|
Post by Can Tho on Sept 28, 2011 3:16:53 GMT 9
Karl MarxPhạm Văn Tuấn Tư Bản Luận Karl Marx (1818-1883) Karl Marx đã trưởng thành trong một thời kỳ hỗn loạn, giữa các cuộc cách mạng đang diễn ra tại châu Âu vào năm 1848. Tại nước Ý có các cuộc nổi dậy đòi dân chủ, tại nước Pháp chế độ quân chủ bị tiêu diệt, đồng thời người dân Hung đang đấu tranh đòi tự do và độc lập khỏi nền cai trị của người Áo. Tại nước Đức, thể chế tiền đại nghị (pre-parliamentary) được thiết lập trong khi đó nội chiến tàn phá nước Thụy Sĩ và thành phố Prague là trung tâm của các hỗn loạn do việc thành lập liên minh thuần Slav (a pan-slavic alliance) còn tại nước Anh, phong trào đòi dân chủ Chartism đang đe dọa lật đổ chính quyền. Người dân châu Âu vào thời kỳ này đòi hỏi các chính quyền và xã hội phải giảm bớt các lạm dụng xấu xa gây nên do cuộc kỹ nghệ hóa, đòi hỏi hủy bỏ các tàn tích phong kiến. Đây là giai đoạn rất thích hợp cho các tư tưởng lật đổ, cấp tiến, và Karl Marx đã quan sát cuộc Cách Mạng Pháp năm 1848, đã coi Công Xã Paris (the Paris Commune) diễn ra vào năm 1871 là một kiểu mẫu của xã hội vô sản. Cuộc đời của Karl Marx. Karl Heindrich Marx chào đời vào ngày 5/5/1818 tại Trier trong miền sông Rhine, thuộc nước Phổ (Prussia). Ông nội của Karl là một giáo sĩ Do Thái (rabbi). Cha của Karl là một luật sư giàu có, cả hai phía cha và mẹ của Karl Marx đều thuộc giòng dõi Do Thái nhưng khi Karl tới tuổi thiếu niên thì cả gia đình này chuyển sang đạo Thiên Chúa vì các lý do thương mại và xã hội. Có lẽ do mặc cảm về nguồn gốc này mà về sau, Karl Marx đã chống lại đạo Do Thái. Vào năm 1835, Karl Marx theo học Luật Khoa tại trường Đại Học Bonn rồi qua năm sau, đổi sang Đại Học Berlin. Trong thời gian sống tại Berlin, Karl Marx rất ưa thích môn Triết Học, có cơ hội đọc triết thuyết của Wilhelm Friedrich Hegel. Tại nước Phổ vào giai đoạn này, Triết Học (philosophy) là một môn học nghiêng về chính trị trong khi bên ngoài xã hội, người công dân không được phép tham dự vào các công quyền (public affairs). Karl Marx đã tham gia vào nhóm các sinh viên và giáo sư cấp tiến, thiên về phe tả, thường hay chỉ trích gay gắt cách quản trị xã hội của chính quyền nước Phổ. Karl Marx tốt nghiệp Tiến Sĩ Triết Học tại Đại Học Jena vào năm 1841, có ước vọng trở nên một giáo sư đại học nhưng vì các tư tưởng chống đối chính quyền nên đã gặp nhiều thất bại. Karl Marx quay sang ngành báo chí, đã viết nhiều bài theo đường lối cấp tiến cho nhiều nhật báo trong đó có tạp chí Sông Rhine (the Rheinische Zeitung), khởi đầu xuất bản vào năm 1842. Năm 1843, Karl Marx lập gia đình với cô Jenny von Westphalen, một thiếu nữ trẻ đẹp, con gái của một sĩ quan Phổ, dù cho cả hai gia đình đều không bằng lòng trước cuộc hôn nhân này. Các tư tưởng cấp tiến, các bài viết có tính công kích chính quyền của Karl Marx đã bị kiểm duyệt, người viết bị theo dõi rồi để tránh bị bắt giam, Marx cùng với vợ chạy qua thành phố Paris. Tại nơi này, Karl Marx gặp Friedrich Engels, một người cấp tiến khác gốc Đức, cả hai người trở nên bạn thân, cộng tác với nhau qua nhiều bài viết. Engels là một người tương đối giàu có, con trai của một chủ nhân xưởng dệt, lại có tư tưởng xã hội cấp tiến giống như Karl Marx. Nền móng của tác phẩm sau này “Tư Bản Luận” (Das Kapital) bắt nguồn từ cuốn sách của Friedrich Engels có tên là “Tình trạng của các giới lao động tại nước Anh” (Condition of the Working Classes in England). Các bài viết có tính cách xúi dục nổi loạn của Karl Marx chống lại chính quyền Đức đã khiến cho chính quyền này vận động với nước Pháp trục xuất Marx ra khỏi thành phố Paris vào năm 1845. Marx qua Brussels, nước Bỉ, trú ngụ trong ba năm rồi trở về nước Đức, làm chủ nhiệm tạp chí Sông Rhine Mới (the Neue Rheinische Zeitung), xuất bản tại Cologne. Qua tạp chí này, Karl Marx nổi tiếng là một người phát ngôn của đường lối cải tổ dân chủ cấp tiến. Sau cuộc cách mạng năm 1848 thất bại tại nước Đức, Karl Marx phải bỏ chạy qua Paris. Vào năm này, Marx đã cộng tác với Friedrich Engels, viết ra Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản (The Communist Manifesto), một văn bản cấp tiến nhất, kêu gọi bạo lực và gây nên nhiều ảnh hưởng sâu đậm về sau: “Các người Cộng Sản cho rằng không cần phải che giấu các quan điểm và ý định. Họ tuyên bố công khai rằng mục đích của họ chỉ được thực hiện do cuộc lật đổ bằng bạo lực toàn thể trật tự xã hội đương thời. Trước Cuộc Cách Mạng Cộng Sản này, các giai cấp cai trị phải run sợ. Các công nhân không bị mất mát gì cả ngoài gông cùm. Họ có cả một thế giới để chiếm đoạt. Hỡi các Công Nhân của Thế Giới, hãy đoàn kết lại!”. Vào các năm 1848 - 49, các cuộc cách mạng tại châu Âu đã không thành công, những kẻ xúi dục nổi loạn bị truy lùng, Karl Marx vì vậy phải bỏ chạy qua thành phố London vào mùa hè năm 1849. Từ tuổi 31, Marx đã trải qua phần còn lại của cuộc đời trong cảnh túng thiếu. Karl Marx có 6 người con, ba đứa bị chết yểu, hai trong số còn lại sau này đã tự sát. Trong cảnh sống cơ cực, Karl Marx đã được Friedrich Engels trợ giúp cho khỏi chết đói bởi vì lợi tức của Marx chỉ là một món tiền rất nhỏ nhờ các bài viết cho tờ báo New York Tribune, mô tả các sự việc xẩy ra tại châu Âu. Do hoàn cảnh sống quá eo hẹp và bất mãn này mà các bài viết của Karl Marx thường bộc lộ lòng hận thù, cay đắng. Karl Marx là một người học rộng nhưng mang thành kiến và tự kiêu, ông ta được nhiều người ngưỡng mộ nhưng có ít bạn bè và rất nhiều kẻ thù. Mặc dù thường bị đau yếu vì bệnh tật và sống trong cảnh nghèo túng trong khu vực Soho buồn tẻ của thành phố London, mỗi ngày Karl Marx thường ra Viện Bảo Tàng Anh Quốc (the British Museum) tìm kiếm tài liệu để viết nên một tác phẩm có tên là “Tư Bản Luận” (Das Kapital). Cuốn sách này đã được soạn thảo trong 18 năm trường, đôi khi bị ngưng lại vì các lần đau bệnh hay vì vài hoạt động khác của tác giả. Friedried Engels rất lo lắng cho tác phẩm này, e sợ nó bị dở dang. Engels đã nói “ngày mà cuốn sách được đưa in, tôi phải uống rượu thật say để chúc mừng”. Cả hai Karl Marx và Engels đều coi cuốn “Tư Bản Luận” là “cuốn sách bị nguyền rủa” (the d**ned book) bởi vì nó sẽ mang lại một “cơn ác mộng”. Trong đời sống lưu vong của Karl Marx tại thành phố London, có một biến cố quan trọng khác, đó là việc thành lập vào năm 1864 Hiệp Hội Các Công Nhân Quốc Tế (the International Working Men’s Association) được mọi người sau này gọi là Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Nhất (the First International). Đây là một tổ chức cố gắng kết hợp các giới lao động trên thế giới. Karl Marx là người đứng đằng sau sân khấu, đã soạn ra các tài liệu, nguyên tắc, chương trình, các bài diễn văn... nhưng về sau các vụ cãi cọ nội bộ, tranh giành quyền chỉ huy... đã khiến cho tổ chức này bị giải tán sau cuộc sụp đổ của Công Xã Paris vào năm 1871. Tổ chức công nhân quốc tế này lại được các nhà xã hội châu Âu tiếp tục bằng Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Hai (the Second International) rồi về sau bằng Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Ba (the Third International) hay Tổ Chức Comintern, do các người Cộng Sản trên toàn thế giới. Karl Marx đã chuẩn bị cuốn “Tư Bản Luận” trong rất nhiều năm, rồi vào cuối năm 1866, toàn thể bản thảo của cuốn sách này được gửi sang Hamburg và vào mùa thu năm sau, cuốn sách ra đời. Cuốn “Tư Bản Luận” được viết bằng tiếng Đức, bản dịch đầu tiên sang ngoại ngữ khác là ấn bản tiếng Nga năm 1872 rồi tới năm 1886 mới có ấn bản tiếng Anh. Vào thời đại của Karl Marx, nước Anh là nơi tượng trưng cho chế độ tư bản đang phát triển. Các lý thuyết kinh tế của Karl Marx đều dược rút ra do việc quan sát sinh hoạt của nước Anh này. Tại nước Anh vào thời đại Victoria, xã hội chứa đầy bất công, nhiều hoàn cảnh xấu xa. Căn cứ vào các báo cáo chính thức của các nhân viên thanh tra trong chính quyền Anh, Marx đã trình bày các sự kiện xã hội một cách xác thực trong cuốn Tư Bản Luận theo đó đàn bà bị thuần hóa như các con vật, phải kéo các con thuyền dọc theo sông đào, kéo các toa xe nặng chở đầy than đá trong hầm mỏ. Trẻ em tại nước Anh bắt đầu làm việc trong các xưởng dệt vải len từ khi lên 9 hay 10 tuổi và phải lao động cực nhọc mỗi ngày từ 12 tới 15 giờ. Từ khi áp dụng ca đêm, các giường nằm của trẻ em không bao giờ lạnh cả bởi vì chúng thay nhau ngủ theo ca! Bệnh lao phổi và các bệnh nghề nghiệp khác đã giết trẻ em theo một mức độ cao. Việc phản đối các điều kiện làm việc hết sức tồi tệ kể trên không chỉ giới hạn vào Karl Marx. Những nhân vật có lòng nhân đạo như Charles thingyens, John Ruskin và Thomas Carlyle đã viết ra nhiều tác phẩm văn chương với nội dung phơi bày các bất công xã hội và đòi hỏi các cải tổ. Quốc Hội Anh cũng đặt ra các đạo luật sửa chữa. Karl Marx rất hãnh diện về cách tiếp cận các vấn đề kinh tế và xã hội một cách khoa học. Engels nói rằng: “Giống như Darwin đã khám phá ra định luật Tiến Hóa trong bản chất hữu cơ, Marx đã tìm ra định luật Tiến Hóa trong lịch sử con người”. Karl Marx xác nhận rằng: “các hiện tượng kinh tế có thể quan sát và ghi lại với độ chính xác giống như khoa học tự nhiên”. Thông thường Karl Marx hay dẫn chứng các công trình của các nhà sinh học, hóa học và vật lý. Rõ ràng là Karl Marx mong muốn trở nên một nhân vật danh tiếng về xã hội và kinh tế giống như Darwin và Newton. Do cách phân tích xã hội theo khoa học, Karl Marx tin rằng mình đã khám phá ra cách thay đổi từ thế giới tư bản sang thế giới xã hội chủ nghĩa (a socialistic world). Karl Marx qua đời trong thành phố London vào ngày 14/3/1883. Chỉ có 8 người tham dự đám tang của danh nhân này tại nghĩa trang Highgate, gồm cả người vợ và 2 người con. Trong bài điếu văn đọc trước ngôi mộ của Karl Marx, Friedrick Engels là người bạn thân nhất, người cộng tác lâu năm và cũng là một môn đệ của Karl Marx, đã tóm tắt rằng “Trên hết, Marx là một nhà cách mạng và chủ đích chính trong cuộc đời của ông là lật đổ xã hội tư bản cùng các định chế do chế độ này lập nên”.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2011 3:21:57 GMT 9
Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan). Thiết Mộc Chân (1162-1227) Thành Cát Tư Hãn Ogedei Khan Kubilai Khan (Hốt Tất Liệt) Ðế quốc Mông Cổ Ðoàn quân Mông Cổ Thời Trung cổ, nước Mông Cổ, xét về dân số, chỉ là một nước nhỏ, nhưng họ đã làm rung chuyển thế giới thời đó vì họ có những thủ lãnh xuất chúng với một đạo kị binh thiện chiến giỏi cỡi ngựa, giỏi cung tên và vô cùng tàn ác, " nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cây cỏ cũng hết sống ". Thành Cát Tư hãn Bão táp bắt đầu nổi lên cùng với sự xuất hiện của Thiết Mộc Chân (Temujin 1162-1227), sau này lấy danh hiệu là Thành Cát Tư Hãn, tức Genghis Khan. Vừa nắm được quyền hành, Thành Cát Tư Hãn đã khởi sự chiến tranh, theo đuổi mộng bá chủ: - 1205-1209: chinh phục nước Tây Hạ (Hsi-Hsia), tức vùng đất Tây Thục sau nàỵ - 1211-1215: chinh phục nước Kim (Chin), vượt Vạn Lý Trường Thành, chiếm thủ đô Bắc Kinh của người Kim. Sau này, nước Kim sát nhập vào nước Tầụ - 1218-1219: chinh phục đế quốc Ba Tư (thời đó là Khwarezmian empire của Mohammed Shah), gồm đất Ba Tư, Khorassan, Transoxonia, Samarkand và Afghanistan. - 1222: Tuân lệnh của Thành Cát Tư Hãn quân Mông tiến sang Âu châu, chiếm toàn vùng Caucasus, vượt sông Don, tràn vào Crimea rồi Ukraine, hạ trại bên bờ sông Dnieper. Ông hoàng thành Kiev đưa 80 ngàn quân đánh quân Mông, nhưng đã bị Subotai và danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh tướng Chepe bị bệnh chết, Subotai triệt thoái trên con đường dài 4000 dặm để bắt tay với đoàn quân trung ương. TOP - 1226: Thành Cát Tư Hãn chọn con trai là Ogedei làm người nối nghiệp, rồi chuẩn bị đưa 180 ngàn quân đi trừng phạt quân Hạ và Kim là hai nước đã bị quân Mông Cổ đánh bại, nay liên kết với nhau chống lại quân Mông Cổ. - 1227: Thành Cát Tư Hãn chết. Ogedei đại hãn và Kuyuk đại hãn Ogedei và con là Kuyuk tiếp tục mộng bá chủ của cha. - 1231: Xâm lăng Cao Ly (Korea). - 1235-1239: Con Ogedei Khan là Godan đánh chiếm Tây Tạng. - 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn quân trở lại Âu châu, gieo tàn phá, chết chóc khắp vùng phía Bắc nước Nga . - 1240: Chiếm Kiev, rồi Lithuania và Ba lan. - Tháng 4, 1240: Subotai hạ thành Pest, tiêu diệt đạo quân của vua Bela IV nước Hung. - Tháng 9, 1240: Ðánh tan liên minh quân Ðức, Ba lan, và dòng tu Hiệp sĩ Ðức (Teutonic Knights). Thủ lãnh của liên minh là hoàng tử xứ Silesia bị giết cùng với hầu hết hiệp sĩ của ông. - Cuối năm 1241, quân Mông tiến vào nước Ý, vượt qua thành Venice và Treviso, đồng thời ngược lên sông Danube, áp sát thành Vienne Giữa lúc ấy, Ogedei chết. Theo luật, các anh em của vị đại hãn quá cố phải trở về Mông Cổ để bầu chọn vị đại hãn mớị. Nhờ thế mà Âu châu thoát được họa diệt vong. Vậy mà trên đường triệt thoái, quân Mông Cổ còn đủ thì giờ để làm cỏ hai nước Bulgaria và Serbia. - Năm 1246, con của Ogatai là Kuyuk được chọn làm đại hãn. Dưới thời ông, Ðức giáo chủ Innocent IV gửi đặc phái viên là thầy John di Piano Carpini, dòng Phanxicô, tới các thủ lãnh Mông Cổ để tìm hiểu ý đồ của họ ở Âu châu. Mới nắm quyền được ít lâu, còn đang lưỡng lự nên trở lại chinh phục Âu châu trước hay tiến xuống phía Nam để chiếm trọn nước Trung hoa trước, thì Kuyukchết vào năm 1248. Mangu, tức Mông Kha đại hãn và em là Kublai, tức Hôt Tât Liệt đại hãn - 1251: Một người cháu nội khác của Thành Cát Tư Hãn là Mangu (còn viết là Mengke, ta gọi là Mông Kha) lên ngôi đại hãn. Mông Kha quyết định thôn tính Á châu, đặc biệt là nước Trung Hoa trước. Nước Trung Hoa thời đó chia làm Bắc Tống và Nam Tống. Mông Kha nắm quyền thống soái nhưng lại giao trọng trách cho người em kiệt xuất đó là Hốt Tất Liệt (Kublai). - Mông Kha sai một người em khác là Hulagu trở lại thôn tính Ba Tư bao trùm khắp miền Ðông Nam Á châụ Ðồng thời khuyến khích người em họ là Batu khống chế khắp vùng Ðông Âu, toả lên Ba lan, Lithuania và Esthonia, rồi xuống Serbia và Bulgaria một lần nữa. - 1252-1253: Hốt Tất Liệt chinh phục Vân Nam, từ đó phái một đạo quân mở cuộc xâm lăng bờ cõi nước ta lần thứ nhất vào năm 1257. - 1259: Mông Kha chết, Hốt Tất Liệt (Kublai) lên ngôi đại hãn vào năm 1260. Lúc ấy đế quốc Mông Cổ trải rộng từ toàn vùng Hoa Bắc sang vùng Tiểu Á, từ vùng thủ đô Moscow của nước Nga xuống biển Ðen, xuống Baghdad (Iraq) và Iran ngày naỵ - Nhận được tin Mông Kha chết, người em là Mangu đang chiếm đóng vùng Mesopotamia và Syria phải về Mông Cổ để bầu đại hãn mới. Trong khi ông vắng mặt thì, năm 1260, đạo quân của ông đã bị tướng Baibars (thuộc triều đại Mameluk cai trị Ai Cập và Syria) đánh bại trong trận Aint Jalut, gần thành Nazareth. Chiến công của Baibars có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chứng minh đoàn quân bách chiến bách thắng Mông cổ suốt 70 năm không phải là không thể đánh bại,dấu hiệu suy thoái đã biểu hiện và toàn Âu châu sẽ thoát nạn Mông Cổ. - 1268-1279: Hốt Tất Liệt không nuôi ý chí chinh phục thế giới như các đại hãn tiền nhiệm, ông dốc hết khả năng để chinh phục toàn cõi Trung Hoa trong một chiến dịch dài ngót mười năm. Năm 1263, ông rời kinh đô từ Karakorum về Bắc Kinh. Trong trận hải chiến cuối cùng vào năm 1279 tại vịnh Quảng Ðông, Hốt Tất Liệt đã đánh bại nhà Nam Tống. Thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu phải cõng vua nhảy xuống biển để cùng tử tiết, từ đó Hốt Tất Liệt cai trị toàn cõi Trung Hoa, xưng là hoàng đế, lập ra nhà Nguyên (Yuan Dynasty). Từ đây ta gọi họ là quân Nguyên Mông. -Dòm ngó Nhật Bản: Hai lần vào các năm 1274 và 1281 quân. Nguyên Mông sang đánh nước Nhật. Nhưng " nhờ Trời ", cả hai lần chiến thuyền của quân Nguyên Mông đều bị bão táp đánh chìm vô số, phải quay về. - 1292-1293: Với tay xuống mãi đảo Java (Nam Dương), nhưng không ở lại được. - Ðặc biệt nhất là ba lần quân Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi nước ta vào các năm 1257,1284 và 1287. Cả ba lần xâm lăng đều chuốc lấy thảm bại.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2011 3:26:31 GMT 9
II) Ba lần đại phá quân Nguyên Mông
Quân Nguyên Mông hai lần đánh sang Nhật, cả hai lần đều bị bão táp cản trở. Trời đã cứu nước Nhật thoát nạn Nguyên Mông. Trường hợp nước ta không được may mắn như thế, bởi ta liền sông liền núi với Bắc phương, thuận lợi bội phần cho kẻ xâm lược.
A- Chiến thắng lần thứ nhất Năm 1257, Hốt Tất Liệt chinh phục xong vùng Vân Nam, đã sai sứ giả sang ra lệnh cho vua nước ta phải thần phục.Vua Trần Thái Tông chẳng những đã không thần phục lại còn bắt giam sứ giả, rồi lệnh cho tướng trẻ Trần Quốc Tuấn đưa quân lên trấn thủ phía Bắc. Hốt Tất Liệt liền sai tướng Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai), từ Vân Nam, đem quân đánh xuống nước ta. Khí thế của giặc quá mạnh, Trần Quốc Tuấn lui về Sơn Tâỵ Vua Thái Tông thân chinh, cũng địch không nổi, phải di tản chiến thuật để bảo toàn lực lượng. Quân Mông Cổ thừa thắng tiến thẳng xuống tới Ðông Bộ Ðầu (huyện Thượng Phúc, phía Ðông sông Nhị). Bà Linh Từ quốc mẫu, phu nhân của Thái sư Trần Thủ Ðộ đã chỉ huy toàn thể triều đình rút lui thành công về vùng Thiên Mạc (huyện Ðông An, Hưng Yên). Ðịch vào thành Thăng Long, thấy ba sứ giả của họ còn bị giam, mà một người đã chết, Ngột Lương Hợp Thai nổi giận, cho quân Mông Cổ mặc sức cướp phá, giết người, bất kể già trẻ lớn bé Trong tình thế đen tối ấy, vua dò ý quan Thái Uý Trần Nhật Hiệu, ông này muốn đầu hàng. Nhưng khi hỏi quan Thái sư Trần Thủ Ðộ thì ông khảng khái thưa: "Ðầu tôi chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo" . Thái độ cương quyết của quan Thái sư đã làm cho vua an tâm. Thời gian là đồng minh tốt của quân tạ Quân Mông Cổ chiếm đóng càng lâu càng gặp nhiều khó khăn và để lộ nhiều sơ họ. Cho tới khi thời cơ chín mùi, vua Thái Tông ra lệnh tổng phản công quân địch ở Ðông Bộ Ðầụ. Ðịch thua dần, cuối cùng phải rút về Vân Nam.
Trong chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất, tướng Trần Quôc Tuấn, lúc ấy mới 29 tuổi, đã góp công lớn trong nhiệm vụ là tướng của đội quân tiên phong.
TOP
B- Chiến thắng lần thứ hai
Trận thắng lần đầu năm 1257 là ta thắng quân Mông Cổ, vì lúc ấy Hốt Tất Liệt tuy đã chiếm được Vân Nam, nhưng mãi tới năm 1279 mới dứt điểm được nhà Nam. Tống lập ra nhà Nguyên, cho nên lần thứ hai và thứ ba là ta thắng quân Nguyên Mông.
Sau khi đã an vị, Nguyên Thế Tổ, tức Hốt Tất Liệt, liền sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung sang nước ta, bắt vua ta sang chầu và nộp cống phẩm. Vua Trần Nhân Tông không chịu, cho chú họ là Trần Di Ái đi thay mình. Nguyên Thế Tổ phật ý, phong cho Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, và sai Sài Thung đưa Di Ái về nước. Hay tin, vua Trần Nhân Tông sai tướng lên chặn đánh, bắn mù mắt Sài Thung và bắt sống lũ phản bội Trần Di Áịi. Thấy sứ giả bị bắn mù mắt chạy về, Nguyên Thế Tổ nổi giận, liền phong cho con là Thoát Hoan làm Trấn Nam vương, cùng bọn Toa Ðô, Ô Mã Nhi, A Bát Xích,v.v., đem 50 vạn quân tiến vào nước ta, lấy cớ mượn đường sang đánh Chiêm Thành! Ðạo quân Thoát Hoan tiến vào qua ngã Lạng Sơn, còn đạo quân Toa Ðô đi đường biển đánh vòng xuống Chiêm Thành. Ðược cấp báo quân Nguyên Mông động binh, vua Trần Nhân Tông phong cho Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Tiết chế thống lãnh toàn thể lực lượng quân ta để chống giặc (1283), và triệu tập các bô lão khắp nơi về điện Diên Hồng để hỏi ý kiến nên hoà hay nên chiến. Tất cả các bô lão đồng thanh xin quyết chiến!
Ban đầu thế địch quá mạnh (1284). Cánh quân Thoát Hoan thắng trận Ải Chi Lăng (Lạng Sơn), trận Vạn Kiếp, rồi đoạt thành Thăng Long. Thấy thế, nhà vua lo âu cho sinh mạng của dân nên tỏ ý muốn hàng, nhưng Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn tâu: "Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi trước đã". Vương soạn ra quyển Binh Thư Yếu Lược, rồi truyền Hịch để khuyên răn các tướng lãnh.(Xem bài "Hịch Tướng Sĩ" của Trần Hưng Ðạo) Các tướng sĩ nức lòng, quyết chí đánh giặc, ai cũng xâm vào tay hai chữ "Sát Ðát" (giết quân Mông Cổ). Ðang khi đó, cánh quân do Toa Ðô chỉ huy, với sự trợ giúp của đạo quân Ô Mã Nhi, lại đánh từ phía Nam, Thượng tướng Trần Quang Khải không chặn nổi sức tiến của địch, phải rút lùi ra phía ngoàị Trấn thủ Nghệ An là Trần Kiện ra hàng giặc. Tại mặt trận Thiên trường ( khúc sông Thiên Mạc, huyện Ðông An, Hưng Yên), tướng Trần Bình Trọng của ta cũng thua, bị giặc bắt. Chính Thoát Hoan chiêu dụ ông:"Có muốn làm vương đất Bắc không?". Ông quát lên:"Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc". Không chiêu hàng nổi một vị tướng can trường như thế, Thoát Hoan ra lệnh chém đầu ông. Tình thế hết sức nguy cấp, quân địch thắng khắp các mặt trận. Bọn hoàng tộc như Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên ra hàng Thoát Hoan. Giữa cơn sóng gió tứ bề, nổi bật lên dáng đứng anh hùng của Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn, vị Tiết chế thống lãnh. Ngài vẫn bền lòng chỉ huy cuộc kháng chiến. Một mặt Ngài phụng giá đưa vua vào Thanh Hóa, mặt khác Ngài bình tĩnh điều binh khiển tướng quyết chiến thắng quân thù.
TOP
1- Chiến thắng đầu tiên:
Tại Hàm Tử Quan, tướng Trần Nhật Duật đánh tan quân Toa Ðô: Toa Ðô chỉ lấy được Nghệ An mà không tiến ra phía ngoài thêm được vì bị Thượng tướng Trần Quang Khải án ngữ vững chắc, nên mới cùng Ô Mã Nhi kéo quân theo đường biển ra Bắc mong bắt tay với Thoát Hoan. Ðược tin, Hưng đạo vương tâu vua cử Chiêu văn vương Trần Nhật Duật và các tướng Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái đem quân ra đón đánh quân Toa Ðô tại bến Hàm Tử (huyện Ðông An, Hưng Yên). Toa Ðô thua to, phải lùi ra cửa Thiên Trường. Chiêu văn vương Trần Nhật Duật là chú của vua Nhân tông, có biệt tài ngoại giao và nói được nhiều thứ tiếng.
2- Chiến thắng Chương Dương Ðộ (giữa năm 1285)
Vừa được tin tướng Trần Nhật Duật Thắng trận đầu, Hưng đạo vương tâu vua xin lợi dụng khí thế, mở mặt trận tái chiếm kinh thành Thăng Long. Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải xin đánh trận nàỵ Thượng tướng Trần Quang Khải cùng các tướng Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão đưa quân đi đường biển vào tới bến Chương Dương thì ra lệnh tấn công chiến thuyền địch. Quân ta dũng mãnh, địch bị đánh tan. Thừa thắng, quân ta truy kích địch tới chân thành Thăng Long thì đụng đại binh của Thoát Hoan. Bị Thượng tướng Trần Quang Khải dùng phục binh đánh úp, Thoát Hoan bỏ kinh thành chạy qua sông Hồng,chiếm giữ Kinh Bắc (Bắc Ninh). Trần Quang Khải dâng biểu báo tin chiến thắng và vào thành Thăng Long mở tiệc khao quân. Thượng tướng Thái sư Chiêu minh vương Trần Quang Khải cũng là chú của vua Nhân tông.
TOP
3- Chiến thắng Tây Kết, tướng giặc Toa Ðô tử trận:
Toa Ðô đóng quân ở Thiên Trường, cách xa Thoát Hoan cả 200 cây số chưa bắt tay đuợc với chủ tướng Thoát Hoan, nên về đóng tại Tây Kết (Khoái Châu, Hưng Yên). Hưng đạo vương tâu với vua sai Thượng tướng Trần Quang Khải và Chiêu văn vương Trần Nhật Duật ngăn cản, không cho hai đạo quân Nguyên Mông liên lạc được với nhau, rồi đích thân Ngài đem quân ra đánh Toa Ðô trước, đánh Thoát Hoan sau. Tới nơi, quân của Ngài tiến công mạnh mẽ, quân địch thua. Toa Ðô và Ô Mã Nhi lên bộ chạy ra bể, nhưng Toa Ðô bị trúng tên bắn chết, còn Ô Mã Nhi lẻn xuống thuyền chạy thoát về Tầu. - Chiến thắng Vạn Kiếp (tháng sáu năm Ất dậu,1285):
Thời cơ đã tới giai đoạn quyết định.Hưng đạo vương sai các tướng Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão đưa quân mai phục ở rừng sậy bên bờ sông Vạn Kiếp, rồi sai hai con của Ðại vương là Hưng võ vương Nghiễn và Hưng hiếu vương Uý chặn đường địch sẽ rút về châu Tư Minh. Ðích thân vương chỉ huy tấn công bản doanh Thoát Hoan ở Bắc Giang. Bị quân ta giáng cho những đòn sấm sét, quân địch nao núng, Thoát Hoan dẫn đại binh rút chạy, tới bến Vạn Kiếp, quân mai phục của Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh, tiêu diệt phân nửa số quân địch, tướng địch là Lý Hằng tử trận. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh tên bắn và được các bộ tướng Phàn Tiếp, A Bát Xích, Lý Quán cố sức đánh mở đường thoát thân.
Tàn quân của địch chạy về gần châu Tư Minh, bất thần bị phục binh của Hưng võ vương Nghiễn và Hưng hiếu vương Úy đổ ra đánh. Tướng giặc Lý Quán tử trận, Thoát Hoan và bọn Phàn Tiếp, A Bát Xích thoát về Tầu được. Thế là sau nửa năm xâm lược nước ta, 50 vạn quân Nguyên Mông đã bị quân ta quét sạch khỏi bờ cõi. Chiến thắng vệ quốc lẫy lừng ấy là nhờ ta có tình đoàn kết vua tôi một lòng quyết chiến quyết thắng, nhờ vào tài điều binh khiển tướng và lòng trung quân ái quốc cao cả của Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn.
TOP
B. Chiến thắng lần thứ ba
Bọn Thoát Hoan chiến bại trở về, khiến Nguyên Thế tổ Hốt Tất Liệt nổi giận, ra lệnh chém đầu, nhờ quần thần xin cho mới được tha. Lúc ấy nhà Nguyên đang chuẩn bị xâm lăng nước Nhật, nhưng vì muốn phục hận, nên đã đình chỉ việc đánh Nhật để dốc toàn lực vào việc chuẩn bị trả thù. Lần xâm lăng này, Thoát Hoan lại được cử làm đại nguyên soái, có bọn A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, v. v., làm phụ tạ. Mùa Xuân năm 1287, Thoát Hoan kéo 30 vạn quân tái xâm lăng nước ta, viện cớ đưa tên phản bội Trần Ích Tắc về làm An Nam quốc vương. Bên ta, nhà vua lại cử Hưng đạo vương thống lãnh toàn quân chống giặc. Vương bố trí các tướng trấn đóng các yếu điểm và chỉ thị các tướng áp dụng chiến thuật: khi địch mạnh thì tạm lui để bảo tồn lực lượng, đợi khi thời cơ tới thì xua quân tốc chiến tốc thắng. Quân Nguyên Mông tiến vào nước ta theo hai ngả: Thoát Hoan theo đường bộ, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp theo đường thủỵ Ban đầu thế giặc quá mạnh, quân ta chấp hành lệnh tạm lui. Vua Nhân Tông và thượng hoàng Thánh Tông rời về Thanh Hoá, tuy nhiên lần này địch chỉ tiến được tới Vạn Kiếp, Chí Linh và Phả Lại chứ chưa đặt được chân vào kinh thành Thăng Long.
Chiến thắng Vân Ðồn:
Thoát Hoan đóng ở Vạn Kiếp sắp cạn lương, sai Ô Mã Nhi đem quân ra cửa Ðại Bàng (Hải Dương) để áp tải đoàn thuyền chở lương do tướng giặc. Trương Văn Hổ chỉ huỵ Trên đường ra cửa bể, Ô Mã Nhi đã đánh thắng quân chặn đường của ta do Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chỉ huy tại ải Vân Ðồn (Quảng Yên). Nghĩ rằng đường vận lương đã được khai thông, nên Ô Mã Nhi trở về trước. Không ngờ Trần Khánh Dư, vì quyết chí phục hận, nên đã nhanh chóng bổ sung lực lượng và phục binh chờ đoàn thuyền của Trương Văn Hổ. Quả nhiên , đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã trúng phục binh của Trần Khánh Dư và bị đánh cướp hết cả. Trương Văn Hổ chạy thoát về Quỳnh Châu. Chiến thắng Bạch Ðằng Giang:
Tháng 3, 1288, vì mất hết lương thực trong trận Vân Ðồn, địch cạn lương, lại thêm khí hậu khắc nghiệt, nhất là vì thấy thế của quân ta đã vững vàng khó phá nổi, nên Thoát Hoan quyết định lui binh. Thoát Hoan lệnh cho Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp rút về theo đường biển, Thoát Hoan sẽ rút theo đường bộ. Hưng đạo vương biết được kế hoạch lui binh của địch,nên đã sai tướng Phạm Ngũ Lão dẫn quân lên Lạng Sơn mai phục sẵn, rồi sai tướng Nguyễn Khoái bí mật cho quân đóng cọc nhọn bịt sắt khắp lòng sông Bạch Ðằng. Khi nước thuỷ triều lên, giả đò ra khiêu chiến và thua chạy, dụ cho địch vượt qua khá xa vùng đóng cọc. Khi nước rút thì lập tức đốc quân phản công đẩy chiến thuyền địch lui vào vùng cọc nhọn. Mọi diễn tiến đã xẩy ra đúng kế hoạch của Ðại vương. Ðúng vào lúc Nguyễn Khoái dồn được chiến thuyền địch vào vùng tử địa thì đại quân của Hưng đạo đại vương cũng kịp thời kéo tới tiến công như vũ bão. Nhiều chiến thuyền địch vướng cọc nhọn bị chìm. Quân Nam lợi dụng thời cơ, đã tiêu diệt gọn địch quân. Các tướng địch Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp bị bắt. Hưng đạo vương toàn thắng.
Thoát Hoan được tin thất trận Bạch Ðằng, liền kéo quân rút chạỵ Về tới ải Nội Bàng bị phục binh của Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh, tướng giặc Trương Quân bị Phạm Ngũ Lão chém chết. Quân Nam tiếp tục truy kích, thêm hai tướng giặc là A Bát Xích và Trương Ngọc bị tử trận. Riêng Thoát Hoan được tùy tướng Trình Bằng Phi hết lòng phò nguy, mới chạy thoát được về Tầu. Thế là sau ba lần xâm lăng nước ta, đạo quân Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế kỷ 13 đã chuốc lấy thảm bại và chịu từ bỏ hẳn mộng xâm lăng nước ta. Những chiến công hiển hách ấy là thuộc về các vua, quan và dân nước ta đời nhà Trần, song sáng chói nhất là vị thống soái Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn. Chiến thắng của nước ta chẳng những đã bảo vệ được bờ cõi giang sơn nước nhà mà còn giúp làm tiêu tan tham vọng của Hốt Tất Liệt muốn xâm lăng nước Nhật cho bằng được.
Nhìn rộng hơn, chiến thắng của nước ta, của Hưng Ðạo Ðại Vương, cũng làm suy yếu dần dần thế lực của Nguyên Mông trên phạm vi toàn thế giới và ngay tại Trung Hoa đang bị người Mông Cổ cai tri
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2011 3:27:23 GMT 9
III- Hưng đạo vương đặt nợ nước lên trên thù nhà
Chúng ta đã thấy Hưng đạo vương nổi bật với tài ba của một vị tướng kiệt xuất. Nhưng không phải chỉ có thế. Ngài còn lưu tiếng thơm muôn đời sau vì đã nêu gương trung trinh ái quốc, biết đặt nợ nước lên trên thù nhà. Thời nhà Lý suy vi, vua Lý Huệ tông (1211-1225) ươn hèn, vô trách nhiệm. Vua sinh hai công chúa: Thuận Thiên và Chiêu Thánh. Năm 1224, Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh công chúa, tức Lý Chiêu hoàng mới lên 8 tuổi, rồi vua cha lên tu ở chùa Chân Giáọ. Chiêu Hoàng là vua nữ duy nhất trong lịch sử nước tạ Trong tình hình ấy, quan Thái sư Trần Thủ Ðộ nhận định vận nước nguy nan, chỉ có nhà Trần ra tay mới cứu được. Cho nên Trần Thủ Ðộ đã dàn dựng cuộc hôn nhân vương giả Ly Chiêu hoàng lấy cháu của ông là Trần Cảnh, rồi lại thu xếp Lý Chiêu hoàng truyền ngôi cho chồng, tức là vua Trần Thái tông. Lấy nhau lâu, hoàng hậu Chiêu Thánh đã 19 tuổi vẫn chưa sinh con nối dõi. Ðó là một mối nguy cho triều đại mớị. Trần Thủ Ðộ liền ra tay một lần nữa, bắt Thuận Thiên (chị ruột của Chiêu Thánh) là vợ của Trần Liễu (anh ruột của Trần Cảnh, tức vua Thái tông) đang có bầu gả cho Trần Cảnh; bắt vua phế Chiêu Thánh hoàng hậu xuống làm công chúa, nâng Thuận Thiên lên chức hoàng hậu. Bị mất vợ, Trần Liễu tức giận, làm loạn. Vua Thái Tông cũng buồn lòng, bỏ lên chùa Phù Vân trên núi Yên Tử(Quảng Ninh). Trần Thủ Ðộ dẫn quần thần lên chùa đón vuạ. Vua nói dỗi: Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc.. Nài mãi không được, Trần Thủ Ðộ bảo các quan: Hoàng thượng ở đâu, tức triều đình ở đấỵ Nói xong, Thủ Ðộ truyền xây cung điện tại chùa Phù Vân. Nhà sư trụ trì vội van lạy vua hồi triều. Vua Thái tông bất đắc dĩ phải nghe theọ Ðược ít lâu, Trần Liễu nhắm không thành công, đang đêm cải trang, lẻn lên thuyền vua, xin hàng. Hai anh em ôm nhau khóc. Trần Thủ Ðộ biết chuyện, tuốt gươm toan chém Trần Liễu. Vua Thái Tông lấy thân mình che cho anh và xin chú tha cho Trần Liễụ Vua còn cắt đất An Sinh cấp cho anh và phong cho ông là An Sinh vương. An Sinh vương Trần Liễu chính là cha của Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Còn vua Thái tông (tức Trần Cảnh) lại là cha của vua Thánh tông và các ông Chiêu minh vương Trần Quang Khải, Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc (tức kẻ phản bội, đầu hàng quân Mông Cổ), và Chiêu văn vương Trần Nhật Duật.
Trần Liễu được tha tội làm loạn, được cấp đất và phong vương, nhưng không thể quên được mối thù hận mất vợ, cho nên đã răn dậy Trần Quốc Tuấn phải chăm chỉ học tập, văn ôn võ luyện kiêm toàn , để sau này có dịp rửa mối nhục cho ông. Trần Liễu trăn trối:"Sau này, nếu con không vì ta mà đoạt thiên hạ thì ta nằm dưới lòng đất sẽ không nhắm mắt được".
Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn nhớ lời cha trăn trối, nhưng Ngài không bao giờ thực hiện, bởi vì Ngài biết đặt nợ nước lên trên thù nhà. Trước cường địch, Ngài biết chủ động giải mối thù hận giữa hai gia đình để cùng nhau chung sức cứu nguy đất nước. Chuyện kể một lần Quốc Tuấn mời Thái sư Trần Quang Khải lên thuyền mình trò truyện, đánh cờ và sai nấu nước thơm để đích tay lau rửa cho Trần Quang Khả. Làm thế để muốn vĩnh viễn xoá bỏ hận thù giữa hai gia đình Trần Liễu và Trần Cảnh. Chuyện khác kể, có lần Ngài đem chuyện thù oán giữa hai gia đình ra hỏi dò các con. Một người con tên Trần Quốc Tảng khích Ngài nên cướp ngôi, vương nổi giận, toan chém. Các con và bọn tâm phúc van xin vương mới tha cho Tảng, nhưng nghiêm khắc mắng :"Từ nay cho tới khi nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa".
Ðối với vua, với nước thì như thế, còn với những kẻ lầm đường lạc lối thì sao? Sau chiến tranh vệ quốc toàn thắng, triều đình dâng sớ tâu vua về những kẻ phản nghịch, đầu hàng giặc. Vua hỏi ý Ngài về cách xử trị Vương đã xin đốt bỏ hồ sơ để xoá hết hận thù, tránh cho kẻ lầm đường phải mang mặc cảm tội lỗi, hoặc là vì bị cùng đường sẽ sinh loạn. Ðó là tấm lòng khoan dung, đại lượng của bậc anh hùng.
Tóm lại, Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc kiệt xuất văn võ song toàn, tài đức siêu quần bạt chúng. Toàn dân Việt Nam muôn đời nhớ ơn Ngài,noi gương Ngài. Chẳng những thế, dân còn tôn Ngài lên bậc hiển thánh và thờ phụng Ngài tại Ðền Ðức Thánh Trần ở Kiếp Bạc (Bắc Việt), tại Ðền Ðức Thánh Trần đường Hiền Vương, Sài Gòn,v.v.. Hai tháng trước khi Ngài qua đời, vua Trần Anh tông đến thăm và hỏi Ngài:" Thượng phụ một mai khuất núi, nếu giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?" Ðại vương tâu vua nhiều điều tâm huyết, xin trích một ý: "Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ. Ðó là thượng sách giữ nước". Vua Thánh tông đã tưởng thưởng sự nghiệp vĩ đại của Ngài bằng cách vua đích thân làm bài văn kể hết công lao của Ngài, cho khắc vào bia đặt vào đền sinh từ để thờ sống Ngài.
Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tí (1300), vừa nghe tin Ngài qua đời, vua Trần Anh tông khóc to lên:" Thượng phụ là trụ thạch của nước nhà, mặc áo giáp, cầm mũi nhọn, quét sạch bụi Hồ, lấy lại thần kinh, vỗ yên muôn họ, nay bỏ trẫm mà đi, tìm đâu được người lo cho dân, yêu nước như Thượng phụ". Sau đó thượng hoàng Trần Nhân tông và vua Anh tông truyền chỉ các quan mặc áo đại tang, vua đi xe mộc, ngựa trắng, thân hành tới tận nơi chủ trì tang lễ. Theo lời di chúc, thi hài Ngài được hỏa táng, chôn trong vườn, đất san bằng và trồng cây lên như cũ, không xây lăng mộ. Vua phong cho Ngài là Thượng Quốc Công Bình Bắc Ðại Nguyên Súy Long Công Thịnh Ðức Vĩ Liệt Hồng Huân Nhân Vũ Hưng Ðạo Ðại Vương, cho lập đền thờ ở Thiên Trường và Vạn Kiếp. Mặc dù còn hận chiến bại, nhưng sử sách nhà Nguyên vẫn tỏ ra kính trọng Ngài bằng cách không dùng tên húy của Ngài mà gọi là Hưng đạo vương. Trong giới dân giả người Trung Hoa vẫn thường doạ con nít: "Hình tầu tài voòng" (Hưng đạo đại vương). Có nơi còn viết 4 chữ đại tự này dán lên đầu giường để trấn áp ma quỷ!
TOP
IV. Ðệ nhất danh tướng thời trung cổ
Nói chung, trước đây thế giới coi nước ta chỉ là một nước "nhược tiểu" so với những nước vùng Ðông Á như Nhật và Trung Hoa. Nhiều "sử gia" Âu Mỹ thường viết rất thiên lệch và thiếu sót về Việt Nam. Xin lấy ngay một thí dụ trong cuốn Viet Nam của tác giả David K. Wright, xuất bản ở Chicago, năm 1989. Khi viết cuốn này, tác giả đề ở trang đầu là đã tham vấn với hai giáo sư tiến sĩ Clark D. Neher, Ph.D. và Robert L. Hillerich, Ph.D.. Vậy mà ở Chương nói về các danh nhân của nước ta xưa nay, tác giả đã lần lượt nêu tên: Hồ Chí Minh, Lê Lợi, Hai Bà Trưng, Nguyễn Cao Kỳ, Võ Nguyên Giáp! Như thế đó và chỉ có bấy nhiêu thôi! Thật đáng mắc cỡ cho một người đã mất công viết cả một cuốn sách! Riêng về những cuộc xâm lăng nước ta của quân Mông Cổ do chính Hốt Tất Liệt (Kublai) ra lệnh thì các sách Âu Mĩ không nói tới, nếu có nói cũng chỉ nói sơ sài và bao giờ cũng ngưng lại ở chỗ quân Mông Cổ tiến vào nước ta cách dễ dàng, không thấy tường thuật là họ ở lại được bao lâu và tại sao họ lại rút về, rút về có "ôm đầu máu" không, hay là ra về được bình an thơ thới! Lấy thí dụ trong cuốn Area Handbook For Mongolia của 13 đồng tác giả viết làm tài liệu cho các Ðại học Mĩ, do Hội Ðánh Giá và Nghiên Cứu Sử thực hiện (Historical Evaluation and Research Organization), ấn bản đầu ra năm 1970. Sách này viết: "In 1252 and 1253 Kublai conquered Yunnan&Tonkin was then invaded and pacified, the conquest ending with the fall of Hanoi in 1257". Sự thật thì khi chinh phục xong Vân Nam, đúng là Hốt Tất Liệt đã sai tướng Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) sang đánh nước ta và có hạ được thành Thăng Long vào năm 1257. Nhưng cuộc chinh phục không chấm dứt ở việc "ổn định"(pacified) gì cả, trái lại, chỉ sau một thời gian ngắn, đoàn quân xâm lăng của Ngột Lương Hợp Thai đã bị quân ta đánh bại tại Ðông Bộ Ðầu và phải rút chạy về Vân Nam. Các "sử gia" người Mỹ không biết gì về cuộc tháo chạy "té khói" ấy và đọc tiếp cũng không thấy nói chi đến hai cuộc xâm lăng nước ta tiếp theo vào các năm 1284 và 1287. Trong hai lần xâm lược sau, khi tháo chạy về Tầu, nhiều danh tướng của đoàn quân Nguyên Mông đã phải bỏ xác tại trận như đã tường thuật trên đâỵ Thân phận "nhược tiểu" thường chịu nhiều thiệt thòị Chuyện tầm vóc quốc gia mà còn như thế, huống chi là chuyện của những cá nhân, dù cá nhân có là bậc anh hùng hào kiệt như Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Thế nhưng mới đây, may mắn sao, bên Anh Quốc, lần đầu tiên, những cuộc chiến thắng quân xâm lược Mông Cổ của dân nước ta đã được biết đến và danh tiếng lẫy lừng của vị chỉ huy thống soái Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn đã được công nhận. Theo tác giả Trọng Minh trong cuốn Vẻ Vang Dân Việt, tuyển tập 3, thì Ông đã căn cứ vào tài liệu của Viện Khoa Học Hoàng Gia Anh để tường thuật về sự việc này như sau: "Tháng 2 năm 1984, Hội Hoàng Gia Anh, tức viện Khoa Học Hoàng Gia (Royal Society) đã triệu tập một phiên họp, gồm 478 nhà khoa học về lịch sử quân sự của các nước, phần đông cũng là các nhà quân sự có vai vế của thế kỷ, để bầu ra 10 vị tướng soái kiệt xuất nhất trong lịch sử nhân loại, qua các thời đại: thượng cổ, trung cổ, cận và hiện đạị Mục đích là để chuẩn bị cho việc xuất bản cuốn Bách Khoa Toàn Thư nước Anh. Sau khi liệt kê 98 thống soái tài ba nhất của các nước trên thế giới, phiên họp đã bầu ra 10 tướng soái cho cả 4 thời đạị Thời thượng cổ 3 vị; cận đại 4 vị; và hiện đại 2 vị, trong số này có nhiều vị chỉ được 70% số phiếụ Riêng thời trung cổ, Hưng Ðạo vương Trần Quốc Tuấn là vị tướng soái duy nhất được chọn với tuyệt đại đa số phiếu 100%. Ðiểm đáng chú ý là trong số phiếu còn ghi rõ Hưng Ðạo vương Trần Quốc Tuấn là người đã đánh thắng kẻ thù mạnh nhất thế giới là quân Nguyên Mông".( Sd. Trang 26) Mặc dù chúng tôi chưa có trong tay tài liệu mà tác giả Trọng Minh đã thủ đắc, song chúng tôi cho sự việc này là đáng tin. Bởi vì nếu mở bộ Bách Khoa Toàn Thư nước Anh năm 1991 (The New Encyclopaedia Britannica, volume 11, 15th Edition, trang 892 và 893), ta thấy đã nói tới 35 dòng về Nhà Trần ở nước ta, trong đó công nhận 3 lần Nhà Trần đánh đuổi quân xâm lược Mông Cổ, và dành riêng 31 hàng để nói về Trần Hưng Ðạo, đã mô tả Ngài là một chiến lược gia sáng chói, ba lần đánh bại những đoàn quân của Hốt Tất Liệt (a brilliant military strategist who defeated Kublai Khan's Mongol hordes). Chúng tôi còn tin là từ việc làm tốt đẹp của Viện Khoa Học Hoàng Gia Anh nêu trên, đã gây ảnh hưởng trong một số cuốn sách xuất bản những năm gần đây ở Hoa Kỳ. Chẳng hạn như trong cuốn Viet Nam Rebuilding A Nation của Sherry Garland, Dillon Press, Inc. xuất bản tại Chicago năm 1990, đã viết như sau :"The Mongol emperor Kublai Khan attacked Dai Viet. Khan's great army outnumbered the Vietnamese more than two to one, but the VN general was a master of guerrilla warfarẹ VN became one of the few countries in the world to drive off the famous Mongol invaders." Sd. Trang 37. (Hoàng đế Mông Cổ Hốt Tất Liệt Ðại hãn đã tấn công Ðại Việt. Ðại binh của Ðại hãn đông gấp đôi quân nước Việt, nhưng vị thống soái VN là bậc thầy về chiến tranh du kích. Vì thế, VN trở thành một trong ít nước trên thế giới đã đánh đuổi được quân xâm lược Mông Cổ). Và trong cuốn Vietnam của Karen Wills, do Lucent Books xuất bản tại San Diego năm 2000, đã viết: "Three hundred thousand Mongols proved no match for the guerrilla battle tactics of the Vietnamese" . Sd. Trang 30. (Ba trăm ngàn quân Mông Cổ đã không thắng nổi thuật du kích chiến của người Việt". Như thế, ngày nay, một số tác giả Âu Mỹ đã bắt đầu nói đúng, mặc dù vẫn chưa nói đủ, chưa nói hết sự thật như tính khách quan của môn sử đòi hỏi.
TOP
Tài Liệu Tham khảo: -Will Durand, Nguyễn Hiến Lê dịch: Văn Minh Ả Rập. Xuân Thu xuất bản. -Trần Trọng Kim: Việt Nam Sử Lược. Văn Hóa Thông Tin xuất bản,1999. -Ðào Duy Anh: Trung Hoa Sử Cương. Xuân Thu xuất bản. -Nguyễn Ðăng Thục: Quốc Học Việt Nam.Kinh Thi xuất bản. -Trọng Minh: Vẻ Vang Dân Việt, tuyển tập 3. -Trevor N. Dupuy, Wendell Blanchard và 11 đồng tác giả: Area Handbook for Mongoliạ 1970. -Hungarỵ Nelles. Second Revised Edition, 1995. -R. Worden and Andrea Savada: Mongolia, A Country Studỵ 1989. -Ronald Dolan and Robert Worden: Japan, A Country Studỵ 1990. -Anne Commire and Deborah Klermer: Historic World Leaders,Ð Gale Research, Inc., 1994. -John Larner: Marco Polo and Discovery Of The World.Yale Univ. Press. New Haven and London, 1999.
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 8:41:06 GMT 9
Tiểu sử của Golda Meir, Thủ tướng Israel Nữ thủ tướng đầu tiên của IsraelBởi Patricia Daniels www.thoughtco.com/Cập nhật ngày 23 tháng 1 năm 2020 Cam kết sâu sắc của Golda Meir đối với sự nghiệp của chủ nghĩa Zion đã quyết định tiến trình của cuộc đời cô. Cô chuyển từ Nga đến Wisconsin khi cô tám tuổi; sau đó ở tuổi 23, cô di cư đến nơi được gọi là Palestine với chồng. Khi còn ở Palestine, Golda Meir đã đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ một nhà nước Do Thái, bao gồm cả việc gây quỹ cho sự nghiệp. Khi Israel tuyên bố độc lập vào năm 1948, Golda Meir là một trong 25 người ký tên vào tài liệu lịch sử này. Sau khi làm đại sứ của Israel tại Liên Xô, bộ trưởng lao động và bộ trưởng ngoại giao, Golda Meir trở thành thủ tướng thứ tư của Israel năm 1969. Bà còn được gọi là Golda Mabovitch (sinh ra), Golda Meyerson, "Iron Lady of Israel". Ngày: 3 tháng 5 năm 1898 - 8 tháng 12 năm 1978 Thời thơ ấu ở NgaGolda Mabovitch (sau này cô sẽ đổi họ của mình thành Meir vào năm 1956) được sinh ra trong khu ổ chuột Do Thái ở Kiev ở Nga của Nga thành Moshe và Blume Mabovitch. Moshe là một thợ mộc lành nghề có nhu cầu dịch vụ, nhưng tiền lương của anh ta không phải lúc nào cũng đủ để giữ cho gia đình anh ta ăn. Điều này một phần là do khách hàng thường từ chối trả tiền cho anh ta, điều mà Moshe không thể làm gì vì người Do Thái không có sự bảo vệ theo luật pháp Nga. Vào cuối thế kỷ 19 ở Nga, Czar Nicholas II đã khiến cuộc sống của người Do Thái trở nên rất khó khăn. Sa hoàng công khai đổ lỗi cho nhiều vấn đề của Nga đối với người Do Thái và ban hành luật lệ hà khắc kiểm soát nơi họ có thể sống và khi nào - ngay cả khi - họ có thể kết hôn. Mob của những người Nga giận dữ thường tham gia vào các pogrom, những cuộc tấn công có tổ chức chống lại người Do Thái bao gồm phá hủy tài sản, đánh đập và giết người. Ký ức sớm nhất của Golda là về cha cô lên cửa sổ để bảo vệ nhà của họ khỏi một đám đông bạo lực. Đến năm 1903, cha của Golda biết rằng gia đình ông không còn an toàn ở Nga. Ông đã bán các công cụ của mình để trả tiền cho chuyến đi đến Mỹ bằng tàu hơi nước; Sau đó, ông đã gửi cho vợ và các con gái của mình chỉ hơn hai năm sau đó, khi ông đã kiếm đủ tiền. Một cuộc sống mới ở MỹNăm 1906, Golda cùng với mẹ (Blume) và chị gái (Sheyna và Zipke) bắt đầu chuyến đi từ Kiev đến Milwaukee, Wisconsin để tham gia Moshe. Hành trình trên đất liền của họ qua châu Âu bao gồm nhiều ngày băng qua Ba Lan, Áo và Bỉ bằng tàu hỏa, trong thời gian đó họ phải sử dụng hộ chiếu giả và mua chuộc một sĩ quan cảnh sát. Rồi một lần lên tàu, họ phải trải qua hành trình 14 ngày đầy khó khăn trên Đại Tây Dương. Từng được bảo đảm an toàn ở Milwaukee, Golda tám tuổi lúc đầu bị choáng ngợp bởi cảnh vật và âm thanh của thành phố nhộn nhịp, nhưng sớm yêu thích sống ở đó. Cô bị mê hoặc bởi những chiếc xe đẩy, tòa nhà chọc trời và những điều mới lạ khác, như kem và nước ngọt, mà cô chưa từng trải nghiệm ở Nga. Trong vài tuần sau khi họ đến, Blume bắt đầu một cửa hàng tạp hóa nhỏ ở phía trước nhà của họ và khăng khăng rằng Golda mở cửa hàng mỗi ngày. Đó là một nghĩa vụ mà Golda phẫn nộ kể từ khi nó khiến cô phải đi học muộn. Tuy nhiên, Golda học rất giỏi ở trường, nhanh chóng học tiếng Anh và kết bạn. Có những dấu hiệu ban đầu cho thấy Golda Meir là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ. Năm mười một tuổi, Golda đã tổ chức một buổi gây quỹ cho những học sinh không đủ khả năng mua sách giáo khoa. Sự kiện này, bao gồm bước đột phá đầu tiên của Golda vào phát biểu trước công chúng, là một thành công lớn. Hai năm sau, Golda Meir tốt nghiệp lớp tám, đầu tiên trong lớp của cô. Phiến quân trẻ Golda MeirCha mẹ của Golda Meir tự hào về thành tích của cô nhưng coi lớp tám là sự hoàn thành giáo dục của cô. Họ tin rằng mục tiêu chính của một phụ nữ trẻ là kết hôn và làm mẹ. Meir không đồng ý vì cô mơ ước trở thành giáo viên. Bất chấp cha mẹ, cô đăng ký vào một trường trung học công lập vào năm 1912, trả tiền cho việc cung cấp của mình bằng cách làm nhiều công việc khác nhau. Blume đã cố gắng buộc Golda bỏ học và bắt đầu tìm kiếm một người chồng tương lai cho cô bé 14 tuổi. Tuyệt vọng, Meir viết thư cho chị gái Sheyna, người sau đó đã chuyển đến Denver cùng chồng. Sheyna thuyết phục em gái đến sống với cô và gửi tiền cho cô đi tàu. Một buổi sáng năm 1912, Golda Meir rời khỏi nhà, dường như đang đi học, nhưng thay vào đó, đi đến Union Station, nơi cô lên một chuyến tàu đến Denver. Cuộc sống ở DenverMặc dù cô đã làm tổn thương cha mẹ sâu sắc, Golda Meir không hề hối hận về quyết định chuyển đến Denver của mình. Cô học trung học và hòa nhập với các thành viên của cộng đồng Do Thái Denver, những người gặp nhau tại căn hộ của chị gái cô. Những người nhập cư, nhiều người trong số họ là những người theo Chủ nghĩa xã hội và vô chính phủ, là một trong những vị khách thường xuyên đến tranh luận về các vấn đề trong ngày. Golda Meir chăm chú lắng nghe các cuộc thảo luận về chủ nghĩa Zion, một phong trào có mục tiêu là xây dựng một nhà nước Do Thái ở Palestine. Cô ngưỡng mộ niềm đam mê mà những người theo chủ nghĩa Zion cảm thấy vì sự nghiệp của họ và sớm chấp nhận tầm nhìn của họ về một quê hương quốc gia đối với người Do Thái như là chính mình. Meir thấy mình bị cuốn hút bởi một trong những vị khách yên tĩnh đến nhà của chị gái mình - cô bé Mey Meyerson, 21 tuổi, nói chuyện nhẹ nhàng. Hai người ngại ngùng thú nhận tình yêu của họ dành cho nhau và Meyerson đã cầu hôn. Năm 16 tuổi, Meir chưa sẵn sàng kết hôn, mặc dù bố mẹ cô nghĩ gì, nhưng hứa với Meyerson một ngày nào đó cô sẽ trở thành vợ anh. Quay trở lại MilwaukeeNăm 1914, Golda Meir nhận được thư của cha cô, cầu xin cô trở về nhà ở Milwaukee; Mẹ của Golda bị ốm, dường như một phần do căng thẳng của Golda khi rời khỏi nhà. Meir tôn trọng ước muốn của cha mẹ cô, mặc dù điều đó có nghĩa là bỏ lại Meyerson. Cặp đôi thường xuyên viết thư cho nhau và Meyerson đã lên kế hoạch chuyển đến Milwaukee. Cha mẹ của Meir đã dịu lại đôi chút; lần này, họ cho phép Meir học trung học. Ngay sau khi tốt nghiệp vào năm 1916, Meir đã đăng ký tại Trường Cao đẳng Sư phạm Milwaukee. Trong thời gian này, Meir cũng tham gia với nhóm Zionist Poale Zion, một tổ chức chính trị cấp tiến. Thành viên đầy đủ trong nhóm yêu cầu một cam kết di cư đến Palestine. Meir cam kết vào năm 1915 rằng một ngày nào đó cô sẽ di cư đến Palestine. Cô ấy 17 tuổi. Chiến tranh thế giới thứ nhất và Tuyên bố BalfourKhi Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra, bạo lực đối với người Do Thái châu Âu leo thang. Làm việc cho Hội Cứu trợ Do Thái, Meir và gia đình cô đã giúp quyên góp tiền cho các nạn nhân chiến tranh châu Âu. Nhà Mabovitch cũng trở thành nơi tụ tập của các thành viên nổi bật trong cộng đồng Do Thái. Năm 1917, tin tức đến từ châu Âu rằng một làn sóng pogrom chết người đã được thực hiện chống lại người Do Thái ở Ba Lan và Ukraine. Meir trả lời bằng cách tổ chức một cuộc tuần hành phản đối. Sự kiện này, được cả những người tham gia Do Thái và Kitô giáo tham dự, đã nhận được sự công khai của quốc gia. Quyết tâm hơn bao giờ hết để biến quê hương Do Thái thành hiện thực, Meir rời trường và chuyển đến Chicago để làm việc cho Poale Zion. Meyerson, người đã chuyển đến Milwaukee để ở cùng với Meir, sau đó gia nhập cô ở Chicago. Vào tháng 11 năm 1917, nguyên nhân Zionist đã đạt được sự tín nhiệm khi Vương quốc Anh ban hành Tuyên bố Balfour , tuyên bố ủng hộ một quê hương Do Thái ở Palestine. Trong vài tuần, quân đội Anh đã vào Jerusalem và chiếm quyền kiểm soát thành phố từ các lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ. Hôn nhân và việc chuyển đến PalestineĐam mê về nguyên nhân của cô, Golda Meir, năm nay 19 tuổi, cuối cùng đã đồng ý kết hôn với Meyerson với điều kiện anh cùng cô chuyển đến Palestine. Mặc dù anh không chia sẻ sự nhiệt tình của cô đối với chủ nghĩa Zion và không muốn sống ở Palestine, Meyerson đã đồng ý đi vì anh yêu cô. Cặp đôi đã kết hôn vào ngày 24 tháng 12 năm 1917 tại Milwaukee. Vì họ chưa có tiền để di cư, Meir tiếp tục công việc của mình cho sự nghiệp Zion, đi du lịch bằng tàu hỏa qua Hoa Kỳ để tổ chức các chương mới của Poale Zion. Cuối cùng, vào mùa xuân năm 1921, họ đã tiết kiệm đủ tiền cho chuyến đi của mình. Sau khi chia tay gia đình đầy nước mắt, Meir và Meyerson, cùng với chị gái của Meir là Sheyna và hai đứa con của cô, lên đường từ New York vào tháng 5 năm 1921. Sau chuyến đi kéo dài hai tháng đầy gian nan, họ đã đến Tel Aviv. Thành phố, được xây dựng ở vùng ngoại ô của Arab Jaffa, được thành lập vào năm 1909 bởi một nhóm các gia đình Do Thái. Vào thời điểm Meir đến, dân số đã tăng lên 15.000. Cuộc sống trên một KibbutzMeir và Meyerson đã xin sống ở Kibbutz Merhavia ở miền bắc Palestine nhưng gặp khó khăn trong việc chấp nhận. Người Mỹ (mặc dù sinh ra ở Nga, Meir được coi là người Mỹ) được cho là quá "mềm yếu" để chịu đựng cuộc sống vất vả khi làm việc tại một kibbutz (một trang trại xã). Meir nhấn mạnh vào một thời gian thử nghiệm và chứng minh ủy ban kibbutz sai. Cô phát triển mạnh vào những giờ lao động chân tay nặng nhọc, thường trong điều kiện nguyên thủy. Meyerson, mặt khác, đã khốn khổ trên kibbutz. Được ngưỡng mộ vì những bài phát biểu mạnh mẽ của mình, Meir được các thành viên trong cộng đồng của mình chọn làm đại diện của họ tại hội nghị kibbutz đầu tiên vào năm 1922. Lãnh đạo Zionist David Ben-Gurion, có mặt tại hội nghị, cũng chú ý đến trí thông minh và năng lực của Meir. Cô nhanh chóng kiếm được một vị trí trong ủy ban điều hành kibbutz của mình. Sự vươn lên dẫn đầu của Meir trong phong trào Zion đã dừng lại vào năm 1924 khi Meyerson mắc bệnh sốt rét. Suy yếu, anh không thể chịu đựng được cuộc sống khó khăn trên kibbutz. Trước sự thất vọng to lớn của Meir, họ đã quay trở lại Tel Aviv. Làm cha mẹ và cuộc sống gia đìnhKhi Meyerson hồi phục, anh và Meir chuyển đến Jerusalem, nơi anh tìm được việc làm. Meir sinh con trai Menachem vào năm 1924 và con gái Sarah vào năm 1926. Mặc dù cô yêu gia đình, Golda Meir nhận thấy trách nhiệm chăm sóc trẻ em và giữ cho ngôi nhà rất không thỏa mãn. Meir mong muốn được tham gia một lần nữa vào các vấn đề chính trị. Năm 1928, Meir tình cờ gặp một người bạn ở Jerusalem, người đã đề nghị cô giữ chức thư ký Hội đồng Lao động Phụ nữ cho Histadrut (Liên đoàn Lao động cho công nhân Do Thái ở Palestine). Cô sẵn sàng chấp nhận. Meir đã tạo ra một chương trình dạy phụ nữ làm ruộng ở vùng đất cằn cỗi của Palestine và thiết lập dịch vụ chăm sóc trẻ em cho phép phụ nữ làm việc. Công việc của cô yêu cầu cô đi du lịch đến Hoa Kỳ và Anh, để lại những đứa con của cô trong nhiều tuần liền. Những đứa trẻ nhớ mẹ và khóc khi bà rời đi, trong khi Meir phải vật lộn với cảm giác tội lỗi vì đã bỏ chúng. Đó là đòn cuối cùng cho cuộc hôn nhân của cô. Cô và Meyerson trở nên xa cách, chia tay vĩnh viễn vào cuối những năm 1930. Họ không bao giờ ly hôn; Meyerson mất năm 1951. Khi con gái bà bị bệnh nặng vào năm 1932, Golda Meir đã đưa bà (cùng với con trai Menachem) đến thành phố New York để điều trị. Trong hai năm ở Mỹ, Meir làm thư ký quốc gia của Phụ nữ Tiên phong ở Mỹ, có bài phát biểu và giành được sự ủng hộ cho sự nghiệp của Zionist. Chiến tranh thế giới thứ hai và nổi loạnSau khi Adolf Hitler lên nắm quyền ở Đức vào năm 1933, Đức quốc xã bắt đầu nhắm vào người Do Thái - lúc đầu là để đàn áp và sau đó là tiêu diệt. Meir và các nhà lãnh đạo Do Thái khác đã cầu xin các nguyên thủ quốc gia cho phép Palestine chấp nhận số lượng người Do Thái không giới hạn. Họ không nhận được sự ủng hộ nào cho đề xuất đó, và cũng không có quốc gia nào cam kết giúp người Do Thái thoát khỏi Hitler. Người Anh ở Palestine tiếp tục thắt chặt các hạn chế đối với nhập cư Do Thái để xoa dịu người Palestine Ả Rập, những người phẫn nộ trước lũ lụt của người nhập cư Do Thái. Meir và các nhà lãnh đạo Do Thái khác đã bắt đầu một phong trào kháng chiến bí mật chống lại người Anh. Meir chính thức phục vụ trong chiến tranh với tư cách là người liên lạc giữa người Anh và người Do Thái ở Palestine. Cô cũng làm việc không chính thức để giúp vận chuyển người nhập cư bất hợp pháp và cung cấp cho các chiến binh kháng chiến ở châu Âu vũ khí. Những người tị nạn đã đưa ra tin tức gây sốc về các trại tập trung của Hitler . Năm 1945, gần cuối Thế chiến II, quân Đồng minh đã giải phóng nhiều trại này và tìm thấy bằng chứng cho thấy sáu triệu người Do Thái đã bị giết trong Holocaust . Tuy nhiên, Anh sẽ không thay đổi chính sách nhập cư của Palestine. Tổ chức phòng thủ ngầm của người Do Thái, Haganah, bắt đầu nổi dậy công khai, thổi bay các tuyến đường sắt trong cả nước. Meir và những người khác cũng nổi loạn bằng cách nhịn ăn để phản đối chính sách của Anh. Một quốc gia mớiKhi bạo lực gia tăng giữa quân đội Anh và Haganah, Vương quốc Anh đã chuyển sang Liên Hợp Quốc (LHQ) để nhờ giúp đỡ. Vào tháng 8 năm 1947, một ủy ban đặc biệt của Liên Hợp Quốc khuyến nghị Vương quốc Anh chấm dứt sự hiện diện ở Palestine và đất nước này được chia thành một quốc gia Ả Rập và một quốc gia Do Thái. Nghị quyết được đa số thành viên Liên Hợp Quốc xác nhận và thông qua vào tháng 11 năm 1947. Người Do Thái Palestine đã chấp nhận kế hoạch này, nhưng Liên đoàn Ả Rập đã tố cáo nó. Giao tranh nổ ra giữa hai nhóm, đe dọa nổ ra chiến tranh toàn diện. Meir và các nhà lãnh đạo Do Thái khác nhận ra rằng quốc gia mới của họ sẽ cần tiền để tự vũ trang. Meir, được biết đến với những bài phát biểu đầy đam mê, đã đến Hoa Kỳ trong một tour du lịch gây quỹ; chỉ trong sáu tuần, cô đã kiếm được 50 triệu đô la cho Israel. Giữa những lo ngại ngày càng tăng về một cuộc tấn công sắp xảy ra từ các quốc gia Ả Rập, Meir đã tiến hành một cuộc gặp gỡ táo bạo với Quốc vương Abdullah của Jordan vào tháng 5 năm 1948. Trong nỗ lực thuyết phục nhà vua không gia nhập lực lượng với Liên đoàn Ả Rập để tấn công Israel, Meir đã bí mật tới Jordan để gặp anh ta, cải trang thành một phụ nữ Ả Rập mặc áo choàng truyền thống và che đầu và mặt. Cuộc hành trình nguy hiểm, thật không may, đã không thành công. Vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, sự kiểm soát của Anh đối với Palestine đã hết hạn. Quốc gia Israel ra đời với việc ký Tuyên bố thành lập Nhà nước Israel, với Golda Meir là một trong 25 người ký. Đầu tiên chính thức công nhận Israel là Hoa Kỳ. Ngày hôm sau, quân đội của các quốc gia Ả Rập láng giềng đã tấn công Israel trong lần đầu tiên trong nhiều cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel. Liên Hợp Quốc kêu gọi đình chiến sau hai tuần chiến đấu. Tăng đầu trangThủ tướng đầu tiên của Israel, David Ben-Gurion, đã bổ nhiệm Meir làm đại sứ tại Liên Xô (nay là Nga) vào tháng 9 năm 1948. Bà ở lại vị trí này chỉ sáu tháng vì Liên Xô, người gần như đã cấm đạo Do Thái, đã tức giận vì những nỗ lực của Meir thông báo cho người Do Thái Nga về các sự kiện hiện tại ở Israel. Meir trở lại Israel vào tháng 3 năm 1949, khi Ben-Gurion đặt tên cho bộ trưởng lao động đầu tiên của Israel. Meir hoàn thành rất nhiều vai trò là bộ trưởng lao động, cải thiện điều kiện cho người nhập cư và lực lượng vũ trang. Vào tháng 6 năm 1956, Golda Meir được làm bộ trưởng ngoại giao. Vào thời điểm đó, Ben-Gurion yêu cầu tất cả các nhân viên dịch vụ nước ngoài lấy tên Do Thái; do đó Golda Meyerson trở thành Golda Meir. (Đây là Me Me Cảnh có nghĩa là ánh sáng để chiếu sáng thành tiếng Do Thái.) Meir đã đối phó với nhiều tình huống khó khăn với tư cách là bộ trưởng ngoại giao, bắt đầu vào tháng 7 năm 1956, khi Ai Cập chiếm kênh đào Suez . Syria và Jordan đã gia nhập lực lượng với Ai Cập trong nhiệm vụ làm suy yếu Israel. Mặc dù có một chiến thắng cho người Israel trong trận chiến sau đó, Israel đã bị UN buộc phải trả lại các lãnh thổ mà họ đã giành được trong cuộc xung đột. Ngoài các vị trí khác nhau trong chính phủ Israel, Meir còn là thành viên của Knesset (quốc hội Israel) từ năm 1949 đến 1974. Golda Meir trở thành Thủ tướngNăm 1965, Meir từ giã cuộc sống công khai ở tuổi 67 nhưng chỉ mới đi được vài tháng khi bà được gọi trở lại để giúp sửa chữa súng trường trong Đảng Mapai. Meir trở thành tổng thư ký của đảng, sau này sáp nhập thành một đảng Lao động chung. Khi Thủ tướng Levi Eshkol đột ngột qua đời vào ngày 26 tháng 2 năm 1969, đảng của Meir đã chỉ định bà kế nhiệm ông làm thủ tướng. Nhiệm kỳ năm năm của Meir đến trong một số năm hỗn loạn nhất trong lịch sử Trung Đông. Cô đã đối phó với những hậu quả của Chiến tranh Sáu ngày (1967), trong thời gian đó, Israel đã lấy lại những vùng đất đã giành được trong cuộc chiến Suez-Sinai. Chiến thắng của Israel đã dẫn đến xung đột hơn nữa với các quốc gia Ả Rập và dẫn đến mối quan hệ căng thẳng với các nhà lãnh đạo thế giới khác. Meir cũng chịu trách nhiệm về phản ứng của Israel đối với Cuộc thảm sát Thế vận hội Munich năm 1972 , trong đó nhóm người Palestine được gọi là Tháng Chín Đen đã bắt giữ con tin và sau đó giết chết mười một thành viên của đội Olympic Israel. Sự kết thúc của một kỷ nguyênMeir đã làm việc chăm chỉ để mang lại hòa bình cho khu vực trong suốt nhiệm kỳ của mình, nhưng không có kết quả. Sự sụp đổ cuối cùng của cô xảy ra trong Chiến tranh Yom Kippur, khi các lực lượng Syria và Ai Cập tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ vào Israel vào tháng 10/1973. Thương vong của Israel rất cao, dẫn đến lời kêu gọi từ chức của Meir bởi các thành viên của đảng đối lập, người đổ lỗi cho chính phủ của Meir là không chuẩn bị cho cuộc tấn công. Meir dù sao cũng được bầu lại nhưng đã chọn từ chức vào ngày 10 tháng 4 năm 1974. Cô đã xuất bản hồi ký của mình, My Life , vào năm 1975. Meir, người đã chiến đấu với bệnh ung thư bạch huyết tư nhân trong 15 năm, qua đời vào ngày 8 tháng 12 năm 1978, ở tuổi 80. Giấc mơ về một Trung Đông yên bình của cô vẫn chưa được thực hiện. Bởi Jone Johnson Lewis Cập nhật ngày 03 tháng 7 năm 2019 Golda Meir , sinh ra ở Kiev, Nga, trở thành thủ tướng thứ tư của Israel . Golda Meir và chồng di cư từ Hoa Kỳ đến Palestine, với tư cách là người theo chủ nghĩa Zion. Khi Israel giành được độc lập , Golda Meir là người phụ nữ duy nhất được bổ nhiệm vào nội các đầu tiên. Golda Meir đã rút lui khỏi cuộc sống công cộng khi cô được kêu gọi lãnh đạo Đảng Lao động. Golda Meir trở thành thủ tướng khi đảng này thắng thế, phục vụ từ năm 1969 đến 1974. Golda Meir chọn * Tại nơi làm việc, bạn nghĩ về những đứa trẻ bạn đã bỏ ở nhà. Ở nhà, bạn nghĩ đến công việc bạn đã bỏ dở. Một cuộc đấu tranh như vậy được giải phóng trong chính bạn, trái tim của bạn là tiền thuê. * Tôi có thể thành thật nói rằng tôi không bao giờ bị ảnh hưởng bởi câu hỏi về sự thành công của một cam kết. Nếu tôi cảm thấy đó là điều đúng đắn, tôi đã dành cho nó bất kể kết quả có thể xảy ra. * Chúng tôi đã luôn nói rằng trong cuộc chiến của chúng tôi với người Ả Rập, chúng tôi đã có một vũ khí bí mật - không có sự thay thế nào. 1969 * Người Ai Cập có thể chạy đến Ai Cập, người Syria vào Syria. Nơi duy nhất chúng tôi có thể chạy là xuống biển, và trước khi chúng tôi làm điều đó, chúng tôi cũng có thể chiến đấu. 1969 * Đúng là chúng tôi đã chiến thắng tất cả các cuộc chiến của mình, nhưng chúng tôi đã trả tiền cho chúng. Chúng tôi không muốn chiến thắng nữa. * Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người buộc tội tôi tiến hành các vấn đề công cộng bằng trái tim thay vì đầu của tôi. Chà, nếu tôi làm thì sao? Những người không biết khóc bằng cả trái tim cũng không biết cười. 1973 * Hãy để tôi nói cho bạn điều gì đó mà người Israel chúng ta chống lại Moses. Ông đã đưa chúng tôi 40 năm qua sa mạc để đưa chúng tôi đến một địa điểm ở Trung Đông không có dầu! Năm 1973 * Chúng ta có thể tha thứ cho người Ả Rập vì đã giết chết con cái chúng ta. Chúng ta không thể tha thứ cho họ vì đã buộc chúng ta phải giết con của họ. Chúng ta sẽ chỉ có hòa bình với người Ả Rập khi họ yêu con cái hơn là ghét chúng ta. * Để được hay không tồn tại không phải là một câu hỏi về sự thỏa hiệp. Hoặc là bạn hoặc bạn không. 1974 * Một nhà lãnh đạo không ngần ngại trước khi đưa quốc gia của mình vào trận chiến không phù hợp để trở thành một nhà lãnh đạo. * Tôi không bao giờ làm bất cứ điều gì một mình. Bất cứ điều gì đã được thực hiện ở đất nước này đã được thực hiện chung. 1977 * Hãy tin tưởng chính mình. Tạo ra loại bản thân mà bạn sẽ hạnh phúc khi sống với tất cả cuộc sống của bạn. Tận dụng tối đa bản thân bằng cách biến những tia lửa nhỏ bé, bên trong có khả năng thành ngọn lửa thành tích. * Đừng khiêm tốn như vậy, bạn không tuyệt lắm đâu.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 7, 2021 11:38:46 GMT 9
Bác sỹ Yersin Quách Tấn .
Khánh Hòa còn một nhân vật rất cừ khôi, danh lừng khắp thế giới. Tuy là người ngoại quốc, nhưng sống ở Nha Trang gần 50 năm và lấy Khánh Hòa làm nơi “Sống gởi nạc thác gởi xương”. Tình thâm, đức hậu, khiến người Khánh Hòa luôn luôn nhớ đến công ơn và coi như người bổn kiển. Ðó là: Bác sỹ Yersin, Bác sỹ húy là Alexandre, sanh năm 1863 tại Lavaux, một nơi thôn quê nước Thụy Sĩ. Cha là người Thụy Sỹ. Mẹ gốc người Pháp. Lớn lên, sau khi đậu Y Khoa Tấn Sĩ (1888) tại Paris, Bác sỹ xin nhập quốc tịch Pháp. Cuộc đời Bác sỹ là một cuộc đời sống động. Sang Pháp năm 1886 với tư cách một sinh viên y khoa, Yersin may mắn được vào làm việc tại Viện Pasteur Paris vừa mơi thành lập. Trí thông minh và tài sáng kiến làm cho vị chỉ huy trực tiếp là Bác sỹ Emile Roux cùng nhà thông thái trứ danh đương thời là Pasteur mến phục. Hai năm sau, trình lên Ðại học đường Paris luận án tiến sĩ về đề tài: “Nghiên cứu sự phát triển chứng nhiễm trùng huyết mạch bệnh lao thực nghiệm. “Etude sur le développement du Tubercule expérimental)(3). Luận án làm vang danh Yersin và trong Y học phổ lục (Terminologie médicale) ghi thêm một bệnh mới: “Bệnh lao thực nghiệm kiểu Yersin” (La tuberculose expérimentale, type Yersin). Cũng năm 1888, hợp tác cùng Bác sỹ Roux, Yersin lại tìm ra độc tố của vi trùng bệnh Bạch hầu (toxinediphtérique). Kết quả này làm cho tên tuổi Yersin thêm lừng lẫy. * * * Tương lai sáng lạn. Nhưng ước mơ thú phiêu lưu, thình lình Bác sỹ bỏ phòng thí nghiệm, cùng hãng Nhà Rồng (Compagnie des Masageries Maritimes) ký hợp đồng sang Viễn Ðông làm thầy thuốc cho chiếc tàu buôn của hãng chạy trên biển Nam Hải (Mer de Chine). Bác sỹ sang Saigon tháng 9 năm 1890. Con tàu hãng Nhà Rồng chạy đường Saigon - Ma Ní (Phi Luật Tân) được ít lâu thì đổi sang đường Saigon - Hải Phòng. Trên những chuyến đi về trên con đường Saigon - Hải Phòng, Bác sỹ bị phong cảnh trên bờ biển Trung Việt quyến rũ. Những bãi những ghềnh đầy màu sắc và ánh sáng, những rừng dừa tươi thắm hắt bóng mặt trời buổi sớm, nhả khói thổi cơm buổi chiều, những nhánh núi từ dãy Trường Sơn trùng điệp mang rừng xanh chạy xuống tận chân sóng biển xanh... luôn luôn thúc dục Bác sỹ từ bỏ cảnh đi đi lại lại trên mặt nước, ngày nào cũng như ngày nào, không có gì thay đổi, để lên bờ sống với cảnh núi nghìn sắc muôn hình... Và tháng 7 năm 1891, Bác sỹ đổ bộ lên Nha Trang. Với một người Việt Nam biết tiếng Thượng do một vị Linh Mục Pháp giới thiệu, Bác sỹ định vượt núi về Saigon. Nhưng lên đến Djiring thì gặp nhiều trở ngại không đi được nữa, Bác sỹ phải quay về Nha Trang: Quần áo tả tơi, chân không giày và đẫm máu. Nhưng Bác sỹ không chán nản. - Tháng 3 năm 1892, Bác sỹ lại vào thâm sơ một lần nữa. Lần nầy thừa lệnh của Chánh phủ Pháp đi khảo cứu địa thế vùng núi non từ bờ biển Nam Hải đến sông Cửu Long. Lần nầy la lần đi thám hiểm thật sự. Khởi hành từ Ninh Hòa với ba người tùy tùng Việt Nam và một ít hành lý, Bác sỹ đã tìm được sau 45 ngày gian khổ những phụ lưu của sông Cửu Long phát nguyên tại Trường Sơn và chạy đến Stung Treng (Thái Lan) và khảo sát đầy đủ về địa lý, tài nguyên, nhân chủng trong vùng sơn lâm này mà từ nghìn xưa chưa mấy ai biết đến. - Tháng 2 năm 1893, Bác sỹ được Chánh phủ Pháp giao phó việc khảo sát vùng núi sơn lâm phía Nam Trung Việt để mở đường sá và khai thác thổ sản. Bác sỹ khởi hành tại Biên Hòa và theo sông Ðồng Nai đi ngược lên. Chuyến thám du này cũng như chuyến trước, Bác sỹ chỉ có 4 người Việt Nam tùy tùng... Cảnh gian nan nguy hiểm cũng không kém trước. Trong chuyến thám du nầy, Bác sỹ phát kiến cao nguyên Lâm Viên (Plateau de Lang Bian) và vùng Dalat Sau 7 tháng Bác sỹ hoàn thành nhiệm vụ. - Tháng 2 năm 1894, Bác sỹ lại đi thám hiểm lần thứ ba. Lần nầy ngoài 4 người tùy tùng dân sự, có một toán lính tập 15 người theo hộ vệ. Chuyến đi nầy còn gay go và cực nhọc hơn cả hai chuyến trước. Bác sỹ đã khảo sát được vùng núi rừng từ Lang Bian đến Darlac và từ Darlac đến Attopeu. Sau khi nhiệm vụ hoàn thành, Bác sỹ xuống Tourane vào ngày 7 tháng 5 năm 1894 và rồi vượt đèo Hải Vân đi bộ thẳng ra Huế. Trong ba chuyến thám hiểm, Bác sỹ đã họa đồ, chụp ảnh và ghi chép tường tận những hình thế núi sông, những nhân chủng, phong tục, ngôn ngữ của dân tộc thiểu số, những tài nguyên của mỗi địa phương. Nhờ vậy mà vùng Cao Nguyên thâm u của Trung Việt lần lần bớt xa lạ huyền bí đối với người Trung Châu, và nguồn lợi thiên nhiên bấy lâu không ai ngó ngàng, lần lần được khai thác. Nhưng rồi một biến cố xảy ra khiến Bác sỹ trở lại con đường khoa học. Ðầu năm 1894, bệnh dịch hạch nổi lên hoành hành tại Hoa Nam. Bệnh phát sanh tại Quảng Ðông giết chết trên 100 nghìn người rồi tràn sang Hông Kông giết gần 50 nghìn người nữa. Cả thế giới chấn động. Bác sỹ không thể điềm nhiên trước tai ách khủng khiếp. Cho nên, mặc dù đã sắp đặt đi thám hiểm miền Thượng du Bắc Việt, Bác sỹ đành phải hủy bỏ chương trình, khi được lệnh Bộ Y Tế Pháp cử sang Trung Hoa để nghiên cứu bệnh dịch hạch. Bác sỹ sang đến Hồng Kông ngày 15 tháng 6. Một phái đoàn Y sĩ Nhật Bản do Giáo sư Kitasato lãnh đạo đã đến trước mấy hôm. Nhận thấy phái đoàn nầy không có mỹ cảm đối với mìnmh, Bác sỹ không tìm cách hợp tác. “Ai lo phần nấy, như thế còn lợi hơn, bởi nếu bên nầy nếu rủi lạc lối thì bên kia khỏi bắt chước theo”.(4) Chánh quyền và các nhà chuyên môn địa phương thiên hẳn về phái đoàn Nhật Bản. Không được sự giúp đỡ, Bác sỹ phải thuê cất một túp lều tranh bên cạnh bệnh viện để ở và làm việc... Và cố kiên trì vượt mọi khó khăn, năm hôm sau khi đến Hồng Kông, Bác sỹ tìm ra được giống vi trùng dịch hạch. Kết quả gởi ngay về viện Pasteur Paris để giảo nghiệm. Viện công nhận là đích xác và công bố cho thế giới hay. Giống vi trùng dịch hạch liền mang tên là trực vi trùng Yersin (Bacille de Yersin). Công vụ xong, Bác sỹ Yersin trở lại Saigon vào tháng 8 năm 1894 và trở về Pháp vào tháng 10. Công tác cùng hai bạn đồng nghiệp Calmette và Borrel tại viện Basteur Paris tìm ra được thuốc trị và ngừa bệnh dịch. Nhưng không thể sống yên vui giữa cảnh phiền náo của Paris, Bác sỹ bèn trở sang Việt Nam. Tháng 9 năm 1895 Bác sỹ đến Nha Trang lập nơi gần bờ biển một phòng thí nghiệm để bào chế thuốc dịch hạch.(5) Tháng 6 năm 1896, bệnh dịch hạch tái phát ở Hoa Nam, Bác sỹ liền mang thuốc qua Hồng Kông, Quảng Ðông và Áo Môn để cứu chữa. Kết quả rực rỡ: 80 phần trăm người mắc bệnh được cứu sống. Bệnh dịch hạch xưa nay đã giết chết trên 50 triệu nhân mạng, từ ấy không còn coi là bệnh nan y. Nhân loại mang ơn Bác sỹ Yersin về bệnh dịch hạch cũng như mang ơn nhà thông thái Pasteur về bệnh chó dại. Bệnh dịch hạch làm hại người đã có thuốc chữa, còn bệnh dịch súc vật còn ở trong tình trạng nan y. Ở Ðông Dương mỗi năm bị thiệt hại không biết bao nhiêu trâu bò. Bác sỹ Yersin với sự cộng tác cùng một số thú y sĩ, ra công nghiên cứu: Các giống vi trùng được phân định, thuốc điều trị được sáng chế và phướng pháp phòng ngừa được quy định rõ ràng. Nhờ vậy mà bệnh dịch trâu bò lần lần giảm bớt, và công việc bào chế thuốc ở phòng thí nghiệm Nha Trang mỗi ngày mỗi tăng. Ðến năm 1902, trong khi Bác sỹ đang hăng say trong công việc thì quan Toàn Quyền Doumer mới ra Hà nội và giao phó việc sáng lập và điều khiển Y khoa Học đường (Ecole de médecine) tục gọi là Trường Thuốc. Phòng thí nghiệm tạm giao cho người phụ tá coi sóc. Nhưng không đầy hai năm, vào cuối năm 1904, việc điều khiển Trường Thuốc trao lại cho người khác, và Bác sỹ Yersin được trở về Nha Trang. Lúc ở Hà Nội, Bác sỹ ra sức vận động nên khi trở về Nha Trang thì phòng thí nghiệm của Bác sỹ Calmette lập năm 1890 ở Saigon, được đổi làm Viện Pasteur Nha Trang và Saigon, gọi chung là Viện Pasteur Ðông Dương (Instituit Pasteur d’Indochine) do Bác sỹ điều khiển với quyền ủy nhiệm của Viện Pasteur Paris.(6) Ðể tương xứng danh hiệu, phòng thí nghiệm sơ sài của Yersin ở Nha Trang, cũng như của Calmette ở Saigon đều được Chánh phủ Pháp ở Ðông Dương xây cất lại tử tế, và lần lần mở rộng thêm theo nhu cầu. Bác sỹ Yersin giao trọn quyền chỉ huy Viện Saigon cho viên phó Quản đốc để rảnh thì giờ lo cho Viện Nha Trang. Mỗi năm vào Sagon ba bốn lần, mỗi lần ở lại vài ba hôm để thảo luận các vấn đề chuyên môn và giải quyết, nếu có, những việc quan trọng mà viên Phó Giám đốc không đủ thẩm quyền. * * * Ngựa là giống vật được chọn lựa để dùng trong việc sản xuất huyết thanh chống dịch hạch (Sérum antipesteux). Khi mới thành lập phòng thí nghiệm (9/1895), Bác sỹ Yersin đã mua được 20 con. Vì Nha Trang thiếu cỏ, Bác sỹ phải đem lên nuôi ở Diên Khánh, cách Nha Trang 10 cây số. Mua súc vật, cất chuồng nuôi, thuê người chăn giữ, cũng như xây dựng phòng thí nghiệm, Bác sỹ phải “tự lực cánh sinh”. Chánh quyền thực dân pháp không nhận thấy tầm quan trọng của công việc, nên không sẵn sàng giúp đỡ. Trong bức thư gởi cho Bác sỹ Roux, ngày 19-6-1985, trên chuyến tàu từ Hà Nội về Nha Trang, Bác sỹ kể: Tôi đương từ Hà Nội về Nha Trang để bắt tay ngày vào công việc. Ở Hà Nội tôi có đến gặp quan Toàn quyền... ... Người ta không thể làm khó dễ tôi, bởi những chỉ thị của Paris về đặc nhiệm giao cho tôi cũng khá rõ ràng đặng người ta để cho tôi được hoàn toàn tự do. Tôi có xin quan Toàn quyền cấp cho tôi một kinh phí 5.000$00 để chi về việt thiết bị và trả tiền nhân công trong vài ba tháng. Ông ta viết thư cho Bác sỹ Grall, Giám đốc Y tế Bắc Kỳ để dò xem công việc của tôi có khẩn cấp? Rồi hỏi tôi có thể bằng lòng với số bạc 100$00 chăng? Ông thông cảm cho rằng thấy ông ta, tôi không muốn bộc lộ niềm hy vọng mà chúng ta có thể có hiệu quả của huyết thanh trừ dịch hạch và đậu chủng phòng dịch trâu bò. Nhưng không có gì quan trọng. Tôi sẽ tự xoay sở lấy để tiến bước, và cố gắng đi đến thành công. (Je redescends d’Hanoi où je viens de voir le Gouverneur Général, pour me rende à Nhatrang où je me mettrai de suite au travail. ... On n’a pas pu me faire de difficultés car mes instructions de Paris étaient assez pour qu’on me laisse toute liberté. J’ai sollicité du Gouverneur Général un crédit de 5.000$00 pour payer mes frais d’installation et d’entrentien du personnel pour quelques mois. Il a éccrit à M. Grall, le médécin en chef du Tonkin, pour savoir si ma mission était urgente puis il m’a demadé si je ne pourrais pas me contenter de 100$00!... Vous comprenez qu’en le voyant, je n’ai pas voulu trop m’avancer au sujet des espérances que nous pouvons avoir au sujet de l’efficacité du sérum antipesteux et du vaccin contre la peste bovine... Enfin, tout cela n’a pas d’importance, Je me débrouillerai pour marcher quand même de l’avant et je tacherai de réusir.) Bác sỹ đã thành công. Ban đầu, ngựa nuôi ở gần thành Diên Khánh. Ở đây sẵn cỏ, sẵn lúa. Nhưng không có đất trống để lập trại và làm đồng cỏ. Bác sỹ liền nghĩ đến việc khẩn hoang: trước đã có chỗ nuôi súc vật theo khoa học, sau lại thu được huê lợi thêm cho phòng thí nghiệm Nha Trang. Bác sỹ tìm được đất tại vùng Suối Dầu, ở phía Nam thành Diên Khánh, cách Nha Trang 20 cây số ngàn. * * * Trong thời gian Bác sỹ đến Khánh Hòa dựng nghiệp (1895) thì Nha Trang đương còn là một bãi cát trắng mênh mông. Ðồng bào sống về nghề chài lưới ở xúm xít nơi doi đất phía Nam sông Cái, tục gọi là Xóm Cồn. Nhà cửa lụp xụp, mái tranh vách phên, luôn luôn bị gió sóng phá hủy về mùa thu mùa đông, và che cất lại về mùa xuân mùa hạ. Một số ít nhà ngói cất rải rác dọc theo bờ biển. Ðó là các công chức Pháp: Viên Công sứ với người phụ tá, viên Giám binh với một số lính tập, viên Thương chánh với năm ba nhân viên Việt Nam. Không có một nhà buôn tạp hóa, không có một khách sạn. Một vài quán cơm nho nhỏ nấu cơm tháng cho năm ba thầy thông thầy ký làm Tòa Sứ không đem vợ con theo. Ðường sá chưa mở mang. Chỉ có một con đường trải đá sơ sài chạy từ Nha Trang lên thành Diên Khánh. Vật liệu xây cất và nhân công không thể tìm được tại chỗ. Ðường biển là đường giao thông duy nhất với Saigon và các thành phố phía Bắc. Thế mà Bác sỹ Yersin thiết lập được phòng Thí Nghiệm với số tiền lương ít ỏi của mình thì thật là tài lắm vậy. Còn vùng đất chọn được ở Suối Dầu là một cánh rừng hoang, cây cối rậm rạp - phần nhiều là câu dầu rái - nằm nơi giao thủy hai nhánh suối chảy vào sông Nha Trang. Cánh rừng nầy nằm trên địa phận làng Xuân Phú và Khánh Xuân (ngày xưa thuộc Diên Khánh, ngày nay thuộc Cam Lâm. Phía Bắc giáp ruộng đất hai làng nầy, phía Ðông và Nam giáp dòng Suối Dầu, phía Tây giáp núi. Diện tích mênh mông, ước chừng bốn ngìn mẫu tây trở lên. Với một số tiền “khiêm tốn” của mình và của hai bạn đồng nghiệp Roux và Calmette góp lại, cộng với sức chịu đựng để vượt qua những trở ngại gây nên do thú rừng (cọp, voi, heo, nai...) và muỗi sốt rét, Bác sỹ biến lần lần cánh đồng hoang thành một cánh đồng phì nhiêu xanh dờn những bắp lúa thuốc lá, v.v... với những bầy ngựa, trâu, bò, dê, cứu... láng lông. Công sức của Bác sỹ được chánh thức công nhận: một nghị định của Công Sứ Trung Kỳ ngày 17-7-1899 cho Bác sỹ tạm trưng 500 mẫu tây trong vùng Suối dầu nói trên. Sau khi phòng Thí Nghiệm Yersin đổi thành Viện Pasteur thì một nghị định thứ hai ra ngày 29-5-1918 sang quyền của Bác sỹ qua Viện Pasteur Nha Trang. Diện tích sở Suối Dầu lúc ấy đã lên đến 1.200 mẫu tây. Ðến năm 1926 diện tích 1.200 mẫu tây ấy đã khai thác trọn và được Phủ Toàn Quyền Ðông Dương nhượng dữ vĩnh viễn cho Viện Pasteur Nha Trang, theo nghị định ngày 1-10-1926. đông thời Viện lại được phép mở rộng thêm về phía Tây một diện tích 1.600 mẫu nữa. Thế là khởi công khai khẩn vào khoảng đầu năm 1896, Sở Suối Dầu tiến triển không ngừng. Ban đầu chỉ nuôi súc vật và trồng ngũ cốc. Sau Bác sỹ nhận thấy đất Suối Dầu rất thích hợp với giống cây cao su (Caoutchuoc) bèn ra công khai thác. Trước Bác sỹ đã có người đem giống cao su sang trồng ở Việt Nam. Ðó là nhà thực vật tên Pierre. Năm 1877, Pierre có trồng mấy cây ở vườn Bách Thảo Saigon. Nhưng vì Dược sỹ Raoul gởi từ Mã Lai, 2.000 cây con sang cho viên Giám Ðốc vườn Bách Thảo Saigon là Haffner. Ông nầy đem trồng ở vườn ươm Hồng Yêm gần Thủ Dầu Một và tặng cho Bác sỹ Yersin một số để trồng thử ở Suối Dầu. Kết quả tốt đẹp. Bác sỹ bèn gởi mua hột giống ở Tích Lan về trồng. Năm 1905, Suối Dầu đã trồng được 30 mẫu tây cao su và đã bắt đầu lấy mủ. Ðến năm 1914, diện tích trồng cao su lên đến 307 mẫu trên 1.200 mẫu đất trồng tỉa. Số súc vật như ngựa, trâu, bò, dê, cừu... nuôi trong sở lúc bấy gờ cũng lên đến mức khá cao: Thường thường có từ 1.500 con đến 2.000 con nuôi trong những chuồng hợp vệ sinh. Cuối năm 1914, Suối Dầu đã trở thành một đồn điền hoàn bị. * * * Lúc cuộc thế chiến 1914-1918 bắt đầu, Bác sỹ Yersin nghĩ: - Nếu chiến tranh kéo dài thì Viễn Ðông lấy ký ninh ở đâu mà dùng? Nghĩ vậy là vì thứ thuốc trị sốt rét nầy do xứ Hòa Lan độc quyền sản xuất, Bác sỹ bèn lo việc trồng cây Ký Na (Quinquina hay Cinchona). Cây Ký Na chỉ sống trên núi cao từ 1.500 thước trở lên ở vùng nhiệt đới. Sau khi tìm được Hòn Bà(7) là nơi thích hợp, Bác sỹ liền gởi mua giống và lập vườn ương cùng mở đường lên xuống Hòn Bà Suối Dầu. Nhờ số tiền về giải thưởng của Viện Hàn Lâm Khoa Học vừa gởi tặng, Bác sỹ hoàn thành công tác một cách thông suốt và khỏi phiền đến Chánh quyền địa phương. Tháng 9 năm 1917, cây Ký Na bắt đầu trồng trên Hòn Bà. Ban đầu nẩy nở rất tốt. Nhưng vài ba năm sau chậm lớn dần, rồi dừng lại hẳn lại. Ðó là đất. Hòn Bà là một hòn núi đá, những lớp đất trên mặt do lá lá mục tọa thành không được dày bao lăm, nên cây không đủ chất nuôi dưỡng khi đã lớn. Năm 1923, Bác sỹ đem giống Ký Na Hòn Bà lên thí nghiệm ở Dran và Djiring. Diom, trên Cao nguyên Lang Bian. Ở các nơi nầy, cây chóng lớn và tốt hơn ở Hòn Bà. Vì vậy diện tích trồng cây mỗi ngày mỗi mở rộng. Năm 1930-1931 đã trồng được 671 mẫu tây. Và đã bóc được 2 tấn võ để bào chế ký ninh. Số sản xuất mỗi năm mỗi tăng. Nếu đệ nhị thế chiến không xảy ra, thì chắc Việt Nam khỏi cần nhập cảng ký ninh vậy. * * * Công nghiệp của Bác sỹ Yersin thật vĩ đại. Ðược vậy, chẳng những nhờ ở tài trí siêu phàm, mà còn nhờ ở chí kiên quyết, tinh thần tích cực, sức chịu đựng dẻo dai, lòng ham thích những mới lạ, và nhất là tánh không vụ lợi, không hiếu danh. Những đức tánh ấy biểu lộ rõ ràng trên công tác thực tế. Thật là một gương sáng cho những người muốn xây dựng sự nghiệp to lớn và lâu dài. Con người có một sự nghiệp vẻ vang như thế, mà lại rất giản dị, rất khiêm tốn, rất bình dân. Tuy làm đến chức quan Năm Thầy Thuốc (Médecin Colone), rất ít khi Bác sỹ mặc quân phục và đeo huy chương. Từ mùa tám tiết, luôn luôn mặc bộ đồ ka-ki vàng, cổ cao và gài kín. Ngày hai buổi đi đến viện Pasteur, và thỉnh thoảng lên thăm Suối Dầu, phương tiện chuyên chở không có gì khác hơn là chiếc xe đạp Peugeot cũ kỹ. Chiếc xe đạp và bộ quần áo ka-không là hình ảnh của Bác sỹ Yersin trước mắt và trong trí người dân Khánh Hòa. Suốt 50 năm trời ở Nha Trang, Bác sỹ sống độc thân, trong một ngôi nhà vừa kỳ vừa cổ, tại Xóm Cồn, giữa những túp nhà tranh xơ xác vì nắng gió của đồng bào địa phương. Ngôi nhà này nguyên là một lô cốt (blockhaus) bỏ hoang mà Bác sỹ mua được năm 1895 khi đến thiết lập phòng Thí Nghiệm. Lô cốt xây bằng gạch rất kiên cố và đứng trên một nền bằng đá cao rộng chạy dài ra tận mé biển ở mặt phía Ðông. Hình khối đứng, chiều rộng mỗi cạnh chừng 5 thước tây, chiều cao chừng 11 thước. Gồm một tầng trệt và hai tầng lầu. Bác sỹ xây chung quanh mỗi tầng một hành lang rộng rãi, và sắp xếp mỗi tầng thành một phòng: Tầng dưới hết là phòng ăn, tầng thứ hai là phòng ngủ, tầng trên hết là phòng làm việc. Lên xuống bằng cầu thang xây hình trôn ốc. Trên sân thượng Bác sỹ lại xây một vòm tròn (coupole) để đặt ống viễn kính xem thiên văn. Vòm thiên văn sơn màu trắng, vách tường quét vôi vàng. Ngôi nhà xa trông phảng phất một đền thờ của người Cổ Ả Rập. Người hàn mặc gọi là “Tháp Ngà”, người bình dân gọi là “Lầu Ông Năm”(😎 với câu hát: Ngó ra ngoài biển thấy tàu Ngó vô trong bãi thấy lầu ông Năm. Trong nhà, ngoài những sách vở và đồng nhật dụng cung các dụng cụ khoa học, không có một món đồ gì thuộc loại xa xỉ phẩm. Cũng không có một bức tranh, một bức ảnh treo tường. Kể cũng không cần thiết. Bởi còn vật gì quý bằng, đẹp bằng những cảnh vật thiên nhiên ở ngay trước mắt. Con sông Nha Trang lặng lẽ từ hướng Tây chảy xuống mang những bóng núi ở ven bờ, bóng dừa ở Vĩnh Ðiềm, Ngọc Hội, bóng mây trắng trên trời xanh, đến tận cửa sông mở sát bên hông nhà, phía Tây Bắc. Trước mặt nhà, về hướng Ðông, cửa biển Nha Trang, dáng tròn tròn như mặt trăng đêm mồng chín, luôn luôn thay đổi sắc thái theo thời gian. Bãi cát vừa trắng vừa mịn chạy cong cong trên bảy cây số, trông như một lưỡi câu liêm mới mài. Núi Cù Lao ở phía Ðông Bắc và núi Chụt ở phía Ðông Nam, mường tượng hai hòn đá mài đè nơi mũi và nơi chuôi lưỡi câu liêm bãi cát. Và ngoài khơi, những hòn cù lao xanh nhấp nhô: Hòn Yến hình kim tự tháp, hòn Rùa hình linh qui, hòn Trẻ hình bầy cá sấu đương bò xuống biển sâu. Nơi hành lang phòng ngủ, những lúc thư nhàn, chủ nhân thường đứng tựa lan can ngắm cảnh vật thay màu đổi dạng theo ngày giờ theo mùa tiết. Lắm lúc mở rộng thêm chân trời vọng cảnh qua những sách lật khẻ trong lòng ghế xích đu. Phong cảnh ngắm mãi không nhàm. Nhưng ngoài sân trong nhà, không mấy khi có bóng khách sang lai vãng, thời Nha Trang đã trở thành nơi đô hội cũng như thời còn là một bãi cát trắng với một xóm nhà tranh. Bởi vì Bác sỹ Yersin là người quả giao. Trừ một số rất ít bạn chí thân, Bác sỹ không ứng tiếp người lạ, nhất là người trong giai cấp thống trị, trong giai cấp “rầm rộ ngựa xe”. Người Pháp cũng không hơn gì người Việt. Trái lại, đối với giới bình dân, Bác sỹ rất ưa gần gũi. Bác sỹ thường đến nhà đồng bào Xóm Cồn để chuyện trò cùng các vị phụ lão, hoặc để giúp đỡ bà con khi có việc cần. Những đêm trăng thong thả những ông già bà cả hay đến chơi nhà Bác sỹ. Nơi sân hành lang, nơi phòng ăn, nhà bếp..., muốn ngồi đâu thì ngồi, muốn nằm đâu thì nằm... Muốn ở chơi lâu cũng được, muốn ra về gấp cũng được. Không lễ nghi, không khách sáo. Còn đám trẻ con hễ thấy bóng Bác sỹ là chúng bu đến ngay. Ðứa ôm chân đứa nắm tay, đứa kêu nội đứa kêu ngoại. Bác sỹ mua một số sách có hình ảnh dành riêng cho trẻ em. Những lúc rảnh thường đem ra cho chúng xem và giảng cho chúng hiểu ý nghĩa. Không bao giờ Bác sỹ rầy la chúng. Có em nào nghịch quá trớn hoặc làm những điều quấy, thì Bác sỹ chỉ đưa ngón tay trỏ lên và chắc lưỡi vài tiếng là sửa chữa được liền. Ðồng bào Xóm Cồn yêu quý và kính trọng Bác sỹ như cha. Không bao giờ đồng bào gọi tên Bác Sỹ. Khi nói với nhau thì gọi là “ông già”(9) khi nói với người ngoài thì gọi là “Ông Năm”. Người Khánh Hòa ở xa Xóm Cồn, đối với Bác sỹ cũng rất ngưỡng mộ. Phần đông cũng dùng tiếng “Ông Năm” mà gọi Bác sỹ khi nói chuyện với nhau. Bác sỹ rất hiền từ. Không bao giờ quở trách ai nặng lời và không bao giờ làm cho người khiếp sợ. Một hôm Bác sỹ cỡi xe đạp đến Viện Pasteur, bị một tài xế ô tô vô ý lái xe tông nhằm Bác sỹ té ngã. Không có gì quan trọng, nhưng anh tài xế hết hồn, tay chân luýnh quýnh. Thấy vậy, Bác sỹ vội vội trở dậy leo lên xe đạp đi thẳng, không hề tỏ vẻ đau đớn hay bất bình. Bác sỹ lại rất bình tĩnh. Không bao giờ hoảng hốt, bối rối trước cảnh ngộ nguy hiểm, khó khăn. Nhờ lòng nhân từ và tánh bình tĩnh mà những lúc vào rừng núi, gặp thú dữ, Bác sỹ đều tránh khỏi tai nạn như có phép thần thông. Như trường hợp gặp rắn trong cuộc thám hiểm lần thứ ba năm 1894 là một: Một hôm Bác sỹ đi bắn chim để làm thực phẩm. Ðương ngước cặp mắt ngó lên đọt cây để tìm mồi thì nghe sau lưng có tiếng động. Quay lại thì ngó thấy một con rắn hổ mang to lớn đứng thẳng lên trên đuôi, phùng mang lè độc. Bác sỹ đứng yên, thái độ bình thản. Rắn lắc lư chiếc đầu dẹp muốn nhảy đến chụp, nhưng lại trừ trừ. Hồi lâu hạ mình xuống và vụt phóng vào bụi rậm đi mất. Nghe được câu chyện, có người đến hỏi Bác sỹ có phải nhờ thuật thôi miên mà thoát nạn chăng? Bác sỹ đáp: - Rắn độc cũng như thú dữ, cắn người chỉ để tự vệ. Chúng đều có linh tánh. Một khi nhận biết rằng mình không có ác tâm ác ý đối với chúng thì không bao giờ chúng làm hại mình. Quả đúng như vậy. Bác sỹ Yersin vốn đã sẵn có lòng từ bi và đã dưỡng được tánh thanh tịnh. Chính từ lực và tịnh lực đã cảm hóa được ác thú, khiến Bác sỹ được luôn luôn bình yên trong những cuộc thám hiểm. Trường hợp chim se sẻ sau đây cho thấy từ lực và tịnh lực của Bác sỹ thêm rõ ràng: Ðể mua vui, Bác sỹ thường lấy lúa gạo vãi cho se se ăn. Ban đầu chúng đến xa xa, lần lần đến gần, cuối cùng đến sát bên chân. Có con nhảy đậu lên cả lưng ghế, tay ghế của Bác sỹ! Thế mà hễ thấy bóng người khác đến là chúng vụt bay đi ngay! Ðó là vì luồng điện do ác tâm do sát ý của người phát ra làm cho chúng sợ. Bác sỹ biết được nhiều thứ tiếng. Tiếng Thụy Sĩ và tiếng Pháp là tiếng “mẹ đẻ” không kể. Bác sỹ rất thông thạo tiếng Ðức và có nói được tiếng Quảng Ðông. Còn tiếng Việt Nam thì chỉ học đủ hiểu, đủ nói. Mặc dù ở lâu tại Nha Trang, Bác sỹ vẫn nói tiếng Việt gới giọng Tây và nói chậm rãi như người mới học nói. Nhưng nói rất đúng văn phạm. Có một đặc điểm là nói về loài vật. Bác sỹ vẫn dùng chữ “người ta” như nói về người. Một hôm Bác sỹ cùng đoàn tùy tùng lên Hòn Bà. Ðến chân núi thì thấy một bầy voi kéo đến. Ðoàn tùy tùng sợ hãi. Bác sỹ nói một cách thản nhiên: - Người ta đi đường người ta, có gì mà sợ.(10) Quả vậy, bầy voi thấy bóng người, ngước lên nhìn rồi tiếp tục đi thẳng.(11) Câu nói giản dị nhưng thâm thúy nầy cùng sự kiện xảy ra đó làm sáng tỏ thêm một lần nữa lời nói “Mình không có ác tâm ác ý đối với chúng, thì không bao giờ chúng làm hại mình” đã dẫn ở trước. Ðức trọng, tài cao, sự nghiệp cả, danh vọng lớn! Thế mà từ mày xanh đến đầu bạc, Bác sỹ vẫn sống một đời sống đạm bạc thanh cao, không vợ không con, như một nhà chân tu, một nhà ẩn dật. Cho nên người hiểu biết gọi Bác sỹ là Thánh Nhân (Saint homme) thật không quá đáng vậy. * * * Bác sỹ là người Thụy Sĩ nhập tịch Pháp, nhưng rất yêu quí Việt Nam. Bác sỹ không quyến luyến đâu bằng Nha Trang. Ði đâu thì đi, rồi cũng vội vã trở về cùng ngôi nhà lô-cốt. Năm 1940, trong khi phe Trục Tam Giác và phe Ðồng Minh đương độ đánh nhau dữ dội, thình lình Bác sỹ lấy vé máy bay về Paris. Thăm viện Pasteur cùng các bạn thân ít hôm rồi trở lại Nha Trang trong chuyến máy bay cuối cùng trên con đường hàng không Pháp Việt. Ðó là chuyến đi xa cuối cùng của Bác sỹ. Lúc bấy giờ Bác sỹ đã 77 tuổi. Nhưng trông còn quắc thước và tráng kiện lắm. Ði đến viện Pasteur và lên sở Suối Dầu vẫn đủng đỉnh trên chiếc xe đạp như bốn mươi mấy năm về trước, khi mới đến Nha Trang. Mãi đến khoảng cuối tháng 12 năm 1942, người Nha Trang mới bắt đầu thấy Bác sỹ không dùng xe đạp nữa, triệu chứng cho biết Bác sỹ đã yếu lắm rồi. Nhưng khoảng cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 1943, Bác sỹ vẫn còn ngồi nơi hành lang phòng ngủ, theo dõi với ống viễn kính mức nước thủy triều của sông và của biển Nha Trang... Lúc ấy tinh thần của Bác sỹ vẫn minh mẫn như thường, song sức khỏe mỗi ngày mỗi thêm thỏn mỏn. Cuối cùng Bác sỹ phải nằm nghỉ. Rồi đến 1 giờ khuya ngày 1 tháng 3 năm ấy (1943), Bác sỹ âu yếm nhìn những người đứng chung quanh giường bệnh, nói một tiếng “Vĩnh Biệt” (Adieu) rồi nhắm mắt. Thọ 80 tuổi. Người Xóm Còn đương đi biển, được tin liền kéo nhau trở về tất cả. Ông già, bà cả, người lớn, con nít, đều kéo nhau đến khóc than thảm thiết. Rồi theo phong tục Việt Nam, lên hương án làm cỗ bàn, thành phục. Mọi người từ lớn chí nhỏ đều để tang. Còn đám tang chính thức do Chánh quyền Pháp tổ chức theo di ngôn của Bác sỹ, cử hành trong im lặng, không trống không kèn, không vòng hoa điếu văn. Phần mộ của Bác sỹ đặt trên một nổng gò trong sở Suối Dầu. Cây cao su tỏa bóng xanh. Xa xa núi cao suối trong bao bọc. “Sống khôn thác thiêng” hồn Bác sỹ hẳn thường đi về với cảnh. Và công nghiệp của Bác sỹ còn đó thời nghìn muôn thu, thanh danh của Bác sỹ vẫn còn vang mãi trong làng khoa học thế giới, trên đất nước Việt Nam, nhất là Nha Trang, Suối Dầu, Hòn Bà, Dalat, Lang Bian, Darlac. Và đến Khánh Hòa, trông thấy Viện Pasteur Nha Trang cùng sở cao su Suối Dầu thì không mấy ai không nhắc đến Bác sỹ: Nha Trang biển chẳng phai xanh, Thời danh Bác sỹ Yersin còn truyền. * * Trích "Xứ Trầm Hương - Quách Tấn"
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 7, 2021 11:41:00 GMT 9
BÁC SĨ YERSIN - Người đầu tiên tìm ra vùng đất Đà Lạt
Ngày nay, đứng trước phong cảnh nên thơ, những hàng thông thẳng ngọn, những hồ nước trong xanh, những ngôi nhà kiến trúc tối tân của Đà Lạt xinh đẹp, có bao giờ ta nghĩ rằng xưa kia nơi đây chỉ là một vùng đất trơ trọi hoang vu, và tự hỏi ai là người đầu tiên tìm ra miền cao nguyên thơ mộng ấy không? Tôi xin dựa theo một ít tài liệu trong mấy tờ tạp chí Pháp xuất bản ở Đông Dương trước đây, lược thuật lại cuộc đời và sự nghiệp của bác sĩ Yersin, người được coi là có công trong việc khám phá ra vùng đất Đà Lạt, để gọi là tỏ chút lòng tưởng nhớ một bậc danh nhân đã giúp cho chúng ta một nơi nghỉ mát tốt lành và tô điểm cho quê hương mình thêm đẹp thêm xinh. Alexandre Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863, tại miền đồng quê tổng Vaud, hạt Lavaux, nước Thụy Sĩ. Tổ tiên ông gốc người Pháp, sang định cư ở làng Rougemont (thuộc hạt Lavaux) vào thời vua nước Pháp hủy bỏ sắc luật cho phép dân chúng theo đạo Gia tô cải cách (Révocation de l'Edit de Nantes). Sắc luật mới này do vua Louis thứ 14 ký ngày 18-10-1685. Thân phụ ông là một nhà khảo cứu Côn trùng học hữu danh, làm giáo sư dạy khoa Vạn vật học. Thuở nhỏ, Yersin học ở tỉnh Morges. Lúc 20 tuổi (1883) ông khởi đầu học thuốc ở học viện Lausanne bên cạnh hồ Léman (Thụy Si). Kế tiếp ông đến học ở Marbourg (Đức), rồi sang tới Paris (Pháp). Ba năm sau ông giúp việc tai phòng thí nghiệm ở Hotel Dieu. Vào lúc đó, Pasteur đang nổi tiếng về công cuộc tìm ra thuốc trừ bệnh chó dại. Ông bèn xin vào làm ở phòng thí nghiệm của Pasteur và tôn ông này như là một bậc thầy. Năm 24 tuổi (1887), Yersin nhập quốc tịch Pháp, và trình một luận án đặc sắc về bệnh lao của giống thỏ nhà để thi lấy bằng bác sĩ Y khoa. Sau đó, ông đến Bá Linh ở một năm theo học hỏi bác sĩ Koch, người đã nổi tiếng nhờ sự tìm ra vi trùng bệnh lao. Năm 1888, ông trở về Pháp tiếp tục nghiên cứu ở Viện Pasteur Paris vừa mới được khánh thành. Ông được bác sĩ Roux men tài mời cộng tác tìm thuốc chữa bệnh yết hầu. Ông ký với Roux ba bản kỷ yếu (trois mémoires) quan trọng, chứng nhận rằng vi trùng Klebs-Loeffler là giống vi trùng truyền bệnh Yết hầu. Ba bản kỷ yếu đó sau này trở nên những bản làm quy tắc trong các đại học đường khoa học và chính nhờ đó mà khoa vi trùng độc chất học (Toxicologie microbienne) được tiến triển, đồng thời còn giúp ích cho sự phát minh các thứ thuốc khử độc (Antitoxines) và phòng bệnh (Sérothérapie). Chính trong thời gian này ông quen biết bác sĩ Calmette. Bấy giờ, mới 26 tuổi đầu, danh tiếng ông đã vang lừng trong giới khoa học. Nhưng ông không vì thế mà tự mãn, lúc nào cũng chịu khó cầu tiến. Cuối năm 1889, ông bắt đầu sang Đông Dương, làm y sĩ cho hãng tàu Messageries Maritimes. Mỗi lần tàu cập bến Nha Trang, ông thích thú đưa mắt nhìn ngắm dãy Trường Sơn bao la hùng vĩ. Trước sức hấp dẫn của cảnh trí thiên nhiên đó, ông chợt có ý định đi bộ từ Nha Trang đến Sài Gòn, dù lúc đó chưa có đường xe hơi và xe lửa. Năm 27 tuổi, vào khoảng tháng 7-1890, ông từ Nha Trang đi ngựa vào Phan Rí. Từ Phan Ri, ông nhờ một người dẫn đường lần mò vào rừng, và sau hai ngày đường khổ cực, ông tới Di Linh. Cuối cùng ông xuống Phan Thiết, đi thuyền buồm đến Nha Trang rồi ra tới Qui Nhơn. Vào những năm 1890 1894, các miền rừng núi dọc dãy Trường Sơn từ phía Bắc Nam kỳ đến phía Nam Trung kỳ và Hạ Lào hãy còn là những vùng bí hiểm, chưa được khai khẩn, ngoài một ít bộ lạc thiểu số, chưa ai đặt chân đến vùng đất hoang vu ấy. Vậy mà một người ngoại quốc như bác sĩ Yersin, đơn thân độc mã không kẻ tùy tùng, dám dấn thân vào miền rừng sâu nước độc, bất chấp cả dã thú và sự giết người của thổ dân, thì thật là có gan mạo hiểm phi thường. Trong cuộc thám hiểm miền Dran vào năm 1893, ông bị bọn cướp chém đứt nửa ngón tay cái trái và bị đâm nhiều nhát dao găm vào ngực đến ngất ngư. Theo hồi ký của ông, bọn cướp này do tên Thouk cầm đầu, vốn là những tên tù chính trị ở Bình Thuận, sau khi thất bại trong việc mưu toan đánh chiếm tỉnh ly này mới trốn vào miền rừng núi. Mặc dù trong lần thám hiểm này có ba người Việt Nam tháp tùng ông với ba cây súng trường và một cây súng lục, ông vẫn bị chúng tước khí giới, ba người tùy tùng đều bỏ chạy, một mình ông đành chịu trận bán sống bán chết kháng cự với bọn cướp. Theo lời khai của viên đầu đảng sau khi bị nhà cầm quyền bắt thì, nếu mấy tên kia gan dạ hơn một chút, chúng đã cắt cổ ông xong rồi. Sau khi thoát nạn, nửa đêm ông nhờ người ta võng về Phan Rang. Dọc đường lại rơi vào giữa đàn voi. Mấy người võng ông hoảng sợ bỏ chạy trốn hết, còn ông một mình bơ vơ giữa rừng. Ông kiệt sức, không hoạt động gì được, đành nằm chờ chết. Nhưng may đàn voi rẽ đi đường khác, không chà đạp thân thể ông. Dù bị thương nặng, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, ông vẫn không từ bỏ lòng say mê thám hiểm. Đi đến đâu ông cũng ghi chép địa thế từ dòng sông, từ con suối, ông còn nhận xét về phong tục, về giá trị kinh tế của từng miền. Ông không là nhà du lịch đi ngắm cảnh đẹp thiên nhiên như một khách nhàn du; ông chính là một nhà thám hiểm say mê tìm cái lạ, học cái hay để mở mang kiến thức và mưu ích cho con người. Sau ba cuộc thám hiểm liên tiếp, bác sĩ Yersin tìm ra Cao nguyên Lâm Viên. Ngày 21-6-1893, đứng trước phong cảnh hùng vĩ ở độ cao cách mặt biển 1.500 thước, ông bày tỏ cảm nghĩ của mình như sau: “Cảm tưởng của tôi rất sâu xa khi vượt khỏi rừng thông; tôi đối diện với một cao nguyên mênh mông, không cây cối và hoang vu, có dáng như một vùng biển xao động mãnh liệt bởi một loạt sóng con ba động màu xanh biếc. Dãy núi Lâm Viên đứng sừng sững ở phía chân trời tây bắc cao nguyên, làm cho phong cảnh tăng thêm vẻ đẹp và nổi bật trên một hậu cảnh mỹ lệ". (Tôi cảm thấy chưa dịch được hết ý mấy câu văn đặc sắc của tác giả, nên xin chép lại nguyên văn của ông: Mon impression a été profon de lorsque, débouchant de la forêt de pins, je me suis trouvé en face de ce vaste plateau dénudé et désert, dont l'apparence rappelait celle d'une mer bouleversée par une houle énorme d'ondulations vertes. Le massif du Lang-bian se dressant à l'horizon nord-ouest du plateau, accentuait la beauté du site en lui donnant du relief et en lui formant un arrière-plan splendide). Theo hồi ký ông viết, lúc ông đặt chân đến vùng này, thì ở đây chỉ có rải rác vài làng của thổ dân người Lát tụ họp dưới chân núi, dân cư thật là thưa thớt. Vì nhận thấy vùng đất này khí hậu tốt lành và phong cảnh xinh đẹp, bác sĩ Yersin đề nghị cùng Toàn quyền Paul Doumer nên lập một thành phố tại đây để làm nơi nghỉ mát và dưỡng bệnh. Đề án đó được chấp nhận, và sau khi phái hai đoàn thám hiểm vào năm 1897 và 1898 lên quan sát tại chỗ, Toàn quyền Pháp cho khởi công xây dựng Sở Khí tượng và căn cứ thí nghiệm trồng trọt, lại mở một con đường chạy dài từ miền duyên hải Trung kỳ lên tận miền sơn cước. Thành phố Đà Lạt bắt đầu khai sinh từ đấy. Nhờ ở vị trí cao lại không xa bờ bể là mấy nên quanh năm khí hậu ở Đà Lạt mát mė, thời tiết không thay đổi, trung bình là 18 độ. Từ năm 1933, sau khi quốc lộ số 20 dài 300 cây số được hoàn thành, bao nhiêu du khách ở đồng bằng miền Nam đều có thể dùng xe hơi đến viếng Đà Lạt một cách dễ dàng để nghi mát trong những ngày nóng bức. Người có công tìm cho chúng ta một nơi nghi mát nên thơ đó chính là bác sĩ Yersin. Đến năm 31 tuổi (1894), bác sĩ Yersin dẫn theo mười lăm người lính tập từ phía Nam đi lần lên tỉnh Đăk Låk và Kon Tum, vào các xóm người dân tộc thiểu số phía bắc dãy núi Lâm Viên. Lần đi thám hiểm cuối cùng này về, ông nghe tin bệnh dịch hạch đang phát hiện ở Vân Nam, gần biên giới Việt Hoa, làm chết ngót sáu mươi ngàn người ở miền Nam Trung Quốc. Ông liền xin Chính phủ đến tại nơi quan sát bệnh tình về phương diện “vi trùng". Đang lúc ấy bệnh dịch hạch lại lan tràn sang Hồng Kông. Ông quay lại đáp tàu ra Hải Phòng đi Hồng Kông. Thế rồi 48 giờ sau, ông đặt chân đến Hồng Kông, thuê người cất một căn nhà bằng tre lợp tranh dùng để làm phòng thí nghiệm. Ông mua mấy xác chết về mổ xẻ, lấy vi trùng trong các hạch người chết, cấy vào giống chuột bạch và chuột Ấn Độ, thì nhận thấy các con chuột này cũng chết vì dịch hạch. Ông bèn kết luận: Bệnh dịch hạch của người ta giống y như bệnh dịch hạch của loài chuột. Sau đó ông gởi loại vi trùng dịch hạch về Paris cho các bác sĩ thí nghiệm. Họ cũng đồng một ý kiến với ông là thứ vi trùng ấy chính là căn nguyên bệnh dịch hạch. Đến năm 1895, ông lập viện Pasteur ở Nha Trang, rồi trở về Pháp, cùng với hai bác sĩ Calmette và Roux kiếm thuốc ngừa bệnh dịch hạch; năm sau ông trở lại Viễn Đông, mang theo thuốc ngừa dịch hạch vừa tìm ra. Bấy giờ bệnh dịch hạch lại tràn sang Quảng Châu và Hạ Môn. Ông bèn đến tận nơi, thử dùng thứ thuốc mới trị bệnh, ông cứu sống được một số người, đủ chứng tỏ là thuốc do nhóm ông tìm ra rất hiệu nghiệm. Sau đó ông trở lại Việt Nam, làm việc ở viện Pasteur Nha Trng cho đến ngày từ giã cõi trần, ngoại trừ mấy năm (từ 1902 – 1904) ông lo mở trường Cao đẳng Y khoa ở Hà Nội và về Pháp mấy lần thăm bác sĩ Roux. Từ năm 1905- 1918, ông làm Giám đốc hai viện Pasteur Sài Gòn và Nha Trang. Năm 1925, ông làm Tổng Thanh tra các viện Pasteur ở Đông Pháp. Từ ngày lập viện Pasteur Nha Trang, ông chuyên môn quan sát các bệnh của súc vật và tìm ra được thứ thuốc chữa và phòng bệnh trâu bò. Ông lại cùng với các người giúp việc quan sát các chứng bệnh khác như Barbone, Sura và Piroplasmose. Ngoài việc nghiên cứu về Y học, bác sĩ Yersin còn là một nhà trồng tỉa, một nông học gia nổi danh. Ông lập ra vưon trồng cây để thí nghiệm những giống cây vùng nhiệt đới. Các loại cây như Guttapercha, Coca, Cacao, cây cọ dầu Phi châu và nhất là cây cao su lấy giống ở Mã Lai đều được ông trồng có kết quả rất tốt tại đồn điền Suối Dầu. Năm 1918, ông lại thử trồng cây Quinquina trên đảo Hòn Bà, nhưng kết quả không tốt vì đất cứng và khí hậu không hợp như ở Suối Dầu. Ông lại đi tìm những vùng đất màu tốt và khí hậu thích hợp ở Dran, Diom, Di Linh. Từ đó về sau, người nước ta khỏi mua chất Quinine ở nước ngoài về làm thuốc, ấy là nhờ công lao hai mươi lắm năm chịu khó ươm giống, thử đất, trồng cây của bác sĩ Yersin. Lúc làm việc tại Nha Trang, ông sống rất giản dị thanh bạch, mặc dù ông có thừa phương tiện để hưởng thụ cuộc đời phù phiếm xa hoa. Ông ở trong một tòa nhà vuông, cao, có hai tầng. Nhà được Xét cuộc đời của bác sĩ Yersin, chúng ta phải thán phục trước những công trình giúp ích nhân loại của ông. Chưa đẩy 30 tuổi, đã nổi danh khắp thế giới, vậy mà ông vẫn không ở lại quê hương thụ hưởng danh lợi, ông đến Việt Nam, coi đây như là quê hương thứ hai, tận tâm làm việc cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Chính vào năm bác sĩ Roux mất (1933) và sau khi bác sĩ Calmette từ trần, ông được mời về giữ chức vụ nối tiếp điều khiển viện Pasteur Paris. Nhưng ông đã từ chối, ý muốn ở lại Việt Nam mãn đời, và chỉ chịu nhận chức Giám đốc hàm cho viện Pasteur lừng danh thế giới đó mà thôi. Ông xứng đáng là một ông thầy thuốc trứ danh, một nhà thám hiểm can trường, một nông học gia uyên bác. Lúc sống, ông từng được tặng chức Giám đốc hàm viện Pasteur Paris, có chân trong Bác sĩ học viện và Y hoc Hàn lâm viện, được thưởng Nhị đẳng Bắc đầu Bội tinh và nhiều huy chương ngoại quốc. Năm 1935, ông được vinh dự mời đến chủ tọa buổi lễ khánh thành một ngôi trường khang trang đẹp đẽ ở Đà Lạt mang tên Yersin. Lúc chết bao nhiêu người dân quê mùa làm nghề đánh cá ở vùng bờ biển Nha Trang lũ lượt đến đốt nhang sụp lạy trước quan tài ông để tỏ lòng kính mến thương tiếc một bậc ân nhân đã sống với họ bằng tấm lòng nhân hậu vô biên, có nhiều bậc trí thức hết lời tán tụng tài cao đức trọng của ông và nhiều đường phố ở Việt Nam được mang tên họ ông. Hơn năm mươi năm say mê làm việc không ngừng, trước ngày chết một hôm ông còn gắng đo mực nước thủy triều ở bờ biển miền Trung Việt dù người ta khuyên ông nên tịnh dưỡng, ông đã phụng sự nhân loại một cách nhiệt thành bất cầu tư lợi, thật xứng danh là một vĩ nhân mà mọi người đều ngưỡng mộ sâu xa. Đời bác sĩ Yersin quả là một tấm gương sáng lưu lại cho nghìn sau. Nguyễn Văn Y (Theo Tập san Sử Địa, số 23 + 24 - 1971) Tài liệu tham khảo: 1. Theo Genevray: Indochine. N° 133, 18 Mars 1943 p. 4. 2. Baudrit: Alexandre Yersin. Bulletin géneral de l'instruction publique. 22e année, Nº 8 Avril 1943, p.181 – 194. 3. Noel Bernad: Le docteur Yersin. Indochine. 2e année, N° 66, jeudi 11 Décembre 1941, p.1-2. 4. Genevray: A. Yersin, Indochine, 4e année, N°133 jeudi Mars 1943, p.3- 5. 5. Editions du Gouvernement Général: Le Docteur A. Yersin, Hà Nội, 1943(64 p.). 6. Phạm Gia Triếp: Dalat, (41 trang Ronéo).
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2022 17:37:10 GMT 9
Tỷ phú giàu nhất lịch sử nước Mỹ Rockefeller Sr. Dặn con: Có 1 thứ phải giấu, có 2 loại người phải tránh xa, không lạ khi nhà giàu tới 7 đời Bởi BTVPosted timesnewsgo.com/ty-phu-giau-nhat-lich-su-nuoc-my-dan-con-co-1-thu-phai-giau-co-2-loai-nguoi-phai-tranh-xa-khong-la-khi-nha-giau-toi-7-doi.html?fbclid=IwAR1p8sA9AdOkOG7uTdMZOdsmEaSYfzx0T6JwEHJXnUhAuxrIvwhnjhiwIzgTỷ phú Rockefeller Sr. dặn con đời người có một thứ càng khoe càng gặp sóng gió, có 2 loại người càng kết giao càng dễ thụt lùi. Cách dạy con này của ông đã giúp gia tộc của mình giàu sang đến tận 7 đời. Tỷ phú giàu nhất lịch sử nước Mỹ dặn con: Có 1 thứ phải giấu, có 2 loại người phải tránh xa, không lạ khi nhà giàu tới 7 đời Tỷ phú John Davison Rockefeller Sr. (8/7/1839 – 23/5/1937) là một ông trùm kinh doanh và nhà từ thiện người Mỹ. Với biệt danh “Vua dầu mỏ”, ông là người đã sáng lập nên đế chế dầu mỏ lừng lẫy – Tập đoàn Standard Oil. Người ta thường nói rằng nhắc đến John Davison Rockefeller Sr. là nhắc đến sự giàu có tột bậc. Theo đó, khối tài sản của Rockefeller Sr. năm 1916 chiếm gần 2% giá trị nền kinh tế quốc gia, và nếu được điều chỉnh theo lạm phát thì ngày nay tài sản của ông sẽ có giá trị khoảng 418 tỷ USD. Con số này lớn hơn nhiều so với tài sản của Jeff Bezos, người giàu nhất hiện nay. Cũng bởi vậy mà tỷ phú này được xem là người Mỹ giàu có nhất mọi thời đại và người giàu nhất trong lịch sử hiện đại. Người xưa có câu: “Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó 3 đời”. Tuy nhiên, câu nói này không đúng với gia tộc Rockefeller. Trải qua hơn 100 năm, gia tộc này đã giàu có và hưng thịnh tới 6 đời. Bước sang thế hệ thứ 7 với 174 người thừa kế, họ vẫn giữ được số tài sản khổng lồ với tổng giá trị tài sản xấp xỉ 11 tỷ USD vào năm 2019. Chân dung tỷ phú John Davison Rockefeller Sr. Ảnh: Internet Không chỉ sự giàu có, dấu ấn của gia tộc Rockefeller cũng xuất hiện ở khắp mọi nơi khi nhìn lại lịch sử hiện đại của Hoa Kỳ. Rất nhiều “niềm vinh quang” của nước Mỹ đều do gia tộc này tạo nên. Lý giải nguyên do con cháu của Rockefeller vẫn có thể phá bỏ “lời nguyền” đáng sợ một cách dễ dàng, nhiều người cho rằng tất cả đều nhờ vào nền tảng giáo dục gia đình. John Davison Rockefeller Sr. không chỉ là doanh nhân giỏi mà còn là một người cha tuyệt vời. Những lời dặn dò của ông dành cho con cháu đều cho thấy được tầm nhìn hơn người. Cũng nhờ vậy mà các thế hệ con cháu đều tiếp tục sự thịnh vượng, nối dài sự thành công, giàu có của ông. Trong suốt cuộc đời mình, “Vua dầu mỏ” đã viết cho con trai tổng cộng 38 lá thư. Điều đáng bất ngờ chính là nội dung trong những bức thư này đều là những lời dặn dò rút ra từ những bài học cuộc sống quý báu mà bản thân ông đã từng trải qua và tự mình chiêm nghiệm. Một trong những lời dặn dò “kinh điển” nhất đó là: “Một kẻ rêu rao về trí thông minh chính là kẻ ngu ngốc. Còn người biết giả ngốc mới thật sự thông minh”. Qua câu nói này, vị tỷ phú giàu có nhất lịch sử Rockefeller đã dặn các con nên giấu kín sự khôn ngoan, chớ nên cho thiên hạ biết bởi càng khoe đời người càng gặp nhiều sóng gió. Theo vua dầu mỏ: “So với phô bày trí thông minh, giả ngu ngốc có rất nhiều lợi ích. Quan trọng nhất là để cho người khác thả lỏng cảnh giác. Sau đó bạn tóm lấy cơ hội, lặng lẽ đứng đầu và khiến mọi người kinh ngạc”. Ông cũng giải thích thêm cho con rằng bản chất con người là điều khó lường nhất. Vì vậy không phô trương sự thông minh là tốt nhất, có như vậy thì con mới tránh được sự cạnh tranh gay gắt, và tiêu cực. Tuy nhiên, cần phải hiểu biểu hiện ngốc nghếch ở người thông minh chính là một loại trạng thái bình tĩnh, họ thấu hiểu hết tất thảy đạo lý ở đời nhưng lại không thể hiện ra, có như vậy đại sự mới dễ thành. Những người anh em nhà Rockefeller vào năm 1967. Ảnh: Internet Ngoài ra, trong một lá thư viết cho con trai mình, Rockefeller cũng đã nói rõ và cảnh báo con không được kết giao với hai loại người: Loại thứ nhất là loại người hoàn toàn đầu hàng và hài lòng với hiện trạng của bản thân; loại thứ hai là những người không thể thực hiện mục tiêu tới cuối cùng. Ông Rockefeller gọi hai kiểu người này là “khối u tư duy” rất dễ lây lan tư tưởng tiêu cực cho người khác khi tiếp xúc. Điều tồi tệ là 2 loại người này xuất hiện rất nhiều trong cuộc sống. Do đó, Rockefeller khuyên con trai mình nên tránh xa 2 loại người này càng sớm càng tốt bởi ông luôn nghĩ rằng tính cách, tham vọng và địa vị hiện tại của một người có liên quan đến người mà họ kết giao. Ông cho rằng nếu con cái thường xuyên kết giao với người tiêu cực, bản thân sẽ trở nên tiêu cực, thậm chí là làm nhụt chí tiến thủ. Ngược lại, nếu con cái tiếp xúc với người có tham vọng thành công thì bản thân cũng tham vọng hơn, suy nghĩ sẽ phóng khoáng hơn và dễ thành công hơn. Vì vậy, Rockefeller luôn dặn dò và nhắc nhở con trai nên biết “chọn bạn mà chơi”, phải thường xuyên tiếp xúc với những người thành công, có chí cầu tiến. Tỷ phú John Davison Rockefeller Sr. bên gia đình. Ảnh: Internet Những bức thư mà Rockefeller gửi con tuy đơn giản, thẳng thắn nhưng ẩn chứa những ý nghĩa to lớn, thiết thực. Mỗi một câu nói ra đều rất quý giá và đáng để mọi người cùng suy ngẫm: 1. Không có quyền nghèo. 2. Sự giàu có chỉ là kết quả phụ của sự siêng năng. 3. Thu nhập chỉ là sản phẩm phụ của công việc, hãy làm những gì cần làm, làm tốt công việc của mình, có như vậy mức lương lý tưởng nhất định sẽ tìm đến bạn. 4. Yêu công việc là một niềm tin. Với niềm tin này, chúng ta có thể đập nát núi tuyệt vọng thành những viên đá hy vọng. Nếu bạn xem công việc là một thú vui, cuộc sống sẽ là thiên đường; nếu bạn xem công việc là nghĩa vụ, cuộc sống sẽ là địa ngục. 5. Vay tiền không phải là một điều xấu, nó sẽ không làm bạn phá sản, chỉ cần bạn không xem nó như một chiếc phao cứu sinh và chỉ sử dụng nó trong lúc khủng hoảng, mà là một công cụ đắc lực, bạn có thể sử dụng nó để tạo cơ hội. 6. Những lời bào chữa khiến hầu hết mọi người không mở được cánh cửa dẫn đến thành công. 99% thất bại là do mọi người đã quen với việc bao biện. 7. Đừng sống bằng sự may rủi mà hãy phát triển bằng cách lập kế hoạch. Một kế hoạch tốt có thể ảnh hưởng đến vận may, và trong mọi trường hợp, nó có thể ảnh hưởng đến cái gọi là may mắn. 8. Tình bạn được xây dựng trên cơ sở kinh doanh tốt hơn nhiều so với tình bạn được xây dựng trên tình bạn. Đối xử tốt với người khác khi bạn đi lên vì bạn sẽ va vào họ khi bạn đi xuống. 9. Trên đời không có gì thay thế được lòng kiên trì. Tài năng không được đánh giá cao có rất nhiều, và những thiên tài không thành công cũng là điều thường thấy. Giáo dục cũng vậy, thế giới đầy rẫy những kẻ vô dụng. Chỉ có sự kiên trì và quyết tâm mới dẫn đến thành công. (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Can Tho on May 28, 2022 23:30:43 GMT 9
HENRY FORD ĐÃ KHIẾN THẾ GIỚI CHUYỂN TỪ NGỰA SANG Ô TÔ BẰNG CÁCH NÀO?Câu chuyện về tầm nhìn và giai đoạn khởi nghiệp của Henry Ford - cha đẻ ngành công nghiệp ô tô sẽ mang lại những bài học, chiến lược kinh doanh kinh điển của một cá nhân sáng tạo đã làm thay đổi thế giới . “Khi tôi hỏi mọi người rằng họ muốn phương tiện đi lại của mình như thế nào? Họ nói với tôi rằng họ muốn một con ngựa chạy nhanh hơn”, trích từ tiểu sử của Henry Ford. Ford sinh thời khi mọi người sử dụng ngựa như là một phương tiện đi lại thông dụng và được ưa chuộng. Vì thế, khi ông khảo sát thị hiếu của mọi người từ sáng chế của mình, ông đã rút được bài học rằng không bao giờ có thị trường cho các hàng hóa mới. Đó thật sự là thử thách. Thay đổi thói quen con người không dễ, tạo ra một cuộc cách mạng hóa để thay đổi ý niệm truyền thống thậm chí còn khó hơn. Nhưng Ford đã làm được. Ông đã thay đổi thế giới khi giờ đây có hàng triệu người đang sử dụng ý tưởng từ sáng chế của ông như một thói quen thông dụng. Vậy Ford đã làm điều đó bằng cách nào? - Dũng cảm đi theo tầm nhìn của mình: Ngay từ khi còn nhỏ, Ford đã nghĩ rằng có nhiều việc có thể được thực hiện tốt hơn bằng cách nào đó. Chính suy nghĩ này đã khiến ông đam mê ngành cơ khí, và ông được mẹ tả như là một thợ máy bẩm sinh. Thuở bé, Ford đã có một cái xưởng nhỏ với các mẫu kim loại lặt vặt dùng làm công cụ. Hồi đó, tất cả đồ chơi của ông đều được chế tạo bằng tay thủ công, khác xa so với đồ chơi bây giờ. Khoảng khắc tuyệt nhất trong tuổi thơ của Ford là ông thấy động cơ đường sắt, một chiếc xe chạy bằng hơi nước. Đó là chiếc xe đầu tiên ông thấy chạy được mà không cần ngựa kéo. Hay thích tháo gỡ, lắp ráp mọi thứ, khi 15 tuổi, ông có thể sửa mọi chiếc đồng hồ và được kỳ vọng sẽ trở thành một nhà sản xuất đồng hồ. Nhưng ý nghĩ về “một cỗ xe không cần ngựa kéo” quá kỳ diệu và với sự tự nỗ lực bản thân, Ford bắt đầu làm ra một chiếc xe từ phân xưởng xây trên trang trại của gia đình. Khi được 17 tuổi, ông bắt đầu ông bắt đầu công việc của một người thợ máy học nghề, đủ điều kiện trở thành thợ trước thời hạn và được nâng lên các cấp cao hơn trong nhà máy động cơ Drydock. Khi rảnh rỗi, ông nghiên cứu cơ chế hoạt động của động cơ chạy bằng xăng và mơ đến việc làm nên một “chiếc xe hơi toàn cầu” có thể vận chuyển con người ít tốn chi phí và đáng tin cậy. Trong một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với nhà phát minh Thomas Edison khi được hai mươi tuổi, Ford đã được truyền một nguồn cảm hứng vô tận. Cho dù lúc đó, điện đang được coi là một phát minh quan trọng của Edison và mọi người đều bảo rằng điện sẽ là tương lai, nhưng Edison vẫn nói với Ford rằng phải tiếp tục bền bỉ với hướng đi riêng của ông. Sau đó, ông chủ của Ford tại công ty Detroit Edison đề cử ông lên một vị trí cao với điều kiện ông phải từ bỏ niềm đam mê cá nhân của mình để chuyên tâm vào công việc hữu ích hơn. “Điều này khiến tôi phải đứng trước sự lựa chọn giữa công việc với cơ hội thăng tiến đang rộng mở và niềm say mê ô tô của bản thân. Cuối cùng, tôi đã chọn ô tô và thôi việc. Thật ra, tôi chẳng có sự lựa chọn nào khác bởi tôi biết rằng chính ô tô mới mang lại sự thành công cho mình, mặc dù nhiều người khác không nghĩ thế”, trích tiểu sử My life and work của Henry Ford. Bỏ qua danh vọng trước mắt chỉ để có một cơ hội thay đổi thế giới bằng việc theo đuổi đam mê đòi hỏi sự dũng cảm của mỗi cá nhân. Ông đã chính thức thôi việc vào ngày 15 tháng 8 năm 1899 và bắt đầu bước vào lĩnh vực kinh doanh ô tô từ đó. - Khởi nghiệp: Không có nguồn vốn cá nhân, Ford kết hợp với một nhóm nhà đầu tư để lập ra công ty Detroit Automobile Company. Ông nhanh chóng nhận ra rằng những nhà đầu tư này chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt hơn là sản xuất ra một chiếc xe tốt hơn, vì thế chỉ sau một năm với 20 chiếc xe hơi được sản xuất, Ford rút ra khỏi công ty. Bốn năm sau, người đàn ông 40 tuổi có dáng người mảnh khảnh lập ra công ty Ford Motor Company. Công ty huy động được số vốn là 100.000 đô la, và lần này Ford sở hữu ¼ cổ phiếu của công ty. Trong năm đầu tiên, công ty đã sản xuất hơn 1.700 chiếc xe Model A và chúng đạt được thành công ban đầu nhờ tính năng đáng tin cậy. Sang năm thứ hai, do áp lực từ các cộng sự, Ford đưa ra ba mẫu xe và nâng giá bán. Công ty bán được ít xe hơn. Từ đầy, Ford nhận ra cần phải nắm được số cổ phần lớn để có thể toàn quyền kiểm soát. Vì thế, ông dùng thu nhập hàng tháng của mình để mua lại số lượng cổ phiếu, từ 50% và sau đó là 100%. Năm 1908-1909, công ty bán ra hơn 10.000 chiếc xe và chịu áp lực phải mở rộng dòng sản phẩm. Tuy nhiên, Ford lại đi theo hướng ngược lại hoàn toàn. Một buổi sáng năm 1909, ông tuyên bố từ này công ty chỉ sẽ bán ra một mẫu xe duy nhất với giá thành luôn giảm qua thời gian: Model T. Thêm nữa, chỉ có một màu. “Khách hàng nào cũng có thể có được chiếc xe hơi sơn màu anh ta muốn nếu như nó màu đen”, là câu nói đã trở thành nổi tiếng của ông. Trong khi nhiều người vẫn nghĩ rằng giá bán thấp sẽ khiến công ty phá sản thì Ford tin vào chiến lược này sẽ giúp thị trường mở rộng mạnh mẽ. Thực tế đã diễn ra đúng như ông kỳ vọng. Ông bắt đầu xây dựng nhà máy sản xuất dây chuyền lớn nhất thế giới, Highland Park, và công suất nhảy vọt từ 6.000 lên đến 35.000 chiếc/năm, trong khi số lượng nhân viên tăng chưa đến gấp đôi. Chỉ 10 năm sau, công ty đã làm ra 4.000 chiếc xe mỗi ngày và năm sau là 5 triệu chiếc xe/năm. Vào cuối thập niên, 15 triệu chiếc xe Model T được sản xuất, đánh dấu cột mốc kỳ diệu trong việc sản xuất đại trà. Sở dĩ nhà máy có thể mở rộng quy mô lớn đến như vậy đều bắt nguồn từ chính chiến lược kinh doanh của Ford. Trong quá khứ, những chiếc xe hơi đầu tiên được xem như là một thứ đồ chơi của người giàu có, được bán cho những người có nhu cầu giải trí hay muốn chứng tỏ địa vị. Ford đã thay đổi quan niệm này bằng cách quảng cáo tính hữu dụng của những chiếc xe hơi hãng Ford. Xe cũng được bán ra nhờ việc dễ điều khiển, dễ sử dụng và từ đó có câu: “Bất kể ai cũng có thể lái một chiếc Ford”. Tuy nhiên, chính chiến lược giá mới là yếu tố hàng đầu khiến công ty trở nên thành công ngoài mong đợi. Vào những năm 1909-1910, chiếc xe trị giá 950 đô la. Mười năm sau, giá xe chỉ còn 355 đô la. Ford rất ghét ý tưởng làm cho chiếc xe hơi trở nên đắt đỏ. Thay vào đó, chiến lược của ông là định giá dựa trên chi phí sản xuất. Có nghĩa, nếu các nhà máy của ông có thể hoạt động ngày càng hiệu quả hơn thì người tiêu dùng sẽ được lợi. Cũng giống như Sam Walton với chuỗi siêu thị Wal-Mart, Ford phát hiện ra rằng ông có thể kiếm được nhiều lãi hơn nhờ bán được nhiều sản phẩm với giá thấp hơn, thay vì bán số lượng ít với giá cao. Nếu bạn bán được sản phẩm chất lượng cao với giá rẻ, đây sẽ là lợi thế cạnh tranh khó vượt qua của doanh nghiệp, do đó “bạn sẽ tìm thấy nhu cầu cao hơn đến mức có thể gọi là toàn cầu”, Ford viết trong cuốn tiểu sử của mình. Chiến lược này nghe có vẻ “quen thuộc” với thời đại chúng ta, nhưng đó là một trong những bí quyết kinh điển đã mang lại thành công đáng kinh ngạc trong kinh doanh của Henry Ford. Theo Trí thức trẻ
|
|