|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:01:26 GMT 9
Dung Khanh Xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sau năm 1975 qua cuốn Hồi kí của học giả Nguyễn Hiến Lê Suu tam Talawas Lời nhà xuất bản trong mấy trang đầu của cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê do Nhà xuất bản Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh tái bản lần thứ sáu, năm 2006, có viết như sau: “Ngòi bút của Nguyễn Hiến Lê, tâm hồn và con tim Nguyễn Hiến Lê ngay từ đầu đã thuộc về nhân dân, những người lao động, những ai cực khổ, bần hàn và bất hạnh. Niềm tự hào về dòng giống, tổ tiên và nỗi đau về dân tộc trước những cuộc ngoại xâm đã kéo Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn luôn ý thức lánh xa những gì phù phiếm như chức tước, địa vị và sự giàu sang không lương thiện xích gần với Cách mạng và tự coi mình là người của Cách mạng, bởi lẽ dễ hiểu, những điều Cách mạng đang làm cũng chính là mơ ước của ông.” Sau khi khẳng định nhân cách của người cầm bút và tấm lòng của ông Nguyễn Hiến Lê đối với đất nước, Nhà xuất bản Văn học, một cơ quan văn hoá chính thức của nhà nước Việt Nam, giới thiệu cuốn sách này như sau: “Trên tinh thần tôn trọng một học giả nghiêm túc và được nhiều người mến mộ, kính nể ấy, Nhà xuất bản Văn học trân trọng giới thiệu cuốn hồi kí của ông. Tuy là hồi kí một người, một nhà văn, nhưng qua đấy người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược mà nét hào hùng lẫn những vệt máu và nước mắt vẫn còn thấm đẫm mới rọi trên từng trang sử của dân tộc chúng ta. Từng sự kiện, từng con người (từ nhà chính khách cho đến nhà văn…) đều được cách nhìn Nguyễn Hiến Lê soi rọi và đánh giá.” Và như thế, cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê đã được in tới sáu lần, đủ cho ta thấy sự hưởng ứng của độc giả và ảnh hưởng của nó tới độc giả trong nước như thế nào. Nhưng sau tất cả những lần tái bản, cho tới bản gần đây nhất, năm 2006, cuốn sách đều không được in lại một cách đầy đủ, có nhiều phần đã bị tỉa bớt mà theo Nhà xuất bản Văn học thì: “Vì tác giả đã mất, Nhà xuất bản không thể cắt bỏ nhiều quá. Trong quá trình biên tập, chúng tôi chỉ lược bớt phần rườm rà và cắt những chỗ không thể nào để lại được. Chúng tôi mong bạn đọc thông cảm.” Câu này làm độc giả không khỏi thắc mắc: nếu ông Nguyễn Hiến Lê còn sống, cuốn sách của ông có lẽ còn bị cắt bỏ nhiều hơn, thậm chí còn không được xuất bản (mà quả thật là vậy, ông mất năm 1984, vậy mà tới năm 1992 Hồi kí Nguyễn Hiến Lê mới được xuất bản lần đầu tiên trong nước). Tuy người đọc rất “thông cảm” với Nhà xuất bản Văn học, nhưng trong suốt 14 năm, sau 6 lần in, người ta phải tự đặt câu hỏi là: ông Nguyễn Hiến Lê, một học giả rất được trọng vọng ở Việt Nam, đã tâm sự những gì trong quãng đời cuối cùng của ông khiến cho cuốn sách của ông được xuất bản muộn màng và bị kiểm duyệt như vậy. Lời bạt của cuốn sách có nói: “Một lần nữa, chúng tôi tin rằng, xuất bản tập Hồi kí này là hết sức cần thiết, và rất bổ ích, nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng sẽ có những vấn đề cần phải tranh luận”. Vậy thì phải chăng những đoạn cắt bỏ đó - “những chỗ không thể nào để lại được” - là những vấn đề “cần phải được tranh luận”? Dù rằng “xét trên cảm hứng chung của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi vẫn thấy trước tiên đây là một học giả đầy trách nhiệm và xây dựng” như Nhà xuất bản đã nhận xét? Phần “Mục lục” của cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê cho thấy cuốn sách gồm có 6 phần, chia làm 33 chương, những phần bị bỏ đi là chương XXI, XXII, XXIV (trong Phần IV), và chương XXX, XXXI, XXXII (trong Phần VI) mà nhà xuất bản bỏ trống không in, với một lời ghi chú vỏn vẹn là “xin để lại sau một thời gian nữa…”. Những chương này đã nói những gì khiến cho Nhà xuất bản Văn học (hay nói đúng hơn, nhà nước Việt Nam) phải giấu nhẹm, bưng bít hơn 23 năm sau khi ông Nguyễn Hiến Lê mất? Câu trả lời được tìm thấy trong cuốn Hồi kí do nhà Văn nghệ - California – USA xuất bản năm 1988, in đủ 33 chương. Cuốn Hồi kí này đã được xuất bản hai năm sau khi ông Nguyễn Hiến Lê mất, toàn bộ được in làm ba tập, Tập I, II, III, và một phần trong cuốn Đời viết văn của tôi (Văn nghệ, 1986). Theo bản in cuốn Hồi kí của nhà Văn nghệ thì chương XXI, XXII, XXIV trong Phần IV – Nam Bắc chia hai - Chiến tranh Việt Mĩ gồm những tiết sau: Chương XXI - Việt Nam chia hai (1954-1965) A. Miền Nam Gia đình Ngô Đình Diệm Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại Chính sách nhà Ngô Dân nổi dậy chống đối - Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62 Ấp chiến lược - Trận Ấp Bắc Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63 B. Miền Bắc Pháp mất hết quyền lợi Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh Lưu Vụ Nhân văn - Giai phẩm Kinh tế phát triển rất chậm Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam Chương XXII - Chiến tranh Việt Mỹ (1965-1975) Các chính phủ quân nhân Mĩ đưa quân sang Vụ Mậu Thân Vừa đánh vừa đàm - Hiệp định Paris Những bí mật trong chiến tranh Việt Mỹ Mĩ rút về, quân Nam tan rã, chiến tranh chấm dứt Chương XXIV - Xã hội miền Nam trong thời Mỹ Kinh tế mền Nam từ 1954 đến 1974 Nhân số bộc phát - Nạn đói Thị dân tăng lên quá mau - Nền kinh tế trái luật kinh tế Sản xuất kém mà tiêu thụ mạnh Đời sống quay cuồng Cảm giác bất an - Thời đại kĩ nghệ điện tử Phong hoá suy đồi Ta có thể thấy ngay là những điều mà Nguyễn Hiến Lê viết về hai miền Nam, Bắc trong Chương XXI, vụ Mậu Thân, bí mật trong chiến tranh Việt - Mĩ trong Chương XXII, kinh tế, thời đại kĩ nghệ điện tử ở miền Nam trong Chương XXIV có thể là những điều sẽ làm cho nhà nước Việt Nam phải lúng túng bào chữa, lấp liếm nếu nó được in ra. Nhưng có lẽ cái gai làm cho các nhà quản lý tư tưởng Việt Nam khó chịu nhất là những gì ông Nguyễn Hiến Lê đã viết trong Chương XXX, XXXI, và XXXII, trong Phần VI – Giai đoạn 1975-1981: Chương XXX tả lại đời sống xã hội miền Nam sau 6 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; chương XXXI viết lại những kết quả sau 6 năm đó; Chương XXXII tập hợp những ý kiến của ông về lỗi lầm của Đảng và về tương lai của đất nước. Câu cuối cùng trong lời bạt của Nhà xuất bản Văn học có viết: “Nhà xuất bản rất mong sự đóng góp của độc giả trong nước cũng như ngoài nước để lần in sau chúng tôi rút được những kinh nghiệm tốt hơn.” Chẳng lẽ những đóng góp này chỉ là những ý kiến về kĩ thuật ấn loát hoặc trang trí hình bìa? Vì theo nhà Văn học thì “qua đấy (cuốn Hồi kí) người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến”, vậy thì độc giả, nhất là độc giả trong nước, có thể nên lên một băn khoăn là: Dù chúng tôi thông cảm cho nhà xuất bản đã cắt bỏ những chương quan trọng trên trong tất cả những lần tái bản, nhưng chúng tôi, với tấm lòng ngưỡng mộ một vị học giả quá cố, vẫn không khỏi thắc mắc tự hỏi ông Nguyễn Hiến Lê đã nhận xét những gì về xã hội Việt Nam sau cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ. Đến bao giờ chúng tôi mới đọc được toàn bộ cuốn Hồi kí của ông? Đã 16 năm rồi chứ đâu phải là ít? Trong tinh thần tự do công luận đó, tôi xin trích ra sau đây chương XXX, XXXI, XXXII trong cuốn Hồi kí của học giả Nguyễn Hiến Lê. Có lẽ lý tưởng nhất là đăng nguyên văn những chương này, không thiếu sót một câu, một chữ, do Nhà xuất bản Văn nghệ in năm 1988; nhưng ba chương này rất dài, chiếm hơn ba phần tư (160 trang) cuốn Hồi kí, Tập III, tức là gần một phần năm của toàn bộ cuốn Hồi kí dầy non một ngàn trang. Mục đích của tôi là tóm tắt, thu gom lại những ý tưởng, câu viết của ông trong ba chương đã bị cắt bỏ trên thành một bài đọc ngắn để độc giả có thể biết ngay được tâm tư, trăn trở của ông sau 6 năm sống dưới chế độ cộng sản. Tôi sẽ giữ đúng bố cục mà ông đã dàn trong ba chương này, và theo sát những ý tưởng, diễn biến trong cách viết của ông. Tôi cũng xin mạn phép thỉnh thoảng xen vào vài ý kiến cá nhân phụ thuộc, phần lớn là để cập nhật tình trạng xã hội Việt Nam mà, sau hơn 25 năm, đã có nhiều thay đổi.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:02:18 GMT 9
Hồi kí của Nguyễn Hiến Lê (Văn nghệ xuất bản – California - USA, 1988)
Phần VI- Giai đoạn 1975 -1981 Chương XXX - Chế độ tập thể ở miền Nam
Cảm tình của tôi với kháng chiến
Mở đầu chương này, Nguyễn Hiến Lê bộc lộ tâm sự của ông trước năm 1975:
Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.
Nhưng cảm tình của ông với cộng sản Việt Nam không phải là tuyệt đối; ngay từ đầu, ông đã nhận ra sự tàn nhẫn của chế độ cộng sản:
Từ năm 1954 tôi đã được đọc nhiều báo tố cộng của chính phủ Ngô Đình Diệm; hơn nữa, tôi được nhiều bạn của tôi di cư vô Sài Gòn kể cho tôi nghe chính sách điền địa ở Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả những người kháng chiến, chỉ vì họ có 4-5 mẫu ruộng (chưa đầy hai hecta) và bị liệt vào hạng điền chủ, tư sản bóc lột kẻ nghèo. Chính những bạn tôi đó cũng đã giúp kháng chiến, đều có lòng ái quốc, đều là những người đứng đắn, tốt, mà không thể sống ở ngoài đó được, phải bỏ cả mồ mả tổ tiên, nhà cửa, bà con họ hàng vô đây với hai bàn tay trắng, sống chen chúc trong những khu lao động, can đảm lập lại cuộc đời.
Sau đó, với những diễn biến của chiến tranh, lòng ông càng trở nên đau thương trước tình cảnh chém giết tanh máu cùng bộ máy hỗ trợ cho cuộc huynh đệ tương tàn đó. Điển hình là:
Năm 1968, nghe những tin tức và những hình ảnh về cuộc tàn sát rùng rợn ở Huế trong biến cố Mậu Thân, tôi hoang mang, đau lòng cho đồng bào Huế và lo lắng cho tương lai dân tộc.
Nhưng ông vẫn tin tưởng vào cái ảo nhoáng bề ngoài của Đảng Cộng sản Việt Nam, được sơn phết bởi những chiến thắng trong thời kháng chiến, mà công lao đó, thực ra, không phải chỉ riêng của ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về cộng sản Nga, Trung Hoa, Đông Âu như vậy, tôi tuy ghét, tởm Staline, Mao Trạch Đông… nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản; nhất là cộng sản Bắc Việt dưới sự lãnh đạo thời kháng chiến của Hồ Chủ tịch mà tám chín phần mười người Việt kính mến, khắp thế giới phục thì không thể nào tàn nhẫn như Nga, Trung Hoa được, Đảng có lỗi lầm thì sửa sai ngay. Đó là tâm lí chung của đa số trí thức Sài Gòn, chứ chẳng riêng của tôi.
Và vì thế, ngay từ năm 1973, ông đã mong đợi một đời sống mới:
Khi Hội nghị Paris kết thúc năm 1973, chúng tôi mừng rằng chiến tranh sắp chấm dứt sau non ba chục năm dai dẳng, khốc liệt, toàn dân sẽ nắm tay nhau kiến thiết quốc gia… Riêng tôi, tôi sẵn sàng bỏ một ít tự do đi, sống thanh bạch hơn nữa, miễn là hết thấy cái nạn tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc lột và thấy con người có tư cách hơn. Tôi vẫn thường nói với nhà tôi: cộng sản vào đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó.
Ngày 30-4-75 - Việt Nam thống nhất
Sự tráo trở của cộng sản Việt Nam sau Hiệp định Paris:
Nhưng Hiệp định Paris vừa mới kí xong - tất nhiên có chữ kí của Nga, Trung Hoa và một số nước khác nhu Pháp, Anh… - hai bên trao đổi tù binh với nhau xong, Mĩ rút hết quân về rồi thì chiến tranh lại tái diễn. Thế là Hiệp định chưa ráo nét mực đã bị xé bỏ.
Cái chiến tranh đó kết thúc một cách nhanh chóng, trong vòng chưa đầy 2 năm, và lí do là:
Một bên (Bắc) mới thắng được Mĩ về ngoại giao, rất phấn khởi, khí thế đương hăng; một bên (Nam) bị Mĩ chẳng nghĩ gì đến liêm sỉ, nhẫn tâm bỏ rơi, vừa uất ức vừa thất vọng, thì phần thắng về ai, điều đó rất dễ hiểu.
Theo ông, không có cái đặc tính, thần tình gì trong cái chiến thắng đó:
Sự thắng lợi đó quả là vẻ vang cho miền Bắc, nhưng xét kĩ thì cũng như sự thắng lợi của quân đội Mao Trạch Đông năm 1949 (cũng chỉ trong có mấy tháng họ tiến từ Nam Kinh tới biên giới Bắc Việt); và cũng như sự thắng lợi của Khmer đỏ (ngày 17-4) khiến Lon Nol phải bỏ nước để thoát thân như Nguyễn Văn Thiệu, Đại sứ Mĩ phải nhục nhã cuốn cờ bỏ Nam Vang mà về nước, và Khmer đỏ vào Nam Vang 13 ngày trước cộng sản Bắc Việt vào Sài Gòn.
Thực chất của cái chiến thắng này rõ ràng chỉ là một sự xâm lăng, một cuộc cưỡng chiếm miền Nam, làm gì có sự giải phóng mà miền Bắc đã từng khoe khoang? Khi vỡ lẽ ra thì ông không thể không tự dè bỉu một tiếng:
Mấy ngày hạ tuần tháng 4 dương lịch đó tôi vẫn nghĩ tình hình không có gì bi đát lắm đến nỗi phải di cư. Quân Bắc có tiến vào Sài Gòn thì Nam Bắc cũng thương thuyết với nhau - trước Bắc chỉ đòi Mĩ rút đi, Thiệu rút đi, thì bây giờ họ rút cả rồi, còn muốn gì nữa? – mà Hiệp định Paris còn đó, Bắc phải thi hành chứ. Tôi ngây thơ quá.
Cái ngây thơ của ông cũng là cái ngây thơ của của nhóm người gọi là thành phần thứ ba ở miền Nam trước năm 1975 (họ đã bao giờ tự nhận lỗi lầm của họ không?). Tuy nhiên, ông cũng hứng khởi chờ đón một tương lai xán lạn:
Tôi phục quân đội giải phóng rất có kỉ luật: vào Sài Gòn mà không gây một vụ đổ máu (trước đó ai cũng ngại có một cuộc “tắm máu” như Huế năm 1968), một vụ cướp bóc nào; còn giúp đỡ dân chúng nữa. Tôi tràn trề hi vọng… Như vậy thì rất hợp với sở nguyện của mọi người, quá sở nguyện của giới trí thức nữa.
Chế độ mới
Một bài học vỡ lòng của ông về chế độ cộng sản:
Ai cũng biết chế độ cộng sản là chế độ độc đảng, chuyên chế của giai cấp vô sản… Họ nắm hết cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nếu trong nước có đảng dân chủ, đảng xã hội thì những đảng này cũng phải theo đường lối của đảng cộng sản, không thể độc lập, đối lập được… Bất kể việc lớn nhỏ gì cũng do đảng quyết định hết, cơ quan nào dù lớn, quan trọng tới mấy cũng chỉ có việc thừa hành.
Nhưng ngay sau đó là một câu thú nhận của ông và cũng là một lời cảnh cáo cho những người cả tin, đón gió:
Điều đó ai cũng biết, nhưng muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay. Muốn nghe ai phê bình, khen chê thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi.
Và với kinh nghiệm đó, ông đã viết và kể cho ta nghe những gì ông đã “sống” và “ thấy” được sau hơn 6 năm sống dưới chế độ cộng sản:
Dưới đây tôi ghi vắn tắt những điều tôi thấy về chế độ cộng sản ở miền Nam. Tôi không chép nhật kí, mà kí tính tôi mấy năm nay suy; tôi lại chỉ sống ở Sài Gòn, giao du ít, nên nhận xét của tôi chắc chắn là thiếu sót, có thể sai nữa, sai nhiếu nhất là năm, tháng. Tôi sẽ ráng giữ tinh thần khách quan và trung thực.
Hành chánh
Tổ chức
Tổ chức gia đình ở miền Nam khác hẳn lúc trước 1975:
Một gia đình (cha mẹ, con cái, anh em, bà con…) ăn chung, ở chung với nhau thì thành một hộ… Ba bốn chục nhà (thường gồm bốn năm chục hộ) họp lại thành một tổ… Tổ trưởng là gạch nối giữa chính quyền và nhân dân, loan báo chỉ thị của chính quyền xuống nhân dân, đạo đạt nguyện vọng của nhân dân lên chíng quyền… Tổ trưởng thường ít học nên hay nói, nói dai, đáng lẽ 15 phút xong thì kéo dài cả giờ, giờ rưỡi, mất thì giờ của dân…
Và hãy đọc một chuyện vui về “cán bộ ba d.” của ông:
Thỉnh thoảng lại có buổi học tập chính trị do cán bộ, thường là công an tới giảng cho 5-6 tổ gồm trên trăm học viên… Trình độ văn hoá của cán bộ chỉ vào hạng có tiểu học, bài học rất chán, mà cũng có một số người vỗ tay khen, có khi chưa hết câu đã vỗ tay, khiến cho các học viên miễn cưỡng vỗ tay theo. Trò đó có vẻ lố bịch, sau dân chúng phá bằng cách đáng lẽ chỉ vỗ tay một thì họ vỗ tay hai, kéo dài ra, bọn nịnh kia thấy ngượng phải bỏ… Tôi nhớ lời này của một bạn ở Hà Nội vào: “Bọn cán bộ đó nói dài, nói dai, nói dở, gọi là cán bộ ba d.”
Tổ chức hành chánh cũng toàn là lấy trò bịp bợm làm chuẩn:
Nhiều tổ họp thành một khóm… Phường có công sở lớn, nhiều phòng: hành chánh, y tế, giáo dục, kinh tế, công an… dân trong phường bầu đại diện, đại diện lại bầu một hội đồng nhân dân, chủ tịch hội đồng này là phường trưởng. Cách thức bầu cũng như bầu quốc hội. Đảng lập danh sách những người Đảng cho phép ứng cử… và dân chỉ được bầu cho những người đó. Chỉ là vấn đề hình thức. Dân đi bầu khắp mặt cho xong việc, không cần biết kết quả ra sao. Ứng cử viên chẳng cần ra mắt quốc dân. Riêng tôi suốt 5 năm không thấy mặt ông chủ tịch uỷ ban nhân dân phường một lần nào, hai lần xin gặp mặt thì cô thư kí bảo ông ấy đi vắng cả hai… Trên phường là quận… Trên quận là thành phố… do nhân dân trong tỉnh bầu lên theo cách thức đã kể trên.
Và lề lối làm việc của nhân viên hành chánh:
Sở nào cũng rất nhiều nhân viên mà công việc thì ít, vì giám đốc sở nào cũng đưa người thân hay người quen vào làm. Người ta gởi gắm lẫn nhau. Một cán bộ cao cấp chủ nhiệm hay phó chủ nhiệm một tờ báo nọ có lần bảo tôi, tờ báo của ông ta có non 100 nhân viên (trước ngày 30-4-75 một tờ báo như vậy chỉ có vài chục nhân viên mà lại nhiều trang, nhiều bài hơn), dư người rồi; vậy mà sáu tháng sau khi ông ta giao lại toà soạn cho một cán bộ khác, thì số nhân viên đã tăng lên tới 170; có những “kí giả” tới toà soạn mà chẳng có việc gì làm, nói chuyện láo một lúc, sửa một cột ấn cảo rồi đi dạo phố hoặc về nhà, tự thẹn mang tiếng kí giả mà cả năm không hề viết một hàng chữ cho tờ báo.
Nhân viên càng nhiều, công việc lại càng bê bối. Vì cái nạn bè phái tranh giành nhau, dẫm chân lên nhau, không ai chịu trách nhiệm cả, ai cũng đùn công việc cho người khác.
Tinh thần nhân viên
Quang cảnh công sở dưới chế độ mới:
Đa số công sở rất dơ dáy, lộn xộn, nhân viên nấu ăn ngay trong phòng giấy. Vào nhiều công sở ta có cảm tưởng vào những nhà việc ở thôn quê Nam Việt nửa thế kỉ trước: có 3-4 bàn giấy nhưng chỉ có hai nhân viên ngồi nói chuyện phiếm bên một bình trà, mấy cái chén, chỉ khác là có thêm một bình điếu thuốc lào. Nhân viên tới giờ nào thì tới.
Tinh thần nhân viên dưới chế độ mới:
Đói thì không làm việc được, công việc bê trễ, người ta chán nản, xin thôi… Xin thôi không được thì người ta cứ ngang nhiên bỏ sở; hoặc ở lại thì làm tà tà, lấy lệ… Có kẻ ỳ ra không làm gì cả.
Tình trạng hành chánh trong chế độ mới:
Hình như người ta không có một kế hoạch, chương trình gì cả, ra lệnh rồi phản lệnh liền liền mà tới giờ chót mới thông báo cho nhân viên hay; máy móc mua về đủ rồi mà vì lẽ này lẽ khác, không dùng tới, để cho nó sét. Rồi còn cái tệ dưới không tuân lệnh trên, một phần do tinh thần bè phái, một phần do chính sách địa phương tự trị… Đó là cái nạn cán nặng hơn gáo.
Và cái nhìn chung về cái xập xệ trong chế độ mới:
Tôi không kể những cái bê bối trong công sở: đánh mất hồ sơ, thụt két, ăn cắp của công, kho vật liệu không có sổ sách, cứ ít tháng lại thấy mất đồ mà không tìm ra được thủ phạm, v.v…, vì nếu kể thì dài quá.
Trong những cái bê bối vô số kể thì dĩ nhiên những vụ cướp nhà, lấy đất của dân miền Nam cũng phải có:
Tỉnh huyện lập ra nhiều cơ quan quá thì phải xây cất thêm nhiều, tịch thu nhà cửa đất đai của dân. Theo hiến pháp, tư sản được tôn trọng. Chỉ bọn tư bản bóc lột, một số nguỵ quân nguỵ quyền có tội nặng và những người vượt biên “chui” (lén) mới bị tịch thu nhà cửa. Nhưng một số cán bộ nhỏ muốn dâng công hoặc vì tư thù, tư lợi, tịch thu bừa bãi nhà cửa, đồ đạc của dân… Còn các gia đình có mặc cảm tội lỗi thì đành chịu ức hiếp: đương đêm quân đội tới bắt dọn đồ đạc ra đường để chúng chiếm nhà. Tệ đó gây bao phẫn uất trong dân chúng, các ông lớn ở trung ương có biết cho không?
Với những tệ hại như vậy, ông đã nghĩ tới cái thay đổi mà “không ai dám nghĩ tới”, cái “cuộc thay đổi lớn lao” đó rồi đây cũng sẽ phải xẩy ra mà thôi:
Cán bộ cao cấp và trung cấp còn biết những sở đoản của chế độ, lẽ nào các nhà lãnh đạo và đảng không biết. Tôi cho rằng người ta biết đấy, nhưng đó là bệnh cố hữu (inhérent) của chế độ, không thể chữa được, trừ phi có một cuộc thay đổi lớn lao mà không ai dám nghĩ tới.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:02:56 GMT 9
Tài chánh
Ngân hàng - Hưu bổng - Đổi tiền
Như ta đã biết, vụ cướp tiền đã xẩy ra trước vụ cướp đất của dân chúng miền Nam:
Công việc đầu tiên của chính quyền 30-4-75 là chiếm hết các ngân hàng, các sở ngân khố. Không còn ngân hàng của tư nhân mà cũng không còn sở ngân khố…
Ai gửi tiền ở ngân hàng quốc gia mà mua công khố phiếu (tức quốc trái, được lời nhiều hơn là gửi ngân hàng tư: 30% mỗi năm, chứ không phải là 24%) thì chính phủ không trả cho đồng nào hết, vì đó là nợ của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, mà Thiệu đã lưu vong, ôm hết quí kim đi rồi. Nhiều người ở trong trường hợp đó.
Bây giờ thì ta đã biết là Thiệu rời nước, không biết đem theo được bao nhiêu quí kim, nhưng số vàng dự trữ trong kho của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm. Như vậy là những người gửi tiền lức đó đã bị nhà nước cộng sản Việt Nam cướp tiền một cách trắng trợn. Chính gia đình Nguyễn Hiến Lê cũng là nạn nhân của vụ quịt tiền này:
Nhà tôi buồn vì chính quyền không cho lãnh tiền hưu bổng (khoảng 30 đồng mới, 15.000 đồng cũ một tháng) mà không cho hay ngay, cứ làm thinh, bắt mỗi tháng lại sở hưu bổng hỏi han, chầu chực, như vậy hai năm, tới khi thấy người ta hạ cái bảng tên sở đi mới tuyệt vọng, không trông vào số tiền dưỡng lão đó nữa.
Còn hoàn cảnh của những nạn nhân khác thì sao?
Biết bao người ở trong trường hợp đó, nhiều người nghèo không trông cậy vào đâu được, phải tự tử. Có người đã mất hết số tiền và tư trang gởi ngân hàng, rồi lại mất luôn tiền hưu trí, hoá điên.
Nhưng ác độc nhất là hai vụ đổi tiền, chủ đích là làm cho dân nghèo đi:
Chính sách đổi tiền của chính phủ càng thất nhân tâm hơn nữa. Vụ đổi tiền thứ nhất xẩy ra tháng chín hay tháng mười 1975, và xẩy ra rất đột ngột. Sáng sớm hôm đó dân chúng mới hay rằng phải đổi tiền nội trong 24 giờ và mỗi người dân già trẻ lớn bé được đổi một số tiền là bao nhiêu đó tôi quên rồi, chỉ còn nhớ số tiền này như gia đình tôi chỉ đủ tiêu trong một tháng hay tháng rưỡi là cùng… rất nhiều người phẫn uất, tuyệt vọng; có người tự tử, có người đốt hằng thúng giấy bạc, hoặc từ trên lầu vãi giấy bạc xuống đường, không ai thèm lượm; ở Mỹ Tho, nhiều tiệm Trung Hoa thồn giấy bạc vào cà roòng, thả trôi sông.
Dân có nghèo thêm đi thì chỉ làm cho cán bộ giàu hơn lên:
Cấp trên không biết tổ chức hoặc biết tổ chức mà bên dưới không thèm nghe, tự ý làm sao thì làm, và hạng người ngu dốt, được cơ hội, tha hồ hách dịch, làm khó dân… nhiều cán bộ gian lận làm giàu.
Và đây là nỗi chán chường của ông đối với những người cai trị tự cho là liêm khiết, vì dân:
Lần đó là lần đầu tiên tôi thất vọng, thấy rõ chân tướng chẳng tốt đẹp gì của các đồng chí cách mạng trong chủ nghĩa xã hội đã được Hồ chủ tịch dạy dỗ mấy chục năm. Họ bỉ ổi, bê bối còn hơn chế độ tư bản nữa. Tôi không vơ đũa cả nắm. Cũng có một số liêm khiết, xã hội nào cũng vậy.
Nhưng chưa hết, cuộc đổi tiền lần thứ hai cũng khủng khiếp không kém lần thứ nhất:
Ba năm sau, năm 1978 lại đổi tiền một lần nữa, mà lần này ở khắp nước. Cũng đột ngột, cũng hạn chế số tiền được đổi, nhưng có tổ chức hơn, đỡ khổ cho dân… Vụ đổi tiền năm 1978 làm Bắc Việt xôn xao cũng bằng ở trong Nam, và cũng có đủ các tệ như ở Nam… Lần này người ta biết tin trước vài ngày: ai có nhiều tiền (ở Bắc cũng như ở Nam) cũng tung tiền ra mua vàng, xe đạp, vải, tủ lạnh, chén đĩa, bất kì thứ gì với bất cứ giá nào… Có người không biết mua gì, năn nỉ hàng xóm để lại cho con gà, con vịt. Người nghèo có từ nải chuối trở đi cũng đem đi bán. Ở Bắc có kẻ nhiều tiền quá thồn cả vào một cái bao, chở trên xe đạp, đến một chỗ vắng, làm bộ đánh rớt xuống đường rồi phóng đi như bay. Hạn chế, kiểm soát rất gắt, vậy mà ở Hà Nội ngay tối đêm mới đổi tiền, công an lại xét một nhà thấy một số tiền gấp trăm số gia đình đó được phép đổi. Và chính phủ cũng phải làm ngơ.
Sau một phần tư thế kỉ được giáo hoá mà như vậy thì chúng ta phải kết luận ra sao? Có chế độ nào thay đổi được bản tính con người trong một hai thế kỉ không? Bao giờ mới đào tạo được con người xã hội chủ nghĩa để họ xây dựng xã hội chủ nghĩa đây, như Hồ Chủ tịch nói?
Và kết quả sau hai cuộc đổi tiền:
Mỗi lần đổi tiền là một lần lạm phát… Dân sợ sự đổi tiền quá, không còn làm ăn gì được… Đời sống không được ổn định, dân lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, chẳng trách bệnh bao tử phát dữ dội, gấp mấy thời trước. Không ai muốn tiết kiệm nữa, kiếm được đồng nào tiêu hết đồng đó; những quán ăn, tiệm cà phê nhiều hơn và đông khách hơn trước ngày 30-4-1975.
Rồi ông kết luận:
Tóm lại chính sách của nhà nước là muốn quản lí tiền bạc của dân…
Dĩ nhiên là tiền bạc không phải chỉ là một thứ của dân mà nhà nước công sản quản lí như ta đã biết và thấy.
Kinh tế
Một lời “vinh danh” chế độ cộng sản của ông:
Sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bước đầu của chế độ cộng sản là nắm hết sự sản xuất và sự phân phối trong nước. Có nắm được như vậy thì mới mau bình sản được, mới diệt được sự bóc lột của cá nhân, sự bất công, mới giảm được sự bất bình đẳng, trong nguyên tắc. Ai cũng hiểu như vậy nhưng chỉ cộng sản mới can đảm, kiên nhẫn, cương quyết thực hành điều đó. Cộng sản “đáng phục” chỉ ở điểm đó, còn tinh thần nhân đạo, thương người nghèo của họ không hơn gì - nếu không nói là kém – Kitô giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo…; mà lí thuyết của họ thì còn có thể đem ra bàn luận hoài được, khen cũng được mà chê cũng được.
Sản xuất
Nông nghiệp
Bài học lịch sử:
Về nông nghiệp, hai nước cộng sản đàn anh Nga và Trung Hoa đều thất bại. Sau 60 năm làm cách mạng, Nga vẫn thiếu lúa mì, phải mua của Mĩ, mà đất đai Nga Xô rất rộng chứ; Trung Hoa thì sau 30 năm, dân vẫn thiếu gạo, thiếu thịt.
Kết quả của bài học đó:
Ông thầy của chúng ta đã thất bại thì ta làm sao không thất bại được?... Hỏi thăm các bạn ở Bắc, ai cũng bảo hợp tác xã nông nghiệp ngoài đó, xét chung, thất bại, chỉ trừ một vài nơi ở Thái Bình… Trong nhiều hợp tác xã còn đất bỏ hoang, vì khó khai phá, không có lợi… Ở trong Nam mấy năm đầu dân phải đóng thuế nặng, lúa bị thu mua nhiều quá với giá rẻ mạt, phân bón, thuốc trừ sâu, xăng nhớt lại bị cán bộ ăn cắp bán chợ đen v.v… Do đó nông dân chán ngán, không ham sản xuất.
Lời khuyên của ông qua bài học lịch sử:
Chúng ta đừng nên quá tự tín, tự hào, mà nên so sánh nước mình với các nước láng giềng cũng nông nghiệp như mình, đất rộng cũng như mình, tức Thái Lan, Miến Điện… Quá tin ở sự khai phá đất hoang lại càng không nên.
Và một câu châm biếm nhẹ nhàng:
Tóm lại tôi nghĩ rằng hoà bình trở lại, lo sản xuất lúa gạo để đủ nuôi dân đã là may, không mong gì làm giàu được. Năm 1975 tôi trình bày lại ý đó với một cán bộ cách mạng, họ cho tôi là bi quan, bảo: “Dân tộc mình thắng được Mĩ, hùng cường thứ nhì Đông Á, chỉ 5 năm nữa thì kinh tế mình sẽ thịnh, hai chục năm nữa sẽ đuổi kịp Nhật rồi vượt họ.”… Có những người dễ tin bánh vẽ quá. Họ thật sung sướng, tối chắc ngủ ngon.
Hậu quả là nuớc Việt Nam đã được Đảng cho ngủ luôn trên 20 năm sau đó, để cho Nhật vượt xa nước mình, không biết đến bao giờ mới bắt kịp được, đừng nói chi tới chuyện nước mình vượt họ.
Cũng nên cần nhắc lại là chính sách lùa dân đi về vùng kinh tế mới (thật ra chỉ để cướp đất giựt nhà) là một lỗi lầm to lớn của cộng sản Việt Nam:
Một thất bại nữa là chính sách đưa dân thành thị đi vùng kinh tế mới để khai phá đất hoang.
Ngay cả những người hăng hái ra đi cũng không chịu nổi sự cực khổ và ức đáp:
Sau ngày 30-4-75, nhiều người rất phấn khởi, muốn sống một đời sống mới, xung phong đi kinh tế mới... Miền Sông Bé thất bại nặng; người ta bỏ về lần lần hết. Ngay những thanh niên xung phong thấy đồng bào đi hết, cũng phải xin về.
Nên những người đó sau cơn đổi đời:
Coi họ già và lam lũ như hạng lưu dân trong Đồng Tháp Mười hồi 1935. Tôi nghĩ chính hạng người đã hi sinh cả đời cha, đời con, đời cháu nữa để khai phá miền Nam này, sống cực khổ như mọi đó mới là khai quốc công thần, có phần gian lao hơn Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Hữu Cảnh nữa; nhưng khắp thế giới từ cổ đến kim, không ai nhắc tới họ; bây giờ người ta cũng để họ “sống chết mặc bay” mà còn bóc lột họ nữa.
Ông còn kể một hai câu chuyện về những cơ cực của những người đi vùng kinh tế mới này. Tôi không dẫn hết ra đây, nhưng đại loại là nơi họ sống:
… là một khu rừng cỏ tranh không có kinh rạch gì cả, không làm ruộng được, phải phát cỏ tranh, đào giếng (sâu 6 thước) để lấy nước uống, mà nước thì đục ngầu… Họ chịu đựng được non ba năm… hết chịu nổi… Cái chòi một mái chỉ có 6 thước vuông, một cái giường, một cái võng. Mẹ và bốn con ngủ trên giường (vì hai đứa con đã gởi người bà con nuôi dùm), dưới gầm là một con heo lớn, một con heo con, chung quanh là một bầy gà. Chồng ngủ võng. Trời nắng thì ngủ ngoài trời được. Không có bếp, cầu tiêu, nước uống là nuớc trong một cái hầm đào để đắp nền nhà… Cảnh một gia đình công chức hồi hưu (tôi chỉ nghe nói chứ không được biết) còn bi đát hơn gia đình đó nữa… về Sài Gòn thì không có hộ khẩu, không có chỗ trú chân, phải đi xin ăn, ở nhờ bạn, nay nhà người này, mai nhà người khác.
Kết quả của chính sách kinh tế mới là cảnh sống cầu bơ cầu bất của người bị cướp nhà:
Và hiện nay nhiều đường ở Sài Gòn đầy những người ở kinh tế mới về, vô gia cư, vô nghề nghiệp, ban ngày đi xin ăn, làm cu li hay ăn cắp, đêm ngủ vỉa hè, hoặc dưới mái chợ... Khắp các tỉnh đâu đâu cũng có tình cảnh đó.
Sự dốt nát của cán bộ nông thôn lúc bấy giờ:
Một nguyên nhân thất bại nữa của chính sách nông nghiệp là thiếu kĩ thuật gia giỏi… từ ngày 30-4-75, các công tác thuỷ lợi hầu hết do các cán bộ nông thôn mới học hết cấp I (hết tiểu học) điều khiển. Các đồng chí ấy bất chấp kinh nghiệm của nông dân, đã dốt mà lại độc đoán… Cán bộ của mình không được học, không biết tính toán gì cả (một cán bộ tài chánh xã mà không biết chia 72 cho 24), mạnh làng nào làng ấy đào, chẳng hề xét hậu quả gì bất lợi cho làng bên hay không; và kết quả nhiều khi trái ngược với ý muốn… Người ta đào kinh rất nhiều, miền nào cũng khoe đào được mấy chục con kinh, mấy trăm cây số kinh trong một mùa nắng. Có tốn kém gì đâu. Chỉ cần bắt thanh niên làm xâu, làm càng nhiều càng được tiếng “vinh quang”. Tới nỗi có miền dân phải ta thán, đặt ra câu ca dao này:
Mồ cha thằng Thiệu dời dinh, Để tao ở lại đào kinh suốt đời.
Tập cho thanh niên lao động chân tay, góp sức vào việc kiến thiết quê hương là điều tốt, nhưng người ta phí sức dân quá. Dân do đó thấy tủi cho thân phận mình: trong thời chống Pháp, chống Mĩ, dân hi sinh cho anh em kháng chiến, bây giờ bị coi như nô lệ.
Dưới sự lãnh đạo và điều khiển của những “cán ngố” - cứ tưởng thắng Mĩ được một ván cờ chính trị thì đã khoe khoang tự cho mình là bá chủ ‘đỉnh cao trí tuệ’ - những người thất trận, kể cả người dân miền Nam, đều bị đối xử như là hạng bần cùng, hạ cấp. Điều đó dễ hiểu.
Công nghiệp
Tình trạng công nghiệp Việt Nam tệ hại đến nỗi:
Xí nghiệp quốc doanh nào cũng lỗ nặng… Từ bia, nước ngọt, đến tôm cá, đồ hộp như khóm, màn trúc, quần áo may sẵn, đồ sơn mài… bất kì món gì, mới đầu phẩm còn kha khá, sau cứ mỗi ngày một tệ, bị ngoại quốc gửi trả về… Tôi hỏi một người bà con ở Hà Nội, họ bảo ở Bắc cũng vậy: công nghiệp mỗi ngày một xuống dốc…
Nguyên nhân rất nhiều: quản lí dở, thiếu kĩ thuật gia giỏi… thiếu nguyên liệu, nhiên liệu, thiếu đủ thứ… không có tinh thần trách nhiệm, ai cũng làm việc tà tà… Ngoài Bắc có câu: “Làm thì đói, nói thì no, bồ thì sướng, bướng thì chết”, trong Nam lại thêm câu: “Làm cho lắm tắm không quần thay, làm lai rai ngày thay hai ba bộ.”
Đảng Cộng sản là đảng của vô sản, của thợ thuyền, mà công nhân trong các xưởng tinh thần như vậy đó.
Tình trạng các công ti lớn:
Các công ti công tư hợp doanh cũng lỗ vì công với tư rất khó hợp tác với nhau: công làm chủ thì tư tà tà, mà công thì quản lí rất dở, kĩ thuật kém, nghi kị tư, bao nhiêu quyền lợi, ôm lấy trọn.
Số phận của các công ti nhỏ cũng không khá hơn:
Các tổ hợp làm tiểu công nghệ của tư nhân như tổ hợp làm màn trúc, tranh sơn mài, đan áo, thêu, may áo… lay lắt sống được là may, đa số phải ngưng hoạt động vì xuất khẩu không được, bán trong nước cũng không được…
Do đó nước mình trước kia tự hào là tiền rừng bạc bể mà nay đứng vào hàng 10 nước nghèo nhất thế giới, có người nói vào hàng áp chót trên thế giới nữa. Lợi tức trung bình mỗi năm tính theo đầu người chỉ được 50 Mĩ kim, hai phần trăm của Nhật.
Ông chắc không bao giờ ngờ là hơn 60 năm sau, dưới sự lãnh đạo ưu tú của Đảng Cộng sản Việt Nam, GDP của dân Việt Nam còn thấp hơn cả dân… Thái Lan!
Phân phối
Xuất cảng chỉ còn than đá, xi măng, cao su – hơn hay kém trước tôi không biết - những hàng lặt vặt như bia, đồ hộp, tranh sơn mài, tôm… thì không đáng kể, mà mỗi năm một suy như đã nói ở trên. Nhập cảng cũng rất ít vì thiếu ngoại tệ, cho nên thứ gì cần lắm như xăng, nhớt, bột mì, máy móc mới bất đắc dĩ phải nhập khẩu; ngay đến dược phẩm cũng đành chịu thiếu thốn.
Đánh tư bản
Đây là một trong những độc chiêu đầu tiên cộng sản Việt Nam hành xử ngay trong những ngày tháng đầu ở miền Nam:
Hồi 30-4-75, ai cũng biết tư bản sẽ bị đập, thương mãi bị dẹp. Cho nên khi chính quyền ra lệnh các nhà buôn, nhà kinh doanh có môn bài, cửa tiệm phải đăng kí (kê khai), còn những thứ hàng nào, mỗi thứ bao nhiêu, giá bao nhiêu… (các người cho thuê nhà cũng phải khai) thì những người thức thời làm bản kê khai rồi tặng chính phủ. Trái lại, một nhà xuất bản và nhà sách khác lớn hơn nhiều, tin rằng mình làm ăn đứng đắn, quen nhiều nhà văn cách mạng, sẽ được yên, nên chỉ tặng chính phủ một phần nhỏ tài sản thôi và rốt cuộc mất gần hết nhẵn mà lại phải đi cải tạo mấy năm…
Chiến dịch kiểm kê đầu tiên để đập tư bản xẩy ra cuối năm 1976. Chính phủ đã chuẩn bị kĩ lưỡng, dùng rất nhiều sinh viên, thanh niên, nhốt họ trong trường hay trong cơ quan, không cho về nhà, không cho tiếp xúc với người ngoài, dạy cho họ trong một tuần (?) cách thức kiểm kê ra sao, phát giác những chỗ giấu đồ ra sao - nhất là vàng, kim cương - của bọn tư bản. Thành phố xôn xao dữ dội… Sau vụ đó, một số người bỗng hoá ra giàu. Hậu quả là tài sản của giới này chuyển qua giới khác một phần lớn, chính phủ được hưởng một phần nhỏ.
Ta thấy ngay là mục đích và thành quả của vụ đánh tư bản không khác gì với vụ đổi tiền. Vì vậy, sau đó, dĩ nhiên là cũng phải có màn đánh tư bản tập nhì:
Kết quả lần đầu đó được khả quan nhưng chưa được mãn ý, hai năm sau - 1978 – chính phủ đập một vố nữa: kiểm kê những nhà đã kiểm kê rồi, cả những nhà đã trả môn bài, cống hiến một phần gia sản, xem họ còn giấu gì hay không. Lần này kết quả không được tốt đẹp lắm mà hình như có trường hợp lạm quyền…
Chợ trời
Buôn bán chợ trời trong thời gian đó là một cách duy nhất để dân miền Nam sinh sống, vì thế:
Các tiệm lớn bị đóng cửa càng nhiều thì chợ trời càng phát đạt, càng đông, có đủ mặt hàng. Tất cả các tỉnh, các quận, đâu có buôn bán là đó có chợ trời… Cảnh sát lại đuổi họ thì họ chạy đi, cảnh sát đi khỏi rồi thì họ tụ trở lại, y như một bầy kiến bị ném một cục đá… Họ đông quá, nhiều người thất nghiệp quá, phải kiếm ăn cách đó…
Chợ trời giúp cho cách mạng được nhiều: cán bộ ngoài Bắc vào mua đồng hồ, máy thâu thanh, ti vi, tủ lạnh, xe đạp, giầy dép, quần áo… cơ quan nào cần cái gì thì cứ ra chợ trời, từ chiếc quạt máy, cái máy tính, dụng cụ y khoa, thuốc tây, đến cây bút bi… nếu không mua ở chợ trời thì mua ở đâu?
Và nhà nước ra tay cấm cản, thu dọn các chợ trời tưng bừng, nhưng không sao dẹp được (nếu dẹp hết đi thì dân làm sao mà sống được?), đành chịu thua:
Từ khi trung ương ra lệnh “không ngăn sông cấm chợ”, chợ trời được thể, phát triển càng mạnh.
Theo tôi, đây là dấu hiệu của cái vòng luân hồi như ông đã viết dưới đây:
Tháng 8-1981 chính quyền mới ra lệnh dẹp hết các sạp thuốc tây, bắt họ phải mở tiệm, có dược sĩ kiểm soát để khỏi bán đồ giả. Phải có vốn lớn mới thuê nhà, mở tiệm, mướn dược sĩ được - nếu có đủ dược sĩ – như vậy là trở về chế độ tư bản trước 1975 rồi. Cái vòng luẩn quẩn.
Vậy thì kinh tế tư bản đã bắt đầu được áp dụng trở lại từ lúc đó rồi. Và càng mạnh hơn về sau này, đến nay, nó được nguỵ trang dưới một cái danh hiệu mới mẻ nhưng không kém phần quái đản: kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa!
Phân phối nhu yếu phẩm
Năm 1975, trong nước còn nhiều sản phẩm nên mỗi tháng mỗi người dân ở thành phố được mua đủ gạo ăn, một hay nửa kí đường, một ít thịt cá, xà bông, dầu lửa…
Năm 1979, sản phẩm trong nước cạn dần, chính phủ phân phối cho dân được rất ít: gạo, bo bo, mì sợi may ra còn được đủ, còn những thứ khác thì năm thì mười hoạ mới được một chút ít… nhưng hạng cán bộ cao cấp có tiêu chuẩn riêng, có “bìa”, thì được phân phối quá đầy đủ…
Đó là chính sách chung của các nước trong phe chủ nghĩa xã hội… Việt Nam y hệt Nga và còn thua Trung Hoa một bực. Ở Trung Hoa, Mao chia giới cán bộ thành 30 cấp (thời Chiến quốc, Trung Hoa chỉ có 10 cấp thôi, theo sách tả truyện), mỗi cấp có tiêu chuẩn, đặc quyền riêng...
Phần này ông viết khá dài, ông có kể chuyện phong liêu, quan cách ở Trung Hoa ra sao, chuyện “Chính phủ lại bắt dân hùn tiền lập hợp tác xã tiêu thụ” mà sau đó: “Mỗi năm tính lời một lần, số lời đem ‘tặng’ chính phủ một phần lớn, còn bao nhiêu chia cho xã viên, nhưng không cho rút ra, mà chẳng được bao nhiêu, nên không ai xin rút ra”. Và câu kết luận là:
Cách thức phân phối rất bất tiện cho dân.
(còn 2 kì)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:04:13 GMT 9
Giáo dục – văn hoá
Giáo dục
Đoạn đầu này, ông viết về nền giáo dục Việt Nam lúc đó như sau, không biết được rằng bây giờ học phí ở bậc tiểu học không còn miễn phí nữa, mà còn tăng lên một cách phi mã, khiến việc lo kiếm tiền cho con em đi học là cả một chật vật lớn lao đối với những bậc phụ huynh; còn bậc đại học thì hiện nay sinh viên không kham nổi học phí, đã có tình trạng “học chui”:
Chính quyền rất coi trọng giáo dục, mở rất nhiều nhà trẻ, trường học từ mẫu giáo tới đại học. Giáo dục mới đầu hoàn toàn miễn phí, do đó có vẻ rất bình đẳng. Ở đại học, sinh viên nào cũng được trợ cấp mỗi tháng 18 đồng, tuy không đủ, nhưng cũng đỡ cho cha mẹ. Dĩ nhiên phải như vậy, nếu không thì không ai cho con học đại học được. Các đồng bào thiểu số cũng được dạy dỗ như người Kinh, đó cũng là điểm đáng khen nữa.
Dưới bất cứ chế độ nào, bất cứ ở đâu, trẻ em là mầm non của dân tộc, dễ uốn nắn. Vì thế, bài học đầu tiên ở dưới chế độ cộng sản Việt Nam là:
Trẻ em được cưng nhất, được coi là cháu Bác Hồ… Và người ta dạy (các em) phải ghi ơn Bác Hồ trước hết… Và cô chỉ hình Bác Hồ cho chúng coi. Chúng tiu nghỉu, chẳng hiểu gì cả. Bác Hồ là ai? Chúng đã gặp lần nào đâu? Có bồng bế chúng lần nào đâu? Có mua kẹo bánh cho chúng đâu? Cha mẹ các em đó nghe con kể vậy, bất bình, có người không cho con tới lớp nữa. Họ không hiểu đường lối cách mạng, lạc hậu quá.
Chương trình học:
Học mẫu giáo một hai năm, sáu tuổi lên cấp I, năm năm sau lên lớp 6, cấp II, khỏi thi. Lên lớp 10, cấp III thì phải thi.
Phương thức dạy học:
… sách giáo khoa mà sai – và vẫn thường sai - chẳng hạn bảo Sài Gòn nằm trên bờ sông Cửu Long thì tất cả các giáo viên cũng phải dạy sai như vậy, không được phép sửa; rồi báo cáo lên ti, ti lên bộ. Chỉ có bộ mới có quyền sửa sai, và phải hai ba năm sau, in sách mới, người ta mới sửa. Tôi thấy kì cục quá, không tin nổi, năm sau hỏi một giáo sư đại học Hà Nội, ông xác nhận là đúng: cái gì Bộ Giáo dục in thì phải coi là pháp điển, phải tuân theo triệt để.
Do đó, “thành quả” của nền giáo dục trong chế độ cộng sản nói chung, và ở Việt Nam nói riêng:
Tôi hiểu chính sách của người ta rồi: luyện tinh thần kỉ luật, làm tiêu ma óc phán đoán, ý chí cá nhân; và tôi không trách một đứa cháu tôi ở Hà Nội, một cán bộ cao cấp, vào hạng trí thức, năm nay trên 60 tuổi, có tú tài Pháp hồi thế chiến thứ nhì mà không có một chút tinh thần phê phán nào hết, trên nói sao thì tin vậy, đúng như người Pháp nói; có thể “avaler touts sorts de couleuvres”.
Chính sách giáo điều nói trên bây giờ vẫn y hệt như vậy, con người trong một xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đào tạo để nghe theo lời đảng dạy một cách máy móc, thiếu hẳn tư duy.
Đặc biệt ở miền Nam Việt Nam:
Muốn vô đại học thì sức học không quan trọng bằng lí lịch… Ra trường chắc chắn được bổ dụng… Thủ trưởng bắt làm gì cũng phải làm: cán sự điện tử mà làm lao công, dược sĩ mà giữ kho… Vì tất cả những lẽ trên, ở Nam thanh niên chán học, số học sinh lớp 12 kém xa năm 1974…
Một thí dụ về những học viên trong “chương trình giáo dục tiền tiến” này:
Một điểm tấn bộ là chính quyền mở nhiều lớp bổ túc văn hoá cho công nhân viên, cán bộ… Có đủ các cấp I, II, III. Vài cán bộ y sĩ, dược sĩ bốn năm chục tuổi, thời kháng chiến không được học, nay học bổ túc từ lớp tư, lớp năm… Học xong mỗi khoá phải thi. Nhưng thi rất dễ. Nghe nói có thầy đọc câu trả lời cho thí sinh chép, vì bắt những cán bộ mấy chục tuổi đảng thi lại hoài thì cũng kì, mà lại bị cấp trên trách là không biết dạy. Tiện hơn hết là cho đậu bừa đi. Ai cũng biết đó chỉ là hình thức. Có dược sĩ trình độ mới tới lớp tư, học rút trong hai năm hết lớp 10, như vậy đủ rồi. Một nhân viên công an cấp cho tôi giấy phép đi đường một tháng mà đề từ 31-1 đến 31-2-1980.
Văn hoá
Có lẽ việc quan trọng cần phải làm cấp kì và kĩ lưỡng nhất sau khi cưỡng chiếm miền Nam là tận diệt, xoá tan đi một nền văn hoá mà cộng sản miền Bắc cho là nguy hiểm, phản động:
Một trong công việc đầu tiên của chính quyền là huỷ tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của Bộ Văn hoá nguỵ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt.
Vụ đốt sách báo miền Nam thứ nhất:
Năm 1975, Sở Thông tin Văn hoá TP Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt… ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi truỵ trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.
Vụ huỷ sách miền Nam thứ nhì:
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba huỷ”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải huỷ hết, vì nếu không phải là loại phản động (một huỷ), thì cũng là đồi truỵ (hai huỷ), không phải phản động, đồi truỵ thì cũng là lạc hậu (ba huỷ), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lí…
Và dứt điểm là:
… năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc huỷ sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh huỷ hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của ông cha mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải huỷ ráo.
Một thí dụ điển hình mà chính ông là nạn nhân:
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại Sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Huỷ hết, huỷ hết.
Có lẽ mục đích của cuộc phá huỷ văn hoá miền Nam là tận diệt cho sạch tàn dư Mĩ nguỵ và để cho văn hoá miền Nam được “tiến” lên ngang hàng với văn hoá miền Bắc. Mà cái văn hoá đó thì ông đã đánh giá nó như sau:
Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được…
Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà Nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin lời đó được.
Và đây là trí thức của tầng lớp cán bộ văn hoá chỉ huy:
Một nhà văn hợp tác với Viện Khoa học Xã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông “bự”. Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không làm nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ văn hoá vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!
Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?
Kẻ cai trị mà như vậy thì người bị trị như thế nào?
Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài Gòn, loá mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Hậu quả của chính sách văn hoá ngu dân, nhồi sọ:
Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.
Y tế
Dân trong ấp, xã bị bệnh thì lại họ (nhân viên y tế nông thôn) trước, họ không trị được thì đưa ngay lên quận; quận có bác sĩ đa khoa, trị không được thì đưa ra tỉnh; tỉnh có bác sĩ chuyên khoa, đủ dụng cụ, đủ thuốc… Lần lần nhân viên y tế nông thôn vừa làm việc vừa học thêm, có thể lãnh trách nhiệm quan trọng hơn, đưa lên giúp việc ở quận. Chính sách đó rất họp lí và chính quyền mình cũng đã áp dụng nó. Đó là một điểm tấn bộ.
Trình độ nhân viên y tế:
Nhưng vì chiến tranh, nhân viên y tế các cấp của mình da số ít được học, nên chúng ta thấy những y sĩ (y sĩ Bắc có quyền ra toa, nhưng kém bác sĩ một bực), học chỉ tới lớp năm (hết cấp I), chỉ biết dăm chục tên thuốc, không biết đo huyết áp, không biết thế nào là đau mắt hột… chỉ đáng làm một nhân viên y tế nông thôn thôi. Còn bác sĩ được đào tạo ở Bắc thì xét chung, sự hiểu biết cũng kém xa bác sĩ đào tạo ở Nam… Nhân viên y tế nông thôn cũng thiếu, tinh thần trách nhiệm rất thấp: một huyện nọ người ta tiêm thuốc ngừa dịch tả cho ba người lớn và chín trẻ em thì tám trẻ chết.
Tình trạng của nền y tế lúc đó:
Tệ nhất là nạn thiếu thuốc, thiếu cả thuốc đỏ, thuốc tím, do đó sinh ra nạn ăn cắp thuốc, ra toa cho người không có bệnh để họ bán thuốc chợ đen.
Nhưng:
Cũng may mà có hằng trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gửi thuốc về giúp thân nhân, nếu không sức khoẻ của dân sa sút không biết tới đâu.
Vậy mà những kiều bào đó, lúc đó và ngay cả gần sau này, đều bị chửi là trốn nước cầu vinh, từ bỏ quê hương, không chịu ở lại cùng khổ với nhân dân để kiến thiết đất nước!
Tệ nhất là nạn thiếu vệ sinh… từ cơ quan tới đường sá, tư gia, đâu đâu cũng dơ dáy… Nhiều cơ quan nuôi gà, heo ngay trong phòng của họ, và từ trên lầu thượng họ trút nươc dơ xuống đường. Phòng bệnh nhân trong các bệnh viện hôi hám không chịu nổi; phải bịt mũi khi đi tới gần cầu tiêu… người ta phóng uế đầy đường.
Một hí kịch của nhà nước:
Gần cuối kế hoạch năm năm đầu tiên (1976-1980), người ta làm một “chiến dịch” vệ sinh để “dứt điểm” và người ta lựa ngay khu sạch sẽ nhất trong thị xã làm “thí điểm”, phái một nhóm người đi xịt thuốc DDT cho từng nhà; thuốc đã pha loãng nhiều rồi mà lại chỉ xịt vài phòng tối, vài bụi cây thôi. Không cần xem xét chỗ chứa rác, cầu tiêu. Thế là xong chiến dịch, có thể báo cáo lên trung ương là đã dứt điểm.
Xem xong thì ông phải lên tiếng than:
Chính sách, đường lối tuy đúng mà thiếu người, thiếu phương tiện, thiếu tinh thần thì cũng hoá dở.
Chính sách, đường lối lúc ấy không biết có đúng hay không, nhưng chính sách, đường lối y tế bây giờ là lập lòe đánh lận con đen, dịch tả đang lan tràn thì nói trại đi là dịch “tiêu chảy cấp”.
Tư pháp
Tình trạng sinh viên miền Nam sau 1975:
Từ năm 1975, trường luật bị bãi bỏ. Sinh viên luật có thể xin chuyển qua ngành kinh tế, ra làm các ngân hàng. Nhưng đa số bỏ học, làm phu khuân vác, đạp xích lô… Đó là chuyện 1975. Nay thì thanh niên trí thức làm đủ các việc lao động rồi, bổ củi mướn, chở cát, vác gạo…, không ai ngạc nhiên, mà cũng không ai thương hại cho họ nữa, họ dễ dàng kiếm được vài ba chục đồng một ngày mà lại tự do, chứ không làm thư kí ngân hàng 40 đồng một tháng thì sống sao nổi. Vả lại lao động là vinh quang mà. Nữ sinh viên thì bán thuốc lá rời hoặc quần áo cũ ở lề đường.
Tình hình ngành tư pháp sau năm 1975:
Trong Nam trước năm 1975 chưa có bộ luật mới, tạm dùng bộ luật cũ. Còn ở Bắc bỏ luật cũ mà không có luật mới (nghe nói năm 1981 người ta mới tính thảo bộ luật mới), không có trường luật thì tôi không hiểu người ta dạy xử án ra sao.
Ông kể một vài thí dụ về những vụ xử sau năm 1975:
Năm 1975 có lần tổ chúng tôi họp để xử một người trong tổ mắc một tội nào đó tôi không nhớ. Ông tổ trưởng đề nghị hai cách trừng trị… Cách nào được nhiều người đồng ý thì theo cách đó… Khi phường có toà án nhân dân rồi (năm 1978?) thì để toà xử. Một “ông toà” là học trò cũ của một bạn tôi. Tôi hỏi cậu ta: “Cháu xử theo luật nào?” Cậu ta cười, đáp: Cháu đặt ra luật để xử - Thực vậy sao? - Dạ, bây giờ ai đặt luật cũng được. Vì có bộ luật nào đâu?
Tuy nhiên:
Cũng có luật sư do chính quyền chỉ định để bênh vực cho bị cáo… Chính phủ bênh vực giai cấp vô sản; hạng bần dân dù bị tội nặng cũng xử nhẹ - trừ tội phản động dĩ nhiên.
Và:
Hiến pháp vẫn trọng quyền tư hữu nhỏ, nhưng đảng còn trọng lập trường giai cấp hơn. Giai cấp được trọng nhất là giai cấp đảng viên, như giai cấp quí tộc đời Chu ba ngàn năm trước… Giai cấp yên thân nhất là giai cấp vô gia cư, vô nghề nghiệp.
Không khác gì chế độ phong kiến hồi xưa! Câu cuối của ông khiến cho ta phải ngừng đọc mà suy nghĩ, nghiền ngẫm thêm một tí…
Ngoại giao
Về ngoại giao nước mình đã đứng hẳn về phe cộng sản. Như vậy các nước tư bản ngại không muốn đầu tư vào Việt Nam mà sự phát triển kinh tế sẽ chậm.
Đó là nguyên nhân khởi thuỷ của màn suy sụp kinh tế trong những năm 1975-1985. Tình hình ngoại giao với mấy nước anh em sát biên giới cũng không khá hơn:
Có người lại bảo tại mình mới thắng được Mĩ, mình đã muốn làm chủ cả bán đảo Đông Dương… Khi Miên, Việt hục hặc với nhau ở biên giới (nghe nói từ đầu năm 1976?) thì tôi đã ngạc nhiên; rồi đầu năm 1979, Trung Hoa đem quân tàn phá mấy tỉnh cực bắc của mình thì ai cũng chán nản, kể cả một số bạn của tôi ở Bắc. Thế này thì tình anh em trong thế giới cộng sản cũng chẳng đẹp gì hơn tình giữa các nước tư bản với nhau ư?...
Vậy là chiến tranh thứ nhì của dân tộc mình mới chấm dứt được vài năm thì chiến tranh thứ ba đã bắt đầu. Từ cách mạng tháng 8 năm 1954 đến nay đã trên 35 năm rồi, gần như chiến tranh liên miên, bây giờ phải chịu hoạ binh đao mấy chục năm nữa? Khắp thế giới không có dân tộc nào khổ như mình. Công việc kiến thiết quốc gia đành chậm lại nữa, kinh tế sẽ xuống dốc nữa.
Cũng may Đảng ta đã “sáng suốt” dâng đất, nhường biển cho Trung Hoa nên sau đó chúng mới để đảng ta yên mà thực hiện chính sách “đổi mới” hầu củng cố địa vị độc tôn, nắm đầu thắt cổ nhân dân cho tới bây giờ. Nhưng sau đó thì hậu quả lại khôn lường, lúc biết ra thì lòng dân sôi sục, thanh niên sinh viên học sinh tự phát biểu tình đòi chủ quyền tại Hoàng Sa - Trường Sa thì bị ngăn cấm, bắt bớ, đàn áp. Đảng chỉ sợ đàn anh phật lòng mà không coi trọng đến tình cảnh nhân dân uất ức trước nỗi nhục mất đất, trước nỗi đau bị cướp đi tài sản thiêng liêng của tổ tiên để lại.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:05:28 GMT 9
Tôn giáo
Ông viết rất ít về phần này. Tôi xin ghi hết cả ra đây:
Về tôn giáo, chính sách của chính phủ là tôn trọng tự do tín ngưỡng, miễn là các giáo phái yên ổn tụng niệm.
Mấy năm đầu có vài sự bất hoà, xung đột nhỏ, dẹp được ngay (bắt một số tu sĩ Công giáo và Phật giáo), và hai ba năm nay chính quyền trả lại chùa chiền cho giáo hội, không dùng làm nơi hội họp nữa; ở vài nơi tín đồ tới chùa khá đông, rất ít đàn ông. Nhiều nhà tu hành hoàn tục để mưu sinh. Cũng có một số vượt biên. Không còn hạng khất sĩ nữa, họ tự giải tán, mỗi người đi mỗi nơi để kiếm ăn.
Có thể nói chính sách của mình cởi mở hơn Trung Hoa.
Đảng viên không được theo tôn giáo, cũng không được cúng tổ tiên, nhưng được phép “tưởng niệm” (sic) mà không đốt nhang, không vái, ai muốn làm giỗ ông bà thì phải đóng cửa làm lén.
Bây giờ thì ta đã biết rồi: linh mục thì bị bỏ tù, hoà thượng thì bị theo dõi. Phật giáo thì bị chia làm hai, phe không nghe lời của đảng thì bị cấm hoạt động. Công giáo thì bị đặt điều bởi chủ tịch nhà nước qua báo chí của đảng, bằng cách đút vào miệng chủ tịch nhà nước những câu tuyên bố láo khoét.
Chương XXXIII - Kết quả sau 5 năm
Thất bại trong hoà bình
Đây là chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng với dân chúng miền Nam sau năm 1975:
Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ cái đã, không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”
Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.
Ông đưa ra bốn cái thất bại của nhà nước đương thời cùng những lí do của nó. Cái thất bại thứ nhất:
Thất bại lớn nhất, theo tôi là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hoà bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối năm 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc…
Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “nguỵ” hết, truỵ lạc, bị nhiễm độc nặng của Mĩ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến là dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi. Họ chỉ nhìn bề ngoài… Bọn thanh niên hư hỏng ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.
Sự khinh rẻ giữa Bắc - Nam:
Người Bắc coi người Nam là nguỵ, đối xử người Nam như những thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là nguỵ thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa”. Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ Chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hoá, kĩ thuật - điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là nguỵ nữa, vì nguỵ có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú… Thì ra: “Nhìn xa ngỡ tượng tô vàng…”
Và trong chăn mới biết có rận:
Ngay giữa các đồng chí cũng không có tinh thần đoàn kết…Chính vì thiếu đoàn kết nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và miền Bắc có câu này: nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.
Cái thất bại thứ nhì:
Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn hồi trước nhiều.
Sự bất công (cũng như tham nhũng) xẩy ra đầy rẫy trong xã hội, suốt cả chiều ngang lẫn chiều dọc, điển hình là:
Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Li để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả...
Sài Gòn đưọc giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu,, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hoà không khí v.v…) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?
Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ năm 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng như vậy. Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phảo xoay xở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!”
Cái thất bại thứ ba:
Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng nên không có kỉ luật, dưới không tuân trên, loạn.
Nguyên nhân là cán nặng hơn gáo, dưới chẳng nghe trên, vì:
… mỗi tỉnh là một tiểu quốc…
Và:
Vì mất kỉ luật cho nên thanh niên mới trốn nghĩa vụ quân sự… Tinh thần vô kỉ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không… trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng. Một cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.
Cái thất bại thứ tư:
Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược trên.
Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau hai chục năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi tới 60%-70% (tháng 8-1980, một cán bộ giáo dục ở Hà Nội vào bào tôi bây giờ họ phải ăn độn 90%, cực khổ hơn những năm 1973-1974 nhiều lắm, mà tình trạng đó còn kéo dài lâu. Thân phận không bằng con heo ở trong Nam); có hồi gạo quí tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà. Bát ăn mỗi người mỗi năm chỉ được một cái, hễ vỡ thì phải ăn bằng sọ dừa. Vài mỗi năm chỉ được phát một hai thước đủ để vá áo (ở miền Nam năm 1980, có nơi mội người chỉ được 6 tấc). Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai…đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường.
Nhưng một người Ba Lan ở trong Uỷ ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bào chỉ trong 5 năm miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo… về gíup bà con ở đây thì chúng ta ngày nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.
Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 thì đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu.
Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long Xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.
Chắc chắn ông thể ngờ rằng, cho đến bây giờ, năm 2007, dân chúng nước Việt Nam vẫn sống trong cảnh đói nghèo và “Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo mà hằng năm vẫn còn hàng trăm nghìn đồng bào chỉ được ăn cơm khi ngày lễ, ngày tết, khi bị ốm” như lời một ông Bộ trưởng bộ Nông nghiệp đã tuyên bố.
Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ… để bán cho ‘ve chai’. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.
Ở Bắc tình hình hiện nay điêu đứng hơn những năm kháng Mĩ. Nghe nói ngoài đó đã xuất hiện câu ca dao:
Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh, Ba anh có biết dân tình hay không? Rao muống nửa bó một đồng Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân.
Ở Nam có nơi hai tháng nhân viên chưa được lãnh lương, chắc nhiều gia đình không đủ tiền mua rau muống cho con nữa. Một bạn tôi đã phải ăn nước mắm kho khô.
Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quĩ?) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kì một dịp gì cũng liên hoan được… mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít… Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn thật mau (tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô tất Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng.
Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường đại học Hà Nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn… Dù muốn sống sạch cũng không thể được... Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế - mà trước kia họ sống rất sạch - mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh bốn năm người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.
Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.
Xã hội sa đoạ
Ông bất mãn với cái xã hội Việt Nam sau năm 1975:
Điều đáng ngại nhất là sa đoạ về tinh thần, tới mất nhân phẩm.
Tham nhũng lúc đó đã là một “quốc nạn”:
Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng, cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén lút. Có giá biểu đàng hoàng…
Nếu một cán bộ nào bị dân tố cáo nhiều quá thì người ta cũng điều tra, đưa cán bộ đó tới một cơ quan khác (có khi còn dễ kiếm ăn hơn cơ quan cũ), đem người khác (cũng tham nhũng nữa) lại thay. Ít tháng sau dân chúng nguôi ngoai rồi, người ta lại đưa kẻ có tội về chỗ cũ. Người ta bên vực nhau (cũng là đảng viên cả mà) vì ăn chịu với nhau rồi. Dân thấy vậy, chán, không phí sức tố cáo nữa. Có người còn bảo: “Chống chúng làm gì? Nên khuyến khích chúng sa đoạ thêm chứ để chúng mau sụp đổ…”
Lớn ăn cắp lớn, nhỏ ăn cắp nhỏ. Ăn cắp nhỏ thì chỉ bị đuổi chớ không bị tội, vì “họ nghèo nên phải ăn cắp”, mà nhốt khám họ thì chỉ tốn gạo nuôi… Ăn cắp lớn, không thể ỉm được thì phải điều tra, bắt giam ít lâu, rồi nhân một lễ lớn nào đó, ân xá; không xin ân xá cho họ được thì đồng đảng tổ chức cho vượt ngục rồi cùng với gia đình vượt biên yên ổn.
Và vô số những tệ nạn khác:
Nạn “phe phẩy” (buôn lậu, làm chợ đen) còn bành trướng hơn nữa… Người ta nói đã có những vụ buôn lậu thuốc phiện; nếu cò thì cũng nhỏ thôi, kém xa thời Mĩ, Thiệu. Nhưng đồ lậu như vải, thuốc thơm, thuốc tây… thì khoảng một năm nay lan tràn thị trường…
Có đồ lậu thì luôn luôn có đồ giả… nhiều nhất là dược phẩm Tây phương, vì thứ này vừa hiếm vừa đắt… Chỉ khổ dân quê…
Nạn cờ bạc không công khai như trước, nhưng nạn “xổ số đuôi” thì công khai rồi…
Nạn cho vay nặng lãi cũng kinh khủng… Bạn hàng ở chợ không chơi hụi tháng như xưa nữa, mà chơi hụi tuần, hụi ngày!
Nạn đĩ điếm đã hết đâu. Ngay cuối năm 1975, một cán bộ cách mạng đã bảo các bạn kháng chiến ở bưng về mắc bệnh hoa liễu hết rồi; một số cán bộ rất nghiêm trang đạo mạo – có kẻ ngoài 70 tuổi - từ Hà Nội vào, năn nỉ các bạn trong Nam chỉ chỗ cho họ hưởng thú mê li một lần cho biết mùi… Họ rất thích sách khiêu dâm…
Và đây là câu kết luận của ông về cái xã hội cộng sản Việt Nam lúc đó, tuy ngắn gọn nhưng chất chứa thật nhiều nỗi chán ngán; theo tôi, nó cũng là câu kết luận chí lí cho toàn cả “Chương XXXI - Kết quả sau 5 năm” này:
Tóm lại bao nhiêu cái xấu xa thời trước vẫn còn đủ mà có phần còn tởm hơn nữa.
Câu này, cho đến nay, đem ra thẩm định cho cái xã hội Việt Nam hiện tại thì vẫn còn đúng.
Con người mất nhân phẩm
Trong một xã hội như vậy, con người dễ mất hết nhân phẩm, hoá ra đê tiện, tham lam, bất lương, nói láo, không còn tình người gì cả.
Năm 1975 đa số các cán bộ, công nhân viên ở Bắc vào thăm gia đình, họ hàng ở trong Nam, còn giữ chút thể diện “cách mạng”, bà con trong này tặng họ gì thì họ nhận, chứ không đòi; về sau họ không giữ kẽ nữa, tặng họ một thì họ xin hai, không tặng họ cũng đòi, khiến một ông bạn tôi bực mình, nhất định đóng cửa không tiếp một người bà con, bạn bè nào ở Bắc vào nữa…
Đa số cán bộ ở Nam đã tư bản hoá rồi, một xã hội chủ nghĩa xã hội mà như vậy thì chủ nghĩa đó chỉ còn cái tên thôi.
Ông quả thật là tiên tri. Cái xã hội chủ nghĩa xã hội của Việt Nam bây giờ chỉ còn là cái tên mà thôi (nói đúng ra là chỉ là một cái bình phong cho chế độ độc tài), và các cán bộ đó đã bị tư bản hoá thành các đại gia, lãnh chúa hết rồi - nhà cao cửa rộng, tiền bạc ê hề,chuyển tiền ra nước ngoài, gửi con ra ngoại quốc “du học”... Mà hình như bây giờ người ta còn bàn tán là đảng cộng sản Việt Nam đang muốn rục rịch đổi tên nữa - chỉ là khoác một cái áo mới trên một con người còm cõi.
Vài trường hợp nhơ nhớp xẩy ra trong ngành viết văn của ông:
Một nhà văn đất Bắc làm cho một tờ báo nọ nhờ một nhà văn trong Nam viết bài, hứa sẽ trả bao nhiêu đó. Viết rồi, đưa họ, họ đăng, nhưng kí tên của họ rồi đưa cho nhà văn trong Nam nửa số tiền nhuận bút thôi, còn họ giữ lại một nửa. Vừa ăn cắp văn, vừa ăn chặn tiền. Chưa bao giờ miền Nam có bọn cầm bút bẩn thỉu như vậy. Một bạn học giả của tôi ở Bắc khuyên tôi đừng giao bản thảo của tôi cho ai hết, không tin ai được cả, họ sẽ đạo văn.
Cái mất tình người:
Sống dưới chế độ cộng sản, con người hoá ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia… Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó…
Nạn làm tiền, tống tiền lan tràn khắp các ngành, cả trong ngành cứu nhân độ thế và ngành tống táng.
Ôi chao! Ngành tống táng? Tôi không ghi ra đây một thí dụ của ông về chuyện này. Đại loại là nếu không có đủ tiền đút lót thì việc chôn cất hoặc hoả thiêu người chết sẽ không được làm một cách suôn sẻ. Trong một xã hội mà ngay người đã khuất rồi mà vẫn còn bị làm tiền thì ta không thể tưởng tượng được cái nhân tính thời đó tệ hại ra sao. Nguyên do?
Tất cả chỉ tại cái lệ chính phủ định giá, định lương rẻ quá không cho dân đủ sống, dân phải xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau. Cổ kim chưa một xã hội nào phi lí như vậy. Vì biết mình phi lí nên có nơi chính quyền làm ngơ cho bác sĩ làm ăn, cho phép các giáo viên nguỵ dạy thêm tại nhà.
Nói cho ngay, thời nào trong xã hội cũng có một số người lương thiện. Và ông Phạm Văn Đồng đã nhận rằng thời này hạng đó thiệt thòi nhất. Tôi được biết một hai cán bộ trung cấp liêm khiết, chịu nghèo, nuôi heo thêm, chứ không tham nhũng. Gia đình họ phải ăn rau muống; quần áo thì vá đụp; có thể nói họ nghèo như các nông dân nghèo nhất thời xưa.
Tóm lại sau 5 năm chúng ta không thấy chút tiến bộ nào cả mà chỉ thấy sự chia rẽ trong xã hội, sự tan rã trong gia đình, sự sa đoạ của con người, sự suy sụp của kinh tế.
Một chế độ mà sau hơn 60 năm cầm quyền ở miền Bắc và hơn 30 năm cầm quyền ở miền Nam, léo lái đất nước Việt Nam gần cả ba thế hệ con người mà ta vẫn thấy không khá hơn (nếu không nói là tụt hậu) thì ta phải nghĩ gì về chính sách và tập đoàn cai trị của chế độ đó?
Và theo ông, về cái tương lai của chế độ đó thì:
Ông Hồ Chí Minh có lần nói: “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người vẫn là quan trọng hơn cả. Có chế độ tốt, chính sách tốt mà không có con người tốt thì cũng hỏng hết. Ai cũng phải nhận rằng tinh thần, tư cách đại đa số cán bộ càng ngày càng sa sút, hủ hoá mà xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lùi xa. Ông Hồ đã thấy trước cái mòi suy vi đó khi thốt ra lời trên chăng?
(còn 1 kì)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:06:20 GMT 9
Phong trào vượt biên
Tôi không biết trước giờ giải phóng, từ Bến Hải trở vào, trong số trên 20 triệu dân có bao nhiêu người vội vã di cư để trốn cộng sản… Người nào cũng có tâm trạng não nề: bỏ quê cha đất tổ, bỏ thân thích bạn bè, bỏ cả sản nghiệp… để qua nước người ăn nhờ ở đậu, làm thứ công dân “da màu”, một thứ công dân hạng hai, và bắt đầu xây dựng lại từ đầu; như vậy ai mà vui cho được? Những người đi đó hoặc là quân nhân, công chức trong các chính phủ trước, hoặc đã có thời sống với cộng sản ở Bắc, sợ chế độ ngoài đó, đã di cư một lần nay lại di cư lần thứ hai. Những người ở lại, xét chung, đều sẵn sàng chấp nhận chế độ mới, dù chưa biết rõ nó ra sao; một số đông còn hăng hái tiếp tay với chính quyền mới để xây dựng một xã hội tốt đẹp cho tương lai nữa.
Nhưng chẳng bao lâu nhiều người thất vọng, qua năm 1976, đã có lác đác một số thanh niên vượt biên… Từ năm 1977 người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói: “ Cây cột đèn nếu đi được thì cũng đi”. Dù phải gian lao cực khổ tới mức nào, hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ờ lại trong nước mà chết dần chết mòn, người ta nghĩ vậy…
Có ba cách vượt biên. Cách chính thức, sướng nhất là có người thân, cha mẹ, vợ chồng hay con cái ở ngoại quốc xin cho được đoàn tụ gia đình…. Cách bán chính thức, theo nguyên tắc, cho người Việt gốc Hoa, nhưng người gốc Việt mà muốn thành gốc Hoa thì cũng không khó. Có tiền là được hết… Cách thứ ba lá đi chui, nghĩa là đi lậu. Một người đứng ra tổ chức… đút lót cho công an, chính quyền ở làng có bãi biển, đút lút cả cho công an vài nơi chung quanh để người vượt biên khỏi bị xét hỏi, thuyền yên ổn được rời bến ban đêm. Công an những nơi có bãi biển đó nhờ vậy làm giàu rất mau, có kẻ chỉ một hai năm được vài chục lượng vàng và ôm vàng vượt biên. Do đó mà trong dân gian xuất hiện một truyện tiếu lâm dưới đây.
“Môt hôm nọ, người canh Lăng Bác Hồ bỗng thấy xác ướp của bác biến đâu mất, hoảng hốt đi tìm khắp nơi, tìm ở nhà sàn của Bác không thấy, vế quê hương Bác ở Nghệ An cũng không thấy, nghi rằng bác vào chơi thành phố của Bác, liền vào Sài Gòn kiếm, sau cùng một đêm, thấy bác ngồi một mình, rầu rĩ ở bến Sáu Kho, Thành phố Hồ Chí Minh, hỏi bác, sao lại ra ngồi đấy, Bác đáp: “Bác không muốn ở nước này nữa, muốn qua phương Tây đây, mà tụi công an đòi Bác sáu cây, Bác có cây đâu mà nộp cho chúng”.
Thường là thoát được, ít khi gặp tàu tuần; nhưng nhiều khi gặp bão, thuyền chìm, làm mồi cho cá mập’ hoặc gặp bọn cướp biển Thái Lan… Mặc dầu nguy hiểm như vậy, người ta vẫn không sợ, thua keo này bày keo khác. Có người lần thứ tư mới thoát, lại có người lần thứ 10 vẫn chưa thoát, mà sản nghiệp tiêu tán hết, không biết sống bằng gì…
Từ cuối 1979 thêm một cách vượt biên nữa bằng đường bộ, ngã Cao Miên… Cũng nguy hiểm như vượt biển.
Những người bất kể gian lao rời nước, những Việt kiều mà trước đó bị chửi là phản nước và sau đó lại được tung bê là “khúc ruột ngàn dặm”, đã giúp dân miền Nam can qua đời sống khó khăn lúc đó như thế nào:
Người nào vượt biên được một nước nào tiếp thu rồi, được trợ cấp hay kiếm được việc làm rồi, cũng gởi ngay về cho thân nhân một gói thực phẩm, thuốc uống, quần áo… bán được một hai ngàn đồng. Họ làm lụng cực khổ, (rửa chén trong quán ăn…) nhịn hút thuốc để giúp gia đình vì biết rằng người ở lại thiếu thốn gấp mười họ. Chính nhờ họ mà nhiều gia đình miền Nam mới sống nổi, nhờ họ một phần mà dân miền Nam có thuốc tây để uống, có vải may quần áo, không đến nỗi rách rưới quá. Trong hoạn nạn tình cha mẹ, con cái, vợ ơhồng lúc này lại đằm thắm hơn xưa. Cái rủi thành cái may.
Về vật chất họ được đầy đủ, nhưng về tinh thần họ rất đau khổ. Nhờ bà con họ hàng, nhớ quê hương xứ sở, nhớ day dứt, gia diết. Họ khóc thương thân phận anh hay em ở trong các trại cải tạo mỗi bữa chỉ được nắm bo bo; thân phận cha mẹ chú bác phải đẩy chiếc xe bán củi, bán chuối dưới mưa, dưới nắng, đau ốm không có thuốc uống; thân phận con cháu quanh năm không được một li sữa, một cục đường… Có những thiếu phụ thay đổi hẳn tính tình: ở nước nhà thì thích trang điểm, dạo phố, họp bạn; qua nước người thì suốt ngày ở trong phòng lau chùi, quét tước, nấu ăn cho chồng con, không chịu ra đường, chồng con lôi kéo cũng không đi; một ngày kia họ sẽ loạn tinh thần mất. Khổ nhất là những bà 50-60 tuổi, không biết ngoại ngữ, không sao thích ứng được với đời sống Tây phương, mới xa quê được một năm đã đòi về, ngày nào cũng ngóng tin nhà, và được thư thì đọc đi đọc lại tới thuộc lòng. Ngày đêm họ quay băng “Sài Gòn ơi, li biệt” của Thanh Thuý, băng “Ta chẳng lẽ suốt đời lưu vong” của Phạm Duy mà khóc mướt. Giọng ảo não không kém bài hát dân tộc Do thái khi bị đày ở Babylon hồi xưa…
Thân phận của những người miền Nam ở lại:
Trong số những người ở lại, đáng thương nhất là những cặp vợ chồng già không có con cái, bị chính phủ chặn lương hưu trí, ráng sống lây lất vài năm bán hết đồ đạc để ăn rồi tự tử.
Rồi tới những người sản nghiệp tiêu tan vì đi kinh tế mới hoặc vì vượt biên mấy lần mà thất bại, sống cầu bơ cầu bất ở vỉa hè các thành phố lớn nhỏ như bọn ăn mày.
Rồi những cô giáo, cô kí chồng đi cải tạo 5 năm đằng đẵng, ở nhà xoay xở đủ cách, làm việc đêm ngày, nhịn ăn nhịn mặc để nuôi bốn năm đứa con, vài tháng lại tiếp tế cho chồng một lần. Họ vì hoàn cảnh mà hoá đảm đang, tư cách lại cao lên, không chịu nhận sự giúp đỡ của họ hàng, bạn bè.
Rồi những thiếu nữ học hết đại học Sư phạm hay Luật mà không muốn làm công nhân viên vì lương thấp quá, kiếm một cái sạp nhỏ nửa thước vuông bán thuốc rời hay quần áo cũ, thuốc tây ở lề đường, vất vả nhưng kiếm được 10-15 đồng mỗi ngày, đủ cơm cháo cho cha mẹ và em. Họ lễ phép, chăm chỉ, dễ thương.
Tất cả những người đó và còn nhiều hạng người khác nữa đáng tự hào là nguỵ. Nguỵ mà như vậy còn đáng quí gấp trăm bọn tự xưng là “cách mạng” mà tư cách đê tiện.
Cái chữ “nguỵ” ngày nay đã ít dùng rồi. Những người chính thức là nguỵ thì đã hoà đồng với đời sống mới, không còn mang tiếng nữa. Chữ “nguỵ” bây giờ được thay thế bằng chữ “phản động”, được áp dụng cho tất cả những ai có tư tưởng, hành động không có lợi cho nhà nước cộng sản Việt Nam. Còn tư cách đê tiện của “bọn tự xưng là cách mạng” thì ngày nay vẫn còn, mà lại tệ hại hơn trước nhiều; nó được thể hiện qua những vụ tham nhũng, cướp bóc của dân, và mua bán chức quyền với nhau. Chính bọn này, với tư cách đê tiện cố hữu của chúng, không nhiều thì ít, là cha đẻ của bọn “tư bản đỏ” và bọn “thẻ-đỏ-tim-đen” bây giờ.
Ông kết thúc đoạn này bằng một câu rất cảm khái:
Có ai chép Ba đào kí cho thời đại này không nhỉ? Trong tập kí đó dày ít gì cũng vài ngàn trang, truyện buồn rất nhiều mà truyện vui cũng không thiếu, truyện nào cũng cảm động, đánh dấu một thời và làm bài học cho đời sau được.
Người ta đã nhận định sai
Tôi xin ghi lại đây gần như trọn vẹn đoạn này của ông:
Vậy dù có lạc quan tới mấy cũng phải nhận rằng công việc xã hội hoá miền Nam này tới nay đã thất bại. Chỉ mới dựng được cái sườn thôi mà đã có nhiều dấu hiệu tỏ rằng sườn đó đã nghiêng ngả: rất nhiều cán bộ đã hủ hoá, hùng hục làm giàu bằng mọi cách, thành một bọn tư sản rồi, tinh thần quân đội đã sa sút, hợp tác xã nông nghiệp đã thất bại, chính sách kinh tế mới phải bãi bỏ; một vài địa phương đã rụt rè lập lại chế độ tư bản…
Ngành nào cũng kẹt, kẹt cứng, chính quyền không biết xoay xở ra sao, vá chỗ này thì toạc chỗ khác, càng dùng những biện pháp nhất thời thì càng lúng túng. Ngay các các bộ trung kiên cũng phải nhận rằng tình hình mấy năm sắp tới còn nguy kịch hơn… Thật bi đát.
Chỉ tại người ta đã tính lầm. Thắng được Mĩ rồi, người ta tin rằng sẽ làm bá chủ bán đảo Đông dương, không nhận định được đúng tình hình thế giới.
Người ta nhận định sai tài năng, đạo đức, tinh thần hi sinh của cán bộ, tưởng rằng cao lắm và có thể dễ dành kiến thiết miền Nam thành một xã hội xã hội chủ nghĩa, không ngờ cán bộ tuy rất đông mà rất kém cỏi về mọi mặt, mà tối đại đa số không ưa xã hội chủ nghĩa, thích đời sống miền Nam hơn.
Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hoá; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc…; cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm [Một thím làm tổ phó lo về đời sống, được công an phường gọi đi học tập. Mới hết buổi đầu, thấy công an chỉ dạy cách dò xét, tố cáo đồng bào (ăn uống ra sao, chỉ trích chính phủ không, khách khứa là hạng người nào…), thím ta xin thôi liền, về nói với bạn: “Tôi không làm công việc thất đức đó được”. Lớp học đó bỏ luôn] chứ đừng nói người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là nguỵ hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là nguỵ với nhau mà!
Như vậy mà đưa cán bộ Bắc vào cai trị họ, dạy chính trị họ thì làm sao không thất bại? Bọn đó quê mùa, ngu dốt, nghèo khổ, vụng về, tự cao tự đại, bị người Nam khinh ra mặt, mỉa mai; lớp dạy chính trị cho dân chúng mỗi ngày một vắng, hiện nay cả năm không họp một lần.
Một thất bại nặng nề của cách giáo hoá đó là báo Nhân dân không ai đọc, người ta mua về để bán “ve chai”, ngay cả bộ Lénine toàn tập cũng vậy.
Sau 5 năm, cả triệu cán bộ và thường dân Bắc vào Nam mà Bắc Nam miễn cưỡng sống với nhau, lơ là vói nhau, Nam coi Bắc là bọn thực dân, tự coi mình là bị trị. Làm gì có sự hợp tác?
Chương XXXII – Ta phải biết sống theo ta
Một cuộc đàm thoại – Bài học của cổ nhân
Phần này ông kể lại một cuộc nói chuyện với một bác sĩ trong nhóm cán bộ trẻ miền Nam (trong đó có nhiều người nằm vùng trước năm 1975), hỏi ông các tư tưởng của những triết gia Trung Hoa có thể còn được áp dụng vào thực trạng Việt Nam không. Ông đáp: “Vẫn còn nhiều điều dùng được”, rồi ông đưa ra những thí dụ sau, mục đích là để “ôn cố nhi tri tân”:
Khổng Tử trong thiên “Tiên tiến”, bài 24 (Luận ngữ) đã cảnh cáo chúng ta rồi. Tử Lộ, học trò của ông, làm gia thần họ Quí, tiến cử Tể Cao làm quan tể đất Phí. Khổng Tử trách: “Như vậy là làm hại con người ta” (vì Tử Cao chưa được học bao nhiêu). Tử Lộ đáp: “Làm chức tể thì có nhân dân để trị, có thần xã tắc (đất đai, mùa màng) để thờ (thế là học), hà tất phải học sách rồi mới gọi là có học?” Khổng Tử mắng: “Vì thế mà ta ghét những lời lợi khẩu” (cưỡng lí để tự biện hộ).
Ý của ông là:
… mấy năm nay đại đa số các thí thức Bắc, Nam, già trẻ mà tôi được gặp thường phàn nàn về chính sách “hồng hơn chuyên” của chính phủ. Đảng coi trọng những cán bộ có tư tưởng cách mạng, có công lao với cách mạng hơn những chuyên viên, dù những cán bộ đó không có học thì cũng chỉ huy những chuyên viên hiểu biết về ngành gấp mười họ. Ta thấy nhiều trường hợp ông chánh chỉ có tiểu học ra lệnh cho ông phó có bằng phó tiến sĩ, xen vào công việc chuyên môn của ông phó, nhất là lại có thái độ kì thị ông phó, vì biết rằng ông phó giỏi hơn mình, rồi do tự ti mặc cảm mà sinh ra hống hách, ngăn cản công việc của ông phó. Chính sách đó có hại cho việc kiến thiết; chính vì nó mà hầu hết các chuyên viên ở Nam rất có khả năng, rất có nhiệt tâm phục vụ mà không được chính quyền dùng; một số ít được dùng thì lại bị chèn ép…
Một bài học tương tự trong Kinh Dịch:
Kinh Dịch, quẻ Sư, hào 6 cũng đã khuyên ta khi chiến thắng rồi, luận công mà khen thưởng thì kẻ ít học, dân thường tuy có tài chiến đấu, lập được công, cũng chỉ nên thưởng tiền bạc thôi, không nên phong đất cho để cai trị, vì công việc kiến thiết quốc gia phải là người có tài, có đức mới gánh nổi… Ở nước ta ngày nay, chính quyền có cương quyết thay hết các ông hồng mà không chuyên đi thì lấy người đâu để làm việc, và cái phe hồng mà không chuyên đó, bị mất quyền lợi, tất cấu kết nhau, đâu để yên cho chính quyền. Cái hại đó, tôi e rằng một thế hệ nữa chưa hết được.
À, cái quẻ này thật là “phản động”. Nếu cứ nghe theo đó thì quyền lợi của đảng viên và tương lai đảng công sản sẽ tiêu ma đi mất làm sao? Đâu còn là cá mè một lứa, cùng chia nhau hưởng quyền, hưởng lợi nữa? Đúng là tự sát! Dĩ nhiên là cộng sản vô thần đời nào tin vào cái quẻ vớ vẩn như vậy. Đã thế, sau khi thống nhất Nam, Bắc, đảng còn tương thêm Điều 4 vào Hiến pháp Việt Nam, áp đặt chế độ độc quyền cai trị trên toàn nước. Cho vững.
Một thí dụ nữa cũng trong Kinh Dịch:
Chính vì không phân biệt chính sách thời bình và thời chiến mà sau khi hoà bình trở lại - ở Bắc năm 1954, ở Nam năm 1975 - Đảng cho địa phương tự trị như trong thời chiến, và lại dùng những người thời chiến để cai trị trong thời bình; do đó gây nhiều cái tệ mà tệ lớn nhất là cán nặng hơn gáo: mỗi tỉnh là một tiểu quốc, bất chấp cả trung ương… Như vậy là tiểu nhân tha hồ hoành hành, muốn tịch thu gì của hành khách cũng được, không ai răn đe họ khi họ mới mắc tội nhỏ, không ai chế ngự họ khi họ mới ló mòi, lâu rồi thành loạn. Tệ đó, quẻ Phệ hạp và quẻ Cấu trong Kinh Dịch đều đã cảnh cáo nhà cầm quyền từ ba ngàn năm trước rồi.
Bài học trách nhiệm trong việc trị dân:
Trong việc trị dân, người nào có quyền vị thì phải có trách nhiệm. Qui tắc đó rất sơ đẳng, bọn Pháp gia – như Thương Ưởng, Hàn Phi - đều nhắc tới nhiều lần. Mà đạo Nho thời nào cũng chủ trương rằng dân mắc tội là lỗi ở tại người trên; người trên mắc tội thì chỉ người trên chịu, dân không liên can gì tới. Trách nhiệm của người cai trị thật minh bạch; muốn vậy quyền của người trên cũng phải rõ rệt, chỉ người nào có trách nhiệm mới có quyền quyết đoán, mưu việc. Thiên “Thái Bá”, bài 14 (Luận ngữ) Khổng Tử bảo: “Không ở chức vị nào thì đừng mưu tính việc của chức vị đó”, như vậy để định rõ quyền hạn, trách nhiệm của mỗi người.
Chúng ta ngày nay theo chính sách “cai trị tập thể”, mỗi khi quyết định một việc gì, bất kì lớn nhỏ, cũng tập họp cả mấy chục đồng chí của nhiều cơ quan để thảo luận ở hội trường của tỉnh, huyện, hội trường nào cũng đồ sộ, xây cất rất tốn kém. Mỗi cơ quan lại có một hội trường riêng, nhỏ, họp hằng tuần về những vấn đề nội bộ. Quyết định tập thể có điểm tốt là biết được ý kiến nhiều người, tránh nạn độc đoán, nhưng hộp họp nhiều quá, tới nỗi mỗi tuần, nhân viên phải đi họp ba bốn buổi tối, lần nào cũng kéo dài hai ba giờ mà chẳng giải quyết được gì – vì càng nhiều ý kiến thì càng khó quyết định – thì mất thì giờ vô ích, ai cũng ngán. Tai hại nhất là công việc bê trễ, không ai dám lãnh trách nhiệm, trút trách nhiện cả cho tập đoàn, mà tập đoàn làm chủ tức là không ai làm chủ hết.
Một thí dụ về thắng bất tự cao:
Chương 30-31 Đạo đức kinh, Lão Tử khuyên kẻ dùng binh khi đạt được mục đích thi thôi, đừng ỷ mạnh, tự phụ, khoe công; thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay thì tức là thích giết người. Tổ tiên ta đã theo đúng lời đó. Lê Lợi sai khi thắng quân Minh, Quang Trung sau khi thắng quân Thanh, đều khiêm nhu, mềm dẻo với Trung Hoa.
Mustapha Kémal sau khi thắng quân Hi Lạp ở Dumulu Punar, bắt được hai tướng Hi Lạp là Tricopis và Dionys, tiếp đãi họ rất nhã nhặn trong lều của ông, mời họ giải khát rồi cùng nhau phê bình chiến lược của hai bên, làm cho họ phải khâm phục. Chính phủ mình có lẽ không ai nhớ bài học của Lê Lợi và Quang Trung, và tướng Trần Văn Trà chắc chắn không được đọc tiểu sử của Mustapha Kémal. Giá tướng Trà khi vào Dinh Độc Lập cũng nhã nhặn với tướng Dương Văn Minh như Kémal…
Và cái nhân đức trong việc cai trị dân:
Kinh Dịch, quẻ Giải khuyên khi loạn đã giải được rồi, chiến tranh đã hết, dân chỉ mong an cư lạc nghiệp, người trị dân nên có chính sách khoan đại, giản dị; tuy phải trừ những cái tệ cũ, nhưng chỉ nên sửa cho sự bình trị được lâu dài mà thôi, không nên xáo trộn nhiều quá, nhất là nên làm cho mau, đừng đa sự.
Giá chính phủ biết khoan dung lại biết giản dị, không cải cách gấp mà tiến hàng từ từ thì có thể 90% miền Nam đoàn kết với chính quyền mà sự cải cách tiến được đều đều, vững, không phải sửa sai, thụt lùi mấy lần, mà cũng không có sự tan rã, hỗn loạn trong xã hội như hiện nay.
Quẻ Cách lại khuyên thay cũ đổi mới là một việc khó, ngược với thói thủ cựu của con người, cho nên muốn có kết quả thì sự cải cách phải hợp thời, phải sáng suốt, soi xét rạch ròi, thận trọng, tính toán kĩ, làm sao thoả thuận được với lòng người, đừng nóng nẩy; và cải cách tới một mức nào đó thì nên ngừng lại, đừng cầu được hoàn toàn thì mói khỏi thất bại.
Mấy ngày đầu tháng 5-1975, người Nam nào cũng phục tinh thần kỉ luật của quân đội giải phóng và chính sách khoan hồng của chính phủ. Tuyệt nhiên không có cuộc “tắm máu” hồi tết Mậu Thân ở Huế như nhiều người lo ngại, mà cũng không có vụ trả thù cá nhân nào. Nhưng chẳng bao lâu, thái độ khinh bỉ, căm thù lần lần xuất hiện. Người ta coi đồng bào trong này đều là nguỵ hết, người ta mưu mô tước đoạt tài sản của nguỵ, bắt nguỵ đi kinh tế mới để cướp nhà của nguỵ. Tại giữa chợ Trương Minh Giảng, một chị cán bộ ở Hà Nội vô, nói với bạn cũng cán bộ ở Bắc vô sau: “Chị đừng lo, tụi nó sẽ bị đuổi đi kinh tế mới hết, lúc đó chúng ta sẽ có nhà rộng để ở”. Tinh thần chia rẽ, thù oán từ đó phát sinh và mỗi ngày hố giữa Nam Bắc mỗi sâu thêm.
Bài học về cải tạo:
Rồi chính sách bắt nguỵ quân, nguỵ quyền đi cải tạo nữa. Mới đầu người ta bảo mỗi người mang theo quần áo, thức ăn, tiền nong đủ cho 15 ngày, nên ai cũng tưởng chỉ độ 15 ngày là về, trong 15 ngày đó chíng quyền sẽ chỉ bảo, dẫn dắt cho hiểu đường lối của chính phủ, lối sống mới và diệt những thói quen tật cũ đi; như vậy là điều rất tốt, vá ai cũng hăng hái xách khăn gói lên đường cải tạo. Hết nửa tháng rồi hai ba tháng, rồi nửa năm vẫn chưa được về, lúc đó người ta mới hiểu rằng phải cải tạo cho tới khi nào thấy cải tạo hoàn toàn thì mới được về. Và khi nào xong thì không biết. Tới nay (1981), đã 6 năm, vẫn còn nhiều người chưa được về. Có thể bị cải tạo 10 năm như ở Nga chăng? Người ta quên bài học của tổ tiên: vua Trần Nhân Tôn sau khi thắng được quân Nguyên, bắt được tráp thư từ vãng lai với giặc của mấy ngàn người, không thèm coi, đốt đi hết, nhờ vậy mà đoàn kết được toàn dân.
Đọc cuốn J’ai choisi la liberté (đã dẫn), nhất là bộ L’archipel du Goulag của Soljenytsine (gồm 4 cuốn, 2 cuốn đầu đã dịch ra tiếng Pháp và in ở Paris trước 1975), chúng ta phải nhận rằng chính sách của ta không quá tàn nhẫn như chính sách của Nga. Một số trại của mình có chính sách nhân đạo nữa: ăn uống tuy thiếu thốn, nhưng được gia đình tiếp tế đều đều, nên người học tập không xuống cân, tinh thần tốt, được lao động vừa sức, được đọc sách báo… Nhưng có nhiều trại rất khắc nghiệt. Một thiếu phụ sau mấy năm xa cách, được đi thăm chồng tại một trại miền bắc Trung Việt, khi gặp chồng, không nhận ra được nữa, tưởng là người khác, mãi đến khi chồng cất tiếng hỏi, mới hết nghi ngờ. Chồng cô ta đã thay đổi hẳn từ thể xác tới tinh thần, mất mấy chục kí lô, đi không vững, hốc hác, chậm chạp, gần như một cái xác không hồn, lầm lì, hỏi mới đáp, không còn tình cảm, không suy nghĩ, không nhớ gì cả, sống mà như chết rồi.
Đi cả ngàn cây số mới tới trại mà chỉ được gặp mặt chồng có nửa giờ, lại không được khóc, nếu khóc thì bị đuổi ra liền. Hết nửa giờ, vợ chồng chia tay nhau, vợ nhìn theo chồng đẩy chiếc xe chở đồ tiếp tế về chỗ giam; khi chồng khuất bóng rồi, cô ta gục đầu xuống bàn mà khóc, khóc không biết bao lâu, hết nước mắt mới đúng dậy, loạng choạng ra khỏi trại.
Có trại gọi là “trại bò”, không phải để nhốt bò mà để nhốt những nguỵ quân nguỵ quyền cao cấp; phòng giam họ chỉ có một cái cửa cao độ một thước, muốn vô thì phải bò.
Lối trừng trị như vậy tôi cho là vô ích, không “cải tạo” được con người.
Nói tới cải tạo thì phải nói tới cái lừa lọc của nhà nước cộng sản đối với những người phải đi học tập:
Mở bộ Luận ngữ ra sẽ thấy cả chục bài khuyên nhà cầm quyền giữ chữ tín với dân, đặc biệt là bài 7 thiên “Nhan Uyên”:
Tử Cống, một môn đệ của Khổng Tử, hỏi về phép trị dân. Khổng Tử đáp: “Lương thực cho đủ, binh bị cho đủ, dân tin chính quyền”. Tử Cống lại hỏi: “Trong ba điều đó, nếu bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều nào trước?” Đáp: “ Bỏ binh bị”. Tử Cống lại hỏi: “Trong hai điều còn lại, bất đắc dĩ phải bỏ một nữa thì bỏ điều nào trước?” Đáp: “Bỏ lương thực. Từ xưa vẫn có người chết, nếu dân không tin chính quyền thì chính quyền phải đổ” (dân vô tín, bất lập).
Làm cho dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo nửa tháng mà rốt cuộc là phải đi 5-6 năm, có thể là 10 năm; bảo là cho họ đi học tập, cải tạo tinh thần mà sự thật để hành hạ, để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính quyền?... báo chí, các đài phát thanh chỉ thông tin một chiều, không cho dân biết sự thực, đến nỗi chính những cán bộ ở bưng về cũng phàn nàn rằng báo chí nói láo hết, như vậy làm sao mà tin chính quyền được.
Bây giờ ta vẫn nghe Đảng Cộng sản Việt Nam huênh hoang là toàn dân như một, dốc lòng tin tưởng, phò đảng, củng cố một chế độ độc tài cai trị. Vậy à! Xin làm ơn bắt chước Venezuela tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý đi, rồi thì cũng sẽ biết dân có tin hay không ngay thôi.
Tôi đã nói ở một chương trên, đại đa số những nguỵ quân nguỵ quyền ở trong nước không có tội gì cả, ngoài cái tội sống ở miền Nam, dưới chế độ Mĩ, Thiệu thì phải theo luật Mĩ, Thiệu; nhưng ngay cả những kẻ có tội đi nữa, nặng thì giết họ đi, nhẹ thì cứ dĩ trực báo oán, như vậy càng dễ cải hoá họ hơn, cần gì phải hành hạ như vậy; dĩ oán báo oán, oán bao giờ mới hết được? Đã hành hạ họ lại không cho con họ vô Đại học mặc dầu học giỏi. Người ta chê bài học của Khổng Tử: Thiên Ung Dã, bài 4 ông bảo cha Nhiễm Hữu (Trọng Cung) là người ác, nhưng Nhiễm Hữu là người hiền thì cũng dùng.
Ở thời Khổng Tử, chính quyền nào không được dân tin thì chính quyền đó phải đổ. Vì dân có thể nổi loạn, lật đổ vua, hoặc kéo nhau qua nước khác ở, tìm một ông vua khác để thờ. Ở thời đại chúng ta, khoa học đã tặng nhà cầm quyền những phương tiện cực kì hữu hiệu để đàn áp dân chúng; họ lại nắm sự phân phối thực phẩm, có những thuật mềm nắn dắn buông, vuốt ve dân chúng, cho nên một chế độ độc tài không bao giờ sụp đổ vì chính sách tàn bạo của nó; nếu một nhóm người cầm quyền biết đoàn kết với nhau, quyết tâm bắt dân theo đường lối của họ thì dân phải răm rắp cúi đầu tuân lệnh. Nhưng khi dân thấy chế độ độc tài không đem lại cho họ được một cái lợi gì thì họ phản kháng một cách tiêu cực, tà tà, lè phè, không hăng hái làm việc – chính quyền mình ba năm nay chống tiêu cực mà chẳng có kết quả gì cả - và khi chính quyền thấy chính sách độc tài không có lợi cho cả chính quyền nữa thì tất phải thay đổi chính sách.
Lúc này ai cũng thấy trong thành phần nòng cốt của chế độ, tức đảng viên, quân nhân, nhất là công an, đã chán nản, sa đoạ rồi.
Đúng rồi, với lề lối cai trị và thành phần đảng viên như vậy, bây giờ cái đà sa đoạ của tầng lớp lãnh đạo đó càng ngày thảm hạ, từ năm 1975 cho tới bây giờ. Đã đến lúc chính quyền cộng sản Việt Nam phải thay đổi chính sách. Và cái thay đổi quan trọng nhất là thừa nhận quyền tự do dân chủ thục sự của người dân, trả quyền làm chủ đất nước cho dân. Đừng đổ tội cho những người tranh đấu cho dân chủ là phản dân, hại nước mà theo dõi, cầm tù họ. Chống đảng hay hô hào cho sự thay đổi trong chính sách của đảng không có nghĩa là họ chống nước, phản tổ quốc.
Kinh Dịch đã xét trường hợp phải làm cách mạng (như trên tôi đã nói), lại xét cả trường hợp bỏ sự li tán mà đoàn kết lại (quẻ Hoán), muốn vậy phải bỏ tinh thần bè phái, để tập hợp quốc dân má lo việc nước, tức giải tán cái nhỏ để gom cái lớn lại. Việc đó chính phủ cách mạng đã có một lần làm rồi (1946). Hễ thành tâm thì có kết quả. Nhất là phải thay đổi chính sách kinh tế, bớt thuế má đi, phải để cho dân có lợi thì dân mới hăng hái sản xuất.
Không thể tặng cho người ta mĩ hiệu là “chiến sĩ xây dựng xã hội chủ nghĩa”, ngày đêm hô hào người ta “hi sinh cho đời con cháu được sung sướng” để bắt người ta sống cực khổ suốt đời, đời này qua đời khác được; vì nghĩ cho cùng khuyên người ta hi sinh cho đời con cháu thì có khác gì các cụ hồi xưa khuyên ăn hiền ở lành để phúc cho con; có khác gì các tôn giáo Ki Tô, Hồi Hồi, Phật khuyên tín đồ chịu cực trong cõi trần này để chết đi được lên thiên đường hoặc cõi niết bàn không?
Amen!
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:09:22 GMT 9
Mình theo cả những lầm lẫn của người
Ông viết mở đầu cho phần này như sau:
So sánh những nhận xét của tôi ở trên với những điều tôi đã được đọc trong mươi cuốn về đời sống ở Nga Sô, Trung cộng, tôi thấy chính sách của mình y hệt như chính sách của hai nước đàn anh đó, những lầm lẫn của mình chính là những lầm lẫn của họ.
Những lầm lẫn theo Nga:
Năm 1947, sau 30 năm cách mạng dân Nga cũng bị nhồi sọ như dân mình, xã hội cũng có những sự bất công… cũng có nạn bè phái như mình; cũng có lệ mhốn thưởng một cán bộ thì cho thêm một số tiền bỏ vào bao thư riêng; các ông lớn của họ cũng cách biệt quần chúng như ở nước mình;những kẻ gian trá cũng có thể lén lút làm mọi cái xấu xa, miễn là đừng chống chính quyền; người Nga nào cũng có hai mặt, ra ngoài thì khác như mình.
Họ cũng trọng hồng hơn chuyên, cũng thay đổi chủ trương, chương trình liền liền, thợ họ cũng không đủ ăn, công việc gì cũng không chạy; cán bộ của họ cũng sợ trách nhiệm như cán bộ mình; chính sách cải tạo còn tàn nhẫn hơn chính sách của mình; sự tổ chức bầu cử y như mình, v.v…
Những lầm lẫn theo Trung cộng:
Trung Hoa cũng có thời “trăm hoa đua nở” rồi mấy tháng sau hoa lại bị cấm nở; trăm hoa của mình cũng đua nở sau Trung Hoa ít tháng, và cũng bị cấm nở sau họ ít tháng. Năm 1966 mình khôn hơn Trung Hoa là không làm cách mạng văn hoá, nhưng năm 1978 mình cũng đã chuẩn bị kĩ để phát động một cuộc cách mạng văn hoá như họ, tính đốt hết các sách báo ở miền Nam… cách thức phụ cấp cho sinh viên, đối đãi với trí thức, chính sách học tập chính trị, hội họp ở phường, ấp, dăng, dán biểu ngữ ở khắp nơi, phát thanh bằng loa oang oang mà không ai buồn nghe…; cả lối giáo dục trẻ em, bổ túc văn hoá, công trình khai quật cồ tích chung quanh đền Hùng… mình đều theo sát gót Mao Trạch Đông.
Rồi ông nhận định là:
Tôi có cảm tưởng rằng mình chép đúng đường lối của hai nước đàn anh, không xét hoàn cảnh, dân tình, phong tục của mình có khác họ hay không. Tôi chưa thấy mình có một sáng kiến gì cả, ngay cả những danh từ như biên chế, phụ đạo, tham quan, tranh thủ… mình cũng chép nguyên của Trung Hoa.
Bây giờ thì Trung Hoa mới phát hành bạch thư giải thích về hiện trạng xây dựng một hệ thống chính trị đa đảng cho họ, chắc rồi Việt Nam cũng sẽ bắt chước đi theo con đường đó mà thôi.
Xu hướng của thời đại
Dự đoán sai của Marx
Ông đưa ra một vài điều tiên đoán sai của Marx: Cách mạng vô sản sẽ xuất hiện trước hết ở những xứ kĩ nghệ tiến bộ như Đức, Anh; nhưng sự thực nó đã xuất hiện ở Nga, một xứ kĩ nghệ kém nhất châu Âu hồi đầu thế kỉ chúng ta; sau đó nó lại xuất hiện ở những nước nông nghiệp rất lạc hậu về kĩ nghệ, như Trung Hoa, Việt Nam…; Marx tin rằng giai cấp vô sản ở khắp thế giới đoàn kết với nhau để cùng diệt giai cấp tư bản ở mọi nước, do đó không còn tinh thần quốc gia nữa, thế giới sẽ đại đồng; nhưng bây giờ người ta thấy ngay ở Nga, Trung Hoa, Đông Âu, chế độ cộng sản nào cũng mang nặng tinh thần quốc gia tới mức hai nước anh em với nhau mới thề sống chết có nhau, đoàn kết để diệt tư bản mà ít năm sau đã đâm chém nhau vì vấn đề ranh giới, chủ quyền, cũng xâm lấn nhau, phản nhau y như bọn thực dân tư bản vậy… Ông đoán rằng chế độ tư bản sẽ chết, nhưng tới nay nó vẫn mạnh chứ không chết, mà trái lại về sự phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của dân thì các nước cộng sản không sao cạnh tranh nổi với nó (lời Garaudy, một giáo sư Pháp theo cộng), vì nó biết tự thích ứng với hoàn cảnh, tự thay đổi, tìm dược giải quyết lần lần những cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị (lời một chính trị gia cộng sản Đông Đức); nó không đi tới chế độ độc quyền mà tiến tới chế độ kinh tế tự do trên thị trường để thị trường được điều hoà. Trái lại, chính những nước cộng sản mới theo chế độ độc quyền, độc quyền quốc gia. Marx muốn xoá bỏ hết sự bất bình đẳng, xoá bỏ giai cấp, nhưng ở Nga, Đông Âu không còn giai cấp tư bản nữa thì lại xuất hiện một giai cấp mới, giai cấp cán bộ, thư lại, từ quyền lợi tới lối sống, đều cách biệt hẳn với giai cấp thợ thuyền, nông dân. Marx hi vọng thay đổi được bản tính con người; Nga đã dùng những biện pháp rất mạnh trên 60 năm nay, hai ba thế hệ rồi mà bản tính con người không thay đổi gì cả; vẫn ham có tư sản, hưởng tự do, hưởng lạc như Âu Mĩ. Và sau đó ông mượn lời Sakharov để chỉ trích Nga Sô, mà lời đó bây giờ vẫn có thể áp dụng vào nhà nước Việt Nam được, vì như đã nói ở trên, Việt Nam từ mọi mặt, nhất nhất điều gì cũng rập theo khuôn nước đàn anh của mình, cũng mắc lầm lỗi như nhau:
Nhà bác học Sakharov trong tờ Express tháng 8-1972, nhận ra rằng Nga có tiến bộ về xã hội, kinh tế, nhưng các nước cũng tiến bộ như vậy, có phần còn hơn Nga, tiến nhờ kĩ thuật chứ không phải nhờ chủ nghĩa. Ông chê nhà cầm quyền Nga giả dối, ích kỉ, tàn nhẫn; giáo dục và y tế Nga rất tồi tệ vì bọn cán bộ cao cấp được biệt đãi mà bọn thường dân bị ngược đãi; chính quyền dùng nhà thương điên để nhốt bọn trí thức chỉ trích đường lối chính quyền…
Nguyện vọng của con người thời nay
Đoạn này, tôi xin giản lược lại như sau:
Đại khái tôi thấy xu hướng của thời đại chúng ta là: Ngán chiến tranh lắm rồi… đòi được hoà bình… Muốn được tự do, tư tưởng và nhu cầu cá nhân phải được tôn trọng… Muốn được công bằng, có sự bình sản, không có kẻ giàu quá, nghèo quá, không còn sự bóc lột cá nhân. Sự thực là ở các nước tư bản tiến bộ hiện nay, nhờ pháp luật che chở, gần như hết sự bóc lột đó rồi. Muốn hạn chế sự phát triển… muốn có một đời sống ổn định, giản dị, gần thiên nhiên. Khẩu hiệu “của dân, vì dân, do dân” không đúng. Có thể là của dân, vì dân (hiếm lắm!) nhưng có chính quyền nào là do dân điều khiển, định đường lối, chính sách đâu? Phải thay đổi chế độ ra sao cho dân có thể đích thân dự vào việc nước, đó là đòi hỏi chung của thế hệ đang lên. Trừ nguyện vọng thứ 4 và thứ 5 là mới mẻ, không thể xuất hiện ở thời nông nghiệp được vì thời đó chưa có chế độ dân chủ đại nghị, cũng không có máy móc, không thể sản xuất nhiều được; còn ba nguyện vọng trên: hoà bình, tự do, bình sản đều là nguyện vọng chung của nhân loại từ thời thượng cổ.
Sự tranh chấp giữa Nga và Mĩ
Cộng sản Nga Sô đã sụp đổ, không còn là đối tượng tranh chấp với tư bản Hoa Kì nữa, cho nên tôi không ghi ra đây đoạn này của ông. Chỉ xin trích một đoạn ngắn liên quan đến chính sách của Mĩ đối với Việt Nam:
Mĩ cũng lại phải bỏ cái thói khinh miệt dân tộc nhược tiểu, vung tiền ra làm sa đoạ họ, lập những ổ truỵ lạc, cờ bạc, ma tuý, đĩ điếm như Han Suyin đã trách trong cuốn Un été sans oiseaux. Ngay ở nước ta cũng vậy, khi Mỉ chỉ gửi qua giúp mình một số cố vấn thì dân còn có cảm tình với họ, tới khi họ đổ bộ nửa triệu lính lên lãnh thổ mình, làm xáo trộn xã hội mình thì mình chỉ mong họ thua mà cút đi càng sớm càng tốt.
Sửa sai
Tiết này rất dài, tôi xin tóm tắt nội dung chính, ba điều sai lầm và ba phương thức sửa sai, mà ông đưa ra sau đây: Cũng vì muốn cấp tốc thành lập xã hội chủ nghĩa, sợ bỏ lỡ “cơ hội ngàn năm một thuở” (lời một cán bộ), người ta hấp tấp dựng các cơ sở mới, nhồi chính trị vào đầu óc dân, chú trọng chình trị hơn kinh tế, tưởng rằng nều dân thuộc được mấy khẩu hiệu: tư bản bóc lột, giai cấp đấu tranh, đảng lãnh đạo, vô sản làm chủ, lập hợp tác xã nông nghiệp, làm chủ tập thể, lao động là vinh quang, cùng nhau thi đua…, là Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa… Người ta không hiểu rằng nếu kinh tế không phát triển, dân nghèo đói vì vô sở bất vi, hoá ra ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp, tham nhũng, buôn lậu… không còn nhân cách nữa, mà xã hội sẽ thành một xã hội đồi truỵ, chứ đâu phải là xã hội xã hội chủ nghĩa. Người ta theo sát Mao Trạch Đông, trọng hồng hơn chuyên. Nhưng chuyên đã không có mà cái hồng chỉ có bề ngoài thôi, còn bề trong thì trắng, một màu trắng lem luốc. Điều này tôi đã nói nhiều rồi, không muốn nhắc lại. Biết mấy ngàn giờ học chính trị chỉ như nước đổ lá khoai, tới nỗi cán bộ đi học cũng phải ngán, bực mình thốt lên: “Càng học càng dốt, vì người dạy dốt quá”. Sai lầm thứ ba, tôi cũng đã nói rồi, là sau khi đuổi được Mĩ đi, mình chưa kịp lấy lại sức, đã nuôi cái mộng làm bá chủ bán đảo Đông Dương, thành một cường quốc ở Đông nam Á, không tự lượng sức mình, cũng không nhận định được tình hình thế giới, khiến Trung Hoa, Miên, Thái, Mĩ, Nhật đâm ghét mình Muốn sửa sai, chúng ta phải: Gây lại lòng tin của dân, tình đoàn kết của người Nam, không phân biệt cách mạng và nguỵ nữa, không phân biệt giai cấp (ở một chương trên tôi đã nói có tới 12 giai cấp), rút bớt quyền lợi của đảng viên đi, đảng viên phải sống khổ như dân; diệt tệ quan liêu, bè phái , tham nhũng… cho dân tự do phát biểu ý kiến về mọi vần đề trong các cuộc hội họp, trên báo, trên đài phát thanh… Trọng kĩ thuật hơn chính trị, chuyên hơn hồng, chuyên dễ biết được, còn hồng nhiều khi chỉ là bề ngoài, chuyên mới đắc lực trong việc kiến thiết; bỏ một số cơ quan, rút thật nhiều nhân viên trong các sở đi mà đồng thời tạo công ăn việc làm cho mọi người; cho dân đủ sống, đừng bóc lột dân quá; bỏ các địa phương đi hoặc rút lại còn hai ba thôi; cho những người đi cải tạo về…; Rút ra khỏi cảnh sa lầy ở Miên, lấy lại tình hoà hảo với các nước ở Đông Á.
Một lối phát triển riêng, một lối sống riêng
Đây là tiết cuối cùng của chương XXXII. Phần này chiếm trọn 9 trang của tập Hồi kí, tập III, rất dài. Trong đó, ông đưa ra một chính sách mới cho nước Việt Nam trở “thành một nước thực sự độc lập, tự do, không cần mạnh, giàu, chỉ cần tạo được hạnh phúc cho dân”. Tôi xin tóm tắt chính sách đó như sau.
Về võ bị, ngoại giao: Khi đã rút ra khỏi đầm lầy Cao Miên, chúng ta nên tuyên bố với thế giới rằng chúng ta theo chính sách trung lập, hoàn toàn tôn trọng hoà bình, không gây chiến, không tham chiến, giảm binh số, vũ khí tới mức tối thiểu, chỉ còn là một lực lượng cãnh sát trong nước thôi.
Về kinh tế: Chúng ta tìm một đường lối phát triển riêng… Chúng ta nghèo lại càng phải kiếm một đường lối hợp với hoàn cảnh, tài nguyên thiên nhiên, mức tiến hoá còn rất thấp của mình. Trong giai đoạn hiện tại, chúng ta chỉ nên nhắm mục tiêu này: làm sao cho dân chúng đừng đói rét, đau có thuốc uống, và đồng thời giảm lần lần được sự bất quân trong xã hội, mà vẫn giữ được cái tình người.
Về chính trị: Ta càng cần có một chế độ riêng… ta có nên theo gót tư bản hay cộng sản không? Hay phải tìm cách nào, giáo dục dân cách nào cho dân được thực sự dự vào việc nước?
Về nhân sinh quan: Chúng ta cũng nên chỉ cho thanh niên biết dùng kiến thức của họ hơn là nhớ nhiều… cần luyện óc tưởng tượng, tập có sáng kiến… chương trình phải hợp với nhu cầu và mục tiêu chúng ta đã vạch. Mục tiêu đó là dựng một xã hội mới theo một lối sống mới, một nhân sinh quan mới… xét lại quan niệm về hạnh phúc, kiếm một lối sống khác… Đời sống vật chất tới một mức nào đó thì nên cho là đủ, không nên đeo đuổi hoài sự tấn bộ vật chất mà bỏ đời sống tinh thần, tình cảm đi… Sống giản dị, ăn uống thanh đạm, vui vẻ với nhau, có tình cảm , biết hưởng cái vui tinh thần trong cảnh thiên nhiên, tôi cho như vậy là hạnh phúc, mà hạnh phúc đó đâu có cần lợi tức nhiều.
*
Hồi kí có lẽ là cuốn sách quan trọng nhất trong cuộc đời viết văn của ông Nguyễn Hiến Lê. Trong đó, ông đã gửi gấm tất cả những tự sự, hoài bão, tâm tư, nhiệt tình tới độc giả, bạn bè, và đất nước. Vì là một cuốn sách được viết lần cuối cùng trong đời, trước khi ông về hưu nghỉ viết, nó là một tập đại thành của ông, gồm đủ các loại – bút kí, tuỳ luận, văn học, triết học, lịch sử, chính trị, kinh tế, giáo dục - được đúc kết cả lại để cống hiến đời sau một cái nhìn chuẩn xác về đời ông trong một nước Việt Nam, tâm sự của ông về vận nước Việt Nam, và nhân sinh quan của ông về một đất nước Việt Nam này.
Tuy ông đã viết cuốn Hồi kí với một tấm lòng trân trọng như vậy, tôi ngờ là ông không mong mỏi cuốn sách này được xuất bản ngay trong nước đâu (quả nhiên là Hồi kí đã được in tại hải ngoại năm 1988, mà tới năm 1992 mới đươc in lần đầu tiên trong nước). Có lẽ ông đã biết được sự khó khăn như thế nào để một cuốn sách được cho phép xuất bản trong chế độ cộng sản ở Việt Nam vì “viết lách thì phải có danh lớn, hoặc bồ bịch, bè phái thì mới hi vọng được in”. Cái trần ai đó đã được ông nói thêm trong đoạn viết sau đây:
Bản thảo gởi tới một nhà xuất bản, phải bị kiểm duyệt vài ba lần, một lần về tư tưởng, một lần về hình thức, gì gì đó; thoát được mấy cửa ải đó lại phải qua vài lần duyệt nữa xem có hợp thời không, có đáng in ngay không và có ngân sách, có giấy để in không. Phải có ông lớn nào đặc biệt ủng hộ mới mau được in, nếu không thì bị dìm cả chục năm như bộ Tự điển truyện Kiều của Đào Duy Anh; hễ năm sáu năm sau được in thì cũng đã là may rồi… Có nhà khảo cứu bỏ ra mấy năm soạn một bộ công phu mà không in được, chính phủ an ủi bằng cách trả cho một số tiền nhỏ vài ba trăm đồng rồi giữ bản thảo làm tài liệu cho một cơ quan. Như vậy ông giám đốc một nhà xuất bản lớn thành như một lãnh chúa về văn hoá. (Hồi kí)
Thái độ “bất hợp tác” của ông đối với một chế độ vừa được áp đặt lên dân chúng miền Nam là nguyên nhân của sự khó khăn trong việc in sách của người cầm bút “non-conformist” (chữ của ông) như ông:
Khoảng 1971-76 mặc dầu có nhiều cảm tình với kháng chiến, nhưng tôi cũng biết rằng chế độ cộng sản không hợp với tính tình tôi, nên có lần tôi nói với ông Giản Chi: “Cộng sản vô đây, tôi chỉ cần họ cho tôi sống yên ổn, khỏi phải lãnh một nhiệm vụ gì hết, mình già rồi”. Điều đó may mắn tôi giữ được. (Đời viết văn của tôi)
... chính quyền đối với tôi cũng có biệt nhãn. Sở Thông tin Văn hóa thành phố coi tôi là một nhân sĩ; Sở Tuyên huấn thành phố có lần phái một nhân viên lại thăm tôi; nghe tôi nói sức khỏe mỗi ngày một suy, nhân viên đó ngỏ ý muốn giới thiệu tôi để vào điều trị ở Bệnh viện Thống Nhất (bệnh viện cho cán bộ cao cấp, nhiều dụng cụ, thuốc men nhất miền Nam). Tôi từ chối... Vả lại nhận ân huệ của người ta, khi người ta sai bảo việc gì, hay chỉ mời dự một buổi hội họp để góp ý kiến thôi, mình làm sao từ chối được? Tôi chỉ mong được sống yên ổn, không ai nhắc tới tôi, không ai nhớ tên tôi nữa. (Hồi kí)
Do đó mà ông có một lời chua chát cho một thực tế đã cùng đưa đến sự khai tử sự nghiệp của ông và sự cáo chung của một nền tự do đã một thời thực sự có mặt ở Việt Nam:
Tác phẩm thứ 100 của tôi (Trí Đăng xuất bản), nhan đề là Mười câu chuyện văn chương phát hành khoảng 20-4-1975… Tạp chí Bách Khoa số cuối – 426, ngày 25-4-1975 - giới thiệu cuốn Mười câu chuyện văn chương… Nhà Khai Trí tính tổ chức một cuộc triển lãm 100 tác phẩm của tôi, chưa kịp làm thì 12 giờ trưa ngày 30-4-75, quân cộng sản Bắc Việt ngồi xe thiết giáp tiến vào Dinh Độc Lập… Miền Nam lật qua một trang sử mới. Do một sự ngẫu nhiên kì dị, số báo Bách Khoa cuối cùng đánh dấu sự chấm dứt sự nghiệp của tôi cùng với sự chấm dứt chế độ dân chủ miền Nam. (Đời viết văn của tôi)
Sau ngày tiến chiếm đó, ông đã có một hành động tích cực sau đây với loại “lãnh chúa văn hoá” như trên:
Năm 1979, nhà xuất bản Văn học ở Hà Nội, do một anh bạn học cũ của tôi ở trường Bưởi làm trung gian, yêu cầu tôi dịch một danh tác Pháp hay Anh, tôi đáp không có thì giờ (vì tôi đương viết bộ Kinh Dịch); năm nay (1980) nhà xuất bản đó lại xin tôi gởi cho một vài chuyện dài hoặc tuyển tập văn học tôi đã dịch và xuất bản rồi để họ coi xem có thể in lại một cuốn được không; tôi đáp không còn dư cuốn nào cả (sau vụ ba huỷ năm 1978; sách phản động, huỷ; sách đồi truỵ, huỷ; sách lạc hậu, huỷ), nhà xuất bản chịu khó tìm của người khác mà đọc. (Đời viết văn của tôi)
Vì vậy mà ông đã thất vọng cho cái hoài bão cuối đời của ông:
Năm 1973, khi kí xong hiệp ước Paris (chưa ráo nét mực thì đã bị xé) tôi ước ao ba điều: đi thăm quê hương đất nước trong một năm, xuất bản hết mươi cuốn đã viết xong, và còn dư năm nào thì nghiên cứu nốt về các triết gia lớn Trung Hoa thời Tiên Tần. Hai ước vọng trên đã hoá hão, còn ước vọng cuối cùng, từ năm 1976, tôi tuần tự và siêng năng thực hiện cho xong. (Đời viết văn của tôi)
In sách của ông lúc đó là một điều khó xẩy ra, nhưng có một điều chắc chắn là ông sẽ rất bực mình và sẽ có một thái độ dứt khoát khi thấy lời văn, bài viết của mình bị duyệt bỏ (nhiều đoạn viết của ông mà tôi trích ở trên cũng đều bị cắt) như trong trường hợp điển hình sau:
Ngoài ra, do lời yêu cầu của ông Lê Huy Vân, bạn học cũ của tôi ở trường tiểu học Yên Phụ, thư kí toà soạn tờ nguyệt san Tổ Quốc của Đảng Xã hội (được coi là tờ báo của giới trí thúc), tôi viết hai bài cho báo đó.
“Một truyện ngắn làm tôi xúc động”, đăng trên số 12-1977. Tôi phê bình các truyện ngắn của Nam Cao viết trước Cách mạng tháng 8-1945, đặc biệt khen truyện “Một đám cưới”, nhưng toà soạn cắt bỏ đi khoảng một phần ba, chỉ giữ phần phê bình riêng truyện “Một đám cưới” thôi.
“Chủ nghĩa thực dân và vấn đề kì thị chủng tộc (ở Nam Phi)” đăng trên số 11-1978. Bài này cũng bị cắt bỏ đi nhiều.
Từ đó có vài tờ báo xin bài, tôi đều từ chối hết. (Hồi kí)
Học giả Nguyễn Hiến Lê mất ngày 22 tháng 12 năm 1984. Tưởng nghĩ bây giờ, ông có hài lòng không khi tới nay là đúng 23 năm, cuốn Hồi kí của ông được in những sáu lần trong nước mà vẫn thiếu sót; ngoài vô số rải rác những câu, đoạn ngắn bị sửa đổi hoặc đục tỉa, có tới 6 chương trong số 33 chương của cuốn sách vẫn bị cắt bỏ trọn vẹn vì “không thể nào để lại được”?
12-2007
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 5:43:45 GMT 9
Nguyễn Hiến Lê - hai mươi năm, một trăm cuốn sách (Dân trí) - Từ miền Trung đi thẳng vào Sài Gòn, ngay sau khi thành phố vừa giải phóng, một trong những mong ước đầu tiên của tôi là gặp gỡ một số trí thức và văn nghệ sĩ từng nghe tiếng. Hầu hết, những vị tôi muốn gặp đều tiếp người ngoài Bắc vào với thái độ nhiệt tình, ít nhất cũng lịch sự dù không giấu vẻ lạnh lùng. Duy có hai người khước từ: Thượng toạ Thích Trí Quang và học giả Nguyễn Hiến Lê.
"Văn kỳ thanh"
Tôi gặp nhà sư Thích Trí Quang chủ yếu vì tò mò. Còn Nguyễn Hiến Lê là người mình thực lòng hâm mộ. Vì vậy, chờ một thời gian lâu cho tình hình thành phố thật ổn định, tôi lại đến gõ cửa ngôi nhà có gốc hoàng lan ở đường Kỳ Đồng.
Dường như đối với học giả nổi tiếng này, tôi có chút duyên. Tôi nghe tên ông đã lâu, tuy chưa được tiếp cận trọn vẹn một tác phẩm nào. Ở Hà Nội thỉnh thoảng vẫn gặp ông trên tạp chí Bách khoa được tiếng đứng đắn xuất bản tại Sài Gòn. Bài nào ông viết cũng toát lên sự tự tin về kiến giải, lời văn mạch lạc, giản dị và trong sáng lạ thường.
Tại Đà Nẵng, tôi hay la cà các hiệu sách. Một lần, chị hàng sách thấy khách xem nhiều mua ít, nghĩ chắc anh bộ đội không đủ tiền, liền bê một chồng sách từ trên giá xuống, bảo tôi mang theo mà đọc. Tôi chọn lấy hai cuốn, biết mình còn tiếp tục đi xa về hướng Nam, và cũng không muốn lợi dụng lòng tốt của đồng bào. Hai cuốn sách ấy đều của Nguyễn Hiến Lê. Cuốn Lịch sử văn minh Ấn Độ của nhà sử học Mỹ Will Durant do ông dịch, và bộ Sử ký của Tư Mã Thiên ông cùng làm với Giản Chi.
Tờ tạp chí mới duy nhất in trước ngày 30/4 bày bán tại hiệu sách tôi mua được ở Sài Gòn cũng lại là tờ Bách khoa số cuối cùng (426) ra ngày 20/4/1975. Đây gần như là một đặc san mừng cuốn sách thứ 100 của Nguyễn Hiến Lê, xuất bản khớp với ngày phát hành tạp chí. Cuộc triển lãm toàn bộ tác phẩm của nhà văn nghe nói định làm ở nhà sách Khai Trí đã không diễn ra vì thời cuộc.
Đến khi say sưa tìm hiểu đồng bằng sông Cửu Long, sưu tầm tài liệu về vùng đất ấy, tôi lại gặp Nguyễn Hiến Lê. Cuốn du khảo Bảy ngày ở Đống Tháp Mười phần nào mảnh mai về độ dày mà ngồn ngộn thông tin, chứa đựng nhiều tư liệu vững chãi. Một cuốn biên khảo hấp dẫn gần như tiểu thuyết. Tôi nhiều lần trích dẫn nó trong các bài viết cuối những năm 1970 về đồng bằng Nam Bộ.
Cuộc gặp đầu tiên
Một con người dong dỏng, mái tóc hoa râm, vẻ mặt đăm chiêu, mặc chiếc sơ mi trắng dài tay rộng và chiếc quần Âu cũng rộng thùng thình, hơi khác thường so với thời trang bó sát người thời ấy. Đó là hình ảnh nhà văn Nguyễn Hiến Lê lưu lại trong tôi khi ông thong thả từ gác hai xuống tiếp khách. Trước khi vào phòng, tôi đã dừng lại một phút ở hành lang ngắm cái tủ sách đóng theo lối cổ xếp đầy sách, toàn tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê.
Tôi trao tặng ông cuốn sách mới in, Đất nước một dải tập hợp những bút ký viết dọc theo chiều đất nước, từ khi giải phóng Quảng Trị ngày 19/3/1975, qua Huế, Đà Nẵng, Đèo Cả, Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn đến "những cánh đồng thẳng cánh cò bay", do Nhà xuất bản Thanh Niên vừa ấn hành. Ông nói: "In cũng nhanh nhỉ" trong khi những ngón tay tiếp tục lật các trang và đôi mắt lướt qua các bài viết. Đến trang cuối sách, ông ngẩng đầu hơi lộ vẻ ngạc nhiên: "Mười nghìn bản?".
Đặt sách xuống bàn, ông nói tiếp: "Ở trong Nam này, sách in lần đầu, chẳng bao giờ lên tới con số ấy".
Dường như cuốn sách nhỏ giúp đánh tan bầu không khí phần nào lạnh nhạt ban đầu. Thay những lời đối đáp xã giao, ông mặn mà trả lời những câu tôi hỏi. Tôi kể ông nghe chuyện được biếu sách tại Đà Nẵng, và thật thà nhắc lại, ngay sau ngày mới giải phóng tôi có đến thăm ông, tiếc là gặp lúc ông không được khoẻ. Ông nói: "Tôi mắc bệnh đau bao tử từ lâu, thỉnh thoảng nó lại hành cho một trận". Tôi đáp: "Bệnh của người lao động trí óc. Chắc bác biết, tại bác làm việc quá miệt mài, ngồi tại chỗ, ít đi lại...". Ông cười: "Tôi biết tất cả. Biết mà không sao làm khác. Cái nghiệp của mình là đọc và viết mà...".
Tấm gương sáng về tự học
Đời văn của Nguyễn Hiến Lê là một hiện tượng hiếm thấy ở nước ta. Nghiên cứu, biên khảo, cảo luận, tiểu phẩm, dịch thuật, bình chú..., trong khoảng thời gian hai mươi năm (1955 - 1975), cho ra đời một trăm tác phẩm - trong đó nhiều cuốn ba, bốn tập và rất có giá trị.
Giáo sư Đào Duy Anh đánh giá bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê là "tác phẩm trội nhất từ trước tới nay trong loại của nó". Bộ Đại cương Triết học Trung Quốc viết chung với Giản Chi là một tác phẩm đồ sộ (1.700 trang). Ba tập Lịch sử văn minh Ấn Độ, A Rập, Trung Quốc, dịch của Will Durant, có chú giải và bình luận dày hơn hai ngàn trang.
Bảy, tám năm cuối đời (1975-1984), trở về sống tại đồng bằng sông Cửu Long nơi ba mươi năm trước ông giã từ để "lên Sài Gòn sống bằng cây bút", nhà văn còn viết và dịch thêm hơn hai mươi cuốn nữa. Có những cuốn đòi hỏi sự nghiên cứu công phu, như khảo luận triết học Trung Hoa trước đời Tần. Chỉ tính riêng về số lượng, đã là một kỳ tích.
Nguyễn Hiến Lê là một tấm gương sáng về tự học. Ra đời làm một kỹ sư công chính, vốn Tây học của ông khá dày dặn. Tuy nhiên, cho dù xuất thân gia đình Nho học, thuở nhỏ có theo đòi đôi ba chữ Hán, và về sau, những kỳ nghỉ hè cũng có về quê học với ông bác, vốn Nho học của ông "trước sau có bốn tháng, mỗi ngày học hai giờ!. Thuộc bốn ngàn từ, quên mất một nửa".
Sau khi đỗ kỹ sư, thời gian chờ việc, ông học chữ Hán. Chiều chiều đến Thư viện Trung ương đường Trường Thi (nay là Thư viện Quốc gia) mượn bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. Rồi “bắt đầu từ chữ A, tìm những từ và ngữ nào đoán thường dùng mà chưa biết thì chép lại trong một tập vở, mỗi ngày độ ba, bốn chục từ". Tối hôm đó và sáng hôm sau học thuộc những gì sáng đã ghi chép, chiều lại đến thư viện.
Ông còn mượn cuốn Ngữ pháp tiếng Trung của một tác giả viết bằng tiếng Pháp để học và ghi những điều quan trọng. Với cái vốn ấy, bắt đầu đọc nguyên bản truyện Tàu (Tam quốc chí), lúc đầu chậm sau nhanh, càng quen càng thích...
Đừng cầu danh, danh sẽ tới
Thời học sinh, ông cũng có học tiếng Anh, vừa đủ để vượt qua cửa ải môn ngoại ngữ kỳ thi tú tài. Chính sách của nhà cầm quyền Pháp thời trước, dù không nói ra, không muốn học sinh Việt Nam biết thêm một thứ gì khác ngoài ngôn ngữ và văn chương Pháp. Để có thể làm việc nghiên cứu, biên dịch, trước tác, Nguyễn Hiến Lê tự học thêm Anh ngữ, khá tới mức được một trường tư thục mời dạy Anh văn. Ông quả quyết: "Muốn kiểm soát sự hiểu biết của mình (về ngoại ngữ), muốn hiểu cho rõ thì phải dịch ra tiếng Việt".
Trau dồi ngoại ngữ, ông không coi đó chỉ là phương tiện làm việc mà còn là một cửa ngõ đi tiếp vào biển học không bờ. Cuối đời, sau khi đã tạo lập nên một sự nghiệp đáng nể vì, Nguyễn Hiến Lê khẳng định: "Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ Học và Viết... Chép về đời văn của tôi, phải nhắc trước hết đến việc tự học".
Ông có lời khuyên các bạn trẻ, thoạt nghe như nghịch lý mà rất nghiêm trang: "Khi muốn học về một vấn đề nào thì cứ viết sách về vấn đề ấy... Viết sách tức là tự ra bài cho mình làm. Học mà không làm bài thì chỉ mới đọc qua chứ không phải học". Một thái độ như vậy có phần nào chưa thật trang nghiêm đối với công việc trước tác chăng? Dường như thấy trước phản xạ của độc giả, ông trấn an ngay: "Khi viết nên nhớ mục đích của ta là để tìm hiểu chứ không phải để cầu danh. Đừng cầu danh thì danh sẽ tới. Cầu nó, nó sẽ trốn...".
Triển lãm sách của Nguyễn Hiến Lê tại Sài Gòn năm 1959.
Đọc - ghi và viết
Đọc và viết là nếp sống hằng ngày của Nguyễn Hiến Lê. Buổi sáng, sau điểm tâm, công việc mở đầu ngày làm việc là đọc chứ chưa phải viết. Đọc hết nửa buổi, mới ngồi vào bàn. Chiều cũng vậy. Còn cả buổi tối chỉ dành cho sự đọc. Sách nào mua về cũng đọc, dù chán cũng ráng mà đọc, để biết qua nội dung "trừ loại chưởng của Kim Dung".
Những nơi đọc sách luôn để sẵn cây bút chì và cục gôm (tẩy). Đọc thấy chỗ nào đáng chú ý, cần xem lại hoặc ghi chép thì đánh dấu vào trang. Đọc xong chương nào, giở lại xem những đoạn có đánh dấu, ghi ngay những điều cần nhớ hoặc suy nghĩ, bình luận của mình.
Về mặt này, ông có điểm giống văn hào Ernest Hemingway: "Điều lớn lao nhất là sống, là làm công việc của mình - Hemingway nói - là nhìn, học và hiểu. Rồi lúc ấy mới viết, sau khi đã biết được một điều gì đấy, sau chứ không phải trước".
Những người cầm bút đều biết, viết không phải lúc nào cũng là một thú vui. Đối với Nguyễn Hiến Lê, "dù không có hứng cũng đúng giờ ngồi vào bàn viết, viết bừa vài câu, nửa trang, rồi hứng tự nhiên tới". Có thấy cách làm việc của ông, mới hiểu tại sao ông trước tác được nhiều như vậy. Nhà thơ Quách Tấn uyên thâm cổ văn từng ngạc nhiên: Riêng việc Nguyễn Hiến Lê đọc sách cũng đã khó có người bì kịp, chứ đừng nói đọc rồi còn viết.
Một đặc điểm nổi bật trong phương pháp làm việc của Nguyễn Hiến Lê là ghi chép. Ông ghi cẩn thận, không mệt mỏi, thường là tại chỗ qua mỗi chuyến công vụ khi còn làm công chức (mà ông gọi là "đi kinh lý") hoặc những lần chuyển dịch vì việc riêng. Từ khi bắt đầu cầm bút, ông đã có thiên hướng viết du ký, đi đến đâu ông cũng chịu khó ghi chép cảnh đẹp, tục lạ, cổ tích... Trở về nhà, ghi ngay lại cảm tưởng cả chuyến đi. Văn phong của ông lưu loát.
Hãy đọc lại một đoạn ông viết bảy mươi năm trước về cái ga xép Lăng Cô, nay là điểm du lịch khởi sắc ở miền Trung, nhất là từ khi hoàn thành đường hầm Hải Vân: "... Từ trên cao nhìn xuống, nó y hệt một bức tranh thuỷ mặc của Trung Hoa. Một cù lao nhỏ ở gần bờ, bằng phẳng, trồng toàn dương, có chùa có nhà, có ghe đánh cá và lưới đánh cá phất phơ dưới gió. Một cây cầu dài nối với bờ. Những buổi chiều mây ngũ sắc in trên mặt nước, những chiếc ghe giương buồm ra khơi, hay những đêm trăng sóng bạc nhấp nhô vạch một đường sáng tới một đảo nào ở chân trời mù mịt, ngồi ở góc đường đầu cầu này mà ngắm trời nước...".
Sách đã in ra, ông vẫn kiếm tiếp tài liệu để bổ sung khi tái bản. Như cuốn Đông kinh nghĩa thục (xuất bản lần đầu 1956), lần tái bản bổ sung ba mươi trang (1968), in lần thứ ba thêm hai mươi trang nữa (1974).
Phan Quang
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 5:45:57 GMT 9
Nguyễn Hiến Lê
Tác phẩm của học giả Nguyễn Hiến Lê
VĂN HỌC Hương sắc trong vườn văn (2 quyển) - 1962 Luyện văn I (1953), II & III (1957) Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) - 1955 Cổ văn Trung Quốc - 1966 Chiến Quốc sách (viết với Giản Chi) - 1968 Sử Ký Tư Mã Thiên - 1970 Tô Đông Pha - 1970 Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch) - 1970 NGỮ PHÁP Để hiểu văn phạm - 1952 Khảo luận về ngữ pháp VN (viết với TVChình) - 1963 Tôi tập viết tiếng Việt - 1990 TRIẾT HỌC Nho giáo một triết lý chính trị - 1958 Đại cương triết học TQ (viết với Giản Chi) - 1965 Nhà giáo họ Khổng - 1972 Liệt tử và Dương tử - 1972 Một lương tâm nổi loạn - 1970 Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại - 1971 Mạnh tử - 1975 Trang tử - 1994 Hàn Phi tử - 1994 Tuân tử -1994 Mặc học - 1995 Lão tử - 1994 Luận ngữ - 1995 Khổng tử - 1992 Kinh Dịch - 1990 LỊCH SỬ Lịch sử thế giới (viết với Thiên Giang) - 1955 Đông Kinh nghĩa thục - 1956 Bài học Israel - 1968 Bán đảo Ả Rập - 1969 Lịch sử văn minh Ấn Độ (dịch W. Durant) - 1971 Bài học lịch sử (dịch W. Durant) - 1972 Nguồn gốc văn minh (dịch W. Durant) - 1974 Văn minh Ả Rập (dịch W. Durant) - 1975 Lịch sử văn minh TQ (dịch W. Durant) - 1997 Sử Trung Quốc (2 quyển) - 1997 GIÁO DỤC - GIÁO KHOA Thế hệ ngày mai - 1953 Thời mới dạy con theo lối mới - 1958 Tìm hiểu con chúng ta - 1966 Săn sóc sự học của con em - 1954 Tự học để thành công - 1954 33 câu chuyện với các bà mẹ - 1971 Thế giới bí mật của trẻ em - 1972 Lời khuyên thanh niên - 1967 Kim chỉ nam của học sinh - 1951 Bí quyết thi đậu - 1956 Muốn giỏi toán hình học phẳng - 1956 Muốn gỏi toán hình học không gian - 1959 Muốn giỏi toán đại số - 1958 TIỂU THUYẾT Kiếp người (dịch S.Maugham) - 1962 Mưa (tuyển dịch nhiều tác giả) - 1969 Chiến tranh và hoà bình (dịch Tolstoi) - 1968 Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Paton) 1969 Quê hương tan rã (dịch C.Acheba) - 1970 Cầu sông Drina (dịch I.Andritch) - 1972 Bí mật dầu lửa (dịch Gaillard) - 1968 Con đường thiên lý - 1990 Mùa hè vắng bóng chim (dịch Hansuyn) - Những quần đảo thần tiên (dịch Maugham) - 2002 CHÍNH TRỊ - KINH TẾ Một niềm tin - 1965 Xung đột trong đời sống quốc tế - 1962 Hiệu năng - 1954 Tay trắng làm nên - 1967 Tổ chức công việc theo khoa học - 1949 Tổ chức công việc làm ăn - 1967 Lợi mỗi ngày một giờ - 1971 Những vấn đề của thời đại - 1974 GƯƠNG DANH NHÂN Gương danh nhân - 1959 Gương hi sinh - 1962 Gương kiên nhẫn - 1964 Gương chiến đấu - 1966 Ý chí sắt đá - 1971 40 gương thành công - 1968 Những cuộc đời ngoại hạng - 1969 15 gương phụ nữ - 1970 Einstein - 1971 Bertrand Russell - 1972 Đời nghệ sĩ - 1993 Gogol - 2000 Tourgueniev - 2000 Tchekhov - 2000 CẢO LUẬN - TUỲ BÚT - DU KÝ Đế Thiên Đế Thích - 1968 Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười - 1954 Nghề viết văn - 1956 Vấn đề xây dựng văn hoá - 1967 Chinh phục hạnh phúc (dịch B. Russell) - 1971 Sống đẹp - 1964 Thư ngỏ tuổi đôi mươi (dịch A. Maurois) - 1968 Chấp nhận cuộc đời (dịch L.Rinser) - 1971 Làm con nên nhớ (viết với Đông Hồ) - 1970 Hoa đào năm trước - 1970 Con đường hoà bình - 1971 Cháu bà nội tội bà ngoại - 1974 Ý cao tình đẹp - 1972 Thư gởi người đàn bà không quen (A.Maurois) - 1970 10 câu chuyện văn chương - 1975 Đời viết văn của tôi - 1996 Hồi ký Nguyễn Hiến Lê - 1992 Để tôi đọc lại - TỰ LUYỆN ĐỨC TRÍ Tương lai trong tay ta - 1962 Luyện lý trí - 1965 Rèn nghị lực - 1956 Sống 365 ngày một năm - 1968 Nghệ thuật nói trước công chúng - 1953 Sống 24 giờ một ngày (dịch A.Bennette) - 1955 Luyện tình cảm (dịch F.Thomas) - 1951 Luyện tinh thần (dịch Dorothy Carnegie) - 1957 Đắc nhân tâm (dịch Dale Carnegie) - 1951 Quẳng gánh lo đi (dịch Dale Carnegie) - 1955 Giúp chồng thành công (dịch Dorothy Carnegie) 1956 Bảy bước đến thành công (dịch G.Byron) - 1952 Cách xử thế của người nay (dịch Ingram) - 1965 Xây dựng hạnh phúc (dịch Huxley) - 1966 Sống đời sống mới (dịch Powers) - 1965 Thẳng tiến trên đường đời (dịch Lurton) - 1967 Trút nỗi sợ đi (dịch Coleman) - 1969 Con đường lập thân (dịch Ennever) - 1969 Sống theo sở thích (dịch Steinckrohn) - 1971 Giữ tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) - 1971 Tổ chức gia đình - 1953 CÁC BÀI ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ: 242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo Dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách của văn hữu.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 5:47:44 GMT 9
Nguyễn Hiến Lê
Lộc Đình Nguyễn Hiến Lê NGUYỄN HIẾN LÊ 1912-1984 Từ rất lâu, tên tuổi Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) đã được nhiều người biết tới như một nhà văn, một học giả, một nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm biên soạn và dịch thuật để đời có giá trị, thuộc đủ mọi lãnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký... Ngoài ra, thế hệ hậu bối còn noi gương được ở ông nhiều thứ: gương tự học, tinh thần làm việc nghiêm túc, và nhất là nhân cách cao thượng của một người trí thức chân chính. Ông Nguyễn Hiến Lê không trực tiếp làm chính trị, nhưng lúc nào cũng đau đáu lo việc cho đời, bằng cách thế hoạt động của riêng mình. Ông tin ở các giá trị văn hóa như một yếu tố sức mạnh tinh thần có ý nghĩa quyết định cho tương lai của dân tộc hơn là những hành động chính trị nhất thời, nên đã tận tụy làm việc cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, tìm mọi cách lay động trái tim con người nhằm phổ biến và cổ vũ cho những ý tưởng nhân bản thâu góp từ đông tây kim cổ mà ông thấu hiểu và đề nghị mọi người chia sẻ như là căn bản của một nền chính trị bền vững khả dĩ mang lại cuộc sống phát triển trong ổn định và ấm no hạnh phúc của nhân dân. Đời sống bản thân ông khiêm tốn, giản dị, làm việc nhiều hưởng thụ ít, không thích ồn ào, nhưng tư tưởng, tâm hướng và lòng ông thì thật sâu kín, rộng rãi, nồng nàn, có lẽ vì thế mà viết ra điều gì cũng với lời văn giản dị, dễ hiểu, trung thực với ý mình. Ông luôn đứng về phía nhân dân lao động nghèo khổ mà cả một thời thơ ấu hàn vi ông đã từng chia sẻ, nên đã mạnh dạn phê phán những hành vi sai trái của các nhà đương cuộc mà ông luôn quy trách nhiệm chính cho những tình trạng suy bại xã hội của mọi thời. Trước sau ông không xu phụ, thỏa hiệp với giới cầm quyền đương thời để được hưởng những đặc quyền trong xã hội. Măïc dù vậy, tâm huyết của ông cũng không được đời đáp ứng là bao, nên không tránh khỏi có những lúc phải ngậm ngùi chua xót cho sự bất lực của mình trước thời cuộc. Tâm sự của ông có lẽ cũng giống như Tô Thức, một tác giả Trung Quốc ông yêu thích mà có lần ông đã dẫn chứng mấy câu thơ: Thẹn hoài cho người nước này, đau xót như có gai đâm trong da thịt, bình sinh đọc năm ngàn quyển sách, nhưng không có một chữ nào cứu đói cho dân được. Nhiều người hiểu Nguyễn Hiến Lê hơn qua tập Hồi ký (NXB Văn Học, 1993) và Đời viết văn của tôi do ông tự viết (NXB Văn Hóa, 1996). Ông cũng tự kể về cuộc đời và việc làm của mình qua bài trả lời phỏng vấn khá dài của ông Nguyễn Ngu Í đăng trên tạp chí Bách khoa (1965) trong mục “Sống và viết với...”, rồi in thành sách (1966), và một bài khác nữa do ông Lê Phương Chi thực hiện (in trong tập Tâm tình văn nghệ sĩ, NXB Thanh Niên, 2001). Ngoài ra còn có cả một tập tiểu sử Nguyễn Hiến Lê, cuộc đời và sự nghiệp của Châu Hải Kỳ (NXB Văn Học, 1993) dày đến trên 300 trang. Để tìm hiểu về ông, tưởng như thế cũng đã tạm đủ. Tuy nhiên càng về sau, nhất là khi sách Nguyễn Hiến Lê được xuất bản sau thời kỳ chuyển hình của đất nước (mà người khai phá đầu tiên là ông Ba Kính, giám đốc NXB Long An trong những năm 90), nhiều người càng biết rõ chân giá trị những tác phẩm của ông hơn, cũng như chí hướng và lòng tinh thành mà ông đã gởi gắm hết vào, thì có nhiều tác giả lại viết thêm về ông đứng từ những góc độ nhìn khác nhau. Nơi đây tập hợp một số bài viết nói trên về con người và tác phẩm của nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã đăng hoặc chưa đăng trên các sách báo.Trừ cụ Quách Tấn đã quá cố, phần lớn những tác giả có bài ở đây đều trẻ hơn ông Nguyễn Hiến Lê; có người có duyên quen biết, giao thiệp với ông, những người khác thì được ảnh hưởng tốt bởi những cuốn sách bài báo do ông viết, thậm chí lập thân theo chí hướng do ông gợi ý qua các sách, và họ đã ghi lại những cảm tưởng, suy nghĩ của mình một cách chân thật, sinh động về ông hoặc về tác phẩm của ông, dựa trên sự hiểu biết trực tiếp qua quen biết (như Quách Tấn, Minh Quân, Lê Minh Đức, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Anh Dũng...), hoặc chỉ gián tiếp qua sách báo (như Nguyễn Hoành Xanh, Nguyễn Hướng Dương, Nguyễn Duy Chính, Lê Ký Thương, Trần Khuyết Nghi...). Để cung cấp được một lượng thông tin tương đối đầy đủ nơi đây, ngoài phần chính là những bài viết ra còn có trích đoạn hai bài phỏng vấn, một của Nguyễn Ngu Í mà bạn đọc bây giờ hơi khó kiếm, một của Lê Phương Chi như đã nhắc ở trên, cùng một ít tư liệu hình ảnh, bút tích... Vì đây là hợp tuyển của nhiều người, nên nó khó lòng đạt được tính hệ thống chặt chẽ và nhất quán của một công trình tiểu sử hoàn chỉnh, cũng e là không được khách quan đến trăm phần trăm do tình cảm của người viết chi phối, nhưng qua nhiều góc độ trình bày tuy khác nhau mà thật lòng, không có lý do gì để thêu dệt, có thể phản ảnh một cách tương đối toàn diện nhưng sinh động về con người và tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê. Do vậy, mặc dù có thể có những hạn chế nhất định, cuốn sách chắc chắn sẽ mang lại cho người đọc một số chi tiết và cái nhìn mới mẻ về nhà văn này, một tác giả vốn được đa số mọi người trong Nam ngoài Bắc xem như một hiện tượng đặc thù của đất nước, một trường hợp hiếm hoi trong hoạt động văn hóa, học thuật. Nếu được sống lại, có thể rằng ông Nguyễn Hiến Lê sẽ cảm thấy ái ngại khi người ta nói tốt quá nhiều về ông, hoặc đặt cho ông một cái tên đường, vì xem ra cùng lắm ông chỉ vui vui được đời hiểu thôi chứ không ham hố gì mấy, cũng không thích trở thành vĩ đại, mà chỉ muốn lặng lẽ đóng góp theo khả năng và cách thức chân thành của mình một phần bổ ích nào đó cho những người cùng thời và nhất là cho thế hệ trẻ mà từ 50 năm về trước ông gọi là thế hệ ngày mai. Và vì vậy, nếu có nhắc đến ông với một mỹ cảm hay sự ca ngợi nào đó thì những người tỏ thái độ này trong các bài viết có lẽ cũng chỉ vì muốn nêu gương ông hoặc tiếp hơi nối sức cho ông mà lưu ý, nhắc nhủ thêm lần nữa những điều ông tâm đắc thiết tha cho thế hệ trẻ hơn nữa sau này. TRẦN VĂN CHÁNH
|
|
|
Post by Can Tho on May 26, 2013 3:46:13 GMT 9
Đi tìm mộ ông Nguyễn Hiến Lê
Trần Thị Trung Thu
- Mộ Nguyễn Hiến Lê hả? Chị không biết. Chị chưa nghe cái tên này bao giờ. Chị Dương vừa nói vừa lắc cái đầu nhỏ nhắn làm đuôi tóc vẫy vùng sau lưng. Giọng nói nhẹ nhàng của cô gái miền Tây không chút giấu giếm và đùa giỡn. Nhìn sâu vào mắt chị, tôi biết chị nói thật. Có lẽ nào, tôi tự nhủ trong lòng. Ông Nguyễn Hiến Lê mà chị ấy không biết sao. Tôi cứ nghĩ một vị học giả lẫy lừng như ông chí ít ai từng cắp sách đến trường đều biết. Huống hồ, chị là một nhân viên kế toán kiêm luôn chân giữ thư viện huyện mà lại lạ lẫm với cái tên quen thuộc ấy sao. Kỳ lạ! Ngửa mặt nhìn tấm bảng hình chữ nhật treo vững vàng trên bậu cửa, tôi nhẩm lại dòng chữ “Phòng Văn hóa Thông tin huyện Lai Vung - tỉnh Đồng Tháp”. Không lẽ nào. Khi đọc xong cuốn “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười”, tôi nổi hứng muốn đi tìm mộ tác giả để thắp một nén nhang biết ơn. Nhớ có lần đọc trong một cuốn sách nói rằng mộ ông nằm ở Lai Vung, tôi phóng xe Honda đến đó. Tôi nghĩ, với một người có nhiều đóng góp cho nền văn hóa như ông, chắc sẽ có một khu mộ đàng hoàng mà chỉ cần hỏi nhỏ người dân ở đó là biết.Cho nên, ngay cả khi chị Dương nói một câu rất chân thật nhưng phũ phàng, tôi cũng không suy suyển lòng tin. Tôi tự an ủi, chắc chị nghe không rõ tiếng tôi, cũng có thể là chị chưa kịp nhớ ra. Tôi cẩn thận ghi tên ông ngay ngắn vào một tờ giấy rồi đưa chị đọc. Chị đọc đi đọc lại một cách chậm rãi như thể đầu óc đang làm việc hết công suất để sàng lọc từng milimet trí nhớ hòng tìm ra cái tên Nguyễn Hiến Lê. Cuối cùng, chị trả lại tôi mảnh giấy với nụ cười e lệ. - Chị không biết thật rồi. Chắc anh Tú, trưởng phòng Văn hóa Thông tin biết. Để chị dẫn em vô gặp anh ấy nhé. Tôi lẽo đẽo theo chị trong lòng khấp khởi mừng. Nếu quả thật người tôi đang đi tìm có ở Lai Vung và nổi tiếng như thế thì trưởng phòng Văn hóa Thông tin huyện biết là cái chắc. Anh Tú có phòng làm việc riêng, trên bàn chiếc máy tính nối mạng đang phát một bài nhạc cách mạng hào hùng. Sau khi nghe nguyện vọng của tôi, anh nhún vai nói giọng rề rà nhưng chắc nịch. - Anh chưa nghe tên ông ấy bao giờ. Chắc em lầm với ông Huỳnh Thủy Lê ở Sa Đéc rồi. Tôi nhủ thầm, người miền Tây thích đùa và biết cách đùa khéo quá. Chắc anh ấy thử mình thôi chứ với chức vụ anh ấy mà không biết ông Nguyễn Hiến Lê thì còn ra thể thống gì nữa. Tôi cố nở một nụ cười hỏi lại anh bằng giọng nhẹ tênh: - Anh không biết ông ấy thật à? - Thật mà. Ông ấy là ai vậy em? Anh hỏi lại tôi hết sức bình tĩnh như đang chờ được cung cấp thông tin về một con người xa lạ. Nhìn chiếc máy tính, tôi đề nghị: - Anh cho em mượn máy tính chút nhé? Anh đồng ý. Tôi gõ tên ông vào Google, cả một núi thông tin về ông xổ ra nhưng không có một chi tiết nào đả động đến chuyện mộ ông hiện ở đâu. Anh trưởng phòng đứng cạnh tôi nheo mắt chăm chú đọc. Cuối cùng anh à lên một tiếng: - Ông này cũng nổi tiếng dữ hen. Thấy anh có vẻ say sưa, tôi bỏ ra ngoài hiên ngồi mong nguôi ngoai cơn thất vọng đang dâng lên trong lòng. Có vẻ như ông trời cũng biết tôi buồn, nên đang nắng ngon lành, tự dưng đổ mưa xối xả. Cơn mưa giữa trưa đuổi bắt nhau trên những tấm tôn lúp xúp, xám màu. Mưa níu chân tôi lại nơi góc hiên thư viện. Ngồi xuống chiếc ghế đá lạnh lẽo, tôi tự hỏi mình còn cách nào không, còn mối quan hệ nào tôi chưa chạm tới để tìm ra mộ ông không. Tôi có cảm tưởng mình đang phiêu lưu trong khu rừng rậm rạp để tìm kiếm một linh hồn bí ẩn trên sách vở. Giây phút linh hồn mỏng manh kia vút lên trời cao khiến tôi thấy lòng hồi hộp một cách lạ kỳ. Tôi chỉ mới hỏi han hai người, quá ít để đi tới một kết luận. Hẳn phải còn một khe hở nào đó mà tôi chưa tìm ra. Chợt nhớ bà cô dạy văn hồi cấp 3. Quê của cô ở Lai Vung thế nào cô cũng có chút thông tin về mộ ông Nguyễn Hiến Lê nếu nó thật sự ngự trị tại đây. Cô là người học cao hiểu rộng chắc sẽ giải đáp được thắc mắc cho tôi. Không chần chừ đến một giây, tôi hăng hái bấm số điện thoại của cô. Tiếng bên kia đầu dây đánh thức những dây thần kinh trong người tôi đến mức phấn khích như người chết đuối vớ được chiếc phao. Nhưng đôi khi, phao không đưa ta đến bờ được. Cô biết ông nhưng không biết mộ ông nằm ở đâu. Cô hứa sẽ gọi điện hỏi thăm bà con ở Lai Vung xem thử có ai biết không, và dặn tôi chờ. Còn ai có thể trả lời câu hỏi của tôi đây? Nhà giáo không biết liệu nhà văn có hơn không? Nghĩ thế tôi không ngần ngại bấm số của một anh nhà văn. Tôi tin rằng giới văn nghệ sĩ rất rành mấy chuyện bên lề này. Anh bạn tôi là người hay giang hồ vặt, lại thêm dân miền Tây, chắc sẽ có những thông tin hay ho. Nhưng câu hỏi của tôi thuộc loại khó nuốt, anh biết rất rõ ông Nguyễn Hiến Lê nhưng cái vụ mồ mả thì anh bí. Anh nói sẽ gọi những bạn văn của anh để hỏi xem có ai biết không. Lại một lời hứa. Đã hỏi hai “nhà” rồi, tôi hăng hái hỏi nốt nhà báo cho đủ bộ tam. Nhà báo đi còn ác liệt hơn nhà văn và giao thiệp rộng, sao lại không hỏi thử nhỉ? Đã mất công đi xuống tận đây thì lẽ nào lại đi về tay không? Tôi tìm số anh nhà báo quê miền Tây.Sau hồi chuông thứ nhất, anh bắt máy liền. Vừa nghe câu hỏi của tôi xong, anh đáp lại bằng một tràng cười sặc sụa. Có vẻ như chuyện tôi đang làm buồn cười lắm. Khi không lại đi tìm mộ một người không phải họ hàng thân thích, chưa một lần gặp mặt, chỉ biết qua những trang sách. Thật điên rồ! Cuối cùng, anh cũng nín được cười để trả lời tôi một cách rõ ràng và mạch lạc rằng không biết. Ngoài kia mưa vẫn rơi, gió vẫn thổi, và tôi ngồi đây, lục tìm trong danh bạ số điện thoại của một người quen ở Đồng Tháp, bất chợt bàn phím ngừng ở số tổng đài 19001080. Tại sao lại không gọi nhỉ? Tổng đài là nơi giải đáp mọi thắc mắc từ quan trọng đến tầm phào mà. Hơn nữa, nơi ấy đâu chỉ có một cái đầu. Tôi bấm số tổng đài. Tiếng tút tút dài đằng đẵng kết thúc bằng giọng nhẹ nhàng của cô nhân viên. Nhưng nghe yêu cầu của tôi xong, giọng cô có vẻ khác. Tôi nghĩ rằng cô đã phải nhịn cười. Cô nói tôi chờ máy để cô tra cứu thông tin. Một phút. Ba phút. Năm phút trôi qua. Đến phút thứ sáu, cô nói rằng tổng đài của cô chưa cập nhật thông tin này và mong khách hàng thông cảm.Tôi có thể thông cảm và hiểu cho yêu cầu kỳ quặc này, nhưng sẽ thật là có lỗi với người đã khuất khi ông mất đến nay là tròn 25 năm. 25 năm mà chưa cập nhật thì bao giờ mới cập nhật đây? Chị Dương thấy tôi cầu cứu hết mọi nơi mà không kết quả gì cũng ái ngại giùm tôi. - Em tính đi đâu bây giờ? - Em cũng không biết nữa. Tôi nghĩ đến đoạn đường về. - Em có muốn về nhà chị ăn cơm không? Có người nhắc, tự dưng cái bụng tôi đâm ra dở chứng. Tôi biết người miền Tây rất hiếu khách nhưng không ngờ hôm nay lại được mục kích sự hào sảng ấy. Cớ gì lại từ chối lòng tốt của một người như chị nhỉ? - Em không làm phiền chị chứ? - Phiền gì đâu. Về cho biết nhà. Sau này có xuống Lai Vung thì ghé nhà chị chơi. Trời đã tạnh. Cơn mưa ban trưa như gột rửa cái nóng mùa hè, để lại những vũng nước loang loáng trên đường. Chị chạy xe đi trước, tôi rà rà theo sau. Mái tóc chị bay bay trong gió làm tôi nhẹ lòng. Nếu chuyến đi này không tìm được mộ ông Lê thì ít nhất, tôi cũng có thêm được một người chị dễ thương. Tóm lại là không lỗ. Từ phòng Văn hóa Thông tin đi chừng 2 km nữa là tới nhà chị. Ngôi nhà lá nằm im ắng bên đường quốc lộ. Cả nhà đang xem ti vi nên không ai chú ý đến tôi. Mọi người chỉ lao xao về tôi khi nghe tôi hỏi mộ ông Nguyễn Hiến Lê. Ba má chị là người sống gần hết một đời ở đây cũng không biết mộ ông ở đâu. Thấy vậy, tôi không hỏi thêm ai nữa. Tôi còn nhớ lời tựa của ông Nguyễn Hiến Lê mở đầu cho cuốn Đông Kinh Nghĩa Thục có đoạn như sau: “Mà có bao giờ người ta nghĩ đến việc thu thập tài liệu trong dân gian không? Chẳng hạn khi một danh nhân trong nước qua đời, phái một người tìm thân nhân hoặc bạn bè của người đã mất, để gom góp hoặc ghi chép những bút tích cùng dật sự về vị ấy, rồi đem về giữ trong các thư khố làm tài liệu cho đời sau. Công việc có khó khăn tốn kém gì đâu, mà lại có lợi cho văn hóa biết bao. Có như vậy các người cầm bút mới có tài liệu để soạn sách, còn như bây giờ thì một nhà văn Việt viết tiểu sử Tản Đà còn khó hơn viết tiểu sử của Molier, của Shakespeare, của Tolstoi. Thực là ngược đời nhưng rất dễ hiểu. Vì tra cứu ở đâu bây giờ để viết về đời sống của Tản Đà?” Thật không ngờ, điều ông luôn canh cánh trong lòng đến khi mất lại vận vào chính đời ông. Tôi đi tìm nơi an nghỉ của ông chỉ vì lòng kính trọng. Theo tôi, ông là một trí thức thứ thiệt lúc nào cũng trăn trở vun vén cho văn hóa nước nhà. Ông đã góp vào nền văn hóa Việt Nam một số lượng tác phẩm đồ sộ gấp bốn lần thời gian ông làm việc. Nhưng quan trọng hơn, đó là nhân cách sống của ông: giản dị và tự trọng. Một con người như thế rất đáng để tôi đi tìm và thắp một nén nhang chứ. Có điều, tôi vô duyên, không tìm được mộ ông dù biết là ông chỉ nằm đâu đó quanh đây. Tôi biết ông qua một người thầy đáng kính. Đúng rồi, người thầy của tôi. Sao tôi không nghĩ ra nhỉ? Tôi cuống quýt gọi điện, thầy cười nói đi mà không rủ, ra nông nỗi này ráng chịu. Thì thầy cũng chưa tới mà, xem như chuyến này em đi dò đường trước, lần sau dẫn thầy đi mới ngon lành chứ. Thầy cười ha hả bảo được, rồi nhắn cho tôi địa chỉ mộ ông. Tôi hí hửng chạy lại khoe với chị Dương cái tin: “Mo Nguyen Hien Le o chua Phuoc An – gan nga tu Cai Buong, Vinh Thanh, Lai Vung”. Cả nhà chị xúm xít quanh tôi khi nghe nói tôi đã tìm ra nơi an nghỉ của ông. Tôi sung sướng đọc to rồi hồ hởi hỏi đường đi đến đó, nhưng lạ thay, tôi đọc xong mà chẳng ai hiểu đó là đâu. Cuối cùng, ba chị Dương đoán một hồi mới rõ đó là ngã tư Cai Bường, thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò chứ không phải Lai Vung. Té ra, cả cuốn sách tôi đọc lẫn tin nhắn của thầy đều sai tên huyện. Ba chị Dương dặn: - Từ Lai Vung con đi thêm khoảng 10km nữa dọc theo quốc lộ 80 là sẽ tới ngã tư Cai Bường. Tới đó con hỏi chùa Phước Ân ai cũng biết hết. Từ biệt ngôi nhà thân thiện, tôi tiếp tục cuộc khám phá. Mưa bắt đầu nặng hạt quất vào mặt, vào mũi, vào áo mưa ràn rạt nhưng tôi không cảm thấy rét buốt. Có điều gì đó cựa quậy trong lòng, vừa đê mê vừa khấp khởi. Tôi thấy con đường trắng xóa trong màn mưa như những bông tuyết bay lững lờ trong không trung. Giọt mưa nào ngọt ngào rớt lên môi mắt tôi. Giọt mưa nào tắm mát tâm hồn tôi. Đường mưa vắng tanh không một bóng người. Tịnh như chốn này chỉ có mình tôi và linh hồn ai đó đang luẩn khuất trong mưa, hí hửng và reo vui. Vĩnh Thạnh nghèo nàn và ướt át chào đón tôi. Từ ngã tư Cai Bường rẽ tay trái vào hơn 1km đường đất nữa là tới chùa Phước Ân. Con đường len lỏi qua những vườn cây ăn trái xanh mướt và một cây cầu gỗ bắc ngang con kênh. Nhà dân nằm im lìm dưới tán lá như trái chín giấu mình sau vòm lá. Không khí thuần khiết hòa vào hương xoài dịu êm khiến tôi ngẩn ngơ. Người thiên cổ về chốn điền viên này nằm, sáng nghe tiếng chuông chùa, chiều nghe tiếng sóng vỗ, làm tôi cũng phát ham. Chùa Phước Ân hiện ra trước mắt tôi vừa trang nghiêm lẫn thân thiện. Ngôi chùa đơn sơ ẩn hiện sau lớp lá bồ đề lóng lánh nước mưa. Tôi dắt xe chầm chậm qua sân chùa. Không một bóng người. Không gian im ắng. Đang khi tôi không biết hỏi ai thì có một bà cụ đi ra. Bà mặc áo nâu sòng, mái tóc đã hoa râm. Tay bà cầm cỗ tràng hạt đang lẩm bẩm tụng kinh. Nghe tôi hỏi mộ ông, bà nói: - Ông Lê viết sách chứ gì?
- Vâng ạ. Nhìn tay chân tôi tím tái, bà lặng lẽ mời vào phòng khách. Trong gian phòng ấm cúng bên ly trà nóng, bà cụ hỏi tôi có bà con thân thích gì với ông ấy không? Sao lại đi thăm mộ lúc trời mưa gió như thế này? Làm thế nào mà biết ông nằm ở đây? Tôi ngồi hầu chuyện bà cụ một hồi đủ để giải thích cho bà hiểu tôi chẳng là gì của ông cả và đi tìm mộ ông chỉ để thắp một nén nhang vì lòng mộ mến thôi. Nghe xong bà cười, rồi bà kể tôi nghe chuyện cách đây khoảng một tháng, cũng có cậu sinh viên đến viếng mộ ông ấy. Cậu ta còn mua trái cây, đèn nhang cho ông ấy nữa. Bà chưa đọc sách ông nên hỏi ông ấy viết sách hay lắm sao mà mất lâu thế vẫn còn có người nhớ đến. Tôi trả lời ông ấy không những viết hay mà còn rất hữu ích nữa. Nghe thế, bà dẫn tôi vào chánh điện, nơi khung ảnh ông Nguyễn Hiến Lê được treo bên cạnh người vợ thứ hai của ông, bà Nguyễn Thị Liệp. Sau khi ông mất, bà Liệp xuất giá đi tu và trước khi bà mất, bà nói con cháu hãy đem ông bà về đây an nghỉ. Phía sau lớp kính mờ ảo, nụ cười ông vẫn tươi rói và đôi mắt dường như vẫn dõi theo trần đời. - Đi theo bà, bà dẫn cháu ra mộ ông ấy. Bên trái chùa có một khoảng đất rộng dành cho những người đã qua đời an nghỉ. Ngôi mộ ông Nguyễn Hiến Lê nằm lọt thỏm trong số khoảng 20 ngôi mộ khác. Không có gì đặc biệt cho thấy đó là ngôi mộ của một con người lỗi lạc. Nó nhỏ nhắn và giản dị như chính cuộc đời ông. Cạnh mộ, hoa đổ nhang tàn. Tôi cắm vào lư hương nén nhang thành kính. Hương trầm tỏa bay. Cay cay khóe mắt.
TTTT
Những “hạt mầm” đã vươn lên! Đỗ Hồng Ngọc Bài viết “Đi tìm mộ ông Nguyễn Hiến Lê” của Trần Thị Trung Thu in từ năm 2009 trên Nguyệt san báo Pháp luật gần đây được các cư dân mạng dẫn lại và nhận được nhiều sự quan tâm của giới trí thức cũng như cộng đồng mạng yêu kính Nguyễn Hiến Lê. Tôi nhận được email cùng lúc của Bùi Văn Nam Sơn, Huỳnh Như Phương, Huỳnh Ngọc Chiến, Nguyễn Duy Chính (Mỹ)… và nhiều bạn bè khác hỏi thăm thêm một số chi tiết, và nhất là về chuyện tôi kể trên một trang mạng gần đây rằng có một số bạn trẻ ở miền Bắc đi xe máy 2200 km vào tận Lấp Vò, Đồng Tháp thăm mộ Nguyễn Hiến Lê. Năm 1984 khi cụ Lê mất thì tro cốt được cụ bà Nguyễn Thị Liệp đưa về Long Xuyên, để trong một ngôi tháp mộ nhỏ, khiêm cung, đặt ngay trong sân nhà ở 92 đường Tôn Đức Thắng. Sau đó, bà dời tháp mộ về chùa Phước Ân ở ngả tư Cái Bường, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Nếu đi từ Long Xuyên về Saigon, qua bắc Vàm Cống một quảng thì tới ngả tư Cái Bường, quẹo phải chừng cây số sẽ đến chùa. Lâu nay cũng có nhiều đoàn ghé thăm thắp nén nhang cho cụ Lê. Năm 2003, trong cuốn NGUYỄN HIẾN LÊ, Con người & Tác phẩm (NXB TRẺ) của nhiều tác giả: Trần Huiền Ân, Trần Văn Chánh, Lê Phương Chi, Nguyễn Duy Chính, Lê Anh Dũng, Nguyễn Hướng Dương, Nguyễn Ngọc Điệp, Lê Minh Đức, Dương Hội, Xuân Huy, Nguiễn Ngu Í, Trần Khuyết Nghi, Đỗ Hồng Ngọc, Văn Phố, Minh Quân, Quách Tấn, Lê Ký Thương, Nguyễn Hoàng Xanh cũng đã cung cấp nhiều hình ảnh về ngôi nhà, căn phòng, nơi làm việc… rất giản dị của Nguyễn Hiến Lê ở Long Xuyên và cả hình ảnh địa chỉ ngôi tháp mộ của Nguyễn Hiến Lê ở chùa Phước Ân (ảnh của Nghê Dũ Lan). Nếu tác giả Trần Thị Trung Thu được đọc cuốn này sớm thì không phải vất vả đến thế. Ở Úc, có một cuốn sách viết về Nguyễn Hiến Lê do những học trò của ông biên soạn, đặc biệt kể về những ngày ông nằm bệnh và qua đời tại Bệnh viện An Bình. Cũng đã có những nghiên cứu về sự nghiệp của Nguyễn Hiến Lê như luận văn thạc sĩ về “Vấn đề lao động nhà văn trong các trước tác của Nguyễn Hiến Lê” của Nguyễn Ngọc Điệp, bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm TP.HCM 12 năm trước đây do TS Huỳnh Như Phương hướng dẫn và gần đây Huỳnh như Phương cũng đang hướng dẫn một luận văn khác “Sự nghiệp nghiên cứu văn hóa, văn học của Nguyễn Hiến Lê” cho một nhà báo ở Cần Thơ. Và thật thú vị, ảnh hưởng Nguyễn Hiến Lê ngày càng thấm sâu trên đất Bắc. Ngày 10.7. 2012, tôi nhận được email của một bạn trẻ không quen biết từ Hà Nội, Trần Văn Thuấn, 28 tuổi, cho biết về chuyến “Hành trình Xuyên Việt vượt 2200km bằng xe máy tri ân thầy Nguyễn Hiến Lê”. Trong thư Thuấn cho biết nhóm của em hiện có Nguyễn Trung và Nguyễn Tiến đang đi xuyên Việt bằng xe máy, vượt hành trình dài 2200km từ Hà Nội vào thẳng chùa Phước Ân tại Lấp Vò, Đồng Tháp “để thắp hương tri ân tới thầy Nguyễn Hiến Lê”. Em viết: “sách của thầy viết giản dị, chân thành, là thầy mà cũng như là bạn, chúng con rất vui là đã lan tỏa được sách của thầy tới anh em thanh niên, vì trước đây sách của thầy ngoài Bắc cũng hiếm ạ”. Em cho biết các em Trung và Tiến rất mong gặp tôi để được “ hiểu thêm về cuộc sống của thầy Lê qua những trải nghiệm thực tế của bác với thầy, bác thật may mắn!” Trong thư, em gởi kèm một số hình ảnh của nhóm vừa đến Ninh Bình, Thnah Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình….” Chuyến đi sẽ vất vả lắm, nhưng anh em chúng con rất vui vì luôn tâm nguyện rằng thầy Lê sẽ che chở cho chúng con [...] Tôi vừa cảm kích, vừa băn khoăn. Cảm kích vì tấm lòng của các bạn trẻ từ phương Bắc như đã vừa phát hiện ra một Nguyễn Hiến Lê tận phương Nam xa xôi, còn ngại ngần vì thấy hình ảnh các em mặc áo phông in hình cụ Lê, mang cờ có ảnh NHL và câu chữ “Học làm người với Nguyễn Hiến Lê”… Vì thế, tôi đã trả lời: rất cảm kích, nhưng các cháu nên nhớ cụ Lê là một người rất khiêm cung, không thích sự ồn ào, vì thế các cháu nên học với cụ tinh thần tự học và giữ sự tĩnh lặng, không khoa trương. Bác thấy(…) đó không phải là tính cách của Cụ Lê (...) Rồi tôi giới thiệu các em liên hệ với Phùng Hoàng Anh, giáo viên, cháu gọi em ruột cụ Lê bằng Bà nội, đã từng vào Nam nhiều lần thăm nhà và tháp mộ cụ Lê ở Đồng Tháp để biết đường đi nước bước. Phùng Hoàng Anh hiện đang sống ở Phương Khê, xã Phú Phương, huyện Ba Vì, Hà Nội, nơi có nhà thờ họ và đã lập được một thư viện với hàng ngàn cuốn sách của Nguyễn Hiến Lê. Thuấn có vẻ không vui. Em trả lời: “…thực ra đối với thanh niên ở ngoài Bắc có thiệt thòi hơn trong Nam nhiều, là ít được tiếp xúc với sách của cụ Lê(…), chúng con cũng phải dằn vặt mãi, mới quyết định làm, cũng xuất phát từ sự chân thành mong muốn tri thức Nguyễn Hiến Lê đến gần hơn, giúp đỡ cho thanh niên được nhiều hơn (…); nếu vì tri thức của cụ mà được mang lên tận các tỉnh miền núi như Lào Cai, Tuyên Quang, Sơn La, Thái Nguyên....giúp ích cho thanh niên ở đó, thì chúng con xin phép vẫn tiếp tục ạ. [...] Phùng Hoàng Anh cho tôi biết sau chuyến đi từ Bắc vào Nam thăm mộ cụ Lê, các em Tiến và Trung đã có đến gặp, cà phê cà pháo với nhau một buổi, kể về chuyến đi rất thành công của các em. Tôi cũng vui vì đã “ráp” được các bạn trẻ đó với nhau. Sau này, Tiến gởi tôi email nói em rất hiểu tôi, và sẽ nhớ lời tôi dặn về tính cách Nguyễn Hiến Lê. Hiện cụ Lê còn có cô cháu gọi bằng bác ruột là Nguyễn Thị Hạnh đang sống ở Cần Thơ. Ngôi nhà 92 Tôn Đức Thắng, Long Xuyên phía trong vẫn là trường Mẫu giáo, bên ngoài rào cho thuê làm một quán cà phê. Trọn đời Nguyễn Hiến Lê đã chọn con đường “văn hóa”, và nay những “hạt mầm” đã vươn lên. Đỗ Hồng Ngọc
|
|
|
Post by Can Tho on May 26, 2013 3:48:54 GMT 9
ÂN SƯ NGUYỄN HIẾN-LÊ: Những ngày cuối đời Quế-Kế BBT: Từ Sydney (Australia), thầy Huỳnh Kim Quế và cô Nguyễn Thiện Kế - 2 học sinh khoá thứ nhì của Collège de Long Xuyên (Trung học Thoại Ngọc Hầu), đã gởi về cho Ban biên tập một bài rất dài, viết năm 1990, 6 năm sau khi học giả Nguyễn Hiến Lê qua đời. Nội dung bài viết có nhiều tư liệu quý giá, nhưng do khuôn khổ của cuốn Kỷ yếu, Ban biên tập xin được trích đăng một phần, phần còn lại sẽ giới thiệu với độc giả khi có điều kiện. Chiều thứ Bảy 22.12.1984, cả gia đình tôi đang dán mắt vào màn ảnh truyền hình để thưởng thức tài nghệ diễn xuất điêu luyện của các nghệ sĩ cải lương quen thuộc. Sắp đến hồi kết thúc gay cấn thì văng vẳng có tiếng ai đập cửa cùng với tiếng gọi lớn: - Cô Kệ ơi, cô Kệ! Bực mình vì bị quấy rầy vào giờ giải trí duy nhứt cuối tuần, tôi vội bước nhanh ra hàng ba phía trước trên lầu nhìn xuống xem ai gọi cửa với giọng khác lạ vậy. Khách là một người đàn ông nhỏ con, mang kiếng cận, đang cố vừa nhìn vào trong nhà qua cửa lưới, vừa gọi to với giọng miền Trung: “Cô Kệ ơi, cô Kệ!”. Tôi bèn lên tiếng và vội vã chạy nhanh xuống lầu coi có chuyện gì để còn trở lên kịp xem hết vở cải lương. Ông khách – tôi chưa quen biết bao giờ - mặc áo sơ-mi bỏ ngoài quần, nói giọng miền Trung đặc sệt: - Bà Năm bạo tôi đện cho cô Kệ hay là Ông Năm đã mật rồi! Hiểu loáng thoáng và sợ mình nghe lầm, tôi gặng hỏi lại và bàng hoàng, sửng sốt được biết là Thầy Nguyễn Hiến-Lê vừa mới mất, và Cô, tức Bà Nguyễn Thị Liệp – nhà tôi và tôi gọi là Cô vì nhà tôi có học môn Nữ công Gia chánh với Cô ở Trường trung học Thoại Ngọc Hầu Long Xuyên - nhắn 2 vợ chồng tôi lại. Sét đánh ngang tai! Vẫn chưa tin là thật! Có lẽ Thầy đang hấp hối mà Cô đã lo sợ nên vội vã nhắn tụi tôi đến chăng? Mới lúc trưa nầy Thầy còn sỏi lắm mà, lẽ nào lại có thể như vậy được? Nhà tôi – tên cúng cơm là Nguyễn Thiện Kế - linh tính báo có chuyện bất thường nên vội vàng xuống lầu. Sau khi gọi đứa con trai xuống dặn dò việc nhà, chúng tôi, mỗi người một chiếc xe đạp, chạy nhanh đến đường Kỳ Đồng. Gần đến nhà Thầy, chúng tôi thấy con đường vẫn tối tăm với các ngọn đèn điện vàng vọt. Con hẻm nhỏ dẫn vào nhà Thầy vẫn âm u, mờ ảo. Bất chợt, tiếng chuông chùa đầu hẻm ngân lên nhẹ nhàng, nức nở… Trong nhà Thầy Cô sáng choang. Cô đang mong mà nghe tiếng động lao xao bên ngoài nhà, bèn vội vã ra mở cửa đón tụi tôi vào. Cô cho biết đang bàn chuyện tẩn liệm với người đại diện nhà đòn riêng của bệnh viện An Bình. Thầy nằm trơ trọi trên chiếc đi-văng gỗ thấp, mặc bộ bà ba vải trắng, thân mình lép xẹp, dán xuống mặt chiếu, hai tay buông xuôi, một vuông khăn the đen che phủ mặt Thầy. Nhà tôi nhẹ nhàng giở khăn đen ra. Tụi tôi nhìn Thầy lần cuối xót xa, nghẹn ngào! Mặt Thầy tươi tắn, đầy đặn hơn ngày thường, miệng như mỉm cười. Có lẽ Cô đã khóc nhiều rồi, lệ đã cạn rồi, nên khi đưa tụi tôi trở ra xa-lông, Cô mím miệng kềm xúc cảm và kể rõ chi tiết giờ phút cuối của Thầy: “Sau khi hai cháu ra về khỏi bệnh viện An Bình thì Ổng vẫn mệt, hơi thở dồn dập. Lát sau ổng khoẻ lại, vẫn tỉnh táo chuyện vãn, và ngủ thiếp đi được một chút. Lúc tỉnh dậy, ổng kêu khát. Cô rót nước trà đem lại nhưng ổng chỉ nhắp một ít. Cô bèn đưa cháo nóng cho Thầy đỡ dạ. Ổng ngồi lên, cầm muỗng húp 2, 3 miếng rồi nằm xuống, bảo là hơi mệt. Đến 3 giờ chiều, Ổng bỗng mệt nhiều, thở hổn hển do có nhiều đàm ngăn ở cổ. Cô liền cấp báo cho y tá. Họ đưa xe cáng đến rồi nhanh chóng đẩy Thầy xuống Phòng cấp cứu. Tại đây Ổng vẫn còn tỉnh táo nhìn các vật dụng trong phòng. Bác sĩ được mời đến chẩn bệnh ngay. Rồi các cô y tá lăng xăng chích thuốc khoẻ và úp nắp dưỡng khí giúp Thầy thở, Ổng đỡ mệt một chút và ngã lưng được một lát. Sau đó Ổng cứ mệt lên từng cơn. “Khoảng 7 giờ, thấy Cô luôn đứng kề bên giường cấp cứu, quá khổ cực với Thầy, mà Cô vốn không được khoẻ mạnh lắm, Ổng đưa bàn tay vỗ nhè nhẹ chỗ giường sát hông mà thều thào bảo Cô lên nằm nghỉ đỡ trên giường với Thầy. Cô cười vì làm sao đủ chỗ nằm được, mà trong phòng lại không có cái ghế nào để Cô ngồi đỡ chưn (chân). “Hồi lâu sau, bỗng Ổng đưa tay làm dấu bị nghẹt ở cuống họng, khiến Ổng khó thở quá. Rồi Ổng rán khạc đàm ra nhưng không được. Ổng thở dồn dập thêm. Cô y tá liền đưa máy hút đàm tới. Ổng thở được hơi thông, nhưng rất mệt, có lẽ tim bị lên cơn nữa. Lại chích thêm thuốc khoẻ. Đến đúng 9 giờ, Ổng nấc lên 2, 3 cái rồi thở hắt ra một hơi mạnh và ngoẹo đầu xuống, bất động. Cô bèn xin xe chở Thầy về. Tội nghiệp các nhân viên trong bệnh viện lo thủ tục ngay, rất nhanh. Đó là một đặc ân vì đáng lẽ hễ mất trong bệnh viện thì không được mang xác về nhà, mà phải đợi tẩn liệm xong xuôi rồi mới được chở đi. “Tới nhà rồi, Cô mới nhờ ông Trung tá cán bộ bên trong đây – Cô vừa nói vừa chỉ về hướng ngôi nhà bên cạnh ở cuối hẻm - tới nhà 2 cháu nhắn tin giùm. Rồi Cô lau mình mẩy, mặc quần áo khác cho Thầy và để Thầy nằm đó. Ổng đi như vậy tức tưởi thật, nhưng thà vậy còn hơn, chứ thấy Ổng hổn hển kéo hơi lên, Cô xót xa quá, không biết phải làm gì cho Ổng thở được.” Thế rồi Cô cho biết là lúc Thầy còn sống, Thầy có dặn rằng việc tang ma của Thầy phải làm hết sức đơn giản, và chỉ cho vài người thân biết thôi. Cô có nhờ một người bạn quen của Thầy đi coi ngày giờ tốt để động quan và hoả thiêu. Vì không chọn được ngày giờ tốt nào khác xa hơn nên Cô quyết định quàn tại nhà một hôm rồi sáng hôm sau - tức thứ Hai – lúc 8 giờ là đưa đi hoả thiêu ở An dưỡng địa trong Phú Lâm, đúng theo ý muốn của Thầy là làm đơn giản, không phô trương rườm rà. Nhà tôi thấy bình sanh Thầy thường ưa thích cảnh đẹp, bèn gợi ý với Cô nên đưa đi hoả thiêu ở Thủ Đức, vì nơi đó gần một ngôi chùa nằm trên đồi cao gió lộng, phong cảnh hữu tình; còn lò thiêu ở Phú Lâm mấy lúc sau nầy nhà cửa xây cất bừa bãi, lấn chiếm gần hết cả lối vào, và vệ sinh rất tệ. Cô cũng thuận ý và giao cho nhà tôi liên lạc lo thủ tục giùm. Tụi tôi có nhắc Cô là còn giữ của Thầy nửa lượng vàng, để tụi tôi đưa lại Cô mà chi dụng cho việc tang ma. Cô vội gạt đi mà nói đó là hậu ý của Thầy muốn tặng tụi tôi chút ít của Thầy. Trước đây, tụi tôi đã nhiều lần đem trả lại mà Thầy không nhận. Đồng hồ của nhà bên kia hẻm thong thả điểm 12 tiếng. Tôi vào nằm trên bộ ván ngựa ở nhà sau, chỗ trước kia là kho sách. Vừa lạ chỗ vừa được tin bất ngờ về Thầy, tôi trằn trọc mãi không sao chợp mắt được. * Trời dần dần sáng hẳn. Nhà tôi và người đàn bà hàng xóm đã lục đục dậy nấu nước, pha trà. Cô cũng đã dậy và bước xuống lầu, vẻ mặt tươi tỉnh. Cô cho biết có chợp mắt được nên thấy khoẻ và con mắt không còn mờ hay nhức nữa. Chúng tôi lại phân công nhau đi lo các việc Cô nhờ làm. Phần Dũng (cháu trai của Cô) thì đi cho người cháu hay hung tín, người cháu này đã đến ngủ đêm tiếp Cô săn sóc Thầy đêm trước, để nhờ anh ta cùng đi với nhà tôi mà liên lạc lo thủ tục tẩn liệm, hoả thiêu. Nhà tôi còn đi mua các vật dụng cần thiết cho việc cúng kiến. Phần việc của tôi là đi đánh điện qua Pháp cho bà Tuệ hay vắn tắt là Thầy đã mất, sẽ thiêu vào ngày 24.12; đồng thời đánh điện ra Nha Trang cho ông Châu Hải Kỳ biết tin dữ về Thầy. Sau đó tôi đi báo tin cho ông Côn, bạn thân của Thầy, có nhà ở khu Bàn Cờ. Ông Côn hết sức sửng sốt khi được tin và bảo sẽ báo tiếp cho các bạn bè khác. Khi trở lại nhà Thầy, tôi có mang theo máy chụp hình, mới mượn của đứa em rồi ghé tiệm hình mua một cuộn phim màu, phòng hờ có thể dùng đến khi cần. Tới nơi lúc 12 giờ trưa, thì người phụ trách tẩn liệm cũng vừa đến. Anh ta bàn bạc nhanh với Cô, rồi lanh lẹ bắt đầu công tác lau rửa cho Thầy. Anh dùng 1 lít rượu để bóp tay chân của Thầy cho mềm dịu lại, rồi nhanh nhẹn, thuần thục thay quần áo khác cho Thầy, luôn luôn khéo léo dùng một khăn nhỏ che hạ bộ của Thầy. Tay chân của Thầy vốn đã gầy ốm, nay sau cơn bịnh thấy tong teo thêm, sạm đen hơn, nhứt là bộ ngực lép xẹp, xương nổi rõ lên. Không ai chụp hình cả, có lẽ vì muốn tôn trọng ý của Thầy Cô là đơn giản tối đa. Tôi ức quá, ít ra cũng phải có chút gì ghi lại để kỉ niệm chớ. Tôi vội vàng lắp phim vào máy hình rồi loay hoay bấm vài kiểu, định bụng lén giữ cho riêng mình. Sau đó anh nhân viên nhà đòn ra về, hẹn sẽ chở quan tài đến để liệm luôn. Cô bèn sực nhớ đến cụ giáo Phất, bạn học của Thầy ở trường Bưởi, thường hay liên lạc với Thầy, nên Cô liền nhờ tôi đi cho cụ hay. Lúc tôi trở lại thì việc tẩn liệm đã xong xuôi. Linh cữu của Thầy nằm khuất bên trong, giữa phòng kề bên phòng khách, các ngọn nến leo lét cháy, khói hương nghi ngút. Các cháu của Cô cũng đến đông, ai nấy bận rộn tiếp khách, pha trà, rót nước, mời bánh. Tôi vẽ một tấm giấy lớn dán ở cửa thông báo ngày giờ hoả thiêu, và một tấm nhỏ với tên tuổi của Thầy đặt trước linh cữu để người đến chia buồn tiện khấn vái. Một người cháu của Cô mang máy chụp hình tới và thỉnh thoảng bấm chụp. Các ông bà hàng xóm, rồi các tổ chức bô lão của phường khóm lần lượt đến phân ưu với Cô rồi về ngay. Cảnh thật ảm đạm, im ắng, u buồn, đúng là của một nhà có tang. Không ồn ào mời mọc, đãi đằng, không có kèn trống bi ai, réo rắt. Chiều lại, các bạn thân của Thầy đến, trong số đó tôi chỉ biết có cụ Phất, cụ Giản Chi, cụ Vương Hồng Sển, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, ông Lê Ngộ Châu. Ai nấy đều rầu buồn và sửng sốt vì tin dữ đến đột ngột quá. Mới thấy Thầy còn khoẻ vậy mà nay đã ra đi vĩnh viễn rồi! Người nào cũng đều lặng lẽ cắm nhang, xá hoặc lạy và tỏ ý tiếc không quàn lâu hơn, rồi đề nghị dời lễ động quan qua Thứ Ba 25.12.1984 để bạn bè ở xa kịp tới tiễn đưa. Nhưng vì Cô muốn theo ý của Thầy tránh làm rùm beng, chỉ cần càng đơn giản càng tốt, và cũng muốn cho công việc tốt lành, suôn sẻ theo như đã coi ngày, nên đành giữ y như vậy. Một vài học trò cũ của Thầy và là bạn học cùng lớp với tụi tôi, bất ngờ hay tin cũng vội vã đến viếng Thầy lần chót. Tối đến, không khí tang ma càng ghê rợn hơn. Yên lặng. Tĩnh mịch. Người đi ra, đi vào đều rón rén, nhẹ nhàng, dè dặt, dường như sợ phá giấc ngủ của Thầy. Có vài đoàn hộ niệm tới tụng kinh siêu độ cho Thầy nữa. Tôi lại cứ băn khoăn dằng co giữa sự tôn trọng ý muốn của Thầy và sự thôi thúc giữ các hình ảnh cuối làm kỉ niệm, rồi cuối cùng, tôi quyết định cãi lời Thầy Cô để chụp vài cảnh đặc biệt. Đợi lúc vắng người, tôi mời Cô cùng các người trong nhà ra đứng 2 bên linh cữu của Thầy mà chụp hình. Người cháu có máy ảnh cũng ra bấm máy nữa. Thấy có đông người tiếp Cô và trời đã khuya, tụi tôi xin phép Cô ra về. Sáng hôm sau, tụi tôi đến sớm thì thấy mọi việc đã chuẩn bị dọn dẹp ngăn nắp rồi, hễ xe tang đến là đưa Thầy đi ngay. Cũng có mặt các người đến hôm trước. Đúng giờ, xe nhà đòn tới. Vẫn các nghi thức thường lệ, rồi xe lăn bánh hướng về Thủ Đức. Ngồi theo xe tang chỉ có 2 người đội khăn tang là Cô và Liên - con gái nuôi của Cô, từ Long Xuyên lên tối hôm trước. Đài hoả thiêu nằm sau chùa trên một ngọn đồi rộng, vươn thẳng ống khói lên cao. Sau các nghi thức đơn giản của Nhà Phật, vào khoảng 9 giờ rưỡi linh cữu được hạ xuống, chuẩn bị đưa vào lò. Không điếu văn, không lời kêu khóc. Tất cả đều trầm lặng. Ai nấy đều ngậm ngùi, lưu luyến nhìn lần chót chiếc quan tài trên đó có bức ảnh bán thân của Thầy với vầng trán vuông rộng, gân 2 bên thái dương nổi lên, miệng hơi cười mỉm, dường như đang vĩnh biệt chào mọi người để sang bên kia thế giới. Bất giác tôi muốn chạy đến ôm ảnh Thầy để gào lên “Vĩnh biệt, Thầy ơi!”. Nhưng bỗng có tiếng ai đó gọi tôi “Mau chụp ảnh đi!” khiến tôi phải kềm mình lại và đưa tay bấm máy. Quan tài từ từ tiến vào lò. Củi được chất nhanh vào. Cửa sắt đóng lại, nặng nề, đen đủi. Mọi người đều bước ra phía sau lò. Nhân viên hoả thiêu hất mấy lon dầu vào miệng lò và đưa cây đuốc đã đốt cháy bảo một người thân trong gia đình châm lửa theo thường lệ. Tụi tôi nhắc Cô bước tới cầm đuốc, nhưng Cô rụt tay lại, oà khóc và quay mặt đi, buồn bã nói: “Ai làm giùm đi, tôi không đủ can đảm làm viêc đó được!”. Một người cháu của Cô bước tới cầm cây đuốc đưa vào miệng lò. Lửa bùng lên và cháy phừng phừng. Lát sau nhìn qua cửa lò đã thấy xương sọ của Thầy hiện ra đỏ rực. Thế là hết! Một khối óc đã từng cống hiến bao nhiêu tinh tuý cho đời và đang còn minh mẫn tiếp tục truyền lại kinh nghiệm chân thật về cuộc sống, nay phải chịu tiêu tan, huỷ diệt…! Cô cùng mọi người vòng ra trước đài, lễ Phật rồi ra về. Ba người cháu ở lại lo việc thu nhặt tro cốt, vì phải chờ thiêu xong mất 2 tiếng, rồi chờ 2 tiếng nữa cho tro nguội hẳn, mới cho tro vào hũ mang về. Xe trở hướng về thành phố. Tôi ngoảnh nhìn lại đài thiêu. Đầu ống khói còn tiếp tục nhả ra một luồng khói trắng, lúc uốn éo, lúc bay thẳng lên cao, tựa như linh hồn Thầy đang bay đi, nửa dùng dằng, nửa dứt khoát với cõi trần tục. Mắt tôi bỗng mờ đi. Hôm sau tôi đến tiệm ảnh lấy cuốn phim đã chụp được. Tôi ngạc nhiên và thất vọng hoàn toàn vì hình ảnh bị mờ hết: tôi non tay ảnh mà lại dùng máy mượn, không quen sử dụng. Vậy là không thể cãi lại ý muốn của Thầy được. Tôi trở lại nhà Thầy, đưa Cô xem cuốn phim đã chụp dù không được rõ, nhưng còn dùng làm kỉ niệm được. Cô cho biết cũng may là các hình đen trắng do người cháu chụp có vài tấm khá rõ. Bức ảnh bán thân của Thầy đã được treo trên tường ngay phía trên tủ rượu dài dùng làm bàn thờ. Hũ tro nằm sát bên trong ngang với một bình bông “laydơn” (glaieul) trắng. Lư hương đặt ở bên ngoài với một cây nhang đang cháy dở, cùng một ngọn đèn hột vịt leo lét, bên cạnh một dĩa nhỏ chưng trái cây. Giản dị chỉ có vậy, đơn sơ, bình dị như cuộc đời của Thầy. Cô nhắc tôi sắp xếp giùm phòng ốc của Thầy Cô. Các sách vở của Thầy rất nhiều, chứa đầy khắp các phòng, nhưng phòng nào cũng được sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng. Tôi nhớ lại hồi trước mỗi lần đến thăm Thầy – có nhiều lần tới tận phòng làm việc của Thầy – tôi không thấy Thầy để sách vở bày la liệt, bừa bãi khắp nơi, mà trong tủ sau lưng Thầy chỉ có vài bộ tự điển và sách tham khảo, còn trên bàn làm việc thì chỉ có vài xấp giấy mỏng. Tôi luôn thắc mắc tự hỏi thông thường chỗ làm việc của các nhà văn hay học giả được mô tả là rất bừa bộn, ngổn ngang, đôi khi vô trật tự, không nhứt định nữa, vậy làm sao Thầy có thể viết nhiều sách như vậy mà không bày biện lung tung, chắc Thầy phải nhọc công vận dụng trí nhớ nhiều lắm. Thì ra Thầy tổ chức việc viết lách rất khoa học, khi cần một tài liệu nào thì tìm được ngay, khỏi phải lục lọi, rồi để bừa bãi. Thầy đã chặt chẽ áp dụng đúng các nguyên tắc đặt ra trong các sách về tổ chức công việc, để vừa đỡ mất thì giờ vừa không hại đến đà viết. Đa số các sách tham khảo được Thầy dùng bút chì ghi chú, chỗ thì gạch dọc hay đánh dấu tréo ngoài lề, chỗ thì gạch dưới những chỗ quan trọng, cần nhớ. Thường thường ở các trang giấy trắng ở đầu mỗi sách đều có mang vài dòng viết chì của Thầy sau khi đọc các ý chính cùng những số trang đáng nhớ, đôi khi kèm lời phê bình hay dở ra sao. Cô còn cho biết Cô có ý định biến căn nhà ở Long Xuyên thành thư viện mang tên Thầy để vừa lưu lại vết tích xưa vừa tiếp tục giúp đời nữa, như Thầy đã từng theo đuổi, nhưng tình hình di chuyển, chuyên chở quá khó khăn khiến Cô đành gạt bỏ ý định đó. Nửa tháng sau, các báo mới đăng tin Thầy mất. Tôi nhớ lại cuốn phim tôi đã chụp, muốn in ra giấy để xem đỡ, nên đến xin Cô cho mượn lại. Cô lục tìm nhưng không thấy nó đâu. Có lẽ do ai đó thấy nó mờ mờ, cho là vô dụng nên đã vứt đi chăng? Tôi bèn hỏi mượn khúc phim có ảnh trắng đen do người cháu chụp, hi vọng vớt vát được chút ít kỉ niệm, nhưng cũng không thấy luôn. Thế là các hình ảnh cuối cùng kỉ niệm về Thầy đành tiêu hết. Ý muốn của Thầy được hoàn toàn thực hiện rồi vậy, không cưỡng lại được. Vài tháng sau, Cô gợi ý nhờ con trai tôi, lúc đó đang học Đại học Kiến Trúc, vẽ kiểu để Cô xây một cái tháp mộ trước nhà Thầy Cô ở Long Xuyên hầu an vị nắm tro tàn của Thầy và của tổ tiên Thầy Cô vào đó. Dĩ nhiên Cô cũng đã dành sẵn một chỗ trong tháp đó cho ngày trăm tuổi của mình. Tháp đã vẽ và xây xong, hình lục giác, có 3 tầng tượng trưng cho tam qui y Phật, Pháp, Tăng. Bên dưới to rộng, bên trên nhỏ lại với nắp là tượng một bông sen có 3 lớp cánh, dãi dầu sương nắng nhưng vẫn nở tươi. Hũ tro có ảnh của Thầy được đặt ở tầng dưới cùng, trong một hộc xây hướng vô nhà, có kính che bên ngoài. Lúc tụi tôi đến lạy tạ Thầy và từ giã Cô để đi đoàn tụ (có quay phim video nữa) thì thấy kính đã được thay bằng đá cẩm thạch có in ảnh của Thầy hình bầu dục cùng ngày mất và số tuổi của Thầy thọ được. Có lẽ Cô sợ kính che bị bể rồi mất hũ tro quí của Thầy chăng nên mới thay kính bằng đá cho chắc chắn?[/li][li] Trước hàng ba của nhà Thầy Cô vẫn còn để cái giá võng, nơi đó Thầy đã thường nằm đong đưa, ngắm các bụi hồng xinh xắn trồng dọc thềm. Cô chỉ vào giá võng và bảo vẫn để nó y chỗ cũ, mặc dầu không xài nhưng cũng không nỡ dẹp đi, vì đó là kỉ niệm của Thầy. Trước khi ra đi đoàn tụ, tôi đã nhờ đứa cháu gái của Cô, đang trông coi ngôi nhà ở đường Kỳ Đồng, trao lại Cô các sách tôi đã xin trước kia, vì không thể mang theo được. Giờ đây được sống yên ổn nơi xứ người, cứ mỗi lần nhớ đến Thầy, tôi chỉ còn biết lấy băng video ra xem và lại hối tiếc tại sao lúc đó không cãi lời Thầy mà chuẩn bị chu đáo máy và phim để chụp hình đầy đủ tất cả các việc từ đầu đến cuối. Nhưng trong tâm khảm tụi tôi lúc nào cũng in sâu hình ảnh của người Thầy, người cha tinh thần, khó tìm được người thứ hai trên đời này. Nay xin ghi lại những dòng này thay cho hình ảnh những giờ phút cuối cùng của Thầy, gọi là để tưởng nhớ vị ân sư khả kính của tụi tôi. BRISBANE, ngày 10 tháng 8 năm 1990. Tháp mộ (tại chùa Phước Ân, ấp Vĩnh Bình, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, Đồng Tháp). [/li][li] Sau này, tháp mộ được dời về an vị tại chùa Phước Ân, thuộc ấp Vĩnh Bình, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
|
|
|
Post by Can Tho on May 26, 2013 3:49:14 GMT 9
ÂN SƯ NGUYỄN HIẾN-LÊ: Những ngày cuối đời Quế-Kế BBT: Từ Sydney (Australia), thầy Huỳnh Kim Quế và cô Nguyễn Thiện Kế - 2 học sinh khoá thứ nhì của Collège de Long Xuyên (Trung học Thoại Ngọc Hầu), đã gởi về cho Ban biên tập một bài rất dài, viết năm 1990, 6 năm sau khi học giả Nguyễn Hiến Lê qua đời. Nội dung bài viết có nhiều tư liệu quý giá, nhưng do khuôn khổ của cuốn Kỷ yếu, Ban biên tập xin được trích đăng một phần, phần còn lại sẽ giới thiệu với độc giả khi có điều kiện. Chiều thứ Bảy 22.12.1984, cả gia đình tôi đang dán mắt vào màn ảnh truyền hình để thưởng thức tài nghệ diễn xuất điêu luyện của các nghệ sĩ cải lương quen thuộc. Sắp đến hồi kết thúc gay cấn thì văng vẳng có tiếng ai đập cửa cùng với tiếng gọi lớn: - Cô Kệ ơi, cô Kệ! Bực mình vì bị quấy rầy vào giờ giải trí duy nhứt cuối tuần, tôi vội bước nhanh ra hàng ba phía trước trên lầu nhìn xuống xem ai gọi cửa với giọng khác lạ vậy. Khách là một người đàn ông nhỏ con, mang kiếng cận, đang cố vừa nhìn vào trong nhà qua cửa lưới, vừa gọi to với giọng miền Trung: “Cô Kệ ơi, cô Kệ!”. Tôi bèn lên tiếng và vội vã chạy nhanh xuống lầu coi có chuyện gì để còn trở lên kịp xem hết vở cải lương. Ông khách – tôi chưa quen biết bao giờ - mặc áo sơ-mi bỏ ngoài quần, nói giọng miền Trung đặc sệt: - Bà Năm bạo tôi đện cho cô Kệ hay là Ông Năm đã mật rồi! Hiểu loáng thoáng và sợ mình nghe lầm, tôi gặng hỏi lại và bàng hoàng, sửng sốt được biết là Thầy Nguyễn Hiến-Lê vừa mới mất, và Cô, tức Bà Nguyễn Thị Liệp – nhà tôi và tôi gọi là Cô vì nhà tôi có học môn Nữ công Gia chánh với Cô ở Trường trung học Thoại Ngọc Hầu Long Xuyên - nhắn 2 vợ chồng tôi lại. Sét đánh ngang tai! Vẫn chưa tin là thật! Có lẽ Thầy đang hấp hối mà Cô đã lo sợ nên vội vã nhắn tụi tôi đến chăng? Mới lúc trưa nầy Thầy còn sỏi lắm mà, lẽ nào lại có thể như vậy được? Nhà tôi – tên cúng cơm là Nguyễn Thiện Kế - linh tính báo có chuyện bất thường nên vội vàng xuống lầu. Sau khi gọi đứa con trai xuống dặn dò việc nhà, chúng tôi, mỗi người một chiếc xe đạp, chạy nhanh đến đường Kỳ Đồng. Gần đến nhà Thầy, chúng tôi thấy con đường vẫn tối tăm với các ngọn đèn điện vàng vọt. Con hẻm nhỏ dẫn vào nhà Thầy vẫn âm u, mờ ảo. Bất chợt, tiếng chuông chùa đầu hẻm ngân lên nhẹ nhàng, nức nở… Trong nhà Thầy Cô sáng choang. Cô đang mong mà nghe tiếng động lao xao bên ngoài nhà, bèn vội vã ra mở cửa đón tụi tôi vào. Cô cho biết đang bàn chuyện tẩn liệm với người đại diện nhà đòn riêng của bệnh viện An Bình. Thầy nằm trơ trọi trên chiếc đi-văng gỗ thấp, mặc bộ bà ba vải trắng, thân mình lép xẹp, dán xuống mặt chiếu, hai tay buông xuôi, một vuông khăn the đen che phủ mặt Thầy. Nhà tôi nhẹ nhàng giở khăn đen ra. Tụi tôi nhìn Thầy lần cuối xót xa, nghẹn ngào! Mặt Thầy tươi tắn, đầy đặn hơn ngày thường, miệng như mỉm cười. Có lẽ Cô đã khóc nhiều rồi, lệ đã cạn rồi, nên khi đưa tụi tôi trở ra xa-lông, Cô mím miệng kềm xúc cảm và kể rõ chi tiết giờ phút cuối của Thầy: “Sau khi hai cháu ra về khỏi bệnh viện An Bình thì Ổng vẫn mệt, hơi thở dồn dập. Lát sau ổng khoẻ lại, vẫn tỉnh táo chuyện vãn, và ngủ thiếp đi được một chút. Lúc tỉnh dậy, ổng kêu khát. Cô rót nước trà đem lại nhưng ổng chỉ nhắp một ít. Cô bèn đưa cháo nóng cho Thầy đỡ dạ. Ổng ngồi lên, cầm muỗng húp 2, 3 miếng rồi nằm xuống, bảo là hơi mệt. Đến 3 giờ chiều, Ổng bỗng mệt nhiều, thở hổn hển do có nhiều đàm ngăn ở cổ. Cô liền cấp báo cho y tá. Họ đưa xe cáng đến rồi nhanh chóng đẩy Thầy xuống Phòng cấp cứu. Tại đây Ổng vẫn còn tỉnh táo nhìn các vật dụng trong phòng. Bác sĩ được mời đến chẩn bệnh ngay. Rồi các cô y tá lăng xăng chích thuốc khoẻ và úp nắp dưỡng khí giúp Thầy thở, Ổng đỡ mệt một chút và ngã lưng được một lát. Sau đó Ổng cứ mệt lên từng cơn. “Khoảng 7 giờ, thấy Cô luôn đứng kề bên giường cấp cứu, quá khổ cực với Thầy, mà Cô vốn không được khoẻ mạnh lắm, Ổng đưa bàn tay vỗ nhè nhẹ chỗ giường sát hông mà thều thào bảo Cô lên nằm nghỉ đỡ trên giường với Thầy. Cô cười vì làm sao đủ chỗ nằm được, mà trong phòng lại không có cái ghế nào để Cô ngồi đỡ chưn (chân). “Hồi lâu sau, bỗng Ổng đưa tay làm dấu bị nghẹt ở cuống họng, khiến Ổng khó thở quá. Rồi Ổng rán khạc đàm ra nhưng không được. Ổng thở dồn dập thêm. Cô y tá liền đưa máy hút đàm tới. Ổng thở được hơi thông, nhưng rất mệt, có lẽ tim bị lên cơn nữa. Lại chích thêm thuốc khoẻ. Đến đúng 9 giờ, Ổng nấc lên 2, 3 cái rồi thở hắt ra một hơi mạnh và ngoẹo đầu xuống, bất động. Cô bèn xin xe chở Thầy về. Tội nghiệp các nhân viên trong bệnh viện lo thủ tục ngay, rất nhanh. Đó là một đặc ân vì đáng lẽ hễ mất trong bệnh viện thì không được mang xác về nhà, mà phải đợi tẩn liệm xong xuôi rồi mới được chở đi. “Tới nhà rồi, Cô mới nhờ ông Trung tá cán bộ bên trong đây – Cô vừa nói vừa chỉ về hướng ngôi nhà bên cạnh ở cuối hẻm - tới nhà 2 cháu nhắn tin giùm. Rồi Cô lau mình mẩy, mặc quần áo khác cho Thầy và để Thầy nằm đó. Ổng đi như vậy tức tưởi thật, nhưng thà vậy còn hơn, chứ thấy Ổng hổn hển kéo hơi lên, Cô xót xa quá, không biết phải làm gì cho Ổng thở được.” Thế rồi Cô cho biết là lúc Thầy còn sống, Thầy có dặn rằng việc tang ma của Thầy phải làm hết sức đơn giản, và chỉ cho vài người thân biết thôi. Cô có nhờ một người bạn quen của Thầy đi coi ngày giờ tốt để động quan và hoả thiêu. Vì không chọn được ngày giờ tốt nào khác xa hơn nên Cô quyết định quàn tại nhà một hôm rồi sáng hôm sau - tức thứ Hai – lúc 8 giờ là đưa đi hoả thiêu ở An dưỡng địa trong Phú Lâm, đúng theo ý muốn của Thầy là làm đơn giản, không phô trương rườm rà. Nhà tôi thấy bình sanh Thầy thường ưa thích cảnh đẹp, bèn gợi ý với Cô nên đưa đi hoả thiêu ở Thủ Đức, vì nơi đó gần một ngôi chùa nằm trên đồi cao gió lộng, phong cảnh hữu tình; còn lò thiêu ở Phú Lâm mấy lúc sau nầy nhà cửa xây cất bừa bãi, lấn chiếm gần hết cả lối vào, và vệ sinh rất tệ. Cô cũng thuận ý và giao cho nhà tôi liên lạc lo thủ tục giùm. Tụi tôi có nhắc Cô là còn giữ của Thầy nửa lượng vàng, để tụi tôi đưa lại Cô mà chi dụng cho việc tang ma. Cô vội gạt đi mà nói đó là hậu ý của Thầy muốn tặng tụi tôi chút ít của Thầy. Trước đây, tụi tôi đã nhiều lần đem trả lại mà Thầy không nhận. Đồng hồ của nhà bên kia hẻm thong thả điểm 12 tiếng. Tôi vào nằm trên bộ ván ngựa ở nhà sau, chỗ trước kia là kho sách. Vừa lạ chỗ vừa được tin bất ngờ về Thầy, tôi trằn trọc mãi không sao chợp mắt được. * Trời dần dần sáng hẳn. Nhà tôi và người đàn bà hàng xóm đã lục đục dậy nấu nước, pha trà. Cô cũng đã dậy và bước xuống lầu, vẻ mặt tươi tỉnh. Cô cho biết có chợp mắt được nên thấy khoẻ và con mắt không còn mờ hay nhức nữa. Chúng tôi lại phân công nhau đi lo các việc Cô nhờ làm. Phần Dũng (cháu trai của Cô) thì đi cho người cháu hay hung tín, người cháu này đã đến ngủ đêm tiếp Cô săn sóc Thầy đêm trước, để nhờ anh ta cùng đi với nhà tôi mà liên lạc lo thủ tục tẩn liệm, hoả thiêu. Nhà tôi còn đi mua các vật dụng cần thiết cho việc cúng kiến. Phần việc của tôi là đi đánh điện qua Pháp cho bà Tuệ hay vắn tắt là Thầy đã mất, sẽ thiêu vào ngày 24.12; đồng thời đánh điện ra Nha Trang cho ông Châu Hải Kỳ biết tin dữ về Thầy. Sau đó tôi đi báo tin cho ông Côn, bạn thân của Thầy, có nhà ở khu Bàn Cờ. Ông Côn hết sức sửng sốt khi được tin và bảo sẽ báo tiếp cho các bạn bè khác. Khi trở lại nhà Thầy, tôi có mang theo máy chụp hình, mới mượn của đứa em rồi ghé tiệm hình mua một cuộn phim màu, phòng hờ có thể dùng đến khi cần. Tới nơi lúc 12 giờ trưa, thì người phụ trách tẩn liệm cũng vừa đến. Anh ta bàn bạc nhanh với Cô, rồi lanh lẹ bắt đầu công tác lau rửa cho Thầy. Anh dùng 1 lít rượu để bóp tay chân của Thầy cho mềm dịu lại, rồi nhanh nhẹn, thuần thục thay quần áo khác cho Thầy, luôn luôn khéo léo dùng một khăn nhỏ che hạ bộ của Thầy. Tay chân của Thầy vốn đã gầy ốm, nay sau cơn bịnh thấy tong teo thêm, sạm đen hơn, nhứt là bộ ngực lép xẹp, xương nổi rõ lên. Không ai chụp hình cả, có lẽ vì muốn tôn trọng ý của Thầy Cô là đơn giản tối đa. Tôi ức quá, ít ra cũng phải có chút gì ghi lại để kỉ niệm chớ. Tôi vội vàng lắp phim vào máy hình rồi loay hoay bấm vài kiểu, định bụng lén giữ cho riêng mình. Sau đó anh nhân viên nhà đòn ra về, hẹn sẽ chở quan tài đến để liệm luôn. Cô bèn sực nhớ đến cụ giáo Phất, bạn học của Thầy ở trường Bưởi, thường hay liên lạc với Thầy, nên Cô liền nhờ tôi đi cho cụ hay. Lúc tôi trở lại thì việc tẩn liệm đã xong xuôi. Linh cữu của Thầy nằm khuất bên trong, giữa phòng kề bên phòng khách, các ngọn nến leo lét cháy, khói hương nghi ngút. Các cháu của Cô cũng đến đông, ai nấy bận rộn tiếp khách, pha trà, rót nước, mời bánh. Tôi vẽ một tấm giấy lớn dán ở cửa thông báo ngày giờ hoả thiêu, và một tấm nhỏ với tên tuổi của Thầy đặt trước linh cữu để người đến chia buồn tiện khấn vái. Một người cháu của Cô mang máy chụp hình tới và thỉnh thoảng bấm chụp. Các ông bà hàng xóm, rồi các tổ chức bô lão của phường khóm lần lượt đến phân ưu với Cô rồi về ngay. Cảnh thật ảm đạm, im ắng, u buồn, đúng là của một nhà có tang. Không ồn ào mời mọc, đãi đằng, không có kèn trống bi ai, réo rắt. Chiều lại, các bạn thân của Thầy đến, trong số đó tôi chỉ biết có cụ Phất, cụ Giản Chi, cụ Vương Hồng Sển, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, ông Lê Ngộ Châu. Ai nấy đều rầu buồn và sửng sốt vì tin dữ đến đột ngột quá. Mới thấy Thầy còn khoẻ vậy mà nay đã ra đi vĩnh viễn rồi! Người nào cũng đều lặng lẽ cắm nhang, xá hoặc lạy và tỏ ý tiếc không quàn lâu hơn, rồi đề nghị dời lễ động quan qua Thứ Ba 25.12.1984 để bạn bè ở xa kịp tới tiễn đưa. Nhưng vì Cô muốn theo ý của Thầy tránh làm rùm beng, chỉ cần càng đơn giản càng tốt, và cũng muốn cho công việc tốt lành, suôn sẻ theo như đã coi ngày, nên đành giữ y như vậy. Một vài học trò cũ của Thầy và là bạn học cùng lớp với tụi tôi, bất ngờ hay tin cũng vội vã đến viếng Thầy lần chót. Tối đến, không khí tang ma càng ghê rợn hơn. Yên lặng. Tĩnh mịch. Người đi ra, đi vào đều rón rén, nhẹ nhàng, dè dặt, dường như sợ phá giấc ngủ của Thầy. Có vài đoàn hộ niệm tới tụng kinh siêu độ cho Thầy nữa. Tôi lại cứ băn khoăn dằng co giữa sự tôn trọng ý muốn của Thầy và sự thôi thúc giữ các hình ảnh cuối làm kỉ niệm, rồi cuối cùng, tôi quyết định cãi lời Thầy Cô để chụp vài cảnh đặc biệt. Đợi lúc vắng người, tôi mời Cô cùng các người trong nhà ra đứng 2 bên linh cữu của Thầy mà chụp hình. Người cháu có máy ảnh cũng ra bấm máy nữa. Thấy có đông người tiếp Cô và trời đã khuya, tụi tôi xin phép Cô ra về. Sáng hôm sau, tụi tôi đến sớm thì thấy mọi việc đã chuẩn bị dọn dẹp ngăn nắp rồi, hễ xe tang đến là đưa Thầy đi ngay. Cũng có mặt các người đến hôm trước. Đúng giờ, xe nhà đòn tới. Vẫn các nghi thức thường lệ, rồi xe lăn bánh hướng về Thủ Đức. Ngồi theo xe tang chỉ có 2 người đội khăn tang là Cô và Liên - con gái nuôi của Cô, từ Long Xuyên lên tối hôm trước. Đài hoả thiêu nằm sau chùa trên một ngọn đồi rộng, vươn thẳng ống khói lên cao. Sau các nghi thức đơn giản của Nhà Phật, vào khoảng 9 giờ rưỡi linh cữu được hạ xuống, chuẩn bị đưa vào lò. Không điếu văn, không lời kêu khóc. Tất cả đều trầm lặng. Ai nấy đều ngậm ngùi, lưu luyến nhìn lần chót chiếc quan tài trên đó có bức ảnh bán thân của Thầy với vầng trán vuông rộng, gân 2 bên thái dương nổi lên, miệng hơi cười mỉm, dường như đang vĩnh biệt chào mọi người để sang bên kia thế giới. Bất giác tôi muốn chạy đến ôm ảnh Thầy để gào lên “Vĩnh biệt, Thầy ơi!”. Nhưng bỗng có tiếng ai đó gọi tôi “Mau chụp ảnh đi!” khiến tôi phải kềm mình lại và đưa tay bấm máy. Quan tài từ từ tiến vào lò. Củi được chất nhanh vào. Cửa sắt đóng lại, nặng nề, đen đủi. Mọi người đều bước ra phía sau lò. Nhân viên hoả thiêu hất mấy lon dầu vào miệng lò và đưa cây đuốc đã đốt cháy bảo một người thân trong gia đình châm lửa theo thường lệ. Tụi tôi nhắc Cô bước tới cầm đuốc, nhưng Cô rụt tay lại, oà khóc và quay mặt đi, buồn bã nói: “Ai làm giùm đi, tôi không đủ can đảm làm viêc đó được!”. Một người cháu của Cô bước tới cầm cây đuốc đưa vào miệng lò. Lửa bùng lên và cháy phừng phừng. Lát sau nhìn qua cửa lò đã thấy xương sọ của Thầy hiện ra đỏ rực. Thế là hết! Một khối óc đã từng cống hiến bao nhiêu tinh tuý cho đời và đang còn minh mẫn tiếp tục truyền lại kinh nghiệm chân thật về cuộc sống, nay phải chịu tiêu tan, huỷ diệt…! Cô cùng mọi người vòng ra trước đài, lễ Phật rồi ra về. Ba người cháu ở lại lo việc thu nhặt tro cốt, vì phải chờ thiêu xong mất 2 tiếng, rồi chờ 2 tiếng nữa cho tro nguội hẳn, mới cho tro vào hũ mang về. Xe trở hướng về thành phố. Tôi ngoảnh nhìn lại đài thiêu. Đầu ống khói còn tiếp tục nhả ra một luồng khói trắng, lúc uốn éo, lúc bay thẳng lên cao, tựa như linh hồn Thầy đang bay đi, nửa dùng dằng, nửa dứt khoát với cõi trần tục. Mắt tôi bỗng mờ đi. Hôm sau tôi đến tiệm ảnh lấy cuốn phim đã chụp được. Tôi ngạc nhiên và thất vọng hoàn toàn vì hình ảnh bị mờ hết: tôi non tay ảnh mà lại dùng máy mượn, không quen sử dụng. Vậy là không thể cãi lại ý muốn của Thầy được. Tôi trở lại nhà Thầy, đưa Cô xem cuốn phim đã chụp dù không được rõ, nhưng còn dùng làm kỉ niệm được. Cô cho biết cũng may là các hình đen trắng do người cháu chụp có vài tấm khá rõ. Bức ảnh bán thân của Thầy đã được treo trên tường ngay phía trên tủ rượu dài dùng làm bàn thờ. Hũ tro nằm sát bên trong ngang với một bình bông “laydơn” (glaieul) trắng. Lư hương đặt ở bên ngoài với một cây nhang đang cháy dở, cùng một ngọn đèn hột vịt leo lét, bên cạnh một dĩa nhỏ chưng trái cây. Giản dị chỉ có vậy, đơn sơ, bình dị như cuộc đời của Thầy. Cô nhắc tôi sắp xếp giùm phòng ốc của Thầy Cô. Các sách vở của Thầy rất nhiều, chứa đầy khắp các phòng, nhưng phòng nào cũng được sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng. Tôi nhớ lại hồi trước mỗi lần đến thăm Thầy – có nhiều lần tới tận phòng làm việc của Thầy – tôi không thấy Thầy để sách vở bày la liệt, bừa bãi khắp nơi, mà trong tủ sau lưng Thầy chỉ có vài bộ tự điển và sách tham khảo, còn trên bàn làm việc thì chỉ có vài xấp giấy mỏng. Tôi luôn thắc mắc tự hỏi thông thường chỗ làm việc của các nhà văn hay học giả được mô tả là rất bừa bộn, ngổn ngang, đôi khi vô trật tự, không nhứt định nữa, vậy làm sao Thầy có thể viết nhiều sách như vậy mà không bày biện lung tung, chắc Thầy phải nhọc công vận dụng trí nhớ nhiều lắm. Thì ra Thầy tổ chức việc viết lách rất khoa học, khi cần một tài liệu nào thì tìm được ngay, khỏi phải lục lọi, rồi để bừa bãi. Thầy đã chặt chẽ áp dụng đúng các nguyên tắc đặt ra trong các sách về tổ chức công việc, để vừa đỡ mất thì giờ vừa không hại đến đà viết. Đa số các sách tham khảo được Thầy dùng bút chì ghi chú, chỗ thì gạch dọc hay đánh dấu tréo ngoài lề, chỗ thì gạch dưới những chỗ quan trọng, cần nhớ. Thường thường ở các trang giấy trắng ở đầu mỗi sách đều có mang vài dòng viết chì của Thầy sau khi đọc các ý chính cùng những số trang đáng nhớ, đôi khi kèm lời phê bình hay dở ra sao. Cô còn cho biết Cô có ý định biến căn nhà ở Long Xuyên thành thư viện mang tên Thầy để vừa lưu lại vết tích xưa vừa tiếp tục giúp đời nữa, như Thầy đã từng theo đuổi, nhưng tình hình di chuyển, chuyên chở quá khó khăn khiến Cô đành gạt bỏ ý định đó. Nửa tháng sau, các báo mới đăng tin Thầy mất. Tôi nhớ lại cuốn phim tôi đã chụp, muốn in ra giấy để xem đỡ, nên đến xin Cô cho mượn lại. Cô lục tìm nhưng không thấy nó đâu. Có lẽ do ai đó thấy nó mờ mờ, cho là vô dụng nên đã vứt đi chăng? Tôi bèn hỏi mượn khúc phim có ảnh trắng đen do người cháu chụp, hi vọng vớt vát được chút ít kỉ niệm, nhưng cũng không thấy luôn. Thế là các hình ảnh cuối cùng kỉ niệm về Thầy đành tiêu hết. Ý muốn của Thầy được hoàn toàn thực hiện rồi vậy, không cưỡng lại được. Vài tháng sau, Cô gợi ý nhờ con trai tôi, lúc đó đang học Đại học Kiến Trúc, vẽ kiểu để Cô xây một cái tháp mộ trước nhà Thầy Cô ở Long Xuyên hầu an vị nắm tro tàn của Thầy và của tổ tiên Thầy Cô vào đó. Dĩ nhiên Cô cũng đã dành sẵn một chỗ trong tháp đó cho ngày trăm tuổi của mình. Tháp đã vẽ và xây xong, hình lục giác, có 3 tầng tượng trưng cho tam qui y Phật, Pháp, Tăng. Bên dưới to rộng, bên trên nhỏ lại với nắp là tượng một bông sen có 3 lớp cánh, dãi dầu sương nắng nhưng vẫn nở tươi. Hũ tro có ảnh của Thầy được đặt ở tầng dưới cùng, trong một hộc xây hướng vô nhà, có kính che bên ngoài. Lúc tụi tôi đến lạy tạ Thầy và từ giã Cô để đi đoàn tụ (có quay phim video nữa) thì thấy kính đã được thay bằng đá cẩm thạch có in ảnh của Thầy hình bầu dục cùng ngày mất và số tuổi của Thầy thọ được. Có lẽ Cô sợ kính che bị bể rồi mất hũ tro quí của Thầy chăng nên mới thay kính bằng đá cho chắc chắn?[/li][li] Trước hàng ba của nhà Thầy Cô vẫn còn để cái giá võng, nơi đó Thầy đã thường nằm đong đưa, ngắm các bụi hồng xinh xắn trồng dọc thềm. Cô chỉ vào giá võng và bảo vẫn để nó y chỗ cũ, mặc dầu không xài nhưng cũng không nỡ dẹp đi, vì đó là kỉ niệm của Thầy. Trước khi ra đi đoàn tụ, tôi đã nhờ đứa cháu gái của Cô, đang trông coi ngôi nhà ở đường Kỳ Đồng, trao lại Cô các sách tôi đã xin trước kia, vì không thể mang theo được. Giờ đây được sống yên ổn nơi xứ người, cứ mỗi lần nhớ đến Thầy, tôi chỉ còn biết lấy băng video ra xem và lại hối tiếc tại sao lúc đó không cãi lời Thầy mà chuẩn bị chu đáo máy và phim để chụp hình đầy đủ tất cả các việc từ đầu đến cuối. Nhưng trong tâm khảm tụi tôi lúc nào cũng in sâu hình ảnh của người Thầy, người cha tinh thần, khó tìm được người thứ hai trên đời này. Nay xin ghi lại những dòng này thay cho hình ảnh những giờ phút cuối cùng của Thầy, gọi là để tưởng nhớ vị ân sư khả kính của tụi tôi. BRISBANE, ngày 10 tháng 8 năm 1990. Tháp mộ (tại chùa Phước Ân, ấp Vĩnh Bình, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, Đồng Tháp). [/li][li] Sau này, tháp mộ được dời về an vị tại chùa Phước Ân, thuộc ấp Vĩnh Bình, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 3:50:29 GMT 9
NGUYỄN HIẾN LÊ - Tưởng vọng Bắc Thu Tứ
Ngoại ô Hà Nội Một mùa hè Ngã ba Bạch Hạc Cây gạo Tản mạn hoa Tết Cái nhạc cũ của ta Nhà ở ngõ Phất Lộc Nhà khá giả ở nông thôn Hoa đào năm trước * Nhắc Nguyễn Hiến Lê, có lẽ ít người nghĩ đến một nhà văn (theo nghĩa hẹp thường dùng của từ "nhà văn"). Cũng có lẽ không nhiều người nghĩ đến một người Việt miền Bắc. Nhưng Nguyễn Hiến Lê chính sinh trưởng ở Bắc và có viết "văn", kể cả truyện.
Cái quãng thời gian mười năm đại khái từ khi ta lên mười nó điển hình gây ấn tượng hết sức mạnh mẽ nơi tâm trí ta. Mà Nguyễn Hiến Lê rời đất Bắc năm đã 22 tuổi, vậy ông hồi ức đậm đà là phải.
Miền Bắc rất nhiều cảnh đẹp và hùng vĩ. Nguyễn Hiến Lê chỉ mới thấy Hà Nội và đôi chỗ gần Hà Nội, nhưng cũng đã không làm sao quên được những cảm giác thú vị tuyệt vời.
Ông mê cảnh, và ông ngắm cảnh mà miên man nhớ lịch sử dân tộc. Nhờ lớn lên trong một đại gia đình có những người hy sinh vì nghĩa cả, Nguyễn Hiến Lê hay nghĩ tới nước. Cái nhìn mọi thứ xung quanh mình cách tha thiết, hãnh diện và trân trọng của ông khác hẳn cái nhìn hững hờ của một du khách ngoại quốc. Cái nhìn ấy khiến chúng ta - người Việt Nam - cũng tự nhiên trân trọng những dòng chữ ông viết kể về những cái đã mắt thấy và lòng thấy.
Văn Nguyễn Hiến Lê trong sáng, diễn ý hiệu quả, nhưng không có vẻ đẹp đặc biệt. Ông viết như thế rồi ông nhận định về văn người khác cũng lấy việc diễn ý làm chính chứ không quan tâm đến mỹ thuật của lời. Nghệ thuật viết văn đối với Nguyễn Hiến Lê cơ bản chỉ là nghệ thuật diễn ý. Dựa trên quan niệm ấy mà so sánh văn Việt với văn Tây thì thiệt thòi cho văn Việt, so sánh văn Nguyễn Tuân với văn tác gia khác thì thiệt cho văn Nguyễn Tuân.
Sau đây là một số đoạn ký có thể coi như lời tưởng vọng đầy thành kính thương yêu của một người Việt Nam hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nơi đồng thời cũng là đất tổ của mọi người Việt Nam.
Ngoại ô Hà Nội
Đối với một người Việt biết lịch sử Việt, làm gì có nơi nào trên mặt quả đất này gây được nhiều rung động bằng Hà Nội.
Cái "ngoại ô Hà Nội có nhiều cảnh thiên nhiên đẹp" của Nguyễn Hiến Lê chưa kịp xuất hiện cho thực rõ ràng trong văn chương Việt Nam như ông ao ước thì đã coi như đi khuất vào lịch sử rồi!
----
Sau vườn Bách Thảo là làng Ngọc Hà, chuyên cung cấp hoa cho thành phố: đào, mai, cúc, thược dược, lan, hồng, huệ, sói, nhài... Thiếu nữ làng này nửa quê nửa tỉnh, tình tứ, thùy mị mà lanh lợi (...)
Tiến vô chút nữa tới chùa Một Cột, một kiến trúc nhỏ nhưng độc đáo, như một bông sen nổi giữa hồ (...)
Hồ Tây, từ đền Quan Thánh tới chùa Trấn Quốc xưa trồng sen, mùa hè hương thơm ngào ngạt; còn hồ Trúc Bạch thì nước trong, cạn, tắm rất mát (...) Tôi nhớ những buổi chiều hè cùng với bạn ngồi trên đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) nhìn mặt hồ nhấp nhô, loang loáng ánh nắng, có đàn chim bay về phía núi Tản xanh thẳm ở chân trời (...)
Cuối đường là làng Yên Phụ ở chân đê sông Nhị. Chỗ này cũng trồng nhiều hoa như Ngọc Hà, nhưng có phần thú hơn vì nằm ngay trên bờ hồ (...) Chung quanh hồ, phía bên Nghi Tàm cũng như phía bên Thụy Khê, có biết bao miếu cổ, chùa cổ, nhiều ngôi xây cất từ đời Lý, cách nay tám chín thế kỷ, hễ bước vào là lòng tôi rung động nhè nhẹ một cách tuyệt thú (...)
Tôi nhớ những ngày đi tảo mộ cùng với họ hàng phố hàng Đường. Tiết Thanh Minh ngoài Bắc đã hết lạnh nhưng cũng chưa nóng. Bảy giờ sáng chúng tôi lên xe điện ở bờ hồ Hoàn Kiếm. Xe đông người đi tảo mộ, gia đình nào cũng có một bà già và vài thiếu nữ mang những cái quả sơn son đựng nhang, rượu, hoa quả, xôi, thịt (...)
Chúng tôi vào làng Hạ Đình, đi thăm năm sáu ngôi mộ trên một cánh đồng trồng hoa màu ở đầu làng (...) Đầu tháng ba, không khí trong sáng, hoa ít hơn nhưng lá xanh hơn, chim ríu rít trên những cành gạo đỏ rực. Lác đác trên cánh đồng có những đám năm ba người, tà áo đủ màu phất phơ trên đám cà hay cải xanh; khói hương tỏa nhẹ trong làn gió. Gặp nhau người ta nhìn nhau mỉm cười hoặc hỏi nhau vài câu lịch sự. Thăm xong các ngôi mộ rồi, chúng tôi tìm một gốc gạo, gốc đa ở giữa đồng hoặc trong một sân đình, ngả đồ cúng ra ăn rồi mới vào nhà bà con nghỉ (...)
Vì hai cảnh đó (chùa Láng và đền Voi Phục) ở gần nhau, nên lần nào tôi cũng bỏ trọn một buổi, từ hai giờ chiều đến tối, để thăm cả hai nơi một lượt. Tôi thường đi một mình để hưởng cái thú cô liêu, hoài cổ (...)
Thường tôi đi xe điện lên đền Voi Phục trước, ngồi dưới gốc chòi mòi nghe chim ríu rít trên cành, rồi vào sân đền, ngồi trên một bệ cao nhìn hồ nước, hưởng hương sói, hương lan, hương hồng, sau cùng ra vườn nhãn ở sau đền, mua một bó, ăn ngay dưới gốc cây.
Từ vườn tôi (ra một con đê) để lại chùa Láng. Đê này cao hơn mặt ruộng khoảng hai thước, trải nhựa, rợp bóng cây, ít xe, vừa tản bộ vừa nhìn phong cảnh rất thú. Lâu lâu lại gặp một quán bên đường, bán trà tươi và chuối, bánh gai, bánh nhợm. Đến chùa Láng thì ánh tà dương đã xiên qua những cụm lá thông, chiếu xuống con đường lát gạch, bóng lá chỗ thưa chỗ đậm. Cảnh chùa Láng u nhã mà cổ kính. Thơ thẩn ở đây một lát, tôi trở ra đê đi ngang qua làng Hạ Yên Quyết (tục gọi là Cót) (...) để tới làng Bưởi.
Mùa thu, chiều thường có một làn sương nhẹ như tấm màn lụa phơn phớt xanh lam phủ lên đồng ruộng, lũy tre, cổng xóm ở hai bên đê, cảnh vật mờ mờ, buồn dìu dịu, thật nên thơ.
Ngoại ô Hà Nội có nhiều cảnh thiên nhiên đẹp, nhiều di tích lịch sử (...) tiếc trong thơ văn của người mình chưa có bài nào tả (...) (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992)
Một mùa hè
Nghỉ hè như ông Nguyễn Hiến Lê nghỉ năm ấy thật là đáng nghỉ: đi chơi lang thang khắp ngoại ô Hà Nội, về quê mình Sơn Tây ngày ngày ngắm núi Tản Viên, rồi lên quê bạn Phú Thọ cùng nhau trèo núi viếng đền Hùng.
Ông lên núi Hùng chỉ vài năm sau Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang, tức vào đầu thập kỷ 1930. Khoảng sáu mươi năm sau chúng tôi có dịp thăm đất Bắc mùa xuân, được nhắc câu
"Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ...",
nên "mồng mười tháng ba" cũng tìm về Phú Thọ để trèo dốc, thì thấy quả như ông tả: "bỗng qua một khúc quẹo, ngọn núi Hùng âm u hiện lên sừng sững trước mặt, cao và thanh tú hơn các ngọn chung quanh (...) cứ mỗi bước, núi càng dâng cao lên trên nền trời xanh thật uy nghi"...
----
Nghỉ hè năm đó, tôi ở lại Hà Nội nửa tháng rồi mới về quê ở Phương Khê. Trong nửa tháng đó tôi đi lang thang thăm hết các cảnh đền chùa ở chung quanh Hà Nội: chùa Một Cột, chùa Liên Phái, đền Hai Bà; các cảnh chợ quê như chợ Bưởi, chợ Hà Đông; các cảnh vườn như vườn hoa ở Ngọc Hà, vườn ổi ở Lủ, vườn cải ở Quang. Hai cảnh tôi thích nhất là cảnh chùa Láng u nhã, cổ kính, "đệ nhất tùng lâm của cố đô", thờ Từ Đạo Hạnh tương truyền là tiền thân của Lí Thần Tông và xây cất từ năm 1164, xưa chắc là một rừng thông, nay chỉ còn hai hàng thông già từ cổng đưa vào, và cảnh đền Voi Phục với hàng chòi mòi ở bên bờ lạch, hồ nước ở giữa sân và vườn nhãn ở sau chùa. Vì hai cảnh đó chỉ cách nhau ít cây số, nên lần nào tôi cũng bỏ trọn một buổi, từ hai giờ chiều tới tối để thăm cả hai nơi một lượt. Hít hương sói, hương ngâu, hương lan, hương huệ ở đền Voi Phục, rồi ra vườn nhãn, mua một bó chừng dăm chục trái, ngồi ngay dưới gốc cây mà ăn, tôi thấy thú tuyệt. Khi nào gặp mùa cốm, vào đầu thu thì tôi lựa một ngày quang đãng, dậy thật sớm, đón mua một vài vốc cốm Vòng xanh như ngọc thạch, gói trong một lá sen thơm ngát và mát lạnh, rồi lên xe điện về làng Mọc Thượng Đình, kiếm một sân đình hay một chỗ trên bờ sông Tô Lịch, mở gói cốm ra ăn. (A)n cốm Vòng ở xa thành thị như vậy, xa mùi xăng, xa tiếng xe cộ, tôi mới hưởng hết được hương vị của thôn quê, của cây lúa Việt Nam (...)
Về Sơn Tây (...) cảnh tôi thích nhất là (...) núi Tản Viên, chỉ cách làng tôi khoảng nửa ngày đường về phía tây nam nên trông rõ mồn một, thấy cả những vạch trắng tức dãy nhà nghỉ mát ở lưng núi.
Núi cũng có tên là Ba Vì, vì có ba ngọn cao, nhọn, đều nhau; ngọn thứ ba ở bên phải khuyết một mảnh, tương truyền là sau một lần sụp núi đời Lê mạt, báo hiệu một thời vận suy của dân tộc. Thật đáng tiếc, nếu không thì có lẽ không núi nào vừa thanh tú, vừa hùng vĩ, uy nghi như núi đó.
Tháng sáu âm lịch, trời thường trong mà cơ hồ không lúc nào không có một đám mây trắng vắt ngang qua, làm nổi bật màu xanh lam đậm của núi trên nền trời thanh thiên và trên cánh đồng màu lá mạ. Thỉnh thoảng một đàn cò vỗ cánh bay qua đầu tôi, tiến về phía núi và tôi ao ước được như chúng.
Khi ánh tà dương đã tắt hẳn, núi đổi ra màu tím đen thì ở lưng chừng núi hiện lên những đám lửa hồng chập chờn, nhấp nháy do người Mọi đốt rừng để làm rẫy, mà tôi tưởng đâu như một dạ hội của quần tiên; những lúc đó núi có vẻ huyền bí và thu hút tôi một cách lạ lùng (...)
Cứ dăm ba bữa lại đi chợ Mơ, chợ Vân, cách ba bốn cây số để mua một chùm dâu da ngọt, vài chiếc bánh đa, uống một bát chè tươi trong một cái quán dưới gốc muỗm, nhất là để cùng với các thôn nữ ngồi trong một chiếc thuyền thúng tròng trành qua một dòng nước trong veo điểm những bông súng vàng và tím.
Như vậy là hết một tháng hè, tôi thấy khỏe khoắn ra cả về thể chất lẫn tinh thần (...)
Năm đó, đúng hẹn, tôi lên thăm anh Bảng ở Phú Thọ. Gói hai bộ quần áo vào một tờ giấy báo, thế là lên đường. Đi ngược lên bến đò Vân Xa để qua Việt Trì. Tháng sáu âm lịch, đương mùa nước đổ, chỗ ngã ba Bạch Hạc này - một nơi nổi danh trong lịch sử - rộng mênh mông, có tới hai ba cây số. Chiếc thuyền thúng phải đi ngược dòng một khúc rồi mới qua sông. Cây gạo cổ thụ và nhà cửa ở Việt Trì hiện rõ lần lần. Tôi lên bờ mà còn tiếc khúc sông sao không rộng thêm nữa để được ngồi thuyền lâu hơn nữa mà ngắm cảnh (...)
Hai hôm sau chúng tôi đi chơi núi Hùng. Khởi hành từ sáng sớm, mang theo thức ăn. Ra khỏi làng một quãng thì tới một con đường tỉnh trải đá, rất vắng mà rất sạch. Đi cả cây số chỉ gặp một hai bóng người, tuyệt nhiên không thấy một chiếc xe. Cơ hồ con đường chỉ để dùng trong mấy ngày giỗ Tổ. Hai bên là rừng và đồi chè. Có những gốc thị cao quả chín vàng cành và nhiều giếng nước xây bằng đá ở sát bên đường. Xa xa gặp một ngọn đồi trồng dứa với căn nhà lá của chủ trại. Thật tĩnh mịch, mát mẻ. Nhờ cảnh thay đổi nên không thấy đường dài.
Tôi đã bắt đầu mệt thì bỗng qua một khúc quẹo, ngọn núi Hùng âm u hiện lên sừng sững trước mặt, cao và thanh tú hơn các ngọn chung quanh. Tôi hồi hộp như nghẹt thở. Đường dốc, tôi vừa bước vừa ngửng lên nhìn tam quan, và cứ mỗi bước, núi càng dâng cao lên trên nền trời xanh thật uy nghi. Núi có tên là Nghĩa Lĩnh, thuộc thôn Cổ Tích, phủ Lâm Thao, dân trong miền thường gọi là núi Đền. Có khoảng 300 bực đưa lên đỉnh.
Ở chân núi có đền Hạ cũng gọi là đền Giếng (vì trước đền có mạch nước tụ lại thành giếng) thờ hai bà công chúa Tiên Dung và Ngọc Dung, con vua Hùng.
Chúng tôi leo lên tới tam quan của đền Trung ở lưng chừng núi. Trước đền có một tấm bia lớn nét còn rõ, nhắc lại lịch sử các vua Hùng. Đúng như anh Bảng nói, ở đây chỉ nghe thấy tiếng khỉ và tiếng bìm bịp mà tiếng bìm bịp khắc khoải lạ thường, gợi ta nhớ biết bao cuộc hưng vong của dân tộc. Mới mấy năm trước, Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang cũng leo những bực này để lên đền thề đồng sinh đồng tử trước bàn thờ Tổ.
Nghỉ ở đấy một lát, chúng tôi lại leo một đỗi nữa lên tới đền Thượng trên đỉnh, thờ mười tám đức Hùng Vương, phía trước có bức hoành phi lớn khắc bốn chữ tôi nhớ mại mại là "Việt Nam triệu tổ", nét rất hùng kính.
Đền nhỏ thôi, có học giả bảo xây từ đời Lí, trùng tu năm 1914 và có lẽ năm nào cũng quét vôi lại để làm giỗ Tổ, nên không có vẻ cổ. Rất tiếc hôm đó ông từ đi vắng, cửa đền khóa kín, chúng tôi không được vào thăm (...)
Phía sau đền có một cái tháp, không có vẻ cổ kính, gọi là lăng Tổ, chắc chỉ là tượng trưng. Tuy biết vậy mà lòng tôi cũng cảm xúc dào dạt, khi thăm lăng và đứng nhìn qua cành lá thấy loang loáng ở xa xa dòng nước Ngã ba Bạch Hạc. Cái khu rộng mấy chục cây số này gợi cho chúng ta biết bao cố sự, biết đâu đào sâu chẳng kiếm được rất nhiều cổ tích.
Anh Bảng (...) cho tôi biết (...) Dân ở đây không ăn Tết mùng 3 tháng 3 (tết Hàn thực) mà ăn tết mùng 10 tháng 3. Ngày đó nhà nào cũng đón ông bà ông vải về để đi chầu Tổ (...) (Trong truyện dài Con đường thiên lý viết năm 1972, nxb. Văn Nghệ (Mỹ) in năm 1988?)
Ngã ba Bạch Hạc
Sông Hồng và sông Đà cơ bản chảy song song theo hướng tây bắc - đông nam. Sông Đà khúc chót đổi hướng, chảy từ nam lên bắc, đổ vào sông Hồng. Nơi Hồng gặp Đà là ngã ba Trung Hà. Sông Hồng tiếp tục chảy khoảng mười cây số nữa thì gặp sông Lô. Nơi Hồng gặp Lô là ngã ba Bạch Hạc.
Ngã ba Bạch Hạc mùa lũ rộng mênh mông chắc do cù lao giữa sông chìm mất nhiều hơn là do tràn bờ? "Cây gạo cổ thụ (...) cùng với nhà cửa ở Việt Trì nhô lên lần lần". Nhớ Sơn Nam cũng có lần viết: "Sông Cửu Long, mùa nước nổi (...) sông rộng, mặt nước như nổi vồng lên, rặng dừa bên kia bị khuất gốc chỉ thấy ngọn".(1)
"Tản Đà" tiêu biểu cho Hà Tây. "Tản Hồng" tiêu biểu cho Bắc bộ, cho cả nước Việt Nam (vì Bắc bộ là đất gốc của dân tộc Việt Nam).
----
Một cảnh nữa (cảnh trên là núi Ba Vì) tôi cũng lưu luyến là cảnh sông Hồng ở bến đò Vân Sa qua Việt Trì. Phải qua sông vào mùa nước lũ - tháng 6 tháng 7 âm lịch - mới thấy được sự bát ngát, hùng vĩ của núi sông. Mùa đó, chỗ ngã ba Bạch Hạc này - một nơi danh tiếng trong lịch sử - mênh mông có tới ba cây số. Nước chảy băng băng và ta liên tưởng tới câu "Đại giang đông khứ" của Tô Đông Pha. Chiếc thuyền thúng bập bồng trên sóng, không khác chi một cánh bèo. Phải ngược dòng một khúc xa rồi mới qua sông, có khi mất hai giờ mới tới bờ bên kia. Cây gạo cổ thụ, trơ trọi, gốc lớn không biết mấy ôm, cùng với nhà cửa ở Việt Trì nhô lên lần lần. Cảnh ở đây sao hợp với cảnh trước Phượng Hoàng đài ở Kim Lăng thế:
"Tam Sơn bán lạc thanh thiên ngoại, Nhị thủy trung phân Bạch Lộ châu." (Lý Bạch)
"Ba non rớt nửa ngoài trời biếc, Hai nước chia đôi bãi Lộ bồi."
Cũng hai dòng nước: dòng sông Đà nước trong veo và dòng sông Hồng cuồn cuộn nước đỏ như son; cũng một bãi cò trắng (bạch lộ), tức bãi Vân Sa chạy lên tới Chiểu Dương, nơi có một vườn vải danh tiếng nằm sát bờ sông; còn núi thì phía tây nam có ba ngọn núi Tản, phía bắc có ngọn núi Hùng. Kim Lăng là cố đô của Trung Hoa, thì đây, trên bờ con sông Hồng có làng Cổ Đô (không rõ là kinh đô thời nào), lại có huyện Bạch Hạc, xưa là đất Phong Châu, nơi Hùng Vương đóng đô. Nỗi hoài cổ của ta bát ngát như dòng sông.
Sông Hồng và núi Tản thật hùng vĩ xứng nhau, mà lại ở gần nhau như vậy thì đây chính là đất thiêng của dân tộc; tổ tiên ta lựa nơi đây làm nơi phát tích, dòng giống tất trường cửu và uy hùng như sông núi. (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992)
Cây gạo
Cây gạo thường thấy ở giữa đồng, hoặc đầu làng, cuối làng, chứ hiếm khi thấy hẳn bên trong làng. Lại có câu "thần cây đa, ma cây gạo". À, gạo hình như cũng hay đứng ngay bên bãi tha ma... Tại sao thế nhỉ?
----
Gạo là một loại cây đặc biệt của đồng quê Bắc, cũng như cây sao đặc biệt của miền Nam. Không nên lầm nó với cây gạo của miền Qui Nhơn, cùng tên mà khác loài. Nó y hệt cây gòn nhưng lớn hơn nhiều, thân có thể tới vài ôm, nhiều gai hơn gòn, cao tới hai chục thước, hoa như hoa gòn, nhưng đỏ như hoa vông và lớn bằng một chén ăn cơm. Khoảng đầu xuân, lá rụng hết, cành đầy nụ trông như những trái ổi đen; độ một tháng sau hoa nở chi chít đỏ ối cả cây, ở xa như một khối lửa lớn in lên nền trời xanh. Nhụy hoa có một thứ nhựa hơi ngọt, nên chim bay lại từng đàn, ríu ra ríu rít trên cành. Khi có một rặng gạo đất bên đường cũng đỏ vì đầy hoa rụng. Giữa mùa hè, quả gạo nứt vỏ và gặp cơn gió, bông túa ra, bay như tuyết, rất đẹp mắt.
Trước năm 1920, miền quê tôi, hầu hết làng nào cũng trồng một cây gạo ở vệ đê, ngay đầu dốc đưa vào xóm. Cây gạo đó đánh dấu ranh giới của làng. Phụ nữ đi chợ thường đợi nhau dưới gốc gạo để cùng đi, ở chợ về cũng ngồi nghỉ tại đó nói chuyện với nhau một lát. Ở gần đó thường có một cái quán hay điếm canh. Những ai ly hương trở về, xa xa trông thấy gốc gạo của làng mình, lòng cũng hồi hộp như người miền Nam trông thấy ngọn sao ở đình làng.
Tôi không hiểu tại sao cây gạo có một địa vị quan trọng như vậy mà ít ai nhắc tới nó trong thơ văn. Tôi chỉ gặp nó bốn năm lần trong thơ của Cao Bá Quát và trong thơ mới thời tiền chiến, mỗi lần chỉ trong một câu.
Gạo trồng ở vệ đê có một điểm bất lợi là khi nó già, những rễ lớn của nó mục đi, thành những hang cho chuột hay cua, hại cho sự vững chãi của đê, cho nên nhà nước bắt đốn hết, làng quê và con đê mất đi một vẻ đẹp.
Cây gạo ở đầu dốc đưa xuống trường Yên Phụ vì ở xa chân đê nên không bị đốn. Nó đánh dấu trường tôi, và hồi nhỏ chúng tôi thường tìm cách bẻ những nụ của nó để lấy dao chạm thành đầu người và lượm những hoa rụng để đá cầu. (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992)
Tản mạn hoa Tết
Củ thủy tiên hình như đến nay vẫn phải nhập từ Trung Quốc. Còn chính nghệ thuật gọt thủy tiên chắc cũng gốc Tàu. Không phải gốc thì hơn. Ai sành thử so sánh nghệ thuật Việt với nghệ thuật Tàu cho bà con nghe chơi.
Nguyễn Hiến Lê bảo hương thủy tiên "thanh quý", hương huệ với hương sen "thanh cao". "Quý" trần gian, "cao" thoát tục. Ông muốn bảo thủy tiên thơm ấm hơn huệ, sen chăng?
----
Cái vui nhất của người (thân phụ NHL) có lẽ là chơi hoa. Năm nào, gần tết người cũng ham mê gọt thủy tiên và săn sóc (ngắt lá) hai gốc đào (...)
Thủy tiên thì năm nào cha tôi cũng mua một giỏ con của tiệm Hoa kiều phố hàng Buồm, đem về gọt, ba mươi tết lựa lấy hai giò đơn đẹp nhất và nở kịp tết để bày trong hai cái cốc thủy tinh (...) Giò thủy tiên đặt trong những cốc đó thật vừa khít, mà nhìn qua vách cốc thấy rõ những rễ trắng muốt (...)
Người Pháp cũng có thủy tiên mà họ gọi là narcisse, nhưng tôi ngờ rằng thủy tiên của họ không giống của mình và chắc chắn là họ không có nghệ thuật gọt thủy tiên như mình, không quý nó bằng mình.
Thủy tiên quý cả về sắc lẫn hương. Lá xanh, rễ trắng muốt, hoa thì như một cái chén vàng đặt giữa cái đĩa bạc. Hương nó thật là thanh quý (hương huệ và sen thì thanh cao). Nó thật xứng với danh: tiên trên nước. Cụ Phan Sào Nam vịnh nó trong bài hát nói mà dưới đây tôi trích tám câu đầu:
"Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh Tiên trên non mà hiếm có đã đành Chân thị thủy trung tiên càng hiếm hiếm Muôn tía nghìn hồng thây tục phẩm Năm hồ bốn biển nhớ tiền sanh Nét điểm trang con tạo khéo đa tình Nhụy kìa vàng, hoa kìa bạc, lá kìa xanh Trên mặt nước long lanh trời với bóng...".
Một người bạn kể cho tôi nghe ở Sapa (...) có những ngọn đồi toàn đào, đầu xuân, ở xa nhìn như những mâm hồng kế tiếp nhau trên cả cây số; cánh đào hồng nhạt rụng xuống mặt cỏ xanh, bay lả tả trên dòng suối, đẹp như cảnh tiên (...)
Vào Nam, tết nào tôi cũng nhớ đào và tôi viết tập Hoa đào năm trước chính là để cho vơi lòng nhớ đó.
Ở Sài Gòn, từ mươi năm trở lại đây, gần tết, đường Nguyễn Huệ thường bày bán ít cành đào chở máy bay vào; có năm bạn bè cho tôi một cành hoa đơn phơn phớt hồng, nhưng tôi không thích lắm (...) Hoa đào mà đày vô miền nắng cháy này thì lam lũ, đáng thương như thiếu nữ đài các, mơn mởn mà phải tát nước hay nhổ mạ dưới nắng hè. Ở đâu chỉ nên chơi hoa ở đó, miền Nam có mai vàng, tuy không đẹp bằng đào, nhưng rực rỡ, có vẻ phú quý, lại có ám hương thoang thoảng lúc ban mai, mà gốc mai vàng thịnh khai nổi bật trong vườn lá xanh, coi thật hòa nhã. (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992)
Cái nhạc cũ của ta
Mới thì lạ, chứ chắc gì đẹp.
Khốn, dẫu thực không đẹp nhưng của "cường" thì vẫn cứ thấy đẹp!
Thời Nguyễn Hiến Lê viết tựa cho sách Toan Ánh, quê còn khá to và "cũ" nên người Việt mới có thể về nguồn. Bây giờ, năm 2012, quê vừa bé hẳn đi vừa mới gần như phố, "nguồn" đâu nữa mà về.
Dân ca đã ra khỏi lòng dân. Mà "sự xâm nhập ồn ào, man rợ" thì... khỏi nói.
----
Sau Hiệp định Genève, khi ảnh hưởng của Mỹ bắt đầu lan tràn vào Việt Nam, trong khoảng mười năm đầu một số người hăng hái tiếp thu văn hóa Mỹ vì nó lạ đối với chúng ta, một số khác nhiệt liệt giới thiệu những trào lưu tư tưởng mới của Pháp. Dĩ nhiên công việc đó nên làm, nhưng chúng ta đã say với cái mới, cái lạ của người mà cơ hồ như quên cái cũ, cái đẹp của mình.
Vài năm nay, có một trào lưu ngược lại; chúng ta đã thấy mặt trái của phương Tây: có một lực lượng phi thường chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại mà họ không ổn định nổi chính xã hội của họ, lại chỉ gây thêm vô số xáo trộn trên thế giới, ở Đông Á, Tây Á, Phi Châu, Nam Mỹ. Nên một số học giả phương Tây đương muốn tìm hiểu sâu hơn văn minh của phương Đông; ở nước ta thì một số nhà văn đã trở lại nghiên cứu văn hóa cổ truyền của mình (...) chưa biết công trình của các nhà đó có dẫn tới một đường lối nào dung hòa mới với cũ không, tạo nên một nhân sinh quan mới, một nếp sống mới nào không, nhưng nội một điều quốc dân, nhất là thanh niên, đã hoan nghênh công việc của họ, cũng đủ cho ta mừng rồi: có tìm hiểu kỹ dĩ vãng của mình thì mới quý nó được, có quý nó thì mới tìm được hướng đi cho tương lai; không một dân tộc nào đoạn tuyệt hẳn với dĩ vãng mà cường thịnh được.
Lịch sử là một sự liên tục: tương lai ở trong hiện tại, mà hiện tại ở trong dĩ vãng. Tôi mong mà cũng tin rằng "sự suy đồi của văn hóa vì đụng chạm với những sản phẩm ngoại lai lúc này" - lời của ông Toan Ánh - chỉ là một thứ lở lói ngoài da phát sinh trong các thành thị, còn đại đa số dân chúng ở thôn quê, ở các quận, các tỉnh nhỏ vẫn còn giữ được nếp sống cũ. Tôi có thể dẫn chứng được vì đã mục kích nhiều gương hy sinh nhẫn nại tiết tháo.
Trước sự xâm nhập ồn ào, "man rợ" của các loại nhạc jazz, twist, be-bop mấy năm gần đây, ông Toan Ánh âm thầm thu thập tài liệu về "cầm ca Việt Nam" để chúng ta thấy tính cách nghiêm trang mà hòa nhã, vui mà không loạn của ca nhạc cổ, nhất là cái tinh thần "cộng lạc" giữa giai cấp sĩ phu và bình dân thời xưa ra sao. Tôi yêu quý các cụ Nguyễn Du và Phan Bội Châu quá khi các cụ đêm đêm đi hát dặm với các thôn nữ, và tôi thích cái tục hát quan họ ở Bắc Ninh làm sao. Thời đó trí thức và bình dân đâu có cách biệt như ngày nay, mà không có cách biệt thì làm gì có đấu tranh giai cấp (...)
Đọc tác phẩm của ông tôi bâng khuâng nhớ lại một lúc vui thanh thoát trong đời tôi mà nhờ dân ca tôi đã được hưởng. Cách đây non bốn mươi năm, cũng vào một đêm Trung thu như đêm nay, nhưng ở làng Thịnh Hào cách Hà Nội dăm sáu cây số. Anh em chúng tôi ba bốn người đương chuyện trò trong một khu vườn bỗng có tiếng hát văng vẳng đưa lại, và chẳng ai bảo ai, mọi người đều im bặt. Tiếng hợp ca mỗi lúc mỗi gần và chúng tôi nghe rõ là điệu Ru hời:
"Tay tiên là tiên chuốc chén ơi ới đào là rượu đào, Đổ đi là đi thời tiếc, ơi ới vào, uống vào, uống vào thời say. Ru là ru ru hỡi, ơi ới hỡi là ru hời...".
Giọng ca tới những tiếng chén, tiếc, bay vút lên cao, rồi chìm hẳn xuống ở những tiếng (rượu) đào, (uống) vào; sau cùng tan lẫn trong cảnh bao la của đồng ruộng. Đúng lúc đó nhìn qua bờ ao, chúng tôi thấy một đoàn thợ gặt, cả trai và gái khoảng mười mấy người đi hàng hai dưới ánh trăng vằng vặc trên con đê (tức đường Quần Ngựa). Tiếng hát ngừng một chút rồi lại cất lên, tôi nhổm nhổm muốn chạy theo họ, nhưng rồi lại ngồi xuống, vì băng qua được cánh đồng chiêm tới chân đê thì họ đã đi xa mất rồi. Tôi lắng tai nghe tới khi dư âm tắt hẳn, mà tiếc ngơ tiếc ngẩn!
Suốt đời tôi, chưa có lần nào giọng ca làm cho mê như lần đó: nó du dương, uyển chuyển, bát ngát, tôi biết dùng tiếng gì để tả bây giờ? Ca nhạc Tây phương không sao gợi cho tôi được cảm xúc thần tiên đó. Ca nhạc của mình (...) có những nét riêng, cái thần riêng thâm thiết với ta, như là tiếng gọi của tổ tiên, của dân tộc. Ông Toan Ánh đã có công gợi cho ta nhớ lại cái hồn của đất nước đó trong cuốn Cầm ca Việt Nam này (...) (Trong lời tựa của Nguyễn Hiến Lê viết cho sách CCVN, nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1970)
Nhà ở ngõ Phất Lộc
Nhà ở phố khác hẳn nhà ở quê. Ở đây những cái sân thật quý. Đó là nơi da người được tiếp xúc thẳng với ánh nắng. À, nhưng nếu sân có một giàn hoa thì nắng sẽ là nắng lọc, xanh xanh...
Để biết thêm về nhà cổ ở phố cổ Hà Nội, xin đọc cả Vũ Ngọc Phan và Nguyễn Đình Toàn.(2)
----
Nằm sau lưng phố bờ sông, đầu trông ra cột đồng hồ ở bờ sông Nhị, đuôi trở ra phố hàng Mắm, ngõ Phất Lộc rất hẹp, ngang độ hai thước, dài non hai trăm thước, lát đá gồ ghề và chỉ có một dãy nhà nhìn ra phía sau lưng một dãy nhà mới hơn, cao hơn, ở sát ngay trước mặt.
Nhà nào cũng thấp hơn mặt đường khoảng một thước - vì đường được đắp sau - và từ đường phải xuống ba bốn bực gạch mới vào phòng ngoài. Thời xưa có vài nhà bằng lá nhưng từ hồi tôi lớn lên thì nhà nào cũng bằng gạch. Đa số hẹp, chỉ độ hai ba thước, mà sâu có chỗ tới trên ba chục thước, như nhà tôi. Đi ngoài đường nhìn vào, thường thấy một căn hun hút, thấp, kê một án thư với hai tràng kỷ hai bên, và một ông già ngồi với chiếc điếu thuốc lào mà xe điếu là một cần trúc uốn cong. Trước năm 1930, thỉnh thoảng còn thấy thấp thoáng một thiếu nữ mảnh khảnh, da trắng xanh, ăn mặc theo lối cổ, tóc để đuôi gà, từ phía trong đi ra nhà ngoài rồi lại trở vào ngay. Những nhà đó thuộc loại khá phong lưu. Nhà nào cũng có sân nhỏ ở trong, trồng cây cảnh. Tường hai bên xây thành từng bực đi xuống như cầu thang. Tôi nhớ như chỉ có mỗi một nhà là có tường thấp phía trước, từ trong nhô lên một ngọn cây đào hay lựu, khế, và khách qua đường không thể không ngừng bước trước cánh cổng đóng kín mà tưởng tượng vẻ yêu kiều, thướt tha của một hai thiếu nữ chơi với một em nhỏ ở phía trong.
Ngõ có một ngôi đền kiến trúc sơ sài, cửa gỗ luôn luôn đóng, trên cửa là một mái nhỏ với một bầu rượu lớn ở giữa. Tôi chỉ vô đền đó một hai lần khi còn nhỏ, thấy sân khá rộng nhưng rất vắng, vắng cả bóng ông từ. Ông lủi thủi như một bóng ma, cơ hồ không bao giờ ra khỏi đền. Tôi không biết đền thờ ai mà quanh năm không có người đến lễ. Lạnh lẽo và buồn, nên bọn nhỏ chúng tôi chỉ ghé mắt nhìn vào chỗ thờ phụng tối om rồi chạy ra liền.
Hai căn nhà số 2 và số 4 ở đầu ngõ do cụ ngoại chúng tôi cất trong đời Tự Đức có thể tiêu biểu cho những ngôi nhà cổ vào hạng tương đối phong lưu ở Hà Nội. Mái ngói, tường gạch, rui, cột, xà đều bằng danh mộc, năm sáu chục năm không mọt. Ngôi nhà số 2 chiều ngang ba thước, chiều sâu ba mươi hai thước, ngoài đường bước vào là một căn bếp thấp hơn mặt đường ba bốn tấc; qua khỏi bếp, xuống ba bốn bực nữa, tới nhà trong thông thống từ trước tới sau, không ngăn thành từng phòng; có một sân nhỏ mỗi chiều chừng hai thước cho nhà khỏi tối; tiến vô sâu nữa, gặp một sân dài bốn thước và choán hết chiều ngang của nhà, sân đó có một bể con chứa nước. Gần cuối nhà (C) là một khúc quẹo qua bên trái (thuộc về nhà số 4) rộng hai thước rưỡi, sâu mười thước, gồm hai phòng 2,5 x 3 thước, cách nhau một cái sân dài 4 thước.
Có hai căn gác xép, thang gỗ gần như dựng đứng, phải khom lưng dò từng bước mới lên được; gác thấp, phải cúi đầu mà đi. Ở (A) là một cửa nhỏ thông ra nhà thờ.
Nhà số 2 cha chúng tôi được thừa hưởng, còn nhà số 4 rất rộng, ngang tới mười thước, sâu hai mươi sáu thước là phần hương hỏa, có nhà thờ, các cụ ngoại tôi để lại cho một người cháu họ, vì các cụ không có con trai, chỉ có hai bà con gái mà bà nội chúng tôi là cả.
Phía trong cùng nhà số 4 là nhà thờ tối om om, nhìn ra một cái sân lát gạch. Trước sân là một bể con có núi non bộ, hai bên (B) là bệ trồng cây dạ hợp và mẫu đơn (trong Nam gọi là bông trang), rồi tới một bể nước rộng, sâu, có miệng một con cá bằng mảnh sứ phun nước mưa hứng ở các mái ngói xuống. Hai bên sân là phòng. Vậy kiến trúc ngôi nhà đó như chữ U.
Nhà ngoài là sân, bếp, chỗ tắm giặt, cầu tiêu, tất cả chiếm trọn chiều ngang mười thước, và sâu khoảng bốn, năm thước.
Nửa ngoài cùng chia thành từng căn cho thuê; hồi tôi nhỏ, những căn đó bằng lá, gỗ; khoảng 1927-1928, người ăn hương hỏa bán đi một phần để xây gạch, phần còn lại để cho thuê (...)
Nhìn bản đồ chúng ta thấy hai ngôi nhà thông với nhau bằng cửa A đó thật là ngoắt ngoéo như một mê thất, không tiện cho người thường ở mà rất tiện cho các nhà làm cách mạng. Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục, tôi đã nói các bác tôi dùng căn nhà số 2 làm chỗ tiếp các đồng chí - với đôi khi vài nhà cách mạng Trung Hoa - và giấu các đồ quốc cấm: sách, báo, truyền đơn, súng lục. Mật thám của Pháp tới xét thì mới còn mò từng bước ở nhà ngoài, các cụ ở nhà trong đã kịp trốn hoặc chuyển đồ qua nhà số 4 bằng cửa A rồi khóa trái cửa đó lại; từ nhà số 4 có thể leo tường qua nhà bên cạnh được. Nhưng trong thời các cụ hoạt động (1906-1910), mật thám không đến xét lần nào cả. Tôi nghe nói cuối năm 1946, đầu năm 1947, các nhà ở ngõ Phất Lộc đều đục tường thông với nhau để tự vệ quân dễ dàng lưu thông mà chống Pháp, sau cùng rút lui về phía cầu Long Biên, vượt sông Nhị, qua bên Gia Lâm. (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992)
Nhà khá giả ở nông thôn
Thiết nghĩ ngôi nhà sau đây có hai chỗ không tiêu biểu:
- Thứ nhất, thường thì "sân trước, vườn sau", nhà ở giữa, đây vườn rồi sân rồi mới đến nhà.
- Thứ hai, thường thì các gian gần vuông, đây "mỗi gian rộng hai thước, sâu năm thước".
Ngoài ra, hình như thường hai gian bên có cửa sổ trông ra vườn phía sau, nhưng vì nhà này không có vườn sau nên không có cửa sổ.
Có phải vì đây là "nhà thờ", cần xây cho thâm nghiêm, nên hơi khác điển hình chăng?
----
Nhà thờ của chi chúng tôi do cụ tổ bốn đời của tôi cất trong khoảng 1840-50, có thể tiêu biểu cho những ngôi nhà gọi là phong lưu ở nông thôn Bắc Việt thời tiền chiến, nên tôi cũng ghi lại dưới đây vài nét.
Cũng vẫn là kiểu nhà ba gian hai chái rất phổ thông, chỉ khác mái ngói, tường gạch dày mười phân. Ba gian ở giữa thông với nhau, không có vách ngăn, mỗi gian rộng hai thước, sâu năm thước. Gian giữa đặt bàn thờ, hai gian bên kê giường, án thư, với bốn chiếc ghế dựa, và một cái hòm (rương) lớn, cao để chứa những đồ vật hơi có giá. Hai chái hai bên, một chái là phòng của đàn bà, một chái dùng làm kho chứa thực phẩm, hai chái đó có vách gỗ ngăn cách với ba gian giữa. Không có cửa sổ.
Phía ngoài hiên rộng khoảng thước rưỡi kê được hai bộ phản, một ở giữa làm chỗ dạy học và tiếp khách, một ở bên trái làm chỗ ăn; bên phải dựng một bồ lúa. Một dãy cửa gỗ ngăn cách hiên với các gian, chái. Hai bên nhà, cách đầu nhà độ vài thước là hai căn nhà lá nhỏ, một ở bên trái làm bếp, cối giã gạo đặt ở bên hông bếp, một làm nhà khách.
Hiên nhìn ra một sân gạch rộng hai ba thước để phơi lúa. Có hai bể nước, một ở trước nhà khách, một ở hông bên trái nhà. Cầu tiêu (nhà xí) ở bên phải, cách xa nhà và nhà khách, sát hàng rào tre. Nhà chúng tôi không nuôi trâu bò, lợn, nên không có chuồng cho các loài đó.
Chung quanh sân đất và vườn có hàng rào tre. Vườn trồng cà hay cải, với một bụi chuối, một gốc chanh, một cây ổi, vài cây na (mãng cầu ta), một gốc đào, một gốc lựu, và vài chậu cảnh. Một cái thú của tôi hồi nhỏ là ngày Tết, châm ngòi một chiếc pháo Điện Quang toàn hồng rồi tung lên cao cho nó nổ trên không trung và xác đỏ thắm của nó mỏng như lụa, lả tả rơi xuống vườn cải lá xanh hoa vàng bên gốc đào thịnh khai phơn phớt hồng.
Cả nhà lẫn vườn rộng non hai sào (mỗi sào là 360 thước vuông). (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992)
Hoa đào năm trước
Thử đọc xem:
"... ở sau một bức tường thấp (...) ló lên một tàng đào lớn, thịnh khai, đỏ thắm. Xe vừa chạy tới thì một cánh cửa gỗ ở nách bức tường đó từ từ hé mở, một thiếu nữ trạc mười sáu mười bảy bước ra: vành khăn nhung bao làn tóc đen nhánh làm nổi nước da trắng mịn, hồng hào; áo the điều, quần lãnh Bưởi. Tôi có cảm giác trời xuân bỗng nhiên bừng sáng. Xe vẫn chạy chậm chậm, và tôi quay lại nhìn cho tới khi khuất bóng, lòng hồi hộp mà bâng khuâng. Bâng khuâng không phải chỉ riêng vì người mà vì toàn cảnh. Ánh xuân trong dịu, đường phố thanh tĩnh, màu câu đối dán bên cửa với màu áo trên mình thiếu nữ, nét mực Tàu với vành khăn nhung, nhất là màu hoa đào kia với nước da nọ, tất cả cùng hiện lên một lúc, hòa hợp với nhau một cách ngẫu nhiên mà tuyệt diệu."
Có phải chỉ nghe Nguyễn Hiến Lê kể lại mà ta cũng thấy... tuyệt diệu!
"Hoa đào năm trước" hiện ra bất quá trong chừng vài mươi giây, nhưng "dư hưởng bất tuyệt". Cái chuyện "phù du, mà lại thọ", Thôi Hộ bên Tàu biết, Alfred de Vigny bên Tây biết, Xuân Diệu ở Việt Nam cũng biết:
"Mãi mãi là trong những phút giây"!(3)
----
Hồi đó tôi học năm thứ ba hay thứ tư trường Bưởi (sau đổi tên là Chu Văn An), ăn tết ở Phương Khê xong, trở về Hà Nội.
Chiếc xe đò Mĩ Lâm từ Trung Hà xuống, đậu ở bến gần chợ Sơn Tây một hồi lâu rồi mới lại khởi hành, chạy một vòng chậm chậm trong thành phố để đón thêm khách. Trời lạnh, dân chúng còn ăn Tết, các cửa ngõ còn nửa khép nửa mở, vỉa hè còn vắng người và rải rác xác pháo.
Xe quẹo vào một con đường nhỏ nhưng sạch sẽ, trong một khu công chức, và ở sau một bức tường thấp, tôi thấy ló lên một tàng đào lớn, thịnh khai, đỏ thắm. Xe vừa chạy tới thì một cánh cửa gỗ ở nách bức tường đó từ từ hé mở, một thiếu nữ trạc mười sáu mười bảy bước ra: vành khăn nhung bao làn tóc đen nhánh làm nổi nước da trắng mịn, hồng hào; áo the điều, quần lãnh Bưởi. Tôi có cảm giác trời xuân bỗng nhiên bừng sáng. Xe vẫn chạy chậm chậm, và tôi quay lại nhìn cho tới khi khuất bóng, lòng hồi hộp mà bâng khuâng.
Bâng khuâng không phải chỉ riêng vì người mà vì toàn cảnh. Ánh xuân trong dịu, đường phố thanh tĩnh, màu câu đối dán bên cửa với màu áo trên mình thiếu nữ, nét mực Tàu với vành khăn nhung, nhất là màu hoa đào kia với nước da nọ, tất cả cùng hiện lên một lúc, hòa hợp với nhau một cách ngẫu nhiên mà tuyệt diệu. Chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh xuân đẹp như vậy.
Chiếc xe đã ra khỏi thành phố, bon bon trên con đường Sơn Tây - Hà Nội, tôi ngâm thầm bài "Đề tích sở kiến xứ":
"Khứ niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồng".
Và tôi có cảm tưởng ngông ngông rằng thi sĩ như đã tặng riêng tôi bài đó, vì hiểu thơ thì ai cũng có thể hiểu được, mà muốn cảm xúc mãnh liệt thì phải thấy cái cảnh tả trong thơ, có cái tâm sự của người làm thơ. Cả một trời xuân và một tình xuân bàng bạc trong bốn câu của Thôi Hộ.
Từ đó, mặc dầu biết rằng cũng sẽ thất vọng như Thôi Hộ thôi,
"Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong"(4)
mà Tết nào, đi ngang qua tỉnh lị Sơn Tây, tôi cũng để ý tìm lại cảnh hoa đào năm trước.
Cảnh cũ, người cũ đã không sao cùng gặp lại được, thì thử kiếm cảnh khác, miễn là cũng đủ đào hoa nhân diện? Ở Hà Nội việc đó rất dễ. Từ hai mươi lăm tháng chạp, suốt phố Hàng Đường tới cửa chợ Đồng Xuân như một rừng đào, cái cảnh "hoa chi tự kiểm, kiểm như hoa"(5).
Đâu phải là hiếm, mà sao tôi vẫn không tìm lại được cảm giác cũ. Tôi nghĩ có lẽ tại đường phố náo nhiệt, mà hoa không còn trên gốc, thiếu vẻ thiên nhiên chăng?
Có lần tôi lên tận làng Yên Phụ, thơ thẩn cả buổi trong các ngõ hẹp, lát gạch bên bờ Hồ Tây. Nơi đây còn vài ngôi đình chùa cổ, trong tiếng gió tiếng sóng như văng vẳng giọng ngâm thơ của Hồ Xuân Hương. Nhà nào cũng có vườn, tuy không rộng nhưng cũng trồng đủ giống hoa như làng Ngọc Hà, nhiều nhất là đào, đỏ ối mỗi khi xuân sang. Các thiếu nữ nửa quê nửa tỉnh, vừa tỉa cành vừa niềm nở chào khách, miệng tươi như hoa, nhưng lòng tôi chỉ vui vui chứ không xúc động; vẫn không phải cảnh sắc năm xưa. Thế thì thiếu cái gì đây? Tôi nghĩ không ra.
Kế đó, tôi vô Nam và năm nào Tết đến cũng ngắm hoàng mai mà bâng khuâng nhớ đào (...)
Rồi một hôm cách đây mười tám năm, vào đầu mùa mưa, đi ngang qua vườn một ẩn sĩ, thấy đẹp, tôi ghé vào thăm. Vườn nằm trên bờ một con kinh, ở vòng ngoài thành phố Long Xuyên, nổi tiếng vì có nhiều loại hồng quí từ Pháp gởi về.
Tôi vào tới giữa sân thì một thiếu nữ tươi cười bước ra chắp tay: "Thưa thầy". Thiếu nữ vẻ thanh tú, ngừng lại bên một bụi hồng leo màu phơn phớt đỏ. Ánh nắng ban mai chiếu vào chùm hoa và phản ánh làm cho má thiếu nữ cũng ưng ửng. Tôi còn đương cố nhận mặt thì thiếu nữ đã nhắc giùm. Tôi hỏi thăm mấy câu rồi trầm ngâm dạo vườn một lát. Vườn trồng cả chục loài hoa, nhiều nhất là hồng, và hồng có cả chục giống; sương mai lấp lánh mà hương thơm ngào ngạt.
Thật thú vị, khi không cố ý tìm thì ngẫu nhiên gần như gặp lại cảnh cũ. Trong vài giây, lòng tôi lại xúc động như hồi trẻ ở Sơn Tây. Xúc động nhẹ thôi: trời hôm đó dịu nhưng không phải là trời xuân ngoài Bắc, mà hồng cũng không thể sánh với đào được. Có lẽ còn tại cái tuổi, cái tâm trạng của tôi nữa chăng? Nhưng cũng là một phút đẹp trong đời, và ở vườn hồng ra, tôi lại ngâm thầm bài thơ của Thôi Hộ, nhớ lại tuổi xuân, cảm xúc triền miên, dịu dịu.
Hôm sau vào lớp học, thiếu nữ cùng với các bạn, đứng dậy chào tôi, nhưng lạ quá, tôi gần như không nhận ra nữa: cũng chỉ như mọi nữ sinh khác, lễ phép, nhu mì, thế thôi; như bé lại vài tuổi, còn cái duyên hôm trước thì đã biến đâu mất. Tôi bước lên bục mà phân vân tự hỏi tại sao. Tại không khí trong lớp học chăng? Hay tại thiếu bụi hồng dưới ánh dịu ban mai bên bờ nước? A, giá đừng gặp lại!(...)
Phải, cái buổi sáng ở Sơn Tây kia (...) chỉ ngẫu nhiên xuất hiện một lần trong một đời người (...) Vì phải có một sự giao hội kì diệu mà hữu tình của biết bao cái ngẫu nhiên (...) thì mới gây cho ta được một cảm giác hoàn toàn thỏa mãn về tinh thần, một cảm giác phơi phới nửa hư nửa thực, đột ngột mà bâng khuâng. Ta thấy lòng ta nở ra, ngũ quan mẫn tuệ, tinh thần thanh thoát như chơi vơi. Một đời người hưởng được vài ba phút mà dư hưởng bất tuyệt đó, tôi tưởng đã là phước lớn. Nó quí ở chỗ không bao giờ tái hiện và rất ngắn ngủi. Đừng kiếm lại nó, vô ích, mà cũng đừng mong cho nó kéo dài: nếu chiếc xe Mĩ Lâm sáng xuân đó (...) vì một lẽ gì ngừng lại, thì cái mĩ cảm của tôi tất phải giảm mà dư hưởng tất không bền (...)
Cái tuyệt mĩ bao giờ cũng phù du, mà lại thọ nhất. (Sài Gòn, Xuân Tân Hợi) (Trong Để tôi đọc lại, nxb. Văn Học, VN, 2001) _____________
(1) Một mảnh tình riêng (hồi ký), nxb. Văn Nghệ TPHCM, VN, 2000, tr. 100.
(2) "Nhà ở phố cổ" (VNP) và "Hà Nội... sân" (NĐT), đăng trên trang gocnhin.net.
(3) Trong bài Mãi Mãi của Xuân Diệu.
(4) Bài này đã có nhiều người dịch, nhưng tôi chưa gặp bản nào như ý, cho nên không muốn chép lại. Chỉ có hai câu của Nguyễn Du là xứng với hai câu cuối trong nguyên tác: "Trước sau nào thấy bóng người / Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông". Ai có tài dịch thêm hai câu đầu cũng thành lục bát, để ghép lại cho đủ bài thì thú lắm. (5) Thơ của một nữ sĩ đời Thanh: "Cành hoa tựa má, má như hoa". *************************************
NGUYỄN HIẾN LÊ - Trìu mến Nam Thu Tứ
Mối tình nghệ sĩ Trăng nước miền Nam Đồng Tháp Mười Từ Hồng Ngự tới Cao Lãnh Hoa hậu 11 tuổi Hoa mai ngày tết Ham hò quá, mất đầu! * Nguyễn Hiến Lê, không phải một người quanh năm suốt tháng nằm ngồi giữa sách sao? Đúng, nhưng đó là Nguyễn Hiến Lê từ tuổi 40 trở đi. Còn từ tuổi 22 đến tuổi 40 thì ông đi nhiều chứ, nhất là trong 11 năm đầu của khoảng ấy, khi ông làm việc ở sở Công chánh, thường xuyên "kinh lý" miền tây Nam kỳ.
Đi nhiều, mắt thấy tai nghe nhiều, về sau lại viết nhiều, nên không lạ khi văn nghiệp phong phú của Nguyễn Hiến Lê gồm cả một quyển du ký (mỏng) về miền Nam: Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Ngoài ra, trong Hồi ký, trong tác phẩm tiểu thuyết duy nhất Con đường thiên lý và trong tuyển Để tôi đọc lại, có rải rác một số ghi chép...
Qua cái viết tương đối rất ít, ta dễ dàng thấy Nguyễn Hiến Lê có thật nhiều cảm tình đối với cả cảnh lẫn người miền Nam. Cảm tình cao độ thể hiện thành quan hệ vợ chồng; rồi hẳn quan hệ thành công tốt đẹp lại nâng cảm tình lên nữa...
Sau đây là lời trìu mến của một người Việt sinh trưởng nơi đất gốc dành cho miền đất mới.
Mối tình nghệ sĩ
"Một thiếu nữ lặng lẽ khoan thai bước ra, khẽ gật đầu chào chúng tôi (...) Nàng khẽ vén áo ngồi xuống bộ ngựa (...) Khoảng hai mươi tuổi, nước da trắng mịn, mớ tóc đen búi ra sau. Tôi có một cảm giác mát mẻ, dịu dàng, thanh thoát: y phục bằng lụa màu xanh nhạt và trắng ngà, thân hình mảnh khảnh, nụ cười, ngôn ngữ, cử chỉ của nàng khiến tôi tưởng như một bức tranh tố nữ linh động (...) Anh Cảnh (...) dạo xong (...) vô bài Phụng Cầu Hoàng. Nàng cất tiếng hòa theo (...) giọng thanh, ấm, ngân nga, rõ từng tiếng. Nàng ngước mắt lên ca, cặp mắt bồ câu long lanh tuyệt đẹp, hai bàn tay búp măng đặt lên đùi, móng tay hồng hồng (...)
Ra tới đường lộ, tôi nói:
- Quả là một giai nhân ít khi gặp được.
Anh Cảnh gật đầu:
- Phải nhìn nàng bận áo dài đen ngồi dưới ánh đèn viết thư, hoặc toàn đồ trắng ngồi ở mũi ghe hầu dưới ánh trăng mới thấy hết nét đẹp thùy mị, nề nếp của nàng."
Cô Bảy, tức "giai nhân", rồi "bị Pháp giết trong khi chạy loạn". Chắc không phải giết liền đâu. "Tôi hiểu vì lẽ gì cậu (Bảy) đã vô bộ đội."
"Tôi" nghe chuyện thương tâm, kêu "Tội nghiệp!", "an ủi một câu". Thái độ điềm đạm rất hợp. Khi viết kể chuyện thương tâm, tôi dùng lời giản dị quen viết. Ngẫu nhiên lại cũng rất hợp nữa.
----
Một đêm nọ bọn chúng tôi ba người ghé một làng phong túc trên một bờ rạch miền Sóc Trăng. Tôi mệt nên đi ngủ trước một mình trên một bộ ngựa trong một căn nhà vách ván ba gian, chung quanh là một khu vườn rộng. Tôi ngủ được một giấc dài, bỗng tỉnh dậy, nhưng vẫn chập chờn, không tỉnh hẳn. Văng vẳng có tiếng đàn Tứ Đại Oán lúc hiện, lúc tắt. Tôi mở mắt, nhìn qua cửa sổ nhỏ khép hờ ở bên cạnh giường, thấy ngoài có ánh trăng. Tôi nghĩ bụng: "Thời này, làm gì có người đàn bản đó", ngờ rằng mình mê ngủ. Tôi lại nhắm mắt lại, nửa thức nửa tỉnh, nằm yên lắng bắt tiếng đàn kìm, không dám nhúc nhích. Sợ tiếng đàn như ở thiên thai đó tắt mất. Trong không khí phảng phất có một thứ hương gì ngọt ngọt, mát mát. Tôi thấy du dương lạ lùng, thân thể nhẹ nhàng như không chạm vào ngựa nữa, tâm hồn muốn chơi vơi với tiếng nhạc. Rồi tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm, không dám hỏi chủ nhân có ai đàn ban đêm không sợ cảm giác huyền ảo của tôi tan mất. Chủ nhân cho hay đêm trước, một toán bộ đội tấn công một đồn trên đường lộ Sóc Trăng - Cần Thơ cách làng năm sáu cây số. Toàn thắng, nhờ có nội công, giết được hai tên địch, thu được nhiều khí giới, mà bên mình chỉ mỗi một thanh niên bị một vết thương ở bắp vế. Tôi lại thăm bộ đội, hầu hết anh em còn ngủ, chỉ có một người đương rửa mặt ở dưới rạch. Thấy nét mặt quen quen tôi đánh bạo hỏi:
- Phải cậu Bảy có hồi ở Bình Thủy đó không?
Người đó ngạc nhiên, chăm chú nhìn tôi, cười:
- À, thầy Hai
rồi lên bờ nắm chặt lấy tay tôi.
Hai ba năm trước, có lần đi kinh lí ở Cần Thơ tôi lại thăm một ông bạn làm hiệu trưởng trường Nam ở đó, tên là Cảnh. Anh gốc ở Bạc Liêu, có ruộng đất, mỗi năm thu được ngàn giạ, chỉ cũng có của riêng, nên sống một đời rất phong lưu. Trưa hôm ấy anh mời tôi lại ăn tại một tửu lâu Huê kiều gần cầu tàu.
(A)n xong, anh bao một chiếc xe hơi đi Bình Thủy, cách Cần Thơ 5 cây số, trên đường đi Long Xuyên. Tôi gạt đi.
- Trời nắng gắt như vầy mà đi chơi!
Anh cười:
- Nơi này đặc biệt lắm. Vì chiều anh đã rời Cần Thơ rồi, không thể ở lại đến tối nên phải đi giờ nầy. Dịp này bỏ uổng.
Tôi miễn cưỡng theo, nhưng ngồi xe gió mát, buồn ngủ quá. Tới cầu Bình Thủy, chúng tôi xuống xe, quẹo qua tay trái, đi bộ theo bờ rạch.
Con rạch này rất đẹp, tại vàm nổi lên một cái bãi như miệng con rồng uốn khúc ngậm châu. Chỉ rộng khoảng ba bốn chục thước, đứng bên này nói chuyện với người bên kia được, thành thử tuy cách biệt mà vẫn thân mật như sát rào. Nước lúc đó đương ròng, vài chiếc xuồng và tam bản thả xuôi, và con rạch như một tấm thảm di chuyển trong truyện Ả-rập. Hai bên bờ có một đường đất rộng rợp bóng dừa, bóng xoài, mận, bằng lăng. Một dãy nhà lợp ngói, vách ván hoặc tường gạch nằm theo đường, trông ra rạch. Nhà nào cũng có vườn sạch sẽ, cửa sổ nào cũng phấp phới tấm màn ren. Dăm ba thiếu nữ đi xóm hoặc xuống rạch giặt dịa, cô nào cũng bận đồ lụa, đeo vàng, cổ trắng trẻo, tóc đen nhánh. Tôi bảo anh Cảnh:
-- Chỗ nào có nước trong là y như có gái đẹp. Hai "vưu vật" đó cơ hồ không rời nhau. Cổ nhân cũng tinh lắm, hễ tả một nữ nhân là mượn một dòng nước: nàng Tây Thi ở Trữ La, nàng Kiều ở bên một dòng "nước chảy trong veo".
-- Rất đúng. Và chính vì một mĩ nhân mà hôm nay tôi bắt anh bỏ giấc ngủ trưa đây.
Chúng tôi theo bờ rạch, tiến vô độ năm sáu trăm thước, khi gần tới chợ Bình Thủy thì anh Cảnh ngừng lại trước một căn nhà lá nhỏ, rộng chừng ba thước, coi bộ nghèo nàn ở giữa một khu đất hoang hãy còn lau sậy. Tôi ngạc nhiên vì ở sân thấy phơi ba bốn bộ quần áo đàn bà toàn là thứ hàng tốt: áo màu tươi, quần lãnh đen hoặc lụa trắng, không phải là của hạng người nghèo.
Bạn tôi đứng ở cửa gọi.
-- Cậu Bảy có nhà không?
Ở trong có tiếng "dạ". Hình như chủ nhân và khách đã quen gọi nhau. Một phút sau, một thanh niên bước ra, bận bộ pyjama lụa, tầm thước, nhanh nhẹn, lông mày hơi rậm. Chúng tôi bước vào. Anh bạn tôi giới thiệu qua loa rồi thanh niên đó từ vô nhà trong.
Phòng mỗi chiều ba thước, có một vách lá ngăn với phòng trong, một lối đi ở bên phải, hẹp, tối tăm, đưa ra phía sau. Nền nhà đất nện. Trên vách treo một cây đàn kìm. Đồ đạc chỉ có mỗi một bộ ngựa trải chiếu, hẹp, kê sát vách, và một bộ salon: bốn chiếc ghế và một chiếc bàn nhỏ, trên có mặt kính mỏng, dưới kính là hai ba chục tấm hình nam nữ, đa số bán thân, khổ hình căn cước hoặc bưu thiếp; tôi đoán là hình các tài tử trong giới đàn ca, vì người nào cũng bảnh bao, điệu bộ, có người ôm đàn kìm, đàn ghi-ta.
Tôi để ý nhất tới 5, 6 ngọn sậy xuyên qua vách lá hở, đâm tua tủa ở một góc phòng, ngọn nào cũng vàng nhưng không úa, vì thiếu ánh sáng. Tôi nghĩ bụng: "Chủ nhân hoặc là rất nghệ sĩ, hoặc rất làm biếng."
Một thiếu nữ lặng lẽ khoan thai bước ra, khẽ gật đầu chào chúng tôi, không ra vẻ quí phái, nhưng rất nề nếp. Mặt anh bạn tôi tươi hẳn lên. Nàng khẽ vén áo ngồi xuống bộ ngựa, đối diện với anh Cảnh. Khoảng hai mươi tuổi, nước da trắng mịn, mớ tóc đen búi ra sau. Tôi có một cảm giác mát mẻ, dịu dàng, thanh thoát: y phục bằng lụa màu xanh nhạt và trắng ngà, thân hình mảnh khảnh, nụ cười, ngôn ngữ, cử chỉ của nàng khiến tôi tưởng như một bức tranh tố nữ linh động.
Nàng hỏi thăm tôi vài câu rồi nói chuyện với anh Cảnh về những bạn chung của họ, về những buổi họp tuần trước. Có khói ở nhà sau bay ra, một lát cậu Bảy xách ra một ấm nước sôi, nàng pha trà mời chúng tôi. Trà Thiết Quan Âm, rất ngon. Cậu Bảy cũng ngồi trên bộ ngựa ở đầu kia, lên dây cây đàn kìm rồi gảy một bản Văn Thiên Tường. Giờ đó tĩnh mịch, chỉ có tiếng xào xạc của bụi sậy ở ngoài vườn và tiếng ru em ở xa vẳng lại. Giọng đàn của cậu Bảy buồn nhưng mạnh, như hùng nữa.
Hết bài, cậu hai tay đưa cây đàn cho anh Cảnh. Hai người đổi chỗ cho nhau vì ngồi ở ghế salon không đàn được. Lên dây lại rồi, anh Cảnh sửa lại tư thế, xốc lại áo, mỉm cười liếc thiếu nữ, nàng mỉm cười gật đầu. Dạo xong một khúc, anh gõ "cắc" vào mặt đàn, vô bài Phụng Cầu Hoàng. Nàng cất tiếng hòa theo. Ngón đàn anh khác ngón cậu Bảy, rất mùi mà giọng nàng thanh, ấm, ngân nga, rõ từng tiếng. Nàng ngước mắt lên ca, cặp mắt bồ câu long lanh tuyệt đẹp, hai bàn tay búp măng đặt lên đùi, móng tay hồng hồng; lúc này tôi mới nhận thấy nét mặt nàng phảng phất buồn. Bạn tôi vừa đàn vừa đăm đắm nhìn nàng và mỗi khi xuống một nhịp nào, giọng đàn giọng ca rất hòa nhịp nhau thì hai người cùng mỉm cười ngó nhau, cậu Bảy cũng mỉm cười. Sự hân hoan tâm đắc đó chỉ hạng nghệ sĩ mới cảm được. Tôi thấy mình là người ngoại cuộc. Rồi (anh Cảnh) lại gõ vào mặt đàn "cắc", dòng nhạc lại tiếp tục.
Xong bài, anh Cảnh trả cây đàn, chủ nhân đem treo lên vách. Chúng tôi uống thêm một chén trà nữa, nói dăm ba câu chuyện về đàn rồi cảm ơn chủ nhân ra về.
Ra tới đường lộ, tôi nói:
- Quả là một giai nhân ít khi gặp được.
Anh Cảnh gật đầu:
- Phải nhìn nàng bận áo dài đen ngồi dưới ánh đèn viết thư, hoặc toàn đồ trắng ngồi ở mũi ghe hầu dưới ánh trăng mới thấy hết nét đẹp thùy mị, nề nếp của nàng. Biết đàn tranh nhưng nghệ thuật chưa cao, trái lại ca rất hay.
- Họ là hạng người ra sao? Lối sống có vẻ nghệ sĩ lắm.
- Thì đúng là nghệ sĩ rồi. Chàng là con út và con trai duy nhất của một điền chủ lớn làm Hội đồng ở Châu Đốc, không ham học, cũng chẳng coi sóc vườn ruộng, chỉ đờn ca, còn nàng là con một hương chức đủ ăn thôi, học tới lớp nhất rồi bỏ, nổi tiếng là hoa khôi trong miền. Ông Hội đồng góa vợ, đã gần lục tuần, muốn cưới nàng làm vợ kế, thường giúp đỡ cho gia đình nàng, nàng không ưng nhưng không nỡ hay không dám từ chối, khất lần. Trong khi đó, cậu con ông Hội đồng cũng mê nàng. Rồi một hôm cặp thanh niên bỏ gia đình, dắt nhau đi. Họ sống nhờ vả một số bạn thân hay bà con, mỗi nơi dăm bữa nửa tháng, sau cùng tới đây, cất căn nhà lá đó. Ông Hội đồng nhắn người gọi chàng về mấy lần nhưng họ nghĩ về không tiện, chịu sống cuộc đời trôi dạt này. Tình cảnh họ éo le, họ lại có tài, đứng đắn, lễ độ nên được nhiều người giúp đỡ. Ở Cần Thơ này gia đình giàu sang nào cũng biết họ, gặp đám tiệc đám cưới, hoặc chỉ một cuộc họp bạn, người ta cũng mời họ lại giúp vui và đưa họ một số tiền khá hậu. Tôi cũng thường rủ bạn thân lại đây nghe đàn ca và lâu lâu giúp họ một số tiền. Họ coi tôi như anh. Họ tự trọng và biết người.
Tôi nhớ lại rõ buổi trưa đó trong khi bắt tay cậu Bảy. Tôi hơi ngạc nhiên, một nghệ sĩ lãng mạn như vậy mà theo bộ đội tác chiến. Tôi hỏi:
- Cậu vô bộ đội lâu chưa? Có dự cuộc phá đồn hồi hôm hả?
- Dạ, tôi đi kháng chiến hơn một năm rồi (mắt cậu sáng lên), hồi hôm phá được một đồn địch.
Tôi rủ cậu lại chợ uống cà-phê. Chợ chỉ có vài quán lèo tèo, sáng hôm đó đông nghẹt người. Người ta bu chung quanh một anh bộ đội nghe anh kể trận đánh đêm trước. Một cụ già vừa nghe vừa mỉm cười, vuốt chòm râu bạc. Năm sáu thiếu nữ nép vào nhau dưới một gốc xoài nhìn anh bộ đội. Vì có nội công, hai tên lính Pháp, một thượng sĩ, một binh nhì chỉ kịp ria ra một loạt liên thinh rồi bị hạ sát liền. Lính Việt trong đồn đầu hàng hết. Thu được bốn khẩu liên thinh, mười cây súng mút, rất nhiều đạn và thực phẩm. Đồn bị đặt chất nổ cho sập. Bên mình một người bị thương ở bắp vế.
Cậu Bảy ngồi vào bàn, hỏi thăm anh Cảnh. Tôi đáp:
- Từ hồi cách mạng, không gặp lại. Còn cô Bảy lúc này ở đâu?
Mặt cậu rầu rầu:
- Nhà tôi mất rồi, bị Pháp giết trong khi chạy loạn ở gần Ngã Bảy Phụng Hiệp.
- Tội nghiệp! Cậu có ở đó không?
- Dạ có, tôi chôn cất nhà tôi rồi, đánh dấu để khi đuổi bọn Pháp đi rồi sẽ xây mộ cho nàng. Mỗi lần đi công tác lại gần miền đó, tôi đều ghé thăm.
Tôi an ủi một câu:
- Giai nhân thường bạc mệnh. Hôm đó, ở nhà cậu ra về, ông Cảnh khen cô lắm, vừa có tài, vừa nết na.
Tôi uống với cậu một li "cà-phê" bằng gạo rang, cả hai đều lặng thinh nhìn khói thuốc và nhìn nước đục dưới rạch. Nhớ lại những nét thanh tú và giọng ca của cô Bảy, tôi bâng khuâng như mất một bảo vật.
Rồi có việc phải đi ngay, tôi từ biệt cậu ở chợ. Sau này hỏi thăm, biết cậu biệt danh là Hồng Phong, là một chiến sĩ gan dạ bậc nhất. Ra trận lần nào cũng vui vẻ như đi dự tiệc, xung phong, bắn giỏi và chỉ nhắm Pháp mà bắn. Hạ được giặc Pháp nào, cậu la lớn: Một mạng, hai mạng... Cậu tự nguyện phải hạ được mười tên Pháp mới hả dạ. Tôi hiểu vì lẽ gì cậu đã vô bộ đội.
Đi được vài bước, tôi sực nhớ ra, quay lại hỏi:
- Phải hồi khuya cậu đàn Tứ Đại Oán không?
- Phải, lâu quá nhớ. Nhân chủ nhà có cây đờn kìm, tôi mượn gảy chơi. Cầm súng lâu rồi, nhấn hơi ngượng nghịu.
- Hèn nào... Nhưng vẫn hay lắm.
(Trích truyện dài Con đường thiên lý. Trong tuyển Để tôi đọc lại (nxb. Văn Học, VN, 2001), trích đoạn này mang tên "Mối tình nghệ sĩ". Chúng tôi chọn dùng luôn tên ấy.)
Trăng nước miền Nam
"Tôi cho trăng vằng vặc trên dòng nước mới đẹp (nhất)"...
Hình như đa số người Việt Nam đồng ý với Nguyễn Hiến Lê. Vì tiếng Việt có từ kép "trăng nước" (như trong "Trăng nước Đồng Nai", "Trăng nước Chương Dương" v.v.), trong khi tiếng Tàu hình như không có "thủy nguyệt", "nguyệt thủy", "giang nguyệt", "nguyệt giang", "hà nguyệt", "nguyệt hà"... Người Tàu cũng thích cảnh trăng soi nước nên có thơ "Xuân giang hoa nguyệt dạ", có điệu "Tây giang nguyệt" (chữ giang này đi với chữ Tây), nhưng không thích tới mức đặt ra từ kép?
"Thi sĩ Trung Hoa thích cảnh trăng ẩn sau đám mây, nửa mờ nửa tỏ"...
Có lẽ vì thế mà tiếng Tàu có từ kép "vân nguyệt". Có lẽ người Việt không thú vị cảnh ấy lắm vì không ai nói "trăng mây"?
----
Xét chung Nam Việt đẹp nhờ trăng và nước (...) Thi sĩ Trung Hoa thích cảnh trăng ẩn sau đám mây, nửa mờ nửa tỏ; tôi cho trăng vằng vặc trên dòng nước mới đẹp.
Trăng ở đây tỏ nhất vào giữa tháng giêng và tháng hai âm lịch. Vào những khoảng đó, nếu làm việc ở một miệt vườn như Long Xuyên, Cần Thơ, mà lại nhằm ngày rằm, làng nào cũng cúng đình, thì thế nào tôi cũng dạo trên bờ rạch để ngắm cảnh.
Dưới rạch thỉnh thoảng có một hai chiếc tam bản hoặc ghe hầu lặng lẽ xuôi dòng đưa các ông già bà cả đi lễ đình, có thiếu nữ theo hầu. Trên đường đất theo bờ rạch, nam thanh nữ tú dập dìu chơi xuân, lúc ẩn lúc hiện dưới bóng rặng dừa, rặng xoài hay bằng lăng. Trong gió mát, phảng phất hương xoài, hương mù u. Và chỗ nào cũng nghe thấy tiếng đàn kìm từ trong nhà sàn bên đường đưa ra các điệu Vọng Cổ, Tây Thi, Tứ Đại Oán... Cứ tiếng đàn ở sau lưng nhỏ dần thì đã văng vẳng tiếng đàn ở phía trước. Trời trong, nước trong. Trăng nhấp nhô trên mặt nước, lấp lánh trên đường trải cát, nhảy múa trên tàu dừa, chảy trên tóc, trên vai thiếu nữ. Trong lòng tôi thấy rạo rực và tôi hiểu tại sao người Trung Hoa đã cho Lý Bạch chết vì muốn ôm trăng trên dòng nước. Trong sân đình đông nghẹt người. Các bà già và thiếu nữ đi xem kết quả cuộc thi nữ công - thực ra chỉ là thi bánh mứt - còn bọn trai làng thì cốt ngắm các cô dự thí. Mười một giờ khuya buổi lễ mới vãn. Trăng lúc này mới thật đẹp. Tôi đi một mình xuôi ra ngoài vàm, nghe tiếng lá xào xạc trong cảnh tĩnh mịch, tiếng nước bập bềnh vỗ vào bờ. Trong những bụi chuối cách đường vài thước có những cặp đang tình tự. Xa xa vẳng lên một khúc xuân tình.
(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, VN, 1992. Nhan đề tạm đặt.)
Đồng Tháp Mười
Bây giờ ở Đồng Tháp Mười rắn ngựa, muỗi mây chắc hiếm. Lúa ma chẳng biết còn không?
Qua bao mùa chinh chiến, rồi tới thời kỹ thuật tối tân giúp chinh phục tự nhiên, những chỗ Nguyễn Hiến Lê từng ghé qua chắc đã hoàn toàn biến dạng.
"Lung kia rày đã nên đồng..."?
----
(A)n xong, chúng tôi đánh một giấc tới ba giờ, để tránh ánh nắng gay gắt ban trưa, rồi đi về phía giồng Lâm Vồ, lội ngang nhiều cái lung đầy đỉa lớn bằng ngón tay. Mới đặt chân xuống nước rồi nhấc lên liền là đã có ba bốn con bám vào chân rồi, gỡ ra không nổi.
Không khí thực oi ả. Khi chui vào những đám lau cao, chúng tôi như nghẹt thở. Mồ hôi ướt đẫm áo, cổ khô như sau một cơn làm cữ (sốt rét).
Bỗng trước mặt chúng tôi, một đám khói bốc lên mù trời.
Anh Hai, người dẫn đường nói:
- Gặp đám đốt đồng rồi. Chúng ta ở dưới ngọn gió. Phải quanh qua phía tay mặt để bọc đám khói.
Càng tiến tới gần, không khí càng nóng ghê gớm, càng thấy khó thở. Ngọn lửa dài hàng trăm thước, liếm ngọn cỏ khô và tiến tới mau hơn người chạy, phun lên trời một đám khói đặc, đen nghịt và để lại phía sau một đám than lấp lánh những đốm đỏ.
Có tiếng sột soạt trong cỏ, một vật gì loang loáng lướt qua rồi biến mất.
- Coi chừng rắn đó, các ông. Đốt đồng thì rắn ra. Miền này nhiều rắn lắm, đủ các giống: hổ mang, mái gầm, hổ lửa, rắn lục... Có những con rắn hổ dài ba, bốn thước, lướt như bay trên cỏ, đuổi kịp ngựa là thường; loài ấy dữ nhất, có tên là hổ ngựa.
Người ta kể chuyện một ông già kiếm củi ở miền Mộc Hóa thấy một con rắn đầu quấn vào một thân cây, cây ở bờ bên đây cái bưng nhỏ, đuôi quấn vào một thân cây khác ở bờ bên kia, rồi văng mình qua bên mặt, bên trái, để tát nước trong bưng. Chỉ một lát bưng cạn, chú ta bò xuống bắt hết nhẵn cá, ăn một bữa no nê. Nó khôn quá, thưa ông.
Anh Bình nghe chuyện rắn, có vẻ sợ sệt, ngó chung quanh và dè dặt bước ở giữa bọn tôi.
Anh Mẹo thấy vậy cười:
- Tụi nó sợ mình, thấy mình là trốn; mình đâu phải sợ nó. Chỉ khi nào trời không cho sống nữa, đạp nhằm nó, nó mới cắn; mà thứ rắn hổ lửa cắn thì vô phương chữa ở giữa cảnh đồng này. Nhưng ông đi giày cao ống thì lo gì? Có lo là tụi tôi.
Anh Bình hỏi:
- Miền này nhiều người bị rắn cắn không anh?
- Cũng thường có. Mỗi năm làng nào cũng có năm sáu người bị rắn cắn, nhưng phần nhiều tìm được thuốc chữa kịp. Xóm nào cũng có người biết thuốc trị rắn. Lâu lắm mới nghe tin có người chết.
Tôi nói xen vào:
- Mỗi làng có hai ba ngàn người mà lâu lâu mới nghe nói có người chết vì rắn, thì nạn rắn có gì đáng lo? Không bằng cái nạn xe hơi ở Sài Gòn, phải không, anh Bình? Vậy anh cứ yên tâm, đi ở đây an ổn như đi ngang đường Catinat hay Bonard vậy.
- So sánh khéo lắm. Phục rồi. Nhưng này, đã yên ổn như vậy, sao còn mang hai ống thuốc trừ nọc rắn làm chi vậy ông?
- Cẩn tắc vô ưu mà!
Anh Mẹo đi đầu, reo lên:
- A! có rùa. Rán bắt, tối nay làm thịt ăn.
Một con rùa lớn chạy đám cháy, bị anh Mẹo chụp được.
Chúng tôi đã tránh được ngọn lửa đốt đồng và đương tiến trong đám sậy, cỏ cháy đen. Đất nóng hổi, chân như bị lùi trong tro. Mặc dầu bước rất nhẹ mà tro cũng bay lên bụi mù bám vào da, vào quần áo. Ai nấy đều có vẻ như ông táo, phải nín thở và mỗi lần thở phải đưa tay che mũi.
Đi độ một cây số khỏi đám đốt đồng, chúng tôi đều vỗ tay, nhẩy lên:
- Sen, sen. Có hồ sen ở đây!
Hàng ngàn bông đỏ điểm trên một nền xanh nhạt. Chúng tôi khỏe hẳn người, cổ bớt khô, ngực bớt nghẹt, vừa chạy ùa lại vừa hít hương sen trong không khí. Lưu, Nguyễn vào Thiên Thai chưa chắc đã vui bằng chúng tôi lúc ấy.
Anh Bình nói luôn miệng:
- Bĩ cực thì tới tuần thái lai chứ!
Sen mọc trong một cái lung dài và rộng, nước còn độ vài tấc. Không khí chung quanh mát rượi và thơm phức. Chúng tôi thâm hô hấp một lát rồi xuống rửa chân tay, mặt mũi, lại thâm hô hấp nữa. Anh Hai bẻ chừng một chục gương sen non đưa chúng tôi ăn đỡ khát.
Gió hây hẩy trên mặt nước, sen rung rinh tỏa hương. Chúng tôi chỉ tiếc không có vài chai bia ngâm nước đá và một đĩa khô mực để ngà ngà với hoa một bữa.
Nhưng ánh chiều đã tà. Dù hoa có khoe sắc để giữ lại thì cũng không thể nghỉ đêm bên hoa được. Phải đi. Đi mà cứ vài bước lại quay lại, cho tới khi bóng sen khuất hẳn.
Một người hướng đạo bảo tôi:
- Lúc nãy chúng tôi không dám cho hai ông hay. Đi qua chỗ đốt đồng nhiều khi nguy hiểm lắm. Có chỗ lớp đất ở trên rất mỏng, bước vào thụt chân xuống, tới lớp bùn than ở dưới. Lớp này nóng rực làm phỏng da là thường.
- Biết vậy, sao các anh còn dắt chúng tôi qua?
- Còn lối nào khác đâu? Đi vòng ngọn lửa cũng đã xa đường lắm rồi, nếu vòng cả đám đồng cháy ở sau ngọn lửa thì tôi sợ không tới giồng Lâm Vồ trong đêm nay được.
Chúng tôi leo bốn cái giồng nữa - giồng Cỏ Ống, giồng Cà Dâm, giồng Lung Sơn, giồng Thốt Nốt - tới giồng Lung Bông thì mặt trời đã xuống gần giáp ngọn cỏ.
Anh Bình tỏ vẻ lo lắng:
- Gần tối rồi, nghỉ ở đâu? Hai chân rã rời, tôi muốn cởi ném đôi giày nặng như đá này đi. Đói, khát. Nước uống đã hết. Chung quanh không có nhà cửa.
- Thưa, cũng sắp tới nơi. Ông cứ an tâm, thế nào tối nay cũng có chỗ ngủ.
Chúng tôi cố lết một quãng nữa, gần tới một cái lung cạn, chung quanh là sậy thì có tiếng vo vo như đàn ong vỡ tổ. Một đám mây xám chập chờn ở trước mặt chúng tôi.
- Muỗi Đồng Tháp đấy. Anh Bình! về ngoài đó, nhớ tả cảm tưởng của anh lúc này cho bà con nghe nhé.
Tôi đã quen muỗi. Những hồi đi đo ở Cà Mau, Phụng Hiệp, chiếc ghe bầu của tôi sơn xanh lá cây, mỗi buổi chiều, từ sáu giờ trở đi, biến ra màu xám: muỗi bám đầy ghe, liền cánh nhau, mỗi phân vuông cũng có ít gì vài con. Không thế nào đứng yên được một lát, phải quơ chân múa tay luôn luôn mà chúng vẫn đốt. Nhưng lần này muỗi mới thật là làm cho tôi rợn tóc gáy. Chúng tôi nín thở chạy xuyên qua đám mây, chúng sa vào lỗ mũi vào lỗ tai, chui vào cổ áo, cổ tay. Cũng may là chúng ít đốt. Sinh trưởng trong miền hoang dã này, chúng chưa được biết mùi máu người, gặp chúng tôi còn bỡ ngỡ, chưa kịp bu lại đốt thì chúng tôi đã thoát khỏi.
Qua đám muỗi rồi, chúng tôi còn thấy lạnh xương sống.
- Anh Bình, anh đã thấy ghê chưa? Muỗi nhiều như vậy, đốt trâu, trâu cũng chết, đừng nói là người. Cho nên miền này, nông dân phải may màn (mùng) cho trâu.
- Sướng nhỉ! Trâu được ngủ màn.
- Nếu không có màn thì ít nhất mỗi tối phải hun cỏ, rác, cây mục cho muỗi thấy khói mà lánh xa.
Khói và sương chiều bao phủ cánh đồng. Cảnh lạnh lẽo, cô liêu có một. Vài đốm đỏ hiện lơ lửng ở chân trời như ngôi sao mới mọc.
- Thưa ông, giồng Lâm Vồ đấy. Chắc trong trại có người ở.
- Có ít nhất là một chục người đêm nay. Lần này là lần đầu tiên giồng Lâm Vồ đón khách từ bốn phương trời lại. Anh em mình đi mau lên.
Chúng tôi quên mệt, nhắm ngọn đèn tiến tới. Nhờ ánh trăng, cũng đỡ thụt xuống lung. Đến giồng thì gần tám giờ tối.
Năm sáu người từ trên giồng chạy xuống đón chúng tôi. Họ làm ở Sở Thủy lợi, đi đo từ Mộc Hóa xuống đây. Vì chúng tôi đã hẹn trước sẽ gặp nhau tại giồng này, nên tiệc đã dọn và họ đợi chúng tôi để nâng chén.
Chắc giồng này trước có trồng cây lâm vồ - một loại cây rất giống cây bồ đề - nên mới có tên ấy. Trên giồng có một trại ruộng khá lớn bằng lá do một anh nông phu coi. Trên kèo treo lủng lẳng những khô rắn, khô cá và khô chuột. Người giữ trại bắt được nhiều quá, ăn không hết, làm khô để dành.
Chúng tôi kiếm một cái lung ở gần giồng, lau mình qua loa rồi thay đồ ăn cơm.
Ngồi ăn ngay trên mặt đất, dưới ánh trăng.
Thầy Quang, xếp kíp đo bảo tôi:
- Trên nửa tháng nay, tám anh em chúng tôi sống ở giữa đồng, buồn quá, hay tin ông tới, mừng lắm, hôm qua cho người ra tận Tân Phú mua đồ nhắm để say bữa nay cho bõ những đêm ngủ nóp trong đám sậy.
Có rượu chát, la-ve, có thịt trích, thịt rắn, thịt cua đinh (ba ba). Hai ông dùng được những món lạ ấy không? Đều là thổ sản của cánh đồng này. Rau, không có xà-lách Đà Lạt mà có đọt xoài, đọt bằng lăng. À, có cơm lúa ma, một thứ lúa đặc biệt ở miền này.
Mười ba người, cả anh giữ trại, quây quần lại. Khát nước quá, chúng tôi uống ngay một ly đầy la-ve (rượu bia) rồi mới cầm đũa.
Anh Bình do dự, chưa dám múc món cháo rắn hổ, thầy Quang bảo:
- Nọc nó độc vô cùng mà thịt nó lành và bổ cũng vô cùng. Ông cứ dùng đi, đừng sợ; mát lắm. Bằng uống một thang lục vị đấy. Và món cua đinh này nữa, ngon hơn thịt rùa. Chà! Quên mất rồi, rượu đế ở Cái Dừng ngon lắm mà không bảo mua. Kìa, ông Lê uống đi chứ!
- Uống đây! Trăng vằng vặc thế này, không nhậu chẳng là phụ trăng ư?
"Nhân sinh đắc ý tu tận hoan Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!"
Tôi ăn một chén cơm lúa ma: Hột nhỏ, hơi cứng nhưng có vị ngọt. Tôi hỏi thầy Quang:
- Lúa này thày mua ở đâu? Sao có tên lạ vậy?
- Không phải mua. Nó là lúa của trời cho, nên cũng có tên là lúa Trời. Tháng trước chúng tôi đi đo qua một khu đất mọc đầy thứ lúa dại này. Thân nó cao lắm, trên bốn thước. Bông ít hột, hột nhỏ, vỏ đỏ và có tới chục cái lông dài cỡ một phân. Chúng tôi căng một chiếc mền rồi cầm gậy đập vào ngọn lúa cho lúa rụng vào mền, được non một giạ. Để ăn chơi và gởi tặng bà con anh em. Tôi sẽ biếu mỗi ông một lít.
Người giữ trại nói:
- Thường người ta bơi một chiếc xuồng vào giữa đám lúa Trời, cầm hai thanh tre đập ngọn lúa vào be xuồng cho lúa rụng vào xuồng.(1) Chúng tôi ở miền này, khoảng cuối tháng chạp đầu tháng giêng, vào đồng đập một ngày cũng được vài giạ.
- Lúa đó mọc ở miền nào?
- Trong đồng này có nhiều đám lắm, mỗi đám vài công hoặc vài chục công. Nhiều nhất là ở Cái Dừng và gò Bắc Chiêng. Hột lúa rụng xuống không thối mùa sau lại mọc thành đám khác.
- Mà nó không lan rộng ra?
- Không. Chắc nó chỉ mọc được trên một thứ đất nào đó thôi. Nó mạnh lắm. Nước lên cao tới mấy nó cũng theo nổi.
Tôi quay về phía anh Bình:
- Ở đây có một giống lúa lạ mà ở Bắc không có, là lúa sạ. Cánh đồng này hồi trước hoàn toàn hoang vu. Tới mùa lụt, có khi mỗi ngày nước dưng lên trên hai tấc và nhiều chỗ nước ngập tới ba thước, như vậy lúa nào chịu được. Năm 1891, cố đạo Conte (...) đem một giống lúa ở Cao Miên về đây gieo thử: nó sống và lên theo kịp nước lụt, nên người Pháp gọi là lúa nổi, còn người mình gọi là lúa sạ vì trồng nó chỉ cần cày bừa, sạ (gieo) rồi đợi tới mùa gặt. Khỏi phải cấy. Nó ăn không ngon bằng lúa cấy, nhưng hợp với những miền lụt như thế này. Lúa ma có lẽ là một loại lúa sạ chăng?
Mười giờ, tiệc mới tan. Trừ người giữ trại và tôi, ai nấy đều say khướt, chui vào mùng hoặc nóp, lăn ra ngủ.
Ánh trăng vốn huyền ảo, trên ngọn giồng, giữa đồng cỏ dại này, lại càng huyền ảo. Nhìn xa xa chỉ thấy một màu mông lung, xanh xanh, xám xám. Vài tiếng sột soạt của rắn, chuột trong đám năng, lát; một đám cỏ lay động dưới chân giồng rồi lại yên lặng hẳn.
(Trích Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười)
Từ Hồng Ngự tới Cao Lãnh
"Cảnh chẳng những đẹp mà còn hùng".
Người thì "chất phác và đôn hậu", giữ gìn truyền thống dân tộc, có tinh thần đoàn kết và "tinh thần chống Pháp (...) mạnh".
Hèn gì được "tôi mến nhất".
----
Tôi đi khắp miền Tây (...) đâu đâu tôi cũng thấy dân quê chất phác và đôn hậu (...)
Hạng cựu học vẫn giữ được phong độ, được dân chúng kính mến và tin tưởng; nhờ vậy hạng tân trí thức chưa đến nỗi vong bản, và giữa các giới có một tinh thần đoàn kết ngấm ngầm chống lại Pháp; thành thử sau tám chục năm cai trị, ảnh hưởng của Pháp ở đây chỉ như một lớp sơn (...)
Tôi mến nhất miền từ Hồng Ngự tới Cao Lãnh (...) Cảnh chẳng những đẹp mà còn hùng. Con sông Tiền Giang ở những chỗ đầu cồn và cuối cồn, rộng có tới hai ba cây số, gặp mùa lụt lớn (...) một biển nước (...)
Miền Hồng - Cao (...) là nơi phát sinh nhiều nhà cách mạng. Nhờ có những khu phì nhiêu mà sự học mới phát đạt (...) truyền thống (...) dễ giữ vì miền này hẻo lánh, ảnh hưởng của Pháp khó tới (...) rồi lại nhờ cảnh thiên nhiên hoang vu, hùng vĩ, người ta phải phấn đấu, quen xông pha, biết đoàn kết, sau cùng nhờ có cánh đồng Tháp (...) muốn trốn lúc nào cũng được, nên tinh thần chống Pháp càng mạnh (...)
(Trích Để tôi đọc lại, nxb. Văn Học, VN, 2001, tr. 9-13. Nhan đề tạm đặt.)
Hoa hậu 11 tuổi
"Trẻ em và thiếu nữ sao mà đông thế...". Thế cái em "độ mười, mười một tuổi" đẹp đến nỗi "ai cũng quay lại nhìn không chớp mắt" là trẻ em hay là thiếu nữ?
Là trẻ em thiếu nữ đó. Trước kia, con người ta già dặn sớm lắm, trẻ gái mười một tuổi mặt mũi nhiều khi đã phảng phất duyên thiếu nữ rồi.
Giá Nguyễn Hiến Lê có ảnh của "tinh hoa" trẻ miền tây ấy cho chúng ta xem!
----
Tôi về Sài Gòn vào khoảng cuối năm 1952 (...)
Trên con đường từ bắc Cần Thơ tới bắc Mỹ Thuận, một chiếc cầu sắt sập vì một đòan xe nhà binh chở quá nặng. Xe chúng tôi lại phải ngừng lại mấy giờ nữa, đợi công binh sửa chữa. Ở đây làng xóm đông đúc. Mấy gia đình gần cầu bẻ trái cây, nấu trà, làm bánh bông lan, cả cơm dĩa nữa - mỗi dĩa chứa khoảng một chén cơm đầy có ngọn, vài con tôm hay mấy miếng thịt nướng, ít dưa chua - đem bán cho khách trên xe, giá đắt gấp đôi giá thường, mà cung cấp không kịp (...) Tôi dạo trong xóm một lát; trẻ em và thiếu nữ sao mà đông thế, em nào cũng hân hoan kiếm được một ít tiền.
Tôi hỏi một em:
- Bán được bao nhiêu dĩa rồi?
- Dạ, không kịp đếm nữa thầy.
- Vui quá hả?
Mái tóc lòa xòa trên trán, cặp mắt long lanh, em đáp:
- Dạ. Nhưng lâu lắm mới được một lần, thầy.
Rồi hai tay bưng hai dĩa cơm, em vội chạy đi. Tôi nhìn theo: em gái đó độ mười, mười một tuổi (...) mảnh khảnh, rất thanh tú, trắng trẻo, tóc mịn, mắt đen mà sáng, mũi cao, nhất là nụ cười luôn luôn nở trên môi đỏ, cực kỳ nhu mì, hồn nhiên, khách trên xe ai cũng quay lại nhìn không chớp mắt, dù đương bực mình cũng vui tươi lên. Tôi có cảm tưởng lạ lùng này là trong giấc ngủ nụ cười của em vẫn nở, và nó sẽ bất diệt cả khi em không còn trên cõi trần nữa (...) Em rất ít nói, mặt thường cúi xuống như ngượng về sắc đẹp của mình, nhẹ nhàng đi qua đi lại, cả trăm cặp mắt theo dõi em từng bước (...) Thật là một tinh hoa của miền Cần Thơ và Vĩnh Long, miền nước trong, trăng sáng, và dừa ngọt này.
(Trích truyện dài Con đường thiên lý. Nhan đề tạm đặt.)
Hoa mai ngày tết
Vàng son thì phú quý lồ lộ, còn "vàng xanh" cũng phú quý mà "hòa nhã"...
----
Ở đâu chỉ nên chơi hoa ở đó, miền Nam có mai vàng, tuy không đẹp bằng đào, nhưng rực rỡ, có vẻ phú quý, lại có ám hương thoang thoảng lúc ban mai, mà gốc mai vàng thịnh khai nổi bật trong vườn lá xanh, coi thật hòa nhã.
(Trong bài "Hoa đào năm trước", tuyển Để tôi đọc lại, nxb. Văn Học, VN, 2001)
Ham hò quá, mất đầu!
Hoàng Cầm về quan họ:
"Tiếng hát quan họ, là nghệ thuật của yêu thương (...) quyến luyến xoắn quyện, chan chứa day dứt lên đến đỉnh điểm tuyệt vời của âm dương giao hòa, hình thái cực kỳ lẳng lơ, đa tình".(1)
Ấy, liền chị khéo mất chỗ đội nón ba tầm!
Nhưng thực ra không phải lo: "trai gái hát với nhau thì đưa tình, trao duyên nồng nàn đằm thắm thế, nhưng (...) lại phải tuyệt đối vâng theo lệ làng quan họ là (...) chỉ được yêu nhau trong tiếng hát mà không được yêu nhau trong đời thường".(1)
Nhờ lệ làng, mà cũng nhờ cả người Việt miền Bắc hay chém nhau bằng lưỡi trong miệng hơn là lưỡi dao, mà hình như trong lịch sử hát quan họ chưa từng xẩy ra án mạng.
Trở lại hò. Thôi, tốt nhất đã có vợ có chồng thì đừng hò với "người thứ ba".
----
Nước ngược, tàu chạy rất chậm. Ánh trăng vằng vặc trên kinh. Từ một chiếc ghe chèo gần bờ, đưa lên một giọng hò não nuột:
"Hò o o ớ ớ... Em đừng ham chỗ giàu sang ơ ơ ơ... Tuổi cao tác lớn mà trao thân vàng ơ ơ ơ..."
Tôi đang nằm, vội nhỏm dậy, mở cửa, nghe. Tiếng thanh quá, êm đềm như ánh trăng. Khi tiếng hò đã xa, tôi bảo anh Bình:
- Anh còn thức đấy chứ? Tôi chưa cho anh ngủ đâu. Phải bắt anh nghe câu chuyện hò này mới được.
Hồi trước, đi ghe, đêm nào tôi cũng được nghe (..) hò (...) Mướn một người chèo ghe, tôi cố tìm những người hò giỏi, vì những đêm trăng như đêm nay, trôi trên mặt nước mênh mông, có được nghe giọng hò mới cảm thấy được hết cái buồn man mác của trời dài sông rộng. Giọng hò đưa vút lên không, tan trong ánh trăng, tỏa trên mặt nước. Nó là một tiếng gọi từ đáy lòng con người gởi vào vũ trụ.
Hò có nhiều giọng: giọng Bến Tre, giọng Rạch Giá, giọng Cần Thơ... Cùng một giọng, mỗi người hò một khác, mỗi lần hò cũng một khác... Cho nên hò là cả một nghệ thuật và người thạo nghe có thể đoán được xứ sở, có khi gia thế cùng tâm sự người hò nữa. Khi hai người hò cùng tài hoa như nhau, lại cùng một nỗi lòng, thì không gì thú bằng: họ mê nhau ngay (...)
Một lần, một người chèo ghe quê ở Mỹ Tho kể cho tôi nghe một câu chuyện xảy ra tại đồng Tháp này. Tám, chín năm trước, anh ta theo bạn vào làm ruộng ở gần Gẫy (...) Hồi đó, chỗ đó dân cư còn thưa thớt lắm, tại chợ Gẫy chỉ có độ mười chòi lá.
Một ngày đầu năm, một cặp vợ chồng trẻ chèo một chiếc xuồng tới, lên bờ tìm một miếng đất cất chòi. Họ chưa có con cái, ít giao du với ai. Người vợ không có sắc mà có duyên, người chồng ít nói, lầm lì, nhưng rất siêng năng.
Vợ nuôi heo, chồng làm ruộng. Thỉnh thoảng trong những đêm trăng, người ta nghe thấy trong chòi của họ cất lên tiếng hò. Mỗi lần như vậy thì ai nấy đều lắng tai nghe, người đương thiu thiu ngủ cũng phải tỉnh và tiếng ru con bặt hẳn vì giọng hò hay quá: giọng người vợ lanh lảnh, giọng người chồng thì trầm trầm, gợi lòng nhớ nhung thương tiếc những cõi xa xăm. Chất phác như dân quê ở đây mà đã nhiều người thổn thức khi cặp vợ chồng đó cất tiếng.
Lâu lắm họ mới hò một lần mà chỉ hò trong những đêm trăng và chưa ai thấy chồng hoặc vợ hò với người thứ ba bao giờ.
Họ sống như vậy trên một năm. Một lần nọ, chồng vào trong đồng xa phát cỏ luôn bảy ngày. Hôm chàng về nhà vai vác phãng, lưng đeo nóp, trời đã sẩm tối. Mặt trăng vàng vàng lơ lửng trên ngọn so đũa. Tới cách nhà độ hai trăm thước, chàng ngừng lại, cau mày, lắng tai: có tiếng hai người hò mà y như là giọng của... Phải, đúng cái giọng lanh lảnh ấy. Cố lắng tai nữa. Trong ngọn gió tiếng người kia ngân nga và réo rắt.
Chàng tự nghĩ:
- Miền này có ai mà hò hay như vậy?
Chàng lặng lẽ bước tới, vẫn tiếp tục chú ý nghe.
Khi đến nơi thì thấy một đám đông: tất cả người trong xóm lẫn người trong các ghe xuồng đậu dưới kinh đều tụ lại nghe hò. Không ai để ý tới người chồng, chàng lựa một chỗ đứng để nhìn rõ nét mặt hai kẻ đang hò: người đàn ông đẹp trai, trán cao, mắt sáng, miệng rất tươi, còn vợ chàng thì sao bữa nay bận chiếc quần hàng Tân Châu thường ngày cất trong giỏ?
Hai bên vẫn đối đáp với nhau: giọng bên nam mỗi lúc một thêm quyến rũ, giọng bên nữ dần dần có vẻ say sưa. Người chồng yên lặng nghe, mơ màng: khi hai người mới ở chung với nhau, người vợ thường có giọng ấy; đã ba năm rồi, giọng có phần kém, và tối nay...
Bên nam lại cất tiếng, lời có chút gay gắt quyết liệt đòi gắn bó:
"Hò o o ớ ớ... Mù u bông trắng lá thắm nhụy vàng ơ ơ ơ... Anh đi khắp xứ, tới đây mới được gặp nàng ơ ơ ơ... thiệt là dễ thương ơ ơ... Hò o o ớ ớ... Nghe giọng nàng, anh những vơ vẩn vấn vương Sống cùng nhau chẳng được, cho anh phải mơ màng chiêm bao."
Người chồng hồi hộp đợi vợ mình đáp...
Suy nghĩ một chút, bên nữ cất tiếng:
"Hò o o ớ ớ... ... Lửng da trời bay lượn con chim hồng Gặp nhau sao quá trễ cho tấm lòng này xót xa Đêm nằm em luống những thở ra Đôi ta chẳng...".
Tới tiếng "đôi ta" mắt nàng sáng lên, đắm đuối trong ánh trăng và giọng nàng hơi lơi lả.
Đám đông bỗng vẹt ra, có cái gì loang loáng vút trong không. Đầu thiếu nữ đã lăn trên đất, một dòng máu vọt lên. Ai nấy chạy tán loạn.
Đêm hôm ấy một chòi lá cháy rực trong xóm mà không ai dám lại cứu. Sáng hôm sau, một ngôi mộ mới đắp xuất hiện ngay chỗ xảy ra án mạng. Người chồng từ đó biệt tăm, không ai biết là đi đâu. Khi nghe giọng bất chính của vợ, chàng nổi cơn ghen và chém vợ bằng cái phãng ở trong tay...
Chắc anh chưa thấy cái phãng. Nó là một thứ dao, lưỡi dài trên một thước, dày, rất nặng; cán trái lại rất ngắn, chỉ độ trên một tấc, và bằng gỗ nên nhẹ. Cầm phãng mà vung lên thì sức nặng của lưỡi thép giúp thêm vào sức mạnh cánh tay, làm nó tăng lên gấp ba gấp bốn. Dùng phãng mới phát được mau những lau, sậy trong đồng này. Chỉ một nhát là một đám sậy rộng một thước vuông ngã hết và ba cái đầu người tất cũng phải văng, nói chi một cái!
(Trích Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Nhan đề tạm đặt.)
_____________
(1) Hoàng Cầm tác phẩm - văn xuôi, nxb. Hội Nhà Văn, VN, 2004, tr. 462.
|
|