Post by Cửu Long Giang on Nov 17, 2011 16:21:03 GMT 9
Khúc Lan Can Gãy
- Nguyễn Thị Mỹ Thanh
1.
Những tiếng chuông liên tục vang lên nghe rộn ràng suốt cả khoảng sân vuông. Giống như những tiếng reo vui đang nổi dậy trong lòng. Khoảng không gian vây quanh chợt sống động lạ thường. Tôi cũng nhận thấy trong tôi sự sống động ấy. Cảm xúc nào đây? Hình như là thứ cảm xúc đã quên thật lâu rồi và giờ đây cố nhớ. Trí óc lôi trí óc đi vùn vụt... Đúng là thứ cảm xúc của ngày đầu tiên đi học lớp vỡ lòng. Vâng chỉ có ngày đi học đầu đời người ta mới có thứ rung động ấy. Một lần duy nhất và quý giá. Nhưng tôi, tại sao tôi đang trở lại tâm trạng của thuở xa xưa? Có phải chăng tôi đã mặc nhiên công nhận rằng mình đã bắt đầu sống một đời sống khác, làm một con người khác, từ một ngày mà tôi đã ngã xuống? Đúng như thế, tôi đang bắt đầu lại. Bắt đầu lại sinh hoạt, bắt đầu lại cảm nghĩ. Có nghĩa là bắt đầu sống một đời.
Tiếng chuông đã dứt mà đám học trò vẫn chưa vào lớp hết . Có người đi vào dãy lớp tầng dưới . Có kẻ đi lên lầu. Tôi nghe sự nôn nao dâng lên cao mãi. Tôi muốn đi theo họ. Nhưng ban nãy Ông Giám Thị có dặn rồi:
- Anh đứng đây một lát đi, rồi tôi sẽ dẫn lên. Lớp của anh ở trên lầu.
Tôi đành đứng ở cửa văn phòng, nhìn hoạt cảnh đó và bỗng nghe như lòng hơi se lại. Em tôi đã về rồi. Nếu có nó ở đây, chắc nó đã dìu tôi lên lầu. Nhưng tôi đã bảo em tôi về, vì không muốn nó lo lắng quá nhiều cho tôi.
Trước mặt tôi, lượn lờ những tà áo trắng, và có cả những chiếc áo mầu. Vài người dừng lại nhìn tôi chăm chăm. Vài đôi mắt nhìn xuống chân tôi. Một trăm phần trăm là họ nhìn lên chân trái, và chiếc nạng. Sự khiếm khuyết này lúc nào cũng dự bị những ý nghĩ của thiên hạ. Tôi vẫn thường giữ vẻ thản nhiên trước tia nhìn của mọi người. Tôi không quan niệm sự ngạc nhiên của họ là ác, là xấu. Ai cũng phải như thế. Sự có mặt của tôi trong trường, sáng hôm nay, hẳn là một việc đáng bàn tán. Tôi là một người tàn tật. Tôi bị mất một chân. Tôi hiện diện với một chiếc nạng. Điều đó tôi cho là đã quen thuộc với mình. Một cách riêng, tôi là một người thương phế binh của đất nước. Tôi trở lại mái trường cũ của tôi, làm một người mới đối với tất cả mọi người. Thế thôi.
Rồi một lát sân trường cũng đã vắng. Ai cũng vào lớp hết rồi. Ông Giám Thị bây giờ đi ra, nói với tôi:
- Lớp 11A phải không?
Tôi dạ và hơi mỉm cười. Ông Giám Thị vẫn không có gì thay đổi, chỉ có điều hơi đãng trí hơn xưa. Co lẽ công việc quá nhiều làm tâm trí ông bận rộn. Tôi biết thế nên đã không nhắc gì về mình, đứa học trò cũ của lớp đệ nhị A trường này. Ông vẫn đinh ninh tôi là một người mới.
Ông nhìn tôi, chắc lưỡi, và rồi hơi cúi xuống để tôi choàng tay qua cổ ông. Tôi nói nhỏ:
- Xin phép thầy …
- Anh khỏi khách sáo.
Và ông dìu tôi lên cầu thang.
Chiếc cầu thang vẫn không có gì mới lạ. Vẫn những bậc xi măng láng bóng vì giày guốc học trò. Và tôi nhớ như in, bậc thứ năm có một chỗ mẻ lớn, mà đã có lần tôi trật chân té ngã. Bây giờ vẫn thế. Chỗ mẻ hình như lớn hơn. Ở chỗ quanh của cầu thang, thôi lại nhìn thấy mấy chữ sơn trên tường: “LỄ PHÉP, SIÊNG NĂNG, GIỮ KỶ LUẬT”. Tôi vui mừng như gặp lại những người bạn cũ. Êm đềm quá, thân ái quá, trường lớp và đời học sinh! Mười mấy bậc thang như quá dài đối với tôi. Ngày trước tôi vẫn thường chạy từ hai bậc lên lâù, nhanh vô kể. Bây giờ phải nương vai ông Giám Thị mà bước. Tiếng nạng gõ trên nền xi măng nghe khô khan.
Nhưng rồi cũng đến lớp học của tôi. Tôi muốn dừng lại để thở, để sắp xếp lại những ý nghĩ. Nhưng ông Giám thị vẫn dìu tôi đi. Ông và tôi đứng lại ở cửa lớp. Tiếng nạng gỗ chạm nền nhà khiến vài mái đầu ngẩng lên. Đôi người nữa ngẩng lên. Ông Giám thị dẫn tôi vào lớp. Nói như giới thiệu:
- Hôm nay lớp các em có một người bạn mới. Em nào thấy bàn mình còn chỗ trống, thì mời anh ấy vào ngồi chung.
Có vài tiếng lao xao. Có vài tiếng cười khúc khích. Hình như có cả lời bình phẩm. Tôi đứng yên, không một cảm nghĩ, cho đến lúc vị giáo sư rời bàn tiến đến gần tôi. Người gỡ cặp kính già ra nhìn tôi đăm đăm. Tôi bỗng muốn kêu to lên một tiếng. Nhưng cổ họng như đã nghẹn cứng. Thầy tôi ngờ ngợ hỏi:
- Anh … Con có phải là thằng Nghiêm đây không?
Cảm xúc như sắp vỡ bờ. Tôi cúi đầu đáp:
- Dạ, thưa thầy, đúng con là nghiêm đây thầy ạ.
- Nguyễn … văn Nghiêm phải không?
- Dạ.
Tôi ngước lên và thấy hai mắt thầy tôi long lanh. Ôi, thầy ơi, ngày xưa bao nhiêu vị quan vinh hiển trở về làng thăm thầy, xuống ngựa ghé nón vào nhà, rón rén quỳ bên Thầy thi lễ. Con là học trò của thầy, không đi bằng ngựa, không đội áo mão. Con đi bằng nạng, và đội trên đầu một định mệnh khe khắt . Con cũng không quỳ được xuống trước mặt thầy. Thầy có nghĩ đó là một sự thất lễ của con không? Nhưng thầy đang gượng cười:
- Con đi từ hồi đó tới nay, phải không con?
- Dạ, con đi bốn năm, thầy. Bây giờ con giải ngũ rồi.
Giọng thầy xót xa:
- Tội nghiệp con. Thầy vẫn nhắc con hoài. Đâu ngờ con ra thế này …
Rồi thầy quay lại nói với cả lớp:
- Tưởng ai lạ, chứ đây là đàn anh của các con đây. Anh Nguyễn Văn Nghiêm, học trò cũ của thầy, đã học tại đây trước các con bốn năm.
Thầy đảo mắt nhìn xuống lớp, hỏi:
- Bàn nào còn chỗ?
Một cánh tay đưa lên ở gần cuối lớp. Thầy mỉm cười:
- À trò Đồng ngồi có một mình. Nghiêm, con xuống ngồi với Đồng.
Thầy quay lại cám ơn ông Giám Thị và lên bàn của thầy.
Tôi đi đến chỗ ngồi. Đồng xích vào trong cho tôi ngồi ngoài. Đồng cười một nụ như để làm quen. Đồng chỉ bằng tuổi em tôi. Và tất cả những học sinh của lớp này chỉ bằng tuổi em tôi. Sau nụ cười, Đồng cúi xuống chép bài tiếp. Tôi nói như reo lên nho nhỏ:
- Ồ, bài “L’amour eternal”!
Đồng ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi đoán ý nghĩ của cậu ta, nói ngay:
- Bài này tôi đã học rồi, từ bốn năm trước. Nhìn thấy tựa thì nhớ, chứ câu văn và ngữ vựng quên hết rồi.
Đồng nói:
- Nhưng anh thấy mà nhớ ra ngay, là anh giỏi rồi. Sao em nghe người ta nói, những người đi lính về thường hay bị mất trí nhớ, vì lâu ngày nghe súng nghe bom…?
Tôi bật cười:
- Họ vơ đũa cả nắm rồi đó. Bộ ai đi lính cũng thành người điên hết sao? Có điều … việc học phải ôn luyện thì mới nhớ nhiều. Tôi đã quên hết những chữ, những công thức và quy luật.
Đồng có vẻ ái ngại. Tôi giở quyển vở mới. Trang giấy trắng tinh hiện ra trước mắt là một khích động thấm thía. Tôi giục Đồng:
- Chép bài đi!
Tôi hân hoan ghi vào đầu trang giấy trắng: Jeudi…”
*
Đồng hỏi tôi:
- Tại sao anh xin học trường này?
Tôi hơi ngỡ ngàng một chút, rồi đáp:
- Vì đây là trường cũ của tôi. Tôi đã học đây từ đệ thất lên đệ nhị, trước khi đi lính.
- À không, em muốn hỏi anh, tại sao anh lại đi học?
Tôi trố mắt nhìn Đồng. Thật tình tôi không hiểu cậu bé muốn nói gì. Thấy tôi không trả lời, Đồng nói như giải thích:
- Em muốn hỏi là … gia đình khuyên anh đi học lại, hay là bạn bè, hay là …
- À, chính tôi muốn thế.
Tôi hiểu ra ý Đồng. Đồng im lặng nhìn xuống trang sách. Chi còn tôi với Đồng ngồi trong lớp. Ngoài kia từng nhóm học sinh đang tụ tập chuyện trò trước hành lang. Hình ảnh bốn năm trước, bốn năm sau không khác nhau bao nhiêu. Tôi vẫn thường đứng nơi họ đang đứng, có cả bạn bè tôi, sau hai giờ học mệt mỏi chúng tôi đứng đón gió mát. Chúng tôi cãi nhau về một bài toán, hay bàn về một tờ bích báo thực hiện vào một dịp lễ. Bây giờ tôi cũng còn muốn ra đó đứng. Nhưng chỉ là ý nghĩ. Tôi thích ngồi trong lớp hơn. Vì bạn bè không còn một ai ở đây. Mỗi người đã có một đời riêng. Đạm, Hưng cũng đi với tôi – nay không còn trên cõi đời. Tuấn đi ngành khác, dường như được về văn phòng. Lam cố gắng đoạt bằng Tú đôi, bây giờ là sĩ quan Hải Quân. Thăng còn miệt mài nơi núi rừng Kontum. Còn những người nữ sinh, người lên Đại Học, người nghỉ học đi làm, có kẻ đã lập gia đình. Thế thôi, bốn năm qua rồi còn gì? Ít nhất ai cũng hai mươi hăm hai. Chắc không ai ngờ rằng hôm nay có tôi trở lại lớp cũ, làm một người lạ, làm một học sinh mới.
Đồng vẫn nhìn trang sách. Nhưng tôi biết Đồng không học chữ nào cả, vì đó là trang mà chúng tôi chưa học tới. Tôi hỏi:
- Đồng không đi ra chơi?
Đồng lắc đầu:
- Em muốn nói chuyện với anh hơn.
Tôi cười:
- Tôi có chuyện gì để nói?
- chuyện về cuộc sống của anh, về gia đình anh.
- Gia đình tôi? Bình thường.
- Ba má anh còn đủ?
Tôi gật đầu:
- Tôi có cả em nữa. Bốn đứa em. Một đứa lớn khoảng bằng Đồng. Nó chở tôi đến trường.
- Em hỏi có hơi tò mò, anh đừng giận …
Tôi lại cười:
- Đồng không nên giữ ý với tôi. Tôi với Đồng là bạn, Đồng cứ tự nhiên.
- Em muốn hỏi … ba má anh làm nghề gì?
- Ba tôi công chức. Nhà tôi không giàu, nhưng đủ nuôi anh em tôi ăn và học.
- Như vậy anh không có gì ràng buộc.
Tôi lại thắc mắc nữa. Đồng muốn hiểu chữ ràng buộc nghĩa là thế nào? Câu hỏi của cậu bé làm tôi suy nghĩ. Tôi tự hỏi mình bây giờ có còn gì ràng buộc không? Tôi có thật sự tự do theo nghĩa của Đồng chăng?
Bất chợt tôi nhìn xuống chân trái. Tôi sờ đầu gối, nơi tận cùng của chân tôi. Qua lớp vải, tôi vẫn cảm thấy đầu gối tôi tròn lẳn. A, đây là sự ràng buộc của tôi. Và chiếc nạng, chính là sự ràng buộc mật thiết nhất. Tôi nhìn Đồng. Cậu bé đang tỏ vẻ bối rối. Tôi hỏi:
- Còn Đồng, Đồng có những gì ràng buộc?
- Em hả? Em thì nhiều lắm. Em cho là sự học của em không phải do em muốn, ma` do hoàn cảnh của em bắt buộc em phải thế. Gia đình này, xã hội này, và nhất là cái giấy hoãn dịch này …
Tôi muốn thốt lên một lời nào. Nhưng thôi vì tôi thấy Đồng đang thành thật muốn tỏ bày điều gì.
- Đồng cứ nói.
- Chắc anh sẽ nghĩ em là một đứa biếng lười? Không đâu anh! Nếu anh không cho rằng em khoe, thì trong lớp này em và chị Thi là hai người thay phiên nhau đứng nhất. Nhưng em cảm thấy rằng không phải riêng em, mà hầu như cả lớp này, cả những người đồng trang lứa, không phải đi học cho nhu cầu kiến thức của mình, mà vì những lý do khác.
- Chẳng hạn …?
- Em học vì gia đình em cần em học. Ba em làm khu khuân vác. Em không còn mẹ. Đứa em gái kế em phải nghỉ học đi bán. Còn một lũ em nhỏ nữa. Em thấy em cần phải học để nuôi chúng nó sau này. Em học vì mảnh bằng. Ít ra có tú tài mình cũng hy vọng kiếm được một chân thư ký … rách.
Đồng gấp cuốn sách lại, nhìn thẳng tôi:
- Nhất là … em phải học vì mỗi năm thêm một tuổi. Trễ một tuổi, đi lính. Hôm nay anh vào học, em thấy anh, tự nhiên buồn ghê. Em nghĩ nếu em bị như anh, gia đình chắc bi đát lắm.
Đồng đổi giọng hoảng hốt:
- Chết không! Em nói hơi quá lời, anh có buồn em không?
Tôi thấy thương Đồng vô hạn. Tôi vỗ vai cậu bé:
- Sao lại buồn Đồng? Nghe Đồng nói chuyện, tôi hiểu lắm. Chính tôi cũng nghĩ như Đồng.
- Hôm nay bỗng dưng em nói nhiều, chứ mọi ngày đâu có vậy. Tại em thấy anh có vẻ hiểu em. Em học đây, chứ ít chơi với ai lắm.
- Sao vậy?
- Lớp này kỳ lắm. Rồi học lâu, anh sẽ thấy. Có nhiều cái quái đản mà nhà trường hầu như không biết.
- Hồi trước tôi học, có gì kỳ đâu?
Đồng cười:
- Bốn năm là cả bao nhiêu thay đổi. Có thể gọi là hai thế hệ cũng được.
Tôi ngơ ngẩn:
- Hai “thế hệ”?
Đồng gật đầu rồi lặng im. Và tiếng chuông vào học reo vang. Những người ở ngoài bắt đầu vào lớp. Bây giờ tôi mới có dịp để ý từng người. Có một sự khác biệt dễ nhận ra ngay khi tôi nhìn họ và so sánh với các bạn tôi ngày xưa. Ngày xưa dù Ban Giám Đốc không bắt buộc, nhưng hầu hết mọi người đều mặc áo trắng, có vài chị gan lắm thì chỉ mặc áo dài màu nhạt là cùng. Còn ở lớp này, học sinh mặc đủ màu, đủ kiểu. Tôi đếm được dưới mười chị mặc áo dài trắng, còn lại thì mặc áo bông hoa hoặc màu rực rỡ. Có nữ sinh mặc cả quần tây. Con trai thì phần đông mặc quần xòe rộng, áo sơ mi may sát vào người, tưởng chừng như cả hàng nút sắp bật tung ra. Họ mặc cả áo màu tím, màu vàng như con gái. Có lẽ nhà trường quá dễ dãi? Không hẳn vậy, ngày xưa ông Giám Thị vẫn thường rầy mắng những học sinh ăn mặc không đứng đắn kia mà! Hay vì học trò quá cưng đầu? Tôi đầu hàng trước ý nghĩ đó. Tôi đã quá già cỗi chăng? Bốn năm đi khắp cùng gần hết đất nước, ít khi tôi được về thành phố, tôi biết gì về những người bằng tuổi em tôi? Tôi sống gần hết năm ở trong rừng núi, tôi có theo kịp sự tiến bộ của mọi người? Có lẽ Đồng nói đúng. Tôi và những người này là “hai thế hệ” riêng biệt.
Mọi người đã ngồi vào chỗ. Tiếng xôn xao vẫn chưa dứt. Vài người còn tiếc câu chuyện đang bỏ dở, cố nói với nhau va cười ngặt nghẽo. Một nữ sinh ăn nốt trái cóc vàng tươi rồi liệng que cây xuống đất, thản nhiên vô cùng. Một cậu, vừa xếp xong chiếc máy bay bằng giấy, chu môi phóng qua phía nữ sinh. Một cô bị máy bay mổ trúng, la lên, rồi cả hai phía cười sằng sặc. Tôi nhìn Đồng. Đồng cười, như muốn ngụ ý “Anh thấy chưa, lớp này quái đản lắm!” và nhìn ra phía cửa lớp, Đồng nói:
- Giáo Sư vào.
Tôi hỏi:
- Ai vậy?
- Ông Chung, dạy Toán. Anh có học ổng không?
Tôi lắc đầu. Đồng nói tiếp:
- À, hình như ông mới tốt nghiệp Sư Phạm thì phải.
Cả lớp đứng dậy khi giáo sư Chung bước vào. Đó là một người trẻ, người dong dỏng cao, mặt nghiêm trang. Ông sửa lại cặp kính cận, đứng yên nhìn cả lớp. Tiếng xôn xao im hẳn. Chợt ông nói to:
- Anh kia! Sao anh khi dể tôi thế?
Tôi còn đang loay hoay tìm chiếc nạng đã ngã xuống đất. Tôi khó khăn chống chiếc nạng để đứng lên vì khoảng trống giữa bàn và ghế quá hẹp. Khi tôi đã đứng thẳng rồi thì gặp phải đôi mắt của giáo sư Chung nhìn ngay vào tôi. Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Ông nói:
- Khi tôi vào, ai cũng đứng dậy. Có anh, anh lò mò tìm gì dưới hộc bàn?
Có lẽ ông đã nhận ra chiếc nạng bên cạnh tôi. Đôi lông mày ông hơi nhíu lại. Tôi lặng người, đứng yên. Đông liếc nhìn tôi ái ngại.
Một nữ sinh mặc áo hoa lòe loẹt, ở bàn đầu, buột miệng:
- Anh đó què, thầy!
Cô gái đứng cạnh đó quay ra sau lưng, nháy mắt với một người bạn, nói:
- Ảnh có một chân hà.
- Học trò cưng của thầy Trần đó!
Giáo sư Chung hình như hơi bối rối. Ông đưa tay ra hiệu cho ngồi xuống. Tôi cảm thấy mình hồ như lạc lõng trong không khí này. Giáo sư Chung đang lặng lẽ xoay một vòng tròn trên bảng đen. Thầy chẳng tế nhị một chút nào, phải không? Thầy đáng tuổi anh tôi. Mà thầy không tỏ cho tôi một dấu hiệu cảm thông nào. Còn những người bạn mới kia, những người em kia, họ tàn nhẫn quá, phải không? …
Tôi giở vở ra, nhưng cảm thấy hai tay thừa thãi.
Đông quay sang hỏi:
- Anh có compas không?
Tôi đưa compas cho Đồng. Rồi tôi ngồi thừ ra. Tôi không muốn làm một cử chỉ phản kháng. Tôi cho rằng cự phản kháng chỉ dành cho những người bất mãn, hoặc có mặc cảm. Tôi không bất mãn. Tôi cũng đã chuẩn bị trước cho ý chí rằng không nên có mặc cảm. Nhưng lúc này đây, dường như mặc cảm đang lớn dần.