|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 3:12:02 GMT 9
Mao Trạch ĐôngVietsciences-Phạm Văn Tuấn Mao Trạch Đông là nhà lãnh đạo xuất sắc của nước Trung Hoa Cộng Sản, đã tham dự rất nhiều trận mạc trong thời kỳ nội chiến, đã đưa Đảng Cộng Sản Trung Hoa tới thắng lợi và đẩy lui Quốc Dân Đảng cùng quân đội của Tướng Tưởng Giới Thạch (Jiang Jieshi) qua hòn đảo Đài Loan. Kể từ năm 1943, Mao Trạch Đông đã duy trì một địa vị độc tôn trong Bộ Chính Trị của Đảng Cộng Sản Trung Hoa và từ năm 1945, là nhân vật không thể bị thay thế trong Ủy Ban Trung Ương của đảng kể trên. Vào ngày 01 tháng 10 năm 1949 tại Quảng Trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh (Tiananmen), Mao Trạch Đông đã công bố cho toàn thế giới biết việc thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (the People's Republic of China) rồi kể từ năm đó, Mao không ngừng theo đuổi công việc cải tiến nước Trung Hoa thành một xứ sở hùng mạnh và thịnh vượng. Tuy nhiên, các phong trào hay chiến dịch cải cách của Mao, chẳng hạn như chiến dịch "Chống Cánh Hữu" (the Anti-Rightist Campaign), phong trào "Bước Đại Nhẩy Vọt" (the Great Leap Forward) (1958-59) và cuộc "Cách Mạng Văn Hóa" (the Cultural Revolution) (1966-69) đã đưa nước Trung Hoa vào các mê hồn trận của ý thức hệ, khiến cho đất nước này tụt hậu so với các nước đang phát triển. Kể từ cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-42), Trung Hoa đã bị nhiều nước bên ngoài chèn ép. Mao Trạch Đông đã dùng nhiều chiến thuật và quân đội nhân dân trang bị ý thức hệ Cộng Sản để chiếm chính quyền, chấm dứt cảnh nghèo khó của người dân, xóa đi các tàn tích xâm lăng của phương tây. Vào lúc đầu của thời kỳ cách mạng, Liên Xô đã giúp đỡ rất tích cực Trung Hoa và đảng cộng sản của Mao, nhưng quan hệ này dần dần trở nên căng thẳng và bị chấm dứt trước khi xẩy ra cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Từ khi là Chủ Tịch của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông đã được tôn thờ cá nhân, được gọi là "Vị Lãnh Tụ vĩ đại", "Vị Cứu Rỗi của nước Trung Hoa" (Savior of China)... Sự tôn thờ vì sức mạnh ý thức hệ này còn lan ra bên ngoài đất nước khiến cho Trung Hoa mất đi nhiều cơ hội phát triển kinh tế. 1/ Thuở thiếu thời. Mao Trạch Đông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893, trong một gia đình trung lưu, thuộc làng Thiểu Sơn (Shaoshan) huyện Tương Đoàn (Xiangtan) tỉnh Hồ Nam (Hunan). Ông Tổ của Mao đã từ tỉnh Giang Tây (Jiangxi) di cư tới đây trong thời đại nhà Minh, lập gia đình với người địa phương và làm nghề nông. Thân phụ của Mao là Mao Châu Thẩm, một nông dân có tính tình vừa tiết kiệm, vừa tham lam và bà mẹ tên là Vương Kim Muội, một người đàn bà siêng năng, hiểu biết và tốt bụng. Mao Trạch Đông là con trưởng, được cha cho đi học vì ông ta vốn mù chữ, cần tới người con biết viết để giúp đỡ ông khi ghi chép công việc thương mại. Trong cuộc Cách Mạng Năm 1911, Mao đã tham gia vào quân đội địa phương của tỉnh Hồ Nam, nhưng vì không thích hợp với binh nghiệp, nên Mao đã trở về đi học tại Trường Sa (Changsha) và tốt nghiệp trường Sư Phạm vào năm 1918. Vào dịp Phong Trào Ngũ Tứ (the May Fourth Movement), Mao đã cùng với ông thầy dạy trung học khi trước là Dương Trường Tế (Yang Changji) đi lên Bắc Kinh. Sau đó, ông Dương trở thành một nhân viên trong Đại Học Bắc Kinh, nên đã giới thiệu Mao Trạch Đông làm nhân viên phụ tá thư viện của trường đại học, giúp việc Lý Đại Siêu (Li Dazhao) khi đó làm quản thủ thư viện. Vào thời gian này, Mao đã theo học tại trường đại học, được đọc nhiều bài văn của một số nhà trí thức danh tiếng như Trần Độc Tú (Chen Duxiu), Hồ Thích (Hu Shi) và Tiền Tuyển Đồng (Qian Xuantong)... Cũng tại thư viện của trường, Mao đã đọc nhiều sách viết ra do các nhà trí thức danh tiếng đương thời là Khang Hữu Vi (Kang Youwei) và Lương Khải Siêu (Liang Qichao), cũng như các bản dịch sang tiếng Hoa của các vị này từ các sách của J.J. Rousseau, Montesquieu..., tìm hiểu các tư tưởng của nhà cách mạng Tôn Dật Tiên (Sun Yat Sen) và học thêm lý thuyết Cộng Sản. Vào thời gian này, Mao đã kết hôn với người bạn học là cô Dương Khai Tuệ (Yang Kaihui), con gái của giáo sư Dương Trường Tế kể trên, mặc dù Mao có một người vợ tại quê nhà và đã không chấp nhận người này vì trước kia khi mới 14 tuổi, bị cha bắt ép kết hôn với người vợ lớn hơn 4 tuổi đời. Khang Hữu Vi Dương Khai Tuệ Lương Khải Siêu Tôn Dật Tiên Montesquieu Rousseau Sau đó, Mao đã không đi du học tại nước Pháp vì nhà nghèo. Mao đã nói về sau rằng sở dĩ ông không muốn ra khỏi nước bởi vì tin tưởng rằng các vấn đề khó khăn của Trung Hoa phải được nghiên cứu và giải quyết bên trong nước này và Mao đã tìm hiểu giới nông dân là đa số quần chúng rồi bắt đầu một cuộc đời theo cách mạng cộng sản. Vào ngày 23 tháng 7 năm 1921, khi ở lứa tuổi 27, Mao đã tham dự Hội Nghị Toàn Quốc của Đảng Cộng Sản họp tại thành phố Thượng Hải (Shanghai) và hai năm sau, trong kỳ họp thứ ba của Hội Nghị kể trên, Mao được bầu làm một trong năm ủy viên của Ủy Ban Trung Ương Đảng. Mao đã sống tại thành phố Thượng Hải trong một thời gian bởi vì đảng Cộng Sản muốn cuộc cách mạng xẩy ra tại nơi này. Nhưng sau khi đảng này gặp nhiều khó khăn vì tổ chức các phong trào lao động và khi tiếp xúc với phe Trung Hoa Quốc Gia, Mao đã vỡ mộng về cuộc cách mạng, nên đã dời về quê nhà là Thiểu Sơn. Tại nơi này, Mao được báo tin về các cuộc nổi dậy vào năm 1925 tại Thượng Hải và Quảng Châu. Sau đó, Mao đi Quảng Đông là căn cứ của Quốc Dân Đảng, tham gia vào việc chuẩn bị kỳ họp lần thứ hai của Đại Hội Quốc Gia của Quốc Dân Đảng. Vào đầu năm 1927, Mao trở lại Hồ Nam rồi trong một kỳ họp của đảng Cộng Sản, đã báo cáo về các khảo cứu các cuộc nổi dậy của giới nông dân, đây là bước khởi đầu và quyết định để Mao áp dụng các lý thuyết cách mạng của mình tại Trung Hoa. 2/ Tư tưởng Cộng Sản. Tại Bắc Kinh và trước khi kết hôn với Dương Khai Tuệ, Mao đã đọc ba cuốn sách dẫn dắt tới niềm tin vào chủ nghĩa Mác Xít trong số này có cuốn Bản Tuyên Ngôn của đảng Cộng Sản (the Manisfesto of the Communist Party). Tuy nhiên, Mao dần dần trở nên con người Mác Xít sau khi đã đọc nhiều sách báo khác và vào năm 1920, Mao đã viết nhiều bài báo biện hộ cho quyền tự trị của tỉnh Hồ Nam bởi vì Mao tin tưởng rằng mỗi tỉnh tự trị sẽ làm cho nước Trung Hoa giàu có và hùng mạnh hơn. Cũng do đọc cuốn truyện Thủy Hử (Outlaws of the Marsh), một trong bốn tác phẩm lớn của văn chương cổ điển Trung Hoa, Mao đã đồng ý nên dùng cách mạng bạo lực phối hợp với các kinh nghiệm của cuộc Cách Mạng Nga, để giai cấp vô sản dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản, sẽ lật đổ chế độ phong kiến và đế quốc. Vào năm 1920, Mao đã giúp công vào việc nghiên cứu, tuyên truyền và tổ chức các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân thành thị, nhưng vì giới này chỉ gồm một số nhỏ quần chúng, và các cuộc nổi dậy không võ trang không thể giải quyết được các vấn đề. Vì thế, Mao bắt đầu trông cậy vào giới nông dân, điều chỉnh lý thuyết và thay đổi cách áp dụng chiến lược, khiến cho họ trở thành các kẻ ủng hộ đường lối cách mạng bạo động, đây là sự khác biệt giữa Mao và các người Trung Hoa theo cộng sản trước kia và cùng thời. 3/ Cách Mạng và Chiến Tranh. Vào năm 1927, Mao Trạch Đông là người chỉ huy cuộc Nổi Dậy Mùa Thu (the Autumn Harvest Uprising) tại Trường Sa, thuộc tỉnh Hồ Nam, nhưng cuộc bạo động này đã bị chính quyền địa phương dẹp tan và Mao cùng với một số đồng chí còn lại đã bỏ chạy qua khu miền núi Tỉnh Cương Sơn (Jinggang Mountains). Trên con đường rút lui, Mao đã tổ chức lại đám tàn quân, thiết lập cách tổ chức quân sự mới, chủ trương bình đẳng giữa sĩ quan và binh lính và đảng Cộng Sản có quyền tuyệt đối chỉ huy quân lực. Tại Tỉnh Cương Sơn, Mao đã thuyết phục được hai tướng cướp địa phương là Viên Văn Tài và Vương Tá theo mình đồng thời toán quân của Chu Đức (Zhu De) cũng đến nơi này và sau đó, lập nên Đệ Tứ Quân Đoàn của Hồng Quân Trung Hoa (the Red Army) gồm các nông dân và công nhân. Trong khoảng thời gian từ 1931 tới 1934, Mao giúp công vào việc thành lập khu vực Xô Viết của Trung Hoa và được bầu làm chủ tịch. Vào giai đoạn này, Mao kết hôn với Hà Tú Trân (He Zizhen) vì người vợ trước là Dương Khai Tuệ đã bị quân Quốc Dân Đảng bắt và giết vào năm 1930. Tại vùng Xô Viết bị bao vây này, Mao đã biến nơi đây thành nơi ẩn náu của các người cộng sản đã bỏ chạy khỏi thành phố, cùng với Chu Đức đào tạo một đạo quân tuy nhỏ nhưng tinh nhuệ, theo đuổi đường lối "du kích chiến" (youji zhan). Nhưng rồi do áp lực của nhóm đảng viên gọi là "28 người Bôn Xê Vích" (28 Bolsheviks) chủ trương theo đường lối cộng sản của Liên Xô, trong đó có cả Chu Ân Lai (Zhou Enlai), Mao Trạch Đông đã mất địa vị chỉ huy quan trọng. Sau cuộc Bắc Phạt (the Northern Expedition), Tướng Tưởng Giới Thạch quyết định trừ bỏ các người cộng sản. Vào tháng 10 năm 1934, quân đội cộng sản bị bao vây và bị tấn công, phải bỏ chạy trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh (the Long March), rút lui từ tỉnh Giang Tây (Jiangxi) ở phía đông nam, về tỉnh Thiểm Tây (Shaanxi) thuộc miền tây bắc của Trung Hoa. Trong cuộc hành trình dài 9,600 cây số này, Mao đã tỏ ra là nhà lãnh đạo rồi sau đó lại được Chu Ân Lai chạy theo, phụ giúp. Trong kỳ đại hội đảng Tuân Nghĩa (the Zunyi Conference) họp vào tháng 1 năm 1935 tại tỉnh Quý Châu, Mao Trạch Đông được bầu vào Ủy Ban Thường Trực của Bộ Chính Trị của đảng Cộng Sản Trung Hoa (the Standing Committee of the Politburo of the Communist Party of China). Từ căn cứ Diên An (Yan'an), Mao Trạch Đông đã chỉ huy cuộc kháng chiến của lực lượng cộng sản chống lại quân đội Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Hoa Nhật lần thứ hai (1937-45) và trong thời gian này, đã củng cố địa vị của mình vào năm 1942 bằng cách phát động chiến dịch Chỉnh Phong (Cheng Feng) để loại ra các đối thủ của mình, trong số này có các đảng viên cộng sản như Vương Minh (Wang Ming), Vương Thế Duy (Wang Shiwei) và Đinh Lăng (Ding Ling). Cũng tại Diên An, Mao đã ly dị Hà Tú Trân (He Zizhen) và kết hôn với một nữ diễn viên sân khấu tên là Lam Tần (Lan Ping), người mà sau này được biết bằng tên Giang Thanh (Jiang Qing). Trong cuộc chiến tranh Hoa Nhật, các chiến lược của Mao là chống lại phe Quốc Dân Đảng của Tướng Tưởng Giới Thạch và chống Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã coi Tướng Tưởng là một đồng minh quan trọng, có thể đánh bại quân đội Nhật Bản, sớm làm kết thúc chiến tranh trong khi Tưởng Giới Thạch cũng tìm cách củng cố quân đội Quốc Dân Đảng để đối đầu với lực lượng cộng sản sau Thế Chiến Thứ Hai. Cả hai phe phái này đã bị chỉ trích là đều tìm cách đánh phá lẫn nhau hơn là chống lại quân xâm lăng Nhật. Về sau, nhà sử học Willy Lam đã xác nhận rằng trong cuộc chiến chống Nhật Bản: "Đa số các tổn thất do quân đội Quốc Dân Đảng phải chịu đựng, mà không phải là các sư đoàn cộng sản. Mao và các nhà lãnh đạo du kích khác đã quyết định vào thời gian đó rằng cần phải bảo toàn sức mạnh để dùng cho một cuộc "đấu tranh to lớn hơn" diễn ra tại khắp nơi trên miền đất Trung Hoa một khi quân đội của đế quốc Nhật Bản đã bị tiêu diệt bởi các lực lượng đồng minh do Hoa Kỳ chỉ huy". Sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ủng hộ Tướng Tưởng Giới Thạch để ngăn chặn làn sóng cộng sản và từ nay bắt đầu cuộc nội chiến. Đồng thời, Liên Xô cũng tiếp tế một cách kín đáo cho Hồng Quân Trung Quốc, với tư cách là một nước lân bang mà không phải là một nước đồng minh, bởi vì Liên Xô muốn tránh đi các tranh chấp có thể xẩy ra với Hoa Kỳ. Vào ngày 21 tháng 1 năm 1949, lực lượng quân sự Quốc Dân Đảng bị tổn thất nặng nề trước Hồng Quân của Mao Trạch Đông rồi vào sáng ngày 10 tháng 12 năm 1949, Hồng Quân đã bao vây Thành Đô (Chengdu) là căn cứ cuối cùng của lực lượng Quốc Dân Đảng. Tướng Tưởng Giới Thạch và toàn thể quân dân đi theo phải di tản qua hòn đảo Đài Loan vào cùng ngày này. 4/ Lãnh đạo nước Trung Hoa. Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được thành lập vào ngày 01 tháng 10 năm 1949 sau 2 thập niên nội chiến và chiến tranh quốc tế. Mao Trạch Đông đã là Chủ Tịch (Chairman) của nước cộng hòa này từ năm 1954 tới năm 1959 và thường được gọi là Mao Chủ Tịch (Chairman Mao) hay Vị Lãnh Tụ Vĩ Đại Mao Chủ Tịch (the Great Leader Chairman Mao). Kể từ ngày i0 Ngoài các chương trình xóa bỏ tư hữu, thay đổi các kiến trúc hạ tầng, còn có Chiến Dịch Trăm Hoa Đua Nở (the Hundred Flowers Campaign) qua đó Mao đã cho người dân biết rằng họ có thể đóng góp các ý kiến khác nhau về cách quản trị đất nước Trung Hoa. Vì được tự do bày tỏ quan điểm, các nhà trí thức hay các đảng viên cấp tiến bắt đầu phản đối đảng Cộng Sản và đặt nhiều vấn đề với giai cấp lãnh đạo. Vào lúc đầu, công việc đóng góp ý kiến còn được dung thứ và ngay cả khuyến khích nhưng vài tháng sau, chính quyền cộng sản liền trở mặt và đã hành hạ 500,000 người, đây là các người dám chỉ trích hay dự tính phê bình Đảng. Nhiều nhà sử học cho rằng chiến dịch Chống Cánh Hữu (the Anti-Rightist Movement) này là một quỷ kế để nhổ tận gốc các tư tưởng "nguy hiểm". Các học giả khác như Bác Sĩ Lý Chí Tuy (Dr. Li Zhisui) lại tin rằng vào lúc đầu, Mao muốn dùng cách này để làm lộ ra các đảng viên chống đối mình rồi khi phong trào chỉ trích lan rộng thêm, thì đây là phương pháp để nhận diện và rồi hành hạ các kẻ dám chống đối chính quyền. 5/ Phong Trào "Bước Đại Nhẩy Vọt". Vào tháng 1 năm 1958, Mao Trạch Đông phát động một kế hoạch 5 năm, được gọi là phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt (the Great Leap Foward) . Đây là một kiểu mẫu phát triển kinh tế khác biệt với kiểu mẫu của Liên Xô chú trọng vào kỹ nghệ nặng mà một số đồng chí trong Đảng đã ủng hộ. Theo chương trình kinh tế này, các tập thể nông nghiệp nhỏ sẽ được tập hợp thành các công xã nhân dân (people's communes) to lớn hơn nhiều, tại nơi đây các nông dân được lệnh phải làm việc trong các dự án hạ tầng cơ sở lớn lao và trong các nơi sản xuất sắt thép nhỏ. Tất cả sản xuất thực phẩm tư nhân đều bị cấm đoán, gia súc và dụng cụ nông nghiệp được tập trung và sở hữu tập thể. Trong phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt này, Mao và một số lãnh tụ đảng đã ra nhiều mệnh lệnh bổ túc về các kỹ thuật nông nghiệp mới, cho các công xã mới, nhưng các kỹ thuật kể trên chưa từng được thí nghiệm và không đủ tính khoa học, thêm vào, cách phân bố lao động cho sản xuất thép và các dự án hạ tầng cơ sở, cùng với hệ thống công xã mới mẻ, đã làm cho sản lượng thực phẩm giảm đi 15% vào năm 1959 và giảm 10% vào năm 1960. Để lấy lòng các cấp trên và để tránh bị thanh trừng vì không hoàn thành chỉ tiêu, các cán bộ cấp dưới đã ngụy tạo các thành quả tốt đẹp, thổi phồng sản lượng lúa gạo. Kết quả của cách báo cáo sai, sự ưu tiên dành nông phẩm cho xuất cảng hay khu vực thành thị, cộng với các vụ hạn hán tại một số địa phương, các trận ngập lụt tại các nơi khác, đã khiến cho nông dân của nhiều tỉnh đã không có đủ ăn, hàng chục triệu (tens of millions) người dân đã bị chết đói trong các năm từ 1959 tới năm 1962 và đây là nạn chết đói lớn nhất của nhân loại. Trong khi đó, dù cho định số thép sản xuất có gia tăng, nhưng loại sắt thép này đã trở thành vô dụng vì được nấu ra từ mọi loại sắt vụn tại các lò đúc trong sân sau nhà mà không có kỹ thuật chế tạo đúng cách. Theo anh Trương Nhung Mỹ (Zhang Rongmei), một giáo viên thuộc miền quê Thượng Hải cho biết trong thời kỳ này: "chúng tôi gom tất cả các nồi niêu soong chảo hiện có trong nhà, và các người láng giềng cũng làm như vậy, chúng tôi bỏ tất cả vào ngọn lửa lớn để làm chảy ra thành kim loại". Phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt đã là một "thảm họa" cho nước Trung Hoa, ngay cả với các đập nước, các kênh đào hay các dự án hạ tầng cơ sở mà hàng triệu nông dân và tù nhân đã phải làm việc cực khổ và một số đã phải bỏ mạng, tất cả đã trở thành vô dụng vì không được xây dựng theo đúng kỹ thuật do các kỹ sư có khả năng, bởi vì những người này đã bị Mao loại bỏ vì thiếu niềm tin ý thức hệ. Vào thời kỳ đó, một số nhà báo phương tây chỉ được tới thăm các công xã kiểu mẫu và đã bị lường gạt về thành tích của các vụ thu hoạch. Cho tới năm 1984, nhà nhân chủng học người Mỹ là Giáo Sư Judith Banister tin rằng số người Trung Hoa chết đói sau năm 1959 là 30 triệu, trong khi các nguồn tin khác lại cho các con số tử vong từ 20 tới 43 triệu. Trong kỳ Đại Hội Đảng họp tại Lư Sơn (Lushan) trong các tháng 7 và 8 năm 1959, nhiều lãnh tụ đảng cho biết Bước Đại Nhẩy Vọt đã không thành công như dự trù. Mao đã đổ lỗi sự thất bại này là do Bộ Trưởng Quốc Phòng Bành Đức Hoài (Peng Dehuai) và các người dưới quyền của ông ta. Về phương diện quốc tế, sau khi Stalin qua đời vào năm 1953 và Krushchev lên thay thế, nước Trung Hoa bị cô lập nhiều hơn vì sự rạn nứt Trung Xô (the Sino-Soviet split) với kết quả là Krushchev đã ra lệnh rút tất cả các chuyên viên kỹ thuật và các trợ giúp của Liên Xô ra khỏi Trung Quốc. Sự dạn nứt này do các tranh chấp biên giới, do các tranh cãi về ai có quyền kiểm soát và đặt hướng đi cho tổ chức Cộng Sản Quốc Tế và các tranh chấp liên quan tới chính sách ngoại giao. Luu Thieu Ky Khrushchev Từ lâu trước khi Mao Trạch Đông kiểm soát được đảng Cộng Sản Trung Hoa, Stalin đã tự coi mình là người kế thừa xứng đáng của Lenin với các tư tưởng Mác Xít chính thống và đúng đắn, và trong khi Stalin còn sống, Mao Trạch Đông không hề dám thách đố về chủ nghĩa với Stalin. Nhưng sau khi Stalin đã qua đời, Mao tin tưởng rằng quyền lãnh đạo đường lối Cộng Sản Quốc Tế sẽ truyền tới tay Mao, một phần vì thâm niên trong hệ thống đảng, một phần cũng do Mao tin rằng mình hiểu rõ hơn về ý thức hệ Mác Xít. Trong khi đó Khrushchev đang đứng đầu một chính quyền có ưu thế hơn cả về chính trị lẫn quân sự, vì vậy đã có sự căng thẳng giữa hai nhân vật cấp cao này và sự liên lạc giữa Liên Xô và Trung Cộng bị suy giảm và tới lúc này, Trung Quốc phải đối đầu với các đe dọa mới từ Liên Xô tại phía bắc và phía tây. Trung Quốc còn bị bao vây một phần do các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ đặt tại Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Okinawa và Đài Loan. Sau các thất bại của chương trình Bước Đại Nhẩy Vọt, Bộ Chính Trị của Trung Quốc họp vào tháng 1 năm 1961 và đã quyết định đặt Mao Trạch Đông vào vị trí phía sau, và các nhà lãnh đạo ôn hòa hơn như Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping), sẽ cứu vãn nền kinh tế bằng cách giải tán các công xã nhân dân (people's communes), cho phép nông dân có quyền kiểm soát một mảnh đất nhỏ, và nhà nước Trung Hoa đã nhập cảng ngũ cốc từ nước Canada và châu Úc để giảm bớt các ảnh hưởng xấu của nạn đói.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 3:37:19 GMT 9
6/ Cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Sau các thất bại của phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt khiến cho 30 triệu người dân chết đói và đây là nạn đói lớn lao nhất trong lịch sử của nhân loại, các nhân viên cao cấp của đảng Cộng Sản Trung Hoa, kể cả Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đã quyết định rằng Mao không được nắm thực quyền mà chỉ giữ vai trò tượng trưng và nghi lễ. Vào năm 1959, Lưu Thiếu Kỳ trở nên Chủ Tịch Nước còn Mao vẫn là Chủ Tịch (Chairman). Lưu Thiếu Kỳ và một số cộng sự viên bắt đầu cứu xét các hoàn cảnh của đất nước Trung Hoa một cách thực tế hơn và như vậy, đã loại bớt các lý tưởng mà Mao đã từng mong đợi. Đứng trước viễn ảnh bị mất đi địa vị chính trị, Mao Trạch Đông đã phản ứng lại các công tác của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình bằng cách phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa (the Cultural Revolution) vào năm 1966. Bằng cách này, Mao đã không dùng tới hệ thống đẳng cấp của đảng Cộng Sản, mà điều khiển trực tiếp các thanh niên trẻ dưới 20 tuổi, gọi là Hồng Vệ Binh (the Red Guards), để họ lập nên các tòa án xét xử riêng. Cuộc cách mạng này đã đưa tới hậu quả là Hồng Vệ Binh đã tàn phá phần lớn các di sản văn hóa của Trung Hoa, đã hành hạ và nhốt tù một số rất lớn các cựu đảng viên và các nhà trí thức, đồng thời tạo nên các tình trạng hỗn loạn về kinh tế và xã hội tại tất cả miền quê. Hàng triệu người đã bỏ mạng trong giai đoạn này. Cũng vào giai đoạn Cách Mạng Văn Hóa, Mao đã chọn Lâm Bưu (Lin Biao) là người kế vị của mình. Người ta không biết rõ có phải Lâm Bưu dự trù một cuộc đảo chánh hay một kế hoạch ám sát Mao hay không, nhưng kết quả là Lâm Bưu bị chết trong một tai nạn máy bay rớt trên miền sa mạc của Mông Cổ. Tại Trung Hoa, người ta đã công bố rằng Lâm Bưu dự tính hạ bệ Mao, vì vậy sau khi chết, ông ta đã bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản Trung Hoa. Vào lúc này, Mao Trạch Đông không còn tin tưởng các nhân vật hàng đầu của đảng Cộng Sản. Cuộc Cách Mạng Văn Hóa được Mao công bố chấm dứt vào năm 1969, nhưng các nhà sử học của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại cho rằng cuộc cách mạng này kết thúc vào năm 1976 khi Mao qua đời. Trong các năm cuối của cuộc đời, Mao gặp cảnh sức khỏe suy kém một phần do bệnh Parkinson, một phần do bệnh dây thần kinh (motor neurone disease) (theo như lời của Bác Sĩ riêng Lý Chí Tuy), cộng với bệnh tim và bệnh phổi do hút nhiều thuốc lá. Vào thời gian này, Mao đành thụ động, khiến cho các phe nhóm trong đảng Cộng Sản Trung Quốc tranh giành quyền lực. 7/ Mao qua đời. Trong nhiều tháng trường trước khi chết, sức khỏe của Mao đã suy giảm và ông ta không thể xuất hiện trước công chúng. Mao qua đời, thọ 82 tuổi, vào ngày 9 tháng 9 năm 1976, lúc 10 phút quá nửa đêm, tại Bắc Kinh. Thi hài của Mao được quàn tại Đại Sảnh Đường Nhân Dân (the Great Hall of the People) và một buổi lễ Tưởng Niệm được tổ chức tại Quảng Trường Thiên An Môn vào ngày 18/ 9/1976. Về sau, xác của Mao được đặt trong "Lăng Mao Trạch Đông" (the Mausoleum of Mao Zedong) mặc dù trước kia, ông ta đã từng ước mong được hỏa táng theo như đề nghị vào tháng 11 năm 1956, là các nhà lãnh đạo trung ương sẽ được hỏa táng sau khi chết (the Proposal that all Central Leaders be Cremated after death). Sau khi Mao qua đời và theo như nhiều người tiên đoán, đã có một cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe nhóm để kiểm soát nước Trung Hoa. Một bên, được gọi là các kẻ khuynh tả (the leftists) do nhóm Tứ Nhân Bang (the Gang of Four = Bè Lũ Bốn Tên) đứng đầu là Giang Thanh, những người này muốn tiếp tục chính sách quần chúng cách mạng đấu tranh. Phía bên kia là các kẻ khuynh hữu (the rightists) gồm hai nhóm: nhóm thứ nhất do Hoa Quốc Phong (Hua Guofeng) chủ trương trở về phương pháp hoạch định trung ương (central planning) cùng với kiểu mẫu Liên Xô, nhóm thứ hai là các người cải tổ (reformers) do Đặng Tiểu Bình dẫn đầu, muốn canh tân nền kinh tế của Trung Hoa căn cứ vào các chính sách hướng về thị trường (market-oriented policies) và không đề cao các "ý thức hệ Mao-ít" khi quyết định các chính sách kinh tế và chính trị. Cuối cùng, nhóm ôn hòa và Đặng Tiểu Bình đã thắng nhóm Tứ Nhân Bang và nhóm Hoa Quốc Phong trong một cuộc tranh quyền không đổ máu. TT Mỹ Nixon (1913 - 1994) và Giang Thanh 8/ Tôn thờ Lãnh Tụ Mao. Marx (1818-1883) Engels (1820 - 1895) Lenin (1831 - 1886) Stalin (1879 - 1953) Nhiều người Trung Hoa cho rằng Mao Trạch Đông là một đại lãnh tụ trong phần trước nhưng hư hỏng vào phần sau của cuộc đời. Khi còn sống, Mao đã khiến cho mọi người dân phải tôn thờ mình. Mao đã tạo nên các hình ảnh chứng tỏ rằng mình là kẻ thù của các địa chủ, của các thương gia, kẻ thù của các đế quốc Hoa Kỳ và phương tây, đồng thời là bạn của các nông dân và công nhân nghèo khó. Khi sự tôn thờ lên tới điểm cao nhất, Mao được người dân ca tụng là Bậc Thầy vĩ đại, Vị Lãnh Tụ vĩ đại, Vị Chỉ Huy Tối Cao vĩ đại và Nhà Dìu Dắt vĩ đại (the Four Greats: Great Teacher, Great Leader, Great Supreme Commander, Great Helmsman). Có người cho rằng sự tôn thờ cá nhân đi ngược với các ý tưởng căn bản của chủ nghĩa Mác Xít. Tuy thế, Stalin đã bắt đầu các công việc ca tụng chính mình và Lenin, mặc dù Lenin đã nói không muốn hậu thế dựng nên các đài kỷ niệm sau khi ông ta qua đời. Nhân cuộc Đại Hội Đảng năm 1958 họp tại Thành Đô (Chengdu), Mao đã nói: "Có hai loại tôn thờ cá nhân. Một loại tôn thờ tốt, đó là đề cao các nhân vật như Marx, Engels, Lenin và Stalin, bởi vì họ đã cầm được chân lý trong tay (they hold the truth in their hands). Loại kia là tôn thờ xấu nghĩa là tôn thờ không phân tích và mù quáng". Vào năm 1962, Mao đề nghị Phong Trào Giáo Dục Xã Hội Chủ Nghĩa (the Socialist Education Movement) để bảo vệ giới nông dân khỏi bị chế độ phong kiến cám dỗ và tránh khỏi mầm mống của chế độ tư bản mà ông ta đã nhìn thấy hiện đang nhú lên tại các miền quê. 9/ Đời tư của Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông đã bị mất anh em, vợ và các con vì chiến tranh và cách mạng, nên trở thành con người không xúc động trước các đau khổ của người khác. Hàng triệu người dân Trung Hoa chết đói sau phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt, các thảm cảnh xẩy ra cho người yêu cũ, cho các đồng chí cũ như trường hợp bi thương của Lưu Thiếu Kỳ, đã không hề làm Mao bận tâm, và các người phục vụ cho Mao đều bị quản chế, không cho tiếp xúc với bên ngoài để có thể tiết lộ đời tư của nhà độc tài dâm đãng này. Các cựu đồng chí hay nhân viên dưới quyền đã từng cộng tác hay phục vụ Mao khi không tuân hành mệnh lệnh, thường bị loại bỏ, nhốt tù, nhiều khi bị tiêu diệt do các chỉ thị gián tiếp của Mao và trong hoàn cảnh Mao cần đến tài năng của họ, vài người nếu còn sống sót có thể được gọi trở lại để phục vụ một cách lạnh lùng như đối với những người chưa hề quen biết. Mao đã từng đọc nhiều sách viết về các hoàng đế Trung Hoa khi trước, nên biết rõ các cách tàn bạo của cổ nhân. Đối với quần chúng bên ngoài, Mao cho thấy mình sống rất giản dị nhưng thực ra, đã hưởng thụ rất nhiều xa hoa. Mao sống trong một tòa nhà có hồ bơi bên trong, trong khu vực Trung Nam Hải và không tiếp xúc với dân chúng đói khổ bên ngoài, những hiểu biết về dân tình là do các nhân viên tin cậy của Mao cung cấp sau khi họ đi điều tra sự việc. Sau khi nắm chức vụ tối cao, Mao chỉ ra ngoài bằng xe lửa riêng, chế tạo đặc biệt với các tiện nghi xa hoa tại Đông Đức. Trong thời kỳ nạn đói khủng khiếp, các cán bộ địa phương đã trồng gấp các ruộng lúa tươi tốt dọc theo hai bên đường xe lửa mà Mao sắp đi qua để xác nhận các thành quả rực rỡ do chính sách nông nghiệp khôn ngoan của vị Đại Lãnh Tụ. Cũng thế, nhiều tỉnh ủy địa phương cạnh tranh nhau trong việc xây dựng các tòa nhà riêng đầy đủ tiện nghi dành cho Mao Chủ Tịch, nhiều tòa nhà này chưa từng được Mao đến thăm. Mao chỉ ngủ trên một chiếc giường gỗ to lớn, chế tạo đặc biệt, được chở đi bằng xe lửa khi Mao đi du hành, kê vào trong tòa nhà khi Mao nghỉ qua đêm và chuyên chở bằng máy bay tới Moscow khi Mao thăm viếng Liên Xô. Đồ ăn đăc biệt trồng trọt trong một nông trại gần Bắc Kinh cũng được chở tới nơi Mao đang đi công tác và các món ăn đều được nếm thử trước. Mao ưa thích ăn bánh bao (bao zi) và một loại cơm hấp, với nước tương (soy sauce). Nhiều người tin rằng Mao sống một cuộc đời không có bạn bè, vì vậy đảng và các cơ quan chính trị thường hay cạnh tranh với nhau trong việc tuyển lựa các thiếu nữ trẻ đẹp, có nguồn gốc nông dân vô sản, có cơ thể khỏe mạnh để mua vui cho vị Đại Lãnh Tụ. Hàng tuần vào chiều ngày Thứ Tư, một buổi dạ vũ được tổ chức để Mao thoải mái và trong khung cảnh vui tươi này, Mao sẽ chọn một thiếu nữ để ngủ qua đêm. Ngoài ra còn có các cuộc tranh tài bóng bàn tổ chức bên trong tòa lâu đài để Mao giải trí. Sức khỏe của Mao là một bí mật tuyệt đối nhưng cũng là điều mà mọi người muốn biết khi vị đại lãnh tụ này còn sống. Mao mắc bệnh lo lắng, trầm cảm, mất ngủ, thường xuyên phải dùng thuốc an thần với liều lượng cao và không hề quan tâm tới thời gian trong ngày, bởi thế các nhân viên thân cận của Mao phải túc trực vì có thể bị gọi trình diện bất cứ lúc nào khi cần, không cần biết ngày hay đêm. Mao hiếm khi tiếp đón các chính khách nước ngoài. Mao không bao giờ tắm, thường lau mình bằng khăn tẩm nước nóng vì vậy, theo cuốn sách "Đời Tư của Mao Chủ Tịch" (the Private Life of Chairman Mao) của Bác Sĩ Lý Chí Tuy, trong cả đời, Mao không bao giờ chải răng mà ưa thích súc miệng bằng nước trà xanh, khiến cho răng lợi bị nhiễm trùng. Sức khỏe suy yếu của Mao đã được giấu kín tối đa, lại được quảng cáo bằng các hình ảnh Mao bơi lội trên giòng sông Dương Tử. 10/ Di Sản của Mao Trạch Đông. Nhiều người đã tranh luận về di sản của Mao Trạch Đông kể từ khi Mao qua đời vào năm 1976. Các người Hoa hiện đang sinh sống trên lục địa tiếp tục coi Mao là vị kiến trúc sư chính đã xây dựng lại nước Trung Hoa mới. Họ tin rằng Mao là một lãnh tu vĩ đại lúc ban đầu nhưng bị hư hỏng (corrupt) và đã phạm phải các lỗi lầm to lớn khi đã nắm quyền lực và nhất là về phần cuối đời. Theo ông Đặng Tiểu Bình, Mao đúng 70% và sai 30%, và phần đóng góp được coi là chính, phần lỗi lầm bị coi là phụ. Một số đảng viên cộng sản lại coi Mao chịu trách nhiệm về việc kéo nước Trung Hoa ra xa nước đồng minh cộng sản là Liên Xô trong khi các người chủ trương tách khỏi Liên Xô bị coi là theo con đường tư bản chủ nghĩa. Có người chỉ trích Mao đã không khuyến khích việc kiểm soát sinh đẻ vì trong khoảng thời gian từ cuộc Chiến Tranh Nha Phiến tới cuộc Nội Chiến, dân số Trung Hoa là 400 triệu đã tăng lên 57% thành 700 triệu, và về sau các nhà lãnh đạo kế tiếp đã phải đưa ra chính sách "mỗi gia đình một con". Nói chung, mọi người đều công nhận rằng phong trào "Bước Đại Nhẩy Vọt" và cuộc "Cách Mạng Văn Hóa" đã là các "thảm họa" chính do các chính sách của Mao. Những người ủng hộ Mao cho rằng nhờ có Mao, nước Trung Hoa chấm dứt được "100 Năm Tủi Nhục" (a Century of Humiliation) khỏi các đế quốc tây phương và trở nên một cường quốc, và nền kinh tế và xã hội của nước Trung Hoa được phát triển. Họ cho rằng trước năm 1949, tỉ lệ mù chữ ở lục địa Trung Hoa là 80% và tuổi thọ ở mức 35 tuổi, nhưng sau khi Mao qua đời, tỉ lệ mù chữ còn 7% và người dân sống lâu trên 70 tuổi. Mao cũng được coi là có công trong việc cải tiến các quyền lợi của phụ nữ, bằng cách tiêu hủy nạn mãi dâm và nạn này đã quay trở lại khi ông Đặng Tiểu Binh và các nhà lãnh đạo Trung Quốc sau Mao, đã cho phép nền kinh tế được hưởng tự do. Thực ra, nạn mù chữ và tuổi thọ đều được cải tiến tại các quốc gia gần với Trung Hoa như Đài Loan, Ấn Độ, nhưng Trung Hoa tiến bộ hơn về nền y tế nông thôn và công việc phân phối thực phẩm công cộng. Mao còn được coi là nhà chiến thuật và chính trị xuất sắc trong cuộc Nội Chiến và chiến tranh Triều Tiên, với các bài viết về quân sự đã ảnh hưởng lớn tới những người muốn tạo ra các cuộc nổi loạn cũng như tìm hiểu cách dẹp nổi loạn, và trái lại, ý thức hệ của Mao thì không thể áp dụng được vì thường gây ra kinh hoàng. Loại ý thức hệ này đã ảnh hưởng tới vài quốc gia cộng sản kể cả các phong trào nổi dậy của các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, như miền Bắc Việt Nam, Căm Bốt (Khmer Đỏ), Peru (Con Đường Sáng = Shinning Path), Nepal với phong trào cách mạng, với kết quả là cảnh tàn sát hàng triệu sinh mạng như tại Căm Bốt, cảnh giết hàng trăm ngàn nạn nhân vô tội trong cuộc đấu tố địa chủ tại miền Bắc Việt Nam, và đặc biệt trong trận chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), do sự chấp thuận của Mao, Bắc Hàn đã xâm lăng Nam Hàn gây ra cảnh đổ máu, với một triệu binh lính Trung Cộng chết vì chiến đấu cho Bắc Hàn, trong số này có cả người con trai của Mao là Mao Ngạn Anh (Mao Anying). Từ khi Mao qua đời, nước Trung Hoa đã đi lệch khỏi "chủ nghĩa Mao Ít" (Maoism) và nhiều người cho rằng các cải tiến do ông Đặng Tiểu Bình là cách phản bội những di sản (legacy) của Mao Trạch Đông. Một cuốn sách đã chỉ trích Mao Trạch Đông nặng nề, đó là cuốn "Mao: Câu Chuyện Chưa Biết" (Mao: the Unknown Story) do Jung Chang và Jon Halliday. Các tác giả này tin rằng Mao đã "chế tạo" ra các huyền thoại về quá khứ và tuổi trẻ của mình, làm tốt đẹp hình ảnh mình biến thành một "anh hùng của nhân dân" (people's hero) trong khi thực sự, Mao là một con người tàn ác, và các biến cố của cuộc Vạn Lý Trường Chinh đều sai sự thực. Qua thế kỷ 21, người dân Trung Hoa không còn phải học hỏi các lý thuyết cộng sản của Mao nữa. Trong lần kỷ niệm ngày Giỗ thứ 25 của Mao, chính quyền Trung Cộng chỉ nhắc nhở sơ sài đến "Mao Chủ Tịch", trái hẳn với các cuộc mít tinh và hội thảo được tổ chức rầm rộ vào năm 1993 nhân 100 ngày Sinh của Mao. Không giống như Nikita Khrushchev đã từng lên án "chế độ bạo tàn" của Joseph Stalin, chính quyền Trung Cộng không chính thức phủ nhận các chiến thuật của Mao. Vào giữa thập niên 1990, hình chân dung của Mao Trạch Đông đã được in trên loại tiền "nhân dân tệ" (renminbi) nhưng vào ngày 13 tháng 3 năm 2006, tờ Nhân Dân Nhật Báo (the People's Daily) tường thuật rằng đã có đề nghị thay thế chân dung của Mao trên loại tiền nhân dân tệ kể trên, bằng các chân dung của hai ông Tôn Dật Tiên và Đặng Tiểu Bình./. 1931 1937 Van Phong lam viec,Peking. Thu but bai tho cua chu tich Mao YANG Kaihui cac con trai : MAO Anqing va MAO Anying (dung) o Changsha (1924) Thu but bai tho cho Yang Kaihui. Dung chung voi HE Zizhen o Yan'an (1937) MAO Zedong, JIANG Qing va con gai LI Ne o Yan'an MAO Zedong va JIANG Qing o Yan'an MAO Zedong, P. Hurley va ZHU De (1944) MAO Zedong va JIANG Jieshi (1945) MAO Zedong va ZHOU Enlai (1945) MAO Zedong va nguoi con trai thuong men MAO Anying , 1949 MAO Zedong va и. cталин Stalin (1949-1950) MAO Zedong voi con trai :MAO Yuanxin) va 2 con gai : LI Min and LI Ne 1951. Photograph by HOU Bo. MAO Zedong and his two daughters of LI Min and LI Ne (1951). Photograph by HOU Bo. MAO Zedong and PENG Dehuai-Banh Duc Hoai (1953). Photograph by HOU Bo. MAO Zedong and QIAN Xuesen (1956) MAO Zedong meets every young people who he trusts and loves, in Culture Revolution (1966) MAO Zedong and R. M. Nixon (1972) MAO Zedong, ZHOU Enlai and H. A. Kissinger (1973) Heart to heart...it actually does not change anywhere anytime. For the youth, they need a litlle of time, but they have...MAO Zedong, DENG Xiaoping and ZHOU Enlai (1974)
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 8, 2011 4:06:46 GMT 9
MAO Zedong: So Sad, So Separate... (first published by People's Daily on 9 September 1978) This poem was written in 1923 and revised by himself for many times, however, it has not obtained its deserved regards in CHINA. Many persons guess who the poem's protagonist is, but it's not important at all. We don't know what he was considering when he last handwrote it in 1973. The poem reveals the painful spirit all his life and what he was worrying about in his later time. The 1973's handwriting is indeed a summary of himself. He is so alone...where is his lover? where is his ideal? but who can understand him?MAO Zedong: So Sad, So Separate... (The date of this handwriting could be 1973)MAO Zedong So Sad, So Separate... (shown in Chinese) It may not show in a operating system without Chinese support. 毛澤東 賀新郎 別友 揮手從茲去 更那堪淒然相向 苦情重訴 眼角眉梢都似恨 熱淚欲零還住 知誤會前番書語 過眼滔滔雲共霧 算人間知己吾和汝 人有病 天知否 今朝霜重東門路 照橫塘半天殘月 淒清如許 汽笛一聲腸已斷 從此天涯孤旅 憑割斷愁絲恨縷 要似昆侖崩絕壁 又恰像颱風掃寰宇 重比翼 和雲翥 Some peoples think that he is the God of China; some peoples try to evaluate him scientifically. He does confuse so many of his peoples, even his last wife who loves him so much… however, it's nothing at all, because he knows that he can wait for the day of the hope. Maybe we just understand now when he is working and thinking busy for the peoples, he forgets to tell us one truth clearly: just do like him. We actually do not need so much money, if everything has been lost, there is liberty… It's certainly a painful procedure for us to understand how we can work and say like a man.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 11, 2011 4:40:41 GMT 9
Dân chúng nước Nga giễu cợt sự quay lại Kremlin của Putin Putin trong chân dung Brezhnev, cựu Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô, phổ biến trên Internet Lời người dịch: Việc Putin, cựu sĩ quan tình báo cộng sản KGB, trở lại Kremlin, đã được phân tích rất nhiều qua báo chí trên thế giới. Bởi vì muốn hay không, nước Nga có vai trò quan trọng trên bàn cờ chính trị và kinh tế thế giới. Trong tuần rồi, Nga và Trung Quốc bác bỏ dự thảo nghị quyết trừng phạt Syria do Liên minh châu Âu đề xướng, đã làm dư luận lo ngại về sự bắt tay – “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” - của các chế độ độc tài, chuyên chế. Thái độ của Nga và Trung Quốc khiến tình hình ở Syria có thể bế tắc, mặc dù nhà độc tài Syria Assad đã đàn áp đẫm máu, giết chết khoảng 2.700 người, cùng hàng ngàn người khác bị thương, trong các cuộc xuống đường biểu tình suốt từ tháng 3 năm nay. Tuy nhiên, không chỉ thế giới lo ngại về một Sa hoàng mới tại Nga, mà đa số người Nga cũng lo lắng cho tương lai và cười diễu cợt sự kiện này. Bài “Người Nga cười chế giễu một Brezhnev mới” của ký giả Greg Kuczynski, đăng trên trang web của đài truyền hình tin tức Ba Lan TVN24, ngày 7/10/2011, phần nào nói lên điều đó. **** Greg Kuczynski - Lê Diễn Đức dịch Khi Putin rời điện Kremlin gần bốn năm trước, cả nước Nga run lên, cả thế giới mong đợi một điều tốt đẹp. Hôm nay Putin trở lại, nhưng ngày càng có nhiều người Nga cười chế giễu ông ta – không riêng những người thuộc nhóm ủng hộ trước đây trên internet. Với báo chí phương Tây Putin cũng ở trong tình trạng thảm hại. Phải chăng câu tục ngữ không ai đi xuống một dòng sông để tắm hai lần, được kiểm nghiệm? Putin rời điện Kremlin vào năm 2008, đã làm dấy lên nỗi lo sợ hơn là tiếng cười. Thậm chí trong các chuyện tiếu lâm đã xuất hiện hình ảnh Stalin với ông ta. Như là, trong giấc mơ, Putin thấy Stalin tới thăm mình. Tận dụng cơ hội, Putin bèn xin một lời khuyên về cách thức cai trị. Stalin nói: – Bắt hết và giết chết tất cả những nhà tranh đấu dân chủ, và sau đó hãy sơn màu xanh điện Kremlin. – Tại sao màu xanh? – Putin ngạc nhiên. – Hà! – Stalin đáp – Tôi biết ngay rằng anh chẳng quan tâm gì đến các nhà tranh đấu dân chủ! Ba năm đã trôi qua. Putin cầm chịch đất nước với bàn tay sắt, nhưng xã hội Nga không còn có thể kiểm soát một cách hiệu quả nữa. Thậm chí cách cai trị của Sa hoàng, hoặc public relations (PR) cũng không giúp gì được. Chiếc vò cổ của Putin Chúng ta còn nhớ hình ảnh Putin chơi với con cọp, gấu Bắc cực, hoặc cá voi, và cũng hãy nhớ lại, cảnh ông ta dập tắt lửa cháy từ trên máy bay, lái xe môtô Harley và lặn dưới đáy hồ Baikal bằng tàu ngầm nghiên cứu. Một trong những màn trình diễn cuối cùng của thủ tướng Nga là lấy lên từ đáy biển Azov một chiếc vò cổ có hai quai. Nhưng không giống như những khai thác trước đó của Putin, lần này phần lớn người Nga thậm chí đã cười chế nhạo một cách công khai. Sự “biểu lộ” của công chúng trắng trợn đến mức mà người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ sau một thời gian đã phải công khai thừa nhận rằng chiếc vò hai quai ấy đã được phát hiện bởi các nhà khảo cổ từ trước, nhưng sau đó người ta đã đặt xuống đáy biển – và Putin đã kéo nó lên thêm một lần nữa. Sự nốc-ao của những nhân vật PR? Hay là việc sử dụng hình ảnh của Superman Putin? Putniev forever Chân dung Putniev đang đạt kỷ lục về mức độ phổ biến trên internet của nước Nga – Ngã tư đường nối Putin với Brezhnev. Bức chân dung này xuất hiện ngay sau khi nhà lãnh đạo Nga đã tuyên bố quay trở lại điện Kremlin – với viễn cảnh sẽ làm ông chủ Kremlin đến 12 năm (cùng với hai nhiệm trước sẽ trọn hai thập niên dưới sự cai trị của triều đại Putin ở Nga). Chúng ta hãy nhớ lại Leonid Brezhnev, người cai trị Liên Xô 18 năm, và giai đoạn này được ghi vào lịch sử như là khoảng thời gian trì trệ, tình hình kinh tế xấu đi và đối đầu với phương Tây. Trong đại hội đảng Một Nước Nga (hay Nước Nga Thống nhất –ND), lời tuyên bố quan trọng của Putin đã gợi lại liên tưởng sống động giống như trong đại hội của Đảng Cộng sản Liên Xô. Điều này đã được các nhà báo và blogger để ý đến. Nhưng nhà cầm quyền, giống hệt như Liên Xô, có vẻ không nhận thấy sự trớ trêu này. – Brezhnev không phải là dấu trừ trong lịch sử nước ta, mà là một dấu cộng lớn – Dmitry Peskov, phát ngôn viên của Thủ tướng Chính phủ đã nói đến ở trên, phát biểu như vậy khi được hỏi về sự so sánh giữa Putin và Brezhnev. Báo Nga: "Putin đuổi kịp Brezhnev?" - Ảnh: OnTheNet Giai thoại về Putin Các câu chuyện hài hước thường phản ánh các vấn đề xã hội và chính trị hiện tại của một đất nước. Đặc biệt là ở Nga. Đã có một thời mọi người chế giễu Stalin bằng giọng của vùng Georgia và đả phá phong cách cá nhân “củ cải” (quê mùa –ND) của Khrushchev. Trong những năm gần đây, người ta hay cười theo khuynh hướng: con rối Medvedev và người có thực quyền Putin. Bây giờ khi biết Putin sẽ trở lại điện Kremlin, xuất hiện một loại tiếu lâm mới. Putin và Medvedev thức dậy vào một ngày với cái bụng nôn nao. Ấy là năm 2023. Putin hỏi: – Trong chúng ta bây giờ là ai là Tổng thống và ai là Thủ tướng? – Tôi không nhớ – Medvedev nói – Nhưng tôi có thể làm Thủ tướng Chính phủ vào ngày hôm nay. – Đúng quá rồi, cạn bia đi chứ. Anh là nhà hành pháp mà – Putin nói. Một tiếu lâm khác từ serial này. Putin nói Medvedev: – Dima, hãy đoán ai sẽ kế nhiệm người kế nhiệm của tôi nhỉ? Medvedev thất vọng: – Eee… Vâng… Tôi không biết. Có thể là ai? – Ngu quá Dima ơi! Tôi chứ ai vào đây nữa – Putin cười gằn. Người Nga không bằng lòng với việc Putin trở lại điện Kremlin. Họ lo sợ cho tương lai. Một trong những câu đùa: “Bạn có nghe ứng cử viên mới cho ghế tổng thống là Vladimir Putin hứa hẹn sẽ sửa chữa các lỗi được thực hiện bởi chính phủ của Thủ tướng Putin, người kế thừa di sản lộn xộn của cựu Tổng thống Putin?”. Trong một giai thoại khác, trên đường phố Moscow một người đàn ông đến gõ cửa xe hơi – Bọn khủng bố đã bắt cóc Putin và đe dọa chúng sẽ tẩm xăng ông và đốt, nếu như chúng không nhận được 10 triệu đôla tiền chuộc. Ông có đóng góp nào cho việc chuộc không? Một trong các lái xe trả lời: – Tôi có thể cho thêm 5 lít xăng. “Putinlandia” Khi Putin tuyên bố ông trở lại điện Kremlin, một trong những nhật báo của Moscow đã viết rằng “Liên bang Nga có thể chắc chắn được gọi là Putinlandia”. Đối với người Nga, nhà cầm quyền đã vượt quá các giới hạn của sự hài hước. Điều này có lẽ không phải là cơ sở cho một cuộc cách mạng, nhưng chắc chắn nhiều người trong nhà nước Putin đang ngày càng nhìn nhà cầm quyền giống như cha mẹ của họ đã từng nhìn vào Liên Xô – với tiếng cười và sự mỉa mai. Sự châm biếm đôi khi nguy hiểm cho chế độ hơn là cuộc nổi dậy khởi nghĩa. Thậm chí khi hiệu ứng của nó tới chậm hơn. ■
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 18, 2011 10:58:30 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 27, 2011 14:23:10 GMT 9
Tiết lộ quy trình ướp xác lãnh đạo Triều Tiên27/12/2011 Các chuyên gia Nga từng giúp đỡ Triều Tiên trong quá trình ướp xác cố chủ tịch Kim Nhật Thành nói họ sẵn sàng giúp đỡ nếu Bình Nhưỡng có ý muốn bảo quản di hài ông Kim Jong-il. Các quan chức của Bình Nhưỡng chưa cho biết họ có quyết định ướp xác ông Kim Jong-il hay không. Cha của ông Kim là cố chủ tịch Kim Nhật Thành đã được các chuyên gia Nga ướp xác sau khi qua đời năm 1994 và hiện được đặt trong Cung tưởng niệm Kumsusan. Nếu được ướp, ông Kim Jong-il sẽ gia nhập đội ngũ một số nhân vật ít ỏi nổi tiếng trên thế giới được bảo quản thi thể theo cách này, trong đó có Lênin và Kim Nhật Thành. Ông Pavel Fomenko, người đã tới Triều Tiên hỗ trợ ướp xác chủ tịch Kim Nhật Thành kể về những công việc trong thời gian đó. Thi hài ông Kim Jong-il đặt tại Cung tưởng niệm Kumsusan trong những ngày quốc tang. (Ảnh: AFP) "Cảnh tượng diễn ra việc đấy không dễ chịu cho lắm", Fomenko nói. "Thường là có ba đến sáu chuyên gia có mặt, những ca đặc biệt thì có tới bảy chuyên gia. Đầu tiên là tất cả nội tạng được lấy ra, tĩnh mạch bị hủy bỏ và máu được lấy ra khỏi các mô của cơ thể. Thi hài được đặt trong một bồn thủy tinh chứa đầy dung dịch để ướp, sau đó đóng lại và được phủ một tấm vải trắng. Các điều kiện chính xác về nhiệt độ và độ ẩm được duy trì trong phòng chứa thi hài", Fomenko nói với tờ Moskovsky Komsomolets trong cuộc phỏng vấn tuần qua. Dần dần, nước trong các tế bào của cơ thể sẽ được thay thế bởi dung dịch ướp. Quá trình này diễn ra trong khoảng 6 tháng. Mặc dù Liên bang Xô viết đã sụp đổ hai thập kỷ trước nhưng xác ướp của Lenin vẫn nằm nguyên vẹn trong lăng ở Quảng trường Đỏ tại Mátxcơva. Các điều kiện đặc biệt của lăng được Phòng thí nghiệm của Lăng V.I Lenin, nay là Viện nghiên cứu hương liệu và thuốc (VILAR), duy trì từ năm 1939 đến nay. Các phương pháp trên cũng được áp dụng để ướp xác Joseph Stalin. Tuy nhiên thi hài của Stalin đã được chôn bên cạnh điện Kremlin vào năm 1961. Một số nhà lãnh đạo khác trên thế giới cũng được ướp xác với phương pháp tương tự. Fomenko kể rằng ông đã nói chuyện với Chủ tịch Kim Jong-il trong quá trình ướp xác ông Kim Nhật Thành. Ấn tượng ủa Fomenko là Kim Jong-il là một người "khỏe mạnh, tràn đầy năng lượng" và có thể nói chuyện về bất cứ chủ đề nào. "Tôi nhớ khi chủ tịch Kim Nhật Thành qua đời, đã có tin nói rằng ông được chôn cất. Nhưng rồi sau đó chúng tôi được lệnh chuẩn bị đồ nghề và vài ngày sau đó thì bay tới Bình Nhưỡng", Fomenko kể. Ông nói rằng Nga giờ đây sẵn sàng giúp đỡ Triều Tiên trong quá trình ướp xác ông Kim Kong-il, cho dù chỉ là truyền đạt kinh nghiệm, trong trường hợp Triều Tiên quyết định làm như vậy với nhà lãnh đạo tối cao vừa qua đời. Các chuyên gia Nga của Lăng Lenin cũng đã tới Triều Tiên vài lần để bảo dưỡng thi hài của chủ tịch Kim Nhật Thành. Mỗi lần như vậy cần thời gian khoảng một tháng, ông Fomenko cho biết. Uớp xác là công việc đòi hỏi nhiều nỗ lực bảo dưỡng. Thi hài cần được xử lý thường xuyên mới duy trì được trong nhiều thập kỷ. Lenin được đặt trong quan tài bằng kính để ngăn tuyệt đối sự xâm nhập khỏi vi khuẩn và được các chuyên gia kiểm tra hai lần một tuần. Fomenko cho biết, chính phủ Triều Tiên đã chi hàng triệu USD để ướp và duy trì thi hài của chủ tịch Kim Nhật Thành. Ông dự đoán rằng lần này Bình Nhưỡng cũng sẽ áp dụng phương pháp bảo quản nhà lãnh đạo 69 tuổi Kim Jong-il tương tự. Linh cữu của Chủ tịch Kim Jong-il đang được đặt trang trọng trong quan tài bằng kính tại Cung Tưởng niệm Kumsusan ở Bình Nhưỡng. Chưa có tuyên bố chính thức nào về việc ông Kim sẽ được hỏa táng, địa táng hay ướp xác như cha mình. Theo Vnexpress
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:17:25 GMT 9
Kim Jong-ilVietsciences-BBC 29/12/2011 I/ 50 điều kỳ lạ về Kim Jong-il Bắc Hàn đang tổ chức lễ đại tang cho nhà lãnh đạo Kim Chính Nhật, qua đời hôm 17/12/2011 sau một cơn đau tim. Sự kiện ông Kim Chính Nhật (Kim Jong-il) từ trần được truyền thông Bắc Hàn coi là "nỗi đau khôn tả" của đất nước, nhưng Bình Nhưỡng khước từ các đoàn khách quốc tế muốn tới chia buồn, và cũng không cho giới truyền thông ngoại quốc vào đưa tin. Báo Telegraph của Anh có bài tổng hợp 50 điều kỳ quặc bạn đọc có thể chưa biết về ông Kim Chính Nhật và Bắc Hàn. BBC Tiếng Việt xin lược qua dưới đây: Lễ đại tang cho ông Kim Chính Nhật diễn ra với sự tham dự của hàng vạn người dân Bình Nhưỡng. 1. Theo tiểu sử, ông Kim lần đầu tiên tới câu lạc bộ golf vào năm 1994 tại sân golf duy nhất của Bắc Hàn, và đánh thành công một gậy ở vòng 38 với không dưới 11 lỗ golf. Hài lòng với thành tích đạt được, ông lập tức tuyên bố "giải nghệ" khỏi môn thể thao này. 2. Ông bị ám ảnh với niềm đam mê phim ảnh, và được cho là có bộ sưu tập lên tới hơn 20.000 băng video. 3. Ông Kim, có chiều cao cỡ 157cm, được cho là đã dùng đế nâng trong đôi giày và chải tóc bồng để cải thiện chiều cao. 4. Ông bị nghi là đã giết chết em trai của mình, Kim Shu-ra khi mới 5 tuổi, sau khi đứa em chết đuối trong hồ bơi của gia đình tại khu biệt thự riêng ở Bình Nhưỡng. Tuy nhiên, nghi ngờ này không bao giờ được chứng minh. 5. Ông sinh ngày 16/2/1942, tại một doanh trại quân sự bí mật trên núi Baekdu ở biên giới Bắc Hàn, theo tiểu sử chính thức của ông. Tuy nhiên, hồ sơ của Liên Xô nói ông sinh ngày 16/2/1941 tại làng Vyatskoye của Nga, nơi cha mẹ ông đã sống lưu vong trong thời gian Nhật chiếm đóng Triều Tiên. 6. Bắc Hàn có quân đội lớn nhất trên thế giới. Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, quân đội Bắc Hàn có khoảng 1,2 triệu lính chính thức, so với khoảng 680.000 của Nam Hàn; khoảng một phần năm nam giới trong lực lượng vũ trang chuyên nghiệp ở độ tuổi từ 17 đến 54. 7. Năm 1960, ông bắt đầu học tại khoa kinh tế - chính trị của Đại học Kim Nhật Thành và tốt nghiệp bốn năm sau đó. Con trai út Kim Jong Un, người được ông Kim Chính Nhật chọn làm người kế vị, đi cạnh linh cữu cha trong đám tang. 8. Ông được cho là có năm người con. Người con trai út, Kim Jong-un tức Kim Chính Ân kế nghiệp ông. 9. Người con trai cả, Kim Jong-nam (Kim Chính Nam), từng được cho sẽ là người lên thay ông Kim Chính Nhật, đã bị thất sủng sau lần bị bắt tại Tokyo vào năm 2001, khi định đến chơi ở công viên Disneyland bằng hộ chiếu giả. 10. Theo những người viết tiểu sử chính thức của ông Kim thì việc ông chào đời tại núi Baekdu đã được một con nhạn báo tin và trời hiện ra cầu vồng kép cùng một ngôi sao mới. 11. Khi ông lên tám thì mẹ ông, bà Kim Jong-suk, qua đời trong một lần vượt cạn, tiểu sử chính thức của ông viết như vậy. Tuy nhiên, có những tin nói bà qua đời do những vết thương đạn bắn. 12. Ông được biết đến bởi hơn 50 tên gọi khác nhau, trong đó có Lãnh tụ Kính yêu, Lãnh đạo Tối cao, Cha của toàn dân chúng ta, Thiên tướng Tổng tư lệnh. 13. Được biết ông đã từng một lần lên sóng hồi năm 1992, trong một lễ diễu binh tại Bình Nhưỡng. Khi đó ông nói vào chiếc microphone tại khán đài: "Vinh danh những chiến sĩ anh hùng của Quân đội Nhân dân Triều Tiên!" Tiếng vỗ tay hoan hô đã nổ ra vang trời từ đám đông, và những người tham gia cuộc diễu hành đã hò reo đáp lời ông. 14. Chín năm sau, ông được bầu làm bí thư ủy ban rồi trở thành thành viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương vào tháng 2/1974. 15. Ông được ca ngợi là một vị á thánh ở Bắc Hàn trong khi Hàn Quốc miêu tả ông như một tay chơi lập dị, thích chải tóc bồng, thích mặc bộ đồ áo liền quần và giày cao gót để trong có vẻ cao hơn thật. 16. Nhà độc tài đi lại bằng một đoàn xe lửa riêng trong các chuyến viếng thăm cấp nhà nước, điều được cho là có liên quan tới nỗi sợ hãi của ông đối với việc phải đi đường hàng không, giống như nỗi sợ của cha ông là ông Kim Nhật Thành. 17. Vào tháng 12/1992, ông là Tư lệnh Tối cao của Quân đội Nhân dân Triều Tiên, Phó Chủ tịch thứ nhất rồi sau là Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Quốc gia trước khi được tái bổ nhiệm vào tháng 4/1993. 18. Vào ngày 8/10/1997, ông được bầu làm Tổng Bí thư của đảng Lao động Triều Tiên. 19. Ông được trao danh hiệu danh dự "Anh hùng nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên" vào năm 1975 và một lần nữa bảy năm sau đó. Ba thế hệ của nhà ông Kim thay nhau lãnh đạo Bắc Hàn. 20. Trong tháng 4/1992, ông được trao danh hiệu Nguyên soái của CHDCND Triều Tiên. Ông cũng được trao huân chương Kim Nhật Thành ba lần cùng nhiều giải thưởng và danh hiệu vinh dự khác. 21. Sau cái chết của cha ông, ông Kim Nhật Thành hồi tháng 7/1994, ông Kim Chính Nhật đã mất tới ba năm để củng cố quyền lực và cuối cùng lên giữ chức Tổng Bí thư Đảng Lao động Triều Tiên. 22. Sau khi qua đời, cha ông là ông Kim Nhật Thành được trao chức danh "Lãnh tụ Vĩnh hằng". Vì vậy, ông Kim Chính Nhật chưa bao giờ chính thức trở thành chủ tịch của Bắc Triều Tiên. 23. Kể từ tháng 10/1980, ông trở thành thành viên của Đoàn Chủ tịch Bộ Chính trị và là bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên và và Ủy ban Quân sự Trung ương. 24. Trong giai đoạn từ năm 1982 và 1998, ông là Phó chủ tịch ở tất cả các Hội đồng Nhân dân Tối cao. 25. Các chuyến đi bằng tàu hỏa riêng của ông đều rất sang trọng, xứng tầm vị trí lãnh đạo Bắc Hàn, bất chấp việc có hàng triệu người chết vì nạn đói: Một phái viên người Nga từng đi cùng ông Kim ngang dọc nước Nga kể rằng tôm hùm sống hàng ngày được máy bay chở tới tiếp tế cho đoàn tàu. 26. Ông bắt đầu làm việc cho Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên (WPK) vào năm 1964. 27. Theo tiểu sử của ông, trong thời gian học tại trường đại học, ông đã viết không dưới 1.500 cuốn sách trong ba năm. 28. Các bộ phim mà ông yêu thích nhất là phim Rambo, thứ Sáu ngày 13, Godzilla và The Eternal Bosom of Hot Love (Tình yêu cháy bỏng vĩnh cửu). 29. Ông đặc biệt hâm mộ Elizabeth Taylor, nữ diễn viên màn bạc Hollywood. 30. Kim đã ra lệnh bắt cóc Shin Sang-ok, đạo diễn phim Hàn Quốc, cùng người vợ của ông này, nữ diễn viên Choi Eun-hee, vào năm 1978 để xây dựng ngành công nghiệp điện ảnh Bắc Hàn. Họ đã thực hiện bảy bộ phim trước khi thoát sang phương Tây hồi năm 1986. Tiểu sử chính thức của ông Kim Chính Nhật nói trong thời gian học đại học, ông đã viết không dưới 1.500 cuốn sách. 31. Kim đã làm một loạt phim tài liệu gồm 100 tập về đề tài yêu nước, nói về lịch sử quê hương Bắc Triều Tiên, và viết cuốn sách Nghệ thuật Điện ảnh. 32. Kim cũng sáng tác sáu vở nhạc kịch và rất thích dàn dựng nhạc kịch. 33. Ông là nhân vật phản diện chính trong bộ phim Hollywood, Team America. 34. Ông được cho là đã sở hữu ít nhất 17 biệt thự sang trọng 35. Khắp Bắc Hàn lan truyền huyền thoại rằng ông có thể kiểm soát thời tiết bằng tâm trạng của mình, như làm ảo thuật vậy. 36. Các nữ nhân viên của ông Kim kiểm tra từng hạt gạo xem chúng có đạt các tiêu chuẩn về trọng lượng, chiều dài và màu sắc hay không. 37. Ông buộc tiếp viên tại các nhà hàng thường xuyên có khách nước ngoài ở Bình Nhưỡng phải phẫu thuật thẩm mỹ để trông "Tây" hơn. 38. Ông được cho là uống hết 450.000 bảng Anh tiền cognac mỗi năm tại một đất nước mà thu nhập bình quân là khoảng 580 bảng Anh một đầu người. 39. Một danh sách hàng xa xỉ phẩm mới được nhập khẩu vào cho ông cho thấy có có cá heo Trung Quốc, chó xù Pháp, và các thuốc kích dục từ châu Phi, và ông được cho là thích ăn thịt lừa, tôm hùm với rượu vang đắt tiền của Pháp. 40. Một bản đánh giá tính cách cá nhân về ông Kim, được biên soạn bởi bác sĩ tâm thần, cho rằng nhóm "sáu chứng bệnh" rối loạn nhân cách tàn bạo - gồm cả chứng hoang tưởng, phản xã hội, đề cao bản thân, phân lập - mà các nhà độc tài Adolf Hitler, Joseph Stalin và Saddam Hussein cũng bị cho là mắc phải, đều thể hiện trong con người ông Kim. 41. Minju Joson, một tờ báo của Bắc Hàn, từng tường thuật một lần rằng Kim đã phát minh ra một sản phẩm được mô tả là "bánh mì suất đúp với thịt" và mở các nhà máy để sản xuất sản phẩm này, nhằm cung cấp cho các sinh viên và giáo viên. Một số nhà quan sát nói món này rất giống với bánh mì kẹp của Mỹ, bánh hamburger. 42. Các hình ảnh vệ tinh gần đây cho thấy rằng ông đã cài đặt một loạt các ván trượt nước. Ông Kim là nhân vật phản diện chính trong bộ phim Hollywood, Team America. 43. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được xem là một trong những quốc gia bí mật nhất trên thế giới. 44. Nước này được cho là đã mua lại chương trình hạt nhân từ Liên Xô vào những năm 1980. 45. Ước tính quy mô kho dự trữ hạt nhân vũ khí của nước này có trên dưới 10 đơn vị nhưng không ai chắc họ đã chế tạo được bom hạt nhân hay chưa. 46. Bắc Hàn đã phải đối mặt với các lệnh trừng phạt quốc tế nghiêm ngặt kể từ 2009 tới đây, sau khi Bình Nhưỡng tiến hành một loạt các vụ thử tên lửa đạn đạo và thử vụ nổ hạt nhân bất hợp pháp, bị cáo buộc đã phóng ngư lôi vào tàu hộ tống Hàn Quốc và nã pháo vào một hòn đảo của Hàn Quốc. 47. Số liệu cho thấy nền kinh tế Bắc Hàn đang bị ảnh hưởng nặng bởi các lệnh trừng phạt của Liên hợp quốc và bởi hàng loạt các trận thiên tai, theo số liệu của Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc. 48. Thống kê cho thấy vào năm 2010, nền kinh tế Bắc Hàn đang bị co lại trong năm thứ hai liên tiếp mặc dù lãnh đạo nước này hứa hẹn sẽ đem lại cho đất nước "lối vào quốc gia hùng mạnh và thịnh vượng" vào năm sau. 49. Tổng số 23,9 triệu công dân Bắc Hàn không thể tự do sử dụng điện thoại di động hoặc Internet (với các tên miền có đuôi là .kp) dẫu cho ông Kim coi mình là một chuyên gia truyền thông. 50. Bắc Hàn là một quốc gia chủ yếu gồm người vô thần, không theo tôn giáo nào mà chỉ tin vào tín ngưỡng truyền thống. Liên Hợp Quốc ước tính rằng tuổi thọ trung bình của đàn ông là 76 và phụ nữ là 83. II/ Đằng sau tấm màn sắt Bắc Hàn Giả sử các cơ quan tình báo nước ngoài học được một điều duy nhất từ Bắc Hàn, đó là phải thực sự chú ý khi truyền hình nhà nước tuyên bố sắp có thông báo quan trọng. Khi một xướng ngôn viên áo đen buồn bã xuất hiện trên màn hình giờ ăn trưa hôm thứ Hai, một số người hẳn nhớ lại một ngày tháng Bảy của 17 năm trước. Khi đó, một xướng ngôn viên đã khóc khi tiết lộ cái chết của lãnh tụ Kim Nhật Thành, người sáng lập và là nhà độc tài của Bắc Hàn. Hồi đó cũng như bây giờ, người ta phải đặt câu hỏi về thất bại của tình báo Mỹ và Nam Hàn khi không biết gì về cái chết đã diễn ra vài ngày trước đó. Khép kín Hiện nay, Bắc Hàn, ở một số mặt, vẫn là nhà nước đàn áp, cô lập và khép kín nhất thế giới. Một số điều đã thay đổi kể từ 1994. Hiện nay có một thị trường tư nhân thô sơ nhưng đang nở rộ, bán thức ăn và các món thiết yếu - xóa dần sự thống trị của nhà nước về kinh tế. Đa số dân Bắc Hàn cũng hiểu rằng người dân Trung Quốc và Nam Hàn sống tốt hơn họ. Ngày xưa họ cứ tưởng thế giới ghen tị với mình. Nhưng chính thể cộng sản cha truyền con nối đầu tiên của thế giới vẫn đang nắm quyền mà chẳng thấy có đối lập ở trong nước. Bốn năm trước trong một chuyến thăm Bắc Hàn, các nhà báo nước ngoài rất quan tâm chuyện kế vị và các con trai của Kim Jong-il. Nhưng người theo dõi chúng tôi thú nhận không biết Kim Jong-un, người con út. Nay thì họ được bảo rằng anh Kim là "vĩ nhân sinh ra dưới Núi Thần Paektu". Tôi ngờ rằng người dân bình thường cũng chẳng biết gì về hai người anh và các đối thủ tiềm tàng của anh ta. Các nhà quan sát nước ngoài nay hỏi những câu hỏi sao mà giống những câu hỏi đặt ra khi Kim Nhật Thành qua đời năm 1994. Lãnh đạo mới có kiểm soát được quân đội? Anh ta có sức mạnh cá nhân như cha? Anh ta là nhà cải cách hay sẽ dùng xung đột bên ngoài để củng cố quyền uy? Người Mỹ và Nam Hàn dựa vào vệ tinh và tin điện tử để có thông tin. Họ rất giỏi trong việc dự đoán liệu sẽ có thử nghiệm hạt nhân hay tên lửa hay không. Đa số người dân Bắc Hàn có vẻ không biết Kim Jong-un thực ra là người thế nào Thông tin trái ngược Còn về tình báo con người, họ phải dựa vào thông tin của những người đào tẩu, và thông tin này mang tiếng là không ổn. "Con cá" lớn nhất là Hwang Jang-yop, từng là thầy dạy của Kim Jong-il. Nhưng khi trốn vào Nam năm 1997, ông ta đã bị cách ly khỏi nhóm lãnh đạo và thông tin của ông chủ yếu mang tính lịch sử. Đa số người tị nạn là dân lao động chân tay không biết gì về chính trị. Các nhà báo hay những khách đến thăm thì bị tước bỏ điện thoại di động, computer và báo chí ngay tại biên giới. Có lần tôi đưa lậu một bản tin của hãng Yonhap của Nam Hàn, nói về một diễn văn của tổng thống Nam Hàn. Tôi hỏi một cô nhân viên tại một nhà máy nơi biên giới là có muốn xem không. Cô ta nhìn trái nhìn phải, lấy nó khỏi tay tôi và bỏ vào túi xách. Chúng tôi không bao giờ đề cập đến nó nữa. Nhưng sự tò mò của cô thật khác với giọng điệu tuyên truyền từ miệng cô, nhất là khi có người khác bên cạnh. Phóng viên nước ngoài khó tiếp cận thông tin về Bắc Hàn Suốt nhiều thập niên, tình báo Nam Hàn chuyên trách việc tuyên truyền về Bắc Hàn và đặc biệt là gia đình lãnh tụ cai trị. Hình ảnh Kim Jong-il như một tay chơi uống cognac, thích phụ nữ Bắc Âu và các cuộc khủng bố được tạo ra tại tổng hành dinh tình báo. Tình báo Nam Hàn vẫn còn bị đè nén vì quá khứ chiến tranh lạnh - nhưng có lẽ hiện nay họ nắm nhiều thông tin hơn là những gì họ công bố. Tại Seoul có nghi ngờ rằng trong quá khứ, điệp viên miền Nam thỉnh thoảng hợp tác với điệp viên miền Bắc để làm ra những sự kiện có lợi cho cả hai phe. Trong quan hệ liên Triều, có rất nhiều sự tình cờ và nhiều vụ việc chẳng giống như vẻ ngoài của chúng. Thỉnh thoảng Trung Quốc có được thông tin mật từ Bình Nhưỡng và có thể đã được thông báo trước khi có việc chính thức đưa tin về cái chết của Kim Jong-il. Nhưng giống như sự kế vị của Kim Jong-il, các phân tích gia của mọi bên sẽ phải chờ đợi. Các kịch bản xấu nhất sẽ lại được vẽ ra ở Seoul, Bắc Kinh và Tokyo - sụp đổ bất ngờ, làn sóng tị nạn, nội chiến, xung đột hay thậm chí xâm lăng miền Nam. Lần sau khi Bắc Hàn nói sắp có thông báo quan trọng, chắc chắn các nước láng giềng sẽ lắng nghe chăm chú. III/ Sự thật đằng sau tang lễ Kim Jong-il Người dân Triều Tiên kêu khóc trong tang lễ là có chỉ đạo? Biên tập viên thời sự quốc tế của BBC ở Seoul John Simpson phân tích những ‘thủ thuật’ của chính quyền Bắc Hàn trong tang lễ Kim Jong-il và trong việc cai trị đất nước. BBC Việt ngữ trân trọng giới thiệu bài viết này. Việc chuyển giao quyền lực từ một nhà độc tài cũ sang một nhà độc tài mới có thể là khoảng thời gian hết sức căng thẳng, nhất là khi nhà lãnh đạo mới dưới 30 tuổi và không có bất cứ kinh nghiệm chính trị cũng như điều hành gì. Do đó Bắc Triều Tiên cần phải làm điều gì đó để trấn an người dân. Màn diễu binh được đạo diễn công phu và hoành tráng trong tang lễ Kim Jong-il và những hình ảnh đám đông thảm thiết khi linh cữu Kim Jong-il di chuyển qua trung tâm Bình Nhưỡng đều có mục đích là đoàn kết đất nước trong nỗi đau buồn và giúp sự chuyển giao quyền lực được chắc chắn hơn. Những màn trình diễn này còn nhằm để nhấn mạnh rằng Kim Jong-un là thành viên mới nhất của sự nghiệp gia tộc mà ông nội là Kim Il-sung đã tạo dựng. Điểm mạnh nhất của Kim Jong-un là anh ta là ai, chứ không phải anh ta đã làm được gì. 'Gầy gò đói khát' Phần lớn người dân nông thôn Bắc Hàn sống trong cảnh gầy gò đói khát Nhiều người tham dự tang lễ có thể cảm thấy an lòng trước những hình ảnh này, đúng như chính quyền Bắc Hàn mong muốn. Nhiều người trong đám đông quần chúng kêu khóc ầm ỹ ăn mặc chỉnh chu theo đúng chuẩn mực của Bắc Triều Tiên. Họ cũng có vẻ được ăn uống tương đối đầy đủ. Một người đào tẩu từ miền bắc sang miền nam mới đây cho biết nói với BBC rằng ông nghĩ những người dân Bắc Hàn đang than khóc có thể có một chút đau buồn trước cái chết của Kim Jong-il. Nhưng ông ấy đã nói chuyện qua điện thoại với một vài người ở nông thôn và họ nói thẳng thừng với ông là họ ghét Kim Jong-il vì đã gây ra nạn đói khủng khiếp mà họ phải gánh chịu do hậu quả những chính sách của ông. Những ai có thể đi xa hơn những khu ngoại ô nghèo khó nhưng ít nhiều trông có vẻ cũng tử tế của Bình Nhưỡng thường thuật lại những cảnh những người dân quê gầy gò đói khát. Những người dân như thế này không có lý do gì để ủng hộ chế độ. Nhưng ở một đất nước mà các trại lao động tràn ngập tù nhân, sẽ rất nguy hiểm nếu thể hiện sự bất bình với chế độ. Khi đoàn xe tang của Kim Jong-il đi qua những con đường của Bình Nhưỡng, bất cứ ai trong biển người mà không có vẻ gì đau buồn sẽ gặp tai họa. Chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy đôi khi người dân đợi dấu hiệu để bắt đầu khóc. Và ít nhất hai lần những hình ảnh tường thuật trực tiếp trên truyền hình quốc gia tình cờ cho thấy những cảnh công an và các quan chức đang cầm máy quay để thu hình những người đang đứng gần họ. Không thể cho là họ đang quay tư liệu về lễ tang. Kim Jong-il, người thừa kế nền độc tài toàn trị từ cha là Kim Il-sung, vẫn có thể duy trì sự cai trị trong những hoàn cảnh khắc nghiệt mà không hề hấn gì. Nhưng liệu Kim Jong-un có thể làm được như cha trong một thế giới bỗng dưng nhìn thấy các nhà độc tài ít đi? Bộ máy tuyên truyền của Kim Jong-un đã bắt đầu tạo dựng hình ảnh của anh ta như là một lãnh đạo quan tâm đến nhân dân. Báo chí Bắc Triều Tiên đăng tin rằng anh ta đã ra lệnh cung cấp nước nóng cho những người khóc thương trên đường phố. Người bạn lớn Trung Quốc, láng giềng khổng lồ của Bắc Hàn và trên thực tế là người bạn duy nhất của quốc gia này, có tiếng nói quan trọng trong việc hình thành chế độ mới ở nước này. Trong cuộc đời của mình, Kim Jong-il đôi lần đã làm cho lãnh đạo Trung Quốc phải khó xử. Trung Quốc hiểu tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình ở châu Á trong khi Kim Jong-il kể từ năm 2008 tỏ quyết tâm muốn đối đầu với Hàn Quốc. Các lãnh đạo Trung Quốc ghét bị cô lập, và mặc dù họ có liên hệ chặt chẽ với nhiều hơn một quốc gia ‘bất hảo’, họ vẫn muốn tạo cho mình hình ảnh tốt trong con mắt của thế giới. Nếu Kim Jong-un và bè lũ của ông ta muốn tìm cách thiết lập quyền lực của mình bằng cách đe dọa Hàn Quốc, có lẽ với vũ khí hạt nhân thì Trung Quốc sẽ rất giận. Nhưng một lần nữa, sẽ rất khó cho Trung Quốc ngăn chặn Bắc Triều Tiên. Trung Quốc cũng đang cố gắng giữ cân bằng giữ tự do hóa và hạn chế sự phản đối. Điều này không hề dễ dàng. Cách mà Bắc Hàn phát triển có thể có tác động đến tương lai của Trung Quốc.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 21, 2012 7:21:17 GMT 9
Lại Karl Marx ! Phan Huy Đường Ông cụ này chết dai hơn đỉa. Mỗi lần "thị trường toàn cầu hoá" khủng hoảng, người ta lại lôi cổ ông ra bàn. Dĩ nhiên theo kiểu trích một ý, một "quy luật", bàn cho vui rồi quên, qua chuyện khác… Nhưng cũng có thanh niên đã no đòn chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội của thế kỷ 20, vẫn nỗ lực tìm hiểu học thuyết kinh tế của ông, phê phán những sai lầm hay thiếu hụt của nó đúng theo lôgích nội tại của nó, để trang bị cho mình một phương tiện tiếp cận và tìm hiểu những hiện tượng kinh tế thời nay. Hoài bão ấy chính đáng và bổ ích. Những lý thuyết nền tảng trong mọi lĩnh vực của sự hiểu biết đều như thế : nó cần được và sẽ được phê phán và bổ sung cho tới khi người ta khai thác cạn những khả năng hiểu biết mà nó chứa đựng. Thí dụ 1 : lý thuyết của Newton về vật-giới. Miễn bàn. Ai thích tìm hiểu, trong nước đã có mấy quyển sách quý giá về lịch sử phát triển của ngành vật lý hiện đại. Chẳng ai dám chê Newton già nua lỗi thời hết tuy ông đáng làm cụ kị của Marx (hơn Marx ít nhất 150 tuổi !) Thí dụ 2 : lý thuyết của Darwin về sinh-giới. François Jacob (Nobel Pháp) có nhận định lý thú sau. Ngày này, một sinh viên năm thứ nhất trong lĩnh vực này, sau vài tuần nghe giảng dạy, đã có thể thoải mái "xào nấu" (bricoler) những chuỗi gien (séquence génétique) để tìm hiểu thế giới sinh vật. Thời Darwin, chẳng ai tưởng tượng tới gien cả. Chính Darwin cũng không có chút kiến thức nào về sự di truyền (Mendel). Tuy vậy, tất cả những kiến thức mà loài người đã đạt được từ thời Darwin tới nay đều không vượt qua tầm nhìn tổng quát và mấy khái niệm cơ bản của ông về sinh-giới. Chỉ trong tầm nhìn ấy với những khái niệm ấy thì những kiến thức kia mới có ý nghĩa như những viên gạch "hiệu đính", củng cố và phát triển lý thuyết của Darwin. Đủ thấy kiến thức và trí tuệ là hai phạm trù rất khác nhau. Đối với tôi, lý thuyết kinh tế của Marx cũng có vai trò tương tự trong một lĩnh vực hiểu biết phức tạp hơn nhiều. Ngày nào hình thái kinh tế chính trị tư bản còn thống trị đời sống hàng ngày của nhân loại, ngày đó tư tưởng và lý thuyết kinh tế của Marx chưa thể "chết" được : duy nó mới cho phép ta hiểu một cách lôgích có thể tạm chấp nhận được sự vận động của hình thái kinh tế chính trị tư bản. Tôi vui mừng thấy vẫn có thanh niên, nhất là Việt Nam, vẫn quan tâm tới học thuyết kinh tế của Marx. Tôi xin góp với các bạn 3 ý nhỏ. 1/ Sử dụng khái niệm Bất kể ta đồng ý hay không, ta nên cố gắng sử dụng khái niệm của người khác một cách thật chính xác, nhất là những khái niệm nền tảng của một lý thuyết. Nếu không, ta sẽ lạc đường, mất thời giờ hết sức, có càng nhiều kiến thức lẻ, càng mất thời giờ. Thí dụ khái niệm "giá trị của lao động" (valeur du travail) hay, hàm hồ hơn, "giá trị lao động" (valeur-travail ?) Đó là một khái niệm của Ricardo, vẫn làm nền tảng cho các học thuyết kinh tế tư sản đời nay, vẫn tồn tại trong ngôn ngữ thường ngày của người đời dưới nhiều dạng, "thị trường lao động" (marché du travail) chẳng hạn. Nếu Marx có viết cụm từ này ở đâu đó thì chỉ có thể là để vạch ra tính hão huyền của nó. a/ Vì chính Marx đã mất 10 năm nghiên cứu để định nghĩa lại khái niệm giá trị trao đổi của hàng hoá (Góp phần phê phán kinh tế chính trị học), rồi mất 10 năm nghiên cứu nữa để hoàn chỉnh định nghĩa của khái niệm giá trị của hàng hoá (Tư bản luận). Định nghĩa giá trị đó không thể sử dụng cho lao động được. Lao động là hành động của con người. Nó chỉ hiện thực khi con người thực sự tác động vào thế giới. Thế thì, trong nhân gian bé tí này, mò tận gầm trời đáy biển cũng không đâu tìm được một "thị trường lao động" để "mua lao động". Ngược lại, thị trường sức lao động thì có thực, cứ ra "chợ cơ bắp", "chợ người" hay thị trường gọi là lao động thì thấy : một đống người rất khác nhau, đàn ông có, đàn bà có, cụ già và trẻ con cũng có nốt, chẳng ai thực sự biết mình sẽ làm gì, đang chờ đón người mua mình để được lao động nuôi thân. Ở đó, có món hàng ấy và món hàng ấy có giá trị. Giá trị của nó là bao nhiêu, tính toán được khá chính xác, sau đó, nó chệch choạc cân bằng theo "quy luật" cung cầu tại trận. Tôi đã trình bày vấn đề này đâu đó trong oép của tôi, xin không trở lại. b/ Vì chính Marx, trong Tư bản luận, đã chứng mình rằng nếu lao động của con người có giá trị (như Ricardo tưởng tượng) và nếu giá trị ấy được trao đổi ngang giá với lao động của người khác đúng theo nguyên lý cơ bản của kinh tế thị trường thì không tài nào hiểu nổi sự hình thành và phát triển của hình thái kinh tế tư bản trong lòng kinh tế thị trường. Như thế, khi ta dùng khái niệm "giá trị lao động", ta bàn về học thuyết kinh tế của ai đó, không bàn về học thuyết kinh tế của Marx. Trong học thuyết kinh tế của Marx, cơ bản chỉ có vài khái niệm gốc thôi : hàng hoá, lao động, sức lao động, giá trị của hàng hoá, giá trị của sức lao động, giá trị thặng dư… Thế cũng đã đủ để hiểu lõi cơ bản của kinh tế thị trường và kinh tế tư bản. Chẳng khác gì học thuyết của Darwin chỉ có hai khái niệm cơ bản thôi mà mở đường hiểu biết và thu nhập một cách nhất quán biết bao nhiêu sự kiện và kiến thức lạ lùng trong sinh giới từ thời ông tới hôm nay. Nhưng hiểu cho đúng và cạn ý nghĩa của những khái niệm loại này, chẳng dễ tí nào. Trong mọi lĩnh vực của tri thức, những khái niệm cơ bản nhất thường rất đơn giản và rất… khó hiểu ! 2/ Phê phán để phát triển một khái niệm trong một hệ suy luận a/ chúng ta có toàn quyền sáng tạo hay định nghĩa lại một khái niệm để xây dựng một hệ suy luận của riêng ta trong bất cứ lĩnh vực nào của sự hiểu biết. Cứ thoải mái làm, chẳng ai cấm được. Tôi đã làm chuyện ấy đối với khái niệm "biện chứng" trong quyển Tư duy tự do. Chẳng ai than phiền cả. Còn sẽ có ai chia sẻ hay không, để xem… b/ nhưng khi ta muốn phê phán những sai lầm hay thiếu hụt của một khái niệm trong một hệ suy luận để phát triển hệ suy luận đó, giúp nó có khả năng tiếp cận và giải thích những sự kiện chưa hề có hay chỉ có ở dạng chi tiết không đáng kể ở thời hệ suy luận đó ra đời thì, chí ít, ta phải tôn trọng "môi trường suy luận" trong đó khái niệm ấy có ý nghĩa và giá trị. Thí dụ, ta muốn phát triển định nghĩa của khái niệm hàng hoá của Marx để xử lý tất cả những gì người đời gọi là hàng hoá công cộng, kể cả những "dịch vụ" của Nhà nước (giáo dục chẳng hạn). Đây là một cái mode đang thịnh hành tại Pháp : biến Nhà nước thành một xí nghiệp, biến quan hệ giữa Nhà nước với công chức thành quan hệ chủ tư bản – người làm thuê, biến quan hệ giữa Nhà nước với công dân thành quan hệ trao đổi hàng hoá trong thị trường, với những khẩu hiệu như : người sử dụng (utilisateur) những phương tiện hay dịch vụ của Nhà nước (service public) phải được coi như khách hàng (client) và Nhà nước chẳng qua cũng chỉ là một người kinh doanh như mọi người kinh doanh khác trong thị trường. Nếu ta lựa chọn hướng đi a/ ta cứ thoải mái phát triển tư duy của ta trong lĩnh vực này, không nên mất thời giờ tìm cách phát triển kinh tế học của Marx. Nếu ta lựa chọn hướng đi b/ thì cần xem lại điều sau. Trong kinh tế học và tư tưởng của Marx, để cho sản phẩm của con người có thể hiện-thực dưới hình thái hàng hoá, chí ít phải có 2 điều kiện : i/ lực lượng sản xuất phải đạt tới mức con người có khả năng sản xuất nhiều hơn nhu cầu tiêu thụ cho phép nó tồn sinh. Đây là cơ sở của mọi hình thái bóc lột trong lịch sử của nhân loại, kể cả trong những nền văn minh nô lệ. Ừ, cũng là nền văn minh đó, cứ coi văn minh Ai Cập hay Hy Lạp xa xưa thì thấy. Giữa chủ nô và nô lệ có quan hệ trực tiếp tước đoạt "giá trị thặng dư" như những kinh tế gia mácxít và không mácxít, đều không hiểu Marx, thích nói. Thực tế là tước đoạt sản phẩm của lao động, bằng bạo lực, không có quan hệ trao đổi hàng hoá, không có vấn đề giá trị nói chi tới giá trị thặng dư. ii/ phải có sự hiện diện của hai tác nhân (cá nhân hay tập thể) tự do và bình đẳng với nhau trong tư cách mình là chủ của sản phẩm được mang ra để trao đổi. Vì họ tự do, họ có toàn quyền bán sản phẩm của mình để mua sản phẩm của tha nhân. Vì họ bình đẳng với nhau, họ trao đổi sản phẩm trên nguyên tắc đồng thuận, không ai chèn ép ai, nên họ có thể trao đổi với "giá phải chăng" đối với mỗi người. Đại khái : cả hai bên đều không thấy mình bị lấn áp, thua thiệt. Họ thấy mình đã trao đổi ngang giá. Toàn bộ những quan hệ ấy gọi là thị trường tự do, toàn bộ những sản phẩm được trao đổi với nhau như thế, gọi là hàng hoá. Khái niệm hình thái đó. Quan hệ giữa Nhà nước và công dân không dính dáng gì hết với quan hệ trao đổi hàng hoá trong thị trường tự do ! Đó là quan hệ quyền lực, cưỡng ép. Không hề có sự trao đổi bất cứ gì trên nguyên lý tự do và bình đẳng thể hiện qua sự tự do mặc cả rồi đồng thuận về giá cả. Nguồn thu cơ bản của Nhà nước là thuế, trực tiếp hay gián tiếp. Mỗi năm, Nhà nước quy định ai đóng thuế bao nhiêu. Ai không bằng lòng thì cứ chửi (tại các nước dân chủ) nhưng ai trốn thuế mà bị tố giác thì… "ăn đòn" liền (trong tất cả các chế độ dân chủ hay không !) "Dịch vụ" mà Nhà nước mang lại cho dân – đường xá, cầu cống, công viên, điện nước, TV, điện thoại, bưu điện, giáo dục và đào tạo et tutti quanti – Nhà nước có thể "cho không", ai cũng có thể thoải mái sử dụng, kể cả người không đóng thuế, chẳng tốn xu nào. Nhưng nó cũng có thể phán : muốn dùng, nộp "thuế" (redevance) bây nhiêu, chấm hết. Ai không nộp đủ thì, hè hè, nó cúp. Đừng có hòng mặc cả, dù một xu. Gọi đó là quan hệ trao đổi hàng hoá trong thị trường được chăng ? Với kinh tế học macxít, chắc chắn là không. Còn sửa đổi định nghĩa khái niệm hàng hoá của Marx để có thể nói là có thì nên dẹp kinh tế học của Marx và xây dựng kinh tế học của chính mình cho đỡ mất thời giờ giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong tư duy của mình. Có sao đâu ? Người đời đã làm như thế cả trăm năm rồi. Có nhiều người còn lĩnh giải Nobel kinh tế mà. Dù sao, chúng ta cũng nên thử tìm hiểu vì sao một quan điểm như thế có thể xuất hiện và lôi cuốn một số người. Kinh tế là quan-hệ giữa người với người. Quan-hệ ấy rất khác quan-hệ vật-lý hay sinh-học giữa người với tự-nhiên. Nó không "trắng đen" như trong quan hệ giữa người với vật-giới : suy luận đúng thì được việc, sai thì… vỡ mặt tức khắc. Nó cũng không "đơn giản" như quan hệ giữa người với sinh-giới. Trong quá trình vận động của xã hội loài người có những lúc nó tranh tối tranh sáng. Do đó, nhận diện tính đặc thù của từng hiện tượng kinh tế trong từng thời điểm của lịch sử rất khó và nêu danh nó cho chính xác còn khó hơn. Có những lúc, Nhà nước, trong một số lĩnh vực, thực sự ứng xử như một tư nhân trong thị trường. Thí dụ. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, nước Pháp kiệt quệ. Trong một số năm, giá cả của một số nhu yếu phẩm, bột mì, bánh mì chẳng hạn, do Nhà nước cưỡng ép. Quan trọng hơn, Nhà nước tư bản đã quốc hữu hoá không ít lĩnh vực kinh tế, dùng tiền của dân đầu tư vào rất nhiều khu vực sản xuất chiến lược trong những công ty quốc doanh : đường sắt, điện, gaz, điện thoại, bưu điện, viễn thông, năng lượng nguyên tử, v.v. Nhiều công nghệ mũi nhọn của Pháp ngày nay đã hình thành và phát triển trong bối cảnh ấy. Trong giai đoạn này, sản phẩm của các công ty quốc doanh hiện thực dưới hai hình thái khác nhau, tuỳ nó được "trao đổi" xuyên qua quan hệ nào. a/ nếu là bán cho khách hàng ngoại quốc thì nó là hàng hoá đích thực, xuyên qua quan hệ thị trường quốc tế, có cạnh tranh. b/ nếu là "bán" cho dân thì nó không là hàng hoá : mỗi năm, chính phủ quyết định "giá" điện là bao nhiêu và thu tiền dưới hình thái redevance, một loại thuế hoàn toàn không bị thị trường chi phối. Thuở ấy, người Pháp dùng từ chính xác thế đấy. Tới thập niên 70, Nhà nước Pháp trực tiếp hay gián tiếp chi phối khoảng 1/3 hoạt động kinh tế của nước Pháp. Đó là 30 năm phát triển kinh tế huy hoàng của Pháp (30 glorieuses). Bắt đầu từ thập niên 80, cao trào tư hữu hoá triệt để lan tràn Châu Âu và hiện nay đã trở thành "nguyên lý" đối với các chính đảng của toàn bộ Châu Âu, tả cũng như hữu. Tiến hành ý thức hệ ấy nhanh hay chậm tuỳ thuộc nghiệm sinh của từng dân tộc. Thế nào đi nữa cũng nên khôn khéo đi từng bước. Một trong những bước ấy là : vừa chấm dứt độc quyền của Nhà nước trong một lĩnh vực kinh tế, cho phép tư nhân bước vào để cạnh tranh, vừa từ từ tư hữu hoá công ty Nhà nước. Trong quá trình ấy, có lúc công ty của Nhà nước bắt buộc phải cạnh tranh với công ty tư nhân, bắt buộc phải bán sản phẩm của mình "theo giá thị trường", tức là Nhà nước ứng xử y hệt như một ông chủ tư bản trong thị trường. Theo lý thuyết của các kinh tế gia tư bản, sự cạnh tranh "tự do" "trong suốt" ấy sẽ có lợi cho người tiêu dùng : giá cả ắt phải hạ và nó sẽ tối ưu khi Nhà nước cút khỏi thị trường để cho nền "kinh tế thị trường" tự điều tiết với "bàn tay vô hình" của nó và chó phép bàn dân hưởng tính siêu việt của nó : sống thoải mái hơn, sung sướng hơn, ít nhất là với những kẻ không lười biếng, chịu khó làm ăn, không sợ rủi ro, sẵn sàng uyển chuyển và di động (nghĩa là… đổi công ăn việc làm, chỗ ở, nếp sống, kiểu Hãng bảo đi là đi, Hãng bảo đánh là thắng !), cố gắng vươn lên mãi mãi et tutti quanti. Tiếc thay, trong thực tế thì ngược lại ! Một mặt, số người lao động có biên chế trong các công ty quốc doanh hay nửa quốc doanh càng ngày càng giảm, làm việc càng ngày càng nặng nề căng thẳng hơn, số người lao động bấp bênh càng ngày càng tăng và, mặt khác, giá cả, nói chung, càng ngày càng đắt đỏ hơn : xăng, dầu, khí đốt, nước, điện, bưu điện, et tutti quanti ! Mỗi lần rục rịch tư hữu hoá một công ty của Nhà nước thì bàn dân nên chuẩn bị tinh thần : giá cả sẽ… tăng ngay. Phải điên điên mới tin rằng thay thế độc quyền trong một số lĩnh vực kinh tế của những Nhà nước tại Châu Âu bằng độc quyền của vài hãng tư bản quốc tế (gần1/2 vốn tư bản của 40 hãng tư bản lớn nhất của Pháp thuộc quyền sở hữu của người ngoại quốc) sẽ mang lại lợi ích cho toàn dân của các nước ấy ! Dù sao anh chính khách còn lệ thuộc cử tri tí ti trong cuộc bầu cử tới nếu muốn tiếp tục làm chính trị. Còn chủ tư bản thì chẳng lệ thuộc ai, trừ Nhà nước, khi nó quyết định hành động của nó. Và nó hành động chỉ vì một mục đích thôi : cuối năm nay, tỷ lệ lời tăng hay giảm bao nhiêu so với năm ngoái ? Có nên rỡ nhà máy qua Trung Quốc để tăng lợi nhuận nhờ giá sức lao động thấp chăng ? Thế thôi. Từ ấy, cái mode coi Nhà nước như một ông chủ tư bản trong thị trường, phát triển trong ngôn từ của một số lý thuyết gia. Đến mức người ta đòi quản lý Nhà nước như một xí nghiệp với những phương pháp quản lý xí nghiệp thông dụng ! Ngược lại, người ta đưa vào đời sống của xí nghiệp những khái niệm chẳng dính dáng gì với thực tế của nó : chế độ cai trị xí nghiệp (gouvernement d'entreprise), văn hoá xí nghiệp (culture d'entreprise) et tutti quanti. Kết quả : một môi trường ngôn ngữ hằm bà lằn, ai muốn nói gì hiểu sao cũng được. Xưa nay ngôn ngữ vẫn là phương tiện cơ bản và hữu hiệu nhất để lừa gạt, thống trị nhau và để lừa gạt chính mình mà ! Sự kiện mới, hiện tượng mới trong đời sống kinh tế toàn cầu hôm nay, ngày nào cũng có. Tìm hiểu lẻ tẻ từng cái rất cần thiết và bổ ích nhưng không chắc giúp ta hiểu nổi đại thể, nhất là khi ta phóng đại những kiến thức lẻ ấy thành một nguyên lý mới cho phép hiểu toàn bộ hệ thống kinh tế. Những modes kiểu này đã từng có quá nhiều và chẳng đi tới đâu cả. Chắc nhiều người còn nhớ thời trang "small is beautiful" chứ ? Nó là một thời trang lớn, ngày nay, chẳng còn ai nói tới. Quyển sách ra đời năm 1973, rồi lan tràn khắp thế giới. Chẳng bao lâu sau cả thế giới chứng kiến những tập trung tư bản khổng lồ chưa từng thấy trong lịch sử ! tới nay vẫn đang tiếp tục. Đúng như Marx đã từng phân tích và "tiên đoán" như một quy luật của kinh tế tư bản cách đây hơn cả… 100 năm ! Thế mà còn có người phán chàng đã lỗi thời ! Nhét loạn xạ tất cả những sự kiện ấy đằng sau một ngôn từ và phán ngôn từ ấy là một khái niệm cơ bản, mới, hoàn chỉnh hơn tất cả các khái niệm có trước đó cũng không chắc giúp ta hiểu biết hơn thực tế hiện nay. 3/ Để hiểu những ý tưởng của Marx trong những lĩnh vực tri thức khác nhau Không chóng thì chầy sẽ phải tìm hiểu triết lý của chàng vì : a/ nó là nền tảng cuối cùng của mọi suy luận của chàng1 trong mọi lĩnh vực của tư duy. b/ nó chẳng giống ai cả. Cơ bản, đó là một phương pháp suy luận quái đản : có lôgích hình thức nhưng không là lôgích hình thức của Kant2 ; có lôgích biện chứng nhưng không là lôgích biện chứng của Hegel ; duy vật, nhưng không là duy vật của Feuerbach ; duy tâm nhưng không là duy tâm của Pascal, Descartes hay một đống triết gia khác từ ấy tới nay. Phải chăng vì thế mà có hai người đọc Marx thì có ngay hai cách hiểu khác nhau ? Thế thì, hoặc nó là một loại tôn giáo hàm hồ, ai muốn tin gì thì tin và sử dụng tuỳ tiện ; hoặc nó có một giá trị nhận thức mà ta chưa hiểu rõ hết vì nó chưa được biến thành lời một cách dễ hiểu trong ngôn ngữ hôm nay của chúng ta. Trường hợp thứ nhất, miễn bàn. Trong trường hợp thứ hai, ngoài chính ta, không ai có thể giúp ta hiểu nó được. Nếu ta có khả năng hiểu nó hơn người đời xưa thì vì : a/ ta đã no đòn của các cách hiểu trước. b/ kinh nghiệm và kiến thức mà người đời đã tích lũy trong suốt thế kỷ 20 và nghiệm sinh của chính ta có điều giúp ta thấy rõ hơn một số vấn đề. Tôi chỉ có khả năng góp mấy ý ấy thôi. Chúc các bạn tự tin vững bước trên con đường tìm hiểu và hành động của các bạn. 2009-08-06, Phan Huy Đường 1 Triết lý của Marx hình thành khi chàng ở tuổi 25, chưa làm cụ của ai cả.
2 ngày nay vẫn còn có giá trị trong nhiều lĩnh vực của tư duy, chưa già nua, lỗi thời tí nào cả tuy ông cụ này sinh trước Marx gần một thế kỉ !***************************************** Bài học đáng giá từ Luận án Tiến sĩ của Thủ tướng Campuchia Hun SenSự kiện Chính phủ Campuchia vào hùa với Trung Cộng trong vai trò Chủ tịch ASEAN khi thảo luận về những tranh chấp Biển Đông vẫn đang gây bức xúc dư luận ở nước ta. Một số người thể hiện thái độ thất vọng, bất bình, bàn ra tán vào về độ tin cậy và cái sự chung thủy của Campuchia với “Tình hữu nghị đặc biệt Campuchia-Lào-Việt Nam” Còn tôi thì lại nghĩ khác: Đó là luật chơi quen thuộc của Campuchia mà chúng ta thường quan sát thấy. Quan điểm mà chúng ta cần bình tĩnh xác nhận, là Campuchia đã lựa chọn một quyết định có lý, đúng nghĩa theo luật chơi truyền thống của họ, bất kể người đại diện của họ là Cựu hoàng Sihanouk, là nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Polpot hay Thủ tướng Hun Sen. Và có lẽ đó cũng là điều mà các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng cần rút ra bài học cho luật chơi của mình. Chúng ta hãy đọc một số luận điểm trong Luận án Tiến sĩ về Khoa học Chính trị của Hun Sen bảo vệ ở Học viện Nguyễn Ái Quốc (Việt Nam) năm 1991, tức Trường Đảng Cao cấp, trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận án có tên “Tính đặc thù của quá trình cách mạng Campuchia”. Luận án là một công trình nghiên cứu khoa học rất nghiêm túc và thú vị, đưa ra nhiều luận điểm đáng trân trọng, hoàn toàn khác biệt với luận điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, mặc dầu cố vấn khoa học là Giáo sư Nguyễn Đức Bình, người được nổi tiếng là có quan điểm rất chuẩn tắc theo đúng nghĩa một người marxist-leninist “toàn tòng”. Qua tư tưởng của luận án, chúng ta sẽ hiểu vì sao Campuchia đã vào hùa với Trung Cộng để có một thái độ xử sự không minh bạch trong vấn đề Biển Đông. Trong nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN của Campuchia, và trong quan hệ lâu dài với họ, chắc chắn còn tái diễn nhiều sự kiện đại loại như chuyện xảy ra vừa qua. Vì vậy, nghiên cứu quan điểm của Hun Sen cũng có thể giúp chúng ta chọn nước đi thích hợp để ứng xử với Campuchia và những người đại diện khác của Campuchia trong tương lại. Nhận xét của Hun Sen về tình hình Campuchia Luận án của Hun Sen đã chỉ rõ bàn tay độc ác của Trung Cộng chia rẽ đảng của những người cộng sản Campuchia đến mức phe theo Trung Cộng trong Đảng đã thẳng tay chém giết đồng bào, đồng chí của mình, dẫn đến thảm họa diệt chủng theo kiểu giết người thời trung cổ, còn độc ác hơn cả phát xít Hitler thời Đệ nhị Thế chiến. Đương nhiên, trong lịch sử các đảng cộng sản, trước hết là Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, việc giết hại đồng bào, đồng chí để “bảo vệ Đảng” là hiện tượng mang tính phổ biến, gần như là một tất yếu lịch sử, nhưng chưa ở đâu đạt đến trình độ tàn bạo tột cùng như trong phong trào cộng sản Campuchia. Trước hết, trong Luận án, Hun Sen đã nêu những sự kiện mà chúng ta vốn biết: Quân đội của cả hai phía Việt Nam đều đã ngã xuống trên mảnh đất Campuchia. Cả hai phía Việt Nam đều chiến đấu để bảo vệ hai phía của Campuchia, và đều bị cả hai phía Campuchia giết hại: Phía Campuchia chống cộng thì giết phía Việt Nam cộng sản, còn phía Campuchia cộng sản thì giết cả phía Việt Nam cộng hòa, và cả phía Việt Nam cộng sản. Từ khi Polpot giành được quyền lực trong Đảng (1973), thì vừa sử dụng quân đội Miền Bắc Việt Nam để chống lại lực lượng chống cộng Campuchia, vừa bắt đầu thanh trừng các lực lượng thân Việt Nam theo phương châm “vừa tranh thủ, vừa ngăn chặn, vừa loại trừ” (Luận án, trang 46). Đường lối cách mạng Campuchia được viết tập trung trong Chương II của Luận án. Chương này mang tên: “Cuộc cách mạng làm lại”. Có thể nói đây là một chương đặc sắc trong Luận án của Hun Sen. Mở đầu chương, Hun Sen nói về chế độ diệt chủng Polpot. Ông nhận định: Cái Đảng Cộng Sản của Polpot đã phản bội lại cách mạng. Còn chính sách của Polpot đối với Việt Nam được Hun Sen mô tả như sự giải thích rõ thêm đường lối “vừa tranh thủ, vừa ngăn chặn, vừa loại trừ” đã nêu ở chương trước. Hun Sen trích dẫn lời Polpot phát biểu vào tháng 4/1978, trong Báo cáo về nhiệm vụ của Trung ương Đảng Campuchia 1976, Polpot tuyên bố: “Một người Campuchia phải tiêu diệt 30 người Việt Nam, vì vậy có thể dùng 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 60 triệu người Việt Nam” (Luận án, trang 63). Chúng ta nhớ lại, năm 1978, dân số Việt Nam khoảng 60 triệu người. Có nghĩa người lãnh đạo đảng cộng sản anh em Campuchia đã có một phát ngôn chính thức trước Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản của họ, là tiêu diệt hết dân tộc Việt Nam. Hun Sen cũng đã chỉ ra rất rõ vai trò của Trung Cộng trong việc hậu thuẫn cho Đảng Cộng sản Campuchia dưới triều đại của Polpot. Ông viết: “Chỗ dựa về tư tưởng của Polpot chính là chủ nghĩa Mao” (Luận án, 59), “Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc ủng hộ cuộc diệt chủng của Polpot đối với nhân dân Campuchia cũng như việc Polpot xâm lược Việt Nam”, và Hun Sen xác định: “Nội dung của cách mạng dân tộc lúc này khác trước ở chỗ không tập trung mũi nhọn chống sự xâm lược của nước ngoài (ý Hun Sen nói về Pháp và Mỹ), nhưng tập trung đánh vào chế độ cai trị độc tài diệt chủng được Trung Quốc hậu thuẫn để cứu nước” (Luận án, 67). Nhận định này của Hun Sen gợi chúng ta liên tưởng tới việc Trung Cộng hỗ trợ, vừa lôi kéo, vừa hù dọa các nhà cầm quyền ở một số nước, theo kiểu đã ủng hộ cho Polpot, để đàn áp nhân dân dưới chiêu bài “bảo vệ Đảng”, “bảo vệ cách mạng”, “chống các thế lực thù địch”, và như vậy, bài học mà Hun Sen đã chỉ ra cho Campuchia cũng là bài học đắt giá cho những ai muốn dựa vào Trung Cộng để bảo vệ cho quyền lực của họ và của đảng của họ, cũng là bài học nghiêm túc cho tất cả những ai yêu nước thương nòi muốn thực sự dấn thân bảo vệ độc lập chủ quyền, độc lập cho dân tộc. Nói về một “cuộc cách mạng làm lại”, bắt đầu từ việc thành lập Mặt trận đoàn kết cứu nước Campuchia” vào tháng 12/1978 và giành thắng lợi vào tháng 1/1979, Hun Sen đã đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong việc giúp đỡ Campuchia. Hun Sen cho rằng, không có sự giúp đỡ của Việt Nam, thì không thể tiêu diệt được chính quyền diệt chủng của Polpot. Hun Sen còn trích dẫn lời của Quốc vương Sihanouk, người được ông gọi là “đồng minh của Polpot từ đầu đến cuối” (Luận án, 74) trong cuộc đàm phán Sihanouk – Hun Sen: “Nếu không có quân đội của ngài Hun Sen, không có quân đội Việt Nam đánh Polpot, thì tôi (Sihanouk) đã chết”. Một trong những dòng được in chữ đậm trong Luận án, Hun Sen khẳng định: “Việt Nam đã đến giúp Campuchia là hoàn toàn hợp pháp”. Chương III của Luận án bàn về “Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ và nhân dân trong bối cảnh tình hình đất nước vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh”. Mở đầu chương này, Hun Sen nhận định về bối cảnh trong nước và quốc tế. Tiếp đó ông trích dẫn một câu nói rất đúng chỗ của Lênin: “Chỉ có độc một mình đội tiên phong thôi (ý của Lênin trong đoạn này là nói về đảng cộng sản) thì không thể thắng nổi. Ném độc một mình đội tiên phong vào một cuộc chiến đâu quyết định, khi mà toàn thể giai cấp công nhân và quần chúng lao động chưa được chuẩn bị sẵn sàng và chưa có thái độ trực tiếp ủng hộ đội tiên phong, hoặc ít ra là một thái độ trung lập hoặc có thiện cảm với đội tiên phong khiến họ không thể hoàn toàn ủng hộ kẻ địch được, thì đó không những là một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa” (Luận án, 100). Thì ra, khi chúng ta được nghe ai đó – vẫn xem mình là leninist – nói, công việc trọng đại cứu nước đã có một mình “đội tiên phong” lo, là nói ngược với lời chỉ giáo của ông tổ Lênin của họ, thì ra họ đã chẳng leninist một chút nào! Hun Sen đã phát triển rất đặc sắc tư tưởng này của Lênin. Ông viết: “Như vậy điều quan trọng trong lúc này là phải có một chính sách đồng minh đúng đắn phù hợp với tính chất dân tộc dân chủ nhân dân mà đòi hỏi đầu tiên là nỗ lực xây dựng một mặt trận rộng rộng rãi, thành lập một liên minh có số lượng mạnh, làm cho các tầng lớp khác cùng tham gia cách mạng…”.Hết đoạn này, Hun Sen kết luận bằng những dòng (in đậm trong nguyên bản): “Từ đó Đảng mới có thể thực hiện được sách lược thêm bạn, bớt thù một cách đúng đắn và chủ động làm thay đổi so sánh lực lượng giai cấp trong xã hội có lợi cho cách mạng” (Luận án, 101). Và ở đoạn dưới, Hun Sen đã viết không úp mở: Ông nhận đỉnh rằng “Chiến tranh ở Campuchia chưa chấm dứt…” và ông đưa ra những luận điểm rất mạnh dạn: “Nếu có giải pháp chính trị đưa đến chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, chấm dứt sự đe dọa từ bên ngoài đối với độc lập, chủ quyền của Campuchia thì có thể nói rằng, nhiệm vụ dân tộc đã hoàn thành một bước quan trọng…”. Ông khẳng định: “Giải pháp là một sự thỏa hiệp, và sự thỏa hiệp ở đây bước đầu là nhằm chấm dứt cuộc xung đột vũ trang (ý nói xung đột giữa các phe phái Campuchia), tạo lập hòa bình và hòa hợp dân tộc. Như vậy các chính đảng thôi đánh nhau bằng vũ trang, phải sống chung, nhưng vẫn tiếp tục đấu tranh với nhau dưới những hình thức khác: chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa… trong cùng một khuôn khổ xã hội, do đó sẽ nảy sinh lập tức hệ thống đa đảng, đa nguyên chính trị. Đây là cái giá mà cách mạng phải trả vì hòa bình, vì lợi ích của nhân dân.” Đoạn này Hun Sen in chữ đậm, và ông đã khẳng định “Vai trò của Đảng sẽ không như trước kia, vì phải mất đi vai trò độc quyền lãnh đạo” (Luận án, 117). Luận án của Hun Sen đã cho thấy thái độ nhất quán của ông, được nhắc lại nhiều lần, là phải làm lại cách mạng Campuchia, chỉ rõ chân tướng của cái đảng vẫn mang vỏ bọc cộng sản của Polpot là “phản động”, cái đảng đang dựa lưng vào một bức tường chắn khổng lồ là Đảng Cộng sản Trung Quốc và nước lớn xã hội chủ nghĩa là Trung Hoa đại lục. Ông không lấn cấn với nước Trung Hoa anh em “bốn tốt” và “mười sáu chữ vàng”, và ông cũng không sợ mang tiếng đánh nhóm cộng sản Polpot sẽ bị Polpot gọi tên là “thế lực thù địch”. Quả thực, trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế chúng ta chưa đọc được ở quốc gia nào một sự kiện mang tính nghịch lý của lịch sử: Một nhóm đảng viên cộng sản đứng ra thành lập một đảng cộng sản khác, xây dựng một lực lượng vũ trang khác để lật đổ ách thống trị của một nhóm cộng sản vẫn vỗ ngực là đảng của giai cấp công nhân, nhưng phản bội lại lợi ích của nhân dân và của tổ quốc, và bám vào sự ủng hộ của đảng Trung Cộng để ra tay đàn áp nhân dân. Trong bản luận án của Hun Sen, chúng ta thấy Hun Sen nhiều lần nhắc đến sự hậu thuẫn và giúp đỡ vật chất cho Polpot, nhưng không hề thấy Hun Sen nêu một sự kiện nào về việc Trung Cộng mua chuộc và đút lót các quan chức cao cấp của Polpot để lũng đoạn đảng này, để thâm nhập ngày càng sâu vào Campuchia, để khai thác tài nguyên ở Campuchia, để khống chế nền kinh tế Campuchia. Từ đó có thể suy ra, Trung Cộng ngày nay thâm độc hơn Trung Cộng hồi đó rất nhiều. Đường lối quốc tế trong Luận án của Hun Sen Trước hết, chúng ta hãy đọc những đoạn của Luận án nói về quan hệ với Việt Nam. Hun Sen viết: “Do điều kiện chính trị, điều kiện tự nhiên và nguyên tắc tự nguyện, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia (tức đảng cộng sản) đã ra đời như một đứa con sinh ba từ một bào thai…” (Luận án, 7). Đối với phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, Hun Sen cũng đánh giá “Liên Xô ở trong thế mạnh nhất trong việc kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai. Chủ nghĩa xã hội không chỉ có ở Liên Xô và đã trở thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đang trong thế tiến công và là chỗ dựa vững chắc nhất cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc…” (Luận án, 9). Tác hại của Trung Quốc đến cách mạng Campuchia cũng được Hun Sen chỉ rõ khi bàn về bối cảnh củaHội nghị Genève về Đông Dương tháng 5 năm 1954. Hun Sen nhận định: “… và cùng lúc đó Trung Quốc đang tìm cách thỏa hiệp để bảo vệ mình. Vì vậy, các thỏa hiệp trong Hội nghị Genève được tiến hành liên tục do sự cấu kết bí mật giữa Pháp, Mỹ và Trung Quốc; những thỏa hiệp này đã làm tiêu tan mọi thuận lợi của phong trào kháng chiếncủa nhân dân Campuchia” (Luận án, 16). Trong một đoạn sau đó, Hun Sen nhận định: “Về phần Trung Quốc thì cần xây dựng lại đất nước và muốn có một khu vực đệm ở phía Nam Trung Quốc, tức là Miền Bắc Việt Nam để tránh đụng đầu trực tiếp với Mỹ, Trung Quốc đã thưc hiện chiến lược thỏa hiệp vì lợi ích của bản thân mình” (Luận án, 17). Nhận định này của Hun Sen càng khẳng định: Chính Trung Quốc mới là người phải biết ơn nhân dân Việt Nam, bởi vì Việt Nam đổ xương máu để tạo một vùng đệm để bảo vệ công cuộc xây dựng đất nước Trung Quốc trong hòa bình. Hun Sen nhiều lần phê phán đường lối của Đảng Cộng sản của Polpot đối với Việt Nam, là “vừa tranh thủ, vừa ngăn chặn, vừa loại trừ”, nhưng đường lối này đúng cả với Sihanouk và với cả chính Hun Sen. Về nguyên nhân dẫn đến sự phản bội cách mạng của Đảng Cộng sản (Polpot) Về nguyên nhân làm cho Đảng Cộng sản của Polpot đẩy nhân dân và đồng minh đi với kẻ thù và Đảng Cộng sản của Polpot đi vào con đường phản bội cách mạng Campuchia, Hun Sen viết: “Sự phản bội của Polpot xuất phát từ việc xác định mâu thuẫn không đúng, không nhận rõ kẻ thù”. Trong toàn bộ phần sau, Hun Sen đã phân tích hậu quả của chính sách nhầm lẫn kẻ thù của Polpot đã làm cho Đảng Cộng sản bị cô lập, đẩy các lực lượng vốn liên minh với Đảng nay quay lại chống Đảng. Ông viết: “Polpot đã làm cho cách mạng xa rời tình hình và nhiệm vụ của dân tộc, thoát ly xu thế của thời đại”… Ông viết tiếp: “Việc xa rời xu thế chung của dân tộc không những không làm cho cách mạng phát triển, mà còn làm mất đồng minh, đẩy đồng minh đi với kẻ thù…” và ông kết luận: “Do đó so sánh lực lượng xung quanh đường lối độc lập mất đi sự thuận lợi, tạo ưu thế hoàn toàn cho phái hữu tay sai đế quốc chi phối chính sách đối nội và đối ngoại” (Luận án, 38). Hun Sen còn bình luận thêm: “Hành động phản bội (của Đảng Cộng sản của Polpot) dẫn đến sự sai lầm về chiến lược, sách lược cách mạng trong giai đoạn đó, là yếu tố kết hợp đưa Campuchia vào vòng xâm lươc của đế quốc…” (Luận án, 39). Sự nhầm lẫn kẻ thù và sự thoát ly bối cảnh quốc tế của những người cộng sản dưới triều đại của Polpot là điều được Hun Sen nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Luận án của ông. Hun Sen viết: “Nhóm này luôn ra sức tách phong trào ra khỏi xu thế chung của dân tộc và xu thế quốc tế, gây nên tai họa nặng nề cho cách mạng”. Ông nhận định: “Nếu xét nhóm Polpot theo từng giai đoạn, người ta có thể kết luận rằng nhóm này có sai lầm về chủ trương và hoạt động trong khuôn khổ cách mạng, nhưng nếu nhận xét bằng cách xâu chuỗi lại các giai đoạn đấu tranh người ta có thể kết luận rằng đây là hành động phản bội cách mạng, một hành động phản bội được thực hiện bằng cách lợi dụng lực lượng cách mạng để giành lấy quyền lợi cho riêng phe phái của họ mà thôi.” Tôi cần mở ngoặc ở đoạn này: Nhóm Polpot chỉ quyết giành quyền lãnh đạo và gây tội ác diệt chủng với dân tộc họ, chứ tôi chưa đọc được ở đâu những sự kiện về việc nhóm này ăn chặn của dân những lợi ích kinh tế khổng lồ do bán đất bán biển, bán rừng và tài nguyên khoáng sản cho ngoại bang. Có thể nói, đời sống cá nhân của họ thì hết sức trong sạch. Từ những thông tin rộng rãi trên mạng chúng ta còn biết được, vợ và con gái của Polpot vẫn giữ một cuộc sống thanh bạch, nghèo hèn không được Polpot đưa vào những vị trí quyền lực béo bở trong xã hội. Luận án còn đưa ra một phân tích thú vị nữa về việc, vì sao Polpot thực hành đường lối sai trái đến mức Hun Sen gọi là phản cách mạng như vậy, mà vẫn còn rất nhiều đảng viên và phong trào quần chúng ủng hộ. Hun Sen giải thích là vì “phần lớn cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn còn khắc sâu ân tình với những người du kích cộng sản trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và hiểu lầm rằng Đảng vẫn được các vị lãnh tụ cũ (như Tou Samouth và Sơn Ngọc Minh …) lãnh đạo”. Từ những gì diễn ra trong phong trào cộng sản quốc tế, chúng ta có thể nhận ra rằng, sự nhầm lẫn kẻ thù dẫn đến tàn sát đồng bào đồng chí không phải xuất hiện ngẫu nhiên, mang tính cá biệt ở nhà lãnh đạo cộng sản Polpot, mà chính là căn bệnh mãn tính di truyền từ các nhà lãnh đạo cộng sản tiền bối như Stalin, Djerdjinski, Beria và Mao Trạch Đông. Có thể nói đây là một trong những luận điểm hay nhất trong Luận án của Hun Sen. Những gì giúp ta hiểu được thái độ của Campuchia trong vai trò chủ tịch ASEAN Đọc luận án của Hun Sen chúng ta hiểu được rất nhiều điều: Trước hết, Hun Sen đã thể hiện những tư duy hoàn toàn độc lập, gắn bó với Tổ quốc của ông, gắn bó với nhân dân của ông, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của dân tộc, không mơ hồ ảo tưởng theo cái mũ kim cô về ý thức hệ, bất kể người nắm cái mũ kim cô đó là những người cộng sản Việt Nam hay cộng sản Trung Quốc. Trong Luận án của mình, Hun Sen nhiều lần nói đến Trung Cộng như người hà hơi tiếp sức cho phe cộng sản Polpot và nhắc đến ân tình của Việt Nam, nhưng vì lợi ích của dân tộc mình, tiến sĩ Hun Sen sẵn sàng hy sinh “Người anh em sinh ba Việt Nam”, và chơi những trò chơi đúng như quan thầy Trung Cộng của Polpot, người mà Hun Sen đã nhiều lần gọi là bọn phản bội. Người Tàu có câu nói “Hậu sinh khả úy”. Tôi cứ ngẫm nghĩ mãi, quả thật, người cộng sản “hậu sinh khả úy” Hun Sen, dám biết hy sinh cái mũ kim cô cộng sản vì quyền lợi dân tộc của mình, kể cả việc hy sinh “Người anh em sinh ba Việt Nam” đáng để những người marxist-leninist toàn tòng ngả mũ kính chào bái phục. Tôi đột nhiên nhớ đến, trong một hội thảo nào đó, khi nghe người ta bàn về một chuẩn mực cần đề xướng trong chính sách đối ngoại là phải “Dựa trên độ tin cậy lẫn nhau giữa các quốc gia”, tôi đã được nghe nhà nghiên cứu khả kính Nguyễn Trung, cựu đại sứ Việt Nam tại Thái Lan phản ứng: “Không, chính sách đối ngoại không thể dựa vào độ tin cậy, mà phải dựa trên lợi ích sống còn của các quốc gia”. Qua luận án của Hun Sen, chúng ta hoàn toàn hiểu được việc làm của người cộng sản Hun Sen. Đó là một việc làm đáng để những nhà lãnh đạo các quốc gia tham khảo.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 21, 2012 7:35:28 GMT 9
Nhân vật số hai' của Bắc HànTướng Chang Song-taek hội kiến với Chủ tịch Hồ Cẩm Đào Người chú của lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong-un, Chang Song-taek, đã hội kiến với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo tại Bắc Kinh – chỉ dấu chứng tỏ ảnh hưởng gia tăng của ông này tại Bình Nhưỡng. Sinh tháng Hai 1946 ở tỉnh Bắc Hamyong, ông Chang học Kinh tế Chính trị ở Đại học Kim Nhật Thành, và cũng từng học ở Trường Đảng Cao cấp Kim Nhật Thành và Đại học Quốc gia Moscow. Khi còn là sinh viên ở Bình Nhưỡng, ông bắt đầu quan hệ tình cảm với con gái Kim Nhật Thành, bà Kim Kyoung-hui và là em gái của lãnh tụ sau này Kim Jong-il. Mặc dù ban đầu không đồng ý, cuối cùng nhà lãnh tụ lập quốc cũng chấp thuận cho hai người kết hôn năm 1972. Không suôn sẻ Mặc dù được làm thành viên gia đình quyền quý, nhưng sự nghiệp của ông không hoàn toàn suôn sẻ. Theo tài liệu của công ty quốc phòng IHS Jane's, vào cuối thập niên 1970 và đầu 1980, thói quen rượu chè của ông khiến ông sao nhãng công việc và bị buộc đi “cải tạo”. Năm 1982, ông quay lại giới tinh hoa nhờ chức phó giám đốc phụ trách lao động thanh niên trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1986, ông được vào Quốc hội Bắc Hàn và năm 1995 trở thành Phó ban Tổ chức, chức vụ ông giữ trong chín năm. Nhưng sang năm 2004, Chang Song-taek lại biến mất. Truyền thông Bắc Hàn suốt ba năm không nhắc tên ông. Người ta đoán rằng ông đã làm mất lòng lãnh tụ Kim Jong-il. Có tin đồn rằng ông phản đối kế hoạch truyền ngôi của người anh vợ, và cũng có người nói Kim Jong-il nghi ngờ tham vọng của ông em. Tuy vậy, ông bắt đầu có những chức vụ mới từ khoảng năm 2006 trước khi có chân trong Ủy ban Quốc phòng đầy quyền lực tháng Tư 2009. Tháng Sáu 2010, ông được phong phó chủ tịch ủy ban này và trở thành thành viên dự khuyết Bộ Chính trị. Những lần thăng tiến nhanh chóng ấy dường như chứng tỏ Kim Jong-il, trong những năm cuối đời, muốn Chang và em gái Kim Kyoung-hui, người được phong tướng bốn sao năm 2010, sẽ chăm sóc cho con trai út. Lãnh tụ Bắc Hàn qua đời đột ngột ngày 17/12/2011, và chàng thanh niên trẻ Kim Jong-un bỗng trở thành tâm điểm chú ý của truyền thông quốc tế khi chính thức kế vị. Nhân vật số hai Gần một năm trôi qua, giới quan sát nhận định Chang Song-taek đã trở thành nhân vật số hai trong chính quyền. Truyền thông nhà nước Bắc Hàn đưa tin mỗi ngày về chuyến đi Trung Quốc của ông Chang. Người chú đang được xem là nhân vật số hai của Bắc Hàn Cách tường thuật như vậy thật bất thường, vì chúng vốn chỉ dành cho nhà lãnh đạo tối cao. Trung Quốc cũng dường như công nhận ảnh hưởng của ông Chang khi các lãnh đạo chóp bu của Bắc Kinh đều gặp ông. Từ khi dẫn dắt Bắc Hàn, lãnh đạo trẻ Kim Jong-un đã bổ nhiệm các kinh tế gia trẻ vào nhiều vị trí chủ chốt. Ngày càng có nhiều đồn đoán rằng giới lãnh đạo mới của Bắc Hàn đang muốn thay đổi cách điều hành nền kinh tế. Ông Kim con đã điều ông Kim Yong-nam, người đứng đầu nhà nước trên danh nghĩa của Bắc Triều Tiên, đến thăm Việt Nam và Lào trong tháng Tám. Còn tại Bắc Kinh, ông Chang Song-taek đã thảo luận về việc thúc đẩy phát triển khu kinh tế gần biên giới Trung Quốc. Trung Quốc là đồng minh lớn cũng như các đối tác thương mại chính duy nhất của Bắc Hàn, một đất nước quân sự hóa dày đặc đang tiến hành các vụ nổ hạt nhân ngầm và các cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo trong lúc phải vật lộn về có đủ lương thực nuôi người dân. Sự phụ thuộc của Bắc Hàn vào Trung Quốc, quốc gia có chung đường biên giới, gia tăng khi các lệnh trừng phạt quốc tế đối với các chương trình hỏa tiễn và hạt nhân làm giới hạn khả năng bảo đảm tín dụng quốc tế và thương mại của Bình Nhưỡng. Chú của Kim Jong-un gặp Hồ Cẩm ĐàoTướng Chang Song-taek (trái) gặp ông Hồ Cẩm Đào ở Bắc Kinh Một lãnh đạo hàng đầu của Bắc Hàn gặp gỡ chính thức Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào hôm thứ Sáu trong khuôn khổ các cuộc trao đổi cấp cao, theo truyền thông nhà nước. Cuộc gặp cấp cao giữa ông Chang Song-taek, người chú quyền lực của lãnh đạo trẻ tuổi của Bắc Hàn, được cho là báo trước một chuyến thăm thượng đỉnh của Chủ tịch, Nguyên soái quân đội Kim Jong-un. Ông Hồ Cẩm Đào đã gặp ông Chang Song-taek sau nhiều ngày diễn ra các cuộc thảo luận song phương nhằm thúc đẩy phát triển khu kinh tế gần biên giới Trung Quốc, theo Đài phát thanh quốc tế của Trung Quốc (CRI). Các cuộc hội đàm lần này được cho là các tiếp xúc, trao đổi ngoại giao cao cấp nhất giữa Bắc Hàn và Trung Quốc kể từ khi ông Kim Jong-un lên nắm quyền sau cái chết đột ngột năm ngoái của cha ông, ông Kim Chính Nhật. Sự kiện cũng được xem là một dấu hiệu cho thấy Bình Nhưỡng và Bắc Kinh đang tăng cường quan hệ sau khi các nhà lãnh đạo Bắc Hàn ra tín hiệu dự định cải thiện nền kinh tế bần hàn của nước này. Ông Kim Jong-un đã nói với một đoàn Đại biểu đảng Cộng sản Trung Quốc tới thăm Bình Nhưỡng hồi đầu tháng này là ông đang tìm kiếm phát triển kinh tế, theo truyền thông nhà nước Trung Quốc. Ông Chang Song-taek, người đứng đầu Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên đã gặp ông Hồ Cẩm Đào tại Bắc Kinh sau khi tiến hành một loạt các cuộc thảo luận với Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Trần Đức Minh. 'Đánh giá rất cao' "Trung Quốc luôn ủng hộ các cải cách của Bắc Triều Tiên. Đồng thời, sẽ cố gắng thuyết phục nước này từ bỏ các chương trình vũ khí hạt nhân của họ" Học giả Giả Khánh Quốc "Trong những năm qua, đồng chí Chang làm nhiều việc lớn để giúp phát triển quan hệ hữu nghị giữa Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, và chúng tôi đánh giá rất cao điều đó," ông Hồ Cẩm Đào được đài CRI của Trung Quốc trích lời nói. Các cuộc đàm phán trong chuyến thăm của ông Jang tập trung vào hai khu kinh tế, Rason, ở mạn đông bắc của Bắc Hàn, và hai hòn đảo Hwanggumphyong, Wihwado, nằm trên hai cửa sông Yalu. Các hiệp định đã được ký kết giữa hai bên vào đầu tuần này bao gồm việc thành lập và vận hành các Ban Quản lý khu vực kinh tế trên, Bộ thương mại Trung Quốc nói trong một tuyên bố. Hai bên cũng cũng nhất trí hợp tác về điện và nông nghiệp, vẫn theo Bộ này. Tầm quan trọng của Trung Quốc đối với Bắc Hàn đã được ông Kim Jong-il đề cao qua bốn chuyến công du Trung Quốc trong chưa đầy hai năm cuối đời của ông. Tân chủ tịch Bắc Hàn (đầu tiên, phải sang) tiếp phái viên cấp cao nhà nước TQ tại Bình Nhưỡng đầu tháng 8/2012 Chuyến thăm cuối cùng của nhà cố lãnh đạo này diễn ra vào tháng 8/2011, chỉ vài tháng trước khi ông qua đời vào tháng 12. Trung Quốc là đồng minh lớn cũng như các đối tác thương mại chính duy nhất của Bắc Hàn, một đất nước quân sự hóa dày đặc đang tiến hành các vụ nổ hạt nhân ngầm và các cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo trong lúc phải vật lộn về có đủ lương thực nuôi người dân. Sự phụ thuộc của Bắc Hàn vào Trung Quốc, quốc gia có chung đường biên giới, gia tăng khi các lệnh trừng phạt quốc tế đối với các chương trình hỏa tiễn và hạt nhân làm giới hạn khả năng bảo đảm tín dụng quốc tế và thương mại của Bình Nhưỡng. Giả Khánh Quốc, giáo sư tại Khoa Quốc tế học thuộc Đại học Bắc Kinh nói chuyến thăm của ông Chang tuần này diễn ra giữa lúc Bắc Hàn đang tiến hành các cải cách. "Trung Quốc luôn luôn là người ủng hộ các cải cách của Bắc Triều Tiên", ông Jia nói và nhấn mạnh rằng Bắc Kinh đang có khả năng gia tăng sự ủng hộ nếu Bình Nhưỡng theo đuổi chúng. "Đồng thời, Trung Quốc sẽ cố gắng thuyết phục nước này từ bỏ các chương trình vũ khí hạt nhân của họ", vị giáo sư nói. Suu Tam/ BBC
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 22, 2012 9:13:33 GMT 9
Bài nói của Đặng Tiểu Bình ngày 16/3/1979
Lời dẫn: Ngày 16/3/1979, đúng ngày quân đội Trung Quốc rút khỏi Việt Nam sau khi bất ngờ mở cuộc tấn công xâm lược lớn vào 6 tỉnh biên giới Việt Nam, Đặng Tiểu Bình đã có bài nói tại một hội nghị nội bộ. Gần đây bài nói này được đưa lên mạng. Đặng Tiểu Bình Trong bài nói Đặng đã giải thích lý do, mục đích ..của cuộc chiến tranh gọi là “đánh trả tự vệ” này, trong đó có một chi tiết nhỏ, nhưng nếu ai là ngưòi trong cuộc có thể dựa vào đó để cho rằng đây đúng là bài nói của Đặng Tiểu Bình. Xin nhấn mạnh rằng những câu nói như “đánh trả tự vệ”, “trừng phạt có giới hạn”, “Cu Ba phưong đông”, “Việt Nam xâm lược”… chỉ là những lời vu cáo bịa đặt trắng trợn của Đặng, người cầm đầu, chủ trương gây ra cuộc chiến . Nhân dịp lần thứ 32 năm, ngày Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh biên giới(17/21979-17/2/2011), xin trích dịch và giới thiệu bài nói trên, để bạn đọc Việt Nam ở trong và ngoài nuớc, già cũng như trẻ thấy rõ thêm bộ mặt thật của kẻ đã từng “ vừa là đồng chí vừa là anh em”, để bây giờ và trong tương lai vừa phải “duy trì láng giềng tốt, nhưng không được bao giờ mất cảnh giác với họ” Xin lưu ý đây là bản dịch văn nói.
Dương Danh Dy ————————————————– “Đồng chí Vương Thượng Vinh (Phó Tổng Tham Mưu trưởng kiêm Cục trưởng Cục Tác chiến quân giải phóng Trung Quốc-ND) đã báo cáo, tôi không báo cáo mà nói mấy câu thôi. Lần đánh trả tự vệ Việt Nam này quyết tâm tiến hành một cuộc tác chiến trừng phạt có giới hạn, gọi là giới hạn tức là độ sâu đả kích nông một chút, thời gian ngắn một chút, mục đích là dạy cho, dạy cho tên Cuba phương đông điên cuồng này để đạt được biên giới Trung Việt là đường biên giới tương đối ổn định. Đồng thời cũng là một sự ủng hộ Cămpuchia chống Việt Nam xâm lược. Tất nhiên xét từ ý nghĩa rộng lớn hơn thấy, đó là một hành động quan trọng của chúng ta mở rộng mặt trận thống nhất quốc tế phản đối bá quyền. Hôm nay trận đánh đó thực sự xong rồi, ngày 5 tuyên bố kết thúc chiến tranh, bộ đội bắt đầu rút về phía sau, đến hôm nay rút hết. Mưòi một ngày này trên đưòng trở về đã quét dọn một số hang, có một số vật tư giấu ở hang này hang nọ, một số thôn trang, cũng quét dọn mấy ngàn ngưòi, trên vạn nguời. Đồng thời khi kinh doanh chuyện chống đối Trung Quốc, Việt Nam đã đánh nhau nhiều năm, ngay lúc chúng ta tăng cưòng viện trợ cho chúng, có công sự đã xây bẩy năm, có cái đã được ba năm, chỗ nào cũng thấy công sự, tích trữ rất nhiều vật tư, rất nhiều vật tư là do chúng ta viện trợ, gạo, đạn, vũ khí, lần này lấy về một loạt, Việt Nam cậy có hiệp ước Xô Việt mới dám như thế. Nó cũng nghĩ là cậy hiệp ước này kéo Liên Xô xuống nuớc, cũng cậy có hiệp ước này cho rằng chúng ta không dám áp dụng trừng phạt qui mô tưong đối lớn. Ngay trước khi chúng ta ra quân mấy ngày nó còn dự đoán rằng chúng ta chỉ có hành động phạm vi nhỏ hai sư đoàn. Chúng ta hạ quyết tâm này đúng là đã tỉnh táo đánh giá phản ứng của phía bắc lớn đến đâu. Điều này không chỉ chúng ta suy tính. Mọi ngưòi biết trên đưòng thăm Mỹ tôi đã nói phải cho Việt Nam bài học, nứoc Mỹ không tán thành chúng ta sử dụng hành động tưong đối lớn, sợ dẫn tới phản ứng lớn của Liên Xô Mọi người biết, TW đảng, Quân ủy TW hạ quyết tâm này không dễ, trải qua nhiều lần suy ngẫm, trải qua gần hai tháng suy ngẫm mới hạ được quyết tâm đó. Trong đảng, trong nhân dân chúng ta có rất nhiều lo lắng về vấn đề này, liệu có thể đánh tốt hay không, phản ứng dây chuyền lớn đến đâu, liệu có ảnh hưởng tới xây dựng bốn hiện đại hóa không, liệu đánh tốt hay đánh không tốt. Những lo lắng đó là đúng, là vấn đề nghiêm túc. Bây giờ xem ra hạ quyết tâm đó là đúng. Khi hạ quyết tâm mối lo lớn nhất là sợ xét lại Liên Xô có phản ứng mạnh mẽ. Vì vậy khi chúng ta hạ quyết tâm đã tiến hành phân tích nghiêm túc khoa học những vấn đề trên. Vì ảnh huởng tới xây dựng bốn hiện đại hoá của chúng ta, không phải là trận đánh ở phía nam tốt hay không mà là phía bắc phản ứng lớn đến đâu, phía bắc phản ứng không lớn thì ảnh hưỏng không lớn. Thế nhưng trong khi đang suy tính vấn đề đó, Việt Nam cậy có hiệp nghị hữu hảo Xô Việt, cậy có hiệp nghị đó tấn công lớn vào Cămpuchia, cậy có hiệp định đó gây sự tại biên giới Việt Trung, làm cho chúng ta không yên ổn.Tại phía bắc chúng có hai mươi vạn quân, có 7 sư đoàn bố trí trên đưòng biên giới nuớc ta, còn có đồn công an, đưòng biên giới dài khoảng một ngàn bẩy trăm km, đội ngũ tập trung đông và Việt Nam dựa vào hiệp ước Xô Việt mới dám làm như vậy.. cho rằng chúng ta không dám có sự trừng phạt qui mô tương đối lớn. Khi thăm Mỹ tôi nói cho Việt Nam bài học, nước Mỹ không tán thành.Chúng ta sử dụng hành động tương đối lớn sợ dẫn tới phản ứng lớn của Liên Xô, nước Mỹ một mặt phản đối chúng ta trừng phạt, nhưng mặt khác cũng thông báo cho chúng ta chút tình báo, nói quân đội Liên Xô về căn bản không động đậy, trên mấy ngàn cấy số biên giới (Trung Xô) chỉ có 54 sư đoàn không đầy đủ quân số. ¾ binh lực Liên Xô bố trí tại châu Âu, nên muốn tấn công Trung Quốc qui mô lớn thì phải chuyển dời trọng điểm chiến lược, ít nhất phải điều 1 triệu quân từ châu Âu về, việc này không kịp vì thời gian hành động của chúng ta không dài. …Trước khi chúng ta xuất quân mấy ngày bọn chúng (Việt Nam) còn đánh giá chúng ta chỉ có hành động phạm vi nhỏ hai sư đoàn … Chúng ta nói trận này nhất định phải đánh, có 3 lý do lớn phải đánh: Một là, mặt trận thống nhất chống bá quyền quốc tế đòi hỏi có sự chế tài cần thiết đối với Cu Ba phương đông để thúc đẩy mặt trận thống nhất chống bá quyền quốc tế. Bởi vì trên thế giới đều sợ Liên Xô và vì thế cũng sợ Cu Ba. Dưới con mắt chúng ta, Cu Ba phương đông đưa mười mấy sư đoàn tấn công Cămpuchia, gây chuyện ở biên giới nước ta, dùng đánh trả tự vệ lý do càng đầy đủ, nhưng hành động này không chỉ là hành động biên giới, nhỏ thì quan hệ tới tình hình Đông Dương, cục diện Đông Nam Á, nói rộng hơn một chút là quan hệ tới cục diện thế giới cho nên cần phải làm. Hai là, chúng ta cần phải xây dựng bốn hiện đại hóa. Chúng ta cần môi trường tương đối ổn định, đáng tin, để cho xét lại Liên Xô, Việt Nam ngày ngày ở phía bắc phía nam đe dọa chúng ta làm cho tinh thần không yên liệu có được không? Chúng ta thử lợi dụng cơ hội xem sao. Việt Nam tự thổi phồng rất hung, tự coi là “cường quốc quân sự thứ ba trên thê giới”…lại coi chúng ta là kẻ thù số một… nếu chúng ta không đánh trả thì bọn chúng càng hung hăng, thúc đẩy phương bắc cũng tới …đánh trận này đặc biệt là cảnh cáo Liên Xô một chút. Lý do thứ ba, là quân giải phóng nhân dân ba mươi năm nay không đánh trận, rốt cuộc quân đội chúng ta liệu có được hay không? Quả thật là chúng ta không có nhiều căn cứ để đánh giá…. Đây là cơ hội rất tốt,, bây giờ có thể nói quân giải phóng vẫn là quân giải phóng, danh dự được khôi phục một chút.trên thế giới cho rằng ba mươi năm chúng ta không đánh trận, không nhất định đánh được Việt Nam. Cán bộ cấp tiểu đoàn trở xuống của chúng ta chưa tham gia chiến tranh, cán bộ trung đoàn cũng chỉ có một bộ phận. Cho nên thu hoạch về mặt này là lớn nhất là một trong những hiệu quả lớn nhất. Ngoài ra trong đánh trả tự vệ: - Chúng ta đã nâng cao được uy tín quốc tế của Trung Quốc: chí ít là người Trung Quốc đã nói là làm, bắt đầu từ chiến tranh Triều Tiên là như vậy, nhưng rồi có một thời kỳ Trung Quốc động loạn tương đối dài, người ta không tin Trung Quốc, lần nay thì khôi phục danh dự, người Trung Quốc vẫn là đã nói thì làm, có vai trò quan trọng trên mặt trận quốc tế chống bá quyền. - Yên tâm làm bốn hiện đại hóa. - Rèn luyện quân giải phóng nhân dân - Trong tuyên bố ngày 5/3 chúng ta đã nói nếu sau này Việt Nam còn gây sự tại biên giới chúng ta bảo lưu quyền dạy cho bài học nữa, quyền đánh trả tự vệ. - Nhưng có một điều phải đặc biệt đề cập tới tức là giết gà đã phải dùng giao mổ trâu. Lần đánh này vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một. Thương vong của chúng ta là 4 so với 1, thần thoại của chúng bị tiêu diệt. - Bây giờ còn nhiều công tác tư tưởng phải làm.. những nhân tố không ổn định rất nhiều, hiện tượng gây chuyện ngày một nhiều, nào là vấn đề thanh niên trí thức về làng, lợi dụng phát huy dân chủ để phá hoại ổn định, nào là Bức tường dân chủ (Tây Đơn)… Có người chạy vào đại sứ quán Việt Nam, phản đối đánh trả tự vệ, điều này không nghiên cứu có được không? Dương Danh Dy sưu tầm và trích dịch từ Club.china.com
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 11, 2012 17:30:07 GMT 9
Hạm đội Trân Châu Cảng 'bị tiêu diệt bởi một điệp viên'Khi những máy bay Nhật Bản tấn công hạm đội Mỹ ở Trân Châu Cảng vào ngày 7/12/1941, có lẽ không ai nghĩ rằng trận chiến xảy ra nhờ nỗ lực của một điệp viên Liên Xô.Tàu chiến Mỹ bốc cháy trong trận Trân Châu Cảng vào ngày 7/12/1941. Ảnh: navy.mil. 71 năm đã trôi qua từ khi không quân Nhật Bản tiêu diệt hạm đội Mỹ tại Trân Châu Cảng vào ngày 7/12/1941. Cho đến sau khi một viên tướng tình báo của Liên Xô xuất bản sách trong đó ca ngợi White là người cứu Liên Xô nhờ kích động cuộc chiến Nhật - Mỹ, công chúng biết thêm một trong những nguyên nhân dẫn đến Trân Châu Cảng. Nó là kết quả của một chiến dịch tình báo mang tên “Chiến dịch Tuyết” do Liên Xô phát động. Harry Dexter White, một điệp viên của Liên Xô trong bộ Tài chính Mỹ, đã góp công lớn trong chiến dịch tình báo ấy. Đế quốc Nhật Bản hứng chịu nhiều cú sốc chính trị nghiêm trọng trong suốt thập niên 30. Hai vụ ám sát bất thành nhằm vào Nhật hoàng Hirohito – do một người cộng sản Nhật Bản và một người Triều Tiên thực hiện – đã dẫn tới việc hàng loạt thành viên trong chính phủ và nhiều chủ ngân hàng lớn tại Nhật Bản thiệt mạng. Video: Thế giới kỷ niệm 70 năm trận Trân Châu Cảng Trận Trân Châu Cảng năm 1941 Những trận đánh kinh điển trong Thế chiến II Sau khi Thủ tướng Tsuyoshi Inukai bị ám sát vào năm 1932 do không tìm ra biện pháp hiệu quả để đối phó cuộc Đại suy thoái và ảnh hưởng của ngoại bang, 110.000 người dân đã xin Nhật hoàng tha thứ cho những kẻ giết Inukai. Bốn năm sau, trong một nỗ lực đảo chính, một nhóm sĩ quan quân đội trẻ đã vây thủ tướng Kesisuke Okada trong buồng tắm tại nhà riêng và suýt nữa lật đổ chính phủ. Với những sự kiện đó, Nhật hoàng rất sợ các sĩ quan sẽ ám sát ông nếu triều đình không giải quyết những mối đe dọa từ phía Mỹ và Nga đối với những lợi ích quân sự và kinh tế của Tokyo, đặc biệt là quyền tiếp cận của Nhật Bản đối với dầu mỏ của Mỹ. Trong khi đó, người Nga hiểu rằng họ sẽ rơi vào thế khó nếu quân Đức tấn công từ phía tây và quân Nhật Bản tràn sang từ phía đông. Hàng loạt yếu điểm của quân Liên Xô đã bộc lộ trong những cuộc đụng độ với quân Nhật trong cuộc chiến giữa hai nước vào năm 1939. NKVD, cơ quan tiền thân của Cục tình báo KGB, hiểu rằng một cuộc chiến với Mỹ sẽ khiến Nhật Bản không thể thực hiện tham vọng chiếm Mông Cổ và Siberia – một tham vọng có thể khiến Moscow phải điều động tới 25% lực lượng quân đội để đối phó. Cuộc chiến Nhật-Mỹ cũng sẽ giúp Liên Xô tập trung toàn lực để đối phó Đức. Thật may mắn cho Moscow, cơ quan tình báo của họ đã cài được một điệp viên vào bộ máy chính quyền Mỹ tại Washington. Đó là Harry Dexter White, một quan chức cấp cao của Bộ Tài chính Mỹ. Chào đời trong một gia đình nhập cư thuộc tầng lớp lao động tại thành phố Boston, bang Massachusetts, Mỹ, White từng phục vụ quân đội Mỹ trong Thế chiến thứ nhất. Ông lấy được bằng tiến sĩ kinh tế tại Đại học Harvard. Trong thời gian làm việc cho Bộ Tài chính dưới thời tổng thống Franklin Roosevelt, White đã có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản. Vào năm 1936, với sự giúp đỡ của một người, ông đã tiết lộ thông tin về chính trị Nhật Bản và Trung Quốc, cũng như các vấn đề kinh tế, cho cơ quan tình báo Liên Xô. Ông Harry Dexter White. Ảnh: Life. Lo ngại nguy cơ lộ thân phận, White tạm ngừng cung cấp thông tin cho người Nga trong một khoảng thời gian. Nhưng vào tháng 5/1941, phát xít Đức bắt đầu vi phạm hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau mà Adolf Hitler, quốc trưởng Đức, đã ký với Josef Stalin, nhà lãnh đạo tối cao của Liên Xô. Vitalii Pavlov, một gián điệp Nga, cố gắng “tái khởi động” White với một nhiệm vụ khẩn cấp: Gây chiến tranh giữa Nhật Bản và Mỹ để Liên Xô không phải tiến hành chiến tranh trên hai mặt trận. Nhờ công việc trong Bộ Tài chính Mỹ, White có mối quan hệ khá thân mật với nhiều quan chức chủ chốt trong chính quyền. Chẳng hạn, ông biết Stanley Hornbeck, một chuyên gia về châu Á của Bộ Ngoại giao, ghét Nhật Bản. White cũng gây được ảnh hưởng lớn tới Henry Morgenthau, Bộ trưởng Tài chính thời đó. Mối quan hệ cá nhân giữa Morgenthau với tổng thống Franklin Roosevelt khiến ông trở thành bộ trưởng có quyền lực lớn nhất. Bằng cách tác động tới Morgenthau và Hornbeck, White đã làm thay đổi chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản theo hướng có lợi cho Liên Xô. Khi tổng thống Roosevelt muốn nới lỏng lệnh cấm vận dầu mỏ đối với Nhật Bản để đổi lấy việc Nhật sẽ rút dần khỏi Trung Quốc, White đã soạn thảo một lá thư để Morgenthau ký. Nội dung của bức thư như sau: "Nếu Mỹ bán Trung Quốc cho những kẻ thù của họ để đổi lấy những đồng tiền vàng dính máu, chẳng những chính sách của chúng ta ở châu Âu và vùng Viễn Đông sẽ suy yếu, mà vai trò lãnh đạo thế giới dân chủ của Mỹ trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít cũng sẽ giảm." Thay vì thỏa hiệp với Nhật Bản, Mỹ yêu cầu Tokyo rút khỏi Trung Quốc ngay lập tức, trung lập hóa vùng Mãn Châu của Trung Quốc và bán 3/4 vũ khí của lục quân và hải quân cho Mỹ. Coi yêu cầu của Mỹ là một lời đe dọa và sự sỉ nhục, chính phủ Nhật Bản kết luận rằng chiến tranh với Mỹ là điều mà họ không thể tránh. Họ vạch ra kế hoạch tấn công phủ đầu bằng việc tiêu diệt hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng và Philippines. Nhờ tài trí của White, Liên Xô tránh được một cuộc chiến ở sườn phía đông. White tiếp tục vạch ra những chính sách có lợi cho Liên Xô sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc. Washington chỉ phát hiện thân phận của ông sau khi Whittaker Chambers và Elizabeth Bentley, hai người Mỹ làm gián điệp cho Liên Xô, cắt đứt quan hệ với người Nga và cung cấp thông tin về các điệp viên của Liên Xô trong bộ máy chính quyền Mỹ. Ông qua đời vào năm 1948. Ba ngày trước khi chết, ông phải giải trình trước một ủy ban của hạ viện. Cảnh sát cho rằng White đã tự sát. Cục Điều tra liên bang Mỹ xếp White vào danh sách “những người phản bội” vào năm 1950, song họ chỉ biết rõ vai trò của ông đối với trận Trân Châu Cảng sau khi Vitalii Pavlov, người phụ trách ông trong cơ quan tình báo Liên Xô và sau này trở thành tướng, xuất bản hồi ký vào năm 1996. Trong hồi ký, Pavlov coi White là người cứu Liên Xô. Việt Linh (theo Times
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 22, 2012 10:29:49 GMT 9
Vaclav Havel – Chủ nghĩa cộng sản tiếp tục dạy chúng ta những gì?
Bản dịch được thực hiện nhân giỗ đầu Vaclav Havel (18/12/2011-18/12/2012) Lễ kỉ niệm lần thứ 15 Cách mạng Nhung (ngày 17 tháng 11 năm 1989), cuộc Cách mạng đã đưa chế độ độc tài cộng sản ở Tiệp Khắc đến chỗ cáo chung, là cơ hội để suy tư về ý nghĩa của hành vi mang tính đạo đức và hành động tự do. Hiện nay chúng ta đang sống trong xã hội dân chủ, nhưng nhiều người – không chỉ ở Cộng hòa Czech – vẫn tiếp tục tin rằng họ không phải là chủ nhân của số phận của mình. Họ đã đánh mất niềm tin rằng họ có thể thực sự có ảnh hường đối với những sự kiện chính trị, và còn có ít ảnh hưởng hơn đối với xu hướng phát triển của nền văn minh của chúng ta. Trong giai đoạn cộng sản, đa số người dân đều tin rằng những cố gắng của cá nhân nhằm tạo ra thay đổi đều chẳng có ý nghĩa gì. Các nhà lãnh đạo cộng sản luôn luôn khẳng định rằng hệ thống đó là kết quả của những quy luật khách quan của lịch sử, những quy luật không thể nghi ngờ và những người không chấp nhận logic này đã bị trừng phạt – chỉ có thế thôi. Đáng tiếc là, cách nghĩ được các chế độ độc tài cộng sản ủng hộ đó đã không biến mất hoàn toàn. Một số chính khách và học giả khẳng định rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ sụp đổ dưới sức nặng của chính nó – một lần nữa, lại nhờ “những quy luật khách quan” của lịch sử. Một lần nữa, trách nhiệm cá nhân và hành động cá nhân bị coi nhẹ. Họ bảo chúng ta rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ là một trong những ngõ cụt của chủ nghĩa duy lí của phương Tây, chỉ cần chờ đợi ngày diệt vong của nó mà thôi. Chính những người đó lại thường tin vào những lời tuyên bố về tính tất yếu của những quy luật của thị trường và “bàn tay vô hình” định hướng cuộc sống của chúng ta. Vì trong cách tư duy đó không có nhiều chỗ cho hành động mang tính đạo đức của cá nhân, cho nên những người phê phán xã hội thường bị chế nhạo, bị coi là những nhà đạo đức ngây thơ. Đấy có thể là một trong những lí do vì sao 15 năm sau ngày sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản chúng ra lại phải chứng kiến thái độ lãnh đạm chính trị. Chế độ dân chủ ngày càng được xem như một nghi thức đơn thuần. Nói chung, xã hội phương Tây dường như đang trải qua một cuộc khủng hoảng của các đặc tính dân chủ và quyền công dân tích cực. Có khả năng là những gì chúng ta đang chứng kiến là chỉ một sự thay đổi hệ hình, do công nghệ mới tạo ra, và không có gì phải lo lắng cả. Nhưng có lẽ vấn đề nằm sâu hơn: các tập đoàn toàn cầu, các tập đoàn truyền thông và các cơ quan nhà nước đầy sức mạnh, đang biến cải các đảng phái chính trị thành các tổ chức mà nhiệm vụ chính không phải là phục vụ xã hội mà là bảo vệ các thân chủ và quyền lợi cụ thể. Chính trị đang trở thành chiến trường cho những người vận động hành lang; các phương tiện truyền thông đại chúng biến những vấn đề quan trọng thành tầm thường; chế độ dân chủ trông giống như một trò chơi cho người tiêu dùng, chứ không còn là một công việc nghiêm túc dành cho những công dân nghiêm túc nữa. Chắc chắn là chúng tôi, những người bất đồng chính kiến khi mơ về tương lai dân chủ, đã có một số ảo tưởng mà hiện nay chúng tôi đã nhận thức được một cách rõ ràng. Nhưng chúng tôi đã không lầm khi khẳng định rằng chủ nghĩa cộng sản không chỉ là một ngõ cụt của chủ nghĩa duy lí của phương Tây. Trong hệ thống cộng sản quá trình quan liêu hóa, thao túng theo kiểu nặc danh và nhấn mạnh vào thái độ phục tùng của quần chúng đã được đưa đến mức “hoàn thiện”, nhưng chính những mối đe dọa này hiện nay vẫn đang song hành cùng chúng ta. Lúc đó chúng tôi đã biết chắc rằng nếu chế độ mà thiếu các giá trị và chỉ quy giản xuống còn là sự cạnh tranh giữa các đảng phái, tức là những đảng phái “cam đoan” có những giải pháp cho mọi vấn đề thì đấy có thể là chế độ hoàn toàn phi dân chủ. Đấy là lí do vì sao chúng tôi nhấn mạnh đến chiều kích đạo đức của chính trị và xã hội công dân đầy sức sống, coi chúng như là đối trọng đối với các đảng phái chính trị và các thiết chế của nhà nước. Chúng tôi còn mơ về một trật tự quốc tế công bằng hơn. Sự cáo chung của thế giới lưỡng cực là cơ hội tuyệt vời cho việc thiết lập một trật tự quốc tế nhân bản hơn. Thay vào đó, chúng ta đang chứng kiến quá trình toàn cầu hóa về mặt kinh tế, thoát khỏi sự kiểm soát chính trị; và nó đang tạo ra những tàn phá về mặt kinh tế cũng như tàn phá hệ sinh thái tại nhiều khu vực trên thế giới. Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản là cơ hội để tạo ra những thiết chế chính trị toàn cầu hiệu quả hơn – dựa trên các nguyên tắc dân chủ – những thiết chế có thể chặn đứng những thứ dường như là xu hướng – trong hình thức hiện thời – tự hủy của thế giới công nghiệp của chúng ta. Nếu chúng ta không muốn bị những lực lượng ẩn danh giày xéo thì những nguyên tắc của tự do, bình đẳng và đoàn kết – nền tảng của ổn định và thịnh vượng trong các chế độ dân chủ ở phương Tây – phải bắt đầu có hiệu lực trên bình diện toàn cầu. Nhưng, trên hết – cũng như thời còn cộng sản – chúng ta không được đánh mất niềm tin vào những trung tâm tư duy thay thế và hành động dân sự. Xin đừng để người ta lèo lái dẫn đến tin rằng mọi cố gắng nhằm thay đổi trật tự “đã được thiết lập” và thay đổi những quy luật “khách quan” là việc làm vô nghĩa. Xin hãy cố gắng xây dựng xã hội công dân toàn cầu, và xin hãy luôn luôn khẳng định rằng chính trị không chỉ là công nghệ của quyền lực, mà nó cần phải có chiều kích đạo đức nữa. Đồng thời, các chính khách trong những quốc gia dân chủ cần suy nghĩ một cách nghiêm túc về những cuộc cải cách các thiết chế quốc tế, vì chúng ta rất cần những thiết chế đủ sức quản trị thế giới. Thí dụ, chúng ta có thể bắt đầu với Liên hiệp quốc, với hình thức như hiện nay tổ chức này chỉ là di vật của tình hình ngay sau khi Thế chiến II kết thúc. Nó không phản ánh được ảnh hưởng của một số siêu cường mới ở các khu vực, trong khi đánh đồng những nước mà những người đại diện được bầu một cách dân chủ với những nước mà những người đại diện, trong trường hợp tốt nhất cũng chỉ đại diện cho chính họ hay cho nhóm sĩ quan cầm quyền, là việc làm vô đạo đức Người châu Âu chúng ta có một nhiệm vụ đặc biệt. Nền văn minh công nghiệp, nay đã lan ra toàn thế giới, có xuất xứ từ châu Âu. Tất cả những điều kì diệu, cũng như những mâu thuẫn làm người ta phải khiếp sợ của nó, có thể được lí giải như là hậu quả của một đặc tính có xuất xứ từ châu Âu. Vì vậy mà châu Âu thống nhất phải thiết lập một thí dụ về cách đối diện với những mối hiểm nguy và kinh hoàng khác nhau đang nhấn chìm chúng ta hôm nay cho phần còn lại của thế giới thấy. Thực ra, nhiệm vụ như thế – tức là nhiệm vụ gắn chặt với sự thành công của sự hội nhập của châu Âu – sẽ là sự hoàn thành một cách xác thực ý thức trách nhiệm toàn cầu của châu Âu. Và nó sẽ là chiến lược tốt hơn hẳn so với việc đổ lỗi cho Mỹ về những vấn đề khác nhau của thế giới đương đại. Bài này được Vaclav Havel viết ngày 12 tháng 11 năm 2004 Bài đã đăng trên Bauxite Việt Nam
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 22, 2012 10:31:52 GMT 9
Từ Chủ nghĩa Thực dân đến chủ nghĩa Dân tộc sang Chủ nghĩa Cộng sản LTG: Tham vọng xâm chiếm thuộc địa ở Á Châu là theo đuổi một ảo tưởng và đùa giỡn với hiểm nguy. Các ông đã không hiểu đầy đủ về các dân tộc Châu Á cũng không thua gì chúng ta; rằng họ đã thừa hưởng một nền văn minh lâu đời hơn chúng ta; điều đó đã được khắc sâu trong trí nhớ của họ và trong niềm tự hào của họ. Họ đã có được tự do và họ mong muốn vẫn được tự do. Thật không khó khăn gì tiên đoán rằng khi tiếp xúc với nền văn minh của chúng ta, với ngọn gió về tư tưởng giải phóng đã lan truyền trên khắp thế giới, họ sẽ mau chóng cảm thấy nhu cầu dành được độc lập-một mục tiêu và một vinh dự của mọi con người, một sự thức tỉnh và niềm phấn khởi… Họ sẽ nổi dậy một ngày nào đó, và sự nổi dậy của họ sẽ đưa đến chiến thắng, bởi vì đó là đặc quyền của tự do để chiến thắng ở khắp nơi.” Jules Delarosse, nghị viên, phát biểu tại viện dân biểu, ngày 22 tháng 12, 1885. (Indochina An Ambiguous Colonization, 1858-1954. Pierre Brocheux, Daniel Hémery, trang 281) Nguyễn Văn Lục——————————————- Từ Chủ nghĩa Thực dân đến chủ nghĩa Dân tộc sang Chủ nghĩa Cộng sản với chính sách Tự-Thực-dân (Auto-colonization) và chính sách Bên Lề (Marginalization) Chủ nghĩa CS Lời trích dẫn trên đây ngay từ năm 1885 của Nghị Viên Jules Delarosse phải chăng là một lời tiên tri? Và lời tiên tri ấy sẽ còn đúng mãi cho mọi thời đại, mọi dân tộc trong đó có sự áp bức, chà đạp lên con người – bất kể nó là do chế độ thực dân – do chế độ độc tài phát xít hay là do chế độ độc tài cộng sản hiện nay ở Việt Nam gây ra. Tôi tin như thế và lịch sử sẽ diễn ra sau này như đã diễn ra cách đây một thế kỷ! Chúng ta nhìn lại quá trình tranh đấu dành độc lập tại Việt Nam đã diễn ra như thế nào? Nó đã khoác áo Chủ nghĩa Dân tộc, nêu cao được lòng ái quốc ngay từ đầu do những nhà ái quốc chân chính chủ xướng. Năm 1930 Khủng hoảng thuộc địa đã cho thấy dấu hiệu rạn nứt. Lợi dụng thời cơ chính trị sau thế chiến thứ hai và cùng lúc phong trào cộng sản lớn mạnh do Liên Xô lãnh đạo. Cộng sản Việt Nam cũng như một số nước Đông Âu đã đã thay đổi cuộc chiến tranh chống thuộc địa, hoặc chống Phát Xít biến thành cuộc chiến tranh Ý thức hệ Cộng sản-Tư Bản. Chú thích: Sau chiến chiến thứ hai, có 4 nước Đông Âu sau đây bị Hồng quân Liên Xô nhuộm đỏ là: Ba Lan (Poland – DCVOnline), Đông Đức, Romania và Bulgary. Còn có 4 nước rơi vào tình trạng ngoại lệ là Hung Gia Lợi (Hungary), Tiệp Khắc , Nam Tư và Albania. Trong những nước này đặc biệt là có phe cộng sản trong nước nổi lên chiếm chính quyền như ở Việt Nam. (Xem Đông Âu tại Việt Nam, Lý Thái Hùng, trang 58-59, Vietnews, 2006). Đó là một điều bất hạnh nhất cho mọi người Việt Nam. Bởi vì từ nay, sự hy sinh của người Việt Nam là sự hy sinh cho cộng sản Quốc tế. Xin hãy đi lại từ đầu. Chủ nghĩa thực dân đế quốc Sự phát triển kỹ nghệ lên đến tột đỉnh của Tây Phương đã đưa đến một tình trạng “khủng hoảng thừa”, khủng hoảng thặng dư hàng hóa. Khủng hoảng này có thể đưa đến sự suy sụp hệ thống tư bản phương tây. Và từ bối cảnh kinh tế các nước kỹ nghệ phương Tây đã dẫn đưa các nước này đến chỗ đi tìm thị trường tiêu thụ. Sự cạnh tranh tìm kiếm thị trường đã dẫn đến việc phải dùng sức mạnh quân sự để chinh phục và độc quyền về thị trường. Nước Anh là kẻ dẫn đầu của chủ nghĩa tư bản đế quốc thực dân trong vai trò người đạo diễn số một. Chế độ thuộc địa tự nó có mặt tối (Dark side) của một chủ trương “bành trướng thuộc địa”. Vì thế mà nước Pháp mới đầu sang Việt Nam chỉ để buôn bán như các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha rồi sau đó dần dần ý đồ xâm lược mới thành hình. Họ đã không phải chỉ xâm chiếm Việt Nam mà thôi mà tất cả những thị trường thế giới nào thuận lợi cho việc buôn bán. Chủ nghĩa thực dân tóm tắt trong 4 chữ: Xâm chiếm và khai thác. Tất cả những chuyện khác chỉ là phụ. Vì thế những người viết sử như Cao Huy Thuần trong luận án tiến sĩ sử “Les missionnaires et la politique coloniale Francaise au VietNam (1857-1914) xuất bản năm 1969 của ông đã cho rằng việc xâm lăng nước ta đi đôi với việc truyền đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam. Thiên Chúa giáo “mở cửa” cho người Pháp vào xâm chiếm Việt Nam. Đồng thời cũng muốn chứng minh sự tiếp tay của giám mục Puginier trong việc này. (Giám mục Paul Francois Puginier, 1835-1892, là người có trách nhiệm tán đồng và hỗ trợ chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam). Sự khoanh vùng về sự hợp tác giữa Thiên Chúa giáo Pháp và Thực dân Pháp trong khoảng thời gian 1857-1914 rơi đúng vào thời điểm Puginier đang làm giám mục ở Đàng ngoài. Khoảng thời gian 1857-1914 không tương ứng với chiều dài lịch sử của Thiên Chúa giáo có mặt ở Việt Nam vào năm 1533. Đồng thời cũng không tương ứng với chiều dài lịch sử của thực dân Pháp ở Việt Nam. Hơn nữa, một cá nhân Puginier không đủ mang sức nặng trách nhiêm lịch sử để đề ra một chính sách truyền đạo ở Việt Nam hoăc chỉ ra cho chính quyền Pháp phải làm gì. Và cũng đừng nên quên rằng trên cả nước Pháp, còn có một thẩm quyền cao hơn họ là Vatican để điều động những tăng lữ sang truyền đạo ở Việt Nam, trong đó có những giáo sĩ người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha. Họ có những giáo đoàn riêng và phân vùng truyền đạo riêng của họ. Họ không bị chi phối hoặc chỉ đạo bất cứ về phương diện gì bởi Hội truyền giáo Ba Lê. Và họ chỉ chịu trách nhiệm trực tiếp với thẩm quền Vatican mà vị đại diện là khâm sứ tòa thánh. Hơn nữa, chính sách của Vatican không đi theo đường hướng của nước Pháp mà ngược lại Vatican chủ trương “bản địa hóa” giáo hội bản xứ bằng cách truyền chức cho 4 vị Giám mục Việt Nam tiên khởi. Những vị này có nhiệm vụ thay thế dần các giám mục phương Tây. Luận án cho thấy không chú trọng cho đủ đến hai đối tác chính trong vấn đề xâm lăng của Pháp ở Việt Nam: Đó là triều đình Huế và chính quyền thực dân Pháp. Cả luận án hầu như không nói gì đến vai trò và trách nhiệm của triều đình Huế cũng như ý đồ xâm lăng của thực dân Pháp trong việc mất nước. Một nhóm gồm 600.000 giáo dân thời đó phần đông đều thuộc thành phần ít học, nhà quê nhà mùa, sống hẻo lánh ở các vùng ven biển không đủ tư cách để “bán nước”, mà muốn bán cũng không được. Không ai đặt câu hỏi là giả dụ không có những nguời Thiên Chúa giáo giáo quê mùa, dốt nát này thì liệu Việt Nam có mất vào tay Pháp hay không? Trên thực tế, các cuộc nhượng địa cho Pháp đều chính thức được ký kết giữa triều đình Huế và đám quan lại bất tài,cố chấp và nhu nhược và đại diện chính quyền Pháp. Những suy luận gán ghép, một chiều và võ đoán, không nhìn đầy đủ lịch sử thế giới. Nhất là không nhìn cho rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân là gì? Cùng lắm việc truyền đạo chỉ là cái cớ lợi dụng ắt có và đủ của một vài lãnh đạo tôn giáo mà người Pháp cố tình che dấu cái mục đích bành trướng thị trường thuộc địa của họ. Người viết có không biết bao nhiêu những lá thư của các linh mục người Pháp gửi về cho gia đình và được bà Đặng Phương Nghi dịch ra tiếng Việt để thấy được tấm lòng của họ, lý tưởng của họ cũng như những khó khăn mà họ phải đương đầu. Tại sao ông Cao Huy Thuần không muốn nhắc nhở đến một lá thư nào trong đống tài liệu ở thời kỳ ấy? Nếu có sự cấu kết giữa tôn giáo và chính trị, chúng ta sẽ giải thích thế nào về việc Pháp xâm chiếm Tunisie, Algérie, một phần Trung Hoa, các nước Châu Phi sau đó có Việt Nam, Cam Bốt, Lào? Mục đích truyền đạo nào ở những nước này? Trong khi đạo Thiên Chúa đã được đưa vào Việt Nam từ rất sớm trong khi Thực dân Pháp đến chậm hơn ba thế kỷ? Nhìn lại cho thấy việc khai thác thuộc địa tính đến cuối thế kỷ 19, nước Pháp đã cộng thêm diện tích đất đai của mình rộng thêm 4 triệu dặm vuông. Và riêng mảnh đất Đông Dương đã đem lại con số tổng cộng 270.000 dặm vuông. Vào năm 1890 đến 1914, một phúc trình về số đầu tư của tư nhân Pháp vào Việt Nam đạt con số kỷ lục 126.8 triệu đồng gold francs. Trong đó 57% đầu tư vào kỹ nghệ, 10% vào nông nghiệp và 33% vào thương mại. Trong đó 75% được đầu tư ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Tên các công ty nổi tiếng của Pháp ở Đông Dương như: công ty len sợi Bourgoin-Meiffre, Société-cotonnière de l’Indochine, Société cotonnière du TonKin, Société des ciments de Porland, công ty Francaise d’entreprise de dragages et de travaux publics. Compagnie des Tramways de l’Indochinevv. (Trích Indochina, Ibid, trang 161-162). Hai nước đông dân số nhất Á Châu là Trung Quốc và Ấn Độ như ta thấy hiện nay là những cường quốc đáng nể. Nhưng vào thời bấy giờ lại chỉ là những dân tộc cực kỳ nghèo đói không khác gì các nước Phi Châu hay Châu Mỹ La tinh. Họ trở thành một thị trường béo bở cho các nước đế quốc thực dân đến khai thác, xâu xé xẻ thịt chẳng khác gì đàn sư tử cấu xé một con nai. Nhưng chính từ những hoàn cảnh bị bóc lột, bị khai thác thị trường, bị xỉ nhục đã trỗi dạy và thức tỉnh tinh thần và niềm tự hào dân tộc của các nước này trên toàn thế giới như trong lời phát biểu của Jules Delarosse ngay từ năm 1885. Chủ nghĩa Dân tộc Chủ nghĩa Dân Tộc thường bắt đầu và thành hình từ một thể chế quốc gia hay từ một chính quyền. Lúc đó được gọi là một quốc gia có chủ quyền (Nation-State) phân biệt với các quốc gia khác. Khi có một quốc gia có chủ quyền, để bảo vệ quốc gia ấy, chủ Nghĩa Dân Tộc hay Chủ nghĩa yêu nước trở thành tiếng gọi lý tưởng của toàn dân chúng khi đất nước có lâm nguy. Đối với người Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc tồn tại, bàng bạc trong các chiến dịch quân sự của các vị anh hùng như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Tây Sơn nhằm chống lại sự xâm lăng của kẻ thù từ phương Bắc. Đến thời Thực Dân Pháp thì chủ nghĩa dân tộc đồng nghĩa với với việc chống lại Thực dân Pháp ngay từ 1900 đến 1939. Sự xâm lăng của người Pháp vào Việt Nam đưa đến hai thái độ tiêu biểu của giới sĩ phu trước khi có cộng sản nhập cuộc: Thái độ tranh đấu ôn hòa: Tranh đấu ôn hòa nhắm mục tiêu làm thế nào để Việt Nam phát triển đủ mạnh để có thể đương đầu với người Pháp. Đó là các Phong trào Cần Vương (1885-1912), phong trào Văn Thân (1907-1908), phong trào Đông Du ((1905-1939). Phong trào Duy Tân với Phan Bội Châu, tác gỉả cuốn Viet Nam vong Quốc sử. Hoặc những người như Nguyễn Trường Tộ (NTT). NTT đã dâng lên nhà vua những bản văn tham luận như Tế Cấp Luận, Giáo Môn Luận bàn về những việc phải làm ngay để canh tân, tự lực, tự cường phát triển đất nước. Tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ muốn đánh bại tư tưởng chủ bại- theo định mệnh thuyết – của một số quan lại trong triều đình và thức tỉnh niềm tự hào dân tộc. Triều đình đã ngoảnh mặt làm ngơ trước những tấu chương của NTT – một thái độ trái ngược hẳn với tinh thần của Nhật Bản. (Chú thích: xem thêm Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Trương Bá Cần, 1988). Ngoài khuynh hướng chủ bại, một số lớn sĩ phu chủ trương chống lại Pháp bằng võ lực. Họ không chấp nhận thái độ chủ bại của triều đình Huế. Chủ trương chống Pháp bằng võ lực xảy ra liên tục, nhưng lẻ tẻ, cá thể từ Nam chí Bắc rất là nhiều, gây khó khăn cho người Pháp như: Trương Công Định 1862, Tri huyện Toại và Thiên Hộ Dương 1865, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân 1868, Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân Phụng 1874, Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Liệt 1885. Mai Xuân Thưởng rồi Trần Văn Dự, tiếp theo Nguyễn Phạm Tuân, rồi Nguyễn Xuân Ổn đến Phan Đình Phùng. Tiếp theo nữa là Tán Thuật rồi Đốc Quế, Đốc Thây, Tiền Đức, Ba Phúc, Hoàng Hoa Thám tức Đề Thám và những nhân vật có uy tín như Kỳ Đồng, Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Cường Để, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Trần Chánh Chiếu, Lê Hồng Phong… (Trích tóm lược trong Niên Lịch Công Đàn, ban sưu tầm gồm Nguyễn Ngọc Phách, Phạm Xuân Thái, Nguyễn Văn Hộ, Đặng Trần Lân, Nguyễn Văn Ry, Nguyễn Đình Tuấn, 1960, trang 153-15). Nhưng gây chấn động và biểu tượng nhất là cuộc nổi dậy của Nguyễn Thái Học, tại Yên Bái. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Tòa án Pháp kết án 80 án tử hình và 594 người bị tù khổ sai chung thân Nguyễn Thái Học, đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân đảng cùng với 12 đồng chí bị xử chém ngày 17.6.1930. Trước khi chết, họ còn hô to Viet Nam vạn tuế. (Trích tóm lược Indochina Pierre Brocheux, Daniel Hemery, trang 316). Cho nên đối với đa số người dân, chủ nghĩa dân tộc trở thành ý nghĩa, lý tưởng đời người. Tình tự dân tộc là tình tự quê hương, đất nước, con người. Tình tự dân tộc ấy có thể thấy nơi nhiều dân tộc khác trên thế giới như chủ nghĩa dân tộc của dân Ái Nhĩ Lan, dân Ấn Độ, dân Ai Cập, v.v… Và nó thể hiện cụ thể nơi các Liên minh dân tộc như Liên Minh các nước Ả Rập, 1945, Liên minh Phi Châu da đen (Panafrican, chống lại người Anh). Hoặc các đảng phái Quốc Gia như Quốc Dân Đảng, Sinn Fein, Congress, Wafd, Đồng Minh Hội, v.v… Và mỗi dân tộc có những biểu tượng anh hùng cho từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử. Những nhân vật lãnh đạo này là những người yêu nước tranh đấu cho quyền lợi dân tộc của đất nước họ. Từ Phi Châu sang Á Châu, từ các nước Ả Rập, từ các nước nói chung được gọi là nhược tiểu. Nước nào thì có anh hùng nấy. Họ là tiêu biểu, là những mẫu người của thời đại. Họ là những Nehru, Nasser, Sukarno, Nyerere, Nkrumah. Chính vì thế chủ nghĩa dân tộc thường được đồng hóa với chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng và được coi như chỗ đứng của con người, cội nguồn của mỗi con người. Đối với Lý Chánh Trung, một trí thức thiên tả, dấn thân và nhập cuộc chỉ có một tư tưởng nồng cốt: Tìm về dân tộc, đặt dân tộc lên trên tất cả. Dân tộc trên lý thuyết, trên chủ nghĩa, trên Quốc Gia, trên đảng phái, trên quyền lợi cá nhân. Và chỉ qua dân tộc, người thanh niên mới tìm được chỗ đứng cho mình. Ông viết: “Và qua dân tộc, người thanh niên trí thức đã tìm được chỗ đứng. Lòng chúng tôi cũng rợp bóng gươm đao như lòng dân quê đất Việt. Và ít nữa là trong lúc ấy, chúng tôi đã tìm được một chỗ đứng, trên mảnh đất Quê hương. (..) Vì tôi không thể chọn lựa dân tộc, cũng như không chọn lựa gia đình tôi, nhưng đã là người thì chỉ có thể thành người giữa một gia đình, một dân tộc”.(Trích Tìm về Dân tộc, Lý Chánh Trung, trang 86-88, nxb Trình Bày). Thật không có gì đúng hơn. Nhưng Lý Chánh Trung đã gián tiếp cài đặt “cũng rợp bóng gươm đao” một cách chỉ thị gián tiếp kháng chiến Việt Minh cộng sản. Đó là chỗ sai lầm, ảo tưởng. Cũng chính vì quan điểm cài đặt chủ nghĩa dân tộc vào phong trào kháng chiến do Việt Minh chủ động đã dẫn đưa cả một thế hệ thanh niên Việt Nam lao vào chiến tranh tiêu phí hàng triệu sinh mạng con người một cách oan uổng. Tại sao lại có một nhận định tiêu cực như thế về dân tộc? Sự lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cho những chiêu bài chính trị. Vấn đề rõ rệt là không phải chỉ có một chủ nghĩa dân tộc mà có nhiều chủ nghĩa dân tộc. !Chủ nghĩa dân tộc có thể trở thành chiêu bài, bị lợi dụng, bị che đậy với nhiều ẩn ý và âm mưu khác. Sự lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cho những chiêu bài chính trị cũng đã từng xảy ra trong lịch sử của nhiều nước .. Đến nỗi người ta có thể nói rằng có bao nhiêu quốc gia thì bấy nhiêu chủ nghĩa dân tộc! Tại Âu Châu, thế kỷ 19, những tư tuởng bành trướng thế lực của các đế quốc Âu Châu cũng khoác áo dân tộc để có cơ hội xâm chiếm các nước thuộc Phi Châu và Á Châu. Chủ nghĩa dân tộc được che đậy khéo léo dưới chiêu bài khai hóa văn minh mà thực chất chỉ là tham vọng bành trướng thuộc địa. Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái cũng nhân danh chủng tộc hay sự ưu thế của dân tộc Đức của mình, khích động tinh thần tự hào chủng tộc trong việc diệt trừ các chủng tộc bị coi là hạ đẳng, không xứng đáng. Ở Việt Nam, sau thế chiến thứ hai, khi mà chiến tranh lạnh bắt đầu xảy ra giữa Chủ nghĩa Tự Do và Chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Dân Tộc được cất dấu trong túi áo đã được lôi ra dùng dưới những chiêu bài nửa thực, nửa hư như “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, “yêu chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc Mỹ và tay sai bán nước”. Tôi đã nhìn thấy một bức hình rất ý nghĩa, hình ảnh 5 nghĩa quân mặc đồng phục màu đen, người đứng phía tay mặt có thể chỉ đeo bên mình một thanh gươm, người thứ hai có thể đeo súng và người chót cầm lá cờ đỏ sao vàng, đằng sau họ treo một biểu ngữ: Hy sinh vì tổ quốc! (Trích: Viet Nam, 1945, The Quest For Power, David G. Marr, trang 233) Tổ Quốc nào đây? Hàng triệu người Việt Nam đã hy sinh và bỏ mình vì bốn chữ: Hy sinh vì tổ quốc, vì độc lập dân tộc để chống thực dân trong thế kỷ 20 mà thực ra là để cổ súy và áp đặt chủ nghĩa xã hội, sau khi đã thu hồi được độc lập! Ông Bùi Tín trong Mặt Thật đã đặt câu hỏi, “Một vấn đề rất lớn về ông Hồ Chí Minh: Ông là người yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc hay là một người cộng sản?” Câu trả lời của ông Bùi Tín là: “Về sau dần dà, ông trở nên cán bộ của quốc tế cộng sản Ba, ông bị ảnh hưởng lớn của Stalin và Mao Trạch Đông, đích của ông là giải phóng, giành lại độc lập cho đất nước và đích cao hơn nữa là cách mạng vô sản ở Đông Dương, ở Châu Á và toàn thế giới”. (Trích Mặt Thật, Hồi ký chính trị của Bùi Tín, Thành Tín, Turpin Press, 1994, trang 97). (Còn nữa) Nguyễn Văn Lục
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 22, 2012 11:06:49 GMT 9
Từ Chủ nghĩa Thực dân đến Chủ nghĩa Dân tộc sang Chủ nghĩa CS [2]Tiếp theo phần I Thực dân Pháp ở Hà Nội. Ảnh thanglonghanoi.gov.vn Từ Chủ nghĩa Thực dân đến Chủ nghĩa Dân tộc sang Chủ nghĩa Cộng sản với chính sách Tự-Thực-dân (Auto-colonization) và chính sách Bên Lề (Marginalization) Phong trào giải thực trên toàn thế giới Cuộc khủng hoảng chủ nghĩa đế quốc thuộc địa ở Việt nam xảy ra ngay từ những năm 1932-1939. Toàn quyền Albert Sarraut viết năm 1931 như sau, “Vấn đề khủng hoảng thuộc địa xảy ra ở các nước thuộc địa của Pháp trong đó có Việt Nam. Đó là một khủng hoảng kéo dài và có tính cách toàn cầu.” Khủng hoảng thuộc địa có thể do sự suy yếu của các nước đế quốc có dính dáng đến chiến tranh thứ nhất và nhất là chiến tranh thế giới thứ hai. Kể từ 1940, các nước đế quốc thực dân như Anh, Pháp không còn khả năng duy trì được quyền kiểm soát các nước bị trị như trước nữa. Đó là thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa thực dân. Họ mất tư thế chủ nhân ông trên các nước bị trị. Người Nhật làm chủ Đông Nam Á tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á chống lại các nước đế quốc Âu Châu. Những hình ảnh mà David G. Marr thu thập được cho thấy cuộc đảo chính Nhật ngày 9 tháng 3 là một nỗi nhục cho người Pháp. Đông thời chứng tỏ cho người dân bản xứ thấy rằng người Pháp không phải là không có thể bị đánh bại như người ta tưởng. Đó là hình ảnh binh lính Pháp quỳ trước cổng sở hành Chánh tài chánh, trên con đường Đôi, đối diện nhà thờ Cửa Bắc, Hà Nội và hình các tướng lãnh Pháp như tướng Mordant, tướng Aymé, các ông Gautier, Chauvet,… tháng tư, 1945 ngồi xếp hàng trước quân đội Nhật. (Trích David G. Marr, Ibid, trang 58, hình 4 và trang 63 hình 5). Các nước thuộc địa lợi dụng tình trạng rối rắm của các nước đế quốc đã đứng lên đòi quyền tự trị và độc lập dân tộc. Năm 1942, khi người Mỹ đổ bộ lên Bắc Phi thì đó là một cuộc Giải Thực một cách êm thấm. Dân Bắc Phi đã gián tiếp được người Mỹ giúp loại người Pháp ra khỏi Bắc Phi. Vì thế, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai thật sự phải được nhìn lại ở hai mặt. Nó mang hai ý nghĩa lịch sử tầm vóc: - Một mặt giải giới phe trục Đức, Ý, Nhật là điều chính yếu và lịch sử thế giới hầu như chỉ chú trọng vào điều này. - Nhưng mặt ít ai nói tới là chiến tranh thế giới thứ hai là cơ may sống còn giúp các nước bị trị giải giới các nước đế quốc chủ nghĩa thực dân. Hiến chương Đại Tây Dương tháng 8, 1941 đưa ra nguyên tắc nền tảng cho hòa bình thế giới là “Quyền của mỗi dân tộc chọn một hình thức chính quyền mà theo đó mà họ sống.” Nguyên tắc đó cũng gián tiếp loại trừ tất cả những hình thức áp đặt của chủ nghĩa thuộc địa. Người ta nhận thấy một bình minh hy vọng của các nước nhược tiểu với phong trào giải thực xảy ra trên toàn thế giới từ Á Châu sang các nước Á Phi rồi Phi Châu da đen. Đó là một xu thế thời đại như hướng đi lớn của lịch sử con người. Phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa Quốc Gia (Nationalisme) đã làn tan băng chủ nghĩa thuộc địa trên thế giới. Nhiều quốc gia đã thoát khỏi tình trạng lệ thuộc của ngoại bang đi đến sự tự trị. Đó là trường hợp của hầu hết các nước Á Phi đã được giải thoát khỏi tình trạng bị trị. Đặc biệt có 49 nước thuộc khối Phi Châu mà nhiều nước được tách rời ra và nay trở thành một nước tân Lập. Cả hai bên -đế quốc và thuộc địa- đã tránh được những tranh chấp bằng quân sự làm tốn hao đến sinh mạng của người dân. (Xem thêm Culture and Imperalism, Edward W. Said, trang 197-199) Nói đúng ra, có hai hình thức giải thực. Một kiểu mẫu giải thực của Anh Quốc có tính cách chuyển tiếp, không bạo động (non violent) và hình thức của Pháp, có bạo động (violent) như đã xảy ra ở Việt Nam và ở Algérie. Để kết thúc các chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới John Strachey đã viết một cuốn sách nổi tiếng nhan đề The end of Empire cho thấy chủ nghĩa đế quốc coi như cáo chung. Nhưng cái sai lầm là ông đã dựa trên quan điểm Mác Xít Cộng sản như phương tiện chính thống để đánh phá chủ nghĩa thực dân thay vi` coi chủ nghĩa Dân tộc là nguyên do chính của công cuộc giải thực trên toàn thế giới. (The end of empire, John Strachey, tháng 2, 1960 nxb Socialist Review.) Bài học Việt Nam, kinh nghiệm giải thực thông qua chủ nghĩa cộng sản Chủ nghĩa cộng sản chỉ thật sự phát triển mạnh sau thế chiến thứ hai. Sự phát triển này không do các các cuộc cách mạng cộng sản trên toàn thế giới như sự rêu rao của cộng sản. Nói cho cùng, Chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế chỉ đến thay thế chỗ của chế độc tài Phát Xít sau khi Đức bại trận. Độc tài cộng sản ở 8 nước Đông  đã làm các các nước này rơi vào tình trạng kinh tế tụt hậu so với các nước Tây Phương. Đó là số phận dành cho các nước Đông Âu như Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hungary, Bulgary, Albania, vv… Ở Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản thành hình và phát triển mạnh mẽ từ đầu năm 1950 khi có sự ủng hộ, tài trợ của các nước Trung Cộng, Liên Xô cho Hồ Chí Minh. Chính vi` thế, khi so sánh công cuộc giải thực trên toàn thế giới, người viết có một ám ảnh khôn nguôi đặt ra câu hỏi là: tại sao chỉ có mình Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới phải “trường kỳ chiến đấu- 10 năm, 20 năm, 30 năm nếu cần- để đạt được độc lập dân tộc? Câu hỏi được dặt ra ở đây là về phương diện lịch sử, Việt Nam có nhất thiết cần đến hai cuộc chiến tranh để dành được độc lập và tự do dân chủ không? Phải chăng người cộng sản đã cố tình che đậy thực chất của hai cuộc chiến tranh ấy nhân danh chiêu bài chống thực dân Pháp năm 1946-1954 và đồng thời chống thực dân mới năm 1954-1975 là người Mỹ? Nhìn lại cho thấy người cộng sản đã hầu như phủ nhận xu hướng giải thực trên toàn thế giới. Họ có mục tiêu chiến lược riêng của đảng cộng sản Đông Dương? Hay chỉ vì người cộng sản không phải là đối tác chính thức ký kết bản thỏa hiệp nên bằng mọi giá họ phải phủ nhận Hiệp Hiệp định và gán cho Bảo Đại vai trò bù nhìn của Pháp. Phải chăng Bảo Đại là người hớt tay trên họ? Bảo Đại khi ký hiệp định Élysée cũng đã kỳ vọng vào xu hướng giải thực đang diễn ra tại các nước lân bang như Ấn Độ. Hiệp Định Élysée được ký kết giữa Pháp và Bảo Đại ngày 8/3/1949 -mặc dầu không phải là một Hiệp ước trọn vẹn- vẫn là một giải pháp giai đoạn cần thiết trong tiến trình Giải Thực như Bảo Đại nhìn nhận trong Hồi Ký: “Từ đây trở đi tôi đã thu hồi được đất Nam Kỳ, tôi coi như nhiệm vụ của tôi về điều đình đã chấm dứt. Sau nữa, thỏa hiệp này trước mắt tôi chỉ là một Giai Đoạn để tiên tới độc lập hoàn toàn.. Sự thành đạt về độc lập như thế đã xảy ra cho các nước lân cận ở Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Miến Điện, Ấn Độ làm tôi càng tin tưởng trong hy vọng. Tôi tin tưởng rằng thỏa ước mùng 8 tháng ba, 1949 phải là yếu tố nhất định đưa đến vãn hồi hòa bình. Hỏi Việt Minh còn có thể đòi hỏi gì nữa khi tôi đã thành công, mà họ thì bị thảm bại ở các Hội Nghị Fontainebleau và Đà Lạt vào năm 1946”. (Trích: Le Dragon d’Annam, Bao Dai, trang 219) Chú thích: Hội Nghị Fontainebleau ở Đà Lạt thất bại vì thái độ của Pháp muốn duy trì chế độ thuộc địa và sự có mặt của họ ở đó như qua lá thư của Max André, đại diện chính phủ Pháp trao một lá thư cho Võ Nguyên Giáp gửi chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Pháp mới không tìm cách đô hộ Đông Dương, nhưng nhất quyết có mặt tại đó. Không cho rằng công cuộc của mình ở đó đã xong. Không chịu từ bỏ nhiệm vụ văn hóa của mình. Tự thẩm rằng chỉ có mình là có thể đảm bảo sự kích thích, sự điều hòa về kỹ thuật, kinh tế, ngoại giao và phòng thủ. Cuối cùng, bảo vệ quyền lợi tinh thần và vật chất của người dân nước mình. Làm các việc này mà vẫn kính trọng hoàn toàn bản lệnh quốc gia với sự hiệp tác cần mẫn và hiến hữu của dân Đông Dương. Đà lạt ngày mồng 5 tháng năm, 1946 Ký tên: MAX ANDRÉ” (Trích: Hồi ký: Một vài ký vãng Hội Nghị Đà Lạt, Hoàng Xuân Hãn; trích lại từ bài Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Văn Lục, Tân Văn, trang 15-17, số 10/2008). Phần Việt Minh, họ dứt khoát đi tìm sự ủng hộ của khối Cộng Sản với Liên Xô và Trung Quốc vào năm 1950. Làm như thế, họ đã chính thức từ bỏ chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Quốc gia để chọn chủ nghĩa cộng sản như lá bài cuối cùng. Đứng trên lập trường Dân Tộc, việc cộng sản tiếp tục cuộc chiến tranh nhân danh lá bài chủ nghĩa Mác Xít-Lê nin là có tội với lịch sử, với đất nước. Học giả Hoàng Văn Chí, tác giả cuốn Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc – nhất là cuốn From Colonialism to Communism, ông viết bằng tiếng Anh và xuất bản tại Ấn Độ và Anh Quốc, sau còn được dịch ra tiếng Pháp – cho rằng việc chọn lựa đảng cộng sản là một chọn lựa sai lầm của Việt Minh. Dựa theo ý kiến của tướng Nguyễn Sơn, ông Hoàng Văn Chí cho thấy cái sai lầm thứ hai của Việt Minh là: “Tuy nhiên mối bất hoà lớn giữa Nguyễn Sơn và các lãnh tụ Việt cộng không phải là vấn đề kèn cựa địa vị, mà là vấn đề bất đồng ý kiến đối với chính sách yêu cầu Trung cộng viện trợ. Nguyễn Sơn hết sức phản đối việc yêu cầu Trung cộng viện trợ vì Sơn cho rằng hễ nhận viện trợ của Trung cộng thì sẽ mất hết chủ quyền. Sơn viện lẽ rằng hồi chiến tranh chống Nhật, ông Mao không thèm yêu cầu Nga viện trợ và để mặc Nga tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Theo Sơn thì nên tự lực kháng chiến chống Pháp, đánh Pháp bằng vũ khí thu được của Pháp, tuy gian lao hơn nhưng không bị phụ thuộc vào bất cứ một ngoại bang nào. Sau một cuộc thảo luận to tiếng với ông Hồ, Sơn bực mình nhắm phía bắc, đi thẳng sang Trung Quốc. Vì được tôn là “anh hùng dân tộc” của Trung Quốc nên từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, đi qua tỉnh nào, Sơn cũng được đón tiếp trọng thể. Nhưng ông Hồ đã đánh điện sang Bắc Kinh, báo cáo với ông Mao là Sơn vô kỷ luật, và đồng thời Võ Nguyên Giáp cũng bắt toàn thể quân đội Việt Minh phải học tập một tài liệu đặc biệt, trong đó tả Sơn là một cán bộ “điển hình xấu”. Vì bị ông Hồ báo cáo lên tới Bắc Kinh, Sơn phải đi chỉnh huấn ngay tức khắc. Sau khi chỉnh huấn, Sơn tình nguyện đi học đại học quân sự ở Nam Kinh, do chuyên viên Nga dạy về chiến thuật quân sự hiện đại. Năm 1956, Sơn bị ung thư dạ dày và khi biết mình sắp chết, xin phép mang vợ con về Việt Nam. Hai ngày sau khi về tới Hà Nội thì Sơn chết, và Võ Nguyên Giáp phải đi đưa đám. Những người đã từng quen biết Sơn đều công nhận ông có tinh thần quốc gia mặc dầu suốt đời tranh đấu trong hàng ngũ cộng sản. Nếu không chết sớm, Nguyễn Sơn có thể là một Tito Việt Nam.” (Trích bản dịch: Từ chủ nghĩa thực dân sang chủ nghĩa cộng sản, bản photocopy). Mặc dầu, có rất nhiều biến cố quân sự, chính trị là nguyên xa gần, trực tiếp hay gián tiếp xảy ra dẫn đưa đến chiến tranh 1946-1954. Nhưng nhờ nhiều tài liệu của nguời Pháp đã mở ra cho thấy rằng phát súng phát lệnh đánh Pháp mở màn cho cuộc chiến 1946-1954 là do Võ Nguyên Giáp khởi đầu. Việc Hồ Chí Minh từ chối đi về Việt Nam bằng máy bay lấy lý do sức khỏe và đòi đi về bằng đường thủy trên chiếc Dumont d’Irville là để mua thời gian. Một thời gian cần thiết để cho Võ Nguyên Giáp có đủ thì giờ thanh toán các đảng phái quốc gia như Quốc Dân, Đồng Minh Hội khi quân Tàu rút khỏi Việt Nam và củng cố lực lượng quân sự. Khi về Việt Nam, phe cánh của Hồ Chí Minh đã mua 6 tấn hàng hóa, phần lớn là dụng cụ máy móc, trang bị truyền tin. Nhưng xui cho họ, hàng hóa mua vể để địa Sài Gòn nên chiếc tàu thủy cặp bến Sài Gòn và đã bốc dỡ số hàng hóa ấy xuống. Mãi sau này mới tìm cách đưa ra Hải phòng thì số hàng hóa ấy đã hư hỏng và thất thoát. Stein Tonnesson đã viết lại như sau: “During the absence of Ho Chi Minh, the Viet Minh had strenthened its position considerably. The main Dong Minh Hoi leaders had disappeared from the scene, and the Việt Nam QDD had also been weakened”. Đây là những bằng chứng sau khi dẹp các đảng phái, Việt Minh đã có kế hoạch đánh Pháp. “On November 25 and 27, a sureté informer warned of an imminent Vietnamse attack in Hanoi. At a “reasonnable” price, the sureté bought copies of a “Défense Plan for the Capital Hanoi,”approved by Ho Chi Minh on November 24 in a restricted cabinet meeting, as well as a plan for an attack on Gia Lam airfield, approved on November 26 by a commission of military experts. The two plans had both been worked out by Giap. The sureté boss, Moret, affirmed that there was no reason to doubt the honesty (bonne foi) of the informer..” (…) Throughout 1947, French Intelligence “proved” again and again that the Vietnamse attack in Hanoi in December 19 had been long premeditated. A great number of “proofs” were established.” (Trích: Vietnam 1946, How the war began, Stein Tonnesson, các trang 86 và 172-173). Cùng một nhận định như Stein Tonnesson, William J. Duiker trong: The Communist Road to Power in Viet Nam viết: “In early december, the situation worsened (…) The French decision to augment its forces and strenfhten its military position in North Viet Nam may have persuaded the Party leadership that war was unavoidable. On the seventh, Vo Nguyen Giap dispatched a circular instructing all military units to be prepared to launch an attack on French installation by the twelfth.” (Trích: The Communist Road to Power, William J. Duiker, trang 124) Vài ngày tiếp theo sau đó, Việt Minh đưa ra lời kêu gọi toàn dân chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thành phố Hà Nội, bộ chỉ huy và quân đội Việt Minh rút về Hà Đông và để lại dân quân du kích, tự vệ thành phố “cầm chân” quân đội Pháp. Họ đắp những ụ đất ở một số địa điểm và đào tường từ nhà nọ thông thương sang nhà kia. “Tunnels and trenches were constructed to permit communication from one sector to another without the use of main arteries” (Trích W. J. Duiker, Ibid, trang 124.) Người Pháp đã yêu cầu Việt Minh dẹp bỏ các ụ chướng ngại vật trong một số khu phố và gửi tối hậu thư cho Việt Minh phải giải giới. Việt Minh cũng muốn tấn công Pháp một các bất ngờ, nhưng như nói ở trên, tin tức tình báo mà người Pháp nắm được qua một tình báo viên nên người Pháp đã chuẩn bị canh phòng cẩn mật. “The Viet Minh had counted on the element of surprise, but the French had been forewarned of the attacks by an agent during the afternoon of the nineteenth and had placed their forces in the Hanoi region on the alert.” (Trich W. J. Duiker, Ibid, trang 125) Vì thế, sau khi súng nổ, quân đội Pháp đã làm chủ được tình hình trong thành phố, nhất là chiếm giữ những khu trọng yếu có Pháp kiều cư ngụ cũng như nắm giữ được phi trường Gia Lâm. Hồ Chí Minh đã rút bộ chỉ huy về Hà Đông trước khi phát động chiến tranh. Hà Đông chỉ cách cách Hà Nội 6 cây số. Nếu ngay sau đó, quân đội Pháp quyết định nhanh chóng nhảy dù bao vây Hà Đông thì toàn bộ Tham Mưu của Việt Minh từ Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng có thể bị bắt. Tình hình chắc đã đổi khác. Cho nên đi đến kết luận Võ Nguyên Giáp là động cơ chính và là ngòi nổ mở màn cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt. Cá nhân người viết bài này còn ghi nhớ trong đầu, tối ngày 19, 1946, khi vừa bước chân lên cầu thang để đi ngủ thì nghe một tiếng nổ lớn, sau đó đèn điện trong nhà tắt phụt, phải lần mò cầu thang để lên lầu. (Người viết ở đối diện với sở quân nhu và sở Hành chánh tài chánh của Pháp. Cơ sở rộng lớn này chiếm hai mặt đường. Con Đường Đôi và phố Cửa Bắc trước đây là thành Hà Nội, nơi mà Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu đã tuẫn tiết ở đó). Đằng sau là dãy nhà ba tầng dành cho cư xá sĩ quan không quân Pháp. Suốt đêm không nghe thấy tiếng súng nổ. Nếu có thì từ xa..Sáng hôm sau, sở Hành Chánh tài chánh của Pháp thấy có hai xe thiết giáp trấn giữ, chĩa súng ra ngoài. Cũng không xa chừng vài trăm mét, người viết thấy một vài khẩu súng gỗ còn vứt lại trên vỉa hè. Thật hết sức là ngạc nhiên không hiểu được. Làm sao Tự vệ có thể dùng súng gỗ bắn lại quan đội Pháp? Trên bờ đê Yên Phụ, nhìn từ phố Cửa Bắc, cách chừng hai cây số đường chim bay nổi bật trên nền trời, từng đoàn người lũ lượt gồng gánh hối hả chạy về hướng Nam thành phố. Chỉ trong một đêm, thành phố Hà Nội bị bỏ hoang. Trong khu phố cổ như Hàng Ngang, hàng Đào, hàng Thiếc, nhà nọ thông thống sang nhà kia. Nghe nói Tự vệ cầm cự được hai tháng đủ thời giờ cho bộ đội chính quy rút lên miệt Bắc. Đây là chính sách tiêu thổ kháng chiến mở đầu cho cuộc chiến Việt-Pháp. Nó đã mở đầu như thế một cách kỳ lạ. Việc phá nổ nhà máy đèn là bước đầu của cuộc chiến tranh Việt- Pháp theo kế hoạch của Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp là người quyết định chung cuộc chiến tranh Đông Dương -HCM bị động trong trường hợp này- và Việt Nam không quan tâm hoặc nghi ngờ những giải pháp ngoại giao cũng như xu hướng giải thực trên toàn thế giới. Ông nóng lòng, không nhẫn nại được nữa trong bầu khí chờ đợi, căng thẳng từng ngày. Thật vậy, phải nhìn nhận xu hướng giải thực ở Việt nam cũng có dấu hiệu tiến bộ và thay đổi cho thấy có cơ hội thực hiện từng giai đoạn một ở Việt Nam với sự nhượng bộ của Pháp khi ký kết Hiệp Định Élysée giữa Bollaert và Bảo Đại sau những đàm phán thất bại giữa Pháp và Việt Minh. Công việc giải thực từng giai đoạn một đã từng xảy ra tại Canada, Úc và Tân Tây Lan (New Zealand – DCVOnline) vào năm 1922, nằm trong khối Commonwealth. Và cũng tương tự như thế tại Tunisie, Maroc vào năm 1958, nằm trong khối quốc gia Territoire d’Outremer. TOM). Năm 1947, Ấn độ được độc lập và lập tức Pakistan tách ra khỏi Ấn Độ. 1950, Indonesia dành được độc lập từ Hoà Lan. Lần lượt đến Mã Lai, Tích Lan và Miến Điện lấy lại độc lập. Từ Đông sang Tây, từ Bắc Phi những nước thuộc địa nằm trong quỹ đạo của nguời Anh, Pháp và Bỉ đều dành được độc lập. Và đã có 49 các nước tân Phi Châu tách rời ra và trở thành các nước tân lập. (Trích Culture and Imperialism, Edward W. Said, trang 199) Chỉ trừ Việt Nam và Algérie khi dành được độc lập đã trả giá rất đắt. Butterfield nhận định, đây là “The tragic element in human conflict”. Stein Tonnesso đánh giá “War was Vietnam’s predicamment for well over forty years. No other country has suffered as many war casualties since World War II.” Từ 1945 đến 1954, khoảng 365.000 người đã bị giết, 40.000 về phía quân đội Pháp, 200.000 về phía Việt Minh và 125.000 thường dân. (Trích: Viet Nam 1946, How the war began, Stein Tonnesson, trang 01.) Nhưng Viêt Minh ngoảnh mặt làm ngơ trước những tiến bộ đạt được qua các thương lượng, các Hiệp định được ký kết với người Pháp. Người cộng sản tiếp tục tiến hành chiến tranh giải phóng bất kể quyền lợi dân tộc, đất nước bị hy sinh cho tham vọng chính trị của đảng cộng sản. Nhận đinh lại cái giá phải trả cho nền độc lập Stein Tonnesson cho thấy rằng: Chẳng những thế, họ còn tiến hành cùng một lúc hai việc: - Thanh trừng, khai trừ tất các lãnh tụ đảng phái chính trị những người Quốc như một khủng bố trắng suốt từ Nam ra Bắc. - Mặt khác, họ phát động các phong trào đấu tranh giai cấp thể hiện qua cuộc cải cách ruộng đất bắt chước theo Trung Quốc. Đây là công cuộc dọn đường cho sự áp đặt chủ nghĩa xã hội trên toàn thể khối dân tộc. (Trích Viet Nam 1946, Ibid, trang3-4). Chiến thắng xong Pháp ở Điện Biên Phủ, họ coi đó là thành tích lãnh đạo của đảng Cộng sản, phủ nhận mọi sự đóng góp xương máu của những thành phần kháng chiến yêu nước. Rõ ràng chủ nghĩa dân tộc trong trường hợp Việt Nam đã bị người cộng sản vận dụng chủ nghĩa dân tộc cho những vận động chính trị của đảng cộng sản Đông Dương. Nói khác đi Chủ nghĩa dân tộc chỉ là một biến thái của chủ nghĩa cộng sản bá quyền. Ngày nay, cuộc chiến thắng Pháp ở Đông Dương thông qua Hiệp định Geneva phải được hiện nguyên hình là một cuộc chiến tranh Ý thức hệ giữa Thế giới Tự Do và Thế giới Cộng Sản kể từ thập niên 1950 trở đi. Hiệp định Geneva chỉ tạo ra một ảo tưởng chính trị rằng cuộc chiến tranh đã chấm dứt. Nhưng ngay từ sau khi Hiệp định được ký kết thì người cộng sản đã chuẩn bị cho giai đoạn hai để thôn tính miền Nam rồi. Chính thức đảng Cộng sản Đông Dương của Hồ Chí Minh đã được hai đảng đàn anh công nhận là Trung Quốc và Liên Xô. Cũng chính thức, họ được sự viện trợ quân sự “vô điều kiện” từ các nước XHCN anh em. Phía bên Thế giới Tự Do, Mỹ trực tiếp nhúng tay vào tình hình chiến sự Đông Dương bằng cách viện trợ quân sự và kinh tế cho Pháp và chính phủ Bảo Đại của chính quyền Quốc Gia. Đánh pháp dưới lá cờ Chủ nghĩa Dân tộc đã đánh lừa được cả một thế hệ thanh niên tham gia vào cuộc chiến. Nhưng cuộc chiến 1954-1975 cũng một lần nữa khoác chiêu bài “Chống đế quốc Mỹ và tay sai bán nước”! Nhìn lại mà không khỏi đau xót là Việt Nam là nước duy nhất trên toàn thế giới đã trả giá quá đắt cho việc thâu hồi độc lập với sự hy sinh tính mạng nhiều nhất, thời gian kéo dài nhất 30 năm, và nhất là sự tụt hậu phát triển so với các nước láng giềng như Đại Hàn, Thái Lan, Trung Quốc, Nam Dương, Singapore với cùng hoàn cảnh bị đô hộ. Lê Duẩn viết trong Thư vào Nam: “Ta đã dùng đấu tranh chính trị và quân sự để giành lấy những vùng nông thôn rộng lớn, nhưng vẫn chủ trương để cho quần chúng giữ thế hợp pháp với địch. Làm như vậy vì chúng ta thấy được tính chất quyết liệt và lâu dài của cuộc chiến.” (Trích Thư vào Nam, gửi cho Mười Cúc, tháng 7, năm 1962, Lê Duẩn, trang 72). Người cộng sản không bao giờ dám nhìn nhận điều này. Không bao giờ dám so sánh, dám đặt câu hỏi tại sao Việt Nam lại thua kém các nước láng giềng hàng nửa thế kỷ? Một phần họ thực sự mắc chứng vĩ cuồng về chiến thắng Pháp và Mỹ. Họ không tự hỏi sau chiến thắng đó học được g? Khi Phạm Văn Đồng sang thăm Lý Quang Diệu ở Singapore để học bài học vỡ lòng về bài học phát triển kinh tế. Theo Lý Quang Diệu, ông ta đã không học được gì, về tay không vì sự đui mù ngu dốt. Những người học trò đầu tiên của Lý Quang Diệu là Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc và Võ Văn Kiệt. Sau này việc “phong thánh” cho các anh hùng liệt sĩ chỉ thêm bẽ bàng và không đủ giải thích và cứu vãn cho tính trạng tụt hậu phát triển so với các nước trong vùng. Sức nặng quá khứ thay vì giảm nồng độ lại đào sâu thêm vào tâm trí người dân về một sự hy sinh vô bờ bến về sức người, sức của một cách uổng phí! (Còn tiếp) Nguyễn Văn Lục
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 22, 2012 11:08:17 GMT 9
Từ Chủ nghĩa Thực dân đến Chủ nghĩa Dân tộc sang Chủ nghĩa Cộng sản (Kết)Tiếp theo phần I và II Chính sách Tự-Thuộc-địa (Auto-colonization) của cộng sản Tác giả Nguyễn Văn Lục Khi tôi viết bài về Hội chứng hậu thuộc địa, tôi nghĩ rằng người đọc chưa chia xẻ hết được những hậu quả khôn lường của chế độ hậu thuộc địa. Đó là cái gia tài để lại quá nặng nề sau khi chuyển giao quyền hành từ đế quốc thuộc địa vào tay các lãnh đạo mới không có được một chút chuẩn bị. Nhiều cuộc tranh chấp nội bộ đã xảy ra tại nhiều nước hậu thuộc địa đi đến tranh giành, thanh toán, cướp chính quyền để nhẩy lên lãnh đạo. Nhiều thành phần sắc tộc, bộ lạc lớn trở thành ly khai và tách ra khỏi nước lớn, tạo dựng ra nước mới. Nhất là tại các nước Phi Châu, nhiều nhà nhân bản, nhiều tổ chức quốc tế liên quan đến quyền con người kêu gọi dân Phi Châu thức tỉnh. Họ kêu gọi dân Phi Châu hãy tự thức tỉnh (Réveille-toi) nắm lấy số phận của họ vào trong tay của họ để lật đổ những tên “thực dân bản xứ” còn bóc lột, còn tàn bạo hơn chính tên thuộc địa chính gốc. Danh từ auto-colonization (tự thực dân chính mình) ra đời từ những hoàn cảnh hậu thuộc địa này. Những tên bạo chúa mới này phần đông tự phong cho mình là tổng thống muôn đời (Président à vie) sử dụng cùng một cách thức bóc lột thời thuộc địa, chi tiêu một các sang trọng cực kỳ phi lý. Như xây dựng lại Tòa Thánh Vatican một cách vô cùng xa hoa, lãng phí trong khi đó dân chúng lân cận đói không có mà ăn. Những bọn thực dân hậu thuộc địa thu vén mọi tài sản về cho mình. Họ cũng sử dụng cùng một thứ ngôn ngữ giả trá ngăn chặn mọi quyền tự do tư tưởng của con người hoặc ngăn cấm mọi hình thức dân chủ như thành lập đảng phái chính trị, v.v… Khi cộng sản miền Bắc tiếp thu Hà Nội năm 1954 thì chỉ là một hình thức đổi chủ ở mức độ tàn bạo bạo hơn, siết chặt hơn. Thực dân bóc lột một thì cộng sản bóc lột 2, bần cùng hóa tất cả mọi người. Từ bộ máy chính quyền, tổ chức quân đội, bộ máy công an, guồng máy đảng viên đảng cộng sản trở thành những tên thực dân cai trị tự thuộc địa chính đất nước mình. Những tên công an phường đến quận trở thành những trương tuần kiểu mới. Bí thư xã, bí thư quận trở thành những tên lý trưởng, chánh tổng thời Hậu thuộc địa. Dưới thời thực dân Pháp, ít ra còn có được một Chí Phèo, còn có được một Bá Kiến, một Thị Nở. Dưới một chính quyền Tự Thực Dân thì một Chí Phèo cũng không có đất để chửi, để sống. Toàn dân miền Bắc chịu thiệt thòi sau 1954 và sau này toàn dân miền Nam sau 1975. Cả nước từ nay ăn phải bả cộng sản, ăn phải quả lừa. Người dân chỉ có cái quyền được hoan hô, được vỗ tay. Học sinh được học tập vỗ tay từ nhỏ ở trường. Lớn lên, nếu làm dân biểu thì biết vỗ tay ở Quốc Hội. Có lần tôi đặt vấn đề với Lý Chánh Trung, cựu dân biểu Cộng sản thì ông cho rằng vỗ tay “dân chủ” hơn vì không cần dấu diếm gì cả. Sự chỉ có một đảng duy nhất như đảng cộng sản thì cũng không khác gì lưỡng đảng của Mỹ cả. Tuy lưỡng đảng, nhưng cuối cùng phe nào chiếm đa số ghế thì cũng kể như chỉ còn một đảng! Theo Bùi Tín, Đào Duy Tùng có lần đi dự Đại hội Đảng Cộng sản Romania ở Bucharest đã phải đứng lên ngồi xuống 94 lần để hoan hô và vỗ tay về bài diễn văn của tổng bí thư Ceauşescu. Ở Việt Nam, hơn 700 tờ báo nói cùng một “thứ tiếng”, tiếng nói của đảng thì cũng vậy. Hệ thống cai trị của bọn tự thực dân làm dân chúng mụ mẫm người ra. Mọi người tự bịt mồm như trường hợp TT. Thích Trí Quang, hơn 30 năm tịnh khẩu. Khi nghe Nguyễn Văn Linh tuyên bố như thế này thì kể như đạo Phật không còn là đạo Phật nữa. Nguyễn Văn Linh mở đầu bằng câu nổi tiếng chết người sau đây, “Nếu quý Hòa thượng cho phép, tôi xin được gọi đạo Phật của chúng ta, và nếu quý, hòa thượng không ngần ngại, tôi cũng có thể gọi Đảng của chúng ta.” (Trích: Hồ sơ Phật Giáo thống nhất, Đỗ Trung Hiếu, trang 61, Tin, Paris, 1994.) Kể từ đó Phật giáo trở thành thành viên của Đảng. Nếu không tự bịt mồm được thì bất đắc dĩ để công an bịt mồm hộ như Nguyễn Mạnh Tường, như tướng Trần Văn Trà, như nhóm Nhân Văn Giai phẩm hoặc nhóm những người kháng chiến cũ hoặc như trường hợp linh mục Nguyễn Văn Lý. Tôi có dịp được xem lại những bảng vẽ tuyên truyền của tờ Việt Nam Độc Lập thì thấy những gì gán ghép cho thực dân Pháp có thể cũng là những điều chính quyền hiện tại đang hành xử đối với dân chúng. Thực dân bóp cổ dân nghèo, chiếm đất đai, cộng sản cũng làm tương tự và làm hơn thế nữa. Còn lại, mọi chức vụ béo bở đều dành cho bọn “con ông cháu cha” của bọn Tự-Thực -Dân. Điều này có lẽ hãy để ông Bùi Tín có đủ tư cách người trong cuộc nói lên: “Vợ hai Lê Duẩn làm đến Ủy viên Thường vụ tỉnh An Giang kiêm thêm Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng mặc dầu không có tay nghề làm báo. Các con Lê Duẩn như Thành, như Hồng đều được đi học ở Liên Xô cũng như Võ Diên, con trai Võ Nguyên Giáp. Hai con rể của Lê Duẩn, tên Hồ Ngọc Đại và Lê Bá Tôn cũng đều tốt nghiệp ở Đức và ởTiêp. Vợ của bộ trưởng ngoại giao là bà Tư là Vụ trưởng Bộ Nội vụ kiêm thêm Vụ trưởng vụ Kế Hoạch. Vợ của Thứ trưởng bộ Văn Hóa cũng làm Thứ Trưởng bộ Công Nghiệp nhẹ nắm trong tay toàn bộ ngành dệt của cả nước. Đó cũng là trường hợp của bà Thanh, vợ của Tố Hữu lên đến chức Phó Ban tuyên Huấn Trung Ương đảng, ngang cấp với một Thứ trưởng. Cũng là trường hợp của bà Trần Thị Tích, vợ của Tổng Biên Tập báo Nhân Dân Hoàng Tùng, đang phụ trách ban nữ công của tờ báo, nhảy lên chức Trưởng Ban Nội Chính của báo Đảng. Khi về hưu lên đến bậc 7 (ngang với thứ trưởng). Bùi Tín còn liệt kê giám đốc bệnh viện không biết gì về y tế, trưởng phòng ngân hàng không biết gì về tài chánh, Giám đốc sở giáo dục không hề là một giáo viên. Có khác gì các nước Hậu thuộc địa có tổng thống suốt đời! Ở Việt Nam tự-thuộc-địa cũng có Đại biểu Quốc Hội suốt đời, chủ tịch nước suốt đời, thủ tướng suốt đời, tổng bí thư suốt đời trở thành những việc tất nhiên. (Chắc là có ý nói hưởng bổng lộc suốt đời). (…) Cho đến khi cả bị sai lầm, khuyết điểm rõ ràng thì cũng vẫn cứ bị đá lên, nghĩa là đưa lên một vị trí cao hơn! Ông Bùi Tín đã đưa ra một số trường hợp bị “đá lên” như trường hợp Trường Chinh, Ông Nguyễn Sỹ Đồng bị truy tố là diệt các làng Thiên Chúa giáo ở Quảng Bình được đổi tên là Đồng Sĩ Nguyên trở thành Tư lệnh đường mòn Hồ Chí Minh, rồi Phó thủ tướng. Người chỉ huy chiến trận ở Cam Bốt nay làm Chủ Tịch nước. Ông Đặng Thi, người có trách nhiệm về Cải cách ruộng đất ở Liên Khu 4 như tra tấn người thì nay được làm Bộ trưởng phụ trách hợp tác, với Lào và Cam Bốt. Hồ ViếtThắng, chủ chốt trong vụ Cải cách ruộng đất trở thành Bí thư Ủy Ban Kế Hoạch nhà nước. Sau 1975, ông là người gạt bỏ các nhân viên “ngụy” trong cơ quan điện toán chỉ vì họ do Mỹ đào tạo, hoặc là người công giáo hoặc người di cư. (Trích Mặt Thật, Bùi Tin, tóm tắt các trang 284-290.) Những điều ông Bùi Tín viết ra là sự thật. Nhưng điều ông viết ra từ năm 1994, nếu so sánh với sự thật bây giờ của 2011 thì nó còn có ý nghĩa gì không? Chính Sách Bên Lề Chính sách bên lề đúng ra là để chỉ thị những thành phần xã hội kém may mắn như cô nhi, quả phụ, những kẻ tật nguyền trong một xã hội yếu kém về tổ chức xã hội. Họ bị vứt ra bên lề, sống vất vưởng không nơi nương tựa như những kẻ đầu đường xó chợ. Cũng được coi là những kẻ sống bên lề, các sắc dân thiểu số, các bộ lạc sống xa xôi, hẻo lánh trong rừng. Đã bao nhiêu chế độ đi qua, đổi chủ, họ vẫn là những thành phần không được khai hóa sống triền miên với mê tín, dị đoan. Nhưng trong một xã hội toàn trị như trong xã hội cộng sản thì tất cả những ai đi ngược lại Đảng và Nhà nước sẽ bị thanh trừng, loại trừ, tù tội, cải tạo và được coi là những kẻ bị sống bên lề suốt đời. Đó là trường hợp những Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Phan Khôi, Trần Dần, Trần Xuân Bách, Kim Ngọc, Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Phạm Quế Dương và trăm người khác. Đó cũng là những sĩ quan và công chức Saigon trước 1975, những binh lính “ngụy”, những thương phế binh, những cô nhi quả phụ và vợ con các người đi học tập. Tất cả đều là những công dân bậc hai. Những thành phần bị loại bỏ, sống bên lề của đời sống xã hội. Và nói cho cùng ngoài 3 triệu đảng viên cộng sản và số công an cảnh sát, quân đội và một số thành phần dân chúng sống bám vào hệ thống quyền lực ấy, sống chết với cơ chế ấy như lời Nguyễn Văn Linh tuyên bố: Lịch sử Việt Nam đã giao phó cho Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo cuộc cách mạng, trước kia là thế, hiện nay là thế và mãi mãi về sau vẫn mãi mãi là thế. Họ Không muốn thay đổi và cũng không muốn nghe ý kiến của bất cứ ai. Vì thế cơn bão Đông Âu đã không giúp thay đổi gì ở Việt Nam như nhiều người kỳ vọng. Cuộc Cách mạng Hoa Lài hiện nay xem ra còn xa mới thổi đến Việt Nam. Vì thế, tất cả những kiến nghị của người trong nước từ xưa tới nay và nay thư kiến nghị của trí thức hải ngoại đều là thừa. Tất cả thành phần dân chúng đều là thứ dân đen trong cỗ máy nghiền của nhà nước và trở thành những con người bị tha hóa trên chính quê hương của mình. Họ trở thành những người khách lạ, những kẻ vô thừa nhận trong trong chính sách bên lề của người cộng sản. Gớm thay cho chủ nghĩa cộng sản với chính sách bên lề. Chính sách này là một thứ tội ác không tha thứ được. Vì nó loại trừ tất cả những quyền lợi chính đáng cũng như cơ may làm người. Vì nó mà biết bao nhiêu người đã dở sống, dở chết kéo dài thân phận đến không một ai dám nhìn nhận. Nó cách ly những người ấy ra khỏi đồng loại. Chính sách Tự-Thuộc-địa (Auto-colonization) của cộng sản Khi tôi viết bài về Hội chứng hậu thuộc địa, tôi nghĩ rằng người đọc chưa chia xẻ hết được những hậu quả khôn lường của chế độ hậu thuộc địa. Đó là cái gia tài để lại quá nặng nề sau khi chuyển giao quyền hành từ đế quốc thuộc địa vào tay các lãnh đạo mới không có được một chút chuẩn bị. Nhiều cuộc tranh chấp nội bộ đã xảy ra tại nhiều nước hậu thuộc địa đi đến tranh giành, thanh toán, cướp chính quyền để nhẩy lên lãnh đạo. Nhiều thành phần sắc tộc, bộ lạc lớn trở thành ly khai và tách ra khỏi nước lớn, tạo dựng ra nước mới. Nhất là tại các nước Phi Châu, nhiều nhà nhân bản, nhiều tổ chức quốc tế liên quan đến quyền con người kêu gọi dân Phi Châu thức tỉnh. Họ kêu gọi dân Phi Châu hãy tự thức tỉnh (Réveille-toi) nắm lấy số phận của họ vào trong tay của họ để lật đổ những tên “thực dân bản xứ” còn bóc lột, còn tàn bạo hơn chính tên thuộc địa chính gốc. Danh từ auto-colonization (tự thực dân chính mình) ra đời từ những hoàn cảnh hậu thuộc địa này. Những tên bạo chúa mới này phần đông tự phong cho mình là tổng thống muôn đời (Président à vie) sử dụng cùng một cách thức bóc lột thời thuộc địa, chi tiêu một các sang trọng cực kỳ phi lý. Như xây dựng lại Tòa Thánh Vatican một cách vô cùng xa hoa, lãng phí trong khi đó dân chúng lân cận đói không có mà ăn. Những bọn thực dân hậu thuộc địa thu vén mọi tài sản về cho mình. Họ cũng sử dụng cùng một thứ ngôn ngữ giả trá ngăn chặn mọi quyền tự do tư tưởng của con người hoặc ngăn cấm mọi hình thức dân chủ như thành lập đảng phái chính trị, v.v… Khi cộng sản miền Bắc tiếp thu Hà Nội năm 1954 thì chỉ là một hình thức đổi chủ ở mức độ tàn bạo bạo hơn, siết chặt hơn. Thực dân bóc lột một thì cộng sản bóc lột 2, bần cùng hóa tất cả mọi người. Từ bộ máy chính quyền, tổ chức quân đội, bộ máy công an, guồng máy đảng viên đảng cộng sản trở thành những tên thực dân cai trị tự thuộc địa chính đất nước mình. Những tên công an phường đến quận trở thành những trương tuần kiểu mới. Bí thư xã, bí thư quận trở thành những tên lý trưởng, chánh tổng thời Hậu thuộc địa. Dưới thời thực dân Pháp, ít ra còn có được một Chí Phèo, còn có được một Bá Kiến, một Thị Nở. Dưới một chính quyền Tự Thực Dân thì một Chí Phèo cũng không có đất để chửi, để sống. Toàn dân miền Bắc chịu thiệt thòi sau 1954 và sau này toàn dân miền Nam sau 1975. Cả nước từ nay ăn phải bả cộng sản, ăn phải quả lừa. Người dân chỉ có cái quyền được hoan hô, được vỗ tay. Học sinh được học tập vỗ tay từ nhỏ ở trường. Lớn lên, nếu làm dân biểu thì biết vỗ tay ở Quốc Hội. Có lần tôi đặt vấn đề với Lý Chánh Trung, cựu dân biểu Cộng sản thì ông cho rằng vỗ tay “dân chủ” hơn vì không cần dấu diếm gì cả. Sự chỉ có một đảng duy nhất như đảng cộng sản thì cũng không khác gì lưỡng đảng của Mỹ cả. Tuy lưỡng đảng, nhưng cuối cùng phe nào chiếm đa số ghế thì cũng kể như chỉ còn một đảng! Theo Bùi Tín, Đào Duy Tùng có lần đi dự Đại hội Đảng Cộng sản Romania ở Bucharest đã phải đứng lên ngồi xuống 94 lần để hoan hô và vỗ tay về bài diễn văn của tổng bí thư Ceauşescu. Ở Việt Nam, hơn 700 tờ báo nói cùng một “thứ tiếng”, tiếng nói của đảng thì cũng vậy. Hệ thống cai trị của bọn tự thực dân làm dân chúng mụ mẫm người ra. Mọi người tự bịt mồm như trường hợp TT. Thích Trí Quang, hơn 30 năm tịnh khẩu. Khi nghe Nguyễn Văn Linh tuyên bố như thế này thì kể như đạo Phật không còn là đạo Phật nữa. Nguyễn Văn Linh mở đầu bằng câu nổi tiếng chết người sau đây, “Nếu quý Hòa thượng cho phép, tôi xin được gọi đạo Phật của chúng ta, và nếu quý, hòa thượng không ngần ngại, tôi cũng có thể gọi Đảng của chúng ta.” (Trích: Hồ sơ Phật Giáo thống nhất, Đỗ Trung Hiếu, trang 61, Tin, Paris, 1994.) Kể từ đó Phật giáo trở thành thành viên của Đảng. Nếu không tự bịt mồm được thì bất đắc dĩ để công an bịt mồm hộ như Nguyễn Mạnh Tường, như tướng Trần Văn Trà, như nhóm Nhân Văn Giai phẩm hoặc nhóm những người kháng chiến cũ hoặc như trường hợp linh mục Nguyễn Văn Lý. Tôi có dịp được xem lại những bảng vẽ tuyên truyền của tờ Việt Nam Độc Lập thì thấy những gì gán ghép cho thực dân Pháp có thể cũng là những điều chính quyền hiện tại đang hành xử đối với dân chúng. Thực dân bóp cổ dân nghèo, chiếm đất đai, cộng sản cũng làm tương tự và làm hơn thế nữa. Còn lại, mọi chức vụ béo bở đều dành cho bọn “con ông cháu cha” của bọn Tự-Thực -Dân. Điều này có lẽ hãy để ông Bùi Tín có đủ tư cách người trong cuộc nói lên: “Vợ hai Lê Duẩn làm đến Ủy viên Thường vụ tỉnh An Giang kiêm thêm Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng mặc dầu không có tay nghề làm báo. Các con Lê Duẩn như Thành, như Hồng đều được đi học ở Liên Xô cũng như Võ Diên, con trai Võ Nguyên Giáp. Hai con rể của Lê Duẩn, tên Hồ Ngọc Đại và Lê Bá Tôn cũng đều tốt nghiệp ở Đức và ởTiêp. Vợ của bộ trưởng ngoại giao là bà Tư là Vụ trưởng Bộ Nội vụ kiêm thêm Vụ trưởng vụ Kế Hoạch. Vợ của Thứ trưởng bộ Văn Hóa cũng làm Thứ Trưởng bộ Công Nghiệp nhẹ nắm trong tay toàn bộ ngành dệt của cả nước. Đó cũng là trường hợp của bà Thanh, vợ của Tố Hữu lên đến chức Phó Ban tuyên Huấn Trung Ương đảng, ngang cấp với một Thứ trưởng. Cũng là trường hợp của bà Trần Thị Tích, vợ của Tổng Biên Tập báo Nhân Dân Hoàng Tùng, đang phụ trách ban nữ công của tờ báo, nhảy lên chức Trưởng Ban Nội Chính của báo Đảng. Khi về hưu lên đến bậc 7 (ngang với thứ trưởng). Bùi Tín còn liệt kê giám đốc bệnh viện không biết gì về y tế, trưởng phòng ngân hàng không biết gì về tài chánh, Giám đốc sở giáo dục không hề là một giáo viên. Có khác gì các nước Hậu thuộc địa có tổng thống suốt đời! Ở Việt Nam tự-thuộc-địa cũng có Đại biểu Quốc Hội suốt đời, chủ tịch nước suốt đời, thủ tướng suốt đời, tổng bí thư suốt đời trở thành những việc tất nhiên. (Chắc là có ý nói hưởng bổng lộc suốt đời). (…) Cho đến khi cả bị sai lầm, khuyết điểm rõ ràng thì cũng vẫn cứ bị đá lên, nghĩa là đưa lên một vị trí cao hơn! Ông Bùi Tín đã đưa ra một số trường hợp bị “đá lên” như trường hợp Trường Chinh, Ông Nguyễn Sỹ Đồng bị truy tố là diệt các làng Thiên Chúa giáo ở Quảng Bình được đổi tên là Đồng Sĩ Nguyên trở thành Tư lệnh đường mòn Hồ Chí Minh, rồi Phó thủ tướng. Người chỉ huy chiến trận ở Cam Bốt nay làm Chủ Tịch nước. Ông Đặng Thi, người có trách nhiệm về Cải cách ruộng đất ở Liên Khu 4 như tra tấn người thì nay được làm Bộ trưởng phụ trách hợp tác, với Lào và Cam Bốt. Hồ ViếtThắng, chủ chốt trong vụ Cải cách ruộng đất trở thành Bí thư Ủy Ban Kế Hoạch nhà nước. Sau 1975, ông là người gạt bỏ các nhân viên “ngụy” trong cơ quan điện toán chỉ vì họ do Mỹ đào tạo, hoặc là người công giáo hoặc người di cư. (Trích Mặt Thật, Bùi Tin, tóm tắt các trang 284-290.) Những điều ông Bùi Tín viết ra là sự thật. Nhưng điều ông viết ra từ năm 1994, nếu so sánh với sự thật bây giờ của 2011 thì nó còn có ý nghĩa gì không? Chính Sách Bên Lề Chính sách bên lề đúng ra là để chỉ thị những thành phần xã hội kém may mắn như cô nhi, quả phụ, những kẻ tật nguyền trong một xã hội yếu kém về tổ chức xã hội. Họ bị vứt ra bên lề, sống vất vưởng không nơi nương tựa như những kẻ đầu đường xó chợ. Cũng được coi là những kẻ sống bên lề, các sắc dân thiểu số, các bộ lạc sống xa xôi, hẻo lánh trong rừng. Đã bao nhiêu chế độ đi qua, đổi chủ, họ vẫn là những thành phần không được khai hóa sống triền miên với mê tín, dị đoan. Nhưng trong một xã hội toàn trị như trong xã hội cộng sản thì tất cả những ai đi ngược lại Đảng và Nhà nước sẽ bị thanh trừng, loại trừ, tù tội, cải tạo và được coi là những kẻ bị sống bên lề suốt đời. Đó là trường hợp những Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Phan Khôi, Trần Dần, Trần Xuân Bách, Kim Ngọc, Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Phạm Quế Dương và trăm người khác. Đó cũng là những sĩ quan và công chức Saigon trước 1975, những binh lính “ngụy”, những thương phế binh, những cô nhi quả phụ và vợ con các người đi học tập. Tất cả đều là những công dân bậc hai. Những thành phần bị loại bỏ, sống bên lề của đời sống xã hội. Và nói cho cùng ngoài 3 triệu đảng viên cộng sản và số công an cảnh sát, quân đội và một số thành phần dân chúng sống bám vào hệ thống quyền lực ấy, sống chết với cơ chế ấy như lời Nguyễn Văn Linh tuyên bố: Lịch sử Việt Nam đã giao phó cho Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo cuộc cách mạng, trước kia là thế, hiện nay là thế và mãi mãi về sau vẫn mãi mãi là thế. Họ Không muốn thay đổi và cũng không muốn nghe ý kiến của bất cứ ai. Vì thế cơn bão Đông Âu đã không giúp thay đổi gì ở Việt Nam như nhiều người kỳ vọng. Cuộc Cách mạng Hoa Lài hiện nay xem ra còn xa mới thổi đến Việt Nam. Vì thế, tất cả những kiến nghị của người trong nước từ xưa tới nay và nay thư kiến nghị của trí thức hải ngoại đều là thừa. Tất cả thành phần dân chúng đều là thứ dân đen trong cỗ máy nghiền của nhà nước và trở thành những con người bị tha hóa trên chính quê hương của mình. Họ trở thành những người khách lạ, những kẻ vô thừa nhận trong trong chính sách bên lề của người cộng sản. Gớm thay cho chủ nghĩa cộng sản với chính sách bên lề. Chính sách này là một thứ tội ác không tha thứ được. Vì nó loại trừ tất cả những quyền lợi chính đáng cũng như cơ may làm người. Vì nó mà biết bao nhiêu người đã dở sống, dở chết kéo dài thân phận đến không một ai dám nhìn nhận. Nó cách ly những người ấy ra khỏi đồng loại!
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 11, 2013 12:15:42 GMT 9
Thảo luận giữa Trần Nghị và Lê Đức Thọ 17-10-1968
Posted by basamnews on 01/05/2011
CWIHP
Thảo luận giữa Trần Nghị và Lê Đức Thọ
17-10-1968
Mô tả: Trần Nghị chỉ trích Việt Nam về các nhượng bộ Mỹ trong quá khứ, phá hoại Trung Quốc và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; Trần Nghị cũng chỉ trích Việt Nam về việc chấp nhận đề nghị đàm phán của Liên Xô.
Trần Nghị:
(1) Từ tháng 4 vừa qua, khi các ông chấp nhận việc ngưng ném bom một phần của Mỹ và tổ chức các cuộc đàm phán hòa bình với họ, các ông đã đánh mất thế chủ động trong các cuộc đàm phán với họ. Bây giờ, các ông chấp nhận đàm phán bốn bên. Các ông thất bại một lần nữa. Do đó, điều này sẽ gây thiệt hại nhiều hơn cho người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân ở miền Nam.
(2) Hiện nay, Washington và Sài Gòn đang công bố các cuộc đàm phán, cho thấy thực tế là các ông đã chấp nhận các điều kiện của Hoa Kỳ đưa ra. Các ông trở về nhà để nhận chỉ thị của đảng, tất cả càng chứng minh điều đó cho người dân thế giới. Qua việc chấp nhận của các ông về các cuộc đàm phán bốn bên, các ông đã cho phép chính phủ bù nhìn được công nhận hợp pháp, do đó, loại bỏ tình trạng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, là đại diện hợp pháp duy nhất của người dân miền Nam.
Vì vậy, người Mỹ đã giúp chế độ bù nhìn của họ có được tư cách hợp pháp trong khi các ông đã làm cho Mặt trận [Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam] mất uy tín của mình. Điều này làm cho chúng tôi tự hỏi rằng, phải chăng các ông đã làm tăng vị thế của kẻ thù, trong khi làm suy yếu chúng ta. Các ông đang hành động trái ngược với những lời dạy của Hồ Chủ tịch, các nhà lãnh đạo vĩ đại của nhân dân Việt Nam, do đó hủy hoại uy tín của Hồ Chủ tịch đối với nhân dân Việt Nam.
(3) Thời gian này, các ông chấp nhận đàm phán bốn bên sẽ giúp cho Johnson và [Phó Tổng thống Mỹ và là ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Dân chủ, ông Hubert H.] Humphrey giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, do đó để cho người dân miền Nam vẫn còn dưới sự cai trị của đế quốc Mỹ và các con rối của họ. Các ông chẳng những không giải phóng người dân miền Nam, mà còn gây thiệt hại cho họ nhiều hơn nữa. Chúng tôi không muốn các ông mắc thêm một sai lầm nữa. Chúng tôi tin rằng người dân miền Nam Việt Nam không muốn đầu hàng và họ sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến. Nhưng giờ đây, [để đạt được] mục đích thì khó khăn hơn và cái giá phải trả [cho chiến thắng] đắt hơn nhiều.
(4) Theo ý của chúng tôi, trong một thời gian rất ngắn, các ông đã chấp nhận các đề xuất thỏa hiệp và đầu hàng do những người theo chủ nghĩa xét lại của Liên Xô đưa ra. Cho nên, giữa hai đảng và và hai Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc, không còn điều gì để nói. Tuy nhiên, như Hồ Chủ tịch đã nói, mối quan hệ giữa chúng ta là mối quan hệ vừa là đồng chí, vừa là anh em, do đó, chúng ta sẽ cân nhắc những thay đổi tình hình trong tháng 11 và sẽ có ý kiến nhiều hơn nữa.
Lê Đức Thọ: Về vấn đề này, chúng ta hãy chờ xem. Và thực tế sẽ cho chúng ta câu trả lời. Chúng tôi đã có kinh nghiệm trong 15 năm qua. Hãy để thực tế chứng minh.
Trần Nghị: Chúng ta đã ký hiệp định Geneva năm 1954 khi Hoa Kỳ không đồng ý làm như vậy. Chúng ta đã rút các lực lượng vũ trang của chúng ta từ Nam ra Bắc, như vậy để cho người dân ở miền Nam bị giết hại. Vào thời điểm đó, chúng ta đã làm sai mà chúng tôi [người Trung Quốc] chia sẻ một phần [trách nhiệm].
Lê Đức Thọ: Bởi vì chúng tôi đã nghe theo lời của các ông (3)
Trần Nghị: Các ông chỉ nhắc điều đó tại Hội nghị Geneva, các ông đã sai lầm bởi vì các ông nghe theo lời khuyên của chúng tôi. Nhưng lần này, các ông sẽ sai lầm nếu các ông không nghe lời của chúng tôi.
Ghi chú:
1. Lê Đức Thọ (*) (1910-1990), thành viên cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương, là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam (dưới quyền Lê Duẩn) năm 1949-1954 (trước năm 1951 là Xứ ủy Nam bộ). Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao Động VN từ năm 1954. Từ năm 1963 làm Trưởng ban giám sát miền Nam, đã hội đàm bí mật với Henry Kissinger tại Paris từ tháng 2 năm 1970, và từng là trưởng đoàn đàm phán của Bắc Việt trong các cuộc đàm phán hòa bình ở Paris. Cùng với Kissinger, năm 1973, [Lê Đức Thọ] được trao giải Nobel Hòa bình mà ông từ chối nhận.
2. Trên đường trở về từ đàm phán Paris, Lê Đức Thọ dừng chân tại Bắc Kinh. Ông đã gặp gỡ và báo cáo với ông Trần Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc. Sau đó, ông được yêu cầu thông báo cho Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cũng như các Ủy viên Trung ương ĐCS Trung Quốc và Nhóm Lãnh đạo Cách mạng Văn hóa về nội dung của cuộc đàm thoại. Ngày 17 tháng 10, một lần nữa, Trần Nghị đã gặp Lê Đức Thọ để truyền đạt ý kiến cá nhân của Chu Ân Lai dựa trên các chỉ thị chung của Mao Chủ tịch và các Ủy viên Trung ương ĐCS Trung Quốc.
3. Xem các bài luận văn do ông Stein Tonnenson giới thiệu trong Tài liệu Làm việc số 22: “77 cuộc hội thoại giữa các nhà lãnh đạo Trung Quốc và lãnh đạo nước ngoài về các cuộc chiến tranh Đông Dương, 1964-1977“, về ý kiến của các đại từ được sử dụng trong cuộc trao đổi này.
Ngọc Thu dịch từ Wilson Center
———-
Ghi chú của người dịch:
(*) Về tiểu sử của ông Lê Đức Thọ ghi trong tài liệu này, có phần hơi khác với các tài liệu khác, như năm sinh, có nơi ghi 1911, cũng như thời gian nhận các chức vụ, có tài liệu ghi Lê Đức Thọ trở thành Ủy viên BCT Đảng Lao Động VN năm 1955, thay vì 1954.
Về việc Lê Đức Thọ không nhận giải Nobel Hòa bình, có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng Lê Đức Thọ không nhận giải Nobel là vì đảng không cho nhận, bởi nếu Lê Đức Thọ nhận giải đó, chẳng khác nào đảng thừa nhận nền hòa bình tại VN được giải quyết bằng con đường đàm phán, thương lượng, không phải do đảng lãnh đạo thành công “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Cũng có ý kiến cho rằng, Lê Đức Thọ không dám nhận vì làm như vậy là qua mặt Lê Duẩn. Một ý kiến khác, Lê Đức Thọ không muốn cùng đứng chung nhận giải với “kẻ thù” là Henry Kissinger.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 8, 2013 3:55:28 GMT 9
Đại sứ TQ thăm mộ tử sỹ TQ ở Yên BáiPhía Trung Quốc nói 320.000 binh lính của họ đã tham gia chiến tranh Việt Nam. Ảnh BBC Tân Hoa Xã cho hay Đại sứ Khổng Huyễn Hựu vừa dẫn đầu một đoàn đại biểu Trung Quốc đi viếng mộ tử sỹ Trung Quốc ở tỉnh Yên Bái hôm thứ Năm 4/4. Chuyến thăm được cho là nhằm Tiết Thanh Minh Quý Tỵ tuần rồi. Hãng tin nhà nước Trung Quốc cho hay đoàn đại biểu có thành phần là đại diện sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, các công ty, cơ quan tổ chức, sinh viên và báo chí của Trung Quốc, với một số quan chức Việt Nam tháp tùng. Đoàn của ông Khổng đã thăm hai nghĩa trang của người Trung Quốc chết trận tại Việt Nam ở Thịnh Hưng và Yên Bình, Yên Bái. Tin của Tân Hoa Xã bắt đầu bằng trích dẫn bài hát “Tình Hữu Nghị Việt Nam-Trung Hoa” của nhạc sỹ Đỗ Nhuận, viết năm 1966, mà nhóm phóng viên của hãng này nói rằng “sau nhiều thập niên, người dân vẫn cất cao giọng hát”. Truyền thông Việt Nam, kể cả báo Yên Bái, không hề nhắc tới chuyến đi của đại sứ Khổng Huyễn Hựu, tuy trong hoạt động này có sự hiện diện của bà Ngô Thị Chinh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Bà Chinh được dẫn lời nói: “Chúng tôi luôn nhớ ơn các liệt sỹ Trung Quốc”. Bà cũng nói trách nhiệm của người dân địa phương là bảo quản các nghĩa trang và gìn giữ tình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc. Về phần mình, Đại sứ Khổng Huyền Hựu phát biểu rằng quan hệ Trung-Việt đang phát triển mạnh và sâu sắc, và như vậy “không uổng máu xương của các liệt sỹ”. Giúp miền Bắc Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, theo phía Trung Quốc, nước này ngoài viện trợ kinh tế còn đưa khoảng 320.000 lượt binh lính vào giúp quân đội miền Bắc. 1.446 quân nhân Trung Quốc tử trận trong thời kỳ này được chôn ở 40 nghĩa trang tại 22 tỉnh miền Bắc và Trung Việt Nam. Một số tỉnh giáp biên giới với Trung quốc như Cao Bằng, Yên Bái, Lạng Sơn, có nghĩa trang dành riêng chôn cất tử sỹ Trung quốc. Nghĩa trang Thịnh Hưng có 111 mộ tử sỹ Trung Quốc, nghĩa trang Yên Bình có 131 mộ. Tài liệu lịch sử nước ngoài cho hay binh lính Trung Quốc tham gia cuộc chiến Việt Nam chủ yếu trong các binh chủng công binh và phòng không. Một bài của tác giả Bob Seals trên trang Military History năm 2008 nói theo tài liệu mật của CIA, ngoài phòng không, Trung Quốc còn cung cấp tên lửa, đạn pháo, hậu cần, đường xe lửa, xe phá mìn và các đơn vị công binh hàn gắn lại cơ sở hạ tầng bị các đợt oanh kích của Hoa Kỳ phá hủy. Giới nghiên cứu lịch sử chiến tranh Việt Nam cho rằng đây là vai trò rất quan trọng vì từ năm 1965 đến 1972, Hoa Kỳ đã ném hơn một triệu tấn bom xuống miền Bắc Việt Nam. Đỉnh điểm của sự can dự từ phía Trung Quốc vào cuộc chiến Việt Nam là năm 1967, khi tổng số lực lượng phòng không lên tới 17 sư đoàn, với 150.000 lính. Bài trên Military History cũng nói phía Trung Quốc cho rằng họ đã bắn hạ 1.707 máy bay Mỹ trên vùng trời Việt Nam. Tuy nhiên quan hệ hai bên bắt đầu xấu đi từ đầu những năm 1970 vì bất đồng quanh Hòa đàm Paris.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 16, 2013 8:52:37 GMT 9
Sự khác biệt giữa chủ nghĩa Cộng sản Châu Âu và Châu ÁBerlin, tháng 11 năm 1989. Nguồn: stanford.edu Trong năm 1989, hai sự kiện rất quan trọng và rất khác nhau đã diễn ra tại hai địa đầu của thế giới. Tại Đức, bức tường Berlin sụp đổ. Cộng sản, một hệ thống cầm quyền, bị sụp đổ ở Đức và phần còn lại của Đông Âu. Tuy nhiên ở Trung Quốc, một điều rất khác xa đã xảy ra. Những hy vọng của thế giới cho một nước Trung Quốc tự do, dân chủ đã tiêu tan khi xe tăng và quân đội từ nông thôn tiến vào Thiên An Môn và tàn sát hàng trăm trong số hàng ngàn sinh viên, những người đã biểu tình đòi dân chủ tại Bắc Kinh trong nhiều tháng. Dân chủ, một nền kinh tế thị trường và việc tự do phát biểu quan điểm chính trị và văn hóa đã chiến thắng chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu và thậm chí cả ở Nga, trong khi, ở Trung Quốc và trong khu vực kiểm soát Cộng sản ở Á Châu, những ảnh hưởng này đã bi đè bẹp bởi các Chính phủ Cộng sản Trung Quốc, Việt Nam, Lào và đặc biệt là, Campuchia và Bắc Triều Tiên. Chúng ta phải đặt câu hỏi: Tại sao kết quả của phong trào hòa bình và dân chủ lại quá khác nhau giữa Âu Châu và Á Châu? Thiên An Môn Ngày 3 tháng 6 năm 1989. Ảnh: AP Có nhiều lý do cho những kết quả khác nhau này và một trong những lý do đầu tiên và quan trọng nhất là loại Cộng sản đặc thù ở khu vực Á Châu hoàn toàn trái ngược với loại Cộng sản ở Châu Âu. Tại Châu Âu, ngay từ nguyên thủy, chủ nghĩa Cộng sản là một hiện tượng đô thị. Công nhân đô thị, nhất những người làm việc trong các ngành công nghiệp quy mô lớn, được coi như giai cấp vô sản, những người tiên phong của cách mạng. Cùng với các đảng Cộng sản và lãnh tụ của họ, nhiều công nhân trong các nghiệp đoàn chặt chẽ và những khu vực công nghiệp cao như Saxony hoặc lưu vực sông Ruhr ở Đức sẽ bầu cho Cộng sản hoặc ít nhất là Xã hội Chủ nghĩa với số lượng lớn. Trên khắp vùng quê, và ở các thị trấn nhỏ hay vùng ngoại ô ở Châu Âu, các cử tri bầu cho các đảng bảo thủ hay các đảng chính trị trung dung, nhưng không bao giờ bầu cho những người Cộng sản. Nông dân Nga đã tham gia và ủng hộ Đảng Cách mạng Xã hội không phải là Cộng sản mà sau đó được gọi là những người Bolsheviks trong suốt thời gian của cuộc cách mạng. Cả trước và sau Thế Chiến Thứ Hai, những khu vực nông thôn ở Đông Âu, và đặc biệt là những nông dân giàu có đã cực lực chống lại và phá hoại các nỗ lực lập nông trường tập thể tại Ukraine, Ba Lan, Nam Tư Rumania, Đông Đức và những nơi khác. Đối với Cộng sản Châu Âu, thành phố là cơ sở hỗ trợ và phải chinh phục hoặc đánh thắng các vùng nông thôn. Điều này thực tế đã có một tác động rất lớn vào những gì đã xảy ra với các chế độ Cộng sản trong các thập niên 1980 và 1990 tại Đông Âu, kể cả Nga. Một khi các thành phố đã lật đổ chế độ Cộng sản và thay thế nó với một chính phủ dân chủ không Cộng sản và thay thế nền kinh tế hỗn hợp với một khu vực tư nhân lớn, chủ nghĩa Cộng sản đã bị tiêu diệt. Sau cùng, các vùng nông thôn luôn chống Cộng sản! Ở Á Châu, người ta thấy một tình hình hoàn toàn trái ngược. Khắp Á Châu cũng như Cuba, chủ nghĩa Cộng sản lan từ nông thôn vào thành phố. Trung tâm sức mạnh chính của Mao Trạch Đông, trong Thế chiến II và cuộc nội chiến tiếp theo sau đó, nằm ở nông thôn, vùng nông nghiệp tương đối thưa thớt dân cư ở Tây Bắc Trung Quốc, từ đó Cộng sản Trung Quốc lan tràn đến Bắc Kinh, Nam Kinh, Quảng Châu và các trung tâm đô thị khác . Một khi Cộng sản của Mao đã chiếm được các thành phố nơi Quốc Dân Đảng hoặc những người quốc gia tương đối mạnh, thì coi như họ đã chinh phục tất cả Trung Quốc. Phong trào Pol Pot Khmer Đỏ là ở nông thôn và nông dân có khuynh hướng gần như cuồng tín. Nó nghiêm trị các cư dân của Nam Vang (Phnom Penh) và các trung tâm đô thị khác, giết chết hàng trăm ngàn nếu không phải hàng triệu người, và buộc những người sống sót đi làm nông dân lao động ở nông thôn. Sau cùng, phong trào Cộng sản Hồ Chí Minh đã bắt đầu như là một lực lượng chính trong vùng đồi núi phía Bắc và phía Tây của Hà Nội. Cộng sản đã không kiểm soát được các thành phố như Hà Nội cho đến khi Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ. Cũng thế trong miền Nam Việt Nam, các thành phố Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn đã kiên trì chống lại Cộng sản cho đến ngày tàn cuộc bi thương. Hỗ trợ cho Việt Cộng chủ yếu là ở nông thôn hẻo lánh như các khu vực trong đồng bằng sông Cửu Long. Theo kết quả của dữ kiện này, những chống đối ở đô thị trong các nước Cộng sản Á Châu đã không có hiệu quả như ở Châu Âu. Chính phủ Cộng sản ở Trung Quốc, Việt Nam và Campuchia luôn luôn có thể dựa vào hỗ trợ từ nông thôn. Các vùng nông thôn Á Châu đã ủng hộ cho Cộng sản nhiều hơn so với các đối tác bên châu Âu. Một yếu tố thứ hai góp phần vào sự bền vững của chế độ Cộng sản ở Á Châu là tương đối thiếu ảnh hưởng của việc chống Cộng từ bên ngoài so với tình hình mà Cộng sản Đông Âu phải đối đầu. Trong suốt những năm 1950, 1960, 1970 và 1980, Đông Âu đã bị tấn công tới tấp với chương trình phát sóng chống Cộng sản từ Radio Free Europe, một hệ thống chống Cộng tư nhân, Voice Of America, và BBC. Tây Berlin , một vùng đất chống Cộng sản nằm sâu trong lãnh thổ Cộng sản, được dùng như một cái loa để phát tán các bài phát biểu chống Cộng sản của Tổng thống John Kennedy và của Tổng thống Ronald Reagan: “Gorbachev (ich bin ein Berliner) hãy phá đổ bức tường này đi”. Lời tuyên bố này đã có một tác động rất lớn trên những người sống phía sau Bức Màn Sắt. Dân số rất lớn từ Đông Âu (Ba Lan, Hung Gia Lợi, Đức, vv) đã đến sống tại Hoa Kỳ vào lúc này. Sự hiện diện và ảnh hưởng chính trị của họ đã dẫn đến những hoạt động đặc biệt tại Hoa Kỳ như “Tháng hay Tuần lễ “các Quốc gia bị Lệ thuộc” (Captive Nations). Quốc gia bị Lệ thuộc muốn ám chỉ các quốc gia ở Âu Châu đã bị rơi vào tay Cộng sản và do đó, nằm dưới ngôi mộ hay sự thống trị của Liên Xô. Những sự kiện như thế đã dẫn đến các cuộc mít tinh và biểu tình chính trị để dồn sự chú ý liên lục của nước Mỹ và Quốc tế vào hoàn cảnh của các nước Đông Âu. Đơn giản là các nước Á Châu nằm dưới sự cai trị cộng sản đã không có được cùng một loại thông cảm và sự quan tâm này. Cộng đồng người Hoa ở Mỹ là một nhóm nhỏ hơn nhiều so với cộng đồng Ba Lan, Đức và Hung Gia Lợi . Những cộng đồng người Mỹ thiểu số thiểu số khác, có gốc từ Đông Âu, người tị nạn Việt Nam, Campuchia và Hàn Quốc thậm chí còn nhỏ hơn. Sau hết, người Mỹ gốc Hoa và những người Mỹ chống Cộng đã tập trung sự quan tâm của họ vào Đài Loan và củng cố Chính phủ Quốc Dân Đảng ở đó hơn là giải phóng hay là dân chủ hóa Hoa lục. Cuối cùng, Đông Âu đã là nơi diễn ra cuộc nổi dậy chống Cộng sản đầu tiên, hay cách mạng. Năm 1952, công nhân Đông Đức ở Berlin và các thành phố khác nổi dậy chống lại Chính quyền Cộng sản Đông Đức, một chính phủ áp bức hơn bất cứ ở nơi nào khác. Cuộc nổi dậy của họ đã bị dập tắt với xe tăng Liên Xô và quân đội. Trong năm 1956 và 1957, Hung Gia Lợi tiến hành một cuộc nổi dậy không thành công nhưng anh hùng nhằm lật đổ một chính phủ tàn bạo của chủ nghĩa Stalin, và trong số những đòi hỏi khác, hợp pháp hóa các đảng chính trị không Cộng sản, ủng hộ một nền kinh tế hỗn hợp với một khu vực tư nhân và chủ trương giữ Hung Gia Lợi trung lập trong Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô và các cường quốc phương Tây. Các cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi đã bị dẹp tan, nhưng chỉ sau khi Liên Xô can thiệp mạnh, làm nhiều người thiệt mạng. Hậu quả của cuộc nổi dậy là có trên 100.000 người Hung Gia Lợi đi tị nạn và họ đã trở thành một lực lượng chính trị mạnh ghê gớm, hoạt động chống lại chủ nghĩa Cộng sản ở Châu Âu. Cuối cùng nhưng không kém quan trọng, trong khi cuộc cách mạng Hung Gia Lợi đang diễn ra, Cộng sản Ba Lan đã thi hành một loạt các cải cách chống lại đường lối chủ nghĩa Cộng sản cứng rắn. Trong số những việc đáng kể, Chính phủ Ba Lan đã chấm dứt việc thành lập các nông trường tập thể ở nông thôn, và cho phép nông dân Ba Lan được giữ đất đai của họ. Chính phủ cũng cho phép dạy giáo lý Công giáo La Mã trong các trường công, và chính phủ cũng cho phép lập một đại học tư nhân duy nhất trên thế giới trong một quốc gia Cộng sản, Đại học Công giáo Lublin. Ở Á Châu đã hầu như hoàn toàn không có một cuộc nổi loạn chống lại chế độ Cộng sản trên quy mô của những gì đã xảy ra ở Đông Âu. Các cuộc nổi dậy của Tây Tạng vào cuối những năm 1950 là để chống Trung Quốc hơn là chống Cộng sản. Ngoài ra, có một số ổ kháng cự cuối cùng chống lại chế độ Cộng sản ở Tây Nam Trung Quốc, dọc theo biên giới Miến Điện và tại Việt Nam sau khi Sài Gòn thất thủ, nhưng không phải là những cuộc nổi loạn mới như cuộc nổi dậy của người Hung Gia Lợi năm 1956. Sau hết, người dân sống trong các nước Cộng sản kiểm soát như Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Triều Tiên, bị cô lập nhiều hơn hoặc bị cắt liên lạc với thế giới phi cộng sản. Hiện không có một Tây Berlin ở Á Châu Cộng sản. Một yếu tố khác nhấn mạnh sự khác biệt giữa Á Châu và Âu Châu là yếu tố lãnh đạo. Ngoại trừ ở Nga dưới thời Stalin, Nam Tư dưới Tito, Rumania dưới Ceauşescu và Enhver Hoxha ở Albania, tất cả các nhà lãnh đạo Cộng sản Đông Âu đều là các lãnh tụ vô danh, các sĩ quan quân đội không có gì hấp dẫn hoặc những cán bộ Cộng sản không có sức lôi cuốn. Những lãnh tụ này bị dân chúng mà họ cai trị coi như là những bù nhìn của Liên Xô. Mặt khác, hai nhà lãnh đạo nổi tiếng và có sức lôi cuốn nhất trong nước Cộng sản Ba Lan là Lech Walesa, lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết, một phong trào lao động chống Cộng sản, và giáo hoàng John Paul II.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 10:06:03 GMT 9
Các Mác và nền Báo chí XHCNMác được coi là sư tổ của phong trào xhcn tiến lên cncs ở nhiều nước hiện nay, kể cả cái Nhà nước Xô viết và một số nước xhcn Đông Âu nay đã sụp đổ. Tuy nhiên triết lý về báo chí của ông có thể coi là hoàn toàn xa lạ ở những nước này, trong đó có Việt Nam. Không chỉ là xa lạ mà có thể nói, bất kỳ ai đem tư tưởng tiến bộ về báo chí của Mác cố tìm cách thực hiện đều bị coi là tiêu cực, là phản động, là không đúng đường lối chính thống của Đảng, của Nhà nước. Karl Marx. Ảnh www.whatiseconomics.orgĐiều rất thú vị, là những trang viết đầu tay, mở đầu cho những tư duy về học thuyết của Mác lại là vấn đề Tự Do Báo chí. Trên tờ Nhật báo Tỉnh Ranh ( Reinische Zeitung), Mác đã có bài báo dài nhan đề : Những cuộc tranh luận về báo chí ,và một loạt bài bàn về tự do báo chí rất sắc sảo.(Có thể xem những bài này trong Mác Ăng ghen Toàn tập,TI.1995) Thứ nhất Mác đề cao Tự Do báo chí.Trong khi đó nền báo chí XHCN lại là nền báo chí độc nguyên. Không phải độc nguyên văn hóa hay tư tưởng mác xít. Bởi nếu là văn hóa hay tư tưởng thì sẽ là của rất nhiều người, nhiều nhóm, nhiều trường phái của cái văn hóa hay hệ tư tưởng ấy. Ở đây nó chỉ là độc nguyên của một nhóm nhỏ cầm quyền, tự cho mình là chủ của tư tưởng! Mác nói :”Báo chí nói chung là thực hiện Tự do của con người. Do đó ở đâu có báo chí, ở đó có tự do báo chí.”(sđd tr 84) Mác có một định nghĩa về báo chí tự do rất sắc sảo, cũng có thể coi đó như lý tưởng, như sứ mệnh của báo chí nói chung. :”Báo chí tự do-đó là con mắt sáng suốtcủa tinh thần nhân dân, là hiện thân sự tin cậy của nhân dân đối với bản thân mình, là những dây liên hệ biết nói gắn liền các cá nhân với nhà nước và với toàn thế giới; nó là hiện thân của nền văn hóa đang biến cuộc đấu tranh vật chất thành cuộc đấu tranh tinh thần và lý tưởng hóa hình thức vật chất thô bạo của cuộc đáu tranh đó.Báo chí tự do, đó là sự sám hối công khai của nhân dân trước bản thân mình, mà lời thú nhận thật tâm như mọi người đều biết thì có khả năng cứu rỗi. Báo chí tự do, đó là tấm gương tinh thần, trong đó nhân dân nhìn thấy bản thân mình, còn sự tự nhận thức là điều kiện đầu tiên của sự sáng suốt. Báo chí tự do ,-đó là tinh thần cuả quốc gia, mà mọi túp lều tranh đều có thể có được với những chi phí thấp hơn là phương tiện thắp sáng. Báo chí tự do là toàn diện, nơi nào cũng có mặt, cái gì cũng biết. Báo chí tự do là cái thế giới ý tưởng không ngừng trào ra từ thực tế hiện thực và lại chảy trở về hiện thực như một dòng thác đầy sinh khí dưới hình thức của cái tinh thần ngày càng dồi dào…”(Sđd tr 100). Mác nói về bản chất của báo chí tự do rất hay,”đó là bản chất dũng cảm, có lý tính, có đạo đức của tự do.”(Sđdtr89).Có bốn điều: dũng cảm, lý tính, đạo đức và tự do, đó mới là bản chất của báo chí tự do! Trong đoạn văn trên, Mác khẳng định mấy điều(a), báo chí tự do chủ yếu là của nhân dân, ta có thể hiểu rộng là của xã hội dân sự, đễ sám hối, đễ tự nhận thức. (b)BCTD, là tinh thần của quốc gia, không phải là tinh thần của phe nhóm. Dù là do ai chủ trương thì BCTD phải hướng đến hiệu quả đó. (c)BCTD là toàn diện, toàn năng đầy sinh khí. Những vấn đề ấy xa lạ biết bao nhiêu so với hiện thực méo mó, phiến diện mà nền báo chí XHCN đã thể hiện. Nền báo chí này trong hiện thực chỉ đề cao tính đảng,gạt bỏ tính nhân dân, coi thường tính phổ biến,toàn diện,ở khắp nơi nó luôn giăng ra những rào cản,áp đặt những lề đường, luôn tìm cách áp đặt vào mắt nhà báo cái ốp che mắt ngựa, để cho họ chỉ nhìn thấy cái “định hướng” của người cầm quyền. 2.Mác nói về phong cách báo chí với những lời nồng nhiệt, trữ tình. “Báo chí quan hệ với điều kiện sinh sống của nhân dân với tư cách là lý tính, nhưng cũng không kém phần tình cảm. Vì vậy, báo chí không chỉ nói bằng tiếng nói lý tính của sự phê phán đang nhìn những mối quan hệ hiện tồn từ đỉnh cao của mình, mà còn nói bằng tiếng nói đầy nhiệt tình của bản thân cuộc sống. Báo chí tự do đem tình trạng (bần cùng) của nhân dân dưới hình thái trực tiếp của nó, không bị khúc xạ qua bất kỳ giới quan liêu nào cả, tới ngưỡng cửa của nhà vua, đưa nó tới trước quyền lực của nhà nước…Báo chí chẳng qua chỉ là và phải là “biểu hiện” vang dội của những tư tưởng và tình cảm hằng ngày của nhân dân đang suy nghĩ thật sự theo cách của nhân dân-biểu hiện thật ra đôi khi nồng nhiệt, phóng đại và sai lầm.” (Sđd tr 237) Mác nói thêm : “Trong hy vọng và lo lắng, có điều gì nghe được ở cuộc sống, báo chí sẽ lớn tiếng loan tin cho mọi người đều biết, báo chí tuyên bố sự phán xét của mình đối với những tin tức đó một cách gay gắt hăng say,phiến diện như những tình cảm,tư tưởng bị xúc động thầm bảo nó vào lúc đó.” Rõ ràng báo chí XHCN đã đánh mất rất nhiều tính trong sáng, hồn nhiên vô tư của cái nhiệt tình đầy lý tính và tình cảm nhân văn, đời thường,đầy tình người. Vì nó không còn là của Dân, của xã hội,nó luôn bị “khúc xạ” bởi giới quan liêu.Ở một chỗ khác Mác còn nói rõ là bỡi giới cầm quyền chỉ muốn nghe tiếng nói của chính mình. 3.Mác có nói đên luật báo chí. Trước khi nói về luật báo chí , Mác đề cập đến một triết lý về luật pháp nói chung,(mà nó cũng vô cùng xa lạ vói tư duy luật pháp XHCN trong hiện thực). Ông nói :”Luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định rõ ràng, phổ biến,trong đó tự do có một sự tồn tại vô ngã,có tính chất lý luận, không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh của tự do, của nhân dân.” Từ quan niệm ấy, Mác đi đến khẳng định “Luật báo chí là luật thật sự,bởi vì nó biểu hiện sự tồn tại khẳng định của tự do. Nó coi tự do là tình trạng bình thường của báo chí,coi báo chí là tồn tại của tự do;vì thế luật này chỉ xung đột với những tội lỗi của báo chí với tư cách là một ngoại lệ đang chống lại tiêu chuẩn của chính mình.”(Sđd tr 91). Có thể nhận xét rằng luật báo chí của VN không chứa đựng nỗi triết lý báo chí của Các Mác! 4.Trong quan niệm luật báo chí, Mác có đề cập đến kiểm duyệt và luật kiểm duyệt.Ông quyết liệt lên án báo chí kiểm duyệt. Ông phân loại khái quát báo chí, chỉ bằng hai loại: báo chí tự do và báo chí kiểm duyệt. Các sự phân loại khác như ta vẫn thường thấy như báo Đảng,báo Đoàn thể, báo Chính quyền,báo nghành,báo trung ương, báo địa phương v.v…chỉ là phân chia theo giống. Tất tật những giống báo ấy hoặc thuộc loại này hoặc loại kia. Theo Mác trên đời chỉ có hai loại báo mà thôi. Hoặc tự do hoặc kiểm duyệt. Ông kết luận, mà cũng là kết án,”Tính cách của báo chí bị kiểm duyệt-đó là sự quái dị không có tính cách của sự thiếu tự do, đó là con quái vật được văn minh hóa, cái quái thai được tắm nước hoa.”(Sđd Tr 89) Ông nói,” Kiểm duyệt chân chính,bắt rễ từ chính bản chất của tự do báo chí, là sự phê bình. Phê bình là một sự xét xử mà tự do báo chí sản snh ra từ bản thân mình. Kiểm duyệt là sự phê bình với tư cách là độc quyền của chính phủ.”(sđd tr91) Liên quan đến phê bình, ông nhận xét sắc sảo mà cũng rất mạnh mẽ, “...khi sự phê bình không đứng trên các đảng phái, mà bản thân trở thành đảng phái,khi sự phê bình tác động không phải bằng lưỡi dao sắc bén của lý tính, mà bằng cái kéo cùn của sự tùy tiện, khi sự phê bình chỉ muốn lên tiếng phê bình,mà không muốn chịu sự phê bình, khi sự phê bình phủ nhận bản thân bằng sự thực hiện của chính mình, cuối cùng khi sự phê bình không có tính chất phê bình đến mức coi một cách sai lầm cá nhân riêng lẻ là hiện thân của trí tuệ phổ biến, coi mệnh lệnh của sức mạnh là mệnh lệnh của lý tính,coi những vết mực là những vết trên mặt trời, coi những nét gạch xóa của người kiểm duyệt là những cấu tạo toán học,coi việc dùng sức mạnh thô bạo là luận cứ mạnh mẽ,-khi đó, lẽ nào sự phê bình lại không mất tính chất hợp lý của mình?” (Sđd tr 91) Mác cho rằng “ luật kiểm duyệt không phải là luật,mà là biện pháp cảnh sát và thậm chí còn là biện pháp cảnh sát tồi, bởi vì nó không đạt được điều nó muốn,và nó không muốn điều nó đạt được” (Sđd tr 98) Ông nói tiếp. “Ở nước có chế độ kiểm duyệt bất cứ tập sách nào bị cấm, tức là không qua kiểm duyệt mà xuất bản là một sự biến. Sách ấy được coi là tử vì đạo, mà sự tử vì đạo thì không thể không có vầng hào quang và những tín đồ…Mọi điều bí mật đều có sức hấp dẫn. Chỗ nào dư luận xã hội là một sự bí mật đối với bản thân nó, thì mỗi tác phẩm trên báo chí vi phạm về mặt hình thức những giới hạn bí ẩn đều sẽ có sức lôi cuốn trước dư luận xã hội ấy. Chế độ kiểm duyệt làm cho mỗi tác phẩm bị cấm dù hay hoặc dở đều trở thành không bình thường, còn tự do báo chí thì tước mất của tác phẩm cái vẽ oai nghiêm, bề ngoài đó.” (sđd tr 98) Ông chỉ ra hậu quả tai hại của kiểm duyệt,”Chính phủ chỉ nghe thấy tiếng nói của chính mình,duy trì sự lừa dối và cũng đòi nhân dân phải ủng hộ sự lừa dối đó. Còn nhân dân hoặc sẽ rơi vào tình trạng mê tín chính trị,hoặc hoàn toàn quay lưng lại với cuộc sống quốc gia,biến thành đám người chỉ sống với cuộc đời riêng tư…Chế độ kiểm duyệt bóp chết tinh thần của quốc gia như thế đó.”(sđd tr105 Mác chỉ ra những điều, nghịch lý thay lại là hiện thực của nền báo chí XHCN.Nhiều sự thực đã chứng minh nhận xét của Mác là đúng. “Quan chức kiểm duyệt không chỉ trừng phạt những hành vi phạm tội,bản thân ông ta còn bịa ra những hành vi phạm tội đó…Chính vì vậy mà công việc kiểm duyệt được giao không phải cho tòa án, mà là cho cơ quan cảnh sát”. Ở các nước XHCN còn được giao cho quan chức tuyên huấn, cho cả những cán bộ chính trị không có kiến thức gì về lĩnh vực này.(Sđd tr102). Ông còn nói “Chế độ kiểm duyệt lên án ý kiến của tôi không phải là ý kiến của quan chức kiểm duyệt,mà là của cấp trên ông ta .” (sđd tr102) 5.Trong nền báo chí XHCN còn một vấn đề khác cũng rất quan trọng, đó là mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và báo chí. Tư tưởng sau đây của Mác cũng rất xa lạ và trái khoáy với hiện thực. Mác quả quyết “ Trong lĩnh vực báo chí, những người cai trị và những người bị cai trị có khả năng như nhau đễ phê bình những nguyên tắc và yêu cầu của nhau, nhưng không phải trong khuôn khổ những quan hệ lệ thuộc, mà trên cơ sở ngang quyền với nhau, với tư cách là những công dân của nhà nước-không phải với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà với tư cách là những sức mạnh của trí tuệ, với tư cách là những người thể hiện những quan điểm hợp lý.” ( Lời bào chữa của phóng viên ở Mô den-sđd tr290) Nền báo chí XHCN từ lúc nào đã nhiểm thói xấu (mà Lênin gọi là mùi xú uế của thây ma chế độ cũ) luôn coi báo chí và những người làm báo như thần dân, như phó thường dân, sẵn sàng hoạnh họe, sãn sàng bắt bớ…Tại sao không tiếp nhận được tư duy tiến bộ của Mác đễ xây dựng một quan hệ thật văn hóa,thật tiến bộ, thật nhân văn giữa báo chí và giới cầm quyền? Năm vấn đề rất lớn mà Mác gợi ý cho nền báo chí Việt Nam, nó dường như kết luận quả quyết rằng nền báo chí XHCN hiện thực đang rất phi mác. Chả nhẽ người Nam bộ sau 75, lại thông tuệ, nhạy bén dường vậy khi phán một câu như thánh phán “nói zậy mà không phải zậy”. Hay là Vũ Trọng Phụng có lý khi nhận xét rằng: “Thật thế, tôi tin rằng Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết và tư tưởng ở đâu đâu, tốt đẹp thế nào mặc lòng, cũng cứ đến đây là thối nát. Tôi không tin dân An nam ta lại có nỗi một điều tín ngưỡng nào, một quan niệm chắc chắn gì…” (dẫn theo Hoàng Ngọc Hiến trong Luận bàn về Minh triết.NXB Tri Thức 2011.) Báo chí là một lĩnh vực hoạt động tinh thần, mà Mác nói là con mắt, là tấm gương soi là tinh thần v.v…của nhân dân.Làm cho nó xứng đáng là công cụ văn hóa của Đất nước hôm nay là chuyện lớn.Tôi gởi gắm tâm tình này tới các nhà báo và nhà cầm quyền nhân ngày Báo chí “cách mạng” VN với niềm hy vọng chúng ta phải làm cho báo chí VN, theo Mác là loại báo chí TỰ DO,để cho điều mà chúng ta tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác là kim chỉ nam, không trở thành “ nói một đằng, làm một nẻo.” Nền báo chí Việt Nam, trong sứ mệnh và sử mệnh cao quý của mình, để xứng đáng với Nhân dân, với Đất Nước trong thế kỷ 21 này, xin hãy thức tỉnh. Theo Quê Choa
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jul 4, 2013 4:11:27 GMT 9
Ác quỷ sẽ thất nghiệp khi Fidel Castro chết Maciej Stasinski Đinh Minh Đạo dịch LND: Guillermo Farinas là một trong những nhà đối lập hàng đầu của Cuba. Từ một sỹ quan quân đội cộng sản, ông đã dấn thân trên con đường đấu tranh chống độc tài đấy gian nan, khúc khủyu. Ông đã đặt cả sinh mạng của mình vào cuộc đối đầu với chế độ cộng sản. Guillermo Farinas là con của một nhà cách mạng. Cha ông đã tham gia cuộc phiêu liêu quân sự của Che Guevara trong cuộc nội chiến của Congo. Từ thời niên thiếu, ông đã được đào tạo để trở thành kẻ trung thành với chế độ của anh em nhà Fidel Castro. Tuổi trẻ của Guillermo Farinas đã khởi đầu từ trường võ bị. Guillermo Farinas đã từng làm nhiệm vụ canh phòng trong khu nghỉ mát sang trọng Managua, thuộc ngoại ô Havana. Nơi đây, những quan chức của chính quyền Cuba thường ăn nhậu, hưởng lạc cùng các „đồng chí” trong đường dây buôn bạch phiến từ Colombia và Mehico. Năm 1980, khi canh phòng ga tầu hỏa Havana, ông đã chứng kiến cảnh những người dân Cuba tràn vào sứ quán Peru xin tị nạn chính trị, Castro đã cho phép những ai muốn ra đi. 125 nghìn người Cuba đã rời bỏ tổ quốc, nhưng số người muốn ra đi là 3 triệu người. Đây là con số mà chế độ Castro không bao giờ dám công bố. Ông bắt đầu có những nghi ngờ đối với chế độ Phidel Castro khi ông tham chiến tại Angola. Qua 11 tháng năm 1981-1982, ông đã chứng kiến những người lính Cuba đã tàn sát dân làng, họ „giúp đỡ” những người cộng sản anh em Angola, thực hiện ý đồ của người anh cả Liên Xô, gieo trồng những hạt giống cộng sản trên lục địa đen. Sau khi trở về từ Angola, Guillermo Farinas đươc cử đi học Liên Xô. Trên đường đến Liên Xô, ông cùng 200 học viên quân sự Cuba được dừng chân ở Tiệp Khắc để nghe thuyết trình vể „phong trào phản cách mạng” Công Đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan. Ba năm tại học viện quân sự của Liên Xô, ông đã được chứng kiến tham nhũng của các quan chức và sự bần cùng của chế độ cộng sản Xô Viết. Từ Liên Xô trở về, ông đã thấy một xã hội Cuba thật tồi tệ. Những tên tay sai tin cậy nhất của Fidel Castro trong ngành tình báo, hàng ngày tụ tập cùng với gái đẹp, rượu rum, whisky. Họ ăn chơi cạnh những bể bơi, chỉ đạo , ngợi khen các chiến dịch bí mật chống lại Mỹ và Chile. Còn Fidel Castro thì ngủ với những người vợ của các „đồng chí”, những người đang làm đại sứ ở các nước xa xôi. Sau khi rời quân đội, Farinas nghiên cứu tâm lý học. Năm 1989, Fidell Castro đã sát hại hai người bạn chí thân của mình, hai quân nhân ưu tú, tướng Arnaldo Ochoe và đại tá Tony de la Guardia. Cũng trong năm này, Guillermo Ferinas đoạn tuyệt với chế độ Fidel Castro, ông trở thành nhà đối lập.Từ đây ông bắt đâu cuộc đấu tranh không khoan nhượng đối với chế độ độc tài cộng sản. Ông trải qua 11 năm trong nhà tù, đã hơn 20 lần tuyệt thực để phản đối chế độ lao tù và bênh vực những người đấu tranh cho tự do, dân chủ. Năm 2010 Farinas đã tuyệt thực đến gần kề cái chết, ông đòi hỏi chính quyền phải thả hết các tù nhân chính trị. Sau 135 ngày nhịn ăn phản đối của ông, Castro đã phải nhượng bộ, thả các tù nhân chính trị. Quốc hội của Liên Minh Châu Âu (EU) đã trao tặng Guillermo Farinas giải thưởng nhân quyền mang tên nhà bác học Nga Andre Sakharow. Tháng 05-2013, chính quyền Cuba đã cho phép Farinas ra nước ngoài, ông đã đến Bruksel để nhận giải thưởng đã chờ đợi ông từ lâu. Guillermo Farinas cùng một số nhà đối lập của Cuba đã đến Ba Lan theo lời mời của Viện Lech Walesa. Nhân dịp này, phóng viên Maciej Stasinski của nhật báo WYBORCZA đã phỏng vấn Farinas. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bài phỏng vấn này. Qua bài phỏng vấn, chúng ta thấy được tầm nhìn và cách tổ chức đấu tranh của những người đấu tranh chống chế độ độc tài cộng sản Cuba. Họ cũng đi qua những bước phân tán, hành động đơn lẻ. Họ lập ra nhiều tổ chức. Các tổ chức này quá nhỏ yếu, lại không thể kết hợp hoạt động vì một mục đích chung. Giờ đây họ đã nhận ra, muốn thắng được chế độ độc tài cộng sản, họ cần có một mặt trận (một mặt trận chứ không phải một đảng) đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân cùng tham gia đấu tranh. Thiết tưởng, đây cũng là một bài học cho phong trào đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam chúng ta. —————————————————————— Guillermo Farinas Maciej Stasinski: Tại sao chính quyền Cuba cho phép các nhà đối lập ra nước ngoài? Hai tuần trước đây, blogger Yoani Sanchez đã đến đây để nhận giả thưởng nhân vật năm 2013 của nhật báo Wyborcza. Hôm nay thì đến ông. Guillermo Farinas: Chế độ độc tài muốn đánh bóng hình ảnh của mình trước các quốc gia dân chủ phương tây. Họ sẽ cần nguồn tài chính và đầu tư từ Mỹ và châu Âu. Họ hiểu rằng, Venezuela, chiếc phao cứu nạn cuối cùng cho chế độ cộng sản của Cuba sẽ sụp đổ. Họ chuẩn bị cho kịch bản , khi hàng tỷ đô la từ Venezuela không còn chảy sang Cuba nữa. Chế độ độc tài Cuba đã từ lâu biết rằng, Hugo Chavez sẽ chết vì ung thư và cái gì đang chờ đợi họ. Chủ nghĩa cộng sản Cuba vẫn đang được những người theo cánh tả ở châu Mỹ Latinh ủng hộ, nhưng điều đó chưa đủ, nền kinh tế của họ cần được cấp cứu khẩn cấp. Vì vậy họ thử nghiệm một hành động để tranh thủ cảm tình của Mỹ và EU. Họ thả các tù chính trị, cho phép các nhà đối lập ra nước ngoài. Nhưng trước đây họ đã phớt lờ những yêu sách này của phương tây. - Nhưng giờ đây Fidel đã không còn lãnh đạo nữa, Raun đã thay thế. Đó là hai con người hoàn tòan khác nhau. Fidel coi mình như một ông thánh, tự quyết định mọi việc, không cần giải thích cho bất cứ ai, hậu quả những người thừa hành phải trả giá. Tự cho mình là người chỉ huy thiên tài, Fidel chỉ yêu có bản thân mình. Ác quỷ sẽ mất việc, khi Fidel chết. Raul là một con người bình thường, nhưng rất coi trọng chức vụ. Tàn nhẫn nhưng biết nghe ngóng, làm việc theo tập thể, yêu quý gia đình. Trong 6 năm đã kiên trì thay thế tay chân của Fidel bằng người của mình. Hiện nay nắm giữ chặt chẽ hai bộ quốc phòng và nội vụ. Fidel sẵn sàng đón nhận sự bùng nổ của của xã hội. Đối với nó, điều quan trọng là quyền lực cá nhân chứ không phải tương lai của đất nước. Raul muốn lợi dụng thời gian, chờ cho đến khi ông anh chết, sẽ nhượng bộ để giữ chính quyền. Vài năm gần đây, chế độ độc tài đã nghiên cứu những kinh nghiêm của các nước Nga, Ukraina, Belarusia và Mehico . Họ xem xét mô hình chính quyền của các đảng trong các quốc gia nói trên. Đặc biệt họ rất quan tâm đến chủ nghĩa Putin. Không phải mô hình Trung Quốc? - Không, vì Trung Quốc vẫn chỉ có một đảng cầm quyền. Raul biết rằng, Cuba với mô hình Trung Quốc không thể thuyết phục được Mỹ và Châu Âu. Dân chủ hình thức và mị dân, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền là mô hình mà Raul muồn chọn lựa. Bởi vậy , người đương chức phó thủ tướng Miguela Diaz-Canela, 51 tuổi, bàn tay chưa dính máu là người Raul chọn để kế cận. Có ai đó giống Gorbachev? - Không, chỉ có người giống như Aleksander Lukasenko của Belarusia. Raul Castro đã nói rằng, sau 5 năm nữa sẽ không ra ứng cử chức chủ tịch một lần nữa. Đó muốn nói đến Diaz-Canela sẽ thay thế và gửi tín hiệu đến các nhà đấu tranh cho dân chủ, đến những Kiều bào, đến thế giới : Các anh hãy chờ đợi! Đừng phiêu lưu, sau một vài năm nữa Fidel chết, chúng tôi sẽ bắt đầu công cuộc chuyển đổi được kiểm soát. Hiện nay chính quyền còn đang xây dựng chủ nghĩa Putin. Thực hiện cải tổ một vài chính sách : cho phép người dân buôn bán nhà cửa, ô tô, sử dụng internet, điện thoại cầm tay, nông dân được canh tác cá thể. Qua đây, chính quyền muốn người dân hiểu rằng, chế độ cộng sản Cuba sẽ chuyển sang thể chế mới, mềm dẻo hơn. Những người đối lập sẽ làm gì trước tình hình này? - Chúng tôi không cho phép họ. Giống như cuộc đấu vật đang chờ đợi chúng tôi. Họ muốn cho rất ít, còn chúng tôi muốn tối đa, trong khả năng có thể của mình. Đối lập đã thay đổi. Cho đến thời điểm này còn yếu, chia rẽ và rất ít tiếng tăm. Chúng tôi phải chấm dứt tình hình này. Chúng tôi phải xây dựng phong trào đối lập rộng khắp, lần đầu tiên hiện diện trong tất cả các địa phương của đất nước, dưới sự chỉ đạo có trách nhiệm. Chúng tôi phải chấm dứt tình trạng, mỗi một người đối lập là một lãnh tụ nhỏ của một đảng nào đấy và hoạt động chỉ để tồn tại và đi định cư ở nước ngoài. Chúng tôi phải ở lại hòn đảo và sát cánh bên nhau cùng đấu tranh. Tổ chức mới LIÊN MINH YÊU NƯỚC được chỉ đạo bởi 16 người. Chúng tôi đã có 5000 hội viên, đây là một sự kiện chưa tuàng có ở Cuba. Từ đâu mà có sự thay đổi này? - Những người Cuba tự nhận ra rằng, sự phân tán sẽ không dẫn đến đâu. Đầu những năm 90, tôi đã tham gia trong 11 dự án thống nhất đối lập, tất cả đều đổ vỡ vì luôn gặp phải vấn đề khó khăn nhất, ai sẽ là người đứng đầu. Sau cái chết của Osvaldo Pai Sardinas (chủ tịch Phong Trào Giải Phóng Cơ Đốc Giáo), do an ninh gây ra trong tai nạn giao thông, đã chứng tỏ rằng, toàn bộ phong trào đối lập không thể chỉ dựa vào một người. Khi tôi được trao giải thưởng Sakharov, những người bạn ở các tổ chức đối lập khác, mong muốn củng cố phong trào đối lập nói với tôi : „Anh sẽ là lãnh tụ”. Tôi trả lời : „Sẽ không có việc đó, anh phải chịu trách nhiệm trước nhóm của anh, chúng ta phải hoạt động cùng nhau. Giải thửơng Sakharov giúp chúng ta thực hiện điều này”. Đấu tranh là công việc chung. Chỉ khi nào chính quyền chấp nhận thương lượng, lúc đó chúng ta mới nghĩ đền việc lựa chọn người đứng đầu, theo phương pháp bầu cử dân chủ. Chúng tôi phải chuẩn bị cho thời điểm này. Khi đó, chúng tôi sẽ tập trung các nhóm lại để bàn bạc. Lần đầu tiên, chúng tôi đã kết hợp các lực lượng đấu tranh cho dân chủ của các thế hệ khác nhau. Từ những người sáng lập đến những thanh thiếu niên ủng hộ dân chủ. Những người ở tuổi từ 60 đến 80 như : Hector Palacios, Rene Gomez Manzano, Elizardo Sanchez, Felix Bonne. Họ đã giúp đỡ những người đối lập trẻ thống nhất lại. Họ là những cố vấn, nhũng người che chở cho LIÊN MINH YÊU NƯỚC. Đó là sự thay đổi chất lượng mang đặc tính Cuba. Nỗi sợ hãi trước đây làm tê liệt nhân dân nay đã biến mất? - Đúng, nỗi sợ hãi đã giảm đi rất nhiều. Chúng tôi không sợ bị giết hay bị đưa vào nhà tù, nhưng chúng tôi sợ tư tưởng nóng vội, phân tán, không tập trung cho mục tiêu chính, không đấu tranh kiên trì đến chiến thắng hoàn toàn. Giờ đây, chiến thắng đang điểm từng giờ. Hãy đừng thêm một người nào rời khỏi Cuba. Chúng tôi phải vượt qua kỳ sát hạch để có giấy chứng nhận và những kinh nghiệm cho những người đi sau chúng tôi. Các ông cần đạt tới những mục tiêu nào? - Chúng tôi có 5 yêu cầu mang tính nguyên tắc. Thứ nhất, thả vô điều kiện tất cả các tù nhân chính trị, hiện có 82 người. Thứ hai, chính quyền phải phê chuẩn và thực hiện Tuyên Ngôn Phổ Quát Quyền Con Người và Công Dân. Thứ ba, mọi người dân Cuba phải được tự do tiếp cận với thông tin, internet, được quyền có báo chí, truyền thông tư nhân độc lập, Thứ tư, tự do thành lập các đảng phái chính trị và các tổ chức độc lập. Thứ năm, cho phép tất cả những người Cuba ở trong nước và định cư ở nước ngoài tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của đất nước. Tức là hòa giải với những người đã bỏ nước ra đi? - Đúng như vậy. Tôi đã đến Miami bang Floryda. Tôi đã gặp gỡ tất cả những người Cuba ở đó, từ thành phần cứng rắn đến ôn hòa. Ở mọi nơi tôi đều thấy sự đồng thuận, họ ủng hộ chúng tôi. Họ nói : „Các anh có lý, chúng tôi ủng hộ các anh, giúp đỡ các anh” Không một ai bác bỏ những dự kiến hoặc đặt điều kiện đối với chúng tôi. Họ đặt câu hỏi, chúng tôi có yêu cầu gì đối với họ. Chúng tôi, những người đang sống trên hòn đảo hiểu rằng, chúng tôi cần phải cất cái đầu cải tổ quá nặng nề lên. Họ cũng biết như vậy. Không phải những kiều dân sẽ giải phóng cho chúng tôi, chính chúng tôi phải tự giải phóng mình, họ chỉ giúp đỡ. Chế độ Raul Castro coi trọng các ông? - Hiện tại thì chưa. Chế độ độc tại mong muốn yên ổn ngự trị đến năm 2018. Chúng tôi bác bỏ ý định này. Cần thiết cuối cùng là huy động lực lượng quần chúng. Những ngày ở Ba Lan, trong Viện Lech Valesa, chúng tôi mong muốn tìm hiểu, bằng cách nào mà SOLIDARNOSC (Công Đoàn Đoàn Kết) trong những năm 80 phát triển đến hàng triệu đoàn viên. Chỉ khi nào làm được như vậy, chúng tôi mới buộc chính quyền ngồi vào bàn đàm phán. Cách đây nửa năm, chúng tôi có 2000 hội viên, hiện nay hơn 5000, hết năm 2013 chúng tôi muốn có 10000. Chúng tôi sẽ áp dụng nhiều biện pháp : tổ chức xuống đường phản đối, thành lập các nhóm nhà báo độc lập, các tạp chí in giấy và điện tử. Chúng tôi sẽ tổ chức mạng lưới phân phối báo và đĩa CD từ tay người này đến tay người khác, từ nhà này đến nhà khác. Yoani Sanchez huấn luyện những người đối lập sử dụng internet và dự định ra tờ báo mạng hàng ngày. Chúng tôi sẽ làm chương trình bằng video và phát tán trên hòn đảo. Càng ngày Twitter và Facebook càng phát triển rộng rãi ở Cuba. Khi công an đánh đập hoặc đóng các trang của một blogger nào đó, tin tức lan truyền với khẩu hiệu : „Chúng ta đi đến đồn công an để đòi hỏi giải thích”. Ngoài những hành động phản đối, chúng tôi phải sử dụng hình thức thuyết phục bằng lý lẽ. Ông nói, chế độ đã phát đi tín hiệu? - Hiện nay là thời điểm đặc biệt. Xã hội bất bình và giận dữ cao độ mà tôi chưa từng thấy. Người dân đã hết sợ hãi, chế độ độc tài chưa bao giờ yếu như hiện nay. Bắt đầu đặt sợi dây và tự thắt cổ mình. Giờ đây, họ đã ngừng nhắc đến chủ nghĩa Mark-Lenin , đến chủ nghĩa xã hội một cách triệt để, bởi họ đang thử nghiêm cải tổ tự do. Để mị dân, họ thay những người giáo điều bằng những người trung thành. Trong lãnh đạo quân đội, có hai xu hướng. Những người trẻ muốn thương lượng sau khi Fidel chết, những người già không muốn có bất cứ một sự nhượng bộ nào vì bàn tay họ đã vấy máu. Đại diện cho hai xu hướng này là tướng trẻ Alvaro Lopez Miera và tướng già Anton Enrique Luzon Battle. Cả hai đều muốn duy trì chế độ Raul Castro. Ai sẽ thắng, chúng tôi không thể đoán trước được, nhưng chúng tôi phải chuẩn bị đối phó với cả trường hợp, nếu hàng loạt những nhà hoạt động của chúng tôi sẽ đi ngồi tù. Vai trò của nhà thờ thế nào? - Nhà thờ hiện nay đóng vai trò thật ô danh. Cách đây 3 năm hồng y Jaime Ortega và các cơ quan của nhà thờ đã muốn chiếm đoạt thành quả thả các tù chính trị. Nhà thờ đã không hoạt động gì để giúp đỡ những tù nhân đấu tranh bằng tuyệt thực. Làm lễ cầu nguyện cho Fidel Castro, nhưng từ chối làm lễ cầu nguyện cho Orlando Zapata Tamayo, một tù nhân chính trị đã tuyệt thực đến chết năm 2010. Các linh mục đã cầu nguyện cho sức khỏe của Hugo Shaveza, nhưng hồng y Ortega đã cấm các linh mục làm lễ cầu nguyện cho Larua Pollan, một người lãnh đạo một tổ chức đấu tranh cho dân chủ chết. Hồng y đã quá tuổi 75 cách đây hai năm, nhưng không về hưu. Ông đã yêu cầu giáo hoàng để tiếp tục tại vị. Chúng tôi không chấp nhận nhà thờ với một người lãnh đạo như vậy. Nhà thờ đã trở thành cơ sở hợp tác với chế độ độc tài. Ông đã từng là một người trung thành của quân đội, con người của chiến tranh, Nay ông tuyên bố con đường đi đến thương lượng hòa bình với chế độ độc tài? - Chủ nghĩa Mark-Lenin đã chỉ dậy cho tôi biết căm thù. Khi tôi rời bỏ chế độ, tôi trở thành người kito giáo thực hành. Tôi đã đọc kinh thánh, tôi hiểu rằng, phải biết tha thứ cho kẻ thù của mình, không có con đường nào khác. Tôi không muốn trả thù , tôi muốn phải giải quyết mọi việc theo luật pháp. Nếu tôi không thay đổi, giờ đây tôi có thể là một đại tá, một kẻ vô liêm sỉ, một kẻ mà tương lai của những người đồng hương, của đất nước không hề làm mình bận tâm. Hoặc không đủ dũng khí để trở thành người đối kháng. Tôi biết như vậy vì tôi có những người bạn là đại tá, cùng lứa tuổi với tôi, họ cũng đã nói với tôi như thế. Warsaw tháng 06 – 2013 Bản tiếng Ba Lan đăng trên nhật báo WYBORCZA
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 7:54:37 GMT 9
Ukraine 1932-1933: trận đại tàn sát kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại của StalineMùa đông năm 1932-33 Ukraine, quốc gia nhỏ bé phía tây nước Nga đã trải qua một nạn đói khủng khiếp khiến cho bẩy triệu người chết thảm, đây là cuộc đại tàn sát lớn nhất trong lịch sử nhân loại do Staline ra tay trừng trị nước chư hầu này vì đã dám đòi độc lập và chống lại Xô viết. Mặc dù số người thiệt mạng khổng lồ như thế nhưng trang sử ghê tởm nhất của Xô Viết đã không được nhân loại biết tới trong suốt 70 năm. Người ta khen Staline đã khéo giấu kín được tội ác tầy trời này trước mắt cả thế giới, cho tới nay trận đại tàn sát này cũng ít được biết tới, nó còn được gọi là The forgotten Holocaust, có thể người ta tưởng nó chỉ là chuyện nội bộ của Liên bang Xô Viết. Dưới thời Lenine Ukraine diện tích bằng nước Pháp, một đất nước có nhiều ruộng nương mầu mỡ đã bị Nga hoàng cai trị 200 năm. Năm 1917 Nga Hoàng sụp đổ trước cuộc cách mạng vô sản do Lénine lãnh đạo, Ukraine lợi dụng thời cơ đòi tự trị, tuyên bố độc lập, thành lập nước Cộng hòa nhân dân, thủ đô Kiev. Thế nhưng nền tự trị này quá ngắn ngủi, cuối 1917 Lénine tuyên bố các lãnh thổ xưa do Nga hoàng cai trị nhất là Ukraine mầu mỡ đều phải nằm trong Liên bang Xô Viết. Trong 4 năm liên tiếp Quân đôi Quốc gia Ukraine phải chiến đấu chống Hồng quân Bolshevik, chống lực lượng Bạch Vệ trung thành với Nga Hoàng và cả quân xâm lược Đức và Ba Lan. Năm 1921 Xô Viết thắng, Tây Ukraine chia cho Ba Lan, Rumani, Tiệp Khắc. Xô Viết vơ vét thóc gạo về cứu đói Moscow và các thành phố lớn bên Nga. Kế đó tự nhiên Ukraine lại bị một trận hạn hán gây nạn đói khiến người dân căm phẫn Lénine và Xô Viết. Lénine bèn nới tay để xoa dịu nhân dân Ukraine, thôi lấy thóc gạo, khuyến khích tự do buôn bán. Nhân đó người dân Ukraine muốn tự do, độc lập, khôi phục văn hóa nghệ thuật, phong tục.. cũ. Cuộc chiến kỳ lạ Lénine mất năm 1924, Staline kế vị, nhà lãnh đạo này được coi là một trong vài con người khát máu nhất của thế kỷ. Bộ Lenine Tuyển Tập có ghi lại một bức thư của Lénine, ông ta đã nhắn nhủ “chúng ta không nên dùng đồng chí Staline, đồng chí Staline là một người thô bạo” Staline không chấp nhận phong trào đòi độc lập của Ukraine, ra lệnh đàn áp thẳng tay y như đường lối áp dụng tại Nga. Năm 1929 Staline cho bắt giam 5,000 trí thức, các nhà khoa học gia Ukraine, kết tội phản loạn đem xử bắn hoặc đầy đi Siberia. Đầu thập niên 30, Staline thực hiện kế họach hợp tác xã nông nghiệp để tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa trong đó tư sản bị lọai bỏ, ngày nay đường lối canh tác tập thể này được coi như tồi tệ nhất nhưng hồi đó Xô Viết ép dân theo vì lý thuyết Marx bắt phải như vậy. Giới phú nông Ukraine mà họ gọi là Kulaks chỉ chiếm từ 4% tới 5% dân số, phú nông được định nghĩa có từ 24 hoặc trên 24 mẫu đất và có thuê người làm và được coi thành phần nguy hiểm. Ngày 1-5-1930 Đảng Cộng Sản Nga bắt đầu thực hiện Hợp tác xã nông nghiệp, một phần của Kế họach ngũ niên (Five Year Plan), nông dân Nga ít chống đối vì họ đã có truyền thống canh tác cộng đồng từ lâu, đất đai thuộc về làng xã (Mir) không thuộc về cá nhân như tại Ukraine nên họ dễ thích hợp với Hợp tác xã của Cộng Sản. Ngày 30-7-1930 nhà nước hủy bỏ làng xã. Vùng Ukraine trái lại người dân làm ăn cá thể, 80% dân chúng tại thôn quê có ruộng đất riêng từ xưa nên họ chống đối Hợp tác xã ra mặt, Moscow mới đầu tạm thời nhượng bộ. Người Ukraine giết gia súc, ngựa, heo, cừu… dần dần trước khi gia nhập hợp tác xã khi ấy nhà nước ra lệnh tử hình ai giết gia súc. Những người chống đối Hợp tác xã bị lưu đầy, chính quyền Xô Viết mở tuyên truyền kêu gọi nhân dân Ukraine ủng hộ chính quyền cách mạng nhưng thất bại, mặc dù dọa nạt khủng bố nhưng nông dân Ukraine vẫn chống đối, phá hoại, đốt nhà không đầu hàng, họ lấy lại nông cụ, gia súc mà Hợp tác xã đã chiếm trước đây, ám sát các viên chức Xô Viết. Trung ương đảng Nga đưa mật vụ quân đội sang đàn áp cuộc nổi dậy nhưng kháng chiến quân Ukraine vẫn tiếp tục chống đối, họ muốn làm ăn cá thể như xưa. Nông dân Ukraine thách đố Staline. Việc chống gia nhập Hợp tác xã chỉ là một nguyên do, Ukraine còn chống đối về mặt chính trị, họ muốn đòi độc lập, tự do. Staline trước hết cho thanh toán hành quyết hàng nghìn trí thức Ukraine, nhà văn nhà báo, nhà lãnh đạo. Âm mưu đòi độc lập cho Ukraine không phải chỉ ở làng xã mà mà ngay cả ở Trung ương đảng Cộng Sản Ukraine. Xô Viết cho thanh trừng dữ dội, nhiều người tự tử, nhiều nhà văn, đảng viên cũng tự tử. Cuộc chống đối của Ukraine với Xô Viết y như trứng chọi đá, cuộc chiến giữa người nông dân với cuốc xẻng và Hồng quân , mật vụ Nga vũ trang súng đạn. Làng mạc bị bao vây, tấn công bằng đại bác xe tăng, máy bay ném bom bắn phá.. khiến một Đại tá công an Nga sô phát khóc nói với một ký giả, ông cho biết mình đã chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân chống Bạch Vệ thời nội chiến bây giờ được lệnh bao vây tấn công những người dân vô tội. Hatayevich, một đảng viên cao cấp Xô viết cho biết cuộc chiến đấu ác liệt giữa Xô Viết và nông dân Ukraine đang diễn ra, một cuộc chiến sinh tử, năm 1933 là thử thách giữa sức mạnh của Đảng CS Nga và sự chịu đựng của nông dân, họ sẽ nếm mùi đói để xem ai làm chủ nơi đây. Cuộc chiến 1932-33 một cuộc chiến kỳ lạ nhất lịch sử. Staline thay đổi chiến lược. Thảm kịch mùa đông 1932-1933 Trận đói khủng khiếp mùa đông giữa 1932 và 1933 không do thiên tai hạn hán mà do con người làm ra, do lệnh của một người. Trong một phiên họp Trung ương đảng ngày 11-9-1932, Staline cho biết tình hình Ukraine nghiêm trọng, nếu không sớm ra tay Xô Viết sẽ mất miền đất mầu mỡ này, năm 1932 dân số Ukraine là 32 triệu, khoảng 75% điền sản tại đây đã phải gia nhập Hợp tác xã. Để đối phó với tình hình, Staline bèn đưa một kế họach ác ôn, man rợ vừa để trả thù và để dẹp tắt phong trào, kế họach đã khiến bẩy triệu người (7.000.000) dân quê Ukraine phải chết đói la liệt khắp các xã thôn. Staline ra lệnh cho tịch thu hết thực phẩm tại Ukraine: khoai tây, cải bắp, lúa mì..chở sang Sô Viết từ tháng 8, tháng 10 1932 và tháng 1-1933 số lượng tịch thu tăng cao khiến Ukraine không còn thực phẩm nhất là tại các làng miền quê. Staline cho xuất cảng lúa mì tịch thu để lấy ngọai tệ phục vụ Ngũ niên kế họach, canh tân nông nghiệp và củng cố quốc phòng. Số lúa mì bị Xô Viết cướp đi đủ sức nuôi dân Ukraine trong vòng hai năm. Đảng Cộng Sản Ukraine khẩn xin Moscow bớt lấy lúa mì của Ukraine và cứu trợ thực phẩm, Staline từ chối rồi đưa 100 ngàn quân Nga tới thanh trừng đảng Cộng Sản Ukraine. Quân Nga đóng cửa biên giới Ukraine, ngăn chận thực phẩm đưa vào Ukraine khiến cho đất nước này biến thành một trại giam khổng lồ, theo lệnh của Staline chính quyền phải để mặc nhân dân chết đói cho họ biết tay. Người dân miền quê còn giấu giếm được một số thực phẩm sống lây lất nhưng Staline lệnh cho mật vụ Nga tại Ukraine đi từng nhà tịch thu hết mọi thực phẩm dự trữ của các gia đình, nhân dân không còn đến một củ khoai, một miếng bánh. Nông dân bị cấm không được đi các địa phương khác hoặc lên tỉnh xin ăn, họ cũng bị cấm lấy trộm thực phẩm của hợp tác xã, nhiều người đói quá ra đồng lấy một vài bông lúa ăn đỡ hoặc lấy trộm khoai, lúa… trong các kho bị công an bắn chết ngay. Nạn đói lan nhanh, từ già đến trẻ bắt đầu chết đói la liệt khắp nơi. Các đội mật vụ đi gom các xác chết quẳng xuống hố tập thể chôn cất hàng ngày, theo lời các nhân chứng kể lại những người suy nhược chưa chết cũng bị quẳng xuống hố . Khác với Hitler giết người bằng hơi ngạt khiến nạn nhân chết ngay không đau đớn, Staline bắt các nạn nhân phải suy nhược quằn quại, đói khổ.. họ phải sống trong đau khổ cho tới chết. Mặc dù bị cấm đi địa phương khác kiếm ăn người dân quê vẫn lên tỉnh để rồi cũng lăn ra chết thê thảm. Thành phố được cấp theo khẩu phần, dân tỉnh bị cấm không được cứu giúp những người chết đói, bác sĩ không được chữa bệnh cho những dân quê đang chết đói, người dân quê lên tỉnh cuối cùng chết la liệt ngoài đường phố, hàng ngày có xe chở đi chôn tập thể. Trong khi các đảng viên, mật vụ lính Nga béo tốt, được ăn uống no đủ thì người dân Ukraine nhất là miền quê đói rã họng ra, theo lời các nhân chứng còn sống sót kể lại vì hết thực phẩm người dân phải ăn lá cây, vỏ cây, mèo chuột, chó, cả sâu bọ … để cầm hơi qua ngày. Cả trẻ nít vô tội cũng bị Xô Viết bắt phải chết như người lớn. Ngoài ra nhân dân còn bị quân Nga, mật vụ cướp bóc hãm hiếp . Nhân dân đói quá phải ăn thịt người chết, có người giết cả trẻ nít đang hấp hối để nuôi gia đình, theo lời các nhân chứng còn sống, dân Ukraine tại miền quê năm 1932-33 ăn thịt người là chuyện thường. Mùa xuân 1933, cao điểm của nạn đói, khoảng 250 ngàn người chết mỗi ngày tại Ukraine, có nơi cả làng chết. Tại Âu châu, Canada, Mỹ người gốc Ukraine gửi thực phẩm về giúp đồng bào nhưng chính quyền Xô Viết cấm chở thực phẩm tới biên giới vì họ phủ nhận không có nạn đói. Tại Ukraine ai nói có nạn đói bị kết án tuyên truyền chống Xô Viết và bị bắt giam ngay. Tới cuối năm 1933 khoảng 25 % dân Ukraine, tức 8 triệu người bị chết đói kể cả 3 triệu trẻ em. Bọn hào phú bị tiêu diệt , nhà nông toàn nước bị dìm xuống, Staline đã đạt được mục đích, đã tiêu diệt xong bọn phản động, tiểu tư sản thoái hóa chống lại Hợp tác xã… để tạo dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhà độc tài bèn cho phân phối thực phẩm trở lại Ukraine, nạn đói chìm dần, tuy nhiên những cuộc thanh trừng chính trị, bắt bớ phản động vẫn tiếp tục chỉ ngưng lại năm 1941 khi bị Đức Quốc Xã tấn công. Hitler xua quân vào Ukraine cướp bóc vựa lúa và thay thế chế độ Cộng Sản hà khắc bằng khủng bố phát xít. Bao nhiêu người đã chết? Số người chết trong nạn đói tại Ukraine không toàn toàn chính xác cũng như số người chết trong các cuộc chiến tranh lớn hay thế chiến vì không ai có thể đếm, thống kê đến nơi đến chốn được nhưng các nhà nghiên cứu cũng cố gắng tìm ra con số gần với sự thật nhất. Theo Andrew Gregorovitch trong bài “Black Famine in Ukraine 1932-33, a struggle for existence” cho biết nhóm Conservative Estimates ước lượng số nạn nhân trong trận đói 1932-33 tại Ukraine khoảng 4 triệu 8 , nhưng nhiều nhà nghiên cứu ước lượng nó vào khoảng từ 5 cho tới 8 triệu người chết. Mặc dù Xô Viết luôn luôn chối bai bải không có nạn đói tại Ukraine nhưng người ta đã tham khảo một cách gián tiếp và đã ước lượng khoảng từ 10% cho tới 25% dân Ukraine đã chết trong nạn đói kể trên, nhà nghiên cứu Vasyl Hryshkocho biết mỗi ngày có 25,000 người chết tại các làng ở Ukraine, hoặc hơn 1,000 người chết trong một giờ hoặc 17 người trong một phút. Nửa năm đầu 1933, Xô Viết cấm người ngoại quốc tới thăm Ukraine, các ký giả không vào lấy tin được cho tới mùa hè, thu khi họ bãi bỏ lệnh cấm. Nhà ký giả Mỹ Henry Chamberlin đến thăm Ukraine ngay sau khi Xô Viết bãi bỏ lệnh cấm du lịch và cho biết mỗi làng ông đến thăm có ít nhất khoảng 10% người dân chết vì đói . John F. Stewart trong cuốn Tortured but Unconquerable Ukraine, xuất bản 1953, trang 8 cho biết. “Trong khi chưa có số thống kê chính thức về tấm thảm kịch này , theo như trong tự điển Nga The Small Soviet Encyclopedia năm 1940 xác nhận dân Ukraine năm 1927 là 32 triệu nhưng năm 1939 tức 12 năm sau, dân tụt xuống còn 28 triệu, thế thì 4 triệu người đã đi đâu? Ngoài ra còn phải kể 4 triệu người do gia tăng dân số?” Như vậy theo Stewart số nạn nhân là 8 triệu. Theo Holodomor (nguồn Wikipedia) số nạn nhân chết đói tại Ukraine năm 1933 được ước lượng từ 2 triệu 6 cho tới 10 triệu người. Theo bài “Staline Forced Famine in 1932-1933, 7,000,000 Deaths” (trong The History Place , Genocide in the 20 th Century) số nạn nhân là 7 triệu. Theo phóng viên Askold Krushelnycky con số nạn nhân được ước lượng vào khoảng từ 7 triệu cho tới 11 triệu người chết đói tại Ukraine 1933. Như thế đa số các nhà nghiên cứu, ký giả ước lượng vào khoảng bẩy triệu người đã bỏ mạng trong trận đói này. Staline che mắt thế gian Người ta khen Staline đã khéo dấu nhẹm cuộc tàn sát vĩ đại này, các triều đại Cộng Sản Xô Viết sau Staline cũng ếm nhẹm thảm kịch này nhưng cái kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra. Ký giả Askold Krushelnycky trong bài phát thanh trên Radio free Europe ngày 8 tháng 4-2003 tại Tiệp Khắc “Staline gây nạn đói tại Ukraine – bẩy mươi năm sau, phần lớn thế giới vẫn không biết tới thảm kịch này” (Staline’s Starvation of Ukraine – Seventy Years later, World Still Largely Unaware Of Tragedy) cho biết mặc dù số người chết thê thảm nhiều như thế nhưng thế giới không có mấy người biết về trang sử ghê tởm này của Cộng Sản Nga so với cuộc diệt chủng Do thái. Theo ông lý do chính là Đức Quốc Xã bị bại trận, hàng ngàn nhân chứng còn sống kể lại chi tiết về trại giam và cuộc tàn sát tập thể, người ta còn lấy được nhiều phim ảnh, hồi ký ghi lại tội ác của bọn phát xít, rồi những tên đồ tể, đao phủ bị bắt đem đi xử… vì thế cuộc tàn sát diệt chủng của Hitler đã được phổ biến sâu rộng. Robert Conquest, sử gia Anh chuyên nghiên cứu về thảm kịch này, trong tác phẩm năm 1986 của ông “Harvest of Sorrow”, mùa gặt nỗi u sầu lần đầu tiên đã đem tấn thảm kịch này đến cho khán giả Tây phương . Ông nói một sự khác biệt nữa giữa cuộc diệt chủng Do thái là Hitler đã viết thành văn bản trong cuộc tàn sát của mình còn Staline không ghi văn kiện tài liệu kế họach của y, ông nói nay nhiều sử gia chấp nhận có nạn đói thì một số nghi ngờ đã tìm cách biện hộ cho Staline. Ông cho biết từ ngày Liên bang Xô Viết tan rã khiến người ta dễ vào tìm tài liệu tại các văn khố Nga, chính ông đã có bằng chứng là Staline đã biết hàng trăm ngàn dân quê tìm cách vào Nga kiếm thực phẩm. Conquest cho rằng nạn đói trước nhất nhắm vào Ukraine mà Staline không chỉ thù ghét người dân quê mà cả các đảng viên Cộng Sản cao cấp Ukraine. Lyubomyr Luciuk giám đốc Hiệp hội nghiên cứu của Canada về Ukraine cho biết lý do tại sao tin tức về nạn đói lại không được chuyển đến Tây Phương, ông chỉ trích những nhà báo Tây phương hồi đó ở Moscow đã biết nạn đói này nhưng đã không đề cập đến nó và còn cố ý che dấu nữa. Ông cho biết người ký giả đóng vai then chốt trong việc che dấu này là ký giả Walter Duranty của tờ Nữu Ước Thời Báo, The New York Times . Duranty là người ngưỡng mộ Staline, ông ta mô tả nhà độc tài này như “Chính khách lỗi lạc nhất thế giới hiện nay” (The world greatest living statesman), Duranty là người ký giả Mỹ đầu tiên được phỏng vấn nhà lãnh đạo Sô Viết này và được cho phép tham khảo, lấy những tin mật của chế độ. Hồi ấy, Duranty đã tâm sự với một nhà ngoại giao Anh rằng ông nghĩ khoảng 10 triệu người đã bị chết đói nhưng khi các ký giả khác thăm Ukraine rồi viết báo về nạn đói diễn ra tại đây thì Duranty lên tiếng bài bác ngay cho là tuyên truyền láo khoét chống Xô Viết, Liciuk cho rằng Duranty bị Mật vụ Nga hăm họa công bố sự thật về đời tư anh ta vì biết anh có nhiều bệnh kỳ quái về tình dục. Sô Viết bầy trò lừa bịp các ký giả ngọai quốc đến lấy tin như nhà văn Anh Bernard Shaw thăm Nga rồi về viết bài thuận lợi cho Cộng Sản. Cựu Thủ Tướng Pháp Edward Herriot được sang thăm Ukraine năm ngày trong chuyến du hành đã được dàn cảnh bịp bợm, đi thăm những khu phố đẹp sạch sẽ tại Kiev, thăm một Hợp tác xã kiểu mẫu, khi về nước ông ta nói có lợi cho Cộng Sản và tuyên bố không có nạn đói tại đây Sáu kỹ sư người Anh làm việc tại Nga Xô bị bắt và kết án phá hoại, gián điệp, hối lộ rồi bị hăm dọa kết án tử hình, phiên tòa xử sau đó chỉ là trò hề ma mãnh đánh lạc hướng ký giả ngoại quốc để họ không chú ý tới nạn đói Ukraine nữa. Xô Viết hăm dọa ký giả ngọai quốc để viết thuận lợi cho họ, đa số ký giả ngoại quốc phải nhượng bộ Cộng Sản và viết bài có lợi cho Xô Viết như Duranty viết “những bài nói về nạn đói thật nhố nhăng”. Các nước Tây phương giữ thái độ thầm lặng đối với thảm kịch này dù họ đều đã biết nỗi đau khổ của Ukraine qua các nguồn tin tín cẩn của giới ngoại giao. Năm 1933 Tân Tổng Thống Roosevelt đã chính thức công nhận chính quyền Cộng Sản Staline và đề nghị buôn bán với họ. Ngũ Niên Kế Hoạch của Nga để canh tân đất nước cần phải mua hàng hóa, máy móc thiết bị của Tây phương với khối lượng rất lớn. Các nước Tây phương vớ được mối làm ăn béo bở, được một ông khách hàng rất sộp nên họ lờ đi không nói tới nạn đói. Tại sao tàn sát? Trong phim The Soviet story người ta đặt câu hỏi: Tại sao cần phải tàn sát? Why killing is essential? Một nhà nghiên cứu Nga trong phim cho biết Karl Marx là cha đẻ của chủ nghĩa diệt chủng chính trị ngày nay. Marx nói. “Những giai cấp và chủng tộc quá yếu không theo kịp cuộc sống mới cần phải bị lọai bỏ” (“The class and the races too weak to master the new condition of life , must give away” – Marx – People’s paper, April 16-1858) “Họ phải bị tiêu diệt trong hỏa lò cách mạng” (They must perish in the revolutionary Holocaust – Karl Marx – Journal of the History of ideas, Vol 42, number 1 – 1981). Tàn sát bắn giết của người Cộng Sản là một chính sách. Lenine nghiên cứu rất kỹ tư tưởng Marx – Engels và áp dụng triệt để phương thức này, ông gọi là bạo lực cách mạng. Lenine viết trong một bức thư như sau: đem 100 tên tư sản đi bắn để cho nơi cách xa đó hàng trăm cây số người ta phải sợ (theo phim The Soviet Story), người xưa gọi là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ”, giết một người sẽ làm cho một vạn người sợ. Trước hết việc tàn sát bắn giết của Cộng Sản để gieo rắc kinh hoàng, khủng bố gây khiếp đảm cho người dân phải sợ không dám chống lại họ. Cả hai hệ thống Quốc Xã Đức và Cộng Sản Nga đều lấy tàn sát làm cơ bản cho sự cai trị để tạo con người mới (the birth of a new man) , phải tiêu diệt con người cũ mới tạo được con người mới. Chế độ phát xít Hitler chủ trương con người mới phải là người thông minh, đẹp giai, khỏe mạnh, những người tàn tật xấu xí, đi cà nhắc cà nhắc, răng hô mắt chột… hoặc người Do Thái phải bị tiêu diệt sạch. Đối với người Cộng Sản, bọn phản động, tiểu tư sản, địa chủ phải bị giết sạch để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trên thực tế các nước Cộng Sản thường giết vào khoảng 10% dân số. Trong khi Đức Quốc Xã, phát xít Nhật quí trọng người dân nước họ, chỉ giết người ngoại quốc thì các chế độ Cộng Sản “khôn nhà dại chợ” chỉ biết đè cổ nhân dân của mình ra tàn sát không gớm tay. Đức Quốc Xã là chủ nghĩa xã hội quốc gia, Cộng Sản là chủ nghĩa xã hội quốc tế. Thập niên 1930, một thập niên đẫm máu ghê tởm nhất của lịch sử nước Nga khi Staline tiến hành thực hiện Hợp tác xã nông nghiệp, làm ăn tập thể tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa. Nhà độc tài cho lệnh tiêu diệt những thành phần ăn bám, cản đường, lừng khừng không có lập trường cách mạng, bọn phản động âm mưu chống đối và bọn có tinh thần làm ăn cá thể… Đây là giai đoạn đoạn bắn giết tập thể theo kế họach của Staline . Staline cho xây dựng hằng hà sa số các trại tập trung tại những nơi xa xôi để giam cầm tiểu tư sản những kẻ không theo họ, có khoảng một phần ba hoặc một nửa bỏ xác vì đói lạnh trong chốn địa ngục trần gian. Trong phim The Soviet Story, thập niên 30 là giai đọan tàn sát của Staline, Xô viết cho xây dựng khắp nước Nga những lò sát sinh y như thời thượng cổ. Những tòa nhà này được xây bằng gạch kiên cố, những phòng bắn người làm ở dưới hầm, có đường rãnh để dẫn máu chẩy ra ngoài. Tội nhân được dẫn xuống dưới hầm tới phòng đỏ, họ bị bắn vào gáy, mỗi tối mật vụ có thể bắn một trăm hoặc vài trăm người, ban đêm có xe bít bùng chở xác vào rừng chôn tập thể.. Sáng ra người dân kinh hãi khi thấy các vệt máu trên đường đi, họ không dám hé răng nói tới. Các mồ chôn tập thể rải rác trong nước, số người bị hành hình quá nhiều, con cái các nạn nhân bị hành quyết mất cha, mất mẹ, không nhà không cửa đi lang thang ngoài đường phố, số người vô gia cư ngày một nhiều, Staline cho phép bắn các trẻ em trên 12 tuổi để làm sạch thành phố. Tại các địa phương bắn giết người đạt chỉ tiêu được thưởng. Tổng thống Nga Gorbachov tố cáo “Staline tắm trong máu”, ông cho biết đã thấy danh sách tử hình dài do Staline ký hàng loạt, trong khoảng 1937-1941 có tới 11 triệu người bị bắn giết. Năm 1942 Churchill viếng Kremlin, Staline thú thực với ông đã có 10 triệu người bị đổ máu trong giai thực hiện Hợp tác xã, tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa, nhà độc tài nói không thể làm khác hơn được. Phim The Soviet Story nói trong khi Xô Viết tàn sát hàng hà sa số người thập niên 30, tại Âu châu có một người theo dõi và khâm phục Staline, trong một khoảng thời gian không dài lắm đã giết được nhiều như thế, người ấy là Hitler, như vậy Staline là bậc sư của Hitler trong nghề sát sinh . Theo Le livre noir du communisme của Courtois, Werth, Pannée, Trần Hữu Sơn lược dịch Cộng Sản quốc tế đã sát hại 100 triệu người. Trung Cộng 65 triệu, Nga 20 triệu, Bắc Hàn 2 triệu, Miên 2 triệu, Việt Nam 1 triệu… Một điều khó hiểu là trừ Staline bị hạ bệ, những tên đồ tể Mao, Hồ, Kim Nhật Thành… đã làm đổ máu nhiều triệu người nhưng vẫn được xây lăng, dựng tượng, được ca tụng, sùng bái… khắp nơi trong nước, thật là hiện tượng kỳ quái. Cộng sản Việt Nam cũng như các nước chư hầu xã hội chủ nghĩa khác đã rập khuôn áp dụng bạo lực cách mạng, lấy đa sát, bắn giết làm tôn chỉ. Như chúng ta đã biết năm 1945 khi Việt Minh cướp chính quyền họ đã thủ tiêu chôn sống vài chục ngàn người quốc gia và nhiều tình nghi vô tội khác. Năm 1952, 53 trong thời kỳ kháng chiến Việt Minh đã cho đấu tố địa chủ và nhất là năm 1955, 1956 họ phát động phong trào cải cách ruộng đất qui mô, đấu tố …giết hại khoảng 170 ngàn người vô tội. Những năm 1957, 58, 59… tại nông thôn miền Nam Việt Nam, Việt Cộng đã sát hại hàng chục ngàn viên chức xã thôn, thường dân vô tội. Năm 1968 CS Băc Việt thủ tiêu khoảng 6 ngàn người thường dân, tình nghi tại Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, trong trận chiến 1972 tại Quảng Trị, CSBV pháo kích gây thiệt hại hàng chục ngàn thường dân trên đường chạy loạn, năm 1975 hàng mấy chục ngàn người thường dân chạy loạn tại các bến tầu, cửa biển, trên đường số 7… bị thiệt mạng vì pháo kích của Cộng quân . Hitler nói sau này nhân loại sẽ phải nhớ ơn chế độ Quốc Xã vì ta đã diệt chủng được bọn Do Thái. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Staline, Mao, Hồ, Pôn Pốt.. đều đã cho rằng những cuộc thanh trừng, tàn sát của họ là vì nhân dân, vì lợi ích của đất nước. Tưởng niệm Đài tưởng niệm nạn đói 1932-1933 tại Kiev Tháng 3 năm 2008 nhiều nước trên thế giới đã lên án tội diệt chủng của chính quyền Xô Viết, Liên Hiệp Quốc năm 2003 cũng đã xác nhận nạn đói tại Ukraine và nhiều nơi trong nước Nga do hậu quả của chính sách độc tài tàn bạo. Ngày 28-11-2006 quốc hội Ukraine lên án nạn đói năm 1933 là tội diệt chủng, ngày 23-10-2008 Quốc Hội châu Âu ra quyết nghị coi nạn đói 1933 là tội ác chống nhân loại. Ngày 13-1-2010 tòa Kiev, Ukraine tuyên án nạn đói là diệt chủng, Staline và các lãnh đạo Sô Viết phạm tội diệt chủng Ukraine 1933. Nay người ta dựng nhiều tượng đài tại Ukraine và nhiều nơi trên thế giới để tưởng niệm các nạn nhân nạn đói 1933. Tại Edmonton, Alberta Canada 1983, đài tưởng niệm 50 năm nạn đói Ukraine đã được dựng lên . Tại Canada tỉnh Ontorio, ngày 9-4-2009 ra nghị quyết tưởng niệm nạn đói. Tại Mỹ ngày 13-11-2009 Tổng Thống Obama đọc diễn văn trong ngày tưởng niệm nạn đói Ukraine (Ukrainian Holodomor Remembrance Day), ông nói: “Tưởng niệm những nạn nhân của thảm họa nạn đói Ukraine cho chúng ta dịp để nghĩ tới hoàn cảnh của những người dân phải sống khốn khổ dưới các chế độ cực đoan, tàn bạo trên thế giới” (“remembering the victims of the man-made catastrophe of Holodomor provides us an opportunity to reflect upon the plight of all those who have suffered the consequences of extremism and tyranny around the world”- Wikipedia- Holodomor) © Trọng Đạt © Đàn Chim Việt Xem video: Câu chuyện Xô Viết ——————————————– Tham khảo: vimeo.com/12057428: The Soviet Story from Saigonner on Vimeo, post by Tiengthongreo.blogspot.com, a film by Edvins Snore. www.historyplace.com/worldhistory/genocide/stalin.htmStaline forced Famine 1932-1933: The History Place, Genocide in the 20 th Century www.infoukes.com/history/famine/gregorovich: Black Famine in Ukraine 1932-33, a struggle for existence, by Andrew Gregorovich. ukemonde.com/news/rferl.html: Staline’s Starvation of Ukraine – Seventy years later, World still Largely Unaware of Tragedy – By Askold Krushelnycky, Radio Free Europe/Radio Liberty . faminegenocide.com/resources/ukraine_famine.html: Ukraine famine; en.wikipedia.org/wiki/Holodomor: Holodomor www.infoukes.com/history/famine/The artificial famine/genocide (Holodomor) in Ukraine 1932-33 www.ihr.org/jhr/v06/v06p207_Moroz.htmlVolentyn Moroz: Nationalism and genocide: The origine of the artificial famine of 1932-1933 in Ukraine. www.ukemonde.com/holodomor/famine_rs.htmlFamine in Ukraine: Induced starvation, death for millions, genocide. www.nhacsing heo.com/ToiacCS/ index.html Le livre noir du communisme: Courtois, Werth, Pannée, Trần Hữu Sơn lược dịch www.Daiviet.us. Tiến sĩ Phan Văn Song: Ba tên đồ tể lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 20.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 10:06:40 GMT 9
Xa cộng sản, gần con người: bể dâu ở Tây Âu
Tháng 3 28, 2013
Tony Judt - Phan Trinh dịch
Giới thiệu của người dịch:
1. Có một thời, không ít trí thức Tây Âu say mê cộng sản như nghiệnthuốc phiện, nói theo cách của Raymond Aron (Marx: Tôn giáo là thuốc phiện mê dân. Aron: Chủ nghĩa Marx là thuốc phiện mê hoặc trí thức.) Nghiện đến mụ mị, họ còn cho rằng ai theo cộng sản như họ mới tiến bộ, còn ai chống cộng là đi ngược dòng lịch sử.
Nhưng đến thập niên 1970, 1980, thì “ngược” lại hóa xuôi trong một cuộc bể dâu làm suy tàn danh tiếng của cả những trí thức hàng đầu.
2. Bàn về trí thức theo cộng sản, có ý kiến cho rằng “Đã thông thái và cộng sản thì không lương thiện”*. Đây là một cách nhìn, có lẽ đúc kết từ những kinh nghiệm đau đớn và phản ảnh một thực tế dữ tợn khó phủ nhận, vẫn diễn ra hàng ngày. Nhưng cũng có cách nhìn khác. Mượn lời Karl Popper, bà Aung San Suu Kyi, lãnh tụ đối lập Miến Điện, cho rằng “Không có cái ác… chỉ có sự ngu dốt mà thôi.”** Nói cách khác, ngu dốt đã sinh ra cái ác và sự bất lương.
Có lẽ, đó là một kết luận bao dung, không phán xét đạo đức, tin vàotính bản thiện của con người, tin vào khả năng thắp sáng của sự thật, có thể dùng làm nền tảng của đối thoại thay vì loại trừ. Và Aung San Suu Kyi đã làm điều bà tin trong cuộc đấu tranh cho dân chủ đang diễn ra.
Nhưng cũng có thể cắc cớ hỏi lại rằng: Hay vì không sống ở Việt Nam thời cộng sản nên Aung San Suu Kyi tin rằng “không có cái ác” chăng?
Dù sao, thiện ác là đề tài dễ gây tranh cãi. Ai cũng có thể chọn cách nhìn này hay cách nhìn kia, đứng giữa cả hai, phủ nhận cả hai, hoặc đứng ngoài, miễn bàn… Nhưng có lẽ, điều đáng nói hơn là sau khi tỉnh ngộ, người hiểu biết và có lương tri sẽ đứng đâu, làm gì.
Như được mô tả trong bài này, sự thật đã đẩy lùi dối trá và một thế hệ trí thức mới ở Tây Âu đã đứng về phía quyền con người. 40 năm sau, điều này dường như cũng đang diễn ra tại Việt Nam.
3. Cuộc biến cải lớn lao, ván đặt cược trắng tay của trí thức, và quyền con người như một ngọn cờ mới là nội dung đoạn văn dưới đây của sử gia Tony Judt ***, trích từ cuốn Post War - A History of Europe Since 1945 (Hậu Chiến – Một cách nhìn về Lịch sử Châu Âu từ 1945), do Nhà Xuất bản Penguine Books phát hành năm 2005. Đoạn trích dịch là phần đầu Chương 18, ‘Power of the Powerless’ (Quyền lực của Không Quyền lực) dựa trên tiểu luận cùng tên của Vaclav Havel. Chương này phần đầu nói về trí thức Tây Âu, và phần sau nói về trí thức Đông Âu trước khi cộng sản sụp đổ năm 1989. Tựa và tiêu đề các đoạn là của người dịch.
—
* Xem “Góp phần ‘giải mã’ một thế hệ dấn thân” của Hà Sĩ Phu, đăng trên trang mạng Bauxite Việt Nam, ngày 25/2/2013.
** “There’s no evil… but stupidity”. Xem Aung San Suu Kyi – The Voice of Hope, của Alan Clements và Aung San Suu Kyi, NXB Penguine Books, 1997, trang 130 và 36.
*** Tony Judt sinh năm 1948 tại Luân Đôn. Ông học tại King’s College, Cambridge, Anh Quốc, và École Normale Supérieure tại Paris. Ông dạy học tại Cambridge, Oxford, Berkeley và New York University. Năm 1995, ông sáng lập và điều hành Viện Remarque chuyên nghiên cứu Châu Âu. Ông là tác giả của hàng chục đầu sách, là cộng tác viên thường xuyên của The New York Review of Books, The New York Times (NYT). Cuốn Post War, dài trên 900 trang, lọt vào chung kết Giải Pulitzer, là một trong 10 tác phẩm hay nhất năm 2005 của NYT, đoạt giải Arthur Ross Book Award sách hay nhất về lịch sử quốc tế năm 2006. Tony Judt mất năm 2010 tại New York.
NYT có câu nhận xét về Post War sau đây: “… đồ sộ, đầy học thuật và thật chi tiết, mô tả Châu Âu hồi phục từ đống đổ nát Thế chiến thứ Hai, tác phầm của Judt vừa cho thấy toàn cảnh cả một lục địa, vừa cho bùng nổ những kiến giải bất ngờ gần như trên từng trang giấy.”
___________________
Sức nặng của một cuốn sách đúng lúc
Nếu muốn tìm một thời điểm có tính biểu tượng, đánh dấu sự chuyển đổi của cục diện Châu Âu, một bản lề dựa trên đó cái nhìn của Châu Âu hậu chiến về chính mình xoay chiều, thì đó là ngày 28 tháng 12 năm 1973, tại Paris, ngày tác phẩm Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago) của Alexandr Solzhenitsyn được xuất bản lần đầu tiên tại Phương Tây. Điểm bản dịch tiếng Anh của cuốn sách, nhà phê bình W. L. Webb viết trên tờ Guardian rằng: “Sống thời nay mà không biết tác phẩm này thì có nguy cơ trở thành một thứ thằng khờ lịch sử, sẽ bỏ sót một phần rất quan trọng của ý thức thời đại.” Tuy nhiên, như Solzhenitsyn công nhận, điều nghịch lý nằm ở chỗ thông điệp của cuốn sách – rằng “Chủ nghĩa xã hội như đang tồn tại trên thực tế” chỉ là một trò dối trá man rợ, một chế độ độc tài toàn trị được xây dựng trên nền tảng lao động khổ sai và thủ tiêu hàng loạt – lại không có gì mới.
Solzhenitsyn đã viết về đề tài này trước đó. Vô số nạn nhân, người sống sót, nhà quan sát, các học giả cũng đã viết về đề tài này trước đó. Quần đảo ngục tù tuy có bổ sung thêm cả trăm trang chi tiết và dữ liệu cho các tác phẩm trước, nhưng về khả năng đánh động lương tâm và cảm xúc người đọc thì phải nói tác phẩm này không hơn được cuốn tự thuật Đường vào tâm bão (Journey into the Whirlwind) của Evgenia Ginzburg, xuất bản năm 1967; hoặc cuốn hồi ký của Margarete Buber Neumann về kinh nghiệm bản thân trong cả hai ngục tù Xô-viết lẫn Đức Quốc xã, xuất bản lần đầu năm 1957; hoặc cuốn sách của Wolfgang Leonhard giải mã về niềm tin đặt sai chỗ của mình, ra mắt năm 1955; hoặc cả những cuốn góp phần đánh đổ huyền thoại Xô-viết sớm hơn nữa của Victor Serge và Boris Souvarine.[1]
Nhưng điều quan trọng hơn cả là Quần đảo ngục tù đã ra đời đúng lúc. Những trí thức phê phán chủ nghĩa cộng sản chẳng bao giờ thiếu; tuy nhiên, ảnh hưởng của họ trong nhiều thập niên lại bị lu mờ đi vì niềm hy vọng hão huyền, nhưng tràn lan ở Tây Âu (và cả Đông Âu thập niên 1960), của những kẻ cố tìm cho ra vài tia hy vọng trong đám mây đen có tên chủ nghĩa xã hội nhà nước đang bao phủ phần lớn lục địa Châu Âu, sau khi ra đời tại Nga năm 1917. “Chống cộng sản”, bất kể vì động cơ thật hay được gán ghép, dễ dàng bị xem là hành vi thách thức cả lịch sử lẫn tiến bộ, là bỏ qua “bức tranh tổng thể”, là cố tình chối bỏ sự gần gũi thiết yếu gắn kết nhà nước phúc lợi dân chủ (dù thiếu sót đến mấy) với chế độ tập thể của chủ nghĩa cộng sản (dù vấy bẩn đến đâu).
Đó là lý do khiến những trí thức chống lại hiện trạng hậu chiến bị đẩy ra ngoài lề. Những chủ trương như của Hayek và một số trí thức tương tự – rằng các kế hoạch nhằm kìm hãm kinh tế thị trường, nhân danh phúc lợi cho mọi người, dù có mục tiêu tốt vẫn không thể mang lại hiệu quả kinh tế, và tệ hơn nữa, nó còn là bước đầu trên conđường dẫn tới nô lệ – bị xem là chủ trương sai lầm, là xé nát tấm bản đồ đưa đến tiến bộ của thế kỷ 20. Ngay những người chống độc tài cộng sản như Arthur Koestler, Raymond Aron, Albert Camus hoặc Isaiah Berlin cũng bị xem thường. Họ cho thấy cải cách dân chủ xã hội vì phúc lợi của mọi người không đồng nghĩa với độc tài đảng trị nhân danh tập thể, nhưng chủ trương của họ lại bị nhiều nhà phê bình, được gọi là “tiến bộ” lúc bấy giờ, xem như một thứ tiếng vọng nối dài phục vụ quyền lợi của phe chống cộng trong Chiến tranh Lạnh.
Hậu quả là họ đụng phải sự miễn cưỡng tràn lan, đặc biệt là của thế hệ 1960, thế hệ những kẻ không muốn từ bỏ thứ giáo lý cấp tiến đã theo đuổi bấy lâu nay. Quả thực, thấy được đại họa do Stalin gây ra và nhạo cười ông là một chuyện – dù sao thì Stalin cũng đã chết từ lâu và còn bị các thuộc hạ kế vị mình lên án – nhưng nhận ra rằng sai lầm không nằm ở cá nhân con người mà là lỗi hệ thống là một việc hoàn toàn khác. Xa hơn nữa, nếu ai nói rằng tội ác và các lầm lạc do đường lối Lenin gây ra xuất phát từ một thứ chủ nghĩa không tưởng chứ không gì khác, thì họ sẽ bị xem như kẻ dám đặt mìn phá hoại rường cột chống đỡ nền chính trị hiện đại. Nhà sử học người Anh, E.O. Thompson, người được xem như thần tượng của thế hệ trẻ theo “chủ nghĩa Marx hậu cộng sản”, đã lên giọng phê phán Leszek Kolakowski (sau khi Kolakowsi phát hành một tác phẩm lên án chủ nghĩa cộng sản Xô-viết nhân những biến cố năm 1968) như sau: “Sự bất mãn của anh là mối đe dọa cho chính nghĩa xã hội chủ nghĩa của chúng tôi!”.
Tuy nhiên, vào năm 1973, niềm tin ấy đã bị lung lay nghiêm trọng, không chỉ vì các trí thức lên tiếng phê phán nó, mà còn vì các sự kiện thực tế nữa. Khi Quần đảo ngục tù được phát hành bằng tiếng Pháp, nhật báo cộng sản L’Humanité đã bài bác nó, họ nhắc nhở độc giả rằng “mọi người” đều đã biết mọi sự về Stalin rồi, vì vậy bất cứ ai muốn moi móc xào nấu lại những chuyện như thế thì chỉ có thể là những kẻ bị kích động theo “chủ nghĩa chống Xô-viết” mà thôi. Nhưng, lời tố cáo “chủ nghĩa chống Xô-viết” vào lúc đó cũng không còn nặng ký nữa. Sau vụ Liên Xô xâm lăng Tiệp Khắc chiếm đóng Praha [1968] và đàn áp kéo dài, sau khi thông tin lọt ra từ Trung Quốc vén màn sự thật về Đại Cách mạng Văn hóa, thì lời tố cáo cộng sản từ gốc lên ngọn của Solzhenitsyn bỗng nghe rất thật – ngay cả, và nhất là, cho những người vốn có cảm tình với cộng sản.
Di sản đổ vỡ
Càng ngày người ta càng thấy rõ chủ nghĩa cộng sản đã làm hư hoại và đánh mất di sản cấp tiến của mình. Và nó tiếp tục đánh mất mình khi nạn diệt chủng tại Kampuchea và bi kịch của “thuyền nhân” Việt Nam được biết đến rộng rãi.[2] Trí thức Tây Âu, con số này rất nhiều, vốn cho rằng Mỹ phải chịu trách nhiệm phần lớn về những tai họa xảy ra tại Việt Nam và Kampuchea. Tinh thần chống Mỹ của họ còn được tiếp thêm nhiên liệu sau khi xảy ra cái chết của Salvador Allende tại Chile do Mỹ giật dây, chỉ ba tháng trước khi xuất bản cuốnQuần đảo ngục tù. Nhưng ngay cả lớp trí thức đông đảo này cũng ngày càng tỏ ra e ngại khi phải đưa ra kết luận, thay vì ung dung phát biểu như trước đây, rằng phe chủ nghĩa xã hội đạo đức hơn phe kia. Đúng là chủ nghĩa đế quốc của Mỹ rất tệ – nhưng phía bên kia còn tệ hơn, thậm chí tệ hơn rất nhiều.
Vào lúc này, quan điểm “cấp tiến” quen thuộc khẳng định rằng mọi công kích nhắm vào chủ nghĩa cộng sản là đe dọa gián tiếp nhắm vào tất cả mọi nỗ lực cải thiện xã hội – quan điểm này cho rằng chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, dân chủ xã hội, quốc hữu hóa, quy hoạch tập trung, và những cải cách xã hội cấp tiến đều là thành phần của một dự án chính trị chung – bắt đầu trở nên tự mâu thuẫn. Lý luận kiểu trên thì cũng như nói rằng nếu Lenin và đồ đệ của mình đầu độc nguồn nước công bằng xã hội thì tất cả mọi người đều bị ngộ độc. Thực tế lịch sử của thế kỷ 20 cho thấy nhà nước bắt đầu trở thành một vấn đề nhiều hơn là một giải pháp, và không chỉ vì lý do kinh tế. Những gì được khởi đầu bằng quy hoạch tập trung phũ phàng thay lại kết thúc bằng giết người tập trung.
Dĩ nhiên, đó là một kết luận nghe rất “trí thức”, nhưng sự thoái trào của nhà nước được giới trí thức cảm nhận gần như lập tức. Cũng hợp lý thôi vì chính giới trí thức chứ không ai khác là giới đã hồ hởi cổ vũ cho nhà nước, cho việc cải tổ xã hội từ trên xuống. Như nhận xét của Jiri Grusa, một nhà văn Tiệp Khắc, viết năm 1984: “Chính chúng tôi [những người cầm bút] đã tôn vinh nhà nước của thời hiện đại.” Với bản chất của mình, như nhận xét của Ignazio Silone [một trí thức Ý có ảnh hưởng], các chế độ độc tài hiện đại rất cần giới trí thức hợp tác. Cũng tự nhiên thôi khi sự thất vọng của giới trí thức Châu Âu với đại tự sự về tiến bộ đã châm ngòi cho cuộc sụp đổ lớn lao tiếp theo; và cũng tự nhiên thôi khi sự bất mãn này được thấy rõ nhất tại Paris, nơi mà đại tự sự kia đã hình thành, và mang bộ mặt vừa trí thức vừa chính trị, hai thế kỷ trước đó.
Pháp và thế hệ thoát cộng
Nước Pháp vào thập niên 1970, 1980 đã không còn là “Thấu kính tạo lửa của Văn minh Tây Phương” như Arthur Koestler mô tả nữa, nhưng các nhà tư tưởng Pháp vẫn nồng nhiệt quan tâm tới những vấn đề mang tính toàn cầu. Trong khi đó, giới cầm bút và bình luận tại Tây Ban Nha, Tây Đức và Ý vào những năm này phần lớn chú ý tới những vấn đề nội bộ nước mình, mặc dù những đe dọa có tính khủng bố mà họ quan tâm cũng là dấu hiệu suy tàn của khuynh hướng không tưởng cực đoan. Còn giới trí thức Anh, vốn chưa khi nào có cảm tình sâu với chủ nghĩa cộng sản, phần lớn đều thờ ơ khi nó thoái trào và đều giữ khoảng cách với những gì đang diễn ra tại lục địa Châu Âu. Tại Pháp thì ngược lại, nhiều thành phần trí thức tại đây quan tâm dài lâu tới cộng sản. Trong khi chủ trương chống cộng ngày càng mạnh lên trong các cuộc thảo luận công cộng tại Pháp, Đảng Cộng sản lại ngày càng mất phiếu bầu và ảnh hưởng, điều này cho thấy cuộc suy thoái còn được châm thêm nhiên liệu bằng những ký ức và thực tế ngay trên sân nhà. Một thế hệ trí thức mới tại Pháp đã thoát khỏi chủ nghĩa Marx với sự sốt sắng đáng kinh ngạc, đôi khi họ như bị thúc đẩy từ bỏ những dan díu của chính mình trước đó một cách vội vã đến bất thường.
Nhưng, khi lên án sự biến dạng của chủ nghĩa không tưởng cực đoan, những “triết gia mới” trẻ tuổi tại Paris giữa thập niên 1970, như André Glucksman hoặc Bernard-Henri Lévy, nói chung lại cũng không nói được điều gì mới mẻ. Tác phẩm của Glucksmann Les Maitres Penseurs [Những bậc thày tư tưởng] phát hành vào tháng 3 năm 1977 và được ca tụng khắp thế giới, nhưng thực ra cuốn này chẳng có mấy điều mà Raymond Aron đã không nói hay hơn trong tác phẩmOpium des Intellectuels [Thuốc phiện của giới trí thức] ra đời 22 năm trước đó. Cũng không có gì trong tác phẩm Barbarie à Visage Humain[Man rợ với khuôn mặt người] của Lévy, ra đời hai tháng sau cuốn của Glucksmann, mà độc giả Pháp không tìm thấy trong cuốnL’Homme révolté [Kẻ nổi loạn] của Albert Camus. Trớ trêu thay, nếu tác phẩm của Camus bị Jean-Paul Sartre bác bỏ thẳng tay khi nó ra đời năm 1951 thì Lévy và Glucksmann lại trở thành những tác giả ngôi sao có sách bán chạy nhất. Quả là thời thế đã khác.
Jean-Paul Sartre
Tính chất khốc liệt đến chết người của cuộc bể dâu tri thức này thật rõ ràng. Bề ngoài, những biến động này như nhắm vào chủ nghĩa Marx, một ngã rẽ tai hại trong hành trình tư tưởng Phương Tây, nhưng phần lớn hỏa lực của nó trước hết lại nhắm vào những nhân vật dẫn đầu sinh hoạt trí thức hậu chiến, ở Pháp và các nước khác, những người đã đứng nhìn lịch sử từ trên cao, phấn khích tung hô kẻ thắng trận, trong khi lại ra vẻ lịch sự đảo mắt chỗ khác, không nhìn cho rõ những nạn nhân. Bản thân Jean-Paul Sartre, người trí thức nổi tiếng nhất trong số họ, cũng bị gạt ra khỏi vị trí được ưa chuộng trong những năm này, kể cả trước khi ông chết năm 1980, di sản sáng tạo của ông bị ố bẩn bởi những lời biện hộ cho cộng sản Xô-viết, và sau này là chủ nghĩa Mao.[3]
“Cách mạng Pháp đã chết!”
Cuộc “biến đổi khí hậu” trí thức này tại Paris còn được mở rộng hơn nữa, chứ không dừng lại ở việc tách bạch phải trái các thế hệ trí thức dấn thân. Năm 1978, tác phẩm The Logic of Scientific Discovery [Logic khám phá khoa học] của Karl Popper lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Pháp, đã khởi đầu cho thời kỳ hấp thu đều đặn vào dòng chính tư tưởng Pháp toàn bộ triết học và khoa học xã hội từ Anh-Mỹ, mà trong vài chục năm trước đó trí thức Pháp gần như không hề biết đến. Cũng trong năm này, nhà sử học François Furet cho xuất bản tác phẩm có tính đột phá Penser la Révolution Française [Nghĩ về Cách mạng Pháp], trong đó ông phủ nhận toàn bộ “giáo lý cách mạng”, mà người Pháp trong nhiều thập niên đã được dạy để hiểu về đất nước và quá khứ của mình.
Trong bộ “Giáo lý” này, như Furet mổ xẻ, Cách mạng Pháp đã là khoảnh khắc tiêu biểu của thời hiện đại: Đó là cuộc xung đột khơi mào cho việc chia cắt Pháp thành các trường phái chính trị đối lập giữa Tả và Hữu, được xác định một cách hình thức dựa trên thành phần giai cấp của người trong phe nổi dậy. Câu chuyện này được xây dựng trên hai trụ cột đồng dạng là sự lạc quan thái quá đầu thế kỷ 19 và tầm nhìn Mác-xít về cải tổ xã hội cấp tiến. Theo cách nhìn của Furet, hai trụ cột đó đến nay đã hoàn toàn sụp đổ – nhất là vì cộng sản Xô-viết, người thừa kế ngai vàng cách mạng trong câu chuyện ngụ ngôn về cuộc cải tổ cấp tiến tốt lành này, đã đầu độc ngược toàn bộ di sản của mình. Cách mạng Pháp, dùng đúng chữ của Furet, thực ra đã “chết”.
Tội ác hiện nguyên hình
Luận văn của Furet có ảnh hưởng chính trị rất lớn, như ông dự đoán. Sự thất bại của chủ nghĩa Marx như một đường lối chính trị là một việc – tuy luôn có thể đổ lỗi cho những biến động ngoài ý muốn hay hoàn cảnh khách quan – nhưng vấn đề nằm ở chỗ nếu chủ nghĩa Marx không còn là câu chuyện lớn, là đại tự sự – có nghĩa là nếu lý tính và nhu cầu tất yếu của xã hội không phải là những động lực thúc đẩy lịch sử nữa – thì mọi tội ác của Stalin, mọi sinh mạng bị hủy hoại, mọi tài nguyên bị phí phạm trong công cuộc thay đổi xã hội dưới sự chỉ đạo của nhà nước, mọi sai lầm và thất bại của những cuộc thí nghiệm cấp tiến mà loài người trong thế kỷ 20 trải qua, để xây dựng xã hội không tưởng bằng đường lối độc tài, sẽ không còn có thể được biện minh một cách “biện chứng” như những bước sai lầm nhỏ trên con đường đúng được nữa. Chúng hiện nguyên hình là những mất mát, phí phạm, thất bại và tội ác, y như những gì các nhà phê bình đã từng cảnh báo.
Furet và các trí thức trẻ đương thời bác bỏ thói quen viện dẫn lịch sử để biện minh, vốn là sắc thái riêng của giới trí thức dấn thân Châu Âu từ đầu thập niên 1930. Họ cho rằng không có một “đại tự sự” nào chi phối, điều động những biến chuyển trong hành vi của loài người, và vì thế không thể biện minh cho các chính sách hay việc làm của nhà nước gây khổ đau thật hôm nay, nhân danh những lợi ích tưởng tượng ngày mai. Đập trứng thì làm được món trứng tráng ngon lành, nhưng không ai có thể xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn bằng cách đập nát con người. Nhìn lại thì có thể thấy đây là một kết cuộc nhạt nhẽo, đầu voi đuôi chuột, sau mấy chục năm đấu đá lý thuyết và chính trị căng thẳng. Nhưng, đó cũng là bằng chứng cho thấy thời đại đã thay đổi đến mức nào.
Một thời đã qua
Năm 1969, phim Ma Nuit Chez Maud [Đêm tôi ở nhà Maud] của Eric Rohmer được trình chiếu, kể câu chuyện có tính ngụ ngôn về một triết gia cộng sản và một đồng nghiệp Công giáo tranh cãi nhiều giờ quanh những ý kiến mâu thuẫn của Pascal về Thượng đế và của lý luận Mác-xít về lịch sử. Giờ nhìn lại có thể thấy rằng điều đáng ngạc nhiên nhất không phải là những cuộc tranh cãi kia, vốn hết sức quen thuộc với bất cứ ai lớn tuổi còn nhớ về thập niên 1960 tại Châu Âu, mà là sự nghiêm túc theo dõi cuộc tranh cãi, không chỉ của nhân vật trong phim mà còn của hàng triệu người xem phim. Mười năm sau, đề tài này, nếu không kể cả bộ phim, đã trở thành cổ lỗ sĩ. Việc nhân danh lịch sử để biện hộ cho những chọn lựa chính trị không thể chấp nhận được đã trở nên một việc làm ngây thơ về mặt đạo đức, và thậm chí còn ác độc nữa. Như Camus đã nhận xét từ nhiều năm trước “Trách nhiệm với lịch sử đã khiến con người đánh mất trách nhiệm với đồng loại”.[4]
Đi về đâu?
Sự hụt hẫng trước vai trò của “lịch sử” (và của lịch sử nói chung) mở màn cho một thập niên tệ hại đối với giới trí thức Tây Âu. Họ hiểu ra, và chẳng lấy gì làm vui, rằng sự tan vỡ những đại tự sự và các kế hoạch lớn lao của lịch sử sẽ là thảm họa cho tầng lớp có trách nhiệm chính trong việc phổ biến chúng bằng tài hùng biện của mình. Không những thế, giờ đây họ còn trở thành đối tượng của sự ghẻ lạnh, nhục mạ, và con số này dường như khá nhiều. Tháng 9, 1986, trong một lần trò chuyện riêng tiết lộ nhiều thông tin với một nhà báo Pháp, ông Pierre Bourdier, nhà xã hội học Pháp, đã tỏ lòng tiếc thương cho tình trạng ngã ngựa của giới trí thức dấn thân. Ông nói: “Với tôi, nếu còn một chính nghĩa lớn lao nào sót lại hôm nay, thì đó chính là việc bảo vệ những người trí thức.”[5]
Sự hiến mình của giới trí thức trên bàn thờ lịch sử trước đây đã được Isaiah Berlin mô tả như “một hành vi bi tráng kiểu người Đức, khi chọn lựa vác thập giá đạo đức trên lưng”. Nhận xét này hơi nặng với người Đức, vốn không phải là dân tộc duy nhất hạ mình hiến thân trên bàn thờ được gọi là quy luật tất yếu của lịch sử, mặc dù quả thật ý tưởng này có gốc rễ từ triết học lãng mạn Đức. Nhưng nhận xét này đã cho thấy một khoảng trống đang xuất hiện trong tư duy chính trị tại Châu Âu, đó là: nếu không còn những “chính nghĩa vĩ đại” nào nữa; nếu di sản cấp tiến đã gẫy cánh, đỗ vỡ; nếu không còn có thể vay mượn lịch sử, hoặc quy luật tất yếu của lịch sử, để biện hộ cho một hành động, một chính sách hay một dự án, thì người ta phải căn cứ vào đâu để biết đâu là vấn đề lớn của thời đại mình đang sống?
Câu hỏi này không là vấn đề đối với những người cấp tiến theo trường phái Thatcher [thủ tướng Anh thập niên 1980], vốn xem chính sách công là cánh tay nối dài của quyền lợi riêng, còn thị trường là bộ điều chỉnh vừa cần thiết vừa hữu hiệu cho các giá trị và thành quả. Câu hỏi này cũng không làm khó giới bảo thủ Châu Âu thời kỳ này, vì với họ thước đo tốt xấu trong cuộc sống con người được cắm neo trong các giá trị tôn giáo và quy ước xã hội – họ cũng bị trầy trụa đôi chút, nhưng không bị trận sóng thần văn hóa của thập niên 1960 cuốn phăng đi. Chỉ có những người cánh Tả cấp tiến, vốn là lực lượng chủ chốt trong sinh hoạt chính trị và văn hóa Châu Âu, mới là đối tượng bức bách, cần gấp một kịch bản khác.
Ngọn cờ mới
Điều họ tìm thấy, đáng ngạc nhiên thay, là một ngôn ngữ chính trị mới, hay nói đúng hơn là một ngôn ngữ rất cũ nay được làm mới lại. Đó là ngôn ngữ dân quyền, nhân quyền, các quyền tự do, là điều được viết trong tất cả mọi bộ hiến pháp tại Châu Âu, kể cả hiến pháp các nước Dân chủ Nhân dân trong khối cộng sản. Dân quyền và nhân quyền, như một lý tưởng hoặc nội dung chính trị, đã không được xem như một loại thời trang phù hợp tại Châu Âu trong rất nhiều năm trời. Ngay sau Thế chiến thứ Nhất, các loại quyền, nhất là quyền tự quyết, đã giữ một vai trò cốt lõi trong mọi thương lượng về giải quyết hậu quả chiến tranh, hầu hết mọi quốc gia thành viên tại Hội nghị Hòa bình Versailles đã khẳng định quyền của mình một cách dứt khoát và mạnh mẽ khi đưa ra yêu sách với các đại cường. Nhưng đây là quyền của những tập thể, của các khối quốc gia, của các dân tộc, của các nhóm thiểu số.
Thêm vào đó, lịch sử cho thấy việc thực thi các quyền của tập thể này đã diễn ra không mấy êm đẹp. Khi có xung đột về quyền giữa hai hay nhiều hơn các cộng đồng sắc tộc hoặc tôn giáo, thường là về tranh chấp đất đai lãnh thổ, thì đáng buồn thay, phương pháp ưu tiên được dùng để giải quyết xung đột lại không phải là luật pháp, mà là vũ lực. Quyền của các sắc dân thiểu số đã không được bảo vệ trong một quốc gia, tương tự như vậy, quyền của các nước nhược tiểu đã không được bảo vệ trước yêu sách của các nước láng giềng hùng mạnh hơn. Những nước thắng trận khi Thế chiến thứ Hai kết thúc năm 1945, rút kinh nghiệm từ những hứa hẹn không thành của Hội nghị Hòa bình Versailles [1919], đã đi đến kết luận, như đã thấy, rằng quyền lợichung sẽ được thực hiện bằng một giải pháp hiệu quả hơn, dù đau đớn hơn, là sắp xếp lại lãnh thổ (sau này được gọi là thanh lọc chủng tộc). Còn với những người mất tổ quốc, họ sẽ không còn bị xem như một khối dị vật về pháp lý trong cộng đồng các quốc gia hay dân tộc, mà sẽ được xem như những cá nhân bị ngược đãi, những nạn nhân phải chịu đựng bất công.
Những thảo luận về quyền sau năm 1945, vì vậy, đã tập trung nói về quyền của cá nhân. Đây cũng là một bài học khác của chiến tranh. Mặc dù con người, nam lẫn nữ, bị đàn áp vì một nhân dạng chung (vì là dân Do Thái, dân du mục, dân Ba Lan…) họ đã phải chịu đau khổ như những cá nhân riêng lẻ. Chính những con người cá nhân này và quyền cá nhân của họ là đối tượng để tổ chức Liên Hiệp Quốc vừa thành lập đứng ra bảo vệ. Những Công ước về Nhân quyền, về Nạn Diệt chủng hoặc về Quyền Xã hội, Quyền Kinh tế được đưa vào luật quốc tế và hiệp ước quốc tế đã có tác động rất lớn đối với cảm nhận của công chúng: Những quyền này kết hợp những quyền tự do cá nhân được cổ vũ tại Anh, Mỹ trong thế kỷ 18 với những chủ trương vào giữa thế kỷ 20 về nhiệm vụ của nhà nước phải bảo đảm cho dân được hưởng các quyền ngày càng nhiều, từ lớn đến nhỏ, từ quyền được sống đến “quyền” được nghe “quảng cáo đúng sự thật”, và hơn thế nữa.
Helsinski và quyền con người
Một sự kiện giúp đưa những ngôn ngữ pháp lý về quyền cá nhân vừa kể trở thành một thực tế chính trị – vào lúc chủ nghĩa Marx đang trên đà suy thoái – là Hội nghị về An ninh và Hợp tác Châu Âu tại Helsinski năm 1973, cùng năm tác phẩm Quần đảo ngục tù phát hành tại Paris. Cho tới thời điểm đó thì các cuộc thảo luận về quyền cá nhân không được coi trọng trong hàng ngũ cánh tả Châu Âu, phản ánh phần nào ảnh hưởng quan điểm đình đám của Marx cho rằng “cái được gọi là quyền con người” chỉ là thứ giá trị đầy ích kỷ và rất “tư sản”. Trong những nhóm cấp tiến thì những cụm từ như “quyền tự do’, “tự do” hoặc “quyền hạn” và những giá trị khác liên quan đến “con người nói chung” chỉ được đề cập tới một cách nghiêm túc khi đi kèm với những tính từ bổ nghĩa đi kèm như “tư sản”, “vô sản” hoặc “xã hội chủ nghĩa”.
Vì vậy mà vào năm 1969, một nhóm các nhà trí thức cánh tả của Parti Socialiste Unifié [Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất] tại Pháp đã chỉ trích đảng của mình (lúc đó do Michel Rocard và Pierre Mendes-France lãnh đạo) vì đã ủng hộ thành phần cải cách tại Praha [tạo nên Mùa Xuân Praha 1968 tại Tiệp Khắc]. Họ cho rằng những người cải cách ở Praha đã “tự nguyện trở thành nạn nhân của những lý tưởng tiểu tư sản (nhân bản, tự do, công bằng, tiến bộ, bầu cử tự do và kín, v.v.).” Đây không phải là trường hợp riêng lẻ. Vào thập niên 1960, rất nhiều nhà bình luận thiên tả tại Phương Tây, dù khuynh hướng chính trị trong nhiều trường hợp là khá ôn hòa, vẫn thường tránh dùng các ý niệm như “quyền” hoặc “tự do” vì sợ bị cho là ngây thơ chính trị. Trong khi đó thì ở Đông Âu, các nhà cải cách cộng sản và những người ủng hộ họ cũng tránh dùng những từ ngữ như vậy, nhưng vì một lý do khác, vì ý nghĩa của những cụm từ này đã bị bóp méo trong ngôn ngữ chính thống của nhà nước và không còn giá trị nữa.
Nhưng từ giữa thập niên 1970, điều trở nên ngày càng phổ biến là các diễn văn và luận văn thuộc mọi khuynh hướng chính trị tại Tây Âu đã không còn ngần ngại nói tới “quyền con người” và “quyền cá nhân”. Như nhận định của một quan sát viên Ý đưa ra vào năm 1977, thì ý tưởng và lý tưởng về quyền tự do “không bị cắt xén” đã được cánh Tả đưa ra thảo luận rất cởi mở mà “không bị đánh tráo khái niệm, không mang tính tuyên truyền” lầu đầu tiên kể từ sau chiến tranh.[6] Tuy nhiên, những thảo luận này vẫn chưa trở thành một thực tế chính trị ngay lập tức – vì trải qua hầu hết thập niên 1980, các Đảng Xã hội Chủ nghĩa và Lao động tại Tây Âu đã chao đảo không gượng lại được, trong nhiều trường hợp họ phải loay hoay vay mượn công khai những chủ trương, chính sách của các đảng đối thủ để che bớt sự trần trụi của mình. Tuy vậy, sự cởi mở vừa có, cùng với từ vựng của các quyền con người và quyền tự do, đã cho phép các học giả và giới trí thức Tây Âu tiếp cận với ngôn ngữ đối lập chính trị đang biến chuyển mạnh tại Đông Âu, và cho họ một công cụ truyền thông để vượt qua rào cản ngăn cách đôi bên. Điều này đã diễn ra rất đúng lúc, vì chính ở phía đông của Bức màn Sắt mới là nơi đang diễn ra những thay đổi thực sự mới mẻ và lớn lao.
Nguồn: Tony Judt, Post War - A History of Europe Since 1945,Penguine Books, 2005
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
[1] Evgenia Ginzburg, Journey into the Whirwind (Harcourt, 1967); Margarete Buber-Neumann, Von Potsdam nach Moskau: Stationen eines Irrweges (Stuttgart: Deutsche Verlags-Anstalt, 1957); Wolfgang Leonhard, Child of the Revolution (Pathfinder Press, 1979), xuất bản lần đầu năm 1955 với tên Die Revolution entlässt ihre Kinder; Victor Serge, Mémoires d’un révolunionnaire (Paris, 1951); Boris Souvarine, Stalin. A Critical Survey of Bolshevism (xuất bản lần đầu bằng tiếng Anh năm 1939).[2] Giữa 1975 và 1981, chỉ riêng nước Pháp đã tiếp nhận 80.000 người tị nạn từ Đông Dương.
[3] Năm 1963, khá lâu sau khi không còn quan tâm tới những người cộng sản tại Pháp nữa, thì Jean-Paul Sartre, tác giả của cuốn Les Mains Sales [Những bàn tay bẩn], vẫn còn thuyết trình sôi nổi tại Praha về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trước một cử tọa những người cầm bút và giới trí thức Tiệp Khắc.
[4] ‘La responsabilité envers l’Histoire dispense de la responsabilité envers les êtres humains’
[5] ‘Pour ma part, je pense que s’il y a une grande cause aujourd’hui, c’est la defense des intellectuals’. Trích từ Le Nouvel Observateur, #1140, septembre, 1986. ‘Les Grandes Causes, ca existe encore?’
[6] Antonino Bruno, Marxismo e Idealismo Italiano (1977), tr.99-100
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2013 2:50:38 GMT 9
Hồi tưởng về 30 năm trước: Cuộc chiến tranh biên giới Việt – TrungHình (courtesy of AFP): Quân đội Trung Quốc tàn sát dã man thường dân Việt-Nam (trên). Nghỉa trang tử sĩ Trung Quốc tại Yunnan. Khoảng 20,000 binh sĩ Trung Quốc và 10,000 quân Việt-Nam đã tử trận trong cuộc chiến tranh biên giới kéo dài từ 17-02 đến 06-03, 1979. Cuộc chiến này còn gọi là chiến tranh Đông Dương III. 30 năm đã qua. Năm nay, Bộ chính trị Hà nội qua ban tuyên huấn trung ương lệnh cho bộ máy truyền thông – báo, đài, vô tuyến truyền hình – không được nói gì đến cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung. Trong khi đó Trung quốc để cho truyền thông của họ ở vùng Hoa Nam được viết bài kỷ niệm , tưởng nhớ những “anh hùng”(!) đã xả thân 30 năm trước. Nhưng lịch sử là lịch sử. Làm sao xoá bỏ lịch sử với biết bao dấu tích; làm sao xoá bỏ được sự tưởng niệm của nhân dân đối với hơn 40 ngàn liệt sỹ – quân nhân và đồng bào các dân tộc – đã nằm xuống trên giải đất biên cương những ngày đầu Xuân ấy. Xin ghi lại vài hồi tưởng cá nhân của tôi về những ngày sôi động xưa. Những ngày ấy tôi ở đâu. Tôi ở Pnom Pênh, một thành phố chết bắt đầu hồi sinh. Cùng một đơn vị Quân khu IX từ Châu đốc qua Takeo, chúng tôi một nhóm báo chí quân sự 6 người đến sân bay Pochentông / PnomPênh sáng 7-1-1979. Cả thủ đô vắng lặng. Tiếng súng lẻ loi của vài ổ đề kháng tuyệt vọng. Cỏ lút đầu người. 30 vạn dân thủ đô đã bị đuổi hết về nông thôn từ tháng 4-1975 khi quân Khme Đỏ vào. Phố không tên, nhà không số, đường không người, cuộc sống nông thôn không tiền nong, không chợ búa, không trường học, dân không giấy tuỳ thân, không dày dép, không gia đình, ngủ tập thể chia theo trai, gái, đội lao động. Nghiã trang chôn cất lính Trung Quốc thiệt mạng trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam, ở Malipo gần biên giới Việt-Trung (Hình: AFP/Getty) Sứ quán Tàu rộng lớn nhất thủ đô, tài liệu vừa bị thiêu huỷ, còn một đống tro giữa đại sảnh trang hoàng một tranh hoành tráng ghi bài thơ Mao Trạch Đông : “vầng Thái dương trên châu Á”. Vẫn còn sót tài liệu chỉ rõ 2 hôm trước, chỉ có 5 sứ quán : Bắc Hàn, Lào, Nam tư, Rumani và Trung quốc. Người TQ mới đây có gần 8 ngàn người rải khắp nước, cố vấn quân sự đông nhất, chuyên gia thuỷ lợi, lâm nghiệp, Tân Hoa xã, có 3 ngàn quân thuộc đơn vị công binh vừa xây xong sân bay cực lớn, đường băng dài 3 ngàn mét ở Cong Pong Chnang. Các đoàn khách lớn đến gần đây là 3 đoàn quân sự, một đoàn do Tổng tham mưu trưởng Quân Giải phóng Trung quốc cầm đầu, 2 đoàn cấp cao nhà nước Tàu do Phó Tổng lý (Thủ tướng) Trần Vĩnh Quý và bà Đặng Dĩnh Siêu cầm đầu. Họ bỏ chạy hết sạch từ 5 ngày nay sang Thái lan, nhưng vết tích còn đầy ra đó. Từ đó dễ hiểu rằng Tàu tất nhiên sẽ trả thù ta ở miền Bắc. Quả nhiên, đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình sang Mỹ, gặp Carter, huênh hoang báo sẽ cho “Việt nam Tiểu bá” một bài học, dám đi theo Đại bá (Liên xô) ăn hiếp nước nhỏ Cambốt, con nuôi của TQ. Có người hỏi: ta có bị bất ngờ không. Tôi nhớ lại, có thể nói vừa có, vừa không. Có, vì tình hình biên giới đã căng, rất căng từ giữa năm 1978, khi TQ rút hết mọi chuyên gia, ngưng mọi viện trợ, căng thêm sau khi VN ký Hiệp ước hữu nghị tương trợ với Liên xô vào tháng 11. Cả tuyến biên giới đã báo động đỏ, việc đào hầm hố, công sự, huấn luyện, bổ sung quân số đạn dược được thúc đẩy khẩn trương. Nhưng vẫn bất ngờ, không biết ngày nào chúng khởi sự, và có dám khởi sự hay không vì VN đã gắn chặt với Nga Xô. Cũng do đó mà hơn 2 quân đoàn bảo vệ miền Bắc vẫn được đưa vào chiến trường Cam bốt; biên giới phía Bắc chỉ có toàn là chủ lực các Quân Khu, lực lượng tham chiến những ngày đầu chủ yếu là bộ đội địa phương 6 tỉnh và 26 huyện biên giới, cùng với bộ đội biên phòng (có hơn 20 tiểu đoàn) và một mạng lưới dân quân khá rộng và dày. Đây là một nét khá đặc sắc, vì từ xa xưa dân miền núi vốn có nếp tự trang bị súng từ thô sơ đến hiện đại để chống thú rừng, săn thú ăn thịt, bảo vệ nương rẫy. Các Quân khu đã phát hàng vạn súng tốt rất rộng rãi cho dân quân các dân tộc Tày, Mường, Mèo, Thái… từ mấy tháng trước. Ngày cuộc chiến nổ ra (17-2-1979), tôi đang ở Pnom Pênh, theo dõi sự kiện Đoàn cấp cao Việt nam sang dự lễ mừng chiến thắng, do thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Sáng hôm ấy sỹ quan Việt nam tập họp trong đại sảnh đại sứ quán Trung quốc cũ để nghe ông Đồng nói chuyện. Ông Đồng đang nói thì tôi thấy tướng Văn Tiến Dũng – bộ trưởng Quốc phòng, đưa lên một mảnh giấy, sau đó ông Đồng thông báo đêm qua TQ đã tiến công trên khắp tuyến biên giới 6 tỉnh. Trưa đó tôi nghe ông Đồng và ông Dũng bàn với nhau: không thay đổi chương trình, vẫn giữ đúng kế hoạch, đi thăm Battambang, XiêmRiep, sáng 20 về Hànội. Trong những ngày ấy, cứ cách từ 2 đến 3 giờ, lại có mật điện của tướng Lê Trọng Tấn và tướng Hoàng Văn Thái báo cáo về tình hình chiến đấu ở biên giới. Giới báo chí có mặt ở Pnom Pênh náo nức hỏi đường về Sài gòn ngay để trở ra Hànội rồi lao lên biên giới săn tin. Hai bạn thân của tôi là anh Takano, phóng viên Acahata Nhật bản và phóng viên chụp ảnh Pháp Jean Claude Labbé nhanh nhẩu nhất. Thật đáng tiếc thương là Takano lên Lạng sơn chạm trán quân Tàu trưa ngày 27-2 và bị chúng bắn chết ngay gần cầu Lạng sơn. Anh luôn đeo kính cận, nói và viết tiếng Việt khá sõi, tốt nghiệp khoa Văn trường đại học tổng hợp Hànội. Gặp tù binh Trung quốc ở sân vận động Thái nguyên. 2-3-1979, nhóm phóng viên báo QĐND chúng tôi lên Thái nguyên để gặp một số tù binh TQ. Trên đường lên Lạng sơn và Thái nguyên, từng đoàn dân quân, thanh niên, sinh viên của Hà nội, Hà đông, Sơn tây vai khoác balô cùng xẻng cuốc nô nức đổ lên phía Bắc đào và dựng phòng tuyến chặn bọn xâm lược tiến về thủ đô. Tuần trước đài Nam Ninh/Quảng Tây huênh hoang đe doạ và huênh hoang : Quân Giải Phóng quyết tiến công chớp nhoáng,”sáng sớm ở Lạng sơn, ăn cơm trưa tại Hànội” (!). Sau hơn 10 ngày chiến đấu, ta đã bắt được hơn 100 trăm tù binh. Có những tên đại đội trưởng, đại đội phó, chính trị viên đại đội, đảng viên cộng sản. Hai ngày đêm ở Thái nguyên, tôi hỏi chuyện được hơn 60 tên tù binh đủ loại, phần lớn thuộc quân khu Quảng châu do tướng Hứa Thế Hữu chỉ huy. Một số bị thương nhẹ, đã được phía ta chăm sóc. Sân vận động Thái nguyên khá rộng, đủ chỗ cho hơn 80 tên ở trong hơn 20 phòng nhỏ, vốn là nơi tập luyện bóng chuyền, bóng rổ, võ thuật, nơi hội họp, nghỉ ngơi của vân động viên, nay được ngăn lại. Ở đây việc canh gác chúng được thuận lợi, chúng được tiêu chuẩn ăn như bộ đội ta, với bánh bao làm từ bột mỳ. Chỉ hỏi chuyện mươi tên, có thể thấy ngay cái ngây ngô của chúng, không hiểu đánh Việt nam để làm gì, vì sao mà xuất quân. Chúng hiểu lơ mơ là Việt nam không tốt, không biết ơn Trung quốc; chúng mong chiến tranh kết thúc vì trên dặn : “đây chỉ là cuộc xuất quân hạn chế trong thời gian, trong không gian”. Chúng chỉ chuẩn bị được có hơn 10 ngày là đi, hành quân xuống phương Nam, nghỉ chân 5 hôm là khởi sự. Chúng sợ ngay từ khi nhập đất Việt vì phải dò mìn, vì lạ địa hình, không am hiểu gì ở phía trước. Chúng luôn bị bất ngờ, bị mìn, bị phục kích, bị bắn tỉa giữa rừng, khi dừng chân bên suối. Chúng hoang mang vì khi ở căn cứ chúng được giải thích sẽ có hàng trăm máy bay đủ loại mở đường, che chở, yểm trợ nhưng chẳng thấy một chiếc nào xuất hiện. Một tên lái xe tăng loại trung bình Bát-Nhất bị lật nhào bởi mìn, chân phải bị gãy phải nẹp và đi nạng, than vãn là xe tăng không thích hợp với địa hình rừng, đường độc đạo, lắm khe suối, không triển khai được đội hình, thường chỉ đi hàng dọc, dễ làm mồi cho bazôka đáng sợ ! Khí hậu rừng nhiệt đới ẩm, mưa nhỏ đã làm nhão đất thành bùn, hầm hố khó đào cũng thành vấn đề khi chúng phải ngủ giữa rừng. Rồi việc ăn, ngủ, vệ sinh, tắm rửa trên đất địch, lạ lẫm, vắng lặng, đầy cạm bẫy thật không dẽ chịu chút nào. Một hai tên bị bắn chết hay bị thương là thường mất luôn một tiểu đội, phải cáng về phía sau với 2, 3 tên áp tải. Một viên đại đội phó than vãn, anh ta ra trận, mẹ đang ốm, vợ mới sanh con gái được 2 tháng, quê ở tận Tứ xuyên, từ quân khu Thành Đô xuống tăng cường cho quân khu Quảng Châu, không lòng dạ nào đi xa vào nơi nguy hiểm; luôn buồn bã, ỉu xìu, luôn mồm xin thuốc lá; kể lể mới vào trận có mươi hôm mà đứa nào cũng gầy xọm, sức yếu hẳn, nỗi lo sợ căng thẳng khôn nguôi, còn tăng thêm hằng ngày khi thấy “hoả lực các ông” tăng rõ, “chạm trán các ông” và bị pháo kích, phục kích nhiều hơn, quyết liệt hơn …Mỗi ngày qua là cảm thấy thêm không có ngày về. Anh ta còn kiêm chức bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản, cảm tình đảng,- khi bị bắt còn trong túi áo cuốn Mao tuyển nhỏ bìa nylon đỏ chót. Anh ta không hề dở Mao tuyển ra, cũng không sinh hoạt chi đoàn, vì không biết nói gì với quân lính. Thật rõ ràng, trong cuộc tấn công xâm lược này, thiên thời, địa lợi, nhân hoà đều bất lợi cho quân Tàu. Cũng không ngờ, Quân Giải phóng Tàu trình độ văn hoá rất tệ, trong 60 tên tôi gặp, không có một người nào tốt nghiệp trung học, không một người nào biết Bắc kinh ra sao, chữ Hán tất cả đều nguệc ngoạc như gà bới, chỉ có 3 người võ vẽ biết tiếng Anh kiểu vỡ lòng, đọc vài chữ tiếng Anh theo giọng Hồ Nam, kể cả viên đại đội phó và trung đội trưởng lái xe tăng. Quân giải phóng hiện đại hoá năm 1979 mà chậm tiến như vậy đó. Tận cùng man rợ Chúng tôi lên Lạng Sơn ngày 8-3 khi được tin Bắc kinh vừa ra lệnh rút quân gấp. Cầu gãy. Sông Kỳ Cùng thuyền đồng bào đã nối nhau trở về cặp bến. Khói còn bốc lên từ nhiều đám cháy, lửa vừa được dập tắt; nhà ga đổ nát, tường sập từng mảng. Đường sắt đứt từng đoạn, cong queo. Chúng phá bằng mìn loại cực mạnh. 60 toa tầu và 2 đầu máy cũ tan tành. Các cơ quan hành chính đều bị phá sập. Giây điện bị cắt nát. Cửa hàng mậu dịch bị đốt cháy, cho đến trường trung học, vườn trẻ bên cơ quan hội phụ nữ, nhà mẫu giáo đều đổ nát không thể ở được. Chúng đốt cháy gần hết thư viện lớn. Những đồng bào đầu tiên trở về nhà đều buồn rầu đau xót trước cảnh tang thương đổ nát. Xưởng dệt thủ công thổ cẩm đặc sản Lạng sơn bị chúng phá sạch banh, không còn một chiếc máy nguyên vẹn; xí nghiệp khâu cũng vậy. Một kiểu phá hoại triệt để, có hệ thống theo nghiêm lệnh, để triệt đường sinh hoạt lâu dài của người dân. Những chiếc thuyền gỗ bị đâm thủng, ván bị xẻ ra từng mảng nằm dọc bờ sông với lưới lớn nát bấy như bị băm nhỏ. Vào nhà dân khá giả gần khu chợ, tủ lim, bộ ghế salông cổ mặt đá bị đập nát, gương vỡ tan, mâm đồng bị đâm thủng, nồi to nồi bé bằng đồng, nhôm, sành, đất không còn một chiếc nào còn dùng được; cho đến chiếc xe nôi cho em bé cũng bị chặt gục xuống bên cống. Không thể nào tưởng tượng một đội quân chính quy của một đảng cộng sản lớn, tự nhận là “vĩ đại”lại có thể hành xử tàn bạo, độc ác, mang bản chất phá hoại phi nhân đến vậy. Quân Tàu Tưởng, quân phát xít Nhật, quân thực dân Pháp đều qua đây, nay là quân Trung Cộng; và kỷ lục về giết dân thường, về tàn phá tràn lan, triệt để, thâm hiểm là thuộc về bọn lính Trung Cộng này đây. Những điều được trông thấy đã đủ để kinh hoàng. Còn những nơi tôi không được thấy, được ống kính xưởng phim quân đội ghi lại còn khủng khiếp gấp vạn lần. Đó là ở Bát Xát Lào Cai, một bà người Mông bị cả một tiểu đội 9 tên đưa vào hang đá thay nhau hãm hiếp rồi đâm chết trước mặt con trai bà bị trói chặt ở gốc cây khế ngoài cửa hang. Anh giả chết khi chúng bắn vào vai anh trước khi cùng nhau tháo chạy, anh vừa khóc vừa kể. Ở thôn Tông, huyện Hoà An Cao bằng, chúng bị phục kích chết hơn chục tên, chúng uống rượu rồi tàn sát bằng dao, báng súng cả một xóm 43 người, có 21 phụ nữ và 20 em nhỏ, trong số phụ nữ có 7 người mang thai. Gần đó chúng giết người rồi ném 5 xác xuống giếng. Bộ mặt thú vật ấy của cái gọi là Quân giải phóng Trung Hoa làm sao có thể rửa sạch, phải được lưu truyền trong lịch sử loài người. Sao có thể cấm bà con ta ở 6 tỉnh biên giới không được tưởng niệm người thân đã oan khuất và cấm gia đình nạn nhân và đồng bào nguyền rủa quân sát nhân khốn nạn cùng quan thầy của bọn chúng! Một mũi tên xuyên 5 con chim ? Sau 30 năm, nhìn lại cuộc chiến Việt – Trung vùng biên giới, với những tư liệu từ mọi phía được thu thập, có thể thấy Đặng Tiểu Bình thật thâm hiểm đến tột đỉnh. Nói thật gọn, đây là một viên đạn nhằm bắn xuyên đến 5 con chim. 5 mục tiêu chiến lược ấy là : - phạt Việt, - khoe Mỹ, - đe Xô, - cứu Pôt, và cuối cùng là - nhằm hiện đại hoá 3 quân – Hải, Lục, Không quân Trung quốc. - phạt Việt : đòn trừng phạt không doạ nổi dân ta, chúng bị trừng phạtnặng; Bắc kinh thú nhận – dưới xa sự thật, chết 6 ngàn tên, bị thương 21 ngàn, cộng là 27.000 thương vong trong số 23 vạn tên nhập Việt . Ngay phía sau là 22 vạn tên hỗ trợ, hậu cần và dự bị trên đất Tàu. Các quân đoàn chủ lực VN chưa vào trận, số lớn còn ở Cambốt. Nhóm lãnh đạo CS khiếp sợ và bị kẻ thù khuất phục cho đến nay vẫn còn sởn. - khoe Mỹ : Đặng gặp Carter tháng 1-1979, báo trước sẽ đánh VN, Carter ngầm tán thành, thực tế là khuyến khích, ủng hộ bằng giữ bao vây, phong toả, cô lập VN; để bọn Pốt ở Liên Hợp Quốc. -đe Xô: Liên Xô bất động, tuy có Hiệp ước đồng minh tương trợ Xô – Việt tháng 11- 1978. -cứu Pốt : Đặng đã tạm cứu được bọn Khme Đỏ trong hơn 10 năm. Sau khi rút quân khỏi phía Bắc, Đặng tập trung sức vào yểm trợ bọn Pốt ở biên giới Thái lan – Cambốt, dùng cả giải đất Đông Nam Thái lan thành đất thánh cho quân Pốt, vận chuyển hàng triệu tấn vũ khí, trang bị, bom mìn, quân trang quân dụng, mở 12 doanh trại tuyển quân, luyện quân, 2 trường đào tạo sỹ quan, gài cố vấn Tàu vào 21 sư đoàn khơme đỏ (nâng từ 16 sư năm1978), chúng càng đánh càng đông, mạnh, thiện chiến hơn, làm cho quân VN sa lầy, hao quân (chết hơn 50 ngàn, bị thương hơn 20 vạn/ 10 năm), cuối cùng phải rút hết. - hiện đại hoá 3 quân ( đặc biệt là tên lửa tầm trung và tầm xa, tàu ngầm nguyên tử, máy tính hoá quân đội). Chính việc kỷ luật, cảnh cáo tướng Hứa Thế Hữu chỉ huy cánh trái tập đoàn quân nhập Việt vì để thương vong quá cao, và vị tướng này kiểm điểm nêu hết nhược điểm lạc hậu, cổ lỗ, vũ khí quá cũ ( không dám dùng không quân, tên lửa lạc hậu 2 thế hệ, lệnh xung phong cho bộ binh bằng kèn(!) , 500 lính chết oan vì lựu đạn điếc, nổ sớm, súng cối vỡ nòng, đi lạc trong rừng, tự sát …Giữa năm 1979 Đặng phác hoạ chương trình hiện đại hoá quân đội gấp, tăng gấp 3 ngân sách quốc phòng, luôn lấy thất bại ở VN làm nỗi nhục dân tộc nước lớn…Chương trình táo tợn ấy nêu rõ cả đóng Hàng không mẫu hạm, một số tàu ngầm nguyên tử, một loạt tên lửa thế hệ mới, cơ giới hoá hàng quân đoàn hoàn chỉnh, bao gồm cả chinh phục vũ trụ với hàng loạt vệ tinh mới. Theo di huấn của Đặng, Giang Trạch Dân, rồi đến Hồ Cẩm Đào hiện nay đều đặt ưu tiên cho hiện đại hoá quốc phòng, được phát động mạnh mẽ sau nỗi “nhục” 2 tuần lễ 1 tập đoàn quân chính quy bị giáng trả bởi những lực lượng địa phương trên đất Việt, đúng 30 năm trước.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 3, 2014 6:33:37 GMT 9
Liên Xô – Nhà nước phong kiến trá hình [1] Tác giả: Anatoly Tille Phạm Nguyên Trường dịch Nguồn: Nguyên bản tiếng Nga: lit.lib.ru/t/tille_a/text_0010.shtmlLời nói đầu cho lần xuất bản thứ hai Anatoly Tille Phủ nhận những sự kiện “HIỂN NHIÊN” là một việc cực kì khó. Càng khó phủ nhận các “HỌC GIẢ CÓ UY TÍN”. Đã hàng ngàn năm, có hàng triệu người nhìn thấy mặt trời mọc và lặn, nghĩa là quay xung quanh trái đất. Hệ địa tâm của Ptolemy-Aristotle là hiển nhiên và vì vậy mà trở thành bất di bất dịch. Kopernik, nhà bác học thiên tài, phủ nhận hệ thống đó nhưng sinh thời đã không cho công bố phát minh của mình. Tác phẩm của ông bị nguyền rủa. Năm mươi năm sau ngày ông mất, Giordano Bruno phải chết trên dàn hoả thiêu. Năm mươi năm sau nữa, Galilei phải sám hối vì “sai lầm” trước toà án giáo hội. Hàng nghìn nhà bác học, kể cả các nhà thiên văn học, đã phủ nhận sự kiện trái đất quay quanh mặt trời. Toàn thế giới, hàng triệu người đã nhìn thấy người ta “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô”. Ngay cả những kẻ thù không đội trời chung với Liên Xô cũng đã từng chiến đấu cho chủ nghĩa xã hội. Còn một số người, thí dụ G. Orwell, nhìn thấy những khía cạnh ghê tởm của chế độ đó thì lại cho rằng chủ nghĩa xã hội là một xã hội ghê tởm. Chủ nghĩa xã hội hiện diện trên các băng rôn, biểu ngữ, trong các nghị quyết đại hội Đảng [1] , trong các kế hoạch và trong lòng nhiệt tình của quần chúng trên các công trường xây dựng vĩ đại, trong các trước tác của các học giả, các nhà văn, các thước phim vân vân và vân vân. Chưa nói đến các chuyên gia phương Tây. Nhưng tại sao Liên Xô, dù đã có những hi sinh vô bờ bến, vẫn không những không vượt được, mà đơn giản là còn không đuổi kịp được các nước tư bản về năng suất lao động, mặc dù theo Marx thì chủ nghĩa xã hội là hình thái xã hội cao hơn? Câu trả lời có thể tìm được, vấn đề là không ai hỏi cả! Mà câu trả lời chỉ đơn giản là: tại nước Nga đã có một chế độ xã hội chủ nghĩa về hình thức, phong kiến về nội dung. Đấy chính là nội dung của cuốn sách này. Hoá ra cuốn sách này bao quát toàn bộ lịch sử của nước Nga Xô viết, nghĩa là từ năm 1917 cho đến khi nó cáo chung, dù khi chắp bút tôi không nghĩ như thế (tôi không thế nào tưởng tượng nổi sự tan rã của Liên Xô). Chưa hề có một cuốn sách nào tương tự như thế về lịch sử nhà nước Xô viết và hệ thống luật pháp của nó và tôi nghĩ còn lâu mới có một cuốn như thế. Đã mười hai năm trôi qua kể từ lần xuất bản đầu tiên cuốn sách của tôi nhưng vẫn chưa thấy có vẻ gì là người ta có ý định thảo luận vấn đề cả. Đơn giản là không ai. Đúng hơn là tôi không viết cuốn sách mà là nghiên cứu chế độ của nước Nga, như người ta nói lúc đó, một cách bí mật, ngay cả với vợ mình (không phải là tôi không tin mà không muốn làm vợ con lo lắng), dù không có một chút hi vọng nào về việc xuất bản. Vì vậy mà tôi không lo kiểm duyệt, kể cả sự tự kiểm duyệt nữa. Liệu tôi có thoả mãn được trí tò mò của mình khi cố gắng tìm hiểu cái chế độ điên rồ, trong đó mọi sự đều được đặt lộn ngược từ chân lên đầu, cái chế độ mà phi lí là đặc điểm chủ yếu? Tất nhiên là sẽ có người viết những cuốn sách như thế, nhưng đấy là những cuốn sách post factum, nghĩa là nhìn từ tương lai về quá khứ. Còn tôi viết trong hiện tại, về cái hiện tồn. Tôi viết trong vòng mấy năm, ngày nào tôi cũng thu thập tài liệu, thu thập các văn bản pháp qui, các hoạt động lập pháp và quan sát cách người ta áp dụng luật pháp trong đời sống. Sau này làm sẽ khó hơn nhiều. Vì vậy cuốn sách này vẫn là độc nhất vô nhị. Có thể nói một cách chắc chắn rằng đây là cuốn tư liệu về thời đại. Vì vậy tôi không sửa chữa, cũng không viết thêm, cũng không bình luận về những sự thay đổi về sau. Cuốn sách này là tấm bia tưởng niệm về lịch sử nước Nga. “Cải tổ” và “công khai” đã tạo điều kiện cho việc xuất bản cuốn sách vào năm 1992, dưới cái tên: “LUẬT PHÁP CỦA SỰ PHI LÍ. Luật pháp phong kiến-xã hội chủ nghĩa” với số lượng in rất ít, hiện nay không thể nào tìm được nữa (trong thư viện mang tên Lenin và thư viện lịch sử thì có). Các sự kiện về sau được trình bày trong cuốn sách của tôi: Cuộc cách mạng tội ác vĩ đại ở nước Nga. Mafia nắm quyền được xuất bản ở Mĩ năm 2003. Các nhà xuất bản ở Nga “thời công khai hoá” không chịu in tác phẩm này. Trong lần xuất bản thứ nhất tôi đã mắc sai lầm mà đa số người đã từng mắc phải, đấy là đánh đồng tư tưởng cộng sản với cái chế độ ăn thịt người tự gọi mình là chế độ cộng sản. Nếu tất cả các tôn giáo đều hứa hẹn thiên đường sau khi chết để đền bù cho những khổ đau trên mặt đất thì tư tưởng cộng sản, một tư tưởng có trước cả Thiên chúa giáo, chính là ước mơ xây dựng một xã hội công bằng ngay trên thế gian này. Vì vậy tư tưởng cộng sản là bất diệt, giống như tất cả các tôn giáo khác, ít nhất nó cũng đáng được tôn trọng. Vì vậy lần xuất bản này tôi đã loại bỏ chương viết về chủ nghĩa Marx. Tôi cũng cắt giảm một ít và thay đổi bố cục so với lần xuất bản thứ nhất. Điều chủ yếu là việc phân tích chế độ của nhà nước Liên Xô và lịch sử từ năm 1917 đến năm 1990 là không thay đổi. Tôi đã nghiên cứu và mô tả cái chế độ đương thời với mình. Nhưng về mặt nào đó cuốn sách đã trở thành tài liệu về quá khứ. Tôi nói “mặt nào đó” như một lời cảnh báo cho tương lai. Phần I. Lời nói đầu Chương 1. Nói về cuốn sách “… Nhận thức một cách khoa học về hệ thống của chúng ta là bất khả. Mọi việc đều bị che dấu, bị xoá nhoà. Và lạ lùng nhất là không ai cần hiểu cả. Nó đặc biệt không cần thiết đối với giới phê bình của xã hội chúng ta.” Zinoviev Đây không phải là cuốn chính luận (như kiểu Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô của Khrushchev [2] ) mà là một tài liệu nghiên cứu khoa học, tuy nhiên tôi muốn rằng nó phải dễ hiểu và hấp dẫn không chỉ đối với các nhà Luật học-Xô viết học mà còn hấp dẫn đối với tất cả những ai quan tâm đến các vấn đề của xã hội đương đại và các xu hướng phát triển của nó. Nhưng nếu tôi công nhận phát biểu của Zinoviev thì liệu tôi có thể coi tác phẩm của mình là có tính khoa học được không? Xin được giải thích: khoa học nghiên cứu các sự kiện, nhưng trong hệ thống của chúng ta, tất cả các dữ kiện liên quan đến đời sống xã hội đều hoặc là các tài liệu mật hoặc là đã bị xuyên tạc đến mức khó mà rút ra từ đó được các kết luận khả dĩ. Lấy thí dụ lĩnh vực kinh tế: các số liệu do Tổng cục Thống kê công bố nói chung đều là giả. Sau khi Stalin chết, người ta thông báo cho chúng ta biết rằng tất cả các số liệu về thành tích trong nông nghiệp đều là giả, sản lượng nông nghiệp chưa bao giờ đạt được mức năm 1914. Như thế có nghĩa là các số liệu được công bố sau này là đúng ư? Có mấy năm các số liệu về nông nghiệp hoàn toàn không được công bố. Nhưng nếu ta tìm được các số liệu đó thì sao? Vô ích, vì báo cáo láo diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi cấp, từ nông trang đến huyện rồi lên tỉnh. Lên nước cộng hoà và Tổng cục thống kê [3] . Nhưng nếu giả sử ta có thể biết được số lượng giao nộp của từng nông trang thì sao? Cũng vô ích: hàng chục năm liền báo chí đã từng đăng việc các nông trang, thí dụ, để hoàn thành sản lượng giao nộp, họ đã đi mua bơ của các cửa hàng rồi sau đó giao lại cho nhà nước. Như vậy là một sản phẩm đã được nộp và thống kê đến mấy lần [4] . Có một thời (chính xác là dưới thời Khrushchev) Larionov, bí thư tỉnh ủy Riazan, nơi chuyện giao nộp vượt quá “ngưỡng chấp nhận được”, đã phải tự sát. Không loại trừ khả năng là ông ta đã được “giúp đỡ” cả trong việc này nữa. Trong lĩnh vực công nghiệp cũng xảy ra những chuyện tương tự, ở đây, bên cạnh báo cáo láo còn có cả việc “cấp hàng khống”: giám đốc xí nghiệp không thực hiện được kế hoạch được giao thoả thuận với giám đốc một xí nghiệp khác để vị này công nhận rằng ông ta đã cung cấp hàng cho xí nghiệp. Cũng có đủ hồ sơ cần thiết, người ta thực hiện cả việc thanh toán theo đường ngân hàng ..v.v.. và thế là cái sản phẩm không hề tồn tại này được đưa vào số liệu của Tổng cục thống kê. Việc “cấp hàng khống” thịnh hành đến mức chính phủ phải ra nghị định (Nghị định của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô ngày 22 tháng 8 năm 1973) về việc phạt 7% giá trị “hàng hoá”, nếu bị phát hiện [5] Xin hãy thử nghiên cứu nền kinh tế Liên Xô trên cơ sở các dữ liệu như thế! Thế mà một số nhà kinh tế học phương Tây vẫn tìm cách nghiên cứu được và một số người (dĩ nhiên là không phải tất cả) đã đưa ra được những đánh giá nói chung khá chính xác. Chẳng nên nói một cách nghiêm túc về khoa học pháp lí của Liên Xô vì nó hoàn toàn phụ thuộc vào các quan điểm được áp đặt từ trên xuống và thay đổi một cách thường xuyên của Đảng và chẳng ăn nhập gì với cuộc sống hay có thể nói chỉ phản ánh được một phần rất nhỏ của đời sống. Thí dụ, tất cả các luật gia đều biết (đơn giản là biết) rằng tỉ lệ tội phạm ở nước ta ngày một gia tăng [6] . Nhưng điều này mâu thuẫn với luận điểm của chủ nghĩa Marx, luận điểm này khẳng định rằng tội phạm được sinh ra bởi các điều kiện xã hội của chế độ người bóc lột người. Trong chủ nghĩa xã hội các điều kiện xã hội của tội phạm không còn, vậy thì tội phạm phải giảm dần. Nếu nó phải giảm dần thì nhất định nó sẽ giảm dần, không thể nào khác được! Số liệu về tội phạm là tài liệu mật, mặc dù đáng ra nó phải là số liệu rất đáng thuyết phục về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Các luật gia Xô viết chứng minh tỉ lệ tội phạm mỗi ngày một giảm như thế nào? Không có cách nào hoặc đưa ra định lí mà không cần chứng minh hoặc: “Tỉ lệ tội phạm và diễn biến của nó trong giai đoạn hiện nay (giai đoạn xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa cộng sản – tác giả) nói chung là giảm nhưng không đồng đều. Tỉ lệ tội phạm trong 20 năm qua đã giảm một phần ba so với giai đoạn trước chiến tranh. Cụ thể số người bị kết án trong 100 ngàn dân đã giảm 2 lần so với năm 1940, nếu so với năm 1928 thì giảm 3,8 lần. Số vụ án trong những năm 1963-1965 là thấp nhất trong 20 năm qua [7] ”. Và tác giả đưa ra kết luận về “thắng lợi vô cùng to lớn của nhà nước và xã hội Liên Xô trong việc khống chế tội phạm”!. Tác giả của những câu chuyện như thế đã được phong tiến sĩ luật học và năm 1985 được nhận huân chương quốc gia đấy! Trong quá trình nghiên cứu của mình tôi sẽ dựa trên những sự kiện mình biết. Nhưng cần bao nhiêu sự kiện cho mỗi luận điểm? Một trăm? Một ngàn? Đó là điều bất khả nếu ta muốn có một cuốn sách với số trang in có thể chấp nhận được. Nhưng dù có dẫn ra cả ngàn sự kiện thì cũng không thuyết phục được một người “xã hội chủ nghĩa” phương Tây, nếu anh ta không muốn nhìn thẳng vào sự thật và không tha cho tôi tội “vu khống nhà nước Xô viết”. Mấy triệu người đã chết vì đói trong những năm 1930-1933 do chính quyền cố tình tạo ra ở Ukraine? Xin hãy suy nghĩ những từ này: “nạn đói ở Ukraine” – “vựa lúa của nước Nga”!. Một số nạn nhân của thảm hoạ vẫn còn sống, thế mà năm 1988 khi những người Canada gốc Ukraine đưa ra vấn đề này thì viên đại sứ Liên Xô đã nói một cách hằn học rằng đấy là những lời dối trá, kèm theo một tuyên bố có tính nhục mạ người Canada nữa. Còn chính phủ Canada thì nhẫn nhục chịu đựng. Chả lẽ cả dân tộc Ukraine phải chết đi để bây giờ người ta buộc phải nghiến răng công nhận rằng đấy là do “điều kiện thời tiết [8]”. Trong giai đoạn “bán công khai” của Gorbachev, trên báo chí bắt đầu xuất hiện một vài chứng cứ về nạn đói ở Ukraine. Hồi kí của bà vợ goá của N. Bukharin nói rằng ông này có mặt ở Ukraine lúc đó và đã đưa “tất cả số tiền ông ta có” cho đám trẻ đói khát. Đấy là hiện tượng đặc thù của chế độ Xô viết: đầu tiên là tạo ra nạn đói rồi sau đó tổ chức “cứu trợ”, phát chẩn. Khi về Moskva, Bukharin đã kể lại chuyện này cho ông nhạc nghe và “gục xuống đi văng nức nở khóc” (Ngọn lửa nhỏ 1987, số 48). Xin nói thêm rằng N. Bukharin, người chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân, lúc đó là ủy viên Bộ chính trị nghĩa là một nhà lãnh đạo cao cấp, một nhà báo nối tiếng, nhưng sau đó ông này đã không hề nói một lời nào về nạn đói ở Ukraine cả. Trên báo chí người ra đã viết về cuộc bạo loạn ở Novotrerkassk, tuy rằng cách đây chưa lâu nói chuyện đó có thể bị đi tù như chơi. Nhưng tôi chưa được đọc những câu chuyện về các cuộc bạo loạn ở Temir-Tau, Trerkasư và nhiều địa phương khác. Ở phương Tây đã có những tác phẩm chứng tỏ sự am tường của tác giả về hệ thống pháp luật Liên Xô. Dĩ nhiên là tầm bao quát của chúng rất rộng: từ ca ngợi cho đến thù địch. Nghiên cứu các kiến giải từ bên ngoài, từ những nhận thức pháp lí khác là rất hữu ích; các tác phẩm này giúp tôi nhìn rõ những điều mà trước đây tôi không nhận thấy trong hệ thống pháp lí “của mình”. Song những kiến giải “từ bên trong” vẫn chính xác hơn. Nhưng không có những tác phẩm như thế. Đa số các tác phẩm thuộc lĩnh vực luật pháp Liên Xô chỉ đơn giản là những lời biện hộ dối trá mà thôi. Chỉ viết về những vấn đề chuyên sâu mới có thể tránh được chuyện đó, nếu không thì tác phẩm khó lòng mà được xuất bản. Những tác phẩm của phương Tây viết về pháp luật của Liên Xô mà tôi biết thì hoặc là mô tả một cách tổng thể, nghĩa là đưa ra các nguyên lí và nguồn gốc hoặc là dẫn ra các định chế một cách giáo điều và tĩnh (cái mà trong luật học so sánh người ta gọi là “luật pháp sách vở”). Thực tiễn được trình bày trong sách vở Liên Xô chỉ là những tiêu bản và chẳng ăn nhập gì với thực tiễn cả. Mặc dù gần đây các luật sư phương Tây đã chú ý đến vấn đề xã hội học và các điều kiện vật chất của xã hội, nhưng tính cách giáo điều và sự bám víu vào lời văn vẫn còn “nằm trong máu” của họ. Còn tôi lại muốn giới thiệu với độc giả một nền “pháp luật sống động giữa đời thường”, và trong điều kiện cho phép, với lịch sử, với sự vận động và phát triển của nó. Vì vậy bức tranh về pháp luật Liên Xô sẽ hoàn bị hơn nếu ta mô tả nó từ quan điểm duy vật mác-xít. Sự tương phản giữa lí thuyết và thực tiễn của “chủ nghĩa cộng sản khoa học” sẽ càng rõ ràng hơn. Cuối cùng, bất cứ luật sư phương Tây nào, do cách tư duy và giáo dục, không phụ thuộc vào quan điểm chính trị và thái độ đối với chủ nghĩa xã hội và Liên Xô, đều coi pháp luật Liên Xô là một hệ thống, dù tốt dù xấu, nhưng là một hệ thống. Nhưng điều chính yếu, điều quyết định trong pháp luật Liên Xô lại là sự PHI LÍ, cái phi lí này, nói chung và trong từng tiểu tiết, lại bắt nguồn từ sự phi lí của toàn bộ hệ thống kinh tế-xã hội của đất nước. Óc tưởng tượng của Swift, của Gogol, của Orwell sẽ chẳng là gì trước những chuyện tưởng như hoang đường diễn ra trong đời sống của xã hội Liên Xô. Tất cả đều được đặt lộn ngược, tất cả đều thành “trồng cây chuối” hết. Không hiểu ý nghĩa của sự phi lí của hiện thực Liên Xô thì không nhận thấy chuyện lộn ngược đó: người có tư duy bình thường không thể lĩnh hội được. Khi tiếp xúc với sự phi lí, con người ta thường nghĩ rằng mình không hiểu một cái gì đó và đơn giản là anh ta sẽ cho qua. Tất nhiên là sự phi lí tồn tại khắp nơi: chả lẽ việc suốt bốn mươi năm qua nước Mĩ dùng tiền của những người đóng thuế để nuôi các gián điệp Liên Xô không phải là chuyện phi lí ư? Chỉ mới gần đây người ta mới nhận thức được chuyện đó và đã có những cố gắng, tuy còn rụt rè và chưa đi đến đâu, nhằm thoát khỏi gánh nặng đó. Chả lẽ việc phương Tây tốn hàng núi tiền cho việc trang bị vũ khí nhằm chống lại kẻ thù tiềm tàng là các “nước xã hội chủ nghĩa” nhưng lại lao đến giúp đỡ khi các nước này rơi vào tình trạng tuyệt vọng (Etiopia, Ba Lan, Liên Xô) lại không phải là phi lí ư? Hay như trong những năm 1917-1922, khi phương Tây chi tiền để cứu những kẻ bắn giết và cướp bóc nhân dân và những kẻ nêu ra nhiệm vụ tiến hành cách mạng thế giới và tiêu diệt hết “bọn tư sản” lại không phải là phi lí ư? Nhưng chỗ nào cũng thấy phi lí thì lại là một sự kiện đặc biệt, thế mà ở nước ta toàn bộ hệ thống là một sự phi lí và vì vậy được coi là bình thường. Vì vậy đối với độc giả Liên Xô, tư tưởng chủ đạo của tác phẩm hoá ra lại là mới; sống trong sự phi lí, anh ta trở thành quen với nó, thí dụ anh ta đã quen với chế độ hộ khẩu, đã quen với việc hàng tháng, thậm chí hàng năm không được trả lương cho nên anh ta coi đấy là một sự bình thường. Mặc dù tình trạng đó có mặt khắp nơi, vẫn cần phải đưa ra ở đây một vài thí dụ ngõ hầu giúp độc giả làm quen với đời sống ở Liên Xô. Ảnh: internet Trong giai đoạn, khi công cuộc “cải tổ” của Gorbachev đang diễn ra một cách quyết liệt nhất thì tại một nông trang ở tỉnh Iaroslav, giữa đêm hôm khuya khoắt, giám đốc nông trang dựng tất cả dậy để họp, ông ta chửi bới họ vì không biết làm việc, rồi xua ra khỏi văn phòng và nhảy lên bàn vừa múa vừa hát: “Ta là giám đốc! Ta là trời con!” Và chỉ đến khi ông ta giết chết hai nữ nông trang viên mọi người mới té ngửa ra là ông ta đã bị điên (Nước Nga Xô viết, ngày 16 tháng 7 năm 1989). Không chỉ tất cả các nông trang viên dưới quyền mà ban lãnh đạo huyện, thông qua các chỉ điểm của mình, trước đó cũng đã biết rõ tư cách của viên giám đốc này rồi. Vấn đề là tất cả, từ lãnh đạo đến tổ chức Đảng, chưa nói các nông trang viên lại coi đấy là điều bình thường! Sự kiện một kẻ độc đoán đứng đầu quốc gia lấy giầy đập lên giảng đàn của Liên Hiệp Quốc, làm vỡ cả kính trên chiếc bàn viết (chuyện này sau đó đã trở thành mốt của các cán bộ đủ mọi cấp) nói lên điều gì? Còn khi ông ta ra lệnh trồng ngô ở các tỉnh Arkhagensk và Vologod, hàng triệu người biết rõ rằng ngô không sống được ở đấy, rằng đấy là vứt tiền qua cửa sổ, là phí công toi, nhưng vẫn nhiệt tình, với cờ quạt, biểu ngữ trong tay và bài hát trên môi, lao vào thực hiện kế hoạch. Trong một đất nước bình thường chuyện đó có thể xảy ra được không? Một người bình thường sẽ hiểu việc “thi đua xã hội chủ nghĩa nhằm hoàn thành vượt mức kế hoạch” giữa các nghĩa trang và các lò thiêu người như thế nào? Trong khi đó thỉnh thoảng người ta lại đưa tro của người quá cố cho thân nhân của họ trong những chiếc hộp giấy vì thiếu bình đựng di cốt! Còn may là không bị gói bằng báo Sự thật đấy! Trong nhà hộ sinh số 10 ở Moskva, xác trẻ sơ sinh có lúc còn bị xếp trong… toilet dành cho phụ sản nữa kia! (TV Moskva, tháng 11 năm 1989). Nhưng đây, như người ta thường nói, chỉ là “chuyện vặt”. Ta hãy xem những chuyện lớn hơn, bắt đầu, như những người mác-xít đòi hỏi, từ hạ tầng cơ sở, nghĩa là từ lĩnh vực kinh tế. Nga là nước nông nghiệp; những cánh đồng rộng lớn với những vùng khí hậu khác nhau đã giúp chúng ta xuất khẩu lúa mì cả ngàn năm nay, thế mà giờ đây chúng ta “đã biến nước Mĩ thành người cung cấp nông sản cho chúng ta”, Canada và Australia cũng chịu chung số phận. Cuộc khủng hoảng thường trực trong lĩnh vực nông nghiệp được giải thích là do thời tiết không thuận lợi [9] , người ta còn phát minh ra một công thức đầy trí tuệ như sau: “Nước Nga nằm trong vùng rủi ro về nông nghiệp”, tuồng như sau Cách mạng Tháng Mười, khí hậu ở Nga đã thay đổi vậy. Nông dân phải ra thành phố mua bánh mì! Liên Xô mua ngũ cốc chủ yếu để chăn nuôi, trong khi điều 1541 Bộ luật hình sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Nga lại qui định hình phạt tội mua bánh mì, bột mì và các sản phẩm khác làm từ bột mì để chăn nuôi gia súc, gia cầm đến 3 năm tù giam, kèm theo việc tịch thu gia súc, gia cầm nữa. Thức ăn cho gia súc lúc nào cũng thiếu. Nhà văn B. Mogiaev kể một hiện tượng như sau: cỏ không được cắt, héo đi và thối rữa, trong khi đó người ta lại thực hiện kế hoạch chuẩn bị thức ăn cho gia súc bằng… cành bạch dương! Những cành bạch dương vẫn thường vang lên trong thi ca bị bẻ… Công nhân bẻ, sinh viên và học sinh cũng bẻ… Các cháu học sinh tốt nghiệp phổ thông không được thi vào đại học: nếu không bẻ đủ số lượng qui định thì không được nhận bằng tốt nghiệp (200 cành một người một ngày)… Dĩ nhiên là bò không ăn cành bạch dương, chúng không phải là người nên không ép được. Những cành bạch dương sẽ nằm đó, khô đi, năm sau bị người ta đem vứt… và lại bẻ tiếp cành mới! (Báo Văn học, 30 tháng 7 năm 1980). Trong lĩnh vực công nghiệp tình hình cũng không khá hơn. Dưới đây là câu chuyện của ông Valov D., phó tổng biên tập tờ Sự thật dưới nhan đề “Phi lí bình phương”. Nền kinh tế quốc dân được coi là theo kế hoạch; các kế hoạch kinh tế được soạn thảo và phê duyệt và đa số, không chỉ những người bình thường mà cả các nhà khoa học, đều tin như thế mặc dù chẳng có một kế hoạch nào cả. Lập kế hoạch cho một đất nước rộng lớn như nước ta là việc bất khả thi, có một sự phân bổ, gọi là kế hoạch, theo nguyên tắc “làm hơn năm ngoái”, nghĩa là nếu năm ngoái bạn thực hiện được 100% kế hoạch thì năm nay người ta sẽ giao cho bạn 102% và sẽ không thể nào chứng minh được rằng bạn không thể nào cố thêm được nữa. Vì vậy việc “lập kế hoạch” chỉ cản trở quá trình phát triển vì viên giám đốc có thể hoàn thành 120% kế hoạch sẽ che dấu khả năng của mình, nếu ông ta làm đúng khả năng thì năm sau bộ sẽ giao cho xí nghiệp đó 125%, chẳng cần biết sản phẩm có cần hay không. Chúng ta đã sản xuất được số lượng máy kéo gần gấp 5 lần nước Mĩ (chất lượng dĩ nhiên là khủng khiếp rồi) thế mà người ta vẫn tiếp tục xây dựng một nhà máy khổng lồ (bao giờ nhà máy sau cũng lớn hơn nhà máy trước) chuyên về máy kéo nữa ở Elabug. Khi đã quăng vào đấy hàng triệu đồng người ta mới chợt tỉnh ngộ. Bây giờ phải cải tạo nó thành nhà máy sản xuất ô tô. Với sự trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài. Theo G. Arbatov thì vào năm 1989 nước Mĩ giầu nứt đố đổ vách chỉ sản xuất có 6 quả tên lửa hành trình, trong khi Liên Xô, một nước phải xin Mĩ bố thí, lại sản xuất những 120 quả! Tháng 11 năm 1991, Gorbachev nói ở Irkusk rằng chúng ta sản xuất được 64 ngàn xe tăng, nhiều hơn tất cả các nước khác cộng lại. Không dùng vào việc gì và bây giờ phải chi tiền để phá hủy! Thật kì lạ, ngài Tổng thống biết chuyện đó từ khi nào vậy? Bây giờ xin được chuyển sang các công việc quốc gia. Chủ tịch một đất nước vĩ đại, “người bạn chiến đấu trung thành của Lenin và Stalin”, tức là đồng chí M. Kalinin, người vẫn thường xuyên tiếp các lãnh tụ và đại sứ nước ngoài, thường xuyên trao huân huy chương, ban hành luật lệ, trong khi vợ ông lại ngồi trong trại cải tạo. Người đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô trực tiếp hạ lệnh như thế. Sau mấy năm khổ sai, bà được chuyển sang công việc “nhẹ nhàng” hơn, tức là giết rận trong quần áo của tù nhân tại nhà tắm trại giam (Ngọn lửa nhỏ, năm 1988, số 13). Chuyện đó có thể xảy ra ở đâu, ngoài “đất nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên” của chúng ta? Trong lĩnh vực tinh thần, khoa học và văn học thì mức độ phi lí có thể làm người ta cười đến vỡ bụng: tất cả các vấn đề đều được các quan chức ngu dốt và thiếu hiểu biết trong bộ máy của Ban chấp hành trung ương quyết định. Nếu những kẻ xảo trá như Lysenko chui vào được cấp đó thì chúng có thể cấm bất kì ý tưởng khoa học chân chính nào, đồng thời những điều nhảm nhí nhất lại được chúng tôn thành đỉnh cao của trí tuệ loài người. Lysenko đã tìm mọi cách để tuyên bố rằng môn di truyền học (học thuyết Mendel-Weismann-Morgan) là phản khoa học. Đã sao, các nhà dân chủ phương Tây có thể hỏi, phương Tây chúng tôi cũng thiếu gì những thằng đểu và những thằng ngu? Nhưng nếu ở phương Tây người ta có thể đem chúng ra chế giễu thì ở ta hoàn toàn không có chuyện đấu tranh tư tưởng. Các tư tưởng được Ban chấp hành trung ương phê duyệt chính là chân lí, chỉ được phổ biến các tư tưởng đó; người có tư tưởng sai lầm sẽ bị giết, tư tưởng bị bác bỏ. Các viện và các phòng thí nghiệm về di truyền bị giải tán, các nhà di truyền học lỗi lạc cùng với nhà di truyền học thiên tài của thế kỉ chúng ta là N. Vavilov bị xử bắn hoặc chết trong các trại cải tạo. Khoa di truyền đã bị đẩy lùi đến hàng chục năm. Học thuyết tương đối của Einstein và môn điều khiển học cũng bị coi là phản động và dối trá. Không thể tìm được tên các môn khoa học này trong cuốn bách khoa toàn thư Xô viết dày hàng chục tập. Liên Xô là nước đầu tiên sản xuất và sử dụng trong tác chiến vũ khí tên lửa. Đầu tiên loại vũ khí này được một nhóm gọi là Nhóm nghiên cứu động cơ phản lực (NCĐCPL), do Sander đứng đầu, thiết kế; họ làm việc này trong thời gian rảnh rỗi (ta gọi là “tự nguyện”). Họ tự gọi đùa mình là nhóm kĩ sư làm việc không công. Trên cơ sở đó, một viện nghiên cứu chuyên ngành được thành lập, thế rồi vì bị vu khống, tất cả đều bị bắt, những người lãnh đạo (Langemak và mấy người nữa) bị xử bắn, những người khác (trong đó có Korolev, người sau này trở thành tổng công trình sư các tầu du hành vũ trụ nổi tiếng) phải vào trại giam, chỉ sau khi xảy ra chiến tranh với Đức, khi Hồng quân, “một đội quân huyền thoại, bách chiến bách thắng” đã chạy về gần đến Moskva, họ mới được chuyển đến các trại đặc biệt dành cho tù nhân có thể tham gia công tác nghiên cứu-thiết kế trong lĩnh vực quân sự (xem cuốn Trong vòng tròn đầu tiên của Solzhenitsyn). Chúng ta đã trọng dụng hiền tài như thế đấy [10] ! Tupolev, tổng công trình sư những chiếc máy bay nổi tiếng một thời, cũng không tránh khỏi cảnh tù đầy. Những nhà văn, nhà thơ, đạo diễn và nghệ sĩ bất tài nhưng “sẵn sàng ăn theo nói leo” nhận được những mức nhuận bút cao ngất trời, họ còn được huân huy chương, giải thưởng và các danh hiệu cao quí nữa. Sau khi Brezhnev đã treo lên mình đủ loại huân chương (kể cả huân chương “Chiến thắng”) và đủ loại huy chương (kể cả huy chương mang tên Marx vì những đóng góp to lớn trong lĩnh vực xã hội học), ông ta lại nảy ra ý muốn lưu danh thiên cổ trong cả lĩnh vực văn học nữa. Mấy cuốn hồi kí của ông ta do một bọn văn nô chắp bút liền được tuyên bố các kiệt tác văn chương. Nhà văn Trakovsky còn kêu gọi các văn sĩ học tập văn phong của… Brezhnev nữa! Các cuốn sách này được dựng thành phim và kịch, cái nào cũng được giải thưởng và được ca ngợi hết mức. Đáng tiếc là Brezhnev đã chết ngay sau đó, nếu không thể nào chúng ta cũng được xem vở opera, mà chắc chắn một nhạc sĩ nào đó đã viết xong rồi. Tất nhiên là ngay sau khi ông ta chết thì tất cả những kiệt tác văn chương cùng với bức tượng “vinh danh chiến công” của ông ta tại Đất Nhỏ đều được vứt vào sọt rác. Thế nhưng số phận của các nghệ sĩ thực tài, nói chung, đều đáng buồn cả. Gumilev, Oreshin, Svetaeva, Akhmatova, Mikhoels, Pasternak, Solzhenitsyn, Brodsky … danh sách dài lắm, không thể nào kể ra hết được, người bị giết, người bị đi đày, người bị đàn áp… Tờ Moskva buổi chiều, trong bài “Một nền văn chương bị hành quyết” dẫn ra danh sách 98 nhà văn ở Moskva bị giết (Moskva buổi chiều, ngày 12 tháng 11 năm 1988), trên toàn Liên Xô con số là gần 300, tuy rằng chưa ai có số liệu đầy đủ. Dư luận rộng rãi đã biết viện sĩ Andrey Sakharov, ông bị đi đầy ở Gorki mà không qua một phiên toà, một vụ xử án nào… Các đồng nghiệp-viện sĩ đã hành động ra sao? Họ đã phản đối chứ? Không phải thế! Họ đã lên án ông một các đểu giả nhất! Ngay tại kì họp của “các đại biểu nhân dân” thời “đổi mới” người ta cũng không cho Sakharov nói, người ta đã bịt miệng, đã chẹn họng ông… Đấy chỉ vài nét chấm phá về cuộc sống đầy phi lí của chúng ta. Tôi không biết liệu độc giả có nhận thấy sự va chạm giữa những cái phi lí đó với pháp luật, mặc dù chúng có liên hệ trực tiếp với các lĩnh vực khác? Nếu bạn là một người làm thơ; những bài thơ tình ái, không liên quan gì đến chính trị. Nhưng nếu “Đảng” coi đấy là những bài thơ có hại thì cả tác giả, cả thơ đều phải bị tiêu diệt. Nhưng làm sao bảo vệ một cách hợp pháp? Nếu có một người dũng cảm dám làm chuyện đó thì anh ta cũng chịu chung số phận với bạn. Nếu có một người tỏ lòng thương hại thì cũng không có ai biết. Nếu bạn được lệnh đi bẻ cành bạch dương cho những con bò khốn khổ thì bạn sẽ đi mặc dù biết rằng đấy là việc làm hoàn toàn vô nghĩa và ngu xuẩn. Bạn không có phương tiện phản đối một cách hợp pháp, phản đối một cách ngấm ngầm cũng không được nốt. Còn phản đối bất hợp pháp thì bạn sẽ bị bỏ tù ngay. Nếu môn di truyền học (điều khiển học, thuyết tương đối ..v..v..) bị “Đảng” coi là giả khoa học và tiêu diệt mà bạn lại là một chuyên gia trong lĩnh vực di truyền thì xin hãy cám ơn số phận vì người ta chưa bắn bạn mà chỉ bắt bạn đi quét rác thôi. Có bộ luật nào hay tổ chức nhà nước nào đủ sức bảo vệ bạn không? Nếu bạn là giám đốc một nhà máy và bạn biết rõ rằng đang cho ra một loại sản phẩm chẳng ai cần, một loại sản phẩm đã chất đống trong các nhà kho và các bãi rác rồi thì bạn vẫn sẽ tiếp tục sản xuất vì kế hoạch là luật, phải thực hiện (sản xuất của chúng ta là như thế) “bằng mọi giá”! Cuối cùng, nếu bạn là chủ tịch, người nắm chức vụ cao nhất… Nhưng nếu vợ bạn bị người ta vu khống, trong đó có tội gián điệp và khủng bố rồi tống vào tù, cho đi giết rận. Luật nào của quốc gia có thể cứu bà ấy? Không hiểu điều này thì không thể hiểu được luật pháp Liên Xô, nó chính là luật pháp của sự phi lí. Điều phi lí lớn nhất của xã hội Liên Xô là luật pháp thời nông nô được khoác lên mình hình thức xã hội chủ nghĩa. Những người nông nô xây dựng chủ nghĩa xã hội tối tăm. Người ta kêu gọi công dân với xiềng ở chân và còng số tám trên tay bay đến những chân trời tươi sáng. Không hiểu điều đó thì không thể hiểu được nước Nga. Ghi chú: [1]Tất cả các từ “Đảng” trong cuốn sách này đều chỉ Đảng Cộng sản. BT [2]“Trong mười năm tới (1961-1970) Liên Xô, trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản, sẽ vượt Mĩ, nước tư bản mạnh nhất và giầu có nhất, về số lượng sản phẩm trên đầu người… Như vậy là tại Liên Xô đã xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản…” Cương lĩnh thứ III của Đảng Cộng sản Liên Xô. Thông qua tại đại hội XXII, năm 1961. [3]Cục trưởng cục thống kê bị bắt vì báo cáo láo theo chỉ thị của bí thư tỉnh ủy. Ông này đã trả lời điều tra viên như sau: “Nếu tôi không làm thế thì bây giờ sẽ có một cục trưởng khác ngồi ở đây” (Tin tức, ngày 27 tháng 12 năm 1986). Từ đó: “… thông tin chính xác về kinh tế thì ngay Bộ chính trị cũng không có” (Ngọn lửa nhỏ, 1988, số 46). [4]Nông trường Novopokrovsky (tỉnh Kuban) 5 năm sản xuất được 2,4 ngàn tấn sữa, nhưng giao nộp tới .. 4,2 ngàn tấn! Cứ ba xí nghiệp thì có một báo cáo láo (Sự thật, ngày 26 tháng 3 năm 1990). Năm năm cải tổ! Nhưng như thế không có nghĩa là các xí nghiệp còn lại không báo cáo láo. [5]“Hiện nay tất cả các công tố viên đều đang đấu tranh với hiện tượng vi phạm kỉ luật tài chính rất thịnh hành này (tạp chí Pháp chế Liên Xô, năm 1985, số 12, trang 49). Xin nói thêm rằng theo luật thì đây không phải là vi phạm kỉ luật tài chính mà là tội hình sự – điều 152 bộ luật hình sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Nga. [6]Điều này được toà án tối cao Liên Xô công nhận vào năm 1986, khi toà án ghi nhận “sự gia tăng một cách đáng ngạc nhiên” (Báo Văn học, ngày 17 tháng 12 năm 1986). Các số liệu cụ thể chỉ được công bố từ năm 1988. [7]N. Kuznesova. Tội ác và tình trạng phạm tội. Bản tóm tắt luận án. M., năm 1968, trang 2. Như đã thấy người ta nói về tình trạng phạm tội, nhưng lại dẫn ra số liệu về сác vụ án, thêm nữa so sánh được lấy từ những năm 1963-1965, là lúc theo chỉ thị của Khrushchev người ta đã ngưng việc bắt bớ và đưa ra toà hàng loạt mà chuyyển các tội phạm cho các xí nghiệp và tổ chức xã hội “bảo lãnh”. [8]R. Konkvest trong tác phẩm Mùa buồn (London, 1988) đã trình bày lịch sử vụ diệt chủng được tổ chức bởi lãnh đạo Đảng Cộng sản. Ông chỉ ra rằng người ta đã đi từ phủ nhận một cách quyết liệt và hoàn toàn nạn đói (kể cả những người theo tư tưởng tự do ở phương Tây được “tận mắt chứng kiến” như Bernard Shaw) ở Liên Xô đến việc công nhận một cách không chính thức. [9]Tiếu lâm: Bốn khó khăn của nông nghiệp Nga: mùa đông, mùa xuân, mùa hè, mùa thu. [10]Tháng 12 năm 1991 (sau nửa thế kỉ) công lao của nhóm NCĐCPL mới được ghi nhận. Chính Gorbachev đã trao huân chương… cho các goá phụ!
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 29, 2014 1:40:21 GMT 9
Nhã Thuyên, Lê Thăng Long & những người “Trotsky”…Đặng Ngữ Thuần hóa là quá trình mà trong đó loài người thông qua việc sử dụng chọn lọc nhân tạo một số loài thực vật và động vật hoang dã hoặc trở thành lương thực – thực phẩm dự trữ hoặc trở thành những con vật chịu sự điều khiển của con người. Người Ai Cập cổ thuần hóa bò để lấy sữa. Nguồn Wikipedia.org Nói khác đi, thuần hóa đồng nghĩa với việc con người gắn thêm một số thuộc tính “người” vào những loài vật hoang dã. Những con vật được thuần hóa dần thích nghi với con người qua nhiều thế hệ nhằm phục vụ con người vào một mục đích tính nào đó. Thoạt tiên là với loài chó, con người đã thuần hóa chó từ những năm 15000 TCN. Sau đó đến loài cừu, dê, lợn, mèo… Các loài có cánh như chim, gà…đến với loài người muộn hơn, cách đây 3000 TCN cho đến 2500 TCN. Trong lịch sử nhân loại, loài người chắc hẳn cũng đã từng cố gắng thuần hóa một số loài dã thú như sư tử, cọp, báo, gấu… Nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô hiệu. Hay nói cách khác, cho đến thời đại ngày nay và cho đến mai hậu, con người đành bó tay trong nỗ lực thuần hóa những loài dã thú hung hãn này. May chăng hoặc Chúa hoặc mấy nghệ sĩ xiếc thú mới có khả năng điều khiển những chủng loài này. Từ lâu, loài người nói chung đã từ bỏ chương trình điên rồ này ngoại trừ những người thật sự điên rồ hoặc những người gần giống người điên rồ: những người ảo tưởng. Nhà văn Nhã Thuyên (tôi chưa được hân hạnh gặp chị lần nào) không biết có phải loại người điên rồ không (tôi mong rằng không). Nhưng tôi cho rằng, cũng giống như phần đông văn nghệ sĩ, chị mắc một căn bệnh chung: ảo tưởng. Ảo tưởng về việc thông qua tiếng nói ôn hòa, tiếng nói lệch ra ngoài qũy đạo ý thức hệ, tiếng nói phản biện… có thể thay đổi ý thức nhà cầm quyền. Mọi so sánh đều khập khiển, nhưng trong việc này Nhã Thuyên cũng như các vị tiền bối trong giới văn nghệ – nổi tiếng với vụ án Nhân Văn Giai Phẩm – những Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Phùng Quán… đều ảo tưởng về việc thuần hóa những con dã thú của xã hội hiện đại. Tôi không rõ việc Nhã Thuyên cần tấm bằng thạc sỹ vào việc gì, chức danh đó có giúp ích được gì cho sự nghiệp văn chương của cô, hay tấm bằng có giúp được cho Nhã Thuyên có được một vị trí cao hơn nơi văn đàn tội nghiệp này hoặc một vị trí cao hơn trong bộ máy… Nếu vì những đều này, e rằng Nhã Thuyên và người hướng dẫn cô đã chọn sai đề tài. Việc chọn nhóm Mở Miệng với những tên tuổi ngoài lề Lý Đợi – Bùi Chát, ngược chiều ý thức hệ chính thống của nhà cầm quyền đã là một sai lầm tệ hại. Tấm bằng thạc sỹ đâu cần Nhã Thuyên phải lựa chọn một đề tài hóc búa đến như vậy. Tệ hại hơn nữa là nhà văn lại đem đề tài này ra để bảo vệ trước một hội đồng “tuyên giáo” mà một câu một lời đi ngược đường lối có thể bị quy kết, có thể khiến con đường chính trị của các vị chức sắc đó lâm vào đường cụt. Nhã Thuyên là ai mà có thể khiến họ chấp nhận hi sinh con đường, địa vị đang có của mình. Trong cơn ngủ gật triền miên, các vị trong hội đồng chấm luận án có thể cho qua, cho điểm tuyệt đối 10/10. Nhưng khi hệ thống đánh động, lập tức họ tỉnh giấc, bản năng chính trị – tính năng dã thú cường bạo – trỗi dậy, đương nhiên, họ chối phăng và quật lại Nhã Thuyên tơi bời cũng là điều dễ hiểu. Nhã Thuyên hi vọng gì ở những kẻ nhổ ra đấy rồi liếm vào ngay đấy. Theo tôi, là một nhà văn nhưng Nhã Thuyên vẫn mắc căn bệnh muôn thuở của các nhà văn Việt: lười đọc. Nếu đã từng đọc những tài liệu có liên quan đến vụ Nhân Văn Giai Phẩm hoặc cô có thể tham khảo với những nhân chứng sống như nhà văn Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn… thì hẳn Nhã Thuyên đã không ấm ức đòi tự do học thuật, tư do tư tưởng… như thế nữa. Tự do là thứ không thể xin. Tự do là thứ phải giành lấy. Văn nghệ sĩ muôn đời “ngây ngô” với thực tế chính trị. Khi vướng vào chính trị, họ lập tức trở thành vật tế Cụ. Phiên tòa tại Hà Nội (19/01/1960) xét xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Từ trái sang phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thuỵ An, Phan Tại và Lê Nguyên Chí. Nguồn anh: DR/Thụy Khuê/RFI Tôi không đủ thời gian để quan tâm đầy đủ và chi tiết đến vụ việc có liên quan đến luận văn của Nhã Thuyên. Việc này, cùng với việc ông Lê Thăng Long tuyên bố rời khỏi Con Đường Việt Nam để gia nhập đảng Cộng sản làm tôi nghĩ nhiều đến căn bệnh ảo tưởng của giới trí thức. Dường như sau bao nhiêu năm, trải qua vài bai thế hệ, những người trí thức Việt Nam vẫn không khá hơn là mấy. Căn bệnh ảo tưởng đã chuyển sang căn bệnh hoang tưởng: van nài dân chủ hóa. Hãy hỏi những người như ông Lê Hiếu Đằng về những người một thời là đồng đội của ông ta. Hãy tham khảo ý kiến của các vị Dương Bạch Mai, Tạ Thu Thâu… về con đường họ từng đi. Tiếc thay tất cả họ đều đi xa mà không để lại bất cứ một “Lời Thú Tội” nào cả. Cho đến thế kỷ XXI, giới trí thức Việt Nam vẫn chìm đắm trên con đường ảo tưởng như Trotsky đã từng ảo tưởng về Stalin. Ảo tưởng. Nguồn: paradoxplaza.com Tôi muốn kết luận bài này như sau: “Chỉ có Chúa hay nghệ sĩ xiếc thú mới có khả năng điều khiển thú dữ. Hoặc chỉ có những kẻ điên và những kẻ ảo tưởng mới nghĩ đến việc đó mà thôi.” Sài Gòn, trưa 31/03/2014
|
|