|
Post by Can Tho on Apr 27, 2011 17:07:06 GMT 9
Vài mẫu chuyện thú vị về kiến trúc sư Ngô Viết ThụKhôi nguyên La Mã, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ sinh năm 1926 trong một gia đình nghèo ở Lang Xá, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Cha ông là Ngô Viết Quang, một giáo sư Trường Kỹ thuật Huế và là một nhà Nho học uyên thâm. Ông cũng là người thiết kế kiến trúc và trang trí cho một số công trình của dòng họ tại Huế. Lớn lên trong môi trường đó, Ngô Viết Thụ rất giỏi về Hán Nôm và cũng là một thợ tiện có tay nghề cao. Hết trung học, ông thi đậu Cao đẳng kiến trúc Đà Lạt (một campus của Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương) và khăn gói lên đường. Lạ đường lạ xá, ông thấy một thiếu nữ bên đường bèn hỏi thăm. Mà người đó chính là Võ Thị Cơ, mối nhân duyên tiền định sau này thành phu nhân của ông. Sau này cha của Võ Thị Cơ muốn tìm một sinh viên thật giỏi và có đạo đức, để làm gia sư dạy kèm cho con cô con gái cùng mấy đứa em trong nhà. Và chàng sinh viên mà ông ưng ý lại chính là Ngô Viết Thụ. Ngày đó, Ngô Viết Thụ nổi tiếng là một chàng sinh viên kiến trúc học giỏi và đẹp trai. Lúc đầu anh chỉ mới xem cô gái Võ Thị Cơ khi ấy như người em, cho nên dù quen và đi chơi với cô gái nào, cũng về kể lại hết cho cô nghe. Nhưng với thời gian, anh nhận ra cô là người có phẩm hạnh đáng quý hơn hết, vì vậy mà tình cảm giữa hai người dần dần nảy nở, phát triển và làm đám cưới vào năm 1948. Đám cưới với chàng sinh viên nghèo được cha cô Cơ hết sức ủng hộ vì yêu quý người tài. Và vì nhà có điều kiện nên giúp con rể tiền bạc đi qua Pháp du học. Người vợ trẻ vì không muốn chồng áy náy vì phải nhờ vả nhà mình nên đã xin nghỉ học ở nhà phụ giúp cha mẹ buôn bán. Kiến trúc sư Thụ cảm ân tình của vợ, không dám ham chơi như các bạn đồng học tại Paris, mà dành hết thời gian vào việc học mong có ngày thành tài. Sau này ông kể có nhiều buổi dạ vũ tại đại học xá, âm nhạc vang vọng, các bạn sinh viên cử các cô đầm lên gõ cửa phòng để trêu ghẹo người nhưng ông vẫn lặng lẽ ngồi trong phòng miệt mài vẽ các đồ án, bên cạnh tấm hình vợ bồng con gái đầu lòng. Tại Pháp, Ngô Viết Thụ miệt mài học tập ở trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris. Trong quá trình đó, ông xuất sắc đoạt giải Paul Bigot do Viện Hàn lâm tổ chức. Năm 1955, ông bảo vệ đồ án tốt nghiệp kiến trúc sư xuất sắc D.P.L.G. Vài mẫu chuyện thú vị về kiến trúc sư Ngô Viết Thụ Hình KTS Ngô Viết Thụ được bạn bè công kênh trên vai khi giành giải Khôi nguyên La Mã Cũng năm 1955, Học viện Hội họa và Điêu khắc tổ chức “Giải thưởng lớn Rôma” thường được gọi là giải “Khôi nguyên La Mã”. Đây là giải thường có truyền thống lâu đời từ năm 1663 ở Pháp dưới thời vua Louis XIV, dành cho những tài năng trẻ trong lĩnh vực âm nhạc, hội họa, điêu khắc và kiến trúc. Vì là giải thưởng rất danh giá và lâu đời nên cuộc thi quy tụ được hàng trăm thí sinh xuất sắc nhất châu Âu. Ngô Viết Thụ được ưu tiên mời tham gia cuộc thi này. Vì trước đó ông đã đoạt giải Paul Bigot do Viện Hàn lâm tổ chức nên không cần tham gia vòng ngoài mà trực tiếp vào thi 3 vòng sau cùng. Ngô Viết Thụ đã xuất sắc vượt qua 2 vòng liền để lọt vào vòng chung kết với 10 thí sinh còn lại. Để chuẩn bị cho bài thi của mình, Ngô Viết Thụ đã miệt mài vẽ kiến trúc công trình Ngôi thánh đường trên Địa Trung Hải. Đến lúc chỉ còn 1 tuần nữa là hết hạn thì ông mới nhận ra rằng mình đã mắc sai lầm khi chọn phương án thiết kế theo phong cách cổ điển. Ông quyết định bỏ hết phương án đã vẽ trong thời gian trước đó, để thay bằng một phương án hoàn toàn mới. Ông đã tự thiết kế một thiết bị nhỏ giúp ông một mình vẽ nhanh một đồ án trên một diện tích giấy rộng trên 10 thước vuông mà chỉ mất chưa đầy 1 tuần. Đồ án tuyệt vời này đã giúp ông thành người Vệt Nam đoạt giải “khôi nguyên La Mã” với số phiếu 28/29. Cánh nhà báo lúc đó còn điều tra và giải thích rằng 1 phiếu nghịch mà Ngô Viết Thụ nhận được là do trong số 29 vị giám khảo có 1 vị có học trò cùng tranh tài, nên ông ta chỉ bỏ phiếu thuận duy nhất cho học trò của mình. Khi kết quả được công bố, bạn bè của Ngô Viết Thụ, chủ yếu là người Pháp, đã sung sướng công kênh ông lên vai trên những con phố ở Paris trong niềm vui sướng vô hạn.Cho đến tận hôm nay, Ngô Viết Thụ là người châu Á duy nhất đoạt được giải thưởng “Khôi nguyên La Mã” này. Năm 1955, ngay sau khi biết tin đoạt giải, Ngô Viết Thụ chạy ra bưu điện gửi hai điện tín về Huế cho cha mẹ và về Đà Lạt cho vợ con. Gia đình ông rất hãnh diện và nhận được nhiều lời khen tặng và chúc mừng của người thân, bạn bè và chính quyền thời đó. Lúc này danh tiếng của Ngô Viết Thụ đã bay xa. Rất nhiều công ty ở Pháp, Ý và châu Âu mời ông về làm việc với mức thu nhập rất cao. Ông cũng hoàn toàn có thể cùng vợ và gia đình đến định cư ở châu Âu.Nhưng khi Giáo sư Nguyễn Phúc Bửu Hội đến thăm cha của ông ở Huế và nhắn lời của lãnh đạo chính quyền VNCH lúc đó muốn mời ông về Việt Nam giúp đất nước, cha của ông viết một bài thơ và nhờ Giáo sư Hội mang giúp sang cho con trai kèm theo hai trái xoài trong vườn nhà. Nhận thơ cha, Ngô Viết Thụ hiểu ý và họa lại bằng bài thơ Cá gáy hóa long, đại ý nói mình không quên nguồn gốc và sẽ về giúp đất nước… Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm đã mời ông về nhận chức Bộ trưởng bộ Xây Dựng vào năm 1960, khi ông mới 34 tuổi. Bộ này vào thời ấy nắm luôn cả Xổ số Kiến thiết vốn đang hái ra tiền. Vốn không quen với việc làm quan, Ngô Viết Thụ rất băn khoăn và chia sẻ điều này với vợ. Vợ khuyên ông không nên nhận vì ông vốn là người giỏi nghệ thuật sáng tạo chứ không phải là chính khách. Ông liền từ chối vị trí này, nhưng trước thịnh tình của Tổng thống VNCH, ông nhận làm cố vấn và sẽ mở “Văn phòng tư vấn kiến trúc và chỉnh trang lãnh thổ” cho phủ tổng thống. Từ đó Việt Nam Cộng Hòa không có Bộ Xây dựng, việc quy hoạch do ông Ngô Viết Thụ cùng văn phòng của ông nghiên cứu phát triển, rồi Tổng nha Kiến Thiết nghiên cứu thực hiện. “Văn phòng tư vấn kiến trúc và chỉnh trang lãnh thổ” của Ngô Viết Thụ được mở tại 104 Nguyễn Du và số 8 Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Ông đã thiết kế nhiều công trình lớn như: Dinh Độc Lập (1961-1966), Viện Đại học Huế (1961-1963), Viện Nguyên tử Đà Lạt nay thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (1962-1965), Làng Đại học Thủ Đức (1962), Công trường Mê Linh (1961), cùng một số công trình lớn không nhưng không thể xây dựng do thời cuộc. Ngoài ra ông còn thiết kế hàng chục công trình cho các tỉnh thành khác. Ngô Viết Thụ cũng là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F.A.I.A.) cùng thời với một số kiến trúc sư danh tiếng như J.H. Van den Broek, Arne Jacobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Hernan Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H., Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin. Sau tháng 4/1975, Ngô Viết Thụ phải đi học tập cải tạo 1 năm. Cuộc sống đột nhiên lâm cảnh khốn khó, bà Võ Thị Cơ phải tần tảo một mình vất vả nuôi con. Đến lúc Ngô Viết Thụ hết hạn cải tạo về nhà thì vợ ông đã rất yếu vì vất vả, bà ra đi năm 1977 trong sự thương tiếc vô hạn của ông cùng gia đình. Năm đó ông Thụ mới 51 tuổi. Bạn bè có giới thiệu cho ông nhiều người khác nhưng ông vẫn quyết ở vậy. Trong những năm tháng này, ông thiết kế Ty Thủy lợi Đắc Lắc (1976), Bệnh viện Sông Bé 500 Giường (1985), Khách sạn Century Huế (1990), phác thảo chùa Trúc Lâm Đà Lạt (sau này do một nhóm KTS Lâm Đồng tiếp tục thực hiện phần khai triển chi tiết và thi công). Trên quy mô rộng hơn, ông cộng tác trong Quy hoạch Tổng Mặt Bằng của Hà Nội (đến năm 2000), và Quy hoạch Hải Phòng. Ông là thành viên ban giám khảo quốc tế trong cuộc thi thiết kế quy hoạch Nam Sài Gòn (1993). Ngô Viết Thụ không chỉ là một kiến trúc sư, ông còn là một nghệ sỹ đa tài. Ông từng có các bức tranh nổi tiếng như Thần tốc, Hội chợ, Bến Thuyền, và bộ tranh Sơn hà cẩm tú. Bộ tranh này và được treo trong Dinh Độc Lập, gồm có 7 bức, mỗi bức dài 2 m và rộng 1 m. Ông tổ chức nhiều triển lãm cá nhân về quy hoạch, kiến trúc, điêu khắc, và hội họa, trong đó có triển lãm tại Tòa Đô chính (1960), tại Nhà Triển lãm Công viên Tao Đàn (1963) và tại Viện Kiến trúc Philippines ở Manila (1963), triển lãm lưu động tại Viện Smithsonian và một số thành phố khác tại châu Âu (hàn lâm viện Pháp tại Rome và Paris 1956, 1957, 1958) và tại Mỹ (1963). Ông cũng là một nghệ sĩ điêu khắc (tác phẩm điêu khắc kim loại đặt trước toà đô chánh, nay không còn), và sành sỏi các loại nhạc cụ dân tộc như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn kìm và sáo, và là một nhà thơ có tài, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết. Ông qua đời ngày 9 tháng 3 năm 2000 tại nhà riêng số 22 Trương Định, Quận 3, TP. HCM do tai biến mạch máu não.Ban tổ chức đám tang KTS Ngô Viết Thụ đã cho dừng linh cữu xe tang trước cổng Dinh Độc Lập để vong hồn ông được nhìn lại lần cuối tác phẩm ông đắc ý nhất trong số các tác phẩm kiến trúc mà ông đã thực hiện trong suốt cuộc đời. Vài mẫu chuyện thú vị về kiến trúc sư Ngô Viết Thụ KTS Ngô Viết Nam Sơn, con trai của KTS Ngô Viết Thụ Ông bà có tám người con nhưng chỉ có một người con theo nghề kiến trúc sư là KTS Ngô Viết Nam Sơn. Anh TN Tiến sĩ Quy hoạch và Kiến trúc tại Đại học Washington (Mỹ) và bằng Thạc sĩ Quy hoạch & Kiến trúc ở Đại học California tại Berkeley (UC Berkeley, Mỹ). Anh từng thành công với nhiều dự án lớn ở Mỹ như đại học Washington tại Seattle. Đại học California tại San Francisco; dự án quy hoạch khu nhà ở thương mại cao cấp Lachine ở Montreal (Canada); quy hoạch xây dựng Phố Đông và hai bờ sông Hoàng Phố (Thượng Hải – Trung Quốc); quy hoạch đô thị mới Filinvest (Philippines); Almaden Plaza, San Jose (Mỹ)…; thành viên nhóm thiết kế khu đô thị Nam Sài Gòn, quy hoạch khu đô thị Hà Nội Mới, quy hoạch lại Đà Nẵng, Phú Quốc… KTS Ngô Viết Thụ thật là một trí thức lớn, tinh hoa của dân tộc. Người vô cùng tài ba, đức độ, sống trọn tình, vẹn nghĩa với gia đình, đất nước và được công nhận trên trường quốc tế. Chuyện về ông là câu chuyện về một con người tài năng, yêu nước, một gia đình tử tế trung hậu, chuộng nghĩa tình và không coi trọng bạc tiền. Những người như ông, tiếc thay giờ đây hiếm hoi vô cùng. Tác giã : Nguyễn Thị Bích Hậu Ngô Viết Thụ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/0b/Reunification_Palace_-_Credentials_Presenting_Room.JPG/800px-Reunification_Palace_-_Credentials_Presenting_Room.JPG/img]Ngô Viết Thụ (1926–2000), là một kiến trúc sư Việt Nam. Ông đã đoạt giải Khôi nguyên La Mã năm 1955, là tác giả công trình kiến trúc hiện đại như Dinh Độc Lập, Viện Hạt nhân Đà Lạt Mục lục 1 Tiểu sử 2 Một số công trình 3 Chú thích 4 Liên kết ngoài upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/2/23/UnificationHall.JPG/800px-UnificationHall.JPG/img]Tiểu sử Tập tin:NVTKhoi nguyenLaMa.jpg Đề án đoạt giải thưởng Khôi nguyên La Mã của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (1955) Ông sinh ngày 17 tháng 9 năm 1926, tại tại làng Lang Xá, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc tại trường Cao đẳng Kiến trúc tại Đà Lạt. Ông bà có tám người con, trong đó có một người con, TS. Ngô Viết Nam Sơn cũng là một kiến trúc sư và đô thị gia tốt nghiệp tại Mỹ (Đại học Berkeley và Đại học Washington) và hiện đang làm công tác tư vấn thiết kế và giảng dạy tại Việt Nam, Á Châu, và Bắc Mỹ. Trong giai đoạn 1950-1955, ông là sinh viên ngành kiến trúc tại trường Mỹ thuật Quốc gia Paris. Năm 1955, ông nhận giải nhất Giải thưởng lớn Rôma về kiến trúc, thường được gọi là khôi nguyên La mã, và tốt nghiệp kiến trúc sư D.P.L.G.. Trong thời gian 1955-1958, ông lưu trú tại Biệt thự Medicis của viện hàn lâm Pháp tại Roma để làm nghiên cứu về quy hoạch và kiến trúc. Các triển lãm kiến trúc, quy hoạch, và hội họa hàng năm của ông và các bạn khôi nguyên La mã trong suốt ba năm, đều được danh dự có tổng thống Pháp và Ý đến cắt băng khánh thành. Từ năm 1960, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ về Việt Nam Cộng Hòa làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Chính quyền và dư luận lúc ấy rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một khu trung tâm hành chính quốc gia mới. Rất tiếc là vì lý do thời cuộc và kinh phí eo hẹp, dự án này không thực hiện được. Ông thiết kế nhiều đồ án quy hoạch có giá trị khác như Quy hoạch Làng Đại học Thủ Đức (1962), Quy hoạch Quãng trường Mê Linh (1961), Quy hoạch Hội chợ Quốc tế và thiết kế kiến trúc khu nhà triển lãm chính của Việt Nam 1963 (hoàn tất thiết kế nhưng không xây dựng do thời cuộc), đồ án quy hoạch cho khoảng chừng 30 đô thị và thị xã mới tại miền Nam Việt Nam (Quảng Tín, Vị Thanh, Cheo Reo, ...), Quy hoạch Tổng Mặt Bằng của Hà Nội (đến năm 2000), và Quy hoạch Hải Phòng. Ông là thành viên ban giám khảo quốc tế trong cuộc thi thiết kế quy hoạch Nam Sài Gòn (1993). Ông là thành viên Hội Kiến trúc Sư Pháp SADG (Société des Architectes Diplômés par le Gouvernement) từ 1955. Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.) đồng lúc với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời như J.H. Van den Broek, Arne Jacobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Hernan Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H., Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin. Sau năm 1975, Ông là cố vấn Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư Việt Nam, và cũng là cố vấn Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư TP HCM các nhiệm kỳ I, II, III, và IV. Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng lưu dấu ấn đầy giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật là Dinh Độc Lập (1961-1966)[1], Viện Đại học Huế (1961-1963), Viện Nguyên tử Đà Lạt (nay thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) (1962-1965), Khu công nghiệp An Hòa Nông Sơn, Nhà máy dệt Phong Phú, Khách sạn Hương Giang 1 tại Huế (1962), Nhà thờ chính tòa Phủ Cam (1963), Xây dựng Khu Hội Nghị Quốc tế tầng trên cùng của Khách sạn Majestic, Thương xá Tam Đa (Crystal Palace), trường Đại học Nông nghiệp Thủ Đức (1975), Ty Thủy lợi Đắc Lắc (1976), Bệnh viện Sông Bé 500 Giường (1985), Khách sạn Century Huế (1990), phác thảo chùa Trúc Lâm Đà Lạt (sau này do một nhóm KTS Lâm Đồng tiếp tục thực hiện). Ngoài ra ông còn là tác giả của các công trình Tòa Đại sứ của Việt Nam tại Anh (1959), Biệt thự góc Nguyễn Thị Minh Khai và Phạm Ngọc Thạch (trước là tư gia của ông bà Ưng Thi, nay là Tòa Lãnh Sự Trung Quốc), Chung cư Pháp góc đường Điện Biên Phủ và Trần Quốc Thảo, Tháp Tiêu Năng Khu cửa ngõ vào Trung Tâm TP HCM từ đường Điện Biên Phủ, Trung Tâm Innotech (1975), Quần thể Việt Nam Quốc Tự (chỉ xây dựng được khoảng 1/8 vì lý do thời cuộc), Khu Thánh địa La Vang , và Câu Lạc Bộ Thủy Thủ Quãng Ninh. Đáng tiếc là một số công trình quan trọng của ông đã bị thay đổi thiết kế nguyên bản vì lý do kinh phí hay lý do khác, do đó chỉ giữ được phần nào quy mô chứ không còn thể hiện đúng phong cách thiết kế của ông, như Thánh đường Vĩnh Long (1963), Trụ sở Hàng không Việt Nam (1972), Thánh đường Bảo Lộc (1995). Ông cộng tác với nhiều KTS khác trong các công trình Chợ Đà Lạt (chỉnh sửa lại mặt tiền và tổng thể thiết kế của KTS Nguyễn Duy Đức, bổ sung thêm thiết kế cầu nổi và các khu phố lầu bao quanh, 1958-1962), Trường Đại Học Y Khoa TP Sài Gòn (trưởng nhóm KTS Việt Nam, cộng tác với nhóm KTS Mỹ CRS từ Texas), Cung Nghệ thuật Quốc tế tại Paris (cộng tác với các KTS Oliver Clément Cacoub và Paul Tournon). upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/9/9f/HCMC_Reunification_Palace_-_Cabinet_Meeting_Room.JPG/800px-HCMC_Reunification_Palace_-_Cabinet_Meeting_Room.JPG/img]Ngoài ra, ông còn chứng tỏ năng lực xuất sắc của mình trong lĩnh vực hội họa với các bức tranh nổi tiếng "Thần Tốc", "Hội chợ", "Bến Thuyền", và bộ tranh Sơn hà cẩm tú. Bộ tranh này và được treo trong dinh Thống Nhất, gồm có 7 bức, mỗi bức dài 2 m và rộng 1 m. Ông tổ chức nhiều triển lãm cá nhân về quy hoạch, kiến trúc, điêu khắc, và hội họa, trong đó có triển lãm tại Tòa Đô Chính (1960), tại Nhà Triển Lãm Công Viên Tao Đàn (1963) và tại Viện Kiến Trúc Phi Luật Tân ở Manila(1963), triển lãm lưu động tại Viện Bảo tàng Smithsonian và một số thành phố khác tại Mỹ (1963). Ông cũng là một nghệ sĩ sành sỏi các loại nhạc cụ dân tộc như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn kìm và sáo, và là một nhà thơ có tài, để lại hàng trăm bài thơ và bài viết. Ông qua đời năm ngày 9 tháng 3 năm 2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh do tai biến mạch máu não.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2019 1:25:38 GMT 9
Nguyễn Ngọc Sơn added a new photo to the album: ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TRÊN ĐƯỜNG PASTEUR. April 21 at 6:25 PM "đã gieo vào tâm-hồn con những tinh-hoa từ thuở ấu-thơ" MỘT NỀN NẾP GIÁO DỤC 01 - đã từng diễn ra dưới khung trời Đại Học Kiến Trúc - [trích phần A. CẢM TẠ GIÁO SƯ và phần B. CẢM TẠ THÂN NHÂN mở đầu một Luận-đồ-án Tốt-nghiệp Văn-bằng Kiến-Trúc-Sư đệ-trình vào tháng Hai năm 1974] ------------------------------ [TRANG 1] KÍNH ĐỆ HỘI-ĐỒNG GIÁO-SƯ KHẢO-SÁT LUẬN-ĐỒ-ÁN TỐT-NGHIỆP ------------------------------ [TRANG 2] CHÁNH CHỦ-KHẢO: - Giáo-sư TÔ-CÔNG-VĂN, Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Laureat de la SADG Paris Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học PHÓ CHỦ-KHẢO: - Giáo-sư HUỲNH-KIM-MÃNG Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Phó Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-sư LÊ-VĂN-LẮM Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Phó Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học ------------------------------ [TRANG 3] QUÝ VỊ GIÁO-SƯ GIÁM-KHẢO HỘI-ĐỒNG - Giáo-sư NGUYỄN-QUANG-NHẠC Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon (Pháp-nhiệm 1967-1970) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-Sư PHẠM-VĂN-THÂNG Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon (Pháp-nhiệm 1970-1973) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-sư BÙI-QUANG-HANH Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Giáo-sư Kiến-tạo Đại-cương và Lý-thuyết Kiến-trúc - Giáo-sư TRẦN-PHI-HÙNG Kiến-Trúc-Sư Viện Đại-Học Saigon Master of Regional Planning (Cornell University U.S.A.) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-sư ĐỖ-BÁ-VINH Kiến-Trúc-Sư, E.S.A. Dalat Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-sư VŨ-TÒNG Kiến-Trúc-Sư Viện Đại-Học Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học Phụ khảo môn Kiến-tạo Đại-cương - Giáo-sư PHẠM-MINH-CẢNH Kỹ-Sư Công-tác Dân-sự Học-Viện Kỹ-Thuật Normandie (I.I.N.) Pháp Giáo-sư môn Bê-tông Cốt-sắt - Giáo-sư TÔN-THẤT-ĐỔNG Kỹ-Sư Kiều-lộ Paris Giáo-sư Sức Chịu-đựng Vật-liệu - Giáo-sư MAI-HIỆP-THÀNH Kỹ-Sư Công-chánh Giáo-sư Địa-chất-học và Địa-thể-học - Giáo-sư TRẦN-HỮU-CHÍ Kỹ-Sư Quang-điện – Luân-Đôn (Anh) Giáo-sư Vật-lý và Hóa-học Áp-dụng ------------------------------ [TRANG 4] Chân thành TRI ÂN ------------------------------ [TRANG 5] Giáo-sư TÔ-CÔNG-VĂN Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Laureat de la SADG Paris Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học • đã cho tôi những lời giảng dạy quý báu và khuyến-khích tôi trong suốt thời-gian học-tập; • đã cho tôi những ý kiến quý báu trong việc thực-hiện Luận-đồ-án Tốt-nghiệp này. ------------------------------ [TRANG 6] Giáo-sư NGUYỄN-QUANG-NHẠC Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon (Pháp-nhiệm 1967-1970) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Lịch-sử Kiến-trúc • đã tận-tâm chỉ dạy tôi trong suốt thời-gian học-tập, nhất là trong thời-gian cấp I Đồ-án Kiến-trúc Sáng-tác-học; • đã tận-tình hướng-dẫn và bảo trợ cho tôi hoàn-thành Luận-đồ-án Tốt-nghiệp này; • đã ưu-ái khuyến-khích tôi nối tiếp sự học dở-dang trong niềm tin-tưởng mãnh-liệt của sự thành-công; • đã truyền thụ cho tôi những kinh-nghiệm quý báu của nghề-nghiệp. ------------------------------ [TRANG 7] Giáo-sư PHẠM-VĂN-THÂNG Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon (Pháp-nhiệm 1970-1973) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Phối-cảnh • đã xây-dựng cho tôi một “tinh-thần kiến-trúc” từ ngày bước chân vào trường Đại-Học Kiến-Trúc (1958); • đã ưu-ái khuyến-khích tôi nối tiếp sự học dở-dang; • đã tận-tâm chỉ dạy tôi trong suốt thời-gian học-tập. ------------------------------- [TRANG 8] - Giáo-sư HUỲNH-KIM-MÃNG Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Phó Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Thiết-kế Đô-thị - Giáo-sư LÊ-VĂN-LẮM Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Phó Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Thiết-kế Đô-thị - Giáo-sư BÙI-QUANG-HANH Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học, Kiến-tạo Đại-cương và Phép Thiết-thể • đã tận-tâm chỉ dạy tôi trong suốt thời-gian học-tập. ------------------------------- [TRANG 9] - Giáo-sư TRẦN-VĂN-TẢI Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Giám-Đốc Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Kiến-tạo Đại-cương • đã tận-tâm chỉ giảng dạy cho tôi những Lý-thuyết căn-bản về Kiến-trúc Sáng-tác-học và Kỹ-thuật Kiến-tạo; • đã cho tôi những lời chỉ dẫn quý báu trong suốt thời-gian học-tập; • đã ưu-ái khuyến-khích tôi nối tiếp sự học dở-dang. - Giáo-sư TRẦN-PHI-HÙNG Kiến-Trúc-Sư Viện Đại-Học Saigon Master of Regional Planning (Cornell University U.S.A.) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học • đã tận-tình khuyến-khích tôi nối tiếp sự học dở-dang; • đã cho tôi những lời chỉ dẫn quý báu trong thời-gian cấp II Đồ-án Kiến-trúc Sáng-tác-học. ------------------------------ [TRANG 10] - Giáo-sư PHẠM-MINH-CẢNH Kỹ-Sư Công-tác Dân-sự Học-Viện Kỹ-Thuật Normandie (I.I.N.) Pháp Giáo-sư môn Bê-tông Cốt-sắt • đã tận-tâm giảng dạy tôi trong suốt thời-gian học-tập; • đã xây-dựng cho tôi một căn-bản kỹ-thuật trong môn Bê-tông Cốt-sắt. - Giáo-sư VÕ-ĐÌNH-DIỆP Kiến-Trúc-Sư Viện Đại-Học Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc • đã tận-tình đốc-chí và giúp-đỡ tôi trong tình thân huynh đệ. ------------------------------ [TRANG 11] - Giáo-sư TRẦN-VĂN-BẠCH Hình-học Họa-hình - Giáo-sư BÙI-HỮU-TUẤN Hình-học Họa-hình - Giáo-sư LÊ-KIM-ĐÍNH Toán-học Đại-cương - Giáo-sư PHẠM-MINH-DƯỠNG Toán-học Đại-cương và Sức Chịu-đựng Vật-liệu - Giáo-sư TÔN-THẤT-ĐỔNG Sức Chịu-đựng Vật-liệu - Giáo-sư LOUIS PINEAU Lịch-sử Kiến-trúc - Giáo-sư NGUYỄN-HỮU-THIỆN Pháp-chế và Tổ-chức Nghề-nghiệp - Giáo-sư VŨ-TÒNG Lý-thuyết Kiến-trúc - Giáo-sư ĐỖ-BÁ-VINH Lý-thuyết Kiến-trúc - Giáo-sư NGUYỄN-TRỌNG-KHA Lý-thuyết Kiến-trúc - Giáo-sư LÊ-VĂN-HỢI Vật-lý Hóa-học Áp-dụng - Giáo-sư VÕ-ĐỨC-DIỄN Vật-lý Hóa-học Áp-dụng - Giáo-sư TRẦN-HỮU-CHÍ Quang-học và Điện-học - Giáo-sư NGÔ-KHẮC-TRÂM Ước lượng và Kiểm-điểm Vật-liệu - Giáo-sư MAI-HIỆP-THÀNH Địa-chất và Địa-thể-học - Giáo-sư NGUYỄN-VĂN-ANH Hội-họa và Điêu-khắc - Giáo-sư VÕ-DOÃN-GIÁP Hội-họa và Điêu-khắc - Giáo-sư MAI-LANG-PHƯƠNG Trang-trí Nội-ốc - Giáo-sư TRỊNH-HỮU-ĐỊNH Trang-trí Nội-ốc • đã hết lòng giảng dạy và dìu-dắt tôi trong suốt cuộc đời Sinh-viên Kiến-Trúc đằng-đẵng. ------------------------------ [TRANG 12] - Chuẩn Tướng NGUYỄN-VĂN-CHỨC Cục-Trưởng Cục Công-Binh kiêm Chỉ-Huy-Trưởng Binh-Chủng Công-Binh - Chuẩn Tướng NGUYỄN-CHẤN Nguyên Cục-Trưởng Cục Công-Binh kiêm Chỉ-Huy-Trưởng Binh-Chủng Công-Binh - Đại Tá NGUYỄN-THIỆN-NGHỊ Cục-Phó Cục Công-Binh Đặc-Trách Kiều-Lộ và Tiếp-Vận / CCB - Đại Tá LÊ-VĂN-NGHĨA Cục-Phó Cục Công-Binh Đặc-Trách Hành-Chánh và Kỹ-Thuật / CCB - Đại Tá TRẦN-QUÝ-MINH Nguyên Chánh-Sự-Vụ Sở Kỹ-Thuật / CCB - Đại Tá TRƯƠNG-KỲ-TRUNG Liên-Đoàn-Trưởng Liên-Đoàn 5 CBKT - Đại Tá TRỊNH-KIM-QUY Nguyên Chánh-Sự-Vụ Sở Nhân-Huấn / CCB - Trung Tá LỮ-ĐÌNH-BÁ Nguyên Tiểu-Đoàn-Trưởng TĐ.303-CBCĐ Tiểu-Đoàn-Trưởng Tiểu-Đoàn 62 CBKT - Trung Tá LÊ-HỒNG-PHÚC Phụ-Tá Điều-Hành và Học-Vụ Trường Cao-Đẳng Kỹ-Thuật Công-Binh - Thiếu Tá NGUYỄN-ĐOÀN-PHƯỢNG Nguyên Tiểu-Đoàn-Phó TĐ.303-CBCĐ Quận-Trưởng Quận Hòa Lạc – GÒCÔNG - Thiếu Tá NGUYỄN-VĂN-NGÀ Nguyên Chánh-Văn-Phòng Cục-Trưởng CCB Giám-Đốc Nha Tạo-Tác Tổng Cục Gia-Cư • đã ưu-ái khuyến-khích và nâng-đỡ tôi trên bước đường học-tập để đi đến thành-công. ------------------------------ [TRANG 13] - Luật-sư HUỲNH-NGỌC-ANH Phó Chủ-Tịch Hiệp-Hội Nữ Luật-Gia Quốc-Tế - Giáo-sư Thạc-sĩ NGUYỄN-TƯ-BÂN Thượng Nghị-Sĩ - Bác-sĩ LÊ-VĂN-THÔNG Thượng Nghị-Sĩ - Linh-Mục HỒ-VĂN-VUI Hội-Đồng Kinh-Tế Xã-Hội / QG • ĐÃ HẾT LÒNG ĐỐC-CHÍ và GIÚP-ĐỠ TÔI HOÀN-THÀNH LUẬN-ĐỒ-ÁN TỐT-NGHIỆP NÀY. - Thầy NGUYỄN-VĂN-SƯ Tiểu-Học Bạc-Liêu - Thầy LÂM-VĂN-LUÔNG Tiểu-Học Cầu-Kho Saigon • ĐÃ GIEO VÀO TÂM-HỒN CON NHỮNG TINH-HOA TỪ THUỞ ẤU-THƠ. ------------------------------ [TRANG 14] KÍNH DÂNG HƯƠNG HỒN CHA • một tài hoa đã sớm lìa bỏ đàn con từ thuở con còn ấu-thơ; • đã nuôi dưỡng trong con một giòng máu Kiến-trúc với ngôi nhà mà Cha đã tự tay lập đồ-án, làm mô-hình và chỉ-huy thực-hiện và nơi đó chúng con đã sống qua những ngày ấu-thơ đầy hạnh-phúc trước chiến-tranh. KÍNH DÂNG MẸ • MẸ đã tận-tụy hy-sinh cả cuộc đời cho chúng con, nhất là sau khi Cha đã nằm xuống giữa cảnh khói lửa triền-miên; • MẸ đã và đang dành cho chúng con tất cả sự thương-yêu và dạy-dỗ để chúng con nên người. * Tất cả lòng hiếu-thảo của con. * Cầu xin Cha Mẹ nhận kết-quả ngày hôm nay như là chút báo đền công-ơn sanh-thành dưỡng-dục. KÍNH DÂNG HƯƠNG HỒN BA KÍNH DÂNG MÁ • đã dành cho con tình yêu-thương trọn-vẹn. * TẤT CẢ LÒNG HIẾU-THẢO CỦA CON. ------------------------------ [TRANG 15] CÁC BẰNG HỮU: - VŨ-BÁ-CƯỜNG – Kiến-Trúc-Sư - NGUYỄN-VĂN-CƯỜNG – Cao học Luật-Khoa – Luật-Sư - NGUYỄN-THANH-DANH – Thiếu Tá Phó Giám-Đốc Trung-Tâm 4 Quốc-Gia Phục-Hồi - HOÀNG-NGUYÊN-ĐÁN – Cao học Chính-Trị/ Hội-Đồng Kinh-Tế Xã-Hội - AO-VĂN-ĐÁNG – Đại Úy Công-Binh 30 - MAI-KIM-ĐỈNH – Cao học Chính-Trị/ Giáo-sư Viện Đại-Học Dalat - NGUYỄN-CHÁNH-ĐOAN – Cao học Kinh-Tế/ Giáo-sư Viện Đại-Học Dalat - CHU-VĂN-GIANG – Kiến-Trúc-Sư/ Cục Công-Binh - VŨ-SINH-HIỀN – Cao học Chính-Trị/ Giáo-sư Viện Đại-Học Cơ-Đốc - NGUYỄN-PHI-HOÀNG – Cao học Chính-Trị/ Giáo-sư Trưởng Công-Tác Xã-Hội - HÀ-CÔNG-HÒE – Kỹ-Sư Công-Chánh - BÙI-HÙNG-KHOÁT – Cao học Kinh-Tế/ Đại-Học Luật-Khoa - DƯƠNG-ĐĂNG-KHUÊ – Đại Úy Công-Binh 5 - PHAN-QUANG-NẠI – Dược-Sĩ - NGUYỄN-NGỌC-NHÂM – Kiến-Trúc-Sư - PHẠM-VĂN-NHO – Đại Úy Công-Binh 30 - ĐỖ-HOÀNG-NỞ – Kiến-Trúc-Sư - VƯƠNG-TỬ-NGOẠN – Kiến-Trúc-Sư - NGUYỄN-QUANG-OÁNH – Cao học Chính-Trị/ Giáo-sư - NGUYỄN-PHÚC-QUỲNH-THUYÊN – Kiến-Trúc-Sư - ĐINH-VIỆT-THỨC – Bác-Sĩ Y-Khoa/ Giáo-sư Trường Quân-Y/ QLVNCH - ĐỒNG-HỮU-TRÍ – Cao học Luật-Khoa/ Thiếu Tá Giảng-sư Học-Viện Cảnh-Sát Quốc-Gia ------------------------------ [TRANG 16] Quý vị Nhân viên Trường Đại-Học Kiến-Trúc Saigon ĐÃ DÀNH NHIỀU DỄ-DÀNG VÀ TẬN-TÌNH GIÚP ĐỠ TÔI TRONG SUỐT THỜI-GIAN HỌC-TẬP TẠI TRƯỜNG. ------------------------------ [TRANG 17] VÀ CÁC BẠN ĐỒNG MÔN CÙNG CÁC NÈGRES TRONG SUỐT 15 NĂM MIỆT-MÀI TRÊN BẢNG VẼ HUỲNH-CHÁNH-HƯNG LỢI-NGUYÊN-AN NGUYỄN-THÁI-BÌNH PHẠM-BÁCH-PHI NGUYỄN-VĂN-MINH PHẠM-TƯỜNG-HUYÊN PHẠM-TƯ-CƯỜNG TRẦN-NGỌC-MINH NGUYỄN-CÔNG-KHIÊM LÊ-SƠN-TÙNG VŨ-TRỌNG-AN LÊ-ĐỊNH DƯƠNG-PHƯỚC-LUYẾN NGUYỄN-VĂN-TRƯỚC NGUYỄN-VĂN-ÚT TRẦN-ANH NGUYỄN-TRI-PHƯƠNG NGUYỄN-NGỌC-DŨNG CHU-VĂN-DUYÊN NGUYỄN-THỊ-NĂNG ĐỖ-THANH-SƠN TÔ-THẾ-MẠNH NGUYỄN-NGỌC-THÊM TRÂN-TRỌNG-THUYẾT LƯU-THỊ-ÁNH NGUYỄN-ANH-DŨNG NGÔ-ĐỨC-HẢI TÔN-THẤT-HẬU NGUYỄN-KIM-NGÂN TRẦN-HỮU-NGHĨA PHẠM-VĂN-PHƯỚC PHẠM-XUÂN-SƠN CAO-ANH-TUẤN VÕ-VĂN-TUẤN NGUYỄN-ANH-TUẤN LƯU-THĂNG NGUYỄN-CHI-TRANG NGUYỄN-THỊ-XINH NGUYỄN-XUÂN-MAI-XOANG Đã đem hết tim óc để giúp tôi hoàn thành Luận-đồ-án Tốt-nghiệp này. ------------------------------ [TRANG 18] Tất cả thương yêu • Cho EM, người bạn đường từ thuở ấu-thơ cho đến lúc bạc đầu • Cho các con: - NGUYỄN-ANH-QUÂN - NGUYỄN-ANH-LINH - NGUYỄN-ANH-TUYẾT-TRANG - NGUYỄN-ANH-HUY - NGUYỄN-ANH-TUYẾT-TRÂM - NGUYỄN-ANH-KINH-LUÂN Với ước mong sự cố-gắng liên-tục của Cha sẽ đem đến cho suốt cuộc đời các con một tấm gương trực-tiếp trong sự học-tập và sự bền-chí. ------------------------------ [TRANG 19] Thương gởi đến các em: - NGUYỄN-ANH-MẪN - NGUYỄN-ANH-CANG - NGUYỄN-NGỌC-THIÊN-THANH - NGUYỄN-ANH-CƯỜNG (+) - NGUYỄN-THỊ-ÁNH-TUYẾT - NGUYỄN-ANH-DŨNG - NGUYỄN-ANH-TUẤN Tất cả lòng yêu-thương của Anh. Riêng nhớ ơn: - Chị NGUYỄN-THỊ-TRANG Đã dành cho em một tình thương của người Chị ruột
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2019 1:27:44 GMT 9
Nguyễn Ngọc Sơn Follow · February 22 · MỘT VỊ THẦN Ở CỬA THANG
Theo Thần Thoại La Mã thì Nữ Thần Diana là con gái của Thần Tối Cao Olympus Jupiter và Nữ Thần Latona vốn thuộc dòng dõi Titan. Diana có một người anh trai song sinh lừng lẫy vang danh về tài năng và vẻ đẹp nam thần càn quét trái tim mọi phụ nữ là Apollo, Nam Thần Mặt Trời, Chân Lý, Nghệ Thuật và Ánh Sáng, cùng sinh ra trên đảo Delos.
Khi còn sơ sinh, hai anh em bị Nữ Hoàng Olympus Junon sai mãng xà Python săn đuổi, phải lẩn trốn ngoài hoang đảo cho đến khi khôn lớn mới gặp được cha. Thấy con gái năm nào đã trở thành một thiếu nữ đẹp nghiêng ngả đất trời, Thần Tối Cao Jupiter muốn gả cho nàng một tấm chồng và giữ lại thiên đình nhưng tiếc thay Diana đã thề không bao giờ kết hôn, cùng với Nữ Thần Trí Tuệ và Thi Ca Minerva, Nữ Thần Bếp Núc và Gia Đình Vesta làm nên bộ ba Nữ Thần đồng trinh huyền thoại.
Chiều lòng con gái yêu, Thần Jupiter đành ban cho Diana làm Nữ Thần Mặt Trăng để soi sáng ban đêm và làm Trái Đất trở nên dịu mát trong khi người anh Apollo làm Nam Thần Mặt Trời soi sáng ban ngày. Các Nữ Thần Suối Khe Nymphes, Nữ Thần Mùa Xuân làm mặt đất nở hoa Flora, Nữ Thần Gió Mát Zephyr sẽ giúp Diana làm bạn với thiên nhiên, muông thú và cỏ hoa thơm ngọt.
Luôn mang trên mình một bộ cung bạc và ống tên vàng, với biểu tượng là vầng trăng khuyết và cây nguyệt quế, Diana là hiện thân của vẻ đẹp, sự thuần khiết và sáng trong vì cả cuộc đời nàng không yêu ai, chỉ có lòng trắc ẩn với loài người, tình thân cùng con hươu đồi Ceryneian và diệt trừ cái ác, từ tên khổng lồ hỗn xược Tityos bị đại bàng ăn xác, Otus và Ephialtes hạ sát lẫn nhau, Vua Agamenong trần tục xứ Axelotis bị chiếc búa Anamesis chặt đứt dương vật và thả xuống đại dương nơi tận cùng sâu thẳm, Hoàng Hậu Niobe kiêu ngạo để rồi bị bắn chết 14 người con phải khóc hết nước mắt và hóa thân thành đá hay Hoàng Tử Actaeon thành Theban bị biến thành hươu rồi bị lũ chó săn của mình xé xác trên đỉnh Cithaeron khi mục kích Nữ Thần quyền năng đang tắm khỏa thân.
Tình yêu duy nhất trong đời Diana là Orion, con trai của Nam Thần Đại Dương Neptune và Euryale, con gái của vua Minos xứ Crete, người thợ săn dũng mãnh và cũng say mê cung thuật như nàng. Trở về sau cuộc tình đau khổ không thành với Tiên Nữ Daphne đã hóa thành nguyệt quế nghiệt oan, hòng bảo vệ sự trong trắng vĩnh hằng của người em gái, Thần Apollo đã thách thức Diana bắn vào một vật nổi trôi trên biển. Như mọi lần, mục tiêu đã tan nát dưới những mũi tên tuyệt đích của nàng. Nghiệt ngã thay, vật nổi trôi đó chính là đầu của Orion, tình yêu duy nhất trong đời Diana. Nữ Thần gục ngã trong đớn đau còn Orion về sau được Thần Tối Cao Jupiter biến thành chòm sao Thiên Lang trên bầu trời, luôn đuổi theo chòm sao Kim Ngưu là con bò tót vàng Taurus mà chàng đang săn đuổi.
Cũng từ đó, Nữ Thần Diana mãi mãi thuần khiết, mãi mãi trắng trong và thường được đặt tên cho vương miện, nước hoa hay những đồ nữ trang quyền quý, như một sự ngưỡng mộ của loài người dành cho Nữ Thần khổ đau và cũng rất giàu triết mỹ năm nào trong bầu trời Thần Thoại và Thi Ca La Mã.
Ảnh: Sau giờ lên lớp Lịch sử Kiến trúc phương Tây, đang ngẩn ngơ nghĩ về Nữ Thần Diana khổ đau và triết mỹ vô song, bỗng thấy chình ình đập vô mặt cái này ở cửa thang.
Và hoảng hồn lội bộ.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2019 1:31:16 GMT 9
MỘT NỀN NẾP GIÁO DỤC 02
- đã từng diễn ra dưới khung trời Đại Học Kiến Trúc -
(trích phần A. CẢM TẠ GIÁO SƯ và phần B. CẢM TẠ THÂN NHÂN mở đầu một Luận án Tốt nghiệp Văn bằng Kiến Trúc Sư đệ trình ngày 19-2-1974)
********************
Phần A. CẢM TẠ GIÁO SƯ
********************
(TRANG 1)
KÍNH ĐỆ
HỘI ĐỒNG GIÁO SƯ KHẢO SÁT ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
------------------------------
(TRANG 2)
CHÁNH CHỦ KHẢO:
- Giáo Sư TÔ CÔNG VĂN, Kiến Trúc Sư D.P.L.G. Paris
QUÝ VỊ GIÁM KHẢO:
- Giáo Sư HUỲNH KIM MÃNG Kiến Trúc Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris
- Giáo Sư NGUYỄN QUANG NHẠC Kiến Trúc Sư D.P.L.G. Paris
- Giáo Sư TRẦN VĂN TẢI Kiến Trúc Sư D.P.L.G. Paris
- Giáo Sư TRẦN PHI HÙNG Kiến Trúc Sư Viện Đại Học Saigon Master of Regional Planning (Cornell University U.S.A.)
- Giáo Sư BÙI QUANG HANH Kiến Trúc Sư D.P.L.G. Paris
- Giáo Sư PHẠM VĂN THÂNG Kiến Trúc Sư D.P.L.G. Paris
- Giáo Sư LÊ VĂN LẮM Kiến Trúc Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris
- Giáo Sư VŨ TÒNG Kiến Trúc Sư Viện Đại Học Saigon
- Giáo Sư ĐỖ BÁ VINH Kiến Trúc Sư, E.S.A. Dalat
- Giáo Sư PHẠM MINH CẢNH Ing. du Genie civil I.T.N
- Giáo Sư TÔN THẤT ĐỔNG Kỹ Sư Kiều lộ Paris
- Giáo Sư MAI HIỆP THÀNH Kỹ Sư Công Chánh
- Giáo Sư VÕ ĐỨC DIỄN Kỹ Sư Bách Khoa
- Giáo Sư TRẦN HỮU CHÍ Illuminating Engineering Polytecnic of South Band - London Associate Member I.E.S. Cử nhân Khoa Học Tổng thư ký H.V.Q.G.K.T.
------------------------------
(TRANG 3)
Kính mến gởi Thầy
Giáo Sư TÔ CÔNG VĂN Chánh chủ khảo
- Thầy đã cho con hiểu được chiều sâu của khối trên một tờ giấy phẳng. - Thầy đã tận tụy chỉ dạy cho con từ những bước chân tập tễnh trong nghề đến những nét vẽ vụng dại trong thời gian tập sự. - Thầy đã hết lòng giúp đỡ cho con trong việc thực hiện đồ án này.
Với tinh thần vui vẻ, cởi mở, vị tha, trách nhiệm và sự giúp đỡ chân tình, Thầy đã đưa con vào đời bằng tình ruột thịt – Con ngưỡng mộ và tri ân đời đời.
------------------------------
(TRANG 4)
Kính mến gởi Thầy
Giáo Sư HUỲNH KIM MÃNG
- Thầy đã đem đến cho con niềm tin tưởng trong những bước chập chững đầu tiên bằng sự tận tụy. - Thầy đã khó nhọc để cho con thấy được nét đẹp đơn giản, hòa hợp về khối và nhịp điệu trong đường nét kiến trúc. - Thầy đã giúp đỡ cho con rất nhiều trong việc thực hiện đồ án này.
Thật vinh hạnh cho con được làm học trò của Thầy, để học những nét vẽ sâu sắc, để hấp thụ những đức tính quý báu của Thầy.
Xin Thầy nhận nơi đây lòng thành kính và biết ơn của con.
------------------------------
(TRANG 5)
Kính mến gởi Thầy
Giáo Sư TRẦN VĂN TẢI
- Với kiến thức uyên bác, Thầy đã ban cho con rất nhiều hiểu biết về nguyên tắc kiến tạo. - Với lòng khoan hòa nhã nhặn, Thầy đã tạo cho Thầy của con một tình huynh đệ đáng kính. - Con ghi nhớ lời Thầy căn dặn: phải Bền vững, Đơn giản, Mỹ thuật và rẻ tiền.
Con cảm phục và tri ơn Thầy bằng một lòng đầy tôn kính sâu xa.
------------------------------
(TRANG 6)
Kính mến gởi Thầy
Giáo sư NGUYỄN QUANG NHẠC
- Thầy đã cho con biết những căn bản về lịch sử kiến trúc. - Thầy đã cho con hiểu là phải học bằng mọi nỗ lực và thực tình. - Thầy đã cho con thấy sự lịch duyệt đầy kinh nghiệm của một Kiến Trúc Sư.
Con đã ghi nhận hết những điều đã thấy và nhớ đời về những lời giáo huấn của Thầy – Thành kính cảm phục.
------------------------------
(TRANG 7)
Kính mến gởi Thầy
Giáo sư PHẠM VĂN THÂNG
- Thầy đã trầm tĩnh - nghiêm trang điểm nét khôi hài tế nhị - Thầy đã dạy cho con những giờ phối cảnh thật vui. - Thầy đã yêu thương bằng tình ruột thịt những học trò của Thầy – trong đó có con.
Con đã học của Thầy không chỉ ở kiến trúc mà ở nhiều điều hay không tưởng được – Với một lòng đầy tôn kính, con cảm phục Thầy bằng niềm kính mến sâu xa.
------------------------------
(TRANG 8 )
Kính mến gởi Thầy
Giáo sư BÙI QUANG HANH
- Thầy đã cho con thấy vẻ khả kính nhẹ nhàng điểm nét khôi hài duyên dáng. - Thầy đã dạy cho con sự tế nhị đích xác trong đường nét kiến trúc.
Con thành kính ghi ơn Thầy mãi mãi.
------------------------------
(TRANG 9)
Kính mến gởi Thầy
Giáo sư VŨ TÒNG
- Đã giúp đỡ và chỉ vẽ tôi trong thời gian tập sự bằng tình huynh đệ đáng kính.
Ghi nhớ mãi công ơn của Thầy.
------------------------------
(TRANG 10)
Kính mến gởi Thầy
Giáo sư TRẦN PHI HÙNG
- Thầy tạo cho em sự hăng say trong công việc. - Thầy chỉ vẽ những nét đầu tiên bằng cảm tình đặc biệt – trong những năm đầu cấp hai. - Thầy đã cho em biết khái niệm về thiết kế đô thị.
Xin thành kính ghi ơn và nguyện noi theo.
------------------------------
(TRANG 11)
Kính mến gởi Thầy
Giáo sư PHẠM MINH CẢNH
- Thầy đã buộc con phải học, phải biết về sức chịu đựng. - Thầy khoan hòa và độ lượng, đã dẫn dắt con trong những bước chân lầm lẫn.
Con ghi ơn và khâm phục Thầy.
------------------------------
(TRANG 12)
Kính mến gởi Thầy
Giáo sư MAI LANG PHƯƠNG Giáo sư TRỊNH HỮU ĐỊNH
- Thầy đã dạy cho em nhiều bằng cảm tình đặc biệt, dù trong thời gian ngắn nhưng em đã hấp thụ nhiều nhất.
Xin ghi nhớ lời Thầy dạy, nguyện ghi ơn mãi mãi.
------------------------------
(TRANG 13)
Xin chân thành tỏ lòng biết ơn quý vị Giáo sư mà tôi đã được theo học.
- Giáo sư TRẦN VĂN BẠCH - Giáo sư NGUYỄN HỮU THIỆN - Giáo sư NGÔ KHẮC TRÂM - Giáo sư VÕ DOÃN GIÁP - Giáo sư MAI HIỆP THÀNH - Giáo sư NGUYỄN VĂN ANH - Giáo sư LÊ KIM ĐÍNH - Giáo sư LÊ VĂN HỢI - Giáo sư TÔN THẤT ĐỔNG - Giáo sư TRỊNH HỮU ĐỊNH - Giáo sư VÕ ĐỨC DIỄN - Giáo sư TRƯƠNG ĐỨC NGUYÊN - Giáo sư CỔ VĂN HẬU - Giáo sư TRẦN HỮU CHÍ
------------------------------
(TRANG 14)
Kính mến gởi
Ông TRẦN NGỌC NAM Nguyên Tổng Thư Ký Đại Học Kiến Trúc Saigon
Đã vui vẻ và giúp đỡ tôi bằng lòng nhiệt thành quý báu trong những tháng ngày học tại Trường Kiến Trúc, cũng như trong việc hoàn thành đồ án này.
Đã an nghỉ thiên thu trong thời gian tôi thực hiện đồ án. Thương tiếc biết bao và xin chân thành tri ơn mãi mãi.
------------------------------
(TRANG 15)
Kính gởi
Quý vị nhân viên Trường Đại Học Kiến Trúc Saigon
Đã dành cho tôi mọi dễ dàng trong những năm tại Trường Đại Học Kiến Trúc.
Xin Quý Bác và Anh Chị nhận nơi đây lòng cảm tạ và chân thành của tôi.
********************
Phần B. CẢM TẠ THÂN NHÂN
********************
(TRANG 16)
Kính mến gởi các Patron
Năm thứ nhất LÊ MINH HƯNG Năm thứ hai ba NGUYỄN VĂN MINH TÂM Năm thứ ba tư năm sáu TRẦN QUANG NHẬT HUÂN
Patron HƯNG – TÂM: Đã giúp đỡ và chỉ dẫn từ nét vẽ đầu tiên – Mến phục và cảm tạ các bậc đàn Anh.
Riêng tặng Patron HUÂN: Một Patron xứng đáng – và hãnh diện nhiều nhất – đã cho thấy được nét đẹp sâu xa về màu sắc, khối – sử dụng chất liệu – Học nhiều nhất ở Patron – Thành thật nhớ ơn.
------------------------------
(TRANG 17)
Kính mến gởi
Ông NGUYỄN VĂN TÁM Trưởng Ty Tài Chánh Biên Hòa Ông NGUYỄN VĂN TẮC Quản Lý Bệnh Viện Biên Hòa Cô BÙI THỊ THU Trưởng Trại I Bệnh Viện Biên Hòa
Đã ưu ái dành cho tôi nhiều điều kiện thuận lợi trong việc hoàn thành đồ án.
Bằng tất cả chân tình, tôi thành kính tri ơn.
------------------------------
(TRANG 18)
Kính mến gởi
Bác TẠ QUANG PHÁP LÊ VĂN ĐỦ HUỲNH VĂN ANH NGUYỄN VĂN THỜI VÕ VĂN THÀNH Chú NGÔ NGỌC SÁNG TRẦN NGUYÊN PHÚ PHẠM VĂN TỚI NGUYỄN VĂN MỘT NGUYỄN VĂN BẢNH VÕ ĐINH HUỲNH VĂN THẠCH NGUYỄN VĂN THIỀU LÊ VĂN LỰNG Anh LÊ NGỌC ÁNH Chị VÕ THỊ DANH VÕ THỊ EM VÕ THỊ MAI HOA NGUYỄN THỊ LONG VÂN NGUYỄN KIM PHỤNG NGUYỄN THỊ PHÚC Ty Bưu Điện Biên Hòa
Đã sốt sắng giúp đỡ tôi trong những tháng ngày qua và trong việc hoàn thành đồ án này.
Xin quý Bác Chú và Anh Chị nhận nơi đây lời cảm tạ chân thành của tôi.
------------------------------
(TRANG 19)
Kính mến gởi
Linh Mục PHẠM LONG TIÊN
May mắn cho con, đã được Cha nuôi nấng lớn lên bằng tinh thần Phục Hưng quý giá. Cha đã dẫn dắt từng lỗi lầm bằng lòng khoan hòa độ lượng.
Con tung cánh bay đi từ tổ Phục Hưng ấm cúng. Trong đó có Cha, có bạn hữu, có tinh thần Phục Hưng bất biến.
Con ghi ơn và nhớ mãi ngày con khôn lớn từ Phục Hưng.
------------------------------
(TRANG 20)
Kính mến gởi
Bác Sĩ NGUYỄN THÀNH PHƯỚC Trưởng Ty Y Tế Biên Hòa Giám Đốc Bệnh Viện Biên Hòa
Với tinh thần vui vẻ và cởi mở, Bác Sĩ đã hy sinh và giúp đỡ tôi bằng cảm tình đặc biệt.
Xin Bác Sĩ nhận nơi đây lòng thành kính và biết ơn của tôi.
------------------------------
(TRANG 21)
Kính mến gởi
Ông BỬU ĐÔN Tổng Giám Đốc Công Ty Việt Nam Kỹ Thuật và Xây Cất
Bằng tinh thần độ lượng và nhã nhặn,
Người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian làm việc tại Công Ty.
Nghiêng mình kính phục với tất cả ngưỡng mộ đầy quý mến .
Xin chân thành tri ơn mãi mãi và nguyện noi theo.
------------------------------
(TRANG 22)
Kính mến gởi
Ông NGUYỄN SĨ TUẤT Phụ Tá Tổng Giám Đốc/ Sản Xuất Ông NGUYỄN SANH SÂM Phụ Tá Tổng Giám Đốc/ Quản Trị Ông TRẦN LƯU CUNG Phụ Tá Tổng Giám Đốc/ Thương Mại Bác Phan Văn Cơ Chánh Sở Kỹ Thuật
Đã giúp đỡ với tất cả chân tình từ ngày tôi vào làm việc tại Công Ty bằng tinh thần khoan hòa và độ lượng.
Thành kính tri ơn.
------------------------------
(TRANG 23)
Kính mến gởi
Ông NGUYỄN PHỤNG Phó Tổng Thư Ký HĐVHGD Kiến Trúc Sư NGUYỄN VĂN QUYỆN
Đã hết lòng giúp đỡ tôi bằng nhiệt thành, đã cung cấp tôi những dữ kiện quý báu nhất.
Tôi thành kính ghi ơn mãi mãi.
------------------------------
(TRANG 24)
Kính mến gởi
Anh NGUYỄN DANH NGÔN Trưởng Phòng Kỹ Thuật VECCO
Tôi phục Anh nhiều điều – Những điều chỉ cảm thấy và không nói hết được.
Sung sướng và hãnh diện có Anh trong Công Ty.
Thành thật tri ơn.
------------------------------
(TRANG 25)
Kính mến gởi
Thiếu Tá ĐẶNG ĐÌNH TRÍ CVPNNL
Người đã giúp đỡ tôi nhiều nhất bằng lòng nhiệt thành và tình huynh đệ đáng kính.
Chân thành ghi ơn mãi mãi.
------------------------------
(TRANG 26)
Kính mến gởi
Quý Bác và Anh Chị Sở Kỹ Thuật Công Ty Việt Nam Kỹ Thuật và Xây Cất
Tôi đã thấy được niềm vui khi sống trong tinh thần làm việc cùng Quý Bác, Anh Chị trong những ngày làm lụng tại Sở Kỹ Thuật của mình.
Tôi đã được sự giúp đỡ tận tình của quý Bác và Anh Chị trong những ngày qua.
Nhớ mãi và tri ơn.
------------------------------
(TRANG 27)
Kính mến gởi
Quý Bác và Anh Chị Phòng Nhân Viên Công Ty Việt Nam Kỹ Thuật và Xây Cất
Đã giúp đỡ bằng nhiệt thành và cảm tình đặc biệt, dành dễ dàng cho tôi trong thời gia làm việc tại Công Ty.
Xin thành thật tri ơn.
------------------------------
(TRANG 28)
Thân mến gởi
Anh Luật Sư ĐỒNG VĂN AN
Anh đã lo lắng và chỉ dẫn tôi những điều mà không một ai có thể thay thế được.
Anh đã chung sống và chia sẻ từng nỗi vui buồn trong thời gian sống chung trong Cư xá Phục Hưng.
Tôi học ở Anh sự bình tĩnh và lý luận đích xác.
Tôi ghi ơn mãi mãi và nguyện noi theo.
------------------------------
(TRANG 29)
Thân mến gởi
- NGÔ HỮU TỪ: Luật Sư - TRẦN ĐÌNH ĐỊNH: Luật Sư - TRỊNH HIỆP: Người bạn quý
Thân mến gởi các bạn cùng phòng
- KHƯƠNG VĂN MƯỜI: Kiến Trúc Sư - NGUYỄN SĨ TIỆP: Kiến Trúc - BÙI VĂN SÁNG: Kiến Trúc
Tôi vẫn nhỡ mãi những kỷ niệm học hỏi trên các bạn thân mến, đã từng giúp đỡ và chung sống với tôi. Nguyện xiết chặt tình bạn ngày càng thêm thắm thiết.
------------------------------
(TRANG 30)
Thân mến gởi các bạn cùng thời 1970-1973 đã chung sống những năm ở cư xá Phục Hưng. Cùng chia sẻ với tôi những lúc gây gổ, lúc buồn phiền, khi lo lắng, khi cười thỏa mãn… Nhớ mãi những kỷ niệm quý giá không thể thay thế được và đã đi qua.
- ĐỖ TRUNG QUÂN: Kiến Trúc - TRẦN VĂN KHÍCH: Cán Sự Điện - LÊ CÔNG TÂM: Quốc Gia Hành Chánh - LÊ VIẾT HÒA: Luật Sư - NGUYỄN SƠN DIỆM: Khoa Học - NGUYỄN KIM KHÁNH: Dược Sĩ - TẠ VĂN GA: Dược Sĩ - HUỲNH ÁNH ĐĂNG: Kỹ Sư Công Chánh - NGUYỄN XUÂN HẠNH: Giáo Sư - TRẦN MINH TRUNG: Bác Sĩ - TRƯƠNG THÀNH TUẤN: Kiến Trúc - LÊ VĂN TRUNG: Kiến Trúc - NGUYỄN VĂN CHÂU: Nha Sĩ - CHU VĂN HIỀN: Đã từng vẽ bài cho tôi dù không học Kiến Trúc ngày nào - NGUYỄN TỪ TÂM: Khoa Học - LÊ PHI DIỄN: Kỹ Sư Công Nghệ - LÊ KHẮC CÔNG: Kỹ Sư Hóa Học - NGUYỄN CAO TRIỄN: Kỹ Sư - PHẠM DOÃN THUẬT: Kiến Trúc
------------------------------
(TRANG 31)
Kính mến gởi NỘI
Nội đã còn lại cho con hình hài để chứng kiến ngày vui của con trên quãng thời gian đằng đẵng như Chú của con, con của Nội.
Nội đã làm lụng trong thần khí minh mẫn; vui vẻ và tu hành để lại phúc lộc cho con cháu ngày nay – Vinh hạnh cho con là đã được hưởng nhiều nhất.
Công ơn tựa núi tựa sông, nghìn năm hương quả cũng chưa đền đáp được.
------------------------------
(TRANG 32)
Kính mến gởi
- Bác Hai: và Anh Chị Năm Trường – Anh Chị Sáu Luật – Anh Chị Bảy Sĩ – Anh Tám Quân – Anh Chị Chín Ân – Anh Chị Mười – Thủy – và Út – và Anh Chị Nguyễn Thành Dũng
- Bác Sáu: và Anh Chị Hai Dung – Anh Chị Ba Ngữ - Anh Chị Tư Xuân – Anh Chị Năm Khai – Tâm – Trí – Dũng và các Anh Chị
- Bác Bảy: và Anh Chị Lan Anh – Anh Chị Công – Anh Chị Hà – Anh Chị Hằng – Anh Thành – Chị Hương – Danh
- Dượng Tám Cô Tám: và Anh Chị Hai Ánh Tuyết – Anh Chị Ba Tuyết Tâm – Anh Tư – Anh Chị Năm Mỹ Việt – Chị Sáu Mỹ Nga – Bảy – Tám và các Chị
Bác đã giúp đỡ con không phải ở chuyện đặt một nét vẽ lên bài nhưng đã nung nấu cho con có được một tinh thần vững chắc để vẽ nên muôn ngàn nét.
Thành kính tri ơn.
Anh Chị đã chung sống từ thuở nhỏ, đã lớn lên trong xã hội, đùm bọc và nương tựa lẫn nhau, đã giúp đỡ em rất nhiều trong những tháng ngày qua và còn mãi mãi.
Em nguyện ghi ơn.
------------------------------
(TRANG 33)
Kính mến gởi BA MÁ
Bằng sự thương yêu nhất trong gia đình, Ba Má đã dùng mọi nỗ lực về vật chất và tinh thần dồn hết cho con – Những giọt mồ hôi nước mắt trải dài trên bản vẽ tạo dựng cuộc đời và sự nghiệp cho con ngày nay và mãi mãi về sau.
Con nhìn thấy được sự quý giá của người con được Cha Mẹ đầy đủ và khỏe mạnh - Con hãnh diện đã được sinh ra đầu đàn cho những đứa em trai và út gái – Bằng lòng và chịu nhận sự dạy dỗ các em bằng vinh hạnh sung sướng.
Công Cha như núi Thái Sơn Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
------------------------------
(TRANG 34)
Kính mến gởi
- Cô Dượng ĐỖ THỊ NGỌC - Chú Thiếm ĐỖ HỮU MINH - Chú Thiếm ĐỖ HỮU CẢNH - Chú Thiếm ĐỖ HỮU NAM
Đã khó nhọc chăm sóc Thiện ngày còn thơ ấu cắp sách đến Trường Đồ Chiểu năm nào.
Đã dạy dỗ và lưu tâm từ lúc bé. Thay mặt Ba Má, Chú Thiếm đã nuôi nấng, khuyên nhủ trong những năm Đại Học bằng tình thương bao la.
Đã dành cho Thiện mọi dễ dàng bằng lòng nhiệt thành – bằng niềm hy vọng mãnh liệt – Thiện hãnh diện về Chú.
Đã tạo cho Thiện ý thức học hỏi từ nhỏ, đã lôi kéo bằng sự ép buộc tinh thần ngày bước chân vào Trường Đại Học Kiến Trúc – và đưa tay đón chào ngày tốt nghiệp – Chú đã thương mến và gần gũi nhất về mọi mặt. Rất hãnh diện và lúc nào cũng xem như ngọn đuốc sáng chói nhất.
Chú như Cha – Ơn này nghìn năm không quên được.
------------------------------
(TRANG 35)
Kính gởi: Chú LIÊN KHẮC HIẾU
Đã giúp đỡ rất nhiều trong việc hoàn tất đồ án này. Thành kính tri ơn mãi mãi.
Kính gởi: Anh Chị Bảy ĐỖ TẤN SĨ Chị THỦY - ở hải ngoại –
Đã giúp đỡ Thiện tận tình bằng hy vọng mãnh liệt.
Anh Chị đã thương mến người ở lại bằng tình yêu thương không giấy bút nào tả được.
Xin nghiêng mình mến phục và nguyện noi theo.
------------------------------
(TRANG 36)
Thân mến gởi: Bạn NGUYỄN NGỌC ẨN
Mi đã giúp ta hăng hái và đầy đủ những dữ kiện thiết yếu trong việc hoàn tất đồ án này.
Cháu TRẦN VĂN HIỆP
Đã hăng hay như trách nhiệm, thích thú trong sự linh động quý báu, giúp nhiều trong việc hoàn tất đồ án này.
------------------------------
(TRANG 37)
Kính mến gởi Anh Chị Hai
Anh đã chịu nhận và hãnh diện về cuộc sống trong gia đình em bằng tình ruột thịt.
Chị hiền hậu, ôn hòa, đã dành tất cả lo lắng và hy vọng ở em trong những ngày còn cắp sách đến trường tới ngày hoàn tất đồ án này và cả mai sau.
Em hãnh diện về anh chị.
Không thể thay thế được.
------------------------------
(TRANG 38)
Thân mến gởi các em
ĐỖ THIỆN KHUYẾN ĐỖ THIỆN BẢO ĐỖ THIỆN AN ĐỖ THIỆN TOÀN ĐỖ THIỆN THÁI ĐỖ THIỆN BÌNH ĐỖ THIỆN THUẬN ĐỖ THẾ LOAN
Các em đã chịu cực khổ với anh trong việc hoàn thành đồ án này bằng tinh thần hơn cả nègres.
Anh: ĐỖ THIỆN TÂM
------------------------------
(TRANG 39)
Kính mến và thân mến gởi các nègres
Đã nhiệt thành giúp tôi trong thời gian học tập cũng như hoàn tất đồ án này.
Chú KTS. ĐỖ HỮU NAM Anh KTS. KHƯƠNG VĂN MƯỜI Anh TRẦN NGUYÊN ĐÔN Anh HOÀNG VĂN VIỆT Anh ĐỖ THÀNH TÙNG Anh TRƯƠNG KIM SANG Anh TRẦN NGỌC HƯỠNG Anh HOÀNG VĂN THÀNH Anh PHẠM VĂN THÊ Anh QUẾ HƯƠNG Đ.T.P. Anh NGUYỄN VĂN TẤT Anh NGUYỄN VĂN TÂN Anh TƯ Anh SĨ
Và Má, Chị Sa, Chị Hai, Hồng, Phượng, Lập, An, Toàn và Thái.
Đã mệt nhọc và vui vẻ trong những đêm “thức” để hoàn tất đồ án.
Xin chân thành ghi ơn.
------------------------------
(TRANG 40)
Kính gởi
Ông PHẠM QUÝ HÙNG Giám Đốc Kỹ Thuật/ Sản Xuất Ông NGUYỄN ĐỊCH THỨ Trưởng Sở Hành Chánh/ Nhân Viên COGIVINA
Đã giúp đỡ phương tiện rất nhiều trong việc hoàn tất đồ án này.
Thành kính ghi ơn mãi mãi.
------------------------------
(TRANG 41)
Kính gởi
Chị NGUYỄN THỊ THANH THỦY
Bằng tình thân thiện với tính cách gia đình, Chị đã giúp em nhiều trong việc hoàn tất đồ án này.
Xin chân thành ghi ơn.
------------------------------
(TRANG 42)
Kính mến gởi
Chú Thiếm NGUYỄN VĂN TÍN và các em
Đã sống từ nỗi lo âu đến những nụ cười thoải mái qua những biến chuyển trong gia đình cháu.
Như trụ cột đã hướng dẫn và đưa đường giúp gia đình cháu và cháu bằng sự hy sinh hiếm có.
May mắn cho gia đình cháu đã có Chú đến và đem niềm vui tới.
Cháu hãnh diện và kính phục.
------------------------------
(TRANG 43)
Kính gởi
BA MÁ Long Thành
Dành cho con một tình thương đặc biệt. Ba Má đã tin tưởng và hãnh diện về con với tất cả hy vọng.
Nguyện không để phụ lòng Ba Má.
------------------------------
(TRANG 44)
Kính mến gởi
- Anh Chị Hai và các cháu - Anh Chị Ba và Hiệp và các cháu - Anh Chị Tư và các cháu - Anh Chị Năm và các cháu - Anh Chị Sáu và các cháu - Anh Chị Bảy và các cháu
Đã đón nhận em bằng niềm vui hãnh diện từ lúc đầu gặp gỡ.
Hãnh diện về một gia đình hòa thuận. Em chịu nhận và noi gương theo Anh Chị.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2019 1:32:24 GMT 9
Nguyễn Ngọc Sơn Follow · June 21, 2018 · MỘT THỜI UYÊN ƯƠNG Một thời, trước mặt trường Đại Học Kiến Trúc trên đường Pasteur không phải là nhà thi đấu Phan Đình Phùng mà là công viên Vạn Xuân. Công viên Vạn Xuân nguyên là một công viên được người Pháp cho xây dựng từ năm 1923, được giới hạn bởi bốn con đường: Pellerin (Pasteur ngày nay), Richaud (Nguyễn Đình Chiểu ngày nay), Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa ngày nay) và Testard (Võ Văn Tần ngày nay). Trong giai đoạn 1946-1954, công viên được thu hẹp lại còn gần một nửa, trải dài qua một nửa đoạn đường Testard và toàn bộ đoạn đường Pellerin. Đường Mahon được đổi tên thành Général De Gaulle. Đường Richaud vẫn được giữ nguyên tên gọi. Kể từ sau 1954, công viên được đổi tên thành Vạn Xuân, quốc hiệu Việt Nam trong một giai đoạn độc lập ngắn ngủi 544-602, dưới thời nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương. Bốn con đường xung quanh tứ giác ban đầu cũng được đổi tên thành Pasteur, Phan Đình Phùng, Công Lý và Trần Quý Cáp. Công viên Vạn Xuân một thời đã từng là khung trời vui chơi, hò hẹn của giới học sinh và sinh viên các trường: trường Tiểu Học Trần Quý Cáp trên đường Trần Quý Cáp, Trung tâm Giáo dục Lê Quý Đôn trên đường Hồng Thập Tự, Đại Học Kiến Trúc trên đường Pasteur và Đại Học Luật Khoa thuộc Viện Đại Học Sài Gòn trên đường Duy Tân, gần Công trường Chiến Sĩ. Ngày nay, công viên Vạn Xuân đã không còn dấu vết. Những trụ đèn Art Deco bằng bê tông rất nuột thời Pháp để lại đến năm 2014 vẫn còn, nay cũng bị bỏ đi cho dự án xây dựng mới nhà thi đấu Phan Đình Phùng. Giới học sinh, sinh viên Sài Gòn cũng vĩnh viễn mất đi một khung trời lãng mạn, cho âm nhạc, thi ca và những uyên ương hò hẹn. "Trả lại em yêu con đường học trò Những ngày Thủ Đô tưng bừng phố xá Chủ nhật uyên ương hẹn hò đây đó Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt" [*] Nguồn ảnh: Công viên Vạn Xuân, góc 10 giờ từ cổng trường Đại Học Kiến Trúc trên đường Pasteur. (Sài Gòn, 1964 - Iparkes) [*] - "Trả lại em yêu" (Phạm Duy) Sài Gòn, 1971 **************************************** EM RỜI THƯ VIỆN ĐI RONG CHƠI [*] Một thời, cạnh trường Đại Học Kiến Trúc trên đường Pasteur không phải là những xôn xao hàng quán như ngày nay mà là một Thư Viện nhỏ và yên tĩnh mang tên Phòng Đọc Sách Thiếu Nhi Trung Tâm Sài Gòn. Phòng Đọc Sách Thiếu Nhi Trung Tâm Sài Gòn, cùng với Đại Học Kiến Trúc trên đường Pasteur, Đại Học Luật Khoa (Luật Khoa Đại Học Đường) trên đường Duy Tân, Viện Đại Học Sài Gòn tại công trường Chiến Sĩ và trường tiểu học Trần Quý Cáp trên con đường cùng tên đã hình thành nên một tứ giác học đường rất nổi tiếng trong giới học sinh, sinh viên ngay tại trung tâm Sài Gòn. Trước năm Mậu Thân 1968, ngoài 3 thư viện nước ngoài có tầm vóc là: - Thư Viện Abraham Lincoln thuộc Cơ Quan Thông Tin chánh phủ Hoa Kỳ trên đại lộ Lê Lợi, cạnh rạp chiếu bóng Rex, trước tòa Đô Chánh Sài Gòn - Thư Viện của Phái Bộ Văn Hóa Pháp ở số 31 đường Đồn Đất, cạnh Nhà Thương Đồn Đất - Thư Viện của Hội Đồng Minh Pháp Văn ở số 22 đường Gia Long, gần góc đường Tự Do ở Sài Gòn có tổng cộng 3 Thư Viện công quyền gồm: - Thư Viện Nam Phần (Thư Viện Nam Kỳ Soái Phủ hay Thư Viện Sài Gòn từ 1902 trước khi được đổi tên thành Thư Viện Nam Phần năm 1949) tại số 34 đường Gia Long - Tổng Thư Viện (Thư Viện Ðông Dương từ Hà Nội dọn vào trong cuộc di cư lịch sử sau Hiệp Ðịnh Genève 1954) với trụ sở tạm thời trong khuôn viên trường Pétrus Ký trên đại lộ Cộng Hòa, trực thuộc Viện Đại Học Sài Gòn - Phòng Đọc Sách Thiếu Nhi Trung Tâm Sài Gòn tại số 194D đường Pasteur, là bộ phận của Thư Viện Nam Phần nằm kế bên khuôn viên trường Đại Học Kiến Trúc tại số 196 Cùng với 3 nguyên tắc giáo dục được ghi trong tài liệu “Những nguyên tắc cơ bản” do Bộ Quốc Gia Giáo Dục ấn hành năm 1959 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa và sau đó là Hiến Pháp năm 1967 dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa là Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, Chương Trình Phát Triển Thư Viện được triển khai đồng loạt và quy củ gồm các Thư Viện Công Cộng, Học Đường, Đại Học và Chuyên Ngành theo một mô hình kim tự tháp với đỉnh là Thư Viện Quốc Gia kể từ năm đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Hòa 1967. Trong đó, hệ thống các Thư Viện Học Đường và Đại Học được quan tâm đặc biệt, ứng với sự phát triển vượt bậc của Giáo Dục Quốc Gia dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Riêng về Đại Học công, ngoài 2 Viện Đại Học Huế và Sài Gòn, Viện Đại Học Cần Thơ cũng được thành lập năm 1966. Về Đại Học tư, ngoài Viện Đại Học Đà Lạt được thành lập năm 1958, các Viện Đại Học Vạn Hạnh (Sài Gòn, 1964), Minh Đức, Cao Đài (Tây Ninh), Hòa Hảo (An Giang) cũng ra đời, chưa kể một loạt các Đại Học Cộng Đồng (Community Colleges) kể từ năm 1972, giai đoạn chiến tranh Việt Nam đang diễn ra vô cùng khốc liệt. Cùng với đó, một lượng kiến thức đồ sộ và nhân bản cùng đổ bộ, lan tỏa và thấm đẫm trong đời sống văn hóa và tinh thần của giới trí thức cũng như nhiều thế hệ đã lớn lên trong giai đoạn này. Những giá trị nhân văn được đề cao; những nhân cách cá nhân được rèn giũa và hoàn thiện; những tinh hoa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh thần quốc gia được gìn giữ và hun đúc; những tiến bộ văn minh của nhân loại được mở rộng, tiếp nhận và đắp đầy. Tất cả cùng tạo nên một bầu không khí giáo dục giàu giá trị, thiêng liêng và nhân bản. Để rồi, có những người trai thế hệ dù đang xoải cánh bay trên không phận Phá Tam Giang ở Trung Phần vẫn còn chợt nhớ thương người em học trò ở Thủ Đô vùi mình trong đèn sách những ngày Sài Gòn mười một giờ giới nghiêm: "Giờ này có thể trời đang nắng Em rời Thư Viện đi rong chơi Hàng cây viền ngọc thạch len trôi Nghĩ đến ngày thi tương lai thúc hối..." [1] Em vào Thư Viện hẳn em là một nữ sinh còn yêu đèn sách, có ý thức tu dưỡng và hướng thiện nơi mình. Em rời Thư Viện đi rong chơi hẳn em còn có một tâm hồn trong trẻo vừa chạm tới những vẻ đẹp và men say cuộc đời, còn đủ tinh tế để nhận ra viền trời xanh ngọc vờn len trôi dưới vòm cây yên tĩnh để tạm quên đi những lo âu trong suy nghĩ về ngày thi cùng ẩn hiện tương lai. Nếu có thêm một tấm lòng nhân ái, hẳn em sẽ là một "áo tà nguyệt bạch" [2] dung dị và nhân bản cùng ta hẹn hò. Ta ở đây là người trai thế hệ, không nhất thiết phải là người trai đang gõ phím này. [Ảnh] Đầu thập niên 1970, Phòng Đọc Sách Thiếu Nhi Trung Tâm Sài Gòn trên đường Pasteur, ứng với vị trí hiện tại lần lượt là bánh mì Tuấn Mập - tiệm cơm Pasteur - ngân hàng Timo. Bên trái cùng có thể nhìn thấy đầu hồi là một dãy nhà của Đại Học Kiến Trúc, ứng với vị trí hiện tại là garage dành cho Giảng viên. Tòa nhà với kiến trúc hiện đại được thiết kế điều chỉnh từ ĐATN của sinh viên Trương Văn Long dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Phạm Văn Thâng vẫn chưa được xây dựng (1972). Vậy đây là hình năm 1970 hoặc 1971. (ảnh không rõ tác giả) [1] & [*] - "Chiều trên phá Tam Giang", 1972 [Ý thơ: Tô Thùy Yên, Nhạc: Trần Thiện Thanh] [2] - "Ngày xưa Hoàng Thị", 1964 [Phạm Thiên Thư]
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2019 2:02:38 GMT 9
“CHÁO CH.....”
Lúc ấy cũng vào khoảng nửa đêm, cuối năm 1968, Đại đội 1(?)Sinh viên học đường trường ĐH Kiến Trúc trực đêm tại Họa thất 4
Đây là Đại đội gồm các SV từ năm thứ 3 trở lên, Minh Bò tôi là SV đàn em nhỏ nhít, nên được chứng kiến nhiều sáng kiến kinh quái dị trong cách chơi của các quý đàn anh đàn chị(tại lịch sự, chớ mấy chị ít xịt, thấy mấy anh chơi kỳ đã tránh chạy mất tiêu)
Hôm nay, nhớ trường, nhớ thầy, nhớ Đồng môn, Minh Bò tôi chỉ kể lại trò chơi kinh quái dị mà thật “duyên dáng” của các quý sư huynh khả kính!
Bình thường những đêm lên bài ở các Họa thất,ngoài việc Patron cho các Nègre ăn đêm lấy sức làm bài, Canteen của trường vẫn bán đêm cho các Nègre mạnh ăn thêm sức lực làm bài. Nhưng ở đây là giai đoạn binh biến có lịnh giới nghiêm nên Canteen phải đóng cửa sớm. Các anh theo thói quen đói ăn ban đêm nên rất chột bụng, có một đàn anh(không nhớ tên) đã phòng thủ gạo đem ra nấu 1 nồi cháo trắng bự, múc được cỡ tầm gần 20 chén, đặt trên bục giảng, sát Họa thất 3, rồi xướng rao thật to
- Đây có nồi cháo chim, chỉ mời 17 anh em nào chịu khỏa thân, nhớ kỹ nhen... 17 thằng nào chịu khỏa thân, mới được vô ăn
Minh Bò tôi nằm trên lầu trên HT 4, len lén nhìn xuống, quả nhiên mười mấy anh tuột quần áo chớp nháng, để dành chỗ một trong 17 người. Cháo nghi ngút được múc ra, và vì không có muỗng, mấy anh vừa thổi vừa húp, Được vài húp có anh la to:
- Mụe..! sao không thấy thịt chim đâu hết
Cả bọn nhao nhao: ”ờ heng Chim đâu? Chim đâu?”
Anh chủ bếp cười sảng khoái
Ha Ha Ha, thì chim trước mặt tụi bây đó Ha Ha Ha
Và cả Họa thất 4 cười ré lên thật lâu....
Và bữa tiệc CHÁO CHIM đó, được anh em lưu truyền và đồn thổi rất thú vị và trở thành huyền thoại!
Sau này K70 cũng đã làm bất ngờ tiệc Cháo Chim tại một tư gia của 1 nhóm làm bài tốt nghiệp để dụ lại mấy em Nerge khờ khạo K74. Hôm trước Phan Liêu hãy còn nhớ và có thể kể lại rất sinh động!
Nhiều năm về trường theo lời hiệu triệu của Thầy Nhạc, tôi về phụ các em làm Lễ hội TTKT SVKT tôi cũng kể lại cho các đàn em nghe về tiệc Cháo chim và được các đàn em K84 nghe thích thú và tái lập lại trong các chuyện hậu Truyền thống Kiến trúc và thế hệ đó, các em K84 như Tùng Lâm, Bạch Thái Huy hay Minh Đằng đều có thể kể lại!
Hễ cái gì Hay Vui được các thế hệ sau thích và hồ hởi muốn làm lại, tức thị trở thành là một Tiết mục có tính "truyền thống"
Nghĩ như vậy, Ngay trong đêm 65 năm Kiến Cựu 2017, trong hộp đựng cặp chung rượu, có in logo Tê Ke, sau khi MinhBo tôi tuyên bố khai mạc, sẽ mời tất cả mở hộp, lấy cặp chung rượu Lễ ra, Lúc đó cháo trắng ào ào đem đến từng người, và vừa ăn cháo vừa nhìn Logo Tê Ke trong đáy hộp quà thì đó là tái lập nghi thức Cháo chim nhưng tôi mạn phép chuyển thể từ cách chơi từ kiểu SVKT chơi ra thành một kiểu sân chơi của KTS chơi! Cũng là một ý tưởng!
Viết vào ngày 23 Tết Kỷ Hợi khi nhớ bồi hồi các đàn anh chò hỏ ngồi ăn cháo!
Minh Bò vừa ăn thèo lèo cúng Táo vừa viết! *******************************************************************
Nguyen Tung Lam October 12, 2015 · Edited · · Chuyện KIẾN TRÚC ngày xưa 1.
1983 - Trong những ngày đầu khi mới bước chân vào trường KT, hôm đó đúng vào ngày thứ 7, tuần lễ lên bài của các anh chị K79 (năm V). Thật sự choáng ngợp, đủ kiểu diễn họa, rất phong phú và đa dạng (lúc đó đâu có biết j về binh bố KT, chỉ thấy đủ thứ hình thù đẹp mắt mà khiếp thôi)... sức người trong 1 tuần lễ làm được như vầy sao? Mình nhìn quanh quất khắp họa thất, hoang mang tột độ, thấy có 1 đàn anh gần đó có vẻ vui vẻ dễ tính bèn lân la đến hỏi thử xem có phải những đồ án này vẽ trong 1 tuần hay k? Đàn anh tự hào lắm cười hể hả: "Đúng rồi, trường cho thời gian lên bài 1 tuần nhưng anh mới vẽ có 2 ngày nay à.", đàn anh lại tiếp tục công việc một cách hời hợt, vẽ mà như chơi chơi, mang một chút hơi hướng biểu diễn, để mặc cho thằng em chết khiếp, mặt mày, trym tróc tái xanh tái xám thiếu chút là đột quị tại đương trường (mịa kíp !!! mình chọn lầm trường rồi chăng? sao mình có thể vẽ được như vậy trong 6 ngày lên bài mà đàn anh thì mới vẽ có 2 ngày nay). Cảm nhận đầu tiên của tớ về diễn họa đồ án KT là như vậy đó. Cũng trong ngày hôm đó, tầng dưới là họa thất của K81 (năm III), cũng đang lên bài, tớ còn nhớ đó là đồ án: “Câu lạc bộ thuyền chèo”. Đỡ ngợp hơn trên họa thất K79 vì kích thước cái bảng vẽ nhỏ hơn, qui mô công trình nhỏ hơn, đại khái hình vẽ trên tấm bảng ít hơn nhưng các kiểu thể hiện đồ án thì vẫn rất đẹp, rầm rộ, phong phú. Lại lân la đến hỏi 1 đàn anh trông có vẻ từ bi bất ngờ, 1 câu hỏi rất ngây ngô: "Anh cho em hỏi, phải học bao lâu thì mới vẽ được như thế này?" (Vì K81 lúc đó đang là năm III, tớ lúc đó k thể ngờ học KT mới 3 năm mà lại vẽ kinh dị dạng đến như vậy), đàn anh ngẩng đầu lên ngắm nghía tớ 1 chút rồi lắc đầu nhè nhẹ, nói giọng Quảng trong tiếng thở dài: "Đứa vẽ được thì mới vô nó đã vẽ được rồi còn đứa k vẽ được thì có học cả đời cũng chẳng vẽ được." ... Ôi mẹ ơi! Thế lày là thế lào? Chẳng lẽ mình thuộc loại cả đời cũng k vẽ được hay sao? Tớ choáng và nhớ mãi câu nói của đàn anh. Buồn tê tái.
Chuyện KIẾN TRÚC ngày xưa 2.
1983 - Hồi ấy thi đậu đại học là chuyện vẻ vang cả khu phố, nhất lại là đậu vào ĐH Kiến trúc. Khóa 83 lúc đó chỉ có 42 em trên cả tuyến phía Nam, có đăng tên trên báo Tuổi trẻ. Thế cho nên đậu được là vênh váo lắm, đi về khu nhà mình ở có cảm giác trong người phát ra hào quang ngũ sắc. Bước vào trường thì k dám vênh nhưng trong lòng thì cảm giác lâng lâng rất khó tả, sung sướng vì giống như được đền bù xứng đáng cho khoảng thời gian luyện thi quá cực khổ. Từ đó sinh ra tâm lý muốn nghỉ ngơi. Thời khóa biểu năm I cũng nhẹ nhàng duy chỉ có môn Toán cao cấp, đại số tuyến tính của thầy Quang là rất khó đỡ, cảm thấy nó chẳng có logic cmn j cả. Đã vậy còn bị các đàn anh hù dọa, nói thầy Quang là "Dũng sĩ diệt sinh viên", cả lớp thi chỉ có 3,4 người là qua... đám tụi tớ đứa nào đứa nấy lo lắng mặt dại cả lại. Có vài đàn anh năm II thấy vậy thương tình nói nhỏ cho nghe: "Yên tâm đi, thầy Quang coi vậy chứ thương học trò lắm, thi lần đầu dằn mặt cho rớt gần hết lớp nhưng thi lại lần 2 là cho qua hết, đứa nào cũng 5v". Ôi trời, thật thế sao? thế thì còn j bằng, vậy là sẵn tâm lý lười biếng muốn nghỉ ngơi những môn hại não lại được khuyến mãi thực hiện, chẳng thèm học toán nữa. Thi học kỳ 1, môn Toán tớ được 4đ, ăn thua j, lần 2 thầy sẽ cho qua thôi. Không hiểu sao mình tin tưởng lời bỏ nhỏ của đàn anh ghê gớm. Yên tâm mà thư thư giãn giãn, lại học cái phong thái lè phè của các đàn anh... Thi lại lần 2 môn Toán, lần đầu tiên trong đời biết đến mùi thi lại nên chưa có kinh nghiệm, lần này ít đứa thi hơn nên k phối hợp nhóm được, đồng đội k có nhiều nên thiếu hẳn sự hỗ trợ lẫn nhau... Kết quả tớ được 3đ. Nhìn vào bảng điểm, k tin vào mắt mình nữa, mọi thứ đều tối sầm lại, hớt hơ hớt hải, miệng thì méo xệch, còn cố hỏi mọi người: "Sao nghe nói thi lần 2 thầy cho qua hết mà? Sao h lại thế lày, liệu có điều j k đúng ở đây k?" Có thằng còn cười trên nỗi đau của mình nữa: "Thầy Quang nói với mày thế hả con" rồi cười hô hố... Ôi mẹ ơi!!! Cũng may là HK1 còn có thi lần 3, gọi là thi vét vào cuối HK2. Đã biết sợ rồi vậy mà vẫn có đàn anh đến nói với mình: "Yên tâm đi, thầy đánh rớt lần 2 là vì thấy biết còn lần 3, lần 3 thầy sẽ cho qua hết." ... Con lạy bố, bố để cho con học để đi thi, lần 3 này chỉ còn có 3,4 mạng, mỗi thằng ngồi riêng 1 góc trời, cách nhau cả mấy mùa lá rụng. Kết quả 5v, vừa đủ qua phà. Đàn anh đến vỗ vai: "Thấy chưa, tao nói lần 3 là qua mà." Lúc đó chỉ muốn phang cho đàn anh 1 cú. ... Mãi sau này khoảng 1996, gặp thầy Quang ở cửa hàng vi tính trên đường Bùi thị Xuân, anh chàng Đông chủ cửa hàng hỏi đùa thầy Quang: "Thầy ơi, hồi xưa anh Lâm học có thi lại không thầy?", thầy Quang trả lời ngay: "Không thi lại thì không phải học trò tao". Kỷ niệm với thầy Quang còn rất nhiều.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 2, 2021 19:12:59 GMT 9
“Tôi xin quý Vị, với lượng khoan-hồng của bực Thầy, tìm một giải-pháp để cải-tổ toàn-diện Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc” CUỘC TRANH ĐẤU CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG KIẾN TRÚC SÀI GÒN VÌ MỘT NỀN TỰ TRỊ ĐẠI HỌC (trích Hồ sơ về cuộc tranh đấu của sinh viên kiến trúc liên quan đến việc biến cải trường Cao Đẳng Kiến Trúc Sài Gòn thành Phân Khoa Kiến Trúc năm 1967) Nguyễn Ngọc Sơn/ Facebook
--------------- VIỆT NAM CỘNG HÒA ----- BỘ GIÁO DỤC -:- VIỆN ĐẠI HỌC SAIGON ----- TÒA VIỆN TRƯỞNG --------------- BIÊN-BẢN PHIÊN HỌP BẤT-THƯỜNG CỦA HỘI-ĐỒNG ĐẠI-HỌC NGÀY 7-4-67 TẠI TÒA VIỆN-TRƯỞNG SAIGON Hiện-diện: - BS. Trần-Quang-Đệ, Viện-Trưởng Viện Đại-Học Saigon - Ô. Nguyễn-Khánh-Hải, Đại-Diện Bộ Giáo-Dục - Ô. Lê-Văn-Ngoạn, Đại-Diện Bộ Giáo-Dục - Ô. Nguyễn-Khắc-Hoạch, Khoa-Trưởng Trường Đại-Học Văn-Khoa - Ô. Bùi-Xuân-Bào, GS. Trường Đại-Học Văn-Khoa - Ô. Vũ-Quốc-Thúc, GS. Trường Đại-Học Văn-Khoa - Ô. Nguyễn-Chung-Tú, Khoa-Trưởng Trường Đại-Học Khoa-Học - Ô. Phùng-Trung-Ngân, Phụ-Tá Khoa-Trưởng Trường Đại-Học Khoa-Học - Ô. Đặng-Đình-Áng, GS. Trường Đại-Học Khoa-Học - Ô. Trần-Văn-Tấn, Khoa-Trưởng Trường Đại-Học Sư-Phạm - Ô. Đặng-Vũ-Biền, Phụ-Tá Khoa-Trưởng Trường Đại-Học Dược-Khoa - Ô. Lâm-Thanh-Liêm, Tổng Thư-Ký Viện Đại-Học Saigon - Ô. Trần Phi Hùng, GS. Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc - Ô. Lê-Văn-Lắm, GS. Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc - Ô. Phạm-Văn-Thâng, GS. Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc - Ô. Nguyễn-Quang-Nhạc, GS. Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc - Ô. Huỳnh-Kim-Mãng, GS. Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc - Ô. Tô-Công-Văn, GS. Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc - Ô. Phạm-Văn-Đức, Trưởng-Tràng, Chủ-Tịch Ban Đại-diện sinh-viên Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc - Ô. Trần-Quang-Nhựt-Huân, Nhân-viên Ban Đại-Diện sinh-viên - Ô. Vũ-Thế-Phiệt, Nhân-viên Ban Đại-Diện sinh-viên - Cô Lê-Tân-Dân, Nhân-viên Ban Đại-diện sinh-viên - Cô Quỳnh-Như, Nhân-viên Ban Đại-diện sinh-viên --------------- Buổi họp bắt đầu hồi 15 giờ 30. Ông Viện-Trưởng Viện Đại-Học Saigon tuyên-bố lý-do buổi họp khoáng-đại hôm nay gồm có nhân-viên Hội-đồng Đại-Học cùng Giáo-sư trường và Ban Đại-diện Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc Saigon và Đại-diện Bộ. Ông Viện-Trưởng yêu-cầu các sinh-viên trong Ban Đại-diện có gì thắc-mắc thì nói ra hết để quý Vị Khoa-Trưởng và Giáo-sư được rõ. - SV. Phạm-Văn-Đức, Trưởng-Tràng: Thay mặt anh chị em sinh-viên Cao-Đẳng Kiến-Trúc, chúng tôi xin tìm một giải-pháp để giải-quyết vấn-đề trong khuôn-khổ đại-học. Tôi xin trao lời cho chị Dân để có lời trình quý Vị. - SV. Lê-Tân-Dân: Thay mặt các bạn, con xin chuyển lời xin lỗi quý Vị Viện-Trưởng, Khoa-Trưởng và cả các Thầy, nếu trong cuộc tranh-đấu có điều chi làm cho quý Vị phiền lòng. Chúng con xin cải-tổ toàn diện, xin đòi hỏi quyết-liệt biến Trường Cao-Đẳng thành Phân-Khoa. Cuộc tranh-đấu đã bắt đầu từ ngày 11-11-1966. Con xin lỗi Thầy Giám-đốc vì cuộc tranh-đấu vô tình đã gây trong lòng Thầy cảm-tưởng gẫy đổ giữa sinh-viên và Thầy. Khi nguyện vọng được đặt ra, chúng con sẽ tranh-đấu vì tương-lai, với ý-chí cương-quyết. Chúng con hứa sẽ tranh-đấu trong tinh-thần lễ-độ và ôn-hòa. - SV. Đức: Trong mấy ngày nay đã xảy ra việc bãi-khóa và tuyệt-thực, con xin quý Vị tìm giải-pháp cho vấn-đề đã được đặt ra. Việc xảy ra ngày hôm nay đã bắt nguồn từ buổi hội-thảo ngày 15-11-1966. Sinh-viên Trường Kiến-Trúc đã đúc-kết nguyện-vọng trong một bản Thông-cáo gửi Viện Đại-Học và Bộ Giáo-Dục. Ngày 17-11-1966, Ban Đại-diện Trường Kiến-Trúc đã tiếp-xúc với Viện Đại-Học. Viện đã hứa sẽ cứu-xét. Ngày 22, 23-11-1966, Hội-đồng Giáo-sư Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc đã họp và đã hứa sẽ tìm giải-pháp giải-quyết để trình Viện. Ngày 28-11-1966, sinh-viên đã chấm dứt cuộc bãi khoá. Sau đó, đã nhiều lần tiếp-xúc với Viện để xúc-tiến mau chóng công việc. Bốn tháng qua, anh em sinh-viên thấy hình như chưa có gì gọi là xúc-tiến công việc nên anh em đã gửi thư lên Viện và lên Hội-đồng Giáo-sư để hỏi sự diễn-tiến ra sao. Ngày 30-3-1967 có cuộc hội-thảo của sinh-viên để duyệt lại sự đòi hỏi của mình. Sau cuộc hội-thảo, anh em quyết-định bãi-khóa và tuyệt-thực 24 giờ. Nhưng sau cuộc tuyệt-thực này, có một số sinh-viên khác đã tình-nguyện tuyệt-thực vô hạn-định cho tới khi nào được thỏa-mãn các sự đòi hỏi. Tôi xin quý Vị, với lượng khoan-hồng của bực Thầy, tìm một giải-pháp để cải-tổ toàn-diện Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc. - Ô. Viện-Trưởng: Anh em sinh-viên cứ nói tất cả những điều anh em yêu-cầu để Hội-đồng giải-quyết và để khỏi có điều chi ấm-ức trong lòng. - SV. Dân: Sinh-viên Dân đọc thông-cáo số 1 của anh em: “Sinh-viên kiến-trúc không làm chính-trị, không chịu ảnh-hưởng của đảng-phái hay tôn-giáo nào. Sinh-viên đòi hỏi cải-tiến toàn-diện Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc………” Đòi Ô. Viện-Trưởng dùng toàn quyền để giải-quyết. - Ô. Viện-Trưởng: Anh chị em sinh-viên kiến-trúc đã đặt ra nhiều chi-tiết như là: đề-tài thi, sách-vở, thi-cử… Anh em có muốn đem ra thảo-luận không? - SV. Đức: Tất cả chi-tiết đó chỉ là phần nhỏ. Sinh-viên kiến-trúc cố-gắng tìm mọi nỗ-lực làm thế nào để phát triển ngành kiến-trúc Việt-nam. - Ô. Viện-Trưởng: Theo anh Đại-diện thì chỉ để vấn-đề Cao-Đẳng Kiến-Trúc trong phạm-vi Đại-Học. Chúng tôi lo trong phạm-vi đó thôi, còn vấn-đề cá-nhân thì bỏ. Chúng ta lo chuyện chung cho Đại-Học. Tôi xin quý Vị Giáo-sư cho biết có cần hỏi gì anh em sinh-viên kiến-trúc không? Riêng tôi, thì xin trình thêm một điều là hôm qua, Ô. Giám-Đốc Tải nhận được 1 tấm giấy nói sinh-viên kiến-trúc không đảm-bảo an-ninh cho ông ấy nữa. Vậy anh em có biết ai viết không? - SV. Dân: Thế nào cũng có phần-tử quá-khích. - Ô. Khoa-Trưởng Tấn: Anh em kiến-trúc chỉ xin cải-tổ toàn-diện Trường Kiến-Trúc, xin chỉ bàn trên vấn-đề đó. - Ô. Phụ-Tá K.T. Biền: Đồng ý. - Ô. Phụ-Tá K.T. Ngân: Các sinh-viên phải làm thế nào cho người ngoài hỏi hiểu lầm cuộc tranh-đấu của anh em. Theo tôi thì có 2 vấn đề: 1) Phát-triển đúng tầm-mức, Giáo-sư đề-nghị, Hội-đồng Đại-Học xét. 2) Mong anh chị em đều tin-tưởng vào Hội-đồng Đại-Học. Vậy nếu Hội-đồng chúng tôi chấp-nhận các điều nêu ra, liệu các anh chị em có chặn được sự tranh-đấu không? - SV. Đức: Với tư-cách Trưởng-Tràng, con xin bảo-đảm sẽ chặn đứng tất cả mọi bạo-động cá-nhân. - Ô. Phụ-Tá K.T. Biền: Tôi rất mừng. Hôm nay tất cả Giáo-sư và Hội-đồng Đại-Học đều thông-cảm với sinh-viên. Tôi mong các anh chị em sinh-viên nên đề-nghị phương-pháp cụ-thể. - GS. Lê Văn Lắm: Ô. Giám-Đốc Tải đã đề-nghị cải-tổ Trường Kiến-Trúc từ hồi 1961, thế rồi không biết có sự khó-khăn gì mà không có kết-quả và tình-trạng cứ kéo dài cho tới nay. Các năm trước, nhà trường chỉ chừng 200 sinh-viên. Năm 1966 đột-nhiên có 700 sinh-viên xin học ngay một lúc, thành thử sinh-viên không có chỗ để học. Giám-thị chết, mãi mới có người tới thay, rồi họ cũng bỏ. Thiếu sách-vở, thiếu phương-tiện về trường sở thì thực là thiểu-não. Trong Viện Đại-Học, chỉ có Trường Kiến-Trúc là leo-teo. Ô. Giám-Đốc Tải đã nhiều lần xin từ-chức. Viện phải đề-cử người khác. Chúng tôi chẳng ai ham chức-vị đó. Tôi nói rõ cho sinh-viên hiểu, chứ không phải Ô. Tải cứ đòi ở lại đâu. - Ô. Phụ-Tá K.T. Biền: Hiện giờ, chúng tôi thấy tiền xây-cất Trường Kiến-Trúc lớn hơn Trường Dược. Trường Kiến-Trúc hơi chiếm phần xây-cất của Trường Dược đấy. Tôi nói như vậy là để nêu lên sự đòi hỏi của sinh-viên kiến-trúc là hợp lý. Chúng tôi cho rằng việc ngân-quỹ Trường Kiến-Trúc lớn hơn Trường Dược là phải vì tình-thế trường sở của Trường Kiến-Trúc. Việc đổi Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc ra Phân-Khoa Đại-Học Kiến-Trúc thì rất dễ, nhưng muốn cho sự giải-quyết được tốt-đẹp, cần phải có đề-nghị cụ-thể. - SV. Đức: Sự xin thay đổi thành Phân-Khoa là của Giáo-sư. Sinh-viên chỉ ủng hộ. - GS. Nguyễn-Quang-Nhạc: Đề nghị sửa-đổi thành Phân-Khoa đã có từ 1961 do sự nghiên-cứu giữa Ban Giám-Đốc và Ô. Nguyên Viện-Trưởng Trình. Lúc Ô. Trình lên làm Bộ-Trưởng, ông có làm một dự-thảo về quy-chế Phân-Khoa Kiến-Trúc và đã trình lên Tổng-Thống Diệm cùng một lượt với Trường Dược. Không hiểu vì lý-do gì Tổng-Thống chỉ cho cải Trường Dược thành Phân-Khoa Đại-Học Dược và bỏ đề-nghị cải-biến Trường Kiến-Trúc. Từ đó, chúng tôi đã nhắc lại nhiều lần. - GS. Phạm-Văn-Thâng: Sinh-viên Cao-Đẳng Kiến-Trúc học 6 năm. Thực ra thì là 7, 8 năm đấy. Như vậy thì lâu quá. Sinh-viên ra trường thì già rồi. Nếu đổi thành Phân-Khoa, sinh-viên có thể học 4 năm, rồi ra trường, để sau này lại sẽ tiếp-tục học thêm, nếu muốn. - Ô. Viện-Trưởng: Phân-Khoa đưa lên dự-thảo ngân-sách, Viện trình Bộ nhưng Bộ cứ tự nhiên cắt-xén. Hiện nay ngân-sách giáo-dục không có bao nhiêu. Tôi xin mỗi Phân-Khoa làm dự-án. Về việc mua sách-vở, thì mỗi Phân-Khoa lập dự-án mua sách cho Giáo-sư và cho sinh-viên. Viện sẽ làm một danh-sách duy-nhất. Về thể-thao, tôi góp dụng-cụ tại Viện, nếu chia cho các Phân-Khoa thì chả đi tới đâu. Tôi đòi lập trung-tâm thể-thao ở Thủ Đức. Tóm-tắt lại thì Viện Đại-Học gồm có 7 Phân-Khoa và 1 Trường Cao-Đẳng, tôi có bổn-phận phân chia cho mỗi trường một chút. Lúc cần, tôi lấy chỗ này một ít, chỗ kia một ít, mọi trường đều chịu bớt ngân-khoản để cho có 2 triệu rưỡi cho Trường Kiến-Trúc xây-cất. Ngoài ra, tôi đã chỉ-thị cho Phòng Kế-toán Tòa Viện-Trưởng mua giấy, mua than vẽ, v.v… cho Trường Kiến-Trúc. Hôm qua, sinh-viên Đức nói với tôi là anh em tranh-đấu trong tinh-thần đại-học, tôi mừng. - Ô. Khoa-Trưởng Tấn: Tôi thấy mọi người đều đồng ý đổi Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc ra Phân-Khoa Kiến-Trúc làm dự-án thuộc phạm-vi Trường Kiến-Trúc. - Ô. Viện-Trưởng: Hội-đồng đề-nghị lên Bộ, yêu-cầu cải-biến Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc thành Phân-Khoa Kiến-Trúc. Anh em sinh-viên có đồng ý không? - SV. Đức: Anh em sinh-viên kiến-trúc xin hoàn-toàn đồng ý. - Ô. Viện-Trưởng: Tôi yêu-cầu Chánh-Phủ thực-hiện sớm chừng nào hay chừng nấy. - Ô. Khoa-Trưởng Hoạch: Tôi nhận thấy sự yêu-cầu của sinh-viên kiến-trúc là đúng và các Giáo-sư đều ưng-thuận việc đổi thành Phân-Khoa. Chúng ta chỉ xoay quanh vấn-đề xác-định sự nghèo-nàn, khốn-khổ của Đại-Học chúng ta. - Ô. Viện-Trưởng: Các anh em sinh-viên có gì phải nói thêm thì cứ việc trình bày, đừng có giữ gì trong bụng. - SV. Dân: Sinh-viên kiến-trúc xin ghi nhận rằng Ô. Giám-Đốc Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc không có quyền biến-cải Trường Cao-Đẳng thành Phân-Khoa. Đằng khác, Ô. Giám-Đốc đã nhiều lần xin từ-chức thì nên thực-hiện biện-pháp biến thành Phân-Khoa để Ô. Giám-Đốc có thể từ-chức được. - Ô. Phụ-Tá K.T. Biền: Chúng tôi đồng ý như vậy. Ta không nên đặt vấn-đề cá-nhân. - Ô. Viện-Trưởng: Theo hành-chánh, theo kết-quả cuộc điều-tra, tôi thấy không có gì đề-nghị về Ô. Giám-Đốc. Không thể cho sinh-viên có lý, và cho Ô. Giám-Đốc có lỗi. Bây giờ vấn-đề đổi thành Phân-Khoa, anh em sinh-viên nên chờ. - Ô. Khoa-Trưởng Tấn: Một khi thành Phân-Khoa, sẽ sinh-hoạt theo Phân-Khoa. - GS. Nhạc: Buổi họp đã đi tới kết-quả tốt: Hội-đồng Đại-Học hoàn-toàn đồng ý đổi Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc thành Phân-Khoa Kiến-Trúc. Mong sinh-viên đừng nông-nổi vì cần thời-gian. Từ năm 1961, Ô. Giám-Đốc đã đề-nghị sự đổi thành Phân-Khoa, nếu chúng ta nóng-nảy thì chúng ta tỏ ra vô ơn. Xin ra thông-cáo về kết-quả buổi họp hôm nay. - SV. Đức: Không biết lần đề-nghị lên Bộ có xảy ra trở-ngại gì nữa không? - Ô. Viện-Trưởng: Nếu lần này còn có chi trở ngại, thì toàn-thể quý Vị hiện-diện sẽ đi cùng một đường với sinh-viên. - Ô. Khoa-Trưởng Tấn: Khi chúng ta đề-nghị đổi thành Phân-Khoa thì nên đính kèm một dự-án phát-triển. Sau này chúng ta sẽ có ngân-khoản để thực-hiện dự-án này. - Ô. Khoa-Trưởng Hoạch: Nếu lúc này đổi danh-từ thì không-khí Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc sẽ có sự thay đổi. - Ô. Phụ-Tá Biền: Nếu chúng ta đặt mốc, thì ta tiến nhanh hơn. Ô. Khoa-Trưởng Tấn đã thêm một mốc. Ô. Hoạch lại cũng thêm một mốc. Thế là chúng ta đã có thêm 2 mốc, hơn là lúc trước. - GS. Bào: Bây giờ giữa Giáo-sư và sinh-viên chưa đề-nghị gì được. Hội-đồng còn phải nghiên-cứu lâu dài. Điều quan-trọng là đổi thành Phân-Khoa, nó có tự-trị hơn, không-khí sẽ hay hơn là ở Trường Cao-Đẳng. - GS. Thúc: Chuyện tranh-đấu của sinh-viên là để tới sự cải-biến thành Phân-Khoa. Vấn-đề đã được nêu ra từ trước năm 1961. Viện đã tán-thành, không hiểu vì lý-do gì không có kết-quả. Chúng ta hoàn-toàn đồng ý với Ô. Viện-Trưởng và Hội-đồng Đại-Học, nhưng quyền quyết-định thuộc Bộ và ở Phủ Chủ-Tịch. Xin vị Đại-diện Bộ tuyên-bố ý-kiến về quyết-định của Bộ. - SV. Đức: Xin ghi nhận ý kiến của GS. Thúc. Giải-pháp tranh-đấu trở thành Phân-Khoa chắc-chắn sẽ thành-công, và sẽ có thể bầu Khoa-Trưởng được. - Ô. Khoa-Trưởng Tấn: Sau khi trao đổi ý-kiến, chúng tôi nhận thấy Hội-đồng Đại-học và sinh-viên đã đồng ý. Vậy kết-luận: toàn-thể Hội-đồng ủng-hộ sinh-viên. - Ô. Viện-Trưởng: Tôi sẽ cố-gắng để thúc-đẩy cho mau. - SV. Đức: Sinh-viên kiến-trúc hân-hoan sự chấp-nhận của Hội-đồng. Tuy nhiên, sự chấp-thuận đó chưa chắc sẽ đem lại kết-quả rõ-rệt. Xin quý Vị cho một cái gì để anh em sinh-viên kiến-trúc ngừng tuyệt-thực và ngừng việc bãi-khóa. - GS. Thúc: Ngày nào có Nghị-định hay Sắc-lệnh cải-biến thành Phân-Khoa thì từ ngày đó tất cả các luật-lệ sẽ được áp-dụng. Hội-đồng Giáo-sư trường Kiến-Trúc sẽ thi-hành việc bầu-cử Khoa-Trưởng. - SV. Dân: Ngày nào bầu Khoa-Trưởng Trường Kiến-Trúc là ngày vui mừng của sinh-viên. - Ô. Hải, Đại-diện Bộ: Tôi nhận thấy nguyện-vọng của anh em sinh-viên kiến-trúc đổi Trường Cao-Đẳng thành Phân-Khoa Đại-Học, tất cả các Vị hiện-diện ở đây đều đồng ý. Nhưng anh em đòi hỏi có ngay văn-kiện hành-chánh cụ-thể-hóa việc cải-biến này thì không ai trả lời được. - Ô. Viện Trưởng: Tôi mong sớm chừng nào hay chừng nấy. - GS. Thúc: Trong cuộc tranh-đấu của sinh-viên kiến-trúc, có sự hiểu lầm của người ngoài. Cuộc tranh-đấu có tính-cách gây-cấn, tưởng rằng vì cá-nhân, nên vô nghĩa nhưng anh em sinh-viên đã giải-thích cuộc tranh-đấu là để đổi Trường Cao-Đẳng thành Phân-Khoa, chúng tôi rất đồng ý. Về thủ-tục thì nên nghĩ tới việc mà Công-Vụ sẽ hỏi quy-chế của Giáo-sư kiến-trúc sau này ra sao, còn Ngân-Sách sẽ hỏi tới chương-trình và bằng-cấp. Để có kết-quả cụ-thể trong việc này thì Bộ nên ra một văn-kiện xác-định trong một thời-gian nào đó Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc sẽ biến thành Phân-Khoa Đại-Học Kiến-Trúc. - Ô. Khoa-Trưởng Tú: Giáo-sư Thúc có lẽ cẩn-thận quá. Mới đây đã có sự thay đổi cơ-cấu. Ví dụ: Dược-Khoa, rồi Nha-Khoa đã tách rời Trường Y-Khoa hỗn-hợp để thành Phân-Khoa. Vậy việc biến Cao-Đẳng Kiến-Trúc thành Phân-Khoa thì chả có gì khó cả. - Ô. Viện-Trưởng: Anh em sinh-viên đừng đòi hỏi ngày thực-hiện việc cải-biến Cao-Đẳng thành Phân-Khoa. Tôi nhờ quý Vị giúp tôi để cho sinh-viên được thỏa-mãn. Ô. Đại-diện Bộ nên kiểm lại hồ-sơ cũ. - SV. Đức: Sẵn đây có GS. Thúc, vậy xin hỏi: Giờ phút này còn Hiến-pháp đã ban-hành, vậy Ô. Viện-Trưởng có quyền áp-dụng đúng Hiến-pháp mà không ai có thể ngăn-cản không? - Gs. Thúc: Từ nay cho tới lúc bầu-cử Tổng-Thống và Quốc-Hội thì còn lâu. Bây giờ bảo rằng căn-cứ vào Hiến-pháp để coi mình như là một chính-phủ trong chính-phủ quốc-gia thì không được. Cần phải đợi văn-kiện của Quốc-Hội chấp-nhận nguyên-tắc cụ-thể-hóa quyền tự-trị. - Ô. Viện-Trưởng: Xin Bộ Giáo-Dục chấp-thuận và ra Nghị-định nguyên-tắc. Viện sẽ bắt đầu thi-hành. - GS. Thúc: Cuộc tranh-đấu đã có kết-quả cụ-thể. Anh em sinh-viên kiến-trúc nên chấm dứt cuộc tranh-đấu vì sắp có cuộc viếng thăm của ngoại-quốc. - SV. Đức: Có thể chấp-thuận ngay, không cần đợi tới quyết-định của Bộ không? - Ô. Khoa-Trưởng Tú: Bây giờ Hội-đồng Đại-học đề nghị Ô. Ủy-Viên Giáo-Dục ký Nghị-định là xong. Anh em không cần thắc-mắc. Tôi nhắc lại: Trường Cao-Đẳng Sư-Phạm học 2 năm, nằm ngoài Viện. Thế mà thời Ô. Trình, Ô. Thế đã biến thành Phân-Khoa Đại-Học Sư-Phạm. Đó là tiền-lệ. Bây giờ ta hành-động theo tiền-lệ này, chắc-chắn có kết-quả. Anh em sinh-viên chớ nên quá thắc-mắc. - Ô. Hải, Đại-diện Bộ: Chúng tôi tới đây với tư-cách quan-sát-viên, không có quyền quyết-định gì. Chúng tôi đã thấy giữa Hội-đồng Đại-học và sinh-viên đã có sự thỏa-thuận. Chúng tôi sẽ trình Bộ để Bộ có quyết-định nhanh chóng. - GS. Thúc: Tôi đề-nghị Ô. Viện-Trưởng làm ngay đề-nghị để trình Bộ. - Ô. Phụ-Tá Khoa-Trưởng Biền: Tôi đề-nghị Ô. Viện-Trưởng tiếp-xúc ngay với Ô. Ủy-Viên. - SV. Đức: Anh em tuyệt-thực đã nói chỉ ngừng tuyệt-thực khi kết-quả đã được thực-hiện. - Ô. Phụ-Tá Khoa-Trưởng Biền: Đây, các anh em sinh-viên chỉ nên đòi cái gì thuộc quyền Đại-học. - Ô. Viện Trưởng: Tôi cũng trả lời anh em sinh-viên như vậy. Tôi sẽ đề-nghị theo quyết-định của Hội-đồng. - Ô. Khoa-Trưởng Tấn: Anh em nghĩ lại và chờ đợi một thời-gian, chứ đòi hỏi phải có kết-quả ngay thì không thể nào có được. - GS. Lắm: Chúng tôi hết sức vui mừng khi thấy quý Vị giúp Trường Kiến-Trúc để thành Phân-Khoa. Đối với cá-nhân tôi, tôi thấy đây là một dịp rất vui. - Ô. Viện-Trưởng: Ngày mai sẽ có nhiều Giáo-sư ngoại-quốc tới đây, tôi sẽ tiếp họ tại đây, tôi đặt cho anh em vấn-đề là làm sao cho ngoại-quốc đừng thấy cảnh-tượng này. Tôi xin anh em loan-báo cho các bạn biết kết-quả của buổi họp. Ngày mai, công-văn sẽ lên Bộ. Trong một thời-gian nào đó không có kết-quả, chúng tôi sẽ tranh-đấu với anh em. - SV. Đức: Xin quý Vị định rõ một thời-gian để Bộ Giáo-Dục thực-hiện. - Ô. Viện-Trưởng: Tôi sẽ đích-thân tiếp-xúc với Bộ và sẽ cho anh em biết kết-quả. - Ô. Khoa-Trưởng Tấn: Ô. Viện-Trưởng tiếp-xúc với Ô. Ủy-Viên. - SV. Đức: Chúng tôi thấy rằng hảo-ý của Hội-đồng hình như chưa hội đủ yếu-tố chấm-dứt việc bãi-khóa. Chúng tôi xin có yếu-tố nào đó để nói chuyện với anh em. Ví dụ: nên có một văn-thư để anh em xem. - Ô. Phụ-Tá K.T. Biền: Tôi đề-nghị làm một thông-cáo. - SV. Đức: Chúng tôi không dám nghi-ngờ hảo-ý của Ô. Viện-Trưởng và của quý Thầy. Chúng tôi sợ rằng lời nói đi nói lại với người khác, không nói được hết chi-tiết, thành thử sẽ lại gây ra sự hiểu lầm. Chúng tôi rất vui thấy chúng ta có một bản thông-cáo. --------------- Ô. Viện-Trưởng mời Ô. Phụ-Tá Khoa-Trưởng Đặng-Vũ-Biền và Ô. Giáo-sư Bùi-Xuân-Bào thành-lập một Tiểu-Ban soạn-thảo thông-cáo. Ô. Viện-Trưởng ký thông-cáo sau khi Hội-đồng đã thông qua. Một Giáo-sư Trường Kiến-Trúc đọc bảng thông-cáo này cho sinh-viên nghe. Hội-Đồng giải tán hồi 18 giờ 30./. --------------- Saigon, ngày 7 tháng 4 năm 1967 CHỦ-TỊCH BS. TRẦN-QUANG-ĐỆ THƯ-KÝ, Chủ-Sự Phòng Học-Vụ NGUYỄN-VĂN-PHỚI [NNS thực hiện việc số hóa tài liệu của Phủ Thủ tướng từ Trung tâm Lưu trữ Quốc gia] [Ảnh] Từ kho thư tịch trong Thư viện Đại Học Kiến Trúc
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 2, 2021 19:15:23 GMT 9
Nguyễn Ngọc Sơn/ Facebook . “Trong cuộc sống dồn dập đấu tranh, nhà nghệ sĩ diễn lại tấn tuồng đời trên sân khấu, chúng ta rút ra những bài học Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa... Ngắm bức tranh Guernica của Picasso, nhìn bức tượng Thương Tiếc của Nguyễn Thanh Thu ở Nghĩa Trang Quân Đội, chúng ta dường như đọc được ý tưởng hòa bình...” NGHỆ THUẬT VÀ TÂM TƯ CỦA MỘT THẾ HỆ TRÍ THỨC QUỐC GIA [*] - đã từng diễn ra dưới khung trời Đại Học Kiến Trúc - (trích phần C. LỜI GIỚI THIỆU [**] từ một Luận án Tốt nghiệp Văn bằng Kiến Trúc Sư đệ trình ngày 19-2-1974 do sinh viên Đỗ-Thiện-Tâm thực hiện dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Huỳnh-Kim-Mãng) ******************** LỜI GIỚI THIỆU I. Nghệ thuật và đời sống II. Nhu cầu thiết lập một Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật III. Địa điểm xây cất ******************** I. NGHỆ THUẬT VÀ ĐỜI SỐNG Đời sống của chúng ta sẽ vô vị biết bao nếu chúng ta chỉ biết chú trọng đến việc giải quyết các nhu cầu vật chất. Thật vậy, con người từ thời thượng cổ, ngoài những lúc phải tranh đấu để sống, còn biết dùng thì giờ nhàn rỗi của mình để vẽ, điêu khắc các hình tượng thô sơ trên các vách đá, hang động nơi cư trú. Ngày nay, tại các xã hội kém văn minh nhất, con người cũng biết tự trang điểm mình bằng các vòng hoa, bằng vỏ sò, vỏ ốc, biết dệt vải nhiều màu sắc để may thành quần áo, biết sửa sang nhà cửa của mình cho đẹp nhất. Nghệ thuật là một phần của sinh hoạt văn hóa, bao gồm tất cả các bộ môn có tính cách thẩm mỹ, văn nghệ như: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, ca nhạc, vũ thuật, điện ảnh... Nghệ thuật tự nó đã có tính cách phổ biến và cảm thông. Một nhạc sĩ đặt ra một bản nhạc hay, muốn được trình diễn, muốn cho nhiều người cùng nghe, cùng thưởng thức; một họa sĩ vẽ một bức tranh đẹp cũng muốn được trưng bày, muốn cho nhiều người cùng chiêm ngưỡng. Chúng ta biết được các tác phẩm nghệ thuật nhờ chúng được phổ biến. Làm sao chúng ta không rung động trước những nét nhạc quê hương của Trịnh Công Sơn. “Xác người nằm bơ vơ Dưới mái hiên chùa Trong giáo đường thành phố Trên thềm nhà hoang vu...” [1] Chúng ta cùng luyến tiếc khi nhìn lại bức tranh Chùa Một Cột hay Hồ Hoàn Kiếm. Chúng ta sống lại một thời xa xưa huy hoàng khi ngắm nhìn các lăng tẩm ở đất Thần Kinh hay những tháp Chàm ở Qui Nhơn, Đà Nẵng. Nhà nghệ sĩ thực hiện tác phẩm của mình trong sự say mê, tin tưởng. Có nhìn tận mắt một nhà điêu khắc hay một người thợ chạm đang làm việc, có nhìn một diễn viên hát bội trên sân khấu, chúng ta mới cảm thông cái tính chất nhiệt thành của nghệ thuật. Mọi người trong chúng ta đều có nghệ sĩ tính, không nhiều thì ít, nhưng không phải ai cũng có thể sáng tác, trình diễn được; và không thưởng thức được nghệ thuật cũng là một điều thiếu sót lớn. Nhà nghệ sĩ cố gắng làm thật đẹp tác phẩm của mình vì tha nhân, như một phần tỉa một cành cây kiểng, làm một câu đối, cắm một cành hoa. Tất cả đều là nghệ thuật. “Uống một chén trà xanh, tôi đã chấm dứt chiến tranh” [2]. Đó là câu nói của một nhà hiền triết Đông Phương. Nghệ thuật tự nó còn mang tính chất đạo đức. Chúng ta ai cũng ước mơ một thế giới hòa bình, ấm no, một môi trường xung quanh hiền dịu, có âm nhạc du dương, có cây to bóng mát, có hoa đẹp chim kêu, có dòng sông xanh nước trôi êm đềm. “Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối Nghe suối róc rách trôi, hoa lừng hương gió ngát Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi...” [3] Chúng ta không thể chối cãi được tính chất giáo dục của nghệ thuật. Chúng ta học võ, học tô màu, làm thủ công ở những năm tiểu học. Lớn lên chúng ta tìm hiểu thiên nhiên, phân tích, tổng hợp và cuối cùng chiêm ngưỡng thiên nhiên. Người phụ nữ Nhật Bản nào cũng biết nghệ thuật cắm hoa, người phụ nữ Âu Châu nào cũng có khả năng trang trí căn nhà của mình cho trang nhã. Chung quanh chúng ta cái gì cũng có màu sắc, cũng có trật tự. Nghệ thuật cần được tiêm nhiễm, huấn luyện từ nhỏ. Trong cuộc sống dồn dập đấu tranh, nhà nghệ sĩ diễn lại tấn tuồng đời trên sân khấu, chúng ta rút ra những bài học Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa... Ngắm bức tranh Guernica của Picasso [4], nhìn bức tượng Thương Tiếc của Nguyễn Thanh Thu ở Nghĩa Trang Quân Đội [5], chúng ta dường như đọc được ý tưởng hòa bình nơi tác giả. Cá tính của một dân tộc cũng được biểu lộ một cách rõ ràng qua nền nghệ thuật của dân tộc đó. Và dân tộc nào cũng hãnh diện về nền nghệ thuật của mình. Ta yêu mến quê hương qua các mái đình ngói đỏ, qua chiếc cầu tre lỗi nhịp gập ghềnh. Ta yêu khóm trúc bờ ao, yêu đôi guốc đẹp, yêu màu thiên thanh. “Rằng yêu câu hát truyện Kiều Lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta” [6] Làng ta có cái trống chầu, có gánh hát bội, có đoàn cải lương, có Ông Tiên Chỉ trang nghiêm, có đám cưới nhà quê tàn lọng sặc sỡ, với áo dài khăn đóng, với nón cụ quai thao, với pháo nổ đì đùng như ba ngày Tết. Chúng ta hãnh diện với điệu vũ quay tơ, với lớp múa quạt, với nền võ thuật Tây Sơn. Chúng ta yêu mến mái nhà tranh Bình Định, cái lu nước, chiếc chõng tre. Tất cả là những cá tính làm cho chúng ta dù có xa quê hương nhưng tâm hồn không thể tách rời khỏi quê hương được. Chiến tranh qua đi như cơn bão tố, làm xáo trộn tất cả nền nếp xã hội, sinh hoạt kinh tế, chính trị, giáo dục của chúng ta. Nghệ thuật của chúng ta sẽ đi về đâu, trong một hoàn cảnh đất nước quá nghèo nàn. Nghệ sĩ phải chạy theo từng chén cơm manh áo, quần chúng lại không được dư dả để thưởng thức nghệ thuật. Chúng ta phải đau lòng khi thấy nền nghệ thuật quốc gia đang trên đường xuống dốc. Chỉ còn lại vài gánh hát bội, hát chèo còn sống sót, một nền sân khấu cải lương lai căng, hỗn tạp, chỉ chú trọng đến một số khán giả thưởng thức nghệ thuật dễ dàng. Nền nghệ thuật điện ảnh của chúng ta vẫn còn thô sơ quá. Chúng ta chỉ đủ khả năng thực hiện những phim xã hội, ít kỹ thuật, ít tốn kém. Phim ảnh của chúng ta chưa cạnh tranh nổi với các phim ngoại quốc, nhứt là phim võ thuật Trung Hoa. Các nhà họa sĩ, các điêu khắc gia không thực hiện được những tác phẩm lớn vì thiếu phương tiện, vì không có người tiêu thụ. Trước đây khi còn nhiều người ngoại quốc ở Việt Nam thì sinh hoạt nghệ thuật có vẻ phồn thịnh, nhưng nhiều tác phẩm lại hướng về thị hiếu của số khách hàng này mà quên đi dân tộc tính. Trong một đất nước chiến tranh, nền kiến trúc cũng không thể phát triển được. Nhật Bản sau hàng chục năm tìm tòi mới tiến triển đến một nền kiến trúc độc đáo như ngày nay. Chúng ta phải công nhận rằng nghiên cứu một kiến trúc cho hợp với nền kỹ thuật mới, với vật liệu mới thì dễ nhưng muốn giữ được cái cá tính của dân tộc trong kiến trúc thì thật là khó. Chúng ta không đủ thời gian, tài chánh và nhân tài để nghiên cứu sâu rộng và lâu dài. Chính phủ đã lưu tâm đến vấn đề và mỗi năm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa có đặt ra “giải thưởng văn hóa nghệ thuật” với mục đích khuyến khích, thi đua sáng tác và nâng đỡ một số văn nghệ sĩ có tác phẩm trúng giải. Chủ trương của giải thưởng thì thật là thiết thực và rộng rãi: - Đại chúng - Dân tộc - Khai phóng Tuy nhiên, sinh hoạt nghệ thuật của một quốc gia cần phải nhộn nhịp hơn, đều đặn hơn và tự do hơn. Có nhiều tác phẩm cần được nâng đỡ từ lúc còn phôi thai. Nhiều tác phẩm cần có sự cộng tác của nhiều nghệ sĩ quốc nội và quốc ngoại. Vậy phải có riêng một cơ quan đặc trách về việc này. ******************** II. NHU CẦU THIẾT LẬP MỘT HÀN LÂM VIỆN NGHỆ THUẬT Trước tiên, chúng ta cần định nghĩa Hàn Lâm Viện là gì? Theo Từ Điển Việt Nam Phổ Thông của Đào Văn Tập và Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh: Hàn Lâm: là rừng bút, chỉ nơi hội tụ của các bậc văn nhân, học giả. Hàn Lâm Viện (nghĩa xưa): Trung Hoa Hàn Lâm Viện lập nên để khởi thảo các chiếu sắc hoặc các văn kiện trong triều. Ở nước ta, Hàn Lâm Viện là quan hàm, có chia ra nhiều thứ bậc (thị độc học sĩ, thị giảng học sĩ, thị độc, thị giảng). Trước tác, tu soạn, biên tu, điển tịch, điển bạ, cung phụng, đãi chiếu. (nghĩa nay): Học viện gồm nhiều nhà bác học, học giả, văn gia, nghệ sĩ. Theo Từ điển Larousse: Académie: n.f (Italion, accademia, emprunté au grec) Société de gens de lettres, des savant ou d’artistes. Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật cũng nằm trong ý nghĩa đó và mang thêm tính chất đại chúng với một quan niệm khá rộng rãi: 1 - Giữ gìn nghệ thuật: Các tác phẩm giá trị phải được giữ gìn, tồn tại và được nâng cao lên hàng quốc gia nghệ phẩm càng lâu đời càng có giá trị. 2 - Phổ biến, phát huy nghệ thuật: Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật sẽ là nơi công cộng, mọi người đều có thể đến để tra cứu, học hỏi. Hàn Lâm Viện có nhiệm vụ phổ biến cho quần chúng biết các tác phẩm giá trị và làm sáng tỏ thêm ngành nghệ thuật nào đang bị lu mờ. 3 - Lượng giá trị nghệ thuật: Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật còn có nhiệm vụ lượng giá các tác phẩm nghệ thuật, đặt ra các giải thưởng để khuyến khích sáng tạo, sưu tầm, nâng đỡ các nhân tài, trợ cấp bằng phương tiện, tài chánh để hoàn thành tác phẩm. 4 - Hướng dẫn nghệ thuật: Trong khi lượng giá, Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật đảm trách luôn việc hướng dẫn sáng tác, trình độ thưởng thức của quần chúng càng ngày sẽ càng cao hơn. Hàn Lâm Viện sẽ hướng dẫn ngành giáo dục, đảm trách việc huấn luyện nghệ thuật cho học sinh. 5 - Huy động sự hợp tác giữa các nghệ sĩ quốc nội và quốc ngoại: Biết người để tiến bộ, Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật sẽ đứng ra liên lạc để hiểu biết các ngành nghệ thuật nước ngoài, đưa ngành nghệ thuật quốc gia phổ biến ra ngoại quốc, khuyến khích nâng đỡ nghệ sĩ tham dự các giải thưởng quốc tế, phối hợp sáng tác giữa các nghệ sĩ quốc nội và quốc ngoại. Cá tính cũng như sự tiến bộ của dân tộc sẽ được nhìn qua nghệ thuật của dân tộc đó. Nghĩ đến việc thiết lập một Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật bây giờ cũng đã là muộn nhưng thà có còn hơn không. Nhận thấy tầm mức quan trọng đó, chúng tôi mạnh dạn trình bày dự án thiết lập “Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật” tại Saigon với hoài bão được nhìn thấy một nền nghệ thuật Việt Nam tương lai mang nhiều cá tính, đại chúng và khai phóng. ******************** III. ĐỊA ĐIỂM XÂY CẤT Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật sẽ được đề nghị xây cất tại Trung Tâm Thủ Đô Saigon, góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quốc Toản, bên cạnh Học Viện Quốc Gia Hành Chánh thuộc Quận 10 Đô Thành. Địa điểm này hiện là căn cứ 40 Công Binh Kiến Tạo, sẽ được dời ra ngoại ô một ngày gần đây, theo các chiều hướng của Thiết kế Đô thị. Xung quanh sẽ là một khối dân đông đúc, là trung tâm của các cư xá sinh viên Trần Quý Cáp, Phục Hưng, Đắc Lộ, Minh Mạng; gần gũi các Trung Tâm Phú Thọ, Đại Học Khoa Học, Sư Phạm, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh v.v... Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật tương lai dù to lớn đến đâu vẫn sẽ nhỏ đối với quốc gia. Tuy nhiên chúng tôi vẫn hy vọng vòng tay của Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật sẽ mở ra toàn quốc để sinh hoạt nghệ thuật quốc gia được ngày càng nhộn nhịp với cái khí thế trăm hoa đua nở. Hình: trích từ trang bìa Luận án Tốt nghiệp Văn bằng Kiến Trúc Sư đệ trình ngày 19-2-1974 tại Đại Học Kiến Trúc do sinh viên Đỗ-Thiện-Tâm thực hiện Link Phần A. Cảm tạ Giáo sư và Phần B. Cảm tạ thân nhân: www.facebook.com/photo.php?fbid=2445934515430516... [*] Tiêu đề do người số hóa văn bản gốc (NNS) tạm đặt [**] “Phần A. Cảm tạ Giáo sư” và “Phần B. Cảm tạ thân nhân” luôn được đặt trước “Phần C. Lời giới thiệu” trong một Luận đồ án Tốt nghiệp Văn bằng Kiến trúc sư đã từng diễn ra tại Đại Học Kiến Trúc Sài Gòn. Ngày nay, cấu trúc này gần như không còn vì rất nhiều lý do. [1] Bài ca dành cho những xác người, 1969 - Trịnh Công Sơn, sáng tác sau Tết Mậu Thân 1968 (chú thích này và các chú thích còn lại do người số hóa văn bản gốc (NNS) thực hiện) [2] “drinking a bowl of green tea I stop the war” - một câu thơ với cảm hứng từ Haiku Nhật Bản được Paul Reps viết trong cuốn sách nổi tiếng “Zen Telegrams” ông thực hiện trong suốt những năm tháng của chiến tranh Việt Nam [3] Suối mơ, 1942 - Văn Cao (19 tuổi) và Phạm Duy (21 tuổi) đồng sáng tác [4] Guernica, 1937 - Pablo Picasso sáng tác tại Paris, được đánh giá là bức tranh gây chấn động nhất thế kỷ XX, hiện được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia Reina Sofía, Madrid [5] Thương tiếc, 1966 - điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu [6] Tình ca, 1969 - Phạm Duy
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 2, 2021 19:27:21 GMT 9
"đã gieo vào tâm-hồn con những tinh-hoa từ thuở ấu-thơ" MỘT NỀN NẾP GIÁO DỤC 01 - đã từng diễn ra dưới khung trời Đại Học Kiến Trúc - [trích phần A. CẢM TẠ GIÁO SƯ và phần B. CẢM TẠ THÂN NHÂN mở đầu một Luận-đồ-án Tốt-nghiệp Văn-bằng Kiến-Trúc-Sư đệ-trình vào tháng Hai năm 1974] Nguyễn Ngọc Sơn/ facebook
------------------------------ [TRANG 1] KÍNH ĐỆ HỘI-ĐỒNG GIÁO-SƯ KHẢO-SÁT LUẬN-ĐỒ-ÁN TỐT-NGHIỆP ------------------------------ [TRANG 2] CHÁNH CHỦ-KHẢO: - Giáo-sư TÔ-CÔNG-VĂN, Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Laureat de la SADG Paris Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học PHÓ CHỦ-KHẢO: - Giáo-sư HUỲNH-KIM-MÃNG Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Phó Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-sư LÊ-VĂN-LẮM Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Phó Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học ------------------------------ [TRANG 3] QUÝ VỊ GIÁO-SƯ GIÁM-KHẢO HỘI-ĐỒNG - Giáo-sư NGUYỄN-QUANG-NHẠC Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon (Pháp-nhiệm 1967-1970) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-Sư PHẠM-VĂN-THÂNG Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon (Pháp-nhiệm 1970-1973) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-sư BÙI-QUANG-HANH Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Giáo-sư Kiến-tạo Đại-cương và Lý-thuyết Kiến-trúc - Giáo-sư TRẦN-PHI-HÙNG Kiến-Trúc-Sư Viện Đại-Học Saigon Master of Regional Planning (Cornell University U.S.A.) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-sư ĐỖ-BÁ-VINH Kiến-Trúc-Sư, E.S.A. Dalat Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học - Giáo-sư VŨ-TÒNG Kiến-Trúc-Sư Viện Đại-Học Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học Phụ khảo môn Kiến-tạo Đại-cương - Giáo-sư PHẠM-MINH-CẢNH Kỹ-Sư Công-tác Dân-sự Học-Viện Kỹ-Thuật Normandie (I.I.N.) Pháp Giáo-sư môn Bê-tông Cốt-sắt - Giáo-sư TÔN-THẤT-ĐỔNG Kỹ-Sư Kiều-lộ Paris Giáo-sư Sức Chịu-đựng Vật-liệu - Giáo-sư MAI-HIỆP-THÀNH Kỹ-Sư Công-chánh Giáo-sư Địa-chất-học và Địa-thể-học - Giáo-sư TRẦN-HỮU-CHÍ Kỹ-Sư Quang-điện – Luân-Đôn (Anh) Giáo-sư Vật-lý và Hóa-học Áp-dụng ------------------------------ [TRANG 4] Chân thành TRI ÂN ------------------------------ [TRANG 5] Giáo-sư TÔ-CÔNG-VĂN Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Laureat de la SADG Paris Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học • đã cho tôi những lời giảng dạy quý báu và khuyến-khích tôi trong suốt thời-gian học-tập; • đã cho tôi những ý kiến quý báu trong việc thực-hiện Luận-đồ-án Tốt-nghiệp này. ------------------------------ [TRANG 6] Giáo-sư NGUYỄN-QUANG-NHẠC Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon (Pháp-nhiệm 1967-1970) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Lịch-sử Kiến-trúc • đã tận-tâm chỉ dạy tôi trong suốt thời-gian học-tập, nhất là trong thời-gian cấp I Đồ-án Kiến-trúc Sáng-tác-học; • đã tận-tình hướng-dẫn và bảo trợ cho tôi hoàn-thành Luận-đồ-án Tốt-nghiệp này; • đã ưu-ái khuyến-khích tôi nối tiếp sự học dở-dang trong niềm tin-tưởng mãnh-liệt của sự thành-công; • đã truyền thụ cho tôi những kinh-nghiệm quý báu của nghề-nghiệp. ------------------------------ [TRANG 7] Giáo-sư PHẠM-VĂN-THÂNG Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon (Pháp-nhiệm 1970-1973) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Phối-cảnh • đã xây-dựng cho tôi một “tinh-thần kiến-trúc” từ ngày bước chân vào trường Đại-Học Kiến-Trúc (1958); • đã ưu-ái khuyến-khích tôi nối tiếp sự học dở-dang; • đã tận-tâm chỉ dạy tôi trong suốt thời-gian học-tập. ------------------------------- [TRANG 8] - Giáo-sư HUỲNH-KIM-MÃNG Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Phó Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Thiết-kế Đô-thị - Giáo-sư LÊ-VĂN-LẮM Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Phó Khoa-Trưởng Đại-Học Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Thiết-kế Đô-thị - Giáo-sư BÙI-QUANG-HANH Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Đô-thị-gia I.U.U.P. Paris Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học, Kiến-tạo Đại-cương và Phép Thiết-thể • đã tận-tâm chỉ dạy tôi trong suốt thời-gian học-tập. ------------------------------- [TRANG 9] - Giáo-sư TRẦN-VĂN-TẢI Kiến-Trúc-Sư D.P.L.G. Paris Nguyên Giám-Đốc Trường Cao-Đẳng Kiến-Trúc Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc, Kiến-trúc Sáng-tác-học và Kiến-tạo Đại-cương • đã tận-tâm chỉ giảng dạy cho tôi những Lý-thuyết căn-bản về Kiến-trúc Sáng-tác-học và Kỹ-thuật Kiến-tạo; • đã cho tôi những lời chỉ dẫn quý báu trong suốt thời-gian học-tập; • đã ưu-ái khuyến-khích tôi nối tiếp sự học dở-dang. - Giáo-sư TRẦN-PHI-HÙNG Kiến-Trúc-Sư Viện Đại-Học Saigon Master of Regional Planning (Cornell University U.S.A.) Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc và Kiến-trúc Sáng-tác-học • đã tận-tình khuyến-khích tôi nối tiếp sự học dở-dang; • đã cho tôi những lời chỉ dẫn quý báu trong thời-gian cấp II Đồ-án Kiến-trúc Sáng-tác-học. ------------------------------ [TRANG 10] - Giáo-sư PHẠM-MINH-CẢNH Kỹ-Sư Công-tác Dân-sự Học-Viện Kỹ-Thuật Normandie (I.I.N.) Pháp Giáo-sư môn Bê-tông Cốt-sắt • đã tận-tâm giảng dạy tôi trong suốt thời-gian học-tập; • đã xây-dựng cho tôi một căn-bản kỹ-thuật trong môn Bê-tông Cốt-sắt. - Giáo-sư VÕ-ĐÌNH-DIỆP Kiến-Trúc-Sư Viện Đại-Học Saigon Giáo-sư Lý-thuyết Kiến-trúc • đã tận-tình đốc-chí và giúp-đỡ tôi trong tình thân huynh đệ. ------------------------------ [TRANG 11] - Giáo-sư TRẦN-VĂN-BẠCH Hình-học Họa-hình - Giáo-sư BÙI-HỮU-TUẤN Hình-học Họa-hình - Giáo-sư LÊ-KIM-ĐÍNH Toán-học Đại-cương - Giáo-sư PHẠM-MINH-DƯỠNG Toán-học Đại-cương và Sức Chịu-đựng Vật-liệu - Giáo-sư TÔN-THẤT-ĐỔNG Sức Chịu-đựng Vật-liệu - Giáo-sư LOUIS PINEAU Lịch-sử Kiến-trúc - Giáo-sư NGUYỄN-HỮU-THIỆN Pháp-chế và Tổ-chức Nghề-nghiệp - Giáo-sư VŨ-TÒNG Lý-thuyết Kiến-trúc - Giáo-sư ĐỖ-BÁ-VINH Lý-thuyết Kiến-trúc - Giáo-sư NGUYỄN-TRỌNG-KHA Lý-thuyết Kiến-trúc - Giáo-sư LÊ-VĂN-HỢI Vật-lý Hóa-học Áp-dụng - Giáo-sư VÕ-ĐỨC-DIỄN Vật-lý Hóa-học Áp-dụng - Giáo-sư TRẦN-HỮU-CHÍ Quang-học và Điện-học - Giáo-sư NGÔ-KHẮC-TRÂM Ước lượng và Kiểm-điểm Vật-liệu - Giáo-sư MAI-HIỆP-THÀNH Địa-chất và Địa-thể-học - Giáo-sư NGUYỄN-VĂN-ANH Hội-họa và Điêu-khắc - Giáo-sư VÕ-DOÃN-GIÁP Hội-họa và Điêu-khắc - Giáo-sư MAI-LANG-PHƯƠNG Trang-trí Nội-ốc - Giáo-sư TRỊNH-HỮU-ĐỊNH Trang-trí Nội-ốc • đã hết lòng giảng dạy và dìu-dắt tôi trong suốt cuộc đời Sinh-viên Kiến-Trúc đằng-đẵng. ------------------------------ [TRANG 12] - Chuẩn Tướng NGUYỄN-VĂN-CHỨC Cục-Trưởng Cục Công-Binh kiêm Chỉ-Huy-Trưởng Binh-Chủng Công-Binh - Chuẩn Tướng NGUYỄN-CHẤN Nguyên Cục-Trưởng Cục Công-Binh kiêm Chỉ-Huy-Trưởng Binh-Chủng Công-Binh - Đại Tá NGUYỄN-THIỆN-NGHỊ Cục-Phó Cục Công-Binh Đặc-Trách Kiều-Lộ và Tiếp-Vận / CCB - Đại Tá LÊ-VĂN-NGHĨA Cục-Phó Cục Công-Binh Đặc-Trách Hành-Chánh và Kỹ-Thuật / CCB - Đại Tá TRẦN-QUÝ-MINH Nguyên Chánh-Sự-Vụ Sở Kỹ-Thuật / CCB - Đại Tá TRƯƠNG-KỲ-TRUNG Liên-Đoàn-Trưởng Liên-Đoàn 5 CBKT - Đại Tá TRỊNH-KIM-QUY Nguyên Chánh-Sự-Vụ Sở Nhân-Huấn / CCB - Trung Tá LỮ-ĐÌNH-BÁ Nguyên Tiểu-Đoàn-Trưởng TĐ.303-CBCĐ Tiểu-Đoàn-Trưởng Tiểu-Đoàn 62 CBKT - Trung Tá LÊ-HỒNG-PHÚC Phụ-Tá Điều-Hành và Học-Vụ Trường Cao-Đẳng Kỹ-Thuật Công-Binh - Thiếu Tá NGUYỄN-ĐOÀN-PHƯỢNG Nguyên Tiểu-Đoàn-Phó TĐ.303-CBCĐ Quận-Trưởng Quận Hòa Lạc – GÒCÔNG - Thiếu Tá NGUYỄN-VĂN-NGÀ Nguyên Chánh-Văn-Phòng Cục-Trưởng CCB Giám-Đốc Nha Tạo-Tác Tổng Cục Gia-Cư • đã ưu-ái khuyến-khích và nâng-đỡ tôi trên bước đường học-tập để đi đến thành-công. ------------------------------ [TRANG 13] - Luật-sư HUỲNH-NGỌC-ANH Phó Chủ-Tịch Hiệp-Hội Nữ Luật-Gia Quốc-Tế - Giáo-sư Thạc-sĩ NGUYỄN-TƯ-BÂN Thượng Nghị-Sĩ - Bác-sĩ LÊ-VĂN-THÔNG Thượng Nghị-Sĩ - Linh-Mục HỒ-VĂN-VUI Hội-Đồng Kinh-Tế Xã-Hội / QG • ĐÃ HẾT LÒNG ĐỐC-CHÍ và GIÚP-ĐỠ TÔI HOÀN-THÀNH LUẬN-ĐỒ-ÁN TỐT-NGHIỆP NÀY. - Thầy NGUYỄN-VĂN-SƯ Tiểu-Học Bạc-Liêu - Thầy LÂM-VĂN-LUÔNG Tiểu-Học Cầu-Kho Saigon • ĐÃ GIEO VÀO TÂM-HỒN CON NHỮNG TINH-HOA TỪ THUỞ ẤU-THƠ. ------------------------------ [TRANG 14] KÍNH DÂNG HƯƠNG HỒN CHA • một tài hoa đã sớm lìa bỏ đàn con từ thuở con còn ấu-thơ; • đã nuôi dưỡng trong con một giòng máu Kiến-trúc với ngôi nhà mà Cha đã tự tay lập đồ-án, làm mô-hình và chỉ-huy thực-hiện và nơi đó chúng con đã sống qua những ngày ấu-thơ đầy hạnh-phúc trước chiến-tranh. KÍNH DÂNG MẸ • MẸ đã tận-tụy hy-sinh cả cuộc đời cho chúng con, nhất là sau khi Cha đã nằm xuống giữa cảnh khói lửa triền-miên; • MẸ đã và đang dành cho chúng con tất cả sự thương-yêu và dạy-dỗ để chúng con nên người. * Tất cả lòng hiếu-thảo của con. * Cầu xin Cha Mẹ nhận kết-quả ngày hôm nay như là chút báo đền công-ơn sanh-thành dưỡng-dục. KÍNH DÂNG HƯƠNG HỒN BA KÍNH DÂNG MÁ • đã dành cho con tình yêu-thương trọn-vẹn. * TẤT CẢ LÒNG HIẾU-THẢO CỦA CON. ------------------------------ [TRANG 15] CÁC BẰNG HỮU: - VŨ-BÁ-CƯỜNG – Kiến-Trúc-Sư - NGUYỄN-VĂN-CƯỜNG – Cao học Luật-Khoa – Luật-Sư - NGUYỄN-THANH-DANH – Thiếu Tá Phó Giám-Đốc Trung-Tâm 4 Quốc-Gia Phục-Hồi - HOÀNG-NGUYÊN-ĐÁN – Cao học Chính-Trị/ Hội-Đồng Kinh-Tế Xã-Hội - AO-VĂN-ĐÁNG – Đại Úy Công-Binh 30 - MAI-KIM-ĐỈNH – Cao học Chính-Trị/ Giáo-sư Viện Đại-Học Dalat - NGUYỄN-CHÁNH-ĐOAN – Cao học Kinh-Tế/ Giáo-sư Viện Đại-Học Dalat - CHU-VĂN-GIANG – Kiến-Trúc-Sư/ Cục Công-Binh - VŨ-SINH-HIỀN – Cao học Chính-Trị/ Giáo-sư Viện Đại-Học Cơ-Đốc - NGUYỄN-PHI-HOÀNG – Cao học Chính-Trị/ Giáo-sư Trưởng Công-Tác Xã-Hội - HÀ-CÔNG-HÒE – Kỹ-Sư Công-Chánh - BÙI-HÙNG-KHOÁT – Cao học Kinh-Tế/ Đại-Học Luật-Khoa - DƯƠNG-ĐĂNG-KHUÊ – Đại Úy Công-Binh 5 - PHAN-QUANG-NẠI – Dược-Sĩ - NGUYỄN-NGỌC-NHÂM – Kiến-Trúc-Sư - PHẠM-VĂN-NHO – Đại Úy Công-Binh 30 - ĐỖ-HOÀNG-NỞ – Kiến-Trúc-Sư - VƯƠNG-TỬ-NGOẠN – Kiến-Trúc-Sư - NGUYỄN-QUANG-OÁNH – Cao học Chính-Trị/ Giáo-sư - NGUYỄN-PHÚC-QUỲNH-THUYÊN – Kiến-Trúc-Sư - ĐINH-VIỆT-THỨC – Bác-Sĩ Y-Khoa/ Giáo-sư Trường Quân-Y/ QLVNCH - ĐỒNG-HỮU-TRÍ – Cao học Luật-Khoa/ Thiếu Tá Giảng-sư Học-Viện Cảnh-Sát Quốc-Gia ------------------------------ [TRANG 16] Quý vị Nhân viên Trường Đại-Học Kiến-Trúc Saigon ĐÃ DÀNH NHIỀU DỄ-DÀNG VÀ TẬN-TÌNH GIÚP ĐỠ TÔI TRONG SUỐT THỜI-GIAN HỌC-TẬP TẠI TRƯỜNG. ------------------------------ [TRANG 17] VÀ CÁC BẠN ĐỒNG MÔN CÙNG CÁC NÈGRES TRONG SUỐT 15 NĂM MIỆT-MÀI TRÊN BẢNG VẼ HUỲNH-CHÁNH-HƯNG LỢI-NGUYÊN-AN NGUYỄN-THÁI-BÌNH PHẠM-BÁCH-PHI NGUYỄN-VĂN-MINH PHẠM-TƯỜNG-HUYÊN PHẠM-TƯ-CƯỜNG TRẦN-NGỌC-MINH NGUYỄN-CÔNG-KHIÊM LÊ-SƠN-TÙNG VŨ-TRỌNG-AN LÊ-ĐỊNH DƯƠNG-PHƯỚC-LUYẾN NGUYỄN-VĂN-TRƯỚC NGUYỄN-VĂN-ÚT TRẦN-ANH NGUYỄN-TRI-PHƯƠNG NGUYỄN-NGỌC-DŨNG CHU-VĂN-DUYÊN NGUYỄN-THỊ-NĂNG ĐỖ-THANH-SƠN TÔ-THẾ-MẠNH NGUYỄN-NGỌC-THÊM TRÂN-TRỌNG-THUYẾT LƯU-THỊ-ÁNH NGUYỄN-ANH-DŨNG NGÔ-ĐỨC-HẢI TÔN-THẤT-HẬU NGUYỄN-KIM-NGÂN TRẦN-HỮU-NGHĨA PHẠM-VĂN-PHƯỚC PHẠM-XUÂN-SƠN CAO-ANH-TUẤN VÕ-VĂN-TUẤN NGUYỄN-ANH-TUẤN LƯU-THĂNG NGUYỄN-CHI-TRANG NGUYỄN-THỊ-XINH NGUYỄN-XUÂN-MAI-XOANG Đã đem hết tim óc để giúp tôi hoàn thành Luận-đồ-án Tốt-nghiệp này. ------------------------------ [TRANG 18] Tất cả thương yêu • Cho EM, người bạn đường từ thuở ấu-thơ cho đến lúc bạc đầu • Cho các con: - NGUYỄN-ANH-QUÂN - NGUYỄN-ANH-LINH - NGUYỄN-ANH-TUYẾT-TRANG - NGUYỄN-ANH-HUY - NGUYỄN-ANH-TUYẾT-TRÂM - NGUYỄN-ANH-KINH-LUÂN Với ước mong sự cố-gắng liên-tục của Cha sẽ đem đến cho suốt cuộc đời các con một tấm gương trực-tiếp trong sự học-tập và sự bền-chí. ------------------------------ [TRANG 19] Thương gởi đến các em: - NGUYỄN-ANH-MẪN - NGUYỄN-ANH-CANG - NGUYỄN-NGỌC-THIÊN-THANH - NGUYỄN-ANH-CƯỜNG (+) - NGUYỄN-THỊ-ÁNH-TUYẾT - NGUYỄN-ANH-DŨNG - NGUYỄN-ANH-TUẤN Tất cả lòng yêu-thương của Anh. Riêng nhớ ơn: - Chị NGUYỄN-THỊ-TRANG Đã dành cho em một tình thương của người Chị ruột.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2023 16:59:31 GMT 9
KTS Lữ Trúc Phương , DALATCách đây nhiều năm, khi lên Đà Lạt tôi được nghe đồn về 3 người khùng – Hỏi ra mới biết là KTS Lữ Trúc Phương, KTS Đặng Việt Nga và sư thầy Viên Thức. Trong 3 người khùng đó thì đã có 2 là bạn của tôi! KTS Lữ Trúc Phương (trái) KTS Tôn Đại (phải) KTS Lữ Trúc Phương gắn bó với Đà Lạt đã lâu, nhiều công trình ở Đà Lạt gắn với tên anh. Học viện Salésien là một công trình kiến trúc được anh thiết kế (hoàn thành vào tháng 10/1972 tại số 4 Bùi Thị Xuân, Đà Lạt). Đó là một kiến trúc to lớn, đẹp, là trường âm nhạc dành cho trẻ em do Cha cố Don Bosco lập nên. Dòng tu của Cha đi khắp thế giới và đã đến Việt Nam, lập một học viện cho thiếu nhi, đến nay công trình còn giữ được dáng vẻ hiện đại. Lúc thiết kế công trình này, Lữ Trúc Phương mới 27 tuổi. Ngôi nhà 100 mái được đặt tên là Tổ ấm Âu Lạc, dựa trên truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ KTS Lữ Trúc Phương được nhiều người biết đến khi xây dựng ngôi nhà Trăm mái. Và sau đó là những sự cố xảy ra với ngôi nhà này. Ngôi nhà 100 mái được đặt tên là Tổ ấm Âu Lạc, dựa trên truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Một trăm mái là 100 người con, trong nhà có 50 cầu thang. Vào ngôi nhà này rất dễ lạc không tìm được lối ra. Khách du lịch rất thích thú với công trình kỳ lạ này. Trong nhà và các lối đi tràn ngập cây, tượng. Thật đáng tiếc ngôi nhà đã bị dỡ bỏ. Vụ phá bỏ ngôi nhà trăm mái gây xôn xao dư luận. Cuối cùng Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã công bố trên báo chí là nếu KTS Lữ Trúc Phương muốn xây dựng lại ngôi nhà Trăm mái thì Bộ sẵn sàng làm lại tại một địa điểm khác. Lữ Trúc Phương không nản chí, anh đã thiết kế một ngôi nhà 100 mái khác to lớn hơn nhiều với sự hứa hẹn tài trợ của một đơn vị quốc tế, thế nhưng món tài trợ đó đã bị một đề án khác giành mất. Sau khi nhà Trăm mái bị phá bỏ, anh tập trung vào thiết kế công trình “Đường lên Trăng”. Đây là một ngôi nhà nhỏ của anh ở 57 Phan Bội Châu, Đà Lạt. Ngôi nhà ở ngay sau chợ Đà Lạt, là một nhà ống nằm trên phố có mặt nhà chừng 4m rộng, cao 4 tầng. Bên ngoài mặt nhà có cây leo xum xuê. Ngôi nhà là một quán cà phê bình thường có nhiều cây xanh và cũng có một số tượng ở mặt trước công trình. Một quán cà phê nhỏ bé, không ngờ đã gây cho tôi những cảm xúc kinh ngạc ngay từ buổi đầu. Cách đây khoảng 10 năm tôi đến quán cà phê của Lữ Trúc Phương, lúc này còn đang xây dựng. Anh Phương thắp một ngọn đèn dầu và dẫn tôi cùng vài người bạn đi lên những bậc cầu thang đến một sàn gác rồi lại đi xuống những bậc thang khác. Cứ như vậy, lên, xuống đi ngang ngoắt ngoéo. Tôi còn nhớ như in khi đến một ngã ba, anh dừng lại và nói nhỏ: “Bây giờ đi lối nào đây?”. Chúng tôi cười rộ, “Tác giả mà còn lạc nữa à?”. Đi một lát nữa, anh nói: “ Các anh có biết hiện nay chúng ta đang ở đâu không?”. Chúng tôi người thì nói đang ở tầng 3, người thì nói tầng 4… Anh Phương bảo, “Chúng ta đang ở dưới lòng đất, cách mặt đất 3m!”. Ngôi nhà nhỏ bé này thật bí hiểm khiến chúng tôi thích thú. Lên đến trên cùng có một cây khá to, có tượng một nam, một nữ lớn hơn người thật ăn mặc như người Tây Nguyên dựa vào gốc cây. Anh Phương bảo đây là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Toàn bộ các lối đi đều hẹp chỉ một người đi lọt, các cửa đều làm giả bằng cành cây thô sơ (nhưng là bê tông cốt thép). Ở giữa nhà có một lồng thang máy nhỏ cũng bằng “cành cây”, thang máy chỉ dùng cho 2 người, nhưng chưa lắp đặt. Trên những con đường ngoắt ngoéo ấy có những khoảng rộng ra đặt bàn ghế để khách dùng cà phê và ngắm những tượng những phù điêu, những tranh ảnh trên tường trên trần… Quán cà phê này có những khách quen. Một nhóm người Pháp chừng trên 10 người tuần nào cũng đến đây một lần ngồi vào buồng lớn nhất ở tầng 3. Họ rất thích thú và thường ở đây trò chuyện đến khuya. Di Lặc khổng lồ trên đỉnh núi cấm An Giang Trong quán cà phê này, anh Phương có một buồng riêng, nơi anh ngủ và làm việc. Một không gian nhỏ đầy ắp sách vở tài liệu, ở hành lang cạnh buồng là giá sách. Căn buồng nói lên chủ nhân nó là một người làm việc cực nhiều. Căn buồng rất luộm thuộm, lộn xộn nhưng chắc hẳn nó có “trật tự” của một người nghệ sĩ. KTS Lữ Trúc Phương làm việc rất nhiều và luôn sáng tạo những cái kỳ lạ. Một con gà khổng lồ ở một làng quê, đó là một tháp nước hình một chú gà trống lớn. Ý của anh là gà có thể cất tiếng gáy khi mực nước đầy, nhưng điều này chưa làm được. Ở An Giang, anh cùng với nhà điêu khắc Thụy Lam xây dựng tượng phật Di Lặc khổng lồ, trong tượng có cầu thang lên xuống 7 tầng, rốn Phật là một cửa người đi lọt. Một góc quán cà phê Đường lên trăng – Đà Lạt KTS Lữ Trúc Phương làm việc không mệt mỏi, hết kế hoạch này đến đề án khác. Trong người anh, sức sáng tạo thật là dồi dào. Mặc dầu đã ngoài 70 tuổi nhưng anh vẫn còn nhiều kế hoạch và dự án kiến trúc. Tư tưởng sáng tạo của anh trong kiến trúc thiên về tạo hình nghệ thuật, luôn luôn gây xúc động cho mọi người và cũng luôn có nhiều ẩn dụ. Những ẩn dụ mà anh sử dụng thường khai thác trong kho tàng cổ tích lịch sử dân tộc. Do đó, kiến trúc của anh thuộc về xu hướng chủ nghĩa Biểu hiện và đậm đà bản sắc dân tộc. Những sáng tạo của anh thật đáng trân trọng cũng như những sáng tạo của người bạn cùng chí hướng là KTS Đặng Việt Nga trong tác phẩm Crazy House đã làm cho kho tàng kiến trúc Đà Lạt thêm phong phú và độc đáo. KTS Lữ Trúc Phương đã ra đi, để lại bao ý đồ sáng tạo dở dang. Chúng ta nghiêng mình trước một tài năng hiếm có, một nhiệt tình lao động không mệt mỏi với lòng dũng cảm vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời. Tháp nước hình con gà ở Đà Lạt Tôn Đại
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2023 17:12:23 GMT 9
KTS Lữ Trúc PhươngKẻ mộng mơNGUYỄN HÀNG TÌNH TTCN - Ở Đà Lạt, qua thời gian người ta chợt nhận ra rằng những nghệ sĩ tử tế xứ này đều là những kẻ đơn độc (có người chịu không nổi phải bỏ chạy!). Và kẻ đơn độc nhất hiện nay có tên là Lữ Trúc Phương, hành nghề vẽ nhà vẽ cửa... TTCN - Ở Đà Lạt, qua thời gian người ta chợt nhận ra rằng những nghệ sĩ tử tế xứ này đều là những kẻ đơn độc (có người chịu không nổi phải bỏ chạy!). Và kẻ đơn độc nhất hiện nay có tên là Lữ Trúc Phương, hành nghề vẽ nhà vẽ cửa... Ông là một kiến trúc sư “có tiếng” ở phố núi du lịch sang trọng này. Hằng ngày tôi thấy ông lầm lũi đi về trong bộ đồ nâu xám cũ kỹ, trên một ngọn đồi ở ấp Hồng Lạc, cạnh ngôi chùa sư nữ nhỏ rêu phong trên đường Phạm Hồng Thái. Ông không nói chuyện với ai, kể cả khi ở quầy bán báo bà Chương (cửa hàng báo trên 40 năm ở đường Ba Tháng Hai), mà chủ yếu dồn tất cả cho cuộc độc thoại trường kỳ với căn phòng ngợp các bản thiết kế, tranh, tượng gỗ, sách, máy tính... Nhìn vào không gian sống ở căn phòng 20m2 kia đủ nhận ra nỗi cô đơn, tự kỷ, trầm tĩnh (và chịu đựng), cùng vẻ ẩn sĩ của một kiến trúc sư kỳ dị giữa buổi cuộc sống đang tốc hành, nhốn nháo thực dụng... Cái dở dang nổi tiếng Tổ ấm Âu Lạc (ngôi nhà trăm mái) Cái gì Lữ Trúc Phương thực hiện dở dang là những cái du khách tìm đến xem, thành “sản phẩm du lịch”, thành “tour” để đưa khách đến, là cơ hội kiếm tiền của các hãng lữ hành, là “kiến thức” của các hướng dẫn viên du lịch, và người ta tranh nhau đưa vào những cuốn guidebook, kể cả xuất bản ra ngoài hay trong nước, ở Sài Gòn, Hà Nội hay ngay tại Đà Lạt. Bên cạnh những cái tên Cam Ly, thung lũng Tình Yêu, hồ Than Thở... nổi tiếng ở Đà Lạt, không thể bỏ qua những công trình dù dở dang của ông. Đó là con gà chín cựa K’Long ở làng người Cill Darahoa, dưới chân đèo Prenn, là hồ nước Thống Nhất, hồ con rồng ở Đa Thiện, là nhà thờ dòng Don Bosco, là “ngôi nhà trăm mái” ở cận đồi Cù, là “con đường lên trăng” ở bên hông đồi thông dinh tỉnh trưởng... Công trình con gà chín cựa (nặng 8 tấn, cao 6,6m, rộng 3m) ở Darahoa mới hoàn thành phần công năng cung cấp nước sinh hoạt cho đồng bào, kể từ năm 1978, còn mục tiêu văn hóa - nghệ thuật (hằng ngày từ trong lòng nó có thể phát ra những tiếng gáy thanh bình) phải bỏ dở; hồ Thống Nhất (những năm 1980) mới hoàn thành phần... biển Đông (tạo ra một hồ nước rộng lớn nằm trên ngọn đồi cao ở miền cao nguyên để cung cấp nước tưới cho 240ha trồng rau ở vùng Đa Thiện), còn con tàu mơ ước đất nước lao ra đại dương hòa vào thế giới vẫn rêu phong neo trong sự dang dở từ nhiều chục năm qua (mới xong thân tàu). “Con đường lên trăng” bay bổng đưa con người đi từ bí ẩn của lòng đất lên bầu trời mới tạm xong những hạng mục dưới lòng đất... Tương tự là công trình “Nhập cùng nguồn cội” (biến những ngọn đồi, dãy núi cùng thác nước ở khu Prenn thành một vùng khám phá thuở ban sơ của loài người, với sơn động, núi thờ thần mặt trời; và khi vượt qua chín tầng trời, chín tầng mây sẽ gặp đồi xe duyên, đồi báo hiếu, đồi nghĩ về tổ tiên, đất mẹ...) và “Ngôi nhà Việt Nam” (làng du lịch qui tụ những tinh túy bản sắc kiến trúc, văn hóa dân gian, lễ hội... của ba vùng Bắc - Trung - Nam) bị gạt ra ngoài vì mơ mộng hão huyền... Bây giờ đã 65 tuổi, kiến trúc sư họ Lữ vẫn cứ đeo bám những mơ mộng xa xăm của mình, cự tuyệt những lời mời vẽ nhà ở (mặc dù đã vẽ nhiều biệt thự, nhà phố khá đẹp) dễ kiếm tiền, để phiêu du về vùng Mã Đà (huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai) để vẽ “Nhà nổi trên hoang đảo ngầm”, “Đền thờ tổ tiên Âu Lạc trên con thuyền” cho dự án khu du lịch sinh thái - văn hóa rộng cả ngàn hecta mang tên “Cầu treo bến nước” do Hàn Quốc và Công ty du lịch Phú Mỹ Hòa liên doanh đầu tư... Ở Lâm Đồng ông làm cái gì cũng dở dang, nên phần còn lại của cuộc đời ngắn ngủi phải đặt hi vọng ở xứ Đồng Nai hào phóng... Lữ Trúc Phương thiết kế theo ý mình chứ không theo đơn đặt hàng, nên tác phẩm nào của ông cũng lênh đênh, trầm luân. “Mình nghĩ ra thế đấy, vẽ theo hướng đấy, ai thấy thích, chia sẻ thì nhận về triển khai, không thì thôi...”. Năng lượng nỗi buồn Lữ Trúc Phương có một sức mạnh kỳ lạ, vì cuộc đời đơn độc của ông là một chuỗi dài của bi kịch: dở dang và bị tẩy chay. Khi ông muốn đưa yếu tố nghệ thuật của mình vào những công trình phục vụ dân sinh thì bị cho là mơ hồ: “Cấp nước thì lo mà cấp nước, chứ nghệ thuật, văn hóa gì những chỗ này!”. Những cái chưa thành hình lẫn cái đã hoàn thành cũng thế, mặc dù chúng là sản phẩm của kiến trúc biểu hiện đầu tiên xuất hiện ở thành phố cao nguyên Đà Lạt và cũng là của cả VN. “Ngôi nhà trăm mái” được giới kiến trúc lẫn du khách thập phương tán thưởng thì bị chính quyền sở tại thẳng tay xóa sổ (vì cái tội chưa đủ giấy tờ hợp pháp và xây dựng trái phép). Có lẽ bi kịch là một thứ năng lượng của Lữ Trúc Phương, nên ông mới có thể gượng dậy để cố mà lao động, mà sáng tạo. Ở Đà Lạt, người ta dễ thấy vẻ “man man”, lập dị trên đường phố của ông, nhưng người ta không biết ông sống đạm bạc, nghèo mọn đến cỡ nào trong từng bữa ăn, lại còn không biết ông nợ nần hàng tỉ đồng cho những công trình lãng mạn bị người đời chê cười “thiếu thực tế” của mình. Trước sau Lữ Trúc Phương vẫn cứ bền bỉ da diết với Đà Lạt. Ông yêu Đà Lạt nên từ bỏ Pnom Penh, Campuchia (học kiến trúc ở Campuchia thuộc Trường Mỹ thuật Đông Dương những năm 1950 và 1960, chuyên viên thiết kế công trình cho đại sứ Pháp ở nước này) và cả miền Tây bản quán (quê ở Cao Lãnh, Đồng Tháp) để tìm đến đây định cư suốt hơn 40 năm qua. Ông yêu Đà Lạt nên khi người ta chỉ chú tâm lo hạt bắp, khoai sắn thì ông đã nghĩ đến sản phẩm du lịch cho Đà Lạt. Yêu Đà Lạt nên từ năm 1978 ông đã tháo sắt thép, lưới B40 của gia đình... để đi làm con gà chín cựa, bán cả xe máy để mua ximăng. Yêu Đà Lạt nên ông mới dám liều chết vay nợ để làm “ngôi nhà trăm mái”, “đường lên trăng”... Vì Đà Lạt nên suốt 10 năm qua, nhiều nhà đầu tư du lịch, văn hóa ở TP.HCM lẫn nhiều tỉnh thành khác tìm lên mời ông mang bản vẽ "nhà trăm mái", "đường lên trăng"... về xuôi thực hiện, họ Lữ vẫn từ chối. Cũng vì Đà Lạt nên từ năm 1977 ông đã tự đứng ra qui hoạch để vùng núi đồi ở thung lũng Tình Yêu trở thành tổ hợp du lịch liên hoàn, tôn vinh thiên nhiên Đà Lạt. Người ta sẽ không ngờ được kẻ “man man” họ Lữ này từ những năm 1980 đã dành tâm nghĩ về qui hoạch Đà Lạt (năm 1992 ta mới triển khai được qui hoạch tổng thể lại đô thị Đà Lạt). Lữ Trúc Phương đi trước sự vận động của đời sống, bằng những ý tưởng, những tác phẩm bị cho là “quái dị” của mình. Không biết có phải vì quá mơ mộng mà thiên hạ không thể (hay không muốn) thừa nhận ông. Mà cái gì không được thừa nhận thì làm sao có cơ hội được tôn vinh. Ngay cả “biệt thự kỳ dị” của KTS Đặng Việt Nga (con của cố Tổng bí thư Trường Chinh) xuất hiện đã nhiều năm còn chưa được thừa nhận, chưa cấp phép xây dựng (dù chính quyền cho phép bán vé vào cổng tham quan, cho khai thác lưu trú, cho quảng cáo và in vào sách du lịch...). Dù thế nào thì Lữ Trúc Phương cũng được nhìn nhận bởi các “chiến hữu anh em” của mình. Người ta bảo rằng Đà Lạt có ba người khùng nổi tiếng mà ông là một, hai người còn lại là MPK và ĐVN.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2023 17:20:36 GMT 9
Chiêm ngưỡng ngôi nhà 100 mái đặc biệt tại Đà Lạt Nhà trăm mái của KTS Lữ Trúc Phương Cà phê Đường lên trăng – Nhà trăm mái Nhà 132 mái tại khu du lịch Lá Phong Nhà trăm mái có lẽ là một khái niệm khá lạ so với nhiều người bởi những công trình kiến trúc này không xuất hiện nhiều. Thế nhưng từ xưa, Đà Lạt đã sở hữu cho mình một số ngôi nhà 100 mái độc đáo. Bất cứ du khách nào xem qua chắc chắn cũng sẽ trầm trồ. Nhà trăm mái của KTS Lữ Trúc Phương Trong ký ức của người Đà Lạt xưa, có lẽ ai cũng đã từng biết đến ngôi nhà 100 mái độc đáo này. Vào những năm 90, không chỉ người Đà Lạt nói chung mà giới kiến trúc sư nói riêng được dịp trầm trồ bởi một thiết kế “không giống ai” của KTS Lữ Trúc Phương. Từ một ngôi nhà bình thường với 2 mái, người kiến trúc sư “quái kiệt” đã biến nó thành 100 mái dưới sự trầm trồ của nhiều người. Vào thời ấy, ngôi nhà như một biểu tượng du lịch mới của thành phố và đã khiến giới báo chí, Hội kiến trúc sư Việt Nam nổi “giông bão”. khám phá, chiêm ngưỡng ngôi nhà 100 mái đặc biệt tại đà lạt Để có được ngôi nhà 100 mái độc nhất vô nhị vào thời ấy, ông Lữ Trúc phương đã mất khoảng 5 năm để phác thảo ý tưởng lên giấy rồi cặm cụi chắp vá, xây lắp. Người dân nơi phố núi lúc ấy được dịp chiêm ngưỡng một công trình “kỳ dị”, phá vỡ mọi thiết kế thông dụng, cổ điển thời ấy. Ngôi nhà hiện lên đồ sộ như một ngọn núi đá chi chít đỉnh nơi phố núi, góc nhọn đâm tủa ra tứ phía. Những mái nhà to nhỏ khác nhau, được sắp xếp, hình khối ở những vị trí, góc cạnh với kích thước khác nhau khiến ngôi nhà trở nên đồ sộ, huyền bí đến lạ thường. Tuy nhiên, khi vừa lợp xong 98 mái bằng giấy dầu, ông nhận được lệnh dỡ bỏ của chính quyền. Thế là một công trình độc đáo đã trở thành hoài niệm và hình dáng ngôi nhà trăm mái chỉ còn trong ký ức của một số người Đà Lạt xưa… khám phá, chiêm ngưỡng ngôi nhà 100 mái đặc biệt tại đà lạt Cà phê Đường lên trăng – Nhà trăm mái Không từ bỏ những ước mơ “kỳ quái” của mình, ông đã xây dựng một công trình khác mang tên: Quán cà phê Đường lên trăng – Nhà 100 mái. Thực chất, quán cafe này không có 100 mái, chỉ là để tưởng niệm ngôi nhà đã bị phá dỡ của Lữ Trúc Phương. Quán cafe được thiết kế như một mê cung, càng đi càng bị cuốn hút. Cho đến nay, Quán cà phê Đường lên trăng – Nhà 100 mái vẫn tọa lạc tại số 26 đường Phan Bội Châu, Đà Lạt. khám phá, chiêm ngưỡng ngôi nhà 100 mái đặc biệt tại đà lạt Nhà 132 mái tại khu du lịch Lá Phong Khu du lịch Lá Phong là một địa điểm vô cùng nổi tiếng ở Đà Lạt. Nơi đây được ví như một Nhật Bản thu nhỏ giữa lòng thành phố mộng mơ. Có lẽ KDL Lá Phong được nhiều người biết đến, thế nhưng ít ai phát hiện ra rằng nơi đây có một ngôi nhà được thiết kế với 132 mái. Ngôi nhà 132 mái là biểu tượng của 132 chiếc lá liên kết với nhau tạo hình như một kim tự tháp, vô cùng độc đáo và mới lạ. khám phá, chiêm ngưỡng ngôi nhà 100 mái đặc biệt tại đà lạt Đây chính là một địa điểm lý tưởng dành cho du khách. Nơi mà bạn có thể đến tham quan, chụp ảnh và chọn cho mình một không gian phù hợp để thưởng thức cafe. Địa điểm: 45 Đặng Thái Thân, Đà Lạt. Những công trình kiến trúc tại Đà Lạt có lẽ chưa bao giờ làm bạn thôi ngạc nhiên, và những ngôi nhà trăm mái này là một trong những điều như thế!
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2023 17:28:38 GMT 9
Đà Lạt và lương tâm một thế hệ kiến trúcĐà Lạt mới chỉ 126 tuổi, là một đô thị quá trẻ, nhưng trong từng khúc quanh lịch sử, luôn phóng chiếu ước mơ về một đô thị lý tưởng. Có những bước chuyển tiếp của xã hội chính trị dễ dẫn đến đứt gãy giá trị, song, chính những những kiến trúc sư, quy hoạch sư nhận thức được sứ mệnh và trách nhiệm đã tạo ra sự tiếp biến khá êm đềm. Như thời kỳ chuyển tiếp từ một thành phố do người Pháp kiến tạo, làm chủ sang một thành phố của người Việt với diện mạo hiện đại, diễn ra cuối thập niên 1950. Một thế hệ “Xây-Dựng-Mới” Chợ Mới Đà Lạt, năm 1960. Ảnh: Tư liệu Trong thời Pháp thuộc, đặc biệt, trong thập niên 1930-1940, không gian kiến trúc đô thị của Đà Lạt được kiến tạo bởi những kiến trúc sư Pháp tài năng, có ảnh hưởng ở Đông Dương như Alexandre Léonard, Paul Veysseyre hay Arthur Kruze… triển khai trên thành quả các đồ án quy hoạch, chỉnh trang đô thị có triết lý của Paul Champoudry, Ernest Hébrard, Louis Georges Pineau, H. Mondet, Jacques Lagisquet. “Phương Tây” hay “rất Tây” là cách nói chung chung thời bấy giờ khi nhắc về một không gian di sản với hơn 1.000 biệt thự xinh đẹp mà người Pháp để lại sau gần 30 năm xây dựng thành phố, tính từ 1915 đến 1945. Sau khi người Pháp rời đi, Đà Lạt có sức hấp dẫn đặc biệt với những kiến trúc sư hàng đầu của miền Nam. Các kiến trúc sư tên tuổi của Sài Gòn thời bấy giờ, trước và trong khi triển khai các công trình tại Đà Lạt cũng đã có quá trình nghiên cứu lịch sử kiến trúc đặc thù của đô thị này để hình thành một hình thái, triết lý phát triển mới cho Đà Lạt. Các tờ báo như Sáng dội miền Nam, Xây dựng mới đều cho thấy sự “tiếp cận Đà Lạt” đầy công phu theo chiều kích văn hóa kiến trúc. Trong đó, phải kể đến tờ Xây dựng mới số 3, tháng 6 năm 1958. Tờ báo cho kiến trúc sư Võ Đức Diên làm Thư ký tòa soạn này đã tổ chức một chuyên đề khá hay về Đà Lạt. Ngoài việc mô tả những nét chính trong kiến trúc nhà ở, dinh thự Đà Lạt dưới con mắt của “dân nhà nghề”, số báo nói trên cũng trình bày những nhận thức chính của giới kiến trúc, quy hoạch cho thấy tình cảm, ưu tư và chiều hướng phát triển mà họ mong muốn ở thành phố này. Sứ mệnh và trù liệu Lữ quán Thanh niên và Lao động, một công trình của KTS. Võ Đức Diên. Ảnh: Tư liệu Đâu là một giải pháp giữ được sự hài hòa với các giá trị đã định hình trong lịch sử, đồng thời đáp ứng yêu cầu mới của thời đại? Kiến trúc sư Hoàng Hùng, giữ trọng trách quản lý ở Tổng Nha Kiến thiết, đồng thời là Chủ nhiệm Xây dựng mới đã nêu quan điểm: “Đà Lạt không thể, như quan niệm kiến-trúc cũ, chỉ là nơi nghỉ mát riêng của giới phong-lưu, tư-sản. Phong cảnh non xanh, nước biếc, sương phủ, mây bay của nó là báu vật vô giá, chung cho toàn cả nhân-dân. Người ở lại đó làm ăn sinh sống, cũng như người ghé lại đó ít ngày, để thực mắt thấy nơi danh-lam thắng-cảnh vào bực nhất đất nước, ai cũng cảm thấy cần đem sức người tô điểm cho Đà Lạt mỗi ngày một đẹp hơn, và mỗi ngày một xứng đáng là hòn ngọc của cả cõi trời Đông-Nam-Á này” (Xây dựng mới, số 3; 1958) Ông nhận ra việc được “tiếp cận” Đà Lạt là một may mắn và vinh dự của thế hệ mình, đồng thời cũng là một thử thách: “Nếu chúng ta không làm được, ấy là chúng ta phụ cảnh thiên-nhiên. Chớ cảnh thiên-nhiên không hề phụ chúng ta. Và nếu chúng ta làm cái gì kệch-cỡm mất duyên dáng của Đà Lạt thì lương-tâm chúng ta sẽ cắn rứt trọn đời. Bởi mỗi du-khách bản-xứ hay ngoại-quốc nhìn thấy những gì chướng mắt lại sẽ nhắc đến chúng ta với một lời mai mỉa”. Giáo Hoàng Học viện Thánh Pio X (KTS. Tô Công Văn thiết kế). Ảnh: Tư liệu Bài viết này cũng giới thiệu một chương trình trù liệu chất chứa nhiều trách nhiệm và tình cảm dành cho Đà Lạt. Chương trình trù liệu ấy gồm đầy đủ những công trình giao thông, không gian công cộng trong đô thị, công trình dịch vụ an sinh, cơ sở vật chất cho vùng phụ cận (thời gian này, Đà Lạt đã có chương trình mở rộng, giãn dân ra ngoại ô sau đợt nhập cư ồ ạt khoảng 1954-1957 từ các tỉnh miền Bắc…). Triết lý về một thành phố, đúng như câu cách ngôn thuở ban đầu gắn trên chợ cũ Đà Lạt “Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem” (Cho người này niềm vui, cho người khác sức khỏe) – được tái hiện với một tinh thần mới, đó là một đô thị vị nhân sinh, đem lại nguồn hạnh phúc cho con người. Điều đó được tạp chí Xây dựng mới diễn giải như sau: “[Đà Lạt] khiến cho người làm ăn tại đó tìm thấy cách sống đầy đủ và tiện phát-triển nhân-tính của mình, người du-khách thích cái đẹp thiên-nhiên cũng tìm thấy ở đó những gì đầy thi-vị, người thích cái đẹp tân-thời cũng nhìn thấy ở đó những gì lộng lẫy huy-hoàng, và người thích cái đẹp trừu-tượng cũng nhìn thấy ở đó những gì là ý-nghĩa thâm-trầm cao-cả. Đà Lạt ngày mai phải là một vườn hoa lớn mà mỗi bước chân đi người ta lại phải dừng lại để say sưa với một vẻ đẹp khác, mà nhìn nhận cái công thêu hoa dệt gấm lên đất nước, là công của thế-hệ chúng ta: thế-hệ Xây-Dựng-Mới.” Từ diễn ngôn ấy, có thể hiểu kiến trúc Đà Lạt đã sang trang. Vài năm sau đó, Đà Lạt bắt đầu có những khối nhà lớn, cao 3-4 tầng, với công năng phong phú, ngôn ngữ kiến trúc tân kỳ, mạnh mẽ, khúc chiết, hiện đại như Giáo Hoàng Học viện Thánh Pio X (KTS. Tô Công Văn thiết kế), Chợ Đà Lạt (KTS. Nguyễn Duy Đức thiết kế, KTS. Ngô Viết Thụ bổ sung thiết thế), Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt (KTS. Ngô Viết Thụ thiết kế), Lữ quán Thanh niên và Lao động (KTS. Võ Đức Diên thiết kế)… Những kiến trúc sư tài năng nhất của miền Nam đã đến với Đà Lạt với niềm vinh dự và ý thức “tô điểm cho Đà Lạt ngày một đẹp hơn, mỗi ngày một xứng đáng là hòn ngọc của cả cõi trời Đông-Nam-Á này” và với sự ký thác trách nhiệm trong từng công trình, đồ án. Vì họ hiểu “nếu chúng ta làm cái gì kệch-cỡm mất duyên dáng của Đà Lạt thì lương-tâm chúng ta sẽ cắn rứt trọn đời”. NGUYỄN VĨNH NGUYÊN / Tuổi Trẻ, Số 81/31-3-2019
|
|