ở khúc quẹo thung lũng gần cầu nổi. Họ đánh câu giờ để cho người di tản và Lính kịp vượt qua sông.
Ðồng thời, những Ðơn Vị đi đầu đã vượt qua Sông Ba rồi phải phá mô việt cộng để tiến vào Tuy Hòa. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân chỉ còn ít quân sống sót đã gom góp được hơn chục thiết giáp M-113 vừa đánh vừa ủi các mô tiêu diệt các vị trí cộng sản. Ðến ngày 25.3, vị trí cuối cùng của quân Bắc Việt bị tiêu diệt nốt, Biệt Ðộng Quân bắt tay được với Lực Lượng Ðịa Phương Quân ở phía Ðông Tuy Hòa.
Ðoàn xe khập khễnh tiến vào Tuy Hòa như một đoàn xe ma. Xấp xỉ 60.000 người dân đến đích, hai phần ba hay hơn 100.000 người bị bỏ lại dọc đường, chết sống không ai biết. Về phía Quân Ðội, 20.000 quân tiếp vận và yểm trợ, chỉ còn 5.000 người đến nơi. Sáu Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân 7.000 người, chỉ còn 9.00 đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn II ở Nha Trang và đóng chốt bảo vệ Thành Phố. Một vị Tướng ở Bộ Tham Mưu đã buồn bã nói: ‘’70% lực lượng tác chiến của Quân Ðoàn II gồm Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh Chiến Ðấu và các Ðơn Vị Truyền Tin đã bị tan rã từ ngày 10 đến 25.3’’. Vì thế chuyện phản công tái chiếm Ban Mê Thuột không thể giao phó cho Quân Ðoàn II.
Canh bạc Tướng Phú chọn Quốc Lộ 7 có thể đã an toàn nếu các cầu nổi được bắc kịp thời và Tướng Viên đổ lỗi cho vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II. Tướng Viên tin rằng Tướng Phú phải hoãn cuộc di tản ít ngày để cho các Kỹ Sư Công Binh kịp bắc cầu. Tướng Viên cũng tin rằng hoãn lại cho phép điều động sắp xếp kỹ hơn nhất là kiểm soát dân chúng. Theo một vị Tướng Mỹ thông thạo các Sĩ Quan cao cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lỗi lầm không những ở kế hoạch di tản của Tướng Phú mà ở ngay chính Tướng Phú và lỗi lầm đầu tiên và quan trọng nhất là để mất Ban Mê Thuột. Một vị Tư Lệnh Quân Ðoàn cương quyết hơn không cần phải rút quân như vậy. Một Sĩ Quan Tùy Viên Mỹ tuyên bố: ‘’Một vị Tư Lệnh mạnh như Tướng Toàn (Trước đó là Tư Lệnh Quân Ðoàn II) có thể phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, sử dụng toàn bộ Hải, Lục, Không Quân có trong tay đã có thể kềm hãm quân Bắc Việt, cố thủ thêm một năm nữa’’.
Nhưng ngày 25.3.1975,không còn cơ hội đó. Cuộc di tản tự làm cho mình thất bại đau đớn, như lời Tướng Viên mô tả, hoàn tất, gây một cơn ác mộng tâm lý và chính trị to lớn cho ông Thiệu, cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cho dân chúng Việt Nam Cộng Hòa. Một dư luận đồn thổi khắp nước và cả ở những viên chức dân sự và quân sự cao cấp nói rằng: Tổng Thống Thiệu và người Mỹ, trong một thỏa hiệp mật của Hiệp Định Paris, đã cố kết với nhau cho cộng sản chiếm một phần lớn lãnh thổ Nam Việt Nam. Tại sao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu can trường suốt hai mươi năm không thua đột nhiên bị ra lệnh rút khỏi Cao Nguyên, bỏ Pleiku và Kontum không một tiếng súng giao tranh ?
Tinh thần đổ vỡ vì mất bốn Tỉnh trong ba tháng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh nặng và vô ích không tái chiếm nổi Ban Mê Thuột đã làm cho dân chúng Nam Việt Nam hết còn tin tưởng Tổng Thống Thiệu có thể bảo vệ họ. Vậy ai khác có thể làm được? Phe đối lập ông Thiệu vô tổ chức, đứng ngoài chờ thời cơ và người Mỹ tiếp tục làm ngơ. Chỉ có ông Thiệu là người phải tìm ra cách nào để lấy lại tinh thần cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trước khi ông tìm ra hướng đi hợp tình thế thì tin xấu từ Quân Ðoàn I bay về. Cũng lại di tản và cuộc di tản Quân Ðoàn I bi thảm không kém để kết thúc ngày 30.4.1975. Đại Tá Trịnh Tiếu
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 24, 2019 10:01:32 GMT 9
Mặt trận Thủ Thừa -Long An 1975Suu tamMặt trận Thủ Thừa -Long An Hôm nay là ngày 21 tháng 4, 2019, đúng 44 năm tôi đã dời xa quê hương, Sau 6 ngày quần thảo với bọn VC tại Thủ Thừa Long An, tôi đã bị thương nặng, tản thương về tổng y viện Cộng Hòa hôm 13 tháng 4, 1975. Rồi cũng đúng 1 tuần sau đó tôi đã theo máy bay Mỹ, cùng vợ và hai con thoát khỏi VN, tôi đã ra đi khi đầu còn ôm đầy máu, và đứa con trai cũng đã mới được đẻ ra có 10 ngày. Cũng buổi chiều hôm đó, khi chúng tôi. đến Guam, thì nghe được Tổng Thống VNCH, từ chức, ông Thiệu và gia đình cũng đã lưu vong sau đó. 44 nằm ôn lại vài kỷ niệm khó quên trong đời, nhất là vào những dịp 30 Tháng 4, 75. Tấm hình tôi kèm đây là tôi chụp với ông George j. Veith, tác giả cuốn "Black April". Nói về chiến tranh Việt Nam vào năm 1975. Tôi đã tình cờ gặp ông Veith hôm Bác Bùi Diễm, cựu đại sứ VNCH ra mắt bộ phim "Sự Can Thiệp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến VN". Tôi cảm ơn ông Veith đã kể trận đánh cuối cùng của tôi ở Thủ Thừa Long An vô cuốn sách lịch sử giá trị "Black April" của ông. Ông Veith nói đùa với tôi những người lính anh hùng ở Long An xứng đáng đi vô lịch sử (tôi sẽ trích dẫn bài viết của ông ở dưới). Đã 44 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ những chuyện xảy ra ỏ VN như mới đây vậy. Tôi xin ghi lại một chút ký ức về đời tôi trong cuộc chiến vừa qua. Tôi luôn luôn nghĩ là mình phải nói thật, chỉ có sự thật mới tạo xúc động cho người đọc, nhưng với tôi, sự thật cũng phải cẩn thận, vì không khéo, thì lại bị mang tiếng khoe khoang tâng bốc cá nhân, nhưng bây giờ tuổi tác, tôi không ngại tị hiềm ghen ghét, tôi sẽ ghi lại những sự thật cho dù sự thât đó có thể tạo hiểu lầm. Hơn nữa cuộc chiến đã qua đi 44 năm, cũng cần bộc lộ tâm tư, người viết ở tuổi sắp qua đời, thì chả còn gì quan trọng ngoài sự thật. Những ngày tháng 3/75, sau khi mặt trận Ban Mê Thuột thất thủ, đại tá Huyến, tỉnh trưởng Long An đã nói với tôi, ông chêm thêm tiếng Pháp nói là cai trị tồi tệ, ám chỉ TT Thiệu, nhưng ông quyết tâm đánh VC không đầu hàng hay bỏ chạy. Do đấy chúng tôi được lệnh phải củng cố phòng thủ, đánh tới cùng. Trong 7 quận trong tỉnh Long An: Bình Phước, Cần Giuộc, Cần Đước, Tân Trụ, Rạch Kiến, Bến Lức, và Thủ Thừa. Công Trường 5 Cộng Sản đã chọn ngay tỉnh lỵ Long An và quận Thủ Thửa để tấn công. Chi tiết trận đánh ở phần dưới. Sự thật tại Long An, VC đánh vô phi trường Cần Đốt là "diện" phụ, điểm chính là địch sẽ đánh bứt quận Thủ Thừa do tôi làm quận trưởng để khống chế QL số 4, ngăn chặn tất cả những tiêp tế nhu yếu phẩm về Sài Gòn. Trận đánh đã xảy ra vô cùng ác liệt, Cộng Quân đã dùng chiến thuật biển người, nhưng thất bại, chúng tổn thất khôn lường. Cái chiến thắng này phải kể đến trước hết là quyết tâm của ông tỉnh trưởng, không chấp nhận bất cứ một cuộc tháo chạy hay đầu hàng, kế đến là hàng quận trưởng phải biết khôn ngoan, phối trí, điều quân, tiếp vận và dành lực lượng trừ bị để tiếp viện cho những nơi bị Cộng Quân đánh thủng. Rồi những tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng, đã anh dũng chỉ huy anh em binh sĩ đơn vị của mình chiến đấu, giữ vững vị trí, không bỏ chạy, vì họ biết rõ rằng cấp chỉ huy của họ không bao giờ bỏ chạy, và không cho họ được dời trận địa. Trên cao nữa là tư lệnh quân khu, trung tướng Nguyễn Văn Toàn đã đích thân ngồi trên xe díp thanh sát trận địa, nơi mà địch pháo liên miên, đến nỗi chỉ mấy giờ sau khi trung tướng Toàn dời Thủ Thừa thì địch đã tấn công và pháo tôi bị thương bể đầu nằm lăn cu lơ cán quốc, không tản thương được. Kết luận, mặt trận Long An, Thủ Thừa (ĐPQ) đã chiến thắng cùng Long khánh (SĐ18 của tướng Lê Minh Đảo) giữ cho Sài Gòn đứng vững đến ngày 30 tháng 4. Có vài điều mà tôi đã giữ trong lòng, cũng nhân cơ hội này trần tình cùng quý vị. Tôi còn nhớ Trung Tá Tứ, Bình Phước. Trung Tá Quế, Cần Giuộc. Trung Tá Bê, Cần Đước. Thiếu Tá Bé, Rạch Kiến. Thiếu Tá Nhơn, Tân Trụ. Thiếu Tá Út Bến Lức, người nào cũng công trận đầy mình và ở cái tuổi xấp xỉ 40 mới đi làm quận trưởng, trong khi cá nhân tôi chỉ mới 31 tuổi đầu thì thật là quá trẻ so với những vị kia, vì thế tôi đã nhủ lòng phải cố gắng làm sao xứng đáng, đừng để ông tỉnh trưởng từ thời ông Năm tới thời ông Huyến chửi cho là chăn dân như chăn dê vậy. Tôi đã bỏ vợ, bỏ con, bỏ ăn, bỏ nhậu, bỏ đi Sàigòn, cho dù Sài Gòn Thủ Thừa chỉ 49 cây số, tôi có thể mặc đồ civil đi xe nhà, chạy chưa tới 1 giờ là qua Phú Lâm về tới Saìgon. Tôi đã miệt mài làm việc, kiện toàn hành chánh, kiểm soát xã ấp. Về quân sự, ngày hành quân, tối ngủ đồn, ngủ ấp, chia sẻ hiểm nguy, gian khổ với anh em, với làng xã. Tôi đã tạo cho cô bác ở Thủ Thừa lòng quyết tâm đánh Cộng Sản của tôi, đến nỗi họ đã nói rằng ông quận này người Bắc, sẽ đánh Cộng Sản tới cùng. Và quan trọng hơn cả là cái tâm của người chỉ huy, nó quyết định sự thành bại nhiều lắm. Điều nguy hại là cô em vợ tôi làm tiếp viên hàng không, đi ngoại quốc rất thường, do đấy tin tức Mỹ bỏ Việt Nam lan tràn, ở đâu cũng nói, chỗ nào báo cũng đăng, nào là quốc hội Mỹ không cho viện trợ, chính phủ Mỹ đã bắt đầu xây trại tị nạn "tent city" ở Guam, người em vợ đã cho vợ tôi những tin tức kinh hoàng, và không chịu nổi, ngưởi em vợ đã chở vợ tôi, với cái bụng chửa thè lè sắp đẻ lên quận, người em vợ đã nói hết tình hình VN ở Hồng Kông, Bankok, Đài Loan cho tôi nghe, và đòi hỏi tôi phải tim cách giúp cho vợ con tôi và gia đình. Tôi đã nghiêm nét mặt nói với vợ là tôi đã hưởng bổng lộc triều đình và trách nhiệm tôi quá nặng. tôi không thể hèn hạ bỏ lính bỏ dân, trốn về Sài Gòn, đem vợ con đào tẩu. Lương tâm và trách nhiệm con người không cho phép tôi làm thế, và giả sử tôi sợ hãi nghe lời người em vợ, tìm cách thoát thân lén lút tháo chạy, thì sau này tôi còn mặt mũi nào nhìn ai nữa ?. Không được, tôi phải chết ở đây, không thể bỏ dân bỏ lính. Sau cùng tôi nói với Uyên người em vợ, là cô hay đi ngoại quốc, nếu được, nhờ cô lo cho cha mẹ cô, lo giúp cho vợ con tôi, họ là chị ruột, cháu ruột của cô được thoát khỏi Sài Gòn, còn tôi, tôi phải ở lại đánh nhau, không chạy đâu cả. Và bây giờ sau chiế́́n tranh, vợ tôi vẫn ở cạnh tôi, em vợ tôi cũng ở gần tôi, nếu những lời nói này mà tôi bịa đặt nói sai, nói phét thì tôi sẽ nhục nhã vô vàn mỗi khi nhìn thấy hai ngưồi đàn bà này. Tôi đã làm điều tôi nói, tận sức lực chơi nhau một mất một còn với tụi Cộng Sản, nhưng số không may lại thành may, tôi đã bị trọng thương, được chở về nhà Thương Cộng Hòa. Và tôi đã vượt thoát nanh vuốt Cộng Sản trong tháng 4, 1975. Chuyện gì đã xảy ra khi tôi nằm xuống, đại tá tỉnh trưởng đã đề cử thiếu tá Nguyễn Văn Cử thay tôi làm quận trưởng, thiếu tá Cử là tiểu đoàn trưởng của tôi, anh đang giúp tôi ngăn cả một công trường 5 của Cộng Sản đang đóng trụ tại bắc Long Ngãi Thuận, giáp ranh Cam Bốt, chúng đang bổ xung quân số để tái tấn công Thủ Thừa. Thời gian sau tôi đã gặp lại Cử người quận trưởng thế tôi. Khúc Chấp, người thiếu tá trưởng phòng 3 tiểu khu, đã cùng đại tá Huyến, trung tá Chất tiểu khu phó, di chuyển trực thăng chỉ huy trận đánh suốt 7 quận tại Long Anh trong tháng 4/75. Thiếu tá Chấp là người đã vì tình bạn, dùng trực thăng nhiều lần cố đáp vào vùng lửa đạn, tản thương tôi về nhà thương Cộng Hòa. Ba chúng tôi hội ngộ với nhau tại nhà Chấp ở Chicago, Cử đã là người thế tôi, anh nói: - Chỉ có một thời gian quá ngắn thay anh làm quận trưởng, tôi chưa hề được vô trong dinh của anh, tôi chưa được ngủ một ngày trong dinh, chỉ ở mặt trận, và đến khi bị bằt đi tù thì lại là thành phần nợ máu, chúng tống ra bắc cả 10 năm trời, chỉ vì cái chức quận trưởng thay anh. Còn Chấp bảo tôi: - Khi Cường bị thương, tôi cố nhờ phi công, nhiều lần đáp xuống tản thương, không được, chúng bắn rát quá, sau cùng phải kêu mấy thằng em, khiêng Cường ra ngay bãi đáp, dùng mưu, đáp nhanh, sớt Cường đi, thế mà về Cộng Hoà, kiểm thấy hàng chục lỗ đạn trên máy bay. Chấp còn nói thêm: - Quân đoàn chấp thuận đặc cách mặt trận cho ba thằng mình lên trung tá, trung tá Cường, trung tá Cử và trung tá Chấp. Điếu này hàng chục năm qua, tôi không hề biết, vì khi tôi bị thương nằm xuống, thì nước mất nhà tan, Chấp, Cử đi tù có liên lạc gì được với nhau, cho đến bây giờ Chấp nói thì tôi mới hiểu, và nhìn thấy cái danh dự muộn màng của mình. Tôi thật ân hận nhìn hai người bạn, một người vì thay tôi trong lúc tôi bị thương đã bị đi tù thế tôi cả chục năm trường nơi miền Bắc cơ cầu cự khổ. Một người vì tình bạn, đã liều thân cứu tôi đem về Cộng Hòa, nếu không thỉ vết thương trong đầu tôi cũng rỉ máu cho đến chết, đâu còn ngồi đây!. Cảm ơn hai bạn, cảm ơn tình huynh đệ chi binh. Một điều nữa mà cũng sau này tôi mới biết. Qua cuốn sách "Thảm Kịch Việt Nam 1975" của Trọng Đạt, người biên cứu lịch sử, trong trang 314, Trọng Đạt đã trích của Nguyễn Đức Phương, tác giả Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 790, " Thượng tuần tháng 4,1975, đài phát thanh và truyền hình tại Sài Gòn ca ngợi chiến thắng Long An (Thủ Thừa) " Chiến thắng Long An và Long Khánh là những nhát búa đập lên đầu bọn chủ bại", mục đích nâng cao tinh thần quân dân. Lê Đức Thọ, nhân vậ̣̣t Cộ̣̣ng Sả̉n thứ́ hai, chỉ̉ sau Lê Duẩ̉n cũng phải công nhận thất bại tại trận Thủ Thừa Long An và Xuân Lộc Long Khánh. Trích lời Lê Đức Thọ: " Sau hai lần B2 xin quân thì tôi vào chiến trường gặp lúc hội nghị Miền vừa kết thúc. Tôi được anh em báo cáo lại là đã bàn về việc đánh Xuân Lộc. Lúc ấy tôi cũng được biết trước đó, theo chủ trương của Miền, anh em đã đánh Thủ Thừa , đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường?." Ngoài ra còn có bọn địch ngoan cố chống cự như trận đánh vào Đồng Dù (Củ Chi), Nước Trong (Trường Thủ Đức, Trường Thiết Giáp) là các trận đánh ác liệt tại Miền Đông thương vong của ta không phải là ít. Do đó tôi mới có ý toan bàn với các đồng chí ngưng đánh Xuân Lộc lại. Nhưng nghe anh Dũng nói, tôi cũng nghĩ có thể mình mới vào chưa rõ hết tình hình, cứ để các đồng chí đánh vậy. kết cục là anh em ta không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng phải rút ra. Hết trích Cuộc chiến đưa đến sự thất trận của Miền Nam là Mỹ đã ngưng cung cấp vũ khí phương tiện cho VNCH, và ác nhất là Mỹ đã tạo hỏa mù, tung tin thất thiệt để làm tiêu tan cả một quân lực, QLVNCH đã không có cơ hội giao chiến với CS, cứ bị lệnh rút quân chạy dài. Duy chỉ có hai trận đánh là Trận Xuân Lộc Long Khánh và Thủ Thừa Long An là đáng kể. George J. Veith trong cuốn "Black April" page 403, 404 &534 .. Trích và dịch: ---Sau Trận đánh, tỉnh trưởng Long An đã tăng cường hai tiểu đoàn DPQ, Ngày sau quận trưởng ra lịnh đoàn tầu dấu sau con lach nhỏ, dùng DPQ truy lùng. Bất thần đụng độ hỏa lực khủng khiếp, Công Trường 5 Cộng Sản dùng trung đoàn trừ bị tấn công, lực lượng DPQ đã phải tháo lui lại kinh Thủ Thừa, không còn chỗ để lui vì con rạch. Trưởng đã nhanh chóng phản công bằng đoàn tàu tuần giang ẩn náu phía sau. Cuộc tấn công đã làm cho Cộng Sản trả giá đắt. DAO Mỹ báo cáo VC bị giết 122 tên. Trang 534: 3 giòng cuối: 25. Đinh Hùng Cường, The last battle, Major Cường was the Thủ Thừa District chief until he was wounded in action on 13 April 1975. Tôi ghi lại những sự thật về tâm tư cá nhân tôi và những biến cố xẩy ra trong thời gian Tháng 4,1975. Mục đích tôi chỉ muốn nói lên rằng, chúng ta không thể quên ơn lòng dũng cảm của những người lính Địa Phương Quân của Long An và Sư đoàn 18 của thiếu tướng Lê Minh Đảo đã hy sinh để giữ cho Sai Gòn đứng vững được tới 30 Tháng 4, 1975. Nhân đây cũng xin nhắc đến sự bất công của lịch sử và thành kiến của một ít người, đã nhận định sai hai chuyện dưới đây: 1/- Chỉ có Sư Đoàn 18 trấn Long Khánh giữ cho Sài Gòn không bị thất thủ trước ngày 30 Tháng 4. Điều đó quá đúng, nhưng lịch sử và những người thành kiến quên rằng Địa Phương Quân Thủ Thừa không đẩy đươc Công Trường 5 Cộng Sản giữ an ninh cho Quốc Lộ số 4 thì Sài Gòn đã đói loạn vì không có nhu yếu phẩm. Bên cạnh đó, một khi khuynh loát được Quốc Lộ 4 Công Trường 5 sẽ tăng viện, bôn tập đánh thẳng vào Sài Gòn qua ngã Phủ Lâm, không có một lực lượng chủ lực nào ở ngã Bình Chánh hay Phủ Lâm để ngăn chặn Công Trường 5 (công trường là sư đoàn) Cộng Sản. Bởi thế trong buổi phỏng vấn tướng Lê Minh Đảo trên đài truyền hình SBTN, thật là công đạo, thiếu tướng Lê Minh Đảo đã nhắc tới trận đánh Thủ Thừa khí tôi phỏng vấn ông về mặt trận Long Khánh. là người của SBTN ngồi phỏng vấn thiếu tướng Đảo, tôi không hề nói về Thủ Thừa, và cũng không hỏi ông về trận Thủ Thừa xảy ra cùng lúc với trận Long Khánh, nhưng tướng Đảo đã ghi công cho chiến thắng Thủ Thừa Long An cùng Xuân Lộc Long Khánh. Đúng như Lê Đức Thọ của Cộng Sản cũng đã công nhận. 2/- Những người quận trưởng, chỉ lo chạy tiền, chạy chức, tham nhũng. Sự thật không phải vậy. Những người trẻ như chúng tôi được thượng cấp giao phó cho chức vụ quận trưởng. Người quận trưởng là cấp chỉ huy dân sự và quân sự nòng cốt của đất nước. Trực tiếp điều khiển xóm làng, tiêu diệt hạ tầng cơ sở địch, dành dân giữ đất, lo an ninh cơm áo cho người dân. Cũng như người chỉ huy nòng cốt cửa quân đội là người hạ sĩ quan trung sĩ (**). Những người hạ sĩ quan thực sự chỉ huy người lính để tiêu diệt kẻ thù làm chủ chiến trường. Người quận trưởng trách nhiệm ngập đầu, làm việc quên cả gia đình vợ con. chỉ thấy nhiệm vụ trước mắt. Xin hãy nhìn sự việc trên thực tế, và nhìn những người quận trưởng với con mắt thiện cảm hơn là cáo buộc những điều không có. Sự thiên lệch của một số người, cũng như sai lầm của những nhà viết sử. Họ cho rằng chỉ có những lực lượng tổng trừ bị, sư đoàn mới là những lực lượng dũng mãnh có thể chiến thắng Cộng Quân. Họ đã quên rằng QLVNCH với gần 1 triêu quân, Những sư đoàn tồng trừ bị, những sư đoàn bộ binh gồn các binh chủng nha sở, Tổng Tham Mưu, cộng lại ít hơn một nửa lực lương Địa Phương Quân và Nghĩa Quân. Và nếu chúng ta cho rằng hơn một nửa quân lực là ĐPQ & NQ yếu kém. không anh hùng thì ai sẽ giữ an ninh cho 44 tỉnh miền Nam? và nếu một quân lực có hơn 1/2 là yếu kém làm sao đứng vững trong chiến tranh trong suốt 21 năm qua. Hãy trả lại công bằng cho lịch sử, hãy trả lại anh hùng và hy sinh cho những người linh anh hùng của Miền Nam, vì nhu cầu chiến thuật, người lính phải làm những nhiệm vụ khác nhau. nhưng trách nhiệm và hy sinh giống nhau, như một câu nói của quân đội Mỹ: Không nhiệm vụ nào khó, không hy sinh nào lớn. Bổn phận trên hết. Ghi chú (**): Người trung sĩ quan trọng hơn ông đại tướng do Đại Tướng Westmoreland nói. Khi là tổng chỉ huy MACV tại VN, đại tướng Westmoreland có đến thăm một đơn vị nhỏ, trong một tiền đồn. Đại Tướng đã hỏi, người trung sĩ truởng đồn, cấp bậc nào là quan trọng nhất?. Ông trung sĩ chỉ ngay ông đại tướng. Đại tướng Westmoreland lắc đầu chỉ vào ông trung sĩ và nói. Ông trung sĩ mới là quan trọng. Ông là một hạ sĩ quan, chỉ huy trực tiếp và chiến đấu sát nách từng người lính một, sống chết đánh giặc. Còn từ thiếu úy trở lên, chỉ chi huy qua trung gian. Great Falls, Virginia. Tháng 4 ngày 21, 2019 Quốc Thái Đinh Hùng Cường Cựu Quận Trưởng Thủ Thừa Long An, Việt Nam Cộng Hòa.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 27, 2019 7:50:33 GMT 9
Tướng Đồng Văn Khuyên và nỗi buồn của kiếm sĩ Đăng Dung26/04/201914:42:00(Xem: 228) Hồ Thanh Nhã Tôi có dịp gặp mặt Tướng Đồng Văn Khuyên 2 lần khi ông đến làm lễ bế giảng lần đầu là khóa Sĩ Quan Tiếp liệu binh đoàn năm 1971 và lần sau là khóa Sĩ Quan Tiếp vận trung cấp tại Trường Tiếp vận năm 1973 khi tôi về học tại đây. Người trung bình, trắng trẻo, mặt vuông cương nghị, tiếng nói sang sảng khi ông dặn dò các Sĩ quan khóa sinh mãn khóa. Thật đáng mặt là một Tướng tham mưu giỏi nên mới giữ được lâu cương vị là Tổng cục Tiếp vận, cánh tay phải của Đại tướng Cao văn Viên Tổng Tham mưu trưỡng Quân Lực Việt Nam cộng Hòa. Với cương vị nầy ông phụ trách tổng quát tài sản của toàn Quân lực Việt nam Cộng Hòa khi có trách nhiệm chỉ huy và điều hành nhiều cục khác nhau, phụ trách nhiều lãnh vực khác nhau như các cục Quân cụ, công binh, Mãi dịch, Quân nhu. . . . Tình hình chiến sự của Việt nam trong tháng 4 năm 1975 càng ngày càng thêm bi đát. Miền Trung thì từng tỉnh mất dần, Xuân Lộc bỏ ngõ vì ở kháng tuyến cuối cùng nầy Sư đoàn 18 bộ binh đã rút. Tướng Khuyên còn ở lai Sài Gòn cho đến ngày 28 tháng 4 năm 1975 mới bỏ nước ra đi. Ra đi với tâm trạng của môt kiếm sĩ thất thời đành sống kiếp lưu vong. Ông đã ra đi trong khi Sài Gòn đang cơn hấp hối vô phương cứu vãn nổi.
Tới Mỹ, cũng như bao nhiêu kẻ sĩ khác bỏ nước ra đi, gia đình ông Khuyên sống âm thầm, thu nhỏ trong góc hẹp, giới hạn tiếp xúc với đồng hương. Ông xuất gia và tu hành lặng lẽ trong một ngôi chùa cũng lặng lẽ ít đồng hương lễ lạc. Kiếm sĩ Đặng Dung ngày xưa cũng sống như vậy. Một chiếc bóng cô đơn thiền hành trong đường chiều trong bóng xế cuộc đời. Biết nói với ai, biết chia xẻ với ai Trong vô cùng thiên địa nầy : Quốc thù dị báo đầu tiên bạch
Kỳ độ long tuyền đới nguyệt ma Đặng Dung. Rồi có ngày kia, một nhà sư già từ hàng chục năm qua, sống âm thầm như môt chiếc bóng và cho đến khi về với đất cũng lặng lẽ, quạnh hiu chỉ có vài người thân đưa tiễn. Ta hãy lắng lòng mà đọc bài thơ dưới đây :
Tướng quân quét lá
Sáng đi trên lối cỏ
Bước thiền hành nhẹ tênh
Sương tan đầu ngọn gió
Nghe cuộc đời biến thiên
Hơi thở dài sâu chậm
Đi tận cùng phế nang
Thẳng lưng lòng trống rổng
Máu tuần hoàn khắp thân
Lỡ không tròn mộng lớn
Vẫy tay chào cố nhân
Thiền môn nghe vắng lặng
Nhẹ gánh đời tướng quân
Tăng bào bay gió lộng
Đón tiết trời Thu sang
Sân sau vàng sắc lá
Dáng Thu đi muộn màng
Chiều sang im tiếng gió
Chổi lướt đường sỏi con
Nhà sư già quét lá
Quét nỗi buồn nước non
Một thời khoát chinh y
Mộng vá trời lấp núi
Giang sơn giờ đã đổi
Khung trời mây bay đi
Lá rơi trên bờ cỏ
Lá bay triền suối con
Quét vừa xong lớp trước
Đợt khác lối đi mòn
Quét làm sao cho hết
Tâm bao giờ thấy an
Thân chưa vào thanh tịnh
Thao thức chiều gió sang
Tướng quân giờ thí phát
Đầu trọc áo nâu sòng
Việc đời trôi chốc lát
Thôi. . nép mình cửa không
Tướng quân thường quét lá
Chiều xuống lại chiều lên
Tăng bào theo bóng gió
Phơ phất trời lãng quên
Gặp vài ba người quen
Hỏi han đôi chuyện cũ
Quảng đời xưa đâu đó
Chớp mắt trời gió im
Hôm qua và hôm nay
Từng mùa Thu qua vội
Nhà sư già ngưng chổi
Ngắm gió đùa bóng mây…[/i] Hồ Thanh Nhã ********************************************* ĐỒNG VĂN KHUYÊN Vị Nội Tướng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Giao Chỉ - San Jose Chiến tranh Việt Nam thực sự khốc liệt nhất trong 10 năm cuối cùng từ 1965 đến 1975. Trong suốt thời gian khói lửa trên toàn thể miền Nam, mọi quyết định hành quân quan trọng nằm trong tay các tư lệnh quân đoàn kiêm tư lệnh Vùng theo chỉ thị trực tiếp từ tổng thống. Chức vụ tổng tham mưu trưởng bộ TTM và tổng trưởng quốc phòng đã bị lu mờ vì những lý do chính trị. Tuy nhiên bộ quốc phòng và bộ tổng tham mưu vẫn nỗ lực làm tròn bổn phận về quản trị hành chánh, tài chánh, huấn luyện, tiếp vận, chiến tranh chính trị và nhân lực. Không có các chức quyền khả năng điều hợp tại hậu phương, tiền tuyến không thể đứng vững. Suốt 10 năm chinh chiến, đã có trên 10 vị trung tướng tư lệnh quân đoàn thay nhau chỉ huy các Vùng chiến thuật. Các vị tư lệnh nổi danh một thời, tên tuổi lừng lẫy trên các chiến trường và trên những trang báo Sài Gòn. Nhưng rất ít người biết đến một vị trung tướng, trong suốt 10 năm đóng vài trò hết sức quan trọng trong công tác nuôi đạo quân một triệu lính. Ông là người giới quân sự Mỹ tin tưởng nhất, tôn trọng nhất và Ngũ giác đài Hoa Kỳ đã có lúc gián tiếp cho rằng không ai thay thế được. Khi thảo luận về các chức vụ tại tổng tham mưu, trung tướng Trần Văn Đôn, vị bộ trưởng quốc phòng cuối cùng cũng nói rằng việc này phải giao cho ông. Vào những ngày cuối, đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng ra đi đã để lại giấy ủy nhiệm chức vụ cho ông. Tướng Nguyễn Cao Kỳ, sáng 29 tháng tư, sau khi bay một vòng trên không phận Sài Gòn, đáp xuống bộ tổng tham mưu ghé vào hỏi thăm, vị trung tướng còn ngồi lại cho biết tình hình tuyệt vọng. Ông Kỳ bỏ ý định bay xuống miền Tây. Trực thăng của ông bay thẳng ra biển Đông. Vị trung tướng cuối cùng của VNCH mà người Mỹ đợi chờ dục dã đưa đi nhưng vẫn còn ngồi lại mà trong lòng như lửa đốt. Ông lên xe chạy qua văn phòng tùy viên Mỹ trong Tân sơn Nhất. Rồi ông lại trở về. Hai giờ chiều 29 ông đi một vòng bộ tổng tham mưu rồi lại qua bên Tân sơn nhất. Ông ở đó để được Hoa Kỳ bốc đi vào buổi tối. Người đó là trung tướng Đồng Văn Khuyên, vị Nội Tướng của QLVNCH. Người trách nhiệm nuôi một triệu lính trong 10 năm cuối của miền Nam. Bài này tôi viết cho ông. Gia đình tiếp vận. Trong gia đình, để ca ngợi người vợ hiền quán xuyến, thiên hạ gọi bà là nội tướng. Khi đề cập đến vị trung tướng tổng tham mưu trưởng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, nếu gọi ông là nội tướng ắt có sự hiểu lầm, sẽ chê bai đây là chức vụ tầm thường trong bếp. Không. Ủy Ban Path Finder của chúng tôi gồm các sĩ quan Mỹ Việt chuyên về biên khảo và phân tích đã có 1 thời đồng ý rằng các trung tướng tư lệnh vùng trước sau cả chục ông nhưng con người chỉ huy toàn bộ guồng máy tiếp vận suốt 10 năm chinh chiến chỉ có một trung tướng duy nhất. Ông Đồng Văn Khuyên sinh năm 1925 tại Gò Công. Đại tá Thịnh từ Was. DC mới điện thoại cho tôi nói là ông xếp 86 tuổi của chúng tôi đã nhập viện. Tinh thần không còn minh mẫn, thể chất đã quá yếu. Chẳng biết ra đi lúc nào. Thuộc cấp gần với ông Khuyên còn lại cũng chả được mấy người. Anh thì 3 chân 4 cẳng, anh thì xe lăn. Anh thì lặn kỹ khắp bốn phương trời. Nào biết chăng còn bao nhiêu hơi sức để về thắp nén hương cho người chỉ huy gốc nông dân miền Hậu Giang. Tôi với ông sinh ra ở 2 miền đất nước. Người ta là công tử xứ Thăng Long ngàn năm văn vật, quê tôi ở chỗ Nam Định quê mùa. Các bác là anh chị từ Bạc Liêu qua Cần Thơ lên đến Saigon. Ông Khuyên là dân Gò Công tỉnh lẻ nằm ngoài lề con đường cái quan. Mười năm đầu của trường đời trong quân ngũ, tôi còn lang thang đây đó. Mười năm sau của cuộc binh đao, tôi có duyên gặp ông, làm việc với ông, hiểu rõ cuộc đời, cá tính và hoàn cảnh của ông xếp. Bài viết cho ông mà giãi bầy cả cuộc đời mình, xin phân trần 1 lần cho cả toàn quân dù nay đã rã ngũ.. Trong suốt 21 năm ở lính, chúng tôi trải qua nhiều giai đoạn, biết được bao nhiêu là các cấp chỉ huy. Bắt đầu là đại tá sau lên trung tướng Dương Văn Đức. Từ lúc ông hét ra lửa ở Sóc Trăng cho đến lúc thành người điên đứng đái ở đường phố Saigon. Có thời kỳ là xếp đại tá Y, thân phụ của cô ca sĩ đấu tranh Nguyệt Ánh. Ở miền Tây trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu thì gặp ông Dương Văn Minh. Đã từng rủ đại tá tư lệnh Nguyễn Hữu Có đi ciné xem phim Cầu Sông Kwai. Cùng đi chơi bời với tướng Nguyễn Văn Toàn ở ngã ba Vườn Chuối. Chuyện sai chuyện đúng, chuyện lớn chuyện nhỏ biết được khá nhiều. Mới đây được anh Chu Xuân Viên nhắc lại khi viết báo Chính Luận cho Từ Chung tôi đã được Thế Uyên rủ rê đi họp nhóm Thái Độ tưởng dùng văn hóa mà nổi dậy làm cách mạng. Khi họp về bị an ninh quân đội bắt làm báo cáo. Tôi cóc báo cáo nhưng cũng thôi đi họp. Những bài báo trên Chính Luận chê trách các niên trưởng lại bị an ninh quân đội yêu cầu muốn tiếp tục viết báo phải làm đơn xin bộ Quốc Phòng. Chả dại gì mà xin, bèn thôi. Tất cả hồ sơ đến tay ông Khuyên đều được phê Xếp. Những ân tình thông cảm như thế, làm sao quên được! Khi ngành tiếp vận tổ chức kỷ niệm 10 năm thành lập, xếp Khuyên cầm tay hồ sơ dành cho riêng mình tôi lên cấp đại tá đặc cách. Tướng Vỹ bộ trưởng quốc phòng thấy chưa có bằng chỉ huy tham mưu cao cấp bèn từ chối. Ông Khuyên yêu cầu tướng Vỹ cho nợ. Đeo lon rồi đi học sau. Mấy năm sau, ông Khuyên được trực thăng Mỹ chở ra biển Đông đêm 29 tháng 4-75. Chiều 2 tháng 5-1975, tàu quân vận của chúng tôi được Mỹ vớt lên thương thuyền. Đại tá Giao Chỉ nhà ta áo trận lon vàng còn cả tùy viên và chiến hữu đứng nghênh ngang không giống ai, bèn bị Marine Mỹ tước súng vất xuống biển. Ngó đi ngó lại thấy đủ 20 ông tướng di tản kể cả ông Kỳ, ông Trưởng và ông Khuyên. Các vị niên trưởng đã thay quần áo dân sự ngồi yên lặng mỗi người một góc, mặt dài như chiều đông. Ông Khuyên gọi tôi ngồi xuống, lấy kéo cắt chỉ gỡ cặp lon đại tá mà ông gắn cho tôi mấy năm trước tại bộ Tổng Tham Mưu. Ân tình của cậu bé Nam Định đối với ông nhà quê Gò Công biết đời nào tôi quên! Người yêu nước ở miền Nam. Thời kỳ hơp tác với Mỹ chỉ huy Ủy ban Pathfinder tôi có dịp xem bản sao hồ sơ các tướng lãnh miền Nam do Mỹ lưu trữ. Ông nào ông ấy đều có chuyện nhỏ to. Hồ sơ ông Khuyên sạch boong với những ghi chú hết sức đặc biệt. "Cốt cách nông dân, hết sức thanh liêm, cá nhân và gia đình không có nhu cầu. Nhà trong cư xá, không có nhà riêng, không có xe riêng. Thậm chí không có chương mục ngân hàng. Không lấy lính làm gia nhân. Lợi tức bổ túc: nuôi gà. Ghi chú: Trung tướng không biết lái xe, không biết khiêu vũ, không uống rượu, không hút thuốc, không có bạn gái. Không liên hệ với cộng sản như tin đồn. Không có bạn bè thân thiết ăn nhậu... Khuyết điểm: Quá say mê làm việc. Hay nổi nóng bất ngờ. Đôi khi quá tình cảm bao che cho thuộc cấp. Khi thảo luận về nhu cầu quân viện hay đòi hỏi vô lý. Nhân vật chính trong vụ chuẩn bị quỹ tiết kiệm nuôi quân tự túc ngoài chương trình viện trợ. Tuy nhiên, sau cùng đây là người yêu nước miền Nam, không có tinh thần kỳ thị". Bản ghi chú về ông Khuyên đề ngày 13 Nov. 1972 với chữ ký của tướng Jos M. Heiser, Jr. xếp về logistics tại Ngũ giác đài. Bàn văn này ông đại tá Sheriff cố vấn đối nhiệm của tôi tại Pattfinder II cho xem trước khi về nước. Nhà quản trị thanh liêm. Từ ngày ra trường, ngoài thời gian ông làm phụ tá cho tướng Thanh chỉ huy địa phương quân miền Tây, từ đó về sau tướng Khuyên chuyên về quản trị và tiếp vận. Ông là 1 sĩ quan vô địch về chuyên cần, ông say mê làm việc, có óc sáng tạo, có khả năng điều hành quân sự và hết lòng lo cho quân đội. Người thanh niên đất Gò Công với tấm lòng yêu nước bao la và tuyệt đối không màng đến quyền lợi riêng tư. Cấp bậc và chức vụ đuổi theo ông chứ ông không chạy theo chức vụ và cấp bậc. Suốt cuộc đời ngày đêm toàn chuyện quân đội, chuyện ngoài đời ông là tay khờ khạo. Không có bạn bè thân thiết trong tình đồng khóa, trong hàng tướng lãnh hay thuộc cấp. Tất cả đều là công việc và do đó khi thiên hạ đồn ông là cộng sản nằm vùng, lặn sâu trong hàng ngũ quân đội cũng dễ dàng cho đám nhẹ dạ tin theo. Điều quan trọng là từ khi lên cấp tướng làm tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận, ông được sự tin tưởng tuyệt đối của phái bộ viện trợ Hoa Kỳ. Báo chí Mỹ đôi khi có thể ca tụng các sĩ quan Việt Nam xuất sắc tại tiền tuyến nhưng báo cáo mật của Mỹ luôn luôn ghi lại những phê phán xuất sắc về tướng Đồng Văn Khuyên. Có thể nói thật sự ngay như ông Thiệu, ông Viên muốn thay thế ông Khuyên cũng không có người nào được Mỹ chấp thuận. Lòng yêu nước, sự tận tụy với công vụ và sự trong sạch vô địch của ông Khuyên đã giữ ông ở chức vụ có thể nói là không thể thay thế. Thiếu tá Quý viết bài báo về ông xếp, ghi lại là vừa đi làm về thấy vợ báo cáo là chuồng gà bị hư, xếp cởi áo 3 sao vắt trên ghế, quần xà lỏn với áo thung rách, xếp lấy kìm búa sửa chuồng gà. Anh tài xế trố mắt đứng nhìn không tin là ông tướng thực. Không những thế gia đình ông lại sạch sẽ cả vợ lẫn chồng. Bà Khuyên từ lúc lấy chồng cho đến khi chồng lên trung tướng, dường như vẫn mãi mãi là người vợ lính chân quê. Tướng Khuyên tác người nhỏ bé nhưng học hành xuất sắc. Khóa 1 Thủ Đức ra trường đậu thứ nhì. Phải mà ông to con, cao hơn một tấc chắc phải lãnh chức Thủ khoa. Toàn quân suốt 4 vùng chiến thuật, nếu không ở gần không ai hiểu rõ tướng Đồng Văn Khuyên. Tin tức đồn thổi láo lếu đã quả quyết ông Khuyên là cộng sản nằm vùng bà con với tướng cộng sản Đồng văn Cống. Sự thực hoàn toàn không hề liên hệ. Đã 40 năm qua, đêm nay tôi ngồi nhớ lại hành trình trên con tàu buôn chạy từ biển Đông mà đến đảo Guam. Mấy chục ông tướng hải lục không quân bây giờ sao chẳng còn ai. Bên không quân còn nhớ có ông Kỳ, ông Trần Văn Minh, ông Phan phụng Tiên. Bên Hải quân thấy có ông Hoàng cơ Minh. Các tư lệnh vùng có tướng Toàn, tướng Trưởng và còn rất nhiều niên trưởng tao ngộ trên cùng chuyến tầu. Ngày nay chẳng còn được mấy người. Phân trần cũng chẳng còn ai lắng nghe. Khi anh em ngồi trên tàu quân vận trên sông Saigon, thấy lửa cháy bên kho đạn Thành tuy Hạ. Tàu của bộ binh chúng tôi trôi trên sông Saigon theo tàu hải quân ra đi lần cuối.. Chúng tôi nghe tướng Vĩnh Lộc nói rằng sao đã chạy như chuột. Nhưng rồi ông cũng vội xuống tàu đi sau tàu của anh em. 21 năm binh nghiệp của chúng tôi trôi như lục bình. Nhưng mà còn đỡ. Hùng xùi anh em khóa Tư kẹt lại sau này đã nói rằng. Chúng mày chạy được là may. Bọn tao ở lại nhục lắm. Họp mặt trại Trần Hưng Đạo. Năm 2005 tôi tổ chức họp mặt trại Trần Hưng Đạo trên thủ đô Hoa Kỳ. Niên trưởng Cao văn Viên đau yếu không đến được. Xếp Khuyên đi chào bàn các chiến hữu gặp Vũ thế Quang, Nguyễn hữu Luyện, anh em cùng khóa của tôi. Các bạn ở tù hơi lâu. Luyện nhẩy Bắc năm 66 bị tù 21 năm trong đó có hơn 1 nửa thời gian cùm biệt giam. Ông Khuyên nước mắt long lanh nói lời gan ruột. Ông nói: Kể ra mình chạy được cũng là hèn. Đây là lần thứ ba tôi trông thấy ông khóc. Lần thứ nhất họp tại tổng tham mưu nói về Phước Long thất thủ. Lần thứ hai là ông cùng tướng Mỹ chạy lên Hóc Môn xem cảnh máy bay C5 chở cô nhi bị rớt. Và 30 năm sau họp mặt trại Trần Hưng Đạo năm 2005. Thời kỳ mới qua Mỹ, vợ ông tướng bán chiếc nhẫn cưới trong trại để lấy tiền gọi điện thoại cho chồng còn ở đảo Guam. Qua Hoa Kỳ, tướng Mỹ bảo trợ cho tướng Việt Nam. Ông lớn nhà binh Mỹ ấm ớ hội tề không biết tiền xã hội Cali sẵn sàng giúp cho tỵ nạn học nghề làm lại cuộc đời. Ông giới thiệu cho xếp tôi đi làm xếp bồi cho nhà hàng. Bà Khuyên được chồng nuôi cho đi học lại. Cả 2 vợ chồng đều không biết lái xe. Hoàn cảnh ở Việt Nam như thế, hoàn cảnh ở Mỹ như thế. Vậy mà có thằng khốn nạn viết sách, viết báo nói ông Khuyên bán xăng bạc triệu để thành siêu tham nhũng. Nó nói là ông bán xăng ngay trên biển Đông. Bán xăng Mỹ theo kiểu quốc tế. Tàu dầu Hoa Kỳ thay vì đến kho xăng Nhà Bè thì ghé bán cho Singapore để ông Khuyên đưa tiền vào nhà băng Thụy Sĩ. Tên khốn nạn lại còn viết rằng không quân VN chế ra loại bom xăng thả trực tiếp từng thùng 200 lít xuống mặt trận. Các đơn vị cộng sản chết cháy cả trung đoàn. Nếu có đủ xăng mà đánh như thế thì phe ta không thua trận 75. Vì xếp Khuyên và cả thằng Lộc bán xăng bên Tân gia Ba nên quân ta không có xăng mà đánh hỏa công. Chúng nó nói thế mà cũng có người tin thì còn trời đất gì nữa!!! Thưa niên trưởng, Ngày nay tuy không ở gần nhưng tôi vẫn hiểu ông trước sau như một. Những ngày cuối ông để mọi việc ngoài tai. Ông tìm đường đi vào đạo Phật. Người ông nhẹ tênh. Tôi lên thăm ông xếp. Ông nhìn tôi cười thật tươi. Tôi mời ông ra vườn sau có ánh nắng để chụp bức hình kỷ niệm. Tôi đưa ông cầm bức tượng Tiếc Thương như để thầy trò nhớ lại ngày xưa khi buồn phiền mình lên thăm nghĩa trang quân đội. Toàn quân các binh chủng đều bình đẳng về đất nằm dài dưới ánh mặt trời chói chang cờ vàng. Sao kỳ này chuẩn úy chết quá nhiều. Cũng như mình ngày xưa. Mới ra trường sợ lính cười nên anh sĩ quan trẻ hiên ngang xông ra đằng trước. Ông xếp là nội trợ của toàn quân. Lính sống, lính chết đều là con cái của mẹ già. Thiên hạ nói là tại sao phe ta không chuẩn bị để tự chiến đấu nếu bị Mỹ bỏ rơi. Thưa quý ngài, chúng tôi cũng có tính đến bài chiến đấu một mình. Ông Khuyên đã từng tích cực tham dự vào chương trình quỹ tiết kiệm quân đội. Trích lương lính mỗi tháng 100 để xây dựng công binh xưởng. Than ôi, mộng lớn chưa biết có thành không mà Mỹ cùng ba Tàu Chợ Lớn đã xúm lại đánh xập dự án tự túc tự cường. Ông Thiệu, ông Khiêm còn không đỡ nổi. Bây giờ 40 năm sau, nhân danh tổng thư ký của buổi họp bài trừ tham nhũng tại bộ tổng tham mưu ngày xưa, tôi xin thưa rằng vị chủ tọa hôm đó là trung tướng Đồng Văn Khuyên. Ông là người sạch nhất trong hàng tướng lãnh. Có anh trung úy tốt nghiệp chiến tranh chính trị đứng lên hỏi rằng có thể trung tướng tham nhũng nhưng giỏi quá, khéo dấu thì sao. Ông xếp tôi ngồi thừ người rồi nghẹn ngào nói rằng: - Tôi mà bê bối thì xin ra lăng ông bà Chiểu bẻ cổ gà mà thề. "Qua mà ăn thì xe mười bánh ăn qua đi." Ôi ! xếp Khuyên, nghe ông nông dân Gò Công nói như thế, anh em thương ông biết là bao! Bây giờ, viết lại chuyện cũ, còn ai đọc mà hiểu được những tình tiết này. Người biết không nói. Người nói không biết. Biết hay không biết, tất cả đều qua đi. Ngày mai khi ông ra đi, phải chi tôi còn tìm được can xăng quân đội mà bán để lấy tiền mua vé máy bay lên Was. DC tiễn đưa ông lần cuối... thì phải lẽ biết chừng nào! Thưa niên trưởng, kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo... Giao Chỉ, San Jose********************* Đồng Văn Khuyên: Tướng Tham Mưu Tài Ba24/03/2015 Đỗ Xuân Tê Một vì sao lại vừa rụng sáng chủ nhật 22 tháng 3 sau bốn mươi năm kể từ ngày di tản buồn. Mấy ngày trước khi ông mất, người ta nhắc nhiều đến tên ông – trung tướng Đồng Văn Khuyên - một tướng lãnh chưa một lần cầm quân cấp trung đoàn nhưng trở thành tướng ba sao, mỗi sao chưa đầy ba năm và chức vụ cuối cùng trước ngày mất nước là Quyền Tổng tham mưu trưởng QLVNCH trao tay từ người đàn anh là Đại tướng Cao Văn Viên từ nhiệm sáng 28/4.
Trong quân đội có thể nhiều người lính chưa biết tên ông, nhưng sĩ quan và ai đảm nhận chức vụ chỉ huy bất kể ngành gì thì đều biết ông. Một thuộc cấp gần gũi với ông, đại tá VVL tức nhà văn Giao Chỉ đã gọi ông là nội tướng của toàn quân chuyên lo vấn đề tiếp vận từ súng ống đạn dược quân xa, quân cụ đến thực phẩm lương khô, quân trang, xăng nhớt…và trong thời cao điểm của cuộc chiến suốt một thập niên tên ông đồng hành với công tác tiếp vận tiếp liệu mà chức vụ chính thức là Tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận trong hệ thống tham mưu đầu não tại trung ương.
Xuất thân Khóa 1 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, ông là một trong số sĩ quan đầu tiên có bằng tú tài bị gọi động viên gia nhập quân đội quốc gia. Sau thấy hợp áo lính ông chuyển sang sĩ quan hiện dịch và kể từ chiến dịch bình định Khu 5 cũ tại miền Trung sau 54, ông trở thành sĩ quan tham mưu chuyên về phòng tư lo các mặt tiếp vận, hậu cần cho đơn vị.
Mười năm sau ông trở thành chỉ huy trưởng BCH 3 tiếp vận cho quân đoàn 3 mà lúc này tư lệnh là thiếu tướng Cao Văn Viên. Tướng Viên một sĩ quan Dù thấy ông xuất sắc về tham mưu đã cho ông kiêm luôn chức Tham mưu trưởng quân đoàn, từ đây đường binh nghiệp như diều gặp gió khi xếp ông trở thành tướng 4 sao nắm chức Tổng tham mưu trưởng của quân lực miền Nam. Tướng Viên kéo ông về trung ương, trao nhiệm vụ tiếp vận cho toàn quân với chức vụ Tham mưu phó kiêm tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận Bộ TTM. Cũng trong thời gian này do nhu cầu công tác, có lúc ông còn làm Trưởng Phòng Tổng quản trị lo về nhân viên và kiêm luôn Đổng lý văn phòng Bộ Quốc phòng, các chức vụ vừa to về chức vừa nặng về quyền nhưng ông luôn giữ vai trò tham mưu đứng sau các xếp lớn, ít khi nào phô trương cá nhân. Ba năm trước ngày mất nước ông đảm nhận chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân, một CEO nếu kể quân đội là một đại công ty, phụ tá đắc lực và quán xuyến mọi việc cho tướng Viên khi ông này luôn đòi từ nhiệm nhưng tổng thống Thiệu không chịu cho người thay thế. Tướng Khuyên dù thực quyền là số 2 trong hệ thống tham mưu chóp bu, ông vẫn kiêm nhiệm chức vụ đầu ngành tiếp vận của quân lực. Nói vậy để thấy sức làm việc đáng nể của ông tướng này và qua đó nếu kể về công trạng ông được kể là tướng tham mưu tài ba và hữu hiệu nhất trong quân lực dù ông chẳng bao giờ cầm quân chỉ huy trực tiếp các đại đơn vị như các tướng lãnh cùng thời mang cấp ba sao.
Về cuộc đời và binh nghiệp của tướng Khuyên, tất nhiên cũng có người nói sao lên lon quá nhanh dù chỉ làm công tác tham mưu, nhưng xét cho cùng con người ta có số, có thế có thời, lại có khả năng, gặp người phù trợ biết cách dùng người (mentor) như tướng Viên thì bảo sao mà ông Khuyên không có cơ hội tiến thân? Cũng từ giai thoại này mà người ta được biết, tướng Đồng Văn Khuyên cũng rât có tình với thuộc cấp, đặc biệt chuyện lon lá thăng thưởng ông cũng sốt sắng và đặc cách cho nhiều trường hợp ngoài bảng cấp số hoặc châm chước về tiêu chuẩn căn bản miễn là người ấy phải làm việc giỏi và tranh thủ được sự tín nhiệm của ông (ít nhất có một người tôi biết là đại tá VVL).
Cũng là sự ngẫu nhiên sau cuộc chiến, khi tôi liên tưởng hai người đứng đầu về hậu cần và tiếp vận của quân đội hai miền Nam - Bắc, ông tướng bên kia cũng họ Đồng xưa nay họ này là hiếm (một ông Hà Tĩnh, một vị Gò Công), nhưng gõ Google tò mò tìm hiểu, tướng Đồng Sĩ Nguyên của Hà nội đã được thăng vượt cấp từ đại tá lên thẳng…trung tướng! Thế mới biết ngành lo về tiếp vận cho binh lính bên nào cũng cần người tài.
Nay viết ít hàng về thân thế, lý lịch của một tướng lãnh vừa nằm xuống, người viết hoàn toàn dựa trên các dữ liệu có thật, trên các chức vụ có thật, với những năm tháng cụ thể và với những nhân vật liên hệ được ghi trong quân sử, chủ đích không hề tô hồng tên tuổi một vị tướng vốn dĩ được sự kính nể của toàn quân mà một sĩ quan cấp nhỏ như tôi ít nhất cũng đã có dịp diện kiến vài ba lần trong các cuộc họp tham mưu cấp cao mà tôi được chỉ định làm biên bản buổi họp.
Lần ấy là năm 1969, một năm sau Mậu Thân, cơ quan chúng tôi có phát động một kế họach nhằm nâng cao tinh thần binh sĩ lấy tên kế họach Chân Trời Mới. Đây là một dự án có tầm qui mô lớn được thực thi trong toàn quân từ trung ương đến địa phương, cũng không phải là kế hoạch xuông nặng về giấy tờ dao to búa lớn mà là đi sâu vào thực tế của từng đơn vị kèm theo các phương tiện yểm trợ phúc lợi cho binh sĩ và gia đình của họ. Kế hoạch do Tổng cục CTCT chủ trì nhưng lại được hậu thuẫn yểm trợ mạnh mẽ từ Tổng cục tiếp vận.
Đích thân đại tướng Cao Văn Viên chỉ đạo cần có phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành của bộ TTM, và qua các buổi họp phân công tôi mới có dịp thấy và nghe khẩu khí của tướng ĐVK qua các phát biểu và lối giải quyết nhanh nhạy của ông. Nhiều việc chỉ cần họp xong dựa vào biên bản là thi hành không cần chờ văn thư văn bản. Có theo dõi định kỳ, có qui trách nhiệm cho từng phần vụ, có biện pháp kỷ luật cho các đơn vị trưởng thiếu quan tâm hoặc chậm trễ công tác. Kế hoạch khi sơ kết có những thành quả nhất định của nó.
Từ các buổi họp này tôi có ý thầm phục tài tham mưu của tướng Khuyên và càng trọng tư cách khiêm tốn của ông khi cùng sao cùng cấp với tướng Trần Văn Trung, tổng cục trưởng ngành tôi, đồng chủ tọa buổi họp nhưng ông luôn kéo ghế sang ngồi phía bên phải cùng các cục trưởng dưới quyền và tham dự như một thành viên cấp cao.
Ra hải ngoại cách đây 7 năm ông có sang Cali, chủ yếu là thăm lại bạn bè và các đàn em cũ. Ông đến trong âm thầm ông về trong lặng lẽ, nếu ông muốn cũng còn nhiều thuộc cấp cũ có máu mặt sẽ tiếp đãi phải lẽ. Tôi không ngờ khi ghé thăm một người đàn anh cũng diện H.O. đang ở trên một căn hộ gần khu tượng đài. Anh nói với tôi tướng Khuyên sang chơi mới ở nhà anh mấy bữa, ông này ở một mình lại không có xe sao ông thầy lại chọn chỗ này, mỗi trưa một ông khác có xe đến chở đi ăn cơm bình dân quán Cali 5 đô rưỡi một phần. Sau đó lòng dòng mấy nơi thăm anh em, tối về lại mỗi người một phần đồ ăn to go.
Tôi cũng như nhiều người có thể đặt câu hỏi sao ông Thầy sống giản dị như vậy, nhất là sang đây từ 75 và có một quá khứ quyền cao chức trọng phương tiện trong tay. Anh bạn tôi một người đã ở cùng tướng Khuyên khi còn ở Biên Hòa cũng chỉ là sĩ quan thanh tra tại tổng cục, anh thổ lộ, nói nhỏ mày nghe, nói to chúng nó chửi, ông thầy cũng sạch như xếp mày, không chịu ăn giờ này mới giống anh em mình. Chưa hẳn đã tin, nhưng lòng tôi cũng thấy bâng khuâng giờ này viết lại vẫn còn cảm xúc tiếc thương một ngôi sao vừa rụng.
Viết tại quận Cam 23-2-2015 Đỗ Xuân Tê
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2019 16:06:00 GMT 9
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù trong những ngày cuối cùng Xin tỏ tường một chút băn khoăn mắt thấy tai nghe. Sau khi từ mặt trận Xuân Lộc, Long Khánh rút về Bà Rịa, Vũng Tàu, hân hạnh được ở trên bộ chỉ huy Lữ Đoàn 1 Dù ngày 29-30 tháng Tư, lênh đênh trên chiếc tàu Vĩnh Nguyên gồm đại tá Nguyễn Văn Đỉnh lữ đoàn trưởng vừa thăng cấp đặc cách, lữ đoàn phó trung tá Lê Hồng vừa đặc cách và một số sĩ quan dù. Diễn biến tình hình lúc ấy rất nhanh không thể suy đoán điều gì xẩy ra, địch pháo kích 130 ly liên tục vào Bến Đá trời mưa tầm tả, dân, quân thi nhau tìm ghe thuyền ra khơi tránh đạn pháo và nghe đâu có hạm đội 7 Mỹ vớt, có những chiếc thuyền chở đầy người trúng đạn pháo 130ly VC nổ tung chìm. Lúc ấy bộ chỉ huy LĐ1 dù cố gắng điều hành đưa các tiểu đoàn ra ghe thẳng theo hướng trực thăng lên xuống rồi chuyển qua tàu lớn, phần lớn lính dù được vớt, lúc đó có một anh lính dù nhẩy từ ghe qua tàu lớn rơi chìm trong lúc hổn loạn thôi đành!!!😭. Chiều 30/4 không hiểu lệnh từ đâu phải bàn giao Vũng Tàu, lúc đó đại tá Đỉnh yêu cầu đưa quân về biên giới Thái Lan nhưng bất thành ông rất nóng mặt, thay vì ông có thể đi theo tàu, ông đã quyết định đi vào Gò Công còn lử đoàn phó theo tàu ra khơi, riêng tôi xui xẻo lên trúng chiếc ghe chạy ngược vào Bến Đá chịu cảnh người ở lại. Phan Khôi
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Đỉnh
Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh
Xin hãy coi đây như một nến hương lòng để ngậm ngùi tưởng nhớ những chiến hữu Nhảy Dù/LĐ1/ND+Thiết Giáp tăng phái đã anh dũng chiến đấu, rồi hy sinh tại quê hương trong những ngày cuối để LĐ1/ND cùng một số đồng bào và đơn vị bạn ra đi an toàn đến bến bờ Tự Do. NVĐ
Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua tính từ ngày Miền Nam Việt Nam, một số chiến hữu cũ thuộc Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù (LĐ1ND) do tôi chỉ huy trước năm 1975, có dịp gặp lại nhau tại Hoa Kỳ. Ngoài những hàn huyên mừng vui gặp lại, một số anh em vì còn ưu tư với qúa khứ “sống chết có nhau và ngày vội vả rời bỏ Đất Mẹ, mang nặng trong long đầy ấm ức ,tức tưởi”, vẫn còn một số thắc mắc nêu ra như:
Đang tăng cường cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh (SĐ18BB) phòng thủ tỉnh Long Khánh(cửa ngõ vào Sài gòn) một cách vững vàng, LĐ1ND đã chiến thắng và tiêu diệt gần 2 Trung đoàn của Công trường 7 Việt cộng (VC), tại sao lại phải rút về Phước Tuy?
Đã bảo vệ Quốc lộ 15 (đường Sàigòn Vũng Tàu), đến khi Cộng quân chiếm Phước Tuy, với Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù (TĐND) và Chi đoàn (CĐ) Thiết quân vận(TQV) đã tái chiếm toàn bộ tỉnh lỵ, tại sao phải bỏ Phước Tuy để rút về Vũng Tàu?
Vào ngày cuối cùng ở Gò Công (30-4-1975), khi không liên lạc được với Bộ tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù.(Sài gòn) để nhận lệnh, tôi với tư cách Lữ đoàn trưởng có liên lạc được với Bộ tư lệnh Quân đoàn 4/Quân Khu IV để ngỏ hầu làm thêm một “cái gì” cho đất nước không?
Tại sao khi cùng Lữ đoàn lên tàu để ra đi, tôi và Thiếu tá Ngô Tùng Châu, Tiểu đoàn trưởng TĐ1ND lại nhảy xuống một chiếc ghe nhỏ bơi vào bờ? Và… vân…vân…
Những thắc mắc đó của các chiến hữu cấp dưới đối với BCH/HQ trên, tương tự như những thắc mắc của biết bao người Quốc gia mình tìm hiểu về số phận của từng đơn vị nhỏ hơặc lớn hơn thuộc QLVNCH vào những ngày Miền Nam, đều rất chính đáng và hợp lý.
Riêng đối với LĐ1ND, xin các chiến hữu hiểu rằng: Trong thời gian đó, nhiều biến cố liên tiếp, dồn dập xảy ra trong những ngày quá ngắn, tôi không có thời giờ giải thích cho bất cứ ai, mà chỉ căn cứ vào tình hình hiện hữu rồi ước tính và ra lệnh hoặc phản ứng cấp thời. Xuyên qua bài viết này, các bạn đọc sẽ thấy bang bạc một số ước tính, suy luận đó. Những ước tính, suy luận này có thể còn thiếu sót, không hoàn chỉnh, vì chỉ do một bộ óc, nhưng rất may, nhờ những lý do ngoại cảnh, đã có những kết quả tốt đẹp (đa số các chiến hữu của tôi đã đi thoát và hiện ở Miền Đất Tự Do). Cũng qua bài này, tôi xin mời các bạn đọc theo dõi những bước chân hành quân cuối cùng của một đơn vị “bế hạt tiêu”…
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tại mặt trận Long Khánh
Vừa rời mặt trận Thường Đức và đèo Hải Vân (Đà nẳng) cuối tháng 3, 1975 về tới hậu cứ tại Sài gòn được mấy ngày, chưa kịp chỉnh đốn lại đơn vị, LĐ1ND lại nhận được lệnh của Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù, phải di chuyển gấp lên Long khánh và thuộc quyền chỉ huy hành quân của Bộ tư lệnh Quân đoàn3/Quân khu III.
Sau hơn 8 tháng quần thảo túi bụi với các Sư đoàn 329B, 320, và 304 CS tại Quân đoàn I/Quân khu I, bây giờ lại hành quân, nhưng đối với an hem Nhảy dù chúng tôi là chuyện rất thường tình. Vì thế đôi khi bà con, bạn bè tò mò có hỏi: - một năm đi hành quân mấy lần? Mấy an hem chúng tôi trả lời gọn lỏn: - Một năm đi hành quân có một lần nhưng kéo dài đến 365 ngày. Câu trả lời này gần đúng 95% sự thật.
Kỳ này, LĐ1ND hành quân với 3 Tiểu đoàn Nhảy dù cơ hữu gồm Tiểu đoàn 1 Nhảy dù(TĐT Thếu tá Ngô tùng Châu,Tiểu đoàn 8 Nhảy dù ( TĐT: Trung tá Đào Thiện Tuyển) và Tiểu đoàn 9 Nhảy dù (TĐT: Trung tá Nguyễn văn Nhỏ) và Đại độí Trinh sát Nhảy dù (ĐĐT: Phạm minh Đăng), được yểm trợ bởi Đại đội 3 Công binh Nhảy dù và ĐĐ1 Quân y Nhảy dù và Tiểu đoàn 3 Pháo binh Nhảy dù (TĐT: Thiếu tá Nguyễn văn Thông).
Lệnh hành quân qúa gấp rút. Ngay đêm đầu tháng Tư 1975, trong khi dân Sài gòn còn yên giấc, toàn bộ LĐ1ND đã ngồi trên một đoàn Quân xa di chuyển hướng về Long Khánh. Đến nửa đêm hôm đó, các đơn vị đã hoàn tất bố trí quân sâu trong đám rừng cao su hai bên đường, Cách ấp Mẹ Bồng Con (Tỉnh Long Khánh) không bao xa.
Vào lúc đó, đường từ Long Khánh về Biên Hoà bị kẹt vì Cộng quân đã chiếm ngã ba Dầu Giây, ấp Mẹ Bồng Con và mấy ấp lân cận. Lực lượng bạn, chủ lực là Thiết Đoàn Chiến xa QĐ3 với nhiệm vụ mở đưòng lên Long Khánh, còn cách phía tây ấp Mẹ Bồng Con khoảng 500 thước. Phía đông ngã ba Dầu Giây là phòng tuyến của chiến đoàn 52/SĐ18 Bộ Binh. Quan niệm hành quân của QĐ3/QKIII lúc đó là muốn Lữ Đoàn 1ND vượt qua đơn vị bạn ở phía tây, giải tỏa các ấp bị địch chiếm, tiến vào giao tiếp với Chiến Đoàn 52/SĐ18BB. Sauk hi đến khu rừng cao su, ngay sang hôm sau, tôi xử dụng xe Jeep cùng mấy sĩ quant ham mưu đến vị trí tiền tuyến của đơn vị bạn để hỏi thăm tin tức và thám sát tình hình tại chổ. Xe của chúng tôi đã được địch chào mừng bằng hàng loạt đạn súng cối tới tấp trên đường nhưng rất may bình yên. Trở về trong ngày hôm đó, tôi xin BTL/QĐ3 cấp một chiếc trực thăng cùng các TĐT thuộc quyền bay lên thám sát chiến trường.
Mọi thủ tục xong xuôi và sắp sẳn trong đầu kế hoạch hành quân, chỉ còn chờ ngày N. giờ G là khởi sự. Hai ngày đóng quân trong rừng cao su êm ả. Sáng ngày thứ 3, tôi nhận được lệnh về BTL/QĐ3 họp gấp. Sau buổi họp, thi hành kế hoạch mới, ngay ngày hôm đó, toàn bộ LĐ1ND được trực thăng vận vào thẳng Long Khánh, tăng phái cho BTL/SĐ18BB với nhiệm vụ tăng cường phòng thủ tỉnh này.
Tôi cùng một số sĩ quant tham mưu đi đợt đầu để nhận lệnh, trong khi đó các đơn vị thuộc quyền tùng chuyến rồi tùng chuyến được trực thăng đổ xuống chân đồi Chuối, kế cận chi khu Xuân Lộc. BTL/SĐ18/HQ trú đóng trong một góc rừng Đông Nam kế cận ngã Ba chi khu Xuân Lộc với pháo binh 155 ly và bải đáp trực thăng. Tại một căn hầm làm trung tâm hành quân/SĐ tôi được tướng Lê minh Đảo (1), Tư Lệnh SĐ18BB đích thân cho tôi biết tình hình Địch và Bạn cũng như Dân chúng trong vùng, trong một tấm bản đồ cầm tay như sau:
Ba sư đoàn Cộng quân (nếu tôi nhớ không lầm) dồn nổ lực tấn công mặt Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc tỉnh Long Khánh.
Hầu hết các lực lượng chủ lực của SĐ18BB gồm Trung đoàn Chiến đoàn 52(TrĐT: Đại Tá Ngô Kỳ Dũng), Trung đoàn 43 (Trung Đoàn Trưởng: Đại Tá Lê xuân Hiếu) và hai Tiểu đoàn/Trung đoàn 48 trãi dài trên phòng tuyến phía Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc tỉnh Long Khánh. BTL/SĐ18BB +BCH Trung đoàn 48 + 1 TĐ trừ bị, (TrĐT: Trung Tá Trần minh Công)tại Xuân Lộc (phía Nam Tiểu khu Long Khánh khoảng 4 cây số). Bộ chỉ huy Long Khánh (Đại Tá Phạm văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng Long Khánh) và các lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân vẫn vững vàng trong và quanh tỉnh lỵ. một tiểu đoàn BĐQ thuộc Liên đoàn 77/BĐQ bảo vệ phi trường Long Khánh (sát phía Nam tiểu khu).
Dân chúng trong làng tinh thần chống cộng rất cao. Mấy xóm đạo như ấp Bảo Định, ấp Bảo Bình đều có lực lượng Dân quân Tự vệ được trang bị vũ khí, đạn dược đầy đủ.
Thưa Thiếu Tướng, tôi hỏi, hoặc Đại Tá Phúc có “nắm” được dân hai ấp Bảo Định(phiá Đông BTL/HQ 3 cây số) và ấp Bảo Bình (phía Đông Nam BTL/HQ 4 cây số) không? Theo tôi nhận định đây là hai tiền đồn rất tốt cho mình. Còn vạt rừng chồi giữa mình (BTL/HQ) và phi trường Long Khánh có quân bạn hoặc địch hoạt động gì không?
Giữa mình và ấp Bảo định có một chốt VC chưa “bứng” được nên Đại Tá Phúc không liên lạc được với dân chúng hai ấp này. Nhưng hai ấp này còn vững vàng vì vẫn treo cờ Quốc Gia. Riêng vạt rừng này chưa có triệu chứng gì lạ. Áp lực địch nhiều ở phiá tỉnh.
Xin Thiếu Tướng cho biết nhiệm vụ của đơn vị tôi. Em thử đề nghị kế hoạch cho em, xem thế nào? Theo kinh nghiệm của tôi, chổ lắng diệu nhất, không có hoạt động gì là chổ địch “ém” quân và chờ làm “cú” dứt điểm. Kế hoạch của tôi được Tướng Đảo chấp thuận nhanh chóng và cho thi hành ngay sau khi đổ quân hoàn tất:
Tiểu đoàn 9ND trách nhiệm diệt chốt địch trên Quốc Lộ 1, sau đó lục soát về phía Đông, tìm cách giao tiếp với ấp Bảo Định rồi đợi lệnh. Chỉ thị đặc biệt: Khi được bắn vào ấp. Nếu dân bắn ra, hãy bắt loa báo cho họ biết mình là quân bạn.
Tiểu đoàn 1ND trừ bị cho Lữ đoàn, bố trí phía Tây Liên Tỉnh Lộ 2
Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù xuất phát khỏang nửa tiếng sau thì có nhiều tiếng súng nổ ở phiá Đông. Với chiến thuật diệt chốt tinh xảo rút tỉa từ những kinh nghiệm ở các chiến trường Quảng trị và Thường đức, chỉ hơn nửa tiếng đồng hồ sau, Tr. Tá Nhỏ Tiểu đoàn trưởng báo cáo về BCH/LĐ: ĐĐ93 (ĐĐT Đại Úy Đinh văn Tường, con gà cứng cựa của Cửu Long, biệt danh của Tiểu đoàn 9ND) đã bứng rể chốt địch với 12 tên nằm tại chổ, 1 súng cối 61 ly và 9 vũ khí cá nhân, một số địch chạy về hướng Đông Bắc, Tiểu đoàn đang đến ấp Bảo Định.
Tiểu đoàn 8ND xuất phát sau đơn vị trên 1 giờ, vừa rời Quốc lL 1 khỏang 600 thước về phía Bắc thì chạm súng với một số tiền đồn của địch trong đám rừng chồi. Tôi rất vui mừng báo cáo tin này với Tướng Đảo. Như vậy ước tính không sai. Tôi tiếp tục cho lệnh TĐ8ND: Đại đội nào chạm đích cứ tiếp tục xấn tới, tiến được bao nhiêu hay bấy nhiêu, hảy xử dụng một Đại Đội khác bọc bên phải, thêm một Đại Đội khác nửa bọc bên trái. Hai Đại Đội này nếu chạm địch, cũng xân tới như vậy.
Kết qủa đúng như ý muốn, theo kiểu điều quân tương tự. Tiểu đoàn 8ND đã phải tung đến Đại Đội tác chiến thứ 4 cũng chạm địch luôn. Trung tá Tuyển nói với tôi:
Tôi không còn trừ bị(2)
Anh đừng lo tôi còn cả thằng 1 (TĐ1ND) bây giờ mình đã nhận diện được đội hình của địch. “Thông Gìa” sẽ làm việc.(3) Thiếu Tá Thông lúc nào cũng sẳn sang hang trăm qủa đạn pháo binh 105 ly đã rớt xuống đội hình của địch. Trung đội này chạm sung thì trung đội khác bọc phải hoặc bọc trái tiến tới. Các đại đội của Tiểu đoàn 8ND dàn hàng ngang để tiến tới, đội hình chung của tiểu đoàn như một hình vòng cung, hai đầu hai bên khép lại từ từ thành thế bao vây địch.
Cánh quân đầu của TĐ9ND khi còn cách ấp Bảo định cách khoảng 500 thước thì dân trong ấp báo động, súng bắt đầu nổ , đạn các loại bay rào rào về phía quân Dù. Vì không có tần số lien lạc được với dân, tiếng sung nổ kể cả sung cối 60 ly từ trong ấp bắn ra, át cả tiếng loa kêu gọi, nên an hem binh sĩ Dù đành núp và chờ đợi. Trung tá Nhỏ TĐT/TĐ9ND và hai binh sĩ bị thương vì miếng đạn sung cối từ trong ấp bắn ra. Ông bị một vết thương nơi bụng khá nặng nên Trung Tá Nhỏ được chuyển về phía sau để tản thương và Thiếu tá Lê Mạnh Đường Tiểu Đoàn Phó được cử xử lý chức vụ TĐT.
Khoảng 15 phút sau, bắn ào ào nhưng thấy địch (Dù) im lặng, không phản ứng gì, dân trong ấp cũng ngưng bắn và quan sát. Nhảy dù tiếp tục bắc loa kêu gọi đừng bắn và ra khỏi chỗ núp từ các gốc cây để họ thấy rỏ quân phục rằn ri. Sauk hi gặp nhau, TĐ9ND về hoạt động bung quân lục soát sâu về phía Tây Chi Khu Xuân Lộc. TĐ1ND lên thay thế, bố trí phía Đông ấp Bảo Định. Trong thời gian TĐ8ND đang hình thành đội hình khép vòng vây địch thì một buổi chiều, địch pháo kích từ hướng Đông Bắc khoảng 30 qủa đạn loại 130 ly vào khu vực Chi Khu Xuân Lộc, chủ yếu là vào BTLSĐ18BB+ BCH/Tr48BB và Pháo đội 155 ly. BCH/LĐ1ND nằm trong vòng đai đó cũng đành chịu trận. Nhưng thiệt hại các đơn vị không đáng kể, chỉ cháy mấy khẩu Pháo Binh 155 ly.
Ngay buổi tối hôm đó, tôi đề nghị với Tướng Đảo nên rời các cơ sở chỉ huy ngay trong đêm, tránh sang bên, lệch hướng địch pháo kích khoảng 500 thước là đủ, vì các sĩ quan tham mưu(không phải sĩ quan tác chiến) cần bình tỉnh, không bị địch quấy rầy để làm việc. Sau đó vì nghĩ rằng các đơn vị “chung một chuyến tàu” nên tôi thẳng thắng viết lên một trang giấy học trò. Những công việc nên làm đối với BTL/HQ nếu muốn tử thủ Long Khánh, trong đó tôi còn nhớ vài điểm thăng chốt như sau:
(1) BTL/HQ không nên đóng chung với Pháo Binh.
(2) Hạn chế trực thăng chở các phái đoàn Quốc hội và Báo chí (gần như hang ngày) lên xuống gần BTL/HQ, nếu được nên thiết lập 2 hoặc 3 bãi đáp phòng hờ và luân phiên, cách xa BTL/HQ. Kể cả thượng cấp đến thăm HQ, đều được đem xe ra đón tại bãi đáp rồi được đưa vào BTL/HQ. Nếu không làm như vậy, tất cả Qúy vị thăm xong đơn vị rồi về, chúng tôi ở lại vùng hành quân lảnh đủ.
(3) Vị trí BTL/HQ nên tránh xa các đặc điểm địa hình như ngã ba, ngã tư đường, cầu cống. Nhà Thờ, Chùa, v.v… Nếu cần chui vào rừng để địch không biết chính xác ta ở đâu.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Đỉnh
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 10:29:49 GMT 9
Hồi Ký của Một Anh Hùng Ngã Ngựa !!! Vương Mộng Long. "Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ. Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!" (Vương mộng Long)
Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long- Bình thì Bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu: - "Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!" Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long- Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ đô". Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên- Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố- Nai về Long- Bình ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long- Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài- Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng- Đức và từ Long- Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên- Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài- Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hy sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới. Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ- Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là "những người anh em". Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt- Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi: - "Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?" - "Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?" Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt: - "Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu...hu ...hu..." Vào Nơi Lửa Đạn Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van... Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt. Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng- Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải- Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang, - "Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!" - "Hoan hô!...Hoan hô!" Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải- Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió. - "Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?" Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn. - "Thôi! Ta đi!" Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị. - "Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá?" Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi. - "Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ." Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm. - "Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô". Chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng. - "Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!" Hạ sĩ Phi lại đổ quạu. - "Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành!" Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài- Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi: - "Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!" Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ: - "Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường- Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!" Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng. Nghe ba tiếng "Đường-Sơn Quán", tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên- Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường HCM, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc TrườngSơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là "Anh Hai". Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng "Anh Hai" của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, "Anh Hai" lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim "Đường- Sơn Đại- Huynh" được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-Sơn Đại- Huynh" chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý tiểu Long, tài tử chính của phim này. Sau khi "Anh Hai" vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái "Đường Sơn" khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài- Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ- Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi, - "Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?" - "Phải rồi! 82 đây!" - "Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường- Sơn Quán!" - "Có ai ở đó không?" - "Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng" Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi, - "Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!" Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho "hòa bình" có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be. Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt-Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la, - "Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!" Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt- am Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. "Hòa bình" rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng? - "Choác! Choác! ....Choác!" Gian Lao Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun "phì...phì..." che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh, - "Đưa tao!" Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. "Oành!". Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay. Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, "Cành! Cành!..." - "Choác! Choác! ... " - "Xoẹt! Xoẹt!..." - "Oành! Oành!.." Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt- Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang. - "Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí, - "Đù má tụi mi ! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!" Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt- Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei- Me, vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt- Nam Cộng- Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ- Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó . Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ). Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe, - "Thái Sơn ơi! Hình như tank tới!" - "Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!" Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều. Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào, "Chạy đi!... Ông thầy... chạy đi!..." Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ "toang toác!" trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ. - "Anh em chết hết rồi . Chạy đi, thầy ơi!" Đó là tiếng Trung úy Trâm. "Toác! Toác!" - "Chíu! Chíu!" đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú, - "Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi! ...ơi. ..ơi..." Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng. - "Trâm ơi! Làm ơn! ... Cho anh chết! Trâm ơi!..." Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường, - "Ông thiếu tá bị thương hả?" Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng, - "Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!" - "Cám ơn cụ!" Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng. Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ- moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài, - "Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà- lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?" Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ- moọc, "Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!" Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn, - "Thầy ơi! Thôi đi thầy ơi! Đừng bỏ em, thầy ơi! " Gian Lao Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thầy trò tôi ôm nhau. "Hu ... hu... hu...." Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi. Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ : - "Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn." Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo. - "Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt." Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa, - "Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!" Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di Cư: - "Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!" - "Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!" Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà, - "Hai đứa lấy quần áo 'si- vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!" Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà. Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp, - "Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri ngụy chạy qua đây không?" một giọng Nghệ- Tĩnh gặng hỏi. - "Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ- Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng..." Tên Việt- Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không, - "Chứ hai anh kia làm chi rứa?" - "Anh Cả và anh Hai của tôi đó!" Hải nhanh miệng. - "Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt." Bà cụ phân trần. Thằng Việt- Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh, - "Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!" Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về, - "Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi." - "Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!" bà cụ ân cần. - "Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào." Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la. - "Thưa Mẹ! Con đi!" - "Thưa Mẹ! Con đi!" - "Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!" Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ- Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo. Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi, "Thái Sơn ơi! Trâm ơi!" Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy . Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ- Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố. Tới chợ Thủ- Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ- Đức, Thị- Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường- Sơn Quán (?) Còn cách ngã ba xa lộ Đại- Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng- Sản Bắc- Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài- Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược. Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô... Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh- Sát, Trưởng đoàn phòng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia... Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ- Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu "Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh". Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi, "Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!" Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long- Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn. Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao . Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa. Thời gian trôi . . . Mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca "Mùa Xuân Trên Sài Gòn". Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời : - "Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!" - "Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!" Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà . . . nghệt mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh. Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không? Qua văn phòng ỦyBan Nhân-Dân Xã, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách ĐườngSơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số "82" màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói. Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng, - "Các chú tha lỗi cho anh..." Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột: - "Thầy ơi! Chạy đi!... Thầy ơi!..." Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ.... Vương Mộng Long - Cựu học sinh Trung- Học Trần Quý Cáp, Hội- An. - Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ- Bị Quốc- Gia Việt- Nam. - Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. - Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc. - Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA. - Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A Social Sciences and Communication. - Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.[/i]
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 10:33:32 GMT 9
Những Ngày Cuối Cùng tại Quân Y Viện Qui Nhơn BS Nguyễn Công Trứ
Quân y viện Qui Nhơn là một trong những bệnh viện quân y quan trọng nằm ở vùng 2 chiến thuật, vì thường phải đón nhận các thương bệnh binh từ 2 tỉnh Bình Ðịnh, Phú Yên và luôn cả phía Nam của tỉnh Quảng Ngãi. Qui Nhơn – 1966 Ngày 9 tháng 3, 1975 Ðúng vào ngày tôi trực, buổi tối đêm 8 tháng 3, 1975, rạng sáng ngày 9 tháng 3, 1975, chúng tôi đã nhận một số lớn bệnh binh và đồng bào ở trại gia binh bị thương vì đạn pháo kích của việt cộng ở đèo Cù Mông. Như thường lệ sau ngay trực buổi sáng, chúng tôi phải họp giao ban ở phòng khách của quân y viện, để báo cáo với bộ chỉ huy của bệnh viện, tình hình bệnh nhân trước khi ra trực. Phòng khách của bệnh viện trong buổi giao ban lúc nào cũng đông người và náo nhiệt, nhưng hôm đó lại vắng vẻ và thưa thớt. Chúng tôi đợi hơn nửa giờ nhưng không thấy chỉ huy trưởng Trung Tá Nguyễn Xuân Cẩm cùng các bác sĩ của bệnh viện có mặt. Sau đó sĩ quan trực đến báo cáo, là toàn bộ các bác sĩ của quân y viện cùng gia quyến của họ, các viên chức tòa hành chính tỉnh và bộ chỉ huy cảnh sát ở thị xã đã tháo chạy trong đêm. Thị xã Qui Nhơn hiện nay như rắn không đầu. Giặc chưa đến mà đã mở cửa đầu hang vô điều kiện, dân chúng trong thị xã hoang mang và hoảng sợ, cũng vội vàng thu dọn đồ đạc và tư trang, cùng với gia đình di chuyển vào trong Nam, nơi mà họ tin tưởng sẽ là chỗ an toàn cho chính bản thân và gia đình của họ. Ðiều mỉa mai là trong thành phố hoàn toàn bỏ trống, quân đội nằm ở ngoại ô, thành phần chủ lực sư đoàn 22, vẫn còn tiếp tục trấn thủ các vùng ngoại ô và bảo vệ thành phố. Cuộc chiến tàn khốc vẫn diễn ra ác liệt với nhiều thương vong. Thiếu Tá Sự, sĩ quan quản lý ở phiên trực của tôi, đến tham khảo và hỏi ý kiến của tôi nên phải làm sao. Tôi đưa ý kiến, nên gọi cho cục quân y, báo cáo khẩn cấp tình hình và xin thêm người ra tiếp viện. Thiếu tá Sự còn hỏi tôi về tình trạng và số phận của các nhân viên hiện đang làm việc trong quân y viện thì sao. Theo ý kiến của tôi, muốn bệnh viện hoạt động hữu hiệu, chúng tôi rất cần sự cộng tác và giúp đỡ của các anh em. Trong buổi sáng giao ban, bệnh viện vẫn còn có khoảng 200 nhân viên đến làm việc. Cách đây vài ngày tôi đã nghe tin đồn, sẽ có cuộc đình chiến giữa Việt Cộng và chính phủ miền Nam, và đèo Cù Mông sẽ là ranh giới, sự thật ra sao thì chúng tôi không biết, nhưng cuộc chiến vẫn diễn ra ác liệt, bằng cớ là trong đêm, chúng tôi đã nhận một số lớn thương bệnh binh từ chiến trường gửi về. Tin đồn nhảm đó đã làm suy giảm tinh thần chiến đấu của các anh em binh sĩ ngoài chiến trường, làm giao động tinh thần và cuộc sống của nhân dân địa phương. Trong ngày hôm đó, trong bệnh viện chỉ có phòng cấp cứu, phòng mổ, phòng hồi sức, phòng hậu giải phẫu là còn làm việc. Còn các doanh trại khác, công việc phục vụ bệnh nhân rất là lơ là. Tôi cũng hiểu được tâm trạng của các anh em nhân viên trong bệnh viện, phần lớn ai cũng có gia đình và trong tình hình chiến tranh hiện nay, gia đình của họ đang chờ đợi sự quyết định của họ là di tản hay ở lại. Trong lúc giải lao giữa hai cuộc giải phẫu, tôi họp ban chỉ huy của bệnh viện, trong đó Thiếu Tá Sự là người có chức vụ cao nhất. Tôi nghĩ là trong hoàn cảnh khó khăn này, tôi không thể ép buộc các anh em phải ở lại làm việc, vì ai cũng có gia đình và có trách nhiệm lo cho người thân của mình. Hơn nữa ngay chính bản thân của tôi cũng không biết được ngày mai sẽ ra sao, thì sao tôi có thể bảo vệ, che chở sự an toàn cho các anh em cùng với gia đình. Ai cũng muốn có đất lành để nương tựa và bảo vệ hạnh phúc an vui cho gia đình. Tôi đề nghị nên để họ tự quyết định. Sau cùng Thiếu Tá Sự và thành phần còn lại của bộ chỉ huy quân y viện, quyết định tạm thời để cho các anh em tự quyết định lấy số phận của mình là đi hay ở lại, vì đó là quyền sống của các anh em. Thiếu Tá Sự sẽ báo cáo với Cục Quân Y, để họ tạm thời rời khỏi nhiệm chức, và sẽ trở lại bệnh viện sau khi tình hình an ninh đã ổn định và an toàn hơn. Sau khi anh em chia tay, thành phần y tá xung phong tình nguyện ở lại bệnh viện còn khoảng vài chục người. Ða số là những người độc thân chưa lập gia đình, cuộc chiến vẫn diễn ra ác liệt, thương binh và gia đình binh sĩ bị thương vẫn tiếp tục đưa về bệnh viện. Tôi và các anh em y tá trong phòng mổ, phòng hồi sức và cấp cứu, vẫn làm việc ngày đêm liên tục. Các anh em y tá trẻ tình nguyện ở lại bệnh viện nhìn tôi bằng con mắt ái ngại. Nếu tình trạng này vẫn tiếp tục, không biết chúng tôi sẽ chịu đựng được bao lâu, vì sức người có giới hạn. Tôi cố gắng trấn tĩnh anh em, vì cục quân y hứa sẽ tăng viện khẩn cấp cho chúng ta thuốc men và nhân lực, một vài anh em trong khi giải lao đã chuyện trò với tôi. Theo họ những người sinh ra và lớn lên ở vùng đất. (Nam, Ngãi, Bình, Phú). Họ đã quá biết sự tàn ác và dã man của Việt Cộng, vì họ đã chứng kiến tận mắt những hành động tra khảo và khủng bố của đối phương đối với tù binh địch, trong các vùng địch tạm chiếm. Nếu một ngày nào đó rơi vào tay của đối phương, tôi cũng sẽ phải chịu những cực hình đó. Tham sống và sợ chết, lo sợ sống cho một ngày mai bất ổn, không có tương lai, nhiều lúc làm cho tinh thần tôi giao động, mất đi ý chí sáng suốt và làm cho tôi ngã lòng. Nhưng rồi nhìn các anh em bệnh binh, những người bạn đồng đội mà tôi chưa bao giờ quen biết, đang nằm la liệt ngoài phòng cấp cứu chờ đến phiên mình giải phẫu, nhìn những ánh mắt và nụ cười của các anh em y tá trẻ, xung phong làm việc không biết mệt để phục vụ bệnh binh, tình người và tình huynh đệ chi binh, đã trấn áp được những tư tưởng yếu hèn và ích kỷ của tôi. Ðời người quá ngắn ngủi, sống chết đều có mạng, chủ yếu cuộc sống của chúng tôi và các anh em y tá trẻ là phục vụ cho quần chúng, xã hội và đất nước. Tuy rằng chúng tôi chỉ là một thành phần nhỏ bé trong guồng máy xã hội, không thể làm xoay trở được ván cờ, nhưng chúng tôi đã làm được một cái gì đó cho tổ quốc, dân tộc chúng ta trong lúc đất nước đang gặp cơn nguy biến. Tôi cười và động viên tinh thần của các anh em. “Ðâu cần thì thanh niên có, việc gì khó có thanh niên đi đầu”. Ngày 10 tháng 3, 1975 Cục Quân Y điện khẩn cho chúng tôi, khuyên chúng tôi phải cố gắng kiên trì, chúng tôi sẽ nhận được thuốc men và nhân lực tăng cường cho bệnh viện trong một thời gian ngắn, thời gian thì không nói rõ là khi nào đến, nhưng đã ủng hộ được tinh thần chiến đấu của các anh em y tá bệnh viện, chúng tôi làm việc có hậu phương hậu thuẫn và yểm trợ. Buổi chiều cùng ngày, Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, chỉ huy trưởng Tiểu Ðoàn 42, thuộc Sư Ðoàn 22, đến thăm bệnh viện. Sau khi nghe tôi báo cáo về tình hình thương bệnh binh, thuốc men và nhân viên của bệnh viện, tôi đã đưa đại tá đi tham quan phòng cấp cứu đầy người không có chỗ nằm, phòng mổ, phòng hồi sức và phòng hậu phẫu. Trước khi rời khỏi bệnh viện, tôi đã cố gắng cầm nước mắt, cố hứa với đại tá, chúng tôi không vì quyền lợi cá nhân mà phản bội lại các chiến hữu bệnh binh, những người đã hy sinh cho tổ quốc, cho màu cờ, để bảo vệ sự an toàn cho đồng bào và đất nước. Ngày 11 tháng 3, 1975 Chúng tôi rất phấn khởi và vui mừng, vì Cục Quân Y đã giữ lời hứa, chúng tôi nhận được điện khẩn từ trung ương sẽ có máy bay mang đồ tiếp liệu cho chúng tôi ngay trong ngày, tôi cùng với các anh em đã chuẩn bị di chuyển các bệnh nhân ở phòng cấp cứu, phòng hồi sức, và hậu phẫu ra phi trường dân sự, đồng thời tôi cũng không quên nghĩ đến sự an toàn của các mẹ người Pháp ở trong trại cùi, các tu sĩ và các em bé ở cô nhi viện Gềnh Ráng, tôi cho người đến nói với họ rằng, nếu muốn di tản, họ sẽ được chấp nhận tháp tùng theo các bệnh binh về một nơi an toàn hơn. Tất cả mọi người đều nghĩ là tôi sẽ cùng với các bệnh binh có mặt trong cuộc hành trình này. Các mẹ người Pháp trước khi chia tay có hứa với tôi là về đến Sài Gòn sẽ tùy cơ ứng biến, nếu có chuyện gì xảy ra, các mẹ sẽ giúp đỡ tôi giấy tờ đi định cư ở Pháp. Nhưng trong giờ phút cuối, trước khi máy bay cất cánh, tôi đã quyết định ở lại nơi mảnh đất cằn cỗi này, giữ đúng lời hứa với các chiến sĩ hiện còn đang chiến đấu để bảo vệ cho sự tự do và quyền sống làm người. Về lại bệnh viện, tôi nhờ các anh em di chuyển số bệnh binh còn lại về một trại lớn để dễ bề chăm sóc. Một điều không may cho tôi là các anh em đã quên ghé nhà tạm giam, trong đó có một người bộ đội bị thương đang điều trị. Người này vì lý do an ninh, nên chân của anh ta vẫn còn bị xích vô giường bệnh, vì không ai để ý đến, nên khi bộ đội vào tiếp thu bệnh viện, người thanh niên này đã bị đói lả người, vì không được ăn uống trong suốt cả tuần lễ trước khi được tiếp cứu. Dựa vào sự kiện trên, họ đã mạnh miệng kết tội tôi, trong giờ phút cuối cùng vẫn còn ngang bướng, cố chấp, cố tình chống đối lại nhà nước và nhân dân. Cũng trong ngày, một số các anh em y tá sau khi đưa gia đình về đến Nha Trang, nơi mà họ nghĩ là sẽ an toàn, sau khi trình diện với chính quyền sở tại, họ đã trở lại quân y viện, phụ giúp chúng tôi trong công cuộc điều trị bệnh binh. Theo lời kể lại, hiện nay toàn bộ Bộ Chỉ Huy của quân y viện cũng đang có mặt ở Nha Trang để chờ lệnh, trong đó có cả trung tá chỉ huy trưởng quân y viện. Những người này thay vì ủng hộ tôi trong việc làm chính đáng, đã kết tội tôi là nằm vùng cho đối phương, và họ còn cười mỉa mai là ở quân y viện gần 2 năm nằm vùng cho Việt Cộng, mà tình báo an ninh đã quá dở không khám phá ra được. Những hành động tôi làm trong quá khứ chỉ là để che mắt thế nhân. Ngẫm nghĩ lại, số phận của tôi hiện giờ đang bị trên đe dưới búa. Nếu phe quốc gia trở lại quân y viện, tôi sẽ bị kết tội nằm vùng phản quốc, nếu kẻ địch là người thắng cuộc, tôi sẽ là Việt gian bán nước. Niềm oan ức đó chỉ có trời cao mới hiẻu được, nhưng tôi vẫn làm việc mà không hối hận với lương tâm. Buổi chiều! Thình lình chúng tôi nghe có tiếng súng nổ ở ngoài bãi biển Qui Nhơn. Chúng tôi nghi Việt Cộng đã vào thành phố. Nhưng sự thật là khác hẳn, trung đoàn 42 đang trấn thủ, bảo vệ các vùng ngoại ô của tỉnh Bình Ðịnh, được lịnh rút khỏi tỉnh bằng tàu hải quân sẽ cập bến Qui Nhơn. Theo lời kể lại của các anh em, theo dự tính tàu hải quân sẽ cập bến ở bãi biển Qui Nhơn và sẽ đảm trách công cuộc rút lui của trung đoàn, dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông. Không may cuộc tính toán bị thất bại, vì trung đoàn đã đến chỗ hẹn sớm hơn lúc nước thủy triều đang rút, nên tàu hải quân không thể cập bến được và sự triệt thoái của trung đoàn đã gặp nhiều trở ngại. Những người lên tàu đã chen lấn làm mất trật tự, sau cùng vì sự an toàn, tàu hải quân đã phải rút lui. Trung Ðoàn 42 đã tan hàng trên bãi biển Qui Nhơn, chưa đánh đã tan, quá xấu hổ và nhục nhã nên Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông đã tuẫn tiết ở bãi biển Qui Nhơn. Thi hài của ông được đồng đội đưa đến quân y viện và quàn ở nhà xác bệnh viện, binh lính bị thương ở bãi biển trên con đường triệt thoái, đã được chở đến bệnh viện để chăm sóc. Chúng tôi đã phải làm việc liên tục suốt đêm trong công cuộc cứu chữa cho các bệnh binh. Ngày 12 tháng 3, 1975 Tờ mờ sáng, thình lình chúng tôi nghe tiếng đại bác nổ vang dội, đó là đạn pháo từ các tàu hải quân được lệnh bắn lên phá đài radar nằm bên hông quân y viện trên đèo Qui Hòa, và phá hủy các kho tiếp trữ xăng dầu và y cụ sau quân y viện. Anh em y tá vào báo cho tôi và suy nghĩ, có lẽ tất cả chúng tôi sẽ phải bỏ mạng trong cuộc phá hủy này. Một anh y tá có ý kiến hay, đề nghị treo cờ trắng có chữ thập đỏ ở cột cờ lớn trước quân y viện, báo hiệu có nhiều người đang ẩn trú nơi đây. Quả thật như vậy, khi cờ hồng thập tự được treo lên, tàu hải quân ngưng bắn phá và rút đi. Một lần nữa, chúng tôi và toàn thể các anh em thương bệnh binh đã được cứu mạng. Gần trưa các anh em vào báo cáo, kho thuốc và kho lương thực của quân y viện, vì không được canh giữ cẩn thận đã bị dân địa phương vào ăn cắp trong đêm, làm sao để phục vụ các bệnh binh nặng khi không có thuốc men và lương thực cho bệnh binh cùng nhân viên cấp dưỡng. Ðó là một câu hỏi đã làm cho tôi phải suy nghĩ nát óc không trả lời được, tôi nhờ các anh em đi xuống từng kho thuốc ở các trại gia binh bỏ trống, thu nhặt tất cả những thuốc men còn bỏ sót lại để tiếp tục cứu chữa bệnh binh, về lương thực tôi đề nghị các anh em cố gắng duy trì khẩu phần ăn cho các bệnh binh được lúc nào hay lúc đó, và cắt giảm một chút lương thực của các anh em cấp dưỡng trong đó có cả tôi, có sướng cùng chia, có cực cùng chịu. Một điều may mắn cho quân y viện là sau khi Trung Ðoàn 42 triệt thoái đi, số bệnh binh đến quân y viện điều trị đã giảm nhiều. Một điều may mắn nửa là máy điện chạy cho phòng mổ và phòng hồi sức vẫn còn đủ nhiên liệu dùng trong một thời gian. Quân y viện vì thiếu người dọn dẹp trong một thời gian ngắn, nên rác rến tràn ngập khắp mọi nơi, mùi hôi thối của các tử thi sau nhà xác xông lên, đã làm cho mọi người khó thở và buồn nôn. Tôi cùng một số các anh em đi vòng bệnh viện đến nhà xác, nhìn thấy một cảnh tượng hãi hùng, tử thi của các anh hùng tử sĩ trong những ngày gần đây không người coi sóc, bị bỏ nằm la liệt trong và ngoài nhà xác, heo và chó đã lợi dụng đến xé xác tranh ăn. Vì vấn đề vệ sinh chung cho quân y viện, và tránh bệnh truyền nhiễm, tôi đề nghị các anh em cùng tôi xây một nấm mồ tập thể để chôn cất những anh em này. Nấm mộ tập thể này được xây dựng trước cột cờ Tổ quốc mà cách đây vài tuần, lúc nào cũng có một toán anh em chiến sĩ hằng ngày đứng dàn chào và đưa tiễn các anh hùng tử sĩ đã bỏ thân vì đại cuộc, có khoảng 41 anh em tử sĩ đã được an nghỉ trong nấm mộ tập thể này, trong đó có cả Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông, vị chỉ huy đã tuẫn tiết ở bãi biển Qui Nhơn. Trong lúc phụ an táng các anh em, tôi đã không cầm được nước mắt và khấn nguyện cùng các anh em tử sĩ. Trong mọi hoàn cảnh, tôi cũng sẽ không quên các anh em và một ngày nào đó, khi tôi về với cát bụi, một phần thân xác của tôi sẽ trở về đây để gặp lại các anh em. Ngày 13 tháng 3, 1975 Một nhóm nhỏ các người lạ có trang bị vũ khí, tự xưng là bộ đội miền bắc đến để tiếp thu bệnh viện. Họ ra lệnh cho anh em chúng tôi ra trình diện trước sân cờ quân y viện với tay không vũ khí. Lá cờ quốc gia (Cờ vàng 3 sọc đỏ) và lá cờ hồng thập tự đã được hạ xuống và thay thế bằng lá cờ đỏ sao vàng của miền Bắc. Trong buổi lễ chuyển giao bệnh viện, lúc đó tôi vẫn mặc áo quần lính trận, thình lình có một người phụ nữ bên phe đối phương với tóc dài đuôi ngựa, nhảy xô tới và đạp tôi té xuống đất, súng AK chỉa thẳng vào ngực và quát mắng rằng, đúng là dân khốn kiếp, đến giờ này vẫn còn ngang bướng, vô liêm sỉ, vô nhân đạo, đã gông cùm một người bạn chiến hữu trên giường bệnh và bỏ đói, bỏ khát. Quá thình lình, các anh em có người muốn nhảy vô tiếp cứu, nhưng tôi đã trấn tĩnh lại và ngăn cản. Bạo động vào lúc này chỉ đưa đến sự khổ đau và chết chóc, chứ không giải quyết gì tốt hơn. Trong buổi lễ tiếp giao, các anh em y tá tình nguyện ở lại bệnh viện, sẽ được trả về nguyên quán cùng ngày, sau đó số phận của họ sẽ do địa phương xét xử, còn các bệnh binh, những người nào cứng cáp có thể xuất viện được sẽ cho xuất viện. Những người nào cần phải điều trị thì được gởi qua dân y viện cạnh bên để tiếp tục điều trị, còn số phận của tôi thì sao? Căn cứ vào quá khứ, bắt tay với đế quốc Mỹ và Tây, chống lại nhà nước và nhân dân, tôi bị kết án là Việt gian phản quốc, sau này sẽ được xét xử công minh. Nay nhà nước đang cần người nên tôi tạm thời được chuyển sang dân y viện, để tiếp tục phục vụ và điều trị cho các bệnh binh. Nhìn các anh em đã cùng tôi làm việc trong thời gian ngắn ngủi đó, vì tình nhân loại và huynh đệ chi binh, đã phải hy sinh sự an toàn của mình, và gia đình cho Tổ quốc, cho tự do, đã lặng lẽ âm thầm ra cổng bệnh viện, tôi nhìn theo và cố cầm nước mắt. Tôi phải cám ơn sự hy sinh cao cả đó của các anh em. Họ xứng đáng được vinh danh là những anh hùng của quốc gia và dân tộc. Tôi xin ơn trên và các vong hồn anh hùng tử sĩ hãy nâng đỡ và hỗ trợ tinh thần cho các anh em trong công cuộc sống còn, giúp họ vượt qua mọi khó khăn của một tương lai bất ổn và không biết đến ngày mai. BS Nguyễn Công Trứ
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 10:38:34 GMT 9
Tháng Tư Lại Về Vương Mộng Long
Bây giờ là tháng Tư, trong ký ức tôi những kỷ niệm ba mươi năm trước lại hiện về, rõ mồn một như thể là nó mới xảy ra ngày hôm qua, hôm kia. Bây giờ là tháng Tư, tôi lại nhớ đến trận đánh oai hùng cuối cùng của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, trận Xuân-Lộc! Tôi bùi ngùi hồi tưởng những giây phút vinh quang của chiến thắng để đời này, cùng những tủi nhục tiếp theo sau đó, khi quê hương nát tan. Những dòng viết lên sau đây là để tưởng niệm những thuộc cấp của tôi đã ngủ yên giấc tháng Tư, bên con suối Rét (Xuân-Lộc), trên một ngọn đồi không tên ở Long-Thành, và trong đường phố Hố-Nai (Biên-Hòa).
Đầu tháng Tư năm 1975, Quân Đoàn II không còn nữa. Vì liên đoàn trưởng và liên đoàn phó vắng mặt, nên tôi được chỉ định nhận nhiệm vụ chỉ huy và hướng dẫn Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân từ Quảng-Đức tìm đường ra biển để bắt tay với quân bạn. Khi liên đoàn được trực thăng vận về Phan-Thiết thì Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân được đưa thẳng về sân bay Long-Khánh đặt thuộc quyền xử dụng của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Ngày đầu đặt chân xuống phi trường Xuân-Lộc (6/4/1975) tôi không hề có ý nghĩ rằng tại nơi này chỉ mấy hôm sau, đơn vị tôi lại có dịp tham dự vào một trận đánh long trời lở đất. Ngày xưa tôi rất mê Rommel, tôi đã tìm đọc nhiều sách viết về “Con Cáo Sa-Mạc” này và tôi mơ tưởng có ngày được đánh những trận thần sầu như Rommel đã làm. Trận Xuân-Lộc là lần đầu trong đời lính, tôi được thỏa mãn ước vọng đọ sức so tài với một địch thủ nặng cân hơn về vũ khí, đồ sộ hơn về quân số. Với tôi, trận Long-Khánh là một trận đánh “để đời” cho những tay cầm quân chuyên nghịêp. Trong trận đánh này, mũi dùi tiến công chính bằng cơ giới của Cộng-Quân nhằm đánh chiếm Tòa Hành-Chánh Tỉnh Long-Khánh đã bị Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bẻ gãy hoàn toàn. Trong khu vực trách nhiệm của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã có ít nhứt là bảy chiến xa Cộng-Sản bị bắn cháy, và một trung đoàn bộ binh địch bị loại ra khỏi vòng chiến. Rạng đông 9/4/1975 trận Long-Khánh bắt đầu. Súng nổ như bắp rang khắp nơi trong thành phố, ngoài vòng đai. Đủ loại đại bác thét gầm, đạn xé gió ào ào tới tấp tưới trên mục tiêu của cả hai phía. Những đám cháy không người chữa, lửa càng lúc càng cao, thần hỏa tự do tung hoành. Máy truyền tin ơi ới gọi nhau. Những thân hình ngã xuống, những tiếng hô xung phong nghe rợn tóc gáy. Những cánh F 5 thét gào, lên, xuống, thả hết đợt bom này tới đợt bom khác lên đầu địch. Những chiếc Khủng-Long AC 119 bao vùng cả ngày lẫn đêm với những họng đại bác 20 ly gầm rú từng hồi. Đáp lại, địch cũng trả đòn bằng những chùm 100 ly và 37 ly phòng không nở hoa trên mây. Những chiếc T 54 hung hãn khạc đạn không ngừng, những cái lô cốt ngả nghiêng vì trúng đạn đại bác 100 ly của xe tank địch. Trong những ngày đầu tháng Tư ở Long-Khánh, một góc địa cầu đã rung rinh vì bom đạn! Địch đông gấp ba, bốn lần quân bạn, được T 54 trang bị đại bác 100 ly dẫn đường. Pháo yểm của Cộng-Sản gồm đủ loại hạng nặng: đại bác 130 ly, 122 ly nòng dài, 105 ly, 75 ly sơn pháo, cối 120 ly, cối 82 ly, và phòng không 100 ly, 37 ly. Thậm chí trong ba ngày đầu địch dùng cả phòng không 37 ly để bắn trực xạ vào Trại 181 Pháo Binh của Sư Đoàn 18, nơi tôi đặt Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Ấy vậy mà qua hàng chục đợt xung phong, đoàn chiến xa của “Con Cháu Bác” cũng không làm cách nào vượt nổi khúc xương khó nuốt là cái doanh trại bé tí teo đó để xông thẳng vào Tòa Hành-Chánh tỉnh, nơi ông Đại Tá BĐQ Phạm Văn Phúc (K10 VB) tỉnh trưởng, đang trợn tròn con mắt theo dõi tên đàn em về từ Pleime chơi trò ú tim với xe tank địch. Khi bánh xích của chiếc chiến xa đầu tiên vướng vào cuộn kẽm gai vòng nơi góc rào tây bắc của Trại Pháo Binh 181 thì cũng là lúc đoàn quân xâm lăng khựng lại, hoảng hồn bởi những tiếng thét, “Biệt Động! Sát! ” … “Biệt Động! Sát!” Lũ giặc hung hăng không ngờ Biệt Động Quân đang có mặt nơi đây! Một quả M 72 làm cho chiếc PT 76 xấu số cháy bùng; những cán binh Bắc-Việt tùng thiết vội vàng chạy trối chết về hướng rừng lau. Như thế là, chúng tôi đã ra mặt đương đầu với đoàn chiến xa Cộng-Sản Bắc-Việt ngay từ khi trận đánh mới mở màn. “Biệt Động! Sát!”, “Biệt Động! Sát!” tiếng hô vang dậy một góc trời! Có cả một giang sơn hướng đông nam thị xã cho chúng tôi mặc sức tung hoành ! Ngày nào cũng như này nấy, sau những màn pháo kích như mưa, T 54 có bộ binh tùng thiết, lại từng đợt, từng đợt ào ào xung phong vào vị trí tử thủ của chúng tôi. Nhưng những tổ chống tank ba người của TĐ 82 BĐQ ẩn hiện như ma trơi, sau ô mối, sau gốc xoài, trong bụi chuối, cứ từ từ rang hết con cua T 54 này đến con cua T 54 khác. Yên chí vì có chỗ dựa lưng là lực lượng bạn ở phía sau, tiểu đoàn tôi đánh vùi với chiến xa địch cả tuần lễ không biết mệt. Toán diệt tank này bị loại, toán khác lên thay. Chúng tôi đã làm cho địch tổn hại nặng nề. Chúng tôi đã đánh cho chúng nó “tà đầu” như ý của Chuẩn Tướng Tư Lệnh mặt trận. Săn đánh xe tank là cả một nghệ thuật, nó còn là một cái thú nữa, cái thú vui chết người! Hơ hỏng một chút thôi là mất mạng như chơi. Trong số mười hai Biệt Động Quân Pleime tử trận ở Long-Khánh tháng Tư 1975 đã có bảy người chết trong khi săn đuổi xe tank CSBV. Mỗi chiến cụ, mỗi vũ khí đều có chỗ yếu của nó. Cái bộ phận phun khói của xe tank là cái “Gót chân Achilles” của xe tank CSBV. Tất cả những chiếc tank địch bị TĐ 82 BĐQ tiêu diệt trong trận Xuân-Lộc đều bị bắn từ phía sau đuôi, nơi phun khói. Đánh tank cũng có qui luật. Việc đầu tiên là “tỉa” tên xạ thủ 12,8 ly, nó là tai mắt của chiếc tank, nó có một chân trái hoặc phải bị khóa vào dây xích trên ghế phòng không. Việc thứ nhì là “bung” một trái lựu đạn khói hoặc lân tinh làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở cách nó không xa; cây phòng không trên chiếc tank thứ nhì là tử thần gọi chết. Việc thứ ba thật là giản dị, cứ đứng xổng lưng bóp cò cây M 72 nhắm ngay phần phun khói sau đít cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng nhất, dễ bắn thủng nhất của chiến xa. Một tiếng “bùm!” rồi tiếp sau đó là xăng và đạn trong xe cháy nổ “lóc! tóc! ùm! ùm!” ngọn lửa dâng cao, khói dâng cao. Xong ! Mỗi lần một chiếc PT 76 hay T 54 bị bắn cháy, cột khói chưa lên cao khỏi ngọn cây thì người Anh Cả của chiến trường đã có mặt trên vùng. “Tiên Giao đây Hằng Minh gọi!” “Hằng Minh, Tiên Giao nghe!” “Come on! Gắng lên nghe em! Đánh cho nó tà đầu hết cục cựa! Okay?” “Vâng, tôi nghe 5, đánh cho nó tà đầu hết cục cựa!” “Okay! You’re a man! Don’t let ‘em run away! Okay?” “Vâng, không cho nó ôm đầu mà chạy!” “Kill ‘em! Kill ‘em! Okay!” “Vâng! Đây là cái tank thứ (2) (3)… đó nghe Hằng Minh! Nó vào cái nào, tôi hạ cái nấy nhé!” “Okay! I like the way you fight!” “Vâng, tôi nghe rõ 5!” “You’re great! You’re excellent!” Sau khi thị sát trận địa và khích lệ tinh thần tôi, người Anh Cả bay sang mặt trận hướng tây thị xã, trên đường bay, ông liên tục đối thoại với vị chỉ huy trưởng phòng thủ Xuân-Lộc, Đại Tá Lê Xuân Hiếu (K10 VB) Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43, Sư Đoàn 18 Bộ Binh cũng bằng ngôn ngữ nửa Việt nửa Mỹ. Người Anh Cả của mặt trận này là Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo (K10 VB) Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Ông lấy danh hiệu đàm thoại là Hằng Minh, tên người em ruột của ông, Trung Tá Lê Hằng Minh là người hùng TQLC, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 (Trâu Điên) năm xưa đã tử trận trên chiến trường Thừa-Thiên. Tiên Giao là tên đứa con gái áp út của tôi, cũng là danh xưng truyền tin tôi chọn cho mình trong trận đánh này. Một ngày giữa tháng Tư năm 1975, ngoài vòng đai phòng thủ, một chiếc T 54 chạy lạc loài. Cái ống khói của nó lãnh trọn một quả M 72 của toán diệt tank của Đại Đội 1/ TĐ 82 BĐQ. Anh binh nhì Phan Thọ trong toán hộ tống của TĐT 82 BĐQ cùng với ông phóng viên nhà báo lao vụt về hướng súng nổ. Ít phút sau tôi nghe choang choác, tiếng phòng không 12,8 ly nổ dòn ngoài xa. Trong máy PRC 25 tiếng Th/úy Đặng Thành Học, ĐĐT 1/82 BĐQ báo cáo, thằng Thọ bị thương nặng, xin tản thương. Thì ra anh B2 Thọ gan dạ này thấy chiếc T 54 đã nằm bất động; anh leo lên gỡ khẩu phòng không đem về cho thầy. Không ngờ còn một chiếc chiến xa T 54 khác nằm ẩn trong bụi lau cách đó không xa. Thấy anh đứng nghênh ngang sau pháo tháp, nó quạt cho anh một tràng 12,8 ly. Anh rơi xuống đất như con chim bị ná. Ruột anh đổ ra lòng thòng, máu tuôn như xối. Anh phóng viên và một người lính trong toán diệt tank khiêng Thọ về sân bay. Trung Sĩ 1 Chiến, y tá của tiểu đoàn phải dùng cả một tấm băng lá to bằng hai bàn tay xòe để che cho ruột của Thọ khỏi phòi ra. Mặt Thọ tái xanh, môi run run: - Thiếu Tá đừng la em nhé! Em thấy cây súng dễ ăn quá, không ngờ tụi nó bắn lén em! Tôi an ủi Thọ, - Ừ! Thiếu Tá không la em đâu, nằm im đó chờ xe, Hoàng Long sẽ đem em đi tản thương! Hoàng Long là danh xưng của Đại Úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Tôi một mặt lo xin pháo binh trong vòng đai trực xạ vào vị trí chiếc xe tank còn lại, một mặt điều động ĐĐ1/TĐ3/Trung Đoàn 43 BB đánh bọc bên phải tiếp tay cho Thiếu Úy Học ĐĐ1/82 có thì giờ dùng kẽm gai concertina quây quanh chiếc xe mới bị bắn cháy. Chỉ có concertina mới ngăn cản hữu hiệu được bước tiến của chiến xa địch. Con đường độc nhất để tiến quân bằng xe tank của địch nhắm vào sân bay Long-Khánh đã bị đan chằng chịt kẽm gai vòng. Chiếc tank mới bị cháy nằm hơi xa ngoài hàng rào và nó là chiếc T 54 thứ tư bị sơn lên pháo tháp dòng chữ “Tiểu Đoàn 82 BĐQ diệt tank”. Năm 1981 tại Trại Cải Tạo Z30 C Hàm-Tân, có một thiếu úy thuộc LĐ 81/ BCND tên là Nguyễn Văn Vinh tìm gặp tôi, anh nói, - Tháng 5 năm 1975 em bị nhốt ở Long-Khánh, em ở trong toán tù binh bị bắt đi chùi những chữ ‘Tiểu Đoàn 82 BĐQ diệt tank’ viết trên bốn cái tank T54 và một cái lội nước PT 76 ở bìa rào phòng thủ Xuân-Lộc. Công nhận tiểu đoàn anh đánh tank tuyệt quá!” Chiếc xe tản thương của Trung Đoàn 43 đã đưa B2 Phan Thọ về ngã ba Tân-Phong; tháp tùng có Đại Úy Hoàn, anh phóng viên nhà báo và Trung Sĩ 1 Chiến, y tá Biệt Động Quân. Khi quay trở về vị trí phòng thủ, ông Đại Úy Tiểu Đoàn Phó kể lại chuyện dưới đây: Xe tới BTL/SĐ 18 /HQ thì Thọ rất mệt vì máu ra đã nhiều, anh xuống xe ngồi dựa lưng vào một gốc xoài, chờ Đại Úy Hoàn đi tìm sĩ quan quân y sư đoàn xin tải thương. Bất ngờ Tướng Tư Lệnh từ trong lều bước ra; thấy Thọ, ông hỏi, - Em là lính của ai? Bệnh gì? Muốn về Sài-Gòn hả? Thọ im lặng mở tấm băng lá cho Tư Lệnh thấy vết thương của mình; bất ngờ bộ ruột của anh trào ra khỏi miệng vết thương, máu anh tuôn xối xả. Anh y tá vội thưa, - Trình Thiếu Tướng, anh này là lính Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân, ảnh bị phòng không bắn khi đang gỡ khẩu 12,8 ly trên cái chiến xa vừa bị bắn cháy. Thiếu Tá em cho phép ảnh được tản thương về SàiGòn đó Thiếu Tướng. Tư Lệnh la lớn, - Quân y đâu băng bó cho chú em ngay! Ông quỳ xuống tự tay ấn từng đoạn ruột của người lính vào bụng của anh ta. Người y tá vội vàng làm phận sự của mình tiếp tay với Tư Lệnh. Đại Úy Hoàn vừa quay lại chưa kịp chào trình diện, thì Tư Lệnh đã lớn tiếng, - Phi hành đoàn C&C đưa gấp chú em này về Cộng-Hòa cho tôi. Quay qua Thọ, Tướng nhẹ giọng, - Em là lính của Thiếu Tá Long, em can đảm lắm, qua sẽ cứu em! Thọ lí nhí, - Cám ơn Thiếu Tướng! rồi nó quay qua Đại Úy Hoàn, - Cho em điếu thuốc đi Đại Úy. Đại Úy Hoàn chưa kịp móc túi lấy thuốc cho Thọ thì Tướng đã có sẵn điếu thuốc lá đưa vào môi người lính can trường. Ông một tay che gió, một tay bật lửa mồi thuốc cho Thọ. Mặt Thọ tái xanh, những thớ thịt trên má bắt đầu co giật. Thọ hút một hơi thuốc dài, mắt Thọ long lanh. Chợt anh ngoác miệng cười, - Khẩu phòng không còn mới cáo cạnh, nước thép xanh biếc thấy mê luôn Đại Úy ơi! Ông Đại Úy Hoàn an ủi, - Giờ này chắc tụi nó đã mang khẩu súng ấy về nộp cho Thiếu Tá rồi. Mày nói đúng đó, nó còn mới cáo cạnh, hèn nào mày không mê nó đến đổ ruột luôn! Thọ cúi đầu cười xẻn lẻn. Cái bảng nhôm sơn đỏ có sao trắng được lật mặt ra đàng sau trở thành cái bảng nhôm màu trắng thanh khiết bên hông chiếc C&C. Không bảng sao, cái trực thăng chỉ huy trở thành giản dị bình thường như ngàn vạn chiếc tàu khác. Trước khi lên máy bay, Thọ còn ra dấu cho Đại Úy Hoàn lại gần để anh nhắn nhủ một điều gì quan trọng lắm, - Em đi rồi không có ai pha cà phê sáng cho Thiếu Tá. Đại Úy nhớ nhắc thằng Bích khi pha cà phê cho Thiếu Tá thì cho ít đường thôi! Thiếu Tá không thích uống ngọt lắm đâu. Nhờ Đại Úy nhắn với Thiếu Tá rằng, khỏi bịnh, xuất viện là em lên với Thiếu Tá ngay. Thôi em đi đây! Không rõ Tư Lệnh có nghe lời nhắn của anh lính Biệt Động Quân gởi cho thầy của anh ta không, nhưng rõ ràng đôi mắt Tư Lệnh rưng rưng. Chiếc trực thăng khuất trong vòm mây từ lâu mà cánh tay Tư Lệnh còn vẫy theo chưa hạ xuống. Đây không phải là lần đầu cái can trường của thuộc cấp làm tôi cúi đầu kính phục. Mà đã nhiều lần trong quá khứ, dưới quyền tôi không thiếu những người lính dũng cảm như thế. Thời 1966 vùng triền sơn Quảng-Nam đầy rẫy những họng súng bắn tỉa. Cứ nghe tiếng “tắc cù!” là chú Hạ Sĩ Nguyễn Hồng Phong lại đưa cái thân cao ngỏng còng queo của chú che cho tôi, chú nói, - Em phải che cho Thiếu Úy, em trúng đạn có mình em chết, Thiếu Úy trúng đạn cả chục người chết theo. Rồi cũng có lần chú bị bắn toác nón sắt vì đưa thân che chở cho tôi, khi đại đội tôi chạm địch gần ga HươngAn, Tam- Kỳ. Năm 1969 trong trận Bình-Tây 48 dưới chân đỉnh Chư-Pa, Đại Đội 1/TĐ11 BĐQ của tôi đánh cứu viện cho Đại Đội 4/ TĐ11 BĐQ của Tr/ Úy Nguyễn Lạn (K20 VB). Trận này quân nhân đơn vị của tôi và Lạn bị thương khá nhiều. Từ đầu trận, người lính mang đồ ngủ của tôi, anh B1 Trung đã bị bắn bể hông phải. Đã có nhiều chuyến tải thương đi mà Trung vẫn còn ngồi chờ trên bãi đáp. Tôi hỏi tại sao anh không lên máy bay về bịnh viện, anh phân bua, - Em chờ xem có ai bàn giao đồ ngủ của Trung Úy xong, em mới yên lòng đi về. Tôi ngỡ ngàng kêu lên, - Trời ơi! Sao mày khờ thế! Cứ quăng đại cho ông thường vụ! Lên tàu ngay! Luẩn quẩn ở đây đến chiều, hết tàu tản thương. Qua đêm máu ra hết thì chết! Trung giao đồ ngủ của thầy anh ta cho ông thường vụ đại đội, bàn giao kỹ lưỡng nhiệm vụ của mình rồi mới chịu lên chuyến tải thương cuối cùng về Quân Y Viện Pleiku. Vết thương của anh nặng lắm, sau ngày lành bệnh, anh B1 Trung đã được giải ngũ lãnh tàn phế 100%. Những người lính của tôi dễ thương như thế ấy! Họ chỉ biết vâng lời người chỉ huy mình, bất kể đúng hay sai. Cấp chỉ huy ra lệnh tử thủ, họ tử thủ; cấp chỉ huy ra lệnh rút lui, họ rút lui; không ý kiến, không bàn cãi phán xét mà chỉ có tuân lệnh thi hành. Họ đã cùng tôi bao tháng ngày đồng hành qua những chiến trường rực lửa, từ Pleime qua Kiến-Đức tới Lâm-Đồng rồi về Xuân-Lộc. Những người lính của tôi không màng đến vinh quang, mà chỉ phụng sự cho cái vinh quang của người chỉ huy mình. Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ, nợ với tổ quốc, nợ với đồng bào, và nợ với thuộc cấp của mình, những người đã hi sinh cho cái vinh quang mà mình đã một thời nhận được. Là người cầm quân, vinh quang là cứu cánh, vinh quang là ý nghĩa của cuộc sống. Tôi không có dịp tham dự vào cuộc phản công tái chiếm chợ Xuân-Lộc, khách sạn Long-Khánh và Cua Heo cũng như những cuộc giao tranh trong khu trung tâm thị xã. Tin tức liên quan đến mặt trận hướng tây tôi hoàn toàn mù tịt. Suốt mười ngày dầu sôi lửa bỏng tháng Tư Long-Khánh 1975, TĐ 82 BĐQ chỉ biết có mặt trận đông nam thị xã mà thôi. Bên hướng đông suối Rét là Lữ đoàn 1 Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh (K15 VB) làm búa. Bên hướng tây suối Rét là cái đe do Thiếu Tá Vương Mộng Long (K20 VB) chỉ huy, gồm TĐ 82 BĐQ tăng cường thêm một đại đội của TĐ3/ 43 BB, một đại đội Địa Phương Quân của Tiểu-Khu Long-An và một đại đội Điạ Phương Quân từ Bình-Long di tản về. Làm đe thì đỡ công di chuyển, đỡ mệt thân xác, dễ kiểm soát đội hình, quân số. Nhưng làm đe cho Dù thì quả là mất mạng như chơi! Pháo Dù nó tưới như mưa, làm đe bị lãnh tản đạn là thường. Trong trận này có ba người lính Thượng của tôi thiệt mạng vì tản đạn của pháo Dù. Tháng Tư 1975 tôi đã chôn họ ngay bên dòng suối Rét. Tôi đã cầu nguyện cho linh hồn họ yên vui trên đường phiêu du về nguyên quán Pleiku. Từ ngày đầu chiến dịch, một anh phóng viên chiến trường của một tờ báo ở Sài-Gòn, đã có mặt bên tôi không rời. Anh có dáng lòng khòng dong dỏng như một triết nhân. Anh mặc đồ trận, đội nón sắt, nhưng không trang bị súng ống. Anh chỉ có cái máy ảnh, quyển sổ tay, và cây bút làm hành trang. Ngày mà đạn pháo Dù bao trùm suối Rét cái lều của anh nhà báo rách toang. Cũng may anh thoát chết vì lúc đó anh đang ở với ĐĐ1/TĐ 82 BĐQ của Th/Úy Học, anh bận chụp hình cái tank cháy ngày hôm trước nơi hàng rào bắc của Trại PB 181. Giữa tháng Tư, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tung ra nhiều đợt tấn công mãnh liệt nhắm vào một trung đoàn Cộng-Sản Bắc-Việt trong đồn điền chôm chôm hướng đông nam suối Rét. Chúng tôi ở bên này bờ, hào hứng quan sát pháo Dù nổ rền trời phía bờ bên kia. Từ nơi đồn điền Thống Tướng Tỵ, cán binh CSBV từng tốp chạy túa ra bìa rừng, nhảy ùm xuống suối Rét. Những tay súng Pleime nhả đạn từ từ và chính xác. Những người lính Bắc-Việt bật lên khỏi mặt nước như những con cá trắm cỏ, quẫy mạnh một lần rồi chìm luôn… Những tiếng hô “Biệt Động! Sát!” hòa lẫn tiếng súng M 16, M 60 làm cho một số cán binh CSBV vừa ló đầu ra trảng trống đã vội chạy ngược lại phía bìa rừng. Rồi cũng có người cầm cờ trắng chạy từ trong bìa rừng ra bờ suối, súng AK dơ lên cao khỏi đầu: Thế là họ đầu hàng! - Thôi! Vứt súng xuống suối rồi lội sang đây! Vứt súng xuống suối! Dơ tay lên cao khỏi đầu, lội sang đây! Nghe rõ chưa? - Dạ cháu nghe rõ ạ! Tôi và người phóng viên nhà báo mồi cho ba anh cán binh CSBV ba điếu thuốc lá. Họ còn rất trẻ, chỉ độ mười lăm. Bơ phờ mất ngủ, mắt quầng thâm. - Cậu mấy tuổi rồi? - Dạ thưa thủ trưởng, cháu lên mười sáu ạ! - Sao đi bộ đội sớm thế? Mới mười sáu mà đã đi lính rồi à? - Cháu là thanh niên xung phong. Thủ trưởng của cháu nói rằng Miền Nam giải phóng rồi, chúng cháu chỉ vào để tiếp thu thôi ạ! - Thế đánh nhau mấy ngày nay cậu thấy thế nào? - Thưa thủ trưởng, nhà cháu sợ lắm ạ! - Thôi đừng sợ, chốc nữa có người đưa cậu về Sài-Gòn. Hết chết rồi, đừng sợ! - Thủ trưởng có nói thật không hử thủ trưởng? Nhà cháu sợ chết lắm thủ trưởng ơi! Đôi mắt trẻ thơ ngơ ngáo. Ngón tay cậu bé run run cầm điếu thuốc thơm đưa lên môi, chỉ sợ nó rơi… Thì ra thế! Những cậu bé này được đưa vào đây là để … tiếp thu Miền Nam! Một hôm, Đại Tá Hiếu gọi tôi vào máy để “check fire”. Tôi liếc qua nơi cần hỏa tập. Ồ! Cái tọa độ ấy chẳng liên hệ gì tới quân bạn, không trở ngại! Rồi Đại Tá Hiếu lại gọi tôi vào máy để “check fire”. Rồi tôi lại trả lời, “không trở ngại!” Cứ vậy, ba bốn lần hỏi qua, đáp lại. Chiều hôm ấy tôi nghe một tiếng “ùm!” âm vang hướng đông bắc. Tôi đã từng nghe B 52 đánh cận phòng nhiều lần trên chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2. Tôi đã nghe quen tiếng những trái bom 500 cân Anh, 300 cân Anh thun thút từ trên mây xanh, những tiếng “ủn!… ủn!” theo đuôi nhau chui trong không khí kiếm mục tiêu. Nghe tiếng bom nổ chùm, tôi có thể phân biệt được đó là Box 3km x 1km, Box 2km x 1km, hoặc Box 1km x 1km. Tiếng “ùm!” lần này có vẻ như âm vang của một Box B 52 đánh gọn ô vuông mỗi chiều 1km x 1km ngày nào? Tôi thấy một cột bụi đỏ dâng cao dần dần tới mây. Trời cao và mây xanh ngắt. Có một chiếc C 130 còn lượn trên vùng. Tôi nghĩ, chắc chiếc C 130 là tác giả cú “ùm!” vừa qua. Mãi sau này tôi mới biết tiếng “ùm!” đó là một trong hai trái CBU 55 (hay CBU 85) được xử dụng trong trận Xuân-Lộc. Một trái được thả xuống vùng Suối Tre hướng Tây Bắc Long-Khánh, tôi không nghe báo, trái thứ nhì thì được thả xuống chận đường kẻ thù đang nhắm tiến vào khu vực phòng thủ của Trung Đoàn 43/ SĐ18 BB trong đó có TĐ 82 BĐQ tăng cường. Mặt trận tạm yên thì phái đoàn Thượng Hạ Viện từ Sài-Gòn đã bay ra tới tận cuối sân bay Long-Khánh để ủy lạo những người lính Vùng 2 đang đổ máu bảo vệ mảnh đất còn lại của quê hương nơi Vùng 3. Những gói quà, những cái bắt tay, những lời hứa hẹn khen thưởng làm ấm lòng người chiến sĩ. Tôi nằm trên võng dưới tàn cây điều lộn hột, lòng buồn nhớ thương vợ con tôi không rõ giờ này ra sao. Những người lính dưới quyền tôi cũng vậy, mặt người nào cũng không vui, thân nhân chúng tôi đã rơi vào tay địch nơi chân trời cũ xa xôi Ban-mê-Thuột, Pleiku… Một sớm mai, từ hướng đông, chiến xa địch dàn hàng tiến về vòng đai phòng thủ Xuân-Lộc. Đại Tá Hiếu gọi tôi và cho biết lần này bộ binh tùng thiết của CSBV có vẻ đông hơn những đợt tấn công trước đây nhiều. Pháo binh bạn đã bắn tối đa để chận địch. Tôi thấy vài cột khói bốc lên từ những chiếc tank bị cháy. Có một chiếc T 54 bị bắn đứt xích cách vòng rào trại PB 181 không xa lắm. Chúng tôi nghe tiếng búa của bộ đội CSBV gõ trên thành xe, chúng đang sửa cái xe tank bị đứt xích! Pháo binh từ trong vòng đai liên tiếp trực xạ hướng vào chiếc T 54 bị thương. Địch không phản ứng. Tiếng búa chạm sắt cũng im. Họ án binh chờ lệnh? Rồi bên quân bạn cũng không thấy ai yêu cầu tác xạ thêm, pháo binh của ta cũng tạm ngưng. Từ trưa tới chiều chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều hướng khác nhau tập trung trên thành phố Xuân-Lộc, đủ loại súng nặng, bắn thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất cả đều là pháo tầm xa (?) Pháo địch kéo dài cỡ một giờ đồng hồ rồi im hơi. Màn đêm buông xuống, tôi nghe tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh sắt chạm đường đất đá, âm vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán tiền thám BĐQ ngoài vòng đai báo cáo, chiếc T 54 bị đứt xích đã được kéo đi và cả đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang rút đi (?) Tôi báo cáo sự việc này cho Đại Tá Hiếu, ông cũng ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái thì đột nhiên đổi hướng. Những ngày sau đó tình hình im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất tiếng hòa ca điệu cuối Xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê. Những cây chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay cao. Khoảng ba giờ chiều ngày 20/04/1975 Đại Tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân. Ông rầu rầu, - Ông Toàn ra lệnh cho chúng ta bỏ Long-Khánh rút về Bà-Rịa, ông Đảo vừa được lệnh và cho tôi biết. Tôi đón chú vào cho chú hay để mà chuẩn bị, chút nữa ông Đảo họp với ông Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau. Tôi ngồi với Đại Tá Hiếu một lúc thì có điện thoại của Tư Lệnh, đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long-Khánh là từ Tổng Thống. Địch không vây Long-Khánh nữa mà đi bọc về đánh Biên-Hòa và thủ đô Sài-Gòn nên quân ta phải bỏ Xuân-Lộc, về bảo vệ Thủ-Đô. Tướng Đảo cực lực phản đối vụ triệt thoái này nhưng Tổng Thống và Tướng Toàn đã quyết định cắt tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép sư đoàn này thi hành lệnh lui binh. Tôi được lệnh rút TĐ 82 BĐQ về ngã ba Tân-Phong trước tám giờ đêm chờ lệnh. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân cuốn lều, lấp hầm hố phòng thủ khi đêm rơi. Cuối tháng Ba năm 1975 chúng tôi đã làm việc này ở Kiến-Đức, chúng tôi đã bỏ lại sau lưng một trận địa, một kẻ địch kinh hoàng đến độ hai ba ngày sau mới dám mon men vào điểm trú quân đã bỏ trống của đơn vị Biệt Động Quân một thời ngang dọc Vùng 2. Tôi đã rút đi, theo lệnh, để lại Kiến-Đức hàng chục nấm mồ thuộc cấp của mình bên QL 14. Quận Kiến-Đức và Đồn Pleime cách nhau không bao xa, cũng còn là trong lãnh thổ Vùng 2! Lần này mười hai người lính của Pleime ngủ lại bên bờ suối Rét, lạ lẫm quê người, quanh đây chỉ có điều lộn hột, chuối, xoài và đồng cỏ mênh mông. Nơi này thật xa những ngọn núi hùng vĩ Chư Gô, Chư Don, thật xa con sông mơ màng Ia Meur lững lờ quanh năm. Công lao khó nhọc dặm trường nửa đường đứt gánh. Đơn vị tôi vừa di chuyển ngang cổng Tòa Hành-Chánh tỉnh Long-Khánh thì Đại Tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng đã chờ ở đó, Đại Tá yêu cầu tôi cho Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đi với đoàn quân của Tiểu-Khu Long-Khánh, và ông xin được tháp tùng tôi trong cuộc rút lui. Tôi từ chối với lý do, “Đại Tá có cả một tiểu khu, Đại Tá phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy của họ, Đại Tá không thể đi theo tôi mà để họ không người chỉ huy.” Đại Tá, hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi bắt tay từ biệt. Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại Đại Tá Phúc trong Trại Cải Tạo Nam-Hà A ngoài Bắc. Trong cuộc rút binh, Đại Tá Phúc đã bị bắt khi đi được nửa đường Xuân-Lộc, Bà-Rịa và bị giữ trong trại tù từ ngày đó. Ra tới QL 1 tôi phải cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến ngã ba Tân-Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL 1 những chiếc xe cam nhông chở đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Xe mở đèn pha sáng choang. Có những người lính bộ binh lưng mang nặng ba lô, súng đeo vai đi sát hai bên đường. Một anh lính bộ binh chạy từ bên phải sang bên trái đường, bị trượt chân té, văng nón sắt. Chiếc xe cam nhông chạy qua, đè ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn được một câu thì chiếc xe cam nhông thứ hai đã đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua người anh ta. Tôi nghe rõ tiếng “rốp!” khi bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép của người lính cách chân tôi khoảng hai mét. Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là Nguyễn Thành Long, sinh quán Long-An. Hai bên đường, người đi như chảy hội, giữa đường, xe cứ nối đuôi nhau. Tôi chờ khoảng mười phút thì Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 cùng người liên lạc truyền tin của ông tới gặp tôi. Tháp tùng Đại Tá Hiếu còn có ông Trung Tá Linh, Sĩ Quan Phụ Tá Hành Quân của Trung Đoàn 43. Đại Tá Hiếu cho tôi biết, Chuẩn Tướng Đảo chọn TĐ 82 BĐQ làm lực lượng bảo vệ Bộ Tư Lệnh di chuyển. Không lâu sau đó, một chiếc Jeep trờ tới, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo cùng bốn Quân Cảnh nhảy xuống, chiếc xe chạy đi ngay. Chúng tôi xác định nhiệm vụ, trao đổi tần số rồi lên đường. Nhiệm vụ được phân chia rõ ràng: Tướng Tư Lệnh chỉ huy toàn thể trận điạ. Đại tá Hiếu chỉ huy cánh quân của TĐ 82 BĐQ và TĐ1/43 BB của Thiếu Tá Nguyễn Khắc Tung (K20 VB) đi theo sau. TĐ 82 BĐQ chịu trách nhiệm bảo vệ Chuẩn Tướng Tư Lệnh trên đường di chuyển. TĐ 3/43 BB tùng thiết, được đặt dưới quyền Trung Tá Nô, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 5 Kỵ-Binh. Riêng TĐ 2/43 BB của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế đóng quân trên núi Thị phải gánh chịu nhiệm vụ nặng nề nhất của cuộc triệt thoái, làm lực lượng đoạn hậu của SĐ 18 BB. Đường Liên Tỉnh Lộ Long-Khánh, Bà- Rịa nhỏ và hẹp. Ra khỏi ngã ba Tân-Phong một đỗi, tôi thấy những bành đạn pháo binh xếp dọc lề đường, đây là bãi tiếp tế của sư đoàn, xa về hướng nam để đánh lạc pháo địch. Tuy vậy mới chiều hôm ấy địch đã phát giác bãi này, và pháo binh CSBV đã đánh phá đoạn đường này cả giờ. Chúng tôi đi bên trái đường, thỉnh thoảng chân tôi đá phải những xác người nằm chết rải rác đó đây, những người dân chạy giặc, trúng đạn pháo chết oan, những cái xác còn mềm, có cái còn toàn thân, có cái chỉ còn một phần hình hài con người. Tôi đi ngang qua đồn điền Michelin vào lúc công nhân ở đây đã lên xe chạy từ lâu. Những gia đình chậm chân thì khăn gói tất tả, vợ chồng con cái hối hả lên đường. Có những bé thơ chừng năm, bảy tuổi, chân bó áo bó quần từng cục vải to. Tội nghiệp cho bé, chân non đường dài! Tôi chạnh nhớ đến ba đứa con tôi ở Ban-Mê-Thuột, đứa lớn nhất mới bốn tuổi, vợ tôi lại đang mang bầu. BanMê-Thuột đã rơi vào tay giặc từ đầu tháng Ba năm 1975. Gia đình tôi đã rơi vào tay giặc khi tôi gắng sức bảo vệ gia đình những người khác ở Quảng-Đức. Đầu tháng Ba, khi có tin địch sắp đánh Ban-Mê-Thuột, tôi đã gởi một cái điện khẩn cấp cho BCH/BĐQ/QK2 và BTL/QĐII cho phép tiểu đoàn tôi về phòng thủ thị xã này. Không ai trả lời cái điện cầu xin trên. Đây là nỗi ân hận sâu xa nhất trong đời lính chiến của tôi, đó cũng là nỗi buồn ám ảnh suốt đoạn đời còn lại của người chỉ huy trực tiếp của tôi, Chuẩn Tướng BĐQ Phạm Duy Tất. Đoạn đường vài chục cây số từ Tân-Phong đi Bình-Ba, Bà-Rịa thực ra không có gì là đáng ngại đối với những người lính sơn cước của TĐ 82 BĐQ. Nhưng cái nhiệm vụ nặng nề bảo vệ Tư Lệnh Hành Quân đã làm tốc độ tiến quân của chúng tôi giảm đi nhiều so với khả năng. Đi chừng nửa giờ tôi lại phải cho đơn vị dừng quân bố trí chờ đơn vị theo sau. Quân nhân của những đơn vị khác đi hàng một trên đường, vậy mà vẫn chậm hơn nhiều so với đội hình tác chiến một hàng dọc của TĐ 82 BĐQ đi sâu gần bìa rừng trái trục lộ. Có lúc hỏa châu soi khi ngừng quân, Tư Lệnh quan sát bên đường một lúc rồi hỏi tôi, - Quân của Long đâu sao qua không thấy? Tôi phải giải thích với ông rằng đơn vị tôi đã được tập luyện thành thói quen, bất cứ lúc nào dừng quân, mỗi người lính tự động núp vào bụi cây, gò đất, nếu không có gì ẩn nấp, họ phải ngồi thủ thế, súng trên tay sẵn sàng tác xạ. Hỏa châu không đủ soi sáng đội hình, nên Tư Lệnh không thấy rõ họ. Nghe tôi giải thích có lý, Tướng gật đầu, - Well well, very good! Tới một cái cầu nơi con suối sâu, nước chảy ào ào, đoàn quân qua cầu hàng dọc, rồi chuyển sang hàng ngang tiến sâu về hướng bìa rừng, khi an ninh đã sẵn sàng, tôi mới mời Tư Lệnh và Đại Tá Hiếu rời vị trí ẩn nấp tiếp tục lên đường. Chúng tôi đến giữa cầu thì nghe từ đầu dốc phía sau, tiếng chuông xe đạp, “kính coong! kính coong!” Rồi một người đàn bà la lớn,“Ê các cha! Xe tui không có thắng, tránh xa! Tránh xa! ” Thế là tụi tôi và Tư Lệnh đứng nép một bên cầu, cầu không có lan can, chỉ sợ người đi xe đạp lao vào mình thì chắc mình sẽ rớt xuống sông trình diện Hà-Bá! Khi người đi xe lướt qua trước mặt, nhờ ánh hỏa châu soi, chúng tôi thấy rõ mặt người vừa la, một bà trung niên rất béo, cưỡi chiếc xe đàn ông loại để thồ đang vèo vèo lao xuống dốc. Chợt chiếc xe vướng cục đá, tưng lên, trệch hướng, và lao xuống dòng nước trắng xóa đang réo ầm ầm dưới kia. Chúng tôi nghe tiếng thét của người đàn bà ấy ngân dài trong thung lũng, “Á !…Á !…Á !…” rồi thì… “Ùm!” Sau dư âm của tiếng “Ùm!” cảnh vật lại trở về bình yên. Tôi rọi đèn xuống để quan sát tình trạng người bị nạn thì chỉ thấy một khối đen trôi theo dòng nước cuốn nhanh. Đoàn quân vẫn tiếp tục hành trình. Tư Lệnh vừa đi vừa đàm thoại với những cánh quân ở xa. Vì cùng tần số, tôi biết Trung Tá Trần Minh Công Trung Đoàn 48/SĐ 18 BB, Đại Tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn 52/SĐ 18 BB đang ở nơi nào. Khi đến gần ngã ba Xà-Bang thì cánh quân của tôi đã bỏ đơn vị theo sau một đoạn hơi xa. Trong bìa rừng sâu tôi nghe tiếng súng báo động của địch. Những tiếng “Tắc!Tắc!…Tắc!…” hai ngắn, một dài, từ hướng Xuân-Lộc tiến dần từng chặng về hướng Nam . Rõ ràng địch đang âm mưu gì đây! Đại Tá Hiếu thì cứ luôn bận tâm đến đứa con đi đoạn hậu, TĐ 2/43, đơn vị này bắt đầu rời núi Thị. Tôi rất khâm phục cái trầm tĩnh và sức chịu đựng của người sĩ quan đàn anh này. Chân ông còn tháp một mảnh platinum vì chiến thương, vậy mà ông cố theo bén gót những người lính miền núi mà không để hé chút dấu hiệu mệt nhọc nào, quả là một sự cố gắng phi thường. Sắp đến ngã ba Xà-Bang, tôi thấy một cái xe Citroen dân sự bị bắn xẹp bánh, nằm giữa đường. Khi tôi rọi đèn pin vào trong xe thì thấy hai ghế trước bỏ trống, trên ghế sau là xác một bà cụ già. Trên tay bà cụ còn ôm một cái cơi trầu. Cái cơi trầu bung nắp, những lá trầu đẫm máu nằm rải rác trên nệm xe. Tư Lệnh xúc động bùi ngùi nhìn cái xác người dân nằm đó, người dân bỏ cuộc giữa đường dẫn tới chốn bình an. Buồn rầu đóng cửa chiếc xe Citroẽn lại, tôi nhủ thầm,“Lỗi tại chúng tôi! Lỗi tại chúng tôi!” Rồi tôi lâm râm đôi lời cầu nguyện cho người nạn nhân chiến cuộc. Đến ngã ba Xà-Bang thì Tướng Tư Lệnh mệt lắm rồi, ông đề nghị, - Long ơi! Có nên cho anh em nghỉ một chút được không? - Địch nó đã phát giác ra cuộc rút quân của chúng ta rồi, chắc chắn có bôn tập truy kích. Vị trí này rất nguy hiểm không dừng quân được đâu Thiếu Tướng. Nhất là ban đêm, đang đi mà ngừng lại nằm xuống là bị ngủ mê ngay, rất khó dậy nổi mà đi tiếp. Gắng vài giờ nữa là tới chỗ an toàn. Cố lên đi Thiếu Tướng! Tôi vừa từ chối, vừa kéo tay Tư Lệnh tiến lên. Tôi huýt gió bài “The Longest Day” Tư Lệnh huýt gió theo, và chúng tôi tiếp tục bước đi. Hướng Xuân-Lộc vẫn ì ầm tiếng đại bác. Hỏa châu lập lòe phía chân trời xa. Vừa lúc ấy trên máy liên lạc của Trung Đoàn 43 BB, Thiếu Tá Dư, TĐT 3/43 BB báo cáo rằng đoàn cơ giới của anh và Trung Tá Nô Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh đã gặp quân Dù án ngữ ngõ vào Bình-Ba, họ đang chờ xác nhận của cấp trên rồi mới cho phép quân Xuân-Lộc tiến vào. Tướng Tư Lệnh thở phào nhẹ nhõm, thế là chuyện “link-up” với quân bạn đã xong, bây giờ chỉ còn chuyện theo dõi an nguy của đoàn hậu quân là TiểuKhu Long-Khánh, Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 2/43 BB. Chúng tôi dấn bước tiến nhanh về phía trước, xa xa vọng lại tiếng gà gáy sớm. Khi chúng tôi nhìn thấy ánh đèn dầu của xóm thôn le lói, cũng là lúc máy truyền tin của Tiểu-Khu Long-Khánh báo tin cho Tư Lệnh rõ rằng họ đang chạm địch. Rồi đến tin tức Lữ Đoàn Dù chạm địch. Những khẩu pháo Dù đặt bên đường đầu xóm bắt đầu tác xạ từng tràng yểm trợ cho quân bạn. Mặt trời hừng đông, một chiếc xe Jeep chạy đến đón Tướng Tư Lệnh và tùy tùng của ông. Chiếc xe thứ hai đến đón Đại Tá Hiếu, Trung Tá Linh và anh lính truyền tin Trung Đoàn 43 BB. Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng làng xã rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho các đại đội bố quân, cắt người canh gác. Đầu dựa ba lô, mắt tôi nhíp lại rất nhanh. Mặt trời lên cao khỏi ngọn cây, tôi thức dậy bởi tiếng động cơ của một trực thăng chỉ huy đáp bên căn cứ hỏa lực của Dù. Ba người cao lớn nhảy xuống, chiếc tàu bay đi. Không rõ những người vừa xuống máy bay là ai, chỉ thấy sau khi trao đổi vài lời gì đó với những pháo thủ Dù, họ quay sang tiến về phía TĐ 82 BĐQ. Khi họ đến gần thì tôi nhận ra Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Úy Đức tùy viên của ông, và một anh lính mang máy truyền tin. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn tập họp năm đại đội dàn chào. Sau khi bắt tay tôi, Tướng Toàn đi một vòng, bắt tay từng người lính đứng trong hàng. Ông chỉ vắn tắt, lặp đi, lặp lại, có một câu, “Good! Giỏi! Tiểu đoàn ni giỏi lắm!” Rồi ông quay qua tôi nhỏ giọng, - Thôi cho anh em giải tán đi Long, ở đây sát nách căn cứ Mây-Tào, tụi nó pháo bất cứ lúc nào, nguy hiểm. Tôi cười, - Pleime tứ bề là địch, vậy mà Trung Tướng xuống thăm, tụi tôi vẫn đội hình đàng hoàng dàn chào; còn ở đây thì có cái gì đáng ngán mà bỏ lễ nghi quân cách? Tướng Toàn cũng cười theo, - Ừ, nhắc Pleime tức là chú mi nhắc khéo ta còn nợ cái lon trung tá của chú mi trận đó có phải không? Thôi về Long-Bình kỳ này ta đền cho! Chịu chưa? Rồi Trung Tướng Toàn bắt tay tôi từ giã, có xe chờ đưa ông vào Hội Đồng Xã Bình-Ba họp với Tướng Đảo. Tướng Toàn không lạ gì chúng tôi, chúng tôi cũng chẳng lạ gì Tướng Toàn. Trong thời gian Tướng Nguyễn Văn Toàn giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, ông thường ghé thăm Pleime và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Tướng Toàn đã chứng kiến khả năng đơn vị này qua những trận đánh lẫy lừng, Căn Cứ 711, Pleime, Đạo Trung. Trong năm 1974 Tướng Toàn đã hai lần gắn Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu lên hiệu kỳ tiểu đoàn này. Sau đó ông thuyên chuyển về làm Tư Lệnh Quân Khu 3. Tháng 4/ 1975 Quân đoàn II tan rã. Khi được tin báo rằng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân còn đang lặn lội trong rừng già Bảo-Lộc, chính Tướng Nguyễn Văn Toàn đã ra lệnh cho Không Quân Vùng 3 Chiến Thuật cứu tiểu đoàn này về Long-Khánh chiều ngày 6/4/1975. Chiều hôm đó, tại sân bay Long-Khánh, Tướng cũng chỉ ngắn gọn một câu, “Good! Giỏi! Tiểu đoàn ni giỏi lắm!” Chúng tôi đã đáp lại lời khen của ông bằng những chiếc T 54 cháy bên rào Trại 181 PB, và bằng những khẩu phòng không nước thép còn xanh biếc được trưng bày ở sân bay Long-Khánh. Trưa hôm đó tôi vào gặp Chuẩn Tướng Đảo trong Hội Đồng Xã Bình-Ba, ông cho biết Lữ Đoàn 1 Dù đã thành công diệt xong những con chốt chặn và đang trên đường tập trung vùng bắc xã Bình-Ba. Riêng tin tức liên quan đến Tiểu Khu Long-Khánh thì còn mù mờ. Trung Tá Đình (K10 VB) Tiểu Khu Phó đã tử trận vì một quả B 40 trúng ngay xe ông. Số phận Đại Tá Phúc, Tỉnh Trưởng thì chưa rõ rệt, còn đang phối kiểm. Tôi mượn xe và tài xế của Chuẩn Tướng Đảo để ra Bà-Rịa, vào trung tâm tiếp cư, dò tên gia đình vợ con tôi trên danh sách nạn nhân chiến cuộc, nhưng không thấy tin tức gì của Ban-Mê-Thuột cả. Khi tôi về lại Hội Đồng Xã Bình-Ba thì Đại Tá Hiếu cho tôi biết địch đã bôn tập truy kích đúng như dự đoán của tôi. Chúng chặn đánh quân bạn ngay tại ngã ba Xà-Bang, Trung Tá Đình chết ở đây, Đại Tá Phúc cũng bị địch bắt ở địa điểm này. TĐ 2/43 BB của Th/Tá Chế thì đang bị xe tank CSBV truy lùng, phải lẩn trốn trong rừng cao su để tìm đường rút về hướng Long-Thành. Ngày hôm đó Tổng Thống Thiệu từ chức trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương. Tiểu đoàn tôi rút vào nhà dân ngủ qua đêm. Sáng hôm sau chúng tôi rút về Long-Bình, đơn vị tôi xuất phái từ Sư Đoàn 18 và được trả về cho Biệt Động Quân. Từ ngày về Long-Bình tôi mải lo đi tìm tin tức vợ con, không màng tới việc gặp Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III để “đòi nợ” cái lon trung tá. Ngày 28/4/1975 Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân được lệnh vào vùng hành quân phía sau lưng Trường Bộ Binh Long-Thành. Vì lệnh đến bất ngờ do đó 1/3 quân số đơn vị xuất trại về không kịp giờ di chuyển nên tiểu đoàn vào vùng với quân số 161 người, thiếu vắng Thiếu Úy Đặng Thành Học, người sĩ quan đại đội trưởng ưu tú nhất của tôi. Tiểu đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ hướng bắc tiến về, đồng thời hỗ trợ cho một đơn vị bạn (?) tái chiếm trường Bộ Binh Long-Thành. Ngọn đồi chúng tôi phòng thủ là một cái tiền đồn cũ, có ba cái lô cốt nhỏ, không hầm hố địa đạo, không có hàng rào. Chúng tôi chỉ chất sơ sài những viên đá tổ ong thành một chiến lũy cấp thời. Tối hôm đó, từng đoàn xe vận tải của CSBV đã đổ hàng trăm bộ đội xuống khu rừng hướng bắc ngọn đồi trọc mà chúng tôi trấn giữ. Khoảng tám giờ tối, đoàn xe bật đèn rọi đường cho bộ binh theo sau T 54, dàn hàng ngang xung phong biển người vào tuyến phòng ngự của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân. Ngay loạt đạn 100 ly mở màn, ba cái lô cốt đã bị bắn sập. Đại Úy Hoàn và anh lính truyền tin của ông là những người chết đầu tiên. Tôi bò sang hố của ông, quấn tấm thân đầy máu của ông bằng tấm mền poncho line. Khi tôi di chuyển sang kiểm soát vị trí phòng ngự của Thiếu Úy Thủy, ĐĐT/ ĐĐ 4 thì bộ binh địch bắt đầu hô “Xung phong! ” Chúng tôi phải dùng lựu đạn M 26 để chặn bước tiến của giặc. Những trái M 72 bắn xéo qua xéo lại từ đỉnh đồi đã khiến cho chiến xa CSBV thoái lui. Dọc theo sườn đồi có bốn, năm chiếc T 54 bị hạ nằm bất động. Hai khẩu M 60 bắn chéo cánh sẻ đã vô hiệu hoá đợt sóng biển người đầu tiên của địch. Tôi gọi cho Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xin không yểm và pháo yểm nhưng đơn xin yểm trợ không có ai trả lời! Chợt đèn xe vụt tắt, tiếng động cơ chiến xa rú lên. Khoảng năm sáu chiếc T 54 tắt đèn và mở hết tốc lực chạy lên đồi. Chúng đảo một vòng chữ “C” trên vị trí đóng quân của Biệt Động Quân, xích xe đè nát thân thể những người không kịp tránh né rồi chạy đi. Sự kiện này thật là bất ngờ! Chúng tôi chưa kịp phản ứng thì chiến xa địch đã chạy khuất xuống chân đồi. Ông Thượng Sĩ Phạm Hoa, thường vụ tiểu đoàn bị xích xe tank nghiến nát ngực chết cùng với anh B1 Bích, người nấu cơm cho tôi. Khẩu cối 81 bị đè gãy càng bất khiển dụng. Chuẩn Úy Thiều, trung đội trưởng trung đội súng nặng ngồi ôm xác thượng sĩ Hoa khóc rưng rức. Cả tiểu đoàn đều biết Chuẩn Úy Thiều là ứng cử viên rể quý của “Thượng Sĩ Tía”. Ái nữ của thượng sĩ thường vụ đang là hoa khôi lớp 11 trường Trung Học Minh-Đức Pleiku. Tôi chưa kịp chấn chỉnh lại đội hình thì đạn 100 ly lại ầm ầm dội trên đỉnh đồi, rồi đèn xe lại bật sáng soi đường bộ binh địch mở đợt biển người tiếp theo. Lần này chúng tôi ngăn chúng từ xa bằng những quả lựu đạn M 67 nổ chậm. Chúng tôi ném hết sức thẳng tay những quả M 67 xuống chân đồi. Đèn xe soi rõ những thân hình cán binh Cộng-Sản loạng choạng ngã chúi xuống đất vì trúng mảnh lựu đạn. Hai khẩu M 60 vẫn đan cánh sẻ. Những xác người chết đè lên nhau, những tiếng thét đau đớn vang lên man rợ trong đêm đen. Đèn xe lại tắt, tiếng chiến xa lại hú. Những nòng M 72 đã sẵn sàng phóng đạn. Hai khẩu M 60 được nâng cao lên nhằm vào những xạ thủ phòng không trên tank. Vài chiếc tank bị trúng đạn, nằm lại giữa triền đồi, nhưng có hai chiếc đã lọt được vào vị trí phòng ngự của Biệt Động Quân. Xạ thủ 12,8 ly trên xe đã chết, cái dây xích còn móc vào chân xạ thủ, treo tòn ten cái xác xạ thủ đung đưa bên hông chiến xa. Trong khi chiếc tank hướng đông đã xoay sang trái chạy xuống đồi thì chiếc thứ nhì còn đang trở đầu ở khoảng đất giữa hai cái lô cốt. Có một Biệt Động Quân đứng xổng lưng giữa đồi chờ đợi cái xe tank đó. Chiếc xe nhằm anh lao tới, anh tránh sang một bên, rồi nắm sợi xích treo cái xác bên hông xe đu lên pháo tháp. Một quả lựu đạn ném gọn vào lòng xe, quả thứ hai, quả thứ ba… bùng! bùng ! bùng! chiếc xe loạng choạng rồi ngừng trên đỉnh đồi. Người Biệt Động Quân nhảy xuống xe, anh xả một băng M 16 vào cái thây ma cán binh Cộng-Sản, xạ thủ phòng không. Hết đạn, anh thay băng đạn khác, nhả đạn tiếp tục, cái thây ma toe tua từng mảnh. Rồi anh ngồi bệt xuống đất ôm mặt khóc rống lên. Người ấy là Chuẩn Úy Thiều! Tôi cứ để cho người sĩ quan trẻ khóc, khóc cho vơi hận thù, cho vơi nỗi thương tâm. Khoảng nửa đêm, đèn xe lại rọi sáng, đạn 100 ly lại cày xới ngọn đồi không tên. Tôi không thể nắm vững được con số tổn thất của quân bạn là bao nhiêu. Chúng tôi đã xử dụng đến những ống M 72 cuối cùng. Tôi gọi Thiếu Úy Thủy và cho lệnh anh đi gom góp lựu đạn của những người đã tử trận về chia cho những người còn sống để đánh địch lần chót. Dưới ánh đèn xe, những người lính xâm lăng trong đợt xung phong này hình như không còn hăng hái như hai đợt trước; họ bắt đầu bò lên, nương theo những mô đá nhấp nhô. Như vậy là địch đã mất tinh thần! Khi những quả lựu đạn vừa bật mỏ vịt nổ “Ùm!” thì những anh bộ đội Cộng-Sản cũng quay lưng chạy thục mạng ngược về hướng rừng. Thế là đèn pha vụt tắt. Dưới chân đồi có tiếng rên la của lính CSBV bị thương. Hai khẩu M 60 tưới đạn không thương tiếc về hướng có những tiếng rên la đau đớn ấy. Chừng mười phút sau đoàn xe tank lại ào ạt tiến lên đồi lần thứ ba. Lần này chúng theo đội hình hai hàng dọc, đâm thẳng lên đỉnh đồi rồi đồng loạt pha đèn, chia hai ngả, trái, phải giày xéo vị trí trú quân của chúng tôi. Trên thành xe không có tên xạ thủ phòng không nào! Những đứa nạp đạn đại bác thì thò đầu lên thụp đầu xuống ném những trái thủ pháo xuống những cái lều poncho và những hố cá nhân. Chúng tôi giờ này như những con thú bị thương, miệng la, “A !…A!… A!… Biệt Động!…Sát!” tay bóp cò M 16 nhắm những cái đầu địch nhấp nhô trên pháo tháp. Một trái thủ pháo ném trúng lưng tôi, tôi chụp nó ném đi hướng khác, trái thủ pháo nổ trên trời, thủ pháo Cộng-Sản nổ chậm hơn lựu đạn M 26 của ta, sát thương cũng không bằng M 26 của ta. Bây giờ chúng tôi đã mất trí, không còn biết sợ chết nữa! Chúng tôi trở thành những tay giác đấu, gắng sức leo lên lưng những con quái vật T 54 để đánh quả lựu đạn sau cùng. Tôi đã leo lên đến cái pháo tháp, tôi lần tay tìm trên sợi dây ba chạc, còn một quả mini và một quả lân tinh! Tay tôi chưa kịp mở chốt quả mini thì một cái đầu địch nhô lên, nó đập một trái thủ pháo trên mũ sắt của tôi rồi ra sức xô tôi xuống xe. Hai con vật giằng co, quả mini tụt tay tôi rơi mất! Tôi gỡ cái nón sắt ra, thẳng tay choảng vào đầu thằng giặc, đầu nó ngúc ngoắc, rồi nó thụp vào lòng xe. Tôi đang cố gỡ trái lân tinh móc trên dây ba chạc thì cái pháo tháp xoay tròn, tôi bị gạt rơi xuống xe. Tôi lăn sang sau một ụ đá, chiếc xe đảo một vòng, xích sắt cày sâu trên đất, cát bụi tưới rát mặt, tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc! Chúng tôi giờ này như những con cọp bị thương, bị dồn vào đường cùng! Chúng tôi chạy bộ đuổi theo đoàn chiến xa đang rút đi. Trong đám bụi mù, một Biệt Động Quân đã bỏ được một trái M 26 vào trong lòng chiếc T 54 hướng ĐĐ 4/TĐ 82 khiến nó quýnh quáng đâm vào hông một chiếc khác rồi lật nhào xuống triền đồi bốc cháy. Chiếc xe bị đâm trúng thì đứt xích, từ trên xe, bốn tên CSBV nhảy xuống, chúng chưa đứng vững thì năm sáu họng M 16 đã nhả hàng trăm viên đạn trên người chúng, bọn xâm lăng chết không kịp than tiếng nào. Có vài Biệt Động Quân còn bám trên pháo tháp những chiếc tank đang đổ dốc, họ cố chúi mũi M 16 vào miệng pháo tháp bóp cò vô vọng. Pháo tháp xoay tròn, họ rơi xuống đất. Chiếc xe chạy sau đè lên thân họ. Đoàn xe biến dạng trong đêm. Đêm ấy tôi đã sống sót sau một trận chiến đấu đẫm máu và dã man nhất trong cuộc đời mười năm trận mạc. Cái lều của tôi bẹp dí. Chiếc máy PRC 25 của tôi cũng bẹp dí. Chiến xa địch đã rút xa, tôi còn đứng sững trên đỉnh đồi nhìn theo chúng. Tay tôi còn cầm chắc quả lựu đạn lân tinh cuối cùng, tiếc rẻ. Tôi bước rảo quanh ngọn đồi trọc đã xác xơ. Thuộc cấp của tôi chết phơi thây trên miệng hố, la liệt đó đây. Không còn khẩu M 72 nào, lựu đạn cũng cạn, pháo yểm không có, không yểm cũng không có. Tôi quyết định cho đơn vị rút lui. Một trái mìn cóc nổ dưới chân Chuẩn Úy Trung, người sĩ quan trẻ theo sau lưng tôi đi kiểm tra trận chiến, bàn chân trái của Trung toe ra như miếng bã trầu đẫm máu. Tôi dìu Trung vào cái lều sập của Đại Úy Hoàn, cái xác Đại Úy Tiểu Đoàn Phó đã bị pháo 100 ly xẻ thành từng mảnh, đầu văng một nơi, tay chân văng một ngả. Tôi chụp cái máy PRC 25 của ông ra lệnh cho Trung Úy Trần Văn Phước ĐĐT/ĐĐ 3 cho người dìu Chuẩn Úy Trung xuống đồi. Rồi tuần tự, các Đại Đội 3,4,2,1 rút lui qua con suối dưới chân đồi. Trên đồi, những anh hùng Pleime vừa tử trận, nằm phơi thân trên miệng hố cá nhân. Không có tiếng rên la nào cả, tất cả đã ra đi êm ả, tất cả đã ra đi kiêu hùng. Đêm 28/4/1975 máu chúng tôi, máu những người Biệt Động còn tưới ướt đẫm một ngọn đồi không tên của quê hương. Khi chúng tôi xuống tới vườn cam dưới chân đồi thì xe tank địch ào ạt lên đồi lần thứ tư. Những trái đạn 100 ly bắn dài, vượt qua đỉnh đồi, bay trên đầu chúng tôi rồi rơi bên bờ suối. Đất đá bụi mù sau lưng chúng tôi. Trong đêm tối, tôi cho quân lội nhanh qua bờ bên kia. Đêm 28/4/1975, chợ chiều rồi! Không ai đáp ứng lời xin tác xạ yểm trợ. Không ai đáp ứng lời tôi xin một trái hỏa châu! Qua suối, tôi cho đơn vị dấu đội hình trong bãi mía. Từ đây, sáng hôm sau tôi nhìn lại bên kia bờ, ngọn đồi trọc đẫm máu không một bóng người, những chiếc xe tank bị phá hủy đêm qua đã được kéo đi. Không thấy bóng dáng quân thù, không nghe tiếng động cơ chiến xa. Ngọn đồi nằm phơi dưới nắng mai im ắng. Vào lúc này, bên trái cái lô cốt hướng bắc, cạnh một gốc bằng lăng, Đại Úy Hoàn TĐP/TĐ 82 BĐQ thoải mái nằm ngủ yên trên đó, đầu một nơi, thân một ngả. Có cả chục người lính can trường yên nghỉ trên ngọn đồi này cùng ông. Gió ngàn lồng lộng, hoa mía bay lồng lộng… Sáng 29/4/1975 tôi nhìn về hướng căn cứ Long-Bình, có vài cột khói đen bốc lên từ nóc các nhà vòm. Người ta lại đốt gia tài, người ta lại rút đi rồi ! Người ta rút đi đâu? Tôi vẫn còn ở sát địch quân, vậy mà người ta lại nỡ bỏ tôi mà đi, như ở Quảng-Đức, Blao! Kiểm điểm lại quân số, cả tiểu đoàn còn được 107 người! Tôi lấy cái PRC 25 rà những tần số quen. Tôi bắt được giọng nói của Hằng Minh và Đại Tá Hiếu, Sư Đoàn 18 đang lún càng tại Trảng-Bom! Khi biết điểm đứng của tôi, Đại Tá Hiếu hẹn gặp nhau tại cổng số 10 Căn Cứ Long-Bình. Muốn đi về Long-Bình tôi phải tạt qua ngã Hố-Nai. Pháo hai bên Quốc Cộng đều tập trung trên vùng này. Vậy là, đội pháo ta đi! Chúng tôi đi như những cái thân robot, đạn nổ đằng trước, đạn nổ đàng sau, đạn nổ bên hông, đạn nổ chụp trên đầu. Chúng tôi không nghe gì cả, cứ thế mà đi, hướng Long-Bình, Okay! Tiến lên! Nơi ô cửa sổ hai bên đường, có những họng súng AK chĩa vào đoàn quân đang di chuyển; chúng tôi không màng tới chúng; chúng tôi cứ đi trong mưa pháo; pháo bạn từ hướng tây dội tới; pháo địch từ hướng đông câu sang. Pháo cứ rơi; những người trúng đạn ngã xuống; những người chưa trúng đạn cứ bước đi; những bước đi không hồn; đường phố đầy hố đạn, đường phố đầy xác người… Tôi vào tới vòng rào Căn Cứ Long-Bình vào lúc buổi chiều. Tôi là dân Vùng 2 không biết cái căn cứ này có bao nhiêu cổng, đi tìm cái cổng số 10 thì biết nó ở đâu? Tôi thấy một doanh trại có cái bảng Bộ Chỉ Huy/ Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân bỏ trống, vậy là thày trò tôi nhào vào đấy hạ trại. Đếm đầu thuộc cấp trong sân, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân giờ ấy còn 67 người! Như thế là chẵn 40 người chết rải rác trên đoạn đường mưa pháo từ Hố-Nai về tới Long-Bình! Cơm nước xong thì trời đã tối. Chúng tôi ngủ như chết. Đến ba giờ sáng 30/4/ 1975 Trung Úy Trâm, Sĩ Quan Truyền Tin Tiểu Đoàn dựng tôi dậy, - Có tin từ liên đoàn ra lệnh cho chúng ta rút về Sài-Gòn! Tôi uể oải ngồi dậy, - Mẹ kiếp! Về Sài-Gòn! Về Sài-Gòn làm cái con mẹ gì đây! Xa cuối trời, hỏa châu le lói hướng Sài-Gòn. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn (!) chuẩn bị lên đường. Tới ngã ba Tam-Hiệp chúng tôi gặp một bộ phận của Sư Đoàn 22 Bộ Binh, cùng là dân Vùng 2 mất đất, thấy thương nhau, tay dơ vẫy vẫy… Cầu xa lộ đã bị xe tank CSBV chận đường, chúng tôi rẽ vào thành phố Biên-Hòa. Thành phố vắng lạnh buồn thiu. Tôi cho đơn vị đi dọc theo đường xe lửa, ngang qua những căn nhà tôle ổ chuột, một vài khuôn mặt buôn phấn bán hương thò ra, ánh đèn vàng hiu hắt, đôi câu vọng cổ vang theo sau lưng người chiến bại, “Anh ơi! Bỏ gươm đao, bỏ mộng khanh tướng công hầu mà về với em đi! Chiến cuộc đã tàn rồi! Anh ơi! Anh ơi! ” Chúng tôi cúi đầu lầm lũi mà đi. Chúng tôi đi qua cầu Đôi rồi đến cầu Hang, tôi cho đơn vị dừng lại tấp vào những cái quán bỏ trống bên đường. Từng đoàn quân xa, chiến xa có Biệt Động Quân và lính Dù tùng thiết đi qua mặt chúng tôi, hướng về Sài-Gòn. Khoảng 8 giờ sáng thì không còn chiếc xe nào đi qua đó nữa. Lúc này trong ngôi chùa bên kia đường tàu, những nhà sư áo vàng đang chất đồ đạc lên xe, xe hướng về Sài-Gòn. Ít lâu sau xe của họ lại quay trở lại chùa không hiểu vì lý do gì. Tôi cho quân tiếp tục lên đường. Khi còn cách Thủ-Đức chừng vài cây số người lính có radio loan tin Tổng Thống Dương Văn Minh đang kêu gọi đầu hàng! Tôi cho quân dừng lại, tạt vào một quán cà phê bên đường. Bà chủ quán thấy tôi, ái ngại vặn nhỏ volume cái máy thu thanh. - Hết rồi! Chị cứ mở lớn cho tôi nghe với! Hết rồi! Chị ơi! Bà chủ quán mở radio lớn hơn, và tôi nghe rõ từng lời kêu gọi của ông Tổng Thống, ông tân Tổng Thống nước Việt-Nam Cộng-Hòa mà tôi không rõ ông ta đã lên ngôi lúc nào! Ngoài cổng có cái xe Jeep từ hướng Sài-Gòn chạy lên, một người trông dáng như Tư Lệnh bước xuống hỏi anh Biệt Động Quân trước ngõ điều gì đó, rồi chiếc xe trở đầu phóng đi. Khi tôi ra ngoài đường thì người lính nói có Thiếu Tướng Đảo hỏi tin Thiếu Tá, vì anh ta mới từ phía sau đoàn quân di chuyển lên đây, nên anh không rõ tôi ngồi trong quán nước, anh nói với Thiếu Tướng rằng anh không biết ông tiểu đoàn trưởng ở chỗ nào cả, xin Thiếu Tướng chờ một lát để anh ta đi kiếm, nhưng Thiếu Tướng Đảo đã vội vã ra đi. Ngày 10 tháng 5 năm 1975, tôi đang ngồi uống cà phê trước cửa nhà ông chiêm tinh gia Trần Cẩm số 144 đường Nhật-Tảo, Chợ-Lớn thì bên kia đường một người tóc húi cao, vừa xuống yên chiếc xe đạp thể thao. Tôi gọi, - Tư Lệnh! Tư Lệnh! Tướng Đảo ngơ ngác một lúc rồi nhận ra tôi, ông bước sang nhập bàn với tôi và chú Trung Úy Phước, con trai bác Cẩm. Tư Lệnh nói hôm 30 tháng Tư ông có quay lại tìm tôi ở cái quán cà phê bên đường để rủ tôi đem quân trốn về Vùng 4, nhưng không thấy tôi, nên dự định không thành. Tôi nhìn vào mắt Tư Lệnh, an ủi ông, - Số mệnh mà Tư Lệnh ơi! Chúng tôi xiết tay nhau cảm thông. Vinh quang đành bỏ lại sau lưng, đau lòng mà bỏ lại sau lưng! Trước mặt chúng tôi, những ngày sầu thảm bắt đầu… ……………. Tháng Ba năm 1979 tôi được đưa từ Trại Cải Tạo Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên về Trại Nam-Hà A, Phủ-Lý. Tôi là thành phần của toán bốn mươi người có tiền tích trốn trại, nên bị giải về đây với cái còng trên tay. Khi chúng tôi nhập trại, những người tù trẻ tuổi can tội Vượt Biên và Phục-Quốc chào đón chúng tôi, những kẻ mang còng, bằng những đợt vỗ tay hoan hô tưng bừng. Hôm sau có người nhắn với tôi rằng Chủ Nhật tới Thiếu Tướng Đảo chờ mời tôi ăn cơm ở buồng số 1.Trưa Chủ Nhật đó tôi tới buồng 1 gặp người chỉ huy cũ, ông ở đội lao động cùng Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 KQ, Đại Tá Phúc Tỉnh Trưởng Long-Khánh, và Đại Tá Khoái CHT/BĐQ/QK1. Thời gian qua đã mấy năm không gặp, tôi rất vui khi bắt tay Tư Lệnh. Bữa cơm ấy có tôi, Tư Lệnh, Tướng Sang và một người quen của Tướng Sang. Tư Lệnh cầm tay tôi, giọng nói đầy hưng phấn, - Những bạn trẻ như em đã làm qua tỉnh ngộ, xét lại mình. Từ nay qua sẽ sống xứng đáng hơn! Tôi chẳng hiểu ý Tư Lệnh muốn gì, nhưng tôi tin chắc có điều lạ đang chuyển biến trong tâm tư Tư Lệnh (?) Những buổi chiều sau đó, mỗi khi đi lao động về, chúng tôi đều tụ tập bên bờ giếng trước buồng 7 để nghe Thiếu Tướng Đảo, Đại Tá Trí, Đại Tá Quy, và Đại Tá Minh hòa nhạc. Họ là những nhạc sĩ siêu quần, tiếng đàn của họ có thể ví với tiếng đàn của một siêu “Band”, nhất là cây măng đô lin của Đại Tá Minh. Chuyện tụ tập đàn ca đến tai ban chỉ huy trại. Thằng “chèo” Lực xuống yêu cầu ban nhạc và khán giả giải tán. (Ở trại NamHà A chúng tôi gọi những tên công an coi tù là “chèo”, hay “phường chèo”). Những người trẻ tuổi hô to, - Đả đảo “chèo” Lực! Lời qua tiếng lại, lũ “chèo” ùn ùn kéo xuống vây quanh đám đông. Tướng Đảo lớn tiếng, - Anh không đủ tư cách nói chuyện với tôi! Anh về gọi Trung Tá Xuyên, trại trưởng xuống đây nói chuyện với tôi! Trung Tá Xuyên không xuống, mà đoàn vệ binh thì càng lúc càng đông hơn. Chúng lùa tù về buồng, khóa cửa lại, khóa cả cửa ra sân lớn, không cho các buồng giao thiệp với nhau. Sáng hôm sau một cái xe Molotova bít bùng đến trại Nam-Hà A đem Tướng Đảo và vài ông tướng khác đi mất biệt. Sau khi chia tay nhau ngày ấy ở Trại Cải Tạo Nam-Hà A, tôi và Tư Lệnh chưa có dịp gặp lại nhau. Tam nhân đồng hành trên Liên Tỉnh Lộ Long-Khánh, Bà- Rịa tháng Tư năm xưa thì có hai người bị giữ trong trại tù 13 năm là tôi và Đại Tá Hiếu, người thứ ba là Thiếu Tướng Đảo thì bị nhốt lâu hơn. Ông và ba vị tướng nữa của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa là những người sau cùng của chế độ được tha khỏi gông cùm 17 năm sau khi Miền Nam sụp đổ. Bây giờ là tháng Tư! Ba mươi năm đã trôi qua. Bao nhiêu lần kỷ niệm xưa hiện về. Tháng Tư nào cũng chở đầy nỗi buồn! “Hằng Minh đây Tiên Giao gọi! Tháng Tư lại về rồi Hằng Minh ơi!” Vương Mộng Long
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 22, 2019 1:55:01 GMT 9
Vĩnh biệt Nghiêm Kế, trung đội 21
Giao Chỉ San Jose Cũng viết cho ngày đất nước chia đôi
Lâu nay tôi vẫn kể chuyện chung sự của các chiến hữu, nay lại kể thêm câu chuyện buồn. Trưa chủ nhật 21 tháng 7-2019 IRCC/Viet Museum và Dân Sinh Media tổ chức ngày ghi dấu hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Ngày xưa kỷ niệm này gọi là ngày quốc hận. Bây giờ chuyện di cư năm 1954 bị quốc hận 30 tháng tư 75 làm lu mờ. Tuy nhiên anh em chúng tôi là thành phần tình Bắc duyên Nam, làm sao quên được chuyện Bắc Kỳ di cư dù rằng xa cách đã 65 năm. Đã sắp xếp được 40 bàn bao trọn nhà hàng Phú Lâm. Cô Lương Kim Dung là bà quả phụ Trần Văn Tước đặt một bàn cho anh chị em cùng khóa. Trong số này đặc biệt có anh chị Nghiêm Kế. Phải nói là quá đặc biệt vì cô vợ xứ Bưởi Biên Hòa sẽ lái xe rước anh Kế từ Nursing home đi dự tiệc. Nhưng khi tôi viết những hàng chữ này thì anh Kế vừa ra đi. Nghiêm Kế sẽ không bao giờ họp mặt với chúng tôi nữa. Câu chuyện giữa anh em cùng khóa mà nói đến toàn dân, toàn quân xem ra quá rộng rãi. Thu lại trong số hơn 300 sinh viên cùng khóa xem ra cũng còn quá nhiều. Khóa chúng tôi tên gọi là Cương Quyết sĩ quan trừ bị gồm có 5 đại đội bị động viên tháng 3 năm 1954. Ba đại đội quê miền Nam và miền Trung vào trường Thủ Đức. Hai đại đội ra đi từ Hà Nội gửi qua Đà Lạt. Nghiêm Kế và chúng tôi được xếp vào trung đội 21. Anh em cùng khóa trong quân trường sau này gặp nhau thường đại ngôn rằng khóa của mình ngon nhất. Rồi cao hứng thu nhỏ lại nói rằng trung đội của mình bao giờ cũng hay ho hơn các trung đội khác. Theo đúng truyền thống muốn hơn người tôi cũng phải xác nhận rằng khóa Cương Quyết Đà Lạt của chúng mình là số một. Rồi thu nhỏ lại niềm hãnh diện thì trung đội 21, đại đội 6 của tôi với Nghiêm Kế cũng là số 1. Nếu xét về học vấn thì khóa của chúng tôi xem ra rất tầm thường. Phần lớn chưa có tú tài ở thời kỳ 54. Giỏi lắm là có bằng trung học. Nhưng Điện Biên Phủ đang giao tranh. Học sinh trung học đệ tứ là bị gọi động viên. Thêm vào đó khóa học cấp tộc có 6 tháng. Làm sao so được với mấy cậu Đà Lạt 4 năm ra trường với bằng cử nhân. Nhưng khóa Cương Quyết ra trường vào lúc quân đội đang thành lập các đơn vị nhảy dù, TQLC, các tiểu đoàn bộ binh và các quân binh chủng. Những chàng trai Hà Nội bắt đầu đeo lon Tây đội mũ xanh, mũ đỏ lao vào cuộc đời với tất cả hào hứng của tuổi trẻ. Nghiêm Kế là một trong các chàng trai Hà Nội theo học công binh, một binh chủng có nhiều hứa hẹn vô cùng khắc nghiệt. Tuy là binh chủng chuyên môn nhưng chiến đấu như bộ binh và trong chiến dịch thường đi đầu và về cuối. Sau khi tốt nghiệp công binh, Nghiêm Kế vốn là công tử Hà Nội đã lên xứ Bưởi Biên Hòa để tìm người trăm năm mà yên bề gia thất. Nhưng rồi quân lệnh cấp tốc đưa chàng lên nhận trách nhiệm đại đội trưởng trong tiểu đoàn công binh sư đoàn đồn trú tại Pleiku. Cùng một lúc bạn Dương công Liêm khóa niên trưởng Đà Lạt nhận chức tiểu đoàn trưởng. Anh Liêm đến thăm đại đội của Nghiêm Kế đang ngày đêm xây dựng phi trường phia bắc Kontum. Phải đến gần 60 năm sau ông Liêm mới viết xong thiên hồi ký tình chiến hữu nhắc lại chuyện xưa rất cảm động. Từ nhiệm vụ đại đội trưởng công binh binh đoàn đầu sóng ngọn gió, Kế lên nhận chức tiểu đoàn trường công binh sư đoàn 22 với đơn vị đóng tại miền duyên hải nhưng bộ tư lệnh tiền phương của sự đoàn đang hành quân tại Tân Cảnh. Trong chuyến đi từ duyên hải lên thăm đại đội của tiểu đoàn đồn trú ở tiền phương, Nghiêm Kế phải ở lại chịu dựng trận Bắc quân tràn ngập cuối cùng với tư lệnh sư đoàn tử trận . Khi phía bên kia phòng tuyến tiểu đoàn nhảy dù tan hàng để trung tá Bảo ở lại Charlie thì bên nầy trung tá Kế nghe tiếng hò hét của Bắc quân. Hàng sống, Chống chết. Từ Tân cảnh, tù binh Nghiêm Kế đội mưa B52 trên con đường Trường Sơn Tây mà trở về Hà Nội. Lội bộ ngược đường mòn HCM một hôm thủ trưởng Cộng quân chợt hỏi. Có anh nào biết tiếng Mỹ không đến đây thông dịch. Ta mới bắt được anh đại úy phi công Mỹ nhảy dù. Kế bên xung phong nhận nhiệm vụ đi với anh tù Đồng Minh. Từ đó hai anh sĩ quan Mỹ Việt bị trói chung trên suốt con đường từ miền Nam ra đến Hà Tĩnh. Câu chuyện di hành suốt 3 tháng có thể làm thành cuốn phim với nhiều hoạt cảnh vô cùng thú vị. Qua hành trình của tử thần, Nghiêm Kế nhiều phen cứu anh bạn tù trải qua những nỗi hiểm nghèo. Kế cũng dạy cho bạn Mỹ nhớ tên các sĩ quan tù binh Việt Nam để sau này về sớm thì khai báo với phe quốc gia. Bạn trẻ phi công Mỹ thề nguyền sẽ không bao giờ quên ông trung tá công binh Việt Nam. Ra đến Quảng Bình, bên kia Bến Hải tù binh được mở còng để Mỹ Việt chia tay. Phi công Mỹ lên xe về hỏa lò Hà Nội “Hilton”. Nghiêm Kế bị chở lên trại tù binh Thái Nguyên. Năm 1954 khi giã từ Hà Nội, không bao giờ người thanh niên đất Bắc nghĩ rằng lại trở về quê cũ theo con đường đau thương như thế. Đoàn tù binh Sài Gòn ngồi xe bít bùng chạy qua cầu Gia Lâm giữa cơn gió lạnh trong màn sương đêm Hà Nội. Tiếp theo là những ngày tháng mòn mỏi của đời sống tù binh cùng với những năm đói khát chiến tranh ở Bắc Việt. Tại Sài gòn, vợ con Nghiêm Kế ngày đêm nghe đài Hà Nội, chợt một đêm nghe tiếng ông Kế trên máy. Mắng chửi ông Thiệu mấy câu cho phải đạo tù binh rồi Nghiêm Ke gửi lời về cho gia đình. Anh chưa chết đâu em. Chị Kế, quê hương xứ Bưởi Biên Hòa chưa bao giờ được tin anh chồng Bắc Kỳ bị tù mà vui như thế. Chúng tôi xa Hà Nội từ hiệp định Geneve 1954, nhưng Nghiêm Kế cũng nhờ hiệp định Paris 73 mà được trả tự do. Trên bến sông Thạch Hãn vào buổi chiều hạnh ngộ có anh trung tá nhảy dù Nguyễn thế Nhã của trung đội 21 ôm anh tù binh cùng trung đội sinh viên mà nói rằng. Kế ơi là Kế, sao mà mày khốn khổ thế này. Nhưng rồi chinh chiến nào biết ai khổ hơn ai. Mấy tháng sau Nguyễn thế Nhã trung đoàn trưởng của sư đoàn 1 BB tử trận được vinh tháng đại tá. Chúng tôi thuộc trung đội 21 và các bạn cùng khóa tiễn đưa Nguyễn thế Nhã anh hùng về nơi vĩnh cửu tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Trung tá tù binh Nghiêm Kế lại nói rằng. Nhã ơi Nhã, sao số mày khốn nạn thế này. Chào các bạn cùng đưa đám đại tá Nhã, ngày mai Kế sẽ ra miền Trung nhận chức vụ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn công binh kiến tạo. Rất ít khi các sĩ quan tù binh được trở về lãnh chức vụ chỉ huy. Bây giờ câu chuyện dài rút ngắn. Đơn vị tan hàng năm 75. Kế chạy thoát về Sài Gòn rồi di chuyển bằng thuyền để trở thành các thuyền nhân đầu tiên. Năm 1977 trên con đường di tản từ miền Động về miền Tây nước Mỹ, vợ chồng Nghiêm Kế và đàn con di cư ty nạn lôi thôi lếch thếch được chở tới cổng trại của lữ đoàn trực thăng số 1 của lục quân Hoa Kỳ. Từ cổng trại gia đình ông trung tá ty nạn đi lên con dốc . Phía trên có đoàn quân nhạc của lữ đoàn thổi kèn chào, anh đại úy phi công Mỹ tù binh đói khát ngày xưa bây giờ là ông đại tá tư lệnh cùng vợ con xếp hàng chào gia đình người bạn tù giữa những tiếng cười trong nước mắt. Chỉ trong những giây phút đó những đứa con mới biết ngày xưa bố chúng nó làm công việc gì mà được trời đất đãi ngộ những cảnh tượng như trong phim bộ Đại Hàn.
Tiếp theo là giai đoạn gia đình Nghiêm Kể về định cư tại San Jose. Sau nhiều năm xây dựng cuộc sống, Kế dẫn vợ về thăm quê hương. Viếng thăm gia đình nội ngoại Bắc Nam là chuyện thông thường. Cả họ nhà chồng đều vẫn còn xứ Bắc. Cả họ nhà vợ vẫn còn đầy đủ ở miền Nam. Tuy nhiên thật ít người dẫn vợ đi thăm các chiến trường xưa. Về thăm rừng núi Tân Cảnh nơi xảy ra trận cuối cùng. Bên này là phòng tuyến cuối của sự đoàn 22. Đây là chỗ trực thăng Mỹ bốc cố vấn ra đi để toàn bộ sư đoàn tiền phương ở lại. Chỗ này là tăng địch tràn vào. Ngay đây là con đường ông Kế chạy ra ngoài. Phía bên kia là ngọn đồiCharlie danh tiếng của những người mũ đỏ ở lại muốn đời. Rồi Kế dẫn vợ lên miền Bắc thăm nơi đã sống những ngày tù binh. Tìm đến nơi cho quà các tay quản giáo coi tù. Thật là hiếm hoi mới có anh tù Sai Gòn về thăm hỏi tặng quà cho cai tù cộng sản Hà Nội. Đó là những trận chiến tranh chính tri sau cùng của Nghiêm Kế. Về phần khóa Cương Quyết Đà Lạt của chúng tôi kể chuyện anh em chẳng bao giờ hết. Vì vậy thu hẹp lại bài điểm danh trung đội xem ra hơn 30 sinh viên sĩ quan ngày nay số còn lại rất ít. Đa số đứng chờ Nghiêm Kế ở bên kia thế giới. Vừa mới loan tin Nghiêm Kế ra đi anh em Công Binh đã quan tâm đăng ngay lời phân ưu dù rằng gia đình không cáo phó. Bạn công binh Dương công Liêm cũng hết sức tình cảm kể mãi chuyện cũ trong tình chiến hữu. Các bạn cùng khóa hết sức quan tâm chia buồn như Vũ Thượng Đôn, Ngô văn Định, Nguyễn Đức Chung và Ms Lê Xuân Định, Ms Hien San Diego . Riêng phần chúng tôi thu hẹp trong tình trung đội xin báo tin cho các anh Bùi Thế Xương, trung đội trưởng và Trần trung Huân ở Paris. Các bạn CA Trần vẫn Giai (Nửa mê nửa tỉnh) Trần Quốc Lịch, Nghiêm Tôn, Trần Ngọc Thái, Lại Thọ và Nguyễn văn Minh VA. Tin sau cùng cho biết thể theo lời Nghiêm Kế, lễ tang chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình. Sau khi hỏa thiêu tro tàn sẽ đem về nghĩa trang của họ Nghiêm. Chàng trai Hà Nội sau hơn 60 năm ra đi sau cùng sẽ về chốn cũ với quê hương xưa. Xin nhắn tin bạn cùng trung đội Nguyễn Thế Thứ và Nguyễn Thế Nhã nhớ về đón Nghiêm Kế ở trại Ngoc Hà Hà Nội. Nơi ngày xưa 300 thanh niên miền Bắc đã trình diện nhập ngũ tháng 3 năm 1954. Đã 65 năm rồi. Anh chị Kế sẽ không đến dự ngày ghi nhớ Geneve chia cắt Việt Nam. Ngày khởi đầu của Việt Nam cộng hòa làm cho Sài Gòn đẹp lắm Sài gòn ơi. Trước sau được 21 năm. Ngàn thu vĩnh biệt Nghiêm Kế, Trung đội 21.
-- Giao Chi San Jose. giaochi12@gmail.com (408) 316 8393
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2019 18:01:22 GMT 9
C130 đào thoát 3 tháng 4 năm 1975TUESDAY, JUNE 23, 2015 The story of one C-130 re-united with the pilot after 40 yrs Ngày thứ Hai 23 tháng 3, 2013 vừa qua, nhân dịp mấy cháu nhỏ nghỉ Spring break, vợ chồng tôi cùng vợ chồng cô con gái lớn rủ nhau đi Washington để mấy cháu nhỏ biết thủ đô nước Mỹ và các bảo tàng viện. Sau khi sắp xếp và nhờ ông Robert Mikesh (Cựu giám đốc bảo tàng viện Air&Space of Smithsonian nay đã về hưu) Ông đã móc nối được với vị giám đốc mới Dr. Bob Linden, để xin security clearance cho tụi này được đến thăm chiếc C-130A 460 mà tôi đã chôm của VNAF chở gia đình 52 người bay sang tỵ nạn tại Singapor tháng 4 năm 1975. (Hồi đó đã bị báo chí hay bạn bè đội cho cái mũ là: đã chở tài phiệt và nhà giàu Chợ Lớn qua Singapore nên tui có rất nhiều tiền !!? Phải thiệt như vậy thì bây giờ chiếc C-130 này đâu có chịu số phận hẩm hiu như thế này !? Sau 38 năm, 100/100 trên danh dự là tui không hề có chở 1 tên tài phiệt hay 1 tên nhà giàu nào cả, ngoại trừ gia đình bà con 52 người (that's +3 crew not fammily) We get out of VN with our 2 white hands !!!) Vì đây là chiếc phi-cơ đầu tiên của Không Quân VNCH rời VN sau khi chiến tranh chấm dứt nên đã được chọn để trưng bày tạo Bảo Tàng Viện Air& Space Museum của Smithsonian, tại phía nam phi-trường Dulles phía tây Thủ đô Washington DC. Lúc trước khi ông Robert Mikesh còn làm giám đốc, ông cho tôi biết chiếc C-130A 460 này sẽ được sơn và vẽ lại cờ Việt Nam cộng Hòa trên đuôi, logo của KQ Việt Nam . Nghĩa là hồi tháng 4/75 tôi bay chiếc C-130A này khỏi Việt Nam màu sơn như thế nào thì nay sẽ được sơn lại 100/100 y như vậy, trước khi được mang trưng bày vĩnh viển tại bảo-tàng viện này. Nhưng rất tiếc sau khi ông Mikesh về hưu các vị mới và trẻ lên thế, họ chả biết trời đất gì hay giá trị của lịch sử, họ chỉ biết xu thời theo chính trị và tiền tài: Một bà nhà giàu nào đó, có chồng bay 1 loại máy bay trong chiến tranh VN; Khi một chiếc phi cơ nào muốn được lựa chọn chưng bày vĩnh viễn trong bảo tàng viện thì chiếc đó phải có 1 lịch sử gì rất đặc biệt, thí dụ chiếc skyraider A1-E , đã liều đáp xuống phi đạo ngắn A-shau để đón 1 phi-công Mỹ bị lâm nạn, chiếc H-34 là chiếc đã bay ra biển đón phi hành gia John Glenn người bay vòng quỉ đạo địa cầu đầu tiên, chiếc F-4C của Đại-tá Robin Odd đã bắn rơi 5 chiếc Mig của Bắc Việt…v.v…. Còn chồng của bà nhà giàu này chỉ bay một chiếc máy bay 2 động cơ thường cho Army tại VN, chiếc này không có 1 lịch sử nào cả.. nhưng bà đã tặng cho bảo tàng viện này 5 trăm ngàn dollars. Theo lời ông Mikesh nói, nửa đêm họ đã họ đã kéo chiếc C-130A 460 ra khỏi hangar chiếc này schedule sẽ được sơn sửa lại và chưng bày trong vòng 2 tuần nửa, và họ thay thế bằng 1 loại phi cơ mà chồng bà nhà giàu kia đã từng bay hồi còn chiến tranh tại VN ! Ông Mikesh nói nếu ổng mà không về hưu thì chuyện tráo trở này sẽ không bao giờ xảy ra ! Khoảng 18 năm trước, tôi đã có dịp ghé thăm chiếc C-130A 460 này, lúc đó máy lạnh bên ngoài chạy 24/24 các ống dẩn hơi lạnh vào máy, vào thân phi-cơ, để giử cho phi-cơ này luôn trong tình trạng khô ráo hoàn hảo. Ngày 23/3/2013 khi tôi mang gia đình trở lại, không ngờ đầu xuân rồi mà tuyến vẫn còn rơi ! Vì đã sắp xếp trước nên không thể đổi ngày, gia đình tôi được ông giám đốc Linden đích thân hướng dẫn ra thăm chiếc HCF-460 này. Bây giờ nằm trơ trụi giửa trời trong khu chờ để sơn sửa lại ? Máy lạnh bên ngoài nay đã ngưng chạy, các ống dẫn hơi lạnh đã bị hư hỏng… nếu không có $ (lại có cái màn thủ tục ” đầu tiên” tại Mỹ) thì không sớm thì muộn chiếc 460 này sẽ tàn tạ theo thời gian ! Gởi quí vị vài hình ảnh chụp ngày thứ Hai 23/3/2013. Chiếc C-130A 460 một thời oanh liệt tại VN thuộc phi-đoàn 435 của tôi trước tháng 4/1975. Bây giờ nằm trơ trụi ngoài hàng rào, nếu có $ chiếc này sẽ được vào bên trong bảo tàng viện…. nếu không có $ thì chắc số phận biến thành đống sắt vụn một ngày không xa.! Regards Khiêm Di Tản Qua Mỹ Tháng Ba, năm 1975, tôi (Mục sư Phạm văn Năm) còn giúp cho Mục sư Hà Thanh (Mục sư Thượng) ở Tầm Ngân (Phan Rang) mua một máy cày. Ngày 4 tháng 3-75, họ mời tôi lên làm lễ cảm tạ về việc họ nhận máy cày. Các anh em ở đó rất vui mừng vì từ đây họ có phương tiện cày xới đất đai để làm ruộng rẫy, bớt đi sự cực nhọc trong những năm qua. Vì từ trước đến giờ họ chỉ dùng tay mà cuốc đất! Ðồng thời cũng giúp tiếp cư một số người Thượng thuộc sắc tộc Stiêng từ An Lộc di tản xuống An Lợi lánh nạn. Có hơn 2000 người Stiêng đến An Lợi. Họ được chánh phủ cấp cho những lều, trại tạm cư. Các tín hữu từ Sài Gòn đến thăm thấy cảnh nheo nhóc của người tị nạn thật đáng thương. Ban Phụ nữ Tin Lành Thủ đô hiệp với Ủy Ban Cứu Tế Hội Menonite đem thực phẩm như: gạo, cá khô, nước mắm, lò nấu ăn bằng dầu lửa, mền, chiếu, đến cứu trợ cho con cái Chúa và đồng bào. Mục sư Ðiểu-Huynh chịu trách-nhiệm phần tâm linh; mỗi sáng và tối đều có truyền giảng tại trại. Có các vị Mục sư từ Sài Gòn như: Mục sư Phạm văn Thâu, Mục sư Trần xuân Hỉ và tôi đến giảng có rất nhiều người tin nhận Chúa thêm. Họ tạm cư tại An Lợi chừng 4 tuần thì một số người Thượng và tín hữu độ 700 người rời An Lợi lên Bảo Lộc định cư. Một số các thanh niên (độ 30 em) được một người Ðan Mạch đưa về Sài Gòn, mướn một căn nhà ở đường Phan Thanh Giản số: 356/8 để huấn luyện, dạy học vì phần đông các em nầy thuộc thành phần bụi đời. Họ nhờ Truyền đạo Nguyễn Lâm Hương mỗi tối đến dạy các em học chữ Việt và dạy giáo lý. Một số chăm học rất tốt, nhưng số khác vẫn muốn theo bụi đời, không cải hóa nổi. Trong biến cố 30-4-75, các em nầy được người ta đưa qua Ðan Mạch định cư. Trong số những người Stiêng sang Ðan Mạch định cư có mấy anh em là tín đồ tốt, như: Ðiểu Huynh B (em vợ của Ðiểu Huynh A đã bị tù), Ðiểu Nơh, Ðiểu Sang, Ðiểu Bun, Ksrit v. v... Chánh phủ Ðan Mạch rất tốt đối với người Sắc tộc Stiêng. Họ giúp đỡ cho ăn học, đưa các anh chị em nầy đi du lịch xứ Thánh 2 lần. Sau nầy có thêm một người sắc tộc Chàm tên là ƯÙc Chiến Thắng, tin nhận Chúa và đã học 3 năm chương trình thần đạo tại Ðan Mạch. Ðiểu Huynh B cũng học Kinh Thánh và đang hầu việc Chúa giữa các anh em Stiêng tại Slègele, Ðan Mạch, rất đầy ơn. Khi sang Mỹ, chúng tôi có dịp đến thăm họ và giảng dạy cho họ hai lần. Riêng phần chúng tôi vẩn cứ hầu việc Chúa tại Văn phòng Tổng Liên Hội số 155 đường Trần Hưng Ðạo. Mỗi ngày đến đó làm việc. Tôâi được cử làm Tổng Thơ Ký cho chương trình Truyền Ðạo Sâu Rộng từ năm 1970, cũng kiêm lo coi sóc phòng sách Tin Lành. Trước kia có cô Huỳnh thị Ngọc Dung lo việc bán sách tại đây. Nhưng về sau cô không làm nữa. Hội bèn cử Cô Nguyễn thị Hồng Ân, con cụ Mục sư Nguyễn văn Xuyến đảm trách. Cũng có cô Tuyết, con ông Thược ở Nguyễn Tri Phương phụ giúp. Mỗi ngày như thường lệ, chúng tôi ra văn phòng làm việc, trưa về nhà con gái chúng tôi là Sophie ăn cơm, chiều trở lại làm việc đến tối mới về nhà ở đường Phan Thanh Giản số: 356/6. Ngày 20 tháng 1, bà gia tôi bị bịnh nặng phải vào bịnh viện Bình Dân giải phẩu ung thư cổ. Sau thời gian 2 tháng được lành bịnh trở về nhà ở Hòa Hưng, bà vẫn khỏe, đi nhóm lại nơi nhà thờ Bàn Cờ mấy lần, cũng dự lễ Phục Sinh vào ngày 29 tháng 3-75. Sau đó bà trở bịnh nặng và qua đời vào ngày 29 tháng Tư, 75! (nhưng chúng tôi đã rời khỏi Việt Nam vào ngày 3-4-75) Ngày 25 tháng 3-75, con trai thứ 7 của chúng tôi là Phạm Quang Khiêm, phi công máy bay vận tải C. 130 của quân lực Việt Nam Cộng-Hòa, đến văn phòng nói với chúng tôi rằng nó định đưa gia đình ra nước ngoài bằng máy bay, hỏi chúng tôi có đi không? Chúng tôi nghe nói như vậy thì giựt mình, không biết có biến cố gì xảy ra đây? (Lúc đó Ban Mê Thuột đã mất, Nha Trang, Ðà Nẵng đồng bào di tản vào Sài Gòn quá nhiều. Một số các Mục sư Truyền đạo từ miền Trung và Trung Bắc vào lánh nạn quá đông. Họ ở rải rác trong các Hội thánh vùng Thủ Ðô). Có vài tín hữu có mặt tại văn phòng, chúng tôi không nói gì cả, chỉ nói rằng nếu ba má có đi thì chỉ đi vòng vòng thôi. Trong trí chúng tôi nghĩ rằng chắc là chánh phủ ngầm ra lịnh như vậy, chớ nếu có thông báo chính thức thì máy bay đâu đủ để chở tất cả quân nhân và gia đình? Tuy nghe vậy, nhưng vài hôm sau cũng không chú ý đến nữa, về nhà cứ cầu nguyện tùy theo ý Chúa và sự dẫn dắt của Ngài, thời cuộc ra sao thì ra, chúng tôi không biết lo hay chuẩn bị gì hết. Vài ngày sau con trai lớn của chúng tôi là Phạm Quang Minh, thiếu tá không quân Sư Ðoàn 5 tại Nha Trang cũng về Sài Gòn. Thế là tất cả các con lớn của chúng tôi đều có mặt tại Sài Gòn, chỉ có đứa con trai thứ 8 thì đang làm việc tại Vũng Tàu (dạy Anh ngữ trừơng Thiếu Sinh Quân) chiều Chúa nhựt đi, chiều thứ Sáu về Sài Gòn, vợ con đều ở Sài Gòn. Và một đứa con trai út đang đi lính không quân ở Phan Rang. Anh nó đã ra Phan-rang tìm nó về để nếu có di tản thì sẽ không thiếu ai. Nhưng anh nó bay ra Phan Rang tìm nó cả ngày mà không gặp; nhờ một ông trung úy cảnh sát cho mượn xe Jeep với điều kiện là khi máy bay C.130 của nó về Sài Gòn thì chở gia đình anh ta về với. Xe chạy khắp các phi đoàn, bắt loa kêu ầm ỉ mà không gặp em nó. Thất vọng Khiêm bay trở về Sài Gòn với số đông gia đình của quân nhân và cảnh sát. Ai nấy đều nghĩ rằng đứa em út nầy chắc chắn sẽ bị ở lại nếu sẽ di tản. Còn đứa con thứ 8 thì vẫn còn ra vô Vũng Tàu để dạy học hàng tuần. Các anh nó cho biết nên ở lại nhà vì từ đây đến thứ bảy 5-4-75 thế nào cũng có chuyến bay để di tản. Nhưng nó nói nếu ở lại mà không đi được thì sẽ bị phạt, vì vậy nên ngày Chúa nhựt 29-3-75, sau khi dự lễ Phục Sinh xong nó lên xe ra Vũng Tàu làm việc. Từ đây, ba anh nó (đều là phi công) lo tính toan để ra đi. Việc phải đến đã đến! 3 anh nó thảo luận với một người bạn là thiếu tá Nguyễn Hữu Cảnh cũng lái C.130 trong phi đoàn vận tải với vài người thân tín khác như thầy Lưu văn Hồng, Lưu văn Hậu, (con cụ Mục sư Lưu văn Mão). Chúng đi xe Honda lên Long Thành xem xét một sân bay nhà binh bỏ hoang tìm địa điểm để máy bay có thể đáp xuống rước gia đình và thân nhân mà không bị phát hiện. Chúng nó hoạch định chương trình đồng thời cũng dò la xem coi ngày nào có máy bay đi công tác mà có thể lấy đi được. Phần lớn quân nhân ai cũng muốn lấy máy bay đưa gia đình ra ngoại quốc, nhưng không ai dám thực hiện, vì nghĩ rằng nếu ra đi mà nước Việt Nam mất thì không có gì đáng ngại, ngược lại, nếu Việt Nam không mất thì tất nhiên cả đám sẽ bị dẫn độ về để trị tội. Phần chúng tôi chẳng hay biết gì về mưu-đồ của chúng nó; mỗi sáng sớm chúng tôi đều đến nhà thờ Bàn Cờ để cầu nguyện với ông bà Mục sư Nguyễn văn Phấn và vài con cái Chúa từ 6 giờ sáng đến 7 giờ sáng như thường lệ. Chúng tôi vẫn giữ đúng như vậy từ năm 1972, lúc nào chúng tôi đi xa thì thôi, nếu ở nhà thì vẫn cầu nguyện luôn như vậy. Sáng sớm ngày thứ 5, tức là ngày 3-4-75, chúng tôi nhóm cầu nguyện nơi nhà thờ Bàn Cờ, chúng tôi không nghe ai nói gì về sự di tản cả. Ðến 9 giờ chúng tôi vẫn đến văn phòng làm việc. Vì cuộc chiến ngày càng sôi động nên chúng tôi cũng ít đi đâu xa. Chúng tôi làm việc tại phòng; tôi lo cho chương trình Truyền Ðạo Sâu Rộng, nhà tôi có thì giờ rộng rải nên bà viết truyện tích Kinh Thánh về cuộc đời Giô-sép, cũng viết các Thi Thiên theo thể văn thi "Thượng lục hạ bát", đã viết được 17 thiên, đánh máy xong giao cho ông Mục sư Nguyễn Thanh Hằng, Chủ bút toà soạn Thánh Kinh Nguyệt San sẽ lần lược ấn hành lên báo. ( Rất tiếc, các bản thảo đều bỏ lại văn phòng, không mang theo được bản nào cả, bị mất hết). Chúng tôi làm việc đến 1 giờ trưa, về nhà Sophie ăn cơm, có gặp Mục sư Trần Trọng Thục tại đó (ông từ Nha Trang vào) thì Sophie cho hay là Khiêm đến nói với nó rằng chiều nay lối 2 giờ sẽ tập trung nơi nhà ông bà Trần Phương (nhạc gia của Khiêm, tức là sui gia của chúng tôi) để lên Long Thành, máy bay sẽ đáp tại đó rước đi. Chúng tôi nghe qua rất bàng hoàng, không biết liệu làm sao đây; sẵn điện thọai nơi nhà Sophie tôi liền gọi vào Văn phòng Hội Hoàn Cầu Khải Tượng để báo tin cho Thu (là vợ Tuyên đang làm việc tại đó) hầu nó ra Vũng-tàu kêu Tuyên về. Nhưng điện thoại bận, gọi mãi cũng không được. Khi ngồi vào bàn ăn cũng không thể ăn nổi nửa chén cơm, lật đật chạy về, nhà tôi quơ vội vài bộ đồ, bỏ vào trong bao vải, tôi xách cái cặp da bỏ quyển Kinh Thánh và cái Radio nhỏ vào. Nhà tôi mở tủ áo lấy vài chiếc áo dài cũ, lấy cho tôi 2 bộ đồ ngủ, nhưng vì vội vả nên lấy quần nầy, áo kia, không đúng bộ gì cả. Còn phần nhà tôi thì mở tủ thấy cái hộp đựng phim có một ít tiền Thụy-sĩ mà lúc trước bà đi Thụy-sĩ mang về. Bà cầm cái ống nhựa lúc-lắc vài cái rồi quăng trở lại tủ (số tiền nếu mang theo thì đổi cũng được 10 đô-la, 30 quan Thụy Sĩ) Bà chụp lấy cái hộp đựng tăm xĩa răng mà bà đã mua mấy ngày trước đó. Bà mang theo bó tăm xĩa răng mà bỏ lại 10 đô-la! Sau khi sắp ít đồ đạc xong tôi vội chạy qua nhà thờ Bàn Cờ trao một thơ từ chức Trưởng Ban Cứu Tế và giao số tiền Ủy Ban nhờ mua sữa và mì gói phát cho đồng bào còn dư mấy chục ngàn lại cho Mục sư Ðoàn văn Miêng. Khi qua nhà tư thất ông Mục sư Phấn đi vắng chỉ có bà Mục sư ở nhà, bà cho biết gia đình bà cũng chuẩn bị lên nhà ông Phương để di tản! Chừng đó chúng tôi mới hay là ông bà Mục sư Phấn cũng được thông báo về việc nầy. Tôi trở về nhà (nhà chúng tôi ở phía sau nhà thờ Bàn Cờ) gặp Ðặng Minh Trí (bạn của Mỹ Vân) đến thăm từ giả Vân. Tôi liền nhờ Trí mang thư và tiền đến cho Mục sư Miêng. Chúng tôi vội vả mang đồ đạc lên xe Renault nhỏ chạy vào nhà ông bà Trần Phương. Ðến nơi đã thấy có nhiều người tại đó; nào gia đình ông bà Huỳnh văn Mừng, gia đình ông bà Mục sư Nguyễn văn Nhung, gia đình các con chúng tôi. Bà gia của Sophie là bà cụ Trần Ích lúc ấy đã 75 tuổi cũng có mặt, nhưng chưa thấy gia đình Mục sư Phấn. Ðộ hơn một tiếng đồng hồ sau thì xe taxi chở gia đình Mục sư Phấn đến, trong đó có Tấn là con trai út của chúng tôi ở Phan Rang (mà Khiêm, anh nó đã ra tìm nó trước kia mà tìm không được như tôi đã nói ở phần trên). Chúng tôi đều chưng hững vì nghĩ rằng 2 con trai của chúng tôi sẽ bị ở lại. Nay Tấn về là cả một phép lạ! Mọi người xúm lại hỏi thăm tại sao nó về được kịp lúc như vậy ? Tấn thuật lại rằng: Trưa ngày 3 tháng 4-75, thình lình ông xếp của nó là Thiếu tá Trước kêu nó lên máy bay về Sài Gòn với ổng, và ổng dặn nó về ở luôn trong Sài Gòn chớ đừng trở ra Phan Rang. Khi về nhà thấy nhà khóa cửa, nó đang bối rối thì gặp bà hàng xóm bước ra, nó hỏi thăm về chúng tôi, bà ấy nói rằng chúng tôi đi ngoại quốc rồi! Nó buồn bả bước ra định qua nhà chị nó là Sophie để hỏi thăm. Khi nó đang băng ngang qua đường Phan Thanh Giản thì cậu con trai Mục sư Phấn kêu nó lại (lúc ấy Mục sư Phấn đang kêu 2 xe Taxi chở gia đình vào nhà ông bà Trần Phương). Nó hỏi ông có biết chúng tôi ở đâu không? Ông trả lời là cứ lên xe đi với ông thì sẽ biết. Thế là trong phút chót Tấn được đi với chúng tôi, còn Tuyên bị ở lại. (Tuyên ở lại bị đi cải tạo trong trại tù cộng sản, hai năm 9 tháng). Ðúng 4 giờ chiều ngày 3-4-75, nhận được điện thoại Khiêm gọi về từ phi trường cho biết phải lên đường ngay. Tất cả 6, 7 chiếc xe hơi đủ cở, đủ lọai đều chuẩn bị lên đường, tổng cộng 53 người đều là trong vòng bà con và tín hữu trong Hội thánh, chỉ 3 anh trong phi hành đoàn là những bạn hữu mà thôi, cộng là 56 người. Trong số 56 người nầy gồm có 3 vị Mục sư là: Mục sư Nhung, Mục sư Phấn và Mục sư Năm, cùng gia đình của các vị nầy, ngoài ra có gia đình của vài tín hữu là gia đình ông bà Huỳnh văn Mừng có 5 người, em Hứa Ngọ, em Lưu văn Tuấn (cháu nội cụ Mục sư Lưu văn Mão) bà cụ Trần Ích , Mục sư Nguyễn văn Nhung và gia đình, ông bà Trần Phương và gia đình (những vị nầy là sui gia của chúng tôi). Trước giờ khởi hành tất cả đều họp lại cầu nguyện, xin Chúa dẫn dắt vì đi như ông AÙp-ra-ham; đi mà không biết mình đi đâu! Tôi cầu nguyện, ai nấy đều thổn-thức, không biết lần ra đi cách táo bạo nầy sẽ ra sao? có bị bắt dẫn độ về không vì lúc ấy Sài Gòn vẫn còn rộn rịp. Nếu bị bắt, bị dẫn độ thì sẽ bị hình phạt như thế nào! Nét lo âu hiện rõ trên nét mặt mỗi người. Dầu vậy cũng cương quyết ra đi vì tình hình ngày càng bi đát, giặc sắp đến nơi rồi sẽ chạy đi đâu nếu không ra khỏi nước? Các con chúng tôi nói rằng: "Nếu Ba Má không đi thì chúng con cũng phải đánh liều ra đi, vì chúng con là những kẻ dội bom trên đầu giặc nếu ở lại chắc sẽ bị chúng xử tử!" Chúng tôi nghe vậy cũng hiểu được những nỗi lo âu của chúng nó rất đúng, bởi vì trong 3 con trai của chúng tôi đều là phi công; đứa thì lái máy bay C.130, để vận tải, đứa thì lái phản-lực A.37 đi dội bom v. v... vì vậy chúng tôi cũng phải buộc lòng ra đi, mà ra đi rất sớm thì hậu-quả sẽ khó lường được đến mức độ nào! Ðoàn xe khởi hành nhắm sân bay Long Thành trực chỉ. Khi gần đến thấy có chiếc máy bay C.130 bay lượn trên vòm trời, mọi người đều hồi hộp không biết có phải là máy bay đến đón mình hay không! Khi vào đến sân bay thì máy bay đã đáp xuống rồi! Máy vẫn nổ, bụi bay mù mịt. Ai nấy lật đật xuống xe, tuôn đồ đạc vào trong máy bay. Khi hầu hết người lên máy bay thì thấy có một xe Jeep nhà binh chở 5 anh lính Biệt động quân từ đâu chạy đến. Nhà tôi còn đứng dưới đất, 2 tay xách 2 gói quần áo, cất tiếng kêu lớn: "Minh ơi! lính tới rồi kia kìa!" và nhà tôi muốn lui bước trở lại xe. Nhưng Minh là con trai lớn của chúng tôi chạy lại giựt 2 gói đồ và nói: "Má lên máy bay lẹ đi, ai nấy đều lên hết rồi sao má còn đứng đây?" Vừa nói nó vừa kéo nhà tôi lên máy bay . Khi nhà tôi đi từ phía sau ra chưa tới phía trước thì máy bay vụt cất cánh, nhà tôi té nhào xuống sàng máy bay rồi nằm luôn không ngồi dậy nữa! Tôi dòm lại phía sau thấy có một nhân viên phi hành đoàn, tai mang ống nghe, hai tay vịnh vào vai hai anh lính Biệt động quân nói gì đó không biết. Tôi hỏi con tôi tại sao nhân viên kia không đi? Nó nói vì anh nầy còn vợ con ở nhà nên anh ta không đi. Anh ấy nói cho mấy anh lính biết là có một tấn rưỡi gạo từ máy bay thả xuống để các anh nầy mang về và dặn họ đến tối hãy báo cho bộ Tư-lịnh biết là có chiếc máy bay C.130 đã rời khỏi nước. Các anh lính thấy gạo thì mừng quá, lo chở gạo về bán chia cho nhau được một triệu rưỡi đồng bạc Việt Nam lúc đó. (sau nầy khi di tản qua Mỹ, họ nói lại cho chúng tôi biết). Máy bay đã bay xa khỏi Sài Gòn, nhưng bay rất thấp, sà trên mặt biển, hơi nước bay vào mù mịt trong máy bay. Tôi hỏi môt anh trong phi hành đoàn là Thiếu tá Nguyễn Hữu Cảnh, (là bạn của các con tôi, cũng là người ở Ðà Lạt mà chúng tôi có quen thân với gia đình nầy khi chúng tôi ở Ðà Lạt), tại sao có hơi sương mù mịt như vậy thì y nói là phải bay thấp để tránh Ra-đa phát hiện. Khi máy bay đang bay thì các anh em trong Phi hành đoàn thảo luận với nhau là nên đi đâu, người thì nói nên qua Phi Luật Tân, người nói nên đi Thái Lan, nhưng anh Cảnh nói rằng anh chỉ biết đường bay qua Singapore mà thôi. Vậy nên bay qua đó. Khi gần đến nơi các anh nầy gọi đến sân bay Singapore xin đáp khẩn cấp vì thiếu nhiên liệu. Họ cho đáp xuống phi trường dân sự vào lúc 6 giờ chiều (nghe đâu đến 9 giờ tối Bộ Tư Lịnh tại Sài Gòn mới biết có chiếc máy bay C.130 ra khỏi nước). Hay tin nầy cả Sài Gòn đều xôn xao bàn tán; người bàn qua, kẻ tán lại, nào là chiếc máy bay ấy chở toàn là triệu phú trong Chợ Lớn, đem theo vàng bạc rất nhiều, nào là có cả ông Bộ Trưởng Tài Chánh của Chánh phủ cũng đi trong chuyến đó v. v... Nhưng họ đâu có biết rằng chúng tôi ra đi là để tránh nạn chớ có chở người nào ngoài những người thân thuộc trong gia đình đâu! Vì theo ý người ta nghĩ nếu đã có ý định táo bạo như vậy ắt phải có lợi gì người ta mới làm! Nhưng họ đâu có biết chúng tôi là con cái Chúa ra đi không phải vì tư lợi mà vì muốn cứu cả gia đình thoát khỏi thảm họa sau nầy mà thôi. Khi máy bay đáp xuống thì có nhân viên tại phi trường ra tiếp đón; họ mang bánh, mang sữa ra cho mọi người. Thức ăn thật nhiều, chỉ có mấy em nhỏ thích ăn, người lớn không ăn gì được cả, phần lo âu không biết tương lai ra sao, diển biến như thế nào có được bình an hay bị dẫn độ về nước? Các con tôi tiếp xúc với chánh quyền tại Singapore, cho biết rõ về tình hình chiến sự rất khốc-liệt không thể ở trong nước được nữa nên phải liều chết ra đi. Họ cũng báo tin cho Ông Ðại sứ Việt Nam (Lúc ấy là ông Diểm). Ông thân hành đến phi trường tìm hiểu nguyên do, ông rất thông cảm nên không bắt chúng tôi quay về Việt Nam. Ông bảo cứ vào phi cơ ngủ để chờ sáng mai sẽ hay. Chúng tôi lên máy bay nhóm lại cầu nguyện, hát Thi Thiên 23: rồi sửa soạn chỗ ngủ. Mới nằm một chút chưa ngủ thì có lính cảnh sát tới, lên máy bay xem xét coi có chở vũ khí gì không (các anh em trong Phi hành đoàn đã quăng tất cả súng ống xuống biển khi vừa đến hải phận quốc tế). Khám xong họ bảo tất cả lên máy bay ngủ tạm. Vừa lên máy bay thì đoàn y tế và cảnh sát lại đến mời mọi người ra khỏi máy bay đặng chích ngừa. Ban y tế đến khám sức khoẻ cho từng người và chích ngừa cho ai không có giấy chứng đã chích thuốc tại Việt Nam. Chích xong họ đưa tất cả mọi người lên xe ca chở đến một địa điểm phía Nam Singapore. Họ đưa chúng tôi vào căn cứ dùng để cai ma túy. Họ chỉnh trang lại nên tương đối sạch sẻ. Họ dọn cơm cho mọi người ăn (56 người lớn nhỏ). Họ nấu cơm ăn với cá mòi hộp (kể cũng sang lắm đấy chứ!). Nhưng cơm lại sống nhăn không ăn được gì cả! Hôm sau, họ mua cá thịt, rau cải, thơm và đậu hủ, rau muống đem vào bếp cho chúng tôi tự nấu ăn. Mỗi ngày 3 bửa; sáng ăn bánh mì với mứt, bơ, các em nhỏ thì mỗi em được một quả trứng gà luộc, kẹo, bánh cho các em rất nhiều. Chỗ chúng tôi ở có nhà bằng gạch ngói, 2 từng, từng dưới phái nam, từng trên phái nữ. Mỗi sáng thứ tư họ cho chúng tôi nhóm chung trong một phòng rộng để cầu nguyện. Mỗi sáng Chúa nhựt có sự nhóm họp thờ phượng Chúa, có ông Mục sư người Trung Hoa vào giảng, ông Huỳnh văn Mừng thông dịch. Chúng tôi ở đó trong tuần lễ đầu, tất cả đều khỏe mạnh, có nha sĩ vào khám và chữa răng. Những người Trung Hoa phụ giúp trong nhà bếp đều là tín đồ. Họ biết chúng tôi cũng là tín đồ Tin Lành nên họ mừng lắm và rất tử tế. Ở đó họ không cho nghe Radio nên không biết tình hình chiến sự tại Việt Nam ra sao, diễn tiến như thế nào. Chúng tôi cứ cầu nguyện giao phó đời sống trong tay Chúa, không biết Chúa sẽ định đoạt cho mình như thế nào. Chúng tôi ở đó 3 tuần lễ, rất buồn, phần nhớ nhà, nhớ con còn bị kẹt lại, nhớ quê hương, mỗi khi cầu nguyện chỉ khóc với Chúa mà thôi. Vài ngày thì những vị coi sóc trong trại nầy báo cáo cho biết tình hình chính trị tại Việt Nam sơ qua thôi. Có lần con tôi hỏi ông xếp trong ấy rằng tiền đâu mà họ mua thức ăn cho chúng tôi nhiều vậy, thì các ông ấy trả lời là của quỹ xã hội. (sau nầy chúng tôi mới biết là do ông Giáo sĩ Pendell, trước có làm giáo sĩ tại Việt Nam; hiện ông làm Trưởng Ban Cứu Tế thế giới, ông đã gởi 20 ngàn Mỹ kim cho chánh phủ Singapore dùng nuôi chúng tôi và cũng xin họ đừng trả chúng tôi về Sài Gòn, vì Giáo sĩ Revelle gọi điện thoại về Hội Truyền Giáo bên Nữu Ước cho hay có 3 gia đình Mục sư trong chuyến bay ấy. Hội Trưởng Hội Truyền Giáo là ông Bailey Nathan cùng ông Tổng Thơ Ký Louis King gọi điện thọai qua Singapore xin chánh phủ cứ giữ chúng tôi lại. Vậy họ giữ chúng tôi cách cẩn-thận, không cho ai vào thăm chúng tôi. Có ai hỏi thì họ nói đã gởi chúng tôi về Sài Gòn rồi! Khiến Hội Truyền Giáo gọi điện thoại hỏi lại thì họ nói chúng tôi còn đây. Họ nói họ bảo vệ chúng tôi, sở dĩ họ nói gởi về Sài Gòn là để đánh lạc hướng mà thôi). Trong mấy tuần lễ sống tại Singapore lòng chúng tôi ngày đêm thấp thỏm đợi chờ, không biết mình sẽ đi đâu! Một ngày kia có cuộc thăm dò ý kiến của mọi người xem thử mình thích ở đâu. Kết quả; phần đông muốn đi Úc, số khác muốn đi Pháp, có người muốn sinh sống tại Singapore, ít có người muốn đi Mỹ vì Mỹ xa quá! Ai nấy ghi những sở ước của mình, hi vọng sẽ có thể thực hiện được nên cứ cầu nguyện luôn. Chúng tôi cứ chờ đợi, mỗi ngày ăn uống no đủ không thiếu thốn gì hết. Ngày 25 tháng 4-75, ông xếp của trại kêu Sophie ra trước hàng ba nói cho nó biết rằng: "Nước Việt Nam đến hồi nguy ngập lắm! Ông Thiệu đã từ chức Tổng Thống nhường lại cho Thủ Tướng Trần văn Hương, nhưng Việt Cộng không chịu bảo ông Thiệu giao chức Tổng Thống lại cho tướng Big Minh, như vậy Sài Gòn sắp rơi vào tay cộng sản! Chúng tôi được điện thoại từ Washington cho biết đã mua vé bay cho tất cả quý vị là 56 người sẽ đi Mỹ. Chúng tôi cho bà hay để chuẩn bị, nhưng khoan tuyên bố cho ai hay, nếu nói sớm quá làm họ hi vọng rủi có gì trở ngại họ sẽ thất vọng tội nghiệp! Tôi cũng cho quý ông ở từng dưới biết như vậy. Khi nào tôi được điện thoại cho biết lúc nào sẽ lên đường, lúc ấy sẽ báo cho mọi người hay." Sophie mừng quá vào giường ngủ nói lại cho nhà tôi hay. Chúng tôi ở từng dưới cũng được báo tin như vậy cho con trai tôi hay. Báo hại cả đêm hôm đó không ai ngủ được; hể nghe tiếng điện thoại reo là trong bụng mừng chắc rằng mình sắp được đi Mỹ! Cứ trằn trọc cho đến sáng sớm hôm sau cũng không nghe động tỉnh gì cả. Buổi sáng mấy bà xuống bếp lo bữa ăn điểm tâm. Ðến 10 giờ mấy bà lo bữa ăn trưa như thường lệ. Nhà bếp mua cá nục đem về rất nhiều, họ có cho 5, 6 trái mít non luộc để làm gỏi. Thình lình nghe tiến la hét từ trên lầu, tiếng giậm chơn đùng đùng, mấy bà ở dưới bếp, và chúng tôi ở từng dưới không biết có chuyện gì xảy ra. Kế nghe tiếng Mỹ Huê, con gái út của chúng tôi từ trên lầu chạy xuống cất tiếng kêu lớn: "Má ơi lên sửa soạn đồ để đi, mau lên". Nó vừa nói vừa hớt hải chạy vào bếp. Nhà tôi đang làm cá, Bà Huỳnh văn Mừng đang vo gạo nấu cơm. Nhà tôi lính quýnh không biết làm sao, thì anh xếp nhà bếp nói với nhà tôi rằng: "Thôi, bà bỏ đó cho chúng tôi, lên sửa soạn đồ để đi!" Nhà tôi rửa tay rồi chạy lên thu xếp quần áo tưởng rằng sẽ được đi Mỹ ngay hôm ấy. Chuẩn bị xong, họ đem 2 xe ca để chở thanh niên và người mạnh khoẻ. Một xe Limousine để chở người già và em nhỏ nhứt. Người già nhứt là bà cụ Ích, 75 tuổi, kế đến nhà tôi, nhỏ nhứt là Phạm quang Phi, con của Khiêm mới có 8 tháng. Bà cụ Ích lên xe nầy, nhà tôi bồng Phi lên theo, họ kêu Sophie đi với để ông Trưởng Ty Công An giải thích những diển-biến xảy ra từ khi chúng tôi đến Singapore. Ông nói rằng: "Ðáng lẽ tôi đã đi công tác bên Âu Châu rồi, nhưng thình lình có máy bay của quý vị đáp xuống, mà Thủ Tướng Lý Quang Diệu đã đi Thái Lan nhóm Hội Nghị, nên tôi phải hoãn chuyến đi lại đến tháng sau, để có thì giờ sắp xếp việc rắc rối nầy. Nếu có Thủ Tướng ở nhà thì chắc ổng đã gởi quý vị về Việt Nam rồi!" Nhà tôi nghe vậy thì trong lòng thầm tạ ơn Chúa vì sự sắp đặt của Ngài thật kỳ diệu. Nếu máy bay chúng tôi đến Singapore mà Thủ Tướng Lý Quang Diệu còn ở trong nước thì nguy cho chúng tôi quá! Chúa đã sai ông qua Thái Lan để nhóm với Thủ Tướng Thái về tình hình Ðông Dương. Ông mới đi hơn 1 tuần lễ thì chúng tôi đến. Thật là đúng lúc! Nhà tôi liền hỏi ông Trưởng Ty Công An: "Nếu ông đi thì bao lâu ông sẽ về?" Ông nói: "Tôi có chương trình đi Âu Châu 2 tháng." Rồi ông cũng hỏi thăm về tình hình tại Việt Nam và tại sao chúng tôi lại đi ra quá sớm như vậy ? Nhà tôi và Sophie nói cho ông biết rằng vì thấy tình thế càng khẩn trương, chúng tôi không muốn ở dưới chế độ cộng sản nên phải ra đi. Ra đi nhưng không biết mình đi đâu! Ông liền hỏi: "Chắc quý bà chưa đến Singapore lần nào phải không?" Nhà tôi nói cho ổng biết là nhà tôi đã đến Singapore vào năm 1968, để học về môn Phổ biến Kinh Thánh trong vòng 2 tuần lễ, té ra ông nầy cũng là tín đồ Tin Lành! Nghe vậy ông liền ngỏ ý chở mấy người trên xe của ông đi vòng quanh Singapore xem phong cảnh, nên xe đến chậm, các xe kia đã tới điểm hẹn mà mãi đến hơn nửa giờ sau xe của ổng mới đến. Những người đi trên xe ca thấy xe của ông Trưởng Ty nầy đi đâu mất, họ lo sợ không biết có gì xảy ra không. Khi xe ông đến, ai nấy đều mừng! Ðến mé bờ biển, họ đưa chúng tôi xuống tàu thủy chạy qua hòn đảo cách xa thành phố Singapore độ l tiếng rưỡi đồng hồ. Ðến nơi người ta đưa tất cả lên một trung tâm nghỉ mát của đảo nầy. Họ sắm giường nệm cho mỗi người, chuẩn bị thức ăn rất đầy đủ và dư dật nữa! Ăn uống xong thì được tin sẽ có phái đoàn từ Singapore sang thăm để tặng quà cho chúng tôi. Cũng có phái đoàn truyền thanh, truyền hình đến ủy lạo, thu hình phát trên đài truyền hình Singapore ngay hôm sau đó. Có các vị giám đốc, thanh tra của các cơ quan chánh-quyền Singapore đến độ 10 người thăm những người tị nạn đầu tiên nầy mà chánh quyền Singapore được hân hạnh đón tiếp. Họ cũng không biết chúng tôi thuộc thành phần nào mà ở Washington lại theo dõi, chú-ý, chăm sóc rất cẩn thận, gởi tiền nuôi chúng tôi, gởi vé bay để mang hết mọi người về Mỹ, nên họ rất nể chúng tôi. Chúng tôi cũng chuẩn bị đứng thành hàng để đón tiếp. Chúng tôi cũng không hiểu tại sao họ lại quá tử tế như vậy. Thấy họ có vẻ rất quý chúng tôi, chúng tôi rất mừng và tạ ơn Chúa mà thôi. Lối 5 giờ chiều phái đoàn đến. Họ mang theo nhiều quà, bánh, kẹo, thực phẩm và nhiều thứ khác nữa. Họ đến chào thăm yên ủi, ủy lạo chúng tôi cũng xin lỗi chúng tôi nếu trong thời gian 3 tuần lễ ở trong trung tâm Singapore có nhơn viên nào đối xử với chúng tôi không được nhã nhặn thì xin chúng tôi bỏ qua cho! Chúng tôi rất cảm động. (Thật ra trong thời gian ở tại Singapore, những nhơn viên ở đó đối xử với chúng tôi rất tốt, rất tử tế, vì phần lớn họ là tín đồ. Họ hay hát thánh ca trong tiếng Mã Lai, tiếng Trung Hoa, chúng tôi nghe cũng hát theo họ những bài thánh ca nào mình quen thuộc, nên họ vui lắm.) Sau khi phái đoàn thăm viếng, quay phim và cuộc thăm viếng của họ xong, họ liền xuống tàu trở về Singapore. Họ cũng nói là họ sẽ chiếu hình ảnh nầy trên đài truyền-hình tối hôm sau tại Singapore. Chiều hôm ấy mấy bà xuống nhà bếp thấy có một bao gạo 100 ký-lô! Một bao bố lớn đựng bún tàu, một tủ lạnh lớn đựng thịt gà đã làm sẵn, một thùng lớn dầu ăn và rau cỏ rất nhiều. Mấy bà liền nấu miến gà ăn no nê. Ăn xong các thanh niên ra bờ biển đem đàn guitar ra đàn hát suốt đên không ngủ vì biết rằng mình đã được tự do rồi, nhưng không biết mình sẽ ở đây bao lâu! Tại sao họ chưa cho mình đi Mỹ? Sau nầy chúng tôi mới biết là có lịnh của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm sai người qua dẫn độ chúng tôi về, nên chính quyền Singapore vội vả đưa chúng tôi sang hòn đảo khác để những người đến Singapore bắt chúng tôi thì sẽ không biết chúng tôi ở đâu! Sau nầy, khi chúng tôi sang Mỹ thì được những quân nhân từ Sài Gòn sang có mang theo tờ Sự Vụ Lịnh của chánh phủ Sài Gòn phái sang bắt chúng tôi và dẫn độ về. (Các anh em nầy trao cho ông Trần Phương tờ Sự Vụ Lịnh đó. Ông Trần Phương làm photo gởi cho mỗi gia đình một bản để kỷ niệm) Phái đoàn dẫn độ gồm 12 vị: Trung tá Phạm Ngọc Thủy, Thiếu tá Nguyễn Ngô Phúc, Hai vị Ðại-úy là Nguyễn Quý Phách, Hồ khắc Nghiêm, Trung-úy Ngô văn Khang, Nguyễn xuân Sơn. Thượng sĩ: Ðào Trọng Bảo, Thái Ðức Hồng, Nguyễn văn Ðể, Trần Tri, Võ văn Hưng, còn một vị nữa mà vì bị lem luốt in không rõ tên. Phi hành đoàn gồm Ðai tá Bùi Hữu Thế, Thiếu tá Nguyễn Bá Luân, Ðại úy Phan Xuân Hòa, Thượng sĩ Lê Lành, Thượng sĩ Nguyễn văn Chánh. Phái đoàn mang theo 12 khẩu súng lục, mang theo 195 ký-lô hành lý phụ trội về vật dụng vô tuyến và an ninh cứu cấp... Sự Vụ Lệnh nầy ký ngày 7 tháng tư năm 1975 sẽ đi vào ngày 8 tháng 4-75. Nhưng đến khuya ngày 7-4-75 thì có lịnh hủy bỏ chuyến đi dẫn độ do Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm ký. Các vị nầy rất buồn vì trong thâm tâm của họ là khi ra đi họ sẽ đi luôn không trở lại Việt Nam, nên họ rất tiếc! Chúng tôi ngủ một đêm tại đảo nầy. cũng không biết tên là đảo gì vì không ai hỏi nhân viên trên trung tâm. Sáng hôm sau mấy bà lo sửa sọan nấu miến gà ăn nữa. Ðang gở bún tàu, bắt nước luột gà thì được báo tin là chúng tôi phải trở về Singapore để lên máy bay đi Mỹ gấp! Chúng tôi đành phải ăn bánh mì với cá hộp chớ không kịp nấu nướng gì vì thì giờ rất cấp-bách. Chúng tôi lại chuẩn bị xuống tàu trở qua Singapore. Tàu vừa cập bến đã thấy có 2 xe buýt đậu sẵn. Khi mọi người lên xe thì xe phát chạy rất nhanh, bất kể đèn xanh, đèn đỏ, xe chạy như xe cứu thương có những xe moto của Cảnh sát chạy hai bên hộ tống, giống như đoàn xe hộ vệ cho tổng thống vậy! Xe chạy chừng 20 phút đến ngả tư có đèn đỏ, một xe chở gỗ chạy trước ngừng lại chờ đèn, nhưng anh tài xế xe Bus cứ bóp còi inh-ỏi để xe chở gỗ chạy đi. Nhưng đèn đỏ làm sao họ dám chạy! Xe buýt cứ bóp còi, xe chở gỗ cứ đứng yên. Khi đèn bật xanh thì xe chở gỗ bắt đầu chạy, 2 xe buýt vụt chạy qua mặt xe chở gỗ, tài xế xe buýt chạy ngang còn kêng tài xế xe chở gỗ nữa! Sau đó họ chạy nhanh đến phi trường Singapore. Nơi đây đã có chiếc máy bay Pan Am chực sẵn. Chúng tôi rất mừng, nhưng lại lo, không biết họ chở mình về Sài Gòn hay đi Mỹ? Nhưng nhớ lời của nhân viên trong trại bửa trước đã nói cho chúng tôi biết là đã có người mua vé bay cho 56 người đi sang Mỹ nên chúng tôi yên tâm. Chúng tôi được người ta cho lên máy bay trước, xong rồi hành khách mới lên sau. Máy bay bay từ 3 giờ chiều, đến 10 giờ đêm thì tới đảo Guam. Máy bay đáp xuống, chúng tôi tưởng mình sẽ phải xuống đây. Nhưng thình lình nghe nhơn viên phi hành đoàn cho biết chúng tôi phải đến Saipan, cách Guam độ 20 phút bay. Chúng tôi ngồi im, nhưng ai nấy rất hồi hộp không biết Saipan là đảo nào, xem trên bản đồ không thấy vì rất nhỏ. Khi máy bay đáp xuống sân, chúng tôi nhìn ra ngoài thấy có rất đông người đến đón, tưởng rằng những người ấy là những người di cư trước, họ hay chúng tôi đến nên ra đón chào. Ðến khi ra khỏi máy bay mới biết đó là những thổ dân tại Saipan ra đón chúng tôi do một phụ nữ Việt Nam lấy chồng Mỹ cổ vỏ để họ ra sân bay đón tiếp người tị nạn đầu tiên. Có hơn 100 người cả nam lẫn nữ, già, trẻ đứng sắp hàng trong sân bay; Khi chúng tôi đi ngang qua họ chào chúng tôi nhưng chúng tôi không hiểu gì cả khiến họ rất bỡ ngỡ. Họ đưa chúng tôi đến một hội trường rộng rải, có một Mục sư Mỹ thuộc Hội thánh Báp-tít đến ủy lạo chúng tôi. Ông nầy có một người anh đi lính bên Việt Nam và đã chết tại Huế! Chúng tôi ngồi nghe ông giải thích về cuộc di cư của người Việt Nam hiện ở Guam có gần 20 ngàn người! Ông cũng cầu chúc cho chúng tôi sớm được an-cư lạc-nghiệp nơi xứ người! Sau đó có mấy người đến bảo chúng tôi đi theo họ. Chúng tôi cũng không biết họ đưa đi đâu. Khi vào thang máy họ đưa lên lầu 2 thì mới biết đây là khách sạn Continental! Một khách sạn lớn và sang trọng mới xây độ 6 tháng trước đây. Khi đến cửa phòng khách sạn các anh bồi phòng đẩy xe hành lý của chúng tôi vào phòng rồi bảo chúng tôi theo họ vào trong. Chúng tôi rất lấy làm lạ lùng, ngơ ngác vì thấy khách sạn quá sang trọng, họ cho ở đây thì tiền đâu trả cho nổi ? Dâu thứ tư của tôi đứng tại cửa phòng kế bên phòng chúng tôi và la lớn: "Má ơi! Mình là cái gì mà họ đem ở đây rồi tiền đâu mà trả cho họ?" Nhà tôi trả lời rằng: "Họ bảo ở đây thì mình cứ ở rồi sau sẽ hỏi lại." Chúng tôi vào phòng, mỗi phòng 2 hay 3 người tùy theo gia đình nhiều người hay ít. Gia đình đông thì chia 2 hay 3 phòng. Tất cả chúng tôi có 56 người lớn nhỏ, họ cho ở 18 phòng! Lần đầu tiên chúng tôi đựơc ở trong một khách sạn sang trọng và lớn như vậy. Chúng tôi khi còn ở Việt Nam cũng có đi ngoại quốc dự các cuộc hội thảo, nhưng không có ở trong khách sạn nào sang như thế! Mỗi ngày bồi phòng đến thay drap trải giường, dọn giường giống như một khách du lịch. Thật là nghèo xơ xác mà lại ở Hotel hạng nhứt giống như khách sang trọng từ các nước ngoài đến nghỉ mát! Họ để riêng một phòng lớn cho chúng tôi làm phòng ăn. Họ cho ăn uống rất đầy đủ và dư dật nữa; có hồ tắm, tha hồ mà tắm. Vì sát bờ biển nên chúng tôi đi dọc theo mé biển chơi; thấy rau câu tắp trên mé biển rất nhiều. Nhà tôi và con tôi hốt đem về định nấu xu xoa ăn, nhưng không có phương tiện nên đem quăng xuống biển lại! Tại đây nhiều khách du lịch đến nghỉ mát, có một số rất đông người Nhựt đến đây xem những chứng tích của "thế chiến thứ II Mỹ-Nhựt". Có những di tích của thời chiến, nhiều người Nhựt tự tử khi nghe tin Nhựt Hoàng đầu hàng Mỹ! Chúng tôi ở đây một tuần lễ. Trong những ngày tạm trú tại đây thì có bà Nguyên (một Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Mỹ đang làm việc tại đảo nầy). Chính bà đã huy động những thổ dân trên đảo đến đón chúng tôi tại phi trường Saipan khi chúng tôi mới đến. Bà hay đến thăm chúng tôi, bà biếu cho chúng tôi một chai mắm nêm! Chúng tôi mừng lắm, mỗi người gắp ít con mắm ăn với cơm. Nhưng vì không có trộn thơm hay chanh đường gì hết nên mặn quá, dầu vậy ăn cũng thấy ngon. Sau một tuần lễ trôi qua thì có lịnh cho chúng tôi phải rời khỏi nơi đây. Trước khi chúng tôi đi độ 2 ngày, ông chủ khách sạn đến nói với chúng tôi rằng: "Ông được điện thoại từ Washington D.C. bảo ông tiếp đón chúng tôi thì ông cứ vâng lời; ông cũng không biết ai gọi, và ai sẽ đài thọ mọi phí khoản cho chúng tôi trong những ngày ở tại khách sạn nầy! Và ông nói rằng vài ngày nữa chúng tôi sẽ rời khỏi đây, nếu không ai thanh toán số tiền chi phí suốt một tuần lễ số tiền là 7 ngàn đô-la cho khách sạn thì ông kể như ông bị thua cờ bạc!" Chúng tôi hỏi ông tại sao họ không đưa chúng tôi đến chỗ nào khác để ở mà lại đem chúng tôi ở khách sạn sang quá như vậy? Ông trả lời là tại đảo nầy chỉ có một khách sạn duy nhứt chớ không có chỗ nào khác cả! Chúng tôi nghe vậy rất lo ngại và cũng tội nghiệp cho ông vì ông đã lo tiếp chúng tôi, cho ăn uống đầy đủ, tốn kém quá nhiều, nếu không ai đài thọ, trang trải thì ông sẽ bị thiệt thòi quá! Nhưng đến tối hôm sau ông hớn hở đến nói với chúng tôi rằng đã có người thanh toán số tiền cho ông rất đầy đủ, tất cả là 7 ngàn đô-la! Chúng tôi thầm tạ ơn Chúa. Sau đó chúng tôi hỏi ông ai đã trả số tiền đó thì ông nói không biết! Thế là sáng hôm sau nhằm ngày thứ Năm, tức là 3 tháng 5-75 chúng tôi chuẩn bị lên đường để đến đảo Guam làm thủ tục sang Mỹ. Khi chúng tôi đến phi trường Sai-pan thấy một người đến chỗ để hành lý của chúng tôi cột vào mỗi giỏ xách một bản có chữ I.S.E.M. chúng tôi hỏi họ là ai đã mua vé bay cho chúng tôi thì họ nói là I.S.E.M. Chúng tôi cũng không biết nghĩa của chữ I.S.E.M. là gì, cũng không được ai giải thích nên cũng im luôn; không biết ai mua vé bay chỉ biết rằng Chúa cho đi thì cứ đi, ai mua cũng được! Máy bay chở chúng tôi đến Guam lúc 11 giờ sáng, ngày 3 tháng 5-76. Ðến Guam chúng tôi gặp rất nhiều con cái, tôi tớ Chúa từ Việt Nam di tản sau chúng tôi song lại đến Guam trước chúng tôi. Lúc xe ca đưa chúng tôi từ phi trường về trại thì mgười đầu tiên chúng tôi gặp là ông Mục sư Trương văn Tốt, chúng tôi rất mừng, kế đến gặp cô Mỹ Phước, con cụ Mục sư Ðoàn văn Miêng, sau đó gặp gia đình Phạm Quang Phẩm là em ruột tôi. Chúng tơi gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, nước mắt ràn rụa, hỏi thăm về diển biến ở Việt Nam. Cũng gặp các vị Giáo sĩ như ông Franklin Irwin, ông Johnson và vài vị khác. Mấy ngày trước đó chúng tôi ở Hotel rất sang trọng, nay đến đây phải ở trong lều trại, trời nóng như thiêu, khát nước quá nhưng không có tiền mua nước uống. Thình lình chúng tôi thấy ông Johson mang đến trại cho chúng tôi một bịt nước đá, 20 cái ly nhựa và một bình nước lạnh. Ôi! Chúng tôi vui mừng quá đổi, lấy nước ra uống; trại bên cạnh thấy chúng tôi có nước uống họ cũng qua trại chúng tôi xin nước uống vì họ cũng khát nước như chúng tôi. Chúng tôi chia cho họ nữa nước lạnh và nước đá. Họ mừng rỡ vô cùng! Ngày sau chúng tôi gặp gia đình người em thứ 6 của tôi (ông Phạm văn Quang) vừa mới đi tàu thủy đến. Ai nấy đều bị đau mắt. Chúng tôi mừng quá hỏi thăm nhau rối-rít. Trưa hôm ấy có người dẫn chúng tôi đến trại cụ Mục sư Lê văn Thái, cụ bà Mục sư Trần văn Ðệ, Mục sư Lê Hoàng Phu, Mục sư Nguyễn Châu Chánh v. v... Mỗi ngày phải lên sắp hàng tại cơ quan làm việc của người Mỹ để được đi sớm vì quá nóng bức, phần tiện nghi rất thiếu thốn, chỗ ăn, chỗ ở tương đối dễ chịu, chỉ phòng vệ sinh là khổ nhứt, phải đi thật xa, phần thiếu phương tiện, phần quá đông người nên thật khổ sở không tả xiết; ai nấy cũng muốn được đi cho mau. Ban đầu nghe chỉ thị là những phụ nữ Việt Nam là vợ của quân nhân Mỹ sẽ được đi trước tiên, kế đến công tư chức làm việc cho người Mỹ, sau hết mới tới thuờng dân! Nghe vậy chúng tôi rất là thất vọng, không biết đến bao giờ mới tới lượt mình! Người tới càng ngày càng đông, mỗi ngày giang nắng sắp hàng để xin giấy ra đi. Chúng tôi ở Guam 4 ngày thì có chỉ-thị là: "Hễ chuyến bay nào đến trước thì được đi trước chớ không chia giai-cấp như trước kia nữa" vì có nhiều người khiếu nại, họ là những quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa trước kia đã liều mình chiến đấu, nay lại phải bị sắp vào hàng thứ yếu sau các bà, các cô bán Bar thì không công bình chút nào cả! Vì thế mới có sự thay đổi như trên. Chúng tôi ở Guam được 2 ngày thì em tôi là ông Phạm quang Phẩm đem đến giúp chúng tôi 20 đô-la! Chúng tôi thật là mừng vì chúng tôi rời Việt Nam không có một đồng đô-la nào cả. Khi đến Saipan, ông Tuyên úy Mỹ có cho chúng tôi một đô-la, nhưng ông đã ký tên trên tờ giấy bạc ấy để làm kỷ niệm nên chúng tôi không muốn dùng. Bây giờ có 20 đô chúng tôi mừng quá, vì có tiền mua nước uống, mua thêm thức ăn và mua vài món đồ chi-dụng lặt-vặt khác. Chúng tôi cũng mượn của ông Giáo sĩ Franklin Irwin 100 đô, hẹn khi đến Mỹ các con tôi sẽ trả lại ( chúng tôi có 2 con gái đã sang Mỹ du học vào năm 1973). Ông cho mượn, nhờ đó khi vào trại tị nạn có chút ít tiền chi-dụng. Ngày 9 tháng 5-75, chúng tôi xem trên bản đồ thấy số chuyến bay của chúng tôi được cấp giấy cho sang Mỹ. Con trai út của chúng tôi là Tấn đến lo thủ tục lúc 2 giờ chiều, đến 6 giờ tối xe buýt chở chúng tôi đến một trại lính. Nơi đây chúng tôi gặp gia đình ông bà Lê Quang Vĩnh là tín đồ của chúng tôi ở Vĩnh Long mà tôi đã tường thuật trước kia, chúng tôi thật mừng. Ở đây một đêm, sáng hôm sau xe buýt đưa chúng tôi đến Hotel Tokyo của Nhựt cũng ngủ một đêm nữa mới lên máy bay lúc 11 giờ đêm, hôm sau sang Mỹ. Máy bay đến Honolulu lúc 10 giờ sáng, nghỉ vài tiếng đồng hồ mới bay thẳng đến California. Khi ở Guam chúng tôi làm thủ tục đi Florida vì nghe ở Cali. có rất nhiều người Việt. Vả lại khí hậu ở Florida rất giống như ở Việt Nam. Nhưng khi lên máy bay họ đưa chúng tôi qua Cali! Chuyến xe buýt chở gia đình tôi trong một hộ có 5 người, còn 4 gia đình của các con chúng tôi đi trên một chuyến xe buýt khác chúng tôi không gặp lại, không biết họ đưa chúng nó đi đâu! Sau nầy họ đưa chúng tôi vào trại Pendleton, trại 5. Hai gia đình của các con trai khác của chúng tôi ở trại 7 tức là Onofree, còn 2 gia đình của con gái lớn và con trai lớn thì họ đưa qua Fort Smith. Gần 3 tuần lễ sau khi vào trại chúng tôi mới gặp được 2 gia đình các con tôi ở trại 7, còn 2 gia đình kia chúng tôi nhờ Hội Hồng Thập tự kiếm giùm xem chúng nó ở đâu. Nhưng qua tuần sau họ cho hay là không tìm được! Chúng tôi rất buồn song chỉ cầu nguyện Chúa mà thôi. Trong thời gian chúng tôi ở trại có ông Mục sư Louis King là Thơ Ký của Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp đến thăm. Gặp chúng tôi ông ấy rất mừng vì khi còn ở Việt Nam thỉnh thoảng ông có qua thăm Hội Thánh Việt Nam nên chúng tôi quen ông nhiều. Khi nhà tôi đi dự Hội nghị Tin Lành thễ giới tại Thụy Sĩ do ông Billy Graham tổ chức ở Lausanne, thì ông có mở buổi tiệc tiếp tân cho tất cả những người thuộc Alliance từ các nước đến tham dự. Nhà tôi được mời đến nên nhà tôi và tôi đều rất quen với ông. Ông đã thuật lại thế nào Hội Truyền Giáo đã đựơc điện thoại của ông Giáo sĩ Revelle cho hay chúng tôi đã rời khỏi Việt Nam ngày 3-4-75 và hiện ở tại Singapore. Hội Truyền Giáo bèn điện thoại qua cho Chánh quyền Singapore rằng là với bất cứ giá nào cũng xin họ giữ chúng tôi lại cũng đừng gởi trả chúng tôi về Việt Nam và ông Giáo sĩ Pendelle đã gởi 20 ngàn đô-la cho Chánh phủ Singapore để lo cho chúng tôi ăn uống v. v... Tôi hỏi ông về số chi phí ở Saipan một tuần lễ thì do ai đài thọ? Ông nói ông không biết. Nhưng mà thỉnh thoảng ông nghe nói họ đã đưa chúng tôi về Sài Gòn rồi! Nhưng thật ra họ muốn giữ chúng tôi cách kín-đáo, nên nếu có ai gọi hỏi về chúng tôi thì họ nói vậy để không ai biết tung tích của chúng tôi mà thôi. (Có lần đứa cháu ngọai tôi hỏi một nhân viên tại trung-tâm nơi chúng tôi đang ở rằng: "Tại sao mấy ông không thả chúng tôi ra, bộ mấy ông bỏ tù chúng tôi hả?" Ông ấy trả lời rằng: "Chúng tôi không có bỏ tù đâu, bèn là chúng tôi muốn bảo vệ quý vị đó thôi. Ðâu, có chữ nào trong trung tâm nầy là tù đâu? Nếu tù thì phải mặc áo tù, ra làm việc chớ đâu có được tư do nấu nướng ăn uống như vậy?" Rồi ông ấy đến nói với nhà tôi: "Xin bà nói lại với cô tóc dài đó rằng là chúng tôi không phải bỏ tù đâu, nhưng là chúng tôi bảo vệ an ninh cho quý vị đó.") Lúc bấy giờ gia đình ông bà Mục sư Trương văn Tốt cũng vào trại, ở trại 4. Ông thành lập các buổi nhóm thờ phượng Chúa mỗi ngày, ban đêm có truyền giảng cho đồng bào. Có lần ông mời giáo sư Vũ Ðức Chang nói chuyện với đồng bào về đề tài:"Giọt nước mắt quê hương". Mọi người nghe đều cảm động. Lúc ấy cũng có rất nhiều người cầu nguyện tin nhận Chúa như: gia đình cụ Nguyễn văn Nhở hiện ở tại Santa Ana. Ông bà Huỳnh văn Thắng, ở Montrey Park, Ông bà Nguyễn Mạnh Tiến (San José). Bà Nguyễn thị Minh và gia đình (Seattle), Gia đình cụ Bùi Hữu Duệ (Seattle). Ông bà Hồ Ðắc Ðổng (Seattle) và còn nhiều người nữa tôi không nhớ hết. Ở trong trại được 3 tuần lễ, gia đình chúng tôi chờ đợi mãi, sau mới được Hội thánh Mỹ thuộc Hội Alliance ở El Cajon bảo trợ, họ mướn nhà cho chúng tôi ở tại thành phố San Clémenté, để mỗi ngày chúng tôi vào trại nhóm lại thờ-phượng Chúa, cầu nguyện và truyền giảng cho đồng bào. (Gia đình ông bà Mục sư Tốt cũng đã được bảo trợ về Chula Vista, rất xa trại. Chúng tôi ở cách trại chừng 10 miles. Cũng có ông bà Mục sư Phạm Xuân Hiển ở trại một, ông bà Mục sư Nguyễn Lĩnh, Mục sư Ông Hiền, Mục sư Nguyễn Xuân Mai, Ðặng Ngọc Báu (3 vị nầy là con rể của Mục sư Trương văn Tốt) ở cùng trại. Chúng tôi ra trại vào ngày 6-6-75. Nhưng mỗi ngày phải vào trại chăm sóc và truyền giảng cho đồng bào. Hội thánh El Cajon tặng cho chúng tôi một xe hơi cũ, hiệu Ford làm phương tiện di chuyển để hầu việc Chúa trong trại. Khi ra khỏi trại, ngày kia chúng tôi ra phố có gặp ông bà Bác sĩ Phan Quan Ðáng, tôi tặng ông một quyển Kinh Thánh Tân Cựu Ước. Ở San Clémenté độ 3 tháng thì các vị Mục sư trong trại đều lần lượt được bảo trợ ra các nơi thành phố xa gần, thành lập Hội thánh, nhưng chúng tôi ít gặp nhau trừ ra khi họp Hội Ðồng mới gặp lại mà thôi. Ông bà Mục sư Phạm Xuân Hiển đi Washington D.C. ông bà Mục sư Lĩnh đi Salem (Orgon), ông bà Mục sư Sáng đi Seattle, ông bà Mục sư Ðài đi Omaha (Nebraska), ông bà Mục sư Ðặng ngọc Báu đi Long Beach (Cali), ông bà Mục sư Ông Hiền đi Hawthorne (Cali.), ông bà Mục sư Mai đi San José. Phần chúng tôi cứ mỗi ngày vào trại từ sáng sớm để tổ chức nhóm lại học Kinh Thánh và truyền giảng, buổi chiều về nhà. Riêng sáng Chúa nhựt, chúng tôi nhóm thờ phượng Chúa xong thì trở về San Clementé để lo buổi nhóm cho các con cái Chúa đã được bảo trợ đến thành phố nầy. Chúng tôi mượn nhà thờ của Hội Lutheren, gần xa lộ số 5 để nhóm vào mỗi chiều Chúa nhựt. Mỗi buổi nhóm có từ 20 đến 25 người. Cũng có gia đình ông bà Phạm văn Quang là em ruột tôi từ Arkansas được bảo trợ sang Cali. Gia đình em tôi cũng hơn 10 người. Ðây là Hội thánh mới thành lập tại San Clementé. Sau nầy khi chúng tôi được bổ đi hầu việc Chúa ở Chicago thì ông bà Mục sư Hiển thay thế, đến khi ông bà Mục sư Hiển đi hầu việc Chúa ở Washington D.C. thì có Mục sư Võ Ngọc Thiên Ân tiếp nối lo cho con cái Chúa còn lại cho đến nay ông bà Mục sư Ân lo mở mang, phát triển Hội thánh càng lớn mạnh; đó là Hội Thánh Thanh Lễ! Ngày 4-9-75 chúng tôi tôi lên đường đi Chicago hầu việc Chúa. Trước ngày chúng tôi nhậm chức, ông Mục sư Gene Beezer là người bảo trợ chúng tôi đến nhà thuyết phục chúng tôi đừng đi Chicago vì thành phố ấy có tiếng là thành phố "Windy city" gió lạnh và tuyết giá rất nguy hiểm cho sự di chuyển. Ông muốn chúng tôi ở lại San Clémenté và thành lập Hội Thánh Việt Nam tại đó. Nhưng chúng tôi nghe rằng ở Chicago có gần 100 tín hữu mà không có mục sư, chúng tôi thật cảm động nên quyết định đi khiến cho ông bà mục-sư ấy rất buồn! Ðến Chicago hầu việc Chúa một khoá 2 năm. Trong thời gian ở đây cũng có nhiều biến cố đáng ghi nhớ; Khi mới đến chúng tôi ở tạm nhà em tôi là ông bà Lê văn Hồng chờ hơn 1 tuần lễ mướn được nhà rồi mới dọn ra. Nơi đây các con cái Chúa và ông bà Mục sư Mỹ lo cho chúng tôi đủ mọi sự; từ giường ngủ, tủ lạnh, nước mắm, gạo, sà-bông, thịt gà, thịt heo, dĩa, muỗng, đũa, lò gas v. v... không thiếu món gì. Tôi tưởng tượng như nhà của mình đã ở mà đi đâu xa, nay mới trở về vì đầy đủ đồ cần dùng. Mấy tuần lễ sau khi nhậm chức, có cô bạn Mỹ mà nhà tôi đã quen bên Ấn Ðộ gởi cho nhà tôi $120 đô-la, nhờ môt người bạn của cô ấy ở tại Chicago trao lại, nói là giúp nhà tôi mua một máy may, cũng gởi một thùng quần áo cũ để nhà tôi sửa lại áo mà mặc. Nhà tôi liền cùng cô bạn ấy mua một máy may hiệu Kenmore, vẫn cón dùng đến nay. Cũng thời gian nầy chúng tôi được biết một gia đình Giáo sĩ tên là William Groff; Ông bà nầy thuộc Hội Mennonite, khi ở Ấn Ðộ nhà tôi có ở nhà ông bà nầy hơn 1 tháng. Chúng tôi điện thoại và đến thăm. Ông bà rất mừng, mời chúng tôi ăn cơm. Lúc ấy 2 con gái chúng tôi; Mỹ Dung và Mỹ Phúc đã qua Mỹ năm 1973. Cả hai chị em đều học tại Trường Goshen Mỹ Dung đã làm lễ thành hôn với sinh viên Lê Khắc Quang trước khi chúng tôi sang Mỹ do Mục sư Phạm Xuân Tín và Mục sư Lê Vĩnh Thạch hành lễ. Còn Mỹ Phúc sau khi học xong ngành y tá đã thành hôn với sinh viên Nguyễn Hữu An vào tháng 8-1977 trong trại Hè tại Michigan do Mục sư Lê Vĩnh Thạch hành lễ. Nhà thờ tại Chicago do Hội Alliance mua lại của Hội Báp-tít. Nhà thờ nầy cũ kỹ. Họ cất hơn 100 năm trước, có phòng họp, phòng giữ trẻ, phòng Gym rất rộng, nhà thờ xây gạch rất chắc chắn. Số tín hữu nhóm lại khá đông; gặp lại gia đình em ruột tôi là bà Lê văn Hồng; cũng gặp một số con cái Chúa như: ông Bà Trần Viết Thanh, ông bà Phan Công Văn ở Ðà Nẵng; ông bà Văn Thanh ở Pleiku, ông bà Lý văn Giang ở Sài Gòn v. v... Từ địa điểm nầy chúng tôi đi thăm các tiểu bang chung quanh như; Wisconsin, Indiana và Michigan v. v... vì những nơi nầy có tín đồ Việt Nam mà không có ai chăm-sóc. Có khi chúng tôi đi thăm và hầu việc Chúa ở Michigan về ban đêm bị bão tuyết, nhưng Chúa gìn giữ được an toàn. Có lần chúng tôi đến tổ chức lễ Noel và truyền giảng tại Lansing (Michigan) nhằm ngày mồng hai Tết (1976). Chúng tôi đi thăm viếng tín đồ đến 4 giờ chiều mới rời Chicago, vì nghĩ rằng đường đi từ Chicago đến Lansing mất 3 tiếng rưỡi đồng hồ, nhưng chúng tôi quên rằng giờ bên Michigan sớm hơn Chicago 1 giờ. Ði dọc đường mới nhớ ra nên tôi lái xe chạy hết tốc lực, phần trời mưa nên không để ý Cảnh sát chạy theo phía sau! Chạy một đoạn đường xa mới thấy Cảnh-sát rượt theo bèn ngừng lại; Bị phạt $68 đô-la! Theo luật của tiểu bang Michigan thì nếu chạy 1 mille quá mau sẽ phạt 1 đô-la, như vậy tôi đã chạy đến 68 milles mới dừng lại! Trên xe chở đầy một xe thanh niên, thiếu nữ là ban hát để hát cho lễ Noel. Khi chúng tôi tới nơi thì nhiều người đã ra về vì họ thấy trễ quá tưởng chúng tôi không đến được. Số còn lại chúng tôi cứ nhóm giảng trong một Hội-trường khá rộng. Nhóm xong chúng tôi quay về liền, đến nhà là 2 giờ khuya. Tuy cực vì tuyết giá, gió mưa nhưng rất thỏa lòng vì có dịp truyền giảng cho đồng bào về ơn cứu rỗi của Chúa. (Về sau nầy tại Grand Rapids, (Michigan) có thành lập Hội thánh do Mục sư Trương Thanh Khiết và Mục sư Trần quang Vinh quản nhiêm. Tại Lansing cũng có Hội thánh do Truyền đạo Nguyễn văn Tiền quản nhiêm). Tháng 6 năm 1976 chúng tôi chuẩn bị đi dự Hội Ðồng Giáo Hạt lần thứ I tại Lincoln ( Nebraska). Tại đây, nhà tôi được cử giữ chức Trưởng Ðoàn Phụ Nữ, còn tôi được sung vào chức Nghị viên Giáo Hạt Việt Nam Bắc Mỹ. Tại Hội Ðồng nầy chúng tôi có dịp gặp một số con cái, tôi tớ Chúa từ các nơi họp lại như: Mục sư Nguyễn văn Bình ở Paris (Pháp quốc) qua họp. Trước ngày họp Hội Ðồng 3 ngày thì có lễ cưới của con trai út của chúng tôi là Phạm Quang Tấn thành hôn với cô Ollie tại Indiana. Lễ cưới rất đơn sơ có Bà cụ Mục sư Trần văn Ðệ và Ông Mục sư Bình tham dự. Sau đó chúng tôi đi xe buýt từ Chicago lên Omaha thăm ông bà Mục sư Văn Ðài rồi đến Lincoln dự Hội Ðồng. Hội Ðồng họp lại rất được phước, cũng tại Hội Ðồng nầy đã sọan bản Nội quy cho Hội thánh, dựa theo bản Nội quy của Hội thánh Tin Lành Việt Nam và Hội C&MA Hội Ðồng giải tán, nhưng dư âm của Hội Ðồng vẫn còn vang dội trong tâm khảm của mỗi người đã họp! Thời gian hầu việc Chúa ở Chicago chúng tôi ở gần trường Thần Học Moody Bible Institute, vì vậy chúng tôi có cơ hội tốt để học thêm lời Chúa trong mấy tháng Hè. Tôi học về Ministry, nhà tôi học Thần học. Chúng tôi chịu khó đi học rất xa, phải di chuyển bằng xe buýt, xe lửa, xe buýt phải sang hai chuyến và một chuyến xe lửa. Chúa cho chúng tôi học cũng vui; đọc sách thật nhiều. Có lần Mục sư Lê Vĩnh Thạch nói với nhà tôi rằng: "Học Kinh Thánh phải đổ mồ hôi óc chớ không phải dễ đâu!" Thật vậy, họ bắt đọc sách nhiều kinh khủng, đọc đến mờ cả mắt, rồi làm bài luận phải nạp cho đúng ngày; mỗi tuần một bài. Chúng tôi nhờ Chúa học cũng được. Bài luận của chúng tôi được điểm A-, có một bài điểm B+. Chúng tôi có dịp trở lại đời sinh viên rất thú vị, học rất vui. Khi chúng tôi mới đổi qua California, bà Beezer mời nhà tôi xuống thăm Ban Phụ Nữ và giảng tại đó trong kỳ lễ Noel 1977. Nhà tôi gặp một bà cụ là một ban viên Ban Phụ Nữ. Bà hỏi thăm nhà tôi từ đâu tới, nhà tôi nói là từ Chiacago. Bà nói rằng bà có người rể đang làm giáo sư dạy tại trường Moody. Nhà tôi hỏi bà vị Giáo sư tên gì, bà nói tên là Dr. James. Té ra chính ông nầy đã dạy Thần đạo cho nhà tôi tại Trường Moody! Bà nghe vậy thì mừng lắm. Cám ơn Chúa đã cho vợ chồng tôi có cơ hội quý báu trau giồi thêm lời Chúa nơi trường Thần Học nầy. Một trường mà chúng tôi đã nghe danh từ khi còn ở Việt Nam, giờ đây chúng tôi có hân hạnh được vào học lời Chúa thật vui thỏa vô cùng. Khi còn hầu việc Chúa tại Thần Học Viện, nhà tôi cũng kiên nhẫn học các môn Hàm thụ tại một Trường Thần học bên Anh quốc do bà Giáo sĩ Contento giới thiệu và giúp học bổng cho nhà tôi học trong mấy năm liền. Nhà tôi học 6 môn đều được điểm đậu cao, có 6 chứng chỉ. Mỗi kỳ thi nhờ các Bà Giáo sĩ làm Giám-thị. Lúc ở Thần Học Viện thì nhờ Bà Giáo sĩ Revelle, khi vào Sài Gòn, nhờ bà Giáo sĩ Franklin Irwin làm giám thị. Thật Chúa có ban ơn giúp đỡ nhà tôi trong mọi sự được may mắn. Ðó là ơn lớn của Chúa vậy! Hầu việc Chúa ở Chicago 2 năm, đến tháng 7 năm 1977 nhơn đi Hội Ðồng Giáo Hạt lần thứ 2 tại Hawthorne. Chúng tôi gặp Truyền đạo Ðặng Ngọc Báu cho hay rằng chúng tôi sẽ được thuyên chuyển về hầu việc Chúa tại Hội Thánh Long Beach! Chúng tôi chưng hửng vì cớ chúng tôi chưa nhận được một chỉ thị hay một biên bản nào của Ban Chấp Hành Giáo Hạt gởi đến cả! Ðang phân vân thì được Mục sư Trương văn Tốt (lúc đó là Giáo Hạt Trưởng) cho biết việc chúng tôi sẽ về hầu việc Chúa tại Hội Thánh Long Beach. Sau đó mới có biên bản của Giáo Hạt gởi đến cho biết là Thầy Ðặng Ngọc Báu nghỉ chức vụ để học thêm thần đạo. Chúng tôi rất bàng hoàng vì dầu ở Chicago khí hậu lạnh lẽo về mùa Ðông, còn mùa Hè thì trong 3 tháng nóng bức suốt ngày đêm. Nhưng chúng tôi rất được an ủi là con cái Chúa hiệp chung lo công việc Chúa; Có ông bà Mục sư Lê Vĩnh Thạch lo cho Thanh niên và Trường Chúa Nhựt. Nhưng tại đây cũng có vài thử thách là hầu hết các nhà tín đồ Việt Nam đều bị ăn trộm, ăn cướp vào viếng cũng khá nhiều. Nhà chúng tôi cũng bị chúng viếng vài lần, nhưng không mất gì vì kẻ trộm tưởng trong nhà không có ai nên tìm cách lẽn vào nhà, nhưng lúc đó có con trai tôi ở Ohio đến chơi, nó ngủ trên lầu, còn chúng tôi đều đi thăm tín đồ (vào chiều Chúa nhựt). Chúng tưởng không có ai nên khi vào nhà chúng nói chuyện om sòm. Dâu tôi từ trên lầu bước xuống, vì tưởng rằng chúng tôi đã về. Khi thấy dâu tôi thì chúng hoảng sợ chạy ra phía sau rọc cửa sổ bằng lưới nhảy ra ngoài bị trẹo giò, cố lết ra khỏi hàng rào! Khi biên bản của Giáo hạt gởi đến Hội Thánh Chicago thì không biết ai sẽ thay thế cho chúng tôi! Lúc ấy có Mục sư Nguyễn Duy Xuân từ Pháp qua dự Hội Ðồng. Ông lưu lại Mỹ mấy tuần lễ đi thăm các Hội thánh. Ông đến Chicago nghe rằng không có ai thay thế cho chúng tôi thì ông tình nguyện đến hầu việc Chúa tại Hội thánh Chicago! Anh em ai nấy đều mừng rở. Nhưng khi ông về Pháp thì bị đau ruột dư phải mổ. Vấn đề xin định cư tại Mỹ không dễ dàng như ông tưởng! Về sau ông đến hầu việc Chúa ở Hội thánh Miami, rồi đổi về San Jose, ông bị ung thư bao tử mà qua đời! Ngày 4 tháng 9-1977 chúng tôi đến Long Beach (khi chúng tôi đến Chicago cũng nhằm ngày 4-tháng 9-75). Sau khi nhậm chức tại đây được vài tuần lễ thì mới biết những rắc rối khó khăn ở Hội Thánh nầy. Có một tín đồ kêu gọi một số con cái Chúa Hội Thánh Long Beach tách rời để mỗi tuần nhóm ngoài Park. Có hơn 30 người nghe theo, số còn lại hơn 35 người cứ trung tín nhóm lại nơi nhà thờ mượn của Hội First Alliace Church ở đường Palo Verde, số 3331. Hội thánh rất buồn bả về sự chia rẽ nầy. Chúng tôi cũng bị hăm he rằng họ sẽ phá Hội thánh Long Beach cho tan hoang thì họ mới vừa lòng! Chúng tôi thấy tình hình Hội thánh như vậy cũng rất buồn, chỉ biết cầu nguyện giao phó cho Chúa; nếu Chúa thấy việc của những người chống đối làm là đúng ý Chúa thì công việc ầy sẽ thành công, ngược lại nếu công việc ấy bởi ý người thì tự nó sẽ hư đi! Sau thời gian chừng 3 tháng thì nhóm nầy tan rã và con cái Chúa trở về với Hội Thánh Long Beach, trừ ra những người chống đối thì họ bỏ Hội Thánh luôn! Lúc ấy, nền tài chánh của Hội Thánh rất eo hẹp. Mỗi tháng Hội Thánh cung lương cho chúng tôi là $ 300 đô-la, Hội Truyền Giáo đã bớt năm thứ 3 rồi, chỉ còn $100 mỗi tháng mà thôi. Chúng tôi thuê nhà mỗi tháng là: $250.00 đô! Các con cái Chúa thấy chúng tôi quá chật vật, nên người nầy cho gạo, người khác cho thịt cá, rau cải, chúng tôi sống qua ngày. Chúng tôi không chút gì lo về tài chánh cả mà chỉ lo sao gây dựng công việc Chúa tại đây cho đời thuộc linh con cái Chúa được vững mạnh là chúng tôi vui rồi! Khi sang Cali. chỉ có đứa con gái áp út của chúng tôi đi theo mà thôi; còn đứa gái út thì đang học tại đại học Pedue ở Indiana. Khi qua Cali. nó được bà Nguyễn Hữu AÙi xin làm Teller trong nhà Bank of America, vì khi ở Chicago nó cũng có làm trong nhà Bank Savings rồi. Làm được mấy tháng thì bị bịnh nên xin nghỉ luôn. ************************************************************** Tình cờ vào blog đọc được thông tin này có liên quan đến trại Long Thành và QKVN ,Anh viết lại những gì còn lưu trong trí nhớ sau 38 năm trôi qua.
Vào một buổi chiều những ngày đầu tháng 4/75 , ĐCT/72 cùng toàn bộ SCT di tản từ Đà Nẵng, Vũng Tàu rồi về làng Cô Nhi Long Thành trong khi chờ đợi về kho 18 bên Khánh Hội tăng cường phòng thủ Biệt Khu Thủ Đô. Anh cùng Thiếu Tá nguyên CHP Trần Văn Lâm cũng là bạn cùng khóa hiện định cư tại Colorado , có thể có cả Đại Úy Trần Thế Quảng (Anh chưa nhớ rõ) , Đại Úy Đào Hữu Tuyền cựu Biệt Hải , đinh cư tại San Diego đã qua đời cách đây vài năm là một chiến hữu thân thiết , Chiều hôm ấy trên đường về trại sau khi ăn cơm chiều tại chợ Long Thành thấy nhiều xe hơi của thường dân xuất hiện tại cuối sân bay trại Long Thành trong khu quân sự ,trên bầu trời thì xuất hiện chiếc C130 bay lòng vòng chuẩn bị đáp xuống sân bay. Vì khả nghi có điều bất thường Anh lái xe vào sân bay thì cũng là lúc chiếc C130 đáp xuống mở cửa hậu , số người dân sự từ xe hơi đã được tập trung trước đó vội vàng chạy lên máy bay có cả phụ nữ và trẻ em, Lúc đó có một Thưọng Sĩ áp tải , không biết vì quá gấp hay vì lý do nào đó còn kẹt lại Người pilot chính đã giơ tay ra ngoài ngoắc có tính cách chào đồng thời máy bay vẫn đang mở và Taxi trên phi đạo. Vì quá bất ngờ nên không có phản ứng ngăn chặn máy bay hơn nữa trong số người mặc thường phục có cả phụ nữ và trẻ em, có thể phi cơ đang trong chuyến bay tiếp tế nào đó nên khi máy bay chuẩn bị cất cành thì đẩy một pallet hàng xuống phi đạo và sau đó cất cánh an toàn , Sau đó Anh đã thông báo cho An Ninh Trại ra tiếp nhận người và tang vật còn kẹt lại Đó là những khoảnh khắc trong một buổi chiều buồn vào đầu tháng 4/75. Còn về chuyến bay cảm tử mùa hẻ đỏ lửa 72 mà Minh Mẫn có nhắc, vì lý do nhạy cảm chỉ nên đề cập khi thuận tiện, Chúc Sức khỏe
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 11, 2019 16:05:18 GMT 9
HAI NGÀY GÁC Ở NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI.
Đầu tháng 12/1972, tôi đang học giai đoạn 2 quân sự (học chỉ huy cấp trung đội) thuộc khóa 3/72 sinh viên sĩ quan (SVSQ) Trường Bộ binh Thủ Đức, thì được lệnh dừng huấn luyện để cùng các khóa khác đi chiến dịch giành dân trước ngày Hiệp định Paris có hiệu lực (27/1/1973). Song vì tôi nằm trong danh sách 60 SVSQ khóa 3/72 đã trúng tuyển sức khỏe phi hành, nên không phải đi chiến dịch, mà ở lại gác doanh trại và chờ ngày chuyển sang Không quân để học lái máy bay. GÁC XÁC ĐỒNG ĐỘI Nếu trừ 60 người ở lại chờ sang không quân , thì khóa tôi có hơn 700 SVSQ đi chiến dịch, mỗi SVSQ về một ấp, ăn ngủ tại trụ sở xã, ban ngày SVSQ cùng trưởng ấp và vài lính Nghĩa quân đi vào từng xóm, để giải thích Hiệp định Paris sẽ ngừng bắn vào ngày 27/1/1973. Lúc đó, chỗ nào của quân đội VNCH kiểm soát là phần đất quốc gia, cấm quân Mặt trận Giải phóng xâm nhập, đồng bào phải treo Quốc kỳ VNCH, nếu phía bên kia lén treo cờ MTGP thì đồng bào phải báo chính quyền, quân đội để hạ cờ. Đồng bào không được đi vào vùng của MTGP kiểm soát. Ai dè đúng một tuần sau khi đi chiến dịch, thì có tin báo về thằng Nhạn đã tử trận. Nhạn cùng ông trưởng ấp và 2 lính nghĩa quân đi trên ghe máy vào xóm để tuyên truyền, khi ghe chạy qua đám dừa nước rậm thì bị trái lựu đạn ném lên ghe nổ, kèm theo hàng loạt đạn AK bắn xối xả. Bốn người trên ghe đều tử trận. Nhạn cùng trung đội 3 (đại đội 34) với tôi, tôi nằm giường trên, nó nằm giường dưới. Nhạn con nhà giàu, đẹp trai, mặt vuông, cằm bạnh, đeo kiếng cận, giọng nói rổn rảng. Nó thường ca nhạc chế bài Love Story: “Bởi bà già rắc rối, cuộc tình rối rắm, ôi biết nói gì, thì đành nói dối…”. Nhìn tướng nó rất thọ, không có biểu hiện gì là chết yểu, trừ một điều tôi phát hiện là một tuần trước khi đi chiến dịch, da mặt nó từ màu xạm đầy vết lõm mụn bọc, bỗng dưng chuyển sang màu trắng xanh như người đau gan. Nhạn chết trận, ông nội Nhạn không cho quàng linh cữu Nhạn tại nhà ở Sài gòn, mà quàng Nhạn tại Nghĩa trang Quân đội. Trong đại đội 34 có 10 thằng ở lại chờ qua Không quân được xe GMC chở từ Thủ Đức lên nghĩa trang gác linh cữu Nhạn. Bọn tôi mặc đồ tiểu lễ màu vàng, đeo dây biểu chương, mỗi ca gác một tiếng gồm hai đứa bồng sung chào, đứng nghiêm như trời trồng ở đầu hòm. Bọn tôi thay phiên gác từ 7 giờ sáng đến 5giờ chiều thì xe GMC chở về Thủ Đức, sáng hôm sau xe chở lên gác tiếp. Bấy giờ là thượng tuần tháng 12/1972, chiến trường Bình Long và Kontum đã kết thúc, Cổ thành Quảng Trị đã tái chiếm, nhưng quân VNCH còn đánh tái chiếm vùng nam Sông Thạch Hản và vùng Cửa Việt với tổn thất nhân mạng lớn, nên Nghĩa trang Quân đội có rất nhiều quan tài tử sĩ. Nếu từ bên ngoài nhìn vào, phía tay phải khu nhà quàng có khoảng 70 quan tài xếp thành 2 dãy của hạ sĩ quan, binh lính theo đạo Phật. Bên trái nhà quàng có khoảng 50 quan tài của hạ sĩ quan, binh lính theo đạo Công giáo. Ở sảnh giữa chỉ có ba quan tài sĩ quan (một thiếu úy vinh thăng cố trung úy, một chuẩn úy vinh thăng cố thiếu úy và Nhạn là SVSQ vinh thăng cố chuẩn úy). DÂY CHUYỀN AN TÁNG Mặc dù bên trong các quan tài đều được bọc thiết và hàn chì, nhưng mùi hôi vẫn xông ra nồng nặc, do xác lính chở về đến đây đều sình thối. Nhìn số quân mới biết đa số các anh đều còn rất trẻ, sinh từ năm 1954 đến 1952 (18-20 tuổi) và thuộc các bình chủng thiện chiến: Nhảy dù, TQLC, Biệt động quân. Do quân đội VNCH tôn trọng tâm linh của tử sĩ, nên nghi lễ an táng tại Nghĩa trang Quân đội với thể thức rất trang trọng nhưng không che giấu được những chi tiết thê lương! Bên dãy quan tài theo đạo Phật, vị sĩ quan tuyên úy Phật giáo, mặc áo cà sa vàng, đầu cạo trọc, mẫn cán lần lượt đọc kinh cúng cơm trưa và cúng cơm chiều từ quan tài này đến quan tài khác. Vì mùi rất hôi, nên tang gia của các tử sĩ đều không đến gần quan tài, mà ở tại khu nhà nghỉ cách đó 100 mét. Khi đến lượt cúng cơm, nhà sư tụng kinh với hai người lính Liên đội Chung sự đứng hầu hai bên bàn thờ, tang gia mới đến quỳ trước bàn vong. Khi thầy tụng đến đoạn: “Kiềng tiền tửu châm, nhị tuần lễ nhị bái…” thì người lính hầu bưng nhạo rượu châm thêm ba ly rượu trên bàn thờ và vợ con tử sĩ lạy 2 lạy. Phần lớn tử sĩ chỉ có người vợ trẻ, bà mẹ trên tứ tuần và anh chị em ruột đến. Không hiểu sao it tử sĩ có bố đến dự, một số vợ tử sĩ bồng con nhỏ trên tay với vành khăn tang. Khi thầy đọc dứt bài kinh cúng cơm, hai người lính hầu bê cái bàn thờ sang quan tài kế bên, tang gia của quan tài kế bên liền đến dời chiếc chiếu từ quan tài vừa tụng xong sang quan tài của người thân để quỳ. Tang gia của quan tài vừa tụng xong khóc tức tưởi trên hành lang trở về nhà nghỉ. Một vòng cúng cơm 70 quan tài phải mất 3 tiếng đồng hồ. Tôi thấy thương vị sư tuyên úy và hai anh lính hầu phải chịu mùi hôi suốt 6 tiếng/ngày. Trong khi đó, bên phía 50 quan tài tử sĩ theo đạo Công giáo thì có nghi thức gọn hơn: Vị linh mục tuyên úy mặc áo dài thụng màu đen, một tay cầm chén nước thánh, một tay cầm nhành hoa, rãi nước lên đầu quan tài, miệng đọc kinh, cũng có hai anh lính hầu đứng nghiêm chào. Một tour làm phép rửa tội cho 50 quan tài như vậy chỉ mất một giờ. Tất cả quan tài đều phủ Quốc kỳ to kèm vành khăn tang nhỏ, Quốc kỳ dành để vinh danh Tổ quốc, khăn tang để tạ tội vì chết trước cha mẹ các anh, tôi không cầm được nước mắt khi nghĩ đến ý nghĩa đó. Bình quân mỗi ngày, đội quân mai táng phải chôn phân nửa số quan tài đang quàng và đội quân tẫn liệm phải điền vào chỗ trống 60 quan tài mới. Liên đội Chung sự (lo hữu sự cuối cùng cho binh sĩ) phụng sự tử sĩ từ lúc nhận xác đến lúc xây phần mộ. Cấp số của Liên đội khoảng bằng đại đội, nhưng không gọi là đại đội vì binh sĩ gồm đủ sắc lính: Một toán lính quân nhu đóng hòm, một toán lính quân y rửa xác, cho vào bọc nylon và đưa vào ngăn lạnh. Ngoài ra, mỗi binh chủng: Hải quân, Không quân, TQLC, Nhảy dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Quân đoàn…phải cử hai hạ sĩ quan biệt phái về Nghĩa trang Quân đội vừa để làm dàn chào đội quân danh dự, vừa nhận xác tử sĩ thuộc binh chủng của mình để báo cáo về đơn vị và trích quân bạ của tử sĩ đó để viết điếu văn. Tất cả các quân nhân biệt phái đó đều dưới quyền chỉ huy của viên trung úy Liên đội trưởng, nếu tôi nhớ không lầm tên ông là Xuân. PONCHO BUỒN PHỦ KÍN ĐỜI ANH. Trung úy Xuân xuất thân từ trường Sĩ quan Thủ Đức nên rất mến khóa đàn em tụi tôi. Tôi là thằng vốn hiếu kỳ, nên ngoài giờ gác hay đi theo trung úy Xuân để biết hết các khâu vận hành của Nghĩa trang. Đa số xác tử sĩ tử trận ở Vùng III được đưa đến bằng xe GMC bít bùng (vì gần); Các tử sĩ ở Vùng 1, II, IV (xa) đều được tẫn vào quan tài và chở bằng máy bay C.130 về Tân Sân Nhất, rồi xe GMC chở về nghĩa trang. Một số xác tử sĩ ở Vùng III nếu có dịp được chở về bằng trực thăng UH. Nghe tiếng trực thăng hạ thấp, trung úy Xuân rủ tôi ra bãi đáp nhận xác. Anh cơ phi trực thăng cho biết, một trận đánh ở Hậu Nghĩa đến ngày thứ ba mới lấy được 5 xác tử sĩ này ra. Xác được bọc kín bởi Poncho (dùng làm áo mưa, làm võng, nếu ghép 3 cái thì thành lều chung cho 3 binh sĩ) và được buộc bằng dây dù vào băng ca. Do xác sình và bọc kín, nên Poncho phồng lên, những chỗ buộc dây dù thì khuyết lõm xuống, trông giống như đòn bánh tét mới nấu chín. Tôi không biết, trước khi NS Phạm Duy phổ thơ bài “Kỷ vật cho em” hay thi sĩ Linh Phương sáng tác bài thơ này, đã có nhìn thấy cảnh tượng này không, mà viết lời thơ, ca quá chính xác: “Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả – Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa – Anh trở về trên chiếc băng ca – Trên trực thăng sơn màu tang trắng (trực thăng cứu thương sơn màu trắng có chữ thập đỏ) – Anh trở về chiều hoang trốn nắng -Poncho buồn liệm kín hồn anh…” 10 người lính của trung úy Xuân khiêng 5 băng ca vào phòng tắm xác. Cơ phi trực thăng chạy vào kho lấy 5 băng ca đã rửa và sấy khô đem lên trực thăng, giống như người uống xá xị phải trả lại vỏ chai. Tại phòng rửa xác, các anh lính mang khẩu trang dùng dao cắt đứt dây dù, rồi tưới nước compound và dùng vòi nước cực manh phun vào Poncho bung ra, một vài con còng núp dưới lớp poncho bị nước bắn lên cao. Sau khi xác tử sĩ sạch máu me, các anh lính chung sự dùng dao, kéo hớt quân phục rất chật ra, rồi phun “bọt tuyết” lần nữa cho xá nude sạch, mới cho vào túi nylon và đưa vào ngăn lạnh. Trung úy Xuân cho biết, từ năm 1966 (khi bắt đầu nhận xác trận Đồng Xoài) đến trước Tết Mậu Thân xác tử sĩ về ít, nên bên quân y còn lấy da thịt từ chỗ kín đem vá đắp các vết thương hở lớn ở chỗ dễ nhìn thấy trên thi hài tử sĩ để thân nhân nhìn bớt đau lòng. Còn bây giờ xác nhiều, quá vết thương ra sao cứ để vậy. Các hạ sĩ quan biệt phái có trách nhiệm lấy thẻ bài của tử sĩ cùng binh chủng và báo về đơn vị. Đơn vị trưởng báo về Bộ Tổng tham mưu để ký quyết định thăng cấp và tặng huy chương cho tử sĩ, đồng thời báo về tiểu khu nơi thân nhân tử sĩ cư ngụ. Tiểu khu có trách nhiệm lấy xe chở thân nhân tử sĩ đến Nghĩa trang quân đội. Liên đội Chung sự phát mùng mền chiếu gối lẫn đồ tang cho thân nhân tử sĩ, cấp thức ăn cho thân nhân (món ngon giống đám giỗ). Sau khi ổn định chỗ ăn ở, thân nhân được đưa xuống phòng lạnh nhận xác tử sĩ để liệm theo ngày giờ mà thân nhân đã xem bói. Xác nào mất thẻ bài hoặc có thẻ bài nhưng để lâu quá mà thân nhân chưa đến nhận thì cũng đưa ra liệm và chôn theo nghi thức. Vì vậy, có những quan tài đề tên rất lạ như: “Phi hành đoàn C.47”. Trung úy Xuân cho biết, khi lính hành quân vào mật khu, phát hiện có 5 cái sọ nằm gần xác máy bay C.47, không thấy xương thân thể, không thấy thẻ bài, bèn nhặt về giao Nghĩa trang.Trung úy Xuân cho bỏ 5 sọ vào chung một quan tài coi như tạm liệm, và báo cho Không quân sưu tra, chiếc C.47 rơi tại tọa độ đó là phi vụ nào, hồi năm nào, mới biết phi hành đoàn tên gì? Có một quan tài gắn hình một cô gái cười tươi rất đẹp, tôi tưởng là nữ quân nhân, ai dè Trung úy Xuân giải thích, trong túi áo tử sĩ có tấm ảnh cô gái này, nhưng trong bóp tử sĩ lại không có ảnh anh ta, mà thân nhân chưa đến nhận, nên anh em tẫn liệm tạm lấy hình người yêu gắn ở đầu hòm mong vong linh tử sĩ tạm vui. Vì chỉ huy các tử sĩ đều ở chiến trường, nên trung úy Xuân phải thay mặt chỉ huy tử sĩ đọc quyết định thăng thưởng huy chương – cấp bậc và đọc điếu văn. Một ngày chôn 60 tử sĩ, trung úy Xuân phải đọc 60 quyết định thăng cấp, 60 quyết định tặng huy chương và 60 điếu văn ngắn. Do các quyết định đều do Bộ tổng tham mưu ký, nên theo hệ thống quân giai, trung úy Xuân phải thừa lệnh nhiều nấc: “Thừa lệnh đại tướng Tổng tham mưu trưởng, thừa lệnh trung tướng tư lệnh quân đoàn, thừa lệnh chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn, thừa lệnh đại tá tiểu khu trưởng tiểu khu Biên Hòa, tôi trung úy Xuân xin đọc quyết định, đọc điếu văn…“. Sau khi trung úy Xuân đọc điếu văn, một phút mặc niệm bắt đầu, ba lính quân nhạc thổi bài Exodus bằng kènTrumpet và 12 người lính chung sự bồng sung chào ở hai bên hòm. Lúc hạ huyệt cũng với tiếng kèn đưa tiễn, 12 người lính bắn 12 phát súng chỉ thiên. Có những bà vợ trẻ, bà mẹ tứ tuần đòi nhào xuống huyệt chết theo chồng mình, con mình. Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào tử sĩ không quen biết lần cuối mà không cầm được nước mắt.Hai ngày ngày gác ở Nghĩa trang, tôi mới thấy được thi thể không lành lặn của người lính hy sinh và thấy được nỗi đau của những người vợ trẻ, mẹ trẻ. Nhân 40 năm kỷ niệm ngày 30/4, tôi bên thua cuộc, trong số một triệu người buồn trong ngày này như ông Võ Văn Kiệt nói, xin viết bài này kính mong Bên thắng cuộc hãy mở lòng từ bi, hỷ xả cho Nghĩa trang quân đội được tu bổ và tồn tại để một triệu người buồn đỡ tủi nhục. Xin đừng quên ! Thân kính, Cao Bá Tuấn
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 26, 2019 1:31:10 GMT 9
Thiếu Úy HUỲNH VĂN THÁI Và BẢY CHIẾN BINH NHẢY DÙTác giả: Mũ Đỏ Võ Trung TínThái ngồi xuống vệ đường. Anh bâng khuâng nhìn chung quanh những người đồng đội. Họ đã theo anh tới tận giờ phút này. Những người lính Dù mặt mày hốc hác, nhưng chưa nghe ai mở miệng thở than. Thằng Tăng Thiện Minh, chín tháng làm Nhảy Dù mà mắt vẫn còn ngơ ngáo non choẹt. Học hết lớp chín tình nguyện ghi danh đi lính chỉ để được “đội Bê Rê Ðỏ.” Nó xin làm đệ tử anh bởi vì “em khoái cái mặt ngầu của thiếu úy.” Thằng nhỏ mới mười chín tuổi, người Hoa, còn có bà mẹ ở Chợ Lớn và mấy anh chị em làm ăn khấm khá, sẵn sàng chi tiền để nó được ở hậu phương làm lính kiểng. Má nó khóc hết nước mắt khi nó cứ nhất định đăng lính. “Má à, tui đi lính rồi chừng nào hết diệc cộng tui dề giới má mà. Má khóc goài dậy?” Nó nhăn mặt, cố giấu mấy giọt nước mắt khi nói. Thái đốt một điếu thuốc. Anh lắc đầu từ chối chén cơm thằng Minh mới nấu. Thằng nhỏ cứ năn nỉ “thiếu úy ăn chút gì đi, từ sáng giờ…” Thật ra cả hai thầy trò chưa có gì trong bụng, nhưng Thái không thấy đói. Anh chỉ mệt. Thượng Sĩ Nguyễn Năm ngồi bệt xuống bên cạnh Thái. Ba mươi hai tuổi, là người già nhất trong trung đội. Quê anh ở tận ngoài Trung, Phú Yên. Mười hai năm đội mũ đỏ, trải qua biết bao chiến trường đẫm máu vẫn sống sót. Một vợ ba con giờ không biết lưu lạc nơi đâu từ lúc cuộc di tản mở màn. Năm hỏi nhỏ, “Tính sao thiếu úy?” Thái trả lời, “Từ từ ông ơi, biểu tụi nó nghỉ ngơi chút đi.” Anh kính trọng người thượng sĩ mà lính trong trung đội thường gọi đùa danh xưng Bố Già. Kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm chiến trường, mấy lần đổ máu. Thái đứng dậy, anh bước tới chỗ một người lính đang nằm ngủ thoải mái ngay dưới một tàng cây. Anh đá vào đùi người lính: – Ê Hưng, đưa tao điếu thuốc mày. Người lính ú ớ: – ÐM để ngủ chút coi! – Ngủ chàng hảng như mày Việt Cộng nó thiến dái. Hưng dụi mắt, nó ngồi nhỏm dậy khi nhận ra Thái: – Xin lỗi ông thầy, tại mệt quá! – Lỗi phải gì mày ơi, cho tao điếu thuốc coi. Thằng nhỏ nhoẻn cười, móc gói Quân Tiếp Vụ nhàu nát trao cho Thái. Cũng như Tăng Thiện Minh, Trần Ngọc Hưng chỉ mới vừa mười chín tuổi. Quê Hưng ở đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Bạc liêu. Không nhậu nhẹt, nhưng khi có độ thì nốc rượu đế như uống nước lã. Hưng học đến lớp mười một, thi rớt Tú Tài nhưng từ chối đi học Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế. Thằng Minh vẫn thường chọc, “ÐM mày ngu, mang lon trung sĩ không đã hơn làm lính trơn sao?” Hưng chỉ cười hềnh hệch, “Tao khoái đội mũ đỏ hơn đeo cánh gà Bộ Binh.” Thằng Cậy xốc lại dây ba chạc, túm lấy cục đá nhỏ chọi về phía Hưng. Tụi nó vẫn còn rất con nít, dù đứa nào đụng với Việt Cộng ít nhất cũng một lần. Nguyễn Cậy, Bắc Kỳ di cư năm mươi tư, con ông Nguyễn An và bà Trần thị Mùi. Cậy nhỏ người, nhưng rất chắc thịt. Nó đã từng vác một thằng bạn bị thương chạy mấy cây số đường rừng để trở về đơn vị. Công Giáo chính tông, hễ ở hậu cứ thì nó chẳng bỏ ngày Lễ Chúa Nhật nào. Có lần Thái thấy nó lần chuỗi bằng ngón tay, miệng thì lâm râm đọc kinh. Ðợi cho nó cầu nguyện xong, Thái hỏi đùa, “Mày bắn Việt Cộng mà đọc kinh cái gì?” Cậy bẽn lẽn, “Thầy mạ em bảo thế, mà em không bắn chúng thì chúng cũng chẳng để em sống.” Hai mươi hai tuổi đời, chưa từng một lần yêu, lính Nhảy Dù mà cứ gặp em gái hậu phương thì mặt đỏ như gấc. Chưa bao giờ Thái thấy Cậy đánh lộn trong đơn vị, trong khi hễ về thành phố thằng Minh và thằng Hưng lại đi kiếm chuyện với tụi sắc lính khác hoặc Cảnh Sát Dã Chiến. Cậy luôn sẵn sàng bênh bạn, cứ nghe rủ là đi. Mà nó đánh lộn ra gì, một mình nó có lần đã nện hai thằng CSDC nhừ tử. Bị Quân Cảnh Nhảy Dù bắt nhốt, Thái đã đi lãnh nó ra. Lúc gặp Thái nó lí nhí, “Xin lỗi Thiếu úy.” Thái chửi, “ÐM mày, tao đá mày chết mẹ mày cho chừa thói ba gai” (anh muốn chính anh “dạy” lính của mình hơn là để người khác làm nhục tụi nó.) Một lần Cậy xách hai trái lựu đạn đi tìm bọn du đãng chỉ vì nghe thằng Hưng nói bị tụi nó chặn đường chém bằng mã tấu. Nó tâm sự suýt chút nữa thì nó đã nghe lời mẹ đi tu, cái thằng Bắc Kỳ Nguyễn Cậy hai mươi hai tuổi đời, ba tuổi lính tới giờ phút đó, chưa biết yêu đã biết cách giết người. Thạch Sơn đang lúi húi gây lò lửa nấu cà phê. Thái nhìn những người lính chung quanh mình. Họ đã chia với anh từng điếu thuốc, từng ngụm nước. Họ là máu, là mủ của anh. Thái biết họ sẵn sàng nhảy lên đỡ đạn cho anh từ phát súng bắn tỉa của địch. Anh thương họ, và họ cũng thương anh. Anh nhớ mẹ, nhớ thằng em mười bốn tuổi ở nhà, chỉ hăm hở cho mau lớn để được đi lính Nhảy Dù. Anh nhớ lần anh đã nói với nó, “lính Nhảy Dù khổ lắm mày ơi, lúc nào cũng chỉ Cố Gắng” mà thôi. Nhảy Dù Cố Gắng, tâm niệm của binh chủng đè nặng trên vai người lính VNCH. Anh có hối tiếc khi chọn binh chủng này chăng? Không! Thái biết rõ điều đó. Thạch Sơn mang ly cà phê bốc khói tới trước mặt anh, “Ông thầy húp một chút cho tỉnh.” “Mày điệu nghệ quá Thạch Sơn” Thái mỉm cười thầm cảm ơn người lính. Thạch Sơn, Miên thứ thiệt, đeo sợi thẻ bài có kèm cái răng nanh heo rừng bự chảng. Quê Châu Ðốc, Thạch Sơn không được đi học ngày nào, không biết chữ, mỗi lần lãnh lương phải điểm chỉ. Sơn là người ít nói nhất trong trung đội. Lầm lì, gan dạ, đánh nhau chỉ thích xung phong tuyến đầu. Cha bị việt cộng chặt đầu vì có chân trong hội đồng người Việt gốc Miên lúc Sơn chỉ mới mười ba tuổi. Mẹ Việt Nam bán cá khô ở chợ quận, mỗi lần lãnh lương lại nhờ Thái gởi tiền về cho mẹ. Chưa bao giờ nghe Sơn nói căm thù việt cộng, nhưng hề có đánh nhau mới thấy sự căm thù căng tràn trên đôi mắt Sơn. Nó như một con trâu cui nổi điên chẳng biết sợ chết là gì. Nhiều khi xung phong nó chạy trước, bỏ xa trung đội gần cả trăm thước. Nó chẳng bao giờ tâm sự bạn bè chỉ trừ có Thái. Nó nói. “Tui coi ông thầy như anh tui.” “Vậy mày đưa tiền lương của mày cho tao xài đi,” Sơn bẽn lẽn. “Tui không gởi tiền cho bà già thì tui đưa hết cho ông thầy rồi.” Người nó lực lưỡng, mình xâm đầy bùa chú chữ Miên. Vậy mà có lần Thái thấy nó khóc, “Tui nhớ má tui quá ông thầy ơi…” Thằng Cường la lên: – Ê Sơn, pha nhiều nhiều cà phê cho tao ké với. – Con C. mày muốn uống thì pha lấy mà uống, thằng làm biếng! – thằng Hưng lên tiếng. – Ông nội mẹ mày nghe Hưng, Việt Cộng nó xả AK vô đầu mày nghe Hưng. Hưng trả lời.: – Nó có tới được đây thì tao cũng bắn chết mẹ nó rồi. Mấy thằng nhỏ như chó với mèo, chửi nhau hàng ngày. Chửi đó, nhưng đứa nầy sẵn sàng sống chết cho đứa kia, giữa chúng nó như có một sợi dây vô hình buộc chặt lại với nhau. Cường người Saigon, quận Tư, tính tình hệch hạc, cười nhiều nói nhiều, nó thường chọc thằng Cậy “ÐM mấy thằng Bắc kỳ rau muống ăn cá rô cây.” Rồi nó ngân ng,a “Bắc Kỳ ăn cá rô cây, Ăn nhằm cứt chuột chết cha Bắc kỳ.” Thằng Cậy trả đũa, “ÐM mày thằng Nam Kỳ giá sống, sẽ có ngày ông đổ mắm tôm vào cái mồm thối của mày.” Trước đây Cường ra bùng binh Saigon đăng TQLC. Ở quân trường vài tuần rồi trốn về nhà. Lần sau nó lại mò ra bùng binh Saigon lần nữa. Lần này nó chấm Thiên Thần Mũ Ðỏ. Lý do nó bỏ TQLC vì nó sợ nước, sợ phải học bơi lội. Nguyễn Văn Cường, cái tên rất bình thường, có thể trùng hợp hàng triệu người Việt Nam trẻ khác. Nhưng Cường không bình thường – theo cái nghĩa bình thường – nó thích chiến trận, thích đánh nhau. Chỉ vì nó ham sôi động chứ không phải nó thích giết người. Nó có hàng trăm biệt tài mà một trong số đó là gài mìn bẫy. Mỗi lần đóng quân trong rừng thế nào cũng có vài con “nhạn là đà” vướng vào bẫy của nó. Cùng tuổi với thằng Cậy, nhưng Cậy nghiêm trang bao nhiêu thì Cường lại chọc phá đùa giỡn bấy nhiêu. Cường có người yêu tên Nguyễn Thị Ðoan Trang, nữ sinh Gia Long, lớp mười một. Mỗi lần nhận được thư nàng nó khoe với cả trung đội. Trắng, nhỏ nhắn, có mái tóc dài và đôi mắt đẹp. Nó tâm sự với Thái, “Kỳ này chắc em lấy nó quá thiếu úy, dự đám cưới của em nghe thiếu úy.” Binh nhất Nguyễn Văn Cường cũng có những giây phút không đùa giỡn chút nào. Y Kron, đen như khúc than Nông Sơn. Ðể nó đứng cạnh Thạch Sơn không biết thằng nào chiếm giải nhất về màu da lọ nghẹ. Xạ thủ M60 của trung đội, sức nặng khẩu súng và mấy dây đạn đeo chung quanh người, chẳng thấm tháp gì với tướng tá dềnh dàng, cao lớn. Y Kron không hút Quân Tiếp Vụ, nó có loại thuốc lá riêng, mùi ngay ngáy như cỏ khô. Dân tộc Thượng Ra Ðê, nhưng nói tiếng Việt rành rọt, dù vẫn còn âm điệu của người miền núi. Hai mươi bảy tuổi, một vợ hai con, đứa lớn nhất vừa tròn năm tuổi. Y Kron thường ngồi một mình, hút thuốc nhìn về phía xa vời nào. Ðôi lúc Y kron cất lên vài câu hát của người dân tộc buồn tha thiết. Thằng Hùng vẫn thường chọc, “ÐM Y kron mày hát cái đách gì vậy, ông nội tao cũng không hiểu nổi,” hắn chỉ cười vu vơ. Có lần Thái hỏi dò: – Mày có muốn đào ngũ về nhà với vợ con không Y Kron? Hắn nhìn thẳng vào mặt Thái: – Ớ ông thay, tui thương cái lính nầy a, tui ghét cái viet công a, tui thương mấy thăng nầy, tui thương ông thây. Cái vơ cái con tụi tui cũng thương mà tui không đao ngu đâu.. Thái biết Y Kron nói thật. Anh cố gắng hết sức để xin cho Y Kron được về phép. Nhưng tình hình chiến sự kiểu này chắc cũng còn lâu. Lần cuối cùng Y Kron cầm giấy phép về thăm gia đình vợ con chính hắn không nhớ nổi. Có tiếng súng xa xa vọng lại. Thái nhổm dậy, bảy người lính trong trung đội cũng hành động như anh. Họ chụp lấy súng vào thế tác chiến. Huỳnh Văn Thái, hai mươi bốn tuổi, thiếu úy Nhảy Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sĩ quan trung đội trưởng tốt nghiệp khóa 5/69 trường Bộ Binh Thủ Ðức với thứ hạng trung bình. Tình nguyện về Nhảy Dù sau khi ra trường. Má đã không giấu được nỗi lo âu khi thấy con mặc đồ rằn ri, đội bê rê đỏ về thăm má. Trước đây khi Thái chưa vào quân trường, bà vẫn tụng kinh gõ mõ trước bàn thờ Phật ngày ba lần. Số lần tụng niệm tăng lên khi Thái chính thức gia nhập quân đội. Bây giờ, nhìn con trong bộ quân phục thì bà chẳng còn thì giờ để làm gì nữa ngoài việc ngồi suốt trước bàn thờ khấn xin cho con được bình an. Thái thương mẹ, nhưng biết làm sao? Anh yêu điều anh đã lựa chọn. Ba anh, bình tĩnh hơn, chỉ khuyên anh nên cẩn thận. “Thưa ba, con biết, nhưng đạn tránh mình chứ mình làm sao tránh được đạn?” Thái nhớ má, nhớ những lần về phép nhìn thấy mặt má vui lên, má cứ tíu tít quanh anh hỏi han dồn dập, “Có mệt không con, có đói không con, con về bao lâu?” Má không muốn anh trả lời, má chỉ muốn anh cảm nhận tình mẹ thương trào ra từ trái tim của má. Thế nào rồi má cũng nấu cho anh nồi canh chua thật nhiều ớt như anh vẫn thích. Má ơi, con nhớ má quá. Thái không thể quên được gương mặt buồn rầu lo âu của má ngày anh phải trở về đơn vị. Anh ôm má thật chặt, anh không muốn nhìn thấy má khóc, bởi vì anh biết mình cũng sẽ khóc theo. Thiếu úy Nhảy Dù không thể mềm như con gái. Thằng em anh cứ quấn lấy anh, nó không nói gì hết, nhưng anh nhìn thấy ánh mắt đầy ngưỡng mộ của nó. Nó thích đội bê rê đỏ trên đầu. Rồi đây nếu chiến tranh còn kéo dài, má sẽ còn phải khóc để đưa thêm một đứa con vào trận chiến. Cả trung đội căng mắt nhìn trước mặt. Bảy người lính Nhảy Dù cùng với trung đội trưởng của họ sẽ giữ vững phòng tuyến cho tới viên đạn cuối cùng. Nhảy dù cố gắng, họ đã cố gắng tới tận cùng từ ngày đội lên đầu chiếc mũ đỏ. Cố gắng nằm chịu dưới mưa đạn pháo kích của việt cộng, cố gắng lấy một chống mười trên những trận tuyến máu tràn mặt đất. Cố gắng cõng bạn bị thương chạy về đơn vị khi bị tràn ngập. Còn một hơi thở lính Nhảy Dù còn phải cố gắng. Việt cộng biết điều này, họ vẫn cố tránh nếu có thể để khỏi đụng với Nhảy Dù. Ðường xâm nhập từ Bắc vào Nam có ba điều làm họ sợ hãi: B52, Biệt Cách Nhảy Dù và Nhảy Dù. Sinh Bắc Tử Nam là điều chắc chắn nếu lính Cộng Sản gặp một trong những hung thần trên. Một gương mặt thoáng hiện lên trong đầu óc Thái. Hồ Thị Cẩm Vân, sinh viên Chính Trị Kinh Doanh năm thứ hai Viện Ðại Học Ðà Lạt. Họ gặp nhau tình cờ, yêu nhau tình cờ và nay thì xa nhau cũng rất tình cờ. Thái không biết bây giờ Vân và gia đình đang ở đâu kể từ ngay cả miền Nam phải di tản chiến thuật. Lúc trước phương tiện liên lạc giữa họ là thư từ, nay thì không còn nữa. Vân mảnh mai như một dải lụa, giong nói miền Trung xứ Huế ngọt ngào. Có lần Thái hỏi đùa: “Anh Nam Kỳ giá sống, em Trung Kỳ mắm ruốc, vậy mai mốt con mình nó sẽ là cái gì… kỳ? chắc nó sẽ kỳ cục quá!!” “Ơi anh nầy, ốt dột quá,” Vân giẫy nẩy. – Coi lại cây M72 của mày đi Thạch Sơn, tụi nó có tăng đó. Thạch Sơn cười, tay lắc lắc chiếc nanh heo: – Ông thầy khỏi lo, tui nhắm không có trật mà – ÐM thằng nào ngon dô đây! – tiếng thằng Hưng phụ họa. Cả trung đội mấy chục người nay chỉ còn có tám thầy trò với nhau. Thái nhớ thằng Hòa, tình nguyện ở lại cản đường, chỉ kịp quẳng hai trái lựu đạn nổ được một băng M16 thì chết. AK cày nát ngực nó. Hòa chết, mặt nhăn nhó thảm hại, nằm chàng hảng giữa đường. Bạn bè cố gắng đào một lỗ cạn chôn tạm. Trung đội mất liên lạc, tự tìm lấy cho mình phương thể ứng xử. Giờ thì chỉ có một con đường – Mầy ngon mầy dô đây – Thái nghiến răng. Anh kiểm tra lại vũ khí. Mỗi người lính Dù còn lại bốn băng, hơn chục trái lựu đạn, hai M72, một M60 với hai dây đạn. Vậy là có đủ vốn để chơi rồi. Kỳ này thế nào anh cũng có lời. “Mở liên lạc coi,…” Thái hy vọng sẽ còn một cấp trên nào, một đơn vị nào có thể liên lạc được. Ít nhất lúc đó anh sẽ dễ tính toán hơn. Tiếng se sẻ từ máy PRC25 của thằng Minh vẳng ra khi nó đang cố dò tần số. Bỗng nhiên từ máy phát ra tiếng nói, “Tôi Dương Văn Minh. Yêu cầu anh em bỏ súng chờ bàn giao…” Cái gì?.. Thái la lên, “Vặn lớn lên coi Minh… Chờ bàn giao….” Thằng Cậy mếu máo: – Mình thua rồi thiếu úy ơi, Thằng Hưng hét lên: – Thua cái con C. – nước mắt nó chạy dài trên gò má. Thạch Sơn quăng ca cà-phê mặt tái mét. Thái cảm thấy lùng bùng lỗ tai. Cái gì? Thua à? thua Việt Cộng à? Ðã đánh đâu mà thua? Anh nhớ tới những người lính trong trung đội đã chết, anh nhớ tới Hoa, tới Bằng, tới Tốt. Máu anh căng tràn trong cơ thể. Anh ước anh có thể nổ một phát súng vào đầu Dương Văn Minh. Thái hít một hơi dài cố lấy lại bình tĩnh. Tính mạng của bảy người lính còn lại ở trong tay anh. Thượng Sĩ Năm lo lắng hỏi, “Tính sao thiếu úy?” “Còn tính sao nữa, buông súng đầu hàng thôi,” Thái gắt gỏng. Thật ra anh đã có một lối thoát cho chính mình. Anh thở dài, nhìn mấy người lính “Tụi bay lại đây.” Họ quây quần chung quanh anh. Thái bình tĩnh nói: – Tụi bây nghe rồi đó, mình là lính, lệnh trên sao thì mình phải theo. Giờ phút này mình thua rồi, tụi bây bỏ súng xuống, rồi thằng nào muốn về nhà thì cứ đi. Không ai chỉ huy ai nữa. Tụi bây hiểu chưa? – Ơ tui không biết cái đầu hàng a, tui ghét việt cộng, tui đánh chết Việt Cộng, tui không đầu hàng. – Ykron lên tiếng. – Giờ phút này tao hết trách nhiệm, tụi bây cứ về nhà. – Vậy còn thiếu úy tính sao? Thằng Minh mếu máo. – Tao ở lại. ÐM bắn hết đạn tao tự xử tao. – Em theo ông thầy, – thằng Minh la lên. Thằng Hưng cười toe toét: – Ông thầy, cho em bắt tay cái, mình Nhảy Dù mà ông thầy. Thằng Cường rút trái lựu đạn ngắm nghía: – Thua Việt Cộng nhục lắm ông thầy, còn mày, mày tính sao Sơn?” Thạch Sơn lẩm bẩm: – Ai sao tui vậy – Rồi ai làm bậy mày cũng làm theo hả Sơn? Cường cười toe toét. Ðến nước này mà nó vẫn còn giỡn được. Thái nghiêm nghị: – Anh em hãy suy nghĩ cho kỹ, phần tôi thì xong rồi, nhưng anh em còn có gia đình để lo. Tôi không muốn vì tôi mà anh em suy nghĩ ẩu tả. Lần đầu tiên Thái gọi họ là anh em và xưng tôi. – Tôi chọn màu áo này để chiến đấu, tôi cũng sẽ chết với màu áo này. Tôi không thể đầu hàng, không chịu thua. – Lính Nhảy Dù đâu có chịu đầu hàng, ông thầy. Thằng Minh nói. Thái quay sang Thượng Sĩ Năm: – Còn phần anh, về với vợ con anh đi anh Năm, và bỏ qua cho những gì mà tôi đã làm anh buồn. – Thiếu úy, thật sự tôi khuyên thiếu úy và anh em suy nghĩ cho kỹ. Còn đánh đấm gì được khi lãnh tụ tối cao đã đầu hàng. Nhưng thật tình mà nói, tôi không thể bỏ anh em. Cả trung đội như huyết nhục của tôi, nay chỉ còn lại mấy mạng, làm sao tôi bỏ đi được. Tùy thiếu úy, nếu ông ở lại, tôi cũng ở lại. Cả đám nhao nhao sau lời nói của Nguyễn Năm, Thượng Sĩ Nhảy Dù bị thương tích, nhưng vẫn sống sót qua bao trận đánh, “Chơi tới luôn đi thiếu úy.” Thái đưa mắt nhìn, giọng anh đầy xúc động: – Cảm ơn anh em, Nhảy Dù Cố Gắng – Nhảy Dù Cố Gắng, cả nhóm hét lên. Thái vạch kế hoạch: – Sức mình có thể chơi dài dài được, mình nằm đây chờ nó. Hễ xe tăng nó vô thổi cho hai trái M72. Cứ dùng lựu đạn khử mấy thằng tùng thiết. Tập trung hỏa lực M60 với M16, nhưng đừng phí đạn dược. Làm được không tụi bây? – Nhảy Dù Cố Gắng mà ông thầy. Thái căng mắt nhìn về phía trước. Anh đã quyết định và tự nhiên anh cảm thấy thanh thản. Anh chưa từng tâm sự với ai về lý do anh đã chọn Nhảy Dù. Anh đã nhìn thấy những người lính Mũ Ðỏ chiến đấu như thế nào trong trận Tết Mậu Thân. Anh cũng đã nhìn thấy hình ảnh những người lính Dù miền Nam, binh chủng mà bọn Việt Cộng vẫn tuyên truyền thích ăn gan uống máu tù binh, đút từng miếng bánh cho VC bị bắt, đốt cho họ từng điếu thuốc. Tính chiến đấu dũng mãnh làm địch khiếp sợ nhưng lại rất nhân đạo khi đối phương đầu hàng đã làm Thái cảm phục và ngưỡng mộ. Anh chọn chiếc nón đội trên đầu, anh phải bảo về danh dự cho chiếc nón đó. Tám người lính chờ đợi. Họ không nhìn thấy quân thù tiến về hướng họ. Anh không thể chờ đợi mãi, anh cũng không thể buông súng. Anh chỉ còn một cách: – Anh em sẵn sáng chưa? – Sẵn sàng rồi thiếu úy. – Lời cuối tôi muốn nói với anh em: Tôi cảm ơn anh em đã theo tôi đến tận giờ phút này. Nước mình đã mất, tôi đã không làm tròn bổn phận với Tổ Quốc Dân Tộc. Tính khí tôi cũng không cho phép tôi đầu hàng chịu nhục với kẻ thù. Nay tôi chọn cho riêng tôi cái chết để đền nợ nước. Thái ngắt lời, giọng anh run run vì xúc động, “Tôi biết anh cũng có cùng ý nghĩ, nhưng giờ phút chót anh em vẫn có quyền quyết định,và bất cứ quyết định nào của anh em tôi cũng tôn trọng. Tôi không oán trách anh em gì hết.” – Em theo ông thầy. – Thằng Hưng mếu máo – Em cũng vậy, Thằng Cậy, thằng Cường tiếp lời. – Còn tao,tụi bây bỏ đi đâu? Tới phiên Tăng Thiên Minh, người Việt gốc Hoa, nhà có của ăn của để, nhưng khoái làm “Nhảy Dù” hơn lính kiểng. – Ơ, tui thương cái ông thầy, cái ông thầy đi đâu tui theo đó, Y Kron quả quyết. – Chết thì thôi, sợ gì. Thạch Sơn mân mê chiếc nanh: – Ðây là lần đầu tiên tôi thua mấy thằng Việt Cộng, thiếu úy. – Thượng Sĩ Nhảy Dù Nguyễn Năm uể oải. – Ðược rồi, vậy anh em quây quần lại đây, Thái nói, giọng anh tỉnh táo đến đáng sợ: – Tôi sẽ đếm một hai ba rồi tôi sẽ rút chốt hai trái lựu đạn. Ðó là cách cuối cùng anh em mình sẽ đi với nhau. Anh em đồng ý không? Bảy người lính gật gù, họ tự động làm thành một vòng tròn, người nầy sát với người kia. Ðến phút cuối họ vẫn còn muốn ôm được nhau trong vòng tay. Thái nhớ đến má, nhớ đến ba, nhớ đến đứa em trai. Hết rồi nhóc ơi, hết còn cơ hội đăng lính Nhảy Dù, hết còn cơ hội đội nón bê-rê đỏ. Chăm sóc ba má giùm anh nha nhóc. Ba ơi má ơi, con sẽ về thăm ba má trong mơ. Vân ơi, anh yêu em. Thượng Sĩ Nguyễn Năm chợt nhớ kỳ lương tháng này ông đã kịp gởi về cho bà xã. Vậy là mẹ con nó cũng ấm cúng. Ông không buồn, ông chỉ hận vì bao nhiêu năm đánh nhau đây là lần đầu tiên ông thua trận. Binh nhất Tăng Thiên Minh mỉm cười. Ít nhất cũng được chết trong quân phục Nhảy Dù. Minh nói thầm với má, “Má à, con dề dồi nè, má đừng khóc nữa.” Binh nhất Trần Ngọc Hưng cười toe toét, “Giỡn chơi sao em, anh đâu có đào ngũ, bỏ bạn bè với ông thầy của anh được. Không sao, anh sẽ về thăm em luôn, nhớ chăm sóc ba má giùm anh” Hạ Sĩ Nguyễn Cậy đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh để Vinh Danh Thiên Chúa, “Lạy Chúa con, con xin phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Xin Chúa gìn giữ thầy mẹ con. Ave Maria con yêu kính mẹ.” Binh nhì Nguyễn Văn Cường. chợt nhớ mình còn thiếu tiền hai ly cà phê đá chưa trả lần dưỡng quân kỳ trước. Bé Ba ạ, thông cảm cho lính đi em. Hạ Sĩ Nhất Ykron mắt bâng quơ nhìn xa xa, miệng thì thầm lời hát quê hương rừng núi. Trong đầu người lính Thượng chất phác chỉ hiện lên ý nghĩ, “Ơ tui ghet viet cong.” Trung Sĩ Thạch Sơn mân mê chiếc nanh heo rừng, “Tao sẽ đầu thai trở lại để chơi tiếp với tụi bay.” Tiếng đếm của Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, hai mươi bốn tuổi đời, ba tuổi lính hãnh diện đã chiến đấu tới cùng cho Tổ Quốc bằng Danh Dự và Trách Nhiệm nghe rõ mồn một “Một, hai, ba….” Và đến tiếng thứ ba, anh rút chốt lựu đạn…!
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 8, 2019 0:58:13 GMT 9
TRÌNH TỔNG THỐNG… TÔI QUYẾT ĐỊNH THEO TÌNH HÌNH Tác giả: Bằng Phong Phạm Vũ Bằng
Hôm nay là ngày phủ quốc kỳ cho Bác Sĩ Nguyễn Văn Thế, Y Sĩ Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Quân Y Thủy Quân Lục Chiến Nam Việt Nam trước năm 1975, Anh Thế mới qua đời ngày 2/21/11 vì biến chứng của một căn bệnh ngoài da rất thông thường mà anh bị lây từ bệnh nhân, tôi đến tiễn đưa và để chào vĩnh biệt vị chỉ huy khả kính rồi sửa soạn đi về… Ra đến ngoài sân, tôi gặp toán Hầu Kỳ Thủy Quân Lục Chiến quân phục rằn ri với chiếc mũ xanh thân yêu, trong toán tôi gặp chị Thiếu Tá Huy Lễ, chị nói với tôi: - Chờ tí nữa Thiếu Tướng Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến sắp đến. Tôi vô cùng ngạc nhiên vì Thiếu Tướng Tư Lệnh ở tận tiểu bang Texas, mới hai tuần trước ông đã về đây thăm bệnh anh Thế, hôm nay ông lại về để tiễn biệt, chợt nhớ đã 36 năm nay tôi chưa gặp ông nên vội đứng lẫn trong đám đông mặc thường phục để nhìn Tướng Tư Lệnh. Tôi không phải chờ lâu, chừng 10 phút sau thì ông đến, vẫn dáng người thư sinh, bước đi tự tin và cặp kính cố hữu, ông không thay đổi nhiều chỉ trừ mái tóc màu đen bây giờ đã nhuốm bụi thời gian! Tôi bồi hồi nhìn ông mà cả một dĩ vãng bi hùng tráng của Tháng Ba Gẫy Súng tại Quân Khu I hiện về, cái kỷ niệm này nhiều lần tôi đã cố quên đi để được sống bình yên, nhưng không làm sao đẩy được nó ra khỏi tâm trí…
QUÂN KHU I - THÁNG 3/1975 Quân Khu I là một vùng nằm tại cực Bắc của miền Nam Tự Do, Quân Khu này bao gồm 5 Tỉnh và Thị Xã Đà Nẵng, các Tỉnh của Quân Khu I là: Phía Bắc đèo Hải Vân có Tỉnh Quảng Trị và Huế, phía Nam đèo có Thị Xã Đà Nẵng, và các Tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Nối liền Huế – Đà Nẵng là Quốc lộ 1, song song với Biển Đông theo hướng Bắc Nam, đi qua các đèo Phước Tượng, Phú Gia, Hải Vân. Bảo vệ Quân Khu I là Quân Đoàn I gồm 4 Sư Đoàn: Sư Đoàn 1, Sư Đoàn 2, Sư Đoàn 3, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến là Sư Đoàn Tổng Trừ Bị tăng phái cho Quân Đoàn I, Sư Đoàn I Không Quân, Hải Quân Vùng I Duyên Hải. Ngoài ra còn có 4 Liên Đoàn Biệt Động Quân, các lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát, các Liên Đoàn, Tiểu Đoàn, Đại Đội Chiến Xa, Pháo Binh, Biệt Cách Nhẩy Dù, Thám Báo… Quân số của toàn thể Quân Đoàn I có thể trên 2 trăm ngàn chiến sĩ dưới sự chỉ huy tổng quát của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng – Tư Lệnh Quân Khu I. Vì địa thế đặc biệt của 2 Tỉnh Quảng Trị – Huế cách Đà Nẵng bởi đèo Phước Tượng, đèo Phú Gia, đèo Hải Vân với 1 con đường duy nhất để thông thương là Quốc lộ 1, nên Quân Đoàn I được chia ra: - Quân Đoàn I Tiền Phương, chỉ huy bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi, bảo vệ 2 Tỉnh phía bắc Hải Vân là Quảng Trị – Huế, Bộ Chỉ Huy toạ lạc tại Huế, lực lượng gồm có Sư Đoàn 1 Bộ Binh với 4 Trung Đoàn, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến với 4 Tiểu Đoàn tác chiến, 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh, một Đại Đội Viễn Thám, Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân, các Tiểu Đoàn Pháo Binh hạng nặng, Địa Phương Quân, Nghĩa quân… Đây là một lực lượng hùng mạnh và thiện chiến nhất của Quân Đoàn I. - Quân Đoàn I, chỉ huy bởi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I, Bộ Chỉ Huy toạ lạc tại Đà Nẵng, bảo vệ các Tỉnh phía Nam đèo Hải Vân, lực lượng gồm các đơn vị còn lại. - Quốc lộ 1 là con đường huyết mạch và duy nhất, nối liền Huế – Đà Nẵng, theo hướng Bắc Nam, phía Đông sát với Biển Đông, phía Tây là núi Trường Sơn, Quốc lộ 1 có một địa thế hiểm trở rất dễ phòng thủ và rất khó cho địch tấn công, và được bảo vệ bởi một lực lượng tinh nhuệ, phía Tây Bắc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, giữa Liên Đoàn 15 Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến (trong đó có tôi), Nam Lữ Đoàn 468 Thủy Quân Lục Chiến. Về tình hình chiến sự tại Quân Khu I trước ngày 25/3/1975 thì phải nói là yên tĩnh, đã không có một trận đánh nào lớn hơn cấp Trung Đoàn, tuy nhiên địch đã bám sát quân ta để chờ thời cơ. Đại hoạ đã xẩy ra vào ngày 25/3/75, khi Quân Đoàn I quyết định bỏ Huế – Quảng Trị để rút đạo quân tiền phương về bảo vệ Đà Nẵng, và Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Lâm Quang Thi quyết định (được sự chấp thuận của Tướng Ngô Quang Trưởng), rút quân bằng Hải Quân tại bãi biển Thuận An, thay vì lui binh theo trên Quốc lộ 1 theo đội hình vì ông nghĩ rằng có một Trung Đoàn Việt cộng cắt đứt Quốc lộ 1 tại đồi 500, Phú Lộc. Tôi viết đoạn này dựa theo hồi ký của những Thủy Quân Lục Chiến còn sống sót từ pháp trường cát Thuận An năm xưa, các Mũ Xanh Nguyễn Thành Trí, Phạm Cang, Phạm Văn Tiền, Cao Xuân Huy… trong ngày 25/3/75 trên bãi biển Thuận An, ngoài gần 4000 Thủy Quân Lục Chiến của Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến còn có lính Bộ Binh của Sư Đoàn I Bộ Binh, Thiết Giáp, Địa Phương Quân, Biệt Động Quân… Vì tôi là Thủy Quân Lục Chiến nên chỉ viết ra những gì liên quan đến Lữ Đoàn 147 thôi. Ngày 24/3/75 lúc 6 giờ chiều, các quân nhân Thủy Quân Lục Chiến của Lữ Đoàn 147 được lệnh bỏ lại vũ khí cộng đồng, đạn dược cùng lương thực, mỗi quân nhân trang bị nhẹ và gọn, đoạn chiến với quân Cộng sản Bắc Việt, đi bộ hoả tốc trên 30 km từ Quảng Trị đến điểm tập họp là bãi biển Thuận An, Huế, vì tàu Hải Quân không thể chở được các chiến cụ nặng, nên dọc đường họ thấy vô số đại bác và chiến xa của các đơn vị bộ binh bạn vứt đầy đường. Ngày 25/3/75 lúc 8 giờ sáng, tất cả quân nhân thuộc Lữ Đoàn 147 đã tập họp tại bãi biển Thuận An, ngoài khơi là một lực lượng Hải Quân hùng hậu với nhiều LST (tàu lớn chở đươc nhiều ngàn quân) và LCM (tàu đổ bộ có thể vào sát bờ đón quân ra tàu lớn), nhưng không có một chiếc tàu nào vào đón! Lữ Đoàn 147 được lệnh chờ và chờ… Đại hoạ biến thành đại thảm hoạ khi Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Lâm Quang Thi bỏ về Đà Nẵng ngày 25/3/75 (Cang Trường Trong Chiến Bại trang 204 - Hồ Văn Kỳ Thoại), như vậy, đạo quân Tiền phương bị bỏ rơi trên bãi biển Thuận An đã mất đi cấp chỉ huy tối cao, cấp Quân Đoàn có thẩm quyền điều động Không và Hải Quân. Buổi chiều cùng ngày quân truy kích Việt cộng đuổi kịp, chúng chiếm các đồi cao, bao vây Lữ Đoàn 147 trên bãi cát trống trải, tấn công Thủy Quân Lục Chiến bằng đủ loại súng cộng đồng tối tân. Sáng ngày 26/3/75 có 1 chiếc LCU duy nhất vào đón được Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147, thương binh, và chừng 200 Thủy Quân Lục Chiến. Quân Việt cộng càng ngày càng đến đông hơn để tấn công Thủy Quân Lục Chiến trên bãi cát trống. Thủy Quân Lục Chiến thì hết đạn, hết nước uống, hết lương thực, ngoài khơi các tàu Hải Quân vẫn vô cảm, không tiếp tế, không yểm trợ hoả lực, im lặng vô tuyến. Sư Đoàn 1 Không Quân lúc đó còn nguyên vẹn nhưng không có 1 chiếc phi cơ nào đến tiếp tế hay yểm trợ hoả lực! Tối ngày 26/3/75, Thủy Quân Lục Chiến đã chiến đấu đến viên đạn và giọt máu cuối cùng, không chấp nhận đầu hàng hay bị bắt nên đã có rất nhiều Thủy Quân Lục Chiến tự sát tập thể bằng lựu đạn M26 và chuyện phải đến đã đến: Rạng sáng ngày 27/3/75 thành phần còn lại của Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến bị bắt… Trên đây chỉ là số phận của Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến, số phận của các đơn vị khác thuộc Lực Lượng Tiền Phương Quân Đoàn I chắc cũng không khá hơn, chỉ biết rằng cho đến ngày 27/3/75 toàn thể lực lượng Tiền Phương này đã tan hàng, đây là nguyên nhân chính đưa đến sự tan rã Quân Đoàn I hai ngày sau. Có một điều làm tôi thắc mắc cho đến bây giờ là nếu các cấp lãnh đạo Quân Đoàn I muốn rút đạo quân Tiền Phương này về để bảo vệ Đà Nẵng thì phải rút theo đội hình trên Quốc lộ 1 như vậy thì mới có thể mang về Đà Nẵng những Thiết Đoàn Chiến Xa và những Tiểu Đoàn Pháo Binh, những vũ khí cộng đồng v.v… rất cần thiết cho sự phòng thủ. Rút bằng Hải Quân nếu may mắn thì chỉ mang được quân thôi, còn chiến cụ nặng thì phải bỏ lại. Khi tôi bàn luận về cái lẽ hơn thua giữa ta và địch trên đoạn Quốc lộ 1 Huế – Đà Nẳng với Đại Tá Nguyễn Năng Bảo Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến là Lữ Đoàn có trọng trách bảo vệ đoạn Quốc lộ 1 này thì được ông cho biết rằng địa thế của đoạn đường này hiểm trở, dễ thủ mà khó công. Phía Đông Quốc lộ 1 là biển nên địch chỉ có thể tấn công từ phía Tây Quốc lộ, mà phía Tây Quốc lộ thì đã có quân tinh nhuệ của ta đóng chốt sẵn. Hơn nữa đạo quân Tiền Phương của Quân Đoàn I rất thiện chiến và quen thuộc địa thế vùng này nên 1 Trung Đoàn địch sẽ không thể cản được. Nếu ta may mắn dụ được chúng dùng nhiều Sư Đoàn để tấn công, thì đây sẽ là chiến trường quyết định tại Quân Khu I mà địa thế do ta lựa chọn, có lợi cho ta phòng thủ, bất lợi cho địch tấn công. Hơn nữa địa điểm này xa với thành phố, ít dân, nên quân ta sẽ không bận tâm về dân nên có thể sử dụng hoả lực tối đa mà không sợ sát hại thường dân. Còn địch thì sẽ không thể dùng dân vô tội để ẩn nấp, lấy lương thực và tin tức tình báo. Ta đang làm chủ trên trời và dưới biển, với sự tiếp tế dồi dào và hải pháo của Hải Quân, với hoả lực khủng khiếp của Không Quân và những chốt của quân ta tại phía Tây Quốc lộ, địch sẽ bị phản công mọi mặt, và phần thắng sẽ về quân ta. Ông cũng khẳng định đoạn Quốc lộ 1 Huế – Đà Nẵng cho đến ngày 25/3/75 trước khi Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân được lệnh rút đi vẫn an toàn. Tôi cũng đã điện đàm với Thiếu Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến và Đại Úy Nguyễn Quang Đan, Chánh Văn Phòng Tướng Tư Lệnh, để hỏi về cái lệnh hành quân lui binh của Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến tại Thuận An ngày 25/3/75. - Theo Thiếu Tướng Tư Lệnh, ông biết sẽ có cuộc lui binh của đạo quân Tiền Phương trong đó có Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến, nhưng vì Lữ Đoàn 147 đã được tăng phái cho Quân Đoàn I Tiền Phương nên ông không có quyền điều động và hoàn toàn không biết đến kế hoạch rút quân cho đến khi Đại Úy Đan, buổi sáng ngày 25/3/75, trình lên ông bản sao của lệnh hành quân lui binh đã được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ký chấp thuận mà không tham khảo ý kiến nên ông hoàn toàn bị bất ngờ và khi đọc lệnh hành quân này, ông thấy có nhiều sơ hở nguy hiểm có thể đưa đến sự tan rã toàn diện của đạo quân tiền phương, ông đã gọi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng để yêu cầu hoãn lại hoặc thay đổi kế hoạch, nhưng không kịp vì cuộc lui binh đang tiến hành. - Theo hồi ký của Đại Tá Nguyễn Thành Trí, lúc đó là Tư Lệnh mặt trận Tây Bắc Huế thuộc đạo quân Tiền Phương Quân Đoàn I, thì lệnh hành quân lui binh này được soạn thảo bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi tại Thuận An vào trưa ngày 24/3/75 và được Đại Tá Lê Ngọc Hy, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I Tiền Phương mang về Đà Nẵng trình cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn I, được Tướng Trưởng ký chấp thuận lúc 5 giờ 30 chiều 24/3/75. (TT2 Thủy Quân Lục Chiến trang 537-538) - Theo Đại Úy Nguyễn Quang Đan thì vào một buổi sáng tháng Ba, anh không nhớ ngày, (theo tôi thì có lẽ là sáng 25/3/75 vì Tướng Trưởng ký chấp thuận lúc 5 giờ 30 chiều, 24/3/75.) anh nhận được bản sao của lệnh hành quân triệt thoái Quân Đoàn I Tiền Phương đã được Tướng Trưởng ký, anh vội vã đưa cho Tướng Lân, đọc xong ông than: - ĐM thế này thì chết lính tao rồi! Sau đó ông ra lệnh cho anh bay ra Thuận An đưa cho Đại Tá Nguyễn Thế Lương Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 một lá thư kèm theo lời dặn “Tìm ra Quốc lộ 1 mà đi” rồi Tướng Lân đi thẳng lên Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn. Tiếc thay Đại Tá Lương đã không nghe lời. Tôi còn được biết trong khi Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến bị vây hãm tại bãi biển Thuận An, vì chỉ là Tư Lệnh của một Sư Đoàn tăng phái cho Quân Đoàn I, Tướng Lân không có quyền điều động Hải-Lục-Không quân của Quân Đoàn I để tiếp cứu Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến, quyền này nằm trong tay của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I, nhưng hai vị tướng này đã không làm gì để cứu đạo quân Tiền Phương bị bỏ rơi này. QUỐC LỘ 1 HUẾ – ĐÀ NẴNG, THÁNG 3/1975 Ngày 18/3/75, Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến của Đại Tá Nguyễn Năng Bảo di chuyển từ Quảng Trị tới đèo Phước Tượng, nằm giữa Huế – Đà Nẵng với nhiệm vụ rõ ràng: - Bảo vệ lưu thông trên Quốc lộ 1. - Chờ đợi và bảo vệ đạo quân Tiền Phương Quân Đoàn I rút từ Huế – Quảng Trị về Đà Nẵng. Tôi đã có mặt tại Lữ Đoàn này với nhiệm vụ Y Sĩ điều trị của Đại Đội Quân Y 258. Từ ngày 18/3/75 đến ngày 23/3/75 dân tị nạn Huế, Quảng Trị đi đầy đường chạy về Đà Nẵng, Cộng sản Bắc Việt muốn tái diễn một Đại Lộ Kinh Hoàng năm 1972, nhưng thất bại vì phía Tây Quốc lộ có quân ta bố trí, chúng không thể xông tới gần Quốc lộ để dùng súng bắn thẳng tàn sát dân, chúng chỉ dùng đại bác đặt trong núi Trường Sơn bắn vào dân tị nạn, nhưng đa số đạn đại bác đã nổ trên vách núi hai bên Quốc lộ. Từ ngày 23, 24/3/75, có thể tình báo của chúng biết rằng Quân Đoàn I Tiền Phương sẽ rút về Đà Nẵng và có thể chúng không có đủ quân để ngăn chận, chúng chơi trò “rung cây nhát khỉ, khua trống gõ mõ” bằng cách mang những đơn vị nhỏ của chúng liều mạng đánh vào tuyến phòng thủ của các đơn vị ta, chúng bị đánh bại nhanh chóng, bỏ trốn vào trong núi phía Tây, tuy nhiên đài phát thanh của chúng lại rêu rao là đã “diệt gọn” Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến và Liên Đoàn 15 Biệt Động Quân, và đang kiểm soát đèo Phước Tượng. Đau đớn cho quân ta, đòn tâm lý tuyên truyền này đã thành công! Quân ta bỏ khế hoạch lui binh trên Quốc lộ 1 để rút lui bằng Hải Quân theo ngả Thuận An, và đại thảm hoạ đã xẩy ra như nói ở trên… Ôi! Mấy ngàn năm trước, Tôn Tử đã nói: “Binh là cái đạo dối trá” mà đau đớn thay, địch thì quá gian dối còn ta lại quá thật thà! Sáng ngày 25/3/75, Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến được lệnh của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Ngô Quang Trưởng bỏ đèo Phước Tượng rút về Đà Nẵng, Liên Đoàn 15 Biệt Động Quân (đóng bên cạnh Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến) chia làm hai, một phần đi hướng Bắc về Huế an toàn, còn một phần đi theo Thủy Quân Lục Chiến về phía Nam, đi qua Phú Lộc chúng tôi không thấy một tên Việt cộng nào mà chỉ thấy một cánh quân của Lữ Đoàn 468 Thủy Quân Lục Chiến chỉ huy bởi Thiếu Tá Trần Quang Duật, bạn tôi! Sau khi qua Phú Lộc, chúng tôi được xe Quân Vận chở về Đà Nẵng an toàn cùng ngày… Điều tôi vừa kể chứng tỏ rằng Quốc lộ 1 Huế – Đà Nẵng vẫn an toàn trong ngày 25/3/75. ĐÀ NẴNG, THÁNG 3-1975 Chúng tôi về đến Đà Nẵng khoảng 8 giờ tối 25/3/75, Đà Nẵng là nơi phồn hoa đô hội mà trong những ngày tháng hành quân dài tại rừng núi của Tỉnh Quảng Trị, tôi chỉ mơ ước có được một lần trở về, dù cho chỉ vài giờ để thưởng thức một ly café thơm ngọt và ngắm các cô hàng café xinh đẹp, thành phố trong mộng của tôi thì nay đang chết! Nhà cháy, xe cháy, khói lửa bao trùm thành phố. Dưới lòng đường, trên hè phố la liệt người tỵ nạn không một mảnh chiếu để nằm! Tôi đã về đây trong cảnh hoang tàn đổ nát của thành phố thương yêu, hương vị thơm ngọt của café thì chẳng được nếm mà chỉ có vị cay đắng của hai dòng nước mắt đau thương! Sáng ngày 26/3/75, tôi được lệnh chỉ huy một toán Quân Y để yểm trợ cho một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đánh chiếm lại đèo Phước Tượng, đến trưa thì lệnh này bị hủy bỏ, tôi nhận được lệnh khác, mang y tá và xe cứu thương ra bến Thương Cảng Đà Nẵng để đón quân của Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến. Cả một Lữ Đoàn gần 4000 quân mà bây giờ chỉ về được trên một chiếc LCU duy nhất, gồm Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn, khoảng 100 thương binh trong đó có Đại Tá Nguyễn Thế Lương, và khoảng 200 binh sĩ, nhìn thấy họ tôi mới thấm thía câu nói của người xưa “chán chường như lũ tàn binh lìa thành”. Trong cuốn hồi ký “25 Năm Thế Kỷ” Trung Tướng Lâm Quang Thi viết 90/100 Thủy Quân Lục Chiến của Lữ Đoàn 147 đã về được Đà Nẵng, điều này sai với sự thật. Ngày 27/3/75, tôi lên Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn gặp Thiếu Tá Trần Vệ, Trung Tâm Trưởng Hành Quân Sư Đoàn thì được biết nhiều tin xấu: Toàn bộ Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến đã bị địch bắt và đạo quân Tiền Phương đã hoàn toàn tan rã. Quảng Ngãi đã thất thủ và cuộc lui binh của Sư Đoàn 2 Bộ Binh xẩy ra trong hỗn loạn (mặc dù không có trận đánh lớn nào) chỉ có một nửa Sư Đoàn 2 Bộ Binh về được Đà Nẵng. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I tại Đà Nẵng bị bỏ trống, Thiếu Tá Trần Vệ gọi Quân Đoàn I không ai trả lời, anh phải đích thân lên Quân Đoàn thì không thấy một bóng người. Như vậy tính tới ngày 27/3/75, lãnh thổ Quân KhuI ch ỉ còn có Thị Xã Đà Nẵng. Ta đã mất gần hết Quân Khu I mà không có một trận đánh lớn cấp Trung Đoàn nào! Tôi đau đớn, buồn rầu, lo lắng trở vê Tiểu Đoàn Quân Y. Sáng ngày 28/3/75, tôi được gọi trình diện Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Quân Y Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, anh Thế mặt mũi bơ phờ lo lắng. Trên bàn anh là tập hồ sơ quân bạ của tôi, anh than phiền là Bệnh Viện Quân Y Dã chiến của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến tại phi trường Non Nước đã quá tải. Số thương binh đã gần gấp đôi sức chứa của bệnh viện mà Quân Đoàn I không cho phương tiện để tản thương về Bệnh Viện Lê Hữu Sanh, Thủ Đức, nếu có đụng trận thì sẽ không có chỗ cho thương binh. Anh hỏi về chuyên khoa của tôi, khi biết rằng tôi đã theo thầy Nguyễn Phước Đại hai năm để học vể giải phẫu xương với tư cách nội trú ủy nhiệm tại Bệnh Viện Đô Thành thì anh rất vui vẻ rủ tôi đi khám bệnh cho Đại Tá Nguyễn Thế Lương, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến, Đại Tá Lương bị thương tại Thuận An vì miểng hoả tiễn tầm nhiệt AT3 tại đầu gối phải, vết thương sạch sẽ và đã được khâu cẩn thận, có điều miểng đạn thì chưa được lấy ra được vì nó nằm cạnh giây thần kinh và động mạch quan trọng, khi anh Thế hỏi ý kiến thì tôi đề nghị nên tăng lượng trụ sinh tối đa để ngừa nhiễm trùng xương và tôi có thể lấy miểng đạn ra nếu có đủ dụng cụ, anh Thế vui vẻ và ra lệnh: - Từ nay Đại Tá Lương là bệnh nhân của toi (anh Thế tốt nghiệp trường trung học pháp Jean Jacques Rousseau nên có thói quen gọi chúng tôi là toi, xưng moi), còn số bệnh nhân hiện tại của toi, moi sẽ bàn giao cho bác sĩ khác. Tôi nhận lệnh của anh Thế rồi quay qua Đại Tá Lương an ủi: - Đại Tá yên tâm, tôi sẽ lấy miểng đạn ra an toàn, nếu cần gì xin Đại Tá cho tôi biết. Tôi đề nghị với anh Thế: - Xin Trung Tá liên lạc với Tổng Y Viện Duy Tân, mượn phòng mổ để tôi mổ càng sớm càng tốt, vì để lâu không ổn, có thể bị nhiễm trùng xương thì lại rắc rối. Anh Thế lắc đầu buồn bã: - Moi mới liên lạc khi sáng, họ cũng quá tải như mình, họ đề nghị Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh. Chiều ngày 28/3/75, lúc khoảng 6 giờ 30 chiều, Đại Úy Nguyễn Quang Đan lái xe đến Tiểu Đoàn Quân Y đón tôi ra sân trực thăng của Sư Đoàn, tại đây tôi thấy anh Thế đang đứng với Thiếu Tướng Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến Bùi Thế Lân, Đại Tá Lương thì ngồi dưới đất, tôi chưa kịp chào thì anh Thế đã tiến tới ra lệnh: - Toi mang Đại Tá Lương quá giang tàu Hải quân đến Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh để mổ, còn moi thì phải đi họp để xin Hải quân cung cấp một chuyến tàu di tản thương binh của mình về Saigon hay Vũng Tàu. Tôi không biết nói gì, chỉ đi theo đoàn người lên trực thăng, tại hai bên cửa trực thăng tôi thấy mấy người nhái của Thủy Quân Lục Chiến cùng đi. Trực thăng bay chừng 15 phút thì đáp xuống Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, tại đây có sẵn 2 trực thăng đang đậu, khi máy trực thăng vừa tắt, tôi nghe được tiếng ôn ào của nhiều ngàn người dân tị nạn đang chờ tàu trên khoảng đất trống kế bên bãi đáp trực thăng, một sĩ quan Hải Quân dáng điệu nhu mì lễ phép tiến ra chào Thiếu Tướng Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến. Anh nói Trung Tướng Trưởng mới đến, tay chỉ chiếc trực thăng bên cạnh, còn Phó Đề Đốc Thoại thì đang bận họp. Sau đó anh hướng dẫn chúng tôi vào một bunker bên cạnh sân cờ, cái bunker này được xây bằng nhiều lớp bao cát kiên cố, bên trong có một cái bàn dài và quanh bàn là một hàng ghế còn bỏ trống, tại góc phòng có mấy chiếc điện thoại, đây là TOC Hành Quân của Hải Quân, có lẽ chúng tôi đến sớm nên chưa có ai mà chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đang đứng chờ. Hai vị Tướng trao đổi chuyện với nhau một lúc rồi cả hai đi về phía mấy cái điện thoại, trong lúc hai ông tướng loay hoay bên máy điện thoại, tôi thấy Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại cùng mấy sĩ quan Hải Quân bước vào phòng, tướng Thoại bước đến bên Tướng Trưởng… Tướng Trưởng bốc máy điện thoại thứ nhất gọi mấy lần mà không được, ông dùng máy thứ hai thì có người trả lời, ông nói chuyện với người trong máy một lúc lâu, nét mặt khẩn trương, tôi cũng đứng trong phòng nhưng vì phép lịch sự nên không nghe và cũng không muốn tìm hiểu người bên kia đầu giây là ai, cho đến khi Đại Tá Lương, ngồi dưới đất, gần chỗ Tướng Trưởng đang nói điện thoại, lên cơn đau và cầu cứu, khi tôi tới đưa thuốc thì cũng là lúc được nghe tướng Trưởng nói từng câu rõ ràng với người bên kia máy: - Trình Tổng Thống, tôi quyết định theo tình hình. Nói xong, Tướng Trưởng cúp máy, ông đi qua lại trong phòng, đăm chiêu suy nghĩ một lúc rồi ghé tai Tướng Lân nói thầm mấy câu làm ông tướng này cũng đăm chiêu suy nghĩ buồn bã không kém*. Một lát sau Tướng Lân quay qua nhắc Tướng Trưởng là phải mời Tướng Hinh, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh đến họp. (*Trong bữa ăn tối ngày 25/2/2011 do Y Sĩ Thiếu Tá Tường, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn Quân Y Thủy Quân Lục Chiến khoản đãi tại Little Saigon, tôi gặp lại Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và may mắn đã được ông giải đáp những thắc mắc của tôi từ 36 năm nay trong câu trả lời của Tướng Trưởng với Tổng Thống. Thiếu Tướng Lân cho tôi biết người mà Tướng Trưởng nói chuyện điện thoại với tối hôm 28/3/75 là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tướng Lân xác nhận câu nói “Trình Tổng Thống, tôi quyết định theo tình hình” và Tướng Trưởng đã nói thầm vào tai ông: “Mình rút đêm nay”. Thiếu Tướng Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến còn cho biết: “Ông ấy bối rối đến nỗi quên cả mời Tướng Hinh, Sư Đoàn 3 Bộ Binh, tôi phải nhắc ông ta, khi Tướng Hinh đến để nhận lệnh bỏ Đà Nẵng trong đêm thì ông xin Tướng Trưởng cho 4 ngày đễ sửa soạn nhưng bị từ chối”. Tướng Lân nói tiếp: “Sự thực thì đây không phải là một phiên họp, các Tướng được gọi đến để nhận lệnh bỏ Đà Nẵng chứ không có bàn cãi gì hết”. Tôi nghĩ Thiếu Tướng Lân rất có lý vì dọn nhà thì cũng phải cần mấy ngày, còn dọn cả một Quân Đoàn I “ngay đêm nay” thì còn có gì để bàn cãi, chỉ có nước “bỏ của chạy lấy người” mà “tự thoát”, vậy thì “buổi họp” nầy không cần thiết, thay vào đó Tướng Trưởng chỉ cần dùng điện thoại ra lệnh, như vậy thì ông đã tránh cho những tướng dưới quyền những nguy hiểm mà tôi sẽ kể sau. Một điều tôi không thể hiểu được là tại sao Tướng Trưởng lại phải vội vã như vậy để gây ra thảm kịch ngày 29/3/75 tại Đà Nẵng? Đại quân của địch thì chưa thấy, trong thành phố Đà Nẵng chỉ có đặc công và tiền sát Pháo Binh địch trà trộn trong dân tị nạn, chúng chỉ có khả năng pháo kích quấy rối). Tôi chợt nhớ nhiệm vụ của tôi là tìm tàu hải quân mang Đại Tá Lương đến Cam Ranh để mổ vết thương cho ông, nên bỏ phòng họp để đi ra cầu tàu để tìm tàu, tại đây tôi chỉ thấy cảnh “bờ trơ cõi vắng nước còn tăm không” trong ánh trăng phản chiếu sóng biển rì rầm, tàu thì chẳng có mà người cũng không! Tôi đi ngược lại căn cứ hải quân vắng tanh chẳng thấy một quân nhân Hải Quân nào, căn cứ này có lẽ đã bị bỏ trống? Trở lại bãi trực thăng, nhìn qua hàng rào, tôi thấy nhiều ngàn dân tị nạn chen chúc nhau trên bãi đất trống, chỉ cách hầm TOC Hải Quân, nơi các tướng sẽ họp khoảng 100m, tôi rùng mình tự hỏi trong số người này có bao nhiêu đặc công và tiền sát Pháo Binh địch trà trộn? Theo ánh đèn vàng, tôi tìm đến bệnh xá Hải quân thì gặp một ông Trung Sĩ y tá, thấy tôi là bác sĩ ông vội đứng nghiêm chào kính, tôi được biết người chỉ huy bệnh xá là bác sĩ Phước, bạn tôi, nhưng bác sĩ Phước mới ra ngoài nên tôi phải chờ, khi ông Trung Sĩ biết tôi đang tìm tàu để về Cam Ranh thì ông nhìn trước nhìn sau rồi ghé tai tôi nói: - Lúc 5 giờ chiều cả căn cứ đã bỏ đi gần hết, chỉ còn một số người Phó Đề Đốc chỉ định ở lại, hiện giờ không có chiếc tàu nào, chiếc cuối cùng đã chở ông Lãnh Sự Mỹ đi rồi. Tôi nhắc ông Trung Sĩ phải sẵn sàng súng ống vì mấy ông tướng đến họp có thể lôi kéo bọn đặc công Việt cộng tấn công căn cứ. Ngồi chờ một lúc, vì nghe thấy nhiều tiếng trực thăng lên xuống nên vội đi trở lại hầm TOC, tại đây tôi thấy Đại Úy Đan, bình thường không bao giờ đeo súng, hôm nay anh đeo một khẩu tiểu liên Uzi bên hông, dáng điệu nghiêm trọng, chợt nghĩ đến bữa tiệc “Hồng Môn” thời Hán-Sở tranh hùng (Trên 4000 năm trước, thời Hán-Sở tranh hùng bên Tàu, Sở Bá Vương đã mở bữa tiệc tên là Hồng Môn mời Hán Đế Vương đến dự để giết đi, việc không thành vì Hán Đế Vương đã đề phòng trước.) Tôi vội kiểm soát lại khẩu Colt 45 bên hông, nạp một viên đạn lên nòng rồi bước vào phòng họp, trong phòng lúc nay đã đầy người, Tướng Trưởng ngồi đầu bàn, bên phải là Tướng Thoại, phía bên trái là Tướng Lân, kế bên là Tướng Hinh, sau chót là Trung Tướng Lâm Quang Thi, bên hàng ghế đối diện, cạnh Tướng Thoại là mấy vị sĩ quan Hải Quân và Bộ Binh, vì họ ngồi xoay lưng về phía tôi nên không nhận diện được. Vô tình tôi lại đứng đối diện với Tướng Thi, ông to lớn, tôi nhận ra ông vì bảng tên trên ngực áo bên phải, bên trái phía trên trái tim là một huy hiệu nắm đấm với mấy chấm phía trên, đứng sau ông là một sĩ quan cận vệ cũng to con không kém và cũng đeo huy hiệu nắm đấm bên trái, như vậy thì Tướng Thi là một cao thủ võ lâm khiến tôi càng chăm chú nhìn trong đầu tự hỏi ông là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I, tại sao không ngồi cạnh Tướng Trưởng để chủ toạ cuộc họp mà lại ngồi tận cuối bàn với dáng điệu bồn chồn bối rối? Còn Tướng Hinh thì đang “mặc cả” với Tướng Trưởng từng giờ để cố cứu Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Thấy mọi việc tốt đẹp, tôi bước khỏi phòng họp lúc 8 giờ 40 tối thì được biết anh em người nhái Thủy Quân Lục Chiến đã mang Đại Tá Lương qua cái bunker bên cạnh, tôi qua thăm, cho ông biết không có tàu về Cam Ranh. Sau đó tôi ra bãi trực thăng ngồi chờ. Chưa hút hết nửa điếu thuốc, bỗng thấy một tia lửa bùng lên giữa đám dân tị nạn trên mảnh đất trống cạnh bãi trực thăng, trong ánh lửa màu cam có những thân người và mảnh cơ thể tung lên, tiếp theo là một tiếng nổ đinh tai. Theo phản ứng của một chiến binh, tôi nằm sát mặt đất, địch bắt đầu pháo kích lúc 9 giờ tối, nhịp độ 3-4 trái một phút, vì đã quen với chiến trận tôi nhận ra tiếng nổ quen thuộc của đạn đại bác 130 ly, nhưng không nghe thấy tiếng depart, đa số đạn nổ trên khoảng đất trống chỗ dân tị nạn. Giữa những tiếng nổ, tôi nghe tiến lẻng kẻng của mảnh đạn va chạm vào mái tole, và tiếng kêu khóc của dân tị nạn, hình như tiền sát viên Việt cộng ở đâu đây, đạn đại bác từ từ kéo vào bên trong căn cứ, và chính xác, một trái đạn nổ ngay bãi trực thăng, làm hai trực thăng của Tướng Lân và Tướng Trưởng xẹt lửa, khoảng 10 giờ 30 tối, cường độ pháo kích tự nhiên giảm xuống, đạn pháo rơi tản mác ngoài căn cứ, theo người nhái Thủy Quân Lục Chiến Nguyễn Bác Ái thì địch đặt pháo tại đèo Hải Vân vì anh thấy những tia lửa nháng ra từ phía đó và lý do địch giảm pháo kích vì ta bắn chết một và bắt sống hai tiền sát Việt cộng. Khoảng 10 giờ 40 tối, Trung Tướng Lâm Quang Thi cùng một sĩ quan Hải Quân đi vội vã ra bãi trực thăng, lên một trực thăng cuối bãi, chiếc trực thăng bay lên rất nhanh ra khỏi căn cứ, sau này được biết ông bay ra Soái Hạm HQ 5, như vậy ông là vị tướng thứ hai rời Đà Nẵng bằng máy bay, vị đầu tiên là Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I xin đi về Sàigòn ngày 26/3/75 rồi không trở lại (Cang Trường Trong Chiến Bại, trang 273-274, Hồ Văn Kỳ Thoại). Các Tướng khác đều phải lội ra chiến hạm sáng ngày 29/3/75 ngoại trừ Tướng Điềm của Sư Đoàn I Bộ Binh bị tử nạn. Bãi đất trống bên cạnh bây giờ vắng tanh, không thấy một người tị nạn nào, nhìn vào căn cứ Hải Quân có khoảng 20 người binh sĩ và sĩ quan Hải Quân đang tụ tập bàn tán quanh Tướng Thoại, như vậy thì cả căn cứ chỉ còn ngần ấy người, bên Thủy Quân Lục Chiến có khoảng 10 người, tôi nhìn về phía cột cờ thì thấy Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, dáng đứng xiêu đổ, lặng lẽ hút thuốc lá, trông ông như người vừa thua một canh bạc cháy túi! Thấy ông không mũ sắt, không đeo súng như mọi lần trong khi pháo của địch đang rải rác rơi, tôi nói một người sĩ quan Bộ binh đứng bên cạnh trở lại phòng họp lấy mũ sắt cho ông. Bấy giờ, tất cả chúng tôi đều biết địch chỉ tạm thời giảm pháo kích, chắc chắn chúng sẽ pháo kích trở lại và có thể tấn công căn cứ bằng đặc công, chúng đã biết trong căn cứ có nhiều Tướng lãnh vì có nhiều trực thăng lên xuống và rất có thể tiền sát viên của chúng đã báo cáo (một tên tiền sát bị phát giác cùng với đầy đủ máy truyền tin trong căn cứ chỉ cách phòng họp chưa đến 50m). Nơi an toàn nhất bây giờ có lẽ là căn cứ Non Nước của Thủy Quân Lục Chiến và chúng tôi sửa soạn đi về, hai anh phi công leo lên trực thăng của Tướng Lân, loay hoay một lúc rồi chạy xuống báo cáo, Đại Úy Đan leo lên trực thăng đề máy mấy lần không được, thì ra trực thăng đã bị hư vì miểng đạn pháo, trực thăng của Tướng Trưởng cũng cùng số phận. Chúng tôi còn nhận thêm hai tin xấu nữa, đó là chiếc xe duy nhất của Thiếu Tướng Lân đã bị trúng đạn pháo không chạy được và chiếc tàu dành cho Tướng Thoại chở tên Lãnh Sự Mỹ đi lúc chiều rồi không trở lại, ngoài cầu tàu thì không có một chiếc tàu nào, vậy là chúng tôi đã hết đường về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn tại căn cứ Non Nước. Đang tuyệt vọng thì khoảng 11 giờ đêm một chiếc trực thăng không biết từ đâu xà xuống, chúng tôi đã tưởng có cứu tinh thì thấy Tướng Trưởng và người tùy viên leo lên, trực thăng vội vã cất cánh, thế là chưa kịp mừng thì…! Bây giờ nếu gọi Thủy Quân Lục Chiến từ căn cứ Non Nước đến đón là điều không tưởng, với tình trạng kẹt đường vì người tị nạn thì Thủy Quân Lục Chiến chỉ có cách chạy bộ tới đây như vậy phải mất mấy giờ thì đã quá trễ vì nơi đây đang là một trái bom nổ chậm… Tướng Thoại đi qua lại kiểm soát các phòng trong căn cứ, sau đó ông vào phòng truyền tin, một lúc sau bước ra mặt buồn hiu, ông cùng với các sĩ quan Hải Quân đứng bàn bạc một lúc rồi họ quyết định bỏ căn cứ, Thủy Quân Lục Chiến chúng tôi không còn lựa chọn nào khác, phải đi theo họ mặc dù không biết đi về đâu! Chúng tôi đi qua bãi đất trống mà dân tị nạn tụ tập trước khi bị pháo, trên mặt đất đầy những vũng máu và các mảnh cơ thể nạn nhân! Để tránh lộ hình tích trên bãi đất trống trải, làm mồi ngon cho hoả lực địch, chúng tôi vòng xuống men theo phía bờ biển, dưới ánh trăng sao, chúng tôi phải vượt qua những tảng đá trơn ướt lớn như những chiếc xe Jeep hoặc GMC, chỉ tội mấy anh người nhái Thủy Quân Lục Chiến phải thay phiên nhau cõng Đại Tá Lương. Vừa ra khỏi căn cứ Hải Quân khoảng một km, thì địch bắt đầu pháo kích đợt hai, lần này cường độ gấp 10 trước, tiếng nổ liên tục không phân biệt được, căn cứ Hải Quân bị phủ lửa, có lẽ không một sinh vật nào có thể sống được trong đó! Không biết ông bạn “vàng” Phước của tôi có còn trong căn cứ này không? Vì Hải Quân không ai mang theo máy PRC25, nên Tướng Thoại phải mượn máy của Thủy Quân Lục Chiến liên tục gọi tàu vào đón, nhưng không có ai trả lời! Tới Spanish Beach, chúng tôi đi vòng lên núi Sơn Trà, nơi đây không có đường, phải vạch bụi cây mà đi, tới lưng chừng núi có một tảng đá lớn bằng một toà nhà cản lối, chúng tôi ngồi chờ để anh em người nhái Thủy Quân Lục Chiến tìm chỗ thấp có thể qua được. Phó Đề Đốc Thoại ngồi xổm đưới đất liên tục gọi máy PRC25 cầu cứu mà không có hồi âm, tôi chợt nghĩ mình đang là nhân chứng của một sự kiện có một không hai trong quân sử: “Một ông Phó Đề Đốc Hải Quân có dưới tay nhiều trăm chiến thuyền lớn nhỏ quanh đây, vậy mà ông đã phải khản cổ cầu cứu suốt 3 tiếng không ai trả lời! Một ông Tướng Thủy Quân Lục Chiến có trong tay cả chục ngàn quân thiện chiến nay bị lâm vào bước đường cùng, ngay trong thành phố Đà Nẵng, với khoảng mười thuộc viên chỉ vì một buổi họp không cần thiết và sai chỗ”. Theo tin tình báo thì Việt cộng sẽ pháo kích căn cứ Hải Quân lúc 4 giờ sáng 29/3/75 như vậy thì địch đã có đầy đủ yếu tố để pháo kích căn cứ tối hôm 28/3/75 và cuộc họp cao cấp của các Tướng Lãnh Quân Đoàn I đã diễn ra dưới họng đại bác 130 ly của địch, chúng pháo sớm hơn vì thấy các Tướng lãnh đến họp. Khi mới đến căn cứ lúc 7 giờ tối 28/3/75, thấy nhiều ngàn dân tị nạn đang tụ tập trong căn cứ chỉ cách nơi họp khoảng 100m, với cái nhìn của một người lính, tôi đã nghĩ nơi đây không an toàn vì đặc công và tiền sát Việt cộng đã trà trộn, Trung Tướng Tư Lệnh Quân Khu I, các phụ tá hay sĩ quan Bộ Tham Mưu của ông chắc chắn phải biết điều sơ đẳng này, có lẽ vì sự vắng mặt của thuộc hạ, thiếu báo cáo tình hình trong căn cứ, khiến ông Tư Lệnh Quân Đoàn vẫn tiếp tục buổi họp tại đây thay vì tại căn cứ Non Nước, nơi đang được Thủy Quân Lục Chiến bảo vệ cẩn mật. Nhìn xuống căn cứ Hải Quân, lửa cháy rực một góc trời, tiếng đại bác 130 ly liên tục nổ như tiếng sấm rền không dứt, bọn Việt cộng đang làm một việc vô ích vì căn cứ đã bị bỏ trống, nếu lúc 9 giờ tối 28/3/75 thay vì pháo kích, chúng chỉ cần dùng một toán đặc công tấn công vào căn cứ thì không biết chuyện gì sẽ xẩy ra cho các Tướng lãnh của Quân Đoàn I, và bây giờ nếu đặc công Việt cộng đi lên núi thì chúng tôi sẽ lâm nguy. Đang mải mê suy nghĩ, bỗng nghe giọng nói oang oang quen thuộc của Bác Sĩ Phước, theo tiếng nói tôi tìm ra anh, trong quân phục hải quân màu xanh, đầu đội nón sắt, vai đeo M16 cùng với một dây đạn, tôi đến bên nói đùa: - Phước, mày om sòm quá, hồi nẫy có mấy thằng đặc công Việt cộng hỏi tao mày đi đâu vắng nhà, tao không nói, nên chúng nó ôm AK47 chạy lên núi tìm mày đó. Phước quay lại nhìn tôi: - Trời đất, hoá ra là chú mày, hồi nẫy y tá nói có một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến súng đạn đầy người đến tìm làm tao đang lo… - Thôi, mày chỉ đường cho chúng tao đi. - Tao đâu có biết, tao mới từ Vùng 4 đổi qua được mấy tuần, hồi chiều họ bỏ đi nhưng tao ở lại vì ông tướng cần bác sĩ. Mấy anh người nhái Thủy Quân Lục Chiến tìm được một đoạn núi đá thấp chừng 2m, chúng tôi khó khăn lần lượt vượt qua đến một đoạn đường đi dễ hơn, theo tiếng sóng, chúng tôi đến một bãi biển hoang vắng toàn đá phía trên Spanist Beach, ngoài khơi thấy tàu Hải Quân đang chạy… Tướng Thoại đã quá mệt mỏi nên nhờ Thủy Quân Lục Chiến Nguyễn Thế Thụy, âm thoại viên của Tướng Lân, tiếp tục gọi dùm. Khi theo Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến đến căn cứ Hải Quân họp, Thụy, đã thuộc gần hết những tần số giải toả đặc lệnh truyền tin, trong đó có của Hải Quân, nên khi Tướng Thoại nhờ liên lạc thì anh thành thuộc “bẻ cổ” máy qua tần số giải toả rồi cất tiếng gọi. Như một phép lạ, trong máy có tiếng trả lời, Thụy vội trao ống liên hợp cho Tướng Thoại để nói chuyện với Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy*… (* gần đây tôi có nhận được điện thư của Thiếu Tá Hy, vị cứu tinh đã tìm ra chúng tôi, thì được biết anh thuộc một đơn vị Hải Quân di tản từ Thuận An về Đà Nẵng, khi địch pháo kích đợt hai, anh ra lệnh cho đơn vị rời vịnh Đà Nẵng, di chuyển đến Spanish Beach để tránh pháo, lúc đó Thiếu Tá Hy đang ở trên ghe Yabuta của Duyên Doàn 12, khoảng 3 giờ sáng ngày 29/3/75. Trong lúc địch pháo kích đợt 2, anh gọi máy đến Trung Tâm Hành Quân Vùng I Duyên Hải không có ai trả lời, vô tình anh quay qua tần số giải toả nên nghe đươc lời kêu cứu, anh ra lệnh cho ghe đi vào). Chuyến đầu tiên chính anh Hy đứng ở mũi ghe kéo Tướng Thoại, Tướng Lân lên, cùng đi trong chuyến này có Đại Tá Lương, và một số sĩ quan, ghe Yabuta là một loại ghe nhỏ không thể đón hết mọi người nên tôi và Đại Úy Đan ở lại vì chúng tôi muốn chờ anh em Thủy Quân Lục Chiến lên thuyền hết rồi mới đi. Tuy ân hận 5 phút vì không đi theo bệnh nhân của mình nhưng tôi cũng yên tâm vì đã đưa cho Đại Tá Lương những thuốc ông cần. Lúc đó tôi và Đại Úy Đan đứng trên một mỏm đá riêng biệt với nhóm người còn lại khoảng 20 người gồm Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến, Thiếu Tá Hy trở lại thêm 3 lần nữa đón hết đám người này, chuyến cuối cùng anh phải mượn một chiếc ghe đánh cá của dân vì ghe Yabuta của anh không đủ nhiên liệu. Theo Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy, việc anh làm đêm hôm đó là tự nguyện thúc đẩy bởi tình đồng đội. Quả thật đây là một gương can đảm và tình đồng đội cao đẹp mà tôi đã được cái vinh dự chứng kiến từ đầu đến cuối. Khi trời đã sáng, trên bờ biển hoang vắng chỉ còn có tôi và Đại Úy Đan nên nó càng hoang vắng hơn, chúng tôi đứng trên mỏm đá chênh vênh, nhìn về phía căn cứ Hải Quân, địch đã ngưng pháo nhưng khói lửa vẫn bốc cao, sóng thủy triều đang lên che phủ mỏm đá làm chúng tôi bị ướt đến đầu gối, tôi thật sự “lạnh cẳng” theo cả hai nghĩa, nhìn qua Đan thấy anh đang nhìn tôi vô cảm, chúng tôi chỉ còn chờ có hai chuyện, Việt cộng đến trước thì chúng tôi chết, ghe Hải Quân tới thì chúng tôi sống, chợt nghĩ sống hay chết thì giây phút này cũng là giây phút cuối cùng tôi được nhìn thành phố Đà Nẵng thân yêu. Biển vẫn xanh, sóng vẫn rì rầm một điệu nhạc muôn thuở làm dịu lòng người, bình minh vừa ló dạng hắt những tia sáng phản chiếu sóng biển như những thỏi vàng long lanh, trên trời những cụm mây trắng lững thững trôi vô tình như không biết đến cuộc gió tanh mưa máu đang diễn ra phía dưới, từng đàn hải âu vừa rời tổ riú rít đi tìm mồi làm tôi chợt nghĩ đến cuộc rút quân hoảng loạn vô tổ chức này, hôm nay mấy chú hải âu sẽ được no bụng vì sẽ có vô số người chết, có thể trong đó có Đan và tôi. Khoảng 9 giờ sáng 29/3/75, một chiếc tiểu đỉnh loại LCVP không biết từ đâu tới và ngừng lại cạnh chúng tôi, trên thuyền không có ai ngoại trừ anh Trung Sĩ lái thuyền, tôi và Đại Úy Đan nhẩy lên, anh Trung Sĩ chẳng nói gì, cho thuyền chạy thẳng ra khơi, chúng tôi cũng không cần biết là sẽ đi về đâu, bây giờ tôi mới thấy Đại Úy Đan mở máy PRC25 gọi đi mấy nơi. Khoảng 10 giờ sáng thuyền dừng lại bên chiếc HQ 802, chúng tôi dùng thang giây leo lên chiến hạm, có lẽ là những người cuối cùng vì sau đó thang được kéo lên, vị hạm trưởng chiếc HQ 802 là Hải Quân Trung Tá Vũ Quốc Công, ông lịch thiệp vui vẻ chỉ cho chúng tôi tìm đến căn phòng có Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và các sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, tôi coi lại vết thương cho Đại Tá Lương sau đó đi lên sân tàu phía trước để tìm chỗ nghỉ ngơi. Trên tàu có khoảng 5, 6 ngàn người gồm thường dân và binh sĩ đủ các quân binh chủng của Quân Khu I, nhìn thấy họ, tôi thầm cảm ơn Trung Tá Công và thủy thủ đoàn chiếc HQ 802 đã cực nhọc vất vả cứu được nhiều người. Lên tới sân tàu phía mũi, tôi tìm một chỗ khuất để nằm nghỉ và để gậm nhấm nỗi đau thương nhục nhã của một “tàn tốt”, nhưng tôi không được yên vì gặp lại vài người bạn cũ, trong đó có một niên đệ Y Sĩ Trung Úy Phạm Anh Dũng, anh mặc một bộ đồ bộ binh nhầu nát, chỉ trừ cặp lon trung úy sáng chói, anh cười toe toét tươi như hoa đến bên tôi hỏi vài điều, giữa cảnh nước mất nhà tan này mà anh lại vui vẻ như vậy làm cho tôi nghẹn họng không biết nói gì. CAM RANH, 30/3/1975 Chiến hạm HQ 802 nhổ neo xuôi Nam khoảng 11 giờ sáng 29/3/75 mang theo nỗi đau buồn nhục nhã chán chường của quân dân Quân Khu I, tàu cặp bến Cam Ranh khoảng 3 giờ sáng 30/3/75, thường dân và binh sĩ bộ binh lên bờ trước, sau cùng mới tới lượt Thủy Quân Lục Chiến, một điều trái ngược là thương binh lại lên bờ sau cùng. Tôi và Đại Tá Lương xuống tàu khoảng trưa ngày 30/3/75 lúc thủy thủ đoàn HQ 802 đang lau rửa tàu. Loay hoay môt lúc mới tìm được xe tản thương đến Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh lúc 1 giờ chiều, tại đây tôi gặp một vị niên trưởng tử tế tận tình giúp đỡ nên việc giải phẫu cho Đại Tá Lương trở nên dễ dàng, cuộc giải phẫu kết thúc thành công lúc 4 giờ chiều cùng ngày, trong lúc Đại Tá Lương đang ngủ trong phòng hồi sức, chợt nhớ là tôi chưa ăn gì từ hai ngày nay nên vội vào Câu Lạc Bộ Hải Quân đối diện với bệnh viện để gọi món ăn, nhìn cảnh thanh bình của quân cảng Cam Ranh mà tôi bỗng chạnh lòng thương sót cho mình, vì đã lỡ yêu thích “gió sương” nên mới gia nhập binh chủng Thủy Quân Lục Chiến để rồi được quá nhiều “sương gió”! Đang suy nghĩ vớ vẩn thì chợt nhận ra một điều khác lạ, lúc mang Đại Tá Lương đến bệnh viện tôi thấy Quân Cảng Cam Ranh đầy Thủy Quân Lục Chiến, bây giờ chẳng có ai, hỏi một sĩ quan Hải Quân ngồi bàn bên cạnh thì được biết Thủy Quân Lục Chiến đã bắt đầu lên tàu về Vũng Tàu lúc 3 giờ chiều, tôi vội trả tiền mặc dù chưa được ăn gì, rồi chạy về bệnh viện. Đại Tá Lương đang ngủ ngon lành, nhưng tôi không có lựa chọn nào khác là phải đánh thức ông dậy, chúng tôi mượn một chiếc xe hồng thập tự lái thẳng đến Trung Tâm Hành Quân Hải Quân Vùng II Duyên Hải, khi bước vào Trung Tâm Hành Quân tôi thấy Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đang ngồi uống café với mấy sĩ quan Hải Quân khác, chưa kịp chào kính thì ông đã đứng dậy đưa tay bắt, miệng hỏi: - Sao bây giờ bác sĩ còn ở đây, Thủy Quân Lục Chiến đang lên tàu HQ 802 về Vũng Tàu? - Tôi mổ cho ông Đại Tá bị thương mới xong… Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh suy nghĩ một giây rồi nói: - Thôi được, để tôi giúp bác sĩ. Nói xong, ông bốc máy nói chuyên một lúc rồi ra lệnh cho hai người cận vệ đưa chúng tôi ra cầu tàu Bộ Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải. Có một điều đặc biệt ở ông Tướng này làm tôi nhớ mãi là khi tôi chào kính cám ơn ông thì ông chỉ mỉm cười thân mật bắt tay tôi và lịch sự chúc chúng tôi thượng lộ bình an. Khi chúng tôi đến cầu tàu thì HQ 802 đã rút thang và sửa soạn hải hành, có lẽ được báo trước nên trên tàu thả thang lưới xuống để chúng tôi leo lên, hai anh cận vệ của Tướng Minh cõng Đại Tá Lương lên tàu rồi trở xuống… Chúng tôi là những người cuối cùng lên tàu. VŨNG TÀU 31/3/1975 Chiếc HQ 802 nhổ neo lúc 6 giờ chiều 30/3/75, nhưng vì sóng và gió ngược nên mãi đến 8 giờ tối mới rời Quân Cảng Cam Ranh để xuôi Nam về Vũng Tàu, trên tàu chở khoảng 4000 tàn binh của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TT2 Thủy Quân Lục Chiến, trang 551), như vậy chỉ có 1/3 quân số của Sư Đoàn thoát được về Cam Ranh, gần 8000 Thủy Quân Lục Chiến còn lại thì hoặc chết hay mất tích tại Thuận An và Đà Nẵng. Đa số các Thủy Quân Lục Chiến tinh thần đổ nát và được mặc quần áo mới rộng thùng thình, không có vũ khí, vì khi bơi ra chiến hạm từ căn cứ Non Nước Đà Nẵng sáng ngày 29/3/75, các anh đã phải bỏ lại vũ khí và quân phục trên bờ. Được biết chỉ có Lữ Đoàn 468 của Đại Tá Ngô Văn Định lui binh tại bãi biển Nam Ô, may mắn được tàu Hải Quân vào sát bờ đón nên quân số và vũ khí cá nhân còn đầy đủ, cuộc lui binh của Lữ Đoàn 258 và 369 Thủy Quân Lục Chiến tại căn cứ Non Nước đã xẩy ra trong hỗn loạn và đẫm máu, chỉ có những Thủy Quân Lục Chiến may mắn và biết bơi mới lên được tàu, những người còn lại thì… (TT2 Thủy Quân Lục Chiến, trang 578-579). Ngoài ra tôi còn được biết Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến đã có cái vinh dự bảo vệ cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng tá túc trong đêm ngày 28/3/75 tại căn cứ Non Nước để rồi sáng ngày 29/3/75 hộ tống ông lội lên chiến hạm sớm nhất, trước khi đi, lại còn được nghe ông đã nói một câu đáng được ghi vào quân sử: “Coi như đây là một cuộc tự thoát” (Đại Tá Trí, TT2 Thủy Quân Lục Chiến, trang 548). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến với quân số gần 12.000, là một Sư Đoàn Tổng trừ bị của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, đây là một trong những Sư Đoàn thiện chiến nhất mà sở trường là di động, đánh những trận địa chiến lớn, tấn công những đại đơn vị địch. Sau chiến thắng Quảng Trị năm 1972, Sư Đoàn này bị Quân Đoàn I xin giữ lại để làm lính Địa Phương Quân giữ đất cho Quân Khu I. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã nhiều lần đòi Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến về, để làm những nhiệm vụ khác quan trọng hơn mà lần cuối cùng là ngày 22/3/75, (Tại sao tôi bỏ Quân Khu 1, Ngô Quang Trưởng) nhưng Quân Đoàn I đã không trả, để rồi ngày 29/3/75 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến không được đánh với địch một trận nào mà bị tan hàng chỉ vì một cái lệnh lui binh hoảng loạn và không chuẩn bị tính toán. HQ 802 về đến Vũng Tàu lúc 4 giờ 20 chiều 31/3/75, nhưng mãi đến 9 giờ tối tôi mới đặt chân lên cầu tàu với tâm trạng nhục nhã chán chường của một bại binh, nhìn trong đám đông tôi thấy anh ruột tôi, Bác Sĩ Pham Lê Thăng lúc đó đang làm Trưởng Ty Y Tế Tỉnh Phước Tuy, đang tất tả ngược xuôi tìm tôi trên cầu tàu, gặp tôi anh mừng rỡ hơn bắt được vàng, anh nhìn tôi từ đầu đến chân để biết tôi không bị thương rồi hỏi. - Cậu đã ăn gì chưa, anh có mua khúc bánh mì cho cậu, cả nhà đều lo cho cậu. Tuy không có một hột cơm nào trong bụng từ ngày 28/3/75 nhưng tôi vẫn nói để anh tôi yên lòng. - Em còn no, anh cứ đưa ổ bánh cho em để ngày mai ăn sáng. Hai anh em hàn huyên một lúc rồi anh tôi phải về để báo tin mừng cho gia đình, trong ánh đèn vàng hiu hắt trên cầu tàu, tôi đứng đó, nhìn theo bóng anh tôi khuất trong màn đêm mà lòng đau đớn, tôi đã chẳng làm nên cơm cháo gì để bảo vệ đất nước, bây giờ lại làm cho cả gia đình lo lắng… ORANGE COUNTY – CALIFORNIA, 2010 Một buổi sáng mùa Thu có nắng vàng rực rỡ, ba anh Thủy Quân Lục Chiến già ngồi nhâm nhi nước trà tại Factory Cafe là tôi, Trần Như Hùng và Cao Xuân Huy, trên bàn có một tờ báo cũ đăng bài “Tại Sao Tôi Bỏ Quân Khu I” mà tác giả là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chúng tôi chia nhau đọc, Tướng Trưởng phủ nhận tất cả tội lỗi của các tướng lãnh Quân Đoàn I bị kỷ luật và đổ tội làm mất Quân Khu I cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Đọc xong tôi thắc mắc hỏi hai đồng đội: - Quân Đoàn I có quân số tương đương với địch, không đánh một trận nào cấp Trung Đoàn mà lại tan hàng chỉ trong có năm ngày, vậy mà không ai có lỗi? Cao Xuân Huy cười rồi nói: - Chỉ có mấy thằng lính là có tội thôi! Đây cũng là câu cuối cùng Cao Xuân Huy nói với tôi vì chỉ mấy tuần sau anh đã lên tàu suốt để trở về bãi biển Thuận An tìm lại khẩu súng bị gẫy tháng Ba năm 1975. Bằng Phong Phạm Vũ Bằng California, 23/3/11 Viết cho mùa đại tang của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Tài liệu tham khảo: - Tuyển Tập 2 Thủy Quân Lục Chiến - Can Trường Trong Chiến Bại (Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 8, 2019 1:31:37 GMT 9
Chiến-Sĩ Vô Danh/Người lính không có số quân.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam trước họa xâm lăng của cộng-sản phương Bắc, QLVNCH đã có biết bao anh hùng, liệt nữ ‘vị quốc vong thân’. Bên cạnh đó, còn có những hy sinh không kém hào hùng ít được nhắc tới, ở đây, tôi muốn nói đến những người lính không có số quân, đó là những người “Vợ Lính”.
.....
Bình Tuy, đêm 25/12/1974, chi-khu Tánh-Linh nằm về hướng đông nam và cách Hoài-Đức 15 cây số thất thủ.
Chi-khu Hoài-Đức suốt tuần nay bị địch pháo bằng hỏa-tiễn 107 ly và cối 82 ly trung bình 500 quả mỗi ngày. Pháo binh của ta chỉ phản pháo cầm chừng vì đạn khan hiếm. LĐ 7/BĐQ ở phía nam cũng chạm nặng với khoảng 2 trung-đoàn VC. Pháo-đội 105 ly của Pháo-đội trưởng Nguyễn-hữu-Nhân thuộc TĐ181/PB (SĐ18BB) tăng phái cho LĐ7/BĐQ đã phải dời vị-trí nhiều lần (anh Nhân là anh vợ của tôi). Cứ mỗi lần qua vị-trí mới là vị-trí cũ bị pháo tan nát, pháo đội này bị mất 2 khẩu đại-bác 105 ly vào tay VC. Thiết-đoàn 5 KB vào tăng viện cho LĐ7/BĐQ cũng bị thiệt hại đáng kể (có 2 sĩ-quan cấp Tá tử thương).
Ban ngày bị pháo, ban đêm thì địch liên tục tấn công, xin phi-cơ C123 yểm-trợ và soi sáng thì không có… tổn thất lên cao mỗi ngày. Đang điều động các ĐĐ phản công thì 2 anh CSDC [Cảnh Sát Dã Chiến] hớt hải chạy đến báo: “Thưa thẩm quyền, ông Trưởng Chi của tụi tôi bị VC bắt rồi !” Tôi tái mặt! Chi Cảnh-Sát nằm ngay trong chi-khu và cách BCH-TĐ của tôi 30 thước với một tiểu-đội CSDC, gần 10 CSV và tổ thám-báo của TĐ 5 người… mà bị VC bắt?
Tôi và Thượng sĩ Hường, Thường vụ TĐ, 2 cận vệ cùng 2 CSDC vội vã băng qua chi Cảnh-sát. VC đột nhập định cắt chi-khu làm hai vì hỏa-lực nơi đây tương đối yếu, trước khi rút lui vì bị anh em Cảnh-sát và lính phản công, VC đã bắt được ĐU Long, Trưởng chi và 2 CSV mang theo. Một số lính TĐ và Cảnh-sát tử thương. Tôi tăng cường thêm 3 người lính của toán hỏa-đầu vụ TĐ cho chi Cảnh-sát (vì không còn quân).
Trên đường trở lại BCH/TĐ, thoáng thấy một bóng người nép vội vào gốc cây xoài bên hông văn-phòng Quận cách tôi 10 thước, dáng dấp khả nghi không giống lính mình. Tôi ra dấu cho Thượng-sĩ Hường cùng một anh lính nép sát vào tường sẵn sàng yểm trợ, tôi và anh cận vệ còn lại bò về hướng cây xoài. Bóng người lạ xê dịch như muốn chạy, cả hai chúng tôi hướng súng định bóp cò.
Bỗng một quả chiếu sáng tay bừng sáng trên trời soi rõ người lạ chỉ cách tôi khoảng 3 thước, không có súng và hình như đàn bà. “Nữ đặc-công VC ư?”, vừa thoáng nghĩ trong đầu thì anh cận vệ của tôi đã nhảy chồm lên người “đặc-công” còn súng của tôi thì kê sát vào lưng hắn sẵn sàng bắn, anh cận vệ la lên “Mày hả?” rồi quay lại tôi nói nhỏ “con bé Hạ, ông thầy ơi !”. Tôi quát khẽ “Mầy làm gì ở đây?!” con bé mặt còn nguyên nét sợ hãi không nói nên lời.
Vài quả đạn pháo nổ quá gần, chúng tôi chạy vội vào hầm trú ẩn kế cận, tôi hỏi lại: “Mày làm gì ở đây?”, Th/S Hường nói thay “ Mấy bữa nay, nó thay thằng Xuân đi tiếp tế đạn cho anh em!”. Tôi nói như trách Th/S Hường: “Mấy bữa nay rồi! còn thằng Xuân đâu mà nó phải đi tiếp đạn?” “Dạ, thằng Xuân anh nó… chết rồi !”. Tôi hụt hẫng, cổ họng có cái gì nghèn nghẹn !
Ông già Mai, ba của con bé Hạ một nông dân hiền lành sống với ruộng rẫy, thằng Đông con lớn của ông đi lính tử trận ngoài miền Trung. Từ đó mỗi khi đi làm rẫy, nhận được tin tức gì của VC ông đều bí mật báo với chính quyền, bọn cơ sở nằm vùng của VC biết được đã chặt đầu ông ngoài rẫy với bản án để răn đe. Thằng Xuân là lính của TĐ tôi. Con bé Hạ không dám ở nhà một mình nên vào đồn sống với anh … bây giờ thằng Xuân chết rồi, nó sẽ sống với ai? Tôi nói thật khẽ với Th/S Hường như nói với chính tôi “Bố Hường, tạm thời bố nuôi con Hạ giùm tôi… khi nào yên tôi tính sau !”, rồi tôi quay về hầm chỉ-huy dưới cơn mưa pháo của địch.
***
Sau khi Tánh-Linh thất thủ, bọn VC dồn cả lực lượng cấp sư-đoàn tấn công LĐ7/BĐQ và chi-khu Hoài-Đức do TĐ tôi tử thủ với quân số còn lại chưa tới phân nửa. Trước trận đánh, vì Bình-Tuy không đủ quân số nên xin tăng cường 2 TĐ/ĐPQ, QĐ3 chỉ tăng cường một tiểu-đoàn từ Long-An đến (TĐ335) cho Tánh-Linh còn TĐ tôi thì được bổ sung quân số lên đến hơn 500 người (lấy từ các TĐ khác trong tiểu-khu).
Xác chết VC vì không ai chôn nên đã bốc mùi, xác lính mình thì chôn tạm, phủ poncho. Thương binh còn kẹt lại khoảng 50 người vừa nặng vừa nhẹ, vì trực-thăng vào vùng không được bởi phòng không VC dày đặc, nhiều chuyến phải quay đầu lại vì cần phải ưu tiên cho mặt trận Phước-Long. LĐ7/BĐQ triệt thoái khỏi Hoài-Đức… như thế, với TĐ-ĐPQ của tôi còn lại hơn 200 người bị SĐ7 CSBV và Tr/Đ812 Sông Mao cộng 4 TĐ đặc-công 18, 19, 20 và 200C (từ 6 đến 8 ngàn quân) bao vây tấn công ngày đêm. Thượng cấp cho tôi toàn quyền quyết định đi hay ở. Tôi đã cho thăm dò nhiều lần con đường rút nhưng không thể thực hiện được. Nếu chỉ lính không thì còn được, nhưng vợ con họ thì sao? và rồi, thương binh nữa? Chúng tôi quyết định tử thủ.
2 ĐĐ của tôi bên ngoài thì ĐĐ1/344 của Đ/U Trương-Kiêm tan hàng trong đêm, mất hẳn liên lạc, ĐĐ2/344 của Trung-úy Thời thì còn lại 36 người, ĐĐ512/TS của Tr/U Đường thì đã lui lại khu vực chợ cách BCH chi-khu không xa vì áp lực địch quá mạnh, rồi ngay trưa hôm đó Tr/U Đường tử thương và ĐĐTS tan hàng! Bây giờ thì không riêng gì con bé Hạ mà cả các chị vợ và con lính cũng được cấp phát súng đạn.
Vợ Trung-sĩ Hảo là cô đỡ (bà mụ ở nông thôn) trở thành y tá của TĐ. Hai tay chị đầy máu, một thương binh cánh tay trái chưa đứt lìa hẳn, đã bốc mùi thối phải cắt bỏ, không còn thuốc tê, với lưỡi dao cạo râu chị cố bình tĩnh cắt bỏ cánh tay, anh thương binh cắn răng chịu với hai hàng nước mắt chảy liên tục vì quá đau đớn!
Tôi cố gắng an ủi từng người, tài xế của tôi bị gãy chân trái vì đạn pháo, thấy tôi, anh khóc ròng. Tôi cố an ủi rằng vết thương của anh ta không đến nỗi phải cưa đâu. Anh ta nói trong nước mắt “không phải em sợ cưa chân, nếu em được tải thương coi như chắc chắn được sống… thấy ông thầy còn kẹt lại… em thương cho ông thầy quá!” Anh nghẹn lời không nói được, mà đâu biết rằng chính tôi còn nghẹn ngào hơn nữa! Tình huynh đệ chi binh như thế đấy, thương tích mà không lo, chỉ lo cho an nguy của người khác! (sau ngày tôi ra tù, anh ta hay tin, từ Saigon với đôi nạng gỗ và một chân… lặn lội xuống Bà-rịa thăm tôi! Ôi quý thay!).
Con bé Hạ đầu quấn khăn tang cho anh bằng cuộn băng vải trắng, mặc áo trận, vai mang M16. Cô bé trông cứng cỏi như người lính thực thụ, mới 16 mà trông như 30, 40 tuổi. Một tiểu-đội “nữ binh” mới được bổ sung đặt dưới quyền chỉ-huy của Th/S Hường, Tiểu-đội trưởng là vợ của TSI Man-Ngui (người Thượng). Các toán thám sát được tung ra ngoài nay đã trở về, báo là bọn VC dày đặc, TĐ tôi không còn cách nào rút lui được, nếu cố mở đường máu thì sống sót may lắm là được 1/3.
[Đêm cuối] Hôm đó khi VC không tấn công ban ngày mà chỉ pháo, tôi đoán đến đêm bọn chúng sẽ làm thịt chúng tôi… Các thương binh còn cầm súng được ra tuyến ngoài, các sĩ-quan bỏ vị trí chỉ-huy ra giao thông hào cùng anh em chiến đấu tới hơi thở cuối cùng, kể cả tôi. Thế nhưng đêm đó vẫn yên tĩnh đến lạ lùng và ngạt thở.
Đúng 9 g sáng ngày 04/1/1975, với tất cả hỏa-lực của đủ loại súng, VC bắn như vãi đậu, hò hét xung phong man rợ! Anh em chúng tôi mắt mở trừng , tay để sẵn trên cò súng nghiến răng chờ giây phút sau cùng của đời mình sẽ đến! Bọn VC vẫn chưa xung phong, Đ/U Đinh-Quang-Chính, trưởng ban 3 TĐ quay lại tôi hét lớn ”Trung-Hiếu (danh hiệu truyền tin của tôi) khoan cho lệnh bắn, tụi nó dụ mình hết đạn đó”. Tôi gật đầu đáp nhận, không riêng gì Đ/U TB3 mà tất cả hình như ai cũng hiểu vậy! Vài lần hò hét xung phong giả không kết quả, bọn VC nổi điên xung phong thật. Chiến trường bây giờ là địa ngục, là máu, là thịt xương vung vãi khắp nơi. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy địa ngục!
Trước đó chừng 20 phút, tôi nghe trên máy truyền tin một giọng nói lạ xin cho biết tọa độ chính xác để PB yểm trợ. VC đâu thể gạt tôi được, tôi chửi trong máy “Tiên sư các anh, muốn bắn thì bắn đi, cái Quận to tổ bố không nhìn thấy sao mà còn xin tọa độ”. Thế rồi, tiếng người lạ lại vang lên trong máy PRC25 “Yêu cầu Bạch-Vân cho biết tọa độ chính xác của ta và địch”(Bạch-Vân là danh hiệu TĐ tôi lúc đó). Tôi đáp: “Tao ở bên trong, tụi bay bên ngoài…muốn chơi cứ chơi!” nói xong tôi cúp máy. Bọn kiểm thính VC biết cả danh hiệu truyền tin TĐ, nhưng biết thì biết, bất chấp! Giờ phút nầy bọn chúng có muốn biết tên cha mẹ của tôi… nói thật, tôi cũng kệ!
Tôi vừa buông ống liên hợp thì tiếng kèn, tiếng hô xung phong của VC nổi vang trời xen lẫn tiếng đạn nổ long trời lở đất. Đạn đại bác tung cát bụi mịt mù, hình như cả ngàn quả nổ cùng một lượt nhưng không có quả nào lọt vào bên trong mà chỉ nổ phía bên ngoài hàng rào, ngay trên tuyến VC. Trong cát bụi mịt mờ thân xác bọn sanh Bắc tử Nam bị hất tung lên cao từng đợt, từng đợt, tiếng đạn đại bác nổ liên tục nghe ghê rợn hơn lệnh xé xác trong truyện kiếm hiệp Kim-Dung.
Hơn trăm người còn sống chúng tôi ngẩn ngơ quên cả bóp cò, chỉ giương mắt nhìn một màn xi-nê sống động và hay hơn cả phim chiến tranh đã từng xem. Bởi đó là cảnh thật chứ không phải trên màn ảnh, tiếng đạn đại bác vẫn nổ liên tục cho đến trưa…và, trong tiếng đại bác reo hò là tiếng phi cơ phản lực nghe càng lúc càng gần. Trên bầu trời những chiếc F5 quen thuộc xuất hiện như những thiên-thần. Tiếng đại bác vừa ngưng là những chiếc F5 chúi xuống thả từng cặp bom Napalm trên đầu giặc biến Võ-Đắt thành biển lửa.
Quân tử thủ chúng tôi chợt tỉnh cơn mê… rồi bỗng nhiên reo hò ầm ĩ “ tiếp viện đến …tiếp viện đến!” Đ/U Chính, TB3TĐ chạy lại phía tôi la lớn “SĐ18 vào tới rồi, mình sống rồi Trung-Hiếu ơi!”. Nước mắt lưng tròng, tôi, Đ/U Chính và hình như tất cả mọi người đều khóc! những giọt nước mắt sung sướng lăn dài trên gò má rồi chảy xuống chiến bào đã khô cứng vì cát, đất và máu của đồng đội. Võ-Đắt đã hồi sinh sau 33 ngày sống trong địa ngục!!!
Tôi đi một vòng quanh tuyến phòng thủ, nghiêm chào mỗi xác đồng đội, ôm hai vai hoặc nắm chặt tay những anh em còn sống hoặc bị thương để nghe xúc cảm dâng trào trong tim thay cho muôn lời nói! Khi ngang qua một lô-cốt tôi thấy bé Hạ ngồi khóc. tôi hoảng hốt hỏi xem cô bé có bị thương không, nó không nói mà đưa tay chỉ xuống hầm. Tôi chui vào, nhìn thấy xác hai chị “vợ lính” nằm kề bên nhau, tay vẫn còn giữ chặt hai khẩu súng. Nhìn qua lỗ châu mai, khoảng cách gần, xác 3 tên VC bị bắn vỡ toang đầu. Nhìn lại, hai chị nằm đó như đang ngủ say!
Tôi đứng nghiêm chào và thầm nói “Thưa các chị, xin hãy yên giấc ngàn thu, Tổ Quốc muôn đời mãi mãi ghi ơn các chị! Trong trận chiến khốc liệt để bảo vệ an nguy, tự-do, hạnh-phúc cho người dân miền Nam nói chung, đồng bào Hoài-Đức Bình-Tuy nói riêng, sự hy sinh của các chị sẽ được ghi vào sử sách của những người lính không có số quân, và không có cả 12 tháng lương tử tuất. Các chị đã nối bước tiền nhân, không hổ danh con cháu bà Trưng, bà Triệu. Đại diện những người còn sống hôm nay, tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh những anh-hùng liệt-nữ vô danh, và xin ngàn thu vĩnh biệt!”.
Nước mắt tự dưng trào ra, tôi bước ra khỏi hầm, tâm tư trĩu nặng nỗi buồn nhưng đầy niềm kiêu hãnh cho một thế hệ, bất kể nam nữ, đã và đang cống hiến cả cuộc đời và thân xác cho cuộc chiến chính nghĩa, bảo vệ an bình, tự do cho đất nước VNCH. Tôi ngước mắt nhìn trời, cảm ơn Thượng- Đế đã cho tôi và anh em binh-sĩ được sống, chiến đấu, và được biết thế nào về hai chữ anh hùng trong chiến trận. Tôi thấy mình may mắn được chiến đấu bên cạnh những anh hùng đó, những chiến-sĩ vô danh mang tên “vợ lính”!
Thiếu tá Lê Phi Ô TĐT/TĐ344/TK Bình Tuy
Anh Hùng Đất Việt
Hai vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng cự phách Lê Phi Ô (TĐ344 ĐPQ) và Nguyễn Hữu Chế (TĐ2/TrĐ43/SĐ18)
Theo tin tình báo Phòng Nhì Quân Đoàn II, trong chiến dịch tấn công Tánh Linh và Hoài Đức, cộng quân đã điều động một lực lượng hùng hậu gồm Sư Đoàn 812 Sông Mao, Trung Đoàn E 211, hai Trung Đoàn địa phương của Lâm Đồng và Bình Tuy, Trung Đoàn 33 Quyết thắng Long Khánh, 2 trung đoàn pháo và hai đại đội đặc công. TrĐ 33 Quyết Thắng là nỗ lực chính.
TĐ344 và ThT Lê Phi Ô tử thủ tại Chi Khu Hoài Đức tới ngày thứ 33 thì quân tiếp viện của SĐ18 (gồm TrĐ43 và TrĐ52) đánh tới giải vây, TĐ2/TrĐ43/SĐ18 là nỗ lực chính và TĐT chính là Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Trận đánh ác liệt diễn ra tới ngày thứ 3 thì quân ta làm chủ tình hình, một toán quân của Chi Khu bắt tay được với TĐ2, sau đó TĐ quay ra truy kích tàn quân địch, lúc đó đã xuống tinh thần và rút vào rừng. Đợt này TrĐ Quyết Thắng trở về chắc là phải đổi tên.
Sau ngày mất nước, qua bao nhiêu năm tháng tù đày và được gặp lại tại Mỹ, cuộc trùng phùng anh em tay bắt mặt mừng chắc là rất thú vị.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 8, 2019 1:38:45 GMT 9
Trận kịch chiến cuối cùng của Tiểu Đoàn 82 BĐQ với Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Vương Mộng Long ==========
“Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ. Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!”
Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn.
Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:
- “Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!”
Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để “phòng thủ thủ đô”. Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ.
Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi.
Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa.
Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.
Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng.
Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là “những người anh em”. Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:
- “Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?”
- “Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?”
Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:
- “Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu...hu...hu...”
*** Vào Nơi Lửa Đạn ***
Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...
Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này.
Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả?
Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.
Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,
- “Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!”
- “Hoan hô!...Hoan hô!”
Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.
- “Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?” Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.
- “Thôi! Ta đi!” Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.
- “Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá?” Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.
- “Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ.” Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.
- “Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô”. Chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.
- “Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!” Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.
- “Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành!” Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi:
- “Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!”
Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:
- “Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!”
Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.
Nghe ba tiếng “Đường-Sơn Quán”, tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740.
Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là “Anh Hai”. Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng “Anh Hai” của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha.
Khi cuốn phim “Đường-Sơn Đại-Huynh” được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh “Đường-Sơn Đại-Huynh” chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý tiểu Long, tài tử chính của phim này. Sau khi “Anh Hai” vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái “Đường Sơn” khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu?
Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,
- “Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?”
- “Phải rồi! 82 đây!”
- “Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!”
- “Có ai ở đó không?”
- “Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng”
Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,
- “Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!”
Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho “hòa bình” có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.
Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,
- “Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!”
Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. “Hòa bình” rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?
- “Choác! Choác!....Choác!”
*** Gian Lao ***
Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun “phì...phì...” che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,
- “Đưa tao!”
Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. “Oành!”. Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò.
Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.
Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu.
Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, “Cành! Cành!...” - “Choác! Choác!... “ - “Xoẹt! Xoẹt!...” - “Oành! Oành!..” Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.
- “Cành! Cành! Cành!...” Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,
- “Đù má tụi mi ! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!”
Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên.
Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).
Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,
- “Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !”
- “Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!”
Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động.
Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.
Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,
“Chạy đi!... Ông thày... chạy đi!...”
Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ “toang toác!” trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.
- “Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!” Đó là tiếng Trung úy Trâm.
“Toác! Toác!” - “Chíu! Chíu!” đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ.
Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,
- “Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi!...ơi...ơi...”
Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.
- “Trâm ơi! Làm ơn!... Cho anh chết! Trâm ơi!...”
Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường,
- “Ông thiếu tá bị thương hả?”
Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,
- “Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!”
-”Cám ơn cụ!” Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.
Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,
- “Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?”
Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!” Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,
- “Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi!”
*** Gian Lao ***
Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. “Hu... hu... hu....” Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.
Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ :
- “Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn.”
Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.
- “Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt.”
Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,
- “Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!”
Cánh cửa hé mở, một bà già, giọng Bắc Di Cư:
- “Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!”
- “Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!”
Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,
- “Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!” Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà.
Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,
- “Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?” một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.
- “Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng...”
Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,
- “Chứ hai anh kia làm chi rứa?”
- “Anh Cả và anh Hai của tôi đó!” Hải nhanh miệng.
- “Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt.” Bà cụ phân trần.
Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,
- “Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!”
Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,
- “Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi.”
- “Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!” bà cụ ân cần.
- “Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào.” Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.
- “Thưa Mẹ! Con đi!”
- “Thưa Mẹ! Con đi!”
- “Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!”
Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.
Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi, “Thái Sơn ơi! Trâm ơi!” Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố.
Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)
Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.
Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. C hiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...
Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn phòng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi.
Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...
Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu “Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh”. Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước.
Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi, “Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!” Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.
Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông.
Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.
*** Thời gian trôi... ***
Mười ba năm sau [sau khi ra tù], cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca “Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh”. Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời :
- “Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!”
- “Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!” Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà... nghệt mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.
Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không? Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số.
Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số “82” màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.
Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,
- “Các chú tha lỗi cho anh...”
Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột:
- “Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!...”
Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...!
Vương Mộng Long
|
|