|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:35:13 GMT 9
Vũ Quốc Thúc Nhận định về hai cuộc vận động ngoại giao của chính quyền Hà Nội Từ cuối tháng 5/2008 tới hạ tuần tháng 6/2008, chính quyền Hà Nội đã mở hai cuộc vận động ngoại giao cấp cao ở Trung Quốc và Hoa Kỳ. Hai cuộc vận động này xẩy ra liên tiếp chỉ mấy tuần lễ trước kỳ họp thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Khoá X của Đảng Cộng sản Việt Nam, rõ ràng là để chuẩn bị những nghị quyết sẽ được đưa ra bàn luận và chấp thuận trong kỳ họp của cơ quan có quyền quyết định tối hậu dưới thể chế chính trị hiện hành. Điều này cho ta ý thức được tầm quan trọng của các biến cố ấy: Phải chăng nước ta đang đứng trước một khúc quanh lịch sử? * Để tìm hiểu tại sao nhà cầm quyền Hà Nội phải thực hiện "gấp rút" hai cuộc vận động ngoại giao vừa kể, ta cần nhớ rằng từ đầu năm nay (2008) Việt Nam được bầu làm hội viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc với nhiệm kỳ 2 năm. Ở vị trí này, nước ta dễ tranh thủ được cảm tình của các nước trong Liên Hiệp Quốc, do đó có hoàn cảnh thuận lợi để giải quyết những vụ tranh chấp quốc tế còn tồn đọng, ngõ hầu bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình: Trong số những tranh chấp ấy có việc xác định chủ quyền của ta trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đối phương chính là Trung Quốc: cường quốc khổng lồ ở phương Bắc đã ỷ thế mạnh, cưỡng chiếm các quần đảo này. Hiển nhiên, chính quyền Hà Nội hy vọng có thể viện dẫn tình liên đới cộng sản để yêu cầu Trung Quốc xét lại lập trường. Phái đoàn được gửi đi Bắc Kinh do đích thân Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cầm đầu, gồm hầu hết các đảng viên cao cấp đang chủ trì các ban trong bộ máy Đảng. Phó trưởng đoàn Phạm Gia Khiêm vừa là uỷ viên Bộ Chính trị, vừa là đệ nhất Phó Thủ tướng chính phủ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao. Phía Trung Quốc, những nhân vật được ủy nhiệm thương thuyết với phái đoàn Việt Nam chỉ là những đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản: Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng như Bộ trưởng Ngoại giao công khai vắng mặt. Còn Chủ tịch Hồ Cẩm Đào thì chỉ dự buổi tiếp tân, theo đúng nghi lễ mà thôi. Qua cách xử sự này, ta thấy nhà cầm quyền Bắc Kinh phân biệt rõ ràng hai tư cách Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính phủ Trung Quốc. Do đó, các vấn đề lãnh thổ như Hoàng Sa, Trường Sa… phải dành lại cho chính phủ hai nước điều đình với nhau trong khuôn khổ công pháp và tục lệ quốc tế. Để tránh sự đổ vỡ trong quan hệ giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Hoa, bản thông cáo chung đề ngày 1/6/2008 nhắc lại khẩu hiệu 16 chữ đã được hai bên long trọng chấp nhận làm cơ sở giao hữu: "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng về tương lai". Một điều đáng để ý là ngay trong phần nhập đề, bản thông cáo chung đã gián tiếp xác định một nguyên tắc rất quan trọng: Đó là mỗi bên, Trung Quốc cũng như Việt Nam, có quyền tùy theo hoàn cảnh đặc thù của nước mình chọn một đường lối riêng để tiến tới đích chung là thực hiện một xã hội xã hội chủ nghĩa. Nói rõ hơn là Việt Nam không bó buộc phải theo đúng kiểu mẫu cũng như các chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc (miễn là không chống Trung Quốc). Nếu theo đúng nguyên tắc này, quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc rồi đây có thể giống như một tiền lệ lịch sử là quan hệ giữa Nam Tư cũ (Yougoslavie) với Liên Xô cũ. Không những Nam Tư theo thể chế tự quản mà lại còn công khai đứng trong hàng ngũ các quốc gia không liên kết (nghĩa là đứng trung lập trong cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô). Cuộc vận động ngoại giao ở Bắc Kinh đã mang lại cho chính quyền Hà Nội một bài học, đó là: các nhà lãnh đạo Trung Quốc dù theo ý thức hệ cộng sản vẫn đặt những quyền lợi cụ thể của nước họ lên trên hết. * Chỉ mấy ngày sau khi phái đoàn Nông Đức Mạnh trở về nước, một phái đoàn chính phủ Việt Nam do đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cầm đầu đã lên đường sang Hoa Kỳ, cùng đi có Phạm Gia Khiêm, người đã tham dự cuộc vận động ngoại giao ở Bắc Kinh. Dựa trên điều này, ta có quyền tin rằng cả hai nhân vật, Nguyễn Tấn Dũng và Phạm Gia Khiêm, đều biết rõ cần và có thể đi xa tới mức nào trong sự hợp tác với Hoa Kỳ. Các quan sát viên vô tư không khỏi thắc mắc: Tổng thống Hoa Kỳ G .W. Bush sắp hết nhiệm kỳ. Người kế vị có thể là John McCain (thuộc Đảng Cộng hoà) hay Barak Obama (thuộc Đảng Dân chủ). Dù sáng kiến cuộc gặp gỡ Mỹ - Việt này do phía nào chăng nữa, ta vẫn phải tìm hiểu tại sao người ta không đợi tới sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ? Phải có một nguyên nhân nào đó đã khiến cho cuộc gặp gỡ trở nên khẩn trương. Tất nhiên nguyên nhân này liên can tới cả hai nước Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi chợt nhớ lại câu nói của cổ nhân: "cứu binh như cứu hỏa" và dưới nhỡn quan đó, duyệt lại một số sự việc liên can tới thế quân bình quân sự hiện thời tại Biển Đông (Mer de Chine). Trước hết về phần Việt Nam, việc nổi bật dĩ nhiên là vụ Trung Quốc coi quần đảo Trường Sa như là đất của họ rồi. Ngoài việc phái nhiều ngàn quân tới nơi này để xây dựng doanh trại và một phi đạo Trung Quốc không giấu dự định sáp nhập các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và một quần đảo nữa thành một đơn vị hành chính là huyện Tam Sa, trực thuộc tỉnh Hải Nam. Mặc dù Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông cáo phản đối và phía Trung Hoa cải chính tin đồn này, người ta vẫn nghi ngờ: Biết đâu cả hai phe Bắc Kinh và Hà Nội đã chẳng tương kế tựu kế để Trung Quốc thiết lập một căn cứ quân sự trong vùng bể này? Những sự phản đối bằng thông cáo ngoại giao ở Hà Nội và cải chính của chính quyền địa phương Hải Nam rất có thể chỉ là hỏa mù để che giấu sự thật. Rồi ta lại thấy một số cơ quan truyền thông tiết lộ là Trung Quốc đã thiết lập tại đảo Hải Nam một căn cứ hải quân tối tân có thể dùng làm cứ điểm cho nhiều tầu ngầm và cả hàng không mẫu hạm. Như vậy Trung Quốc không che giấu tham vọng khống chế toàn khu vực Biển Đông, là một đường tiếp tế có tầm quan trọng chiến lược đối với họ. Có người còn tính xa hơn nữa: Biết đâu đám quân nhân hiếu chiến Trung Quốc chẳng bắt chước nhóm quân phiệt Nhật Bản hồi Thế chiến 2, thực hiện một cuộc chiếm đất bất ngờ, ở vùng Trường Sa theo kiểu Pearl Harbour, nhân lúc Hoa Kỳ đang bận rộn với cuộc bầu cử Tổng thống? Dĩ nhiên đây chỉ là một giả thuyết ức đoán: tuy nhiên ai cũng biết ngừa bệnh vẫn hơn trị bệnh. Bản thông cáo được phổ biến sau cuộc gặp gỡ giữa hai ông G. W. Bush và Nguyễn Tấn Dũng rất ngắn ngủi và mơ hồ. Tuy nhiên, có một điểm khiến chúng tôi chú ý đặc biệt, đó là: Hoa Kỳ xác nhận nguyên tắc tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Khẳng định lập trường này, rõ ràng là ông G. W. Bush muốn gửi một tín điệp cho Trung Quốc: Các ông đừng vội coi quần đảo Trường Sa là đất của các ông, trong khi chủ quyền quần đảo này còn đang là nội dung tranh chấp giữa các ông với nhiều nước trong vùng đó. Một sự kiện khác đáng chú ý: sau khi gặp Tổng thống G. W. Bush, Nguyễn Tấn Dũng và phái đoàn đã đến Ngũ giác Đài để hội đàm với Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ. Mặt khác, các hãng thông tấn loan tin một nhà ngoại giao Hoa Kỳ ở vùng Đông Nam Á tiết lộ là Hoa Kỳ đang tiếp xúc với hai nước Lào và Cam Bốt để bàn về vấn đề hợp tác quân sự. * Những sự việc vừa duyệt lại đưa chúng tôi tới kết luận: tình hình chính trị - quân sự ở vùng Biển Đông (Mer de Chine) đang trở nên nghiêm trọng. Một lần nữa, quê hương chúng ta lại lâm vào thế kẹt, giữa hai lực lượng quốc tế đối nghịch. Đã đến lúc không thể úp úp mở mở được nữa mà phải minh bạch hóa thế đứng của mình. Những người Việt tha thiết với tiền đồ của dân tộc, có trách nhiệm làm mọi cách để ngăn ngừa thảm họa chiến tranh tái diễn trên quê hương đã quá đau khổ của chúng ta. Paris ngày 24 tháng 7 năm 2008
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:36:43 GMT 9
Phong Uyên Bối cảnh lịch sử năm 1946 tái xuất hiện. Phải sớm quốc tế hoá vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa Hầu như mọi người Việt Nam, trong nước cũng như ngoài nước, đều vô cùng bức xúc khi được tin trên các trang liên mạng của Trung Quốc đang dấy lên một chiến dịch truyền thông nhằm vào Việt Nam với những lời lẽ sách động, gây hấn. Song song với chiến dịch này là những hành động khiêu khích trên biển Đông của các “ngư phủ” trá hình Trung Quốc mang vũ khí. Nếu trong thời gian qua, mọi người từng cảm thấy thất vọng, căm phẫn và nhục nhã trước những phản ứng nhu nhược, hèn đớn của các nhà lãnh đạo trong nước khi Trung Quốc sáp nhập Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa) vào huyện lỵ Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam, thì mới đây nhiều người – trong đó có những người bất đồng chính kiến với chính quyền cộng sản Việt Nam – đã hả hê khi đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam bắt đầu tỏ ra mạnh mẽ hơn trong các đối đáp với Trung Quốc. Nhưng liệu đó có phải là biểu hiện của một sự chuyển biến chính trị của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, đã xích lại gần nhân dân hơn và thật tâm muốn cùng nhân dân đối mặt với một ngoại bang đầy dã tâm, hay vẫn tiếp tục chỉ là những màn kịch chiếu lệ để xoa dịu lòng dân? Viết bài này, tôi muốn phân tích một cách khách quan những động thái ngoại giao và quân sự của chính quyền Nguyễn Tấn Dũng trong sự đối phó với Trung Quốc để tìm câu trả lời cho câu hỏi trên. Động cơ của những tham vọng lãnh thổ và lãnh hải từ Trung Quốc Trước hết, tôi thấy cần thiết phải nhắc lại một số luận điểm về chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc và tư tưởng đại dân tộc của người Hán mà tôi từng nêu và chứng minh trong những bài viết của mình về chủ đề này. Lịch sử đã chỉ ra rằng sự hình thành, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa bá quyền và ý thức hệ đại dân tộc Trung Hoa từ hơn hai nghìn năm nay, được duy trì và củng cố qua mọi thời đại và chế độ ở Trung Quốc, là chính sách duy nhất đã bảo đảm được sự sống còn của dân tộc Hán. Hiện nay hơn lúc nào hết, những khó khăn về dân số và tài nguyên đang hối thúc nhà cầm quyền Trung Quốc bắt buộc phải thực thi chính sách di dân về các phần lãnh thổ phía Tây và phía Bắc, bao gồm cả ý đồ tiêu diệt lần lần các dân tộc ít người như Tây Tạng, Hồi, Mông để lấy đất sống cho một tỷ ba trăm triệu người Hán. Chính sách “một con” – được áp dụng lâu nay như một nỗ lực giảm thiểu sức ép dân số – không thể duy trì mãi vì nếu cứ tiếp tục, sau 20 năm nữa một người trẻ không thể nuôi được 2 ông bà già 65 tuổi. Mặt khác, thực ra chính sách một con thời gian qua chỉ thực hiện được ở thành thị; tỷ suất tăng dân số ở các vùng nông thôn (hiện nay khoảng 800 triệu người) không những không thuyên giảm mà còn gia tăng. Quỹ đất không đủ nuôi số dân thặng dư khiến dân quê mỗi năm tràn ngập vào các đô thị cả trăm triệu người, khiến tư bản đỏ tha hồ bóc lột nhân công, tạo ra nền kinh tế phồn thịnh giả tạo. Chênh lệch thôn quê - thành thị mỗi ngày một dãn rộng, tiềm ẩn những ngòi nổ bạo loạn nếu không có chính sách di dân và chiếm hữu đất đai của những dân tộc ít người. Nhưng muốn giải quyết vấn đề thặng dư dân số thành thị thì chỉ có cách là dùng áp lực chính trị, quân sự thao túng nền kinh tế các nước Đông Nam Á, tạo cơ hội cho thương nhân Trung Quốc di dân và lập nghiệp ở những nước đó. Con mồi đầu tiên là những nước còn ít người như Lào, Cambốt. Nhưng chướng ngại vật duy nhất khiến đường xuống Đông Nam Á bị đi vào ngõ cụt (cul de sac) lại là Việt Nam. Song, vì Lào và Cambốt trong lịch sử cận đại và hiện đại là vùng chịu ảnh hưởng của Việt Nam, một cuộc đụng độ quy mô lớn với Việt Nam là khó tránh khỏi. Vì những lý do sống còn này, tuyệt đối không thể hy vọng các nhà cầm quyền Trung Quốc, hôm nay và muôn đời sau, từ bỏ manh tâm đối với Việt Nam. Đây là điều mà bất cứ một nhà lãnh đạo chính trị nào của Việt Nam – hiện tại và tương lai – đều không được phép mơ hồ! Chiến dịch truyền thông trên Sina.com dụng ý gì? Trong một bài viết về chủ đề Trung Quốc, tôi đã chỉ ra rằng hiện nay Trung Quốc đã hoàn thành được “sợi dây xích trói chặt Việt Nam bốn bề: từ biên giới phía Bắc bọc qua Hoàng Sa - Trường Sa phía Đông, dọc theo sông Mê Kông từ Tây Tạng tới những nước đã bị khống chế như Lào, Cambốt phía Tây...”. Những khiêu khích mới đây cốt để biểu tỏ rằng giai đoạn tiếp theo đã có thể triển khai? Và cái đang được rêu rao (trên mạng Sina.com) là “phương án A” phải chăng là mũi dùi sẽ được sử dụng đầu tiên, hay còn có những mũi dùi khác, từ Trường Sa và Hoàng Sa, cùng một lúc sẽ đâm thẳng vào Việt Nam? Chiến thuật hư hư thật thật của Tôn Tử và Khổng Minh có thể lừa bịp được phương Tây, chứ người Việt Nam nào cũng biết tỏng như đi guốc vào bụng mấy anh Tàu rồi. Chẳng khó khăn gì để đoán biết được dụng tâm của bọn họ. Theo tôi, sự rêu rao phô bày “phương án A” có ít nhất hai dụng ý: Trước hết, uy hiếp tinh thần người dân và chính quyền Việt Nam, khiến Việt Nam phải duy trì một lực lượng vũ trang phòng bị thường xuyên túc trực dọc biên giới Việt - Trung, đồng thời khiến nhân dân Việt Nam luôn luôn lo sợ nguy cơ chiến tranh, không làm ăn buôn bán gì được. Tương kế tựu kế, khả năng hiện thực hoá “phương án A” không hề bị loại trừ. Sự động viên một binh lực ba trăm nghìn lính chẳng hề là việc khó đối với Trung Quốc, cho dù có phải hy sinh một trăm nghìn trong số đó. Vả lại, một trong những mục tiêu động binh là giết chóc, khủng bố và tàn phá rồi mau lẹ thoái binh trước khi quốc tế kịp phản ứng, nhiều khi chỉ sau 3 ngày chứ không cần tới 30-31 ngày. Đánh giới hạn và chớp nhoáng hay tiếp tục chiến tranh tâm lý bằng cách rêu rao một “phương án” A, B nào đó trên truyền thông còn thủ lợi ở chỗ – ngoài nhằm duy trì liên tục tinh thần bài Việt cho dân chúng Trung Quốc – tạo ra áp lực chính trị thuận lợi cho phe bảo thủ thân Trung Quốc ở Việt Nam củng cố địa vị, thậm chí có thể làm đảo chính cung đình để rảnh tay tiếp tục nhượng bộ Trung Quốc, bán rẻ Tổ quốc để cầu vinh. Thật ra, đối với người Trung Quốc, không có phương án nào được coi là thượng sách, phương án nào là hạ sách, vấn đề quan trọng đối với họ chỉ là thời cơ. Từ điểm nhìn này, họ có thể có những phương án khác, dễ có thời cơ và dễ thực hiện hơn, kiến hiệu hơn: Chỉ đánh chớp nhoáng một địa phương ở biên giới nhưng tàn phá tối đa và rút đi sau vài giờ, gọi là cho Việt Nam một bài học chớp nhoáng. Viện cớ tàu tuần tiễu hải quân Việt Nam đã uy hiếp, xúc phạm ngư dân Trung Quốc, hải quân Việt Nam đã xâm phạm tới lãnh hải của Trung Quốc, cho không quân, hải quân bắn tên lửa tàn phá một căn cứ hải quân nào đó của Việt Nam. Song, có lẽ, điều dễ xảy ra nhất và sẽ xảy ra với xác suất cao là lợi dụng một cơ hội nào đó để đánh chiếm nốt những đảo còn có quân đội Việt Nam đồn trú, như Trung Quốc đã từng thực hiện hồi năm 1974 hay 1988. Đây chắc chắn là phương án dễ thành công nhất, đồng thời còn đem đến một hệ luỵ lâu dài khác là tạo ra trong tâm lý quân và dân Việt Nam một nỗi uất ức và một mặc cảm bất lực. Tôi không thể loại ra khỏi tâm trí một dự cảm rằng mỗi quân nhân đang công tác trên các đảo còn lại của Trường Sa, hay mỗi ngư phủ Việt Nam mỗi ngày ra khơi đánh cá, sẽ là những Kinh Kha tiềm tàng. Họ sẽ là những anh hùng không tên tuổi vì chắc chắn là sẽ không bao giờ được nhắc đến tên tuổi, dù chỉ là một dòng, trên báo chí Việt Nam và thế giới. Đối sách khẩn cấp cần lấy: quốc tế hoá vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa Để tránh sự hy sinh vô ích của binh sỹ và nhân dân, ngăn không cho Trung Quốc tái diễn lại những kịch bản 1974 và 1988, cần phải mau mau đưa vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa ra Toà án Quốc tế, đòi Toà án chứng thực chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này. Ngay cả trong trường hợp Toà án Quốc tế chưa thể có những phán quyết mau chóng và thuận lợi cho Việt Nam, việc đưa vụ việc ra Toà án Quốc tế vẫn có một hiệu quả to lớn là thức tỉnh dư luận thế giới để nếu một khi Trung Quốc lựa chọn động binh, giải quyết vấn đề bằng vũ lực, thì dư luận thế giới cũng đã được chuẩn bị sẵn. Việc quốc tế hoá vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa nhất thiết phải có sự cộng tác của các luật gia Việt Nam ở hải ngoại cũng như của các đồng sự quốc tế của họ. Điều này, một lần nữa, lại đặt ra vấn đề phải thực thi hoà giải - hoà hợp dân tộc và dân chủ hoá đời sống chính trị - xã hội, đưa Việt Nam hoà nhập vào cộng đồng các quốc gia dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Liệu giới lãnh đạo Trung Quốc có đang suy tính dấn thêm một bước nữa trong việc bóp ngẹt Việt Nam hay chưa? Cần phải hiểu rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước sau vẫn có cái đầu óc của người Trung Quốc: bao giờ cũng tính toán lời lỗ tùy theo phản ứng thực tế của Việt Nam và quốc tế. Tuy nhiên, trên trường quốc tế, Trung Quốc chỉ thực sự đắn đo về phản ứng của Hoa Kỳ, về cả quân sự lẫn kinh tế. Trên mặt biển Thái Bình dương, Trung Quốc dư biết rằng mặc dù đã mất miền Nam Việt Nam sau năm 1975, sự có mặt của Mỹ ở Thái Bình dương vẫn không xuy xuyển, Mỹ vẫn duy trì được một vành đai ảnh hưởng bao quanh biển Đông, khả dĩ ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc về phía các quốc gia Thái Bình dương. Trung Quốc dù có tăng cường sức mạnh Hạm đội Nam Hải của mình tới đâu cũng không thể đột phá nổi vành đai đó, và họ cũng sẽ không dại gì đương đầu với Hạm đội 7. Như vậy, hành lang duy nhất để Trung Quốc khả dĩ tiếp cận các quốc gia trên bán đảo Trung - Ấn và toàn bộ khu vực Đông Nam Á vẫn chỉ là con đường trên đất liền, thông qua xâm nhập lần lần dưới hình thức hỗ trợ quân sự, đưa công binh làm đường, xây dựng cầu cống, v.v... Song, điều này chỉ có thể thực hiện được khi và chỉ khi Việt Nam vẫn phụ thuộc Trung Quốc về cả kinh tế lẫn chính trị như miền Bắc Việt Nam đã từng trước 1975. Một khi Việt Nam đã thoát khỏi sự chi phối chính trị và kinh tế của Trung Quốc, hơn nữa lại ngả sang hội nhập vào vành đai ảnh hưởng của Mỹ thì hành lang xuyên lục địa để tiến xuống Đông Nam Á đi qua Đông Dương thuộc Pháp cũ kể như đã tắc nghẽn. Để đối phó với những trở ngại nêu trên, Trung Quốc hoàn toàn có thể lựa chọn gia tăng sức mạnh của Hạm đội Nam Hải của họ, tạo nên sức ép quân sự suốt dọc 2000 cây số bờ biển Việt Nam để hậu thuẫn cho áp lực chính trị, đồng thời chờ thời cơ chiếm nốt những hòn đảo vẫn còn trong tay Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là một nguy cơ hoàn toàn hiện thực và một khi điều này xảy ra, cộng đồng quốc tế (ngoài Mỹ) khó lòng kịp thời hay có ý muốn can thiệp, trong điều kiện Việt Nam vẫn ở thế cách biệt chính trị với hạnh kiểm dân chủ và nhân quyền tồi như hiện nay. Một quốc sách cần được lấy sớm chừng nào tốt chừng ấy là Việt Nam phải thiết lập quan hệ hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ (giống như – chẳng hạn – Phi Luật Tân), trên cơ sở đó ràng buộc trách nhiệm của Hoa Kỳ đối với vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa. Tuy nhiên, mọi người Việt Nam có lương tri đều biết rõ rằng trở lực duy nhất cho một quan hệ hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ chỉ là thể chế chính trị. Một khi cải tổ chính trị ở Việt Nam chưa được khai thông, mọi lợi ích kinh tế (cho dù đó là tài nguyên chiến lược như dầu và khí) mà chính quyền Hà Nội đưa ra mời chào Mỹ đều không thể làm nghiêng hẳn cán cân lợi ích của Mỹ về phía Việt Nam: với Trung Quốc, Mỹ hiện đang có nhiều ràng buộc về về lợi ích (kinh tế, tài chính...) hơn nhiều so với Việt Nam. Trái lại, một khi Trung Quốc đã thôn tính hoàn toàn Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, họ sẽ ngẩng cao đầu mời thầu các công ty khai thác dầu khí của Hoa Kỳ và phương Tây như một đối tác đáng tin cậy, hơn nữa còn được hậu thuẫn bởi ưu thế quân sự tuyệt đối của họ lúc đó trên biển Đông. Thời gian vừa qua, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có một số thành tích ngoại giao quan trọng đáng được ghi nhận. Tôi sẽ không nhắc lại những sự kiện như sự gia nhập Tổ chức Doanh thương Thế giới (WTO), sự chủ trì Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình dương (APEC) hay sự đắc cử thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (UNSC), mà sẽ chỉ phân tích sơ lược tác hiệu của một số hoạt động ngoại giao gần đây trong công cuộc phòng thủ chống chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc. Theo tôi, việc Thủ tướng Dũng trở về từ chuyến công du Hoa Kỳ hồi tháng Sáu đem theo lời cam kết về sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam là một chuyển biến ngoại giao hệ trọng, song không hẳn đã thật đáng mừng: khái niệm “lãnh thổ Việt Nam” trong hiện trạng là một khái niệm mù mờ, bởi đối với thế giới bên ngoài, khái niệm này có thể bao gồm hoặc không hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Song, có lẽ chính sự cam kết này từ Hoa Kỳ đã tiếp dũng khí cho Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng, khi ông mạnh mẽ khẳng định chủ quyền của Việt Nam trong việc mời Công ty Exxon Mobil của Hoa Kỳ thăm dò và khai thác dầu ở ngoài khơi biển Đông, “Quyền của chúng ta thì chúng ta làm!” Sự đón tiếp Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ John Negroponte sang thăm công vụ trong những ngày này cũng đầy dụng ý. Kết quả của cuộc bầu cử tổng thống sắp tới đây ở Hoa Kỳ, dù McCain hay Obama thắng cử, cũng thuận lợi cho Việt Nam. Là cựu sĩ quan hải quân, con trai của cựu Tư lệnh Các lực lượng Mỹ ở Thái Bình dương, McCain được trông đợi sẽ không bao giờ để Trung Quốc lấn chiếm thêm phần các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa nằm trong vành đai bảo vệ Phi Luật Tân của Hạm đội 7 Mỹ. Chính sách ngoại giao của Việt Nam cần phải nhận thức và tranh thủ được nguyên tắc chiến lược này của Hoa Kỳ. Còn trong trường hợp Obama thắng cử, chính quyền Đảng Dân chủ sẽ không chỉ chú trọng đến lợi ích kinh tế như các chính quyền Đảng Cộng hoà để không hậu thuẫn cho Obama đòi Trung Quốc phải ngưng đàn áp người Tây Tạng, đàn áp người Hồi giáo Trung Quốc và nới rộng các quyền tự do dân chủ cho người dân. Trong việc sắp xếp nhân sự cho công tác phòng thủ đất nước, được biết rằng chiếc ghế Bộ trưởng Quốc phòng của tướng Phùng Quang Thanh đã chỉ xác định sau một hồi tranh đấu nội bộ đầy gay cấn. Những hệ quả tích cực của việc này đã được nhiều người thấy rõ: sự tăng cường các quan hệ hợp tác quân sự mật thiết hơn với các quốc gia lân bang, nhất là với Mã Lai Á (Malaysia) và Phi Luật Tân (Philippines), với sự ủng hộ ngầm của Hoa Kỳ, đang làm hình thành một “liên minh quân sự không tên” đối phó với chiến lược biển Đông của Trung Quốc. Sự loại bỏ cùng một lúc năm (5) tướng lĩnh trong Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô cũng nên được hiểu như một thành công quan trọng của Thủ tướng Dũng: hẳn là ông Dũng đã đi tới quyết định quyết liệt này sau những trăn trở về việc bảo vệ thủ đô Hà Nội trước nguy cơ xâm lăng của Trung Quốc. Mong sao là như vậy. Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển động tích cực nêu trên, việc đàn áp các nhà báo chống tham nhũng, sự xiết chặt kiểm soát Internet, sự áp chế Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, vụ trấn áp Giáo xứ Thái Hà lại là những vệt tối. Song cũng chưa thể khẳng định đó là mặt trái của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng hay là những đòn phản công của phe bảo thủ. Những ai để ý có thể thấy: mỗi lần Việt Nam xích lại gần hơn về phía Hoa Kỳ, thế nào cũng có những phản ứng tiêu cực nhắm vào truyền thông báo chí, Công giáo, Phật giáo và những người đòi hỏi dân chủ – những “vật tế thần” cho sự cân bằng phiếm định giữa hai phe bảo thủ và cải cách. Bối cảnh lịch sử 1946 đang lặp lại? Chiến dịch khiêu khích truyền thông của Trung Quốc đã khiến tôi nhớ lại những hành động khiêu khích, gây hấn của thực dân Pháp hồi cuối năm 1946. Ngày đó, khi quân đội Pháp vô cớ bắn phá Hải Phòng, lính lê-dương Pháp vô cớ bắn giết dân phố Hà Nội với mục đích khủng bố tinh thần, uy hiếp dân chúng Việt Nam, chúng đã không hề khiến nhân dân Việt Nam khiếp sợ mà còn giúp thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong dân tộc chúng ta. Chính cục diện tinh thần của người Việt do dã tâm của thực dân Pháp vô tình tạo ra đã trao cho Việt Minh cơ hội lôi kéo đông đảo người Việt Nam đứng vào dưới ngọn cờ kháng chiến của mình: họ dường như đã tranh thủ được mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có nhiều người thuộc những đảng phái chính trị đối lập theo chủ nghĩa quốc gia. Nguy cơ Trung Quốc gây hấn đang khơi động lại bầu không khí yêu nước mãnh liệt hồi năm 1946. Tuy nhiên, để động viên được tinh thần yêu nước đó và không làm nhân dân thất vọng khi phải hồi tưởng lại những sự lừa gạt, dối trá của Việt Minh ngày trước, chính quyền Nguyễn Tấn Dũng phải ngay lập tức và thực tâm thực thi chính sách hoà giải - hoà hợp dân tộc. Các quyền con người cơ bản, bắt đầu bằng quyền tự do ngôn luận, cũng là đòi hỏi đang bức thiết của mọi người dân Việt Nam mà chính quyền Nguyễn Tấn Dũng cần phải sớm thoả mãn để mong giành được sự ủng hộ của công luận quốc tế, và để mọi người Việt trong và ngoài nước từ đây chỉ một lòng chăm lo bảo vệ đất nước trước kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:38:56 GMT 9
Đàm Văn Vĩ Tương lai nào cho chủ nghĩa xã hội? Bài viết này là sự phản biện đối với đường lối, chủ trương hiện hành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục đích của bài viết là làm rõ các mối đe doạ đến sự tồn tại của Đảng và chế độ, đồng thời nêu những giải pháp có thể khắc phục những nguy cơ đó. Căn cứ lý luận của bài viết là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực tiễn Việt Nam cũng như tư tưởng của các nhà khoa học và cả thực tiễn trên thế giới. Trong bài viết này tôi có nêu tên một số cá nhân và có phê phán các quan điểm của các cá nhân đó, tuy nhiên tôi không có ý định công kích về mặt cá nhân. Tôi cũng rất sẵn sàng tham gia tranh luận khoa học về mặt lý luận và thực tiễn xung quanh các vấn đề mà bài viết này nêu ra.Sau hai mươi năm đổi mới đất nước chúng ta đã thu được những thành tựu rất lớn lao. Từ kết quả tăng trưởng kinh tế tới vấn đề xoá đói giảm nghèo, từ y tế cho đến giáo dục... chúng ta đều thu được những kết quả rất đáng khích lệ [1] . Được bạn bè cùng cộng đồng quốc tế ca ngợi. Tuy nhiên, đằng sau những thành công đó là những nguy cơ, những mối đe doạ ngày càng lớn hơn đối với sự tồn vong của chế độ. Như Đại hội X đã chỉ ra có bốn nguy cơ là: Tham nhũng. Tụt hậu xa hơn về kinh tế. Chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Diễn biến hoà bình. Về quan điểm cá nhân tôi cho rằng chúng ta đang phải đối mặt với ba mối đe doạ lớn: 1. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu: Yếu tố này làm suy yếu Đảng và Nhà nước, làm mất lòng tin của nhân dân (nhân dân không phân biệt được Đảng và Nhà nước mà nhân dân hiểu Đảng là Nhà nước). Trong khi đó, Lênin đã từng căn dặn: Lòng tin của nhân dân là điều thiêng liêng nhất đối với những người cộng sản. Mất lòng tin của nhân dân chúng ta sẽ đi đến đâu? 2. Kinh tế nhà nước yếu kém: Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội là kinh tế nhà nước nhưng kinh tế nhà nước lại yếu kém thu không đủ chi [2] . Lênin đã từng căn dặn: Xét cho đến cùng một chế độ xã hội này hơn một chế độ xã hội khác chính là năng suất lao động. Thế nhưng chúng ta làm còn đang thua lỗ thì nói gì đến năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Vậy đâu là cơ sở hạ tầng cho tương lai của chủ nghĩa xã hội? 3. Chệch hướng xã hội chủ nghĩa: cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân là tư sản hoá Đảng cộng sản Việt Nam: Vì hai mối đe doạ đầu tiên đã được nhiều người phân tích nên trong bài viết này tôi chỉ viết về mối đe doạ thứ ba. Mối đe doạ này đã được Giáo sư Nguyễn Đức Bình đề cập nhưng ít người quan tâm tới. Tuy nhiên đây mới chính là mũi tên phá huỷ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng ta sẽ bắt đầu với một vài cái tên liên quan đến trường phái Lựa chọn Công: Adam Smith, John Stuart Mill, Knut Wichsell, Gorden Tullock, William Niskanen và James Buchana. Trong đó James Buchana đã nhận giải Nobel về Kinh tế năm 1986 về lý thuyết Lựa chọn Công. Theo phái Lựa chọn Công: “Nếu các doanh nhân là những người tư lợi, tại sao không giả định rằng các quan chức chính phủ là “Doanh nhân chính trị”? Cái cao nhất họ muốn đạt được là gì? Là quyền lực và khả năng giành phiếu bầu của họ. Các nhà kinh tế đã bỏ ra 200 năm để phát triển mô hình hành vi của con người. Tại sao lại bỏ nó đi khi đối mặt với chính phủ?” [3] Bây giờ chúng ta sẽ xem họ phân tích về mối quan hệ giữa các “nhóm đặc lợi” và “người có quyền”. “Không ai có thể yên ổn khi Quốc hội đang họp - thậm chí ngay cả các đại biểu Quốc hội. Các nhà vận động hành lang săn đuổi họ và những phụ tá của họ, để tìm cách đạt được những ưu đãi, những điều khoản miễn thuế, trợ cấp hay bảo hộ” [4] . Và khi được hỏi tại sao họ không vì lợi ích chung của đất nước (mặc dù họ biết rằng họ làm như thế là có hại cho lợi ích chung của đất nước) thì họ trả lời: “Vì điều đó chẳng đem lại lợi lộc gì cả” [5] và họ làm vậy để đạt được những ưu đãi cho riêng họ thôi. Những cuộc vận động hành lang này sẽ là hàng chục nghìn USD được chi ra bởi các nhóm đặc lợi và chắc chắn nó sẽ chui và túi của những người có quyền. Chúng ta hãy xem họ mô tả về các công chức và viêc tư lợi của họ: “Theo Niskanen, những công chức hành chính cạnh tranh trong cuộc đua của những con chuột giống như một cuộc đua của giới doanh nhân. Công chức hành chính, giống như một doanh nhân, là một con chuột tư lợi, nhưng tính tư lợi của họ được thể hiện theo những cách khác nhau. Doanh nhân chiến đấu để tối đa hoá lợi nhuận. Tất nhiên, những công chức hành chính chính phủ không thể tối đa hoá lợi nhuận của họ, chỉ trừ khi (có lẽ) thông qua cách nhận hối lộ. Thay vào đó họ cố gắng tối đa hoá một hệ thống các biến số khác nhau: tiền lương, bổng lộc, quyền lực, danh tiếng, các cơ hội sau khi về hưu và những điều khác nữa” [6] . Sẽ có người bảo phái Lựa chọn Công còn nhiều hạn chế, còn nhiều tranh cãi và một số sẽ bảo những điều nói ở trên là của nền chính trị Mỹ chứ không phải là của Việt Nam. Phái Lựa chọn Công có thể còn nhiều tranh cãi về lý luận kinh tế vĩ mô của nó, nhưng tâm lý tư lợi - tư hữu là bản tính của mọi con người ở mọi quốc gia và mọi thời đại (chỉ trừ xã hội cộng sản nguyên thuỷ thì chẳng có gì để mà tư hữu). Tư hữu làm nảy sinh một mối quan hệ gắn bó rất chặt chẽ với nhau đó là Tiền và Quyền. “Nhiều Tiền hơn cũng co nghĩa là nhiều Quyền lực hơn” [7] và nhiều Quyền hơn cũng đồng nghĩa với nhiều Tiền hơn. Trong những cuộc vận động hành lang, các nhóm đặc lợi đã dùng Tiền để đem lại nhiều Quyền ưu đãi hơn và các nhóm đặc lợi dùng Quyền ưu đãi, bảo hộ đó để kiếm Tiền đút vào túi mình. Các đại biểu Quốc hội dùng Tiền từ những nhóm đặc lợi phục vụ cho việc tranh cử của mình sau đó dùng Quyền đó để kiếm bổng lộc từ các nhóm đặc lợi. Đó chính là vòng tròn của Tiền - Quyền. Chúng ta sẽ lấy một ví dụ cụ thể để hiểu rõ hơn về vấn đề này. “Uỷ ban Giáo dục Chính trị Nông nghiệp Toàn diện của Liên minh các nhà sản xuất sữa, một tổ chức đứng đầu trong danh sách những nhà tài trợ cho những chiến dịch vận động tranh cử vào Quốc hội” [8] . Tổ chức này bỏ ra 50,000 USD để vận động hành lang và thu lại 10 triệu USD cho Liên minh các nhà sản xuất sữa. Todd G. Buchholz viết: “Chính trị có thể là một lĩnh vực đầu tư tuyệt vời. Chẳng có gì lạ khi người sản xuất nhiệt tình trong việc trang hoàng những văn phòng tại Washington hơn là trang bị máy móc công cụ mới tại các nhà máy của họ. Cũng không có gì lạ khi họ thuê hàng loạt luật sư: khoản thu lợi sẽ khá hơn. Willie Sutton giải thích rằng hắn cướp ngân hàng vì “nơi đó có tiền”. Đối với nhiều tổ chức tiền lại nằm ở Washington.” [9] Chúng ta hãy nhìn vào các cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. Năm 2004, họ chi tới 693 triệu USD. Năm nay dự kiến khoảng 1 tỷ USD, thậm chí Fortune còn dự đoán lên đến 3 tỷ USD. Trong năm 2007, bà Hillary Clinton quyên góp được 115 triệu USD, còn ông B. Obama quyên góp được 103 triệu USD [10] . Các ứng cử viên vào những vị trí tại các cơ quan chính quyền ở Mỹ thường dựa vào 4 nguồn tài chính để tranh cử: các nguồn của cá nhân hoặc gia đình họ; cá nhân công dân trực tiếp quyên góp tiền; các đảng chính trị của họ; các nhóm lợi ích; ngoài ra còn có một nguồn nữa là các quỹ công. Ngoài số tiền ủng hộ công khai các nhóm lợi ích còn chi tiền trực tiếp nhiều hơn để tối đa hoá các ảnh hưởng của họ đến kết quả bầu cử, từ việc chi tiền tiếp xúc cử tri, thuyết phục cử tri thông qua hoạt động quảng cáo, thư tín... và bảo đảm rằng cử tri sẽ đi bỏ phiếu [11] . Muốn thắng cử để có Quyền thì phải có Tiền và khi có Quyền rồi thì phải phục vụ cho Quyền lợi của các nhóm lợi ích và qua đó cũng để thu bổng lộc - Tiền cho chính bản thân những người thắng cử. Tiếp theo chúng ta sẽ đến với tập đoàn Samsung của Hàn Quốc. Chủ tịch của tập đoàn là ông Lee Kun-hee đã phải từ chức vì lập quỹ đen và hối lộ. Tập đoàn này đã chi cho Đảng đại dân tộc GNP gần 30 triệu USD trong khi pháp luật quy định chỉ được ủng hộ tối đa là 200,000 USD cho một đảng phái chính trị. Đặc biệt cũng theo bài viết này, GNP đã nhận tổng cộng 67.2 tỷ won từ bốn tập đoàn khổng lồ là Samsung, LG, Huyndai, SK [12] . Đó là lý do tại sao các chính phủ lại phục vụ cho các nhóm tài chính, còn các nhóm tài chính lại tận tâm đến thế trong các cuộc tranh cử Tổng thống. Gần đây nhất là vụ việc của Thủ tướng Israel ông Olmert [13] . Khi đọc Toàn cầu hoá và những mặt trái do Giáo sư Joseph Stiglitz, người nhận giải thưởng Nobel kinh tế năm 2001, chúng ta sẽ thấy mối quan hệ Tiền và Quyền trong các tổ chức, cụ thể ở đây là mối quan hệ giữa các nhóm tài chính - các nhà tư bản với IMF và WB. Stiglitz viết: “Thật không may, dù không mấy ngạc nhiên, trong thời gian tôi ở Nhà Trắng với tư cách là Chủ tịch của Hội đồng cố vấn kinh tế (một hội đồng ba chuyên gia do Tổng thống cử ra để cố vấn về kinh tế cho Chính phủ Mỹ) và thời gian ở Ngân hàng Thế giới, tôi đã thấy các quyết định được đưa ra trên cơ sở chính trị và hệ tư tưởng. Kết quả là nhiều quyết định sai lầm đã được thực hiện, những quyết định không giải quyết được vấn đề đang gặp phải nhưng phù hợp với lợi ích hay niềm tin của những người có quyền lực” [14] . Cơ sở chính trị của Mỹ đó là phục vụ cho các nhóm tài chính, còn hệ tư tưởng ở đây là hệ tư tưởng của chủ nghĩa tự do mới - một hệ tư tưởng phục vụ cho giai cấp tư sản, bất chấp những hậu quả khôn lường nó đưa đến cho những nước kém phát triển và những người lao động ở các nước đó. Ông chỉ cho chúng ta thấy mối quan hệ giữa Tiền và Quyền trong các tổ chức Quốc tế cũng như trong Chính phủ, giữa những người có Tiền là các nhà tư bản và những người có Quyền là các quan chức của các tổ chức: “Các Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương thì lại gắn bó chặt chẽ với cộng đồng tài chính. Họ thường xuất thân từ các công ty tài chính và sau khi kết thúc nhiệm kỳ trong Chính phủ, đó là nơi họ trở về. Robert Rubin, Bộ trưởng Tài chính Mỹ trong phần lớn khoảng thời gian được đề cập trong cuốn sách này xuất thân từ một ngân hàng đầu tư lớn nhất, Goldman Sachs, và sau khi rời chức vụ lại chuyển sang Citigroup, hãng sở hữu ngân hàng thương mại lớn nhât Citibank. Nhân vật quyền lực thứ hai tại IMF trong thời kỳ này là Stanley Fischer đã chuyển thẳng đến Citigoup sau khi nghỉ việc. Những cá nhân này đương nhiên sẽ nhìn nhận thế giới bằng con mắt của cộng đồng tài chính. Những quyết định của bất kỳ tổ chức nào cũng phản ánh quan điểm và lợi ích của những người ra quyết định; không ngạc nhiên gì, như chúng ta sẽ thấy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần ở chương sau, chính sách của các tổ chức quốc tế thường xuyên đi liền với lợi ích thương mại và tài chính của những người ở quốc giá công nghiệp tiên tiến.” [15] Như vậy nếu đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân thì Đảng sẽ gồm những nhà tư bản và lúc này mọi hành động của Đảng sẽ phục vụ cho quyền lợi của giai cấp tư sản - giai cấp bóc lột. Ông cho hay: “Nhiều năm trước đây một nhận xét của chủ tịch General Motor và Bộ trưởng Quốc phòng Charles E. Wilson: “Cái gì tốt cho General Motor thì tốt cho đất nước (Mỹ)” nổi tiếng đến nỗi sau đó trở thành biểu trưng cho quan điểm của chủ nghĩa tư bản Mỹ. IMF dường như có quan điểm tương tự - “những gì cộng đồng tài chính cho là tốt cho nền kinh tế toàn cầu thì tốt cho nền kinh tế toàn cầu và nên làm.” [16] Những hệ luỵ mà IMF gây ra cho những nước nghèo và người dân lao động ở các nước đó do những chính sách phục vụ cộng đồng tài chính của nó thì tôi không phân tích thêm nữa vì cuốn sách của Stiglitz đã chỉ ra rất rõ và tôi chỉ muốn nhấn mạnh tới mối quan hệ giữa Tiền và Quyền; và các tổ chức sẽ bị chi phối như thế nào nếu chịu sự ràng buộc của mối quan hệ này cũng như những hệ luỵ do mối quan hệ gây ra. Đó là những ví dụ rõ ràng trên thế giới về mối quan hệ giữa Tiền và Quyền. Bây giờ chúng ta sẽ trở lại với tình hình ở Việt Nam. Và có thể sẽ có người cho rằng: đó là các nước tư bản chủ nghĩa còn chúng ta là nước xã hội chủ nghĩa nên chúng ta không giống họ. Vâng, chế độ xã hội của chúng ta khác chế độ xã hội của họ, nhưng những điểm chung về con người thì chúng ta lại không khác họ. Họ là con người có tính tư hữu và chúng ta cũng là những người có tính tư hữu. Nếu ai bảo rằng đảng viên có đạo đức cách mạng, không tư lợi thì chắc chắn hệ thống xã hội chủ nghĩa sẽ không sụp đổ cay đắng như vậy vào cuối thế kỷ trước, rằng kinh tế nhà nước sẽ không trì trệ như hiện nay, rằng tham nhũng sẽ không có mặt ở Việt Nam. Nhưng chúng ta đã thấy hệ thống xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, kinh tế nhà nước thì trì trệ, và tham nhũng đã trở thành mối đe doạ tới sự tồn vong của Đảng và chế độ. Vậy đảng viên cũng như con người nói chung có tính tư hữu - tư hữu là bản tính của con người. Chúng ta hãy đến với một vài câu chuyện được phơi bày trên báo chí gần đây. Bắt đầu là việc nhận 100 triệu VND của Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau, ông Võ Thanh Bình. Một người nào đó dùng Tiền để mua Quyền chạy chức, còn người có Quyền như Bí thư Tỉnh thì có thể kiếm Tiền từ cái Quyền phân bổ, sắp xếp cán bộ của mình. Nếu ông Bí thư Tỉnh không nói ra thì ai biết đâu nó là hiện thực mặc dù dư luận khắp nơi đều nói về việc chạy chức chạy quyền. Theo lời một Tỉnh uỷ viên kể lại ông Võ Thanh Bình còn nói: “Nếu trong hai tuần qua (hai tuần trước khi họp Ban thường vụ Tỉnh uỷ để sắp xếp cán bộ), tôi nhận tiền chạy chức quyền thì có hơn một tỷ đồng”. Vậy là hiện tượng chạy chức chạy quyền là nhiều chứ không phải là cá biệt [17] . Chúng ta hãy thử làm một bài toán kinh tế để thấy được hiện thực sau chuyện này. Nếu ông A đem 100 triệu đi chạy chức, một chức vụ ở huyện hoặc ở tỉnh, thì mức lương ông ta được hưởng là khoảng 4 triệu đồng (hơi cao). Chi tiêu cho bạn bè, cá nhân, gia đình tính ra mỗi tháng ông để được khoảng gần 2 triệu. Sau 5 năm thì ông ta lấy lại được 100 triệu, đồng nghĩa với 5 năm làm việc mà không để được một đồng nào ngoài 100 triệu đi chạy chức ban đầu. Bây giờ giả sử ông ta không chạy chức nữa mà gửi tiền vào ngân hàng, tính chi ly ông cũng được gần 20 triệu trên năm và sau 5 năm ông sẽ có 100 triệu lãi cộng với 100 triệu gốc là thành 200 triệu và lưu ý rằng thời gian đó ông vẫn có thể làm việc khác để kiếm thêm. Một bên không để thêm được đồng nào sau 5 năm và một bên có thêm 100 triệu hoặc hơn nếu ông làm thêm việc khác. Bạn chọn cách nào? Tôi thì tôi chọn cách có thêm 100 triệu sau 5 năm. Thế nhưng những người chạy chức lại chọn cách sau 5 năm không để thêm được đồng nào.Tôi nghĩ chắc họ thành Đức phật cả rồi vì họ chỉ nghĩ đến việc cống hiến cho đất nước và cho nhân dân thôi chứ không hề tư lợi cho mình! Nhưng cũng không ổn lắm, ngày xưa tôi được học thì phật chỉ xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích thôi chứ không có trong đời thực, mà có chăng đi nữa thì cũng lấy đâu ra lắm phật thế! Họ không phải phật, họ cũng chẳng mất trí, vậy thì tại sao họ lại làm những việc ngược đời như vậy? Những gì còn ẩn lấp sau chuyện này tôi để cho mọi người tự trả lời, với tôi chỉ hai chữ Tiền và Quyền cùng tính tư hữu của con người là đủ. Câu chuyện thứ nhất là mối quan hệ giữa Tiền và Quyền của những cán bộ, rất có thể đều là đảng viên cả. Câu chuyện thứ hai là mối quan hệ giữa doanh nhân và đảng viên - ông Trần Công Lộc, Viện trưởng viện kiểm soát nhân dân tỉnh Cà Mau. Ông ta đã chiếm 31,1 ha rừng cho người nhà sử dụng, ông lợi dụng chức vụ và Quyền hạn để mua bán bất động sản nhằm mục đích trục lợi cá nhân, ông cũng không chấp hành nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của Nhà nước. Ông đã bao che cho Nguyễn Tín Ngưỡng là phó giám đốc công ty Camimex. Tại sao ông lại bao che, tại sao ông lại có tài sản lớn và không chấp hành quy định của Đảng về việc kê khải tài sản? [18] Các vụ tiếp theo chúng ta có thể nêu ra như PMU 18 của Bùi Tiến Dũng. Rồi vụ việc Chủ tịch tỉnh Cao Bằng ông Lô Ích Giang đã nhận được quà biếu của các doanh nghiệp hơn 1 tỷ đồng. Ông công khai hơn 1 tỷ còn có thể có những khoản ông không công khai thì sao? Tại sao các doanh nghiệp lại phải qua ông mà không thông qua Hội Chữ thập đỏ, thông qua Mặt trận Tổ quốc, hay thông qua các phương tiện truyền thông để vừa có thể làm từ thiện lại vừa có thể nâng cao được thương hiệu, tên tuổi của công ty? [19] Tất cả những câu chuyện trên là những chuyện có thật mà tất cả chúng ta có thể kiểm chứng. Nó không còn là những câu chuyện đồn thổi ở bên vỉa hè nữa. Tôi không muốn nói đến vấn đề pháp luật hay xét xử như thế nào mà tôi chỉ muốn khẳng định rằng mối quan hệ Tiền và Quyền ở Việt Nam có tồn tại và đảng viên cũng không phải là ngoại lệ. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân không hạn chế hay là kinh tế tư bản tư nhân. Một quyết định mà theo tôi là một sai lầm nghiêm trọng, quyết định này sẽ biến Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thành đảng của giai cấp tư sản. Đó là tư sản hoá Đảng Cộng sản và đưa đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi đảng viên được làm kinh tế tư bản tư nhân thì trong Đảng sẽ có những ông chủ - những nhà tư bản. Trong thời gian trước mắt thì sẽ không có gì đáng phải lưu tâm cả vì tỉ lệ đảng viên là nhà tư bản còn ít, chưa nắm được vị trí và quyền lực trong Đảng. Thế nhưng chỉ một vài năm nữa thôi khi vừa là đảng viên lại vừa có Tiền thì họ sẽ tìm cách mở rộng Quyền lực của mình - điều này là rất đơn giản vì ai cũng có lòng tham, cũng tư lợi và mối quan hệ Tiền - Quyền này sẽ nảy nở. Những đảng viên không làm kinh tế tư bản tư nhân sẽ khó mà giữ được Quyền lực trong Đảng nếu không chịu liên kết với những người có Tiền. Tiếp đến, nếu đảng viên được làm kinh tế tư bản tư nhân thì những doanh nhân cũng có thể được vào Đảng chứ! Vì họ đâu có làm gì trái pháp luật đâu, họ lại cũng có đạo đức cách mạng đấy chứ vì họ làm giàu cho đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Còn về lý tưởng cách mạng ư, chỉ cần vài ba quyển sách với một hai tháng là đủ kiến thức về chủ nghĩa xã hội rồi và thực ra cũng chẳng có ai có đủ tư cách đứng ra để đánh giá họ cả. Như vậy chúng ta sẽ có hai bộ phận trong Đảng: một bên là những người không làm kinh tế tư bản tư nhân - những người vô sản, còn bên kia là những người làm kinh tế tư bản tư nhân - những nhà tư bản. Thực ra nếu mỗi người chúng ta trên trái đất này đều có đạo đức, có tình thương, có ý thức công bằng, bình đẳng, không tư lợi như Đức phật thì chắc chẳng có chuyện gì đâu, ai làm lãnh đạo cũng được vì tất cả mọi người đều tốt như nhau cả mà! Thế nhưng cuộc đời đâu có thế, con người đều có tính tư lợi cả và họ phải tìm cách làm lợi cho họ đã. Vì vậy có hai kịch bản có thể xảy ra với Đảng Cộng sản Việt Nam. Kịch bản thứ nhất: Bên không làm kinh tế tư bản tư nhân sẽ hết lòng vì người lao động (cá nhân tôi không tin điều này vì nếu có thế thất thì đã không có tham nhũng đến mức nguy hiểm như hiện nay và họ cũng chẳng đồng ý cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân tại Đại hội X) thì sẽ có sự tranh giành quyền lực do lợi ích giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản luôn mâu thuẫn với nhau. Sẽ có những cuộc đấu đá giằng co quyền lực trong Đảng. Đội ngũ lãnh đạo tranh giành quyền lực thì ai bị thiệt? Câu trả lời là chẳng ai trong họ thiệt cả mà nhân dân lao động và những người nghèo là khổ nhất khi xảy ra khủng hoảng chính trị. Quân đội và Công an không phải là những lực lượng trung lập, họ phải bảo vệ Đảng. Nhưng lúc này họ bảo vệ cho bên nào đây? Họ sẽ bảo vệ cho giai cấp tư sản, bởi vì họ có tiền. Ở Việt Nam chỉ cần qua một vài bữa nhậu với một ít “quà biếu” là thành thân quen. Giai cấp tư sản làm ra tiền và họ rất giỏi trong những chuyện như thế này nên chắc chắn họ sẽ có Quân đội và Công an trong tay. Kết quả giai cấp tư sản thắng. Kịch bản thứ hai: Bằng tiền của mình giai cấp tư sản sẽ lôi kéo được đa số đảng viên đứng về phía mình hoặc lúc này đa số đảng viên trong nhóm lãnh đạo đều đã làm kinh tế tư bản tư nhân hay đã là nhà tư bản thì: giai cấp tư sản sẽ thắng. Như vậy dù thế nào đi chăng nữa giai cấp tư sản cũng nắm quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu là bạn thì bạn sẽ làm gì? Nếu tôi là nhà tư bản thì tôi sẽ tuyên bố chế độ xã hội chủ nghĩa là không tưởng, chủ nghĩa Mác-Lênin là sai lầm và chúng ta không còn con đường nào khác là con đường kinh tế thị trường của tư bản chủ nghĩa để đưa đất nước đến phồn vinh, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và mọi người đều được tự do. Đến lúc này thì chẳng ai tranh cãi được với họ nữa, hơn nữa với quyền lực đang nắm trong tay thì đời nào giai cấp tư sản bỏ ra dễ dang như chúng ta đã dâng lên cho họ đâu. Họ sẽ tuyên bố đa nguyên, đa đảng để tự do lựa chọn, đổi tên Đảng thành Đảng dân chủ tự do, hay Đảng Việt Nam thống nhất, hay như Đảng Dân tộc Việt Nam hay Đảng Lao động Việt Nam... Thay vì các cuộc “cách mạng nhung” hay “cách mạng màu sắc” chúng ta sẽ gọi cuộc cách mạng này là “cách mạng của Đức phật” vì đa số đảng viên cộng sản đều tin vào những gì tốt đẹp khi tư sản hoá đảng của mình! Trong quá trình có nhà tư bản trong Đảng, thì Đảng sẽ không còn niềm tin của người lao động nữa vì Đảng cũng tham gia vào bóc lột giá trị thặng dư (đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân là bóc lột, tôi khẳng định điều này và sẵn sàng tham gia tranh luận với bất kỳ ai về điều này). Quá trình này ngoài việc gây rối loạn chính sách, còn tạo điều kiện cho việc móc ngoặc giữa người có Tiền và người có Quyền trong một tổ chức, nó đẩy tham nhũng, lãng phí, quan liêu đến những nấc thang mới cao hơn. Khi làm kinh tế tư bản tư nhân thì đảng viên sẽ sao nhãng nhiệm vụ chính trị của mình, bởi vì một lẽ rất đơn giản: khi lao vào làm kinh tế tư nhân mỗi doanh nhân đều dồn hết của cải và trí tuệ vào việc sản xuất kinh doanh, họ phải tìm mọi cách có thể để tìm kiếm lợi nhuận nếu không họ sẽ chết. Làm tất cả những gì có thể vì lợi nhuận (chân lý này thì chắc ai cũng hiểu) nên chuyện móc nối, hối lộ, chạy chọt là chuyện bình thường, giống như Karl Marx đã viết: nếu lợi nhuận là 300% thì họ vẫn sẵn sàng làm cho dù có giá treo cổ lơ lửng trên đầu (buôn ma tuý là một ví dụ).
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:41:01 GMT 9
Có nhiều ý kiến ủng hộ cho đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân. Sau đây là một vài ý kiến mà tôi sẽ đưa ra để phân tích và phê phán.
Ý kiến thứ nhất: Đây là công cuộc đổi mới lần thứ II (họ đang so sánh với đổi mới lần thứ nhất năm 1986) [20] . Người ta so sánh như thế để khẳng định tính đúng đắn và tiến bộ của việc cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân. Thật buồn cười cho những người thích khoe khoang nhưng lại thiếu hiểu biết về bản chất của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Chúng ta sẽ so sánh hai sự việc để thấy được cái đúng, cái sai.
Đổi mới năm 1986 có mầm mống từ “khoán 100” rồi “khoán 10”. Đó là việc Đảng cho phép phát triển sở hữu cá nhân, cho phép tư nhân làm kinh tế và xoá bỏ bớt những yếu kém và bất cập của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Nó phát huy động lực cá nhân và giúp tháo gỡ những khó khăn lúc bấy giờ. Việc đổi mới xuất hiện trong nhân dân, xuất hiện từ thực tiễn, từ bên dưới và bên trên hoàn tất về mặt lý luận và chính sách. Không phải chúng ta muốn hay thích mà do chúng ta buộc phải phải làm nếu không muốn rơi vào tình trạng hỗn loạn và sụp đổ. Trong công cuộc đổi mới này chúng ta không làm trái nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta vẫn giữ được cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội: đó là vẫn lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo và tìm cách phát triển chúng. Như vậy chúng ta đúng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Thế còn “đổi mới II” tại đại hội X thì sao? Câu trả lời dứt khoát là: nó sai cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp công nhân, đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Quyền lợi của nhân dân lao động mà phù hợp với lợi ích của dân tộc thì nó đại diện cho dân tộc. Tôi muốn nhắc lại rằng trên thế giới này không có đảng của dân tộc, không có nhà nước của nhân dân một cách chung chung. Đảng là của một giai cấp nhất định và nhà nước là công cụ của giai cấp đó. Chân lý này đã tồn tại, đang tồn tại và sẽ còn tồn tại trên thế giới và cả ở Việt Nam. Chúng ta có thể lý luận Đảng là đại diện cho dân tộc và Nhà nước là của nhân dân để giảm bớt đi mâu thuẫn và cân bằng lợi ích của các tầng lớp nhân dân, nhưng chúng ta không được phép quên đi chân lý trên. Thực tế những đảng phái trên thế giới đều chỉ rõ cho chúng ta điều đó, những phân tích ở phần đầu của các nhà kinh tế học tại Mỹ cũng đập vào mắt chúng ta những điều đó. Khi cho đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân là chúng ta cho giai cấp tư sản vào Đảng, và tư sản hoá đảng của mình. Chúng ta đã sai về mặt lý luận. Còn nếu ai bảo rằng lý luận này là sai, thì tôi tin rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đang trên đường biến mình thành Đức phật sống giữa cuộc sống trần tục của nhân loại. Về thực tiễn, chúng ta cũng không bắt buộc phải làm điều này, chúng ta không thấy được điều gì tiến bộ và tốt đẹp cho người lao động khi làm như vậy. Và lượng đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân cũng chưa nhiều đến mức phải bức xúc, cũng như cách giải quyết vấn đề này không phải chỉ có cách đó là duy nhất.
Ý kiến thứ hai: Cho đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân là góp phần phát triển kinh tế đất nước, “xoá đói giảm nghèo”, góp phần xây dựng “xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” góp phần phát huy nội lực làm cho “dân giàu nước mạnh” [21] . Nghe những câu này tôi cảm thấy họ vui và yên tâm về đường lối đổi mới của Đảng. Nhưng đôi khi trong cuôc sống chúng ta vẫn thấy những con cá đẹp có màu sắc sặc sỡ lại thường chứa trong mình thứ lọc độc nguy hiểm cho những con cá khác! Với tôi đó chỉ là những lời nguỵ biện của những tri thức thiếu hiểu biết về Đảng và về chế độ. Chúng ta đã, đang và sẽ phát triển nền kinh tế đất nước, để “xoá đói giảm nghèo”, để xây dựng một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”, một xã hội mà trong đó “dân giàu nước mạnh”, chúng ta đã làm những điều này mà không cần những kẻ võ mép nói với chúng ta điều này. Chúng ta đang tạo điều kiện cho cả kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể cùng phát triển. Về mặt đường lối, chúng ta không cản trở bất cứ một tổ chức cá nhân nào có đủ điều kiện của pháp luật tham gia vào sản xuất kinh doanh cả. Chúng ta đã khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân từ cá thể tới hộ gia đình. Chúng ta đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài vào và bắt tay với họ để cùng phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta đã phát huy được nội lực của mình cùng với việc kết hợp với các điều kiện thuận lợi trên thế giới để đạt được những thành quả rất lớn sau 20 năm đổi mới. Ai đó có thể nói: cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân sẽ góp phần giúp đất nước phát triển, góp phần xoá đói giảm nghèo. Tôi đồng ý có thêm doanh nghiệp thì sẽ góp phần giúp đất nước phát triển. Nhưng cho đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân thì chẳng được cái gì cả mà những tác hại đã phân tích là vô cùng lớn. Hơn nữa chúng ta vẫn có cách để những đảng viên thích làm kinh tế tư bản tư nhân có được cơ hội lựa chọn của mình: đó là ra khỏi Đảng và làm kinh tế tư nhân. Đảng là tổ chức chính trị, lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội chứ không phải là tổ chức tài chính cho những tên tư bản, không phải là cái vỏ bọc để chúng kiếm tiền. Ở trong Đảng ông ta bị gò bó sao ông ta lại không xin ra ngoài làm kinh tế, ông ta ở lại thì tự “trói chân trói tay” mình, phải chăng ông ở lại còn mục đích gì khác? Cho họ ra khỏi Đảng thì Đảng chẳng mất gì vì khi ra khỏi Đảng nếu có tâm với Đảng thì họ vẫn đóng góp được ý kiến để xây dựng Đảng, xây dựng đất nước, còn đất nước sẽ có thêm doanh nhân mới, rõ ràng là “một công đôi việc”. Nếu ai có khả năng và muốn kinh doanh thì xin ra khỏi Đảng. Còn những đảng viên có đạo đức và có lý tưởng xã hội chủ nghĩa thì sẽ phải suy nghĩ để giải quyết các vấn đề nhức nhối trong nhân dân và những vấn đề sống còn của chế độ. Đó là làm sao để phát triển được kinh tế nhà nước - cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội; xây dựng Đảng vững mạnh, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu... hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật... giúp Đảng và Nhà nước giải quyết các vấn đề lớn mà nền kinh tế đang gặp phải như vấn đề lạm phát và nhập siêu...làm sao để phát triển được khoa học công nghệ, phát triển hệ thống giáo dục để nó đáp ứng được nhu cầu của đất nước trong thời kỳ mới... Với mỗi đảng viên là tìm ra cách để xây dựng chi bộ Đảng trong sạch vững mạnh, làm sao tháo gỡ được những vướng mắc trong phát triển kinh tế ở địa phương, hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan mình, giảm bớt khó khăn phiền hà và nâng cao đời sống cho nhân dân... Tại sao chúng ta lại để xảy ra những vụ việc như ở Thái Bình, Tây Nguyên, Hà Tây... rồi Bắc Giang mới đây? Những đảng viên có lỗi khi để xảy ra những vụ việc đó. Đảng ta chưa làm tốt những công việc cụ thể của mình, cũng như một núi công việc khổng lồ, khó khăn ở trên đang chờ chúng ta giải quyết, thế mà Đảng lại đồng ý cho đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân để kiếm lợi cho bản thân mình (đúng là cười ra nước mắt).
Còn một vài ý kiến đồng ý nữa được viết ra bởi những tiến sĩ nghe khá vào tai và cảm động nhưng xét về thực chất nó chỉ là những lời nguỵ biện, cảm tính và quy kết. Tiến sĩ Trần Đăng Tuấn phó tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam viết: “Cho đến thời điểm này, nếu Đảng không cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân (bao gồm tư bản tư nhân) thì sẽ tự mâu thuẫn với một loạt những chủ trương, những phát ngôn công khai của Đảng thời gian qua, và với tình huống hiện thực bây giờ. Đảng kêu gọi tất cả mọi người dồn tài trí, khả năng để làm giàu cho bản thân, làm giàu cho đất nước, cam kết đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tôn vinh lao động của doanh nhân chân chính”. Xin hỏi Tiến sĩ, đó là chủ trương nào, phát ngôn nào và tình huống thực tế bây giờ là tình huống nào? Nếu là chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và tôn vinh những doanh nhân tốt thì đúng là có gì sai đâu và cũng có gì mâu thuẫn đâu, Đảng mong muốn nhân dân làm những điều đó. Còn việc đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân thì Đảng đã bao giờ công khai cho làm đâu, và tình hình thực tế có một số bộ phận rất nhỏ đảng viên làm kinh tế tư nhân có hạn chế quy mô là việc làm tự phát hoặc thử nghiệm của Đảng. Tiến sĩ tính đến chuyện cấm Đảng thử hay sao, hay Tiến sĩ cho rằng Đảng thử thì bắt buộc Đảng phải làm, hay cứ xuất hiện một bộ phận nhỏ đảng viên làm kinh tế tư nhân thì nhất thiết Đảng phải cho đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân?
Tiến sĩ viết:
“Ngay trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam - nơi tôi làm việc - vài năm gần đây xuất hiện những chương trình nhằm khơi gợi khát vọng, khuyến khích mọi người mạnh dạn bước vào con đường lập doanh nghiệp (“Khởi nghiệp”, “Làm giàu không khó”...) Vậy nếu Đảng khuyến khích người ngoài Đảng mà riêng đảng viên thì không cho phép làm, người ta có quyền hiểu rằng các chủ trương trên chỉ là các giải pháp tình thế, để giải quyết các khó khăn hiện tại, còn thực chất, Đảng vẫn coi người làm kinh tế tư bản tư nhân là làm một việc gì đó ‘không sạch sẽ’ mà đảng viên không được nhúng tay vào. Người ta cũng có quyền nghĩ rằng trong lúc hô hào động viên như vậy, Đảng để ngỏ một khả năng đến lúc nào đó sẽ lại ‘công hữu hoá’, kết thúc một chu kỳ ‘vỗ béo để làm thịt’! Điều quan trọng không phải là chu kỳ ấy dài bao nhiêu và nó có thực tế hay không. Điều quan trọng là cách nhìn nhận”.
Tôi không biết Tiến sĩ có là đảng viên hay không, nếu Tiến sĩ là đảng viên thì thực sự đáng buồn vì Tiến sĩ không hiểu gì về Đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin. Ai bảo Tiến sĩ rằng đó là giải pháp tình thế? Chúng ta đã đi qua 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân là để phát triển kinh tế đất nước làm giàu cho nhân dân, đó là một chủ trương đúng đắn phù hợp với thực tiễn và cũng đúng cả về mặt lý luận. Chúng tôi không bỏ tất cả để cho bọn tư bản muốn làm gì thì làm, chúng tôi phải giữ kinh tế nhà nước để làm cơ sở tồn tại cho chế độ của mình. Chúng tôi chấp nhận để cả hai cùng phát triển, điều này đã được pháp luật công nhận và trong tương lai cũng chẳng có gì thay đổi cả. Chúng tôi, những người cộng sản có mất trí đâu mà “quốc hữu hoá toàn bộ” để quay lại với thời kỳ “chia chung sự ngheo khổ”, chúng tôi là đảng của người lao động và không bao giờ có chuyện quay lại với nỗi khổ của người lao động. Còn Tiến sĩ bảo người làm kinh tế tư bản tư nhân là một việc gì đó “không sạch sẽ” thì đó là do Tiến sĩ nghĩ ra chứ lãnh đạo của Đảng có bao giờ chỉ vào mặt doanh nhân mà nói rằng ông ta là “đồ bẩn thỉu” đâu? Còn về mặt lý luận, những người cộng sản chúng tôi khẳng định một cách công khai rằng làm kinh tế tư bản tư nhân là nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư của người làm thuê, và nếu cần tôi sẵn sàng tranh luận công khai cùng Tiến sĩ về vấn đề này. Tiến sĩ bảo rằng: “Điều quan trọng là cách nhìn nhận”, vâng, chúng tôi tuyên bố thẳng là các nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư của người công nhân chúng tôi. Nhưng tại sao biết là mình bóc lột rồi mà sao các nhà tư bản vẫn cứ làm? Thế xin hỏi lại Tiến sĩ thế các nhà tư bản có quan tâm đến cách nhìn nhận của những người lao động chúng tôi không và bản thân Tiến sĩ có bao giờ quan tâm đến cách nhìn nhận của những người lao động chúng tôi không? Những nhà tư bản biết là sai nhưng vì miếng cơm manh áo, vì tính tư hữu và vì lòng tham vô đáy mà giai cấp tư sản vẫn cứ làm mặc cho chúng tôi luôn luôn kêu gào về công bằng, về bình đẳng. Họ không quan tâm đến cách nhìn nhận của chúng tôi và sẵn sàng bỏ qua tất cả để đến với lợi nhuận, còn chúng tôi cũng thế thôi. Chúng tôi phải vì lợi ích của giai cấp mình chúng tôi sẵn sàng làm tất cả để giữ vững quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân. Vậy Tiến sĩ định trách cứ ai đây? Đã hơn 100 năm qua, lý luận về giá trị thặng dư của Karl Marx đã không một nhà tư bản nào có thể bác bỏ một cách thuyết phục, để có thể lấp liếm đi việc bóc lột của mình và những người cộng sản ngày nay vẫn sẵn sàng tranh luận với Tiến sĩ và những ai phản đối lý luận đó đó nếu Tiến sĩ thấy mình có đủ khả năng để tranh luận.
Tiếp đó Tiến sĩ Trần Quang Tuấn viết: “Như vậy nếu là đảng viên, chỉ có thể hoặc là công nhân, nông dân, hoặc làm công chức. Hoá ra là: Người đảng viên làm công cho chủ thì xứng đáng là đảng viên, còn nếu đã là chủ thì dứt khoát không thể xứng đáng? Điều này cũng có nghĩa là đảng viên phải nghèo hơn các thành phần khác, có nghèo hơn thì mới còn lập trường đảng viên? Cái này đã có gì như một thứ chủ nghĩa khắc kỷ với hơi hướng tôn giáo”. Đúng là công nhân, nông dân và trí thức thì có quyền vào Đảng. Đảng của chúng tôi không chấp nhận những tên tư bản - những kẻ bóc lột vào hàng ngũ của mình. Tiến sĩ không hiểu biết gì về kinh tế chính trị cả nên mới nói đến chuyện xứng đáng hay không xứng đáng. Đảng cộng sản là đảng của giai cấp vô sản, chúng tôi có mất trí đâu mà cho những tên bóc lột chúng tôi vào hàng ngũ lãnh đạo chúng tôi. Còn Tiến sĩ có nhắc đến từ “nghèo hơn”, vâng tôi chưa vào Đảng, nhưng tôi vẫn sẵn sàng vào Đảng và sống với những gì mình có, mình làm ra mà không bóc lột của người khác và để thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam có ép buộc ai vào Đảng đâu và ai thích làm giàu thì xin ra khỏi Đảng chứ Đảng không cấm và cũng chẳng trù dập ai cả. Tiến sĩ nói đến “khắc khổ” ư, “tôn giáo” ư, chúng tôi không tin vào tôn giáo mà chúng tôi tin vào lý luận khoa học. Chúng tôi chấp nhận cái khắc khổ đó để đi tìm những gì tốt đẹp hơn cho người lao động chúng tôi, chúng tôi phải làm để lấy lại những cái gì mình đã mất, chúng tôi không chờ vào lòng thương hại hay sự bố thí của bọn tư bản. Tiến sĩ còn lôi vấn đề kinh tế nhà nước ra để tranh luận phải chăng là muốn xoá bỏ kinh tế nhà nước hay là để nói rằng cho đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân thì tốt hơn? Với chúng tôi câu trả lời dứt khoát là: không bao giờ. Tiến sĩ còn trích dẫn câu của Ăng-ghen: phải là súc vật mới có thể quay lưng với những thống khổ của con người. Phải chăng Tiến sĩ ám chỉ nếu Đảng không cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân thì Đảng đã quay lưng lại với nỗi thống khổ của con người. Nhưng tôi xin hỏi, Đảng cho phép phát triển kinh tế tư nhân để làm gì nếu không phải là phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo! Đảng cũng không cấm những ai thích làm kinh tế tư nhân ra khỏi Đảng. Tất cả mọi người chúng ta đều có quyền tự do lựa chọn đấy chứ.
Ngoài ra còn một loạt những lời lấp lửng của một “người ngoại đạo” (giống như Tiến Sĩ Nguyễn Quang A) không hiểu về kinh tế chính trị nhưng lại thích khoe khoang, thích định hướng cho người khác về giá trị thặng dư và bóc lột mà ở đây tôi không muốn tranh luận thêm vì họ đã tự coi mình là người ngoại đạo. Tôi không thể hiểu nổi, họ là những Tiến sĩ - những nhà khoa học nhưng lại dùng những lý thuyết “có thể” có trong tương lai để nói đó là “đổi mới tư duy”, để áp dụng cho những chủ trương, đường lối ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ và ảnh hưởng đến hàng triệu con người?
Tiến sĩ Nguyễn Quang A đặt ra câu hỏi: “Đảng muốn dân làm giàu mà lại cứ bắt buộc đảng viên không được làm giàu thì có mâu thuẫn với mục tiêu hay không?” Câu trả lời của chúng tôi là: Không. Nếu thích thì xin ra khỏi Đảng, còn vì sao thì ở trên tôi đã giải thích.
Tiến sĩ viết tiếp: “Hiện nay ai bóc lột ai? Đây là câu hỏi lý thú mà các nhà nghiên cứu nên làm rõ” và Tiến sĩ kết luận: “cho đến nay cũng chưa ngã ngũ”. Một Tiến sĩ về điện tử viễn thông, đi dựa vào Google và Wikipedia để nói về một lý luận khoa học thì thật buồn cười! Xin thưa Tiến sĩ, chúng ta đang nói về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân và đang nói về bóc lột giá trị thặng dư của của nhà tư bản đối với công nhân chứ chúng ta không nói về bóc lột chung chung. Tiến sĩ nên biết chúng ta đang bàn luận về vấn đề gì rồi Tiến sĩ hãy xen vào để bàn luận. Tiến sĩ bảo những nhà nghiên cứu (hay Tiến sĩ ám chỉ đến những người cộng sản chúng tôi) nên xem lại ư! Xin thưa, chúng tôi đã hiểu về lý luận giá trị thặng dư và bóc lột giá trị thặng dư rồi, còn người cần xem lại là Tiến sĩ chứ không phải các nhà nghiên cứu, khi nào Tiến sĩ hiểu về nó rồi thì Tiến sĩ có thể tranh luận khoa học với chúng tôi. Tiến sĩ không hiểu hay cố tình không hiểu việc “bóc lột” của ông chủ với công nhân khác với “bóc lột” của bọn tham nhũng. Bóc lột của ông chủ là “ăn” toàn bộ giá trị thặng dư của người công nhân mà không ai làm gì được. Còn bọn tham nhũng “ăn” một cách nén nút và đó là hành vi vi phạm pháp luật cần phải trừng trị. Chúng ta đã trị, đang trị và sẽ trị bọn tham nhũng này.
Giáo sư Nguyễn Đức Bình đã phân tích: Trái lại, họ vào Đảng cốt tìm kiếm chỗ dựa quyền lực để dễ bề làm ăn, kinh doanh. Ta biết rằng thời nay quyền lực và tiền bạc, tiền bạc và quyền lực thường dễ móc nối với nhau ranh ma quỉ quái thế nào.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A viết: “Tôi nghĩ luôn có những kẻ cơ hội như vậy, nhưng đa số không thế. Tôi tin tỉ lệ bọn cơ hội là người làm kinh tế tư nhân nhỏ hơn nhiều so với trung bình hiện nay trong đảng. Bọn mua quan bán chức, bọn chạy chọt ghế, trong số chúng có tên nào làm kinh tế tư nhân không? Tôi cam đoan không có. Thế mà số bọn chúng thì nhiều như quân Nguyên. Giáo sư nghĩ sao? Và những người làm kinh tế tư nhân, chắc đâu họ đã muốn vào đảng!” Tôi được biết Tiến sĩ có dịch bộ sách SOS, trong đó có các tác phẩm của Kornai, Hayek, Soros với ý định phổ biến những giá trị của kinh tế thị trường vào Việt Nam, đó là một điều rất quý. Tiến sĩ cũng từng làm kinh tế chắc Tiến sĩ rất hiểu về kinh tế thị trường và những nhà kinh tế học của kinh tế thị trường như Adam Smith, James Buchana hay Joseph Stiglitz. “Bàn tay vô hình” của Adam Smith dựa trên tính tư hữu và lợi ích cá nhân, lý thuyết Lựa chọn Công của James Buchana coi chính trị gia như “Doanh nhân chính trị”, còn Stiglitz phê phán gay gắt giới tài chính và mối quan hệ Tiền-Quyền. Tuổi đời của Tiến sĩ cũng hơn tôi, nên Tiến sĩ hiểu về thực tế trong cuộc sống của mối quan hệ Tiền-Quyền hơn tôi, nhưng Tiến sĩ lại viết “đa số không thế”. Xin hỏi Tiến sĩ, “Bàn tay vô hình” của Adam Smith có loại bỏ bất kỳ cá nhân nào khi tham gia vào nền kinh tế thị trường không?. Mà nền kinh tế của chúng ta là nên kinh tế thị trường chứ không phải là nền kinh tế tập trung bao cấp. Cá nhân tôi cho rằng: Tiến sĩ nghĩ một đằng, Tiến sĩ hiểu một đằng nhưng vì quền lợi của giai cấp tư sản nên Tiến sĩ viết một nẻo. Tiến sĩ cam đoan rằng: không có đảng viên làm kinh tế tư nhân nào chạy chức chạy quyền hoặc lợi dụng quan hệ để mưu lợi cá nhân. Khi có một số ít đảng viên làm kinh tế tư nhân ở quy mô hạn chế thì những người này bị giám sát rất chặt chẽ, ông ta khó có thể làm gì mờ ám. Thế nhưng, sau khi Đảng cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân thì Tiến sĩ có dám chắc điều đó không? Hay Tiến sĩ lại bảo “có thể” sẽ có lý thuyết khoa học mới ra đời phủ nhận lý thuyết của Adam Smith, James Buchana, “lý thuyết tương lai” này sẽ xoá bỏ được mối quan hệ Tiền-Quyền, xoá bỏ được những tiêu cực mà Stiglitz đã phân tích, cũng như hiện thực đang có trên khắp thế giới và cả ở Việt Nam - những hiện thực đang đập vào mắt chúng ta hàng ngày. Tiến sĩ có nhắc đến tham nhũng, lãng phí, chạy chức, chạy quyền. Vâng, tôi công nhận những điều đó là có ở Việt Nam. Vậy tôi xin hỏi Tiến sĩ, nếu cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân thì có giải quyết được các vấn nạn ấy hay không, hay là “lý thuyết tương lai” của Tiến sĩ ở trên Google và Wikipedia sẽ giải quyết được vấn đề đó.
Câu kết luận của Tiến sĩ ở cuối bài viết này mới thật là buồn cười: “Trăn trở của giáo sư, câu trả lời dứt khoát ‘trước sau tôi vẫn không đồng ý quan điểm trong Đảng có thể có tư bản tư nhân’ của giáo sư phải được tôn trọng. Hi vọng những ý kiến khác cũng được tôn trọng”. Chắc rằng Tiến sĩ muốn người khác tôn trọng ý kiến của Tiến sĩ chứ. Giáo sư Nguyễn Đức Bình là một nhà khoa học, Giáo sư hiểu về lý luận và phân tích rõ ràng rồi đưa ra kết luận thì hiển nhiên những người hiểu biết phải tôn trọng! Còn Tiến sĩ thì thiếu kiến thức về vấn đề tranh luận, cơ sở lý luận không rõ ràng, Tiến sĩ lẫn lộn vấn đề này sang vấn đề kia và tìm cách lập lờ đánh tráo nó (đó chính là sự nguỵ biện) thế thì làm sao mà đòi những người hiểu biết tôn trọng được. Nếu bây giờ tôi cũng nói “lập lờ” và “cảm tính”, “tin” và “có thể” như Tiến sĩ sau đó tôi đi đến kết luận Đảng “quốc hữu hoá toàn bộ và xoá bỏ kinh tế tư nhân” là Đảng đã “đổi mới tư duy” thì Tiến sĩ có đồng ý với ý kiến của tôi không?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng ta về tiêu chuẩn của đảng viên: “Đảng phải thật trong sạch, mạnh mẽ. Vì vậy đảng viên cũng phải thật trong sạch, mạnh mẽ tức là phải đúng những tiêu chuẩn sau đây: Không bóc lột người. Đảng chống chế độ ‘người bóc lột người’. Lẽ tự nhiên, ai bóc lột người thì không thể làm đảng viên.” [22]
Tương lai nào cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Câu trả lời là chẳng có tương lai nào cả! Chủ nghĩa xã hội sẽ sụp đổ trong vòng một vài thập kỷ tới! Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ như một người đang đi trên một con đường mà đích đến thì còn xa, nhưng điều đó chưa hẳn đã quan trọng; quan trọng hơn là trước mặt có một mũi tên đang bay tới (tham nhũng), đằng sau là một mũi tên cũng đang lao tới (tư sản hoá) còn ở dưới chân thì mặt đất đang rạn nứt (đang đánh mất cơ sở hạ tầng). Với tôi, có lẽ, nó sẽ chết trước khi nhìn được rõ hơn cái đích của mình!
Quá trình này tất yếu sẽ diễn ra nếu Đảng không sửa sai. Nó xảy ra nhanh hay chậm và có xảy ra hay không? Câu trả lời sẽ dành cho mỗi thành viên của Đảng Cộng sản Việt Nam tự trả lời!
[1]Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. [2]“QH [Quốc hội] bức xúc chuyện DNNN [doanh nghiệp nhà nước] thu không đủ chi”. [3]Todd G. Buchholz, Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối, Nxb Tri thức, 2008, trang 364. [4]Sách đã dẫn, trang 365. [5]Sách đã dẫn, trang 365. [6]Sách đã dẫn, trang 373. [7]Sách đã dẫn, trang 374. [8]Sách đã dẫn, trang 365. [9]Sách đã dẫn, trang 366. Xem thí dụ cụ thể trong sách để hiểu rõ hơn. [10]“Cuộc tranh cử tổng thống Mỹ 2008 sẽ tốn kém nhất trong lịch sử”. [11]“Tiền quỹ vận động tranh cử Mỹ có từ đâu?” [12]Tham nhũng trong tập đoàn Samsung (Hàn Quốc): Được ưu đãi quá, hoá dở” [13]“Ngồi trên lửa” và “Israel: Thủ tướng Ehud Olmert quyết không từ chức” [14]Joseph Stiglitz, Toàn cầu hoá và những mặt trái, Nxb Trẻ, 2008, trang xii. [15]Sách đã dẫn, trang 27. [16]Sách đã dẫn, trang 274. [17]“Bí thư Tỉnh uỷ nộp 100 triệu đồng tiền ‘chạy chức’” [18]Tài liệu đã dẫn. [19]Quà biếu chủ tịch tỉnh Cao Bằng hơn 1 tỷ đồng” và “Bộ trưởng Nội vụ: ‘Dùng quà biếu làm từ thiện là bất thường’” [20]“Đổi mới II: Đổi mới thế nào?” [21]“Tạo thêm động lực để phát triển đất nước”, “Sự thay đổi lớn trong tư duy của Đảng” và “Không nên gọi ai là ‘cấp tiến’ hay ‘bảo thủ’” [22]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, tập 7, trang 23.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:13:13 GMT 9
Việt Nam tìm kiếm mô hình quốc tế điển hình Tiếng chuông ngân lên vào giữa trưa trong một điện thờ sơn phủ sặc sỡ của giáo phái Cao Đài cách Thành phố Hồ Chí Minh 100 km, nơi hàng trăm tín đồ trong trang phục áo choàng sặc sỡ và khăn xếp lòe loẹt đang xếp hàng tiến vào. Họ ngồi xếp bằng giữa những hàng cột sơn màu hồng đắp nổi những con rồng hai mầu xanh và trắng chạm khắc tinh xảo. Khắp xung quanh họ là những biểu tượng của giáo phái này - con mắt thánh: Quang cảnh trông tựa như sự pha trộn giữa một ngôi chùa ở Trung Quốc, một thánh đường Hồi giáo và một nhà thờ Thiên chúa giáo với một chút giống như Thành phố Ngọc Lục Bảo trong câu chuyện huyền bí Wizard of Oz. Cao Đài, một tôn giáo trong nước mang tính hòa hợp của Việt Nam, pha trộn giữa đạo Phật, đạo Lão, đạo Cơ đốc, đạo Hồi và những tôn giáo khác, giáo huấn rằng tất cả những niềm tin là sự biểu thị của "cùng một chân lý". Giáo phái này được sáng lập vào năm 1926 bởi Ngô Văn Chiêu, một công chức nhà nước. Đến những năm 40, Cao Đài đã phát triển thành một lực lượng mạnh có quân đội riêng. Giáo phái này từng ủng hộ sự chiếm đóng của Nhật Bản và đôi khi cả với chế độ thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, vì thế sau năm 1975 Cao Đài bị những người cộng sản kiềm chế. Đến nay, khi chính phủ xóa bỏ những hạn chế tôn giáo, Cao Đài đã quay được sự ưa chuộng trở lại mặc dù vẫn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ. Tháng 2/2008, các thành viên của Ủy ban Tôn giáo Chính phủ đã tham dự một buổi hành lễ cùng 200.000 tín đồ Cao Đài tại một điện thờ lớn. Sự phát triển trở lại của đạo Cao Đài đi kèm với chính sách đối ngoại của Việt Nam mong muốn "làm bạn với tất cả các nước". Nói một cách rộng hơn, niềm tin tôn giáo phản ánh đặc điểm tinh hoa của dân tộc Việt Nam, đó là tìm kiếm những khuôn mẫu tiêu biểu, sau đó tìm cách đưa những nét nổi bật của mình vào trong những khuôn mẫu đó theo cách thức phù hợp của Việt Nam. Đặc điểm này đã xuất hiện một cách tự nhiên ở một đất nước từng bị xâm chiếm và đô hộ bởi quá nhiều thế lực ngoại bang. Hệ thống luật pháp của Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa trên những nguyên tắc pháp lý thuộc Pháp, nhưng lại có những thay đổi để phù hợp với các mô hình của Trung Quốc và Liên Xô cũ. Khi Việt Nam còn nằm dưới sự che chở của Liên Xô trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, họ đã bắt chước mô hình kinh tế chủ nghĩa tập thể của nước này và để lại những hậu quả thảm khốc. Tiếp theo đó, Việt Nam lại ganh đua với mô hình chủ nghĩa xã hội thị trường của Đặng Tiểu Bình. Gần đây, họ lại được thuyết phục bởi các đặc điểm trong mô hình tăng trưởng xóa đói giảm nghèo của các cơ quan Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Thế giới cũng như các lý thuyết nền tăng của hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước châu Âu. Dấu ấn Trung Quốc Những phát triển gần đây cho thấy Việt Nam đáng được xem là một Trung Quốc thu nhỏ khi mà cả hai nước đều được lãnh đạo bởi những người cộng sản tiểu tư bản hăng hái, nhưng giữa họ có sự khác biệt. Một nhà ngoại giao ở Hà Nội từng làm việc ở Bắc Kinh cho rằng "mọi thứ ở đây (Việt Nam) đều có chừng mực hơn ở Trung Quốc". Việt Nam ít thô bạo hơn đối với những người bất đồng chính kiến so với Trung Quốc và "răng nanh và móng vuốt" của chủ nghĩa tư bản ở đây cũng ít bị nhuộm đỏ hơn. Dịch vụ y tế và giáo dục đã thay đổi để thành công hơn khi chuyển đối sang kinh tế thị trường. Sự kiểm soát của Việt Nam, giống như ở Trung Quốc, chính là những hạn chế nghiêm ngặt, tuy nhiên, số lượng người sử dụng Intemet có thể truy cập vào các trang web ở nước ngoài ngày càng nhiều hơn: người sử dụng Internet Việt Nam không bị chặn bởi bức "Tường lửa khổng lồ" như ở Trung Quốc. Trong khi Trung Quốc nằm dưới sự lãnh đạo xuyên suốt và rõ ràng của một nhà lãnh đạo tối cao - Hồ Cẩm Đào, người nắm giữ hai chức vụ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản và Chủ tịch nước - thì Việt Nam có sự lãnh đạo tập thể. Ba trụ cột gồm Chủ tịch nước, Tổng bí thư Đảng và Thủ tướng phải đạt được sự đồng thuận cùng với vai trò ngày càng gia tăng của Quốc hội độc lập và các lực lượng quần chúng khác, đồng thời tránh làm xáo trộn nhóm anh hùng cựu chiến binh trong các cuộc chiến tranh giành độc lập của Việt Nam vẫn đang còn sống. Lãnh đạo Trung Quốc có thể ra lệnh phá hủy các dự án công trình công cộng bất chấp những hậu quả. Ngược lại, quá trình ra quyết định ở Việt Nam có vẻ như "hợp tình hợp lý hơn". Trung Quốc áp dụng nghiêm ngặt "chính sách một con"; Việt Nam có "chính sách hai con". Trong khi dân số Trung Quốc đang già đi thì thế hệ trẻ em sinh sau chiến tranh ở Việt Nam đang bước vào độ tuổi sung sức nhất, tăng trưởng kinh tế nhanh cũng đã tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho tất cả mọi người. Giám đốc ngân hàng HSBC tại Việt Nam, Tom Tobin nhận xét rằng trong một hoặc hai thập niên tới, trong khi đa phần dân số của thế giới già đi nhanh chóng, lớp thanh niên Việt Nam vẫn sẽ ở giai đoạn sung sức nhất trong sự nghiệp của họ. Trung Quốc vẫn là một mô hình tiêu biểu kết hợp giữa các cải cách thị trường với tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho dù đa số người Việt Nam phải miễn cưỡng thừa nhận rằng họ đang bắt chước kẻ thù ngàn năm của họ. Tuy nhiên, đảng cầm quyền Việt Nam cũng hướng tới sự giàu có của Singapore - tuy danh nghĩa là một nền dân chủ thị trường tự do nhưng thực tế là một quốc gia một đảng, nơi chính quyền vẫn kiểm soát những cấp độ chủ đạo của nền kinh tế. Ví dụ, Việt Nam đã xây dựng mô hình giống như tập đoàn Temasek - Công ty đầu tư Singapore quản lý cổ phần của nhà nước tại các doanh nghiệp bán tư nhân. Rõ ràng là Việt Nam quá lớn và quá phi tập trung hóa để có thể bắt chước mô hình của nước Singapore nhỏ bé, tuy nhiên, Đảng Cộng sản hy vọng rằng họ sẽ đúc kết được những kinh nghiệm của Đảng Hành động Nhân dân Singapore (PAP) thuyết phục cử tri tiếp tục chấp nhận vai trò lãnh đạo của họ như cái giá của sự thịnh vượng. Giống như PAP, Đảng Cộng sản Việt Nam tìm kiếm cơ hội thu hút những nhân tài và đầu tư cho các nhân sự nội bộ trong giai đoạn đầu này. Nhận thức được giáo dục cao và cải tiến khoa học đã là những nhân tố then chốt làm nên sự giàu có của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, Việt Nam đang khuyến khích các tập đoàn công nghệ cao nước ngoài và mời gọi những nước giàu xây dựng các trường đại học, các cơ sở đào tạo trên đất nước họ. Một trường đại học Australia, Đại học Công nghệ Hoàng gia Melbourne (RMIT) đã mở các cơ sở đào tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Một trường đại học của Đức và một số trường cao đẳng công nghệ khác của Hàn Quốc cũng đang có kế hoạch thành lập. Trong khi đó, các gia đình Việt Nam, từ Thủ tướng, đang gửi con em đi học nước ngoài. Vậy thì, nền kinh tế dung hợp của Việt Nam sẽ theo đuổi mô hình nào? Bởi vì Việt Nam đang tìm kiếm cơ hội xây dựng các tập đoàn kinh tế quốc gia mạnh, họ chưa biết chắc nên theo đuổi mô hình "keiretsu" của Nhật Bản, "chaebol' của Hàn Quốc hay mô hình các tập đoàn chuyên sâu trong một lĩnh vực kinh doanh chủ chốt kiểu Anh. Có lẽ họ sẽ cóp nhặt những gì tinh túy nhất từ những mô hình này. Nhưng, Tony Salzman, một doanh nhân người Mỹ ở Việt Nam lại lo ngại về mối đe dọa khi "râu ông nọ cắm cằm bà kia!" Nguồn: Tạp chí Nhà kinh tế số 28/4. Bản tiếng Việt của Thông tấn Xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt số 103-TTX, thứ Năm ngày 8/5/2008, tr. 1-4
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:14:00 GMT 9
Nguyễn Thanh Giang Quyết không khuất phục! Tôi đang đọc lại Tam Quốc diễn nghĩa đến hồi Gia Cát Lượng khéo chối từ Lỗ Túc / Triệu Tử Long lừa mẹo lấy Quế Dương thì một cụ lão thành đưa cho mấy bản Tin tham khảo nội bộ (của Thông tấn xã Việt Nam) có mấy bài nói về việc Trung Quốc dự định đánh Việt Nam (?). Trước khi phát biểu cảm tưởng về mấy bản tin trên mạng Sina.com của Tàu ấy, tôi xin chép lại đây nguyên văn đoạn truyện vừa đọc để “ôn cố tri tân”.
“Chu Du thấy Khổng Minh lấy được Nam Quận, lại nghe tin mất cả Kinh Châu, Tương Dương rồi, trách nào chẳng tức? Du tức quá, uất lên, nằm ngất đi hồi lâu mới tỉnh. Các tướng khuyên giải hai ba lần. Du nói:
– Nếu không giết được Gia Cát Lượng đi, thì làm sao ta hả dạ được? Trình Phổ hãy gíúp ta, đánh lấy lại Nam Quận cho Đông Ngô.
Đang nói chuyện thì Lỗ Túc đến. Du nói:
– Ta muốn cất quân quyết một trận sống mái với Lưu Bị và Gia Cát Lượng để đoạt lại thành trì, Tử Kính giúp ta một tay.
Túc nói:
– Không nên! Hiện nay ta với Tào Tháo còn đang kình địch, chưa biết được thua thế nào. Vả lại chúa công cũng chưa hạ được Hợp Phi. Ta với Huyền Đức không nên thôn tính lẫn nhau, quân Tào thừa cơ kéo đến thì nguy lắm. Huống chi, Huyền Đức lại quen thân với Tào Tháo. Nếu ta làm quá, hắn tất dâng thành trì cho Tào Tháo, hợp sức lại đánh Đông Ngô, thì làm thế nào?”
Đó là chuyện mấy ông tướng Tàu xưa khuyên chủ tướng của họ. Còn ngày nay, hãy xem họ đang thèm khát điên cuồng đến mức nào, đáng coi chừng đến mức nào, và ta phải làm gì?
Biển Đông: nguồn lợi sống còn. Việt Nam: con đường tiến tới
Trước hết, xin giải thích ý nghĩa vế thứ hai của tiêu đề này.
Số là, trong cuộc gặp mặt giữa đại biểu bốn đảng cộng sản: Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia và Lào tại Quảng Đông tháng 9 năm 1963, Thủ tướng Chu Ân Lai nói: “Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên, rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam Châu Á.” Quyết liệt và hung hăng một cách vĩ đại hơn, trong cuộc hội đàm với Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963, Mao Trạch Đông còn tuyên bố thẳng thừng: “Tôi sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Châu Á.” (Tất nhiên cả đạo quân biển người ấy phải ào ạt quét qua Việt Nam.)
Ấy thế mà, thật kỳ lạ, chính ở nước ta từng đã có những người lãnh đạo rất ủng hộ ý đồ xâm lăng này của Trung Quốc. Báo cáo của Bộ Quốc phòng tại Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng ngày 24 tháng 8 năm 2004 do Bộ trưởng Phạm Văn Trà chủ trì có những đoạn sau:
“Tại châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ xác định việc tiếp tục duy trì sức mạnh quân sự và chi phối quân sự nhằm: [...] hạn chế và tiến tới triệt tiêu ý đồ lôi kéo Đông Á và Đông Nam Á vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc”, “Mục tiêu của Mỹ không phải là biến Việt Nam thành một thị trường để góp phần điều tiết nền kinh tế Mỹ, mà là xây dựng Việt Nam thành một khu vực điều tiết nhập siêu Trung - Mỹ, một hàng rào kinh tế ngăn ngừa sự phát triển của Trung Quốc xuống Đông Nam Á.”
Có vẻ như Bộ Quốc phòng Việt Nam, ngày đó còn dưới quyền lãnh đạo của Bộ trưởng Phạm Văn Trà, chỉ lo ngăn chặn Hoa Kỳ để mong được Trung Quốc thôn tính Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, hơn là lo bảo vệ Tổ quốc mình. Cho nên, bức xúc quá, lúc ấy tôi đã phải thảng thốt viết bài “Bộ Quốc phòng rời bỏ nhiệm vụ chính của mình. Cảnh báo nguy cơ mất nước.”
Bây giờ bàn về cái quyền lợi sống còn của Trung Quốc – Biển Đông.
Với diện tích 3,5 triệu km2, có trữ lượng 50 tỷ tấn dầu mỏ, 15 nghìn tỷ mét khối khí thiên nhiên, biển Đông được xem là vùng Vịnh thứ hai của thế giới. Hơn 200 công ty dầu khí của nhiều nước đã và đang tham gia tìm kiếm, thăm dò, khai thác, và đã khoan hơn 1000 giếng khoan tại quần đảo Trường Sa. Tại đây, Việt Nam đã khai thác được hơn 100 triệu tấn dầu, 1500 tỷ mét khối khí, thu được hơn 25 tỷ USD. Ngoài dầu khí, biển Đông còn có 116 loại khoáng sản khác nhau, trong đó 89 loại khoáng sản đã thăm dò được trữ lượng với 1400 vị trí có thể khai thác.
Cận kề miếng mồi khổng lồ béo bở như vậy mà Trung Quốc lại đói dầu. Trung Quốc đã bắt đầu phải nhập khẩu dầu thô từ 1993, và đến nay, đã trở thành quốc gia nhập khẩu dầu thô vào loại hàng đầu thế giới. Từ 1993 đến 2002, nhu cầu về dầu lửa của Trung Quốc tăng gần 90%, trong khi sản xuất trong nước tăng chưa đến 15%. Dự tính đến năm 2030, lượng dầu thô tiêu thụ của Trung Quốc sẽ đến 10 triệu thùng ngày, trong khi lượng sản xuất nội địa chỉ đáp ứng được 20% số đó.
Biển Đông là một trong những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới. Quá nửa số tầu chở dầu cỡ lớn thế giới đều qua biển Đông. Lượng tầu chở dầu qua biển Đông nhiều gấp 5 lần qua kênh đào Suez, gấp 15 lần qua kênh đào Panama. Biển Đông cũng là tuyến giao thương đối ngoại quan trọng của Trung Quốc, chẳng những thế, còn có vai trò rất quan trọng đối với an ninh năng lượng của Trung Quốc. 88% lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc phải đi qua biển Đông, trong đó 48% là từ Trung Đông, 22% từ các nước châu Á - Thái Bình dương, 18% từ châu Phi.
Chế ngự được biển Đông là khống chế được tuyến đường vận chuyển dầu mỏ huyết mạch của Hoa Kỳ và Nhật Bản. Đặc biêt, quần đảo Trường Sa ở vào vị trí xung yếu trên tuyến đường từ Thái Bình dương đi Ấn Độ dương: không chỉ án ngữ tuyến đường vận chuyển trong khu vực biển Đông mà còn có thể khuếch trương ảnh hưởng đến tận eo biển Malacca.
Thèm khát đến cuồng nộ
Thời gian gần đây, trên mạng Sina.com của Trung Quốc xuất hiện một chiến dịch truyền thông rầm rộ với hàng loạt bài viết sặc mùi kích động chiến tranh: “Thu hồi quần đảo Nam Sa quan trọng hơn [thu hồi] đảo Đài Loan”, “Việt Nam gây nên nhiều nỗi lo cho Trung Quốc”, “Trung Quốc và Việt Nam khó tránh khỏi lại đánh nhau ở Trường Sa”, “Tiến công Việt Nam theo kế hoạch A: đánh một trận, thiên hạ sẽ ổn định”, v.v...
Dễ dàng nhận ra rằng, tác giả các bài viết này không chỉ là những trí thức, những nhà văn, nhà báo bình thường mà phải là những nhà chính trị - quân sự, những nhà tư tưởng - văn hóa, những nhà tâm lý chiến...
Họ đặt vấn đề một cách rất rạch ròi:
“Trong giai đoạn hiện nay, việc thu hồi quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) quan trọng hơn thu hồi Đài Loan. Vấn đề Đài Loan là vấn đề nội chính của nước ta, sớm muộn cũng sẽ giải quyết, còn vấn đề Nam Sa là vấn đề hiện thực không thể không giải quyết, là vấn đề liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi biển, là vấn đề chống xâm lược nước ngoài, thu hồi vùng đất đã mất, là vấn đề lớn cần phải giải quyết trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước... Nếu chúng ta thu hồi quần đảo Nam Sa, xây dựng tuyến phòng thủ trên biển Nam Trung Hoa (tức biển Đông), tuyến đường vận chuyển trên biển của chúng ta sẽ bảo đảm, điều này sẽ có lợi cho phát triển kinh tế của đất nước, cũng là bộ phận hợp thành quan trọng của chiến lược biển của chúng ta.”
Trên cơ sở nhận định
“Môi trường chung quanh Trung Quốc hiện nay tương đối ổn định. Phía Đông, đã hòa dịu quan hệ với Nhật Bản; phía Bắc đã cùng Nga hoàn thành việc ký kết hiệp định biên giới; phía Tây Tạng đã bố trí lực lượng mạnh hình thành sự răn đe đối với Ấn Độ; quan hệ với Đài Loan cũng đang phát triển một cách lý tính, khi cần thiết sẽ dùng Đài Loan để kiềm chế Nhật Bản,”
họ cho rằng phải
“Đánh Việt Nam để nâng cao ý chí của quân đội Trung Quốc, để cho người Hàn Quốc thấy quân đội Trung Quốc liệu có phải là đội quân chỉ ở tầm thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ Hai như người Hàn Quốc nghĩ hay không? Để cho các chuyên gia quân sự Mỹ thấy quân đội Trung Quốc liệu có phải là đội quân không có ý chí chiến đấu như họ đánh giá hay không? Để cho Nhật Bản thấy nếu không ngồi xuống đàm phán thì Trung Quốc cũng có thể tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ lợi ích của mình. Cuộc chiến tranh này đáng đánh, có thể đánh được. Phải nhằm thẳng vào Việt Nam đánh mạnh...”
Họ quả quyết rằng:
“Muốn kiểm soát lại Đông Nam Á cần chinh phục Việt Nam. Chinh phục Việt Nam là bước đầu tiên, cũng là bước quan trọng nhất để Trung Quốc mở rộng về phía nam.”
Trên cơ sở phân tích “Địa hình Việt Nam rất đặc thù, ví von một cách thông tục thì Việt Nam giống như một con rắn nước kỳ quái nằm ở cực đông của bán đảo Trung Nam [1] ”, họ vạch kế hoạch tác chiến cụ thể:
“Làm thế nào chế phục được Việt Nam – ‘con rắn kỳ quái’ này? Điều chủ yếu được quyết định bởi việc làm thế nào nhanh chóng chặt đứt đầu rắn. Tục ngữ Trung Quốc có câu ‘đánh rắn phải đánh vào đốt sống thứ 7’, vị trí đốt thứ 7 là chỗ hiểm của rắn. Chúng ta chú ý thấy rằng khu vực ven biển miền Trung Việt Nam có một địa phương gọi là Thanh Hoá. Khu vực này là mũi cực nam của đồng bằng sông Hồng, là cửa đi ra biển của sông Mã. Từ Thanh Hoá hướng về phía nam và đông-nam, địa hình đột nhiên thu hẹp lại giống như cổ con rắn, chia cắt Việt Nam thành hai phần hoàn toàn khác nhau... Vị trí địa lý của Thanh Hoá rất giống tuyến đường độc đạo chiến lược Cẩm Châu của nước ta. Cho nên, Thanh Hoá chính là yết hầu khống chế đầu rắn phía bắc của Việt Nam. Bóp nghẹt yết hầu này có nghĩa là bóp nghẹt ‘đốt sống thứ 7’ của con rắn. Thanh Hoá có địa thế thấp, đồng thời cũng là bình nguyên rộng bằng phẳng, rất thích hợp với việc tiến hành đổ bộ với quy mô lớn. (Tiếc rằng họ quên không kể Thanh Hóa quê tôi là quê hương của Lê Lợi.) Nếu vận dụng phương pháp đổ bộ, thì có thể nhanh chóng đưa nhiều lực lượng thiết giáp vào chiến trường. Như vậy xe tăng một khi đổ bộ lên bờ sẽ tránh gặp phải địa hình núi non, tận dụng ưu thế địa hình đồng bằng, nhanh chóng tiến về Hà Nội.” “Ngày đầu tiên của chiến tranh: lực lượng tên lửa của ta bắt đầu tiến hành tiến công đợt một bằng tên lửa đối với 300 mục tiêu chính trị - quân sự quan trọng trên toàn bộ lãnh thổ của địch. Sẽ phóng vào lãnh thổ của địch 500 tên lửa chiến thuật tầm ngắn, 100 tên lửa chiến thuật hành trình, hải quân sẽ phóng 200 tên lửa hành trình từ căn cứ trên đất liền và 100 tên lửa hành trình từ căn cứ trên biển.”
Họ không ngần ngại toan tính đến cả chiến tranh hủy diệt trên cơ sở sử dụng “những con sông xuất phát từ lục địa Trung Quốc có thể lợi dụng để lập chiến tranh môi sinh, tạo các bệnh dịch cho toàn bộ Bắc Việt Nam”
Tờ báo Văn Hối ở Hồng Kông, được coi như cơ quan ngôn luận bán chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại đặc khu hành chính này, hôm 31 tháng 7 vừa qua đã hô hào: “Trung Quốc cần giảng cho Việt Nam một bài học về thế nào là đồng thuận.” Họ hối thúc phải chớp ngay thời cơ: “Hiện nay nguy cơ kinh tế Việt Nam là cơ hội cuối cùng (mà Trung Quốc chờ đợi) đã xuất hiện.”
Sự mê muội ý thức hệ và lòng tin khờ dại
Cơn cuồng nộ ăn sống nuốt tươi Việt Nam thêm một lần bộc phát dữ dội thực ra đã ấp ủ trường cửu trong lòng những người Trung Quốc mang tư tưởng Đại Hán. Trong tập sách Cách mạng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc xuất bản năm 1939, Mao Trạch Đông đã từng viết:
“Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận; Anh chiếm Miến Điện, Ấn Độ, Butan, Hương Cảng; Pháp chiếm An Nam.”
Trong cuộc họp Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hồi tháng 8 năm 1965, Mao Trạch Đông một lần nữa lại khẳng định:
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Singapore và Malaysia... Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản,... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy.”
Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc từng giúp Việt Nam đánh Pháp, đánh Mỹ không phải vì nền độc lập thống nhất của Việt Nam mà chỉ để sử dụng ta như một con bài.
Tại Hội nghị Geneva năm 1953, Chu Ân Lai đã thỏa thuận với Mandès France rằng Việt Nam có hai chính phủ, hai vùng kiểm soát, hình thành giải pháp khung chia tách Việt Nam. Kết thúc Hội nghị này, tại tiệc chiêu đãi, Chu Ân Lai coi bốn đoàn có vị trí ngang nhau: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính quyền Bảo Đại, Vương quốc Lào, Vương quốc Kampuchea. Trung Quốc muốn xé lẻ Việt Nam ra để trực tiếp nắm các bên.
Trong khi họ ra sức phấn đấu vì lý tưởng Đại Hán thì các nhà lãnh đạo Đảng Lao động trước đây / Đảng Cộng sản hiện nay của Việt Nam cứ mãi ngộ nhận lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong sáng và lòng vị tha vô tư của họ trong việc giúp Việt Nam đánh Pháp, đánh Mỹ để rồi sẵn sàng xả thân vì họ. Ngộ nhận rằng vì lý tưởng cộng sản nên Trung Quốc sẽ bảo vệ Polpot cộng sản bằng mọi giá nên khi đàm phán giải quyết vấn đề Kampuchea, phía Việt Nam đã đề xuất “giải pháp đỏ” nhằm lấy lòng họ mặc dù biết rằng thực hiện “giải pháp đỏ”, Việt Nam sẽ phải trả giá, sẽ bị quốc tế tẩy chay. Thế mà rồi “giải pháp đỏ” lại đã bị chính phía Trung Quốc bác bỏ. Đại diện Trung Quốc nói: “Đúng là trong bốn bên Kampuchea, xét về lực lượng quân sự và tổ chức thì hai đảng cộng sản là mạnh nhất. Họ có vai trò nhiều hơn. Song chỗ chúng tôi không đồng ý là giải pháp này chỉ tranh thủ hai phái cộng sản, trong khi còn có các lực lượng khác là phái Sihanouk và phái Son San...”
Trong khi Trung Quốc đã đi đêm với Mỹ để tranh thủ Mỹ cho công cuộc “Bốn hiện đại hóa” của họ, thì đầu tháng 11 năm 1991, sau hơn một thập kỷ tuyệt giao do cuộc chiến Trung - Việt đẫm máu hồi tháng 2 năm 1979, Tổng Bí thư Đỗ Mười sang thăm Trung Quốc lại hăm hở đề xuất xiết chặt tình đồng chí để “cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”. Chua chát sao, Tổng bí thư Việt Nam chỉ được đáp lại bằng một đối sách hờ hững “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu” (thân mà không gần, sơ mà không xa, đấu/cạnh tranh mà không đánh nhau).
Quá mê muội ý thức hệ và đặt niềm tin khờ dại vào Trung Quốc, lãnh đạo Việt Nam không chỉ lầm lẫn mà còn bị lừa quá nhiều.
Ngày 4 tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc ra tuyên cáo về lãnh hải 12 hải lý kể từ đất liền của họ, ngoại trừ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, quốc tế không ai công nhận. Riêng Việt Nam lại quá sốt sắng. Chỉ mười ngày sau đó, ngày 14 tháng 9, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, được lệnh, với tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”, đã ký văn bản thừa nhận lãnh hải Trung Quốc bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa.
Sử sách Việt Nam, qua Thiên Nam tứ chi lộ đồ thư (1630–1653) và qua An Nam lộ toàn tập của Đỗ Bá Công Đạo, đã từng ghi các chi tiết về địa lý của Hoàng Sa. Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613–1615) và có thể trước đó nữa, ta đã thành lập các đội Hoàng Sa để dò tìm khoáng sản. Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726–1784), qua tham khảo sổ ghi chép của đội Đức Hầu, cho biết năm 1702, ta đã khai thác được 30 thỏi bạc, năm 1704 được 5100 cân thiếc, năm 1706 được 126 thỏi bạc ở Hoàng Sa. Năm 1925, đoàn khảo sát địa chất dưới quyền lãnh đạo của Tiến sĩ A. Krempf – giám đốc Viện Hải dương học Đông Dương – đã xác định rằng Hoàng Sa nằm trong cấu trúc địa chất của dải Trường Sơn kéo dài ra biển. Ông kết luận: “Về phương diện địa chất, Hoàng Sa đúng là một phần của Việt Nam”
Cho đến sau Cách mạng tháng Tám, trong “Biểu đối chiếu tên cũ và tên mới đối với các đảo ở Nam Hải” ta vẫn ghi rõ tên 172 đảo của mình.
Tiếc rằng, các bản đồ do Cục Bản đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1960, các bản đồ thế giới do Cục Đồ bản trực thuộc Thủ tướng Chính phủ in năm 1972 và do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành năm 1974 đều đã ghi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc Trung Quốc!!!
“Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Những binh sĩ Trung Quốc trẻ ngày nay có thể không nhớ những Bạch Đằng, Đống Đa, Chương Dương, Hàm Tử... Có thể không biết 30 vạn quân Tống đã bị đánh cho tan tác, tơi bời chỉ bởi 10 vạn quân Việt dưới triều nhà Lý; không biết trong cuộc xâm lăng năm 1285, quân Nguyên đông hơn nửa triệu, còn triều đình nhà Trần, lúc động viên cao nhất cũng chỉ có 30 vạn quân. Nhưng, hẳn họ phải biết trong cuộc chiến hồi tháng 2 năm 1979, những người lãnh đạo đất nước họ đã huy động tới 60 vạn quân gồm nhiều quân đoàn và nhiều sư đoàn độc lập, nhiều binh chủng kỹ thuật với gần 800 xe tăng và xe bọc thép, hàng ngàn khẩu pháo, hàng trăm máy bay các loại của hầu khắp các quân khu của Trung Quốc bất ngờ ào ạt tấn công Việt Nam, để rồi 30 ngàn quân trong số đã bị loại khỏi vòng chiến chỉ trong ít ngày.
Hẳn đòn đau vẫn còn ngấm sâu nên các tác giả trên mạng Sina.com cũng còn biết gờm:
“Việt Nam là nước có thực lực quân sự mạnh nhất ở Đông Nam Á, lại có kinh nghiệm chiến tranh phong phú, đặc biệt là kinh nghiệm chiến tranh với các nước lớn quân sự. Cho nên nhìn từ góc độ nào thì Việt Nam cũng là ‘khúc xương khó nhằn’.”
Về tinh thần quyết chiến thì xin hãy nghe đây:
“Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là những phần bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng hòa không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền của mình trên những quần đảo ấy. Chừng nào còn một hòn đảo của Việt Nam Cộng hòa bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy chính phủ và nhân dân Việt Nam Cộng hòa còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình.”
(Trích Tuyên cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hoà về những hành động gây hấn của Trung Cộng trong khu vực quần đảo Hoàng Sa, ngày 19 tháng 1 năm 1974.)
Và đó mới chỉ biểu thị sức mạnh và ý chí của một nửa nước, trong tình trạng đất nước còn đang chia cắt.
Lại nữa, ngày nay không còn như những thời Lý, Trần, Lê, khi mà chống Trung Quốc, Việt Nam chỉ đơn thương độc mã.
Ngay sau chuyến xuất ngoại để lập đường dây nóng với lãnh đạo Trung Quốc của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, tại Washington, trong Tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 24 tháng 6 năm 2008, như một kết quả của chuyến thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đã vang lên lời cam kết “Hoa Kỳ tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” của Tổng thống Hợp chúng quốc châu Mỹ George W. Bush. Củng cố cho lời tuyên bố này, ngày 7 tháng 8 năm 2008, tại Bangkok, một lần nữa Tổng thống Bush lại xác định:
“Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là một mối quan hệ phức tạp và tôi đã tìm cách gỡ rối mối quan hệ này trên bốn nguyên tắc: củng cố liên minh, tìm bạn mới, thắt chặt quan hệ kinh tế, và sau cùng, hợp tác và bảo vệ quyền lợi chung. Bốn nguyên tắc này giúp Hoa Kỳ và đồng minh tại Á châu tạo nên một chính sách căn bản để đối phó với Trung Quốc.”
Trước đó, ngày 1 tháng 6 năm 2008, tại Hội nghị Thượng đỉnh về An ninh châu Á ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates cũng tuyên bố Hoa Kỳ không quên các cam kết của mình đối với an ninh và ổn định tại châu Á.
Gần đây nhất, hôm 20 tháng 8, trong buổi họp báo sau một năm đảm nhiệm chức vụ Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, trong khi các tàu đánh cá mang hỏa tiễn Trung Quốc lởn vởn quanh khu vực mà trước đây công ty BP của Anh thăm dò dầu khí theo hợp đồng với Việt Nam, Đại sứ Michael Michalak đã thêm một lần dằn lại lời tuyên bố kim cương trên kia một cách đầy dụng ý: “Hoa Kỳ ủng hộ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.”
Trở lại với chuyến thăm Hoa Kỳ hồi tháng 6 năm nay của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, vào dịp đó Petro Vietnam đã ký kết hợp đồng thăm do khai thác dầu khí trên cả một dải biển Đông ngoài khơi từ miền Trung đến miền Nam Việt Nam với công ty Exxon Mobil của Hoa Kỳ. Trung Quốc đã phản đối như vẫn được trông đợi, nhưng hôm 28 tháng 7, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lên tiếng phản bác ý đồ gây áp lực của Trung Quốc đối với Exxon Mobil. Đối với những lô thềm lục địa mà trước đây, công ty BP của Anh đã từng tiến hành thăm dò dầu khí rồi phải ngừng lại khi bị Trung Quốc phản đối, báo South China Morning Post (Bưu điện Hoa nam Buổi sáng) cho biết trong mấy tuần gần đây, các nguồn tin từ những công ty dầu khí quốc tế của Anh, Pháp, Nga như BP, Total, Gazprom đều mạnh mẽ xác nhận là sẽ thúc đẩy sự thực hiện những hợp đồng đã có và sẽ ký với Việt Nam.
Trong khi những người Trung Quốc theo chủ nghĩa Đại Hán cực đoan đang hối thúc nhau hãy tận dụng thời cơ lực lượng quân sự Việt Nam – đặc biệt là hải quân – đang còn yếu thế hơn so với họ, đồng thời đang rối ren, lúng túng trước nhiều khó khăn kinh tế - xã hội, để “giải quyết sớm vấn đề Việt Nam” thì phải chăng, họ không nghe biết rằng ở Hoa Kỳ, giới chiến lược gia đã sẵn có một lượng định rằng nếu trước sau Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng sẽ đụng độ nhau trên chiến trường [trong thế kỷ này], thì đụng độ sớm có lợi hơn là nấn ná dành thời cơ cho Trung Quốc giàu mạnh lên. Trong tính toán chiến lược đó, việc Trung Quốc khởi binh đánh Việt Nam sẽ trao cho Hoa Kỳ cơ hội ngàn năm có một để ra tay hủy diệt tiềm năng quân sự và kinh tế của Trung Quốc, đẩy lùi một đại hiểm họa đang treo trước mắt nhân loại.
Tựu trung, cả những trang sử truyền thống, cả những bằng chứng pháp lý về chủ quyền lãnh thổ, cả trạng thái hiện tại của tinh thần dân tộc cùng lòng người trên thế giới đều bảo đảm cho chúng ta hoàn toàn có thể đương đầu và đánh bại ý đồ xâm lăng của Trung Quốc, nếu họ động binh như đang doạ dẫm.
Tuy nhiên, không thể không tính đến một khả năng xấu nếu lại tái xuất hiện ở thời hiện đại một Lê Chiêu Thống phản phúc trải thảm đỏ đón quân xâm lược vào, để cậy nhờ chúng bảo vệ ngai vàng cho mình, bán rẻ Tổ quốc và hy sinh xương máu của nhân dân. Song le, ngay cả trong tình huống đó, cuộc kháng chiến cũng sẽ chỉ thêm phần cam go hơn chứ quyết không thể thất bại: mọi kẻ xâm lược chưa từng và sẽ không bao giờ xây dựng được trên đất nước chúng ta một ngụy quyền ổn định lâu dài. Nếu Liên Xô trước đây từng gặp khó khăn ở Afghanistan, Hoa Kỳ gặp khó khăn ở Iraq một phần thì tại đây, ở Việt Nam, Trung Quốc chắc chắn sẽ phải đương đầu với trăm nghìn phần nguy khốn hơn.
Sức mạnh của Trung Quốc và sự quỷ quyệt của những kẻ theo chủ nghĩa bành trướng ở Trung Quốc rất đáng gờm. Một sách lược mềm mỏng, nhường nhịn nhằm củng cố và duy trì cho được mối bang giao hữu hảo giữa hai nước là lựa chọn cần thiết. Tuy nhiên, nếu chính họ điên cuồng lựa chọn “nhất chiến, an thiên hạ” (“đánh một trận, thiên hạ sẽ ổn định”) thì người Việt Nam sẽ đành lại một phen “đánh một trận sạch không kình ngạc”, để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Hà Nội, 2 tháng 9 năm 2008
[1]bán đảo Trung Nam: cách Trung Quốc gọi bán đảo Trung - Ấn (tiếng Anh: Indochina hoặc Indochinese Peninsula). Hiện nay, khái niệm này có hai nghĩa. Trong nghĩa hẹp, nó đồng nhất với khái niệm bán đảo Đông Dương như thường dùng ở Việt Nam, chỉ vùng lãnh thổ của ba quốc gia Việt Nam, Kampuchea và Lào. Trong nghĩa rộng hơn, nó bao gồm bán đảo Đông Dương cộng với Myanmar, Thái Lan, Tây Malaysia và Singapore. (Chú thích của talawas.)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:18:10 GMT 9
Hà Sĩ Phu Vừa nội xâm, vừa ngoại xâm - Phải làm gì trước? Bài 1: Về nạn ngoại xâm mới Trong khi báo chí đang nói rất nhiều về nạn NỘI XÂM, phải chống nội xâm để cứu nước thì nạn NGOẠI XÂM, sau nhiều năm nung nấu, đã hiện diện ngay giữa lòng đất nước chúng ta. Mất nước nhãn tiền. Việc mất trắng hàng loạt cao điểm quân sự trên đất liền, mất hai quần đảo và kèm theo là một vùng hải phận bao la chẳng những là mất lãnh thổ và tài nguyên mà còn đẩy Việt nam vào tư thế nhục nhã của một nước chư hầu mất khả năng tự vệ và họ bóp là chết. [1] Nhưng hiệu quả còn lớn hơn nữa của hành động thách thức rất côn đồ ấy là hiệu quả làm nhục, từ đó chúng ta sẽ mất hết sức mạnh. Nó chẳng những là cái tát vào mặt cái danh xưng Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, vào một “quân đội nhân dân anh hùng đã đánh thắng mấy đế quốc to” (của một nước tự nhận là cường quốc quân sự), vào mặt 84 triệu người Việt trong và ngoài nước mà còn xúc phạm cả lịch sử mấy nghìn năm chống ngoại xâm, làm cho tất cả những anh hùng dân tộc đã thành tên của các phố phường, trường học trên khắp đất nước này sẽ trở thành trơ trẽn. Cả câu nói của cụ Hồ (“Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”), và cái lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long sắp tới cũng chung số phận. Vậy mà cái nước bị làm nhục, cái đảng bị làm nhục không dám triệu tập đại sứ của họ, không có một hành động trả đũa ngoại giao tương xứng, không một đại diện có thẩm quyền nào dám lên tiếng, chỉ đẩy một nhân viên phát ngôn ra lặp lại mấy câu muôn thuở lấy lệ, và dặn dò cả dân tộc là đừng có nói điều gì thất thố ảnh hưởng đến 16 chữ “vàng” trong quan hệ tốt đẹp của hai nước! Không chịu để nhà nước dán băng keo vào miệng như một cháu nhỏ đáng thương trong trường mẫu giáo nọ, một số sinh viên, văn nghệ sĩ đã biểu tình ôn hoà phản đối hành vi xâm lược thì nhà nước lại đứng ra xin lỗi khéo kẻ xâm lược là “chúng tôi không cho phép họ biểu tình như thế”. Thật đáng khôi hài đến chảy nước mắt. Tự nhận “ra ngõ gặp anh hùng” mà các anh hùng cứ lúng búng trong xó bếp vậy sao? Phải đúc một dấu hỏi to bằng chừng nào trước toà nhà Quốc hội của chúng ta cho xứng đây? Được biết tình hình này, một số cựu chiến binh lão thành phẫn nộ: Họ dựa vào công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 chứ gì? Nếu cần dân Việt Nam sẽ xé toạc công hàm đó, gạch chéo lên công hàm đó: quyết định về lãnh thổ mà không có chuẩn y của quốc hội, không trưng cầu dân ý thì chẳng có giá trị gì, dân xé lúc nào cũng được. Dân chúng tôi không bị ràng buộc bởi công hàm đó! Nước là của dân, dân làm chủ nước, nước bị xâm phạm dân có quyền và có bổn phận phải lên tiếng. Lên tiếng qua các tổ chức và lên tiếng trực tiếp. Quyền yêu nước của mọi người dân là như nhau, dù là một dân thường hay ngài chủ tịch nước, không ai phải xin phép ai để yêu nước cả. Chỉ biểu tình ôn hoà chống kẻ xâm phạm bờ cõi mà phải xin phép mới được biểu tình thì đất nước ấy thật rất xứng đáng làm nô lệ, không có nhân dân anh hùng nào lại ứng xử như con giun như vậy. Dân Việt Nam quyết không chấp nhận sự nô lệ ấy. Kẻ xâm lược nghe được câu nhà nước khuyên dân như thế ắt cười thầm: Bọn này không đô hộ nó thì để làm gì? Bà mẹ Suốt là một bà mẹ Việt Nam anh hùng. Khi ông Tố Hữu hỏi mẹ: Gan chi gan rứa mẹ nờ? thì mẹ trả lời : Mẹ rằng, cứu nước mình chờ chi ai? (“Mẹ Suốt”, thơ Tố Hữu) Đấy, chính người cộng sản khi yêu nước cũng nói như thế. Mẹ Suốt làm rất nhiều việc cụ thể mà còn tự động, không phải hỏi ai, thì sinh viên chưa làm gì, chỉ biểu lộ thái độ ôn hoà sao lại phải hỏi? Sợ mất lòng kẻ xâm lược ư? Việc biểu tình ấy chỉ hỗ trợ thêm sức mạnh cho nhà nước (nếu cùng một chí hướng chống quân xâm lược thì những sự lên tiếng ấy rõ ràng chỉ làm tăng sức mạnh cho nhau). Khi nói những điều này, ta không hề xúc phạm nhân dân Trung Quốc, không nhân dân nào được hỏi ý kiến một cách minh bạch lại đồng ý cho chính phủ mình đi xâm lược các nước láng giềng. Ta cần lên tiếng mạnh mẽ để nhân dân Trung Quốc biết được sự thật mà tránh bị kích động. Ta cũng không hề quên những giúp đỡ to lớn mà nhân dân Trung Quốc đã dành cho nhân dân Việt Nam, chỉ những người gây ra hành động sai trái mới chà đạp lên những kỷ niệm tốt đẹp giữa hai dân tộc. Kẻ ngang nhiên chiếm lãnh thổ nước khác để lập thành phố thì không e ngại gì, mà nạn nhân lại e phản đối sẽ làm “tổn hại đến quan hệ song phương” thì đấy là quan hệ gì vậy? Đất nước Trung Quốc đã từng chịu nỗi đau bị nạn ngoại xâm xâu xé, Người Trung Quốc ắt thuộc làm lòng câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (điều mình không muốn chớ làm cho người khác). Các nhà khoa học và chính trị Trung Quốc có thừa tư liệu lịch sử và pháp lý để biết đất nào của Việt Nam. Nhưng mình để họ khinh nên họ làm bừa (sách Trung Quốc đã có câu Kẻ tự trọng thì sẽ được người khác trọng, kẻ tự khinh thì sẽ bị người khác khinh), điều ấy khiến những người có trách nhiệm của Việt Nam không thể không xem lại tinh thần tự trọng dân tộc của mình đã có phần nào thiếu sót. Nhưng dân tộc Việt Nam thì quyết không để cho người ta khinh được. Chúng ta sẽ không quá khích, vì quá khích là phản ứng của kẻ yếu, nhưng phải công khai, đường hoàng cho xứng với các bậc anh hùng - anh thư thuở trước, hành động phải ngang hàng, phải tương xứng với tình hình và có hiệu quả. Người Việt có dám ngẩng mặt nhìn thế giới hay không là ở chỗ này chứ đừng quan tâm quá đến một chỉ số tăng trưởng GDP mà thực tế chưa đủ bù vào những món nợ lâu dài, bù cho tỷ lệ lạm phát và bù cho sự suy kiệt nhiều tiềm năng quý giá của dân tộc. 11-12-2007 [1]Trong mối nguy cơ cho an ninh tổ quốc còn phải lưu ý đến khối nước khổng lồ của đập thủy điện Sơn La, khi bị đánh phá sẽ cuốn phăng toàn bộ miền Bắc ra biển. Nhân sự của cấp lãnh đạo tối cao cũng là một cửa ngõ để tiến hành xâm lược. Người thực sự lo lắng đến an ninh quốc gia không thể không quan tâm đến những “quả bom” treo lơ lửng trên đầu ấy.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:19:43 GMT 9
Hà Sĩ Phu Vừa nội xâm, vừa ngoại xâm- phải làm gì trước? Bài 2: Dân tộc phải hồi sinh! 1. Mất nước là gì? Ngoại xâm là sự xâm lăng từ bên ngoài, nội xâm là sự xâm lăng từ bên trong, đối với một quốc gia. Nếu quốc gia ấy không chống cự nổi trước sự xâm lăng, dù từ bên ngoài hay từ bên trong, thì kết quả đều giống nhau: mất nước! Có người thắc mắc: trường hợp mất nước vào tay người trong nước là nghĩa làm sao? Xuất phát từ quan điểm Dân là gốc của nước thì ngày nay phải hiểu “mất nước” là tình trạng nhân dân bị mất quyền làm chủ đất nước của mình. Nước vẫn còn đó nhưng dân không làm chủ thì đấy là mất nước! Quyền làm chủ ấy bị mất vào tay người nước ngoài thì gọi là nạn ngoại xâm, mất vào tay kẻ thống trị độc tài trong nước thì đó là nạn nội xâm. Giặc ngoại xâm hay nội xâm đều cướp mất của dân quyền làm chủ đất nước, trong đó có quyền quan trọng nhất là quyền làm chủ đối với đất đai, lãnh thổ. Cả hai trường hợp đều do thiếu dân chủ, thiếu bình đẳng, hoặc là thiếu dân chủ giữa các quốc gia, hoặc do thiếu dân chủ trong nội bộ một nước. Trong thế giới văn minh ngày nay, đại bộ phận nhân dân đã được làm chủ đất nước của mình, song vẫn còn một số tập đoàn cầm quyền muốn tiếm đoạt quyền ấy của nhân dân mình hoặc nhân dân nước khác, làm cho nhân dân bị “mất nước từng phần”, chứ không còn khả năng gây ra sự “mất nước trọn gói” như ngày xưa nữa. 2. Chủ nghĩa đấu tranh giai cấp có hại cho dân tộc Chủ nghĩa tư bản đã và đang tồn tại ở rất nhiều quốc gia, nhưng chẳng bao giờ và chẳng ở đâu phải đưa ra khẩu hiệu “yêu chủ nghĩa tư bản là yêu nước”. Tại sao đến phiên “chủ nghĩa xã hội” lại phải đặt ra vấn đề “yêu chủ nghĩa xã hội là yêu nước”? Tại sao phải cố tình đồng nhất hai tình yêu ấy, cột chặt hai tình yêu ấy với nhau? Nguyên nhân rất đơn giản, vì trên thực tế hai thứ ấy không đồng nhất, không khớp được với nhau, nên phải dùng khẩu hiệu ấy để cố gò nó lại. Không ký sinh được vào chủ nghĩa yêu nước thì cái gọi là chủ nghĩa xã hội chẳng còn sức sống gì. Lúc đầu, sự kết hợp ấy có gây được sự cộng hưởng là do “… lúc ấy cái vòng kim cô Mác - Lê vẫn chỉ mới như một hào quang từ xa, chưa hiện hình tác quái…” [1] . Nhưng chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa đấu tranh giai cấp vốn tiềm tàng những mâu thuẫn cơ bản nên càng về sau càng xung đột. Đấu tranh giai giai cấp ắt phải tiến đến chuyên chính vô sản (Lenin). Trong khi chủ nghĩa yêu nước cần đoàn kết dân tộc và sự phát triển, thì chuyên chính vô sản vừa phá đoàn kết dân tộc vừa kìm hãm sự phát triển. Từ 1989, chuyên chính vô sản khắp nơi trên thế giới bị đào thải, gốc rễ là do nó chống lại chủ nghĩa yêu nước. Những nước cộng sản Đông Âu đuổi chủ nghĩa cộng sản đi chính là đuổi nội xâm để giành lại đất nước. Họ đuổi đi một chủ nghĩa có hại cho đoàn kết dân tộc và sự phát triển, chứ về con người họ càng đùm bọc nhau hơn, như dân Tây Đức và dân Đông Đức, không ai đánh đuổi ai cả. Chủ nghĩa đấu tranh giai cấp vốn coi những gì thuộc về giai cấp quan trọng hơn những gì thuộc về dân tộc, nên mới có xu hướng bỏ qua ranh giới dân tộc để “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”. Ảo tưởng này đã được các nước cộng sản lớn lợi dụng ngay, cái “gia đình các nước xã hội chủ nghĩa” đầy tính chất gia trưởng nên các anh cả chị hai lấn át các nước nhỏ để thu lợi. Về sau, khi quan điểm giai cấp đại đồng ấy bị phá sản, mọi nước trở về với chủ nghĩa yêu nước thì những “việc đã rồi” khó có thể đòi trở lại. Nếu không có cuộc chiến Bắc Nam về ý thức hệ và không có tư tưởng vô sản thì ông Phạm Văn Đồng chắc không dễ dàng nhường cho Trung Quốc quần đảo Hoàng Sa đâu. Khi phe xã hội chủ nghĩa tan rã, Trung Quốc trở thành trụ cột xã hội chủ nghĩa duy nhất thì một lần nữa quan điểm cộng sản lại làm cho nước Việt Nam thiệt thòi nhiều trước một Trung Quốc vốn đầy tham vọng. “Nếu không vướng chủ nghĩa ấy tôi tin chắc rằng những người lãnh đạo Việt Nam ngày nay đã không chịu thế lép, mà cũng hiên ngang như Lý Thường Kiệt, như Quang Trung đã làm chứ không thua kém đâu. Chỉ bởi vì nếu không nương tựa vào Đại Hán thì một cái quái thai cộng sản, cô độc cỏn con, ngược dòng, đứng làm sao được trước dòng chảy văn minh toàn cầu này?... Mấy nghìn năm, Đại Hán đô hộ mãi vẫn không cướp được một tấc đất Việt Nam nào, ‘Nam quốc sơn hà’ một ly cũng không suy suyển. Bây giờ nhờ có cái gọi là chủ nghĩa xã hội quốc tế, họ có thể làm được cái việc ấy mà không tốn một phát tên, một viên đạn nào, có phải thế không? Thế thì trong việc giữ nước, thời kỳ này là mạnh nhất hay yếu nhất trong lịch sử? Nếu những người cầm quyền Việt Nam vẫn cứ đi nước đôi, cố nắm ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, tức là cùng một lúc cầm cả hai ngọn cờ, thì nguy cơ báo trước rằng ngọn cờ Dân tộc sẽ tuột khỏi tay, bởi ngọn cờ Dân tộc bao giờ cũng thuộc về những người yêu nước chân chính, không chấp nhận bất cứ một vòng kim cô nào chụp lên đầu Dân tộc!” [2] Không nghi ngờ gì nữa, chủ thuyết cộng sản rất có hại cho chủ nghĩa yêu nước, nó là một nguồn nảy sinh và nuôi dưỡng nội xâm, làm lợi cho ngoại xâm, khẩu hiệu “yêu chủ nghĩa xã hội là yêu nước” là một khẩu hiệu ngược. 3. Vừa nội xâm vừa ngoại xâm - phải làm gì trước? Muốn chống được ngoại xâm cần phải lo xa. Lo xa không gì bằng phải dẹp nội xâm trước hết, vì đây là nhân tố trực tiếp hay gián tiếp rước ngoại xâm vào. Nội xâm làm cho dân nghèo, dân khổ, dân oán. Ngay nội bộ cầm quyền cũng lục đục lo đối phó với nhau. Như vậy dân tộc bị tiêu ma sinh lực, tạo cơ hội cho ngoại xâm. Muốn chống nội xâm phải có một hệ thống chính trị dân chủ, bình đẳng, có luật pháp công minh, song đó đều là những yêu cầu mà một hệ thống chính trị có gốc là chuyên chính vô sản, với một đảng duy nhất cầm quyền vô thời hạn như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên khó lòng thực hiện được. Trong những nước xã hội chủ nghĩa này, mọi sự đoàn kết chỉ ở ngoài vỏ, giữ yên xã hội chủ yếu là bằng quyền lực. Các hội chứng dối trá, bạo hành, vô cảm đục ruỗng xã hội. Tất cả tai vạ đều trút xuống kẻ không quyền lực là dân thường, như thế họ không thờ ơ với đất nước sao được? Trong bài “Để cứu Trường Sa” tác giả Trần Khải đã có một câu chí lý: “Nếu không cho người dân quyền làm chủ thực sự, thì mảnh đất hình chữ S cũng sẽ là đất lạ!” (đất nước này không phải của dân?). Trong khi việc “Chống nội xâm, cứu nước” [3] còn bế tắc như thế thì tình huống ngoại xâm đã đến! Buộc phải tập trung “đối ngoại” đã, nhưng chống ngoại xâm khi nội xâm đang là quốc nạn thì quả thực vô cùng khó khăn. Khắc phục bệnh thờ ơ - vô cảm để người dân vào cuộc tranh đấu đã khó nhưng xuống đường rồi có thể lại bị chính nhà cầm quyền cản trở mới thật ngược đời (đáng lẽ nhà nước phải vận động, khuyến khích chứ?). Nhưng bế tắc tận cùng sẽ thấy lối ra. Quy luật xưa nay, khi đất nước bị bên ngoài xâm lăng bao giờ cũng gây ra hai hiệu ứng trái ngược: một hiệu ứng tích cực là làm cho tinh thần dân tộc thức tỉnh, dẹp oán thù, dị biệt nội bộ để lo cứu nước, còn hiệu ứng tiêu cực là làm cho kẻ cơ hội bám lấy ngoại bang, ve vãn để kiếm chác, kẻ yếm thế thì càng trùm chăn. Nhưng thật vui mừng khi thấy trong trường hợp xã hội ta hiệu ứng tích cực có lẽ mạnh hơn, ít nhất là trong lúc này. Sau các cuộc biểu tình sáng 9-12, một sinh viên đã viết: Sinh viên biểu tình, phải đâu chuyện lạ Nhưng nước mình khác nước người ta! Nếu quả thực đã hồi sinh được hồn dân tộc Thì thực tình, tôi cám ơn kẻ cướp Trường Sa … Một sớm mùa đông, nước non này ấm lại… [4] Nước non đã ấm lại vì xuất hiện nhiều nhân tố mới mấy chục năm nay chưa từng có, sinh viên biểu tình, có các văn nghệ sĩ và một số người đứng tuổi tham gia. Lần đầu tiên xuất quân mà họ chững chạc, đàng hoàng, khôn ngoan, linh hoạt, cứng dắn. Cô văn sĩ rất trẻ Lynh Bacardi (thế hệ 8x) nói: “Ðây, cuộc mở miệng đầu tiên của chúng tôi. Ðây, lần đầu tiên chúng tôi thực hiện một trong những quyền cơ bản của con người. Ðây, chúng tôi cảm nhận được nhiệt huyết sôi sục trên gương mặt nhau. Ðây, chúng tôi nhắc nhở cho chính phủ Việt Nam biết nhân dân Việt Nam còn tồn tại và biết họ cần làm những gì cho đất nước”.“Nếu chủ nhật tới và những chủ nhật về sau có buổi xuống đường, tôi xin lại được tiếp tục đứng bên cạnh các bạn.” [5] Nhà thơ Hoàng Hưng cũng tham gia biểu tình và phát hiện một vấn đề chính trị rất trúng: ”Rõ ràng là khi lòng yêu nước xuất phát từ đáy con tim chúng ta, không bị ai dắt mũi, ra lệnh, áp đặt, thì nó thực sự trở thành sức mạnh. Người dân thờ ơ với chính trị chỉ là do cái chính trị ấy không hợp với lòng dân, cái chính trị của ai đó độc quyền làm với danh nghĩa người dân.” [6] Rõ ràng là một thể chế áp đặt, thủ tiêu quyền làm chủ của dân thì cũng thủ tiêu luôn cái hồn dân tộc, nhưng hôm nay các bạn trẻ đã làm cho cái hồn đó hồi sinh. Cám ơn “kẻ xâm lược” như lời Thái Hữu Tình là phải lắm! Đọc thấy trên các trang Web dân chủ có thông báo ký tên phản đối Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ [7] , rất nhiều bạn bè quanh tôi ký tên ngay, không cần biết người đứng ra tổ chức là ai. Họ bảo: Ai đứng ra cũng được, việc này là chung của tất cả những ai là người Việt Nam, mọi ranh giới về chính trị, tôn giáo, đảng phái đều không còn nữa! Trong phong trào dân chủ đang có nhiều dị biệt nhưng đến việc này lại gần gũi nhau hơn. Hôm biểu tình có anh công an đã nói nhỏ với một sinh viên: nếu không vướng bộ quần áo này thì tôi đã đứng vào với các anh rồi. Tổ quốc đúng là mẹ hiền, vì chỉ có mẹ mới ôm được tất cả những đứa con xung khắc vào trong một vòng tay. Giả dụ trong cuộc biểu tình có một công an đứng ra ngăn cản, sinh viên có thể giãi bày: Ở đây chỉ có hai bên, một bên là những người Việt Nam giữ gìn lãnh thổ, phía bên kia là kẻ xâm lấn đất nước ta, vậy đồng chí thuộc bên nào?... Nói thế mà công an còn kiên quyết giải tán những người yêu nước ôn hoà thì chẳng ngượng với lương tâm lắm sao? Ví dụ thì còn nhiều, thực tế thật phong phú. Sự nghiệp chống nội xâm là việc căn bản của ta, còn phải làm dài dài. Nhưng việc chống ngoại xâm cấp thiết trước mắt bỗng dưng lại thành nhân tố tích cực, nó thức tỉnh, hoạt hoá xã hội, thêm người tốt, bớt người xấu, kéo mọi người lại gần nhau… Liên kết dân tộc càng mạnh thì càng có khả năng phân hóa nội xâm, cô lập ngoại xâm. Hai mặt trận chống nội xâm và chống ngoại xâm nhịp nhàng cùng một lúc lại hỗ trợ cho nhau mới hay chứ! Không buồn mà lại vui. Chủ nghĩa Mác đã dạy: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là ngày hội của quần chúng”, nhất là quần chúng trẻ dồi dào trí tuệ và sinh lực. Cứ vào thực tiễn sẽ thấy lối ra. “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi”. Hay thật. 12-11-2007 [1]Hà Sĩ Phu: “Phải có dân chủ mới giữ được độc lập dân tộc”: www.doi-thoai.com/baimoi1105_011.html [2]Hà Sĩ Phu, bài đã dẫn [3]Bùi Minh Quốc: “Chống nội xâm, cứu nước!”: www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11093&rb=0401 [4]Thái Hữu Tình: “Dân tộc hồi sinh?” www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2318 [5]Lynh Bacardi: www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11703&rb=0401 [6]Hoàng Hưng: “Khi lòng yêu nước không bị áp đặt”: www.talawas.org/talaDB/binhluan.php [7]Tuyên cáo chống Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam: www.gopetition.com/online/15673.html
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:23:41 GMT 9
Bùi Minh Quốc Chống nội xâm, cứu nước! (Thư ngỏ kính gửi các anh Nông Đức Mạnh, Nguyễn Đức Bình, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Phan Đình Diệu, Lê Đăng Doanh, Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh, nhờ báo Nhân Dân và các báo đài trong ngoài nước công bố giúp) Thưa các anh, Ngày 10 tháng 3 năm nay, 2007, anh Lê Hồng Hà, nguyên Chánh văn phòng Bộ Công an, từ Hà Nội gọi điện vào Đà Lạt nói chuyện với tôi và anh Hà Sĩ Phu. Anh Lê Hồng Hà mong muốn tiến hành một cuộc thảo luận công khai giữa chúng tôi, cùng nhau phân tích nhận định tình hình nước ta từ năm 1975 tới nay, cùng nhau góp phần xây dựng một nền móng lý luận và tư tưởng về phát triển và dân chủ hoá của Việt Nam. Hôm ấy, qua điện thoại khoảng 30 phút, anh Lê Hồng Hà đã phát biểu phần ý kiến của mình. Ít ngày sau, trên ti-vi, tôi thấy và nghe anh Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư, phát biểu tại Hội đồng Lý luận Trung ương nhấn mạnh rằng cần tôn trọng các ý kiến khác biệt. Kể ra điều này không có gì mới, vì chủ trương tôn trọng các ý kiến, chính kiến khác biệt, đã được công khai khẳng định nhiều lần ở cấp cao nhất, nhưng lần này được nhắc lại, hẳn không phải chỉ để nói mà để làm. Tôi rất mong những người lãnh đạo ở cấp cao nhất sớm tự vượt mình ra khỏi cái căn bệnh kinh niên nói một đằng làm một nẻo, trước hết trong việc tôn trọng những ý kiến khác biệt, cần thể hiện sự tôn trọng ấy ngay hôm nay, chậm nhất ngay ngày mai: hãy dành ngay một trang mục thường xuyên trên báo Nhân Dân, đài Tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam công bố những ý kiến khác biệt về các vấn đề quốc sự được nghiền ngẫm bấy lâu từ những trí tuệ hàng đầu của đất nước cả trong lẫn ngoài Đảng. Mấy tháng qua, tôi đã đọc đi đọc lại những ý kiến gần đây luận bàn đầy tâm huyết và trách nhiệm của các anh Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Lữ Phương, Phan Đình Diệu, Lê Đăng Doanh, Mai Thái Lĩnh, tuy không được đăng tải trên báo đài chính thức của Đảng và Nhà nước nhưng được công bố trên mạng internet và được photo truyền nhau khá rộng rãi trong các lão thành cách mạng, các cựu chiến binh, các nhà giáo và cả các sinh viên. Tạm lược kê: Của anh Lê Hồng Hà: bài vừa dẫn trên đây và một số bài trước kia về nhu cầu xây dựng một nền lý luận về phát triển và dân chủ hoá của Việt Nam, về con đường xã hội dân chủ Của anh Hà Sĩ Phu: bài “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội” Của anh Phan Đình Diệu: bài “Một số suy nghĩ về con đường tiếp tục đổi mới của đất nước ta” [1] Của anh Lê Đăng Doanh: bài Thuyết trình trước Bộ Chính trị ngày 2-11-2004 [2] Của anh Mai Thái Lĩnh: bài “Dân chủ-xã hội là gì?” và “Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh” Của anh Lữ Phương: bài “Về vấn đề dân chủ hoá ở Việt Nam” [3] và bài “Nói thêm về tiến trình chuyển hoá dân chủ” [4] Điều rất đặc biệt là từ những suy nghĩ riêng nhưng ý kiến chung của các anh đều hướng đến con đường xã hội dân chủ như một lối ra phù hợp hơn cả, có tính khả thi hơn cả cho Việt Nam. Qua bức tâm thư gửi các đại biểu Đại hội lần thứ 10 của Đảng, tôi đã bày tỏ sự tán thành của mình đối với ý hướng đó của các anh. Gần đây tôi được đọc bài “Tiếp tục một cách kiên định và sáng tạo con đường xã hội chủ nghĩa” của anh Nguyễn Đức Bình đăng hai kỳ trên báo Nhân Dân. Xin có mấy nhận xét sơ bộ như sau: Những cái mà anh Nguyễn Đức Bình kiên định thì rất lạc hậu, đã bị thực tiễn lạnh lùng vượt qua một cách hiển nhiên, đáng kể nhất là sự kiên định một quan điểm căn cốt cố hữu được khẳng định lại tại Đại hội Đảng lần thứ 7 năm 1991; đó là định nghĩa về thời đại (quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới), còn những cái mà anh gọi là sáng tạo thì khó ai thấy được có gì là sáng tạo. Xin dẫn chứng: “Có thể hình dung thế nào mô hình về sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Cương lĩnh năm 1991 của Ðảng đã vạch rõ những điểm căn cốt nhất trong bức tranh tổng thể, rồi đây sẽ được nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm. Tôi nghĩ những ý sau đây nên làm đậm nét hơn trong Cương lĩnh: đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Ðảng Cộng sản Việt Nam; dân chủ hoá đời sống trong Ðảng và trong xã hội đi đôi với kỷ cương, phép nước chặt chẽ, với chuyên chính đối với những kẻ thù chống lại lợi ích Tổ quốc và nhân dân; tăng trưởng kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và chính sách xã hội; phát triển rất mạnh giáo dục, văn hoá, khoa học, xây dựng con người mới, đào tạo nhân tài, tạo dựng cho được nền tảng tinh thần xã hội cao đẹp; kiên quyết lành mạnh hoá đạo đức xã hội và lối sống con người…, bài trừ cho được các tệ nạn xã hội, sự tha hoá xuống cấp trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức.” Cái cần kiên định trước tiên là chủ trương làm nức lòng người từ đại hội Đảng lần thứ 6: NHÌN THẲNG VÀO SỰ THẬT, NÓI RÕ SỰ THẬT, thì anh Nguyễn Đức Bình không được kiên định cho lắm nên bài viết thiếu tính thuyết phục, không hề đáp ứng được khát khao “nhìn thẳng vào sự thật” của người đọc. Xin mạn phép thưa lại với anh Nguyễn Đức Bình: tôi đố anh chứng minh được một cách khoa học cho chúng tôi thấy cái giai cấp công nhân Việt Nam trong đoạn văn trên của anh (cùng là trong các văn kiện Đảng) chính là cái giai cấp công nhân đại công nghiệp đủ tố chất để gánh vác sứ mệnh lãnh đạo xã hội trong văn bản của Mác, hay nó chỉ là sản phẩm hoang tưởng được vẽ vời trên mặt giấy trong các văn kiện và trong các công trình tiêu phí tiền dân hàng trăm tỷ đồng của các nhà “lý luận nói lấy được” (chữ dùng của cố trung tướng Trần Độ), chứ nó chưa hề tồn tại trong hiện thực? Theo nhận xét của riêng tôi, bằng cặp mắt thường của một chiến sĩ cả đời làm thơ (nay đã 67 tuổi) nhìn từ quán cóc vỉa hè thì giai cấp công nhân Việt Nam trong thời gian qua (và còn tiếp tục trong thời gian tới nữa) chỉ là đối tượng để lợi dụng mồ hôi xương máu và danh nghĩa bởi một thực thể chính trị đậm chất nông dân mang tên là Đảng Cộng sản Việt Nam mà một bộ phận quan trọng trong giới cầm quyền đã trở thành tư bản (hoang dã), chứ giai cấp công nhân đang tồn tại bằng xương bằng thịt trên khắp đất nước này chẳng có vai trò/ liên đới gì trong cái gọi là “sự lãnh đạo/ cầm quyền” ấy cả. Nói đến giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam thì không thể không nói đến điều 4 Hiếp pháp mà tôi đã đề nghị cần phải bỏ (trong một thư ngỏ viết tháng 10.1993 gửi Quốc hội). Vì sao tôi lại đề nghị bỏ điều 4? Xin thưa vì những lý do sau đây: Khi chưa có điều 4, dân rất tin Đảng, lòng tin ấy một phần là tin vào mục tiêu độc lập, tự do, dân chủ mà Đảng nêu cao, phần chính là tin qua tấm gương dũng cảm, tận tuỵ, hy sinh, liêm khiết của đông đảo những con người đảng viên cụ thể mà người dân chứng kiến hàng ngày giữa thiếu thốn, đói no, tù đày, sống chết. Nhưng rồi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, từ khi có điều 4, lòng tin của dân đối với Đảng kém sút hẳn, Đảng trở nên hư hỏng, đường lối thì sai lầm, đưa đất nước đến bên bờ vực (Đại hội 4), cán bộ thì thoái hoá, sa đoạ với tốc độ, qui mô ngày càng khủng khiếp và chiều hướng ngày càng khó ngăn chặn. Phải chăng vì Đảng mất chỗ đứng trong lòng dân, nên mới phải bám vào điều 4 để ngồi trên đầu dân và bước đi chệnh choạng trên đôi chân cà khoeo - một bên súng, còng (quân đội, công an), một bên loa (hệ thống thông tin đại chúng độc quyền)? Như vậy, rõ ràng điều 4 chỉ cần thiết cho một bộ phận đã tha hoá, cố thủ sau bình phong Đảng lãnh đạo để giữ đặc quyền đặc lợi, chứ hoàn toàn không cần thiết cho Đảng mà lại làm hại Đảng. Điều 4 ghi rằng Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, theo chủ nghĩa Mác Lê-nin, Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội…, toàn bộ nội dung này bất ổn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Hãy dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật: - Đảng không phải là đội tiền phong của giai cấp công nhân, ngay cả những công nhân hầm mỏ Quảng Ninh vừa cởi chiếc áo nâu lấm bùn để khoác vào chiếc áo xanh thợ, chứ chưa nói là giai cấp công nhân đại công nghiệp như Mác xác định. Những sai lầm chết người như cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, đường lối phiêu lưu duy ý chí của Đại hội 4 đưa đất nước đến bờ vực thẳm chẳng phải là biểu hiện tày đình của một thứ chủ nghĩa nông dân mo cơm quả cà tệ hại nhất đó sao? Còn nhớ, năm 1978 Đảng có nghị quyết chống tập đoàn cầm quyền bành trướng Bắc Kinh, trong đó đã đặt vấn đề phê phán tư tưởng nông dân. Sau cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, Tổng Cục chính trị Quân đội Nhân dân triển khai cuộc học tập lý luận chống chủ nghĩa Mao, phân tích phê phán tư tưởng nông dân - cơ sở xã hội của chủ nghĩa Mao - dịp ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu có một ý phân tích ngắn gọn mà cực kỳ sắc sảo: anh nông dân nào cũng thích làm vua, cốt lõi tư tưởng nông dân là thích làm vua. Nhưng thật lạ, cuộc học tập phê phán đang tiến hành sôi nổi hào hứng thì bị ngừng lại đột ngột theo lệnh trên. Mọi người bảo nhau: các ông trên các ông ấy sợ, bắt ngừng lại là phải thôi, bởi vì mới phân tích sơ sơ đã thấy lòi ra đặc sệt cái chất nông dân của Đảng mình. - Đảng tuyên bố theo chủ nghĩa Mác Lê-nin, nhưng trong Đảng may lắm cũng chưa chắc có được 1% đảng viên nắm vững chủ nghĩa ấy, còn trong cán bộ từ Bí thư Tỉnh uỷ trở lên thì liệu có được 0,001%? Tiện thể xin hỏi: anh Nông Đức Mạnh có dám tự khẳng định trước các nhà lý luận rằng anh nắm vững chủ nghĩa Mác Lê-nin? Tuyên bố theo một chủ nghĩa (với giả định là chủ nghĩa ấy đúng hoàn toàn) mà chỉ có được chừng đó người nắm vững chủ nghĩa thì chẳng ai tin, người đời bảo thế là “treo đầu dê bán thịt chó”. Một thực tế sừng sững như dãy Trường Sơn cho thấy chủ nghĩa Mác Lê-nin đã phá sản ngay tại nơi mà nó ra đời, một bộ phận trong giới lãnh đạo mấy Đảng cầm quyền ở Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào sở dĩ còn cố níu giữ không phải vì giá trị khoa học mà vì muốn sử dụng chủ nghĩa như một công cụ cai trị tiện lợi nhất: có chủ nghĩa Mác Lê-nin thì mới có độc quyền cai trị của Đảng Cộng sản (thực chất là độc quyền của thiểu số đặc quyền đặc lợi trong Đảng), có vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, có sở hữu toàn dân về đất đai - những miếng mồi béo bở nhất cho tham nhũng, có chuyên chính vô sản mà nòng cốt là công an, quân đội và hệ thống truyền thông đại chúng độc quyền (trong các văn kiện chính thức không dùng cụm từ “chuyên chính vô sản” nữa, nhưng bản chất hệ thống chính trị vẫn y như cũ) để dễ bề “dùng chuyên chính vô sản để tích luỹ tư bản” (phát hiện năm 1988 của Hà Sĩ Phu). Hơn nữa, đưa chủ nghĩa Mác Lê-nin vào điều 4 là một hành vi quốc giáo hoá chủ nghĩa ấy, là chăng lưới thép trên bầu trời tư duy của toàn dân tộc, ngăn chặn mọi cánh chim trí tuệ Việt Nam vút lên, rồi đặt thành một môn học bắt buộc đối với học sinh, sinh viên, công chức, người dạy không tin vào điều mình dạy, người học cũng chẳng tin vào điều mình học; đó rành rành là hành vi ngu dân (trước hết là ngu Đảng) đại qui mô giống hệt các giáo quyền trung cổ. Nếu vậy thì đó là một tội lớn về tư tưởng và văn hoá đối với đại đa số đảng viên, với dân tộc và nhân loại. - “Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội…”, mệnh đề thứ ba của đều 4 ghi như thế. Vậy thế nào là lãnh đạo? Hai chữ lãnh đạo đã được xác định từ lâu rất rõ ràng, giản dị như sau: lãnh đạo là vận động, giáo dục, thuyết phục bằng tư tưởng đúng, đường lối đúng, bằng sự gương mẫu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ. Vậy thì cần gì một hệ thống biên chế từ xã đến huyện, tỉnh, trung ương đông đúc cồng kềnh đến thế với lớp lớp trụ sở xe cộ nghênh ngang sang trọng tốn kém đến thế mà nội dung công việc phần lớn trùng lặp chồng chéo với cơ quan nhà nước, tất cả đều chi xài bằng tiền thuế của dân, quyền hành thì nắm toàn diện triệt để tuyệt đối mà trách nhiệm thì hết sức chung chung, hết sức mù mờ. Cũng cần nhắc lại, năm 1993 khi đề nghị bỏ điều 4, tôi đã đồng thời nêu rõ: chừng nào chưa bỏ điều 4 thì phải có ngay một bộ luật về sự lãnh đạo của Đảng để xác định rạch ròi quyền hạn và trách nhiệm, ngăn và chống tình trạng lạm quyền lộng quyền nhân danh sự lãnh đạo của Đảng; lãnh đạo đúng thì được ghi nhận, lãnh đạo sai gây hại cho dân cho nước thì phải ra toà. Điều 4 được thông qua bằng một Quốc hội không đại diện cho dân bởi các đại biểu đều do Đảng (thực chất là một vài cá nhân nắm giữ công việc nhân sự của Đảng) sắp đặt, hoạt động một cách hình thức. Việc đó nói thẳng ra thì đích thị là một xảo thuật pháp lý nhằm đưa Đảng (thực chất chỉ là một vài người ở cấp tối cao của Đảng) lên ngôi vua. Nhiều nhà trí thức trong và ngoài Đảng cùng nhiều lão thành cách mạng gọi chế độ chính trị hiện hành là chế độ phong kiến trá hình hay chế độ toàn trị (đang biến chủng thành hậu toàn trị) là đã gọi rất đúng tên sự vật. Tóm lại, điều 4 là một bằng chứng hiển nhiên về sự đối chọi giữa danh và thực, một xảo thuật cầm quyền hết sức thiếu dân chủ, nói thẳng ra là sự dối trá, một sự dối trá bao trùm lên toàn bộ đời sống xã hội. Bỏ điều 4 là Đảng trút bỏ được một gánh nặng, thoát khỏi thế kẹt để trở về chỗ đứng vững chắc trong lòng dân, từ đó tiến hành đổi mới bản thân Đảng bằng nguồn sức mạnh từ nhân dân. Còn nhiều vấn đề rất căn bản trong bài của anh Nguyễn Đức Bình cần được thảo luận đến nơi đến chốn, tôi chỉ nêu sơ bộ vấn đề giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam như trên. Nhưng vấn đề hệ trọng hơn hết, vấn đề bao trùm lên mọi vấn đề là dân chủ hoá, là đổi mới hệ thống chính trị, là chuyển hệ thống chính trị toàn trị (đang biến chủng sang hậu toàn trị) hiện hành thành một hệ thống chính trị dân chủ (theo tôi ban đầu hãy cứ cố được như Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân thực hiện năm 1946 là mừng lắm rồi) bằng những bước đi thích hợp nhất, những biện pháp ít gây xáo trộn nhất với vai trò chủ động của Đảng, trong đó sự thức tỉnh về ý thức, ý chí và hành động của từng đảng viên, từng người dân về quyền làm chủ - đảng viên làm chủ Đảng, công dân làm chủ các hội đoàn mà họ tham gia – là sức mạnh quyết định. Như tôi vừa nêu trên, một số nhà trí thức trong và ngoài Đảng đã đề xuất một lối ra cho Đảng, cũng là lối ra cho toàn dân tộc, là con đường xã hội dân chủ. Bên Trung Quốc, các nhà nghiên cứu, đồng thời là cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản như Tân Tử Lăng, Tạ Thao cũng đã nêu ra con đường xã hội dân chủ. Thế đấy, một sự tương hợp thật lý thú, sau bao nhiêu dồi dập hỗn mang (nhân danh Mác) diễn ra trên một vùng đất thuộc phương Đông xa xôi và bí ẩn (đối với Mác), sau bao nhiêu khổ nạn khổ công tìm kiếm, nhiều trí thức từ những nguồn cội khác nhau nhưng có chung cuộc đời theo Mác đã cùng gặp nhau ở con đường xã hội dân chủ. Các học giả Trung Quốc đều là những đảng viên cao cấp “canh cánh một lòng cứu Đảng”, như Tạ Thao bày tỏ. Các trí thức nước ta mà tôi dẫn tên trên đây cũng đều một lòng một chí tìm kiếm khoa học và đề xuất với Đảng cầm quyền một con đường phát triển và dân chủ hoá tối ưu cho dân tộc, con đường xã hội dân chủ. Thực ra, qua nghiên cứu của anh Mai Thái Lĩnh, cuộc tìm kiếm và gặp gỡ con đường xã hội dân chủ ở ta đã khởi từ cụ Phan Châu Trinh. Và Phan Châu Trinh, một nhà Nho hâm mộ những tư tưởng tiến bộ của Âu Tây nhưng với một bản lĩnh tư duy độc lập cực kỳ vững vàng và nhạy bén, cụ sớm lên án bệnh hủ Nho và cảnh báo bệnh hủ Âu, ngay từ 1925 đã nhấn mạnh vấn đề tiếp thu tư tưởng xã hội dân chủ Âu Tây phải gắn với việc phát huy những yếu tố tích cực, khắc phục những yếu tố tiêu cực trong con người và văn hoá Nho giáo Việt Nam. Nếu biết đánh giá đúng tầm quan trọng của phát hiện này và quảng bá rộng rãi, sẽ càng khiến Đảng ta dân ta thêm tự tin. Anh Nguyễn Đức Bình hẳn cũng canh cánh một lòng cứu Đảng, nhưng anh cứu bằng cái bài thuốc bấy lâu Đảng vẫn dùng mà càng dùng càng suy yếu. Còn với bài thuốc Tân Tử Lăng, Tạ Thao bốc cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, đảng ấy chưa có ý kiến gì chính thức, thì anh Bình quá lo cho giới cầm quyền bên ấy, vội can “chớ ảo tưởng về con đường xã hội dân chủ”, thậm chí còn lên án vô căn cứ người ta “xuyên tạc, bóp méo, bôi nhọ Mác, Ăng-ghen và chủ nghĩa Mác”. Phải chăng anh Bình đang thực hiện việc hợp tác về công tác lý luận giữa Đảng ta với Đảng Cộng sản Trung Quốc, dùng ngòi bút của mình để ngăn trở xu thế đổi mới tư duy ở cả hai nước? Đảng ta đang bế tắc về lý luận (ngấm ngầm phản bội chủ trương của Đại hội 6, không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám nói rõ sự thật thì sao khỏi bế tắc?), anh Bình muốn cứu Đảng, nhưng tôi ngờ rằng anh cứu Đảng từ một lập trường lệ thuộc, tức lập trường vong bản. Nhân đây, tôi lưu ý các anh, cũng là lưu ý toàn Đảng toàn dân một việc như sau: trong buổi trả lời phỏng vấn của đài RFI phát 10g đêm 15.9.2007, nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng thông báo với mọi người rằng ông đã soạn một cuốn sách với rất nhiều bằng chứng giá trị chứng minh chủ quyền của nước ta trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, với sự nhất trí và giới thiệu của nguyên trưởng ban biên giới của chính phủ là Lê Minh Nghĩa, nhưng gửi đến nhà xuất bản nhiều năm nay vẫn không được in, trong khi đó một cuốn từ điển của Trung Quốc mới xuất bản, ở mục về Hoàng Sa và Trường Sa họ ghi rõ chủ quyền của họ thì lại được ngang nhiên bày bán tại hội chợ sách TP HCM. Thế là thế nào? Nếu người dân bảo đó là lập trường vong bản, bán nước thì ta cãi sao đây? Theo tôi, anh Nông Đức Mạnh và bộ chính trị phải có trách nhiệm đảm bảo cho cuốn sách nói trên của nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng được xuất bản ngay. Trong một bài viết, anh Nguyễn Đức Bình đã yêu cầu “phải đặt tất cả mọi bất đồng lên bàn tranh luận công khai”. Thật là một đề xuất đáng khích lệ, làm nức lòng các nhà lý luận từ mọi phía, bởi được nêu ra dưới ngòi bút của một nhà lý luận hàng đầu của Đảng ta, từng nhiều năm giữ những cương vị quan trọng: Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách văn hoá tư tưởng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. Anh Nông Đức Mạnh đã nhiều lần tuyên bố “tôn trọng các ý kiến khác biệt”, đương nhiên không thể không sớm đáp ứng yêu cầu rất chính đáng ấy của anh Nguyễn Đức Bình, cũng là của tất cả những ai làm lý luận và quan tâm đến lý luận. Vậy tôi mong báo Nhân Dân sau khi đã đăng bài anh Nguyễn Đức Bình thì cần phải đăng bức thư ngỏ này của tôi, đăng bài “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội” của anh Hà Sĩ Phu là bài liên quan trực tiếp đến bài lý luận của anh Nguyễn Đức Bình, đồng thời mời các anh Lê Hồng Hà, Lê Đăng Doanh, Hà Sĩ Phu, Phan Đình Diệu, Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh viết bài tranh luận với anh Nguyễn Đức Bình. Tôi cũng đề nghị nên mời tác giả Tạ Thao của Trung Quốc viết bài trả lời anh Nguyễn Đức Bình. Thêm nữa, nên mời các nhà lý luận và các nhà chính trị của các đảng xã hội dân chủ Bắc Âu, Tây Âu viết bài cho báo Nhân Dân giới thiệu cả về lý luận lẫn kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chế độ xã hội dân chủ của họ. Thưa các anh, Thư tuy đã hơi dài, nhưng trước khi dừng bút tôi muốn bày tỏ thêm đôi điều tâm sự. Chúng ta đều đã quá cái tuổi “tri thiên mệnh” từ lâu, có anh đã quá bát thập rồi, bàn chân đã mấp mé ngưỡng cửa hư vô rồi. Ở cái tuổi này, mỗi lời nói, mỗi trang viết, mỗi việc làm đều là chắt lọc sự nghĩ và sự trải của cả một đời, là biểu hiện một lẽ sống đã được xác quyết, trong thâm tâm không thể không tự biết cuối cùng ta đã sống một cuộc đời có ý nghĩa hay vô nghĩa, ta đã góp được gì có ích cho đời để đời thương kính hay làm hại đời để chuốc lấy lời nguyền rủa muôn đời trút lên đầu con cháu. Chắc chắn là anh Nguyễn Đức Bình không thể không đọc các bài viết mấy năm gần đây của anh Hoàng Tùng - một bậc đàn anh của anh về lý luận Mác Lê-nin, và anh Bình không thể không hiểu vì sao anh Tùng lại phải cầm bút thổ lộ cho mọi người biết những suy nghĩ đã rất khác trước của mình về cái chủ nghĩa mà mình gần hết cả đời tôn thờ, truyền giảng. Đọc đi đọc lại bài của anh Nguyễn Đức Bình, tôi cứ muốn hỏi anh: này anh Bình, xin hãy nói thật lòng, anh có tin vào những điều mình viết không? Và anh Nông Đức Mạnh, anh có thực sự cho rằng bài viết của anh Nguyễn Đức Bình là lý luận khoa học? Và xin hỏi anh Mạnh anh Bình, hai anh có thật sự nghĩ rằng giai cấp công nhân Việt Nam đang lãnh đạo xã hội Việt Nam? Hai anh trong thâm tâm có dám tự nhận mình là người đầy tớ của nhân dân (mấy năm gần đây không thấy nhắc lại cụm từ này trong các văn kiện và các phát biểu, hẳn vì không còn đủ can đảm để thốt ra một danh xưng đã trở thành hài hước)? Từ khi vào Trung ương rồi vào Bộ Chính trị, hai anh có thực tâm coi vị trí công tác của mình là vị trí chiến đấu vì dân vì nước, vì lẽ phải và công lý (như các anh thường xuyên lên bục rao giảng cho cán bộ, đảng viên) hay đó chỉ là “chiến đấu” nhằm giữ ngai, giữ ghế vua quan cách mạng? Tôi biết hai anh sẽ không chính thức trả lời tôi, nhưng vào những đêm mất ngủ của tuổi già, các anh không thể không trả lời cho chính lương tâm mình, lương tri mình. Tôi tin ở sức mạnh của lương tâm, lương tri. Đó là một sức mạnh vô địch, trường cửu. Sức mạnh ấy tồn tại và truyền nối trong hồn thiêng của tổ tiên ta, của tất cả những người con bao đời nay đã hiến dâng mồ hôi xương máu cho đất Mẹ Việt Nam yêu dấu ngàn năm của chúng ta. Sức mạnh ấy sống mãi trong mỗi con người Việt Nam, trong trời đất cỏ cây sông núi Việt Nam, sức mạnh ấy là nguồn sống nguồn sáng vĩnh hằng đang ngày đêm rọi chiếu cõi lòng tất cả những ai đã nguyện thề làm người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Sức mạnh ấy cũng đang ngày đêm rọi chiếu vào tận ngóc ngách đen tối nhất trong cõi lòng những kẻ thẻ-đỏ-tim-đen, những kẻ đang nắm giữ chức quyền nhưng lòng đã tha hoá mà ta vẫn lên án, dù cho chúng có rúc kín đến đâu trong những lâu đài nghênh ngang kiên cố giữa năm bảy lớp rào được dựng nên bằng quyền lực bất lương. Bởi tin thế nên tôi mới có bức thư ngỏ này. Trong đoạn văn của anh Nguyễn Đức Bình tôi dẫn bên trên có chỗ nêu rõ: “…chuyên chính đối với những kẻ thù chống lại lợi ích Tổ quốc và nhân dân”. Những kẻ thù nào vậy? Sau khi đuổi xong giặc ngoại xâm, thì trong “những kẻ thù chống lại lợi ích Tổ quốc và nhân dân”, nguy hiểm nhất là giặc nội xâm, Hồ Chủ tịch đã vạch rõ như thế, ngay từ khi ta mới giành được chính quyền, điều này thì hai anh thuộc bài hơn tôi, và không mấy ngày không lặp đi lặp lại trên báo đài. Mọi người đều biết giặc nội xâm nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm vì nó sinh ra từ chủ nghĩa cá nhân của những cán bộ có chức quyền. Hồ Chủ tịch đã nhiều lần nhấn mạnh: “chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm nhất”. Và là siêu nguy hiểm khi chủ nghĩa cá nhân nằm ngay trong một số cán bộ giữ trọng trách ở cơ quan quyền lực tối cao, nhất là ở người nắm giữ công tác tổ chức, công tác cán bộ. Bao nhiêu năm ròng, công tác cán bộ, nhất là việc chọn cán bộ vào Trung ương, vào Bộ Chính trị lại thâu tóm trong tay một vài cá nhân ở cấp tối cao. Các cuộc bỏ phiểu ở mỗi kỳ đại hội chỉ là hình thức để hợp thức hoá sự sắp đặt rất cá nhân chủ nghĩa, rất bè phái của mấy người ấy. Thế là đẻ ra một tình trạng bè phái tham nhũng quyền lực có hệ thống, một Đảng Đen đã xuất hiện và lộng hành trong lòng Đảng Đỏ. Cái Đảng Đen này chỉ gồm một số ít những phần tử thẻ-đỏ-tim-đen lợi dụng tình trạng mất dân chủ và sinh hoạt khép kín trong Đảng để cố kết với nhau nắm giữ nhiều vị trí quyền lực trọng yếu, thao túng công tác nhân sự của Đảng. Vị trí công tác, chức vụ, cấp bậc của mỗi cán bộ không còn tuỳ thuộc vào năng lực phẩm chất của họ với sự tín nhiệm đích thực của nhân dân mà tuỳ thuộc vào sự sắp đặt bí mật từ bên trên, và thế tất không thể tránh khỏi đẻ ra một cái chợ đen âm thầm mua bán chức quyền. Nhiều năm ròng, nhất là từ sau 1975, trong Đảng đã diễn ra một hoạt động rất nham hiểm, rất xảo quyệt là hoạt động vu tội cướp công, cướp quyền. Biết bao đồng chí tài năng và đức độ, một đời tận tuỵ dày công vì dân vì nước đã là nạn nhân rất thảm khốc của thủ đoạn đó. Một bi kịch lớn trong lòng Đảng đang ngày đêm huỷ hoại những gì lành mạnh nhất, tốt đẹp nhất, quí giá nhất của Đảng kết tinh từ sự hy sinh xương máu của hàng triệu nhân dân và đảng viên: công thần thì bị vu tội cướp công còn gian nịnh thì leo lên vùn vụt dùng xảo thuật pháp lý tạo ra cả những tổ chức siêu Đảng siêu Nhà nước tiến hành hoạt động phá hoại kéo dài có hệ thống, như đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ rõ, kèm theo quá trình đó là sự tê liệt sức chiến đấu ở hầu hết tổ chức Đảng. Đại đa số đảng viên đã tự buông mất quyền làm chủ của mình trong Đảng, sinh hoạt Đảng trở nên hình thức, ở các Đảng bộ hưu trí thì nội dung vụn vặt, vô hồn, ở các Đảng bộ cơ quan thì cũng vô hồn không kém hoặc chỉ “có hồn” theo những cuộc đấu đá sặc mùi xôi thịt. Ở cơ sở là thế mà huyện tỉnh trung ương cũng thế. Đại hội Đảng lần thứ 6 đã vạch rõ công tác tổ chức là nguyên nhân của mọi nguyên nhân những thành tích và những sai lầm của Đảng. Nhưng từ Đại hội 6 đến nay, chưa hề có một cuộc tổng kiểm điểm đến nơi đến chốn về công tác tổ chức, công tác cán bộ, đặc biệt là công tác chuẩn bị nhân sự cho Trung ương và Bộ Chính trị các khoá. Tại sao lại như vậy? Rất dễ hiểu, vì giặc nội xâm ẩn náu trong Đảng luôn ra sức ngăn trở cuộc kiểm điểm ấy, bởi nếu kiểm điểm đến nơi đến chốn thì Đảng Đen cùng cả một bè mảng thẻ-đỏ-tim-đen sẽ bị lôi ra ánh sáng. Nhớ năm nào, nhà văn Sơn Tùng nói chuyện với cán bộ ở Chí Linh đã nói thẳng rằng trong Bộ Chính trị chỉ có số ít đồng chí không tham nhũng. Anh Sơn Tùng bị làm khó dễ một thời gian nhưng cuối cùng cũng chẳng làm gì được anh vì anh phát biểu có căn cứ, có trách nhiệm. Các lão thành cách mạng hỏi nhau: có phải báo Nhân Dân đưa tin Tổng Bí thư Đỗ Mười nhận quà biếu 1 triệu đô? Anh Lê Khả Phiêu trả lời phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ phơi bày một sự thật: có những phong bì hàng chục ngàn đô gài trong lẵng hoa đem đến đặt ở phòng Tổng Bí thư, hẳn nhiên anh Phiêu không để cho mình bị cuốn vào vòng ăn của đút nên mới dám công khai chuyện này? Anh Đỗ Quang Thắng, lúc đương nhiệm Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, nói trực tiếp với tôi, trong cuộc tôi gặp anh ngày 19 tháng 3 năm 1995: “Anh có biết không, mỗi chữ ký của người ta hàng trăm triệu đồng”. Thời chống ngoại xâm, đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên là một sức mạnh lớn, từ đó dấy lên sức mạnh không gì dập nổi của nhân dân. Nhưng đến thời chống nội xâm, sức mạnh ấy bị mòn mỏi, bị huỷ hoại từng ngày, và đồng thời bạo phát một thứ sức mạnh phản đạo đức, giả đạo đức của giặc nội xâm. Các anh có nghe thấy ngày ngày vang lên khắp chốn bài ca bia ôm hát theo nhạc Trịnh Công Sơn (“Một cõi đi về”): Nhân dân chi tiền thì cứ bia ôm Lâu lâu bia ôm cho đời trẻ lại Ai không bia ôm một đời khờ dại Kệ bố nhân dân dù đói hay nghèo… KỆ BỐ NHÂN DÂN - đó là tuyên ngôn của giặc nội xâm đấy. Các anh có nghe thấy không? Toàn Đảng toàn Dân có nghe thấy không? Tôi thường ngồi với các đảng viên lão thành, các cựu chiến binh, cứ bàn đến chuyện chỉnh đốn xây dựng Đảng là mọi người lại hỏi nhau: “Này, trong Bộ Chính trị hiện nay có ai là có đủ tầm trí tuệ chiến lược và phẩm chất đáng tin cậy?” Mọi người nhìn nhau lắc đầu. Lịch sử Đảng ghi rõ, vào giờ phút hiểm nghèo nhất khi chèo lái con thuyền đất nước, để cho dân tin, Hồ Chủ tịch đã phải tuyên bố trước quốc dân: “Hồ Chí Minh không bán nước”. Đó là lời thốt lên, giản dị và chắc nịch, từ đáy lòng một con người hoàn toàn tự tin vào sự liêm khiết tận trung với nước của mình, lời ấy đi thẳng vào lòng dân và dân tin ngay. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh hiện nay không mấy ngày không nhắc nhở đôn đốc việc học và hành theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Tôi mong anh Nông Đức Mạnh ngay ngày mai hãy lên đài tuyên bố: “Nông Đức Mạnh này không tham nhũng”. Nếu lời ấy phát ra từ đáy lòng một con người hoàn toàn tự tin vào sự liêm khiết tận trung với nước của mình, thì tự nhiên nó cũng đi thẳng vào lòng người dân, tạo nên ngọn trào toàn dân chống tham nhũng, cuốn phăng mọi rác rưởi trong Đảng. Hiệu ứng ấy sẽ là minh chứng, là thước đo cho bản lãnh, cho sự trong sáng trong tâm hồn người thủ lĩnh. Và Bộ Chính trị hãy mời ngay đạo diễn nghệ sĩ nhân dân Trần Văn Thuỷ, tác giả bộ phim nổi tiếng Chuyện tử tế, thực hiện gấp bộ phim Chuyện nhà đất, phần 1 quay cảnh và phỏng vấn các quan chức từ Tổng Bí thư đến bí thư xã xem nhà cửa đất đai của từng vị thế nào, phần 2 quay cảnh và phỏng vấn những người dân bị mất nhà mất đất phải đi khiếu kiện ròng rã. Giặc nội xâm vừa là bọn tham nhũng đồng thời cũng là bọn chống dân chủ (vì dân chủ chính là khắc tinh số một của tham nhũng), chúng vừa móc túi dân, cướp đất dân vừa bóp cổ bịt miệng dân. Giặc nội xâm nguy hiểm hơn ngoại xâm vì nó tác oai tác quái trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập, người dân bị mất nước mà vẫn lơ mơ huyễn tưởng tự hào mình là dân một nước độc lập. Rõ ràng công việc hệ trọng hơn hết, một công việc có tầm chiến lược, tầm quốc sách là phải tiến hành ngay: MỘT CUỘC VẬN ĐỘNG TOÀN ĐẢNG TOÀN DÂN CHUYỂN TOÀN BỘ SỨC MẠNH DÂN TỘC TRONG CÔNG CUỘC CHỐNG NGOẠI XÂM TRƯỚC KIA VÀO CÔNG CUỘC CHỐNG NỘI XÂM, XÂY DỰNG DÂN CHỦ CỨU NƯỚC CỨU NHÀ NGÀY NAY. Cuộc vận động này nói chữ là DÂN CHỦ HOÁ, nói nôm na là một CUỘC ĐÒI NỢ. Đây là món nợ xương máu mà những người cách mạng Việt nam nợ nhân dân Việt nam. Ngay từ năm 1957, với tất cả nhạy cảm của một thi sĩ-chiến sĩ cộng sản, nhà thơ Trần Dần (Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật) đã sớm phát hiện những dấu hiệu giặc nội xâm ẩn náu trong bộ máy Đảng và nhà nước mưu toan vỗ nợ, và lên tiếng cảnh báo: Dù có thể quen tay vỗ nợ Chớ bao giờ vỗ nợ nhân dân Khi toàn dân tự xác lập được thế đứng của người đi dẹp giặc nội xâm, người chủ nợ đi đòi nợ, thì sức mạnh ghê gớm của cả một dân tộc chiến thắng ngoại xâm sẽ dần hồi phục trong từng người dân Việt, và đương nhiên cái tập quán xin–cho rất nguy hại ngự trị bao năm ròng sẽ dần bị loại khỏi đời sống xã hội.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:25:19 GMT 9
Đây là cuộc vận động hướng vào thực chất của chuyển động xã hội, tiến hành bằng một phương pháp dễ làm nhất, đảng viên nào, công dân nào cũng làm được, mà bước đi ban đầu có thể tóm gọn trong mấy việc sau: Từng đảng viên tự thức tỉnh và thức tỉnh lẫn nhau về quyền làm chủ, từ nhận thức chuyển ngay thành hành động, đảng viên làm chủ Đảng, làm chủ về tổ chức, làm chủ về nội dung và phương thức sinh hoạt Đảng, làm chủ việc lựa chọn nhân sự các cấp uỷ từ thấp đến cao và thường xuyên giám sát hoạt động của cấp uỷ, đấu tranh kiên quyết để thay thế kịp thời ở bất kỳ cấp nào những cấp uỷ viên không xứng đáng. Từng đảng viên thường xuyên thức tỉnh nhân dân và động viên nhân dân thức tỉnh lẫn nhau về quyền làm chủ của người dân, công dân làm chủ các hội đoàn mà mình tham gia, làm chủ về tổ chức, về nội dung và phương thức sinh hoạt, làm chủ việc lựa chọn nhân sự. Công dân làm chủ các cuộc đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân tiếp xúc cử tri và thường xuyên áp sát, hậu thuẫn các đại biểu làm tròn phận sự đại diện cho dân, trước mắt vận động đại biểu Quốc hội đấu tranh để sớm có một bộ luật thực sự đảm bảo quyền tự do lập hội của công dân như hiến pháp qui định, đồng thời cảnh giác ngăn chặn mưu toan hạn chế, thủ tiêu quyền tự do lập hội bằng xảo thuật pháp lý. Toàn Đảng toàn dân ra sức đôn đốc các đại biểu Quốc hội gấp rút rà soát để sửa ngay những bộ luật vi phạm hiến pháp, trước nhất là luật báo chí và luật xuất bản, hai luật hiện hành này là hai luật thủ tiêu quyền tự do báo chí và quyền tự do xuất bản của công dân. Ra sức vận động để tiến tới có một Quốc hội hoàn toàn chuyên nghiệp, thực hiện nguyên tắc độc lập giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và quyền của công luận thông qua báo chí tự do, từng bước sửa đổi Hiến pháp theo hướng xây dựng nhà nước dân chủ pháp quyền phục vụ xã hội công dân, và trong khi chưa bỏ điều 4 thì phải có ngay luật về sự lãnh đạo của Đảng xác định rạch ròi quyền hạn và trách nhiệm, ngăn và chống tình trạng lạm quyền lộng quyền nhân danh sự lãnh đạo của Đảng. Khi đã thức tỉnh thì mỗi đảng viên, mỗi người dân sẽ làm những việc trên như là tự tạo niềm vui sống hàng ngày của mình, như là tự bồi đắp một tố chất mới hàng ngàn năm nay chưa hề có trong con người Việt Nam mình, và chính con người mới này là chủ thể quyết định của tiến trình dân chủ hoá đất nước Việt Nam. Làm được như thế cũng chính là nâng cao Đảng trí, Dân trí, cũng chính là xây dựng một xã hội dân sự, xã hội công dân lành mạnh, văn minh mà thế giới không thể không đồng tình, ca ngợi.
Làm được như thế thì cuộc CHỐNG NỘI XÂM, XÂY DỰNG DÂN CHỦ sẽ được toàn dân nô nức tham gia như ngày hội - ngày hội NGÀN NĂM CÓ MỘT!
Kính thư
Đà Lạt ngày 03 tháng 10.2007
BÙI MINH QUỐC 03 Nguyễn Thượng Hiền - Đà Lạt ĐT: 063 – 815459 * 0918007842
[1]Ý kiến phát biểu trong “Chương trình khoa học KX.10” do Ban tổ chức Trung ương chủ trì năm 2004 (nhằm phục vụ cho Đại hội X của ĐSCVN). [2]Bản ghi lại theo băng ghi âm [3]Trả lời phỏng vấn của Đoàn Giao Thuỷ, Diễn Đàn, 28.7.2007. [4]Diễn Đàn, 9.8.2007.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:29:00 GMT 9
Hồng Vân Lê-nin-nít hay Tơ-rốt-skít? Năm 1956, lợi dụng lúc Đảng ta phát hiện một số sai lầm trong công tác, một số phần tử cơ hội chủ nghĩa vội vàng níu lấy “dịp may hiếm có” ấy để tung ra đủ thứ luận điệu, tấn công điên cuồng vào sự lãnh đạo của Đảng ta trên nhiều mặt đặc biệt là trên mặt văn nghệ. Bọn họ tưởng có thể há mồm thổi ra những luồng gió độc đủ làm khô héo hết cả vườn cây văn nghệ trẻ tuổi mà Đảng và nhân dân ta đã cố công vun trồng. Họ tưởng tung ra cái gậy tà thuật “tự do vô chính phủ” thì có thể đẩy giới văn nghệ ít nhiều được cách mạng rèn luyện sẵn sàng đi vào con đường đối lập với Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Và nhất là họ tưởng với áp lực của những luận điệu cơ hội Tơ-rốt-skít và cái công ty lừa bịp “ai viết nấy chịu trách nhiệm” là Đảng ta sẽ phải thay đổi đường lối văn nghệ, xa rời những nguyên tắc văn nghệ của Lê-nin, tự rút lui cương vị lãnh đạo của mình trên mặt trận văn nghệ nhường chỗ cho giai cấp tư sản và những đầy tớ tinh thần của chúng tha hồ hoành hoành phá phách. Nhưng bọn họ đã thất bại một cách nhục nhã.
Như uống phải thuốc hùng hoàng, những tư tưởng “mác xít” giả hiệu của họ đã hiện nguyên hình là những tư tưởng chống Đảng chống chế độ, những tư tưởng rắn độc nguy hiểm. Có điều đáng lẽ phải từ bỏ những tư tưởng phản động nói trên, công khai thừa nhận sai lầm của mình, thì những phần tử đó trước sau vẫn kiên trì những tư tưởng và hoạt động của họ được Mỹ - Diệm ở miền Nam hết lời khen ngợi và khuyến khích.
Còn một ngày nào, những tư tưởng phản động chưa chịu hạ khí giới đầu hàng, chúng ta còn phải tiếp tục đấu tranh vạch trần những tư tưởng phản động đó, nâng cao cảnh giác cách mạng và ý chí phấn đấu cho đường lối văn nghệ của Đảng và của giai cấp công nhân hoàn toàn thắng lợi.
Trong số những người khoác áo Lê-nin-nít để xuyên tạc Lê-nin, phản lại Lê-nin, tuyên bố chịu sự lãnh đạo của Đảng để chống Đảng này, tôi muốn nói đến Trương Tửu. (Cố nhiên trong khi viết tôi sẽ vạch luôn chân tướng tư tưởng nhiều phần tử khác nữa chẳng hạn Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang v.v… cũng ở cái trong cái công ty “mác xít” giả hiệu kẻ hô người ứng, kẻ hát người vỗ tay này).
Trương Tửu từ trước đến nay vẫn vỗ ngực tự nhận là một nhà “lý luận văn học mác xít”, (và sau này khi Cách mạng thành công thì nhận thêm là nhà “mác xít lê-nin-nít”). Không kể những bài, những sách viết trước cách mạng sặc sụa những lý luận phản mác xít những lý luận kiểu Tơ-rốt-skít, sau Cách mạng tháng Tám Trương Tửu có viết một quyển Tương lai văn Nghệ Việt Nam (Hàn Thuyên xuất bản) và gần đây một số bài viết trong “Giai phẩm” mùa thu mùa đông (Minh Đức xuất bản) đề cập đến những vấn đề về đường lối văn nghệ, quan hệ giữa văn nghệ và chính trị.
Cả hai bài này tuy thời gian viết cách nhau hàng mười mấy năm, và cố nhiên có những chỗ khác nhau về chi tiết, căn bản là với dụng ý thần thánh hóa văn nghệ, đem văn nghệ đối lập với chính trị với sự lãnh đạo của Đảng đòi trả chuyên môn về cho chuyên môn đòi cho văn nghệ có quyền phát hiện những “sự thực toàn diện” (!) giúp cho giai cấp tư sản tấn công vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bộc lộ trắng trợn nhất là trong những bài báo gần đây, Trương Tửu lại nấp sau nhiều câu trích dẫn của Lê-nin và tự chứng minh đường lối của Trương Tửu là đường lối lê-nin-nít còn Đảng ta, Đảng lãnh đạo văn nghệ trong bao nhiêu năm nay là “đã không thực hiện đúng tinh thần của lý thuyết Lê-nin về quan hệ giữa văn nghệ và chính trị”.
Vậy Trương Tửu là gì? Lê-nin hay phản Lê-nin? Lê-nin-nít hay thực chất là Tơ-rốt-skít?
Bài viết này của tôi chỉ nhằm giải quyết vấn đề đó. Cũng chỉ vì nhằm giải quyết vấn đề này, cố nhiên tôi chưa phê phán hết mọi quan điểm lớn nhỏ của Trương Tửu, chỉ tập trung vào những điểm mà Trương Tửu cố tình xuyên tạc Lê-nin và nhai lại hoặc chế biến những luận điệu của bè lũ Tơ-rốt-skít trong hoàn cảnh mới mà thôi. I. Hoàn cảnh Liên Xô trong những năm khôi phục kinh tế và tiến lên xã hội chủ nghĩa Tại sao tôi chưa đi thẳng ngay vào những “luận điểm” của Trương Tửu mà còn dài dòng nói đến những hoàn cảnh chính trị và đấu tranh tư tưởng trong văn học Liên Xô? Chính là vì, trong bài viết của mình, dưới đề mục “Tự do tư tưởng của người văn nghệ và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bôn-sê-vích” Trương Tửu cố chứng minh rằng chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích trong thời kỳ Lê-nin mới xác lập được quan hệ đúng đắn giữa văn nghệ và chính trị. Còn những Đảng khác cụ thể là Đảng lao động Việt Nam thì tinh thần lý thuyết của Lê-nin không được thực hiện đúng đắn. Dụng ý thật là thâm độc! Nhưng thâm độc hơn, Trương Tửu ngay khi đưa ra một cái mẫu về “quan hệ giữa chính trị và văn nghệ” kiểu Lê-nin (!) đã cố trình bày một cách xuyên tạc những ý kiến của Lê-nin và những quyết nghị của Đảng Bôn-sê-vích thành ra một thứ lý thuyết cơ hội chủ nghĩa, đồng lõa với luận điệu của bè lũ Tơ-rốt-skít. Vạch toang cái màn dụng tâm đen tối đó ra, sẽ thấy rõ Trương Tửu là ai? Lê-nin-nít hay Tơ-rốt-skít? Tôi muốn đi ngay vào hoàn cảnh Liên Xô trong những năm khôi phục kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế mới. Cố nhiên vào khoảng trước Cách mạng tháng Mười, trong những năm 1905-1907 Lê-nin đã phải đấu tranh chống những khuynh hướng tự do vô chính phủ, những khuynh hướng tự do tư sản, vạch mặt những nhà “mác xít hợp pháp” kiểu Strouvé, những nhà "mác xít" nói thay cho giai cấp tư sản, nói những điều mà giai cấp thống trị muốn nói. Giới thiệu được thời kỳ này cũng rất hay vì nó sẽ giúp cho các bạn đọc liên hệ được với các nhà "mác xít hợp pháp" ở nước ta kiểu nhóm Hàn Thuyên trong thời kỳ Pháp Nhật. Nhưng phạm vi bài này không cho phép. Tôi cũng không nói đến hoàn cảnh thời kỳ Nội chiến ở Liên Xô mà một số nhà văn “có tự do nội tâm” “có lương tâm nghệ thuật” đã khom lưng cúi cổ làm tay sai cho bọn Bạch vệ và bọn đế quốc bên ngoài. Giới thiệu thời kỳ này không phải không giúp cho bạn đọc thấy rõ chân tướng của bọn “làm văn” thực chất là những tên “mật thám cầm bút” chuyên nghề tác động tinh thần nhưng lại luôn mồm nói đến “nhân phẩm” và ngang nhiên chửi các nhà văn kháng chiến là “hèn” là “nô lệ cho chính trị.”… Và thường là bọn dưới bọn trên và những thứ “lương tâm nghệ thuật” cặn bã, những “điệu tâm hồn” phản phúc lại tìm gặp đến nhau: ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Nhưng tôi muốn phân tích hoàn cảnh Liên Xô trong những năm trước sau thời kỳ khôi phục kinh tế và cuộc đấu tranh văn nghệ phức tạp gay go trong thời kỳ này, vì trong những bài viết của họ, Trương Tửu và Nguyễn Hữu Đang khi nói đến những ý kiến của Lê-nin khi nhắc đến nghị quyết của Đảng về thời kỳ đó thường cố giải thích như Lê-nin và Đảng chỉ chống giáo điều máy móc và để cho văn nghệ “tự do không giới hạn” [1] , tha hồ tự phát theo con đường nào thì theo. Họ không hề nhắc đến một chữ cuộc đấu tranh gay go chống những khuynh hướng đối lập với Đảng và Chính quyền Xô-viết của những phần tử văn nghệ sĩ tư sản và nhất là của bè lũ Tơ-rốt-skít. Vậy hoàn cảnh Liên Xô trong những năm sau Cách mạng tháng Mười qua thời kỳ “chính sách cộng sản thời chiến” Lê-nin và Đảng Cộng sản (b) đề ra chính sách kinh tế mới (NEP) một chính sách nhằm xây dựng nền kinh tế mới của đất nước Xô-viết nhằm củng cố khối liên minh kinh tế giữa công nhân và nông dân, nhưng đồng thời có buông lỏng một phần cho sự kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Một “giai cấp tư bản mới” phát sinh. Lê-nin chỉ ra rằng lúc đầu sự tự do thương mại sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản phục hồi một phần nào ở trong nước. Nhưng sự phục hồi nhanh chóng của công nghiệp nhà nước sẽ đấu tranh loại trừ dần những vết tích của chủ nghĩa tư bản trong nước. Vì thế xây dựng “Tân kinh tế” là một cuộc đấu tranh giai cấp sống còn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. “Ai sẽ thắng ai?” Đó là câu hỏi đặt ra. Bọn tả khuynh cho rằng thực hiện chính sách Tân kinh tế là bỏ rơi những thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, trở lại chủ nghĩa tư bản, làm cho chính quyền Xô-viết chết. Bọn hoàn toàn đầu hàng như Tơ-rốt-sky, Di-nô-vi-ép thì không tin ở khả năng phát triển xã hội chủ nghĩa trong một nước, họ “quỳ gối” trước uy lực của chủ nghĩa tư bản và vì muốn làm vững vị trí của chủ nghĩa tư bản trong nước Xô-viết, họ đòi phải có những nhượng bộ quan trọng đối với tư bản tư nhân trong nước cũng như ở ngoài nước. Cả hai bọn cũng đều đi ngược với chủ nghĩa Lê-nin. Đó là về mặt kinh tế. Về chính trị, mặc dầu bọn Men-sê-vích và bè lũ Tơ-rốt-sky, đã thất thế, Đảng cộng sản (b) Liên Xô đã nắm vững quyền lãnh đạo cách mạng, nhưng những hoạt động đối lập với chính quyền Xô-viết với Lê-nin và Đảng vẫn còn tồn tại. Các nhóm đối lập vẫn còn nằm trong Đảng, chia rẽ phá hoại Đảng. Trong những ngày Lê-nin lâm bệnh nhất là sau khi Lê-nin mất, bọn Tơ-rốt-sky càng hoạt động già. “Trước nhất bọn Tơ-rốt-sky công kích bộ máy của Đảng. Chúng hiểu rằng thiếu một bộ máy rường cột vững vàng thì Đảng không thể tồn tại, không thể làm việc được. Phái đối lập tìm cách lay chuyển phá hoại bộ máy ấy làm cho đảng viên chống lại bộ máy của Đảng, khích cán bộ mới chống cán bộ cũ của Đảng. Trong thư, Tơ-rốt-sky nhằm vào thanh niên học sinh, nhằm vào các Đảng viên trẻ tuổi trong Đảng, vì hai hạng này không biết lịch sử đấu tranh chống chủ nghĩa Tơ-rốt-sky như thế nào. Muốn thu phục thanh niên học sinh, Tơ-rốt-sky phỉnh nịnh họ, gọi họ là cái “phong vũ biểu chắc chắn nhất của Đảng” đồng thời Tơ-rốt-sky tuyên bố rằng đội tiên phong cũ của chủ nghĩa Lê nin đã thoái hóa rồi” [2] . Ta có thể chia ra mấy luồng chính [3] : 1. Lý luận của Pơ-rô-lê-kun. Pơ-rơ-lê-kun là Hội văn hóa vô sản thành lập từ trước Cách mạng tháng Mười. Họ gồm nhiều nhóm khác nhau và ý kiến cũng có những điểm khác nhau. Họ ít nhiều có công trong việc đấu tranh cho nền văn hóa vô sản. Nhưng vì máy móc hẹp hòi họ rơi vào những lý luận sai lầm, thí dụ: họ cho rằng nền văn hóa tư bản là thối nát cực độ không có giá trị gì, và xây dựng văn hóa vô sản là phải cắt đứt với văn hóa cũ. Họ lẫn lộn văn nghệ và chính trị coi chủ nghĩa duy vật biện chứng với phương pháp sáng tác là một, họ đả kích kịch liệt nhóm “bạn đường” là nhóm mang nặng tư tưởng nghệ thuật tư sản nhưng một bộ phận lớn có khả năng đi với vô sản. Cuối cùng vì một bộ phận trong họ như Bogdanov v.v… là những phần tử trí thức tư sản cho nên họ cũng rơi dần vào lý luận nghệ thuật tư sản, thậm chí họ chủ trương tổ chức văn hóa vô sản độc lập với Đảng và chính quyền Xô-viết. Họ quan niệm rằng: “Hội văn hóa vô sản là tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản về văn hóa cũng như Đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp về chính trị”. Một số trong bọn họ trở thành những phần tử Tơ-rốt-skít. Tên tơ-rốt-skít A-véc-bát và công ty sau này lại lũng loạn Hội R A P P (Hội nhà văn vô sản Liên Xô) đẩy Hội này đi vào con đường “tả” khuynh trở lại con đường của Pơ-rô-lê-kun thủa trước khiến Đảng phải ra nghị quyết cải tổ tổ chức của Hội đó [4] . 2. Lý luận của bè lũ Tơ-rốt-sky: Bị thất thế về chính trị, bọn Tơ-rốt-sky vội vàng tìm cách gây ảnh hưởng của chúng trước tiên trên lĩnh vực văn hóa. Chúng hoạt động rất mạnh. Tơ-rốt-sky viết khá nhiều về lý luận. Quyển Văn học và cách mạng của hắn có một ảnh hưởng nhất định trong đám văn nghệ sĩ tư sản. Hắn còn đọc nhiều diễn văn và “tham luận” trong các hội nghị văn nghệ. Ngoài lý luận ra, bọn Tơ-rốt-sky còn hoạt động bằng sáng tác, nhưng nguy hiểm nhất là chúng đã hoạt động chia rẽ, bè phái, đả kích vu khống các nhà văn xuất sắc của nền văn học vô sản. Luận điểm chính của bọn này là phủ nhận việc xây dựng một nền văn hóa vô sản vì chúng quả quyết không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước được. Chúng chủ trương chỉ có việc “đồng hóa” với văn hóa tư sản. Chúng đối lập văn nghệ với sự lãnh đạo của Đảng, “đòi tự do tuyệt đối” cho văn nghệ. Chúng đả kích việc Đảng dựa vào những nhà văn trung thành với giai cấp vô sản và đòi hỏi phải đoàn kết không điều kiện với nhóm “bạn đường” coi nhóm này như “trung tâm của văn học”. Bọn chúng chẳng “sáng tạo” được tác phẩm gì ra trò ngoài sự vu khống và kêu rên giả tạo, và cuối cùng cái thuyết “cách mạng thường trực” của chúng chỉ còn để bênh vực cho những hành động “thường trực phản cách mạng” mà thôi. 3. Lý luận của Lê-nin và những nghị quyết của Đảng Lê-nin-nít. – Trước hết ta phải nói đến bài “Tổ chức Đảng và văn học Đảng” của Lê-nin viết năm 1905. Sau này những ý kiến của Lê-nin và các nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên Xô đều dựa trên cơ sở của bài diễn văn này. Nội dung của tất cả những văn kiện kể trên đều là đấu tranh bảo vệ những nguyên tắc văn nghệ của Đảng, giữ vững sự liên hệ giữa văn nghệ và chính trị, văn nghệ phải là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản do Đảng lãnh đạo, đặt vấn đề đảng tính của văn nghệ đồng thời cũng đề cập đến đặc điểm văn nghệ và phải dành phạm vi rộng rãi cho việc sáng tác văn nghệ, tính chủ động tích cực của người sáng tác văn nghệ. Các văn kiện đó đều mang một tính chất chiến đấu rõ rệt. Nó đấu tranh trên hai mặt: chống giáo điều máy móc và chống chủ nghĩa hữu khuynh cơ hội, và những quan điểm nghệ thuật tư sản và chủ nghĩa tự do vô chính phủ. Trong từng thời kỳ, vấn đề đặt ra có khác nhau, nhưng nội dung cơ bản đều nhất trí [5] . Cả ba luồng lý luận đó đã đấu tranh nhau sôi nổi, gay gắn, đúng như điều thứ 4 trong nghị quyết 1-7-1925 của Trung ương Đảng Cộng sản Nga: Chính như cuộc đấu tranh giai cấp trong nước ta còn chưa chấm dứt, cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận văn nghệ cũng còn chưa chấm dứt. Trong xã hội có giai cấp, không có mà cũng không thể có nghệ thuật trung lập tuy rằng giai cấp tính của nghệ thuật nói chung nhất là giai cấp tính của văn học, về hình thức biểu hiện so với chính trị càng nhiều màu nhiều vẻ hơn”. Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu trong khi trích dẫn Nghị quyết này đều đã không dám nhìn nhận một sự thực hiển nhiên đó mà nghị quyết đã vạch. II. Lý luận và hoạt động của bè lũ Tơ-rốt-sky về văn nghệ Trong phạm vi bài này, tôi không trở về phân tích những khuynh hướng sai lầm của Proletkult mà nhiều người đã biết. Tôi sẽ nói nhiều đến lý luận và hoạt động của bè lũ Tơ-rốt-sky mà Trương Tửu và công ty đã chế biến, nhai lại và coi như một “bửu bối” để tấn công vào đường lối văn nghệ của ta, tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng. Tôi sẽ không trình bày ra đây toàn bộ lý luận của bè lũ Tơ-rốt-skít và chỉ tập trung vào những luận điểm chính. Trong các thứ “chủ nghĩa xét lại” về văn nghệ có thể nói những luận điểm của bè lũ Tơ-rốt-skít là trắng trợn nhất vì nó phủ nhận hoàn toàn việc xây dựng “một nền văn hóa vô sản”. Chúng lợi dụng lúc phê bình sự hẹp hòi máy móc của Pơ-rô-lê-kun và cắt đứt với di sản văn hóa cũ, “xây dựng một nền văn hóa vô sản mới tự trên giời rơi xuống” như Lê-nin đã nói để đưa ra cái lý luận cơ hội chủ nghĩa của chúng ra. Trong quyển Văn học và cách mạng (Trang 9) Tơ-rốt-sky đã viết: “Chỗ khác nhau căn bản giữa giai cấp vô sản và chủ nô, quí tộc phong kiến cho đến giai cấp tư sản là ở một điểm: giai cấp vô sản coi thời kỳ chuyên chính của mình là một thời kỳ quá độ rất ngắn. Giai cấp vô sản trong thời kỳ quá độ ngắn ngủi đó có thể sáng tạo ra một nền văn hóa mới không? Đề xuất nghi vấn này có lý do của nó. Vì rằng thời kỳ cách mạng xã hội là một thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt, trong đó phá hoại chiếm một địa vị nhiều hơn là xây dựng mới… Vì rằng lúc đó, giai cấp vô sản cố nhiên ở trong một sự khẩn trương cao độ cho đến giai cấp tính toát ra một cách đầy đủ, tất nhiên tính khả năng xây dựng về văn hóa có kế hoạch không thể không bị giới hạn trong một phạm vi hết sức chật hẹp. Cho nên, trong thời kỳ chuyên chính, chúng ta tuyệt nhiên không bàn đến sáng tạo văn hóa mới, tức là cơ hội xây dựng những giá trị lịch sử lớn nhất mà chỉ đến lúc không còn ở trong bộ máy bằng sắt mà gọi là chuyên chính thì lúc ấy mới có thể xây dựng được một nền văn hóa xưa nay chưa từng có mà lại là nền văn hóa không có giai cấp tính. Do sự thực đó mà không thể không đi đến kết luận rằng: Văn hóa vô sản không những bây giờ không có mà tương lai cũng không thể có được”. Đó là một thứ lý luận cơ hội chủ nghĩa hết sức nguy hiểm. Ai cũng biết rằng từ cái thuyết “cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể thành công trong một nước” đi đến “cách mạng thường trực” “bộ máy bằng sắt gọi là chuyên chính” tất nhiên bè lũ Tơ-rốt-sky phải phủ nhận việc xây dựng văn hóa vô sản. Những lý do mà Tơ-rốt-sky nêu ra nào là “đấu tranh giai cấp quá khẩn trương không có thì giờ nghỉ ngơi” nào là “phá hoại chiếm địa vị nhiều hơn xây dựng v.v…” không đủ để bênh vực cho luận điệu cơ hội chủ nghĩa của hắn. Cũng trong quyển sách ấy hắn viết: “Những danh từ như: Văn học vô sản, và văn hóa vô sản thật là nguy hiểm bởi vì những danh từ ấy hạn chế văn hóa của tương lai trong khuôn khổ của hiện tại”. Tại sao Tơ-rốt-sky kiên quyết chống xây dựng văn hóa vô sản như vậy? Chính đúng như trong Đại hội các nhà văn vô sản toàn Liên Xô (1-1925) đã vạch: “Tơ-rốt-sky đưa ra cái lý do chúng ta đang hướng về xã hội vô sản, phủ nhận khả năng nghệ thuật và văn học của giai cấp vô sản, nhưng cũng cùng với lý do này chủ nghĩa Men-sê-vích phủ nhận sự tất yếu của chuyên chính giai cấp, nhà nước giai cấp, và cũng cùng với lý do này, chủ nghĩa vô Chính phủ phủ nhận sự tất yếu của Đảng và Nhà nước…”. Vì thế thực chất của lý luận không thể xây dựng văn hóa vô sản là muốn phủ nhận vô sản chuyên chính, hay ít nhất cũng là muốn tách rời thậm chí đối lập việc xây dựng chính quyền vô sản và văn hóa vô sản. Không xây dựng văn hóa vô sản thì xây dựng gì? Đó là chỗ bí của bè lũ Tơ-rốt-sky nhưng cũng là dụng ý của chúng. Tơ-rốt-sky cho rằng giai cấp vô sản chỉ cần “đồng hóa với văn hóa tư sản” nghĩa là đi theo con đường văn hóa tư sản. Mao Trạch Đông trong bài nói chuyện về văn nghệ ở Diên An đã nói, đó là thứ nhị nguyên luận của Tơ-rốt-sky “về chính trị theo chủ nghĩa Mác, về nghệ thuật theo giai cấp tư sản”. Từ lý luận hoàn toàn phản bội Lê-nin này Tơ-rốt-sky và bè lũ cho rằng Đảng có thể “can thiệp” vào văn nghệ, nhưng chỉ “lãnh đạo phương hướng” còn để cho văn nghệ được “tự do tuyệt đối”. Bọn chúng phản đối việc xây dựng đội ngũ văn học của giai cấp vô sản, đả kích những nhà văn phục vụ tích cực cho chính quyền Xô-viết và coi nhóm “bạn đường” như “trung tâm của văn học”, trong khi Đảng chủ trương: “Việc lãnh đạo vể phương diện văn học ngay cả những phương tiện tư tưởng và vật chất tất cả đều thuộc về giai cấp công nhân. Quyền lãnh đạo của các nhà văn vô sản hiện nay còn chưa có, Đảng phải giúp cho các nhà văn đó tự mình nắm được cái quyền lợi lịch sử là quyền lãnh đạo này.” (điều 9 của nghị quyết 1-7-1925). “Về quan hệ với nhóm “bạn đường” phải chú ý: a) sự phân hóa của họ, b) tính chất trọng yếu của những “chuyên gia” lành nghề về kỹ thuật văn học của nhiều người trong bọn họ, c) tình hình dao động của một số nhà văn đó. Ở đây phương châm chung là đặt quan hệ chiến thuật thận trọng đối đãi với họ tức là bằng cách nào cho họ mau chóng chuyển biến đến tư tưởng chủ nghĩa cộng sản. Trong lúc Đảng bài trừ những phần tử phản cách mạng và phản vô sản (hiện nay ít đến nỗi không cần nói nữa), trong khi Đảng đấu tranh với tư tưởng của giai cấp tư sản mới hình thành trong hàng ngũ những người “bạn đường” thuộc bộ phận “Đổi tiêu” [6] Đảng cần có thái độ kiên nhẫn đối đãi với hình thái tư tưởng trung gian, phải nhẫn nại giúp đỡ cho rất nhiều hình thái tư tưởng tất nhiên đó, mất dần trong quá trình công tác chặt chẽ với lực lượng văn hóa cộng sản chủ nghĩa” (điều 10 của nghị quyết trên). Tất nhiên là khi trích dẫn nghị quyết này, Trương Tửu đã không trích dẫn điều 9 nói trên, vì Trương Tửu cũng “lý luận” như Tơ-rốt-sky là Đảng không lãnh đạo “bằng tổ chức” và để cho văn nghệ sĩ “hoàn toàn tự do sáng tác”. Đối với điểm nghị quyết sau thì Trương Tửu cũng không dám “phát hiện sự thực toàn diện” nốt; Trương Tửu cắt béng đi ngay cái khúc giữa nói về việc Đảng bài trừ những phần tử phản cách mạng và phản vô sản, đấu tranh với tư tưởng của giai cấp tư sản mới hình thành và thay bằng ba cái chấm (…) vì thực tế Trương Tửu cùng một nhận định với Tơ-rốt-sky về nhóm “bạn đường” cùng khẳng định văn nghệ = sự thực, văn nghệ sĩ = phát ngôn nhân của “sự thực toàn diện”, làm gì có hạng văn nghệ phản cách mạng, phản vô sản, làm gì có tư tưởng tư sản trong văn nghệ sĩ. Chỉ có tư tưởng phi vô sản trong Đảng mà thôi! Chỗ gặp gỡ thiêng liêng nhất giữa Tơ-rốt-sky và Trương Tửu là ở đó. Chẳng thế mà Trương Tửu đã cắt xén, xuyên tạc hẳn điều 12 trong nghị quyết nhấn mạnh về nhiệm vụ phê bình của Đảng như sau: “Phê bình, một công cụ giáo dục chủ yếu mà Đảng nắm trong tay, nhiệm vụ nói chung là do tình hình trên quyết định. Phê bình cộng sản chủ nghĩa phải là một phút cũng không bỏ rơi lập trường cộng sản, mảy may cũng không vi phản tư tưởng vô sản. Phải vạch trần ý nghĩa giai cấp khách quan của các tác phẩm văn học, đấu tranh không nhân nhượng với hiện tượng phản cách mạng trong văn học, bóc trần thứ chủ nghĩa tự do của nhóm “Đổi tiêu” v.v… Nhưng đồng thời đối với tất cả các nhóm văn học có thể và chắc chắn đi theo giai cấp vô sản thì phải tỏ ra hết sức chu đáo, thận trọng và nhẫn nại…” Cái điểm nghị quyết quan trọng này chỉ được Trương Tửu trích từ đoạn “Nhưng đồng thời…”. Còn phần trên Trương Tửu phớt đi không hề nhắc đến. Vì nếu Tơ-rốt-sky đã đề cao nhóm “bạn đường” là “trung tâm của văn học”, không vạch rõ tư tưởng tư sản trong bọn họ và Trương Tửu đã “trót” đề cao văn nghệ sĩ là siêu nhân là “vô sản” nhất về tư tưởng “yêu sự thực hơn Đảng” thì làm gì còn dám nói phê bình văn học là một công cụ của đấu tranh giai cấp? Đấu tranh không nhân nhượng với hiện tượng phản cách mạng trong văn học? Một điểm đặc biệt của lý luận Tơ-rốt-skít về văn học trong thời kỳ cách mạng chủ nghĩa là xóa mờ tính chất giai cấp của văn học, đề cao hết sức đặc tính của văn nghệ, và bản chất tiến bộ của văn nghệ sĩ, hạ thấp đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng về văn nghệ hoặc cho nó một vài cái danh không có thực. Các nhà lý luận kiểu đó từ Vo-rôn-sky đến Var-đin, từ Bu-kha-rin đến A-véc-bat lúc đầu tuy cũng có công kích Tơ-rốt-sky điểm này hay điểm nọ, nhưng cuối cùng cũng đều “nối gót dũng cảm” của nhau đứng về một trận tuyến: phản bội nguyên tắc văn học của Lê-nin, đồng lõa với bè lũ Tơ-rốt-sky phá hoại sự lãnh đạo về văn nghệ của Đảng và cuối cùng là phản cách mạng. Bọn chúng đưa ra đủ các thứ lý luận duy tâm về văn nghệ, dựa vào các tờ báo như Đất đỏ chưa khai hoang và Xuất bản và cách mạng, các tổ chức như “Đường núi” “Xây dựng”, len lỏi vào các nhà xuất bản, các quỹ văn học, để cố đẩy cái “Văn học chống cách mạng” của chúng ra. Bè lũ Tơ-rốt-skít ra sức đả kích Gor-ki mà chúng gọi là nhà văn tiểu tư sản, mạt sát Mai-a-kốp-ski mà chúng gọi là nhà thơ “cổ động” nghĩa là phục vụ kịp thời chính trị của Đảng. Chúng cho rằng chính vì Mai-a-kốp-ski thiết tha phục vụ cho đường lối chính trị của Đảng nên trong tác phẩm, nghệ thuật tính càng nghèo nàn đi [7] , Nhưng chính Mai-a-kốp-ski, thì lại phê phán chúng: “Trong văn học, thiếu mục đích rõ ràng, thiếu khuynh hướng giai cấp, không đem thơ ca làm võ khí đấu tranh đó là đặc trưng của chủ nghĩa “xây dựng” (contructivisme) [8] . Bọn Tơ-rốt-skít lợi dụng những tác phẩm hoàn toàn vu khống xã hội Xô-viết của Za-mi-a-tin, Pê-ri-loóc, v.v… mà Mai-a-kốp-ski gọi là những tác phẩm “có thể tăng thêm kho thuốc nổ cho quân thù” “Giữa cái ngày hôm nay mây đen còn bao phủ thì đó cũng ngang như sự phản bội ngay giữa mặt trận” [9] . Chúng dùng những tác phẩm kiểu ấy vào mục đích bôi nhọ Đảng và chính quyền Xô-viết để góp sức vào tiếng hô lừa bịp của chúng: “Đảng đã thoái hóa rồi!. Sự xung đột giữa công nhân và nông dân tất sẽ xảy ra, chính quyền Xô-viết sẽ tan vỡ và chế độ xã hội chủ nghĩa không thể đứng vững được!”. Chúng hô như vậy và chúng hành động cho đạt được âm mưu như vậy. Cuối cùng Tơ-rốt-sky và bè lũ chỉ còn là một bọn phản cách mạng ti tiện nữa mà thôi. Cái “công ty chuyên nghề khiêu khích” có âm mưu phá hoại ở Việt Nam cũng đang học mót những thủ đoạn tốt đẹp này. Chẳng thế mà Đảng Cộng sản Liên Xô phục hồi cho một số đồng chí bị xử trí oan thì cái công ty đó vội truyền ra cái tin bịa đặt: “Tơ-rốt-sky được phục hồi rồi!”. Thậm chí có phần tử vỗ ngực la ầm lên rằng: “Tơ-rốt-skít ở đây chứ ở đâu!”. Thật thảm hại cho cái hy vọng mong manh của những phần tử cơ hội của phường phản bội. III. Lê-nin-nít hay Tơ-rốt-skít? Giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin và luận điệu của bè lũ Tơ-rốt-skít là một cái hố hoàn toàn cách biệt nhau như nước với lửa, như nóng với lạnh. Những kẻ muốn đem dung hòa hai lý luận đó đều bị thất bại thảm hại. Những kẻ muốn đem cái chiêu bài chủ nghĩa Mác – Lê-nin để che đậy cho những lý luận cơ hội chủ nghĩa Tơ-rốt-skít lại càng thất bại nhục nhã. Vì để bên cạnh những ý kiến của Mác – Lê-nin, các quan điểm của Tơ-rốt-skít càng lộ nguyên hình như những hình thù xấu xa bị phơi bày ra ánh sáng. Bọn Tơ-rốt-skít trên thế giới cuối cùng đều tự lột trần cái chân tướng phản bội của chúng và con đường dắt chúng đi đều là con đường khuất phục trước thế lực tư bản, chống cách mạng điên cuồng. Ở nước ta, bọn Tơ-rốt-skít cũng không thoát ra ngoài cái quy luật nghiệt ngã đó. Hãy lấy ngay bọn Tơ-rốt-skít trong nhóm Hàn Thuyên (Cố nhiên những người cộng tác trong nhóm Hàn Thuyên không phải đều là Tơ-rốt-skít cả, và có những người hiện nay rất tiến bộ). Bọn này chỉ “mác xít” khi nào được đế quốc cho phép. Chủ nghĩa “mác xít” đầu miệng của chúng hoàn toàn khác xa cái chủ nghĩa mác xít của những người cách mạng bị giam cầm và cấm đoán. Mỗi một bước ngoặt quan trọng của lịch sử, bọn chúng lại tự bóc trần ra cái chân tướng phản cách mạng, phản lại chủ nghĩa Mác. Trong những ngày trước khởi nghĩa 1945 bọn Tơ-rốt-skít Lương Đức Thiệp, Nguyễn Tế Mỹ đã trở thành những tên phản cách mạng hèn mạt. Ngày nay, trong giai đoạn đất nước còn chia cắt, bọn Tơ-rốt-skít Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Siêu công khai chửi chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội, chửi thuyết đấu tranh giai cấp, khom lưng quỳ gối ca ngợi, sùng bái chủ nghĩa “cần lao nhân vị” của bè lũ Mỹ - Diệm ở miền Nam. Bộ mặt thực “mác xít” đẹp đẽ của chúng là như vậy! Trương Tửu sau bao năm ở ngoài vùng kháng chiến, vẫn chưa từ bỏ được quan điểm Tơ-rốt-skít cũ của mình, gần đây lại trở về đường cũ, khoác một chiếc áo mới: chủ nghĩa Lê-nin. Không thể nhầm lẫn được! Rút đi tất cả những ý kiến của Lê-nin mà Trương Tửu trích dẫn trình bày một cách xuyên tạc cắt xén ta sẽ tìm thấy bản chất tư tưởng của Trương Tửu tư tưởng Tơ-rốt-skít. Cách mạng thường trực – Sự phản kháng thường xuyên đối với thực tại và hiện tại – Chỉnh lý quan hệ sản xuất mới. Chúng ta không lạ gì cái luận điểm căn bản của chủ nghĩa Tơ-rốt-sky về cách mạng là “Cách mạng thường trực”. Theo Tơ-rốt-sky thì xã hội chủ nghĩa không thể thành công trong một nước; giai cấp vô sản sau khi làm cách mạng thành công trong một nước, phải tiến lên làm cách mạng thế giới ngay thì mới đánh đổ được giai cấp tư bản. Vì thế giai cấp vô sản phải ở trong tình trạng “cách mạng thường trực”. Luận điểm này bị Lê-nin hoàn toàn đập gãy bị cái thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô lật nhào ngay từ khi nó mới ra đời. Và từ đó “Cách mạng thường trực” đối với bè lũ Tơ-rốt-sky chỉ còn có nghĩa là tấn công thường xuyên vào Đảng Bôn-sê-vích và nhà nước xã hội chủ nghĩa, chỉ còn là thường trực chống lại chế độ xã hội, thực tế xã hội do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo mà nghĩa là “thường trực phản cách mạng” thôi. Trương Tửu từ lâu bị tiêm nhiễm nọc độc của lý luận này, nhất là luận điệu của tên văn sĩ phản động André Gide [10] : “gieo rắc vào tâm trí mọi người chất men phản kháng bất phục tòng”. Trương Tửu đề cao André Gide lên hàng văn nghệ sĩ “chân chính” và coi lời y như một phương châm văn nghệ cách mạng. Trong quyển Tương lai văn nghệ Việt Nam xuất bản sau khi chính quyền dân chủ nhân dân đã thành lập, Trương Tửu định nghĩa về văn nghệ: “Văn nghệ là gì nếu không phải là sự phản kháng thường xuyên đối với thực tại và hiện tại” và lớn tiếng kêu gọi: “Trong lúc này, một nền văn nghệ xứng với tên của nó, phải xô đẩy người đương thời đến một thái độ “chống hiện tại” “phá đổ hiện tại”. Cái “hiện tại” trước mắt mà Trương Tửu đòi phá đổ lại chính là cái hiện tại chúng ta đang cần xây dựng. Nhiệm vụ của văn nghệ cố nhiên là phải chống với chế độ áp bức bóc lột, chống với mọi bất công tàn ác. Nhưng nó không phải chỉ là chống đối để mà chống đối. Nó biết chống đối cái gì, úng hộ cái gì, nó phải đứng về đâu để chống đối đồng thời để mà xây dựng. Văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội nhất định, là một võ khí của đấu tranh giai cấp. Vậy thì sao ngay sau khi chính quyền dân chủ nhân dân đã thành lập, Đảng của giai cấp công nhân đã nắm chính quyền, Trương Tửu lại ném ra cái luận điệu “chống hiện tại” “phá đổ hiện tại”. Dù Trương Tửu có “nói theo lối của văn nghệ” đi nữa (chứ không phải là “lối của người hành động” như Trương Tửu đã viết) thì người ta cũng biết “sự phản kháng thường xuyên đối với hiện tại” nói theo lối văn nghệ của Trương Tửu cũng đồng một nghĩa với “cách mạng thường trực” nói theo lối chính trị, nói theo lối hành động của Tơ-rốt-sky. Cái điểm lý luận này hầu như đã trở thành nền tảng cho tư tưởng, thái độ của Trương Tửu đối với thực tế chế độ, thực tế xã hội của chúng ta. Sự phân biệt xã hội ta hiện nay với xã hội thực dân, phong kiến đối với Trương Tửu chỉ còn là hình thức. Trương Tửu nhìn sai lầm của ta cũng như những tội ác của giai cấp bóc lột, nhìn bộ máy lãnh đạo của ta cũng như bộ máy thống trị của chúng. “Cách mạng thường trực” “sự phản kháng thường xuyên đối với hiện tại” “chỉ chống sùng bái cá nhân trong lãnh đạo” “chỉnh lý quan hệ sản xuất mới”, bấy nhiêu danh từ tuy có khác nhau, nhưng căn bản vẫn là một: chĩa mũi nhọn đả kích vào cơ sở chế độ của chúng ta, bộ máy lãnh đạo của chúng ta mà tấn công kịch liệt. Dưới chiêu bài phát hiện sự thực, giúp Đảng sửa chữa sai lầm Trương Tửu bịa đặt ra cái “mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất dân tộc và quan hệ sản xuất mới” “tự do văn nghệ sĩ mâu thuẫn với lãnh đạo của Đảng” hòng làm lạc mất cái hướng mâu thuẫn chủ yếu giữa “quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa” giữa “tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư tưởng tư sản” mà thực tế xã hội miền Bắc chúng ta đang đặt ra một cách gay gắt [11] . Cùng một luận điểm này, Nguyễn Hữu Đang chưa bao giờ là “người làm văn nghệ” bỗng nhảy ra trở thành “một thứ trùm” cho nhóm văn nghệ sĩ cơ hội chủ nghĩa hay nói đúng hơn một “tên trùm khiêu khích gian hiểm”, dõng dạc “tham luận” (!): “Bất cứ phát hiện sự việc gì, hoặc tìm cách giải quyết vấn đề gì, Tổ chúng tôi đều thấy cái nút cuối cùng ở chỗ lãnh đạo!” Thế là cùng xướng cùng họa, nối gót nhau, bọn cơ hội chủ nghĩa, bọn khiêu khích hèn mạt trút tất cả mọi lời vu khống vào Đảng ta và chế độ chúng ta. Họ không từ một lời nói hiểm độc, một thủ đoạn hèn hạ nào để có thể hạ sự lãnh đạo của Đảng ta xuống, để “phá đổ cái hiện tại mà chúng ta đang xây dựng, để “gieo vào tâm trí quần chúng chất men phản kháng và bất phục tòng”. Trương Tửu cố phân tích một cách khôn khéo và thâm độc cho mọi người có thể hiểu Đảng ta là một “chính đảng đã mất tính chất giai cấp vô sản, không đại diện cho giai cấp vô sản nữa, phản bội Mác Lê-nin, phản bội tinh thần cộng sản chủ nghĩa”, cố chứng minh những cán bộ của Đảng chỉ là những phần tử quan liêu mệnh lệnh y hệt như luận điệu của bè lũ Tơ-rốt-skít đã từng vu khống Đảng Bôn-sê-vích: “Đội tiền phong cũ của chủ nghĩa Lê-nin đã thoái hóa rồi”.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:30:20 GMT 9
Istvan Kovacs ở Hung-ga-ri khi phê phán tư tưởng và hoạt động của bọn văn sĩ chống Đảng ở đây cũng đã viết trong bài “Phấn đấu cho một nền văn học có đảng tính”: “Chúng ta không lạ gì điều đó, Tơ-rốt-sky và bè lũ Tơ-rốt-skít cũng đã từng gọi Đảng và Ban chấp hành trung ương là “Phòng giấy” và những chiến sĩ của Đảng là “thư lại quan liêu”… Lập trường vô chính phủ, chống Đảng của Tibor Dery thể hiện rõ trong tất cả tác phẩm của Dery bắt đầu từ việc phiên dịch quyển sách chống Liên Xô của tên Tơ-rốt-skít André Gide cho đến những hoạt động hiện hành của hắn”. Các thứ luận điệu Tơ-rốt-skít của Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang dù có trá hình xảo quyệt, dù có nấp sau các ý kiến của Lê-nin vẫn không lừa dối được ai. Thứ luận điệu đó mở rộng ra và hình tượng hóa thì nó sẽ thành “bất mãn” của Sĩ Ngọc, “không bằng lòng hiện trạng”, “Hãy đi mãi” của Trần Dần “dấn vào kho thuốc nổ của đời sống” của Lê Đạt, “người khổng lồ không tim” của Trần Duy”. “Nội dung xã hội và hình thức tự do” của Trần Đức Thảo, “con lợn” “con rùa” của Phan Khôi… và các thứ luận điệu thành văn hay bằng miệng vu khống chế độ và Đảng của chúng ta. Dù nhóm Nhân văn – Giai phẩm có man trá đặt vấn đề “Ai viết người nấy chịu trách nhiệm” chúng ta cũng thừa biết trừ một số ít người cộng tác chưa có ý thức rõ rệt, còn hầu hết là cùng hội cùng thuyền, một đồng một cốt quá khứ và hiện tại thối nát giống nhau, “lương tâm” phản phúc và “điệu tâm hồn” độc địa giống nhau, cùng cấu kết chặt chẽ với nhau, chung một âm mưu thâm độc với nhau, cùng theo một tư tưởng chính trị thống nhất do bọn “trùm” vạch ra: chống Đảng ta, chống chế độ ta, bằng những luận điệu và phương pháp hoạt động mà bè lũ Tơ-rốt-skít xưa nay vẫn quen dùng. Những luận điệu Tơ-rốt-skít đó trước tiên là ở Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo nhưng nó dần dần là luận điệu chung của cả công ty. Một công thức bịp bợm và phản động về quan hệ giữa chính trị và văn nghệ Đối với Trương Tửu, tất cả những gì có thể gò vào “công thức” là y như họ Trương không ngần ngại vồ lấy cắt đầu cắt đuôi, xén chân xén tay để nhét cho vừa cái khuôn “công thức” đã định sẵn. Ta đã biết và đã nói nhiều đến cái công thức “văn nghệ hướng dẫn chính trị” của Trương Tửu. Muốn chứng minh cho cái công thức này, Trương Tửu đã viện đến các quan điểm duy tâm nhất, thần bí nhất về nghệ thuật. Những nào là “lương tâm nghệ thuật” “tự do nội tâm ” những nào là các văn nghệ sĩ cố điển “hoàn toàn theo sự suy nghĩ riêng, sở nguyện riêng, lương tâm riêng của bản thân họ. Họ hoàn toàn độc lập tác chiến, độc lập tư tưởng, độc lập sáng tác” v.v… dù chế độ thống trị có đàn áp bóp nghẹt tư tưởng đi bao nhiêu nữa, “họ vẫn hoàn toàn tự do tư tưởng”, v.v… Trương Tửu càng cố thần thánh hóa văn nghệ sĩ, đưa họ lên mây bao nhiêu, càng lộ rõ chân tướng phản bội chủ nghĩa Mác, càng tự khắc lên trán mình cái nhãn hiệu duy tâm thần bí đến cực độ bấy nhiêu. Trong bài này tôi không muốn đi sâu vào những vấn đề đó. Tôi muốn nói cái công thức thứ hai, cái công thức mà có thể nói Trương Tửu dồn vào đấy nhiều tâm huyết, nhiều dã tâm nhất đó chính là vấn đề “tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích” hay cũng có thể nói “quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, giữa Đảng và văn nghệ sĩ”. Thực ra thì tất cả những cái tiền đề trên kia, những lý luận dài dòng trên kia cuối cùng chỉ là để chứng minh cho cái vấn đề quan trọng đặt ra dưới này. Ta hãy tìm hiểu cái công thức của Trương Tửu, phân tích xem nó là cái nguyên lý của Lê-nin hay công thức bịp bợm của Tơ-rốt-skít? Cái công thức của Trương Tửu có thể xếp như sau: “Yêu cầu cơ bản của giai cấp vô sản cách mạng hoàn toàn thống nhất với yêu cầu cơ bản của tư tưởng nghệ thuật” tức là “nhận thức đúng về sự thật toàn diện của xã hội của con người”. “Không phải một chính đảng cứ tự mệnh là tham mưu của giai cấp vô sản thì tự nhiên nó mang tính chất vô sản trong mọi chủ trương, chính sách, tác phong lãnh đạo”. “Nhưng “tinh túy của nghệ thuật là sự thực”. “Văn nghệ sĩ có nhiệm vụ phát hiện sự thực trăm màu nghìn vẻ của con người của xã hội để giúp Đảng nhìn đúng thực tế khách quan. Họ phát hiện những vấn đề do sự thực nêu ra để làm cơ sở cho Đảng vạch chủ trương chính sách. Họ vào thực tế nhìn sự thật để kiểm tra chủ trương chính sách của Đảng”. Vì vậy, “một Đảng cộng sản chân chính phải tạo đầy đủ điều kiện cho văn nghệ sĩ làm tròn nhiệm vụ phát hiện sự thật sâu sắc của cuộc sống” “tuyệt đối không ngăn cản văn nghệ sĩ phát hiện sự thực một cách hoàn toàn tự do”. Nếu như “sợ sự thực, ngăn cấm nói sự thực, không căn cứ sự thực toàn diện (mà văn nghệ sĩ kiểu nhóm Nhân văn phát hiện) để vạch đường lối chủ trương chính sách…” thì Đảng “đã mất tính chất giai cấp vô sản, không đại diện cho giai cấp vô sản nữa, phản bội Mác Lê-nin, phản bội tinh thần cộng sản chủ nghĩa”. Và cuối cùng, nếu không được hoàn toàn tự do sự thực toàn diện (kiểu Trương Tửu) thì văn nghệ “nó cũng tự tạo cho nó điều kiện đó”, vì “văn nghệ sĩ yêu Đảng nhưng họ còn yêu sự thực hơn Đảng”, và Trương Tửu dọa dẫm rằng: “Đảng đừng để văn nghệ sĩ vì sự thực mà đối kháng lại Đảng”. Trương Tửu cho đó là cái công thức đúng đắn nhất về “quan hệ giữa văn nghệ và Đảng” “mà các vị lãnh tụ cộng sản vĩ đại đều hiểu như vậy”. Không bịp được đâu hỡi nhà “lý luận” phản động Trương Tửu. Các vị lãnh tụ “cộng sản” (!) mà Trương Tửu nói đây chẳng phải ai xa lạ mà chính là các vị lãnh tụ Tơ-rốt-skít mà Trương Tửu hết lòng sùng bái. Cái công thức mà Trương Tửu dày công bịa đặt ra kia chính là một cái công thức rất bịp bợm và phản động nó chứng mminh rằng: chính trị phụ thuộc vào văn nghệ (như ốc-xy-gien phụ thuộc vào không khí), chính trị phải phục tùng văn nghệ, Đảng phải tuân theo sự hướng dẫn của văn nghệ sĩ và nếu như có sự đối lập thì đó là vì Đảng chứ không phải vì văn nghệ sĩ. Để cho cái công thức phản động kia có thể lừa dối được những người ngây thơ, non nớt, có thể che đậy được cái dã tâm đẩy văn nghệ sĩ đi vào sự đối lập với Đảng, Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang và công ty cũng như bè lũ Tơ-rốt-skít trước kia đã thổi phồng cái gọi là “bản chất tiến bộ của văn nghệ và trí tuệ”, “lương tâm nghệ thuật” coi như văn nghệ tự thân là cách mạng tiến bộ, là sự thực, “văn nghệ sĩ cứ tự nhiên hứng về chân thiện mỹ” còn Đảng thì trái lại rất có thể “mất tính chất vô sản”. Bọn họ cố tình không nhìn nhận văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội, tước bỏ tính chất giai cấp của văn nghệ. Họ cố tìm cách xóa nhòa ranh giới giữa văn nghệ cách mạng và văn nghệ phản cách mạng hoặc xa rời cách mạng. Họ cố tình không phân biệt những văn nghệ sĩ cách mạng tận tụy vì cách mạng, đem ngòi bút phục vụ cách mạng, đi vào cách mạng mà vẫn vui lòng, chịu sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân mà vẫn thấy tự do tư tưởng với thứ văn nghệ sĩ nhục nhã quỳ gối trước thế lực đồng tiền bán rẻ “lương tâm nghệ thuật” cho bọn đầu cơ văn hóa, thứ văn nghệ sĩ thực tế chỉ là những tên mật thám cầm bút, những tên tác động tinh thần chính cống. Thứ văn nghệ sĩ này cố nhiên chỉ “phát hiện được những sự thực toàn diện” mà bọn thù địch mong muốn nhưng lại bị quần chúng lao động khinh bỉ, lên án. Thứ văn nghệ sĩ này tất nhiên là sẽ thấy “lương tâm nghệ thuật” cặn bã của mình đối lập với cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng cách mạng. Văn nghệ cách mạng về bản chất thống nhất với chính trị cách mạng, văn nghệ sĩ cách mạng về bản chất thống nhất với sự lãnh đạo của Đảng cách mạng. Nhưng cái quan hệ chính xác nhất vẫn là chính trị lãnh đạo văn nghệ, Đảng lãnh đạo văn nghệ dù rằng do đặc điểm của văn nghệ, sự lãnh đạo ở khu vực này không thể rập khuôn với các công tác cách mạng khác mà phải dành nhiều phạm vi rộng rãi cho sự sáng tác, tôn trọng tính chủ động sáng tạo của người văn nghệ sĩ. Muốn giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và văn nghệ sĩ không phải như Trương Tửu đã nói là Đảng phải để cho văn nghệ sĩ “tự do phát hiện sự thực toàn diện” mà trước tiên Đảng phải giúp đỡ văn nghệ sĩ nhận thức được sự nghiệp văn nghệ phải là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng nói chung, giúp cho văn nghệ sĩ học tập chủ nghĩa Mác Lê-nin và hiểu rõ đường lối chính sách của Đảng, tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ đi vào thực tế đấu tranh của cách mạng, hướng dẫn họ nhìn nhận thực tế và biểu hiện thực tế một cách đúng đắn. Trong đời sống xã hội của chúng ta căn bản là tốt tất nhiên cũng có những mặt chưa tốt, những mặt xấu, các chủ trương chính sách của Đảng căn bản là đúng nhưng không phải là không có những điểm thiếu sót thậm chí sai lầm. Đảng lãnh đạo tốt văn nghệ sĩ là làm cho văn nghệ sĩ nắm bắt được tất cả những thực tế phức tạp và biểu hiện lên một cách đúng đắn. Đảng lãnh đạo tốt là khuyến khích những sáng tác biểu hiện trung thực cuộc sống, phê phán những tác phẩm có nội dung sai lầm, thậm chí ngăn chặn lại các tác phẩm có dã tâm bôi nhọ chế độ, có tư tưởng phản cách mạng. Đó chính là yêu cầu cơ bản của sự lãnh đạo của Đảng về văn nghệ và đó cũng chính là yêu cầu cơ bản về tự do tư tưởng của người văn nghệ sĩ chân chính cách mạng nếu như hiểu tự do là nhận thức về quy luật tất yếu của sự vật. Đâu có phải lãnh đạo tốt là chỉ lãnh đạo cái “hướng” còn để cho văn nghệ sĩ hoàn toàn có quyền tự do tung ra đủ thứ hoa thơm hoa thối, hoa lành hoa độc, tự do viết những bài chống lại Đảng, chống lại chế độ, phát hiện những sự thực toàn diện kiểu đó mà không có quyền phê phán hay ngăn cấm. Đâu có phải lãnh đạo tốt là phải tuân theo những “sự thực phát hiện” của văn nghệ sĩ (cách mạng và phản cách mạng) để vạch ra chủ trương chính sách! Có đâu lãnh đạo tốt là “trả chuyên môn về cho chuyên môn” như Trương Tửu và nhóm Nhân văn – Giai phẩm luôn mồm kêu gào. Cái lối lãnh đạo bằng “hướng” còn để cho văn nghệ sĩ “hoàn toàn tự do” “tự do tuyệt đối” theo kiểu Tơ-rốt-skít này thực chất là hạ thấp đến phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, “Chịu sự lãnh đạo” chỉ còn là một danh từ trống rỗng, hữu danh vô thực. Cái công thức bịp bợm về “Đảng lãnh đạo” văn nghệ của Trương Tửu chẳng có gì khác hơn là Đảng hoàn toàn khoanh tay trước sự tấn công của mọi thứ văn nghệ tư sản, văn nghệ phản động, ngay cả trước sự tấn công của các thứ văn nghệ gián điệp, văn nghệ tác động tinh thần. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng của Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang và công ty. Đảng ta, trung thành với chủ nghĩa Lê-nin không thể thừa nhận “sự lãnh đạo” kiểu cơ hội chủ nghĩa đó. Những người văn nghệ sĩ chân chính vì sự nghiệp cách mạng, vì văn nghệ cách mạng cũng không bao giờ thừa nhận cái “công thức” lừa bịp của họ: “nếu không cho, nó cũng tự tạo điều kiện cho nó” bằng cách ra lập “của hàng” làm thuốc độc tinh thần riêng, lập công ty buôn lậu văn hóa riêng thậm chí cúi đầu ngả tay xin phương tiện của giai cấp bóc lột, của bọn thù địch để đối lập với cách mạng để chống Đảng, chống chế độ như kiểu Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Trần Dần, Lê Đạt, Trần Đức Thảo và cả nhóm. IV. Giữ vững nguyên lý văn nghệ của Lê-nin – Đập tan luận điệu cơ hội Tơ-rốt-skít Những luận điệu của Trương Tửu và công ty đưa ra dù khéo thêu thùa tô vẽ dưới nhiều màu sắc, dù khoác nhiều thứ áo lòe loẹt tự xưng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn không thể làm cho người ta nhầm lẫn. Đó là thứ chủ nghĩa Tơ-rốt-skít đã quá lỗi thời. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin ngày nay đã thắng lợi vẻ vang, đã trở thành một chân lý quần chúng. Chính vì vậy mà bọn bịp không thể vàng thau lẫn lộn, mướp đắng mạt cưa. Thí dụ khi bọn “bịp lý luận” Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu nêu lên không thể “phục vụ kịp thời” thì quần chúng ngược lại, lại thấy tại sao những người sáng tác của Nhân văn – Giai phẩm đã viết ra những tác phẩm chống Đảng, chống chế độ “kịp thời” đến thế? À, thì ra “không kịp thời” đây có nghĩa là không được “kịp thời phục vụ cách mạng”. Khi bọn “bịp lý luận” nêu ra là trên tờ báo phải “trăm hoa đua nở” “nhiều ý kiến khác nhau” “ai nấy viết chịu trách nhiệm”, thì ngược lại quần chúng thấy trên Nhân văn – Giai phẩm không hề có một ý kiến nào khác, các quan điểm chống Đảng hoàn toàn nhất trí, và bấy nhiêu “hoa” (!) cũng chỉ được tiết ra một chất độc: hướng chống Đảng, chống chế độ. Ai cũng biết rằng khi những phần tử Nhân văn – Giai phẩm phản đối lập trường tư tưởng thì họ viết ra lại rất có lập trường: lập trường tư sản phản động. Khi bọn họ gào thét “phải giải thể lãnh đạo đi” thì chính là lúc bọn họ tập hợp lực lượng rất nhanh, chiêu binh mãi mã lập bè phái rất nhanh đòi bầu lại “ban trù bị Đại hội văn nghệ” để cướp lấy quyền lãnh đạo về tay những phần tử phản bội lý tưởng cách mạng của nhân dân ta. Khi họ đòi “trả chuyên môn về cho chuyên môn” thì chính là họ muốn giao quyền điều khiển cho những phần tử không biết gì về chuyên môn như Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Phan Khôi, Trần Duy… nhưng lại rất phản động về ý thức chính trị. Vì thế cho nên có thể nói phản động và bịp bợm là “loại biệt tính” của lý luận Nhân văn lý luận Tơ-rốt-skít. Chúng ta kiên quyết đập tan thứ luận điệu cơ hội đó, giữ vững nguyên lý văn nghệ của Lê-nin là nguyên lý đúng đắn nhất mà Đảng ta từ mười mấy năm nay vẫn trung thành thực hiện. Lê-nin đã chỉ cho chúng ta biết rằng: Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô sản, phải thành “một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc” trong bộ máy xã hội chủ nghĩa do đội tiên phong hoàn toàn giác ngộ của toàn bộ giai cấp công nhân mở máy. Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận khăng khít của công tác Đảng xã hội dân chủ thống nhất có kế hoạch có tổ chức”. Điều đó đặt cho Đảng vấn đề không thể coi nhẹ lãnh đạo văn nghệ, không thể tách rời thậm chí đối lập sự nghiệp văn học với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân do Đảng lãnh đạo được. Đảng ta không thể “trả chuyên môn” về cho ai hết. Vì “chuyên môn” và chính trị là hai bộ phận khăng khít trong sự nghiệp cách mạng nói chung, không thể Đảng ta chỉ lãnh đạo về chính trị còn lãnh đạo về văn nghệ thì trả về cho những nhà chuyên môn (!) của giai cấp tư sản kiểu Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu… được! Cố nhiên do đặc điểm của nó, bộ phận văn nghệ không thể rập khuôn với các bộ phận khác trong sự nghiệp cách mạng, và Đảng ta trong khi lãnh đạo văn nghệ bao giờ cũng dành một phạm vi rộng rãi cho sự sáng tạo nghệ thuật cho tính chủ động của văn nghệ sĩ. Trương Tửu nhắc đến câu này của Lê-nin và đưa lên thành một câu tiêu đề để chứng minh cho quan điểm cơ hội chủ nghĩa của Trương Tửu: Không thể chối cãi được rằng sự nghiệp văn học ít nhân nhượng hơn cả với sự bình quân máy móc, đối với việc san bằng, đối với việc số đông thống trị số ít. Không thể chối cãi được rằng trong sự nghiệp đó, phải đảm bảo phạm vi rộng rãi bao la cho sáng kiến cá nhân, cho chiều hướng cá nhân, đảm bảo phạm vi rộng rãi bao la cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung”. Nhưng Trương Tửu lại không dám trích dẫn câu Lê-nin tiếp sau đó đã nhấn trở lại “Tất cả những điều đó cũng không lật đổ cái nguyên tắc mà giai cấp tư sản và phái dân chủ của giai cấp tư sản cho là lạ lùng kỳ quái. Sự nghiệp văn học nhất định phải là một bộ phận công tác của Đảng xã hội dân chủ gắn liền chặt chẽ với các bộ phận khác.” Chúng ta phải phê phán chủ nghĩa giáo điều máy móc vì chủ nghĩa giáo điều không bao giờ đẩy mạnh được sự nghiệp văn học nghệ thuật, phát triển được sức sáng tạo phong phú của người văn nghệ sĩ thiết tha phục vụ cách mạng, nhưng hy vọng rằng phê phán khuynh hướng giáo điều là Đảng ta mở rộng tay đón lấy chủ nghĩa xét lại, ngồi nhìn các thứ “chủ nghĩa phản bội” kiểu chủ nghĩa Tơ-rốt-skít tự do hoành hoàng, dương oai tác quái thì hy vọng đó chỉ là ngông cuồng ảo tưởng. Chúng ta nhất định phải đập tan như cám. Chúng ta – như Lê-nin đã nói – không thể đứng khoanh tay mà để cho hỗn loạn phát triển nơi nào cũng mặc. Chúng ta phải lãnh đạo quá trình đó một cách hoàn toàn có kế hoạch và tạo nên những thành quả của nó. Quá trình đấu tranh cho nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài và phức tạp. Trước mắt chúng ta, đang diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng gay go và quyết liệt. Khuynh hướng tư tưởng Nhân văn – Giai phẩm không ngừng tấn công vào tư tưởng xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Chỉ có kiên quyết đứng về phía Đảng, bảo vệ những nguyên lý văn nghệ của Lê-nin, đập tan mọi luận điệu cơ hội chủ nghĩa Tơ-rốt-skít, vô chính phủ, mọi thứ chủ nghĩa xét lại, “chủ nghĩa phản bội” mới có thể xây dựng được một nền văn nghệ cách mạng chân chính. Chỉ sau khi quét sạch mọi thứ tư tưởng phản động nói trên, lật mặt nạ khiêu khích, chia rẽ, bè phái của những phần tử, của tập đoàn âm mưu phá hoại, chúng ta mới có thể nói đến việc thảo luận một cách tự do và rộng rãi các vấn đề văn học, nghệ thuật, đẩy cho văn nghệ phát triển tốt tươi lành mạnh lên được. Nếu không, các cuộc thảo luận, các hoạt động văn nghệ sẽ chỉ là những cơ hội để cho những tư tưởng phản động những phần tử khiêu khích lợi dụng làm cho lạc hướng, thậm chí lái vào con đường đen tối chống Đảng chống chế độ mà thôi. Những cuốc đấu tranh tư tưởng vừa qua đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm mà kinh nghiệm lớn nhất là chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, tư tưởng phản động không một lúc dễ dàng hạ khí giới và mỗi lần có cơ hội nó lại ngóc đầu dậy, tấn công khôn khéo hơn xảo quyệt hơn. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay, chúng ta hãy rút lấy bài học kinh nghiệm vừa qua phất cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác Lê-nin đoàn kết nhất trí đấu tranh kiên quyết, triệt để, cho đến lúc hoàn toàn thắng lợi. [1]Trong bài “Lột mặt nạ khiêu khích của Nguyễn Hữu Đang” trong số sau tôi sẽ nói về điểm này. H. V. [2] Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Sự thật xuất bản trang 116. [3]Muốn hiểu rõ tình hình này hơn nên xem quyển Giới thiệu văn học Xô-viết Nhà xuất bản Văn hóa xuất bản. [4]Xem bài “Xung quanh nhóm Proletkult và nghị quyết về văn học của Đảng” của Hồng Vân trên tuần báo Văn nghệ năm 1956. [5]Về nguyên lý chủ nghĩa Lê-nin về văn nghệ. Ở đây tôi chỉ tóm tắt, tôi sẽ nói trong phần cuối cùng. [6]Nhóm “Đổi tiêu” là một phái chính trị tư sản đẻ ra trong số những người tư sản Nga lưu vong ngoại quốc năm 1921. Họ ra tờ tạp chí lấy tên là “Đổi tiêu”. Họ phản ánh quan điểm trí thức tư sản mong muốn chính quyền Xô-viết sẽ thoái hóa và đi vào con đường tư sản. [7]Việc Mai-a-kốp-ski bị thành kiến đả kích là do bè lũ Tơ-rốt-skít và Bu-kha-rin-nít và đả kích chủ yếu của chúng là vì Mai-a-kốp-ski đã thiết tha phục vụ Đảng chứ không phải vì Mai-a táo bạo, nói mặt xấu của đời sống Xô-viết mà bị công kích như bài tự của Lê Đạt đã nói: H. V. [8]Toàn tập Maiakovsky quyển 10 trang 360. [9]Toàn tập Maiakovsky quyển 10 trang 318. [10]André Gide (1869-1951) nhà văn Pháp, lúc đầu tiến bộ, sau chuyển biến rất nhanh thành một tên phản bội chống Liên Xô và sau thì hợp tác với phát xít Đức. [11]Về điểm lý luận này trong bài của Hồng Chương “Kiên quyết chống chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ” Văn nghệ số 10 đã nói kỹ. Đây chỉ nói qua. H. V. Nguồn: Tạp chí Văn nghệ, số 11, tháng 4 năm 1958 – Số đặc biệt chống tư tưởng phản động của Nhân văn –Giai phẩm, trang 26-43. Bản điện tử do talawas thực hiện.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:44:42 GMT 9
Nguyễn Thanh Giang Tác hại của đàn áp Báo Le Paria số 16 ra tháng 7 năm 1923 có đăng bài “Tệ độc đoán ở Đông Dương – Người được bảo hộ và người đi bảo hộ” của Nguyễn Ái Quốc. Nguyên văn như sau: “Ông Cẩm Đà Lạt (Trung Kỳ)” có một cách hiểu vai trò khai hóa của mình đến là hay. Một hôm, người cộng tác rất xứng của ông Xarô này cần đến ván gỗ. Ông ta sai một người đến kiếm ván ở nhà một người bản xứ làm nghề buôn bán. Nhà buôn này đòi phải trả tiền rồi mới được mang hàng đi. Nghe lời yêu cầu này, ông Cẩm nổi giận, phái ngay lực lượng vũ trang đến với nghiêm lệnh là dù “sống hay chết” cũng phải bắt cho được tên An Nam đó về sở. Để tránh cơn giận của vị đại diện cho nước bảo hộ, nhà buôn không kể gì đang ốm cũng đành phải bỏ cả nhà cửa quê hương lánh sang tỉnh khác. Một thầy thuốc người Âu chứng kiến tấn trò kể trên đã can thiệp để bênh vực nhà buôn bản xứ. Vụ can thiệp “chướng tai gai mắt” này làm cho viên thầy thuốc bị đổi đi, bị đầy lên Kon Tum, một nơi nước độc mà người Âu rất sợ… (bỏ bớt một đoạn) Còn nhà buôn An Nam thì ra sao? Anh ta bị ghi tên vào sổ những người bị tình nghi, liệt vào hạng “chống Tây”, vào số những kẻ cần theo dõi. Một bầy mật thám Pháp và An Nam bám riết, theo gót anh ta. Nhiệm vụ của bọn này là ghi từng giờ từng phút mọi hành động cử chỉ của anh ta, và tô đen tất cả mọi ý định của anh. Công cuộc theo dõi này được tiến hành một cách khá lộ liễu để làm cho bạn bè quen thuộc người An Nam này phải chùn lại không dám lai vãng nhà anh nữa, đến nỗi đời sống của anh trở nên hết sức khó khăn. Bất cứ thế nào cũng không một người bản xứ nào dám đến nhà anh. Hoàn toàn bị cô lập với đồng bào của mình, nhà buôn này chỉ còn có hai con đường: hoặc đi ăn cướp, hoặc đi ăn mày. Nhưng cái nghề thứ hai này có thể lại làm cho anh đáng khả nghi hơn vì kiếp sống lang thang”. Bài báo trên gần đây được viết lại như sau: “Mấy ông lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam có cách hiểu về chuyên chính vô sản đến là hay. Một số trí thức nọ vì quá tin vào lời tuyên bố “Dân được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra công việc của Đảng”, rằng “Dân chủ xã hội chủ nghĩa gấp triệu lần hơn dân chủ tư sản” đã hăng hái vắt óc suy nghĩ, người thì soát xét lại các điểm đúng sai trong đường lối chính sách, người thì nhắc nhở về những cơ hội đã bị bỏ lỡ cho nên nay phải nắm bắt để khai thác cho được thời cơ vàng đang hiển hiện. Nói chung, họ là những đại biểu tinh hoa, dám dũng cảm nói lên những suy tư và ước vọng của nhân dân Việt Nam. Nhưng…! Mấy ông lãnh đạo kia không biết nghe, không dám nghe, rất sợ nghe nên trợn trừng mắt quát tháo: “Đồ Nhân văn–Giai phẩm, đồ xét lại chống Đảng, đồ cấp tiến phản động, đồ “diễn biễn hòa bình”, đồ chống chủ nghĩa xã hội, đồ gián điệp…” vân vân và vân vân… Để tránh cơn giận của Đảng cầm quyền, một số không kể gì đang ốm cũng đành phải bỏ cả nhà cửa quê hương lánh sang nước khác. (Không may thì làm mồi cho cá biển. May thì trở thành Việt kiều yêu nước trở về xây dựng quê hương.) Còn những kẻ ở lại thì sao? (Đến đây, xin được lắp nguyên xi đoạn văn của ông Nguyễn Ái Quốc từ chỗ “Anh ta bị ghi tên vào sổ…” đến chỗ “kiếp sống lang thang” vào chỗ này.) Người đang viết rất thần phục và thấm thía lời của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Anh sững sờ thấy như Nguyễn Ái Quốc sống lại để kể về thân phận của những người như mình hiện nay. Cũng “bị ghi tên vào sổ những người bị tình nghi, liệt vào hạng “chống Tây” (ở đây xin đổi là chống CNXH), vào số những kẻ cần theo dõi. Một bầy mật thám Pháp (hiện nay không có mật thám Pháp) và An Nam bám riết, theo gót anh ta. Nhiệm vụ của bọn này là ghi từng giờ từng phút mọi hành động cử chỉ của anh ta, và tô đen tất cả mọi ý định của anh. Công cuộc theo dõi này được tiến hành một cách khá lộ liễu để làm cho bạn bè quen thuộc người An Nam này (đổi lại là, người công dân nước CHXHCNVN này) phải chùn lại không dám lai vãng nhà anh nữa, đến nỗi đời sống của anh trở nên hết sức khó khăn. Bất cứ thế nào cũng không một người bản xứ nào dám đến nhà anh. Hoàn toàn bị cô lập với đồng bào của mình, nhà buôn này (đổi lại là người tạm gọi là trí thức này) chỉ còn có hai con đường: hoặc đi ăn cướp, hoặc đi ăn mày. Nhưng cái nghề thứ hai này có thể lại làm cho anh đáng khả nghi hơn vì kiếp sống lang thang”. (Người công dân này không đi ăn cướp, cũng không đi ăn mày nên không đi lang thang nhưng vẫn cứ bị khả nghi hơn.) Thực tế đang khốn khổ gấp mấy nhà buôn thời Tây kia, người trí thức XHCN này còn bị tù biệt giam, bị khám nhà và tịch thu tài sản bốn năm lần, bị báo chí của Đảng xuyên tạc, vu khống, bôi bẩn, bị cắt điện thoại, bị ném đá vào nhà, bị tông xe giữa đường, bị đưa ra phường đấu tố, bị bọn đầu gấu được chính quyền thuê giả danh thương binh xông vào tư thất thóa mạ và gây sự hành hung… Vậy mà, nhờ ơn Đảng đèn giời soi xét, anh chàng này vẫn được sung sướng hơn nhiều người khác. Nguyên Chánh văn phòng Bộ Công an, đại tá Lê Hồng Hà bị tù hai năm, tiến sĩ sinh vật học Hà Sĩ Phu bị biệt giam một năm chỉ vì dám cầm đọc bức thư của thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị ĐCSVN. Nguyễn Vũ Bình chỉ vì nộp đơn xin thành lập Đảng Tự do Dân chủ, Nguyễn Khắc Toàn chỉ vì đưa giúp đơn kêu oan, Phạm Hồng Sơn chỉ vì dịch tài liệu “Thế nào là dân chủ”, Lê Chí Quang chỉ vì kêu gọi “Hãy cảnh giác với Bắc triều” mà đều bị tù ba bốn năm. Đại tá Phạm Quế Dương chiến tích đầy mình cùng nhà giáo kỳ cựu Trần Khuê chỉ vì nộp đơn xin thành lập “Hội nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng và Nhà nước chống tham nhũng” mà cũng bị bỏ tù ngót nghét hai năm… Nói là đưa ra phường đấu tố nhưng cách đây mươi năm, Nguyễn Thanh Giang được ngồi trong hội trường trước chỉ khoảng ba chục người gồm chủ yếu tướng tá và cán bộ. Bây giờ, Trần Khải Thanh Thủy - nhà giáo (đã 11 năm đào tạo nên hàng trăm học trò XHCN, trong số đó nhiều người đã trở thành cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước), nhà văn (đã có hơn chục tác phẩm với hàng trăm bài viết đăng trên các báo của Đảng) - bị lôi ra giữa sân vận động cho mấy trăm người được tập trung đến để nghe các “chuỗi, rễ của Đảng” lên đấu tố, xỉ vả bằng những bài bản đã được bồi dưỡng trước. Cùng bị Nhà nước tổ chức cho bọn anh chị xông vào nhà hành hung nhưng Nguyễn Thanh Giang chỉ bị “tiếp” vài chục tên còn Trần Khải Thanh Thủy bị hàng trăm người xông vào giẫm sập giường, phá tan tành cửa sổ. Rồi, vả vào miệng, tát vào mặt vợ, túm tóc giật ngược mặt chồng ra đằng sau… Ông già ngoại 80 Hoàng Minh Chính thì bị ném mắm tôm pha dầu nhờn vào nhà. Phạm Hồng Sơn thì bị hô hoán vu cho là buôn bạc giả để bọn giả danh đầu gấu bóp cổ, đấm vào đầu. Mục sư thì bị nữ sĩ quan công an nắn bóp hạ bộ (thú thật riêng việc này rất khó tin)… Thật là “Chặt hết trúc Nam Sơn không ghi tầy tội ác. Múc cạn nước Biển Đông không rửa sạch oán hờn”. Đảng và Nhà nước làm như vậy để làm gì nhỉ? Để tô thêm đẹp hai chữ vinh quang cho Đảng ư? Để giữ vững ổn định chính trị ư? Để hòng ôm chặt được cái ghế ư? Nhầm! Chính sự đàn áp thô bạo của nhà cầm quyền đã chuyển những thiện chí thành đối địch, ôn hòa thành nộ khí và dần dần xuất hiện những “quyết tử quân cảm tử cho tự do, dân chủ, nhân quyền quyết sinh”. Trước ngày bị vào tù, linh mục Nguyễn Văn Lý chỉ đấu tranh trong giáo phận Nguyệt Biều. Ra tù, ông trở thành một trong những ngọn cờ lớn đấu tranh cho tự do tôn giáo, tự do ngôn luận... Trước ngày bị vào tù, Nguyễn Khắc Toàn như một người rất nhát. Đến nhà những người hoạt động dân chủ anh thường nghiêng nghiêng ngó ngó mắt trước mắt sau làm cho ai cũng tưởng anh là công an giả dạng. Anh có viết một số bài đấu tranh dân chủ nhưng mỗi bài phải ký một mật danh. Cho nên, anh vào tù sau một thời gian dài mà rất ít thấy có tiếng nói bênh vực. Riêng mỗi tôi biết các mật danh của anh nhưng chỉ dám công bố sau khi tìm được cách hỏi ý kiến anh. Thế mà ra tù, anh vượt lên hàng đầu trở thành tấm gương dũng mãnh đạp qua sợ hãi cho cả một lớp trẻ ào ào noi theo. Đang trong thời gian bị quản chế nhưng anh ngang nhiên phá rào, công khai ra báo, công khai đứng lên thành lập và đảm đương vai trò thủ lĩnh Công đoàn Độc lập Việt Nam. Trước ngày bị khủng bố dữ dội, hầu như không ai biết những hoạt động đấu tranh cho dân chủ của Trần Khải Thanh Thủy. Càng bị đàn áp dã man, nhà văn này càng mạnh mẽ quật cường, càng trở nên bất trị đối với nhà cầm quyền. Những kẻ cay cú với cô gọi cô là “giặc cái”, những người cảm mến gọi cô là “anh hùng”. Thực ra không hẳn là cô đã thu phục được mọi người. Nhưng rồi, ngay cả nhiều người vốn không đồng tình với cách viết chát chúa của cô cũng quay lại đứng hẳn về phía cô để che chở cô, để tôn vinh cô vượt mức, như một cử chỉ chống trả tương thích sự tàn bạo quá mức của nhà cầm quyền đối với cô. Trường hợp Hoàng Minh Chính cũng vậy. Đảng đang được tiếng độ lượng khi cho Hoàng Minh Chính sang Mỹ chữa bệnh trong khi uy tín Hoàng Minh Chính đang giảm xuống rất thấp vì những tuyên bố hớ hênh trên đất Mỹ thì hành động tạt nước pha át xít vào nhà, đập chai nhựa vào đầu ông làm cho niềm thương cảm cháy lên hừng hực, tỏa hào quang vào ông. Trong nước càng đàn áp mạnh thì đồng bào Việt Nam ở nước ngoài càng ghê tởm chính quyền cộng sản Việt Nam, càng trực tiếp tố cáo dồn dập với các tổ chức quốc tế, với chính phủ các nước, làm cho bộ mặt giới lãnh đạo càng trở nên nhem nhuốc trước nhân loại, dẫn đến những tẩy chay, những trừng phạt từ mức độ này đến mức độ khác. Không biết rồi người ta có nghiêm chỉnh rút kinh nghiệm, có biết phân tích để có được bài học không nhỉ? Thử hỏi, nếu thấy bất lực, không thể nào thuyết phục nổi thì hãy cứ đành để một Trần Khải Thanh Thủy ở mức nhà văn đối kháng là hơn hay cứ ra sức cưỡng bức cho cô phải trở thành “giặc cái” hay “anh hùng” là hơn đối với họ? Tự họ đã tạo ra tình huống trớ trêu này: không đàn áp thì hóa ra Đảng thua một người dám chống đối, mà sử dụng mọi mưu ma chước quỷ, cùng với vũ lực chuyên chính khổng lồ đề thỏa mãn uy nộ thì cũng có vẻ vang gì đâu, khi Đảng thắng được một người phụ nữ! Không kể rằng qua vụ này họ còn trở nên có tội lớn đối với cụ Hồ. Trước đây, khi phỉ báng cụ Hồ, Trần Khải Thanh Thủy phải lấy các bút danh khác như: Nguyễn Thái Hoàng, Nguyễn Quý Dân… Hầu hết người đọc nghĩ rằng đấy là một người đang ở nước ngoài (mà người ở nước ngoài thóa mạ cụ Hồ thì nhiều lắm, cho nên thêm Thái Hoàng hay Thoáng Hài gì nữa thì cũng thường thôi, mấy ai để ý). Nay công an ta công bố rõ ràng rằng ngay cả một cô giáo, một Hội viên Hội Nhà văn của Việt Nam, con một đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ năm 1947) cũng căm ghét và phỉ báng cụ Hồ thậm tệ đến thế thì mức độ tai hại hẳn được nhân lên bội phần hơn chứ! Nói chung, tất cả những người bị tù đầy, bị đàn áp càng nặng nề đều trở nên càng quyết liệt hơn. Những đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp đã dựng nên những Nguyễn Trung Trực, Đội Cấn, Nguyễn Thái Học…, làm nổ ra những Khởi nghĩa Yên Bái, Xô Viết Nghệ Tĩnh rồi dẫn đến Cách mạng tháng Tám thành công. Một triết gia phương Tây có câu nói nổi tiếng: “Sự tàn bạo tự nó uống một phần lớn thuốc độc của nó”. (La méchanceté boit telle-même la plus grande partie de son poisons). Những người lãnh đạo ĐCSVN và nhà cầm quyền Việt Nam nên tâm niệm điều này. Hà Nội 6 tháng 11 năm 2006 ****************** Biểu tình chống TQ lại tiếp diễn ở Sài Gòn, Hà Nội Saturday, June 11, 2011 SÀI GÒN & HÀ NỘI (TH) - Trong tuần thứ nhì biểu tình tại Sài Gòn và Hà Nội sáng Chủ Nhật để bảo vệ chủ quyền chống Trung Quốc, tình hình có dấu hiệu căng thẳng hơn tuần trước đó nhiều. Tại cả hai thành phố, công an có mặt đông đúc hơn, nhiều phương tiện hơn, và số người bị dặn dò lưu ý cũng nhiều lơn lần biểu tình bảy ngày trước. Riêng tại Sài Gòn, ngay gần tòa lãnh sự Trung Quốc, công an bắt giữ một thanh niên. Cuộc biểu tình tuần này giống như tuần trước, qua các trang mạng xã hội thanh niên sinh viên hẹn nhau biểu tình lúc 8 giờ sáng Chủ nhật. Ở Hà Nội, hình ảnh trên trang blog Ba Sàm cho thấy công an hiện diện vừa đông hơn vừa lộ liễu và căng thẳng hơn, không chỉ ở ngay trước tòa đại sứ Trung Quốc trên đường Hoàng Diệu, mà ở cả khu vực gần đó, quanh Vườn hoa Lenin. Giáo sư Phạm Duy Hiển, phó giám đốc bệnh viện ung thư Hà Nội, tham gia biểu tình trước tòa đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội hôm 12 tháng 6. (Hình: Blog TS Nguyễn Xuân Diện) Công an dày đặc Ngay từ lúc 6:30, đã có "Cảnh sát Cơ động đầy nhóc quanh vườn hoa, xe tải mui bạt kín cũng rất nhiều," theo miêu tả của Ba Sàm. Đến 7 giờ sáng, "từ trụ sở Công an Quận Ba Đình chạy dọc Điện biên phủ, công an nổi, chìm kín đặc," Ba Sàm viết. Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nói qua điện thoại với Ba Sam, cho biết tình hình "rất căng," và "cơ quan chức năng" tung hết lực lượng và cá nhân ông Đinh Kim Phúc được “chăm sóc” từng bước. Phóng viên hãng Reuters đang tác nghiệp trên đường phố Hà Nội. (Hình: Blog TS Nguyễn Xuân Diện) Vào tuần trước, ở Hà Nội, không có công an đông đúc vào sáng sớm, mà chỉ tới gần sát giờ biểu tình mới có sức mạnh công lực. Khi đó, theo lời một người có mặt tại chỗ, “Phía bên hông Hoàng Diệu có một đoàn cảnh sát cơ động cả mấy mươi, gần trăm người, vũ trang đến tận răng, y như trong phim khủng bố.” Số cảnh sát cơ động này chỉ được dùng sau khi đoàn biểu tình đã đông người, và cảnh sát được dùng để đẩy đoàn biểu tình ra khỏi khu vực đối diện tòa đại sứ. Ở Sài Gòn, tình hình còn căng thẳng hơn. Mọi ngã tư dẫn đến trung tâm đều có những hàng rào barrie sẵn sàng, trang Dân Làm Báo cho biết. Vào lúc 8:05, công an xông vào quán cà phê Highland Coffee đối diện Diamond Plaza, bắt một thanh niên tên Thịnh, theo trang blog Ba Sàm. Biểu tình ở Sài Gòn. Rất lâu rồi mới thấy người dân Sài Gòn gọi Trung Quốc là Tàu Cộng. (Hình: Dân Làm Báo) Nhưng vẫn biểu tình Tới 8:25, các nhóm biểu tình đã tập hợp được với nhau, kéo đến đối diện tòa đại sứ. Ước tính có khoảng hơn 500 công an, cảnh sát được huy động, "Công an còn đông hơn người biểu tình," trang Dân Làm Báo cho biết. Tuy nhiên, lần này "Lực lượng an ninh không dùng dây để đẩy đoàn biểu tình ra khỏi công viên như lần trước," TS Nguyễn Xuân Diện viết trên blog. TS Diện cho biết ông thấy có Giáo sư Huệ Chi, Giáo sư Phạm Duy Hiển, Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên... và rất nhiều văn nghệ sĩ trí thức tham gia đoàn biểu tình. Ở Sài Gòn, vào lúc 9:45, một tin nhắn từ Việt Nam cho báo Người Việt biết đoàn biểu tình bắt đầu diễn hành từ khu vực Nhà thờ Đức Bà, Dinh Độc Lập. Tại đây, đoàn biểu tình, được ước lượng "khoảng bằng tuần trước" hô khẩu hiệu Hoàng Sa - Trường Sa, và đi tuần hành. Tuy nhiên, khu vực quanh tòa tổng lãnh sự bị vây kín, không tới gần được. Tin tức từ trong đoàn biểu tình cũng không thể lọt được ra ngoài, vì nhiều xe phá sóng được trưng dụng ngay bên trên đường Phạm Ngọc Thạch gần tòa tổng lãnh sự. Ngoài thanh niên bị bắt tại Sài Gòn, chưa có tin đụng độ giữa an ninh và người biểu tình. Những người biểu tình lần này có qui củ hơn lần trước, và chính quyền cũng chuẩn bị một ‘hệ thống' để đối phó bài bản hơn lần trước. Một người biểu tình ở Sài Gòn bị công an chìm bắt. (Hình: Bạn đọc Dân Làm Báo) * Theo nguồn tin của Người Việt: Ở Sài Gòn có ông Hạ Đình Nguyên (chủ tịch hội sinh viên tranh đấu những năm 1960) tham gia. Tất cả những gương mặt trí thức tham gia biểu tình ở chủ nhật trước (5/6) đều bị theo dõi và đe dọa không được bước ra khỏi nhà. Nhạc sĩ Tuấn Khanh cũng đang bị bao vây tứ phía. Số lượng công an chìm và nổi đến hơn 1 ngàn người. Ngay cả nhiều người biểu tình lần trước, cho đến thời điểm này vẫn chưa biết cuộc biểu tình đang diễn ra như thế nào. Thậm chí có người cả tuần nay không dám bước ra đường vì bị đe dọa, mạng internet thì bị cắt, khi gọi điện hỏi thăm, họ rất ngạc nhiên vì tin có biểu tình ngày hôm nay. Trường hợp như nhà văn Đào Hiếu. Ông không hề hay biết có biểu tình. Mọi hoạt động của đoàn biểu tình đều nằm trong "tầm ngắm" của nhà cầm quyền. Nhất cử nhất động của người biểu tình đều bị quản lý. Tỉ lệ "chăm sóc" của công an với đoàn biểu tình là 3 công an/1 người biểu tình. Nếu kể cả công an chìm thì tỉ lệ này có khác: 4 công an / 1 người biểu tình. Lần biểu tình trước (5/6) cho cảm giác đối thoại và đồng thuận, lần này cho cảm giác đang bị bóp nghẹt bởi công lực. Cuộc biểu tình lần trước tại Sài Gòn với qui mô lớn, đội ngũ hùng hậu, ở Hà Nội thì yếu hơn. Lần này ngược lại, lực lượng ở Hà Nội mạnh mẽ, hùng hậu, ở phía nam có vẻ như mang không khí 'tự phát" hơn là có qui mô, phương pháp tổ chức và lực lượng trí thức cùng tham gia. Phần lớn tham gia đoàn biểu tình ở Sài Gòn lần này vẫn là sinh viên các trường đại học. Cho đến thời điểm này, những ‘cầu nối thông tin’ ở Sài Gòn đều không liên lạc được. Biểu tình ở Sài Gòn * Cập nhật từ Dân Làm Báo 12:25 phút, một nhóm khoảng vài trăm người vẫn kiên trì bám trụ tại góc đường Lê Duẩn, Phạm Ngọc Thạch - đối diện nhà thờ Đức Bà. Dù đã quá trưa, nhưng đoàn người vẫn hô vang những khẩu hiệu bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Nhiều người dù đã khan tiếng, nhưng vẫn hô theo ủng hộ. Ngay lúc này, bài thơ Nam Quốc Sơn Hà đang vang lên giữa Sài Gòn Lúc 1 giờ 45 phút: Vẫn còn khoảng hơn 100 người tiếp tục kiên trì đứng lại. Bất ngờ, công an đưa 2 xe chuyên dụng ập đến, lao vào bắt bớ hai thanh niên nổi bật nhất trong nhóm, đồng thời vu cáo hai thanh niên này phạm tội... móc túi. Nhiều người bất bình & phản ứng với trò vu khống lố lăng, nhưng đành bất lực trước nhóm công an đang rất thô bạo, côn đồ. Hai thanh niên này bị lôi lên xe buýt bùng đưa đi đâu không lõ. Lúc này, phía công an tiếp tục lệnh cho một chiếc xe xịt nước ập đến, xịt nước tung tóe nhằm giải tán đoàn biểu tình còn sót lại.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 26, 2011 4:11:00 GMT 9
Alec Holcombe – Văn kiện Đảng toàn tập: Lắng nghe tiếng nói nội bộ chính thức của Đảng (bài cuối)
03/11/2010 | 11:25 chiều | Phản hồi đã bị khóa
Tác giả: Alec Holcombe
Chuyên mục: 9 năm talawas, Hồ sơ Cải cách Ruộng đất Thẻ: Văn kiện Đảng Toàn tập
Hoài Phi dịch
Văn kiện Đảng toàn tập là món quà quý giá cho các học giả nghiên cứu về lịch sử Việt Nam hiện đại. Với giá tiền khoảng 2 đô la Mỹ (35 ngàn đồng Việt Nam) một tập, chỉ cần bỏ ra một số tiền khiêm tốn 50 đô la là có thể có hàng trăm văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác phẩm của những người sáng lập ra nhà nước mà chín mươi triệu dân Việt đang sống dưới quyền ngày hôm nay: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, và những người khác. Phải cần làm việc nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, thì một học giả mới có thể thu thập được khối tài liệu khổng lồ này tại các trung tâm lưu trữ ở Việt Nam. Từ khía cạnh nghiên cứu, điều gây hứng thú nhất về Văn kiện Đảng là vô vàn các chỉ thị, thông tri, điện, thông cáo, cương lĩnh, bài nói và diễn văn được đưa vào toàn tập. Cách tốt nhất để diễn tả về những tài liệu trước đây chưa được công bố này là chúng phản ánh tiếng nói “nội bộ chính thức” của đảng. Tài liệu thuộc loại “nội bộ” vì giới lãnh đạo đảng nói chung thường viết chúng cho lãnh đạo cấp trung và cấp cao, chứ không phải cho công chúng rộng hơn. Điều này có nghĩa là nhu cầu tuyên truyền chi phối văn kiện ít hơn nhiều so với các thông báo về chính sách được đăng trên báo chí của đảng. Văn kiện mang tính “chính thức” vì tác giả của chúng đã bỏ công phân tích sự kiện, khái niệm hóa vấn đề, và giải thích chính sách theo cách vừa khẳng định ý thức hệ Marxist-Leninist lẫn quan niệm của họ rằng đảng là đại diện chân chính duy nhất cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Nhưng không hẳn lúc nào những người như Hồ Chí Minh và Trường Chinh cũng trình bày vấn đề với các đảng viên như cách họ sử dụng khi họp kín với nhau. Lãnh đạo đảng có thể thực dụng và thực tế hơn so với cách họ đôi khi xuất hiện trong Văn kiện Đảng.
Mặc dù nhiều tài liệu được viết với mục đích lưu hành nội bộ, toàn tập văn kiện là một loại tuyên truyền của đảng, tương tự như đặc tính cơ bản của nó trong viện bảo tàng, trong sách và giáo trình về lịch sử ở Việt Nam. Các nhà sản xuất bộ Văn kiện Đảng là nhân viên ăn lương của đảng; nhiệm vụ chính của họ là lựa chọn tài liệu nói chung nhằm tán dương và hợp pháp hóa vai trò lãnh đạo của đảng ở Việt Nam. Tuy các tập văn kiện dày dặn và phong phú, tài liệu trong đó chỉ thể hiện một phần khối văn kiện do giới lãnh đạo đảng ban hành hàng năm. Ngoài việc lọc tài liệu nào có thể đưa vào tuyển tập, biên tập viên đôi khi cũng chặt bỏ bớt một số đoạn nhất định trong những văn kiện được chọn, những đoạn mà theo họ chệch quá xa so với mục đích tuyên truyền tổng thể trong toàn tập (việc cắt xén này thường được đánh dấu bằng dấu tỉnh lược). Mặc dầu vậy, cơ hội so sánh một vài tài liệu trong bộ Văn kiện Đảng với bản gốc của chúng trong Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III khiến tôi tin rằng hiếm có trường hợp nào các nhà biên tập viết lại một số đoạn thay vì cắt bỏ. Theo tôi, cách tiếp cận bộ Văn kiện Đảng tốt nhất là nắm chắc về những gì xảy ra trong một giai đoạn nhất định, sau đó sử dụng văn kiện để tìm hiểu xem lãnh đạo đảng thảo luận về những điều xảy ra như thế nào. Đọc Văn kiện Đảng mà hoàn toàn mù tịt về một chủ đề nhất định nào đó, trong khi không có nguồn thông tin nào khác và lại chỉ có ít kinh nghiệm đọc tài liệu do các đảng Marxist-Leninist chế tạo, là một việc đầy nguy hiểm.
Vì nghiên cứu về cải tạo xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tôi đặc biệt chú ý tới những phần trong Văn kiện Đảng liên quan đến phong trào phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất, được thực thi ở miền Bắc Việt Nam trong thời gian từ năm 1953 đến 1956. Đảng Lao động Việt Nam tiến hành chiến dịch này với một số mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, cơ bản nhất là để chuẩn bị cho nông thôn cuối cùng sẽ chuyển sang tập thể hóa nông nghiệp. Kể từ cuối thập niên 1920, các lãnh tụ cộng sản Việt Nam đã kết luận (như Stalin và Mao từng kết luận) là thay đổi gốc rễ này đòi hỏi việc đánh đổ những người đầu tư nhiều nhất vào trật tự kinh tế cũ – giới tinh hoa nông thôn.[1] Quyền lực chính trị mà đảng tước bỏ từ giới tinh hoa này sẽ được đặt vào tay những người khổ nhất dưới chế độ cũ, và trên lý thuyết, do vậy dễ tiếp nhận nhất sự thay đổi gốc rễ – giai cấp bần cố nông. Để thực hiện điều này, từ năm 1953 đến năm 1956, đảng gửi khoảng 48,007 cán bộ tới các làng xã khắp nông thôn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khơi dậy lòng căm thù đối với giới tinh hoa địa phương (gọi là địa chủ).[2] Nhiệm vụ phát động quần chúng của cán bộ là dạy cho đa số nghèo biết cách thể hiện lòng căm thù bằng thuật ngữ Marxist-Leninist và hướng lòng căm thù ấy vào công cuộc lật đổ mạnh mẽ giới tinh hoa địa phương, trong đó có cả nhiều đảng viên địa phương. Như người dân miền bắc còn nhớ rõ, tiến trình khoảng ba tháng này bao gồm việc đưa những người bị cáo buộc là địa chủ ra đấu công khai, xét xử họ tại các tòa án nhân dân đặc biệt, và trong hàng ngàn trường hợp, họ bị xử bắn công khai. Sau các phiên xử này, giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam muốn cán bộ giành được trái tim giai cấp cách mạng nhất ở nông thôn bằng cách chia tài sản và của cải của người bị kết án cho bần cố nông.
Xét việc đây tiếp tục là một đề tài nhạy cảm đối với lãnh đạo Việt Nam hôm nay, việc bộ Văn kiện Đảng cho đăng hơn một ngàn trang tài liệu về phong trào phát động quần chúng quả thực đặc biệt. Đương nhiên là những tài liệu này đã được hiệu đính rất cẩn thận nhằm loại bỏ bất kỳ “thùng thuốc súng” nào có thể giúp các nhà sử học xác định được bao nhiêu người đã bị đảng xử bắn trong chiến dịch này, bao nhiêu người đã tự tử, bao nhiêu người đã chết trong nhà tù tạm bợ, bao nhiêu người đã chết đói tại nhà họ, v.v… Tuy nhiên, tài liệu vẫn còn nhiều giá trị khác cho chúng ta biết về công cuộc phát động quần chúng, giúp giới sử gia nghiên cứu về chiến dịch này ở vào một vị thế thuận lợi hơn rất nhiều so với Edwin Moise khi ông tiến hành nghiên cứu cho cuốn sách đặt dấu mốc mới về đề tài này, Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc và ở miền Bắc Việt Nam.[3]
Vì cuốn sách của Moise vẫn tiếp tục là tường thuật chuẩn mực về chiến dịch cải cách ruộng đất, những phần mà Văn kiện Đảng giúp bổ sung hay xét lại tự sự của Moise đáng chú ý hơn rất nhiều so với những lập luận của ông mà bộ sách giúp củng cố. Những phần Văn kiện Đảng giúp củng cố lập luận của Moise bao gồm sức phá hoại nói chung của phong trào phát động quần chúng, kết cấu của các đợt cải cách, cách thức vội vàng mà nó được thực hiện, vấn đề tiền lệ Trung Quốc, v.v… Mặc dù làm việc với nguồn tài liệu hạn chế vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, chính Moise là người có công nhiều nhất trong việc khiến chúng ta chú ý đến những đặc điểm nói trên và các khía cạnh then chốt khác của chiến dịch cải cách ruộng đất.
Chức năng của báo Đảng
Một vấn đề quan trọng liên quan đến phát động quần chúng là bộ máy tuyên truyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (báo chí, đài và các cuộc mít-tinh quần chúng) đã hoạt động như thế nào trong chiến dịch này. Thiếu điều kiện tiếp cận các chỉ thị cấp cao của đảng như chúng ta thấy trong Văn kiện Đảng hoặc những người từng làm việc cho bộ máy báo chí Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ phát động quần chúng, Moise khó có thể làm gì hơn ngoài việc suy luận. Moise hiểu rằng các bài viết về chiến dịch này trên Nhân Dân, tờ báo chính của đảng và là một trong những nguồn tài liệu quan trọng của ông – không phản ánh những gì đang thực sự diễn ra lúc đó.[4] Tương tự, Moise hiểu rằng có sự khác biệt đáng kể giữa chính sách phát động quần chúng của đảng được in trên báo chí với những gì mà cán bộ tham gia cải cách tuân theo.[5] Để giải thích, Moise đưa ra một vài luận thuyết khác nhau. Ở một đoạn trong sách, ông đổ lỗi sự khác biệt này cho yếu tố ngẫu nhiên:
“Hai tờ Nhân Dân và Thời Mới ở Hà Nội là nguồn quan trọng nhất cho việc nghiên cứu cải cách ruộng đất ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai tờ này không tốt như báo chí Trung Quốc trong thời gian giữa năm 1950 và 1953. Việt Nam là một nước nhỏ hơn và có một hệ thống truyền tin kín phát triển hơn; lãnh đạo không bắt buộc phải mô tả chính sách của họ một cách chính xác trên báo chí nhằm truyền đạt ý tưởng tới những người sẽ thực thi chúng. Hơn nữa, trong cải cách ruộng đất, cả lãnh đạo của Đảng lẫn người viết báo đều không thực sự nắm được điều gì đang xảy ra ở nông thôn. Thông tin tốt nhất mà chúng ta có được là những phân tích hồi tưởng của họ, được viết vài tháng sau khi cải cách ruộng đất đã kết thúc.”[6]
Ở đoạn sau trong cuốn sách của mình, Moise đưa ra luận thuyết thứ hai, trong đó ông cho rằng khác biệt này không phải do các yếu tố ngẫu nhiên, mà do nỗ lực có ý thức của đảng nhằm kiểm soát việc bộ máy tuyên truyền mô tả về chiến dịch cải cách như thế nào. Ví dụ, khi bàn về nguyên nhân tại sao báo chí không đưa ra một thống kê nào về số người chết trong cải cách, ông viết, “(M)ột lý do của việc im lặng này có thể do Đảng muốn tránh khơi ngòi cho quá nhiều vụ xử tử [do cán bộ phát động quần chúng gây ra].” Nói cách khác, đảng sử dụng bộ máy tuyên truyền để tác động tới việc thực thi chiến dịch. Trong phần tiếp theo, Moise chỉ ra rằng sau tháng Một năm 1956 (khoảng năm tháng trước khi chiến dịch cải cách kết thúc), Nhân Dân và Thời Mới chấm dứt việc đăng các bài viết có đề cập đến địa chủ bị xử bắn. Để giải thích điều này, Moise giả thuyết là giới lãnh đạo Đảng Lao động hẳn lo ngại bạo lực trong phát động quần chúng có thể đi ngược lại tinh thần chống Stalin tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 (vào 25 tháng Hai năm 1956). Cũng theo Moise, một khả năng khác là “Đảng có thể đã thất bại trong nỗ lực thuyết phục người dân thành thị là cải cách ruộng đất ở nông thôn không dẫn đến sự quá đà quá khích, và vì vậy quyết định ngừng việc công bố ngay cả những trường hợp quá tay lẻ tẻ.”[7] Nói cách khác, đảng sử dụng bộ máy tuyên truyền nhằm điều khiển nhận thức của cả người dân trong nước lẫn nước ngoài về chiến dịch này.
Trong bộ Văn kiện Đảng, có một số tài liệu giúp soi sáng vấn đề quan trọng này. Về tổng thể, các văn kiện có vẻ củng cố cho luận thuyết thứ hai của Moise, nhấn mạnh vai trò tác động của đảng. Ví dụ, thông tri “Về vấn đề tuyên truyền phát động quần chúng”, ban hành ngày 29 tháng Sáu năm 1953, quy định công tác tuyên truyền cho “giảm tô”, giai đoạn ban đầu của phong trào phát động quần chúng, phải như thế nào. Thông tri bắt đầu bằng việc mô tả động lực cho chiến lược tuyên truyền của đảng:
“Căn cứ tình hình các nơi, Trung ương nhận thấy cán bộ và quần chúng bên dưới chưa được tuyên truyền và giải thích kỹ về các sắc lệnh, nghị định ruộng đất và chỉ thị phát động quần chúng của Trung ương. Ngay một số cán bộ lãnh đạo cũng chưa thật thấm nhuần chủ trương, đường lối phát động quần chúng của Đảng và Chính phủ. Vì vậy đã xảy ra nhiều vụ đấu tranh tự động, tự phát. Có nơi đánh đập, tra khảo địa chủ, đấu cả với trung bần nông, viên chức, học sinh, v.v… Ở những nơi đó, luôn luôn xảy ra những vụ địa chủ tự tử, phú nông, trung nông, bần nông cũng có người sợ bị đấu mà tự tử. Đó là hiện tượng loạn đấu, loạn đả, không có trật tự, không có sách lược, không có lãnh đạo, không nhằm đúng mục đích và đối tượng đấu tranh.”
Sau đó, thông tri giải thích rằng tuy một số hiện tượng là “tất nhiên” và khó tránh được trong đấu tranh giai cấp, một chiến dịch tuyên truyền có hiệu quả có thể giảm bớt những vụ việc này. Để làm yên lòng những người đang sợ bị trở thành mục tiêu của chiến dịch, thông tư tuyên bố, “Phải tuyên truyền giải thích chính sách cho cả địa chủ, phú nông, nói rõ cho họ biết rằng: người nào thi hành chính sách thì không có gì phải lo lắng; Chính phủ và nông dân chỉ trừng trị những kẻ nào không chịu tuân theo pháp luật và không chịu hối cải mà thôi.”
Sau khi giải thích động lực cho chiến lược tuyên truyền của đảng, thông tri đặt ra một số nguyên tắc nền tảng cho việc mô tả công cuộc phát động quần chúng. Về “quả thực” của cuộc tranh đấu (của cải lấy được từ những người bị dán nhãn địa chủ), báo chí chỉ được đề cập đến “ruộng đất, trâu bò, thóc lúa tịch thu hay đòi được của địa chủ phản động và gian ác;” và không được đề cập đến “vàng bạc, châu báu, quần áo, v.v…” Về vấn đề then chốt là xử bắn địa chủ như thế nào, thông tư chỉ dẫn, “Chỉ tuyên truyền những vụ xử tử hình những tên đại gian, đại ác cực độ. Những vụ xử tử hình thường không nên tuyên truyền. Chỉ tuyên truyền những vụ xử tử hình trên báo chí hoặc bằng hình thức khác như nói chuyện, v.v… Song đài phát thanh không nên tuyên bố những vụ đó.”
Một đoạn khác trong thông tri cảnh cáo là “Có trường hợp địa chủ đại gian đại ác là đàn bà bị xử tử hình, cũng không nên tuyên truyền, vì cần đề phòng địch có thể lợi dụng phản tuyên truyền ta.” Tuyên truyền về xử tử hình trên báo chí hay tại các buổi mít-tinh “Không nên gây ra sự hoang mang một cách không cần thiết trong xã hội, trái lại phải tranh thủ sự đồng tình của xã hội.” Về thủ tục tuyên truyền xử tử hình, thông tri nêu rõ, “Tóm lại, việc tuyên truyền những vụ xử tử hình nên thận trọng. Các đoàn cần gửi cho Ban Tuyên huấn Trung ương những tài liệu về những vụ đấu lớn và những vụ xử tử hình để Ban Tuyên huấn gửi cho các báo.”[8]
Những trích đoạn trên cho thấy mục đích then chốt của chiến lược tuyên truyền là trấn an nỗi lo sợ của người dân, giảm bớt tỷ lệ “đấu tranh tự phát” và việc chống cự do hoảng sợ. Hơn nữa, rõ ràng lãnh đạo đảng coi báo chí là bộ máy tuyên truyền để sử dụng trong quá trình phát động quần chúng tổng thể, chứ không phải là một tổ chức đứng ngoài. Do vậy, việc những người viết cho tờ Nhân Dân (một trong những nguồn quan trọng nhất của Moise) “có hiểu nhiều về những gì đang diễn ra ở nông thôn” hay không, thật ra không quan trọng. Nhiệm vụ của họ là mô tả theo cách các nhà lãnh đạo đảng nghĩ rằng có thể giúp cho việc thi hành chiến dịch này một cách trôi chảy – chẳng hạn như hứa hẹn với người dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang lo sợ rằng nếu tuân thủ chính sách thì “không có gì phải lo lắng.”
Tuy vậy, nếu giới tinh hoa nông thôn khi đó đọc được chỉ thị của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ban hành vào ngày 4 tháng Năm năm 1953, hẳn họ sẽ cảm thấy có rất nhiều điều khiến họ phải lo lắng, ngược lại với những gì họ được biết qua bộ máy tuyên truyền của chế độ. Chỉ thị này cho biết Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam định mức xử tử hình một phần nghìn trong thời kỳ giảm tô – giai đoạn ôn hòa hơn của cuộc phát động quần chúng.[9] Nói cách khác, giới lãnh đạo đảng đã quyết định khoảng chừng bao nhiêu người cần bị xử tử trong giai đoạn giảm tô, trước khi cán bộ thậm chí về tới làng họ được giao, và trước khi họ có điều kiện xác định xem liệu những người bị gọi là địa chủ có tuân thủ luật pháp, và có “biết hối cải” hay không. Suy từ con số khoảng tám triệu người tham gia chiến dịch giảm tô ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tỷ lệ xử tử trong chỉ thị ngày 4 tháng Năm năm 1953 cho thấy Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam muốn bộ máy phát động quần chúng xử bắn khoảng tám ngàn người trong giai đoạn đầu tiên của chiến dịch này.[10]
Vì Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ấn định tỷ lệ xử bắn trong giai đoạn giảm tô, và biện minh cho tỷ lệ này trong chỉ thị ngày 4 tháng 5 năm 1953, không có lý do gì để không nghĩ rằng Bộ Chính trị cũng ấn định tỷ lệ xử tử cho giai đoạn cải cách ruộng đất. Và có thể kết luận một cách hợp lý rằng bất kỳ một tỷ lệ xử tử nào cho giai đoạn quyết liệt hơn của chiến dịch, khi giai cấp địa chủ cần phải bị “triệt để đánh đổ”, cũng phải cao hơn nhiều so với tỷ lệ một phần nghìn. Với mười triệu người trải qua cải cách ruộng đất, dù có thay đổi theo thời gian và nơi chốn thì tỷ lệ xử tử và việc Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam đã ấn định con số này như thế nào, vẫn còn là một trong những bí mật được giữ kín nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại.
Trong bộ Văn kiện Đảng, có nhiều tài liệu cho thấy việc lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam muốn che giấu quy mô và bản chất cuộc phát động quần chúng với người dân miền bắc, các đảng viên cấp thấp và giới quan sát ngoại quốc. Chẳng hạn, trong diễn văn bế mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa II) và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất (từ 14 đến 23 tháng 11, 1953), Hồ Chí Minh căn dặn đại biểu có mặt nhiệm vụ về cải cách ruộng đất sắp tới (đã được thảo luận tại hội nghị):
“Bây giờ về, các chú, các cô, không được nói lung tung vì đây là một bí mật trong chiến lược đánh phong kiến, cải cách ruộng đất. Nếu các chú nói lung tung, mình chưa sắp sửa gì, địch đã sắp sửa rồi, địa chủ đã sắp sửa rồi. Vì vậy, Trung ương sẽ có một chỉ thị về cách tuyên truyền chung cho các vùng và riêng các vùng chưa phát động.”[11]
Trong đoạn sau của diễn văn, Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh việc cần thiết phải giữ bí mật,
“Vùng chưa phát động và chung các vùng khác không được nói lung tung, phải giữ bí mật. Các đại biểu về, chỉ báo cáo cho Khu ủy, không được nói ra ngoài. Rồi do khu ủy xem xét kỹ, quy định phổ biến chính sách đến ai, đến chừng nào. Không phải ‘tương’ hết báo cáo này, ‘tương’ hết chính sách này ra. Các chú hiểu chưa, cái này phải nhớ cho sâu.”[12]
Như Hồ Chí Minh đã hứa, mười chín ngày sau đó, vào 12 tháng Mười Hai năm 1953, Ban Bí thư ban hành chỉ thị “Về việc tuyên truyền chính sách cải cách ruộng đất”. Do Trường Chinh thảo, chỉ thị này gồm hai phần chính: phần thứ nhất bàn về “nhiệm vụ và nội dung tuyên truyền cải cách ruộng đất”, và phần thứ hai về “cách thức tiến hành.” Với giai cấp có nhiều cái để mất nhất trong chiến dịch phát động quần chúng này – những người bị gọi là địa chủ, Trường Chinh giải thích rằng tuyên truyền cần “làm cho họ thấy chính sách cải cách ruộng đất là chính nghĩa, là hợp lý, hợp pháp; ruộng đất do nông dân làm ra đương nhiên phải trả về cho nông dân.” Để trấn an những người đang sợ trở thành đối tượng bị đấu tố, Trường Chinh chỉ thị người làm công tác tuyên truyền nhấn mạnh việc “chính phủ đối xử có phân biệt với từng hạng địa chủ tùy theo thái độ của họ đối với kháng chiến, đối với nhân dân, chứ không vơ đũa cả nắm, đặng cô lập bọn địa chủ Việt gian, phản động, cường hào gian ác, ổn định tinh thần những địa chủ kháng chiến và địa chủ thường, và ngăn ngừa những hành động chống chính sách, phá hoại sản xuất của giai cấp địa chủ.[13]
Trong phần chỉ thị việc lãnh đạo đảng muốn phong trào được tuyên truyền như thế nào tại những vùng sắp tiến hành cải cách ruộng đất (đã phát động quần chúng giảm tô), Trường Chinh viết, “Việc tuyên truyền, giáo dục chính sách cải cách ruộng đất ở những nơi này không cần phải tổ chức học tập chính sách như trước đây thường làm. Khi nào có đội công tác xuống xã phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất, việc tổ chức học tập chính sách cải cách ruộng đất sẽ do các đội phụ trách.”[14] Vì vậy, dường như các làng xã nông thôn được biết những chi tiết quan trọng của chiến dịch cải cách ruộng đất chỉ sau khi đội cải cách đã về làng. Điều quan trọng cần lưu ý ở đây là một trong những nhiệm vụ đầu tiên của đội cải cách khi về đến làng là cho chặn hết mọi ngả đường và canh gác những người bị tình nghi là địa chủ 24/24 giờ.
Tài liệu trong Văn Kiện Đảng cho thấy lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam có chính sách che giấu những chi tiết quan trọng về chiến dịch cải cách không chỉ với công chúng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn cả với đảng viên cấp thấp. Trong chỉ thị “Về kế hoạch học tập chính sách cải cách ruộng đất”, Ủy viên Bộ Chính trị Lê Duẩn tuyên bố “Để đảm bảo việc thực hiện cải cách ruộng đất thắng lợi, Trung ương quyết định cần tổ chức việc học tập chính sách cải cách ruộng đất cho cán bộ các cấp một cách sâu rộng.” Việc học tập này tập trung vào “ý nghĩa” và “mục đích”, cũng như “tính chất chính nghĩa” và “triệt để” của cải cách ruộng đất. Tuy nhiên, khi đề cập về nội dung chính sách, Lê Duẩn chỉ thị rằng học tập “cốt nắm những điều chủ yếu, không nên đi vào những điều khoản chi tiết.” Tương tự, Lê Duẩn viết, “Về phương pháp thực hiện cũng không cần thiết học tỉ mỉ quá…” Đối với cán bộ được chọn đi cải cách, Lê Duẩn giải thích rằng việc huấn luyện công việc cụ thể gồm những gì sẽ do đoàn ủy đoàn cải cách phụ trách. Chỉ thị cũng hướng dẫn tỉnh ủy và huyện ủy không tổ chức lớp huấn luyện cho các chi bộ xã, mà “chỉ cần phổ biến [tài liệu] kỹ.”[15] Vậy thì khi nào đảng viên địa phương được huấn luyện chi tiết về chính sách? Lê Duẩn giải thích, “[N]ơi nào tiến hành cải cách ruộng đất sẽ do đội công tác phụ trách hướng dẫn học tập kỹ.”[16]
Ngày 10 tháng Một năm 1955, hai tháng sau khi giới lãnh đạo chóp bu chính thức giành được những vùng ở miền bắc Việt Nam do Pháp kiểm soát cho tới tận khi chiến tranh [Đông Dương lần thứ nhất] kết thúc, ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Duy Trinh ban hành thông tri “Về việc giải thích chính sách cải cách ruộng đất cho các công chức, nhân viên mới ở cơ quan, công sở trong các thành thị mới giải phóng.” Theo thông tri này, việc giải thích chính sách cải cách ruộng đất cho công chức và nhân viên thành thị đang có thắc mắc có thể dựa trên nội dung cơ bản trong bài nói chuyện của ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Quốc Việt tại Nhà hát Lớn ở Hà Nội hai tuần trước đó. (Lãnh đạo đảng cho in trích đoạn cuộc nói chuyện này với “giới công thương nghiệp, trí thức và viên chức” Hà Nội trên báo Nhân Dân các số ngày 28, 29 và 30 tháng Mười Hai năm 1954.)[17] Như Trường Chinh đã hướng dẫn trong chỉ thị ngày 12 tháng Mười Hai năm 1953, Nguyễn Duy Trinh tuyên bố với đảng viên có nhiệm vụ tuyên truyền về chính sách rằng họ cần giải thích rõ Đảng Lao động “phân biệt đối đãi các hạng địa chủ, phân biệt địa chủ với phú nông.” Về các buổi đấu tố trước quần chúng, thông tri hướng dẫn “[đảng viên] cần nói rõ tính chất hợp lý, hợp tình của các cuộc đấu địa chủ cường hào gian ác đầu sỏ trước đây và chủ trương thành lập tòa án để xét xử bọn đó hiện nay cho họ [công chức và nhân viên mới] hiểu để họ yên tâm.” Sau đó Nguyễn Duy Trinh chỉ thị,
“Đối với những vấn đề mà họ [công chức và nhân viên mới] không cần biết hoặc vì trình độ chính trị của họ còn kém mà không hiểu được hoặc có thể hiểu sai thì không cần đưa ra giải thích. (Ví dụ: về đường lối chính sách chung của Đảng ở nông thôn; vấn đề chỉnh đốn tổ chức, phương pháp phát động tố khổ, v.v…) Đối với những vấn đề thuộc chính sách cụ thể có tính chất hướng dẫn cho các cấp ủy thi hành chính sách như xử trí địa chủ phản động cường hào gian ác đầu sỏ, phân biết xét xử nặng nhẹ thế nào và những vấn đề thuộc cách vận dụng sách lược cụ thể trong khi đấu tranh với địch, v.v… đều không được đem ra giải thích.”[18]
Mười một ngày sau, 21 tháng Một năm 1955, ban bí thư ban hành một chỉ thị khác: “Về việc học tập chính sách cải cách ruộng đất.” Do ủy viên Bộ Chính trị Lê Văn Lương soạn thảo, chỉ thị tuyên bố, “Trung ương nhận thấy cần phải tổ chức cho cán bộ học tập thêm về chính sách cải cách ruộng đất để chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ tích cực tham gia và lãnh đạo cải cách ruộng đất.” Như Lê Duẩn đã hướng dẫn trong chỉ thị ngày 10 tháng Hai năm 1954, Lê Văn Lương tuyên bố, “Việc học tập cần chú trọng nắm được tinh thần chính sách, tránh đi miên man vào các vấn đề quá chi tiết.” Giống như Nguyễn Duy Trinh, Lê Văn Lương gợi ý các buổi học tập nên theo bài nói chuyện trước đó của Hoàng Quốc Việt, đã được báo Nhân Dân đăng cho công chúng tiêu thụ.
Vì vậy, tài liệu trong Văn kiện Đảng cho thấy sự khác biệt giữa hình ảnh phong trào phát động quần chúng được mô tả trên báo chí Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và những gì đang thực sự diễn ra tại các làng xã miền bắc Việt Nam không bắt nguồn từ việc lãnh đạo đảng hay báo chí thiếu hiểu biết về chiến dịch. Thay vì vậy, khác biệt này là kết quả từ một loạt chính sách cụ thể của giới lãnh đạo đảng nhằm giữ kín quy mô thực sự và bản chất của chiến dịch cải cách. Dường như lãnh đạo đảng hy vọng việc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện phát động quần chúng, giảm bớt tỷ lệ “đấu tranh tự phát” và “địa chủ phá hoại”. Trong mắt giới lãnh đạo đảng, hiện tượng địa chủ phá hoại có vẻ bao gồm những việc như phát tán ruộng đất, của cải, bỏ trốn, hoặc thậm chí chọn cách tự tử như giải pháp cuối cùng. Về khác biệt giữa chính sách cải cách ruộng đất được công bố với việc cán bộ thực hành như thế nào, Văn kiện Đảng gợi cho thấy rằng ngay cả điều này cũng có thể là một chính sách có chủ tâm mà đảng sử dụng để giữ bí mật về bản chất của chiến dịch. Giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam có vẻ không muốn cán bộ biết rõ nhiệm vụ chi tiết cụ thể của một cán bộ phát động quần chúng là gì cho đến khi họ đã tham gia đội giảm tô hoặc đoàn ủy cải cách – nói cách khác, sau khi họ đã được gửi xuống bộ máy phát động quần chúng, xa cách gia đình, bạn bè và công chúng.
Phát động quần chúng và Hiệp định Geneva
Như nghiên cứu của Pierre Asselin đã chỉ ra, bộ Văn kiện Đảng có nhiều tài liệu thú vị liên quan đến Hiệp định Geneva ký kết vào tháng Bảy năm 1954.[19] Một số văn kiện cung cấp thông tin về việc lãnh đạo đảng đã làm gì để giảm bớt mối đe dọa công cuộc phát động quần chúng do điều 14c và 14d của hiệp định gây ra. Những điều khoản này quy định việc không được trả thù hoặc kỳ thị đối với các đối thủ chính trị trước đây, và cần tôn trọng đi lại tự do giữa miền Bắc và miền Nam giai đoạn 300 ngày (từ tháng Bảy 1954 đến tháng Năm 1955). Điều này có nghĩa là các vụ đấu tố địa chủ trong phong trào phát động quần chúng vi phạm tinh thần điều khoản 14c, điều khoản hiển nhiên được đưa ra nhằm bảo vệ mọi người dân Việt khỏi những bạo lực do nhà nước đỡ đầu, dù ở Sài Gòn hay Hà Nội. Hơn nữa, việc đi lại tự do trong ba trăm ngày có nghĩa là những ai lo sợ trở thành mục tiêu trả thù của một trong hai chế độ có được sự lựa chọn di cư nơi khác. Để bảo đảm việc tuân thủ những điều khoản này, các bên ký kết Hiệp định Geneva đồng ý cho phép Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến bao gồm đại biểu của Canada, Ba Lan và Ấn Độ đi lại tự do khắp nước và tiến hành kiểm tra. Cả hai chế độ ở Hà Nội và Sài Gòn đều cam kết giúp Ủy hội thực hiện nhiệm vụ. Về những vấn đề này, Moise viết,
“Điều đáng ngạc nhiên là các báo cáo của Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đưa ra rất ít bằng chứng về sự khủng bố nhằm vào các nhân vật quan trọng từng cộng tác với Pháp. Ủy hội được phép đi lại khá tự do ở miền Bắc –tự do hơn là ở miền Nam – và họ hẳn sẽ thấy được bất kỳ sự vi phạm hiệp định nào trên diện rộng…
… Giới lãnh đạo chóp bu của đảng miễn cưỡng tuân thủ hiệp định và cho phép nông dân ra đi. Họ chịu áp lực của Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến; chừng nào còn nuôi hy vọng thống nhất Việt Nam trong hòa bình, chừng đó họ sẽ không thách thức áp lực đó. Nhưng thậm chí ngay cả sau khi Hà Nội có quyết định như vậy, thì nhiều lãnh đạo địa phương từ chối không thi hành. Họ tiếp tục cản trở việc di cư, hoặc vì tin rằng những người muốn vào Nam cần bị trì hoãn trong một thời gian đủ để họ nghĩ lại, hoặc do sự miễn cưỡng theo phản xạ không muốn hợp tác bất cứ cách nào với những người đang bộc lộ tình cảm phản động qua việc muốn rời bỏ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…
…Một vài tháng sau, tình trạng này chấm dứt, và vào thời hạn 18 tháng Năm năm 1955, phần lớn những người muốn vào Nam đã đi được.”[20]
Trong bộ Văn kiện Đảng, có một số lệnh và chỉ thị của giới lãnh đạo đảng về những vấn đề cụ thể mà Moise đề cập. Về việc nhà cầm quyền tuân thủ điều khoản 14c, cấm trả thù các đối thủ chính trị, nghị quyết của Bộ Chính trị ra ngày 7 tháng Chín năm 1954 có đoạn,
“Cách đấu địa chủ trong phát động quần chúng trước đã quy định, nay có thể đổi là: tăng cường tác dụng của chính quyền và pháp luật, dùng phương thức tòa án để đối phó với sự chống lại của địa chủ. Với điều kiện thỏa mãn được yêu cầu căn bản của nông dân, gây được ưu thế chính trị của nông dân ở nông thôn, thì hành động trực tiếp của nông dân đấu địa chủ cần mềm dẻo hơn trước để tránh đối phương mượn cớ là ta khủng bố những người đã hợp tác với họ, đồng thời cũng để tránh tình trạng những địa chủ bị đấu chạy vào Nam nhiều, có hại đến việc thực hiện thống nhất nước nhà.”[21]
Về vấn đề liên quan đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến có khả năng biết được những điều gì đang xảy ra tại nông thôn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chỉ thị của Ban Bí thư ra ngày 26 tháng Chín năm 1954 hướng dẫn việc các đảng viên cần chuẩn bị nếu Ủy hội Quốc tế đến thăm: “Thường thường Ủy ban quốc tế tới địa phương là để điều tra, kiểm soát. Ngoài việc kiểm soát từng vấn đề nhất định, họ sẽ tìm cách thăm dò tình hình mọi mặt của ta. Họ có thể đi đến các nơi, hỏi han dân chúng, v.v… Vì vậy, cần chuẩn bị cho nhân dân biết cách trả lời khéo léo các câu hỏi của Ủy ban quốc tế, không để dân ta nói lung tung.”[22]
Hai tháng sau, vào tháng Mười Một năm 1954, Trường Chinh ra chỉ thị của Bộ Chính trị “Về việc gây một phong trào rộng lớn và mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân toàn quốc chống các hành động trắng trợn của đối phương vi phạm Hiệp định Giơnevơ.” Trong phần cuối chỉ thị, Trường Chinh khẳng định rằng “vì ta là chính nghĩa, ta tôn trọng Hiệp định đình chiến, nên dư luận chính đáng ủng hộ ta.”[23]
Một chỉ thị khác của Bộ Chính trị ra ngày 16 tháng Hai năm 1955 (khoảng ba tháng trước khi thời hạn ba trăm ngày kết thúc) cảnh cáo rằng vẫn có một số đông dân chúng chuẩn bị đi Nam. Để đối phó tình thế này, Bộ Chính trị đề xuất những hành động sau:
“- Chọn một vài địa điểm điển hình để tổ chức cho đồng bào đi (khi chọn rồi đề nghị với Trung ương). Nên mời cả Ủy ban quốc tế đến để chứng kiến việc đó. Những nơi này phải là nơi có cơ sở quần chúng của ta, khi tổ chức cho quần chúng đi thì chỉ có số ít xin đi, như thế mới có lợi cho ta. Khi làm việc này phải chuẩn bị chu đáo, giải quyết thật nhanh.
- Phải có kế hoạch trấn áp phản động, tăng cường canh gác, kiểm soát, đề phòng địch lợi dụng dịp này thúc đẩy quần chúng tập trung, gây khó khăn cho ta.”[24]
Một tháng sau, vào ngày 20 tháng Ba năm 1955 (hai tháng trước khi thời hạn di chuyển tự do kết thúc), điện từ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi các liên khu ủy đánh giá tình hình như sau:
“Ở trong tổ quốc tế, bọn phản động tích cực hoạt động, hiện nay tổ quốc tế lại cử ba tổ về điều tra ở các tỉnh vùng duyên hải: Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Mục đích của phản động trong tổ quốc tế đi lần này là tìm kiếm sơ hở của ta, lấy chứng cứ để kết luận ta vi phạm hiệp định rồi nhân đó đòi đưa ra 9 nước dự Hội nghị Giơnevơ, trì hoãn việc rút Hải Phòng, kéo dài thời gian di cư, đi đến phá hiệp định và gấp rút tổ chức cưỡng ép đưa quần chúng đi một lúc có quy mô rộng lớn.”[25]
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 26, 2011 4:12:06 GMT 9
Vào tháng Tư năm 1955, một tháng trước khi biên giới vĩ tuyến đóng cửa, Trường Chinh viết về việc liệu có cho phép những đối tượng bị xếp loại địa chủ đi Nam không:
“Đối với địa chủ nói chung là không cho đi và phải tạo đủ lý do về pháp lý để giữ chúng lại, nhất là giữ bọn gian ác, đợi lúc phát động quần chúng thì xử chí. Gặp trường hợp cá biệt có tổ quốc tế về điều tra mà có địa chủ xin đi thì phải xin chỉ thị của Tỉnh ủy và nếu ở địa phương đang phát động quần chúng thì phải xin chỉ thị của Đoàn ủy, không được tự tiện giải quyết cho đi, làm mất đối tượng đấu tranh của quần chúng nông dân.”[26]
Và cuối cùng, mười bảy ngày trước khi kết thúc giai đoạn đi lại tự do, “Điện của Trung ương” ngày 1 tháng Năm năm 1955 cảnh cáo,
“Qua tình hình của Nam Định và một số tỉnh khác, Trung ương nhận thấy sở dĩ tình hình “di cư” ở một số nơi trở thành nghiêm trọng là do:
- Chỉ đạo của Tỉnh ủy lỏng lẻo.
- Trấn áp phản động quá yếu.
- Một số cán bộ sợ vi phạm hiệp định có tư tưởng mở toang cửa cho dân đi.
Các địa phương cần sửa chữa gấp những khuyết điểm trên.”[27]
Các đoạn trích trên đây từ bộ Văn kiện Đảng chỉ ra rằng giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa áp dụng những biện pháp cụ thể nhằm cản trở việc Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến phát hiện những gì đang thực sự diễn ra ở nông thôn. Các tài liệu này cũng gợi cho ta thấy động lực ngăn cản người dân di cư chủ yếu xuất phát từ giới lãnh đạo đảng, chứ không phải từ giới cán bộ địa phương (như Moise phỏng đoán). Thực vậy, các nhà lãnh đạo đảng tỏ ra thất vọng vì cán bộ địa phương đã không làm hơn nữa trong việc cản trở người dân ra đi. Và cuối cùng, những tài liệu này làm nảy sinh câu hỏi về cách đánh giá của Moise về việc giai đoạn tự do di cư này đã kết thúc như thế nào. Lúc đầu Moise viết, “Một vài tháng sau, tình trạng này chấm dứt, và vào thời hạn 18 tháng Năm năm 1955, phần lớn những người muốn vào Nam đã đi được.” Chỉ mấy dòng sau đó, ông phần nào điều chỉnh nhận định này và tuyên bố, “[n]hững khối đông dân muốn đi nam duy nhất nhưng không đi được là ở các tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa, Liên khu IV.” Trích dẫn cuối từ Văn kiện Đảng ở phần trên cho thấy rằng giới lãnh đạo, sau khi xem xét tình hình ở Nam Định (một tỉnh phía bắc Thanh Hóa, thuộc Liên khu III) và các tỉnh khác, vẫn coi tình hình di cư là “nghiêm trọng” dù chỉ còn mười bảy ngày trước khi thời hạn tự do thông thương giữa hai miền Bắc Nam chấm dứt.
Kết luận
Mặc dù Văn kiện Đảng có những hạn chế, tôi hy vọng rằng trích dẫn trong bài viết ngắn này cho ta thấy các nhà biên tập bộ sách đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều tài liệu hấp dẫn. Ta cần nhớ rằng họ được đào tạo trong chế độ cộng sản ở Việt Nam và chia sẻ nhiều giá trị với các nhà lãnh đạo đảng, tác giả của những tài liệu trong bộ sách. Những điều mà phần lớn chúng ta hẳn muốn cắt bỏ khỏi hồ sơ của chính chúng ta (chẳng hạn việc hết lời ca tụng Stalin đáng tởm), thì các nhà biên tập bộ sách lại cho rằng hoàn toàn chấp nhận được. Đối với những độc giả mà tiếng Việt không phải là bản ngữ, tài liệu trong Văn kiện Đảng quả thực là một thách thức về ngôn ngữ; nhưng theo kinh nghiệm của tôi, thách thức này không đến nỗi khó nhằn như thoạt đầu mới đọc. Sau khi đánh vật với tập văn kiện thứ nhất, tập thứ hai bớt khó hẳn, và sang đến tập thứ ba, người đọc có thể thấy mình đã thuộc lòng ngôn từ cơ bản của chế độ. Các thuật ngữ và lập luận được lặp đi lặp lại; lãnh đạo đảng áp dụng lăng kính Marxist-Leninist vào hết vấn đề này đến vấn đề khác, khiến các tập Văn kiện Đảng trở nên dễ đọc. Những ý tưởng mới đòi hỏi việc mở rộng kho từ vựng của chế độ và cách sử dụng tiếng Việt phong phú hơn và tinh tế hơn hầu như không xuất hiện trong bộ sách này.
__________
Alec Holcombe là nghiên cứu sinh bậc Tiến sĩ về Lịch sử tại Đại học California, Berkeley. Hiện anh đang viết luận án về cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no. 2 (Summer 2010).
Bản tiếng Việt © 2010 Hoài Phi
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương”, Văn kiện Đảng toàn tập. (Hà Nội:Chính trị Quốc gia, 2001), tập 1: trang 213.
[2] Nguyễn Duy Trinh, “Báo cáo bổ sung của chính phủ về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức (báo cáo đọc trước khóa họp Quốc hội lần thứ 6, ngày 4/1/1957)”, Hà Nội, Sự Thật, 28 tháng Hai năm 1957, 4.
[3] Edwin Moise, Land Reform in China and North Vietnam: Consolidating the Revolution at the Village Level (Chapel Hill: The University of North Carolina Press, 1983).
[4] Như trên, trang 219.
[5] Như trên, trang 197-198, 213.
[6] Như trên, trang 182.
[7] Như trên, trang 222.
[8] Ban Bí thư, “Thông tri của Ban Bí thư, ngày 29 tháng 6 năm 1953: về vấn đề tuyên truyền phát động quần chúng”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14: trang 246-250.
[9] Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, “Chỉ thị của Bộ Chính trị về mấy vấn đề đặc biệt trong phát động quần chúng, 4/5/1953”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14: trang 201-206. Xem bản dịch văn kiện này trong Tạp chí Việt học, tập 5, số 2 (mùa Hè 2010): trang 243-247.
[10] Moise, Land Reform in China and North Vietnam, trang 176. Theo Moise, con số này “vào khoảng 7,800.”
[11] Hồ Chí Minh, “Diễn văn bế mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 23/11/1953”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14: trang 504-511.
[12] Như trên.
[13] Trường Chinh, “Chỉ thị của ban bí thư về việc tuyên truyền chính sách cải cách ruộng đất”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14: trang 537-549.
[14] Như trên.
[15] Lê Duẩn, “Chỉ thị của ban bí thư, 10/2/1954: Về kế hoạch học tập chính sách cải cách ruộng đất”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15: trang 17-20. Lê Duẩn không cung cấp thông tin cụ thể về việc tài liệu học tập được phát cho đảng viên địa phương sẽ gồm những gì; ông chỉ viết, “lấy tài liệu học tập cải cách ruộng đất do Ban Tuyên huấn Trung ương soạn làm tài liệu chính.”
[16] Như trên.
[17] Hoàng Quốc Việt, “Vì sao nước ta phải cải cách ruộng đất”, Nhân Dân, số 302-304, từ 28 đến 30 tháng Mười Hai, 1954.
[18] Nguyễn Duy Trinh, “Thông tri của Ban bí thư số 2 – TT/TW, 10/1/1955: Về việc giải thích chính sách cải cách ruộng đất cho các công chức, nhân viên mới ở cơ quan, công sở trong các thành thị mới giải phóng”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 8-11.
[19] Pierre Asselin, “Choosing Peach: Hanoi and the Geneva Agreement on Vietnam, 1954-1955,” Journal of Cold War Studies 9, no.2 (Spring 2007): trang 95-126.
[20] Moise, Land Reform in China and North Vietnam, trang 192-195.
[21] Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, “Nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng,” Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15: trang 298.
[22] Trường Chinh, “Chỉ thị của ban bí thư 26/9/1954: Về nhiệm vụ của các cấp Đảng ở các địa phương thuộc bắc vĩ tuyến 17 đối với Ủy ban quốc tế”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15: trang 318-324.
[23] Trường Chinh, “Chỉ thị của Bộ Chính trị 26/11/1954: Về việc gây một phong trào rộng lớn và mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân toàn quốc chống các hành động trắng trợn của đối phương vi phạm Hiệp định Geneva”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15: trang 385.
[24] Lê Văn Lương, “Chỉ thị của Bộ Chính trị số 07-CT/TW ngày 16 tháng 2 năm 1955: Đẩy mạnh đấu tranh phá âm mưu mới của địch trong việc dụ dỗ và cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam,” Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 74.
[25] “Trung ương gửi các liên khu ủy, 20/3/1955”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 232.
[26] Trường Chinh, “Chỉ thị của Ban Bí thư số 16-CT/TW, 21/4/1955: Tăng cường chỉ đạo, tích cực đấu tranh âm mưu địch cưỡng ép và dụ dỗ giáo dân di cư”, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 273.
[27] “Điện của Trung ương, 1/5/1955,” Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 16: trang 282.
|
|