|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:43:59 GMT 9
Ó Ma Lai Tác Giả: DaoKy Sau gần một giờ bay từ Sài Gòn ra Pleiku, chiếc DC6 Air Việt Nam đáp xuống phi trường Cù Hanh, bước ra khỏi khoang tàu không khi lạnh khô của vùng phố núi mơn man trên da thịt làm mình khó chịu. đứng trên cầu thang tôi nhìn quanh khoảng rộng cao nguyên mênh mông màu vàng cỏ úa, xa xa những dải núi thẵm đen sau lớp sương mù mong manh sao mà buồn quá! Bất chợt mình nghĩ :"nơi đây là chổ chịu khó, chịu thương trong cuộc đời của mình khi đối mặt với chiến tranh đây sao ?" Mấy thằng bạn cùng khoá chúng nó viết thư nói về mảnh đất này : " Pleiku thắm đất đỏ Pleiku buồn. Nắng bụi, mưa bùn gió lạnh Tam Biên". Thật là lảng mạn kinh khủng ! Nhưng dù sao đi nửa thì mình cũng bắt đầu hội nhập nó đây! 15' ngồi trên xe bus Air VN ra thị xã những cảnh quang hai bên đường đầy những quán Cà Phê nhạc Trịnh Công Sơn, những quán Bar giải trí cho đám lính viễn chinh, các cô gái 18 , 20 tuổi ra đứng trước quán khêu gợi mời mọc bọn Mỹ "đen như cột nhà cháy" đang ngồi trên xe GMC bám đầy đất đỏ, bọn gái me mẻo nói tiếng Mỹ bằng một giọng ngọng nghiệu : "-Du, du cơm hia quít mi, ài lốp du èng nít du, ô kê..." Phải chăng đây là một thành phố chiến tranh chỉ có tập đoàn Lính và bọn gái điếm ? Ôi những hình ảnh sự thật chán phèo nơi mình sẽ ở. Xe dừng lại Trạm bán vé Air VN mọi người bước xuống, mình suy tính không biết bây giờ vào Trại Lính hay đi mướn phòng ngủ qua đêm chờ sáng vào trinh diện đơn vị mới? Mặc kệ đêm nay phải tắm nước nóng, ngũ trên niệm êm ái rồi ngày mai ra đơn vị. Đêm Thành phố Núi sương xuống lạnh, mình đi dọc theo đường Hoàng Diệu hai bên đường toàn là Lính và những bóng hồng thướt tha trong những bộ cánh diện rất bắt mắt liếc mắt đưa tình mời mọc như ngầm nói :" Anh ơi có muốn một đêm hạnh phúc không ?" Mình chỉ mỉm cười và bước đi dạo quanh thị xã vào quán Cà Phê Dinh Điền ( Hành Cung của Vua Bảo Đại). Nhấp từng ngụm cà phê tận hưởng chút hương vị cuộc đời thả hồn nhớ đến Sài Gòn nhộn nhịp về đêm, lúc ấy mình hay đến quán Cà Phê nằm trên đường Tự Do vừa uống cà phê vừa ngắm dòng người qua lại trên đường, suy tư như một nhà hiền triết. Sáng vào trình diện đơn vị, mình được phân công về Trại BenHét toán A... Ngồi trên Trực Thăng HU1D nhìn xuống toàn là rừng với rừng, 40' bay đến Căn Cứ BenHet, thật mình không ngờ nó nằm giửa rừng thẳm, CC nằm trên ba ngọn đồi xem trên bãn đồ trung tâm nó ở trên vòng cao độ 703 so với mặt nước biển. Một cái nhún nhẹ nhàn khi tàu chạm mặt đất, mình bước thật nhanh vào Bunker gió mạnh của cánh qụat làm bụi đỏ tốc lên mù mịt, từ trên đồi chỉ huy một vài người chạy thật nhanh xuống chui vào tàu, chiếc Trực thăng từ từ bốc lên cao bay xa tít chỉ còn nghe tiếng cánh quạt phành phạch vọng lại âm vang quanh khu rùng quanh trại. Thế là mình đã hội nhập vào chiến tranh, Trại BenHét địa đầu ngã ba Biên giới, một anh Sĩ quan chạy xuống hướng dẫn mình lên BCH gặp Thiếu tá trưởng trại. Sau nguyên tắc chào hỏi, mình được ông bố trí ở trong một gian phòng dưới đất gần TOC, ông dẫn mình đi tham quan BCH ông chỉ sang bên đường hầm bên kia đối diện Toán Cố Vấn Mỹ " 12 thằng Bọn Mũi Lỏ". Mình hỏi : -Mình ở đây được bao nhiêu người vậy Thiếu tá ? -Toán của mình là 11 thằng, còn lính BK Mỹ có tất cả 5 ĐĐ khoảng 750 người toàn là người Thượng RaDé, chỉ có một ĐĐ toàn là tụi Miên. Cậu về đây phụ với tui, quyền hành thì thuộc tụi Mũi Lỏ, mình chỉ tháp tùng theo HQ thôi cậu đừng ngạc nhiên khi nó sai bảo mình! Ở đây cái gì cũng quý hết, có một điều là cậu sẽ quý hơn hết đó là mạng sống và đàn bà. -Vậy sao, tui cứ tưởng mình sẽ thực hiện nguyên tắc hành quân và trận chiến như những gì được học trong Trường Quân sự chứ ? -Này cậu, nếu như thế thì có ngày cậu không còn về với người yêu và Ba Má của cậu ! Những gì học là khác so với thực tế, cậu hảy bắt đầu thu thập kinh nghiệm của những thằng lính già như tôi đây, bây giờ cậu đi rửa mặt rồi cùng anh em đi ăn cơm ở Câu Lạc Bộ của Trại, rồi sau đó tôi sẽ truyền cho cậu một vài "chiêu tuyệt kỷ võ công". Vị Thiếu tá nói xong ông ta bỏ về hầm BCH tôi lần theo con dốc đến CLB. Trại BenHet. Tiếng súng Canon 175 ly nổ rền đinh tai nhức óc trong những ụ bao quanh bằng bao cát chất cao ngang đầu người, tôi thầm nhủ : "đây là không khí chiến tranh và bây giờ mình đang trực diện với nó"... Bước vào CLB, bàn ghế lỏng chỏng dăm ba cái, những thằng lính người RaDé đen bóng to con trong bộ "đồ Bệch" rằn ri màu lá nguỵ trang như những khóm cây biết di động, bên trái tôi vài anh lính mũ xanh đang chờ CLB dọn bửa ăn trưa, tôi bước đến chào họ và ngồi xuống. -Ủa lính mới hả ? Tôi lễ phép : -Dạ mới đến cách đây hơn hai giờ ! -Chà cũng chịu chơi dử hén, mặt còn bún ra sửa mà mang lon Thiếu uý sao ta ? Tôi mắc cở vì anh lính già chê tôi còn bún ra sửa : -Thưa anh ! tui về đây là theo lệnh cấp trên chứ tôi đâu muốn chịu chơi! nếu đàn em mới về đây không biết việc xin mấy anh chỉ giúp, xin cám ơn trước! -Được, nhưng phải biết điều nghe chưa ? -Dạ !!! -Có như vậy thì bọn ông anh này sẽ hướng dẫn em đi "đề lô" cho biết mùi vị rừng rú này ha ha !!! Anh chàng Thượng sĩ Trang ra vẻ dàn anh rất hài lòng vừa nói vừa cười vì hù doạ được lính mới như tôi. Họ ngồi ăn cười nói huyên thuyên, còn trong lòng tôi thấy mình lạc loài buồn nhớ đến gia đình, nhớ cô bạn gái tốt nghiệp Sư Phạm đang nhận nhiệm vụ ở tỉnh Cần Thơ xa lắc, không biết bây giờ nàng có nhớ đến mình không nhỉ? Ở đây đèo heo hút gió rừng núi vây quanh tiếng đạn pháo, tiếng bom xé nát không gian vốn tỉnh mịt của Núi rựng Cơm nước xong, các đàn anh mời "chàng bún ra sửa' về tư thất dưới lòng đất của họ trước nòng pháo 175 ly kinh khủng, căn hầm của họ mùi hôi ẩm mốc của đất và gổ thông ngâm dầu là vật liệu kiến trúc duy nhất nơi rừng núi này. Tiếng của Thượng sĩ Trang nói với tôi: -Cũng may cho Ông hôm nay tụi này còn một bình ton rượu BenHét rất đặc biệt đem ra đải khách quý đây! Tôi nghe nói tới rượu thì từ chối lý do là mình không biết uống rượu. -Ồ không sao, bây giờ Thiếu úy không biết uống, rồi mai mốt kiếm rượu uống cũng không có, thôi thì rán tập uống đi, "Nam vô tửu như kỳ vô phong" mà ha ha !!! Họ nói rất thảng nhiên như không có điều gì khác để làm họ phải lưu tâm, thế là tôi bị họ ép uống 1 ly rồi hai ba ly rượu gì mà có cái mùi khét lẹt như mùi cồn y tế, máu trong thân chảy rần rật tôi càng lúc bị họ cuốn hút trong cái vui câu chuyện kể và ly rượu cay đắng như xé cổ họng. Thượng sĩ Trang như đoán được ý nghĩ của tôi anh chàng nói : -Chắc ông chưa biết lai lịch của hảo tửu BenHét đâu, nó được chế biến từ cồn trên trạm xá và nước biển đó (Dịch truyền.) -Vậy uống sao được ? -có gì đâu mà không được, bằng chứng là ông đã uống rồi đó ! -!!! -Thiếu uý có bồ và phá trinh mình chưa ? Trang hỏi tiếp, Tôi thẹn đỏ mặt chỉ cười gượng mà không trả lời . -Biết mà, ông còn zin để hôm nào tui dẫn ra Kon Tum cho bọn con gái biến ông trở thành người đàn ông chân chính, nếu không lở gục xuống thì làm "con Quỷ cô đơn" còn luyến tiếc sự đời rồi đi phá người khác rồi sẽ không siêu sinh đó! Tôi ngạc nhiên vì câu nói chứa đầy ẩn ý của Trang. Trung Sĩ Quang tham gia góp lời : -Thôi mầy đừng hù ổng nửa, để cho Thiếu uý được yên ! Các anh lính khác cũng tham gia góp lời bên vực tôi, vì thấy tôi còn quá trẻ ngơ ngác trước cuộc sống đời Lính lại dể tin. Buổi tiệc xã giao chấm dứt vì hết rượu tôi ngà say đi trở về Căn phòng dưới đất kế bên TOC ngã lưng trên chiếc ghế bố vải Quân đội, giấc ngũ chập chờn đến, tôi nhìn ánh sáng bóng đèn Pin 12 vol cháy tù mù không đủ soi sáng trong gian phòng chưa đầy 15 mét vuông. Tôi chợt nghe tiếng người nói bên tai : "Ê! Ông bạn, đây là ghế bố của tôi và nhà của tôi, tại sao ông dám vô mà nằm ở đây?" trong lúc nửa mê nửa tỉnh, tôi nói với người không thấy mặt: -Tôi không đến đây chiếm phòng của ông đâu, mà Ông Thiếu tá trưởng toán chỉ cho tôi vào đây, nhưng hồi sáng ở đây đâu có người nào? ông muốn đuổi tôi thì hảy lên hỏi Thiếu tá đi ông bạn! -Không trả ghế bố, không trả căn phòng này thì đừng trách tui. Bấy giờ tôi thấy một bóng người cao to đen thui xáp đến đè lên người bóp cổ tôi, ngay lúc ấy tôi cảm thấy cả người bị tê dại không sao xoay trở, tôi hoảng hốt kêu la khi tay vừa mò được con dao găm dưới gối thì cái người đen thui kia biến mất, tôi vùng dậy thở dốc nhớ chuyện vừa qua tôi nghĩ chắc có lẻ tại mình nằm mơ mà thôi. Nhìn đồng hồ mới 14 giờ, trong gian phòng âm u tiếng khè máy PRC25 đều đều đơn điệu bên tai, tôi không còn ngũ được bước vội ra khỏi gian hầm đi sang TOC nơi đây sáng sủa hơn nhờ hai ngọn đèn néon, nhìn bức màn vải đỏ phủ trên tấm bản đồ HQ ghi phía trên hai chử "Tối Mật" rộng chiếm gấn hết gian phòng TOC, dăm ba người quay quần chăm chú bên bức "Không ảnh" để giải đoán. Thấy có người bước vào tất cả bọn họ nhìn tôi ngạc nhiên : -Anh là ai sao dám vô đây? -Dạ tôi mới vừa về đây! Anh chàng Chuẩn úy Tuấn trưởng ban nhìn tôi như ra lệnh: "hảy cút khỏi nơi đây!" Tôi xin lổi họ vì đi lạc vào đây chứ khộng cố ý. Chân định bước ra khỏi TOC thì anh chàng Chuẩn uý kêu giật lại: -Này ông bạn, nơi đây đâu phải muốn đến thì đến, muốn đi thì đi ? -Tôi xin lổi vì đi lạc vào đây! -chúng tôi mời anh lên gặp Trưởng toán. Thế là họ lôi tôi lên trình diện với Thiếu tá Thành, khi gặp ông tươi cưới bảo cùng với họ tôi là Sĩ quan phó toán đặc trách tại TOC, họ có vẻ ngạc nhiên nhìn tôi từ đầu đến chân như lạ lùng chưa từng thấy. Như biết trước những tư tưởng của họ Thiếu tá Thành nói: -Thiếu úy Tâm là SQ chuyên trách HQ, từ nay trở đi cậu ta cũng là phó toán, vậy các cậu rán giúp cậu ta trong việc này nhé ! Họ đồng thanh "dạ" một tiếng rồi đi ra ngoài, còn lại TT. Thành và tôi ông mời tôi ngồi trên hòm đạn thay chiếc ghế ông nói: -Cậu SQ gì như "con gà nuốt dây thun" vậy! Cậu phải ứng xử, nói năng với chúng nó phải ra vẻ mình là cấp chỉ huy chứ! -Dạ em !!! -Thôi ngày mai cậu sẽ làm việc, hôm nay tôi cho cậu nghỉ trọn ngày, đi dạo quanh trại chớ có đi xa, Cậu có biết lái xe không vậy, xuống dưới Ban Quân xa lấy chiếc Jeep mà đi, nhớ nếu có thấy các em người dân tộc SéDan đang tắm suối thì đừng có nhìn, nếu lở dại là bị tụi nó bắt đền 2 trâu 3 lợn đó nghe... hì hì!!! Nói xong ông cười rồi cầm điện thoại nói với ban QX chuẩn bị cho tôi một chiếc xe, tôi đứng lên cảm ơn chào ông rồi bước ra cửa hầm BCH. Đến Ban QX nhận chiếc xe Jeep trong lòng tôi vừa chớm lên chút niềm vui, nổ máy cho xe chạy quanh trại ngắm nhìn cảnh hùng vĩ của núi rừng Tây nguyên... Hàng chử nằm tận trên cao giửa hai cây Angten ViBa đập vào mắt tôi: "BenHét loving it", làm tôi cười thầm : Ở nơi này có gì đáng yêu đâu đồ dõm !!! Có lẻ mấy thằng Lính thi sĩ bày đặt thi vị hoá cuộc sống những con người làm "Lính Thú" ven biên đây. Mãi theo đuổi những ý nghỉ ngộ nghỉnh, xe đi vào con đường dộc đạo lên ngọn đồi kế cận nơi trú đóng của ĐĐ 2, dừng xe trước ban Chỉ huy ĐĐ tôi bước vào căn hầm thăm hỏi các vị Chỉ Huy người Miên nơi đây. -Các anh chiến đấu nơi đây có cực khổ không ? -Dạ cũng thường thôi ! Ông Đại Đội Trưởng Thạch Chinh cho tôi biết quá trình hơn 4 năm khi Đơn Vị ông ra đây gần 300 người lớp chết, lớp đào ngũ nay chỉ còn hơn 100 người xin nhận nơi đây làm quê hương thứ hai, Câu chuyện đến đây bị cắt đức bởi tiếng quát tháo rồi một tràng liên thanh nổ dòn, Thạch Chinh cùng tôi chạy ra ngoài thấy một gả lính say rượu ngất ngưỡng tay ôm khẩu Đại liên 30 và một dây đạn 7 ly 62 dài thậm thượt, anh ta vừa chửi tục vừa hâm doạ nếu kẻ nào dám bắt hắn. Thạch Chinh nói nhỏ với tôi. -Thằng này bình thường nó gan dạ nhưng cũng ngoan lắm ! Uống rượư say thì hay xách súng bắn tùm lum Thiếu uý đừng đến gần nó bắn thiệt thì nguy, tôi hỏi: -Hắn tên gì ? -Dạ nó tên là Dé người thượng SéDan đó ! Trước kia nó ở ĐĐ1 nhưng vì quậy quá nên đổi nó qua đây, tôi cũng ngán nước quậy của nó quá Thiếu uý ơi! Tôi từ từ tiến đến con người rừng rú trong lòng tin tưởng tôi nói nó sẽ nghe lời tôi dẹp trò chơi chết người ấy ! Tôi dỏng dạc nói lớn tiếng với hắn: -Anh Dé, anh dẹp súng đi, kẻo không Thiếu tá bắt nhốt bây giờ! Hắn nhìn tôi chăm chăm thủ thế, tôi biết nếu hành động sai lầm của tôi thì hậu quả không lường hết được. tôi đưa hai tay và nở nụ cười hiền với hắn rồi từ từ bước đến. -Ông đừng bước tới nửa, tui bắn !!! Tôi nghe hắn nói trong lòng cũng hơi hoảng sợ nhưng không thể nào dừng lại được nhanh tay tôi nhảy đến kế bên giật mạnh khẩu súng đạp cho hắn một phát té nhào xuống, tôi gọi Thạch Chinh phụ tôi lấy dây trói gô hằn lại đưa vào chuồng cọp, hắn cười như điên như dại tôi nghe cũng rởn tóc gáy. Thạch Chinh nói: -Thằng này Thiếu úy nhốt nó ở đây cũng như không thôi, nó "độn thổ" được đó! Tôi càng ngạc nhiên hơn khi nghe phép "Độn Thổ" như trong truyện Phong Thần ? Thời buổi súng đạn ì đùng mà nói tới chuyện Độn Thổ khó tin quá !!! Tôi bảo với Thạch Chinh cứ nhốt hắn trong chuồng cọp để mai tính, cẩn thận hơn tôi bảo khoá bên ngoài. Lên xe về, tôi không quên bảo rằng sáng mai tôi sẽ lên đây phạt hắn. Đem xe vào Ban QX tôi nhắm hướng TOC trở về giang sơn của mình trong lòng còn nhiều thắc mắc xứ sở huyền bí này. Ngã người trên chiếc ghế bố QĐ tôi cố dổ giấc ngũ đầu óc lại miên mang nhớ về Quỳnh, bây giờ chúng mình cách nhau gần ngàn cây số họ đưa anh tận biên giới xa xôi làm tên "lính thú", còn em thì trở thành cô giáo ở vùng quê sông nước biết bao giờ mình gặp lại nhau hả Quỳnh ? Tôi muốn viết thư cho nàng để kể cho Quỳnh nghe những gì đang xảy ra quanh cuộc sống đời Lính nơi đây. Mi mắt nặng trỉu tôi chìm vào giấc ngủ... -Thiếu úy! Thiếu uý,dậy đi xuống ăn com chiều! Trời ơi!bộ hết chổ nằm hay sao mà nằm dưới đất vậy ông ? Tôi ngồi dậy vươn vai cho bớt nhức buốt trong những đốt xương sống, nghe anh Hạ Sĩ Thắng nói tôi giật mình nghĩ thầm : "mình nằm trên ghế bố sao bây giờ lại nằm dưới đất quái lạ thật?" Tôi đứng lên cười nhẹ thay cho lời nói cùng anh Lính rồi bước ra ngoài đi xuống CLB. Mọi người trong toán vây quanh chiếc bàn dọn cơm canh vừa ăn vừa cười nói vui vẻ, thấy tôi đến người thì kéo ghế kẻ mời mọc ăn cơm, tôi gật đầu chào tất cả và ngồi xuống chiếc ghế họ dành cho tôi. Trong lúc ăn đầu óc tôi cứ nghĩ đến chuyện nằm dưới đầt của mình mà không sao giải thích. Hạ sĩ Thắng nói: -Mấy người biết không hồi nảy tôi lên gọi T/U dạy ăn cơm thì thấy ổng nằm chình ình dưới đất! -Thế sao ? Thượng sĩ Trang trên môi nở nụ cười bí mật anh ta nói. -Ồ có sao đâu ? Lính tráng mà chuyện nằm đất là thường, hồi trước kia Chuẩn uý Tuấn về đây cũng đã bị như thế rồi mà. Mọi người bàn tán về Ma trên TOC. C/U Tuấn quay sang tôi nói: -Cách đây hơn 8 tháng khi tôi về đơn vị này, Đai Úy Từ Bá cũng cho tôi ngủ tại gian hầm đó rồi cũng bị bóng ma đen cao lớn đè muốn tắt thở, sáng hôm sau thấy mình nằm dưới đất hoảng quá tôi xin đổi phòng khác . Thượng sĩ Trang bắt đầu kể chúng tôi nghe về gian phòng và bóng ma đó : -Năm 1967 tôi đổi ra đây thì nơi đó chính là Phòng Truyền tin, vào mùa mưa năm ấy quân đội GPMNVN tấn công vào CC Lúc đầu họ pháo bằng loại hoả tiển 122 ly, một ngày BenHét nhận hơn 2.000 quả đạn các loại, lúc ấy các đơn vị Mỹ gồm Pháo Binh 205,175,155 ly liên tục phản pháo, các chiến đoàn Tank Liên Quân VN và Mỹ M41, M48. bị trúng đạn bốc cháy, một số Lính Thiết Giáp VN chạy vào trú ẩn nơi Phòng Truyền tin. Hôm ấy là ngày thứ 7 giao tranh một quả "tên lửa" 122 ly rơi trúng làm sập căn hầm Truyền tin, 4 người lính Truyền Tin và Thiết Giáp chết không còn miếng thịt, gần 1 tháng sau đó căn hầm mới được Công Binh tái thiết lại, danh sách B/C tử thương tại đây được biết có một Trung úy Thiết Giáp và Trung sĩ Cơ truyền tin mất xác... Thượng Sĩ Trang kết luận : -Như vậy bóng ma nơi phòng truyền tin đó chính là 4 người chết mất xác hồi năm nào, ai đến đó ngủ cũng bị đè nằm dưới đất. Ngồi nghe câu chuyện bí mật của bóng ma ở hầm truyền tin nảy giờ làm tôi đâm hoảng thí ra đó là chuyện ma có thật...
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:45:28 GMT 9
Trong tôi như có một luồng điện rần rần chạy dài từ trên xuống cuối xương sống, tôi tự nghĩ có gì mà sợ Ma cũng như người, hơn nửa mình cũng có "Phù Hộ Thân" cao cấp, nhưng nghĩ lại cũng không ổn nếu như Phù của mình linh thì tại sao mình bị hắn bóp cổ rồi cho mình nằm dưới đất? Mãi suy nghĩ tôi ăn xong chén cơm chẳng buồn ăn thêm tôi hỏi Thượng sĩ Trang có cách nào trừ ma không? -Ông ơi sao ngây thơ thế ! Ở đây là Núi rừng, âm khí cũng nặng ông có thể nào trứ hết biết bao vong hồn chiến sĩ hai bên không? Họ đã ngã xuống nơi trại BenHét này mỗi mùa mưa như thế hơn vài trăm người, tính đến nay chắc có lẻ gần 4,5 ngàn người rồi. nếu có thầy Pháp nào bắt ma có lẻ ông ta phải ở đây suốt đời để bắt ma! Tôi nghe Thượng sĩ Trang nói thế thì hẳn không còn cách nào để giải quyết con ma trên hầm Truyền Tin và tôi phải tìm một chổ khác để ở thôi! Cơm xong cả bọn chúng tôi giải tán, tôi đi quanh vòng đay đến công chính của trại, cổng rào chắn thép gai để hở nửa con đường đi ra sân bay C130, trên đường băng lót toàn tấm thép VSP, một công trình nhu yếu cho Trại khi vận chuyển tiếp tế lương thực, súng đạn v.v... Buổi chiều xuống nhanh, ánh sáng yếu ớt xuyên qua những áng mây ửng màu gạch phía chân trời, đàm chim kêu inh ỏi ven bìa rừng chúng đang tranh nhau tìm một chổ tốt nghỉ qua đêm. Tôi lang thang cho đến khi trời sụp tối vội trở về gian hầm của mình trong lòng vừa sợ sệt, vừa tò mò muốn khám phá thế giới vô hình. Trời tối mịt đến độ không nhìn thấy bàn tay, tôi lần mò về đến hầm TT nhờ ánh sáng le lói của chiếc bóng đèn 12 vol, tôi thay đồ đi ngủ. Cuộc sống nơi đây đơn diệu quá ; ăn xong rồi ngủ, thức dậy lại đi quanh trại," Một ngày như mọi ngày" như bài hát của Trịnh Công Sơn, lúc này tôi yêu nhạc của anh vì anh nói lên dùm tôi những điều ở trong lòng. À còn nửa! Những hạnh phúc vuột khỏi tầm tay của con người bước vào cuộc chiến như việc chia xa của tôi với Quỳnh . Có lần hai đứa cùng đi bên nhau dưới hàng me già đường Duy Tân tôi lo lắng hỏi nàng: " Nếu anh phải đi xa vài năm em có chờ anh ngày trở về không?" Quỳnh mỉm cười nhìn tôi trả lời: " Em sẽ chờ, đợi anh về." Trong lúc ấy tôi là người hạnh phúc nhất. Mấy hôm sau Lệnh Tổng Động Viên cả khoá tôi đều lên đường nhập ngũ, ngày hôm ấy cũng có mặt của Quỳnh đưa tôi lên đường. Sau những tháng năm trong trường quân sự da tôi đen đúa và cuộc đời cũng bắt đầu cho sự dạn dày sương gió, những tháng ngày đó mỗi lần về phép tôi đều có nàng, cho đến khi ra trường tôi về BCH.S.F ở Nha Trang, sau cùng đến nơi khó thương khó ở này! Những hình ảnh quá khứ cứ hiện lên mãi đến lúc tôi thiếp vào giấc ngủ. Tiếng Trọng Pháo nổ ầm ì đánh thức tôi dậy thấy mình lại nằm dưới đất, tôi vừa sợ cũng thấy buồn cười nghĩ : "Ma cũng ham ngủ chổ tốt, lảnh địa bất khả xâm phạm ( bản năng của phái mạnh), đuổi mình không được nên hắn xô mình xuống đất!" Thay đồ xong tôi lên Hầm BCH trình diện TT.Thành, ông ta nhìn tôi nheo một mắt hỏi: -Đêm qua cậu ngủ ngon chứ ? -Cám ơn TT tôi ngủ rất ngon ! -Thât là cậu khôngh gặp chuyện gì chứ ? -Dạ thưa không! Có chuyện gì vậy TT ? -Ồ không có gì, thấy cậu bình tỉnh thì cậu chì lắm đó! Nói xong ông ta cười rồi mời tôi ngồi xuống uống cà phê do ông pha. Ông lấy gói thuốc lá Pallmall màu đỏ sậm đưa mời tôi, cầm điếu thuốc trên tay tôi đốt cháy như người sành điệu rồi hít thật mạnh muốn chứng tỏ mình không phải là "lính sửa", nhưng khốn thay khói thuốc cay nồng vừa đắng làm tôi bị sặc ho liên tục. TT. Thành cười nói: -Cậu không biết hút thuốc thì tốt, đừng tập làm người lớn phong trần nửa không có lợi đâu! Tôi ngượng cả người vội bào chửa : -Dạ lúc trước em thỉnh thoảng vẫn hút, nhưng hôm nay hút lại bị sặc. TT. Thành cười, ông nói lảng đề tài khác: -Cậu về đây một ngày chắc cậu đã gặp chuyện lạ phải không ? -Dạ căn hầm đó kỳ quái lắm TT! -Cậu đừng sợ, Ma lính cũng dể thương lắm không sao đâu, nó xô đuổi cậu bởi cậu chiếm lấy giang san của nó, nếu cậu có cúng kiến mời mọc nó ăn uống tôi nghĩ là cậu sẽ kết bạn với nó đấy ! Tôi nghĩ ý kiến TT Thành rất hay, nhưng không biết con Ma đó có nhân tính không, hay là nó nhập vào mình thì chắc có lẻ chết mất! Dù sao cũng nên thử một lần cho biết, tôi nói : -Dạ em sợ nó không chịu kết bạn, thì càng nguy thêm ! Ông Thành nói nửa đùa nửa thật : -Cậu chưa thử thì làm sao biết được nó như thế nào, theo kinh nghiệm của tôi cậu nên cúng cho nó ăn thì nó cũng sẽ cảm đến cậu. Ma như người mà cũng có người như ma vậy cậu hiểu tôi nói không? Mặc dù tôi không hiểu rỏ câu triết lý đầy ẩn ý của ông nhưng tôi tin ông ta nói thật, vì ông là người kinh nghiệm có số tuổi gần gấp đôi số tuổi của tôi, hơn nửa ông là một đơn vị trưởng chắc ông không muốn hại tôi là thằng lính bé con miệng còn hôi sửa chưa biết nhiều về đời lính. Thấy tôi suy tư im lặng ông xoay sang thời sự, rồi vấn đề Hành quân của Trại. -Cậu chuẩn bị ngày mai tôi phân công cậu đi Hành quân cùng với ĐĐ1, cậu cùng ĐĐ hoạt động trong khu vực tứ giác... trong vòng bảy hôm, cùng theo với cậu, tôi cắt thêm Thượng Sĩ Trang là anh lính già nhiều kinh nghiệm ở vùng đất này như thế cậu sẽ an tâm . Nghe TT. Thành nói tôi cảm thấy rầu lo lắng thêm, bảy ngày hành quân ôi dài quá! Mới đến Trại mình "bị" nhiều vấn đề vây quanh chưa giải quyết thì lại đi vào rừng "dạo chơi 7 ngày"! -Dạ em sẽ chuẩn bị. -Nảy giờ sao cậu không uống cà phê nó nguội mất rồi! Ông vừa nói vừa vói tay lấy chiếc bếp cồn tự chế đốt lửa đặt chiếc ấm con lên trên giây lát nước bắt đầu reo nho nhỏ rồi sôi, ông châm vào ly cà phê của tôi cho nóng, tay cầm ly cà phê ông nói: -Nào nâng ly chúc cho cậu mọi sự tốt đẹp, thấy cậu tôi chợt nhớ đến thằng con trai của tôi, hiện giờ nó mời bước vào ngưỡng cửa Đại học, rồi mai đây nó cũng bị vào lính như cậu, thê hệ của tôi làm lính rồi thế hệ con tôi cũng là lính, lính bố, lính con...Hì hì!!! Ông cười như khoả lấp những suy tư sâu kín trong lòng, tôi chợt hiểu thông cảm nổi lòng của ông: -Dạ thưa, vậy là cả nhà chúng ta đều là lính! Ông và tôi nhìn nhau cười ngầm hiểu ý của nhau ( thật ra ông không phải là nhà binh chuyên nghiệp mà là một thầy giáo trường Tỉnh ở Mỹ Tho, được động viên vào lính năm 1958). Uống hết ly cà phê tôi đứng dậy cảm ơn ông đã tiếp đải tôi rồi bước xuống hành lang vào TOC xem mấy người lính nơi đây làm việc. Chuẩn uý Tuấn gập tôi anh nói : -Chào Thiếu uý ! Tối nay nếu không có gì trở ngại mời T/U sang Phòng em ngủ cho có bạn. -Cám ơn anh tôi không quen ngủ chung với ai! -À, ngày mai có lệnh HQ. Thiếu uý có nghe TT Thành nói chưa ? -Rồi! Nhưng chưa quen không biết có gì không nhỉ ? -Dạ! rồi T/U cũng sẽ quen thôi, mấy ngày thôi mà. Ngày mai Capt. Smith Phó toán Mỹ cùng đi chung với ông đó ! Tôi lại nghĩ : Mấy thằng mũi lỏ không dể thương chút nào, tụi nó hay kỳ thị lính VN lắm, đi chung với chúng nó chẳng thích tí nào ! -Cậu kiếm cho tôi vài thằng giỏi ! -Ở đây không có thằng nào giỏi, vả lại em không biết hềt mấy ĐĐ trong CC này! Tôi chợt nhớ ra điều gì vội đi ra khỏi TOC xuống Quân Xa lấy xe Jeep lên ĐĐ2. Đến ngọn đồi, trước mắt tôi cái chuồng cọp trống rổng nằm cạnh bên BCH ĐĐ. Tôi thất vọng nhưng lại mừng vì khám phá được tay "quái kiệt", vào BCH ĐĐ tôi hỏi viên Đại đội trưởng : -Anh Chinh thằng Dé đâu rồi? -Dạ, bây giờ có trời biết nó ở đâu, tôi cho người đi tìm nó từ sáng đến giờ? -Không lẻ nó bốc hơi ra khỏi trại này hay sao ? -Dạ. cũng gần như thế ! -Anh bất lực vậy sao? Không kiểm soát được lính của mình thì làm ăn gì nửa ? Bây giờ tôi cần gặp nó, anh kêu nó mang Ba Lô Súng đạn lên BCH trại gặp tôi! -Dạ được, để tôi cho nhiều người đi tìm nó! -Có gì anh điện thoại cho tôi ở hầm TOC. Tôi vừa cảm thấy trong tôi có cái gì vừa lớn lên, vượt lên mọi cái tầm thường trước đây. Trước kia tôi tôi luôn thụ động và nhút nhát, nên bạn bè cùng lớp học hay trêu ghẹo "Baby", tôi ghét họ gọi tôi như thế! Nhưng tôi chẳng làm nên trò trống gì ra tính sĩ khí "Trượng Phu" nên đành để họ gọi mình là "Baby", đến khi vào Lính, với nếp sống tập thể tôi bắt đầu dạn dỉ, dù da tóc đã sạm nắng gió nhưng trong tâm tôi vẫn ngây ngơ trước bao sự đời mình chưa từng trải. Hôm nay trước viên Đại Đội trưởng ĐĐ2 tôi cảm thấy mình lớn lên, tôi ra lệnh cho ông ấy và bắt ông thực hiện mệnh lệnh nhà Binh, không biết bây giờ mình thật sự lớn chưa nhỉ Tôi leo lên xe Jeep về BCH như bị ma đuổi không dám quay đầu nhìn lại, tôi bối rối thật sự trong lòng tự nghĩ: Ông ta cũng lớn tuổi hơn mình rất nhiều, thế mà mình ra lệnh ngon lành... Thôi thì mặc kệ Nhà Binh dạy mình như thế, kẻo không ông TT. Thành gọi mình là "SQ như gà nuốt dây thun"! Thật ra tôi đang học ở các người để trở thành người lớn có Uy Quyền đó! Ôi "đời nhà Binh như tình nhà thổ". Phải làm mặt giả dối mà cư xử như thế thôi, nhiệm vụ mà! Tôi cho xe chạy ra cổng trại ra con suối DarkLon chảy qua hướng Đông Nam BenHét con suối khá lớn tiếng nước chảy ồn ào từ xa vẫn còn nghe được, tôi cho xe từ từ đổ cạnh bờ suối rồi cởi quần áo, giầy vớ nhảy ùm xuống nước, làn nước trong veo lành lạnh làm tôi tỉnh cả người, tiếng cười đùa văng vẳng cách đó không xa tôi thấy không gian bình yên. Giật mình chợt nhớ lời ông Thiếu ta Thành " Coi chừng gặp mấy nàng Sơn Nữ sẽ bị mấy cô bắt đền ba trâu hai heo đó !" Tôi lật đật chạy về bên chiếc xe Jeep vơ lấy đồ mặc vô vội chuồn ra khỏi lảnh địa này sớm chừng nào tốt chừng nấy! Chưa kịp mặc quần lót thì các nàng đã trông thấy tôi!!! Họ cùng nhau chạy tán loạn miệng la : -Ồ cái người Kinh này xấu quá! Đi tắm chổ bọn con gái! Thật xấu hổ, tôi biết phép độn thổ chắc tôi đã trốn xuống đất rồi, tôi đâu có biết chổ này là của họ? Rắc rối quá, mình không lường hết những gì ở nơi hoang dả này! Mặc xong quần áo tôi cho xe nổ máy chạy khỏi nơi ác địa thật mất hết hứng thú ngắm cảnh. Lái xe về ban QX, tôi về TOC chờ tin tức của Thạch Chinh. Buổi chiều nhè nhẹ gió mát trải khắp không gian trại, từng giọt nắng hiu quạnh như cố bám víu san sẻ nổi cảm thông cho những con người lính thú sống dưới gian hầm tối tăm ẩm thấp! Bây giờ tôi thấy thông cảm với mấy anh chàng lính thi sĩ, họ có lý khi họ viết " Benhét Loving it " Trong khuôn viên trại bình yên thì nơi đây nên thơ như thế, còn khi chiến tranh thì máu đổ thịt xương tan! Trái nghịch như thế mà họ vẫn yêu? Mãi nghĩ vẫn vơ bóng tối bao trùm lúc nào chẳng hay, tôi vào hầm TOC ngồi cạnh bức Đồ Không Ảnh, nhìn những ký hiệu ghi chi chít làm hai mắt trỉu nặng, giờ này C/U Tuấn và H/S Thắng chắc họ đi ăn cơm ở CLB, tôi cảm thấy đói lần đi xuống khỏi đồi đến CLB. Bước vào Phòng ăn chỉ còn có Tuấn đang ngồi với mâm cơm canh đạm bạc, thấy tôi Tuấn vội đứng lên kéo ghế mời dùng bửa tối , tôi cảm ơn ngồi vào ghế đối diện với Tuấn, người phục vụ bưng ra phần ăn của tôi, chúng tôi ăn không ai nói lời nào, cảm thấy không gian ngột ngạt tôi nói với Tuấn : -Ngày mai tôi đi HQ, xin cậu cho tôi vài lời khuyên? -Dạ. ở vùng này theo kinh nghiệm của em thì không có gì nguy hiểm, nhưng cò một diều cần nên đề phòng đó là "Cọp" vì chúng nhiều lắm! nó có thể bắt người để xơi không cần tái, Từ ngày em ra đây đã đi HQ 4 lần, bị Cọp vồ lính ĐĐ hết 2 lần, một mất xác, một bị thương nặng phải nằm viện hơn 8 tháng. -Ủa vậy sao ? TT.Thành không nói cho tôi biết chuyện này nhỉ? - Có lẻ ổng sợ ông lo lắng nên không nói! Nhưng ổng có điều Thượng sĩ Trang đi theo ông giúp là một ưu ái đó, ở đây hiếm khi nào lại điều động hai ngưới lính đi cùng một chuyến HQ lắm! Ôi! hết Ma rồi đến Cọp, rồi không biết sẽ còn những thứ gì nửa đây ? Tôi tự nhủ. -Thiếu uý đừng lo, có thằng Dé người Thượng ở ĐĐ2 tôi có cắt nó đi với ông, nó là người dẫn đường rành lắm! -Cảm ơn cậu giúp đở, bây giờ thằng Dé mó ở đâu vậy? -Dạ, nó đang ở trong hầm TT. chổ T/U đó, tôi bảo nó ở đó chờ ông. Cơm nước xong tôi trở về hầm TT gặp Dé ngồi đó chờ tôi tự lúc nào tôi hỏi: -Anh ăn cơm chưa ? -Dạ rồi! -Hôm qua tôi nhốt anh trong chuồng cọp sau đó anh làm cách nào đi khỏi mà không cần mở khoá ? -Dạ tui không biết nửa, Yang cho tui về cái nhà của tui ở cái Làng đó mà! -Bằng cách nào anh chui khỏi nơi đó? -Cái Yang cho tui đi qua cái lổ nhỏ nhỏ thôi! Tôi tức tối không biết được thổ ngữ để hỏi cho ra lẻ, vì trình độ tiếng "Kinh" của hắn chỉ biết nói như thế thôi! Tôi chỉ cho Dé trải Poncho nằm ngủ cạnh bên ghế bố của tôi, Ngôn ngữ bất đồng khó tìm hiểu và tâm sự, thấy tôi không nói gì Dé bắt đầu ngáy vang chìm sâu vào giấc ngủ, tôi trằn trọc mãi không ngủ được đứng lên ra trước cửa gian hầm nhìn bầu trời đêm BenHét. Đêm BenHét trời đầy sao như những viên kim cương lấp lánh gắn trên chiếc áo nhung huyền, không gian giờ đây im lặng từng vệt sao băng dài cuối chân trời như những đốm pháo hoa bừng nở, xa xa tiếng kêu gọi đàn của thú rừng hoà lẫn tiếng gió xào xạc. tiếng côn trùng rền rỉ nghe như tiếng kêu than những vong hồn chiến sĩ trận vong bên dưới thung lủng "tử thần". Cái đẹp về đêm của BenHét đến rợn cả người!!! Tôi bước lần ra khỏi hầm TT đi về hướng vòng đai phòng thủ, những ụ Đại Pháo 205, 175, chiến xa M48, M41 đồ sộ như những ngọn đồi nho nhỏ sẳn sàng nhả đạn khi có biến. Tất cả không gian và thời gian nơi đây như dừng lại trong sự chờ đợi, chờ đợi cái gì Con người và súng đạn, chết chốc, xác người vùi lấp trong những giao thông hào, trong hố bom, bên ngoài nhiều lớp vòng rào phòng thủ kia là vùng đất rừng nham nhở lổ chổ những hố bom B52 đường kính hơn mười mét. BenHét với chuyện Ma quái truyền khẩu trong những con người nơi đây mang nhiều tính chất bí ẩn thế giới vô hình... Tôi đi lang thang như thế trong nhiều giờ nhưng chưa đi hết vòng đai của Trại BenHét. Trở về gian Hầm TT tôi không thấy Dé, mình nghĩ có lẻ hắn đi đâu đó, vừa mệt vừa buồn ngủ tôi làm một giấc đến sáng... -Thiếu Úy dậy chuẩn bị HQ, sao lại ngủ dưới đất như thế này !!! Tôi ngồi dậy không còn ngạc nhiên khi thấy mình nằm dưới đất, nhìn Tuấn mỉm cười bảo với hắn : -Cậu xuống dưới trước tôi chuẩn bị xong xuống ngay! À! còn thằng Dé đâu rồi nhỉ ? -Dạ nó đang ở dưới sân Tập trung đang lảnh lương khô! Tôi vội mang giầy đội chiếc nón vải nguỵ trang rồi mang Balô đi xuống sân tập trung, nơi đây hơn trăm người đang lảnh lương khô và vũ khí, thấy Dé tôi hỏi hắn đêm qua hắn bỏ đi đâu ? -Dạ cái Yang kêu tui đi chơi! tôi lắc đầu tỏ ý không hài lòng với Dé và nói : -Từ nay trở đi anh phải ở cạnh tôi, có đi đâu phải xin phép tôi không được bỏ đi ngang có nghe không ! -Dạ.!!! Tôi nhận 7 ngày lương khô đưa bớt cho Dé 7 phần tôi nghĩ 14 phần lương khô mình ăn 7 ngày cũng xong, giây lát sau Capt. Smith Cố Vấn Mỹ và tên thông ngôn đi xuống Bắt tay tôi rồi y tự giới thiệu về mình, tôi mỉm cười xã giao, y đưa bản đồ địa bàn, lệnh HQ cho tôi Hắn nói: "Tôi là Chì Huy Trưởng, còn Thiếu úy Tâm là Phó HQ ..." Hắn chỉ cho tôi những điểm sẽ tuần tiểu 7 ngày trong khu tứ giác toạ độ... Từ trên Hầm Chỉ Huy TT. Thành đi xuống ông đưa cho tôi khầu P38 nòng ngắn còn nằm trong bao da, ông nói: -Cậu hảy cầm lấy mà xài hên lắm đó! -Dạ cảm ơn TT! Tôi đón nhận khẩu súng nơi tay ông với tình cảm ấm áp của người cha lo lắng đứa con, trong đôi mắt ông ngầm dặn dò vổ yên tôi khi tôi đang bước vào cuộc chơi của đời lính. Đúng 7h00 cả đoàn quân bắt đầu rời khỏi trại nhắm hướng Tây bắc, đoàn quân đi chưa đầy 10 phút vào đến rừng già âm u, tiếng chim kêu và tiếng ve hoà quyện với nhau như khúc nhạc Quân hành, vết chiến tranh trước đây vẫn còn hằn trên thân cây, từng mảng đất, mù tử khí còn hoà lẫn vạc rừng nguyên sinh. Tôi bước đi theo đoàn quân trong lòng cảm thấy lo lắng bất an, tiếng máy PRC 25 sau lưng tôi vẫn kêu xè xè đơn điệu như trong căn hầm truyền tin. Dé đi cận tôi y nói : -Thiếu Úy ở phía trước có ông "Cóp", nói với mấy người đi trước cẩn thận, ổng vồ là chết chắc đó ! Tôi còn bán tín bán nghi không biết như thế nào chợt nghe một loạt súng M16 nổ dòn và tiếng người kêu la ơi ới. Tôi ra lệnh cả đoàn quân dừng lại phân tán và bố trí trận địa, tôi cùng Dé và tên lính Thượng mang máy PRC25 đi lên phía trước, trước mắt tôi tên lính Thượng đang oằn oại trên vũng máu đỏ ngòm, cổ họng bị xé rách toạc bởi sức mạnh khủng khiếp , con Cọp thì đã chạy mất rồi, tiếng khẹt khẹt lẫn máu và bọt khí từ trong cổ họng tên lính Thượng phát ra có lẻ y đau đớn lắm! -Y Tá đâu? Hai tên Y tá người Thượng Chạy đến băng bó chích thuốc cầm máu cho tên lính bị Cọp vồ. Lúc này tên Mũi lỏ đi lên thấy cảnh tượng ấy hắn nhăn mặt, gọi máy về Trại liên tục, hắn kêu một số lính dọn dẹp một vạc rừng thưa để Trực thăng tải thương. 20 phút sau Tiếng trực thăng dần dần lớn vang động khu rừng tôi ra lệnh cho bọn lính thượng mang tên bị thương ra khu vực rừng trống đưa lên Trực thăng tải về Bệnh Viện 2 Dả Chiến... Tôi bắt đầu tin tưởng những gì Dé nói trong lòng luôn thắc mắc: "Hình như hắn biết trước những gì sẽ xảy ra trong cuộc HQ, hắn là thứ gì mà thần bí như vậy?" Tôi hỏi Dé trong cuộc hành quân này có gì nửa không ? -Dạ tui không biết, khi nào có chuyện thì cái Yang cho tui biết thì tui nói với Thiếu uý ! Tôi ra lệnh những người dẫn đường quan sát cẩn thận và cho đoàn quân tiếp tục di chuyển. Đọan đường vào rừng sâu càng lúc càng khó đi, dây leo chằng chịt, người dẫn đường phải dùng dao chặt dọn cho được khỏang trống vừa một người đi qua, hết lên dốc rồi xuống khe một giờ trôi qua cả Đại Đội di chuyển khỏang 2 cây số, mồ hôi ướt đẩm cả áo tôi thấy khát nước vội uống vài ngụm nước trong mát cảm thấy trong người dể chịu, nghe quanh mình có tiếng rào rào nhìn xuống những tán lá tôi thấy nhiều sinh vật nhỏ bằng cây tăm xỉa răng màu đen mốc đang ngoe ngẩy bám trên lá cây rừng, chúng phóng lên áo quần bò nhanh chui vào người tìm da non hút máu, tôi rợn người khi thấy chúng, những con đã hút no máu chúng còn bám chặc vào ngực vào chân tôi, Người lính mang máy TT giúp tôi gở từng con trên thân thể, anh ta nói : -Thiếu úy phải bẻ lá cây rồi cắm ngược lá xuống trên thắc lưng, giầy thì chúng không còn bám vào ông nửa! Tôi làm theo lời y dạy, quả nhiên chúng không còn bám vào người tôi nửa, đây cũng là kinh nghiệm của dân bản xứ, chỉ có họ mới biết điều kiện thích nghi cùng rừng núi... Tôi ngồi xuống lấy bản đồ và Địa bàn để định vị, đã hơn 12 giờ tôi nói cùng Smith cho dừng quân và ăn trưa, tôi ngã người vào gốc cây cổ thụ đầy mốc meo nhắm nghiền đôi mắt nghe bản giao hưởng của núi rừng, "cuộc dạo chơi" đầy vất vả, đầu óc tôi miên mang suy nghĩ lo lắng những gì mình sẽ gặp trong thế giới rừng thẳm??? Tiếng máy gọi làm cắt đứt luồng suy tư tôi cầm máy nghe: -81 đây 80? -81 nghe 80! -Cậu đang ở đâu sao không B/C ? -81 đang ở toa độ... xin chỉ thị! -Bây giờ cậu cùng với Capt.Smith hội ý rồi cùng lên điểm thứ 1 đóng quân nghe! Dứt. -Rỏ rồi 80! Nhìn trên bản đồ điểm 1 nằm trên vòng cao độ 1.053 mét tôi ngán ngẫm nhưng lệnh thì phải đi, tôi ngồi xuống bên tên mũi lỏ hội ý cùng với hắn, thấy hắn cùng quan điểm với tôi nên tôi cũng có chút thiện cảm với tên mũi lỏ này, tôi ra lệnh đại đội chuyển quân lên ngọn núi trước mặt... Lên đỉnh núi trời bắt đầu sẩm tối, tôi thúc hối mọi người lo bày trận địa mìn đào hố cá nhân và ăn tối, tôi quay trở về BCH thì Dé đã căn liều và treo võng cho tôi, Ksor. Ngat tên lính mang máy cũng nấu xong buổi ăn tối mời tôi cùng Dé ăn. Trời tối mịt cả ĐĐ yên lặng không tiếng động chỉ còn lại tiếng "Tát" của con Mang (một lòai hươu) vang dội núi rừng, hòa lẫn tiếng côn trùng rỉ rả. Tôi lên võng nằm ngước mắt nhìn bầu trời đêm dưới những tán cây rừng, ánh sáng các ngôi sao lung linh tôi mơ màng nghĩ về Quỳnh. Quỳnh dịu dàng kín đáo, đôi mắt to đen trên gương mặt trái soan thường nhìn tôi như muốn nói :" chúng mình đừng bao giờ chia xa nhau nhé anh!" Tôi vuốt tóc hôn nàng thay cho lời nói, tôi quen nàng từ năm cuối trung học cho đến khi tôi ra trường, 5 năm qua tôi và Quỳnh cùng ước hẹn chuyện hạnh phúc lứa đôi, nhưng nào ngờ mọi biến động dòng đời xô đẩy tôi và quỳnh mỗi người mỗi nơi thật khó được như ước muốn... Hết nghĩ đến Quỳnh, tôi lại nhớ đến Mẹ, người đàn bà suốt cuộc đời vất vã quên mình chỉ biết lo cho chồng con. Ngày tôi ra đơn vị bà đưa tôi vào tận phi trường dặn dò đủ thứ:" Con nhớ mặc áo cho thật ấm, ngoài ấy mẹ nghe nói trời lạnh, rừng thiêng nước độc lắm! Con phải chăm sóc cho sức khoẻ kẻo không có mẹ bên cạnh lúc ốm đau bệnh hoạn thì ai lo cho con? Con nhớ ăn uống thật tốt, nhưng lương lính thì có được là bao, mỗi tháng mẹ sẽ gởi cho con thêm 5.000 đồng để tiêu vặt..." Biết bao nhiêu điều nửa Mẹ nhắc nhở lo toan cho tôi khi xa nhà, có lẻ tấm lòng trời biển của những bà mẹ Việt đều như thế cả!!! Tôi thức dậy trời vừa rạng sáng thấy Dé pha cà phê mời tôi uống, nhấp ngụm Cà phê bổng dưng tôi thấy thèm thuốc lá như hôm nào TT. Thành mời tôi, đốt điếu thuốc đầu ngày tôi hít nhẹ nhả làn khói mỏng bảng lảng bay lên cao tan loảng vào hư không như bao chuyện mộng mơ của tôi, ngửi mùi khói thơm quyện trên tay cảm thấy mình đang có một niềm vui đơn thuần là "chấp nhận hiện tại." -81 đây 80 ? -81 nghe 80, xin chỉ thị! -Cậu đứng trên đỉnh nhìn về hướng Tây Bắc có thấy con đường mòn củ không? Nơi TĐ... chính là ngôi làng Plei jareng đã bỏ hoang hơn mười năm rồi, trưa nay Cậu cho đại đội vào đấy ăn cơm trưa, nhưng phải hết sức cẩn thận đấy! -81 nghe rỏ 5/5. Tôi đi về phía lều của Capt. Smith gặp hắn đang ăn sáng, một mớ vỏ đồ hộp nằm dưới chân của y, Smith lịch sự đứng lên bắt tay mời tôi cùng dùng bửa sáng với y, tôi lắc đầu cảm ơn vội lấy bản đồ cùng y phối trí HQ. Smith nói : -Theo tôi không nên vào làng vì sợ bị mìn. -Đại uý Smith đây là lệnh của TT.Thành cho ĐĐ ăn trưa ở đó! Y gật gù lẩm nhẫm trong miệng sau cùng chấp nhận kế hoạch, thế là cả đại đội sẳn sàng di chuyển đến điểm số 2. Bây giờ đến lượt xuống núi dốc trơn trượt, chúng tôi phải đeo bám vào các cây nhỏ nếu không may trượt ngã xuống khe núi thì có thể mất mạng... Suốt 2 giờ liền đi không nghỉ chúng tôi đi vào thung lủng cận điểm 2, tôi cho đoàn quân dừng lại bố trí trận địa và phái một toán nhỏ đến thám sát tình hình của làng Plei Jaieng. 20 phút sau họ trở về B/C vô sự tôi cho ĐĐ khởi hành đến điểm 2. Vào đến ngôi làng củ chỉ còn trơ vơ vài cụm cây cột nhà sàn, những hố hầm củ của các toán HQ nào trước đó, tôi lệnh cho Kso Nhut (viên Đại đội trưởng người Thượng) Bố trí các Trung đội vòng đai phòng thủ rồi ăn cơm trưa, cấm không cho họ đi xa quá 500 mét nơi đóng quân. Tôi đi quanh kiểm tra các đơn vị, phía bên phải thấy có đám cây cỏ xanh muợt, trời không gió oi bức mà đám cây cỏ cứ uốn éo như thân rắn bò phát tiếng động lào xào, tôi lấy làm lạ kêu Dé đến chỉ cho hắn xem loại cây cỏ ấy là gì? Dé nói: -Ồ! cái "thuốc hoang" đó Thiếu úy, ai lọt vào trong thì chắc chết chắc sống thôi! -Nghĩa là sao tôi không hiểu? -Con người nếu không biết vào trong đám Ngải là chết, chớ không chắc sống chứ ! -Nó là cây cỏ thôi chứ là cái gì làm cho người chết? -Cái Thuốc là "Cây Ngải rừng hoang" đó! Nếu người nào bị nó ăn thì cả người lở loét da thịt thối rồi sau đó chết! Dé không nói nửa, y đi ra ngoài bìa làng một lúc trở về trên tay một con gà rừng còn sống y nói: -Thiếu úy lại đây coi nó ăn con gà! Tôi nghe nói lòng hiếu kỳ muốn xem cho biết vội bước cạnh bên Dé, y liền quăng con gà rừng vào đám ngải hoang tôi nghe tiếng kêu la của con gà và tiếng xào xạc đám "cây cỏ lạ lùng", chúng vặn mình sát đất cuốn che phủ con gà rừng, giây lát thấy lông bay lên con gà bây giờ chỉ còn lại máu và xương đỏ ngòm. Tôi rùng mình kinh sợ chứng kiến cảnh Ngải hoang ăn sinh vật. Tôi hỏi Dé :"-vậy trên đường đi có khi nào mình bị lạc vào rừng Ngải như thế không ?" -Ồ! chắc có, chắc không, nó ăn người không như ăn con gà vì Gà rừng nhỏ, còn con người thì to lớn hơn nên Ngải không thể cuốn lấy nhưng nó phun "thuốc độc" làm người ta mê mang ngã xuống nằm trên đám ngải lúc ấy nó mới ăn, nhưng không sao có Dé đây Thiếu uý đừng lo! Thật đúng tôi lo như thế, nếu như không biết, không kinh nghiệm thì con người dể làm mồi cho rừng thẳm, bây giờ tôi mới thấy Dé là người có đủ kinh nghiệm từng trải về chuyện huyền bí rừng thẳm. Tôi hỏi Dé : -Tôi nghe chuyện thư yếm của người Thượng ở đây ghê lắm phải không? Dé cười bí ẩn nhưng không nói gì với tôi, không hiểu y có biết giải thích tiếng Kinh những gì tôi hỏi không??? Bên hàng cột nhà sàn trơ trọi capt.Smith đang liên lạc với toán CV Mỹ ở trại BénHet, trên bầu trời tiếng động cơ chiếc L19 đang lảng vãng gần chúng tôi, tiếng Đại Pháo 205, 175 từ Trại vọng ra, tiếng đạn xé rách không khí trên cao, từng tràng Pháo nổ cách chúng tôi khoảng 1 km. Capt, Smith đưa vẫy gọi tôi đến hắn nói : -Chiếc Phi cơ L19 báo cáo cách chúng ta khoảng hơn 1000 mét có Địch quân di chuyển, Thiếu úy cho đại đội phòng thủ nghiêm nhặt đề phòng, hiện nay nó đang cho Pháo tầm xa bắn vào mục tiêu mới phát hiện đó! Tôi nghe Smith thông báo tim tôi nó nhảy loạn xạ lên vì hoảng sợ, không biết hậu quả cuộc chiến sắp đương đầu sẽ ra sao? Tôi đi về chổ Dé đang ngồi tôi cho gọi các Đơn Vị trưởng lại bố trí công việc ứng phó, tôi hỏi Dé có biết gì không ? Dé thảng nhiên trả lời : -Nó không dám làm gì mình đâu thiếu úy, tụi này nó đói nên mới mò về kiếm ăn ở các cái làng quanh đây thôi! -Anh nói đó quân GP sao? -Không, tụi này là lính của Vương Quốc SéDang ngày xưa đó! Có một số nó trở thành thổ phỉ vùng này! Lại thêm một chuyện lạ mà tôi chưa được nghe ai nói. Tiếng ðạn Ðại pháo nổ càng dồn dập, tôi cùng Dé ði về hýớng Trung Ðội 1 ðang ở hýớng diện với bọn phỉ, Dé nói cùng tôi: -T/u, tụi phỉ toàn sử dụng vũ khí của Pháp thời kỳ bảo hộ nãm 1930 trở về trýớc nên không ðáng lo. -Vậy cho nay chúng nó vẫn còn tồn tại dọc theo biên giới hay sao? -Ngýời Thýợng thì dể sống với cái rừng, ðói thì ðào củ ãn khát thì uống nýớc suối, có khi ði sãn ðýợc con nai, con mểnh, rồi có khi chúng nó vào buôn làng bắt ngýời theo chúng, hoặc ði cýớp các buôn làng ở dọc theo biên giới. Tôi biết những lời của Dé nói rất chính xác, những sự kiện trên tôi nhớ có lần ðọc trong thý viện QG lúc tôi còn ði học. Tiếng súng nổ dòn lẫn tiếng la hét phía trýớc tôi vội chạy nhanh ðến kế bên cãn hầm trú ẩn lộ thiên ðýa mắt quan sát bên ngoài, hình nhý bọn phỉ không biết có chúng tôi nõi ðây nên chúng lọt vào vòng ðai của trung ðội 1, hoả lực của Trung ðội 1 bắn xối xả vào bọn phỉ, chúng chí bắn cầm chừng bằng loại súng cổ ðiển, tôi gọi cho Smith xin dứt ðiểm bằng hoả lực pháo binh hoặc phi cõ. Giây lát sau từng tràng Ðại Pháo cài xới từng mảng rừng, cây rừng bị tiện ðứt rõi ngã hoà theo tiếng nổ ðinh tai nhức óc bởi những quả ðại pháo 205 ly, bọn phỉ bây giờ hoảng loạn vừa chạy vừa la hét sau ðó dần dần im bặt trả lại sự im lặng ngàn ðời của rừng thẳm. Tôi xin ngýng tác xạ và cho TÐ1 lên thanh toán mục tiêu, sau một hồi lục soát, viên Trung ðội trýởng ðến gặp tôi báo cáo kết quả: -Thýa T/u bọn chúng chết 5 tên, bắt một tên bị thýõng nặng, chúng toàn ngýời Thýợng ở vùng Daksúut... Tôi nghe nói bắt sống một tên nên tôi cũng muống ði xem thử bọn phỉ cho biết. Bước về hướng trận địa của Trung Đội 1, hằng chục binh sĩ người Thượng đang núp sau các hàng cây cổ thụ to súng lăm lăm hướng về phía trước. dăm xác người nằm ngổn ngang máu đỏ loang trên thân thể, họ ăn mặc như chiếc áo Poncho, quần khố dây cách trang phục của dân tộc miền núi, làm tôi cảm thấy kinh tởm ghét cuộc chiến tranh không từ bỏ bất kỳ chổ nào; như những khu rừng nguyên sinh nơi bình yên vắng lặng. Lần đầu tiên tôi thấy những con người bị sát hại, có lẻ gia đình họ sẽ đau khổ vô cùng khi bị mất người thân... Tiếng rên la đau đớn của tên phỉ bị thương làm tôi xốn xan khó chịu, tôi cho gọi viên y tá băng bó và chích thuốc giảm đau cho tên phỉ, đùi phải của hắn bị trúng loạt đạn đại liên làm gẩy xương máu chảy lai láng thắm ướt cả đôi chân, gương mặt xanh mét gầy gò của tên phỉ như đã từng bị chứng bệnh sốt rét kinh niên, trong đôi mắt trủng sâu nhìn chúng tôi như van lơn xin được sống.( việc sống chết của tù binh do quy luật tất yếu là tình thương nhân đạo). Tôi cho Trung đội 1 đào hố chôn 5 cái xác bọn phỉ...Ôi chiến tranh mà !!!
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:46:46 GMT 9
Tôi trở về BCH đề nghị với Smith xin tản thương, 10' sau trực thăng đáp xuống đưa tên phỉ về Quân y viện Dã Chiến II. Đoàn quân tiếp tục di chuyển đến điểm 3 nằm giửa biên giới Việt Lào... Buổi trưa trời nắng tháng 3 như thiêu đốt khu rừng, những con suối chỉ còn lại những rảnh khe khô khốc. đoàn quân di chuyễn trong mệt nhọc yên lặng thỉnh thoảng dừng lại nghỉ mệt uống vài ngụm nước, đường đi càng ngày càng lên cao độ, đến chiều trời không còn bóng nắng, không khí dường như dịu mát tôi thèm được tắm gội trong lòng suối mát lạnh nhưng hôm nào mới đến BenHét. Lên ngọn đồi 904 cách biên giới 200 mét tôi ra lệnh đóng quân cho một số binh sĩ đi tìm nước, sau đó tôi gọi máy B/C về trại BenHét: -80 đây 81 chúng tôi đến điểm 3 xin chỉ thị. -81 hảy bố trí phòng thủ nghỉ đêm, cậu cho 2 toán tuần tiểu đi tìm nguồn nước, cấm binh sĩ không được đốt lửa kẻo làm lộ mục tiêu. -Dạ 81 nghe rỏ 5/5 dứt. Hai đội tuần tiểu đi tìm nguồn nước chưa về, tôi lo âu không biết chuyện gì có thể xảy ra ... Các toán tuần tiểu trở về B/C không tìm được nguồn nước, các con suối vẻ trên bản đồ chỉ là những khe núi khô khan, chúng tôi chỉ còn một ít nước trong Bidong để dự trử không dám uống, tôi đề nghị cùng Capt. Smith xin Trực Thăng tiếp tế nước cho đoàn quân. Trời tối mịch trong rừng già vẫn tiếng ve kêu vang gần 200 con người đang chờ đợi một cái gì không thể hiểu biết và lường trước được, chúng tôi phó mặc cho số phận, cho mọi diển biến tình hình chiến tranh nơi vùng ngả ba biên giới này trong từng giờ từng phút, một đêm bình yên qua đi trong không gian ngột ngạt. Lủ chim rừng kêu vang làm tôi thức dậy, Dé đã pha sẳn cho tôi một cốc cà phê sửa nóng, tôi nhấp từng ngụm cà phê phì phà điếu thuốc tận hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi để thấy cuộc đời chan hoà hạnh phúc và gian khổ... Mãi đến 8h00 chúng tôi nhận được tiếp tế và bắt đầu chuyển quân đi dọc theo biên giới Lào Việt, nhìn trên bản đồ không ảnh có ngôi làng cách chúng tôi chưa đầy 2 km, tôi ra lệnh cho Trung đội 2 đi vào lục soát và đóng quân, tiếng gọi trong máy vang lên : -81 đây 812! -81 nghe. -Báo cáo 81, ngôi làng hiện nay có vài căn hầm mới đào đấp nhưng không có người! -812 cho Binh sĩ bố trí phòng thủ tôi sẽ lên gặp anh. Tôi cùng đoàn quân vượt lên vào ngôi làng, hai bên bìa làng đầy những chiếc quan tài bằng thân cây dài khoảng 2,5 mét khoét rổng ruột được kê lên cao cách mặt đất một mét những xương cốt người chết phơi bày dưới mưa nắng quanh năm, trông cảnh chết chóc ấy tôi không khỏi rợn người. Lối chôn cất người chết của dân tộc nơi đây quả là lạ đời, mình có thể tưởng tượng mùi xú uế kinh tởm bốc lên hoà lẫn không khí hằng ngày mà dân bản làng này phải hít thở, ruồi nhặng, muổi mòng mang bao bệnh tật cho dân làng... Tôi hỏi Dé sao dân bản này không biết chôn xác người, sao lại để nằm trên mặt đất như thế? -Tục dân bản nơi đây họ không chôn người chết, là vì họ cho rằng : " nếu chôn người thân thì họ sẽ mất người chết vỉnh viễn, họ "cất" người thân như thế để tỏ lòng thương yêu, không muốn cho "đất nó ăn" người thân! Tôi thấy lý thú trước những ý nghỉ mộc mạc của dân tộc vùng ven biên. Tôi và Dé đi dọc theo các hàng quan tài lộ thiên, cái còn nấp có cái bị bật nấp bị rơi xuống đất. Dé gọi tôi chỉ một chiếc quan tài chiếc nấp lệch sang một bên: -T/u lại đây cái quan tài này lạ lắm! Trong cón một xác người chưa rả còn cả quần áo nửa! Tôi đi đến bên Dé nhìn vào trong tôi rùn mình, cái xác bên trong quan tài như người còn sống dù đôi mắt nhắm nghiền, làn da khô đét như vỏ cây nổi hằn lên những làn gân máu hình như huyết quản vẫn còn lưu thông. -Các xác này như người còn sống? -Dạ phải đó T/u !Nó còn sống nhưng chỉ về đêm mà thôi! -Tại sao lại sống khi về đêm, không lẻ nó là ma Cà rồng ? -Ma Cà rồng là ma gì vậy T/u ? -Tôi cũng không hiểu, nhưng truyển thuyết ở Châu Âu nói; ban đêm ma Cà rồng đi hút máu để sống, ban ngày thì vào quan tài nằm ngủ. -À ! Tôi hiểu rồi! Thì cái con người này nó cũng như vậy đó, nhưng có điều nó không hút máu, nó chỉ ăn ruột các con thú rừng thôi! Tôi càng lúc thích thú với chuyện cái xác trong chiếc quan tài lộ thiên này. Tôi đứng lên cho gọi tất cả các đơn vị trưởng HQ về BCH họp bàn kế hoạch phòng thủ tối nay, tôi hỏi : -Tối nay chúng ta đóng quân nơi đây là vùng nguy hiểm, có thể có những bất trắc sẽ đến với chúng ta bất cứ giờ phút nào, tôi yêu cầu các đơn vị trưởng đôn đốc canh phòng cẩn thận, bày trận địa mìne cách xa vòng đai 50 mét, quý vị rỏ cả chứ ? Tất cả các đơn vị trưởng đồng thanh đáp: -Rỏ rồi 81! -À! còn một việc nửa, tôi thắc mắc không hiểu cách đối phó với cái xác lộ thiên ở cạnh bìa làng, hay là chúng ta chôn nó xuống đất cho xong? Y'Blang. Viên Trung Đội trưởng TĐ 3 nói: -T/u đừng chôn, chỉ làm cho nó đi mất thôi! -Tại sao nó lại đi được? -Chuyện này cũng hơi dài dòng để tôi kể cho mọi người nghe rồi mình xử trí cái xác đó : -Thời tôi còn bé tức vào năm 1937 trong làng ManBut tôi có một Già làng nổi tiếng về chửa trị bệnh những người bị ngải thư yếm, ông ta có một người em họ vì ganh tị với ông anh nên ông ta quyết chí đi tìm một thứ ngải cao thâm mạnh hơn để mình được mọi người tôn sùng. Ông ta bỏ vào rừng đào lấy Ngải rừng hoang rồi cất liều ở trong ấy để luyện ngải, ngày thì đi tìm khoai củ săn bắn để có thức ăn đêm về ông ra công luyện ngải. Mãi đến 3 năm sau ông thấy mình đã thành công bèn trở về trước tiên "thử" ông anh họ, ông ta bèn "Thư Muối" trước chân cầu thang nhà của già làng, vô tình Y'sor đứa con gái nhỏ của Già làng đi ra trước nên vướn loại ngải độc ấy! bụng cô bé trong một ngày phình to người mệt mỏi bắt đầu hôn mê. Biết con gái mình trúng một loại kỳ độc nên Già làng cố gắng chạy chửa cho con, nhưng sức người và hiểu biết có hạn nên đứa con gái nhỏ của ông chỉ ba ngày sau rồi chết, ông căm thù người bỏ ngải hại gia đình ông, nên sau đó ông quyết chí đi học thêm "THUỐC". Thế là ông bỏ làng đi qua HẠ LÀO tìm thầy cao tay để học hỏi, trên đường đi, ông đến một ngôi làng Dân tộc Thượng bỏ hoang thấy có đám Ngải có thân dài uốn éo như rắn mà đơn vị mình gặp hôm trước đó! Người Dân tộc chúng tôi gọi nó là "THUỐC CRÓ". Già làng thấy xung quanh ba mét không có một sinh vật nào dám bén mản đến, chỉ có lũ Ruồi, Ong, Bướm ve vản trên cái Hoa màu đỏ hồng liền bị nó phun độc rơi xuống cánh hoa rồi chúng ăn. Ông ta suy nghĩ nếu như nó chưa luyện mà đã như thế thì chắc chắn nó phải là loại THUỐC cực kỳ nguy hiểm và mạnh hơn bất kỳ loại ngải nào ông đã từng biết qua. Rút chiếc rựa sau lưng ông định đào lấy bụi ngải nằm ngoài gần ông nhất, khi bước đến gần chúng cả đám ngải xào xạc uốn éo thân nằm rạp xuống, ông nhanh tay phóng một rựa ngập sâu xuống đất làm bật cả rể bụi ngải lên rồi lôi chúng ra ngoài tầm xa, ông cảm thấy đầu óc choáng váng ngả chúi xuống phía trước mê man không còn biết gì nửa... Khi Ông tỉnh lại thấy trời đã chiều, trên tay vẫn còn nắm bụi ngải, cảm gíac tay ông đau buốt như ai cắt, nhìn thấy bàn tay sưng vù đỏ như hoa ngải không còn co dổi như trước, ông kinh hoảng vội moi từ trong lưng một củ ngải giải độc ông nhai ngấu nghiến nuốt lấy cả xác, giây lát sau ông nghe người dể chịu hơn tay bớt sưng nhức. Lần mò xuống bờ suối gần đó ông uống nước và rửa tay, thấy tay mình bình phục như trước, mừng rở khi biết cách hóa giải loại thuốc cực kỳ độc, ông trở lại chổ cũ cắt lấy củ ngải"CRÓ" bắt đầu luyện cho đến khi ông và "HỒN NGẢI" thành một... Suốt mười mấy tuần trăng ông ở mãi trong rừng không màn đến bản làng, không ai biết ông đi đâu, một số dân bản làng đi tìm ông nhưng biệt vô âm tín... Ông ta càng ngày thấy mình thèm ăn lòng ruột của thú rừng, nên ông quyết định đi săn thú, nhưng trong tay không cung nỏ chỉ có chiếc rựa thì làm sao săn chúng? Chúng chạy nhanh như tên bắn ông bắt đầu phải theo bản năng tức là chạy thật nhanh dùng tay không giết lấy con mồi rồi móc lấy bộ lòng ruột của chúng ăn ngon lành... Trong tư duy của ông không hề nhìn thấy việc sinh hoạt của mình biến thái kỳ lạ, ông không còn nhớ đến người thân vợ con ông và con đường về bản làng của mình, ông cứ sống bằng bản năng của một loài thú hoang ... Một hôm tình cờ ba người dân Bản làng vào rừng săn thú thấy có một con vật như khỉ đột lông lá râu tóc bờm xờm chạy nhanh như gió đang lén lút đi theo bọn họ, dần dần họ kinh hoảng dùng ná bắn sinh vật ấy, quái vật trúng tên kêu rú và bỏ chạy, ba người một phen sợ hải bỏ cuộc săn trở về làng ngay trong trưa hôm ấy truyền khẩu cùng dân bản không nên vào "cái rừng" vì lúc này trong "cái rừng" có Quái Vật!!! MỘt thời gian khá lâu khoảng 3 năm sau đó nhiều người dân trong bản làng đi làm nương rẩy bắt gặp ông lúc ẩn, lúc hiện trong bìa rừng, họ cùng nhau kể cho dân bản làng nghe thêm thắt về quái vật mà họ đã từng gặp trong rừng... Cùng thời này, tên Quan Ba về hưu người Pháp chủ Đồn điền Trà ở vùng Dakto rất giàu có của Vương Quốc SéDang, thường tổ chức đi săn Voi, Bò Rừng, Nai ở các khu lân cận Daksan, ChưRong họ thường gặp Quái vật có dáng dấp như con người chạy nhưng nhanh như gió, một cú vồ móc họng của quái vật là một người ngả gục. Nên tên chủ Tây đồn điền mướn bọn thân binh từ ngoài tỉnh Pleiku vào canh giử an ninh cho đồn điền. Đồn điền trà Dakto buổi chiều trời vừa tắt nắng, tên Bình Cai Đội cùng một số Thân binh đi tuần ngoài các lô trà bổng nghe tiếng hú từ phía bìa rừng bên trái, những tên Thân binh nghe tiếng rú của Quái vật đều kinh hoảng gương mặt co rúm vội vả kéo nhau bỏ chạy, Cai Bình cùng một số còn lại tất cả súng MAR36 lên đạn thủ thế từ từ di chuyển đến bìa rừng nơi có tiếng rú phát ra, nhìn quanh không bóng người khu rừng im lặng một cách đáng sợ, xảy nghe trong đồn điền có tiếng la hoảng hốt của những công nhân đang xấy trà, Cai Đội Bình và một số Thân binh chạy về hướng có tiếng la, đến nơi máy sấy trà đám công nhân run rẩy miệng lắp bắp chỉ về hướng bên chuồng ngựa có 2 con bị móc cuống họng nằm dải chết máu tuông lênh láng, nhưng quái vật không thấy tông tích. Cai Bình cảm thấy bầu máu nóng sôi sùng sục, hắn nhất quyết phải tìm cho ra hạ con quái vật nửa người, nửa thú này mới được. Tên Renee chủ đồn điền tay cầm khẩu súng săn nòng dài, đứng trước hiện trường lắc đầu thở dài khi thấy 2 con ngựa quý của y đang nằm dẩy chết, Hắn gọi Đội Bình căn dặn điều gì đó rồi bỏ vào trong nhà . Đội Bình tập họp lính lại đặt kế hoạch phục kích quái vật. Trời bắt đầu tối mịch xung quanh khu nhà chính đồn điền vài ngọn đèn dầu của Tây tỏ sáng, đêm nay không ai đi ngủ họ biết thế nào con quái vật cũng trở lại để ăn hai con mồi mà nó vừa hạ. Ánh trăng non ló dạng không đủ sức soi sáng khu đồn điền, hằng trăm con người sống trong kinh hoảng lo sợ , tiếng Cú kêu rúc từng hồi như làm tăng thêm không gian chết chốc Ma quái, những người CN hái trà ngồi quần tụ với nhau trong "láng" không dám ra ngoài.
Đến gần 8 giờ đêm, thấy khu vực vẫn bình yên không có tiếng động Cai Bình bỏ vào phòng lấy một chai rượu tây ra nốc cạn một hơi, men rượu hừng hực như đốt cháy thân thể, y đi trở lại nơi mai phục Quái vật, dưới ánh đèn Pin loé sáng hắn nhìn thấy một con người kỳ dị ngồi xổm bên xác hai con ngựa tay đang cầm khúc lòng đưa vào miệng ăn ngon lành, thấy ánh sáng đèn pin quét ngang con quái vật đứng lên đối diện với Đội Bình gào rú nhe răng gầm gừ, Đội Bình nhớ trực lại hắn không mang theo súng nhưng tình thế cấp bách hắn nhảy đại vào ôm quái vật vật xuống đất, bị tấn công bất ngờ con quái vật kêu oan oác như tiếng chim ó, nó chụp ngang vai Đội Bình xé toạc làm rách thịt, máu chảy bắn ướt vào mặt cả hai, chiếc đèn pin lăn long lóc nằm cạnh Đội Bình, Hắn cất tiếng kêu cứu, rồi vài tiếng súng nổ, con quái vật buông Cai Bình phóng như gió một mạch mất dạng. Tiếng rên la thảm thiết của Đội Bình, khắp nơi trong đồn điền đèn dầu Tây được đốt lên sáng choang, tên Chủ Tây và các đội công nhân hái trà lần lượt đến vây quanh bên Đội Bình, nhìn vết thương nơi vai tay phải của y chừng như chỉ còn lại gân xương bắp thịt hình như tuột ra không còn bấu víu vào xương, máu chảy đầm đìa đỏ ngòm trông phát sợ, với sức mạnh kinh khủng ấy con quái vật nó có thể xé đôi con người trong nháy mắt, Tên Bác Sĩ Tây kêu một số công nhân hái trà khiêng tên Cai Bình vào trạm xá của Đồn Điền. Tên Chủ Tây Đồn Điền hỏi tên bác sĩ điều gì đó, tên này lắc đầu tỏ vẻ thất vọng, sau khi thấm thuốc giảm đau Đội Bình không còn rên la. Tên chủ Đồn Điền sai người tài xế đánh xe đến trạm xá đưa Cai Bình ra Y viện của tỉnh Pleiku, chiếc xe tải thương đi rồi tất cả mọi người trong đồn điền một đêm không ai dám ngủ...
Sáng ngày tên Renee Chủ đồn điền Dakto đánh xe ra tỉnh vào gặp quan chủ tỉnh Tây trình bày việc Quái vật xuất hiện ở quanh vùng Dakto làm thiệt hại gia súc và vài mạng người bị giết trong đồn điền, tên này nhờ tên quan chủ tỉnh cho quân đội ruồng bố bắn hạ cho bằng được quái vật kinh khũng ấy! Tên Chủ Tỉnh đồng ý cho một đại đội Thân Binh của Tỉnh về đó tăng viện. Kể từ hôm ấy cả một đội quân lùng sục khắp khu rừng Daksaan, Dakto, dakpet gần ba tháng nhưng con quái vật không thấy tăm hơi, cả đội quân rút về nằm nghỉ ngơi trong khu đồn điền Dakto...
Phía Tây Bắc Dakto khoảng 50 cây số có một làng DakLon, vị Già làng biết nhiều loại Ngải Thư Yếm ông rất giỏi hay "Gở" giúp người bị thư ếm muốn trả công cái gì cũng được không đòi hỏi( thường các thầy Mo đều đòi hỏi lễ vật gồm Heo, Trâu, Dê v.v...) tuỳ theo căn bệnh. Ông nghe đồn về con Quái "Ó MA LAI" nửa người nửa thú đã giết người và súc vật, cũng muốn có ý định trừ hại cho dân nên ông Y'Seo đi DakTo đến đồn điền Trà của tên chủ Tây Reene bàn kế hoạch diệt quái vật. Tên chủ Tây Đồn điền mừng rở và nói với ông : -Nếu như ông diệt được con quái này thì tôi sẽ thưởng cho ông 100 đồng bạc Đông Dương( số tiền vào thời này rất to, một công chức Ngạch hạng A mỗi tháng chỉ có 20 đồng). -Thưa ông chủ tôi chỉ muốn giúp đở diệt trừ loài hung dử giúp dân lành thôi! Còn chuyện thưởng tiền bạc thì tôi không đòi hỏi! -Dù sao tôi đã hứa thì sẽ thưởng cho ai tiêu diệt đựơc quái vật. Ông Y'Seo đề nghị tên chủ Tây mua bầy ngựa mới ở Bình Định mang về nuôi chăn thả trong Đồn Điền nhằm lôi kéo con quái thú vào đồn điền để tiêu diệt, Bên chuồng ngựa cũ ông cho đào một cái bẩy hầm dài 20 mét, ngang 7 mét, sâu khoảng 6 mét, bên dưới thả lưới mắt cáo to khoảng 100cm, trên bẩy ngụy trang bằng lá cây . Tên chủ Tây lấy làm lạ vì cả trung đội súng ống mà chưa làm gì được nó huống chi cái hầm và lưới tầm thường ấy! Nhưng rồi Y cũng cho Công nhân làm theo lời của ông Y'Seo. Riêng Già Làng Y'Seo lấy da Trâu đã thuộc cho mềm đánh thành sợ thừng để bắt con quái vật. Vài tuần trôi qua vẫn không thấy tăm hơi con quái, Y'Seo không biết con quái thú ấy đã đi đâu? Ông kiên trì biết nhất định con quái ấy phải trở lại đây săn mồi.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:47:26 GMT 9
Hình như con quái biết trong đồn điền đã có nhiều con mồi béo tốt nên mấy hôm nay nó lảng vảng vào gần khu đồn điền, nó sợ cây que củi dài phát tiếng nổ đinh tai nhức óc nên nó chỉ men theo bìa rừng ven Đồn điền quan sát. Bầy ngựa nhẩn nha gặm cỏ không để ý đến nguy hiểm đang rình mò chúng, bổng con ngựa to nhất đàn đánh hơi hí vang lên cả bầy bỏ chạy tán loạn, bọn chăn ngựa phải chạy tất tả lùa chúng về chuồng nhốt vào giờ ăn trưa. Già làng Y'Seo theo dỏi mọi diển biến ông biết thế nào con quái sẽ vào chuồng ngựa để bắt mồi, ông âm thầm đi làm việc của mình. Y'Seo rải thuốc quanh chuồng ngựa, rồi báo lại cho chủ Tây không cho công nhân đến gần khu cực có thuốc, đồng thời yêu cầu đại đội Thân Binh của Tỉnh chỉ hổ trợ khi nào con quái ấy sổng ra khỏi bẩy, sắp xếp xong Y'Seo chờ đợi con quái thú đến... Tiếng hú vang dội trong rừng sâu cách đồn điền chừng một cây số, tất cả mọi con người trong cuộc đều căng thẳng im lặng như không gian chết, họ chờ đối đầu cùng con quái hung dử và nguy hiểm chưa từng có ở vùng đất này! Mặt trời khuất bóng, không gian nhuộm màu đen tối khắp nơi, thỉnh thoảng tiếng loài chim ăn đêm kêu từng hồi hoà lẫn với tiếng côn trùng rỉ rả như bản giao hưởng cố hửu của rừng thiêng bí ẩn ngàn đời. Y'Seo cầm ngọn đuốc đi tuần vòng quanh cái bẩy đã sẳn sàng... ... Nhìn thấy công trình để bắt con quái thú lòng ông Y'Seo rất hân hoan, ông nghĩ chắc chắn con quái sẽ sa vào bẩy rập... Hơn 10 giờ đêm ông nóng lòng vì nó chưa xuất hiện, hay là lẻ nó nhìn thấy nên không vào? Nhưng thôi mặc kệ, khi nó thấy các con mồi đang ở trong chuồng thì tất phải chui đầu vào bẩy thôi! Y'Seo đi về căn phòng tên chủ Tây dành riêng cho ông nằm xuồng nghỉ lưng, mệt mỏi và những lo lắng khiến ông đi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Tiếng ngựa hí vang, tiếng người xôn xao la ó làm ông tỉnh giấc, tay chộp chiếc ná đốt ngọn đuốc ông bước ra thấy cảnh tượng trước mắt đầy thất vọng!!! Chiếc bẩy hầm đã sụp xuống nhưng không có con quái vật bên dưới, tuy nó đã đến kề bên chuồng ngựa nhưng chưa bắt đựợc con nào thì bị phát hiện liền bỏ chạy mất. Ông suy nghĩ ; "như vậy loại thuốc của ông chẳng lẻ không làm cho nó mê man ngã lăn sao ?"( nhưng ông đâu biết rằng con quái nửa thú nửa người này có thời luyện thứ Ngải độc nhất của Rừng già, chưa có một vị Thầy Mo ở vùng này dám luyện qua thứ Ngải ấy, vì lý do không thể khống chế được thứ Ngải hoang này! Vì thế nên cái thứ Ngải tầm thường của ông làm sao hại được nó!) Sự thất bại của ông do quá chủ quan về loại Thuốc Ngải ông đã rải trên mặt đất! Nhìn chòm sao "Y'Yang" chếch về Nam rất nhiều, ông đoán bây giờ có lẻ khoảng 2 giờ sáng ông không ngủ được nửa ngồi thừ ra đó suy nghĩ về sự thất bại của ôn! g, bọn công nhân và tên chủ Tây thấy ông như vậy không ai bảo ai đều bỏ đi về ... Gà rừng bắt đầu gáy sáng, ông đứng dậy đi quanh cái bẩy và chổ ông rải thuốc Ngải, thấy tất cả đều trắng xoá có nghĩa là thuốc của ông đã bị giải hết rồi, Ông thắc mắc vì sao nó giải được thứ thuốc của mình luyện chứ Hay là con quái này chính là người luyện ngải quá già rồi chết trở thành "Ó MA LAI", nên thuốc Ngải của mình không thể Thư Yếm nó? Ông lại nghĩ:" Nhưng chuyện Ó MA LAI chỉ là truyền thuyết làm sao có được?" Nếu thật như thế thì phen này mình đành bó tay trước một địch thủ cao tay hơn, tuy vậy nhưng nó không có trí giác của con người. Ông thấy mình cũng có lợi thế để thắng nó!!! Vừa đi vừa suy nghĩ ông tin tưởng rằng ông sẽ bắt được con quái vật. Trời bắt đầu sáng, ông được một số công nhân và đám lính Thân binh kể lại sự đột nhập của con quái hồi đêm qua. -Hồi khuya này nó hú rùn rợn lắm! Tụi tui không ai ngủ được, đến chừng nghe tiếng "Rầm" đổ sụp của chiếc bẩy hầm , thì tui mới nhìn thấy dưới ánh sáng của những ngọn đuốc gần đó nó phóng từ đáy hầm lên chạy vô rừng mất dạng, chiều sâu của chiếc hầm 6,7 mét mà nó phóng lên như bay thì tui nghĩ cái bẩy của Già Làng chẳng ăn thua gì với nó cả? Y'seo càng nghe thì càng thấy mình càng không biết rỏ khả năng của đối phương, thế mà ông quyềt bắt nó trừ hại cho dân lành??? Ông lẩm nhẩm đúng nó là "Ó MA LAI" rồi! ...Trong rừng nơi đóng quân của đơn vị tôi trời đang tối dần.! Viên Trung đội trưởng trung đội 3 say sưa kể chuyện quên cả thời gian và không gian hiện tại. Tôi cắt ngang và giải tán buổi nói chuyện về ma quái, ra lệnh cho các đơn vị trưởng bố trí trận địa phòng thủ và cho lính canh chừng cái xác trong quan tài lộ thiên cạnh bìa rừng. Trở về BCH, đầu óc tôi suy nghĩ những điều được nghe thấy về "Ó MA LAI" thì ra nó nguy hiểm hơn tôi tưởng, nằm trên võng nghiêng đầu sang tôi hỏi Dé: -Hiện tượng cái xác ngoài bìa rừng có phải nó là "Ó MA LAI" hay không vậy anh Dé? Dé trả lời nhát gừng: -Ồ... cái đó chắc có, chắc không chứ! Tối nay nếu nó thật là Ó MA LAI thì nó phải đi kiếm cái ăn chứ, chừng lúc đó em với T/u tới xem cái quan tài chắc rỏ thôi! -Lở nó làm hại đến mình thì sao? -T/u đừng sợ, em sẽ có cách diệt nó không sao cả! Tôi nghe Dé nói có cách đối phó với ma quái thì cảm thấy yên tâm phần nào, vì y có những biệt tài mà trong đám người đang ở đây không ai sánh với y. Hơn 8h00 tối, nằm trên vỏng nhắm mắt như tôi không tài nào ngủ được, tôi chờ Dé gọi tôi đi xem cái xác cạnh bìa làng... Vào giửa đêm tiếng hú dài như ma kêu quỷ hờn lồng lộng vang lên trong rừng vắng vẻ gần nơi đóng quân của chúng tôi, tôi cảm thấy rờn rợn người nổi gai ốc, xảy nghe tiếng súng nổ từ phía Trung đội 1, tôi bật người dậy nhanh tay chộp khẩu súng XM18 và cây đèn Pin QĐ, kêu giật Dé cùng với tôi đi về hướng tiếng súng nổ vừa rồi, thấy những bóng đen di động tới lui trong khu vực vòng đai phòng thủ tôi hỏi: -Ai đó! -Dạ tụi em đây thưa T/u! Tiếng của Trung Đội trưởng TĐ 1 trả lời -Chuyện gì mà lính nổ súng vậy ông Trung Đội Trưởng? -Dạ nó thấy "Ó MA LAI", nó chỉ có mỗi chiếc đầu với cặp mắt phát sáng xanh lè vừa hú vừa bay qua lại trước mắt, sợ quá nó nổ một loạt súng vào chiếc đầu ma quái đó, thì cái đầu biến mất! Tôi hỏi: -Hay nó trúng đạn rơi rớt đâu đó ? -Dạ em hỏng biết ...!!! Dé nắm tay kéo tôi đi về chổ chiếc quan tài lộ thiên, dưới ánh sáng đèn Pin tôi thấy chiếc nắp quan tài khi sáng nay nằm lệch một bên bây giờ đã rơi xuống đất tự lúc nào, toàn thân tôi run lên, tim đập nhanh hơn vì sợ, Dé nói: -Phen này mình sẽ biết nó là cái gì rồi! Dưới ánh sáng ngọn đèn Pin, chúng tôi còn cách chiếc quan tài kh! oảng 3 mét, Dé dứng lại ra hiệu cho tôi đừng đến gần rồi y từ từ tiến đến đưa cao nòng súng AR15 vào đầu quan tài, Dé kêu lên kinh ngạc: -Đúng nó rồi T/u ơi! Lại đây mà xem. Vì hiếu kỳ, tôi quên nổi sợ Ma quái bước đến sau lưng Dé ghé mắt nhìn vào quan tài thấy cái xác không có cái đầu, trông như một tử tội bị chặt đầu bằng "Máy chém" mà tôi đã có dịp xem một buổi xử tử tội từ thời còn bé! Dé nắm tay tôi như muốn tôi được yên tâm. -Vậy T/u phụ với tôi một tay lật cái xác này nằm úp sắp trở lại, thì con Ó MA LAI có trở về cũng không ráp được chiếc đầu vô, nó sẽ chết thân thể hoại thành tro. Tôi run rẩy trống ngực đập thình thịch, tôi không dám bước tới nửa bước chứ đừng nói là phụ với y, tôi nhìn sang! bên gọi nhỏ tên lính nằm gần đó đến phụ với Dé lật xác con Ó MA LAI. Hai người ì ạch với cái xác cứng đờ mãi gần năm phút mới xong, Dé chùi hai tay trên vạt cỏ dưới đất rồi đưa tay lên mũi ngửi y kêu lên: -Cái con này hôi quá!!! Rồi cả ba chúng tôi lùi về sau hơn chục mét ngối xuống chờ đợi... ...Nhìn đồng hồ đã hơn 2 giờ sáng, Sương mù bắt đầu dày đặc lạnh và ẩm ướt, tôi thèm thuớc lá quay sang Dé xin anh ta một điếu, Dé cầm gói thuốc Basto đưa sang cho tôi, dốt điếu thuốc hít một hơi dài nhả làn khói lên cao tôi cảm thấy ấm áp sảng khoái không còn thấy buồn ngủ nửa ! Dé nói : -Chút nửa khi chiếc đầu Ó MA LAI trở về nó không thể ráp chiếc đầu vào thân thì nó sẽ chết! -Thật vậy sao, nó sẽ không tác quái nửa chứ ? -Dạ... Theo em biết thì đúng như vậy! -Rủi nó không chết thì mình phải làm sao, hay là mình chôn nó xuống đất hay thiêu đốt cái xác này là xong chuyện chứ gì? -Ồ T/u không thấy sao! Người ta không chôn, vì chôn thì nó cũng sống lại chui từ mồ lên, Ó MA LAI còn hung dử hơn nửa đó! Khi thi thể Ó MA LAI chôn xuống đất sẽ làm sức mạnh nó tăng thêm.( Có lẻ Âm Gặp Âm thì Thuần nó sẽ lợi hại lắm!) tôi nghĩ không ngờ nó nguy hiểm như vậy! -Như vậy mình phải đốt xác thì nó không còn hại được ai nửa! Đang lúc mãi nói chuyện với Dé, tôi nghe trên đầu bọn tôi một tiếng "Vụt" tôi nhìn theo nhưng không thấy gì chỉ thấy làn sương mù dày đặt trước mặt. Dé đứng bật dậy tay cầm khẩu AR15 chỉa thẳng về phía trước buột miệng nói: -T/u! hình như cái đầu Ó MA LAI trở về rồi! -Ừ, hả Tôi trả lời Dé rồi quay sang tên lính ra hiệu cho hắn theo Dé để tiếp ứng. Bổng tiếng gầm rú cao vút của Ó MA LAI làm vang động khu rừng, chân tay tôi bủn rủn, tim đập nhanh chưa từng có, tôi muốn bỏ chạy về phía sau nhưng cố gắng giử cho mình bình tỉnh vì sợ bọn lính cười nhạo. Tiếng gào rú man dại càng lúc càng nhanh dần làm đàn chim rừng kêu xao xác hoảng sợ tung bay rào rào trong đêm khuya, tiếng gầm rú từng hồi của Ó MA LAI sau dó dần dần im bặt, tôi nghĩ có lẻ nó đã chết! Tôi ra hiệu cho Dé bước lên xem thử. Ánh đèn Pin của tôi chỉ chiếu sáng trong vòng vài ba mét, Dé và tên lính từ từ tiến đến chiếc quan tài, tiếng chân sột soạt dẫm trên lá khô làm cho sự căng thẳng càng lúc càng tăng 5 mét r! ổi 3 mét trong tôi như cảm thấy khó thở, Dé đứng bên chiếc quan tài chiếu ánh sáng đèn Pin vào y kêu lên: -T/u cái đầu Ó MA LAI nó đi đâu mất rồi! Từ xa ở phía sau tôi nói với Dé: -Anh quan sát xem coi nó rơi rớt đâu đó, nó không ráp được đầu vô thân mình thì nó đã chết rồi mà! -Cái này chắc có, chắc không chứ! Sợ nó đi nơi khác rồi, ban ngày thì nó không tác quái được chỉ có ban đêm thôi! tôi sợ nó trả thù lắm đó T/u. Tôi nghe Dé nói chân tay cảm thấy rụng rời vì kinh hải, thúc dục Dé cùng tên lính đi quanh tìm kiếm cho ra chiếc đầu Ó MA LAI. -Anh xem kỷ xung quanh đi! Quay về phía sau tôi gọi viên Trung Đội trưởng TĐ 1 : -Anh cho Trung đội lục soát xung quanh 500 mét tìm cho ra chiếc đầu Ó MA LAI! -Dạ!!! Tôi ngồi bệch xuống đám lá cây rừng khô, lòng kinh sợ suy nghĩ lung tung; nếu nó thực sự trả thù thì mình chắc không khỏi bị nó giết! Hay là mình đốt chiếc xác ấy cho yên chuyện, còn cái đầu thì trước hay sau gì nó cũng hoại. Nghĩ như thế tôi cho rằng mình sáng suốt, tôi đi đến chiếc quan tài lấy hai trái Pháo Sáng rút chốt nhắm mắt thả vào bên trong cổ quan tài rồi chạy ra xa đứng nhìn!!! Ánh sáng chói chang của Pháo sáng đang cháy thi thể con quái và cổ quan tài bốc ra mùi hôi khét lẹt rất khó ngửi. Bấy giờ Tên Mỹ Cố Vấn Capt. Smith cùng tên Thông ngôn người Thượng bước đến nói với tôi: -Chuyện Ma Quái ở rừng rậm Việt Nam kinh khủng quá! -Đó là chuyện mới bắt đầu thôi Đại Uý ạ! Tôi nghĩ, có lẻ y được tên Thông ngôn người Thượng đã nói rỏ chuyện này từ tối đến giờ nên tên CV Mỹ này hiểu rất rỏ chuyện đã xảy ra. Tên CV mỉm cười dường như hiểu biết thông cảm rồi cùng tên Thông ngôn bỏ đi vào BCH. Nhìn ánh lửa cháy bập bùng trong chiếc quan tài như một cảnh tượng ma quái chết chóc chưa từng thấy trong đời của tôi, chợt nhớ ra các toán đi truy tìm chiếc đầu, tôi gọi tên lính Truyền Tin đem máy PRC25 để liên lạc các toán lục soát: -811 đây 81 gọi. -811 nghe xin chỉ thị ! -811 anh nghe cho rỏ, anh lục soát cẩn thận xung quanh, và luôn dặn dò con cái anh phải luôn cảnh giác mọi tình hình nghe rỏ? -811 nghe rỏ. Tôi buông chiếc máy PRC25 thần kinh căng thẳng thấy người như không còn hơi sức... Tôi ngồi thừ ra đó suốt mấy tiếng đồng hồ chờ đợi kết quả việc tìm kiếm chiếc đầu Ó MA LAI... Trời bắt đầu rạng sáng sương mù dần tan, tầm nhìn cảnh vật trong rừng bây giờ được xa, tiếng xao xác đàn chim rừng ríu rích trên tán lá cây cao làm náo loạn khu rừng vốn im lặng tỉnh mịch. Nhìn lại chổ chiếc quan tài và cái xác Ó MA LAI bây giờ chỉ còn một đống than đỏ rực, tiếng nổ lách chách những đốt xương bắn văng ra cách đó 1 mét, tôi cảm thấy tự tin không còn sợ như lúc tối hôm qua. Bất chợt tiếng rền rỉ rú từng hồi vang vang từ rất xa khoảng vài cây số, tôi vội cầm máy gọi cho 811: -811 đây 81. -811 nghe xin chỉ thị. -Anh có nghe tiếng rú rít vừa rồi chứ ? -Dạ! có nghe nhưng còn cách chúng tôi hơn 1 cây số. -Anh hảy phối hợp với Dé cùng đến đó xem thế nào? nếu có gì B/C cho tôi. -Dạ nghe rỏ rồi T/u! Tôi lại lo lắng tình hình diển tiến không thuận lợi như tôi đã tính!!!...
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:49:35 GMT 9
Những tưởng tiêu diệt con quái ấy không có gì khó khăn, thế mà bây giờ càng lúc như càng rắc rối! Tôi đi về BCH tháo Poncho và võng dù nhét vào Balo chuẩn bị cho cuộc chuyển quân trong buổi sáng! Tiếng gọi trong máy của 811. -811 gọi 81. -Tôi nghe. -B/C. 81 chúng tôi không thấy chiếc đầu Ó MA LAI đâu cả, khi đến đây không còn nghe tiếng hú của nó, xin chỉ thị? -Thôi được rồi, bây giờ các anh quay trở về nhà để chuẩn bị chuyển quân nghe rỏ ? -811 nghe rỏ 5/5 hết. Tôi thừ người suy nghĩ có thể nó sẽ quay lại trả thù chúng tôi không biết giờ phút nào? Thôi mặc kệ, đến đâu thì hay đến đấy! Tôi cho gọi các Đơn vị trưởng còn lại về BCH bàn kế họach đi đến điểm thứ 4, giây lát sau các Trung Đội trưởng đã đến họ ngồi vây quanh. -Hôm nay chúng ta sẽ đi sang điểm thứ 4, tọa độ X, bây giờ là 8h15 các vị phải điều chỉnh giờ cho chính xác. Trung đội 2 đi hướng bên trái từ thung lũng lên điểm 4. Trung đội 3 đi hướng bên phải từ ngọn đồi nhỏ bọc sang. Trung đội 4 đi chính diện trực tiếp đến điểm 4. Còn riêng Trung đội 1 sẽ cùng đi với tôi ở phía sau. Nếu các TĐ có gặp điều gì B/C cho kịp thời, tất cả nghe rỏ ? Phân nhiệm xong, tôi đứng lên cùng tên Capts Smith hội ý bố trí kế họach cuộc chuyển quân. Chúng tôi đi theo Trung Đội 1 tiến về điểm thứ 4 lại trùng hướng chổ phát ra tiếng rú của Ó MA LAI lúc sáng, bây giờ tôi có dịp quan sát khung cảnh tòan bộ nghĩa địa nằm cạnh bên ngôi làng bỏ hoang, tập tục táng người chết thật kỳ quái mất điều kiện vệ sinh, vì sao nơi đây lại phát sinh ra lòai quái vật như thế? Câu hỏi này làm tôi suy nghĩ rất nhiều! Liệu con quái "Ó MA LAI" trong câu chuyện của viên Trung đội trưởng TĐ3 có liên quan gì đến con "Ó MA LAI" này không nhỉ ? Những gì tôi đã nghe và thấy về bùa ngải, thư yếm, ma quái, bây giờ tôi đã thấy tin là có thật! Đi ngang qua khu vực đã lục soát toàn bộ nơi này cỏ cây bị đám người của TĐ 1 quần nát ngã nghiêng, thế mà chẳng thấy tăm tích của chiếc đầu Ó MA LAI? Di chuyển liên tục trong nhiều giờ còn cách điểm thứ 4 khỏang 2 cây số, tôi ra lệnh cho tất cả các đội quân dừng lại nghĩ 30 phút, lấy tấm bản đồ không ảnh ra xem thấy cạnh bờ sông có những! lán trại hay hầm hố rất nhiều. Tôi yêu cầu Trung Đội 2,3 vào tiến hành lục soát thăm dò. Chừng nửa giờ sau tiếng máy gọi B/C của các đơn vị đã đến Mục tiêu đã định: -812 gọi 81. -81 nghe. -B/C 81 chúng tôi thấy những hầm hố cũ cách nay khoảng vài tháng khộng có dấu hiệu có người sinh hoạt nơi đây! -813 gọi 81. -81 nghe. -B/C 81 chúng tôi thấy những lán trại được cất rất thô sơ có lẻ "họ" chỉ nghĩ ngơi qua đêm rồi đi, lán trại này đã cũ cỏ tranh lợp bị tốc mái hết cả rồi! -Tất cả 812 và 813 nằm tại chổ chờ chúng tôi lên. -814 đây 81 gọi. -814 nghe xin chỉ thị? -814 đã đến điểm 4 chưa? -Dạ! chúng tôi còn vài trăm mét nửa mới đến đỉnh! -Khi đến đỉnh điểm anh cho tất cả bố trí phòng t! hủ và ăn cơm và chớ lệnh tôi nghe rỏ? -814 nghe rỏ 5.5 hết. Tôi cùng đòan người vượt lên ra cạnh Bờ sông, lúc này mặt trời đã đứng bóng! Trước mắt dòng sông nước trong xanh phản chiếu ánh nắng lấp lánh, nhiều gềnh đá to nhấp nhô dựng thẳng trên dòng nước chảy xiết như thác, cảnh rất đẹp tôi thèm được tắm mát dưới dòng sông xanh ấy! Tôi cho tất cả các đơn vị bố trí phòng thủ để mọi người cùng ăn cơm trưa, chỉ riêng Trung Đội 4 nằm trên điểm cao để hổ trợ cho các đơn vị phía dưới... ...Buổi trưa hè nắng gắt, trời không chút gió không khi oi bức khó chịu, tiếng ve đồng loạt kêu vang cả một khu rừng như bản giao hưởng ngàn đời của rừng xanh, tôi men theo bờ sông nhìn xuống dòng nước trong vắt, những đàn cá lượn lờ quanh gộp ! đá, xa xa phía trên vài mươi tên lính Thượng đang trầm mình trong dòng sông, tôi cởi đồ bước vào dòng nước mát lạnh cảm thấy thoải mái, dòng nước chảy xiết như muốn xô trút tất cả những gì trong thân thể của nó xuống bên dưới thung lủng. Nhìn đàn cá "Trắng" bơi quanh tôi tự nhiên như chúng chưa từng biết sợ hải là gì! Chúng cũng như tôi khi chưa biết về những bí ẩn của rừng xanh tôi chưa từng biết sợ hải! Nay tôi biết những bí ẩn nằm phía sau sự tỉnh mịch rừng già Tây Nguyên là những bí ẩn Ma Quái chết người, nổi sợ hải làm tôi muốn đứng tim!!! Tiếng lao xao của bọn lính Thượng cắt đứt dòng suy nghĩ, tôi nhìn lên thấy họ đang nói và chỉ chỏ vào dòng sông, tôi lên bờ đi đến chổ bọn họ hỏi" -Chuyện gì vậy? -Dạ ! có ! con cá lớn lắm T/u cho tụi tôi bắt nó chứ? -Được các anh cứ tự nhiên. Thế là cả bọn reo mừng, tôi nghiêm mặt nói : -Chúng ta đi hành quân không phải nơi đùa giởn! Tôi lấy quần áo rồi đi về BCH thay đổ nằm nghĩ trên chiếc vỏng Dé đã mắc hộ cho tôi khi dừng quân. MỘt tiếng nổ làm rung chuyển ven bờ sông tôi giật mình bật dậy chạy ra ngoài, cạnh bờ sông một nhóm lính thượng đang khệ nệ khiêng từ dưới nước lên một con to cá "Lóc" đầu rất to như cái thúng dài gần 2 mét, tôi hỏi: -Tiếng nổ vừa rồi ai đã cho nổ vậy? -Dạ! do thằng K'leng ở Trung Đội 3 đó T/u. -Tại sao tôi đã bảo các anh không được làm lộ mục tiêu mà các anh lại dùng lựu đạn đánh cá? -Dạ! Tại em hỏng biết xin T/u bỏ qua! Tôi không trả lời nghiêm mặt bỏ vào trong BCH, cả bọn lính Thượng đều đổ lổi cho nhau, cả bọn kéo con cá nặng gần 100 kg đến bên chiếc liều của tôi, họ xin lổi và nói: -Tụi em xin T/u phạt, thật sự lúc nảy em có xin T/u rồi nên mới dám làm! Đúng là bất đồng ngôn ngữ cũng khó khăn! Tôi cứ tưởng bọn họ dùng cách săn bắt nào khác chứ chưa nghĩ họ dùng lựu đạn để đánh cá ! tôi nói: -Thôi lở rồi! các anh đem con cá về chia nhau ăn đi! Cả bọn vui mừng cảm ơn rối rít, lôi con cá ra bờ sông bắt đầu xẻ thịt cá chia nhau. Một lát sau họ mang đến cho BCH 2 khoanh cá "Lóc" gần 10 kg, Dé và tên lính Truyền tin vui mừng vì có thức ăn tươi, họ lấy Cà mèn nấu nồi cháo cá, số thịt cá còn lại họ đem nướng với muối, mùi thơm bốc lên làm tôi cảm thấy đói. Tôi hỏi Dé; sao con cá này nó to quá vậy ? Dé trả lời: -Dạ! nó hơn trăm tuổi rồi đó T/u nó càng lớn tuổi thì nó càng to. Tôi ngạc nhiên về tuổi thọ và sự phát triển to lớn của loài cá "Lóc" ở dòng sông Tây Nguyên! Trời đã về chiều, ánh sáng yếu ớt còn lấp lánh trên cành cây Trắc Bá, từng đàn chim bắt đầu xôn xao tìm chổ trú ngụ của chúng trên cành cây cao, tôi gọi máy về BenHét B/C điểm đóng quân tối nay. tiếng Thiếu Tá Thành vang trong máy: -Sao có gì mới mẻ không cậu? -Dạ! thưa TT cũng bình thường thôi ạ! -Sáng ngày mai cậu đến điểm Zulu kiểm tra không ảnh, có đúng như nó đã chụp không rồi B/C cho tôi biết? dứt! -Dạ!!! Tôi cho gọi tất cả các viên Trung đội trưởng đến bố trí kế hoạch phòng thủ và lệnh HQ ngà! y mai. Hai mươi phút trôi qua các viên đội trưởng đã đến đầy đủ, tôi nhắc việc bố trí phòng thủ và Phân công Lệnh Hành quân ngày mai. Chợt nhớ đến câu chuyện Ó MA LAI của viên Trung đội trưởng TĐ3 đã kể tôi hỏi anh ta: -Như anh đã thấy chúng ta đã chạm trán cùng Ó MA LAI, còn chiếc đầu của nó đã biệt tăm, Dé bảo sợ nó có thể trả thù bất cứ lúc nào, tôi đề nghị mỗi vọng gác phải có 2 người! Chuyện Ó MA LAI mà anh kể tôi nghe sao thấy nó không giống như con này ? -Dạ, cũng như vậy thôi T/u ! để tôi xin kể đoạn sau thì T/u sẽ hiểu thôi! Y đốt điếu thuốc mùi khét lẹt gắt khó chịu làm tôi bị sặc mấy cái, y từ từ kể chuyện... ...Già làng Y' Seo thấy việc bắt sống con quái vật thất bại làm một số người trong đồn điền Trà không! tin tưởng khả năng của ông, ông buồn bực nhất định phải chủ động tìm nó để hạ chứ không muốn chờ đợi con quái vào bẩy nửa! Giài làng Y' Seo chuẩn bị Cơm nước vào chiếc gùi, tay cầm chiếc "Ná" mạnh nhất để săn Hổ ông đi vào rừng theo hướng con quái thường gầm rú... Từng bước chân của Già làng Y'Seo dẳm trên lá rừng khô xào xạc làm lủ chim rừng hỏang sợ tung bay cất tiếng kêu oang oác, ông quan sát thật chậm rải mọi vật xung quanh và đề phòng con quái vật, vì theo bản năng của nó có thể giết chết ông nếu ông không phòng bị. Đi lùng kiếm con quái suốt 2 giờ trong rừng sâu, phía sau khỏang 100 mét lúc nào cũng có đàn chim theo sau kêu oang óac, ông chợt nhớ những kinh nghiệm đi rừng ('...thường có lủ chim theo sau báo hiệu là "ông Cóp" �! �i rình mồi... ') nên ông lẹ làng leo lên cành cây cao ẩn mình theo dỏi, 3 phút sau một con hổ thật to khỏang gần 300 kg lông màu trắng với những vằn đen đủng đỉnh đi theo dấu chân của Y'Seo, Già làng kinh hải tay rút lấy mủi tên gắn vào chiếc ná ông nhắm thật kỷ vào nơi vùng ức của con vật vụt buông tên, con hổ trúng tên lồng lộng gầm rú vang động cả khu rừng bỏ chạy, đợi con hổ chạy thật xa Y,Seo mới dám xuống mặt đất, ông men theo dấu vết con hổ để thu nhặc chiến lợi phẩm... Mặt trời chói chang trên đỉnh đầu, ông cảm thấy đói bụng và khát nước, ngồi xuống bên gốc cây cổ thụ Y'Seo lấy ống tre bỏ vào đấy vàì nắm gạo đổ nước vào rồi đốt lửa nướng ống tre, mùi thơm của gạo hòa lẫn mùi thơm ống tre khi nướng chín làm hấp dẩn kích thích khứu giác, ông chẻ ống tre ra cơm đã chín dẻo thơm lừng như bánh tết người Kinh... Ông đứng lên tiếp tục theo dấu vết tìm con hổ trắng đã trúng tên, ông nghĩ : con hổ này mạnh thật, nếu con nai hay con lợn thì đã ngã sau khi chạy 200 mét thế mà con hổ trắng này vẫn chưa thấy tông tích. Qua con suối nhỏ trước mặt, ông bước lên bờ nghe tiếng gầm gừ gừ nho nhỏ, một vật gì đó làm lay động lùm cây cỏ trước mặt, lấp một mũi tên vào ná Y'Seo từ từ bước đến thấy cảnh tượng ông không thể nào ngờ; Trước mắt con Quái nửa ngưới nửa thú đang dùng đôi tay móc ruột gan từ bụng con hổ trắng và nhai nuốt ngon lành, những dòng máu từ miệng chảy dài xuống ngực nó trông thật khủng khiếp, theo linh tính ông buông mũi tên vào ngực con quái, nó trúng tên bật ngưoi đứng lên nhảy sổ vào ông hai tay móng vuốt như hai lưởi dao nhọn muốn cắt xé ông ra nhiều mảnh, vụt né khỏi đòn tấn con của con quái, ông thận trọng rút luôn chiếc rựa trong gùi thủ thế chờ con quái tấn công sơ hở ông sẽ kết liểu nó bằng nhát rựa chém bằng tất cả sức lực, Con quái sau khi tấn công hụt nó lảo đảo định bỏ chạy, ông liền quật ngang một rựa trúng nhằm chân phải con quái khiến nó gầm rú như điên như dại, máu tuôn xối xả nó gom tất cả hơi sức còn lại nhảy xổ vào ông bất chấp nhát rựa của ông bổ từ trên xuống. Á á á!!! con quái ngã xuống dảy đành đạch máu tuôn từ trên đỉnh đầu như xối xả, Y'Seo thấy đất trời như đảo lộn, cảnh tượng mờ nhạt dần ông không còn biết gì nửa... Đến chiều hôm ấy tình cờ tốp thợ săn của làng DakPet đi về ngang con suối, thấy cảnh tượng một con hổ cùng hai người, một người không áo quần nửa người nửa thú, một người bị rách toạc cả bụng ruột gan đổ ra ngòai hơi thở còn thoi thóp đang nằm cạnh bờ suối, họ về bản làng cách đấy hơn hai cây số gọi một số dân trai tráng trong làng, làm cáng khiêng tất cả về làng. Viên Già làng DakPet nhìn thấy con quái ông cũng biết đây là con người thành quái vật khét tiếng hơn mười năm trong vùng DakTo, ông liền cho người ra báo với tên chủ quận DakTo. Khỏang 1 giờ sau Tên Tây Renee và tên chủ quận vào Làng Dakpet xem con quái vật bị hạ và đưa Già làng Y'Seo ra y viện tỉnh cấp cứu... Nằm viện hơn hai tháng, Già làng Y'Seo trở về làng được tên chủ Tây đồn điền Trà thưởng cho 100 đồng tiền Đông Dương, ông không còn linh hoạt ứng xử như ngày xưa, những người đến thăm hỏi ông về việc ông hạ con quái như thế nào thì ông trả lời nhát gừng khi nhớ, khi quên. Sau một thời gian trôi qua không ai còn nhớ đến người hùng Y'Seo giết Ó MA LAI ... Tôi vội hỏi Y'Blang: -Vậy Già làng Y'Seo còn sống chứ? -Dạ còn sống! Chính ông là cha đẻ của tôi! -Ồ thế thì hay quá! nếu có dịp sau chuyến hành quân này anh dẫn tôi đến thăm ông cụ nhé ! -Dạ!!! -À ! Còn con quái ấy người làng xử lý thế nào? -Dạ Ngừơi làng DakPet kêu vợ và người em họ của y đưa về làng mai táng không biết ở đâu? -Phải tìm cho ra cái làng ấy! để xem cho biết, tôi nhờ anh giúp ? -Dạ được!!! Y'Blang đứng lên đi về đơn vị của mình, trong lòng tôi n! ghĩ nếu như : Có dịp mình nên tìm hiểu về thứ Ngải Mọi truyền thuyết này nó như thế nào mà có uy lực kinh khiếp như thế Âm thanh ào ạt của dòng chảy từ con sông như một điệp khúc, từng làn gió chiều thổi mạnh qua đây làm gợn sóng giửa dòng, nước vẫn cuồn cuộn hung hản xô trút va đập nổi bọt trắng xóa vào những ghềnh đá thẳng đứng nhô lên như thành lủy ngăn chận dòng nước lủ cho bớt hung hản. Móc biên giới, bên kia sông là vùng rừng nguyên sinh Hạ Lào, có lẻ trong thời bình những khu rừng thiêng nước độc chưa chắc có người nào dám mạo hiểm đến đây! Tôi từng bước men dọc theo bờ sông buổi chiều, khu rừng xám xịt tiếng chim kêu gọi đàn xao xác, tiếng ve hòa lẫn mọi âm thanh nơi đây như một bản hợp tấu chưa có một dàn nhạc nào của con người hòa tấu được một bàn nhạc như thế!
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:50:27 GMT 9
Tôi lần về BCH nằm trên võng để nhớ mông lung: Tôi nhớ đến Quỳnh hơn bao giờ hết, rồi nhớ đến mẹ! Dù tôi hơn hai mươi tuổi đã trưởng thành chưa bao lâu, phải xa rời khỏi vòng tay của Bà để bước vào khỏang đời sương gió, những giờ phút tôi làm kẻ trưởng thành dẫn dắt bao nhiêu sinh mạng con người bước vào cuộc chơi trò chiến tranh! Bạn bè cùng trang lứa như tôi họ cũng trở thành người lính, cũng có những đứa đã nằm xuống rời bỏ vĩnh viễn cuộc chơi, số phận bọn lính như tôi chẳng định được cho mình một tương lai? Nhớ lại thời còn đi học tôi uớc mong khi tốt nghiệp ĐH, rồi làm Công Chức có một mái ấm với Quỳnh người tôi yêu, thế mà dòng đời xuôi ngược; tôi thì làm tên lính Thú, còn Quỳnh thì trở thành cô giáo vùng quê sông nước xa xôi! Thật ai có biết "ngày sau sẽ ra sao ?" Mọi mong ước đều thay đổi, tôi thở dài phó mặc cuộc đời, đến đâu hay đến đó vậy! Mãi suy nghĩ mông lung tôi nhìn đồng hồ hơn 9 giờ tối, các tóan Đốc canh đang thay đổi lính gác, tôi nhìn ngang thấy Dé đang trở mình mớ kêu gọi ai bằng tiếng thổ ngữ, tôi không nghe được gì, bước đến khẻ đập vào vai của Y. -Dé!Dé! Anh làm gì la hỏang như thế ? Tiếng của Dé nhừa nhựa: -D..ạ, e..m đâu có la gì ! Lúc nảy mơ thấy cái đầu của Ó MA LAI nó bay theo cắn vào cổ của em, em cố gắng nắm lấy đầu của nó kéo ra cổ em bị nó cắn mất một miếng thịt cảm giác nghe đau nhói nên em rên la! Nghe Dé nhắc đến chiếc đầu Ó MA LAI chưa giải quyết dứt điểm, tôi cảm giác rờn rợn cả người có thể nó sẽ trả thù chúng tôi nhưng chưa biết giờ phút nào. Tôi hỏi Dé: -Nếu chiếc đầu Ó MA LAI nó trả thù thí mình phải làm sao hả Dé? -Dạ cái này hơi chắc khó! vì nó di chuyễn lung tung không biết nơi nào, nếu nó xuất hiện thì mình sẽ diệt nó được thôi! -Anh có kế họach nào để diệt nó anh nói tôi nghe thử? -Dạ! em không biết đâu, em chỉ biết khi nào nó đến đây! Nghe y nói như vậy thì tôi cũng biết Dé chưa có khả năng tìm diệt chiếc đầu quái dị đó! Tôi nằm xuống chiếc võng cố dổ giấc ngủ, nhưng không tài nào ngủ được, lại nằm suy nghĩ bâng quơ lo sợ cho đến gần sáng mới thiếp đi...
...Tiếng gọi của 80 làm tôi tỉnh giấc ngủ muộn, còn nằm trên võng tôi cầm máy trả lời: -81 đang nghe 80! -Cậu ngủ trể nên dậy muộn à, gọi mãi mới nghe cậu trả lời! -B/C 80 đêm qua hơi khó ngủ mãi đến sáng mới chợp mắt, xin 80 bỏ qua cho! -Ok! Bây giờ cậu C/B tình hình đi! -B/C 80 khu vực đóng quân hiện tại vô sự, xin chỉ thị! -Hôm nay trên đường về nhà cậu đi theo các điểm sau đây toạ độ ZX, ZY, YT, YS... Cậu sẽ gặp ĐỐNG ĐA 4 cách trại 4 km ở toạ độ UK, Liên lạc thường xuyên với Nhà để tránh ngộ nhận bắn nhau nghe rỏ chứ? -Dạ! B/C 80 nghe rỏ 5/5 hết! Nhìn bản đồ tôi ghi chú lại những điểm nằm trên các toạ độ mà chúng tôi phải đi qua trong những ngày cuối cưộc HQ. Dé mang đến cho tôi cốc cà phê, nhấp một ngụm cà phê rít một hơi thuốc lá đầu ngày tôi nghe sảng khoái, tất cả buồn bực mỏi mệt đều biến đi mất, tôi mời các đơn vị trưởng đến phối trí lệnh HQ.Trung đội 2 đi trước mở đường TĐ3 ở cánh phải. TĐ4 cánh trái TĐ1 Di sau cùng với BCH, sau đó đưa kế hoạch cho tên CV Mỹ... Đoàn quân bắt đầu di chuyển hướng Đông Nam trong lúc khu rừng còn chưa rạng sáng, lá cây còn ứơt đọng sương đêm, tiếng rào rào như những giọt mưa trên lá của lủ Vắt phóng theo đoàn người HQ, tôi kinh tởm cái đầu ngo ngoe bám trên quần áo để "xin tí huyết", vừa đi vừa phủi tôi ra lệnh cho đoàn quân dừng lại nghĩ mệt. Hôm nay là ngày thứ 5 HQ tôi tưởng tượng sau chuyến HQ này được nghỉ ngơi ra chơi Phố thì sướng biết mấy! Thật viễn vong CC. nằm giửa rừng làm sao đi về phố được mà mơ mộng? Từ CC.Trại BenHét ra đến KonTum cũng mất 100 km đường chim bay, từ KonTum đến PleiKu 60 km nửa. Địa đàng ôi quá xa xôi!( bon lính Thú chúng tôi xem 2 thành phố này là Địa Đàng.) Đoàn quân di chuyển cho đến Trưa chúng tôi đến cận diểm của toạ độ ZX, cái nóng bức tháng 3 dưới ánh nắng gay gắt mặt trời như muốn thiêu đốt tất cả, cổ họng tôi như bị cháy khô cầm bi đông uống vài ngụm nước thấy dể chịu hơn. Cho Trung Đội 1 lên thám sát khu vực gần một giờ sau tôi nhận được BC: -81 đây 811! -81 nghe 811! -B/C tình hình ZX A/N không có gì đặc biệt. -811 cho mấy đứa em vòng sang bên kia con suối cạnh ngôi làng MangBut lục soát B/C lại nhé! -Dạ. Nghe rỏ rồi 81. Tôi buông máy thúc hối các đơn vị lên đường đến điểm đóng quân, gần một giờ sau chúng tôi mới đến ZX tôi cho các đơn vị bố trí phòng thủ xong, cùng Dé đi về hướng bờ suối vào trong ngôi làng cạnh đó khoảng 700 mét...
... Tôi cùng Dé qua bờ suối bên kia ngôi làng hiện ra trong tầm mắt, mái cong cao vút của chiếc nhà "Rong" sừng sửng trên nền trời xanh yên bình như một ngọn đồi xám đơn độc giửa những liếp nhà sàn lợp tranh. Dưới ánh nắng gay gắt viên Trung đội trưởng TĐ1 ra tận con đường mòn dẫn vào làng chờ đón chúng tôi, tôi hỏi: -Có gì động tỉnh trong ngôi làng không ? -Dạ! B/C chỉ thấy có mấy mấy người già, phụ nử và trẻ con, không thấy có thanh niên! Tôi cho gọi người lính mang máy của Trung đội 1 đến. -812,813. Đây 81 nghe rỏ trả lời? -812 nghe! -Các anh đưa tất cả con cái qua đây. 812 anh vòng qua bên trái cách 100 met của ngôi làng chờ lệnh. -812 nghe 81 rỏ 5/5. -813. Anh đưa tất cả con cái vào hướng phải cách 100 mét của ngôi làng chờ lệnh. -Dạ 813 nghe rỏ 5/5. -814. Anh nằm án ngử phía sau lưng của thằng 811 chờ lệnh nghe rỏ? -Dạ 814 nghe rỏ 5/5. Sau khi điều quân xong, Tôi cùng TĐ1 vào làng. Xung quanh rào của làng trồng toàn tre gai, những cành tre già buông rũ như bức màn gai góc chật vật lắm chúng tôi mới phá được một lổ hỏng vừa một ngưới chui qua. Nhìn thấy chúng tôi như đám ma quái từ dưới đất chui lên làm một số dân làng hoảng sợ bỏ chạy, viên Trung đội trưởng TĐ1 nói tiếng thổ ngữ để họ an tâm. Tôi yêu cầu gặp viên Già làng, cô gái người Thượng nước da đen láng có nét mặt trông khá thanh tú đưa tay chỉ về hướng ngôi nhà "Rong" ở giửa ngôi làng, tôi và TĐ1 đi đến ngôi nhà "Rong" gặp viên Già Làng tuổi hơn 60 người nhỏ con, ông mặc chiếc khố dây trên khoát chiếc áo không tay, nơi cổ đeo đầy trang sức răng nanh heo rừng và xương thú như những tên phù thuỷ ở Phi Châu, tôi gật đầu chào ông và ra dấu muốn nói chuyện cùng ông ta, ông bèn mời chúng tôi bước vào ngôi nhà "Rong"... Sau khi bày ché rượu "Cần" đải khách, ông quay sang viên Trung Đội trưởng TĐ1 nói một hơi và bảo thông ngôn lại cho tôi nghe: -Bản làng chúng tôi không theo phe nào cả, mấy ông đến đây đừng đốt phá hay sát hại dân làng chúng tôi, thì các ông không yên đâu! Tôi trả lời nhờ viên Trung đợi trưởng TĐ1 thông ngôn: -Nói với ông ta, chúng tôi đến đây do lệnh HQ chứ không có ý muốn hại dân bản làng, cũng không đốt phá gì cả! Nghe viên Trung đội trưởng TĐ1 thông ngôn lại lời của tôi cho ông nghe, nét mặt của ông bây giớ mới tươi tắn nở nụ cưới chất phát, ông ta ân cần mời chúng tôi uống rượu "Cần". Tôi từ chối vì không biết uống thứ rượu của người dân tộc, vả lại tôi cũng sợ nếu không may ông ta có thể "thư yếm" chúng tôi thì kể như tiêu đời. Viên Già làng nài nỉ ông nói: -Nếu các ông không uống rượu "Cần" thì các ông không muốn kết giao với người Thượng chúng tôi, thì mình không là bạn của nhau! -Ồ không có đâu, chúng tôi là bạn của người Thượng dân tôc mà! -vậy ông phải uống để chứng tỏ tình anh em chứ? Nghe Gìa làng nói thế tôi đành liều thôi, Tôi ra dấu cho tất cả TĐ1 cùng nắm "cần" hút một hơi. Men rượu :"Cần" cay, đắng lại vừa ngọt làm tôi cảm thấy thích thú thức uống này không như rượu Đế vừa Đắng, cay lại gắt. Sau một từng rượu ông gọi người nhà châm thêm nước lả vào ché rượu, ông nói lả vả với chúng tôi: -Mấy hôm nay không săn được con thịt nào cả, thôi thì để tôi bảo vợ tôi làm thịt con heo ở nhà đải quý ông! Nghe thế tôi vội ngăn lại: -Thôi được rồi không cần đâu, chúng tôi có thức ăn mang theo ông đừng giết heo! Già làng thở dài, ông nói : -Chúng tôi nuôi con gì vừa lớn là bị bọn ma quỷ nó ăn hết! -Ở đây cũng có ma quỷ sao? -Ồ ! Có chứ, những con Ó MA LAI đó! Chúng chỉ ăn ruột mấy con vật thôi, còn thịt thì chúng để lại cho chúng tôi. Tôi nghe ông ta nói mở tròn mắt vì kinh ngạc, không lẻ bọn quái vật này ở đâu cũng có hay sao, tại sao lại có nhiều Ó MA LAI như vậy ? Tôi thắc mắc : -Như vậy chúng nó không làm hại các người, vì sao chúng nó có nhiều mà các ông diệt được? Già làng với đôi mắt đăm chiêu nhìn xa xôi giọng ông kể đều đều: -Trong làng chúng tôi ngày xưa có nhiều người đi rừng săn bắn hoặc tìm trầm hương, thường bị thú dử tấn công sát hại, nghe có thứ Ngải khống chế được thú dử, nên trong làng có 4 người đi săn thú và Trầm Hương đều luyện Ngải để chế ngự được thú dử, tuy rằng chế ngự được thú dử, nhưng mỗi khi săn được thú thì 4 người họ phải ăn bộ lòng ruột của thú, chỉ mang phần thịt thú về cho dân làng. hoặc giả khi có lễ hội ăn mừng lúa mới trong làng, khi lễ "Đâm Trâu" xong, phải mang bộ lòng ruột của Trâu cho họ. Từ đó họ hầu như không còn giống như dân bản làng chúng tôi, ban ngày họ không lộ diện đợi đến đêm mới ra sinh hoạt. Có một điều rất lạ khi thấy họ đi phía trước, mình kêu tên họ thì họ xoay cả thân người chứ không xoay đầu lại được, điều này khác thường với những người không luyện Ngải. Trải qua thời gian nhiều năm sau cả làng nuôi con vật chi cũng đều chết hết, chúng tôi khám phá sau khi mổ thịt con vật thì không còn thấy bộ lòng ruột, chúng tôi họp dân lại bàn với nhau đuổi họ ra khỏi buôn làng không cho họ ở chung nửa, từ đó họ kéo nhau lên phía trên nương rấy cất nhà, 4 người ấy cùng gia đình họ ăn ở đó gần chục năm rồi, chúng tôi không dám quan hệ cũng như thăm viếng vì sợ họ...
...Nghe Gia làng MangBút kể chuyện tôi thắc mắc vội hỏi ông: -Như Già làng đã nói, 4 người Ó MA LAI lại sống chung cùng gia đình, người thân của họ có thể trở thành Ó MA LAI không? -Ồ cái này chắc có, chắc không chứ! vì khi Ó MA LAI chết rồi thì con Ngải nó sẽ tìm sang người thân của Ó MA LAI nào mà nó sai khiến ! Còn như Ó MA LAI sống biệt cư thì nó không có khả năng ấy! -Thật lạ lùng, nó không giết người sao ? -Cũng còn tùy khi nó cùng đường hoặc buộc phải giết người để tồn tại. Tôi nghe Già làng Mang Bút nói về đặc tính của Ó MA LAI tôi càng thêm sợ. Tôi bèn kể lại chuyện chúng tôi gặp xác Ó MA LAI và hủy xác như thế nào, còn chiếc đầu của nó mất dấu! Ông ta nghe xong cười khà khà tôi thấy rợn cả người, Già làng MangBút biết rất nhiều về Ó MA LAI, tôi muốn hỏi ông cách đề phòng và trừ bọn ma quái này! -Sao các người không trừ 4 con Ó MA LAI này đi? -Ồ nó không có giết người nó chỉ ăn các con vật thôi, việc chi mình phải làm thế có tội với "YANG"(Trời) đó! -Như trường hợp nó chết rồi còn đi ăn ruột thú vật. Già làng MangBút nói tiếp: - Khi Ó MA LAI chết người không mang đi chôn vì sợ nó sẽ sống trở lại và nguy hiểm hơn xưa, họ đặt thi thể vào quan tài để gác lên giàng cách mặt đất 7,8 tất tây, chiếc nắp áo quan đặt lệch một bên để như thế một thời gian cái xác Ó MA LAI sẽ bị phân hủy do tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Nếu trong rừng âm u thiếu ánh sáng thì nó sẽ không phân hủy, đến đêm nó sống lại chiếc đầu rời khỏi cơ thể đi săn thú nhỏ hoặc đi ăn phân, nó bay là đà cách mặt đất khỏang 2,3 mét, nhưng cũng có cái kỵ nó đó là hàng rào tre gai như ông T/u đã thấy quanh làng của chúng tôi đó! Ông lại giải thích tiếp: -Khi nó đi ăn đêm chiếc đầu bay là đà sẽ bị vướn tre gai nằm đó đến sáng hôm sau khi mặt trời lên thí nó bị tiêu họai. Tôi nghĩ thảo nào trong làng MangBút lại trồng tòan tre gai kỵ được lòai ma quái kinh dị này... Tôi đứng lên đi xuống nhà "Rong" gọi máy B/C về TrạiBenHét và xin chỉ thị: -80 đây 81. -80 nghe 81 nói đi! -Dạ. B/C 80, 81 đã vào ZX rồi xin chỉ thị? -81 anh tất cải con cai bố trí phòng thủ ngòai làng không nên cho vào trong hết nghe chưa? -Dạ. 81 đã bố trí 3 đơn vị bên ngòai rồi 80! -Vậy là tốt, các cậu qua đêm ở đó nghe ngóng tình hình rỏ? -Dạ. nghe rỏ 5/5 dứt. Tôi gọi máy mời Captans Smith và Trung Đội chỉ huy vào làng để chuẩn bị ăn trưa và bố trí phòng thủ qua đêm. Tôi trở lại bên "bàn tiệc rượu Cần", thấy nhiều người lính Thượng gương mặt đỏ thâm tím. Tôi nói: -Cám ơn Già làng đã chiêu đải chúng tôi, mấy anh em lính uống bao nhiêu đó được rồi vì còn nhiều việc phải làm! Sau khi gật đầu chào Già làng lần chót chúng tôi bước xuống ngôi nhà "Rong" về đơn vị phối trí phòng thủ. Buổi ăn trưa được dọn đơn giản trên chiếc Poncho tôi, Dé và tên lính Truyền tin cùng ngồi ăn, mỗi người đều lặng thinh trong buổi trưa hè như đổ lửa. Tôi cảm thấy bức rức muốn đi tắm nên mang theo khẩu súng XM18 đi về hướng bờ suối chổ Trung Đội 811 đang đóng quân... Giòng suối trong vắt mát lạnh, tôi vụt đầu vào dòng nước mát cảm thấy tỉnh táo và thích thú, tiếng chân dẳm trên là khô sột xọac làm tôi nhìn lên nơi phát ra tiếng động tay không quên chộp lấy khẩu súng bên cạnh hướng về phía trước thấy một con nai con đang bình thản gậm rêu cỏ. Chỉ là con nai con thôi, tôi muốn phì cười vì sự nhút nhát của mình!!!
...Một tiếng gầm vang động cả một khu rừng tỉnh mịch, chú nai con giật mình co chân phóng mất dạng, tôi vội bước lên bờ suối nhìn thấy một con hổ to đang đủng đỉnh đi cạnh bờ suối bên kia, theo linh tính tôi hướng nòng súng nhắm vào con hổ bắn hết một lọat đạn 5 ly,56 rồi bỏ chạy về hướng TĐ811, tôi cũng chẳng cần biết con hổ có trúng đạn hay không, mục đích cố chạy khỏi nơi nguy hiểm. Viên Trung đội trưởng TĐ811 chạy đến bên tôi vồn vả hỏi xảy ra chuyện gì? Tôi nói đứt quảng vì mệt: -Có...con...hổ to lắm! Viên Trung đội trưởng TĐ1 đi cùng tôi và không quên gọi thêm vài người ra bờ suối... Bên kia con suối, con hổ to lớn đang oằn ọai dảy chết làm cây cỏ cả một khỏang bị ngã rạp xuống, K'sorché Viên Trung đội Trưởng TĐ1 cuời lớn: -Ha, ha, T/u thiện xạ quá, một lọat đạn hạ được con hổ to! Tôi đến giờ chưa hòan hồn, nghe y nói thấy cũng vui vui vội bước đến cạnh suối nhìn sang bờ rỏ ràng con hổ còn co giật hai chân, máu tuông lênh láng đỏ ngòm cả một khỏang đất rừng. K'sorché cùng và 4 tên lính Thượng sang bờ chổ con hổ nằm chết, thuận tay y bắn vào đầu con hổ một phát đạn để con hổ không còn cựa quậy nửa, y ra lệnh cho 4 tên lính Thượng è ạch khiên xác con hổ về TĐ1, con hổ nặng khỏang 250 kg như một con nghé tơ, trên bộ lông vàng hực của nó đầy nhung nhúc những con bọ ve, tôi rợn gai ốc cả người!!! K'sorché hỏi tôi : -Bây giờ T/u tính sao với con hổ này ? -Thì các anh mổ thịt nó chia cho các Trung Đội và người trong làng Mangbút, lấy cho tôi bộ da rồi anh đem thuộc để dành chơi. -Dạ! Tôi thấy họ mổ thịt con vật thật tài tình thóang một chốc thì chia phần trong đơn vị và cho người trong làng đã xong, anh ta vác bộ da hổ vào làng mượn chum nồi, đi bẻ các thứ cây cỏ để thuộc da. Về BCH tên CV Mỹ nhìn tôi bằng con mắt kính phục Y hỏi tôi : -Nghe T/u bắn được con hổ to, tôi chưa thấy người nào can đảm như T/u! -Tôi cười ruồi trả lời : -Ồ! cái việc đó chỉ hên thôi! -Người Mỹ chúng tôi khi thấy hổ, thì gọi cả máy bay hay pháo binh để bắn hổ chứ đừng nói dùng súng cá nhân mà săn hổ! Nếu có thể T/u tặng tôi bộ da Hổ tôi sẽ nhớ mãi T/u. Nghe y nói tôi phì cười nghĩ: Mình đang có vận hên nên chó ngáp phải ruồi chứ can đảm gì? -Được rồi tôi sẽ tặng cho Đại úy, đợi anh lính TĐ1 làm xong tôi sẽ cho mang đến ông! Viên CV Mỹ cảm ơn lia lịa, tôi bước đi về liều thay đồ, tôi cảm thấy tự hào mình đang lớn lên trong cảnh chiến tranh dành quyền được sống! Buổi chiều nơi đây đến nhanh, từng tốp dăm ba người đàn bà dân tộc Thượng từ rẩy về, trên vai mang gùi, trước ngực dịu con, họ nhìn chúng tôi ngơ ngác xa lạ như chưa từng thấy bao giờ! Thật đúng như lời B/C của K'sorché "nơi đây không có thanh niên, trong bản làng chỉ có phụ nữ trẻ con và người già," vậy cả bọn thanh niên họ đi đâu nhỉ? Cơm nước xong, chúng tôi họp đơn vị triển khai trận địa phòng thủ quanh làng MangBút.Từ xa viên Già làng đi đến gặp tôi ông nói: -Đồng bào chúng tôi cảm ơn T/u đã cho thịt rừng, tối nay tôi có lấy hai ché rượu "Cần" muốn mời mấy người đến uống cho vui! -Ồ không nên như thế! Chúng tôi có biết uống rượu đâu? Nhưng thôi! Để giử tình giao hảo, tôi cùng CV Mỷ một số anh em trong đơn vị sẽ đến Nhà "Rong" để vui với Già làng! -Cảm ơn T/u nhiều! -Không có chi. Già làng chào tôi rồi ông bước thẳng về ngôi nhà "Rong", đi được hơn chục bước ông quay lại định nói gì với tôi nhưng lại thôi, sau đó lại bước nhanh đi về nhà "Rong". Hòang hôn ngòai kia tím lịm cả chân trời, từng ngôi nhà sàn đang chìm vào bóng tối xám xịt, những ngọn đèn dầu được thấp lên leo lét tỏa sáng, tôi cảm thấy cả khỏang không gian quanh tôi yên lặng chờ đợi ...
...Tôi cùng Captans Smith và 4 người lính trong BCH đến ngôi nhà Rong như đã hứa. Già làng đón chúng tôi trước cầu thang miệng luôn nở nụ cười: -Mấy ông đến rồi, mời vào uống rượu Cần! Tôi cho người nhà lấy hai ché mới đải khách. Tôi quay sang tên thông ngôn người Thượng nghe tên này dịch ý nghỉa của câu nói và tôi trả lời: -Cám ơn Già làng! -Mấy ông ở nơi đây bao lâu ? -Chưa biết có khi 3,4 hôm thì đi không chừng! Già làng không nói gì, cắm 6 chiếc cần vào ché rượu mời chúng tôi uống. vị ngọt ngọt đăng cay của men rượu làm tôi cảm thấy thích thú quay sang Smith tôi hỏi: -Đại úy thấy loại rượu của người dân tộc này uống được chứ ? -Vâng rất ngon! Già làng Mang Bút gọi người nhà đưa món nhắm lên trong tàu lá chuối con con. Mùi thịt tươi nướng thơm kích thích khứu giác chúng tôi, Già làng đưa mời tôi và Smith mỗi người một miếng thịt. Cắn miếng thịt dai mà tôi ngở như đang cắn phải thỏi cao su, tôi cố rức từng miếng nhỏ nhưng không tài nào làm được, sau cùng đành lấy lưởi đao găm cắt xén nó trở thành miếng mỏng đưa vào miệng nhai, càng nhai miếng thịt nở đầy miệng. Tôi không dám nhả ra ngoài, nuốt thì không nuốt trôi, lại e già làng bảo rằng chúng tôi không thiện cảm với người dân tôc Thượng! Tôi hỏi ông: -Thịt này là thịt gì mà dai thế? -Ồ ông không biết sao? Là thịt Cọp mà hồi chiều ông đã cho người biếu tôi đó! -À!!! Già làng cười, ông bảo: -Thịt cọp rất hiếm, được ăn còn gì bằng!!! Già làng đưa miếng thịt cọp lên miệng nhai nuốt ngon lành, ông vừa ăn vừa nói rất tự nhiên: -Đáng lẻ ra thì tôi phải ninh nó ít nhất 4 giờ thì thịt mềm, nhưng vì không có thức nhắm tôi bảo người nhà nướng lên để tôi cùng mấy ông nhắm rượu, thịt hơi dai nhưng cũng ngon chứ? -Cũng ngon!!! Tôi buộc lòng nói thế, thật ra nghe đến thịt hổ thì tôi càng ớn nuốt không trôi vì nhìn thấy hằng ngàn con bọ ve ký sinh lúc nhúc trên mình con hổ vào lúc trưa này! Nếu nói thật thì mất lòng nhau chẳng được gì cả, tôi đứng lên bước ra ngoài nhổ cái món thịt hổ rồi trở vào. Già làng kể chuyện làm nên thành tích thời trai trẻ của ông, rồi xoay sang chuyện ông đi học làm thầy lang chửa bệnh cho dân làng, sau đó dân bản bầu ông lên làm già làng MangBút... Mãi nghe Già làng kể chuyện chúng tôi uống hết ché rượu tôi cảm thấy mạch máu đang trương lên máu chảy rần rật trong người, tôi cùng Đại úy Smith đứng dậy cáo từ ra về BCH, trên đường về tôi bảo cùng Smith: -Đại uý ăn ngon chứ? -Ồ thứ thịt hổ gì dai hơn cả thịt bò già! Cả chúng tôi cùng cười. Về đến BCH ngã lưng trên võng tôi mơ màng vào giấc ngủ... Tiếng Dé gọi tôi văng vẳng bên tai tôi giật mình thức dậy : -T/u có chuyện rồi, con Ó MA LAI nó theo mình tới đây ! Tôi nghe tiếng "Ó MA LAI" thì kinh hải hỏi: -Nó ở đâu? -Dạ. Ngoài vòng rào của bản làng MangBút, có lẻ nó tim mình để trả thù, em nghe nó hú nảy giờ rất lâu nên mới gọi T/u! Tôi ngồi dậy chộp khẩu súng và đèn pin bảo Dé theo tôi, chúng tôi đến vòng đai của trung đội 2 không thấy lính gác, tôi gọi viên Trung Đội trưởng TĐ2 trách mắng việc lơ là phòng thủ là giết hết mọi người. Y lắp bắp xin lổi rồi y gọi các Tiểu đội trưởng lo đôn đốc kêu người canh gác...
... Tiếng rú man dại phát ra từ khóm tre gai làm cho từng sớ thịt trong tôi co giật cảm giác người ớn lạnh. Tôi chiếu đèn pin về hướng phát ra tiếng rú, dưới ánh đèn chiếc đầu người da nhăn nheo mang lòng thòng một mớ gan ruột, cặp mắt mở trừng trừng ánh lên màu xanh lục, đôi mắt như nhìn chúng tôi một cách căm thù như muốn ăn tươi nuốt sống. Tôi kinh hoảng đưa nòng súng lên hướng về chiếc đầu quái dị xiết cò, những cành tre gai cạnh chiếc đầu bị đạn tiện đức rơi lả tả nhưng chiếc đầu chao đảo dữ dội nó thét lên bằng những âm thanh ùng ục nhưng không thoát những cành tre gai dầy đặc, tôi định phóng cho nó một quả đạn M79 thì Dé đưa tay gạt nòng súng XM18 của tôi y nói: -T/u không thể bắn nó chết đâu Hảy để yên đó! Nó không thoát được, vì bị đám tre gai giử lại và đến sáng nó sẽ chết thôi! -Nếu vậy chúng ta nhìn nó gào rú cho mãi đến sáng hay sao ? -Dạ. Sáng mai mặt trời lên, cái YANG sẽ đốt chết nó thôi T/u! Tôi không nói gì quay lại nhìn những tốp lính Thượng Trung Đội 2 tên nào cũng kinh hải trên gương mặt co rúm méo mó trông rất buồn cười, và chính bản thân tôi cũng không ngoại lệ. Viên Cố Vấn Mỹ bước đến tay chiếu đèn pin lên ngọn cây tre y cũng không khỏi sợ hải cảnh tượng chưa từng được thấy, tôi hỏi: -Đại úy có hiểu biết chuyện ma quái như thế này bao giờ chưa? Viên cố vấn Mỹ trả lời nho nhỏ như chưa hết kinh sợ : -Thuở còn bé tôi được bà nội tôi kể về chuyện những xác chết biết đi, đứng ở những bộ lạc vùng Nam Mỹ, khi ấy bà cùng ông tôi sang đó khẩn đất lập Nông trại, họ là những bộ tộc da nâu đen rất háo chiến, ăn thịt những người da trắng đến đây lập nghiệp... Tôi trực nhớ điều gì bèn quay lại dặn Dé ở đấy canh chiếc đầu, định cùng Captans Smith về BCH thì Già làng MangBút đi đến, ông nhìn thấy chiếc đầu Ó MA LAI đang vùng vẩy muốn thoát khỏi những cành tre gai, ông chỉ vào chiếc đầu nói với chúng tôi: -Mấy ông để tôi hạ nó. Nói xong không đợi chúng tôi trả lời, ông ta cởi chiếc ná từ sau lưng nhắm vào chiếc đầu buông tên, "Phập" mũi tên vút vào chiếc đầu như đâm vào thân chuối! Chiếc đầu lắt lư càng nhiều hơn, tiếng ùng ục từ cổ họng phát ra đều đều... Tôi nói : -Ông bắn không chết nó đâu, hảy để sáng mai mặt trời lên nó sẽ bị đốt cháy! Già làng MangBút không nói gì, ông bước đến lấy một củ Ngải đưa lên miệng nhai một lúc rồi phun về hướng chiếc đầu, miệng đọc những tiếng thổ ngữ nghe rất lạ tai. Kỳ diệu thay! Chiếc đầu từ từ bớt chao đảo không còn gầm gừ và rơi từ trên cành tre cao 3 mét xuống đất nghe "huỵch" một cái, còn trên cành tre gai một túm ruột gan lòng thòng còn dính lại trông thật ghê rợn. Già làng MangBút bước đến chiếc đầu Ó MA LAI tự nhiên nhặc lên như người vừa bắn rơi con chim rồi nhặc chiến lợi phẩm của mình! Già làng tay ôm chiếc đầu quái dị đi về hướng chúng tôi như định giải thích hành động của ông khi hạ chiếc đầu quái dị... Ông càng tiến về chúng tôi thì bọn tôi không ai bảo ai tất cả đều lùi về sau như né tránh chiếc đầu mà ông đang ôm trên tay. Có lẻ ông ta nhận thấy sự úy kỵ chúng tôi đối với chiếc đầu trên tay của ông nên ông dừng lại nói lớn : -Các ông đừng sợ, bây giờ thì nó không còn nguy hiểm nửa, con ma nó chết rồi! Tôi nói thật với các người chiếc đầu này là ông nội của tôi, nay nó hết còn bay được cũng không còn hại ai nửa! Nghe Già làng giải thích hiện tượng Ó MA LAI và ông còn nhận ông là hậu nhân của Ó MA LAI chúng tôi càng e dè ông ta hơn, tôi nói: -Ông phải xử lý chiếc đầu này vào sáng mai khi có mặt chúng tôi, ông hiều chứ? Già làng MangBút cười nới : -Dạ. Tôi đợi các ông trứơc nhà "Rong". Già làng nói xong ông ôm chiếc đầu quái dị đi thằng về ngôi nhà giửa làng... Không ai bảo ai, chúng tôi mỗi người đi về chổ của mình nằm thao thức vì lo sợ mong chờ trời sáng...
... Không gian êm tỉnh, tiếng "Tát" của loài Hưu Sủa văng vẳng hoà với tiềng rền rỉ côn trùng như một tấu hợp bất tận. Trên bầu ánh sao Mai vừa loé lên chân trời, tôi nghĩ thế là một ngày lại qua với một đêm thức trắng! Thấy Dé còn ngủ say tôi lay Y thức dậy pha càphê , Tiếng của Dé: -Trời chưa sáng mà T/u ? -Tôi ngủ không được anh dậy đi, trời sắp sáng rồi đấy! Dé ngồi dậy moi từ Balô một cục C4, lấy chiếc cốc đổ nước vào treo lên cây đòn ngang, ngắt từng cục C4 đốt lên, phúc chốc tiếng nước sôi reo nho nhỏ, Dé lấy Cà Phê đổ vào rồi đưa cho tôị. Nhấp ngụm cà phê đốt điếu thuốc lá đầu ngày tôi cảm thấy hạnh phúc vô chừng, những bận rộn lo toan đã biến đi đâu mất, bây giờ chỉ có giây phút tận hưởng làn khói thuốc, mùi thơm của cà phệ, Dé hỏi tôi: -Sáng nay T/u định thiếu chiếc đầu ấy saỏ -Chư không thiêu để nó làm hại kẻ khác thì sao ? -Cũng phải vì loài ma quái ấy phải tiêu diệt thôi! nhưng mà T/u tiêu diệt con này thì còn con khác biết bao giờ mới hết ? Tôi ngẩn ngơ vì lời nói của Dé, đúng vậy, con Quái này vừa xong thì có thể cũng có những con quái khác như Già Làng MangBút đã kể cho tôi nghe hôm qua. Tôi lắc đầu thở dài nói với Dé như để tôi nghe: -Có lẻ chúng ta không bao giờ làm sao hết những thứ Ma Quái rác rưởi trong cuộc sống trần tục! Trong vòng đai Đơn vị rộn rả những tiếng động, các người lính Thượng họ chuẩn bị buổi ăn đầu ngàỵ, tôi đi đến bên Captans.Smith rủ y đến chiếc nhà "Rong" để xem xử lý chiếc đầu Ma Quái. Ba người chúng tôi đến trước chân cầu thang nhà "Rong" thì Già Làng Mang Bút đã đứng đầy từ lúc nào: -Chào các ông hôm qua ngủ ngon chứ ? -Cảm ơn chúng tôi ngủ rất ngon! -Tôi đã đem chiếc Đầu của Ông tôi để trên sàn nhà mời các ông vàọ. Chúng tôi trèo lên cầu thang tiến vào giửa nhà thấy chiếc đầu Ó MA LAI nằm trên một tấm vải , tôi hỏi: -Từ lúc ông mang vế đến giờ nó có tác quái gì không ? -Ồ cái Đàu ông của tôi nó chết rồi, không còn làm gì hại ai nửa! -Như vậy là ông Nội của Già làng chắc tuổi cũng đã lớn rồi chứ? -Dạ lớn lắm, gần gấp đôi tuổi của tôi! Hồi ấy tôi còn bé thì ông đã luyện thứ Ngải ghê gớm ấy rồi, lúc ấy Cha và Ông tôi ở cái làng PleiJeireng nằm cạnh biên giới Việt Lào mà mấy ông đã từng qua đó nên mới thấy cái xác nầy! Khi Ông chết rồi, gia đình cất ông ở trên giàng theo tục lệ của người chùng tôi, vì chôn xuống đất sơ đất ăn mất ông tôị. Tôi thắc mắc hỏi: -Nghe nói nếu chôn xuống đất thì cái xác này nó sẽ thành ma dử phải không? -Dạ chúng tôi biết như vậy nên người chết ở làng tôi cũng phải cất như thế! -Vậy không vệ sinh lắm hôi thúi chịu sao nổỉ Già làng MangBút chỉ cười không nói gì cả. Tôi quay sang nhìn chiếc đầu quái dị dưới anh sáng bập bùng của ngọn lửa trên bếp, làn da khô dét nhăn nheo bọc quanh xương đầu trông phát sợ, tôi đề nghị thiếu ngay chiếc đầu ngay giửa làng thì Già Làng nói: -Ông hảy để cho tôi giử làm kỷ niệm, vì hiện tại ông tôi không còn co thể hại được ai, con Ma nó đi rồi ! -Không được ông không nên giử chiếc đầu này! Thấy Già làng có nét mặt không vui nhưng tôi không khoang nhượng lối thích quái dị của ông, nên kêu Dé làm theo chỉ thi.. Dé đến lấy chiếc đầu đem ra giửa làng, gọi một số lính trung đội 2 đi lấy củi để bắt đầu thiêu chiếc đầu đến 3 giờ sau thành tro! Tôi hỏi Già Làng MangBút: -Còn 4 người luyện Ngải trở thành Ó MA LAI như ông đã nói họ có thể làm hại dân làng thì ông phải xử trí làm saỏ -Ồ! chuyện ấy tôi có thể trị họ được chứ, nhưng khi tôi trị thì họ chết mất thôi, cứ để họ sông như con thú rừng hoang miển họ đừng hại ai là được rồi! Tôi cùng Tên CV Mỹ và Dé đi về đơn vị chuẩn bị cho cuộc hành quân sáng hôm nay... Trên đường hành quân trờ về Trại BenHét tôi lan man suy nghĩ những điều kỳ lạ, những con người nơi đây họ phải thích hợp với nó như một môi trường cộng sinh không thể thiếu vắng được...
HẾT
Sau khi DaoKy viết Chuyện Ó MA LAI có nhiều bạn hỏi câu chuyện này có thật không? sau đây DaoKy trả lời với các bạn:
-O MA LAI là một câu chuyện có thật vào thập niên 70 trở về trước của thế kỷ 20, nó không là loại Ma quái như mình thường nghĩ, nó nguy hiểm hơn rất nhiều, vì các thầy Mo trong làng người Dân tộc Tây Nguyên luyện thứ Ngải rừng hoang. Loại Ngải có hồn, có khả năng ý chí mạnh mẻ để sinh tồn, do đó người nào hoà nhập với nó sẽ bị nó sai khiến, sau khi thân xác chết rồi, không còn hít thở nửa thì nó vẫn còn mượn xác đễ sống tiếp tục, đến khi thân xác huỷ hoại hoàn toàn thì Hồn Ngải mới thôi mượn hửu hình để tác quáị. Tất nhiên nó từ đâu đến và nó phải trở về nơi ấy, đo là một quy luật của vũ trụ, nó sẽ tá vào các bụi Ngải non sống phát triển chờ khi có duyên sẽ hội nhập như thế nửạ. Hiện nay ở Tây Nguyên vẫn còn có những con người luyện thứ Ngải này, cuộc sống của họ bình thường như chúng ta, nhưng khi lậm ngải sâu thì họ bị hồn ngải chiếm lấy sai khiến, sau khi chết thì trở thành loài Ó MA LAỊ Thế giới Bùa Ngải là một thế giới Tà Thần nên chúng vì quyền lợi và sự sinh tồn nên không việc gì chúng không làm. Ngày xưa khi DaoKy còn ở trong Quân Đội có nghiên cứu việc bí ẩn này một thời gian thấy nó có những hiệu quả nhất thời, linh ứng vô cùng, sau đó vì nghĩ đến tương lai khi lập gia đình sẽ di hai. cho con cháu nên DaoKy không xử dụng chúng nửa ! Nếu chúng ta không biết gì về chúng thì khi va chạm vào những hoàn cảnh bí ẩn, không thể hiểu biết hoặc khó mà nhận định, ne^n tìm cầu đến bản chất thiêng liêng trong thế giới tâm linh! Có muộn không khi ta chưa chuẩn bị cho mình một tri thức sống và làm việc trong thế giới này ?. Het
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 5:55:49 GMT 9
Hồn Trinh Nử
- Sưu Tầm Thuở ấy, nhà nọ từng có hai kiếp đàn bà, cả hai kiếp đến lượt mình, đều chôn chân thờ chồng đi lính. Hai người đàn ông lần lượt ra đi, nhưng người về thì chỉ một. Người chiến binh dũng cảm ấy về làng trong tiếng tiền hô hậu ủng, xênh xang trong mũ áo vua ban và làm vẻ vang cho dòng họ. Nhưng khi đón chồng, người đàn bà thứ hai khóc thầm: “Cân đai, mũ áo, bổng lộc vua ban… tất cả đều đẹp nhưng mái đầu ta và ông ấy tự lúc nào đã ngả sang màu sương!…” Vậy nên, kiếp đàn bà thứ ba vừa lọt lòng và nhoe nhoe khóc, thì cả bà, cả bố và mẹ cô bé chắp tay: “Lạy Phật! Lại thêm một cái tội nữa. Nhưng lần này, chúng ta sẽ không gả nó cho bất kỳ một người lính nào đâu nhé. Hai đời, chúng ta đã đợi chờ đến bạc tóc, thế còn chưa đủ sao?”. Cô bé lớn lên mơn mởn như nụ hồng. Từ nhỏ đến lớn cả nhà không cho cô được nói chuyện với bất cứ một người lính nào để cô giữ lời nguyền thuở trước. Một buổi sáng, xa xa vẳng tới tiếng trống ngũ liên. Cô gái bước ra vườn, đến bên bờ giậu đẫm sương. Chàng trai nhà bên đang gấp gáp khăn gói lên đường. Vốn là đôi trẻ vẫn cũng nhau chơi trò “đố lá”, họ cùng nhìn nhau rồi cùng cúi mặt, lớp lông măng ngăm ngăm trên mép chàng trai khẽ rung. Tiếng trống thúc dồn. Chàng trai đánh bạo: - Thế… có chờ… không? - Sao không hỏi xem bông tầm xuân có nở trước khi mặt trời lên không? - Cô gái cắn môi, nước mắt lăn tròn trên má. Và thế là mặt chàng trai đỏ đến tận chân tóc. Lâng lâng như vừa được chắp cánh, chàng bấm bụng: “Ta có thể ra đi, dù “da ngựa bọc thây”. Cô gái trở vào, mắt ngấn nước và thẫn thờ như người ốm, trong tiếng trống ngũ liên xa xa thúc dồn. Vậy là cả nhà biết. Họ trách lẫn nhau, rồi hai người đàn bà ôm nhau khóc. Bà cô gái thắp ba nén hương khấn người chồng quá cố: “Ông ơi! Có lẽ cháu ông đúng, bởi tôi nghiệm rằng, nếu bây giờ ông sống dậy, lại ra trận, thì tôi vẫn chờ ông. Ôi! Cái kiếp đàn bà!…”. Mẹ cô gái nức nở: “Chỉ tại mẹ thôi, chính mẹ đã truyền cho con dòng máu “đợi chờ”! Con làm sao khác được!”. Ông bố cố gạt đi: “Thì cũng phải có một đứa con gái nào đó chờ thằng bé ấy chứ, cũng như ngày xưa, trong căn nhà này bà chờ tôi vậy! Bây giờ, chỉ còn biết mong sao thằng bé ấy trở về!”. Nhưng thằng bé không sớm trở về. Chàng tân binh hăng hái giết giặc trong vài trận rồi ngôi sao chiếu mệnh mỉm cười với chàng ta, đấng quân vương vốn giỏi chọn người, vừa nhìn thấy chàng trai đã nhận ra ngay rằng đây là một tên lính hầu trung thành vô hạn. Thế là, ngài cho rút chàng trai về, ngày đêm cận kề bên ngài, một bước cũng không được rời xa. Khi còn giặc giã, vua cần chàng đưa vồng ngực vạm vỡ ra che làn đạn giặc, còn khi hết giặc, vua càng cần chàng hơn, để giữ gìn quyền uy tối hậu. Chàng là lưỡi kiếm “trừng phạt” tuyệt hảo, sẵn sàng giáng xuống đầu bất kỳ ai, theo lệnh đấng quân vương. Đã mười bảy năm rồi, cô gái chờ người lính ấy. Từ một thiếu nữ như nụ hoa chớm hé, nàng đã trở thành một cô gái quá lứa nhỡ thì. Bà nàng, rồi cha mẹ nàng theo nhau lần lượt trở về cõi Phật. Trước khi nhắm mắt, họ đều gọi con gái đến bên giường dặn dò: “Mai ngày nếu sinh con gái…”. Cô gái lặng lẽ khóc khi bà và bố mẹ mất, lặng lẽ khóc khi người yêu của chúng bạn trở về hay tử trận và cuối cùng, lặng lẽ để tang người yêu năm xưa, vì đã mười mấy năm rồi, chàng biệt vô âm tín. Thế rồi một buổi chiều có tiếng vó ngựa ghé sát bên thềm. Bước xuống từ yên ngựa là một người đàn ông phong trần và nhìn mọi vật từ trên xuống qua ánh mắt lạnh lẽo như thép. Ngang lưng anh ta thắt chiếc đai vàng vua ban. Đó là phần thưởng sau khi anh ta lập được công đâm vào lưng người bạn cũ. Người bạn này đã cả gan ngăn vua khi ngài hạ lệnh chém một danh tướng. Ông này chỉ vì mắt kém mà trót dâng vua một quả táo bị sâu ăn. Sau bữa tiệc ngập máu ấy, vua đã cất nhắc anh ta và cho phép anh ta về thăm nhà sau mười mấy năm xa cách. Mười mấy năm qua, người lính đó vẫn không quên người yêu xưa. Giữa cuộc đời bụi bậm, giữa triều đình đầy mưu kế sâu độc, cô trinh nữ nhà lành cắn môi cố nuốt giọt nước mắt chia ly vẫn không mờ nhạt mà thật lạ kỳ, lại càng như vầng trăng xa thẳm gọi anh về. Người con gái lỡ thì bước tới vài bước rồi sững lại. Nàng hoang mang tự hỏi, không biết đó có phải là chàng trai hàng xóm năm xưa rụt rè mãi mới dám hỏi: “Thế… có chờ… không?”. Nhưng khi người đàn ông ấy gọi tên nàng bằng giọng nói thân thuộc, nàng khóc, tiếng khóc nghe như ngàn mảnh thủy tinh rơi, vì nàng phải chờ đợi quá lâu, và người nàng chờ nay đã biến thành người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép. Làng xóm đua nhau chúc mừng nàng. Các ông làm nghề “gõ đầu trẻ” đem mối tình chung thủy của hai người rao giảng trong các lớp học. Thế là từ đấy có thêm nhiều cậu bé chỉ mơ về chiến trận. Mơ về một mai mình được hầu cận đấng quân vương. Còn những cô bé thì chỉ ao ước sao mai này lớn, được chờ người yêu đến khi lỡ thì! Không chậm trễ gì, người ta làm lễ cưới cho đôi tình nhân chung thủy. Vua ban áo tím cho nàng trinh nữ lỡ thì và đám cưới trọng thể hết chỗ nói. Hoàng hôn xuống, cạnh chén rượu bên mâm cỗ, quan khách tròn xoe mắt nghe chú rể kể chuyện. Mười mấy năm hầu cận vua, anh ta đã quen tính kín miệng. Và chỉ bốc lên khi rượu đã ngà ngà. Nhưng anh không biết nói chuyện gì khác, ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc đầy sơn hào hải vị ngập máu trong thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay kiếm của anh. Cuối cùng, vì sao vua đã ban cho anh ta chiếc đai vàng. Người trinh nữ nghe chuyện của chồng mới cưới và nàng đứng không vững nữa. Lảo đảo, nàng lùi dần về buồng. Nép mình trên giường trong bóng tối, nàng như ngửi thấy mùi tanh lợm của máu, và trên mặt nàng như có làn môi lạnh toát của những oan hồn lướt qua. Nàng vùng dậy, run lật bật, vội vàng châm lửa lên tất cả các ngọn đèn dầu lạc mà nàng tìm được trong buồng. Ánh đèn chập chờn đỏ quạch càng làm nàng thêm sợ hãi. Vừa lúc đó, có tiếng kẹt cửa. Thân hình to lớn của người chồng mới cưới chếnh choáng tiến vào. Theo thói quen, anh ta vẫn mang theo thanh kiếm. Nàng nhìn lên, và thấy anh không vào một mình. Theo liền sau anh là một người đàn bà trong veo, tóc xoã - chỉ có bộ tóc là còn màu sắc - mặc quần áo đại tang, đang cầm một tấm áo đẫm máu giơ lên và cất giọng đều đều một cách kỳ lạ, lặp đi lặp lại như không bao giờ dứt: -Hãy trả chồng cho ta! Kẻ giết bạn kia, trước khi mi bước vào giường cưới! Hãy trả cha cho năm đứa con thơ dại của ta! Hãy trả… Vậy mà chồng nàng không nghe thấy gì cả, anh dựng thanh kiếm vào vách, rồi xáp tới đặt tay lên ngực nàng. Ngay lúc đó, nàng nhìn thấy máu từ tấm áo trong tay người đàn bà xoã tóc rỏ xuống hai bàn tay người chồng mới cưới. Nàng ôm mặt rú lên kinh hãi: - Ôi kìa, máu! Máu nhiều quá! Máu đỏ cả hai bàn tay! Chồng nàng giật mình nhìn lại. Anh vẫn không thấy gì cả, ngoài những vết sẹo ngang dọc nơi bàn tay mình. Anh dỗ dành: - Ồ! Can đảm lên, cô em ủy mị! Chẳng qua là vì em quá hồi hộp đó thôi! Đã bao ngày ta chờ phút giây này. Nào, hãy vui lên. Anh nói vậy, nhưng miệng không cười và mắt vẫn lạnh như thép, cũng như từ ngày về đến giờ, chưa một ai nhìn thấy anh cười. Người trinh nữ bỏ hai bàn tay che mặt. Nàng không nhìn thấy người đàn bà tóc xoã nữa, nhưng trên khuôn mặt đang gần xuống mặt nàng, nàng chỉ thấy khóe miệng mím chặt và cái nhìn lạnh lẽo như cái nhìn của Thần Chết. Lại sợ hãi cuống quít, nàng van vỉ: -Hãy mỉm cười đi anh! Em van đấy! Hãy cười lên để em thấy anh của ngày xưa. Bao năm chờ đợi, em đâu muốn anh buồn… Người chồng cố hết sức để mỉm cười. Đã lâu lắm rồi anh không làm cử chỉ đó nên bây giờ anh không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào. Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười người ta phải để lộ ít nhất là một hàm răng. Anh nhếch môi, để lộ hẳn hai hàm răng chắc khỏe. Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói. Ngay lập tức, vợ anh co rúm lại và quay mặt vào trong, thổn thức cố kìm tiếng khóc. Người chồng buồn bã soi trong tấm gương cười, ngắm kỹ mình, rồi tuyệt vọng: - Thôi, thế là hết, cả một đời chờ đợi! Em chối từ ta, em ghê tởm ta ư? Anh rũ xuống thành giường, rồi gầm lên như một con thú bị thương: - Tại sao em chờ ta cả đời, để rồi chối từ ta? Tại sao em bắt ta phải cười! Còn đâu nữa chàng trai với lớp lông măng trên mép ngày xưa! Ta đã trở thành “người đàn ông không cười” của triều đình, từ khi bàn tay này nhúng vào máu bạn bè, bên những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị. Đấng quân vương sai ta giết hết những kẻ bất tuân thượng mệnh bằng các chiếc đũa. Trong mọi chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc đều có một lưỡi dao tinh tế giấu ở trong… Anh nức nở, đôi vai rung lên dữ dội: - Ôi! Bạn ta! Người bạn đã cùng ta tựa vào lưng nhau tìm hơi ấm chống đỡ cơn gió lạnh chiến hào. Thôi, thế là hết và đây là đêm tân hôn vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương. Tiếng nức nở dữ dội của người chồng mới cưới rung chuyển cả căn phòng. Rồi xách kiếm trên tay, anh bỏ đi biệt xứ. Có người nói rằng anh đã đến tìm vua, định bắt vua phải đền tội đã biến anh thành người đàn ông không biết cười. Nhưng vua đã kịp giết chết anh trước, bằng chính một trong những chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc. Cũng có người bảo rằng anh lại lao vào những cuộc chém giết mới không ghê tay cho quên ngày tháng. Chỉ còn lại nơi quê nhà người trinh nữ lỡ thì. Nàng sống âm thầm như cái bóng, mà không một lần nghĩ đến chuyện tự giải thoát bằng cái chết. Nhưng cái tật hễ có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt thì nàng không sao bỏ được. Một hôm, người xã trưởng được mời đến để làm giấy chứng tử cho nàng. Nàng chết mà hai tay che mặt, người khâm liệm nắn thế nào cũng không bỏ ra. Vài ngày sau, trên mộ nàng rùm roà mọc một loài cây thấp lòa xòa mang hình tròn tim tím buồn man mác. Mỗi khi có chân bước qua hay va chạm mạnh, những chiếc lá lăn tăn lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt. Những loài hoa cỏ mọc đầy chung quanh lấy làm lạ lùng lắm về chuyện đó. Một hôm, chúng chặn chàng Gió lại: - Này, anh Gió! Ở đây, không có ai già như anh và trẻ như anh. Vậy anh hãy nói cho chúng tôi biết vì sao loài cây mới đến kia, tầm thường đến vậy, lòa xòa bên vệ cỏ, khách bộ hành dễ dàng giẫm lên, có gì đặc biệt đâu mà phải gìn giữ, hơi một tí lại lấy tay che mặt, điệu đà làm vậy? Từng trải như chàng Gió mà cũng không trả lời được. Thế là một đêm thanh tĩnh, dịu dàng, muôn hoa cỏ đang mơ màng trong giấc ngủ êm đềm, chàng Gió lướt tới bên loài cây tầm thường ấy, khẽ hỏi: - Này cô em bé bỏng! Sao em hay che mặt thế? Ở đây có ai chọc ghẹo em sao? Em hay e thẹn lắm à? Nếu không, tại sao người ta lại gọi em là cây trinh nữ? Đắn đo một chút, rồi loài cây ấy nhẹ nhàng đáp: - Không phải thế đâu, mặc dù chết đi, em vẫn là trinh nữ. Em che mặt vì sợ. Ngày nay người ta càng tranh giành nhau dữ hơn, những bàn tiệc ngập máu vẫn còn nhiều. Vậy nên, mỗi va chạm, mỗi bước chân tạt qua đều làm em giật thót mình. Em sợ người ta sẽ gửi đến cho em đôi bàn tay đầy máu và khuôn mặt người yêu xưa chẳng biết cười. Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân qua. Đó là bước chân sóng đôi của một đôi trai gái đang đi trong sương mù. Trước khi cẩn thận khép những mắt lá lại, cây trinh nữ cầu khẩn: “Ôi! Lạy Phật! Cầu cho đây không phải là bước chân của những người phải tiễn nhau về nơi ấy…”.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 6:03:00 GMT 9
Ðại Nam
Tác Giả: Bồ Tùng Linh Hề Thành Liệt là một sĩ nhân ở Thành Ðô. Có một vợ và một thiếp. Người thiếp họ Hà, tiểu tự là Chiêu Dung. Người vợ chết sớm, bèn lấy vợ kế họ Thân, tính đố kỵ nhau, ngược đãi người thiếp họ Hà sinh được một con trai đặt tên là Ðại Nam. Hề lâu nay không trở về, Thân gạt Hà ra, không thổi cơm chung, cứ ngày ngày đong phần thóc cấp cho. Ðại Nam lớn dần, thóc ăn không đủ nữa. Hà phải dệt vải để phụ vào phần ăn, không dám xin thêm. Ðại Nam thấy ở trường học, trẻ con ngâm nga đọc sách, cũng muốn đi học. Mẹ cho là hãy còn bé quá, nhưng cũng dắt đến trường cho học thử, để con chán phải bỏ. Ðại Nam sáng dạ, sức học gấp đôi các trẻ khác. Thầy làm lạ, tình nguyện không đòi tiền học. Hà bèn cho con theo học thầy, biếu lễ chút đỉnh. Ðược hai, ba năm đã học thông kinh sách. Một hôm, đi học về nói với mẹ rằng: - Trong trường có năm sáu đứa đeo lấy cha xin tiền mua quà bánh, sao con lại không có cha? Mẹ nói: - Chờ lúc nào con lớn lên, mẹ sẽ cho con biết. Ðại Nam hỏi: - Con nay đã bảy, tám tuổi, bao giờ mới là lớn? Mẹ bảo: - Con đến trường đi qua miếu đức quan Thánh thì nên vào lạy, ngài sẽ phù hộ cho chóng lớn. Ðại Nam tin lắm, ngày hai buổi đi qua đều vào lạy. Mẹ biết thế, hỏi: - Con khấn điều gì? Cười đáp: - Chỉ xin sang năm ngài cho con lớn bằng đứa mười lăm, mười sáu tuổi. Mẹ cười. Song Ðại Nam sức học và hình vóc đều lớn như nhau, mới mười tuổi mà như mười ba mười bốn tuổi; những văn bài cậu làm, bài nào văn chương cũng trôi chảy. Một hôm, nói với mẹ rằng: - Trước kia mẹ nói, con lớn lên mẹ sẽ cho biết cha ở đâu, bây giờ đã đến lúc rồi đấy! Mẹ bảo: - Chưa đâu, chưa đâu! Lại hơn một năm nữa, đã như người lớn hẳn hoi, càng gạn hỏi luôn luôn. Mẹ bèn thuật lại ngành ngọn. Ðại Nam nghe nói, thương cảm khôn xiết, muốn đi tìm cha. Mẹ nói: - Con hãy còn non trẻ quá, cha còn hay mất chưa biết, làm sao tìm được ngay? Ðại Nam không nói gì mà bỏ đi, đến giữa trưa không về, bèn đến hỏi ở trường, thì thầy nói sau giờ cơm sớm chưa trở lại trường. Mẹ cả kinh cho là Ðại Nam bỏ học, bỏ tiền ăn ra thuê người đi tìm kiếm khắp nơi mà không có tung tích gì. Ðại Nam ra khỏi cửa, mù mờ chẳng biết nên đi đâu, cứ thẳng đường mà đi miết. Gặp một người đang định đi Quỳ Châu, nói mình họ Tiền. Ðại nam ăn xin và đi theo. Tiền bực đi chậm quá, thuê cho một con lừa, tiền lưng cạn hết. Ðến Quỳ, cùng nhau ngồi ăn, Tiền lén bỏ thuốc vào thức ăn, Ðại Nam mê man bất tỉnh. Tiền chở đến một ngôi chùa lớn, giả thác là con mình, không may bị ốm giữa đường, hết tiền ăn, muốn đem bán cho nhà chùa. Tăng đồ thấy mặt mũi khôi ngô khác thường, tranh nhau mua. Họ Tiền lấy được vàng rồi ra đi. Tăng chúng đổ thuốc cho Ðại Nam, dần dần tỉnh, sư cụ trụ trì biết tin đến xem, thấy tướng mạo rất lạ, gạn hỏi ngọn ngành, lại càng thương, bảo các tăng giúp tiền bạc rồi cho đi. Có thư sinh họ Tưởng ở Lô Châu, đi thi trượt trở về, trên đường gặp hỏi biết duyên cớ, khen là hiếu, kết làm bạn đồng hành. Ðến Lô Châu, cho ở trong nhà mình hơn một tháng, gặp ai cũng hỏi. Có người mách rằng trong đám thương nhân đi Mân có người họ Hề, bèn từ biệt họ Tường để đi Mân. Tưởng giúp cho áo quần giày dép, xóm làng cũng góp nhau giúp tiền ăn. Trên đường gặp hai khách buôn vải đi Phúc Thanh, mời cùng kết bạn đường. Ðược vài ngày, khách dòm được tiền trong đãy của Ðại Nam, bèn đem đến chỗ vắng, trói tay trói chân, cướp hết mà đi. Vừa có ông cụ họ Trần người Vĩnh Phúc đi qua đấy, cởi trói, dìu lên xe, chở về nhà mình. Ông cụ là một nhà cự phú, thương nhân các trấn phần lớn đều từ cửa nhà cụ mà ra. Cụ dặn các khách buôn Nam Bắc hỏi dùm tin tức của Hề, và giữ Ðại Nam ở lại làm bạn đọc sách với các con mình. Ðại Nam bèn ở lại, không đi đây đi đó nữa, từ đó nhà càng xa, tin tức càng nghẽn. Hà Chiêu Dung sống cô quạnh ba bốn năm, Thân thị xén bớt phần ăn, đè nén đến điều, bắt phải tái giá. Hà tự làm lấy mà ăn, ý chí không lung lay. Thân ép bán cho một lái buôn Trùng Khánh. Lái buôn bắt cóc đem đi. Ðến đêm, Hà lấy dao cứa cổ. Lái buôn không dám bức, chờ cho vết thương lành lặn, đem bán lại cho một khách buôn ở Diêm Ðình. Ðến Diêm Ðình, Hà tự xẻ lồng ngực, lộ rõ phủ tạng. Người khách buôn hốt quá, lấy thuốc ra buộc vết thương; khỏi rồi, chỉ muốn làm vãi. Người khách buôn bảo rằng: - Tôi có người bạn buôn, không có bộ phận của đàn ông, chỉ muốn tìm người may vá trong nhà, ở với người ấy cũng không khác gì làm bà vãi, mà lại cũng có thể bù lại chút vốn tôi bỏ ra. Hà nghe theo. Người khách buôn cho xe đưa đi. Ðến cửa, chủ nhân chạy ra, thì là chàng Hề. Số là Hề đã bỏ nghiệp nho mà đi buôn. Người bạn buôn thấy không có vợ bèn đem Hà thị tặng cho. Gặp nhau kinh ngạc, buồn thương, kể lể những nỗi khổ sở. Hề mới biết là mình đã có con, đi tìm cha chưa về. Hề bèn dặn các quán trọ, dò hỏi tin tức Ðại nam, mà Chiêu Dung tự phận thiếp nay trở thành chính thất. Nhưng trải qua nhiều bước gian truân, yếu đau lắm bệnh, không thể gánh vác được mọi việc, bèn khuyên chồng lấy vợ lẽ, Hề trông gương tai họa lúc trước, không chịu nghe theo. Hà nói: - Nếu thiếp là kẻ tranh giành ngôi thứ ở nơi giường chiếu, thì trong mấy năm nay đã theo người ta mà đẻ con rồi, có còn được đoàn tụ với nhau như ngày nay nữa đâu! Vả chăng cái ách mà người ta đặt lên cổ mình, còn đau đớn âm ỷ ở trong lòng, lẽ nào tới phiên mình mình lại đem đặt lên cổ người khác! Hề bèn dặn bạn khách buôn mua cho một cô người thiếp già, tuổi hơn ba mươi. Qua nửa năm, khách quả mua được thiếp đem về. Khi vào cửa, thì lại chính là người vợ họ Thân. Người nào người nấy nhìn nhau lạ lùng, kinh hãi. Trước đó, Thân thị ở một mình được một năm, người anh tên là Bao khuyên tái giá. Thân nghe theo, duy ruộng nương thì bị con cháu trong họ ngăn không cho bán. Chỉ bán các vật sở hữu, tích cóp được mấy trăm đồng vàng, đem về nhà anh. Có người lái buôn ở Bảo Ninh, nghe nói thị giàu, có cả một hòm tư trang, bèn lót nhiều tiền cho Bao để lừa phỉnh thị mà cưới làm vợ. Nhưng người lái buôn thì già khụ và tàn phế, chẳng còn sức làm đàn ông nữa. Thân oán giận anh mình, không yên phận làm vợ, hết dọa thắt cổ trên giường, lại đe gieo mình xuống giếng, quấy nhiễu không chịu nổi. Lái buôn giận, lục soát tiền bạc lấy hết, định đem bán làm thiếp, nhưng ai cũng chê đã lỡ thì rồi. Lái buôn ta đi Quỳ Châu, đem thị đi cùng, gặp người khách buôn cùng một cửa hiệu với Hề, vừa may lại trúng ý định, bèn mua mà mang đi. Ðến khi gặp Hề thì vừa thẹn, vừa sợ, nói không ra một tiếng. Hề hỏi lại người khách buôn cùng cửa hiệu cũng biết đại khái, bèn nói: - Nếu gặp người đàn ông khoẻ mạnh, thì đã ở lại Bảo Ninh, đâu có gặp nhau ở đây nữa! Âu cũng là số cả! Nhưng nay ta mua thiếp chứ không phải cưới vợ, vì thế, trước hết hãy vào lạy Chiêu Dung để đúng lễ vợ cả vợ bé đã! Thân lấy làm xấu hổ, Hề nói: - Xưa kia còn làm vợ cả thì như thế nào? Hà khuyên nên miễn cho thị, nhưng Hề không chịu, cầm gậy đứng trước mặt cưỡng ép. Thân bất đắc dĩ cũng phải lạy, nhưng trước sau vẫn không chịu hầu hạ, chỉ làm lụng ở phòng khác. Hà đều khoan dung cho hết, cũng chẳng nỡ xét nét siêng năng hay lười biếng. Mỗi khi chuyện trò yến ẩm cùng Chiêu Dung, Hề cứ gọi Thân thị đến hầu hạ bên cạnh. Hà muốn thay thế bằng một con hầu, Hề không nghe. Gặp lúc quan huyện lệnh họ Trần tên Tự Tông, đến nhậm chức ở Diêm Ðịnh. Hề có việc tranh chấp nhỏ với người làng, họ bèn kiện Hề tội cưỡng bức vợ cả làm vợ lẽ. Trần Công không xét, quát mắng đuổi ra. Hề mừng lắm, nói riêng với Hà, ca ngợi ông huyện nhân đức. Một đêm, canh đã khuya, tiểu đồng gõ cửa vào báo quan huyện lệnh đến. Hề hốt quá, vội vàng mặc áo xỏ giày, thì quan đã vào nhà trong, lại càng hoảng, không biết làm thế nào. Hà nhìn kỹ, vội vàng đi ra, nói rằng: "Con ta đây mà!", rồi khóc lên. Trần Công bèn sụp xuống đất, nức nở nghẹn ngào. Số là Ðại Nam từ khi theo họ của cụ Trần đến nay đã nên quan. Lúc ông mới từ kinh đô chuyển đến, có vòng đường đi qua cố hương, mới biết hai mẹ đều đã cải giá, gục đầu thương cảm. Người trong họ biết Ðại Nam đã là quan sang, đem nhà ruộng trả lại cả. Ông cho đầy tớ ở lại để sửa sang, xây cất, mong có ngày cha lại trở về. Rồi được bổ nhiệm ở Diêm Ðình, lại muốn bỏ quan để tìm cha. Cụ Trần ra sức khuyên can. Vừa gặp lúc có người thầy bói bèn xin một quẻ. Thầy bói nói: - Nhỏ thành lớn, thiếu thành trưởng, tìm trống được mái, tìm một được hai; quẻ này đi làm quan thì tốt. Trần Công bèn đi nhậm chức. Vì không tìm được hai thân, nên làm quan mà không dám ăn mặn, uống rượu. Ngày hôm ấy, nhận được đơn kiện của người làng, thấy nói đến họ Hề, có ý ngờ, lén sai người tâm phúc đi hỏi han, quả đúng là cha, bèn thừa lúc đêm tối, đi ra theo kiểu "vi hành"; gặp lại mẹ chàng tin thầy bói là thần kỳ. Khi trở về, dặn chớ tiết lộ, đưa hai trăm đồng vàng, bảo bố sửa soạn hành trang trở về làng cũ. Bố tìm đến nơi thì nhà cửa mới mẻ, nuôi thêm hai người hầu ngựa cưỡi, nghiễm nhiên là một đại gia. Thân thị thấy Ðại Nam giàu sang thịnh vượng thì lại càng hổ thẹn. Người anh là Bao nghe tin, đâm đơn lên quan, muốn giành lại ngôi vợ cả cho em mình. Quan điều tra được thực tình. Giận nói: - Ðã tham của, khuyên em tái giá hai lần đổi chồng, còn mặt mũi nào mà tranh giành cả lẽ như ngày xưa? Bèn truyền đem Bao ra đánh roi rất nặng. Từ đó, danh phận rõ ràng, Thân cam phận bé mọn thờ Hà như chị, thì Hà cũng lấy nghĩa mợ cả đối xử với Thân như em, quần áo, ăn uống không một thức gì tranh phần dùng riêng. Trước kia, Thân vẫn sợ Hà phục thù, đến đây lại càng thẹn thùng, hối hận. Hề cũng quên điều ác ngày xưa của thị, cho phép người nhà gọi bằng thái mẫu, chỉ có phong tặng là không được mà thôi. Hết
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 15, 2011 2:43:25 GMT 9
Ăn cơm nhờ ngành nghề khoa học , mà nói về huyền bí thì hơi kỳ . Nhưng không nói thì không được, vì nó có thật.
Đạo Công giáo tuy biết chuyện nầy nhưng ít khi đề cao chuyện luân hồi , họ chỉ đề cao chuyện phép lạ mà thôi.
Đây là những chuyện có thật của đời tôi . Nó có thật và không nghe một ai nói lại.
Nhập đề phần nầy thì nói đến những nhân chứng lừng danh, họ viết trên sách in của họ cho chúng ta biết. Họ - là những người Việt nam lừng danh , nghe tên là biết liền.SagantPhan ************************** 1.- Giáo sư Trần văn Khê ( nay ông trên dưới 90 tuổi rồi – hiện nay sống ở Saigon ) Ông là thân phụ của giáo sư Trần văn Hải mà có phần forum riêng của ông ta trong Vietsciences forum nầy – đó là phần về âm nhạc vậy. Giáo sư Khuê nói lúc còn trẻ ,. Qua Pháp du học về âm nhạc tại Paris…thời gian sau thì giáo sư Khuê đi khám bệnh , mới biết mình bị lao thận . Bạn biết bệnh lao là bệnh vi trùng ăn lũng cơ thịt , như lao phổi thì vi trùng Koch…nó sẽ ăn lũng lá phổi bệnh nhân. Thì lao thận cũng vậy , nó ăn lũng thận. Lúc thời ấy thuốc trụ sinh trị bệnh vi trùng Koch rất hiếm hoi , không hữu hiệu bằng bây giờ. Khi đượ bác sỉ bệnh viện sinh viên Paris báo cho biết ,thì giáo sư Khuê rất buồn. Bệnh viện lên chương trình mổ và cắt thận của giáo sư Khuê bỏ. Giáo sư Khuê nằm nhà thương rất chán , xin bác sỉ Pháp cho ra bệnh viện đi chơi vài hôm. Bác sỉ đồng ý , Giáo sư Khuê củng người bạn lái xe hơi từ Paris đi về Nam chơi vài ngày. Giáo sư và người bạn xuống tận cực nam Pháp , ông đến viếng Lộ Đức ( Lourdes ) và cầu xin Đức Mẹ cho mọi chuyện mổ xẻ bình an . Vì lúc xưa ấy , chuyện lên bàn mỗ là năm ăn năm thua , không bảo đãm 100 % là an toàn. Khi trở về Paris , thỉ xe hơi của bạn ông bị tai nạn . Cà hai được chở về bệnh viện dành cho sinh viên ở Pháp. Bác sỉ giải phẩu của bệnh viện khi thấy giáo sư trở lại bebnh65 viện với tai nạn giao thông….thì bác sỉ nản chí hết sức. Vì hội đồng bệnh viện đồng ý chọn ngày đem giáo sư Khuê lên bàn mỗ…mọi chuyện sẳn dàng , ngày giờ ấn định…thế vì tai nạn giao thông đành dời lại chờ vết thương chân hay tay của giáo sư lành mới tính tiếp. Sau vài tuần dưỡng bệnh tại bệnh viện thì gaio1 sư được bệnh viện đem đi chụp quan tuyến Xrays một lần nữa về trái thận bị lao mà sẽ cắt bỏ nay mai. Lạ lùng chưa …trái thận ấy không còn thấy bệnh lao nữa. Nó lành hẳn hoàn toàn y như không cò bệnh vậy. Cãm thấy bị quê một cục , bác sỉ giãi phẩu ấy ra lệnh phải chụp Xrays một lần nữa với sự chứng kiến của bác sỉ ấy . Hình rữa ra , hoàn toàn không có bệnh hay vết tích vi trùng lao, nơi trái thận ấy. Quả thật là sự kỳ diệu vô cùng . Tuy được sự linh ứng như phép lạ của Đức mẹ Lộ Đức ( Lourdes ) nhưng giào sư Trần văn Khuê vẩn không chịu theo đạo Công giáo mà theo đạo Ông bà từ xưa trới nay. Sách ông viết Hồi ký Trần văn Khuê 5 quyển được bàn sạch tại USA , có thư viện Hoaky luu trử ( nơi nhiều Việt kiều ). Còn tại Thành phố HCM thì sách tái bản lần thứ 3 rồi . Cộng sản VN không kiểm duyệt chuyện phép lạ nầy xảy ra cho giáo sư Trần văn Khuê triong sách ông viết nói về phần nầy . ***************** Vụ thứ 2 : Tổng Giám Đốc Viện Hối Doái Ngân hàng QGVN , Ông Huỳnh văn Lang . Ngày xưa lúc chúng tôi còn học lớp Đệ Lục ( lớp 8 bây giờ Lop 7 ) tại trường Taberd Saigon. Lúc cuối tuần giờ giáo lý…thì lớp học khá rổi rành. Thầy frere sợ học trò làm ồn thì không tốt , nên frere mới kể chuyện ma cho hết giờ ra về. Frere kể một chuyện ma với giông điệu chậm rãi là cả đám học trò mặc quần sọt cụt áo trắng teo gân hết . Frerr kề có một nhà thờ , đêm đêm về thì người ta nghe thấy tiếng kêu reng rẽng của dây lòi tói từ mộ bên ngoài đi vào nhà thờ. Họ thấy 1 cặp vợ chồng , gương mặt đau khổ đeo xiếng xích đi quanh nhà thờ ấy. Đến nữa đêm thì biến mất. Đêm nào cũng vậy. Học trò nghe chuyện nầy thì ớn da gà thật tình. Rồi thời gian trôi qua…lên lớp , ra trường . , lên đại học rồi bị gọi nhập ngũ theo lệnh Tổng động viên … Rồi chiến trận tràn lan…rồi trôi dạt qua phương trời xa lạ . Saigon đổi tên thành thành phố Hồ chí Minh. Hơn 30 năm trôi qua… Thì tại California có bộ sách 3 quyển xuất bản , tác giả là Huỳnh văn Lang . Ông là cựu Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái thuộc Ngàn Hàng Quốc Gia VN. Ông học Kinh tế bên Thụy sỉ , Ông Diệm cần nhân tài nên Ông về nước lập tức. Ông nầy thuộc con đở đầu của Giám Mục Ngô đình Thục , nện được cha Thục giới thiệu thì kể như xong rồi. Ông là người giòi , năng động. Ông cùng nhóm thiện nguyện tổ chức chương trình Bình Dân Giáo Dục , dạy đêm cho những người ban ngày bận làm việc chỉ rành ban đêm. Ông rất thích đá gà , và đá gà ăn rất lớn. Lá số Tử vi của ông có có trong tay. Loại thượng thượng cách. Ban sơ nghèo , trung niên thịnh vượng , vãn niên hưởng nhàn giàu sang. Ông lấy vợ rất giàu , Bà già vợ là Bà buôn bán vàng giàu nhất nhì Hà Nội , di tản năm 1954 về Saigon , lập nghiệp rất lớn về ngành vàng bạc đá quý. Sách ông kề rất hay , nhất là cảnh ông đi săn cọp . Ông săn bắn cọp giỏi hơn ông Ngô đình Nhu nhiều lần . Ông kể đến ngôi nhà thờ có ma xuất hiện về đêm . Vợ chồng ấy mang lòi tói đi lẽng xẽng khắp nhà thờ. Đêm là vợ chồng xuất hiện từ 2 ngôi mộ sau nhà thờ. Khi đọc đến đó , tôi nhờ lại câu chuyện ma của frere trường dòng 40 năm trước . Ông Huỳnh văn Lang nói nhà thờ ấy là nhà thờ Huyện Sĩ Saigon vậy . Nên nhớ ngày xưa Ông Huyện Sỉ là người giàu nhất trong 4 người giàu tại VN . Nhất Sĩ Nhì Phương ( Tổng đốc Phương ) , Tam Tứ ( quên rồi ) Còn Ộng Huỳnh văn Lang là cháu ( đời thứ mấy quên rồi ) của Phó Tổng trấn Gia định thành…đó là Huỳnh công Lý vậy. Huỳnh công Lý bị Tổng trấn Gia Định thành Lê văn Duyệt chặt đầu vì tội dê vợ mình , mặc dầu vua Minh Mạng yêu cầu gời Huỳnh công Lý về Huế trị tội. Lê văn Duyệt giết Huỳnh công Lý bởi gươm vua Gia Long cho , đó là gươm Tiền Trãm Hậu Tấu. Nên nhớ Huỳnh công Lý là phó tướng cho Tả quân Nguyễn văn Thành. Lúc đó Lê văn Duyệt thua Nguyễn văn Thành ( Hữu quân )… Sau đó Lê văn Duyệt dèm pha với vua Gia Long mà giết chết cha con Nguyễn văn Thành ,rồi giựt chức Tả quân từ tay Nguyễn văn Thành . Khi vua Minh Mạng bổ nhậm Huỳnh công Lý vào làm Phó cho Lê văn Duyệt….thì tương lai không lâu sẽ bị Lê văn Duyệt giết là cái chắc. Ghi thêm : Nhất Sĩ là Ông Huyện Sĩ , tên riêng là Lê Phát Đạt . Vùng đất Long An chạy đến Chợ Lớn Mới là đất của ông hết 70 %. Ruộng nương , rẩy bái đều trúng mùa hết hoàn toàn . Nơi đây nhiều nhá máy xay lúa nhất Việt Nam. Vủng Dakao ( Đất Hộ ) đến Thị Nghè là cũng có phần ông làm chủ.Ông theo đạo Công giáo , tên thánh là Philippe Le phat Đạt., Vợ tên thành là Anna Đỗ thị Thao Lê Phát Đạt là Ông Ngoại của cô Mariette Jeannelte Nguyễn hữu thị Lan ( sau nầy là Hoàng hậu Vua Bảo Đại- Nam Phương Hoàng Hậu . Luật công giáo bắt buộc lấy vợ hay chồng đều phải vào đạo Công giáo. Nhưng vua Bảo Đại được Toàn quyền Pháp tại Hà Nội xin riêng Giáo Hoàng . Giáo Hoàng ra công lệnh Vatican cho phép Vua Bảo Đại giữ đạo riêng của mình. Ông Ngoại Lê phát Đạt tặng cháu rể đến 1 triệu đồng bạc Đông Dương. Một số tiền cực lớn thời bấy giờ. Dân quê mà cầm giấy Bộ Lư 100 đồng là lính mã tà hỏi nguồn cội lập tức...Không trả lời được là ở tù ngay. Khu phố 6 căn lầu đôi trị giá có 8 000 đồng Đông Dương. Vua Bảo đại có tiền triệu liền đi mua biệt thự tại Nice gần Monaco để đánh bạc chơi với quốc tế. Lúc đó chưa có Las Vegas / Nevada Hoaky. Con trai trưởng của Lê Phát Đạt là Denis Lê Phát An ( quốc tịch Tây ) được vua Bảo đại phong là An Định Vương , chức vụ nầy rất cao trong triều Nguyễn. Tất cả hoàng thân quốc thích triều Nguyễn đều phải kính cẩn chào Ngài chỉ trừ Vua mà thôi. Đó là Denis Lê phát An tước An định Vương , cậu vợ vua Bảo Đại triều Nguyễn. đây là nhà thợ Huyện Sĩ -Philippe Lê phát Đạt tại Quận 1 TP SG Đây Bà Nam Phương Hoàng Hậu. Bà mất tại Pháp ( Tỉnh Limousin , làng Chabrignac , vào ngày 14 tháng 9 năm 1963 .
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 15, 2011 2:52:31 GMT 9
Người giàu thứ nhì thời Pháp tại Việt Nam là Tổng đốc Phương. Ông họ Đỗ hữu Phương. Có con trai là Đỗ hữu Vị , được dặt tên trường Đỗ hữu Vị , nay là trường kỷ thuật Cao Thắng. Mỗi lần quan Toàn Quyền từ Hà Nội về Saigon chơi , thì không ghé dinh quan lớn mà ghé vào dinh Tổng đốc Phương , vui hơn...Vì những danh ca từ Hongkong được T.Đ Phương mời sang Chợ Lớn hát suốt 7 ngày liên tiếp. Trọn vùng Chợ Lớn là đất của bông hết 80 % rồi. Thống Đốc Nam Kỳ Pháp rất nể Tổng đốc Phương. Tring những người theo Pháp , thân Pháp thì Tổng đốc Phương tánh tình tốt nhất. Đây hình Ông Đỗ hữu Phương ngày xưa Hình thấy ông đeo huy chương gọi là Tam Đẵng Bội Tinh mà tất cả những người trong thuộc địa Pháp làm việc cho Pháp ( kể cả Miên , Lào , Algeria ) không có được. Ông bảo lảnh cho Thủ khoa Huân khỏi bị đi đày sang đảo reunion bên Phi Châu...Đày nơi nầy không có ngày về quê mẹ kể cà chết đi. ********************** Giáo sư Vũ Quốc Thúc: PARIS, France - Hội Ái Hữu Viện Ðại Học Dalat tại Âu Châu đã tổ chức buổi giới thiệu bộ sách ‘Thời Ðại Của Tôi’ của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, gồm hai cuốn tại hội trường của Trung Tâm CISP ( Le Centre International de Séjour de Paris (CISP), quận 12 Paris, vào ngày 7 tháng 11, 2010. Giáo sư Vũ Quốc Thúc năm nay đã vào tuổi 90, và hiện đang sinh sống tại Paris thủ đô nước Pháp. Giáo sư vừa cho ấn hành một bộ Hồi ký có nhan đề là “Thời Đại Của Tôi” gồm hai cuốn, tổng cộng dài trên 1,100 trang, do cơ sở công ty Người Việt ở California phụ trách xuất bản. Sách được in trên giấy trắng khổ chữ 12, bìa cứng, được trình bày thật trang nhã, dễ đọc. Cuốn I dài 400 trang với phụ đề “Nhìn Lại 100 Năm Lịch Sử” viết về những nét chính yếu trong sinh hoạt chính trị xã hội của Việt nam trong thế kỷ XX. Cuốn II dài 700 trang với phụ đề “Đời Tôi Trải Qua Các Thời Biến” viết chi tiết về cuộc đời của tác giả. Có thể coi cuốn II này mới là phần chính của bộ Hồi ký. Nhưng trong quyển thứ 2 tác giả nói về một vài câu chuyện huyền bí mà chính tác giả không giải thích được. lời giải đoán của bà Dumonceau chuyên về tiên tri (voyante) thật là ngộ nghĩnh. Như tác giả đã cho biết từ đầu, gia đình ông chỉ thờ cúng ông bà chứ không theo tôn giáo nào. Lúc trẻ, khi đứng trước trước các khó khăn bất trắc, có khi ông đi coi bói. Ông đã kể lần đi coi bói tại Paris (và sau đó nhiều lần coi bói khác nữa) khi ông sang dự kỳ thi Thạc sĩ vào năm 1952, một bà đầm già tám mươi tuổi đã nhìn vào một quả cầu thủy tinh và mô tả cho ông những hình ảnh bà đã thấy trong quả cầu ấy. Bà ấy không khẳng định ông thi đậu hay rớt mà chỉ cho thấy hình ảnh của một buổi tiếp tân vui vẻ vào sau lễ Giáng Sinh năm ấy. Kết quả là ông đã thi đậu thạc sĩ và khi về đến Sài Gòn ông khoa trưởng trường Luật Khérian đã mở một buổi tiếp tân để chào mừng ông vào ngày đầu năm 1953, đúng như hình ảnh bà đầm mô tả. Ông đã trải qua nhiều trường hợp linh nghiệm trong bói toán, và ông suy ra rằng “quả thật trong đời có những yếu tố siêu hình chúng ta không thể xét đoán với con mắt trần tục (...) tuy nhiên có người nhìn được, Trời ban cho họ khả năng nhìn thấy những cái đó.” Khuynh hướng dựa vào yếu tố siêu hình về sau đã trở nên mạnh hơn nơi tác giả khi nghịch cảnh trở nên quá nặng nề trong giai đoạn sống với cộng sản sau 1975: ông đã gần như dựa hẳn vào tôn giáo. Nhưng đó chưa phải là tín ngưỡng đích thực, mà chỉ là sự tìm kiếm, cầu xin một lối thoát giữa hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống: “Hằng ngày mặc dù không phải tín đồ Thiên Chúa Giáo, tôi đã đến nhà thờ Đức Bà. Tôi cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ xin Đức Mẹ run rủi cho gia đình tôi được thoát khỏi Việt Nam toàn vẹn.” Một lần nữa, tác giả lại “cầu được ước thấy”, rốt cuộc ông và gia đình đã được đi tị nạn bên Pháp. Từ việc tin vào bói toán, đến cầu xin một hình tượng tôn giáo để nhất thời tìm giải pháp cho những khó khăn của mình, những việc ấy chứng tỏ nơi tác giả có một tiềm năng tín ngưỡng, nhưng chỉ phát lộ ra dần dần từ thấp đến cao qua những lần dựa vào đó để mong tìm lối thoát cho những bế tắc cụ thể trong đời
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 15, 2011 2:57:10 GMT 9
Chuyện đang làm cả thị trấn Vụ Bản, tỉnh Nam Ðịnh sững sờ về hiện tượng đầu thai, chuyển kiếp đầu tiên tại Việt Nam trong thời gian gần đây.Theo Vietnam Net ngày 2 tháng 12 năm 2010 , bé Nguyễn Phú Quyết Tiến sinh năm 1992, bị trôi sông mà chết lúc lên 9 tuổi. Gần 7 năm sau, rộ lên tin đồn nói rằng ở huyện Lạc Sơn, cách nhà bố mẹ của bé Tiến khoảng 3 cây số có một cậu bé mới lên 4 cứ nằng nặc đòi về nhìn bố mẹ Tiến là ông Tân và bà Thuận. Bé trai này tên Bình, sinh ra trong một gia đình dân tộc Mường. Cậu bé này từ lúc biết nói, khăng khăng cho rằng bé là người Việt, có nhà ở thị trấn Vụ Bản. Trong một dịp được đưa về thăm gia đình ông Tân, bé Bình chạy quanh nhà tìm đồ chơi, và chạy vào giường chỉ nơi cháu vào ngủ hàng đêm. Cậu bé còn chạy sang nhà hàng xóm, gọi tên từng người, nhắc những chuyện ngày xưa với những chi tiết chỉ có người trong cuộc mới biết. Chiều theo ước muốn của bé, Bình được đưa về sống chung với ông bà Tân và được lấy lại tên Quyết Tiến. Nay cháu cũng đã lên chín tuổi, thỉnh thoảng quay trở về thăm lại người đã sinh ra mình. Tiến và ông bà Tân. (Hình: VietnamNet) Chuyện kỳ bí về linh hồn "sống lại" Cập nhật lúc 03/12/2010 06:17:00 PM (GMT+7) - Thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn (Hoà Bình) đang tồn tại câu chuyện khá ly kỳ. Một cháu bé cứ nằng nặc nhận mình là đứa trẻ đã chết cách đây hơn mười năm và đòi về ở với bố mẹ người đã chết. Sau khi đưa ra nhiều “bằng chứng” chứng tỏ mình là người đã chết, cháu bé đã được nhận về nuôi như một sự sống lại của linh hồn đã chết trước đó. Bài 1: Linh hồn sống lại Anh Tân và chị Thuận đều là cán bộ công tác tại thị trấn Vụ Bản. Anh chị kết hôn năm 1987, đến năm 1992 chị Thuận sinh cháu trai đặt tên là Nguyễn Phú Quyết Tiến, Tiến khoẻ mạnh bụ bẫm và lớn lên trong sự vui mừng khôn tả. Tai họa ấp đến trong một lần ra sông chơi, Tiến chẳng may chết đuối, khi ấy cháu 5 tuồi. Lúc này chị Thuận cũng không thể sinh thêm con vì lý do sức khỏe. Có kiếp luân hồi? Con mất, vợ chồng anh Tân suy sụp. Anh nghỉ việc, ra làm tự do. Vợ chồng anh tưởng như sẽ phải sống với nhau trong sự côi cút không con, thì một ngày đầu năm 2006, bỗng có một cháu bé tự khẳng định cháu chính là cháu Tiến, người đã bị chết đuối năm 1997! Nhấp chén nước, thả những vòng khói thuốc lá chậm rãi, anh Tân đã kể lại cho tôi nghe câu chuyện ly kỳ này. Khi Tiến mất, cháu đang là học sinh trường mầm non Hoa Hồng ở thị trấn Vụ Bản. Cô giáo dạy cháu Tiến là cô Đông và chính cô Đông là người đã phát hiện ra cháu Tiến đã “lộn về nguyên bản” ở cháu Bình con anh Hoan, chị Dự, người trong bản. Cháu Bình sinh ngày 06/10/ 2002. Cháu Bình Lần đầu tiên cô Đông thấy cháu Bình có những biểu hiện rất lạ, cô hỏi chuyện, cháu bảo cháu không muốn học ở đây, cháu muốn được học ở trường của cháu. Cô Đông hỏi lại, thế trường cháu ở đâu? "Trường Hoa Hồng ở ngoài thị trấn", cháu Bình trả lời. Sao lại là trường Hoa Hồng, làm sao cháu biết trường đó, cô Đông thắc mắc. “Nhà cháu ở ngoài đó, nhà cháu gần nhà ông Lai”. Nghe Bình nói đến đây, cô Đông sởn hết cả tóc gáy. Cạnh nhà ông Lai là nhà anh Tân, và lẽ nào… Thời gian tiếp theo, cô Đông âm thầm tìm hiểu và biết thêm. Một lần chị Dự mẹ cháu Bình đánh cháu vì cháu nghịch bẩn hết áo quần. Rơm rớm nước mắt, thằng bé bảo: “Mẹ đừng đánh con, bẩn áo quần thì mẹ đưa con về nhà con để con lấy”. Chỉ nghĩ trẻ con nói nên chị Dự không để ý gì. Những lần khác chị Dự có đánh Bình lại bảo “con đã chết một lần rồi, mẹ đừng đánh con lại chết lần nữa đấy”. Sau mỗi lần bị mắng là cháu lại đòi được về nhà. Một lần cháu Bình đòi chị đưa về nhà, điên tiết chị Dự bảo "thích thì ngồi lên xe tao chở đi". Bình ngồi sau xe bảo mẹ chở ra thị trấn, từ chợ thị trấn Bình bảo mẹ chở đến cuối sân vận động và rẽ vào phố Hữu Nghị. Đến số nhà 25, chính là nhà anh Tân, Bình xuống xe nói với mẹ “nhà con đây”. Tuy nhiên nhà đóng cửa, chị Dự lại chở Bình về. Một lần nữa, chị Dự đi chợ thị trấn và cho Bình đi cùng. Khi đến chợ, Bình lại nằng nặc đòi mẹ “đưa về nhà con”, hai mẹ con lại đến trước nhà anh Tân. Sau khi thấy cửa đóng then cài, mẹ con lại ra về. Mặc dù Bình nói vậy nhưng chưa bao giờ bao giờ chị Dự để ý gì vì nghĩ Bình chỉ là một đứa trẻ mới 4 tuổi. Câu chuyện thực sự “nóng” từ ngày cô Đông phát hiện ra những biểu hiện lạ ở Bình cùng với lời chị Dự kể. Từ đó, cô Đông mới hoài nghi thực sự. Chị Dư (ngoài cùng bên trái) cùng cháu BÌnh và vợ chồng anh Tân Cô Đông đem chuyện kể lại với những giáo viên trong trường, trong đó có cô Phương. Là người quen biết với chị Thuận, nên cô Phương đã lập tức kể lại câu chuyện ly kỳ này cho chị Thuận nghe: “Cô vào trong bản Cọi xem sao, nghe nói thằng Tiến nó “lộn” về vào cháu Bình đang học ở trường trong đó”. Cũng chẳng dám tin và đem chuyện kể lại với chồng, anh Tân lập tức giục vợ phải vào xem sao. Trước đây, khi cháu Tiến mới mất có một bà xem bói người Mường nói với anh rằng: “Anh đừng buồn, cháu Tiến linh thiêng lắm rồi sẽ quay về với anh thôi”. Lần khác anh đi xem bói tận Hoà Bình, ông thầy cũng nói điều tương tự. Là người không mê tín nên lúc đó anh chỉ nghĩ rằng người ta động viên mình. Thế nhưng lúc nghe vợ kể lại câu chuyện Tiến "lộn" về trong bản Cọi, anh Tân cũng bán tín bán nghi và phân vân liệu lời thầy bói năm xưa có chăng lại là sự thật? Anh đã quyết định phải một lần đi tìm hiểu xem sao. Hành trình tìm lại con Một ngày sau, anh Tân đã cùng với chị Thuận tìm đến bản Cọi, tìm đến nhà vợ chồng Hoan - Dự. Vốn chưa biết nhau, nhưng khi đến nhà, anh Tân cứ làm như đã quen biết gia đình từ lâu lắm. Không nhận ra ai nhưng chị Dự, anh Hoan cũng không dám hỏi vì nhỡ đâu người quen lâu rồi mình không nhận ra nếu hỏi lại…vô duyên. Sau mấy câu hỏi thăm anh Tân bắt đầu hỏi đến cháu bé: Thằng bé Bình đâu nhỉ bác ngắm tý xem lớn đến đâu rồi? Chị Dự cho biết cháu đang đi chơi cùng chúng bạn, một lát sau chị Dự cũng gọi cháu về để anh Tân gặp mặt. Về đến nhà thằng bé cứ lấm lét nấp sau cảnh cửa. Cháu Bình tình cảm với anh Tân, chị Thuận Anh Tân buông lời: Có nhớ bác không, bác mua nhiều bi cho cháu đây này. “Biết rồi, lúc nãy thấy hai người đi đầu làng, biết rồi”. Nghe thằng bé nói vậy anh Tân phát hoảng. Sao nó lại biết mình vào đây cơ chứ. Sau vài câu chuyện hai bên trở nên thân tình, anh Tân ngỏ ý muốn đưa cháu Bình về nhà chơi, anh Hoan chị Dự đồng ý. Riêng thằng bé nghe nói được đi là leo tót lên xe và chiều hôm đó anh Tân đưa cháu Bình về nhà mình. Trên đường về, để thử thằng bé, anh Tân dừng xe trước một ngôi nhà cao tầng bảo cháu, nhà bác đấy cháu vào đi. Lập tức Bình bảo, đây không phải, nhà ở dưới kia cơ. Đi qua rất nhiều đường trong thị trấn, anh Tân không đi theo đường chính vì muốn thử thằng bé. Ngạc nhiên là Bình cứ chỉ rành rọt và cho đến ngôi nhà anh Tân thì mới thôi. Vừa mở cửa nhà, Bình lập tức xuống xe và chạy tót vào trong và mở tủ bới đồ đạc. Chị Dự đi cùng đã định ngăn lại vì sợ vợ chồng anh Tân đánh giá con mình thiếu giáo dục, nhưng anh Tân đã ngăn lại. Mặc cho cháu Bình tìm kiếm. Anh Tân hỏi: “Cháu đang tìm gì?” - “Tìm cái máy bay và cần cẩu”. Nghe Bình nói, anh Tân giật mình vì đây là hai món đồ chơi anh đã mua cho cháu Tiến trước đây. Đến lúc cháu qua đời anh mới mang vứt đi. “Bác cất đi rồi, để lúc nào bác tìm lại cho cháu”, anh nói với cháu Bình. Sau bữa cơm, anh Tân bảo cháu ra xe để chở hai mẹ con về, nhưng thằng bé bảo, nhà ở đây, không về đâu. Nói rồi Bình chạy vào nhà leo lên giường: - Đây là giường con, chỗ con nằm ở đây. - Thế cháu hay nằm thế nào? - Con nằm thế này này (nói rồi Bình nằm sấp xuống giường). Nhìn cái dáng Bình nằm y như Tiến năm xưa, vợ chồng anh Tân lặng người, chị Thuận chỉ còn biết úp mặt vào lưng chồng khóc sụt sùi, bởi thằng bé có những cử chỉ giống con mình năm xưa quá. Trước sự tha thiết của thằng bé đêm hôm đó chị Dự đã miễn cưỡng cho con ở lại với gia đình anh Tân. Biết chuyện thằng bé, đêm hôm đó hàng xóm láng giềng kéo đến chật kín nhà. Ai cũng thử Bình bằng những câu hỏi để xem nó kể lại chuyện ngày xưa có chính xác không... Kiên Trung
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 15, 2011 3:03:22 GMT 9
Khó tin những "người chết" trở vềTrong những ngày ở xóm Cọi để tìm hiểu về trường hợp của cháu Bình - Tiến, chúng tôi còn biết thêm tại xóm này còn có thêm hai trường hợp “con lộn”. Cả hai trường hợp này cũng ly kỳ và lạ lùng rất khó giải thích. Khi con trai “lộn” vào con gái Không đến mức đòi về ở hẳn như Bình về với gia đình anh Tân - chị Thuận, nhưng câu chuyện "con lộn" của Bùi Thị Hồng Thắm, ở xóm Cọi cũng được người dân ở Lạc Sơn bàn tán xôn xao. Thắm là con gái nhưng người “lộn” vào cháu lại là con trai. Tôi tìm đến nhà Thắm khi bóng chiều đã khuất dần sau núi. Nhà cháu nghèo lắm, căn nhà gỗ bé xíu nằm chênh vênh bên sườn núi. Thắm sinh năm 1991, trước Thắm còn có một chị gái. Cũng vì nhà nghèo nên hai chị em đang phải làm phụ hồ ở Hà Nội, bố cháu anh Bùi Thanh Minh cũng đi làm ăn nơi xa thỉnh thoảng mới về một lần. Chị Bùi Thị Toàn, mẹ cháu Thắm. Hôm tôi đến, một mình chị Bùi Thị Toàn, mẹ Thắm ở nhà. Đã mấy năm nay, chỉ có những ngày lễ tết gia đình chị Toàn mới được tề tựu đông đủ. Ngày thường, chỉ có mỗi chị Toàn vò võ mong ngóng chồng con, ba bố con đi làm ăn xa thế nhưng nhà nghèo thì vẫn hoàn nghèo. Khi tôi hỏi đến chuyện “con lộn”, chị Toàn nhớ lại rồi cười ngặt ngẽo. Chị bảo ngày mới phát hiện Thắm bị “lộn”, cháu có những biểu hiện lạ lùng, nhưng cũng buồn cười lắm. Chị Toàn kể: Khi Thắm bi bô biết nói, một lần hai mẹ con đang chơi đùa bỗng cháu “xị” mặt rồi nằng nặc đòi: “mẹ đưa con về nhà”, dù lúc đó đang ở trong nhà mình. Nghĩ trẻ con chưa hình dung được đâu là nhà mình nên chị Toàn đã cố diễn giải đây chính là nhà. Thế nhưng Thắm vẫn không chịu, chị Toàn nghĩ chắc cháu đòi sang nhà bà nội ngay sát vách. Chị bế cháu sang nhà bà nhưng vẫn không phải. “Nhà ở ngoài kia cơ”, Thắm bảo. Kiếp trước của Thắm là "con trai"? "Thì ra con bé này đòi đưa đi chơi nên nói thế", chị Toàn nghĩ vậy và quát Thắm. Sợ mẹ, cháu không dám đòi nữa. Một hôm, ở ngoài nhà kho của thôn chơi, hôm đó là ngày hội làng nên người trong làng tụ tập tại đây rất đông. Đang chơi đùa ở sân bỗng nhiên Thắm nói với bà nội: “Mẹ cháu kia kìa”. Đó là bà Nguyễn Thị Nghe, người ở đầu làng. Do xóm Cọi rộng, nên nhà chị Toàn và nhà bà Nghe dù cùng xóm nhưng cũng chỉ biết nhau qua loa. Mới 3 tuổi, Thắm có thể nhận nhầm mẹ nên bà nội nói với cháu: đó không phải mẹ cháu, mẹ hôm nay lên nương. Lúc Thắm được 5 tuổi, hôm đó cháu được bố mẹ cho ra đồng. Khi trở về, đi qua nhà bà Nghe, cháu chỉ tay rồi bảo với bố mẹ “nhà con đây này”. Nghĩ buồn cười quá, chị Toàn bảo lại con “con thích thì mẹ đưa vào nhà con”, thế nhưng khi vừa bước vào cổng Thắm đột nhiên dừng lại: “Con không vào nữa đâu, chị Hằng đang ở trong đó, con ghét chị ấy vì chị đã xui con trèo cây làm con ngã chết”. Trưởng bản Cọi, anh Bùi Văn Tỉnh.Nghe con nói vậy, chị Toàn bèn hỏi lại nửa đùa nửa thật: “Thế con là ma Ly à”. Người Mường thường gọi người chết là “ma”, vì biết Ly, con trai bà Nghe đã chết nên chị Toàn mới hỏi vậy. Tưởng trêu vậy thôi, ai ngờ con bé gật đầu. Từ hôm đó, chị Toàn mới “xâu chuỗi” lại toàn bộ những biểu hiện lạ thường từ ngày con bé cứ đòi chị “đưa về nhà con”. Chị bắt đầu nghĩ đến chuyện thằng ma Ly nó đã “lộn” về con Thắm nhà mình. Người Mường vốn xem đây là chuyện bình thường nên vợ chồng chị Toàn chẳng sợ sệt một chút nào, thậm chí ngày ngày vẫn hỏi chuyện và trêu đùa con bé. Nói thêm về ma Ly, bà Nghe sinh được bốn người con, trong đó Ly và Hương (con gái) là cặp song sinh. Một hôm Ly và Hương (lúc đó 7 tuổi), được chị gái tên Hằng dẫn đi hái ổi ở bên triền núi. Là con trai nên Ly được phân công trèo lên hái quả. Quả ổi nằm tít ngoài xa, Ly rất vất vả nhưng vẫn không tài nào hái được. Hằng ở dưới cứ động viên em cố lên và trong một phút sẩy chân, Ly ngã rơi xuống đất. Cháu bị chấn thương sọ não và mất ngay sau đó. Có nhiều trường hợp khác Có một câu chuyện mà mãi đến khi Thắm nói rằng cháu chính là ma Ly thì chị Toàn mới nhớ lại. Đó là ngày còn mang thai Thắm, chị vốn là người yếu nên khi mang thai ốm đau liên miên. Một hôm đi chợ ngoài thị trấn về chị bị cảm, trong cơn mê man chị mơ một giấc mơ rất sợ. Một đứa bé rách rưới cứ đuổi theo làm chị chạy trốn mãi, thế nhưng vì mệt quá nên đến lúc thằng bé cũng đuổi kịp và bắt lấy chị. Giật mình tỉnh dậy, đem câu chuyện vừa mơ kể lại với chồng nhưng anh bảo mệt trong người mơ thấy những điều sợ hãi là chuyện bình thường. Chị Toàn sau đó cũng chỉ nghĩ vậy và cho đến ngày Thắm nhận mình là ma Ly chị mới nghĩ lại và cho rằng đó không chỉ là giấc mơ. Có thể thằng bé trong giấc mơ đó chính là ma Ly và nó đã theo chị về nhà từ đó. Chị Toàn đã có lần hỏi Thắm, sao con không theo về những nhà giàu cho sướng lại theo mẹ nghèo mà khổ. Thắm bảo, hôm đó mẹ đi chợ về, con nhìn thấy mẹ xinh nên đi theo mẹ. Như vậy, giấc mơ của chị Toàn ngày đó là đúng sự thật. Chuyện ma Ly “lộn” vào Thắm cũng nhanh chóng lan toản ra khắp nơi. Mọi người lạ ở chỗ, đây là trường hợp đầu tiên một người con trai lại “lộn” vào người con gái. Trước đây, Thắm học cùng với cậu út nhà bà Nghe và chơi rất thân với cháu này. Ban đầu mọi người không biết chuyện nên cứ trêu “chắc con bé này nó thích con bà Nghe”. Sau khi mọi người đã biết không còn ai trêu đùa nữa. Thắm giờ đã đi lại với gia đình bà Nghe và nhận bà làm mẹ. Thắm được gia đình bà Nghe xem như người con ruột rà trong nhà. Dù không về ở cùng nhưng tình cảm giữa Thắm và gia đình bà Nghe là rất sâu đậm. Ông Bùi Văn Tỉnh, xóm trưởng xóm Cọi cho biết: “Ở xóm Cọi đã ghi nhận ba trường hợp con lộn. Người Mường quan niệm, những đứa trẻ dưới 12 tuổi bị chết bất đắc kỳ tử có khả năng “lộn” về và vào một người nào đó. Người bị lộn sẽ có khả năng nhớ và kể lại những gì diễn ra trước khi chết một tháng. Thế nhưng, sau 12 tuổi người được “lộn” lại trở về trạng thái bình thường”. Trái với những gì ông Tỉnh nói, theo như lời chị Toàn kể thì Thắm nhớ được rất nhiều chuyện. Có lần Thắm tự dưng nói với chị hàng xóm cạnh nhà bà Nghe rằng “ngày xưa em trèo ổi nhà chị bị chị đánh mấy lần”. Chị này khẳng định đúng là ngày xưa Ly hay trèo ổi nhà chị và bị chị đuổi thật. Cô giáo Quách Thị Đức và đứa "con lộn" Bùi Thị Thu.Một hôm Thắm gặp người trong làng, người đó bằng tuổi Ly và hơn cháu rất nhiều tuổi và bảo: “Mày nhớ tao không, ngày trước tao với mày toàn đi đá bóng với nhau nhỉ”. Người này nghe Thắm xưng mày tao, ban đầu nghĩ cháu hỗn, nhưng sau biết đó là Ly lộn về nên cười xoà bởi cháu nói hoàn toàn chính xác. Thắm hiện nay vẫn được mọi người trong gia đình, bạn bè và cả xóm bản gọi bằng cái tên thân thương -Ma Ly. Chị Toàn bảo cháu rất vui với cái tên đó. Chị cũng thoải mái cho cháu đi lại vì nhà bà Nghe cũng rất nghèo. Thắm đi lại vì cái tình của… người con lộn, chứ không vì mục đích gì khác. Ngoài Bình, Thắm, tại bản Cọi còn có cháu Thu con cô giáo tiểu học Quách Thị Đức. Thu cũng được một người chết trong bản lộn về từ bé. Ngày bé, Thu cũng nằng nắc đòi “về nhà con”. Tuy nhiên, vì nhà có người chết đó rất giàu có nên chị Đức đã không cho cháu về ở cùng gia đình đó, chị sợ mang tiếng hám tiền nên bịa ra chuyện này. Thu hiện nay cũng được gia đình nhà đó nhận làm con và đi lại rất gần gũi. Chị Đức bảo: “Nếu tôi không ngăn cấm quyết liệt từ bé thì nó về ở hẳn bên đó thật”. Hiện Thu đã lớn và đang học lớp 9 trường huyện. Khi đi tìm hiểu thực hư câu chuyện “con lộn” tại Vụ Bản, chúng tôi cũng thật sự bối rối và không biết khẳng định thế nào. Tiếp xúc với những người trong cuộc như bố mẹ những người chết, bố mẹ những cháu được coi là có “con lộn” họ đều khẳng định đó là câu chuyện có thật. Kể cả cô giáo Đông, cô Đức cũng khẳng định điều đó. Cả ba trường hợp vẫn đang là “người thật việc thật” ở Lạc Sơn chứ không chỉ là câu chuyện kể hay truyền thuyết gì. ************************** Chúng tôi có một người em bên họ ngoại- tạm gọi đứa em ấy là A Lý đi . A Lý năm nay 37 tuổi rồi .
Gia đình anh hiện nay sống tại đất Campuchia , nơi vùng đông dân cư người Việt sống trên Miên.
Đó là quận Cầu Saigon . Nơi nầy có cây cầu lớn , cất từ thời Pháp thuộc . Tại sao gọi là Cầu Saigon….vì cầu nầy đi thẳng về hướng Đông là đến Gò dầu Hạ ( thuộc đất Tây Ninh ) , đi ngược vế hướng Tây thì chừng 30 phút là đến thủ đô Nam Vang.-SagantPhan ( Cầu Saigon tại đất Campuchia ) ( Nay với tiền viện trợ của Nhật , nên cây cầu tên cầu Saigon rất đẹp hơn ngày xưa ) Lính Miên tại cầu Saigon , heo được chở trên xe HOnda ôm tại Campuchia ) Khu vực dân cư cầu Saigon rất đông Việt kiều sanh sống nơi nầy hàng bao thế hệ rồi . Thời Việt Nam bảo hộ xứ Campuchia ( Trương minh Giảng – Lê văn Duyệt ), rồi đến thời Pháp thuộc. Trở lại gia đình A Lý , gia đình anh mở tiệm bán hủ tiếu Nam Vang tại Cầu Saigon từ lâu. Cô ruột của A Lý bán khá thịnh vượng nghề nầy. Một hôm có một đứa bé , tuổi khoảng 6 từ đâu đến tiệm Cô của A Lý , đứa bé nầy muốn vào tiệm của người Cô nhưng bé hơi do dự . Sau cùng đứa Bé ấy đi đâu mất . Năm sau bé ấy lại đến tiệm bán hủ tiếu của Cô A Lý , lần nầy bé vào nhà chơi với mấy trẻ trong nhà . Khuya thấy đứa bé ấy không chịu về nhà thì người Cô doạ sẽ báo cảnh sát bắt đem đi . Đứa bé ấy đành rời nhà người Cô. Sáng may đứa bé ấy tơi nữa rồi ngỏ ý không muốn về nhà cha mẹ đứa bé ấy bên kia cây Cầu Saigon . Cha mẹ đứa bé ấy đến nhà người Cô đem bé về nhà. Vài hôm sau đứa bé ấy đến nhà người Cô rồi ở luôn không chịu về. Khi cha mẹ đứa bé ấy đến làm dử với người Cô , thì đứa bé ấy buộc miệng nói với cha mẹ đứa bé : “ Con không về nhà ba má đâu . Con muốn ở lại đây với người chị của con “. Cha mẹ đứa bé và người Cô chủ tiệm hủ tiếu Nam Vang ngở ngàng , thì đứa bé ấy nói kiếp trước đứa bé ấy là em ruột của người Cô nầy . Không ai tin thì đứa bé ấy vào tận phòng trong lật dưới giường ngũ của người Cô lôi ra những món vật dụng mà kiếp trước đứa bé ấy bỏ lại. Đứa bé nói rò ràng chi tiết cùng tánh tính của từng người trong gia đình người Cô không sai một mãy mai. Thế là cha mẹ đứa bé ấy đành cho con mình ở chung với người Cô… Người Cô có mấy đứa con lớn , có kẻ lập gia đình có kẻ không. Nhưng tất cả đều bị đứa bé ấy rầy la khi họ đi chơi khuya không về sớm. Mấy người nầy bực lắm vì bị đứa bé 7-8 tuổi xài xể , nhưng họ nhịn vì biết kiếp trước đứa bé ấy là Cậu ruột của mình. Ngườ Cô rất thương đứa bé xa lạ nầy bằng tình cãm chị em không nói được. Cô cho tiền đứa bé ấy , thì đứa bé cầm tiền của chị mình , nó gấp tiền bằng cách gấp của người em trai kiếp trước của mình. Đứa bé ấy đem tiền của Cô cho mà cho người vợ kiếp trước của mình ở đối diện nhà người Cô. Đứa bé ấy nói rò ràng vết sẹo của người vợ mình kiếp trước không sai một ly. Câu chuyện nầy làm chấn động những Việt kiều sống trong khu vực Cầu Saigon một thời gian rất lâu . Nếu ai đến hỏi thì mọi người đều biết câu chuyện nầy. Đứa bé ấy nói là sau một bữa nhậu về quá khuya . Trời tối , đi một mình thì bị một ai dùng cục đá đánh vào sau ót của mình , lấy hết tiền củng đồng hồ đeo tay . Cành sát Miên không tìm ra thủ phạm , nạn nhân đươc chôn cất tử tế. Thời gian trôi qua . Thì 15 năm sau nạn nhân ấy dầu thai vào gia đình người Việt ở bên kia cây Cầu Saigon. Khi đứa bé đi chơi lối xóm…lạc đến con đường nầy….thì kỷ niệm hay trí nhớ tiền kiếp ấy trổi dậy…cho nên đứa bé ấy lúc tuổi lên 6 chưa đủ miệng lưỡi để mà thuyết phục mọi người… Đứa bé ấy chờ năm sau , lên 7 thì mới nói thông suốt được. A Lý là cậu trai năm nay 37 tuổi . Hiện đang sống tại Little Saigon , anh làm nghề sữa xe hơi cho một garage nọ gần đó. Khi anh gặp chúng tôi thì anh mới kề chuyện huyền bí gia đình của mình . A Lý gọi mẹ ruột của chúng tôi là Cô Tư , gọi chúng tôi là anh họ. A Lý tánh tình hiền , ít nói vì anh sanh sống ỡ trên Nam Vang khá lâu , nên nói tiếng Việt không sỏi bằng chúng tôi. A Lý gọi đứa bé ấy là Cậu vậy . Hiện nay đứa bè ấy đã 25 tuồi rồi , không chịu lấy vợ và sống chung với gia đình người chị tiền kiếp của mình , đứa bé ấy phụ người chị nấu hủ tiếu Nam Vang . Làm dược tiền bao nhiêu thí đứa bé ấy cho phân nữa người vợ tiền kiếp của mình , còn phân nữa tiền th thì đứa bé ấy cho gia đình cha mẹ sanh mình ra kiếp nầy bên kia Cầu Saigon. Nay khi nhắc đến câu chuyện huyền bí thì chúng tôi mới sực nhớ đến chuyện gia đình chúng tôi . Nếu không có câu chuyện đầu thai tại Việt Nam mà báo chí VN đăng tin , thì chúng tôi quả thực khó mở miệng nói vụ nầy cho quý bạn nghe. Câu chuyện có thực như vậy.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 15, 2011 3:12:25 GMT 9
Lịch sách Tử vi hàng năm bán chạy nhất là lịch Nhật Thanh – Tam Tông Miếu.
Ngày xưa tại Saigon , thì lịch coi ngày bán chạy nhất nước là lịch Tam Tông Miếu . Tam Tông Miếu thật sự là nơi thờ phượng cùa nhành đạo Cao Đài , tại : 82 đường Cao Thắng Saigon . Từ cụm từ Minh Lý Thánh Hội ( Tam Tông Miếu ) mà ra.
Nay được Ủy ban TP HCM công nhận là tổ chức tôn giáo mang tên Minh Lý Đạo . Đó là sự tinh hoa của 3 tôn giáo Nho- Thích- Đạo mà ra.Minh Lý đạo hay tắt là đạo Minh Lý , nằm trong Ngũ Chi Minh Đạo ( Minh Sư , Minh Đường , Minh Lý , Minh Thiện , Minh Tân ) Tam Tông Miếu này là nơi khởi đạo đầu tiên của đạo Cao Đài tại Tây Ninh ngày nay. Nói hơi quá xa về Tam Tông Miếu rồi . Vào khoảng năm 1980 tai California có xuất hiện nhiều thầy bói , tử vi mở văn phòng tại Little Saigon , hoặc tại gia…Rồi sau đó xuất hiện nhiều thầy coi địa lý phong thủy, rồi ra sách in ấn vế địa lý phongt hủy , bày bán tại các tiệm sách Việt nam khá nhiều. Có một số thầy bói xuất thân từ cựu quân nhân qua Hoaky theo diện H.O. Nhưng tại Little Saigon thì có một văn phòng chuyên coi bói…đó là Nhật Thanh. Anh còn trẻ , tầm vóc trung bình. Chuyên mặc áo bà ba màu lam, y như phật tử vậy. Anh đeo cần cổ một dây chuổi Bồ đề . Khách hàng khá đông. Sau đó anh ra lịch sách Tử Vi coi ngày tháng , rồi anh nhận được độc quyền lấy tên là Tam Tông Miếu – Nhựt Thanh . Đó là lịch sách coi ngày tháng bán chạy nhất hàng năm Tết đến. Nhựt Thanh họ là Nguyễn . Anh là cựu trung sỉ Không quân / VNCH trước 1975. Tại căn cứ không quân Biên Hòa…anh có tài linh thị ( biết trước ). Anh nói trúng những phi công lái trực thăng đi đánh giặc , trở về hay chết trận. Có lần anh nói trúng tiền vận của một linh mục tuyên úy tại căn cứ Không quân Biên Hòa…là linh mục tuyên úy nầy sẽ được Tòa Giám mục Saigon gọi về làm lớn trong giáo phận Saigon . Quả thật như vậy. Khi di tản sang Hoaky …thì anh trở thành thầy bói khá linh thị tại Quận Cam. Anh nói trước chuyện xảy ra cho một tiệm bán băng nhạc lớn nhất tại Little Saigon . Đó là tiệm băng nhạc Thanh Lan ( không phải Ca sỉ Thanh Lan hát nhạc Pháp…khi xưa ta bé …ta bắn nhau…nổi danh tại Saigon dạo nào đâu ) Nhụt Thanh nói là tiệm nầy ngày kia sẽ không còn nữa…mà sẽ trở thành tiệm coi bói của Nhụt Thanh. Quả thật như vậy , bà chủ tiệm Thanh Lan vì ham mê cờ bạc , nên bán sạch tiệm nầy cho Nhựt Thanh. Ăn nên mần ra nhờ tài linh thị , nên Nhựt Thanh nhảy ra in lịch ngày Tử Vi….rồi lần hồi gắn vào tên Tam Tam Miếu trên quyển lịch ngày treo tường . ****************** Vụ Cambodge ngày xưa một vị sư sải Miên nói trước . Trở lại câu chuyện một vị sư sải Miên , biết trước vụ Khmer Đỏ diệt chủng dân tộc mình trên 2 – 3 năm . Vào khoảng năm 1973 , thành phố Nam Vang rất yên tỉnh , chỉ có Miền Nam Việt Nam là cò chiến tranh mà thôi. Dân chúng buôn bán sầm uất như thường. Chợ búa phồn thịnh , công chức đi làm như thông lệ, trường học , nhà thờ chùa chiến vẩn sinh hoạt không có điềm gì xảy ra. Tại ngã tư đường Oknha Keth ( tương tự như bùng binh Nguyễn Huệ Saigon vậy ) , gần cung điện vua Sihanouk …lề đường có nhiều cây thốt nốt cao ngọn. Bổng vào một buổi trưa , thình lình có một ông sải Miên , áo vàng , gầy gò . Ông ta leo lên cây thốt nốt gần ngã tư nầy. ( Hình tương tự ngày xưa , sải Miên trèo cây thốt nốt ) Vị sư sải Miên từ cây cao la to kinh hoàng là : “ ngày kia chổ này sẽ là địa ngục , hoan tàn như nghĩa địa vậy . “ . Ông sải chỉ vào dinh điện Vua Miên nói tiếp : “ Còn dinh Vua thì không ai ở hết , cỏ mọc tới đầu người. vắng vẽ đìu hiu …Dân Miên trong thành phố nầy sẽ bỏ đi hết , tối thui và hoang lạnh ..” ( HÌnh ảnh thật , phồ chính thủ đô Phnom Penh , ngày đầu tiên quân Pol Pot rút đi về biên giới Thái lan ) Ông sải Miên nói rất nhiều lời kinh hoàng hoảng vía . Người đi đường hiếu kỳ bu đen nghẹt nghe ông sải Miên mà người ta cho là ông sải bị bệnh khùng , nên nói xàm. Dân chợ và thành thị cùng báo chí bàn tán sôi nổi. Xứ Miên theo đạo Phật nên cảnh sát gát đường không cho người bắt ông sải khùng nầy. Ông sải leo lên cây thốt nốt liên tiếp 3 ngày thì tuột xuống đi đâu mất . Người dân thủ đô Phnom Penh bàn tàn nhiều lần rồi quên lãng đi. Gia đình thân nhân của chúng tôi có đến xem ông sải mà họ gọi là bị bệnh khùng nầy. Thân nhân của chúng tôi có kỳ xuống Saigon thăm gia đình chúng tôi tại thành phố Saigon . Họ cò nhắc đến chuyện ông sải khùng nầy , rồi cười ngất ngưỡng khi nhắc lại. Họ nói làm gì mà cung điện Vua Miên đang ở mà trở thành bải tha ma hoang lạnh được? làm gì thủ đô Miên có cả triệu người sanh sống mà trở thành hoang vu , tàn phế được ? làm gì có chuyện nầy . Vào ngày 15 tháng 4 năm 1975 thì đám Khmer Đỏ Pol Pot chiếm thủ đô Nam Vang ( Phnom Penh ) . Họ lùa tất cả dân thành thị ra khỏi thành phố Phnom Penh. Nam Vang hay Phnom Penh trở thành nơi hoang địa . Đèn điện không có , nước không có. Dân chúng bị Khmer Đỏ Pol Pot lùa tất cả ra ngoại ô , lên gò cao núi cao… Cung điện Vua Miên trở thành hoang phế , cỏ mọc cao gần đầu người. Vua Sihanouk cùng hoàng hậu bị Pol Pot giam lõng nơi cung điện nầy , không cho ra ngoài. Không cò người hầu ,không có điện nước nên vua và hoàng hậu phải dùng nước ao tù hoang đọng trong hoàng thành vua Miên. Nếu Vua Sihanouk mà không được chính tay bà vợ Tôn dật Tiên từ Bắc Kinh , dùng phi cơ riêng của Thủ tướng Chu ân Lai đáp xuống phi trường Pochentong ( cách thủ đô Nam vang chừng 10 km )..bà cho người đến tận hoàng cung vua Miên , đem vua Sihanoul và hoàng hậu Monique về Bắc Kinh thì vua Miên cùng vợ sẽ chết vì đói tại cung điện của mình. Vì đám Kmer Đỏ Pol Pot đang tùng phục Bắc Kinh nên họ để yên vợ chồng vua nầy lên phi cơ Bắc Kinh an lành. Khi phi cơ rời khỏi không phận Miên thì vua cùng hoàng hậu bật khóc nức nở vì được hồi sinh. Khemer Đỏ Pol Pot giết trên dưới 2 triệu dân Miên, trong số đó có rất nhiều Việt kiều cư ngụ tại Cambodge lâu đời , như gia quyến chúng tôi vậy. ( Đây xương sọ dân Miên tại trường học nữ ở Phnom Penh, bị tra tấn đến chết, người ta đào xới lên rồi đem đi thờ trong chùa gần đó ) Thân nhân chúng tôi bị chết trong vụ nầy lên đến 6 - 7 người . Cô , Cậu và em họ bị lùa ra khỏi thủ đô Phnom Penh đi ra đồng hoang mông quạnh thật xa kinh đô.Rồi chết lần hồi. Họ có học ,có người làm công chức tầm thường , có người buôn bán nơi chợ Nam Vang. Tất cả bị gom vào khu vực mà tụi Khmer Đỏ Pol Pot gọi là tụi văn mình ác ôn . Nhóm sư sải cùng tu sỉ ., linh mục đều gom vào khu vực riêng . Bị giết , tra tấn và bò đói chết lần mòn. Một số thân nhân của chúng tôi vượt thoát được , chạy xuống Châu Đốc . Nay một số định cư tại Long Xuyên. Chính những người nầy mà ngày xưa cười ngoặt ngoẹt kể lại vị sư sải Miên khùng điên. Giữa trưa nắng nóng thiêu người mà leo trèo cây thốt nốt , tụt lên tụt xuống. La sảng hồn vụ thủ đô Nam Vang sẽ trở nên hoang tàn nghĩa địa… Họ cười vài năm trước đó , vài năm sau thì họ khóc cho con cháu họ bị Khmer Đỏ Pol Pot giết chóc ra sao… Năm 2009 chùng tôi về Việt Nam , từ thành phố HCM đi về quê nội Châu Đốc. Chúng tôi đến Tịnh Biên ( cách Miên chừng vài chục cây số ). Chúng tôi đến coi chùa Phi Lai Tự . Chùa Phi Lai Tự trước đó 60- 70 năm thì là chùa hưng thịnh , cư dân từ xa đến viếng bái vị thánh tăng đắc đạo tại Chùa nầy vào hàng năm húy nhật . Nay , vào năm 2009 thì là nơi hoang tàn. Chùa Phi Lai không người ở. Chỉ là một chùa chứng tích là vách tường chùa còn đẫm máu dính khằn vách tường…màu đỏ máu…vì nơi nầy có trên 50 người Việt vào trốn nơi đây , khi Khmer Đỏ Pol Pot tràn từ biên giới Miên sang đất Việt mà tàn sát dân Việt. Tụi quỷ sứ Khmer Đỏ liệng trên chục trái lựu đạn vào chùa Phi Lai Tự. Tất cả trên dưới 50 người nấp trong đó đều bị chết hết , máu chảy thấm vách tường Chùa Phi Lai. Nếu ngày kia bạn từ ngoại quốc về Việt Nam , nếu xuống chơi Châu Đốc thì nên ghé đến chùa Phi Lai mà xem sự kiện quân Khemer Đỏ Pol Pot giết người ra sao. Dỉ nhiên tu sỉ sư sải Miên họ tu theo phái TiểuThừa , ăn 1 buổi cơm trưa chính Ngọ , đi khất thực. Có vị sư sải tụng trì theo từng pháp môn Tiểu Thừa. Có vị được huệ nhản , có người không được một pháp môn thần thông nào cả. Không phải đi tu , quy y xuống tóc . Đọc kinh công phu mà được thần thông. Phải trì chú , cùng hộ niệm vô cùng cực khổ thì mới được như vậy. Có vị sư sải biết trước đến ngày mình vãng sanh tịnh độ , có vị sư sải thì vẩn còn u mê ám chướng . Đó là tùy nghiệp duyên mỗi người. Không phải đi tu là biết được tương lai vị lai được bao giờ , Nhiều vị sư sải hay tu sỉ bị chết trong vụ Khmer Đỏ Pol Pot biết bao nhiêu người. Xương sọ hàng vạn người Miên được dân Miên gom về một chùa gần kinh dô Miên , chất đống . Nhìn thầy mà rùng mình. Có sọ bị thủng một lổ lớn nơi trán vì bị rìu bổ vào cho chết tươi…có sọ bị bễ một miếng xương ót vì búa đánh bể vào… Đó là sự kinh hoàng khi nhắc lại. Đó là sự rùng mình khi nghe kể lại vị sư sải Miên mà dân Miên gọi là sư sải khùng bị ma nhập , loe lên cây thốt nốt ngay giữa trung tâm thủ đô Nam Vang mà la hét rần trời . Vị lai quá khứ hiện về. Tất cả vô nghĩa vì có ai tin đâu . Bà con cô bác của chúng tôi khi đến xem sải khùng trèo cây thốt nốt , nói những lời rủa sả , báo chí Miên chạy hàng tít lớn cười đùa… Nay họ hối hận thì dã xong rồi. Đó là lời chùng tôi nói thật lòng , vì thân nhân ruột thịt chúng tôi bị Khmer Đỏ Pol Pot giết tàn sát như vậy. Chuyện không dám đặt lời hoang tưởng làm chi cho thêm nghiệp tội. Nói về chùa Phi Lai , Trong Wikipedia Việt nói rằng chùa Phi Lai là do Ông Ngô Lợi lập ra , theo đao Tứ Ân Hiếu Nghĩa , là lảnh tụ chống thực dân Pháp tại Lục Tỉnh bấy giờ…đó là sai hoàn toàn. Trong Wikipedia Việt thì cho Ông Ngô Lợi gốc người Bến Tre. Ông Ngô Lợi vào lúc 20 tuổi ( vào năm 1851 ) tự nhiên viết ra kinh gọi là Bà La Ni Kinh dài 223 chữ Hán, nội dung xưng tụng Quán Thế Âm Bồ Tát ( đây là kinh bổn sư của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ). Thật sự chùa lập ra do Ngài Nguyễn văn Hiển , sanh năm 1861 ) tại Quảng Nam. Ngài là con trai trưởng của vị quan Thượng thư triều Nguyễn thời vua Tự Đức . Thi dậu Tiến sỉ , Ngài không muốn ra làm quan , nên trốn nhà mà đi xuất gia đầu Phật. Dỉ nhiên tại Huế , thủ đô nước Việt thời bấy giờ , tuy có nhiều chùa quanh Huế , Ngài không dám xin vào tu vì biết gia đình cho người bắt đem về. Ngài trốn xuống Qui Nhơn xin di tu , lấy tên khác …nhưngf thời gian sau Ngài thấy không ổn nên xuống Nha Trang tu tại một chùa người Hoa…cũng không xong vì lệnh tầm nã từ triều đình Huế truy lùng. Ngài mới xuống Saigon , là nơi không thuộc quyền cai trị của triều đình Huế nữa . Saigon bấy giờ là thuộc địa của Pháp nên lệnh vua không ảnh hưởng gì nhiều. Ngài xuống Saigon đến quy y tại chùa Giác Viên ( Chợ Lớn ) , xin học đạo với Tổ Hoằng Ân, được ban pháp danh Như Hiện , pháp hiệu Chí Thiền. Sau đó Ngài xuống Châu Đốc , đến viếng ngôi chùa nhỏ hoang sơ trong núi rừng núi Sam , Đó là chùa Phi Lai Cổ Tự . Ngài được dân làng mời đến làm chủ chùa này , vách dất hoang sơ Phi Lai Tự… Danh tiếng một chân tu đồn đến Saigon , Chợ Lớn…nhiều phật tử từ đường xa đến viếng lạy chùa Phi Lai. Ngài nói trước cho dân làng là Ngài sẽ viên tịch vào ngày rằm tháng 2 năm Quý Dậu ( 1933 ) , dân làng bán tín bán nghi. Quả thật vào rạng sáng sớm tinh sương, dân chúng quanh làng bổng nhiên thấy chùa Phi Lai trên núi bốc cháy hừng trời . Dân làng hoảng hồn , người thùng nước , người kéo xe nước đến chùa chữa cháy …khi dân làng đến chùa Phi Lai thì thấy chùa không bị cháy , nhưng được tin là thầy trụ trì Như Hiện vừa viên tịch. Ngài mất vào năm 1933 ( năm Quý Dậu ) vào rằm tháng 2 như Ngài nói trước cho phật tử thân cận. Đó là sự linh ứng của chủ chùa Phi Lai Tự được vang đến dân chúng tỉnh Châu Đốc mà bên ngoại chúng tôi có được nghe đến. Sau đó thì chùa Phi Lai Tự không có người trụ trì đáng bậc chân tăng , nên chùa chuyển sang đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa như Wikipedia Việt nói ở trên , nghĩa là thờ Phật Trời , Hiếu nghĩa với Cha mẹ và thương đất nước chống giặc Pháp… Gia đình chúng tôi có nhắc đến Chùa Phi lai nhiều lần khi Ông Nội chúng tôi còn sanh tiền tại Châu Đốc. Không hiểu vì sao mà năm 1978 chùa Phi Lai bị tụi Khmer Đỏ Pol Pot vượt biên giới Miên ( cách Chùa chừng 5 km , bên kia sông )..Nhóm khát máu nầy bắn giết và tung lựu đạn vào chùa , cùng trường học mà dân chúng đang trốn chạy từ ngày trước. Lựu đạn nổ trong chùa , giết tất cả nạn nhân đang nấp trong Chùa , ngỏ hầu xin Đức Phật cứu nạn. Tất cả chết hết , máu loang đầy chùa , thấm sâu vào vách chùa Phi Lai không gột rửa được . Từ đó đến nay Chùa Phi Lai không ai dám đến viếng vì nhớ lại quang cảnh rùng rợn ngày xưa. Chùa Phi Lai nay xem là tội lỗi của đám Cộng sản Khmer Đỏ Pol Pot giết dân Việt là vậy.
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 16, 2011 14:43:49 GMT 9
Bùa Ngãi Ở San Jose - Sưu Tầm Khi tôi đến bấm chuông ở ngôi nhà số 2924 Garden Ave., San Jose, CA 95111 vào lúc 03:00 giờ chiều ngày 26-11-2002 thì một người đàn bà đứng tuổi, có làn da mịn hồng đã mở cửa bước ra mời tôi vào nhà. Cánh cửa rất hẹp mặc dầu ngôi nhà cũng khá rộng. Qua khỏi cửa, tôi ngửi thấy mùi nhang khói và mùi trầm hương cùng với mùi nước hoa quyện vào nhau ở bên trong căn nhà. Người đàn bà lại mở một cánh cửa rất hẹp vừa cho tôi nghiêng người lách qua để đi vào một căn phòng khác nằm chếch bên trái của cửa chính ra vào. Đây là cả một thế giới huyền bí của người đàn bà đã gọi điện thoại cho tòa soạn Việt Báo để mời tôi đến thăm cơ sở kinh doanh của bà ta. Cơ sở của bà là một căn phòng nhỏ lối hơn 10 thước vuông. Khắp bốn bức tường và ngay trên cánh cửa vào phòng đều được dán kín với những hình bùa phép, các tượng ảnh mang những biểu trưng bí ẩn gì đó. Phía tường ngay lối cửa là một bàn thờ đủ các loại thần linh và tượng Phật theo điêu khắc của Thái Lan. Chung quanh bàn thờ là các lá bùa vẽ rồng rắn khó hiểu và dưới chân tượng Phật là các loại hoa quả, và đặc biệt có mấy mâm chứa đầy trứng vịt sống với nhang đèn nghi ngút. Bức tường đối diện với bàn thờ là bàn làm việc của người đàn bà được đặt sát một cửa sổ nhỏ làm bằng kính mờ. Người đàn bà ngồi vào chiếc ghế phía sau bàn làm việc, lưng bà sát vào cái kệ tủ có nhiều ngăn lộ thiên đặt những cái khay lớn nhỏ khác nhau. Trên từng mỗi cái khay có những hàng chữ viết bằng chữ Việt dán lên như những ngăn tủ thuốc có đề tên trong một tiệm thuốc bắc. Các hàng chữ ghi rõ như "Bùa đem chồng con về", "Phép uống thương", "Bùa hộ mệnh bình an", "Phép sang bán xe nhà tiệm quán", "Phép đốt móng", "Giải bùa thư yếm", "Phép đốt", "Bùa lớn", "Nàng Quốc", v.v... Tôi ngồi xuống cái ghế duy nhất đặt đối diện với người đàn bà. Sát cái bàn ngay bên cạnh tôi là một tủ sắt nhỏ có từng ngăn chia thành nhiều hàng và mỗi hàng lại ngăn ra từng ô nhỏ bên ngoài đề các tên khác nhau. Nhìn qua lớp kính mỏng tôi thấy bên trong giống như là những loại rễ cây hoặc lá khô.. Người đàn bà đưa tay bật sáng cây đèn loại dành cho bàn viết và chiếu ánh sáng vào phía những ngăn nhỏ trên tủ sắt rồi nói : - Đây là 100 loại Ngãi quý nhất mà tôi có đủ. Tôi cam chắc rằng hiện nay có nhiều người nuôi Ngãi, nhưng không ai có những loại Ngãi quý hiếm nầy. Người đàn nhìn tôi chăm chú như muốn xem phản ứng của tôi như thế nào. Bà ta chìa ra trước mặt tôi một tờ Việt Báo đã cũ và một tờ giấy ghi tên tôi, địa chỉ tòa soạn Việt Báo và số điện thoại : - Tôi đã đọc bài của ông viết về nhiều cơ sở trên Việt Báo rất vô tư và xây dựng. Có một cái chợ tôi tưởng rằng nó đã chết, nhưng nhờ bài viết của ông mà nó sống lại sầm uất. Tôi đã ghi tên ông và địa chỉ để liên lạc nhưng tôi phải đi về Thái-Lan thỉnh phép một thời gian. Nay trở lại San Jose, tôi mạnh dạn gọi điện thoại mời ông đến xem xét công việc của tôi đang làm. - Bà có thể vui lòng cho tôi biết bà làm nghề gì ? Việt Báo chỉ giới thiệu người thật, việc thật, công việc hợp pháp mà thôi. Sự giới thiệu là hoàn toàn miễn phí. Người đàn bà đưa ra Giấy Phép Hành Nghề và nói : "Xin gọi tôi bằng Cô là được rồi.. Tôi chưa có chồng và không bao giờ được phép gần đàn ông về thể xác. Đây là License của tôi. Việc làm chính của tôi hiện nay là "Làm phúc, là cứu người". Tôi nhìn khắp căn phòng, dưới chân bàn thờ có hình mấy người đã chết... Trên khung cửa vào phòng có thờ hàng chữ của Đức Mohammed là nhà Tiên Tri của Hồi Giáo. Tôi hỏi người đàn bà : - Cô xem chỉ tay, tướng số, bói bài phải không? - Không, tất cả những thứ đó tôi đều biết, nhưng không xem bói toán cho ai. Ngoại trừ có ai đó thân tình cần tôi giúp. Tôi xin nói thẳng rằng tôi là một Thầy về Bùa Ngãi chuyên nghiệp nhưng tôi không làm chuyện thất đức, không dùng Bùa Ngãi để thư yếm hại ai bao giờ. Ngược lại tôi đã giúp cho bao nhiêu gia đình tan nát được đoàn tụ hạnh phúc. Những người bỏ vợ, bỏ chồng đi lang chạy theo người khác tôi đã giúp kéo họ trở về sống lại với nhau. Tôi giúp cho những người bị mất của được tìm lại tài sản đã mất; giúp cho người ta tránh được tai nạn chết chóc; giúp cho các người kinh doanh được mua may bán đắt, có nhiều khách... Nói tóm lại, tôi chỉ muốn giúp người.. Tôi cũng giúp giải cứu nhiều người bị các thầy bùa ngãi độc ác thư yếm mà đã đi nhiều nơi nhưng không ai giải phá cứu được. Và đặc biệt là tôi có thể chữa được một số bệnh như bị phong thấp bại xuội, bị mặt đầy mụn nhọt ghẻ lở. Tôi sẽ chữa lành cấp tốc mà tôi không hề lấy của ai đồng xu nào khi tôi chữa trị giúp họ. Những ai bị tê thấp không giở tay lên được hay không bước đi được, tôi chỉ đọc lời cầu chú và cào vuốt chỗ đau lập tức họ sẽ khỏi trong vòng lối 15 phút. Người bị bệnh lâu vài chục năm thì ít ra cũng phải được tôi chữa trong lối 3 lần mới hết. Trong khi nói chuyện với bà thầy Bùa Ngãi, phái viên Việt Báo nghe điện thoại của bà hầu như cứ năm bảy phút lại reo lên liên tục. Nhiều người gọi xin hẹn giờ hay xin thỉnh bùa, thỉnh phép. Tôi hỏi người đàn bà : - Mỗi người khách cô lấy bao nhiêu tiền ? - Tôi không lấy bao nhiêu cả. Chữa trị bệnh hoàn toàn miễn phí. Những ai đến thỉnh Bùa, Ngãi hay cần giải cứu thì tùy theo kết quả mà họ đạt được, họ đến trả lễ bao nhiêu là tùy hỷ. Có người cho tôi vài đồng, có người cho vài chục, nhưng cũng có nhiều người cho tới vài trăm hoặc vài nghìn Đô-La. - Như vậy chắc cô kiếm được nhiều tiền lắm vì tôi nghe điện thoại xin gặp cô liên tục. Ngưới đàn bà đưa ra trước mặt tôi nhiều tờ báo xuất bản tại Việt Nam như Báo Lao-Động, báo Tuổi Trẻ, báo Công An, báo Phụ Nữ và cả báo viết bằng tiếng Anh có tên là Saigon Times. Những báo đó xuất bản phát hành các năm khác nhau và đều có bài viết và hình ảnh đăng tải về người đàn bà mà tôi đang tiếp xúc. Trên báo Saigon Times xuất bản tháng 9 năm 2000 có bài viết ký tên Le Toan với tựa đề "U.S. Family Gives Food Parcels to The Poor" đã viết rằng "SGT-HCMC) A Vietnamese family living in the U.S. town of San Jose have donated 2,000 food parcels valued at VND40,000 each for distribution among poor residents of HCMC's District 4 during the family matriarch's annual Vietnam visit..." (Tạm dịch: Một gia đình ở San Jose đã tặng 2,000 gói lương thực trị giá 40,000 đồng VN mỗi gói cho dân nghèo Quận 4, Sài Gòn, khi họ về thăm nhà hàng năm...) Bên cạnh bài viết là hình của người đàn bà đang trao gói quà cho một phụ nữ nghèo. Dưới tấn hình ghi là "Mrs Le Khanh hands a food parcel to a poor woman". Trong khi đó tờ báo Kinh Doanh & Tiếp Thị trong một bài khác có đăng hình ảnh của bà LỆ KHANH đang trao quà cho những gia đình nghèo tại Quận 4 Sài-gòn vào ngày 04-9-2001. Bài báo thường thuật rằng Bà Lệ Khanh sống tại San Jose đã về Việt Nam tặng quà lần thứ 13 cho 2.000 gia đình nghèo mỗi gia đình một phần quà gồm gạo, bột ngọt, mì gói, dầu ăn, nước tương, muối bột. Ngoài ra bà Lệ Khanh cũng tặng 300 phần quà tại Quận 8 Sài-gòn trong dịp Tết Trung Thu và cho các Hội Bảo Trợ, các nhà tình thương, các mái ấm trẻ em đánh dày và thiếu nhi ngoài đường phố mỗi nơi 100 Mỹ-kim. Bài và ảnh chụp do phóng viên Cẩm Thanh viết nói rằng đây là lần thứ 13 bà Lệ Khanh phát tặng quà cho người nghèo tại Sài-gòn. Những bài báo khác xuất bản tại Sài-gòn có đăng hình ảnh và bài tường thuật bà Lệ Khanh đang phát tặng quà Noel cho 1,000 hộ gia đình nghèo tại Phường 12 Quận 4 Sàigòn. Người đàn bà chuyên nghề Bùa Ngãi đưa cho tôi xem các quảng cáo của bà đăng trên vài tờ báo tại San Jose và nói với tôi : - Tôi không được ăn thịt. Hằng ngày khách thập phương đưa gà, vịt và hằng giỏ đầy trứng, trái cây đến cúng tổ, tôi nuôi Ngãi xong là cũng bỏ đi. Thực phẩm hằng ngày của tôi là do người thập phương cho tôi ăn. Tôi chẳng thiếu thốn gì cả. Tôi chỉ giúp người và nếu có ai cho tiền bạc hay gởi tiền cúng tổ, tạ ơn thì tôi thu gom mang đi làm việc nghĩa, làm việc bố thí từ thiện cho dân nghèo. Tôi về Việt Nam và đã tặng thực phẩm cho người nghèo được 13 lần. Những lần đầu thì chỉ tặng cho 1.000 gia đình nghèo thôi, nhưng những lần sau thì 2.000 gia đình, rồi mới đây là nhiều hơn. Khi tôi tặng quà thì có chính quyền địa phương, báo chí và cả Công An của CSVN đến kiểm soát. Tôi chỉ giúp người nghèo mà thôi. Và vì vậy, tôi chỉ làm chuyện tốt, không dùng bùa ngãi để trục lợi cho cá nhân mình hay đi hại người khác. Tôi không cần tiền cho cá nhân tôi nên chẳng có ai có thể dùng tiền bạc để sai khiến tôi làm bậy như thư yếm hại phá người nào. Báo Saigòn Times ghi bà Lệ Khanh 68 tuổi, tôi hỏi về cá nhân bà, bà kể : - Tôi có thể nói tiếng Việt Nam và có tên Việt Nam là LỆ KHANH, nhưng tôi không phải là người Việt. Tôi là người Thái-Lan, thuộc một bộ tộc thiểu số gốc Chăm tại vùng núi Shakhon miền Bắc Thái-Lan. Bộ tộc tôi theo Mẫu Hệ, tên ông ngoại của tôi là Thầy Bùa Ngãi Kha-Mắt-Kham Bi-Rô kiêm Già Làng trong toàn bộ tộc. Tên thật của tôi là KHA-LAY-MAY. Chúng tôi theo Hồi Giáo nhưng không cuồng tín và không chấp nhận khủng bố. Theo tục lệ, mỗi đứa trẻ sinh ra đều được bộ tộc dành cho một cái hủ chứa các viên sỏi để tính tuổi của mình. Lúc tôi được 8 viên sỏi thì tôi bị bệnh nặng và mê man nhiều ngày. Ngoại của tôi đã dùng bùa ngãi chữa cho tôi lành bệnh. Nhưng ngay sau đó trong bộ tộc bị bệnh dịch tả gây chết hằng loạt và dân khắp vùng kéo đến yêu cầu đốt tôi thành tro vì cho rằng tôi đã chết mà nay sống lại làm con Ma Lai về giết hại dân buôn bản. Ông Nội tôi là nhà chân tu Phật Giáo Thái Lan đã bàn với ông Ngoại tôi và hai gia đình đành chuẩn bị thực phẩm gởi tôi cho một đoàn người buôn lậu đưa ra khỏi vùng. Khi ra đi, ông ngoại tôi cho tôi mang theo một túi bùa ngãi mà tôi được huấn luyện từ khi mới lên 3 viên sỏi. Ngoại đọc bùa chú cho tôi đi và nói rằng khi tôi lớn lên là không được gần đàn ông và phải làm nghề bùa ngãi để cứu nhân độ thế. Đoàn buôn lậu đưa tôi băng rừng trong nhiều ngày đêm và cuối cùng đến gởi tôi tại một già làng thuộc buôn Thượng ở khu vực Mai Thôn gần Đà-Lạt. Khi tôi được 12 tuổi thì tôi hái lan rừng mang ra chợ Đà-Lạt bán và tôi được gặp một phụ nữ Việt Nam tên là LỆ KHANH, đã đưa tôi về nhà ở chung để giúp đỡ tôi. Tôi thực sự ở với chị Lệ Khanh vào lúc tôi 16 tuổi và tên thật của tôi là KHA-LAY-MAY nên cả nhà gọi tôi là MAY. Tôi nói được tiếng Thượng, tiếng Thái và nay chị Lệ Khanh dạy thêm cho tôi tiếng Việt. Chồng chị Lệ Khanh là anh Trần Văn Hải, đã quyết định đưa gia đình về Sài-gòn sinh sống vào khoảng năm 1970. Tôi đi theo và nhờ đó tôi có dịp quen với các anh chị đào kép Cải Lương. Tôi kiếm được ít tiền và sang lại Đoàn Cải Lương Hoa Anh Đào - Kim Chưởng để làm bầu gánh một thời gian. Thời gian nầy tôi có dịp trở lại Thái-Lan tìm về nguồn gốc của tôi. Tôi đã tìm được các thầy Bùa Ngãi cấp đẳng cao cường và được truyền lại các bí quyết trong nghề Bùa Ngãi nhưng tôi phải thề không được dùng Bùa Ngãi để ếm hại người khác. Đến năm 1971 thì chị Lệ Khanh bị bệnh và qua đời. Anh Trần Văn Hải chồng chị làm việc cho Mỹ ở Kho 5 có 3 đứa con gái và tôi thay chị Lệ Khanh để lo cho các con của chị mà tôi xem như con ruột của mình. Chúng cũng gọi tôi bằng mẹ mặc dầu tôi nhỏ tuổi hơn chị Lệ Khanh. Sau khi Việt Cộng chiến Sài-gòn, anh Hải đưa các con về làm rẫy tại Long Khánh gần Trại giam K3 tức Z30D. Tôi cũng đi theo và một hôm lúc tôi đang làm rẫy, thấy anh em tù Sĩ quan cải tạo đi qua rách rưới và đói khát, tôi kiếm tiền mua đường thẻ ném cho anh em chia nhau. Tụi Việt Cộng bắt gặp và bắt giam tôi, đánh đập tôi tàn nhẫn rồi nhốt tôi 2 năm tại trại B5 Biên Hòa về tội làm gián điệp cho Mỹ Ngụy. Bà Kha-Lay-May kể tiếp: "Khi ra khỏi tù, tôi nghĩ phải tìm mọi cách ra khỏi Việt Nam vì sống với Cộng Sản thì các con của chị Lệ Khanh chẳng thể nào có được tương lai. Thế rồi, tôi quyết định dùng bùa ngãi để nói chuyện với Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh của Cộng Sản tại Sài-gòn. Tôi lấy giấy tờ của chị Lệ Khanh sinh năm 1940 nay đã chết và khai là giấy tờ của tôi. Anh Hải là chồng của chị Lệ Khanh nay trên giấy tờ là chồng của tôi và các con của chị đều là con tôi cả. Tôi lấy Oxy Già để nhuộm vàng tóc của một đứa con gái và Cán bộ Công An ở Sài-gòn đã giúp tôi khai giấy tờ là tôi có chồng tên là Trần Văn Hải, sau đó chồng tôi bỏ mấy mẹ con tôi đi theo người khác nên tôi đi làm sở Mỹ nên quen với một lính Mỹ và có riêng một đứa con gái lai Mỹ. Rồi sau khi Cộng Sản vào thì chồng tôi trở về lại nên gia đình tôi sum họp và chồng tôi cũng có công giúp tôi nuôi đứa con gái lai Mỹ thành người. Nhờ đó, khi đi phỏng vấn thì cả gia đình anh Hải và tôi đã được xuất cảnh đến San Jose. Chúng tôi nay vào quốc tịch Mỹ và mua nhà tại 2924 Garden Ave., San Jose, CA 95111, Tel. (408) 365-8043. Tôi mang ơn Việt Nam và nay tôi hành nghề bùa ngãi để nếu được ai cho đồng nào thì tôi lại mang về giúp đỡ những người nghèo khổ tại Sài-gòn. Ở San Jose, nhiều thầy bùa ngãi người Miên thường ăn tiền để đi thư yếm người khác. Tôi đã giải bùa cho nhiều người Việt Nam gặp nạn bị thư yếm và tôi đã cứu họ được sống. Tôi giúp cho nhiều người làm ăn thịnh vượng và giúp trị các người bị phong tê thấp liệt tay chân. Những bệnh như thế tôi chỉ đọc lời khấn và vuốt vài cái là họ có thể hết ngay tức thì. Tôi không lấy tiền khi giúp người bệnh. Những ai bị mụn đầy mặt, tôi cũng chữa khỏi ngay và da mặt họ sẽ láng o như da mặt của tôi. Những người đến trị mụn tôi cũng không lấy tiền, tuy nhiên họ có thể cho anh Hải một vài đồng vì anh ấy sát trùng dụng cụ. Những ai mất của, hãy mang theo một đứa bé trai từ 8 tuổi đến 10 tuổi. Ðứa bé đó sẽ nhìn vào bàn tay của tôi và thấy được ai là người đã ăn cắp giống như nhìn lên màn ảnh TV để xem phim vậy. Việt Báo viết bài nầy như một chuyện lạ để đọc giả tìm hiểu. Giữa thời đại văn minh tại sao có những hiện tượng bùa ngãi lạ lùng nầy. Những ngày kế tiếp sau đó, phái viên Việt Báo bất chợt đến xem một số khách đến xin giải bùa hay xin tìm của bị mất. Một phụ nữ bỏ toàn bộ nữ trang và $30,000 tiền mặt vào trong một chiếc giày ống cao cổ để định mua Mobile Home, nhưng đã bị mất sạch và bị người chồng chửi rủa thậm tệ là lấy tiền cho trai. Người vợ được bạn giới thiệu đến xem và đã dắt theo một đứa cháu trai 9 tuổi của bên chồng và không cho đứa bé biết trước chuyện gì. Khi thằng bé nhìn vào bàn tay phải của bà Kha-Lay-May, nó nói: "Cô ơi, con thấy chú Tám lấy một chiếc giày ở dưới giường ra và thò tay vào trong chiếc giày lấy ra một gói đồ gì đó...và...chú Tám lái xe đem gói đồ đến đưa cho Cô Út. Người phụ nữ mất của đứng bật dậy như cái lò xo: "Trời ơi, ông chồng tui.. thế mà cứ chửi tui hoài.. lấy hết gia sản qua đưa cho em ruột không biết đang tính chuyện gì đây!" Người phụ nữ mừng rỡ bỏ vào lọ cúng tổ 30 Mỹ-kim và bước ra ngoài. Người phụ nữ xin miễn ghi tên tuổi vì sợ nói ra bỉ mặt người chồng! Chuyện nghe thật khó tin, nhưng đang có thật trong một đất nước văn minh hiện đại như Hoa Kỳ.
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 16, 2011 14:57:06 GMT 9
Cô Gái Qúa Giang Chuyện ma xin quá giang xảy ra không riêng gì tại một quốc gia nào. Nhiều tài liệu thu thập được từ những chứng nhân ở nhiều quốc gia khác nhau. Họ là những người đã thấy rõ hồn ma và cũng chính họ đã cho những ma đó đi một đoạn đường. Tại Việt Nam, không hiếm trường hợp đã xảy ra. Một vài thí cụ điển hình mà chúng tôi xin lược kể ra đây là những trường hợp hoàn toàn có thật do các nhân chứng trong cuộc kể lại. Ông Trùm Mày, nhà ở Nam Giao, Huế, chuyên nghề chạy xe kéo, loại xe này rất phổ biến khoảng thời gian 1939 đến 1945. Một đêm nọ, trời gần khuya, ông Trùm Mày định kéo xe về nghỉ nhưng tự nhiên thay vì kéo xe chạy về phía cầu Gia Hội để về Nam Giao (qua cầu Trường Tiền), ông ta lại kéo xe chạy theo đường Hàng Đường để về cống Kẻ Trài. Xe chạy một quảng, ông bỗng thấy một cô gái mặc bộ đồ trắng, đội nón lá vừa bước lên vừa đưa tay vẫy vẫy ra hiệu cho xe ngừng lại. Ông Trùm Mày vội vã ngừng xe, cô gái có vẻ hấp tấp vừa đi vừa chỉ về phía trước vừa nói - tiếng nói nhỏ như sợ có ai nghe: - Chở tôi về bến đò chợ Bao Vinh. Ông Trùm Mày cố định thần nhìn cho kỹ mặt cô gái nhưng vì tóc cô để xõa nên chẳng thấy rõ mặt mày. Điều ông làm lạ là cô gái mảnh mai quá nên nhẹ tênh, ông kéo xe mà cảm thấy như chạy xe không. Qua khỏi cống Kẻ Trài và chạy độ hai mươi phút nữa, ông nghe tiếng trống trời khuya vọng lại. Bất giác ông chạy chậm xe và ngoái cổ lại để hỏi chuyện cô gái, nhưng lạ lùng chưa, cô gái không còn nữa. Chỗ ngồi trên xe kéo trống không và yên lặng một cách dễ sợ. Ông Trùm Mày sợ quá đến nổi gai ốc toàn thân, ông cấm đầu chạy thục mạng về nhà. Sáng mai lại, ông đem chuyện lạ hồi hôm kể cho ông Lý Trưởng ở làng Bình An nghe. Người lão bộc trong nhà ông Lý Trưởng cho biết ở quảng đường gần cống Kẻ Trài đến bến đò Bao Vinh có một cái am nhỏ thờ cô gái bị chết trôi, trước đó độ năm năm, cô gái này bị chết nơi bến đò gần cống Kẻ Trài, xác nổi lên và tắp vào bờ, vướng vào gốc và rễ những cây sanh già cỗi nơi bến và nhiều đêm hay xuất hiện than khóc hay chận đường người qua lại để hỏi thăm, chuyện trò hoặc xin đi nhờ nếu gặp ai có phương tiện chuyên chở đi qua đó. Theo người lão bộc (ông Ngọng) thì có lần hai người kéo xe bò qua đó cũng đã gặp cô gái từ dưới bến sông (Đông Ba) đi lên xin đi nhờ một quãng đường. Khi xe đi được khoảng nửa tiếng, thì bỗng nhiên họ nghe một tiếng "Bõm" như có vật gì rơi xuống sông. Ngay lúc đó hai người đánh xe bò rởn tóc gáy vì cô gái trên xe đã biến mất tự bao giờ (lúc đó khoảng một giờ sáng). Ở Huế có một địa danh đặc biệt là Ô Hồ. Xóm Ô Hồ gần trường tiểu học Gia Hội (Huế). Anh Hinh trước ở làng Đại Lược sau lên thành phố Huế làm nghề đạp xích lộ Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1956. Ở Huế mùa hè rất nóng, anh Hinh thường đạp xe đến quá khuya mới trở về nhà. Đêm đó, theo lời anh kể hình như là đêm 13 âm lịch, trời đầy trăng sao. Lúc đó khoảng 12 giờ khuya, anh đang đạp xe đi từ từ qua khỏi trường tiểu học Gia Hội và định tới chỗ quẹo sẽ đạp xe về đường đi Mười Gian. Khi chiếc xe xích lô vừa đến ngã ba thì anh thấy một người đàn bà đứng ngay nơi chỗ quẹo và đưa tay vẫy vẫy xe anh. Anh Hinh vội vã dừng xe lại. Dưới ánh trăng, anh thấy rõ gương mặt người đàn bà, rõ đến độ anh thấy nổi bật những dấu sẹo do bệnh đậu mùa để lại trên gương mặt người đàn bà. Anh hỏi: - Chị về đâu?" Người đàn bà vừa trả lời vừa bước lên xe: - Cho tôi đến Chùa Bà. Khi xe sắp đến đường quẹo thì người đàn bà ra dấu ngừng xe và lấy trong ví ra hai tời giấy bạc trao cho anh Hinh rồi lầm lũi đi vào một khu vườn to lớn trồng toàn là nhãn và vải, anh Hing nhìn thấy hai tờ giấy loại 100 đồng và lấy làm lạ vì số tiền quá lớn cho một cuốc xe quá ngắn đường. Hay người đàn bà đã đưa nhầm, tưởng đó là giấy 10 đồng, nhưng 10 đồng bạc cũng vẫn lớn đối với thời đó. Vốn là người lương thiện, anh Hinh nghĩ bụng đêm quá khuya, khu vườn nhà quá rộng và sâu hun hút không tiện vào kêu cửa, chi bằng sáng mai đạp xe ngang nếu thuận tiện ghé lại xem thử ra sao. Thế rồi anh ta cất kỹ hai tờ giấy bạc loại 100 đồng vào cái bóp để trong túi áo. Trước khi đạp xe về nhà, anh còn nhìn kỹ lại địa điểm mà người đàn bà có gương mặt rỗ hoa đã bước suống xe để vào khu vườn sầm uất. Điều đáng nhớ là ngay tại chỗ đó có một cây vông đồng rất lớn. Sáng hôm sau, khoảng 10 giờ, anh Hinh đạp chiếc xích lô đến địa điểm hồi hôm. Anh dừng xe lại bên cạnh cây vông đồng. Khu vườn rộng âm u và yên tĩnh quá, anh đẩy xe vào vườn. Xa tít phía trong khu vườn là căn nhà xưa cổ, cửa đóng then gài. Có lẽ gia chủ đã đi vắng. Anh đẩy xe ra, quang cảnh yên lặng lạ thường, qua một giàn hoa lài rủ xuống thấp lè tè có một ngôi mộ. Ngôi mộ này được chôn trong vườn nhà. Trưa hôm đó, anh ghé lại cái quán cơm gần Ô Hồ để ăn trưa, khi mở cái bóp trả tiền anh ngạc nhiên không thấy hai tờ giấy bạc đâu cả. Tìm mãi cũng chỉ có những đồng bạc lẽ mà anh đã có từ trước. Nhưng trong ví lại có hai tờ giấy trắng dài bằng cỡ hai tờ giấy bạc. Anh ngẩn ngơ suy nghĩ. Bỗng nhiên một cảm giác lành lạnh chạy dọc theo đường xương sống... như có một linh tính vụt đến... anh hỏi ngay người bán quán về khu vườn nơi gốc cây vông đồng và ngôi mộ trong vườn thì người bán quán cho biết như sau: - Khu vườn đó là của ông Cả Đễ. Ông có một người vợ bé, bà này ở chung với bà vợ lớn và bị bà vợ lớn của ông Cả Đễ ganh ghét, hành hạ đủ điều. Cách đây hai năm, bà vợ bé bị bệnh đậu mùa, người trong nhà sợ bị lây bệnh tìm cách lánh xạ Sau đó bà vợ bé chết. Ông Cả Đễ thương tiếc vô cùng, chôn ngay trong vườn. Hiện nay trong ngôi nhà ấy chỉ có một mình ông Cả Đễ thui thủi sống qua ngày nhờ nhuận lợi thu hoạch trong vườn mà thôi. Bà vợ lớn thì đã bỏ vào Đà Nẵng lấy chồng khác. Ông Cả từ đó có vẻ tàng tàng và mất trí... " Anh Hinh nghe đến đó thì tự nhiên tay chân run rẩy, mặt mày tái mét. Lúc bấy giờ anh mới kể hết mọi sự cho người chủ quán nghe. Sau cùng người chủ quán nói: - Như vậy là anh đã gặp đúng người vợ bé của ông Cả Đễ rồi! Với lại gương mặt rỗ hoa thì chính là bà ấy rồi, nhưng lạy vong linh bà ấy, bà linh hiển quá, tuy rằng bà ấy trả cho anh hai tờ giấy bạc giả, nhưng theo ôn mệ (cha mẹ) tôi ngày trước thường kể thì những người đã giúp đỡ ma thường hay được phù trợ. Như anh đã có lần chở hồn ma bà vợ bé ông Cả, chắc anh cũng sẽ đắt khách cho coi... "
|
|