Post by Cửu Long Giang on May 14, 2013 7:38:31 GMT 9
Ngôn ngữ tượng trưng của nghệ thuật hát bội
(VienDongDaily.Com - 30/08/2012)
Băng Huyền/Viễn Đông
Người nghệ sĩ cầm một cây roi dài lua tua một túm lông trên thân roi, rồi múa vài vòng, chân đá cao như động tác chuẩn bị lên ngựa, rồi đôi chân người nghệ sĩ di chuyển nhịp nhàng, tượng trưng cho bước phi của con ngựa, người nhoài về đằng trước, hai tay vươn ra, giật tới giật lui như người nắm dây cương. Khi xem lớp diễn này, nhiều khán giả của hát bội (hát bộ hay còn gọi là tuồng) đều nhận ra rằng, cái roi người diễn viên đang cầm trên tay là một tín hiệu ngôn ngữ tả người đi ngựa. Khi diễn tả cảnh đi thuyền, người nghệ sĩ chỉ cần cầm một cái dầm, hai tay nhịp nhàng như đang chèo thuyền; nếu thuyền có chở người thì người trên thuyền cũng di chuyển theo người chèo thuyền. Để diễn tả cảnh một nhân vật phải vượt quá một quãng đường xa, gian khổ, người diễn viên đi một vòng quanh sân khấu, vừa đi vừa diễn tả những nỗi mệt nhọc và gian truân của việc trèo đèo, lội suối, cuối cùng có một nhân vật khác xuất hiện thì ta phải hiểu rằng nhân vật trước vừa vượt qua một quãng đường dài hàng trăm dặm để đến với nhân vật kia.
Nghệ sĩ Ngọc Bày - ảnh: Trần Tường Nguyên
Ngoài đời làm gì có chuyện sau khi bị kẻ thù là Tạ Ôn Đình chặt đầu rồi, như nhân vật Khương Linh Tá trong tuồng San Hậu, mà vẫn nhặt lại thủ cấp, hóa thành ngọn đèn dẫn đường cho bạn là Đổng Kim Lân vượt hiểm nguy nơi núi cao rừng thẳm, để bạn bảo vệ ấu chúa tới nơi an toàn. Hình ảnh người nghệ sĩ đóng vai Khương Linh Tá trùm lên đầu một chiếc khăn đỏ và tay cầm một cây đuốc ước lệ, diễn tả những động tác trèo đèo lội suối, vượt dốc... thể hiện cả một đường trường gian khổ từ đêm khuya đến khi gà gáy sáng. Lớp diễn này đã tạo nên cái lạ trên sân khấu, chất bi hùng cho vở diễn, trở thành một biểu trưng về đạo trung quân, tình bằng hữu. Khán giả khi đã hiểu cách xem ước lệ của hát bộ thì chẳng những không hề khó chịu trước những điều phi thực, mà họ còn bị cuốn hút để cùng tham gia vào trí tưởng tượng và óc sáng tạo của người nghệ sĩ. Chính nghệ thuật tả thần ước lệ của nghệ thuật hát bội đã đem lại một tập thể sáng tạo, gồm tác giả, đạo diễn, diễn viên và khán giả. Nếu sân khấu tả thật (kịch tính) thường hướng về hiệu quả đồng cảm, tạo cho khán giả cái ảo giác những gì diễn ra trên sân khấu là thật, từ đó khán giả hòa mình và đồng cảm với hình tượng sân khấu. Thì hát bội chủ yếu đi vào cái bên trong, miêu tả và thể hiện cho được cái “thần”, cái bản chất của sự vật, để “tả ý”, là một đặc điểm cơ bản của sân khấu ước lệ. Chính cái dạng bề ngoài kỳ quặc, phi lý đã kích thích suy nghĩ của khán giả. Và khi khán giả đã nhận ra cái tư tưởng bên trong của nó, thì việc thụ cảm thẩm mỹ của họ mới đạt tới sự thích thú thật sự. Qua những hình tượng có tính chất ẩn dụ, khi có sự tham gia tích cực của trí tưởng tượng của bản thân khán giả, thì sự cảm thụ thẩm mỹ của khán giả mới trọn vẹn, nó là một hoạt động sáng tạo cuả người xem. Khán giả của sân khấu ước lệ không thể bị động mà cần có sự hiểu biết về nét đặc thù ngôn ngữ của nghệ thuật này là vì vậy. Do điệu bộ hát bội diễn biến theo một khuôn khổ nhất định, vài người lính có thể thay thế cho cả một đạo quân, một vòng đi quanh sân khấu có thể thay cho vạn dặm đường trường, từ các động tác cầm thương cỡi ngựa đến cử chỉ vuốt râu đều có tính cách tượng trưng. Người diễn viên không tuân thủ hình thức bên ngoài, mà đi xa cái dạng tự nhiên, biến thành tượng trưng, mang ý nghĩa biểu tượng, ý nghĩa của một tín hiệu.
Nói về nét độc đáo của nghệ thuật tượng trưng trong hát bội, nghệ sĩ Hát bội Ngọc Bày nhận xét rằng, “tả thần” chính là đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu Hát Bội Việt Nam. Bất kỳ những đạo cụ nào trên sân khấu hát bội cũng đều mang tính ước lệ, đều là những vật thật, song bản thân chúng không mang tính chất nhất định của một vật thể nào. Qua các động tác diễn xuất của người nghệ sĩ chúng có thể mang tên cái này, hoặc cái kia. Các động tác diễn xuất với tư cách là một hệ thống tín hiệu nghệ thuật đã gợi lên những cảnh trí, những tâm trạng, những hành động mà khán giả phải tiếp tục tự hoàn chỉnh trong trí tưởng tượng và sự nhận thức của mình. Có rất nhiều những điều tượng trưng được sử dụng, và người xem phần lớn đều hiểu những khái niệm đó. Chính vì vậy khán giả trong Hát Bội không chỉ là người nghe, người xem, mà chính họ sẽ tham gia, tùy theo sự am hiểu của mỗi người mà tạo nên cảm xúc cho vở tuồng. Sự đồng tham gia của khán giả còn được thể hiện qua hình thức của tiếng trống chầu do người cầm chầu (thường là một nhân vật có chức sắc, am hiểu nghệ thuật) làm công việc khen, chê tại chỗ tài năng của người nghệ sĩ trong vở tuồng. Sự khen, chê này đã kích thích cả người diễn và người xem, gây không khí hào hứng, sôi nổi cho đêm diễn.
Nghệ thuật biểu trưng của hát bội qua vũ đạo
Theo nghệ sĩ Ngọc Bày, ngoài lối hát, yếu tố quan trọng tạo nên nét đặc thù của loại hình nghệ thuật hát bội, chính là vũ đạo, có ngôn ngữ biểu trưng rất đặc sắc. Các thế hệ nghệ sĩ hát bội từ xưa đã chắt lọc những động tác sinh hoạt, lao động hàng ngày; tiếp thu những tinh hoa của những hình thái múa dân gian, múa tín ngưỡng, tôn giáo trong tế lễ, hội hè; múa cung đình và võ thuật dân tộc để xây dựng hệ thống động tác từ đơn giản đến phức tạp. Những động tác này phải trái phải cân đối; trên, dưới, phải phù hợp trong hoàn cảnh quy định.
Vì vũ đạo trong hát bội có chức năng minh hoạ, chức năng bài cảnh, đôi khi nó có thể thay thế cho lời nói, điệu hát để diễn đạt tâm trạng, tính cách của nhân vật. Chính các động tác điệu bộ sẽ dần dần làm rõ lên tính cách trạng thái của nhân vật. Chẳng hạn, cách vuốt râu, quan văn trung thần vuốt nhẹ, kéo phớt nhanh qua phía bên mặt hay bên trái. Quan võ trung thần cầm ngọn chòm râu hất mạnh qua một phía. Quan nịnh thần hai tay nâng bộ râu vuốt từ trên xuống dưới. Ông tướng nóng tính hai tay nắm chặt chòm râu và vuốt nhanh hàm râu rìa với điệu bộ dữ dằn. Người có nghĩa khí như Quan Công xòe ngón tay trỏ và ngón giữa vuốt nhẹ râu mép, tay đồng thời nâng bộ râu đưa thẳng về phía trước.
Người nghệ sĩ còn diễn bằng đôi chân chuyển động theo trụ bộ: Niêm thinh ký cầu. Nếu là lão văn đi chữ đinh gối thẳng, đứng khép hai chân lại. Lão tiên - đi thẳng chữ đinh. Tướng võ - đi chữ đinh, kèm theo điệu bộ múa. Kép văn - đi tự nhiên, nhẹ nhàng. Đào võ - đi chữ đinh cùng điệu bộ múa. Vai hề - đi hơi cường điệu, ngúng nguẩy, hài hước. Đào văn - đi chữ nhất, nhẹ nhàng chậm rãi. Bà già - đi chậm, lưng còng… Không chỉ có vậy, người nghệ sĩ Hát Bội còn phải luôn tuân thủ các bộ như cách đưa tay, ngồi dựa lưng, mọi động tác di chuyển đều phải nhịp nhàng theo nhịp đàn. Bước chân đi khoan thai, chậm rãi theo từng nhịp trống.
Dựng cảnh sắc trong trí tưởng tượng cho khán giả
Do các bài bản, làn điệu của vở tuồng hát bội được hát theo nhiều thể thơ khác nhau như lục bát, tứ tuyệt, thất ngôn, ngũ ngôn… nói lối, với một câu hát, một điệu múa, người nghệ sĩ dựng nên cả một không gian, cảnh tượng sân khấu mới hiện dần lên, địa điểm và thời gian mới được xác định. Nghệ sĩ Ngọc Bày miêu tả: “Cách dàn cảnh của sân khấu hát bội rất đơn giản, chẳng cần đổi cảnh, phân màn. Khán giả nghe câu hát của vai tuồng rồi tưởng tượng trong trí, biết nơi ấy là nơi nào. Vả lại, trước kia hầu hết những khán giả đi xem hát bội thường đã biết rõ các chi tiết trong tuồng nên không cần phải trưng bày cảnh thực.
“Nhiệm vụ của người nghệ sĩ kiêm cả việc bài cảnh, tùy nghi bố trí theo ý mình qua điệu bộ và ca diễn. Nhưng để dựng được cảnh sắc trong trí tưởng tượng của người xem, người nghệ sĩ phải dùng những động tác tượng trưng với giả định có cảnh thật trước mắt. Đây là những động tác điêu luyện, được cách điệu cao và giàu sức biểu hiện. Nhờ những động tác tượng trưng này, người nghệ sĩ vượt ra ngoài khuôn khổ diện tích chật hẹp của sân khấu, tạo nên toàn bộ cuộc sống trên sân khấu. Bởi khi họ xuất hiện thì không gian, thời gian cũng xuất hiện. Nhân vật hành động trong không gian, thời gian nào thì sân khấu là không gian, thời gian đó. Không gian sân khấu hát bội ngày xưa thường được bỏ trống, chỉ cần một chiếc chiếu trải giữa sân đình và đôi ba cái hòm gỗ đựng đạo cụ phục trang vậy mà họ vẫn diễn tả được không gian thời gian khác nhau, khi là trốn cung điện nguy nga, lúc là nơi núi rừng hiểm trở, lúc là vườn thượng uyển, hay bãi chiến trường. Chỉ có cái bàn và chiếc ghế có thể là chỗ vua ngự, có khi là quán rượu, lúc lại là chỗ công quyền, chốn pháp đình xử án…”.
Nghệ sĩ Ngọc Bày nói tiếp: “Hai bên sân khấu là hai tấm màn che làm cửa buồng sanh và cửa buồng tử cho đào kép ra vô; lối đi ra gọi là cửa buồng sanh và lối đi vào gọi là cửa buồng tử. Nghệ sĩ khi ra sân khấu phải ra ở cửa buồng sanh và những người thủ vai trung thần khi chiến thắng trở về phải đi vào cửa buồng sanh. Cửa buồng tử được sử dụng cho tất cả mọi người để đi trở vào và cũng dành cho người đi đánh giặc khi chết cũng chạy vào đây”.
Nội dung tuồng tích của hát bội thông thường phản ảnh lối sống theo luân lý Nho giáo, bài bản xưa, cho nên không phải người nào xem hát bội cũng hiểu. Nghệ thuật hát bội từ cảnh trí sân khấu, điệu bộ ca múa, vẽ mặt vừa cường điệu vừa mang tánh “tượng trưng”, có cả một hệ thống ngôn ngữ ước lệ, khiến người xem phải quan sát tường tận, suy nghĩ và phải am tường nghệ thuật mới cảm nhận được.
Mong rằng những ghi nhận trong bài viết này giúp phần nào cho người xem hiểu được đôi điều về hệ thống tín hiệu của ngôn ngữ nghệ thuật hát bội. Vì khi có thêm nhiều người hiểu biết nghệ thuật hát bội, hy vọng sẽ có thêm nhiều công chúng đến với loại hình sân khấu kinh điển, để luôn luôn trân quý vốn nghệ thuật dân tộc của Việt Nam, nhằm bảo tồn và phát triển trong tương lai. - (BH)
(VienDongDaily.Com - 30/08/2012)
Băng Huyền/Viễn Đông
Người nghệ sĩ cầm một cây roi dài lua tua một túm lông trên thân roi, rồi múa vài vòng, chân đá cao như động tác chuẩn bị lên ngựa, rồi đôi chân người nghệ sĩ di chuyển nhịp nhàng, tượng trưng cho bước phi của con ngựa, người nhoài về đằng trước, hai tay vươn ra, giật tới giật lui như người nắm dây cương. Khi xem lớp diễn này, nhiều khán giả của hát bội (hát bộ hay còn gọi là tuồng) đều nhận ra rằng, cái roi người diễn viên đang cầm trên tay là một tín hiệu ngôn ngữ tả người đi ngựa. Khi diễn tả cảnh đi thuyền, người nghệ sĩ chỉ cần cầm một cái dầm, hai tay nhịp nhàng như đang chèo thuyền; nếu thuyền có chở người thì người trên thuyền cũng di chuyển theo người chèo thuyền. Để diễn tả cảnh một nhân vật phải vượt quá một quãng đường xa, gian khổ, người diễn viên đi một vòng quanh sân khấu, vừa đi vừa diễn tả những nỗi mệt nhọc và gian truân của việc trèo đèo, lội suối, cuối cùng có một nhân vật khác xuất hiện thì ta phải hiểu rằng nhân vật trước vừa vượt qua một quãng đường dài hàng trăm dặm để đến với nhân vật kia.
Nghệ sĩ Ngọc Bày - ảnh: Trần Tường Nguyên
Ngoài đời làm gì có chuyện sau khi bị kẻ thù là Tạ Ôn Đình chặt đầu rồi, như nhân vật Khương Linh Tá trong tuồng San Hậu, mà vẫn nhặt lại thủ cấp, hóa thành ngọn đèn dẫn đường cho bạn là Đổng Kim Lân vượt hiểm nguy nơi núi cao rừng thẳm, để bạn bảo vệ ấu chúa tới nơi an toàn. Hình ảnh người nghệ sĩ đóng vai Khương Linh Tá trùm lên đầu một chiếc khăn đỏ và tay cầm một cây đuốc ước lệ, diễn tả những động tác trèo đèo lội suối, vượt dốc... thể hiện cả một đường trường gian khổ từ đêm khuya đến khi gà gáy sáng. Lớp diễn này đã tạo nên cái lạ trên sân khấu, chất bi hùng cho vở diễn, trở thành một biểu trưng về đạo trung quân, tình bằng hữu. Khán giả khi đã hiểu cách xem ước lệ của hát bộ thì chẳng những không hề khó chịu trước những điều phi thực, mà họ còn bị cuốn hút để cùng tham gia vào trí tưởng tượng và óc sáng tạo của người nghệ sĩ. Chính nghệ thuật tả thần ước lệ của nghệ thuật hát bội đã đem lại một tập thể sáng tạo, gồm tác giả, đạo diễn, diễn viên và khán giả. Nếu sân khấu tả thật (kịch tính) thường hướng về hiệu quả đồng cảm, tạo cho khán giả cái ảo giác những gì diễn ra trên sân khấu là thật, từ đó khán giả hòa mình và đồng cảm với hình tượng sân khấu. Thì hát bội chủ yếu đi vào cái bên trong, miêu tả và thể hiện cho được cái “thần”, cái bản chất của sự vật, để “tả ý”, là một đặc điểm cơ bản của sân khấu ước lệ. Chính cái dạng bề ngoài kỳ quặc, phi lý đã kích thích suy nghĩ của khán giả. Và khi khán giả đã nhận ra cái tư tưởng bên trong của nó, thì việc thụ cảm thẩm mỹ của họ mới đạt tới sự thích thú thật sự. Qua những hình tượng có tính chất ẩn dụ, khi có sự tham gia tích cực của trí tưởng tượng của bản thân khán giả, thì sự cảm thụ thẩm mỹ của khán giả mới trọn vẹn, nó là một hoạt động sáng tạo cuả người xem. Khán giả của sân khấu ước lệ không thể bị động mà cần có sự hiểu biết về nét đặc thù ngôn ngữ của nghệ thuật này là vì vậy. Do điệu bộ hát bội diễn biến theo một khuôn khổ nhất định, vài người lính có thể thay thế cho cả một đạo quân, một vòng đi quanh sân khấu có thể thay cho vạn dặm đường trường, từ các động tác cầm thương cỡi ngựa đến cử chỉ vuốt râu đều có tính cách tượng trưng. Người diễn viên không tuân thủ hình thức bên ngoài, mà đi xa cái dạng tự nhiên, biến thành tượng trưng, mang ý nghĩa biểu tượng, ý nghĩa của một tín hiệu.
Nói về nét độc đáo của nghệ thuật tượng trưng trong hát bội, nghệ sĩ Hát bội Ngọc Bày nhận xét rằng, “tả thần” chính là đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu Hát Bội Việt Nam. Bất kỳ những đạo cụ nào trên sân khấu hát bội cũng đều mang tính ước lệ, đều là những vật thật, song bản thân chúng không mang tính chất nhất định của một vật thể nào. Qua các động tác diễn xuất của người nghệ sĩ chúng có thể mang tên cái này, hoặc cái kia. Các động tác diễn xuất với tư cách là một hệ thống tín hiệu nghệ thuật đã gợi lên những cảnh trí, những tâm trạng, những hành động mà khán giả phải tiếp tục tự hoàn chỉnh trong trí tưởng tượng và sự nhận thức của mình. Có rất nhiều những điều tượng trưng được sử dụng, và người xem phần lớn đều hiểu những khái niệm đó. Chính vì vậy khán giả trong Hát Bội không chỉ là người nghe, người xem, mà chính họ sẽ tham gia, tùy theo sự am hiểu của mỗi người mà tạo nên cảm xúc cho vở tuồng. Sự đồng tham gia của khán giả còn được thể hiện qua hình thức của tiếng trống chầu do người cầm chầu (thường là một nhân vật có chức sắc, am hiểu nghệ thuật) làm công việc khen, chê tại chỗ tài năng của người nghệ sĩ trong vở tuồng. Sự khen, chê này đã kích thích cả người diễn và người xem, gây không khí hào hứng, sôi nổi cho đêm diễn.
Nghệ thuật biểu trưng của hát bội qua vũ đạo
Theo nghệ sĩ Ngọc Bày, ngoài lối hát, yếu tố quan trọng tạo nên nét đặc thù của loại hình nghệ thuật hát bội, chính là vũ đạo, có ngôn ngữ biểu trưng rất đặc sắc. Các thế hệ nghệ sĩ hát bội từ xưa đã chắt lọc những động tác sinh hoạt, lao động hàng ngày; tiếp thu những tinh hoa của những hình thái múa dân gian, múa tín ngưỡng, tôn giáo trong tế lễ, hội hè; múa cung đình và võ thuật dân tộc để xây dựng hệ thống động tác từ đơn giản đến phức tạp. Những động tác này phải trái phải cân đối; trên, dưới, phải phù hợp trong hoàn cảnh quy định.
Vì vũ đạo trong hát bội có chức năng minh hoạ, chức năng bài cảnh, đôi khi nó có thể thay thế cho lời nói, điệu hát để diễn đạt tâm trạng, tính cách của nhân vật. Chính các động tác điệu bộ sẽ dần dần làm rõ lên tính cách trạng thái của nhân vật. Chẳng hạn, cách vuốt râu, quan văn trung thần vuốt nhẹ, kéo phớt nhanh qua phía bên mặt hay bên trái. Quan võ trung thần cầm ngọn chòm râu hất mạnh qua một phía. Quan nịnh thần hai tay nâng bộ râu vuốt từ trên xuống dưới. Ông tướng nóng tính hai tay nắm chặt chòm râu và vuốt nhanh hàm râu rìa với điệu bộ dữ dằn. Người có nghĩa khí như Quan Công xòe ngón tay trỏ và ngón giữa vuốt nhẹ râu mép, tay đồng thời nâng bộ râu đưa thẳng về phía trước.
Người nghệ sĩ còn diễn bằng đôi chân chuyển động theo trụ bộ: Niêm thinh ký cầu. Nếu là lão văn đi chữ đinh gối thẳng, đứng khép hai chân lại. Lão tiên - đi thẳng chữ đinh. Tướng võ - đi chữ đinh, kèm theo điệu bộ múa. Kép văn - đi tự nhiên, nhẹ nhàng. Đào võ - đi chữ đinh cùng điệu bộ múa. Vai hề - đi hơi cường điệu, ngúng nguẩy, hài hước. Đào văn - đi chữ nhất, nhẹ nhàng chậm rãi. Bà già - đi chậm, lưng còng… Không chỉ có vậy, người nghệ sĩ Hát Bội còn phải luôn tuân thủ các bộ như cách đưa tay, ngồi dựa lưng, mọi động tác di chuyển đều phải nhịp nhàng theo nhịp đàn. Bước chân đi khoan thai, chậm rãi theo từng nhịp trống.
Dựng cảnh sắc trong trí tưởng tượng cho khán giả
Do các bài bản, làn điệu của vở tuồng hát bội được hát theo nhiều thể thơ khác nhau như lục bát, tứ tuyệt, thất ngôn, ngũ ngôn… nói lối, với một câu hát, một điệu múa, người nghệ sĩ dựng nên cả một không gian, cảnh tượng sân khấu mới hiện dần lên, địa điểm và thời gian mới được xác định. Nghệ sĩ Ngọc Bày miêu tả: “Cách dàn cảnh của sân khấu hát bội rất đơn giản, chẳng cần đổi cảnh, phân màn. Khán giả nghe câu hát của vai tuồng rồi tưởng tượng trong trí, biết nơi ấy là nơi nào. Vả lại, trước kia hầu hết những khán giả đi xem hát bội thường đã biết rõ các chi tiết trong tuồng nên không cần phải trưng bày cảnh thực.
“Nhiệm vụ của người nghệ sĩ kiêm cả việc bài cảnh, tùy nghi bố trí theo ý mình qua điệu bộ và ca diễn. Nhưng để dựng được cảnh sắc trong trí tưởng tượng của người xem, người nghệ sĩ phải dùng những động tác tượng trưng với giả định có cảnh thật trước mắt. Đây là những động tác điêu luyện, được cách điệu cao và giàu sức biểu hiện. Nhờ những động tác tượng trưng này, người nghệ sĩ vượt ra ngoài khuôn khổ diện tích chật hẹp của sân khấu, tạo nên toàn bộ cuộc sống trên sân khấu. Bởi khi họ xuất hiện thì không gian, thời gian cũng xuất hiện. Nhân vật hành động trong không gian, thời gian nào thì sân khấu là không gian, thời gian đó. Không gian sân khấu hát bội ngày xưa thường được bỏ trống, chỉ cần một chiếc chiếu trải giữa sân đình và đôi ba cái hòm gỗ đựng đạo cụ phục trang vậy mà họ vẫn diễn tả được không gian thời gian khác nhau, khi là trốn cung điện nguy nga, lúc là nơi núi rừng hiểm trở, lúc là vườn thượng uyển, hay bãi chiến trường. Chỉ có cái bàn và chiếc ghế có thể là chỗ vua ngự, có khi là quán rượu, lúc lại là chỗ công quyền, chốn pháp đình xử án…”.
Nghệ sĩ Ngọc Bày nói tiếp: “Hai bên sân khấu là hai tấm màn che làm cửa buồng sanh và cửa buồng tử cho đào kép ra vô; lối đi ra gọi là cửa buồng sanh và lối đi vào gọi là cửa buồng tử. Nghệ sĩ khi ra sân khấu phải ra ở cửa buồng sanh và những người thủ vai trung thần khi chiến thắng trở về phải đi vào cửa buồng sanh. Cửa buồng tử được sử dụng cho tất cả mọi người để đi trở vào và cũng dành cho người đi đánh giặc khi chết cũng chạy vào đây”.
Nội dung tuồng tích của hát bội thông thường phản ảnh lối sống theo luân lý Nho giáo, bài bản xưa, cho nên không phải người nào xem hát bội cũng hiểu. Nghệ thuật hát bội từ cảnh trí sân khấu, điệu bộ ca múa, vẽ mặt vừa cường điệu vừa mang tánh “tượng trưng”, có cả một hệ thống ngôn ngữ ước lệ, khiến người xem phải quan sát tường tận, suy nghĩ và phải am tường nghệ thuật mới cảm nhận được.
Mong rằng những ghi nhận trong bài viết này giúp phần nào cho người xem hiểu được đôi điều về hệ thống tín hiệu của ngôn ngữ nghệ thuật hát bội. Vì khi có thêm nhiều người hiểu biết nghệ thuật hát bội, hy vọng sẽ có thêm nhiều công chúng đến với loại hình sân khấu kinh điển, để luôn luôn trân quý vốn nghệ thuật dân tộc của Việt Nam, nhằm bảo tồn và phát triển trong tương lai. - (BH)