|
Post by Cửu Long Giang on Sept 22, 2006 10:50:44 GMT 9
Phạm Lưu Vũ Giáo khoa xưa… và nay Cách đây chừng vài chục năm (cuối thế kỉ hai mươi), có những cuốn sách mà kẻ bình dân chỉ cần nghe đến tên đã... kinh, lại như vịt nghe sấm, cả đời chưa chắc đã mơ được nhìn thấy, đừng nói đến việc biết nó mô tê ra làm sao, bởi những sách ấy như chỉ có ở đâu đó trên... trời. Nó tồn tại giữa cõi đời này hình như chỉ để dành riêng cho những đại học giả, đại tác gia, những nhà đại nghiên cứu... dùng đến mà thôi. Nó là sở hữu độc quyền của những đại thư viện, đại bảo tàng, đại... gì gì đó giữa... không trung. Đó là những cái gì mà: Tứ thư?, Ngũ kinh?, là: Sử kí?, Toàn thư?, Cương mục?, là ... Liệt quốc?, Xuân thu...?, là Bách gia chư tử?... vân vân và... vân vân.
Kẻ viết những dòng này còn nhớ như in hồi nhỏ, ông nội cầm tay dạy viết chữ Nho. Dạy đến chữ “ngôn” (言 - nói), ông giảng: đầu tiên là một nét chấm cong cong, tựa như cái lưỡi giương lên chuẩn bị uốn. Tiếp theo là ba nét ngang, đó là chữ tam, nghĩa là phải uốn lưỡi đủ ba lần. Dưới cùng mới là chữ khẩu (miệng), ngụ ý bấy giờ hẵng mở miệng ra. Ghê thật, chỉ có một chữ “ngôn” là nói, mà trên mặt chữ đã dạy người ta phải “uốn lưỡi” ba lần trước khi mở miệng. “Ngôn” mà lúc nào cũng cẩn thận, chu đáo thế, mới mong tránh được loạn ngôn (nói lung tung), tục ngôn (nói bậy bạ), xảo ngôn (nói láo), cẩu ngôn (nói đểu)... Vậy thì cái thứ chữ Nho gọi là tượng hình kia, xem ra không phải chỉ có “tượng hình” mà thôi đâu.
Thế ra các cụ ngày xưa học chữ đến đâu thì cũng đồng thời học làm người đến đó. Ông tôi bảo rằng những sách hiếm trên kia chính là những bộ giáo khoa của hàng nghìn năm khoa cử, đã đào tạo nên những trạng nguyên, tiến sĩ, cử nhân... nức tiếng một thời. Có người đạt tới trình độ kinh bang tế thế, đem sở học cứu nước, giúp đời. Có người thấu suốt cả vũ trụ, nhân tình, xem cỗ máy huyền vi, bí hiểm của Tạo hoá như trong lòng bàn tay, để lại những lời “sấm” mà hàng trăm đời sau mới nghiệm ra được... Tất cả đều học trong những sách ấy, đời nào cũng đọc những chữ ấy mà thôi, thế mà học chẳng bao giờ hết, đọc chẳng bao giờ cùng. Vậy những sách ấy dạy cái gì mà ghê gớm vậy? Ông tôi bảo: dạy làm người. Tất cả chỉ nhằm dạy làm người mà thôi, còn sau đó có làm quan, làm thầy, làm dân... gì thì tuỳ theo thời thế. Trước tiên hẵng cứ biết làm người, thì sau đó làm cái gì cũng có kết quả tốt đẹp...
Tuổi thơ nghe rồi để đấy. Đến lúc trưởng thành, thi thoảng lại lởn vởn những thắc mắc về bài học ngày xưa. Đã sinh ra kiếp người rồi mà vẫn còn phải học... làm người nữa, thì các cụ ngày xưa liệu có rắc rối, liệu có phức tạp hoá vấn đề? Thánh nhân hình như cũng biết điều đó, bèn “đùa” một câu rằng: “người đọc sách, nếu có thừa thì giờ, thừa sức khỏe thì nên làm quan, người làm quan, nếu có thừa thì giờ, thừa sức khỏe thì nên... đọc sách”. Nói thế chẳng hoá ra người đọc sách thường không mấy khi làm quan, còn người làm quan lại không mấy khi đọc sách hay sao? Ấy là cũng “diễn” đùa ra thế thôi. Chứ ý của Thánh nhân muốn khuyên người ta hãy đọc sách trước khi làm quan, và khi làm quan rồi thì vẫn nên đọc sách. Đọc sách để làm người, làm người trước khi làm quan, làm quan rồi vẫn tiếp tục học làm người... Tuỳ theo mỗi người, mỗi trình độ, lại có những thứ bậc cao thấp khác nhau về cùng cái việc làm người ấy. Khổng Tử ngày xưa dạy chữ “nhân” (仁 - người, thuộc về người). Học trò của Ngài suốt đời học chữ “nhân”, làm theo chữ “nhân”. Có người đạt tới trình độ có thể làm tướng soái (như Tử Lộ), có người mà tài năng có thể trông coi một ấp cả ngàn nhà (như Nhiễm Cầu), có người có thể thắt đai, đội mũ, ngang dọc giữa triều đình (như Công Tây Xích)... Thế mà hỏi những người ấy đã “nhân” chưa, Ngài đều bảo: “không lấy gì làm chắc”. Vì thế mới có chuyện một vị túc nho cả đời đọc sách, làm thơ, đức độ uyên thâm từng khiến thiên hạ phải bái phục. Tưởng “làm người” mà đến thế thì thôi. Vậy mà gặp khi mẹ mất, phải về cư tang ba năm bên mộ cho tròn đạo hiếu, bấy giờ mới nhận ra rằng cả đời mình, chỉ có ba năm ấy là gần với cái đạo làm người nhất mà thôi. Xem thế thì biết, chẳng những cái sự đọc sách là không bao giờ hết, mà cái việc làm người kia cũng chẳng bao giờ cùng.
Vậy những sách giáo khoa thời hiện đại dạy cái gì? Dạy nhiều thứ lắm. Chưa kể hầu như mỗi năm phải in lại một lần để cập nhật “kiến thức” cho học trò, đồng thời “cập nhật” luôn... túi tiền của những “nhà” làm ra sách giáo khoa cho nó không ngừng tăng thêm phần “rủng rỉnh”. Chỉ riêng những thứ cần phải nhồi nhét cho học trò, cũng đã phải thông cảm với các nhà giáo dục thời nay. Kiến thức càng ngày càng như trời, như biển. Bao nhiêu môn phải dạy, môn nào sách cũng chất cao như núi, trong khi quỹ thời gian của kiếp học trò thì có hạn. Thế là theo nghề nào thì cao mấy cũng chỉ chuyên về nghề đó mà thôi, còn những lĩnh vực khác đành lơ mơ, thậm chí có khi mù tịt. Đó gọi là chuyên môn hẹp, càng cao càng hẹp. Cái gọi là “dạy làm người” tất nhiên cũng có, nhưng chỉ chiếm một tỉ lệ rất “khiêm tốn”, đại khái cứ biết yêu... chế độ là được. Còn thì phải tập trung quỹ thời gian sư phạm cho việc dạy cộng trừ nhân chia... cho thành thạo, dạy nghề nghiệp, dạy chuyên môn, rồi ngoại ngữ, vi tính... cho cao vút, đặng lúc vào đời biết cách mà làm một con cừu cho “tử tế”, mà làm ăn, mà (có khi) làm “quan”, làm tiền, làm kinh tế... Cái sự “làm người” (thật) kia sau này, nếu quả có quan trọng, thì trăm sự trông cậy vào hoàn cảnh, vào gia đình, bè bạn..., vào chính cái con “người” ấy nếu cần thì tự tìm lấy “giáo khoa” mà đọc, mà nghiền ngẫm gặp chăng hay chớ, được đến đâu hay đến đó... Cho nên đừng ai lấy làm ngạc nhiên khi thấy một kĩ sư, thậm chí một tiến sĩ thời nay, đọc thơ ca “Cách mạng” thì vanh vách như một con vẹt, trong khi lại không hiểu nổi... một câu ca dao...
Còn nhớ sách giáo khoa vỡ lòng ngày trước (không biết bây giờ còn không) có một câu đố rất hay: “Cái gì cao lớn lênh khênh / đứng mà không tựa ngã kềnh ngay ra”. Thầy giáo giảng đó là cái thang. Và hình như cũng chỉ giảng thế mà thôi. Sau này lớn lên, cuộc sống gặp trăm bề ngang dọc, câu đố đó được hiểu ra rằng ở đời, nếu không “tựa” vào một cái gì đó, ví dụ ô dù, thế lực, bè cánh nọ kia... thì dù có leo được lên cao, cũng khó mà đứng vững, dễ “ngã kềnh” như chơi. Có biết đâu rằng câu đố ấy của dân gian, vốn ngụ ý cái điểm “tựa” kia hoàn toàn khác. Đó chính là kiến thức “làm người”, mà nếu có để tựa vào đó, thì con người ta sống ở đời, sẽ chẳng lo bị nghiêng ngả đi đâu. Lúc “vỡ lòng” ấy, nếu được thầy giáo giảng cho như thế thì sau này, hẳn sẽ còn hay thêm ra biết bao nhiêu.
Kí ức trên cũng hao hao chuyện cụ Nguyễn Trãi ngày xưa dạy vua Lê Thái Tông. Cụ giảng có đúng một chữ: “chỉ” (止) trong câu “An nhữ chỉ” (yên với cái chỗ của mình) của Kinh Thi, không thêm nửa chữ thứ hai. Nghĩa của chữ “chỉ” đó được cụ giảng đại ý: “chỉ” nghĩa là cái gốc, cái điểm tựa, hay cái chỗ bất di bất dịch của mình. Lúc nào cũng phải ở đúng cái chỗ (chỉ) đó, nếu có phải rời xa, thì cũng chỉ là tạm thời, không thể rời mãi mãi. Ví dụ chỗ của vua là ở trong cung, nếu có phải đi ra ngoài, thì cũng chỉ là tạm thời, rồi cũng phải quay về trong cung. Gốc của vua là ở nhân nghĩa. Nếu có phải trấn áp ra oai, sử dụng hình phạt... thì cũng chỉ là để răn đe... rồi cũng phải trở lại ngay cái gốc nhân nghĩa ấy... Rời xa cái gốc, cái điểm “tựa” của mình thì đừng nói thứ dân, đến bậc làm vua cũng dễ “ngã kềnh” y như cái thang thuở “vỡ lòng” kia vậy.
Quanh quẩn lại quay lại với chuyện sách hiếm. Ấy là nói trước kia. Chứ bây giờ thì may mắn hơn nhiều. Những bộ “giáo khoa” bất hủ ấy, những kiến thức ấy không còn là độc quyền của một vài “nhà”, hay một vài “tủ”... nào nữa. Dạo qua các nhà sách lớn nhỏ, thấy bày bán la liệt đủ các loại Đông Tây kim cổ. Sách thì có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch..., rồi Sử ký, Toàn thư... cả đến Đại học, Trung dung, Mạnh Tử..., truyện thì nào là Tam quốc, Đông chu, Thuỷ hử, Liêu trai... In đẹp có, in bình thường có, bìa cứng có, bìa mềm có. Mà không phải bằng thứ chữ tượng hình đánh đố ngày xưa đâu. Đã dịch ra tiếng mẹ đẻ rồi đấy. Lại có những bản dịch chất lượng vào loại tuyệt luân, siêu đẳng, dịch mà đến mức như gọi được cả ba hồn chín vía của chữ nghĩa ra. Đó là những bản dịch của các bậc kỳ nhân như các cụ Bùi Kỉ, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Bội Châu, Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố... Tất nhiên phải hết sức “cảnh giác” với những sự cẩu thả (nếu có), thậm chí đến mức biến những viên ngọc quý thành ra... đá cuội của các nhà xuất bản (thời buổi chợ búa mà). Giá cả kể cũng hơi cao, song không phải không thể nào mua được. Sách đầy ra đấy rồi, nếu tự cho là đủ rồi, không muốn học làm người thêm nữa thì thôi, chứ muốn học thì đã có sẵn “giáo khoa”. Kiến thức đã không còn là “độc quyền” riêng của “nhà” ai nữa, đã “xuống đường”, đã “bình dân” hoá đến như thế, còn gì nữa mà không may mắn. Chỉ không biết đến bao giờ mới “phổ cập” được mà thôi.
Viết 2005, sửa tháng 9/2006
|
|
|
Post by NhiHa on May 21, 2011 3:28:05 GMT 9
Nước Vệ lại sắp hưng rồi! Thursday, May 19, 2011 7:14:11 PM Người Buôn Gió LTS: Blogger Bùi Thanh Hiếu trên trang báo cá nhân “Người Buôn Gió” thỉnh thoảng vẫn viết những chuyện cổ tích cổ tắc kiểu “sấm bên đông, động bên tây.” Ai muốn hiểu ý tác giả thì đọc phía đằng sau chữ nghĩa.
Câu chuyện nước Vệ, nước Tề thời Ðông Châu Liệt Quốc ở bên Tầu hơn hai ngàn năm trước sao nó lại có vẻ như đang xảy ra ở cái nước Vệ hình chữ S của thời nay. Thuở ấy nước Vệ xanh tươi lắm, cây cối màu mỡ, đất đai bằng phẳng, phì nhiêu, cánh cò bay lả lướt rập rờn. Non sông gấm vóc, trữ tình. Con người Vệ hiền hòa, chan chứa tình cảm. Họ sống cuộc đời tình làng, nghĩa xóm, trọng vua, kính thầy, yêu cha mẹ.... Sau khi khởi nghĩa giành được xã tắc, thấm thoắt nhà Sản lên ngôi đã vài chục năm. Ðất nước tạm yên bình, binh khí xếp vào kho đến nỗi hoen rỉ, quân lính chây ỳ không lo tập luyện. Các quan lại bấy giờ sinh ra ham ăn chơi xa xỉ đến nỗi thành một thú nghiện của nhiều người. Phàm muốn xa xỉ thì phải có tiền, mà phàm làm quan muốn có tiền nhiều thì tất phải làm điều không đúng đạo làm quan. Mà quan nước Vệ từ kẻ lương cửu phẩm đến nhất phẩm ai cũng có gia sản gấp hàng trăm nghìn lần lương bổng của triều đình. Từ đó cũng suy ra cái đạo làm quan nước Vệ đang ở hồi nào. Bấy giờ của cải trong ngân khố đã trống rỗng, tài nguyên cạn kiệt. Nước Vệ kêu gọi bọn tư thương ngoại bang đổ tiền vào đầu tư đất đai, nhân đó hòng hớt được những khoản hối lộ khổng lồ để cho bọn tư thương nước ngoài được những miếng béo bở. Nhưng đầu tư ở đây được nước Vệ gọi là đầu tư có chọn lọc, hay nói cách khác là chọn nhà đầu tư. Nhà đầu tư phải ở nước có thân thiết với nước Vệ như nước Tề, phải biết cách hối lộ cho các quan Vệ. Những thứ này chỉ có tư thương nước Tề là hội tụ đầy đủ. Ngày nọ tư thương nước Tề sang Vệ, quan Vệ dẫn đi chọn đất, đi từ vùng núi đến miền biển. Chả khác nào ngày xưa Cao Biền đi thám thính. Trên đường đi, tư thương nước Tề thấy dân Vệ nhìn mình thiếu thiện cảm, mới tỏ ý rụt rè, cân nhắc chuyện đầu tư, ý có vẻ muốn thoái thác rút lại ý đổ tiền đầu tư. Tể tướng nước Vệ biết chuyện, mới gọi họ vào phủ hỏi: - Các ngài có e ngại gì nước Vệ chúng tôi không thật lòng chăng? Tư thương nước Tề nghĩ hồi lâu, ra vẻ đắn đo rồi nói: - Xin kể câu chuyện này, ngày xưa có tên thương gia Mai Cồ hiệu là Phụ Lão ở xứ Cờ Hoa, ngày nọ theo lời kêu gọi của quan nước Cự Bá mang 2 nghìn lượng vàng sang đó đầu tư. Trên đường đi thăm thú làm ăn, Mai Cồ nhìn thấy toán cảnh binh bắt được người dân, người dân đó phanh bụng giật bộc phá tự sát, khiến cả đám cảnh binh chết theo. Mai Cồ suy ra triều đình Bá Thịnh Xa của Cự Bá khó mà trụ được lâu. Mai Cồ tức tốc bỏ ý định đầu tư trở lại xứ Cờ Hoa. Y như rằng sau này không lâu Bá Thịnh Xa bị lật đổ. Tư thương Tề ngừng lại lát mới tiếp lời: - Chúng tôi không nghĩ các ngài không thật lòng, nhưng vừa rồi tôi có dạo vòng nước Vệ, thấy cái nhìn của dân Vệ mà bụng phân vân, xin ngài hiểu rõ lòng chúng tôi. Bạo nghe xong, lặng thinh một hồi. Rồi đanh mặt, nghiến răng nói: - Các ngài cứ để ít bữa chúng tôi tính toán. Tư thương Tề lui ra, Bạo đập bàn quát gọi bộ Hình lên hỏi: - Có nghe câu chuyện Tề thương gia vừa kể không? Ðại thần bộ Hình tâu: - Thần đã nghe. Bạo: - Nước Vệ thế nào mà để các nhà đầu tư phải ngại ngùng, phải làm sao để nước Vệ thành nơi hấp dẫn các nhà đầu tư. Nay không có tiền của họ đổ vào, thì lấy gì cho các ngươi ăn chơi xa xỉ đây. Không được để cho đứa nào cản trở những nhà đầu tư, kể cả cái nhìn nghe không. Ðại thần bộ Hình vâng lời lui ra. Tháng sau ở châu Ái, công sai nhà Vệ dùng cung nỏ bắn chết người dân, cả phụ nữ lẫn trẻ em vì dám ngăn cản việc đầu tư của tư thương ngoại bang. Ở phương Nam nước Vệ, có mấy thanh niên trẻ tuổi vì bênh người lao động khiếu nại bọn đầu tư bạc đãi người lao đông, bị bộ Hình bỏ tù đến cả gần chục năm. Mùa Ðông năm Canh Dần, nhân sĩ Hải Hoàng vốn ghét Tề, vừa hết hạn ngục vì tội liên quan đến thuế má, chưa ra khỏi nhà lao đã bị vào nhà lao khác vì tội nói năng không đúng phép với nước Tề. Mùa Xuân năm Tân Mão, Cù tiên sinh cũng ghét Tề mà bị kết án khổ sai. Trước đó Phạm cô nương ở mạn duyên hải nước Vệ, bất bình với quân Tề nhũng nhiễu, giết hại ngư dân Vệ ngoài khơi, Phạm cô nương không quản mình hạc, vóc mai lặn lội đi tìm hiểu sự thật, bố cáo cho thiên hạ biết rõ. Nhà Sản chẳng ngại ngần tống Phạm cô nương vào ngục tối, hết đời xuân xanh. Bạo mới cho người mang hồ sơ những vụ đó đưa cho tư thương nước Tề xem. Tư thương nước Tề xem xong, đàn đàn lũ lũ kéo sang Vệ mua đất đai, dựng cơ nghiệp, cho cả vợ con, trai tráng thất nghiệp sang sinh sống làm ăn, tạo thành những làng ấp Tề tại nước Vệ. Lúc có hội hè, vào kinh thành yến tiệc với triều nhà Sản. Bạo rượu lâng lâng mới nhắc lại chuyện xưa: - Giờ các ngài đã yên tâm rồi chứ. Phải không bộ Hình? Bạo đột ngột quát gọi. Ðại thần bộ Hình lật đật chay đến tâu: - Năm nọ giữa kinh kỳ, hai Tề thương gia nắm chân một Vệ dân dộng đầu xuống đất đến chết. Dân Vệ đi lại nhìn thấy mà không ai dám nói nửa lời, cúi mặt mà đi. Giờ các Tề thương gia được tôn kính như Sài Thung thở nào rồi. Cứ yên tâm mà làm ăn thôi. Tư thương Tề nói: - Dân Vệ đã thôi không ghét người Tề chúng tôi đã là điều tốt, nhưng nếu bộ Hình làm quá, e họ oán bộ Hình như người Cự Bá chăng? Bạo nhìn quan đại thần bộ Hình bảo: - Xin các ngài cho thư thả vài bữa chúng tôi có câu trả lời. Năm ấy ở xứ Kinh Bắc công sai đánh chết người ở phủ, rồi ở kinh kỳ công sai cũng lôi người về phủ đánh chết, ở phương Nam có kẻ chết trong phủ công sai vì tự vẫn, rất nhiều kẻ đột tử, tự vẫn trong nhà lao, trong phủ công sai nước Vệ. Dân tình nhìn thấy áo nhà quan là khiếp đảm, vỡ mật, ai nấy cúi đầu mà đi, không dám nhìn thẳng mặt quan. Tư thương Tề xem hồ sơ cười sằng sặc với nhau: - Có câu chuyện Mai Cồ mà bao đứa cứng đầu nước Vệ phải đi tù, bao đứa dân lành phải chết để làm minh họa. Công sai nước Vệ quả tài gấp mấy bọn công sai nước Cự Bá. Tư thương khác nói: - Bá Thịnh Xa xứ Cự Bá nếu sống lại còn phải học Bạo tể tướng nhà Vệ nhiều về thuật cai trị, đúng là trùng dương sóng vỗ miên man, lớp sóng sau đè lên lớp sóng trước. Ấy cũng là lẽ đời, kẻ nào rút được kinh nghiệm thì kẻ ấy tồn tại được. Kẻ khác nói: - Thế này chả mấy nước Vệ không còn dân nữa, anh em ta nhỉ? Cả đám ngửa cổ nâng cốc cười ha hả. Nước Vệ giờ tan hoang, bụi mù mịt từ thôn quê đến kẻ chợ. Ðâu đâu cũng thấy có mặt người Tề, họ xây dựng cái gì, dân cư chung quanh cũng không rõ. Triều đình công bố những năm gần đây kinh tế đất nước phát triển tốt. Xe tứ mã nhập ngoại chạy đầy đường, nhà nhà cao ốc mọc lên như nấm. Nước Vệ lại sắp hưng rồi!
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 29, 2013 4:19:47 GMT 9
“Không hay sao lại đỗ ngay Tú Tài” “Đề câu đối dán ngay lên cột Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay Rằng: hay thì thực là hay, Không hay sao lại đỗ ngay tú tài … ” Tú Xương Báo Pháp hôm 20/06 loan tin một bà mẹ 52 tuổi cải trang làm thí sinh để thi giúp con gái môn Anh văn, Sinh ngữ 1 Văn bằng Tú Tài khóa 2013, tại Trung tâm Bossuet-Notre-Dame ở Paris X hôm 19 tháng 6. Tội nghiệp cho bà Caroline D. và cả cô con gái Laetitia 19 tuổi, thí sinh tự do, vì chắc Bà Caroline D. sẽ bị phạt tiền có thể lên tới mươi ngàn euros và 3 năm tù, cô con gái sẽ bị cấm thi trong 5 năm tất cả bằng cấp trên toàn nước Pháp. Để mạo hiểm giúp cô con gái, bà mẹ đã khéo léo cải trang cho trẻ lại để sử dụng căn cước của con gái. Bà mặc quần jean lưng xệ thật thấp, mang giày bát-kết, mắt kẻ thật thời trang. Bà vào phòng thi trót lọt và làm bài thi Anh văn. Chẳng may, giám thị nhận ra không phải cô thí sinh đã ngồi đây hôm trước làm bài môn Triết. Sự việc được kín đáo thông báo giới chức Trung tâm thi. Buổi thi vẫn diễn ra bình thường để tránh xáo trộn phòng thi ảnh hưởng không tốt tới thí sinh. Bà Caroline D. và con gái Laetitia Gần hết buổi thi, bốn cảnh sát mặc thường phục tới nhưng không vào phòng thi. Bà giám thị phòng thi mời thí sinh giả ra ngoài. Cảnh sát can thiệp. Bà mẹ thú thiệt là muốn giúp con gái có điểm cao môn Anh văn để vớt môn khác yếu. Pháp là nước dân chủ pháp trị lâu đời nhưng vẫn không tránh khỏi gian lận thi cử. Riêng năm 2011 có tới 419 vụ gian lận, 298 thí sinh vi phạm bị phạt, 140 thí sinh bị cấm thi từ 1 tới 5 năm. Chánh phủ Pháp ra chỉ thị phạt gắt gao những người vi phạm. Năm nay, Chánh phủ cho đặt ở 30 Trung tâm Giáo dục (Académie: Cơ sở Giáo dục Tiểu Trung học cấp vùng, không phải Hàn lâm viện) máy dò điện thoại cầm tay để ngăn ngừa mọi gian lận như thông báo bài làm sẳn, tài liệu, … .Vậy ở Việt nam, cán bộ đảng viên được học giùm, thi giùm, mua bằng để lên chức …là hiện tượng bình thường rất xã hội chủ nghĩa. Cái học của Tây và Văn bằng Tú Tài Trước thời Trung cổ, giáo dục Tây chia ra làm 3 cấp: học sinh từ 7 tới 12 tuổi học đọc và học đếm; học sinh từ 12 tới 15 tuổi học văn phạm, học tảng văn, học thi ca; sau 15 tuổi, học sinh vào cấp Cao đẳng học nghệ thuật hùng biện do nhà hùng biện hướng dẫn. Từ thời Trung cổ mới có trường học để dạy đọc và viết. Tới thế kỷ XVII, việc học mở mang ỏ đô thị nhờ các nhà trường tôn giáo do các Linh mục phụ trách và cấp Trung học do các nhà dòng trông nom. Tới cách mạng 1789, Chánh quyền mới bắt đầu can thiệp vào việc giáo dục. Năm 1791 Chánh quyền ban hành luật bải bỏ việc nhà dòng mở trường dạy học, cho thầy giáo được phép dạy học với tư cách cá nhân và được trợ cấp của nhà nước. Năm 1794, luật cho phép việc dạy học tự do. Trường Cao Đẳng Sư phạm (Ecole Normale Supérieure) ra đời và qua năm 1795, Trường Bác khoa (Ecole Polytechnique) mở cửa. Năm 1802, giáo dục chia ra làm nhiều Cơ sở ( Académie). Tiểu học giao hoàn toàn cho nhà thờ. Chỉ có Trung học và Cao đẳng do nhà nước kiểm soát. Năm 1808, Napoléon khai sanh ra Tú tài kết thúc cấp Trung học. Lúc đầu, thi Tú tài chỉ có vấn đáp tổ chức trong Đại học, giữa thí sinh và giám khảo, về các tác giả la-tinh, hy-lạp, về hùng biện, lịch sử, địa lý và triết học . Ban giám khảo có thể khảo thí một lần 8 thí sinh . Theo đà tiến xã hội, Tú tài chia ra làm nhiều ban ngành nhưng vẫn tồn tại cho tới ngày nay qua 200 năm và vẫn giữ được giá trị của nó. Đó có thể nói là đặc điểm của nền giáo dục pháp . Năm nay 2013, Pháp có 664 709 thí sinh thi Tú tài, kém hơn năm rôi 5, 45%, được chia ra 338 186 thí sinh thi Ban Phổ thông, 3, 89% chọn Kỷ thuật và 16, 5% chọn nghề để ra di làm việc ngay. Chọn ban Phổ thông, có 78% thí sinh thuộc gia đình khá giả và có học trong lúc đó chỉ có 18% thí sinh thuộc gia đình nghèo và ít học. Giáo dục ở Pháp hoàn toàn miễn phí và cưỡng bách cho tới 14 tuổi nhưng vẫn có 1/5 đứa trẻ 16 tuổi mù chữ. Năm 2007, có 18% học sinh nghỉ học không có một bằng cấp nào cả. Việc học cho 10 triêu học sinh và lương trả 730 000 giáo chức tốn 53 tỷ euros hằng năm cho ngân sách nhà nước. Tính ra cứ mỗi giây, nhà nước chi 1680 euros cho giáo dục quốc gia. Thế mà nhà nước còn phải chi 2 tỷ cho 38% học sinh ở lại lớp mỗi năm. Rớt Tú tài, anh đi Trung sĩ Học ở Pháp, trước khi có trường công và trường tư, cũng giống như ở Việt Nam thời xa xưa. Học do những người biết chữ tổ chức và đảm trách. Ở Pháp những người biết chữ là các tu sĩ thiên chúa giáo. Ở Việt nam là những Cụ đồ. Ở Việt Nam, cái học đem lại cho người đi học hai con đường lập nghiệp: tiến vi quan, thối vi sư. Nên ở Việt Nam, thời xưa, việc mở trường dạy học, chẳng những được tự do, mà còn được khuyến khích. Người dạy học và kẻ đi học đều được xã hội trọng vọng . Khi người Pháp đặt xong nền cai trị, cái học củ lần lược được thay thế bằng cái học mời. Và trường học xuất hiện. Cho tới trước 30/04/75, ở Miền nam, Văn bằng Tú tài vẫn còn chia làm 3 ban A,B,C (Khoa học, Toán, Văn chương – giống như Tú tài Pháp ở thập niên 50). Ngoài ra, có thêm ban Kỹ thuật. Học sinh Việt Nam đậu Tú tài, đi ra nước ngoài học, thường không thua kém học sinh tại chổ tuy sinh ngữ có gặp khó khăn trong thời gian đầu. Như vậy mới thấy cái học ở Miền nam có giá trị cao với cả thế giới. Và cũng vì giá trị phẩm chất đó mà số học sinh thi đậu Tú tài không nhiều. Số thi rớt mới nhiều. Đang thời chiến tranh, tuổi trẻ bị quân đội hốt hết . Có Tú tài, thanh niên đi học lớp sĩ quan . Không Tú tài, đi học lớp Trung sĩ, Hạ sĩ quan . Nên mới có câu hát “ Rớt Tú tài, anh đi Trung sĩ, ….”. Ở Miền nam, thanh niên lấy cái học tiến thân. Trong lúc đó, người cộng sản lấy thành tích khủng bố, phá hoại, thanh trừng, đàn áp làm bước tiến thân để sau cùng vào TW đảng lãnh đạo đất nước. Lãnh đạo cả trí thức! Nhìn lại lớp lãnh đạo ở Hà Nội, có người nào có học? Từ Hồ Chí Minh học xong lớp Ba, Lê Duẩn, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Võ văn Kiệt, … cho tới Trương Tấn sang ngày nay? Rìêng Đỗ Mười, chẳng những dốt đặc cán mai, mà còn điên điên, khùng khùng nữa. Trong lứa tuổi đó, chỉ có Võ Nguyên Giáp học tới Đại học. Phạm văn Đồng có học Trung học. Nhưng không phải không có Tú tài là cánh cửa mở ra tương lai bị khép lại. Ở Pháp là nước khai sanh ra Văn bằng Tú tài từ 200 năm nay, mà vẫn có những lãnh đạo xí nghiệp lớn, chánh khách lớn ở ngày nay không có Tú tài. Nhưng họ giỏi thiệt vì chính khả năng của họ đưa họ tiến thân, từng bước, một cách lương thiện, chớ không dựa vào cái thứ đảng độc tài, có đảng là có đủ thứ, như ở Hà Nội xưa nay. Không Tú tài, anh vẫn làm quan Nhà lãnh đạo xí nghiệp François Pinault, Thủ tướng Pierre Bérégoyoy, Chủ tịch Thượng viện René Monory, Dân biểu, Tổng trưởng Christian Estrosi, …đều là những ngưòi làm nên sự nghiệp sáng chói cho mình mà không có Tú tài. Vậy khi người ta nói “ Bạn sẽ trở thành thứ gì nếu bạn không có mảnh bằngTú tài? ”, bạn hảy giữ sự thảng nhiên và tự tin. Những người hỏi câu đó sẽ lầm. Họa sĩ tài danh Christian Poltanski, không bằng Tú tài để vào Cao đẳng Mỹ nghệ nhưng tranh của ông triển lãm ở Grand-Palais trên đại lộ Champs-Élysée bậc nhứt của Paris. Sự thành công của ông nhờ ở sự làm việc cần cù và sáng tạo . Vẽ, vẽ, vẽ. Ở Pháp không phải chỉ có một mình Christian Poltanski. Ca sĩ Laurent Voulzy là một đứa trẻ nghịch phá, nhiều lần bị đuổi lúc học Trung học. Voulzy chưa bao giờ hoàn tất chương trình Trung học. Nhạc sĩ, ca sĩ, diển viên nổi tiếng của Pháp, Alain Souchon, thi ba lần Tú tài đều rớt. Còn nhiều người nữa. Trước sự thành công ngoạn mục của những người không một bằng cấp trong lưng, người ta bảo “Bằng cấp là tờ giấy để dành riêng cho những người thiếu tài năng. Bạn có tài phải không? Bạn đừng mất công cho việc thi lấy Tú tài làm gì”. Đó là nghệ sĩ. Còn những người lãnh đạo đất nước, cai trị muôn dân? Dân Pháp và chánh giới quốc tế còn nhớ Ông Pierre Bérégovoy, cựu Thủ tướng Pháp dưới thời Tổng thống Mitterrand, chỉ có bằng Brevet Élémentaire (Trung Học Đệ nhứt cấp). Và ông rất tự hào, đem ra khoe với mọi người, không chút mặc cảm. Mà ông có tài thật. Trong những buổi thảo luận công cộng trên TV với phe đối lập, với báo chí, ông tỏ ra vững vàng, với kiến thức về chánh trị, xã hội, kinh tế không thua những người xuất thần Quốc gia Hành chánh, trường đào tạo ra làm quan. Ông René Monory ba lần làm Tổng trưởng và sau cùng làm Chủ tịch Thượng viện, không bằng Tú tài. Gần đây hơn hết, Ông Christian Estrosi, 57 tuổi, Phó Chủ tịch đảng UMP (cánh hữu của cụu TT Sarkozy), cựu Tổng trưởng, Dân biểu, Thị trưởng thành phô Nice, bỏ Trung học vì mê mô-tô . Người đời châm biếm ông là “ mô-tô tự học ” (moto-didacte) . Trong giới lãnh đạo xí nghiệp, Ông Jean-Claude Decaux, 75 tuổi, con trai của một người bán giày, không bằng cấp, trở thành người đứng đầu nghành làm bảng quảng cáo trên thế giới và có tài sản kết sù của nước Pháp . Ông François Pinault, 76 tuổi, thôi học năm 16 tuổi, trở thành người đứng đầu nghành luxe thời trang của Pháp . Và ở Pháp, có lối 1/10 Chủ Xí nghiệp Nhỏ-Vừa (3,2 triệu, theo Trung tâm Kinh tế-Tài chánh, 2010) không có Tú tài. Những người này thành công do bản lãnh thật của họ. Đó là những người can đảm, tự tin, dấn thân thực hiện dự tính, nhắm thẳng mục tiêu. Nên nhớ ở Pháp là xứ trọng bằng cấp, xét người qua bằng cấp. Không khác ở Hà nội ngày xưa “Phi Cao đẳng bất thành phu phụ”. Nên người ta thường nhắc nhở tuổi trẻ “Mày không học, mày chỉ là thứ vô lại”. Sau 200 năm tồn tại, thi Tú tài ngày nay đang trên đà thảo luận có nên bỏ hay không. Như ở nhiều nước Âu châu và Mỹ châu, thi đậu, thi rớt, không hẳn do kết quả chấm thi vô tư của 170.000 giám khảo. Học tài, thi phận vẫn còn ám ảnh học sinh và gia đình. Nếu có bỏ thi Tú tài, ít ra, sẽ tránh cho nhà nước khỏi tốn, như năm nay, 1, 5 tỷ euros về chi phí tổ chức thi, chỉ cho Tú tài Phổ thông và Kỹ thuật. Không bằng cấp mà thành công là những tấm gương cầu tiến rạng rỡ. Không bằng cấp, không có tinh thần cầu tiến, mà thành công, phải gia nhập đảng cộng sản VN. Vì chỉ có với cộng sản, nhỏ không học, lớn vào Trung ương đảng mà thôi! Nguyễn thị Cỏ May
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 4:04:48 GMT 9
Thế nào là người có khí phách?Đừng để ý người khác nói gì sau lưng bạn, bởi vì những lời nói đó không thể thay đổi được sự thật, mà còn làm rối loạn tâm trí bạn. Muốn thành công, nhìn được xa trông được rộng thì nhất định bạn phải rèn luyện khí phách của mình. Nếu tâm đã loạn thì tất cả cũng sẽ loạn theo. Người đã hiểu bạn thì không cần giải thích họ cũng hiểu; người đã không hiểu bạn thì có giải thích cũng bằng không. Qua thời gian không chắc sẽ có tình cảm nhưng nhất định sẽ hiểu được nhau. Khí phách con người rất quan trọng, phải học cách tự nói với chính mình và luôn tin rằng, người thực sự hiểu bạn chắc chắn không bao giờ vì cái này hay cái kia mà nghi ngờ bạn. Cần nuôi dưỡng khí phách của mình, khí phách không phải là tính cách, nó là một dạng thần thái của con người. Khí phách là khí chất của mỗi người, là những gì biểu hiện ra ngoài của nội tâm, là sức mạnh vô hình toát ra từ tố chất của con người. Khí phách không phải bẩm sinh đã có mà phải qua rèn luyện, tích lũy dần trong cuộc sống hàng ngày, là một dạng nhận thức của con người trong việc đối nhân xử thế, bộc lộ tự nhiên, không phải muốn tạo ra là tạo ra được. Người có khí phách giao tiếp lịch sự, xử sự ôn hòa, thái độ nhã nhặn, không vội vàng, không lười biếng, không đờ đẫn, ngây người khi có việc cần làm. Người có khí phách nhìn nhận vấn đề ở một tầm cao hơn, làm cho người khác thấy nể trọng, họ giống như một cuốn sách hay luôn cuốn hút người đọc, luôn thú vị, hấp dẫn từ mọi khía cạnh và khi đã cầm lên đọc sẽ không muốn dừng lại, càng đọc càng thấy hay. Khí phách là một dạng nhẫn nhịn, không bộc phát làm tổn thương người khác. Khí phách là một dạng tính cách giản dị, không màng lợi lộc, công danh, tâm luôn trong sáng. Ngay thẳng, không phụ thuộc vào người khác, biết dừng đúng lúc, khi theo đuổi điều gì sẽ làm đến cùng, chưa đạt mục đích không buông tay. Khí phách là làm cho người khác kính trọng chứ không phải là nể sợ. Với bạn bè luôn chân thành, với bố mẹ luôn hiếu thuận. Đứng ở vị trí cao nhưng không thể hiện cho người khác thấy, làm như thế càng khiến cho người khác nể trọng. Kiềm chế bản thân, suy nghĩ thấu đáo, không ngừng học tập, bạn có thể không làm được việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ nhưng trong tâm bạn luôn nghĩ đến. Mở rộng tầm mắt, vươn cao và đi xa hết mức có thể của bản thân. Khí phách chính là con người bạn, rèn luyện tốt bản thân là nuôi dưỡng tốt khí phách của mình! (Ảnh: internet) Khí phách là một dạng khiêm nhường. Người ít học thường khoe khoang, thể hiện; trong ba người cùng đi ắt sẽ có người là thầy của ta, không nên xem thường người khác, nên nhìn người khác để thấy hạn chế mình, không sùng bái bất kỳ ai nhưng luôn học hỏi những điểm mạnh của người khác. Khí phách là một dạng thái độ ứng xử. Khổng tử khi gặp Tề Cảnh Công mặt không đổi sắc vì đều là người thường, gặp người tài đức sẽ cố gắng học hỏi để trở thành người như họ, không có gì phải sợ hãi, luôn duy trì nhân cách và tự trọng của bản thân. Khí phách là một dạng đỉnh cao của học vấn. Biển học rộng lớn, không ngừng học tập sẽ đến lúc ta đến được bến bờ thành công, càng đứng trên cao sẽ càng nhìn được xa! Khí phách là một dạng tài phú luôn gắn chặt với mình, không ai lấy đi được, bộc lộ ra ngoài sẽ luôn được mọi người khen ngợi, tán dương, ẩn giấu đi giúp bản thân luôn ung dung tự tại. Khí phách là một dạng tu dưỡng ở mức độ thâm sâu. Người khác sẽ không biết bạn nghĩ gì nhưng đừng để người khác nghi ngờ, căm hận bạn. Để có được khí phách là rất khó, nhưng nếu làm được bạn sẽ có được con đường thênh thang rộng mở. Thế nào là bậc đại phu có khí phách hơn người? Đừng để ý người khác nói gì sau lưng bạn, bởi vì những lời nói đó không thể thay đổi được sự thật, mà còn làm rối loạn tâm trí bạn. Muốn thành công, nhìn được xa trông được rộng thì nhất định bạn phải rèn luyện khí phách của mình. Người xưa “tướng tại tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”, ý tứ là “hình tướng bên ngoài là phản ánh tâm của người đó”, cùng là một sự vật, mỗi người có nhận định và ý kiến khác nhau. Bởi vậy, nếu tâm đã loạn thì tất cả cũng sẽ loạn theo. Người đã hiểu bạn thì không cần giải thích họ cũng hiểu; người đã không hiểu bạn thì có giải thích cũng bằng không. Qua thời gian không chắc sẽ có tình cảm nhưng nhất định sẽ hiểu được nhau. Khí phách con người rất quan trọng, phải học cách tự nói với chính mình và luôn tin rằng, người thực sự hiểu bạn chắc chắn không bao giờ vì cái này hay cái kia mà nghi ngờ bạn. Cần nuôi dưỡng khí phách của mình, khí phách không phải là tính cách, nó là một dạng thần thái của con người. Khí phách là khí chất của mỗi người, là những gì biểu hiện ra ngoài của nội tâm, là sức mạnh vô hình toát ra từ tố chất của con người. Khí phách không phải bẩm sinh đã có mà phải qua rèn luyện, tích lũy dần trong cuộc sống hàng ngày, là một dạng nhận thức của con người trong việc đối nhân xử thế, bộc lộ tự nhiên, không phải muốn tạo ra là tạo ra được. Người có khí phách giao tiếp lịch sự, xử sự ôn hòa, thái độ nhã nhặn, không vội vàng, không lười biếng, không đờ đẫn, ngây người khi có việc cần làm. Người có khí phách nhìn nhận vấn đề ở một tầm cao hơn, làm cho người khác thấy nể trọng, họ giống như một cuốn sách hay luôn cuốn hút người đọc, luôn thú vị, hấp dẫn từ mọi khía cạnh và khi đã cầm lên đọc sẽ không muốn dừng lại, càng đọc càng thấy hay. Khí phách là một dạng nhẫn nhịn, không bộc phát làm tổn thương người khác. Khí phách là một dạng tính cách giản dị, không màng lợi lộc, công danh, tâm luôn trong sáng. Ngay thẳng, không phụ thuộc vào người khác, biết dừng đúng lúc, khi theo đuổi điều gì sẽ làm đến cùng, chưa đạt mục đích không buông tay. Khí phách là làm cho người khác kính trọng chứ không phải là nể sợ. Với bạn bè luôn chân thành, với bố mẹ luôn hiếu thuận. Đứng ở vị trí cao nhưng không thể hiện cho người khác thấy, làm như thế càng khiến cho người khác nể trọng. Kiềm chế bản thân, suy nghĩ thấu đáo, không ngừng học tập, bạn có thể không làm được việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ nhưng trong tâm bạn luôn nghĩ đến. Mở rộng tầm mắt, vươn cao và đi xa hết mức có thể của bản thân. Khí phách chính là con người bạn, rèn luyện tốt bản thân là nuôi dưỡng tốt khí phách của mình! (Ảnh: internet) Khí phách là một dạng khiêm nhường. Người ít học thường khoe khoang, thể hiện; trong ba người cùng đi ắt sẽ có người là thầy của ta, không nên xem thường người khác, nên nhìn người khác để thấy hạn chế mình, không sùng bái bất kỳ ai nhưng luôn học hỏi những điểm mạnh của người khác. Khí phách là một dạng thái độ ứng xử. Khổng tử khi gặp Tề Cảnh Công mặt không đổi sắc vì đều là người thường, gặp người tài đức sẽ cố gắng học hỏi để trở thành người như họ, không có gì phải sợ hãi, luôn duy trì nhân cách và tự trọng của bản thân. Khí phách là một dạng đỉnh cao của học vấn. Biển học rộng lớn, không ngừng học tập sẽ đến lúc ta đến được bến bờ thành công, càng đứng trên cao sẽ càng nhìn được xa! Khí phách là một dạng tài phú luôn gắn chặt với mình, không ai lấy đi được, bộc lộ ra ngoài sẽ luôn được mọi người khen ngợi, tán dương, ẩn giấu đi giúp bản thân luôn ung dung tự tại. Khí phách là một dạng tu dưỡng ở mức độ thâm sâu. Người khác sẽ không biết bạn nghĩ gì nhưng đừng để người khác nghi ngờ, căm hận bạn. Để có được khí phách là rất khó, nhưng nếu làm được bạn sẽ có được con đường thênh thang rộng mở. Theo Secretchina Quỳnh Chi biên dịch
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 4:21:06 GMT 9
Khí phách của người quân tử: Quan Vân Trường một mình cầm đao đến Đông Ngô dự tiệc Câu chuyện Quan Vũ ‘đơn đao phó hội’ nổi tiếng ngàn năm, sau này đã được các nghệ nhân kể chuyện đời Tống, đời Nguyên nâng lên thành một giai thoại nhân gian, được dựng thành những vở kịch nổi tiếng. Ông La Quán Trung đã bám vào truyền thuyết dân gian và viết thành một trong tứ đại tác phẩm, Tam Quốc diễn nghĩa, khiến người đời sau không hết lời tán dương.
Tác giả La Quán Trung lấy nhà Hán làm chính thống và ủng hộ Lưu Bị, do đó Quan Vũ – người trợ giúp đắc lực của Lưu Bị được mô tả là nhân vật chính diện, vũ dũng hào hiệp, có khí phách anh hùng. Một trong những điển tích nổi tiếng nhất của ông chính là ‘đơn đao phó hội’, một mình một đao sang đất Đông Ngô dự yến tiệc.
Trong trận chiến Xích Bích, Khổng Minh lợi dụng lúc quân Tào và quân Ngô sống mái với nhau, đã khéo léo cắt cử các bộ tướng như Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Tử Long… đi chiếm cứ nhiều quận của Kinh Châu. Kinh Châu là một vùng đất cực kỳ quan trọng mà cả 3 nhà Tôn, Tào và Lưu đều muốn chiếm cứ. Có được Kinh Châu là có được nền móng để gây dựng cơ đồ. Tại sao lại là Kinh Châu? Kinh Châu là mảnh đất để lại rất nhiều câu chuyện kỳ lạ vào thời Tam Quốc, đó là nơi tranh giành quyết liệt giữa ba thế lực quân phiệt Nguỵ, Thục, Ngô. Những câu chuyện nổi tiếng như Tào A man đi tắt hẻm Hoa Dung, Giang Tả cầu hôn, mượn Kinh Châu, mất Kinh Châu, chặn sông giằng A Đẩu, Quan đại vương đơn đao phó hội… là những câu chuyện rất kỳ ảo được La Quán Trung vẽ thành những bức tranh hết sức đặc sắc trong một seri những câu chuyện được mắc nối đan kết với nhau thành một chuỗi những sự kiện lớn trong cả một quãng thời gian mười mấy năm binh lửa ngút trời. Kinh Châu là mảnh đất để lại rất nhiều câu chuyện kỳ lạ vào thời Tam Quốc, đấy là nơi tranh giành quyết liệt giữa ba thế lực quân phiệt Nguỵ, Thục, Ngô. (Ảnh: Internet) Khi Tào Tháo chiếm Kinh Châu cũng mới chỉ bình định thực sự có 3 quận Bắc Kinh Châu là Nam Dương, Giang Hạ và Nam Quận, còn 4 quận Kinh Nam chỉ hướng về Tào Tháo mà đầu hàng trên danh nghĩa. Rồi khi Tháo bại trận Xích Bích phải chạy về Bắc lại thiết lập phòng tuyến mới ở Tương Dương, đất đai thu được chỉ là quận Nam Dương và một phần Giang Hạ. Sau chiến dịch Giang Lăng, Chu Du lấy được một phần phía đông nam quận Giang Hạ và một phần Nam Quận, còn Lưu Bị áp dụng kế của Gia Cát mà tiến chiếm 4 quận Kinh Nam và một phần Nam quận làm đất cải tử hồi sinh cho sự nghiệp của mình. Đại chiến Xích Bích huyền thoại, Tào Tháo đại bại trước liên minh Tôn – Lưu, thiên hạ chia 3 kể từ đây. (Ảnh: Internet) Suốt quãng thời gian từ Kiến An thứ 14 đến năm Kiến An 24, tại Kinh Châu, những vị trí chiến lược như Tương Phàn, Giang Lăng do ba thế lực quân phiệt hùng mạnh thay nhau nắm giữ, tranh giành kèn cựa với nhau. Xét trên tình thế nhà Lưu lúc đó thì thấy rằng bên Lưu Bị mới manh mún nên rất ít anh tài. Trong quân của Lưu Bị lúc đó, Quan Vũ là viên hổ tướng dũng mãnh nhất, là cánh tay phải của Lưu Bị, có danh tiếng cực lớn, khả năng thu hút quần chúng rất mạnh mẽ hơn đứt những mãnh tướng hàng đầu lúc bấy giờ. Đến Chu Du cũng phải ca ngợi Quan Vũ là viên tướng hổ báo. Lục Tốn sau này cũng phải tán tụng rằng Quan Vũ là hào kiệt trên đời. Trình Dục là mưu sỹ tâm đắc của Tháo cũng phải khen Quan Vũ là vạn người thấy một… Còn điểm nữa là lòng trung của Quan Vũ với Lưu Bị quả là sáng láng cổ kim có một không hai. Vậy thì với khí thế ấy, danh tiếng ấy, lòng trung với chúa ấy, để Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu là thích hợp nhất, tại sao không? Trình Dục là mưu sỹ tâm đắc của Tháo cũng phải khen Quan Vũ là vạn người thấy một… (Ảnh: Internet) Khi Lưu Bị từ Ích châu trở về Kinh Châu cũng là lúc cuộc chiến Tôn – Lưu sắp sửa nổ ra. Lưu Bị đóng ở Sàn Lăng, Quan Vũ từ Giang Lăng xuôi xuống Ích Dương đối đầu cùng Lỗ Túc. Quyền lệnh cho Lã Mông đối đầu cùng Lưu Bị, còn Lỗ Túc đối trận cùng Quan Vũ ở Ích Dương. Trước tình hình ấy, Lỗ Túc với tầm nhìn chính trị sắc sảo của mình là chủ trương tránh chiến tranh khốc liệt mang lại nhiều tai hại đã cự tuyệt mệnh lệnh của Tôn Quyền, cùng với Quan Vũ tiến hành hoà đàm, chính là sự kiện “đơn đao phó hội” nổi tiếng trong kinh kịch và tiểu thuyết. Tôn Quyền quyết tâm đòi lại Kinh Châu Xưa Lỗ Túc cho Lưu Bị “mượn” Kinh Châu với mục đích Lưu Bị sẽ đỡ hộ cho Ngô ở mặt trận Giang Lăng , nhưng đến lúc này Ngô không cần điều đó nữa, mục đích ban đầu không còn, đương nhiên Ngô hầu sẽ quay sang “đòi” lại đất. Mối lo chủ yếu của Đông Ngô, vào lúc này, chính là Tây Thục chứ không phải Bắc Ngụy nữa. Kể từ sau trận Xích Bích, quân nhà Lưu đã từ cảnh sống vô gia cư, chết vô địa táng, ăn cơm bụi uống nước cống trở thành một thế lực thật sự hùng mạnh, rõ ràng có khả năng tranh bá đồ vương. Thiên hạ chia 3. Lưu Bi hùng bá một phương trời. (Ảnh: Internet) Sự kết liên giữa Ngô với Thục quanh trận Xích Bích cũng chỉ như một giải pháp tạm thời, bắt buộc phải thực hiện để sinh tồn. Khi Tào Ngụy đã bị đẩy lui, những mâu thuẫn bắt đầu bộc lộ, và thế tất phải trở nên xung đột khi có tranh chấp về mặt lợi ích. Thực tế, trong cả 60 năm Tam Quốc, Ngô hầu như chưa bao giờ thực bụng kết đồng minh với bên nào, kể cả Ngụy lẫn Thục. Những hiệp ước của Ngô luôn luôn là một giải pháp tạm thời để củng cố vị trí của mình. Cho mượn Kinh Châu, chịu tước phong của Nguỵ, cầu hàng với Thục, kết bang giao, rồi hẹn nhau đưa quân phạt Trung Nguyên, đều là như thế. Ngô luôn nghe ngóng và đánh giá tình hình rồi mới hành động, để làm sao có lợi nhất cho mình. Ngô quyết theo đường lối giữ thế chân vạc, vì vậy nên luôn thay đổi theo thời thế để đảm bảo không nước nào trong 3 nước bị diệt. Lỗ Túc với Gia Cát Lượng. (Ảnh minh hoạ: Internet) Không lấy được Kinh Châu, Ngô hầu quyết không thể kê cao gối ngủ. Thật ra, nếu không có Kinh Châu, Đông Ngô sẽ rất cô thế, chưa chắc đã trụ nổi đến hết 60 năm. Không nắm được phần đất phì nhiêu ấy, chỉ cần hoặc Thục hoặc Ngụy ra binh thì nước Ngô đã rất khốn đốn vì phòng tuyến đã bị co cụm đi quá nhiều. Quan Vũ ‘đơn đao phó hội’ Lưu Bị phái Quan Vũ trấn giữ Kinh Châu, nguyên là đất của Tôn Quyền. Tôn đòi lại mấy phen không được. Lỗ Túc bày mưu cho Tôn như sau: Lỗ đóng quân ở bờ sông Lục Khẩu, cho Cam Ninh, Lã Mông phục binh, mời Quan đến dự tiệc rồi xin trả đất, nếu không nghe thì sai 50 quân đao phủ đã mai phục sẵn cứ xông ra chém Quan giữa tiệc, rồi đánh chiếm Kinh Châu. Mặc dù biết rõ mưu kế của Lỗ Túc và bộ tướng đều can ngăn nhưng Quan Vũ vẫn nhận lời Lỗ Túc. Quan Vũ đi thuyền tới dự tiệc của Lỗ Túc. Đúng hẹn, Quan Vũ một mình một đao đến Lục Khẩu hội với Lỗ Túc và ra về an toàn. Phải chăng Quan Vũ quá liều? Không phải! Quan Vũ một mình đến phó hội vì 2 lý do sau: Thứ nhất, Quan Vũ nắm được chủ trương, tính cách của Lỗ Túc. Sau khi Chu Du chết, Lỗ Túc làm Đại đô đốc của Đông Ngô. Phương châm của Lỗ Túc là: Khi nào Ngụy mạnh thì kết giao với Thục, khi nào Thục mạnh thì kết giao với Ngụy nhằm tạo thành thế Tam Quốc, cũng là muốn cho Đông Ngô vững bền. Hơn nữa, Lỗ Túc là người sâu sắc, nên mặc dù tính kế như vậy nhưng ông cũng không muốn giết Quan Vũ chuốc thù với Thục. Do đó, khi đón Quan Vũ ở bờ sông, Lỗ Túc vội đến gần Quan Vũ thi lễ và nói nhỏ vào tai Quan Vũ “Ông đi cạnh tôi nhé”. Và, cứ như thế, Quan Vũ cầm Thanh long đao đi bên cạnh Lỗ Túc, nói cười vui vẻ làm cho bọn Cam Ninh, Lã Mông muốn ra tay cũng không được. Thứ hai, Quan Vũ muốn cho Đông Ngô, đặc biệt là bộ tướng Cam Ninh, Lã Mông thấy được uy vũ của ông và cũng là sức mạnh của Thục. Và, muốn khẳng định “Quan Vũ còn thì Kinh Châu còn” Đông Ngô đừng mong chiếm đất của Hán thất. Quan Vũ đội khăn xanh, mặc áo bào màu lục, ngồi thuyền đi đến. Trên thuyền ngoài Châu Thương cầm đao Thanh long đứng hầu chỉ có thêm tám, chín người lực lưỡng giắt mã tấu hộ vệ. Uy vũ của Quan làm Lỗ Túc khiếp vía. Quan không chịu trả đất, một tay cầm đao, một tay nắm chặt Lỗ ra thuyền về thành an toàn. Quân Đông Ngô trước đã ém sẵn bên sông đành phải thúc thủ. Đời sau quá hâm mộ khí phách Quan, ví việc ấy còn hơn cả Lạn Tương Như nước Triệu thời Chiến quốc, một mình vào dự hội Hàm Trì, coi vua tôi nhà Tần chẳng vào đâu. Nên có thơ khen tặng rằng: “ Một đao phó hội uống thờ ơ, Coi nhỏ Đông Ngô tựa trẻ thơ. Khí khái anh hùng trong cuộc rượu, Hàm Trì gấp mấy Lạn Tương Như. “ Giai thoại ‘đơn đao phó hội’ mà Quan Vân Trường để lại đã giúp ông lưu danh thiên cổ. (Ảnh: Internet) Nhiều người cho rằng, “Đơn đao phó hội” thể hiện uy dũng của Quan Vũ, điều đó đúng nhưng chưa đủ. “Đơn đao phó hội” còn thể hiện cái “trí” của Quan Vũ, “biết người biết ta”. Quả thật là “Trí dũng song toàn”.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 1, 2018 9:32:58 GMT 9
Đi tìm một chủ nghĩa quốc gia Nguyên tác : Phạm Quỳnh Dịch : Lại Như Bằng Nguyên tác tiếng Pháp "Vers une doctrine nationale" trích từ tập : Nouveaux essais franco-annamites , Editions Bui Huy Tin-Hue, 1938 , quy tụ một số bài báo, bài tham luận bằng tiếng Pháp của Phạm Quỳnh. I Sự cần thiết của một chủ nghĩa quốc gia An Nam Gạt bỏ lớp vỏ bề ngoài để tìm hiểu sâu sắc xã hội An Nam ngày nay,ta sẽ thấy hiển hiện một xã hội khá rời rạc và hỗn loạn, trông như một đám người mất định hướng đang tìm đường , không còn biết rõ mình đang làm gì và phải đi về đâu. Quần chúng chưa ra khỏi trạng thái tê liệt cảm tính lâu đởi , và nếu thỉnh thoảng có thoáng thức tỉnh, nói chung vẫn không còn ý thức , không còn biết gì về vận mệnh của mình như thời xưa nữa. Trước đây, ít ra họ cũng cảm nhận được qua trực giác cái vận mệnh này, vận mệnh không tách khỏi con đường truyền thống của nói giống, nên đã vững vàng tiến bước. Ngày nay, bị cuốn trôi trong giòng vận chuyển tiến hóa chung ngày ngày xáo trộn các thói quen tập tục, quần chúng hoàn toàn mất định hướng , nhầt là họ không còn tìm thấy nơi tầng lớp ưu tú lãnh đạo những người hướng dẫn tự nhiên đề giảng giải cho họ, hướng dẫn họ, chỉ cho họ con đường phải theo. Thật vậy, trong giới trí thức trẻ vốn là thành phần tiên tiến, cũng như trong những tầng lớp gọi là lãnh đạo , là nền tảng của xã hội, người ta hối hả, khuấy động, lục lạo mọi nơi , thử nghiệm đủ mọi con đường, không bao giờ chịu theo một hướng đi nhất định, việc nào cũng như ngập ngừng do dự hơn là xuất phát từ một ý muốn có ý thức , có suy tính ; và dù ai có bỏ công quan sát cho thật kỹ cũng khó tìm được trong tất cả mọi hoạt động hời hợt và giả tạo này một đường lối đặc thù hay đôi ba nét của một lý tưởng chung nào đó. Thật ra, trong chiều sâu lịch sử, dân tộc An Nam đã chứng tỏ có thể, dưới sự lãnh đạo của vua chúa mình, tự khép mình trong kỷ luật để thực hiện một nghĩa vụ cao cả mà ta có thể gọi là quốc gia, vì nghĩa vụ này được xem như một thứ sứ mạng lịch sử, chống lại áp lực xâm lăng của nước Tàu từ phía bắc, tiến xuống phía Nam lấn chiếm đất của Chăm pa. Cái ý thức có thể nói là tự bản năng của sứ mạng này hay của nghĩa vụ này tạo cho họ một tính thống nhất tinh thần luôn luôn tìm thấy lại sau mọi kỳ nội chiến hay nội loạn; nó gắn cho mỗi cố gắng của họ, cho hành động tập thể của họ một mục tiêu vượt lên trên mọi lo tính hàng ngày và áp đặt lên họ như là một lý tưởng chung của nòi giống. Cái lý tưởng này được thể hiện khi vua Gia Long hoàn toàn thống nhất vương quốc, nó từ từ yếu mòn và mất dần tính năng động qua các triều kế vị. 2 Ngay dưới thời suy nhược của những vua Lê cuối cùng, cuộc chiến không ngửng giữa hai thế lực Trịnh và Nguyễn đã tiêu hủy lý tưởng lâu đời này. Vị khai nghiệp tài tình của triều đại ngày nay đã khôi phục lại lý tưởng và cho nó một sức sống mới qua một thứ "chủ nghĩa đế quốc " An Nam với mục tiêu gom lại , từ biên giới Tàu tới Vịnh Xiêm La, tất cả các mảnh đất mang dấu vết chinh phục và khai khẩn của người An Nam . Chúng ta đã thấy rằng các vua kế vị không đủ khà năng giữ vững lý tưởng này, để cho nó hoàn toàn suy sụp. Thực ra, thời thế lúc đó cũng không được thuận lợi. Ngoại trừ khoảng ba mươi năm dưới triều Minh Mạng và Thiệu trị lo tổ chức lại guồng máy nhà nước, ngay từ nửa sau thế kỷ 19, đất nước rơi vào tình trạng rối loạn nội bộ và ngoại giao, đan chéo chằng chịt không lối giải, loạn lạc không ngừng làm suy nhược hoàn toàn triều đại cùng nhân dân. Tiếp theo là sự can thiệp của người Pháp, với nhượng đất Nam Kỳ, và thiết lập thể chế bào hộ lên An Nam - Bắc Kỳ. Lý tưởng bành trướng và thống trị , xưa kia nung nấu nhiệt tình của con dân An Nam qua bao thế kỷ, tắt dần khi đất nước không còn độc lập. Một giai đoạn lịch sử mới mở ra cho đất nước này, đầu tiên mờ ảo , đầy sóng gió, hỗn loạn, tiếp theo là những cố gắng thu xếp, thích nghi luôn luôn trong khó khăn chật vật, rất nhiều khi vô hiệu, đôi lúc đưa đến thất vọng ê chề; cuối cùng là một thứ quân bình tạm bợ ngày hôm nay với một tình thế đủ ổn định để có thể hòa giải, nếu có đủ thiện chí, mọi lập trường của mọi phe phái. Nhưng chính những thuận duyên của tình thế này - thuận duyên mà mọi người An Nam có thiện chí đều phải công nhận - lại cho phép ta thấy rõ những thiếu sót của chính nó . Chính thể hiện tại dem lại cho chúng ta hoà bình, an ninh, điều kiện sống ngày nay rõ ràng là tốt hơn thời trước. Nhưng về phương diện luân lý, phương diện tâm linh, và ngay cả chính trị nữa, đứng trên lập trường ý thức quốc gia vốn luôn luôn nằm trong tâm trí những thành phần ưu tú nhất của chúng ta, tình trạng hiện tại có đem lại thỏa mãn không, yên tâm không ? Hỏi tức là trả lời. Tình trạng hoang mang hiện nay của xã hội ta, chủ yếu là của những tầng lớp lãnh đạo, sự bối rối gia tăng cùng lúc với sự phát triển của nền giáo dục đang được mở rộng cho thấy tâm trạng người An Nam chưa được ổn định, chưa được thỏa mãn. Đặc tính của con người - con người "văn minh" của mọi thời mọi xứ - là tìm cách giải thích hành động hay thái độ của mình bằng những mục tiêu cao thượng. Con người luôn luôn phải nương tựa vào một hệ tư tưởng, hay vào một lòng tin thần bí mầu nhiệm nào đó, để tạo cho đời mình một ý nghĩa. Thật vậy, thời nay, ta thấy mọi nơi trên thế giới nẩy nở tràn lan , một cách không bình thường, đủ thứ thần bí. Người An Nam vốn không phải là thứ người dã man mọi rợ , đủ khả năng luận lý, đôi khi lo lắng tự hỏi, khi mà mọi dân tộc đang hồ hởi với những ý tưởng vốn 3 là những nguồn sinh lực , không biết mình nên theo con đường nào, và không biết thân phận một dân tộc nhược tiểu và bị bảo hộ có thể tìm ra một lý tưởng nào không ? Họ không thể nào định rõ được cho mình cái lý tưởng chập chờn khi ẩn khi hiện đó, và họ đau xót đến tận đáy lòng. Nhưng, có người sẽ nói, hạng ngưòi An Nam đó không nhiều, và đa số người dân xứ này chẳng màng gì đến chuyện lý tưởng và càng xa vời hơn nữa với chuyện hệ tư tưởng. Người ta sống bằng cơm gạo, nào phải bằng những mơ mộng viển vông của các nhà lý thuyết. Lập luận này không có gì là lạ . Nó không có một giá trị nào cả. Vì dù cho số người khao khát lý tưởng này không nhiều, nhưng nếu họ thuộc tầng lớp ưu tú, thì cũng chẳng thể coi thường . Tầng lớp ưu tú này không đông, nhưng nó xác định mẫu mực, "âm điệu chuẩn mức", cho toàn thể quốc gia. "Âm điệu" này có thể là "âm điệu" buồn nản, oán hận, bất mãn, hay ngược lại là "âm điệu" của sự can đảm, của tin tưởng, của hy vọng vào một tương lai tươi đẹp hơn. Khuynh hướng bi quan tạo ra trong trường hợp thứ nhất đương nhiên sẽ đưa đến một sự suy nhược tinh thần chung, tạo điểu kiện cho mọi luận điệu tuyên truyền nguy hiểm , trong khi một khuynh hướng lạc quan trong trường hợp thứ hai là giải pháp tốt nhất để ngăn chận mọi tư tưởng xấu xa, mọi chủ thuyết hiểm độc. Người ta thường nói: chỉ có thần bí mới chống lại được thần bí. Chỉ có ý-lực (idées-forces) mới hóa giải được ý-lực. Không thể đem những lập luận dựa lên quyền lợi vật chất cụ thể nhất thời hay những tính toán có ít nhiều tính cơ hội để thuyết phục người An Nam bỏ ngoài tai những lập luận dối trá của chủ nghĩa cộng sản, của chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc , của chủ nghĩa phát xít hay của một thứ chủ nghĩa quốc gia rẻ tiền. Chỉ có một chủ nghĩa quốc gia kết cấu chặt chẽ, lô gích , hợp tình hợp lý, dựa lên một mặt là những sự kiện hiển nhiên và có lợi ích , một mặt là những ước mong sâu đậm nhất tiềm ẩn trong tâm thức họ , mới có thể tạo cho họ sức mạnh để sống và hành động một cách lành mạnh trong điều kiện sống hiện tại , chống lại mọi đe dọa từ trong ra hay từ ngoài đến. Làm sao tìm ra một chủ thuyết như vậy ? Những người An Nam nào chấp nhận chế độ hiện tại liệu có thể giải thích thái độ , cùng cung cách ứng xử của họ , bằng những lý do không phải chỉ có tính vụ lợi, bằng những mục tiêu cao thượng nảy sinh từ lòng thao thức thâm sâu của họ? Nói cách khác, một chủ nghĩa quốc gia An Nam có thể đi đôi với thể chế bảo hộ của Pháp không ? Nếu có, phải quan niệm thế nào về chủ nghĩa quốc gia đó, dựa trên cơ sở luân lý, văn hóa, chính trị nào để không chỉ là một lý thuyết trừu tượng, một phóng ảnh của tâm trí, mà là một chủ thuyết sống động, một "ý lực" có khả năng tác động lên dân tộc này, cho nó lòng tin vào vận mệnh của nó, hướng dẫn nó trong trật tự và tiến bộ trên con đường thể hiện những sứ mạng phải hoàn thành ? Đó là vấn đề được đặt ra và chúng tôi xin đề nghị toàn thể độc giả và thân hữu cùng suy ngẫm. Chúng tôi nghĩ rằng đây là vấn đề quan trọng hàng đầu và lời 4 giải đáp có thể là phương thuốc cho nỗi trăn trở hiện nay của tầng lớp ưu tú An Nam. Chúng tôi sẽ cố gắng, về phần mình, đóng góp vài yếu tố cho câu giải đáp của vấn đề. Chúng tôi không chỉ kêu gọi những người thuộc tầng lớp ưu tú trong đồng bào của chúng tôi, mà xin mở rộng lời kêu gọi đến cả các bạn Pháp, hầu giúp chúng tôi trong công cuộc này bằng cách cho chúng tôi những ý kiến, và những đề nghị cụ thể. Vượt qua những tranh cãi cá nhân chỉ gây chia rẽ và giận hờn, nghiên cứu và thảo luận một vấn đề có tầm mức quan trọng quốc gia giúp ta đánh giá mức trưởng thành trí thức và chính trị của những ai trong chúng ta muốn tham gia vào tầng lớp thực sự ưu tú lãnh đạo đất nước. II Chủ nghĩa quốc gia An Nam và Thể chế bảo hộ của nước Pháp. Chủ nghĩa quốc gia An Nam có xung khắc với thể chế bảo hộ của nước Pháp không ? Chúng tôi khẳng định rằng một chủ nghĩa An Nam khôn ngoan và ôn hòa hoàn toàn tương hợp với một thể chế bảo hộ phóng khoáng và cởi mở. Dù sao, đây cũng là hai nhóm sự kiện cùng cần thiết như nhau, tương hợp với quyền lợi của cả đôi bên. Do đó, chúng ta cần phải nhận định chính xác hai nhóm sự kiện đó. Phải hiểu chủ nghĩa quốc gia An Nam như thế nào? Thể chế bảo hộ Pháp là gì ? Có những chùm ý tưởng nào, tình cảm nào, thành kiến nào, khuynh hướng nào, yếu tố sinh lý nào tiềm ẩn trong hai cụm từ , thoạt nghe đã thấy chống đối nhau, mà chúng ta lại muốn gắn lại với nhau, kết hợp, đồng hóa thành một tổng hợp hài hòa ? Ta thử xét cụm từ thứ nhất. Cụm từ chủ nghĩa quốc gia thường là nạn nhân của một thành kiến . Người "quốc gia" mang hình ảnh một người yêu nước hung hăng, xem đất nước mình, nòi giống mình là nhất trên thế gian, và gắn bó với nền độc lập của đất nước mình đến độ có thể sẵn sàng làm đủ thứ chuyện , ngay cả khơi động một cuộc cách mạng, một cuộc chiến hay gây ra tội ác , để bảo vệ nó hay để dành lại nó. cụm từ này gợi cho ta hình ảnh của chủ nghĩa Phát Xít Ý, Nazi Đức, của đám thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ đệ tử của Kemal, của swarajiste Ấn Độ, của Wafdhiste Ai Cập, của thanh niên Tunisie thuộc xu hướng Destour, và gần chúng ta là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng với dư ảnh đẫm máu của thảm kịchYên Bái. Nếu trong từ vựng chính trị có một từ không còn được người có lương tri trân trọng nữa thì đó chính là từ "quốc gia". Nhãn hiệu đó chỉ định một con người 5 nguy hiểm, thâm tâm luôn luôn tìm cách lật đổ trật tự xã hội hiện có, một con người bài ngoại mù quáng căm thù mọi ảnh hưởng ngoại lai. Chúng tôi muốn khôi phục giá trị của cụm từ này bằng cách trả lại cho nó ý nghĩa đáng lẽ nó phải có. Đối với chúng tôi, một người theo chủ nghĩa quốc gia là một người hết lòng gắn bó với đất nước và nòi giống mình, có một ý thức cao về tình đoàn kết quốc gia và truyền thống lịch sử ; là một người yêu nước, nhưng yêu nước không chỉ bằng tình cảm mà còn bằng lý trí, một người muốn nâng mức độ yêu nước của mình lên thành một chủ thuyết đạo đức và chính trị. Từ một tình cảm tự nhiên, tiềm ẩn trong thâm tâm của mỗi con người, người này muốn xây dựng thành luật sống hay một thái độ hoàn toàn có ý thức và có suy luận. Trong một thế giới mà mọi tôn giáo đã hoàn toàn sụp đổ, mọi triết lý bị lay động ngà nghiêng, chính trị từ từ bị kinh tế lấn áp hoàn toàn , đạo đức không còn dựa trên một nền tảng vững chắc nào và con người mỗi lúc phải tự hỏi sống để làm gì, người này thấy rằng chì còn một thực tế tồn tại giữa tất cả cái hỗn loạn này, đó là tập thể xã hội và dân tộc từ đó mình sinh ra, với những người giống mình, được nhào nặn bằng cùng chất liệu nhân cách, với những nỗi nhọc nhằn, đau xót, hy vọng như mình, gắn bó với mình bằng cả ngàn sợi giây vô hình, và cùng chung với mình một vận mệnh. Như vậy,Tổ quốc đối với người ấy không còn là một khái niệm trừu tượng, nhưng là một thực thể sống động với những hình ảnh có thể thấy qua mọi sự vật, mọi sinh vật bao quanh họ. Người ấy cảm nhận thấy mình là một phần của một tổng thể sống động, mà mỗi nhịp tim rung động thâm sâu tâm hồn mình. Cảm giác có một sợi giây liên hệ mật thiết, có thể nói thêm là xuất phát tự đáy lòng, kết hợp người đó không những với tất cả những người còn sống tạo thành tổng thể này, mà còn với cả những người đã chết và những kẻ sẽ sinh ra. Người ấy cảm nhận mình là một hạt trong sợi giây chuỗi dài dặc mà đầu ngọn bắt nguồn từ chiều sâu vô tận của thời gian, và kết thúc cuối cùng không biết sẽ đi về đâu. Khi mà chung quanh mình, tất cả đều bị nghi ngờ xét lại không nương tay , khi mà lòng tin thái quá vào khoa học , thay vì kết hợp với "lương tâm" , lại thành ra chống đối "lương tâm" , anh ta thấy tổng thể này là thực tế duy nhất không thể chối cãi, một thực tế vừa lý tưởng, vừa cụ thể, bao bọc mình từ mọi phía, cùng lúc vượt lên trên, một thực tế mình có thể bám víu vào mà không bị cảm giác hụt hẫng. Đối với anh ta, cái thực tại này, hiển hiện trước mắt một cách thường trực và hàng ngày, đương nhiên là cơ sở duy nhất, vững chắc nhất cho đời sống của mình, cho sinh hoạt của mình. Vì tất cả gắn bó anh ta với tập thể con người mà anh ta là thành viên, anh ta không thể thờ ơ với vận mệnh của tập thể này; với cuộc sống riêng tư của mình, anh ta tham gia vào vận mệnh của nó, anh ta có trách nhiệm với sự thịnh vượng hay sự thoái hóa của nó. Anh ta không còn sống riêng rẽ, chỉ vì mình cho riêng mình, như một hòn đảo nhỏ chìm đắm giữa biển động sóng cao. Liên đới trách nhiệm với tập thể của mình, anh ta cũng sống nhờ nó và cho nó. Với tập thể này, anh ta cảm thấy có bổ phận, có trách nhiệm. Đời 6 sống anh ta có một mục tiêu, một lý tưởng: hạnh phúc của tập thể vốn gắn liền với hạnh phúc của chính anh ta, sự thịnh vượng của quốc gia của anh ta, uy danh của tổ quốc mà anh ta muốn là một con dân có ý thức và đóng góp tích cực. Suy rộng lý tưởng này dựa trên các bài học lịch sử và qua kinh nghiệm của các dân tộc khác, anh ta đương nhiên đi tới kết luận của sử gia nổi tiếng Camille Jullian sau khi suy ngẫm về quá trình hình thành của quốc gia Pháp : theo đó "quốc gia là hình thức lý tưởng của tập hợp xã hội", quốc gia là hình thái cao cả nhất của các tập thể xã hội con người. Dựa trên khái niệm về tổ quốc và nòi giống , ta có thể dễ dàng xây dựng cả một hệ thống triết lý, một hệ thống đạo đức, một hệ thống chính trị. Chính vì vậy mà từ đó nẩy sinh các chủ thuyết hay huyền hoặc thuyết quốc gia chủ nghĩa. Các chủ thuyết này đương nhiên mang sắc thái của tâm tính, màu sắc của tâm hồn các dân tộc tạo ra chúng hay chấp nhận chúng . Nhưng tất cả đều dựa trên cái vốn liếng mà chúng tôi đã cố gắng định nghĩa và phân tích ở trên. Cái vốn liếng này không hề vắng bóng trong tâm hồn người An Nam. Nó đã luôn luôn có mặt trong quá khứ. Ngày nay, nó mỗi ngày mỗi tự ý thức về mình rõ ràng hơn ; tự định hướng lại, sắp xếp lại, và cố tìm cho mình một con đường trên đó nó có thể khẳng định nhân cách của mình , giãi bày tư tưởng , và tự do thăng hoa. Chính cái vốn liếng được xây dựng lên từ những tình cảm, những tư tưởng, những thiên hướng đi đến tận cùng gốc rễ thâm sâu nhất của nòi giống, để tìm hình thái của mình, ngôn ngữ của mình, chính cái tồng hợp tâm lý đang mong muốn tự sắp xếp lại và trở thành hiện thực này được chúng tôi đặt tên là "chủ nghĩa quốc gia An Nam". Mặc dù cái tổng hợp này thuộc lãnh vực tinh thần và tâm lý và vận hành trong nội tâm , không thể quan sát một cách hời hợt bề ngoài, không ai có thể phủ nhận sự hiện thực của nó. Hơn nữa, nó còn là một sự kiện tự nhiên và, và như đã nói ở trên, cần thiết nữa. Nó có thể ít nhiều được ý thức và được suy tính . Nó luôn luôn nằm sẵn trong tận đáy lòng các dân tộc - dân tộc An Nam và các dân tộc khác - và là một trong những sức mạnh tự bản năng của nòi giống. Một dân tộc không có cái ý thức tự bản năng về tập thể của chính mình, không cảm nhận được tình cảm đoàn kết nòi giống là một dân tộc đang trên đường phân tán và suy đồi. Hẳn đây không phải là trường hợp của dân tộc An Nam. Tình cảm quốc gia An Nam như vậy là một sự kiện tự nhiên và cần thiết, sự hiện hữu của nó là chính đáng và sự phát triển là chuyện bình thường. Biết khéo dẫn dắt , theo đường hướng đúng đắn, nó có thể và sẽ phải là một thế lực có ích lợi, đem lại kết quả tốt. Bị ngăn chặn, "đè nén", nó có thể phát triển một cách không bình thường, hay còn nguy hiểm nữa. Dù sao đi nữa, nó có đó, và ta không thể nhắm mắt làm ngơ không đếm xỉa tới. 7 Nhưng - và tất cả vấn đề là ở đây - cái tình cảm quốc gia An Nam đó đang trên đà phát triển, sắp xếp tổ chức lại, hiển hiện ra với sức mạnh của một thế lực thần bí, có đụng độ một thế lực khác có tổ chức, uy mãnh, đại diện cho sự giám hộ của một quốc gia ngoại lai, tức là nền bảo hộ của nước Pháp không? Cái thế lực có tổ chức này liệu có khuynh hướng muốn tiêu diệt cái thế lực kia không, hay ít ra cũng làm ngơ, bỏ qua không đoái hoài tới ? Và thế lực bị "đè nén" , không được cảm thông, bị dồn ép trong thế giới riêng của mình, thay vì phát triển một cách lành mạnh, liệu có sinh ra những tình cảm căm thù, mờ ám không? Bây giờ chúng ta bước sang vế thứ hai của vấn đề là nền bảo hộ của nước Pháp. Nếu ta bảo rằng chủ nghĩa quốc gia An Nam là một thế lực đang dò dẫm tìm đường hay chưa tự ý thức được mình, thì nền bảo hộ của Pháp là một thế lực hiển nhiên không cần bàn nữa. Tự nó, nó có đủ sức mạnh vật chất để khiến mọi người phải kiêng nể , và không cần bào chữa cho hành động của mình bằng bất cứ một lý do đạo đức hay lý tưởng nào. Tuy vậy, các lý thuyết gia , với những lập luận có ít nhiều tính thuyết phục, đã bỏ công ra để bào chữa cho chế độ thực dân, nghĩa là bào chữa cho sự kiện các dân tộc hùng mạnh có thể áp đặt nền thống trị của mình lên trên các dân tộc yếu kém hơn. Sự bào chữa này , có thể nói là đã đến sau khi chuyện đã rồi , dùng những lời lẽ đượm màu lý tưởng , hợp thức hóa một sự kiện chẳng cần phải giải thích. Tuy vậy, bản thân hiện tượng bào chữa này cũng đáng chú ý và báo hiệu một khuynh hướng mới đang thành hình trong tương quan giữa các dân tộc. Chúng tôi thấy không cần phải tóm tắt cài lý thuyết đã được Albert Sarraut trình bày không biết bao nhiêu lần về "quyền hạn của kẻ mạnh bảo trợ kẻ yếu". Quyền hạn cho phép kẻ mạnh thay thế kẻ yếu để thăng hoa giá trị những tài nguyên chưa được khai thác, thăng hoa giá trị chính bản thân kẻ yếu, được xem như là thành phần nhân loại còn chậm tiến, hay thăng hoa giá trị tài nguyên nhân lực. Thuyết này mới đây đã được sự hỗ trợ, xác nhận đồng tình của uy quyền tâm linh cao nhất thế giới là Nhà Thờ Ca Tô Giáo. Mới đây, báo Osservatore romano, cơ quan ngôn luận của Vatican, xem khai thác thuộc địa là một "công trình vĩ đại đoàn kết nhân loại, tạo thành bằng tính kiên trì, lòng can đảm, quyết tâm và tình huynh đệ thân ái ": " Không một dân tộc nào, nòi giống nào được quyền đứng ngoài sự vận hành tập thể và liên đới của đời sống các quốc gia. Những tài nguyên vật chất do quả đất hiến tặng không thể bỏ phí không khai thác, và những dân tộc nào có tài nguyên mà tự mình không biết khai thác, phải chấp nhận được giúp đỡ và hướng dẫn. Người khai thác thuộc địa ngày nay, được đào tạo trong các trường chuyên môn, xem sự khai thác thuộc địa như là một sự cộng tác giữa các nòi giống, chứ không phải là sự khai thác hung bạo nòi giống này bởi nói giống khác. Dân bản xứ, cảm nhận những lợi ích của sự khai thác thuộc địa theo nghĩa trên, và 8 thường thường tỏ ra mãn nguyện. Nhà thờ luôn luôn khuyến khích và ủng hộ một công trình như vậy bằng một sự dấn thân bảo trợ toàn diện. Tóm lại, Nhà Thờ xem vấn đề khai thác thuộc địa trước hết là một vấn đề thuộc lãnh vực đạo đức và không thể chỉ được giải quyết bằng bạo lực. Vấn đề này luôn luôn và chủ yếu phải là một sự thẩm thấu trong hoà bình, qua thuyết phục, qua chinh phục liên tục và từ từ, bằng quyết tâm, bằng tấm lòng." Những lý thuyết kiểu đó không khỏi có phần hình thức giả dối, tuy nhiên ta phải công nhận rằng lý thuyết của Nhà Thờ Ca Tô xem vấn đề chinh phục thuộc địa trước hết phải là vấn đề thuộc lãnh vực đạo đức. Dĩ nhiên, lập luận này phù hợp với chủ thuyết truyền đạo tất cả vì "tình huynh đệ". Nhưng đây cũng là thái độ đúng đắn để xét và giải quyết vấn đề thuộc địa, là vấn đề chính của chúng ta, với hai nhân vật chung sống trên cùng mảnh đất, người Pháp "chinh phục thuộc địa" và người An Nam "bị chinh phục". Nếu ta chỉ xem chuyện này như là vấn đề tương quan lực lượng, thị trường tiêu thụ, tài nguyên, nhân lực hay là uy thế quốc gia, thì ta sẽ không có lối thoát, nó sẽ đưa đến một cuộc đối kháng vĩnh viễn giữa kẻ chiến thắng, tự hào về sức mạnh của chính mình , bám chặt vào lợi nhuận, và kẻ chiến bại bị nhục nhã, khinh thị và uất ức. Dù bề ngoài có thế nào chăng nữa, thực ra chủ yếu đây là một vấn đề thuộc lãnh vực nhân đạo . Dù sao, đây cũng là cách nhìn của nước Pháp , khi lấy luận đề này làm chủ thuyết chính thức cho công cuộc chinh phục thuộc địa. Trong tất cả các dân tộc thực dân, nước Pháp chắc chắn là nước có lý tưởng sâu sắc nhất, có nhiều khả năng nhất để tạo cho công cuộc chinh phục thuộc địa một ý nghĩa nhân đạo nhất. Mẫu mực của nền bảo hộ Pháp tại xứ An Nam chứng thực cho điều này. Bị áp đặt bằng bạo lực cách đây khoảng năm chục năm, lúc đầu không tránh khỏi nhiều khó khăn ép buộc, ngày hôm nay nó được mọi người An Nam có lương tri nhất trí chấp thuận, kể cả những người vốn tỏ ra gắn bó sâu sắc nhất với chủ nghĩa quốc gia, vì mọi người đều công nhận qua thực chứng những thành quả tốt đẹp của nó. Mọi người đã hiểu rằng trong tình trạng tương quan phụ thuộc hiện tại giữa các dân tộc, vận mệnh của những dân tộc nhược tiểu như dân tộc An Nam là phải bám theo quỹ đạo của một nước hùng mạnh nào đó. Trong những điều kiện đó, xứ An Nam nên chấp nhận sự che chở của nước Pháp là nước mà chúng ta đã thấy rõ truyền thống hào phóng hơn là chấp nhận một quốc gia khác ít có lý tưởng hơn , có chính sách bảo hộ có thể sẽ hà khắc hơn. Bề gì cũng lệ thuộc, người An Nam lựa chọn sự lệ thuộc vào nước Pháp. Như vậy, chủ nghĩa quốc gia An Nam một bên, nền bảo hộ Pháp một bên, hai vế của một thế nhị nguyên Pháp-An Nam không nhất thiết không thể thỏa hiệp. Hơn thế nữa, cái thế nhị nguyên này vẫn có thể biến thành một thế tổng hợp với khả năng hòa giải và điều hòa hai vế đối mặt. Bên chủ nghĩa quốc gia An Nam, vì không chủ trương bất cứ một tư tưởng đòi độc lập nào, không che đậy bất cứ một ý định ly khai nào, không những thẳng 9 thắn chấp nhận quyền bá chủ của nước Pháp và hơn thế nữa xem quyền hạn này là cần thiết như một thứ áo giáp che chở chống trả mọi nguy cơ đến từ trong hay ngoài nước. Nói tóm lại giới hạn mọi tham vọng của mình trong đường hướng sống và tự do phát triển trong cộng đồng Pháp Quốc rộng lớn. Như vậy thì chủ nghĩa quốc gia An Nam không có gì mâu thuẫn với chế độ bảo hộ, tức là một sự giám hộ có tổ chức của nước Pháp. Về phía Pháp, sự giám hộ phải được thể hiện với tinh thần cởi mở và lý tưởng cao thượng vốn là truyền thống của nước Pháp, phải nhắm đến việc từ từ giải phóng dân tộc được bảo hộ chứ không phải đồng hóa và tiêu diệt nó; phải giúp cho dân tộc này ý thức được nhân cách của mình, tự tin nơi mình, yên ổn phát triển một cách toàn vẹn trong cái độc đáo của mình. Thực ra, mục tiêu nhắm đến của cả đôi bên là thực hiện một công trình sáng tạo nhân bản và cao thâm: thể hiện một ý tưởng quốc gia đang dò dẫm tìm đường, cho nó một ý thức, một hồn thiêng; tóm lại, tạo ra một quốc gia An Nam, con của nước Pháp và phát triển lên trong khuôn khổ đế quốc Pháp. Cái lý tưởng này, hoàn toàn thích hợp cho nước An Nam và nước Pháp . Cho nước An Nam vì nó thể hiện được giấc mơ lâu đời , đáp ứng được những ước muốn sâu sắc nhất của nòi giống. Cho nước Pháp vì nó phù hợp với vai trò giám hộ, phù hợp với sứ mạng lịch sử bảo hộ và giải phóng các dân tộc. Hiểu như vậy, chủ nghĩa quốc gia An Nam và nền bảo hộ Pháp không mảy may xung khắc trong bản chất cũng như trên nguyên lý. Một bên sẽ là khuôn khổ bền vững, một bên là chất liệu sâu sắc của một công trình sáng tạo đặc biệt , một quốc gia An Nam với một hồn thiêng kết tinh tổng hợp tất cả những cái gì tốt đẹp nhất trong các lý tưởng Tây phương và Đông phương. Một sáng tạo độc đáo, có thể nói là có một không hai, chắc chắn sẽ là một trong những thành quả tốt đẹp nhất của lịch sử; hay ít ra cũng là một công trình thật cao đẹp, lý thú được đề nghị cho hai dân tộc, và sẽ là sợi giây gắn bó vĩnh viến hai dân tộc trên đất nước này do những tình cờ của lịch sử - nếu không nói là quyết đoán của định mệnh - khiến cho gặp nhau và sống chung từ năm mươi năm nay. Ý thức được cái nhiệm vụ cao cả này, nhất trí trong việc thực hiện nó, đây là cái thần bí của sự hiệp tác Pháp - An Nam, cạnh một cái thần bí khác, cái biểu tượng của sự kết hợp Đông và Tây vẫn thường là giấc mơ của những nhà tư tưởng lớn nhất thế giới. III Chủ nghĩa quốc gia và chế độ quân chủ Chúng ta đã thấy rằng chủ nghĩa quốc gia An Nam, không những không xung khắc với chế độ bảo hộ Pháp, lại còn hoàn toàn dung hòa với cái thể thức giám hộ chính trị khôn khéo tinh vi của nước Pháp, là gìn giữ bản sắc của dân tộc An 10 Nam và bảo trợ cho dân tộc này có thể phát triển lên một cách toàn vẹn trong cái độc đáo của mình. Nhưng nói đến thể chế bảo hộ là nói đến một chính phủ bản xứ "được bảo hộ", được hướng dẫn bởi thế lực giám hộ , nhưng vẫn giữ được quyền tự trị. Chính phủ bản xứ này, ở đây là chính phủ của "Quốc vương An Nam, vẫn tiếp tục như trong quá khứ, nắm chính quyền các vùng đất của mình về mặt nội vụ", chiếu theo điều 16 của Hiệp ước Bảo hộ ngày 6 tháng Sáu 1884. Chính phủ quốc gia được nước Pháp bảo hộ đối với chúng ta như vậy là chính phủ theo thể chế quân chủ. Bây giờ chúng ta xét qua tương quan giữa chủ thuyết quốc gia An Nam và thể chế quân chủ đã từng có và còn tiếp tục tồn tại cho đến ngày hôm nay. Khi xác định một chủ thuyết quốc gia An Nam , mục đích của chúng ta - tưởng cũng nên nhắc lại điều này - không phải là chủ trương những cải cách ít nhiều sâu đậm trong tổ chức chính trị hay xã hội của đất nước: cái đó là chuyện khác. Mục đích chính của chúng ta là tổng kết những tư tưởng, những tình cảm, những truyền thống, những ước vọng, những ý hướng hiện tại đang kết tinh trong tâm trí người An Nam quanh những khái niệm về tổ quốc , giống nòi, là cố gắng rút ra từ cái tập hợp này những nguyên tố của một chủ thuyết có khả năng tạo cho đồng bào của chúng ta một lý tưởng cho mọi sinh hoạt, một chuẩn mực cho đời sống . Chúng ta đi tìm một lý tưởng quốc gia, một chủ thuyết, một con đường thần bí ; chúng ta không đi tìm những phương thức cải cách, và do đó không muốn đề ra bất cứ một cuộc thảo luận lý thuyết nào về sự lợi hại của mọi hình thức tổ chức chính quyền. Như vậy, chúng ta không thảo luận về nguyên lý của chế độ quân chủ An Nam cũng như chúng ta đã không thảo luận về nguyên lý của chế độ bảo hộ Pháp. Chúng ta khởi đi từ tình trạng hiện tại của các chế độ này, xem như là những sự kiện hiện thực. Nhưng trước khi tìm hiểu xem tình cảm dân tộc hòa hợp hay hơn thế nữa đồng hóa với nguyên lý quân chủ như thế nào, chúng tôi nghĩ - để làm sáng tỏ cuộc thảo luận - nên giải tỏa một ngộ nhận về chế độ quân chủ An Nam. Người ta đã gán cho chế độ này tội làm mất nước. Người ta chê nó chểnh mảng trong công việc, bất lực trong khả năng, đôi khi với lời lẽ đắng cay , nhưng luôn luôn với giọng mỉa mai. Thậm chí có người còn nói rằng, tóm gọn trong vai trò hiện tại của nó, nếu nó có bị loại bỏ thì càng hay. Đã có người làm như nó không còn nữa, dù chưa biết rõ phải thay thế nó bằng cái gì. Theo chúng tôi, nó không đến nỗi phải chịu nhận sự khinh khi cao độ hay sự đánh giá nghiêm khắc và bất công như vậy. Chế độ quân chủ không hề có lỗi với Tổ quốc. Nó đã tạo ra sự thống nhất quốc gia. Cái công đã cố gắng tạo dựng nên đất nước hiện tại cho giống nòi có thể chuộc lại những thiếu sót, những sai lầm, và hơn thế nữa, xứng đáng được nhận lòng mang ơn của mọi người yêu nước. 11 Nếu về mặt "chính thức", ta cứ tạm gọi như vậy, nó đã để mất nước, ta cũng phải công nhận rằng dù có chế độ quân chủ hay không nước cũng sẽ mất, với những điều kiện có lẽ còn tệ hại hơn trong bối cảnh thế giới ngày nay, Dù sao, dân tộc nào thì chính phủ đó. Trong năm mươi năm vừa qua, nền quân chủ An Nam là hình ảnh trung thực của dân tộc An Nam, một dân tộc đã để mất đi định hướng của vận nước mình, lặng nhìn các giá trị nền tảng xã hội mỗi ngày mỗi suy sụp, rồi tự bỏ mặc nổi trôi tới một bến bờ vô định. Nếu một mình chúng ta không thể khiến cho chế độ này trở thành một thực thể chính trị chứ không chỉ là một hư cấu ngoại giao, - một thứ dàn cảnh của sân khấu kịch trường, theo như một bộ trưởng Pháp đã từng tuyên bố giữa quốc hội Pháp - chúng ta hoàn toàn có thể làm cho sống lại cái nguyên lý nền tảng của chế độ này, cho sống lại cái sức mạnh, nguồn sinh lực bằng cách hội nhập nó vào một hệ thống quốc gia , tổng hợp mọi truyền thống, mọi khuynh hướng, mọi mong đợi thâm sâu của dân tộc ta. Chỉ cần xét xem cái nguyên lý này đã từng giúp ích và còn thích hợp với tâm lý hay tâm tính người An Nam hay không. Cái tâm tính này đã được tạo thành qua hai mươi thế kỷ giáo dục Khổng giáo, được phát triển trong một môi trường tuyệt đối theo phụ hệ, tự nó, không thể hình dung một chính quyền nào khác hơn một chính quyền quân chủ, một thể chế nào khác hơn một thể chế quân chủ, mà lại còn là một thể chế quân chủ chuyên chế nữa. Và, không phải vì mới vừa du nhập được từ phương Tây một thứ lý tưởng dân chủ mơ hồ, một vài cơ chế có chút ít tính đại diện chỉ gây được chú ý nhờ có tính mới mẻ, ích lợi chưa có gì chắc chắn, nhưng việc điều hành vụng dại đã có hướng tạo ra vài tệ đoan nơi những người mới nhập môn, không phải cái lớp mỏng dính ít nhiều dân chủ đó có thể suy chuyển một tâm tính được đào tạo qua bao thế kỷ. Trong bản năng , người An Nam đã và luôn luôn theo chủ nghĩa quân chủ . Mọi cuộc cách mạng xảy đến trong lịch sử của chúng ta để truất ngôi vua hay tiếm vị ngai vàng, khi nhân danh quyền chính thống của triều đại, khi lấy lý lẽ nương theo ý dân, nhưng luôn luôn dựa trên nguyên lý quân chủ , không bao giờ chống lại nguyên lý này. Truyền thống quân chủ bẩm sinh trong tâm trí, bám sâu trong tập quán, là khuôn mẫu trong ngôn ngữ văn chương cũng như thành ngữ dân gian, cả hai đều gắn liền quốc vương với quốc gia, khái niệm vương quốc với khái niệm tổ quốc. Dù không đi sâu vào quan niệm cổ điển về luân lý với ba ấn quyết cơ bản của xã hội và đạo đức là : vua và tôi (quân thần), cha và con (phụ tử), chồng và vợ (phu phụ), ta có thể thấy rằng trong ngôn ngữ hàng ngày từ ái-quốc (yêu nước hay yêu tổ quốc) luôn luôn gắn chặt với từ trung-quân (trung thành với vua). Ngôn ngữ phản ánh tâm hồn một dân tộc: tiếng An Nam luôn luôn kết hợp hai khái niệm song hành hay song sinh này. 12 Trong thực tế, qua mọi thời, vua luôn luôn được xem là biểu tượng của quốc gia. Còn hơn thế nữa, vua được đồng hóa với quốc gia. Lòng ái quốc , trong một thời gian khá lâu, được hiểu như một thứ lòng trung thành với triều đại. Đất nước, quốc gia là của vua, được tạo ra cho vua, sự sùng kính này bắt nguồn từ lòng tin rằng đây là luật trời. Đó là ý nghĩa của bài tứ tuyệt tướng Lý Thường Kiệt đã sáng tác năm 1076 trong lúc chiến đấu chống quân Tống xâm lăng: Nam-quốc sơn-hà Nam-đế cư, Tiệt-nhiên định phận tại Thiên-thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm-phạm ? Nhữ-đẳng hành khan thủ bại-hư ! Sông núi nước Nam là của Vua Nam. Điều này đã được ghi rõ trong sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Mưu toan của chúng bây sẽ chuốc lấy thất bại ! Phân tích khái niệm "mệnh trời", vốn là khái niệm cơ bản của nền quân chủ Hán Việt cổ xưa, sẽ đưa ta đi quá xa. Vả lại công việc chú giải triết học này cũng không cần thiết. Đọc lại lịch sử xét ra cũng đủ. Lịch sử cho ta biết rằng nền quân chủ An Nam không thể tách rời khỏi quốc gia An Nam. Chính nền quân chủ đã tạo ra quốc gia với những đất đai xâm chiếm được qua bao thế kỷ kết thành lãnh thổ hiện tại. Qua ngót một ngàn năm, ngọn đuốc thiêng dân tộc được truyển tay tử triều đại này sang triểu đại kia, vận mệnh của đôi bên vẫn luôn luôn gắn liền. Chúng ta đã nói đến một "sứ mạng lịch sử" đã bảo đảm sự thống nhất và sự trường tồn của nòi giống An Nam : đó là tự vệ chống Tàu ở phương Bắc và tràn xuống phương nam lấn chiếm Chăm Pa, tạo thành một lãnh thổ rộng lớn và đa dạng, vừa tầm cho một nòi giống siêng năng và đông đúc , một lãnh thổ bao gồm hai trong những châu thổ phì nhiêu nhất thế giới, với biểu tượng hai thúng gạo bắc kỳ và nam kỳ , được nối liền bằng đòn gánh trung kỳ không kém phần ý nghĩa. Cái "sứ mạng lịch sử" này, chính nền quân chủ An Nam, được quốc gia An Nam ủy quyền, đã kiên trì thực hiện suốt mười thế kỷ qua. Nó đã thực hiện với nhiều nỗi thăng trầm, vượt qua những trở ngại khủng khiếp, giữa những xáo trộn khôn lường, nhưng luôn luôn với một sự bền bỉ và thành quả đáng nể, tất cả cho thấy nó đã tự đồng hóa đến mức độ nào với nòi giống và kết tinh những năng khiếu thâm sâu của nó . Tác giả một sách mới đây viết về Nền Quân chủ An Nam (Robert Petit, La Monarchie annamite (Collection des Etudes sociologique et d'ethnologie juridiques du Professeur R. Mauniet , (Paris,1931). Pages 8-10)) đã tóm tắt lịch sử những nỗi thăng trầm của nó qua đó, thống nhất trong bản chất và đa dạng 13 trong các triều đại kế tiếp nhau, nền quân chủ này luôn luôn tìm đường thể hiện ý chí duy nhất của nòi giống: bành trướng và khuynh loát các vùng dọc theo bán đảo Đông Dương: "Nền đô hộ của người Tàu bị Ngô Quyền lật đổ năm 938 , khai sinh ra triều đại nhà Ngô. Triều đại này đã trị vì cho đến năm 963. "Trong thời độc lập ban đầu, người An Nam cũng chẳng được hưởng một cuộc sống an lành , hạnh phúc hơn thời còn Bắc thuộc. Trước hết, họ phải đấu tranh chống lại nước Tàu để bảo tồn nền độc lập, chống các nước láng giềng để phát triển nòi giống. "Vào cuối thế kỷ thứ 10, người An Nam kết hợp thành một quốc gia độc lập, lãnh thổ trải ra từ cực bắc Bắc kỳ cho đến quá vùng đất Huế. Họ tiếp tục tiến về phía Nam, không gì ngăn chận nổi. Vào giữa thế kỷ thứ 17, họ đã thôn tính xong vương quốc Chăm Pa xưa, và biên giới phía Nam của họ đã tiếp cận với châu thổ sông Cửu Long của người Khmer. Họ vượt qua biên giới, xua đuổi người Căm Bốt sang phía Tây, và vào giữa thế kỷ vừa qua hoàn tất cuộc bành trường cho đến tận miền Nam Nam Kỳ. " Song song với những trận chiến chống ngoại bang nhiều khi lại xảy ra những cuộc xâu xé nội bộ khiến các triều đại bị lật đổ, thay thế liên miên. "Sau nhà Ngô, đến 938 là nhà Đinh, rồi triều đại này bị một vị quan đầu triều nhiều tham vọng lật đổ, tên là Lê Hoàn, người chiến thắng quân Chăm Pa và khai sáng nhà Tiền Lê từ 980 tới 1009, sau đó là nhà Lý (1009-1226), rồi nhà Trần cho đến đầu thế kỷ 15. "Đến đây, nước Tàu trở lại xâm chiếm đô hộ người An Nam trong một thời gian ngắn, vì sau mười năm kiên trì đấu tranh , một người kháng chiến anh dũng, Lê Lợi, giải phóng dân tộc mình và dược hoàng đế Tàu phong tước vương, lập ra nhà Hậu Lê , triều đại trị vì từ năm 1428 đến năm 1527 thì bị nhà Mạc soán ngôi. Đến cuối thế kỷ thứ 16 nhà Hậu Lê khôi phục lại ngai vàng và ở ngôi cho đến nửa sau thế kỷ 18. Trong phần sau này của nhà Lê , một thể chế mới được ra đời, thể chế "chúa". Chúa là một vị quan đầu triều, nắm thực quyền cai trị, vua chỉ còn là bù nhìn. " Đối với chúng ta, đây là thời điểm quan trọng nhất của lịch sử An Nam, vì từ đó trở đi là thời của các chúa Nguyễn, tiên tổ của các hoàng đế hiện nay. "Nhà Lê đã khôi phục ngôi báu nhờ một vị tướng dũng mảnh, Nguyễn Kim. Vị tướng này có hai người con trai , và một người con gái, gả cho một trong những phó tướng của ông ta là Trịnh Kiểm. Khi vị này qua đời, Trịnh Kiểm tiếp thu quyền lực của ông ta bằng cách giết người con trưởng và đày người con thứ ra Thuận Hoá. Tại đây, người con thứ đã tạo ra một lãnh thổ riêng. 14 "Từ đó, hai thế lực kình địch được dựng lên, họ Trịnh, làm chúa tại Bắc kỳ và họ Nguyễn, làm chúa ở Nam Kỳ, và ngay từ năm 1620, trong suốt hai thế kỷ, hai phe với lực lượng tương đương đã chống đối lẫn nhau trước sự bất lực của nhà vua, chỉ còn vai trò như một pho tượng thờ trong thâm cung. Những thế kỷ sau là giai đoạn tạm yên giúp cho họ Trịnh có dịp tước đoạt nốt những quyền hạn cuối cùng của nhà Lê, và giúp cho họ Nguyễn cơ hội xây dựng nên một vương quốc thực thụ qua một cuộc nam tiến không ngừng, thôn tính những mảnh đất cuối cùng của người Chăm và xâm chiếm vùng Nam Kỳ Hạ (basse-cochinhchine) của Căm Pu Chia. Cuối thời kỳ này, thế lực nhà Nguyễn gặp một tai biến khủng khiếp. Năm 1765, khi chúa Võ Vương qua đời, ngược với truyền thống, một người con thứ còn nhỏ tuổi, con của một thứ phi, được đưa lên nối ngôi chúa. Người kế vị chính danh bị quan nhiếp chính bắt giam và chết trong ngục, để lại hai con trai , một trong hai người tên là Nguyễn Ánh, tức là vua Gia Long sau này. "Không lâu sau, chính sự hà khắc của quan nhiếp chính khiến lòng dân oán hận. Nhân có một đơn khiếu nại được gửi về Triều vua Lê, họ Trịnh lấy cớ tìm phương cách trừ cho tuyệt nọc lực lượng đối thủ. Năm 1775, sau một chiến dịch cướp phá, lực lượng Bắc Kỳ tiến chiếm thành phố Huế. Nhân dân phẫn nộ nổi dậy và gia nhập quân đội của một nhóm thủ lãnh giang hồ, là ba anh em Nguyễn Văn-Nhạc, Văn-Lữ và Văn-Huệ. Những kẻ nổi loạn , có tên gọi là Tây-sơn, sau khi bắt và giết chúa Nam Kỳ, xoay kiếm lại diệt Trịnh , rồi Nguyễn Văn-Nhạc tự xưng hoàng đế niên hiệu Thái-đức. Một triều đại mới được dựng lên.Nhà Lê đã chạy sang Tàu, họ Trịnh bị đánh bại và kẻ kế thừa họ Nguyễn, là người thanh niên Nguyễn Ánh, đã có lúc chiếm lại Sải Gòn nhưng rồi lại để mất, chỉ còn đường trốn chạy trước quân Tây-sơn. "Chính trong thời điểm này mà giữa vị vua đang trốn chạy và Đức ông Pigneau de Béhaine, giám mục d'Adran, đã nẩy nở một tình bạn khắng khít dựa trên lòng kính trọng lẫn nhau , và tư tưởng cao siêu về một giải pháp liên hiệp nhằm giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại đất đai đã mất, tiêu diệt quân Tây-sơn và thống nhất đế quốc An Nam, từ biên giới Tàu cho đến vịnh Xiêm". Nền quân chủ An Nam là thế, từ những năm tháng đầu của nền độc lập quốc gia cho đến triều Nguyễn ngày nay. Cũng như mọi thể chế do con người tạo ra, nó có những khuyết tật và những yếu kém, nhưng nó đã luôn luôn gắn bó vận mệnh thăng trầm của mình với vận mệnh của đất nước, đem đến cho giấc mộng muôn đời của nòi giống là bành trướng và bá chủ, sự liên tục, sự bền bỉ, sự chăm sóc, sự sáng suốt, và nghị lực, gây kính trọng, tạo khâm phục ngay cả với những kẻ e ngại nó nhất. Chính sự bền tâm chung thủy với lý tưởng quốc gia đã tạo nên uy 15 danh cho các triều đại An Nam, vì tất cả, ở những mức độ khác nhau, đã góp phần vào công cuộc thể hiện tư tưởng cao siêu của nòi giống. Ta có thể nói rằng dù có nhiều thiếu sót, nền quân chủ An Nam đã tỏ ra xứng đáng trong trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc An Nam. Chủ nghĩa quốc gia An Nam, dù chưa thực sự được mang tên như vậy, đã luôn luôn được thể hiện qua nền quân chủ và bởi nền quân chủ, do đó có thể và phải được hòa hợp với nền quân chủ. Trước hết, nền quân chủ là một sức mạnh to lớn của quá khứ, và, như triết gia nổi tiếng Bergson đã nói, con người phải luôn luôn "biết dựa lên toàn thể quá khứ của mình để nhồi thêm sức lực cho tương lai". Trong công cuộc khôi phục lại mọi giá trị quốc gia, vốn là mục đích của chủ nghĩa quốc gia như chúng ta chủ trương, không thể bỏ qua bất cứ một tiềm lực nào của quá khứ, và càng không thể quên nền quân chủ là hiện thân của truyền thống quốc gia. Nó phải được xếp hàng đầu trong một chủ nghĩa quốc gia An Nam nghiêm túc. Thứ đến, nền quân chủ An Nam, dù tạm bị lu mờ do một số điều kiện nhất thời, vẫn còn nhiều tiềm lực đầy hứa hẹn cho tương lai. Do tình cờ hay do định mệnh, triều đại hiện nay vốn là người thực hiện sự thống nhất của Đế quốc, đã khởi đầu nắm quyền trong bối cảnh một sự hợp tác Pháp-An Nam, cùng với cái "tư tưởng cao siêu về chủ thuyết liên hiệp" theo cách nói của tác giả kể trên. Sự kiện này sẽ quy định đường hướng phát triển tương lai của đất nước. Những lời tuyên bố long trọng được nói lên khi Hoàng Thượng Bảo Đại rời Pháp trở vể Ba Kỳ của mình cho thấy chính phủ Pháp gắn bó chặt chẽ với chính sách liên hiệp này, vốn đã được thể hiện bằng những hiệp ước ký kết nghiêm túc. Chúng đem đến cho ta mọi hứa hẹn cho tương lai. Nếu ta muốn, chế độ quân chủ sẽ còn tồn tại lâu dài. Nó sẽ xứng đáng với nghĩa vụ quốc gia cao cả đã luôn luôn là của nó qua chiều sâu lịch sử mười thế kỷ. IV Chủ nghĩa quốc gia chính trị và chủ nghĩa quốc gia văn hóa Để trở thành hiện thực, như chúng tôi đã chứng minh, chủ nghĩa quốc gia An Nam có thể một mặt dựa lên một nền tảng vững chắc , đó là nền bảo hộ Pháp, có khả năng bảo vệ nó chống mọi nguy cơ đến từ trong hay ngoài kể cả điều hòa tự kiềm chế không để đi quá đà; một mặt dựa lên sức mạnh dũng mãnh của quá khứ tức là truyền thống quân chủ, với khả năng phục vụ hữu hiệu đất nước cũng như nó đã luôn luôn từng làm qua bao thăng trầm của lịch sử. Được yềm trợ và bao bọc như thế, lại dựa lên một quá khứ đã giữ cho nó không trật ra ngoài hướng đi truyền thống của nòi giống và được nâng đỡ, hướng dẫn trong hiện tại bởi một thế lực bảo hộ ngăn chặn mọi khiêu khích ngoại lai, chủ nghĩa quốc gia này chắc chắn sẽ không thể lạc đường; nó đang nằm trong những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển một cách tự nhiên. 16 Nhưng sự phát triển này có nhiều tầng lớp khác nhau. Tầng lớp dầu tiên là tầng lớp chính trị. Nó chi phối hai tầng lớp kinh tế và xã hội. Nó dứt khoát là tầng lớp quan trọng nhất. Trong thực tiễn, nó cũng đem đến nhiều khúc mắc nhất : chủ nghĩa quốc gia, nền quân chủ, nền bảo hộ , chính ở đây mà những thực thể này, những thực thể mà chúng ta đã cố gắng dung hòa trên mặt lý thuyết, gặp nhau hằng ngày, chung đụng nhau thường trực, và những cọ xát này, thay vì giúp làm tròn trịa góc cạnh, đôi khi lại tạo ra những tiếng ken két khó chịu. Nói vậy có nghĩa là các thế lực này có thể đối chọi nhau, từ đó nảy sinh những khó khăn cần phải vượt qua hay phải giải quyết bằng mọi giá. Nhưng thực ra đó là chuyện thông thưởng trong chính trị, trong mọi phương sách chính trị. Vì chính trị là gì nếu không là nghệ thuật giải quyết những khó khăn luôn luôn nảy sinh trong việc cầm quyền, không phải bằng những giải pháp dứt điểm không thể tìm ra được, mà bằng những tương nhượng liên tục ? Quả thật là giải pháp Bảo hộ đang được áp dụng ngày nay không dễ thực thi. Các nhà chính trị, những nhà cai trị - nếu may mắn mà ta có được những người xứng đáng với danh nghĩa đó - phải đủ thông minh, tế nhị, khôn ngoan, khéo léo mới có thể vận dụng được nó một cách nghiêm túc. Với thiện chí của mọi người, với quyết tâm không mệt mỏi, với sự kiên nhẫn bển bỉ qua mọi thử thách, chúng ta hẳn sẽ thành công. Vả lại, tầng lớp chính trị chủ yếu thuộc lãnh vực thực thi hơn là nguyên lý, mà thực thi thì luôn luôn tùy thuộc vào những khả năng sẵn có tùy lúc, những hoàn cảnh tạm bợ, những bối cảnh đột xuất. Khẩu quyết nơi đây là : "Mỗi ngày chỉ một việc", và sai lầm lớn nhất là lý luận với cái nhìn tuyệt đối và vĩnh viễn. Điều chính yếu là trong cái phức tạp của cuộc sống hàng ngày, ta không xa lìa các nguyên lý. Như ta dã thấy, chủ nghĩa quốc gia chính trị, nếu không chỉ ngừng ở mức độ lý thuyết, đương nhiên phải đi đôi với một thứ cơ hội chủ nghĩa. Phải luôn luôn thỏa hiệp với những điều kiện nhất thời, và dù giỏi thỏa hiệp, nó không có khả năng định ra nguyên lý. Đôi khi, phải xa lìa nguyên lý, nó còn đi ngược lại chính bản chất của mình. Nhưng bên cạnh tầng lớp chính trị, còn có tầng lớp văn hóa. Có một chủ nghĩa quốc gia văn hóa, tác động chậm hơn, nhưng sâu sắc hơn. Cái chủ nghĩa quốc gia văn hóa này, trong bản chất, có khả năng sửa chữa những thiếu sót, vội vàng của chủ nghĩa quốc gia chính trị. Nó tạo cho chủ nghĩa quốc gia chính trị một chủ thuyết với các nguyên lý, và cùng lúc cho nó một nền tảng để neo móc tránh vận hành không định hướng. Nhưng ta có thể có một ý niệm nào về chủ nghĩa quốc gia văn hóa An Nam ? Muốn có một chủ nghĩa quốc gia văn hóa, thì phải có một nền văn hóa. Vậy có nền văn hóa quốc gia An Nam hay không ? Thoạt nghe, câu hỏi có vẻ kiêu kỳ. 17 Có một nền văn hóa Trung hoa, có một nền văn hóa Pháp, và ngay cả có một nền văn hóa Nhật bản. Nhưng chưa ai nghe nói tới một nền văn hóa An Nam. Muốn tạo dựng nên một nền văn hóa An Nam độc lập quả thực cần phải có một tinh thần quốc gia chủ nghĩa rất cao. Không một người khôn ngoan, thận trọng nào, và chúng tôi tự nghĩ mình thuộc hạng người này, có thể mảy may nghĩ tới làm chuyện đó. Tuy nhiên, vấn đề chỉ là định nghĩa. Nếu hiểu "văn hóa dân tộc" , một bên là toàn bộ những truyền thống trí tuệ và tinh thần kết thành cá tính của một dân tộc, một bên là những phương tiện, và những tiềm năng giúp dân tộc thăng hoa, thì bất kỳ dân tộc nào cũng có một nền văn hóa. Người An Nam có nền văn hóa của mình, cũng như người Ba Tư, người Xiêm, người Thổ Nhĩ Kỳ hay người Tiệp. Cái nền văn hóa này có thể và cần phải được phát triển bằng những vay mượn nơi những nền văn hóa cao hơn; nhưng không thể để bị hớp hồn cuốn hút, nếu không một ngày kia sẽ tan biến đi và lôi theo sự tan rã của dân tộc mà nó là phản ánh của hồn thiêng và diễn dịch của tâm tính. Hiểu theo nghĩa này, có một nền văn hóa An Nam thực sự hiện hữu, chính vì dân tộc An Nam đã tồn tại qua hai mươi thế kỷ với một vốn liếng phong tục và truyền thống đã giúp cho dân tộc này phát triển trên phương diện trí thức và tinh thần và tạo ra một bộ mặt đặc thù, giữa các dân tộc của vùng Đông Á. Nền tảng của nền văn hóa An Nam bắt nguồn từ nền văn minh Trung Quốc cổ xưa. Nền văn minh Trung Quốc này, đối với toàn cõi Viễn Đông, cũng tương tự như La Mã và Hy Lạp đối với các dân tộc phương Tây. Tuy nhiên trong cái vốn nền tảng chung này, dân tộc An Nam đã tự giành cho mình một không gian nhỏ để phát triển những đặc tính riêng của mình. Thí dụ như về ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ phản ánh tâm hồn của một dân tộc thì ngôn ngữ An Nam là thành quả sáng tạo đặc thù nhất của dân tộc An Nam. Đã từ rất lâu, giới nho sĩ An Nam chỉ chú tâm phát triển một thứ ngôn ngữ bác học là chữ Nho, bỏ bê coi thường ngôn ngữ An Nam (tương tự như thái độ của giới học giả thời trung cổ bên phương Tây). Nhưng ngôn ngữ An Nam đã tự do phát triển trong dân gian và tạo thành một một ngôn ngữ bình dân dồi dào muôn màu muôn sắc , có lẽ không thua bất cứ một thứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Kinh nghiệm và trí tuệ của tiền nhân của chúng ta, qua năm tháng đã được cô đọng bằng những từ ngữ đậm đà vững chắc, những thành ngữ đẹp tươi, những lời văn đặc sắc, những tìm tòi âm điệu, những sáng tạo thi cú, những kết cấu đột phá. Và đến đầu thế kỷ 19, ngôn ngữ dân gian này được một nhà thơ thiên tài là Nguyễn Du, tác giả Kim Vân Kiều, nâng lên hàng ngôn ngữ văn học. Các bạn Pháp hẳn sẽ khó thấm thía được hoàn toàn tuyệt phẩm này, vì nó phản ánh thiên tài đặc thù của nòi giống chúng ta, là đặc sản của quê hương ta. Khó có thể diễn dịch nó qua ngôn ngữ và tâm hồn người nước ngoài. Tuyệt phẩm này sẽ góp phần gìn giữ tiếng mẹ đẻ của chúng ta, tránh cho nó khỏi đi vào con 18 đường thoái hóa và suy tàn, và như vậy cùng lúc bảo tồn lâu dài dân tộc chúng ta. Nhân đây, chúng tôi xin trích lại một bài báo đáng chú ý được đăng cách đây một năm trong một tờ báo địa phương. Với tựa đề "Về một thí dụ Ba Tư cho người An Nam" (D'un exemple persan pour les Annamites) bài so sánh hai sách, sách Shahnameh (Sách Các Vua/ Livre des Rois) của Firdousi được viết cách đây một ngàn năm và sách Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, và đưa đến kết luận khẳng định "sứ mạng thiêng liêng bảo tồn dân tộc của các tuyệt phẩm quốc gia". Trong so sánh, tác giả đã đưa ra những nhận xét và những bình chú cao đẹp, và chúng tôi xin trân trọng vui mừng ghi nhận. Tác giả viết "Tôi vừa đọc, trong báo Les Nouvelles littéraires số ra ngày 30 tháng Décembre 1933, một thí dụ tuyệt vời về công cuộc phục hưng quốc gia và xin thân ái gửi đến độc giả để suy ngẫm. "Ông Francis de Miomandre, khi bàn đến "vai trò không ngờ của các tuyệt phẩm" đã phát biểu như sau : "Sau bao thế kỷ bị áp bức dưới các triều đại Ả Rập, dân Ba Tư đã vùng dậy, nhân danh một truyền thống vốn đã được ghi chép toàn bộ trong Sách Các Vua . "Toàn bộ, gồm cả ngôn ngữ. Đây là điều đáng chú ý. Chính vì dựa lên ngôn ngữ cổ xưa pehlevi, được nhà thơ Firdousi dùng để viết bản sử ca, mà các nhà yêu nước Ba Tư đã khôi phục lại được sự thồng nhất dân tộc , tìm về được nòi giống của mình. Và thứ tiếng này, họ vẫn còn đang nói hàng ngày... Như vậy làm sao mà họ có thể chấp nhận ách thống trị ngoại bang ? Để bảo tồn một ngôn ngữ chỉ cần ghi nó lại trong một tuyệt phẩm." " Mời quý vị đọc lại câu chót vừa thốt ra. Nó có gợi trong tâm ý quý vị điều gì không ? Riêng tôi, tôi liên tưởng ngay tới Kim Vân Kiều của người An Nam. " - Dĩ nhiên, giữa Firdousi và Nguyễn Du, cũng như giữa Sách Các Vua và Kim Vân Kiều có rất nhiều khác biệt. Nhưng chuyện cần nêu lên chính là sứ mạng thiêng liêng bảo tồn nòi giống của các tuyệt phẩm quốc gia. " Tháng Chín 1924, nhân lễ kỷ niệm Nguyễn Du, Ông Phạm Quỳnh, một trí thức uyên thâm An Nam , đã hai lần thốt lên: "- Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn. "Lời nói xúc động và đậm tình yêu nước của Ông Phạm Quỳnh xuất phát từ một lòng tin không giới hạn vào thiên tài sáng tạo của nhà thơ. " Rồi bỗng nhiên, qua ngòi bút của một ký giả vùng Paris, từ xứ Ba Tư, cái thí dụ thấm thía mãnh liệt này đến với chúng ta, hẳn khiến những người An Nam Quốc Gia suy ngẫm. 19 " Phải chăng như vậy có nghĩa là người An Nam phải nổi lên chống lại nước Pháp, cũng như dân Ba Tư chống lại dân Ả Rập ? Câu hỏi hóc búa cần được giải đáp trong tương lai tùy theo thái độ hiện nay của chúng ta. "Trí thức Đông Dương, một trách nhiệm nặng nề đặt lên vai chúng ta. Hãy nhìn vào hiện tại, hướng về tương lai. Tiến về hoà giải đòi hỏi phải quên một quá khứ mù mờ chẳng đẹp đẽ gì cho người Pháp cũng như người An Nam. Chỉ có một lý trí sáng suốt và một tấm lòng không thù hận mới có thể hóa giải được những âm mưu đen tối và những tàn khốc của các cuộc cách mạng sẽ xảy ra. "Không ít người An Nam , dù tỏ thái độ khinh khi đối với một vài người Pháp thô bỉ, vẫn thực lòng quý trọng nước Pháp, mẹ đỡ đầu những tư tưởng tự do. Dĩ nhiên, không có gì đáng trân trọng hơn, cũng không có gì là trở ngại cho lòng tưởng nhớ đất nước An Nam xưa của người An Nam. Nhưng, cũng như Prinzivalle , trong tác phẩm Monna Vanna của Maeterlinck , đã nói với lòng trung thực, "... Tôi không có tổ quốc... Nếu tôi có , dù nặng tình với ai đến đâu, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ bán tổ quốc vì mối tình đó...". - Những ai có một tổ quốc nên suy ngẫm điều này - Suy ngẫm thật chín chắn" . (Bài viết ký tên André Gaudbye, và được đăng trong L'Ami du Peuple Indochinois số ra ngày 16 Avril 1934). Chúng tôi xin lỗi đã trích đoạn quá nhiều, lạc đề quá dài. Nhưng chính cái lạc đề này lại dẫn dắt ta tới chủ đề chính của chúng ta. Khác với nhân vật của Maeterlinck, chúng tôi có một tổ quốc , chúng tôi yêu mến nó, và cùng lúc chúng tôi cũng quý trọng nước Pháp, mẹ đỡ đầu các tư tưởng tự do. Chúng tôi đã suy ngẫm kỹ về tình huống này. Chúng tôi nhất định không thể hy sinh một tình cảm này cho một tình cảm nọ, vì lòng gắn bó với tình cảm này không là trở ngại cho tình cảm kia. Chúng tôi muốn dựa vào tình cảm sau để đáp ứng tình cảm trước. Không những sự hỗ trợ này không thể thiếu về mặt chính trị. Nó cũng còn cần thiết về mặt văn hóa. Nếu vì muốn bảo tồn các giá trị tinh thần của quốc gia mà ta phải lưu giữ cái nền tảng bao gồm những nguyên lý, những truyền thống, những tập tục thường được gọi là nền văn hóa cổ An Nam, hiểu theo nghĩa rộng nhất, thì chỉ bảo tồn thôi dĩ nhiên là không đủ, mà còn phải phát triển, nói tóm lại là tiến hóa. Ngôn ngữ , với tâm tính của nòi giống như hình với bóng , thâm sâu và mật thiết , không phải là một cái gì cố định như hình ảnh hay di vật ; nó sinh động biến chuyển ngày ngày. Để cho văn hóa An Nam, ngôn ngữ An Nam là một ngôn ngữ và một nền văn hóa thực sự dân tộc, chúng phải một mặt giữ được cái vốn cổ sơ đặc thù của chúng, bắt rễ từ cội nguồn nòi giống, một mặt phát triển và mở rộng đón nhận những cống hiến của những ngôn ngữ và những nền văn hóa khác hoàn mỹ hơn. 20 Trong trường hợp của chúng ta, những cống hiến này đương nhiên đến từ ngôn ngữ và văn hóa Pháp. Nếu nền thống trị của nước Pháp đôi khi có thể gợi trong tâm tư chúng ta chút đắng cay thầm kín, chúng ta đón nhận không do dự ảnh hưởng tinh thần và trí tuệ của nước này. Vì chúng ta biết rằng ảnh hưởng này thật là bổ ích. Cái tạo ra giá trị khôn lường của văn hóa và ngôn ngữ Pháp, chính là tính phổ cập của chúng khiến mọi dân tộc đều có thể tiếp cận được. Dĩ nhiên, chúng diễn dịch những đặc thù của nòi giống và dân tộc Pháp, nhưng còn hơn thế nữa, và nhất là chúng diễn dịch một cách sáng sủa và sâu sắc - hai tính này không hề mâu thuẫn nhau - những tư tưởng, tình cảm, quan niệm chung cho toàn thể nhân loại. Chúng là những công cụ tuyệt vời của văn minh loài người. Như vậy, có thể nói là chúng ta vô cùng may mắn được đón nhận vào vòng thân tình thâm sâu của ngôn ngữ và văn hóa này. Chúng ta có thể khai thác triệt để kho tàng trí tuệ nhân loại này. Nhưng một lần nữa, cần phải nói lại cho rõ. Khi nói đến văn hóa tây phương, nói chung, chúng ta muốn ám chỉ khoa học tân tiến, do Tây phương tạo ra, với những ứng dụng và kỹ thuật của nó. Dĩ nhiên, khoa học là một cống hiến quý báu cho chúng ta; nó là cái vốn các dân tộc đông phương thiếu sót, một trong những lý do của sự yếu kém của họ. Chúng ta phải tiếp thu cho được khoa học tân tiến, điều kiện không thể bỏ qua, để tồn tại trong thời đại mới. Nhưng điều này tương đối dễ đạt. Trong môt đoạn văn sâu sắc, Paul Valéry viết: " Âu châu đã tạo ra khoa học. Khoa học đã cải biến đời sống và gia tăng thập bội sức mạnh của kẻ có nó trong tay. Nhưng ngay tự chính bản chất của nó, khoa học có khả năng được truyền bá. Nó đương nhiên phải được chuyển biến thành những phương pháp và những công thức phổ cập. Những phương tiện nó cho người này, tất cả mọi người khác đều có thể tiếp thu được ... Như vậy, thứ thực phẩm này sẽ được chế biến thành nhiều món càng ngày càng dễ cầm dễ ăn; sẽ được phân phối đến càng ngày càng nhiều người; sẽ thành món hàng mua bán, được sao chép và sản xuất khắp nơi." Tiếp thu cái khoa học được truyền bá rộng rãi trong các trường học, như vậy, không chỉ là cái lợi ích duy nhất mà chúng ta chờ đợi nơi ảnh hưởng trí tuệ của nước Pháp. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo, cái đó chỉ là con đường "tiểu thừa" của văn hóa Tây phương. Văn hóa này còn một con đường "đại thừa" chứa đựng trong tâm trí Tây phương, nhất là trong tâm trí hay thiên tài Pháp, là kỷ luật và phương pháp, là hợp lý và sáng sủa , là vừa gẫy gọn vừa tinh tế, con đường hữu hiệu nhất để truyền bá những ý niệm phổ quát và hào phóng. Điều mà chúng ta trông mong nơi tinh thần Tây phương, nơi thiên tài nước Pháp, trước hết là đem lại sinh lực và phẩm cách cho nền văn hóa An Nam mà 21 chúng ta quý mến, bằng cách khiến nó tự ý thức được giá trị của chính mình, rồi tự làm giàu thêm bằng những tiếp thu mới. Đối với tinh thần An Nam, thiên tài Pháp phải đóng vai trò là nhân tố tác động. Hành động của nó phải mang tính "hộ sinh" giúp khai sinh các tâm trí, gọi ra đời, gợi ý thức các tài năng tiềm tàng, các khả năng, các tiềm năng trí tuệ. Văn hóa Pháp không nên chỉ nhét đầy tâm não An Nam những phương thức khoa học, những công thức triết học, những khái niệm phương tây được ít nhiều thấu hiểu hay có thể thấu hiểu. Nó có một vai trò đẹp hơn, cao thượng hơn, tức là giúp nảy sinh hay hồi sinh một nền văn hóa quốc gia An Nam, tổng hợp vốn cổ học Hán Annam với những tiếp thu mới từ tư tưởng phương Tây. Cái tác động bổ ích, thực sự sáng tạo của văn hóa Pháp đã bắt đầu ảnh hưởng lên ngôn ngữ. Cách đây nhiều năm, chúng tôi đã viết về đề tài này như sau: "Xây dựng nên một thể loại văn xuôi An nam đã là mối quan tâm chính của chúng tôi. Thể loại thơ đã đạt được đỉnh cao nhất với những tác phẩm như Truyện Kiều. Thể loại văn xuôi mới này rõ ràng rập khuôn theo nền văn xuôi Pháp, tiếp thu được vài đức tính: sáng sủa, chính xác, hợp lý, trang nhã , ý nhị và châm biếm. Nó cố tình gột bỏ mọi văn cách cũ có hơi hướng Nho phong: đối câu , vần điệu , rườm rà , hoa ngôn , màu mè hời hợt và trịnh trọng khuôn sáo . Nó trở nên bớt tính tổng hợp khi từ bỏ ví von , khuôn sáo, và tăng tính phân tích với sự miêu tả chi li môi trường và con người, ngoại thể và nội tâm. Nếu nó tiếp tục phát triển trong chiều hướng này, nó sẽ là thành quả rực rỡ nhất của sự hòa đồng giữa 2 nền văn hóa Pháp và An Nam , Pháp đem lại cho An Nam tính sáng sủa, lý luận gẫy gọn, và An Nam chỉ mất đi tính mơ hồ thiếu chuẩn xác, thiếu lý luận thiếu hợp lý, cùng lúc bảo tồn được bản sắc của mình: lương tri , hóm hỉnh, mực thước, đôi nét châm chích những thói hư tật xấu của người đời", Và hơn nữa, về văn hóa An Nam, chúng tôi viết như sau: "Công cuộc hoàn thiện ngôn ngữ cần được triển khai sâu sắc hơn. Nhưng bước đầu đã đi, và nó cho ta thấy là ngôn ngữ cải thiện của chúng ta, với những tiếp thu mới, hoàn toàn có khả năng là một ngôn ngữ nền tảng văn hóa. "Công cụ đã có trong tay, bây giờ đến lúc phải bắt tay tạo dựng cái văn hóa quốc gia mà chúng ta còn thiếu. Cũng như ngôn ngữ được nó dùng làm phương tiện trao đổi, cái văn hóa này sẽ là thành quả của sự hòa đồng Đông và Tây. "Nội dung sẽ được lấy từ nguồn tư tưởng viễn đông : Đạo Khổng, đạo Phật, đạo Lão; Nó sẽ gồm nền học vấn Hán-An Nam và phải được tổ chức giảng dạy có hệ thống. Về hình thức nó sẽ lấy mẫu mực hình thức tư tưởng tây phương với tất cả những đặc tính như kỷ luật và phương pháp, luận lý vững chắc, khách quan rõ rệt, chính xác tuyệt đối với những quy luật 22 nghiêm túc, cùng lúc không từ bỏ phần trực giác tiềm ẩn trong tri thức đông phương, tri thức vốn vừa là khoa học vừa trí tuệ. Nói tóm lại, áp dụng hình thức của khoa học tây phương lên nội dung của tri thức đông phương, như một nhà phê bình có tài đã nói, đó là con đường phải theo để tạo dựng nền văn hóa quốc gia An Nam." (1)1 Góp phần tạo dựng một nền văn hóa quốc gia An Nam, đó là nội dung của quốc gia chủ nghĩa văn hóa , nền tảng của quốc gia chủ nghĩa chính trị , dựa lên nguyên lý của một sự cộng tác Pháp-An nam, sự cộng tác giữa thiên tài Pháp và tâm hồn An Nam, bên này "đem thông tin" đến cho bên kia, gây khích động, tạo ý thức và sinh động. V Mặt trận kết hợp tầng lớp ưu tú An Nam. Chúng tôi đã cố gắng định nghĩa một chủ nghĩa quốc gia An Nam giả tưởng, và phải làm như thế nào để không trở nên một chủ thuyết chống đối vô bổ, nhưng là một chủ thuyết của sự cộng tác, của sự hòa giải, của hành động tích cực và thực tế. Chúng tôi đã nghiên cứu nó dưới khía cạnh chính trị và văn hóa, trong tương quan với nền quân chủ truyền thống và nền bảo hộ Pháp. Chúng tôi cũng có thể, lý luận trong tuyệt đối, gác qua tình thế hiện tại, những khả năng biến chuyển và những sự kiện đột xuất, và xây dựng nên một chủ thuyết táo bạo và không tưởng không đếm xỉa gì đến thực tế. Nhưng chúng tôi đã lựa chọn giải pháp thành thật, dù có thể xem ra nhút nhát dưới mắt một số người. Hứa hẹn hão quá dễ; chỉ có "thực tế" mới bổ ích và hữu hiệu. Chúng tôi đã đi từ thực tại hiện tiền, chứ không dựa lên những giả tưởng mong ước.Chúng tôi đã phân tích những yếu tố cơ bản: sự hiện hữu một tình cảm quốc gia đang ngày ngày phát triển, lên cao ; - chính sách bảo hộ không phải lúc nào cũng làm chủ được phương tiện và phương pháp của mình, thường thay đổi quá nhiều tùy người áp dụng, nhưng xét cho cùng vẫn trung thực với truyền thống phóng khoáng của nước Pháp; - nền quân chủ truyền thống do tình hình làm suy nhược, nhưng đại diện một sức mạnh vững bền của quá khứ và có khả năng hồi sức lại; - Những truyền thống trí tuệ, luân lý, tâm linh đã tạo cho dân tộc này một nhân cách lịch sử cần phải được gìn giữ và phục hưng lại ; - khả năng tạo hài hòa những tư tưởng cũ này với thế giới hiện đại qua trung gian văn hóa Pháp, một nền văn hóa mà tính phổ cấp giúp cho việc tổng hợp được dễ dàng.- Sự cần thiết cho tầng lớp ưu tú mới của An Nam có một lý tưởng chung để tránh phân tán sức lực và chú tâm vào một mục đích chính xác: chấn hưng lại xứ sở. Từ cái tổng thể tạo nên "không khí " tinh thần trong đó chúng ta đang sống và cố gắng thích nghi không hấp tấp đưa nó quá sớm về hướng này hay hướng kia, chúng ta cố gắng tìm ra những đường hướng chính của một chủ thuyết đưa ra đề
1 (1) Essais franco-annamites, pp 232-233 et 203-205 23 nghị với tầng lớp ưu tú của xứ sở xem như khuôn khổ sinh hoạt của họ, chuẩn mức cho đời sống của họ. Một trong những nguyên nhân của sự mất định hướng hiện tại của tầng lớp ưu tú, là họ hoàn toàn bối rối , không biết dựa vào đâu, đi về đâu . Họ thiếu một cái nhìn sáng suốt và rõ ràng về một mục tiêu cần đạt tới, một lý tưởng để phục vụ. Mục tiêu này, lý tưởng này , chủ thuyết mà chúng tôi vừa phác họa muốn chỉ cho họ, không phải là xóa bỏ tất cả, nhưng đi từ thực tại và cố gắng khai thác tiềm năng của đất nước trong điều kiện hiện tại. Tóm lại, vấn đề được đặt ra như sau: Một người An Nam yêu nước và muốn tham gia xây dựng đất nước mình giàu mạnh , thêm vào đó lại nhận định rằng đất nước mình không thể bỏ qua sự giúp đỡ và phò trợ của một nước hùng mạnh, và không muốn chơi trò tiêu cực bất mãn hay làm kẻ kinh niên chống đối, liệu người An Nam đó có thể , với ý thức rõ ràng , hết lòng tận tụy phục vụ đất nước trong khuôn khổ hiện có hay không ? Để trả lời câu hỏi này chúng tôi đã cố gắng chứng minh rằng khuôn khổ hiện có này không chật hẹp như thoạt nhìn và hoàn toàn phù hợp với một sinh hoạt có kỷ luật và sáng tạo, hướng về những ước mong chính đáng nhất vì dân tộc của chúng ta . Tương lai sẽ nới rộng khuôn khổ này. Trong hiện tại xem như nó đã đầy đủ. Chúng ta phải thực hiện cho tròn. Chủ nghĩa quốc gia ôn hòa và có lý luận chưa cần bàn hay dở ra sao. Ít ra nó cũng có lợi là không xa lánh thực tại, có chú tâm tới những gì sẵn có, nhìn sự việc như nó là và cố gắng dùng chúng hay uốn nắn chúng đề đáp ứng những mục tiêu lý tưởng đã vạch ra. Thay vì để tình cảm quốc gia phát triển theo những chiều hướng nguy hại, nó sáp nhập tình cảm này trong một hệ thống mà tình cảm này chính đáng giữ một chỗ đứng hàng đầu, từ đó nó có được những điều kiện thuận lợi nhất để tạo ra những kết quả tốt đẹp nhất. Thay vị loại bỏ thực tại bảo hộ nhân danh một giấc mộng độc lập không thể thực hiện, nó chấp nhận với khôn ngoan, trung thực, thành thực tình thế này, kết hợp nó vào hệ thống của mình đến mức độ xem như là một trong những nguyên tố chủ chốt. Thay vì hạ thấp giá trị của một thực tế khác được đại diện bởi nền quân chủ truyền thống để đi tìm không biết những khái niệm đâu đâu ngoại lai không thể kết hợp với tâm tình An Nam, nó tìm cách khôi phục lại thể chế cổ xưa này , khiến nó phục vụ quốc gia cũng như đã từng làm trong quá khứ. Sau cùng, thay vì loại bỏ những truyền thống đạo đức và tinh thần vốn là nền tảng tâm linh của nòi giống , tạo nguy cơ làm "vong bản" người An Nam, rơi vào chủ thuyết vô chính phủ, nó cố gắng khôi phục giá trị của những truyền thống này và khiến nó hòa đồng với nền tư tưởng tân tiến. 24 Lấy tất cả những nguyên tố, những lực lượng hiện có, hòa hợp hay hoà giải chúng để hướng chúng về cùng một mục đích, nó có ý muốn là một chủ thuyết đủ chặt chẽ và hợp lý để có thể được chấp nhận bởi tất cả những ai không mơ tưởng hão huyền mà muốn hành động dựa trên những thực tế thuận lợi. Dù sao, chúng tôi xin giới thiệu nó cho độc giả và thân hữu, cho thất cả những ai xa gần đang tìm kiếm , như chúng tôi, một cơ sở liên kết những tấm lòng thiện chí muốn cùng nhau trung hưng lại tổ quốc chung. Nếu các bạn đồng ý với những nguyên lý trên đó chủ thuyết chúng tôi đề nghị được xây dựng, chúng tôi sẽ nghiên cứu chung với các bạn một chương trình hành động . Nhưng để một phong trào toàn quốc có thể khơi động, điều kiện đầu tiên là phải có đoàn kết quốc gia, sự hoà hợp của mọi đồng bào kết hợp trong cùng một ý, cảm thông trong cùng một lý tưởng. Điều đáng tiếc là sự hòa hợp này hiện nay còn yếu kém. Chúng ta còn quá chia rẽ, không phải trên những nguyên lý mà chúng ta đã và phải đồng ý, nhưng thường lại do những vấn đề cá nhân nhỏ nhoi. Chính điều này tạo ra sự bất lực, yếu kém của chúng ta. Sự bất hòa giữa đồng bào làm quên đi mục tiêu phải dồn sức nhắm tới. Tầng lớp ưu tú An Nam không đủ đông để có thể tự cho phép chia rẽ trên những lý do nhiều khi chỉ là thứ yếu. Chúng tôi khẳng định là hiện nay không có lý do nào để người An Nam phải chia rẽ, cốt nhục tương tàn chống đối nhau. Mọi thủ thuật chính trị, mọi ganh đua bè phái, mọi tranh chấp cá nhân nhỏ nhen phải được gạt qua bên trước trách nhiệm tối cao, quốc gia dành cho chúng ta, đang chờ đợi chúng ta. Để xứng đáng với trách nhiệm này, hãy quên đi thù hận, ganh ghét, mọi khác biệt chia cắt chúng ta, và cùng nhau đoàn kết trong một đảng phái duy nhất: đảng hòa giải hòa hợp quốc gia, đảng của tất cả những người có thiện chí muốn hiến mình cho công cuộc trung hưng tái sinh của nòi giống. Thời nay, tại xứ ta không thể có một đảng nào khác ngoài đảng này. Cùng nhau chúng ta hãy xây dựng Mặt trận kết hợp tầng lớp ưu tú An Nam. Tầng lớp ưu tú này , vốn phải là người thợ chính trong công cuộc trung hưng quốc gia trên mọi mặt, như chúng tôi đã nói, không quá nhiểu để không thể nào liên hiệp, thỏa thuận. Giữa số người không đông này, khác biệt về chủ thuyết hay nguyên lý không nhiều đến nỗi không thể hợp tác được với nhau. Chỉ cần họ đặt quyền lợi của quốc gia lên trên những vấn đề tranh đua cá nhân. Họ có đủ sức làm chuyện cố gắng đó được không ? Họ có thể sẵn sàng chấp nhận những hy sinh thực ra cũng không to tát lắm đối với những người thực lòng yêu tổ quốc ? Dù sao, đất nước sẽ đánh giá tầng lớp ưu tú của mình qua thử thách này. Nếu tầng lớp này còn tiếp tục chia rẽ, nếu nó không thực sự đủ sức thỏa hiệp được 25 với nhau, thì nó không xứng đáng với trọng trách giao cho nó, và vận mạng của xứ An Nam sẽ không bao giờ có thể giao phó cho con dân mình. Nhưng chúng ta không có quyền tỏ ra bi quan. Tầng lớp ưu tú An Nam đang qua cơn khủng khoảng. Khủng khoảng sẽ qua. Mọi hiểu lầm sẽ tan biến, và trước đòi hỏi cấp bách của bổn phận quốc gia, tất cả sẽ cùng nhau hợp sức, đồng tâm, sẵn sàng kiên quyết thực hiện công cuộc chung. *** Đại chiến Âu châu đưa đến một kết quả tuyệt vời là giải phóng về vật chất cũng như tinh thần mọi dân tộc. Mọi dân tộc theo đúng nghĩa đã ý thức được cá thể của mình và cùng lúc mong muốn có một cuộc sống phóng khoáng tự do hơn. Tất cả cùng được những nguồn lực thần bí thúc đẩy giúp tự vượt sức vươn lên và tin tưởng vào định mệnh của mình. Nuớc An Nam không ra ngoài nguồn lũ đang cuốn tràn toàn thế giới. Nhưng vì là quốc gia bị bảo hộ nên chủ nghĩa quốc gia của nó phải có giới hạn. Chúng tôi đã cố gắng minh định , trong những giới hạn đó, quy góp tất cả những yếu tố có lợi cho nó. Trong những điều kiện đó, theo ý chúng tôi, nó vẫn còn đủ tính năng động để giúp chúng ta tuần tự thể hiện , trong trật tự và hòa bình, sứ mạng của chúng ta. Vì, cũng như mọi dân tộc đã có một lịch sử lâu đời, dân tộc ta cũng có một sứ mạng để hoàn thành. Dân tộc chúng ta hẳn là một dân tộc nhỏ bé, nhưng dân tộc nhỏ bé này có thể áp dụng cho chính mình những lời lẽ của vị thủ tướng hiền triết đáng trọng Masaryk đã nói về tổ quốc của ông ta, đất nước Tiệp-khắc mà mọi người đã xem như bị xóa hẳn trên bản đồ thế giới , lại được hồi sinh nhờ cố gắng của những con dân yêu nước. Vị chính khách già với cuộc đời có thể xem là một bài học đạo đức cho nhân loại, nói: "Hãy suy ngẫm xem một tí: Lịch sử của chúng ta cảm động biết bao!.. Hãy lấy bản đồ thế giới và nhìn xem đất nước chúng ta nhỏ bé là ngần nào, hãy nhớ lại chúng ta đã kiên trì đấu tranh bao nhiêu để tồn tại. Chỉ vậy thôi cũng đủ. Chỉ cần ý thức được lịch sử của chính mình. Trong thế giới, chúng ta vẫn sẽ là một nước rất nhỏ bé; nhưng một khi một quốc gia nhỏ bé hoàn thành được một công trình nhỏ bé với phương tiện ít ỏi của mình, cái công trình nhỏ bé đó có một giá trị tinh thần đặc biệt, rộng lớn, như số tiến bố thí của bà góa nghèo. Chúng ta không thua bất cứ một dân tộc nào trên thế giới, và trên một số điểm chúng ta còn hơn; người xứ khác đã bắt đầu thấy rõ. Chúng ta là một quốc gia nhỏ bé, điều đó không quan trọng; trái lại nữa là khác; điều đó lại có nhiều lợi điểm, chúng ta có thể hiểu biết nhau hơn và chung sống thân mật hơn; chúng ta có thể cảm nhận rõ ràng hơn ý niệm "nhà ta".. Nhưng thật là cao cả khi một nước nhỏ không núp sau đuôi các nước lớn và tham gia vào công cuộc hoàn thiện nhân loại." 26 Với những lời đầy tin tưởng và hy vọng mà chúng tôi xin chấm dứt bài khảo luận đã khá dài, sẽ vui mửng nếu được độc giả và thân hữu tham khảo với cùng tinh thần mà chúng tôi soạn ra nó, nghĩa là với cùng một niềm tin chân thực vào các sứ mạng của Tổ quốc, cùng mong muốn nhiệt tình sự hòa hợp và đoàn kết giữa mọi con dân. (1935)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 20, 2018 0:37:08 GMT 9
KÝ ỨC VỀ NHỮNG BÀI HỌC THUỘC LÒNG THỜI TIỂU HỌC VNCH
Dân miền Nam, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên, chắc đều nhớ rõ cách tổ chức độc đáo ở các lớp bậc tiểu học cách đây hơn bốn thập niên. Hồi đó, cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Lớp Năm là lớp Một ngày nay, rồi đến lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì, trên cùng là lớp Nhứt. Lớp Năm, tức là lớp thấp nhất, thường do các thầy cô giỏi nhất hoặc cao niên, dồi dào kinh nghiệm nhất phụ trách.
Sở dĩ như vậy là vì bậc học này được xem là vô cùng quan trọng, dạy học trò từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đọc, biết viết, biết những kiến thức cơ bản đầu tiên, nghĩa là biến từ chỗ không có gì đến chỗ bắt đầu có. Cô giáo dạy tiếng ViệtHọc trò, không phân biệt giàu nghèo, khi đến lớp chỉ được dùng một thứ bút duy nhất, là bút ngòi lá tre. Gọi là lá tre bởi vì bút có cái ngòi có thể tháo rời ra được, giống hình lá tre nho nhỏ, khi viết thì chấm vào bình mực. Bình mực, thường là mực tím, có một cái khoen nơi nắp để móc vào ngón tay cho tiện. Thân bình bên trong gắn liền với một ống nhựa hình phểu dưới nhỏ trên to để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học trò. Khi vào lớp thì học trò đặt bình mực vào một cái lổ tròn vừa vặn khoét sãn trên bàn học cho khỏi ngã đổ. Bút bi thời đó đã có, gọi là bút nguyên tử, là thứ đầy ma lực hấp dẩn đối với học trò ngày ấy, nhưng bị triệt để cấm dùng.
Các thầy cô quan niệm rằng rèn chữ là rèn người, nên nếu cho phép học trò lớp nhỏ sử dụng bút bi sớm, thì sợ khi lớn lên, chúng sẽ dễ sinh ra lười biếng và cẩu thả trong tính cách chăng. Mỗi lớp học chỉ có một thầy hoặc một cô duy nhất phụ trách tất cả các môn.
Thầy gọi trò bằng con, và trò cũng xưng con chứ không xưng em với thầy. Về việc dạy dỗ, không thầy nào dạy giống thầy nào, nhưng mục tiêu kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như nhau. Thí dụ như học xong lớp Năm thì phải đọc thông viết thạo, nắm vững hai phép toán cộng, trừ, lớp Tư thì bắt đầu tập làm văn, thuộc bảng cửu chương để làm các bài toán nhân, chia… Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất, nên không có lớp học giống lớp nào về nội dung cụ thể từng bài giảng.
Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy thêm, học thêm ở bậc học này nên khi mùa hè đến, học trò cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng dài. Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học thuộc lòng trong sách Việt Văn, theo tôi, là ấn tượng hơn nhiều.
Đó là những bài thơ, những bài văn vần dễ nhớ nhưng rất sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng tự tôn dân tộc Việt.
Tôi còn nhớ rõ trong sách Tân Việt Văn lớp Năm có bài học thuộc lòng thật hay về bóng đá mà hồi đó gọi bằng một từ rất hoa mỹ, là túc cầu:
TRẬN CẦU QUỐC TẾ
Chiều chưa ngã, nắng còn gay gắt lắm Hai đội cầu hăng hái tiến ra sân Tiếng hoan hô thêm dũng mãnh bội phần Để cổ võ cho trận cầu quốc tế. Đoàn tuyển thủ nước nhà hơi nhỏ bé Nếu so cùng cầu tướng ở phương xa Còi xuất quân vừa lanh lảnh ban ra Thì trận đấu đã vô cùng sôi nổi. Tiền đạo ta như sóng cồn tiến tới Khi tạt ngang, khi nhồi bóng, làm bàn Khiến đối phương thành rối loạn, hoang mang Hậu vệ yếu phải lui về thế thủ Thiếu bình tỉnh, một vài người chơi dữ Nên trọng tài cảnh cáo đuổi ra sân Quả bóng da lăn lộn biết bao lần Hết hai hiệp và…đội nhà đã thắng Ta tuy bé nhưng đồng lòng cố gắng Biết nêu cao gương đoàn kết đấu tranh Khi giao banh, khi phá lưới, hãm thành Nên đoạt giải dù địch to gấp bội…
Bài học thuộc lòng này, về sau tôi được biết, lấy cảm hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại Đông Á Vận Hội trên sân Merdeka của Malaysia vào cuối thập niên 50, với những tên tuổi vang bóng một thời như Tam Lang, Ngôn, Cù Sinh, Vinh “đầu sói”, Cù Hè, Rạng “tay nhựa”… Tuy không biết chơi bóng đá, nhưng thằng bé là tôi lúc đó rất thích bài học thuộc lòng này nên tự nhiên…thuộc lòng luôn.
Càng đọc càng ngẫm nghĩ, đây đâu phải là bài thơ chỉ nói về bóng đá mà thôi. Nó là bài học đoàn kết của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng gan lỳ, bất khuất khiến cho cả thế giới phải ngước nhìn bằng đôi mắt khâm phục. Bạn thấy lạ lùng chưa, chỉ một bài thơ ngắn nói về một thứ trò chơi thôi, mà lại chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại mà những lời đao to búa lớn ồn ào chắc chi đã làm được.
Nói về môn Lịch sử, hồi đó gọi là Quốc sử, đã có sẵn một bài học thuộc lòng khác:
GIỜ QUỐC SỬ
Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê, Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe Tiếng thầy giảng khắp trong giờ Quốc sử. Thầy tôi bảo: “Các con nên nhớ rõ, Nước chúng ta là một nước vinh quang. Bao anh hùng thưở trước của giang san, Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc. Các con nên đêm ngày chăm chỉ học, Để sau này mong nối chí tiền nhân. Ta tin rằng, sau một cuộc xoay vần, Dân tộc Việt vẫn là dân hùng liệt. Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt, Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam. Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm, Đầy chiến thắng, vinh quang và hạnh phúc”
Hình ảnh ông thầy dạy Sử trong bài học thuộc lòng hiện lên, nghiêm nghị nhưng lại thân thương quá chừng, và bài Sử của thầy, tuy không nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào, nhưng lại có sức lay động mãnh liệt với đám học trò chúng tôi ngày ấy, đến nỗi mấy chục năm sau chúng tôi vẫn nhớ như in.
Lại có bài song thất lục bát về ông thầy dạy Địa lý, không nhớ tác giả là ai, nhưng chắc chắn tựa đề là “Tập vẽ bản đồ”, phía lề trái còn in cả hình vẽ minh họa của Quần đảo Trường Sa và Hoàng sa:
Hôm qua tập vẽ bản đồ, Thầy em lên bảng kẻ ô rõ ràng. Ranh giới vẽ phấn vàng dễ kiếm, Từ Nam Quan cho đến Cà Mau. Từng nơi, thầy thuộc làu làu, Đây sen Đồng Tháp, đây cầu Hiền Lương. Biển Đông Hải, trùng dương xanh thẳm, Núi cheo leo thầy chấm màu nâu. Tay đưa mềm mại đến đâu, Sông xanh uốn khúc, rừng sâu chập chùng… Rồi với giọng trầm hùng, thầy giảng: “Giống Rồng Tiên chói rạng núi rừng, Trải bao thăng giáng, phế hưng, Đem giòng máu thắm, bón từng gốc cây. Làn không khí giờ đây ta thở, Đường ta đi, nhà ở nơi này, Tổ tiên từng chịu đắng cay, Mới lưu truyền lại đêm ngày cho ta. Là con cháu muôn nhà gìn giữ, Đùm bọc nhau, sinh tử cùng nhau. Tóc thầy hai thứ từ lâu, Mà tài chưa đủ làm giàu núi sông ! Nay chỉ biết ra công dạy dỗ, Đàn trẻ thơ mong ở ngày mai. Bao nhiêu hy vọng lâu dài, Dồn vào tất cả trí tài các con …”
Giờ đây, mấy chục năm đã trôi qua, tóc trên đầu tôi cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy Địa trong bài học thuộc lòng ngày ấy, nhưng có một điều mà tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra. Ông thầy đang dạy Địa, hay ông thầy đang âm thầm truyền thụ lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ qua mấy nét vẽ bản đồ?
Lời của thầy thật là nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng thật là tha thiết, chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, nơi chúng được dạy rằng ngoài ngôi nhà nhỏ bé của mình với ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt, chúng còn có một ngôi nhà nữa, rộng lớn hơn nhiều, nguy nga tráng lệ, thiêng liêng vĩ đại hơn nhiều, một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vun đắp: Tổ quốc Việt Nam.
Theo Lê Tuấn Đạt
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 5, 2020 9:01:28 GMT 9
Dạy con: 3 đạo lý người cha cần có trách nhiệmThiên Cầm • Chủ Nhật, 28/06/2020 Ngày nay chúng ta thường nghe thấy câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Nhưng trong “Tam Tự Kinh” lại nói rằng: “Tử bất giáo, phụ chi quá”, nghĩa là con không được dạy dỗ là lỗi của người cha. Kỳ thực người cha cũng đóng vai trò rất trọng yếu trong việc dạy con, trong sự trưởng thành của con trẻ.
Dạy con làm người đức hạnh, trọng nhân nghĩa Tu dưỡng đạo đức là bài học đầu tiên mà những người cha thời xưa dạy cho con mình. “Luận Ngữ” nói: “Con em ở trong nhà thì hiếu thảo hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, ra ngoài thì kính nhường bậc huynh trưởng, cẩn trọng mà giữ chữ tín, yêu thương mọi người, gần gũi người nhân đức, khi rảnh rỗi thì học văn”. Thời xưa việc học kiến thức đối với con trẻ mà nói là chuyện cuối cùng, khi “rảnh rỗi”, còn việc giáo dục đạo đức mới là quan trọng bậc nhất.
Trong gia huấn “Thông Huấn Trai Ngữ” của Trương Anh, một đại học sỹ thời nhà Thanh cũng nhiều lần nhắc tới việc làm người phải “lập vị”, phải học đạo đức: “Độc kinh thư, tu thiện đức, thận uy nghi, cẩn ngôn ngữ”.
Ngoài ra, trong sự tu dưỡng đạo đức này, con người cần suy xét vấn đề từ lập trường của người khác như thế nào và hành xử lương thiện ra sao là một mắt xích vô cùng quan trọng. Khi Trương Anh dạy bảo con trai mình, ông nói: “Trong giao tiếp với người, từng lời nói, việc làm, đều phải có ích cho người, mới gọi là người thiện”. Ông còn nói: “Có thể suy nghĩ tích cực, nhất ngôn nhất hành, nhất cử nhất động đều nghĩ tới việc làm lợi cho người mà hết sức tránh tổn hại cho người, thì người ngưỡng vọng như loan phượng, coi quý giá như linh chi, ắt sẽ được trời phù trợ, quỷ thần kính phục mà được hưởng phúc nhiều.”
Trịnh Bản Kiều, một trong Tám nhân vật kiệt xuất tại Dương Châu thời nhà Thanh, cũng vô cùng coi trọng việc giáo dục tu dưỡng đức hạnh cho con cái. Khi ông giữ chức quan huyện tại huyện Duy tỉnh Sơn Đông, con trai Trịnh Mặc ở lại nhà của em trai ông tại vùng nông thôn Hưng Hoá. Trịnh Bản Kiều đã viết riêng một bức thư cho Trịnh Mặc, trong thư viết rằng: “Hơn 52 tuổi ta mới có được một người con, há có lý nào lại không yêu thương cho được! Nhưng yêu thì phải dạy con học đạo, dạy con đạo mới là yêu con chân chính, không dạy đạo cho con là nuông chiều.” “Đạo” là thứ gì? Ông nói: “Đọc sách đỗ khoa cử, đỗ tiến sỹ làm quan, đây là chuyện nhỏ, việc quan trọng đầu tiên là phải làm một người tốt.”
Thời xưa, mặc dù việc học hành còn được coi trọng hơn rất nhiều so với ngày nay, nhưng kỳ thực nó vẫn luôn bị đặt bên dưới việc học đạo đức. Những ông bố thời xưa biết rằng so với tri thức cứng nhắc, thì năng lực phân định đúng sai, tấm lòng đãi người đãi vật mới là điều quyết định khi lựa chọn một con đường nhân sinh đúng đắn.
Bình yên lo lúc nguy khốn, tiết kiệm biết tránh xa hoa Trong thư can gián mà Nguỵ Trưng gửi Đường Thái Tông có viết rằng: “Cư an tư nguy, giới xa dĩ kiệm”, nghĩa là khi đang sống những ngày tháng bình yên thì chớ quên dùng cảnh nguy khốn răn mình; khi đang phú quý, no đủ thì chớ quên dùng sự tiết kiệm, đơn giản mà tu bỏ dục vọng ham muốn quá nhiều. Đây cũng là đạo lý mà những người cha thời xưa thường nhắc nhở con cái.
Gia Cát Lượng trong cuốn “Giới Tử Thư” (thư răn dạy con) cũng viết: “Đức hạnh của người quân tử, dùng tĩnh tu thân, kiệm dưỡng đức, không đạm bạc thì không minh trí, không tĩnh tại thì chí chẳng thể cao xa”. Gia Cát Lượng cũng thông qua hành động thực tế của mình mà dạy con đạo lý “kiệm dĩ dưỡng đức”.
Ông từng dâng tấu lên hậu chúa Lưu Thiền nói rằng: “Thần tại thành đô có 800 gốc dâu, 15 mẫu ruộng, con cháu ăn mặc, cũng đều no đủ, dư thừa. Thần thân ở bên ngoài, cũng không người ngựa, ăn mặc tuỳ nghi, hết thảy đều dựa vào bổng lộc làm quan, cũng không dựa vào đó mà kiếm chác thêm bên ngoài. Ngày thần chết đi, trong nhà không có đồ dư thừa, bên ngoài không tích tiền bạc mà phụ bệ hạ.”
Gia Cát Lượng cũng lấy mình làm gương, làm người theo tiêu chuẩn “Kiệm để dưỡng đức”. Ông hy vọng con cháu đời sau cũng ôm giữ tư tưởng cao rộng này, học cách làm người cần kiệm, đơn giản.
Tư Mã Quang thời Bắc Tống cũng coi trọng 2 chữ “kiệm phác” (tiết kiệm, đơn giản) khi giáo dục con. Khi thấy con đọc sách dùng móng tay nắm lấy trang sách, ông bèn dạy con phải biết yêu quý, bảo vệ sách. Mặc dù ở địa vị cao quý nhưng cuộc sống của Tư Mã Quang vô cùng tiết kiệm. Ông răn dạy con cháu rằng: “Đồ ăn phong phú mà sinh ra hoang phí, bày biện trang trọng mà sinh ra xa xỉ”, “Từ tiết kiệm mà đi tới xa xỉ thì dễ, từ xa xỉ mà đi tới tiết kiệm thì khó”. Qua đó, ông nhắc nhở con cái phải coi tiết kiệm, giản dị là một mỹ đức, nhất thiết không được sống hoang phí, xa hoa, phủ bại. Nhờ sự giáo dục của Tư Mã Quang, con trai tư Mã Khang từ nhỏ đã cần kiệm, tự giác, nỗ lực học tập, sau này trở thành một người hữu dụng cho quốc gia.
Những ông bố thời xưa dạy con tác phong tiết kiệm, ngoài mục đích dạy chúng trân quý tài vật ra, còn để chúng luôn nhắc nhở bản thân không được chìm đắm trong sự biếng nhác mà buông lỏng sự cảnh giác với bản thân, cuối cùng sẽ dẫn đến thân bại danh liệt, gia tộc bại vong.
Nỗ lực học tập Thời Đông Hán có lưu truyền một câu ca dao: “Để lại cho con bạc vàng đầy kho, cũng không bằng dạy con một pho kinh sách” (Di tử hoàng kim mãn, bất như giáo tử nhất kinh). Đọc sách là việc vô cùng có lợi cho con cháu đời sau. Nếu con trẻ có thể lập chí học hành, làm rạng rỡ tổ tông, thì điều này còn đáng quý hơn châu báu, ngọc ngà.
Trong “Tăng Quảng Hiền Văn” có câu nói rõ về đạo lý này: “Để lại tài sản cho con cháu, hà tất phải là hoàng kim, mỹ ngọc; Lập thế dựa vào bản thân, chắc chắn phẩm cao, học ưu”.
Nhan Chi Suy thời Nam Tống làm quan tới chức Thị Lang Cấp Sự Hoàng Môn. Ông cũng luôn dạy dỗ con cái theo nguyên tắc “Độc thư vi thượng”, việc học là ở trên hết. Sau khi Bắc Tề diệt vong, Nhan Chi Suy bị ép phải rời nhà tới Trường Nhan, không còn bổng lộc, tước vị trong triều, nhà không chút gia sản. Đối mặt với cuộc sống cùng quẫn, Nhan Tư Lỗ, con trai trưởng của ông tự cảm thấy hổ thẹn vì không thể phụng dưỡng song thân, nên muốn bỏ dở việc học hành, lấy kế sinh nhai của gia đình làm trọng. Nhan Chi Suy nghe xong thì lời sâu ý nặng mà rằng: “Con lấy việc phụng dưỡng cha mẹ mà bày tỏ lòng mình, cha lại muốn dùng việc học hành mà dạy con. Để con học hành dang dở mà mưu sinh, cho ta được ăn no mặc ấm, ăn miếng cơm liệu có thể an lòng, vui vẻ? Mặc quần áo liệu có thể thấy ấm áp được chăng? Thuận theo đạo của tiên vương, kế tục gia nghiệp, thì dẫu cơm canh đạm bạc, áo vải sờn vai ta cũng cam lòng.”
Thời xưa người đi học rất được người khác kính trọng. Có rất nhiều cách để đạt được tiền tài, phú quý, nhưng nếu muốn trở thành một người hiểu lễ tiết, minh chân lý, biết tiến biết thoái, khiến gia tộc mình được người đời trọng vọng, thì việc học hành vẫn là con đường không thể thiếu.Thiên Cầm biên dịch
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 5, 2020 9:04:03 GMT 9
Tham tài đoản thọ, quả báo khó thoátThiên Cầm•Thứ Bảy, 04/07/2020 • “Luận Ngữ – Lí Nhân” viết: “Phú quý và vinh hiển ai cũng thích. Không dùng đạo nhân mà đạt được thì không nên làm. Nghèo khó và thấp hèn, chẳng ai ưa. Không dùng đạo nhân để thoát nghèo thì không làm.” Trong “Luận Ngữ – Thuật Nhi”, cũng giảng: “Bất nghĩa mà giàu có, phú quý, thì ta coi như phù vân vậy”. “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo”, người quân tử xem trọng tiền tài, nhưng không tùy tiện nhận. Tiền tài hợp với đạo thì không thể không quý trọng, bởi đó là của cải do bản thân làm ra, không thể tiêu xài hoang phí. Không phải là của cải do lao động, thì dẫu nhất thời có thể chiếm đoạt, nhưng cuối cùng vẫn là “Của thiên trả địa”, tham tài thì tay trắng lại hoàn trắng tay, thậm chí còn khiến gia đình suy bại.
(Tranh: Ismoon/Wikipedia, CC BY-SA 4.0) Trong “Tống bại loại sao” thời nhà Thanh có ghi lại một câu chuyện về những kẻ chiếm đoạt của cải bất chính cuối cùng rơi vào cảnh mạt vận như vậy.
Vào thời nhà Tống, tại Phúc Đường, có một người tên Chương Tư Văn, gia đình nhiều đời nghèo khổ. Đến đời của anh ta, lại càng khốn khó. Chương Tư Văn nhìn thấy những người khác sống một cuộc đời ấm no, tốt lành, trong tâm anh ta rất ghen tị. Anh ta vắt óc suy nghĩ muốn phát đại tài.
Sau này, Chương Tư Văn tìm được một công việc ở huyện Hoa Đình, Tú Châu, nhưng tiền công không nhiều, cuộc sống vẫn không có gì khởi sắc. Lúc đó, một người tên là Võ Sĩ Nguyên làm giám quan ở xưởng muối huyện Hoa Đình. Bấy giờ triều đình thực hiện chính sách muối và sắt chuyên trách, cấm tư nhân bán muối, do vậy nhiều người bán muốn nghĩ cách hối lộ quan chủ quản muối để được cấp phép. Võ Sĩ Nguyên tham tài không bỏ lỡ cơ hội này. Ông ta nhận những khoản tiền hối lộ lớn từ những người buôn muối và lén lút bán giấy phép. Đối với những thương nhân không có giấy phép bán muối, ông ta sẽ cử người truy lùng họ khắp nơi. Những người không có tiền sẽ bị đánh đập thương tích hoặc bị cầm tù. Những thương nhân buôn bán muối này thà khuynh gia bại sản còn hơn phải chịu cảnh tù đày. Bằng cách này, Võ Sĩ Nguyên thu được một lượng lớn tiền tài.
Nhận thấy tiền tài của Võ Sĩ Nguyên cuồn cuộn như nước, Chương Tư Văn vô cùng ngưỡng mộ, bèn thông qua các mối quan hệ, kết thành bạn bè với Võ Sĩ Nguyên. Võ Sĩ Nguyên cũng sẵn lòng tìm một trợ thủ trong huyện, để có thể thảo luận trong trường hợp gặp rắc rối. Bằng cách này, Chương Tư Văn lên kế hoạch và Võ Sĩ Nguyên cử người đi thực hiện.
Hai người cấu kết trục lợi, lợi nhuận kiếm được chia chác lại cho nhau. Lúc đó, Võ Sĩ Nguyên vẫn còn tại vị, không dám vận chuyển một số lượng lớn vàng bạc về nhà, cũng không dám để lại nơi ở. Vì sợ bị cướp, ông ta bèn gửi tiền tại chỗ Chương Tư Văn, dự định chờ đến khi ông ta miễn nhiệm sẽ chở về nhà. Võ Sĩ Nguyên rất tin tưởng vào Chương Tư Văn, để vàng bạc ở chỗ ông ta, cảm thấy rất an toàn.
Một năm sau, Võ Sĩ Nguyên miễn nhiệm, phải tới nơi khác làm quan. Trước khi rời đi, Võ Sĩ Nguyên đã đến chỗ Chương Tư Văn lấy lại vàng bạc.
Chương Tư Văn tham tài trở mặt, nói: “Ông thật hài hước, sao lại có thể vô cớ đến nhà tôi đòi vàng bạc? Nếu ông không có tiền để về quê, tôi có thể nể mặt bạn bè mà cho ông mượn.” Võ Sĩ Nguyên nghe thấy điều này, nổi trận lôi đình, nhất quyết bắt ông ta phải giao nộp. Chương Tư Văn nói: “Nếu ông để vàng bạc ở chỗ tôi, vui lòng mang chứng cớ ra đây.”
Ngay khi Võ Sĩ Nguyên nghe thấy lời này, ông ta xúc động mạnh và ngã xuống. Ban đầu, khi gửi vàng bạc ở chỗ Chương Tư Văn, Võ Sĩ Nguyên vốn cũng muốn viết giấy gửi tiền, nhưng Chương Tư Văn nói: “Viết giấy dễ bị lộ, tốt hơn là không nên viết. Huống hồ là bạn bè, có viết giấy hay không cũng không hề gì.” Võ Sĩ Nguyên nghe cũng thấy có đạo lý, lại sợ rằng Chương Tư Văn nói mình không tin tưởng ông ta, vì vậy Võ Sĩ Nguyên không nhất quyết đòi viết nữa. Bây giờ, Chương Tư Văn lại yêu cầu Võ Sĩ Nguyên đưa ra chứng cớ, thì làm thế nào có thể đưa ra được? Đây là chuyện khuất tất không thể kiện cáo, bản thân Võ Sĩ Nguyên đã miễn nhiệm, vì vậy Võ Sĩ Nguyên đành nuốt cục giận này và trở về trong sự phẫn nộ.
Võ Sĩ Nguyên về đến nhà và nghĩ đến số tiền tích cóp của mình vài năm qua, chỉ trong chốc lát đã bị người khác nuốt mất. Ông ta tức giận tới mức đổ bệnh, vài ngày sau thì nôn ra máu và chết. Vị tham quan này cuối cùng vì tham tài mà chết.
Khi Chương Tư Văn nghe tin Võ Sĩ Nguyên đã chết, ông ta rất phấn khích. Ông ta vận chuyển một lượng lớn vàng bạc châu báu về nhà, mua rất nhiều đất, xây dựng lầu các, bao nuôi thê thiếp.
Nhưng Chương Tư Văn mãi vẫn không có con trai. Nghĩ đến tài sản không có người thừa kế, ông ta nóng lòng như lửa đốt. Tuy nhiên, thê thiếp của ông ta cũng chẳng thể làm gì khác. Người thì không thấy bụng to lên, người thì sinh con chưa đầy ba ngày đã chết.
Năm này qua năm khác, Chương Tư Văn cũng già đi, nhưng tham vọng sinh con trai vẫn không hề thuyên giảm. Khi ông ta 60 tuổi, vẫn còn muốn cố lần cuối và cưới một cô nương trẻ. Một năm sau, cô gái cũng sinh được một bé trai. Chương Tư Văn vui mừng khôn xiết, mở đại tiệc đãi khách. Đứa trẻ này cơ thể yếu nhược, ba ngày một lần ốm nhẹ, dăm bữa một trận ốm nặng. Chương Tư Văn tiêu tiền như nước để chữa trị cho con trai, nhưng vô ích. Mặc dù đứa trẻ lắm bệnh, nhưng dần dần cũng lớn lên. Chương Tư Văn dành gần như tất cả tiền tài của mình để nuôi đứa bé trưởng thành.
Đến sáu, bảy tuổi, đứa trẻ vẫn là một con bệnh. Mặc dù Chương Tư Văn nổi tiếng là một phú ông, nhưng sau những lần dày vò như vậy, gia sản cũng dần trống trơn, cuộc sống trở nên nghèo khó. Nhưng vì có một đứa con trai, nên ông ta cũng không quá đỗi thương tâm, trong lòng vẫn tràn đầy hy vọng. Thật không may, con trai ông lại mắc bệnh nặng và cuối cùng không thể qua khỏi, mà chết như những đứa con trước đó của Chương Tư Văn. Ông ta đau khổ tuyệt vọng, chỉ hận là mình không thể chết thay con. Ông ta đã chuẩn bị quan tài và chôn cất con trai mình cùng với một món quà của người trưởng thành.
Khi phải đậy nắp quan tài, Chương Tư Văn vẫn rất luyến tiếc, vẫn muốn nhìn mặt con lần cuối. Mọi người dìu ông ta tới bên quan tài, lật tấm vải che mặt lên. Nhưng điều Chương Tư Văn nhìn thấy không phải là khuôn mặt của con trai ông ta, mà là khuôn mặt của Võ Sĩ Nguyên! Đôi mắt Võ Sĩ Nguyên mở to trừng trừng giận dữ, mái tóc dựng đứng, khuôn mặt dữ tợn, dường như muốn vồ lấy Chương Tư Văn. Chương Tư Văn hét lên thất thanh, kinh hoàng tới mức phát ngất. Mọi người vội vã dìu ông ta rời đi.
Chưa đầy một tháng sau, Chương Tư Văn cũng đổ bệnh qua đời. Khi ông ta sắp chết, gia sản gần như khánh kiệt. Thê thiếp của ông ta tranh quyền đoạt lợi, không ai quan tâm đến việc chôn cất Chương Tư Văn.Theo Secretchina.com Thiên Cầm biên dịch
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2021 0:19:37 GMT 9
Tổng quan về giáo dục miền Nam
Tài liệu về nền giáo dục VNCH hiện nay đã trở nên ngày càng khó kiếm, thậm chí, hầu như không thể kiếm được bao nhiêu trong những thư viện lớn trên toàn quốc. Hơn nữa, nói về nền giáo dục của một chế độ chính trị đã cáo chung gần 50 năm, mà ngày nay không còn mấy người làm chứng, thì làm thế nào đảm bảo tính trung thực để tin được hoàn toàn cũng không phải chuyện dễ. Cuốn sách này được xem là công trình tổng quan lần đầu tiên được xuất bản sau năm 1975, đánh giá toàn bộ về Giáo dục phổ thông của VNCH. Sách gồm 5 chương: Chương 1: Tổng quan về giáo dục miền Nam Chương 2: Chương trình giáo dục phổ thông miền Nam Chương 3: Giáo viên và quản lý trường học Chương 4: Công tác khảo thí và thanh tra trường học Chương 5: Một số nhận xét về giáo dục phổ thông miền Nam và đề xuất đổi mới giáo dục hiện nay Tác giả là những nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Giáo dục đã khai thác các văn bản lưu trữ của Bộ Quốc gia giáo dục và thông qua phỏng vấn các nhà quản lý, nhà giáo, học sinh đã từng hấp thụ trực tiếp nền giáo dục VNCH. Theo Hiến Pháp VNCH 1967, Điều 10 quy định: "Nền giáo dục Đại Học được tự trị" (Wikisource 2012). Tự trị trong Đại Học có nghĩa là Đại Học không ở dưới sự quản trị của chính phủ (Bộ Quốc Gia Giáo Dục), mà được độc lập quản trị bởi thành phần giáo sư của trường. Điều 11 quy định: "Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản" (Wikisource 2012). Căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản được thể hiện rõ rệt nhất trong giáo dục tiểu học và trung học. Trường tiểu học và trung học mà tôi theo học là trường công, nằm trong vùng quanh Sài Gòn. Học sinh toàn là nam, và đa số thuộc gia đình nghèo hoặc trung lưu. Cả hai trường không lớn mà cũng không nhỏ về số học sinh, có lẽ thuộc vào hàng trung bình trong các trường tại Sài Gòn và vùng phụ cận bấy giờ. Một cách tổng quát, tôi được dậy dỗ một cách chu đáo trong một môi trường tự do, giúp tôi phát triển trí tuệ, khả năng lý luận và suy nghĩ, đạo đức, và tinh thần tự do dân chủ. A. Tôi được hấp thụ một nền giáo dục khuyến khích tự do tư tưởng và sáng tạo: Một trong những điểm đặc sắc nhất mà tôi ghi nhớ trong lúc đi học là không hề có sự cấm cản tự do tư tưởng, nếu không muốn nói là có sự khuyến khích. Lúc ấy còn nhỏ, tôi không biết đó là một khía cạnh tốt đẹp nhất trong nền giáo dục trẻ em. Trong suốt hơn mười năm học tiểu học và trung học, tôi chưa hề thấy hoặc nghe nói đến thầy cô nào cấm đoán hoặc chỉ trích học trò phát biểu ý kiến riêng tư. Thực ra, các thầy cô còn làm ngược lại, là khuyến khích chúng tôi bày tỏ ý tưởng hoặc đưa ra những sáng kiến. 1. Sự khuyến khích tự do phát biểu tư tưởng, dùng đầu óc suy luận, và duy trì bản chất trung thực có ngay từ lớp ba tiểu học: Một mẩu chuyện mà tôi nhớ mãi xảy ra vào năm tôi học lớp ba (lớp 3 bây giờ) tiểu học. Thầy tôi thường hay kể chuyện sau khi dạy xong bài. Thầy kể chuyện rất hay, mỗi lần thầy kể chuyện là cả lũ chúng tôi cứ há hốc mồm lắng tai nghe. Các câu chuyện thầy kể thường là về cách cư xử, sử ký, địa lý, và các chuyện cổ tích thật hay. Một hôm, thầy kể về cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng. Tôi không nhớ lúc đó lớp ba có học sử ký về Hai Bà Trưng không, nhưng chỉ biết là lúc ấy chúng tôi say mê nghe câu chuyện. Thầy kể Trưng Trắc vì thù chồng bị Tô Định giết mà cùng em lãnh đạo hàng ngàn người đánh đuổi Tô Định rồi thừa thế lan tràn khắp nơi chiếm 65 thành trì. Khi nghe tới đó, tôi, lúc bấy giờ là một thằng nhãi con 7-8 tuổi nhưng cũng có chút suy nghĩ, phát biểu ý kiến, "Chắc Hai Bà có ý đánh Tàu trước rồi làm bộ kiếm cớ trả thù chồng, chứ làm sao mà dân theo hai bà đông vậy." Lúc bấy giờ, tôi không biết sự khác biệt giữa nguyên do của cuộc nổi dậy vì trả thù chồng và vì đánh đuổi Tàu rất là tinh tế và cũng rất là quan trọng. Nhưng hẳn nhiên là thầy biết. Tôi vẫn còn nhớ rõ khi nghe câu tôi nói, ông nhìn tôi chằm chằm một lúc. Tôi không hiểu tại sao thầy nhìn tôi lâu vậy, chắc ông tưởng tôi sửa sai ông. Sau đó, thầy gật gù nói, "Chắc con nói đúng. Thầy chỉ kể theo sách vở, nhưng sách vở cũng có khi sai." Rồi ông quay qua nói cả lớp, "Các con đi học phải biết xài cái đầu để suy nghĩ." Tôi vẫn nhớ hình ảnh thầy lấy ngón tay chỉ vào đầu mà nói đi nói lại, "Phải biết xài cái đầu." Sau này, khi có dịp tìm hiểu về chuyện Hai Bà Trưng, quả thật có chứng cớ lịch sử cho thấy khi Hai Bà khởi nghĩa, chồng bà Trưng Trắc (tên là Thi, không phải là Thi Sách) vẫn còn sống (Cao-Đắc 2014, 336). Các sử gia bấy giờ, vẫn còn có ý tưởng trọng nam khinh nữ, không muốn, hoặc không nghĩ là Hai Bà nổi dậy với ý chính là đánh đuổi Tàu, mà quy gán là vì trả thù chồng bị giết. Điểm quan trọng là thầy tôi không la tôi là con nít nói tầm bậy, mà lại còn tôn trọng ý kiến của tôi. Ngoài ra, thầy còn dùng đó để khuyên học trò là phải biết dùng đầu óc để suy nghĩ về các câu chuyện lịch sử và đừng có mù quáng tin tưởng vào sách vở. Nên nhớ lúc đó tôi đang học lớp ba tiểu học. Năm lớp ba tiểu học, tôi đã được khuyến khích tự do phát huy tư tưởng và không nên tin vào sách vở một cách mù quáng mà phải biết dùng đầu óc để suy luận. Một điểm đặc biệt trong lối dạy của thầy là ông đối xử chúng tôi như những cá nhân có bản chất trung thực, lương thiện. Thầy không bao giờ nghi ngờ chúng tôi nói láo, gian lận, hoặc chối tội. Thí dụ có đứa đi học trễ hoặc quên bài, ông hỏi lý do, và lúc nào cũng tin lời học trò. Ông không căn vặn, hoạnh họe, hoặc hỏi thêm, cho dù lý do nghe hơi khó tin. Việc này được thể hiện cụ thể qua kiểu thầy ghi điểm vào sổ như sau. Thỉnh thoảng, ông khảo bài học trò. Lối khảo bài của ông khác hẳn các thầy cô sau này tôi học. Thay vì gọi từng đứa lên đứng bên cạnh bàn, ông đi xuống chỗ ngồi đám học trò, và đảo qua một vòng. Ông lấy quyển vở học trò, hỏi bài và ghi điểm vào vở, có lúc có lời phê, có lúc không. Tôi không nhớ là thầy khảo bài cả lớp hay chỉ một số, nhưng hình như cả lớp, vì sau đó ông trở về bàn và gọi tên từng đứa để ghi vào sổ điểm. Thầy không hề thắc mắc hoặc lo sợ học trò nói sai điểm, và ghi xuống điểm học trò nói. Một cách kỳ lạ, không có đứa nào nói sai điểm. Trong suốt cả năm học, có cả hàng mấy chục lần ghi điểm như vậy, chúng tôi biết là nếu muốn gian lận nói điểm cao hơn, thầy cũng chẳng biết. Nhưng không đứa nào nói sai điểm cho cao hơn. Làm sao tôi biết chuyện đó? Tôi không biết chắc 100%, nhưng chúng tôi thường coi điểm lẫn nhau, và tôi biết những đứa quanh tôi không nói sai dù điểm tụi nó rất tệ (chỉ có 2-3 trên 10 điểm). Tôi không nghe đứa nào kiện cáo bạn mình nói sai điểm. Hình như sự trung thực tiềm tàng trong mỗi đứa nên không đứa nào nghĩ đến chuyện gian lận. Lúc bấy giờ, tôi cũng chẳng suy nghĩ gì về chuyện đó và coi nó bình thường, không có gì đáng nói. Nhưng sau này khi nghĩ lại, tôi thật cảm phục cách đối xử đó. Chúng tôi là những đứa bé lương thiện vì thầy đối xử chúng tôi như những người lương thiện. 2. Trong những năm trung học, chúng tôi luôn luôn được khuyến khích tự do phát huy sáng tạo: Khi lên trung học, cái tinh thần tôn trọng học sinh và khuyến khích tự do tư tưởng đó vẫn tiếp tục, với một mức độ rõ rệt và mạnh mẽ hơn. Tôi không nghĩ là Bộ Quốc Gia Giáo Dục đặt ra quy chế rõ rệt về chuyện đó, mà cái tinh thần đó đã tiềm tàng trong xã hội bấy giờ. Hoặc cũng có thể thầy cô hấp thụ tinh thần đó trong lúc học trường sư phạm, và áp dụng một cách tự phát trong lúc hành nghề. Năm Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) là năm mới lạ với tôi, vì tôi có nhiều bạn và có nhiều thầy cô, mỗi người dạy một môn. Thông thường mỗi thầy cô dạy một kiểu, và ít khi giống nhau. Chúng tôi học hỏi những đề tài học vấn, nhưng nhiều khi cũng qua cách thức cư xử đạo đức và đường lối làm việc khoa học của các thầy cô. Chính những sắc thái khác biệt của các lối dạy đó tạo cho chúng tôi có khái niệm tự do. Ngoài ra, thầy cô lúc nào cũng trực tiếp và gián tiếp khuyến khích chúng tôi phát huy tinh thần tự do sáng tạo trong việc học hành. Vài thí dụ là thầy cô đều khuyến khích khi tôi có những sáng kiến hoặc làm những chuyện khác lạ không theo bài dạy, như vẽ biểu đồ cho dễ học cho các sự kiện lịch sử, dùng mẩu đối thoại là nhập đề trong bài luận văn, tìm tòi và cắt dán hình ảnh thú vật trong các tạp chí Tây phương cho môn vạn vật. Ngay ở năm Đệ Thất, tôi đã được khuyến khích tự do sáng tạo, khiến tôi yêu tiếng Việt và quý sự tự do diễn tả ý tưởng, và tự do tìm tòi và nghiên cứu. 3. Những buổi thuyết trình trong lớp và toàn trường cho chúng tôi tự do tư tưởng và giúp phát huy khả năng tìm tòi, suy luận, và tinh thần cư xử trưởng thành: Trong năm lớp Đệ Ngũ (lớp 8 bây giờ), trường phát động chương trình thuyết trình. Chương trình này nhằm giúp học sinh phát huy kh̉ả năng nghiên cứu, bình luận, lý luận, ăn nói trước công chúng, và quan trọng nhất là tạo cơ hội cho học sinh phát biểu ý kiến tự do. Tôi không rõ chương trình này chỉ áp dụng cho lớp Đệ Ngũ, hay chỉ xảy ra trong niên khóa đó, vì các năm kế tiếp không còn chương trình này nữa. Ngoài ra, tôi không rõ đây có phải là một chương trình đưa ra từ Bộ Quốc Gia Giáo Dục hay chỉ là sáng kiến của hội đồng giáo sư trường tôi. Bây giờ nghĩ lại, tôi thật không ngờ lúc bấy giờ, vào cuối thập niên 1960, nước VNCH lại có thể có một chương trình giáo dục đầy sáng tạo và cách mạng như vậy. Đại khái chương trình đó hoạt động như sau. Thỉnh thoảng, thầy cô cho học sinh tình nguyện làm "giáo sư," thuyết trình về đề tài mà giáo sư giảng dạy. Nếu có nhiều người tình nguyện thì thầy cô sẽ chọn một người, hoặc chia đề tài ra phân phối cho mỗi người một phần. Nếu không có ai tình nguyện, thì giáo sư sẽ giảng bài như thường lệ. Mỗi thuyết trình viên có một tuần để chuẩn bị. Anh ta phải tự tìm tòi, nghiên cứu về đề tài đó, tham khảo vị giáo sư đang dạy nếu cần. Anh thuyết trình viên phải nghiên cứu đề tài thật kỹ lưỡng và chuẩn bị cho mọi câu hỏi, "bồ tèo" hay "thù địch." Tới ngày thuyết trình, anh thuyết trình viên sẽ đứng trên bục giảng và giảng về đề tài. Sau bài giảng, học sinh trong lớp sẽ có dịp "quay" thuyết trình viên, hỏi đủ mọi câu hỏi về đề tài đó. Chương trình đó chỉ áp dụng cho vài môn mà phương pháp thuyết trình có hiệu quả. Tôi nhớ chắc chắn có hai môn là Việt văn và Vạn vật, và có khoảng cả chục lần thuyết trình như vậy. Bạn sẽ tự hỏi làm sao mà một thằng nhóc 14-15 tuổi biết gì về văn chương, cách hành văn và ý nghĩa của các truyện, hoặc địa chất học và cấu trúc đá mà giảng bài về đề tài đó? Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết được sức mạnh của tự do và sáng tạo khi học sinh được cho phép tìm tòi nghiên cứu độc lập. Chính tôi cũng không hiểu tại sao các thuyết trình viên làm được chuyện đó. Không những thế, nhiều thuyết trình viên giảng bài còn hay hơn cả thầy cô. Học sinh thường chăm chú nghe bạn mình thuyết trình hơn là nghe lời thầy giảng. Phần hỏi đáp là phần cao đỉnh của buổi thuyết trình. Thông thường, khi thầy cô giảng bài, chúng tôi ít khi giơ tay hỏi. Nhưng khi bạn mình lên giảng bài thì chúng tôi được dịp "quay" thuyết trình viên túi bụi, y hệt như những tranh luận trong các diễn đàn trên Internet bây giờ. Cũng có lúc thuyết trình viên "bí" thì có các bạn "cứu bồ" hoặc thầy cô ra tay. Phần hỏi đáp, nhất là trong môn Việt văn, kéo dài hơn nửa tiếng, nhiều khi hết cả giờ, phải tiếp tục kỳ sau. Điểm độc đáo nhất là thầy cô thường đứng ngoài cuộc tranh cãi, và để chúng tôi tự do phát biểu ý kiến, và chỉ can thiệp khi các câu hỏi ra ngoài đề hoặc cuộc tranh cãi trở nên gay go, hoặc khi thuyết trình viên tự động "cầu cứu." Một điểm kỳ lạ nữa là chúng tôi thường "mày tao chi tớ" với nhau trong cuộc nói chuyện hàng ngày, nhưng trong cuộc hỏi đáp hoặc tranh cãi trong buổi thuyết trình, chúng tôi cư xử với nhau rất nhã nhặn và lịch sự. Tuy chương trình thuyết trình không còn tiếp tục trong lớp trong những năm sau, một chương trình thuyết trình đặc biệt được tổ chức ở phạm vi cao và rộng rãi hơn trong một niên khóa sau đó. Năm tôi học Đệ Tam (lớp 10 bây giờ), khối Học Tập toàn trường tổ chức các buổi thuyết trình trên mọi đề tài, không nhất thiết dính líu đến đề tài học trong lớp, và bất cứ học sinh nào, từ các em Đệ Thất tới các anh Đệ Nhất (lớp 12 bây giờ), cũng có thể tham dự là thuyết trình viên hoặc chỉ là người tham dự. Chúng tôi có một vị giáo sư hướng dẫn. Nhiệm vụ vị giáo sư hướng dẫn là duyệt xét nội dung đề tài và thời giờ và địa điểm của các buổi thuyết trình. Mọi đề tài nộp lên đều được chấp thuận. Các đề tài gồm có đề tài về triết lý, sử ký, khoa học, và xã hội. Thuyết trình viên có khoảng 20-30 phút nói về đề tài mình, vả sau đó là phần hỏi đáp và thảo luận. Điểm nổi bật của các buổi thuyết trình này là không hề có sự tham dự, kiểm soát hay giám thị của nhà trường. Nhà trường để chúng tôi tự do tổ chức, tự do chọn đề tài (với sự chấp thuận của vị giáo sư hướng dẫn), tự do chọn thuyết trình viên, tự do kêu gọi học sinh tham gia, tự do đi xin sách vở từ các tiệm sách để làm phần thưởng cho các thuyết trình viên. Chúng tôi có toàn quyền thảo luận và phát biểu ý kiến trong các buổi thuyết trình. Bạn nên nhớ lúc bấy giờ phong trào biểu tình của sinh viên học sinh chống chính phủ đang rầm rộ trên đường phố. Các dân biểu của phe đối lập đang hô hào xuống đường. Nhưng chính phủ không hề can thiệp vào các sinh hoạt học sinh trong trường. Nhà trường tin tưởng chúng tôi, thầy cô tin tưởng chúng tôi, và để chúng tôi tự do hội họp thuyết trình. Nhà trường đối xử chúng tôi như những người trưởng thành, và do đó chúng tôi cư xử như những người trưởng thành. Chúng tôi hành xử rất có trật tự và lịch sự mặc dù không có thầy cô giám thị hiện diện. Có những lúc tranh cãi gay go, nhưng chúng tôi vẫn lễ độ với nhau, và trao đổi ý kiến một cách nhã nhặn. Những hoạt động thuyết trình trong lớp năm Đệ Ngũ và toàn trường năm Đệ Tam nhắm vào các đề tài học đường. Nhưng thu thập kiến thức học hành chỉ là một trong nhiều thành quả. Xung quanh thành quả học tập này là các thành quả phụ thuộc nhưng quan trọng trong việc hun đúc chúng tôi trở thành những công dân hữu ích cho xã hội. Các thành quả phụ thuộc này dựa vào một căn bản tối thượng: tự do. Chính cái tinh thần tự do tiềm tàng trong xã hội và học đường bấy giờ khiến chúng tôi phát huy sáng tạo, khả năng tìm tòi nghiên cứu và lý luận, và tinh thần nhã nhặn, lịch sự, tôn trọng lẫn nhau. Một hậu quả tinh tế nhưng sâu đậm của những hoạt động thuyết trình này là tạo cho chúng tôi niềm tự tin và lòng can đảm. Khi không bị kềm chế trong tư tưởng, con người thường biểu lộ những cái hay và tốt đẹp nhất. Chúng tôi được đối xử với đầy đủ mọi quyền con người, ngay từ lúc còn bé trong học đường, và được hưởng tự do hoàn toàn trong tư tưởng và sáng tạo. Cái tinh thần tự do đó là một trong nhiều khía cạnh nhân bản của nền giáo dục VNCH. B. Các sinh hoạt học sinh biểu lộ tinh thần dân tộc và tự do dân chủ cao độ: Sinh hoạt học sinh là những hoạt động do học sinh làm, có thể tự phát hoặc dưới sự hướng dẫn của nhà trường. Ở tiểu học, theo như tôi nhớ, hầu như không có sinh hoạt học trò, ngoại trừ các buổi văn nghệ vào dịp phát phần thưởng cuối năm. Trên trung học, chúng tôi có nhiều sinh hoạt học sinh ngoài chuyện học, như làm việc xã hội, văn nghệ, báo chí. Những việc này được thực hiện qua ban đại diện học sinh trong lớp và toàn trường. 1. Tinh thần dân tộc và thương yêu đồng bào được thể hiện từ tiểu học đến trung học: Năm lớp Nhất (lớp 5 bây giờ), lễ ra trường và phát phần thưởng được tổ chức tại một cơ sở hành chánh địa phương. Cuộc trình diễn văn nghệ là phần sáng chói trong buổi lễ. Tôi nhớ rất rõ cuộc trình diễn đó vì đứa hàng xóm nằm trong toán diễn viên nên hắn ta tập dượt nghêu ngao hát cả ngày. Màn trình diễn là ca kịch "Hội Nghị Diên Hồng" với bài hát "Hội Nghị Diên Hồng." Anh chàng diễn viên chính, đóng vai Trần Hoàng (Trần Thánh Tông), hát thật oai, "Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến. Hận thù đằng đằng, biên thùy rung chuyển." Tôi còn nhớ đám nhóc mặc khăn đóng áo dài sặc sỡ và hóa trang là bô lão. Đứa hàng xóm nhà tôi đeo bộ râu đáng ghét. Đám nhóc xếp hàng đi ra sân khấu với gậy chống, đập đập xuống sàn sân khấu theo nhịp hát "Kìa vừng hồng, tràn lan trên đỉnh núi." Lúc bấy giờ, tôi không hiểu tại sao nhà trường chọn ca kịch "Hội Nghị Diên Hồng" cho buổi lễ phát phần thưởng, nhưng cuộc trình diễn tạo một ấn tượng sâu sắc và lâu dài trong tâm trí tôi, nhất là lúc đám nhóc bô lão la lớn "Quyết chiến" khi diễn viên chính hỏi "Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?" và "Hy sinh" cho câu hỏi "Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh?" Tinh thần dân tộc đã nảy mầm trong tâm trí tôi trong những năm tiểu học với hình ảnh Hai Bà Trưng và Hội Nghị Diên Hồng. Tinh thần dân tộc không những thể hiện qua những quý trọng lịch sử mà còn thể hiện qua mọi hình thức của tình thương yêu đồng bào. Như sẽ đươc̣ trình bày sau, ở trung học, học sinh có ban đại diện mỗi lớp và toàn trường. Đây không phải là những ban đại diện bù nhìn hoặc là công cụ của nhà trường, mà các đại diện học sinh thực sự hoạt động cho học sinh. Một trong những ban đại diện là ban xã hội. Ban này chuyên môn làm những chuyện xã hội, tình nguyện cho các công tác cộng đồng, tham gia các hoạt động từ thiện. Nhà trường chỉ cung cấp giáo sư hướng dẫn và các giúp đỡ hành chánh, như viết giấy giới thiệu hoặc xin phép. Một hoạt động xã hội hầu như xảy ra hàng năm là quyên tiền trợ giúp đồng bào lụt lội miền Trung. Các lớp tham gia tích cực đóng góp và có sự ganh đua trong việc thâu tiền. Các trưởng ban xã hội làm việc tích cực, hô hào anh em trong lớp đóng góp. Anh trưởng ban lớp tôi ăn nói rất hay và lớp tôi hầu như năm nào cũng đóng góp khá cao. Năm Đệ Tam, có vụ Cam Bốt "cáp duồn" người Việt Nam sống tại Cam Bốt. Hàng trăm ngàn người Việt Nam phải rời Cam Bốt về Việt Nam sống trong các trại tị nạn. Khối xã hội toàn trường phát động phong trào giúp người tị nạn. Theo tôi biết, phong trào này do học sinh phát động và không do chỉ thị của nhà trường. Chúng tôi hưởng ứng tích cực và cả trăm học sinh đi tới các khu đất tị nạn và giúp dựng lều trại. Tôi nhớ tôi cuốc đấ̃t cả buổi đến độ đau nhức cả hai tay. Lúc ấy, khái niệm "bầu ơi thương lấy bí cùng" hình như không rõ rệt trong tâm trí chúng tôi vì chúng tôi coi chuyện đó là chuyện tự nhiên, như là chuyện người trong gia đình mình bị hoạn nạn và mình có bổn phận giúp đỡ mà không phải suy nghĩ đắn đo. Suy tôn lãnh tụ là chuyện không xảy ra trong nền giáo dục VNCH. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, khi tôi còn học tiểu học, chương trình phát thanh thường phát thanh bài hát ca ngợi Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng chuyện đó không xảy ra trong học đường. Thời Đệ Nhị Cộng Hòa lại càng không có chuyện suy tôn bất cứ một ai. Một cách kỳ lạ, tuy Hoa Kỳ giúp đỡ miền Nam Việt Nam rất nhiều, chúng tôi không hề có bài học hoặc lời lẽ ca ngợi Hoa Kỳ, hoặc học hỏi về kinh tế tư bản trong học đường, ngoại trừ những sự kiện có thật về sử ký địa lý thế giới. Chúng tôi học về Hoa Kỳ như học về các quốc gia khác trên thế giới. 2. Tinh thần tự do dân chủ thể hiện qua các cuộc bầu cử ban đại diện học sinh và các hoạt động của ban đại diện: Sinh hoạt học sinh khởi sự bằng cuộc bầu cử ban đại diện. Mỗi lớp có trưởng lớp, phó trưởng lớp, và các trưởng ban. Toàn trường có Tổng thư ký, phó tổng thư ký, và các trưởng khối tương ứng với các trưởng ban. Chúng tôi rất khoái bầu cử vì không phải học trong lúc bầu cử và anh em có dịp cãi cọ tranh luận. Thông thường, các ban trong mỗi lớp gồm có: học tập, kỷ luật, xã hội, văn nghệ khánh tiết, và báo chí. Trong lớp tôi, các cuộc bầu cử trong mọi niên khóa xảy ra dựa hoàn toàn trên căn bản dân chủ. Ai cũng có thể ứng cử và ai cũng có thể đề cứ bất cứ người nào. Ai được nhiều phiếu nhất là thắng, bất kể anh ta thuộc thành phần gì. Thực ra, đa số kết quả không ngạc nhiên lắm và những ai đắc cử xứng đáng với chức vụ mình. Năm Đệ Thất, vì mới lạ nên chúng tôi không biết ai vào ai. Có anh chàng bự con nhất ra ứng cử trưởng lớp và được đắc cử. Té ra anh chàng này chẳng làm gì nên chuyện, nên gần cuối năm chúng tôi đòi bầu lại (re-call) và bầu một trưởng lớp khác xứng đáng hơn. Năm Đệ Nhị (lớp 11 bây giờ), có chuyện tức cười là anh chàng phá phách nhất lớp lại được bầu làm trưởng ban kỷ luật. Thầy cô bực lắm, nhưng chẳng biết làm sao, vì đó là ý "dân." Ly kỳ nhất là cuộc bầu cử ban đại diện toàn trường, nhất là cho chức Tổng thư ký và phó Tổng thư ký. Tới ngày bầu cử, các "cử tri" (trưởng lớp và phó trưởng lớp) và các ứng cử viên tụ họp trong một lớp học trống. Thầy cô hướng dẫn thường hiện diện để giám sát cuộc bầu cử. Mỗi liên danh có độ 10-15 phút nói về lý do ứng cử và những hoạt động hoặc chương trình họ muốn thực hiện cho học sinh. Sau đó là cuộc bỏ phiếu kín. Kết quả được công bố ngay sau đó. Hình thức bầu cử này cũng áp dụng cho các trưởng khối. Tôi thấy ai có tài ăn nói và có những kế hoạch hoặc chương trình thực tế là đắc cử. Bạn sẽ thắc mắc có lợi gì làm Tổng thư ký, trưởng khối, trưởng lớp hoặc trưởng ban. Trên thực tế, chẳng có lợi lộc gì cả, nếu không muốn nói là mất thì giờ. Nhưng chúng tôi rất thích những hoạt động đó vì những hoạt động đó giúp chúng tôi đóng góp vào sinh hoạt học đường ngoài việc học hành. Cũng có một chút lợi nhỏ là chúng tôi có dịp tiếp xúc với xã hội bên ngoài như các công tác từ thiện, giao tiếp thư viện nhà sách, nhà in trong việc làm báo. Ngoài ra, các trưởng lớp và trưởng ban thỉnh thoảng được phép ra khỏi lớp để đi họp, và cũng là dịp xả hơi như là một hình thức "cúp cua" hợp pháp. Có lẽ một trong những lợi lộc lớn nhất là các đại diện trường có dịp tiếp xúc với các đại diện trường bạn, nhất là các trường nữ. Một hoạt động rầm rộ trong năm là làm báo Xuân, và mang báo đi bán ở các trường bạn. Mỗi năm, vào dịp Tết, chúng tôi tích cực làm việc cho ra giai phẩm Xuân cho trường. Đây l̀à lúc các trưởng ban báo chí bận rộn nhất. Họ hô hào cổ võ học sinh viết bài, đọc bài, và lựa bài cho đăng vào giai phẩm. Chúng tôi có khá nhiều tự do trong việc làm giai phẩm Xuân. Chúng tôi tự do chọn bài, vẽ minh họa, trang trí tờ bìa. Giáo sư hướng dẫn thường duyệt xét bản thảo cuối cùng, và thường là chấp thuận. Ngoài chuyện mang báo đến các trường bạn, ban đại diện trường còn phải tiếp đón trả lễ khi các đại diện trường bạn đến. Đó là dịp chúng tôi tiếp xúc và làm quen các nữ sinh trường bạn. Các hoạt động học sinh và ban đại diện cho chúng tôi cơ hội hiểu biết và thực hiện thể chế tự do dân chủ. Nền giáo dục VNCH đào tạo những công dân yêu chuộng tự do dân chủ qua những hoạt động học đường và bầu cử ban đại diện học sinh. C. Liên hệ giữa thầy cô và học sinh dựa vào căn bản đạo đức và không hề có những vụ tai tiếng: Trong suốt thời gian sống dưới thời VNCH, tôi không hề nghe hoặc đọc về một vụ tai tiếng nào trong ngành giáo dục, liên hệ đến thầy cô, tiểu học hay trung học. Theo trí nhớ tôi, tôi không hề biết đến tai tiếng tình dục, sách nhiễu hoặc gây khó dễ, đánh nhau, tranh giành, hối lộ, đút lót, gian lận thi cử, yếu kém khả năng, hoặc bất cứ chuyện gì vi phạm đến đạo đức, luân lý, hoặc thuần phong mỹ tục. Vì là trường nam, chuyện sách nhiễu tình dục đương nhiên không xảy ra. Cùng lắm là có vài anh chàng "thầm yêu trộm nhớ" cô giáo trẻ đẹp nào đó. Tôi không rõ các trường nữ thế nào, chắc cũng có những mối tình câm như vậy, nhưng tuyệt nhiên tôi không hề biết hoặc nghe đến một vụ sách nhiễu tình dục nào. Ngay từ tiểu học, chúng tôi đã phải học công dân giáo dục, dạy cách cư xử ăn nói và những giá trị đạo đức. Những bài học thường có những câu chuyện giải thích thêm về ý nghĩa trừu tượng trong bài học. Trên tường có treo bảng "Tiên học lễ, hậu học văn" là lời nhắc nhở chúng tôi hàng ngày, và chúng tôi coi đó là châm ngôn. Trên trung học, lớp công dân giáo dục tiếp tục cho tới hết trung học đệ nhất cấp. Chương trình học bao gồm những đề tài về đạo đức luân lý, và nghĩa vụ người công dân với xã hội, quốc gia, và tổ quốc. Phụ huynh tham dự rất ít trong việc giao du với thầy cô, có lẽ vì tránh né những "áp lực" không thích hợp hoặc vì không cần thiết vì ít khi có những chuyện phải cần đến phụ huynh dính líu. Theo tôi biết, lương lậu thầy cô không cao lắm và chỉ đủ sống. Trong suốt hơn mười năm mài đũng quần ở tiểu học và trung học trong thời VNCH, tôi chưa hề nghe thầy cô nào than vãn về cuộc sống hoặc lương lậu. Nhưng tôi biết đa số thầy cô có cuộc sống đạm bạc qua nhà cửa, quần áo họ mặc và xe cộ họ đi. Đa số thầy cô ăn mặc đơn giản nhưng đứng đắn. Các thầy thường mặc áo sơ mi và quần tây. Có vài người thỉnh thoảng thắt cà vạt hoặc mặc áo vét. Các cô luôn luôn mặc áo dài. Màu sắc áo dài thường một màu. Thỉnh thoảng có cô xinh đẹp mặc áo có chút thêu màu sặc sỡ, nhưng cũng chỉ có một vài lần "chơi nổi" rồi sau đó cũng mặc áo màu sắc nhàm chán. Đa số thầy cô đi xe đạp, xe solex, xe Honda dame, Honda 90. Có vài người đi xe buýt hoặc xích lô. Trong suốt trung học, chỉ có một hai thầy lái xe hơi đi dạy. Có vài thầy cô mở lớp dạy kèm học sinh, nhưng luôn luôn là trong dịp hè, và học phí phải chăng. Các thầy cô đó thường không dạy khóa sau, nên không có chuyện học sinh bị áp lực đi học để được nâng đỡ sau này. Một trong những lý do các thầy cô không mở lớp dạy kèm học sinh trong lớp là có những trường tư dạy hè, hoặc nhiều sinh viên học sinh nhận dạy kèm tư gia. Tôi cũng đã từng dạy kèm tư gia cho các em học sinh để phụ thêm vào chi phí gia đình. Có thầy mở lớp dạy kèm, nhưng nhận đủ mọi học sinh khắp nơi chứ không phải chỉ dành cho học sinh trong lớp hoặc trong trường. Những lớp dạy kèm này thường đông nghẹt học trò, nhất là các lớp Toán Lý Hóa luyện thi Tú Tài I và II. Chuyện biếu xén, quà cáp, phong bì cho thầy cô hoàn toàn không có, cho dù là cuối năm hoặc vào các dịp lễ như Tết Nguyên Đán. Nên nhớ dưới thời VNCH, tệ trạng tham nhũng cũng có nhiều, nhưng phần lớn là trong quân đội. Ngành giáo dục như thể được cô lập tách ra chuyện tham nhũng. Tôi nghĩ chắc cũng có những vụ gửi gấm con em, nhưng thường chỉ giới hạn vào chuyện nhập học hoặc chuyển trường, và số đó rất ít. Theo tôi nghĩ, có hai lý do. Thứ nhất, thầy cô thời VNCH có tinh thần đạo đức cao và có lòng tự trọng. Họ không bao giờ làm những chuyện đi ngược lại đạo đức và phẩm cách nhà giáo. Thứ nhì, chuyện đút lót cũng không cần thiết hoặc vô ích, vì thầy cô cũng chẳng làm được gì cả cho dù có muốn nhận hối lộ. Lý do đơn giản là tinh thần tự do dân chủ tiềm tàng trong xã hội và học đường tự động vô hiệu hóa các vụ đút lót. Không cách chi một học sinh kém cỏi mà được điểm cao, vì có sự ganh đua giữa học sinh và tính chất trong suốt của cơ chế học tập. Ngay cả con cái của hiệu trưởng, giám học, giám thị, giáo sư cũng phải học chết bỏ như mọi học sinh khác, và thầy cô cũng chẳng ai thiên vị con cái những người này. Hầu hết học trò rất kính trọng thầy cô và thầy cô cũng thương yêu và quý mến học trò. Thầy trò thường đối xử với nhau thân mật và xuề xòa. Tuy có vài thầy cô nghiêm khắc, chúng tôi không hề có thái độ hỗn láo hoặc coi thường thầy cô. Thỉnh thoảng có giám thị "hắc ám" thì chúng tôi thường trêu chọc, chứ cũng ít khi gây gỗ. Tình nghĩa thầy trò thường rất thắm thiết và thân mật, nhất là ngoài giờ học. Tôi chỉ còn nhớ vài câu chuyện điển hình. Năm Đệ Lục (lớp 7 bây giờ) có hôm cô giáo dạy Pháp văn bị ốm và có giáo sư dạy thế. Sau giờ học, chúng tôi tự động hùn tiền mua quà và đến nhà thăm cô giáo. Cô đang nằm liệt giường, nhưng cũng ráng ngồi dậy cám ơn chúng tôi, một lũ vây quanh nhà cô. Năm Đệ Tam, thầy dạy Anh văn, sinh ngữ phụ, mới cưới vợ, nên nghỉ vài ngày. Thế là chúng tôi kéo nhau một đám đến nhà thầy sau giờ học tới chúc mừng. Gặp lúc thầy và cô vợ mới cưới đang đi ra ngoài chắc sắp đi chơi đâu. Thấy một đám học trò tới, thầy ngạc nhiên, nhưng cười thích thú và giới thiệu cô vợ mới thiệt đẹp, và mời chúng tôi vào nhà. Chỉ có một trường hợp là năm tôi học Đệ Ngũ (lớp 8 bây giờ), có vị giáo sư dạy Toán rất nghiêm khắc, và hay la mắng học sinh. Tuy nhiên, thầy rất tôn trọng những học sinh giỏi. Thầy dạy rất hay, giảng bài mạch lạc rõ rệt, cho nhiều thí dụ cụ thể. Ông dạy chúng tôi lý luận vững chắc, lúc nào cũng phải viết ra tiền đề, trình bày các bước chứng minh mạch lạc để đưa đến kết luận. Thầy không kiên nhẫn với lối chứng minh không đầu không đuôi. Đứa nào mà nói nhăng nói cuội là bị lườm. Đứa nào mà "dốt hay nói chữ" là bị quạt ngay. Ông la mắng khá nặng nề, nhưng đích đáng. Nói đến cuộc sống học trò mà không nói đến những phá phách, nhất là lũ học trò con trai, là cả một sự thiếu sót trầm trọng. Câu "Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò" được thể hiện liên tục trong suốt hơn mười năm. Tôi không thể kể hết những vụ phá phách nghịch ngợm. Một cách tổng quát, những vụ phá phách thường vô hại, và chỉ phản ảnh bản chất nghịch ngợm của học trò, như là những lúc xả hơi cho bớt căng thẳng. Đa số những vụ phá phách nhắm vào bạn bè, rất ít khi nhắm vào thầy cô. Nếu có thì cũng chỉ là những nghịch ngợm trong giờ học như ca hát nhảm nhí, giấu khăn lau bảng, kê lại bàn ghế, phóng máy bay giấy trong lúc thầy giảng bài, hoặc nói chọc ghẹo các cô giáo trẻ xinh đẹp. Thỉnh thoảng nạn nhân chúng tôi là các giám thị, nhưng thường thì cũng không có gì tai hại lắm, chỉ làm họ bị quê một cục trước mặt học sinh. D. Kết Luận: Tôi sinh trưởng và sống trong thời VNCH trong suốt tuổi niên thiếu cho tới ngày tôi rời Việt Nam năm 1975. Trong khoảng thời gian này, tôi không có ý thức rõ rệt về bản chất nhân bản, khoa học, và dân tộc của nền giáo dục VNCH nhưng tôi biết tôi hấp thụ một nền giáo dục tôn trọng con người, đề cao đạo đức, tinh thần dân tộc và đồng bào, khuyến khích sáng tạo, tự do, và dân chủ. Cho đến giờ, khi nghĩ lại, tôi kinh ngạc về những khía cạnh tốt đẹp ấy của thời VNCH. Với nền giáo dục VNCH đó, quốc gia Việt Nam đã có thể hiện nay trở thành một siêu cường trên thế giới với một xã hội đạo đức, trật tự, và nhân bản. Cao Đắc Tuấn
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 28, 2022 1:31:31 GMT 9
GIÁO DỤC THỜI VNCH – NƠI TẦNG LỚP TRÍ THỨC ĐƯỢC TỰ DO PHÁT TRIỂN Van Lam Thời Việt Nam Cộng Hòa xem trọng quyền тự do giáo dục. Mọi người đề cao triết lý giáo dục “Nhân bản, Dân tộc, Giải phóng”. Đồng thời, họ cho rằng “nền giáo dục đại học được тự trị”, những ai có khả năиg học tập mà không có phương tiện thì sẽ được hỗ trợ. Có thể thấy rằng từ thời Việt Nam Cộng Hòa, nền giáo dục đã được xem trọng và bảo vệ. Hệ thống giáo dục thời đó dường như được giữ cho đến tận bây giờ, được chia thành 3 cấp bậc: Tiểu học, trung học và đại học. Các bậc học đều có мạиɢ lưới các cơ sở giáo dục theo kiểu côɴԍ lập, dân lập và tư thục. Về tổ chức quản trị các cấp bậc và cơ sở giáo dục thì được quản lý chặt chẽ từ trên xuống dưới, cнíɴн xác là từ trung ương cho đến địa phương. Năm 1917, hệ thống giáo dục cho ba miền của Việt Nam là Bắc, Trung, Nam và cả Lào, Campuchia cũng được cнíɴн quyền thuộc địa Pháp thống nhất. Bậc học được quy định gồm ba bậc: Tiểu học, trung học và đại học. Chương trình học chủ yếu là của nước Pháp, chỉ có vài sửa đổi để phù hợp với Việt Nam. Thậm chí vào thời đó, tiếng Việt mình là ngôn ngữ phụ, còn toàn bộ đều sử dụng tiếng Pháp. Mãi sau năm 1945, khi Việt Nam đã được độc lập, chương trình giáo dục bằng chữ Quốc ngữ (còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn – Ban hành thời cнíɴн phủ Trần Trọng Kim) mới được áp dụng ở miền Trung và miền Bắc, còn miền Nam νẫи chưa được áp dụng. Sở dĩ có điều này bởi vì miền Nam νẫи chưa hoàn toàn được thống nhất và νẫи phải chịu đựng trước người Pháp. Vì vậy, chương trình học của người Pháp νẫи được áp dụng tại miền Nam. Mãi cho đến giữa thập niên 1950, nền giáo dục tại miền Nam mới dần được thay đổi vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình giáo dục của Pháp đang dần được thay thế bởi chương trình dạy học của Việt Nam. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo Việt Nam mới dần giữ vững được vai trò của mình. Sau khi nền giáo dục Việt Nam được hình thành trở lại, những vấn đề về giáo dục đang đặt ra và được kể đến là như: Triết lý giáo dục là gì; Mục tiêu giáo dục nên đặt ra như thế nào; Chương trình học, tài liệu giáo khoa, phương tiện học tập; Làm sao để chuẩn bị cơ sở vật chất trang thiết bị thật tốt, vai trò của nhà giáo là gì, đánh giá kết quả học tập ra sao và tổ chức quản trị như thế nào là hiệu quả. Những vấn đề ấy đã được giải quyết bởi những người làm côɴԍ tác giáo dục ở miền Nam, họ xây dựng côɴԍ tác giáo dục một cách tốt nhất. Tất cả đều được hình thành ở nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Với những nỗ lực hết mình của côɴԍ tác xây dựng giáo dục, vào năm 1970, nền giáo dục của miền Nam Việt Nam đang dần được cải thiện và ngày càng tách rời khỏi chương trình giáo dục của Pháp. Chương trình giáo dục của Việt Nam chú trọng vào thực tiễn và cố gắng đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước hơn là chương trình học của Pháp – Đa số chú trọng về lý thuyết và đào tạo ít phần тử ưu tú cho xã hội. Khoảng những năm 1973 – 1974, Việt Nam có khoảng 3.101.560 học sinh đi học bậc tiểu học, 1.091.779 học sinh học trung học và 101.454 sinh viên học đại học. Toàn bộ đều học tại các cơ sở giáo dục. Nạn mù chữ cũng dần được cải thiện khi có đến 70% dân số đã biết đọc chữ. Đến năm 1975, số sinh viên học tại các trường đại học tại miền Nam là được 150.000 người. Đó là chưa kể những sinh viên đi học tại Học viện Hành cнíɴн Quốc gia. Mặc dù ngân sách Quốc gia chủ yếu dành cho việc học Quốc phòng và Nội vụ, con số ước tính cho việc giáo dục chỉ khoảng 7 – 7.5%, còn về Quốc phòng là 40% và Nội vụ là 13% nhưng xét cho cùng thì nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa cũng đã có những bước phát triển vượt bậc. Nền giáo dục đã đào tạo được nhóm người có trình độ chuyên môn để giúp ích cho việc phát triển đất nước. Một số người còn được cử đi học tại các quốc gia phát triển và đã có sự nghiệp vững chắc. Để nền giáo dục Việt Nam có được bước tiến đó, phải kể đến sự nghiêm túc với nghề của các giáo viên. Sự nghiên cứu giáo dục của những người làm côɴԍ tác giáo dục, sự lãnh đạo của cнíɴн phủ và cả những đóng góp của những bậc phụ huynh. ●Triết lý giáo dục Ba triết lý giáo dục: “Nhân bản, Dân tộc, Giải phóng” đã được đưa ra tại Đại hội Giáo Dục Quốc Gia (lần 1) năm 1958. Các phụ huynh, học sinh, nhân sĩ, đại diễn quân đội, đại diện ngành văи hóa,… Tất cả đều có mặt tại Sài Gòn để tham gia hội nghị này. Bạn có thể tìm hiểu những triết lý này trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa năm 1967 và Những nguyên tắc căи bản do Bộ Giáo Dục Quốc gia ấn hành năm 1959. – Triết lý giáo dục thứ nhất: Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản Triết lý nhân bản coi trọng con người, chấp nhận sự khác nhau của mỗi người và tôn trọng chúng, không xem việc khác nhau đó để đánh giá con người. Mỗi con người dù cho giàu nghèo, khác nhau về địa phương hay tôn giáo thì đều được đối xử ngang hàng với nhau. Nói chung, triết lý này lấy người làm gốc, mỗi người đều được đối xử và có cơ hội được học tập như nhau. – Triết lý giáo dục thứ hai: Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc Giáo dục để tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong gia đình, xã hội. Chúng ta cần học tập, giữ gìn và phát huy giá trị dân tộc qua nhiều thế hệ để chúng được tồn tại từ đời này qua đời khác mà không bị tan biến hay hao mòn giá trị. – Triết lý giáo dục thứ ba: Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng Giáo dục không nên chỉ gói gọn trong nước mà cần đem ra toàn thế giới. Chúng ta nên thu nhận kiến thức từ các nước ʟáng giềng, áp dụng những khoa học tiến bộ để phục vụ, hỗ trợ cho nước ta để Việt Nam có thể vươn ra được thế giới. Qua những triết lý giáo dục như ở trên, giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa còn đặt ra mục tiêu để giải quyết cho vấn đề sau khi học xong, những người đã đi học có thể làm được gì cho cá nhân, đất nước, nhân loại? – Mục tiêu thứ nhất: Phát triển toàn diện mỗi cá nhân Trong việc giáo dục, tinh thần đề cao cá nhân và những phát triển bản thân cũng được giáo dục vô cùng xem trọng. Thầy cô giáo sẽ giúp cho mỗi học sinh phát huy được hết năиg lực của mình. Không chấp nhận việc thầy cô giữ lại thông tin hay cung cấp thông tin thiếu trung thực cho học sinh – sinh viên của nước nhà. – Mục tiêu thứ hai: Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh Thầy cô và nhà trường giúp học sinh hiểu rõ về bối cảnh xã hội, môi trường sống của người dân trong đất nước Việt Nam. Điều đó giúp học sinh thêm tin yêu nước nhà, gia đình và quê hương xã hội. Qua đó ca ngợi tinh thần đoàn kết, chống ԍιặc ngoại xâm của dân tộc. Đồng thời, việc học Tiếng Việt cũng được đề cao. Thầy cô có nhiệm vụ giúp cho học sinh nắm và hiểu rõ để sử dụng Tiếng Việt được rõ ràng, cнíɴн xác. – Mục tiêu thứ ba: Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học Để làm được điều này, nhà trường cho học sinh chia nhóm ra học để bản thân các học sinh có thể phát huy được khả năиg lãnh đạo, giải quyết vấn đề và nâng cao ý thức tập thể. Điều này giúp học sinh phát triển được óc phán đoán, tò mò và tinh thần khoa học để phát triển bản thân hơn. ●Giáo dục tiểu học thời Việt Nam Cộng Hòa Bậc tiểu học thời đó có 5 lớp, bao gồm lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4, lớp 5. Đây là bậc giáo dục bắt bước – Theo quy định của hiến pháp. Có một điều kiện vô cùng giúp ích cho người dân có con em đến trường là toàn bộ trường côɴԍ lập thời đó đều miễn học phí và các khoản khác liên quan. Từ đời Đệ Nhất Cộng Hòa đã bắt buộc trẻ em phải học đến lớp 3. Muốn lên lớp thì phải thi, nếu thi rớt thì phải học lại lớp đó, gọi là học đúp. Ca học tiểu học được chia thành hai buổi là sáng và chiều. Và được chia đều cho các lớp học, các lớp chỉ học một buổi sáng hoặc chiều, mỗi tuần học 6 buổi. Khoảng năm 1970, học sinh từ 6 đến 11 tuổi đều đi học, tỉ lệ học sinh được đến trường là khoảng 80%, tương đương với 2.5 triệu số trẻ em trong khoảng từ 6 – 11 tuổi. Trường tiểu học thời đó cũng lên đến con số hơn 5000 trường. Với các trường côɴԍ lập thì được miễn học phí, còn trường tư thục thì có một số trường sẽ thu học phí. Các bậc phụ huynh có thể cho con mình học tại bất kỳ trường nào. Trẻ em được 6 tuổi sẽ phải đi học ở các trường tiểu học. Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) sẽ học 25 giờ/1 tuần. Môn Quốc văи chiếm 9.5 giờ, môn Bổn phận côɴԍ dân và Đức dục (Giống như môn Giáo dục côɴԍ dân ngày nay) sẽ học 2 giờ. Lớp 2 (trước năm 1967 là lớp Tư) sẽ học thêm Địa lý và Sử Ký, môn Quốc văи giảm chỉ còn 8 giờ và môn Địa lý và Sử ký thêm 2 giờ. Lớp 3 trở về sau thì dành 12 – 13 tiếng mỗi tuần cho mỗi môn trong 3 môn: Quốc văи, Sử ký và Địa lý. Học sinh sẽ học 9 tháng và nghỉ 3 tháng cho mỗi năm, trong năm học khi có ngày lễ sẽ được nghỉ lễ. ●Giáo dục trung học thời Việt Nam Cộng Hòa Khoảng đầu năm 1970, số lượng học sinh trung học ở Việt Nam đã đạt được con số 550.000 học sinh, chiếm hơn 20% số thanh niên từ 12 đến 18 tuổi. Số lượng trường trung học (không tính Vĩnh Long và Sa Đéc) là 534 trường. Các trường trung học иổi tiếng được kể đến thời đó là Petrus Ký, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn,… Những trường này tọa lạc tại Sài Gòn. Ở Huế có trường Quốc Học, ở Đà Nẵng có trường Phan Chu Trinh, Mỹ Tho có trường Nguyễn Đình Chiểu,… Tất cả trường côɴԍ lập tại Sài Gòn và các tỉnh cũng áp dụng miễn học phí cho học sinh. – Trung học đệ nhất cấp Bậc học này bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 là đệ thất đến đệ tứ). Để học trung học đệ nhất cấp, học sinh tiểu học sau khi hoàn thành lớp năm (trước năm 1971 gọi là lớp nhất) phải thi đậu mới được vào học tại trường này. Tuy nhiên để học được trường trung học côɴԍ lập thì rất khó, đòi hỏi học sinh phải chịu khó ôn luyện thật kỹ càng. Học trường côɴԍ lập sẽ không bị mất học phí nên tỷ lệ vào trường rất khó. Những ai không đậu sẽ phải học trường dân lập hoặc tư thục, và tất nhiên học trường này sẽ không được miễn học phí. Mỗi năm sẽ có 2 học kỳ (còn gọi là lục cá nguyệt). Kể từ lớp 6, học sinh sẽ được làm quen với môn ngoại ngữ, có thể là tiếng Anh hoặc Pháp. Sau này môn võ Vovinam (Việt võ đạo) cũng được đưa vào một số trường. Học sinh sau khi học xong trung học đệ nhất cấp sẽ phải thi lấy bằng qua hai phần thi là thi viết và thi vấn đáp. Đến năm 1966 – 1967, Bộ Quốc gia Giáo dục bỏ luôn kì thi trung học đệ nhất cấp. – Trung học đệ nhị tam Tương đương với lớp 10, lớp 11 và lớp 12 hiện nay (trước năm 1971 gọi lần lượt là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất). Để vào được cấp bậc này, học sinh phải có bằng trung học đệ nhất cấp, tương đương với Trung học cơ sở hiện nay. Khi đi học, học sinh phải lựa chọn và tập trung học một số môn theo như bốn ban dự bị vào đại học. Bốn ban đó là ban A: Khoa học thực nghiệm, ban B: Ban Toán, ban C: Ban văи chương và ban D: Ban văи chương cổ ngữ (còn gọi là Hán văи). Đến khi học xong lớp 10 lên lớp 11 thì phải thi Tú tài I, lên lớp 12 thi Tú tài II. Đến năm 1972 – 1973 thì học sinh chỉ cần thi Tú tài phổ thông, không cần thi Tú tài I hay II nữa. Đề thi bao gồm những gì đã học, hoàn toàn không có giới hạn. Học sinh sẽ thi tất cả các môn, ngoại trừ môn Thể dục. Từ năm 1974 trở đi, lối thi viết luận cũng được đổi sang thành trắc nghiệm. Nhìn chung thì số lượng học sinh đậu Tú tài ở trường côɴԍ lập cao hơn so với trường Tư thục vì trước khi lên lớp 6, trường đã tổ chức thi sàng lọc học sinh. Vì vậy học sinh đủ điều kiện để học Đại học khá thấp. Đợt thi Tú tài là vào khoảng tháng 6 và tháng 8 hằng năm. ●Trường được phân chia cho nam sinh và nữ sinh Về các trường cho nam sinh và nữ sinh chắc nhiều người cũng biết. Trường cho nam sinh chỉ có học sinh nam tại trường và ngược lại, học trường nữ sẽ không thấy bất kì bóng dáng học sinh nam nào. Những trường dành cho nam sinh được kể đến như: Trường Petrus Ký, trường Chu Văи An, Võ Trường Toản,… tại Sài Gòn; Trường Quốc học tại Huế; Võ Tánh ở Nha Trang,… Trường dành cho nữ sinh tiêu biểu là: Trường Gia Long, Lê Văи Duyệt, Trưng Vương tại Sài Gòn; Trường Nữ Trung Học Lê Ngọc Hân tại Mỹ Tho; Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân tại Đà Lạt,… Đồng phục cũng được quy định chặt chẽ để tạo tính đồng nhất. Đối với nữ là áo dài trắng, quần dài màu trắng hoặc đen tùy chọn. Còn nam là áo sơ mi trắng, quần quy định màu xanh dương. – Trung học tổng hợp Trường Trung học tổng hợp đặt nặng vấn đề thực tiễn. Chương trình giáo dục này dựa trên quan niệm của triết gia John Dewey. Về sau nhà giáo dục người Mỹ James B. Connant tiếp tục kế thừa và hệ thống hóa để dạy cho các trường trung học Hoa Kỳ. Chủ yếu chương trình học hướng dẫn về kinh doanh, côɴԍ nghệ kỹ thuật để học sinh có thể thực hành ngay sau khi ra trường. Từ thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa, các chương trình học tổng hợp, đệ nhất và đệ nhị được gộp lại với nhau. Sau đó chương trình học được áp dụng tại một số trường như trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, trường Nguyễn An Ninh, Sương Nguyệt Ánh và các trường ở các tỉnh thành khác trong nước. – Trung học kỹ thuật Các trường này áp dụng dạy cả kỹ thuật và giáo dục phổ thông cho học sinh. Khi trúng tuyển vào trường này, học sinh sẽ được nhận học bổng, có thể là toàn phần hoặc bán phần. Giờ học của trường được quy định là 42 giờ và học sinh phải học 2 môn ngoại ngữ quy định là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các trường có mặt ở các tỉnh thành trên cả nước. Về trường côɴԍ lập, иổi bật là trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (tiền thân của trường là Trường Cơ khí Á Châu). Nay trường này được đổi tên là Trường Cao đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng; Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường tộ. Về trường Tư thục thì có trường Trung học Kỹ thuật Bosco (nay là trường Đại học Công Nghiệp TP. HCM). Ngoài trường côɴԍ lập và tư thục, dưới thời Việt Nam Cộng hòa còn có trường Quốc gia nghĩa тử. Học sinh chủ yếu của trường là con em của các тử sĩ hoặc phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa. Mặc dù cũng là trường côɴԍ lập nhưng học sinh được học trong trường là những học sinh hoàn cảnh đặc biệt. Trường được hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau này lan rộng ra các tỉnh Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, Biên Hòa. So với các trường côɴԍ lập do Bộ Quốc gia Giáo dục quản lý thì trường Quốc gia nghĩa тử do Bộ Cựu Chiến Binh quản lý. Tuy là trường học của các học sinh là con em của phụ huynh liên quan đến quân đội nhưng trường không dạy về quân sự mà chú trọng giáo dục phổ thông và hướng nghiệp. Tuy nhiên, sau năm 1975, trường Quốc gia nghĩa тử tại Sài Gòn và các tỉnh đã không còn tồn tại. ●Giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng Hòa Để học trong các viện Đại học, trường Đại học và học viện thì học sinh phải thi đậu Tú tài II. Các trường đại học có chuyên ngành đặc biệt như Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh, Sư phạm thì có kì thi chọn lọc gắt gao hơn. Bất kì ai có thành tích học tập tốt đều có thể vào học tại các trường Đại học. Giống như giáo dục tiểu học và trung học, khi học đại học ở các trường côɴԍ lập, sinh viên cũng không phải đóng học phí, chỉ trừ một số trường và phân khoa đại học thì cuối năm mới thu tiền học phí của sinh viên. Ngoài ra, để khích lệ tinh thần học tập, các trường còn có những học bổng cho các bạn sinh viên. Chương trình học cũng được chia thành 3 cấp: Cấp 1 sẽ lấy bằng Cử nhân (học 4 năm) nếu theo các ngành nhân văи, khoa học (bằng cử nhân Triết, Toán,…) ; Sinh viên lấy bằng Tốt nghiệp nếu theo ngành chuyên nghiệp (bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, Học viện Quốc gia hành chánh,…) hoặc bằng Kỹ sư (kỹ sư điện, canh nông,…). Cấp 2 là bằng Cao học (tương đương bằng Thạc sĩ ngày nay), sinh viên muốn lấy bằng Cao học thì học thêm 1- 2 năm, bằng Cao học còn có tên khác là Tiến sĩ đệ tam cấp. Cấp 3 là bằng Tiến sĩ – Đây là học vị cao nhất trong 3 cấp. Để học Tiến sĩ, sinh viên học thêm 2 – 3 và làm luận án. Riêng ngành Y, thời đó và bây giờ đều chú trọng cả lý thuyết và thực hành nên sinh viên học ngành Y phải học 6 năm hoặc hơn thế thì mới học xong và thi lấy bằng. ●Một số viện Đại Học Công Lập, Đại Học Tư Thục, học viện và viện nghiên cứu thời Việt Nam Cộng Hòa – Viện Đại Học Công Lập: + Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương + Viện Đại Học Huế: Thành lập tháng 3 năm 1957 + Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 + Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974 – Viện Đại Học Tư Thục: + Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957 + Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 tại số 222 đường Trương Minh Giảng (Nay là đường Lê Văи Sỹ) tại Sài Gòn + Viện Đại Học Phương Nam: Cấp giấy phép năm 1967 tại 16 đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3/2), quận 10, Sài Gòn + Viện Đại Học An Giang: Thành lập năm 1970 + Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 tại Tây Ninh + Viện Đại Học Minh Đức: Cấp phép năm 1972 tại Sài Gòn – Học viện và viện nghiên cứu + Học Viện Quốc Gia Hành Chánh: Được thành lập từ thời Quốc gia Việt Nam + Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp Ngoài ra còn có các trường chuyên môn như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Khảo Cổ… – Trường Đại Học Cộng đồng + Trường Đại Học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho + Trường Đại Học Cộng đồng Duyên Hải ở Nha Trang + Trường Đại Học Cộng đồng Quảng Đà ở Đà Nẵng Và một số trường Đại Học Cộng đồng khác – Trường Kỹ Thuật và huấn nghệ: + Trường Quốc gia Nông Lâm mục + Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ + Học viện Cảnh ѕáт Quốc gia – Các trường nghệ thuật + Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch Nghệ + Trường Quốc gia Âm nhạc Huế + Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật + Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn Đặc biệt, một số sinh viên học Đại học được cấp giấy phép du học nước ngoài. Sinh viên nước ta chủ yếu du học tại 2 Quốc gia là Pháp và Hoa Kỳ. Ngoài Trường đào tạo học sinh cũng có trường đào tạo giáo chức. Một số trường tiêu biểu được nhắc đến là trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, Trường Đại học Sư phạm Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt. Khoảng năm 1974, những ai đã đậu Trung học Đệ Nhất sẽ được theo học chương trình sư phạm cấp tốc, chuyên đào tạo giáo viên Tiểu học. Để có thể dạy Trung học, sinh viên phải theo học trường Đại học Sư phạm từ 2 đến 4 năm. Nhà trường sẽ tạo điều kiện cấp học bổng cho sinh viên ký hợp đồng sau khi ra trường sẽ làm việc 10 năm cho các trường côɴԍ lập hoặc làm việc cho nhà nước. Các giáo sư giảng dạy tại các trường Đại học đều có xuất thân danh giá từ Viện Đại học Đông Dương tại Hà Nội trước năm 1954 hoặc được đào tạo ở nước ngoài. Nếu xem lại kết quả học tập ngày xưa của học sinh – sinh viên, chúng ta sẽ ngạc nhiên là tại sao điểm lại thấp đến vậy. Điểm nằm ở mức cao cũng chỉ khoảng 7 – 8 điểm. Ngay cả Giáo sư Dương Thiệu Tống của trường Trung học kiểu mẫu Thủ Đức cũng đánh giá điều này có phải vì thời đấy các giáo viên không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có cách cho điểm trung thực hay không? Hay phải chăиg học sinh thời nay giỏi hơn? Hay do giáo viên thời đó quá khắt khe với học sinh? Liệu những điều này có lời giải đáp hay không? Nhờ vào giáo dục, dân ta cũng có thêm nhiều kiến thức của trong và ngoài nước. Họ tiếp thu kiến thức nước ngoài qua những bài dịch thuật từ nguồn đáng tin cậy, có cơ hội đào sâu và học hỏi thêm nhiều điều giúp ích cho đất nước. Tóm lại, dù cho cнιếɴ тʀᴀɴн νẫи chưa thực sự chấm dứt nhưng nền giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa νẫи là một nền giáo dục đúng đắn. Giáo dục đại học là тự trị nên nhà giáo có thể тự do giảng dạy những kiến thức cho học sinh – sinh viên để tầng lớp trí thức ấy có thể đứng lên chống lại những cái xấu, chống lại cнíɴн quyền đang dần sụp đổ. ngayxua.net/giao-duc-thoi-viet-nam-cong-hoa-noi...
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 7, 2024 3:35:39 GMT 9
TỔ CHỨC GIÁO DỤC và THI CỬ dưới THỜI VIỆT NAM CỘNG HOÀ Lê Duy San
Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương và trao trả quyền độc lập cho Việt Nam vào năm 1945, Học Giả Trần Trọng Kim được Hoàng Đế Bảo Đại triệu vào Huế yết kiến và trao trọng trách thành lập chính phủ.. Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Học Giả Trần Trọng Kim đã đệ trình một danh sách cán nhân vật trong nội các của ông trong đó có Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn đảm trách chức vụ Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Nghệ. Mặc dầu thời gian làm Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Nghệ thật ngắn ngủi, từ 17/4/1945 đến 19/8/1945 là ngày Việt Minh cướp chính quyền của chính phủ Trần trong Kim, nhưng ông cũng đã có công soạn thảo và ban hành một chương trình giáo dục từ bậc tiểu học đến trung học hoàn toàn Việt Nam và đã được áp dụng suốt 30 năm, từ 1945-1975 (1). I/ Bậc Tiểu Học và Trung Học. 1/ Bậc Mẫu Giáo và Tiểu Học. a/ Bậc Mẫu Giáo Bậc Mẫu Giáo dành cho trẻ em đến tuổi đi học tức từ 5 tuổi. Chương trình chỉ có 1 năm. Mục đích của bậc mẫu giáo chỉ cốt là để cho các em làm quen với lớp học và biết đọc, biết viết để sửa soạn vào bậc Tiểu Học. b/ Bậc Tiểu Học Bậc Tiểu Học dành cho các trẻ em đã qua bậc Mẫu Giáo và từ 6 tuổi trở lên. Bậc Tiểu học có tất cả 5 lớp: Lớp Năm, Lớp Tư, Lớp Ba, Lớp Nhì và Lớp Nhất, sau này được đổi lại và gọi là Lớp 1, Lớp 2, Lớp 3, Lớp 4 và Lớp 5. Chương trình Tiểu Học gồm có các môm chính như: Đức dục, Tập làm văn, Học thuộc long, Ngữ vựng, Chánh tả, Văn phạm, Toán, Hình học, Khoa Học thường thức, Sử ký, Địa lý, Vẽ, Viết tập, Thủ công, Thể dục, Hạnh kiểm v.v... Sau khi học xong Lớp Nhất phải thi lấy bằng tốt nghiệp, gọi là bằng Tiểu Học Mặc dầu chỉ là bằng Tiểu Học, nhưng thi cũng rất khó và không những thi viết mà còn thi cả vấn đáp. Thi viết gồm một bài Chính Tả, một bài Luận và một bài Toán. Nếu đậu sẽ được vào thi vấn đáp. Thi vấn đáp rất dễ, thường thì chỉ phải đọc thuộc lòng một bài thơ hoặc hát một bài hát. Có bằng Tiểu Học mới được ghi tên dự thi tuyển vào lớp Đệ Thất bậc Trung Học. Bằng Tiểu Học được bãi bỏ vào năm 1955 (?). Người lớn tuổi có bằng Tiểu Học có thể xin làm công chức ngạch Tùy Phái hay Thư Ký đánh máy nếu có thêm bằng đánh máy. 2/ Bậc Trung Học. Bậc Trung Học được chia ra làm 2: Trung Học Phổ Thông và Tú Tài. a/ Trung Học Phổ Thông hay Trung Học Đệ Nhất Cấp. Bậc Trung Học Phổ Thông gồm 4 lớp học trong 4 năm: Từ Đệ Thất đến Đệ Tứ. Ngoại ngữ Anh, Pháp và Hán Văn cũng bắt đầu được dậy ngay từ lớp Đệ Thất bậc Trung Học Phổ Thông. Sau này Hán Văn được bãi bỏ, chỉ còn Anh văn và Pháp văn. Lúc đầu học sinh phải học cả 2 ngoại ngữ Anh văn và Pháp văn, sau chỉ còn học một ngoại ngữ. Chương trình học suốt từ năm Đệ Thất đến năm Đệ Tứ gồm có các môn chính như Quốc văn (Việt Văn), Công Dân Giáo Dục, Sử Điạ, Tóan, Lý Hoá, Vạn Vật, Anh Văn, Pháp Văn, Vẽ, Nhạc, Thể dục và Hạnh Kiểm v.v…. Ở bậc phổ thông chưa có chia Ban A (Vạn Vật), B (Toán) hay C (Sinh Ngữ). Sau khi học xong lớp Đệ Tứ, học sinh sẽ thi tốt nghiệp để lấy bằng Trung Học Phổ Thông còn được gọi là Trung Học Đệ Nhất Cấp. Môn thi gồm có Việt Văn, Toán, Lý Hoá, Pháp Văn, Anh Văn. Thí sinh thi đậu viết còn phải thi vấn đáp đủ các môn. Thí sinh thi trượt vấn đáp kỳ 1 được giữ điểm đậu thi viết để thi lại phần vấn đáp trong kỳ 2. Thí sinh có đậu vấn đáp mới được coi là tốt nghiệp. Sau này thi vấn đáp được bãi bỏ, chỉ còn thi viết. Người có bằng Trung Học Phổ Thông có thể xin làm công chức hạng C, ngạch Thư Ký Hành Chánh hoặc thi vào Quốc Gia Sư Phạm, Quốc Gia Thương Mại hoặc ghi tên học các trường Cán Sự như Cán Sự Kiến Trúc, Cán Sự Y Tế, Cán Sự Công Chánh, Điạ Chánh v.v…. hoặc muốn theo đời binh nghiệp thì vào trường Bộ Binh Thủ Đức. b/ Bậc Tú Tài hay Trung Học Đệ Nhị Cấp. Bậc Tú Tài phải học 3 lớp trong 3 năm: Đệ Tam, Đệ Nhị và Đệ Nhất và được chia Ban A, B hay C ngay từ Đệ Tam và học cả 2 ngoại ngữ Anh và Pháp. Các môn học cũng giống như ở cấp Phổ Thông gồm có Toán, Lý Hoá, Anh Pháp Văn, Công Dân, Sử Điạ, Vạn Vật, Thể dục và Hạnh kiểm. Việt Văn chỉ dậy ở 2 lớp Đệ Tam, Đệ Nhị, Lên Đệ Nhất bỏ môn Thể dục và môn Việt văn được thay thế bằng môn Triết học. Muốn được nhận vào lớp Đệ Tam học sinh phải đủ điểm trung bình qua hai kỳ thi đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt ở lớp Đệ Tứ để lên lớp Đệ Tam, nếu là học sinh trường công. Nếu là học sinh trường tư, phải đậu Trung Học Phổ Thông và phải qua một kỳ thi tuyển vì số chỗ có hạn. Muốn được vào học lớp Đệ Nhất, học sinh lớp Đệ Nhị phải đậu bằng Tú Tài I. Sau này, bằng Tú Tài I được bãi bỏ thì phải đủ điểm lên lớp qua 2 kỳ thi đệ I và đệ II lục cá nguyệt. Sau khi học xong lớp Đệ Nhất, học sinh phải trải qua một kỳ thi tốt nghiệp để lấy bằng Tú Tài 2 còn gọi là Tú Tài Toàn Phần. Tùy theo Ban mình lưạ chọn khi ghi danh thi bằng tốt nghiệp sẽ được gọi là ban Khoa Học Thực Nghiêm (ban A), ban Khoa Học Toán (ban 😎 hay ban Văn Chương (ban C). Thể lệ thi cũng giống như kỳ thi lấy bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp. Riêng sinh ngữ thì phải làm một bài nghị luận luân lý (discertation morale) cho môn sinh ngữ chính thay vì bài dịch như ở kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Ở cấp Tú Tài I, thí sinh nếu có thêm bằng Thể Thao khi thi bằng Tú Tài I sẽ được thêm 1 điểm trong kỳ thi Viết. Kỳ thi Tú Tài I rất khó, nhiều thí sinh thiếu nửa điểm cũng trượt. Nên nếu có Bằng Thể dục để được thêm 1 điểm rất là qúy. Có bằng Tú Tài Tòan Phần có thể ghi danh các trường Đại Học như Khoa Học, Luật Khoa hay Văn Khoa hoặc các trường Đại Học Y, Nha, Dược, trước năm 1963 (?) hoặc thi vào các trường chuyên nghiệp như Cao Đẳng Sư Phạm, sau này là Đại Học Sư Phạm, Cao Đẳng Công Chánh tức kỹ sư Công Chánh, Cao Đẳng Điện Học tức kỹ sư Điện, Cao Đẳng Hoá Học tức kỹ sư Hoá Học, Cao Đẳng Nông Lâm Súc, Quốc Gia Hành Chánh hoặc xin làm công chức hạng B, ngạch Tham sự. Hoặc nếu muốn theo đường binh nghiệp thì có thể thi vào các trường Võ Bị Đà Lạt, Haỉ Quân, Không Quân. Chương trình giáo dục Trung và Tiểu Học Việt Nam do Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn soạn thảo dựa theo trương trình giáo dục của Pháp, tuy nặng về từ chương, thiếu tính cách thực dụng, nhưng có trình độ khá cao. Bất cứ một học sinh nào, sau khi qua được bậc Tú Tài (Trung Học Đệ Nhị Cấp) đều có đủ trình độ và khả năng để theo bậc đại học không những ở trong nước mà cả ở các nước tiền tiến như Anh, Pháp hoặc Hoa Kỳ, Gia Nã Đại v.v… II/ Bậc Đại Học Nếu chương trình Tiểu Học và Trung Học Việt Nam còn gọi là Chương Trình Hoàng Xuân Hãn được áp dụng ngay từ năm 1945 thì mãi tới năm 1955, năm Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được dân miền Nam bầu làm Tổng Thống và nền Đệ Nhất Cộng Hoà được ra đời thì chương trình Đại Học Việt Nam mới bắt đầu được dần dần thay đổi. Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cử Giáo Sư Nguyễn Quang Trình, Tiến Sĩ Hóa Học tại Paris, thay thế ông De Lassus làm Viện Trưởng đầu tiên của Viện Đại Học Saigon dưới quyền quản trị của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Ngoài Viện Đại Học Saigon, sau còn có Viện Đại Học Huế, Viên Đại Học Đà Lạt và Viện Đại Học Cần Thơ v.v… A/ Tiền thân của Viện Đại Học Saigon. Tiền thân của Viện Đại Học Saigon là Viện Đại Học Đông Dương (Université Indochinoise) do chính quyền thuộc địa Pháp thành lập vào năm 1906 (?) và trụ sở đặt tại Hà Nội. Sau đệ nhị thế chiến, Viện Đại Học Đông Dương được đổi thành Viện Đại Học Hà Nôi .. Sau Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước, Viện Đại Học Hà Nội di chuyển vào Nam và trở thành Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam. Vào năm 1957, Viện Đại Học Huế được thành lập, Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam trở thành Viện Đại Học Saigon, trụ sở đặt tại số 3 Công Trường Chiến Sĩ. Viện Đại Học Saigon có 2 ký túc xá: một là Đại Học Xá Minh Mạng ở Ngã Sáu Chợ Lớn dành chon am sinh viên và một Đaị Học Xá Trần Qúy Cáp ở đường Trần Qúy Cáp, thuộc quận Nhất, dành cho nữ sinh viên. B/ Các phân khoa thuộc Viện Đại Học Saigon. Các phân khoa thuộc Viện Đại Học Saigon gồm có: 1/ Đại Học Văn Khoa, trụ sở lúc đầu ỏ đường Nguyễn Trung Trực, quận Nhất, sau di chuyển về đương Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận Nhất. 2/ Đại Học Luật Khoa, trụ sở ở đương Duy Tân, quận Nhất. 3/ Đại Học Khoa Học, trụ sở ở đường Cộng Hoà, quận Năm. 4/ Đại Học Sư Phạm, trụ sở đăt tại đường Cộng Hoà, quận Năm. 5/ Đại Học Kiến Trúc, trụ sở tại đường Pasteur, quân Ba. 6/ Đại Học Y Khoa, trụ sở lúc đầu ở đương Trần Qúy Cáp, quân Ba, sau di chuyển về Đại Lộ Hồng Bàng, quân Năm. 7/ Đại Học Dược Khoa, trụ sở lúc đầu ở đường Trần Qúy Cáp , quân Ba, sau di chuyển về đường Công Lý (góc Hiền Vương), quận Ba. 8/ Đại Học Nha Khoa, trụ sở ở đường Nguyễn Trãi, quận Năm. Lúc đầu trường Đại Học cũng còn tiếp tục giảng dạy bằng tiếng Pháp vì chưa đủ giáo sư người Việt. Cho đến khi số Giáo sư người Việt đầy đủ, tất cả các Giáo sư người Pháp rút lui vào khoảng năm 1964 và cũng kể từ năm này, toàn thể các Giáo sư người Việt lãnh trách nhiệm giảng dạy cho toàn thể các trường Đại Học ở miền Nam Việt Nam. Ngoài Viện Đại Học Saigon , sau này còn có Viện Đại Học Huế, Viện Đại Học Đà Lạt, Viện Đại Học Cần Thơ v.v… chương trình giảng dậy cũng tương tự, nhưng không đầy đủ các phân khoa như Viện Đại Học Saigon và thành phần giáo sư cũng không được chọn lọc kỹ như Viện Đại Học Saigon. Viện Đại Học Saigon tuy là là Viện Đại Học của miền Nam Việt Nam, nhưng phải nói là một Viện Đại Học uy tín nhất Việt Nam gồm toàn các giáo sư Thạc Sĩ, Tiến Sĩ phần lớn đều tốt nghiệp ở các trường Đại Học danh tiếng ở ngoại quốc về nước giảng dậy và cũng là nơi đào tạo ra không biết bao nhân tài cho đất nước. 1/ Trường Đại Học Luật Khoa. Trường Đại Học Luật Khoa được chính quyền bảo hộ Pháp thành lập vào đầu thập niên 1920. Lúc đầu có tên là Trường Cao Đẳng Pháp Chánh Đông Dương (École Supérieure d’ Administration Indochinoise), trụ sở đặt tại Hà Nội. Năm 1933 trường được đổi thành trường Cao Đẳng Luật Học (École Supérieure de Droit). Tới năm 1938, trường được nâng lên hàng phân khoa (Faculté) (2)và được gọi là Luật Khoa Đại Học Đường (Faculté de Droit) (3) Từ năm 1955 trở đi, trường Đại Học Luật Khoa bắt đầu giảng dạy bằng tiếng Việt vì trong giai đoạn này, trường Luật Khoa có rất nhiều Giáo sư Việt Nam với đầy đủ các cấp bằng Thạc Sĩ, Tiến Sĩ tốt nghiệp tại Pháp như: Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Giáo sư Vũ Quốc Thúc, Giáo sư Vũ Quốc Thông, Giáo sư Nguyễn Cao Hách v.v … Ngoài trường Đại Học Luật Khoa Saigon, sau này chính quyền Việt Nam Cộng Hoà còn cho mở thêm trường Đại Học Luật Khoa Huế vào năm 1957 và trường Đại Học Luật Khoa Cần Thơ vào năm 1966. a/ Cấp Cử Nhân. Trường Đại Học Luật Khoa lúc đầu chỉ có 3 năm giống như chương trình Cử Nhân Luật của Pháp. Vì nước nhà đã độc lập nên chương trình học loại bỏ môn Dân Luật của Pháp và được thay bằng Dân Luật Việt Nam. Thời gian học vẫn là 3 năm. Mỗi năm đều có thi tốt nghiệp và có cấp phát bằng tốt nghiệp gọi là Bằng Cử Nhân I, II hoặc III và văn bằng này được thay thế cho Văn Bằng Cử Nhân Luật Khoa thực sự trong khi chờ đợi Văn Vằng Cử Nhân Luật Khoa thực sự được cấp phát. Việc ghi danh cũng như theo học trường Luật tương đối dễ hơn những trường khác, sinh viên có thể chỉ cần mua sách hoặc những bài in Ronéo của Giáo sư đem về nhà học, nên số sinh viên ghi danh rất đông. Tuy nhiên tỉ số đậu lại rất thấp. Nếu tính tỷ lệ theo số sinh viên ghi danh năm thứ nhất với số sinh viên tốt nghiệp năm cuối cùng thì chỉ khoảng 5%. Tới đến năm 1963 trường Luật theo học trình của trường Đại Học Khoa Học và Văn Khoa, đổi thời gian học lên đến 4 năm thay vì 3 năm. Sinh viên học năm nào phải thi tốt nghiệp năm ấy. Mỗi năm có 2 kỳ thi vào tháng 6 và tháng 9. Sinh viên năm thứ nhất cuối năm có đậu mới được lên năm thứ hai. Chương trình thi bao gồm hai phần: thi Viết và thi Vấn đáp. Trước ngày thi, giáo sư bốc thăm 2 môn trong số 7 môn đã học . Hai môn này sẽ được chọn làm đề thi Viết với thời gian 2 giờ. Năm môn còn lại, dành cho thi Vấn đáp. Muốn vào thi Vấn đáp, thí sinh phải đậu phần thi Viết. Nếu rớt Vấn đáp, thí sinh sẽ đuợc giữ điểm thi Viết cho kỳ 2 cùng năm và chỉ thi lại Vấn đáp mà thôi. Lên năm thứ ba, sinh viên sẽ chọn ngành: Tư Pháp (tốt nghiệp làm Thanh Tra hoặc Luật sư Tập sự), Công Pháp (tốt nghiệp thường làm ở Quốc Hội), Kinh Tế (tốt nghiệp làm ở Ngân Hàng)…và thi tốt nghiệp Cử Nhân Luật của ngành đã chọn vào cuối năm thứ tư. Chương trình học gồm có hai phần: Phần kiến thức tổng quát và phần chuyên môn. Phần kiến thức tổng quát gồm có các môn: Kinh tế, Bang Giao quốc tế, Các Tổ Chức Quốc Tế, Các Học Thuyết Chính Trị, Tài Chánh, Pháp Chế Sử, Luật Báo Chí, Phạm Tội Học, Luật Đối Chiếu v.v… Phần chuyên môn gồm có các môn luật thuần túy như Luật Dân Sự, Dân Sự Tố Tụng, luật Tài Sản, Luật Hình Sự, Hình Sự Tố Tụng, Luật Hiến Pháp, Luật Thương Mại, Luật Hành Chánh, Tố Tụng Hành Chánh, Luật Bảo Hiểm, Luật Lao Động, Luật Ngân Hàng, Luật Hàng Hải, Quốc Tế Công Pháp, Quốc Tế Tư Pháp v.v… Người có bằng Cử Nhân có thể xin vào làm công chức hạng A tại các bộ hoặc thi vào các ngạch chuyên môn như gạch Thẩm Phán, ngạch Tham Vụ Ngoại Giao, ngạch Thanh Tra Lao Đông, Thanh Tra Ngân Hàng, Thanh Tra Quan Thuế v.v…hoặc xin vào Luật Sư Đoàn tập sự để hành nghề Luật Sư. b/ Cấp Tiến Sĩ. Sau khi tốt nghiệp Cử Nhân, nếu muốn tiếp tục học để lấy bằng Tiến Sĩ Luật, sinh viên phải học thêm 2 năm nữa để lấy thêm hai bằng Cao Học của ngành mình lựa chọn hoặc Công Pháp hoặc Tư Pháp. Chương trình ban Cao Học được chia làm 2 cấp: Cấp I và cấp II. Sau khi đậu cấp I gọi là Cao Học I, sinh viên mới được ghi danh học cấp II. Chương trình mỗi cấp gồm có 2 phần: Phần tổng quát ôn lại và phần thâm cứu những môn chính đã học ở cấp Cử Nhân. Sau khi có được 2 bằng cao học, sinh viên phải tìm một ông thày đỡ đầu để làm luận án Tiến Sĩ. Thời gian có thể là 1 năm hay nhiều năm, tùy theo ông thày đỡ đầu xét xem luận án có đạt được đầy đủ những tiêu chuẩn mà ông ta mong muốn hay chưa. Vì thế nhiều sinh viên mặc dầu đã có 2 bằng cao học, nhiều khi cả năm bẩy năm sau vẫn chưa được trình luận án để lấy bằng Tiến Sĩ. 2/ Trường Đại Học Văn Khoa. Tiền thân của Trường Đại học Văn khoa Saigon là Trường Đại học Văn khoa Hà Nội do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát cho thành lập vào năm 1949 thời Quốc gia Việt Nam. Hoạt động của Trường trong những năm kế tiếp bị gián đoạn vì tình hình chính trị. Mãi đến năm 1955, thời Đệ nhất Cộng hòa, Trường Đại học Văn khoa Saigon mới được ưu tiên phát triển. Lúc đầu Trường Đại học Văn khoa cấp bằng cử nhân văn chương Pháp và Anh nhưng và phải đến năm học 1957-1958 thì chương trình cử nhân giáo khoa văn chương Việt Nam mới được hoàn thiện. Cũng năm đó chương trình cử nhân giáo khoa triết học cũng được xây dựng hoàn tất. Tương tự như trước năm 1954, cách tổ chức và chương trình của trường không có gì thay đổi. Giáo sư phụ trách giảng dạy của trường gồm các giáo sư sau: Giáo sư Nghiêm Toản dạy môn Văn Chương Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Kỹ sư Hóa Học tại Pháp, chuyên về Triết Học Đông Phương, Giáo sư Bùi Xuân Bào, Tiến Sĩ Văn Chương Pháp, dạy Pháp Văn, Giáo sư Lê Trung Nhiên, Tiến Sĩ Văn Chương Pháp tại Đại Học Sorbonne, dạy môn Pháp Văn, Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Tiến Sĩ Văn Chương Pháp tại Đại Học Sorbonne, giảng dạy môn Pháp Văn và môn Văn Minh Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Đình Hòa, Ph D, dạy môn Anh Văn… Các Giáo sư phụ trách môn Việt Hán thường là các thầy dạy Việt Văn từ Trung học hoặc là một vài Giáo sư dạy chữ Hán có bằng Cử Nhân hoặc Tiến Sĩ Hán Học. Các vị Giáo sư Việt Văn và Triết Học, Sử Địa thường không có bằng Tiến Sĩ cho nên họ chỉ là Giảng Sư của trường nhưng sau năm 1972 vì công lao to lớn của các vị này đào tạo nhiều Giáo sư Trung Học dạy các môn Việt Văn, Sử Địa v..v…cho nên chính phủ đặc cách một số vị không có bằng Tiến Sĩ, làm Giáo Sư Đại Học. Ta cũng nên kể một vài vị có bằng Tiến Sĩ từ Pháp hay Mỹ giảng dạy nhưng không quá 5 vị trong số này. Trường Văn Khoa cấp phát được một số bằng Cao Học môn Địa Lý và Sử Học, Anh và Pháp nhưng chưa cấp phát được một bằng Tiến Sĩ nào cả. Ngoại trừ các môn Hán Văn, Anh Văn và Pháp Văn, các môn khác như Việt Văn, Ngôn Ngữ và Văn Chương, Văn Phạm Việt Nam, Sử Ký, Địa Lý Việt Nam và Quốc Tế đều dậy bằng Việt Ngữ. Cũng như các đại học khác, muốn theo học Đại Học Văn Khoa, sinh viên phải có bằng Tú Tài Toàn Phần. Trường Đại Học Văn Khoa học theo Chứng Chỉ. Năm đầu, sinh viên chỉ dược học 1 chứng chỉ duy nhất đo là chứng chỉ Dự Bị Văn Khoa. Chứng chỉ này có nhiều loại khác nhau, tùy sinh viên lựa chọn cho hợp với văn bằng Cử Nhân mà mình lưạ chọn. Sau khi đậu được chứng chỉ Dự Bị Văn Khoa, mỗi năm sinh viên có thể ghi học 2 chứng chỉ. Nhưng thực tế rất ít sinh viên đậu được 2 chứng chỉ trong một năm. Ngoài Chứng Chỉ Dự Bị, Sinh viên nào có thêm được 4 chứng chỉ đòi hỏi cho văn bằng Cử Nhân của mình thì được cấp văn bằng Cử Nhân Giáo Khoa. Còn nếu một trong 4 chứng chỉ đó không đúng thì bằng Cử Nhân đó không được gọi là bằng Cử Nhân Giáo Khoa mà gọi là Cử Nhân Văn Khoa thường thôi. Thí dụ: - Cử Nhân Giáo Khoa Việt Hán, ngoài chứng chỉ Dự Bị còn phài có 4 chứng chỉ sau: Văn Chương Việt Nam, Ngôn Ngữ và Văn Minh Việt Nam, Hán văn và Chứng chỉ Sử Việt Nam hoặc Địa Lý Điạ Phương. - Cử Nhân Sử Địa, ngoài chứng chỉ Dự Bị còn phải có 4 chứng chỉ Sử Việt Nam, Sử Thế Giới, Địa lý Điạ Phương và Chứng chỉ Địa Chất Học (Geology). - Cử Nhân Anh Văn ngoài chứng chỉ Dự Bị (Anh Văn) còn phải có 4 chứng chỉ sau: Văn Chương Việt Nam, Văn Chương Anh, Ngôn Ngữ và Văn Minh Anh và một chứng chỉ nhiệm ý như Pháp văn hoặc, Chứng chỉ Sử (hoặc Địa). - Cử Nhân Pháp Văn, ngoài chứng chỉ Dự Bị (Pháp Văn) còn phải có 4 chứng chỉ sau: Văn Chương Pháp, Ngôn Ngữ và Văn Minh Pháp, Việt Văn và Chứng Chỉ Anh Văn hoặc, Chứng chỉ Sử (hoặc Địa). - Cử Nhân Triết Học có 2 loại: Cử Nhân Triết Học Tây Phương và Cử Nhân Triết Học Đông Phương. Muốn lấy Cử Nhân Triết Học Tây Phương, ngoài chứng chỉ Dự Bị, sinh viên phải có chứng chỉ Tâm Lý, Đạo Đức, Xã Hội, Chứng Chỉ Luận Lý, Chứng Chỉ Siêu Hình và Chứng Chỉ Lịch Sử Triết Tây. Muốn lấy Cử Nhân Triết Học Đông Phương ngoài chứng chỉ Dự Bị, sinh viên còn phải có chứng chỉ Triết Học Trung Hoa, chứng chỉ Triết Học Á Đông, chứng chỉ Đạo Đức Đông Phương, chứng chỉ Lịch Sử Triết Đông Phương. Người có bằng Cử Nhân có thể xin tuyển làm giáo sư dậy trung học hoặc thi vào ngạch Tham Vụ Ngoại Giao. 3/ Trường Đại Học Khoa Học. Tiền thân của trường Đại Học Khoa Học Saigon là trường Đại Học Hà Nội. Năm 1954, Hiệp Định Genève ký kết chia đôi Việt Nam thành hai miền Nam Bắc, trường Đại Học Khoa Học Hà Nội được di chuyển vào Nam và đổi tên là trường Đại Học Khoa Học Saigon. Lúc đầu chương trình được giảng dậy hoàn toàn bằng tiếng Pháp và có rất nhiều giáo sư người Pháp giảng dậy. Chương trình được Việt hoá dần dần. Tới năm 1970 thì chương trình được giảng dậy hoàn toàn bằng tiếng Việt. Cho tới năm 1975, trường Đại Học Khoa Học Saigon cũng chỉ mới có cấp Cử Nhân, chưa có cấp Tiến Sĩ. Những sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân, muốn học thêm để lấy bằng Tiến Sĩ phải xin đi du học ở ngoại quốc. Chương trình học Cử Nhân là 4 năm. Một sinh viên xuất sắc có thể hoàn tất Cử Nhân trong 3 năm. Nhưng nhiều sinh viên phải học tới 5, 6 năm mới hoàn tất. Năm đầu, sinh viên chỉ có thể học một trong ba chứng chỉ sau: MG (Mathematics Générale), MPC (Mathematics. Physics, Chemistry). SPCN (Science, Physics, Chemistry, Natural). Sang năm thứ hai, sinh viên có thể học 2 chứng chỉ. Nhưng thường rất ít sinh viên có thể đậu được 2 chứng chỉ trong một năm. a/ Cử Nhân Khoa Học Toán. Ngoài chứng chỉ Dự Bị MG, sinh viên còn phải có 3 chứng chỉ sau: -Calculus Diffirenciale. -Mechanics Rationale. -Physic Generale. b/ Cử Nhân Khoa Học Vật Lý. Ngoài chứng chỉ Dự Bị MPC, sinh viên còn phải có 3 chứng chỉ sau: -Physic Generale. -Chemistry General. -Mechanics Rationale. c/ Cử Nhân Khoa Học Tự Nhiên. Ngoài chứng chỉ Dự Bị SPCN, sinh viên còn phải có 3 chứng chỉ sau: -Biology Animale. -Physiology Vegetable -Geophysics. Những sinh viên mặc dù đã có đũ 4 chứng chỉ, nhưng không đúng theo theo luật đòi hỏi thì không được gọi là Cử Nhân Giáo Khoa Khoa Học mà chỉ được gọi là Cử Nhân Khoa Học thôi. Vì các chứng chỉ trên rất khó, nên số sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân hàng năm rất hiếm, không đử để cung cấp cho nhu cầu nên sau này, nhiều chứng chỉ đã được chia ra làm hai hoặc ba chứng chỉ để sinh viên theo học cho dễ dàng. Thí dụ chứng chỉ Vật Lý Đại Cương (Physic Generale) được chia làm 2 chứng chỉ Quang Học , Điện Học và Nhiệt Học. Vì thế các sinh viên sau này thường phải có tới tám, chín cái chứng chỉ mới hoàn tất xong bằng Cử Nhân Khoa Học. 4/ Đại Học Sư Phạm. Trường Đại học Sư Phạm Saigon là hậu thân của trường Cao Đẳng Sư Phạm Saigon. Niên khoá 1958-1959 trường Cao Đẳng Sư Phạm Saigon được đổi thành trường Đại Học Sư Phạm Saigon. Thời gian học vẫn giữ nguyên là 3 năm, sau thời gian tăng lên 4 năm và trong thời gian học có học bổng $1500 / một tháng, sau tăng lên $2000 / một tháng. Trường có 2 chương trình. Chương trình 2 năm để đào tạo giáo sư trung học Đệ Nhất Cấp và chương trình 4 năm để đào tạo giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp. Muốn được nhận vào học, sinh viên phải có bằng Tú Tài Toàn Phần và phải qua một kỳ thi tuyển. Những sinh viên có chứng chỉ Dự Bị Văn Khoa được miễn thi và vào học ngay năm thứ 2, nếu muôn học các ban Việt Hán, Sử Địa, Pháp Văn hay Anh Văn. Những sinh viên có chứng chỉ Dự Bị Khoa Học như MG, MPC hay SPCN đựơc miễn thi và vào học ngay năm thứ 2 nếu muốn học các ban Toán, Lý Hoà và Vạn Vật. Chương trình gồm có hai phần: Phần tổng quát chung cho các Ban và phần chuyên môn riêng cho từng Ban. Phần chuyên môn của các Ban Việt Hán, Sử Địa, Anh Văn và Pháp Văn gần giống như chương trinh Cử Nhân Việt Hán, Cử Nhân Sử Địa, Cử nhân Anh Văn và Cử Nhân Pháp Văn của trường Đại Học Văn Khoa Saigon và phần chuyên môn của các Ban Toán, Lý Hoá, Vạn Vật gần giống như chương trình Cử Nhân Toán, Cử Nhân Lý Hoá và Cử Nhân Vạn Vật của trường Đại Học Khoa Học. Vì thế những sinh viên xuất sắc, sau khi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm cũng tốt nghiệp luôn Cử Nhân Văn Khoa hoặc Cử Nhân Khoa Học. Suốt 17 năm, từ 1958 đến 1975, trường Đại học Sư Phạm Saigon đã đào tạo hàng ngàn giáo sư trung học đệ nhất và đệ nhị cấp về kiến thức chuyên môn cũng như về tư cách, đạo đức và luân lý chức nghiệp. Năm 1975 miền Nam Việt nam sụp đổ, với thể chế mới, hầu như mọi thứ đều bị thay đổi từ tên gọi cho đến các cơ cấu tổ chức cũng như chương trình giảng dậy. 5/ Đại Học Kiến Trúc. Kể từ năm 1954, trưởng Cao Đẳng Kiến Trúc Saigon thuộc Viện Đại Học Saigon được đổi tên thành trường Đại Học Kiến Trúc Saigon. Trường có 2 chương trình: Chương trình 2 năm cho Ban Cán Sự Kiến Trúc và chương trình 6 năm cho ban Kiến Trức Sư.. Tuy nhiên muốn được ra trường, sinh viên phải có một luận án thi tốt nghiệp và luận án này phải được Hội Đồng Thi chấm đậu. Sinh viên muốn vào học Ban Cán Sự phải có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp và muốn vào học bán Kiến Trúc Sư phải có bằng Trung Học Đệ Nhị Cấp tức bằng Tú Tài Toàn Phần. a/ Ban giảng huấn. Ban giảng huấn của trường phần lớn là các Kiến Trúc Sư tốt nghiệp Pháp như Trần Văn Tải, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Bùi Quang Hanh, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Phạm Văn Thắng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Louis Pineau, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Văn bằng Thiết kế Đô thị, Nguyễn Quang Nhạc, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Huỳnh Kim Mãng, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Tô Công Văn, Kiến trúc sư Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris, Võ Doãn Giáp, Họa sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Nguyễn Bá Lãng,Kiến trúc sư DPLG, Paris, Ngô Khắc Trâm, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Nguyễn Hữu Thiện, Kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Một số các Kỹ Sư tốt nghiệp tại Pháp hay ngoại quốc cũng được mời làm giảng viên như Trần Văn Bạch, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris, Phan Đính Tăng, Kỹ sư Dân sự Kiều lộ Trường Quốc gia Kiều lộ Paris, Lê Kim Đính, Cử nhân Toán, Chứng chỉ Cao học Thiên văn Thẩm cứu (Certificat d'étude supérieures d'Astronomie approfondie), Nguyễn Đình Hải, Tốt nghiệp Viện Anh ngữ của Đại học Michigan, Hoa Kỳ (English Language Institute, University of Michigan), Lê Văn Hợi, Kỹ sư trường Cao đẳng Công chánh Eyrolles Paris, Nguyện Văn Kiết, Cử nhân Văn khoa và Văn chương Cao học, Trịnh Hữu Định, Trang trí gia tốt nghiệp Truờng Quốc gia Cao đẳng Trang trí Paris, V õ Đức Diễn, Kỹ sư Trường Bách khoa Montréal, Phạm Minh Cảnh, Kỹ sư tốt nghiệp Viện Kỹ thuật Normandie, Mai Hiệp Thành, Kỹ sư Công chánh. b/ Chương trình ban Kiến Trúc Sư: Năm thứ 1. Kiến trúc nhập môn, Kiến trúc sáng tạo học, Cổ điển họa và nặn hình. Toán học, Hình học họa hình. Lịch sử tổng quát kiến trúc; Phép Thiết thể và Vật liệu Kiến tạo. Pháp văn, Anh văn. Năm thứ 2 Kiến trúc sáng tạo học, Cổ điển họa và nặn hình. Toán học đại cương, Hình học họa hình. Lý thuyết Kiến trúc. Phép Thiết thể và Vật liệu Kiến tạo. Năm thứ 3 Kiến trúc sáng tạo học, Cổ điển họa và nặn hình. Kiến tạo đại cương: Lý thuyết. Vật lý, Địa chất học áp dụng vào khoa Kiến trúc. Phép phối cảnh, Lý thuyết Kiến trúc. Sức chịu đựng của vật liệu. Năm thứ 4 Kiến trúc sáng tạo học, Kiến tạo đại cương: Lý thuyết và đồ án Bê tông cốt sắt. Ước lượng vật liệu và kiểm điểm. Lịch sử tổng quát Kiến trúc, Lý thuyết Kiến trúc. Luật nhà phố. Năm thứ 5. Kiến trúc sáng tạo học, Kiến tạo áp dụng Luật nhà phố. Tổ chức nghề nghiệp, Lý thuyết Kiến trúc. Địa thể học áp dụng kiến trúc; Kiến tạo đại cương: Đồ án và kỹ thuật. Năm thứ 6 Kiến trúc sáng tạo học. Bê tông cốt sắt thực hành. Đồ án trang trí nhà cửa. Luận án thi tốt nghiệp (3 tháng cuối niên học), thường là một dự án vẽ kiểu nhà hoặc cao ốc (Building) rồi phải trình Hội Đồng Giáo Sư để được tốt nghiệp. Khi tốt nghiệp được cấp bằng Kiến Trúc Sư. 6/ Trường Đại Học Y Khoa: Trường Đại Học Y Khoa Saigon là hậu then của trường Y Dược Khoa Đông Dương thuộc Viện Đại Học Đông Dương (Université de l’Indochine) trụ sở đặt tại Hà Nội. Năm 1954, Hiệp định Genève ký kết chia đôi Việt Nam, trường di chuyển vào Nam, trụ sở nằm trên đường Testard sau đổi là đường Trần Qúy Cáp và có tên mới là Đaị Học Y Khoa và Dược Khoa Saigon. Cách tổ chức của trường Y Khoa vẫn tương tự trước năm 1954. Tới năm 1961, trường tách đôi ra thành 2 trường riêng biệt là Đại Học Y Khoa và Đại Học Dược Khoa và cũng trong năm này, các giáo sư người Pháp lần lượt được giải nhiệm và ban giảng huấn Việt Nam được hoàn toàn thay thế. Năm 1966, trường được dọn tới địa điểm mới là Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa vưà hoàn tất năm trên Đại Lộ Hồng Bàng, Chợ Lớn.. Ban giảng huấn gồm có một số giáo sư Thạc Sĩ rất tài giỏi như Giáo sư Nguyễn Hữu, Giáo sư Phạm Biểu Tâm, chuyên về giải phẫu, Giáo sư Trần Ngọc Ninh, chuyên về xương, Giáo sư Ngô Gia Hy, chuyên về nội thương, đặc biệt về thận, Giáo sư Trần Anh, chuyên về giải phẫu, trưởng khu Cơ Thể Học và từng giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, v.v… Thời gian học là 7 năm. 5 năm tổng quát và 2 năm nội trú, ngoài ra còn phải trình một luận án mới được cấp bằng Bác Sĩ Y Khoa. Năm đầu là năm Dự Bị được học bên Đại Học Khoa Học để lấy chứng chỉ PCB (Phisique, Chimie, Biologie). Về sau muốn vào học Y khoa phải qua một kỳ thi tuyển, nhưng vẫn phải sang Đại Học Khoa Học học đê lấy chứng chỉ PCB. Năm thứ nhất có một kỳ thi về Cốt Học (Osteologie) ngay sau 2 tháng nhập học. Sinh viên có qua được kỳ thi này mới được tiếp tục học . Năm thứ 2 là năm khó nhất. Sinh viên nào có bằng PCB thì được vào học ngay năm thứ hai. Ở năm thứ 2, nếu sinh viên thi 4 lần liên tiếp (mỗi năm 2 kỳ), tức 2 năm liền mà vẫn chưa lên được năm thứ 3 thì bị đuổi ra (sortie laterale). Vì thế có người sau 3 kỳ liên tiếp mà không đậu, không dám thi kỳ thứ tư nữa mà phải để tới năm sau mới dám thi. Năm thứ ba, ngoài những giờ học lý thuyết ở giảng đường, sinh viên bắt đầu đi thực tập ở các bệnh viện hoặc chia nhau đi canh gác tại các nhà thương chẳng hạn nhà thương chuyên bênh lao Hồng Bàng... Đến năm thứ 4, sinh viên có thể dự kỳ thi tuyển nội trú. Sinh viên nào không dự kỳ thi này hoặc không đậu thì đến năm thứ 6 cũng được làm công việc của một nội trú viên tức là cũng được trực bệnh viện như các sinh viên nội trú nhưng mang một bảng tên riêng gọi là “stagiaire interne”. Loại sinh viên này ít quyền hạn và phải phụ thuộc vào sinh viện nội trú thực sư. Mãi đến sau năm 1970, trường bắt đầu giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt nhưng bắt buộc sinh viên dùng tài liệu Y Khoa bằng tiếng Anh để tham khảo. Nhờ vậy, sau năm 1975, các vị Bác Sĩ này khi di tản sang Hoa Kỳ có đủ khả năng thi lại bằng Bác Sĩ tương đương. 7/ Trường Đại Học Dược Khoa Trước năm 1961, trường Đại Học Dược Khoa được nhập chung với trường Đại Học Y khoa. Tới ngày 31/8/1961, trường Đại Học Dược Khoa tách ra và được gọi là Dược Khoa Đại Học Đường với vị Khoa Trưởng đầu tiên là GS Thạc Sĩ Dược Khoa Trương Văn Chôm. Trụ sở trường được đặt tại góc đường Cường Để và đại lộ Thống Nhất. Ban giảng huấn gồm một số giáo sư danh tiếng như: Giáo sư Trương Văn Chôm, Thạc Sĩ Dược Khoa, Giáo sư Đặng Vũ Biền, Tiến Sĩ Dược Khoa tại Đại Học Sorbonne, Giáo sư Tô Đồng, Dược Khoa Tiến Sĩ tại Đại Học Sorbonne, Giáo sư Nguyễn Vĩnh Niên, Tiến Sĩ Dược Khoa tại Pháp, Giáo sư Đặng Vũ Biền v.v…Một số giáo sư tốt nghiệp tại Mỹ về như GS Trần Ngọc Tiếng, Ph.D., GS Thanh Thủy, Ph.D., GS Chu Phạm Ngọc Sơn, Ph.D, GS Lê Phục Thủy, Ph.D. Chương trình học của trường Đại Học Dược Khoa cũng giống như trước năm 1954, phỏng theo chương trình của Pháp và phần lớn các môn đều dậy tuyền bằng tiếng Pháp, cho tới năm 1970 trường mới hoàn toàn dậy bằng tiếng Việt. Thời gian học cũng vẫn là 5 năm. Năm đầu tiên gọi là năm tập sự (stagiaire). Ngoài việc học ở trương còn phải được một Dược Phòng nhận cho tập sự. Cuối mỗi năm đều có kỳ thi lên lớp. Chương trình theo Pháp nên nặng về Hoá Học, Thực Vật và Dược Liệu Học, nhẹ về Động Dược Học và kỹ nghệ sản xuất thuốc cũng như khiá cạnh thương mại của Dược Khoa. Thể lệ thi cử cũng khó khăn, nếu có một môn dưới điểm trung bình tức 9/20 là bị loại. Mỗi kỳ gồm có 3 đợt: thực tập, thi viết và vấn đáp. Đợt 1 không đủ điểm trung bình không được thi đợt 2. Đợt 2 không đủ điểm trung bình không được thi đợt 3. Mỗi năm có 2 kỳ thi. Rớt 4 kỳ liên tiếp là bị đuổi. Lúc đầu trường chỉ có cấp bằng Dược Sĩ Quốc Gia (Pharmacien d’État), mãi tới năm 1969, trường mới có thêm chương trình đào tạo Tiến Sĩ Dược Khoa Đệ Tam Cấp (Docteur du troisième cycle de Pharmacie), tương đương với bằng Pharmacy Doctor của Mỹ. Dược Sĩ Lý Công Tuấn là Tiến Sĩ Dược Khoa Đệ Tam Cấp đầu tiên được đào tạo tại VN. 8/ Trường Nha Khoa. Cũng giống như trường Dược Khoa, trường Nha Khoa trước kia cũng chỉ là một ngành của trường Đại Học Y-Dược Hà Nội, sau là Đại Học Y-Dược Saigon. Đến ngày 12/8/1962, ngành Nha Khoa tách khỏi trường Y khoa trở thành Nha Khoa Đại Học Đường Saigon. Chương trình trường Đại Học Nha Khoa là 5 năm và tốt nghiệp được cấp bằng Nha Sĩ. Ai muốn có bằng Tiến Sĩ Nha Khoa thì phải qua Pháp học. Ban giảng huấn gồm một số các giáo sư tốt nghiệp tại Pháp như: Giáo sư Lê Trọng Phong, Tiến Sĩ Nha Khoa Đại Học Paris, Giáo sư Nguyễn Văn Thơ, Tiến Sĩ Nha Khoa Đại Học Paris…. Cũng như các đại học khác, muốn được nhập học phải có bằng Tú Tài 2 (Toàn Phần), không phân biệt là Tú Tài ban Khoa Học Toán hay ban Khoa Học Thực Nghiệm. Về sau, cũng như trường Y Khoa, phải có chứng chỉ Dự Bị khoa học như PCB hoặc SPCN và còn phải qua một kỳ thi tuyển. Chương trình gồm có nhiều môn và mỗi môn đều có 2 phần: lý thuyết và thực hành. Mỗi phần đều có kỳ thi riêng. Mỗi năm có 2 kỳ thi: đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt. Số điểm của 2 kỳ cộng lại chia 2 thì có kết quả chung cho từng môn vào cuối năm. Dù chỉ một môn không đủ điểm trung bình là phải học đúp lại. *** Ngoài các Viện Đại Học Saigon, Huế, Đà Lạt, và Cần Thơ còn có những Trung Tâm Giáo Dục và các Học Viện khác như: -Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ đào tạo các kỹ sư cho 4 ngành Công Chánh, Điện Học, Hoá Học và Công Nghệ, -Trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc để đào tạo Kỹ Sư Nông Nghiệp, Kỹ Sư Thủy Lâm và Kỹ Sư Thú Y, -Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để đào tạo Đốc Sự Hành Chánh và Cao Học Hành Chánh và Cao Học Ngoại Giao. v.v… Chương trình giáo dục và thể lệ thi cử dưới thời Việt Nam Cộng Hoà còn được gọi là chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn phỏng theo chương trình giáo dục của Pháp, tuy không được hoàn hảo nhưng có trình độ và thực chất. Đây là chương trình giáo dục có tính cách dân tộc, nhân bản và khai phóng tôn trọng tự do dân chủ và nhân quyền nhằm phát triển toàn diện con người trong chiều hướng tốt cả về trí dục, đức dục và thể dục. Nền giáo dục thời VNCH không hề áp đặt một học thuyết hay một chủ nghĩa nào nhất là không đưa chính trị vào học đường bắt học sinh phải tuân theo như trong các thể chế độc tài đảng tri như Cộng Sản. Chỉ trong vòng 2 thập niên, nền giáo dục thời VNCH đã đào tạo cả trăm ngàn chuyên viên và cán bộ các cấp có đầy đủ khả năng chuyên môn cũng như khả năng lãnh đạo cho miền Nam Việt Nam. Tiếc rằng chế độ VNCH đã xụp đổ, không phải vì không có chính nghĩa mà vì sự phản bội của đồng minh khiến nền giáo dục của VNCH cũng bị thay thế bằng một nền giáo dục theo chủ nghĩa Marxist, một chủ nghĩa vô luân, vô đạo, nhằm đào tạo con người trở thành con vật chỉ biết lập lại những gì đã được Đảng dạy bảo và tuân theo một cách tuyệt đối những gì Đảng đã ra lệnh. Kết qủa của chính sách giáo dục này là đã đào tạo nên cả một thế hệ ngu muội, dốt nát, vô đạo đức và hủ hóa. Chú thích (1). Ngày 19/12/1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, giáo sư Dương Quảng Hàm tản cư ra hậu phương. Trên đường tản cư, khi qua sông, giáo sư không may bị trúng đạn từ máy bay Pháp bắn chết vào ngày 26/12/46. Nhưng cũng có nguồn tin cho rằng giáo sư đã bị Việt Minh bắn chết trên đường tản cư. (2). Sau khi Việt Minh cướp chính quyền từ chính phù Trần Trọng Kim, chính phủ Liên Hiệp do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch được thành lập, giáo sư Hoàng Xuân Hãn được thay thế bởi ông Vũ Đình Hòe và chương trình được thay đổi đôi chút cho phù hợp với lý tưởng phục vụ quốc gia và dân tộc. Nhưng chương trình này đã bị Việt Minh bãi bỏ hoàn toàn sau khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ vào ngày 19/12/46 và chỉ được chính phủ quốc gia sử dụng sau khi được Pháp trao trả độc lập và sau này là chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. (3). Muốn theo học trường này chỉ cần có bằng Diplôme hoặc Brevet Élémentaire tức bằng Cao Đẳng Tiểu Học sau này gọi là bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp. Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn
|
|