|
Post by Can Tho on Aug 26, 2011 7:06:15 GMT 9
Duyên AnhDuyên Anh (1935 - 1997) Duyên Anh sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại Thái Bình Bắc việt mất ngày 6 tháng 2 năm 1997 tại Paris, Pháp (nhằm ngày 29 tết). Ông đã xuất bản năm mươi tác phẩm văn chương. Năm 1975, bị coi như "một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của Việt Nam", chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung. Ông được tự do nhờ Amnesty International và Pen Club International can thiệp. Vượt biển sang Pháp, ông viết lại và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư đại học Sorbonne, nhà văn lừng danh coi Duyên Anh là "nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia". Chưa một người Việt Nam nào tạo nổi sự vinh dự cho dân tộc ở tư thế lưu vong như Duyên Anh. Tự tin vào tài năng và sự phấn đấu của chính mình, ông đã bước lên mọi nghịch cảnh, bước qua mọi oan khiên để giành một chỗ đứng trên vũ trụ văn học quốc tế như một tiểu thuyết gia đầy đủ tư cách. TÁC PHẨM: Hoa Thiên Lý (Tập truyện ngắn 1963) Thằng Vũ (Truyện dài 1963) Điệu Ru Nước Mắt (Truyện dài 1963) Ảo Vọng Tuổi Trẻ (Truyện dài 1964) Giấc Mơ Một Loài Cỏ - Luật Hè Phố 1 (Truyện dài 1965) Con Suối Ở Miền Đông - Luật Hè Phố 2 (Truyện dài 1965) Dzũng Đakao (Truyện dài 1965) Chương Còm (Truyện dài 1965) Dấu Chân Sỏi Đá (Truyện dài 1966) Sa Mac Tuổi Trẻ (Truyện dài 1966) Kẻ Bị Xóa Trong Sổ Bụi Đời (Tập truyện ngắn 1966) Cỏ Non (Tập truyện ngắn 1967) Gấu Rừng (Truyện dài 1967) Mây Mùa Thu (Truyện dài 1967) Ngày Xưa Còn Bé (Truyện dài 1967) Trần Thị Diễm Châu - Châu Kool (Truyện dài 1967) Vết Thù Hằng Trên Lưng Con Ngựa Hoang (Truyện dài 1967) Năng Nợ Giang Hồ (Truyện dài 1967) Bồn Lừa (Truyện dài 1967) Chính Trị Giao Chỉ - Thương Sinh (Phóng sự 1967) Đầm Giao Chỉ - Thương Sinh & Gã Thâm (Phóng sự 1967) Rồi Hết Chiến Tranh (Truyện dài 1968) Ánh Mắt Trông Theo (Truyện dài 1968) Thằng Côn (Truyện dài 1968) Trường Củ (Truyện dài 1968) Đi Tàu Suốt - Thương Sinh (Phóng sự 1968) Yêu-Tiền - Thương Sinh & Gã Thâm (Phóng sự 196?) Ánh Lửa Đêm Tù (Tập truyện ngắn 1969) Cầu Mơ (Truyện dài 1969) Mơ Thành Người Quang Trung (Truyện dài 1969) Tuổi Mười Ba (Truyện dài 1969) Mặt Trời Nhỏ (Truyện dài 1969) Tuyển Truyện Duyên Anh (Tập truyện ngắn 1970) Nhà Tôi (Truyện dài 1970) Lứa Tuổi Thích Ô Mai (Truyện dài 1970) Đàn Bà (Truyện dài 1970) Tên Một Loài Hoa Quê Hương (Truyện dài 1970) Giặc Ôkê (Truyện dài 1971) Hưng Mập Phiêu Lưu (Truyện dài 1971) Ngựa Chứng Trong Sân Trường (Truyện dài 1971) Nước Mắt Lưng Tròng (Truyện dài 1971) Áo Tiểu Thư (Truyện dài 1971) Con Thúy (Truyện dài 1972) Phượng Vĩ (Truyện dài 1972) Thằng Khoa (Truyện dài 1972) Về Yêu Hoa Cúc (Truyện dài 1972) Thư Tình Trên Cát (Truyện dài 1972) Hạ Ơi (Truyện dài 1973) Đêm Thánh Vô Cùng (Tập truyện ngắn 1973) Cám Ơn Em Đã Yêu Anh (Truyện dài 1974) Hôn Em Kỷ Niệm (Truyện dài 1974) Cây Leo Hạnh Phúc (Truyện dài 1974) Tháng Giêng Ngon Như Một Cặp Môi Gần (Tập truyện ngắn 1975) Bò Sửa Gặm Cỏ Cháy (Tâm bút 1981) Đồi Fanta (Truyện dài 1982) Sỏi Đá Ngậm Ngùi (Truyện dài 1985) Một Người Tên Là Trần Văn Bá (Truyện dài 1985) Bầy Sư Tử Lãng Mạng (Truyện dài 1986) Một Người Nga ở Sài Gòn (Truyện dài 1986) Thơ Tù (Thơ 1987) Nhánh Cỏ Mộng Mơ (Truyện dài 1987) Quán Trọ Trước Cổng Thiên Đường (Truyện dài 1987) Nhà Tù (Hồi ký 1987) Trại Tập Trung (Hồi ký 1987) Sài Gòn Ngày Dài Nhất (Hồi ký 1988) Nhìn Lại Những Bến Bờ (Hồi ký 1989) Em, Tôi, Sàigòn và Paris (Thơ 1989) Ngược Giòng Chữ Nghĩa (Tâm bút 1991) Ca Dao Quyện Lấy Miếng Ngon Dân Tộc : Nấu Nướng Dân Gian (Tâm bút 1995) Về Với Ca Dao (Tâm bút 1995) Vỡ Lòng Ca Dao (Tâm bút 1995) Những Đứa Trẻ Con Mỹ Hẩm Hiu (Truyện dài 1995) Hồn Say Phấn Lạ (Truyện dài 1996) Tuổi Bướm Sầu (Truyện dài chưa xuất bản) ****************************** Áo Tiểu Thư [13] Truyện Dài Tình Cảm 11519 Ảo Vọng Tuổi Trẻ [21] Truyện Dài 8448 Bò Sữa Gặm Cỏ Cháy (Còn tiếp) [6] Phi Hư Cấu Tuỳ Bút / Biên Khảo 2162 Cám Ơn Em Đã Yêu Anh [9] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 8708 Chương Còm (Còn Tiếp) [5] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 7772 Cỏ Non (Còn Tiếp) [7] ¬ Cái Diều ¬ Đại Dương Trong Lòng Con Ốc Nhỏ ¬ Nắng Chiều Quê Nội ¬ Quà Giáng Sinh ¬ Kể Trong Bóng Tối ¬ Chàng Cao Bồi Họ Lục ¬ Hoa Bưởi Tập Truyện 2926 Con Suối Ở Miền Đông - Luật Hè Phố 2 [14] Truyện Dài Du Đãng / Bụi Đời 2178 Con Thúy [26] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 12915 Đêm Thánh Vô Cùng (Còn Tiếp) [9] ¬ Máng Cỏ Của Cu Tý ¬ Giáng Sinh Ở Một Làng Nhỏ Miền Đồng Tháp ¬ Quà Giáng Sinh ¬ Chúa Không Đến Ngôi Nhà Thờ Đó ¬ Nổi Buồn Khi Qua Dẫy Chu-Pao ¬ Con Sên Già Lùi Bước ¬ Ý Nghĩ Ngoài Cửa Trường ¬ Con Chích Chòe Đã Trở Về ¬ Đêm Thánh Vô Cùng Tập Truyện 3659 Điệu Ru Nước Mắt [26] Truyện Dài Du Đãng / Bụi Đời 451408 Ðồi Fanta [23] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 6688 Dzũng Dakao [18] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 13639 Em Tôi Sàigòn và Paris [5] Thơ 1951 Giấc Mơ Một Loài Cỏ - Luật Hè Phố 1 [8] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 13301 Hoa Thiên Lý (Còn tiếp) [10] ¬ Hoa Thiên Lý ¬ Trên Sông Tình Thương ¬ Con Sáo Của Em Tôi ¬ Chiếc Vòng Tay Của Một Người ¬ Em ¬ Biên Giới ¬ Người Có Tội ¬ Trẻ Thơ Và Bụt ¬ Nổi Buồn Của Tuổi Trẻ ¬ Khúc Rẽ Cuộc Đời Tập Truyện 21831 Hôn Em, Kỷ Niệm [12] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 2381 Mơ Thành Người Quang Trung [11] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 3183 Một Người Tên Là Trần Văn Bá [15] Truyện Dài 3813 Ngày Xưa Còn Bé [10] download ebook Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 5663 Ngựa Chứng Trong Sân Trường (Còn tiếp) [2] Truyện Dài Du Đãng / Bụi Đời 967 Nhà Tù (Còn Tiếp) [13] Phi Hư Cấu Hồi Ký / Tiểu Sử 9637 Nhìn Lại Những Bến Bờ [17] Phi Hư Cấu Hồi Ký / Tiểu Sử 3715 Phượng Vĩ [9] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 4639 Sàigòn Ngày Dài Nhất - Hồi Ký [12] Phi Hư Cấu Hồi Ký / Tiểu Sử 8147 Thằng Côn [18] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 8440 Tháng Giêng Ngon Như Một Cặp Môi Gần (Còn Tiếp) [6] ¬ Tháng Giêng Ngon Như Một Cặp Môi Gần ¬ Nhìn Lại Tết Thuở Nhỏ ¬ Canh Bạc Thuở Lên Mười ¬ Những Đồng Tiền Mững Tuổi ¬ Trọ Học Về Quê Ăn Tết ¬ Đi Hết Mùa Xuân Tập Truyện 2149 Thằng Vũ [22] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 10406 The Thien Ly Flower English 1052 Thơ Tù Thơ 2359 Trường Cũ [10] Truyện Dài Tuổi Trẻ / Học Trò 3901 Tuyển Truyện Duyên Anh (Còn Tiếp) [10] ¬ Con sáo của em tôi ¬ Ðại dương trong lòng con ốc nhỏ ¬ Cái diều ¬ Nắng chiều quê nội ¬ Cỏ non ¬ Đào kép cũ ¬ Ánh lửa đêm tù ¬ Khúc rẽ cuộc đời ¬ Bóng mây kỷ niệm ¬ Người quê hương
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 9, 2012 10:54:24 GMT 9
Duyên Anh (1935-2.1997) chọc trời khuấy nước Thang 2 ngay 01 nam 2012 Viên Linh Nhà văn nhà báo Duyên Anh (1935-1997) là khuôn mặt khó vẽ nhất trong những chân dung văn nghệ sĩ nổi tiếng sau 1954 tại miền Nam. Hình Duyên Anh trên các bìa sách. (Hình: Tài liệu Khởi Hành cung cấp) Cuộc sống và cái chết của cây bút nòng cốt của tuần báo Con Ong gây nhiều xung đột, hành trình văn chương của tác giả Hoa Thiên Lý (tác phẩm đầu tay, Sài Gòn) tạo nhiều mâu thuẫn, trong khi ấy, ông là nhà văn có nhiều tác phẩm xuất bản nhất (trên 50 nhan đề sách trước 75), là người có nhiều độc giả nhất, và mặt khác, là cây bút gây nhiều thảo luận nhất trong các giới. Con người ấy lại là chủ nhiệm một tờ báo thiếu niên, là Tuổi Ngọc, viết truyện cho lớp choai choai: Tuổi Mười Ba (1969), Dzũng Ða Kao (1966), Ngày xưa còn bé (1968),... và viết về thế giới hè phố, những nhân vật bị coi là côn đồ, du đãng, đến khi ra hải ngoại. 1983, lại trở thành tác giả của những vấn đề thời thế, viết về cộng sản, về chế độ cầm quyền trong nước: Một Người Tên Là Trần Văn Bá (1985), Một Người Nga Tại Sài Gòn (1985), Nhà Tù (1987), Trại Tập Trung (1988), và cuốn hồi ký văn nghệ Nhìn Lại Những Bến Bờ (1988)... Viết về Duyên Anh cũng giống như đụng vào một bầy ong, chạm vào một tổ kiến, mà con ong cái kiến ấy lại chính là các tác phẩm của ông. Nhiều vô kể và ồn ào vô kể. Tháng 2 này là ngày giỗ thứ 15 của tác giả Ðiệu Ru Nước Mắt (1965), tôi sẽ viết về ông như viết về một đồng nghiệp, một người bạn, qua vài kỷ niệm riêng tư. Duyên Anh tên khai sinh là Vũ Mộng Long, người Thái Bình, sinh ngày 16 tháng 8, 1935, năm 1954 bỏ gia đình lớn, di cư vào Sài Gòn một mình, sinh sống trong ngành thông tin thuộc Bộ Thông Tin. Khi gần 30 tuổi anh mới xuất bản tác phẩm đầu tay nhan đề Hoa Thiên Lý. Hôm ấy nhân đến thăm một người bạn làm báo cư ngụ ở khu Bùi Viện, gần ngã tư Cống Quỳnh, Nguyễn Cư Trinh, đang đi xăm xăm tôi bị chận lại trên hành lang và tác giả Duyên Anh tặng tôi cuốn sách của anh. Ðó là lần đầu chúng tôi gặp nhau. Trước đó khoảng 5, 7 năm, anh sống ở Trảng Lớn-Tây Ninh, như anh kể chi tiết trong cuốn hồi ký: “Tôi dẫn cô Hiên đi trên hương lộ đi ra thị xã Tây Ninh [...]Cô Hiên và tôi đang sống và bây giờ là 1956 [...]Tôi ở Trảng Lớn hơi lâu rồi... giữa tôi và sinh hoạt văn nghệ, báo chí Sài Gòn hoàn toàn xa lạ. Văn nghệ ví như đất thánh. Mà tôi, kẻ ngoại đạo. Tôi ôm mộng trở thành nhà văn cũng giống những kẻ tưởng mình sẽ câu được trăng sao in hình trên mặt nước.” (Duyên Anh, Nhìn Lại Những Bến Bờ, tr. 202- 203) Tuy viết thế mà chỉ ít lâu sau, chàng trẻ tuổi đột ngột bỏ cô Hiên, vì muốn một cuộc sống bay bổng hơn một cảnh đời bình dị. Không rõ hư hay thật, cuốn hồi ký kể lại chuyện Vũ Mộng Long đang ôm đàn hát (đàn của Ty Thông Tin Trảng Lớn), thì một ông thầy bán thuốc sán lãi chạy xe ngang qua. Nghe tiếng hát chàng, ông ta vào làm quen, rủ chàng hãy đi theo ông ta, dùng tiếng hát mưu sinh đây đó, sống cuộc đời tự do nay đây mai đó, hơn là chôn chân ở một xóm quê. Nghe lời rủ quyến, chàng bỏ cô thôn nữ đi theo tay bán thuốc dạo. Nhưng chỉ hơn 4 tháng sau, hai người chia tay vì sứ mệnh: ông bán thuốc chính là một nhân vật đảng phái quốc gia ở miền Trung, bị mật vụ của ông Ngô Ðình Diệm truy nã, đang đi kết hợp lại các đồng chí chống Diệm và chống cộng sản, còn Vũ Mộng Long trở về Sài Gòn, quyết đi vào văn nghệ. Trong đoạn hồi ký này, xuất bản vào năm 1988, Duyên Anh đã vô tình báo trước cái chết thảm của mình vào 9 năm sau. Vốn là trên bước đường bán thuốc dạo (kéo dài 4 tháng 13 ngày), hai thầy trò đàm đạo đủ chuyện nhân sinh, triết lý, đạo đức, chính trị, và một hôm thầy bảo trò: “Mày mâu thuẫn với chính mày. Mày sẽ trở thành con người tổng hợp trí nhớ, trí tuệ, trí khôn và trí ngu. Rốt cuộc, mày là đứa đối địa, nghịch thiên, chung thân bất mãn, chồng chất oan khiên. Mày sẽ giống Nễ Hành* [*một tay thuyết pháp trong truyện Tầu] không chết bởi tay Tào Tháo, Lưu Biểu, mà bị bêu nhục bởi đám vô lại Hoàng Tổ.” (tr. 222) Tám chín năm sau, trong khi đang đi trong khu tiệm sách Tú Quỳnh trên đường Bolsa, Quận Cam, Duyên Anh bị đánh bởi một bàn tay sắt. Theo lời của một họa sĩ nhân chứng ngồi trong tiệm ăn Ngân Ðình gần đó kể lại, thì Duyên Anh đang đi, có hai kẻ từ phía sau tiến đến gần, lên tiếng gọi. Duyên Anh ngoái cổ lại xem ai, thì một bàn tay sắt vung lên, đánh một cái gọn vào thái dương anh. Chỉ một cái, rồi người đó và kẻ đồng hành đi thẳng, ra đường Bolsa, khuất sau một góc nhà về phía đường Bushard, biến mất. Duyên Anh bất tỉnh, được đưa vào bệnh viện. Vì định cư ở Pháp, anh không có bảo hiểm sức khỏe ở Mỹ, nên được đưa lên máy bay về Pháp. Cú đánh đã khiến nạn nhân tê liệt nửa người, sau này phải tập viết bằng tay trái. Anh từ trần ngày 6 tháng 2, 1997 tại Paris. Vụ ám hại Duyên Anh đã tốn nhiều giấy mực, và nước bọt, khi dư luận đặt các giả thuyết ai muốn giết nhà văn? Việt Cộng, tư thù cá nhân, hay một tổ chức kêu gọi kháng chiến, như câu văn “có linh” anh viết từ nhiều năm trước, viết ở trên: “...mày sẽ giống Nễ Hành, chết bởi tay Hoàng Tổ.” Văn chương của một tác giả nhà nghề, viết cách gì đi nữa cũng hàm chứa tâm thức và thái độ đối với cuộc sống. Riêng về Duyên Anh, người viết bài này còn nghĩ rằng văn thơ anh là vũ khí của anh. Một hai năm sau cuộc đảo chính 1 tháng 11, 1963, hai Tướng Trần Văn Ðôn, Tôn Thất Ðính, lúc ấy đang là nghị sĩ Thượng Viện, xuất bản nhật báo Công Luận, Duyên Anh phụ trách trang trong, có mang tôi vào làm việc một thời gian, trong khi tôi cũng đang viết truyện dài đăng báo từng kỳ nhan đề “Cuối cùng em đã đến” cho báo này. Anh cũng nói với ông Tướng Ðính để một mục cho Mai Thảo, lấy tên là “Nhận đường,” đến giờ giao bài, Mai Thảo không viết được, chúng tôi bàn nhau và thỏa thuận hôm đó tôi phải viết thế, nhưng không ký tên, làm như bài đó là do Mai Thảo viết. Sau này mục “Nhận đường” xuất hiện hàng tuần trên tờ Khởi Hành. Tháng nào đi cắt tóc ở đường Gia Long, Duyên Anh cũng kéo tôi đi cùng, nói đủ thứ chuyện đời. Thân Duyên Anh từ niên thiếu có nhà thơ Vũ Băng Ðình, giám đốc báo chí Phủ Tổng Thống, hiện là chàng duy nhất còn sống trong 8 chàng “nhà quê tỉnh Lúa” (Thái Bình) năm 1950 rủ nhau “dinh tê” vào Hà Nội chạy giặc Pháp. Băng Ðình làm bài thơ có đoạn như sau về bạn: Duyên Anh văn sĩ Vũ Mộng Long Bút sắt vườn hoang lúc thẳng cong Chúng bẩn ông tha hồ viết nhảm Lâu đài “công lý” ngụ lâu không. (Thái Bình Bát... Mẻ, Khởi Hành) (Mấy chữ “lâu đài công lý” gồm hai nghĩa: ngoài nghĩa bóng, còn nghĩa thật: nhà Duyên Anh là một tòa biệt thự khá sang có sân có vườn ngay trên đường Công Lý, là con đường xe hơi có cắm cờ quốc gia qua lại mỗi khi đưa đón quốc khách giữa phi trường Tân Sơn Nhất và Dinh Ðộc Lập.) Ðể kết thúc bài viết nhớ bạn ngắn ngủi này, mời độc giả đọc một đoạn thơ của chính tác giả cuốn truyện “Nặng Nợ Giang Hồ”: Tôi khôn lớn ở Sài Gòn Biết thấm nỗi buồn sau mỗi cơn chính biến Chưa hề đi lính Nhưng bạn thân chết trận dần mòn... Em ơi chiều ba mươi tháng tư Tâm hồn tôi chít mảnh khăn sô Tôi đứng giữa hoàng hôn nào đó Như ngày xửa ngày xưa bé nhỏ Ðếm xác người chết đói ngổn ngang Ôi xác ngày xưa Hôm nay súng ngắn súng dài mũ sắt quân trang Nằm rên rỉ dưới dép râu cộng sản... Tôi đã đến vùng Orange County Của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ Và cần thiết thơ tôi tuyên chiến [...] Thứ thơ văn tô móng tay khi dân tộc đói nhăn răng Thơ văn nhầy nhụa môi son Vênh vang trưng diện... [...] Tôi làm thơ không gióng trống phất cờ Tôi làm thơ vì công bằng lẽ phải Thơ nâng niu nỗi khổ mủ sưng Thơ vuốt ve niềm hiu quạnh quê hương Thơ tôi sẽ tiết kiệm giùm nước mắt Sẽ lãi gấp trăm trương mục nụ cười... (Duyên Anh, Nhân Danh Tất Cả Những Gì Tôi Biết)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 6:50:15 GMT 9
Tháng Tư đen, Tháng Tư sáng Từ đắng cay hậu chiến đến bình an tâm hồn * Trangđài Glassey-Trầnguyễn This project “Black April, Bright April” is produced using oral history, community participation, and lived perspectives. Trangđài Glassey-Trầnguyễn reporting on trauma, loss, and emotional health in the Vietnamese diasporas was undertaken as part of the 2011-12 California Endowment Health Journalism Fellowships (CEHJF), a program of the University of Southern California's Annenberg School for Communication & Journalism. Visit her blog at: . reportingonhealth. org/users/trangdai-0. Trangđài Glassey-Trầnguyễn thực hiện Dự án “Tháng Tư Ðen, Tháng Tư Sáng” về những ảnh hưởng của tang thương và mất mát trên đời sống tình cảm của người Việt hải ngoại qua học bổng của tiểu bang California cho Chương trình Báo chí về Y tế Sức khỏe (CEHJF), và do Trường Báo chí và Thông tin Annenberg của Ðại học University of Southern California tổ chức. Cô sử dụng phương pháp lịch sử truyền khẩu, cùng kinh nghiệm dấn thân cộng đồng, và tư duy trải nghiệm. Liên lạc: vietamproj@gmail. com Phần 2 (4): Những ngày đắng chát Sau khi ra khỏi tù, Nguyễn Thanh Thủy và gia đình tiếp tục bị đàn áp, trù dập, đe dọa, cho đến khi gia đình bà được sang Mỹ theo diện HO. Sau nhiều đau khổ và mất mát, bà vẫn tiếp tục sống còn, vươn lên. Nhiều thay đổi đã diễn ra trong đời bà trong thời gian này. Nguyễn Thanh Thủy và hai con gái, sau khi bà ra tù cải tạo. Trong 13 năm tù đằng đẵng trước đó, bà đã nhiều lần suýt chết, nhưng trong niềm tin của mình, bà nghĩ, Chúa đã cứu bà. Và cả một người bạn tù của bà, khi bà cầu xin cho bạn trong một đêm ngặt nghèo. Và bà đã nguyện - từ những lúc khốn đốn đã được Chúa nhậm lời - rằng bà sẽ trở thành con Chúa trong trọn cuộc đời này. Do đó, sau khi ra tù, nhờ sự hướng dẫn của một người bạn, bà đã gia nhập Hội thánh Tin lành. Tôi nhớ đến giai đoạn này - khi cao trào thuyền nhân lên đến đỉnh cao. Nếu Nguyễn Thanh Thủy trong hỏa lò đã được Chúa nhậm lời, thì tôi nhớ, có biết bao thuyền nhân đã thấy Phật Bà, Ðức Mẹ hiện ra cứu họ, khi họ đang chơi vơi giữa biển khơi mù mịt. Những sức mạnh thiêng liêng đã giúp rất nhiều con dân Việt Nam vượt qua được giai đoạn khó khăn này. Nhưng làm sao để Nguyễn Thanh Thủy tìm cách mưu sinh cho mẹ già và ba con nhỏ, trong khi bà phải từng giây từng phút đối diện với kỳ thị, bất công, và quản chế sau khi ra khỏi tù cải tạo? Bà tìm mãi không được việc làm, nhà cửa thì đã bị tịch thu, hộ khẩu thì không được cấp. Bà trở thành kẻ vô quốc tịch, vô gia cư. Tuy vậy, bà vẫn tiếp tục cố gắng, tìm mọi cách để bươn chải, lập sinh kế cho gia đình, và chăm sóc cho hai cô con gái khuyết tật và giúp họ có đời sống bình thường. Bà làm tất cả - ngoài sức tưởng tượng của con người, đối với một người đã hoàn toàn bị mất hết sức khỏe - để bù đắp lại cho các con 13 năm tan đàn rẽ nghé. Bà luôn vươn lên, đối mặt với những kỳ thị trong xã hội, chấp nhận những khó khăn trong việc tìm công ăn việc làm, chống chọi với những bế tắc kinh tế, tự tìm cho mình một điểm tựa để đứng vững trước những lo lắng và tuyệt vọng khi nhìn về tương lai mờ mịt. Nhưng trước hết, chúng ta hãy cùng đến thăm gia đình bà, để biết đời sống hậu-tù-cải-tạo của bà lúc ấy ra sao. Ngày đầu tiên bà trở về gặp mặt mẹ già, con dại, và người chồng của mình đã diễn ra như thế nào? Ngay cả sau khi ra tù, mọi chuyện cũng không dễ dàng cho bà. Cũng xin nhấn mạnh một điều: bà có hai con gái bị khuyết tật, rất cần sự chăm sóc và theo dõi thường xuyên của mẹ. Nhưng ngay cả sau khi ra tù, vì mưu sinh, bà cũng không thể ở bên con mỗi ngày được. Nỗi đau xa cách, tuy có thay đổi, nhưng vẫn còn đó. Bà kể, “Tôi thắng được cơn sốt rét liệt giường. Tôi thoát được bị phản ứng Penicilline, cố luyện tập để tránh bị liệt chân, thoát khỏi cơn xuất huyết bao tử để trở về được với gia đình, con cái. Nghị lực tôi có được là do niềm hãnh diện tôi phục vụ cho đất nước tự do, chống lại độc tài, áp bức, tàn ác của Cộng Sản. Dù bị bọn Cộng Sản lên án, tôi vẫn cho việc làm trước 1975 là đúng. Tôi vui mà sống. Các cộng sự với tôi đã lần lượt ra về không trở ngại. Còn lại một mình, tôi mới hy vọng đến lượt mình. Thời gian thắm thoát trôi. Lúc cầm tấm giấy tha ra khỏi trại tù cải tạo 230D, hàm răng trên tôi không còn, hàm răng dưới lỏm chỏm cái có cái không. Mặc cái áo tù sửa lại cho vừa vặn với thân hình ốm còi, tôi không còn một bạn gái nào tập trung cải tạo như tôi vì tôi là người tù nữ cuối cùng của tù tập trung cải tạo. Tôi buồn khi nhìn lại một số bạn tù nam không có tên gọi trong đợt này. Tôi vẫy tay từ giã tạm biệt, hẹn ngày hội ngộ ngoài xã hội. Về đến Quận II, tôi bị phỏng vấn, giấy tờ còn nộp trên bàn để làm thủ tục về phường tỉnh mình cư ngụ. Nhà báo hỏi tôi, ‘Có phải Mỹ can thiệp nên chị mới được ra?’ Tôi trả lời, ‘Ở trại, tôi có được nghe tin tức hay đọc báo gì đâu. Hôm nay có lệnh gọi tha về thì tôi nhận giấy về.’ Thật sự giấy tờ còn ở trong tay bọn họ. Nói đúng với ý mình, họ không đưa giấy ra trại lại thì sao? Ở tù nhiều năm, tôi chưa hình dung cái xã hội của Chủ nghĩa Xã hội nó như thế nào. Cầm cái nón lá trong tay, tôi ra sau cùng vì nghĩ nhà cửa bị tịch thu hết, công an phường biết đâu mà thông báo vì cả nhà hồi hương về Mỹ Tho, trong lòng định đi bộ về nhà Dì ở gần chợ Sài Gòn. Ðang đi nghe tiếng gọi tên mình, ngó lên thấy vợ chồng đứa em trai đang chạy tới, mừng rỡ cùng nhau đi bộ về nhà Dì.” Thật ra, nếu bà không quá yếu và bệnh thập tử nhất sinh liên miên, chưa chắc bà đã được về. Bà nói, “Tôi về theo diện cứu xét người bệnh ở bệnh xá. Tôi bị xuất huyết bao tử hơn tháng, còn uống nước cháo để sống, chưa ăn cơm được. Bạn bè hay tin, đến họp mặt ở căn gác nhỏ của Dì. Tôi gặp chồng tôi ở đó. Hôm sau, vợ chồng tôi cùng về thăm các cháu và Mẹ tôi.” Rồi thì bà cũng được gặp lại các con - niềm khích lệ lớn nhất đã giúp bà chịu đựng thử thách để sống sót trở về! Trái tim của một người Mẹ xa con, không được chăm sóc con, đã đau đớn như thế nào khi nhìn cảnh con cái mình xơ xác, bơ vơ? Và ắt hẳn ba đứa con - sau mười ba năm xa Mẹ - sẽ nhảy cẫng lên mừng rỡ? Không. Cái khoảng cách mười ba năm, cùng với cái hình ảnh một Nguyễn Thanh Thủy dở sống dở chết khi xuất trại, đã làm con bà sợ. Khi vợ chồng bà về đến Mỹ Tho, thì “Mẹ tôi ra mở cửa. Hai mẹ con ôm nhau, cùng chảy nước mắt. Mẹ tôi gọi hai con gái ra, nói, 'Mẹ con về kìa!' Hai đứa nhìn Mẹ, đợi Mẹ tới ôm, vì cả hơn 10 năm hai cháu chưa gặp Mẹ. Tôi chết lặng nhìn hai con, không hồng hào mà xanh xao. Cháu nói, 'Mẹ không có răng. Mẹ lạ quá!' Con trai tôi thì đi làm hãng xơ dừa chưa về.” Lúc đó, bà mới bắt đầu thấm cái cảnh cơ hàn mà Mẹ bà - sau khi Ba bà qua đời - đã côi cút một nách tần tảo nuôi ba cháu nhỏ. Bà kể, “Tôi thấy nhà trống trơn. Chạy xe đạp trong nhà cũng không đụng vào đâu. Tôi vào nhà bếp, giở thạp gạo, thấy còn một lít gạo đang đựng trong cái lít trên đáy khạp. Mẹ tôi nói, sáng đó, có anh Tư của tôi về thăm cho các cháu mấy khúc vải để may quần áo Tết. Và nói, có đợt tù cải tạo được thả. Mẹ hy vọng tôi được về. Phường Mẹ ở cũng đưa báo Công An có phỏng vấn tôi. Ông ấy nói hy vọng kỳ này tôi về.” Thế mới biết, nỗi mong chờ mòn mỏi của gia đình những người tù cải tạo cũng là cái đau đớn không tên mà họ gánh chịu hằng bao năm, khi người thân phải chịu cảnh hỏa lò. Mẹ của bà còn nói, “Nếu kỳ Tết này con không về, Mẹ cũng không còn khả năng nào đi thăm nuôi con vì nhà đã kiệt quệ.” Kiệt quệ tài chánh, nhưng có lẽ tình thương yêu và niềm mong mỏi sẽ không bao giờ kiệt quệ, nhất là trong trái tim của những bà mẹ Việt Nam thương con vô bờ. Cái sự thật đau lòng về sự đói rách của Mẹ và con cái bà hiện diện trong cả tên gọi của đứa con nhỏ. Bà cười trong nước mắt, “Con gái út của tôi, thấy cả nhà kêu là Cô Tư Tivi, được giảit hích là vì áo của cháu vá một miếng vải lớn bằng cái Tivi phía sau lưng áo. Tôi thấy lòng đau xót, nghẹn ngào, không nói nên lời.” Trong bữa cơm gia đình đầu tiên, món ăn sang trọng nhất và quý giá nhất chính là sự hiện diện của bà, và tình thân mà bạn tù dành cho bà, bởi vì “buổi cơm hội ngộ gồm có Dì út Nguyệt nuôi và chăm sóc các cháu, bà ngoại, Long chồng tôi, 3 con tôi, tôi bên dĩa rau luộc và nước mắm. Rất vui, ấm cúng. Tôi đưa Mẹ tôi số tiền bạn bè giúp tôi làm lộ phí trở về nhà.” Mẹ bà đã xúc động, “Các bạn còn nhớ và thương con, Mẹ mừng lắm!” Gió heo may đã bắt đầu thập thò ngoài hiên. Nguyễn Thanh Thủy đón cái Tết đầu tiên trong cái tù lớn với những nghẹn ngào bắt buộc của hoàn cảnh. Bên nỗi vui đoàn viên, bà cũng đối diện với niềm mất mát. Như con gà mẹ, dùng tất cả sức lực của mình để ủ ấp cho đàn con, bà đã “cắt may áo quần cho các cháu để mồng Một Tết có áo quần mới mặc. Nhìn ảnh Ba tôi trên bàn thờ, tôi ngậm ngùi nhớ thương. Có những điều tôi muốn nói với Ba vì tội giấu cha mẹ về nghề nghiệp, nhưng giờ thì vĩnh viễn không thể nói được với Ba. Tôi xin lỗi Ba.” Người cha quá cố có nghe được lời xin lỗi của đứa con gái xa nhà 13 năm không? Chắc ở thế giới bên kia, ông đã thấy con gái mình ngất xỉu trong trại tù khi được tin ông qua đời? Bao nhiêu gia đình ở Việt Nam thời gian đó đã chịu cảnh này: con cái không được thọ tang cha mẹ, vợ chồng không được biết sống chết của nhau? Máu nồng hơn nước lã. Chắc Ba của bà đã nghe được tâm sự của bà. Rồi trong “đêm giao thừa đầu tiên, ngoài xã hội của Chủ nghĩa Xã hội, tôi ngồi kết nút áo cho con để sáng mai ngày Tết, cháu có áo mới mừng tuổi thọ Bà Ngoại. Tôi suy nghĩ về chuyện sẽ làm gì nuôi thân, nuôi mẹ, các con sau cái Tết này. Nhìn hai đứa con gái khuyết tật ngồi cắt cói, xếp cói, đứa con trai xe cói, tôi không biết tương lai sẽ ra sao, khi hai bàn tay trắng, không nơi cư trú, hộ khẩu không có, giấy ra trại ghi địa chỉ nhà cũ (ở Sàigòn, đã bị tịch thu), các con hồi hương trú nhà Bà Ngoại. Tài sản Ba Mẹ tôi, luôn cả trường tư thục, đã bị Cách Mạng tịch thu toàn bộ, chừa lại căn nhà gỗ nhỏ để ở. Tôi tự an ủi: “Trời sanh voi sanh cỏ!” Bà lạc quan, tin tưởng vào khả năng sinh tồn của con người và sự quan phòng của Tạo Hóa. Bà gặp gỡ thân bằng quyến thuộc, và tìm hiểu về việc học hành của con cái, “Tôi tiếp khách hàng xóm đến thăm với áo tù, mặc quần của con gái tôi. Tất cả những vật dụng đổi được thành tiền đều được bán hết để nuôi con tôi và tôi. Tôi đi thăm cô giáo của các con tôi ở trường Trung học Mỹ Tho. Các cô kể lại về cháu Quân, học rất giỏi, miễn tuổi để lên lớp. Hiệu trưởng là Cách Mạng 30 tháng 4 không cho lên. Các cô phản đối vì cháu đứng nhất cấp II mà không được lãnh thưởng vì có cha mẹ ngụy quân, nhưng phải cho lên lớp. Mười sáu tuổi, cháu đã đậu cấp III. Còn hai cháu khuyết tật, một cháu lớp 4, một cháu lớp 7, là con ngụy, nên không cho ở lại lớp, đuổi ra khỏi trường.” Nhưng cái trớ trêu của xã hội Việt Nam sau 1975 vẫn bám riết bà, nên “đến ngày tôi phải trình diện ở Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố, địa chỉ nhà ghi trong giấy ra trại Bộ Công An đã cấp cho công an ở, Ủy Ban yêu cầu tôi về quê họ sẽ cấp giấy cư trú. Tôi ở lại thành phố Sài Gòn. Tôi may gia công quần áo trẻ con và bỏ đường cát cho các quán nước, nhưng không đủ nuôi sống con cái. Tôi ở nhờ bà con, bạn bè, thay đổi chỗ ở vì ở đâu, đêm đêm cũng bị xét giấy tạm trú, tôi không được cấp giấy gì ngoài giấy ra trại. Chủ nhà khước từ giúp đỡ tôi vì bị công an làm khó dễ. Có nhiều ngày tôi muốn che tấm bạt nilon, trải chiếu ngoài lề đường ngủ như những gia đình bỏ kinh tế mới trở về thành phố sống lang thang bên vỉa hè. Tôi không được sức khỏe như các người đi kinh tế mới trở về. Vả lại, tôi đang sống vào mùa mưa dầm. Mưa gió sẽ gây bệnh cho tôi. Ba Má một chị bạn gặp tôi ở trong nhà con gái họ, đã nói với tôi, ‘Xưa nay, gia đình chúng tôi là hộ tốt trong khu vực này. Nay chị đến đây ở, hộ chúng tôi bị xét liên miên.’ Tôi lang thang, nay ở nhờ nhà này, mai nhà khác, và làm thức ăn bán thay vì bán cơm tấm, phải nấu thức ăn. Tôi đổi bánh cuốn chả bán liền tại chỗ với cà phê, nước ngọt.” Từ một người tù bị theo dõi nghiêm nhặt, Nguyễn Thanh Thủy trở thành một kẻ vô gia cư, một con người tuy không còn mặc áo tù, nhưng không có nơi dung thân - và vẫn tiếp tục bị theo dõi nghiêm nhặt. Bà vẫn tiếp tục phải xa các con vì sinh kế. “Hàng tuần, ngày Chúa Nhật, tôi giao cho chồng tôi bán. Tôi về thăm 3 con và Bà Ngoại ở Mỹ Tho. Từ sáng sớm tôi đạp xe đi lấy hàng, dọn hàng bán tới chiều cất hàng vô, gửi nhà bạn, rồi chờ chạng vạng tối mới về nhà người quen để người xung quanh không để ý. “May thay, tuy cái tù lớn của Việt Nam hậu 1975 đã giam cơ thể và bao tử con người, nhưng nó không giam được tình người. Một cô giáo dạy nữ công gia chánh cho các phụ nữ chuẩn bị đi nấu ăn hay làm việc nhà cho những ông chủ trong bộ ngoại giao đã động lòng trắc ẩn trước hoàn cảnh của Nguyễn Thanh Thủy - và có lẽ cũng quý mến sự hiền lành, chịu khó của bà. Cô thấy hoàn cảnh bà khó khăn, mới ra tù, nên dạy miễn phí cho bà tất cả những món ăn và công thức bánh trái. Nguyễn Thanh Thủy chỉ phải trả tiền vật liệu. Mỗi ngày, bà đến học rồi làm bánh hay một món ăn sang trọng nào đó, vốn dành cho những thực khách trong giới ngoại giao. Sau giờ học, bà lại mang món ăn đó ra quán lề đường để bán. Xem chừng như có một sự tréo ngoeo nào đó ở đây, khi một món ăn hạng sang được bày bán ở một cái quán lề đường tạm bợ? Có cái gì mà không tréo cẳng ngỗng trong xã hội Việt Nam thời đó? Nhưng cũng chính những bài học nữ công này đã giúp bà nuôi sống gia đình sau khi định cư tại Mỹ. Rồi hy vọng cũng đã đến một cách bất ngờ cho những mảnh đời bên vỉa hè như bà. “Năm 1989, báo Nhân Dân, Công An của cộng sản đăng tin thỏa hiệp giữa Mỹ-Việt cho những người tù cải tạo 3 năm trở lên được sang Mỹ. Tôi vội vàng mang tờ báo vào Quận 5 là quận tôi đã ở trước 1975 và giấy ra trại cũng về nơi phường Quận 5 để khiếu nại vấn đề nhập hộ khẩu. Cán bộ quận yêu cầu phường giải quyết, cấp tạm trú cho tôi để làm hồ sơ xuất cảnh.” Việc làm thủ tục xin xuất cảnh của bà có lẽ nhiêu khê hơn rất nhiều người. Mất hơn hai năm bà mới hoàn tất được giấy tờ; và mỗi ngày, công an địa phương không ngừng nhắc nhở bà rằng, “Chỉ khi nào chị ra khỏi đây, thì thôi. Chị còn ở đây là chúng tôi còn quản lý được chị.” Xuất cảnh là con đường sống duy nhất cho Nguyễn Thanh Thủy và gia đình bà - cũng như rất nhiều những gia đình khác tại Việt Nam thời đó. Ðể gỡ những thắt gút mà chính quyền đã tạo ra cho cá nhân bà, trước hết, “Tôi phải làm tạm trú nơi phường tôi ở trước 1975 vào nhà bác của tôi, chỉ ghi tên làm hồ sơ xuất cảnh, còn ở đâu thì tùy. Tôi xin về nhà cô em chồng ở Quận 4 tạm trú chờ xuất cảnh. Cuộc sống không dễ dàng như tôi tưởng: Tôi được sự đồng ý giới thiệu của quận, thế mà cứ khoảng 12 giờ đêm tới 2 giờ sáng là công án tới xét giấy tạm trú. Chưa đủ, công an còn đến xin tiền chủ nhà khi về Bắc thăm gia đình, sinh nhật con, và rủ chủ nhà đi nhậu. Tất cả các chi phí đó tôi phải hoàn trả lại, nhưng rất phiền hà vì cả nhà không an giấc, cứ chập chờn chờ tiếng đập cửa xét nhà của công an. Tụ điểm bán cà phê của vợ chồng tôi là nơi anh em tù cải tạo trao đổi tin tức đi ở, cách làm giấy tờ, xuất cảnh, nhất là xin giấy xác nhận tù chết trong trại mới đủ điều kiện nộp đơn, xin ở Quân Khu 7. Tất cả phải có thù lao riêng cho tụi cán bộ.” Có lẽ không ai là không nhớ cái cảnh xét nhà bất cứ lúc nào ở Việt Nam thời đó: Công an phường có thể ập vào nhà, không cần giấy lệnh, xét tất cả những gì họ muốn xét, bắt tất cả những ai họ muốn bắt, lấy tất cả những gì họ muốn lấy. Trong khi chờ đợi hồ sơ được xét duyệt, bà vẫn tiếp tục bán cà phê bên lề đường để mưu sinh cho cả gia đình. “Lần đầu tôi bán ở đường hẻm. Sau đó họ xây nhà cao tầng cho ngoại quốc mướn, tôi phải rời đến đường Nguyễn Văn Tần. Bốn năm buôn bán vỉa hè, tôi thấy tình cảnh nghèo đói, họ đã bẻ lọi chân đứa bé gái thành tật nguyền để cháu lết đi xin ăn, lấy tiền nuôi cả gia đình. Cảnh thương phế binh mù lòa, cụt tay cụt chân, đi bán vé số, đi đàn hát xin lấy chút tiền của người hảo tâm. Cảnh công an phạt những người buôn bán vỉa hè gấp đôi gấp ba số tiền họ kiếm trong một ngày. Công an cài những người bán xung quanh, bên kia đường theo dõi quán tôi, báo cáo cho công an phường. Dân nghèo thương nhau, nhất là thấy tôi ở tù lâu quá, họ nói cho tôi biết để đề phòng. Người tù không được buôn bán. Tôi bị công an gọi lên Bộ Nội Vụ, buộc phải dẹp quán. Tôi trả lời với chúng nó rằng, 'Tôi muốn trở thành người dân lương thiện, kiếm tiền nuôi sống gia đình mà cứ dồn tôi vào cuối chân tường. Vậy yêu cầu các ông gửi tôi vào trại cải tạo để tôi có ngày hai bữa ăn độn. Bắt tôi ký giấy vi phạm, tôi không ký. Tôi nghĩ, tôi đã nộp đơn qua Bangkok, tôi chẳng có gì để lo sợ.'” Nhưng bù lại, những giây phút đầm ấm bên gia đình đã cho bà một niềm hạnh phúc lớn lao, đủ lớn để vượt thắng những tân toan ngoài xã hội. Bà nói, “Không khí gia đình rất vui, nghèo nàn nhưng ấm cúng. Ở trường của con trai tôi chỉ dạy tiếng Nga hoặc tiếng Pháp. Tôi khuyên con học tiếng Anh qua tự điển, phiên âm quốc tế, phải tự học vì tỉnh lẻ không có lớp dạy Anh văn, mà có chắc tôi cũng không đủ tiền để đóng cho con mình đi học. Tỉnh mở lớp dạy computer cho cán bộ. Con trai tôi xin đóng học phí để học, và thích nghề đó cho đến hôm nay. Nhìn hai con gái khuyết tật, nỗi đau của người mẹ không sao kể xiết. Câu an ủi của tôi để tôi vươn lên là ‘Không lẽ đời mình mãi thế này?’ Tôi dạy hai con gái làm việc nhà giúp Bà Ngoại, rửa chén, giặt quần áo, vo gạo, nhặt rau... Hai con làm rất vụng về, nhưng ham làm lắm. Tập hai con làm toán cộng, tập nói, trả lời, đếm số, những căn bản tiếng Anh để còn ra Hội đồng Giám định Y khoa (HÐGÐYK) với bác sĩ Mỹ. Ngày ra HÐGÐYK, bác sĩ trưởng HÐ xét duyệt phân tích bệnh lý từng đứa một, bác sĩ đã chỉ cho HÐ biết, 'Hai đứa bé này được gia đình giáo dục rất kỹ, nên mới được tốt như vậy. Ở đây có nhiều em khá hơn mà không biết một chữ nào, gia đình không giáo dục chúng.' Qua được cuộc phỏng vấn với HÐYK, gia đình rất vui mừng. Vì vậy gia đình tôi là HO12, phải đi cùng HO14 vì lý do sức khỏe của hai con gái.” Nguyễn Thanh Thủy, sau kinh nghiệm tù cải tạo, vẫn mãi mãi nằm trong sổ đen của chính quyền Việt Nam. Nên “tôi biết tôi sẽ gặp nhiều khó khăn trong những ngày cuối ở Việt Nam. Tôi chỉ dẹp quán bên đường 10 ngày trước khi đi. Nhưng tôi làm giấy xin về quê thăm Mẹ tôi, cốt ý tránh xa công an phường. Tôi tạm đã dời chỗ ở khác, thế mà công an vẫn đòi chủ nhà cho một số tiền. Chủ nhà thoái thác là tôi không còn ở đó.” Thậm chí, Bộ Công An còn ra lệnh cho bà: “Không được đãi tiệc, không được đón đưa. Nếu bên Mỹ có ai tổ chức đón, chúng tôi sẽ không cho chị đi. Và chỉ khi nào máy bay cất cánh, chị mới rời khỏi Việt Nam. Máy bay chưa bay, chúng tôi vẫn giữ chị lại được.” Trong cái niềm vui thoát được cảnh bị đàn áp, chèn ép mỗi ngày, cái tương lai sáng sủa hơn mở ra trước mắt, là cái nỗi đau phải chia lìa với người Mẹ của bà - trụ cột của gia đình bà trong suốt 13 năm bà chịu cảnh tù đày. Nhưng hoàn cảnh như vậy không cho phép người ta giằng co với tình cảm. Nguyễn Thanh Thủy ngưỡng phục mẹ mình, bà nói, “Mẹ tôi là bà mẹ hết sức can đảm. Bà giữ bình thản để cho con và các cháu ra đi. Vì Mẹ tôi thường nói, 'Con phải ra khỏi chỗ này, con mới khá được.' Lần sung sướng nhất trong đời là lúc cả gia đình rời nấc thang cuối cùng vào phi cơ, lòng phơi phới nhẹ nhõm như đang trên mây, trong lúc phải để lại sau lưng mẹ và những người thân thương của mình. Thật đứt ruột!” Cánh cửa hy vọng đã mở toang. Những cơ hội tốt đẹp đang đón đợi gia đình bà ở xứ Cờ Hoa. Nhưng cuộc đời của Nguyễn Thanh Thủy không hẳn sẽ trơn tru từ đây. Bà sẽ tiếp tục đối diện với những bể dâu của đời thường, và chịu cảnh tre già khóc măng non ở xứ người. Bà sẽ làm gì khi đứng trước một chọn lựa bế tắc: đồng ý để cho con mình được giải phẫu, dù biết cơ hội sống sót không nhiều, mà không giải phẫu cũng đồng nghĩa với cái chết? Sự lạc quan của bà, liệu có còn tỏa sáng trong biến cố này không? Chúng ta cùng đồng hành với Nguyễn Thanh Thủy và gia đình trong hành trình trên Ðất Hứa trong Phần 3 của loạt bài này. (Nguồn: Tác giả gửi bài & hình, qua Thư viện Sáng tạo) ********************* 1975, người ta nói... Viên Linh Tiếp tục bài viết về Tháng Tư 75, ở thời điểm 37 năm sau, kỳ này người viết mời quí bạn đọc xem lại một cuốn sách có cái nhan đề rất đáng tò mò: “Những gì họ nói trong năm 1975, cuốn Niên giám về Dư luận đã được phát biểu,” (What They Said in 1975, The Year Book of Spoken Opinion). 1 [1. Sách do Alan F. Pater và Jason R. Pater biên soạn, do Monitor Book Co, xuất bản và giữ bản quyền, 1976.] Bìa cuốn sách “Những gì họ nói trong năm 1975, cuốn Niên giám về Dư luận đã được phát biểu,” do Alan F. Pater và Jason R. Pater biên soạn, California, 1976. Chúng ta chỉ xem về phần Ðông Dương, và cũng chỉ nói đến những nhân vật mà người Việt từng nghe tên, từng biết đến nhiều hay ít. Có những câu nói mà 37 năm sau đọc lại, chúng ta thấy thấm thía hơn bao giờ. Robert Thompson, chuyên gia người Anh về Ðông Nam Á: “Chúng ta sắp chứng kiến một cuộc đầu hàng chiến lược của Hoa Kỳ... Cuộc triệt thoái của người Mỹ khỏi Ðông Dương là cuộc rút lui lớn nhất mà thế giới nhìn thấy kể từ khi Napoleon rút lui khỏi Moscow.” (23 tháng 3, 1975) Trần Kim Phượng, đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ (trước các thành công quân sự của Việt Cộng và sự lưỡng lự viện trợ cho VNCH của Hoa Kỳ): “Hoa Kỳ không tôn trọng Hiệp Ðịnh Paris. Tôi nghĩ rằng dân chúng thế giới chỉ có thể có một kết luận: là có lẽ làm bạn với cộng sản thì an toàn còn thật là chết người khi làm đồng minh của Hoa Kỳ.” (6 tháng 4, 75) Ronald Reagan, cựu thống đốc California: “Tôi nhận thấy hàng triệu người Hoa Kỳ phát bệnh khi nghe nói đến Ðông Dương. Và trên phương diện chính trị thì thật không khôn ngoan chút nào khi nói đến trách nhiệm của chúng ta đối với Cam Bốt hay Việt Nam. Nhưng chúng ta đã hứa hẹn sẽ mang thanh niên trở về nước và giải thoát cho tù nhân của chúng ta; viện trợ vũ khí trên căn bản một đổi một cho đồng minh của chúng ta đang chiến đấu chống quân cộng sản những kẻ vi phạm ngưng bắn và được Nga và Tầu yểm trợ phong phú. Quốc Hội thì đã cắt giảm đi một nửa rồi những thứ họ cần và còn dọa sẽ cắt nữa. Liệu chúng ta có thể sống thanh thản chăng, với tư cách một quốc gia, khi phản bội đồng minh của mình và quên lời hứa của mình. Và nếu chúng ta làm như thế, ai sẽ tin tưởng chúng ta nữa? Suy nghĩ đến một hành động nghịch lại lý tưởng sâu xa nhất của chúng ta như thế là triệu chứng của sự băng hoại tiêu chuẩn và giá trị của Hoa Kỳ.” (15 tháng 2, 75) Edward M. Kennedy, nghị sĩ, Dân Chủ, Massachussettts: “Quốc Hội cần chấm dứt viện trợ cho Nam Việt Nam, cho cuộc chiến đa số người Mỹ không ủng hộ. Tôi nghĩ dân Mỹ những người đóng thuế sẽ giật mình khi biết cuộc chiến vừa ngừng bắn đã tiêu tán của chúng ta 8 tỷ Mỹ kim.” (25 tháng 1, 1975). Gerald R. Ford, tổng thống Hoa Kỳ: “Chúng ta không thể quay lưng [trước Việt Nam và Cao Mên], Mỹ không sẵn sàng yểm trợ tương xứng cho họ trong cuộc chiến sinh tử sẽ khiến cho ảnh hưởng của Mỹ bị suy giảm trên khắp thế giới.” “Cộng sản khi chiếm một nơi nào thì không phải sự đổ máu sẽ chấm dứt ở nơi đó, trái lại, thường dân vô tội sẽ đối đầu mức đau đớn một mức gấp bội. Chúng ta không thể đạt sự nhân đạo cần có nếu không yểm trợ quân sự kèm theo. Chỉ với sự điều hòa cả hai (hỗ trợ quân sự và cung ứng nhân đạo) chúng ta mới có thể chấm dứt chiến tranh ở đất nước đó trong mục đích chấm dứt sự tắm máu.” (7 tháng 3, 1975) J. William Fullbright, cựu nghị sĩ Dân Chủ, Arkansas: “Ðó giản dị chỉ là vấn đề thời gian. Cuộc nội chiến này [chiến tranh Việt Nam] lẽ ra đã chấm dứt năm 1954 nếu Hoa Kỳ đừng can thiệp vào. Chúng ta không việc gì phải xấu hổ cả. Ai cũng có những lầm lẫn.” (12 tháng 4, 1975) Raoul Salan, nguyên tổng tư lệnh Pháp ở Ðông Dương: “Không có lý do gì để ngạc nhiên cả... Hồ Chí Minh từng nói với tôi từ năm 1946 rằng ông ta nằm mơ thấy Ðại Ðông Dương trải dài từ biên giới Tầu tới Mũi Cà mau và từ sông Mekong ra tới biển Nam Hải. Tất cả những ai hiểu biết về Cộng Sản Việt Nam đều biết rằng khi Hiệp Ðịnh Paris 1973 được ký kết, thì chuyện cuối cùng sẽ là như thế. Hoa Kỳ cần ghi chép xuống giấy và tỉnh thức về bài học chiến tranh là phương pháp Xô Viết đã thắng phương pháp của người Mỹ.” (24 tháng 4, 1975) Cố Tổng Thống Gerald Ford, người trong năm 1975, phát biểu: “Chúng ta không thể quay lưng [trước Việt Nam và Cao Mên]...” Hình chụp năm 1990. (Hình: Ken Levine/Allsport) Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống VNCH: “Liệu nhân dân Hoa Kỳ muốn rằng sự hy sinh của 50,000 thanh niên của họ là vô ích? Làm sao tưởng tượng nổi họ tới đây để chạy dài và bỏ lại đồng minh của họ chiến đấu cho lý tưởng của họ? Việt Nam sẽ là một nước cộng sản. Cả Ðông Dương sẽ là cộng sản. Cả Ðông Nam Á. Cả thế giới.” “Tôi đã nói với người Mỹ chúng tôi cần 1 tỷ rưỡi mỗi năm để bảo vệ toàn miền Nam. Nếu chúng tôi chỉ được 700 triệu Mỹ kim chúng tôi chỉ có thể bảo vệ một nửa miền Nam... 300 triệu chỉ đủ cho 30 ngày chiến đấu. Thật là đặc biệt phi lý trong 6 năm người Mỹ đã tiêu hàng tỷ tỷ Mỹ kim để chống Cộng nay bỏ lại cho chúng tôi chống Cộng không có tiền và không có B-52.” (4 tháng 4, 1975) Henry Kissinger, ngoại trưởng Hoa Kỳ: “Những gì chúng ta có thể rút ra từ bài học này, tôi nghĩ, chúng ta cần dành đó để cho dịp khác.” (29 tháng 4, 1975) “Bài học Ðông Dương là yểm trợ quân sự không đủ. Ðịa phương cần phải có ý chí chiến đấu nữa.” (Tháng 6, 1975, nói trước cộng đồng Người Nhật ở New York) Trên đây chỉ là một số những phát biểu trong năm 1975 về cuộc chiến Việt Nam. Người đọc và chuyển ngữ thấy không cần phải thêm lời bàn. Ðọc và ngẫm nghĩ thôi cũng đã quá đủ để thấy giờ này chúng ta còn ở đây, và cộng sản vẫn ở đó, tàn phá quê hương. Westminster, 17 tháng 4, 2012
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 6:57:50 GMT 9
Sử gia Nguyễn Khắc Ngữ trong quên lãng Viên Linh Trong những cuốn sách viết về sự sụp đổ của miền Nam, cuốn đầu tiên đáng kể nhất đối với người viết bài này là “Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hòa” của sử gia Nguyễn Khắc Ngữ. Ảnh bìa hai cuốn sách giá trị của sử gia Nguyễn Khắc Ngữ (1935-1992). Cuốn sách ấy xuất hiện sớm sủa nhất, cuối năm 1979, viết với tấm lòng nung nấu của một thanh niên ngay từ lúc vào đời đã nghĩ đến sử, và anh viết lịch sử hiện đại với phương pháp khoa học, chỉ trong bốn năm sau ngày mất nước đã hoàn tất 430 trang giấy đánh máy chữ nhỏ. Ngày 27 tháng 5, 1978 anh đã từ Montreal gửi thư cho tôi, lúc ấy đang ở vùng tam biên Hoa Thịnh Ðốn, sau nhiều lá thư trao đổi. Chúng tôi đã trao đổi nhiều tại Sài Gòn từ những ngày cùng làm bán nguyệt san Sống đầu thập niên '60 của Hội Nạn Nhân cộng sản. Hồi ấy sửa soạn xuất bản tạp chí Thời Tập (ra số 1 nhân tháng 4, 1979), tôi đã phỏng vấn anh: “Theo quan điểm của một sử gia, anh nghĩ gì về vụ Vẹm đốt sách?” Từ những năm đầu của thập niên '50, chúng tôi hay dùng chữ Vẹm để gọi Việt cộng, chữ này hình như là cách ghép hai chữ VM (Việt Minh) và đọc chệch đi. Những năm giữa thập niên '70, người cầm bút Việt Nam lưu vong nào không đau đớn vì chuyện cộng sản phát động sự bạo hành của máu nóng, của căm thù, của ngu dốt lên cao để thanh thiếu niên học sinh cảm thấy hứng khởi trong sự đốt sách của miền Nam? Mấy người đã gửi bài trả lời, có Mặc Ðỗ, Võ Phiến, Cao Thế Dung, Nguyễn Khắc Ngữ. Sử gia Nguyễn Khắc Ngữ viết: “...Vụ đốt sách là chuyện dĩ nhiên của chế độ cộng sản. Ở Liên Xô khi Staline bị hạ bệ người ta đã đem cắt một số trang của cuốn ‘Bách khoa Từ điển Liên Xô’ có viết về Staline để đem đốt đi cho tuyệt tích luôn và thay vào đó bằng một bài mới tất nhiên viết không hay gì cho nhân vật này. Tuy nhiên dù cấm đoán đến thế nào, sách vở hay vẫn tồn tại. Trước kia Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò nhưng Nho giáo sau này vẫn phát triển mạnh. Mao Trạch Ðông đã phải để mấy chục năm để chống nhau với bóng ma Khổng Tử mà cuối cùng cuộc ‘Cách Mạng Văn Hóa’ lại chỉ là bản án muôn đời cho vợ con ông.” Trong 37 năm nay có thêm nhiều cuốn sách viết về “những ngày cuối cùng” của Việt Nam Cộng Hòa, song không cuốn nào có tầm rộng lớn như cuốn sách của anh. Cuốn sách đáp ứng được các mặt của một cuốn sử hiện đại, phần giữa sách quan trọng nhất, từ “Sự thi hành Hiệp Ðịnh Paris” đến các trận đánh khác, cuộc triệt thoái tự sát ở cao nguyên, v.v... chỉ bắt đầu từ chương bảy, trang 148, còn từ đó trở ngược lên trên tác giả viết tổng quát về sự “Hình thành của chế độ Việt Nam Cộng Hòa,” qua từng chương, nhắm mỗi chương vào một lãnh vực (Tương quan Lực lượng Nam Bắc, Chính sách Cầm quyền, Kinh tế Tài chính, Văn hóa Xã hội,...). Mỗi chương anh viết một vài sự kiện quan trọng, có tính quyết định, trình bày rõ hơn trên nền một tổng quan để người đọc hiểu bao quát toàn cảnh của miền Nam, trước khi và trong khi sụp đổ. Hẳn rằng quan niệm một sử gia cũng là một phán quan, Nguyễn Khắc Ngữ kết tội và kể tội đích danh chính phủ và 5 nhân vật làm mất nước, với sự lạm dụng quyền hành và sự tham ô của họ. Anh trình bày những kế hoạch ngũ niên (kỹ nghệ, nông nghiệp, và các sự kiện). Văn hóa Xã hội được dành khoảng 40 trang, anh điểm danh các văn nghệ sĩ và các báo, một cách khái quát song khá sắc nét. Anh kể ra một số báo, những đụng chạm với chính quyền, một số nhà văn, nhà báo, và đây chính là nhờ sự xông xáo của anh trong thời gian cầm bút. Tôi nhớ Nguyễn Khắc Ngữ tất tả bước đi trên đường Hồng Thập Tự, ra vào tòa soạn bán nguyệt san Sống của ông Ngô Trọng Hiếu, trước thời ông được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm chọn làm bộ trưởng Công Dân Vụ. Chúng tôi hay gặp nhau ở đây, vì thường lui tới với Duy Sinh ngồi thường trực tại báo quán; và ở vài chỗ khác như tại Ðàm Trường Viễn Kiến của nhà văn Nguyễn Ðức Quỳnh, gần chùa Giác Minh của Hòa Thượng Ðức Nhuận. Tóc anh hớt ngắn, miệng cười rộng, hàm răng trắng làm sáng khuôn mặt không có vẻ gì là thư sinh, học giả: qua toàn thể anh là một con người hoạt động, được việc cái đã. Nguyễn Khắc Ngữ trong Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa Việt Nam, vừa là học giả, vừa là người hoạt động: để viết cuốn sử đầu tiên tại hải ngoại, anh đã bỏ ra bốn năm, qua 22 tiểu bang ở Hoa kỳ, các tỉnh ở Gia Nã Ðại và nhiều nước ở Âu Châu “để tìm tài liệu và phỏng vấn những người liên hệ.” Nguyễn Khắc Ngữ sinh năm 1935 tại Duyên Hà, Thái Bình, gọi nhà văn hóa Nguyễn Ðức Quỳnh bằng cậu, học trung học Lê Quí Ðôn tại tỉnh nhà, tị nạn cộng sản lần thứ nhất năm 1954, nhập ngũ khóa 21 SVSQ Trừ Bị Thủ Ðức, ra trường phục vụ trong binh chủng Không Quân. Ngày 30 tháng 4, 1975 rời Việt Nam, định cư tại Montreal, Canada và lập gia đình tại đây, có một con trai. Anh mất vì ung thư dạ dày năm 1992. Từ cuối thập niên '50, chàng trai Thái Bình (Thái lọ) viết truyện ngắn (Dưới bóng Hoàng Lan), viết kịch (Hỏa ngục), và cũng viết những bài nghiên cứu về ngôn ngữ Chàm, về Văn hóa Óc Eo, Phù Nam. Tới thập niên '70 chàng chú trọng hơn về Mỹ thuật Văn hóa Dân tộc, đã xuất bản “Kỹ thuật và Mỹ thuật Tranh mộc bản Việt Nam,” nghiêng qua cả chính trị và các đảng phái quốc gia, khi tình hình đất nước càng ngày càng nóng bỏng, khiến cho những kẻ có lòng không thể ngồi yên. Nguyễn Khắc Ngữ thường ký tên thật, tuy đôi khi viết bằng bút hiệu Vũ Lang, viết trên những tờ báo có tính chiến đấu (Thanh Niên, Ðất Nước, Trình bày (b không viết hoa), hay báo Khảo cổ học, Sử Ðịa. Anh tốt nghiệp Cao học Sử, giáo sư Sử học tại Ðại Học Sư Phạm Sài Gòn, có thời gian làm phụ tá khoa trưởng Ðại Học Kinh Tế Thương Mại Minh Ðức. Sự đóng góp của anh cho học thuật Việt Nam không phải nhỏ, với khoảng gần 20 đầu sách đủ loại, đa số là sách Sử, Ðịa, Khảo cổ học và cả Nhân chủng học. Tiếc thay anh mất sớm, ở tuổi 57. Sự ra đi của anh không những là một mất mát riêng cho gia đình, bạn hữu, mà còn làm cho Nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa Việt Nam mất đi một động lực chính yếu, và một thiệt hại đáng kể cho sinh hoạt văn hóa Việt Nam ở hải ngoại. May thay Nguyễn Khắc Ngữ đã để lại một tác phẩm quan trọng và giá trị: Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa, cuốn sách nóng hổi về tháng 4, 1975. (Viết để nhớ Ngữ - 4.2012)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 24, 2014 15:54:31 GMT 9
Con Sáo Của Em Tôi - DUYÊN ANH Duyên Anh (1935-1997) Duyên Anh là nhà văn, nhà báo, nhà thơ hoạt động ở Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và ở hải ngoại sau năm 1981. Ông tên thật là Vũ Mộng Long. Những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi-ta, dạy sáo. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm. Hôm nay, Nguyệt Mai xin giới thiệu với các bạn một truyện ngắn rất cảm động của ông: Con Sáo Của Em Tôi Duyên Anh Sau khi cha tôi mất, gia đình càng ngày càng túng bấn, một mình mẹ tôi không đủ sức nuôi nấng hai đứa con mồ côi nơi thành thị nên mẹ đưa hai anh em tôi trở về làng cũ. Bên nội xóa bỏ tên cha tôi trong gia phả vì cha tôi xé tờ khai sinh mà ông tôi cố tình điền tên tuổi người vợ cả vào chỗ tên tuổi mẹ tôi. Ông tôi muốn gạt mẹ khỏi cuộc đời cha tôi bấy giờ và cuộc đời tôi mai hậu. Việc ấy rất giản dị như ông đã xóa bỏ tên chú Nghị vì chú mê cô đào cải lương gia nhập ban hát, lang thang rày đây mai đó. Bên ngoại từ bỏ mẹ tôi ngay từ dạo mẹ có mang ba tháng vì mẹ trốn nhà, vượt luật lệ cổ truyền, theo cha tôi làm vợ lẽ. Thành thử lớn lên anh em tôi mù mịt cả ý niệm gia tộc. Mẹ tôi thường kể rằng trước khi lấy mẹ tôi, cha tôi đã có vợ. Người vợ ấy cha tôi không yêu thương, nên bốn năm liền bà tôi cứ hoài công mong bế cháu. Ông tôi buồn phiền, thở dài thườn thượt, ông nghĩ đến nghiệp chướng xa xôi nào, lúc này sự quả báo hiện hình khiến dù con gái. Thật vô phúc. Cha tôi đi vắng luôn luôn, cha năng ở nhà ông phó Nhị hầu hạ ông để hòng ông truyền hết ngón đàn thập lục. Cha tôi phải giặt quần áo, đấm bóp chân tay hay kiếm rượu, đồ nhắm cho ông Phó, phục dịch ông đủ điều. Rốt cuộc ông Phó vẫn giữ lại đôi ngón sở trường, ông sợ dạy hết, mai mốt cha tôi giỏi hơn ông. Bởi vậy, tài nghệ của cha tôi chưa nổi bật, và chưa đủ thời giờ nghiên cứu âm nhạc quê hương thì cha tôi đã gặp mẹ tôi. Cuộc tình duyên này làm đảo lộn đời cha và ảnh hưởng rất nhiều đến anh em tôi sau này Ông nội tôi biết chuyện tức sôi ruột, chửi bới cả gia đình nhà mẹ tôi. Tiếng dữ đồn tới xóm làng bên kia sông. Ông ngoại tôi đuổi mẹ tôi khỏi cửa. Bấy giờ mẹ tôi có mang tôi được ba tháng. Cha tôi lén lút gởi mẹ tôi nương náu nhờ người bà con xóm cuối thôn. Bà nội tôi thương con cả, lại nghe tin mẹ tôi có chửa nên bớt giận. Bà nội xin ông nội nhận mẹ tôi làm vợ lẽ cha tôi. Cuộc hôn nhân không giá thú. Việc tưởng vậy êm thắm. Ai ngờ ông ngoại tôi lồng lộn tìm bắt mẹ tôi, đánh đập mẹ tôi một trận tàn nhẫn. Tệ hơn nữa, ông ngoại tôi lại gọt hết tóc, bôi vôi trắng xóa đầu mẹ tôi rồi mới đoạn tình phụ tử. Mẹ tôi phải trùm khăn vuông kín mít ngót hai năm trời. Mẹ về sống dưới gian nhà mái dột, vách bùn trát nham nhở bên cạnh chuồng trâu của đại gia đình họ Nguyễn nhà tôi. Suốt thời gian đèo bòng cái hình hài tôi, cái bọc đau khổ, mẹ tôi chịu đựng bao nhiêu điều tủi nhục. Hết người vợ cả hẹp hòi, ích kỷ của cha tôi hằn học ghen tuông, lại đến các cô tôi kiếm cớ sinh sự. Vợ cả cha tôi bảo mẹ tôi độn vải đầy bụng để đánh lừa ông tôi. Ông tôi nhiều bận chỉ mặt mẹ tôi dọa nạt rằng nếu đúng tháng mà không sinh nở thì sẽ tống cổ mẹ tôi đi. Chú Nghiêm thỉnh thoảng về thăm nhà cũng hạch sách mẹ tôi. Ông tôi quý chú Nghiêm lắm. Trong khi cha tôi mải đàn sáo, chú Nghị giang hồ phiêu bạt, chú khéo léo chiều ông tôi. Bởi thế chú Nghiêm được xuống tỉnh học, đỗ đạt giỏi giang. Chú khinh bỉ mẹ tôi, sự khinh bỉ chú học mót của đám dân trưởng giả thành phố. Mẹ tôi đau khổ trăm chiều, ngày làm quần quật như con vật, tối ôm bụng khóc một mình. Tội nghiệp mẹ tôi, tôi chả biết ví mẹ giống ai. Ðầy tớ nhà ông tôi còn sung sướng còn nói đùa nghịch, chứ mẹ tôi thì câm nín suốt ngày đêm. Cha tôi hy vọng mẹ tôi sinh con trai và đứa đầu lòng sẽ là nhịp cầu bắc qua những tâm hồn người bên nội với tâm hồn mẹ tôi. Chắc chắn mẹ tôi hết tủi cực. Ðến ngày mẹ tôi trở dạ, ông tôi cất vội vàng túp lều nhỏ ở xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu. Tôi cất tiếng khóc ban đầu nơi ấy, ở túp lều xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu, cạnh những con người hà tiện tình thương mến. Vì đêm tôi mở mắt chào đời, cha tôi đi vắng nên cớ sự xảy ra như tôi đã nói đoạn đầu. Tuần lễ sau cha tôi về, cha nghiến răng xé nát tờ khai sinh rồi đưa mẹ con tôi xuống tỉnh lỵ. Tôi vĩnh biệt họ hàng bên nội bằng mấy tiếng “oe oe”. Tôi lớn dần, lớn dần để thu vào tầm mắt non nớt hình ảnh cuộc đời cha tôi: hình ảnh gã nhạc công hậu trường sân khấu cải lương, hình ảnh ông lái thuốc bắc, hình ảnh ông thư ký sở tư, hình ảnh ông thợ chữa xe đạp và sau rốt là hình ảnh ông lang chế thuốc cao đơn hoàn tán. Mãi tới ngày cha tôi mất, tôi mới thù hằn những hình ảnh méo mó đọa đầy linh hồn cha tôi. Sao đời cha tôi nhiều hình ảnh thế? Và đời tôi nữa, hình ảnh thẫm nét nhất là một đêm mù mịt bên khóm chuối tiêu. Thế mà anh em tôi lại phải về quê ngoại. Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi chịu nhục nhã, nương náu dưới túp nhà lá bỏ hoang vườn sau, trước đây ông bà ngoại dành riêng cho bọn thợ gặt mỗi vụ mùa. Mẹ tôi chỉ nghĩ đến anh em tôi. Trời ơi, tôi muốn khóc quá. Ở đây, chúng tôi sống lủi thủi cô độc. Mẹ tôi dọn quán bán nước chè tươi, xôi chè, canh bún ngoài bến đò Ðồng Đức, bòn nhặt từng hào chỉ. Thường mẹ dậy sớm sửa soạn đồ hàng, cơm nước buổi sáng để anh em tôi ăn. Mẹ nắm thêm hai nắm nhỏ phòng trưa đói còn lót dạ tạm. Chập tối mẹ lần mò về nhóm bếp thổi cơm. Bữa nào hàng ế ẩm, mẹ con tôi ăn canh bún, ăn xôi chè thay cơm. Mẹ tôi luôn luôn vui vẻ dù thỉnh thoảng cậu mợ, dì bác tôi mỉa mai đủ điều. Họ nói những lời mà bây giờ tôi hãy còn nhớ. Tôi không thể tưởng tượng nỗi tê tái nghiến nát cõi lòng mẹ khi bà ngoại gọi mẹ là “đồ đĩ”, bác tôi bảo mẹ là “con lăng loàn” và mợ tôi nói bâng quơ “cóc chết ba năm quay đầu về núi”. Tôi thấy mẹ tôi cúi đầu lẳng lặng, nước mắt nhỏ giọt trên mái tóc em tôi, thì tôi đoán rằng mẹ buồn. Hồi ấy, tuy tôi bé bỏng nhưng tôi đã biết xét đoán những con mắt soi mói, những lời tiếng bấc chì, những bộ mặt ích kỷ của mọi người họ hàng bên ngoại. Tôi thương mẹ. Tôi thương em gái tôi hơn, chưa được hưởng sung sướng thì cha vội lìa đời. Tôi hằng mơ ước một mai khôn lớn, tôi sẽ kiếm tiền nuôi mẹ, sẽ tậu nhà ở tỉnh, mẹ tôi thôi bán hàng, em tôi cắp sách đi học. Nghĩ vậy tôi thèm đọc sách lắm. Khốn nỗi mẹ tôi nghèo cực, lấy tiền đâu mà mua. Tôi đành học ôn mớ sách cũ nát và dạy em tôi từng trang, từng đoạn dè sẻn, sợ hết chữ. Ðám con cái cậu mợ tôi vào hùa cha mẹ chúng bắt nạt anh em tôi. Hễ em tôi hở ra món đồ chơi nào là chúng nó tìm cách ăn cắp. Tôi đòi, chúng xúm nhau đánh đập tôi sưng tím cả mặt mày. Em tôi khóc, mẹ tôi thở dài đau đớn. Dần dần cuộc sống quen nếp. Anh em tôi biết thân phận, bắt chước mẹ tôi, tập nhịn nhục, tập nghiến răng và hy vọng. Anh em tôi đùa nghịch với nhau, chẳng dám lai vãng đến thềm nhà ông bà ngoại. Tôi hay bắt dế, bắt chuồn chuồn, bắt công cống cho em tôi chơi. Bạn bè của chúng tôi có chừng chỉ có con chim chích chòe sáng nào cũng đậu trên cành soan ca hát líu lo rồi tung cánh bay xa tìm mồi. Em tôi thích chim. Tôi vụng về, không trèo cao được. Tôi hẹn sẽ bắt tặng em tôi một con sáo khi mùa xuân sang. Mùa xuân, hoa soan vườn nhà nở nhiều, mầu tím dịu mắt. Mẹ tôi nói hoa soan nở chỉ tổ đuổi muỗi mệt xác. Cùng lượt hoa soan khoe sắc, sáo trên rừng đổ xô xuống đồng bằng hàng đám, cơ man. Em tôi nhìn những con sao đen, lông muôn muốt, viền mắt vàng vàng, ra chiều thèm ước. Tôi theo bọn trẻ con bến đò, lấy rổ rách, vất cạp rồi buộc lại tựa hình cái đó đơm tép. Xong, tôi bó manh chiếu bên ngoài bịt chặt một đầu, còn đầu kia để ngỏ cho sáo ra vào. Tôi buộc tổ sáo trên cành sung thấp nhất. Hai hôm sau vợ chồng nhà sáo bắt đầu tha rác về tổ của anh em tôi. Chúng tôi hoan hỉ đợi chờ. Em tôi chưa chi đã vội lo cái lồng nhốt con sáo. Tôi bảo em tôi phải mong ba tháng. Em tôi sốt ruột. Ngày nào cũng hỏi thăm sáo. Mẹ mắng em, em dỗi bỏ cơm. Tôi dỗ dành em mới chịu ăn. Ít lâu sau tôi trèo lên thăm tổ. Tôi thò tay tận phía trong và biết sáo đẻ bốn trứng. Tôi lôi ra xem. Trứng sáo to bằng ngón tay cái của tôi, màu xanh xanh vân vân đẹp quá. Tôi kể chuyện em nghe. Em nhẩy reo ầm ỹ. Mẹ tôi dọa rằng : - Rắn ưa tìm tổ chim ăn trứng. Con liệu hồn, nó cắn thì chết. Tôi phát run, thề sẽ chừa thói liều lĩnh nguy hiểm. Nhưng em tôi muối coi trứng sáo, em cứ nằn nì đem xuống một trứng. Tôi đành mạo hiểm lần nữa. Lúc tôi đang lúi húi trước cửa sổ thì vợ chồng đôi sáo bay về. Chúng nó lượn trên đầu tôi, kêu inh ỏi. Tôi bỏ trứng vào túi áo, tụt xuống, sướt cả tay, máu chảy đầm đìa. Em tôi thỏa mãn sự tò mò, em trông tôi, thương hại. Tôi an ủi em và trả lại trứng cho sáo. Tối hôm ấy mẹ tôi đánh tôi hai roi tội không vâng lời. Mẹ nói : - Còn trèo nữa, sáo sẽ bỏ tổ. Anh em tôi lo ngại ngủ chẳng ngon giấc. Ngày tháng mùa xuân trôi vùn vụt. Một buổi sáng anh em tôi nghe rõ tiếng sáo con kêu trong tổ, em tôi hỏi: - Anh ơi! Sáo con có bú mẹ không? Tôi vuốt tóc em dịu dàng trả lời : - Em bú mẹ chứ sáo nào bú mẹ Em ngây thơ: - Thế làm sao nó lớn được? - À sáo mẹ mớm mồi. - Sáo bố làm gì hở anh? - Sáo bố đứng canh. Em nhìn thì biết. Kia kìa, trên cành cây gần tổ. Khi sáo mẹ mớm mồi cho các con, cũng như khi ấp trứng, sáo bố bao giờ cũng lởn vởn ngoài tổ em ạ! Tôi giảng nghĩa thế vì tôi nghe lỏm bọn trẻ con ngoài bến đò. Em tôi ngạc nhiên, ngây người đứng ngắm. Lát lâu em mỉm cười nũng nịu: - Sáo con ngủ, sáo mẹ có ru không anh? - Chắc có. - Anh biết à? - Thì anh đoán, chim cũng như người vậy em ạ! - Mẹ ru em bằng bài “Con cò mà đi ăn đêm”, sáo ru con bằng bài gì hở anh? - Anh chịu, chả biết được. - Giá sáo là người để em hỏi nó chắc thích lắm anh nhỉ? - Ừ. Ðám con cái ngỗ nghịch của cậu mợ tôi đã thấy chỗ tôi buộc tổ sáo. Tôi tức sôi ruột, tức muốn đốt nhà chúng nó. Chúng nó rình mò làm tôi không thể ra bến đò trông hàng giùm mẹ tôi những lúc đông khách. Anh em tôi thay phiên nhau canh gác. Mẹ tôi khuyên tôi nên chia sáo cho chúng nó. Tôi miễn cưỡng phải rỡ tổ đáng lẽ chờ vài hôm nữa sáo con già dặn hơn. Hôm tôi bắt sáo con, vợ chồng sáo bay lượn kêu thảm não. Sáo mẹ sà xuống sát đâu tôi như thể nó sắp mổ mắt tôi. Chẳng trách cha tôi xé tờ khai sinh, mẹ tôi chịu vất vả, khổ sở. Mẹ tôi mua giỏ bắt cua để tôi nhốt sáo. Cậu mợ tôi chọn lựa ba con đẹp, lớn; phần tôi là con sáo đẹt, bé nhỏ, xấu xí nhất đàn. Tôi buồn, khóc mấy đêm ròng. Làm sao tôi nhớ hết mọi chi tiết vụn vặt cái hôm ông cậu bà mợ tôi chia sáo? Cậu tôi bóp con sáo xấu số của tôi khiến cho nó há mỏ ra. Em tôi run rẩy chỉ sợ nó chết? Mợ tôi bảo: - Bọn mày nuôi sáo làm quái gì, cơm còn không đủ ăn lại có cơm thừa nuôi sáo. Tôi cáu tiết cãi lại : - Sáo ăn cào cào chứ cần gì cơm gạo. Cậu tôi chẳng nể nang gì mẹ tôi cả, cậu chúi đầu tôi một cái thật mạnh. Tôi lao đao suýt ngã. Cậu mắng mỏ : - Ðồ chết cha, đồ con hoang có khác. Anh em mày lớn lên thì thành đồ ăn cắp! Tôi nín lặng, em tôi chạy vào ôm lấy mẹ. Và cả tôi cũng lủi thủi cầm con sáo vừa đi vừa khóc. Tiếng khóc của em tôi rõ ràng hơn. Mẹ tôi thương anh em tôi, mẹ bỏ bán hàng nửa buổi đan cái làn mắt thưa. Mẹ bảo nhốt sáo vào đấy rồi treo lên cây, sáo mẹ luyến con sẽ mớm mồi, như vậy sáo chóng lớn. Tôi nghe mẹ. Quả con sáo của anh em tôi được sáo mẹ chăm lo chu đáo. Ðám con cái của cậu mợ tôi ghen ghét. Chúng nó chăm chăm đòi bắn đôi sáo già. Tôi chỉ ngại nhỡ chúng bắn sáo của tôi. Bọn ranh con mất dạy, ích kỷ bắn súng cao su không trúng, chúng nó nhờ người thổi ống xì đồng. Buổi sáng hôm cái gã mắt chột rình rập ngoài vườn, anh em tôi lo cuống quýt. Em tôi nhìn sâu chim đủ loại: chào mào, chích chòe, liếu tiếu lủng lẳng trên vai hắn, em nói nhỏ : - Khéo nó bắn chết sáo mất anh ạ! Tôi run run trả lời em: - Ðừng sợ em ơi! Mắt nó chột bắn chả tin đâu. Nhưng đôi sáo già đi kiếm mồi đã về. Tim anh em tôi đập mạnh. Tôi rõi mắt lên cành sung chờ đợi. Sáo bố đậu cách cái làn khá xa, sáo mẹ mon men lại gần mớm mồi. Trong lúc đó, viên đạn đất oan nghiệt từ ống xì đồng thổi phụt ra. Sáo bố trúng đạn rơi xuống ao. Em tôi giật nẩy mình kêu lớn : - Chết em rồi! Tôi cảm thấy như viên đạn trúng đầu tôi. Con sáo bố đã chết. Sáo mẹ bay lượn, rỉa rói ai oán hàng giờ. Em tôi ứa nước mắt : - Sáo của anh em mình mất bố rồi nó sẽ khổ lắm anh nhỉ? Câu nói khiến lòng tôi se lại. Tôi nhớ cha tôi. Phải chi cha tôi còn sống thì anh em tôi đâu khổ sở thế này. Sáo mẹ thỉnh thoảng bay tới, nó chỉ dám sà vội qua cái làn, có khi sáo con chưa kịp há mỏ, mồi đã rơi mất. Sáo mẹ sợ sệt tất cả. Tôi chạnh nghĩ đến mẹ tôi mà buồn vời vợi. Em tôi lo cho sáo con, đòi mang xuống. Tự đấy sáo mẹ không trở lại nữa. Có lẽ nó đã chết vì cô độc hay đã về rừng. Chúng tôi nuôi sáo bằng chuối. Dần dần sáo lớn, tôi ra đồng đập cào cào lấy mồi nuôi sáo. Tội nghiệp sáo con côi cút, đêm ngày âm thầm chui rúc trong cái giỏ cua. Em tôi đang phân vân không hiểu mai kia sáo lớn nhốt vào đâu. Ước gì có cái lồng tre, chúng tôi mơ ước song mẹ tôi không thừa tiền chiều chuộng con. Giữa lúc đó thì chú Nghị đến thăm mẹ tôi. Họ hàng bên nội nhà tôi chỉ chú Nghị là kẻ có lòng. Bao nhiêu năm tháng qua rồi, từ ngày tôi sinh ra đời tới bây giờ, chú luôn luôn an ủi, giúp đỡ mẹ tôi. Tuy chú nghèo, tôi thường nghĩ giang hồ phiêu bạt như chú, giầu sao được. Chú Nghị tốt lắm, chú bênh vực mẹ tôi thuở mẹ tôi bị cả gia đình chồng xúm vào cấu xé, đay nghiến chỉ vì mẹ tôi thương yêu cha tôi quá đến nỗi mẹ bằng lòng lấy cha tôi không cần giá thú. Hôm đưa xác cha tôi tới nghĩa địa, tôi thấy chú khóc nức nở khi những tảng đất phủ kín dần chiếc quan tài bằng gỗ mộc. Tôi còn đủ trí nhớ để hình dung ra bộ mặt khắc khổ phong sương của chú Nghị. Và hình dung ra thì tôi lại ghét cay đắng ông bà nội, các cô các chú tôi, nhất là người vợ cả ích kỷ của cha tôi. Dạo cha tôi ở Hà Nội, ban tuồng chú Nghị sau nhiều chuyến lang thang dọc đường gió bụi, trở về trình diễn tại thành phố này. Chú dành ghế cho cha mẹ tôi xem tuồng liên miên. Mỗi buổi tan hát, chú dẫn đi ăn mì. Khi rảnh rang, chú dắt tôi tới vườn Bách thú xem xiếc hoặc dạo mát loanh quanh trong công viên rồi ra ngồi ăn bánh tôm trên đường Cổ Ngư bên hồ Trúc Bạch. Mỗi phố tôi qua, chú dạy tôi cách trông chừng hai đường xe cộ lưu thông. Vì chú cháu tôi hay thơ thẩn buổi sáng, chú bảo tôi thở hít mạnh, chú giữ lưng tôi ngay thẳng tựa người lính tập đứng nghiêm. Tôi yếu đuối, chắc chắn sự yếu đuối ảnh hưởng phần nào những ngày mẹ tôi mang thai tôi, tâm hồn mẹ bị dằn vặt, thôi thúc thời gian đó. Nguyễn Huệ, Lê – Lợi, Lý – Thường – Kiệt, câu kết luận của chú bao giờ cũng hàm đầy ý khuyến khích: - Cháu gắng lên, mai mốt cháu sẽ giỏi, cháu sẽ hãnh diện làm con của cha mẹ cháu. Tôi không nghe chú nói tới quãng đời luân lạc chìm nổi của một kép hát. Sau này vợ chú bỏ chú lấy người khác, chú nghiện rượu và thù hằn tất cả. Tôi không biết tại sao chú hay giấu giếm sự uẩn ức mà đáng lẽ nói được thì chú bớt giận dữ kẻ khác trên đời. Nhưng, ngay trong những cơn điên tàn bạo, chú tôi rất hiền hòa với mẹ tôi. Tôi nhớ dạo gia đình tôi sống ở ngoại ô Khâm Thiên, nhà tôi phải đi qua cái ngõ hẹp bẩn thỉu. Một buổi tối, tôi đang cắm cổ bước, vì tôi sợ ma, thình lình chú Nghị nấp sau đám giậu kêu “ú a ú ớ” cơ hồ tiếng ma quỷ giận hờn rồi xô ra chắn lối. Chú muốn dọa tôi nên chú chơi thế. Song lúc ấy tôi không thèm hiểu. Trong khoảnh khắc, đầu óc tôi tràn ngập sợ hãi, khích động. Tôi cáu tiết đá chú một cái thật mạnh. Tôi mới lên mười nhưng tôi mang giầy, trong cơn tức giận tôi đá mạnh kinh khủng và cái đá làm xước ống chân chú Nghị. Máu chảy ròng ròng, chú đau đớn, rên nhè nhẹ rồi ngẩng lên mỉm cười. Chú ôm tôi xin lỗi. Tôi khóc thương chú khiến chú rớt nước mắt. Chú Nghị mang vết sẹo trên da tháng năm nối tiếp. Thỉnh thoảng vui vẻ, chú kéo ống quần khoe vết sẹo. Anh em tôi lại sà vào lòng chú nũng nịu. Ngày mẹ tôi dìu anh em tôi về quê ngoại, chú phiêu bạt mãi tận Sài Gòn. Thành thử chúng tôi trống rỗng buồn tẻ. Không ai bênh vực an ủi anh em tôi. Nay tự nhiên chú Nghị đến, hỏi chi anh em tôi không vui mừng sung sướng. Bên ngoại vẫn thù bên nội vì ngày mẹ tôi trốn nhà theo cha, ông nội cứ gọi tên ông ngoại chửi bới, trách móc. Lúc này chú Nghị có mặt ở đây, tôi thấy chú nhét bông đầy tai và đeo kính râm suốt ngày. Chú mua cho tôi vô số sách đẹp. Chú dạy anh em tôi học. Tôi thích chú Nghị nói chuyện lịch sử. Em tôi thì bận tâm về con sáo nhỏ. Em khóc khi chú dạy tôi toán pháp. Chú hỏi em tại sao, em bảo ước gì có cái lồng như bọn anh chị em con cậu con bác tôi. Chú Nghị vuốt tóc em, chú tháo cặp kính, mắt chú đỏ ngầu, chú thẫn thờ giây lát rồi ghé tai em tôi thầm thì. Em tôi nhảy lên reo múa. Mấy hôm sau, chú bỏ việc dạy học, ngồi cặm cụi vót tre đan lồng. Ba bốn ngày liền chú mới đang xong. Cái lồng sáo của em tôi đẹp chả thua gì lồng bán ngoài bến đò. Chú làm chiếc thang ngang lấy chỗ cho sáo đậu, chú buộc cóng đựng nước và cóng chưa có gạo, nước. Con sáo được nuôi trong lồng ra bỏ đi. Mẹ tôi giữ thế nào cũng chẳng nổi. Tôi hết hy vọng học chú. Hôm chú mới đến, chú hứa chú ở lâu, chú nói dối anh em tôi. Chú Nghị ra đi, ít tháng sau được tin chú chết, mẹ con tôi buồn não nuột. Từ đó, sớm chiều anh em tôi đành tâm sự với con sáo. Tôi ra đồng đập cào cào, châu chấu làm mồi cho sáo ăn. Em tôi thích đút chuối cho sáo. Em cắn miếng chuối nhỏ, xâu vào đầu cây tăm. Em thổi sáo miệng, chú sáo đói kêu “khách khách” trả lời rồi há mỏ ra đợi em tôi mớm ăn. Em còn cho sáo ăn thịt nữa. Những buổi trời ấm áp, em tôi tắm sáo, rửa lồng. Nhìn sáo phơi mình dưới ánh nắng, mắt em tôi bừng lên những tia sung sướng, hy vọng. Em hay thả sáo tự do nhởn nhơ khỏi lồng. Em đi trước, sáo theo sau tựa hồ đôi bạn côi cút thương yêu nhau. Con sáo của em khôn lắm, nó thường “làm nũng” em lúc em cho nó ăn. Nó nhảy lên cánh tay em rồi bậy trắng lòe áo. Em thích ôm sáo trong lòng đôi bàn tay hoặc để nó đậu trên vai rất âu yếm. Bữa nào sáo ăn ít, em sợ sáo ốm, sáo chết, em buồn có khi em khóc. Nhiều đêm trời mưa bão, em ngủ không yên, thức giấc là hỏi chuyện sáo. Ngày tháng trôi qua, con sáo của em tôi thay hình đổi dạng. Bộ lông đen mượt, nó nhẩy nhót luôn chân. Nó đã biết mổ gạo. Như thế anh em tôi khỏ cần lo cào cào, châu chấu, chuối, thịt nữa. Mẹ tôi bảo bóc lưỡi sáo vài lần thì nó mới nói được. Em tôi sợ sáo đau nên ngần ngừ. Nghe ai mách rằng cho sáo uống nước cua kẻo nó “sốt rét”, em tôi định làm, song mẹ tôi mắng : - Sáo đẻ ở đồng bằng thì ngã nước cái gì, chỉ vẽ chuyện. Thế rồi anh em tôi cũng phải nhờ mẹ tôi bóc lưỡi sáo. Con sáo xấu xí út ít không ngờ đẹp quá. Bọn trẻ gạ gẫm mua, anh em tôi từ chối. Chúng nó tức giận bèn mang con mèo già hung ác tới dọa nạt. Anh em tôi thay phiên gác sáo. Bây giờ con sáo tập hót. Mắt nó còn viền vàng xinh đáo để. Thỉnh thoảng vắng người nó líu lo đôi tiếng. Hễ có người thì nó câm tiếng. Em tôi cho rằng nó xấu hổ. Một buổi trưa anh em tôi đang thiu thiu ngủ bỗng nghe con sáo kêu hoảng hốt. Em tôi vùng dậy, thấy ở thềm nhà gã mèo hung ác đứng gầm gừ nhìn lên. Em vác guốc ném trúng mèo, nó co đuôi chạy mất. Chúng tôi lo sợ. Mẹ tôi bắt mang lồng sáo ra ngoài hàng, tối mang về. Khách hàng ghé quán mẹ tôi, họ dạy anh em tôi cách tập sáo nói. Họ bóc hộ lưỡi rồi họ che kín mít lồng. Quả nhiên sáo không nhìn rõ ai, hót líu lo. Giọng nó trong vắt mà buồn làm sao. Trưa hè ở bến đò vắng vẻ, tiếng nó gợi cho anh em tôi bao nỗi nhớ nhung thương tiếc. Tôi lại nhớ chú Nghị, nhớ cha tôi. Dần dần em tôi dạy nó nói. Bài học vỡ lòng để sáo nói tiếng người là : - “Sáo dạ, sáo dạ, nhà có khách”. Em tôi kiên nhẫn dạy sáo, mãi rồi con sáo côi cút của em tôi nói được. Em ngây thơ lắm, em dạy cả sáo hát, dạy nói những lời hết sức tha thiết: -”Sáo nhớ mẹ, sáo khóc “. Con sáo dường như hiểu nỗi lòng của em tôi nên cố gắng. Khi em hát, sáo hót và nói “Sáo nhớ mẹ…” Càng ngày sáo hót càng hay. Thấy là lạ, ông ngoại tôi xuống chơi nhà tôi nghe sáo nói. Việc này quá sự tưởng tượng của mẹ tôi. Từ ngày gia đình tôi về nương náu ở đây có khi nào ông ngoại tôi thèm thăm hỏi. Ông thích con sáo, ông đòi mượn. Em tôi lăn ra khóc từ chối. Sau hôm ấy, ông ngoại ghét anh em tôi hơn. Ở bến đò, vô khối người muốn mua, họ trả một trăm đồng nhưng em không bán. Mẹ tôi khuyên em nên bán vì trăm bạc sẽ may được cho hai anh em tôi mỗi đứa hai bộ quần áo diện tết. Em tôi không cần quần áo, nếu mẹ bán sáo thì em tôi sẽ nhịn đói đến chết. Cuối cùng mẹ chiều em. Anh em tôi có con sáo nên bớt cô độc. Trẻ con hàng xóm năng lui tới nhà tôi trừ bọn anh em họ độc ác của tôi. Trong quãng đời thơ ấu buồn tủi, anh em tôi thèm thuồng đủ thứ. May mắn mẹ đưa anh em tôi về quê chứ ở lại Hà Nội thì anh em tôi còn khổ sở dường nào. Ðiều chắc chắn là em tôi không có con sáo để trút nỗi niềm. Em tôi ưa ngồi một mình nói chuyện với sáo. Em tôi kể nỗi hiu quạnh của em làm như sáo hiểu nổi. Em hỏi sáo : - Mất bố mẹ sáo có khổ không? Rồi em nói tiếp: - Khổ ư? Tội nghiệp nhỉ, bé bỏng thì chỉ bị bắt nạt thôi sáo ạ! Sáo đừng khóc nhé! À sáo ăn no chóng lớn, chớ bỏ bữa, gầy còm rồi chết thì tôi buồn đấy sáo ạ! Chả ai chơi thân với người nghèo như mình đâu. Con sáo đôi khi vô tình buột miệng: - “Sáo nhớ mẹ sáo khóc” Em tôi dỗ dành : - Ừ, sáo nhớ mẹ, tôi cũng nhớ cha. Sáo khóc à, thì khóc đi… Tôi nằm nghe, nước mắt trào ra cay đắng. Dạo ấy tôi mới chỉ mười ba tuổi, em tôi tám tuổi. Nhưng tôi sớm tiếp nhận nỗi u sầu vào tâm hồn. Và bao nỗi niềm tủi nhục thay phiên hất hủi mẹ con tôi nên tôi đã khôn ngoan, đã biết khinh bỉ họ hàng bên nội bên ngoại trừ chú Nghị. Cuộc đời đọa đầy tôi ngay ở cái tuổi đáng được hưởng hạnh phúc, sung sướng. Thành ra nếu có ai nghi ngờ, tôi vẫn nói rằng suốt thời thơ ấu của tôi, tôi không biết trông trăng trông sao, không biết bẻ hoa bắt bướm mà chỉ biết be bờ ruộng đơm đó kiếm tép để ăn, ăn thừa thì mẹ tôi đem ra bến đò bán. Cùng tuổi tôi, đám con cái của cậu mợ tôi còn vòi vĩnh cha mẹ, ngu ngơ chả hiểu gì. Thế mà tôi hiểu cách rang cám cho thơm, cắt màn cũ khâu thành vó, vót tre thành giọng, cất vó tôm. Tôi hiểu cách cưa ống nứa, đan hom đào giun xào với lá bòng thả ống lươn. Tôi hiểu cách đan rọ cá rô, ngâm thóc vào nước gạo cho thối nhử đàn cá. Tôi hiểu nhiều lắm, hiểu cả những lời bóng gió, mỉa mai của thiên hạ để sau này bước xuống cuộc đời đem tâm sự của một con chim hụt mũi tên. Mẹ tôi ví tôi như trái chín rấm. Tôi tưởng tôi là trái chín hoang. Vì trừ trái chín cây không thèm kể đến, trái chín rấm còn được người ta xếp vào lò hay bỏ vào vựa, vào chum, người ta nhét vào đầy lá soan cho mau chín chứ đời tôi, đời anh em tôi nhất định là hai trái chín hoang. Ngày nào đó, người ta thấy hai trái xanh quá, xấu xí quá, người ta ném vô bụi giậu. Mưa, nắng, gió bão tới tấp, chịu đựng nổi thì trái chín. Tôi biết tôi chịu đựng nổi bởi vì ngoài họ hàng bên nội bên ngoại còn mẹ tôi, còn chú Nghị. Ngoài đám con cái cậu mợ tôi hay bắt nạt, hếp đáp anh em tôi còn bọn trẻ con ở bến đò Ðồng – đức dạy tôi buộc tổ sáo… Và mai mốt tôi sẽ chín, chín chẳng để trả thù ai đâu, nhưng chín để kể lại chuỗi ngày tháng anh em tôi nuôi con sáo. Con sáo là niềm an ủi duy nhất, là niều kiêu hãnh duy nhất của anh em tôi. Trong khi chung quanh tôi, trẻ con nhà giầu nuôi sáo bằng lồng son, cóng sứ, thức ăn thì gạo trộn lòng đỏ trứng gà, nước uống thì pha sôm nhị hồng, sáo của chúng nó vẫn chết. Anh em tôi nuôi sáo chỉ có gạo trắng, nước lã, lồng tre mà sáo hót lại hót hay, sáo nói lại nói giỏi. Tưởng con sáo cũng nên kiêu hãnh. Với tình thương mến của anh em tôi, với cái lồng do chú Nghị đan, nó đã thành con sáo quý khác cả những sáo quý nhất trên đời. Tính ra anh em tôi nuôi sáo đã lâu. Năm ngoái mẹ tôi buôn bán phát tài, tết nhất cũng đủ bánh trái, thịt ăn mấy ngày. Anh em tôi mỗi đứa có bộ quần áo mới, có tiền xu, tiền hào chơi đáo, chơi cò quay, có tranh con lợn treo tường, có long đình, tượng bụt chơi làm đình làm chùa. Giá nghe mẹ bán con sáo thì tiếc chừng nào. Năm nay hàng quán ế ẩm. Suốt mùa đông mưa lê thê, bến đò vắng khách. Mẹ tôi lại đau yếu luôn luôn, phải nghỉ ở nhà. Con sáo cùng chung nỗi buồn, biếng ca hót lười bay nhảy, nó quên cả lải nhải mấy câu nói em tôi dạy thuộc lòng. Trời cuối tháng chạp mưa phùn rả rích. Gió bấc thổi vù vù. Rét thấu xương. Anh em tôi co ro trong ổ rơm, lồng sáo đặt bên cạnh. Mẹ tôi lại sốt từ hôm ông Táo lên chầu trời. Ba hôm nữa tết rồi mà mẹ vẫn nằm rên rỉ. Tôi lo ngại quá, tâm hồn thờ thẫn. Em tôi sốt ruột vì trời mưa. Nhà chỉ còn gạo, mẹ tôi chưa sắm sửa đồ cúng. Gà vịt cũng chưa mua. Cho đến tối ba mươi, mẹ tôi lên cơn sốt nặng. Mẹ tôi rên hừ hừ. Ðắp hai cái chăn, hai cái chiếu, mẹ vẫn còn rét. Anh em tôi ôm nhau khóc thút thít. Em hỏi những câu quái gở khiến tôi rùng mình. - Anh ơi! Liệu mẹ có chết không? - Không, mẹ phải sống nuôi anh em mình thành người chứ. - Sao mãi mẹ chả khỏi gì cả? - Tại trời mưa lạnh, tạnh nắng là mẹ khỏi, em đừng lo. Tôi nói dối em tôi tại mưa lạnh, thực ra mẹ tôi chẳng uống thuốc men gì cả. Con nhà nghèo, ốm no bò dậy. Tôi thường bị sổ mũi, ho mà có cần mời thầy lang đâu. Nằm vài bữa, trở dậy lại khỏe như cũ. Tôi tin thế nên đỡ lo. - Dạo cha còn sống mẹ có ốm nặng không anh? - Anh chả nhớ rõ. Trưa nay, em ngủ nằm mơ thấy cha, em nhớ cha quá, ước gì cha sống lại… Em tôi khóc to hơn. Tôi ôm em vào lòng, thương mến. Bên ngoài trời còn mưa lai rai. Ðêm cuối năm mù mịt. Anh em tôi lo lắng không dám ngủ. Lúc mẹ tung chăn chiếu, anh em tôi nhảy bổ vào ôm mẹ. Hơi nóng và mồ hôi sau cơn sốt thoát ra sưởi ấm anh em tôi giữa đêm trừ tịch. Mẹ tôi vuốt tóc em. - Mai, ngủ thôi chứ con, mai dậy sớm mẹ mừng tuổi tiền mua pháo tép. Em tôi nũng nịu: - Con mua pháo ống lệnh cơ! - Ừ thì mua pháo ống lệnh. - Mới lại cái gương cho con sáo nó soi. - Gớm cô ả vòi vĩnh mãi. Mẹ tôi chiều con, mẹ nói hơi nhiều, giọng mẹ mệt nhọc. Tôi định hỏi mẹ cái gì, nhưng thương mẹ lại nghĩ không ra. Anh em tôi tắt đèn đi ngủ. Sáng mồng một tôi dậy sớm. Em tôi ngủ mê mệt, tôi đắp thêm chiếu cho em ấm áp ngủ lâu. Mẹ tôi hình như đã đỡ. Mẹ nhìn em tôi, lắc đầu ái ngại. Dưới ngọn đèn lù mù, tôi thấy nước mắt mẹ tôi lăn tăn trên gò má xanh xao, khắc khổ. Mẹ tôi nói nhỏ : - Hữu này, mẹ dặn con nghe nhé! Hôm nay đừng lởn vởn ngoài ngõ, đừng lấy tiền của ai cho. Mẹ tôi dặn tôi bằng thừa. Cậu mợ tôi dạy tôi nhiều bài học độc ác, giả đạo đức quá rồi, tôi thèm thuồng gì mà ngửa tay ra để người ta nhổ bọt vào. Nhưng tôi phải đáp: - Vâng ạ! Giọng mẹ tôi đứt từng câu ngắn : - Tại mẹ ốm… thành thử… tết này nhà mình… thiếu cỗ. Con nhớ… thắp hương… bàn thờ cha con nhé! Con lớn rồi, chả cần, chứ em con, ngày tết… không được miếng thịt… Mẹ tôi bỏ lửng câu nói, ôm mặt khóc tấm tức. Tôi bỏ ra ngoài sân. Trời lạnh hẳn. Phía nhà trên, gia đình ông ngoại đang giết gà, vo gạo, thổi xôi… Chiều qua nhà ông mổ lợn. Tôi muốn lên chầu chực để may ra ông thương hại thí cho một miếng về ăn tết. Song tôi nhớ tới chú Nghị, tới những bài học làm người chú dạy tôi nên tôi lại thôi. Dường như hồi chú ghé đây để đan cái lồng sáo, chú nhìn tôi rồi gật gù, bao giờ chú cùng gật gù sau buổi dạy học: - Cháu thông minh lắm, cháu giỏi lắm. - Nhưng mẹ cháu nghèo. - Hề gì, đói rách đâu phải là tội lỗi, cháu đừng buồn. Rồi ngày kia cháu sẽ lẻ loi, cháu sẽ thấy trong sự đau khổ người ta mới xét đoán mọi việc đứng đắn. - Rồi cháu có sung sướng không chú? - Chú không dám nói cháu sung sướng nhưng chú quả quyết cháu có tài, có nhiều tài… - Thật hả chú? - Thật chứ, song cháu chả nên quy lụy ai, quy lụy nó hèn con người đi thì rồi cái tài cũng đến xếp xó. Chú ưa kể chuyện cha tôi và ngón sở trường âm nhạc: đàn thập lục. Chú bảo ngày ông nội đuổi cha tôi khỏi nhà, cha tôi không có đồng xu nào dính túi. Thế mà cha tôi gây dựng nổi đời cha. Tại cha tôi chết sớm chứ không thể nào cũng có ngày cha về làng mua đất dựng nhà. Tôi kém cha tôi nhiều quá, tôi chỉ biết khóc. Lúc này đứng nhìn thiên hạ đón xuân, tôi nghĩ đến em gái tôi, nghĩ đến miếng thịt gà, thịt lợn hay thịt chim khi em tôi tỉnh dậy. Anh em tôi chỉ có mỗi con sáo. Con sáo nuôi bao nhiêu ngày mới biết nói. Chẳng lẽ tôi giết nó? Chẳng lẽ em tôi ăn cơm với muối ngày đầu năm? Năm nay em tôi mười tuổi, mười mùa xuân bay vụt qua, mười mùa xuân tẻ nhạt, buồn thảm chắp nối thành thời thơ ấu của em tôi. Mùa xuân trôi theo kỷ niệm, có khi nào níu lại được? Tôi không muốn em tôi lớn lên phải nghẹn ngào nhắc tới một trang chua chát, xiên lệch trong cuộc đời. Vậy thì tôi sẽ giết con sáo. Tôi nghĩ tôi biết buộc tổ, biết nuôi sáo, nuôi bằng cái lồng của chú Nghị thì sáo nào chẳng biết nói, biết hót. Dẫu con sáo này chết, tháng sau tôi buộc tổ sáo khác. Mùa xuân tàn rất nhanh, tôi có đàn sáo mới, tôi nuôi một đôi để chúng quyến luyến nhau cơ hồ anh em tôi, chắc em tôi sung sướng lắm. Ý tưởng ấy khiến tôi bớt se sắt, bớt tủi nhục. Tôi len lén trở vào xách cái lồng sáo xuống bếp. Trời còn tối, sáo không nhận ra tôi. Nếu nó chết thì nó oán hờn sự nghèo khổ và bàn tay tàn ác nào đó. Vong hồn cha tôi sẽ phù hộ tôi. Giết nó, tôi đau đớn vô ngần nhưng tôi phải thương em tôi hơn. Em tôi phải được ăn thịt sáo nấu su hào ngày mồng một tháng giêng năm mới. Chỉ vì em, tôi quên tất cả. Tôi mở cửa lồng thò tay tìm con sáo. Nó nhảy trốn, móng chân nó cào vào tay tôi đau buốt. Cuối cùng tôi tóm nó. Nó kêu ai oán, từ xưa nó chưa từng kêu như thế. Nó giẫy giụa. Tôi vặn cổ nó chết tươi. Làm xong công việc tàn nhẫn đó, tôi nhóm lửa nấu nước làm lông. Tôi run run chặt dao trúng ngón tay. Máu tôi hòa cùng máu con sáo. Tôi xào thịt với hành mỡ thơm lừng rồi đổ nước đun thật lâu. Trong khi chờ đợi, tôi gọt su hào. Lúc ở bếp bước ra, trời hừng sáng. Tôi đem lông sáo và cái lồng giấu phía sau nhà. Tôi ngồi bệt xuống đất, ôm mặt khóc. Pháo nổ vang trời đất, chuông trống khua inh ỏi. Lòng tôi sôi bùng bùng, tan nát. Tôi nhớ chú Nghị, tôi nhớ cha tôi. Những người thân yêu có thể che chở cuộc đời mẹ con tôi đều bỏ đi cả. Bây giờ mùa xuân về, mẹ con tôi cô độc, nghèo nàn. Tôi đâu đớn trút nỗi buồn vào hai bàn tay non nớt, bóp bẹp cái lồng sáo. Niềm vui thơ ấu của anh em phần bị chết chóc, phần bị dúm dó, gẫy vụn. Tôi cứ ngồi tưởng tiếc. Mãi khi nghe tiếng mẹ gọi, tôi mới trở vào. Mẹ tôi hỏi : - Tại sao con khóc? Tôi đưa vạt áo thấm nước mắt, trả lời: - Thưa mẹ khói làm con cay mắt đấy ạ! Rồi tôi mỉm cười, nhưng nụ cười gượng gạo ấy giấu sao nổi một tâm tư đang cuồn cuộn muôn vàn ý nghĩ. Tôi nghe tiếng mẹ thở dài. Tôi đánh thức em tôi dậy. Mẹ tôi mừng tuổi cho mỗi đứa hai đồng. Tôi tặng cả em. Em tôi sung sướng nhận ngay không hỏi lôi thôi như những ngày thường. Gió xuân vừa tạt qua đôi má thơ ngây của em. Tôi nói : - Mai, đi rửa mặt rồi vào ăn cỗ em! Em reo to : - Có cỗ hở anh? - Ừ, cỗ to lắm. - Anh cúng cha chưa? - Ðã. Tôi nói dối em chứ ai lại cúng cha bằng thịt sáo. Em tôi chưa biết gì cả. Khi ngồi ăn, em mơ màng chuyện đâu đâu. Em khen thịt ngon. Bất chợt em hỏi tôi : - Thịt gì đấy anh? - Thịt chim. - Anh mua à? - Không. - Thế ai cho, ông ngoại hở? Tôi im lặng nghĩ câu trả lời. Em tôi tự nhiên buông đũa, đứng dậy, cuống quít : - Con sáo của anh em mình anh ạ! Ta mừng tuổi nó chứ? Thấy tôi rầu rầu không nói, đứa em gái sầu thảm của tôi ngây người đứng ngó. Và em chạy vụt ra sân ngơ ngác tìm kiếm xong lại chạy vô gậm giường? Chẳng thấy lồng sáo đâu, em hỏi: - Nó ở đâu hở anh? - Chắc trộm bắt mất rồi em ạ! Em tôi thẫn thờ bước khỏi ngưỡng cửa. Lòng tôi rối bời. Nước mắt trào dâng lên, nhỏ giọt xuống bát canh su hào thịt sáo. Tôi cứ ngồi, nước mắt cứ rơi, lặng thinh như phiến gỗ. Tôi đợi em vào để xin lỗi. Tôi hối hận, tôi muốn chạy ngay ra ngõ gào khóc bi thương ngộ may có Phật hiện hình thì xin ước cho con sáo sống lại. Nhưng cõi đời tăm tôi của anh em tôi, Phật là chú Nghị, chú chết rồi, tôi ước nguyện gì đây? Mãi chả thấy em trở vào, tôi hoảng hốt chạy về phía nhà sau. Ở đấy có bộ lông sáo sũng nước và cái lồng tre chú Nghị đã đan cho em tôi. Em tôi ôm cái lồng vào tay thương tiếc. Tôi đi nhẹ tới gần em. Bước chân tôi run rẩy trên nền đất quê ngoại. Tôi khẽ gọi: - Mai, em Mai… Em không ngoảnh lại. Tôi biết em ghét tôi lắm. Em đứng dậy, vẫn ôm cái lồng, lững thững đi ra bờ ao. Tôi phải nói thế nào để em tôi hiểu tại sao tôi giết con sáo? Tôi toan giãi bày, nhưng khốn nạn, sự nghẹn ngào rình mò đúng lúc vít chặt lấy cổ họng tôi. Tôi chỉ còn biết ấp úng : - Em ơi! Anh xin… Tôi buông chưa dứt lời, em quay lại nhìn tôi, đôi mắt chớp mau. Bốn con mắt anh em tôi lúc ấy mờ đi dưới cái màn sám hối, đau thương. Bộ mặt đau khổ của tôi nói với em nhiều rằng tôi quý con sáo nhưng tôi yêu em. Em tôi chừng hiểu chuyện, em buông đôi tay. Cái lồng và bộ lông con sáo rơi xuống đất. Em chạy xô tới ôm lấy tôi, khóc nức nở. Duyên Anh
|
|
|
Post by trandzantieng on Dec 6, 2022 10:11:52 GMT 9
Những Đoạn Viết Ngắn Về Sài Gòn, Về Việt Nam ….
15 Tháng Tư 2015 Duyên Anh Còn nhớ Sàigòn không? Thành phố tóc gẫy chia ly, thành phố mắt mờ giã biệt một cuối tháng tư lạc tay thù. Còn nhớ Sàigòn không? Những tháng nhung xanh cũ, những ngày lụa đào xưa, thành phố ấy, Sàigòn yêu dấu, mặt trời thắp sáng ước mơ, ánh trăng soi rõ kỷ niệm. Mỗi vỉa hè là một giải chiêm bao. Mỗi đoạn đường là một cơn hạnh phúc. Đã thấm niềm tưởng tiếc rồi đó, sau mười năm lưu lạc. Có chỗ nào tuyệt diệu hơn Sàigòn? Thành phố ấm quanh năm. Thành phố lá tương tư nhạc gió. Những đêm mưa, bụi khói khóc hư vô. Cổ tích ướp hơi thơ. Tình ái ngát hương thu nghìn cũ. Sàigòn dệt thơ làm nắng. Giữa tim hạ đã là xuân lãng đãng huyền thoại trong lối lụa Tú Xương, trên nền gấm Huyền Trân. Chỉ cần một câu vọng cổ, đã xao xuyến hồn già. Chỉ cần bước chân giao mùa, đã xanh mắt trẻ thơ, hồng môi thiếu nữ. Ơi thiếu nữ Sàigòn, những cô gái áo dài tha thướt phố phường, những cô gái áo ngắn gọn gàng công xưởng, những cô gái đồng phục nhịp nhàng trên đường xây dựng và bảo vệ quê hương, những cô gái Việt rộn ràng tiếng trống Mê Linh, miệt mài vó ngựa Bùi thị Xuân… Vó ngựa lại một phen tung bụi mịt mù đất nước. Chiến tranh xâm lăng từ phương Bắc tràn xuống. Như tất cả tuổi trẻ thành phố, nông thôn, những chàng trai Sàigòn xếp bút nghiên theo việc đao cung, tạm biệt phồn hoa để dấn thân bảo vệ non sông. Mỗi tấc đất quê hương ông cha gửi lại đều ký thác bằng mồ hôi, nước mắt và máu. Thì chiến đấu giành lại từng tấc đất lọt vào tay quân thù cũng phải đổ mồ hôi, nước mắt và máu. Tuổi trẻ Việt Nam đã kiêu hùng, vẫn kiêu hùng, mãi mãi kiêu hùng. Sự kiêu hùng ấy đã làm nên những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa…lại làm nên những chiến thắng Bình Long, Kontum, Quảng Trị… Tuổi trẻ Sàigòn đã vinh dự đóng góp xương máu cho những trang sử đấu tranh của giống nòi… *** Trái tim dân tộc đã nhiều lần rạn nứt phân chia đòi đoạn. Hôm nay, thêm lần nữa, trái tim dân tộc rướm máu. Những sợi máu vương đây đó. Trên nỗi đau. Trên niềm nhớ. Niềm nhớ có tên và niềm nhớ không tên. Sàigòn là một niềm nhớ không tên. Có nhớ Sàigòn không? Có nhớ niềm nhớ không tên, niềm nhớ ray rứt, niềm nhớ gặm nhắm thớ thịt ta từng phút, từng giây. Có nhớ cổng trường xưa anh chờ đón em về chiều thu muộn? Có nhớ con đường cũ lá me mưa xanh mướt ái ân? Sàigòn, niềm nhớ nhung trên những vệt son môi, trong ánh mắt và trong hơi thở. Sàigòn, niềm nhớ nhung trong hạnh phúc và trong đau khổ. Ở tuổi non và ở tuổi già. Ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đã qua. Ở hôm nay ta sống và ngày mai ta chết. Ở nghìn dặm kẻ chân mây mù mịt. Ở tấc gang người cuối phố đầu phường. Ở sớm công viên ngọn cỏ ngậm sương. Ở chiều bùng binh đèn mầu phố sắc… Đường Tự Do *** Từ một niềm nhớ không tên, Sàigòn đã thành nỗi đau có tên. Hãy hình tưởng, Sàigòn, người tình chung của ta, lạc vào tay thù. Hoa lạc tay thù có ố gương? Khi manh áo của loài chồn tinh phủ lên tên Sàigòn, thành phố của ta bị lột da. Như chính ta bị lột da vậy. Và đó là nỗi đau mưng mủ trong mỗi trái tim chúng ta. Những con đường hoa mộng cũ, bây giờ, hằn lên những thù hận, thống khổ, thê lương, ngậm ngùi. Nụ cười hôm qua là giọt lệ hôm nay. Hy vọng hôm qua là tuyệt vọng hôm nay. Đời sống đầy rẫy những đe dọa ban ngày, những hãi hùng ban đêm. “Nếu cột đèn biết đi, cột đèn sẽ vượt biển tìm tự do”. Ai đã nói giùm tâm sự cột đèn Sàigòn? Dân tộc Việt Nam hiền hòa và luôn luôn bất hạnh, nào ngờ, sau một đổi đời nghiệt ngã, lại hóa ra thuyền nhân khốn khổ lênh đênh trên mặt đại dương chập chùng hệ lụy. Đất đưa người ra biển. Biển dẫn người về đâu? Về đâu và sẽ ra sao tháng năm biệt xứ xanh xao phiền muộn. Đất đưa người ra biển nhưng đất không chia xẻ với người thảm cảnh phiêu lưu. Biển dẫn người về đâu, dẫn về đâu, biển cũng chẳng hiểu nổi sự đói khát, niềm sợ hãi của người ra khơi. Thế đó, nhân loại có từ nỗi đau rõ rệt tên tuổi của chúng ta một danh từ nạm vàng tủi nhục: Thuyền nhân… Bỏ quê hương ra đi, để lại Sàigòn héo hắt trong tay thù. Còn nhớ Sàigòn không? Nghĩ gì về Sàigòn bây giờ? Sàigòn bây giờ ra sao? Đừng hỏi mưa, hỏi nắng. Mưa và nắng cũng buồn bã trốn khỏi thành phố rồi. Hãy hỏi mẹ lang thang góc phố. Hãy hỏi cha thất thểu đầu đường. Hãy hỏi chị ngồi lê chợ trời. Hãy hỏi em chầu chực bán máu đỏ đong gạo đen. Son phấn hoàng hôn những vỉa hè cơm áo. Nước mắt đêm khuya những cay đắng phận người. Sàigòn bây giờ như vậy. Đến vỏ cây già cũng bị lột đến ngọn cao. Đến muông thú Bách Thảo cũng gầy mòn, chết đói. Vẻ kiêu sa dĩ vãng là bệ rạc hiện tại. Bàn tay ngọc thiếu nữ Sàigòn đã kềnh càng ghẻ lở vì nước phèn thủy lợi cưỡng bức. Đôi mắt xanh em nhỏ đã trắng rã vì khoai sắn triền miên. Sàigòn ra đường không áo dài. Sàigòn ra đường không cười nói, líu lo. Cúi xuống là ngục tù, trại tập trung. Nhìn lên là công an độc ác. Thời tiết Sàigòn bây giờ ngậm đầy khắc khoải. Không khí Sàigòn bây giờ dằng dặc ngậm ngùi. Sàigòn bây giờ ở trong nhà với những phiền muộn, thở dài, với những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống miếng đời buồn tênh, ngao ngán… *** Nhưng có phải xa Sàigòn là lên thiên đàng hạnh phúc không? Hãy hình tưởng trùng dương nổi giận vô duyên cớ nuốt gọn thuyền nhân. Hãy hình tưởng sóng gió phũ phàng vùi dập thuyền nhân. Hãy hình tưởng hải tặc tàn bạo cưỡng hiếp, giết chóc thuyền nhân. Và, sau chót, hãy nhìn thật lâu, thật kỹ ngày tháng chờ đợi phát chẩn ân huệ định cư ở các trại tỵ nạn, gọi là “quán trọ trước cổng thiên đường”. Hãy nhìn rõ ràng những bước chân em bé lên ba, lên năm, trên cát bỏng oan khiên quê người. Rồi sẽ hiểu tại sao “Tôi biết tôi sẽ buồn”. Chừng đó lòng hoài hương bừng bừng sống dậy, thuyền nhân ao ước một ngày về cùng Sàigòn gấm vóc ngày xưa… Ghe vượt biên được cứu *** Đâu riêng gì Sàigòn phá sản hôm nay. Quê hương ta, khắp nơi, đều bị phá sản, của cải và tình nghĩa, từ lá cờ hừng hực máu thù hận tanh hôi ngạo nghễ tung bay. Hà Nội đã rạc rài hơn ba chục năm rồi. Thiên đàng của đám người ảo tưởng và phản bội chỉ là thứ thiên đàng bánh vẽ Xã Hội Chủ Nghĩa bước giật lùi. Không còn ai chết đói mà chỉ còn những ai đói rách triền miên. Đất nghìn năm văn vật, người sống bằng tiêu chuẩn vật, vật và người đồng hóa, vật và người chung một tâm sự và bị bóc lột như nhau. Những kẻ khố rách đi giải phóng những kẻ áo lành. Rốt cuộc, Sàigòn tăm tối, đoạ đầy, thê thảm ngang hàng Hà Nội. Hãy quan sát Hà Nội, thủ đô của “phẩm cách con người”, “đỉnh cao trí tuệ và tiến bộ”. Hãy tìm cho Hà Nội một định nghĩa chính xác về hạnh phúc. Vậy đó, những hình ảnh sống động và đích thực của Hà Nội và đang của Sàigòn dưới mầu cờ kiêu ngạo ngu xuẩn và sắt máu căm hờn. Vinh hoa của Sàigòn đã bị đẩy ra vỉa hè. Người mẹ ngồi cau mày trong nắng sớm. Người cha đứng nhăn nhó dưới mưa chiều. Gửi gì về cho Sàigòn? Một an ủi, một mơ ước hay một hứa hẹn? Thành phố, cây cỏ, nắng mưa, chim muông, người vật, vỉa hè, góc quán, gửi gì về? Đường Lê Duẩn (Sài Gòn 1986) Gửi gì về? Gửi gì về cho vừa đủ một quê hương bỏ lại, một quê hương chất ngất sầu đau? Gửi gì về cho ruộng đồng bát ngát, cho sông nước mênh mông? Gửi gì về cho con kinh mới đào, cho con lạch vừa khơi? Gửi gì về cho bờ xa, cho bãi rộng? Gửi gì về cho đồi thấp, cho núi cao? Gửi gì về cho rừng sâu, cho biển thẳm. Gửi gì về cho lúa vào sữa, cho heo may giải đồng? Gửi gì về cho hoa bưởi, hoa cau? Gửi gì về cho sầu riêng, măng cụt? Gửi gì về cho câu hò lan tỏa, cho điệu ru ấm nồng? Gửi gì về cho đường thơm tình tự, cho ngói đình ái ân, cho nhịp cầu thương nhớ? Gửi gì về? Gửi gì về? ôi quê hương, chỉ khi khuất xa gần như vĩnh biệt, ta mới biết tương tư mùi rơm mới, mùi khói đốt đồng, mùi hoa hèn, mùi cỏ dại. Và ta mới thấy cái đơn giản nhất, cái bình thường nhất đều đã bùi ngùi nhất trên khói sóng hoàng hôn. Không có nơi nào đẹp hơn quê hương ta. Gửi gì về? Cho gửi một mơ ước trở lại. Sài Gòn 1988 *** Mơ ước trở lại thắp sáng hồi tưởng. Và bằng hồi tưởng ta về với quê hương ta. Vùng biển ta đó. Từ cao nhìn xuống. Nha Trang cát trắng với cầu Bóng huyền thoại. Rừng đồi ta đó. Đà Lạt nên thơ. Này hồ Than Thở. Nọ rừng Ái Ân. Ta vào trường Võ Bị tìm lại dấu chân cũ, hình bóng xưa của những chàng trai “vốn giòng hào kiệt”. Những chàng trai ấy, bây giờ, ở đâu. Hẳn nhiên, nhiều người đã “áo bào thay chiếu anh về đất”, về tận lòng đất Việt Nam. Để Việt Nam ngạo nghễ muôn đời. Nhiều người đã ra đi, mang theo tâm sự Đặng Dung, chỉ mong sớm về giải thoát non sông kẻo chết già. Ta rời trường Võ Bị Quốc Gia sang trường Yersin chứa chan kỷ niệm. Ngôi trường còn đó, buồn bã với cảnh ngộ đổi lốt thay tên. Ngôi trường tự nhiên mơ mộng, một ngày nào, học trò cũ về làm xôn xao dĩ vãng. Hồi tưởng cho ta đôi cánh tự do bay. Một thoáng vỗ của hồi tưởng, ta đã ra công trường Hòa Bình của Đà Lạt mờ cao. Rồi ta lại bay qua đồi, vào thăm viện Đại Học Đà Lạt kiếm chút an ủi hiện tại hiu hắt. Và ta về, ta về cùng nắng ấm Sàigòn. Con đò đưa khách sang Thủ Thiêm. Cột cờ Thủ Ngữ khóc thầm vì vắng bóng lá cờ vàng sọc đỏ thân yêu. Bến Bạch Đằng đó. Phố Tự Do kia. Tiếng còi tầu nào réo gọi chuyện viễn du. Đợt sóng nào nhắc nhở vạt hoàng hôn sông khói. Ôi, Sàigòn, một miếng Sàigòn thôi, đã đủ lòng ta ấm áp phương xa. Tưởng chừng hồn ta đang là đà trên Sàigòn. Hồn ta là phố phường cũ, là dinh thự xưa. Tự nhiên, ta muốn thầm thì với Sàigòn: “Em, Sàigòn ra sao? Còn nguyên màu áo, còn nuôi chiêm bao, còn chờ đợi nhau? Em, đường thương lối nhớ, cỏ cây quá khứ, nhạc chim lời gió, nước mắt mây mưa, đã mất gì chưa”? Đừng, đừng mất gì cả, bởi vì ta vẫn mơ một ngày về. Sài Gòn 1991 *** Hưng vong là luật chung của muôn đời. Dâu biển đã xẩy ra cho cả tư tưởng, nói chi một triều đại, một chế độ hay một chủ nghĩa. Một thi sĩ đã định nghĩa cái không bao giờ có dâu biển, không bao giờ chết: Ai cũng chết cả rồi Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam Một thi sĩ khác định nghĩa thêm cái không bao giờ mất: Me ơi, tha thiết lắm rồi Mất gì không mất tình người Việt Nam Người Việt Nam vĩnh viễn. Tình Việt Nam vĩnh cửu. Đã không mất con người thì không bao giờ mất quê hương. Và những kỷ niệm thuộc về quê hương cũng không mất. Còn đó, Sàigòn với Nhà Thờ Đức Bà, với Thảo Cầm Viên, với Bảo Tàng Viện, với Lăng Ông Bà Chiểu. Còn đó, Huế với bầy phượng vĩ đỏ ối mùa hè rắc rơi sắc máu trên lối Huế cổ kính, thầm lặng. Còn đó, Huế với lăng tẩm, điện đài. Còn đó, Huế với “dấu xưa xe ngựa” với “nền cũ lâu đài”. Còn đó, linh hồn tiền nhân bảng lảng trên lớp rêu phong, trên những thềm bậc vang bóng một thời. Hỡi tiền nhân bất hủ, có phải người không chết, người chỉ Tĩnh Tâm dưới hồ sen. Và ý nghĩa sống của người vẫn vàng thắm nhụy sen, vẫn thơm ngát hoa sen. Ta thèm rung một hồi chuông Thiên Mụ gọi về những xao xuyến Huế ở mỗi hàng cây, mỗi viên gạch, mỗi bờ tường, mỗi mái ngói, mỗi vạc đỉnh, mỗi hoa lăn của một triều đại đã khuất lấp ngậm ngùi. Còn đó, Huế với sông Hương núi Ngự, với cầu Trường Tiền, cầu Bạch Hổ. Còn đó, Huế với những lá đò dìu nhẹ trên mặt nước bình yên. Còn đó, Huế với giòng An Cựu “nắng đục mưa trong” và những con thuyền đêm đêm chở đầy trăng xuôi về Vĩ Dạ. Sao em không về thăm thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá. xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền Gió theo lối gió mây đường mây Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có mặn mà Còn đó, Huế, còn nguyên đó, bờ sông với những cô nàng giặt chiếu, với những nụ cười thật đẹp, thật thơ. Còn đó sân trường Đồng Khánh bướm trắng tung bay. Còn đó cổng Viện Đại Học giấc mơ xanh thắm. Còn đó, còn nguyên đó, khi ta về. Còn đó, Hà Nội với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, với con đường Cổ Ngư thơ mộng thuở học trò. Còn đó đền Quan Thánh. Còn đó đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, hồ Gươm, tháp Rùa. Còn đó khu Giảng Võ Văn Miếu, chùa Một Cột. Còn đó 36 phố phường… Còn quê hương Việt Nam. Còn nguyên vẹn. Nếu ta đừng quên và đừng bao giờ đánh mất tình người Việt Nam, dù đi đến cuối đường oan biệt xứ. Mãi mãi Việt Nam. Mãi mãi Việt Nam… DUYÊN ANH
|
|
|
Post by trandzantieng on Dec 6, 2022 10:25:09 GMT 9
Bài Đọc Trên Đài Phát Thanh Tưởng Niệm Duyên Anh
06 Tháng Hai 2017 Kính Thưa quý thính giả, nhà văn Duyên Anh mất đã đúng 20 năm, thụyvi sẽ đưa quý vị trở ngược về quá khứ, để nhớ lại những thành công, những hệ lụy liên quan đến đời sống rất con người của một nhà văn nức tiếng một thời của miền Nam VN. Nhà văn Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, ngoài ra ông còn những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học ở Thái Bình và học trung học ở Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề như : bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta và dạy thổi sáo trúc. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy.... viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc... Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau biến cố ngày 30 tháng 4, 1975, Duyên Anh cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền, bị nhà cầm quyền Cộng Sản liệt danh là 1 trong 10 nghệ sĩ nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và các tác phẩm của ông bị cấm lưu hành. Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4, 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 , thời gian sau ông vượt biển đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Là một trong những nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975, Duyên Anh được biết đến như một con người nhiều tài, nhưng cao ngạo….Chính vì bản tánh này, ông khiến nhiều người bất bình. Duyên Anh làm thơ rất sớm, đến những năm cuối của thập niên 50, ông bắt đầu viết văn xuôi. Viết để thỏa mãn giấc mơ cầm bút, nhưng không đăng ở bất cứ tờ báo nào. Mãi đến năm 1960, ông được nhà văn Trúc Sĩ dẫn tới diện kiến nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, lúc đó đang làm chủ bút tờ Chỉ Đạo.- và, Bài thơ "Bà mẹ Tây Ninh" - sáng tác đầu tiên của ông được đăng trên tờ báo này. Một tháng sau, thêm truyện ngắn "Hoa Thiên Lý", rồi "Con sáo của em tôi" tiếp tục có mặt trên tờ Chỉ Đạo, với lời giới thiệu "bốc" tới mây xanh của Nguyễn Mạnh Côn. Ngay lập tức, ông được người đọc đón nhận nồng nhiệt. Mỗi truyện được trả nhuận bút 5.000 đồng, thời đó mua được hơn một cây vàng. Nguyễn Mạnh Côn tỏ ra rất ưu ái, tận tình nâng đỡ, sửa chữa bài cho Duyên Anh để các sáng tác của ông được thường xuyên xuất hiện trên văn đàn. Đến năm 1961, khi ông Nguyễn Mạnh Côn rời tạp chí Chỉ Đạo thì Duyên Anh đã thành danh. Ông bắt đầu tung hoành làng báo Sài Gòn với nhiều bút danh khác nhau, nhưng chính bút hiệu Thương Sinh với một giọng văn châm chọc, hết sức cay độc khiến nhiều phe phái trong chính quyền rất e ngại. Thời đó, có hai nhà văn làm báo mà người ta sợ nhất, đó là Chu Tử với bút hiệu Kha Trấn Ác, trong mục Ao Thả Vịt và Thương Sinh. Nạn nhân của Duyên Anh không phải chỉ toàn là người xấu, mà nhiều khi chỉ là một ai đó bị ông ghét, cũng bị ông lôi lên mặt báo, "đánh" không thương tiếc! Sự kiêu căng, miệng lưỡi cay độc của ông đã gây mích lòng cho không ít người. Thậm chí, sau này, lúc ở hải ngoại, ông Nguyễn Cao Kỳ đã bắn tiếng với ông Tô Văn Lai chủ trung tâm Thúy Nga Paris rằng: "Bảo, thằng Duyên Anh, câm mỏm nó lại ! " Nhà văn Hoàng Hải Thủy cũng có lần nói về Duyên Anh :Tôi quen biết với Duyên Anh từ lâu lắm rồi, từ ngày anh mới bắt đầu viết tiểu thuyết ở nhật báo Xây Dựng và chưa nổi tiếng lắm. Sự giao du thân mật ấy giữa Duyên Anh và tôi kéo dài đã 10 năm. Thời đó chúng tôi cùng bắt đầu viết loại mục chửi bới trên nhật báo, anh ký tên là Thương Sinh và tôi ký Gã Thâm, và giữa Thương Sinh và Gã Thâm từng có lần chửi nhau trên báo tưng bừng. Kể về tính xấu - nếu muốn nói thì Duyên Anh có hơi nhiều, nhưng, ta nên gọi đó là những khuyết điểm hơn là những tính xấu. Khuyết điểm nặng nhất của Duyên Anh, theo tôi, là anh thành công trong nghề văn quá sớm, quá dễ. Anh lại có tài viết hơn người nên anh cóc cần ai cả. Sự kiện này rất khó chịu cho những ai phải cộng tác với anh trong những tờ do anh chủ biên. Chúng tôi có cảm giác bị anh coi thường, anh ôm lấy viết hết. Do đó, chúng tôi nhận thấy anh đối xử với anh em chúng tôi không tốt bằng anh Chu Tử, anh Nguyễn Mạnh Côn. Sở trường của con người ta nhiều khi cũng chính là sở đoản. Bởi vì anh viết được hơn người, mau hơn người, nhưng, Duyên Anh chỉ là người viết tốt nhưng chưa phải là người chủ biên tốt. Tuy nhiên, vì tôi hiểu rõ Duyên Anh hơn nhiều người, tôi tin rằng nếu Duyên Anh gặp nhiều thất bại tan tành như anh Chu Tử chẳng hạn, hoặc khi anh 50 tuổi như anh Nguyễn Mạnh Côn, lúc ấy, Duyên Anh sẽ biết quí anh em hơn biết thấy cần anh em hơn. Chỉ khi đó anh mới trở thành cái cột trụ vững chắc cho một tờ báo. Duyên Anh thành danh hãy còn trẻ lắm chưa tới 40 mà lẫy lừng giàu có rồi. Tôi nghĩ rằng anh sẽ còn có dịp học hỏi nhiều ở đời. Duyên Anh phách lối, tánh khí thất thường, Điều đó chẳng phải là bạn thân của anh ta, người ngoài nhìn cũng có thể biết. Phần nào sự tự kiêu của anh có lý. Với một số vốn học ít ỏi, một thân một mình di cư vào Nam, thời gian đầu vào Sàigòn anh phải sống trong Nhà Hát Lớn cùng với cả ngàn gia đình đồng bào di cư nghèo khác, mỗi gia đình chỉ chiếm được một cái chiếu. Duyên Anh, khi ấy chỉ là Vũ Mộng Long, đã phải làm nhiều thứ nghề lặt vặt để kiếm sống. Có lần chính Duyên Anh đã viết trên một hồi ký nào đó của anh, Duyên Anh nói với tôi rằng cho đến năm anh ngoài hai mươi tuổi, chưa bao giờ anh ôm mộng trở thành văn sĩ. Anh viết truyện ngắn vì một trường hợp ngẫu nhiên: Năm 1961, 1962 gì đó anh xin được một chân thư ký trong Nha Tổng Giám Đốc Thanh Niên thời đó do ông Cao Xuân Vỹ nắm. Nha này xuất bản 1 tờ nguyệt san với tiền của chính phủ, báo in ra phát không cho những ty Thanh Niên tỉnh và chàng thư ký trẻ tuổi được dùng vào việc ấn hành tờ báo. Duyên Anh đọc bản thảo và thấy rằng thiên hạ viết dở quá, mình cũng có thể viết được như thế và chàng bèn tập viết. Rồi truyện ngắn đầu tay của Duyên Anh được nhà văn Nguyễn Mạnh Côn viết lại, rồi từ truyện ngắn này, và tiếp theo những truyện ngắn khác cũng do Nguyễn Mạnh Côn o bế và nâng Duyên Anh từ từ bay lên. Cuộc sống gia đình của Duyên Anh, theo Vũ Trung Hiền đã biết từ những lần đến thăm Duyên Anh ở Saigon. Vũ Trung Hiền kể : Cuộc hôn nhân của anh đã có những ngày tháng hạnh phúc; nhưng cuộc sống hôn nhân êm đềm này không được dài lắm. Tôi cũng phải nói ngay, tình trạng này, một phần, do anh gây ra. Duyên Anh không phải là một người chồng tốt, nếu dựa trên những tiêu chuẩn bất cứ người vợ nào cũng mong muốn nơi chồng mình: cơm nhà quà vợ, không bê tha rượu chè, bài bạc, trai gái… Duyên Anh đã, ít nhiều, vướng vào mấy thứ này, gây buồn phiền cho vợ con anh. Những lúc gây buồn khổ cho gia đình, đôi khi Duyên Anh cũng biết ăn năn, dùng văn thơ, và cả âm nhạc nữa, để xin lỗi vợ con. Điển hình là ca khúc Về Với Em, Duyên Anh đã nhờ Mai Hương hát để bày tỏ lòng yêu thương và ân hận của mình đối với chị Duyên Anh, sau một lần bỏ nhà đi hoang Tôi biết, chị Duyên Anh rất thương yêu anh, và có lẽ, cũng là người oán ghét anh nhất đời. Tôi đã chứng kiến sự tận tụy, lo lắng của chị đối với anh thời gian anh vừa bị bắt, sự chu đáo của chị những lần chuẩn bị đi thăm anh ở các trại tù, và cũng được nghe chị kể nỗi đau khổ, cả tinh thần lẫn thể xác, chị đã chịu đựng, trong đời sống hôn nhân với anh. Nhưng đó là cái giá một số bà vợ lấy chồng nghệ sĩ phải trả. Nhất là, một nghệ sĩ có quá nhiều tài năng như Duyên Anh. Nguời ta đã chẳng từng nói lắm tài lắm tật hay sao? Sau ngày 30-4-1975, ông bị bắt ngày 8-4-1976 nhốt tù ba năm ở Phan Đăng Lưu và khám Chí Hòa rồi bị đưa đi cải tạo ba năm ở Xuyên Mộc và Hàm Tân. Được thả tự do đầu tháng 9-1981 nhờ các hội Ân xá và Văn bút quốc tế can thiệp nhưng lại không được đi Pháp theo diện chính thức với gia đình tháng 4-1982. Do đó ông vượt biên năm 1983 bằng thuyền và định cư tại Pháp từ 20-10-1983, tiếp tục viết truyện, thơ, làm phim và vidéo (viết dẫn giải và xướng ngôn cho Paris By Night) và làm nhạc. Duyên Anh bị tấn công trên báo chí cộng sản trong nước cũng như của người Việt hải ngoại. Ông can đảm vượt qua nhiều nghịch cảnh, bơi ngược giòng theo triết lý mới mà ông đặt tên là triết lý sống của "con gọng vó." Cuối đời, Duyên Anh càng bị giới làm văn học và báo chí người Việt hải ngoại cô lập, ít nhắc nhở đến. Ở hải ngoại, Duyên Anh viết hồi ký (Nhà Tù, Nhìn Lại Những Bến Bờ), in thơ về thời bị tù và học tập, xuất bản truyện chống Cộng (bộ Hồn Say Phấn Lạ, ..) và đề cao tuổi trẻ (Bầy Sư Tử Lãng Mạn, Một Người Tên Là Trần Văn Bá, v.v.). Có lúc ông viết lại phiếm luận với bút hiệu Đồng-Nai Tư-Mã trên tạp chí Ngày Nay của ông Hồng Long tại tiểu bang (Kansas) và định tái xuất báo Con Ong, nhưng ông đã sớm bỏ ý định làm báo ở Bắc Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra tiếng Pháp và người Pháp quay phim. Gần cuối đời, ông đưa người Mỹ vào tiểu thuyết và viết đề cao về ca dao và tình tự dân tộc. Chúng ta đều biết, Cộng Sản Việt Nam rất thâm hiểm, họ biết không một nhà văn Việt Nam nào, trong nước cũng như hải ngoại, trước và sau 1975, chống cộng mãnh liệt và có hiệu quả như Duyên Anh. Cho nên, trước khi, vì một số vận động và trao đổi quốc tế, phải trả tự do cho anh, họ đã bày trò dựng nên những tin bẩn thỉu, rỉ tai, mớm lời cho một số người ghen ghét Duyên Anh, trong tù cũng như ở bên ngoài. Mục đích của cộng sản là triệt hạ uy tín chống cộng của Duyên Anh, để khi thả anh ra, chữ nghĩa của anh không còn hiệu lực nữa. Cộng Sản Hà nội quỷ quyệt ở chỗ họ dùng bọn nằm vùng miệng lưỡi xảo trá, rỉ tai bôi lọ.... Họ mượn tay chính những người ở trong hàng ngũ quốc gia tấn công Duyên Anh. Và điều đáng buồn là một số người trong chúng ta đã mắc mưu cộng sản. Kẻ thù chính của chúng ta là cộng sản Hà nội, chúng ta không đánh; lại nhè anh em trong nhà mà đánh dập đánh vùi, đánh không nương tay. Tại hải ngoại, Vào ngày 30 tháng 4 năm 1988 khi đi ra ngoài tại Cali, bất ngờ, một người đàn ông lạ mặt nhào lại tấn công hành hung Duyên Anh, cú đánh trên đầu quá nặng khiến ông bất tỉnh và đem đến tình trạng liệt một bên, mất trí nhớ và không nói được. Ông phải điều trị và với tất cả ý chí mãnh liệt, chỉ vài năm sau ông phục hồi và cầm bút trở lại. Vụ hành hung này dấy động nhiều câu hỏi là do đâu? Có người đặt giả thuyết là Duyên Anh đụng chạm với một nhóm chính trị. Có người nghi ngờ là do những ông Tướng mướn người dằn mặt, lại có tin đồn là do ghen tương... Tuy nhiên, sau khi phục hồi thì Duyên Anh biết ai đánh mình, nhưng ông không nêu danh tính, chỉ nói rằng ông đã tha thứ cho họ !?.... Về đời tư, Lúc Duyên Anh chưa di cư,ông đã có vợ và một đứa con gái, nhưng khi vào miền Nam ông đi chỉ có một mình. Sau này, sống tại Saigon ông cưới bà Nguyễn thị Ngọc Phương sinh quán tại Long Xuyên, người vợ này, tức là nhân vật trong tác phẩm Nhà Tôi - cuốn truyện đã được một nhà sản suất mua bản quyền và dựng thành phim. Duyên Anh và bà Ngọc Phương có với nhau 3 người con : 2 người con trai và 1 người con gái. Trong ba người con của Duyên Anh, người con gái tên Thiên Hương của ông bà thừa hưởng nhiều tài năng của bố nhất. Cô bé thông thạo Anh văn, Pháp văn, chơi piano và biết viết văn tiếng Việt . Đau đớn thay, sau khi Duyên Anh bị hành hung, lúc còn nằm điều trị thương tích tại Pháp thì cũng trong năm này tức cuối năm 1988, Cháu Thiên Hương, và chồng của cháu, đều tử nạn, trong tai nạn thảm khốc trên chuyến bay từ Hà Nội đến Thái Lan bị rơi. Trước những tai oan dồn dập, bà Duyên Anh coi như toàn toàn suy sụp, bà gần như bị bịnh rối loạn tâm trí. Con người Duyên Anh hình như có hai con người đối lập. văn của Duyên Anh cũng thế, một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ấp tình người. Và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm kẻ thù với những bài viết sống sượng và cay độc . Mặc dù thế, nhưng ông vẫn được đánh giá là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam, sức sáng tạo dồi dào: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm. Vào ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp. Trong tang lễ vào những ngày mưa dầm thê thảm, ngoài một số bạn bè tại Pháp đến dự, còn có ký giả Hồng Phúc , có ông Vũ Trung Hiền và ông Đặng Xuân Côn - từ Hoa Kỳ bay sang Pháp để tiển đưa nhà văn Duyên Anh. thụyvi kính mời quý vị thưởng thức một nhạc phẩm được Phạm Duy đặt lời, và Ngọc Chánh viết nhạc cho cuốn phim VẾT THÙ TRÊN LƯNG NGỰA HOANG được phỏng theo cuốn tiểu thuyết mang cùng tên của Duyên Anh. nhạc phẩm này được trình bày do cố ca sĩ DUY KHÁNH . ( NHẠC ) thụyvi trân trọng cảm ơn quý vị đã theo dỏi chương trình, thụyvi xin kính chào tạm biệt, và, hẹn vào chương trình kỳ tới cũng vào ngày và giờ này tuần tới.... thụyvi 03-02-2017
|
|
|
Post by trandzantieng on Dec 6, 2022 10:39:28 GMT 9
Duyên Anh14 Tháng Hai 2017 Vĩnh Phúc (Cựu BBC) Hôm nay, mở Email, tôi thấy một bài, tựa đề 20 Năm Nhà Văn Duyên Anh Lìa Cõi Tạm. Kèm theo, có ít lời của Nguyễn Tiến Đức và ba bài viết về Duyên Anh của Nguyễn Hữu Ích, Đinh Tiến Luyện, và Julie. Tôi biết gì về Duyên Anh?
Cái Email này khiến tôi không thể làm thinh sau mấy năm qua đã quyết định gác bút, bế môn tạ khách và diện bích. Lý do khiến tôi cầm bút lại, là vì lời nhắc nhở hai mươi năm nhà văn Duyên Anh lìa cõi tạm đã gây xúc động mạnh trong tôi. Tôi ngồi lặng người, để mặc cho bao nhiêu ký ức về Duyên Anh chợt dồn dập trở về. Thì ra, những sự việc tôi tưởng đã có thể quên được sau quyết định gác ngoài tai mọi chuyện đời để chỉ sống với mình, nay vẫn còn đậm nét và nguyên vẹn như mới xảy ra hôm qua, tuần trước. Tôi còn nhớ như in, chiều ngày 30 tháng chạp năm Bính Tý, từ Luân Đôn tôi bàng hoàng nhận được tin Duyên Anh qua đời ở Paris ngày hôm trước. Tính theo dương lịch thì là ngày 6 tháng 2 năm 1997. Tang lễ cử hành 10 giờ sáng 14/2/1997, hoả thiêu lúc 14 giờ cùng ngày. Cuối cùng, tôi đi tới quyết định phải kể lại những điều tôi biết về Duyên Anh, để giúp những người ái mộ nhà văn hiểu rõ hơn về anh, đồng thời đính chính những hiểu lầm của người đời, do vô tình hay cố ý. Tác phẩm của Duyên Anh. Nguồn: duyenanhvumonglong.wordpress.com Ngay khi Duyên Anh sống trên trại đảo Pulau Bidong thuộc Mã Lai chờ được sang Pháp xum họp với vợ con, anh đã liên lạc với tôi ở Ban Việt ngữ đài BBC Luân Đôn. Và cũng vào thời gian này, rắc rối đã xảy ra. Hồi đó, có người kể lại với tôi rằng một số người trên đảo nghe nói là Duyên Anh làm ăng ten khi đi tù cộng sản, nên họ dọa đánh. Cũng trong thời gian này, con gái Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Hương gửi cho tôi và giáo sư Patrick Honey (cố vấn cho Ban Việt Ngữ – BBC ) bản thảo hai truyện Đồi Fanta, và Một Người Nga Ở Saigon. Tôi thấy trong Đồi Fanta tác giả mượn lời mấy đứa trẻ bụi đời, để chửi các nhân vật lãnh đạo cũ của VNCH như Nguyễn Vă Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, hoặc nhà văn Mai Thảo. Tôi dùng bút chì đánh dấu những chỗ đó rồi chú thích đề nghị Duyên Anh bỏ các đoạn đó đi, với lý do chúng chỉ làm rẻ tác phẩm mà thôi. Sau đó tôi cảm động và ngạc nhiên khi thấy Duyên Anh nghe theo lời khuyên mà bỏ những đọan văn đó. Tôi mừng vì nghĩ rằng môt con người cao ngạo và bướng bỉnh như Duyên Anh mà bây giờ biết “tu tỉnh” và biết nghe lời khuyên hợp lý rồi chăng? Nhưng không lâu sau thì chứng nào vẫn tật nấy khiến tạo ra biết bao nhiêu là hệ lụy. Tuy nhiên, trong mối giao tình suốt gần hai thập niên 1980 – 90, đã có những lần Duyên Anh chịu lắng nghe tôi. Có thể nói rằng Duyên Anh mang một cuộc sống nội tâm nhiều dằn vặt. Phải chăng điều này tạo ra một Duyên Anh bề ngoài khinh mạn, bướng bỉnh, phá phách? Có những chuyện riêng tư dường như Duyên Anh chỉ giữ kín trong lòng không hề thố lộ với ai, kể cả người bạn thân nhất, từng gắn bó với Duyên Anh từ thời trai trẻ hàn vi hồi mới di cư, từng hy sinh rất nhiều cho Duyên Anh cả về vật chất lẫn tinh thần, là Đặng Xuân Côn. (Đặng Xuân Côn lớn tuổi hơn Duyên Anh nhưng lấy cô em vợ Duyên Anh – cô Minh ). Đây là ví dụ cho thấy tình thân giữa hai người bạn, và sự hy sinh của Đặng Xuân Côn dành cho Duyên Anh như thế nào: Hồi hai người còn nghèo, với đồng lương thư ký và chỉ đi làm bằng chiếc xe mô-bi-lét cọc cạch, mà Đặng Xuân Côn dám mua chiếc xe vespa mới toanh đầu đời cho Duyên Anh. Và ba lần vợ Duyên Anh đi sanh, thì chính Đặng Xuân Côn là người vào bảo sanh viện trông nom săn sóc sản phụ và hài nhi, khiến cho các bác sĩ và y tá cứ tưởng Đặng Xuân Côn là cha mấy đứa trẻ! Tôi nghĩ rằng hệ lụy đeo đẳng cuộc đời Duyên Anh có lẽ đã từ khi Duyên Anh kết hôn. Duyên Anh theo đạo Phật trong khi vợ theo đạo Chúa. Song hình như Duyên Anh cũng không quan tâm chuyện tôn giáo. Nguyễn Ngọc Phương – vợ Duyên Anh – là con nhà đại điền chủ Mìền Nam Nguyễn Ngọc Đề, em Phó Tổng thống thời đệ Nhất Cộng Hòa Nguyễn Ngọc Thơ. Ở Long Xuyên có con kinh gọi là Kinh Ông Đề, chính do cha vợ Duyên Anh cho đào để đem nước vô giúp dân làm ruộng. Dù lấy vợ nhà giàu và có thế lực nhưng Duyên Anh hầu như không nhờ nhà vợ gì cả, vì mẹ ruột Ngọc Phương mất sớm, và ba chị em gái gặp bà dì ghẻ khắc nghiệt. Tuy vậy cũng khó tránh được “lời ong tiếng ve” và chính Duyên Anh sau này có viết mấy lần về thái độ xem thường của cậu em vợ, để rồi khi đã có danh vọng thì Duyên Anh “tuyết hận “ (chữ của Duyên Anh). Sau này nhờ có dịp tiếp xúc nhiều nên tôi được biết khá rõ về tính tình của vợ Duyên Anh. Chính vì giữa hai vợ chồng không có được mối quan hệ hoà thuận kẻ tung người hứng, hiểu nhau, thông cảm cho nhau, nên gia đình thỉnh thoảnh xảy ra cảnh bất hoà. Theo ông Trần Kim Tuyến, hồi những năm trước 1975, cứ trung bình khoảng 2 – 3 tháng, vợ Duyên Anh lại đến khóc lóc nhờ ông và linh mục Thiên Hổ (Nguyễn Quang Lãm, báo Xây Dựng ) đi tìm Duyên Anh vì anh chàng cãi nhau với vợ, đã bỏ nhà đi biệt. Hai vị niên trưởng lại phải cho người đi dò la tin tức Duyên Anh, rồi khuyên nhủ hắn về với gia đình. Đã đành vợ chồng nhà nào cũng đôi khi có chuyện mà người ta gọi là “bát đĩa có khi xô”. Nhưng với Duyên Anh hình như tình trạng này không phải chỉ xảy ra “thỉnh thoảng”. Sau này, khi đã lâm cảnh mất nước, mất nhà, thân đi tù đi tội, thế mà cũng vẫn còn cảnh xào xáo lục đục. Lắm khi tôi cứ giả thiết: nếu Duyên Anh lấy một người vợ tính tình nhu mì, biết cách chiều chồng, biết nhẫn nhịn chịu đựng, thì có lẽ Duyên Anh đã không gây gỗ và có cuộc sống gia đình thật hạnh phúc. Duyên Anh ham bạn, rồi khi có sẵn đồng tiền thì lại ham chơi vung vít. Khi sống cuộc đời tỵ nạn ở Paris, không còn tiền để vung vít nữa, nhưng tính ham bạn vẫn còn. Cộng thêm hoàn cảnh sống gò bó cả tinh thần lẫn vật chất, nên càng thèm bạn và chỉ còn cách tìm sự khuây khỏa bằng ly rượu. Bởi vậy, trong một lá thư gửi cho tôi hồi cuối năm 1987 trước khi bỏ Paris sang Hoa Kỳ, Duyên Anh viết: thubutduyenanhguivinhphuc Đây là lần duy nhất Duyên Anh thổ lộ tâm sự với tôi, còn bình thường không hề hé môi. Trước đó không lâu, Duyên Anh tỏ ra buồn và cô đơn vì cuộc sống ở Paris không thích hợp với mình, nên đã làm bài thơ Lưu Đầy gồm 100 câu gửi tặng tôi. … Hiểu rõ tâm trạng Duyên Anh, tôi đã viết trả lời bằng bốn câu có giọng hơi trách móc như sau: Đến được đây ta ở lại đây Có ai vui kiếp sống lưu đầy Sao vội quên câu “sông có khúc …” Địa ngục, Thiên đàng, ai tỉnh say? Viết như vậy, nhưng tôi biết rất rõ rằng Paris không phải nơi có thể cầm chân Duyên Anh được. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn cho Duyên Anh biết rằng đất Mỹ cũng chưa hẳn sẽ là nơi thích hợp với anh. Bởi vì bây giờ thời thế đã đổi khác. Những người bạn mà anh tưởng có thể chia bùi sẻ ngọt, những người trước kia đã nhờ vả anh hoặc tỏ ra hào sảng với anh; tất cả bây giờ đã đổi khác rồi. Sẽ khó trông mong gì ở họ. Có kẻ gặp vận may trở nên khá giả, nhưng họ làm mặt xa lạ chứ không nồng nhiệt với anh. Có những người còn tình nghĩa nhưng lâm cảnh “ốc chưa mang nổi mình ốc làm sao mang cọc cho rêu”. Tôi cũng nhắc nhở Duyên Anh rằng nếu vẫn cứ muốn đi Mỹ thì phải rất thận trọng. Vì đất Mỹ vốn có lối sống rất bạo động, mà bằng cách ăn nói, viết lách đụng chạm, gây thù oán với nhiều người của Duyên Anh, thì khó tránh được tai họa. Nhưng sau khi đọc hai lá thư cuối cùng của Duyên Anh viết từ Paris, tôi mới hiểu rõ thêm những nguyên nhân thúc đẩy Duyên Anh có quyết định dứt khoát. Trước nhất là sự việc liên quan đến buổi ra mắt 3 băng cassette nhạc do Duyên Anh thực hiện. Trước đó một thời gian Duyên Anh viết cho tôi, nói rằng cần tiền để làm việc này. May mắn là một mạnh thường quân giúp một khoản lớn, một vài anh em khác ủng hộ những món nhỏ. Và Duyên Anh ngỏ ý “vay” tôi một khoản nhỏ, hứa bán xong cassette sẽ trả ngay. Tôi đã gửi “ủng hộ, chứ không vay mượn gì cả”. Chẳng ngờ, khi buổi ra mắt băng nhạc được tổ chức khá xôm tụ với hy vọng tràn trề của Duyên Anh, thì bất ngờ vợ Duyên Anh ập đến phá đám. Bởi vì vị mạnh thường quân của Duyên Anh là một phụ nữ. Người này tôi đã biết, và khoảng nửa năm trước đã mời tôi cùng Duyên Anh về nhà ăn cơm. Đây là một phụ nữ đã có 2 con gái học trung học và đại học ở Mỹ. “Bị” mời thì tôi đến, nhưng tôi không tỏ ý kiến tán thành hay phản đối mối liên hệ này của Duyên Anh. Vì tôi nghĩ bạn tôi đã quá khôn ngoan từng trải và nhiều tài hoa. Do đó đi đến đâu cũng có rất nhiều người mến mộ. Đó là chuyện … bình thường. Còn tôi “tài hèn trí đoản”, nên chỉ biết an phận mà thôi. Vì vụ đánh ghen bất ngờ đó mà Duyên Anh và vị mạnh thường quân được bằng hữu đưa vội ra cửa sau, biến mất; còn quan khách cứ tự động giải tán trong sững sờ. Sau đó, vợ Duyên Anh tịch thu hết băng nhạc, cho nên không ai mua được, và chỉ một số rất nhỏ bạn thân của Duyên Anh có được các băng nhạc đó mà thôi. Sau vụ này Duyên Anh viết cho tôi: Tất nhiên, không khí gia đình Duyên Anh càng kém vui hơn. Có lẽ sự dằn vặt của vợ đã khiến cho Duyên Anh đi đến quyết định dứt khoát là bỏ gia đình, bỏ Paris để đi Mỹ, mặc dù chưa có quốc tịch Pháp, mà cũng chẳng có một thứ bảo hiểm nào cả, trong đó bảo hiểm du lịch là tối quan trọng. Chính vì vậy mà khi bị hành hung ngày 30/4/ 1988, Duyên Anh lâm vào tình trạng rất bi đát. Trong lá thư cuối viết từ Paris để tỏ cho tôi biết quyết định dứt khoát, Duyên Anh viết: …. Hình như khi sang Mỹ, Duyên Anh đến ở với gia đình Đặng Xuân Côn một thời gian ngắn, rồi đi gặp một số bạn cũ và mới, rồi cũng viết cho một hai tờ báo (hồi đó báo chí VN ở hải ngoại còn phôi thai lắm). Và dĩ nhiên, Duyên Anh cũng đả kích vung vít khá nhiều người. Đụng chạm lớn nhất có lẽ là với mặt trận Hoàng Cơ Minh mà nghe nói hồi đó đang phát triển mạnh lắm. Những hệ lụy do Duyên Anh tạo ra khiến đưa đến vụ hành hung thô bạo. Tôi thương và buồn cho Duyên Anh. Không lâu sau khi Duyên Anh đến Paris từ Pulau Bidong, tôi đã sang ngay để phỏng vấn và tường thuật trên BBC. Còn nhớ, tôi đã chỉ mặt Duyên Anh mà bảo: “Thôi nhé. Từ nay hãy chôn bỏ những thằng Thương Sinh, Bếp Nhỏ, Thập Nguyện v.v… mà chỉ giữ lại thằng Duyên Anh nhé! Để cho người ta thương và tránh gây thù chuốc oán. Vả lại, viết lách và làm báo ngoài này rất khác với trong nước như cách các ông quen làm trước 1975”. Khi đó, Duyên Anh đã cười, trả lời, “Tôi hứa với ông và thề sẽ chỉ giữ lại một thằng Duyên Anh thôi”. Và vợ Duyên Anh đã đúng khi nói: “Anh Duyên Anh thề cá trê chui ống!” Những huyền thoại quanh vụ Duyên Anh bị hành hung. Đã 29 năm rồi, kể từ cái ngày định mệnh 30/4/1988, ngày nhà văn Duyên Anh bị đánh suýt vong mạng. Lúc đó là 5 giờ sáng giờ Luân Đôn. Chuông điện thoại reo, tôi ngạc nhiên bật dậy khỏi giường và lẩm bẩm, “Ai gọi sớm thế!” Đầu giây bên kia, tiếng vợ Duyên Anh khóc và kể rằng chồng bị người ta đánh hôn mê bất tỉnh, chắc là chết mất! Tôi sững sờ, hỏi xem tình trạng Duyên Anh ra sao. Chị Ngọc Phương vẫn mếu máo, bảo, “đưa vào nhà thương, nhưng vì anh Duyên Anh không có giấy tờ, không có bảo hiểm, nên chúng nó vất nằm một xó như con chó, không biết gì cả. Anh làm ơn gọi ngay cho bệnh viện, bảo lãnh cho anh Duyên Anh, thì họa may họ mới chữa cho. Anh làm ngay đi!” Tôi hỏi tên bệnh viện, số điện thoại, và tên bác sĩ trực hôm đó. Vợ Duyên Anh cho mọi chi tiết. Bây giờ tôi chỉ còn nhớ được ông bác sĩ hôm đó có tên Fernandez (?) nên đoán ông ta gốc Mễ. Tôi gọi ngay, xin nói chuyện với ông ta, xưng tên họ, là Senior Producer trong đài BBC London, cho số điện thoại sở cũng như nhà riêng, kèm theo địa chỉ. Tôi cho biết Duyên Anh là một nhà văn nổi tiếng của VNCH, từ Paris sang Mỹ chơi, chứ không phải một tên vô gia cư (homeless ). Và tôi thay mặt gia đình Duyên Anh, hứa sẽ thanh toán mọi phí tổn của bệnh viện. Sau đó, tôi gọi luôn đại diện PEN CLUB International ở Mỹ, nói cho biết sự thể, và đề nghị họ cũng gọi cho bệnh viện để giới thiệu thân thế và sự nghiệp Duyên Anh. Tôi lại gọi đại diện Secours Catholique của Pháp (một Tổ chức Thiện nguyện Công giáo) yêu cầu họ làm tương tự. Rồi sau được biết là Đặng Xuân Côn và con trai lớn của Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Chương đã từ Texas bay sang ngay để săn sóc cho Duyên Anh và lo mọi thủ tục giấy tờ. Tôi yên tâm vì Đặng Xuân Côn và Thiên Chương đã có mặt ngay bên cạnh Duyên Anh. Rồi được biết là sau một thời gian chữa trị trong bệnh viện, Duyên Anh được cho về. Một mạnh thường quân dấu tên (sau này nghe nói là Bùi Bỉnh Bân ), đã bí mật đem Duyên Anh về tiếp tục săn sóc. Theo gia đình Duyên Anh thì người này phải giữ hoàn toàn bí mật, vì vào thời điểm đó người Việt tỵ nạn sống ở Mỹ rất hoang mang sau vụ Duyên Anh bị hành hung. Trước đó đã thỉnh thoảng có người bị khủng bố hoặc sát hại vì bày tỏ thái độ chính trị. Vợ con Duyên Anh còn sợ rằng kẻ thù sẽ tiếp tục truy tìm để làm cho Duyên Anh chết luôn hầu bịt miệng. Cơ quan FBI gặp bế tắc vì cộng đồng người Việt tại Orange County không có ai dám hợp tác để giúp cho cuộc điều tra truy tìm hung thủ. Người ta sợ và hèn! Trong khi đó, lại không thiếu những tin đồn, những lời rỉ tai trong quần chúng cũng như trong giới cầm bút về tình trạng sức khoẻ của Duyên Anh. Những người bạn tốt muốn tìm hiểu sự thực cũng mù tịt, trong khi có người tung tin là Duyên Anh đã về Pháp rồi. Thậm chí có một vài ông trong giới cầm bút còn tuyên bố (như thật) rằng Tổng thống Mỹ ra lệnh dùng một chuyến bay riêng để đưa Duyên Anh về Pháp, có nhân viên FBI đi theo bảo vệ! Ông khác lại nói rằng Tổng thống Pháp ra lệnh đem một máy bay đặc biệt sang đưa Duyên Anh về Pháp. Ấy thế mà người Việt mình quả thật quá dễ tính, cứ tin là có thật. Nực cười nhất là cho đến tận ngày nay mà vẫn còn có nhiều người tin như vậy. Vậy sự thật ra sao? Sự thật là sau một thời gian chờ đợi cho Duyên Anh phục sức để có thể ngồi máy bay về Pháp, tổ chức thiện nguyện Secours Catholique của Pháp gửi tặng 2 (hai) vé máy bay. Một cho Duyên Anh và một cho một người thân đi theo săn sóc. Chỉ có vậy thôi. Và từ đó, tại Paris, mỗi tuần Duyên Anh phải vào bệnh viện mấy lần để cho bác sĩ theo dõi sức khoẻ, rồi được cho tập vận động nhẹ nhàng (physio therapy), nếu không thì sẽ bị bại liệt luôn. Thế rồi, với thời gian, với việc tập vận động, lần lần Duyên Anh sử dụng được tay trái và chân trái. Nghĩa là nửa người bên trái phục hồi tuy không mạnh như xưa, còn nửa bên phải vẫn liệt. Tôi lại luôn luôn gọi qua Paris khích lệ để Duyên Anh đừng nản chí. Tôi thường nhắc Duyên Anh về một thí dụ mà chính Duyên Anh đã viết trong truyện của mình về tấm gương nghị lực và ý chí phấn đấu không chịu khuất phục trước nghịch cảnh, đó là con gọng vó (một loài nhện nước chân dài lêu khêu trông như những gọng của cái vó đánh cá). Trong một đoạn văn, Duyên Anh tả con gọng vó đứng trên một dòng nước chảy xiết. Nó bị dòng nước cuốn xuôi, nhưng không chịu thua. Nó gắng hết sức vượt lên, ngược dòng. Rất nhiều lần nó bị cuốn xuôi, nhưng nó nhất định không chịu khuất phục, lại vượt lên ngược dòng. Và tôi đã nhắc Duyên Anh hình ảnh con gọng vó để cho Duyên Anh lên tinh thần, khắc phục nghịch cảnh. Duyên Anh hứa với tôi sẽ làm như con gọng vó. Qủa nhiên, một thời gian sau, Duyên Anh đã viết bằng tay trái khá nhanh, tuy không đẹp được như ngày xưa viết bằng tay phải. Ngày xưa Duyên Anh nổi tiếng viết khá nhanh, chữ nhỏ li ti như con kiến, và rất đều, thẳng tắp. Bây giờ viết tay trái không nhanh và đẹp bằng, nhưng chữ cũng nhỏ và đều đặn. Họa Vô Đơn Chí
Duyên Anh bị hành hung 30/4/1988, còn đang thời kỳ phục hồi sức lực và gậm nhấm đau thương thì thảm họa lại bất ngờ chụp xuống đầu anh một lần nữa. Đó là sự mất đi đứa con gái duy nhất mà Duyên Anh rất thương vì cháu rất thông minh lanh lợi: Vũ Nguyễn Thiên Hương cùng chồng tử nạn trong chuyến máy bay trở về, sau chuyến đầu tiên về thăm quê nội làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Chồng của Thiên Hương là David McAree, một thanh niên hiền lành gốc Tô Cách Lan. David nói tiếng Việt khá giỏi và trước kia có thời gian làm cho đài BBC. Khoảng gần cuối năm 1988, một hôm vợ Duyên Anh gọi điện thoại than phiền với tôi rằng con gái muốn đem chồng về thăm quê nội, nhưng chị không muốn. Chị cố thuyết phục và ngăn cản, nhưng nó vẫn giữ ý định. Cuối cùng, chị nói, “Tao bảo mày không nghe, mày cứ đi, nếu mày có rớt máy bay mày chết, tao cũng không thương đâu!” Tôi kêu lên, “Sao chị ăn nói gì kỳ cục vậy? Nói gở như vậy, nếu rủi có chuyện gì xảy ra thì chị sẽ ân hận suốt đời đấy!” Rồi vì bận rộn công việc, tôi cũng quên chuyện đó. Cho tới một hôm, em trai của Thiên Hương là Thiên Sơn gọi điện thoại sang báo tin, “Bác ơi! Chị Hương cháu tử nạn máy bay rồi! Bố cháu bảo cháu báo tin cho hai bác.” Tôi như bị điện giật, sững người đi một lát mới hỏi, “Sao? Còn thằng David? Bố cháu nay ra sao?” Sơn đáp: “Cả anh David cũng chết luôn. Bố cháu chỉ ngồi yên, không nói gì.” Thì ra, vợ chồng cháu Hương về Việt Nam, ghé về quê nội thăm họ hàng. Ở chơi ít ngày, David còn nhảy xuống tắm ở ao làng, cả làng ra xem. Không ngờ trên chuyến bay đến Bangkok trước khi về Pháp thì máy bay đâm xuống ruộng lúa khi gần tới thủ đô Thái Lan làm 76 người thiệt mạng. Bà mẹ góa của David McAree xin đem hài cốt của con trai và con dâu về chôn trong hai ngôi mộ cạnh nhau ở gần nhà, trên Tô Cách Lan. Một thời gian sau, vợ chồng Duyên Anh được Thiên Chương là con trai lớn cùng Đặng Xuân Côn từ Mỹ sang, đưa đi thăm mộ Thiên Hương trên Tô Cách Lan. Họ ghé nhà tôi ở Luân Đôn làm trạm nghỉ chân ít ngày. Vợ Duyên Anh không ngớt cằn nhằn chồng tại sao để cho bà suôi gia giành lãnh hết tiền bồi thường của hãng hàng không. Phần Duyên Anh chỉ nói, “Cái mạng con mình đã mất rồi, còn chẳng giữ được, tranh giành tiền bạc để làm gì?” Những tháng năm cuối đời
Bị tàn tật, chỉ sử dụng có nửa người bên trái, lại bị thêm thảm họa mất con gái, Duyên Anh như chết lịm hẳn đi. Nay trong mắt người vợ, Duyên Anh mất giá hẳn. Cho nên Duyên Anh lại càng phải nghe những lới cằn nhằn vốn đã quá quen thuộc. Tôi không ngạc nhiên khi thấy Duyên Anh rất muốn thoát khỏi không khí tù túng của gia đình. Thỉnh thoảng Duyên Anh sang ở với tôi ít ngày. Trong những dịp như thế, tôi lại đưa lên thành phố Cambridge cho thăm ông Trần Kim Tuyến và nhà văn lão thành Lãng Nhân Phùng Tất Đắc. Những lúc như thế, Duyên Anh vui lắm, cứ như cá gặp nước. Tuy nhiên, tôi vì bận công việc nên khó thu xếp thời giờ để luôn luôn giúp bạn vui. Ngay như ở Paris, không dễ gì để Duyên Anh có thể đi đây đi đó gặp gỡ bạn bè. Họa hoằn mới nhờ được người đem xe đến chở đi. Và người có lòng tốt cũng lại ngại ngùng không muốn làm phật lòng bà Duyên Anh. Hình như bà không muốn chồng đàn đúm, vui vẻ với bạn bè. Ngày xưa Duyên Anh còn khoẻ mạnh, sẵn tiền bạc, danh vọng, thì có lý do chính đáng để bà giữ chồng vì sợ tính nết trăng hoa của chồng đã đành. Nhưng nay Duyên Anh đã tàn phế, thất thế, không tiền bạc, mà bà cũng không muốn cho chồng ra ngoài. Cho nên Duyên Anh lại càng buồn bực khổ sở. Khoảng giữa năm 1995, chẳng hiểu vì sao, Duyên Anh phải kéo lê cái va-ly nhỏ, được bà đầm hàng xóm kêu giùm cái xe taxi, để đến tá túc ở nhà bà Bích Thuận. Rồi bà Bích Thuận bị vợ Duyên Anh gọi điện thoại dùng lời lẽ khá bất nhã. May quá, dịp đó bác sĩ Tuyến đang có mặt ở Paris, liền mua vé máy bay cho Duyên Anh sang Luân Đôn, định đến ở nhà tôi. Nhưng lại gặp rủi, là vì đúng ngày hôm sau tôi phải lên đường đi Việt Nam trong công tác của BBC kéo dài sáu tuần lễ. Nên Duyên Anh phải lên Cambridge ở 3 tuần với bác sĩ Tuyến. Sau đó ông lại mua vé cho Duyên Anh sang Mỹ. Sang California, Duyên Anh được một số đàn em cưu mang: ở với Vũ Trung Hiền một thời gian, rồi Nguyễn Kim Dung đón về ở một thời gian. Trong những năm này, có lần Duyên Anh trở về Paris để lấy quốc tịch Pháp. Nghe nói cũng thời gian này, FBI cử nhân viên sang Paris gặp Duyên Anh, cho biết họ đã tìm ra kẻ hành hung Duyên Anh trước kia. Nếu Duyên Anh muốn thì khởi tố, họ sẽ bắt và đưa hung thủ ra toà. Nhưng Duyên Anh trả lời rằng anh không muốn làm gì nữa. Người Mỹ làm việc quá chậm, còn anh thì đã cảm thấy chán hết mọi chuyện rồi. Thôi hãy bỏ đi! Cho nên vụ án này chìm và bị quên luôn! Không phải tới năm đó Duyên Anh mới “bỏ qua” vụ án. Năm 1991 Duyên Anh sang nhà tôi. Tôi đã phỏng vấn để phát trên đài BBC. Khi được hỏi về vụ bị hành hung, Duyên Anh trả lời không còn thù hận gì những kẻ hành hung mình. Duyên Anh bảo họ cứ sống thản nhiên, đừng lo ngại. Theo anh, có thể người ta nghĩ rằng anh đã sợ. Nhưng ai muốn nghĩ sao tùy ý. Điều sót sa đau đớn cho Duyên Anh là trong những tháng năm cuối đời, khi đã thất thế, thân thể tàn tật, chỉ có thể sử dụng được tay trái và chân trái, nói năng cũng chậm chạp, đầu óc không còn minh mẫn như xưa, nên lắm khi cần phải có người giúp đỡ trong các sinh hoạt hàng ngày, tuy rằng vốn là người nhiều nghị lực và tự ái, Duyên Anh cố gắng, không muốn nhờ vả ai cả. Ngay trong gia đình đã thiếu đi tình thương yêu và sự an ủi săn sóc của một người vợ hiền. Cứ nhìn cảnh Duyên Anh ngồi ăn cũng đủ thấy hoàn cảnh bi đát của anh. Thường thường, Duyên Anh thích được ăn cơm để trong cái tô lớn, có chan canh, để có thể dùng tay trái xúc bằng muỗng mà ăn. Gặp những món ăn cứng, thái miếng to, hay phải gắp bằng đũa, thì chịu chết! Đã vậy, còn bị đổ vãi ngoài ý muốn. Có khi chỉ vì một sự bất ưng ý nào đó, tô cơm đang ăn bị lấy đi, đem đổ vào thùng rác! Cho nên, đã từ lâu rồi, Duyên Anh chỉ muốn vùi đầu vào ly rượu để quên đời, quên sầu tủi. Con người Duyên Anh Cái xấu
Ai cũng biết rõ là Duyên Anh có quá nhiều kẻ thù. Ấy là do tính tình ngang bướng, cao ngạo. Nhưng tại sao Duyên Anh có giọng điệu cao ngạo, xem thường thiên hạ? Tôi đã hỏi thẳng Duyên Anh điều này thì được trả lời, “Ông thấy tôi khi vào đời chưa nổi tiếng, chưa là cái gì cả, chỉ mới viết được có vài bài phóng sự gây tiếng vang, thế là linh mục Trần Du (nhật báo Hoà Bình ) vội “đội” tôi lên. Rồi khi tôi “đánh” vài thằng tướng tá, chính khách tham nhũng và hèn, thì chúng nó “cúp đuôi” lại. Còn các bậc đàn anh mà tôi tin tưởng và quý trọng, hoá ra toàn là phường đạo đức giả hết. Thế thì làm sao tôi không khinh chúng nó, tôi không lộng?” Khi đã có “thế” rồi, Duyên Anh khinh đời, bắt đầu viết lách, ăn nói bừa bãi, xem trời bằng vung, thì thiên hạ lại càng ngán. Cũng có người giữ thái độ “tránh voi…” hoặc “không dây với hủi”. Tôi hỏi Duyên Anh rằng ngày xưa có bao giờ dùng ngòi bút để tống tiền người ta không, thì được trả lời, “Không. Nhưng khi tôi mới tung ra một bài điều tra về chuyện lem nhem ở một bộ — như Bộ Kinh tế chẳng hạn – thì lúc tôi đang ngồi ở bàn phé, tên bộ trưởng cho anh thư ký đem đến cho tôi cái phiếu mua xe lambrette rẻ. Một lát sau, một anh khác đến xưng là người nhà của đối thủ của anh Bộ trưởng, đưa tôi một phong bì. Tôi đang thua phé, thì dại gì không nhận hết? Còn hôm sau tôi viết gì là chuyện khác! Tôi chẳng bênh thằng nào cả. Cần phang là tôi vẫn phang.” Duyên Anh còn có lối ăn nói như vả vào mặt người đối thoại khi không bằng lòng người ta, bất kể thân, sơ. Ví dụ một lần ngồi ăn ỏ Paris, trong cuộc tranh luận với Lê Trạch Lựu (tác giả bài Em Tôi) về âm nhạc và liên quan đến nhạc sĩ Lương Ngọc Châu. Lê Trạch Lựu lớn tiếng khoe: “Mày nên nhớ là tao ở gần anh Lương Ngọc Châu mấy chục năm rồi nhé!” Duyên Anh đáp liền: “Mày ở gần anh ấy mấy chục năm thì mày biết được anh ấy có mấy cái mụn ghẻ, chứ mày biết gì?” Chúng tôi phì cười cả. Một lần khác, tôi và Duyên Anh đang ngồi trong quán thì một anh tên M. ở Paris đã lâu nhưng chẳng có sự nghiệp gì cả, bước vào và đến bàn chúng tôi nói giả lả mấy câu. Chẳng ngờ Duyên Anh chặn liền: “Thôi anh hãy đi về mà tắm đi đã, vì anh hôi lắm không thể nói chuyện văn nghệ với chúng tôi được!” Tôi đá nhẹ vào chân Duyên Anh dưới gầm bàn ra ý trách móc. Thì Duyên Anh nói nhỏ: “Thằng này chuyên đi dò la rồi báo với Pháp những quán ăn, cửa hiệu nào của người Việt trốn thuế, tôi khinh nó!” Lại một lần khác trong quán của bà Đào Viên là bạn chúng tôi, một anh ăn mặc có vẻ diêm dúa, sán đến nịnh Duyên Anh: “Tôi rất quí anh Duyên Anh. Tôi thích những anh em làm văn nghệ như anh.” Ai ngờ Duyên Anh đập lại liền: “Anh biết gì về văn nghệ mà đòi nói chuyện văn nghệ với chúng tôi?” Ngoài ra, Duyên Anh còn bị nhiều người ghét, vì thói viết chửi bới người ta. Số người bị là nạn nhân của Duyên Anh không ít. Đến nỗi một lần mấy thân hữu ở Paris nói với tôi, “Ông Duyên Anh chửi hết mọi người, chẳng từ ai cả. Chỉ còn có ông Vĩnh Phúc là chưa bị chửi thôi. Chưa, chứ không hẳn là không đâu nhé!” Tôi chỉ cười. Chứ còn biết nói sao? Tuy nhiên, hình như Duyên Anh có sự đối xử đặc biệt dành cho tôi? Có những lần bị tôi nói thẳng, sửa lưng, mà Duyên Anh không giận. Hay là Duyên Anh thấy tôi… vô hại, nên không chấp? Tôi thấy một điều là Duyên Anh rất thèm bạn, những người bạn chân tình, không dối trá. Cái tốt
Nhân vô thập toàn. Ngoại trừ các bậc thánh, còn phàm nhân, ai cũng có một phần xấu và một phần tốt. Những bậc hiền sĩ, những người giàu lòng khoan hòa độ lượng thì sẵn sàng bỏ qua cái xấu, lỗi lầm của tha nhân. Riêng tôi dễ chấp nhận một người bạn với cả cái xấu lẫn cái tốt, miễn là người đó thực lòng với tôi. Có người hỏi tôi tại sao Duyên Anh tai tiếng và có nhiều kẻ thù như vậy mà tôi vẫn thân. Tôi chỉ có thể trả lời rằng chắc chắn tôi không thuộc số những người thù ghét Duyên Anh, và vì tôi quí tài của Duyên Anh. Theo tôi, Duyên Anh đa tài. Nếu tài của Văn Cao bao trùm ba lãnh vực thi, nhạc, họa, thì Duyên Anh cũng có khả năng cao khi viết văn, làm thơ, và sọan nhạc. Nhưng trước hết, cũng cần nói rằng Duyên Anh là người thông minh, lanh trí, óc tưởng tượng phong phú, và có một trí nhớ rất đáng nể (khi chưa bị đánh đến chấn thương não bộ). Học hành chẳng có bằng cấp gì, nhưng chịu đọc, chịu học ở trường đời; và sự hiểu biết, sự suy nghĩ vượt xa nhiều người mang những học vị cao. Có lần ngồi uống rượu ở Paris, khi đã líu luỡi rồi, mà Duyên Anh còn có thể đọc liền một lúc 390 câu thơ anh đã làm trong tù. Ở nhà tôi bên Luân Đôn, Duyên Anh nói, “Ông cứ cho tôi uống rượu đi, tôi say, tôi đọc thơ cho ông nghe.” Duyên Anh không thích rượu mạnh, chỉ uống rượu chát, và hai thứ anh ưa nhất là Côte du Rhône và Beaujolais. Tuy nhiên nếu bạn bè khui rựơu hiệu gì, Duyên Anh cũng hoan hỉ chấp nhận, không kén chọn. Về tài năng làm thơ và viết tiểu thuyết của Duyên Anh, hiển nhiên tôi chẳng cần đề cập. Nhưng có lẽ rất ít người biết là Duyên Anh cũng viết nhạc. Và đáng lẽ đã có 3 băng cassette được trình làng khoảng giữa năm 1987. Đó là các băng Ru Đời Phù Ảo, Còn Thoáng Chiêm Bao, và Hôn Em Kỷ Niệm, nhưng buổi ra mắt ở Paris bất ngờ tan vỡ vì bà vợ Duyên Anh đến phá khiến cho Duyên Anh và vị “nữ mạnh thường quân” phải biến mất qua cửa sau. Tất cả các băng nhạc bị vợ Duyên Anh thu hết không cho bán ra. Bởi vậy nhạc của Duyên Anh chìm luôn, chỉ vài bạn thân còn giữ được do Duyên Anh gửi tặng từ trước. Sau này nhân một dịp Mai Hương được mời hát mấy bản ở California, nên có một số người được biết và còn nhớ. Nhạc của Duyên Anh mang nét đặc biệt khác lạ, từ những nốt đang hát khó đoán được những nốt kế tiếp. Chính Mai Hương đã nói rằng “nhạc của Duyên Anh khó hát. Nếu vô ý rất dễ rớt đài.” Ngoài ra, ý và lời đẹp, nhiều tính sáng tạo, giống như ý và lời trong văn và thơ của Duyên Anh vậy. duyenanhvumonglong Theo tôi, trong Duyên Anh có hai con người. Nếu muốn cũng có thể bảo rằng hai con người đó tượng trưng cho hai mặt tốt và xấu của Duyên Anh. Mặt xấu chính là Duyên Anh làm báo, dưới những bút hiệu như Thương Sinh, Bếp Nhỏ, Thập Nguyên, Mõ Báo v.v., vì “đánh đấm” lung tung nên bị nhiều người oán ghét. Còn Duyên Anh nhà văn, nhất là nhà văn của tuổi thơ, nhà văn viết cho tuổi ô mai, Duyên Anh chủ trương tuần báo Tuổi Ngọc, thì trái hẳn lại, được nhiều người thương. Có ai đã đọc Con Sáo Của Em Tôi mà không thấy lòng mình chùng lại và dám nói là thù ghét Duyên Anh? Nguyễn Mạnh Côn là người đầu tiên đọc truyện ngắn này, thích quá, nên giới thiệu và chọn đăng ngay. Rồi Nguyễn Mạnh Côn bảo Duyên Anh, “Cậu viết hay quá! Nhưng tôi sợ rằng viết như thế này, cậu sẽ không thọ!”. Và câu nói của Nguyễn Mạnh Côn đã như một lời tiên tri: Duyên Anh lìa đời cách đây 20 năm, khi mới 63 tuổi. Vào thời buổi này, với những điều kiện vật chất văn minh và đầy đủ, mà sống có bấy nhiêu năm thì quả là “yểu mệnh” thật. Vĩnh Phúc Tháng 2, 2017 Nguồn DCVOnline
|
|