|
Post by Vĩnh Long on Jul 25, 2014 9:40:38 GMT 9
Suýt xảy ra chiến tranh hạt nhân Liên Xô - Trung QuốcRichard Nixon (trái) đã giúp Mao Trạch Đông thoát được cuộc tấn công hạt nhân từ Liên Xô Kế hoạch tấn công Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân đã được Liên Xô soạn thảo và dự định sẽ thực hiện sau ngày nổ ra tranh chấp vũ trang giữa Trung Quốc và Liên Xô quanh vùng đảo Damansky... Hành cung của Mao ở Hồ Nam có “hầm ngầm dài hằng trăm mét có thể chống động đất, chống bom nguyên tử” (xem Kỳ 22). Chống bom nguyên tử của ai? của Liên Xô hay Mỹ? Về danh nghĩa, Mỹ là kẻ thù “số một”. Nhưng trên thực tế, mối nguy hiểm trực tiếp kề cận là Liên Xô. Chiến tranh giữa hai nước có thể bùng nổ bất ngờ. Như vụ tranh chấp đảo Damansky, hai bên nổ súng đánh nhau dữ dội từ 2.3.1969. Hệ thống truyền thông của Liên Xô khẳng định đảo Damansky là của Liên Xô. Phía Trung Quốc tuyên bố ngược lại: đó là đảo Trân Bảo (Chen-pao) của mình. Qua nhiều ngày giao tranh, hai bên đi đến thỏa thuận ngưng chiến, nhưng mâu thuẫn ở vùng biên giới của hai nước vẫn tồn đọng nhiều chông gai chưa giải quyết ngay được. Bấy giờ lãnh đạo Liên Xô có người chủ trương tấn công hạt nhân nhằm vào Trung Quốc. Trước khi triển khai cuộc chiến nguy hiểm này, Liên Xô muốn biết thái độ của Mỹ và giao đại sứ Liên Xô tại Mỹ là Dobrynin thăm dò ý kiến. Ngày 20.8.1969 (hơn 5 tháng sau ngày bùng nổ tranh chấp đảo Damansky), đại sứ Dobrynin xin gặp bất thường Cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ là tiến sĩ Kissinger để “thông báo Liên Xô dự định thực thi đòn tấn công hạt nhân vào Trung Quốc và muốn trưng cầu ý kiến của chính phủ Mỹ”. Để trả lời, Mỹ họp Hội đồng an ninh quốc gia bàn bạc và đi đến kết luận “mối đe dọa lớn nhất đối với Mỹ và các nước phương tây chưa phải là Trung Quốc - mà là Liên Xô”. Vì thế, tổng thống Mỹ Nixon nghiêng về thế ủng hộ Trung Quốc, cho đưa tin công khai lên tờ Washington Star (số 28.8.1969): “Liên Xô định dùng tên lửa đạn đạo tầm trung mang đầu đạn hạt nhân đương lượng vài triệu tấn tiến hành đòn tấn công hạt nhân (…) vào các căn cứ quân sự quan trọng của Trung Quốc cũng như các thành phố công nghiệp lớn: Bắc Kinh, Trường Xuân, An Sơn”. Vậy là, kế hoạch tấn công “tuyệt mật” của Liên Xô đã lộ ra ngoài. Thủ tướng Chu Ân Lai và các lão nguyên soái Diệp Kiếm Anh, Từ Hướng Tiền, Nhíp Vinh Trăn, cùng Quân ủy trung ương đủ thời gian triển khai các biện pháp cần thiết, sơ tán các nhà lãnh đạo đảng và chính phủ khỏi Bắc Kinh, tăng 34% ngân sách quốc phòng. Tài liệu Tân Tử Lân ghi nhận phản ứng của Mao Trạch Đông là cho nổ hai quả bom hạt nhân để Liên Xô “cũng căng thẳng” theo: Ngày 28 và 29.9.1969, Trung Quốc cho nổ thành công hai quả bom hạt nhân, các trung tâm đo đạc và vệ tinh của Mỹ lẫn Liên Xô đều thu được tín hiệu hữu quan. Mọi lần Trung Quốc thử hạt nhân đều công bố tin tức, tổ chức chúc mừng, song lần này lặng im, khiến bên ngoài bàn tán, nói chung họ cho rằng hai cuộc thử hạt nhân này là một biện pháp trắc nghiệm trước khi lâm trận (với Liên Xô). Sau đó, Mao ra lệnh cả nước đào hầm sâu, dự trữ lương thực khắp nơi, chuyển sang tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Ngày 28.9, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kêu gọi chính quyền, nhân dân các tỉnh biên giới và quân đội đóng ở vùng biên cương kiên quyết hưởng ứng lời kêu gọi của Mao sẵn sàng đánh giặc. Phía Mỹ, bằng những kỹ thuật truyền thông mật mã, Nixon “thông báo” để Liên Xô biết tổng thống Mỹ đã hạ lệnh “chuẩn bị mở cuộc tấn công hạt nhân vào 134 thành phố, căn cứ quân sự, đầu mối giao thông, triệt hạ các cơ sở công nghiệp nặng của Liên Xô”. Liên Xô điện khẩn hỏi đại sứ Dobrynin về những thông tin trên. Sau thẩm tra, Dobrynin trả lời: “Tổng thống Nixon cho rằng lợi ích của Trung Quốc gắn chặt với lợi ích của Mỹ. Nếu Trung Quốc bị tấn công hạt nhân, Mỹ sẽ cho rằng chiến tranh thế giới lần thứ 3 bắt đầu, và Mỹ sẽ tham chiến đầu tiên. Kissinger tiết lộ tổng thống đã ký mật lệnh chuẩn bị trả đũa hạt nhân vào hơn 130 thành phố và căn cứ quân sự nước ta. Mỹ sẽ bắt đầu kế hoạch trả đũa khi quả tên lửa đạn đạo đầu tiên của ta rời bệ phóng”. Được tin, Liên Xô không triển khai kế hoạch đó nữa. Sách báo Trung Quốc ngày nay khi nhắc đến sự kiện trên đã nhận định “nhờ Mỹ giúp đỡ, Trung Quốc đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng hạt nhân nghiêm trọng nhất”. Và đó cũng là “món quà” hảo hữu của Nhà Trắng gởi đến Trung Nam Hải sau hơn hai thập niên “không nhìn mặt nhau”. Những năm sau, Mỹ tiếp tục mở rộng thêm cánh cửa ngoại giao, đưa Kissinger bí mật sang Bắc Kinh, mở đường để tổng thống Mỹ Nixon đặt chân đến nhà khách quốc tế Điếu Ngư Đài - nơi ở của hoàng đế Càn Long ngày trước. Hồi ký Richard Nixon (nguyên bản: The memoirs of Richard Nixon, nhiều người dịch, 1370 trang, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội 2004) viết: “Ngày 17.2.1972 vào mười giờ ba mươi lăm phút chúng tôi khởi hành đi Bắc Kinh từ căn cứ hàng không Andrews (…) Chu Ân Lai đứng ở chân thang máy bay, không đội mũ, mặc dù trời lạnh. (…) tôi đến đứng bên trái Chu trong lúc quân nhạc cử quốc thiều hai nước. Lá cờ Hoa Kỳ dường như chưa bao giờ gây xúc động cho tôi mạnh đến thế như ở trên đường băng lộng gió này, tại trái tim của nước Trung Hoa cộng sản”. (sđd tr.682-684). Tiếp Nixon, Mao Trạch Đông chìa tay ra trước, Nixon bước đến nắm lấy rồi úp bàn tay trái của mình lên trên, Mao cũng úp tiếp tay trái lên theo “chủ khách nhìn nhau cười, bốn bàn tay ấp chặt vào nhau, lắc liên hồi” – Mao nói một câu với Nixon không khỏi làm Liên Xô “chạnh lòng”: - Tôi là người Cộng sản số 1 trên thế giới. Ngài là phần tử chống Cộng số 1 trên thế giới. Lịch sử đã đưa chúng ta đến bên nhau… Chu Ân Lai và Nixon trước giải pháp về chiến tranh Việt NamNixon và Mao Trạch Đông Đến Bắc Kinh, tổng thống Mỹ Richard Nixon nâng cốc chúc mừng giờ phút “băng giá đã tan” giữa hai nước Mỹ và Trung Quốc… Nixon phát biểu: “Ở một số thời kỳ trong quá khứ, chúng ta đã thù địch nhau. Ngày nay còn tồn tại giữa chúng ta nhiều mối tranh chấp nghiêm trọng. (Tuy vậy) lý do chúng ta xích lại với nhau là vì chúng ta có những lợi ích chung vươn lên trên các tranh chấp đó (…) Thế giới đang nhìn chúng ta. Thế giới đang lắng nghe chúng ta. Thế giới đang chờ xem điều chúng ta sẽ làm. Không có lý do gì cho chúng ta thù địch nhau. Không ai trong hai chúng ta thèm muốn lãnh thổ của người kia”. Cuối cùng, Nixon ý nhị nhắc đến Mao Trạch Đông: “Mao Chủ tịch đã viết: “Biết bao kỳ tích lớn tiếng đòi được hoàn tất (…). Quả đất tiếp tục quay. Thời gian cứ trôi. Một vạn năm, quả là dài. Hãy nắm lấy ngày ấy, hãy nắm lấy giờ ấy” - Đó là giờ, đó là ngày để hai dân tộc chúng ta lớn lên đến tầm cỡ có thể kiến thiết được một thế giới tốt hơn” (Richard Nixon, sđd. tr.694). Nixon dứt lời, món khai vị dọn ra và dàn nhạc Trung Quốc hòa tấu bài America the Beautiful (Nước Mỹ đẹp xinh). Đây là điệu nhạc Nixon đã chọn để chào mừng ngày nhậm chức tổng thống của mình năm 1969. Trong vòng một tuần tiếp đó, từ 22 đến 28.2.1972, các cuộc hội đàm trực tiếp giữa Nixon với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai về “giải pháp” cho cuộc chiến đang diễn ra ác liệt tại Việt Nam, về việc quân Mỹ chiếm đóng Đài Loan và về cán cân lực lượng quân sự ở châu Á - Thái Bình Dương trong bối cảnh Liên Xô đang vươn lên khỏi thế “cân bằng về vũ khí hạt nhân”. Luật gia J. Amter - được tổng thống Mỹ chỉ định làm đồng Chủ tịch của Hội nghị Nhà trắng nghiên cứu về công tác quốc tế của Mỹ (thời Johnson 1965) - người nắm nhiều tài liệu đặc biệt quan trọng của cuộc chiến Việt Nam qua các đời tổng thống Mỹ - đã viết trong cuốn Lời phán quyết về Việt Nam, Nguyễn Tấn Cưu dịch, 524 trang, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội 1985 về chuyến đi Bắc Kinh của Nixon: “Trên thực tế, Nixon gợi ý Trung Quốc ép Hà Nội chấp nhận những điều kiện hòa bình của Mỹ và tổng thống Nixon muốn Bắc Kinh giúp ông ta thương lượng với Hà Nội những điều kiện hòa bình thuận lợi (cho phía Mỹ) đó” (Amter, sđd tr. 375). Ở đoạn khác: “Nixon nói rằng nếu Bắc Kinh giúp làm giảm các căng thẳng ở Việt Nam thì Nixon thấy không có lý do tại sao các lực lượng Mỹ ở Đài Loan lại không thể rút đi”. Những lời ấy là “thông điệp” của Nixon trực tiếp gởi bằng miệng đến Trung Quốc, nói trắng ra: “Mỹ hoàn toàn sẵn sàng thỏa hiệp vấn đề Đài Loan để đổi một giải pháp ở Việt Nam” ! (sđd, tr.374). Nhưng thủ tướng Chu Ân Lai, đảm đương đàm thoại với Nixon về “vấn đề Việt Nam”, trả lời: “Lập trường của chúng tôi như sau: dù ngài có tiếp tục chính sách Việt Nam hóa, Lào hóa, Campuchia hóa cuộc chiến tranh lâu dài bao nhiêu đi nữa và nếu họ (Việt Nam) còn tiếp tục chiến đấu thì chúng tôi không thể làm khác hơn là tiếp tục chi viện cho họ” (Richard Nixon, sđd tr.699). Chu Ân Lai cảnh báo: “Nếu chúng ta (Mỹ) càng chậm rút ra khỏi Việt Nam thì cuộc rút lui của chúng ta càng khó khăn, càng bất lợi”. Dường như để “minh họa” cho lập trường của mình, Chu Ân Lai nói thêm: “Hồ Chí Minh là một trong những người bạn vong niên của tôi” (Richard Nixon, sđd, tr. 699). Hồ Chí Minh lớn hơn Chu Ân Lai 8 tuổi, hai người gặp nhau lần đầu tiên tại Paris năm 1922 lúc Chu 24 tuổi. Lên làm thủ tướng đầu tiên của nước CHND Trung Hoa, Chu Ân Lai từng nhắc: “chính Hồ Chí Minh đã dẫn dắt tôi trong những bước đầu tiên tham gia công tác cách mạng và giới thiệu một số đồng chí của chúng tôi vào Đảng Cộng sản Pháp”. Lập trường khác nhau của hai bên về “vấn đề Việt Nam” nêu rõ trong thông cáo chung Trung - Mỹ công bố tại Thượng Hải ngày 28.2.1972. Dầu vậy, Chu Ân Lai vẫn cẩn thận rời Bắc Kinh bay sang Hà Nội khoảng 5 ngày sau đó để “đoan chắc với người Bắc Việt Nam là ông ta đã không bán rẻ họ trong các cuộc họp cấp cao” (Amter, sđd tr.375). Amter nhận định: trong chuyến đi đầu tiên đến Bắc Kinh “Nixon đã không thành công trong việc chấm dứt chiến tranh Việt Nam (theo ý định của mình)” (sđd, tr.376). Về lại Mỹ, khoảng 10 tháng sau, Nixon mở chiến dịch tập kích đường không chiến lược vào Bắc Việt Nam nhằm thực hiện ý đồ thương lượng trên thế mạnh: “Trong 12 ngày liên tiếp, từ 18.12 đến 30.12.1972, Mỹ ném bom Hà Nội và Hải Phòng với sự tàn bạo hơn bao giờ hết trong lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam, thả trên 35.000 tấn bom vào bên trong hai trung tâm đô thị lớn. Mỹ dùng 200 pháo đài bay B52 bay từng nhóm ba chiếc, mang bom 500 và 700 cân Anh, mà khi thả xuống, đúng là đã nhận chìm những khu vực hình chữ nhật có bề dài một dặm và bề ngang nửa dặm trong khói lửa (…) chỉ riêng Hà Nội hơn 2.000 dân thường chết, nhà thương Bạch Mai, cơ sở hiện đại nhất của Hà Nội với trên 900 giường biến thành nơi đổ nát” (Amter, sđd tr.423). Rốt cuộc, 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi (trong đó có 34 pháo đài bay B52 và 5 máy bay chiến thuật F.111), lại bị dư luận quốc tế và ngay nước Mỹ phản đối dữ dội về cuộc tàn sát diễn ra vào mùa giáng sinh ấy. Tiếp đó là Hiệp định Paris 28.1.1973 với nội dung cơ bản là Mỹ phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cam kết chấm dứt dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và quân đội các nước đồng minh ra khỏi Việt Nam. Dầu vậy, chuyến đi của Nixon tạo điều kiện để Mỹ và Trung Quốc lập mối quan hệ hữu nghị. Đặc biệt, đã gieo cấy tình bạn giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Mao Trạch Đông thể hiện tình cảm thắm thiết của mình bằng cách mời Nixon đến Trung Quốc lần thứ hai vào tháng 2.1976 với tư cách cá nhân (vì lúc đó Nixon đã phải từ chức tổng thống, rời khỏi Nhà trắng bởi “sự kiện Watergate”). Mao ra lệnh điều một chiếc máy bay Boeing 707 mới mua về chưa lâu đến tận sân bay Los Angeles của Mỹ để đón Nixon sang Bắc Kinh. Đây là chuyện chưa từng xảy ra trong ứng xử ngoại giao của Mao Trạch Đông. Lần này, chính Mao đã “bắc cây cầu dài 16.000 dặm đường” từ Bắc Kinh đến Mỹ để đón “người bạn mới” sau buổi tiệc chia tay cách đó vừa đúng 4 năm… (còn nữa).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 31, 2014 9:16:44 GMT 9
Trung Quốc chống tham nhũng: thật hay giả?xi-jinping Có người cho rằng chiến dịch truy quét tham nhũng ở Trung Quốc thường được biết dưới tên “đả hổ đập ruồi” là làm thật. Có người cho rằng chiến dịch nhằm triệt hạ những người có thể tranh giành quyền lực lãnh đạo. Nhưng cũng có người cho rằng chiến dịch nhằm cả hai mục tiêu. Trong bài dưới đây của Frank Langfitt, phóng viên của đài NPR thường trúở Thượng Hải, chiến dịch này có vẻ như là một việc làmđến nơi đến chốn, lời nóiđi đôi với việc làm, trừng phạt gắt gao, thay vì chỉ “cảnh cáo” giống như một nước anh em phía Nam đã áp dụng với một nguyên tổng thanh tra có nhiều cơ ngơi phát khiếp. Mời bạn đoc danchimviet.info theo dõi. Về anh Vương Nghề công chức ở Trung Quốc trướcđây là nghề ngon xơi: lè phè 8 giờ vàng ngọc, hiếm khi bị kiểm tra hạch sách, và thường thường là một cơ hội để tích lũy của cải, nhờ có những đặc quyền đặc lợi, bổng lộc và bôi trơn. Nhưng năm nay chỉ có 1.4 triệu thí sinh nạp đơn thi tuyển công chức, ít hơn 100.000 người so với năm 2013. Nhiều người giải thích lý do sút giảm là vì chiến dịch truy quét tham nhũng dữ dội của ông Tập Cận Bình, lấy đi mất một số bổng lộc, khiến cho nghề công chức không còn sức thu hút như xưa. Mới đây, một công chức cấp thấp ở Thượng Hải đã chịu tâm sự với nhà báo Frank Langfitt của đài NPR về cuộc sống của giai cấp phục vụ nhân dân, trong lúc diễn ra cuộc truy quét tham nhũng lớn nhất trong lịch sử cận đại Trung Quốc. Thông thường, người công chức Trung Quốc điển hình là một ông trung niên, hàm răng cáu bẩn vì nicotine, thích xơi rượu ngoại đắt tiền, và phụ nữ trẻ. Nhưng anh Vương, người công chức chịu nói chuyện với NPR với điều kiện chỉ nêu họ, không nêu tên, không khớp với mẫu người đó. Anh Vương, 31 tuổi, có khuôn mặt của một thiếu niên, có bộ tóc dài và mê loại phim khoa học giả tưởng. Thật vậy, trong 15 phút đầu tiên, anh nói nhiều về bộ phim Mỹ “Guardians of the Galaxy” và cho nhà báonghe một số bản nhạc thịnh hành của thập niên 1970 mà anh đã tải xuống điện thoại di động. Cuộc trò chuyện chuyển sang hướng khác khi anh bắt đầu nói về tác động chóng mặt mà chiến dịch truy quét tham nhũng đánh vào cuộc sống của người công chức tại thành phố anh đang sống. Trong quá khứ, anh Vương thường xuyên nhận được những món bồi dưỡng, từ bánh trung thu hoặc những món ăn ngọt mùa thu theo tục lệ, cho đến món tiền thưởng trên 3.000 đô la Mỹ vào dịpTết. “Đùng một phát, thu nhập của tôi hụt khoảng 30 phần trăm,” anh Vương cho biết sau một ngụm moka trong quán Starbucks ở Thượng Hải. “Hầu như tất cả những đặc quyền đặc lợi của chúng tôi biến mất. Quả là một cú đấm làm mọi người choáng, mất tinh thần.” Chiến dịch truy quét của chủ tịch Bước sang năm thứ nhì, chiến dịch nhắm vào các đảng viên Cộng sản này vẫn tiếp tục ở mức gắt gao. Ông Tập Cận Bình nói nếu không làm sạch sẽ, nạn tham nhũng đe dọa vai trò lãnh đạo của đảng. Hơn 180.000 công chức có thẻ đảng đã bị kỷ luật, theo tin của truyền thông lề phải. Không phải chỉ có tép riu từ lưng quần trở xuống, có nhiều người thuộc cấp ủy viên trung ương đảng; gần đây nhất, là ông Lệnh Kế Hoạch, người trước đây nắm chức vụ tương đương Chánh Văn Phòng của nguyên Chủ tịch Hồ Cẩm Đào. Anh Vương nói với NPR chẳng những anh bị mất các loại bổng mà còn các loại lộc thuộc diện “ăn theo.” Anh nói: “Ví dụ như, nếu các quan lớn kiếm thêm được 16 đô la , họ sẽ nhả ra khoảng 3 đô la cho cấp dưới. Vấn đề hiện nay là các quan lớn không còn kiếm chác thêm 16 đô la đó nữa, thành thử chúng tôi cũng chẳng có 3 đô la.” Anh Vương nói trong thời gian gần đây, các quan to tập trung vào chuyện chạy tội bằng cách tẩy xóa các tang chứng, một cách làm mà anh nói toạc móng heo là họ đang tìm cách “chùi đít.” Anh nói, sau một thời gian dài ăn không chừa thứ gì, công việc chạy tội khá vất vả. “Một số quan chức có những món đầu tư ở nhiều lĩnh vực, kể cả mở quán karaoke và những câu lạc bộ phải có thẻ hội viên mới vào được. Chuyện này khá phổ biến. Mới đây, nhiều người phải đóng cửa các loại hình kinh doanh này và hủy các loại giấy tờ, chứng từ dính kết tên của họ vào các doanh nghiệp loại đó.” Anh còn nói thậm chí nhiều người đã gửi các bà vợ nhí, các con ngoại hôn của mình ra nước ngoài, ôm theo các tài sản đã tích lũy. Phản ứng của các quan tham Ông Lê Ung Trung, phó viện của một viện ở Bắc Kinh chuyên đào tạo chuyên gia điều tra tham nhũng nói với NPR những lời thổ lộ của anh Vương không khác xa sự thực là mấy. Ông Lê nói chiến dịch chống tham nhũng khiến nhiều quan chức phải giảm bớt những thói quen trước đây về nhận hối lộ và thâm lạm của công. Tuy nhiên, theo ông, đang có hiện tượng nhiều quan chức quen thói tham nhũng đã kháng cự một cách thụ động hoặc tích cực. Nhiều công trình xây dựngđang cố tình cho tiến hành chậm lại, với mục đích làm cho quần chúng nổi giận và kêu ca với trung ương để trung ương bớt xịt chó đi cắn tùm lum. Anh Vương, người công chức cấp thấp ở Thượng Hải kể trên, cũng mong chuyệnđó xảy ra. Đó cũng là một lý do khiến anh thổ lộ với NPR. Anh mong chuyện này đến tai ông Tập Cận Bình để ông này hiểu tình hình ở tiền phương xấu cỡ nào. Giống như nhiều quan chức khác, anh Vương không tin tưởng nơi chủ nghĩa cộng sản và anh thú thật anh cũng không thuộc hạng người trung với đảng. “Nếu như thu nhập của tôi không bị ảnh hưởng, thì những chuyện gì xảy ra ở cấp cao hơn cấp của tôi là chuyện của mấy ổng? Tôi chẳng quan tâm bây giờ người Cộng sản hay người Quốc Dân Đảng nắm quyền. Bao lâu mà họ không khuấy động cuộc sống của người dân bình thường như tôi, tôi cóc cần.” Theo npr.org
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 31, 2014 9:33:31 GMT 9
Trung Quốc tiếp tục cách mệnh, cùng chính sách liên Nga dung CộngHồ Bạch Thảo Chương 1 Cuộc vận động văn hoá mới [1915-1920] Trần Độc Tú Nguồn : Wikipedia Thời cuối Thanh văn hoá Tây phương bắt đầu ảnh hưởng, các phần tử trí thức chủ trương dân chủ là nguyên động lực cách mệnh ; lưu học sinh tại Nhật Bản cùng học sinh trong nước đứng địa vị trung kiên. Những sự kiện xẩy ra sau thời Dân quốc, khiến họ thất vọng nhiều, tiếp tục đi sâu vào con đường cứu nước, cuối cùng giác ngộ và thấy rằng trước đây chỉ mới mô phỏng về hình thức, chưa từng đi sâu vào cốt lõi tinh thần xây dựng nước của Tây phương. Muốn thay đổi chính trị, trước hết phải thay đổi xã hội, muốn thay đổi xã hội phải thay đổi lòng người. Về phương diện tiêu cực, phài quét sạch những điều trái với thời đại như quan niệm bảo thủ, tín ngưỡng cũ, nhân sinh quan cũ, tức văn hoá cũ. Về phương diện tích cực, xây dựng một xã hội mới, với quan niệm tiến bộ, niềm tin mới, nhân sinh quan mới, tức văn hoá mới. Nói tóm tắt, cần cắt bỏ truyền thống, triệt để Tây hoá, trước hết ra sức vào tư trào mới, hoặc vận động tân văn hoá; do đó mở màn việc làm lại cuộc cách mệnh. 1. Giải phóng tư tưởng Trước cách mệnh Tân Hợi [1911] số du học sinh sang các nước Âu, Mỹ ngày một tăng, trừ số giáo hội gửi đi cùng tự phí, riêng từ năm 1909 trở về sau, do tiền bồi khoản năm Canh Tý 1 mỗi năm gửi sang Mỹ khoảng 60 du học sinh. Những năm đầu Dân quốc số du học sinh sang các nước Âu, Mỹ tăng lên, hoặc học bổng, hoặc tự phí, mỗi năm lên đến hơn 400 người, còn số sang Nhật cũng mỗi ngày một nhiều ; do đó đào tạo được một số đông thâm thiết nhận thức văn hoá Tây phương. Thời cuối Thanh, các khoa bảng từng du học Âu châu như Thái Nguyên Bồi, Ngô Kính Hoàn, Lý Dục Doanh từng xuất bản tuần san Tân Thế Kỷ [1907-1910] nhắm tuyên truyền chính trị, xã hội, học thuật. Sau thời Dân quốc lại có lưu học sinh tại Pháp, Anh tổ chức Kiệm học hội, năm 1915 đổi thành Cần công kiệm học hội, tiếp đó mở Pháp Hoa giáo dục hội, Hoa công học hiệu, hy vọng đem cận đại khoa học chân lý, cùng nhân đạo chủ nghĩa của Âu châu du nhập Trung Quốc. Có thể thấy lòng thiết tha hâm mộ văn hoá Tây phương cùng dấy lên trong lòng, thấy người hay giỏi, muốn tiến mau cho bằng người. Trước cách mệnh Tân Hợi số thanh niên chịu ảnh hưởng ít nhiều về giáo dục Tây phương có đến gần 200 vạn người ; sau cách mệnh số này tăng lên gấp 3, 4 lần. Trình độ thâm cứu về văn hoá Tây phương của họ lẽ dĩ nhiên không bằng các du học sinh đã đích thân va chạm với dòng văn hoá này ; nhưng cả hai cùng chung một lòng ngưỡng mộ, qua sự hiệu triệu sẽ cùng hăng hái hưởng ứng. Chương Sĩ Sao, người tỉnh Hồ Nam, từng du học Nhật Bản, Anh ; khi Tống Giáo Nhân bị giết đã tiên đoán rằng Viên Thế Khải sẽ thực hiện đế chế, giải tán quốc hội, tu cải hiến pháp, sự việc sau đó xẩy ra đúng như vậy. Tháng 5/1914 Chương tại Nhật Bản sáng lập Giáp Dần Tạp Chí, đề cao dân chủ hiến chính, xúc tiến người trong nước nhận thức về chính trị cận đại. Tháng 6 cùng năm, lưu học sinh tại Mỹ lập Trung Quốc khoa học xã, xuất bản tạp chí Khoa Học, tôn chỉ giới thiệu khoa học và kỹ nghệ. Đây là những phần tử trí thức bước đầu cổ động Tây hoá Trung quốc học thuật chính trị. Từ phương diện tư tưởng, quét trừ chướng ngại cho chính trị học thuật, đáng suy tôn Trần Độc Tú là tay lãnh đạo, phấn đấu dựng lập cơ sở cho nền dân chủ khoa học. Trần Độc Tú tên là Can Sinh, bút hiệu Độc Tú [1879-1942], người đất Hoài Ninh, An Khánh [Anquing, An Huy] ; năm 18 tuổi đậu Tú tài, thi Hương rớt Cử nhân, vào Hàng Châu cầu thị thư viện học chế thuyền và Pháp văn trong 2 năm. Lúc đầu chịu ảnh hưởng của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, thuộc phái Duy tân. Sau cuộc biến pháp năm Mậu Tuất [1898], khuynh hướng chống Mãn Thanh, Trần sang Nhật Bản du học. Năm 1902 gia nhập Đông Kinh lưu Nhật học sinh, tổ chức Thanh niên hội, sau biến thành Cách mệnh đảng. Năm 1903 nhân cùng các bạn như Trâu Dung cưỡng ép cắt bím tóc của Giám đốc lưu học sinh Hồ Bắc, nên bị đuổi về nước. Tại An Khánh quê nhà, Trần tổ chức Ái quốc hội, xuất bản Ái Quốc Tân Báo, cùng chung chủ trương với Ái quốc học xã của Thái Nguyên Bồi, Chương Bỉnh Lân tại Thượng Hải. Kế tiếp tham gia Quốc Dân Nhật Báo tại Thượng Hải, cùng Tô Man Thù dịch Les Misérables [Những kẻ khốn cùng] của Victor Hugo. Năm 1904 chủ biên An Huy Tục Thoại báo tại Vu Hồ [Wuhu, An Huy] tuyên truyền cách mệnh, lúc Đồng minh hội thành lập, Trần là một thành viên. Năm 1906 dạy trung học Hoán Giang tại Vu Hồ, năm 1907 làm Giáo tập quốc văn cho Chiết Giang lục quân tiểu học. Thời cách mệnh Tân Hợi giữ chức Bí thư trưởng cho Đô đốc An Huy Bách Văn Uý, cùng Hiệu trưởng trường sư phạm An Huy. Sau cuộc cách mệnh lần thứ hai, lưu vong Nhật Bản. Năm 1914 giúp Chương Sĩ Sao trợ biên Giáp Dần Tạp Chí, lúc này Trần bắt đầu dùng bút hiệu Độc Tú, đăng bài xã luận “ Lòng yêu nước và lòng tự giác ”, trong thiên văn chương này đề xuất rằng muốn có lòng ái quốc phải có tinh thần tự giác. Ngoài ra cũng tham gia Âu sự nghiên cứu hội với nhóm Hoàng Hưng. Năm 1915, đau khổ bởi “ thế nước suy sụp, đạo suy vi, học thuật có nhiều mối tệ ” “ trách nhiệm tương lai, toàn dựa vào thanh niên ” bởi vậy cần “ cải tạo tư tưởng thanh niên, hướng dẫn thanh niên tu dưỡng… xác định con đường tu thân trị quốc trong tương lai ” ; nên vào ngày 5/10, trong giai đoạn Viên Thế Khải đốc thúc tiến hành đế chế, Trần sáng lập nguyệt san Thanh Niên Tạp Chí tại Thượng Hải, dốc tâm trình bày phân tích sự tình các nước, cùng học thuật tư trào, năm 1916 đổi tên tờ báo thành Tân Thanh Niên. Năm 1917, sau khi nhận chức Trưởng ban văn khoa tại trường đại học Bắc Kinh, Trần cho triển khai ban biên tập và di chuyển tạp chí Tân Thanh Niên lên Bắc Kinh. Có thể nói Giáp Dần Tạp Chí là thượng nguồn của vận động tân văn hoá, còn Thanh Niên Tạp chí hoặc Tân Thanh Niên là chủ lưu. Trong thiên mở đầu Trần Độc Tú soạn “ Kính cáo thanh niên ” viết rằng “ Thanh niên đối với xã hội, như tế bào mới đối với con người ” phải tuân theo luật đào thải thay cũ đổi mới, nếu không thì xã hội mất, con người chết. Xã hội Trung Quốc sắp mất, duy chỉ có thanh niên tự giác phấn đấu, xem sự hủ lậu như cừu địch, cắt bỏ đi ; phát huy trí năng, chọn lọc những tư tưởng hay, mới có thể thích hợp với cạnh tranh sinh tồn. Trần hy vọng thanh niên mai sau : – Thứ nhất : tự chủ, không nô lệ. Mọi hành động, quyền lợi, tín ngưỡng quyết không mù quáng lệ thuộc người khác, nhân cách tự do. – Thứ hai : vì tiến bộ, không bảo thủ ; phàm việc không tiến tức thoái ; “ những kẻ ôm lòng thủ cựu sẽ đến lúc suy vong ; ngày ngày đổi mới cầu tiến, sẽ hưng thịnh không ngừng ”. Luân lý, pháp luật, học thuật Trung Quốc là di sản của chế độ phong kiến so sánh với Tây phương sai trái rất nhiều, nếu không chịu cải tiến, không thể tồn tại với thế giới hôm nay. Chẳng thà để quá khứ quốc tuý tiêu vong ; không nỡ để cho dân tộc ta hiện tại tương lai bị tiêu diệt. – Thứ ba : tiến thủ, không thoái ẩn. Chiến thắng xã hội ác, không để cho nó chinh phục ; oán ghét xã hội xấu, nhưng không trốn tránh. Phong tục Tây phương vùng vaaxy ngang dọc, phủ nhận quá khứ để tiến, cho đó là đức tốt, Trung Quốc đóng cửa yên tĩnh điềm đạm cho là mỹ tục ; đó là nguyên nhân lớn khiến 2 dân tộc Trung, Tây mạnh yếu khác nhau. – Thứ tư : vì thế giới, không vì quốc gia hẹp hòi. Đất nước mất, còn, suy, thịnh một nửa liên quan đến chính trị nội bộ, một nửa thuộc ngoại quốc ; nếu miệt mài thủ cựu không thay đổi, không có trí thức thế giới, không biết thuận theo trào lưu thế giới, thật khó mà đứng vững. – Thứ năm : cần thực tế, không cần hư văn. Giáo dục chính trị khoa học kỹ thuật của Tây phương dẫn đường cho kẻ hậu sinh dùng ; Trung Quốc chuộng hư văn, tôn Nho trọng đạo, không giúp gì cho xã hội hiện thực, đó là việc của người điên, giá không đáng một đồng tiền. – Thứ sáu : vì khoa học, không tưởng tượng. Gần đây Âu châu ưu việt hơn các nước khác, một mặt tôn trọng nhân quyền, một mặt tôn trọng khoa học, lời nói và thực hành không có điều gì không tuân theo lý tính, lấy phép tắc khoa học để quyết định sự được mất, theo hay bỏ. Trung Quốc cần bỏ những tư tưởng trái với khoa học thường thức, những tín ngưỡng vô lý, dùng khoa học thuyết minh chân lý để chứng thực. “ Tổng hợp các hiện tượng khách quan rồi liên hệ với định lý chủ quan mà không tương phản ” tức khoa học. Sở dĩ Trần Độc Tú ca tụng văn hoá Tây phương, đả kích văn hoá Trung Quốc, mục đích đề xướng chính trị dân chủ, tinh thần khoa học, khuyến khích thanh niên phấn đấu noi theo hai mục đích lớn đó, để kịp trào lưu thế giới. Chuyên chế và mê tín là kẻ địch của dân chủ và khoa học, nên cần phải bài trừ trước. Đả kích Nho giáo để phát triển chính trị dân chủ, đả kích quỷ thần để phát triển tinh thần khoa học ; nhưng việc trước phải làm triệt để vì tư tưởng chuyên chế đã mọc sâu gốc rễ, nó dựa vào học thuyết nhà Nho, vì vậy Trần kịch liệt phản đối Khổng Tử. Trần bảo rằng Trung Quốc như cá thịt nằm trên dao thớt người, do thiếu tinh thần đề kháng cương cường quyết tiến, tính cương cường mất do quân chủ chuyên chế lưu độc, do học thuyết Khổng Tử làm hại. Hạnh phúc con người cần do tự lực tạo thành, quốc gia là tài sản chung của người trong nước, người dân đáng đứng vào địa vị chủ nhân, chủ động, chinh phục, tự phấn đấu tạo sức mạnh ; “ Tự tiến để kiến thiết chính phủ, tự lập pháp rồi tự phục tùng, tự định quyền lợi, rồi tự tôn trọng ”. Chính thể cộng hoà lập hiến thực hiện, toàn dựa vào đa số người trong nước tự giác, tự động ; không thể nhờ vào người khác ban cho. Nho gia nói về cương thường danh giáo, phân biệt giai cấp tôn quý, ti tiện ; so với những nguyên tắc độc lập, bình đẳng, tự do của cộng hoà lập hiến quyết không thể dung hợp ; “ dùng một cái, thì phải phế bỏ cái kia ”. Một khi thi hành chính trị cộng hoà lập hiến, mà còn tôn trọng luân lý cũ, gia đình xã hội vẫn giữ đặc quyền bảo thủ ; như vậy bình đẳng pháp luật, kinh tế độc lập bị huỷ không còn gì. Điều cần thiết nhu yếu cho Trung Quốc là tôn trọng tư cách cá nhân, trăm sự lấy cái ta làm trung tâm, mỗi người tự phấn đấu, thoát ly địa vị phụ thuộc, tham gia vận động người trong nước, nuôi dưỡng tấm lòng yêu nước của đa số, cùng tích cực hành động yêu nước, thực hiện chủ nghĩa duy dân, quốc gia mới được cứu. Mùa thu năm 1916, Khang Hữu Vi xin chính phủ đem Khổng giáo làm quốc giáo, ghi vào trong hiến pháp. Trần Độc Tú bài bác mạnh mẽ, bảo rằng Khổng Tử và đế chế có nhân duyên không thể phân cách ; Khổng Tử đề xướng đạo đức lễ nghĩa tức phong kiến thời đại đạo đức lễ nghĩa, tôn trọng quyền lợi thiểu số vua chúa quý tộc, luân lý học thuyết của Khổng trái với cộng hoà lập hiến, nếu như vấn đề luân lý không giải quyết, thì cành lá chi tiết vẫn còn, cho dù nhất thời bỏ cũ thay mới, thì gốc rễ tư tưởng cũng không thay đổi được. Khổng Tử dạy trung, dạy hiếu, dạy tòng, đều là nghĩa vụ phiến diện, bất bình đẳng đạo đức. Muốn kiến thiết tân quốc gia, tân xã hội, cầu sinh tồn trong thế giới mới cần thâu nhập lòng tin mới về bình đẳng, nhân quyền ; muốn củng cố nền cộng hoà trước hết phải tẩy sạch những tư tưởng cũ phản đối nền cộng hoà. Độc tôn Khổng Tử để ngăn chặn dân trí, tức phản lại lòng tin về tự do, đi đến quân chủ chuyên chế. Chính phủ dân quốc thờ Khổng, chẳng khác gì quân chủ chuyên chế thờ Washington ! Những người hết sức chi trì Trần Độc Tú có Lý Đại Sao, Ngô Ngu. Lý Đại Sao hô hào đi vào lịch sử, phá hoại những học thuyết cũ, để sản sinh tư tưởng mới. Ngô Ngu phân tích “ hiếu ” là khởi điểm lập giáo của Khổng tử, đối với “ trung ” có quan hệ liên đới; tại nhà thờ phụng cha mẹ làm hiếu, tại triều thờ vua làm trung “ Cái nghĩa về hiếu không lập, thì trung không có chỗ dựa, bởi vậy cởi bỏ chuyên chế trong gia đình, thì quân chủ áp bách cũng tan ; nếu không cách mệnh Nho giáo, Trung quốc sẽ không có tư tưởng mới, học thuật mới, quốc dân mới ”. Do đó phản Khổng giáo, trở thành tiền đề của cuộc vận động giải phóng tư tưởng, được chính thức nêu cao. Vào tháng 1/1917 Thái Nguyên Bồi giữ chức Hiệu trưởng trường đại học Bắc Kinh, nhận ra rằng đại học là nơi nghiên cứu học vấn cao thâm, không chỉ thâu nhập văn hoá Âu châu, còn muốn từ văn hoá Âu châu phát minh tiến bộ thêm ; không chỉ bảo tồn quốc tuý, mà cần dùng phương pháp khoa học nêu lên chân tướng về quốc tuý. Đối với các loại học thuyết, theo nguyên tắc tự do tư tưởng, đều dung nạp thu thái ; bất cứ học phái nào có thể trình bày thành lý, nêu rõ được nguyên nhân, đều khuyến tự do phát triển. Đối với Giáo viên, Thái lấy học vấn làm chủ, giảng dạy không phản với tư tưởng tự do ; đối với học sinh phá trừ tư tưởng làm quan, phát tài, phong cách hủ lậu, chủ trương khuyếch đại phạm vi học tập, tìm hiểu những điều trọng yếu về khoa học. Thái Nguyên Bồi đối với Trần Độc Tú sớm biểu lộ khâm phục, sau khi đọc qua 1 năm báo Tân Thanh Niên thấy kiến giải tương hợp, bèn mời Trần làm Trưởng ban văn khoa trường đại học Bắc Kinh, để cùng chỉnh đốn trường đại học, tìm mời những Giáo sư ưu tú. Trước đó đại học Bắc Kinh là một trường nổi tiếng hủ bại, nay khí tượng biến đổi, ngày một mới, xứng đáng là đại bản doanh của cuộc vận động văn hoá mới. 2. Cách mệnh về văn học và chính trị Hồ Thích [1891-1962] người huyện Tích Khê [Jixi], tỉnh An Huy : lúc nhỏ học trường tân học tại Thượng Hải. Năm 1910 được học bổng về bồi khoản năm Canh Tý (1), sang Mỹ lần lượt học tại các đại học Cornell và Columbia tại tiểu bang New York, chuyên nghiên cứu vế triết học và văn học, tốt nghiệp Tiến sĩ ; năm 1919 giữ chức Giáo sư đại học Bắc Kinh. Năm 1915, Hồ đã có ý cải lương văn học Trung Quốc, từng trao đổi với Trần Độc Tú trên tạp chí Tân Thanh Niên, Trần Độc Tú từng nói từ nay trở về sau văn học Trung Quốc nên xu hướng tả thực. Hồ Thích phát huy thêm, soạn thành Văn Học Cải Lương Xu Nghị, đăng trên Tân Thanh Niên vào năm 1917, đề xuất gồm 8 hạng, trong đó có các điểm quan trọng như lời nói biểu tượng sự vật cụ thể, không bắt chước cổ nhân, không tránh chữ thông tục, tục ngữ. Cái gọi là không tránh chữ thông tục, tục ngữ tức dùng bạch thoại, dùng lời nói thường của người ngày nay, để lời nói và chữ viết nhất trí. 10 năm trước đó, Trần Độc Tú từng xuất bản Cảnh Chung Nhật Báo chủ trương ngôn ngữ và chữ viết hợp nhất, dự đoán trong tương lai văn bạch thoại sẽ thịnh hành. Trong Thanh Niên Tạp Chí và Tân Thanh Niên tuy chưa dùng hẳn bạch thoại, nhưng đã chủ trương “ dùng văn bình dị ” trình bày lý lẽ cao thâm. Đối với ý kiến của Hồ Thích, Trần Độc Tú tán đồng ; nhưng Hồ Thích chỉ giới hạn trong việc cải lương hình thức văn học, Trần tiến thêm vào nội dung, để cùng tư tưởng giải phóng. Sau khi Hồ Thích đăng Văn Học Cải Lương Xu Nghị được 2 tháng, Trần Độc Tú phát biểu Văn Học Cách Mệnh Luận nêu ra gần đây Trung Quốc có 3 cuộc cách mệnh tức cách mệnh Tân Hợi và 2 lần chống Viên Thế Khải đều là cách mệnh về chính trị ; chưa tẩy sạch được ô uế lâu đời, gồm “ luân lý, đạo đức, văn học, nghệ thuật ăn sâu gốc rễ, bàn cứ trong lòng mọi người, như tầng tầng lớp lớp màn đêm hắc ám ” khiến cho xã hội không tiến hoá được, vẫn hắc ám như xưa. Cần phải dương cao ngọn cờ lớn “ Văn học cách mệnh quân ” ; lấy 3 chủ nghĩa lớn làm hiệu triệu : – Thứ nhất : lật đổ văn học quý tộc a dua, gọt dũa ; kiến thiết văn học dân tộc bình dị, trữ tình. – Thứ hai : lật đổ văn học cổ điển phô trương hủ lậu ; kiến thiết văn học tả thực mới. – Thứ ba : lật đổ văn học rừng rú tối tăm khó hiểu ; kiến thiết văn học trong sáng, dùng văn học phổ thông trong xã hội. Văn học là đối tượng của vũ trụ, nhân sinh, xã hội ; “ muốn canh tân chính trị không thể không canh tân văn học, vì văn học vốn là công cụ căn bản cho việc vận dụng chính trị ” ; “ văn hoá Âu châu phần lớn chịu ảnh hưởng của chính trị, khoa học, ảnh hưởng bởi văn học cũng không nhỏ ”. Hồ Thích tán thành ý kiến của Trần, nhưng chủ trương tiệm tiến, thung dung thực hiện. Trần cho rằng bạch thoại là văn học chính tông, lấy quốc ngữ làm văn ; là lẽ hiển nhiên không còn chỗ để thảo luận, thái độ hết sức dứt khoát. Giáo thụ quốc văn trường đại học Bắc Kinh như Tiền Huyền Đồng, Lưu Bán Nông nhiệt tâm ủng hộ hai người. Năm 1918 báo Tân Thanh Niên bắt đầu đăng tải văn bạch thoại, sử dụng tiêu điểm phù hiệu. Về sau Hồ Thích nói rằng ông bị thành kiến về lịch sử quá sâu, không đủ để lập nên sự nghiệp cách mệnh ; tiên phong về văn học cách mệnh đáng nên suy tôn Trần Độc Tú. Lại bảo Trần có 3 cống hiến lớn : thứ nhất, dương cao 3 chủ nghĩa lớn khiến văn thể cải lương biến thành văn học cách mệnh ; thứ hai, làm cuộc đại vận động đem luân lý, đạo đức, chính trị cách mệnh hợp với văn học cách mệnh ; thứ ba, do Trần có tinh thần xông lên phía trước, nên văn học cách mệnh có được sự thu hoạch lớn. Năm 1920, chính phủ lần lần phế bỏ các sách giáo khoa cũ tại các trường, cải sang dùng quốc ngữ, tiếp nhận văn học cách mệnh về phương diện hình thức, ngoài xã hội cũng cùng tiếp thu nội dung văn học cách mệnh. Tháng 9/1917, Hồ Thích được Trần Độc Tú giới thiệu làm Giáo thụ tại trường đại học Bắc Kinh. Tháng 4/1918, Hồ phát biểu Kiến Thiết Văn Học Cách Mệnh Luận trình bày mục đích văn học cách mệnh nhắm sáng tạo văn học viết bằng quốc ngữ bạch thoại, một khi có được văn học bằng quốc ngữ mới có được nền văn học quốc ngữ ; khi đã có nền văn học quốc ngữ thì quốc ngữ mới xứng đáng là quốc ngữ. Văn học Trung Quốc trong quá khứ dùng thứ chữ đã chết [tử ngữ] để diễn tả, văn tự đã chết không thể tạo ra một nền văn học sống ; nếu muốn có một nền văn học sống, phải dùng bạch thoại, quốc ngữ, làm văn học bằng quốc ngữ. Tân Thanh Niên đăng tải đầu tiên các dịch phẩm viết bằng bạch thoại do Chu Tác Nhân dịch từ tiểu thuyết Âu Châu. Tháng 5/1918 xuất bản Cuồng Nhân Nhật Ký của Lỗ Tấn [1881-1936], đây là tác phẩm đầu tiên do Lỗ sáng tác thành công bằng bạch thoại. Tuy việc dùng văn bạch thoại biến thành cao trào, nhưng thành phần bảo thủ phản đối cũng không ít ; đơn cử một chuyên gia cổ văn, Lâm Thư, gửi thư cho Hiệu trưởng đại học Bắc Kinh, Thái Nguyên Bồi, nhắm đả kích bạch thoại có đoạn như sau “ Nếu phế bỏ hết cổ văn, dùng lời thổ ngữ để làm văn tự, dùng những lời của những bọn kéo xe, bán tương rồi cho rằng có văn pháp, … nếu như vậy thì bọn buôn bán đầu đường tại Bắc Kinh, Thiên Tân đều có thể dùng làm Giáo thụ (đại học) ! ” Khi Trần Độc Tú mới ra báo Tân Thanh Niên, cho rằng sẽ gây chấn động ; nhưng thực sự trong năm đầu phát hành không nhiều, mỗi kỳ chỉ khoảng 1.000 ấn bản. Bắt đầu từ năm 1917, số báo tăng dần, sau đó đạt đến 1 vạn 5,6 ngàn bản ; các sinh viên đại học, cao đẳng, trung học tranh nhau mua, thực sự gây chấn động một thời. Cố nhiên do những bài chống lại Nho giáo tác động, nhưng văn học cách mệnh cũng đưa đến cho thanh niên nguồn thú vị mới. Trong quá khứ Tân Thanh Niên chỉ là tạp chí của Trần Độc Tú, nhưng sau đó được coi như là tập san của Giáo sư đại học Bắc Kinh. Ngoài những bài tuyên truyền cho văn hoá mới, Tiền Huyền Đồng hư cấu nhân vật “ Vương Kính Hiên ”, chuyên huỷ báng văn học cách mệnh ; rồi bị Lưu Bán Nông phản bác, khiến độc giả thêm phần hứng thú. Năm 1918 là năm cực thịnh của Tân Thanh Niên, và cũng là thời kỳ khích động mạnh của thanh niên trí thức. Khi Tân Thanh Niên mới xuất bản, thanh ngôn rằng tôn chỉ không nhắm phê bình chính trị hiện thời ; tuy toàn tạp chí đều đề cập đến vấn đề chính trị, đặc biệt là dân chủ chính trị, nhưng chỉ đề cập về lý luận chính trị, không phải là thực tế chính trị. Nhưng hai lãnh vực khó mà phân biệt một cách nghiêm nhặt, hơn nữa Đoàn Kỳ Thuỵ thi hành chính sách phản lại nguyện vọng dân tộc, nên tháng 7/1918 Trần Độc Tú buộc phải lên tiếng về vấn đề chính trị liên quan đến sự mất còn của quốc gia. Trần tuyên bố nếu như muốn nền chính trị Trung Quốc trong sạch an ninh ; thứ nhất cần bài xích chính trị vũ lực, quân phiệt ; thứ hai, cần từ bỏ tư tưởng một đảng độc quyền thống nhất đất nước, các đảng được bình phân chính quyền, bao dung chấp nhận đảng đối lập cùng chấp chính ; thứ ba, đáng quyết định chủ trương thủ cựu hay canh tân, vì cả hai không thể cùng thi hành. Riêng Trần đương nhiên chủ trương cách tân, nhất thiết dùng “ phương pháp mới của Tây dương ” ; tôn trọng dân quyền, pháp trị, bình đẳng. Chẳng bao lâu kết thúc Thế chiến thứ nhất, Trần cho rằng cơ hội mới sắp đến, đốc thúc đương cục Trung Quốc cùng nhân dân phấn đấu. Rồi cuộc cách mệnh tháng mười tại Nga được một năm, nhận thức của Trần sâu sắc hơn, thấy được con đường mới. Tháng 11, trong cuộc đại hội mừng Hiệp ước quốc thắng lợi tại Bắc Kinh, Trần cùng Thái Nguyên Bồi diễn thuyết các đề tài như “ Thắng Lợi Của Thứ Dân ”, “ Lao Công Thần Thánh ”. Trần cường điệu rằng thắng lợi kỳ này không riêng vũ lực của Hiệp ước quốc mà do thắng lợi của thứ dân toàn thế giới. Ngày 22/12 Trần Độc Tú và Lý Đại Sao xuất bản báo hàng tuần nhan đề “ Mỗi Chu Bình Luận ” có các mục quốc nội, quốc ngoại, xã luận, cảm tưởng, quốc nội lao động trạng huống ; với bút pháp tinh tế sắc bén, phê bình vấn đề thời sự. Đối ngoại phản đối cường quốc khinh thường nước yếu, nghiêm trách cường quốc khống chế hội đàm Ba Lê, cùng Tổng thống W. Wilson [Uy Nhĩ Tốn] phản bội lời hứa, với lời phẫn nộ “ công lý ở đâu ! ”. Đối nội phản đối quân phiệt bạo ngược với nhân dân, nắm giữ chính quyền ; bài xích Đoàn Kỳ Thuỵ cấu kết với Nhật Bản ; nêu quân phiệt, quan liêu, chính khách là “ tam hại ”. Nhắm trừ “ tam hại ” người trong nước phải giác ngộ tham dự chính quyền, cử hành vận động thị uy phản đối quân phiệt, quan liêu, chính khách. Hô hào phần tử trung kiên của xã hội dấn thân xuất hiện, tổ chức quốc dân làm hậu thuẩn cho chính đảng, tảo trừ đặc thù thế lực (ý chỉ Nhật Bản) đứng đằng sau “ cẩu đảng ” (đảng chó) ; có thể coi đây là tiếng nói tiên phong của cuộc vận động Ngũ tứ. Tháng 5/1918 lưu học sinh tại Nhật Bản phản đối hiệp định quân sự Trung Nhật, bị cảnh sát Nhật Bản đánh, làm nhục ; khoảng 3.000 người bỏ học trở về nước, tổ chức Cứu quốc đoàn, phát hành Cứu Quốc Nhật Báo. Ngày 21/5, hơn 2.000 học sinh tại Bắc Kinh dấy lên hưởng ứng, đòi chính phủ phế bỏ hiệp định này, hô hào mở quốc dân đại hội, cự tuyệt hàng hoá Nhật ; đây là mở màn cho cuộc vận động của học sinh. Tháng 6, một số thanh niên tại Bắc Kinh lập “ Thiếu niên Trung Quốc học hội ” “ với tinh thần khoa học, vì xã hội mà hoạt động, giúp sáng tạo cho thiếu niên Trung quốc ”. Chẳng bao lâu học sinh đại học Trung Quốc cũng tổ chức “ Tân trào xã ” “ Quốc dân tạp chí xã ”. Tháng 1/1919 được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Thái Nguyên Bồi, Trần Độc Tú, Hồ Thích, Lý Đại Sao, chia nhau xuất bản các nguyệt san “ Tân Trào ”, “ Quốc Dân ”. Quốc Dân vẫn dùng văn ngôn (cổ văn), nặng tinh thần chống Nhật, chủ trương điều hoà tư tưởng cũ và mới. Phong cách của Tân Trào giống như Tân Thanh Niên, hai bên lập luận yểm trợ cho nhau. Tân Trào nhấn mạnh rằng Trung Quốc không thể đứng ngoài trào lưu thế giới, cần phải quan sát xu hướng tư trào hiện đại mà đi ; với tình trạng xa cách tư trào hiện đại, Tân Trào lập luận bằng cách nào Trung Quốc có thể hội nhập cùng quỹ đạo với tư trào thế giới. Số đầu tạp chí Tân Trào, sau khi xuất bản lần thứ nhất được in lại 3 lần, đạt đến 1 vạn bản ; cùng với Tân Thanh Niên, là những tạp chí phát hành mạnh nhất. Các lãnh đạo trong cuộc Ngũ tứ vận động đều là những thành viên chủ chốt trong 2 tạp chí Quốc Dân và Tân Trào. Sau khi Ngũ tứ vận động bộc phát, ngày 8/6 Trần Độc Tú đăng trên “ Mỗi Chu Bình Luận ” bài “ Nghiên Cứu Thất Và Ngục Tù ” hô hào sinh viên học sinh kiên cường trước sự khủng bố, ca tụng phòng nghiên cứu, nhà tù là nơi sinh hoạt cao thượng, rèn luyện ý chí thanh niên. Trước đây trong cuộc vận động tân văn hoá một mình Tân Thanh Niên cáng đáng, nay có thêm những tạp chí bạn cùng ứng chiến. 3. Kinh tế xã hội biến đổi ; thương nhân, công nhân, phụ nữ thức tỉnh Trước cách mệnh Tân Hợi một vài năm, nỗ lực phát triển kinh tế trong nước gặp những trở lực quấy nhiễu từ hai phía trong và ngoài ; tuy thành quả không đúng như sự mong muốn, nhưng đại thể cũng không đến nỗi tệ. Những năm đầu Dân quốc, công luận chú trọng hai vấn đề : thứ nhất, cải tiến chính trị ; thứ hai, giàu có về kinh tế. Tôn Trung Sơn đề xướng kiến thiết tân xã hội nhắm cạnh tranh sinh tồn, nhận thức đã đến lúc bắt tay vào cuộc vận động cách mệnh kinh tế, ra sức khuyên Viên Thế Khải chấn hưng về thực nghiệp. Đoàn thể chấn hưng thực nghiệp được lập lên từ các nơi, như : Trung Hoa dân quốc công nghiệp kiến thiết hội, Kinh tế hiệp hội, Thực nghiệp hiệp hội, Dân chủ đoàn, Quốc hoá duy trì hội. Tháng 9/1912 Tôn, Viên họp bàn, đạt được cương lãnh về kinh tế như : hưng biện đường sắt, mỏ khoáng, đặt xưởng luyện thép, tư trợ tư nhân về thực nghiệp. Tháng 12, bộ công thương ban bố chương trình tạm thi hành tưởng lệ công nghệ phẩm, nội dung phàm phát minh hoặc cải lương sản phẩm chế tạo, công nhận hợp cách, được hưởng 5 năm độc quyền hoặc thưởng danh dự. Năm 1913, bộ công thương, nông lâm hợp thành bộ nông thương ; do Trương Tái, người có nhiều năm kinh nghiệm về thực nghiệp làm Tổng trưởng hơn 3 năm. Trương chỉ trích trước kia chính quyền “ không khuyến khích dân phát triển nghiệp vụ ”, nên phí phạm mà không có hiệu quả. Nay đình bãi việc bộ, chính phủ chỉ huy xí nghiệp, để cho dân làm, chính phủ chỉ giúp đỡ tưởng lệ, nên hiệu quả hơn. Đặc biệt đối với các xí nghiệp quan trọng như sắt thép, dệt; thì đặt ra những pháp lệnh qui định rõ ràng. Ngoài ra kinh tế phát triển còn có nguyên nhân lớn bởi tình thế quốc tế biến chuyển, năm 1914 Thế giới đại chiến bộc phát. Các quốc gia chủ yếu tại Âu châu như Anh, Pháp, Đức, Nga đều bị cuốn nhập vào cuộc chiến, lo đấu tranh thắng, bại, sống, chết, không còn rảnh tại Đông phương, nên sự xâm lược kinh tế tại Trung Quốc có phần lỏng lẽo; ngoài ra thị trường mở rộng, Trung Quốc dành được cơ hội tốt mà trước kia chưa từng xẩy ra. Từ năm 1913 đến 1914 thương phẩm ngoại quốc nhập vào Trung Quốc mỗi năm khoảng 57.000 vạn lượng ; nhập siêu mỗi năm 15.500 vạn lượng hoặc 21.200 vạn lượng. Sau đó từ năm 1915-1916 đột nhiên nhập siêu giảm xuống khoảng hơn 3.400 vạn lượng ; năm 1917-1918 mỗi năm 8.600, hoặc hơn 6.900 vạn lượng. Năm 1919 hơn 1.600 vạn lượng, số lượng khoảng 1/10 năm 1913 ; công nghiệp Trung Quốc trở nên năng động hơn. Lại một phần Nhật Bản gia tăng xâm lược, năm 1915 dấy lên phong trào ái quốc, nhất trí chống lại hàng Nhật, đề cao thực nghiệp cứu nước ; tại công thương nghiệp có tác dụng lớn, nhất là công nghiệp nhẹ, đứng đầu là ngành dệt và bột mì. Trước cách mệnh Tân Hợi, cả nước chỉ có 20 xưởng dệt, sản xuất khoảng 50 vạn tấm sa, giá tiền 1.700 vạn nguyên, Năm 1914, Đệ nhất thế chiến bắt đầu, tuy nhiên số sa tồn kho còn nhiều, nên chưa đến nỗi thiếu. Năm 1915, cung không đáp ứng nỗi cầu, nên giá sa tăng vọt, thiên hạ mưu đồ kiếm lời. Từ năm đó cho đến năm 1922, các xưởng cũ khôi phục và khuếch trương, số xưởng mới lập tăng lên đến hơn 60, sa sản xuất đến 150 vạn tấm, giá tiền hơn 6.000 vạn nguyên, lợi nhuận tăng rất nhiều ; số người đầu tư phần lớn là thương nhân, có liên quan đến buôn vải ngoại quốc trước kia. Những xưởng dệt này phân bố tại các tỉnh Giang Tô, Trực Lệ, Sơn Đông, Hà Nam, Hồ Bắc; trước đại chiến số máy dệt toàn quốc có 2.000 đơn vị, năm 1922 tăng đến hơn 6.700 đơn vị ; ngoài ra các nghề ươm tơ, dệt lụa, cán bông, nhuộm, cũng phát triển theo. Trước cách mệnh Tân Hợi cả nước có 40 xưởng bột mì, mỗi ngày đêm sản xuất được hơn 4 vạn bao, tiền vốn khoảng 600 vạn nguyên. Từ năm 1914 ngày mỗi gia tăng, đứng đầu là Đông Tam Tỉnh 2, Giang Tô, thứ đến Trực Lệ, Hồ Bắc, Sơn Đông. Năm 1922, cả nước có 120 xưởng, mỗi ngày đêm sản xuất được 19 vạn bao bột mì, tiền vốn khoảng 4.500 vạn nguyên. Những xưởng lớn nhất có công ty Mậu Tân, Phú Tân, đặt tại Thiên Tân [Tianjin, Hà Bắc]. Năm 1914 số bột mì nhập siêu khoảng 740 vạn lượng, năm sau chuyển sang xuất siêu, đến đỉnh cao năm 1922 đạt 1.600 vạn lượng. Người Anh, Pháp, Nga, Nhật, Nam Dương đều dùng bột mì Trung Quốc. Ngoài các ngành dệt, làm bột mì ; về sản xuất xi măng, tại Thiên Tân có Khải Tân Dương Hôi là công ty lớn nhất, tiền vốn từ 100 vạn nguyên, phát triển lên đến 2.000 vạn nguyên. Về thuốc lá có công ty Nam Dương Huynh Đệ Yên Thảo, tiền vốn từ 100 vạn nguyên lên đến 1.500 vạn nguyên ; nhưng cuối cùng không cạnh tranh nổi hãng thuốc lá Anh, Mỹ thành lập năm 1902. Diêm từ 30 xưởng, tăng lên đến khoảng 90 xưởng ; tiền vốn từ hơn 180 vạn nguyên tăng đến hơn 700 vạn nguyên. Các ngành nghề khác như hoá học, làm giấy, ấn loát, pha lê, thực phẩm đóng gói, ép dầu, đều có sự tiến triển. Công nghiệp nặng phát triển thua xa công nghiệp nhẹ, nhưng cũng có chút ít tiến bộ. Những mỏ than do người Hoa phụ trách có sự phát triển, như Trung Hưng Môi Khoáng tại tỉnh Sơn Đông. Có các mỏ do người ngoại quốc kinh doanh được thu hồi, như Lục Hà Cấu Môi Khoáng tại Hà Nam, Tỉnh Kinh Môi Khoáng tại Trực Lệ. Có đến hơn 10 công ty mỏ than mới được thành lập, ngoại trừ Trung Nguyên Công Ty tại Hà Nam, các công ty khác đều thuộc cở nhỏ. Tổng kê trên toàn nước, số công ty do người Hoa xuất vốn mỗi năm sản xuất được hơn 300 vạn tấn than. Về sắt thép, bắt đầu từ năm 1914 công ty Hán Trị Bình, trước sau lập nên 6 xưởng, công ty thép Long Quan thành lập năm 1916 tại Bắc Kinh, công ty thép Hoà Hưng thành lập năm 1916 tại Thượng Hải, công ty Dương Tử Cơ Giới thành lập năm 1919 tại Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc]. Tính gộp lại mỗi năm sản xuất 70 vạn tấn sắt, 10 vạn tấn thép ; các loại chì, thiếc cũng có gia tăng. Về vận tải, dứng đầu phát triển là thuyền máy. Năm 1912, số thuyền máy của Hoa thương có đến 1.000 chiếc, khả năng vận tải 8 vạn tấn. Đến năm 1920 có đến 1.600 chiếc, khả năng vận tải 18 vạn tấn. Mới thành lập là những công ty thuyền máy lớn, năm 1914 có công ty Tam Bắc Luân Phụ Cổ Phần Hữu Hạn, năm 1915 có công ty Trung Quốc Bưu Thuyền, năm 1919 có công ty Trung Hoa Hàng Nghiệp Cổ Phần Hữu Hạn ; hai công ty đề cập sau, chuyên hàng hành viễn dương. Năm 1918 có công ty Mậu Thông Luân Thuyền Cổ Phần Hữu Hạn chuyên hàng hành tại các tỉnh Cát Lâm, Hắc Long Giang. Từ năm 1911 trở về trước, có 14 ngân hàng do tư sản Trung Hoa làm chủ, trong thời kỳ Thế giới đại chiến phát triển nhanh, năm 1919 có đến 60 ngân hàng. Ngân hàng có thực lực mạnh nhất, phải kể : năm 1915 có Diêm nghiệp, Thượng Hải Trử Súc, Chiết Giang địa phương thực nghiệp ; năm 1916 có ngân Trung Phù, năm 1917 có Kim Thành, Đại Lục; năm 1919 có Trung Quốc Thực Nghiệp ; các ngân hàng này trung tâm thường đặt tại Thiên Tân, Thượng Hải. Cuộc Thế giới đại chiến giúp cho Trung Quốc những cơ hội trước đó không có ; đồng thời về kinh tế tại Hoa, Nhật Bản cũng có cơ hội xâm lược, Trung Quốc không dễ đương đầu lại, nên rút cuộc bị thất bại. Trước đại chiến, Anh đứng đầu về kinh tế liệt cường tại Trung Quốc, hầu như lũng đoạn đủ mọi ngành. Sau khi đại chiến mở màn, thế lực Nhật Bản tiến nhanh, chỉ trong vòng mấy năm tỷ suất thâu nhập từ 15 % tăng đến 29 %. Rồi thông qua kế hoạch cho vay vào năm 1917 do Tây Nguyên Điện Tam làm môi giới, được gọi là Tây Nguyên tá khoản, Nhật dành các quyền lợi khai thác khoáng sản, kiến trúc đường sắt, hợp tác kinh doanh. Nhật trực tiếp đầu tư vào công xưởng, phân bố tại các vùng Đông bắc, Sơn Đông, Thiên Tân, Hán Khẩu, Thượng Hải ; riêng vùng Đông bắc lên đến 360 triệu nguyên. Về ngành dệt phần lớn đầu tư tại Thanh Đảo [Qingdao, Sơn Đông], Thượng Hải ; năm 1913 sản xuất 11 vạn tấm sa, năm 1922 được 62 vạn tấm, tăng lên đến 5 lần. Các xưởng bột mì của Nhật thiết lập tại Tế Nam [Jinan, Sơn Đông], Thanh Đảo, Hán Khẩu, Thượng Hải ; riêng Mãn Châu chế phấn xưởng chiếm lãnh việc cung cấp bột mì miền Đông bắc. Những điều nêu trên nói lên được sự uy hiếp đối với ngành dệt và chế bột mì non trẻ của Trung Quốc ; đến như ngành công nghiệp nặng thì Trung Quốc không thể cạnh tranh nổi. Sản lượng Nhật Bản đầu tư vào sắt thép tại Trung Quốc chiếm 94 %, riêng than đá, nếu cộng chung với nước Anh chiếm 75 %. Sau khi đại chiến chấm dứt, thế lực kinh tế của Tây phương lại bùng lên trở lại, mậu dịch Trung Quốc nhập siêu có xu hướng tăng ; thậm chí trước đây xuất siêu về bột mì, đến năm 1922 phải nhập siêu trở lại, Mậu dịch của nước Anh tại Trung Quốc lúc này nghiêng ngửa với Nhật, riêng Mỹ đứng hàng thứ ba. Nền kinh tế dân tộc Trung Hoa không tiến được, rồi dần dần đi vào chỗ suy thoái, không đáng quy hoàn toàn vào áp lực ngoại lai, tình hình quốc nội ngày một ác hoá cũng là yếu tố quan trọng. Chính phủ không có lòng giúp đỡ, chiến loạn không ngừng, binh ngạch gia tăng, là những đòn trí mệnh đánh vào nền kinh tế. Tính từ năm 1916 đến 1922, tối thiểu có đến 10 cuộc nội chiến ; xuôi dòng thời gian phải kể đến : chiến tranh chống đế chế thời Viên Thế Khải, chống Trương Huân phục bích, chiến tranh Vân Nam - Tứ Xuyên, chiến tranh nam-bắc, chiến tranh Trực-Hoán hệ, hai lần chiến tranh Quảng Đông - Quảng Tây, chiến tranh Hồ Nam - Hồ Bắc, chiến tranh Tứ Xuyên - Hồ Bắc, chiến tranh Trực-Phụng hệ ; binh ngạch từ 50 vạn tăng lên đến 150 vạn. Quân phí lấy từ thuế và quyên góp, công thương nghiệp là nguồn chính để bòn rút. Bình thời hàng hoá phải nạp thuế ly kim, rồi tăng thêm vào các loại quyên góp, thực thu tăng đến 20 % sản phẩm. Các phương tiện vận chuyển bị quân đội nắm, bày chuyện hạch sách, không những trở ngại cho vấn đề tiêu thụ, lại còn trở ngại cả việc cung ứng nguyên liệu. Quân phiệt địa phương tự ý đúc tiền đồng, phát hành tiền giấy, khiến đồng bạc xuống giá. Đơn vị tiền tệ không đồng nhất, có đồng nguyên đúc bằng bạc, lượng bạc ; đồng nguyên bằng bạc không giống nhau ; lượng bạc thì có Hải quan lượng, Khố bình lượng, Thượng Hải lượng, Thiên Tân lượng, khiến “ ra khỏi tỉnh một bước, như ra nước ngoài, lữ hành đã phiền phức, kinh doanh lại càng khó khăn ”. Chính phủ trung ương phát hành nhiều công trái, giới công thương là đối tượng phải gánh vác. Đầu tư ngân hàng bấp bênh, tham mua công trái lợi tức cao, chiết khấu lớn, một khi công trái sụp đổ, ngân hàng phải đóng cửa. Vào thời chiến, quân phiệt không thi hành pháp luật, đến ngân hàng thương hội cưỡng bách mượn tiền, trưng dụng xe thuyền, phá cầu đường, coi đó là chuyện tự nhiên. Còn việc nông thôn bị khốn khổ thì không nói hết, thuế ruộng, thuế muối gia tăng, vật giá không ngừng tăng cao. Rồi còn bị thuỷ tai, hạn hán, tai nạn vì chiến tranh, thổ phỉ ; dân không có đường mà tránh, có khi cầu chết cũng không được. Công thương nghiệp hưng suy liên quan mật thiết đến đại cuộc, nên giới này rất quan tâm đến thời sự, đặc biệt tại nơi cửa khẩu thông thương và đô thị lớn. Hai lần cách mệnh xẩy ra, Tổng thương hội Thượng Hải từng hô hào hoà bình. Năm 1914, Thương hội liên hiệp hội toàn quốc thành lập; năm 1915, nhân phản đối hiệp định quân sự Trung Nhật, yêu cầu đình chỉ nội chiến. Tháng 3/1919, 53 đoàn thể thương nghiệp tại Thượng Hải tổ chức thành Công đoàn thương nghiệp, gửi thư cho các nước yêu cầu hành động giúp hoà bình, nếu không sẽ đoạn tuyệt quan hệ với các nước chi viện cho quân phiệt ; không nạp tô thuế cho chính phủ, không vận chuyển hàng hoá. Tháng 4 cùng năm, do vấn đề Sơn Đông, Tổng thương nghiệp Thượng Hải phản đối hoà đàm Ba Lê, cùng Tổng thống Mỹ W. Wilson. Những vấn đề nêu trên biểu thị lòng ái quốc của thương nhân. Công nhân phần lớn đến từ nông thôn, tuy kém tri thức, nhưng dần dần cũng được giác ngộ. Từ cuối thế kỷ 19, việc thông thương tại các bến cảng ngày một thịnh vượng, đường sắt, mỏ khoáng ngày một mở mang, cần nhiều nhân lực ; nên nông dân từ thôn quê đi tìm việc đông như chim đàn. Lao động cực nhọc, thời gian đến 12 giờ một ngày, nhưng tiền công rẻ mạt, không đủ nuôi gia đình, lại còn bị ngược đãi. Rồi sự nghe biết dần dần rộng ra, lòng bất mãn sinh sôi, đi đến chỗ bãi công tranh đấu. Khoảng năm 1911, công nhân toàn quốc khoảng 50 vạn. Năm 1912 bắt đầu kết hợp đoàn thể, như Đồng chí hội của công nhân dường sắt phía nam Tân Phố [Thiên Tân - Phố Khẩu], Thượng Hải chế tạo công nhân đồng minh hội, Sào ty nữ công đồng nhân hội, Quảng Đông cơ khí tổng hội, Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] xa phu đồng minh hội vvv… Sau khi Viên Thế Khải công bố Dân quốc tân hình luật, quy định xử phạt tổ chức bãi công, nhưng vào năm 1913 Hán Dương [Hanyang, Hồ Bắc] binh công xưởng vẫn ngang nhiên bãi công. Năm 1914 ban hành Trị an cảnh sát điều lệ, có điều khoản ngăn cấm công nhân, nhưng chẳng bao lâu công nhân ngành sơn bãi công tại Thượng Hải. Thanh niên công nhân của Thương vụ ấn thư quán có tổ chức Lệ chí hội, nhân viên ngành biển tại Hương Cảng có tổ chức Liên nghị xã. Năm 1915 Quảng Châu [Guangzhou, Quảng Đông] công đoàn thành lập, công nhân tại bến cảng Hán Khẩu bãi công, làm huỷ hoại hàng hoá Nhật Bản xuất cảng. Cùng với sự phát triển công thương nghiệp, số công nhân toàn quốc lên đến 200 vạn người, công hội tăng thêm. Từ năm 1914-1918 số vụ bãi công tăng lên, bình quân mỗi năm đến 18 lần. Năm 1917 có 23 vụ, 1918 có 30 vụ ; đại đa số đòi hỏi tăng lương, cải thiện đãi ngộ ; cũng có vụ liên quan đến chính trị. Năm 1915 phản đối 21 điều do Nhật Bản đưa ra, dấy lên phong trào chống hàng Nhật, bãi công diễn hành ; tại các hãng xưởng Nhật, công nhân Hoa tích cực đấu tranh. Năm 1916 phản đối Pháp khuếch trương tô giới tại Thiên Tân, công nhân Hoa tại tô giới bãi công, thành lập công đoàn. Năm 1918 công nhân tại Quảng Châu tổ chức ngày kỷ niệm công nhân 1/5 ; tại Hán Khẩu công nhân tổ chức hội phản Nhật. Từ năm 1918-1919 tại các hãng dệt sa của Nhật Bản, có 4 lần bãi công. Những năm đầu Dân quốc, ngoại trừ trường nữ sư phạm ; các tỉnh, huyện hầu như chưa lập các trường nữ trung học, tiểu học. Năm 1915, số nữ học sinh toàn quốc khoảng 18 vạn ; vào năm này giáo hội Mỹ mở trường nữ đại học tại Kim Lăng [Nam Kinh]. Năm 1917 chính phủ mở trường sư phạm chuyên khoa cho nữ giới tại Bắc Kinh, hai năm sau cải thành trường nữ cao đẳng. Đối tượng tạp chí Tân Thanh Niên tuyên truyền là nữ giới, năm 1916 Trần Độc Tú khuyên phụ nữ không nên đứng vào địa vị bị chinh phục, cần tự phấn đấu, thoát khỏi sự phụ thuộc, khôi phục nhân cách tự chủ, đặc biệt đả kích tư tưởng “ Phu vi thê cương [chồng ràng buộc vợ] ” của Khổng giáo là không đúng. Trần cũng đả kích giáo điều “ Tam tòng ” của Khổng giáo đòi hỏi phụ nữ tòng phụ, tòng phu, tòng tử 3. Trần chủ trương phụ nữ tham gia việc chính trị, chồng chết có thể tái giá, giao tế tự do, sinh hoạt độc lập. Năm 1917 trên tạp chí Tân Thanh Niên mở chuyên mục về phụ nữ, đăng các bài về giáo dục, hôn nhân, chức nghiệp, quyền lợi, thuận theo trào lưu của thế giới. Đối với vấn đề trinh tiết, vào năm 1918 hai, ba lần đem ra thảo luận ; cho rằng trinh tiết không phải là đạo đức, chỉ là ý thích, lòng tin, tính ưa trong sạch ; rồi biên dịch các hài kịch chỉ trích nếp sống cũ, khuyên phái nữ cần có dũng khí phản kháng. Hồ Thích nhấn mạnh phụ nữ cần có nhân sinh quan cao hơn vợ hiền, từ mẫu ; phát triển tinh thần tự chủ, đường đường làm tròn nghĩa vụ, sự nghiệp. 4. Cuộc vận động Ngũ tứ phát triển toàn quốc Đệ nhất thế giới đại chiến chấm dứt, lúc hoà hội sắp mở màn ; tại Trung Quốc, một trong những nước được liệt danh chiến thắng, trên dưới đều vui vẻ, phần tử trí thức càng cao hứng, trường học cả nước nghỉ mừng 3 ngày. Trong nước mở đại hội chúc mừng Hiệp ước quốc thắng lợi, đốt đèn diễn hành, cờ xí đầy đường, kèn trống ca hát rầm rộ, cất tiếng ca “ Mây tiêu mù tan, lại thấy trời xanh ! ”. Hiệu trưởng trường đại học Bắc Kinh cùng Giáo thụ cử hành diễn thuyết, nêu lên 4 ý nghĩa lớn : – Thứ nhất, cường quyền hắc ám tiêu diệt, lực lượng hỗ trợ quang minh phát triển. – Thứ hai, phái chủ trương dùng âm mưu bị tiêu diệt, phái chính nghĩa phát triển. – Thứ ba, vũ lực độc đoán chủ nghĩa tiêu diệt, bình dân chủ nghĩa phát triển. – Thứ tư, chủng tộc thiên kiến tiêu diệt, đại đồng thế giới phát triển. Chưa đầy 3 tháng, tin tức xấu về hội nghị Ba Lê liên tục truyền đến, thất vọng như bị đánh vào mặt, khiến trời đất quay cuồng, thanh niên học sinh hết sức phẫn khái, biến thành cuộc vận động thị uy tại Bắc Kinh vào ngày 4/5/1919. Tại tuyên ngôn phát biểu, bài xích các nước tham dự hoà hội dùng cường quyền, không chiếu cố đến chính nghĩa công lý “ Lừa dối lăng nhục ta, áp bức ta, nô lệ ta ”, “ Nếu ta không làm cuộc hô hào tranh đấu một lần sống vạn lần chết…. thì chủng tộc này sẽ điêu tàn trong thế kỷ thứ 20, không còn lời nói với nhân loại ”. Qua các truyền đơn phát tán hiệu triệu “ Đối ngoại tranh chủ quyền, đối nội trừ giặc nước ” “ Đất đai Trung Quốc có thể chinh phục, nhưng không cắt chiếm được ; nhân dân Trung Quốc có thể giết nhưng không cúi đầu ”. Ba tuần lễ sau, một trong những lãnh tụ cuộc thị uy, La Gia Luân, gọi đó là “ Ngũ tứ vận động ”, nên đã trở thành danh từ thông dụng, ý nghĩa khuếch đại thành cuộc vận động cho văn hoá mới, tư trào mới. Nguyên nhân gần của cuộc phản kháng là vấn đề Sơn Đông, sau khi phát động đấu tranh, không được giải quyết thoả đáng, nên nhiệt huyết học sinh càng dâng cao, không chịu ngưng. Chính phủ với thủ đoạn đàn áp mạnh và thái độ ngoan cố càng tăng thêm sự phẫn nộ. Ngày 5/5 kế tục ủng hộ học sinh bị bắt, lực lượng biểu tình đòi hỏi trừng trị quan chức bán nước, cự tuyệt hoà ước Ba Lê, thực hành bãi khoá. Ngày thứ hai, học sinh tại các trường đại học, chuyên môn, trung học thành lập Bắc Kinh học sinh liên hiệp hội, nữ sinh cũng tham gia, đó là tổ chức đầu tiên của học sinh. Các học sinh tại Thiên Tân, Thượng Hải, lưu học sinh tại Nhật, cùng các đoàn thể nổi tiếng từ bắc xuống nam đều nhất trí ủng hộ. Tổng thống Từ Thế Xương chấn hãi, ra lệnh thả các học sinh bị bắt, mở lại trường học, học sinh thu được thắng lợi sơ bộ. Nhân bị phái Đoàn Kỳ Thuỵ làm áp lực, Từ Thế Xương cấm chỉ học sinh tiếp tục nhiễu loạn trật tự, đem những học sinh có liên quan giao cho pháp đình xử lý, lưu giữ bọn Tào Nhữ Lâm xin từ chức. Phái đương quyền thân Nhật và phái bảo thủ nhận thấy rằng sự kiện xẩy ra do chủ trương tư tưởng học thuật tự do của trường đại học Bắc Kinh gây ra, nên Hiệu trưởng Thái Nguyên Bồi bị ép buộc phải từ chức ; Giáo thụ và học sinh thỉnh cầu lưu lại, bị cự tuyệt ; rồi toàn thể Hiệu trưởng các trường chuyên môn tại Bắc Kinh đều xin từ chức. Từ Thế Xương tiếp tục hạ lệnh không cho phép học sinh can thiệp vào việc chính trị và lập hội, bãi miễn Tổng trưởng giáo dục Truyền Tăng Tương đồng tình với Thái Nguyên Bồi. Vào ngày 19/5 học sinh Bắc Kinh tổng bãi khoá, tuyên truyền phản Nhật, đả kích chính phủ. Công sứ Nhật Bản quay sang bộ ngoại giao cật vấn, yêu cầu cấm chỉ hoạt động của học sinh, quân hạm Nhật Bản tập trung tại Thượng Hải, Thiên Tân, Nam Kinh, Hán Khẩu. Hành động chẳng khác lửa cháy đổ thêm dầu khiến cho học sinh toàn quốc, trên 200 thành thị lớn nhỏ như Bắc Kinh, Thiên Tân, Tế Nam [Jinan, Sơn Đông], Thái Nguyên [Taiyuan, Sơn Tây], Thượng Hải, Hàng Châu [Hangzhou, Chiết Giang], Nam Kinh, Phúc Châu [Fuzhou, Phúc Kiến], An Khánh [Anquing, An Huy], Khai Phong [Kaifeng, Hà Nam], Vũ Xương [Wugang, Hồ Bắc], Trường Sa [Changsha, Hồ Nam] đều nhất loạt bãi khoá. Bắc Kinh giáo chức viên liên hiệp hội, đồng thời thành lập làm hậu thuẫn. Đoàn Kỳ Thuỵ vẫn ngang nhiên không cho là quan trọng, chuẩn bị ký điều ước. Từ Thế Xương vẫn tái tục ngăn cấm diễu hành diễn thuyết, ngăn chặn tổ chức học sinh, bọn Tào Nhữ Lâm tích cực yểm hộ. Ngày 2/6 lại bắt bớ lần thứ hai, học sinh không sợ sệt chút nào, ngày hôm sau biểu tình đông, bị bắt hơn 400 người ; trường đại học Bắc Kinh biến thành nhà tù tạm thời. Ngày 4/6 số học sinh tuyên truyền diễn hành gia tăng gấp bội, bị bắt hơn 700 người, có hơn 5.000 người tình nguyện vào ngục, hơn 1.000 nữ sinh đến phủ Tổng thống kháng nghị, giáo chức đến thăm hỏi học sinh tại ngục. Chính phủ bắt đầu cảm thấy đàn áp mạnh không hữu hiệu, bèn triệt thoái quân cảnh bao vây trường đại học Bắc Kinh, Từ Thế Xương sai người đến thăm hỏi, học sinh lại đạt được thắng lợi lần thứ hai. Vào ngày 4/5 lúc học sinh Bắc Kinh cử hành thị uy, từng hô hào giới công thương đồng lòng dấy lên. Hai ngày sau được Bắc Kinh thương hội, Thượng Hải thương nghiệp công đoàn liên hiệp hội, Giáo dục hội tỉnh Giang Tô hưởng ứng. Quốc dân đại hội tại Thượng Hải không những yêu cầu trừng trị Tào Nhữ Lâm, Lục Tông Dư, Chương Tông Tường, lại còn đòi trừng trị cả Đoàn Kỳ Thuỵ, Từ Thụ Tranh ; về quyền lợi không những đòi thu hồi Thanh Đảo [Qingdao, Sơn Đông], lại còn đòi phế trừ mọi điều ước tổn thất đến quyền nước. Sau trung tuần tháng 5, học sinh Bắc Kinh, Thiên Tân đến Thượng Hải, phối hợp với học sinh nơi này bàn luận với thương nhân lập phương hướng thực tế đấu tranh. Khi cuộc khủng bố học sinh tại Bắc Kinh xẩy ra, ngày 5/6 Thượng Hải thực hành bãi thị, tuyên bố rằng hành động này do lòng ái quốc, không có ý bài ngoại. Tiếp tục bãi thị xẩy ra tại các thành thị như Nam Kinh, Ninh Ba [Ningbo, Chiết Giang], Hạ Môn [Xiamen, Phúc Kiến], Trấn Giang, Tô Châu, Vô Tích [Woxi, Giang Tô], Dương Châu, Vu Hồ, An Khánh, Cửu Giang, Hàng Châu, Hán Khẩu, Tế Nam, Khai Phong, Thiên Tân. Về phương diện công nhân, lúc đầu có Tế Nam, Bắc Kinh tập trung hội họp, số người tham gia hàng vạn. Cùng ngày với cuộc bãi thị tại Thượng Hải, cuộc tổng bãi công bộc phát, tham gia gồm ngành dệt, ấn loát, cơ khí, thuốc lá, bưu chính, điện thoại, xe điện, thuyền máy, bến cảng, các ngành kiến trúc ; tổng kê khoảng 6,7 vạn người, khiến giao thông đình trệ. Đường sắt Bắc Kinh - Hán Khẩu đoạn phía bắc ; đường sắt Bắc Kinh - Phụng Thiên đoạn phía tây, các công nhân đều lần lượt tham gia. Thượng Hải quốc dân đại hội tuyên bố lật đổ chính phủ Bắc Kinh ; đuổi Từ Thế Xương, Đoàn Kỳ Thuỵ. Với phong trào cả nước sôi sục mãnh liệt, thực hiện “ Tam bãi ” tức bãi khoá, bãi thị, bãi công ; bắt buộc chính phủ phải truất bãi Tào Nhữ Lâm, Lục Tông Dư, Chương Tông Tường vào ngày 10/6 ; thậm chí câu lạc bộ An Phúc cũng phải gửi điện phản đối hoà ước Ba Lê, nguyện thuận theo ý dân ; Từ Thế Xương xin quốc hội từ chức. Đây là thắng lợi thứ ba của học sinh, và cũng là cuộc vận động quần chúng thắng lợi. Ngày 12/6, kết thúc cuộc bãi thị tại Thượng Hải, phần lớn công nhân trở lại làm việc, nhưng vẫn chủ trương chống hàng Nhật, đề cao nội hoá. Học sinh cho rằng việc quyết định không ký vào hoà ước Ba Lê chưa rõ ràng, nên vẫn bãi khoá. Vào ngày 16/6 chính thức tại Thượng Hải thành lập Toàn quốc học sinh liên hiệp hội, cùng Sơn Đông và các nơi khác tiếp tục đấu tranh, cho đến lúc chính phủ có quyết định không ký vào hoà ước Ba Lê, vào ngày 22/7 Toàn quốc học sinh liên hiệp hội tuyên bố đình chỉ bãi khoá, học sinh gặt hái được chiến thắng cuối cùng. 5. Trào lưu mới và chủ nghĩa Mác được truyền bá Từ năm 1915 đến năm 1918 là đệ nhất thời kỳ của cuộc vận động tân văn hoá, hầu như đưa toàn lực vào giải phóng tư tưởng ; từ 1919 đến 1921 là đệ nhị kỳ, hầu như đem toàn lực vào việc tuyên dương tư tưởng Tây phương. Phàm những tư tưởng Trung Quốc chưa có, trước đây chưa nghe đến, thuyết nào cũng cho là thuốc tốt cứu đời, nhất luật hoan nghênh, ra sức thu thập; lại càng hoan hỷ các tư tưởng mới xã hội quá khích, yêu nhiệt tình như niềm tin tôn giáo. Các sách về tư tưởng mới đua nhau xuất bản, trăm nhà đua tiếng, mỗi thuyết có một cái hay, tạo thành ngọn sóng tân tư trào. Trước cuộc vận động Ngũ Tứ, tập san báo chí cổ suý tân văn hoá chỉ có Tân Thanh Niên, cùng các báo Mỗi Chu Bình Luận, Tân Trào, Quốc Dân. Sau cuộc thị uy Ngũ Tứ, từ tháng 6/1919 trở về sau, trong vòng hơn 1 năm, các tạp chí xuất bản như tuần san, bán nguyệt san, nguyệt san, quý san nhiều có đến 400 loại ; phần lớn do học sinh đại học, chuyên môn, trung học biên tập. Học vấn của họ tuy có hạn, nhưng lòng tin và nhiệt tình rất mạnh, hơn nữa văn bạch thoại lúc này đã lưu hành, giúp cho họ biên tác tiện lợi hơn. Ngoài ra hai phái lãnh đạo canh tân là Tôn Trung Sơn, Lương Khải Siêu, cũng tích cực tham gia. Năm 1918 Tôn Trung Sơn sau khi từ Quảng Đông đến Thượng Hải, chủ trương canh tân, đưa hết sức ra sáng tác. Cùng tháng với cuộc vận động Ngũ Tứ, Tôn xuất bản “ Tôn Văn Học Thuyết ”. Sau khi bãi công và bãi thị tại Thượng Hải 3 ngày [8/6/1919], hai tờ báo “ Tinh Kỳ Bình Luận ” và “ Dân quốc nhật Báo ” do Tôn chỉ đạo, đều đăng thêm phụ bản “ Giác Ngộ ”. Hơn 1 tháng sau lại xuất bản nguyệt san “ Kiến Thiết ”. Trần Quýnh Minh xuất bản tại Chương Châu [Zhangzhou] Phúc Kiến bán nguyệt san “ Mân Tinh ”. Vào tháng 12/1918, Lương Khải Siêu từ Thượng Hải đến Âu Châu, trước đó hối hận rằng trong quá khứ không đáng tham gia vào việc chính trị, từ nay trở về sau quyết chuyên về con đường tư tưởng. Sau cuộc vận động Ngũ Tứ 4 tháng, Lương phát hành bán nguyệt san “ Giải Phóng Cùng Cải Tạo ” xuất bản tại Thượng Hải. “ Thời Sự Tân Báo ” là cơ quan ngôn luận của phái Lương, phát hành thêm phụ trương “ Học Đăng ”, cùng với “ Thần Báo ” tại Bắc Kinh, những cây bút có liên hệ với Lương cũng phát hành thêm phụ trương “ Thần Báo Phó Huề ”. Thiếu niên Trung Quốc học hội, thành lập được 1 năm, là một đoàn thể kiêm nhiệm cả học thuật và chính trị, hội viên có trình độ cao hơn các học sinh bình thường, bắt đầu triển khai công tác; vào tháng 7/1919 cùng tháng 1/1920, lần lượt tại Bắc Kinh, Nam Kinh xuất bản nguyệt san “ Thiếu Niên Trung Quốc ”, “ Thiếu Niên Thế Giới ” ; phân hội tại Thành Đô [Chengdu, Tứ Xuyên] có tuần san “ Tinh Kỳ Nhật ”. Lúc này tại Trường Sa [Changsha, Hồ Nam] tập san rất nhiều, trong vòng nửa năm riêng tuần san có đến chục loại. Ngoài ra những tập san quan trọng, Bắc Kinh có tuần san “ Tân Sinh Hoạt ”, “ Tân Xã Hội ”, nguyệt san có “ Thự Quang ” ; tại Nam Kinh có tuần san “ Thiếu Niên Xã Hội ” ; tại Thượng Hải có nguyệt san “ Thái Bình Dương ”, “ Tân Giáo Dục ”. Thương vụ ấn thư quán từ trước vốn xuất bản những ấn phẩm bảo thủ như “ Đông Phương Tạp Chí ”, “ Phụ Nữ Tạp Chí ”, hiện tại đều canh tân. “ Tiểu Thuyết Nguyệt Báo ” cải cách càng mạnh, tháng 1/1921 do tân văn học gia tổ chức hội nghiên cứu văn học. Mùa hè cùng năm, đoàn thể Văn học sáng tạo xã thành lập, vào tháng 5 năm sau xuất bản “ Sáng Tạo Quý San ”. Chuyên môn trước tác theo lối mới, tiên phong có “ Trung Quốc Triết Học Cổ Đại Sử ” quyển thượng của Hồ Thích, xuất bản năm 1918 ; dùng phương pháp mới, quan điểm mới, chỉnh lý học thuật Trung Quốc, là một bộ trong Bắc Kinh đại học tùng thư. Kế tiếp có Trung Hoa thư cục đích tân văn hoá tùng thư, Thương vụ ấn thư quán đích thời đại tùng thư, Thượng chí học hội tùng thư. Năm 1920 Lương Khải Siêu lại thành lập Cộng học xã cùng Giảng học xã ; Cộng học xã chuyên biên dịch, Giảng học xã mời các Học giả Tây phương đến diễn giảng. Trước cuộc vận động Ngũ Tứ 3 ngày, Triết học gia John Dewey [Đỗ Uy] do lời mời của các trường đại học Bắc Kinh, Nam Kinh cao đẳng sư phạm, đến Trung Quốc giảng dạy 2 năm. Giảng học xã mời một vị triết học gia người Anh, Bertrand Russell [La Tố], đến Trung Quốc vào tháng 10/1920, lưu lại trong vòng 1 năm. Vị thứ hai, một Triết học gia khác người Đức, Hans Driesch [Đỗ Lý Thư], lưu lại một vài tháng. Vị thứ ba, một Văn gia Ấn Độ R. Tagore [Thái Qua Nhĩ], đến vào năm 1924, lưu lại trong vòng 2 tháng. Cũng có ý mời Triết học gia người Pháp Henri Bergson [Phách Cách Lâm], tuy chưa đến nhưng những trước tác của vị này đã được phiên dịch. John Dewey và Bertrand Russell đi qua nhiều nơi, tại Bắc Kinh tương đối lâu, rất chú ý đến cuộc vận động Ngũ Tứ và đã từng góp ý kiến. Những lời diễn giảng của những vị này đều được báo chí đăng tải và in thành sách riêng, một số trước tác được phiên dịch. Hồ Thích cùng mấy vị Giáo thụ tại Nam Kinh là học sinh của John Dewey, tuyên truyền chủ nghĩa thực nghiệm của ông này. Về một vài phương diện ảnh hưởng của Bertrand Russell cơ hồ lớn hơn John Dewey, không phải vì Số lý triết học 4 của ông, mà do ông là người theo chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm Đến Con Đường Tự Do, ông viết rằng chủ nghĩa Mác có thể tạo nên thế giới tương đối hoàn thiện. Trước khi đến Trung Quốc, từng qua Nga Xô, gặp Lenin [Liệt Ninh], Trotsky [Thác Lạc Thứ Cơ]. Lúc Bertrand Russell mới đến Thượng Hải, từng nói chính trị của một chính phủ cần từ dưới lên trên, giáo dục chú trọng xã hội, không cần chú trọng cá nhân, cỗ vũ sáng tạo, giảm thiểu chiếm hữu. Sau đó 10 ngày, tại Trường Sa [Changsha, Hồ Nam] ông diễn thuyết đề tài “ Bôn sê vích 5 [Bố Nhĩ Thập Duy Khắc] và chính trị thế giới ” bảo rằng cách mệnh tháng mười đối với tân sinh tồn nhân loại có rất nhiều ý vị, tương lai sẽ có ảnh hưởng lớn. Một khi Bôn sê vích thi hành, người người đều làm việc, không đến nỗi kẻ lao động người ở không, sinh hoạt con người không cách biệt nhau thái quá. Bertrand Russell tuy không tán thành việc Bôn sê vích ưa chuyên chế, nhưng hành động hữu hiệu, trung với quốc gia ; việc cải cách chính trị Trung Quốc nên dùng phương pháp của Nga Xô, không nên dùng chính trị Tây phương. Đối với đảng Cộng sản Trung Quốc đang được trù tính tổ chức, những lời của Bertrand Russell có sức cỗ vũ mạnh về tinh thần. Trần Độc Tú và Hồ Thích là hai chủ tướng trong cuộc vận động văn hoá, nhưng thái độ phân biệt bởi gấp và hoãn ; Trần chủ trương cách mệnh, cải tạo xã hội Trung Quốc từ gốc rễ, Hồ chủ trương cải lương, từ từ biến đổi ; hai người cũng giống như Tôn Trung Sơn và Lương Khải Siêu trước thời cách mệnh Tân Hợi. Người có tư tưởng gần với Trần là Lý Đại Sao, nhưng cấp tiến hơn, đối với cách mệnh tháng 10 Nga, hứng thú trọn vẹn. Vào khoảng tháng 10/1918 Lý là người đầu tiên lập Xã hội chủ nghĩa nghiên cứu hội, nhận định rằng Bôn sê vích là chủ nghĩa cách mệnh, có tinh thần yêu người, là bình minh của hoà bình, thế giới tương lai là thế giới của cờ đỏ ! Từ năm 1919 trở về sau, Lý ra sức tuyên truyền cách mệnh tháng mười và chủ nghĩa Mác. Tạp chí “ Mỗi Chu Bình Luận ” cho rằng cách mệnh tháng 10 là chìa khoá mở cửa tiến hoá, là trận đại hồng thuỷ tẩy rửa cho một kỷ nguyên mới, giai cấp lao động toàn thế giới liên hợp, đánh gục giai cấp tư bản. “ Tân Thanh Niên ” xuất bản chuyên đề nghiên cứu chủ nghĩa Mác, giới thiệu giai cấp đấu tranh, cùng duy vật sử quan. “ Thần Báo ”, “ Dân Quốc Nhật Báo ” cùng phó bản của các báo này không ngừng đăng tải những vấn đề liên quan đến cách mệnh tháng 10 và chủ nghĩa Mác. Riêng Hồ Thích theo chủ nghĩa hoài nghi, thực nghiệm, tin vào thuyết tiến hoá ; khuyên những người này không nên coi chủ nghĩa là tín điều, hoặc tôn giáo ; nghiên cứu từng vấn đề một cách cụ thể cá biệt, ít bàn đến trừu tượng, thực hành cải tiến từng điểm một, không chủ trương giải quyết cả gốc rễ. Lý Đại Sao phản bác, bảo rằng vấn đề và chủ nghĩa không thể tách phân, trước hết phải có chủ nghĩa lý tưởng, rồi mới căn bản giải quyết từng vấn đề, cách mệnh Nga chứng minh như vậy. Những báo chí có liên quan đến Tôn Trung Sơn, Lương Khải Siêu cũng thỉnh thoảng cũng giới thiệu chủ nghĩa Mác và Bôn sê vích. Tháng 6/1919, Trần Độc Tú rải truyền đơn tại Bắc Kinh bị bắt, vào tháng 8 tạp chí “ Mỗi Nguyệt Bình Luận ” bị đóng cửa, Trần bị giam hơn 80 ngày, sau khi thả bèn dời đến Thượng Hải. Hồ Thích và Lý Đại San tranh luận về vấn đề và chủ nghĩa lúc Trần còn tại tù. Tháng 12 tạp chí “ Tân Thanh Niên ” xuất bản Tân Thanh Niên Tuyên Ngôn và bài của Hồ Thích Tân Tư Trào Đích Ý Nghĩa. Hồ cho rằng Tân Tư Trào có thái độ mới, thái độ phê bình phán xét ; thực tế biểu hiện là nghiên cứu vấn đề, thâu nhập học lý, chỉnh sửa quốc cố 6, tái tạo văn minh. Nội dung Tân Thanh Niên Tuyên Ngôn về chính trị phủ nhận đế quốc chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa ; sáng tạo tân quan niệm, dựng lập tân tinh thần, thích ứng với tân hoàn cảnh. Tân xã hội gồm tiến bộ, tích cực, tự do, bình đẳng, tương ái, hỗ trợ, yêu lao động. Xã hội sáng tạo do vận động quần chúng ; trọng yếu của chính trị là cộng đồng sinh hoạt, chính quyền thuộc toàn thể nhân dân, không luận có tài sản hay không. Đối với học thuật tư tưởng cần thiết sinh hoạt sáng tạo, tôn trọng khoa học tự nhiên, triết học thực nghiệm, không chủ trương hư vô, không đặt biên giới, vô tín ngưỡng ; tuyệt đối hoài nghi siêu thực nghiệm, vô kết quả. Thiên tuyên ngôn này do Trần Độc Tú viết, nhắm chiết trung chủ trương của Hồ Thích và Lý Đại Sao. Vào tháng 1/1920 từ phương diện kinh tế, Lý giải thích nguyên nhân tư tưởng cận đại biến động. Trần Độc Tú chuyển hướng sang chủ nghĩa Mác, cùng với việc ông bị bắt và báo “ Tân Thanh Niên ” bị cấm có thể có sự quan hệ. Sau khi đến Thượng Hải, Trần thường qua lại bàn luận với Đái Truyền Hiền, Trương Đông Tốn về chủ nghĩa Mác ; chẳng bao lâu sau đó tiếp xúc với Cộng sản quốc tế, Trần bèn quyết định thái độ. Vào tháng 7, Tân Thanh Niên lại phát tuyên ngôn, chính thức ủng hộ chủ nghĩa Mác, thừa nhận dùng thủ đoạn cách mệnh để kiến thiết giai cấp lao động trong nước; ngăn cấm đối nội, đối ngoại tước đoạt quyền chính trị, pháp luật. Lương Khải Siêu và Trương Đông Tốn tán thành Cơ Nhĩ Đặc 7 (Syndicalism) xã hội chủ nghĩa ; tháng 1/1920 hô hào Trung Quốc cần cải tiến thực nghiệp, tăng tiến của cải, điều hoà giữa lao động và tư bản. “ Tân Thanh Niên ” gia tăng bài bác, kiên quyết đi theo con đường của nước Nga. Phái vô chính phủ cũng nhân phản đối Bôn sê vích, tham gia vào cuộc tranh luận. Các đoàn thể ái quốc thiếu niên học hội Trung Quốc trước kia, lúc này bắt đầu phân hoá ; hoặc theo chủ nghĩa quốc gia, hoặc theo chủ nghĩa Mác. Hồ Thích và Trần Độc Tú thực hiện chia tay vào cuối năm 1920. Từ đó trở về sau Hồ tuy chú tâm vào việc chỉnh lý quốc cố, nhưng không quên dân chủ, khoa học, đi theo con đường Âu, Mỹ. Ý kiến của Lương Khải Siêu gần tương đồng với Hồ Thích ; nhưng đối với quốc cố Lương muốn phát huy di sản, riêng Hồ thì hoài nghi, muốn dùng khoa học hiện đại với thái độ phê phán. Nói tóm lại từ cuộc vận động Ngũ Tứ trở về sau, phần tử trí thức Trung Quốc nhắm chống quân phiệt, chống xâm lược không ngừng thâu thái các tư trào, học thuyết, chủ nghĩa Tây phương, để rồi dần dần chia thành hai phái sẵn sàng đối địch. Một phái chủ trương theo cách Anh, Mỹ ; tôn trọng con đường tự do, dân chủ, khoa học, tuần tự mà tiến. Một phái theo cách Nga Xô, thi hành phương pháp hữu hiệu của Cộng sản, với lý tưởng to lớn, giải quyết từ căn bản. Phái trước thanh thế tuy thịnh, nhưng nghị luận rầm rộ, cuối cùng không hình thành được mặt trận liên hiệp ; phái sau kiên định lập trường, tổ chức đồng nhất ; nhưng đối với từng lớp nhân sĩ thì khuynh hướng tự do, khoa học, dân chủ vẫn chiếm đa số. Hồ Bạch Thảo 1 Năm 1908 nước Mỹ giảm thu tiền bồi thường chiến phí năm Canh Tý [1900] để Trung Quốc dùng vào việc giáo dục, cho du học sinh sang Mỹ. 2 Đông Tam Tỉnh : ba tỉnh phía đông bắc, tức Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh. 3 Tam tòng gồm : tại gia tòng phụ, tức lúc còn con gái tuân theo cha ; xuất giá tòng phu, lúc lấy chồng tuân theo chồng ; phu tử tòng tử, lúc chồng chết tuân theo người con trưởng. 4 Số lý triết học (The Principles of Mathematics) : nội dung từ nghiên cứu nguyên lý toán học, xác định kết quả khoa học. 5 Bôn sê vích [Bố Nhĩ Thập Duy Khắc], do âm tiếng Anh Bolsheviks , có nghĩa là khối đa số ; còn một thành phần của đảng Mác xít Nga tách ra khỏi Menshevik. 6 Quốc cố : đồng nghĩa với quốc học, nhưng chú trọng đến quốc hồn, quốc tuý. 7 Cơ Nhĩ Đặc xã hội chủ nghĩa chủ trương cải lương, cải thiện tư bản chủ nghĩa.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 11, 2015 4:54:08 GMT 9
'Hổ Vương' Trung Hoa Sắp Sa Lưới?10/03/2015 Bùi Tín Ngày 28/2/2015 báo Nhân dân Giải phóng quân của quân đội Trung Quốc đưa tin 14 viên tướng của Trung Quốc đã bị bắt giữ, tước quân hàm, chờ ngày xét xử vì đã bị tố cáo, điều tra về tội phạm pháp, phạm kỷ luật nghiêm trọng, tham nhũng và sống sa đọa. Trong các viên tướng trên có Thiếu tướng Quách Thanh Lương, con trai của Thượng tướng Quách Bá Hùng, từng là Phó Bí thư Quân ủy Trung Ương, là cận thần của nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân. Trước đó vào tháng 1/2015, Tướng Quách Bá Hùng đã bị quản thúc, giam lỏng để chờ ngày xét xử. Hãng Reuters (25/2) nhận xét Tướng Từ Tài Hậu và Tướng Quách Bá Hùng là 2 viên tướng cao cấp nhất, đều là Phó Bí thư quân ủy khi ông Giang Trạch Dân là Tổng Bí thư kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, cũng là 2 người được xem là thân tín nhất của ông Giang. Ngày 3/3/2015, báo Tranh Minh (Hồng Kông) cho biết ông Tăng Khánh Hồng, nguyên Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, vốn là cánh tay phải của ông Giang Trạch Dân, đã bị Ủy ban Thanh tra và Kỷ luật của đảng CS Trung Quốc giam lỏng vì bị tố cáo về nhiều tội: ăn hối lộ, tham nhũng, hối mại quyền thế. Mạng Đại Kỷ Nguyên cho biết Tăng Khánh Hồng từng thực hiện đắc lực chủ trương đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân, đặc biệt là trong tội ác mổ tử thi các tù nhân Pháp Luân Công để bán các bộ phận cơ thể của họ. Ngày 4/3/ 2915 cũng báo Tranh Minh (Hồng Kông) cho biết sau khi con trai cả của ông Giang Trạch Dân là Giang Miên Hằng bị mất chức Phó Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc kiêm Chủ tịch Phân viện Thượng Hải, nay cháu ruột ông là Nghê Phát Hoa, Phó Chủ tịch tỉnh An Huy, đã bị truy tố về tội tham nhũng nghiêm trọng. Vợ ông Nghê Phát Hoa họ Bành là con gái của Giang Trạch Tuệ, em gái ruột của ông Giang Trạch Dân. Báo China News ngày 2/3/2015 còn cho biết Tòa án nhân dân thành phố Đông Dinh tỉnh Sơn Đông đã công bố tội trạng của Nghê Phát Hoa nhận hối lộ đến 13 triệu Nhân dân tệ (bằng 2 triệu US$), tài sản ông này đã bị tịch thu sung vào công quỹ, Nghê bị tuyên án 17 năm tù giam. Các báo tự do ở Hồng Kông nói trên nhận định rằng cuộc săn con hổ lớn nhất - Hổ Vương - tức nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân đã gần kề, chỉ còn là vấn đề thời gian. Trong 2 năm qua, hàng vạn cán bộ đảng viên đã bị sa lưới, khai trừ khỏi đảng CS trong chiến dịch “săn hổ diệt ruồi, bắt sói trốn chạy, thu hồi tài sản bất minh”, trong đó có hơn 20 tướng lãnh từ thiếu tướng đến thượng tướng, hơn 50 cán bộ lãnh đạo cấp cao từ thứ trưỏng, bí thư tỉnh ủy trở lên đến ủy viên thường vụ Bộ Chính trị và phó bí thư Quân ủy Trung ương. Ông Giang Trạch Dân được coi là lãnh tụ tối cao xếp hàng thứ 3 của đảng CS Trung Quốc, chỉ sau Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Vụ trọng án chính trị tham nhũng “Giang Trạch Dân và đồng bọn”, nếu được mở ra và xét xử, sẽ là vụ án cực kỳ chấn động. Vụ bao vây, săn Hổ Vương của ông Tập Cận Bình trong chiến dịch chống tham nhũng, từ lớn nhất đến nhỏ nhất, từ hổ đến ruồi, còn bao gồm cả việc săn lùng bọn tham nhũng chạy ra nước ngoài và thu hồi mọi tài sản bất minh cho công quỹ, cho đến nay là thuận buồm xuôi gió, do được xã hội TQ hoan nghênh, tuy về thực chất là sự kình địch của các phe nhóm trong đảng CS. Riêng việc chống tham nhũng dù mạnh mẽ đến đâu cũng không thể cứu đảng CS khỏi thảm cảnh khủng hoảng, do đây là khủng hoảng toàn diện của cả một hệ thống chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, đạo đức, mà nguyên nhân cơ bản là bản chất độc đoán, phản dân chủ, phi nhân quyền, phản các dân tộc Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, đi ngược lại những giá trị dân chủ - nhân văn của thời đại văn minh. Một số bạn Trung Quốc đối lập dân chủ tôi vừa gặp ở Pháp cho biết ông Tập Cận Bình có tham vọng vượt lên thành lãnh đạo vĩ đại, còn cao hơn cả Mao và Đặng khi hoàn thành “giấc mộng Trung Hoa”, thực hiện thống nhất Đài Loan vào một nước Trung Quốc phồn vinh, nhưng đó chỉ là không tưởng vì Trung Quốc hiện có quá nhiều căn bệnh hiểm nghèo chưa có thuốc chữa. Thêm nữa ông Tập Cận Bình đang có động cơ cá nhân, rất cay cú khi khám phá ra âm mưu đảo chính cung đình do chính Giang Trạch Dân cùng Chu Vĩnh Khang và đồng lõa dự định thực hiện hồi 2011 - 2012 nhằm đưa nhóm Bạc Hy Lai, Tăng Khánh Hồng, Giả Khánh Lâm… lên thay Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, gạt Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường ra. Nay Tập thực hiện một đòn thù, “giáng trả bọn phản nghịch”. Trông người lại nghĩ đến ta. Lãnh đạo đảng CS Việt Nam từng hứa sẽ học những kinh nghiệm tốt, tích cực của đảng CS Trung Quốc, Riêng về chống tham nhũng thì đảng CS Việt Nam dơ cao đánh khẽ, đánh như phủi bụi, vì sợ “vỡ bình”, sợ nát đảng, nhút nhát không kém gì chống bành trướng. Ủy ban chống tham nhũng bị tê liệt khi ông Nguyễn Bá Thanh không vào được Bộ Chính trị, rồi bị bệnh chết sớm, chết theo là 6 vụ án lớn bị chôn vùi luôn.Tướng Phạm Quý Ngọ cũng bị buộc phải chết để ỉm việc Đại tướng Trần Đại Quang ăn tiền của Dương Chí Dũng lên đến nửa triệu đôla. Ủy ban Thanh tra và Kỷ luật của đảng CS Trung Quốc là cơ quan chủ yếu chống tham nhũng, do tổng bí thư trực tiếp nắm, có bộ máy điều hành đầy quyền lực, đi đến đâu có uy lực đến đó, điều tra có bài bản, truy lùng thư từ, hoá đơn, đối thoại trên máy cầm tay, hỏi cung kỹ từ thư ký, lái xe, hàng xóm, người tình, bè bạn, gia đình của can phạm, tiến hành bởi một bộ máy chuyên nghiệp trung thành được huấn luyện kỹ. Còn trong đảng CS Việt Nam thì ban tương đương là Ủy ban Kiểm tra Trung ương có trách nhiệm như vậy, nhưng lại là ban vô tích sự nhất, không có uy quyền gì, hoàn toàn vô trách nhiệm, đến người cầm đầu lẽ ra phải năng động có quyền uy thì lại là ông Hà Văn Dụ, ủy viên Bộ Chính trị, ươn hèn đến thảm hại, hầu như không ai biết đến, không hề có một lời phát biểu nào về trách nhiệm của mình trong việc duy trì kỷ luật đảng, có 5 tay phó ban cũng hầu như bất động nốt. Hãy chờ xem trong Dự thảo Báo cáo chính trị, họ sẽ ăn nói ra sao về chống tham nhũng trong 5, 10 năm qua, khi mà có người lãnh đạo cho rằng đầu tư 10 tỷ mà thất thoát 1 tỷ là chuyện bình thường, không có gì phải lo! Chính do đó mà Luật phòng chống tham nhũng không đe nẹt được ai, tuy có điều khoản ai tham nhũng lên đến 1 tỷ đồng (bằng 50.000 đôla) là có thể bị tử hình,. Nếu luật được tôn trọng nghiêm ngặt, nếu như quả thật ông Trần Đại Quang ăn đến nửa triệu đôla từ Dương Chí Dũng thì ông Quang phải có đến 10 cái đầu mới đền hết tội. Ta hãy chờ xem pha vây hãm Hổ Vương ở Trung Quốc sẽ diễn ra như thế nào, sau khi người hùng họ Tập đã lần lượt bóc các vỏ cứng bên ngoài, phá tan các hàng rào giây kẽm gai bao bọc hang hùm, ở giữa thủ đô Bắc Kinh. Bùi Tín
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 14, 2015 8:02:51 GMT 9
Tin mật về trận hải chiến Bãi đá Gạc Ma 13/03/2015 Nguyễn Trung Thuần dịch từ báo Trung Quốc
Lời dẫn của dịch giả Nguyễn Trung Thuần: Mừng quá, tìm lại được bài dịch này rồi. Nhưng thật tiếc, hiện bài này đã bị gỡ bỏ trên trang gốc Hoàn cầu (Why?) nên không cung cấp được ảnh minh họa. Rất cần đọc để hiểu địch thủ nói gì. Xin được coi đây là 1 nén hương thắp tưởng nhớ các chiến sĩ đã hi sinh tại Đảo Gạc Ma. ***************************
Nam Hải, truyền thông nước ngoài thường gọi là biển Nam Trung Hoa, tất cả những hòn đảo san hô nằm ở Nam Hải luôn là lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc, vùng biển này do vị trí địa lý đặc thù của nó nên cũng đã trở thành một vùng biển không yên tĩnh. Những tranh chấp Nam Hải gần đây khiến cho người ta không khỏi nhớ lại những xung đột Nam Hải trong lịch sử. Trận hải chiến phản kích tự vệ Bãi đá Gạc Ma đối với mọi người vẫn luôn đầy những bí ẩn: Trận hải chiến ấy rốt cuộc vì sao lại xảy ra? Kết quả cuối cùng ra sao? Đã có những gợi mở nào cho việc xây dựng hải quân Trung Quốc sau này?Đem theo những câu hỏi ấy, các phóng viên Trang mạng Hoàn Cầu là Điền Phi, Trương Gia Quân đã phỏng vấn độc quyền Thiếu tướng hải quân Trịnh Minh, cựu Bộ trưởng Bộ Kỹ thuật trang bị hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, và Thiếu tướng hải quân Trần Vĩ Văn, viên chỉ huy trên biển bên quân ta trong trận hải chiến này, để vén được bức màn bí mật của trận hải chiến ấy.Đầu thập niên 70 của thế kỷ trước mở đầu cho những tranh chấp không dứt giữa Việt Nam với Trung Quốc Thiếu tướng Trịnh Minh khi ôn lại căn nguyên xảy trận hải chiến này đã nói rằng: “Việc nổ ra trận hải chiến Bãi Đá Gạc Ma tuyệt đối không phải là chuyện của riêng một ngày 14 tháng 3, mà là một trận chiến dẫn đến do sự phát triển không ngừng của cục diện Nam Hải, do sự leo thang không ngừng của tình thế tranh chấp dài ngày ”. Vào thập niên 70 của thế kỷ 20, cùng với sự phát hiện thấy nguồn tài nguyên dầu khí dưới đáy Nam Hải, lợi ích kinh tế của Nam Hải ngày càng trở nên nổi trội, các nước xung quanh bắt đầu dùng vũ lực để cưỡng chiếm các đảo san hô thuộc các quần đảo ở Nam Hải với mưu đồ đưa vào lãnh thổ của mình, có những nước còn sử dụng cả đầu tư nước ngoài vào việc khai thác nguồn dầu khí dưới đáy biển. Lúc này, lãnh thổ các đảo ở Nam Sa nước ta tuy đã có đường cương giới đứt đoạn đã được tuyên bố công khai, nhưng trên thực tế ngoài hòn đảo Thái Bình có chính quyền Đài Loan đóng ở đó ra, vào thập niên 70, chưa có bất cứ hòn đảo nào thậm chí là đảo san hô trong quần đảo Nam Sa được Trung Quốc chiếm cứ thực tế. Khi ấy, Trung Quốc đang ở vào thời kỳ đầu của cuộc mở cửa cải cách, đòi hỏi phải xây dựng được một môi trường hòa bình, tức vừa cần một môi trường xung quanh ổn định, lại vừa cần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, Trung Quốc phải kềm chế để tìm cách đàm phán với các nước xung quanh nhằm giải quyết sự tranh chấp những hòn đảo này. Ngặt nỗi các nước xung quanh Nam Hải, bắt đầu từ thập niên 70 của thế kỷ 20, lại liên tục dùng các thủ pháp quân sự để chiếm lĩnh một phần các hòn đảo thuộc quần đảo Nam Sa.
Hải quân Trung Quốc, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta còn đang rất khó khăn vào thập niên 50-60 của thế kỷ trước, đã chi viện vô tư cho Hải quân Việt Nam, thậm chí còn trực tiếp điều quân đội tới tham gia tác chiến chống Mỹ. Vào thập niên 70, đã từng bất chấp hiểm nguy hiệp trợ cùng nhân dân miền Bắc Việt Nam rà phá bom mìn, tiến hành phản kích tự vệ trước nguy cơ tập đoàn Ngô Đình Diệm của Nam Việt xâm chiếm Tây Sa uy hiếp nhân dân Bắc Việt, ủng hộ mạnh mẽ cho công cuộc giải phóng thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Cho đến thời kỳ cuối thập niên 70, sự chi viện của quân ta đối với Việt Nam vẫn không hề gián đoạn.
Vào thời kỳ cuối thập niên 70, nhà cầm quyền Việt Nam, với sự xúi giục và hỗ trợ của một nước lớn nào đó, xuất phát từ dã tâm điên cuồng của chủ nghĩa bành trướng dân tộc của mình, đã vong ân bội nghĩa, liên tục tiến hành xâm phạm và gây hấn vũ trang với nước ta, xâm chiếm lãnh thổ nước ta, uy hiếp và phá hoại nghiêm trọng sự nghiệp xây dựng và nền an ninh ở khu vực biên giới nước ta. Chính phủ và lãnh đạo nước ta đã nhiều lần ra các lời khuyến cáo, cảnh cáo và phản đối, song nhà cầm quyền Việt Nam vẫn một mực bất chấp, nước ta không thể chịu đựng thêm được nữa, đã buộc phải tiến hành trận đánh phản kích tự vệ với Việt Nam. Trận đánh bắt đầu vào ngày 17 tháng 2 năm 1979, trải qua 28 ngày, quân ta tấn công Lạng Sơn…, phá hủy một lượng lớn các thiết bị quân sự ở khu vực Bắc Bộ, Việt Nam, nhằm vào các công trình của nước ta. Bộ đội tham chiến của quân ta đã rút toàn bộ về nước vào ngày 16 tháng 3 sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ trừng phạt nặng nề quân xâm lược Việt Nam.
Thắng lợi của trận phản kích tự vệ lần này đã nâng cao được danh tiếng của nước ta trong công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa bá quyền quốc tế. Nhà cầm quyền Việt Nam không hề thỏa mãn, vẫn tiếp tục quấy nhiễu và phá hoại sinh hoạt sản xuất của các cư dân vùng biên giới nước ta, tháng 5 năm 1981, bộ đội biên phòng nước ta lại một lần nữa đánh trả đập tan, tiêu diệt quân Việt Nam xâm lược ở vùng núi Pháp Khả tỉnh Quảng Tây và vùng Khấu Lâm tỉnh Vân Nam.
Bước sang thập kỷ 80, Trung Quốc từ thời kỳ động loạn của cuộc “Đại Cách mạng Văn hóa” chuyển sang thời kỳ mở cửa cải cách, các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc như Đặng Tiểu Bình, Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương… đã tăng cường mối quan tâm với vùng biển cùng biên giới biển của tổ quốc, còn đã từng đích thân tới Hải Nam, Tây Sa… để thị sát các đơn vị bộ đội có liên quan tới hạm đội Nam Hải… đã đề ra phương châm nhìn xa trông rộng “chủ quyền thuộc ta, gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác”.
Tháng 5 năm 1981, nước ta lần đầu tiên phóng tên lửa vũ trụ ra vùng biển Thái Bình Dương và đã đạt được thành công mỹ mãn. Biên đội tàu khu trục của hải quân Trung Quốc đã bảo đảm hộ tống cho hoạt động xa bờ lần này; tháng 10 năm 1982, nước ta đã phóng thành công từ dưới nước tên lửa vũ trụ bằng tàu ngầm trên biển, đánh dấu một bước phát triển mới về công nghệ của hải quân nhân dân nước ta. Khi ấy, cả nước dồn trọng tâm vào xây dựng kinh tế, biên chế quân đội phải tinh giảm, xây dựng quân đội phải nhẫn nại, hải quân nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, đã kiên quyết chấp hành nhiệm vụ củng cố phòng thủ Tây Sa, khởi động thêm các hoạt động tuần tra mặt biển, tuần tiễu không trung và diễn tập huấn luyện trang bị quân sự ở Nam Sa. Những hành vi xâm lược của Việt Nam khi ấy đều là thừa hành chính sách bắt giữ giáo dục rồi khoan hồng phóng thích. Tháng 11-12 năm 1985, biên đội Hữu hảo Hạm thuyền Hải quân nhân dân nước ta lần đầu tiên đi thăm nước ngoài, được hợp thành từ tàu khu trục đạn đạo 132 và tàu cung cấp dầu X615, đều là tàu nội địa một trăm phần trăm. Đi qua biển Nam Trung Hoa, vào Ấn Độ Dương tới thăm 3 nước Pakistan, SriLanka và Bangladesh, trên đường trở về còn gặp biên đội tàu của Mỹ, thăm hỏi nhau và tiến hành các hoạt động giao lưu, hữu nghị trên biển. Tất cả những điều đó đều là hoạt động thể hiện trước thế giới và châu Á việc thừa hành chủ quyền của nước ta đối với các đảo ở Nam Sa cùng các vùng biển có liên quan.
Việt Nam can thiệp vào việc xây dựng trạm quan trắc biển của nước ta đã khiến cho mâu thuẫn Trung-Việt càng gay gắt hơn.
Tháng 2 năm 1987, đại diện hơn 100 quốc gia và khu vực đã tới tham dự Hội nghị Thường niên Ủy ban biển lần thứ 14 tại Trụ sở UNESCO đóng tại Paris, Pháp. Ngày 21 tháng 2, các đại biểu tham dự hội nghị đã nhất trí thông qua “Chương trình liên minh quan trắc mặt biển toàn cầu”. “Chương trình liên minh quan trắc mặt biển toàn cầu” này yêu cầu phải xây dựng các trạm quan trắc biển có số hiệu đăng ký thống nhất trên mặt biển toàn cầu, đồng thời quyết định để cho các nước chịu trách nhiệm xây dựng các trạm quan trắc biển trong địa phận nước mình, mọi nguồn quan trắc trong tương lai sẽ do các nước cùng hưởng.
Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc tham dự hội nghị khi ấy là Cục trưởng Cục biển Quốc gia La Ngọc Như đã tỏ ra nhạy bén khi hiểu được đây vừa là một cơ hội thỏa mãn được nhu cầu về an ninh hàng hải trên vùng biển Nam Trung Hoa rộng lớn cho các nước trên thế giới, lại vừa là cơ hội để có thể thể hiện chủ quyền đối với Nam Hải của Trung Quốc, tuy biết rằng sức mạnh kinh tế công nghệ trong nước khi ấy còn hết sức hạn chế, nhưng cũng đã vẫn chủ động đề xuất để Trung Quốc chọn địa điểm và xây dựng trạm quan trắc ở Nam Hải. Khi ấy, đại biểu của Việt Nam và Philipines cùng các đại biểu tham dự hội nghị khác đã thống nhất chấp thuận để Trung Quốc xây dựng 5 trạm quan trắc biển, trong đó xây 3 trạm ở Trung Quốc đại lục, còn ở quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa mỗi nơi xây 1 trạm. Trạm quan trắc biển ở quần đảo Nam Sa có số hiệu đăng ký là “74”.
Để bảo đảm cho việc xây dựng trạm quan trắc được tiến hành một cách thuận lợi, Quốc Vụ viện và Quân ủy Trung ương đã giao nhiệm vụ này cho hải quân. Thế là, đến tháng 5 và tháng 10 năm 1987, hải quân cùng với Cục biển Quốc gia 2 lần điều tàu đến quần đảo Nam Sa để khảo sát chọn địa điểm. Tháng 11 cùng năm, Trạm 74 được định địa điểm tại Bãi đá Vĩnh Thử.
Cơ sở cho việc lựa chọn địa điểm này là những tích lũy có được qua công tác khảo sát và vẽ bản đồ biển suốt trong thời gian dài về Nam Hải của Hải quân Trung Quốc và ngành giao thông vận tải của nước ta, đồng thời cũng là sự biểu hiện về trách nhiệm của Trung Quốc đối với an ninh lãnh thổ biển của mình và an ninh đường biển trọng yếu của quốc tế.
Bãi đá Vĩnh Thử là một bãi đá ngầm nằm trong quần thể bãi đá Doãn Khánh, dài khoảng 15 hải lý, rộng khoảng 5 hải lý. Trạm quan trắc biển số 74 nằm trên Bãi đá Vĩnh Thử được hoàn thành thiết kế tháng 12 năm 1987, tháng 2 năm 1988 bắt đầu thi công. Nhiệm vụ này do hải quân đảm nhận, các bộ và ủy ban có liên quan của nhà nước, đặc biệt là Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Giao thông… đã hỗ trợ rất tích cực, khi ấy nhà nước không chỉ điều các tàu tác nghiệp công trình, mà còn cung ứng cả các loại nguyên vật liệu ra ngoài khơi xa Nam Hải, sĩ quan binh lính hải quân, trong một môi trường khốc liệt, đầy sóng gió, mặn chát, đã nhất mực không sợ khổ sợ chết khi làm việc trên quần đảo Nam Sa để hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đã được Liên Hiệp quốc quyết định.
Ngày 13 tháng 2 năm 1988, Bộ Tổng tham mưu chính thức phê chuẩn một nhóm hải quân xây dựng trạm quan trắc khí tượng biển trên quần đảo Nam Sa, xác định sẽ do căn cứ Du Lâm của hải quân thành lập bộ máy chỉ đạo. Tiếp đó, Trạm quan trắc Bãi đá Vĩnh Thử chính thức được khởi công xây dựng. Hiện trường thi công ở Bãi đá Vĩnh Thử do tàu đào đá kiểu máy xúc đào mở một đường đi trên bãi san hô rắn chắc, lại còn phải dùng bộc phá dưới nước, thứ mà hàng trăm con người áp dụng là lao động thủ công. Gần 2.000 tấn xi măng đều được các chiến sĩ hải quân vác từng bao đến hiện trường thi công, họ chuyển chúng từ trong các khoang lớn của tàu hàng bụi bay mù mịt, từ tàu lớn chuyển sang tàu nhỏ, rồi từ tàu nhỏ dỡ đưa xuống xuồng nhỏ, lại từ xuồng nhỏ vác lên bãi đá ngầm. Cứ dựa vào sức người được hợp lại từ tay, chân, vai, lưng như vậy mà đưa vật tư, nguyên vật liệu chở từ đại lục của tổ quốc tới để chuyển lên Bãi đá Vĩnh Thử một cách đầy kỳ tích.
Trải qua sự phấn đấu gian khổ tuyệt vời suốt hơn nửa năm trời, đã biến Bãi đá Vĩnh Thử thành bức thành khoa học Nam Sa, thành trạm an ninh hàng hải ở Nam Hải. Con đường biển cửa ngõ cấp ngàn tấn, với lầu quan trắc biển dài hàng trăm mét đã lấp đầy khoảng trống dự báo quan trắc khí tượng thủy văn của thế giới, cung cấp sự bảo đảm đầy khoa học cho an ninh hàng hải quốc tế. Trong khi thi công không chỉ phải chiến đấu với môi trường đầy khắc nghiệt, mà còn phải lo vật lộn với tàu thuyền máy bay do nhà cầm quyền Việt Nam ngang ngược bất chấp chỉ huy. Thiếu tướng Trịnh Minh nói: “điều này đã gây khó dễ quá nhiều cho đội công trình của hải quân nhân dân chúng ta”.
Công trình trên biển không lớn cũng không nhỏ này đã tiêu tốn mất thời gian hơn nửa năm trời, cuối cùng đã được hoàn thiện vào ngày 2 tháng 8 năm 1988. Ngày 3 tháng 8, Quốc vụ Viện và Quân ủy Trung ương ra thông tư biểu dương toàn thể sĩ quan binh lính đã tham gia xây dựng trạm. Việc xây dựng trạm này đã trở thành tư liệu hàng đầu chuẩn xác đáng tin cậy nhằm cung cấp cho Trung Quốc nghiên cứu về quy luật biển và quyển khí, đã cung cấp sự bảo đảm khoa học quan trọng cho việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên Nam Sa, bảo vệ sự đi lại trên đường biển Nam Sa, là một món quà quý giá của nhân dân Trung Quốc đóng góp cho thế giới.
Nhưng ngay trong thời gian nước ta tiến hành khảo sát, chọn địa điểm và chuẩn bị thi công, nhà cầm quyền Việt Nam đã đột ngột trở mặt, thay thế đại biểu nước mình từng bỏ phiếu tán thành tại Hội nghị của Ủy ban Biển, chỉ thị cho Bộ Ngoại giao của mình ra tuyên bố “phải tiến hành can thiệp việc xây dựng Trạm quan trắc biển số 74 tại quần đảo Nam Sa”. Ngay chính lúc tàu kỹ thuật của ta đang tác nghiệp, nhà cầm quyền Việt Nam đã nhiều lần điều tàu đến tiến hành trinh sát và quấy nhiễu xung quanh Bãi đá Vĩnh Thử, đồng thời âm mưu đưa người lên bãi đá ngầm để can thiệp, hủy bỏ thay thế thi công của phía ta. Sau khi hành vi của họ bị thất bại, họ đã điều binh khiển tướng, trắng trợn tới xâm chiếm một vài hòn đảo đá ngầm xung quanh Bãi đá Vĩnh Thử trong quần đảo Nam Sa của nước ta. Để bảo đảm cho việc thi công xây trạm được an toàn, từ ngày 18 tháng 1 đến ngày 14 tháng 3 năm 1988, Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc đã lần lượt vào đóng quân ở nhiều đảo đá ngầm thuộc quần đảo Nam Sa.Trong Trận hải chiến Bãi đá Gạc Ma, hải quân Trung Quốc buộc phải phản kích 28 phút kết thúc trận chiến.Sự khiêu khích của nhà cầm quyền Việt Nam đối với nhân dân Trung Quốc đã trở nên mạnh mẽ hơn trong công trình xây trạm. Chiều ngày 18 tháng 2 năm 1988, hải quân nhân dân Trung Quốc và hải quân nhân dân Việt Nam lần lượt tranh nhau đổ bộ lên Bãi đá Hoa Dương, cả hai bên đều cắm quốc kỳ của nước mình để đối đầu. Cuộc đối đầu diễn ra trong 3 giờ đồng hồ, trời đổ mưa, sóng biển dâng cao, quân Việt Nam bị mưa to gió lớn, sóng biển đánh cho tơi tả, cuốn đi mất cả quốc kỳ. Sáu sĩ quan binh lính của Trung Quốc đã cố thủ trên bãi đá ngầm suốt hơn 40 giờ đồng hồ, đồng thời đã xây xong được nhà sàn. Hải quân Việt Nam tuy không dám liều mạng cưỡng chiếm các Bãi đá Vĩnh Thử và Bãi đá Hoa Dương do hải quân nhân dân Trung Quốc đang khống chế, nhưng từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 19 tháng 2, các nhân viên vũ trang của Việt Nam đã xâm chiếm 5 hòn đảo đá ngầm là Tây Tiêu, Vô Dặc Tiêu, Nhật Tích Tiêu, Đại Hiện Tiêu, Đông Tiêu, tạo thành thế bao vây Bãi đá Vĩnh Thử. Xét thấy tình thế hiểm nguy của cục diện, cuộc chiến có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào, Hải quân Trung Quốc đã yêu cầu tăng quân cho Nam Sa. Nhưng thực lực của Hạm đội Nam Hải khi ấy còn rất hạn chế, ngày 22 tháng 2, Hạm đội Nam Hải điều tàu hộ tống 502 thuộc biên đội 502; ngày 5 tháng 3, các tàu hộ tống 531 và 556 thuộc biên đội 531 của Hạm đội Đông Hải của hải quân vượt trùng khơi tới nơi, cộng thêm tàu của biên đội 552 đang ở Nam Sa, trên mặt biển gần Bãi đá Vĩnh Thử cũng tập trung một vài chiếc tàu của Trung Quốc. Các tàu khi ấy đều tới bãi đá phòng thủ, hòng ngăn chặn quân Việt Nam tiếp tục xâm chiếm các đảo đá ngầm của Trung Quốc và phá rối thi công ở Bãi đá Vĩnh Thử, có thể nói, binh lực của Hải quân Trung Quốc vẫn là khá phân tán.
Chiều tối ngày 13 tháng 3 năm 1988, tàu vận tải có vũ trang HQ604 của Hải quân Việt Nam đã neo lại ở Bãi đá Gạc Ma gần Bãi đá Vĩnh Thử. Chỉ huy trên biển của hải quân nhân dân ta, Trần Vĩ Văn, liền lập tức quyết định: Điều một phân đội đổ bộ lên bãi đá ngầm, cắm quốc kỳ. Bên quân Việt nam do không nhìn thấy sự cảnh cáo lần nữa của sĩ quan binh lính đóng trên bãi đá ngầm, đã điều hơn 40 lính có trang bị vũ khí đổ bộ lên bãi đá ngầm cắm quốc kỳ, hình thành thế cục đối đầu với sĩ quan binh lính của ta đang đóng trên bãi đá ngầm.
Chính giữa lúc hai bên đang vật lộn giằng co với người bảo vệ cờ, một lính Việt Nam đã giương súng nhắm bắn vào lính chống tàu ngầm Trương Thanh bên quân ta, phó đội trưởng pháo binh tàu 502, Dương Chí Lượng, đưa tay trái ra túm chặt lấy báng súng của quân Việt hất lên. Súng bên quân Việt Nam nổ, cánh tay trái của Dương Chí Lượng liền bị bắn xuyên qua! Đúng 8 giờ 47 phút. Quân Việt Nam nổ phát súng đầu tiên. Bộ đội đổ bộ lên đảo thuộc hải quân Trung Quốc lập tức nổ súng bắn trả, một trận hỗn chiến trên bãi đá ngầm. Tàu HQ604 của quân Việt Nam đã nổ súng trước, tiếp đó tàu đổ bộ 505 và tàu HQ605 của bên quân Việt Nam cũng nổ súng theo. Trần Vĩ Văn ra lệnh bắn trả, tàu 502 là tàu chỉ huy bên quân ta bắn trúng tàu HQ604 bên quân Việt Nam, chỉ trong ít phút, tàu này đã bị bắn chìm.
Cùng lúc ấy, các tàu 531, 556 của hải quân nhân dân ta cũng nhả đạn về phía tàu quân Việt Nam, hỏa pháo dồn dập mạnh mẽ lập tức bắn chìm tàu HQ605, bắn trọng thương tàu đổ bộ 505 bên quân Việt Nam. Tàu đổ bộ 505 bên quân Việt Nam hoảng loạn va trúng phải rạn san hô của Quỷ Hàm Tiêu, không có cách gì di chuyển ra khỏi được. Thiếu tướng Trần Vĩ Văn nhớ lại: “Tàu 505 là tàu có công của Việt Nam, nhà cầm quyền Việt Nam muốn giữ nó lại để làm kỷ niệm, vào ngày 16 tháng 7 năm 1989 đã điều 2 tàu kéo ra kéo chiếc tàu này, nhưng do đã bị thương quá nặng trong trận chiến ở Bãi đá Gạc Ma, nên đã bị chìm xuống biển khi đang được kéo đi”. Cả trận hải chiến Bãi đá Gạc Ma chỉ diễn ra trong có 28 phút là tuyên bố kết thúc.
Thiếu tướng hải quân Trịnh Minh, nguyên Bộ trưởng Bộ Kỹ thuật trang bị hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Thiếu tướng hải quân Trần Vĩ Văn, viên chỉ huy trên biển bên quân ta trong trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma đang nói về trận hải chiến ấy. Ảnh: Trương Gia Quân, phóng viên nhiếp ảnh quân sự Hoàn Cầu võng.
Trong trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma, tàu hải quân ta tốn mất 285 phát đạn pháo 100 ly, 266 phát đạn pháo 37 ly, bắn chìm 2 tàu HQ604 và HQ605, bắn bị thương nặng tàu 505 của Việt Nam, tàu HQ604 và HQ605 của Việt Nam khi ấy là 2 tàu vận tải có vũ trang. Thiếu tướng Trần Vĩ Văn nhớ lại: “Biên chế cho loại tàu vận tải này là 36 người, Việt Nam lại xếp trên mỗi tàu là một đại đội công binh 100 người, biên chế của tàu đổ bộ 505 là trên 100 người, sau trận chiến, quân Việt Nam bị bắt sống 9 người. Bên quân Việt Nam bị thương vong hơn 300 người. Khi người lính Việt Nam đầu tiên được cứu vớt lên, lời đầu tiên của của anh ta là ‘Cảm ơn các ông đã cứu được tôi, tốt nhất là các ông đưa tôi sang Hong Kong’, tôi cho anh ta uống nước, người lính Việt Nam ấy sợ bị đầu độc, vị chính ủy tàu đã không ngần ngại uống trước một ngụm, gã tù binh này mới giằng lấy bình nước uống”. Trong trận hải chiến này, tàu của hải quân ta toàn vẹn không bị tổn thất, chỉ có một mình Dương Chí Lượng là bị quân Việt Nam bắn bị thương. Trong trận chiến, Hải quân Trung Quốc luôn buộc phải bắn trả quân Việt Nam. Sau trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma, đồng chí Đặng Tiểu Bình, Chủ tịch Quân ủy trung ương đã ký lệnh ban thưởng.
Không thể đánh đồng được trình độ trang bị của Hải quân Việt Nam với của Hải quân Trung Quốc trong trận hải chiến này, có tải trọng lớn nhất trong số 3 tàu tham chiến bên quân Việt Nam khi ấy là tàu đổ bộ 505, trọng lượng nước rẽ tiêu chuẩn là 1.653 tấn, trọng lượng nước rẽ chở đầy là 822 tấn. Đáng nói là tàu đổ bộ 505 là tàu Trung Quốc viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam vào tháng 3 năm 1974. Trong số 3 tàu tham gia trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma của bên quân ta thì tàu 556 là tàu hộ tống đối biển, tàu 502 là tàu hộ tống cỡ 65 bắt đầu được chế tạo vào thập niên 60, tàu 531 là tàu hộ tống đạn đạo phòng không.
Khi nói về trang bị của hải quân ta, Thiếu tướng Trịnh Minh nói: “Trang bị của tàu bên quân ta khi ấy rõ ràng là hơn hẳn bên quân Việt Nam, nhưng trang bị cho tàu tham chiến thì lại vẫn bộc lộ rõ những điểm yếu, đem lại nhiều khó khăn cho sĩ quan binh lính ở tiền tuyến. Thực ra chỉ có mỗi chiếc tàu 531 tham chiến là được chế tạo ở Thượng Hải vào cuối thập niên 60. Tuy là một chiếc tàu hộ tống đạn đạo, nhưng nó phụng sự chủ yếu là nhiệm vụ thử nghiệm trên biển của quân ta, cả máy chính, chủ pháo trên đó đều đã được trang bị sau khi đã trải qua đủ kiểu sát hạch thử nghiệm, máy chính đã quá tuổi thọ, chủ pháo cũng đã bị han gỉ nặng. Do kinh phí thiếu thốn, tàu 531 ra chiến trường khi ấy không hề được trang bị tên lửa, mà chỉ được trang bị pháo 100 ly. Do chủ pháo đã bị lão hóa, tàu 531 khi ấy vừa mới bắn xong được vài phát đã phát sinh sự cố, nên đã không bắn chìm được tàu 505 của Việt Nam. Sau trận chiến, chiếc tàu có công này đã được thưởng huân chương quân công hạng ba, sau khi nghỉ trận đã cùng với tàu 502 được đưa vào trưng bày vĩnh viễn tại Bảo tàng Hải quân ở Thanh Đảo”.
Bảo vệ an ninh biển của Trung Quốc đòi hỏi phải có chiến lược biển rõ ràng và sự hỗ trợ của lực lượng hải quân lớn mạnh.
Trận hải chiến lần này diễn ra chỉ vẻn vẹn có 28 phút, đồng thời với việc đánh lại quân xâm lược cũng đã để lại cho chúng ta rất nhiều gợi mở. Sau trận chiến, hải quân nhân dân ta lập tức tuân theo mệnh lệnh của cấp trên là dừng truy kích, không thu hồi những hòn đảo san hô khác mà Việt Nam khi ấy chưa cưỡng chiếm.
Trải qua trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma, mọi người cũng đã suy ngẫm nhiều hơn đến ý thức về chủ quyền biển của Trung Quốc. Ngày nay, hơn 40 hòn đảo san hô trong quần đảo Nam Sa của ta vẫn đang bị nước khác cưỡng chiếm, trong đó Việt Nam chiếm 29 đảo san hô ở Nam Sa, về cơ bản đã khống chế được vùng biển phía tây Nam Sa. Do Nam Sa ở cách đường bờ biển của ta tương đối xa, nên đối mặt với cục diện các đảo san hô ở Nam Hải bị nước khác chiếm giữ, chúng ta phải đề ra những thử thách khắc nghiệt hơn cho năng lực tác chiến xa bờ của hải quân ta.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2015 8:56:02 GMT 9
Tại sao Hoa Kỳ lại đi giúp Tập Cận BìnhTập Cận Bình Chiến dịch “Đả hổ diệt ruồi” mà ông Tập Cận Bình, chủ tịch Trung Quốc tiến hành là hệ lụy của sự kiện Trùng Khánh. Đó là sự kiện ông Vương Lập Quân, Giám đốc sở Công An Trùng Khánh, chạy vào tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Thành Đô vào ngày 7 tháng Hai năm 2012. Ông Vương Lập Quân đem hết hồ sơ mật về nội bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc đưa lại cho lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành Đô, ông rời khỏi lãnh sự quán trong một sự dàn xếp khôn khéo của giới Ngoại Giao Hoa Kỳ để tránh làm Trung Quốc mất mặt. Tuy nhiên, những gì ông Vương để lại hay thông báo cho lãnh sự quán Hoa Kỳ sẽ là những dữ kiện động trời khiến toàn bộ Đảng Cộng Sản Trung Quốc bị nắm cán, và nhất là vây cánh chống đối hay muốn ám hại ông Tập hoàn toàn không thể gượng dậy nổi để tranh giành quyền lực với ông. I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA TRÙNG KHÁNH TRONG NỀN CHÍNH TRỊ TRUNG QUỐC Xin cần phải nhấn mạnh, Trùng Khánh là một thành phố vô cùng quan trọng trong nền chính trị Trung Quốc từ cổ chí kim. Trùng Khánh là nơi mà ngày xưa có Bạch Đế thành, tại đây, Lưu Bị trăn trối gởi gắm con thơ lại cho Khổng Minh, mở ra một thời kỳ đối đầu chiến lược Khổng Minh – Tư Mã Ý đầy máu xương trong lịch sử của Trung Quốc. Vùng đất phía tây-nam này của Trung Quốc có tên là Trùng Khánh là do Hoàng tử triều Nam Tống là Triệu Đôn, trước được phong là Cung Vương ra trấn nhậm vùng này, sau lại được Vua cha nhường ngôi , trở thành Tống Quang Tông. Ngài cho rằng trước được phong vương, sau lên ngôi thiên tử thì đúng là trùng khánh nên đổi tên vùng đất này thành là Trùng Khánh. Đó là vào khoảng năm 1189. Như vậy, Trùng Khánh là yếu mạch của triều Nam Tống. Trùng Khánh cũng chính là thủ phủ chính thức của chính thể Trung Hoa Dân Quốc trong thời kỳ kháng Nhật từ năm 1937 đến năm 1945. Bởi do để mất Trùng Khánh vào tay Cộng Sản vào tháng 11 năm 1949, sự nghiệp của Trung Hoa Dân Quốc coi như tiêu tan hoàn toàn và họ Tưởng phải di dời ra đảo Đài Loan như ngày nay. Về mặt địa lý- hành chánh, Trùng Khánh có 15 huyện, bốn đặc khu tự trị. Trùng Khánh nằm ngay thuợng du sông Dương Tử, núi non hiễm trở, Bắc giáp Thiểm Tây, Nam giáp Quý Châu, Đông giáp Hồ Bắc, Hồ Nam ,Tây giáp Tứ Xuyên , có Quỷ Môn sông chảy xiết, núi âm u , có cả triệu ha đất rừng trù phú , khoáng sản dồi dào. Trùng Khánh lúc nào cũng phảng phất hồn xứ Ba Thục của Lưu Bị , tiền sơn hậu thủy nối với tiền thủy hậu sơn , đúng là nơi tự xưng vương xưng đế của bậc anh hùng ngàn xưa. Cho nên, Trùng Khánh mà quy thuận trung ương thì Trung Quốc yên, Trùng Khánh mà làm loạn thì Trung Quốc cát cứ phân chia. Về mặt kinh tế an sinh, Trùng Khánh nay có khoảng 28 triệu dân, có tổng số thu nhập khoảng 160 tỷ Mỹ kim, tuy thua xa Thuợng Hải nhưng sức tăng trưởng còn nguyên, chờ đầu tư, khai phá. Trùng Khánh là trung tâm sản xuất xe đủ các loại cho Trung Quốc, kể cả xe tải nặng. Ngoài ra, Trùng Khánh cũng là nơi sản xuất rất nhiều vũ khí, khí cụ cho Bộ Quốc Phòng Trung Quốc. Cho nên có thể nói những kẻ đứng đầu Trùng Khánh từ Công An cho đến Đảng điều quyền uy thế lực nghiêng ngả Trung Ương, trong đó, ông Bạc Hy Lai, là Bí Thư Đảng tại Trùng Khánh vào năm 2012, đồng thời cũng là Ủy Viên Bộ Chính Trị , tay chân thân tính của Giang Trạch Dân, quyền uy nghiêng ngửa chẳng kém ai. Vì vậy Giám đốc Công An Trùng Khánh, ông Vương Lập Quân, người có quyền uy đứng hàng thứ hai sau Bạc Hy Lai, chạy vào lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành Đô đương nhiên là một chuyện chấn động nền chính trị Cộng sản Trung Quốc. II. NỘI VỤ BỀ MẶT CỦA SỰ CỐ VƯƠNG LẬP QUÂN Để che giấu những bí ẩn bên trong, các báo chí lần lượt nhận được tin về sự cố ở Trùng Khánh là ông Vương Lập Quân, Giám Đốc Công An Trùng Khánh, sợ Bạc Hy Lai ám hại đến tính mạng nên chạy vào lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành Đô xin tỵ nạn. Tại đây, ông Vương Lập Quân trao hết những hồ sơ điều tra về cái chết của thuơng gia Neil Heywood và yêu cầu được bảo vệ tính mạng vì vụ án có liên cang đến bà Cốc Khai Lai, vợ của ông Bạc Hy Lai, bí thư Trùng Khánh đầy quyền thế. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ từ chối quy chế tỵ nạn Chính Trị của họ Vương nhằm tránh Bắc Kinh bị mất mặt nhưng đảm bảo là chỉ trao trả họ Vương sau khi Bắc Kinh đồng ý bảo vệ tuyệt đối tính mạng , tài sản cũng như người thân của ông. Cái chết của thuơng gia Neil Heywood , bị coi là đầu độc từ rượu được tòa án Trung Quốc sau đó kết luận thủ phạm là bà Cốc Khai Lai, vợ của Bạc Hy Lai tiến hành. Bà bị tuyên án tử hình vào tháng 8 năm 2012 nhưng âm thầm được hoãn lệnh tử hình. Riêng ông Vương Lập Quân, cũng bị kết án 15 năm tù vì lợi dụng chức quyền nhưng ông không kháng án và có tin đồn ông đã được bảo vệ bí mật, giam lỏng tại gia mà thôi. Nói một cách khác, các vụ xử cố gắng dàn dựng cho hợp lý để nhanh chóng làm chìm xuồng sự việc nhằm che giấu nhưng bí mật lớn hơn. Nội vụ bên trong lại không đơn giản như vậy . III. NEIL HEYWOOD LÀ AI? Ông Heywood sanh vào ngày 20 tháng 10 năm 1970 và bị giết vào ngày 14 tháng 11 năm 2011 tại khách sạn Nanshan Lijing Holiday bởi một cựu nhân viên an ninh điệp vụ tên là Trương Hiểu Quân, nay có vai trò là trợ lý giúp việc cho bà Cốc Khai Lai , vợ ông Bạc Hy Lai , Bí thư Trùng Khánh. Bà Cốc Khai Lai thừa nhận trước tòa ông Heywood đến khách sạn này theo yêu cầu của bà. Bề mặt , ông Heywood sống ở Trung Quốc có vợ là người Trung Hoa, có hai đứa con nhỏ trong một biệt thự vô cùng sang trọng gần Bắc Kinh. Ông Heywood làm môi giới để các công ty hàng đầu của Anh Quốc có thể quen biết đến những nhân vật đầy quyền uy trong Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Có đôi khi , ông cũng được đề cử làm đại diện bảo vệ quyền lợi cho những công ty này tại Trung Quốc. Ông Heywood làm việc tại Trung Quốc từ những năm 1990 và gặp vợ chồng Bạc Hy Lai khi họ Bạc chỉ mới là quận trưởng Dailan của tỉnh Lao Ninh. Ông Heywood được coi là người chỉ dẫn tường tận cách thức để con cái của họ Bạc được đi học ở Anh Quốc. Hiển nhiên, sự vận chuyển tiền bạc ra ngoại quốc sao cho hợp pháp của gia đình họ Bạc cũng hoàn toàn do ông Heywood cố vấn đảm nhiệm. Khi quyền lực của họ Bạc ngày càng gia tăng không những trong Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc mà cả trong vây cánh Thuơng Hải của họ Giang, thì trọng trách cố vấn về an ninh tài chánh của Heywood cho họ Bạc càng gia tăng. Nói một cách rõ hơn, ông Heywood đảm trách an toàn trong việc chuyển tài chánh ra ngoại quốc không những chỉ cho một gia đình quyền uy mà cho cả bè nhóm tin cẩn giao cho ông. Từ đó, ông Heywood luôn tháp tùng bà Cốc Khai Lai sang các nước tư bản để cố vấn cũng như giúp bà hoàn tất các phi vụ chuyển tiền này. Cho nên, tin đồn ngoại tình từ đó mà có vì hai người quá gần gũi. Khi xét xử ông Bạc Hy Lai, đài CCTV13 do Đảng Cộng Sản Trung Quốc kiểm soát có trình chiếu ngôi biệt thự thuợng hạng của họ Bạc ở Cannes , nơi nghỉ mát miền Nam nước Pháp, do ông Heywood xúc tiến thủ tục, tiền do tập đoàn Shine Group có bản doanh tại Dailan cung ứng, nơi họ Bạc từng làm quận trưởng. Ngôi biệt thự này có giá lên đến gần 4 triệu Mỹ kim. Như vậy, vai trò của Neil Heywood đối với gia đình họ Bạc đã quá rõ. Ông là cố vấn luật pháp cho những hoạt động rửa tiền, tậu tài sản cho Bạc gia và vây cánh ở ngoại quốc. IV. TẠI SAO PHẢI GIẾT NEIL HEYWOOD? Bề ngoài đây là một vụ án giết người do liên hệ tình cảm dây dưa giữa Bạc phu nhân và ông Heywood nhưng bên trong, mật vụ của Trung Quốc bắt đầu khám phá ra mối liên hệ giữa ông Heywood với lại MI6, cơ quan tình báo Anh Quốc. Tại tòa án, bà Cốc Khai Lai khẳng định bà phải giết ông Heywood vì ông hăm dọa đến tính mạng con trai bà là Bạc Qua Qua đang du học. Bà phải giết ông để bảo vệ tính mạng con trai bà. Đây là một lý lẽ hết sức nực cười vì với kinh nghiệm của riêng mình, ông Heywood không thể nào lỗ mãng như thế trước các nhân vật quyền uy của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, giết người không gớm tay. Còn nếu là do ông Heywood gian lận tài chánh, biển thủ tiền của họ Bạc và vây cánh thì lại càng không cần thiết vì ông Heywood tỏ rõ muốn mần ăn lâu dài đến suốt đời với họ Bạc chứ không hề có ý định tháo chạy cuốn gói. Hơn nữa nếu vì cả hai lý do nêu trên mà phải giết ông Heywood thì không cần Bạc phu nhân hiện diện. Sở dĩ Bạc phu nhân hiện diện vì bà muốn biết ông Heywood đã tiết lộ những gì với MI6, cơ quan tình báo của Anh Quốc, sự tiết lộ sâu rộng liên can đến gia đình bà, vây cánh của chồng bà tới đâu? Và chuyện này không thể giao cho ai khác tra khảo được. Cho nên , đây là một cuộc khảo cung rồi giết người. Vì vậy, trong quá trình điều tra, ông Vương Lập Quân vô hình chung vén lên một màn bí mật quan trọng và quá lớn; ông không còn đường nào khác là phải tự thú trước lãnh sự quán Hoa Kỳ để khỏi phải bị chết như Neil Heywood. V. CÓ PHẢI NEIL HEYWOOD LÀM VIỆC CHO TÌNH BÁO ANH QUỐC, MI6? Việc ông Heywood bán tin cho MI6 bị MI6 công khai chối bỏ nhưng do những nguồn tin rò rỉ ra từ các hãng thông tấn danh tiếng như Reuter, Wall Street Journal, Washington Post, BBC, ông Heywood thật sự bán tin cho MI6 thông qua hãng HAKLUYT & COMPANY, được coi là một thân chủ bí mật của Heywood. Hãng Hakluyt & Company có trụ sở tại 34 Upper Brook Street, London W1K 7Q. Hãng này được cho là thành lập năm 1995 bởi các cựu viên chức của MI6. Hãng này hoạt động trên lãnh vực thu thập tin tức tình báo và bán tin tức tình báo (British private intelligence agency ). Hãng cũng đảm nhiệm vai trò cố vấn chiến lược cho các đại công ty trong các kế hoạch kinh doanh toàn cầu của mình. Chỉ cần nhìn vào danh sách các thành viên Hội Đồng Cố Vấn hiện nay của Hakluyt & Company, người ta không khỏi rùng mình trước thế lực của hãng này. Xin được liệt kê một vài yếu nhân nổi bật trong Hội Đồng Cố Vấn của công ty này: Don Argus — cựu chủ tịch tập đoàn khai thác khoáng sản lừng danh BHP Billiton Bill Bradley — cựu Thuợng Nghị Sĩ Hoa Kỳ Alexander Downer — cựu Ngoại Trưởng của Úc từ năm 1996 đến năm 2007 Neville Isdell — cựu Chủ Tịch và Tổng Giám Đốc điều hành Coca-Cola Dr Hans-Peter Keitel — cựu Chủ Tịch Liên Đoàn Kỹ Nghệ Đức Minoru Makihara, KBE — cựu Chủ Tịch tập đoàn Mitsubishi Sir Kieran Prendergast — nguyên Phó Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Sir Ralph Robins — cựu Chủ Tịch Rolls-Royce Javier Solana — cựu chủ tịch NATO và cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Cộng Đồng Âu Châu Không có một người nào trong hội đồng này mà không có thế lực nghiêng ngửa quyền uy. Như vậy , để phụng sự đắc lực nhu cầu chuyển tiền , đầu tư cũng như hợp pháp hóa các khoảng tiền hối lộ kinh khủng của các nhân vật đầy quyền thế trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc, nhất là phe Thuợng Hải của họ Bạc, ông Neil Heywood ít nhiều cần sự trợ giúp, cố vấn của hãng Hakluyt & Company về luật pháp cũng như ảnh huởng thế lực bên trong. Ngược lại, để giúp đở thân chủ của mình làm ăn yên ổn tai Trung Quốc, hãng Hakluyt & Company cũng cần ông Neil Heywood giúp đở môi giới. Từ đó, sự trợ giúp của hãng Hakluyt & Company càng làm cho vai trò của Heywood càng trở nên đắc lực vì ông có thể có nhiều thân chủ ngoại quốc đề giới thiệu môi giới cho các nhân vật quyền thế ở Trung Quốc. Và qua sự tin tưởng giới thiệu của họ Bạc , phe Thuợng Hải sơ suất không kiểm tra lại hay theo dõi ông Neil Heywood cho đến khi mật vụ Trung Quốc khám phá ra sự liên hệ giữa cơ quan tình báo Anh quốc MI6 và ông Heywood thì đã quá muộn. Một năm sau ngày ông Heywood bị giết, ký giả JEREMY PAGE của tờ Wall Street Journal , vào ngày 6 tháng 11 , có cho đăng bài với tựa đề: “Briton Killed in China Had Spy Links”, lại khẳng định là Vương Lập Quân , tại lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Thành Đô, thừa nhận bà Cốc Khai Lai đã giết một ” tên gián điệp!” Hành động lật đật của William Hague, Giám đốc sở tình báo Anh Quốc không theo thủ tục thuờng lệ, cố gắng chối bỏ vai trò của ông Neil Heywood đối với MI6 công khai cũng như tòa đại sứ Anh yêu cầu điều tra cái chết của ông trong âm thầm giấu giếm, không công khai càng làm lộ chuyện về mối liên hệ của MI6 với ông Heywood. Ngoài ra , xác của ông Neil Heywood cũng không được khám nghiệm và tòa đại sứ Anh chỉ yêu cầu điều tra cái chết của ông vào ngày 15 tháng 2 năm 2012 , tức là một tuần lễ sau khi ông Vương Lập Quân chạy vào lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành Đô và BA THÁNG sau khi nạn nhân bị giết! VI. CHIẾN DỊCH “ĐÃ HỔ DIỆT RUỒI ” CỦA TẬP CẬN BÌNH Tất cả những nhân vật nào có liên quan đến Bạc Hy Lai hoặc cùng vây cánh với Bạc Hy Lai đều bị họ Tập , nay là Chủ Tịch Trung Quốc , gạt ra khỏi quyền thế và bị xử án nặng nề. Cả một thế lực quyền uy nghiêng ngửa nằm im , thụ động , bất khả kháng cho ông Tập vung tay xử phạt. Điều này chứng tỏ tất cả những nhân vật này đã bị nắm cán, không thể phản kháng. Ông Tập đương nhiên không phải là người nắm cán nổi những con hổ trong Đảng mà chính là chính phủ Hoa Kỳ , thông qua những gì ông Vương lập Quân trao lại khi chạy vào tòa lãnh sự ở Thành Đô , nắm cán toàn bộ những chi tiết về số tài khoảng, cũng như những hoạt động tội phạm tham nhũng của từng cá nhân, kể cả người thân trong gia đình của mọi nhân vật quyền thế vay cánh của họ Bạc. Để đảm bảo người thân gia đình tiếp tục giàu sang với số tài khoảng kết sù tích lũy bấy lâu, những nhân vật quyền thế đang tại chức đành im lặng chịu tội, không gây loạn chống đối ông Tập nữa. Cho đến giờ phút này người ta chưa loan báo ông Vương Lập Quân đã để lại những bằng chứng gì, chỉ biết là toàn bộ những cuốn băng ghi âm nghe lén theo dõi tất cả các nhân vật Trung Ương đã được ông Vương trao lại cho lãnh sự quán Hoa Kỳ theo thừa nhận của các viên chức ngoại giao Hoa Kỳ. Đương nhiên, tài liệu của ông Heywood gởi cho MI6 cũng sẽ từ từ được Anh Quốc cung cấp cho Hoa Kỳ. Nói một cách khác , thâm cung bí sử của nội bộ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc nay hoàn toàn bị lọt vào tay Hoa Kỳ. Giới ngoại giao của Bắc Kinh thừa nhận ông Tập Cận Bình đã có được toàn bộ hồ sơ tình báo mà Vương Lập Quân tiết lộ tại lãnh sự quán Hoa Kỳ (7 tháng Hai năm 2012) khi ông Tập viếng thăm Hoa Kỳ vào 16 tháng Hai năm 2012 với tư cách là phó Chủ Tịch Trung Quốc. Người trao toàn bộ tập hồ sơ này là phó Tổng Thống Hoa Kỳ , ông Joe Biden. ( Trong chuyến đi này, Trung Quốc đồng ý mua đậu nành của Mỹ với tổng giá trị lên đến …4,3 tỷ Mỹ kim !) VII. THÀNH TÍCH ĐẢ HỔ DIỆT RUỒI CỦA ÔNG TẬP: Một màn kịch được dựng lên để che dấu nhiều bí mật bên trong giữa những dàn xếp của Hoa Kỳ với Đảng Cộng Sản Trung Quốc thông qua sự cố Trùng Khánh nhằm giúp cho ông Tập an vị , tạo thế ổn định cho những toan tính lâu dài giữa Trung Quốc & Hoa Kỳ, chiến dịch “Đả hổ diệt ruồi” của ông Tập được loan báo ầm ĩ. Cả hai cha con Chu Vĩnh Khang và Chu Bân điều bị bắt. Ông Chu Vĩnh Khang nắm toàn bộ nền an ninh chính trị mật vụ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Ông cũng là người nắm luôn tập đoàn dầu khí Trung Quốc. Đảng Cộng Sản Trung Quốc thừa nhận đã tịch thu được 14,5 tỷ Mỹ kim , theo BBC đưa tin vào ngày 31 tháng 3 năm 2014, với tựa đề : “Tịch thu tài sản thân nhân Chu Vĩnh Khang ” Như vậy, chỉ là thân nhân , đàn em thân tính mà tài sản đã lên đến như thế. Ngoài ra , con số 14,5 tỷ Mỹ kim này chắc chắn chưa thể coi là con số thật trước nạn tẩu tán khai man. Có khoảng MƯỜI BẢY người tay chân của họ Chu có chức vụ tương đương thứ trưởng bị bắt giam , trong đó có cả thứ trưởng Công An Lý Đông Sinh , phó tỉnh trưởng Hải Nam Ký Văn Lâm , Tưởng Khiết Mẫn , chủ tịch tập đoàn dầu khí Trung Quốc và Lý Xuân Thành , phó bí thư Tứ Xuyên. Ngoài họ Chu và gia tộc đàn em , đàn em của đàn em ra , Thượng Tướng Từ Tài Hậu, Tổng Cục Chính Trị cũng bị vạ lây sau sự kiện Trùng Khánh vì cùng phe đảng với Bí Thư Trùng Khánh Bạc Hy Lai. Ông bị các báo chí Trung Quốc cho rằng trong nhà chứa tiền Dollar mà khi đem cân, nặng lên đến gần một tấn! Thế là hàng loạt các sĩ quan đàn em của Từ Tài Hậu cùng chung số phận , Lý Văn Bân- Phó Chủ nhiệm chính trị quân chủng Hải quân, Khang Hiểu Huy- Chính ủy Hậu cần Quân khu Thẩm Dương, Tề Trường Minh- Phó Tham mưu trưởng Quân khu Bắc Kinh, Trương Cống Hiến- Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Tế Nam, tất cả điều bị bắt để điều tra tham nhũng. Ngoài ra , cùng bị bắt còn có trung tướng Cốc Tuấn Sơn, cục phó cục Hậu Cần , được coi là có cả một kho vàng trong nhà và có tổng số tài sản lên đến 5 tỷ Mỹ kim, kế là Thuợng Tướng Vu Vĩnh Ba, Chủ nhiệm Tổng bộ Chính trị; Phó Tư lệnh Không quân Trịnh Quần Lương;Thiếu tướng Diệp Vạn Dũng;Vệ Tấn, Phó chính ủy Quân khu Tây Tạng; Phù Lâm Quốc, Phó Tham mưu trưởng Tổng bộ Hậu cần, v v … Ngay cả Quách Bá Hùng , phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương cùng thời với họ Tập, cũng bị trong vòng điều tra. Như vậy, sự kiện Trùng Khánh và những dàn xếp im lặng bên trong khéo léo tế nhị từ phía Hoa Kỳ đã tạo ra thuận lợi cho Tập Cận Bình thẳng tay thanh trừng cũng cố uy quyền của mình. Không biết họ Tập sẽ thắng thế được bao lâu nhưng vào Đảng, leo lên quyền uy cũng chỉ để ăn hối lộ trở thành những người “siêu giàu”- mega rich. Tất cả Đảng Viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc điều tham nhũng hối lộ như thế, cho nên ông Tập trước sau gì cũng gánh lấy những hậu quả nội loạn nếu cứ tiếp tục bắt bớ giam cầm các Đảng Viên quyền uy, nhất là những “con hổ ” mà ông đòi đập , càng lúc , quyền uy càng lớn hơn cả Chu Vĩnh Khang , ví dụ như Hồ Cẫm Đào, Giang Trạch Dân, Ôn Gia Bảo, Quách Bá Hùng, v..v… VIII. KẾT Trùng Khánh một lần nữa làm nền chính trị Trung Quốc nghiêng ngã như quá khứ trong lịch sử đã từng. Quyền uy và thanh danh của ông Tập Cận Bình được cũng cố cũng là nhờ sự kiện Trùng Khánh- thông qua cú đầu thú ngoạn mục của ông Vương Lập Quân tại lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Thành Đô. “Đả hổ diệt ruồi ” là bề mặt của một sự dàn xếp có tính toán của Hoa Kỳ khi quyết định giúp họ Tập có điều kiện tạo ra thanh danh khi thừa kế chức chủ tịch Trung Quốc của Hồ Cẫm Đào. Nếu Hoa Kỳ hành xử khác đi trong vụ Trùng Khánh thì đương nhiên thế cục dành cho họ Tập cũng sẽ khác đi. Những con hổ như Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu có binh quyền trong tay lên đến cả mấy trăm ngàn người không dễ dàng gì buông giáo chịu êm. Đó là chưa kể sau lưng Chu Vĩnh Khang con có con Hổ ma mãnh kinh khiếp khác là Giang Trạch Dân hậu thuẫn. Hoa Kỳ không âm thầm khống chế thân nhân tài sản của những kẻ này ở Manhattan New York hay có những hành động tương tư ở những nơi khác thì bản thân ông Tập, không cách gì mà đủ sức bứng nổi bọn này ra khỏi Trung Ương. Nếu thực sự là như vậy thì TẠI SAO HOA KỲ LẠI ĐI GIÚP TẬP CẬN BÌNH? Tú Hoa ( trich tu website DanChimViet.info )
|
|
|
Post by Can Tho on May 10, 2015 8:30:26 GMT 9
Sơ lược cuộc đối đầu giiữa Chu Vĩnh Khang (Zhou Yongkang) và “Bảy chị em”Vào ngày 2 tháng Tám năm 2005, một công ty dầu khí Trung Quốc, China National Offshore Oil Corporation, hay còn gọi là CNOOC Group đã phải chấp nhận ép buộc rút lui ý định mua lại công ty dầu khí Unocal 76 của Hoa Kỳ với giá đề nghị lên đến 18.5 tỷ Mỹ kim. Công ty Unocal 76 được thành lập từ tháng Mười năm 1890, có trụ sở tại El Segundo, tiểu bang California Hoa Kỳ. Doanh thu hàng năm của Unocal là khoảng 5 đến 8 tỷ Mỹ kim và có hơn 6 ngàn nhân viên thường trực. CNOOC tưởng đã có thể thâu tóm công ty Unocal 76 này trong tầm tay nhưng giới “BẢY CHỊ EM” đã lật ngược thế cờ và khiến các Dân Biểu trong Hạ Viện Hoa Kỳ không chuẩn thuận hành động mua này của Trung Quốc với lý do CNOOC là công ty nhà nước, tài sản của Hoa Kỳ không để cho chính phủ Trung Quốc sở hữu. Hai tháng sau đó, tức là tháng Mười cùng năm, Chevron, một thành viên quan trọng của giới “BẢY CHỊ EM,” tức là tiếng lóng chỉ thế lực tư bản dầu hỏa hàng đầu của thế giới do Hoa Kỳ hậu thuẫn, đã chính thức mua lại công ty xăng dầu Unocal 76 này. Đây là một hành động dằn mặt cho thấy rõ giới “BẢY CHỊ EM” đã cương quyết đối đầu với quyết tâm của Bắc Kinh công khai trong việc kiểm soát lượng dự trữ dầu hỏa. Từ đó, CNOOC đành phải đi vòng qua các quốc gia khác thuộc châu Mỹ như Canada, Brazil, Venezuela…, ect, để đầu tư nhằm đảm bảo sự ổn định cho nhu cầu nhập khẩu dầu hỏa của mình. Và mỗi bước đi, bước tiến của các công ty dầu hỏa Trung Quốc điều phải tính toán, chạm chán gây go với sức ép của giới “BẢY CHỊ EM.” Cuộc chạm chán này được gọi là cuộc đối đầu giữa “BẢY CHỊ EM” và Chu Vĩnh Khang, được coi là cha đẻ của nền kỹ nghệ dầu khí hiện đại Trung Quốc mà hiện thân là Tổng Công Ty Dầu Khí Trung Quốc – CNPC, tuy khốc liệt gây nhiều xáo trộn cho kinh tế và chính trị trên thế giới nhưng hết sức thầm lặng và không ai nghĩ tới. Cần phải hiểu rõ hơn sự nghiệp của Chu Vĩnh Khang thì mới nhìn ra cuộc đối đầu chiến lược giữa Chu gia và giới BẢY CHỊ EM khốc liệt như thế nào. I. Sự nghiệp của Chu Vĩnh Khang (Zhou Yongkang)- cha đẻ của nền công nghiệp dầu khí hiện đại Trung Quốc: Chu Vĩnh Khang sanh vào tháng 12 năm 1942, người gốc Vô Tích, tỉnh Giang Tô. Nơi ông sanh ra, từ ngàn xưa là đất của nước Sở thời Chiến Quốc, vốn là một nước giỏi nghề khai thác khoáng sản, trong đó có thiếc và chì. Sau tướng Vương Tiễn nhà Tần hành quân ngang qua vùng này, thấy có bia mộ viết là: “Hữu tích: binh, thiên hạ tranh Vô tích: ninh, thiên hạ thanh” Nghĩa là có thiếc thì đánh nhau, loạn tranh binh đao, không có thiếc thì yên , thiên hạ an bình. Vương tướng quân thấy vậy mới đặt tên vùng này là Vô Tích (không có thiếc) để mong thái bình an lạc. Từ đó mà tên Vô Tích lưu truyền đến bây giờ. Thiên linh địa linh sinh anh kiệt, Chu Vĩnh Khang lớn lên, tuy gia đình nghèo lắm nhưng ông học hành cực kỳ giỏi, thi đậu vào Học Viện Dầu Khí Bắc Kinh trở thành là một kỹ sư dầu hỏa, với chuyên môn là xét nghiệm địa chất và dò tìm dầu hỏa. Vào khoảng năm1966, Chu Vĩnh Khang được điều về làm công tác địa chất thăm dò ở công trường 673 khu dầu hỏa Đại Khánh tỉnh Liêu Ninh. Tháo vát, năng nổ yêu nghề, ông đã được đề bạt làm đội trưởng đội thăm dò nơi ông công tác. Bằng tài cán của chính mình, năm 1973, ông đã trở thành Trưởng Phòng thăm dò dầu khí của tỉnh Liêu Ninh. Dù chỉ là mới ở cương vị trưởng phòng, Chu Vĩnh Khang đã biến khu mỏ dầu Đại Khánh thành nơi sản xuất 19% tổng số lượng dầu hỏa quốc nội của Trung Quốc- một kỳ tích chấn động Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Chu Vĩnh Khang lúc nào cũng chở che, giúp đỡ cấp dưới rất tận tình dù ông có tới gần trên 2000 nhân viên. Ông không bao giờ về quê ăn mừng năm mới mà luôn ở lại cùng với nhân viên trên những cánh đồng mỏ dầu, cùng nhân viên chịu đựng mùa đông khắc nghiệt. Năm 1979, Chu Vĩnh Khang tiếp tục được giao trọng trách thăm dò khai thác dầu hỏa ở Liêu Hà, phía Nam của vùng mỏ dầu Đại Khánh. Nơi này bây giờ được coi là nơi cung cấp dầu LỚN NHẤT cho Tổng Công Ty Dầu Khí Trung Quốc – CNPC (China National Petroleum Corporation), ước tính khoảng 200 ngàn thùng một ngày x 365 ngày/ năm= 73 tỷ thùng/một năm” Năm 1983, Chu Vĩnh Khang trở thành Chủ Nhiệm Điều Hành toàn bộ công trường mỏ dầu các công trường mỏ dầu từ Đại Khánh cho đến Liêu Hà. Năm 1985, ông được chính thức thăng chuyển về Bắc Kinh và làm Thứ Trưởng Bộ Dầu Hỏa. Bộ Dầu Hỏa chính là tiền thân của CNPC. Dù ở địa vị cao, vào năm 1989, Chu Vĩnh Khang vẫn lao tâm lặn lội tới các vùng sâu trong đất liền, phía Tây heo hút hẻo lánh thuộc bình nguyên Tarim của Trung Quốc để thăm dò địa chất phát triển khai thác các mỏ khí với vai trò kỹ sư trưởng các công trình. Chu Vĩnh Khang làm việc ngày đêm, bất chấp địa vị thứ trưởng của ông và biến nơi này thành nơi cung cấp 19% tổng sản lượng khí đốt nội địa cho quốc gia, chưa kể là ông cho xây đường ống dẫn khí đốt nối liền Đông-Tây xuất phát từ nơi này của Trung Quốc do ông làm giám đốc công trình thi công. Từ một chuyên viên kỹ thuật, một kỹ sư cần mẫn và kinh nghiệm, Chu Vĩnh Khang lần hồi có được những ảnh hưởng lớn về chính trị trong Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc là vì trách nhiệm của Chu Vĩnh Khang quá lớn. Ông có trách nhiệm phải đảm bảo sự ổn định về cung cấp dầu hỏa cho nền kinh tế Trung Quốc bộc phát quá nhanh, hoàn toàn lệ thuộc vào dầu hỏa để hoạt động. Từ những năm 1990 trở đi, người kỹ sư dầu hỏa tận tụy Chu Vĩnh Khang năm nào, nay với cương vị Tổng Giám Đốc CNPC lao hết mình ra các quốc gia khác để dò tìm, đầu tư khai thác. Báo cáo của giới BẢY CHỊ EM cho rằng ông đã viếng thăm các nước phi châu hẻo lánh đến gần 14 lần. Chu Vĩnh Khang cũng là kỹ sư chánh, vừa là Tổng Giám Đốc công trình Greater Nile Oil Pipe Line ở Sudan, là công trình xây dựng ra nước ngoài đầu tiên của CNPC. Không thần thế vây cánh hay con ông cháu cha mà hoàn toàn nhờ tận tụy và yêu nghề khai thác thăm dò dầu hỏa, người kỹ sư dầu hỏa tận tụy Chu Vĩnh Khang đã được cử và trở thành Ủy Viên TW Đảng Công Sản Trung Quốc năm 1996 để có thể đảm nhiệm chức Bộ Trưởng Khai Thác Tài Nguyên hai năm sau đó -1998. Những cải cách về hành chánh trong quản lý ngành dầu hỏa do Chu Vĩnh Khang xúc tiến đã làm kỹ nghệ ngành này của Trung Quốc phát triển mạnh mẽ và đủ sức giữ trách nhiệm cung cấp dầu hỏa cho nền kinh tế quốc dân. Các công ty dầu khí Trung quốc theo kế hoạch của ông bung ra khắp mọi nơi để trên thế giới đầu tư thăm dò, khai thác để duy trì ổn định nguồn dầu nhập khẩu cho tăng trưởng kinh khiếp của nền kinh tế Trung Quốc. Kế sách bung ra này của Chu Vĩnh Khang bắt đầu đụng chạm mạnh đến vị thế độc tôn hàng đầu của giới BẢY CHỊ EM, vốn âm thầm độc bá kiểm soát dầu hỏa thế giới bằng nhiều dạng, thông qua nhiều tổ chức khác nhau. Từ đó, Chu Vĩnh Khang từ từ nhận ra được thế cuộc của thế giới về dầu hỏa và tìm cách đối phó. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thông qua ông, thấy được sự kềm kẹp của giới BẢY CHỊ EM lên tương lai chính trị và kinh tế của Trung Quốc nên bắt đầu giao hết toàn bộ sức mạnh nhân lực về ngành an ninh tình báo để ông tiện bề nắm bắt thông tin, những bước tiến, lùi toan tính của giới BẢY CHỊ EM. Chu Vĩnh Khang không có tham vọng trở thành Tổng Bí Thư, Thủ Tướng mà chỉ muốn nhìn thấy sức kiểm soát sở hữu dầu hỏa của Trung Quốc trên toàn thế giới được lớn mạnh nên chẳng có thế lực nào trong Đảng lo lắng Chu Vĩnh khang sử dụng an ninh mật vụ cho những mưu toan chính trị. Cho nên, người người kỹ sư dầu hỏa tận tụy Chu Vĩnh Khang trở thành ông trùm an ninh trước sự đồng lòng của giới chóp bu đảng Cộng Sản Trung Quốc. Chu Vĩnh Khang cần an ninh tình báo để đưa ra đối sách đối đầu chiến lược đối với giới “BẢY CHỊ EM” được chính xác và hữu hiệu. Về phần “BẢY CHỊ EM”, giới chiến lược gia của họ từ lâu đã để ý đến khả năng kinh khiếp của Chu Vĩnh Khang và không hề lơ là quan sát theo dõi ông. Trong cuộc đối đầu đầy sống gió và làm chao đảo kinh tế, chính trị khắp nơi trên thế giới, nếu họ Chu là Gia Cát Lượng thì giới BẢY CHỊ EM là Tư Mã Ý, lúc nào cũng có khả năng chuyển bại thành thắng trước Khổng Minh. IV. Đối Sách của Chu Vĩnh Khang đối phó với BẢY CHỊ EM: Kế hoạch đối phó BẢY CHỊ EM của Chu Vĩnh Khang có thế tóm lược như sau: 1. Gia tăng mức dự trữ dầu của quốc gia từ 100 triệu thùng lên đến 600 triệu thùng vào năm 2020. 2. Mua hết các công ty dầu hỏa nhỏ “để chặt bớt tay chặt chân” của giới “BẢY CHỊ EM” mà lại ít bị để ý. Các công ty dầu hỏa nhỏ này có doanh thu từ 4 tỷ đến 10 tỷ một năm. 3. Gia tăng đầu tư qua các nước Phi châu, Mỹ châu, Trung Á, trong bối cảnh giới “BẢY CHỊ EM” mãi lo bám trụ vùng Vịnh. 4. Gia tăng ảnh hưởng chính trị- kinh tế đến các nước Trung Quốc đang nhập dầu nhằm đảm bảo lượng dầu nhập được ổn định. 5. Sử dụng tình huống chính trị thế giới, nhất là tình huống khủng bố, để mặc cả với Hoa Kỳ trong việc nới lỏng hạn chế từ “BẢY CHỊ EM” để Trung Quốc có thể tiếp tục gia tăng số vốn đầu tư vào những nước sản xuất dầu mà “BẢY CHỊ EM” đang độc bá sở hũu; cũng như cho phép Trung Quốc đầu tư vào Hoa Kỳ để khống chế dần các công ty của giới “BẢY CHỊ EM.” 6. Gia tăng các hoạt động tình báo để biết thực trạng từng đại công ty của giới “BẢY CHỊ EM,” các chính quyền của các quốc gia có dầu để âm mưu đầu tư, sở hữu khống chế. 7. Gia tăng sức ép chính trị lên Việt Nam và biển Đông để phá rối nổ lực đầu tư của BẢY CHỊ EM vào Việt Nam, đồng thời, tạo khả năng cho Trung Quốc khống chế từng phần hay toàn phần nguồn dự trữ dầu hỏa dồi dào của Việt Nam Mục tiêu của đối sách mà Chu Vĩnh Khang đưa ra là tiếp tục lấn sân giới BẢY CHỊ EM về sở hữu dầu hỏa ở mọi nơi, mọi lúc bất chấp sản lượng, trữ lượng là ít hay là nhiều. Vì vậy, kế hoạch này của Chu Vĩnh Khang còn có tên lóng là chiến lược “lấn sân” (Mergers and Acquisitions- M&A) Chu Vĩnh Khang nhìn thấy giới “BẢY CHỊ EM” có một khuyết điểm là bởi do độc bá dầu hỏa bấy lâu nên đâm ỷ lại, thuờng xuyên bỏ lơi những dự án nhỏ, bỏ lơi những quốc gia có dự trữ dầu bị đánh giá là không đáng kể (dưới 50 ngàn thùng dầu một ngày.) Cho nên Chinese NOC’s (Chinese National Oil Companies), lần hồi, theo lệnh của Chu Vĩnh Khang, tóm thu tất cả các dự án nhỏ, đầu tư nhỏ vào những quốc gia bị giới “BẢY CHỊ EM” chê là trữ lượng không nhiều. Đặc biệt, những công ty dầu hỏa nhỏ, con con trên thế giới cũng bị Chu Vĩnh Khang thâu tóm gần hết dễ dàng vì giới “BẢY CHỊ EM” không chú ý tới. Chính sách góp gió thành bão trong đối sách “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang, tuy là từng nơi đầu tư riêng biệt thì sản lượng dầu hỏa chẳng là bao, nhưng gôm lại thì tạo ra một trữ lượng đáng kể cho nhu cầu xăng dầu của Trung Quốc. Khi các chiến lược gia của giới “BẢY CHỊ EM” nhìn lại thì giật mình, đó là lý do tại sao sau này, ngay cả công ty con con Uniocal 76 cũng bị giới BẢY CHỊ EM xiết lại không cho CNOOC mua. Chu Vĩnh Khang lúc nào cũng kiên nhẫn, chịu khó siêng năng mót từng giọt dầu một đem về cho nền kinh tế Trung Quốc. V. Kết quả đối sách “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang: Sự “lấn sân” của ngành dầu hỏa Trung Quốc lên “BẢY CHỊ EM” trên toàn thế giới, ở khắp mọi nơi, mỗi lúc mỗi tăng là một thành công vang dội của Chu Vĩnh Khang về mặt chiến lược. Mức sở hữu dầu hỏa của Trung Quốc đối với các quốc gia xuất khẩu dầu ngày một tăng hoàn toàn nhờ vào đối sách quyết tâm bung ra thế giới đầu tư của Chu Vĩnh Khang từ những năm 2000. Có thể nói, đối sách này đảm bảo nền kinh tế Trung Quốc tăng tốc trong ổn định tuyệt đối về năng lượng dù vẫn phải chạy kiếm dầu “ăn đong” từng ngày vì nhu cầu dầu hỏa của xã hội Trung Quốc không hề suy giãm hay đứng lại. Biểu đồ 1 đã cho thấy rõ, từ một quốc gia được coi là tay trắng, nay các công ty dầu hỏa của Trung Quốc đảm đang gần một phần tư tổng sản lượng dầu hỏa của các nước vùng Vịnh Trung Đông, nơi mà giới “BẢY CHỊ EM” độc bá từ sau khi đệ Nhị Thế Chiến tới nay về đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất. Điều này cho thấy, giới “BẢY CHỊ EM” đang bị Chinese NOC’ s lấn sân ngày một mạnh mẽ. Riêng vùng Trung Mỹ- châu Mỹ La-tin, được coi là “sân nhà” của giới “BẢY CHỊ EM,” mà nay Chinese NOC’s đã lấn sân hết 11 % và sự lấn sân này không giãm hề suy giảm buộc giới “BẢY CHỊ EM” phải gấp rút ứng phó trong thời gian gần đây. Đặc biệt, giới “BẢY CHỊ EM” đã mất 9% sản lượng dầu hỏa vào tay Chinese NOC’s tại vùng Bắc Mỹ, là tổng hành dinh của giới “BẢY CHỊ EM” từ thế kỷ thứ 19 đến nay. Tuy số phần trăm rất ít nhưng cũng làm cho giới “BẢY CHỊ EM” vô cùng bực bội và mất danh dự rất lớn. Sự kiện năm 2005 về vụ mua công ty xăng dầu Unocal 76 chỉ là một thí dụ điển hình về sự bức tức kinh khiếp bên trong của giới “BẢY CHỊ EM” đối với Chinese NOC’s, hiện đang “lấn sân” mạnh mẽ lên tổng hành dinh của mình . Biểu đồ 2 cho thấy rõ, ngay cả tại Irag, một quốc gia còn đang hổn loạn và giới BẢY CHỊ EM lơ là không muốn tăng sức đầu tư, Trung Quốc vẫn lao vào đầu tư khai thác, sẳn sàng chịu đựng nhiều áp lực của các bên tham chiến. Hai mươi phần trăm sản lượng dầu hỏa của Irag là do các công ty dầu hỏa Trung Quốc sản xuất và mua lại. Chiến thắng này của Chu Vĩnh Khang trong chiến lược “lấn sân” của mình làm các chiến lược gia của giới “BẢY CHỊ EM” tuy nóng mặt nhưng phải khâm phục sự nhẫn nại chịu khó của Chu Vĩnh Khang. Có sự can thiệp về chính trị & quân sự của Hoa Kỳ, Irag phải là nơi mà giới “BẢY CHỊ EM” nắm tuyệt đối quyền khai thác. Bị hụt mất 20 % về tay các tập đoàn dầu hỏa Trung Quốc, giới “BẢY CHỊ EM” cảm nhận được sức ép “lấn sân” do chiến lược đối đầu của Chu Vĩnh Khang gây ra. Giới “BẢY CHỊ EM” đã không còn lơ là về đối sách “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang như trước nữa, nhất là sau khi ngay tại đại bản doanh của mình là Hoa Kỳ mà Trung Quốc cũng ráng tìm cách chen chân và nắm gần 5 % sản lượng dầu hỏa của Hoa Kỳ (biểu đồ 2). Thật là một sự mất mặt quá lớn đối với giới “BẢY CHỊ EM.” Con số 5% là do những hành động phản ứng mãnh liệt trả đòn từ giới “BÃY CHỊ EM” mà ra, chớ nếu không, ước tính Trung Quốc sẽ nắm 14% sản lượng dầu hỏa nội địa của Hoa Kỳ dễ như trở bàn tay. Tất cả các công ty dầu hỏa nho nhỏ kiểu Unocal 76 lần hồi sẽ nằm trong tay của Chu Vĩnh Khang hết nếu giới BẢY CHỊ EM không trả đòn. Bề mặt, dù các công ty của giới “BẢY CHỊ EM” vẫn mua bán trao đổi với Chinese NOC’s nhưng bên trong, lần hồi nhiều đối sách để triệt hạ Chu Vĩnh Khang cũng như phá vở chiến lược “lấn sân” của ông đã được tính đến & thi hành. Đã có hàng trăm các kế hoạch đầu tư dầu hỏa của Chu Vĩnh Khang bị giới BẢY CHỊ EM âm thầm phá hoại khiến bị phải hủy bỏ, mà trong đó vụ mua công ty Unocal 76 của CNOOC vào năm 2005 chỉ là một thí dụ điển hình mà thôi. Cục diện căng thẳng ở biển Đông ngày nay cũng hoàn toàn do giới “BẢY CHỊ EM” quyết tâm trả đòn trước chiến lược “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang đưa ra. Biển Đông và trữ lượng dầu hỏa dồi dào tại Việt Nam đang hoàn toàn là trọng tâm phản đòn của giới “BẢY CHỊ EM.” Chắc chắn, giới “BẢY CHỊ EM” sẽ không thể để cho Trung Quốc lấn vào tiền đồn này vì đây là yếu điểm để giới “BẢY CHỊ EM” đánh gục đối sách “lấn sân” của Chu Vĩnh Khang Riêng về bản thân của Chu Vinh Khang, chắc chắn, ông sẽ không bao giờ có một kết cuộc tốt đẹp trước những bực dọc cao điểm của giới “BẢY CHỊ EM” đối với ông. Dù sao, giới “BẢY CHỊ EM” cũng là một thế lực mại bản đầy quyền uy trong suốt hai thế kỷ nay và không bao giờ biết tha thứ cho mọi cá nhân hay thế lực thách thức vị thế độc tôn của mình. VI. KẾT Ngày 3 tháng Tư năm 2015, tờ “People Daily” của Trung Quốc chính thức đưa tin ông Chu Vĩnh Khang, người kỹ sư dầu hỏa siêng năng cần mẫn lập nên nhiều kỳ tích, bị phạm tội tham nhũng, tiết lộ bí mật quốc gia và lạm quyền… Song song với bản án này là hàng loạt các tin tức hỏa mù từ báo chí, các hãng truyền thông nào là ông giết vợ, nào là ông có 6000 cung nữ, nào là ông đảo chánh giết hụt Tập Cận Bình, nào là ông bao che cho Bạc Hy Lai, cựu Bí Thư Tỉnh Trùng Khánh ..etc, nhưng không có hãng thông tấn nào đề cập chi tiết đến những đóng góp và kỳ tích của người kỹ sư dầu hỏa Chu Vĩnh Khang, cần mẫn tận tụy chịu khó yêu nghề đi lên từ khốn khó. Thanh danh của Chu Vĩnh Khang bị triệt hạ nhưng cơ ngơi và sức mạnh của nền kỹ nghệ dầu khí Trung Quốc mà ông gầy dựng vẫn còn đó; quyền hành và ảnh huởng của Chu Vĩnh Khang có thể đã mất đi nhưng tham vọng của Cộng Sản Trung Quốc muốn thoát khỏi bàn tay nanh vuốt của giới “BẢY CHỊ EM” còn đó; dầu vẫn còn tiếp tục phun lên và Trung Quốc vẫn khát dầu mỗi ngày, cho nên cuộc đối đầu chống lại giới BẢY CHỊ EM của Trung Quốc vẫn còn tiếp diễn… Với tư cách là một phạm nhân, Chu Vĩnh Khang mất hết tất cả từ tài sản đến ảnh huởng chính trị. Điều này có thật sự đúng hay không, hay Tập Cận Bình, hiện là Chủ Tịch Trung Quốc, vẫn âm thầm lắng nghe và dùng Chu Vĩnh Khang trong bóng tối là một câu hỏi mà giới “BẢY CHỊ EM” không bao giờ lơ là khi tìm kiếm câu trả lời. Và cho dù thật sự Chu Vĩnh Khang đã bị triệt hạ hoàn toàn và mất hết thanh danh lẫn tài sản, hoàn toàn ngã ngựa thua trận trước thế lực của “BẢY CHỊ EM” thì đối với những ai CHẬT VẬT đấu trí với Chu Vĩnh Khang suốt gần hai mươi năm nay, vẫn sẽ mãi mãi coi ông là một Khổng Minh của thời đại, một thời đại được mang tên thời đại DẦU HỎA. Đàn Chim Việt
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 3, 2015 1:20:14 GMT 9
Món nợ Pháp Luân Công đến hồi phải trảÔng Giang Trạch Dân đang đứng trước một tình hình không dễ chịu chút nào. Ông Giang là lãnh tụ số 1 của Đảng CS TQ khi từ thế kỷ XX loài người bước vào thế kỷ XXI. Ông là nhân vật kế thừa ông Đặng Tiểu Bình, thực hiện giấc mơ Trung Hoa với chính sách lớn Bốn hiện đại, hòng vươn lên làm chủ toàn thế giới. Trong lịch sử hiện đại, tên tuổi Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân gắn liền với Sự kiện Thiên An Môn (ngày Lục Tứ – 4/6/1989 ) khi ra lệnh cho binh đoàn xe tăng nghiền nát hàng ngàn nam nữ sinh viên dũng cảm đòi tự do cho toàn dân; cũng như gắn liền với sự kiện tiến hành cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam. Đặng Tiểu Bình đã nhẫn tâm ra lệnh cho quân Trung Quốc tàn phá tan hoang các tỉnh biên giới của Việt Nam trước khi rút về nước, để dạy cho “tiểu Bá” phương Nam một bài học nhớ đời. Sau chiến tranh biên giới, “răng cắn môi chảy máu đầm đìa” , chính Giang đã triệu tập cả nhóm lãnh đạo Việt Nam gồm Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười, cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô mật đàm, thực tế là đích thân xem lũ “tiểu Bá”. Việt Nam đã tiếp thu đến đâu bài học chiến tranh biên giới. Giang đã mãn nguyện khi cầm cánh tay Nguyễn Văn Linh kéo đi, như muốn nói với dân Tàu và toàn thế giới rằng “bọn học trò này đã học thuộc bài chúng tôi muốn dạy”. Bức ảnh đủ nói tất cả. Nhưng nay con người hùng ấy đang sa cơ. Cứ theo tin Đại Kỷ Nguyên, có nhiều dấu hiệu cho thấy Giang Trạch Dân sắp bị sờ đến gáy. Tất cả những tay chân bộ hạ gần xa trong Quân Giải phóng, trong bộ máy Đảng và Nhà nước…của Giang đã bị bắt giữ, vào tù hoặc chờ ngày ra toà, bất kể đó là những Thượng tướng từng giữ những chức vụ cao nhất. Đại Kỷ Nguyên và mạng Minh Huei cho biết Tổng bí thư Tập Cận Bình cùng Vương Kỳ Sơn, cánh tay phải của Tập , đang chuẩn bị một bản án động trời, xử tội ” phản nghịch, phản cách mạng, chống Đảng, chống Nhà nước “, mà đầu sỏ chính là Giang Trạch Dân, với một nhóm tay chân thân cận nhất của Giang, trong đó có Chu Vĩnh Khang và Bạc Hy Lai đã bị tù chung thân, liên quan có thể có cả 3 ủy viên hiện tại của Ban Thường vụ Bộ Chính trị có 7 thanh viên. Đó là Lưu Vân Sơn, Trương Cao Lệ, Trương Đức Giang, chưa kể nguyên uỷ viên thường vụ BCT Tăng Khánh Hồng, là chức vụ xưa nay không ai được đụng đến. Để chuẩn bị cho vụ án lớn nhất thế kỷ này, bộ máy tuyên truyền Bắc Kinh cho tán phát rộng rãi một tập “tiểu sử chân thực ” của Giang Trạch Dân, chỉ rõ Giang thuộc một gia đình Đại Hán gian, từng cộng tác với chinh phủ bù nhìn Nhật Bản Uông Tinh Vệ. Có một tội của Giang Trạch Dân, tội ác chống nhân loại, vượt Tần Thuỷ Hoàng, vượt Hitler, đó là việc tận diệt các thành viên Pháp Luân Công, bắt vào các trại cải tạo hàng chục vạn người, và tàn ác hơn cả là lấy các bộ phận sống của người tù rao bán để ghép cho những bệnh nhân cao cấp và giàu có. Việc ghép các bộ phận nội tạng đã được thế giới thực hiện từ những năm 1980, với những luật lệ cực kỳ nghiêm ngặt, người hiến bộ phận phải cam kết tự nguyện. Giang Trạch Dân coi Pháp Luân Công (Pháp Luân Công) là tà giáo, kẻ thù chính của Đảng CS, vì họ luyện tập cơ thể để nhằm sống lâu, làm việc thiện cho xã hội với tinh thần kiên nhẫn, tự tin. Chân Thiện Nhẫn họ rèn luyện trái ngược hẳn với sự Lừa Dối, Độc Ác, bất nhẫn của Đảng CS. Điều đáng nể phục và đáng khen của Pháp Luân Công là phát triển rộng khắp Trung Quốc, con số vượt qua số đảng viên CS, còn thu hút nhiều đảng viên, đoàn viên CS thoát Đảng, như chính Pháp Sư Lý Hồng Chí từng ở trong Đoàn Thanh niên CS. Số thoát đảng nay đã vượt con số 200 triệu. Tổ chức Pháp Luân Công cũng phát triển khá rộng rãi ở châu Á và toàn thế giới. Có thể nói đây là tổ chức quốc tế đông đảo,có tổ chức chặt chẽ nhất trên thế giới, có mạng truyền thông rộng rãi là Tân Kỷ Nguyên , nay là Đại Kỷ Nguyên, dùng đến 28 ngữ khác nhau, được phổ biến rộng rãi trên 30 nước, một mạng thông tin có uy tín rộng lớn. Khi tố cáo việc ghép tạng sống như tim, gan, thận, mắt, cho hàng chục vạn trường hợp, Pháp Luân Công đã dùng chữ ” cướp ” vì tất cả đều là cưỡng bức, không hề có tự nguyện.Pháp Luân Công cho bIết từ 2001 đến 2006 đã có 60 ngàn vụ cướp ghép tạng. Pháp Luân Công còn phổ biến rộng rãi hàng ngàn bức ảnh Công an CS tra tấn, kềm kẹp , đánh đập đến chết người tù Pháp Luân Công bằng điện, roi sắt, treo người, bắt nhịn đói, phơi nắng, thọc kim vào đầu ngón tay, hãm hiến tập thể người tù phụ nữ…Hàng trăm bản tố cáo mang chữ ký của gần một triệu người thuộc đủ các nước do Pháp Luân Công vận động kiên nhẫn đã được gửi đến Cơ quan Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Lương tâm toàn thế giới đã thật sự rung động. Chinh quyền Tập Cận Bình trước vụ Siêu Án làm phản của Giang Phái, của Giang Bang, có vẻ muốn dựa vào tội ác đối với Pháp Luân Công để mỵ dân và gây thêm thanh thế. Ngay từ cuối năm 2013, Ông Tập đã ký lệnh giải tán các trại cải tạo, chuyên giam giữ những phần tử chống Cộng và Pháp Luân Công. Ngay trước mắt bà con ta hãy xem tại quảng trường Thiên An Môn ngày 3/9 sắp đến sẽ có mặt những Giang Trạch Dân, Tăng Khánh Hồng, Lưu Vân Sơn, Trương Đức Giang, Trương Cao Lệ hay không, và họ đứng ở vị trí nào . Vì đã thành nếp, các vị lãnh đạo lão thành đều có chỗ đứng vinh dự trên khán đài. Rất có thể trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn, lòng dân không yên, Tổng bí thư Tập Cận Bình muốn thúc đẩy thực hiện những sự kiện vang dội. Đại Kỷ Nguyên hôm 24/8 cho rằng có nhiều dấu hiệu cho thấy từ nay đến cuối năm Vụ đại Án nhân dân TQ mong đợi , các thành viên Pháp Luân Công nóng lòng trong ngóng, sẽ diễn ra quyết liệt. Từ đó Đảng CS TQ có mạnh lên, trong sạch hơn, được dân TQ tín nhiệm hơn, quét đi hết hổ báo, chuồn cáo, ruồi muỗi và quét hết kẻ phản bội ở ngay trên thượng đỉnh của chế độ hay không ? Hay là ĐCS Trung Quốc đang bước vào cuộc một cuộc phiêu lưu chinh trị rất có nhiều ẩn số. Cái ác không thể tồn tại dài lâu. Món nợ cực lớn Pháp Luân Công đã đến hồi phải trả. Blog Bùi Tín (VOA)********************************************************* Tưởng hay Mao thắng Nhật?Tưởng Giới Thạch. Bắc Kinh sắp làm lễ kỷ niệm “70 năm chiến thắng Phát xít Nhật. Ðây là lần đầu tiên được họ tổ chức một cuộc diễn binh cho ngày lễ này. Ngày 3 Tháng Chín sắp tới Tập Cận Bình sẽ chủ tọa một cuộc duyệt binh với 200 máy bay chiến đấu và 12,000 quân, với những đơn vị đã có mặt từ thời “kháng Nhật” như Ðệ Bát Lộ Quân (第八路军, Hồ Chí Minh đã phục vụ trong đó), Tân Ðệ tứ quân (新第四军) và cả Ðội Du kích Hoa Nam (华南游击队).. Ðây cũng là lần đầu tiên quân ngoại quốc được mời, báo trước sẽ có 10 nước gửi quân tới diễn hành. Mới biết sẽ có quân Nga, Mông Cổ, Kazakhstan. Không biết Hà Nội có gửi quân sang dự hay không. Ông Vladimir Putin hứa ngay sẽ tới dự; vì vào Tháng Năm ông Tập Cận Bình đã qua Nga dự lễ mừng chiến thắng quân Ðức; trong lúc các nước Châu Âu và Mỹ đều tẩy chay để phản đối Nga đang xâm chiếm Ukraine. Cuộc duyệt binh của Tập Cận Bình cũng bị nhiều nước tẩy chay vì Trung Cộng đang xây đảo các nhân tạo trong vùng Biển Ðông nước ta, đe dọa các nước Ðông Nam Á. Thủ Tướng Nhật Abe đã từ chối lời mời. Bà tổng thống Nam Hàn chắc cũng không tới nhưng Kim Chính Ủn ở Bắc Hàn khó lòng từ chối. Cũng vậy, Trương Tấn Sang sẽ đại diện cho Cộng Sản Việt Nam, theo tin ở bên Tàu tiết lộ. Bắc Kinh gửi lời mời cả các nhà lãnh đạo Ðài Loan, nhưng bị từ chối; tuy nhiên các công dân Ðài Loan được phép qua lục địa tham dự. Trung Cộng chọn ngày kỷ niệm này vì ngày 2 Tháng Chín năm 1945, chính phủ Nhật chính thức ký hiệp ước đầu hàng Mỹ, gần một tháng sau khi quả bom nguyên tử thả xuống đất Nhật khiến Thiên Hoàng Hirohito phải kêu gọi quân, dân bỏ súng. Chính quyền Trung Cộng nhân dịp này sẽ quảng cáo rầm rộ vai trò của Mao Trạch Ðông và đảng Cộng Sản Trung Hoa trong cuộc chiến tranh kháng Nhật, từ 1937 đến 1945. Nhưng thực ra trên chiến trường Trung Quốc ai đóng vai trò quyết định chiến thắng quân Nhật? Trong tháng Sáu chính phủ Ðài Loan đã lên tiếng khẳng định rằng “Chính Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek, 蔣介石) và quân đội Quốc Dân Ðảng mới thực sự chiến đấu và thắng quân Nhật.” Hơn ba triệu quân lính và sĩ quan Quốc Dân Ðảng đã chết trong cuộc chiến, cùng hơn 20 triệu thường dân. Trong những năm kháng Nhật, quân Cộng Sản không đụng độ với quân Nhật một trận đánh lớn nào, họ chỉ lợi dụng thời gian quân chính phủ đánh Nhật để chiêu mộ đảng viên, củng cố các mật khu, đánh du kích và chống lại quân chính phủ. Quân Nhật Bản đã đầu hàng “các nước đồng minh” trong đó có chính phủ Dân Quốc; mà Tổng Thống Tưởng Giới Thạch là người lãnh đạo, người đã ngồi ngang hàng với Roosevelt và Churchill tại hội nghị Cairo, Ai Cập năm 1943. Stalin không dự vì còn vướng bởi hiệp ước hòa bình ký với Nhật Bản năm 1941, trong thời gian Tưởng Giới Thạch đang đánh Nhật! Sau đó Stalin mới gặp Roosevelt và Churchill tại Teheran, Iran, để chấp thuận các quyết định tại Cairo. Trong số các quyết định này có phần các nước đồng minh “trả lại cho Trung Quốc cả vùng Mãn Châu, đảo Ðài Loan và quần đảo Pescadores giữa Ðài Loan với lục địa.” Hội nghị Potsdam năm 1945 nhắc lại thỏa hiệp Cairo, sau đó bản văn đầu hàng của Nhật Bản lấy các quyết định ở Potsdam làm căn cứ. Cho nên chính ông Tưởng Giới Thạch đã giành lại lục địa và các đảo về cho Trung Quốc chính quân Quốc Dân Ðảng tước khí giới quân Nhật! Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đã bóp méo lịch sử suốt 65 năm qua, tiêu biểu là Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Kháng Nhật ở Bắc Kinh. Năm ngoái, một cựu thủ tướng Ðài Loan là Hác Bá Thôn (Hau Pei-tsun, 郝柏村) đã qua lục địa đến thăm viện bảo tàng này. Vị tướng bốn sao trong quân đội Trung Hoa Quốc gia lúc đã 95 tuổi. Ông tuyên bố với báo chí và nhân viên tại chỗ rằng viện bảo tàng không trình bày đầy đủ sự thật về cuộc chiến tranh kháng Nhật. Thí dụ, không hề thấy bản văn ngày 22 Tháng Bảy năm 1937 của Trung Ương Ðảng Cộng Sản kêu gọi cầu hòa với Quốc Dân Ðảng. Cũng không thấy bản thỏa hiệp đoàn kết chống Nhật giữa hai bên, trong đó Trung Cộng đã chấp nhận bỏ chủ nghĩa cộng sản để theo Tam Dân Chủ nghĩa (三民主義) của Tôn Dật Tiên (孫逸仙)! ! Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở Ðài Loan thừa kế Thống Chế Tưởng Giới Thạch, đã bác bỏ những lời tuyên truyền của Trung Cộng bằng một cuộc hội thảo về lịch sử chiến tranh, và một bài diễn văn của Tổng Thống Mã Anh Cửu đọc trong một cuộc diễn binh mừng chiến thắng quân Nhật, vào Tháng Sáu ở Ðài Bắc. Ông Mã Anh Cửu xác nhận: “Chính phủ Dân Quốc và Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã chiến thắng quân đội Nhật; không ai có thể phủ nhận sự thật này.” Tháng Tám năm 1945, Nga chỉ tuyên chiến với Nhật Bản sau khi Hirosima đã bị bom nguyên tử. Tuyên chiến rồi, quân Nga tiến chiếm Mãn Châu, mảnh đất đã được nhà Mãn Thanh nhập vào nước Tàu trước đó ba thế kỷ. Ðược quân Nga mở đường, Mao Trạch Ðông mới cho Lâm Bưu dẫn quân lên Mãn Châu. Quân Nga tiến tới đâu, quân cộng sản Trung Hoa theo tới đó, lập đảng bộ và tổ chức đấu tố ở mỗi làng. Tưởng Giới Thạch là tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, được các nước thắng trận công nhận, kể cả nước Nga. Tưởng Giới Thạch đã đấu tranh ngoại giao với Nga yêu cầu Stalin rút quân khỏi Mãn Châu và thành công. Stalin vẫn coi Mao Trạch Ðông chỉ một thủ lãnh nông dân tầm thường, không hề làm công nhân bao giờ, không đáng là đảng viên Cộng Sản! Tưởng Giới Thạch đưa những đạo quân thiện chiến nhất từ mặt trận Tây Nam tiến lên Mãn Châu “tiễu trừ Cộng phỉ.” Ông có thể thành công, cho tới khi ông ra lệnh ngưng tiến quân, trước áp lực của Tướng Mỹ George Marshall, đại diện chính quyền Mỹ! Trong trận Tứ Bình Nhai (四平街) vào Tháng Tư năm 1946 và kéo dài một tháng trời, Lâm Bưu phải đưa cả 100 ngàn công nhân không hề được huấn luyện vào chiến trường. Ngày 18 tháng Năm cộng quân bỏ chạy sau khi chết 40 ngàn, mất một nửa số binh sĩ. Ngày 6 Tháng Sáu, Lâm Bưu được lệnh rút khỏi Harbin (Cáp Nhĩ Tân, 哈尔滨) là thủ đô của Mãn Châu quốc. Quân Quốc Gia đã sẵn sàng đánh chiếm Harbin, bỗng nhiên nhận được lệnh ngưng tấn công. Vì ông Tướng Marshall muốn đóng vai “sứ giả hòa bình” đứng ra hòa giải hai phe Quốc-Cộng! Sau đó Cộng quân có thời giờ tổ chức lại quân đội, lại được quân Nga trao cho những vũ khí nặng, trước khi rút về nước. Trong khi đó quân quốc gia ở một chiến trường xa, không thể tiếp tế đầy đủ. Quân Quốc Dân Ðảng thất thế, vừa rút đi vừa tan hàng, sau cùng để cửa ngỏ cho cộng quân tiến vào Bắc Kinh. Năm 1949, Tưởng Giới Thạch cùng tàn quân chạy qua Ðài Loan, nhưng suốt quãng đời còn lại ông vẫn tuyên bố sẽ “quang phục lục địa.” Giấc mộng đó ông không thực hiện được, nhưng trong 65 năm qua sống dưới chính quyền Quốc Dân Ðảng, Ðài Loan đã phát triển thành một quốc gia tân tiến và dân chủ tự do. Từ 1980 dân Ðài Loan đã “quang phục lục địa” bằng tiền vốn đầu tư. Cộng Sản Trung Hoa cũng bắt đầu công nhận vai trò của Tưởng Giới Thạch trong việc thống nhất Trung Quốc vào thập niên 1920. Năm 2009, trong một lần đi thăm thành phố Ðại Lý ở Vân Nam, tôi đi qua một cửa tiệm tạp hóa nhỏ; nhìn vào bên trong thấy bày bán mấy bức hình để treo tường. Ðó là hình Mao Trạch Ðông, Chu Ân Lai và Tưởng Giới Thạch, ba bức chân dung lớn bằng nhau! Chính quyền Trung Cộng đã bóp méo lịch sử khi làm lễ kỷ niệm “chiến thắng Phát xít Nhật.” Ðây là chủ trương cổ động lòng yêu nước của dân Trung Hoa do Tập Cận Bình thúc đẩy để tiến hành chương trình xâm chiếm các quần đảo trong vùng Biển Ðông nước ta. Hành động bóp méo lịch sử của Trung Cộng cũng không khác gì của Việt Cộng. Chính quyền Việt Nam đầu tiên tuyên bố độc lập là chính phủ Trần Trọng Kim chứ không phải chính quyền Cộng Sản. Cuộc biểu tình đầu tiên ở Hà Nội ngày 17 Tháng Tám năm 1945 sau khi Nhật đầu hàng là do các công chức Hà Nội tổ chức để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim đã bị Cộng Sản cướp diễn đàn, treo cờ đỏ. Sau đó hai ngày, một nhóm cán bộ Cộng Sản mới tổ chức “cướp chính quyền” trong khi toàn bộ lãnh đạo đảng vẫn còn chưa biết tin tức. Cuốn Ðèn Cù của Trần Ðĩnh đã tiết lộ chính những người trong đảng phái quốc gia đã vận động với quân Nhật để bảo đảm an ninh cho nhóm quân Việt Minh đầu tiên đi qua cầu Long Biên vào Hà Nội. Sử gia Vũ Ngự Chiêu đã công bố công trạng của chính phủ độc lập đầu tiên của nước ta, trong vòng năm tháng trời đã thực hiện được việc thống nhất “ba kỳ,” cải tổ toàn diện nền giáo dục, tổ chức việc cứu tế, phát động một phong trào các tổ chức nhân dân tự nguyện và độc lập với nhà nước, xứng đáng gọi là một “xã hội công dân” theo nghĩa bây giờ. Ngày 19 Tháng Tám năm 2010, Nhạc sĩ Tô Hải đã viết một bài nói rõ thêm một sự thật lịch sử vẫn bị Việt Cộng bóp méo. Ông Tô Hải thẳng thắn phủ định một luận điều tuyên truyền nói rằng Việt Minh đã cướp chính quyền từ thực dân Pháp và phát xít Nhật. Trong thực tế, Cộng Sản Việt Nam đã cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim, chính phủ độc lập đầu tiên của nước Việt Nam. Vì lúc đó, “Nhật đã đầu hàng vô điều kiện, Pháp vẫn chưa ra khỏi các trại giam!” Chàng thanh niên Tô Hải thời đó đã “bọn tớ, tay cầm cờ vàng ba sọc đỏ, miệng hát ‘Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng’ kéo nhau đi biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim…” hoàn toàn không biết gì đến nghị quyết của Việt Minh! Tô Hải cũng ghi công chính phủ Trần Trọng Kim, “126 ngày nắm giữ một chính quyền của một đất nước hoang tàn, chết đói đầy đường, không một đồng trong ngân quỹ, 95% người dân không biết chữ…;” và tinh thần của nhân dân Việt Nam lúc đó, “tất cả các hoạt động thanh niên tiền tuyến, thanh niên khất thực, phụ nữ, nhi đồng, công chức… đều được ‘tự giác’ tổ chức bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, suốt 126 ngày…” Tóm lại, Cộng Sản Việt Nam đã chỉ thừa hưởng “’mâm cỗ độc lập tự do’ đã có chính phủ Trần Trọng Kim dọn sẵn, kể cả hàng loạt cuộc mít tinh, biểu tình suốt từ ngày Nhật đầu hàng vô điều kiện cho đến ngày 19 Tháng Tám… Nói trắng ra rằng, dân Việt Nam chẳng hề biết đến cái sự lãnh đạo tài tình nào của Ðảng Cộng Sản trước cái ngày 19 Tháng Tám năm 1945 ấy!” Theo Tô Hải, “Việt Minh… có cái ‘tài’… duy nhất là, khi vào tiệc thì cầm cốc đứng lên hô to: ‘Nào! Mời các bạn cầm đũa!’ Cứ làm như bữa tiệc ấy là chính mình bỏ tiền ra chiêu đãi toàn dân vậy!” Ngô Nhân Dụng (Người Việt)********************************** Cuối cuộc diễn binhThe Economist | Trà Mi dịch Mục đích thực của cuộc phô trương quân sự hiếm thấy này là để chứng minh ai là ông trùm Trung Quốc. Tập Cận Bình trên màn hình trong cuộc diễn binh ở Quảng trường Thiên An Môn, 3/9/2015. Nguồn AP Sau những tuần thị trường chứng khoán trồi sụt lộn xộn, đứng duyệt binh, xem đoàn quân diễn hành đồng bộ chính xác, theo đúng mệnh lệnh của mình là một thay đổi tốt cho Tập Cận Bình, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa. Diễn binh rầm rộ có thể đã không còn hợp thời ở những nơi khác, nhưng các quốc gia châu Á vẫn thích phô trương cơ bắp. Sau những cuộc phô bày vũ khí và và sức mạnh ở Ấn Độ, Pakistan, Nga và Đài Loan trong năm nay, Trung Quốc đã tổ chức cuộc diễn binh phô trương vào bậc nhất dưới bầu trời trong xanh ở Quảng trường Thiên An Môn vào ngày 3 tháng 9. Sự kiện này đánh dấu “Ngày Chiến thắng”, một ngày lễ TQ mới phát minh vào năm 2014 để đánh dấu ngày kết thúc “Chiến tranh Nhân dân Kháng chiến chống Xâm lược Nhật Bản”. Đó là giai đoạn những năm trước và trong chiến tranh Thế giới Thứ hai ở Trung Quốc. Đây là cuộc diễn binh quy mô đầu tiên của Trung Quốc kể từ năm 2009, là cuộc diễn binh đầu tiên để ăn mừng không gì khác hơn là sự cai trị của Đảng Cộng sản và lần đầu tiên có sự tham gia của quân đội nước ngoài. Tuy nhiên, ông Tập (hình trên) không cần phải tổ chức diễn binh năm nay. Những cuộc diễn binh như thế đã luôn luôn được tổ chức mỗi mười năm để kỷ niệm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng 10 năm 1949. Cuộc diễn binh này đã không theo thứ tự, nó xảy ra trước bốn năm. Tại sao? Chính phủ TQ đã mô tả cuộc diễn binh như là một buổi lễ kỷ niệm quốc tế, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 70 năm chiến thắng của Đồng Minh. Nhưng một bài báo của tờ Nhân dân Online, cơ quan ngôn luận của đảng, hồi đầu năm nay đã cho biết rõ ràng nó có nghĩa là gì. Mục đích của cuộc diễn binh, bài báo nói, là để “răn đe Nhật Bản” và “phô trương sức mạnh quân sự của Trung Quốc”. Cường điệu này đã nhanh chóng xuống giọng là để “tuyên bố với thế giới rằng Trung Quốc hết lòng bảo vệ trật tự quốc tế sau chiến tranh thế giới hai, chứ không phải thách đố nó”. Trung Quốc lập luận rằng mối đe dọa chính đối với hiện trạng quốc tế là mong ước của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe muốn viết lại hiến pháp hoà bình của Nhật. Vì vậy, cách nói lịch sự của Trung Quốc, trên thực tế, chẳng khác gì khác với lời tuyên bố ngang ngạnh. Trong ba mươi người lãnh đạo quốc gia hay chính phủ cùng với họ Tập đứng trên khán đài duyệt binh có cả Vladimir Putin (khó có thể được coi là một người bảo vệ trật tự quốc tế đáng chú ý, nhưng không sao). Các quốc gia đó là những phần trên bản đồ thế giới, những nơi mà Trung Quốc có ảnh hưởng mạnh: Trung Á (có mặt lãnh đạo bốn trong năm “stans” ), một phần ở Đông Nam Á (Việt Nam, Campuchia, Lào); các nước châu Phi (Nam Phi, Ai Cập, Sudan); cũng như Đông Âu. Chỉ có một quốc khách đáng ngạc nhiên là Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye, xuất hiện ngay sau cuộc nắn gân với Triều Tiên. Bà Park Geun-hye chống lại áp lực của Mỹ, nhận lời mời tham dự, có lẽ với hy vọng sẽ thuyết phục được Trung Quốc dùng ảnh hưởng đàn anh để kiểm soát người láng giềng phương Bắc. Nhưng không có bất kỳ tổng thống hay thủ tướng nào khác của các quốc gia dân chủ đã chiến đấu cùng bên với Trung Quốc trong Thế chiến Thứ hai: đó là, Mỹ và các đồng minh phương Tây. Viễn ảnh đứng xem lính Trung Quốc diễn hành bước ngỗng xung quanh quảng trường, nơi mà cách đây 26 năm, quân đội TQ đã giết chết hàng trăm nếu không phải hàng ngàn người biểu tình ủng hộ dân chủ là điều khó có thể chấp nhận được đối với người phương Tây. Đầu năm nay Trung Quốc đã thả bóng về dự định tổ chức một cuộc liên hoan dân sự kèm theo, để người châu Âu và người Mỹ có thể đã tham dự. Nhưng không có chuyện gì xảy ra. Hẳn nhiên họ Tập không ngạc nhiên và thất vọng vì sự vắng mặt của lãnh đạo phương Tây. Đứng với Putin cho phép Tập Cận Bình phô trương một sự thách thức với phương Tây, điều mà đảng cộng sản coi là điểm yếu của Trung Quốc. Ngay sau khi lên nắm quyền, họ Tập và các ban lãnh đạo đảng đã đến thăm một bảo tàng bên cạnh Quảng trường Thiên An Môn để xem một cuộc triển lãm mang tên “Con đường đến Phục hưng”. Nó ngụ ý cho thấy dân chúng Trung Quốc thấy dù bị “hạ xuống thành một xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến kể từ khi chiến tranh nha phiến năm 1840, TQ đã trỗi dậy đề kháng chống lại sự sỉ nhục và đau khổ” như thế nào. Vào “Ngày Chiến thắng” năm ngoái, giới lãnh đạo TQ cũng đã làm điều tương tự, lần này, họ đến thăm một bảo tàng ở Bắc Kinh kỷ niệm chiến tranh. Cuộc triển lãm ở đó nhằm mục đích cho thấy cuộc kháng chiến chống lại Nhật Bản và là chiến thắng đầu tiên của TQ sau “thế kỷ của sự sỉ nhục”. Tại các cuộc diễn binh, họ Tập đã nêu ra ý nghĩa hiện đại của những chuyến viếng thăm này. Trong khi Mỹ và Liên Xô đã trở thành siêu cường vì những gì họ đã làm trong chiến tranh, Tập Cận Bình lập luận, thì vai trò trong chiến tranh của Trung Quốc là để “tái lập vị trí nước lớn của Trung Quốc”. Một cuộc phô trương vũ khí khổng lồ là để củng cố luận cứ của Tập Cận Bình. Mười hai ngàn binh lính diễn hành qua khán đài cùng lúc với trực thăng tấn công bay ầm ầm trên không vẽ thành hình số “70”. Trung Quốc lần đâu tiên cho thế giới thấy loại xe tăng mới, máy bay chiến đấu, máy bay ném bom, và một số hệ thống hoả tiễn mới. Những vũ khí đó gồm hoả tiễn đạn đạo tầm trung DF-16, hai loại năng lượng hạch tâm có khả năng liên lục địa (DF-5B và DF-31A) và cái gọi là hoả tiễn diệt “tàu sân bay”, DF-21D có thể một cú tiêu huỷ một tàu sân bay (xem biểu đồ). Tất cả là mối quan tâm của Mỹ. Hoả tiễn của Trung Quốc. Nguồn: Sức mạnh hoả tiễn của Trung Quốc. Nguồn: Economist.com Trung Quốc cũng phô bày không ít về chủ nghĩa xét lại lịch sử, nhằm đánh bóng thành tích trong chiến tranh của đảng cộng sản. Sử gia Trung Quốc thường phàn nàn rằng sự hy sinh của những người lính và dân của họ trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai đã bị bỏ quên một cách đáng hổ thẹn. Khiếu nại của họ là điều hợp lý: 14 triệu người Trung Hoa đã thiệt mạng dưới bàn tay của quân đội Nhật Bản hoặc vì nạn đói. Nhưng có một vấn đề. Dù các lực lượng cộng sản đã tham gia vào chiến tranh du kích, gánh nặng và hy sinh ở chiến trường được xác định, như Rana mitter của Đại học Oxford đã chỉ ra, là của Quốc Dân Đảng-Tưởng Giới Thạch (Quốc Dân Đảng hiện là đảng lãnh đạo tại Đài Loan). Trung Quốc đã che đậy vai trò của Quốc Dân Đảng. Cuộc diễn hành cũng nhằm để phô trương cá nhân họ Tập. Đối với Chủ tịch TQ thì đó là một cơ hội, gần ba năm sau khi lên nắm quyền lãnh đạo Trung Quốc và trong bối cảnh một chiến dịch quyết liệt chống tham nhũng trong đảng và quân đội, để cho tất cả thấy rằng ông thực sự là lãnh tụ (và không có gì phải lo lắng về nền kinh tế TQ: giữ không khí sạch cho cuộc diễn binh chỉ cần tạm thòi đóng của một loạt các xí nghiệp nặng miền Bắc Trung Quốc, xem bài viết). Các chức sắc nước ngoài chỉ giữ vai phụ cho Tập Cận Bình. Họ Tập có liên kết chặt chẽ với quân đội, một lực lượng khoảng 2,3 triệu quân, hơn bất kỳ người tiền nhiệm nào trong lịch sử gần đây. Khởi đầu sự nghiệp, họ Tập là một thư ký riêng cho Bộ trưởng Quốc phòng. Không như những người tiền nhiệm, ngay sau khi nhậm chức Tập Cận Bình đã trực tiếp cai quản công cụ chính của đảng để kiểm soát quân đội, đó là Quân uỷ Trung ương (Central Military Commission, CMC). Ông đã phô trương cơ bắp với chỉ huy các cấp của ông một cách mà các nhà lãnh đạo đảng trước đó ít khi dám làm — kết án nhiều viên tướng tội tham nhũng, trong đó có hai sĩ quan cấp cao nhất trong chính phủ tiền nhiệm: Từ Tài Hậu (Xu Caihou, nay đã chết) và Quách Bá Hùng (Guo Boxiong). Ông Tập hiện nay đã đưa người thân tín vào giữ các vị trí cao cấp. Một ví dụ thú vị gần đây, trong công văn thăng chức người đứng đầu lực lượng Công an Vũ trang Nhân dân (PAP), một lực lượng bán quân sự, lên hàng tướng có chữ ký của ông Tập ở hàng đầu tiên. Thông thường, tên của thủ tướng đi trước trong các văn thư thăng chức của PAP. Người ta không đánh giá được các sĩ quan cao cấp nghĩ gì về họ Tập. Hẳn nhiều người trong số họ phải kêu ca về sự xói mòn đặc quyền của họ vì những chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình. Ông Tập muốn bảo đảm để có được hậu thuẫn thực tế của họ hơn là chỉ với những cuộc diễn binh ủng hộ tinh thần, là một trong những lý do tại sao ông không giảm mà tăng mức chi tiêu quân sự, như ông và các người tiền nhiệm đã đam mê trong nhiều năm (mặc dù, như đã công bố tại cuộc diễn binh là ông sẽ tiếp tục cắt – lực lượng quân đội, lần này là 300.000 quân). Nhưng thông điệp Tập Cận Bình muốn chuyển đi trong cuộc diễn binh phô trương, rõ ràng và trong như bầu trời Bắc Kinh hôm ấy: Đó là Trung Quốc đang hồi sinh và Quân đội Vũ trang Nhân dân cũng vậy, và ông, Tập Cận Bình, là vị tổng tư lệnh không thể tranh cãi. Trich tu Website 2015 DCVOnline
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:59:49 GMT 9
Sự điên cuồng của Mao: Không ăn lương thực bố thí – chết vài chục triệu người có là gì! Vào thời nạn đói khủng khiếp của Trung Quốc, sau khi phát sinh thảm kịch một số lượng lớn người chết vì đói, Chính phủ Liên Xô nghe tin lập tức triệu tập một hội nghị Bộ Chính trị, quyết định lập tức viện trợ cho Trung Quốc 500 nghìn tấn đường, 3 triệu tấn lương thực. Thế nhưng Mao đã từ chối… Không ăn lương thực bố thí, chết đói vài chục triệu người có là gì? Khrushchev vội vã bảo Đại sứ quán Liên Xô tại Trung Quốc liên lạc với Chu Ân Lai, chuẩn bị tiếp viện cho Trung Quốc. Sau khi Chu Ân Lai nói chuyện với Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc thì báo cáo với Mao, bị Mao lập tức từ chối. Mao nói: “Cho dù cả Trung Quốc chết đói cũng không cần một hạt lương thực của tên hói ấy, Đảng và Chính phủ Trung Quốc là có chí khí. Chúng ta không chỉ không cần Liên Xô tiếp viện, hơn nữa còn phải trả hết nợ cho Liên Xô.” Còn đây là điều mà Mao bảo nhân dân Trung Quốc: Liên Xô dậu đổ bìm leo, “ép người đòi nợ” . Sau việc đó Mao nói với bác sĩ Lý Chí Tuy rằng, Bí thư Điền Gia Anh nói: “ Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn. Trung Quốc có tới vài trăm triệu nhân khẩu, chết đói vài chục triệu người thì tính là chuyện lớn gì đây! Để cho phụ nữ đẻ thoải mái, chết vài chục triệu người, sau vài năm chẳng phải lại khôi phục sao! Chúng ta dựa vào đâu mà ăn lương thực của Khrushchev?” Bao nhiêu người chết đói trong thảm họa “Đại nhảy vọt”? Nạn đói 3 năm, Mao cự tuyệt tiếp viện lương thực của Mỹ Từ năm 1959 đến 1962, người dân Trung Quốc đã phải trải qua nạn đói ác mộng, không biết là có bao nhiêu người chết tại nhà, ngoài đồng và trên đường lánh nạn đói. Lúc đó, Tổng thống mới nhậm chức của Mỹ là Kennedy và Chính phủ Mỹ không hề khoanh tay đứng nhìn trước sự việc tại Trung Quốc, mà có một sự chú ý đặc biệt. Họ cho rằng, tình thế khắc nghiệt trong Trung Quốc sẽ không thể hoãn giải trong thời gian ngắn, điều này sẽ khiến cho nhiều người Trung Quốc tử vong hơn nữa, do vậy, quyết định sẽ thử thông qua viện trợ lương thực, đưa ra một “cành ô liu” tới Trung Quốc, và còn lập ra phương án tiếp viện. Tháng 2 năm 1962, phía Mỹ đề xuất một phương án không kèm theo bất kỳ một điều kiện chính trị nào: Cho phép Trung Quốc dùng ngoại tệ mạnh mua 5 triệu tấn tiểu mạch từ Mỹ. Còn có một phương án mang theo điều kiện chính trị là: Nếu như Trung Quốc đồng ý gỡ bỏ áp lực quân sự chính trị với nước láng giềng thì Mỹ sẽ đồng ý bán chịu với lãi suất thấp và trong thời gian dài cho Trung Quốc mỗi năm hơn 10 triệu tấn tiểu mạch. Không lâu sau, Kennedy lợi dụng thời cơ cuộc hội đàm cấp đại sứ tại Vác-xa-va của Trung Quốc và Mỹ, chỉ thị cho Đại sứ Mỹ tại Ba Lan nói chuyện với Đặc sứ Vương Bính Nam của Trung Quốc. Kennedy nói rõ rằng: Nếu như phía Trung Quốc cho rằng, cuộc sống của nhân dân bị ảnh hưởng, thì nước Mỹ sẽ giúp đỡ hết khả năng trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo, nước Mỹ thậm chí có thể gửi túi cứu tế cho những người dân nghèo Trung Quốc. Tuy vậy, trong cuộc nói chuyện giữa hai bên Trung-Mỹ, Vương Bính Nam đã truyền đạt lập trường của Mao Trạch Đông: Mặc dù Trung Quốc gặp phải thiên tai “tự nhiên” trong ba năm, nhưng, nhân dân Trung Quốc có lòng tin rằng sẽ chiến thắng khó khăn, giành được thắng lợi, tuyệt đối không dựa dẫm vào người khác, nhất là sự bố thí của người Mỹ để sống qua ngày, càng không thể lấy nguyên tắc để làm giao dịch. Người Mỹ lại bày tỏ thái độ lần thứ 3: Kế hoạch viện trợ 5 triệu tấn tiểu mạch của họ, là không có mang theo điều kiện chính trị, thậm chí phương án dùng ngoại tệ mạnh để chi trả cũng có thể là trả sau khi tình huống có chuyển biến tốt. Phía Trung Quốc vẫn cứ kiên quyết từ chối, và còn truyền đạt kiến nghị của Mao Trạch Đông bằng một giọng điệu hài hước: Nếu như phía Mỹ cần chúng tôi giúp đỡ, chúng tôi cũng có thể thắt lưng buộc bụng để viện trợ một số gạo và tiểu mạch. Đại biểu của Mỹ thì bối rối còn đại biểu Trung Quốc thì cười đắc thắng. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lại một lần nữa thể hiện được “khí phách” của mình. Thành Đô
|
|
|
Post by Can Tho on May 27, 2018 1:52:11 GMT 9
Nguyên nhân thực sự giúp ĐCSTQ đánh bại Quốc dân đảngBlog Án Sát Sứ Trong cuộc chiến này, không chỉ có hơn 100 ngàn lính Triều Tiên gia nhập quân đội của Lâm Bưu mà còn có nhiều lính Quan Đông của Nhật Bản giả làm quân dã chiến Đông Bắc. Hồi ký của sĩ quan Nhật Bản ghi lại: Bát Lộ quân đã đối chiếu tỉ lệ quân trong 600 ngàn quân Quan Đông và yêu cầu cái giá để đa số người Nhật Bản được thả về là phải có một nhóm người nhỏ ở lại. Người Nhật Bản cảm thấy phải có trách nhiệm đồng bào, vì thế nhiều phần tử tinh anh và thành phần nòng cốt trong quân đội xin ở lại để cho một phần lớn đồng đội được về nước an toàn. Chủ tịch Chính phủ Quốc dân đảng Tưởng Trung Chính và bộ trưởng Quốc phòng Bạch Sùng Hy dưới bảo vệ của Tư lệnh vùng Đông Bắc là Đỗ Duật Minh (phải) đi thị sát quân ở Thẩm Dương ngày 27/5/1946, sau khi quân Quốc dân đảng thảm bại trước quân Cộng sản Trung Quốc ở Tứ Bình dưới chỉ huy của Lâm Bưu. Ngày 28/9/1948, Kato, Cục trưởng Cục Điều tra Bộ Ngoại giao Nhật Bản mở họp báo công bố, khoảng 140 ngàn sĩ quan và binh lính quân Quan Đông Nhật Bản và người nhà của họ, hoặc buộc phải ở lại phục vụ trong quân đội cộng sản Trung Quốc ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, hoặc phải sống trong vùng do quân đội Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kiểm soát. Cục trưởng Kato khẳng định, theo điều tra của họ, có ít nhất 60 ngàn quân Nhật Bản đã làm công tác tiền tuyến cho quân đội ĐCSTQ, có người làm hướng dẫn cho binh lính Trung Quốc dùng pháo và súng, có người dạy kỹ thuật bay, có người làm hướng dẫn chiến thuật, cũng có người lái xe tăng trực tiếp giao chiến với quân Quốc dân đảng. Những ghi chép này được đăng trên Thời báo New York ngày 29/9/1948. Nhưng đây chỉ là một bộ phận, còn khoảng 500 ngàn quân Quan Đông bị Liên Xô bắt làm tù binh, trong lúc quân của Lâm Bưu nguy ngập nhất đã bị quân Quốc dân đuổi chạy vào lãnh thổ Liên Xô, vì thế tại Liên Hiệp Quốc, Liên Xô đã cùng Mỹ thông qua một nghị quyết yêu cầu quân Quốc dân đảng lập tức đình chiến, hai bên Quốc – Cộng đàm phán (ý của Liên Xô là không cho quân Quốc dân đảng làm bừa ở ngay biên giới của mình). Đàm phán này dĩ nhiên chỉ là kế hoãn binh của Liên Xô, khi quân Quốc dân đảng phát hiện bị lừa và tấn công tiếp thì đã muộn, quân Lâm Bưu đã lấy lại thế lực, không chỉ sức chiến đấu tăng lên mà còn được trang bị nhiều vũ khí mới. Sức mạnh được tăng cường này chủ yếu là nhờ 200 ngàn quân Quan Đông của Nhật Bản bị giam giữ trong các trại tập trung bị bắt cải trang thành quân dã chiến của Lâm Bưu, những người Nhật Bản này bị uy hiếp nếu chạy trốn thì sẽ ảnh hưởng đến sinh mạng của 400 ngàn quân Hoàng gia còn lưu lại! Toàn bộ vũ khí sử dụng của quân Lâm Bưu được Hồng quân Liên Xô trang bị, chỉ có quân phục là của ĐCSTQ. Vậy là quân Quốc dân đảng bị phản công trở lại. Năm 1948, Lâm Bưu phát động chiến dịch Liêu Thẩm, bao vây quân Quốc dân do Phạm Hán Kiệt (1894 – 1976) thống lĩnh ở Cẩm Châu. Cuối cùng thì trong quân dã chiến Đông Bắc có bao nhiêu quân Nhật Bản cải trang, đây là vấn đề hiện nay rất khó làm rõ, dù sao chuyện đã qua 70 năm. Nhưng ở Nhật Bản hiện nay có 4 Hội ái hữu dã chiến, hàng năm đều tổ chức hoạt động, những người từng tham chiến tại Trung Quốc này luôn tưởng nhớ lại những tháng ngày gian khổ của họ. Sĩ quan Hyōdō Yoshikiyo (1928-xx) thuộc “Hội ái hữu Quân dã chiến thứ tư” từng nói: “Trong Quân dã chiến thứ tư có gần 100 ngàn lính Nhật Bản, những người lính Nhật Bản này đã được huấn luyện bài bản, trở thành lực lượng nòng cốt giúp nâng cao sức chiến đấu Quân dã chiến thứ tư, có cống hiến quan trọng cho thắng lợi của quân cộng sản Trung Quốc…” Khi được nghe kể ở vùng Đông Bắc (Trung Quốc) có “Hội chiến hữu quân 38”, Hyōdō Yoshikiyo cho biết tại Nhật Bản cũng có hội này với khoảng hơn 100 ngàn người, chỉ riêng ở khu vực Tokyo có vài trăm người. Trong đội quân Đông Bắc của ĐCSTQ khi đó, binh chủng kỹ thuật hầu hết là người nước ngoài, vì để đào tạo được những người giỏi kỹ thuật cần có nhiều thời gian, trong khi hơn 100 ngàn quân Bát Lộ từ Sơn Đông chuyển qua hầu hết là mù chữ, chỉ riêng xóa được nạn mù chữ cho họ cũng phải có nhiều thời gian, nói gì đến dạy họ lái máy bay, xe tăng. May có quân Quan Đông Nhật Bản được đào tạo bài bản nên đã làm thay đổi cục diện, trong đó khoảng vài chục ngàn người đã làm lính đường sắt sớm nhất trong quân đội ĐCSTQ. Nhưng không chỉ vậy, lực lượng chủ lực giúp quân ĐCSTQ đánh bại quân Quốc dân đảng còn có thế lực hùng hậu là Hồng quân Liên Xô. ĐCSTQ mừng thọ Stalin Hồng quân Liên Xô đóng vai trò quan trọng giúp quân ĐCSTQ đánh bại quân Quốc dân đảng. Trong chiến dịch Liêu Ninh, kế hoạch đã được Moscow thông qua từ trước nửa năm. Một nhóm chuyên gia gồm 21 người do Kovalev (1901 – 1993) đứng đầu đã lên đường đến Đông Bắc – Trung Quốc. Bề ngoài thì tưởng Kovalev là người phụ trách vận tải đường sắt, thực tế chính là Quan trưởng quân tối cao vùng Đông Bắc do Liên Xô bổ nhiệm, cũng là tổng chỉ huy chiến dịch Liêu Thẩm, chỉ huy toàn bộ quân Liên Xô và Trung Quốc. Lúc này tình hình đã đảo ngược, quân ĐCSTQ đã giành lại ưu thế về cả trang bị và số lượng. Trong giai đoạn chuẩn bị chiến dịch Liêu Thẩm, bị kịch hơn là Liên Xô đã dùng toàn bộ vũ khí hạng nặng trị giá 4 tỷ USD trong tổng số 13 tỷ USD mà Mỹ chi viện cho Liên Xô thông qua “Đạo luật cho thuê” (Lend-Lease Program). Vậy là xảy ra hiện tượng lạ, vì chính sách cấm vận vũ khí của Mỹ khiến những vũ khí Mỹ mà quân Quốc dân đảng sử dụng bị thiếu thốn đạn dược, họ buộc phải dùng “súng trường 38” của Nhật Bản tích trữ trong kho, dùng sơn pháo của Nhật Bản phòng thủ. Còn Quân dã chiến thứ tư của cộng sản Trung Quốc lại dùng trang bị của Mỹ: xe tăng Mỹ, xe bọc thép, súng trái phá Mỹ, xe tải Mỹ. Và để thuận tiện trong chỉ huy toàn quân, cố vấn Liên Xô đã bố trí đơn vị chỉ huy hàng đầu, tất cả cố vấn trực tiếp nghe lệnh của tổng chỉ huy tác chiến Liên Xô là Kovalev, những người này toàn sĩ quan Liên Xô từng tham gia qua chiến tranh giữa Liên Xô và Đức. Như vậy lực lượng này có ưu thế vượt trội so với quân Quốc dân đảng. Hãy cùng nhìn lại một số liệu, từ bắt đầu Thế chiến thứ Hai năm 1938 đến 1949, tổng chi viện trên các loại hình của Mỹ là 3 tỉ USD. Trong đó chi viện vũ khí cho Trung Quốc chỉ 800 triệu USD, nhưng đa số vũ khí này dùng trong chiến tranh chống Nhật Bản thời Thế chiến thứ Hai. Ngày 26/6/1946, Trung Quốc bùng nổ nội chiến. Cuối năm 1946, Mỹ dưới Hiệp định đình chiến Marshall đã thực hiện cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc, đến tháng 11/1948 mới giải cấm vận. Khoảng nửa năm sau khi bỏ cấm vận, tức là vào tháng 6/1949, một số lượng nhỏ vũ khí được chuyển đến bến cảng Trung Quốc. Chiến dịch vượt sông của Giải phóng quân Trung Quốc kết thúc ngày 2/6/1949. Ngoài ra, thời gian từ năm 1937 – 1940 Moscow đã bí mật vận chuyển hàng chục ngàn súng ống đến Trung Quốc thông qua đường Ngoại Mông và Tân Cương. Vào các năm 1945 và 1947, Hồng quân Liên Xô đã hai lần chi viện 700 ngàn khẩu súng của quân Quan Đông Nhật Bản cho quân của ĐCSTQ (trong đó 200 ngàn khẩu lấy từ quân Nhật Bản trú tại Triều Tiên). Theo hồi ký của Bành Thi Lỗ (1916 – 2009), một trong những cựu lãnh đạo cuộc chiến chống Liên Xô, Liên Xô từng dùng vũ khí Đức và vũ khí Tiệp Khắc thu được khi ở châu Âu cung cấp cho quân cộng sản Trung Quốc. Những súng ống này được chuyển đến Đông Bắc thông qua Bắc Hàn, vào thời gian nhộn nhịp nhất, vũ khí Đức chất thành đống như núi ở bến xe vùng Đông Bắc. Từ 1942 – 1949, Mỹ đã thông qua chi viện lớn cho tổng cộng 45 Sư đoàn bộ binh của Quốc dân đảng. Giữa những năm 1945 – 1948, quân ĐCSTQ lại được Liên Xô viện trợ súng ống và giúp xây dựng tổ chức 210 sư đoàn bộ binh. Nhưng Stalin không yên tâm sức chiến đấu của đội quân dã chiến vùng Đông Bắc của Lâm Bưu gồm toàn những kẻ mù chữ, vì thế lệnh cho Hồng quân Liên Xô trực tiếp tham chiến. Chiến dịch Liêu Thẩm là do đích thân tướng lĩnh Liên Xô chỉ huy, đây là cuộc chiến do quân Liên Xô là chủ lực có sự phối hợp của đội quân hỗn hợp của ĐCSTQ. Nguyên nhân cơ bản của thắng lợi là nhờ lực lượng bộ binh, không quân, thiết giáp, pháo binh, thậm chí toàn bộ Hải quân tinh nhuệ của Liên Xô tham chiến, vì thế mà quân Quốc dân đảng thảm bại. Ví như cuộc chiến Cẩm Châu hoàn toàn chỉ dựa vào quân Liên Xô, còn quân dã chiến của ĐCSTQ chỉ có nhiệm vụ giúp dọn dẹp chiến trường sau khi cuộc chiến kết thúc. Sau này quân Liên Xô lại pha trộn với quân dã chiến thứ tư tiếp tục tấn công quân Quốc dân đảng. Vệ sĩ luôn bên cạnh Tư lệnh Cảnh giới Thiên Tân của quân Quốc dân là Trần Trường Tiệp. Ông từng bị bắt làm tù binh, cho biết trên đường bị áp giải vào thành lũy, ông ngạc nhiên thấy có rất nhiều lính tử trận Liên Xô tóc màu vàng nhưng mang quân phục lính của ĐCSTQ. Binh lính gồm có 140 ngàn quân Nhật Bản, 100 ngàn quân Triều Tiên, hơn 100 ngàn lính quan nội (miền tây Sơn Hải Quan), 300 ngàn quân Ngụy Mãn. Đâu chỉ có liên quân Nhật Bản và Liên Xô. Sĩ quan Nhật Bản Hyōdō Yoshikiyo thuộc biên chế Quân chủ lực 38 của ĐCSTQ (một chi quân dã chiến thứ tư của Lâm Bưu) nói: Trong đội quân dã chiến thứ tư của Lâm Bưu có 100 ngàn lính Nhật Bản (Tạp chí “Trung Hoa nhi nữ” của Trung Quốc Đại Lục, năm 2003). Trong cả ba chiến dịch lớn của quân cộng sản Trung Quốc đều có sự tham gia quy mô lớn của Hồng quân Liên Xô, những chiến dịch này đều dùng chiến thuật biển người. Nếu không có lực lượng hùng hậu quân Liên Xô, Nhật Bản, Triều Tiên; không có lực lượng hùng hậu xe tăng, máy bay, đại pháo, xe lửa, xe tải của đội quân bên ngoài này thì quân ĐCSTQ không thể địch nổi vài triệu quân Quốc dân đảng. Chủ nhiệm Bộ tư lệnh Cẩm Châu Phạm Hán Kiệt (1894–1976) ghi lại trong Hồi ký quân Quốc dân đảng của ông: “Khi mở màn chiến dịch Niễn Trang tiếng pháo nổ động trời, hơn 700 ngàn quân của Hoàng Bá Thao (1900 – 1948) bị ép vào trong chiến thuật biển người của quân ĐCSTQ. Sau khi hết tràng pháo nổ long trời, như thường lệ là tiếng quân xung phong rầm rầm, cả biển người như nước thủy triều xông thẳng lên các điểm quân Quốc dân đang trấn giữ, những người lính liều mạng lao đi trong đêm tối, trước ngực họ treo đầy lựu đạn, cứ thế lao về phía trước. Quân Quốc dân trấn giữ trong công sự dùng hỏa lực bắn vào làn sóng người đang lao lên. Một đoàn người lũ lượt ngã xuống lại có một đoàn người khác xông lên, nhóm người lên trước gục xuống lại có nhóm khác xô lên… Nhưng điều kỳ lạ là trên những thi thể quân Cộng sản Trung Quốc tử trận sao lại rất hiếm thấy có người đeo túi da, tay cầm súng ngắn hoặc súng tiểu liên, cả súng trường cũng không thấy, dường như họ chỉ xung phong lên bằng tay không… Trong tình cảnh này, nhiều công sự phải đối diện khó khăn cực lớn, đó là những người lính Cộng sản Trung Quốc tử trận chất thành bức tường thi thể che mất tầm nhìn của quân Quốc dân đảng ở bên trong công sự, làm hỏa lực không thể bắn ra được… Sau khi quân Cộng sản biết chiến thuật biển người đã đạt được hiệu quả, lúc này bộ đội tinh nhuệ của quân Cộng sản mới xông lên. Quân Quốc dân đảng bị những bức tường người che phủ rơi vào tình trạng hoàn bị động trong lúc bị biển người từ xung quanh lao lên tấn công….” Cái giá của chiến thuật biển người này là sự hy sinh của không biết bao nhiêu mạng người, theo số liệu thống kê năm 1946 vùng Đông Bắc có khoảng 57 triệu người, nhưng năm 1949 còn chưa đến 35 triệu người, vậy thì 20 triệu người đi về đâu? Không lẽ di dân sang Liên Xô! Có thể nói, cả ba chiến dịch lớn của quân Cộng sản Trung Quốc đều do Liên Xô lên kế hoạch, chỉ huy Stalin có thể xem là người cha giải phóng của ĐCSTQ chứ không phải là Mao Trạch Đông. Vào năm 1948 ông Mao Trạch Đông vẫn đang còn mơ màng, ông ấy nói muốn đánh thắng Quốc dân đảng cần ít nhất 5 năm, không lâu sau thì đổi giọng nói cần một năm là được, nguyên nhân vì nhờ có đội quân láng giềng hùng hậu dưới chỉ huy của chuyên gia Liên Xô, đó là liên quân hùng mạnh gồm Nhật Bản, Triều Tiên và Liên Xô. Blog Án Sát Sứ
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 26, 2018 6:54:45 GMT 9
Trung Cộng Tư Bản Tiểu Luận12/18/2018 Nguyễn Quang Duy Nếu Karl Marx còn sống không biết ông giải thích và đánh giá thế nào về nhà nước cộng sản sau 40 năm cải cách và “mở cửa”. Vài nét chính dưới đây giúp ta hình dung được mặt thật nhà nước Trung cộng ngày nay. Giầu nhưng đầy rủi ro… Tất cả con người, nguồn vốn, đất đai, tài nguyên, kỹ thuật đều thuộc về nhà nước và đều được tận dụng chuyển thành tài sản tích lũy trong các ngân hàng nhà nước. Riêng Ngân hàng Nhân dân Trung Cộng tài sản tích lũy đã nhiều hơn bất cứ Ngân khố nào có được trong lịch sử thế giới, dự trữ ngoại tệ có lúc lên đến 4.000 tỷ Mỹ kim. Chính quyền địa phương, công ty và cá nhân bị buộc phải gửi vào 4 ngân hàng thương mãi nhà nước, được vay lại theo chiến lược nhà nước đưa ra và theo những quan hệ về chính trị. Theo ước tính S&P Global Intelligence vào cuối năm 2017 tổng tài sản 4 ngân hàng thương mãi đã lên tới 13.630 tỷ Mỹ Kim. Ngân hàng quốc tế tham gia thị trường tài chính đều bị Bắc Kinh tìm mọi cách ngăn chặn nên rất ít cạnh tranh lành mạnh trong khu vực tài chính tại Trung cộng. Nhu cầu vay mượn lại cao nên một hệ thống ngân hàng “ngầm” ước tính lên đến 20.000 tỷ Mỹ Kim đã hình thành. Không ai biết ai nợ ai và nợ bao nhiêu. Chỉ khi doanh nghiệp phá sản thì mọi thứ mới bắt đầu lòi ra. Nhà nước không kiểm soát được và điều đáng nói là ngay các doanh nghiệp nhà nước và chính quyền địa phương cũng sử dụng hệ thống ngân hàng “ngầm” này. Tường trình của S&P Global công bố vào tháng 10/2018, nợ xấu do các chính quyền địa phương tạo ra đã lên tới ít nhất 5.800 tỷ Mỹ kim. Hầu hết các dịch vụ công cộng khác như điện, nước, y tế, giáo dục, giao thông, cảng, phi trường… mặc dù hoạt động không mang lại hiệu quả, đầy tham nhũng và phải bù lỗ nhưng vẫn thuộc về nhà nước. 40 năm Trung cộng được Mỹ và thế giới đón nhận một cách khá cởi mở nhưng cánh cửa nước này vẫn đóng kín, vì nếu mở ra sẽ phải cải cách, sẽ phải dẫn đến thay đổi thể chế. Tư bản đông nhất thế giới… Theo tường trình tài sản của hãng Hurun công bố ngày 10/10/2018, Trung cộng hiện có 795 tỷ phú, trong khi Mỹ chỉ có 535 tỷ phú. Trong năm 2017, mỗi tuần lễ Trung cộng có thêm 4 tỷ phú. Hơn 1.000 người khác có trên 2 tỷ Nhân dân tệ hay chừng 300 triệu Mỹ kim và có ít hơn 1 tỷ Mỹ Kim. Các nhà tư bản này không chỉ thông đồng, móc ngoặc với các quan chức trong chính quyền để tìm kiếm đặc quyền và đặc lợi phục vụ lợi ích cá nhân. Họ là các đảng viên cộng sản gắn bó với chiến lược mà đảng Cộng sản đang đeo đuổi. Mã Vân (Jack Ma) nhà tỷ phú giàu nhất, khi công bố nghỉ hưu vài tháng trước đã bị báo chí tiết lộ là gia nhập đảng từ những năm 1980. Mã Hóa Đằng (Pony Ma) nhà tỷ phú giàu thứ nhì đã từng là Đại Biểu của thành phố Thâm Quyến và Đại biểu Quốc hội Trung cộng khóa XII. Nhậm Chính Phi, là cha của bà Mạnh Vãn Chu vừa bị tạm giữ tại Canada, từng là lãnh đạo quân đội và đã được bầu là Đại biểu của Quân Giải phóng tham dự Đại hội Đảng Toàn quốc vào năm 1982. Ông là sáng lập và hiện là tổng giám đốc tập đoàn Huawei, với doanh thu đạt gần 92 tỷ Mỹ kim, một nửa là từ các dịch vụ quốc tế. Ông đựơc biết chỉ giữ 1,42 % cổ phần của Huawei và theo ước tính tài sản của ông chỉ có 3,2 tỷ Mỹ kim, không nằm trong danh sách 100 tỷ phú giàu nhất Trung cộng do Hurun công bố. Nhiều người không tin điều này. Mức độ giàu có của tầng lớp tư bản cộng sản theo các tường trình kể trên chỉ là mặt nổi của tảng băng chìm đầy tham nhũng và hoạt động theo chiến lược nhà nước. Huawei hình mẫu chiến lược… Cuối thập niên 1980, Bắc Kinh đưa ra chiến lược phát triển viễn thông gồm nhập cảng thiết bị, liên doanh nhà nước và thúc đẩy nghiên cứu phát triển. Nhà nước bảo trợ việc nghiên cứu phát triển, bảo vệ thị trường nội địa và bảo hộ việc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Năm 1988, Huawei công bố thành lập với số vốn chừng 5.000 Mỹ Kim, khởi đầu công ty chỉ nhập cảng trang thiết bị viễn thông, nhưng sau 5 năm đã đưa ra thị trường tổng đài điều khiển bằng điện toán đầu tiên. Theo Tạp chí Kinh tế Viễn Đông công ty được nhà nước cho vay 8,5 triệu Mỹ kim, được quân đội trợ giúp nghiên cứu kỹ thuật và nhận hợp đồng cung cấp mạng viễn thông cho quân đội. Huawei chiếm lĩnh thị trường trong nước bằng cách xây dựng liên doanh với các cơ quan viễn thông nhà nước và chia cổ phần cho giới chức lãnh đạo địa phương. Năm 1994, Nhậm Chính Phi gặp Giang Trạch Dân để bàn về vai trò kỹ nghệ thiết kế tổng đài và sau đó Huawei trở thành công ty cung cấp cho cả chính phủ lẫn quân đội. Huawei từng bước mở ra thị trường ngoại quốc tới những quốc gia đang cần có thiết bị viễn thông và qua con đường ngoại giao giúp vay mượn hay tạo liên doanh. Chỉ riêng năm 2004, Huawei đã sử dụng 10 tỷ Mỹ kim tín dụng của Ngân hàng phát triển Trung cộng và 600 triệu Mỹ kim từ Ngân hàng xuất nhập cảng Trung cộng để gia tăng ảnh hưởng quốc tế. Các khoản vay sau đó lên tới 30 tỷ Mỹ kim và có thể đã cao hơn. Huawei còn đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng Vạn lý Tường lửa và theo dõi người dùng internet khắp Trung cộng. Chủ tịch Huawei từ năm 1999 đến nay là Bà Tôn Á Phương người thuộc Bộ An ninh Nhà nước, cơ quan tình báo Trung cộng. Năm 2007 chính phủ Mỹ giới hạn việc cấp Visa vào Mỹ cho Nhậm Chính Phi và nhân viên Huawei. Tháng 10/2012, Quốc hội Mỹ công bố báo cáo liên quan đến các hoạt động gián điệp của Huawei đe dọa đến an ninh nước Mỹ và cấm các cơ quan chính phủ cùng quân đội sử dụng các sản phẩm Huawei. Hiện nay, Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, Ấn Độ, Anh, Nhật, Đức, Pháp, và nhiều quốc gia khác tìm cách ngăn chặn Huawei cung cấp thiết bị mạng 5G, vì Trung cộng có thể dùng mạng 5G để thực hiện những cuộc tấn công mạng hay đánh cắp thông tin của chính phủ và của dân chúng. Kiểm tra tư tưởng và giám sát công dân Trung cộng công khai kiểm soát internet, thu thập và lưu trữ thông tin về người dùng mạng xã hội, nhiều người bị điều tra hay bị bắt chỉ vì việc bất đồng chính kiến trên không gian mạng. Theo trang BBC, Trung cộng còn đang xây dựng hệ thống camera giám sát toàn quốc với 170 triệu camera sử dụng trí thông minh nhân tạo nhận dạng đã được lắp đặt và sẽ tiếp tục lắp thêm 400 triệu camera khác. Nhà báo John Sudworth BBC đã bị hệ thống camera thành phố Quý Dương phát hiện trong vòng 7 phút. Theo Chương Trình ABC của Úc, Trung cộng đã lắp đặt hơn 200 triệu camera giám sát với 10 triệu người bị liệt vào danh sách đen, không chỉ bản thân họ mà cả đến người nhà và con cái của họ hiện đang bị theo dõi. Trung cộng cho thử nghiệm “Thẻ tính điểm tín nhiệm xã hội” nhằm phân loại công dân và phân biệt đối xử công dân theo mức điểm trong đó có sự trung thành với chế độ. Nhiều nước trên thế giới cũng sử dụng camera nhưng chỉ kiểm soát an ninh, còn Trung cộng dùng để giám sát công dân, hai mục đích hoàn toàn khác nhau. Lại cũng Huawei Mạng xã hội vừa loan truyền một bản danh sách 100 khách hàng thuộc công an, cơ quan chính phủ và doanh nghiệp nhà nước, đang sử dụng hệ thống camera của Huawei. Một số thông tin khác cho thấy Huawei đang xây dựng hệ thống camera giám sát trên 30 thành phố Trung cộng. Mục tiêu của Huawei là trở thành “trung tâm thần kinh” cho các thành phố và cho toàn quốc. Theo tờ Philippine Daily Inquirer, trong cuộc thảo luận về ngân sách 2019 của Quốc hội Philippines, ngày 12/12/2018, nghị sĩ Ralph Recto cho biết dự án “hệ thống giám sát video” với 12.000 camera do Huawei đang xây dựng tại khu đô thị Manila và thành phố Davao, có thể đặt “mối đe dọa an ninh” cho Philippines. Với sự hợp tác của các Tập đoàn như Huawei, Baidu, Alibaba, Tencent,… công an Trung cộng có khả năng đã lưu trữ nhiều dữ liệu của nhiều người trên thế giới. Nếu Huawei mở rộng mạng 5G toàn cầu thì khả năng Trung cộng giám sát thế giới không thể nào tránh khỏi. Made in China 2025 Chiến lược của Trung cộng là đến năm 2025 sẽ điện toán hóa và tự động hóa mọi ngành kỹ nghệ sản xuất. Mạng 5G giữ vai trò chiến lược trong sản xuất xe không người lái, điện thoại, hàng không, các chuỗi dây chuyền sản xuất tự động hóa… vì thế vai trò của Huawei vô cùng quan trọng. Việc Mỹ và các nước giới hạn khả năng công ty này phát triển mạng 5G trên toàn thế giới là để tránh việc Bắc Kinh dùng mạng 5G kiểm soát toàn cầu. Vành đai và Con đường… Tập Cận Bình cam kết chi 124 tỷ Mỹ kim cho các dự án đầu tư hạ tầng cơ sở như đường sắt, cảng biển, cầu đường, bao trùm 65 quốc gia. Ngân hàng Phát triển Trung cộng cho biết dành riêng 890 tỷ Mỹ kim cho hơn 900 dự án và Ngân hàng Xuất nhập cảng Trung cộng tuyên bố cấp vốn cho hơn 1.000 dự án khác. Chiến lược này mang mục đích chính trị, các dự án thường không mang lại lợi ích kinh tế cho quốc gia sở tại, nhiều dự án đã nhanh chóng vượt giá ban đầu, gây thua lỗ hay không hoạt động, đưa nhiều nước vào “bẫy nợ” của Trung cộng. Tỷ phú là gián điệp… Trong phiên họp Hạ Viện Úc, ngày 22/5/2018, Chủ tịch Ủy ban Hỗn hợp Lưỡng viện Quốc Hội về An ninh và Tình báo, dân biểu Andrew Hastie cho biết FBI, Mỹ, tiết lộ tỷ phú Chau Chak-Wing là 1 gián điệp Trung cộng mang bí danh “CC-3”. Ông là thành viên trong Hội nghị Hiệp thương Chính trị Trung cộng một tổ chức do đảng Cộng sản lập ra giữ vai trò cố vấn Tập Cận Bình. Theo Chương trình ABC trong vòng 10 năm 2006-16, tỷ phú Chau đã có ít nhất 36 lần đóng góp cho 3 đảng chính trị với số tiền lên đến trên 4 triệu Úc Kim để ảnh hưởng chính trị Úc. Ông Chau là chủ nhân của một tờ báo đang phát hành tại Trung cộng có phụ bản tại Úc, chuyên tuyên truyền cho đảng Cộng sản và định hướng cộng đồng người Hoa tại Úc. Ông Châu còn đóng góp 20 triệu Úc Kim xây tặng Đại học Kỹ thuật Sydney (UTS) tòa nhà mang tên ông và 5 triệu Úc kim cho việc nghiên cứu. Việc ông làm có thể là để mua chuộc giới khoa bảng, chuyển giao các công trình nghiên cứu về không gian, trí tuệ nhân tạo và khoa học máy tính của Úc cho Trung cộng, một hình thức khác của gián điệp công nghệ. Trung cộng đi về đâu? 40 năm trước, ngày 18/12/1978 đảng Cộng sản quyết định cải cách và “mở cửa” tạo cơ hội làm giàu cho nhà nước Trung cộng và cho một thiểu số gắn bó với quyền lực chính trị. Đến nay, Trung cộng vẫn là nước nghèo, kiệt quệ tài nguyên, môi trường ô nhiễm, đa số dân chúng vẫn nghèo. Tài sản quốc gia và khoa học kỹ thuật thay vì để phục vụ con người, lại được dùng giám sát công dân với ý đồ kiểm soát toàn xã hội. Thay vì mở cửa học hỏi, áp dụng tư tưởng tự do, Trung cộng lại tự khép mình trong tư tưởng cộng sản và bằng mọi thủ đoạn gây ảnh hưởng chính trị, đe dọa hòa bình và dân chủ toàn thế giới. Lịch sử đang bắt đầu sang trang chiến tranh thương mãi đã bùng nổ, chiến tranh công nghệ đã khai diễn, cuộc chiến phải có người thắng kẻ thua đã được khai hỏa… Thế giới đang chuyển động để Trung Hoa được tự do, để Việt Nam được tự do, xóa bỏ mọi tàn tích cộng sản, hòa nhập cùng văn minh, tiến bộ của nhân loại và chia sẻ thịnh vượng chung cùng nhân loại. Nguyễn Quang Duy Melbourne, Úc Đại Lợi
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 27, 2019 8:12:03 GMT 9
Gián điệp ở ta & gián điệp từ TầuS.T.T.D Tưởng Năng Tiến Tuần báo Trẻ – phát hành từ Dallas, Texas – vừa cho đăng một bài phỏng vấn do nhà văn Phạm Thị Hoài thực hiện, với lời mở đầu rất giản dị và ngắn gọn: “Cuộc trò chuyện này được thực hiện qua thư điện tử, với nhà bất đồng chính kiến Phạm Hồng Sơn, người từng bị chính quyền Việt Nam kết án 13 năm tù, sau giảm thành 5 năm tù và 3 năm quản thúc, nay sống tại Paris, Pháp.” Chỉ đôi dòng giới thiệu thế thôi thì tôi e hơi bị thiếu. Tưởng cũng nên viết thêm năm bẩy chữ nữa, cho nó rõ ràng, theo như nguyên văn bản tin của TTXVN: “Phạm Hồng Sơn bị kết án 13 năm tù về tội gián điệp.” Sau năm năm bị giam giữ, nhà nước CSVN vẫn chưa biết tù nhân chính trị này hoạt động tình báo ra sao nên ông được phóng thích, và chỉ bị quản thúc tại gia thôi. Thiệt là phúc đức và may mắn. Ít ra thì cũng may mắn hơn một người tù khác: Nguyễn Hữu Đang Ngày 21 tháng 1, 1960, nhân vật này bị kết án 15 năm tù vì tội “phá hoại chính trị” và “làm gián điệp” bởi Toà Án Nhân Dân Hà Nội. Đây là một “phiên toà kín” nên không ai biết ông Thứ Trưởng Bộ Thanh Niên / Thứ Trưởng Bộ Tuyên Truyền (trong nội các đầu tiên của Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà) đã “làm gián điệp” cho quốc gia hay thế lực thù địch nào, và “phá hoại chính trị” ra sao? Mười lăm năm sau, sau khi mãn hạn tù, Nguyễn Hữu Đang lủi thủi trở về làng quê ở Thái Bình. Nơi đây – trong thời gian 15 năm quản chế – ông sống sót nhờ thịt của … côn trùng và ếch nhái. Mười lăm năm sau nữa, khi đương sự đã bước vào tuổi bát tuần thì … “thánh đế” (bỗng) hồi tâm. Thế là ông được cấp thẻ cử tri, và cho lĩnh lương hưu, cứ y như thể là chưa bao giờ có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra hết trơn hết trọi. Lại thêm một trường hợp may mắn nữa, nếu so sánh với trường hợp ít may mắn hơn (chút nữa) của một tù nhân gián điệp khác nữa: Nguyễn Văn Phổ. Tuy chỉ được công luận biết đến qua tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 nhưng đây không phải là một nhân vật hư cấu. Ông bị tù với tội danh “gián điệp” và “đốt bệnh viện,” dù cái bệnh viện này không hề bị cháy. Sau gần 20 mươi năm bị giam giữ, Nguyễn Văn Phổ được tha. Khi ra khỏi tù thì mắt bị mù, nhà cửa bị tịch thu, và vợ đã đi tu – theo lời của một người bạn đồng tù: “Tôi nhớ ngày tôi đến Thanh Xuân Bắc thăm anh khi cả hai chúng tôi đã được ra tù. Chúng tôi ôm lấy nhau. Câu đầu tiên tôi hỏi anh là hỏi về chị Phổ, người phụ nữ chờ chồng từ năm 33 tuổi đến năm 51 tuổi vẫn chờ đợi và không chịu tuyệt vọng. – Chị đâu rồi anh? – Nhà tôi vào Sài Gòn đi tu rồi. Quá bất ngờ. Tôi chỉ muốn kêu trời. Hoặc thét lên một tiếng. Nhưng họng tắc nghẹn. – Chị tu ở đâu. Anh cho tôi địa chỉ. Tôi sắp vào trong ấy. Để tôi đến thăm chị. Phổ lấy giấy bút. Tôi nhìn theo tay anh: Sư cô Trí Tuệ Tĩnh xá Tòng Lâm 260 Nguyễn Thị Minh Khai (Xô Viết Nghệ Tĩnh cũ) Quận 3. Thành phố Hồ Chí Minh. Đưa tờ giấy cho tôi, anh hỏi: – Anh có đọc được không? Tôi ngơ ngác, không biết anh hỏi gì. – Mắt tôi không nhìn thấy gì nữa. Tôi viết theo quán tính. Tôi nhận ra anh vì nghe giọng nói của anh. Tôi khóc. Hôm ấy tôi đã không giữ được nước mắt. Những giọt nước mắt nóng bỏng. Những giọt nước mắt lặn vào trong. Suốt thời gian ở tù, cùng một toán, cùng là tổ trưởng, chưa một lần Phổ nói với tôi vì sao anh phải vào tù, vì sao anh tù lâu đến thế. Trong tù không ai nói với ai điều vì sao ấy. Chỉ đến khi chiếc máy bay không người lái của Mỹ bay qua khu vực trại, tiếng rầm rầm trên trời ập đến rất nhanh và tắt đi cũng rất nhanh để lại dấu vết là một vệt khói mảnh vắt ngang bầu trời rất lâu mới tan, Nguyễn Văn Phổ ngước mắt nhìn vệt khói nói một mình: - Tiên sư cái thằng Mỹ. Mình bị nghi là gián điệp Mỹ mà nó còn mạnh thế này thì đến bao giờ được ra hở giời? Anh chỉ nói vậy. Qua đó chúng tôi biết anh bị nghi làm gián điệp cho Mỹ. Theo nhiều người kể lại, Nguyễn Văn Phổ tham gia quân đội ngay trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp năm 1946. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người ký giấy cho anh trở vào Hà Nội hoạt động tình báo. Tổ tình báo của anh có ba người. Anh, nhà văn Vũ Bằng, và một đảng viên ít tuổi nhất làm tổ trưởng. Năm 1954, khi hiệp nghị Genève được ký kết, cả tổ được lệnh chuyển vào Nam, nhưng Phổ đã xin được ở lại Hà Nội. Ít ngày sau anh bị bắt vì tội đã đốt - hay định đốt? - nhà in Ideo. Anh bị xử tù 15 năm. Sau đó xử lại, mức án rút xuống còn 8 năm rưỡi, và thực tù hơn 17 năm. Anh cười: - Cái tổ tình báo của tôi chỉ có mỗi Vũ Bằng là không bị bắt. Cái anh tổ trưởng đảng viên ít tuổi kia khi vào Nam cũng bị ta bắt như tôi. Vũ Bằng thật là may… Rồi anh rủ rỉ: - Tôi về được ít ngày thì một cô sĩ quan công an đến nói năng rất lễ phép, tế nhị. Bác làm cho chúng cháu cái thu hoạch. Cháu biết bác cũng chẳng muốn nghĩ đến những chuyện ấy nữa nhưng đây là ý kiến cấp trên của cháu. Tôi bảo: Cô nói tôi cũng làm nữa là cấp trên của cô. Tôi viết. Cuối cùng nó lại như một bản thanh minh anh ạ. Mới nghĩ nộp ngay cũng phí. Tôi đem thuê đánh máy. Gửi Viện Kiểm Sát một bản. Tháng sau đến Viện Kiểm Sát. Anh cán bộ phụ trách việc của tôi rất phấn khởi nói: Việc của bác thế nào cũng được xử lại. Cháu đang trình viện trưởng. Nửa tháng nữa mời bác quay lại. Y hẹn, tôi tới. Anh cán bộ kiểm sát ỉu xìu: Không xong rồi bác ơi. Đồng chí viện trưởng không duyệt. Tôi cũng chẳng nghĩ ngợi gì. Tù thì tù rồi. Cũng sắp về với tổ tiên rồi. Bẵng đi lâu lâu, đã quên hẳn chuyện khiếu nại, thì anh cán bộ viện kiểm sát tới nhà: Bác ơi! Bác làm sổ hưu đi. Vụ của bác xử lại rồi. Trắng án.” (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm Hai Ngàn. Tiếng Quê Hương: Fall Church, VA, 2015). Nghĩ cho cùng thì đây vẫn cứ là một trường hợp … may mắn: trắng án! Chả hiểu đã bao nhiêu mảnh đời, bao nhiêu gia đình đã tan nát vì những cái án “trắng tinh” như thế. Tuy thế, vì an ninh quốc gia nên chiến thuật “thà bắt lầm hơn bỏ sót” vẫn là một chính sách xuyên suốt từ thời cụ Nguyễn Hữu Đang cho đến đám cháu chắt về sau – như lứa Phạm Đoan Trang: “… có một tội rất nặng luôn lơ lửng trên đầu những người làm việc với các cá nhân, tổ chức nước ngoài: gián điệp. Làm cộng tác viên cho báo đài nước ngoài: gián điệp. Gặp gỡ các cơ quan ngoại giao để thảo luận về tình hình nhân quyền và dân chủ trong nước và quốc tế: gián điệp. Gửi báo cáo - nghiên cứu cho các tổ chức nước ngoài: gián điệp. Vận động nhân quyền cho Việt Nam trên trường quốc tế, phản ánh tình hình nhân quyền trong nước ra nước ngoài: gián điệp. Vân vân.” Cẩn tắc vô áy náy! Tôi hoàn toàn tán đồng sự cẩn trọng cùng mức độ nghi ngại (quá cao) của Đảng và Nhà Nước Việt Nam, và chỉ hơi băn khoăn khi biết tin Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên bố muốn Huawei hợp tác với các doanh nghiệp Việt trong lĩnh vực an toàn thông tin - vào ngày 13 tháng 1 vừa qua. Hoá ra người đứng đầu “Chính Phủ 4.0” không hay biết gì ráo về những lo ngại của cả thế giới hiện nay về những hoạt động tình báo của công ty Hoa Vi. Ngài cũng phớt lơ luôn sự kiện một quan chứcHuawei đã bị bắt tại Ba Lan với cáo buộclàm gián điệp, chỉvài hôm trước đó, cùng lời tố cáo về hoạt động tình báo của tổ chức này . Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ Tịch Tập Đoàn Huawei (TTXVN) Nhà nước ta vốn rất cẩn trọng và nhậy cảm về những hoạt động tình báo, sao bỗng dưng lại khinh xuất và mù mờ thế nhỉ? Thế mới biết chủ trương cẩn trọng (thà bắt lầm còn hơn bỏ sót) của nhà nước ta chỉ áp dụng với đám dân mình thôi, chứ còn với bọn tình báo nước lạ thì chính sách lại hoàn toàn khác. Rất “vô tư” và hoàn toàn “thoải mái,” hay nói quá ra (chút xíu) là sẵn sàng “nhận giặc làm cha!” Tội danh này, xét ra, còn nặng hơn tội làm gián điệp cho nước ngoài nhiều.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:35:54 GMT 9
Đời tư Mao Trạch Đông: Lời nói đầuPosted: 02/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học sangtao.org/2012/06/02/doi-tu-mao-trach-dong-loi-noi-dau/Lý Chí Thỏa Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui Lời nói đầuNăm 1960, tạp chí Thanh Niên Trung Quốc liên hệ với tôi qua Điền Gia Anh, một thành viên trong tổ thư ký của Mao, Điền hỏi tôi có muốn tham gia viết bài cho tạp chí không.
Điền là “hàng xóm” của tôi ở Trung Nam Hải, giúp tôi thói quen viết nhật ký và gửi bài tới các tạp chí. Thực ra Điền đã từng đọc bài của tôi, chính vì lẽ đó anh ta gợi ý tôi tập hợp những bài đã viết cho xuất bản.
Tôi bắt đầu viết nhật ký từ năm 1954, khi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao, vì đó là đam mê. Chính điều này đã giúp tôi ghi lại những kinh nghiệm trong quá trình làm việc. Ban đầu, tôi chỉ ghi tóm tắt những vấn đề quan trọng, nhưng dần dà tôi ghi cả những gì tôi chứng kiến, quan sát được. Nhưng chưa bao giờ có ý định xuất bản thành sách và tôi từng từ chối lời đề nghị của một số tạp chí.
Vào giữa năm 1966, khi đám Hồng vệ binh bắt đầu đi lục soát nhà các lãnh tụ đối kháng thì sổ nhật ký ghi chép đã hơn 40 cuốn. Lúc ấy, tôi sống trong khu tập thể Quảng Xương của Bắc Kinh, cùng với 3 thứ trưởng Bộ y tế. Các ông là nạn nhân của cuộc Cách mạng văn hoá, thường xuyên bị nhóm Hồng Vệ binh kiểm soát, khu chung cư cũng không thoát khỏi phiền nhiễu của đán thanh niên nổi loạn đó. Đã nhiều lần, Hồng vệ binh lục soát nhầm nhà vào cả khu chúng tôi. Nhà tôi, Lý Liên rất lo, bảo tôi cẩn thận, vô tình bọn chúng tìm thấy tập nhật ký trong đó ghi chép nhiều chuyện riêng tư về Mao sẽ bị rắc rối liên luỵ lớn.
Không thể tìm nơi cất giấu an toàn, chúng tôi đành phải tìm cách đốt dù rất đau xót. Nhưng cũng không thể huỷ nó tại nhà, vì có thể hàng xóm sinh nghi tôi thủ tiêu những tài liệu bí mật ghi chép phản động. Ngay lập tức, tôi nhớ ở Trung Nam Hải có lò huỷ tài liệu và những bức thư của Mao và Giang Thanh không cần lưu trữ.
Tôi đem ngay các cuốn nhật ký ném vào lò thiêu. Còn hơn chục cuốn chưa kịp đốt, Uông Đông Hưng, chủ nhiệm Cục bảo vệ Trung ương gọi điện cho tôi, lên gặp ông khẩn cấp. Ông bảo, người đầu bếp của Giang Thanh báo cáo nhìn thấy tôi vứt tài liệu vào lò đốt rác. Tôi vội quả quyết đấy là ghi chép cá nhân, không phải tài liệu quốc gia. Ông ta hỏi, ghi chép ấy có gì mà phải thủ tiêu. Tôi bảo, những ghi chép hoạt động thường ngày của Mao chủ tịch, nếu không huỷ tôi có thể bị nguy hiểm. Uông bảo, thủ tiêu nó là tự rước vạ vào thân, chẳng may tên đầu bếp mách Giang Thanh, anh còn gặp thảm hoạ hơn nhiều.
Tôi đã đốt gần hết số sách ghi chép quan trọng, những cuốn còn lại nội dung không có gì, tôi quay lại và ném nốt vào lò thiêu.
Hôm sau, Uông Đông Hưng la tôi:
– Tôi đã bảo anh không được đốt nữa thế mà anh vẫn tiếp tục. Đầu bếp của Mao chủ tịch vừa báo cáo với tôi xong. Chuyện này người khác biết anh sẽ gặp đại hoạ. Thôi chấm dứt ngay, nếu còn tiếp tục tôi sẽ ra lệnh bắt anh.
Tôi báo cáo chẳng còn gì để huỷ cả, việc đã xong. Đó là những cuốn nhật ký tôi đã ghi chép hơn chục năm.
Trong suốt thời kỳ Cách mạng văn hoá, thường xuyên sống trong lo sợ, tôi không dám ghi nhật ký.
Năm 1976, sau khi Mao qua đời, Giang Thanh và Bè lũ bốn tên bị bắt, Lý Liên tỏ ra luyến tiếc, than thở với tôi:
– Thật hoài của, giá như chúng mình đừng đốt, chắc gì đã có gì xảy ra. Đốt đi chả được tích sự gì.
Vợ tôi thúc tôi tiếp tục ghi lại những chuyện gì đã xảy ra trong những năm gần đây.
Một hôm, vào mùa hè 1977, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đến Bệnh viện 305, tôi làm giám đốc, kiểm tra sức khỏe định kỳ, ông hỏi:
– Anh làm việc với Mao chủ tịch hai mươi hai năm, một thời gian quá dài. Anh hãy viết tự truyện của anh đi, đây cũng là một phần của nhân chứng lịch sử đấy.
Ông hứa, nếu sách tôi xuất bản, ông sẽ viết lời giới thiệu.
Tiếp theo hàng loạt các tờ báo và tạp chí yêu cầu tôi viết và gửi bài. Tôi từ chối như đã từng làm, tôi biết cái gì đã xảy ra nếu tôi viết tất cả sự thật, phơi bầy tất cả những gì tôi chứng kiến, họ sẽ buộc tội tôi kẻ hữu khuynh, trí thức tư sản. Tất nhiên tôi không thể nào viết sai sự thật, cũng chẳng muốn ca ngợi sự độc quyền và phủi tay trước những hành động tội ác man rợ mà tôi làm nhân chứng.
Cũng tất nhiên tôi chẳng muốn những ký ức sau 22 năm với Mao bị phai mờ theo năm tháng và tuổi tác, tôi quyết định viết lại những chuyện đã xảy ra trong đời. Năm 1977 tôi bắt đầu viết, không thường xuyên, nhưng cũng đến vài chục cuốn vở viết. Ngôn từ của Mao thật phong phú, sinh động khắc sâu trong nếp nghĩ tôi. Tôi cố hồi tưởng lại những gì Mao đã từng phát biểu. Sự sống còn của tôi và gia đình tuỳ thuộc vào việc làm của Mao, tôi chẳng bao giờ quên. Tôi chẳng bao giờ hy vọng cuốn sách sẽ được xuất bản, vì tôi biết không có nhà xuất bản nào dám in. Tôi chả dại gì mang vạ vào thân khi tự mình xuất bản. Tôi viết chẳng qua để hồi tưởng những ngày đã qua, tôi và Lý Liên đã từng trải nghiệm.
Tháng Hai 1988, Lý Liên bị phát hiện chứng viêm thận mạn tính, phải vào viện tháng 5, đến tháng Bẩy tình trạng càng xấu. Hai thằng con trai, John và Erchong cùng vợ con nó đang định cư ở Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1980 yêu cầu tôi khẩn cấp đưa Lý Liên sang Mỹ điều trị.
Tháng Tám, tôi, Lý Liên và đứa cháu gái, Lý Linh, sang Chicago. Trong thời gian Lý Liên chữa bệnh, tôi ở bên lo liệu chăm sóc món ăn kiêng và thuốc thang. Cũng trong thời gian này, Lý Liên thúc giục tôi viết từ những gì ghi chép trong nhật ký, nhưng tôi không thể làm được vì chẳng còn tâm trí.
Đến tháng Mười hai, Lý Liên bị cảm, tình trạng sức khỏe càng tồi tệ. Tôi đưa Lý Liên vào viện, làm tất cả những gì có thể nhưng nhà tôi không qua được, vĩnh biệt ngày 12-1-1989.
Trước khi hôn mê, nhà tôi nhắc đi nhắc lại cố gắng viết kể lại những chuyện xảy ra trong 40 năm qua. Nhà tôi nhấn mạnh:
– Mình phải viết, không những cho mình mà còn vì tôi, vì hậu thế vì đứa cháu đích tôn sắp ra đời. Xin lỗi mình, tôi không thể giúp gì mình hơn được nữa.
Tháng Ba 1989, tôi lục chồng vở nhật ký trong đáy hòm và bắt tay viết, hy vọng cuốn sách được xuất bản để tạ lòng với Lý Liên.
Tôi hy vọng đọc những trang hồi ký này mọi người sẽ hiểu sự thật cuộc đời Mao Trạch Đông người ta đang truyền tụng. Nếu như đọc cuốn sách này, độc giả hiểu được sự thật, yêu tự do hơn như trong hiện tại, cũng là điều tôi và Lý Liên đã từng mong mỏi và yêu quý nhất trong đời.oOo Năm 1949, sau hơn 20 năm chiến tranh đẫm máu, Đảng cộng sản cuối cùng đã đánh thắng Quốc dân đảng, dựng lên nước CHND Trung Hoa. Năm 1948, tôi là bác sĩ phẫu thuật trong Công ty Đông Á-Úc Châu ở Sydney cho đến hè 1949. Hè năm ấy tôi nhận được thư của thứ trưởng Bộ Y tế trong Ban Đối ngoại của Quân uỷ trung ương đảng cộng sản qua anh cả tôi, mời tôi trở về phục vụ tổ quốc. Tôi nhận lời, đến Hương Cảng gặp vợ tôi, Lý Liên, cả hai cùng trở về Bắc Kinh, thành phố quê hương. Lúc ấy tôi 29 tuổi đời. Vị thứ trưởng phân công tôi làm việc ở khu điều trị Đồi Hương, phía tây ngoại ô Bắc Kinh, một khu điều trị trực thuộc Văn phòng Trung ương đảng cộng sản. Sau này chuyển sang khu điều trị Trung Nam Hải, tổng hành dinh Trung ương đảng. Tôi chăm chỉ cần cù trong công tác, chiếm được cảm tình hầu hết các lãnh đạo cao cấp. Năm 1952, trong Bộ tổng nhất trí bầu tôi cán bộ loại A, cũng năm ấy, tôi tham gia chính phủ của đảng cộng sản Trung Quốc, được chỉ định là Viện trưởng khu điều trị Trung Nam Hải, giám đốc Văn phòng Y tế, phó tổng giám đốc Uỷ ban Y tế thuộc Bộ Y Tế công cộng kiêm chủ tịch Bệnh viện 305 của Giải phóng quân. Năm 1954, tôi được Uông Đông Hưng, giám đốc Cục bảo vệ trung ương với sự đồng thuận của Trương Xuân Kiều, giám đốc Văn phòng trung ương và La Thuỵ Khanh Cục trưởng Cục bảo vệ nội bộ và được thủ tướng Chu Ân Lai đồng ý, tôi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông sau đó làm trưởng ban bảo vệ sức khoẻ cho chủ tịch. Từ đó cho đến khi Mao chủ tịch qua đời năm 1976, trong suốt 22 năm chịu trách nhiệm chăm nom sức khoẻ Mao, tôi là người gần gũi Mao nhất ở Bắc Kinh hay bất cứ Mao đi công tác nơi nào. Khi bắt tay vào việc chăm nom sức khoẻ cho Mao, điều làm tôi ngạc nhiên nhất, lối sống kỳ lạ khác hẳn bất cứ người bình thường nào. Mao không theo bất cứ một quy tắc nào trong lối sống từ bữa ăn đến giấc ngủ. Với ông, không phân biệt ngày hay đêm trong khoảng 24 giờ trong một ngày có chăng chỉ thoáng qua. Hoạt động thường ngày hay trước công chúng kể cả những cuộc họp, gặp gỡ đoàn ngoại giao nước ngoài, ông có những cuộc hẹn rất lạ theo sở thích riêng của ông. Mao ưa lối làm việc theo tính cách cá nhân khuấy động phong trào nhưng không hề báo trước, ngay cả những người kế cận cũng không đoán nổi ông sẽ yêu cầu làm gì tiếp theo. Trong khi đó đảng cộng sản Trung Quốc có quyền lực rất lớn và rất bí mật. Mao từng chỉ thị “Đừng có bép xép những chuyện trong cơ quan”. Kết quả, đời thực của ông chìm trong màn sương dầy đặc, ông như một người bí hiểm và uy quyền tuyệt đối. Mãi đến năm 1959 tôi mới ngưỡng mộ Mao, mặc dù là bác sĩ riêng thường xuyên bên Mao nhưng có một điều bí ẩn huyền bí như một bức tường kiên cố như ngăn cách hai người. Tôi không thể nào hiểu được đời sống thực tại của Mao. Sau năm 1959 tôi mới được phép vượt qua bức rào ngăn cách và chứng kiến bộ mặt thật của Mao trong cuộc sống hàng ngày. Giống như một kịch sĩ, khi lên sân khấu được hoá trang công phu tỉ mỉ khác hẳn khuôn mặt của đời thường. Đầu thập niên 1950, Mao ký Hiệp ước hữu nghị, liên minh tương trợ Xô-Trung ủng hộ chiến lược ngoại giao “Liên minh một phái”, làm cho mọi người nhầm tưởng mối quan hệ thật gắn bó với Liên Xô. Nhưng chẳng ai hiểu nguyên nhân sâu xa từ những năm 1930 Mao đã từng bất đồng quan điểm với Stalin và Đảng cộng sản Liên Xô, kiểu “xanh vỏ đỏ lòng”, như hoa turnip “nhị trắng hoa đỏ” mà thôi. Trong lần đầu tiên thay mặt chính phủ, Mao sang thăm hữu nghị Liên Xô vào mùa đông 1949-50, đã bị Stalin đón tiếp thật lạnh nhạt, ở lại đến 2 tháng trời ròng rã, chẳng đạt được một kết quả nào đáng kể. Chỉ sau khi Mao tuyên bố ra về Stalin mới chịu ký hiệp ước hữu nghị. Mao hiểu Nga là đối thủ nguy hiểm nhất của Trung Hoa, nhưng không nói ra mà thôi. Phải đến đầu thập niên 1960, sự rạn vỡ quan hệ Trung-Xô người ta mới hiểu một cách rõ ràng. Trong những năm 1930, đi theo đại bản doanh của đảng cộng sản ở phía bắc tỉnh Thiểm Tây, phóng viên Edgar Snow và đồng nghiệp Hoa Kỳ đã đưa tin về sự kiện phi thường về đảng cộng sản Trung Quốc. Cũng từ đó Mao rất coi trọng, thiện cảm với chính phủ Mỹ nhất là với nhân dân Hoa Kỳ. Từ thập niên 1950 dù chủ trương đường lối “dựa vào Liên Xô”, thanh niên đua nhau học tiếng Nga, nhưng Mao lại không, không những thế ông lại học tiếng Anh. Mao nhiều lần tự hỏi “Lời nói không đi đôi với hành động”. Trong số cán bộ quanh Mao, làm tham gia những công việc tối mật, hầu hết những trí thức đó kể cả tôi đều được đào tạo trong các trường Anh-Mỹ. Mao không cho phép tuyển những trí thức, hay bất cứ cá nhân nào đào tạo tại Liên Xô làm việc cho ông. Chiến tranh Triều Tiên và Việt nam đã đẩy Trung Quốc và Hoa Kỳ vào cuộc đối đầu. Một trong nhiều nguyên nhân đưa đến chiến tranh là do Hoa Kỳ chưa hiểu rõ bản chất đích thực của Mao đối với Mỹ vì thế những người lãnh đạo Hoa Kỳ đã coi chính quyền cộng sản Trung Quốc là kẻ thù địch. Ngay từ cuối thập niên 1960 Mao đã làm hết sức mình để quan hệ Trung-Mỹ được cải thiện cho đến khi Mao qua đời. Mao tuy coi Tưởng Giới Thạch là kẻ thù nhưng vẫn đánh giá Tưởng là người yêu nước, người có công trong mối bang giao với Hoa Kỳ. Mao từng nói: “Tưởng giới Thạch và tôi đều chỉ công nhận một nước Trung Hoa, cả hai chúng tôi đều có ý kiến chung về một nước Trung Hoa thống nhất”. Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực lãnh đạo trong nội bộ Ban chấp hành Trung ương đảng đầy phức tạp, khó hiểu. Từ “phong trào chống tả khuynh” năm 1957, người ta gọi là “ cuộc khủng hoàng nhóm Bành Đức Hoài chống đảng” thành chiến dịch từ 1959 đến Cách mạng văn hoá 1966, hầu các chức vụ cao cấp trong lãnh đạo bị xáo trộn do rất nhiều nguyên nhân. Trong thực tế dù sự thay đổi gì chăng nữa Mao vẫn cố tình nắm chặt quy tắc cơ bản, giữ quyền lãnh đạo tối cao. Như trong chiến dịch chống Stalin và tệ sùng bái cá nhân do Khrushchev và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Liên Xô năm 1959 đã đe doạ chính vị trí và quyền lực tối cao của Mao trong đảng cộng sản Trung Quốc. Mao đã có hàng loạt động thái để bảo tồn quyền lực tối thượng của ông. Như Uông Đông Hưng nói: ” Mao tán thành chống tệ sùng bái và chuyên quyền trong đảng, nhưng với ông thì không”. Về đời tư của Mao thật kinh khủng. Giữa công chúng, Mao xuất hiện như một lãnh tụ hết lòng vì nước vì dân, thân thiện, cởi mở chiếm được cảm tình tối đa của quần chúng đối với một lãnh tụ có tuổi kính mến. Nhưng cuộc đời thực Mao là kẻ háu gái. Càng về già Mao càng thể hiện sự dâm dục háo sắc đến kinh khủng gây biết bao chuyện động trời, không ai có thể đếm xuể số các thiếu nữ phải ăn nằm với Mao. Uông Đông Hưng từng nhận xét: “Có lẽ Mao nghĩ sắp đến ngày gần đất xa trời nên cố chiếm được bao nhiêu các cô gái thì cố, cho nên Mao mới ham muốn đến như vậy”. Giang Thanh, vợ Mao, từng nói về chồng: “Giải quyết mọi khó khăn, khủng hoảng chính trị, không có một lãnh tụ Trung Hoa hay Xô viết hơn Mao. Trong lĩnh vực tình dục cũng không ai bằng Mao”. Tôi không viết tiểu sử Mao Trạch Đông, tôi chỉ ghi lại những sự việc bản thân đã thấy, đã nghe, đã biết trong 22 năm gần Mao với tư cách là bác sĩ riêng chăm nom sức khoẻ cho ông. Cuốn sách này để tưởng nhớ Lý Liên, người vợ thân yêu đã đồng cam cộng khổ với tôi trong những năm tháng dưới thời Mao. Không có sự động viên, khuyến khích của Lý Liên tôi không thể hoàn thành cuốn sách này. Lý Chí Thoả Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui © Dịch giả giữ bản quyền sách dịch Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa Sơ lược tiểu sử tác giảBác sĩ Lý Chí Thỏa (1919-1995) – Ảnh: Giang Thanh, 1961 Bác sĩ Lý Chí Thỏa, tốt nghiệp y khoa bác sĩ trường Đại Học Liên Hợp Tây –Trung, Thành Đô năm 1945, làm việc tại Sydney trước khi trở thành bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông 1954 cho đến khi Mao qua đời. Từ năm 1980 đến 1988, trước khi định cư tại Hoa-Kỳ, bác sĩ Lý giữ chức vụ Phó chủ tịch Hội Y học Trung Hoa, Chủ tịch Hội Người Cao Tuổi Trung quốc, Tổng biên tập tạp chí Y học và Tự nhiên Trung quốc, Ban biên tập Tạp chí Hội y học Hoa Kỳ. Bác sĩ Lý Chí Thỏa và vợ Ngô Lý Liên chụp bên Hồ Nam (Trung Nam Hải, Bắc Kinh). Căn hộ của họ ờ tầng 3, bao quát mặt hồ Bác sĩ Lý sống ở Chicago từ năm 1988 cho đến khi tạ thế 1995. Mời đọc: Chương kế tiếp [1]
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 18, 2023 19:04:45 GMT 9
Cải cách ruộng đất đẫm máu tại Trung QuốcHoàng Quân Trước khi Đảng Cộng Sản TQ (CPC) lên nắm quyền, Mao Trạch Đông đã tuyên bố:”Chúng ta tuyệt đối không áp dụng chính sách nhân từ đối với các phần tử phản động và đối với các hoạt động phản động của các giai cấp phản động.” Nghĩa là trước khi lên nắm quyền, họ đã quyết định trong đầu là sẽ hành động tàn bạo. Đây là 1 ví dụ trong nhiều ví dụ. Ba tháng sau khi thành lập nước CHND Trung Hoa, CPC kêu gọi “Cải cách ruộng đất” khắp nơi với khẩu hiệu “đánh cường hào, chia ruộng đất”. Cuộc cải cách này đã để lại cho xã hội Trung Quốc nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Về lý thuyết, họ cho rằng “Cải cách ruộng đất” là cách lập lại công bằng trong xã hội. Mao Trạch Đông lệnh cho tổ công tác rằng:”Đặt chân đến đâu, việc đầu tiên là phải tạo ra cảnh tượng thật khủng bố” . Cưỡng chế phân chia cấp bậc, tước đoạt quyền tư hữu tài sản, kích động quần chúng đánh địa chủ, dùng danh nghĩa “cách mạng” ngang nhiên bắn chết địa chủ. Ngoài ra, thông qua “Cải cách ruộng đất” còn để đàn áp những người phản cách mạng, tiêu diệt các thành phần bị xem là:“phản động”, “phản quốc”. Trong một tài liệu xuất bản năm 1948, Mao Trạch Đông dự định rằng: “một phần mười địa chủ toàn quốc” ( khoảng 50 triệu người) “cần phải bị loại bỏ” để Cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất là tịch thu tài sản, đất đai của người giàu chia cho bần nông, cố nông, đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ. Dưới khẩu hiệu:”đả đảo địa chủ để lấy ruộng”, CPC triển khai rộng khẩu hiệu ra toàn xã hội, vứt bỏ truyền thống trật tự cũ và thay vào đó là trật tự mới gây ra những hậu quả xã hội vô cùng nghiêm trọng. Lợi thì ít mà hại thì nhiều, cụ thể: ● Làm xã hội rối loạn Cuộc sống nhân dân đang bình yên, mọi giai cấp đã chung sống với nhau từ rất lâu. Tuy có phân biệt người giàu kẻ nghèo, nhưng trật tự này thì ở nước nào cũng có, hết sức bình thường, được mọi người chấp nhận giống như ngày nay vậy. Mọi thứ đang yên ổn cho đến khi “Cải cách ruộng đất” xuất hiện, được thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế tàn bạo và tùy tiện đã làm đảo lộn tất cả. Phong trào cải cách ruộng đất đã đưa cả xã hội vào cuộc chiến chém giết nhau, hệ giá trị đạo lý trong xã hội truyền thống tan vỡ trong khi hệ giá trị mới chưa có gì khiến con người hành xử theo bản năng. Nền tảng đạo đức xã hội theo đó hoàn toàn sụp đổ. Bạo lực lên ngôi. Trật tự của xã hội truyền thống là một trật tự bình thường. Còn CPC thì biến mối quan hệ xã hội tự nhiên (chủ đất- nông dân, chủ xưởng- công nhân), vốn dĩ đang trung hòa trở nên hận thù nhau. Bạn có thể hiểu nôm na rằng CPC như đang muốn đổ thêm dầu vào lửa vậy. Kích động đánh nhau, chia rẽ dân tộc, giai cấp. Vậy bây giờ, liệu có chuyện hàng ngàn nhân viên của các doanh nghiệp, công ty lại muốn chém giết và tùng xẻo các ông chủ của mình ? Thay vì cả 2 cùng cộng tác với nhau. Như thế chả tốt hơn hay sao ? Bất công thì xã hội nào cũng có, nhưng không thể vì 1 vài trường hợp mà lại vơ đũa cả nắm được. ● Phá hoại sản xuất của quốc gia Đa số chủ đất-nông dân giàu là những người lao động chăm chỉ, họ cũng thông minh, biết kinh doanh, buôn bán. Theo thời gian, họ tích lũy kinh nghiệm ngày càng nhiều. Khi có điều kiện về tiền vốn, họ đã xây dựng được quy mô sản xuất nhất định, dễ dàng tiếp thu những cái mới, có kiến thức về lựa chọn và cải tạo giống cây trồng cùng phương pháp canh tác tiến bộ. Họ chính là hình mẫu cho những người nông dân nghèo khổ khác. Nếu bọn họ tiếp tục giàu lên, có thể sẽ thúc đẩy những giai cấp cùng các ngành kinh tế khác phát triển theo, đưa trình độ tổ chức sản xuất theo kịp các nước tiên tiến khác. Nhưng chính sách “Cải cách ruộng đất” đã giết chết họ, tư liệu sản xuất của họ bị phân chia khắp nơi nên không phát huy được tác dụng nữa. Như vậy, “Cải cách ruộng đất” đã chặn đứng mạch phát triển. Giai cấp kia bị tiêu diệt, còn lại là những bần nông, họ sẽ làm gì ? Nhiều người bần và trung nông hay thiếu năng lực độc lập trong công việc. Ví dụ ruộng đất tươi tốt sau khi phân chia cho những người này không thể phát huy được tác dụng gì: Thứ nhất họ thiếu vốn, thứ 2 là thiếu nông cụ, thứ 3 là thiếu hạt giống, thứ 4 là thiếu kinh nghiệm. Thực tế quá rõ ràng: nhiều cánh đồng phì nhiêu màu mỡ bỗng chốc trở thành đất hoang. Vì thế mà sau cải cách ruộng đất, tổng giá trị sản xuất cả nước đã bị sụt giảm nghiêm trọng. Đặc biệt, nhiều người lười nhác, không làm mà đòi có ăn. Sau khi tiêu hết của cải được phân chia lại, họ mang ruộng vườn bán cho người khác rồi lấy tiền ăn uống, đánh bạc. Cuối cùng, những người này nghèo vẫn hoàn nghèo. “Cải cách ruộng đất” được thực hiện thông qua đấu tranh và tàn sát lẫn nhau, những địa chủ và phú nông giỏi trong công việc đã bị thanh trừng, trấn áp, tước đoạt tài sản, làm cho đất nước ngày càng đi xuống. Tư liệu sản xuất đang tập trung thì bị đem chia cho những người thiếu kinh nghiệm hoặc kẻ lười nhác… ● Bộ máy Nhà Nước bị suy thoái Cải cách ruộng đất đã trọng dụng toàn những thành phần: trộm cắp, du côn, lưu manh. Vì đây là những kẻ đấu tố địa chủ hăng hái nhất. Sau đó, chúng được Đảng cho làm quan, trở thành những Bí thư, Chủ Tịch, Ủy Viên…Như vậy, bộ máy lãnh đạo Nhà Nước đã bị lưu manh hóa triệt để. Đa số những đối tượng này bị mù chữ và đặc biệt là dân trí rất thấp, ưa bạo lực. Từ đó trở nên hách dịch, không coi ai ra gì nhưng tưởng thế là hay. Chưa hết, những kẻ không có một tí trình độ nào nhưng lại thích chỉ tay lãnh đạo khiến nền kinh tế bị tổn thất nghiêm trọng. Vị trí lãnh đạo rơi vào tay những kẻ vô văn hóa và tầm nhìn nông cạn thì làm sao mà khá lên được ? Sau đó tình trạng ngày càng thê thảm hơn khi những kẻ có đầu óc mơ màng này bắt đầu ảo tưởng sức mạnh. Cụ thể là nền sản xuất nông thôn tăng tốc hợp tác hóa, công xã nông thôn hóa, đại nhảy vọt. Cuối cùng nền sản xuất hoàn toàn sụp đổ đã làm hơn 45 triệu người chết đói… ● Biến đổi đạo đức Dưới sự kích động của CPC, những người nông dân hiền lành bỗng chốc hóa thành quỷ dữ, hung hăng, khát máu. Bất chấp đạo lý, họ gào thét đòi công bằng, đòi đấu tố tất cả để thỏa mãn sự thù hận đến tận xương tủy những ai giàu có hơn mình. Tư tưởng thù hằn nhà giàu đó cho đến nay vẫn còn đậm dấu trong xã hội ngày nay. ● Cải cách ruộng đất có thể được thực hiện trong ôn hòa mà không cần phải chém giết đổ máu. Ví dụ như Đài Loan đã thực hiện chính sách cải cách ruộng đất của mình bằng cách mua lại đất từ những người chủ sở hữu đất đai. Tuy nhiên, do cả bần nông và CPC ở Đại Lục lúc đó dân trí còn quá thấp, lãnh đạo bảo thủ-ảo tưởng dẫn đến bạo lực lên ngôi. Cái kết thê thảm. Cuối năm 1952, số người chết mà CPC công bố là khoảng 2.4 triệu người. Thật ra, tổng số người chết bao gồm cả các quan chức chính quyền cũ Quốc Dân Đảng và những người chủ sở hữu đất đai là 5 triệu người.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2024 20:17:15 GMT 9
Trần Trung Đạo · ĐẶNG TIỂU BÌNH TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG 1979 Trong chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”. Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền hình Trung Cộng phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó “Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là “hooligan” – tức du côn, côn đồ.” Tại sao Đặng Tiểu Bình nói câu “lỗ mãng” đó? Đảng CS Trung Quốc "hy sinh" quá nhiều cho đảng CSVN. Không nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Cộng không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Cộng trong chiến tranh Việt Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiễn phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Cộng giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”. Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Cộng giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của Trung Cộng dành cho đảng CSVN. Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Cộng nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người. Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4, 1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến. Xung đột biên giới và xô đuổi Hoa Kiều Theo báo cáo Bộ Quốc Phòng Trung Cộng, các đụng độ quân sự trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên phòng hai nước đã gia tăng đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về số lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lý do chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy giải pháp có thể phải chọn là giải pháp quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang Cambodia và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam từ Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm Trung Cộng khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế. Đánh Việt Nam để củng cố quyền lực Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch BCH Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực. Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng. Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của Trung Cộng trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa. Nỗi sợ bị bao vây Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ các lý do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu các thế hệ lãnh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) vừa xuất bản, đã trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm Trung Cộng của họ Phạm vào năm 1968. Chu Ân Lai: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp lại: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Phạm Văn Đồng phấn khởi: “Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng thấy”. Chu Ân Lai đồng ý: “Các đồng chí nghĩ thế là đúng ”. Chính sách của Đặng Tiểu Bình đối với Liên Xô kế thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng của Liên Xô được xem như “một đe dọa đối với hòa bình”. Khi Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một thực tế đầy nguy hiểm. Cambodia, giọt nước tràn ly Không những Trung Cộng sợ bao vây từ phía nam, vùng biên giới Lào mà còn lo sợ bị cả khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”. Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Cộng trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Cộng của y vào tháng Ba, 1976. Tháng Sáu, 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN. Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước tràn ly và quyết định chặt đứt vòng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài học”. Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây. Quyết định của Đặng Tiểu Bình Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẽ trong nội bộ Bộ Chính Trị đảng CSTQ, quyết định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết định của Đặng Tiểu Bình. Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị thông qua kế hoạch tấn công “trừng phạt” Việt Nam. Các thành viên tham dự chẳng những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối trí hai binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ Mengla và Vân Nam qua đường Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu Bình cử Tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam. Soạn kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một người có đầu óc thực tiễn như Đặng Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của Trung Cộng vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất là Mỹ. Lên đường thuyết khách tìm đồng minh Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Cộng để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam. Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á. Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa.” Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án Việt Nam. Trong các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất. Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Trung Cộng thông báo cho Mỹ biết ý định bình thường hóa ngoại giao. Đầu tháng 12, Đặng báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có thể thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Cộng vào đầu năm Dương Lịch 1979. Chính bản thân Đặng đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodthingy, Giám Đốc Văn Phòng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong các buổi đàm phán, Đặng đã nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán võ khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới bình thường hóa vì Đặng nóng lòng giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xăm lăng Việt Nam. Chính thức viếng thăm Hoa Kỳ Ngày 28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ. Ông ta nghĩ rằng Mỹ và Trung Cộng đang tiến tới một đồng minh chiến lược chống Sô Viết trên phạm vi toàn cầu nhưng không chắc chắn Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam sắp tới. Trong thời gian ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba lần. Chỉ vài giờ sau khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên. Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT Carter còn có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho TT Mỹ biết Trung Cộng đã quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ. Trái với mong muốn của Đặng Tiểu Bình, TT Carter không trả lời ngay, ngoài trừ việc yêu cầu họ Đặng nên “tự chế khi đương đầu với tình trạng khó khăn”. Ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình nhận lá thư viết tay của TT Carter, trong đó ông có ý cản ngăn họ Đặng vì theo TT Carter dù Trung Cộng có đánh Việt Nam, Việt Nam cũng không rút quân khỏi Cambodia mà còn làm Trung Cộng sa lầy. TT Carter cũng nhắc việc xâm lăng Việt Nam có thể làm cản trở nỗ lực của Trung Cộng cổ võ cho một viễn ảnh hòa bình trên thế giới. TT Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A President, Ngô Bắc dịch: “Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội kiến tại Văn Phòng Bầu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lý luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng phạt.” Ngày 30 tháng Giêng, trong một buổi họp khác với TT Carter, Đặng Tiểu Bình cho biết việc đánh Việt Nam đã được quyết định và sẽ không có gì làm thay đổi. Tuy nhiên, họ Đặng cũng nhấn mạnh chiến tranh sẽ xảy ra trong vòng giới hạn. Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ để đánh Việt Nam nhưng ít ra không phải về tay trắng. Tổng thống Carter để lấy lòng “khách hàng khổng lồ” và “đồng minh chiến lược chống Liên Xô” đồng ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”. Chuyến viếng thăm Mỹ là một thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án Trung Cộng xâm lược Việt Nam. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật. Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2, 1979, Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam. Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam. Lãnh đạo CSVN ở đâu trong ngày quân Trung Cộng tràn qua biên giới? Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN đã bị CSTQ tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ lòng đem quân đánh đàn em CSVN. Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Cộng từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Cộng] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.” Khi hàng trăm ngàn quân Trung Cộng tràn sang biên giới, Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Campuchia. Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của Trung Cộng và cũng không xác định được hướng nào là trục tiến quân chính của quân Trung Cộng. Tác giả Xiaoming Zhang viết trong Tái đánh giá cuộc chiến Trung Việt 1979 “Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung Quốc xâm lăng” và “Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đã có nhiều dấu hiệu chiến tranh, các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin “nước xã hội chủ nghĩa anh em” có thể đánh họ. Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Cộng. Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Cộng. Tác giả Xiaobing Li, trong bài viết Quân đội Trung Cộng học bài học gì dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese Army đã mô tả quân Trung Cộng chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều Tiên mấy chục năm trước. Nếu ngày đó giới lãnh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Cộng đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng. Bài học lịch sử từ chiến tranh biên giới 1979 Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung Cộng bằng mọi phương tiện sẽ buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp. Đặng Tiểu Bình trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện nay sẵn sàng dùng bất cứ phương tiện gì để thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy). Đừng quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý định này với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi”. Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông: “Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả. Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra tại Châu Á hiện nay và với nền kinh tế Trung Cộng phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không. Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân có mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng. Lịch sử đã chứng minh, Trung Cộng giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì tương lai của các thế hệ con cháu mai sau. Trần Trung Đạo Tham khảo: - Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Xiaoming Zhang, MIT Press 2010 - China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming Zhang - Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011 - Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001 - A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005 - Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia - Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989 - Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999 - Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009 - A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259 , Xiaobing Li (U. Press of Kentucky, 2007) - Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch Ảnh: TT Jimmy Carter và phu nhân nhận con mèo trắng do Đặng Tiểu Bình tặng ( Jimmy Carter Library)
|
|