|
Thơ
Jul 11, 2011 3:43:38 GMT 9
Post by Vĩnh Long on Jul 11, 2011 3:43:38 GMT 9
Đinh HùngĐôi dòng tiểu sử Gầy vóc mộng, gói tròn manh áo nhớ... Đinh Hùng sinh ngày 3 tháng 7 năm 1920 tại làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông (nay là Hà Sơn Bình). Ông dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm, và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết. Sau khi đậu xong Cao Đẳng tiểu học, ông bỏ ngang đi viết văn, làm thơ; chịu sự dẫn dắt của Thế Lữ, bắt đầu nổi tiếng nhờ thi phẩm Kỳ Nữ mà Thế Lữ in trong truyện Trại Bồ Tùng Linh. Đinh Hùng di cư vào Sài Gòn năm 1954, chủ trương nhật báo Tự Dọ Ông mất ngày 24 tháng 8 năm 1967 tại Sài Gòn vì bệnh ung thư ruột. Từ nhỏ ông đã quen dùng nha phiến làm nguồn kích thích thi hứng. Tác phẩm tiêu biểu: 2 tập thơ Mê Hồn Ca (1954) và Đường Vào Tình Sử (1961 -- Giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc về Thi Ca năm 1962); tiểu thuyết dã sử Cô Gái Gò Ôn Khâu, Người Đao Phủ Thành Đại La...; kịch Cánh Tay Hào Kiệt, Phan Thanh Giản. Sở trường của Đinh Hùng là thơ Tượng Trưng. Thơ ông trau chuốt, gọt dũa, có nhiều ý hay lạ, nhiều hình ảnh và ngôn từ quái dị, yêu ma. Ông cũng có những tác phẩm đài các, sang trọng đến lạ lùng. Tạ Tỵ gọi Đinh Hùng là nhà thơ với "cơn mê trường dạ". Đối với những người cộng sản, với Hoàng Phủ Ngọc Tường ( tên đao phủ thành phố Huế 1968) thì lại chê thơ Đinh Hùng "lòe loẹt, ghê ghê như son phấn". Bướm Xuân - Đinh Hùng Em trở về đây với bướm xuân, Cho tôi mơ ước một đôi lần. Em là người của ngày xa lắm, Lòng cũ hai ta cũng chẳng gần. Em trở về đây để nắng hồng, Hồn xưa còn đẹp ý xưa không? Trăng tình chưa nguyện lời hoa bướm, Em chẳng về đây để ngỏ lòng. Một thời mây biếc đã trôi qua, Nay tưởng cây vàng lại nở hoa. Em chẳng mơ gì, tôi chẳng nói, Đôi hồn không biết có nhìn xa? Tôi vẫn chiêm bao rất nhẹ nhàng, Đèn khuya xanh biếc, mộng thường sang. Nhưng rồi em rõ lòng tôi khổ, Em sẽ đi xa trước giấc vàng. *************** Trở Về - Thanh Trắc Nguyễn Văn Ta về qua ngõ mưa bay Nhớ chiều thu ấy mưa đầy tóc em Lối xưa đâu vạt cỏ mềm Một thời trăng rụng xuống thềm tương tư. Ta về tìm đọt mù u Nghe vườn trái chín tiếng ru em buồn Tơ lòng ta buộc, em buông Trăm năm thương cánh chuồn chuồn lặng bay. Ta về gió ướt thấm vai Qua cầu thuyền ấy đã thay đổi dòng Ngậm ngùi kẻ đứng bên sông Với tay níu lấy cành hồng bơ vơ. Bao năm sương trắng bụi mờ Bao năm tay trắng để giờ trắng ... tay ! Ta về qua ngõ chiều nay Nghe mùa trăng lạnh từ ngày xa em. ************** Nụ Hoa Vàng Cho Em - Kim Tuấn anh cho em mùa xuân nụ hoa vàng mới nở chiều đông nào nhung nhớ đường lao xao lá đầy chân bước mòn vỉa phố mắt buồn vin ngọn cây anh cho em mùa xuân mùa xuân này tất cả lộc non vừa trẩy lá thơ còn thương cõi đời con chim mừng ríu rít vui khói chiều chơi vơi đất mẹ gầy cỏ lúa đồng ta xanh mấy mùa con trâu từ đồng cỏ giục mỏ về rộn khua ngoài đê diều thẳng cánh trong xóm vang chuông chùa chiều in vào bóng núi câu hát hò vẳng đưa tóc mẹ gìa mây bạc trăng chờ sau liếp dừa con sông dài mấy nhánh cát trắng bờ quê xưa... anh cho em mùa xuân bàn tay thơm sữa ngọt dải đất hiền chim hót người yêu nhau trọn đời mái nhà ai mới lợp trẻ đùa vui nơi nơi hết buồn mưa phố nhỏ hẹn cho nhau cuộc đời khi hoa vàng sắp nở trời sắp sang mùa xuân anh cho em tất cả tình yêu non nước này bài thơ còn xao xuyến nắng vàng trên ngọn cây... ****************** Trưa Hè - Anh Thơ Trời trong biếc không qua mây giợn trắng, Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa. Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng, Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua. Trong thôn vắng, tiếng gà xao xác gáy, Các bà già đưa võng hát, thiu thiu... Những đĩ con ngồi buồn lê bắt chấy Bên đàn ruồi rạc nắng hết hơi kêu. Ngoài đê thẳm, không người đi vắng vẻ Lũ chuồn chuồn giỡn nắng, đuổi nhau bay. Nhưng thỉnh thoảng tiếng nhạc đồng buồn tẻ Của vài người cỡi ngựa đến xua ngay. *********** Hoàng Hôn Lặng Lẽ - Hoài Vũ Anh phải về thôi, xa em thôi Hoàng hôn yên lặng cũng theo về Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc Mà lời từ biệt chẳng lên môi Anh phải về thôi xa em thôi Hàng cây hò hẹn chỗ em ngồi Hoa khế rụng kín ngăn lối nhỏ Để lòng ta xao xuyến bồi hồi Chia tay em chia tay hoàng hôn Chia tay em chia tay hoàng hôn Anh mang theo về tình yêu và nỗi nhớ Anh mang theo về con tim cô đơn Chia tay em chia tay hoàng hôn Chia tay em chia tay hàng cây Gửi lại cho em trái tim thắp lửa Gửi lại cho em một nửa vầng trăng. ************* Khi Nàng Tới - Trần Dạ Từ Chân nào ngủ lối son tươi Sầu thơ dại đã đầy vơi một dòng Bóng chiều đỏ một vườn không Ngày ra cửa nhỏ còn trong nuối về Môi cười vết máu chưa se Cành hoa gạo cũ nằm nghe nắng hiền Anh nằm nghe bước em lên Ngoài song lá động trên thềm áo bay ************** Hoa Đào Năm Ngoái - Vương Ngọc Long (ý thơ Thôi Hộ) Tôi đã gặp em trước cổng này Ngày này năm ngoái gió xuân bay Ánh dương phơi phới hồng đôi má Ưng ửng đào hoa em ngất ngây Lẳng lặng nhìn em ánh mắt sâu Môi thơm ngan ngát lộc xuân đầu Trăm năm tơ ngải là em đó Gặp gỡ làm chi để kiếp sầu Cầm tay chẳng nói một lần sao Tiễn biệt chia xa luống nghẹn ngào Có phải lương duyên trời đã định Mỏng manh phai nhạt sắc hương đào Tôi trở lại đây đứng đợi mong Hương xưa tìm lại phấn xuân hồng Người đâu ? Còn lại hoa đào đó Cười cợt vô tình với gió đông Nguyên tác của Thôi Hộ Khứ niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồng Nhân diện chỉ kim hà xứ khứ? Đào hoa y cựu tiếu đông phong ********** Thu - Xuân Diệu Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu. Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì. Hư vô bóng khói trên đầu hạnh; Cành biếc run run chân ý nhi. Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa. Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà. Buồn ở sông xanh nghe đã lại, Mơ hồ trong một tiếng chim qua. Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm, Hây hây thục nữ mắt như thuyền. Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu, Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên. Hoa Cúc - Xuân Quỳnh Có thay đổi gì không màu hoa ấy Mùa hạ qua rồi lại đến mùa thu Thời gian đi màu hoa cũ về đâu Nay trở lại vẫn còn như mới mẻ Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế Chỉ là em đã khác với em xưa Nắng nhạt vàng, ngày đã quá trưa Nào đâu những biển chờ nơi cuối đất Bao ngày tháng đi về trên mái tóc Chỉ em là đã khác với em thôi Nhưng màu hoa đâu dễ quên nguôi Thành phố ngợp ngày nao chiều gió dậy Gương mặt ấy lời yêu thưở ấy màu hoa vẫn cháy ở trong em ********** Chân Quê - Nguyễn Bính Hôm qua em đi tỉnh về Đợi em ở mãi con đê đầu làng Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng Áo cài khuya bấm, em làm khổ tôi! Nào đâu cái yếm lụa sồi Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân? Nào đâu cái áo tứ thân? Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen? Nói ra sợ mất lòng em Van em em hãy giữ nguyên quê mùa Như hôm em đi lễ chùa Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh Hoa chanh nở giữa vườn chanh Thầy u mình với chúng mình chân quê Hôm qua em đi tỉnh về Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. Bài thơ tiền chiến TRƯỜNG HUYỆN (1938) Nguyễn Bính -------------------- Học trò trường huyện ngày năm ấy Anh tuổi bằng em, lớp tuổi thơ Những buổi học về không có nón Đầu đội chung một lá sen tơ Lá sen vương phấn, hương sen ngát Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc Theo về tận cửa mới tan mơ. Em đi, phố huyện tiêu điều lắm! Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi! Mà đến hôm nay anh mới biết Tình ta như chuyện bướm xưa thôi!
|
|
|
Thơ
May 3, 2012 3:56:54 GMT 9
Post by Can Tho on May 3, 2012 3:56:54 GMT 9
Cùng nhìn lại quê hương vẫn còn hoe mắt đỏ… Đỗ Trung Quân Tôi đi ngược về hướng biển Quốc lộ ra Phan Thiết, Nha Trang Tôi vòng về hướng núi Thông thắp nến hai hàng Tôi đi ngược bỏ lại phía Sài Gòn Nơi hơn nửa thế kỷ niềm vui thống nhất có thật Nhưng nỗi bi thương cũng có thật Người bộ đội mang ba lô bước vào nhà Người lính Cộng Hòa mang đồ đạc đi ra Người lính Bắc Việt Nam vượt Trường Sơn Người lính Sài Gòn dong buồm vượt biển Tôi đi ngược lòng mình Như di tản Vui cũng nổ trời Buồn cũng thấu ruột gan Ngày ấy Q làm gì? - Tôi lẫn vào dòng người lếch thếch trở lại từ phi trường Tân Sơn Nhất Ngày ấy anh làm gì? - Tôi xuôi theo đoàn quân giải phóng Tiến về Sài Gòn. Mẹ tôi chắc chờ ngoài cửa. Ngày ấy… Ngày ấy… Chúng mình còn rất trẻ… tôi ngồi trên bãi biển… Phan Thiết tôi nhìn mặt trời lên phía đồi thông Lâm Viên chai rượu đã lưng nào thì để cây đàn lên tiếng Tôi cười ha hả gào “Nam nhi hồ lai chinh chiến hề Cùng hẹn ngày về Quê Bắc ơi…”[/li][li] Anh cũng he he thét tướng “ sài gòn ơi ta đã về đây …ta đã về đây…”[**] Rượu vơi rồi rượu lại đầy “ ờ nhỉ! Cớ gì chúng mình quần nhau tan nát” Ngu! Ba mươi bảy năm… Tôi đi ngược sài gòn Di – tản – – niềm- vui Di- tản – nỗi -buồn Của mình. Chúng ta cùng nhìn lại quê hương Hoe mắt đỏ… Sài gòn 30/4/2012 Đ.T.Q.
|
|
|
Thơ
Oct 26, 2012 5:17:46 GMT 9
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 5:17:46 GMT 9
Núi rừng cao nguyên, dòng thơ biên cương Wednesday, September 12, 2012 VIÊN LINH Nguyễn Bính được mệnh danh là thi sĩ chân quê, bởi thơ ông viết về con người và khung cảnh nông thôn miền Bắc, mặn mà đến nỗi khi người thiếu nữ ông yêu đi Hà Nội về, chỉ một thay đổi nhỏ đã làm ông cảm thấy bị mất mát: “Hôm qua em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.” Thi sĩ với nhiều bài thơ biên cương, nhà thơ Kim Tuấn, mất lúc 1 giờ sáng ngày 11 tháng 9, 2003. (Hình: Ðinh Cường) Ðinh Hùng được hiểu là thi sĩ của rừng thiêng, không phải vì ông sinh ra ở Sa Pa, Sầm Nứa, mà bởi cả cuốn Mê Hồn Ca là những bài thơ dị kỳ, lại còn thêm thi tập “Tiếng Ca Bộ Lạc,” và nhân vật hung dữ tàn phá kinh thành, hủy diệt giai nhân “có mấy linh hồn,” “vong bản,” “là ma là quỉ,” và “Bên thành quách ta ra tay tàn phá / Giữa hoang loạn cả lâu đài đình tạ / Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng / Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.” Ở Miền Nam, chỉ một bài thơ xuất thần mà thơ Hoàng Trúc Ly được coi là thơ Liêu Trai, “Từ em tiếng hát lên trời / Tay xao dòng tóc tay vời âm thanh,*” [*Lưu ý chữ xao: xao như thôi-xao (gõ, đánh, đẩy, xao-động... Việt Nam Tự Ðiển Lê Văn Ðức Lê Ngọc Trụ.] Chỉ vài năm sau, có một số thi sĩ tuy là nổi bật, mà vì miền Nam sau 1963, sau đảo chính và chỉnh lý, sau Mỹ quân đổ bộ Ðà Nẵng 1965 và Cộng quân cuồng sát Mậu Thân ở Huế 68, thơ lắng chìm, các thi sĩ quân nhân rời đồng bằng, rời thành phố hải cảng, rời cát trắng biển xanh vác súng lên rừng, đóng đồn hạ trại trên các triền núi, những Kontum, Pleku, những Darlac, Ðức Lập, những bản Mường heo hút, và những thung lũng rình chờ... Từ đó, họ đã đem núi rừng vào thơ, họ đã tạo sương mù đất đỏ thành vần điệu, họ là Vũ Hữu Ðịnh, là Phạm Ngọc Lư, là Trần Văn Sơn, là Kim Tuấn. Các thi sĩ ấy hẳn đã làm thơ từ trước đó, và núi rừng đã ở đấy từ trước đó, song trước khi họ vác súng đến, núi rừng là núi rừng, thơ là thơ, chưa có thơ núi rừng, và thơ miền Nam chưa có mảng thơ nào mà mầu rừng sắc núi lại thân yêu đến thế, hùng vĩ đến thế: Biên cương biên cương chào biên cương Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt Núi chập chùng như dẫy mồ chôn Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết Thổi lấp rừng già bạt núi non Mùa khô tới theo chân thù địch Ta về theo cho rậm chiến trường Chiến trường ném binh như vãi đậu Ðoàn quân ma bay khắp bốn phương Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi Núi mang cao điểm ngút oán hờn Ðá mang dáng dấp hình chinh phụ Chơ vơ chóp núi đứng bồng con. (Phạm Ngọc Lư, Biên cương hành) Phố núi cao phố núi đầy sương Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn Anh khách lạ đi lên đi xuống May mà có em đời còn dễ thương. Phố núi cao phố núi trời gần Phố núi không xa nên phố tình thân Ði dăm phút đã về chốn cũ Một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng Em Pleiku má đỏ môi hồng Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông Nên mắt em ướt và tóc em ướt Da em mềm như mây chiều trong Xin cảm ơn thành phố có em Xin cảm ơn một mái tóc mềm Mai xa lắc trên đồn biên giới Còn một chút gì để nhớ để quên. (Vũ Hữu Ðịnh, Còn một chút gì để nhớ) Ðêm nằm nghe vượn hú Ba lô, súng gối đầu Mắt mở trừng không ngủ Rừng tiếp rừng âm u (Trần Văn Sơn, Ðêm kích ở dốc Ðồn Ðiền) Trong số này, nhà thơ Kim Tuấn lại làm nhiều thơ nhất về núi rừng cao nguyên miền Nam, cả chục bài. Tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Khuê, có nơi viết anh sinh ngày 15 tháng 10, 1940 tại Huế; sách Võ Phiến (Tổng quan Văn học Miền Nam) viết Kim Tuấn sinh năm 1937; báo Người Lao Ðộng trong nước và Người Việt ở Quận Cam soạn lại thành tin ngày 11 tháng 9, 2003 viết anh sinh năm 1938 tại Hà Tĩnh, là hậu duệ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm; chúng tôi không rõ nguồn tin nào đúng. Kim Tuấn làm thơ vào khoảng 1959, có tác phẩm nhan đề Hoa Mười Phương, hình như cùng với nhiều người, đến năm 1969 in chung với Ðịnh Giang thi phẩm Ngàn Thương. Sau đó có in Dấu Bụi Hồng 1971, Thơ Kim Tuấn 1975, Thời của Trái Tim Hồng 1990. Tuổi Phượng Hồng 1991 rồi Tạ Tình Phương Nam 1994. Thời gian trong quân ngũ Kim Tuấn phục vụ tại Quân Ðoàn II ở Pleiku, đây chính là thời gian anh làm nhiều thơ về núi rừng nhất, hơi thơ mạnh và có nhiều khác biệt, từ nơi này qua chốn khác như Bản Hét, Pleime, Pleimrong, Ðức Cơ, Ðức Lập, Hạ Lào... Men say chất ngất chiều chưa khuất Tây Bắc rừng xanh màu lá xanh Tây Bắc người đi chưa trở lại Sông buồn con nước chảy loanh quanh (Xuân trên đầu núi) Bản Hét ta chào mi đấy nhé Chiều mưa che khuất núi đồi xa Chiều mưa ta đứng trên đầu gió Thương mình hơn những bóng mây qua Bản Hét thương đời anh lính trẻ Quanh năm chờ phép về thăm nhà Quanh năm trấn thủ đời gian khổ Hầm đất nhìn quanh ta với ta. (Trên vùng Bản Hét) Những người thi sĩ cầm súng ấy đã góp phần gìn giữ quê hương nơi núi đồi hoang vu vào thời xanh tóc và thắm mộng, các bạn đã thiệt thòi biết bao, nhưng tôi tin rằng Sử Thi Việt Nam sau này khi văn hiến được phục hồi, khi nói tới núi rừng lãnh thổ, thi ca biên cương thời thập niên 70, phải nói tới thế hệ Kim Tuấn.
|
|
|
Thơ
Oct 26, 2012 5:18:12 GMT 9
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 5:18:12 GMT 9
Núi rừng cao nguyên, dòng thơ biên cương Wednesday, September 12, 2012 VIÊN LINH Nguyễn Bính được mệnh danh là thi sĩ chân quê, bởi thơ ông viết về con người và khung cảnh nông thôn miền Bắc, mặn mà đến nỗi khi người thiếu nữ ông yêu đi Hà Nội về, chỉ một thay đổi nhỏ đã làm ông cảm thấy bị mất mát: “Hôm qua em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.” Thi sĩ với nhiều bài thơ biên cương, nhà thơ Kim Tuấn, mất lúc 1 giờ sáng ngày 11 tháng 9, 2003. (Hình: Ðinh Cường) Ðinh Hùng được hiểu là thi sĩ của rừng thiêng, không phải vì ông sinh ra ở Sa Pa, Sầm Nứa, mà bởi cả cuốn Mê Hồn Ca là những bài thơ dị kỳ, lại còn thêm thi tập “Tiếng Ca Bộ Lạc,” và nhân vật hung dữ tàn phá kinh thành, hủy diệt giai nhân “có mấy linh hồn,” “vong bản,” “là ma là quỉ,” và “Bên thành quách ta ra tay tàn phá / Giữa hoang loạn cả lâu đài đình tạ / Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng / Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.” Ở Miền Nam, chỉ một bài thơ xuất thần mà thơ Hoàng Trúc Ly được coi là thơ Liêu Trai, “Từ em tiếng hát lên trời / Tay xao dòng tóc tay vời âm thanh,*” [*Lưu ý chữ xao: xao như thôi-xao (gõ, đánh, đẩy, xao-động... Việt Nam Tự Ðiển Lê Văn Ðức Lê Ngọc Trụ.] Chỉ vài năm sau, có một số thi sĩ tuy là nổi bật, mà vì miền Nam sau 1963, sau đảo chính và chỉnh lý, sau Mỹ quân đổ bộ Ðà Nẵng 1965 và Cộng quân cuồng sát Mậu Thân ở Huế 68, thơ lắng chìm, các thi sĩ quân nhân rời đồng bằng, rời thành phố hải cảng, rời cát trắng biển xanh vác súng lên rừng, đóng đồn hạ trại trên các triền núi, những Kontum, Pleku, những Darlac, Ðức Lập, những bản Mường heo hút, và những thung lũng rình chờ... Từ đó, họ đã đem núi rừng vào thơ, họ đã tạo sương mù đất đỏ thành vần điệu, họ là Vũ Hữu Ðịnh, là Phạm Ngọc Lư, là Trần Văn Sơn, là Kim Tuấn. Các thi sĩ ấy hẳn đã làm thơ từ trước đó, và núi rừng đã ở đấy từ trước đó, song trước khi họ vác súng đến, núi rừng là núi rừng, thơ là thơ, chưa có thơ núi rừng, và thơ miền Nam chưa có mảng thơ nào mà mầu rừng sắc núi lại thân yêu đến thế, hùng vĩ đến thế: Biên cương biên cương chào biên cương Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt Núi chập chùng như dẫy mồ chôn Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết Thổi lấp rừng già bạt núi non Mùa khô tới theo chân thù địch Ta về theo cho rậm chiến trường Chiến trường ném binh như vãi đậu Ðoàn quân ma bay khắp bốn phương Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi Núi mang cao điểm ngút oán hờn Ðá mang dáng dấp hình chinh phụ Chơ vơ chóp núi đứng bồng con. (Phạm Ngọc Lư, Biên cương hành) Phố núi cao phố núi đầy sương Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn Anh khách lạ đi lên đi xuống May mà có em đời còn dễ thương. Phố núi cao phố núi trời gần Phố núi không xa nên phố tình thân Ði dăm phút đã về chốn cũ Một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng Em Pleiku má đỏ môi hồng Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông Nên mắt em ướt và tóc em ướt Da em mềm như mây chiều trong Xin cảm ơn thành phố có em Xin cảm ơn một mái tóc mềm Mai xa lắc trên đồn biên giới Còn một chút gì để nhớ để quên. (Vũ Hữu Ðịnh, Còn một chút gì để nhớ) Ðêm nằm nghe vượn hú Ba lô, súng gối đầu Mắt mở trừng không ngủ Rừng tiếp rừng âm u (Trần Văn Sơn, Ðêm kích ở dốc Ðồn Ðiền) Trong số này, nhà thơ Kim Tuấn lại làm nhiều thơ nhất về núi rừng cao nguyên miền Nam, cả chục bài. Tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Khuê, có nơi viết anh sinh ngày 15 tháng 10, 1940 tại Huế; sách Võ Phiến (Tổng quan Văn học Miền Nam) viết Kim Tuấn sinh năm 1937; báo Người Lao Ðộng trong nước và Người Việt ở Quận Cam soạn lại thành tin ngày 11 tháng 9, 2003 viết anh sinh năm 1938 tại Hà Tĩnh, là hậu duệ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm; chúng tôi không rõ nguồn tin nào đúng. Kim Tuấn làm thơ vào khoảng 1959, có tác phẩm nhan đề Hoa Mười Phương, hình như cùng với nhiều người, đến năm 1969 in chung với Ðịnh Giang thi phẩm Ngàn Thương. Sau đó có in Dấu Bụi Hồng 1971, Thơ Kim Tuấn 1975, Thời của Trái Tim Hồng 1990. Tuổi Phượng Hồng 1991 rồi Tạ Tình Phương Nam 1994. Thời gian trong quân ngũ Kim Tuấn phục vụ tại Quân Ðoàn II ở Pleiku, đây chính là thời gian anh làm nhiều thơ về núi rừng nhất, hơi thơ mạnh và có nhiều khác biệt, từ nơi này qua chốn khác như Bản Hét, Pleime, Pleimrong, Ðức Cơ, Ðức Lập, Hạ Lào... Men say chất ngất chiều chưa khuất Tây Bắc rừng xanh màu lá xanh Tây Bắc người đi chưa trở lại Sông buồn con nước chảy loanh quanh (Xuân trên đầu núi) Bản Hét ta chào mi đấy nhé Chiều mưa che khuất núi đồi xa Chiều mưa ta đứng trên đầu gió Thương mình hơn những bóng mây qua Bản Hét thương đời anh lính trẻ Quanh năm chờ phép về thăm nhà Quanh năm trấn thủ đời gian khổ Hầm đất nhìn quanh ta với ta. (Trên vùng Bản Hét) Những người thi sĩ cầm súng ấy đã góp phần gìn giữ quê hương nơi núi đồi hoang vu vào thời xanh tóc và thắm mộng, các bạn đã thiệt thòi biết bao, nhưng tôi tin rằng Sử Thi Việt Nam sau này khi văn hiến được phục hồi, khi nói tới núi rừng lãnh thổ, thi ca biên cương thời thập niên 70, phải nói tới thế hệ Kim Tuấn. ************ Thiên nhiên của Kim Tuấn Wednesday, September 05, 2012 Viên Linh Có một nhà thơ đến và đi cùng mưa nắng, vui và buồn cùng gió sương, cười như hoa nở, khóc như lá úa, thấy cuộc đời tươi đẹp hồn nhiên; khi yêu thì viết “Thời của trái tim hồng;” lúc lang thang trên đường phố lẻ loi vẫn thấy “dấu bụi hồng;” nhà thơ ấy sống suốt một đời với thiên nhiên, ở đâu yêu thiên nhiên đó, viết về bãi cỏ dòng sông con đường hè phố nơi đó: đó là nhà thơ Kim Tuấn (Huế, 10.1940 - Sài Gòn, 9.2003). Cho nên nhắc đến Kim Tuấn là nhắc đến không gian và thời khí xung quanh anh, đọc Kim Tuấn là đọc về bối cảnh đời anh. Trong đám cưới thi sĩ và chị Hải Phương (đứng) ở Sài Gòn hồi thập niên 60s. Hàng ngồi, từ trái qua là tài tử xi nê Huy Cường, nhà thơ Viên Linh, họa sĩ Ðinh Cường và nhà thơ Kim Tuấn. Hình do anh chị Hải Phương San Jose cung cấp. Tron bài thơ “Khi Tôi Về” nổi tiếng của anh do Phạm Duy phổ nhạc, tả người lính trở về, anh không tả ngay những người thân yêu, mà tả không gian bối cảnh cái đã: Khi tôi về, con chim sâu nằm trong tổ ấm, dây thép gai đã hết rào quanh đồn phòng ngự, và người lính đã trở về cày đám ruộng xưa. Là một nhà giáo từng dạy học đó đây, nơi nào cũng được anh nhắc nhở trong những vần thơ để lại, không phải bút ký du lịch mà trong cảm thức tự nhiên, không có mục đích gì ngoài điều anh quyến luyến với thiên nhiên và cuộc sống quanh mình: Ngày anh về thăm Cù lao Phố Chiều lửng lơ dòng sông uốn quanh Chiều lửng lơ âm vang tiếng sóng Chiều Biên Hòa và nỗi nhớ trong anh Chiều Biên Hòa nhà ai cuối xóm Lao xao hoa bưởi trắng trên cành (Kim Tuấn, Chiều ở Biên Hòa) Không cứ phải cư ngụ nơi đó anh mới viết về nơi đó, chỉ đi qua thôi cũng đủ để Kim Tuấn viết rồi: Chiều qua rừng cao su / Gió lạnh và sương mù Bụi đường xa áo đỏ / Gió quanh đèo vi vu Chiều qua rừng cao su / Lá vàng bay trong nắng Hoa vàng ven lối đi / Chân đồi con suối vắng (Kim Tuấn, Tạ Tình Phương Nam, 31) Kim Tuấn buồn đến đâu, thiên nhiên buồn đến đó, bài thơ “Kỷ Niệm” của anh đã từng bước len lỏi vào lòng người, qua nhạc phổ của Y Vân: Từng bước từng bước thầm / hoa vông rừng tuyết trắng Rặng thông già lặng câm / “Em yêu gì xa vắng?” [Câu hỏi trong hai dấu ngoặc là do nhạc sĩ Y Vân thêm vào, chính ra đó là câu “Hai đứa nhiều hối tiếc,” ở đây câu của Y Vân đắc địa hơn, song hồn của bài thơ và hồn của nhà thơ, cùng hồn của thiên nhiên, đã bốc lên thân mật và đằm thắm biết nhường nào, và đó chính là tâm cảm và nhạc điệu của thi sĩ.] Có một độc giả đã đặt ra cho Kim Tuấn vấn đề này, và anh đã trả lời thật xác đáng. Hỏi: Thơ nếu muốn dễ đi vào lòng người, có lẽ nhờ vào âm nhạc, bằng chứng là hai bài hát phổ thơ của chú là “Anh Cho Em Mùa Xuân” và Những Bước Chân Âm Thầm.” Vậy chú nghĩ sao?” Kim Tuấn đã trả lời: “Quan niệm nhờ âm nhạc để đi vào lòng người, e không đúng. Bằng chứng là trước khi nhạc sĩ phổ thành ca khúc, thơ đã đi vào lòng người nhạc sĩ.” (Theo tạp chí Áo Trắng của SV Ðại Học Y Khoa Huế, tr. 50) Trong các thành phố từng in dấu chân, có lẽ Pleiku là nơi nhà thơ Kim Tuấn đã nặng lòng nhiều nhất. Anh đã dạy học nơi đó, là thông dịch viên Anh ngữ cho Quân Ðoàn II ở đó, và đã tổ chức Tuần Lễ Văn Hóa Pleiku thành công rực rỡ với mỗi đêm có khoảng 2000 người tham dự tại hội trường Trung Học Tuyên Ðức và song song với Phòng Triển Lãm Tranh thường trực của ba họa sĩ Ðinh Cường, Hạ Quốc Huy và Nguyễn Thanh Hiền. Tạp chí Văn tường thuật: “Tuần Lễ Văn Hóa Pleiku được khai mạc ngày 23 và bế mạc ngày 26 tháng 7, 1973 vừa qua đã gặt hái được những thành quả rực rỡ. Ngoài giới chức văn hóa địa phương còn có sự tham dự của một số nhà văn, nhạc sĩ, học giả tiếng tăm tại thủ đô như Giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ, Nhạc sĩ Phạm Duy, Lê Uyên và Phương, các nhà văn Mai Thảo, Duyên Anh, Du Tử Lê, Ngô Xuân Hậu, Hạ Quốc Huy, Ðinh Cường... Nhà thơ Kim Tuấn (có công tổ chức - cùng với Sở Học Chánh Pleiku) đã xuất thần khi diễn đọc bài thơ ‘Roma, Italia’ của thi sĩ Cao Tiêu và được toàn thể vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt.” Cảm thức Kim Tuấn còn bộc lộ rộn ràng và thắm thiết với thành phố anh yêu qua những đoạn thơ sau đây: Buổi chiều ở Pleiku những cây thông già đứng lên cùng bụi mù Tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng Anh còn phút nào để nói yêu em. Buổi chiều ở Pleiku không có mặt trời Chỉ có mưa bay trên đầu ngọn núi Những đứa bạn về từ mặt trận xa Những đứa bạn đi áo đường bụi đỏ Những ngày mưa nghe bỗng lìa nhà Những ngày mưa âm thầm nhỏ giọt Những ngày mưa âm thầm đã qua. Buổi chiều ở Pleiku có bữa cơm ăn vội Có tập hợp 7 giờ Có cấm trại, cấm quân hàng tháng... Buổi chiều ở Pleiku có cà phê và bạn hiền... Buổi chiều ở Pleiku có gì đâu hở em? [...] (Viên Linh, viết để nhớ bạn cũ, mất tháng 9, năm 2003. Cảm ơn họa sĩ Ðinh Cường cho thêm tài liệu.)
|
|
|
Thơ
Oct 26, 2012 5:21:48 GMT 9
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 5:21:48 GMT 9
Việt Thi, Thơ Việt Wednesday, July 25, 2012 VIÊN LINH Nhân cuộc ra mắt một tuyển tập thơ dày trên 600 trang (trong có bài viết về thơ của nhiều tác giả khác) và nhất là trong hai bài viết mới đây của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, “Tiến Trình Thơ Việt, Nguyễn Du và Quan Họ” trong đó ông đưa ra một kết luận quan trọng: nguồn gốc thơ Lục Bát, một thể thơ được coi là truyền thống của Việt Nam, lại đến từ một sắc dân khác, người viết bài này có dịp đọc lại cuốn Việt Thi của học giả Trần Trọng Kim, Quốc Văn Cụ Thể của Bùi Kỷ, và nhân đó, đề nghị chúng ta cùng bàn về Thi Ca Việt trên trang báo này, tạm thời thu nhỏ vào thể thơ Lục Bát. Việt Thi, cuốn sách bàn về các thể thơ Việt Nam của Trần Trọng Kim. Theo thứ tự, có những bài sau đây được dẫn chứng: Trần Trọng Kim: Thể lục bát, thơ riêng của Việt Nam (Tân Việt); Hoàng Xuân Hãn chú giải Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Phạm Ðình Toái (Hải ngoại); Trần Ngọc Ninh: Tiến Trình Thơ Việt và Nguyễn Du và Quan Họ (Khởi Hành, 2012). Viên Linh: Thể Thơ Lục Bát (Thời Tập, Sài gòn 1974, đăng lại trên Khởi Hành 1999). Trần Trọng Kim viết: “Thơ của người Việt Nam có hai loại: một loại đặc biệt của Việt văn, một loại theo đúng qui tắc của thơ Hán văn... Thơ riêng của Việt văn là thể lục bát. Thể Lục Bát [...]có cước vận [tức là vần chân, ở cuối câu] và yêu vận [tức là vần long, ở giữa câu]. Thơ Việt văn vì có yêu vận và cước vận, cho nên có thể làm trường thiên, dài bao nhiêu câu cũng được. Bởi vậy các truyện bằng quốc âm đều làm bằng thơ Lục Bát hay Song Thất Lục Bát. Lục Bát là một thể thơ cứ một câu sáu chữ lại một câu tám chữ, tiếp tục như thế mãi và dùng toàn một thứ vần bằng. Kể từ câu thứ hai trở đi, cứ ba câu một vần, rồi liên tiếp mãi cho đến cùng.” (Việt Thi, tr.22-23) Ta có thể lấy ví dụ sau đây (ba câu một vần, kể từ câu thứ hai trở đi) 1. Bông lau, lông vịt lấy bông / Làm chăn làm đệm mùa đông ngự hàn / Trâu bò gà lợ dê ngan / Ðầy lũ đầy đàn rong thả khắp nơi (Phùng Khắc Khoan [1528-1613]), Ðào Nguyên Hành, VL sưu tập.) 2. Nước non nặng một lời thề / Nước đi đi mãi không về cùng non / Nhớ lời nguyện nước thề non / Nước đi chưa lại non còn đứng trông. (Tản Ðà) 3.Ta còn để lại gì không / Kìa non đá lở, này sông cát bồi / Lang thang từ độ luân hồi / U minh nẻo trước, xa xôi dặm về. (Vũ Hoàng Chương, Nguyện Cầu) Bùi Kỷ trong Quốc Văn Cụ Thể hay Dương Quảng Hàm trong Việt Văn Giáo Khoa Thư cũng đồng ý với Trần Trọng Kim. Bùi Kỷ viết: “Lối gieo vần của Trung Quốc bao giờ cũng để ở chữ cuối câu. Lối gieo vần của ta khác hẳn lối Trung Quốc, câu trên vần ở chữ cuối cùng, câu dưới vần không ở chữ cuối cùng.” Ðó là việc dùng âm vận để phân biệt thơ Tàu thơ Ta. Theo Phạm Ðình Toái, tác giả Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca, do Hoàng Xuân Hãn chú dẫn ở lời tựa, thì chính người Trung Hoa đã ngạc nhiên khi đọc Nhật Trình Bắc Sứ của Nguyễn Huy Oánh (1722-1789) tuy viết bằng Hán văn nhưng lại viết bằng một thể thơ họ không có (Thể Lục Bát) nên họ mới ngạc nhiên. Nhưng trong bài Tiến Trình Thơ Việt, Giáo Sư Trần Ngọc Ninh viết đại ý “Thơ Lục Bát là của nhân dân Việt Nam,” mà dân Việt không chỉ có chủng tộc Việt ở Giao Chỉ, mà còn các chủng tộc khác như Chăm, Nùng, và các sắc dân khác ở Việt Thường, Nhật Nam, Óc Eo, v.v... hợp thành. Khi điểm sách “Bùng Nổ Thơ Ca” của Giáo Sư Nguyễn Phan Cảnh, Trần Ngọc Ninh viết: “Nguyễn quân không nói gì đến nguồn gốc của thơ sáu tám và như nhiều người, nói rằng Lục Bát là thể thơ của dân tộc. Tôi nói rằng thơ Lục Bát là thơ của nhân dân Việt Nam.” Trong bài Nguyễn Du và Quan Họ tiếp theo, ông viết: “Trong các điệu hát Chăm, có những bài hát ru con và những bài giao duyên gọi là Dohdam Dara (đọc là Tô Tam tà rà) viết theo thể 6-8, gieo vần ở âm (tiếng) số 6 trong câu Sáu và âm số 4 trong câu Tám, giống những câu lục bát trong phong dao của ta (hay đúng hơn là ngược lại, ta giống Chăm).” Các tù binh Chăm bị Nhà Lý bắt được đã bị đưa ra Bắc từ thế kỷ mười và mười một... Còn nói về vần điệu lục bát, trên tạp chí Thời Tập, Sài Gòn 1974, và đăng lại trên Khởi Hành số 28, tháng 2, 1999, Viên Linh viết: “Lục Bát, một thể thơ có nhịp chẵn: Lục Bát là một thể thơ mỗi câu gồm 14 chữ; cũng có thể nói câu lục và câu bát, nếu nghĩ mỗi dòng là một câu. Khác với các thể ngũ ngôn, thất ngôn, cứ 2 câu mới ráp thành một vần (ở cuối câu), trong khi mỗi câu thơ lục bát phải tự ổn định trong vần riêng của câu, ở chữ thứ sáu và chữ thứ 12. Nhịp lục bát là nhịp võng, đã lên thì phải xuống. Nhịp chẵn (hai chữ một) thơ thường đều, gây buồn. Nhịp lẻ (ba chữ một) đưa lên những thanh cao, vui hơn.” Các ví dụ được đưa ra: Nhịp chẵn: Trăm năm / trong cõi / người ta Chữ tài / chữ mệnh / khéo là / ghét nhau. (Kiều) Nhịp chẵn: Ải xa / quằn quại / bóng cờ Phất phơ / buồn tự / ngàn xưa / thổi về. (Huy Cận) Nhịp chẵn: Chín năm đốt đuốc soi rừng Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân. (Nguyễn Bính) Nhịp lẻ: Trời không nắng / cũng không mưa Chỉ / hiu hiu rét / cho vừa nhớ nhung. (Hồ Dzếnh) Nhịp lẻ: Ôi Kim Lang / Hỡi Kim Lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây. (Kiều) Nhịp lẻ: Bao giờ bến mới gặp đò Hoa khuê các / bướm giang hồ / gặp nhau? (Nguyễn Bính) Nhịp lẻ: Yêu sông núi / giận quân thù Ðưa con ra trận phục mồ vô danh. (Viên Linh) Nhịp phá điệu hiện đại: Do / re / mi / fa / sol / la Ngẫm từng âm điệu nghe ra chiều buồn. (Cung Trầm Tưởng) Ngồi chờ tầu / góc ga thưa Nghe hồn ẩm mốc một mùa lạnh căm. (Tô Thùy Yên) Xa người rượu uống ngon hơn Ngồi đây đỏ mặt hoàng hôn mới về. (Viên Linh) Âm điệu dù nhịp chẵn, nhịp lẻ, phá điệu, vẫn không đủ. Lục bát vốn dễ làm, ai làm cũng sẵn vần điệu như một cái khuôn chỉ cần hai dòng là đủ, nhưng vần điệu không thôi sẽ không đủ. Cái cần thiết của lục bát là hình tượng. Là cụ thể. Là phải điêu khắc bằng chữ bằng lời. Lục Bát thiếu hình tượng và thiếu thi ngữ sẽ trở thành những câu văn vần nôm na, không thuộc vào văn chương nghệ thuật. (VL, 25.7.2012)
|
|
|
Thơ
Oct 26, 2012 5:23:08 GMT 9
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 5:23:08 GMT 9
Ngọc Linh (1931-2002), nhà văn với bốn chữ mặn mà Wednesday, July 11, 2012 Viên Linh Trong các nhà văn miền Nam hoạt động mạnh mẽ nhất, với thể chất cũng mạnh mẽ nhất mà người viết bài này có một thời gian gặp gỡ mỗi ngày, là Ngọc Linh, khi anh viết cho trang trong nhật báo Dân Tiến một truyện dài. Nhà văn Ngọc Linh (1931-12.7.2012). Viết truyện dài cho nhật báo, mỗi ngày một đoạn chỉ cỡ ba hay bốn trang viết tay, ai cũng có thể viết một lúc mươi mười lăm trang, đăng được 4, 5 kỳ báo, song hầu như không ai làm như thế, mà cứ mỗi ngày chỉ viết đủ số trang cần có, để ngày nào cũng phải xẹt qua tờ báo đưa bài, vội vội vàng vàng, không đủ thì giờ để nói hết một câu chuyện với bạn, là đã vọt đi ngay. Trong khi nói chuyện nhiều khi vẫn để xe nổ máy, nếu có xe Vespa như Ngọc Linh, còn đi bộ đến đưa bài cũng không bao giờ cà kê mất thì giờ, thoắt một cái đi mất, như Bình Nguyên Lộc, hay như Sơn Nam. Khi viết những dòng này, tôi không rõ ở Hải ngoại người ta còn nhớ Ngọc Linh không, vì báo chí Hải ngoại phần lớn qui tụ các cây bút từng có kinh nghiệm máu xương với cộng sản, đó là những người gốc miền Bắc hay miền Trung, trong khi anh em cầm bút người miền Nam chỉ sau 75 mới có những kinh nghiệm mà các đồng nghiệp của họ biết từ 1954 hay trước cả 54. Nhưng Ngọc Linh quá nổi tiếng, nhất là nhiều tiểu thuyết của anh đã được dựng thành phim, hay thành tuồng cải lương, như Ðôi Mắt Người Xưa, 1961, Ngã Rẽ Tâm Tình, 1962, Yêu Trong Hoàng Hôn, 1965, Như Hạt Mưa Sa, 1966... Anh em trong giới thường ngạo Ngọc Linh với cả tá truyện mà nhan đề toàn phải có 4 chữ, đọc lên ngân nga đối xứng (Buổi Chiều Lá Rụng, Hoa Nở Về Ðêm, Nắng Sớm Mưa Chiều, Như Hạt Mưa Sa... còn nhiều nữa); đối chọi với nhà văn Chu Tử, cuốn tiểu thuyết nào nhan đề cũng chỉ có một chữ cộc lốc: Yêu, Ghen, Loạn, Sống! Ðặc tính tiểu thuyết của anh là chân phương, đẹp, tình cảm, anh ghét mô tả những chuyện xấu xa, trắng trợn, đối nghịch hẳn với nhiều nhà văn nữ thời đó, có khi là những nữ quán quân của bóng tối. Ngọc Linh không “lấy đó làm điều” với kỹ thuật viết văn, không biện luận về văn chương chữ nghĩa, anh chỉ viết, và viết ra những cuốn tiểu thuyết dầy cộm: 493 trang (ÐMNX), 580 trang (Mưa Trong Bình Minh), 398 trang (Hoa Nở Về Ðêm), v.v. Nhưng anh sẽ nói nếu được mời, tôi đã “mời” anh nói ít ra là 2 lần, qua hai cuộc phỏng vấn đã đăng trên Tuần báo Nghệ Thuật, và Tuần báo Khởi Hành từ trước 1975. Ðược hỏi về việc viết tiểu thuyết đăng báo hàng ngày, Ngọc Linh có vẻ bực: “Người viết tiểu thuyết đăng báo hàng ngày không đem được nhiều (số đông) độc giả về cho tờ báo mình cộng tác là ‘không làm tròn nhiệm vụ’ của mình, có thể gây nguy cơ cho tờ báo và anh em trong xí nghiệp. Tuy nhiên, có đông độc giả không phải là chiều theo thị hiếu (có lẽ tòa soạn muốn nói là ‘thị hiếu hạ cấp’ [!])và không có giá trị nghệ thuật. Ðiều đó còn tùy theo tài năng và quan niệm viết văn của từng tác giả, không chỉ riêng những người viết tiểu thuyết đăng báo hàng ngày.” (Ngọc Linh trả lời phỏng vấn, Nghệ Thuật số 22, 3.1966) Ngọc Linh qua đời tại Sài gòn vào đúng ngày hôm nay, mười năm trước, 12.7.2002, thọ 72 tuổi. Tôi gặp anh lần đầu không phải để hàn huyên, mà thực tế là để “nói điều phải trái,” năm 1956, tại tòa soạn tuần báo Nhân Loại do anh làm thư ký tòa soạn. Hôm ấy tôi chở Hoài Nam (sau này đổi bút hiệu là Trần Dạ Từ) trên chiếc Velo Solex đi tìm tòa soạn báo Nhân Loại ở bến Chương Dương, mục đích là để khiếu nại cho người bạn nhỏ về kết quả cuộc thi truyện ngắn trong đó “truyện hay thế” mà chỉ được giải nhì. Ngưỡng mộ tờ báo khi đọc, song khi tới nơi thì ngạc nhiên: Ðó như một cửa hàng gì đó, không nhìn thấy sách vở đâu. Sau này đã thân nhau, khoảng 8 năm sau, Ngọc Linh mày tao với tôi (anh hơn tôi 3 tuổi, vì nghĩ anh sinh năm 1935, sau này thấy có nơi ghi anh sinh năm 1931) nói đại ý rằng mày lôi thôi, nó dự thi chứ có phải mày dự thi đâu, đã dự thi thì người ta trao cho giải nào thì nhận giải nấy, mày lại còn đến tận tòa soạn mà khiếu nại cho nó. Mà nó có nói gì đâu, chỉ thấy mày nói. Tôi thực sự không còn nhớ mình đã nói những gì lúc ấy, song khi nghe Ngọc Linh kể lại, tôi có chống đỡ rằng nếu là báo nào khác thì đây không nói làm gì cho mất công, song với tờ Nhân Loại thì phải nói. Vì Nhân Loại ở Sài Gòn hồi 1956 là tinh hoa của báo chí miền Nam, niềm hãnh diện của các nhà văn nhà thơ từng tham gia Kháng Chiến Chống Pháp thuở còn trai trẻ. Tôi nói với tác giả Trời Không Có Nắng rằng tôi vốn rất thích tờ báo đó, vì tôi rất ngưỡng vọng những nhà văn trong ban chủ trương: Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, những người đã có sách trong Tủ sách Chân Trời Mới. Ðó là các tác giả trí thức tiến bộ của miền Nam, vì lúc ấy, Ðệ Tứ Quốc Tế (nhóm Chân Trời Mới, so với cộng sản đệ tam quá khích giáo điều, là sáng giá hơn nhiều). Tôi biết những điều này vì đã đọc các báo Tin Ðiển (Ðiển chứ không phải Ðiện), Ðời Mới từ khi còn ở Hà Nội, cùng lúc đọc các tờ Thế Kỷ, Hồ Gươm, và nhất là tờ tuần báo Cải Tạo do ông chú tôi, Nguyễn Sĩ Hiệp, làm thư ký tòa soạn, tiếp nối thư ký tòa soạn tiền nhiệm là ký giả Nguyễn Kim Sinh, thân phụ Bác Sĩ Nguyễn Hoàng Hải hiện ở San Jose. Dĩ nhiên là Ngọc Linh rất vui, vì tôi biết anh không phải chỉ là một “nhà văn viết tiểu thuyết cho báo hàng ngày,” câu nói hàm ý khinh thường của các nhà văn vốn không bao giờ được các chủ báo hàng ngày mời viết - dùng để miệt thị những đồng nghiệp của họ, những người phải viết cho hai ba, hoặc tới năm tờ báo mỗi ngày. Ngọc Linh không những ăn khách bình dân, Ngọc Linh còn là thư ký tòa soạn tờ tuần báo văn học nghệ thuật sáng giá của thời đại, tờ Nhân Loại. Nhóm người Bắc chúng tôi lúc ấy làm báo người Nam chỉ có mấy người, và đều thân nhau, như Thanh Nam và tôi, hàng ngày hay hàng tuần ngồi ở các quán cà phê vỉa hè, khi thì ở Ngã Tư Quốc Tế (Ðề Thám Bùi Viện), khi thì ở dọc đường Phạm Ngũ Lão, bên hông Ga Xe Lửa, có khi ồn ào vì đông, với những Ngọc Linh, Kiên Giang Hà Huy Hà, Sĩ Trung, Ngô Tỵ báo Tia Sáng, Quốc Phượng báo Tiếng Chuông, sau này ở tù “đảng phái” ra có Lê Xuyên, hay các anh lớn tuổi như An Khê, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Bảo Hóa... Vui nhất là khi Ngọc Linh bảo tôi, đại ý “mày viết báo Nam kỳ là phải rồi, mày viết giọng Nam như tụi tao vậy”. Và Ngọc Linh còn làm thơ. Hãy đọc thơ Ngọc Linh để tưởng nhớ một nhà văn mặn mà với âm điệu bốn chữ của hàng chục nhan đề đã xuất bản của anh: - Em chờ anh Tặng em Nụ hôn đầu đời. - Tôi không thể! - Tại sao? - Vì tôi yêu lần cuối, Lâu rồi! (Ngọc Linh, Ðối Thoại) Gần bảy mươi mới làm thơ tình, Ðúng giọng điệu “lão già mất nết,” Có nết hay không rồi cũng chết Ta làm thơ chiêm nghiệm đời ta. (Ngọc Linh, Thơ Tình 70)* (VL, 11.7.2012) *Ảnh và thơ trích theo “Sài Gòn, Ngày Ấy... Bây Giờ” của Thiên Hà, 2010.
|
|
|
Thơ
Oct 26, 2012 6:34:31 GMT 9
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 6:34:31 GMT 9
Thụy An (1915-1989), nữ sĩ hiện đại Viên Linh Vào ngày 16 tháng 6, 1989, nhà văn nữ Thụy An, tác giả Một Linh Hồn (truyện dài, 1942) và Bốn Mớ Tóc (tập truyện ngắn, 1950), từ trần tại Sài Gòn, thọ 74 tuổi. Thơ văn bà viết và đã xuất bản từ ba phần tư thế kỷ qua, tới nay đọc lại, tưởng như của một nhà văn của thế kỷ này. Bìa cuốn “Bốn Mớ Tóc” của Thụy An, xuất bản năm 1950 tại Hà Nội. Không những trong văn chương, mà trong đời sống, Thụy An là người mạnh bạo, thúc đẩy và tự thân tranh đấu cho nữ quyền, từ việc nhỏ trong sinh hoạt hàng ngày (như kêu gọi cắt tóc ngắn, trong Bốn Mớ Tóc), tới viết báo, xuất bản báo riêng tại Sài Gòn, lấy tên là “Ðàn Bà mới” (La Femme nouvelle), chủ trương rõ ràng: “Journal feminin (la femme dans la famille et dans la société), bà là giám đốc quản lý, báo số 1 ra ngày 1 tháng 12, 1934 và sau ba năm thì ngưng ở số 95. Ðến năm 1939, bà tục bản tờ báo ở Hà Nội, chỉ còn lấy tên là “Ðàn Bà, Tuần báo xuất bản ngày thứ sáu” (La Femme - Hebdomadaire paraissant le vendredi). Báo Ðàn Bà số 1 xuất bản ở Hà Nội hôm 24 tháng 3, 1939, sống được 7 năm, đóng cửa vào 1945, số chót là số đôi: 302-303. Như thế về tác phẩm in thành sách, bà chỉ có vài cuốn, song về chữ nghĩa trên báo, báo của bà, có từ năm 1934, lúc bà 20 tuổi. Có một nhà văn nữ nào như thế sau này không? Chúng tôi không thấy. Thật ra Thụy An còn hơn thế nhiều. Tên khai sinh là Lưu Thị Yến, sinh năm 1915 ở Hà Nội, quê gốc ở làng Vân Ðình, Hà Ðông, con ông Lưu Tiến Ích và và Phùng thị Tôn. Năm 13 tuổi có thơ đăng trên Nam Phong tạp chí của Phạm Quỳnh. Do đó “cô tác giả” đã được Quốc Trưởng Bảo Ðại và Hoàng Hậu Nam Phương tiếp kiến. Khoảng 1950-51, khi còn là một cậu học sinh ở Hà Nội, người viết bài này đã nghe tên tuổi Thụy An vang lừng, song không phải qua văn chương, mà qua tin tức phóng sự nhật báo. Tin tức loan truyền: nhà hoạt động cách mạng Ðỗ Ðình Ðạo, từng là Quân ủy Trung ương của Quốc Dân Ðảng, bị ám sát chết, báo chí có nhắc đến tên Thụy An như là một người trách nhiệm, hoặc liên hệ. Sự thật ra sao cho tới nay không rõ, chỉ xin nhắc lại, đó là lúc chúng tôi đọc nhật báo từ nhỏ, nên biết đến tên của nhà văn nữ. Cuối thập niên '50 khi đã ở Sài Gòn thì tên bà lại được báo chí nói đến nhiều. Lần này bà bị cộng sản Hà Nội qui tội làm gián điệp cho ngoại bang, hoạt động bên cạnh ông Nguyễn Hữu Ðang, Trần Thiếu Bảo, là hai nhân vật chủ chốt trong nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm; bà bị kết án và ở tù 15 năm trong nhà giam Hỏa Lò. Trong bộ Nhà Văn Hiện Ðại, quyển năm, Vũ Ngọc Phan xếp Thụy An vào khuynh hướng Tiểu thuyết Xã hội cùng với Trương Tửu, Nguyên Hồng, Thạch Lam, Ðỗ Ðức Thu, Nhượng Tống,... Ông dùng những dòng sau đây để kết luận về Thụy An: “Một Linh Hồn cũng đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn.” (NVHÐ, trang 1208). Cách đây hai năm, một thân hữu đã gửi tặng Khởi Hành nhiều sách quí hiếm, trong có tập truyện ngắn Bốn Mớ Tóc của Thụy An, do nhà xuất bản Thế Giới xuất bản tại Hà Nội vào tháng 7, 1950. Sách dày 100 trang, trình bày thật mỹ thuật, dù bìa chỉ có 2 màu, đen và màu rêu. Ngoài bài “Thay lời tựa,” sách chỉ gồm có 3 truyện: Một Thương, Bà Mẹ Cô Con và Mớ Tóc, Thế Phát. Cả ba đều viết về tóc, và “Thay lời tựa” cũng nói về tóc. Nhà xuất bản Thế Giới (mà chúng tôi biết là do ông Nguyễn Văn Hợi chủ trương - ông đã tiếp tục hoạt động in ấn ở Sài Gòn, và đã cho chúng tôi đặt tòa soạn ngay trong nhà in của ông trên đường Phạm Ngũ Lão) đã viết những dòng giới thiệu như sau về Thụy An: “Như nhiều nhà văn khác, bà Thụy An khởi đầu văn nghiệp bằng sự viết báo. Bà đã viết trong những báo Phụ Nữ Thời Ðàm, Phụ Nữ Tân Văn, Essor và Bạn Trẻ, từ năm 1934 đến 1945 bà chủ trương hai tờ tuần báo phụ nữ: Ðàn Bà Mới ở Sài Gòn và Ðàn Bà ở Hà Nội... Chúng ta sẽ thấy ở tác phẩm này và những tác phẩm sau, bà Thụy An với cây bút uẩn súc bằng tấm lòng thành thực đầy tư tưởng đã vượt cái địa hạt văn chương tình cảm và lãng mạn để cảm thông và diễn đạt cái nhịp sống chung của dân tộc, của nhân loại đang trỗi dậy.” Ngay những dòng đầu của “Thay lời tựa,” nhà văn Thụy An đã cho thấy tâm tư người tác giả ý thức trong cuộc sống thời Hà Nội trong chiến tranh ấy như thế nào. “Mỗi khi qua chợ Ðồng Xuân, có bao giờ các bạn đưa mắt nhìn mấy ngôi hàng ngay trước cửa, bán một thứ hàng đặc biết: tóc, tóc đã sắp thành độn. Ðộn tóc cuộn tròn bày trên giá hàng, độn tóc treo giài [ngày nay ta viết là dài], buông thõng từ giẫy [dẫy] phía sau lưng người bán, làm thành một tấm nền ma quái, hồ nhìn ta vội quay mặt đi ngay, để tránh một cảm giác ghê ghê, rợn rợn. Nhưng mà một câu hỏi cũng đã kịp đến ám ảnh tâm trí ta: ‘Tóc ai đấy nhỉ?’”... “Ta nghĩ ngay đến những xác chết vô thừa nhận của những nhà thương thí... Nhất là trong buổi loạn ly này, với cái số người chạy trốn khói lửa ở miền hậu phương bát ngát, ùn ùn kéo vào cái Hà Nội rất giàu có mà rất kiệt quệ này, những xác chết ấy càng sẵn lắm...” Bà còn làm thơ lưu loát. Ví dụ: Cái Tết miền Nam vô vị quá Câu thơ Nguyễn Bính lại mang ngâm Nắng thiêu rụi cả, thiêu tàn cả Còn nét gì đâu gợi tứ xuân (Tôi về quên mất cả xuân sang) Hay: Ghê cái mùa thu Hà Nội Hững hờ mấy lá vàng bay Ru nỗi buồn câm phố vắng Lê chân vẹt mấy gót giầy. Em những âu vui duyên mới Lâu lâu chợt nhớ tới anh Môi đào mỉm cười hóm hỉnh: “Hẳn là anh ấy giận mình.” (Sao Lại Mùa Thu, ký Nguyên Quy, Phật danh của Thụy An, bản thảo.) Mặc dù nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong cuốn sách in từ 1942 xếp Thụy An vào cùng lớp với Trương Tửu, Nguyên Hồng, Thạch Lam, Ðỗ Ðức Thu, Nhượng Tống,... song Thụy An cho tới nay, trong cái nhìn của người viết bài này, là một nhà văn hiện đại. (VL-26.6.2012)
|
|
|
Thơ
Apr 23, 2013 8:27:32 GMT 9
Post by Vĩnh Long on Apr 23, 2013 8:27:32 GMT 9
Nhà thơ Tô Kiều Ngân qua đời tại Sài Gòn, thọ 86 tuổi Saturday, October 20, 2012 S ÀI GÒN (NV) - Nhà thơ Tô Kiều Ngân, một trong những người đồng sáng lập ban thi văn Tao Ðàn trên đài phát thanh Sài Gòn năm 1955, vừa qua đời ngày 20 tháng 10, 2012, tại Sài Gòn, thọ 86 tuổi.Di ảnh nhà thơ Tô Kiều Ngân. Nhà thơ Tô Kiều Ngân, thế danh Lê Mộng Ngân, sinh năm 1926, tại Huế. Ông bắt đầu sinh hoạt văn nghệ từ năm 1948. Tác phẩm đầu tiên của ông là kịch thơ 4 màn “Ngã Ba Ðường,” do ban kịch Sông Ô trình diễn trên sân khấu Huế. Trong phần viết về Tô Kiều Ngân, nhà thơ Du Tử Lê từng viết: “Tuổi trẻ của ông được nuôi dưỡng trong bầu không khí trang nghiêm cổ kính của thành phố buồn, thành phố của những dấu tích xa xưa, của bao nhiêu triều đại đã hưng phế, nay chỉ còn trơ lại một nội thành với những lăng tẩm u trầm, một dòng sông Hương ‘Nông chờ’ tháng năm lạnh lùng trôi qua, biểu tượng niềm riêng, nỗi quạnh hiu của người dân xứ Huế.” Vẫn theo bài viết của tác giả Du Tử Lê, năm 1950, Tô Kiều Ngân gia nhập quân đội. Năm 1952 ông đưa gia đình vào Nam. Tại đây, ông lần lượt viết cho các báo Ðời Mới, Người Sống Mới, đồng thời cộng tác với một vài tờ báo xuất bản tại Hà Nội như Hồ Gươm, Giác Ngộ... Năm 1955 ông cùng Ðinh Hùng và vài người nữa thành lập ban thi văn Tao Ðàn trên đài phát thanh Sài Gòn. Sau đó ông cùng Thanh Nam chủ trương tuần báo Thẩm Mỹ, rồi cộng tác với Sáng Tạo, Văn Nghệ Tiền Phong, Tiểu Thuyết Tuần San v.v... Về mặt quân đội, có thời ông làm chủ bút tờ Quân Ðội bán nguyệt san (do Nha C.T.T.L . ấn hành), đồng thời chủ trương biên tập nguyệt san “Văn Nghệ Chiến Sĩ” của QLVNCH. Theo cáo phó của gia đình, linh cữu nhà thơ được quàn tại tư gia, số 57/6/4 Ðiện Biên Phủ, quận Bình Thạnh. Lễ động quan vào ngày 24 tháng 10 năm 2012. Hỏa táng tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa. (Ð.B.)
|
|
|
Thơ
Apr 28, 2013 17:13:09 GMT 9
Post by Can Tho on Apr 28, 2013 17:13:09 GMT 9
Nắng Mới - Lưu Trọng Lư - Hoàng Oanh
|
|
|
Thơ
May 23, 2013 0:36:37 GMT 9
Post by Can Tho on May 23, 2013 0:36:37 GMT 9
Hồ Ðiệp (1930-1988), tiếng vàng trong không gian Wednesday, May 15, 2013 Viên Linh Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp - biệt danh do thi sĩ Ðinh Hùng đặt cho cô trong chương trình Thi Ca Tao Ðàn của đài phát thanh quốc gia từ 1954 - đã vĩnh viễn biệt tăm trong cuộc hành trình đường bộ rời xa tổ quốc qua ngả Cao Miên vào một ngày Tháng Năm âm lịch Mậu Thìn (1988) - để xa lánh cộng sản, không còn để lại chút gì của bản thân trong cát bụi, nhưng người hoa khôi ấy của Nghệ thuật Ca trù Việt Nam, giọng ngâm vàng ngọc ấy của thi ca đất nước, còn mãi mãi trong không gian, nếu thỉnh thoảng lại có người muốn “nghe sênh phách thời Hồ Ðiệp,” hay muốn “ngâm thơ kiểu Tao Ðàn.” Nữ sĩ Hồ Điệp (Hình: Nguyễn Phan Cảnh) Sáu bảy năm trước người viết bài này đã tổ chức một buổi Tưởng Niệm Tao Ðàn tại hội trường Người Việt, nơi chỉ có khoảng 300 ghế, mà người đến dự tới hơn 400, phải đứng vòng quanh các cửa bên ngoài. Một băng thơ Hồ Ðiệp đã được phát lại, dù chỉ nửa bài, thật ra dù chỉ nửa câu, người ta đã thấy bướm mộng bay về, không gian đã nghe giọng vàng lưu luyến. Ca trù, bị gọi nôm na là hát ả đào, người ngâm hát bị gọi nôm na là cô đầu, chính thực là kho báu, là quốc túy của ta. Ai làm ra những bài hát nói, những bài thơ cho các cô đào ấy hát? Ai đàn, ai trống, ai đệm nhịp “tùng tùng cắc cắc” cho những giai nhân nghệ sĩ kia giãi tỏ tâm tình? Thưa đó là các nhà trí thức, các nhà thơ danh vọng, đó là những Nguyễn Du, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương, Tản Ðà,... tác giả những từ khúc, thi phẩm cả thế kỷ qua được ghi vào chương trình giáo dục của quốc gia. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng Không Phật, không Tiên, không vướng tục. (Nguyễn Công Trứ, Ngất Ngưởng) Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy Nửa chen mặt nước nửa từng mây... Từ xưa mặt ngọc ai là chẳng Chén rượu bên đèn luống tỉnh say. (Nguyễn Khuyến, Tiệc Hát) Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy Tân thanh đáo để vị thùy thương. (Chu Mạnh Trinh, Thúy Kiều Oan Trái) "Chính ở ca trù chúng ta không những thấy được cái chân tướng con người sống động của giới trí thức Việt Nam xưa, mà chúng ta còn thấy được cái tài dung hợp Việt hóa nào Ðường thi, nào Từ nào Phú, nào Lục bát nào Song thất,... và màu sắc phong phú trăm hoa.” (Nguyễn Ðăng Thục, Khoa trưởng Ðại học Văn khoa, đề tựa Ca Trù của Ðỗ Bằng Ðoàn, Ðỗ Trọng Huề) Cho nên nhiều người lầm lẫn cô đầu với nghệ sĩ ca trù, đã có thời vì thế ca trù bị quên lãng, người ca bị nhìn sai lệch. Nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp là bạn quí của những tài danh như Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Hà Thượng Nhân, Cao Tiêu. Bà tên thật là Nguyễn Thị Tý, tự là Nhu, sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Ngọ tức ngày 1 tháng 6, 1930 trong một gia đình nghệ sĩ tại làng Hiệp Lộc, tỉnh Sơn Tây. Gia đình bà nhiều người là các nghệ sĩ chầu Văn, ca ngâm tại các đền chùa, hội hè ở Phủ Giầy, đền Hai Bà, đền Ðức Thánh Trần ở ngoài Bắc. Theo một bài viết của Vĩnh Tường đăng trên Khởi Hành, Hồ Ðiệp mất vào năm 1987, nhưng theo một bài viết của nữ sĩ Hoàng Hương Trang, có khác. “Di ảnh của Hồ Ðiệp hiện thấy được thờ ở chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão quận nhất thành phố Sài Gòn, trên di ảnh đề ngày mất 15 tháng 5 Mậu Thìn (1988). Có lẽ đó chỉ là ngày ra đi của Hồ Ðiệp chứ không phải là ngày mất thật sự.” (Hoàng Hương Trang, Nhớ Nghệ Sĩ Ngâm Thơ Hồ Ðiệp). Vẫn theo nhà thơ nữ thì Hồ Ðiệp được thờ ở đây là do lòng hâm mộ của một thính giả, một người say mê giọng ngâm của bà ở Sài Gòn. Một nhà thơ, tiến sĩ ngữ học Ðại Học Prague, Tiệp Khắc, mệnh danh Hồ Ðiệp là Nữ Hoàng Thanh Sắc với hai câu thơ: Thanh, sắc vọng mãi Ðất Trời Nghìn thu cánh bướm vỗ hoài Hồn Thơ. (Nguyễn Phan Cảnh, Dự báo Bùng nổ Thi Ca) Giọng ngâm chính của Ban Tao Ðàn còn mãi trong không gian, trong lòng người, cụ thể là trong ba băng nhạc nhan đề Thi Nhạc Giao Duyên, Thục Vũ thực hiện năm 1971; băng Mây Hồng do Hồng Vân thu năm 1972; và băng Hồ Ðiệp do vài vị liên tài thực hiện cùng năm. Bài trên còn viết: “Theo cô Thái Hằng [bà Phạm Duy], thì khi còn nhỏ Hồ Ðiệp là một cô bé rất xinh đẹp. Thái Hằng và Hồ Ðiệp có cùng một ông ngoại. Hồ Ðiệp lớn lên ở quê ngoại, còn Thái Hằng theo bố mẹ ra Hà Nội. Mỗi lần Thái Hằng về quê, Hồ Ðiệp chạy thật nhanh từ cổng nhà lên đến tận bờ đê đón các anh các chị với quà Hà Nội... Hồ Ðiệp có giọng cười trong như một dòng suối tinh khiết và đôi mắt rất đẹp, ngày đó chưa u ẩn và chưa buồn viễn xứ.” Sau 1954 tại Sài Gòn, “Thỉnh thoảng, Hồ Ðiệp hay ra sân quét vạt sân rụng đầy lá trứng cá. Cô hay mặc quần satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay có thêu rua. Buổi tối đi hát, cô hay đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một màu, không thêu, không vẽ. Cô choàng tấm khăn san mỏng, chân mang hài cong. Cô trang điểm rất ít, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cô cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ. Cô có cái đẹp cổ kính của một thục nữ cõi Bắc Hà.” [...] Theo lời bà Hồ Liễu (nữ đại tá QLVNCH), sau 1975 Hồ Ðiệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại các chùa, hay tại nhà bạn hữu... Như báo chí lâu nay vẫn loan tin, nữ nghệ sĩ Hồ Ðiệp vượt biên bằng đường bộ, và từ đó bặt vô âm tín. Không một nhân chứng nào xuất hiện, để thuật lại những gì đã xảy ra cho nữ nghệ sĩ; khác với trường hợp danh hài Khả Năng. Nghệ sĩ Khả Năng cũng vượt biên đường bộ, và một nhân chứng là nhà thơ Trần Bát Nhã, sau này là chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Louisianna, là chứng nhân, đã thuật lại cái chết của anh, bị bắn chết trong cuộc rượt đuổi cạnh biên giới, như bài tường thuật trên cùng tờ báo. Có thời người ta coi rẻ nhạc cải cách, có thời người ta coi nhẹ nhạc sến, có thời người ta cười vọng cổ, có thời người ta chê bai nhạc vàng, và có thời người ta ám chỉ “hát cô đầu.” Giáo Sư Nguyễn Ðăng Thục coi ca trù là quốc hồn quốc túy, nó cũng như ca dao, tục ngữ, đều là những thứ “do cái hồn chung của đất nước tự nhiên sản xuất ra,” cho nên biết gìn giữ kho báu ấy thì văn hóa đất nước mới phong phú được. Dương danh nghệ sĩ chân chính cũng chính là gìn giữ văn hóa chung vậy.
|
|