|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:04:47 GMT 9
Thời kỳ khó khăn và sụp đổ chế độ: Phản ứng của chế độ chuyên chế với suy thoái kinh tếSuu TamBiên dịch: Phạm Thị Kim Ngân | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp Các học giả xếp những trục trặc về kết quả phát triển kinh tế vào hàng những lí do quan trọng nhất cho sự sụp đổ của các chế độ độc tài. Bài nghiên cứu này cũng không phải là ngoại lệ. Bài viết khảo sát tác động của rủi ro kinh tế đến những thất bại của chế độ độc tài, sử dụng mẫu của 160 chế độ chuyên chế từ năm 1981 đến năm 2008.[1] Hơn nữa, bài báo này xác định sự đàn áp và thu nạp [người chống đối] như những biến số về chính trị có khả năng giảm nhẹ những hậu quả xấu của rủi ro kinh tế. Trong khi sự đàn áp bảo vệ chế độ chuyên chế khỏi những đe dọa theo chiều dọc như các cuộc biểu tình quy mô lớn, thì sự thu nạp giúp giải quyết các mối đe dọa theo chiều ngang thể hiện dưới dạng chia rẽ tầng lớp tinh hoa. Theo như phân tích, hạn chế quyền tự do chính trị (đàn áp mềm) phục vụ những kẻ độc tài tốt hơn việc xâm phạm sinh mạng cá nhân (đàn áp cứng) hoặc biện pháp thu nạp. Ngoài ra, trái với những phân tích khác, không có bằng chứng cho thấy hình thức thu nạp dưới dạng các thể chế mang hình thức dân chủ sẽ ngăn chặn được sự thất bại của chế độ. 1. Mở đầu Những cuộc khủng hoảng kinh tế đóng vai trò như những chất xúc tác mạnh mẽ của những biến động chính trị lớn trong suốt lịch sử. Từ sự tan rã của đế chế La Mã và cuộc lật đổ vua Louis 16 đến thất bại của nền Cộng hòa Weimar và sự sụp đổ từ bên trong của Liên Xô, suy giảm kinh tế đã góp phần thúc đẩy sự ra đi của những chế độ chính trị tồn tại từ lâu đời. Do đó những nền dân chủ vững chắc sẽ thành công hơn [trong việc duy trì chế độ] so với các chính thể chuyên chế. Những cuộc bầu cử tự do, công bằng và cạnh tranh được tổ chức định kỳ đóng vai trò như những chiếc van an toàn, cho phép những công dân bất mãn thay đổi những người cầm quyền mà không cần phá hủy những thể chế nòng cốt của chính quyền dân chủ và mạo hiểm hi sinh mạng sống hay sự tự do của họ. Theo như logic này, kết quả kinh tế tệ hại sẽ gây ra những đe dọa nghiêm trọng đến chế độ độc tài, vốn có đặc điểm là thiếu những cơ chế phản hồi dân chủ như những cuộc bầu cử tự do và công bằng. Nhưng có thực sự như vậy không? Có thật là khi những điều kiện khác không đổi [ceteris paribus], khả năng tồn tại của chế độ độc tài phụ thuộc chủ yếu vào kết quả kinh tế? Và sẽ ra sao nếu như không phải tất cả những điều kiện khác không đổi? Liệu có những giải pháp khác mà những nhà cầm quyền độc tài có thể dùng để bảo vệ chế độ của họ khỏi những thách thức xuất hiện trong thời kì kinh tế xuống dốc? Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi không cho rằng những nhà cầm quyền độc tài chỉ đơn giản là nạn nhân của số phận kinh tế. Thay vào đó, chúng tôi lập luận rằng trong những thời kỳ thành tích kinh tế kém cỏi, giới cầm quyền độc tài vẫn có những công cụ có thể sử dụng khác cho phép họ tác động trở lại và thay đổi nền chính trị và chính sách thường ngày. Trong số những công cụ đó là đàn áp và thu nạp (Gerschewski et al., 2013). Chúng tôi đánh giá khả năng dễ bị tổn thương của các chế độ độc tài trong thời gian suy thoái kinh tế. Cụ thể hơn, chúng tôi sử dụng bộ dữ liệu “Chế độ Chính trị Toàn cầu” của Geddes et al. (2012) kết hợp với những số liệu thống kê kinh tế từ “Penn World Tables” để khảo sát tác động của suy giảm kinh tế đến sự bền vững của các chế độ độc tài. Từ đó chúng tôi cho thấy rằng các chế độ độc tài có những phương tiện cụ thể để phản ứng lại những rủi ro kinh tế. Bằng cách sử dụng những phương pháp đàn áp mềm hoặc cứng và thu nạp những nhân vật quan trọng trong nhà nước, xã hội và nền kinh tế vào chế độ thông qua những lợi ích vật chất và chính trị, tầng lớp cầm quyền chuyên chế có thể khắc chế lại những tác động gây bất ổn của rủi ro kinh tế. Chúng tôi cũng cho rằng không giống như đàn áp mềm, đàn áp cứng không mang lại hiệu quả. Sự sử dụng vũ lực trắng trợn có khuynh hướng tạo nên những hiệu quả không rõ ràng cho những nhà cầm quyền độc tài. Một mặt, tăng cường đàn áp cứng sẽ làm tăng mạnh một cách tức thời thiệt hại của những người dân chống lại chế độ. Mặt khác, vũ lực tàn bạo có thể dẫn đến những trọng điểm làm giảm mạnh hơn nữa tính chính danh vốn đã mỏng manh của chế độ độc tài và khuyến khích sự đối lập. Vì thế đàn áp cứng là một con dao hai lưỡi (Linchbach 1987, Opp và Ruhl 1990, Hess và Martin 2006). Tóm lại, mối quan tâm của chúng tôi tập trung vào những biến số chính trị thường bị bỏ qua vốn có thể làm dung hòa sự tương tác giữa cấu trúc kinh tế vĩ mô với sự ổn định của các chế độ độc tài (Gasiorowski, 1995). Bài viết được tổ chức như sau. Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ trình bày khung lý thuyết dựa vào các nghiên cứu đương thời về thể chế độc tài. Sau đó, chúng tôi cung cấp một số thống kê miêu tả các mẫu nghiên cứu của chúng tôi. Phần thứ tư và thứ năm lần lượt trình bày mô hình thống kê và kết quả. Chúng tôi kết thúc bài viết bằng cách tóm tắt và thảo luận các kết quả nghiên cứu của chúng tôi và đề xuất các hướng nghiên cứu tương lai. 2. Những quan điểm lý thuyết Bởi vì chúng tôi dựa trên bộ dữ liệu của Barbara Geddes và những cộng sự của bà cho nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi cũng chấp nhận định nghĩa của họ về sự thất bại của chế độ độc tài. Chúng tôi cho rằng một bộ máy độc tài nên bị coi là thất bại bất cứ khi nào một trong ba trường hợp cụ thể sau xảy ra: (a) một chính phủ lên cầm quyền sau một cuộc bầu cử cạnh tranh mà chính phủ đó không giống với hoặc liên minh với chính phủ độc tài trước đó; (b) chính phủ độc tài đương nhiệm bị phế truất bởi những biện pháp “trái hiến pháp” như đảo chính, nội chiến hay cách mạng; (c) những quy trình để lựa chọn lãnh đạo và chính sách được thay đổi đến một mức độ mà tập hợp các cá nhân đủ tư cách nắm các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy chính quyền và tập hợp các chính sách được cân nhắc bởi giới lãnh đạo độc tài thay đổi một cách rõ rệt (Geddes et al., 2012, pp.6f.). Ba trường hợp này không loại trừ lẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Vì thế, mặc dù định nghĩa này có vẻ hơi rộng thì vẫn không thể phủ nhận được rằng trong cả ba trường hợp, các luật chơi căn bản đặc trưng cho một chế độ tài đã bị bãi bỏ hay thay đổi đáng kể – đó chính là những luật lệ điều chỉnh sự tiếp cận và thực hành quyền lực chính trị. Vì nhiều lí do có cơ sở, nhiều học giả cho rằng suy thoái kinh tế là một nguyên nhân nổi bật cho sự thất bại của chế độ độc tài. Theo cách nói của Geddes, khủng hoảng kinh tế “thường được xem như là lí do quan trọng duy nhất cho sự tan vỡ chế độ” (Geddes 2004, p.26). Tác động gây bất ổn chế độ của khủng hoảng kinh tế nằm ở sự gia tăng các mối đe dọa theo chiều dọc và chiều ngang đối với ổn định chế độ. Nói cách khác, trong những thời điểm kinh tế khó khăn, người dân có nhiều khả năng chống lại chính quyền hơn (đe dọa theo chiều dọc), đồng thời tầng lớp tinh hoa cầm quyền cũng có xu hướng chia rẽ nhiều hơn (đe dọa theo chiều ngang), quay lại chống lại lẫn nhau, hay từ bỏ chế độ khi đối mặt với các cuộc biểu tình lớn (O’ Donnell và Schmitter 1986, Przeworski 1991). Tập trung vào những tính toán chi phí – lợi ích của những chủ thể chính trị, Acemoglu và Robinson tranh luận rằng khủng hoảng kinh tế làm tăng nguy cơ chia rẽ tầng lớp lãnh đạo cũng như khả năng diễn ra các cuộc nổi dậy của dân chúng bởi vì những người chống đối có ít thứ để mất hơn nếu như tình hình kinh tế của họ vốn đã xấu đi. Theo cách nói của các tác giả: “những thay đổi chế độ thường xảy ra nhiều hơn trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế bởi vì phí tổn của sự bất ổn chính trị cho cả người giàu và người nghèo đều thấp hơn trong những thời kỳ như vậy” (Acemoglu và Robinson 2001, p.939). Hơn thế nữa, hai tác giả tiếp tục cho rằng nguy cơ người dân nổi dậy thường đặc biệt cao nếu suy thoái kinh tế diễn ra trong những xã hội được cai trị độc tài nơi mà của cải được phân chia rất bất bình đẳng. Bất bình đẳng kinh tế càng cao, thì những người nghèo bị tước quyền bầu cử lại càng sẵn sàng thay đổi số phận của họ thông qua một cuộc cách mạng (dân chủ) (Acemoglu và Robinson 2001, pp.938f). Quay sang những mối đe dọa theo chiều ngang, Geddes (2004) chỉ ra rằng “đối với dạng thường thấy nhất của khủng hoảng chế độ, gây ra bởi khó khăn kinh tế, tầng lớp tinh hoa cầm quyền trong bất kì chế độ độc tài nào cũng đều chia rẽ thành những kẻ đấu tranh chính trị không khoan nhượng và những người ôn hòa khi họ phải quyết định làm thế nào để ứng phó” (p.17) với những thách thức kinh tế. Những người ôn hòa có khả năng sẵn lòng đối mặt với những áp lực kinh tế bằng cách đưa ra những nhượng bộ để xoa dịu những người chống đối – một đối sách mà những người không khoan nhượng sẽ cực lực phản đối, những người này thay vào đó chọn cách gia tăng đàn áp (O’Donnel và Schmitter 1986). Ngoài ra, những vấn đề kinh tế làm bùng nổ những xung đột về phân phối [của cải] khi chính phủ cần quyết định phải cắt giảm và tăng đầu tư vào chỗ nào để ứng phó với việc nguồn thu thuế bị thu hẹp, cũng như đầu tư và tiêu dùng bị đình trệ. Thế nên, mặc dù các nhà cầm quyền độc tài có khả năng ngăn chặn những cuộc nổi dậy của quần chúng, họ vẫn “phải đem lại lợi ích cho nhóm người ủng hộ thường hạn hẹp của họ để có thể bảo toàn quyền lực” (Geddes 2004, p.4). Thực tế là những mối đe dọa theo chiều ngang và chiều dọc thường củng cố lẫn nhau, khiến cho các nhà cầm quyền độc tài càng khó níu kéo quyền lực hơn. Những chia rẽ trong tầng lớp lãnh đạo càng làm cho những người hoạt động chống đối trở nên bạo dạn hơn, cũng như các cuộc nổi dậy của quần chúng sẽ khuyến khích những người trong tầng lớp lãnh đạo rời khỏi con tàu có vẻ sắp chìm này, vì thế làm cho nhận thức của họ về sự sụp đổ chế độ sắp tới như là một lời tiên tri tự trở thành sự thật. Rốt cuộc, sau những diễn biến đó chính là sự sụp đổ thực sự của chế độ độc tài. Thế nên lý thuyết về tác động gây bất ổn chế độ của suy thoái kinh tế là rõ ràng. Nhưng những nghiên cứu thực nghiệm có ủng hộ những giả định lý thuyết này không? Geddes (2004, p.4) có đúng chăng, khi bà tuyên bố “tương đối chắc chắn […] rằng những kết quả kinh tế kém cỏi trong ngắn hạn góp phần vào sự sụp đổ của các chế độ độc tài”? Rất nhiều nghiên cứu đã tìm thấy những bằng chứng ủng hộ xác đáng. Ví dụ như Huntington (1991) tranh luận rằng những cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra bởi sự leo thang của giá dầu trong thập niên 1970 đã đẩy nhanh tiến độ sụp độ của các chế độ chuyên chế ở Mỹ Latinh (chương 2). Hơn nữa, những cuộc khủng hoảng kinh tế cũng góp phần cho thất bại của các chế độ chuyên chế ở châu Á (Merkel 2010, pp.271ff). Sau cùng, suy thoái kinh tế kéo dài của những nền kinh tế Xô-viết ở Đông Âu trong suốt những năm 1980 cũng có thể được coi như một nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào đầu thập kỉ 1990 (Kotz và Weir 1997). Áp dụng hình thức nghiên cứu với số lượng mẫu lớn, John Londregan và Keith Poole (1990) tìm ra rằng đảo chính, một tập hợp con của những trường hợp sụp đổ chế độ theo định nghĩa của Geddes, thường xảy ra ở các nước nghèo hơn là các nước giàu. Kết quả của họ cho thấy rằng khuynh hướng đảo chính giảm rõ rệt ở những nước có thu nhập bình quân đầu người vào khoảng $2.300 (tính theo đô la Mỹ năm 1980) và trên mức đó. Tương tự, Charles Boix và Susan Stokes (2003) cho thấy xác suất của sự chuyển đổi dân chủ thấp hơn rõ rệt ở các chế độ chuyên quyền với thu nhập bình quân đầu người đạt mức $6.000 và hơn, nếu so với các nước độc tài có thu nhập thấp và trung bình.2 Cả hai nghiên cứu này đều gây chú ý tới thực tế là tính dễ tổn thương của chế độ chuyên chế thay đổi theo mức độ phát triển kinh tế. Longregan và Poole (1990) cũng như Boiz và Stokes (2003) cung cấp những bằng chứng thực nghiệm đầy thuyết phục rằng không có một mối liên hệ trực tiếp đơn giản nào giữa tăng trưởng kinh tế và sự kết thúc của những chế độ độc tài. Tuy nhiên, cần phải chú ý rằng tất cả các nghiên cứu kể trên chỉ đánh giá tác động của quá trình kinh tế dài hạn đến tính dễ bị tổn thương của những chế độ chuyên chế. Trọng tâm của chúng tôi khác, vì chúng tôi đánh giá tác động của những biến động kinh tế tức thời đến sự ổn định chế độ chuyên chế. Hơn nữa, chúng tôi nhấn mạnh đến tăng trưởng kinh tế tiêu cực chứ không phải tích cực. Theo hiểu biết của chúng tôi, chỉ có một nghiên cứu trực tiếp kiểm tra sự dễ bị tổn thương của chế độ chuyên chế dưới điều kiện khó khăn kinh tế. Tuy nhiên nghiên cứu này có vẻ mâu thuẫn với những giả thiết của chúng tôi. Trong bài nghiên cứu được trích dẫn rộng rãi của mình, Gasiorowski (1996, p.882) phản biện lại “ý tưởng rằng các cuộc khủng hoảng kinh tế có thể gây ra thay đổi chế độ”. Phân tích diễn biến chính trị ở 75 quốc gia đang phát triển trong một khoảng thời gian kéo dài, ông phát hiện ra ít bằng chứng cho thấy các chế độ độc tài bị ảnh hưởng tiêu cực bởi suy thoái kinh tế. Nhưng cách hiểu của Gasiorowski về khái niệm sụp đổ chế độ là khá hẹp. Ông chỉ quan tâm đến những trường hợp chuyển đổi dân chủ. Tuy nhiên, trong bài nghiên cứu của chúng tôi, chuyển đổi từ thống trị chuyên chế sang dân chủ chỉ tạo nên một trong số các trường hợp thất bại của chế độ chuyên chế mà thôi. Hơn nữa, Gasiorowski đưa ra rất ít những giải thích về lý thuyết cho những phát hiện của ông. Với sự xem xét khá hẹp đối với biến phụ thuộc trong nghiên cứu của Gasiorowski cũng như sự thiếu giải thích về mặt lý thuyết một cách thuyết phục cho những phát hiện của ông, chúng tôi vẫn dự đoán rằng các cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ gia tăng những mối đe dọa theo chiều ngang lẫn chiều dọc đối với chính quyền độc tài và từ đó thường xuyên dẫn đến sự sụp đổ của các chế độ đó. Giả thuyết thứ nhất của chúng tôi vì thế được phát biểu như sau: Giả thuyết 1: Nếu những yếu tố khác không đổi, suy giảm kinh tế càng sâu sắc thì các chế độ chuyên chế càng dễ sụp đổ. Nhiều nghiên cứu gần đây đã đưa điều kiện “những yếu tố khác không đổi” vào bài kiểm tra và đã phát hiện những biến bị bỏ qua. Ví dụ như, dựa trên những nghiên cứu của Przeworski (1886, 1991) và nghiên cứu của Acemoglu và Robinson, Ora John Reuter và Jennifer Gandhi cho thấy trong thời kỳ suy thoái kinh tế, rủi ro của sự chia rẽ tầng lớp lãnh đạo và các cuộc nổi dậy của người dân sẽ đặc biệt cao ở các nền chuyên chế tổ chức bầu cử thường xuyên. Do các cuộc bầu cử cho phép những thành viên bất mãn trong giới cầm quyền “lợi dụng sự bất mãn trong quần chúng và giới tinh hoa”, họ có thể chuyển sự bất mãn lan rộng đối với chế độ vào các chiến dịch tranh cử (Reuter và Gandhi, 2011, p.84). Ngoài ra, trong bài phân tích sâu sắc của ông về tác động chính trị của khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1990, Pepinsky (2009) chứng minh một cách thuyết phục rằng những chế độ chuyên chế nào mà có thể xây dựng được các liên minh xuyên giai cấp và tạo ra được những phản ứng chung đối với khủng hoảng, thì có thể tồn tại. Khi không có một liên minh như thế, chế độ chuyên chế sẽ sụp đổ. Cả hai bài nghiên cứu đều cho thấy các biến số chính trị đều làm xoa dịu tác động của khủng hoảng kinh tế đến sự ổn định chế độ chuyên chế. Chúng tôi lấy ví dụ của Reuter và Gandhi cũng như của Pepinsky để tìm ra những biến số bị bỏ sót. Tuy nhiên phân tích của chúng tôi tập trung vào sự đàn áp và thu nạp. Chúng tôi xem cả hai như là những biến số chính trị bổ sung có khả năng xoa dịu các vấn đề về thành tích kinh tế. Đàn áp và thu nạp là một phần thiết yếu trong kho vũ khí của chính quyền độc tài, có thể làm giảm rủi ro của các nguy cơ theo chiều ngang lẫn chiều dọc (Gerschewski et al. 2013). Dựa theo nghiên cứu của Selznick (1949), chúng tôi định nghĩa sự thu nạp là một quá trình mà qua đó các chế độ chuyên chế cố gắng bảo vệ và gìn giữ sự ủng hộ của những nhân vật (chính trị) mà nguồn lực của họ được chế độ chuyên chế coi là cốt yếu cho việc thực thi và giữ gìn quyền lực của mình. Qua biện pháp thu nạp, các nhà lãnh đạo chính trị đưa vào cân nhắc sự phân bố quyền lực thực tế và xoa dịu những người có khả năng chống đối. Họ làm điều này bằng cách phân bố chiến lợi phẩm, và thậm chí hơn thế, bằng cách chia sẻ quyền lực thông qua những dàn xếp thể chế như đưa những nhân vật mới tham gia vào các nhóm ra quyết định chính thức, ví dụ như các đảng phái và nghị viện. Thông qua những dàn xếp chia sẻ quyền lực này, thông tin được chia sẻ, niềm tin được xây dựng, và những cam kết đáng tin cậy được đưa ra (Gandhi và Przeworski 2007, Gandhi 2008, Wright 2008a, Arriola 2009). Đối mặt với những vấn đề kinh tế, việc đưa những nhân vật then chốt tham gia vào các nhóm đưa ra quyết định có hiệu quả bởi nó có thể giảm thiểu rủi ro chia rẽ trong tầng lớp cầm quyền. Trước hết, một đấu trường với những luật lệ và quy trình đã được định trước nhằm giải quyết các đấu tranh nội bộ của tầng lớp cầm quyền đã tồn tại sẵn, và không phải xây dựng lại từ đầu. Thứ hai, do có sự tồn tại trước đó của một đấu trường chính trị như thế, các chính trị gia đã hợp tác với nhau từ trước khi nảy sinh những vấn đề kinh tế. Kết quả là, sự tin tưởng lẫn nhau và niềm tin đã được tích lũy, thuận tiện cho việc tìm kiếm thỏa hiệp và hình thành các phản ứng chung. Sau cùng, việc tham gia vào các nhóm đưa ra quyết định đó làm tăng cường “tinh thần đồng đội” của những người được thu nạp và làm tăng sự gắn bó của họ với chế độ (Brownlee 2008, p.97). Do đó chúng tôi cho rằng: Giả thuyết 2: Thu nạp làm dịu bớt tác động xấu của tăng trưởng kinh tế tiêu cực. Trong khi sự thu nạp đặc biệt nhằm chống lại những đe dọa theo chiều ngang thì đàn áp chủ yếu nhằm đương đầu với những thách thức theo chiều dọc. Theo Davenport (2007), chúng tôi định nghĩa đàn áp là “sử dụng hoặc đe dọa sử dụng những hình phạt chống lại một cá nhân hay tổ chức” (p.2). Những hình phạt này có mức độ tàn bạo khác nhau. Ví dụ, Lucan Way và Steven Levitsky (2006, p.392) phân biệt giữa “những hành động bạo lực hoặc lạm dụng quyền hành có thể quan sát được (bởi cả quốc tế và người dân trong nước), thường áp dụng cho những nhân vật nổi bật hay các nhóm lớn” và “những cố gắng khó quan sát hơn (nhưng thường rất có hệ thống) nhằm giám sát và đàn áp những hoạt động chống đối”. Tương tự, những học giả khác phân biệt giữa những loại đàn áp “cứng so với mềm”, “công khai/có thể quan sát so với tinh vi/không thể quan sát được” hay nói về các biện pháp “đàn áp so với hạn chế” (Earl 2003, Escriba-Folch 2011). Đàn áp mềm bao gồm nhiều dạng khó chịu mà chế độ chuyên chế sử dụng để làm nhụt tinh thần của những người chống đối và để phá hoại nguồn lực tổ chức của họ. Vì những biện pháp này ảnh hưởng tới những người hoạt động khác nhau vào những thời điểm khác nhau, đàn áp mềm làm cản trở hành động tập thể của phe chống đối (Tucker 2007). Nếu được dùng hiệu quả, đàn áp mềm có thể ngăn chặn phe chống đối lợi dụng thời cơ mà suy thoái kinh tế mang lại. Theo cách nói của Soifer, “điều kiện cho phép” của khó khăn kinh tế không đi kèm với “điều kiện hiệu quả” của một phong trào đối kháng được tổ chức tốt và có quyết tâm (Soifer 2012, p.1580). Do đó, đàn áp mềm có thể ngăn chặn khó khăn kinh tế trở thành một thời điểm biến cố quan trọng. Đàn áp cứng bề ngoài cũng phục vụ mục đích tương tự. Bằng cách nào đó, đáng lẽ ra nó phải hiệu quả hơn, khi mà đàn áp cứng dẫn đến mối đe dọa tức thì đối với sinh mạng và sức khỏe cá nhân [người đối kháng]. Tuy nhiên đàn áp cứng cũng có những nhược điểm nghiêm trọng. Thứ nhất, đàn áp cứng rất tốn kém, vì nó đòi hỏi tạo ra những bộ máy trấn áp lớn. Hơn nữa, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, những chế độ đàn áp mạnh mẽ – ít nhất là những chế độ không có tài nguyên thiên nhiên quý giá – đã mất sự ủng hộ từ các quốc gia bảo trợ bên ngoài. Thay vào đó, các nước phương Tây đã ban hành những lệnh cấm vận và trừng phạt kinh tế đối với nhiều chế độ như vậy (Marinov 2005, Allen 2008). Đàn áp cứng do đó có thể góp phần dẫn đến suy thoái kinh tế thảm hại với những hậu quả chính trị mà các chế độ đó không mong muốn. Thứ hai, đàn áp cứng rất dễ quan sát. Nó tạo ra nhiều nạn nhân – có khi thậm chí là cả những người sẵn sàng chấp nhận cái chết. Vì thế, những hành động đàn áp tàn bạo có thể trở thành tiêu điểm giúp phe đối lập vượt qua được những vấn đề hành động tập thể, thúc đẩy các làn sóng cách mạng (Kuran 1991, Tucker 2007). Vì những điều này và các lí do liên quan, đàn áp cứng được cho là kém hiệu quả trong việc kiềm chế những cuộc biểu tình của người dân (Opp và Ruhl 1990, Muller et al. 1991). Sau cùng, đàn áp cứng có khả năng kích động sự chia rẽ tầng lớp lãnh đạo. Giết hại hàng loạt thường dân – đặc biệt là nếu người dân biểu tình một cách hòa bình – có thể dẫn đến sự đào ngũ ở những thành viên cấp cao cũng như cấp thấp trong bộ máy an ninh, như chúng ra đang chứng kiến tại Syria (Ulfelder 2005, Chenoweth và Stephan 2011). Tóm tắt những thảo luận về tác động của đàn áp cứng và mềm, chúng tôi đưa ra hai giả thiết cuối cùng: Giả thuyết 3a: Đàn áp mềm làm dịu những hậu quả xấu của tăng trưởng kinh tế tiêu cực. Giả thuyết 3b: Đàn áp cứng không làm dịu những hậu quả xấu của tăng trưởng kinh tế tiêu cực. Tóm lại, chúng tôi cho rằng các chế độ chuyên chế dễ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi suy thoái kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, các mối đe dọa theo chiều ngang và dọc đến chính thể chuyên chế sẽ xuất hiện. Nhưng các lãnh đạo chuyên chế có thể đối đầu với những thách thức theo chiều ngang thông qua các dàn xếp chia sẻ quyền lực được thể chế hóa (thu nạp), và những thách thức theo chiều dọc bằng cách làm nhụt ý chí và khả năng của những người đối kháng trong việc lợi dụng sự bất mãn lan rộng trong thời kì suy thoái kinh tế (đàn áp mềm). Tuy nhiên, kể cả khi hiệu quả của đàn áp mềm và biện pháp thu nạp đối với sự tồn tại của chế độ chuyên chế có vẻ đáng tin cậy về mặt lý thuyết, nó vẫn cần phải được kiểm tra thực nghiệm. Tương tự, kể cả khi đàn áp cứng đáng lý ra không giúp những người cầm quyền chuyên chế giữ được quyền lực, giả thuyết có vẻ đúng đó vẫn cần phải được khảo sát. 3. Dữ liệu và thống kê mô tả 4. Mô hình 5. Kết quả 6. Thảo luận Kết quả thực nghiệm đầu tiên trong nghiên cứu của chúng tôi xác nhận các công trình thực nghiệm và lí thuyết trước đó cho rằng các chế độ chuyên chế sẽ không hoạt động tốt nếu gặp phải khó khăn kinh tế kéo dài. Các chế độ chuyên chế thiếu những chiếc van an toàn dưới dạng các cuộc bầu cử dân chủ và chúng không có gì khác ngoài kết quả phát triển kinh tế để biện minh cho sự phủ nhận các quyền và tự do căn bản nếu như nguồn hỗ trợ ý thức hệ đã bị cạn kiệt hay không tồn tại ngay từ đầu. Thực tế, sự đánh đổi giữa các quyền chính trị với sự no ấm về vật chất thường là đặc điểm cốt lõi của các nhà nước chuyên chế, dựa trên phát triển kinh tế và phi ý thức hệ. Nếu như sự đánh đổi này chuyển thành những lời hứa hão không mang lại cho công dân bất cứ điều gì khác ngoài giới lãnh đạo bất tài và đàn áp, thì các chế độ chuyên chế trở nên đặc biệt dễ bị tổn thương bởi suy thoái kinh tế và vì thế dễ sụp đổ hơn. Dĩ nhiên là có những ngoại lệ cho quy luật này. Bắc Triều Tiên – một trong các chế độ chuyên chế nghèo nhất, đàn áp nhất và tồn tại dai dẳng nhất ngày nay – xuất hiện trong suy nghĩ của chúng ta, nhưng ngoài ra còn có Cuba, Uzbekistan, và một vài nhà nước khác. Bởi vì Bắc Triều Tiên và Cuba là những pháo đài cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản còn tồn tại đến nay, có thể hiểu được rằng tính chính danh của hai chế độ này không bắt nguồn chủ yếu từ sự “hỗ trợ cụ thể” mà kết quả phát triển kinh tế mang lại, mà xuất phát từ sự “hỗ trợ phân tán” được tạo ra bởi nền tảng ý thức hệ mạnh mẽ, các truyền thống và giáo dục tư tưởng (Easton 1979[1965]). Đáng tiếc là khi thiếu những dữ liệu đáng tin cậy, chúng ta không thể đưa vào xem xét các yếu tố “hỗ trợ phân tán” này hay kiểm tra trực tiếp xem liệu hệ tư tưởng có thể bù đắp cho việc tăng trưởng kinh tế yếu kém hay không. Vì vậy, trừ khi chúng tin rằng tính chính danh hoàn toàn không quan trọng đối với sự tồn tại của các chế độ chuyên chế (Przeworski 1992, p.107), chúng ta cần nhiều nghiên cứu hơn về “các nền tảng của tính chính danh” của các chế độ chuyên chế.6 Những nghiên cứu sau này cũng có thể hữu dụng khi so sánh những kết quả của chúng tôi với những kết quả thực nghiệm của Gasiorowski (1995). Nếu chúng tôi lặp lại bài nghiên cứu của ông ấy 20 năm sau mà vẫn cho thấy những rủi ro kinh tế hiếm khi dẫn tới các quá trình chuyển đổi dân chủ, thì chúng ta sẽ gặp phải một hệ quả thú vị: các cuộc khủng hoảng kinh tế làm gia tăng viễn cảnh thất bại của các chế độ chuyên chế nhưng hiếm khi dẫn tới quá trình chuyển đổi sang dân chủ. Điều này trái ngược với những phương pháp tiếp cận coi thất bại của chế độ chuyên chế sau các cuộc suy thoái kinh tế là ngòi nổ kích động những người dân không có quyền bầu cử nổi dậy chống lại chế độ độc tài đã mất tính chính danh (Acemoglu và Robinson 2001). Thay vào đó, nó sẽ gợi lên rằng rối loạn kinh tế thường dẫn đến thất bại của chế độ chuyên chế thông qua sự chia rẽ của tầng lớp lãnh đạo (Geddes 1999). Các nghiên cứu bổ sung với một biến phụ thuộc phân tách có thể đưa ra những câu trả lời chắc chắn hơn. Nhưng không chỉ biến phụ thuộc có thể được phân biệt chi tiết hơn mà phía bên phải của phương trình cũng cần bổ sung thêm các yếu tố khác. Điều này đặc biệt đúng đối với tăng trưởng kinh tế. Các chế độ chính trị quá phức tạp để có thể mô hình hóa số phận của chúng bằng một hàm số duy nhất dựa trên chỉ các tham số kinh tế. Chúng tôi đã lập luận ở đầu bài rằng không phải cấu trúc mà là hành động chính trị, bị giới hạn bởi các kết cấu cơ hội cụ thể, quyết định sự tồn tại hay sụp đổ của các chế độ chuyên chế. Phân tích của chúng tôi nói lên điểm đó. Việc đưa vào xem xét yếu tố đàn áp và thu nạp đã làm thay đổi kết quả phương trình kinh tế đơn giản một cách rõ ràng, cho thấy tầm quan trọng của các biện pháp hành động mà tầng lớp lãnh đạo chuyên chế thực hiện. Thu nạp được xem như là phương tiện chính mà các nhà cầm quyền chuyên chế sử dụng để cố gắng chống lại mối đe dọa theo chiều ngang của sự chia rẽ tầng lớp lãnh đạo mà Geddes và những người khác đã nghiên cứu. Thật ra, các nghiên cứu gần đầy về sự ổn định của các chế độ chuyên chế gần như chỉ chú trọng vào tầng lớp tinh hoa cầm quyền và cách các chế độ chuyên chế cố gắng gìn giữ sự gắn kết của tầng lớp này. (Geddes 2004, Gandhi và Przeworski 2007, Magaloni 2008, Boix và Svolik 2013). Những kết quả của chúng tôi không xác nhận tầm quan trọng của biện pháp thu nạp như là một phương tiện bảo vệ sự tồn tại chế độ dưới áp lực kinh tế. Tuy nhiên, khái niệm thu nạp của chúng tôi chỉ bao gồm hai thể chế hợp tác chính thức – đó là các đảng phái và các quốc hội. Tuy nhiên các thể chế chính thức và không chính thức khác cũng có thể đóng vai trò quan trọng (Stefes 2006, Darden 2008). Mặc dù vậy, chúng tôi không được phép giả thiết rằng tất cả các thể chế đều tiến hành cùng một chức năng tốt như nhau tại mọi thời điềm, hay trong bất cứ hoàn cảnh nào. Những nghiên cứu gần đây chứng minh rõ rằng, tùy vào nguồn gốc của chúng và những yếu tố bên ngoài, các thể chế như bầu cử, nghị viện, đảng phái, và tòa án có thể giúp ổn định nhưng cũng có thể gây bất ổn cho các chế độ chuyên chế (Osborne và Rubinstein 1994, Smith 2005, Brownlee 2007, Ginburg và Moustafa 2008, Lindberg 2009). Vì thế chúng tôi không phủ nhận rằng sự thu nạp có khả năng làm dịu các ảnh hưởng xấu của suy thoái kinh tế đến các chế độ chuyên chế. Tuy nhiên, các kết quả từ nghiên cứu với số mẫu lớn của chúng tôi vẫn mâu thuẫn với nhận thức thông thường rằng thu nạp là một công cụ hiệu quả của tầng lớp tinh hoa cầm quyền chuyên chế nhằm vượt qua khó khăn kinh tế. Thu nạp có thể là một công cụ hiệu quả để ổn định hóa các chế độ chuyên chế trong dài hạn. Tuy nhiên, trong ngắn hạn và trung hạn sau suy thoái kinh tế, nó có vẻ là một vũ khí không đủ sắc bén để có thể cứu vãn chế độ chuyên chế khỏi sụp đổ. Nói đến đàn áp, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chắc chắn rằng đàn áp mềm đóng một vai trò quan trọng trong việc hấp thu những tác động gây bất ổn của suy thoái kinh tế. Chúng tôi sử dụng các hạn chế quyền tự do chính trị, vốn về biểu hiện bao gồm một phạm vi đáng kể các hình hức đàn áp mềm. Tuy nhiên số cách thức khôn khéo nhằm bóp nghẹt hoạt động chống đối lớn hơn hiều, từ đóng băng tài khoản công ty, đình chỉ hay rút giấy phép kinh doanh để bảo đảm duy trì lòng trung thành của tầng lớp tinh hoa kinh tế, đến các vụ kiện tội vu cáo nhằm bịt miệng những nhà báo hay phê phán, và những chuyến thăm thường xuyên của các vị thanh tra thuế nhằm làm kinh sợ các tổ chức phi chính phủ. Ví dụ, những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng kiểm soát của các nước đối với nền kinh tế có vẻ làm củng cố thêm chế độ chuyên chế (O’Donnell 1996, Way 2012).7 Cần phải có một nghiên cứu chi tiết hơn về tác động của đàn áp mềm để làm vững chắc thêm những giả định lý thuyết và kết quả thực nghiệm của chúng tôi. Một phát hiện khác của nghiên cứu này liên quan đến tác động của đàn áp cứng. Trong khi giả định lý thuyết rằng đàn áp cứng có thể phản tác dụng là có lí, thì các bằng chứng thực nghiệm hỗ trợ điều này lại rất ít và không đáng kể về mặt thống kê. Hơi nữa, chúng tôi cần phải ghi nhớ rằng chúng tôi xem xét đàn áp cứng chỉ trong thời gian ngắn ngay trước khi chế độ sụp đổ, và thời gian này nhìn chung diễn ra cùng lúc với những rối loạn kinh tế. Tuy nhiên, các lãnh đạo chuyên chế có thể tăng mức độ đàn áp cứng nếu lường trước rối loại kinh tế sẽ diễn ra. Trong trường hợp đó, chúng ta có khả năng chứng kiến các cuộc đào ngũ của binh lính và sự rạn nứt trong giới lãnh đạo cấp cao của lực lượng vũ trang, bởi quân đội không phải luôn được huấn luyện để đàn áp người dân trên quy mô lớn. Quân đội từng là một công cụ đàn áp hiệu quả ở Mỹ Latinh, Syria, Trung Quốc và một số nước châu Á khác, nhưng nó trở nên vô dụng đối với những nhà cầm quyền chuyên chế ở Ai Cập, Tunisia và các nước cộng sản Đông Âu. Nói cách khác, sẽ khá là ngây thơ khi cho rằng các nhà cầm quyền chuyên chế luôn có thể sử dụng đàn áp cứng nếu như các cấu trúc quy trình chưa được thiết lập từ trước. Tuy nhiên, nếu đàn áp cứng đã ăn sâu vào máu thịt của chế độ chuyên chế, nó có thể sẽ có tác dụng tốt như là một công cụ duy trì ổn định chế độ – một lần nữa, có thể lấy Bắc Triều Tiên và Uzbekistan làm ví dụ cho điều này. Quan sát này đưa chúng ta đến một điểm cuối cùng. Các bộ máy chuyên chế có thể dựa vào nhiều phương tiện khác nhau để bảo vệ chúng trước tác động gây bất ổn của tăng trưởng kinh tế tiêu cực. Tuy nhiên, những phương tiện này không có sẵn ngay bất cứ chỗ nào hay khi nào cần. Ví dụ, như đã nói đến ở trên, sức mạnh của các thể chế thu nạp có thể biến đổi đáng kể và các nhà hoạt động chính trị thường không thể thay đổi chúng trong thời gian ngắn. Một chế độ chuyên chế vì thế có thể trông bề ngoài vững chắc hơn thực tế. Các điểm yếu của nó rốt cuộc bị phơi bày trong những khoảng thời gian khủng hoảng (kinh tế) (Gerschewski et al. 2013). Như Gourevitch (1986) đã nói rất hay rằng: “Những thời điểm khó khăn làm phơi bày những ưu và nhược điểm, cho phép những người quan sát nhìn thấy những mối quan hệ thường bị che khuất trong những thời kì thịnh vượng, khi mà mọi thứ tốt đẹp làm dịu các xu hướng tranh giành và thách thức [quyền lực]” (p.9). Suy nghĩ này khiến chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn về nền tảng thể chế của chính thể chuyên chế, với lưu ý rằng các nhà cầm quyền chuyên chế không phải là những nạn nhân kém may mắn của những diễn biến kinh tế bất lợi. 7. Kết luận Các học giả xếp những trục trặc về kết quả phát triển kinh tế trong số các lí do quan trọng nhất cho sự sụp đổ của các chế độ chuyên chế. Bài nghiên cứu này không phải là một ngoại lệ. Như đã trình bày, số phận của các chế độ chuyên chế và nền kinh tế của chúng có liên hệ chặt chẽ. Suy giảm kinh tế càng mạnh thì các mối đe dọa theo chiều ngang và chiều dọc càng dễ xuất hiện, làm suy yếu một cách sâu sắc khả năng nắm giữ quyền lực của chế độ chuyên chế. Quan sát 160 chế độ chuyên chế từ năm 1981 đến 2008, nghiên cứu của chúng tôi đưa đàn áp và thu nạp vào thành những biến số chính trị có khả năng làm dịu tác động bất lợi của khó khăn kinh tế. Theo kết quả của chúng tôi, nhiều phương pháp đàn áp mềm khôn khéo có thể làm suy yếu khả năng của phe chống đối trong việc huy động lực lượng chống lại chế độ và từ đó giúp chế độ chuyên chế bám giữ quyền lực ngay cả trong thời điểm suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, các hành động đàn áp cứng không có hiệu quả và thậm chí có thể phản tác dụng. Hơn nữa, nghiên cứu của chúng tôi mâu thuẫn với nhiều nghiên cứu đã xuất bản vốn cho rằng các thể chế mang hình thức dân chủ như nghị viện và đảng phái giúp bình ổn các chế độ chuyên chế bằng cách thu nạp những nhà hoạt động có năng lực hoặc ngăn chặn sự chia rẽ tầng lớp tinh hoa cầm quyền. Người ta có thể nghi ngờ những kết quả bất ngờ này bằng cách viện dẫn mẫu nghiên cứu và cách định nghĩa của chúng tôi về sự thu nạp. Tuy nhiên, cũng rõ ràng không kém là tác động của các thể chế mang hình thức dân chủ phụ thuộc phần lớn vào bối cảnh, không thể nhận thấy được trong nghiên cứu sử dụng số lượng mẫu lớn. Không có những câu trả lời dễ dàng nào khi đi tìm các nguyên nhân giúp ổn định hay làm xói mòn các chế độ chuyên chế. Tuy nhiên, rõ ràng là khủng hoảng kinh tế làm tổn thương nỗ lực nắm giữ quyền lực của các nhà độc tài. Nhưng mệnh đề này chắc chắn cần dựa vào điều kiện là khả năng đàn áp và thu nạp người đối kháng của họ. Những điều kiện này, đến lượt chúng, lại khơi nguồn cho những nỗ lực nghiên cứu mới có thể cung cấp thêm những thông tin chi tiết hơn về chính trị chuyên chế. Ghi chú Tài liệu tham khảo Xem toàn bộ văn bản tại đây: Thoi ky kho khan va sup do che do.pdf [1] Các tác giả sử dụng khái niệm “độc tài” (autocratic) và “chuyên chế” (authoritarian) theo nghĩa như nhau – NHĐ
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:07:24 GMT 9
Nguồn gốc những xung đột lớn trong thế kỷ 20
Nguồn: Nye, Joseph S. (2007). “Origins of the Great Twentieth-Century Conflicts?” (Chapter 2), in Joseph S. Nye, Understanding International Conflicts (New York: Longman), pp. 33-58.
Biên dịch: Trần Nguyên Khang, Lê Hồng Hiệp | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: Nguon goc nhung xung dot lon trong tk 20.pdf
Hệ thống quốc tế và các mức độ nhân quả
Chiến tranh thường được giải thích là do hệ thống quốc tế, nhưng “hệ thống quốc tế” là gì? Theo từ điển, hệ thống là tập hợp của các đơn vị có liên quan đến nhau. Có thể dễ dàng xác định được các hệ thống chính trị trong nước bởi các khái niệm thể chế rõ ràng như: tổng thống, quốc hội/ nghị viện, vv…. Các hệ thống chính trị quốc tế ít mang tính tập trung và kém rõ ràng hơn. Nếu không có Liên Hiệp Quốc vẫn tồn tại một hệ thống quốc tế. Hệ thống quốc tế gồm không chỉ các quốc gia. Hệ thống chính trị quốc tế là mẫu hình của mối quan hệ giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm tính chất cụ thể về mặt thể chế của các hệ thống chính trị trong nước. Các hệ thống này cũng bao gồm các khía cạnh vô hình như thái độ công chúng, vai trò của báo chí hoặc một vài quy định bất thành văn của luật pháp. Tuy nhiên, điều quan trọng trong bất kỳ hệ thống nào là toàn bộ hệ thống luôn lớn hơn tổng của các bộ phận, tức các bộ phận cấu thành mà chúng ta đã định nghĩa ở Chương 1 như các chủ thể, các công cụ, và các mục tiêu. Hệ thống có thể tạo ra các hệ quả ngoài dự kiến của các chủ thể cấu thành. Lấy ví dụ như hệ thống thị trường trong kinh tế học. Mỗi công ty kinh doanh trong một thị trường hoàn hảo đều cố gắng tối đa hóa lợi nhuận, nhưng hệ thống thị trường tạo ra sự cạnh tranh sẽ làm giảm lợi nhuận xuống điểm hoà vốn, từ đó người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi. Doanh nghiệp không kinh doanh nhằm làm lợi cho người tiêu dùng, nhưng mẫu hình ứng xử của từng doanh nghiệp trong một thị trường hoàn hảo sẽ dẫn đến kết quả đó. Nói cách khác, hệ thống tạo ra các hệ quả có thể khá khác biệt so với ý định của các chủ thể trong hệ thống đó.
Tương tự như vậy, hệ thống chính trị quốc tế cũng có thể dẫn đến những hệ quả không theo như dự kiến ban đầu của các chủ thể. Ví dụ vào năm 1917 khi những người Bônsêvic lên nắm quyền tại Nga, họ đánh giá toàn bộ hệ thống ngoại giao giữa các nhà nước trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất như một thứ vô nghĩa của giai cấp tư sản. Họ dự định quét sạch hệ thống liên nhà nước này và hi vọng rằng các cuộc cách mạng sẽ đoàn kết tất cả công nhân trên toàn thế giới và xóa bỏ mọi ranh giới. Tình đoàn kết vô sản quốc tế sẽ thay thế cho hệ thống các quốc gia. Thực tế khi Leon Trotsky đảm đương Bộ Ngoại giao Nga, ông đã chủ trương đưa ra những tuyên bố cách mạng đến các dân tộc trên thế giới rồi “gắn kết các khớp nối lại”. Nhưng những người Bônsêvic cuối cùng cũng nhận ra hành vi của họ nhanh chóng bị tác động bởi bản chất của hệ thống giữa các quốc gia. Năm 1922, quốc gia cộng sản non trẻ ký Hiệp ước Rapallo với Đức. Như vậy, đây là một liên minh giữa những kẻ “bị thế giới ruồng bỏ”, những quốc gia không được chấp nhận của thế giới ngoại giao sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1939, Josef Stalin cũng ký một hiệp định với kẻ thù nguy hiểm nhất về ý thức hệ của mình là Adolf Hitler, nhằm đẩy Hitler chỉa họng súng sang phía Tây. Như vậy bất chấp tuyên bố và tưởng vọng của Trotsky, hành vi của Liên Xô nhanh chóng trở nên tương đồng với các chủ thể khác trong hệ thống quốc tế.
Sự phân bổ quyền lực giữa các quốc gia trong một hệ thống quốc tế sẽ giúp chúng ta dự đoán về những khía cạnh nhất định trong hành vi của các quốc gia. Tư duy địa chính trị truyền thống cho rằng vị trí địa lý và khoảng cách xa gần giữa các quốc gia sẽ cho thấy nhiều điều về cách hành xử của các quốc gia. Do các nước láng giềng thường có nhiều mối liên hệ và các điểm va chạm tiềm tàng nên không có gì ngạc nhiên khi một nửa số các cuộc xung đột từ 1816 đến 1992 là giữa các quốc gia láng giềng.[1] Một quốc gia cảm thấy bị một nước láng giềng đe doạ sẽ có xu hướng hành động theo câu tục ngữ xưa “kẻ thù của kẻ thù là bạn của ta”. Đó là cách hành xử thường thấy trong một các hệ thống vô chính phủ. Ví dụ, ba thế kỷ trước Công nguyên tác gia Ấn Độ Kautilya đã chỉ ra rằng các quốc gia thuộc tiểu lục địa Ấn Độ thường liên minh với những quốc gia ở xa nhằm chống lại mối đe dọa của những nước láng giềng, tạo nên một dạng liên minh kiểu bàn cờ. Hay Machiavelli cũng đã ghi nhận những hành vi tương tự giữa các thành bang thế kỷ 15 ở Ý. Đầu những năm 1960, khi các quốc gia Tây Phi giành được độc lập từ các ông chủ thực dân người ta đã đề cập rất nhiều về sự đoàn kết Châu Phi, nhưng các quốc gia này nhanh chóng tạo nên một mô hình các liên minh kiểu bàn cờ giống như những gì Kautilya đã mô tả về Ấn Độ cổ đại. Ghana, Guinea và Mali là những nước có ý thức hệ cấp tiến trong khi Senegal, Bờ Biển Ngà và Nigeria lại là những quốc gia tương đối bảo thủ, và các nước này cũng đã cân bằng quyền lực lẫn nhau. Một ví dụ khác là mẫu hình xuất hiện ở Đông Á sau chiến tranh Việt Nam. Nếu Liên Xô là ô cờ màu đen thì Trung Quốc sẽ là ô màu đỏ, Việt Nam màu đen thì Campuchia màu đỏ. Một mô hình bàn cờ hoàn hảo đã được hình thành. Thật trớ trêu là nước Mỹ đã tham chiến tại Việt Nam vì các nhà hoạch định chính sách tin vào thuyết đôminô, cho rằng nếu một quốc gia rơi vào vòng tay chủ nghĩa cộng sản thì sẽ kéo theo một quốc gia khác, và cứ tiếp tục như thế. Nếu nước Mỹ có tầm nhìn xa hơn thì đã nhận ra rằng tình hình ở Đông Á giống một ván cờ hơn là trò đôminô, và nước Mỹ có thể đã đứng ngoài cuộc. Thế bàn cờ với các ô đan xen dựa trên nguyên tắc “kẻ thù của kẻ thù là bạn ta” là một truyền thống địa chính trị lâu đời giúp chúng ta đưa ra những dự đoán hữu ích trong một tình huống vô chính phủ.
Các cấp độ phân tích
Các hệ thống không phải là cách duy nhất để mô tả những gì diễn ra trong chính trị quốc tế. Trong cuốn “Man, the State, and War” (Con người, Quốc gia và Chiến tranh), Kenneth Waltz đã phân chia ba cấp độ nguyên nhân dẫn đến chiến tranh: cá nhân, quốc gia và hệ thống quốc tế.
Các nguyên nhân ở mức độ cá nhân thường không đủ để giải thích vì ngay bản chất của chính trị quốc tế hàm ý vai trò của các quốc gia lớn hơn vai trò của cá nhân. Nếu quá tập trung vào ý định của các cá nhân, chúng ta có thể sẽ không nhận ra những hậu quả không mong muốn của các hành động cá nhân gây nên bởi chính hệ thống mà cá nhân đó vận hành. Ví dụ như trường hợp các quốc gia Châu Phi, nếu từ đầu chúng ta chỉ tập trung vào sự chân thành trong ý định của các nhà lãnh đạo về một tình đoàn kết toàn Châu Phi, như trường hợp tổng thống đầu tiên của Tanzania Julius K. Nyerere, thì chúng ta sẽ bỏ qua tầm quan trọng của tác động do cấu trúc vô chính phủ gây ra đối với những các quốc gia Châu Phi non trẻ này.
Điều này không có nghĩa là vai trò của các cá nhân không quan trọng. Ngược lại là đằng khác. Pericles đã tạo nên sự khác biệt trong cuộc chiến Peloponesia. Saddam Husein là một nhân tố quan trọng trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, tương tự như vai trò của George W. Bush trong Chiến tranh Iraq năm 2003. Trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, John. F. Kennedy và Nikita Khrushchev đối diện với nguy cơ diễn ra chiến tranh hạt nhân và quyết định cuối cùng nằm trong tay họ. Nhưng tại sao họ lâm vào tình huống đặc biệt như vậy lại không thể giải thích được ở cấp độ cá nhân. Một yếu tố nào đó liên quan đến cấu trúc của tình huống đã đặt họ vào vị trí đó. Tương tự như thế, tìm hiểu về tính cách của Hoàng đế Wilhelm đệ Nhị hay Hitler là cần thiết để hiểu được nguyên nhân Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai, nhưng đó không phải là một lời giải thích đầy đủ. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương sau, việc Wilhelm đệ Nhị cách chức Thủ tướng Otto won Bismarck vào năm 1890 đã tạo nên sự khác biệt, song điều đó không có nghĩa là Chiến tranh thế giới lần thứ nhất hoàn toàn do Wilhelm đệ nhị gây ra.
HỆ THỐNG VÀ CHIẾN TRANH Sau cuộc chiến tranh trước, hệ thống thế giới được chia thành hai cực riêng biệt. Thế lưỡng cực này dẫn đến sự cứng nhắc và gây mất an ninh sâu sắc. Một liên minh được hình thành xung quanh một cường quốc lục địa có chế độ độc tài, còn một liên minh khác lại xuất hiện xung quanh một cường quốc dân chủ với giao thương và văn hoá rộng mở và chiếm ưu thế về hải quân. Cả hai bên đều lo sợ đối thủ sẽ giành được lợi thế quyết định trong cuộc xung đột mà cả hai bên đều dự báo sẽ xảy ra. Thật trớ trêu rằng chính cuộc nội chiến tại một quốc gia nhỏ yếu vốn chỉ đe doạ dẫn đến những thay đổi nhỏ trong các liên minh lại là nguyên nhân làm cho cảm giác bị đe dọa trong cả hai liên minh tăng cao và thực tế đã châm ngòi cho cuộc chiến tranh.Đoạn văn trên miêu tả cuộc chiến nào: Chiến tranh Peloponese, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất hay Chiến tranh lạnh? Một phiên bản khác của cách giải thích ở cấp độ cá nhân của Waltz lại tìm cách giải thích về chiến tranh không dựa vào đặc điểm tính cách các cá nhân mà dựa vào những đặc điểm chung giữa họ, hay “bản chất con người” chung của tất cả các cá nhân. Ví dụ, những người theo quan điểm của Calvin về chính trị quốc tế cho rằng nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến chiến tranh chính là do bản chất xấu xa ẩn sâu trong mỗi con người chúng ta. Như vậy, chiến tranh là hệ quả của sự không hoàn hảo trong bản chất con người. Nhưng cách lý giải như vậy không thoả đáng vì nó không giúp chúng ta hiểu tại sao có những nhà lãnh đạo xấu xa lại gây nên chiến tranh trong khi những nhà lãnh đạo xấu xa khác lại không, hoặc tại sao có những lãnh đạo tốt lại làm chiến tranh nổ ra trong khi những người khác lại không. Sự phân tích và giải thích ở cấp độ cá nhân không thể đưa ra câu trả lời thoả đáng. Những lý thuyết như thế đã dự đoán quá mức, tức chúng có tính đến yếu tố nào đó nhưng lại tính quá nhiều. Nếu như không có sự phân biệt thì chúng ta không thể giải thích được. Hai cái kim của một chiếc đồng hồ chết có thể chỉ đúng giờ mỗi ngày hai lần, nhưng trong phần lớn thời gian trong ngày chúng lại chỉ sai giờ.
Dự đoán quá mức cũng là vấn đề lặp lại trong các nỗ lực giải thích chính trị quốc tế ở cấp độ phân tích thứ hai, đó là bản chất của quốc gia hay xã hội. Người ta đặt ra một câu hỏi tương tự: Nếu một loại xã hội nào đó có thể gây nên chiến tranh thì tại sao có một số quốc gia “xấu xa” hay xã hội “xấu xa” lại không gây nên chiến tranh? Và tại sao một số xã hội hay quốc gia “tốt đẹp” lại gây nên chiến tranh? Tùy bạn định nghĩa thế nào là “xấu xa” hay “tốt đẹp” – dân chủ, cộng sản, hay tư bản, vv….Ví dụ, sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất người ta rất nhiệt tình tin tưởng rằng sự chiến thắng của các nền dân chủ đồng nghĩa chiến tranh sẽ có ít cơ hội diễn ra hơn. Nhưng rõ ràng các nền dân chủ cũng có thể tham gia chiến tranh, và họ thường làm như vậy. Rõ ràng Athens là một nền dân chủ. Các học giả theo chủ nghĩa Marx lập luận rằng chiến tranh sẽ không còn nữa khi tất cả các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng rõ ràng đã nổ ra những xung đột quân sự giữa các quốc gia cộng sản, như giữa Trung Quốc và Liên Xô, hay giữa Việt Nam và Campuchia. Vì vậy bản chất của một xã hội, dù là dân chủ, tư bản hay cộng sản cũng không phải là một chỉ dấu đủ để cho thấy khả năng quốc gia đó tham gia chiến tranh cao đến đâu.
Có một giả thiết (sẽ được đề cập cụ thể sau) cho rằng nếu tất cả các quốc gia đều theo chế độ dân chủ thì chiến tranh sẽ ít nổ ra hơn. Trên thực tế, rất khó để chỉ ra những trường hợp các nền dân chủ tự do tiến hành chiến tranh chống lại nhau, mặc dù trong nhiều trường hợp các quốc gia dân chủ tự do đã gây chiến với các quốc gia phi dân chủ. Nguyên nhân của phát hiện thực tế này là gì và liệu trong tương lai thực tế này có được duy trì hay không là điều chưa có lời giải đáp chính xác, nhưng nó giúp đưa ra một vài điều thú vị để chúng ta có thể tiến hành tìm hiểu ở cấp độ phân tích thứ hai này.
Các lời giải thích thú vị thường liên quan đến mối quan hệ giữa cấp độ phân tích thứ hai (quốc gia hay xã hội) và cấp độ thứ ba (hệ thống quốc tế). Song, đâu là cấp độ quan trọng hơn, hệ thống hay bản chất của các quốc gia cấu thành nên hệ thống? Phân tích ở cấp độ hệ thống có thể coi cách giải thích từ ngoài vào trong – tìm hiểu cách hệ thống tác động, hạn chế hành vi của các quốc gia như thế nào. Ngược lại, cấp độ phân tích thứ hai là lối giải thích từ trong ra ngoài – giải thích kết quả bằng cách phân tích những gì đang diễn ra trong lòng các quốc gia.
Thông thường chúng ta cần thông tin về cả hai cấp độ phân tích trên nên chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Có một quy tắc hữu ích là nên bắt đầu từ cách tiếp cận đơn giản nhất, vì tốt hơn hết là có được một giải thích đơn giản nhưng đầy đủ. Đây được gọi là nguyên tắc “đi đường ngắn nhất”, hay quy tắc “lưỡi lam của Occam” đặt theo tên của nhà triết học thế kỷ 14 William Occam, người cho rằng lời giải thích tốt bao giờ cũng lược bỏ những chi tiết rườm rà không quan trọng. Nguyên tắc “đi đường ngắn nhất” – khả năng giải thích nhiều điều chỉ với ít ngôn từ – chỉ là một trong những tiêu chí mà chúng ta dựa vào để đánh giá mức độ đầy đủ của các học thuyết. Người ta cũng quan tâm đến phạm vi của học thuyết (học thuyết giải thích bao nhiêu hành vi), và sức mạnh giải thích của học thuyết đó (nó giải thích được bao nhiêu điều chưa được giải thích hay bao nhiêu trường hợp đặc biệt). Dù sao thì quy tắc “đi đường ngắn nhất” cũng chỉ cho ta thấy nên khởi đầu từ đâu. Vì những giải thích ở cấp độ hệ thống có vẻ đơn giản nhất nên chúng ta nên bắt đầu từ đây. Nếu cách giải thích này không đủ thì chúng ta có thể xét đến các đơn vị của hệ thống và tăng tính phức tạp lên cho đến khi đạt được một lời giải thích hợp lý.
Hệ thống: Cấu trúc và tiến trình
Sự giải thích ở cấp độ hệ thống sẽ đơn giản hay cực kỳ phức tạp? Một số nhà tân hiện thực như Kenneth Waltz ủng hộ trường phái “đi đường ngắn nhất”, chỉ tập trung vào cấu trúc mà thôi. Các nhà theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa kiến tạo lại cho rằng khái niệm hệ thống như của Waltz là quá hạn hẹp, chỉ có thể giải thích được một số ít vấn đề. Chúng ta có thể thấu hiểu những tranh cãi trái chiều này bằng cách phân biệt hai mặt của một hệ thống: cấu trúc và tiến trình. Cấu trúc của hệ thống chỉ sự phân bổ quyền lực; trong khi tiến trình lại đề cập đến cách thức và phân loại mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố cấu thành. Cấu trúc và tiến trình rõ ràng có tác động lẫn nhau, và có thể biến đổi tùy theo độ dài thời gian mà chúng ta xem xét, song cấu trúc mang tính chất cơ bản, nền tảng hơn và thay đổi chậm hơn so với tiến trình.
Các nhà kinh tế học lấy sự tập trung quyền lực của người bán làm đặc tính cơ bản cho cấu trúc thị trường. Thị trường độc quyền bán có một người nhà cung cấp lớn duy nhất, thị trường lưỡng độc quyền có hai nhà cung cấp lớn, thị trường đa độc quyền có một nhóm những nhà cung cấp lớn, còn trong một thị trường hoàn hảo thì sức cung được chia sẻ bởi rất nhiều nhà cung cấp. Tương tự, khoa học chính trị mô tả cấu trúc của hệ thống quan hệ quốc tế là đơn cực nếu chỉ có một trung tâm quyền lực duy nhất. Trong cấu trúc lưỡng cực, có hai trung tâm quyền lực, có thể là hai quốc gia lớn hoặc hai hệ thống liên minh chặt chẽ chi phối toàn bộ hệ thống chính trị. Cấu trúc đa cực có thể có ba trung tâm quyền lực hoặc nhiều hơn. Nếu tồn tại nhiều quốc gia với sức mạnh tương đương, cân bằng, chúng ta có thể nói rằng có sự phân tán quyền lực.
Quay trở lại ví dụ về kinh tế nêu trên. Những doanh nghiệp muốn tối đa hoá lợi nhuận trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo cũng sẽ mang lại lợi ích cho khách hàng, song kết quả của quá trình này thế nào còn phụ thuộc vào cấu trúc của hệ thống thị trường. Nếu là thị trường độc quyền hoặc đa độc quyền, các kết quả mang lại sẽ hoàn toàn khác nhau. Nhà sản xuất lớn có thể tăng lợi nhuận bằng cách hạn chế sản xuất, giảm cung và tăng giá bán. Vì vậy, nếu hiểu rõ về cấu trúc thị trường, các nhà kinh tế học sẽ dễ dàng hơn trong việc tiên đoán được hành vi và biết ai là người hưởng lợi.
Tương tự, các nhà chính trị học sẽ dựa trên cấu trúc của hệ thống quốc tế để đưa ra những dự đoán về hành vi của các quốc gia cùng với xu hướng của họ trong việc gây chiến. Hệ thống đơn cực có xu hướng dần dần bị xói mòn vì các quốc gia cố gắng giữ gìn độc lập của mình bằng cách ra sức cân bằng lực lượng với quốc gia nắm quyền lực chi phối – thường gọi là quốc gia bá quyền – hoặc sẽ có một quốc gia đang nổi lên cuối cùng sẽ đe doạ vị trí lãnh đạo của quốc gia mạnh nhất hiện thời. Trong một hệ thống đa cực hay phân tán quyền lực, các quốc gia sẽ hình thành các liên minh cân bằng quyền lực, song các liên minh lại thường kém bền vững và có thể dễ dàng thay đổi. Chiến tranh có thể nổ ra song thường có phạm vi hạn chế. Trong một hệ thống lưỡng cực, các liên minh thường gắn kết chặt chẽ hơn, vì vậy có khả năng dẫn tới xung đột lớn, thậm chí có thể là chiến tranh trên phạm vi toàn cầu. Một số nhà phân tích cho rằng: “các hệ thống lưỡng cực hoặc bị xói mòn, hoặc sẽ bùng nổ”. Điều này đã được chứng minh trong cuộc chiến Peloponnese khi thành Athens và thành Sparta siết chặt mối dây liên hệ với các đồng minh trong khối của mình. Điều đó lại một lần nữa đúng khi trước 1914, hệ thống cân bằng quyền lực đa cực của Châu Âu dần dần bị phân tách mạnh mẽ thành hai hệ thống liên minh mạnh nhưng thiếu tính linh hoạt. Song những dự đoán về chiến tranh dựa trên so sánh giữa thế lưỡng cực và đa cực như vậy lại không chính xác kể từ sau năm 1945. Trong suốt Chiến tranh lạnh, thế giới tồn tại thế lưỡng cực với hai nhân vật chính là Mỹ và Liên Xô cùng với hai khối đồng minh của họ. Song trong suốt bốn thập kỷ không hề có chiến tranh lớn nổ ra ở khu vực trung tâm, trước khi hệ thống này sụp đổ với sự tan rã của Liên Xô. Một số nhà nghiên cứu cho rằng vũ khí nguyên tử khiến cho khả năng nổ ra chiến tranh thế giới trở nên quá khủng khiếp. Vì vậy hệ thống thế giới tự thân nó là một lời giải thích, song nó không thể giải thích đầy đủ cho tất cả mọi trường hợp.
Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn nếu không chỉ tìm hiểu cấu trúc mà còn xem xét tiến trình của hệ thống, mẫu hình tương tác thường xuyên giữa các quốc gia. Để phân biệt cấu trúc và tiến trình tại một thời điểm nào đó, hãy lấy trò chơi bài xì tố (poker) làm ví dụ. Cấu trúc của trò xì tố nằm trong sự phân bổ quyền lực, tức mỗi người chơi có bao nhiêu phỉnh, và có trong tay bao nhiêu quân bài tốt. Tiến trình là trò chơi được chơi ra sao và các người chơi tương tác như thế nào. (Luật chơi được tạo ra như thế nào và người chơi có hiểu luật không? Họ có tinh quái không? Có tuân thủ luật chơi không? Nếu họ gian lận thì có khả năng bị phát hiện không?) Ví dụ, nếu cho các người chơi trong trò chơi Thế lưỡng nan của tù nhân được liên lạc với nhau thì bản chất của trò chơi sẽ bị thay đổi. Tương tự, nếu các quốc gia liên lạc với nhau và đạt được các thỏa thuận hai bên cùng có lợi hay tạo ra các chuẩn tắc và thể chế được hiểu rõ thì họ có thể mang lại cho các quốc gia thêm một chiến thuật mới và do đó có thể làm thay đổi kết cục chính trị. Tiến trình của một hệ thống quốc tế phụ thuộc vào ba yếu tố: (1) Cấu trúc hệ thống (thế giới lưỡng cực thường dẫn tới tiến trình kém linh hoạt hơn), (2) Bối cảnh văn hóa và thể chế bao quanh cấu trúc và quyết định động cơ cũng như năng lực của các quốc gia trong việc hợp tác, và (3) Các quốc gia có những mục tiêu và công cụ ôn hòa hay cách mạng.
Mục tiêu và công cụ manh tính ôn hòa và cách mạng
Mục tiêu của các quốc gia có ảnh hưởng như thế nào tới tiến trình của hệ thống thế giới? Như những người theo chủ nghĩa kiến tạo đã chỉ ra, hầu hết các hệ thống đều tồn tại trong một bối cảnh văn hóa có những quy tắc căn bản hay những thông lệ giúp xác định những hành vi phù hợp. Các quốc gia có thể chấp nhận hoặc thách thức những quy tắc và thông lệ đó. Tiến trình của hệ thống quốc tế có thể ổn định hoặc mang tính cách mạng phụ thuộc vào bản sắc và mục tiêu của các quốc gia lớn. Ví dụ, trong thế kỷ 18, những quy tắc chung là quốc gia quân chủ – quyền lực tối cao của các đấng quân vương – là chủ thể hợp pháp, và sự cân bằng quyền lực giữa các nền quân chủ này. Hiệp ước Utrecht năm 1713 đề cập rõ ràng đến vai trò quan trọng của cân bằng quyền lực. Có nhiều cuộc chiến nhỏ rải rác nổ ra, nhưng có rất ít cuộc chiến lớn có thể phá vỡ hệ thống. Ví dụ, hãy xem xét cách Hoàng đế Frederick của Phổ đối xử với nữ hoàng nước Áo láng giềng Maria Theresa (1717-1780). Năm 1740, Frederick tuyên bố muốn chiếm vùng Silesia, một tỉnh vốn thuộc Áo. Frederick không có mục đích cách mạng gì cao cả, mà chỉ đơn thuần là muốn bành trướng lãnh thổ. Ông không muốn kích động cách mạng chống lại Maria Theresa bằng cách kêu gọi người dân Silesia lật đổ những nhà ông hoàng bà chúa nói tiếng Đức tại thành Viên. Bản thân Frederick rốt cuộc cũng không khác gì, chỉ là một hoàng đế nói tiếng Đức ở Berlin. Ông ta chiếm Silesia vì ông ta muốn vậy, và tất nhiên ông ta không hề tiến hành bất cứ một động thái nào gây tổn hại đến nước Áo hay nguyên tắc cơ bản về địa vị hợp pháp của các nền quân chủ.
Chúng ta hãy so sánh câu chuyện này với cuộc cách mạng Pháp (1789-1799) nửa thế kỷ sau, khi nước Pháp dấy lên phong trào đòi tống tất cả các ông hoàng bà chúa vào nhà ngục hay lên máy chém và quyền lực phải thuộc về tay nhân dân. Napoleon quảng bá tư tưởng cách mạng chia lại quyền lực cho công chúng này rộng khắp Châu Âu, và các cuộc chiến tranh Napoleon (1799-1815) là một thử thách lớn đối với luật chơi hiện hành của Châu Âu lúc đó cũng như sự cân bằng quyền lực. Tiến trình ôn hòa và cân bằng hệ thống ổn định ở giữa thế kỷ đã trở thành một tiến trình cách mạng và cân bằng hệ thống trở nên bất ổn vào cuối thế kỷ. Những thay đổi như Cách mạng Pháp không thể giải thích được nếu chỉ đơn thuần dựa vào thuyết cấu trúc. Đây là một ví dụ cho thấy các quan điểm của chủ nghĩa kiến tạo có thể bổ sung như thế nào cho thuyết cấu trúc của chủ nghĩa hiện thực.
Ngoài việc thay đổi mục tiêu, các quốc gia cũng có thể thay đổi phương tiện. Tiến trình của một hệ thống bị ảnh hưởng bởi bản chất của các công cụ mà quốc gia sử dụng. Các công cụ khác nhau sẽ có thể có những tác động duy trì hay huỷ hoại sự ổn định. Một số công cụ đã được thay đổi nhờ sự phát triển về công nghệ. Ví dụ, sự phát triển các loại vũ khí mới như súng máy đã làm cho Chiến tranh thế giới lần thứ nhất trở nên đẫm máu. Công cụ cũng có thể thay đổi do sự thiết lập một tổ chức xã hội mới. Thế kỷ 18, Frederick Đại Đế không chỉ bị giới hạn về mục tiêu, mà còn bị giới hạn bởi chính công cụ của mình. Ông ta có một đội quân đánh thuê yếu kém ít trung thành, và hậu cần lại kém cỏi. Các quân đội thế kỷ 18 thường tiến hành các chiến dịch vào mùa hè, khi lương thực dồi dào hoặc khi ngân khố đủ để trả cho những người lính chủ yếu xuất thân từ giai cấp nghèo khổ của xã hội. Khi lương thực hay tiền vàng hết, binh lính sẽ đào ngũ. Cách mạng Pháp đã thay đổi cơ bản cách tổ chức xã hội thời chiến thành cái người Pháp gọi là “levée en masse”, nghĩa là chế độ quân dịch. Theo các nhà chủ nghĩa kiến tạo, nhận thức về bản sắc của binh lính thay đổi khi họ coi mình là những công dân tập hợp lại chiến đấu vì tổ quốc, dẫn tới suy nghĩ rằng tất cả mọi người dân đều nên tham gia. Chiến tranh không còn là một vấn đề xảy ra giữa những đội lính đánh thuê viễn chinh, giờ đây chiến tranh liên quan đến từng người dân. Sự tham gia và ủng hộ rộng rãi của người dân đã áp đảo những binh đoàn lính đánh thuê cũ kỹ. Sự thay đổi về công cụ mà các quốc gia có được cũng làm thay đổi tiến trình của hệ thống quốc tế thế kỷ 18.
CẤU TRÚC VÀ TIẾN TRÌNH Các chính khách thường đánh giá sự cân bằng của Châu Âu là hợp lý hay không dựa trên các yếu tố không liên quan trực tiếp đến quyền lực và sự phân chia quyền lực. Ví dụ, họ dựa trên vị thế và thứ hạng của quốc gia đó, danh tiếng và uy tín, tư cách đồng minh hay tư cách được phép nêu ý kiến về các vấn đề quốc tế, vv… Điều này lý giải tại sao cho dù cân bằng quyền lực không bị ảnh hưởng hay đe dọa, chiến tranh và khủng hoảng vẫn xảy ra. Điều này cũng cho thấy các phương tiện bên cạnh chính trị quyền lực – như lụât pháp quốc tế, các thông lệ về hòa hợp quyền lực, các liên minh được sử dụng nhằm kiềm chế đồng minh – lại phổ biến và hữu ích hơn những công cụ chính trị-quyền lực, như các khối liên minh đối lập, trong việc thúc đẩy hay bảo tồn cân bằng quyền lực tại Châu Âu. - Paul Schroeder, “Hệ thống thế kỷ 19”[2]
Cấu trúc và tiến trình của hệ thống quốc tế thế kỷ 19
Những sự phân biệt này giúp chúng ta hiểu được gốc rễ từ thế kỷ 19 của những cuộc chiến tranh lớn trong thế kỷ 20. Song, theo nguyên tắc “đi đường ngắn nhất”, để giải thích những sự kiện đã diễn ra trong suốt thế kỷ 19, trước tiên chúng ta nên tìm kiếm những cách giải thích đơn giản bắt nguồn từ cấu trúc của hệ thống thế giới trong thời gian đó như đề xuất của những nhà tân hiện thực.
Đầu thế kỷ, Napoleon cố gắng kiến tạo bá quyền của Pháp ở Châu Âu nhưng đã thất bại. Các nỗ lực của Napoleon đã khiến các quốc gia khác liên kết thành một liên minh và cuối cùng đánh bại chính nước Pháp. Nếu thành công thì Napoleon đã biến Châu Âu thành một cấu trúc đơn cực. Nhưng sau khi Napoleon bị đánh bại năm 1815, Hội nghị Viên đã phục hồi lại trật tự đa cực cũ với năm nước lớn cân bằng quyền lực lẫn nhau là Anh, Nga, Pháp, Phổ và Áo. Nước Pháp cách mạng trong suốt 20 năm đã thay đổi tiến trình và đe dọa thay đổi cả cấu trúc của hệ thống nhưng cuối cùng đã thất bại trong việc đơn cực hóa cấu trúc quốc tế của Châu Âu.
Đối với những nhà hiện thực vốn coi trọng cấu trúc, thay đổi lớn nhất về cấu trúc hệ thống thế giới thế kỷ 19 chính là sự thống nhất nước Đức năm 1870. Hệ thống thế kỷ 19 vẫn là đa cực song sự phân chia quyền lực ở trung tâm Châu Âu đã có một thay đổi rõ rệt. Trước kia, nước Đức bao gồm 37 tiểu bang lớn nhỏ và là một vũ đài chính trị quốc tế mà các quốc gia khác ở Châu Âu đều can thiệp. Sau năm 1870, nước Đức trở thành một chủ thể thống nhất. Hơn nữa, Đức lại nằm ngay ở trung tâm Châu Âu, dẫn tới những hậu quả địa chính trị vô cùng to lớn. Xét trên phương diện cấu trúc, một nước Đức thống nhất có thể hoặc quá mạnh, hoặc sẽ rất yếu. Nếu một nước Đức đủ mạnh để tự bảo vệ mình trước những đe doạ đồng thời từ Nga và Pháp thì cũng sẽ đủ mạnh để đánh bại riêng Nga hoặc Pháp. Và nếu một nước Đức không đủ mạnh để chiến thắng đồng thời cả Nga và Pháp thì cũng có nghĩa là nước Đức yếu ớt đang mời người Pháp và người Nga liên minh sang xâm lược chính mình.
Nhưng nước Đức thống nhất non trẻ nằm ngay chính giữa Châu Âu đã không tạo nên sự bất ổn nhờ vào Otto von Bismarck, vị thủ tướng đầu tiên tài ba của nước Đức. Suốt 20 năm (1870-1890), Bismarck đóng vai trò như một nhà ngoại giao khôn ngoan, biết cách xoa dịu sự bất an của các cường quốc láng giềng, qua đó làm chậm lại tác động của thay đổi cấu trúc quan trọng này đối với tiến trình chính trị của hệ thống. Song những người kế vị của Bismarck lại không được sáng suốt và khôn ngoan như vậy. Kể từ 1890, hệ thống các liên minh ở Châu Âu chặt chẽ và cứng nhắc hơn, với một liên minh xoay quanh nước Đức và liên minh còn lại xoay quanh Anh và Pháp. Hệ thống liên minh lưỡng cực như vậy càng ngày càng cứng nhắc và cuối cùng đã bùng nổ thành Chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1914.
Lời giải thích dựa vào cấu trúc về thay đổi trong thế kỷ 19 này có một phần lõi sự thật trong đó, nhưng vẫn chưa phải là một cách giải thích đầy đủ. Nó vẫn chưa tính tới vai trò của những cá nhân như Bismarck, và cũng không cho chúng ta biết tại sao các nước khác lại để cho nước Đức thống nhất? Tại sao các nước láng giềng lại không ngăn cản quá trình thống nhất đó. Nếu Pháp hay Anh thấy Đức đang nổi lên như một kẻ cạnh tranh, tại sao hai nước này lại không có động thái ngăn chặn nào vào lúc đó? Tại sao các nước láng giềng của Đức lại phản đối một nước Đức thống nhất? Cần phải xem xét các nhận thức và chính trị trong nước mới có thể trả lời được những câu hỏi này. Cách lý giải về cấu trúc này không chỉ rõ tại sao quá trình hình thành hai cực, hai khối đồng minh lại kéo dài trong suốt 30 năm, và cũng không tính đến vai trò cốt yếu của các cá nhân lãnh đạo. Nếu hoàng đế Đức không cách chức Bismarck năm 1890, hoặc nếu người kế nhiệm Bismarck tiếp tục giữ mối quan hệ đồng minh thân cận với nước Nga (nhờ hai nước chia sẻ ý thức hệ đề cao chế độ quân chủ chuyên quyền) thì có lẽ trật tự hai cực đang nổi lên lúc đó đã không thể nào tiến triển. Mặc dù cách lý giải dựa vào cấu trúc về những thay đổi trong hệ thống thế kỷ 19 đã đưa ra rất nhiều điều đáng nói, song cách nhìn vẫn còn khiếm khuyết và hạn hẹp. Nó bỏ qua vai trò quyết định của chính con người, khiến người ta cảm thấy vào rằng dường như Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Cách giải thích mang lại cho chúng ta một sự khởi đầu, song không đủ đưa ra một bức tranh toàn cảnh.
Như các nhà theo chủ nghĩa kiến tạo đã chỉ ra, chúng ta cũng nên xem xét những thay đổi trong văn hóa và tư tưởng của Châu Âu vốn có thể tác động tới tiến trình cũng như mẫu hình các mối quan hệ trong hệ thống của thế giới thế kỷ 19. Trước hết, chúng ta dễ dàng nhận thấy những thay đổi trong mục tiêu và công cụ của các quốc gia. Những yếu tố này làm biến đổi động lực hợp tác giữa các nước với nhau. Tư tưởng dân chủ và chủ nghĩa dân tộc lớn mạnh hơn bao giờ hết trong thế kỷ 19 và có tác động rất lớn làm thay đổi mục tiêu của các quốc gia. Quốc gia và người lãnh đạo không còn là một. Vua Louis 14 có một câu nói rất nổi tiếng “Quốc gia chính là trẫm” (L’état c’est moi), nhưng câu nói này giờ đây không còn chính xác nữa. Vào thế kỷ 18, Ferederick Đại Đế hành động ở nước Phổ theo cách mà ông ta muốn. Ông không bị hạn chế bởi các bộ trưởng hay các nghị sĩ được bầu. Dân chủ hóa đã thêm vào sự phức tạp sẵn có của chính trị quốc tế những tác động rộng lớn hơn đến từ trong nước. Napoleon đã giúp phát tán những tư tưởng mới khắp Châu Âu, thách thức và hâm nóng chủ nghĩa dân tộc ở các nước khác. Các cuộc chiến tranh Napoleon có thể đã không thay đổi được cấu trúc của chính trị Châu Âu, nhưng chúng chắc chắn đã gây nên những thay đổi sâu sắc về tiến trình. Hoàng tử nước Áo Metternich (1773-1858) và các ông hoàng khác đã thành công trong việc khôi phục trật tự cũ tại Hội nghị Viên năm 1815, nhưng bên dưới bề mặt có vẻ ổn định kia là sự âm ỉ của các lực lượng dân tộc chủ nghĩa và dân chủ, vốn cuối cùng đã tuôn trào trong các cuộc cách mạng năm 1848.
Thời gian dần qua, cả người dân lẫn các nhà lãnh đạo bắt đầu có những nhận thức khác nhau về mình. Sự thách thức của chủ nghĩa dân tộc đối với tính hợp pháp của các ông hoàng bà chúa cai trị đã dẫn tới những liên minh kỳ lạ khác với cách thức cân bằng quyền lực truyền thống. Ví dụ, năm 1866 Pháp đã không ủng hộ Áo khi nước này bị Phổ tấn công, một sai lầm dài hạn nếu nhìn từ quan điểm cấu trúc. Pháp chống lại việc Áo đàn áp chủ nghĩa dân tộc ở phần lãnh thổ Ý mà nước này chiếm đóng. Bismarck đã lợi dụng quan điểm dân tộc chủ nghĩa của các thành bang khác nhằm thống nhất nước Đức dưới sự lãnh đạo của Phổ, nhưng chủ nghĩa dân tộc trở thành một rào càn đối với sau này. Khi Bismarck chiếm vùng Alsace-Lorraine của Pháp trong cuộc chiến tranh 1870, ông đã tạo nên làn sóng chống đối của những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Pháp, ngăn Pháp và Đức trở thành những đối tác liên minh tiềm năng trong tương lai. Đúng như các nhà chủ nghĩa kiến tạo đã chỉ ra, các tư tưởng mới đã thay đổi mục tiêu của các quốc gia và làm cho tiến trình của chính trị quốc tế trở nên kém ôn hòa hơn trong suốt thế kỷ 19.
Bản thân các phương tiện cũng có sự thay đổi. Việc áp dụng các công nghệ công nghiệp mới vào mục đích quân sự đã tạo nên những công cụ chiến tranh số lượng lớn nhưng kém linh hoạt. Tới giữa thế kỷ 19, các lịch động viên quân đội bằng đường sắt, tức khả năng có được số lượng binh lính lớn ở một địa điểm vào một thời điểm nào đó, bắt đầu đóng một vai trò quan trọng trong chiến tranh. Gần cuối thế kỷ, súng máy và các chiến hào đã làm ý tưởng tiến hành các cuộc chiến tranh bằng lưỡi lê, gươm giáo mà Bismarck đã sử dụng thành công những năm 1860 trở thành trò hề. Cả cấu trúc và tiến trình giúp giải thích những thay đổi trong hệ thống quốc tế thế kỷ 19 ở Châu Âu và nguồn gốc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Chúng ta đã bắt đầu bằng cách giải thích của chủ nghĩa tân hiện thực dựa trên cấu trúc vì đó là cách giải thích đơn giản hơn, nhưng chúng ta đã nhận thấy rằng đó là một cách giải thích chưa đầy đủ. Chủ nghĩa kiến tạo đã đề cập đến tiến trình và nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không thể không tính tới những thay đổi về mặt xã hội.
Câu chuyện thời hiện đại
Vấn đề nước Đức từ thế kỷ 19 lại nổi lên trong các cuộc tranh luận khi Đông Đức và Tây Đức thống nhất năm 1990. Ban đầu Ngoại trưởng Liên Xô Eduard Shevardnadze đã cho rằng việc tái thống nhất nước Đức sẽ làm bất ổn cán cân quyền lực ở Châu Âu một cách sâu sắc. Các nhà lãnh đạo một lần nữa lại đặt ra câu hỏi “Có bao nhiêu quốc gia nói tiếng Đức thì tốt cho sự ổn định của Châu Âu?” Khi thời gian trôi qua, chúng ta thấy câu hỏi này đã có những câu trả lời khác biệt. Như chúng ta đã thấy Hội nghị Viên năm 1815 có sự tham dự của 37 quốc gia nói tiếng Đức. Đến thời Bismarck ông cho rằng câu trả lời là nên có hai quốc gia, chứ không phải một. Ông không muốn Áo được tính vào đế chế Đức mới vì sợ rằng Áo sẽ pha loãng quyền kiểm soát của Phổ đối với quốc gia mới thành lập. Đến thời Hitler lại có một trả lời khác: một quốc gia, và đây sẽ là trung tâm của một đế chế toàn cầu, và điều này đã dẫn tới Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Năm 1945, các quốc gia Đồng minh thắng trận cuối cùng đã quyết định là có ba quốc gia: Đông Đức, Tây Đức và Áo. Và một câu trả lời khôn ngoan được cho là của một người Pháp luôn được nhắc tới. Đó là vào cuối Chiến tranh thế giới lần thứ hai khi được hỏi nên có bao nhiêu nước Đức, anh ta đã trả lời rằng “Tôi quá yêu mến nước Đức nên càng có nhiều nước Đức càng tốt.”
Sự suy thoái của quyền lực Liên Xô ở Đông Âu những năm cuối thập kỷ 1980 đã chấm dứt cấu trúc lưỡng cực của chính trị thời kỳ sau 1945 và dẫn tới khả năng thống nhất nước Đức. Nhưng nước Đức tái thống nhất lại làm dấy lên sự lo lắng về một quốc gia 80 triệu dân có nền kinh tế lớn nhất Châu Âu nằm ở ngay trung tâm lục địa. Liệu người Đức sẽ lại tìm kiếm một vai trò mới? Họ lại sẽ gây sự, nhòm ngó phía Đông rồi lại phía Tây? Hay họ sẽ tập trung vào các nước phía Đông nơi họ có ảnh hưởng lớn hơn? John Mearsheimer, một nhà khoa học chính trị tại Đại học Chicago, nói rằng câu trả lời chính là “quay trở lại tương lai”. Ông dựa vào phân tích của chủ nghĩa hiện thực về cấu trúc và đưa ra kết luận bi quan rằng tương lai Châu Âu sẽ lại giống với quá khứ bất ổn bởi cấu trúc của lúc đó không khác mấy so với trong quá khứ.
Nhưng mọi thứ đã thay đổi trên ba phương diện. Ở cấp độ cấu trúc, Mỹ đã can dự vào Châu Âu và Mỹ có quy mô lớn gấp gần 4 lần so với nước Đức thống nhất. Những người theo thuyết cấu trúc lo lắng rằng người Mỹ sẽ không can dự mãi mãi. Với việc Chiến tranh lạnh chấm dứt, một lúc nào đó người Mỹ có thể quay lại chủ nghĩa biệt lập và cuốn gói về nước. Nhưng còn có những thay đổi quan trọng bên ngoài cấu trúc khác. Tiến trình chính trị quốc tế ở Châu Âu đã bị biến đổi bới sự phát triển của các thể chế mới. Liên minh Châu Âu đã kết nối Đức với các quốc gia Châu Âu khác theo cách chưa bao giờ xảy ra. Một thay đổi thứ ba không diễn ra ở cấp hệ thống, mà ở cấp độ trong nước. Chính trị nước Đức đã có nửa thế kỷ dân chủ, và những thay đổi trong những giá trị phổ quát đã biến các quốc gia theo đuổi chiến tranh thành những quốc gia theo đuổi phúc lợi. Nước Đức đã từng gây rắc rối ở Châu Âu vào các năm 1870, 1914 và 1939 không phải là một nước Đức dân chủ. Vậy cách tiếp cận nào trong số này, cấu trúc, tiến trình hay chính trị trong nước, sẽ là cách tốt nhất để dự đoán tương lai Châu Âu? Chúng ta nên chú ý tới cả ba, nhưng cho tới lúc này các dự đoán dựa trên tiến trình và chính trị trong nước có vẻ như đang chiếm ưu thế.
Chính trị trong nước và chính sách đối ngoại
Chủ nghĩa tân hiện thực, tư tưởng dựa vào các phân tích ở cấp độ hệ thống, cho rằng hệ thống quốc tế khiến các quốc gia hành xử y hệt nhau. Vị trí của một quốc gia trong hệ thống khiến quốc gia đó hành xử theo một cách nhất định, và các quốc gia có vị trí tương tự nhau sẽ hành xử giống nhau. Các quốc gia lớn hành xử theo cách này, trong khi các quốc gia nhỏ lại theo cách khác. Nhưng điều này không đủ. Do cách phân tích ở cấp độ hệ thống dựa vào nguyên tắc “đi đường ngắn nhất” thường không đầy đủ, chúng ta phải xem xét những gì đang diễn ra bên trong các đơn bị của hệ thống. Các quốc gia không phải là những chiếc hộp đen. Chính trị trong nước vẫn đóng vai trò quan trọng. Nói cho cùng thì Chiến tranh Peloponnese bắt đầu bằng một cuộc xung đột giữa những người theo chế độ chính trị chuyên quyền và những người theo chế độ dân chủ ở Epidamus. Chính trị nội bộ của Đức và Đế chế Áo-Hung cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Để hiểu được tại sao Chiến tranh lạnh chấm dứt, chúng ta cũng phải xem xét sự thất bại của nền kinh tế kế hoạch tập trung bên trong Liên Xô. Không khó để tìm những ví dụ mà trong đó chính trị trong nước đóng vai trò quan trọng, nhưng liệu chúng ta có khái quát hóa chúng được không? Sau khi nói rằng chính trị trong nước là quan trọng thì liệu chúng ta còn gì khác nữa để nói hay không?
Hai học thuyết chính, chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa tự do, chủ yếu dựa vào cấp độ phân tích thứ hai và giả định cho rằng các quốc gia sẽ hành xử giống nhau nếu chúng có các xã hội trong nước tương tự nhau. Để dự đoán chính sách đối ngoại, các học thuyết này xem xét cách thức tổ chức bên trong của quốc gia. Các nhà Mac-xít lập luận rằng nguồn gốc của chiến tranh chính là chủ nghĩa tư bản. Theo quan điểm của Lênin, tư bản độc quyền cần có chiến tranh: “Các khối liên minh đế quốc chủ nghĩa không gì khác hơn là một dạng thỏa ước ngừng bắn trong các giai đoạn giữa những cuộc chiến.”[3] Cũng theo ông, người ta có thể giải thích được chiến tranh dựa vào bản chất của chính xã hội tư bản. Như chúng ta sẽ thấy trong các phần sau, chủ nghĩa Marx đã không thể giải thích thỏa đáng nguyên nhân nổ ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Hơn nữa chủ nghĩa Marx cũng không giải thích được những gì diễn ra trong giai đoạn nửa sau của thế kỷ 20. Các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam đều dính líu vào những xung đột quân sự với nhau, trong khi những quốc gia tư bản chính yếu ở khu vực Châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản vẫn duy trì được mối quan hệ hòa bình tốt đẹp. Những lập luận khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản là nguyên nhân gây ra chiến tranh đã không đứng vững theo từng bước chân của lịch sử.
Chủ nghĩa tự do cổ điển, triết lý chi phối tư tưởng của người Mỹ và người Anh trong thế kỷ 19 lại đi đến một kết luận ngược lại: Các nước tư bản có xu hướng theo đuổi hòa bình bởi chiến tranh có hại cho việc kinh doanh. Một nhánh trong chủ nghĩa tự do cổ điển gắn liền với những người ủng hộ thương mại tự do như Richard Cobden (1804-1865), người đã đứng đầu nỗ lực đấu tranh thành công đòi hủy bỏ Luật Ngũ cốc của Anh, vốn là những biện pháp bảo hộ điều chỉnh việc buôn bán ngũ cốc với nước ngoài của Anh trong suốt 500 năm. Giống như những học giả khác theo trường phái Manchester của các nhà kinh tế học người Anh, ông tin rằng buôn bán và trở nên giàu có luôn tốt hơn là gây chiến với nhau. Cobden cho rằng nếu chúng ta muốn trở nên giàu có hơn hay muốn cải thiện phúc lợi xã hội cho người dân thì hòa bình là lựa chọn đúng đắn nhất. Vào năm 1840, ông đã bày tỏ quan điểm cổ điển của mình qua câu nói, “Chúng ta có thể gìn giữ một thế giới không có chiến tranh, và tôi tin tưởng rằng chúng ta sẽ thực hiện được điều đó bằng việc buôn bán trao đổi thương mại.”[4]
Quan điểm theo trường phái tự do đó đã phát triển mạnh mẽ ngay trước khi diễn ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Rất nhiều sách vở, bao gồm cả cuốn sách kinh điển The Great Illusion (Ảo tưởng lớn) (1910) của Norman Angell, đã nhận định rằng chiến tranh đã trở nên quá đắt đỏ. Để minh họa cho sự lạc quan của chủ nghĩa tự do cổ điển trong giai đoạn ngay trước khi diễn ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chúng ta có thể tìm hiểu về một số nhà từ thiện tiêu biểu trong thời kỳ đó. Andrew Carnegie, ông trùm tư bản ngành thép, đã thiết lập nên Quỹ Carnegie vì Hòa bình Thế giới vào năm 1910. Carnegie lo lắng rằng nếu hòa bình tiếp tục tồn tại mãi mãi thì không biết số tiền ông hiến tặng cho tổ chức này sẽ dùng để làm gì. Bởi lẽ đó, ông đã đặt một điều khoản trong di chúc của mình phòng khi trường hợp đó xảy ra. Edward Ginn, một chủ báo ở Boston, không muốn chỉ có Carnegie được hưởng tất cả công trạng đối với nền hòa bình vĩnh cửu sắp đến nên cũng gây dựng Quỹ Hòa bình Thế giới nhằm mục đích tương tự. Ngoài ra, Ginn cũng có băn khoăn tương tự về số tiền còn lại của quỹ sau khi hòa bình được thiết lập vững chắc nên quyết định dành số tiền đó vào việc xây dựng nhà ở giá thấp cho những nữ công nhân trẻ.
Quan điểm này của chủ nghĩa tự do đã không còn sức nặng sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra. Dù đã xuất hiện những giao dịch quốc tế giữa những chủ ngân hàng và cả các nhà quý tộc, và lao động cũng đã được luân chuyển quốc tế, song tất cả đều không thể ngăn chiến tranh giữa các nước Châu Âu nổ ra. Những phân tích dựa vào thống kê đều không cho thấy mối quan hệ nào giữa hình thái chính trị quốc gia (dân chủ hay tư bản) với việc quốc gia đó có tham gia chiến tranh hay không. Chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa tự do cổ điển có cách nhìn trái ngược nhau về mối quan hệ giữa chiến tranh và chủ nghĩa tư bản, nhưng lại có điểm tương đồng là đi tìm nguyên nhân chiến tranh ở bối cảnh chính trị trong nước, và đặc biệt là ở bản chất của hệ thống kinh tế mỗi quốc gia.
Chủ nghĩa tự do hồi sinh
Dân chủ tự do và Chiến tranh
Xác định lợi ích quốc gia
Những biến tấu trong chính sách đối ngoại
Các giả định trái thực tế
Tính hợp lý
Khoảng cách về thời gian
Mức độ liên quan với các học thuyết
Mối quan hệ với thực tế
Xem toàn bộ văn bản tại đây: Nguon goc nhung xung dot lon trong tk 20.pdf
[1] Paul R. Hensel, “Territory: Theory and Evidence on Geography and Conflict,” trong John A. Vazquez, biên tập, What Do We Know About War? (New York: Rowman&Littlefield, 2000), trang 62.
[2] Paul Shroeder, “The Nineteenth Century System: Balance of Power or Political Equilibrium?” Swords and Ploughshares 4:1 (10/1989), trang 4.
[3] V.I. Lenin, Imperialism: The Highest Stage of Capitalism (New York: International Publishers, 1977), trang 119.
[4] Richard Cobden, trích trong Kenneth Waltz, Man, the State, and War: A Theoretical Analysis (New York: Columbia University Press, 1959), trang 104.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:10:51 GMT 9
Quy luật và Lý thuyết
Nguồn: Waltz, Kenneth N. (1979). “Laws and Theories” (Chapter 1) in K. N. Waltz, Theory of International Politics (Reading, Mass.: Addison-Wesley Pub. Co.), pp. 1-17. >>PDF
Biên dịch: Nguyễn Hướng Đạo | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp, Nguyễn Võ Dân Sinh
Tôi viết cuốn sách này với ba mục tiêu: thứ nhất, khảo sát những lý thuyết chính trị quốc tế cùng với cách thức nghiên cứu các vấn đề liên quan vốn được cho là cơ bản và quan trọng về mặt lý thuyết; thứ hai, xây dựng một lý thuyết chính trị quốc tế nhằm sửa chữa và cải thiện những sai lầm trong các lý thuyết hiện tại; và thứ ba, đưa ra một số ứng dụng của lýthuyết vừa được đưa ra. Nhưng việc cần làm trước tiên để có được kết quả ấn tượng đó là chỉ ra lý thuyết là gì và đâu là các yêu cầu đối với việc kiểm chứng chúng.
I.
Nhiều nhà nghiên cứu chính trị quốc tế thường dùng tùy tiện thuật ngữ “lý thuyết”, thường để chỉ bất cứ tác phẩm nào thoát ly khỏi sự miêu tả đơn thuần mà ít khi nhằm nhắc tới chỉ những tác phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn triết-học-về-khoa-học. Trong khi đó, những mục tiêu mà tôi theo đuổi đòi hỏi phải lựa chọn và đưa ra định nghĩa cho thuật ngữ “lý thuyết” và “quy luật” thật cẩn thận.
Trong khi có hai định nghĩa về lý thuyết cạnh tranh lẫn nhau, có một định nghĩa về quy luật đã được chấp nhận rộng rãi. Các quy luật chỉ ra những mối quan hệ giữa các biến, trong đó các biến là những khái niệm có thể mang những giá trị khác nhau. Nếu a, thì b, theo đó, a đại diện cho một hoặc nhiều biến độc lập và b đại diện cho biến phụ thuộc. Về hình thức, đây là một phát biểu về quy luật. Nếu mối quan hệ giữa a và b là không đổi, quy luật ở đây là tuyệt đối. Nếu mối quan hệ giữa a và b lặp đi lặp lại nhiều lần, dù không phải là bất biến, thì quy luật đó có thể được phát biểu như sau: Nếu a, thì b với xác suất x. Một quy luật không chỉ đơn thuần dựa vào mối quan hệ giữa các biến đã được tìm thấy, mà còn phụ thuộc vào việc quan hệ đó có lặp đi lặp lại hay không. Sự lặp đi lặp lại khiến người ta kỳ vọng rằng nếu tôi tìm thấy a trong tương lai thì với xác suất nhất định tôi sẽ tìm thấy b. Trong khoa học tự nhiên, ngay những quy luật dù mang tính xác suất cũng bao hàm yêu cầu về điều kiện cần. Trong khoa học xã hội, nhận định rằng một người với mức thu nhập nào đó sẽ bầu cho Đảng Dân chủ với những xác suất nhất định là mệnh đề có tính quy luật. Cụm từ“có tính quy luật” ở đây ngụ ý yêu cầu thấp hơn về điều kiện cần. Tuy nhiên, mệnh đề đó sẽ không bao giờ giống như là một quy luật trừ khi mối quan hệ đó được tìm thấy một cách đáng tin cậy là đã thường xuyên diễn ra trong quá khứ đến mức người ta kì vọng cao rằng điều đó sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai với xác suất tương tự.[1]
Theo một định nghĩa, các lý thuyết là tập hợp hay hệ thống những quy luật liên quan đến một hành vi hoặc hiện tượng nhất định. Chẳng hạn, cùng với điều kiện về thu nhập của cử tri, có thể xuất hiện thêm mối quan hệ giữa học vấn, tôn giáo, quan điểm chính trị của cha mẹ họ với cách thức họ bầu cử. Nếu những quy luật mang tính xác suất được tập hợp lại cùng nhau, mối liên hệ giữa các đặc điểm của cử tri (các biến độc lập) và đảng mà họ lựa chọn (biến phụ thuộc) sẽ được làm rõ hơn. Do đó, chúng ta có thể hiểu rằng lý thuyết phức tạp hơn quy luật, nhưng chỉ về mặt định lượng. Về hình thức, các quy luật và các lý thuyết không có sự khác biệt.
Định nghĩa đầu tiên về lý thuyết này làm tăng thêm cảm hứng cho rất nhiều nhà khoa học xã hội cố gắng “xây dựng” lý thuyết bằng cách cẩn thận tập hợp các giả thuyết liên quan đến nhau và đã được kiểm nghiệm. Câu chuyện sau đây cho thấy cách mà hầu hết các nhà khoa học chính trị nghĩ về lý thuyết:
Homer miêu tả bức tường thành Troy dày 8 ft (2,4384m). Nếu như miêu tả của ông đúng, hàng nghìn năm sau, ai đó có thể sẽ tìm thấy những bức tường đó sau khi đào bới cẩn thận. Ý tưởng đó đã xảy ra với Heinrich Scheliemann khi ông còn là một cậu bé, và khi lớn lên, ông đã kiểm tra thực nghiệm lý thuyết đó. Karl Deustch sử dụng câu chuyện như một ví dụ để trình bày làm cách nào để kiểm tra một lý thuyết kiểu mới (1966, pp. 168 – 69). Một lý thuyết được sinh ra từ giả thuyết và thành công nếu được kiểm chứng. Deustch coi những lý thuyết đơn giản dạng “nếu-thì” là “những lý thuyết đặc biệt”, vốn sau đó có thể đưa vào để cấu thành một lý thuyết tổng quát”. Sau đó, ông đưa ra những ví dụ khác và bằng cách đó đã chuyển “từ câu hỏi có-hoặc-không sang dạng câu hỏi bao-nhiêu”. Chúng ta nên thử tìm xem các biến khác nhau đóng góp bao nhiêu cho một kết quả nào đó (1966, pp. 219-21).
Kiểu suy nghĩ như vậy thì có ích và vô ích như thế nào? Mọi người đều biết rằng một hệ số tương quan dù cao hay thấp cũng không đảm bảo rằng một mối quan hệ mang tính nhân quả đang tồn tại. Tuy nhiên, bình phương hệ số đó lên về mặt kỹ thuật cho phép chúng ta nói rằng chúng ta đã lý giải cho một tỉ lệ phần trăm nhất định của phương sai. Và rồi, thật dễ dàng để tin rằng có một mối quan hệ nhân quả thực sự đã được xác định và đo lường, để nghĩ rằng một mối liên hệ giữa một biến độc lập và một biến phụ thuộc đã được xác lập, và để quên ngay rằng người ta mới chỉ mới nói sơ qua về những dấu chấm trên một mẫu giấy và đường hồi quy kết nối chúng với nhau mà thôi. Mối tương quan đó có sai hay không? Đây là một câu hỏi hỏi mà không phải hỏi. Các mối tương quan không sai cũng không đúng; chúng chỉ là những con số mà người ta có được khi thực hiện một số phép toán đơn giản. Sự tương quan là không sai cũng không đúng, nhưng mối quan hệ mà chúng ta suy ra từ đó thì có thể hoặc sai hoặc đúng. Ví dụ, có ai đó đề xuất một quy luật bằng cách cẩn thận thiết lập mối quan hệ giữa lực đẩy truyền cho một chiếc xe kéo và sự dịch chuyển của chiếc xe. Trong điều kiện không đổi và việc đo lường được tiến hành kỹ lưỡng, thì mối quan hệ được thiết lập đó chỉ là một thực tế quan sát được, một quy luật luôn luôn xác thực. Tuy nhiên, những sự giải thích mối quan hệ giữa việc đẩy và sự dịch chuyển đó lại rất khác nhau phụ thuộc vào việc chúng ta giải thích dựa trên việc tham khảo các của ý tưởng của ai, Aristotle, Galileo hay Newton. Sự chấp nhận thiếu phản biện một con số, coi nó như là biểu hiện cho một mối liên hệ nào đó đang tồn tại là sai lầm đầu tiên cần phải tránh. Thực ra để tránh vấp phải điều đó không quá khó. Vấn đề tiếp theo đây mới quan trọng và khó giải quyết hơn.
Ngay cả khi chúng ta tự thuyết phục bản thân bằng đủ mọi cách rằng mối tương quan dẫn đến một mối liên hệ chắc chắn giữa hai sự vật, hiện tượng, chúng ta vẫn chưa xác lập được mối liên hệ đó theo nghĩa đã lý giải đầy đủ về nó. Chúng ta đã lý giải bằng cách, và duy nhất bằng cách dựa vào lý thuyết vật lý của Aristotle về lực đẩy và sự chuyển động. Đứng trên phương diện thực tế, kiến thức về mối tương quan cao giữa lực đẩy và chuyển động là rất hữu ích. Nó gợi ra những manh mối cho các nguyên lý của sự chuyển động. Điều này có thể rất dễ dàng đi tới sai lầm, như thực tế đã chứng minh. Các con số có thể miêu tả cách thế giới vận hành thế nào. Tuy nhiên, dù cho chúng ta có gắn sự miêu tả của chúng ta với những con số chặt chẽ tới mức nào, thì chúng ta vẫn chưa giải thích được những gì chúng ta vừa miêu tả. Thống kê không chỉ ra được cách thức mọi thứ liên quan hoặc ăn khớp với nhau như thế nào. Thống kê đơn giản là hình thức miêu tả bằng con số. Hình thức này hiệu quả ở chỗ thống kê miêu tả cái toàn thể thông qua việc xem xét các mẫu bộ phận được lấy từ cái toàn thể. Thống kê cũng hữu ích bởi ta có thể thực hiện nhiều thao tác khác nhau để xem xét mức độ tin cậy của các chỉ số thống kê. Tuy nhiên, kết quả của thống kê vẫn chỉ là sự miêu tả một bộ phận của thế giới chứ không phải là lời giải thích về nó. Các phép toán thống kê không thể lấp đầy được khoảng cách giữa sự miêu tả và sự giải thích. Karl Deutsch đã khuyên chúng ta nên “thiết lập đi thiết lập lại một mệnh đề liên quan đến xác suất và nói rõ bao nhiêu phần trăm kết quả có thể được lý giải bởi một nhân tố nào đó và bao nhiêu phần trăm có thể được lý giải bởi các nhân tố khác, và bao nhiêu phần trăm thì không chịu ảnh hưởng của nhân tố nào cả” (1966, p. 220).
Nếu chúng ta đi theo chỉ dẫn này, chúng ta sẽ hành động như những nhà vật lý theo lý thuyết của Aristotle [vốn được chứng minh là không hoàn toàn chính xác - ND]. Chúng ta sẽ xử lý một vấn đề giống như cách cố gắng nói về chuyển động của chiếc xe kéo chịu tác động của lực đẩy và độ dốc tới bao nhiêu và chuyển động đó bị ma sát cản trở tới mức nào. Chúng ta sẽ tiếp tục tư duy nhằm tìm ra mối quan hệ nhân quả hay tương quan. Bằng cách đó có thể đạt được các kết quả hữu ích về mặt thực tiễn, mặc dù những người nghiên cứu chính trị quốc tế đã gây thất vọng khi không có nhiều nỗ lực như vậy trên thực tế. Và ngay cả khi các thông tin hữu ích được tìm thấy, nhiệm vụ khó khăn hơn trong việc tìm ra ý nghĩa về mặt lý thuyết của chúng vẫn còn đó.
Những “ảo-tưởng-quy-nạp” (inductivist illusion), như cách gọi của nhà nhân học cấu trúc Lévi-Strauss, là niềm tin có thể đạt được sự thật và sự giải thích thông qua tích lũy thật nhiều thông tin và khảo sát nhiều trường hợp thực tế. Tuy nhiên, nếu chúng ta thu thập thêm nhiều các dữ liệu và thiết lập thêm nhiều mối liên hệ giữa chúng, rốt cuộc chúng ta vẫn không thể tìm ra chúng ta biết được điều gì. Kết cục là chúng ta chỉ có thêm nhiều dữ liệu và các mối tương quan mà thôi. Dữ liệu không tự nói lên ý nghĩa. Sự quan sát và kinh nghiệm không bao giờ chỉ dẫn trực tiếp tới các tri thức. Một nhà chủ nghĩa thực dụng người Mỹ, C. S. Peirce, đã từng nói rằng, “kinh nghiệm trực tiếp bản thân nó không phải là điều chắc chắn hay không chắc chắn, bởi vì chúng không khẳng định điều gì cả, nó chỉ là nó mà thôi. Nó không phạm lỗi gì, bởi vì nó không chứng minh điều gì ngoài sự xuất hiện của chúng. Cũng vì lí do đó, chúng không tạo ra sự chắc chắn nào cả” (trích trong Nagel 1956, trang 150). Dữ liệu, các thực tế, hay các mối tương quan không phải là tri thức chắc chắn.Chúng có thể là những câu đố một ngày nào đó sẽ được lý giải, hoặc chúng chỉ là những điều vặt vãnh không cần được lý giải gì cả.
Nếu đi theo con đường quy nạp, chúng ta chỉ có thể giải quyết từng mảnh nhỏ rời rạc của vấn đề. Niềm tin rằng các mảnh nhỏ có thể được cộng dồn, rằng chúng có thể được xử lý như những biến độc lập mà tổng tác động của chúng có thể lý giải một phần nào đó sự vận động của biến phụ thuộc, chỉ là niềm tin mà thôi. Chúng ta không biết được cái gì nên được cộng dồn vào và chúng ta cũng không biết liệu phép cộng có phải là thao tác phù hợp hay không.Số lượng các mảnh ghép tạo thành vấn đề là vô hạn, cũng như số lượng cách để chúng có thể kết hợp với nhau. Cả việc quan sát và thực nghiệm đều không thể được tiến hành với vô vàn những vấn đề và mối liên kết như vậy. Trong ví dụ sau đây, Ross Ashby đưa ra một khuyến cáo đáng lưu ý. Các nhà thiên văn học tìm cách lí giải cách vận hành của chòm sao với khoảng 20.000 ngôi sao. Ashby nhận thấy rằng người khởi đầu “sẽ nói đơn giản là ông muốn biết chòm sao đó hoạt động ra sao, hay quỹ đạo của những ngôi sao trong đó như thế nào. Tuy nhiên, nếu kiến thức này được cung cấp cho ông ta, ông ta sẽ cần rất nhiều bảng số liệu để ghi lại khiến cho ông nhận thấy không thực cần tất cả những thứ đó.” Vấn đề là, Ashby kết luận, làm sao để tìm ra cái chúng ta thực sự muốn biết “mà không bị chôn vùi dưới đống thông tin vô dụng” (1956, trang 113). Phương châm cũ, “kiến thức vị kiến thức” là một thứ hấp dẫn, có lẽ bởi ai đó vừa muốn tự mình trở nên bận rộn, vừa muốn trốn tránh câu hỏi khó khăn rằng kiến thức đó để làm gì. Do các thực tế không tự nói lên ý nghĩa của mình, do các mối liên hệ không bao gồm hoặc gợi mở ra cách giải thích chúng, chúng ta phải đối mặt với câu hỏi đó. Ý tưởng “kiến thức vị kiến thức” đã không còn sự quyến rũ nữa khi chúng ta nhận ra rằng những vấn đề của kiến thức là vô hạn.
Dẫu vậy, những nhà nghiên cứu chính trị quốc tế ngày nay thể hiện một sự cam kết mạnh mẽ đối với phương pháp quy nạp. Họ khảo sát vô số trường hợp với hi vọng rằng các mối liên kết và mẫu hình hoạt động sẽ xuất hiện và rằng chúng sẽ biểu thị cho “chân lý”. Hi vọng đó dựa trên niềm tin rằng kiến thức bắt đầu với những điều chắc chắn và phương pháp quy nạp có thể tìm ra được chúng. Nhưng chúng ta không bao giờ có thể nói một cách quả quyết rằng một kết luận rút ra từ phép quy nạp sẽ tương ứng với thực tế khách quan nào đó. Điều chúng ta nghĩ là sự thật tự nó là khái niệm phức tạp được xây dựng và chỉnh sửa qua nhiều thời đại. Sự thật đó được kết nối từ sự lựa chọn và sắp xếp các vật liệu có sẵn với số lượng vô tận. Làm thế nào để chúng ta quyết định được vật liệu nào cần được lựa chọn và làm cách nào để sắp xếp chúng? Không một quy trình quy nạp nào có thể trả lời câu hỏi đó, do vấn đề rất lớn là làm sao quyết định được các tiêu chí mà dựa vào đó việc quy nạp có thể được tiến hành một cách hữu ích.
Những người tin một cách kỳ quặc rằng kiến thức bắt đầu với những điều chắc chắn nghĩ rằng các lý thuyết là những thành trì chân lý mà họ có thể xây dựng được bằng cách quy nạp. Họ xem các lý thuyết như là những giả thuyết đã được khẳng định và kết nối. Nhưng kiến thức kinh nghiệm luôn luôn có vấn đề. Kinh nghiệm thường chỉ cho chúng ta đi lầm đường.Như Heinrich Hertz nói, “điều có từ kinh nghiệm có thể lại bị phủ định bởi kinh nghiệm” (1894, trang 357).Không điều gì vừa là sản phẩmcủa kinh nghiệm lại vừa là sự thật tuyệt đối, như một phát biểu của Immanuel Kant và giờ được chấp nhận rộng rãi bởi các nhà khoa học tự nhiên.Và vì kiến thức kinh nghiệm là vô hạn, trong một chừng mực nào đó, nếu không có sự hướng dẫn,chúng ta có thể không biết được những thông tin nào cần thu thập và làm cách nào để sắp xếp chúng lại với nhauđể chúng trở nên dễ hiểu. Nếu chúng ta có thể hiểu được trực tiếp thế giới mà chúng ta quan tâm, chúng ta sẽ không cần lý thuyết nào cả.Thực ra, chúng ta không thể. Chúng ta chỉ có thể tìm ra đường đi giữa vô vàn khía cạnh của vấn đề với sự hướng dẫn của lý thuyết được định nghĩa theo cách thứ hai sau đây.
Thay vì là một tập hợp những quy luật, lý thuyết là những mệnh đề giải thích các quy luật đó (xem Nagel 1961, trang 80-81, Isaak 1969, trang 138-139). Lý thuyết khác về bản chất với quy luật.Quy luật xác định những những mối tương quan khả dĩ hoặc không thay đổi.Lý thuyết giải thích những mối tương quan ấy. Mỗi thuật ngữ miêu tả trong từng quy luật liên quan chặt chẽ tới những quy trình quan sát hoặc thí nghiệm, và các quy luật chỉ được thiết lập khi chúng vượt qua được những kiểm chứng bằng quan sát hoặc thí nghiệm. Bên cạnh các thuật ngữ miêu tả, lý thuyết còn bao gồm các khái niệm mang tính lý thuyết.Lý thuyết không thể được xây dựng chỉ bằng sự quy nạp, bởi những khái niệm mang tính lý thuyếtchỉ có thể được tạo mới ra chứ không phải là được khám phá. Aristotle đã làm việc với chuyển động thực tế, nghĩa là những tỉ lệ giữa lực đẩy tác động và sự dịch chuyển, vốn là những điều thuộc về kinh nghiệm thông thường trong thực tế.Galileo đã thực hiện những bước đi liều lĩnh khỏi thực tế để giải thích nó. Aristotle tin rằng các sự vật luôn nằm yên và cần có lực tác động chúng mới dịch chuyển, trong khi Galileo cho rằng cả trạng thái đứng yên và chuyển động quay đều là tự nhiên và một vật thể luôn nằm trong một trong hai trạng thái đó ngay cả khi không có tác động từ bên ngoài. Newton hình thành nên khái niệm chuyển động thẳng. Lý thuyết ông để lại nhằm lý giải điều đó đã đưa ra những khái niệm mang tính lý thuyết trừu tượng như trọng tâm, gia tốc tức thời, động lực, không gian và thời gian tuyệt đối, nhưng không điều nào có thể quan sát hay xác định được bằng thực nghiệm. Ở mỗi bước đi, từ Aristotle qua Galileo tới Newton, các khái niệm lý thuyết trở nên táo bạo hơn, nghĩa là đã đi xa khỏi kinh nghiệm giác quan.
Một khái niệm lý thuyết có thể là một khái niệm, như động lực, hoặc một giả định, như giả định rằng trọng lượng tập trung ở một điểm. Một khái niệm lý thuyết không giải thích hay dự đoán bất kỳ điều gì. Chúng ta biết, và Newton cũng vậy, rằng trọng lượng không tập trung ở một điểm. Nhưng không phải là Newton kỳ quặc khi giả định như vậy, vì giả định không phải là sự khẳng định thực tế. Chúng không đúng cũng không sai. Giá trị các khái niệm lý thuyết thể hiện qua sự thành công của lý thuyết sử dụng các khái niệm đó. Với những gì được coi là quy luật, chúng ta hỏi: “Nó có đúng không?” Với các lý thuyết, chúng ta hỏi: “Khả năng lý giải của nó lớn tới mức nào?” Lý thuyết của Newton về định luật vạn vật hấp dẫn mang lại một lý giải thống nhất cho những hiện tượng của trái đất và vũ trụ. Sức mạnh của nó nằm ở số lượng những khái quát kinh nghiệm chủ nghĩa rời rạc trước đó và các quy luật được gộp vào thành một hệ thống lý giải, và số lượng và phạm vi các giả thuyết được tạo ra hay được gợi mở bởi lý thuyết của ông, những giả thuyết vốn có thể tới dẫn tới những quy luật thực nghiệm mới.
Aristotle kết luận, trong những giới hạn, “một vật thể xác định có thể được dịch chuyển trong một thời gian xác định qua một khoảng cách tỷ lệ thuận với lực tác động” (Toulmin 1961, trang 49). Dù đối với động lực học cổ đại hay hiện đại, mối tương quan cao giữa lực đẩy và chuyển động đều có thật. Nhưng bằng cách nào giải thích được nó? Những thực tế như thế luôn cố định, nhưng các lý thuyết được coi là đủ để lý giải chúng lại đã thay đổi rất nhiều. Các quy luật là “các thực tế được quan sát”, còn lý thuyết là “những quá trình suy đoán để lý giải chúng”. Các kết quả thực nghiệm là bền vững, tuy nhiên, các lý thuyết dù có nền tảng vững chắc đến đâu vẫn có nguy cơ không tồn tại lâu dài (Andrade 1957, trang 29, 242). Nói cách khác, các quy luật ở lại, còn các lý thuyết đến và đi.
Vì tôi thấy không có lý do gì để lãng phí chữ “lý thuyết” bằng cách định nghĩa chúng như là một tập hợp hai hay nhiều các quy luật, tôi chấp nhận ý nghĩa thứ hai của thuật ngữ: các lý thuyết lý giải các quy luật. Ý nghĩa này không phù hợp lắm với cách sử dụng của phần lớn các lý thuyết chính trị truyền thống, vốn tập trung diễn giải về mặt triết học hơn là giải thích về mặt lý thuyết.Nó phù hợp với định nghĩa của khái niệm này trong các ngành khoa học tự nhiên và một số ngành khoa học xã hội, đặc biệt là kinh tế học. Định nghĩa đó cũng thỏa mãn đòi hỏi bao gồm hoạt động giải thích mà chúng ta thường xuyên tham gia thực hiện. Để thoát ra khỏi các “thực tế được quan sát”, điều mà chúng ta luôn mong muốn thực hiện, chúng ta phải vật lộn với vấn đề về năng lực lý giải. Ham muốn giải thích điều gì đó không phải chỉ sinh ra bởi sự tò mò vô ích mà thôi. Nó còn được tạo ra bởi khao khát kiểm soát, hoặc ít nhất là biết được liệu sự kiểm soát là khả dĩ hay không, hơn là chỉ dự đoán. Các dự đoán được thực hiện dựa trên kiến thức về sự đều đặn của các mối tương quan được đưa vào các quy luật. Bình minh và hoàng hôn có thể được dự đoán chính xác chỉ dựa trên phát hiện thực nghiệm, không cần đến những lý thuyết giải thích tại sao sự kiện đó xảy ra. Dự đoán có thể có những lợi ích nhất định: Chúng ta có thể không tiếp cận được những động lực khiến hai cơ thể va chạm nhau, nhưng nếu chúng ta có thể dự doán được sự va chạm đó, ít nhất chúng ta có thể tránh được nó. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thường muốn có thể sở hữu năng lực kiểm soát. Nhưng bởi vì quy luật không cho biết tại sao những mối tương quan tồn tại, nó không thể nói cho chúng ta biết liệu chúng ta có thể tiến hành sự kiểm soát được hay không và làm thế nào để làm được như vậy. Tóm lại, vì những lý do đó chúng ta cần một lý thuyết.
Một lý thuyết, mặc dù liên quan tới thế giới mà chúng ta muốn giải thích, luôn luôn tồntại khác biệt với thế giới đó. “Thực tế” có thể không phù hợp với lý thuyết hay một mô hình lý thuyết nào đó. Bởi vì các nhà khoa học chính trị thường nghĩ rằng mô hìnhlý thuyết tốt nhất phải phản ánh sự thật một cách chính xác nhất, chúng ta cần có thêm những thảo luận sau đây.
Mô hình được sử dụng theo hai cách chính. Một mặt, mô hình đại diện cho lý thuyết. Mặc khác, mô hình mô tả lại thực tế trong khi cố gắng đơn giản hóa nó bằng cách bỏ qua hay thu nhỏ quy mô. Nếu một mô hình quá rời xa thực tế, nó sẽ trở nên vô ích. Một máy bay mô hình nên trông giống như một cái máy bay thật. Tuy nhiên, khả năng giải thích lại có được từ việc xa rời với “thực tế”, chứ không phải ở gần. Một miêu tả đầy đủ nhất sẽ có năng lực giải thích ít nhất, còn một lý thuyết tốt sẽ có năng lực giải thích nhiều nhất. Một lý thuyết tốt như vậy cần phải đi ra khỏi thực tế, như trong vật lý. Thoát ly ra ngoài thực tế không hẳn là tốt, nhưng trừ khi có thể làm được việc đó một cách thông minh, người ta chỉ có thể miêu tả chứ không giải thích được. Chính vì vậy, James Conant đã từng định nghĩa khoa học như là “một công việc năng động nhằm hạ thấp mức độ của chủ nghĩa kinh nghiệm trong việc giải quyết vấn đề” (1952, trang 62). Một mô hình lý thuyết sẽ xa rời thực tế tương tự như nội dung lý thuyết mà nó đại diện. Khi xây dựng mô hình lý thuyết, người ta phải tìm kiếm những cách thức mang tính gợi ý nhằm miêu tả lý thuyết, chứ không phải là những thực tế mà lý thuyết đó đề cập. Do vậy, mô hình đó sẽ đại diện cho lý thuyết, với các khái niệm mang tínhlý thuyết cần được bỏ qua, cho dù là thông qua các cách thức trình bày mang tính hữu cơ, cơ học, toán học hay các cách thức khác.
Một số nhà khoa học chính trị viết về các mô hình lý thuyết như thể chúng là một loại mô hình máy bay. Ví dụ, đầu tiên họ phê phán mô hình lấy nhà nước làm trung tâm của chính trị quốc tế rằng nó ngày càng đi xa khỏi thực tế. Sau đó, họ nỗ lực một cách nghiêm túc để tạo ra một mô hình phản ánh thực tế một cách đầy đủ hơn. Nếu nỗ lực của họ thành công, các mô hình và thế giới thực sẽ trở thành một, giống nhau. Đây là sai lầm trái ngược với điều mà Immanuel Kant đã quả quyết cảnh báo và chống lại, đó là nghĩ rằng điều gì đúng trong lý thuyết có thể không đúng trong thực tế. Như Kant đã hiểu rõ, cảnh báo của ông không ngụ ý rằng lý thuyết và thực tiễn là giống nhau hoàn toàn. Lý thuyết lý giải một phần thực tế và vì thế có khác biệt so với thực tế nó giải thích. Nếu sự khác biệt được duy trì, thật rõ ràng rằngquy nạp từ những gì có thể quan sát được không thể tự nó mang lại một lý thuyết có thể giải thích những thứ được quan sát. “Một lý thuyết có thể được kiểm chứng bằng kinh nghiệm”, như Albert Einstein từng nói, “nhưng không có cách nào để đi từ kinh nghiệm đến việc xây dựng một lý thuyết” (trích dẫn trong Harris 1970, trang 121). Cho rằng có thể có được một lý thuyết bằng cách quy nạp cũng giống như cho rằng chúng ta có thể hiểu được các hiện tượng trước khi có được phương tiện để giải thích chúng.
Vấn đề ở đây không phải là bác bỏ việc quy nạp, mà là chỉ ra những quy nạp nào có thể và không thể thực hiện được. Quy nạp được sử dụng ở cấp độ giả thuyết và quy luật hơn là cấp độ lý thuyết. Quy luật khác với lý thuyết, và sự khác biệt đó được phản ánh trong sự khác biệt giữa cách quy luật được phát hiện và cách lý thuyết được xây dựng. Các giả thuyết có thể được suy ra từ các lý thuyết. Nếu các giả thuyết đó cuối cùng được xác nhận, chúng được gọi là quy luật. Các giả thuyết cũng có thể đạt được bằng cách suy luận. Một lần nữa, nếu được xác nhận, chúng sẽ trở thành quy luật. Thủy triều lên và xuống có thể được dự đoán bởi những người Babylon cổ đại với một mức độ chính xác mà đến tận cuối thế kỉ 19 người ta mới vượt được qua. Dù vậy, những kiến thức có mức độ đáng tin cậy cao về sự chuyển động giống với quy luật của thủy triều vẫn không giúp người ta có thể giải thích được sự việc. Giả thuyết về mối liên quan giữa điều này và điều kia, dù được kiểm nghiệm chắc chắn đến mức nào, cũng không sinh ra một lý thuyết nào cả. Các mối liên quan không bao giờ bao gồm hoặc gợi ra một sự giải thích cho chính nó.
Mặc dù tự bản thân sự quy nạp có thể dẫn tới một ngõ cụt lý thuyết, chúng ta vẫn cần khả năng hiểu được các mối liên hệ phức tạp giữa các sự vật và hiện tượng trước khi chúng ta lo tới việc xây dựng lý thuyết. Cùng lúc đó, chúng ta cần một lý thuyết, hoặc nhiều lý thuyết, để biết được những loại dữ liệu và mối liên hệ nào cần phải tìm kiếm. Kiến thức dường như phải đi trước lý thuyết, nhưng kiến thức chỉ có thể xuất phát từ lý thuyết. Điều này giống như thế lưỡng nan được đưa ra bởi Platon rằng chúng ta không thể biết gì cho đến khi chúng ta biết mọi thứ. Nhìn nhận ý tưởng đó theo nghĩa đen của nó, người ta có thể cảm thấy thất vọng. Nhưng nếu coi nó như là một chỉ dẫn chiến lược nhằm đạt được kiến thức, chúng ta có thể thấy chúng ta phải đối mặt vô vàn khó khăn ở bất kỳ lĩnh vực nào khi bước vào con đường tư duy nếu muốn tìm kiếm sự tiến triển về tri thức.
Nếu quy nạp không phải là cách hữu ích, vậy thì là cách nào? Bước nhảy từ quy luật thành lý thuyết, từ dạng giả thuyết tới những lý giải, không thể được thực hiện bởi việc coi thông tin như chứng cứ và tìm kiếm thêm nhiều thông tin khác. Sự biến đổi đó không thể được thực hiện bởi việc tiếp tục câu hỏi cái gì tương quan với cái gì, mà bằng cách trả lời những câu hỏi như: Tại sao điều đó xảy ra? Làm thế nào nó hoạt động? Cái gì gây ra cái gì? Chúng gắn kết với nhau như thế nào?
Nếu lý thuyết không phải là một thành trì chân lý và không phải một sản phẩm tái tạo lại thực tế, thì nó là gì? Một lý thuyết là một bức tranh, được thiết lập một cách trừu tượng, của một số lãnh vực hay phạm vi hoạt động. Một lý thuyết là sự miêu tả cách tổ chức của một vùng có giới hạn hoặc mối liên hệ giữa các thành phần của nó (cf. Boltzman 1905). Những vật liệu vô tận của bất kì lĩnh vực nào đều có thể được sắp xếp bằng vô số cách khác nhau.Một lý thuyết chỉ ra những nhân tố nào quan trọng hơn những nhân tố còn lại và chỉ ra mối quan hệ giữa chúng. Trong thực tế, mọi thứ đều có liên quan tới những thứ khác và một lĩnh vực không thể tách biệt với những lĩnh vực khác. Nhưng lý thuyết tách một lĩnh vực ra khỏi những lĩnh vực khác để xử lý nó về mặt tư duy. Việc tách biệt một lĩnh vực là điều kiện tiên quyết để phát triển một lý thuyết có thể lý giải điều gì sẽ xảy ra bên trong nó. Nếu điều kiện đó không được đáp ứng, và đương nhiên là có khả năng như thế, việc xây dựng lý thuyết cho các vấn đề được quan tâm là không thể. Câu hỏi, luôn đặt ra với các lý thuyết, không phải là liệu việc tách riêng một lĩnh vực nào ra có khả thi hay không, mà là liệu nó có hữu ích không.Và ích lợicủa việc này được quyết định bởi khả năng giải thích và tiên đoán của lý thuyết được tạo ra sau đó.
Các lý thuyết, mặc dù không tách biệt khỏi thế giới của sự quan sát và thí nghiệm, nhưng chỉ gián tiếp liên quan đến nó mà thôi. Vì vậy một số người nói rằng các lý thuyết không bao giờ có thể được chứng minh là chân lý. Nếu “chân lý” là vấn đề cần đặt ra, thì chúng ta đang ở trong lĩnh vực của quy luật, không phải lý thuyết. Vì lẽ đó nhà hóa học James B. Conant từng nói rằng “một lý thuyết chỉ bị lật đổ bởi một lý thuyết khác tốt hơn” (1947, trang 48). Tương tự, vì lẽ đó mới có tuyên bố của John Rader Platt, một nhà vật lý, rằng “áp lực của thuyết định mệnh luận khoa học (scientific determinism) trở nên suy yếu và tản mát khi chúng ta tiến gần hơn tới những thuyết tổng hợp đơn nhất vĩ đại. Bởi chúng không chỉ là những khám phá. Chúng còn là những sản phẩm nghệ thuật, tạo nên bởi gu và phong cách của bàn tay (nhà khoa học)” (1956, p. 75). Và những tuyên bố đó có thể được coi như những lời giải thích cho chứng minh nổi tiếng của nhà toán học Henri Poincaré rằng nếu có một giải thích cơ học được đưa ra cho một hiện tượng, thì cũng có vô số các cách giải thích khác như vậy.[2] Các lý thuyết có thể xây dựng một thực tế, nhưng không ai có thể chứng minh được nó là thực tế duy nhất. Vì vậy chúng ta phải đối mặt với một lượng vô hạn dữ liệu và cả vô vàn cách lý giải cho những dữ liệu đó. Vấn đề đã được nhân đôi lên. Các thực tế không quyết định được các lý thuyết, bởi có nhiều lý thuyết có thể đúng với một tập hợp các thực tế bất kỳ. Các lý thuyết không giải thích các thực tế một cách chắc chắn, vì vậy chúng ta không thể chắc chắn rằng một lý thuyết tốt sẽ không bị thay thế bởi một lý thuyết khác tốt hơn.
Tôi đã chỉ ra những cái nào là lý thuyết và cái nào không phải, nhưng tôi vẫn chưa chỉ ra một lý thuyết được xây dựng như thế nào. Bằng cách nào chúng được tạo ra? Câu trả lời tốt nhất, nhưng vô dụng là “bằng sự sáng tạo”. Câu trả lời này đưa ra vấn đề mà không giải quyết nó. Bằng cách nào để chuyển từ sự quan sát và thí nghiệm sang các lý thuyết có thể giải thích cho chúng? Một quá trình dài với phép thử – sai (trial and error) nhiều vất vả sẽ không đưa tới việc xây dựng một lý thuyết trừ khi tới một lúc nào đó, một trực giác rực rỡ đột nhiên lóe sáng, một ý tưởng sáng tạo bỗng nhiên xuất hiện. Không ai có thểnói được làm sao để các trực giác hay ý tưởng như vậy xuất hiện. Chúng ta chỉ có thể biết chúng liên quan tới điều gì. Chúng sẽ liên quan đến việc sắp xếp các vấn đề được nghiên cứu. Chúng sẽ chuyển tải một dự cảm về các mối quan hệ không quan sát được của sự vật. Chúng sẽ liên quan đến các mối liên hệ và các nguyên nhân mà thông qua đó dự cảm đó được tạo ra từ các sự vật mà người ta quan sát. Một lý thuyết không ghi lại những gì được nhìn thấy và các mối liên hệ được ghi nhận, mà thay vào đó là sự giải thích chúng.Công thức gia tốc của một người rơi tự do không giải thích cách người đó ngã xuống. Đi tìm lời lý giải, chúng ta nhìn vào những lý thuyết vật lý cổ điển của Newton – một hệ thống các khái niệm liên quan với nhau, một sự tổ chức lại các kiến thức về vậy lý mà tại đó những thứ được xem xét trở nên tự nhiên và cần thiết. Một khi hệ thống đó được thấu hiểu, khi những nguyên lý và cách tổ chức đó được ghi nhận, các hiện tượng sẽ được lý giải. Tất cả điều đó được tóm gọn lại trong câu nói mà Werner Heisenberg cho là lời của Wolfgang Pauli: “Sự thấu hiểu có lẽ chẳng mang ý nghĩa gì hơn là việc có những ý tưởng và khái niệm bất kỳ cần thiết để nhận ra rằng rất nhiều hiện tượng khác nhau là một phần của một thể thống nhất” (1971, trang 33).
….
II.
III.
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Quy luat va ly thuyet.pdf
[1]Chúng ta phải cẩn thận. Mệnh đề trên là chỉ mang tính quy luật khi nó có thể được kiểm chứng theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ, những điều kiện trái thực tế phải được đáp ứng theo cách sau: Người b có mức thu nhập giống như các đảng viên Cộng hòa, nếu mức thu nhập của b giảm xuống một mức nhất định, anh ta có thể trở thành một đảng viên Dân chủ. Một cách chính xác hơn, mệnh đề giống với quy luật phải tạo nên những kỳ vọng sau: Nếu b là R với xác suất x, và nếu a là D với xác suất y, thì nếu b trở thành a nó sẽ trở thành D với xác suất y.
[2] Chứng minh đó chỉ được giới thiệu bởi Nagel (1961, trang 116n). Tuy nhiên các giải thích vừa không đơn giản vừa không hữu ích.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:13:23 GMT 9
Kinh tế chính trị quốc tế là gì?Nguồn: Balaam, David N. & Michael Vaseth, “What is International Political Economy?” in David N. Balaam & Michael Vaseth (eds), Introduction to International Political Economy (New Jersey: Pearson Education, 2001), pp. 1-24. Biên dịch: Khoa QHQT, ĐHKHXH&NV TPHCM | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp Download: Kinh te chinh tri quoc te la gi —- Tổng quan Kinh tế chính trị quốc tế là gì? Chương một sẽ trả lời câu hỏi này theo ba cách: nêu các ví dụ; so sánh Kinh tế chính trị quốc tế với các môn học tương tự khác như kinh tế học, khoa học chính trị và xã hội học; thảo luận những nguyên tắc cơ bản của Kinh tế chính trị quốc tế. Định nghĩa một cách đơn giản, Kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu những vấn đề quốc tế không thể giải quyết được chỉ bằng những phân tích kinh tế, chính trị hoặc xã hội học đơn thuần. Kinh tế chính trị quốc tế là môn khoa học tập trung nghiên cứu những quan hệ phụ thuộc phức tạp chi phối các vấn đề quốc tế nổi bật nhất trong thế giới của chúng ta ngày nay. Do những vấn đề quốc tế đương đại quan trọng không thể giải quyết được nếu chỉ dựa trên quan điểm của một môn khoa học độc lập hay bằng sự phân tích những chủ thể và hành động diễn ra ở một cấp độ cụ thể như cấp độ cá nhân, nhà nước hay hệ thống quốc tế; nên nhu cầu nghiên cứu Kinh tế chính trị quốc tế đang ngày càng tăng. Lĩnh vực nghiên cứu này giúp tháo bỏ những rào chắn chia cắt và cô lập những phương pháp phân tích truyền thống, áp dụng phương pháp nghiên cứu các vấn đề và sự kiện một cách toàn diện. Trong chương này, mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc về nhân quyền sẽ được đề cập đến như là trường hợp nghiên cứu điển hình trong kinh tế chính trị quốc tế. Trường hợp nghiên cứu này sẽ mô tả mâu thuẫn cơ bản giữa mối tương tác năng động của hai mặt của đời sống mà chúng ta gọi là “xã hội và cá thể”, “chính trị và kinh tế”, hay “nhà nước và thị trường”, những giá trị của cuộc sống và những cách mà những giá trị và lợi ích đó ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa quốc gia và chính trị. Thế giới khá phức tạp, trên mọi cấp độ đều được khắc họa bởi những nhân tố phụ thuộc lẫn nhau. Chúng ta phụ thuộc vào một người khác theo nhiều cách và trên nhiều cấp độ. Vì vậy, sự tồn tại của loài người luôn chứa đựng những mâu thuẫn, ranh giới gây nên những xung đột chia rẽ lợi ích, quan điểm hoặc những hệ thống giá trị liên quan đến những người khác. Việc phân tích những nguyên nhân gây mâu thuẫn và hậu quả của nó – những hậu quả đó sẽ được giải quyết như thế nào là mục đích của khoa học xã hội và nhân văn nhằm nâng cao nhận thức về loài người. Kinh tế chính trị quốc tế góp phần đạt được mục đích này bằng việc tập trung vào những xung đột cụ thể mà lâu nay là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học xã hội. Kinh tế chính trị quốc tế vừa là quá khứ vừa là tương lai của khoa học xã hội. Là quá khứ bởi lẽ kinh tế chính trị quốc tế chính là sự quay lại nghiên cứu nguồn gốc của khoa học xã hội, trước khi hành vi xã hội của loài người bị phân tán thành những lĩnh vực nghiên cứu độc lập như kinh tế học, khoa học chính trị, xã hội học, lịch sử và triết học. Là tương lai bởi lẽ trong thế giới phức tạp ngày nay, các vấn đề xã hội quan trọng nhất trở thành vấn đề mang tính chất quốc tế hoặc đa quốc gia mà chỉ có thể được hiểu rõ nhất thông qua việc nghiên cứu tổng hợp dựa trên nhiều công cụ hoặc quan điểm, chứ không thể chỉ dựa vào một công cụ hay quan điểm duy nhất. Trong thế giới học thuật phức tạp với nhiều môn học và sự tương tác giữa các môn học, Kinh tế chính trị quốc tế có thể được hiểu theo những quan điểm trước đây của Susan Strange như là: …một phạm vi rộng mở và bao la, là nơi mà bất kỳ người nào quan tâm tới hành vi con người trong xã hội có thể tự do nghiên cứu. Không có hàng rào cũng như biên giới nào giam hãm những nhà sử học trong lĩnh vực lịch sử, những nhà kinh tế trong lĩnh vực kinh tế. Các nhà khoa học chính trị không có quyền đặc biệt nào để chỉ viết về chính trị, cũng như những nhà xã hội học chỉ viết về những mối quan hệ xã hội.[1] Rowland Maddock định nghĩa kinh tế chính trị quốc tế theo một cách khác: … kinh tế chính trị quốc tế không phải là một môn học đặc biệt và bị gò bó trong khuôn khổ của môn học với phương pháp luận đã được định sẵn. Thay vào đó kinh tế chính trị quốc tế là một tập hợp các vấn đề cần phải nghiên cứu và có xu hướng bị bỏ quên bởi những môn học đã tồn tại từ lâu sử dụng những công cụ có sẵn.[2] Kinh tế chính trị quốc tế không thể thay thế cho những môn khoa học xã hội độc lập khác. Môn học này sẽ gắn kết các môn học đó vào một lĩnh vực rộng mở không rào cản bó buộc, nhằm phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của xã hội đầy phức tạp của chúng ta. Kinh tế chính trị quốc tế sẽ giúp chúng ta hiểu được thế giới của những ảnh hưởng lẫn nhau giữa con người với con người một cách toàn diện. Đây có thể là một tham vọng nhưng là cần thiết cho xã hội của chúng ta hôm nay và cho tương lai của những nhà lãnh đạo trong quá trình giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội. Tại sao chúng ta phải nghiên cứu môn kinh tế chính trị quốc tế? Có ba lý do chính sau: đây là môn học thú vị, quan trọng và hữu ích. Thứ nhất, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học thú vị. Samuel Johnson lập luận rằng “một người chán ghét kinh tế chính trị quốc tế thì có nghĩa là anh ta chán ghét cuộc sống”. Kinh tế chính trị quốc tế là toàn bộ cuộc sống. Nhiều hành động và sự tương tác lẫn nhau đã gắn kết loài người trên toàn cầu. Nghiên cứu môn học này là cơ hội để tìm hiểu những vấn đề thú vị nhất trên thế giới. Thứ hai, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học quan trọng. Kinh tế chính trị quốc tế mở ra những trang đầu tiên của mỗi ngày bởi lẽ những sự kiện kinh tế chính trị quốc tế ảnh hưởng đến tất cả chúng ta như là công dân của thế giới, là cư dân của các quốc gia dân tộc cụ thể, và là người tham gia hàng ngày vào hệ thống thị trường toàn cầu. Những sự kiện kinh tế chính trị quốc tế đang ảnh hưởng đến tất cả chúng ta và điều quan trọng là chúng ta cần hiểu rõ những sự kiện đó để biết được chúng ta phải gắn kết và có thể gây ảnh hưởng đến các vấn đề toàn cầu như thế nào. Thứ ba, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học hữu ích. Những người chủ các đơn vị tổ chức tư nhân hay nhà nước đều đang tìm kiếm những người lao động có khả năng suy nghĩ rộng và tư duy phê phán, là người hiểu rõ những hệ thống phức tạp và luôn vận động, những người coi trọng sự ảnh hưởng của các điều kiện xã hội và những giá trị thay thế. Nói tóm lại, các ông chủ cần những người hiểu được bối cảnh quốc tế của hoạt động hàng ngày của loài người. Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội giải quyết trực tiếp nhất những nhu cầu đó.[3] Kinh tế chính trị quốc tế trên lý thuyết và trên thực tế Kinh tế chính trị quốc tế là gì? Tại sao cần phải nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế? Và nên nghiên cứu môn này như thế nào? Để hiểu được những điểm cơ bản của kinh tế chính trị quốc tế, chúng ta cần phân tích tên của môn học này. Trước hết, từ “quốc tế” (international) trong cụm từ này có nghĩa là môn học sẽ giải quyết những vấn đề xuyên biên giới quốc gia, có liên quan đến hai hay nhiều quốc gia-dân tộc. Ngày nay người ta hay dùng từ “toàn cầu” thay cho từ “quốc tế”, bởi vì nhiều vấn đề ảnh hưởng đến toàn thể thế giới chứ không phải chỉ một vài dân tộc, nên đòi hỏi phải có cách hiểu và cách tiếp cận toàn cầu. Thứ hai, từ “chính trị” (political) ngụ ý việc sử dụng quyền lực nhà nước để quyết định những vấn đề trong xã hội như ai có cái gì, khi nào và như thế nào. Chính trị học là một quá trình lựa chọn tập thể, dẫn đến cạnh tranh và xung đột lợi ích, những giá trị của các chủ thể khác nhau bao gồm tổ chức xã hội các cá nhân, doanh nhân và các đảng phái chính trị. Quá trình chính trị khá phức tạp và đa tầng, liên quan đến nhiều quốc gia dân tộc, các quan hệ song phương, đa phương giữa hai hay nhiều quốc gia dân tộc, các tổ chức quốc tế, các liên minh khu vực và các thoả thuận toàn cầu. Cuối cùng, từ “kinh tế” (economy) hay “kinh tế học” (economics) đề cập đến việc phân bố các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng khác nhau và giữa các cá nhân thông qua quy trình thị trường phi tập trung. Khi phân tích dưới góc độ chính trị hay kinh tế người ta thường xem xét cùng một câu hỏi, tuy nhiên phân tích dưới góc độ kinh tế thường ít tập trung vào những vấn đề quyền lực nhà nước và lợi ích quốc gia mà chú trọng nhiều đến những vấn đề doanh thu, lợi nhuận và lợi ích cá nhân. Kinh tế chính trị kết hợp cả hai cách này để có thể nắm bắt được bản chất cơ bản của xã hội một cách đầy đủ hơn. “Quốc tế”, “chính trị” và “kinh tế” không tác động lẫn nhau trong một môi trường chân không. Môi trường văn hoá và xã hội phải được xem xét cùng với những giá trị của các chủ thể khác nhau. Những quá trình phát triển lịch sử của các vấn đề quan trọng cũng không thể bị bỏ qua. Vì thế, kinh tế chính trị quốc tế nhằm làm sang tỏ sự tương tác phức tạp của những con người thực trong thế giới thực với những thái độ, tình cảm và lòng tin của họ. Ở một góc độ nào đó, nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế là nghiên cứu cuộc sống hiện đại. Mỹ – Trung đạt được thoả thuận thương mại nhưng xung đột về vấn đề nhân quyền Tại Washington, sau một ngày đàm phán liên tục, Tổng thống Clinton và chủ tịch Giang Trạch Dân cuối cùng đã thoả thuận được một số hiệp định thương mại quan trọng nhưng dường như lại làm rộng thêm khoảng cách giữa hai cường quốc về vấn đề nhân quyền. Trung Quốc đồng ý mua máy bay dân sự của Mỹ trị giá 3 tỷ đô la Mỹ và chấp nhận mở đường cho các công ty Mỹ tham gia cạnh tranh bán lò phản ứng hạt nhân cho Trung Quốc. Qua những cuộc gặp gỡ cấp cao, ông Giang nổi lên như là một nhân vật lớn trên thế giới, chỉ huy một trong những đội quân mạnh nhất và một trong những nền kinh tế mạnh nhất và phát triển nhanh nhất trên thế giới. Ông Giang làm chủ sân khấu cùng với tổng thống Clinton một cách bình đẳng, trong khi vẫn đang phải chịu đựng những lời chỉ trích nhức nhối về vấn đề nhân quyền ở Trung Quốc. Nhưng ông Giang vẫn nhận được sự kính trọng miễn cưỡng của Washington vì những áp lực mà ông này gây ra cho Washington [4]. John M.Broder Tạp chí New York Times, 30/10/1997 Vấn đề thương mại và mậu dịch trong quan hệ hai nước khá phức tạp nhưng rất quan trọng. Tổng thống Bill Clinton phải chọn giữa hai lợi ích quốc gia trái ngược nhau. Lợi ích kinh tế của cả Trung Quốc và Mỹ sẽ được đảm bảo bằng việc cho phép hàng hoá Trung Quốc thâm nhập thị trường Mỹ, một hình thức tương tự như quy chế tối huệ quốc (MFN), mặc dù đôi khi ở Mỹ nó được gọi bằng cái tên “Quan hệ thương mại bình thường” (NTR)[5]. Tuy nhiên Trung Quốc đã từng vi phạm nhân quyền theo chuẩn mực của văn hoá phương Tây. Kể từ cao trào của Chiến tranh lạnh năm 1962, chính sách của Mỹ không dành quy chế tối huệ quốc cho những nước vi phạm các chuẩn mực về nhân quyền của Mỹ.[6] Vì vậy vấn đề là liệu chính sách đối nội của Trung Quốc về nhân quyền có phải là nhân tố trong chính sách kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc hay không. Sự căng thẳng giữa lợi ích kinh tế của Mỹ và các nguyên tắc đạo đức của nước này đã gây nên mâu thuẫn giữa hai cường quốc – vấn đề mà tổng thống Mỹ Clinton và Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân đã nhiều lần tìm cách giải quyết thông qua các cuộc đối thoại trực tiếp. Để giải quyết vấn đề này, tổng thống Clinton và chủ tịch Giang đương nhiên trở thành chủ thể của kinh tế chính trị quốc tế. Họ phải đối mặt với vấn đề kinh tế quốc tế (thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ) nhưng cũng có dính líu tới chính trị quốc tế và chính trị nội bộ dựa trên những khác biệt văn hoá xã hội cơ bản giữa truyền thống nhân quyền ở Mỹ và Trung Quốc. Vấn đề chính trị của họ ở đây chính là làm thế nào để dung hoà lợi ích chung của hai bên giữa thương mại và quan điểm văn hoá nhân quyền đối lập nhau dù cho luật của Mỹ quy định hai vấn đề này phải gắn chặt với nhau. Tổng thống Clinton thừa nhận những tiến bộ của Trung Quốc trong một số lĩnh vực quan tâm, đó là điều kiện đạt được để có thể tuyên bố một số thỏa thuận kinh doanh giữa hai nước mà lâu nay chưa giải quyết được. Nếu hội nghị thượng đỉnh được cho là một thành công đối với ngoại giao thương mại, điều đó cũng không thuyết phục Mỹ hết lo ngại về quyền tôn giáo và chính trị ở Trung Quốc.Trong buổi họp báo chung với Tổng thống Clinton, Chủ tịch Giang đã mạnh mẽ bảo vệ truyền thống của Trung Quốc ưu tiên trật tự xã hội so với quyền tự do cá nhân, thậm chí ngay cả khi điều đó dẫn đến sự hạn chế quyền cá nhân.Chủ tịch Giang còn nhấn mạnh đến lợi ích kinh tế của hai bên nhằm cố gắng giảm bớt “những phản đối” của những người biểu tình ủng hộ nhân quyền đang tập hợp ở Công viên Lafayette bên ngoài Nhà Trắng. Trong bài phát biểu khai mạc, ông Giang nói rằng: “Tổng thống Clinton và tôi có chung quan điểm rằng Trung Quốc và Mỹ có khả năng bổ sung cho nhau ở mức độ cao và một tiềm năng hợp tác kinh tế thương mại lớn”. Nhưng tổng thống Clinton khẳng định rằng người Trung Quốc có thể không mong có được sự thịnh vượng trong khi vẫn đàn áp tự do chính trị và xã hội. Clinton còn nói rằng Mỹ và Trung Quốc có “những bất đồng sâu sắc” về cách đối xử của chính quyền Bắc Kinh đối với các công dân của mình thậm chí còn tìm cách làm tăng thêm khoảng cách trong quan hệ thương mại hai nước[7]. Khi xác định chính sách đối với Trung Quốc, tổng thống Clinton phải tính đến nhiều hình thức ảnh hưởng lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ, cũng như những ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Clinton cần xem xét những quan điểm khác nhau về những hành động đó và những cách thức khác nhau sẽ ảnh hưởng đến người dân, hai dân tộc và hệ thống quốc tế; coi trọng những nhân tố lịch sử và sự khác biệt văn hoá sâu sắc. Phát biểu trên truyền hình trước khán giả toàn cầu, ông Giang đã nói rằng “một đất nước 1,2 tỷ dân không thể đạt được những tiến bộ trong cải cách kinh tế nếu không có ổn định chính trị và xã hội. Dân chủ, nhân quyền và tự do là những khái niệm cụ thể và tương đối, nó được xác định bởi bối cảnh quốc gia cụ thể ở những nước khác nhau”. Ông Giang không nói một lời xin lỗi nào cho vụ đàn áp những người biểu tình ủng hộ dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989 hay những vụ giam cầm những người bất đồng chính kiến ở nước này.Thậm chí ông Giang còn cảnh báo tổng thống Clinton can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc. Tổng thống Clinton cũng tuyên bố chính phủ Trung Quốc “đi trái dòng lịch sử” trong vụ Thiên An Môn và trong quá trình tiến tới tự do cá nhân.Tổng thống Clinton nói:[8] “Tôi tin rằng chuyện đã xảy ra, hậu quả và sự miễn cưỡng tiếp tục chấp nhận những bất đồng chính trị đã khiến Trung Quốc không nhận được sự ủng hộ chính trị của các nước khác trên thế giới mà lẽ ra Trung Quốc đáng được hưởng”. Nhưng cuối cùng, tổng thống Clinton cũng phải chọn giải pháp nới rộng đặc quyền thương mại MFN cho Trung Quốc nhằm thoả mãn một vài lợi ích kinh tế và chính trị, mặc dù Trung Quốc rõ ràng không đạt được tiến bộ nào trong vấn đề nhân quyền. Đây chỉ là một quyết định tạm thời cho vấn đề này, mỗi năm sẽ phải xem xét lại theo luật liên bang hiện hành. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa một bên là lợi ích kinh tế (tự do thương mại) và một bên là lợi ích quốc gia rộng hơn (cam kết lịch sử đối với quyền cá nhân con người) vẫn là vấn đề cơ bản. Khi một vấn đề quốc tế trở nên phức tạp và quan trọng mà không thể được xem như là một vấn đề đơn giản thuộc về kinh tế học, chính trị học, triết học hay xã hội học, khi đó vấn đề đó sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị quốc tế. Kinh tế chính trị quốc tế giờ đây đang trở thành vấn đề thời sự. Chúng ta sống trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng, những vấn đề quan tâm hàng ngày đang trở thành những vấn đề toàn cầu. Khi sự phụ thuộc lẫn nhau tăng lên, những vấn đề kinh tế cũng trở thành những vấn đề chính trị và ngược lại. Cách tiếp cận của Kinh tế chính trị quốc tế đối với các vấn đề quốc tế Về bản chất, MFN của Trung Quốc là một trường hợp điển hình trong kinh tế chính trị quốc tế, liên quan đến chính sách của Mỹ vốn ảnh hưởng tới cả thương mại và các giá trị xã hội ở cả Mỹ và Trung Quốc. Kinh tế chính trị quốc tế là một môn khoa học xã hội tập trung vào một tập hợp những vấn đề và sự kiện mà ở đó các nhân tố quốc tế, chính trị và kinh tế giao cắt, kết nối hay chồng chéo nhau tạo nên một quan hệ tương tác đa dạng. Trong thế giới ngày nay, những vấn đề đó đang thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Cách tiếp cận của kinh tế chính trị quốc tế đến khoa học xã hội là tổng hợp các phương pháp và quan điểm của kinh tế học, khoa học chính trị và xã hội học trên cơ sở hiểu rõ lịch sử, triết học cũng như đánh giá được tầm quan trọng của văn hoá. Sử dụng phương pháp tổng hợp này rất cần thiết, một phần do hiện nay các môn khoa học độc lập đang có xu hướng chỉ tập trung vào những yếu tố cụ thể của những vấn đề phức tạp, phần khác do những vấn đề trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau, các vấn đề có xu hướng vượt quá ranh giới tri thức của môn khoa học cụ thể. Khi nghiên cứu sự phân công lao động, các học giả chỉ tập trung vào một giới hạn hẹp các phương pháp và những vấn đề. Điều này cho phép có sự chuyên biệt hoá tri thức, tuy nhiên lại dẫn đến sự mù quáng do chỉ dựa vào một mặt của một vấn đề đa hướng. Kinh tế chính trị quốc tế áp dụng những phương pháp và kiến thức của các môn khoa học độc lập và tập hợp lại thành một cách phân tích tổng hợp. Tranh cãi giữa Mỹ và Trung Quốc về MFN và vấn đề nhân quyền là một ví dụ điển hình về mối quan hệ giữa kinh tế chính trị quốc tế và các môn khoa học khác. Sau đây là cách giải quyết tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc của các môn khoa học khác, mỗi môn khoa học độc lập sẽ chỉ tập trung vào một nhân tố cụ thể của vấn đề: Kinh tế học vi mô: Một nhà kinh tế học vi mô sẽ nhìn vào chính sách thương mại ảnh hưởng như thế nào đến quyết định của cá nhân người tiêu dùng, các nhà sản xuất và các nhà đầu tư; và những quyết định của họ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các thị trường khác nhau. Nhà kinh tế học vi mô có thể chỉ chú ý đến cá nhân nào thắng cuộc hay thua cuộc từ việc Mỹ cho Trung Quốc hưởng quy chế MFN, và cố gắng tính toán lợi nhuận thu được từ việc được hưởng quy chế đó sẽ làm tăng hiệu năng sản xuất và thương mại. Kinh tế học vĩ mô: Một nhà kinh tế học vĩ mô sẽ xem xét ảnh hưởng tổng thể về mặt kinh tế của MFN đối với nước mình và các nước đối tác thương mại khác của mình. Nhà kinh tế học vĩ mô sẽ dự báo ảnh hưởng của chính sách MFN đến cán cân thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ; đến sản xuất, doanh thu, tỉ lệ tăng trưởng ở hai nước; cũng như những thay đổi trong thương mại với Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến các nước khác như Nhật Bản, Thái Lan. Nhà nghiên cứu chính trị Mỹ sẽ tính đến yếu tố chính trị nội bộ ảnh hưởng như thế nào đến chính trị quốc tế và ngược lại. Họ có thể xem xét việc các nhóm lợi ích như công đoàn, hiệp hội ngân hàng và tập đoàn đa quốc gia bị ảnh hưởng bởi quy chế MFN như thế nào, và sau đó cố gắng nghiên cứu các nhóm này sẽ tìm cách gây ảnh hưởng chính trị đối với tổng thống và quốc hội ra sao. Chính trị học so sánh: Các nhà khoa học chính trị so sánh sẽ chỉ quan tâm đến vấn đề MFN giữa Mỹ và Trung Quốc liên quan như thế nào đến các hành động chính trị ở các nước khác. Ví dụ như chính sách MFN của Mỹ gắn liền với yếu tố nhân quyền có thể được xem như là một sự trừng phạt kinh đối với những nước không tuân theo chính sách nhân quyền của Mỹ. Nghĩa là nước đó sẽ không được hưởng những điều kiện ưu đãi khi thâm nhập thị trường của Mỹ. Chính trị học so sánh sẽ so sánh trường hợp trừng phạt kinh tế này có gì giống và khác với trường hợp cấm vận mà Mỹ áp dụng đối với Cuba khi nước này theo đuổi chế cộng sản hay như Nam Phi khi chính phủ Nam Phi ủng hộ chính sách phân biệt chủng tộc Apartheid. Chính sách trừng phạt Nam Phi khá hiệu quả bởi nó được các quốc gia đối tác thương mại lớn của Mỹ ủng hộ. Nhưng đối với trường hợp của Cuba cũng giống như Trung Quốc, chính sách cấm vận đó lại không giúp thay đổi chính trị nội bộ ở hai nước này bởi thiếu đi sự đoàn kết quốc tế. Quan hệ quốc tế: Các nhà khoa học chính trị lại thường nghiên cứu chính trị học diễn ra trên ba cấp độ: cấp độ cá nhân, cấp độ nhà nước và cấp độ hệ thống quốc tế. Các nhà khoa học chính trị chuyên về quan hệ quốc tế sẽ tập trung vào nhà nước quốc gia và bản chất của mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với điều kiện có tính đến bản chất của hệ thống quốc tế. Trong quan hệ quốc tế chúng ta có thể xem xét quy chế MFN ảnh hưởng như thế nào đến an ninh của Mỹ và Trung Quốc. Ví dụ Mỹ có thể tìm cách nâng cao an ninh quốc gia của mình bằng cách khuyến khích đẩy mạnh phong trào dân chủ ở Trung Quốc, điều này đòi hỏi chính phủ Trung Quốc phải tự do hoá các chính sách nhân quyền. Nền dân chủ ở Trung Quốc được cho rằng sẽ ít đe doạ đến lợi ích quốc gia của Mỹ hơn là một chính phủ Trung Quốc độc tài. Tổ chức quốc tế: Các nhà khoa học nghiên cứu về các tổ chức quốc tế có thể sẽ chú ý đến mối tương tác kinh tế và chính trị trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra trong một môi trường phức tạp có nhiều chủ thể. Có những tổ chức quốc tế như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng tham gia vào vấn đề này cũng như một loạt các tổ chức phi chính phủ (NGOs) gây ảnh hưởng đến chính phủ hai nước và áp đặt những điều kiện cho cuộc đàm phán của hai bên. Lý luận chính trị: Tâm điểm của các nhà lý thuyết chính trị là nền tảng triết học của các chính phủ liên quan đến vấn đề này. Mỹ dựa trên các nguyên tắc về dân chủ và cá nhân của Jefferson. Còn chính phủ Trung Quốc lại dựa trên những học thuyết chính trị của Lenin và Mao. Trong cả hai trường hợp những nguyên tắc chính trị qua thời gian sẽ được cải tiến phù hợp với thực tế. Những hành động và phản ứng của hai chính phủ sẽ phản ánh những luận thuyết chính trị được hai nước áp dụng. Vì vậy mối tương tác chính trị giữa hai quốc gia sẽ là sự xung đột hai bộ giá trị chính trị xã hội khác nhau. Xã hội học: Một nhà xã hội học có thể sẽ quan tâm tới mối quan hệ giữa các tầng lớp xã hội tham gia như thế nào vào cuộc xung đột này. Liệu sự phát triển thương mại với Trung Quốc có vì lợi ích của tầng lớp lao động – giai cấp vô sản – ở Mỹ hay không? Hay điều đó sẽ chỉ đem lại lợi ích cho tầng lớp tư sản? Những vấn đề như chủng tộc, sắc tộc và giới có được tính đến trong vấn đề này hay không? Nhân học: Một nhà nhân học sẽ tập trung vào những khác biệt văn hoá giữa Mỹ và Trung Quốc, văn hoá sẽ có vai trò như thế nào trong cuộc xung đột này. Mỹ xác định vấn đề nhân quyền như là quyền của các cá nhân trong khi Trung Quốc lại xem nhân quyền là quyền của cả nhóm hay của xã hội. Các nhà nhân học có thể cho rằng vấn đề này là sự xung đột văn hoá, hay giá trị văn hoá, chứ không phải là giữa các quốc gia hay giữa các nền kinh tế. Họ cũng xem yếu tố văn hoá có thể bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một giải pháp kinh tế hay chính trị nào. Lịch sử: Nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc có thể chỉ ra rằng chính phủ đế quốc phương tây đã có một lịch sử lâu dài muốn gây ảnh hưởng đến chính sách của Trung Quốc - nói chung là không phải vì chính lợi ích của Trung Quốc. Sự phản ứng cứng rắn của Trung Quốc đối với chính sách MFN của Mỹ bắt nguồn từ những kinh nghiệm đau thương trong lịch sử. Mặt khác, nhà lịch sử ngoại giao của Mỹ có thể yêu cầu chúng ta phải nhìn lại chức năng chính của chính sách nhân quyền MFN – đó là để buộc chính phủ cộng sản Xô Viết hạn chế sự đàn áp đối với những người Do thái Xô Viết – và thành công tương đối của chính sách này có thể có đóng góp gì đối với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô. Mỗi một cách tiếp cận nói trên đều có giá trị, nhưng đối với những vấn đề phức tạp và quan trọng như quan hệ Mỹ-Trung Quốc, không một cách tiếp nào có thể cho chúng ta hình dung toàn diện về chủ thể, lợi ích và các lực lượng liên quan. Một vấn đề như vậy đòi hỏi phải áp dụng cách tiếp của kinh tế chính trị quốc tế, sử dụng các phương pháp và kiến thức của một vài môn khoa học khác nhau và phân tích dựa trên ba cấp độ (cá nhân, nhà nước và hệ thống quốc tế) để có được một sự hiểu biết thấu đáo vấn đề. Nói một cách khác, một vấn đề như vậy sẽ xoá bỏ những rào cản nhân tạo chia rẽ các môn khoa học và cho phép chúng ta suy nghĩ một cách tự do, không bị kiềm chế bởi sự phân chia lĩnh vực học thuật. Những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị quốc tế cũng xoá đi những rào cản cách biệt những lợi ích cá nhân với lợi ích của nhà nước và của hệ thống quốc tế. Vì vậy, nguồn gốc kiến thức của kinh tế chính trị quốc tế là sự xóa bỏ những biên giới áp đặt nhưng mang tính truyền thống về tìm hiểu kiến thức và phân tích chính sách. Vì vậy kinh tế chính trị quốc tế vừa mới vừa cũ. Đây là môn khoa học mới do sử dụng phương pháp phân tích đa cấp liên ngành mà chỉ gần đây mới được kết hợp với những cấu trúc thể chế để cho phép và khuyến khích một cách có hệ thống những hành động này, dưới dạng các khóa học, các chuyên ngành và các chương trình đào tạo đại học trong kinh tế chính trị quốc tế. Tuy nhiên, đây lại là môn học cũ bởi lẽ vào Thế kỷ 19-20, hiện tượng phổ biến trong giới học thuật là sự phân chia các môn khoa học xã hội thành những môn độc lập. Trước thời gian đó, việc chia nhỏ kiến thức thành những môn nghiên cứu chi tiết được xem là không cần thiết hoặc là không khôn ngoan. Sự nghiên cứu bao quát những vấn đề xã hội được đặt dưới một cái tên chung là kinh tế chính trị. Kinh tế chính trị quốc tế ngày nay là sự tiếp nối học thuật của phương pháp nghiên cứu không có giới hạn bắt đầu từ kinh tế chính trị hơn hai thế kỷ qua. Mua bán thông tin đa chiều Trong cuốn sách nổi tiếng của mình về toàn cầu hóa “Chiếc Lexus và cây ô liu” Thomas L.Friedman giải thích nhu cầu của công việc buộc ông phải bắt đầu suy nghĩ về thế giới theo một cách rộng và thống nhất như thế nào. Cách mô tả của Friedman trong cuốn sách đó chính là cách suy nghĩ theo lối của kinh tế chính trị quốc tế, tuy nhiên tác giả đã không bao giờ gọi như vậy.[9] Khi nghiên cứu về Trung Đông và Ả rập, Fredman đã tích lũy kiến thức để chuẩn bị cho bài viết đầu tiên trên tạp chí New York Times về vấn đề quan hệ Israel-Ả rập. Tuy nhiên khi theo đuổi nghề nghiệp này và phát triển các bài báo của mình, Friedman nhận ra rằng cần phải chuyên nghiệp hơn trong lĩnh vực mới này và học cách làm thế nào để giải thích các vấn đề một cách rõ ràng và đơn giản hơn. Tác phẩm của Friedman ngày càng trở nên “đa chiều” liên quan đến lịch sử, kinh tế học, chính trị học, văn hóa, môi trường, công nghệ và các ý tưởng an ninh quốc gia. Friedman đã sớm thành thạo trong công việc gọi là “mua bán thông tin”. Trong thế giới tài chính, mua bán (arbitrage) là một hành động mua một hàng hóa nào đó ở một thị trường này và bán lại ở thị trường khác – lợi nhuận thu được từ việc tranh thủ những chênh lệch giá cả ở những thị trường khác nhau. Mua bán thông tin theo như cách Friedman thực hiện là khả năng kiếm lợi từ việc sử dụng những khái niệm và học thuyết từ một lĩnh vực học thuật (chẳng hạn lịch sử) để giải thích những lực lượng hoặc sự kiện trong lĩnh khác (như chính trị học hay kinh tế học)[10]. Theo như cách Friedman giải thích, mua bán thông tin là: … giống như đeo một cặp kính mới và bỗng nhiên nhìn thế giới qua lăng kính bốn chiều. Tôi đã nhận ra những bài phóng sự mà trước đây chưa bao giờ tôi xem chúng như là những bài phóng sự. Tôi đã thấy bàn tay vô hình và những còng xích đã kìm hãm những nhà lãnh đạo và các dân tộc làm những việc mà trước đây tôi chưa bao giờ hình dung ra được[11]. Đây chính là một sự hổ thẹn mà Friedman đã tiên phong gắn cho một cái tên khá nặng nề – mua bán thông tin đa chiều – cho lối suy nghĩ rất thú vị và hữu ích bởi vì một thuật ngữ đã từng tồn tại và nắm bắt chính xác bản chất của điều ông đang làm: kinh tế chính trị quốc tế. Kinh tế chính trị quốc tế không phải cặp kính 4 chiều của Friedman cho ta thấy rõ những mối liên kết bất ngờ nhưng cũng làm sáng tỏ hơn những mối quan hệ vốn dĩ rất mù mờ. Giống như bất kỳ một cặp kính mắt mới nào, phải mất một thời gian bạn mới quen được với kinh tế chính trị quốc tế, nhưng một khi bạn đã hài lòng với môn này, bạn sẽ không bao giờ lại có thể nhìn thấy thế giới theo cách cũ được nữa. Những yếu tố cơ bản của Kinh tế chính trị quốc tế Kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu các vấn đề theo phương pháp tiếp cận đa cấp liên ngành như vừa phân tích ở trên. Định nghĩa như vậy chưa thực sự rõ ràng chính xác. Susan Strange, người đầu tiên nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế hiện đại tại trường Kinh tế Chính trị Luân Đôn, đã định nghĩa về Kinh tế chính trị quốc tế rõ ràng hơn: … kinh tế chính trị quốc tế xem xét các dàn xếp kinh tế, chính trị và xã hội ảnh hưởng đến hệ thống sản xuất, trao đổi và phân phối toàn cầu và tập hợp các giá trị phản ánh trong đó. Những dàn xếp đó không phải được quy định một cách rõ ràng cũng như không phải là kết quả ngẫu nhiên của cơ hội ẩn, mà là kết quả của những quyết định của con người được đưa ra trong bối cảnh các định chế do con người quy định và các bộ luật lệ tự ban hành.[12] Theo định nghĩa này, Kinh tế chính trị quốc tế coi trọng các dàn xếp kinh tế, chính trị, xã hội đồng thời nhấn mạnh rằng kinh tế chính trị quốc tế không chỉ nghiên cứu các định chế và các tổ chức, mà cả các giá trị của chúng. Nhà nước và thị trường được kết nối với nhau bởi “hệ thống sản xuất, trao đổi và phân phối toàn cầu” – sau đây được gọi chung là các cấu trúc của kinh tế chính trị quốc tế. Vì vậy kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu theo cách thức kết nối các cá nhân, nhà nước và thị trường thế giới với nhau, những dàn xếp hay cấu trúc có liên quan để kết nối các chủ thể đó. Đó chính là văn hóa, lịch sử và các giá trị. Những yếu tố này thay đổi và sẽ tiếp tục thay đổi trong tương lai. Định nghĩa của Strange tập trung vào các mối liên kết kinh tế hạn hẹp (sản xuất, trao đổi và phân phối). Trên thực tế những thuật ngữ này có nội hàm và ý nghĩa rộng hơn. Bên cạnh việc sản xuất, trao đổi và phân phối hàng hóa và dịch vụ, cuộc sống còn có những yếu tố khác như quyền lực, an ninh, văn hóa và địa vị. Sản xuất, trao đổi và phân phối chính là hoạt động kinh tế; và cũng là hoạt động văn hóa ảnh hưởng đến các giá trị của con người và bản chất của các mối quan hệ chính trị xã hội trong và giữa các quốc gia dân tộc. (Một vài quốc gia hạn chế sự tiếp cận với phim ảnh, truyền hình nước ngoài vì họ lo ngại những tác động của các ý tưởng và hình ảnh của nước ngoài). Khi chính phủ Mỹ tìm cách làm suy yếu sự ủng hộ chính trị đối với chính phủ cộng sản của Liên Xô, họ bắt đầu bằng việc cử các nhạc sỹ nhạc Jazz đến Mát-xcơ-va. Với chủ ý, nhạc Jazz của Mỹ sẽ tạo nên hình ảnh của một đất nước Mỹ tự do, sáng tạo và một xã hội đa sắc tộc, nhằm thể hiện cho người dân Xô Viết thấy được hình ảnh của những giá trị Mỹ hoàn toàn khác với chủ trương chính thống của chính quyền Xô Viết. Những yếu tố trong nghiên cứu Kinh tế chính trị quốc tế chính là những yếu tố của cuộc sống, các định chế chính trị, kinh tế và xã hội tạo nên điều kiện sống cho chúng ta, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu. Có những người giàu có hơn người khác hoặc cũng có những quốc gia mạnh hơn quốc gia khác. Những điều kiện này một phần là kết quả của các cấu trúc hoặc dàn xếp toàn cầu trong việc sản xuất, trao đổi và phân phối các nguồn lực kinh tế, chính trị và xã hội. Những cấu trúc kinh tế chính trị quốc tế hình thành một khuôn khổ hữu ích nghiên cứu các vấn đề kinh tế chính trị quốc tế. Nhiều nghiên cứu của kinh tế chính trị quốc tế tập trung vào sự tác động lẫn nhau của hai định chế xã hội rất quan trọng đó là nhà nước và thị trường; bản chất mối tương tác của các định chế này trong hệ thống quốc tế (“luật chơi quốc tế”). Robert Gilpin đã định nghĩa kinh tế chính trị là “lĩnh vực nghiên cứu” phân tích các vấn đề nổi lên từ sự tồn tại song song và mối tương tác năng động giữa “nhà nước” và “thị trường” trong thế giới hiện đại”[13]. Nhà nước là nơi tập hợp các hành động và quyết định tập thể. Nhà nước thường ngụ ý đến những định chế chính trị của quốc gia dân tộc đương đại, một khu vực địa lý với hệ thống chính phủ tự trị và tương đối cố kết trải dài trên toàn khu vực đó. Quốc gia dân tộc là một thực thể hợp pháp có lãnh thổ và dân cư riêng, với một chính phủ có khả năng thực hiện chủ quyền.Ví dụ như Pháp có lãnh thổ của Pháp, người dân Pháp và chính phủ Pháp, và các chính sách của Pháp, phụ thuộc vào bối cảnh. Tuy nhiên chúng ta cũng nên nhìn nhận nhà nước một cách rộng hơn, theo nghĩa đây là một phạm trù của những hành vi chính trị và tập thể diễn ra ở nhiều cấp độ. Liên minh châu Âu (EU) không phải là một quốc gia dân tộc, đó là một tổ chức các quốc gia dân tộc. Nhưng ở một mức độ nào đó, EU lại đưa ra những lựa chọn và chính sách ảnh hưởng đến toàn bộ nhóm các dân tộc và công dân của họ, thể hiện quyền sở hữu của một nhà nước. Thị trường là nơi tập hợp các hành động và quyết định cá nhân. Thị trường có nghĩa là các định chế kinh tế của chủ nghĩa tư bản đương đại. Thị trường là một phạm vi hành động của con người bị thống trị bởi những lợi ích cá nhân và bị quy định bởi sức mạnh cạnh tranh. Mặc dù một thị trường đôi khi là vị trí địa lý (chẳng hạn như Thị trường chứng khoán New York hay thị trường Pike Place ở Seatle), nhưng thông thường đó là quyền lực. Nghĩa là quyền lực của thị trường đã tạo động lực và điều kiện cho hành vi của cá nhân con người. Các cá nhân bị chỉ huy bởi động lực của lợi ích cá nhân để sản xuất và cung cấp các hàng hóa dịch vụ khan hiếm hoặc để tìm kiếm những sản phẩm mua bán hoặc những công việc lương cao. Họ bị điều khiển bởi sức mạnh cạnh tranh của thị trường nên phải sản xuất những sản phẩm tốt hơn, rẻ hơn và hấp dẫn hơn. Mặc dù nhà nước và thị trường là những hệ thống tổ chức xã hội phức tạp, nhưng định nghĩa kinh tế chính trị như vậy sẽ dễ hiểu hơn. Xã hội chứa đựng cả những nhân tố nhà nước và thị trường phản ánh lịch sử, văn hóa và những giá trị của hệ thống xã hội. Sự tồn tại song song của nhà nước (chính trị học) và thị trường (kinh tế học) tạo nên những mâu thuẫn cơ bản, hình thành nên đặc trưng của kinh tế chính trị. Nhà nước và thị trường không phải lúc nào cũng xung đột lẫn nhau, nhưng chúng thường chồng chéo lên nhau ở một mức độ thể hiện rõ sự xung đột đó. Những mâu thuẫn này là do những lợi ích và giá trị khác nhau có thể được giải quyết theo những cách khác nhau ở những thời điểm khác nhau, nhưng những mâu thuẫn cơ bản vẫn còn tồn tại và xuyên suốt lịch sử loài người. Sự tương tác giữa nhà nước và thị trường rất năng động, có nghĩa là sự tương tác đó thay đổi theo thời gian. Cụ thể là nhà nước tác động đến thị trường và ngược lại thị trường cũng ảnh hưởng đến nhà nước, thường xuyên thay đổi mô hình lợi ích và giá trị mà các nhà kinh tế chính trị phải nghiên cứu. Thịnh vượng và Quyền lực: Mâu thuẫn giữa nhà nước và thị trường Bản chất vận động của mối tương tác giữa nhà nước và thị trường Những khía cạnh của kinh tế chính trị quốc tế Ba cấp độ phân tích Hai dạng quyền lực Bốn cấu trúc toàn cầu Ba quan điểm và ba tập hợp giá trị Kinh tế chính trị quốc tế trong thế giới không biên giới Câu hỏi thảo luận Download toàn bộ tài liệu (PDF) tại đây: Kinh te chinh tri quoc te la gi [1] Susan Strange biên soạn: “Paths to International Political Economy” (NXB George Allen& Unwin, Luân Đôn 1984. Phần ix [2] Rowland Maddock: “The Global Political Economy” trong “Dilemmas of World Politics” của John Bayless và N.J.Rengger biên soạn. New York, Oxford University Press 1992. trang 108 [3] www.ups.edu/ipe/[4] John M.Broder: “U.S and China Reach Trade Pacts but Clash on Rights”. New York Times 30/10/1994, tr.1. [5] Thuật ngữ “Quan hệ thương mại bình thường” (NTR) được sử dụng gần đây trong tuyên bố của chính phủ Mỹ. Chúng ta sẽ vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ quy chế tối huệ quốc MFN rộng rãi hơn. Việc thay đổi thuật ngữ nhằm tác động đến cuộc tranh luận về thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc. [6] Mặc dù luật của Mỹ về MFN được quy định cụ thể trong điều kiện nhân quyền, một vấn đề đạo đức và sắc tộc, vẫn có những giá trị quốc gia khác gián tiếp liên kết tới điều đó: an ninh quốc gia. Ít nhất một số nhà lập pháp có thể tin rằng bất kỳ một quốc gia nào có những quan điểm quyền cá nhân khác với Mỹ (chẳng hạn như Liên Xô vào những năm 1960 hay Trung Quốc vào những năm 1990) sẽ là một mối đe dọa tiềm tàng đối với an ninh quốc gia Mỹ. [7] Broder, “.S. and China” [8] Sđd [9] Thomas L.Friedman: “The Lexus and the Olive Tree: Understanding Globalization”. New York: Farrar, Straus and Giroux 1999. [10] Sđd, tr 17-18 [11] Sđd, tr. 17 [12] Susan Strange: “Nhà nước và Thị trường: Nhập môn kinh tế chính trị quốc tế”. New York, Basil Blackwell 1988, trang 18. [13] Robert Gilpin sử dụng định nghĩa này trong cuốn sách Kinh tế chính trị của quan hệ quốc tế. Princeton, NJ: Princeton University Press 1987. Trang 8. Share this: Email Print Twitter Facebook58 LinkedIn Google +1 Like this: This entry was posted in Kinh tế chính trị quốc tế and tagged David N. Balaam, Introduction to International Political Economy, Khoa QHQT, Kinh tế chính trị quốc tế, Lê Hồng Hiệp, Michael Vaseth. Bookmark the permalink. ← #4 – Có hay không một logic trường tồn về xung đột trong chính trị quốc tế?#6- Nước Mỹ ở Châu Á – Thái Bình Dương → Gửi phản hồi Bài viết mới #23 – Biển Đông: Dầu mỏ, những yêu sách trên biển, và cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung #22 – Quy luật và Lý thuyết #21 – Thời kỳ khó khăn và sụp đổ chế độ: Phản ứng của chế độ chuyên chế với suy thoái kinh tế #20 – Nhật Bản trong lòng Châu Á #19 – Nguồn gốc những xung đột lớn trong thế kỷ 20 #18 – Chủ nghĩa hiện thực cấu trúc sau Chiến tranh Lạnh #17 – Hãy suy nghĩ lại: Nạn buôn người #16 – Lý giải sự suy giảm của các cuộc chiến tranh lớn #15 – Quan điểm của VN về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa #14 – Đảm bảo an ninh năng lượng #13 – Tranh luận nội bộ Trung Quốc về chính sách Biển Đông #12 – Bản chất đang thay đổi của quyền lực #11- Xử lý cuộc khủng hoảng Châu Á: IMF và Hàn Quốc #10 – Chính sách ngoại giao mới của Trung Quốc #9 – Các quan điểm lý thuyết về quan hệ quốc tế ở Châu Á #8 – Sự dẻo dai của chế độ chuyên chế #7 – Cuộc đối thoại ở Melos #6- Nước Mỹ ở Châu Á – Thái Bình Dương #5 – Kinh tế chính trị quốc tế là gì? #4 – Có hay không một logic trường tồn về xung đột trong chính trị quốc tế? Chuyên mục An ninh CA-TBD An ninh quốc tế Các vấn đề toàn cầu Chính trị quốc tế CSĐN Hoa Kỳ Kinh tế chính trị quốc tế Lý thuyết QHQT Luật pháp quốc tế Phương pháp NCKH Tranh chấp Biển Đông Trung Quốc Lưu trữ Tháng Sáu 2013 Tháng Năm 2013 Tháng Năm 2013 T2 T3 T4 T5 T6 T7 CN Tháng 6 » 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 Liên hệ Lê Hồng Hiệp nghiencuuquocte@gmail.com Nhận thông báo bài mới qua email Nhập địa chỉ email của bạn để nhận thông báo về bài mới xuất bản qua email. Nghiên cứu quốc tế Theme: Twenty Ten Blog at WordPress.com. Follow Follow “Nghiên cứu quốc tế” Get every new post delivered to your Inbox. Join 40 other followers Powered by WordPress.com
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:15:36 GMT 9
Chính sách ngoại giao mới của Trung Quốc
Nguồn: Medeiros, Evan S. & M. Taylor Fravel[1] (2003). “China’s New Diplomacy”, Foreign Affairs (November-December), pp. 22-35. >>PDF
Biên dịch: Nguyễn Thị Kiều Phương | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: China’s new diplomacy
Không còn là nạn nhân
Mùa hè này, khi cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Triều Tiên lên cao, hầu hết mọi con mắt đều đổ dồn về những đối thủ ở Washington và Bình Nhưỡng. Không được chú ý nhiều nhưng Bắc Kinh là một chủ thể thứ ba đóng vai trò quan trọng không kém. Trung Quốc, từ lâu kín tiếng về các vấn đề chính sách đối ngoại, nay đã mạnh dạn bước chân vào cuộc đối đầu bằng việc đình chỉ các chuyến tàu chở dầu thiết yếu đến Triều Tiên, gửi các đại diện cấp cao đến Bình Nhưỡng và di chuyển quân quanh biên giới Trung- Triều. Chính Trung Quốc đã tổ chức các cuộc đàm phán ba bên tại Bắc Kinh vào tháng Tư. Và từ đó tới nay Trung Quốc vẫn không giảm bớt áp lực. Mùa hè này, Trung Quốc đã bắt giữ một tàu Triều Tiên trong một tranh chấp “kinh tế”, còn Thứ trưởng Ngoại giao Đới Bỉnh Quốc đã có các chuyến công tác con thoi giữa Bình Nhưỡng và Washington để đảm bảo rằng vòng đàm phán thứ hai sẽ được tiến hành.
Nhìn chung, những sáng kiến này thể hiện việc Trung Quốc đã chấm dứt hơn một thập kỷ bị động và đùn đẩy trách nhiệm trong vấn đề hạt nhân Triều Tiên. Chúng cũng báo hiệu một sự biến đổi lớn hơn nữa, mặc dù vẫn chưa được thừa nhận rộng rãi: sự trỗi dậy của Trung Quốc như là một chủ thể tích cực trên trường quốc tế. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã bắt đầu có cách tiếp cận ít đối đầu hơn, tinh vi hơn, tự tin hơn và đôi khi cũng mang tính xây dựng hơn đối với các vấn đề khu vực và toàn cầu. Ngược lại với một thập kỷ trước, quốc gia đông dân nhất thế giới này giờ đây đã gần như hoạt động trong khuôn khổ hệ thống quốc tế. Trung Quốc đã chấp nhận đa số các thể chế, quy tắc và chuẩn mực quốc tế hiện hành như một phương tiện thúc đẩy lợi ích quốc gia của mình. Và Trung Quốc thậm chí còn tìm cách định hướng sự phát triển của hệ thống đó theo các cách thức nhất định.
Có rất nhiều bằng chứng cho sự thay đổi này. Từ giữa những năm 1990, Trung Quốc đã mở rộng các mối quan hệ song phương về lượng lẫn chất, gia nhập nhiều hiệp ước thương mại và an ninh, tham gia sâu hơn vào các tổ chức đa phương quan trọng, và giúp giải quyết các vấn đề an ninh toàn cầu. Việc quyết định các vấn đề quan trọng trong chính sách đối ngoại đã ít bị chi phối bởi các cá nhân và mang tính thể chế hóa hơn, và các nhà ngoại giao Trung Quốc cũng đã khéo léo hơn trong việc nói rõ mục tiêu của đất nước họ. Nói rộng hơn thì giới hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc ngày càng xem đất nước mình như một cường quốc đang trỗi dậy với những trách nhiệm và lợi ích khác nhau – không còn là một quốc gia đang phát triển mang “tâm lý nạn nhân” như trong thời kỳ của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình nữa.
Tất nhiên không phải ai cũng đồng ý với đánh giá này. Nhiều nhà chiến lược và nghiên cứu Trung Quốc chỉ ra tình trạng tham gia hạn chế của Bắc Kinh trong cuộc khủng hoảng Iraq gần đây như là bằng chứng cho thấy các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn giữ cách tiếp cận chủ yếu là bị động đối với các vấn đề thế giới. Theo quan điểm này thì Trung Quốc vẫn cố gắng tối đa hóa lợi ích của mình thông qua sự can dự tối thiểu ở nước ngoài, bằng việc ngồi không hưởng lợi trên hành động của các cường quốc lớn khác trong khi lên mặt rao giảng đạo đức. Tuy nhiên, những nhà phê bình này lại phớt lờ một sự thật không thể phủ nhận, đó là trong 10 năm qua, chính sách ngoại giao của Trung Quốc đã linh hoạt và mang tính can dự hơn nhiều so với bất cứ thời điểm nào trong lịch sử của nhà nước Cộng hòa nhân dân này.
Những sự thay đổi này có thể chậm và không rõ ràng, nhưng ý nghĩa của chúng là rất lớn. Và tác động của chúng đối với các quan hệ của Trung Quốc với cả Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế nói chung là hết sức quan trọng. Rốt cuộc, Trung Quốc giờ đây không chỉ chấp nhận nhiều thể chế và quy tắc quốc tế thông dụng, mà còn trở thành một chủ thể có năng lực và lão luyện trong trò chơi ngoại giao. Khi cơ hội hợp tác tồn tại, Bắc Kinh sẽ mang tới bàn đàm phán nhiều hơn so với trong quá khứ. Nhưng những sự phát triển này có thể dẫn đến một kết quả khác mà các nhà hoạch định chính sách Mỹ không được phép mơ hồ: Khi mở rộng ảnh hưởng và cải thiện ngoại giao, Trung Quốc cũng sẽ giỏi hơn trong việc bảo vệ các lợi ích của mình – thậm chí khi chúng mâu thuẫn với các lợi ích của Mỹ.
Trung Quốc can dự
Theo nghĩa nào đó, sự tiến hóa trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã bắt đầu hơn một thập kỷ trước khi Đặng Tiểu Bình, với vai trò là nhà lãnh đạo tối cao, phát động phong trào “cải cách và mở cửa” vào cuối những năm 1970, khởi xướng sự chuyển đổi lớn về đối ngoại đầu tiên của Trung Quốc. Trước Đặng Tiểu Bình, Mao Trạch Đông đã bác bỏ những quy tắc của hệ thống quốc tế và tìm cách lật đổ nó, thay vào đó họ theo đuổi sự thay đổi thông qua cách mạng. Chính sách đối ngoại của Mao được biết đến với ngôn ngữ khoa trương, sự đối đầu mạnh mẽ với các siêu cường (Hoa Kỳ và Liên Xô), gắn kết mật thiết với các nước đang phát triển, tương đối cô lập với các tổ chức quốc tế và chính sách kinh tế tự cung tự cấp.
Đặng đã dẫn dắt Trung Quốc theo chiều hướng ngược lại. Để tạo điều kiện hiện đại hóa nền kinh tế, ông đã đẩy mạnh quan hệ với cộng đồng quốc tế. Trung Quốc đã mở rộng vị thế quốc tế của mình bằng việc gia tăng đáng kể sự tham gia vào các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ, đặc biệt là các tổ chức tài chính, và dần dần thoát ra khỏi sự cô lập thời kỳ Mao.
Tuy nhiên, sự chuyển đổi của Đặng chỉ mang tính cục bộ và sự tham gia của Trung Quốc vào cộng đồng quốc tế vẫn chưa nhiều trong suốt nhiệm kỳ của ông. Thực tế, Bắc Kinh đã tìm cách có được nhiều quyền và đặc quyền của một cường quốc mà không chấp nhận hầu hết các nghĩa vụ và trách nhiệm đi kèm. Động thái này đặc biệt dễ thấy trong các tổ chức liên chính phủ như Liên Hiệp Quốc. Quá trình xây dựng chính sách đối ngoại dưới thời Đặng vẫn mang tính tập trung hóa cao. Các nhà ngoại giao Trung Quốc vẫn chưa được đào tạo bài bản và còn thiếu kinh nghiệm. Tệ hơn nữa, bản thân nội dung chính sách thực tế của Trung Quốc cũng thường mơ hồ và khó tiếp cận.
Ngược lại, ngày nay, tình hình đã cải thiện đáng kể; cách tiếp cận của Trung Quốc đối với các quan hệ song phương, các tổ chức đa phương và các vấn đề an ninh phản ánh một sự khéo léo và linh hoạt mới. Những sự thay đổi này cho thấy một sự cố gắng của các nhà lãnh đạo gần đây để thoát ra khỏi sự cô lập sau sự kiện Thiên An Môn, xây dựng lại hình ảnh của họ; bảo vệ và nâng cao lợi ích kinh tế của Trung Quốc, củng cố an ninh. Chúng cũng cho thấy một nỗ lực nhằm đối trọng lại ảnh hưởng của Mỹ trên toàn thế giới. Sự nổi trội của các động cơ này thay đổi trong các phát biểu công khai của Trung Quốc theo thời gian, nhưng chúng vẫn duy trì ảnh hưởng lâu dài trong các tính toán của Bắc Kinh.
Sự chuyển đổi gần đây hơn bắt đầu vào đầu những năm 1990 cùng với xu thế mở rộng các liên kết song phương của Bắc Kinh. Từ năm 1990 đến 1994, Trung Quốc đã bình thường hóa hoặc thiết lập quan hệ ngoại giao với 18 quốc gia, cũng như với các quốc gia thừa kế Liên Xô. Sau đó, vào những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu dựa trên các mối quan hệ mới này để thiết lập nhiều cấp độ quan hệ đối tác nhằm tạo điều kiện cho hợp tác kinh tế và an ninh và để đối chọi lại hệ thống các đồng minh khu vực của Hoa Kỳ. Đỉnh cao của quá trình này là Hiệp ước Láng giềng Thân thiện, Hữu nghị và Hợp tác giữa Trung Quốc và Nga được ký năm 2001.
Trong suốt thời kỳ này, Bắc Kinh cũng đã bắt đầu bỏ đi ác cảm trước đó đối với các thể chế đa phương mà Đặng đã luôn lo sợ là có thể được sử dụng để trừng phạt hoặc cưỡng ép Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng đã bắt đầu nhận ra rằng những tổ chức như thế có thể giúp quốc gia của họ đẩy mạnh các lợi ích thương mại và an ninh và hạn chế ảnh hưởng của Mỹ. Vì vậy, từ nửa sau những năm 1990, Trung Quốc đã bắt đầu can dự cùng Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Năm 1995, Bắc Kinh bắt đầu tổ chức các cuộc họp thường niên với các quan chức cấp cao ASEAN. Hai năm sau, Trung Quốc giúp khởi xướng cơ chế “ASEAN+3”, một loạt các cuộc gặp thường niên giữa 10 quốc gia ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tiếp đến là cơ chế “ASEAN+1” và các cuộc họp thường niên giữa ASEAN và Trung Quốc, thường được đứng đầu bởi Thủ tướng Trung Quốc. Trung Quốc cũng đã tham gia sâu sắc hơn vào diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), làm chủ nhà tổ chức hội nghị thượng đỉnh lần thứ 9 của diễn đàn này ở Thượng Hải vào năm 2001.
Trong khi đó, tại Trung Á, Trung Quốc đã dẫn dắt sự thành lập nhóm đa phương đầu tiên trong khu vực, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Được thành lập để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ lâu dài và giải trừ quân bị vùng biên giới, tổ chức này ngày nay nhấn mạnh hợp tác chống khủng bố và thương mại khu vực.
Trung Quốc cũng đã chuyển hướng chú ý đến việc cải thiện mối quan hệ với châu Âu. Năm 1996, Trung Quốc là một thành viên sáng lập Hội nghị Á- Âu (ASEM) tổ chức các hội nghị thượng đỉnh 2 năm 1 lần cho các nguyên thủ quốc gia và các cuộc họp cấp bộ trưởng hàng năm. Hai năm sau, Trung Quốc và Liên minh Châu Âu cũng đã khởi xướng một chương trình đối thoại chính trị hàng năm. Đáng kể nhất, Bắc Kinh thậm chí đã tiếp cận NATO lần đầu tiên vào cuối năm ngoái. Đề xuất của Trung Quốc là bắt đầu một loạt các cuộc đối thoại với NATO. Đề xuất này có thể là khiêm tốn nhưng nó đánh dấu một sự từ bỏ đầy ý nghĩa đối với truyền thống chỉ trích các liên minh do Mỹ đứng đầu của Trung Quốc. Tuy nhiên, hành động này không nên bị hiểu lầm là một sự chào đón mới của Trung Quốc đối với an ninh tập thể; nó cũng có thể nhắm vào việc giám sát và khai thác một cách hợp lý các mâu thuẫn bên trong liên minh xuyên Đại Tây Dương này, đặc biệt là liên quan đến sự can dự của NATO ở Trung Á.
Trong những năm 1990, Trung Quốc cũng có những hành động nhằm giải quyết một số tranh chấp lãnh thổ trước đây đã gây ra căng thẳng với các nước láng giềng. Từ năm 1991, Trung Quốc đã dàn xếp các cuộc xung đột biên giới với Kazakhstan, Kyrgyzstan, Lào, Nga, Tajikistan và Việt Nam – và đôi khi cũng chấp nhận những điều kiện kém thuận lợi hơn so với những gì nó có thể đạt được. Thực tế, trong hầu hết những thỏa thuận này, Trung Quốc chỉ nhận được 50% lãnh thổ tranh chấp hoặc ít hơn; ví dụ như trong việc giải quyết tranh chấp lâu dài về dãy núi Pamir mà Tajikistan được thừa hưởng từ Liên Xô, Trung Quốc chỉ nhận được 1.000 trong số 28.000 km2 tranh chấp.
Quan hệ với Ấn Độ, một trong những đối thủ lâu năm của Trung Quốc (hai nước đã tiến hành một cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1962), cũng đã được cải thiện. Mặc dù cả hai bên vẫn không thể chính thức giải quyết những khác biệt nhưng những căng thẳng tại vùng biên giới đang tranh chấp của họ đã giảm đáng kể, nhờ những thỏa thuận xây dựng lòng tin và cắt giảm quân đội ký vào những năm 1990. Nga và các quốc gia Trung Á cũng đã đạt được những thỏa thuận tương tự. Kết quả là biên giới đất liền của Trung Quốc, nơi nước này từng tham gia nhiều cuộc chiến tranh lớn, chưa bao giờ được an toàn hơn lúc này.
Tương tự, Bắc Kinh cũng đã chọn một cách tiếp cận thực tế hơn đối với việc kiểm soát những tranh chấp lãnh thổ ngoài khơi, như các tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Senkaku. Mặc dù vẫn bám vào những tuyên bố đòi chủ quyền trên những quần đảo này nhưng Trung Quốc đã nhiều lần cam kết sẽ giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình dựa trên luật quốc tế. Sau bốn năm đàm phán, ASEAN và Trung Quốc đã ký một bản tuyên bố được chờ đợi từ lâu về các quy tắc ứng xử đối với các vấn đề này vào năm 2002. Điều đáng nói là văn bản cuối cùng bao gồm hầu hết các đề xuất do ASEAN đưa ra mà không có nhiều các đề xuất của Trung Quốc.
Có lẽ đáng ngạc nhiên hơn là Trung Quốc thậm chí đã bắt đầu xúc tiến những sáng kiến nhằm giải quyết các vấn đề an ninh trong các diễn đàn mà Hoa Kỳ đóng vai trò chính. Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN 2003, Trung Quốc đã đề xuất thành lập một cơ chế an ninh mới. Trong khuôn khổ của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), cơ chế cho các thảo luận an ninh của tổ chức này, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lý Triệu Tinh đã đề xuất tổ chức một hội nghị nhằm gia tăng sự giao tiếp giữa các quân đội châu Á. Hành động này thể hiện một sự thay đổi đáng chú ý so với lập trường của Trung Quốc chỉ cách đây một thập niên, khi mà nước này luôn né tránh bất cứ các cuộc thảo luận an ninh nào với ASEAN, chứ chưa nói đến các cuộc thảo luận giữa các quân đội với nhau.
Trong khi đó, Trung Quốc cũng đã tăng cường tham gia các hoạt động của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Đến giữa những năm 1990, Trung Quốc thường xuyên bỏ phiếu trắng trong các nghị quyết của Hội đồng có viện dẫn Chương VII của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, trong đó cho phép sử dụng vũ lực, nhằm tỏ rõ thái độ phản đối với việc làm xói mòn chủ quyền quốc gia mà các nghị quyết như vậy có thể gây ra. Tuy nhiên, những năm gần đây, Bắc Kinh đã bắt đầu ủng hộ các biện pháp như vậy. Ví dụ, vào tháng 11/2002, quốc gia này đã bỏ phiếu ủng hộ Nghị quyết 1441 về việc thanh tra vũ khí ở Iraq, một trong số những lần hiếm hoi mà Trung Quốc đã ủng hộ một biện pháp dựa trên Chương VII kể từ khi nước này tham gia Liên Hiệp Quốc vào năm 1971. Bắc Kinh cũng đã gia tăng sự tham gia của mình vào các hoạt động giữ gìn hòa bình, hỗ trợ các đội quân ở Đông Timor, Congo, và nhiều nơi khác.
Sự quan tâm và tham gia của Trung Quốc trong việc kiểm soát vũ khí toàn cầu và các vấn đề chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt đã trải qua một sự chuyển đổi quan trọng không kém. Trong hầu hết thập kỷ 1980, Bắc Kinh xem việc kiểm soát vũ khí và chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt là trách nhiệm của Mỹ và Liên Xô, và coi chúng như là những nỗ lực nhằm hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Tuy nhiên, kể từ đó Trung Quốc đã phê chuẩn một số hiệp định kiểm soát vũ khí và hạn chế vũ khí hủy diệt hàng loạt, bao gồm Hiệp ước không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân và Công ước về Vũ khí Hóa học. Trung Quốc cũng đã đồng ý tuân theo các quy định cơ bản của Cơ chế Kiểm soát Công nghệ Tên lửa. Quốc gia này cũng đã ký Hiệp ước Cấm Thử nghiệm Vũ khí Hạt nhân Toàn diện vào năm 1996, mặc dù Bắc Kinh vẫn còn nhu cầu thử nghiệm đáng kể liên quan trực tiếp tới nỗ lực hiện đại hóa kho đầu đạn hạt nhân của mình.
Cuối cùng, mặc dù các công ty Trung Quốc vẫn tiếp tục cung cấp các thiết bị lưỡng dụng đáng quan ngại cho một số nước (như Pakistan và Iran), nhưng phạm vi, nội dung và tần suất của việc xuất khẩu các thiết bị liên quan đến vũ khí nhạy cảm đã giảm xuống. Vào nửa sau những năm 1990, chính quyền Trung Quốc đã bắt đầu thể chế hóa các cam kết hạn chế vũ khí hủy diệt hàng loạt của mình bằng cách kiểm soát xuất khẩu, một xu thế vẫn tiếp diễn trong những năm gần đây. Hơn nữa, cộng đồng ngày càng lớn các quan chức, nhà khoa học, sĩ quan quân đội và các học giả Trung Quốc tham gia nghiên cứu và hoạch định chính sách kiểm soát vũ khí và hạn chế vũ khí hủy diệt hàng loạt đã làm các nhà lãnh đạo cấp cao hiểu rõ hơn tầm quan trọng của vấn đề này đối với tổng thể chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia.
Sự điều chỉnh nhất thời?
Thậm chí cách tiếp cận gần đây của Bắc kinh đối với vấn đề Đài Loan – thách thức an ninh lớn nhất và vấn đề chính sách đối ngoại nhạy cảm nhất của Trung Quốc lâu nay – tiết lộ một sự tự tin và khéo léo đang lớn dần. Từ giữa những năm 1990 đến đầu năm 2001, các chính sách của Trung Quốc về quan hệ giữa hai bờ eo biển còn chưa chắc chắn và mang tính đối phó. Quá lo lắng việc Đài Loan đang dần dần đi đến độc lập khiến cho Bắc Kinh đã nhìn nhận nhiều vấn đề ngoại giao không liên quan (như trong nhiều mối quan hệ của nó với các quốc gia thứ ba) thông qua lăng kính đơn lẻ này. Và đối với riêng Đài Loan, Trung Quốc đã tập trung hơn vào các biện pháp mang tính áp đặt nhằm ngăn chặn sự độc lập của hòn đảo này hơn là khuyến khích sự thống nhất hay giảm căng thẳng. Các quan chức Trung Quốc đã kịch liệt phản đối mọi sự cải thiện trong quan hệ quân sự Mỹ- Đài và hòn đảo này luôn là điểm nghẽn lớn nhất trong quan hệ Mỹ- Trung.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này đã phản tác dụng. Ví dụ, khi tiến hành những cuộc thử nghiệm tên lửa hiếu chiến vào năm 1995 và 1996 với hi vọng đe dọa các lãnh đạo Hoa Kỳ và Đài Loan, Trung Quốc đã nhận được một kết quả ngược lại: Hoa Kỳ đã gửi hai tàu sân bay đến eo biển Đài Loan và sự ủng hộ Tổng thống đương nhiệm Lý Đăng Huy đã tăng lên. Các cuộc diễn tập quân sự và chính sách ngoại giao hiếu chiến cũng đã phá hủy hình tượng của Trung Quốc trong khu vực, cụ thể là đối với các quốc gia Đông Nam Á.
Bắc Kinh đã phạm sai lầm tương tự bốn năm sau đó. Năm 2000, Trung Quốc đã công bố một sách trắng về vấn đề Đài Loan, tuyên bố rằng việc trì hoãn vô thời hạn các cuộc đàm phán giữa hai bên có thể khiến Trung Quốc phải sử dụng các “biện pháp quyết liệt”, kể cả vũ lực. Có lẽ một trong những mục tiêu của Bắc Kinh là thiết lập một khung thời gian (dẫu không cụ thể) cho sự thống nhất. Nhưng kết quả là một vài tháng sau đó, Đài Loan bầu ra Tổng thống đầu tiên từ một đảng đối lập ủng hộ độc lập.
Hai năm qua, Trung Quốc cuối cùng cũng có vẻ đã bắt đầu rút ra được bài học, thay thế sách lược hiếu chiến và áp đặt bằng sự kiên nhẫn và ôn hòa. Vì vậy, Bắc Kinh đã từ bỏ những nỗ lực nhằm tạo nên một kế hoạch cứng rắn cho việc tái thống nhất và làm dịu bớt các đe dọa dùng vũ lực quân sự. Thay vào đó, Trung Quốc có vẻ quan tâm hơn với việc thuyết phục Đài Loan bằng các cơ hội kinh tế (trong khi vẫn mài sắc hơn nữa các công cụ mang tính áp đặt). Hơn thế nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không còn chống lại mọi tiến triển trong quan hệ quân sự Mỹ- Đài. Trong thực tế, các quan chức cấp cao Trung Quốc đã ngừng đề cập đến vấn đề này mỗi khi gặp gỡ những người đồng cấp phía Hoa Kỳ.
Điều này không có nghĩa là Bắc Kinh đã từ bỏ mục tiêu cuối cùng là tái thống nhất với hòn đảo này. Cách xử lý nặng tay của Trung Quốc đối với khủng hoảng SARS ở Đài Loan, cũng như những cố gắng bền bỉ của nước này trong việc từ chối tư cách thành viên Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) của Đài Loan, gần đây đã khiến nhiều người nghi ngờ chiều sâu của sự chuyển đổi này. Nhưng nói chung, sách lược của Trung Quốc đã thay đổi – ít ra là vào thời điểm này. Với sự bùng nổ của các liên kết kinh tế giữa hai bờ eo biển và những vấn đề tài chính gần đây của Đài Loan, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tin tưởng rằng thời gian đang ủng hộ họ và ảnh hưởng của họ đối với Đài Loan đang lớn dần. Cho đến nay, đây vẫn là niềm tin mong manh. Nhưng Washington đã giúp giải quyết các vấn đề bằng cách lựa chọn các chính sách vừa trấn an, vừa răn đe cả Bắc Kinh lẫn Đài Bắc.
Hoạch định chính sách mang màu sắc Trung Quốc
Khi Mao còn sống, Trung Quốc đã đưa ra hầu hết các quyết định trong chính sách đối ngoại của mình theo cách mà gia đình Corleone trong phim Bố già [The Godfather] đã làm: đó là, Mao tự mình đưa ra quyết định cuối cùng với Chu Ân Lai làm quân sư. Quy trình này đã cởi mở hơn một chút dưới thời Đặng, khi quan hệ của Trung Quốc với cộng đồng quốc tế tăng nhanh về số lượng, nhưng quyết định cuối cùng vẫn mang tính tập trung cao. Dù vậy, ngày nay, quy trình hoạch định chính sách đối ngoại ở Trung Quốc ngày càng được thể chế hóa và phi tập trung hơn, và ít phụ thuộc hơn nhiều vào bất kỳ cá nhân lãnh đạo nào.
Một trong những thay đổi then chốt là sự gia tăng vai trò của cái được biết đến ở Trung Quốc như là “các nhóm lãnh đạo nhỏ”: các cơ quan phối hợp liên ngành về các vấn đề chính sách then chốt. Cuối năm 2000, Bắc Kinh thành lập Nhóm Lãnh đạo An ninh Quốc gia (Guojia Anquan Lingdao Xiaozu), và các cơ quan như thế này đang lan tỏa khắp hệ thống này, hạn chế quyền lực của bất kỳ cá nhân hoặc phe phái nào.
Trung Quốc cũng đã có những hoạt động làm đa dạng hóa nguồn phân tích chính sách nhận được từ bên ngoài lẫn bên trong chính phủ. Ví dụ, bộ phận hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao vừa được tổ chức lại đóng một vai trò nổi bật như một cơ quan nghiên cứu và tư vấn chính sách (think tank) nội bộ, và bộ cũng đã bắt đầu thuê những chuyên gia bên ngoài để tham vấn các vấn đề kỹ thuật như chống phổ biến vũ khí hàng hủy diệt hàng loạt và phòng thủ tên lửa. Các học giả và các nhà phân tích chính sách của Trung Quốc thường xuyên tham gia các nhóm nghiên cứu nội bộ, viết báo cáo và soạn thảo các tóm tắt chính sách. Những học giả và chuyên gia phân tích này thường đi nước ngoài, tương tác với các chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực của họ, và giúp các lãnh đạo Trung Quốc nhạy bén hơn với các xu thế quốc tế cũng như trình bày cho họ một loạt các lựa chọn chính sách khác nhau.
Một nhân tố khác giúp mở rộng quy trình hoạch định chính sách đối ngoại của Trung Quốc là việc thảo luận công khai ngày càng nhiều về các vấn đề toàn cầu. Các cuộc tranh luận mở về các vấn đề nhạy cảm như hạn chế vũ khí hủy diệt hàng loạt và phòng thủ tên lửa thậm chí chưa từng được nghe đến trong 10 năm trước. Ngày nay, các chuyên gia đề cập tới tất cả các vấn đề này trong các bài xã luận, các chương trình trò chuyện trên TV, và trong các cuốn sách nhằm gây ảnh hưởng và định hình chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trong khi đó, các phương tiện thông tin đại chúng của Trung Quốc, bao gồm cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản, tờ Nhân dân Nhật báo, đã bắt đầu xuất bản thường xuyên các thảo luận bàn tròn giữa các nhà phân tích vốn gần đây đã mạnh dạnh lên tiếng này. Một vài tờ báo, đặc biệt là tờ Hoàn cầu Thời báo, hay Nam Phương cuối tuần, thậm chí đã xuất bản các bài xã luận đề xuất các phương án thay thế cho chính sách chính thức của các đảng, ví dụ như các chính sách liên quan đến Triều Tiên.
Đối với các quan chức thi hành chính sách ngoại giao ngày càng tinh vi của Trung Quốc, họ cũng ngày càng khôn khéo và thao lược, vốn là kết quả của một chương trình đào tạo tích cực được Bộ Ngoại giao khởi xướng hơn 20 năm trước vào thời kì mới bắt đầu cải cách. Hầu hết các nhà ngoại giao cấp cao và cấp trung gần đây của Trung Quốc đã có khoảng thời gian đáng kể đi luân chuyển ở nước ngoài, nói lưu loát ít nhất một ngoại ngữ và có bằng sau đại học từ các trường đại học Mỹ và châu Âu. Bộ Ngoại giao cũng tuyển các nhân viên trung tuổi điều chuyển từ các cơ quan khác sang nhằm tăng cường chuyên môn trong các lĩnh vực khác nhau.
Đi kèm với những thay đổi về chất này là một chiến dịch quảng bá và thúc đẩy chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trong những thập niên trước, các tranh luận và tóm lược chính sách thường được chuyển đăng trong các bản tin nghèo thông tin của Tân Hoa xã và Nhân dân Nhật báo, hay các tờ bướm nhỏ của Bộ Ngoại giao. Gần đầy, điều này đã thay đổi khi Bắc Kinh nhận thức được tầm quan trọng của việc tiếp thị các quan điểm của mình nhằm củng cố hình ảnh quốc tế của Trung Quốc. Do đó, vào giữa những năm 1990, Trung Quốc đã bắt đầu phát hành các sách trắng của chính phủ về các chủ đề chính sách ngoại giao gây trang cãi nhằm làm rõ và bảo vệ lập trường của mình. Trung Quốc đến nay đã cho phát hành hơn 30 tài liệu loại này, bao trùm nhiều vấn đề nhạy cảm, như kiểm soát dân số, nhân quyền, Đài Loan, Tây Tạng, và quốc phòng.
Trung Quốc cũng đang sử dụng internet để làm minh bạch hơn chính sách đối ngoại của mình. Tất cả các sách trắng hiện nay đều có sẵn trên trang mạng của Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện (www.china.org.vn), và Bộ Ngoại giao cũng đưa ra một kho dữ liệu hữu ích trên trang của mình (www.fmprc.gov.cn), bao gồm các miêu tả chi tiết lập trường về các vấn đề khu vực và bản ghi nội dung các cuộc họp báo cũng như các bài phát biểu quan trọng. Mặc dù nhiều tài liệu trong số này chỉ mang tính nhàm chán và rập khuôn nhưng chúng cũng đã cung cấp một số chi tiết cũng như giúp người đọc tiếp cận ở một mức độ nhất định với tư duy chính sách chính thức của Trung Quốc, điều đã không bao giờ xảy ra dưới thời của Mao hay Đặng.
Cùng với những thay đổi nội bộ này, Trung Quốc cũng đã có một phương pháp tương tác với giới báo chí thế giới khéo léo hơn. Năm 1999, Bộ Ngoại giao đã mở một trung tâm thông tin quốc tế hiện đại, nơi diễn ra các cuộc họp báo hai tuần một lần được thông dịch trực tiếp. Theo các phóng viên quốc tế, các câu hỏi hóc búa nhất được đặt ra và thường nhận được các câu trả lời thực sự, tuy rằng vẫn nằm trong giới hạn chật hẹp mà các chính sách sách công khai của Trung Quốc cho phép. Các quan chức cấp cao của bộ ngoại giao cũng mời các nhà báo tới dự các buổi cung cấp thông tin nền không chính thức trước khi ban hành các văn bản chính sách quan trọng hoặc sau các cuộc họp thượng đỉnh song phương, như chuyến đi của Giang Trạch Dân đến Crawford, Texas vào tháng 11/2002. Những bước đi như thế cho thấy sự chuyển hướng quan trọng đối với một quốc gia từng nổi tiếng bí mật trong các vấn đề đối ngoại.
Cuối cùng, các lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc cũng đã bắt đầu thúc đẩy các chính sách của họ thông qua các chuyến công du nước ngoài thường xuyên. Suốt những năm 1990, Giang Trạch Dân, Lý Bằng và Chu Dung Cơ đã gia tăng các chuyến đi đến hầu hết các châu lục và đặc biệt là đến những khu vực khác của châu Á. Những người kế nhiệm của họ, được chỉ định vào tháng 11/2002, thậm chí có xu hướng quốc tế hơn và đã dành nhiều thời gian công du nước ngoài hơn. Theo một báo cáo, các thành viên mới của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị đã có hơn 40 chuyến đi nước ngoài trước khi được bổ nhiệm. Ngược lại, Mao chỉ rời Trung Quốc hai lần trong suốt cuộc đời (cả hai lần đều sang thăm Liên Xô), và Đặng cũng chỉ đi công du nước ngoài với tư cách là lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc trong một vài lần mà thôi.
Tư duy nước lớn
Đối ngoại phục vụ đối nội?
Xem phần còn lại của bài viết tại đây: China’s new diplomacy
Evan S. Medeiros là một nhà khoa học chính trị tại Tập đoàn RAND. M. Taylor Fravel là thành viên tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Olin của Đại học Harvard.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:16:58 GMT 9
Nước Mỹ ở Châu Á – Thái Bình Dương
Nguồn: Dosch, Jörn (2004). “The United Sates in the Asia Pacific”, in M.K. Connors, R. Davison, & J. Dosch, The New Global Politics of the Asia Pacific (New York: RoutledgeCurzon), pp. 12-22.
Biên dịch: Lý Thụy Vi | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: The US in the Asia – Pacific-Jorn Dosch
—–
Ở mức độ căn bản nhất, các mục tiêu của Mỹ tại Đông Á đã luôn nhất quán trong suốt 5 thập kỉ qua: ngăn chặn sự xuất hiện của bá quyền khu vực; giữ cho các con đường hàng hải và hàng không đi qua khu vực luôn thông suốt; duy trì tiếp cận thương mại đối với các nền kinh tế trong khu vực và trình trạng ổn định, hòa bình cho sự giao thương; bảo tồn và tăng cường các mối quan hệ an ninh với các đồng minh và bạn bè trong khu vực.
(Marvin Ott 2001:152)
Lịch sử quan hệ Mỹ – Đông Á
Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều người tiên đoán rằng khu vực Thái Bình Dương sẽ chuẩn bị thế chỗ Châu Âu để trở thành trọng tâm và ưu tiên hàng đầu của chính sách đối ngoại Mỹ. Tuy nhiên, các chuyên gia chỉ mới nói đến một phần của câu chuyện. Mỹ từ lâu đã là một cường quốc Thái Bình Dương trước khi trở thành một cường quốc Đại Tây Dương. Hoạt động thương mại đầu tiên của Mỹ là vào năm 1784, khi mà con tàu Empress of China thả neo tại cảng Quảng Châu. Empress là thương thuyền Mỹ đầu tiên băng qua Thái Bình Dương. Đầu những năm 1840, Mỹ tăng cường cam kết thương mại tại Đông Á. Theo điều khoản trong hiệp ước Wanghia (1844), Mỹ đã giành quyền giao thương tại các cảng Trung Quốc. Quan trọng hơn, năm 1853 thuyền trưởng Matthew Perry chấm dứt tình trạng tự cô lập của Nhật và ép Nhật thông thương với Mỹ. Hai sự kiện đã mở đường cho can thiệp mang tính thực dân của Mỹ trong khu vực sau này, cụ thể là việc Mỹ tiếp quản các vùng thuộc địa cũ của Tây Ban Nha ở Philippines và đảo Guam năm 1898. Chỉ trong vòng vài thập kỉ, Mỹ đã trải nghiệm việc hóa thân từ một thuộc địa thành một cường quốc thực dân. Từ cuối thế kỉ 19, Mỹ đã luôn duy trì một vị trí ưu việt tại Châu Á – Thái Bình Dương, chỉ có một thời gian ngắn bị gián đoạn bởi những nỗ lực đế quốc chủ nghĩa của Nhật nhằm thiết lập Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á trong thời kỳ Chiến tranh Thái Bình Dương.
Trong chương này, chúng ta sẽ phác thảo những sự kiện chính trong quan hệ Mỹ – Đông Á và những chính sách hàng đầu của Washington đối với khu vực từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai cho đến những buổi đầu của thế kỉ 21. Sau đó, chúng ta sẽ nêu bật ba biến số chính đã hình thành cấu trúc cho sự can dự của Mỹ vào Châu Á – Thái Bình Dương (CA-TBD). Sau đó, chúng ta sẽ giải thích tại sao nước Mỹ có thể giữ một vị thế sức mạnh nổi trội ở CA-TBD trong hơn một thế kỉ qua.
Chiến tranh Lạnh ở CA-TBD
Sự thất bại của Nhật vào tháng 8 năm 1945 kéo theo sự nổi lên của một nền Hòa bình kiểu Mỹ ở CA-TBD trong thời kì hậu Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Mặc dù Chiến tranh Lạnh ở CA-TBD được đặc trưng bởi cấu trúc tam cực, với Mỹ, Trung Quốc và Liên Xô đứng đầu mỗi cực, cũng như sự dịch chuyển tương quan lực lượng trong trật tự hình tam giác này, nhưng yếu tố trung tâm lại chính là địa vị ưu việt, hay như quan điểm của một số người, là vị thế bá quyền của Mỹ. Không giống như Tây Âu, nơi vai trò lãnh đạo an ninh của Mỹ được đặt trong cấu trúc đa phương xoay quanh NATO, một hệ thống các liên minh song phương được coi như là xương sống của quan hệ an ninh trong khu vực CA-TBD. Cố gắng duy nhất trong việc xây dựng liên minh đa phương thời kì Chiến tranh Lạnh đã thất bại: Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) được thành lập năm 1954 và bao gồm Australia, Anh, Pháp, New Zealand, Pakistan (cho tới năm 1973), Philippines, Thái Lan và Mỹ. Sự hợp tác không bao giờ thực sự đạt được vì mức độ da dạng cao giữa các thành viên. SEATO cuối cùng tan rã vào năm 1977. Một hệ thống các hiệp ước an ninh song phương mà Mỹ khởi xướng với các đồng minh chủ chốt của nó tại CA-TBD là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã tỏ ra là một sự thay thế triển vọng hơn cho chủ nghĩa đa phương. Trong các đồng minh, trục đồng minh Mỹ – Nhật nổi lên như là mối quan hệ quan trọng nhất. Năm 1951, Mỹ và Nhật kí Hòa ước San Francisco và các Hiệp ước An ninh Tương hỗ hết sức bất bình đẳng. Trong khi Hòa ước San Francisco chính thức chấm dứt tình trạng chiếm đóng của Mỹ ở Nhật, Hiệp ước An ninh Tương hỗ đưa Nhật lên vị thế vệ tinh quân sự của Mỹ. Năm 1960, một hiệp ước quốc phòng song phương giữa hai nước nâng cao vị thế của Nhật vì nó loại bỏ các quy định trước đây cho phép Mỹ can thiệp vào chính trị Nhật, cung cấp một chiếc “ô hạt nhân” và buộc Mỹ phải có nghĩa vụ bảo vệ Nhật nếu Nhật bị tấn công. Hiệp ước đó cũng đòi hỏi Washington phải thảo luận với Tokyo về việc sử dụng các căn cứ quân sự đặt tại Nhật. Đồng thời, hiệp ước quân sự càng gắn kết Nhật hơn nữa vào bàn cờ chiến lược an ninh và quốc phòng Chiến tranh Lạnh toàn cầu của Mỹ với tư cách là một con cờ quan trọng (xem phân tích sâu hơn tại Umbach 2000).
Kiến trúc an ninh Chiến tranh Lạnh của CA-TBD đặc biệt khác với Châu Âu, không chỉ về cấu trúc mà còn về cả tác động. Trong khi cân bằng quyền lực Mỹ – Xô giữ cho Châu Âu được ổn định và an toàn thì sự đối lập về chính trị và ý thức hệ giữa hai cường quốc đã dẫn tới những xung đột an ninh trong khu vực CA-TBD. Trên thực tế, hai “cuộc chiến tranh nóng” thời Chiến tranh Lạnh lại xảy ra ở Đông Á, đó là ở Triều Tiên (1950-53) và Việt Nam (1965-73).
Khoảng từ năm 1949 đến 1975, sự hiện diện của Mỹ ở khu vực CA-TBD chủ yếu nhằm phục vụ chiến lược chống cộng toàn cầu của nó. Duy trì ưu thế quân sự so với Liên Xô và Trung Quốc là ưu tiên cao nhất. Nỗ lực đầu tiên trong việc này là ủng hộ Quốc Dân Đảng trong cuộc nội chiến Trung Quốc, cuộc chiến vốn đã kết thúc trong thất bại cay đắng với những lời cáo buộc lẫn nhau. Mỹ còn nhúng tay vào các hành động quân sự tại Triều Tiên vốn đi vào thế bế tắc năm 1953. Những thất bại này đã thuyết phục Đảng Dân chủ lẫn Đảng Cộng hòa ở Mỹ về việc cần có một sức mạnh quân sự áp đảo, và các chính quyền tiếp đó đã cho phép đầu tư lớn vào việc trang bị tàu ngầm, tàu sân bay, các vũ khí nguyên tử và thông thường, song song với việc duy trì đội quân hơn 100.000 người tại Châu Á, chủ yếu đóng ở Nhật Bản và Hàn Quốc.
Một khía cạnh khác trong chiến lược ngăn chặn là việc ủng hộ hầu hết bất cứ chế độ nào có dấu hiệu chống cộng sản. Chiến lược này được phát triển vào đầu những năm 1950 bởi Ngoại trưởng John Foster Dulles cùng với những người khác. Đầu tiên, các chính phủ chống cộng được đề nghị ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản bằng cách đàn áp các phong trào chính trị cộng sản trên lãnh thổ của mình. Thứ hai, viện trợ của Mỹ sẽ biến họ trở thành những nước giàu mạnh, dân chủ và có những “ảnh hưởng mang tính làm gương” lên các nước láng giềng cũng như dân chúng của những nước cộng sản. Những quốc gia chủ chốt được hưởng lợi từ sự giúp đỡ của Mỹ trong chiến lược này là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines, và một vài nước Đông Nam Á. Kết quả khá đa dạng. Chính quyền Philippines thoái hóa thành một chính quyền suy đồi chính trị và tham nhũng cực độ dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Ferdinand Marcos, người bất chấp tất cả vẫn nhận được sự ủng hộ kiên định của Mỹ. Các nhà nước khác lạm dụng nhân quyền và hạn chế tự do dân chủ cũng là những nước hưởng lợi từ viện trợ Mỹ. Mỹ lộ rõ là đã ủng hộ những chế độ chuyên chế miễn là những chế độ này đồng ý chống Liên Xô. Mặt khác, có thể nói Nhật và một vài nước khác đã chuyển hóa thành những nước thành công, giàu có và dân chủ dưới sự giám hộ của Mỹ.
Thảm họa lớn nhất trong chính sách của Mỹ là cuộc chiến tranh Việt Nam. Đến đầu những năm 1960, chính sách Châu Á của Mỹ hết sức cứng nhắc, giáo điều và thiếu thông tin. Lờ đi sự đa dạng cao độ tại khu vực CA-TBD, quân đội Mỹ dường như tin vào “học thuyết domino”, cho rằng hoạt động cộng sản thành công (ví dụ như ở Bắc Việt Nam) chắc chắn sẽ lan rộng và lật đổ các chính phủ thân Mỹ trên khắp khu vực. Đó là cái cớ cho việc ném bom ồ ạt xuống Hà Nội năm 1965, dẫn tới cuộc chiến 10 năm vốn tàn phá phần lớn bán đảo Đông Dương, và cuối cùng kết thúc với một thất bại nhục nhã.
Tuy nhiên, xuất hiện một nhân tố thứ ba trong câu chuyện này: nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quan hệ tay ba có xu hướng đi theo kiểu “hai chống một” và cả ba cường quốc đều lợi dụng cấu trúc này cho những lợi ích riêng. Mỹ vận động qua lại giữa Trung Quốc và Liên Xô bằng việc tăng cường hay bỏ qua những liên minh song phương để ứng phó với những thay đổi trong tương quan quyền lực. Tương tự, Trung Quốc lợi dụng xung đột giữa hai siêu cường một cách khá khéo léo. Nói ngắn gọn, Trung Quốc liên minh với Liên Xô suốt những năm 1950 nhằm tranh thủ sự hỗ trợ kinh tế và quân sự. Tuy nhiên, mối quan hệ lung lay nghiêm trọng khi hai bên đều muốn làm lãnh đạo chính thức của phong trào Cộng sản Quốc tế, và có thời gian chiến tranh dọc biên giới phía Bắc Trung Quốc dường như là chắc chắn. Năm 1960, chia rẽ mở rộng và gay gắt hơn, Liên Xô rút tất cả mọi việc trợ cho Trung Quốc. Mối bất hòa Trung – Xô dẫn tới một thập niên Trung Quốc theo đuổi chính sách vừa chống Liên Xô vừa chống Mỹ. Năm 1972, cả Bắc Kinh và Washington đều thay đổi quan điểm chiến lược và cùng nhau thương lượng về một liên minh song phương nhằm chống lại bá quyền của Liên Xô. Theo sau sự kiện “ngoại giao bóng bàn” giữa hai kiến trúc sư của chính sách xích lại gần nhau, Henry Kissinger và Chu Ân Lai, Mỹ và Trung Quốc đã tái lập quan hệ ngoại giao năm 1978. Sau sự kiện này, Trung Quốc kiếm lợi từ sự bế tắc trong quan hệ giữa hai cường quốc còn lại, cho phép nước này giảm bớt các mối đe dọa quân sự nhằm theo đuổi những mục tiêu hiện đại hóa. Từ quan điểm của Mỹ, Liên Xô được xem như là mối đe dọa lớn nhất cho tới năm 1990, thời điểm mà Trung Quốc đã giành được một vị thế rất an toàn tại Châu Á nhờ vào những thành công từ phát triển kinh tế. Đầu những năm 1990, những phản ứng của Mỹ trước sức mạnh mới nổi của Trung Quốc khá pha trộn, phản ánh sự chuyển giao từ Chiến tranh Lạnh sang một thế trận toàn cầu mới.
Thời kì hậu Chiến tranh Lạnh
Khi thời kỳ lưỡng cực kết thúc, theo quan điểm của Mỹ thì một trật tự thế giới mới sẽ được xây dựng dựa trên ưu thế nổi trội của nước này và khuếch tán các giá trị và niềm tin của nó ra ngoài. Tuy nhiên, Mỹ bước vào thời kì hậu Chiến tranh Lạnh trong tình trạng yếu hơn trước kia về quyền lực, đặc biệt là về kinh tế. Sự suy giảm sức mạnh kinh tế tương đối của Mỹ có hai nguyên nhân: thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách. Thâm hụt thương mại với Nhật của Mỹ vào khoảng 50 tỉ đô-la, và với các nước Châu Á khác là khoảng 25 tỉ đô-la vào đầu những năm 1990. Cùng lúc đó, chính phủ Mỹ cũng phải chịu tình trạng thâm hụt ngân sách khổng lồ, buộc phải cắt giảm thêm chi tiêu cho phúc lợi xã hội và quân sự. Mặc dù trong vòng vài năm, nước Mỹ đã có thể cân bằng lại ngân sách và có được mức tăng trưởng mạnh mẽ trong khi Nhật ngày càng lún sâu hơn vào tình trạng khủng hoảng và sau đó là sự sụp đổ kinh tế của các nước Đông Á khác trong thời kỳ 1997-98, thì đối với nhiều người bối cảnh đầu những năm 1990 cho thấy sự tiếp tục suy giảm của ảnh hưởng Mỹ ở khu vực (Okimoto et al. 1996). Cần lưu ý là không phải tất cả các nhà phân tích đều tán thành quan điểm “suy yếu”, như ý kiến nổi bật nhất của Paul Kennedy (1988). Nye (1990) và Rapkin (1994) phát triển giả thiết đối lập dựa trên giả định cho rằng vị thế ưu việt trên toàn cầu của Mỹ không hề bị thách thức. Tuy nhiên, sự nổi lên của chủ nghĩa tân biệt lập trong một vài tầng lớp chính trị tinh hoa Mỹ (Schlesinger 1995) đã đóng góp thêm vào nhận thức về những thay đổi quan trọng trong vai trò toàn cầu của Mỹ. Trong các đồng minh Đông Á của Mỹ, như Nhật Bản, Hàn Quốc và các chính phủ khác trong khu vực, tồn tại mối quan ngại rằng “với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh và phản ứng trong nước của Mỹ trước các khoản thâm hụt thương mại, Mỹ có thể “rút lui” khỏi Châu Á” (Krauss 2000:482). Theo quan điểm đang lan rộng ở Mỹ, các nền kinh tế hết sức thành công tại Châu Á giờ đây có thể tự bảo vệ mình mà không cần sự trợ giúp từ Mỹ (Johnson và Keehn 1995:104).
Các chiến lược mới trong bối cảnh cấu trúc thay đổi:
sự nổi dậy của chủ nghĩa đa phương
Với sự nổi dậy của những cơ hội đồng thời là sự không chắc chắn về mặt cấu trúc, nhiều chủ thể hoạch định chính sách đối ngoại của Washington nhận thấy sự cần thiết phải có các cơ chế mới để đương đầu với các thách thức đang nổi lên. Trong những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ nhất của Clinton, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, Winston Lord, đã viết một giác thư sắc bén gửi Ngoại trưởng Warren Christopher để cảnh báo rằng nước Mỹ đang vướng vào rắc rối nghiêm trọng tại Châu Á. Một vài nước Châu Á đã bắt đầu chống đối những can thiệp của Mỹ trong khu vực và nhận thấy Washington là một “vú em nếu không phải là một tên côn đồ quốc tế”, như cách nói một quan chức cấp cao trong chính quyền (trích trong Manning và Stern 1994:86). Sự phát triển của chủ nghĩa đa phương được xem như là một chiến lược thích hợp để giữ chân Mỹ trong khu vực và tăng cường cả về mặt tín nhiệm lẫn pháp lý cho vị thế của Washington so với các chủ thể lớn khác trong khu vực. Không như Chính quyền của Tổng thống George Bush, phần lớn các chủ thể hoạch định chính sách liên quan trong chính quyền Clinton đều hoan nghênh chủ nghĩa đa phương như một phần bổ sung (chứ không phải là một phần thay thế) cho sự tồn tại của các dàn xếp song phương hiện hữu. Vì vậy, Mỹ ủng hộ các cách tiếp cận nhằm tăng cường các diễn đàn đa phương hiện hữu (như APEC) và tạo ra những cơ chế đa phương mới như là Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) (Baker 1998; McGrew 1998; Dosch 2000).
Trái ngược với những kinh nghiệm trong quan hệ xuyên Đại Tây Dương và có thể là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, ở CA-TBD, sự xuất hiện một hệ thống đa phương của các mối quan hệ quốc tế lại được khởi đầu và bị chi phối bởi các nước yếu chứ không phải các cường quốc thống trị trong khu vực. Cùng lúc, cũng nên lưu ý rằng vai trò của Mỹ là cốt yếu cho sự nổi lên của chủ nghĩa đa phương trong khu vực, mặc dù Washington không bắt đầu tiến trình này. Thay vào đó, các nước ASEAN được tiếng là người kiến tạo đối thoại an ninh khu vực. ASEAN xem ý tưởng ARF như một cách thức để giữ Mỹ can dự vào khu vực và kiềm chế các thế lực đang lên như Trung Quốc và Nhật. Nửa đầu năm 1993, Mỹ và Nhật ra tín hiệu ủng hộ các diễn đàn an ninh đa phương. Washington tỏ ra quan tâm đến việc tạo nên một công cụ nhằm khuyến khích đối thoại giữa Hàn Quốc và Nhật Bản khi thiếu vắng các diễn đàn song phương thích hợp. Nhật bị thúc đẩy bởi các ý chí chính trị nhằm tìm kiếm một phương cách bổ sung để bảo đảm an ninh cho mình mà không trở nên quá năng động, tránh gợi lại các kinh nghiệm không tốt đẹp từ thời bá quyền Nhật Bản. Do đó, cả Nhật và Mỹ đều hưởng ứng sáng kiến của ASEAN trong việc đóng vai trò lãnh đạo ngoại giao nhằm thiết lập một dàn xếp đa phương. Khi tờ Washington Post (26/7/1994) đưa phóng sự sau cuộc họp ARF đầu tiên năm 1994 rằng một thể chế mới đã được thành lập “theo các quan điểm được Tổng thống Clinton ủng hộ”, nó đã lờ đi một sự thật rằng diễn đàn mới này rõ ràng là theo định hướng của các nước Châu Á nhiều hơn. Tuy nhiên, trong một bài phát biểu trước Quốc hội Hàn Quốc vào tháng 7 năm 1993, Clinton ủng hộ đối thoại an ninh giữa các nước Thái Bình Dương. Tổng thống đề xuất nhiều hoạt động an ninh chồng chéo nhau, từ các thảo luận đa phương về các vấn đề cụ thể như tranh chấp Trường Sa cho đến các giải pháp xây dựng lòng tin như thảo luận các học thuyết quốc phòng, sự minh bạch trong mua sắm vũ khí và quản lý xung đột. Đề xuất này, vốn là một phần của “chiến lược can dự và mở rộng” kiểu chủ nghĩa tân-Wilson của Tổng thống Clinton, đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với CA-TBD.
Nửa đầu những năm 1990 là thời hoàng kim của “Giấc mơ Thái Bình Dương”, lúc mà các từ “tương lai”, “thịnh vượng” và “CA-TBD” gần như trở nên đồng nghĩa. Không có nước nào, nhất là Mỹ, muốn mất phần trong “thế kỉ Thái Bình Dương sắp tới”. Trong một đánh giá mang tính phản biện về tầm nhìn CA-TBD, Rob Wilson viết:
“CA-TBD” là một ý niệm hoàn mỹ của thị trường tự do, một chỉ dấu đang nổi lên của các khát vọng xuyên quốc gia về một sự thống nhất siêu quốc gia cao hơn mà ở đó các lực lượng toàn cầu và địa phương sẽ cùng gặp nhau trong một tình huống “các bên cùng thắng”, và một thị trường mở sẽ hấp thu văn hóa và chính trị vào trong dòng chảy không biên giới mạnh mẽ của nó.
(Wilson 2000:566)
Tóm lại, quy mô nền thương mại CA-TBD đã kích thích giấc mơ về một cộng đồng Thái Bình Dương của Mỹ. Các con số quả thực ấn tượng. Các nền kinh tế Châu Á chiếm 4% GDP toàn cầu năm 1960, nhưng con số này tăng lên 25% vào năm 1991 – xấp xỉ tỉ lệ của Mỹ. Từ 1972 đến 1992, GDP tại CA-TBD tăng tới 141% trong khi Tây Âu và Bắc Mỹ chỉ đạt mức tăng lần lượt là 55% và 59% (Dibb 1995:19). Thứ trưởng Thương mại Mỹ, Jeffrey E.Garten (1995), nhấn mạnh rằng Đông Á có thể tăng trưởng nhanh gấp hai lần nước Mỹ trong thập kỉ tới, và gấp ba lần so với Châu Âu. Kết quả là Mỹ đã ủng hộ APEC như là một hòn đá tảng cho mục tiêu duy trì nền kinh tế năng động trong khu vực của chính quyền Clinton. Tại một cuộc điều trần ở Quốc hội về tương lai chính sách đối ngoại Mỹ tại CA-TBD, đại diện của Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ (Office of the United State Trade Representative – USTR), một chủ thể chính trong chính sách kinh tế đối ngoại Mỹ, nói rằng APEC “là trọng tâm khu vực trong các nỗ lực của chúng ta để mở của thị trường và tăng cường thương mại” (Barshefsky 1995). Theo ước tính của USTR, nếu thị trường Mỹ mở rộng thêm cứ 1 phần trăm nhờ vào hợp tác trong APEC thì sẽ tạo thêm 300.000 việc làm mới tại Mỹ (Barshefsky 1995). Theo sáng kiến của Clinton, APEC bắt đầu giữ những vai trò quan trọng hơn từ năm 1993 khi mà lần đầu tiên nguyên thủ các nước thành viên gặp nhau tại Seattle. Trước đó, chỉ có các Bộ trưởng và quan chức chính phủ cấp cao tham gia hoạt động của APEC. Hội nghị thượng đỉnh Seattle mang lại một cú hích mạnh cho những sáng kiến tự hóa do thương mại. Một năm sau đó, “Tuyên bố Bogor” của APEC vào năm 1994 đã kêu gọi thành lập trên thực tế Khu vực thương mại tự do CA-TBD vào năm 2020. Tuy nhiên, từ giữa những năm 1990, APEC nói riêng và chủ nghĩa đa phương ở khu vực nói chung dần dần mất đà, nguyên nhân chủ yếu là do khủng hoảng Châu Á vốn đã thay đổi căn bản cách nhìn CA-TBD như là một trụ cột kinh tế của thế kỉ 21. Tuy nhiên, APEC, ARF và các diễn đàn đa phương khác vẫn không phải là không còn phù hợp. Do thiếu vắng các cơ chế thích hợp khác, chúng vẫn cung cấp một khuôn khổ giá trị cho các cuộc họp cấp cao đều đặn giữa các nước mà nếu không có chúng việc liên lạc giữa các nước có thể gặp khó khăn. Trung Quốc và Đài Loan, Nhật và Hàn Quốc, Mỹ và Bắc Triều Tiên là những ví dụ điển hình. Cùng lúc đó, chủ nghĩa đa phương không còn là ưu tiên hàng đầu trong các nghị trình ngoại giao nữa. Đối với nước Mỹ thì sự bùng nổ của khủng hoảng Châu Á năm 1997 đã xoa dịu sự lo lắng về sự suy giảm vị thế ưu việt của Mỹ. Từ quan điểm tái nhận thức sức mạnh của Mỹ, một lần nữa, các mối hợp tác đa phương đã mất đi sự thu hút và cần thiết ban đầu như là một phương tiện tăng cường lợi ích Mỹ. Các chiến lược đơn phương và song phương đã được tái chứng minh tầm quan trọng. Thành công trong việc xác định lại quan hệ đồng minh Mỹ – Nhật càng ảnh hưởng đến sự thay đổi trong nhận thức nói trên. Hiệp ước được tái ký làm giảm đáng kể những bối rối của Mỹ đầu những năm 1990 về kiến trúc an ninh CA-TBD sau Chiến tranh Lạnh. Mối quan hệ đồng minh này lại tiếp tục được xem là xương sống vững chắc của các mối quan hệ an ninh trong khu vực, vì thế giảm bớt sự cần thiết phải có các chiến lược bổ sung.
Sự hồi sinh của mô hình cũ trong quan hệ Mỹ – Đông Á:
ưu thế của chủ nghĩa song phương
Sự áp đảo của cách tiếp cận song phương đối với an ninh CA-TBD được phản ánh rõ ràng qua “Tuyên bố chung Nhật – Mỹ về an ninh: Liên minh cho thế kỉ 21” vào ngày 16 tháng 4 năm 1996. Tuyên bố mô tả khái quát nhu cầu hai nước cần “làm việc cùng nhau và riêng lẻ… nhằm đạt được một môi trường an ninh hòa bình và ổn định hơn tại CA-TBD” (Bộ Ngoại giao Nhật Bản 1996). Văn bản này nhấn mạnh bốn ý chính:
Hợp tác với Trung Quốc nhằm khuyến khích nước này “đóng vai trò tích cực và mang tính xây dựng trong khu vực”. Khuyến khích hợp tác với tiến trình cải cách đang diễn ra ở Nga, và xác nhận một lần nữa việc bình thường hóa quan hệ đầy đủ giữa Nhật và Nga có vai trò quan trọng đối với an ninh và hòa bình khu vực. Tiếp tục nỗ lực ổn định bán đảo Triều Tiên thông qua hợp tác với Hàn Quốc. Phát triển các cơ chế hợp tác và đối thoại an ninh đa phương trong khu vực như Diễn đàn khu vực ASEAN, và cuối cùng là các đối thoại về an ninh ở Đông Bắc Á. So sánh các điểm này với năm “hòn đá tảng” của chính sách Châu Á của Mỹ được nêu ra bởi Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger năm 1985 cho thấy ưu tiên hàng đầu của Washington không thay đổi về căn bản:
Tầm quan trọng then chốt của quan hệ an ninh Mỹ – Nhật. Cam kết của Mỹ về ổn định tại bán đảo Triều Tiên. Nỗ lực của Mỹ để xây dựng mối quan hệ lâu dài với Trung Quốc. Ủng hộ của Mỹ đối với ASEAN. Quan hệ hữu nghị lâu đời của Mỹ với Australia và New Zealand (trích trong Grinter 1989:22). Tuyên bố chung năm 1996 và Đường lối mới cho hợp tác quốc phòng Mỹ – Nhật công bố tại New York ngày 23 tháng 12 năm 1997 đã kích thích những tranh luận học thuật sống động về ý nghĩa của liên minh này đối với quan hệ an ninh ở CA-TBD. Nhìn chung, liên minh được làm mới giữa Mỹ và Nhật được thừa nhận hơn bao giờ hết là xương sống của kiến trúc an ninh khu vực. Nó bảo đảm hòa bình và an ninh không chỉ cho Nhật mà còn cho toàn bộ khu vực CA-TBD. Hầu hết cho rằng liên minh này là lựa chọn tốt thứ hai trong bối cảnh thiếu vắng một cấu trúc an ninh và quốc phòng đa phương tương tự như ở Châu Âu. Đồng thời, việc nhiều người ở Châu Á (mà có lẽ là cả ở Mỹ) cảm nhận liên minh này như một đối trọng nhằm chống lại một Trung Quốc có tiềm năng trở nên bành trướng và hiếu chiến trong tương lai cũng tạo ra một số quan ngại.
Dù có sự nổi trội của chủ nghĩa đa phương trong một thời gian ngắn, cả chính quyền Clinton lẫn chính quyền George W.Bush đều không hề nghi ngờ vai trò của chủ nghĩa song phương với tư cách là cách tiếp cận chính sách đối ngoại chủ chốt dành cho khu vực CA-TBD. Nếu cấu trúc này bị thay đổi thì một cấu trúc hòa hợp quyền lực (concert of power) có thể nổi lên thay thế. Một viễn cảnh phổ biến hay được bàn luận bởi các chính trị gia cũng như giới học giả thường đề cập đến sự mở rộng quan hệ đồng minh Mỹ – Nhật. Hàn Quốc (và có thể là một Triều Tiên thống nhất trong tương lai) và Australia là những đối tác tiềm năng trong hệ thống hòa hợp quyền lực, vốn có thể mang lại cho các đồng minh của Mỹ nhiều trọng trách hơn nhiều so với hiện nay. Tuy nhiên, một câu hỏi lớn là liệu Trung Quốc có đủ tư cách trở thành một phần trong cấu trúc hòa hợp quyền lực trên hay không. Nếu câu trả lời là có thì CA-TBD có thể giống với cấu trúc an ninh xuyên Đại Tây Dương vốn ngày càng bao gồm nhiều chủ thể dựa trên sự mở rộng của khối NATO.
Những thay đổi trong quan hệ quốc tế sau sự kiện ngày 11 tháng 9 đã tạo ra thêm sự ủng hộ đối với việc phối hợp nỗ lực nhằm thành lập một trật tự khu vực an ninh hơn tại CA-TBD. Bất chấp các xu hướng đơn phương trong chính sách đối ngoại Mỹ diễn ra sau các cuộc tấn công khủng bố vào New York và Washington, cuộc chiến chống khủng bố đang diễn ra cần có nhiều đồng minh mới có thể đạt được thành công. Tuy nhiên tác động của điều này đối Đông Nam Á và Đông Bắc Á tới nay vẫn còn hạn chế. Các tác động của điều này chỉ thể hiện rõ ràng nhất ở Philippines mà thôi.
HỘP 2.1: CUỘC CHIẾN CHỐNG KHỦNG BỐ TẠI CA-TBD: PHILIPPINES LÀ MẶT TRẬN THỨ HAI?Ở đâu? Basilan, một hòn đảo có diện tích khoảng 20×30 dặm ở phía nam Philippines, một tỉnh của khu vực Mindanao, là cứ điểm của nhóm Abu Sayyaf. Những tên khủng bố hay kẻ cướp – tùy vào cách nhìn của từng người – được cho là có liên kết với mạng lưới khủng bố toàn cầu Al-Qaeda.Mỹ đã làm gì? Ban đầu là tổ chức tập trận huấn luyện. Hiện cuộc tập trận chung với sự tham gia của 3.800 lính Philippines được phía Mỹ gọi tên là cuộc tập trận “Đại Bàng Tự Do – Philippines”. Mục đích là gì? Mục đích rõ nhất là tiêu diệt Abu Sayyaf. Theo các viện nghiên cứu Mỹ, Philippines là trung tâm lập kế hoạch lớn đối với các sứ mạng toàn cầu của Al-Qaeda. Những báo cáo này cho rằng nhóm Abu Sayyaf có các mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống khủng bố toàn cầu của Osama bin Laden. Tuy nhiên, hầu hết giới quan sát và ngay cả chính phủ Manila và Washington ước tính rằng con số thật sự về các thành viên đang hoạt động của Abu Sayyaf chỉ gần 100. Nhiều người cũng tin rằng nhóm này quan tâm nhiều hơn đến việc cướp bóc hơn là chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan hay khủng bố quốc tế.
Abu Sayyaf gây chú ý dư luận quốc tế như thế nào? Vào tháng 3 năm 2000, Abu Sayyaf đã bắt cóc 58 người từ một trường học ở Basilan. Sau đó, nhóm lại bắt cóc 21 người bao gồm 10 khách du lịch nước ngoài từ một khu du lịch lặn ở Malaysia. Các con tin được thả tự do khi Libya trả hơn 20 triệu đô-la tiền chuộc. Vào tháng 5 năm 2001, Abu Sayyaf bắt cóc tiếp 20 con tin, 17 người Philippines và 3 người Mỹ, ở khu nghỉ dưỡng Dos Palmas trên đảo Palawan của Philippines. Các cuộc bắt cóc quy mô lớn gây ra nhiều mối hoài nghi về nền tảng ý thức hệ mà Abu Sayyaf tự tuyên bố. Viêc nhóm này tự liên hệ với đạo Hồi có vẻ như là để nhằm tạo ra sự thông cảm đối với các hành động tội phạm của chúng.
Sự có mặt của Mỹ được chấp nhận không? Việc triển khai quân của Mỹ là một vấn đề tranh cãi vì Hiệp ước lực lượng quân sự nước ngoài viếng thăm năm 1998 mà theo đó cho phép sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Philippines thực tế lại nghiêm cấm sự tham gia của lực lượng đó vào việc tác chiến trong nước hay trấn áp các phần tử nổi loạn và các hoạt động tội phạm. Chính quyền Manila và Washington đều lờ đi các điều khoản này bởi vì việc hợp tác nhận được sự ủng hộ từ công luận của cả hai nước.
Mối quan tâm thực sự của Washington là gì? Mỹ muốn có quan hệ quân sự thân thiết hơn với Philippines sau khi mất quyền sử dụng các căn cứ ở đây một thập kỉ trước. Hoạt động quân sự chung đã mở ra cánh cửa cho việc khôi phục sự hiện diện quân sự lâu dài của Mỹ ở đất nước này, nơi có tầm quan trọng địa chiến lược đối với Washington.
Các nước Đông Nam Á khác liệu có đi theo? Mặc dù chính quyền Bush lo ngại rằng Đông Nam Á có thể phát triển thành một cái nôi sinh sản của chủ nghĩa khủng bố, các chiến dịch chung tại Philippines khó trở thành một mô hình kiểu mẫu cho toàn khu vực này. Trước mắt, các nhà chức trách Mỹ cho rằng việc triển khai quân tại Indonesia sẽ phản tác dụng do các tình cảm bài Mỹ ở đất nước Hồi giáo lớn nhất thế giới này.
Khái quát lịch sử trên đã cho thấy mặc dù có những thay đổi lớn về cấu trúc ở từng khúc quanh lịch sử, Mỹ vẫn có vị thế áp đảo ở khu vực từ đầu thế kỉ 19. Phần tiếp theo sẽ tập trung vào các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến và thậm chí quyết định cách tiếp cận của Mỹ đối với khu vực.
Ngẫm nghĩ về vai trò của Mỹ tại CA-TBD: Ba biến số
Quyền lực cứng và quyền lực mềm: hai trụ cột tạo vị thế ưu việt cho Mỹ
Đôi lời kết luận về mặt lý thuyết
Tài liệu tham khảo
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:18:21 GMT 9
Các quan điểm lý thuyết về quan hệ quốc tế ở Châu ÁSuu TamNguồn: Acharya, Amitav. “Theoretical Perspectives on International Relations in Asia”, in David Shambaugh & Michael Yahuda (eds), International Relations of Asia (Maryland: Rowman & Littlefield Publishers, 2008), pp. 57-82. Biên dịch và Hiệu đính: Nguyễn Hoàng Như Thanh Download: Theoretical Perspectives on IR in Asia-Acharya Bất kì cuộc tranh luận nào về những quan điểm lý thuyết quan hệ quốc tế (QHQT) ở khu vực châu Á đều vấp phải một nghịch lí là phần lớn những tài liệu hiện có về chủ đề này đều mang tính phi lý thuyết. Bất kể là từ bên trong hay bên ngoài khu vực, các nhà nghiên cứu và nhà phân tích của Châu Á phần lớn đều không cho rằng lý thuyết có thể cần thiết và hữu ích trong việc nghiên cứu QHQT ở khu vực này.1 Mặc dù mối quan tâm đối với vấn đề lý thuyết quan hệ quốc tế đang gia tăng trong khu vực, đặc biệt là ở Trung Quốc,2 lý thuyết vẫn bị cho rằng quá trừu tượng hoặc quá xa rời những mối quan tâm hiện nay của các chính phủ và người dân để có thể được nghiên cứu một cách nghiêm túc và liên tục. Hơn nữa, lý thuyết cũng bị phê bình bởi đa số các nhà nghiên cứu Châu Á bởi chúng mang tính phương Tây quá nhiều. Do vậy, kể cả giữa các tác gia về QHQT châu Á vốn định hướng nghiên cứu về lý thuyết, vẫn tồn tại bất đồng về việc lý thuyết QHQT có cần thiết để nghiên cứu châu Á hay không, do hầu hết các lý thuyết QHQT hiện nay đều bắt nguồn từ phương Tây, tương thích với truyền thống lịch sử, tri thức và thực tiễn đối ngoại của phương Tây. Ngành QHQT nói chung và các lý thuyết QHQT nói riêng đã, đang và vẫn sẽ là một ngành khoa học xã hội “kiểu Mỹ”, theo nhận định khá phổ biến của Stanley Hoffman. Những bước tiến gần đây của “Trường phái Anh quốc” và chủ nghĩa kiến tạo Châu Âu không làm cho lý thuyết QHQT được “toàn cầu hóa”, mà ngược lại có vẻ gia tăng sự thống trị của phương Tây cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Câu hỏi về tính cần thiết của lý thuyết QHQT đối với nghiên cứu an ninh khu vực Châu Á đã gợi lên nhiều câu trả lời khác biệt hoàn toàn. Một mặt, David Kang dùng việc các dự đoán của các nhà hiện thực về một Châu Á hậu Chiến tranh Lạnh “chín muồi cho xung đột” không trở thành hiện thực để chỉ trích không những chủ nghĩa Hiện thực nói riêng, mà tất cả các lý thuyết QHQT của phương Tây nhìn chung vì đã hiểu sai về khu vực Châu Á.4 Khi nghiên cứu chủ nghĩa khu vực ở châu Á, Peter Katzenstein đã nhận xét như sau: “Những lý thuyết dựa trên kinh nghiệm của phương Tây, đặc biệt là Tây Âu, áp dụng được rất ít vào chủ nghĩa khu vực của châu Á”.5 Mặc dù lời bình luận này của Katzeinstein chỉ liên quan đến nghiên cứu chủ nghĩa khu vực châu Á, nhưng nó vẫn có thể được áp dụng cho QHQT ở châu Á nói chung. Và quan điểm này cũng được chia sẻ bởi nhiều học giả Châu Á khác. Mặt khác, John Ikenberry và Micheal Mastanduno lại bảo vệ tính tương thích của khuôn khổ lý thuyết phương Tây đối với việc nghiên cứu về QHQT ở khu vực châu Á. Các mối quan hệ nội khối có thể có nhiều đặc thù lịch sử, nhưng những điểm khác biệt này đã phai mờ dần bởi quá trình hội nhập khu vực vào hệ thống quốc tế. Các mối QHQT của châu Á đã đạt được các quy chuẩn hành vi và các thuộc tính tương thích với hệ thống liên quốc tế hiện đại có nguồn gốc từ châu Âu và vẫn mang phần lớn các đặc tính của mô hình nhà nước kiểu Westphalia. Do đó, các khái niệm cốt lõi của lý thuyết QHQT như bá quyền, phân bổ quyền lực, thể chế quốc tế, và bản sắc chính trị đều phù hợp với bối cảnh châu Á như với bất cứ nơi nào khác.6 Từ góc độ tiếp cận này, cuộc tranh luận ở đây mang tính tích cực hơn là tiêu cực đối với việc phân tích các mối QHQT ở châu Á bằng các lý thuyết phương Tây được thừa nhận rộng rãi. Chắc chắn rằng, những mô hình lý thuyết được phát triển theo thực tiễn phương Tây không tương thích hoàn toàn với tư tưởng và các mối quan hệ trong khu vực châu Á. Tuy nhiên, các lý thuyết QHQT như chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa kiến tạo, và trường phái phê phán vẫn tương thích và hữu ích trong việc phân tích QHQT ở châu Á, miễn là chúng không tạo ra một sự lựa chọn thiên vị những yếu tố (tư tưởng, sự kiện, xu hướng, và mối quan hệ) phù hợp với những luận điểm của mình và bác bỏ những yếu tố không tương thích khác. Các học giả QHQT hoàn toàn tự do lựa chọn và nghiên cứu các yếu tố hoặc bị phớt lờ hoặc chỉ nhận được rất ít sự chú ý từ những trường phái trên. Họ cũng nên phát triển những khái niệm và hiểu biết về bản chất từ bối cảnh và thực tiễn châu Á, không chỉ dành cho việc nghiên cứu động lực phát triển của khu vực này, mà còn cho cả những khu vực khác trên thế giới. Nói cách khác, lý thuyết QHQT phương Tây, tuy dựa chủ yếu trên truyền thống Tây phương, không nên bị gạt bỏ khỏi các lớp học hoặc hội thảo của Châu Á mà nên được “toàn cầu hóa” với sự đóng góp từ lịch sử, con người, triết lí, con đường và thực tiễn châu Á. Để làm được điều này, chúng ta cần vượt ra khỏi cách tiếp cận nặng tính sách vở, đầy những từ chuyên môn khó hiểu và thường xuyên viện dẫn các lý thuyết QHQT. Những công trình chính trị mang tính thực tiễn như những bài diễn văn hoặc bài viết của các nhà hoạch định chính sách có thể được xem như có giá trị lý luận cho việc phân tích, bởi chúng thể hiện tinh thần hay phản ánh cấu trúc xã hội đi cùng với những mô hình QHQT khác nhau.7 Bỏ qua những yếu tố này trong các cuộc bàn luận về lý thuyết đồng nghĩa với việc bỏ qua một khía cạnh quan trọng và rộng lớn của QHQT ở châu Á. Trong phần dưới đây, tôi sẽ phân tích ba quan điểm chính về QHQT ở Châu Á: chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do ,và chủ nghĩa kiến tạo.8 Bảng 3.1: Ba trường phái lý thuyết QHQT Chủ nghĩa Hiện thực Chủ nghĩa tự do Chủ nghĩa kiến tạo Chủ thể chính Quốc gia dân tộc Quốc gia dân tộc, công ty đa quốc gia, tổ chức quốc tế Quốc gia dân tộc, cộng đồng văn hóa-tri thức liên quốc gia, các nhóm vận động hành lang Mục tiêu chính của quốc gia dân tộc Theo đuổi lợi ích quốc gia, tối đa hóa quyền lực (chủ nghĩa hiện thực tấn công), tồn tại và an ninh (chủ nghĩa hiện thực phòng thủ) Hợp tác và phối hợp hướng đến mục tiêu chung; hòa bình thế giới Kiến tạo cộng đồng chung bằng sự tương tác lẫn nhau và những khuôn khổ quy chuẩn chung Trật tự thế giới hướng tới Hệ thống cân bằng quyền lực dựa trên nguyên tắc tự cứu và xây dựng liên minh để duy trì trật tự thế giới Hệ thống an ninh tập thể được xây dựng dựa trên thương mại tự do, tự do dân chủ và các thiết chế Các cộng đồng an ninh khu vực và toàn cầu dựa trên các quy chuẩn chung và bản sắc chung Mô hình tương tác căn bản Sự tương tác chiến lược dựa trên tư duy lý trí về tính nhân quả và sức mạnh kinh tế, quân sự Hai cấp độ (trong nước và quốc tế), đàm phán, thương mại và các dạng khác của quá trình thể chế hóa chức năng Xã hội hóa thông qua ý tưởng và thể chế Biến thể chính Chủ nghĩa tân hiện thực: sự phân bố quyền lực quyết định kết quả (của QHQT) Chủ nghĩa Tự do thể chế mới : tồn tại tình trạng vô chính phủ trên hệ thống quốc tế, tuy nhiên các thiết chế được tạo ra phục vụ chính lợi ích của quốc gia giúp hạn chế tình trạng vô chính phủ này Chủ nghĩa Kiến tạo phê phán : thách thức Chủ nghĩa kiến tạo lấy quốc gia làm trung tâm của Wendt. Không một lý thuyết nào (trong ba trường phái trên) có tính thống nhất (như một thực thể riêng biệt). Mỗi lý thuyết lại chứa đựng nhiều quan điểm, xu hướng và sự đa dạng khác nhau, một vài cái trong số đó lại trùng lặp những cái khác. Thế nhưng sự phức tạp này được thừa nhận trong các cuộc tranh luận học thuật. Và thậm chí việc sử dụng các trường phái lý thuyết trên để xem xét QHQT ở châu Á cũng không phải một việc đơn giản bởi vì nhiều chuyên gia khu vực học châu Á không tự đóng khung trong một trường phái Hiện thực, Tự do hay Kiến tạo nhất định. Vì vậy, để lý thuyết hóa QHQT ở khu vực Châu Á cần khái quát hóa từ một nền tảng ít ỏi các khái niệm lý thuyết và đưa ra những nhận xét mang tính chủ quan đối với việc ai, cái gì thuộc về nơi nào. Mặc dù các lý thuyết về QHQT được xây dựng dựa trên những giả định và luận điểm với phạm vi rộng lớn và được xem là có thể tương thích với mọi khu vực, nhưng trong thực tế, những cuộc tranh luận mang tính lý thuyết về QHQT trong một khu vực thường xoay quanh những vấn đề và luận điểm mang tính riêng biệt của từng vùng. Châu Á cũng không phải là một ngoại lệ. Vì vậy, trong khi xem xét ba trường phái trên trong bối cảnh châu Á, tôi sẽ xác định và thảo luận các luận điểm và ví dụ đại diện đang chiếm ưu thế trong các cuộc tranh luận học thuật và thực tiễn (Bảng 3.2). Chương này chủ yếu sẽ tìm hiểu QHQT và trật tự quốc tế trong vùng, hơn là nghiên cứu chính sách đối ngoại của các nước châu Á. Chương này không có mục đích tổng kết các nghiên cứu về QHQT ở châu Á. Hơn nữa, tôi cảm thấy hứng thú với việc khám phá mối quan hệ giữa xây dựng lý thuyết và các chuyển biến thực nghiệm trong QHQT ở châu Á. Lý thuyết không tồn tại nếu xa rời thực tế. Ở cả hai cấp độ khu vực và toàn cầu, lý thuyết giải thích phần lớn những sự kiện và thay đổi quan trọng xảy ra bên trong lẫn ngoài (đối với cấp độ toàn cầu) khu vực. Trong phần cuối của chương này, tôi nêu ra một số quan sát chung đối với viễn cảnh của việc phát triển một lý thuyết châu Á về QHQT mang tính phổ quát, đối trọng với sự thống trị của phương Tây và sự khu biệt châu Á trong ngành này. Đặc điểm cuối cùng của chương này là nó nghiêng về nghiên cứu an ninh hơn là kinh tế chính trị quốc tế. Điều này phần nào phản ánh thực trạng nghiên cứu QHQT châu Á, trong đó số lượng các nghiên cứu về an ninh nhiều hơn so với các nghiên cứu về kinh tế chính trị quốc tế. Chủ nghĩa hiện thực Các nhà hiện chủ nghĩa coi hệ thống quốc tế nằm trong tình trạng vô chính phủ (không có quyền lực bên trên quốc gia), trong đó, hành động của các quốc gia, vốn được xem là chủ thể chính của QHQT, được dẫn dắt chủ yếu bởi sự cân nhắc về quyền lực và lợi ích quốc gia. QHQT là một trò chơi có tổng bằng không, trong đó các quốc gia quan tâm đến lợi ích tương đối hơn là lợi ích tuyệt đối (quốc gia này đạt được bao nhiêu lợi ích so với quốc gia khác quan trọng hơn thực tế là mọi người đều đạt lợi ích).Cuộc tranh giành quyền lực và ảnh hưởng khốc liệt dẫn tới xung đột là không thể tránh khỏi và sự hợp tác là điều hiếm hoi nếu không muốn nói là chỉ trên bề mặt, các thể chế quốc tế vận hành theo ý muốn của các siêu cường. Trật tự thế giới, vốn ổn định, được duy trì bằng cán cân quyền lực, ở đây là quyền lực kinh tế và quân sự. Một phiên bản mới của chủ nghĩa Hiện thực được phát triển bởi Kenneth Waltz, còn được gọi là chủ nghĩa tân hiện thực, nhấn mạnh tầm quan trọng của các đặc tính cấu trúc của hệ thống quốc tế, đặc biệt là sự phân bố quyền lực, trong việc định hình xung đột và trật tự, vì vậy nó cũng hạ thấp tầm quan trọng của bản chất con người (vốn được nhấn mạnh bởi những nhà hiện thực cổ điển) hoặc của chính trị trong nước trong QHQT. Những cuộc tranh cãi trong nội bộ các nhà hiện thực gần đây đã tiết lộ các điểm khác biệt giữa chủ nghĩa “hiện thực tấn công” và chủ nghĩa “hiện thực phòng thủ”. Những người theo trường phái hiện thực tấn công như Mearsheimer biện luận rằng quốc gia luôn tối đa hóa quyền lực: cố gắng giành tất cả những gì có thể giành được, và “bá quyền là mục đích cuối cùng”. Những nhà hiện thực phòng thủ như Roberts Jervis hay Jack Snider cho rằng các quốc gia đều hài lòng với nguyên trạng nếu như an ninh quốc gia không bị đe dọa, và vì vậy, họ tập trung vào duy trì cán cân quyền lực. Cho dù là theo xu hướng học thuật hay thực tiễn chính trị, những nhà hiện thực đều cho rằng cân bằng quyền lực là động lực chủ yếu của việc định hình QHQT châu Á thời kỳ hậu chiến, và Hoa Kì giữ vai trò cân bằng quyền lực chủ yếu.9 Một trong những người cổ súy quan trọng cho quan điểm này là Lý Quang Diệu, chính khách nổi tiếng của Singapore. Ông Lý đã giải thích rằng chính sự có mặt của quân đội Mỹ tại châu Á đã tạo nên không chỉ sự ổn định mà cả sự phát triển vượt bậc của kinh tế châu Á trong “giai đoạn thần kì”.10 Theo quan điểm của ông, chính sự hiện diện và can thiệp vào khu vực Đông Dương của Mỹ đã giúp khu vực thoát khỏi sự bành trướng của Trung Quốc và Liên Xô và giúp các nước này có thời gian để phát triển kinh tế.11 Sau chiến thắng của phe Cộng sản tại miền nam Việt Nam năm 1975, Seni Pramoj, lãnh đạo Đảng Dân chủ Thái Lan, đã miêu tả vai trò cân bằng quyền lực của Mỹ theo hướng khác: “Trong những trận chọi gà ở Thái Lan, đôi khi chúng tôi đặt một miếng kính ở giữa hai con gà chọi. Chúng có thể vẫn mổ nhưng không làm đau đối thủ. Trong Chiến tranh lạnh giữa Moscow và Bắc Kinh, miếng kính giữa hai địch thủ có thể là Washington.”12 Cho tới khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, quan điểm của những học giả QHQT châu Á theo chủ nghĩa Hiện thực thiên về hiện thực cổ điển hơn là tân hiện thực của Kenneth Waltz, chủ nghĩa tân hiện thực nhấn mạnh vào tác động mang tính nhân quả của sự phân bổ quyền lực [trong hệ thống QHQT]. Điều này đã thay đổi cùng với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh và hệ thống hai cực. Vì vậy, luận điểm mới về QHQT ở châu Á cho rằng sự kết thúc của hệ thống hai cực đã tạo ra tình trạng mất trật tự và thậm chí là cái kết cho khu vực này. Đối với những nhà tân hiện thực, trật tự hai cực là một hệ thống quốc tế ổn định hơn so với hệ thống đa cực, xét về thời gian tồn tại bền vững lẫn sự cân bằng giữa xung đột và trật tự luôn được duy trì bên trong hệ thống.13 Sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh có thể sẽ “giải nén” những mâu thuẫn vốn bị kìm hãm trong hệ thống hai cực.14 Từ đấy, chủ nghĩa Hiện thực đã vẽ nên một bức tranh đen tối về trật tự châu Á hậu Chiến tranh Lạnh. Trong tranh luận chính trị, thuật ngữ ưa thích thường được nhắc đi nhắc lại nhiều nhất trong những năm đầu sau Chiến tranh Lạnh của phái Hiện thực là “khoảng trống quyền lực”, tạo ra bởi sự sụp đổ của một siêu cường. Điều này được thể hiện qua hành động rút toàn bộ lực lượng hải quân của Liên Xô ra khỏi vịnh Cam Ranh, Việt Nam, và việc giải giáp các căn cứ hải quân và không quân Hoa Kì ở Philippines. Bảng 3.2 : Quan điểm lý thuyết QHQT khu vực châu Á Chủ nghĩa hiện thực cổ điển (hiện thực tấn công) Chủ nghĩa Tân hiện thực (hiện thực phòng thủ) Chủ nghĩa Tự do và chủ nghĩa Tự do thể chế mới Chủ nghĩa kiến tạo (Trường phái Anh quốc) Yếu tố giữ trật tự ở châu Á trong chiến tranh Lạnh Hiện diện quân sự của Hoa Kì Hệ thống hai cực Sự phụ thuộc lẫn nhau được tạo ra bởi tốc độ phát triển kinh tế nhanh Những nguyên tắc được phổ biến thông qua ASEAN Ảnh hưởng có thể có của việc Chiến tranh Lạnh kết thúc và Trung Quốc nổi lên như một siêu cường mới Sự cạnh tranh giữa các cực Chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc Ổn định đa cực dựa trên sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản và thương mại 1/Ổn định đa cực qua quá trình xã hội hóa của các cường quốc trong Chiến tranh lạnh (ví dụ Archarya), 2/ Trật tự thứ bậc hòa bình (Kang) Vai trò và ảnh hưởng của các thể chế trong khu vực Phụ thuộc vào cán cân quyền lực (chỉ có hiệu quả nếu tồn tại trước hết một cân bằng quyền lực ở khu vực) Là công cụ của Trung Quốc nhằm gây ảnh hưởng Xây dựng kinh tế và các thể chế an ninh để thúc đẩy thương mại tự do và quản lí xung đột gây ra bởi sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng lên (a) Thiết lập chuẩn mực và xây dựng cộng đồng thông qua tập quán đối thoại và các thể chế không chính thức. Dự đoán về tương lai châu Á Giống châu Âu vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20 – Freidberg Giống Mỹ vào thế kỉ 19 – Mearsheimer Không có luận điểm Quá khứ của châu Á (trật tự thứ bậc hòa bình trước quá trình thực dân hóa)- Kang (b) (a) Cơ chế tránh xung đột trong khuôn khổ phát triển của hình thái tư bản chủ nghĩa (b) Không phải tất cả các học giả theo phái Kiến tạo đồng ý điều này (xem thêm Amitav Acharya, “Will Asia’s Past Be Its Future?” [Liệu quá khứ của châu Á có là tương lai của châu lục này?], International Security, số 3 (Xuân 2003-2004) Khoảng trống quyền lực chắc chắn sẽ dẫn đến câu hỏi ai là người lấp đầy nó? Ban đầu, các học giả hiện thực dự đoán một sự cạnh tranh đa cực giữa một Trung Quốc đang trỗi dậy, một Nhật Bản tái quân sự hóa (một phần do sự rút quân của Mỹ) và một Ấn Độ vốn có tiềm năng vươn lên thành cường quốc. Nhưng với tốc độ phát triển kinh tế hai con số của Trung Quốc cộng với tăng trưởng chi phí quân sự hàng năm cũng ở mức hai con số đã khiến sự trỗi dậy của nước này trở thành mối lo ngại (hay thích thú) chính của các nhà hiện thực về sự bất ổn ở khu vực châu Á. Từ một quan điểm trong “lý thuyết chuyển giao quyền lực “, những người theo chủ nghĩa hiện thực đã đoán trước một cuộc đối đầu không thể tránh khỏi giữa một cường quốc nguyên trạng (Hoa Kỳ) và một kẻ thách thức đang gia tăng sức mạnh (Trung Quốc). Tuy nhiên, cuộc đối đầu này là logic của chủ nghĩa hiện thực tấn công, trường phái này nhấn mạnh một cường quốc trỗi dậy có xu hướng bành trướng khu vực là không thể tránh khỏi. John Mearsheimer đã ví sự trỗi dậy của Trung Quốc với sự nổi lên của Hoa Kỳ trong thế kỷ 19, giai đoạn mà nước này tham vọng bá quyền nhắm đến việc bành trướng lãnh thổ sang các nước lân cận và áp đặt phạm vi ảnh hưởng (học thuyết Monroe) lên các quốc gia xa hơn.15 Chủ nghĩa bành trướng không bắt nguồn từ bản chất bá quyền của các cường quốc mà vì tình trạng vô chính phủ gây ra mối lo ngại về sự tồn vong của bản thân ngay cả cho những quốc gia mạnh nhất. Nói cách khác, những nước lớn lo lắng cho sự sống còn không kém hơn so với các quốc gia yếu, và chính mối bận tâm này đã khiến các cường quốc hướng đến bá quyền khu vực. Kết quả hóa ra lại là logic nghịch lý “bành trướng để tồn tại.” Nếu cân bằng quyền lực không ổn định (nếu đa cực nổi lên) hoặc biến mất (nếu bá quyền của Trung Quốc trở thành hiện thực), liệu các thể chế đa phương có thể đóng vai trò duy trì ổn định trong khu vực không? Trong thời kì Chiến tranh Lạnh, những người theo chủ nghĩa hiện thực ít chú ý đến các thể chế hợp tác hay đối thoại ở khu vực châu Á bao gồm một số ít tổ chức như: một Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vốn bận tâm tới cuộc xung đột ở Campuchia, một Tổ chức Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC ) yếu ớt, và một khuôn khổ hợp tác kinh tế lỏng lẻo như Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC). Nhưng với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh kèm theo việc tái tập trung của ASEAN vào các vấn đề an ninh khu vực rộng lớn hơn và sự nổi lên của các thể chế mới trong khu vực như diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC, 1989) và Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF, 1994), chủ nghĩa hiện thực đã gặp thách thức từ quan điểm của “chủ nghĩa thể chế”. Quan điểm này cho rằng chính các chuẩn mực và thể chế khu vực đã giúp gìn giữ hòa bình trong Chiến tranh Lạnh Châu Á, hơn là hệ thống cân bằng quyền lực, và sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong trật tự khu vực sau Chiến tranh Lạnh. Những nhà Hiện thực trả lời thách thức này bằng cách nhắm vào các thể chế khu vực châu Á. Mối bận tâm chính của họ không chỉ dừng lại ở việc nhấn mạnh sự cần thiết mang tính sống còn của hệ thống cân bằng quyền lực ổn định, mà còn phải chỉ ra những hạn chế của các thể chế khu vực. Những người theo chủ nghĩa hiện thực xem nhẹ khả năng gìn giữ hòa bình của các tổ chức khu vực ở châu Á. Đối với họ, trật tự khu vực dựa trên nguyên tắc song phương thay vì đa phương (đặc biệt là mô hình trục và nan hoa của Mỹ). Trong Chiến tranh Lạnh, học giả trường phái hiện thực Michael Leifer đã mô tả rằng các thể chế an ninh trong khu vực “phụ thuộc” cân bằng quyền lực.16 Trong khi các thể chế có thể có hiệu quả nếu được các cường quốc lèo lái (ví dụ NATO), các thể chế của châu Á lại được tạo ra và duy trì bởi các nước yếu. Một sự nhân nhượng mà các nhà phê bình hiện thực giành cho các tổ chức ở châu Á đó là chấp nhận vai trò của các thể chế này trong việc điều hòa sự căng thẳng của cân bằng quyền lực, một luận cứ phù hợp với quan điểm của trường phái Anh quốc. Vì những nước yếu vốn đã không đủ mạnh để duy trì trật tự và bảo đảm an ninh, thịnh vượng cho chính mình (không thể có cái gọi là “giải pháp của khu vực cho những vấn đề khu vực”), cách tốt nhất để tránh khỏi tình trạng tiến thoái lưỡng nan về an ninh là khiến tất cả các cường quốc quan trọng hiện diện tại khu vực để họ tự cân bằng ảnh hưởng của nhau. Sự tham gia [của các cường quốc] như trên không thể tự động mà có, và chính tại điểm này các tổ chức khu vực đóng vai trò lôi kéo hữu hiệu các nước lớn. Thay vì các cường quốc tạo ra thể chế và thiết lập chương trình nghị sự của các tổ chức này, như lẽ thường tình trong mô hình của các nhà hiện thực, những nước yếu đôi khi có thể tạo ra thể chế và sử dụng chúng nhằm thu hút những cường quốc quan trọng cho cân bằng của quyền lực.17 Nhưng điều này lại hạn chế vai trò của các tổ chức khu vực, những người theo chủ nghĩa hiện thực thường cho rằng QHQT châu Á đầy bất ổn và nguy cơ xung đột do ở đây không có đủ điều kiện đảm bảo nền hòa bình đa cực như châu Âu. Trong bài viết nổi tiếng của mình, Aaron Friedberg lập luận rằng các yếu tố giảm thiểu tình trạng vô chính phủ ở châu Âu bắt nguồn từ sự sụp đổ của trật tự lưỡng cực, lại thiếu vắng rõ rệt ở châu Á, qua đó khiến khu vực đầy rẫy sự cạnh tranh [giữa các quốc gia].18Các yếu tố này bao gồm không chỉ một thiết chế khu vực mạnh như EU, mà còn có sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và hệ thống các giá trị dân chủ chung. Một số người theo chủ nghĩa hiện thực, như Friedberg, đã thấy sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia châu Á có vẻ mỏng manh tương đối so với những gì đang xảy ra ở Châu Âu và so với sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Châu Á và phương Tây. Những người khác, như Buzan, Segal và Gilpin, cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau không thể gìn giữ hòa bình và thậm chí có thể gây ra xung đột nhiều hơn là duy trì trật tự.19 Trớ trêu thay, các nhà hiện thực cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế trong khu vực châu Á hoặc ít ỏi hoặc mang tính bất ổn, hoặc cả hai cùng một lúc. Chủ nghĩa Hiện thực đã có nhiều đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu và phân tích tình hình chính trị khu vực. Luận điểm về cân bằng quyền lực đã được duy trì cả trong thời kì cực thịnh của bá quyền Mỹ thập niên 1950 và thập niên 60, trải qua sự suy giảm tương đối trong những năm sau chiến tranh Việt Nam và cả trong những “khoảnh khắc đơn cực” sau Chiến tranh lạnh. Ở Trung Quốc, chủ nghĩa hiện thực là lý thuyết QHQT phương Tây duy nhất phá vỡ được thế độc quyền của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Điều này về sau đã mở đường cho những trường phái khác về QHQT, bao gồm cả chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa Kiến tạo. Chủ nghĩa Hiện thực cũng cung cấp một mức độ thống nhất lý thuyết nhất định cho rất nhiều bài viết phi lý thuyết hoặc thực tiễn chính sách QHQT ở châu Á. Trong Chiến tranh Lạnh, chủ nghĩa Hiện thực được cho là trường phái QHQT chiếm ưu thế ở châu Á. Điều này đúng không chỉ trong lĩnh vực học thuật, mà còn cả trong giới chính trị. Mặc dù rất khó để tìm thấy bằng chứng chứng minh rằng giới chính trị châu Á về bản chất gắn kết với thế giới quan và cách tiếp cận hiện thực, hầu hết họ, ngoại trừ một số người đã chiến đấu chống lại chế độ thực dân (đặc biệt là Jawaharlal Nehru của Ấn Độ), đã có xu hướng theo chủ nghĩa hiện thực (thậm chí Nehru cũng tuyên bố không phài là ngừoi “tự do ảo tưởng”).20 Thậm chí ở Trung Quốc, tác phẩm Politics among Nations của Hans Morgenthau đã được phổ biến rộng khắp trong các lớp học tương đương với hoặc vượt qua cả chủ nghĩa Mác hay tư tưởng Mao Trạch Đông [về QHQT]. Cũng tương tự, ở Ấn Độ, “chủ nghĩa tự do bản địa” của Gandhi và Nehru là một phần của chương trình giảng dạy QHQT. Tuy nhiên, gần đây, quan điểm hiện thực về QHQT châu Á đang bị công kích. Các dự đoán của chủ nghĩa hiện thực về tình trạng bấp bênh của châu Á sau Chiến tranh Lạnh vẫn chưa trở thành hiện thực.21 Hơn nữa, chủ nghĩa Hiện thực chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiện diện quân sự Hoa Kỳ đối với ổn định và thịnh vượng ở châu Á, mà bỏ qua vai trò của các lực lượng khác, bao gồm các thể chế và giá trị ở khu vực, tăng trưởng kinh tế, và chính trị nội địa. Cũng vậy, luận điểm của chủ nghĩa hiện thực theo đó trật tự hai cực trong Chiến tranh lạnh tạo ra ổn định cho khu vực cũng bị nghi ngờ. Một học giả hiện thực về QHQT nổi tiếng người Trung Quốc, Diêm Học Thông (Yan Xuetong) của Đại học Thanh Hoa, lập luận rằng trật tự hai cực có thể đã ngăn chặn cuộc chiến giữa các siêu cường nhưng lại gây ra nhiều cuộc xung đột khu vực đẫm máu: Lịch sử của Đông Á không cho thấy cân bằng lực lượng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ có thể ngăn ngừa các cuộc chiến tranh thông thường [chiến tranh phi hạt nhân] ở Đông Á. Trong Chiến tranh Lạnh, cân bằng quyền lực giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã ngăn hai siêu cường này tấn công trực tiếp đối phương trong khu vực này, nhưng nó không ngăn được cuộc chiến giữa các đồng minh hay giữa một trong hai nước và đồng minh của phe kia , chẳng hạn như chiến tranh Triều Tiên vào những năm 1950. Do đó, ngay cả khi một cân bằng quyền lực tồn tại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ sau Chiến tranh Lạnh, chúng ta vẫn không thể chắc chắn rằng nó có thể ngăn chặn cuộc chiến tranh giới hạn trong khu vực hay không.22 Lời giải thích hiện thực về sự ổn định châu Á trong Chiến tranh Lạnh, mặc dù có ưu điểm mang tính nhất quán, thực ra lại mâu thuẫn với một lập luận chủ chốt trong hệ thống lý luận cơ bản của trường phái, đó là luận điểm cho rằng cân bằng quyền lực là định luật phổ quát của chính trị quốc tế (ngay cả khi những người theo chủ nghĩa hiện thực vẫn bất đồng trong nhận định cho đó là một định luật tất yếu của tự nhiên, hay được hoạt động chính trị của con người tạo ra). Cách tiếp cận cân bằng quyền lực ở châu Á của chủ nghĩa hiện thực thực ra là cách ngụy trang cho bá quyền của Mỹ ở khu vực. Do đó tình trạng thiếu vắng đối trọng của bá quyền, điều vốn không thể chấp nhận được bởi chủ nghĩa hiện thực cổ điển, lại trở thành luận điểm phổ biến trong các nghiên cứu về QHQT châu Á theo trường phái hiện thực. Sự mâu thuẫn này không thể được giải thích chỉ đơn giản bằng cách xem Hoa Kỳ là cường quốc “nhân từ” nằm ngoài logic cân bằng sức mạnh. Theo đúng tinh thần của chủ nghĩa hiện thực, bất kỳ cường quốc nào (dù nhân từ hay không) khi theo đuổi bá quyền sẽ tạo nên một đối trọng cho chính mình. Việc Hoa Kỳ không có một liên minh đối trọng như vậy là một câu hỏi chưa được lý giải thỏa đáng. Tự thêm vào một mệnh đề mang tính định tính vào logic nhân quả của mình (siêu cường “nhân từ” ít có khả năng bị cân bằng hơn là siêu cường “xấu xa”), chủ nghĩa hiện thực đang tự biến thành một mô hình lý thuyết “bị suy thoái”, như lời chỉ trích mạnh mẽ của John Vasquez.24 Chủ nghĩa tự do Chủ nghĩa kiến tạo Kết luận: Từ chủ nghĩa biệt lệ (exceptionalism) đến chủ nghĩa phổ quát (universalism) Xem phần còn lại của văn bản tại đây: Theoretical Perspectives on IR in Asia-Acharya —————— Chú thích Tôi muốn gởi lời cảm ơn của mình tới Muthiah Alagappa, David Shambaugh, và Micheal Yahuda về những đóng góp của họ trong chương này. Trong chương này tôi sử dụng thuật ngữ lý thuyết theo nghĩa rộng, tập trung vào những cụm lý thuyết lớn (paradigm), ví dụ như “chủ nghĩa hiện thực”, “chủ nghĩa tự do” và “chủ nghĩa kiến tạo”. Từ “lý thuyết” mang nhiều nghĩa khác nhau. Định nghĩa của Mỹ về lý thuyết có xu hướng thiên về khoa học – xã hội (social-scientific), vì vậy, các giả định chung của lý thuyết thường có quan hệ nhân quả, và chúng có thể được kiểm tra một cách nghiêm ngặt và cung cấp một vài công cụ để tiên đoán [tương lai]. Châu Âu thì xem khái niệm “lý thyết” dưới một cái nhìn thoáng hơn, như là một nỗ lực để hệ thống hóa các dữ liệu, những vấn đề cấu trúc, và thiết lập một tập hợp những khái niệm và phạm trù có liên quan với nhau. Các tác phẩm về QHQT ở châu Á như vậy không mang tính lý thuyết theo cả hai cách hiểu, tuy nhiên thiên về quan điểm của Mỹ hơn là châu Âu. Để rõ hơn, xin xem thêm bài viết Amitav Acharya & Barry Buzan, “Why is there no Non-western IR theory: An introduction”, International Relations of the Asia- Pacific 7 (tháng 10-2007), trang 287-312. Số đặc biệt này cũng đồng thời giải thích vấn đề thiếu quan tâm tới lý thuyết trong các tác phẩm về QHQT ở khu vực châu Á, một trong những nguyên nhân dẫn tới sự áp đảo của các chuyên gia khu vực học ở châu Á. Trong một chuyến thăm Trung Quốc gần đây, tác giả đã tìm thấy được những bằng chứng thể hiện sự phát triển mạnh các mối quan tâm về lý thuyết ở các học giả QHQT tại đây. Không chỉ ở các trường Đại học như Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa mà còn với những viện nghiên cứu như Học viện Chính trị và Kinh tế thế giới thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, nơi xuất bản tạp chí hàng đầu Trung Quốc về QHQT: Kinh tế Chính trị thế giới. Tạp chí này được xuất bản bằng tiếng Trung. Học viện nghiên cứu quốc tế thuộc Đại học Thanh Hoa đã cho ra đời một tờ báo bằng tiếng Anh xuất bản bởi NXB Đại học Oxford, có tựa là Chinese Journal of International Relations [Tạp chí QHQT Trung Quốc]. Stanley Hoffmann : “ An American Social Science : International Relations” , Deadalus 106, số 3 (1977): trang 41-60; Ole Wæver “The Sociology of a Not So International Discipline: American and European Developments in International Relations,” InternationalOrganization 52, số 4 (1998): trang 687-727; Robert A. Crawford and Darryl S.L. Jarvis, eds., International Relations—Still an American Social Science? Toward Diversity in International Thought (Albany: New York University Press, 2000). David C. Kang, “Getting Asia Wrong: The Need for New Analytical Frame- works,” International Security 27, số 4 (Xuân 2003): trang 57 -85. Peter J. Katzenstein, “Introduction: Asian Regionalism in Comparative Perspective,” trong Network Power: Japan and Asia, ed. Peter J. Katzenstein và Takashi Shiaishi (Ithaca, N.Y.: Cornel Unversity Press, 1997), G. JohnIkenberry và Michael Mastanduno, “The United States and Stability in East Asia,” trong International Relations Theory and the Asia-Pacific, ed. G.John Ikenberry và Michael Mastanduno (New York: Columbia University Press, 2003), trang 441- 442. Stephen M. Walt, “International Relations: One World, Many Theories,” Foreign Policy 110 (Xuân 1998): trang 29-46. Điều này loại bỏ những lý thuyết phê phán QHQT như chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa hậu hiện đại/ hậu cấu trúc, chủ nghĩa hậu thực dân và thuyết nữ quyền. Có một vài tranh cãi rằng, những lý thuyết phê phán tập trung chủ yếu vào việc chỉ trích các dòng lý thuyết chính, đặc biệt là giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do, và ít cố gắng trong việc đưa ra khái niệm thay thế hoặc một hướng đi mới cho trật tự khu vực. Nhưng trường phái phê phán lại đặc biệt quan trọng đối với nắm bắt và phân tích ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa đối với QHQT ở châu Á, sự hạn chế và lạm dụng hệ thống quốc gia – dân tộc có chủ quyền, và mô hình an ninh quốc gia cũng như sự phát triển không bằng phẳng và không đồng đều của châu Á. Một cuốn sách gần đây áp dụng những lý thuyết phê phán vào QHQT ở châu Á là Critical Asia Pacific Security của Anthony Burke và Mat Macdonald do nhà xuất bản Đại học Manchester ấn hành năm 2007. Trường phái lý thuyết phê phán bao gồm chủ nghĩa hậu hiện đại, chủ nghĩa hậu cấu trúc, chủ nghĩa Mác/ tân Mác-xít, thuyết nữ quyền và chủ nghĩa hậu thực dân, các thuyết này thường pha trộn với nhau (chẳng hạn thuyết nữ quyền – hậu thực dân). Để hiểu thêm về hai trường phái phổ biến, đọc thêm cuốn Towards a new balance of power in Asia của Paul Dibb, Adelphi Paper trang 295 (London: Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế, 1995), Micheal Leifer, The Asean Regional Forum, Adelphi Paper trang 302 ( London: Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế, 1996). Ông Lý đã liên tục khẵng định niềm tin của mình vào cân bằng quyền lực, điển hình là những nhận xét của ông tại Canberra năm 2007 rằng “điểm mấu chốt (trong quan hệ Singapore – Úc) là quan điểm chung của hai phía về việc cân bằng chiến lược ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương hiện nay, với Hoa Kì được xem như siêu cường chủ chốt, mang lại ổn định và an ninh có thể giúp cho tất cả các quốc gia phát triển và lớn mạnh trong điều kiện hòa bình. “ Singapore and Australia shared the common strategic view: MM”, Straits Times, 29 tháng 3 năm 2007, app.mfa.gov.sg/pr/read_con.asp?View,6860 (truy cập ngày25 tháng 1 năm2008). “MM” là viết tắt của “Minister Mentor”. Đối với những tranh luận trên quan điểm của ông Lý, xem thêm Amitav Acharya và See Seng Tan, “Betwixt Balance and Community: America, ASEAN, and the Security of South-east Asia,” International Relations of the Asia-Pacific 5, số2 (2005). Đối với những nghiên cứu gần đây về quan điểm của ông Lý, xem thêm “Excerpts from an Interview with Lee Kuan Yew,” International Herald Tribune, ngày 29 tháng 8 năm 2007, www.iht.com/articles/2007/08/29/asia/lee-excerpts.php?page=1 (truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007). “Toward a New Balance of Power,” Time, ngày 22 tháng 9 năm 1975, www.time.com/time/magazine/article/0,9171,917875,00.html (truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007). Kenneth N.Waltz, “The Stability of the Bipolar World,” Daedalus 93 (Mùa hè năm1964): trang 907; Kenneth N.Waltz, Theory of International Politics (Reading, Mass.: Addison-Wesley,1979), trang171; John Mearsheimer, “Back to the Future: Instability in Europe after the Cold War,” International Security 15, số 1 (Mùa hè năm1990): trang 5-55. Một quan điểm trái ngược nhấn mạnh tiềm năng mang lại ổn định của trật tự đa cực là của Karl W. Deutsch và J. David Singer, “Multipolar Power Systems and International Stability,” World Politics 16, số 3 (tháng 4 năm 1964): trang 390-406. Đối với những tranh cãi trên quan điểm này trong bối cảnh của Thế giới thứ ba, xem thêm Amitav Acharya, “Beyond Anarchy: Third World Instability and International Order after the Cold War,” trong International Relations Theory and the Third World, ed. Stephanie Neumann (NewYork: NXB St.Marint’s, năm 1997), trang 159-211. John J. Mearsheimer, The Tragedy of Great Power Politics (NewYork: W.W. Norton, 2001), trang 41. Leifer, The ASEAN Regional Forum, trang 53-54. Đối với các phê phán về quan điểm của Leifer, xem thêm Amitav Acharya, “Do Norms and Identity Matter? Community and Power in South-East Asia’s Regional Order”, Pacific Review 18, số 1 (tháng 3 2005), trang 95-118. Điều này nói lên rằng chủ nghĩa hiện thực không hoàn toàn thống nhất như những người chỉ trích miêu tả và rằng điểm khác biệt quan trọng giữa những học giả hiện thực nằm ở bản chất và mục đích của các thiết chế quốc tế. Điều này cũng chỉ ra sự khác biệt giữa thuyết tân hiện thực với quan điểm hiện thực về các tổ chức khu vực châu Á. Mearsheimer, một nhà tân hiện thực (nhưng không phải là chuyên gia về châu Á), xem các tổ chức quốc tế là công cụ trong tay các cường quốc. John J. Mearsheimer, “The False Promise of International Institutions”, International Security 19, số 3 (Đông 1994-1995), trang 5-49. Michael Leifer có quan điểm ôn hòa hơn. Theo đó, nếu các tổ chức liên quốc gia không thể bảo đảm an ninh quốc gia, thì sự can thiệp của các siêu cường vào châu Á không phải là không thể tránh khỏi mà chỉ xảy ra nếu [sự can thiệp này] nằm trong tính toán lợi ích của các cường quốc và trùng hợp với xung đột bên trong hay giữa các nước ASEAN. Tổ chức quốc tế vẫn có thể có một vai trò nào đó trong trật tự khu vực nếu các quốc gia trong khu vực sử dụng chúng để ràng buộc các siêu cường, ngăn không cho các cường quốc này đạt được tầm ảnh hưởng vượt trội. Ví dụ, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Leifer cho rằng ARF là công cụ để lôi kéo Trung Quốc vào trong khuôn khổ của một mạng lưới các cam kết đa phương, bản thân một mạng lưới như vậy cũng là một công cụ “cân bằng quyền lực khác ngoài hình thức liên minh”. Xem thêm Michael Leifer, “The Truth about the Balance of Power”, trong The Evolving Pacific Power Structure, ed. Derek DaCunha (Singapore: Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, 1996), trang 51. Tác giả xin cám ơn Michael Yahuda đã chỉ ra khía cạnh này trong nghiên cứu của Leifer. Việc chấp nhận rằng một cam kết đa phương cũng mang tính ràng buộc rất gần với quan điểm của các học giả thể chế như Keohan và Martin. Robert O. Keohane và Lisa Martin, “The Promise of Institutionalist Theory”, International Security 20, số 1 (1995), trang 42; Ralf Emmers, Cooperative Security and the Balance of Power in ASEAN and ARF (London và NewYork: RoutledgeCurzon, 2003). Aaron Friedberg, “Ripe for Rivalry: Prospects for Peace in a Multipolar Asia”, International Security 18, số 3 (Đông 1993/1994), trang 5-33; Aaron Friedberg, Europe’s Past, Asia’s Future?, SAIS Policy Forum series 3 (Washington D.C: Paul H. Nitze School of Advanced International Studies, 1998). Barry Buzan và Gerald Segal, “Rethinking East Asian Security”, Survival 36, số 2 (Hè 1994); Robert Gilpin, “Sources of American-Japanese Economic Conflict”, trong International Relations Theory and the Asia-Pacific, ed. G. John Ikenberry và Michael Mastanduno (NewYork: Columbia University Press, 2003), trang 299-322. Xem Amitav Acharya, “Why is There No NATO in Asia? The Normative Origins of Asian Multilateralism”, Working Paper 05-05 (Cambridge, Mass: Stanford University Press, 2003). Muthiah Alagappa, “Introduction”, trong Asian Security Order: Normative and Instrumental Features, ed. Muthiah Alagappa (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 2003). Xuetong Yan, “Decade of Peace in East Asia”, East Asia: An International Quarterly 20, số 4 (Đông 2003), trang 31. Quan điểm này chỉ ra giới hạn của sự lạc quan của chủ nghĩa hiện thực trong bài viết của Robert Ross, “The Geography of the Peaace: East Asia in Twenty-First Century”, International Security 23, số 4 (Xuân 1999), trang 81-118. Ross lập luận rằng cân bằng địa chính trị giữa một bên là Mỹ, cường quốc hải quân chủ đạo với một bên là Trung Quốc, cường quốc lục địa hàng đầu sẽ bảo đảo ổn định cho Đông Á hậu Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên điều này không áp dụng đối với Gilpin và những người cho rằng bá quyền có vai trò bảo đảm ổn định quốc tế và cho rằng sự thiếu vắng đối trọng của bá quyền chính là dấu hiệu cho sự ổn định này. Robert Gilpin, War and Change in World Politics (NewYork: Cambridge University Press, 1981). John Vasquez, “Realism và the Study of Peace and War”, trong Realism and Institutionalism in International Studies, ed. Michael Breecher và Frank P. Harvey (Ann Arbor: Michigan University Press, 2002), trang 79-94; John Vasquez và Collin Elman, eds., Realism and the Balancing of Power: A New Debate (Upper Saddle River, N.J.: Prentice Hall, 2003).
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:20:42 GMT 9
Bản chất đang thay đổi của quyền lực
Nguồn: Nye, Joseph S. “The Changing Nature of Power” (Chapter 1) in J.S. Nye, Soft Power: The Means to Success in World Politics (New York: PublicAffairs, 2004), pp. 1-32.
Biên dịch: Vũ Trọng Cương | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: The Changing Nature of Power
Hơn bốn thế kỷ về trước, Nicolo Machiavelli khuyên răn các quân vương nước Ý rằng thà để thiên hạ sợ mình hơn là yêu mình. Nhưng trong thế giới ngày nay, có được cả hai điều này là hay hơn cả. Giành được trái tim và khối óc của quần chúng lúc nào cũng là điều thiết yếu, và trong thế giới thông tin toàn cầu ngày nay, nó còn quan trọng hơn bao giờ hết. Thông tin là sức mạnh, và công nghệ thông tin ngày nay quảng bá tin tức đến đại chúng một cách rộng rãi hơn bao giờ hết. Tuy vậy, các nhà lãnh đạo hầu như chỉ bỏ ra rất ít thời gian để suy nghiệm bản chất của quyền lực đã thay đổi ra sao, và cụ thể hơn, là làm sao hội nhập các khía cạnh “mềm” vào sách lược sử dụng quyền lực của họ.
Quyền lực là gì?
Quyền lực cũng như thời tiết. Ai cũng phụ thuộc vào nó, bàn về nó nhưng chẳng mấy ai hiểu được nó. Cũng như nông gia và các nhà khí tượng học tìm mọi cách để dự báo thời tiết, các lãnh tụ và nhà phân tích chính trị cố gắng miêu tả và dự đoán thay đổi trong các mối quan hệ quyền lực. Quyền lực cũng như tình yêu, khó định nghĩa hay đo lường hơn là cảm nhận, nhưng không có nghĩa là nó không tồn tại. Theo định nghĩa trong từ điển, quyền lực là khả năng làm được việc gì đó. Ở mức định nghĩa tổng quan này, quyền lực có nghĩa là khả năng đạt được kết quả mà mình mong muốn. Định nghĩa trong từ điển cũng cho rằng quyền lực là khả năng tác động hành vi của người khác để cho những điều này xảy ra. Hợp nhất các định nghĩa này một cách cụ thể hơn, quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng lên hành vi cuả người khác để đạt được kết quả mình mong muốn. Có nhiều cách khác nhau tác động lên hành vi con người. Có thể đe doạ cưỡng ép, có thể dụ dỗ mua chuộc, hay cũng có thể khuyến dụ họ hợp tác vì cả hai bên cùng chung mục đích.
Có người nhận thức một cách hạn hẹp về quyền lực; theo họ, chỉ có quyền chỉ huy hay quyền cưỡng chế. Điều này xảy ra khi bạn buộc người ta thực hiện những hành vi mà trong hoàn cảnh bình thường họ không thường làm như vậy.1 Bạn hô “Nhảy!” là họ nhảy. Đây có vẻ như là một trắc nghiệm hết sức đơn giản về quyền lực, nhưng thực ra sự việc không đơn giản chút nào. Ví dụ nếu những người dưới quyền chỉ huy của bạn vốn đã thích nhảy nhót như đám con nít cháu tôi thì sao? Khi chúng ta đo lường quyền lực dựa trên những biến đổi trong hành vi của người khác, trước hết ta phải biết sở thích của họ. Nếu không, chúng ta sẽ phạm sai lầm khi đánh giá quyền lực, tựa như chú gà trống tưởng rằng tiếng gáy của mình làm mặt trời mọc. Quyền lực có thể tan biến dễ dàng khi hoàn cảnh thay đổi. Đứa bé bắt nạn bạn bè mình ngoài sân chơi, buộc chúng phải nhảy nhót theo ý mình, sẽ nhanh chóng mất quyền lực khi hết giờ ra chơi, và cả lớp trở lại môi trường có kỷ luật chặt chẽ. Một nhà độc tài tàn bạo có thể giam cầm hoặc hành hình một nhà bất đồng chính kiến, nhưng điều đó không chứng tỏ là nhà độc tài có nhiều quyền lực, đặc biệt khi người bất đồng chính kiến sẵn sàng tử vì đạo. Quyền lực luôn luôn phụ thuộc vào bối cảnh trong đó các mối quan hệ tồn tại với nhau.2
Thường rất khó khăn để có thể tiên liệu hành vi người khác khi ta không hiện diện để chỉ huy họ. Nhưng hơn thế nữa, như chúng ta sẽ thấy sau đây, có khi chúng ta đạt được ước nguyện của mình qua ảnh hưởng hành vi của họ mà không cần chỉ huy họ. Nếu bạn tin rằng mục đích của tôi là chính đáng, tôi có thể thuyết phục bạn ủng hộ tôi mà tôi không cần đe doạ hoặc mua chuộc bạn. Ta có thể đạt được những hệ quả mình mong muốn mà không cần có quyền lực rõ ràng đối với họ. Ví dụ một số tín đồ Thiên Chúa Giáo tuân thủ theo lời răn dạy của Đức Giáo Hoàng về án tử hình không phải vì họ sợ rút phép thông công mà vì tôn trọng thẩm quyền đạo đức của ngài. Hoặc một số người theo Hồi giáo chính thống có khuynh hướng đồng tình với các hoạt động của Osama bin Laden không phải vì bị đe dọa hay mua chuộc mà vì họ tin các mục đích đấy là chính đáng.
Các chính trị gia thực dụng và người thường cho rằng những vấn đề về hành xử và động lực là quá phức tạp. Vì vậy, họ dùng một định nghĩa thứ hai về quyền lực và xem nó đơn giản là sự sở hữu khả năng hoặc nguồn lực có thể tác động đến hệ quả mong muốn. Do đó, họ cho một quốc gia là hùng mạnh nếu nó có khá đông dân số và nhiều đất đai, tài nguyên thiên nhiên phong phú, kinh tế phồn vinh, quân đội hùng hậu, và xã hội ổn định. Tác dụng của định nghĩa thứ hai này là làm cho khái niệm quyền lực trở nên cụ thể hơn, dễ đo lường và dự đoán hơn. Nhưng định nghĩa này có một số vấn đề. Khi quyền lực được xem là đồng nghĩa với nguồn lực tạo ra nó, sẽ xuất hiện nghịch lý là người có nhiều quyền lực không phải lúc nào cũng đạt được hệ quả mong muốn.
Nguồn lực của quyền lực không dễ chuyển hóa thành kết quả mong muốn giống như tiền bạc. Sức mạnh để chiến thắng trong một trò chơi này có thể chẳng có tác dụng gì trong một trò chơi khác. Cầm trong tay những lá bài tốt theo kiểu chơi poker trong khi bạn lại đang chơi trò bridge thì chẳng giúp được gì.3 Ngay cả khi bạn đang chơi poker, nếu bạn có bài tốt nhưng không biết chơi đúng cách thì bạn vẫn thua như thường. Có sẵn nguồn lực để tạo ra quyền lực không hề bảo đảm là lúc nào bạn cũng đạt được ý nguyện của mình. Một ví dụ khác là cuộc chiến Việt Nam. Xét về tài nguyên, Hoa Kỳ vượt xa Việt Nam, nhưng rốt cuộc họ thất bại trong cuộc chiến này. Và Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất trên thế giới vào năm 2001, thế nhưng họ đã không thể ngăn chặn thảm hoạ ngày 11 tháng 9.
Biến đồi nguồn lực thành quyền lực theo nghĩa đạt đuợc ước nguyện của mình đòi hỏi phải có chiến lược bài bản và tài lãnh đạo khéo léo. Tuy nhiên, chiến lược thường không thoả đáng và lãnh đạo hay sai lầm – ví dụ điển hình là các nước Nhật Bản và nước Đức vào năm 1941, hay Saddam Hussein năm 1990. Trong bất cứ trò chơi nào, đánh giá được ai có tay bài tốt thường là bước đi đầu tiên. Quan trọng không kém là hiểu được trò chơi đó. Nguồn lực nào tạo ra hành vi quyền lực trong một bối cảnh cụ thể? Dầu hoả không phải là một nguồn lực đáng kể trước khi có công nghiệp hoá; uranium cũng chẳng hề quan trọng khi thời đại hạt nhân chưa ra đời.
Trong những giai đoạn trước đây, chúng ta dễ dàng đánh giá nguồn lực tạo nên quyền lực trên trường quốc tế. Phép kiểm chứng kinh điển đối với một siêu cường trên chính trường quốc tế là “sức mạnh tham chiến.”4 Trải qua nhiều thế kỷ, với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nguồn lực tạo ra sức mạnh tham chiến cũng đã thay đổi. Ví dụ như vào thế kỷ 18 ở châu Âu, dân số là một nguồn lực quan trọng vì đó là cơ sở để thu thuế và tuyển mộ binh sĩ. Vào năm 1815 khi kết thúc các cuộc Chiến tranh Napoleon, nước Phổ đưa ra trước các đồng minh thắng trận tai Hội nghị Viên một kế hoạch tỉ mỉ về việc tái thiết cùng với việc chuyển giao lại lãnh thổ và dân số để duy trì cán cân quyền lực với nước Pháp. Vào giai đoạn tiền dân tộc chủ nghĩa, họ chẳng cần quan tâm những người phải di dân không hề nói tiếng Đức. Tuy nhiên, trong vòng năm mươi năm sau, chủ nghĩa dân tộc phát triển nhanh chóng, và việc nước Đức chiếm đóng Alsace và Lorraine của Pháp năm 1870 trở thành một trong những lý do gây ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Các tỉnh bị chia cắt, trước đây được xem là tài sản, thì nay đã trở thành món nợ trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc lên cao. Nói tóm lại, không thể đánh giá nguồn lực tạo quyền lực mà không xem xét đến bối cảnh. Trước khi bạn xét đoán ai có bài tốt, bạn cần phải hiểu bạn đang chơi trò chơi nào và giá trị của các lá bài thay đổi ra sao.
Ví dụ sự phân phối nguồn lực tạo quyền lực trong thời đại thông tin ngày nay biến đổi rất nhiều tuỳ theo từng vấn đề. Chúng ta thường nghe nói là Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất trong một thế giới “đơn cực”. Nhưng bối cảnh ngày nay phức tạp hơn ta tưởng nhiều. Nghị trình trên chính trường quốc tế trở nên giống như ván cờ vua ba chiều; để thắng được ván cờ này phải đi quân trên cả hàng dọc và hàng ngang. Trên bàn cờ thứ nhất là các vấn đề quân sự kinh điển giữa các quốc gia; Hoa Kỳ quả thực vẫn là siêu cường duy nhất với tầm hoạt động quân sự toàn cầu, và trên bình diện này ta có thể dùng những khái niệm truyền thống như đơn cực và bá chủ. Tuy nhiên trên bàn cờ thứ hai về các vấn đề kinh tế giữa các quốc gia, sự phân phối quyền lực trở nên đa cực. Hoa Kỳ không thể đạt được kết quả mong muốn về mậu dịch, chống độc quyền, hoặc điều tiết tài chính nếu không có sự thoả thuận với Liên minh Châu Âu, Nhật, Trung Quốc và các nước khác. Vì vậy không thể xem Hoa Kỳ là bá chủ. Trên bàn cờ thứ ba liên quan đến các vấn đề liên quốc gia như khủng bố, tội phạm quốc tế, biến đổi khí hậu, và sự lây lan các căn bệnh truyền nhiễm, quyền lực đuợc phân phối rộng rãi và tổ chức khá hỗn độn giữa các thành tố quốc gia và phi quốc gia. Trên bình diện này thì càng không thể nói rằng đây là một thế giới đơn cực hay Hoa Kỳ là một đế chế – cho dù có sự tuyên truyền từ cả hai phiá tả và hữu. Và đây là phạm trù những vấn đề đang xâm nhập vào thế giới đại chiến lược. Thế nhưng nhiều lãnh đạo chính trị vẫn còn đang tập trung hoàn toàn vào các nguồn lực quân sự và các giải pháp quân sự kinh điển – vốn nằm trên bàn cờ thứ nhất. Họ lầm lẫn điều kiện cần với điều kiện đủ. Họ vẫn chỉ là những đấu thủ một chiều trong cuộc chơi ba chiều. Xét về lâu dài, đó là con đường dẫn đến thất bại, vì để đạt được thắng lợi trên bàn cờ liên quốc gia thứ ba đòi hỏi phải dùng đến quyền lực mềm.
Quyền lực mềm
Ai cũng đã quen thuộc với quyền lực cứng. Chúng ta hiểu rằng sức mạnh về kinh tế và quân sự có thể khiến đối tác thay đổi lập trường của họ. Quyền lực cứng dựa trên sự khuyến dụ (“củ cà rốt”) hay đe dọa (“cây gậy”). Nhưng đôi khi bạn có thể đạt được ước nguyện mà không cần đe doạ hay dụ dỗ. Cách gián tiếp để để đạt được ước nguyện có khi còn được gọi là “bộ mặt thứ hai của quyền lực.” Một quốc gia có thể đạt được ước nguyện của mình trên trường quốc tế bởi vì các quốc gia khác – vốn ngưỡng mộ các giá trị của nó, noi theo tấm gương của quốc gia này, ước muốn có được sự phồn vinh và cởi mở như vậy – muốn đi theo bước chân của quốc gia đó. Hiểu theo nghĩa này, chúng ta thấy được tầm quan trọng về việc sắp đặt các nghị trình và thuyết phục các quốc gia khác trên chính trường quốc tế, chứ không phải buộc họ phải thay đổi bằng cách đe dọa sử dụng sức mạnh quân sự hoặc cấm vận kinh tế. Quyền lực mềm, vốn lôi cuốn các đối tác mong muốn đạt được điều mà bạn cũng muốn, tạo điều kiện để hợp tác hơn là cưỡng chế.5
Nền tảng của quyền lực mềm là khả năng định hình ý muốn của đối tác. Ở mức độ cá nhân, chúng ta ai cũng quen thuộc với sức mạnh của sự quyến rũ và cám dỗ. Trong quan hệ lứa đôi hay hôn nhân, quyền lực không nhất thiết nằm trong tay người có sức mạnh hơn, mà trái lại phụ thuộc vào sự quyến rũ huyền bí. Trong thế giới thương trường, các quản trị gia khôn ngoan hiểu rằng tài lãnh đạo không chỉ đơn thuần là phát ra mệnh lệnh mà còn đòi hỏi họ phải làm gương và cuốn hút nhân viên để cho họ cũng mong muốn đạt được thành quả như các nhà lãnh đạo đã muốn. Rất khó có thể điều hành một tổ chức thuần túy thông qua mệnh lệnh. Bạn cũng cần các thành viên tin vào các giá trị của bạn. Tương tự như thế, các biện pháp cảnh sát dựa vào cộng đồng ngày nay phụ thuộc vào việc lực lượng cảnh sát có tỏ ra thân thiện và dễ mến nhằm khuyến khích cộng đồng giúp họ đạt được các mục tiêu chung hay không.6
Các lãnh đạo chính trị từ lâu đã hiểu được sức mạnh phát xuất từ sự quyến rũ. Nếu tôi có thể khiến bạn muốn làm điều tôi muốn, tôi không cần dùng đến củ cà rốt hay cây gậy để bạn phải làm theo ý tôi. Trong khi lãnh đạo tại các quốc gia theo chính thể độc đoán thường hay cưỡng chế hay phát hành mệnh lệnh, chính trị gia tại các quốc gia dân chủ phải dựa vào sự kết hợp giữa khích lệ và thu hút. Quyền lực mềm là thành tố không thể thiếu được trong chính trị thường ngày trong xã hội dân chủ. Để có thể định hình được ý muốn, người ta cho rằng phải tồn tại các kỹ năng trừu tượng như cá tính thu hút, văn hoá, các giá trị và thể chế chính trị, các chính sách được xem là hợp lệ hay có thẩm quyền đạo đức. Nếu nhà lãnh đạo đại diện các giá trị mà những người khác cũng muốn tuân theo, ông ta không phải tốn nhiều công sức để lãnh đạo họ.
Quyền lực mềm không đơn thuần đồng nghĩa với ảnh hưởng. Bởi vì dù sao ảnh hưởng cũng có thể xuất phát từ quyền lực cứng bằng răn đe hay mua chuộc. Quyền lực mềm cũng hàm chứa nhiều hơn là tính thuyết phục hay khả năng tranh biện, mặc dù đây là một trong những thành tố quan trọng. Nó cũng là năng lực thu hút, và sự thu hút thường dẫn đến chấp thuận. Nói một cách đơn giản, xét về ứng xử, quyền lực mềm là quyền lực quyến rũ. Xét về nguồn lực thì nguồn lực tạo ra quyền lực mềm là những tài sản giúp gây được sự quyến rũ nói trên. Việc đánh giá xem một tài sản có phải là nguồn lực của quyền lực mềm vốn có khả năng quyến rũ có thể được thực hiện thông khảo sát ý kiến hoặc phỏng vấn các nhóm đại diện. Sự quyến rũ đó có tạo ra được hiệu quả chính sách mong muốn hay không phải được xét đoán riêng. Sự quyến rũ không nhất thiết sẽ định hình được ý muốn của người khác, nhưng việc các nguồn lực của quyền lực không thể chuyển hóa được thành quyền lực thực tế thể hiện ở kết quả cụ thể không phải chỉ xảy ra đối với quyền lực mềm. Trước ngày nước Pháp thất thủ vào năm 1940, hai quốc gia Anh và Pháp có nhiều xe tăng hơn Đức, nhưng ưu thế sức mạnh quân sự đó không thể tiên liệu đúng kết quả trận đánh.
Một cách hiểu khác về sự khác biệt giữa quyền lực cứng và quyền lực mềm là xem xét tất cả các phương cách được dùng để đạt được kết quả mong muốn. Bạn có thể ra lệnh cho tôi thay đổi ý muốn của tôi và làm theo ý muốn của bạn bằng vũ lực hoặc trừng phạt kinh tế. Bạn có thể dụ dỗ tôi làm theo ý bạn bằng cách dùng sức mạnh kinh tế của bạn để mua chuộc tôi. Bạn có thể hạn chế các ước nguyện của tôi bằng cách sắp xếp lịch trình sao cho những nguyện vọng này có vẻ như quá ngông cuồng và trở nên không thực tế nữa. Hay bạn cũng có thể kêu gọi ý thức về tính quyến rũ, tình yêu, hay bổn phận trong quan hệ đôi bên và ý thức về giá trị chung mà hai bên cùng chia xẻ, về sự công bằng khi cả hai bên cùng đóng góp cho những mục đích và giá trị chung này.7 Nếu bạn thuyết phục được tôi cùng chia xẻ các mục đích của bạn mà không hăm doạ hay đổi chác – nói tóm lại, hành vi của tôi chịu tác động của sự quyến rũ tuy không nắm bắt được nhưng quan sát được – đó là lúc quyền lực mềm đang được vận hành. Quyền lực mềm sử dụng một loại tiền tệ khác (không phải sức mạnh, cũng không phải tiền bạc) để sản sinh ra sự hợp tác – sự quyến rũ của các giá trị hai bên cùng chia xẻ, sự công bằng và bổn phận đóng góp để đạt được mục đích chung. Cũng như Adam Smith từng nhận định: dường như có một bàn tay vô hình dẫn dắt con người khi họ đưa ra các quyết định trong một nền kinh tế tự do; quyết định của chúng ta trong thị trường ý tưởng thường được dẫn dắt bởi quyền lực mềm – sự quyến rũ vô hình thuyết phục chúng ta theo đuổi mục đích của người khác khi không hề bị hăm doạ hay mua chuộc.
Quyền lực cứng và quyền lực mềm liên hệ với nhau vì đấy là hai khiá cạnh của cùng một năng lực nhằm đạt được mục tiêu qua ảnh hưởng lên hành vi ngưởi khác. Hai dạng quyền lực chỉ khác nhau về mức độ, xét về bản chất hành vi và tính hữu hình của nguồn lực. Quyền năng chỉ huy – khả năng thay đổi những điều người khác làm được – dựa vào cưỡng chế hay dụ dỗ. Quyền năng thu phục – khả năng định hình những điều người khác muốn có – dựa vào tính thu hút về văn hoá và các giá trị, hay năng lực thao túng nghị trình các chọn lựa chính trị một cách khéo léo khiến cho các đối tác tự từ bỏ một số chọn lựa của mình vì chúng không tỏ ra thực tế. Các định dạng hành vi giữa quyền năng chỉ huy và quyền năng thu phục nằm trong phổ từ cưỡng chế, đến dụ dỗ kinh tế, đến thiết lập nghị trình (để người khác tự tuân theo- ND), đến thuần quyến rũ. Quyền lực mềm thường thiên về phía quyền năng thu phục trên phổ định dạng hành vi trên, trong khi quyền lực cứng thường gắn với xu hướng hành vi mệnh lệnh. Mối quan hệ này không phải là hoàn hảo. Ví dụ, đôi khi một số quốc gia bị thu hút bởi các quốc gia có quyền năng chỉ huy qua huyền thoại bất khả chiến bại, và quyền năng chỉ huy đôi khi tạo dựng nên các thể chế mà sau nay được công nhận là hợp pháp. Một nền kinh tế hùng cường không những có nguồn lực để chế tài và thưởng phạt mà còn tạo ra sức thu hút. Tuy nhiên, nói chung mối liên hệ tổng quan giữa các định dạng hành vi và các nguồn lực tỏ ra khá ổn định để chúng ta có thể dùng bảng tham khảo tóm tắt sau đây:8
(Vui lòng download bài viết để xem bảng)
Trên chính trường quốc tế, nguồn lực sản sinh ra quyền lực mềm thường xuất phát từ các giá trị mà một tổ chức hoặc quốc gia thể hiện qua nền văn hoá, qua những ví dụ đưa ra qua phương thức hoạt động và chính sách trong nước cũng như phương pháp xử lý các mối quan hệ bên ngoài. Đôi khi nhà nước gặp khó khăn khi muốn kiểm soát và vận dụng quyền lực mềm. Điều đó không có nghĩa là quyền lực mềm bị giảm thiểu tầm quan trọng. Một vị cựu bộ trưởng ngoại giao Pháp đã nhận xét rằng người Mỹ có nhiều quyền lực vì họ có thể “tạo niềm cảm hứng của những ước mơ và khao khát, qua cách sử dụng thành thạo những hình tượng quốc tế trong phim ảnh và truyền hình, và cũng chính vì lý do này, đại đa số sinh viên nước ngoài đã đến học tập tại Hoa Kỳ.”9 Quyền lực mềm là một thực tại quan trọng. Ngay cả nhà hiện thực vĩ đại người Anh E. H. Carr vào năm 1939 đã mô tả quyền lực quốc tế dưới ba phạm trù: quân sự, kinh tế và sức mạnh tạo dư luận.10 Những ai phủ nhận tầm quan trọng của quyền lực mềm là người không hiểu được sức mạnh của sự cám dỗ.
Trong một cuộc gặp gỡ với Tổng thống John F. Kennedy, chính trị gia lão thành John J. McCloy đùng đùng nổi cơn thịnh nộ vì ông cho rằng chính quyền quan tâm quá đáng đến tính phổ cập và thu hút trên chính trường quốc tế: “Ý kiến thế giới ư? Tôi không tin vào ý kiến thế giới. Điều duy nhất ta cần quan tâm là quyền lực.” Nhưng cũng giống như Woodrow Wilson và Franklin Roosevelt, Kennedy hiểu rằng khả năng quyến rũ người khác và dịch chuyển ý kiến là một thành tố tạo nên quyền lực.11 Ông hiểu được tầm quan trọng của quyền lực mềm.
Như đã đề cập ở trên, cũng cùng một nguồn lực có thể ảnh hưởng cả chuỗi hành vi đi từ cưỡng chế đến quyến rũ. Một quốc gia đang trải qua giai đoạn suy thoái về quân sự lẫn kinh tế không những đánh mất nguồn lực tạo nên quyền lực cứng mà cả một phần năng lực định hình các lịch trình quốc tế cũng như tính quyến rũ của họ. Một số quốc gia bị thu hút bởi các quốc gia có quyền lực cứng qua huyền thoại bất khả chiến bại và tính thiên định. Cả Hitler và Stalin đều nỗ lực xây dựng những huyền thoại trên. Quyền lực cứng cũng có thể được dùng để kiến lập đế chế và các thể chế nhằm đặt ra lịch trình nghị sự cho các tiểu quốc – ví dụ như Liên Xô đã từng cai trị các quốc gia trong khối Đông Âu. Tổng thống Kennedy đã tỏ ra quan ngại đúng đắn khi ông thấy rằng mặc dù qua các cuộc trưng cầu dân ý, Hoa Kỳ được lòng dân hơn, nhưng nó cũng cho thấy đa số công chúng cho rằng Liên Xô vượt trội hơn trong chương trình thám hiểm vũ trụ và sức mạnh vũ khí hạt nhân.12
Quyền lực mềm không phụ thuộc vào quyền lực cứng. Toà thánh Vatican đương nhiên có quyền lực mềm cho dù Stalin đã từng mỉa mai với câu hỏi, “Đức Giáo Hoàng có được mấy sư đoàn trong tay?” Đã có một thời Liên Xô có rất nhiều quyền lực mềm, nhưng nó đã đánh mất ít nhiều quyền lực này sau khi xâm lăng Hungary và Tiệp Khắc. Quyền lực mềm của chính quyền Liên Xô tiếp tục suy giảm mặc dù nguồn lực cứng về kinh tế và quân sự ngày càng gia tăng. Do thực thi các chính sách tàn bạo, quyền lực cứng của Liên Xô đã làm suy yếu quyền lực mềm của chính họ. Trái lại, quyền lực mềm ở một mức độ nào đó đã củng cố tầm ảnh hưởng của chính quyền Liên Xô tại Phần Lan. Cũng tương tự, quyền lực mềm đã củng cố tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại các quốc gia Nam Mỹ trong thập niên 1930 khi Tổng thống Franklin Roosevelt đưa quyền lực mềm vào “chính sách láng giềng tốt.”13
Đôi khi các quốc gia có được thế lực chính trị rộng lớn hơn cả sức mạnh kinh tế và quân sự mà họ sở hữu; điều đó ngụ ý là các quốc gia này đã xác định lợi ích quốc gia của họ phải bao gồm những mục đích thu hút như viện trợ kinh tế và giữ gìn hoà bình. Ví dụ như trong hai thập niên qua, Na Uy đã đóng góp công sức vào những cuộc đàm phán hoà bình tại Philippines, bán đảo Balkan, Columbia, Guantemala, Sri Lanka, và khu vực Trung Đông. Người dân Nay Uy cho rằng đây là di sản nền văn hoá truyền giáo đạo Luther của họ, nhưng đồng thời, việc đảm nhiệm tư cách của một lực lượng giữ gìn hoà bình cũng đồng nhất quốc gia này với các giá trị mà những quốc gia khác cùng chia xẻ, và do vậy, đã nâng cao quyền lực mềm của Na Uy. Bộ trưởng Ngoại giao Jan Peterson lập luận rằng “chúng tôi quả thực dễ có cơ hội tiếp cận hơn,” vì ông cho rằng vị trí của Na Uy tại nhiều cuộc đàm phán đã nâng cao tính hữu ích và giá trị của họ đối với các quốc gia lớn hơn. 14
Michael Ignatieff cũng mô tả vị trí của Canada từ một góc nhìn tương tự: “Ảnh hưởng xuất phát từ ba phạm trù: thẩm quyền đạo đức với tư cách một công dân tốt mà chúng ta có ít nhiều, khả năng quân sự mà chúng ta có ít hơn nhiều, và khả năng tương trợ cộng đồng quốc tế.” Đề cập đến Hoa Kỳ, ông cho rằng “chúng ta có cái mà họ muốn. Họ cần có tính chính danh.”15 Đó chính là tiền đề gia tăng ảnh hưởng của Canada khi họ cần thương lượng với người hàng xóm khổng lồ Hoa Kỳ. Chính phủ Ba Lan quyết định gửi quân đến Iraq trong thời hậu chiến không chỉ nhằm được Hoa Kỳ sủng ái mà còn là phương cách tạo dựng lên một hình ảnh tích cực về Ba Lan trên trường quốc tế. Khi chính quyền Taliban sụp đổ tại Afghanistan vào năm 2001, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Ấn Độ bay đến Kabul để chúc mừng tân chính phủ lâm thời. Trên chuyến bay này, họ không mang theo theo vũ khí hay lương thực, mà chất đầy băng hình phim ảnh và âm nhạc của Bollywood được nhanh chóng phân phát sau đó trong khắp thành phố.16 Trong chương ba tới, chúng ta sẽ thấy rằng nhiều quốc gia có sẵn nguồn lực sản sinh ra quyền lực mềm.
Các thể chế cũng có thể nâng cao quyền lực mềm của một quốc gia. Ví dụ như Anh Quốc trong thế kỷ 19 và Hoa Kỳ vào thời kỳ nửa sau thế kỷ 20 đã triển khai các giá trị của họ thông qua xây dựng các luật lệ và thể chế quốc tế phản ánh bản chất dân chủ tự do của nền kinh tế Hoa Kỳ và Anh Quốc: trong trường hợp Anh Quốc là sự tự do mậu dịch và nền kim bản vị; trong trường hợp Hoa Kỳ là các thể chế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Mậu dịch Thế giới, và Liên Hiệp Quốc. Khi các quốc gia chứng tỏ sức mạnh có tính chính đáng, họ sẽ không bị đối kháng khi thực thi nguyện vọng của mình. Nếu nền văn hóa và ý thức hệ của một quốc gia tỏ ra hấp dẫn, các quốc gia khác sẽ dễ dàng đi theo họ hơn. Nếu một quốc gia có thể định hình những luật lệ quốc tế tương thích với lợi ích và giá trị của quốc gia đó, hành động của họ sẽ hợp pháp hơn dưới cái nhìn của các nước khác. Nếu họ sử dụng các thể chế này và tuân thủ các luật lệ nhằm khuyến khích các quốc gia khác vận dụng hay hạn chế hoạt động theo chiều hướng mà họ mong muốn, họ sẽ không cần dùng đến củ cà rốt và cây gậy vốn tốn sẽ kém hơn nhiều.
Nguồn lực của quyền lực mềm
Quyền lực mềm của một quốc gia dựa trên ba nguồn lực chính: nền văn hoá (ở những điểm thu hút), giá trị về chính trị (áp dụng trong và ngoài nước), và chính sách đối ngoại (khi được cho là hợp pháp và phù hợp đạo đức).
Chúng ta hãy bắt đầu với văn hoá. Văn hoá bao gồm các giá trị và tập tục vốn đem lại ý nghĩa trong một xã hội. Văn hoá có nhiều biểu hiện khác nhau. Thường người ta hay phân biệt giữa văn hoá cao cấp như văn chương, nghệ thuật, và giáo dục, vốn rất thu hút giới trí thức, và văn hóa đại chúng vốn nhằm giải trí đại đa số quần chúng.
Khi văn hoá của một quốc gia bao gồm những giá trị phổ cập và các chính sách của họ quảng bá các giá trị và quyền lợi mà những quốc gia khác đồng chia xẻ, nền văn hoá sẽ giúp gia tăng khả năng quốc gia đó có thể đạt được ước muốn của mình thông qua các mối quan hệ mang tính thu hút và nghĩa vụ mà nó hình thành. Những giá trị hẹp hòi và các nền văn hoá cục bộ hiếm khi tạo ra được quyền lực mềm. Hoa Kỳ có lợi thế từ một nền văn hoá phổ quát. Nhà biên tập người Đức Josef Joffe đã từng đưa ra luận điểm là quyền lực mềm của Hoa Kỳ còn rộng lớn hơn cả các tài sản quân sự và kinh tế gộp lại. “Văn hoá Mỹ, cho dù là bình dân hay cao cấp, đều tỏa sáng mãnh liệt; điều này chỉ xảy ra trước đây dưới thời đế chế La Mã – nhưng ở đây có một khuynh hướng mới mẻ. Thế lực về văn hoá của La Mã và Liên Xô trước đây dừng lại tại biên giới quân sự của họ. Trong khi đó, quyền lực mềm của Hoa Kỳ thống trị trên một đế chế rộng lớn mà nơi đó mặt trời không hề lặn.”17
Một số nhà phân tích cho rằng quyền lực mềm chỉ đơn thuần là sức mạnh văn hóa đại chúng. Sai lầm của quan điểm này là đồng hoá quyền lực mềm với các nguồn lực văn hoá được dùng để tạo ra quyền lực này. Họ nhầm lẫn nguồn lực văn hoá với hành vi thu hút. Ví dụ, nhà sử học Niall Ferguson mô tả quyền lực mềm là “những sức mạnh phi truyền thống như các sản phẩm văn hoá và thương mại” và rồi ông phủ nhận nó vì lý do “thực ra, nó rất mềm.”18 Dĩ nhiên, nước ngọt của hãng Coke và bánh mì Big Macs không nhất thiết cuốn hút nhân dân các nước đạo Hồi khiến họ yêu mến nước Mỹ. Có thông tin cho rằng nhà độc tài Bắc Triều Tiên Kim Jong Il rất thích pizza và phim ảnh Mỹ, nhưng điều đó không ảnh hưởng đến chương trình vũ khí hạt nhân của ông. Rượu ngon, phô mai chua, không bảo đảm nước Pháp sẽ được yêu mến; tính phổ biến của trò chơi Pokemon không hề đảm bảo nước Nhật sẽ đạt được những kết quả mong muốn từ các chính sách của họ.
Điều này không có nghĩa phủ nhận văn hóa đại chúng vốn thường là nguồn lực tạo ra quyền lực mềm. Nhưng như chúng ta đã thấy ở trên, hiệu quả của bất kỳ nguồn lực sức mạnh nào cũng phụ thuộc vào bối cảnh. Xe tăng không còn là sức mạnh quân sự khi dùng nó trong vùng đầm lầy hay rừng rú. Than và sắt không hề là nguồn lực lớn lao khi một quốc gia không có cơ sở công nghiệp hạ tầng. Có những người Serb đi ăn tại nhà hàng McDonald’s nhưng vẫn ủng hộ Milosevic. Nhiều người dân ở Rwanda phạm những tội ác tày trời trong khi mặc áo thun có những biểu trưng của Hoa Kỳ. Phim ảnh Mỹ vốn tạo sự thu hút cho nước Mỹ tại Trung Hoa hay Nam Mỹ lại cũng có thể gây ra phản cảm và làm suy giảm quyền lực mềm của họ tại Ảrập Xêút hay Pakistan. Nhưng nhìn chung, các cuộc trưng cầu dân ý cho thấy nền văn hoá đại chúng của Hoa Kỳ gây ra những ấn tượng như “hứng thú, kỳ lạ, phong phú, mạnh mẽ, tiền phong về hiện đại hoá lẫn sáng tạo.”19 Những hình này trở nên quyến rũ “trong một thời đại mà người ta muốn tham gia vào một cuộc sống tốt đẹp theo lối Mỹ, ngay cả khi trong quan điểm chính trị, họ ý thức được mặt trái của nước Mỹ về hệ sinh thái, cộng đồng hay sự bất bình đẳng.”20 Ví dụ, trong khi giải thích xu hướng kiện tụng để khẳng định quyền lợi tại Trung Quốc, một nhà hoạt động xã hội trẻ đã nêu ra, “Chúng ta đã xem nhiều phim ảnh Hoa Kỳ, trong đó đầy rẫy những cảnh đám cưới, đám ma, và đi hầu toà. Bởi vậy, bây giờ chúng ta nghĩ rằng đâu có gì là lạ khi trong đời mình cũng ra hầu toà vài lần cho biết.”21 Nếu mục đích của Hoa Kỳ là củng cố hệ thống luật pháp tại Trung Quốc, những bộ phim này có lẽ còn hiệu quả hơn cả những bài diễn văn của ngài đại sứ rao giảng về tầm quan trọng của vấn đề pháp trị.
Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, sự hấp dẫn (hay phản cảm) của văn hoá đại chúng Mỹ tại các khu vực khác nhau và đối với các nhóm khác nhau tạo điều kiện thuận lợi hay bất lợi cho các viên chức Hoa Kỳ quảng bá chính sách của họ. Trong một số trường hợp, ví dụ như Iran, cũng cùng thứ phim ảnh từ Hollywood trong khi gây khó chịu cho giới giáo sĩ hồi giáo lãnh đạo lại rất thu hút giới trẻ. Tại Trung Quốc, văn hoá Mỹ vừa cuốn hút lại vừa bị tẩy chay trong những nhóm người khác nhau.
Thương mại chỉ là một trong những phương cách trao đổi văn hoá. Sự trao đổi văn hoá cũng xảy ra qua liên hệ cá nhân, thăm viếng, và trao đổi. Ý tưởng và giá trị mà Hoa Kỳ xuất khẩu tồn tại trong đầu óc của hơn nửa triệu du học sinh hàng năm học tập tại các trường đại học Hoa Kỳ và sau này trở về quê hương, hay trong đầu óc của những nhà kinh doanh châu Á hồi hương sau khi họ thành đạt tại Thung lũng Silicon – chúng đều dễ dàng thẩm thấu trong tầng lớp ưu tú nắm trong tay quyền lực. Đa số các lãnh tụ Trung Quốc đều có con cái được đào tạo tại Hoa Kỳ. Con cái họ sẽ có cái nhìn thực tế về Hoa Kỳ; cái nhìn này thường mâu thuẫn với những hình ảnh biếm hoạ trong truyền thông chính thức tại Trung Quốc. Cũng tương tự như khi Hoa Kỳ đang cố thuyết phục Tổng thống Pakistan Musharaf thay đổi chính sách của ông và tăng cường hỗ trợ các hoạt động của Hoa Kỳ tại Afghanistan, cuộc trò chuyện với người con trai của ông vốn đang làm việc tại Boston chắc chắn đã giúp ít nhiều cho quyết định của ông.
Chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ cũng là một nguồn lực khác nữa. Ví dụ, vào thập niên 1950, sự phân biệt chủng tộc trong nước làm suy giảm quyền lực mềm của Hoa Kỳ tại châu Phi, và ngày nay án tử hình cũng như luật lệ kiểm soát vũ khí lỏng lẻo làm suy yếu quyền lực mềm của Hoa Kỳ tại châu Âu. Tương tự, chính sách đối ngoại cũng ảnh hưởng mạnh đến quyền lực mềm. Trường hợp điển hình là chính sách về nhân quyền của Tổng thống Jimmy Carter cũng như các nỗ lực của chính phủ nhằm quảng bá dân chủ dưới thời Tổng thống Reagan và Clinton. Tại Argentina vào thập niên 1970, chính phủ quân sự bác bỏ các chính sách nhân quyền của Mỹ; hai mươi năm sau, những chính sách này đã đem lại cho chính phủ Hoa Kỳ quyền lực mềm đáng kể khi những người theo Tổng thống Peron vốn bị tù đày trước đây lên nắm chính quyền. Chính sách có thể có tác dụng dài hạn cũng như ngắn hạn và thay đổi tùy theo bối cảnh. Hoa Kỳ được xem là quốc gia thân hữu với Argentina vào thập niên 1990 phản ảnh chính sách của Tổng thống Jimmy Carter vào thập niên 1970, và nhờ vậy đã khiến cho chính phủ Argentina ủng hộ chính sách Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc và vùng bán đảo Balkan. Dù sao chăng nữa, quyền lực mềm của Hoa Kỳ đã bị xói mòn đáng kể khi bối cảnh thay đổi lần nữa vào thập kỷ sau này khi mà Hoa Kỳ thất bại trong việc cứu trợ nền kinh tế Argentina khi nó sụp đổ.
Chính sách nhà nước có thể tăng cường hoặc phí hoài quyền lực mềm của một quốc gia. Chính sách đối nội lẫn đối ngoại nào tỏ ra đạo đức giả, ngạo mạn, hay dửng dưng với công luận, hoặc dựa trên quan điểm thiển cận phục vụ cho quyền lợi quốc gia, đều có thể hủy hoại quyền lực mềm. Ví dụ như khi trưng cầu ý kiến cho thấy sức thu hút của Hoa Kỳ bị giảm mạnh sau cuộc chiến tranh Iraq vào năm 2003, những người tỏ ra thiếu thiện cảm với Hoa Kỳ nói rằng họ phản đối chính sách của Tổng thống Bush và chính quyền của ông chứ không phải dân chúng Mỹ nói chung. Cho tới nay, họ tách biệt người Mỹ và văn hoá Mỹ với chính sách của chính phủ Mỹ. Dân chúng tại phần lớn các quốc gia vẫn tiếp tục ngưỡng mộ Hoa Kỳ trong các lãnh vực kỹ thuật, âm nhạc, điện ảnh, và truyền hình. Nhưng đại đa số cho hay họ không thích ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Mỹ tại sứ xở họ. 22
Cuộc chiến tranh Iraq năm 2003 không phải là chính sách đầu tiên làm cho Hoa Kỳ không được ưa chuộng. Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, ba mươi năm trước, nhân dân trên toàn thế giới phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, và vị thế của Hoa Kỳ phản ảnh tính bất cập của các chính sách thời bấy giờ. Sau này, khi Hoa Kỳ thay đổi chính sách của họ và ký ức cuộc chiến tranh đã đi vào quá khứ, Hoa Kỳ thu hồi lại được đa phần quyền lực mềm đã bị đánh mất trước đây. Quá khứ có lập lại hay không trong hậu kỳ chiến tranh Iraq sẽ còn phụ thuộc vào sự thành công các chính sách tại Iraq, tiến triển trong mâu thuẫn Israel và Palestine, và nhiều yếu tố khác nữa.
Những giá trị mà một chính phủ đấu tranh để bảo vệ trong nước (ví dụ như dân chủ), trong các thể chế quốc tế (qua hợp tác với các quốc gia khác), và chính sách đối ngoại (thúc đẩy hoà bình và nhân quyền) đều ảnh hưởng mạnh mẽ đến ước nguyện của người khác. Nhà nước có thể thu hút hoặc xô đẩy người ta thông qua ảnh hưởng những hành động của họ. Nhưng nhà nước không có khả năng sở hữu quyền lực mềm như họ sở hữu quyền lực cứng. Những tài sản trong quyền lực cứng như quân đội hoàn toàn thuộc về nhà nước; những tài sản khác hiển nhiên là thuộc về quốc gia, ví dụ như dầu khí và các khoáng sản; và một số tài sản khác lại có thể được chuyển giao dưới quyền kiểm soát tập thể, như hãng hàng không dân dụng có thể được huy động trong tình hình khẩn cấp. Trái lại, nhiều nguồn lực của quyền lực mềm hoàn toàn tách riêng khỏi nhà nước và chỉ đóng góp một phần khi nhà nước huy động. Ví dụ như trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, văn hoá đại chúng Mỹ thường đối đầu với các chính sách nhà nước. Ngày nay, phim ảnh Hollywood với các diễn viên nữ ăn mặc hở hang và lối sống phóng túng, hoặc những nhóm Cơ Đốc Giáo cấp tiến lên tiếng chỉ trích Hồi Giáo là một tôn giáo độc ác, đều đứng ngoài sự kiểm soát của chính phủ trong một xã hội tự do, nhưng dù sao cũng ảnh hưởng xấu đến các nỗ lực của chính quyền nhằm cải thiện quan hệ với các quốc gia Hồi Giáo.
Giới hạn của quyền lực mềm
Vai trò đang thay đổi của sức mạnh quân sự
Khủng bố và tư nhân hóa chiến tranh
Sự giao thoa giữa quyền lực cứng và quyền lực mềm
Quyền lực trong kỷ nguyên thông tin toàn cầu
Xem nội dung còn lại của bài viết tại đây: The Changing Nature of Power
——–
Chú thích
Robert Dahl, Who Governs: Democracy and Power in an American City (New Haven: Yale University Press, 1961). David Baldwin, “Power Analysis and World Politics: New Trends versus Old Tendencies,” World Politics, 31, 2 (01/1979), trang 161-94. Như trên, trang 164B. A. J. P. Taylor, The Struggle for Mastery in Europe, 1848-1918 (Oxford: Oxford University Press, 1954), trang xxix. Lần đầu tiên tôi giới thiệu khái niệm này trong cuốn Bound to Lead: the Changing Nature of American Power (New York: Basic Books, 1990) Chương 2. Nó được xây dựng trên cái mà Peter Bachrach và Morton Baratz gọi là “bộ mặt thứ hai của quyền lực.” Xem bài “Decision and Nondecisions: An Analytical Framework,” American Political Science Review (09/1963), trang 632-42. Tôi biết ơn Mark Moore đã vạch ra điều này. Xem Jane J. Mansbridge, Beyond Self-Interest (Chicago: University of Chicago Press 1990). Kinh tởm và căm ghét cũng khiến con người hành động, nhưng kết quả sinh ra thường không như người gây ra những cảm xúc này mong muốn. Trong khi có thể xem kinh tởm là một hình thức “quyền lực mềm tiêu cực,” thuật ngữ này không đồng nhất với định nghĩa tôi đưa ra cho rằng quyền lực là khả năng tạo ra được kết quả mà mình mong muốn. Vì vậy, tôi dùng từ “kinh tởm” như là từ phản nghĩa của “hấp dẫn”. Hubert Védrine cùng Dominique Moisi, France in an Age of Globalization (Washington, D.C.: Brookings Institution Press, 2001) trang 3. E. H. Carr, The Twenty Years’ Crisis, 1919-1939: An Introduction to the Study of International Relations (New York: Harper & Row, 1964) trang 108. John McCloy và Arthur Schlesinger, Jr., trích dẫn theo Mark Haefele, “John F. Kennedy, USIA, and World Public Opinion,” Diplomatic History 25, I (Winter 2001), trang 66. Như trên, trang 75. Xem thêm dữ liệu USIA trong Richard L. Merritt và Donald J. Puchala, Western European Perspectives on International Affairs (New York: Frederick A. Praeger, 1968) trang 513-38. John P. Vloyantes, Silk Glove Hegemony: Finnish-Soviet Relations, 1944-1974 (Kent, Ohio: Kent State University Press, 1975) dùng thuật ngữ “soft sphere of influence”. Frank Buni, “A Nation That Exports Oil, Herring and Peace,” New York Times, 21/12/2002, trang A3. Michael Ignatieff, “Canada in the Age of Terror – Multilateralism Meets a Moment of Truth,” Options Politiques, 02/2003, trang 16. Jehangir Pocha, “The Rising Soft Power of India and China,” New Perspective Quarterly 20 (Winter 2003), trang 9. Joseph Joffe, “Who’s Afraid of Mr. Big?” The National Interest, Summer 2001, trang 43. Niall Ferguson, “Think Again: Power,” Foreign Policy, 01-02/2003. Neal M. Rosendorf, “Social and Cultural Globalization: Concepts, History and America’s Role,” trong Joseph Nye và John D. Donahue, eds., Governance in a Globalizing World (Washington, D.C.: Brookings Institution Press, 2000), trang 123. Todd Gitlin, “Taking the World by (Cultural) Force,” The Straits Times, Singapore, 11/01/1999, trang 2. Elisabeth Rosenthall, “Chinese Test New Weapon from West: Lawsuits,” New York Times, 16/06/2001, trang A3. Pew Global Attitudes Project, View of a Changing World June 2003, (Washington, D.C.: Pew Research Center for the People and the Press, 2003) trang 22-23.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:22:14 GMT 9
Chủ nghĩa hiện thực cấu trúc sau Chiến tranh Lạnh
Nguồn: Waltz, Kenneth N. (2000). “Structural Realism after the Cold War”, International Security, Vol. 25, No. 1. (Summer, 2000), pp. 5-41.
Biên dịch: Lưu Bảo Nam Dung | Hiệu đính: Nguyễn Hoàng Như Thanh
Download: Chu nghia hien thuc cau truc sau CTL.pdf
Một bộ phận các nhà nghiên cứu chính trị quốc tế tin rằng chủ nghĩa hiện thực đã trở nên lỗi thời.[1] Theo họ, mặc dù các khái niệm của chủ nghĩa hiện thực về tình trạng vô chính phủ, nguyên tắc tự cứu và cân bằng quyền lực có thể phù hợp trong quá khứ nhưng nay đã bị thay thế do tình hình thay đổi và bị áp đảo bởi các tư tưởng tốt hơn. Thời đại mới cần những tư tưởng mới. Tình hình chuyển biến yêu cầu các lý thuyết hoặc phải được xem xét lại hoặc phải được thay thế bởi những lý thuyết hoàn toàn khác.
Điều này là hoàn toàn đúng, nếu tình hình đã thay đổi thì lý thuyết dùng để giải thích nó không còn áp dụng được nữa. Nhưng những kiểu thay đổi nào có thể chuyển biến hệ thống chính trị quốc tế một cách sâu sắc đến nỗi mà những lối tư duy cũ không còn phù hợp nữa? Những thay đổi của hệ thống sẽ làm được điều đó, những thay đổi trong hệ thống thì không. Những thay đổi bên trong hệ thống luôn diễn ra, trong đó một số quan trọng, một số khác thì không. Chẳng hạn, những thay đổi lớn về phương tiện vận chuyển, truyền thông và chiến tranh ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách các quốc gia và các chủ thể khác tương tác với nhau. Những thay đổi như vậy xảy ra ở cấp độ đơn vị. Trong lịch sử hiện đại, hay có lẽ xuyên suốt chiều dài lịch sử, sự ra đời của vũ khí hạt nhân là thay đổi lớn lao nhất [trong số các thay đổi bên trong hệ thống]. Tuy nhiên trong kỷ nguyên hạt nhân, nền chính trị quốc tế vẫn là một môi trường tự cứu. Vũ khí hạt nhân thay đổi cách một vài quốc gia tự bảo đảm an ninh của chính mình và có thể là cho quốc gia khác, nhưng vũ khí hạt nhân chưa thay đổi cấu trúc vô chính phủ của hệ thống chính trị quốc tế.
Những thay đổi trong cấu trúc của hệ thống là hoàn toàn khác với những thay đổi ở cấp độ đơn vị. Vì thế, những thay đổi về “cực” cũng ảnh hưởng cách các quốc gia tự bảo vệ chính mình. Những thay đổi lớn diễn ra khi số lượng các siêu cường giảm xuống còn hai hoặc một. Nếu có nhiều hơn hai siêu cường, các quốc gia bảo đảm an ninh của bản thân dựa vào chính nguồn lực bên trong và dựa vào liên minh giữa chúng và các quốc gia khác. Sự cạnh tranh trong hệ thống đa cực phức tạp hơn trong hệ thống hai cực bởi vì khi số lượng các quốc gia tăng lên thì sự không chắc chắn về so sánh lực lượng giữa các quốc gia cũng tăng theo, và bởi vì sẽ rất khó để ước lượng mức độ gắn kết và sức mạnh của các liên minh.
Những thay đổi về vũ khí và về cực là những thay đổi lớn, kéo theo sự phân mảnh trên toàn hệ thống, nhưng chúng vẫn không làm biến đổi nó. Nếu như hệ thống đã thay đổi, nền chính trị quốc tế sẽ không còn là nền chính trị quốc tế nữa, và quá khứ sẽ không còn dẫn đường cho tương lai. Chúng ta nên bắt đầu gọi nền chính trị quốc tế bằng một cái tên khác, như một vài người đã làm. Chẳng hạn những thuật ngữ “nền chính trị thế giới” hay “nền chính trị toàn cầu” cho thấy nền chính trị giữa các quốc gia vị kỷ vốn chỉ quan tâm đến an ninh của mình đã bị thay thế bởi một kiểu chính trị khác hoặc không có nền chính trị nào cả.
Chúng ta có thể tự hỏi những thay đổi nào có thể biến đổi hoàn toàn chính trị quốc tế như vậy? Câu trả lời phổ biến là nền chính trị quốc tế đang thay đổi và chủ nghĩa hiện thực đang trở nên lỗi thời khi nền dân chủ đang gia tăng sự ảnh hưởng, khi sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng lên, và khi các thể chế làm cho con đường đạt đến hoà bình bằng phẳng hơn. Tôi sẽ xét đến các điểm này trong những phần tiếp theo. Phần thứ tư sẽ giải thích vì sao chủ nghĩa hiện thực vẫn còn duy trì khả năng lý giải sau Chiến tranh Lạnh.
Dân chủ và Hoà bình
Chiến tranh Lạnh kết thúc diễn ra cùng lúc với cái nhiều người gọi là làn sóng dân chủ mới. Xu hướng dân chủ cùng với sự tái khám phá của Michael Doyle về cách cư xử hoà bình giữa các quốc gia dân chủ tự do với nhau đã ủng hộ mạnh mẽ cho niềm tin rằng chiến tranh đã không còn được sử dụng, nếu không muốn nói là lỗi thời, giữa các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.[2]
Luận điểm về nền hoà bình nhờ dân chủ cho rằng các nền dân chủ không gây chiến lẫn nhau. Ở đây tôi nói là “luận điểm”, chứ không phải là “lý thuyết” [thesis và theory]. Niềm tin trong đó các nền dân chủ hình thành nên một khu vực hoà bình được dựa trên mối tương quan cao độ giữa thể chế nhà nước với tình hình quốc tế. Francis Fukuyama cho rằng mối tương quan này là hoàn hảo: chưa bao giờ có một nước dân chủ nào gây chiến với một nước dân chủ khác. Theo Jack Levy thì đây là “thứ gần với một quy luật thực nghiệm nhất mà chúng ta có khi nghiên cứu quan hệ quốc tế”.[3] Nhưng nếu đúng là hòa bình tồn tại giữa các nước dân chủ thì ở đây chúng ta không có một lý thuyết mà là một thực tế cần được giải thích. Sự giải thích nhìn chung được đưa ra theo hướng này: Các nền dân chủ “đúng đắn” (ví dụ dân chủ tự do) tồn tại hoà bình trong mối quan hệ với một nền dân chủ khác. Đây cũng là quan điểm của Immanuel Kant. Thuật ngữ mà ông ấy dùng là Rechtsstaat hay là Cộng hoà, và định nghĩa của ông về nền cộng hoà chặt chẽ đến mức rất khó để tin rằng một kiểu cộng hoà như thế có thể xuất hiện chứ đừng nói hai hoặc nhiều hơn thế.[4] Và nếu như chúng có tồn tại, ai có thể nói rằng chúng sẽ tiếp tục là nền cộng hoà “đúng đắn” như vậy hay thậm chí vẫn tiếp tục là một nền dân chủ? Sự tồn tại ngắn ngủi và đáng buồn của Cộng hoà Weimar [chính thể Đức từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đến trước khi Hitler lên nắm quyền] là một lời nhắc nhở. Và làm sao ta có thể định nghĩa thế nào là một nền dân chủ đúng đắn? Vài học giả Hoa Kỳ cho rằng nước Đức dưới thời Wilhelm là hình mẫu của một nhà nước dân chủ hiện đại với quyền bầu cử được phổ biến rộng rãi, bầu cử tự do và đáng tin cậy, cơ quan lập pháp có quyền kiểm soát ngân sách, cạnh tranh đa đảng, tự do ngôn luận và bộ máy công quyền có năng lực cao.[5] Nhưng theo quan điểm của Pháp, Anh và Hoa Kỳ sau tháng 8 năm 1914, Đức đã không còn là một nền dân chủ “đúng đắn”. John Owen đã cố gắng giải thích vấn đề về định nghĩa này bằng cách lập luận rằng những nước nào thừa nhận lẫn nhau là các nền dân chủ tự do thì sẽ không gây chiến lẫn nhau.[6] Điều này thật ra lại còn phức tạp hóa vấn đề thêm. Các nước dân chủ tự do có những thời điểm chuẩn bị gây chiến với các quốc gia dân chủ tự do khác và cũng có lúc gần đi đến chiến tranh. Christopher Layne chỉ ra rằng vài cuộc chiến tranh giữa các quốc gia dân chủ được ngăn chặn không phải vì sự ngần ngại của các quốc gia này khi phải đánh nhau mà vì mối lo ngại đối với một bên thứ ba, một quan điểm hiện thực đúng đắn. Chẳng hạn, làm sao Anh và Pháp lại tranh chấp Fashoda vào năm 1898 trong khi Đức rình rập ở đằng sau? Khi nhấn mạnh rằng các lý do thuộc cấu trúc chính trị quốc tế khiến các nền dân chủ không đánh lẫn nhau, Layne đã đi đến trọng tâm của vấn đề.[7] Hình thái chính trị tương tự nhau giữa các quốc gia có thể loại trừ một vài nguyên nhân gây ra chiến tranh, nhưng không phải tất cả. Luận điểm hoà bình nhờ dân chủ sẽ thỏa đáng chỉ khi tất cả nguyên nhân dẫn đến chiến tranh đều nằm bên trong các quốc gia.
CÁC NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CHIẾN TRANH
Giải thích nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh luôn dễ dàng hơn việc hiểu được điều kiện của nền hoà bình. Nếu một người hỏi điều gì gây ra chiến tranh thì câu trả lời đơn giản là “bất cứ điều gì”. Còn đây là câu trả lời của Kant: tình trạng tự nhiên là tình trạng chiến tranh. Chiến tranh diễn ra trong môi trường chính trị quốc tế, cách chắc chắn nhất để loại bỏ chiến tranh là loại bỏ chính trị quốc tế.
Trong nhiều thế kỷ, người theo chủ nghĩa tự do đã thể hiện mong ước mạnh mẽ trong việc tách chính trị ra khỏi chính trị. Hình mẫu lý tưởng của những nhà chủ nghĩa tự do thể kỷ 19 là “nhà nước cảnh sát”, một nhà nước chỉ có nhiệm vụ bắt giữ tội phạm và đảm bảo thi hành các hợp đồng. Hình mẫu lý tưởng về nhà nước laissez-faire [không can thiệp] được nhiều nhà nghiên cứu chính trị quốc tế ủng hộ với khao khát tách quyền lực ra khỏi chính trị quyền lực, tách quốc gia khỏi chính trị quốc tế, tách sự phụ thuộc khỏi sự phụ thuộc lẫn nhau, tách tính chất tương đối ra khỏi lợi ích tương đối, tách chính trị khỏi chính trị quốc tế và tách cấu trúc ra khỏi lý thuyết cấu trúc.
Những người ủng hộ luận điểm hoà bình nhờ dân chủ phát biểu như thể sự phổ biến nền dân chủ sẽ xóa bỏ được tác động của tình trạng vô chính phủ. Sẽ không có nguyên nhân xung đột và chiến tranh nào còn nằm ở cấp độ cấu trúc. Francis Fukuyama cho rằng “hoàn toàn có thể tưởng tượng hệ thống quốc gia vô chính phủ mà trong đó các nước lại chung sống hoà bình với nhau”. Ông nhận thấy không có lý do gì để liên hệ tình trạng vô chính phủ với chiến tranh. Bruce Russett tin rằng với một số lượng vừa đủ các nước dân chủ trên thế giới thì “một phần nào đó đã có thể loại bỏ các nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực (như tình trạng vô chính phủ, tiến thoái lưỡng nan về an ninh giữa các quốc gia) từng thống trị thực tiễn… ít nhất là từ thế kỷ 17”.[8] Như vậy cấu trúc đã bị tách rời khỏi lý thuyết cấu trúc. Các nước dân chủ sẽ rất tự tin vào tác động gìn giữ hoà bình của nền dân chủ đến nỗi họ không còn sợ một quốc gia khác gây hại cho mình, miễn sao hộ vẫn duy trì nền dân chủ của mình là được. Sự bảo đảm cho cách hành xử đúng đắn với bên ngoài của một quốc gia xuất phát từ bản chất đáng ngưỡng mộ bên trong của quốc gia đó.
Đây là một kết luận mà Kant sẽ không ủng hộ. Các nhà lịch sử Đức giai đoạn cuối thế kỷ 19 đã tự hỏi có hay không việc các quốc gia khao khát hoà bình được xây dựng và phát triển khi mà những nguy hiểm bên ngoài cứ tác động hàng ngày.[9] Trước đó một thế kỷ, Kant cũng đã lo lắng về điều này. Đề xuất thứ bảy của ông trong cuốn “Những nguyên lý về Trật tự chính trị” khẳng định rằng việc hình thành một trật tự thích hợp ở bên trong [quốc gia] bản thân nó yêu cầu một trật tự đúng đắn các mối quan hệ bên ngoài của các quốc gia. Nhiệm vụ đầu tiên của quốc gia là tự phòng vệ, và bên ngoài trật tự pháp luật không ai khác ngoài quốc gia có thể xác định những hành động cần thiết cho bản thân mình. Kant viết, “Sự tổn thương của một nước yếu có thể bắt đầu xuất hiện chỉ bởi sự hiện diện của một nước láng giềng mạnh hơn, ngay cả trước khi có bất cứ hành động nào; và trong tình trạng tự nhiên, một cuộc tấn công dưới những điều kiện như vậy là chắc chắn”.[10] Trong tình trạng tự nhiên không hề tồn tại khái niệm chiến tranh phi nghĩa.
Mọi nhà nghiên cứu chính trị quốc tế đều nhận thức được rằng dữ liệu thống kê hỗ trợ cho luận điểm hoà bình nhờ dân chủ. Sau David Hume mọi người ít nhất cũng đã biết rằng chẳng có lý do gì để chúng ta tin rằng sự kết hợp các sự kiện cho phép suy luận ra sự tồn tại của một mối quan hệ nhân quả. John Mueller có thể lập luận rằng không phải nền dân chủ tạo nên hoà bình mà những điều kiện nào đó tạo nên cả dân chủ và hoà bình.[11] Một số nước dân chủ lớn – Anh trong thế kỷ 19 và Mỹ trong thế kỷ 20 – là một trong những siêu cường trong kỷ nguyên của mình. Các cường quốc thường đạt được mục đích của mình bằng con đường hoà bình trong khi những quốc gia yếu hơn hoặc không đạt được các mục đích của mình một cách hòa bình hoặc phải dùng tới chiến tranh (để đạt được mục đích đó).[12] Vì vậy chính phủ Mỹ cho rằng tổng thống được bầu chọn một cách dân chủ Juan Bosch của Cộng hoà Dominica là không đủ năng lực để mang lại trật tự cho đất nước. Mỹ đã lật đổ chính phủ của ông ta bằng cách gởi 23.000 quân đến nước này trong vòng một tuần. Thậm chí sự hiện diện của đội quân này khiến cho việc chiến đấu lại là điều không cần thiết. Tổng thống Chile, Salvador Allende, cũng đã bị làm cho suy yếu một cách có hệ thống và hiệu quả bởi chính phủ Mỹ mà không cần đến vũ lực vì các nhà lãnh đạo Mỹ cho rằng chính phủ Chile đang rẽ theo một hướng hoàn toàn sai lầm. Như Henry Kissinger đã nói: “Tôi không hiểu vì sao chúng ta lại phải đứng yên và chấp nhận một đất nước đi theo con đường cộng sản chủ nghĩa bởi sự vô trách nhiệm của dân chúng của chính đất nước đó”.[13] Đó là cách các nền dân chủ vận hành – dân chủ có thể đưa ra những phán xét sai lầm. Những nền dân chủ “ương bướng” đang đặc biệt thu hút sự can thiệp từ các nền dân chủ khác vốn mong muốn “cứu rỗi” chúng. Chính sách của Mỹ có thể khôn khéo trong cả hai trường hợp, nhưng hành động của nó lại khiến người ta nghi ngờ luận điểm hoà bình nhờ dân chủ. Tương tự là những ví dụ về việc một nền dân chủ này gây chiến với một nền dân chủ khác,[14] hay khi các quốc hội được bầu lên một cách dân chủ lại kêu gọi chiến tranh như ở Pakistan và Jordan.
Dĩ nhiên ta có thể nói rằng: thế nhưng Cộng hoà Dominica và Chile không phải là những nước dân chủ tự do hay không được Mỹ công nhận là nước dân chủ tự do. Một khi bắt đầu biện hộ như vậy thì chẳng thể nào dừng lại được. Vấn đề càng trở nên phức tạp bởi vì khi các nước dân chủ tự do chuẩn bị chiến tranh, các nước này bắt đầu ít dân chủ đi và càng ít hơn khi cuộc chiến thực sự nổ ra. Về hình thức mà nói luận điểm về nền hòa bình dân chủ là không thể bác bỏ, vì rằng một quốc gia dân chủ tự do gây chiến với một quốc gia khác thì không còn được gọi là quốc gia dân chủ tự do nữa.
Các nền dân chủ có thể cùng tồn tại hoà bình với các nền dân chủ khác, nhưng ngay cả khi tất cả các nước trở thành nhà nước dân chủ thì cấu trúc của nền chính trị quốc tế vẫn là vô chính phủ. Cấu trúc chính trị quốc tế không bị biến chuyển bởi những sự thay đổi bên trong của các quốc gia, tuy rằng các thay đổi nội tại này có phổ biến đến đâu chăng nữa. Không có quyền lực siêu quốc gia, một nước không thể chắc chắn rằng bạn bè hôm nay sẽ không trở thành kẻ thù vào ngày mai. Thật ra đã có những thời điểm các quốc gia dân chủ cư xử theo cách như thể các nước dân chủ khác của hôm nay là kẻ thù hiện tại và là mối đe doạ đối với họ. Trong Luận cương Liên bang số 6, Alexander Hamilton tự hỏi liệu 13 bang của Liên bang có thể chung sống hoà bình như các nền cộng hoà tự do được không. Ông trả lời rằng “số lượng các cuộc chiến tranh giữa các dân tộc tự do hầu như bằng với số lượng cuộc chiến giữa các hoàng tộc.”. Ông viện dẫn nhiều cuộc chiến giữa các nền Cộng hoà Sparta, Athens, Rome, Carthage, Venice, Hà Lan và Anh. John Quincy Adams phản bác lại nhận định của James Monroe và nhấn mạnh rằng “chính phủ của một nền cộng hoà cũng có khả năng “mị dân” với các nhà lãnh đạo của dân chúng tự do như các nước quân chủ láng giềng”[15]. Vào nửa sau của thế kỷ 19, khi Mỹ và Anh trở nên dân chủ hơn, sự bất đồng giữa hai nước càng gia tăng và nguy cơ chiến tranh lại càng được ấp ủ bởi hai bờ Đại Tây Dương. Pháp và Anh cũng nằm trong số những đối thủ chính của chính trị cường quyền vào thế kỷ 19, giống như họ đã từng trong quá khứ. Việc trở thành các quốc gia dân chủ không làm thay đổi thái độ của họ với nhau. Năm 1914, nước Anh và nước Pháp dân chủ đánh nhau với nước Đức dân chủ, và những nghi ngờ về bản chất dân chủ của nước Đức minh hoạ cho vấn đề định nghĩa nền dân chủ đã nêu ở trên. Thật ra, nền dân chủ đa nguyên của Đức chính là nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh. Để đáp ứng lợi ích trong nước, Đức đã theo đuổi một chính sách đe doạ cả Anh và Nga. Và ngày nay nếu có một cuộc chiến vốn khiến vài người lo sợ nổ ra giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản, nhiều người Mỹ sẽ nói rằng Nhật không hề là một nước dân chủ mà chỉ là một nhà nước độc Đảng.
Từ đó chúng ta có thể rút ra kết luận gì? Chúng ta có thể nói rằng nền dân chủ hiếm khi đánh nhau, tuy nhiên rõ ràng bản chất ưu việt của các quốc gia là một nền tảng không mấy chắc chắn của hoà bình.
NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH DÂN CHỦ
Các quốc gia dân chủ cùng tồn tại với các quốc gia không dân chủ. Mặc dù các nước dân chủ hiếm khi đánh lẫn nhau nhưng ít nhất cũng cùng nhau tham gia đánh lại những nước khác như Michael Doyle đã từng nói.[16] Công dân của các nước này có xu hướng nghĩ rằng đất nước của họ là tốt đẹp, không cần biết những việc họ đã làm, đơn giản bởi vì họ là nước dân chủ. Vì thế cựu Ngoại trưởng Warren Christopher đã từng cho rằng “các quốc gia dân chủ hiếm khi phát động chiến tranh hoặc đe doạ các nước láng giềng”.[17] Một người có thể nói rằng ông ta hãy thử áp dụng quan điểm của mình ở Trung và Nam Mỹ. Công dân của các nước dân chủ cũng có xu hướng nghĩ rằng các nước không dân chủ là xấu xa, không cần biết những việc họ đã làm, đơn giản vì họ là nước không dân chủ. Các nền dân chủ thúc đẩy chiến tranh bởi vì có nhiều lúc các nước này quyết định rằng con đường duy trì hoà bình là đánh bại các nước phi dân chủ và làm cho nó trở nên dân chủ.
Trong suốt Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Đại sứ Mỹ tại Anh Walter Hines Page cho rằng “không tồn tại an ninh ở bất cứ đâu trên thế giới nơi mà con người không thể nghĩ về một chính quyền mà không phải do vua đứng đầu và sẽ chẳng bao giờ có [an ninh ở đó].” Trong chiến tranh Việt Nam, Ngoại trưởng Dean Rusk cho rằng “Hoa Kỳ không thể đảm bảo về an ninh cho đến khi toàn bộ môi trường quốc tế thật sự an toàn về hệ tư tưởng.”[18] Ngoài chính sách ra thì ngay chính sự tồn tại của các quốc gia phi dân chủ cũng là một mối nguy hiểm đối với các quốc gia khác. Những nhà lãnh đạo chính trị và trí thức Hoa Kỳ cũng đồng quan điểm này. Chủ nghĩa can thiệp tự do lại một lần nữa trỗi dậy. Tổng thống Bill Clinton và cố vấn an ninh quốc gia Anthony Lake đã thúc giục Mỹ hành động để tăng cường dân chủ trên toàn thế giới. Một nhiệm vụ mà có người e ngại là sẽ được thực hiện bởi quân đội Mỹ với sự hào hứng nhất định. Cựu Tham mưu trưởng lục quân Hoa Kỳ, Tướng Gordon Sullivan ưa chuộng một “hình mẫu” quân đội mới, thay thế mục đích ngăn chặn bị động bằng một mục đích chủ động hơn là “để thúc đẩy dân chủ, ổn định khu vực và phát triển kinh tế”.[19] Nhiều ý kiến khác thúc giục chúng ta bước vào “cuộc tranh đấu đảm bảo con người được cai trị một cách đúng đắn”. Giải quyết một cách rõ ràng vấn đề công lý tại quê nhà, “cuộc đấu tranh cho nhà nước tự do trở thành cuộc đấu tranh không chỉ đơn thuần cho công lý mà còn cho cả sự sinh tồn”.[20] R.H. Tawney cho rằng: “Hoặc chiến tranh là một cuộc thập tự chinh, hoặc là một tội ác”.[21] Những cuộc thập tự chinh thật sự đáng sợ bởi vì quân thập tự bước vào cuộc chiến với những lý tưởng chân chính của họ và tìm cách áp đặt lên người khác. Người ta có thể hy vọng người Mỹ sẽ học được một điều là họ không giỏi trong việc mang dân chủ ra nước ngoài. Thế nhưng nếu như thế giới có thể trở nên an toàn cho dân chủ, chỉ bằng cách làm cho nó dân chủ hơn thì tất cả các phương tiện đều được chấp thuận và việc sử dụng chúng trở thành một nghĩa vụ. Lòng ham muốn chiến tranh của con người và những người đại diện cho họ rất khó kiểm soát. Vì vậy Hans Morgenthau tin rằng “sự lựa chọn dân chủ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đã huỷ diệt đạo đức quốc tế vốn đóng vai trò của một hệ thống kiềm chế hiệu quả”[22].
Vì, như Kant tin tưởng, chiến tranh giữa các quốc gia tự chủ thỉnh thoảng sẽ nổ ra, nên hoà bình phải được kiến tạo. Đối với bất cứ chính phủ nào thì làm như vậy cũng là một nhiệm vụ khó khăn và hầu hết các quốc gia đều không đủ năng lực để hoàn thành nó, ngay cả nếu họ có muốn đi nữa. Các nhà lãnh đạo dân chủ có thể đáp ứng sự ham muốn chiến tranh từ người dân hoặc thậm chí là khơi dậy nó, và chính phủ nhiều khi bị hạn chế bởi các toan tính bầu cử nên trì hoãn các biện pháp phòng ngừa [chiến tranh]. Vì vậy Thủ tướng Anh Stanley Baldwin đã nói nếu ông kêu gọi tái vũ trang nhằm chống lại mối đe dọa của nước Đức thì Đảng của ông sẽ thua trong cuộc bầu cử tiếp theo.[23] Các nhà nước dân chủ có thể đáp ứng lại những yêu cầu chính trị trong nước, trong khi họ lẽ ra nên phản ứng với các vấn đề từ bên ngoài. Tất cả các chính phủ đều có sai lầm của mình, các nền dân chủ thì có ít hơn, nhưng vẫn không đủ tốt để làm nền tảng cho luận điểm hoà bình nhờ dân chủ.
Ý nghĩ hoà bình có thể chiếm ưu thế trong các nước dân chủ là một điều an ủi. Trái lại ý kiến cho rằng các nước dân chủ có thể thúc đẩy chiến tranh chống lại các nước phi dân chủ lại gây lo ngại. Nếu ý kiến sau đúng, chúng ta thậm chí không thể chắc chắn được sự truyền bá của dân chủ có làm giảm số lượng các cuộc chiến tranh trên thế giới đi không.
Với một nền cộng hoà được thiết lập ở một nước mạnh, Kant hy vọng hình mẫu cộng hoà sẽ dần thống lĩnh thế giới. Năm 1795, Mỹ đã làm dấy lên hy vọng này. Đáng kinh ngạc sao, hai trăm năm sau, niềm hy vọng này vẫn tồn tại. Kể từ khi những người theo chủ nghĩa tự do lần đầu nêu quan điểm của mình, họ đã bắt đầu chia rẽ. Vài người thúc giục các nước tự do nâng đỡ những con người sống lầm than và mang lại lợi ích của tự do, công lý và thịnh vượng cho họ. John Stuart Mill, Giuseppe Mazzini, Woodrow Wilson và Bill Clinton đều là những người theo chủ nghĩa can thiệp tự do như vậy. Những người theo chủ nghĩa tự do khác như Kant và Richard Cobden trong khi đồng ý về những lợi ích mà nền dân chủ có thể mang lại cho thế giới, cũng đã nhấn mạnh những khó khăn và nguy hiểm của việc truyền bá tự do.
Nếu thế giới ngày nay đã an toàn cho nền dân chủ thì ta phải tự hỏi nền dân chủ đã an toàn cho thế giới chưa. Khi dân chủ đang phát triển lớn mạnh và đã giành thắng lợi trong các cuộc chiến tranh nóng và lạnh trong thế kỷ 20, tinh thần chủ nghĩa can thiệp tự do lan rộng. Tác động ngày càng lớn khi một nước dân chủ trở thành kẻ thống trị, như Mỹ bây giờ. Hoà bình là nguyên nhân cao quý nhất của chiến tranh. Nếu những điều kiện của hoà bình chưa có, thì một nước với tiềm lực đủ tạo ra các điều kiện cho hòa bình có thể bị thúc đẩy làm việc đó, có thể bằng vũ lực hoặc không. Mục đích có thể cao quý, nhưng xét về chủ quyền thì, như Kant khẳng định, không một quốc gia nào có thể can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Xét về thực tế, ta có thể nhận ra rằng, sự can thiệp, ngay cả vì mục đích tốt đẹp, cũng thường mang lại nhiều thiệt hại hơn là tốt lành. Thói xấu mà các siêu cường dễ phạm phải trong một thế giới đa cực là sự thờ ơ; trong thế giới hai cực là phản ứng thái quá; trong thế giới một cực là sự bành trướng.
Hoà bình được duy trì bằng một sự cân bằng tinh tế giữa những yếu tố kiềm chế bên trong và bên ngoài. Những nước thặng dư quyền lực mong muốn sử dụng cân bằng quyền lực này và những nước yếu hơn lại sợ các nước mạnh làm điều đó. Những luật lệ của các liên hiệp tình nguyện, theo ngôn ngữ của Kant, bị xem thường theo ý thích của kẻ mạnh, Mỹ đã minh chứng điều này cách đây một thập niên bằng cách khai quặng trên các vùng biển của Nicaragua và xâm lược Panama. Trong cả hai trường hợp này, Mỹ đều ngang nhiên vi phạm luật pháp quốc tế. Trong trường hợp thứ nhất, Mỹ từ chối thẩm quyền của Toà án Quốc tế mà trước đây nước này đã chấp nhận. Trong trường hợp thứ hai, nước này lại lạm dụng điều luật được quy định trong Hiến chương Tổ chức các quốc gia châu Mỹ mà Hoa Kỳlà nhà tài trợ chính.
Nếu luận điểm hoà bình nhờ dân chủ là đúng thì lý thuyết hiện thực cấu trúc là sai. Người ta có thể đồng ý với Kant rằng nhìn chung các nước cộng hòa là tốt và rằng quyền lực không được cân bằng là mối nguy hiểm bất kể ai sử dụng nó. Bên trong lẫn ngoài cộng đồng các quốc gia dân chủ, hoà bình vẫn phụ thuộc vào sự cân bằng lực lượng vốn không chắc chắn. Các nguyên nhân gây ra chiến tranh không đơn giản là nằm ở cấp độ quốc gia hoặc hệ thống quốc gia; chúng được tìm thấy ở cả hai nơi này. Kant hiểu được điều đó. Tín đồ của luận điểm hoà bình nhờ dân chủ lại không nắm được điều này.
Những tác động yếu ớt của sự phụ thuộc lẫn nhau
Nếu không phải vì một mình dân chủ, liệu sự phổ biến dân chủ cùng với việc sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia gia tăng có thể mang lại nền hoà bình mà những người theo chủ nghĩa tự do đề cập vào thế kỷ 19 và được nhắc lại thường xuyên trong thời đại ngày nay hay không?[24] Đối với khuynh hướng được cho là hoà bình của các nền dân chủ, sự phụ thuộc lẫn nhau thêm vào động lực thúc đẩy vì động cơ lợi ích. Các nước dân chủ có thể không ngừng cống hiến cho việc theo đuổi hoà bình và lợi ích. Nhà nước thương mại đang thay thế Nhà nước quân sự – chính trị và quyền lực của thị trường bây giờ cạnh tranh hoặc vượt qua quyền lực của nhà nước, hoặc như một số người cho rằng như vậy.[25]
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, Norman Angell tin rằng chiến tranh sẽ không nổ ra bởi vì chiến tranh không mang lại lợi nhuận, tuy nhiên Đức và Anh, nước này là khách hàng lớn thứ hai của nước kia, đã tiến hành một cuộc chiến tranh dài và đẫm máu.[26] Tình trạng phụ thuộc lẫn nhau theo một cách nào đó thúc đẩy hoà bình thông qua tác động thúc đẩy các mối liên hệ giữa các quốc gia và góp phần mang lại sự hiểu biết lẫn nhau. Nó cũng nhân rộng tiềm năng xung đột mà có thể thúc đẩy sự căm ghét lẫn nhau và thậm chí là chiến tranh.[27] Sự phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ là một điều kiện mà trong đó một bên hầu như không thể di chuyển mà không xô đẩy bên khác; một lực đẩy nhỏ sẽ lan toả trong toàn xã hội. Các xã hội càng gần gũi thì tác động càng cực đoan và một bên không thể nào theo đuổi lợi ích của mình mà không tính đến lợi ích của các bên khác. Rồi thì một nước sẽ có khuynh hướng xem hành động của một nước khác như là vấn đề trong chính sách của mình và tìm cách kiểm soát chúng.
Người ta đã nhắc đi nhắc lại nhiều rằng tình trạng phụ thuộc lẫn nhau đó thúc đẩy chiến tranh cũng ngang với hoà bình. Điều cần nhấn mạnh là trong số các nguồn lực định hình nền chính trị quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau là một nguồn lực yếu kém. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia hiện đại thì chặt chẽ hơn. Nền kinh tế Liên Xô đã được hoạch định sao cho những khu vực rộng lớn của nó sẽ không chỉ phụ thuộc lẫn nhau mà còn hội nhập [làm một]. Đầu ra sản phẩm của các nhà máy lớn phụ thuộc vào sự trao đổi qua lại giữa chúng với nhau. Bất chấp tính hội nhập cao của nền kinh tế Liên Xô, nước này vẫn sụp đổ. Nam Tư khắc hoạ một ví dụ rõ rệt khác. Một khi áp lực chính trị bên ngoài được nới lỏng thì những lợi ích kinh tế bên trong không đủ mạnh để giữ đất nước không bị tan rã. Ta phải tự hỏi rằng liệu có phải sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế là hiệu ứng hơn là nguyên nhân. Xét về bên trong, sự phụ thuộc lẫn nhau trở nên chặt chẽ đến nỗi hội nhập là từ đúng đắn để diễn tả nó. Tình trạng phụ thuộc lẫn nhau trở thành hội nhập bởi vì niềm hy vọng về nền hoà bình sẽ tồn tại và trật tự được duy trì là rất lớn ở bên trong một quốc gia. Xét đến bên ngoài, hàng hoá và dòng chảy vốn tự do lưu chuyển ở những nơi tồn tại nền hoà bình giữa các quốc gia. Sự phụ thuộc lẫn nhau, cũng như hội nhập, phụ thuộc vào những điều kiện khác. Nó là biến số phụ thuộc hơn là biến số độc lập. Nếu có thể thì các quốc gia sẽ tránh trở nên phụ thuộc quá mức vào hàng hoá và nguồn lực mà chúng không thể tiếp cận được trong khủng hoảng hoặc chiến tranh. Các quốc gia đều tính toán tránh phụ thuộc quá lớn vào các nước khác như cách Nhật Bản quản lý hoạt động thương mại của mình.[28]
Mong muốn bảo vệ bản sắc của một nước – về văn hoá, chính trị cũng như kinh tế – khỏi sự lấn át của các nước khác rất mạnh mẽ. Trong tình huống “hoặc chúng ta sẽ chìm hoặc bơi cùng nhau”, lựa chọn bơi có vẻ hấp dẫn với những thể bơi được. Kể từ thời của Plato, việc tách biệt khỏi láng giềng để có thể tự xây dựng cuộc sống của mình mà không bị ảnh hưởng bởi mối liên hệ với người khác đã được coi là không tưởng. Không có sự phụ thuộc lẫn nhau thì không có xung đột và chiến tranh. Với sự hội nhập, nền chính trị quốc tế trở thành chính trị quốc gia.[29] Vùng trung gian là một màu xám xịt với những tác động của tình trạng phụ thuộc lẫn nhau lúc thì tốt, mang lại lợi ích của phân công lao động, hiểu biết lẫn nhau và văn hoá phong phú nhưng thỉnh thoảng cũng có tác động xấu như chủ nghĩa bảo hộ, sự bất đồng, xung đột và chiến tranh.
Những tác động không đồng đều của tình trạng phụ thuộc lẫn nhau mà trong đó một bên được lợi nhiều hơn, bên khác được lợi ít hơn, đang bị làm cho lu mờ bởi thuật ngữ “phụ thuộc lẫn nhau bất đối xứng” của Robert Keohane và Joseph Nye thay thế cho các mối quan hệ phụ thuộc và không phụ thuộc giữa các quốc gia.[30] Các quốc gia độc lập tương đối ở thế mạnh hơn so với các quốc gia phụ thuộc tương đối. Nếu tôi phụ thuộc vào bạn nhiều hơn là bạn phụ thuộc vào tôi thì bạn sẽ có nhiều cách ảnh hưởng tôi và vận mệnh của tôi hơn là tôi ảnh hưởng bạn. Sự phụ thuộc lẫn nhau ám chỉ sự phụ thuộc đồng đều của các bên. Việc bỏ qua từ “phụ thuộc” che mờ tình trạng bất bình đẳng vốn ghi dấu ấn trên mối quan hệ giữa các quốc gia và làm chúng dường như có cùng vị thế. Đa phần các vấn đề chính trị quốc tế, cũng như chính trị nội địa, chủ yếu là liên quan đến bất bình đẳng. Tách biệt một “khu vực có vấn đề” khỏi những khu vực khác và nhấn mạnh rằng một vài quốc gia yếu kém có ưu thế trong một vài lĩnh vực che dấu đi sự bất bình đẳng. Việc nhấn mạnh tính hữu dụng thấp của sức mạnh còn đẩy hiệu ứng này đi xa hơn. Nếu sức mạnh không thật sự hữu dụng thì các nước yếu có thể có lợi thế mang tính quyết định trong một vài vấn đề. Một lần nữa, các tác động của sự bất bình đẳng bị làm mờ đi. Nhưng đối với các nước mạnh thì sức mạnh vẫn rất hữu dụng. Lịch sử chính sách đối ngoại Mỹ từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đầy ắp những ví dụ về cách nước này sử dụng nguồn lực kinh tế vững mạnh để thúc đẩy lợi ích chính trị và an ninh.[31]
Trong một nghiên cứu được viết vào năm 1970, tôi đã miêu tả tình trạng phụ thuộc lẫn nhau là ý thức hệ được người Mỹ ưa dùng để nguỵ trang cho khả năng gây ảnh hưởng to lớn của nước này trong nền chính trị quốc tế bằng cách ra vẻ rằng các nước mạnh và yếu, giàu và nghèo đều tham gia vào một mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau dày đặc.[32] Trong cuốn sách mới nhất của bà, The Retreat of the State [Sự thoái trào của Nhà nước], Susan Strange cũng đi đến kết luận này nhưng theo một cách khá khác biệt. Lập luận của bà là “sự hội nhập ngày càng tăng của kinh tế thế giới thông qua sản xuất quốc tế đã chuyển cán cân quyền lực ra khỏi quốc gia và hướng vào thị trường thế giới.” Bà sử dụng ba luận điểm để chứng minh cho lập luận của mình: (1) quyền lực “được chuyển từ các nước yếu lên cho các nước mạnh” có tầm ảnh hưởng toàn cầu và khu vực; (2) quyền lực “ được chuyển từ nhà nước sang thị trường và cho các quyền lực phi nhà nước có sức mạnh bắt nguồn từ thị phần của mình”; và (3) một số quyền lực tự nó “bốc hơi” vì không ai nắm giữ nữa.[33] Trong nền chính trị quốc tế, vốn không có chính quyền siêu nhà nước, quyền lực thỉnh thoảng mất đi và thỉnh thoảng chuyển sang thị trường. Tuy nhiên nếu có dịch chuyển quyền lực nghiêm trọng thì các nước mạnh hơn sẽ vào cuộc để đảo ngược tình hình, và dù sao thì các công ty của những nước mạnh hơn cũng kiểm soát thị phần lớn nhất. Người ta có thể nghi ngờ liệu thị trường hiện nay có thoát khỏi sự kiểm soát của các nước lớn nhiều hơn so với thời kỳ thế kỷ 19, hoặc trước đó – có lẽ là ít hơn bởi vì năng lực của các quốc gia đã tăng nhiều hơn sự gia tăng kích cỡ và độ phức tạp của thị trường. Bất cứ ai, kể cả những người theo chủ nghĩa hiện thực hay không cũng có thể cho rằng luận điểm thứ nhất của Susan Strange là quan trọng. Chưa có lúc nào kể từ sau Đế chế La Mã quyền lực lại được tập trung vào một quốc gia duy nhất như vậy. Mặc dù tin rằng quyền lực được chuyển từ nhà nước sang thị trường thì Strange vẫn chập nhận thực tế này. Mở đầu cuốn sách bà nêu những quan sát của mình về việc “quyền lực toàn cầu mà xã hội Mỹ và gián tiếp là chính phủ Mỹ nắm giữ vẫn lớn hơn bất kể một xã hội và chính phủ quốc gia nào khác””. Và gần cuối cuốn sách bà nhắc lại “quyền lực nhà nước có xu hướng thống trị thị trường”. Nếu một người thắc mắc bà đang nhắc đến nước nào thì bà trả lời ngay lập tức: “Số phận của Mexico được quyết định bởi Washington hơn là Wall Street. Và Quỹ tiền tệ quốc tế có nghĩa vụ tuân theo sự lãnh đạo của Hoa Kỳ bất chấp những ngờ vực của Đức và Nhật Bản”.[34]
Lịch sử trong vòng hai thế kỷ qua là lịch sử của cấp chính quyền tập trung ngày càng thu được nhiều quyền lực. Trong chuyến thăm của mình đến Mỹ vào năm 1831, Alexis de Tocqueville đã nhận ra rằng “chính phủ liên bang hiếm khi nào can thiệp bất cứ việc gì ngoài quan hệ đối ngoại và chính quyền các bang trên thực tế điều hành xã hội Mỹ”.[35] Sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, chính phủ các nước Tây Âu nắm giữ khoảng ¼ thu nhập của dân chúng. Hiện nay tỉ lệ này là một nửa. Vào thời điểm người dân Mỹ, Anh, Nga và Trung Quốc đang chỉ trích sự kiểm soát của chính phủ lên cuộc sống của mình thì thật là khó hiểu khi được bảo rằng các nước đang mất dần kiểm soát đối với các mối quan hệ bên ngoài của mình. Một người sẽ tự hỏi, mất kiểm soát so với thời điểm nào? Các nước yếu đã mất đi khả năng ảnh hưởng và kiểm soát của mình đến các vấn đề đối ngoại nhưng các nước mạnh thì không. Những hình mẫu hầu như cũng không mới. Vào thế kỷ 18 và 19, quốc gia mạnh nhất với khả năng ảnh hưởng sâu rộng nhất đã can thiệp trên phạm vi toàn cầu và xây dựng thành công một đế chế rộng lớn nhất trong lịch sử. Vào thế kỷ 20, quốc gia mạnh nhất với sức ảnh hưởng lớn nhất cũng đã lặp lại chủ nghĩa can thiệp của Anh và từ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cũng đã tạo nên sức ảnh hưởng trên phạm vi còn lớn hơn mà không cần phải kiến tạo một đế chế. Thiếu vắng đế chế không có nghĩa là tầm ảnh hưởng và khả năng kiểm soát của Mỹ đối với hành vi của nước khác là yếu hơn. Việc quyền lực của quốc gia mất đi, dù là đối nội hay đối ngoại, thì cũng chỉ là ước mơ và ảo ảnh hơn là thực tế.
Dưới thời kỳ Pax Britannica [nền hòa bình do Anh chi phối], tình trạng phụ thuộc của các quốc gia trở nên mạnh mẽ một cách bất thường, mà nhiều người nghĩ là sẽ báo trước một tương lai hoà bình và thịnh vượng. Tuy nhiên thay vào đó là một thời kỳ chiến tranh dai dẳng và đóng cửa tự cung tự cấp kéo dài. Hệ thống kinh tế quốc tế được thiết lập dưới sự trợ giúp của Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai và sau đó được điều chỉnh chophù hợp với mục đích của Hoa Kỳ có thể tồn tại lâu hơn nhưng lại một lần nữa, điều đó có thể không xảy ra. Đặc tính của nền chính trị quốc tế thay đổi khi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước được siết chặt hoặc nới lỏng. Ngay cả khi mối quan hệ thay đổi, các nước cũng phải tìm cách tốt nhất có thể để tư lo cho bản thân mình trong môi trường vô chính phủ. Trên bình diện quốc tế, phần lớn thể kỷ 20 không mang lại nhiều điều tốt lành. Trong 25 năm cuối thế kỷ, tình hình có được cải thiện một chút nhưng 25 năm cũng không thể mang đến những kết luận khả quan. Không chỉ có những tác động mà sự bền bỉ của tình trạng phụ thuộc lẫn nhau cũng có nhiều vấn đề.
Vai trò giới hạn của các tổ chức quốc tế
Một trong những lời buộc tội dành cho chủ nghĩa hiện thực là nó đánh giá thấp tầm quan trọng của thể chế. Lời buộc tội đã được chứng minh và trường hợp không còn một đích hoạt động rõ ràng của NATO (Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương) chỉ ra rằng vì sao những nhà hiện thực tin rằng các tổ chức quốc tế được định hình và bị giới hạn bởi các quốc gia đã lập nên và duy trì chúng và các tổ chức này có ít tác dụng độc lập. Những người theo chủ nghĩa thể chế tự do hầu như không chú tâm vào các tổ chức được thiết kế để củng cố an ninh của các quốc gia cho đến khi, ngược lại với những mong đợi từ chủ nghĩa hiện thực, NATO không chỉ tồn tại cho đến hết Chiến tranh Lạnh mà còn tiếp tục kết nạp thêm thành viên. Tuy nhiên thay vì phản bác chủ nghĩa hiện thực hoặc đặt ra những mối nghi ngờ hướng vào trường phái này, lịch sử gần đây của NATO đã minh hoạ cho sự phụ thuộc của các tổ chức quốc tế vào lợi ích quốc gia.
LÝ GIẢI CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ
Bản chất và mục đích của các tổ chức quốc tế thay đổi khi cấu trúc thay đổi. Trong thế giới đa cực cũ, hạt nhân của một khối đồng minh bao gồm một số lượng nhỏ các quốc gia có tiềm lực tương đương nhau. Sự đóng góp của các quốc gia này đối với an ninh của quốc gia khác đóng vai trò cực kỳ quan trọng vì các nước này đều có kích cỡ tương tự. Vì các đồng minh chính phụ thuộc lẫn nhau về mặt quân sự, sự rút lui của một nước sẽ làm cho các đối tác còn lại trở nên yếu đi hẳn so với khối liên minh đối thủ. Thành viên của các khối liên minh đối lập gắn bó chặt chẽ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất do sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Trong thế giới hai cực mới, từ “đồng minh” mang một nghĩa khác. Một nước, Mỹ hoặc Liên Xô, bảo đảm an ninh cho các nước trong khối của mình. Việc Pháp rút quân khỏi cơ cấu chỉ huy NATO và việc Trung Quốc rút khỏi khối Xô Viết không hề thay đổi cân bằng lực lượng hai cực. Trước đó trong Chiến tranh Lạnh, người Mỹ đã cảnh giác về mối đe doạ của một phe Chủ nghĩa Cộng sản thống nhất đang gia tăng từ sự kết hợp sức mạnh của Liên Xô và Trung Quốc, nhưng sự tan rã của khối lại hầu như không gây ra ảnh hưởng lan toả nào. Giới chức Mỹ không tuyên bố rằng với sự rút lui của Trung Quốc thì ngân sách quốc phòng của Mỹ có thể giảm một cách an toàn ở mức 20 hoặc 10 phần trăm hoặc ít hơn. Tương tự như vậy, khi Pháp ngừng tham gia kế hoạch quân sự của NATO, giới chức Mỹ cũng không tuyên bố chi tiêu quốc phòng phải tăng vì lý do này. Nói một cách chính xác, NATO và WTO (Tổ chức hiệp ước Vacsava) là những hiệp ước bảo đảm an ninh hơn là liên minh quân sự kiểu cũ.[36]
Glenn Snyder đã nói rằng “liên minh không có ý nghĩa gì nếu không có lời đe doạ từ bên ngoài mà vốn liên minh được hình thành để đối phó.”[37]. Tôi đã mong đợi NATO trở nên yếu đi khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và cuối cùng thì biến mất.[38] Về cơ bản, mong đợi này là có căn cứ. NATO đã không còn là một hiệp ước bảo đảm an ninh bởi vì không ai có thể trả lời được câu hỏi nó bảo vệ các nước thành viên khỏi kẻ thù nào? Chức năng thay đổi khi cấu trúc thay đổi cũng như là cách hành xử của các đơn vị. Vì thế Chiến tranh Lạnh kết thúc cũng nhanh chóng làm thay đổi cách xử sự của các nước đồng minh. Đầu tháng 7 năm 1990, NATO thông báo rằng khối đồng minh sẽ “có một kế hoạch mới phù hợp với những sự thay đổi mang tính cách mạng ở Châu Âu.”.[39] Đến cuối tháng 7, không hề chờ đợi bất kỳ một kế hoạch nào, những quốc gia Châu Âu thành viên chủ chốt của NATO đơn phương thông báo cắt giảm đáng kể lực lượng quân đội của họ. Ngay cả việc giả vờ vẫn tiếp tục hành động như một đồng minh trong chính sách quân sự cũng biến mất.
Khi mục đích cũ mất đi, và hành vi cá nhân cũng như tập thể cũng theo đó mà thay đổi, làm sao ta có thể giải thích sự tồn tại và mở rộng của NATO? Rất khó để lập ra và đưa các tổ chức vào hoạt động, nhưng một khi đã tạo ra được rồi, những người theo chủ nghĩa thể chế cho rằng, các thể chế nàycó thể có cuộc sống của riêng mình; chúng có thể bắt đầu hành động với một mức độ tự chủ nào đó, trở nên ít phụ thuộc hơn vào ý đồ của các nhà tài trợ và thành viên. NATO có lẽ là bằng chứng cho nhận định trên.
Các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức lớn có truyền thống lâu đời và mạnh mẽ, có sức sống mãnh liệt. The March of Dimes là một ví dụ thường được đề cập tới. Nhiệm vụ của nó đã hoàn thành khi tổ chức từ thiện này dành thắng lợi trong cuộc chiến chống chứng bại liệt. Tuy nhiên, nó tiếp tục chuyển sang cuộc chiến chống chứng bệnh khác. Mặc dù những căn bệnh thu hút nhiều sự quan tâm nhất – ung thư, các bệnh về tim và phổi, đa xơ cứng và xơ nang – đã có các tổ chức chuyên biệt xử lý, The March of Dimes vẫ tìm được một lý do tiếp tục hoạt động, đó là cải thiện tình trạng dị tật bẩm sinh. Người ta có thể khẳng định chắc chắn rằng the March of Dimes hài lòng với việc tiếp tục đón vai trò một tổ chức theo đuổi mục tiêu mới phù hợp với mục đích ban đầu. Làm sao có thể có khẳng định như vậy trong trường hợp của NATO?
Câu hỏi về mục đích có thể không quan trọng, cứ tạo ra một tổ chức và nó sẽ tự kiếm việc để làm.[40] Một khi đã được tạo ra và thiết lập một cách chặt chẽ, một tổ chức sẽ trở nên ngày càng khó loại bỏ. Một tổ chức lớn được quản lý bởi số lượng lớn các quan chức có nhiều lợi ích trong việc duy trì sự tồn tại của tổ chức. Theo lời của Gunther Hellmann và Reinhard Wolf thì vào năm 1993 cơ quan đầu não của NATO được quản lý bởi 2.640 quan chức, hầu hết họ có lẽ đều muốn giữ công việc của mình.[41] Sự bền vững của NATO, ngay cả khi cấu trúc của nền chính trị quốc tế đã thay đổi và mục đích cũ của tổ chức này cũng biến mất, có thể được những người theo chủ nghĩa thể chế xem là bằng chứng mạnh mẽ cho sự tự chủ và sức sống của các tổ chức.
Lập luận của những người theo thuyết thể chế đã bỏ qua một điểm. NATO là một hiệp ước được lập ra bởi các nước. Một bộ máy quan liêu cố hữu có thể giúp duy trì tổ chức nhưng các quốc gia mới là người quyết định số phận của nó. Những người theo chủ nghĩa thể chế tự do xem sức sống rõ ràng của NATO như sự xác nhận về tầm quan trọng của các tổ chức quốc tế và bằng chứng cho sự bền bỉ của chúng. Những nhà hiện thực, nhận thấy rằng với tư cách một liên minh quân sự NATO đã mất đi chức năng chính của mình và xem tổ chức này chỉ là phương tiện để duy trì và tăng ảnh hưởng của Mỹ lên chính sách đối ngoại và quốc phòng của các nước Châu Âu. John Kornblum, Trợ lý Thứ trưởng cấp cao phụ trách các vấn đề châu Âu của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mô tả rõ ràng vai trò mới của NATO. Ông viết, “Khối Đồng minh cung cấp phương tiện cho việc áp đặt quyền lực và tầm nhìn của Mỹ lên trật tự an ninh Châu Âu.”[42] Sự tồn tại và mở rộng của NATO cho ta biết nhiều về quyền lực và ảnh hưởng của Mỹ nhưng lại nói rất ít về các tổ chức như các thực thể đa phương. Việc Mỹ có khả năng kéo dài sự sống của một tổ chức đang hấp hối cho thấy rõ cách các tổ chức quốc tế được tạo ra và duy trì bởi các quốc gia lớn mạnh hơn để từ đó phục vụ cho những lợi ích có thể đúng đắn hoặc sai lầm.
Chính quyền Bush đã hiểu ra điều này và chính quyền tổng thống Clinton cũng tiếp tục nhận thấy NATO là phương tiện duy trì sự thống trị của Mỹ đối với chính sách quân sự và đối ngoại của các nước Châu Âu. Năm 1991, lá thư của Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Reginald Bartholomew gởi đến chính phủ các nước Châu Âu là thành viên của NATO cảnh báo những quan điểm phòng thủ độc lập của Châu Âu. Pháp và Đức đã cho rằng an ninh châu Âu và bản sắc phòng thủ chung có thể phát triển trong nội bộ Châu Âu và rằng Liên Minh Tây Âu, vốn đã thành lập năm 1954, có thể được hồi sinh nhằm làm công cụ hiện thực hoá ý tưởng trên. Chính quyền tổng thống Bush nhanh chóng dập tắt những ý tưởng này. Sau ngày Hiệp ước Maastricht được ký kết vào tháng 12 năm 1991, Tổng thống George Bush có thể mãn nguyện mà tuyên bố rằng “ chúng tôi hài lòng với việc đồng minh của chúng tôi trongLiên minh Châu Âu….. đã quyết định phát triển hơn nữa tổ chức của họ như một trụ cột Châu Âu của NATO và một thành tố của phòng thủ Châu Âu.[43]
Trụ cột Châu Âu ban đầu được tính là thuộc về NATO và chính sách của nó được hoạch định tại Washington. Các nước yếu hơn gặp khó khăn nhiều hơn trong việc thiết lập các tổ chức phục vụ mục đích của mình theo cách của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh. Hãy nhìn lại sự thất bại của Cộng đồng phòng thủ Châu Âu năm 1954 dù có sự hỗ trợ của Mỹ, và sự bất lực của Liên minh Châu Âu trong hơn 4 thập niên tồn tại để tìm ra một vai trò độc lập đối với Mỹ. Chủ nghĩa hiện thực đã chỉ ra điểm mà “lý thuyết” thể chế tự do che dấu: các tổ chức quốc tế chủ yếu phục vụ cho lợi ích quốc gia hơn là lợi ích quốc tế.[44] Robert Keohane và Lisa Martin, để đáp lại lời phê bình của John Mearsheimer về chủ nghĩa thể chế tự do, đã hỏi: Làm sao chúng ta có thể giải thích được sự sẵn lòng của các quốc gia chủ chốt đầu tư nguồn lực mở rộng các tổ chức quốc tế nếu các tổ chức này không còn vai trò gì nữa?”[45] Nếu câu trả lời chưa rõ ràng thì sự bành trước của NATO sẽ làm rõ hơn, đó là: để phục vụ những gì mà các nước mạnh tin là lợi ích của mình.
Với việc chính sách của Mỹ đối với Bosnia gặp vấn đề, Clinton phải thể hiện bản thân ông là một nhà lãnh đạo chính sách đối ngoại hiệu quả. Với việc những vị anh hùng dân tộc Lech Walesa [Ba Lan] và Vaclav Havel [Tiệp Khắc] yêu cầu kết nạp đất nước của mình, thì việc đóng cửa NATO có thể gây ra một rắc rối khác cho Đảng Cộng hoà trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1994. Để thúc đẩy sự mở rộng NATO về phía Đông, tổng thống Clinton đã diễn thuyết tại Milwaukee, Cleveland và Detroit, những thành phố có số lượng lớn cử tri gốc Đông Âu.[46] Lá phiếu và đồng dollar là mạch sống của nền chính trị Mỹ. Những thành viên mới của NATO sẽ được yêu cầu cải thiện cơ sở hạ tầng quân sự và mua thêm vũ khí hiện đại hơn. Ngành công nghiệp vũ khí của Mỹ, trông đợi vào việc chiếm được thị phần lớn trong thị trường mới, đã vận động hành lang một cách mạnh mẽ cho sự mở rộng của NATO.[47]
Các nguyên nhân vì sao phải mở rộng NATO không được mạnh mẽ cho lắm. Trong khi những lý do phản đối nó thì rất hợp lý.[48] Theo đó NATO vạch ra những ranh giới mới chia cắt Châu Âu, xua đuổi những nước không thuộc về nó và không thể tìm thấy kết thúc hợp lý ở phần phía Tây của Nga. Mở rộng NATO làm yếu đi những người Nga vốn tin tưởng vào dân chủ tự do và nền kinh tế thị trường và ngược lại tăng cường sức mạnh cho những người Nga ở phe đối lập. Nó dập tắt hy vọng vào sự cắt giảm vũ khí hạt nhân. Nó đẩy Nga về phía Trung Quốc hơn là kéo Nga về phía Mỹ và Châu Âu. NATO, dẫn đầu bởi Mỹ, hiếm khi xem xét đến tình cảnh của kẻ thù mà nó đánh bại. Suốt thời kỳ lịch sử hiện đại, Nga đã phải chịu sự cự tuyệt của phương Tây, bị cô lập và có những thời điểm bị bao vây. Nhiều người Nga tin rằng, với sự mở rộng của mình thì NATO đã trơ trẽn phá bỏ lời hứa vào năm 1990 và 1991 rằng các thành viên Hiệp tước Warsaw (WTO) trước đây sẽ không được phép tham gia vào NATO. Với những lý do chính đáng, Nga lo ngại rằng NATO sẽ không chỉ kết nap thêm những quốc gia thành viên cũ của WTO mà còn cả những nước cộng hoà trước đây của Liên Xô. Năm 1997, NATO có cuộc tập trận hải quân với Ukraine ở Biển Đen, và sẽ có nhiều cuộc tập trận chung khác tiếp theo và thông báo kế hoạch sử dụng một bãi thử quân sự ở phía Tây Ukraine. Tháng 6/1998, Zbigniew Brzezinski đến Kiev với thông điệp Ukraine nên sẵn sàng gia nhập NATO vào năm 2010.[49] NATO càng xâm nhập sâu vào địa phận cũ của Liên Xô thì Nga càng buộc phải trông chờ [các đồng minh từ] phía Đông hơn là từ phía Tây.
Việc mở rộng của NATO cũng gia tăng lợi ích quân sự, trách nhiệm và cả gánh nặng của tổ chức này. Không chỉ các thành viên mới yêu cầu sự bảo vệ của NATO, các nước này còn tăng thêm nỗi lo về tình trạng bất ổn tại gần biên giới cho NATO. Vì vậy sự bùng nổ xung đột ở Balkan trở thành vấn đề của NATO chứ không chỉ của mỗi Châu Âu. Khi Châu Âu không đóng vai trò đi đầu, người Mỹ tin rằng họ phải đứng ra lãnh đạo bởi vì uy tín của NATO đang bị đe doạ. Hoạt động quân sự của Balkan ở trên không và ở mặt đất làm trầm trọng thêm sự khác biệt lợi ích giữa các thành viên NATO và tăng thêm sự căng thẳng trong khối liên minh. Các nước Châu Âu ngạc nhiên trước khả năng giám sát và liên lạc thông tin của Mỹ và hơi e ngại lực lượng quân sự hiện đại Hoa Kỳ. Nhận thức được những yếu điểm của mình, Châu Âu đã thể hiện rõ quyết tâm hiện đại hoá nguồn lực của mình và phát triển khả năng triển khai lực lượng một cách độc lập. Phản ứng của Châu Ấu đối với việc triển khai quân sự của Mỹ ở Balkan lặp lại quyết tâm khắc phục các nhược điểm lộ ra năm 1991 trong Chiến tranh Vùng Vịnh, một quyết tâm chỉ đem lại một ít hiệu quả.
Lần này liệu có khác đi? Có lẽ, nhưng ngay cả nếu các nước Châu Âu đạt được mục tiêu thành lập lực lượng phản ứng nhanh gồm 60.000 quân và mở rộng vai trò của WEU thì sự căng thẳng giữa một NATO bị kiểm soát bởi Mỹ và một NATO chấp thuận các hành động của một Châu Âu độc lập sẽ một lần nữa trở thành vấn đề. Trong bất kỳ sự kiện nào, viễn cảnh sa lầy quân sự ở Balkan thách thức liên minh và có thể trì hoãn vô thời hạn sự mở rộng NATO. Việc mở rộng đi kèm theo rắc rối và những rắc rối đang nổi lên có thể chấm dứt sự mở rộng này.
Tình hình ở Châu Âu và phản ứng của Nga hạn chế sự mở rộng về phía Đông của NATO. Đối lập lại là đà bành trướng của Mỹ. Đà bành trướng thường rất khó chống lại, ví dụ điển hình là các đế chế lập nên bởi Cộng hoà Rome, Nga Sa hoàng và nước Anh tự do.
Chúng ta thường được nhắc nhở rằng Mỹ không chỉ là siêu cường thống trị thế giới mà còn là siêu cường đại diện cho tự do. Đó là sự thật, động lực của những người khơi nguồn – Tổng thống Clinton, Cố vấn An ninh quốc gia Anthony Lake và những người khác – là để nuôi mầm dân chủ trong những quốc gia trẻ, dễ bị tổn thương và đã phải chịu đựng trong một thời gian dài. Tuy nhiên một người có thể tự hỏi, tại sao đây lại là nhiệm vụ của Mỹ mà không phải là của Châu Âu và tại sao lại là một tổ chức quân sự chứ không phải là tổ chức kinh tế chính trị được xem như là phương tiện phù hợp thực hiện nhiệm vụ này. Nhiệm vụ xây dựng nền dân chủ không phải là một nhiệm vụ quân sự. Vấn đề an ninh quân sự của các thành viên NATO mới không gặp bất cứ chuyện gì nguy hiểm mà là sự phát triển chính trị và tăng trưởng kinh tế của họ. Năm 1997, trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Franklin D. Kramer nói với Bộ Quốc phòng cộng hoà Czech rằng nước này đang chi tiêu quá ít vào quốc phòng.[50] Tuy nhiên đầu tư vào quốc phòng sẽ làm trì trệ sự tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán chung, chi tiêu quốc phòng kích thích tăng trưởng chỉ bằng một nửa so với đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế. Ở Đông Âu, chính an ninh kinh tế mới là vấn đề chứ không phải quân sự và gia nhập vào một liên minh quân sự làm trầm trọng thêm vấn đề.
Việc sử dụng ví dụ NATO để phản ánh tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa Hiện thực sau Chiến tranh Lạnh dẫn đến vài kết luận quan trọng. Kẻ thắng cuộc trong Chiến tranh Lạnh và hiện là siêu cường duy nhất đang hành xử theo kiểu các cường quốc không có đối thủ vẫn làm. Thiếu vắng đối trọng, những mục đích nội tại của các quốc gia chiếm ưu thế, dù là được thúc đẩy bởi tự do hay bất kỳ động lực nào khác. Việc chủ nghĩa hiện thực tiên đoán sai về kết thúc của Chiến tranh Lạnh dẫn đến kết thúc của NATO không phải do sự thất bại của chủ nghĩa Hiện thực trong việc nắm bắt nền chính trị quốc tế, mà do nó đã đánh giá thấp sự điên rồ của Mỹ. Sự tồn tại và mở rộng của NATO không phản ánh thất bại mà chỉ ra những giới hạn của cách tiếp cận cấu trúc. Các cấu trúc định hình và thúc đẩy; chúng không quyết định hành động của các quốc gia. Một nước mạnh hơn bất kỳ nước nào khác có thể tự mình quyết định việc thích ứng chính sách của nó với các áp lực cấu trúc hoặc tận dụng các cơ hội mà sự thay đổi cấu trúc mang lại mà chẳng lo sợ gì về các tác động tiêu cực về ngắn hạn.
Liệu những người theo chủ nghĩa thể chế tự do có thể đưa ra giải thích tốt hơn về sự tồn tại và mở rộng của NATO? Theo Keohane và Martin, các nhà hiện thực khăng khăng rằng “các tổ chức quốc tế chỉ có tác dụng phụ”.[51] Ngược lại, các nhà hiện thực nhận ra tác động của các tổ chức là mạnh hay yếu phụ thuộc vào ý đồ của các quốc gia. Các nước mạnh sử dụng các tổ chức theo cách phù hợp với chúng, cũng giống như khi chúng diễn giải luật pháp theo cách có lợi cho mình. Vì vậy, Susan Strange, suy ngẫm về vai trò đang sụt giảm của nhà nước, quan sát thấy “tổ chức quốc tế trên hết là một công cụ của chính phủ quốc gia, một phương tiện theo đuổi lợi ích quốc gia”.[52]
Thú vị thay, Keohane và Martin, trong nỗ lực phản bác lời phê bình sắc bén của Mearsheimer về thuyết thể chế, thực ra lại đồng ý với ông. Cho rằng chủ nghĩa hiện thực của Mearsheimer “không thực sự rõ ràng”, họ chỉ ra rằng “thuyết thể chế quan niệm các tổ chức vừa là biến số độc lập vừa là biến số phụ thuộc.”[53] Phụ thuộc vào điều gì? – vào “thực tiễn quyền lực và lợi ích”. Hoá ra các tổ chức “tạo ra sự khác biệt quan trọng với sự trợ giúp của quyền lực.”[54] Vâng! Đúng như những gì Mearsheimer nói, “chủ nghĩa thể chế tự do không còn là một sự thay thế rõ ràng cho chủ nghĩa hiện thực, nhưng thực tế đã bị nuốt chửng bởi thuyết hiện thực.”[55] Thật sự, nó chưa bao giờ thay thế chủ nghĩa hiện thực. Keohane nhấn mạnh thuyết thể chế có lõi là chủ nghĩa hiện thực cấu trúc mà Keohane và Nye tìm cách phát triển mở rộng.[56]Cách tiếp cận thể chế bắt đầu với lý thuyết cấu trúc, áp dụng thuyết hiện thực vào lý giải nguồn gốc và cách thức hoạt động của tổ chức, và kết thúc không mấy ngạc nhiên bằng những kết luận mang tính hiện thực chủ nghĩa.
Các liên minh thể hiện những điểm yếu của chủ nghĩa thể chế đặc biệt rõ nét. Lý thuyết thể chế gán cho các tổ chức quốc tế những tác động nhân quả mà hầu như nảy sinh từ bản thân các quốc gia. Trường hợp của NATO minh hoạ cho điểm yếu này. Keohane lưu ý rằng “liên minh chính là một dạnh tổ chức, và cả sự bền bỉ lẫn sức mạnh của tổ chức… có thể phụ thuộc phần nào vào những đặc tính của nó.”[57] Tôi cho là điều này đúng một phần nào đó, nhưng sẽ có người hỏi “phần” đó lớn đến mức nào. Liên minh bộ ba (Triple Alliance) và thoả hiệp ba bên (Triple Entente) đều khá bền vững. Chúng tồn tại không phải vì bản thân tổ chức liên minh, thật sự khó mà như vậy, mà bởi vì những thành viên nòng cốt của liên minh đã nhận thấy mối đe doạ đối với an ninh bản thân mình. Những liên minh trước đây không thiếu các thể chế cụ thể chỉ vì chúng đã thất bại trong xây dựng nên bộ máy quan liêu mà bởi vì với sự vắng mặt của một nước lãnh đạo bá quyền thì cân bằng lực lượng được tiếp tục duy trì ở bên trong liên minh cũng như giữa các liên minh với nhau. NATO tồn tại với vai trò liên minh quân sự cùng với sự tồn tại mối đe doạ trực tiếp đối với những thành viên NATO từ Liên Xô. NATO tồn tại và mở rộng như hiện nay không phải bởi vì bản thân hệ thống thể chế mà chủ yếu vì Mỹ muốn như vậy.
Sự tồn tại của NATO cũng phơi bày một khía cạnh thú vị của lý thuyết cân bằng quyền lực. Robert Art đã tranh cãi một cách mạnh mẽ rằng không có NATO và quân đội Mỹ ở Châu Âu thì các nước trong khu vực sẽ rơi vào “ cuộc cạnh tranh an ninh” với nhau.[58] Như ông nhấn mạnh, đây là sự mong đợi mang tính hiện thực. Theo quan điểm của ông, việc duy trì NATO và vai trò lãnh đạo của Mỹ là thiết yếu để ngăn chặn một cuộc cạnh tranh an ninh mà nếu diễn ra sẽ thúc đẩy xung đột nội bộ và làm suy yếu các thể chế của Liên minh Châu Âu. Hiện nay NATO là một trường hợp bất thường; giảm căng thẳng trong nội bộ liên minh là nhiệm vụ chính còn sót lại và đó là nhiệm vụ của các nước lãnh đạo chứ không phải của bản thân liên minh. Nhiệm vụ thứ hai, quản lý nội bộ liên minh, tiếp tục do Mỹ tiến hành mặc dù nhiệm vụ chủ chốt là phòng vệ trước một kẻ thù bên ngoài, đã biến mất. Quan điểm này đáng xem xét nhưng tôi cần chỉ rõ ở đây là nó khắc hoạ xa hơn sự phụ thuộc của các tổ chức quốc tế vào các quyết định ở tầm quốc gia. Cân bằng lực lượng giữa các quốc gia không phải là không thể tránh khỏi. Chẳng hạn như ở Châu Âu, một quyền lực bá quyền có thể chấm dứt nó. Một nhà ngoại giao cấp cao Châu Âu đã nói “Để một quốc gia Châu Âu trở thành người lãnh đạo là điều không thể chấp nhận được. Trung gian quyền lực của Châu Âu phải là một quyền lực bá chủ. Chúng ta có thể đồng ý với sự lãnh đạo của Mỹ chứ không phải của một nước trong chính chúng ta.”[59] Chấp nhận vai trò lãnh đạo của một nước bá quyền giúp ngăn chặn cân bằng quyền lực nổi lên ở Châu Âu và quyền lực bá quyền đó tốt hơn là nên ở xa hơn là sát bên biên giới châu lục.
Keohane tin rằng “ việc tránh xung đột quân sự ở Châu Âu sau Chiến tranh Lạnh phụ thuộc nhiều vào việc liệu mô hình thể chế hóa hợp tác mang tính liên tục có là đặc trưng của thập niên tới hay không.”[60] Nếu một ai đó chấp nhận kết luận này thì câu hỏi còn lại là : Cái gì hoặc ai duy trì “mô hình thể chế hóa hợp tác” này? Các nhà hiện thực chủ nghĩa biết câu trả lời.
CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ VÀ MỤC TIÊU QUỐC GIA
Những gì đúng với NATO cũng đúng với các tổ chức quốc tế khác. Những tác động mà các tổ chức quốc tế có thể gây ra đối với các quyết định của quốc gia phụ thuộc (nhưng không hẳn là hoàn toàn) vào khả năng và mục đích của nước lớn hoặc các nước sáng lập và duy trì tổ chức. Hệ thống Bretton Woods tác động mạnh mẽ lên các quốc gia riêng rẽ nói riêng và quan hệ quốc tế nói chung. Nhưng khi Hoa Kỳ nhận ra hệ thống không còn phục vụ cho lợi ích của nó nữa thì chính quyền Nixon đã tạo ra cú sốc năm 1971. Các tổ chức quốc tế được lập ra bởi các quốc gia lớn mạnh và tồn tại như khi thành lập chừng nào còn phục vụ cho những lợi ích chính của nước sáng lập, hoặc được cho là như vậy. Stephen Krasner cho rằng “Bản chất của sự thoả thuận [thành lập] tổ chức quốc tế được giải thích tốt hơn bởi phân bổ quyền lực giữa các quốc gia hơn là bằng nỗ lực giải quyết những vấn đề mà thị trường đặt ra”[61] – hoặc, tôi cho rằng, hơn bất cứ lý do nào khác.
Các công ước, hiệp định và tổ chức quốc tế hoặc là duy trì gắn bó với sự phân bổ tiềm lực giữa các quốc gia hoặc là chúng sẽ thất bại.[62]Xem xét các ví dụ từ 350 năm trước, Krasner chỉ ra rằng trong tất cả các trường hợp “giá trị của những nước mạnh vốn đặt ra luật lệ luôn được áp dụng [trong các tổ chức quốc tế]theo cách phân biệt đối xử đốivới nước yếu.”[63] Chủ quyền quốc gia, một dạng thể chế quốc tế được công nhận, hầu như không không có giá trị khi một nước mạnh quyết định can thiệp vào một nước yếu. Vì vậy, theo như một quan chức cấp cao, chính quyền Tổng thống Reagan “tranh luận liệu chúng ta có quyền áp đặt hình thức chính phủ của nước khác hay không. Câu trả lời là có, có một vài quyền còn cơ bản hơn quyền không can thiệp vào quốc gia khác… Chúng ta không có quyền lật đổ một quốc gia dân chủ nhưng chúng ta có quyền chống lại một quốc gia không dân chủ.”[64]Phần lớn luật quốc tế được tôn trọng phần lớn thời điểm, nhưng các nước mạnh lại tìm cách lách luật hoặc phá vỡ luật pháp khi chúng muốn.
Cân bằng quyền lực: Không phải hôm nay mà là ngày mai
HÀNH VI CỦA CÁC CƯỜNG QUỐC THỐNG TRỊ
CÂN BẰNG QUYỀN LỰC TRONG THẾ GIỚI ĐƠN CỰC
CẤU TRÚC QUỐC TẾ VÀ PHẢN ỨNG CỦA QUỐC GIA
Kết luận
Xem toàn bộ bài viết tại đây: Chu nghia hien thuc cau truc sau CTL.pdf
Kenneth N. Waltz là cựu Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học California, Berkeley, nghiên cứu viên của Viện nghiên cứu Chiến tranh và Hoà bình. Ông là phó giáo sư tại Đại học Columbia
[1] Ví dụ, Richard Ned Lebow, “The Long Peace, the End of the Cold War, and the Failure of Realism,” International Organization, Quyển 48, Tập 2 (Mùa xuân 1994), trang 249-277; Jeffrey W. Legro và Andrew Moravcsik, “Is Anybody Still a Realist?” International Security, Quyển 24, Tập 2 (Mùa thu 1999), trang 5-55; Bruce Russett, Grasping the Democratic Peace: Principles for a Post-Cold War Peace (Princeton, N.J.: Princeton University Press, 1993); Paul Schroeder, “Historical Reality vs. Neo-realist Theory,” International Security, Quyển 19, Tập 1 (Mùa hè 1994), trang 108-148; và John A. Vasquez, “The Realist Paradigm and Degenerative vs. Progressive Research Programs: An Appraisal of Neotraditional Research on Waltz’s Balancing Proposition,” American Political Science Review, Quyển 91, Tập 4 (12/ 1997), trang 899-912.
[2] Michael W. Doyle, “Kant, Liberal Legacies, and Foreign Affairs, Parts 1 and 2,” Philosophy and Public Affairs, Vol12, No 3 và 4 (Hè thu năm 1983); và Doyle, “Kant: Liberalism and World Politics,” American Political Science Review, Vol80, No4 (12/ 1986), trang 1151-1169.
[3] Francis Fukuyama, “Liberal Democracy as a Global Phenomenon,” Political Science and Politics, Quyển 24, Tập 4 (1991), trang 662. Jack S. Levy, “Domestic Politics and War,” trong Robert I. Rotberg và Theodore K. Rabb, eds., The Origin and Prevention of Major Wars (Cambridge: Cambridge University Press, 1989), trang 88.
[4] Kenneth N. Waltz, “Kant, Liberalism, and War,” American Political Science Review, Quyển 56, Tập 2 (6/1962). Những tham khảo về Kant sau đây đều nằm trong tác phẩm này.
[5] Ido Oren, “The Subjectivity of the ‘Democratic’ Peace: Changing U.S. Perceptions of Imperial Germany” International Security, Quyển 20, Tập 2 (Mùa thu 1995), trang 157ff.; Christopher Layne, trong cuốn sách của Layne và Sean M. Lynn-Jones, Should America Spread Democracy? A Debate (Cambridge, Mass.: MIT Press, forthcoming),lập luận một cách thuyết phục rằng sự kiểm soát dân chủ của Đức đối với chính sách đối ngoại và quân sự không hề yếu hơn của Pháp và Anh.
[6] John M. Owen, “How Liberalism Produces Democratic Peace,” International Security, Quyển 19, Tập 2 (Mùa thu 1994), trang 87-125.Xem thêm cuốn sách của ông,Liberal War: American Politics and International Security (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1997).
[7] Christopher Layne, “Kant or Cant: The Myth of the Democratic Peace,” International Security, Quyển 19, Tập 2 (Mùa thu 1994), trang 549.
[8] Francis Fukuyama, The End of History and the Last Man (New York: Free Press, 1992), trang 254-256. Russett, Grasping the Democratic Peace, trang 24.
[9] Ví dụ, Leopold von Ranke, Gerhard Ritter, và Otto Hintze. The American William Graham Sumner và nhiều người khác chia sẻ mối nghi ngờ này.
[10] Immanuel Kant, The Philosophy of Law, biên dịch W. Hastie (Edinburgh: T. and T. Clark, 1887), Trang 218.
[11] John Mueller, “Is War Still Becoming Obsolete?” bài viết được giới thiệu trong buổi họp thường niên của Hiệp hội Khoa học chính trị Hoa Kỳ, Washington, D.C., 8-9/1991, trang 55ff; xem thêm cuốn sách của ôn, Quiet Cataclysm: Reflections on the Recent Transformation of World Politics (New York: HarperCollins, 1995)
[12] Edward Hallett Carr, Twenty Years’ Crisis: An Introduction to the Study of International Relations, 2d ed. (New York: Harper and Row, 1946), pp. 129-132.
[13] Trích trong Anthony Lewis, “The Kissinger Doctrine,” New York Times, 27/2/ 1975, trang 35; Và xem thêm Henry Kissinger, The White House Years (Boston: Little, Brown, 1979), chương 17.
[14] Xem thêm Kenneth N. Waltz, “America as Model for the World? A Foreign Policy Perspective,” PS:Political Science and Politics, Quyển 24, Tập 4 (12/ 1991); và Mueller, “Is War Still Becoming Obsolete?” trang 5
[15] Trích dẫn trong Walter A. McDougall, Promised Land, Crusader State (Boston: Houghton Mifflin, 1997), trang 28 và 36.
[16] Doyle, “Kant, Liberal Legacies, and Foreign Affairs, Part 2,” trang 337.
[17] Warren Christopher, “The US.-Japan Relationship: The Responsibility to Change,” address to the Japan Association of Corporate Executives, Tokyo, Japan 11/3 1994 (US. Department of State, Bureau of Public Affairs, Office of Public Communication), p.
[18] Trích trong Waltz, Man, the State, and War: A Theoretical Analysis (New York: Columbia University Press, 1959), trang 121. Rusk trích trong Layne, “Kant or Cant,” trang 46.
[19] Trích dẫn trong Clemson G. Turregano và Ricky Lynn Waddell, “ From Paradigm to Paradigm Shift: The Military and Operations Other than War”, Journal of Political Science, tập 22 (1994), p. 15
[20] Peter Beinart, “ The return of the Bomb”, New Republic, 3/8/1998, trang 27
[21] Trích dẫn từ Michael Straight, Make this the last war ( New York : G.P Gutnam’s Sons, 1945) p.1
[22] Hans J. Morgenthau, Politics among Nations: The Struggle for Power and Peace, 5th ed. (New York: Knopf, 1973), trang 248.
[23] Gordon Craig và Alexander George, Force and Statecraft: Diplomatic Problems of Our Time, 2nd ed. (New York: Oxford University Press, 1990), trang 64.
[24] Những câu trả lời khẳng định chắc chắn được đưa ra bởi John R. Oneal và Bruce Russett trong “ Assessing the Liberal Peace with Alternative Specifications: Trade Still Reduces Conflict,” Journal of Peace Research, quyển 36, tập số 4 ( 7/1999) , trang 423 – 442; và của Russett, Oneal và David R. Davis, “ The Third Leg of the Kantian Tripod for Peace: International Organizations and Militarized Disputes, 1950 – 85,” International Organization, quyển 52, tập số 3 (Mùa hè 1998), trang 441 – 467.
[25] Richard Rosecrance, The Rise of the Trading State: Commerce and Coalitions in the Modern World (New York: Basic Books, 1986); và Susan Strange, The Retreat of the State: The Diffusion of Pozoer in the World Economy (New York: Cambridge University Press, 1996).
[26] Norman Angell, The Great Illusion, 4th rev. and enlarged ed. (New York: Putnam’s, 1913).
[27] Katherine Barbieri, “Economic Interdependence: A Path to Peace or a Source of Interstate Conflict?” Journal of Peace Research, quyển 33, tập số 1 (Tháng 2/ 1996). Lawrence Keely, War before Civilization: The Myth of the Peaceful Savage (New York: Oxford University Press, 1996), trang 196, chỉ ra rằng với sự gia tăng của thương mại và kết hôn giữa các bộ lạc thì chiến tranh xảy ra thường xuyên hơn.
[28] Để biết thêm vấn đề các nước quản lý sự phụ thuộc lẫn nhau để tránh tình trạng lệ thuộc quá mức, xem thêm Robert Gilpin, The Political Economy of International Relations (Princeton, N.J.: Princeton University Press,
1987), chương 10; và Suzanne Berger vàRonald Dore, eds., National Diversity and Global Capitalism (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1996).
[29] Cf. Kenneth N. Waltz, trong Steven L. Spiegel vàWaltz, eds., Conflict in World Politics (Cambridge, Mass.: Winthrop, 1971), chương 13.
[30] Robert 0. Keohane và Joseph S. Nye, Power and Interdependence, 2d ed. (New York: Harper-Collins, 1989).
[31] Keohane và Nye có quan điểm nước đôi về vấn đề này. Xem trong ibid., trang 28. Keohane nhấn mạnh rằng sức mạnh không thật sự hữu dụng trong Keohane, ed., “Theory of World Politics,” Neorealisrnand Its Critics (New York: Columbia University Press, 1986); và xem trong Kenneth N. Waltz, “Reflection on Theory of International Politics: A Response to My Critics,” trong ibid. Robert J. Art phân tích hiệu quả của sức mạnh một cách chi tiết. Xem Art, “American Foreign Policy and the Fungibility of Force,” Security Studies, quyển 5, Tập 4 (Mùa hè 1996)
[32] Kenneth N. Waltz, “The Myth of National Interdependence,” trong Charles P. Kindleberger, ed., The International Corporation (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1970).
[33] Strange, Retreat of the State, trang 46, 189.
[34] Ibid., trang 25, 192.
[35] Alexis de Tocqueville, Democracy in American, ed. J.P. Mayer, trans. George Lawrence (New York: Harper Perennial, 1988), trang 446, n. 1.
[36] Xem Kenneth N. Waltz, “International Structure, National Force, and the Balance of World Power,” Journal of International Affairs, quyển 21, tập 2 (1967), trang 219
[37] Glenn H. Snyder, Alliance Politics (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1997), trang 192.
[38] Kenneth N. Waltz, “The Emerging Structure of International Politics,” International Security, Quyển 18, Tập 2 (Mùa thu 1993), trang 75-76.
[39] John Roper, “Shaping Strategy without the Threat,” Adephi Paper No. 257 (London: International Institute for Strategic Studies, Mùa đông 1990/91), trang 80-81.
[40] Joseph A. Schumpeter, bàn về quân đội, lập luận theo hướng này: “được tạo ra do yêu cầu của chiến tranh và giờ đây bộ máy tạo ra chiến tranh do nhu cầu của nó”, “The Sociology of Imperialism,”trongSchumpeter, Imperialism and Social Classes (New York: Meridian Books, 1955), trang 25 (phần in nghiêng từ nguyên bản).
[41] Gunther Hellmann và Reinhard Wolf, “Neorealism, Neoliberal Institutionalism, and the Future of NATO,” Security Studies, quyển 3, tập 1 (Mùa thu 1993), trang 20.
[42] John Kornblum, “NATO’s Second Half Century-Tasks for an Alliance,” NATO on Track for the 21st Century, Báo cáo Hội nghị (The Hague: Netherlands Atlantic Commission, 1994), trang 14.
[43] Mark S. Sheetz, “Correspondence: Debating the Unipolar Moment,” International Security, quyển 22, tập 3 (Mùa đông 1997/98), trang 170; và Mike Winnerstig, “Rethinking Alliance Dynamics,” bài viết được giới thiệu tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Nghiên cứu quốc tế, Washington, D.C., ngày 18-22/3, 1997, trang 23.
[44] Cf. Alan S. Milward, The European Rescue of the Nntion-State (Berkeley: University of California Press, 1992).
[45] Robert 0.Keohane và Lisa L. Martin, “The Promise of Institutionalist Theory,” International Security, Quyển 20, Tập 1 (Mùa hè 1995), trang 40.
[46] James M. Goldgeier, “NATO Expansion: The Anatomy of a Decision,” Washington Quarterly, Quyển 21, Tập 1 (Mùa đông 1998), trang 94-95. Xem thêm cuốn Not Whether but When: The U.S. Decision to Enlarge NATO của ông (Washington, D.C.: Brookings, 1999).
[47] William D. Hartung, “Welfare for Weapons Dealers 1998: The Hidden Costs of NATO Expansion” (New York: New School for Social Research, World Policy Institute, March 1998); và Jeff Gerth và Tim Weiner, “Arms Makers See Bonanza in Selling NATO Expansion,” Nezu York Times, 29/6/1997, trang I, 8.
[48] Xem Michael E. Brown, “The Flawed Logic of Expansion,” Survival, Quyển 37, Tập 1 (Mùa xuân 1995), trang 34-52. Michael Mandelbaum, The Dawn of Peace in Europe (New York: Twentieth Century Fund Press, 1996). Philip Zelikow, “The Masque of Institutions,” Survival, Quyển 38, Tập 1 (Mùa xuân 1996).
[49] J.L. Black, Russia Faces NATO Expansion: Bearing Gifts or Bearing Arms? (Lanham, Md.: Rowman & Littlefield, 2000), trang 5-35, 175-201
[50] Ibid., trang 72
[51] Keohane và Martin, “The Promise of Institutionalist Theory,” trang 42, 46.
[52] Strange, Retreat of the State, trang xiv; và trang 192-193. Cf. Carr, The Twenty Years’ Crisis, trang 107: “chính phủ quốc tế là chính phủ màquốc gia cung cấp quyềnlực cần thiết cho mục đích điều hành.”
[53] Keohane và Martin, “The Promise of Institutionalist Theory,” trang 46.
[54] Ibid., trang 42.
[55] Mearsheimer, “A Realist Reply,” trang 85.
[56] Keohane và Nye, Power and Interdependence, trang 251; cf. Keohane, “Theory of World Politics,” trong Keohane, Neorealism and Its Critics, trang 193, ông miêu tả cách tiếp cận của mình như “ một chương trình nghiên cứu cấu trúc có thay đổi cho phù hợp”.
[57] Robert O.Keohane, International Institutions and State Power: Essays in International Relations Theory (Boulder, Colo.: Westview, 1989), trang 15.
[58] Robert J. Art, “Why Western Europe Needs the United States and NATO,” Political Science Quarterly, Quyển 111, Tập 1 (Spring 1996).
[59] Trích dẫn trong sách đã dẫn, trang 36.
[60] Robert O. Keohane. “The Diplomacy of Structural Change: Multilateral Institutions and State Strategies,” trong Helga Haftendorivà Christian Tuschhoff, eds., America and Europe in an Era of Change (Boulder, Colo.: Westview, 1993), trang 53.
[61] Stephen D. Krasner, “Global Communications and National Power: Life on the Pareto Frontier,” World Politics, Quyển 43, Tập 1 (Tháng 4/ 1991), trang 234.
[62] Stephen D. Krasner, Structural Conflict: The Third World against Global Liberalism (Berkeley: University of California, 1985), trang 263 và những chỗ khác.
[63] Stephen D. Krasner, “International Political Economy: Abiding Discord,” Review of Internntional Political Economy, Quyển 1, Tập 1 (Mùa xuân 1994), trang 16.
[64] Trích dẫn trong Robert Tucker, Intervention and the Reagan Doctrine (New York: Council on Religious and International Affairs, 1985), trang 5.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:23:48 GMT 9
Có hay không một logic trường tồn về xung đột trong chính trị quốc tế?
Nguồn: Nye, Joseph S., “Is There an Enduring Logic of Conflict in World Politics?” (Chapter 1), in Understanding International Conflicts (New York: Longman, 2007), pp. 1-32.
Biên dịch: Hoàng Cẩm Thanh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: Understanding Intl Conflicts – Chapter 1
Trái đất đang nhỏ lại. Thế kỷ 17, con tàu trứ danh Hoa Tháng Năm (Mayflower) phải mất đến ba tháng mới vượt được Đại Tây Dương. Năm 1924, chuyến bay của Charles Lindbergh chỉ mất có 24 giờ. Năm mươi năm sau, một chiếc máy bay Concorde sẽ vượt biển trong vòng 3 giờ đồng hồ còn tên lửa đạn đạo chỉ tốn 30 phút. Giá vé của một chuyến bay xuyên Đại Tây Dương những năm đầu thế kỷ 21 chỉ bằng một phần ba giá vé của năm 1950, và cước phí của một cuộc điện thoại từ New York đến Luân Đôn giờ đây chỉ bằng một phần nhỏ so với thập niên 1950. Thông tin qua mạng internet toàn cầu dường như là tức thì và chi phí truyền tải thông tin hầu như không đáng kể. Một nhà hoạt động môi trường ở Châu Á hay một nhà hoạt động nhân quyền ở Châu Phi ngày nay có được sức mạnh to lớn của thông tin mà trước đây vốn chỉ thuộc về những tổ chức lớn như các chính phủ hay các công ty xuyên quốc gia. Ở một khía cạnh đáng buồn hơn, sự phát triển vũ khí nguyên tử lại bổ sung một bộ mặt mới cho các cuộc chiến tranh. Có nhà văn đã gọi nó là kẻ mang lại “cái chết kép”, nghĩa là không chỉ từng cá nhân chết trong chiến tranh mà trong những trường hợp nhất định, toàn bộ nhân loại có thể bị đe doạ diệt vong. Và như những cuộc tấn công khủng bố vào New York và Washington tháng 9/2001 cho thấy, công nghệ đã mang lại cho các chủ thể phi quốc gia thứ quyền năng hủy diệt mà trước đây chỉ thuộc về các chính phủ. Và do hiệu ứng của không gian bị thu hẹp, những điều kiện ở một đất nước nghèo nàn xa xôi như Afghanistan bỗng nhiên trở nên gắn bó mật thiết với Châu Âu.
Thế nhưng có nhiều điều trong chính trị quốc tế vẫn không hề thay đổi qua thời gian. Những mô tả của Thucydides về cuộc chiến giữa thành Athens và Sparta trong cuộc chiến Peloponnese cách đây 2,500 năm mang nhiều nét tương đồng đến lạ kỳ với cuộc xung đột Trung Đông kể từ năm 1947. Thế giới đầu thế kỷ 21 là một món thingytail pha trộn giữa sự tiếp nối và thay đổi. Một số khía cạnh của chính trị quốc tế vẫn giữ nguyên như thời Thucydides. Chính trị quốc tế vẫn đi kèm với một lôgic nhất định liên quan đến sự thù địch lẫn nhau và thế lưỡng nan về an ninh của các quốc gia. Liên minh, cân bằng quyền lực và những lựa chọn chính sách giữa chiến tranh và thỏa hiệp vẫn không thay đổi dù khoảng cách thời gian được đo bằng thiên niên kỷ.
Mặt khác, Thucydides không bao giờ phải lo lắng về vũ khí nguyên tử, HIV/AIDS, hay tình trạng ấm lên toàn cầu. Nhiệm vụ của những người nghiên cứu quan hệ quốc tế là phát triển học thuật dựa vào quá khứ nhưng không mắc bẫy quá khứ, ngõ hầu hiểu được sự tiếp nối cũng như những thay đổi. Chúng ta phải nghiên cứu những học thuyết truyền thống và điều chỉnh cho phù hợp với các điều kiện hiện tại. Các chương đầu của cuốn sách này sẽ cung cấp cho bạn đọc bối cảnh lịch sử và lý thuyết diễn ra các hiện tượng cách mạng thông tin, toàn cầu hóa, phụ thuộc lẫn nhau, và các chủ thể xuyên quốc gia, những vấn đề sẽ được thảo luận trong các chương sau. Dựa trên trải nghiệm của bản thân về quản lý chính quyền, tôi nhận thấy không thể bỏ qua các khía cạnh mới cũng như cũ của chính trị quốc tế.
Có một cách để thay đổi nền chính trị quốc tế, đó là xoá bỏ hoàn toàn các nhà nước riêng lẻ, nhưng viễn cảnh về một chính phủ toàn cầu vẫn còn xa vời. Và trong khi các chủ thể phi quốc gia như các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các nhóm khủng bố mang lại cho các chính phủ những thách thức mới, bản thân chúng không thay thế được các quốc gia. Các dân tộc khác nhau đang sống ở gần 200 quốc gia khác nhau trên thế giới đều mong muốn độc lập, bản sắc văn hoá và ngôn ngữ riêng biệt. Thực tế hiện nay là thay vì biến mất, chủ nghĩa dân tộc và yêu cầu độc lập cho từng quốc gia riêng lẻ ngày càng tăng lên. Thay vì có ít quốc gia hơn, thế kỷ mới hiện nay nhiều khả năng sẽ chứng kiến sự ra đời thêm nhiều quốc gia mới. Chính phủ toàn cầu cũng không tự động giải quyết được vấn đề chiến tranh. Hầu hết các cuộc chiến tranh hiện nay là chiến tranh sắc tộc hoặc nội chiến. Từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1989 đến cuối thế kỷ 20 đã có 111 cuộc xung đột vũ trang xảy ra ở 74 khu vực trên thế giới. Trong đó 7 cuộc xung đột là giữa các quốc gia và 9 cuộc chiến diễn ra trong nội bộ quốc gia nhưng có sự can thiệp từ bên ngoài.[1] Thực tế thì những cuộc chiến tranh đẫm máu nhất của thế kỷ 19 không phải là giữa các quốc gia thường hay gây hấn ở Châu Âu mà chính là cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc và cuộc nội chiến Mỹ. Chúng ta sẽ tiếp tục sống trong một thế giới với các cộng đồng đối địch cùng các quốc gia riêng biệt trong một khoảng thời gian nữa, và hiểu được ý nghĩa của thực tế này đối với tương lai của chúng ta là một điều hết sức quan trọng.
CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ LÀ GÌ?
Thế giới không phải lúc nào cũng được chia thành một hệ thống các quốc gia riêng biệt. Trải qua nhiều thế kỷ nền chính trị thế giới đã trải qua ba hình thức cơ bản. Trong một hệ thống đế quốc thế giới, một chính phủ sẽ cai trị hầu hết phần thế giới còn lại mà nó có quan hệ. Thế giới phương Tây với sự cai trị của Đế chế La Mã là ví dụ điển hình nhất cho hệ thống này. Người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16 rồi đến người Pháp vào thế kỷ 17 đã nỗ lực để có được vị thế quyền lực tương tự song đã thất bại. Vào thế kỷ 19, Đế chế Anh bành trướng khắp thế giới, nhưng chính nước Anh cũng phải chia sẻ quyền lực với các quốc gia hùng mạnh khác thời bấy giờ. Những đế chế của thế giới cổ đại như Sumer, Ba Tư hay Trung Hoa thực chất chỉ là các đế chế khu vực. Họ nghĩ rằng họ cai trị toàn thế giới nhưng thực chất họ tránh được xung đột với các đế chế khác là vì tình trạng thiếu thông tin. Các cuộc chiến của họ với những man tộc ở ngoại biên không giống như các cuộc chiến giữa những quốc gia hùng mạnh ngang sức nhau.
Dạng thức cơ bản thứ hai của chính trị thế giới là hệ thống phong kiến, nơi mà lòng trung thành và các nghĩa vụ chính trị không bị các biên giới lãnh thổ giới hạn. Sau khi Đế chế La Mã sụp đổ, chế độ phong kiến trở nên rất phổ biến ở Châu Âu. Mỗi thần dân không chỉ có nghĩa vụ với địa chủ nơi mình sinh sống mà đôi khi còn phải thực hiện nghĩa vụ của mình với một nhà quý tộc hay giám mục ở một nơi xa xôi nào đó cũng như Giáo hoàng ở La Mã. Bổn phận về mặt chính trị được quyết định phần lớn bởi những điều xảy ra với bề trên của họ. Nếu một ông hoàng bà chúa nào đó kết hôn thì một khu vực và cư dân tại đó có thể bị thay đổi bổn phận chính trị khi vùng đất của họ trở thành của hồi môn cho đám cưới. Những người dân ở một thành thị nước Pháp có thể bỗng chốc biến thành người xứ Flander hay thậm chí là người Anh. Các thành thị hoặc liên minh thành thị đôi khi được hưởng quy chế bán độc lập đặc biệt. Các cuộc chiến hỗn mang thời phong kiến khác xa với các cuộc chiến xâm lược lãnh thổ thời hiện đại. Chiến tranh có thể xảy ra bên trong cũng như giữa các vùng lãnh thổ với nhau và bắt nguồn từ những xung đột cũng như vấn đề lòng trung thành chồng chéo không hề dính dáng gì đến biên giới lãnh thổ như đã nói ở trên.
Dạng thức thứ ba của nền chính trị quốc tế là hệ thống vô chính phủ các quốc gia bao gồm những quốc gia tương đối gắn kết với nhau nhưng không có một chính phủ nào đứng cao hơn họ. Các ví dụ có thể kể đến gồm các thành bang Hy Lạp cổ đại và hay nước Ý của Machiavelli thời thế kỷ 16. Một ví dụ khác về hệ thống vô chính phủ là các quốc gia phong kiến thuộc các vương triều nơi mà tính liên kết của quốc gia dựa trên sự cai trị của một dòng họ. Ví dụ này có thể thấy ở Ấn Độ hay Trung Quốc vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Các vương triều có lãnh thổ lớn tái xuất hiện tại châu Âu những năm 1500, và các hình thái chính thể khác như các thành bang hay các liên minh lỏng lẻo giữa các vùng lãnh thổ đã dần biến mất. Năm 1648 Hoà ước Westphalia đã chấm dứt Chiến tranh Ba mươi năm ở Châu Âu, và cuộc chiến này thường được coi là cuộc chiến tranh tôn giáo lớn cuối cùng và là cuộc chiến đầu tiên giữa các quốc gia hiện đại. Có thể thấy Hòa ước Westphalia đã ghi nhận việc các quốc gia có chủ quyền lãnh thổ trở thành hình thức chủ đạo trong tổ chức chính trị quốc tế.
Vì vậy ngày nay khi nói về chính trị quốc tế, chúng ta thường hiểu đó chính là hệ thống các quốc gia có lãnh thổ, và chúng ta định nghĩa chính trị quốc tế là chính trị giữa các thực thể thiếu vắng chủ quyền tối cao, tức không có quyền lực nào đứng trên chủ quyền của các quốc gia. Chính trị quốc tế là một hệ thống tự lực. Thomas Hobbes, nhà triết học người Anh thế kỷ 17, gọi các hệ thống vô chính phủ như vậy là “trạng thái tự nhiên.” Đối với một số người, cụm từ “trạng thái tự nhiên” có thể gợi nhớ đến khung cảnh một đàn bò thảnh thơi gặm cỏ trên một nông trại, nhưng đó không phải là điều mà Hobbes muốn nói. Chúng ta hãy thử tưởng tượng về một thị trấn vùng Texas vắng bóng cảnh sát trưởng trong thời kỳ miền Tây hoang dã, hay Libăng sau khi chính phủ sụp đổ vào những năm 1970, hoặc Somalia trong những năm 1990. “Trạng thái tự nhiên” mà Hobbes nói đến không phải là trạng thái dễ chịu, thanh bình mà là trạng thái chiến tranh hỗn mang tất cả chống lại tất cả do không có một chính phủ nào cao hơn để giữ gìn trật tự. Như câu nói nổi tiếng của Hobbes, cuộc sống trong một thế giới như vậy có khuynh hướng ngắn ngủi và đầy rẫy những điều xấu xa, tàn bạo và độc ác.
Kết quả là tồn tại những khác biệt về chính trị, luật pháp và xã hội giữa chính trị quốc tế và chính trị trong nước. Luật pháp trong nước thường được chấp hành, những kẻ vi phạm pháp luật sẽ bị cảnh sát và toà án trừng trị. Pháp luật quốc tế lại hoàn toàn khác. Pháp luật quốc tế dựa trên các hệ thống pháp luật cạnh tranh lẫn nhau, lại không hề có cơ quan thực thi pháp luật chung; cũng không tồn tại một lực lượng cảnh sát quốc tế nhằm đảm bảo thực thi pháp luật quốc tế.
Vũ lực giữ những vai trò khác nhau trong nền chính trị trong nước và quốc tế. Trong một hệ thống chính trị trong nước được tổ chức tốt, chính phủ được độc quyền sử dụng vũ lực một cách hợp pháp. Trong chính trị quốc tế, không ai được độc quyền sử dụng vũ lực. Chính trị quốc tế là một lãnh địa của cơ chế tự lực, sẽ có các quốc gia mạnh hơn các quốc gia khác và luôn tiềm ẩn mối đe dọa các quốc gia đó sẽ dùng đến vũ lực. Khi vũ lực không thể bị loại trừ thì hậu quả là sự nghi kỵ và thiếu lòng tin giữa các quốc gia sẽ xuất hiện.
Chính trị trong nước và quốc tế cũng rất khác nhau về vấn đề tinh thần cộng đồng. Trong một xã hội trong nước có trật tự, nhận thức về một cộng đồng chung sẽ tạo điều kiện phát triển lòng trung thành đối với quốc gia, các tiêu chuẩn công lý và các quan niệm chung về chính quyền hợp pháp. Trong chính trị quốc tế, các dân tộc riêng lẻ sẽ không chia sẻ cùng một lòng trung thành. Tinh thần cộng đồng toàn cầu vẫn luôn yếu ớt và lỏng lẻo. Người ta thường bất đồng quan điểm về những gì được coi là công bằng và hợp pháp. Hậu quả là xuất hiện khoảng cách lớn giữa hai giá trị chính trị cơ bản: trật tự và công bằng. Trong một thế giới như vậy, phần lớn các quốc gia đều đặt lợi ích dân tộc lên trên công lý quốc tế. Luật pháp và giá trị đạo đức có vai trò trong chính trị quốc tế, nhưng khi thiếu vắng một ý thức cộng đồng chung, chúng không còn mang giá trị ràng buộc như trong nền chính trị trong nước.
Trong ba hệ thống cơ bản trên – hệ thống đế quốc thế giới, hệ thống phong kiến và hệ thống vô chính phủ các quốc gia – một số người dự đoán rằng thế kỷ 21 có thể sẽ chứng kiến sự phát triển dần dần của một chế độ phong kiến mới hoặc, ít khả năng hơn, là một đế chế toàn cầu của Mỹ. Chúng ta sẽ xem xét các câu hỏi này ở chương cuối cùng.
Hai quan điểm về nền chính trị vô chính phủ
Chính trị quốc tế mang tính chất vô chính phủ theo nghĩa rằng không có một bộ máy cai trị nào đứng trên các quốc gia có chủ quyền. Nhưng ngay trong lý luận chính trị vẫn có hai quan điểm hoàn toàn khác nhau về mức độ khắc nghiệt của “trạng thái tự nhiên.” Hobbes, người cho ra đời những tác phẩm của mình ở một nước Anh bị nội chiến tàn phá của thế kỷ 17, đã nhấn mạnh khía cạnh mất an ninh, vũ lực và sự sống còn. Ông cho rằng nhân loại luôn nằm trong tình trạng chiến tranh liên miên. Nửa thế kỷ sau, John Locke, người viết ra các tác phẩm của mình ở một nước Anh ổn định hơn, lại lập luận rằng dù cho “tình trạng tự nhiên” thiếu một lực lượng cai trị chung thì con người vẫn có thể phát triển các mối quan hệ và các khế ước, qua đó giúp cho tình trạng vô chính phủ trở nên bớt nguy hiểm hơn. Hai cách nhìn về “trạng thái tự nhiên” này chính là xuất phát điểm triết học của hai quan điểm hiện tại về chính trị quốc tế, một trường phái bi quan và một trường phái lạc quan hơn, đó chính là chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do trong chính trị quốc tế.
Đến nay, chủ nghĩa hiện thực vẫn là trường phái áp đảo trong chính trị quốc tế. Với những người theo trường phái này, vấn đề trung tâm của chính trị quốc tế là chiến tranh, sử dụng vũ lực và chủ thể trung tâm là các quốc gia. Chủ nghĩa hiện thực được thể hiện trong các tác phẩm và chính sách của các nhà lãnh đạo Mỹ hiện đại như Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng trong chính quyền của ông là Henry Kissinger. Chủ nghĩa hiện thực bắt đầu từ giả định về hệ thống vô chính phủ của các quốc gia. Chẳng hạn như Kissinger và Nixon tìm cách tối đa hoá sức mạnh của Mỹ và tối thiểu hoá khả năng các quốc gia khác có thể gây nguy hiểm cho an ninh của Mỹ. Theo các nhà hiện thực, sự bắt đầu và kết thúc của chính trị quốc tế chính là mỗi quốc gia trong sự tương tác với các quốc gia khác.
Lý thuyết truyền thống thứ hai là chủ nghĩa tự do. Trong tư tưởng triết học chính trị phương Tây, lý thuyết này gắn với những tên tuổi như Nam tước Montesquieu của Pháp và Immanuel Kant của Đức vào thế kỷ 18, và các nhà triết học Anh thế kỷ 19 như Jeremy Bentham và John Stuart Mill. Một ví dụ về chủ nghĩa tự do ở nước Mỹ hiện đại chính là các tác phẩm và chính sách của nhà chính trị học và cũng là Tổng thống thứ 28 của Mỹ Woodrow Wilson.
Những người theo chủ nghĩa tự do coi thế giới như một xã hội toàn cầu vận hành song song với các quốc gia và tạo nên một phần bối cảnh hoạt động cho chính các quốc gia đó. Thương mại vượt qua biên giới các quốc gia, người dân sẽ giao lưu với nhau (như các sinh viên đi du học ở nước ngoài), các thể chế quốc tế như Liên Hợp Quốc tạo ra một bối cảnh mà ở đó cách nhìn của chủ nghĩa hiện thực về tình trạng vô chính phủ thuần túy trở nên phiến diện. Các nhà tự do chỉ trích các nhà hiện thực khi coi các quốc gia chỉ như những viên bóng bi-a va vào nhau trên bàn nhằm cân bằng quyền lực, và cho rằng quan điểm này chưa đầy đủ vì con người thực sự có những mối quan hệ xuyên biên giới và tồn tại một xã hội quốc tế. Phái tự do cho rằng phái hiện thực đã trầm trọng hoá sự khác biệt giữa chính trị trong nước và chính trị quốc tế. Do bức tranh về tình trạng “vô chính phủ” của trường phái hiện thực như Hobbes mô tả là “tình trạng chiến tranh” chỉ tập trung vào một số tình huống cực đoan nên trong quan điểm của các nhà tự do, bức tranh đó thiếu đi hình ảnh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng cũng như sự tiến hóa của một xã hội toàn cầu xuyên quốc gia.
Phái hiện thực đáp lại bằng cách trích dẫn lời Hobbes: “Cũng như trời âm u không có nghĩa là sẽ mưa mãi mãi, trạng thái chiến tranh không đồng nghĩa với chiến tranh liên miên”.[2] Giống như những người dân Luân Đôn luôn mang theo ô kể cả trong những ngày nắng nóng tháng Tư, nguy cơ nổ ra chiến tranh trong một hệ thống vô chính phủ khiến các quốc gia phải luôn duy trì lực lượng vũ trang ngay cả trong thời bình. Các nhà hiện thực cũng chỉ trích những dự đoán sai lệch của phái tự do trước đây. Ví dụ, năm 1910, vị hiệu trưởng trường Đại học Standford đã nói rằng chiến tranh trong tương lai không còn có thể xảy ra vì các quốc gia không thể kham nổi chi phí. Các cuốn sách lúc bấy giờ tuyên bố chiến tranh đã là dĩ vãng, văn minh đã vượt lên trên chiến tranh. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, mối quan hệ giữa các công đoàn và tầng lớp trí thức, cũng như dòng lưu chuyển vốn đã biến chiến tranh thành điều không thể. Tất nhiên, những dự đoán đó đã thất bại thảm hại trong năm 1914 khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra. Những người thuộc phái hiện thực thấy mình như được minh oan.
1910: “BÓNG MA CÀ RỒNG VÔ HÌNH” CỦA CHIẾN TRANH Nếu không có lý do nào khác để kết thúc chiến tranh, tổn thất về tài chính mà chiến tranh gây ra sớm hay muộn cũng sẽ khiến các quốc gia văn minh của thế giới thức tỉnh. Như hiệu trưởng David Starr Jordan của Viện Đại học Leland Stanford phát biểu tại Đại học Tufts: “Trong tương lai, chiến tranh không thể xảy ra bởi các quốc gia không đủ chi phí để tiến hành chiến tranh.” Ông nói thêm, ở Châu Âu, khoản nợ nần do chiến tranh để lại là 26 tỷ đô la. “Tất cả đều mắc nợ một con ma cà rồng vô hình, các quốc gia sẽ không bao giờ trả hết được, còn người nghèo sẽ phải đóng thuế cho con ma cà rồng ấy đến 95 triệu đô la một năm.” Gánh nặng về quân sự trong thời bình đang vắt kiệt sức mạnh của ngay cả những quốc gia hàng đầu vốn đã ngập chìm trong nợ nần. Hậu quả tất yếu của một cuộc chiến tranh lớn là tình trạng phá sản tràn lan. - Thế giới New York[3]
Lịch sử và các cuộc tranh cãi vẫn chưa dừng lại vào năm 1914. Thập kỷ 1970 lại chứng kiến sự trỗi dậy trở lại của chủ nghĩa tự do với quan điểm cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về mặt xã hội và kinh tế đang thay đổi bản chất của chính trị quốc tế. Thập kỷ 1980, giáo sư Richard Rosecrance của Đại học California cho rằng các quốc gia có thể gia tăng sức mạnh bằng hai cách: tranh giành chiếm giữ lãnh thổ hoặc thông qua thương mại một cách hoà bình. Ông sử dụng trường hợp của Nhật Bản như một ví dụ: Những năm 1930, Nhật Bản thử nghiệm việc chinh phục mở rộng lãnh thổ, song đã phải trả giá bằng thất bại thảm hại trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nhưng sau đó, Nhật Bản đã sử dụng thương mại và đầu tư để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (tính bằng tỉ giá hối đoái chính thức), và là một cường quốc hàng đầu ở Đông Á. Sự thành công của Nhật Bản không nhờ đến bất cứ một sức mạnh quân sự nào. Vì vậy, Rosecrance và những người theo chủ nghĩa tự do hiện đại cho rằng bản chất của nền chính trị quốc tế đang thay đổi.
Một số nhà tân tự do lại nhìn xa hơn về tương lai và tin rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về sinh thái đang gia tăng mạnh mẽ sẽ làm lu mờ dần sự khác biệt giữa chính trị trong nước và chính trị quốc tế, khiến loài người dần tiến đến một thế giới không biên giới. Chẳng hạn như lỗ thủng tầng ozone trên thượng tầng khí quyển gây nguy cơ ung thư da ảnh hưởng tới tất cả mọi người bất kể họ đang ở đâu. Nếu khí CO2 tích tụ làm trái đất nóng dần lên khiến băng ở hai cực tan chảy và mực nước biển dâng cao thì tất cả các quốc gia ven biển đều sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Những vấn đề như bệnh AIDS, nạn buôn lậu ma tuý xuyên biên giới khiến chúng ta dường như đang hướng tới một thế giới hoàn toàn khác. Giáo sư Richard Falk của Đại học Princeton cho rằng các vấn đề và giá trị xuyên quốc gia sẽ thay đổi hiện trạng lấy quốc gia làm trung tâm của nền chính trị quốc tế vốn đã tồn tại trong hơn 400 năm qua. Các lực lượng xuyên quốc gia hiện đang làm xói mòn Hòa ước Westphalia và loài người đang tiến tới một hình thái chính trị quốc tế hoàn toàn mới.
Phản ứng với quan điểm trên phái hiện thực phát biểu vào năm 1990 rằng: “Hãy đem những điều ấy mà nói với Saddam Hussein!” Iraq đã cho thấy vũ lực và chiến tranh vẫn luôn là mối nguy hiểm thường trực khi Iraq xâm lược nước láng giềng nhỏ bé của họ là Kuwait. Phái tự do đáp lại bằng cách cho rằng chính trị ở Trung Đông là một trường hợp ngoại lệ. Họ cho rằng thế giới đang dần vượt qua tình trạng vô chính phủ của hệ thống các quốc gia chủ quyền. Những quan điểm trái ngược nhau về bản chất của nền chính trị thế giới và về việc nó đang thay đổi thế nào sẽ không thể được dung hoà trong một sớm một chiều. Phái hiện thực nhấn mạnh sự tiếp nối; phái tự do lại nhấn mạnh sự thay đổi. Cả hai cùng khẳng định thực trạng chính trị thế giới theo quan điểm của mình. Trường phái tự do gọi các nhà hiện thực là những kẻ hoài nghi khi sự hoài vọng về quá khứ khiến họ bưng mắt trước các thay đổi. Trong khi đó phái hiện thực lại coi những người theo chủ nghĩa tự do là những kẻ mộng du không tưởng và gọi họ là những kẻ bị ám ảnh bởi toàn cầu hoá chẳng giống ai.
Ai đúng ai sai? Cả hai đều đúng và đều sai. Một câu trả lời rõ ràng sẽ không tồi, nhưng câu trả đó sẽ hoặc không chính xác hoặc không còn thú vị nữa. Sự đan xen giữa tính tiếp nối và sự thay đổi đặc trưng của thế giới ngày nay khiến chúng ta khó có thể đưa ra một cách giải thích toàn diện mà đơn giản.
Sự vận hành của nền chính trị quốc không phải là những chuyển động vật lý cứng nhắc mà phụ thuộc vào hành vi ứng xử luôn thay đổi của con người, thế nên nó không có những học thuyết chính xác tuyệt đối. Hơn nữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do không phải là những cách tiếp cận duy nhất đối với chính trị quốc tế. Trong phần lớn thế kỷ qua, chủ nghĩa Marx với các dự đoán về xung đột giai cấp và chiến tranh gây nên bởi các vấn đề giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau đã từng thuyết phục được rất nhiều người. Tuy nhiên, ngay cả trước khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, chủ nghĩa Marx đã tụt lại phía sau trong cuộc đua với các học thuyết khác khi không thể lý giải vì sao các quốc gia tư bản chủ chốt lại chung sống hoà bình trong khi lại nổ ra chiến tranh giữa các nước cộng sản với nhau. Vào khoảng những năm 60 và 70 của thế kỷ 20, thuyết phụ thuộc trở nên phổ biến. Thuyết này dự đoán rằng những quốc gia giàu có ở “vùng lõi” của thị trường toàn cầu sẽ kiểm soát và kìm hãm sự phát triển của các quốc gia nghèo hơn nằm ở vùng “ngoại vi”. Dù giúp làm sáng tỏ một vài nguyên nhân về cấu trúc của tình trạng bất bình đẳng kinh tế nhưng thuyết phụ thuộc lại gặp thất bại và mất uy tín khi không thể giải thích được tại sao trong những thập kỷ 1980 và 1990 tiếp theo, các nước ngoại vi ở khu vực Đông Á như Hàn Quốc, Singapore, Malaysia lại phát triển nhanh hơn nhiều so với các nước ở vùng lõi như Mỹ và Châu Âu. Sự thất bại của học thuyết này còn trở nên rõ ràng hơn khi Fernando Herique Cardoso, một học giả hàng đầu ủng hộ học thuyết này trong những năm 1970, cũng đã áp dụng các chính sách của chủ nghĩa tự do nhằm gia tăng phụ thuộc vào thị trường toàn cầu sau khi ông đắc cử tổng thống Brazil trong những năm 1990.
Vào thập niên 1980 các nhà phân tích của cả hai trường phái hiện thực và tự do đều nỗ lực tìm kiếm các học thuyết mang tính diễn dịch tương tự như các học thuyết của kinh tế vi mô. Trường phái tân hiện thực với đại diện tiêu biểu là Kenneth Waltz và trường phái tân tự do với đại diện là Robert Keohane đã phát triển các mô hình nhà nước dựa trên cấu trúc với vai trò là những chủ thể duy lý bị hệ thống quốc tế chi phối. Các nhà tân hiện thực và tân tự do giúp các học thuyết trở nên đơn giản và dễ hiểu hơn, nhưng lại đánh mất hầu hết tính chất phức tạp phong phú của thuyết hiện thực và tự do cổ điển. “Tới cuối thập niên 1980, các tranh luận về lý thuyết quan hệ quốc tế đã bị co lại thành những tranh cãi tương đối hẹp trong phạm vi liên quan tới mô hình quan hệ quốc tế lấy các quốc gia duy lý làm trung tâm.”[4]
Gần đây hơn, một nhóm các nhà nghiên cứu đa dạng theo đuổi một học thuyết có tên gọi chủ nghĩa kiến tạo đã lập luận rằng chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do đều không thể giải thích một cách đầy đủ những thay đổi trong dài hạn của chính trị thế giới. Trường phái kiến tạo nhấn mạnh tầm quan trọng của các ý tưởng và văn hoá trong việc hình thành thực trạng cũng như cuộc tranh luận về chính trị quốc tế. Họ nhấn mạnh rằng lợi ích luôn mang tính chủ quan và có mối liên hệ với các bản sắc luôn thay đổi. Mặc dù trường phái kiến tạo cũng chia thành nhiều quan điểm nhưng nhìn chung họ đều đồng tình rằng hai lý thuyết chính (hiện thực và tự do) đều không thể phác thảo bức tranh trung thực của thế giới và cho rằng chúng ta không chỉ cần biết được mọi thứ như thế nào mà còn cần hiểu được làm thế nào mà chúng lại trở nên như vậy. Các nhà nghiên cứu theo trường phái kiến tạo tập trung nghiên cứu các vấn đề quan trọng về bản sắc, các chuẩn tắc, văn hoá, lợi ích quốc gia và quản trị toàn cầu.[5] Họ tin rằng lợi ích vật chất không phải là động lực duy nhất thúc đẩy hành vi của các nhà lãnh đạo và con người nói chung mà hành vi của con người còn bị chi phối bởi nhận thức về bản sắc, đạo đức và những gì một xã hội hay nền văn hoá cho là phù hợp. Và những chuẩn tắc này thay đổi theo thời gian.
Các nhà nghiên cứu thuộc trường phái tân hiện thực và tân tự do đã bỏ qua chi tiết là các quốc gia thay đổi mục tiêu của mình theo thời gian. Trường phái kiến tạo dựa vào những lĩnh vực và ngành học khác nhau để nghiên cứu quá trình các nhà lãnh đạo, người dân và các nền văn hoá khác nhau thay đổi các ưu tiên, định hình bản sắc và tiếp thu các hành vi mới ra sao. Chẳng hạn như chế độ nô lệ vào thế kỷ 19 và chính sách phân biệt chủng tộc ở Nam Phi đều từng được hầu hết các quốc gia chấp nhận, nhưng sau đó chúng lại bị kịch liệt phản đối. Câu hỏi mà các nhà kiến tạo đặt ra là: vì sao thay đổi? Các ý tưởng có vai trò gì? Liệu một ngày nào đó trong tương lai hành vi chiến tranh có bị thay đổi như vậy hay không? Còn khái niệm chủ quyền quốc gia-dân tộc sẽ ra sao? Thế giới tồn tại rất nhiều thực thể chính trị chẳng hạn như các bộ lạc, các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ. Quốc gia có chủ quyền mới trở thành khái niệm phổ biến trong một vài thế kỷ gần đây. Trường phái kiến tạo cho rằng các khái niệm như quốc gia và chủ quyền có ý nghĩa trong các học thuyết và cuộc sống chúng ta chỉ là những khái niệm được kiến tạo qua tương tác xã hội chứ không phải là các thực tế sẵn có và tồn tại vĩnh viễn. Những người theo trường phái kiến tạo vị nữ lại cho rằng giới tính ảnh hưởng mạnh đến ngôn ngữ và hình ảnh của chiến tranh trong vai trò là công cụ chủ chốt của nền chính trị thế giới.
Chúng ta nên xem chủ nghĩa kiến tạo là một cách tiếp cận hơn là một học thuyết. Cách tiếp cận này mang lại những phê bình hữu ích cũng như những bổ sung quan trọng đối với hai học thuyết chính là chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do. Mặc dù đôi khi có kết cấu lỏng lẻo và thiếu khả năng dự báo nhưng cách tiếp cận của chủ nghĩa kiến tạo lại giúp ta nhớ đến những yếu tố mà hai học thuyết chính thường bỏ qua. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương kế tiếp, một điều quan trọng là cần xem xét không chỉ tính duy lý trong việc theo đuổi các mục tiêu hiện tại mà còn phải tìm hiểu cách các thay đổi về bản sắc và lợi ích có thể dẫn đến những biến chuyển khó nhận biết trong chính sách quốc gia và đôi khi cả thay đổi sâu sắc trong các vấn đề quốc tế như thế nào. Trường phái kiến tạo giúp chúng ta tìm hiểu những ưu tiên được định hình như thế nào, kiến thức và hiểu biết hình thành ra sao trước khi tiến hành các lựa chọn duy lý. Theo nghĩa đó, chủ nghĩa kiến tạo bổ sung cho hai trường phái trên hơn là phản bác chúng. Chúng ta sẽ làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến việc thấu hiểu các thay đổi mang tính dài hạn trong chương sau đồng thời sẽ quay lại vấn đề này ở chương cuối.
Trong khoảng thời gian ở Washington giúp hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ trong vai trò trợ lý bộ trưởng ở Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc, tôi nhận thấy rằng bản thân mình cùng chịu ảnh hưởng từ cả ba dòng tư tưởng: chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa kiến tạo. Tôi thấy chúng đều rất hữu ích, dù theo các cách khác nhau và còn tùy thuộc vào từng trường hợp. Đôi khi những người sống thực tế sẽ tự hỏi là tại sao chúng ta phải bận tâm về các học thuyết này làm gì? Câu trả lời là: lý thuyết như tấm bản đồ chỉ dẫn giúp chúng ta tìm đường ở những nơi xa lạ. Chúng ta sẽ bị lạc nếu không có chúng. Thậm chí khi chúng ta cho rằng chúng ta chỉ đang hành động theo tư duy thông thường thì thực tế vẫn có một lý thuyết nào đó đang âm thầm định hướng cho hành vi của chúng ta. Thường thì chúng ta không biết hay nhanh chóng quên mất đó là lý thuyết gì mà thôi. Nếu hiểu biết đầy đủ về các lý thuyết đang định hướng cho chúng ta thì chúng ta sẽ hiểu rõ hơn được ưu khuyết điểm của chúng và thời điểm tốt nhất để vận dụng chúng. Giống như nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes từng nói những người thực tế vốn hay tự cho mình là sống không cần các lý thuyết thì thực ra lại thường hành động theo lời của một ai đó trong quá khứ mà họ không còn nhớ tên.[6]
Các nhân tố cấu thành quan hệ quốc tế
Các chủ thể, mục tiêu và công cụ là ba khái niệm cơ bản trong lí thuyết về chính trị quốc tế, nhưng cả ba khái niệm này cũng đang thay đổi. Theo quan điểm truyền thống của chủ nghĩa hiện thực, “chủ thể” quan trọng duy nhất chính là các quốc gia và chỉ có những quốc gia lớn mới thực sự đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, điều này đang thay đổi. Số lượng các quốc gia đã tăng mạnh trong nửa thế kỷ qua: Năm 1945 chỉ có khoảng 50 quốc gia trên thế giới; nhưng đến đầu thế kỷ 21, con số này đã gấp bốn lần và sẽ còn những quốc gia mới tiếp tục ra đời. Điều quan trọng hơn cả số lượng các quốc gia chính là sự gia tăng của các chủ thể phi quốc gia. Ngày nay các công ty đa quốc gia hoạt động xuyên các biên giới lãnh thổ và đôi khi kiểm soát các nguồn lực kinh tế thậm chí còn lớn hơn sức mạnh kinh tế của rất nhiều quốc gia (Xem Bảng 1.1). Ít nhất 12 công ty xuyên quốc gia có doanh thu hàng năm lớn hơn tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của quá nửa số các quốc gia trên thế giới.[7] Doanh số của của một tập đoàn như IBM, Shell hoặc Walmart còn lớn hơn GDP của các nước như Hungary, Ecuador và Senegal. Dù các công ty đa quốc gia này không có những dạng sức mạnh như sức mạnh quân sự, nhưng chúng lại có ảnh hưởng to lớn đối với mục tiêu kinh tế của các quốc gia. Xét về mặt kinh tế, đối với Bỉ, IBM còn quan trọng hơn nhiều so với Burundi – một thuộc địa cũ của Bỉ.
BẢNG 1.1 Doanh thu năm 2004 của một số công ty đa quốc gia (tính bằng đô la Mỹ)
Wal-Mart (Mỹ) 288 tỉ
Royal Dutch Shell (Anh/ Hà Lan) 269 tỉ
General Motors (Mỹ) 194 tỉ
DaimlerChrysler (Đức/ Mỹ) 177 tỉ
Toyota (Nhật) 173 tỉ
General Electric (Mỹ) 153 tỉ
Total (Pháp) 153 tỉ
IBM (Mỹ) 96 tỉ
Siemens (Đức) 92 tỉ
Nestlé (Thụy Sĩ) 70 tỉ
Sony (Nhật) 67 tỉ
Nguồn: “The Fortune Global 500,” Fortune.
Thật không thể tưởng tượng được bức tranh Trung Đông nếu không có các quốc gia gây chiến với nhau cũng như sự tham gia của các cường quốc bên ngoài; nhưng cũng sẽ là một thiếu sót lớn nếu hình ảnh của Trung Đông thiếu vắng các chủ thể phi quốc gia. Các tập đoàn dầu lửa đa quốc gia lớn như Shell, British Petroleum và Exxon Mobil là một dạng chủ thể phi quốc gia. Ngoài ra còn có những chủ thể phi quốc gia khác. Đó là những tổ chức liên chính phủ lớn như Liên Hợp Quốc, hay các tổ chức nhỏ hơn như Liên đoàn Ảrập hay Tổ chức các Quốc gia Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC). Ngoài ra còn có các tổ chức phi chính phủ (NGOs) như Hội Chữ thập Đỏ (Red Cross) và Tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International). Bên cạnh đó còn có sự hiện diện của một loạt các nhóm sắc tộc đa quốc gia như người Kurd sống ở Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Iran và Iraq hay người Armenia sống rải rác ở Trung Đông và vùng Cápcadơ. Các nhóm khủng bố, các tập đoàn ma túy và băng nhóm mafia hoạt động xuyên biên giới các quốc gia và thường có tài sản ở nhiều nước khác nhau. Các phong trào tôn giáo, đặc biệt các phong trào Hồi giáo mang màu sắc chính trị ở Trung Đông và Bắc Phi cũng kéo dài thêm danh sách các nhân tố có thể được coi là các chủ thể phi quốc gia.
Vấn đề đặt ra không phải là quốc gia hay các chủ thể phi quốc gia quan trọng hơn – vì thường thì câu trả lời vẫn là các quốc gia – mà vấn đề ở đây là một tập hợp phức tạp mới gồm các chủ thể quốc gia lẫn phi quốc gia như vậy sẽ ảnh hưởng thế nào đến chính trị của một khu vực theo những chiều hướng mà các quan điểm hiện thực truyền thống chưa thể lường hết được. Quốc gia là chủ thể chính trên sân khấu chính trị thế giới hiện đại, nhưng chính họ cũng không có sân khấu của riêng mình.
Vậy còn các mục tiêu thì sao? Theo truyền thống, mục tiêu hàng đầu của các quốc gia trong hệ thống vô chính phủ là an ninh quân sự. Ngày nay, rõ ràng các quốc gia vẫn quan tâm rất nhiều đến an ninh quân sự, song họ cũng quan tâm không kém đến sự thịnh vượng về kinh tế (Xem Bảng 1.2) và cả các vấn đề xã hội như ngăn chặn nạn buôn lậu ma túy hay sự lây lan của đại dịch AIDS, cũng như các biến đổi về môi trường sinh thái. Hơn nữa, khi các mối đe dọa thay đổi, định nghĩa về an ninh cũng thay đổi. Quốc gia không còn theo đuổi duy nhất một mục tiêu là an ninh quân sự. Khi xem xét mối quan hệ giữa Mỹ và Canađa, nguy cơ chiến tranh giữa hai nước là hầu như không còn, và một nhà ngoại giao Canađa từng phát biểu rằng ông không sợ một ngày nào đó Mỹ sẽ đổ quân sang Canađa chiếm giữ Toronto như Mỹ đã làm năm 1813 mà lo ngại rằng Toronto sẽ bị rối tung bởi một chương trình máy tính được điều khiển từ Texas – một tình huống lưỡng nan về an ninh khác so với tình huống truyền thống mà các quốc gia phải đối mặt trong hệ thống vô chính phủ. Sức mạnh kinh tế không thể thay thế được an ninh chính trị (như Kuwait đã nhận ra khi bị Iraq xâm lược vào tháng 8/1990), nhưng chương trình nghị sự của nền chính trị quốc tế ngày càng trở nên phức tạp hơn vì các quốc gia theo đuổi đồng thời nhiều mục tiêu hơn. Chẳng hạn như ngày nay các vấn đề nhân đạo và nhân quyền trở nên quan trọng hơn, và một số nhà phân tích thích đề cập đến an ninh của từng cá nhân con người hơn so với an ninh của các quốc gia.
BẢNG 1.2 Ước tính GDP năm 2002 của một số quốc gia
(tính bằng đô la Mỹ theo sức mua ngang giá)
Mỹ 11.800 tỉ
Trung Quốc 7.300 tỉ
Nhật Bản 3.800 tỉ
Ấn Độ 3.300 tỉ
Đức 2.400 tỉ
Brazil 1.500 tỉ
Nga 1.400 tỉ
Indonesia 828 tỉ
Nam Phi 491 tỉ
Achentina 484 tỉ
Ảrập Xêut 310 tỉ
Việt Nam 227 tỉ
Guatemala 60 tỉ
Iraq 54 tỉ
Anbani 17 tỉ
Jamaica 11 tỉ
Eritrea 4 tỉ
Nguồn: CIA World Factbook, 2005
Cùng với các mục tiêu, các công cụ của nền chính trị thế giới cũng đang thay đổi. Quan điểm của trường phái hiện thực cho rằng sức mạnh quân sự chính là công cụ duy nhất và quan trọng nhất. Nhà sử học người Anh A.J.P. Taylor khi mô tả thế giới thời kỳ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã định nghĩa “cường quốc lớn” là quốc gia có thể chiếm thế thượng phong trong một cuộc chiến tranh. Rõ ràng ngày nay các quốc gia vẫn tiếp tục sử dụng sức mạnh quân sự, song nửa thế kỷ qua cho thấy vai trò của quân sự đã có sự thay đổi. Rất nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia lớn, nhận ra rằng sử dụng lực lượng quân sự để đạt được mục tiêu đã trở nên tốn kém hơn rất nhiều so với trước kia. Như giáo sư Stanley Hoffman của Đại học Harvard đã mô tả, mối liên hệ giữa sức mạnh quân sự và những thành công của một quốc gia đã trở nên không còn rõ ràng như trước kia.
Đâu là lý do cho sự thay đổi trên? Thứ nhất, vũ khí nguyên tử – phương tiện tối thượng của sức mạnh quân sự – đã trở nên quá đỗi khủng khiếp. Mặc dù con số vũ khí nguyên tử lên hơn 50.000 nhưng chúng vẫn chưa bao giờ được sử dụng trong các cuộc chiến kể từ năm 1945 đến nay. Cái giá phải trả cho sự tàn phá do vũ khí nguyên tử gây nên quá chênh lệch so với bất cứ mục tiêu chính trị hợp lý nào khiến việc các nhà lãnh đạo không dám sử dụng chúng trở nên không có gì khó hiểu. Nói cách khác, thứ sức mạnh quân sự tối thượng đó trên thực tế là quá đắt đỏ khiến các nhà lãnh đạo không dám sử dụng chúng trong các cuộc chiến.
Ngay cả việc sử dụng vũ khí thông thường để cai trị những người dân sôi sục chủ nghĩa dân tộc cũng trở nên tốn kém hơn trước rất nhiều. Trong thế kỷ 19 các quốc gia Châu Âu chinh phục những vùng đất khác trên thế giới bằng những đội quân được trang bị vũ khí hiện đại và cai quản những vùng đất thuộc địa đó bằng những trại lính khá khiêm tốn. Nhưng trong kỷ nguyên có sự vận động xã hội liên tục của người dân, rất khó để cai trị một đất nước bị chiếm đóng nơi mà cộng đồng người dân ý thức rất rõ về bản sắc dân tộc của họ. Người Mỹ đã thấm thía điều đó trong cuộc chiến tranh Việt Nam những năm 1960 và 1970; và người Liên Xô cũng đã trải nghiệm bài học tương tự trong chiến tranh Afghanistan những năm 1980. Việt Nam và Afghanistan không thể cạnh tranh sức mạnh với các cường quốc hạt nhân, song Mỹ và Liên Xô đều đã phải tốn những chi phí khổng lồ khi cố gắng cai trị những người dân với tinh thần dân tộc mạnh mẽ ở đó. Chủ nghĩa dân tộc khiến cho sự cai trị của ngoại bang trở nên quá tốn kém và đắt đỏ.
Thay đổi thứ ba về vai trò của lực lượng quân sự liên quan đến những ràng buộc từ trong nước. Ý thức chống chủ nghĩa quân phiệt dần phát triển nhất là trong lòng các nước dân chủ. Điều này không hoàn toàn ngăn cản việc sử dụng vũ lực nhưng khiến sử dụng vũ lực trở thành một lựa chọn mạo hiểm về chính trị đối với các nhà lãnh đạo, đặc biệt là khi sử dụng với quy mô lớn và trong thời gian dài. Có ý kiến cho rằng người dân sống trong các nền dân chủ sẽ không chấp nhận thương vong do chiến tranh gây ra nhưng mọi việc không đơn giản như vậy. Ví dụ, Mỹ dự kiến chấp nhận đến 10.000 trường hợp thương vong khi lên kế hoạch tham gia vào cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1990, nhưng không chịu chấp nhận thương vong ở Somaliaa và Kosovo, những nơi không liên quan nhiều đến lợi ích quốc gia của họ. Đồng thời nếu việc sử dụng vũ lực bị các nước khác coi là bất hợp pháp và phi lý thì điều này có thể khiến các nhà lãnh đạo trong các xã hội dân chủ phải trả giá đắt. Vũ lực không phải không còn chỗ đứng, và các nhóm khủng bố phi quốc gia không bị vấn đề đạo đức ràng buộc như các quốc gia, nhưng ngày nay đối với hầu hết các quốc gia việc sử dụng vũ lực đã trở nên tốn kém hơn nhiều so với trước đây.
Nguyên nhân cuối cùng cho sự thay đổi vai trò của vũ lực là hàng loạt các vấn đề phát sinh ngày nay không chỉ đơn giản dựa vào các biện pháp vũ lực là giải quyết được. Như trường hợp quan hệ kinh tế giữa Mỹ và Nhật Bản là một ví dụ. Năm 1853, tàu Commodore Perry của Mỹ đi vào một hải cảng của Nhật và đe doạ sẽ oanh tạc nếu Nhật không mở cửa các cảng cho tàu vào giao thương. Đây không phải là một giải pháp hữu ích và có thể chấp nhận được về mặt chính trị đối với các tranh chấp thương mại hiện tại giữa Nhật và Mỹ. Vì thế, dẫu vẫn là một công cụ quan trọng trong quan hệ quốc tế song vũ lực không phải là công cụ duy nhất. Việc sử dụng các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, truyền thông, các thể chế quốc tế và các chủ thể xuyên quốc gia đôi khi lại đóng vai trò quan trọng hơn so với vũ lực. Vũ lực chưa phải là một công cụ lỗi thời, như chúng ta đã thấy trong cuộc chiến ở Afghanistan, nơi chính quyền Taliban đã dung dưỡng mạng lưới khủng bố tiến hành các cuộc tấn công ngày 11/9/2001 ở Mỹ; hay việc Mỹ và Anh dùng biện pháp quân sự để lật đổ chính quyền Saddam Hussein năm 2003. Thế nhưng vũ lực chỉ giúp chiến thắng chiến tranh chứ chẳng thể đem lại hoà bình cho Iraq, và sức mạnh quân sự cũng không phải là cách duy nhất đủ để chống lại chủ nghĩa khủng bố. Dù vũ lực vẫn là công cụ tối thượng trong chính trị quốc tế nhưng ngày nay các thay đổi về chi phí và tính hiệu quả của việc sử dụng vũ lực khiến cho nền chính trị quốc tế ngày nay càng trở nên phức tạp hơn.
Tuy nhiên, trò chơi cơ bản về an ninh vẫn tiếp diễn. Một số nhà khoa học chính trị lập luận rằng cân bằng quyền lực thường sẽ do một quốc gia bá quyền hay dẫn đầu quyết định, như Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, Pháp dười thời vua Louis XIV, Anh trong phần lớn thế kỷ 19 và Mỹ trong thế kỷ 20. Kết cục thì quốc gia dẫn đầu sẽ bị thách thức và chính thách thức này sẽ dẫn đến những xung đột lớn mà chúng ta gọi là chiến tranh thế giới hay chiến tranh bá quyền. Sau mỗi cuộc chiến tranh thế giới ấy sẽ có một hiệp ước ra đời và đánh dấu một trật tự mới: Hiệp ước Utrecht năm 1713, Hiệp ước Viên năm 1815 hay hệ thống Liên Hiệp Quốc sau năm 1945. Nếu không có một quy luật cơ bản nào của nền chính trị quốc tế thay đổi kể từ cuộc chiến giành ngôi vị bá chủ giữa Athens và Sparta thì liệu một thách thức mới có dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới khác không, hay vòng tuần hoàn của chiến tranh bá quyền đã chấm dứt? Liệu sự trỗi dậy của Trung Quốc có phải là một thách thức đối với Mỹ? Hay công nghệ nguyên tử đã khiến sự tàn phá của các cuộc thế chiến trở nên quá khủng khiếp? Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế có làm cho chiến tranh trở nên quá tốn kém hay không? Liệu những chủ thể phi quốc gia như các tổ chức khủng bố có buộc chính quyền các nước phải hợp tác với nhau? Một xã hội toàn cầu có khiến chiến tranh trở thành điều không thể chấp nhận về mặt xã hội và đạo đức hay không? Chúng ta phải hy vọng như vậy vì cuộc chiến tranh bá quyền tiếp theo nếu có xảy ra thì đó có lẽ sẽ là cuộc chiến đánh dấu chấm hết cho cả nhân loại. Nhưng trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu tại sao chiến tranh vẫn còn tồn tại và tiếp diễn.
CUỘC CHIẾN TRANH PELOPONNESE
VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC VÀ CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ
Xem phần còn lại của văn bản tại đây: Understanding Intl Conflicts – Chapter 1
[1] Peter Wallensteen và Margareta Sollenberg, “Arm Conflict, 1989-2000,” Báo cáo số 60 trong Margareta Sollenberf (biên tập), States in Armed Conflict 2000 (Uppsala, Thụy Điển: Đại học Uppsala, Khoa Nghiên cứu Hòa bình và Xung đột, 2001), trang 10.
[2] Thomas Hobbes, Leviathan, biên tập C. B. MacPherson (Luân Đôn: Penguin, 1981), trang 186.
[3] The New York World, “From Our Dec. 13 Pages, 75 Years Ago,” International Herald Trinune, 13/12/1985.
[4] Miles Kahler, “Inventing International Relations: International Relations Theory After 1945,” trong Michael W. Doyle và G. John Ikenberry, biên tập, New Thinking in International Relations Theory (Boulder, CO: Westview, 1977), trang 38.
[5] Emanuel Adler, “Constructivism in International Relations: Sources, Contributions, Debates and Future Directions,” trong Walter Carlsnaes, Thomas Risse và Beth Simmons, biên tập, Handbook of International Relations (Thousand Oaks, CA: Sage, 2003).
[6] John Maynard Keynes, The General Theory of Employment, Interest and Money (Luân Đôn: Macmillan, 1936), trang 383.
[7] Doanh số và GNP là những chỉ số đo khác nhau, và điều này phần nào phóng đại vai trò của các công ty đa quốc gia. Mặc dù vậy sự so sánh này vẫn rất thú vị.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:25:21 GMT 9
Đảm bảo an ninh năng lượng
Nguồn: Yergin, Daniel (2006). “Ensuring Energy Security”, Foreign Affairs, Vol. 85, No. 2 (Mar – Apr), pp. 69-82. >>PDF
Biên dịch: Trần Thạch Thương Thương | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: Ensuring energy security
Câu hỏi cũ, đáp án mới
Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, người đứng đầu Cục Hải quân hoàng gia Winston Churchill đã có một quyết định mang tính lịch sử, đó là chuyển đổi nguồn năng lượng cho tàu hải quân Anh từ than đá sang dầu khí. Ông hướng tới xây dựng hạm đội quốc gia hùng mạnh hơn đối thủ là nước Đức. Nhưng điều đó cũng có ý nghĩa rằng Hải quân Hoàng gia Anh sẽ không còn phụ thuộc vào nguồn than đá ở xứ Wales mà phụ thuộc vào nguồn cung cấp dầu thô hết sức bấp bênh từ Ba Tư. Điều này đã khiến an ninh năng lượng trở thành một câu hỏi trong chiến lược quốc gia. Câu trả lời của Churchill khi ấy là gì? Đó là: “Sự an toàn và ổn định của dầu mỏ nằm trong sự đa dạng và chỉ có sự đa dạng [về nguồn cung] mà thôi.”
Sau quyết định của Churchill, an ninh năng lượng đã nhiều lần nổi lên như một vấn đề quan trọng, và ngày nay cũng thế. Nhưng hiện tại cần xem xét lại, bởi quan niệm truyền thống về an ninh năng lượng trong vòng ba thập kỉ qua còn quá hẹp và cần được mở rộng để bổ sung nhiều yếu tố mới. Hơn nữa, cần phải nhận thấy rằng an ninh năng lượng không phải là vấn đề riêng lẻ của quốc gia nào mà nó nằm sâu bên trong những mối quan hệ rộng lớn giữa các quốc gia và cách mà các nước tương tác với nhau.
An ninh năng lượng sẽ là chủ đề hàng đầu trong hội nghị ở St.Peterburg vào tháng 7 của nhóm tám nước công nghiệp hóa phát triển (G8). Sự tái tập trung chú ý vào an ninh năng lượng được thúc đẩy một phần bởi thị trường dầu mỏ cực kì khốc liệt cũng như do giá dầu cao gấp đôi trong ba năm gần đây. Hơn nữa, nó còn được thúc đẩy bởi chủ nghĩa khủng bố, sự bất ổn ở các quốc gia xuất khẩu, phản ứng từ chủ nghĩa dân tộc, mối lo ngại về sự tranh giành nguồn cung, sự đối đầu về địa chính trị, và nhu cầu cơ bản của các quốc gia về năng lượng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong bối cảnh đó, mối lo ngại tái xuất hiện đến từ việc liệu sẽ có đủ nguồn cung dầu để đáp ứng nhu cầu của thế giới trong vài thập niên nữa hay không.
Mối quan tâm về an ninh năng lượng không chỉ tập trung vào dầu mỏ. Các đợt mất điện ở cả hai bờ Đông và bờ Tây nước Mỹ, ở châu Âu, và ở Nga, cùng với tình trạng thiếu điện thường xuyên ở Trung Quốc, Ấn Độ, và những quốc gia đang phát triển khác, đã làm dấy lên mối lo ngại về mức độ ổn định của hệ thống cung ứng điện. Đối với khí tự nhiên, việc cầu tăng lên và nguồn cung bị hạn chế đã cho thấy vùng Bắc Mỹ đã không còn có thể tự cung tự cấp, do đó nước Mỹ đang dần tham gia vào thị trường mới về khí tự nhiên của thế giới, và điều này sẽ tạo ra mối liên kết chưa từng thấy trong lịch sử giữa các quốc gia, các lục địa và giá cả.
Cùng lúc đó, một loạt những điểm yếu đã dần lộ rõ. Tổ chức Al Queda đã đe dọa tấn công vào cái mà Osama bin Laden gọi là “bản lề” của nền kinh tế thế giới, đó là cơ sở hạ tầng trọng yếu, trong đó năng lượng là một trong các nhân tố quan trọng nhất. Thế giới sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào những nguồn cung mới từ những nơi có hệ thống an ninh đang được phát triển, như các mỏ dầu hay khí tự nhiên ngoài khơi Tây Phi và ở biển Caspi. Những điểm yếu không chỉ đến từ mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố, bất ổn chính trị, xung đột vũ trang, và cướp biển. Vào tháng 8 và tháng 9 năm 2005, bão Katrina và bão Rita đã gây ra cú sốc toàn diện về năng lượng đầu tiên trên thế giới, làm gián đoạn nguồn cung dầu mỏ, khí tự nhiên và nguồn điện cùng lúc.
Những sự kiện xảy ra từ đầu năm nay đã cho thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề. Tranh chấp về khí tự nhiên giữa hai nước Nga và Ukraina tạm thời đã làm ngắt nguồn cung cấp cho châu Âu. Căng thẳng gia tăng liên quan đến chương trình hạt nhân của Tehran khiến xuất hiện mối đe dọa rằng Iran, quốc gia sản xuất dầu lớn thứ hai của OPEC, sẽ “khởi động một cuộc khủng hoảng dầu mỏ”. Ngoài ra, những cuộc tấn công rải rác vào một số mỏ dầu cũng làm suy giảm lượng dầu xuất khẩu của Nigeria, quốc gia cung cấp dầu quan trọng cho Hoa Kỳ.
Kể từ thời Churchill, chìa khóa giải quyết vấn đề an ninh năng lượng vẫn là sự đa dạng hóa. Điều này vẫn đúng, nhưng cũng cần chú ý đến cách tiếp cận rộng hơn, trong đó có tính tới sự phát triển nhanh chóng của ngành thương mại năng lượng toàn cầu, những điểm yếu của chuỗi cung ứng, chủ nghĩa khủng bố, và sự hội nhập của các nền kinh tế mới vào thị trường thế giới.
Mặc dù, ở các nước đã phát triển định nghĩa thông thường của an ninh năng lượng đơn giản là sự sẵn có đầy đủ những nguồn cung ở các mức giá thỏa đáng, nhưng những quốc gia khác lại hiểu khái niệm này theo nhiều cách hoàn toàn khác nhau. Các quốc gia xuất khẩu năng lượng sẽ nhấn mạnh khía cạnh “đảm bảo nguồn cầu” trong hoạt động xuất khẩu của mình, vốn tạo ra đa số ngân sách cho các chính phủ của họ. Như trường hợp nước Nga, mục tiêu của họ là nhằm xác lập lại quyền kiểm soát của nhà nước đối với “các tài nguyên chiến lược” và các đường ống dẫn chính cũng như các kênh thị trường mà thông qua đó nước này vận chuyển các sản phẩm dầu khí đến thị trường thế giới. Vấn đề đặt ra cho các quốc gia đang phát triển lại là những thay đổi về giá cả năng lượng sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của các quốc gia đó như thế nào. Đối với Trung Quốc và Ấn Độ, khái niệm an ninh năng lượng hiện được hiểu là khả năng nhanh chóng thích ứng với sự phụ thuộc xuất hiện gần đây của các nước này vào thị trường thế giới, vốn là một sự thay đổi lớn so với những quyết tâm nhằm tự cung tự cấp năng lượng trước đây. Đối với Nhật Bản, an ninh năng lượng lại có nghĩa là hạn chế mặt tiêu cực của tình trạng khan hiếm gay gắt nguồn tài nguyên trong nước thông qua sự đa dạng hóa nguồn năng lượng, các hoạt động thương mại và đầu tư. Ở Châu Âu, hầu hết các quốc gia, trừ nước Pháp và Phần Lan, đang có những tranh luận chủ yếu tập trung vào cách giảm sự phụ thuộc vào khí tự nhiên nhập khẩu bằng cách xây dựng những nhà máy điện hạt nhân mới hoặc có lẽ sẽ dùng lại than đá (sạch). Còn nước Mỹ thì phải đối mặt với thực tế không mấy dễ chịu, đó là mục tiêu quốc gia về “độc lập năng lượng”, một thuật ngữ vốn đã trở thành khẩu hiệu kể từ khi được Tổng thống Nixon nêu ra bốn tuần sau lần cấm vận dầu mỏ năm 1973, đang ngày càng xa rời thực tế.
Những cú sốc đối với cung và cầu
Sau cuộc chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư, mối lo ngại về an ninh năng lượng dường như lắng lại. Nỗ lực của Saddam Hussein nhằm khống chế khu vực vùng Vịnh Ba Tư đã thất bại, và có vẻ như thị trường dầu mỏ thế giới vẫn là một thị trường (hơn là trở thành công cụ thao túng chính trị của Saddam) và những nguồn cung dầu mỏ vẫn sẽ dồi dào ở những mức giá vừa phải, không làm cản trở nền kinh tế thế giới. Nhưng 15 năm sau, giá lên cao, và nỗi lo sợ về tình trạng thiếu hụt đã bao trùm các thị trường năng lượng. Chuyện gì đã xảy ra? Câu trả lời sẽ được tìm thấy ở cả khía cạnh thị trường lẫn chính trị.
Thập kỉ vừa qua đã chứng kiến sự tăng lên đáng kể của nhu cầu thế giới đối với dầu mỏ, chủ yếu vì sự phát triển kinh tế vượt bậc của những nước đang phát triển, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. Tới năm 1993, Trung Quốc vẫn đang có thể tự cung tự cấp dầu mỏ cho mình. Từ đó, GDP nước này tăng khoảng gấp ba lần, và nhu cầu về dầu cũng tăng gấp đôi. Hiện nay, Trung Quốc đang nhập khẩu ba triệu thùng dầu mỗi ngày, chiếm khoảng một nửa tổng lượng dầu tiêu thụ của nước này. Thị phần của Trung Quốc trong thị trường dầu mỏ thế giới chiếm khoảng 8%, nhưng nước này chiếm tới 30% tổng lượng cầu tăng lên của thế giới từ năm 2000. Cũng từ năm 2000, nhu cầu dầu mỏ thế giới tăng khoảng 7 triệu thùng/ngày; trong đó, 2 triệu thùng thuộc về Trung Quốc. Lượng tiêu thụ dầu của Ấn Độ hiện tại ít hơn Trung Quốc 40%, nhưng do Ấn Độ đang tiến vào giai đoạn mà nhà kinh tế học Vijjan Kelkar gọi là “tăng trưởng nhanh đi kèm chi phí cao” (“growth turnpike”), nên lượng cầu dầu mỏ sẽ càng tăng nhanh. (Trớ trêu thay, tốc độ tăng trưởng cao hiện nay của Ấn Độ một phần xuất phát từ sự tăng vọt của giá dầu trong thời gian chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư 1990-1991. Cú sốc cán cân thanh toán vì lí do này khiến Ấn Độ hầu như không còn dự trữ ngoại tệ, tạo điều kiện cho các cải cách khởi xướng bởi Bộ trưởng Tài chính Manmohan Singh, hiện đang là Thủ tướng Ấn Độ.)
Tác động của việc tăng tưởng ở Trung Quốc, Ấn Độ, và các nước khác đến nhu cầu thế giới về năng lượng ngày càng lớn. Trong những năm 1970, Bắc Mỹ tiêu thụ lượng dầu nhiều gấp hai lần châu Á. Năm ngoái, lần đầu tiên, lượng dầu tiêu thụ ở châu Á vượt qua khu vực Bắc Mỹ.
Theo những dự báo của Hiệp hội Nghiên cứu Năng lượng Cambridge (CERA), xu hướng này sẽ tiếp tục với việc châu Á sẽ chiếm một nửa trong tổng mức tăng tiêu thụ dầu thế giới trong 15 năm kế tiếp. Tuy nhiên, ảnh hưởng ngày càng tăng của châu Á chỉ trở nên rõ ràng vào năm 2004, khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong vài thập kỷ đã tạo ra “cú sốc cầu”, cụ thể là sự gia tăng lượng dầu tiêu thụ bất ngờ của thế giới, được thể hiện qua việc tỉ lệ này tăng nhanh hơn gấp đôi tỉ lệ tăng trưởng trung bình hằng năm trong thập niên trước. So với năm 2003, lượng cầu của Trung Quốc năm 2004 tăng bất thường đến 16%, một phần do sự thiếu điện đã dẫn đến việc sử dụng dầu tăng đột biến để phát điện thay thế. Lượng tiêu thụ dầu ở Mỹ, cũng như ở các nước khác, tăng mạnh vào năm 2004. Kết quả là thị trường dầu mỏ đã trở nên khan hiếm nhất trong ba thập kỉ qua (trừ vài tháng đầu sau khi Saddam xâm lược Kuwait năm 1990). Hầu như không còn giếng dầu nào có thể tăng thêm công suất. Tình hình này vẫn tồn tại đến ngày nay, với thêm một vấn đề khác. Lượng dầu bổ sung có thể được sản xuất không thể dễ dàng tiêu thụ vì không đủ chất lượng để được chế biến bởi các nhà máy lọc dầu hiện có trên thế giới.
Khả năng lọc dầu là một hạn chế lớn cho vấn đề cung cấp, vì yêu cầu đối với sản phẩm của người tiêu dùng thế giới so với năng lực của nhà máy lọc dầu có sự chênh lệch rõ nét. Không chỉ riêng nước Mỹ, thực tế khả năng lọc dầu hạn chế là vấn đề của toàn thế giới. Nhu cầu thế giới tăng nhiều nhất ở “sản phẩm chưng cất trung gian”, gồm dầu diesel, nhiên liệu máy bay, và dầu thắp. Diesel là nhiên liệu được ưa chuộng nhất ở châu Âu, nơi có một nửa số dân tiêu thụ xe động cơ diesel. Nó cũng được sử dụng ngày càng nhiều để phục vụ phát triển kinh tế ở châu Á, không chỉ trong giao thông vận tải mà còn cho việc sản xuất điện. Tuy nhiên, hệ thống lọc dầu toàn cầu không đủ công suất chuyển đổi sâu từ dầu thô nặng sang các sản phẩm chưng cất trung gian. Sự thiếu hụt công suất này đã tạo ra nhu cầu bổ sung đối với các sản phẩm dầu thô nhẹ, bao gồm các loại theo chuẩn WTI (West Texas Intermediate), khiến giá dầu càng tăng hơn nữa.
Những yếu tố khác, bao gồm các vấn đề ở vài quốc gia xuất khẩu năng lượng lớn, cũng góp phần làm tăng giá dầu. Thực tế, giai đoạn giá dầu tăng cao hiện tại bắt đầu vào cuối năm 2002 và đầu năm 2003, ngay trước lúc bắt đầu chiến tranh Iraq, khi quyết tâm của Tổng thống Hugo Chávez trong việc củng cố kiểm soát đối với hệ thống chính trị, các công ty dầu mỏ quốc doanh, cũng như doanh thu từ dầu mỏ của Venezuela, đã làm nổ ra các cuộc đình công và biểu tình. Điều này dẫn đến việc gián đoạn sản xuất dầu của Venezuela, một trong những quốc gia xuất khẩu dầu ổn định nhất từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lượng dầu cung cấp cho thị trường thế giới bị sụt giảm do những cuộc đình công khá đáng kể, thậm chí còn nhiều hơn so với ảnh hưởng của chiến tranh Iraq đối với các nguồn cung dầu. Sản lượng dầu của Venezuela vẫn chưa hoàn toàn phục hồi, và hiện thấp hơn khoảng 500.000 thùng mỗi ngày so với mức sản lượng trước khi nổ ra các cuộc đình công.
Chế độ sụp đổ của Saddam không phóng hỏa hết các cơ sở sản xuất dầu trong suốt cuộc chiến tranh năm 2003 như nhiều người lo ngại, nhưng việc sản lượng dầu của Iraq sẽ tăng nhanh sau cuộc chiến mà nhiều người kỳ vọng cũng chắc chắn đã không xảy ra. Hàng chục tỉ đô la cần có để đưa tổng sản lượng của nước này trở lại mức đỉnh điểm 3,5 triệu thùng mỗi ngày như năm 1978 đã không được đầu tư do những cuộc tấn công không ngừng nhằm vào cơ sở hạ tầng và lực lượng lao động, lẫn sự bất ổn của hệ thống pháp luật và chính trị Iraq cũng như khuôn khổ pháp lý hợp đồng cho việc đầu tư. Kết quả là, lượng dầu xuất khẩu của Iraq thấp hơn so với mức trước chiến tranh từ 30% đến 40%.
Trái lại, hơn năm năm qua, những mỏ dầu ở Nga đang đóng vai trò trung tâm đối với tăng trưởng nguồn cung của thế giới, cung cấp khoảng 40% tổng sản lượng dầu cho thế giới từ năm 2000. Nhưng sự gia tăng sản lượng dầu mỏ ở Nga đã chậm lại đáng kể trong năm qua do những rủi ro chính trị, thiếu vốn đầu tư, chính sách chính phủ hay thay đổi, những rào cản trong việc điều tiết, và những thách thức về mặt địa chất ở một số vùng. Trong khi đó, dù một số quốc gia cung cấp dầu lớn phải đối mặt với những khó khăn như vậy, nhưng những nguồn cung dầu ít được chú ý hơn, ví dụ như những mỏ ngoài khơi Brazil và Angola, lại đang tăng sản lượng – cho đến khi bão Katrina và Rita đã làm gián đoạn 27% sản lượng khai thác dầu của nước Mỹ (cũng như 21% khả năng lọc dầu của các nhà máy ở nước này). Tới cuối tháng 1 năm 2006, một số dàn khoan ở Mỹ vốn có thể sản xuất đến 400.000 thùng dầu một ngày trước khi xảy ra các cơn bão vẫn chưa thể hoạt động trở lại. Nhìn chung, bài học trong những năm vừa qua đã chứng minh rằng thị trường khan hiếm là thị trường dễ tổn thương trước các biến cố.
Tất cả những vấn đề trên đã làm dấy lên đợt lo ngại mới về việc thế giới sẽ cạn kiệt dầu. Những đợt lo ngại này đã diễn ra lặp đi lặp lại từ những năm 1880. Nhưng sản lượng dầu mỏ của thế giới thực tế đã tăng khoảng 60% từ những năm 1970, lần gần nhất mà thế giới được cho là không còn dầu. (Cú sốc cầu năm 2004 đã gây nhiều chú ý hơn sự kiện giảm cầu năm 2005, khi mức tiêu thụ của Trung Quốc hoàn toàn không tăng lên và mức cầu thế giới đã quay về mức tăng trung bình của thời kì 1994 – 2003). Mặc dù những bàn tán về việc sản lượng dầu sắp đạt tới mức đỉnh và sau đó là sự giảm sút nhanh chóng đã trở nên quen thuộc, nhưng phân tích từng dự án và kế hoạch khai thác từng mỏ dầu một của CERA đã chỉ ra rằng năng lực sản xuất ròng có thể tăng lên từ 20 đến 25% trong thập niên tiếp theo. Bất chấp tình trạng bi quan hiện tại, giá dầu cao sẽ dẫn tới một hệ quả tất yếu: nguồn cung nhiên liệu sẽ tăng lên nhờ đầu tư tăng đáng kể cũng như nhờ việc biến những dự án có cơ hội ít ỏi thành những triển vọng thương mại (tất nhiên, còn có tác động hạn chế bớt nguồn cầu và kích thích sự phát triển các năng lượng thay thế).
Một phần lớn khả năng cung cấp dầu gia tăng này đang được thực hiện. Phần nhiều sẽ nhờ vào việc khai thác những nguồn cung phi truyền thống, từ cát dầu ở Canada (hay còn gọi là cát hắc ín) đến những mỏ dầu ở tầng nước cực sâu tới các loại nhiên liệu giống diesel chất lượng cao có nguồn gốc từ khí tự nhiên – tất cả đều trở nên có thể nhờ các tiến bộ về công nghệ. Tuy nhiên, những nguồn cung truyền thống cũng sẽ gia tăng: Ả-rập Xê-út đang trên đà tăng năng suất khoảng 15%, tương đương với mức 12 triệu thùng dầu mỗi ngày vào năm 2009, và các dự án khác đang được triển khai khắp nơi, như ở biển Caspi và thậm chí ở các giếng dầu ngoài khơi nước Mỹ. Mặc dù các công ty năng lượng sẽ phải thăm dò dầu khí trong các môi trường khó khăn, nhưng cản trở lớn nhất đối với việc tăng nguồn cung không phải là về mặt địa chất mà là về mặt con người, cụ thể là, các vấn đề quốc tế, chính trị, quyết định của chính phủ, cũng như việc phát triển công nghệ mới và đầu tư cho năng lượng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng những dự đoán hiện tại cho thấy rằng sau năm 2010 sẽ có ít quốc gia hơn có khả năng tăng nguồn cung so với hiện nay, điều này có thể làm trầm trọng thêm các lo ngại về an ninh.
Một khuôn khổ mới
Hệ thống an ninh năng lượng hiện nay được thiết lập nhằm phản ứng lại sự kiện cấm vận dầu mỏ Arab năm 1973, với mục tiêu đảm bảo sự điều phối giữa các nước công nghiệp hóa trong trường hợp nguồn cung bị gián đoạn, khuyến khích sự hợp tác về chính sách năng lượng, tránh việc đổ xô tranh giành nguồn cung, và ngăn chặn việc các nước xuất khẩu sử dụng “vũ khí dầu mỏ” trong tương lai. Những nhân tố chính trong hệ thống này là Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) với trụ sở chính ở Paris, bao gồm các thành viên là các quốc gia công nghiệp hóa; các kho dự trữ dầu chiến lược, bao gồm Cơ quan Dự trữ Dầu Chiến lược của Mỹ; sự giám sát và phân tích liên tục các chính sách và thị trường năng lượng; bảo tồn năng lượng và chia sẻ khẩn cấp nguồn cung dầu trong trường hợp khủng hoảng. Hệ thống dự phòng khẩn cấp được thiết lập nhằm hạn chế trường hợp gián đoạn nguồn cung lớn đe dọa sự ổn định và nền kinh tế thế giới, chứ không phải nhằm điều tiết giá cả và các loại hàng hóa. Kể từ khi hệ thống ra đời những năm 1970, sự suy giảm kho dầu dự phòng chiến lược khẩn cấp có điều phối đã từng xảy ra hai lần: trước cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và sau cơn bão Katrina vào mùa thu năm 2005. (Hệ thống này cũng được đặt trong tình trạng sẵn sàng sử dụng trước ngày 1 tháng 1 năm 2000 do lo ngại về những vấn đề tiềm tàng từ vụ lỗi máy tính Y2K, trong suốt khoảng thời gian sản xuất dầu mỏ bị đình trệ ở Venezuala năm 2002 – 2003, và vào mùa xuân năm 2003, trước khi chiến tranh Iraq xảy ra.)
Lịch sử cho thấy để duy trì an ninh năng lượng, các quốc gia phải chấp nhận một số nguyên tắc. Nguyên tắc đầu tiên và quen thuộc nhất chính là điều mà Churchill đã thúc dục hơn 90 năm về trước: đó là đa dạng hóa nguồn cung. Sự đa dạng này sẽ làm giảm ảnh hưởng của việc gián đoạn nguồn cung nhờ có những nguồn khác thay thế, cũng như mang lại thị trường ổn định, vốn là mối quan tâm hàng đầu của cả người tiêu dùng lẫn người sản xuất. Nhưng chỉ đa dạng hóa thì chưa đủ. Qui tắc thứ hai là khả năng hồi phục nhanh, một “khoảng dư an ninh” trong hệ thống cung cấp năng lượng cho phép tạo ra vùng đệm chống lại những cú sốc và tạo điều kiện hồi phục sau khủng hoảng. Khả năng hồi phục còn đến từ nhiều yếu tố, bao gồm năng suất dự phòng đủ lớn, các kho dự trữ chiến lược, nguồn cung thiết bị dự phòng, khả năng dự trữ đầy đủ theo chuỗi cung ứng, việc dự phòng đầy đủ các máy móc phụ tùng thiết yếu cho việc sản xuất và phân phối điện, cũng như những kế hoạch suy tính thận trọng nhằm ứng phó với việc gián đoạn nguồn cung trên diện rộng. Vì vậy, nguyên tắc thứ ba là sự nhận thức về bản chất liên kết. Chỉ có một thị trường dầu mỏ duy nhất, một hệ thống phức tạp và rộng khắp toàn cầu vận chuyển và tiêu thụ khoảng 86 triệu thùng dầu mỗi ngày. Đối với tất cả các quốc gia tiêu dùng, an ninh phụ thuộc vào sự ổn định của thị trường này. Tách biệt khỏi nó không phải là một lựa chọn khả dĩ.
Nguyên tắc thứ tư chính là tầm quan trọng của thông tin. Thông tin chất lượng cao sẽ làm nền tảng cho thị trường thực hiện tốt chức năng. Ở cấp độ quốc tế, IEA đã dẫn đường trong việc cải thiện dòng chảy thông tin về thị trường thế giới và những triển vọng ngành công nghiệp năng lượng. Công việc này cũng đang được hỗ trợ bởi Diễn đàn Năng lượng Quốc tế (IEF), vốn sẽ tìm cách hợp nhất các thông tin từ nhà sản xuất và người tiêu dùng. Thông tin đóng vai trò quan trọng không kém trong các cuộc khủng hoảng, bởi khi đó sự hoảng sợ của người tiêu dùng có thể bị kích thích bởi sự kết hợp giữa gián đoạn nguồn cung thực tế, các tin đồn và nỗi sợ hãi. Trong khi đó, sự thật có thể bị che lấp bởi những lời buộc tội, những mâu thuẫn, sự phẫn nộ, và sự truy tìm bằng chứng cho các thuyết âm mưu, từ đó khiến cho thực trạng đã xấu càng xấu hơn. Những lúc như vậy, chính phủ và lĩnh vực tư nhân nên hợp tác để đối phó với sự hoảng loạn bằng những thông tin kịp thời, chính xác. Chính phủ Mỹ có thể tăng cường sự linh hoạt và điều chỉnh của thị trường bằng cách thúc đẩy liên lạc với các doanh nghiệp và cho phép trao đổi thông tin giữa họ với nhau, và nếu cần sẽ đi kèm các biện pháp chống độc quyền phù hợp.
Nguyên tắc thứ năm không kém phần quan trọng, đó là: những năm qua đã cho thấy rõ sự cần thiết mở rộng khái niệm an ninh năng lượng theo hai chiều: sự công nhận tính toàn cầu hóa của hệ thống an ninh năng lượng, điều có thể đạt được nhờ sự tham gia của Trung Quốc vầ Ấn Độ; và sự thừa nhận sự thật rằng toàn bộ chuỗi cung ứng năng lượng đang cần được bảo vệ.
Cơn khát năng lượng của Trung Quốc đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong kịch bản các tiểu thuyết và phim ảnh. Thậm chí trong thế giới thực, rõ ràng Mỹ đã nhận ra chiến lược lớn của Trung Quốc nhằm giành lấy những nguồn cung khí đốt và dầu mỏ mới trước mũi Mỹ và các nước phương Tây, và một vài nhà chiến lược ở Bắc Kinh lo ngại rằng Hoa Kì sẽ tìm cách cản trở những nguồn cung năng lượng ở nước ngoài của Bắc Kinh. Nhưng thực tế không đến mức gay cấn như vậy. Ví dụ như, trái với những sự chú ý dành cho nỗ lực trong giành các mỏ dầu nước ngoài của Trung Quốc, tổng sản lượng dầu mà Trung Quốc hiện sản xuất bên ngoài biên giới quốc gia mỗi ngày chỉ tương đương khoảng 10% sản lượng thường nhật của một trong những công ty dầu mỏ lớn nhất [thế giới]. Nếu có một cuộc tranh cãi lớn giữa Mỹ và Trung Quốc liên quan đến dầu mỏ hay khí đốt, thì có lẽ sẽ không phải do sự cạnh tranh khai thác tài nguyên giữa hai nước, mà là vì việc khai thác dầu đã trở thành một phần của các vấn đề chính sách đối ngoại rộng lớn hơn (như mâu thuẫn đối với một chế độ cụ thể nào đó, hay về cách đáp trả chương trình hạt nhân của Iran như thế nào). Thực ra, theo quan điểm của người tiêu dùng ở Bắc Mỹ, châu Âu, và Nhật Bản, đầu tư của Trung Quốc và Ấn Độ trong việc phát triển những nguồn cung năng lượng mới khắp thế giới không phải là một mối đe dọa mà là điều đáng mong muốn, vì như vậy sẽ có thêm nhiều năng lượng cung cấp cho mọi người trong những năm tiếp theo.
Hơn nữa, việc đưa hai quốc gia lớn này vào mạng lưới đầu tư và thương mại thế giới sẽ là giải pháp cấp bách và khôn ngoan hơn so với việc để hai nước này đi theo hướng chủ nghĩa trọng thương, song phương giữa các nhà nước tách biệt. Việc này đòi hỏi cần phải hiểu Trung Quốc và Ấn Độ nhìn nhận an ninh năng lượng đối với họ nghĩa là gì. Cả hai nước đã nhanh chóng chuyển từ tự cung tự cấp sang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, có nghĩa là hai nước sẽ ngày càng phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn, bởi cả hai gặp áp lực lớn trong việc mang lại tăng trưởng kinh tế cho dân số khổng lồ, vốn đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng và mất điện hàng ngày. Do đó, mối lo ngại lớn nhất của Trung Quốc và Ấn Độ là làm sao đảm bảo có đủ năng lượng cung cấp cho sự phát triển kinh tế và ngăn chặn tình trạng thiếu hụt năng lượng vốn có thể dẫn đến bất ổn chính trị – xã hội. Đối với Ấn Độ, nơi cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán năm 1990 vẫn còn in đậm trong tâm trí các nhà hoạch định chính sách, sản xuất quốc tế cũng là một cách để đối phó với rủi ro giá dầu tăng cao. Vì vậy Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như những quốc gia chủ chốt khác như Brazil, nên được đưa vào hệ thống an ninh năng lượng IEA hiện có nhằm trấn an họ rằng lợi ích của họ sẽ được bảo vệ trước những bất ổn và để rằng hệ thống này sẽ làm việc hiệu quả hơn.
An ninh và sự linh hoạt
Những cú sốc trong tương lai
Xem phần còn lại của bài viết tại đây: Ensuring energy security
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:26:38 GMT 9
Sự dẻo dai của chế độ chuyên chế
Nguồn: Nathan, Andrew J. (2003). “Authoritarian Resilience”, Journal of Democracy 14 (1), pp. 6-17.
Biên dịch: Nguyễn Việt Vân Anh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: Authoritarian Resilience – A.Nathan
Sau khủng hoảng Thiên An Môn (tháng 6, 1989), nhiều nhà quan sát cho rằng sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) sẽ sụp đổ. Thế nhưng, chế độ này lại đưa lạm phát xuống tầm kiểm soát, phục hồi tăng trưởng kinh tế, mở rộng ngoại thương và thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trung Quốc cũng phục hồi quan hệ với các nước G7 trước đây từng áp đặt cấm vận lên nước này, tái khởi động các cuộc họp thượng đỉnh với Hoa Kì, làm chủ quá trình trao trả Hong Kong và giành quyền đăng cai Thế Vận Hội 2008 tại Bắc Kinh. Nhà nước Trung Quốc vẫn tiếp tục bắt giam hoặc trục xuất các nhà hoạt động chính trị chống đối, đập tan Đảng Dân chủ Trung Quốc mới nổi và dường như đã đàn áp thành công phong trào tôn giáo Pháp Luân Công.
Nhiều chuyên gia về Trung Quốc và các học giả nghiên cứu dân chủ, bao gồm cả tôi, trông đợi sự sụp đổ của chế độ này trong “Làn sóng dân chủ hóa thứ 3”.[1] Thế nhưng, chế độ này đã tự củng cố. Lý thuyết về các chế độ cầm quyền (regime theory) cho rằng các chế độ chuyên chế tự thân chúng đã yếu ớt vì tính chính danh (legitimacy) kém, dựa quá nhiều vào áp bức, tập quyền quá độ, và để cho quyền lực cá nhân áp đảo các chuẩn mực thể chế. Tuy nhiên, hệ thống chuyên chế của Trung Quốc lại đã chứng minh được sự dẻo dai của mình.[2]
Nguồn gốc của sự dẻo dai này vô cùng phức tạp. Nhiều nguyên nhân có thể được tóm gọn trong khái niệm “thể chế hoá” (institutionalization). Khái niệm này có thể hiểu theo nghĩa hiện đại như là việc các hành vi của con người bị hạn chế bởi các quy tắc chính thức hoặc không chính thức, hoặc có thể hiểu theo nghĩa cũ hơn được Samuel Huntington[3] gọi là tổng hợp các đặc điểm bao gồm tính thích nghi, tính tinh vi, tính tự trị và tính gắn kết của các tổ chức nhà nước. Bài viết này tập trung vào bốn phương diện chính của quá trình thể chế hoá trong chế độ của Đảng Cộng sản Trung Quốc: 1) Quá trình chuyển giao quyền lực giữa các thế hệ lãnh đạo ngày càng dựa trên các chuẩn tắc; 2) Việc đề bạt tầng lớp tinh hoa chính trị ngày càng dựa trên thành tích hơn là quan hệ bè phái; 3) Sự phân công và chuyên môn hoá về chức năng của của các thể chế trong bộ máy nhà nước; và 4) Sự thành lập các thể chế nhằm gia tăng sự tham gia chính trị và tính hấp dẫn đối với quần chúng nhằm giúp củng cố tính chính danh của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong toàn dân. Mặc dù những diễn biến trên không đảm bảo rằng chế độ này sẽ giải quyết được hết các khó khăn gặp phải, chúng cho thấy chúng ta cần cẩn trọng trước các lập luận vội vàng cho rằng chế độ này không thể thích nghi và tồn tại.
Chuyển giao quyền lực dựa trên các chuẩn tắc
Khi bài viết này được công bố, chính quyền Trung Quốc đang chứng minh sự ổn định hệ thống của mình: sự chuyển giao quyền lực hoà bình, trật tự từ thế hệ lãnh đạo thứ ba, đứng đầu là Giang Trạch Dân, sang thế hệ thứ tư, đứng đầu là Hồ Cẩm Đào. Rất ít các chế độ chuyên chế (dù là cộng sản, phát-xít, tập đoàn hay cá nhân) có thể thực hiện được việc chuyển giao quyền lực một cách hoà bình, trật tự, ổn định và kịp thời như vậy. Trong đa số các trường hợp, giai đoạn chuyển giao thường diễn ra trong khủng hoảng, trước hoặc sau lịch trình định sẵn, đi kèm là các vụ bắt bớ, thanh trừng, chia bè kéo phái, thỉnh thoảng là bạo động và vũ lực, tạo cơ hội cho sự xâm nhập hỗn loạn của quần chúng hoặc quân đội vào các quá trình chính trị. Sự thành công trong quá trình chuyển giao lãnh đạo của Trung Quốc thể hiện mức độ thể chế hoá chưa từng thấy trong lịch sử của các chế độ chuyên chế lẫn lịch sử Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Đây là sự kế thừa hoà bình, ổn định, trật tự, có mục đích và hợp pháp nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, nếu không tính đến sự phát triển của nền dân chủ đại diện (electoral democracy) gần đây ở Đài Loan.[4]
Tổng bí thư mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, người được bầu trong đại hội toàn quốc lần thứ 16 của Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức vào tháng 11 năm 2002 đã được xem là người kế vị từ 10 trước. Bốn trong số tám vị trí chủ chốt (Ngô Bang Quốc, Ôn Gia Bảo, Tăng Khánh Hồng và La Cán) đã được chọn sẵn từ 2 đến 3 năm trước. Bốn vị trí còn lại trong Thường vụ Bộ Chính trị đơn giản cũng được đề bạt từ số các thành viên Bộ Chính trị khóa trước. Trừ khi có khủng hoảng, quá trình chuyển giao này kết thúc trong ổn định vào tháng 3 năm 2003 khi Hồ Cẩm Đào được bầu làm Chủ tịch nước và Bí thư Quân uỷ Trung ương, Ngô Bang Quốc trở thành Chủ tịch Quốc hội và Ôn Gia Bảo trở thành Thủ tướng. Các nhà lãnh đạo mãn nhiệm như Chủ tịch nước Giang Trạch Dân, Chủ tịch Quốc hội Lí Bằng và thủ tướng Chu Dung Cơ rời khỏi các chức vụ trong Đảng vào mùa Thu, và không còn đóng vai trò trực tiếp nào nữa về chính trị.
Cần phải nhìn lại quá trình lịch sử ta mới có thể thấy sự chuyển giao này là một sự thành công và tiến bộ lớn. Trong những năm Mao Trạch Đông tại vị, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc hội ít khi tổ chức họp, và nếu có cũng thường không theo đúng lịch cụ thể. Chúng ta cũng không thấy nhiệm kì cụ thể hay hạn chế tuổi tác cho vị trí “lãnh đạo tối cao”: Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đều giữ quyền lực tối cao cho đến cuối đời. Ta cũng không thấy sự kế thừa quyền lực một cách trật tự của người kế nhiệm: Mao Trạch Đông thanh trừng chủ tịch nước Lưu Thiếu Kì bằng cách cho Hồng Vệ Binh cầm tù ông cho đến lúc chết. Người được chỉ định thừa kế chính thức Mao Trạch Đông là Lâm Bưu, bị cho là tìm cách tiếm quyền Mao, sau khi bị phát hiện đã chết trong một vụ rơi máy bay khi đang đào thoát. Mao Trạch Đông sau đó bổ nhiệm Hoa Quốc Phong làm người thừa kế đơn giản bằng cách nói rằng Hoa Quốc Phong là “lựa chọn” của mình. Theo lệnh của Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong bị cách chức trước khi mãn nhiệm. Đặng Tiểu Bình cũng loại trừ chính hai người kế tục mà mình lựa chọn, đó là Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương. Đặng Tiểu Bình cùng những nhà lãnh đạo lão thành khác vượt mặt Bộ Chính trị vào năm 1989 khi đặt Giang Trạch Dân vào vị trí kế nhiệm lãnh đạo Đảng.
Nếu đem so sánh với những tiền lệ trong quá khứ, ta có thể thấy sự kế thừa chính trị gần đây mang nhiều điểm mới, biểu thị sự thể chế hoá:
Giang Trạch Dân hoàn thành hết toàn bộ các nhiệm kỳ của mình: Ông được bầu vào vị trí Tổng Bí thư năm 1989, tái đắc cử vào các năm 1992 và 1997, phục vụ tổng cộng hai nhiệm kỳ rưỡi (Giang Trạch Dân cũng lên giữ chức Chủ tịch Quân uỷ Trung ương vào năm 1989 và Chủ tịch nước vào năm 1992). Người đỡ đầu cho Giang Trạch Dân không loại bỏ ông (mặc dù Đặng Tiểu Bình từng có ý định này vào năm 1992). Giang Trạch Dân lên chức Tổng Bí thư qua mặt Lí Bằng và Lý Thuỵ Hoàn, nhưng hai vị này, dù có những xích mích với Giang Trạch Dân, đã không tìm cách thay thế ông. Để củng cố quyền lực, Giang sắp xếp loại bỏ quyền lực của Dương Thượng Côn (1992) và Kiều Thạch (1997), nhưng cả 2 người này cũng không tìm cách truất quyền của Giang Trạch Dân. Giang Trạch Dân mãn nhiệm theo đúng thời hạn đã định. Năm 1997, Bộ Chính trị đưa ra một luật bất thành văn rằng các lãnh đạo cấp cao không được tái bổ nhiệm nếu đã 70 tuổi. Vào thời điểm đó, Giang Trạch Dân đã 71 tuổi nhưng ông tuyên bố mình là một ngoại lệ duy nhất và hứa sẽ nghỉ hưu vào năm 2002. Lời hứa này cùng với việc Giang Trạch Dân vào năm 2002 đã 76 tuổi khiến ít người nghĩ tới việc ông ta sẽ tiếp tục tại vị, mặc dù báo chí nước ngoài từng suy đoán Giang cố gắng giữ ghế. Quy định giới hạn 70 tuổi này cũng bắt buộc Giang Trạch Dân phải mãn nhiệm vị trí Chủ tịch Quân uỷ Trung ương, vị trí mà trước nay chưa hề có nhiệm kì hay hạn chế tuổi tác và quy định năm 1997 cũng không được áp dụng rõ ràng cho vị trí này. Vị trí thứ 3 của Giang Trạch Dân là chủ tịch nước đã được Hiến pháp quy định chỉ được 2 nhiệm kì. Giang Trạch Dân là lãnh đạo đầu tiên trong lịch sử của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không chọn người kế vị. Mao Trạch Đông đã chọn Lưu Thiếu Kì, Lâm Bưu, Hoa Quốc Phong. Đặng Tiểu Bình từng chọn nhiều người kế tục như Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương, Giang Trạch Dân. Thay vào đó, Đặng Tiểu Bình chọn người kế nhiệm Giang Trạch Dân bằng cách dọn đường cho Hồ Cẩm Đào trở thành thành viên trẻ tuổi nhất của Thường vụ Bộ Chính trị vào năm 1992. Và trong 10 năm Hồ Cẩm Đào ở trong Thường Vụ Bộ Chính trị với tư cách người kế nhiệm được chỉ định không chính thức thì Giang Trạch Dân cũng không tìm cách loại bỏ ông. Thủ tướng sắp lên cầm quyền Ôn Giả Bảo được chọn theo đề nghị của thủ tướng Chu Dung Cơ, qua mặt Ngô Bang Quốc hoặc Lí Trường Xuân, vốn là những lựa chọn của Giang Trạch Dân. Những lãnh đạo về hưu không tìm cách can thiệp vào quá trình kế thừa cũng như các quyết định khác. Quyền can thiệp của 3 nhà lãnh đạo lão thành Đặng Tiểu Bình, Trần Vân, Lí Tiên Niệm được dựa trên một nghị quyết bí mật của Bộ Chính trị vào năm 1987 và được củng cố bởi việc Đặng Tiểu Bình nắm chức Chủ tịch Quân uỷ Trung ương. Quyền can thiệp nói trên thể hiện rõ nhất trong sự kiện Thiên An Môn năm 1989.[5] Năm 1997, người cuối cùng trong bộ 3 này là Đặng Tiểu Bình qua đời. Một tầng lớp các lãnh đạo lão thành mới được thành lập khi Kiều Thạch cùng một số vị khác rời khỏi Thường vụ Bộ Chính trị. Nghị quyết 1987 nói trên không được áp dụng cho lớp lãnh đạo lão thành mới, và không ai trong số họ tiếp tục có mặt trong Quân uỷ Trung ương. Sau khi về hưu họ vẫn tiếp tục được nhận những tài liệu nội bộ của Đảng và thỉnh thoảng đưa ra ý kiến,[6] nhưng họ không được tham gia các cuộc họp của Bộ Chính trị và không được thực hiện quyền đưa ra quyết định. Quân đội không can thiệp vào quá trình chuyển giao lãnh đạo. Mặc dù có một số lãnh đạo cấp cao của quân đội đưa ra ý kiến ủng hộ Giang Trạch Dân tiếp tục giữ chức Bí thư Quân uỷ Trung ương, các ý kiến này đã không được xem xét. Các tướng lĩnh trên không đưa ra ý kiến về các lãnh vực khác trong việc chuyển giao quyền lực. Việc chuyển giao quyền lực giữa các tướng lĩnh quân đội trong Quân ủy Trung ương cũng được thực hiện gần giống với phía dân sự: Các sĩ quân cấp cao trên 70 tuổi và có liên quan đến Giang Trạch Dân như đại tướng Fu Quanyou và Yu Yongbo đều về hưu và được thay thế bởi lớp các sĩ quan trẻ. Cũng theo truyền thống có từ năm 1997, không có sĩ quan quân đội nào được bầu vào Thường vụ Bộ Chính trị, chỉ có một số đại diện của quân đội được tham gia vào Bộ Chính trị mà thôi. Việc lựa chọn các thành viên của Bộ Chính Trị mới nhận được sự đồng thuận của Bộ Chính trị cũ. Quá trình này chắc chắn do các thành viên kỳ cựu làm chủ, và mỗi người đều cố gắng đưa người thân quen vào Bộ Chính trị nhiệm kỳ mới. Nhưng những cân nhắc mang tính bè phái này đều diễn ra trong các giới hạn đặt ra bởi nhu cầu cần có sự đồng thuận giữa các lãnh đạo. Không lãnh đạo cấp cao nào, bao gồm Giang Trạch Dân, Lí Bằng hay Chu Dung Cơ, đủ quyền lực để áp đặt người do mình để cử lên các thành viên Bộ Chính trị khác trái với mong muốn của họ. Trong lịch sử Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chưa từng xảy ra việc chuyển giao quyền lãnh đạo được sắp xếp từ sớm đến vậy. Quá trình kế thừa này cũng diễn ra ổn định và giúp chuyển giao hoàn toàn quyền lực một cách rõ ràng sang cho thế hệ lãnh đạo mới. Điều này không có nghĩa rằng bè phái đã biến mất nhưng nó cho thấy quyền lực của các lãnh đạo Đảng giờ ở một trạng thái cân bằng lẫn nhau nhờ những bài học từ lịch sử. Các nhánh phái quyền lực hiện nay không đủ mạnh để phá bỏ luật chơi khó khăn lắm mới có thể đạt được này. Và quan trọng hơn hết là họ cũng không có ý định làm vậy. Hiện nay, tại Trung Quốc cũng không tồn tại một nhân vật nào với quyền lực tối cao có thể làm đảo lộn các luật lệ trên, điều này giúp cho các luật chơi càng thêm vững mạnh.
Việc trọng dụng nhân tài dần thay đổi tính bè phái
Tính bè phái đóng một phần vai trò trong việc chuyển giao quyền lực. Nhưng quá trình sàng lọc nhân tài diễn ra suốt 20 năm cho những đề cử chủ chốt giúp giảm thiểu chính trị bè phái. Trừ những năm Đại Cách mạng Văn hoá (1966-76), cả hai yếu tố tài năng và phe phái đều được cân nhắc trong quá trình đề bạt cán bộ của nhà nước độc đảng Trung Quốc. Trước đây, dù là trong giai đoạn nhân tài được trân trọng nhất thì yếu tố quyết định trong việc đề bạt lãnh đạo cấp cao chính là khả năng thích ứng với những biến đổi quyền lực và lòng trung thành cá nhân với các lãnh đạo tối cao như Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu Bình. Dù dàn lãnh đạo mới hiện nay vừa thao lược về chính trị vừa sắc bén về ý thức hệ, và đa phần có quan hệ gắn bó với một lãnh đạo cấp cao nào đấy, nhưng họ vươn lên chủ yếu nhờ vào khả năng quản lí, kiến thức kỹ thuật, nền tảng học thức và lòng trung thành với Đảng hơn là với một cá nhân nào đó.
Quá trình này bắt đầu vào năm 1980 khi Đặng Tiểu Bình chỉ thị các lãnh đạo cấp cao của Đảng tiến hành “tứ hoá” đối với đội ngũ cán bộ bằng cách tìm kiếm và trọng dụng những Đảng viên trên dưới 40 tuổi phù hợp với tiêu chí “cách mạng hoá, thanh niên hoá, trí thức hoá, và chuyên nghiệp hoá”. Thông qua con đường này mà Hồ Cẩm Đào được Bí thư Tỉnh ủy Cam Túc, nơi ông làm việc lúc đó, đề bạt thăng chức qua nhiều cấp, Ngô Bang Quốc được chọn làm bí thư Đảng ủy của Hội đồng Khoa học và Công nghệ Thượng Hải, Ôn Gia Bảo trở thành phó trưởng phòng Cục Địa chất tỉnh Cam Túc. Đối với các thành viên mới khác của Bộ Chính Trị, câu chuyện cũng gần tương tự.
Năm 1983, Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lập một danh sách các đảng viên trẻ hứa hẹn của thế hệ “tứ hoá” để tham khảo mỗi khi cần đề bạt một cán bộ trẻ vào các chức vụ cấp bộ. Hồ Cẩm Đào được chọn trong danh sách này để nhậm chức Bí thư tỉnh uỷ Quý Châu, Ôn Gia Bảo nhậm chức Phó Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương Đảng,vv… Cũng bằng chính sách trẻ hóa cán bộ này mà Đặng Tiểu Bình đã ra chỉ thị yêu cầu bầu một đảng viên dưới 50 tuổi vào Thường vụ Bộ Chính trị nhiệm kì 14 vào năm 1992. Người được lựa chọn là Hồ Cẩm Đào. Điều này cho thấy việc nhậm chức Tổng Bí thư là kết quả của một quá trình trật tự được khởi động từ trước đó 20 năm.
Năm trong số chín thành viên mới của Thường vụ Bộ Chính trị đều là ủy viên hoặc ủy viên dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào năm 1982. Điều này cho thấy quá trình kế thừa được thực hiện có chủ ý và theo định kỳ. Việc chọn lựa các thành viên Thường vụ Bộ Chính trị từ nhóm nhỏ các ứng viên đã qua 20 năm rèn luyện và sàng lọc đã hạn chế bớt vai trò của chủ nghĩa bè phái trong giai đoạn 2000 đến 2002. Giang Trạch Dân có thể chống lưng cho Tăng Khánh Hồng và Tăng Bồi Viêm, Lý Bằng cho La Cán, và Chu Dung Cơ cho Ôn Gia Bảo, nhưng phải dựa trên thành tích của những người này trong 20 năm ở các chức vụ khó khăn về hành chính và kỹ thuật, chứ không phải dựa trên tầm quan trọng mang tính biểu tượng (như Mao Trạch Đông đề cử Trần Vĩnh Quý) hoặc dựa trên lý do ý thức hệ (như việc Mao Trạch Đông thăng chức cho Bè lũ Bốn tên).
Quy chuẩn về tính trung lập dần được chấp nhận bởi các lãnh đạo cấp cao ở Trung ương Đảng, Quốc vụ viện và Quân uỷ Trung ương, nên việc tiến thân của các đảng viên ưu tú sẽ không bị cản trở bởi tính bè phái ở cấp cao nhất. Khi Triệu Tử Dương mất quyền vào năm 1989, một vài người thân cận của ông lập tức bị thanh trừng, nhưng phần lớn trong số đó dần chuyển qua công tác ở cấp hành chính thứ yếu hơn trong vòng vài năm sau đó. Một vài người thậm chí tiếp tục thăng tiến. Ví dụ như Ôn Gia Bảo 8 năm liền giữ trọng trách là Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương Đảng dưới cả 3 đời tổng bí thư Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương và Giang Trạch Dân. Điều này khác xa với những gì diễn ra trong quá khứ: khi một lãnh đạo bị thanh trừng, tất cả các nhân vật thân cận đều bị giáng xuống vài ba cấp trong hệ thống chính trị. Cơ chế mới giúp cho các nhân vật có tài được thăng tiến, hạn chế mặt trái của tính phe phái.
Sản phẩm của quá trình được chính quy hóa và ít bè phái hơn này là một lực lượng lãnh đạo có tài năng và tinh thần cao, đại diện cân bằng cho các phe phái trong Đảng. Vì không có một hoặc hai cá nhân áp đảo nên cơ chế quyết định tập thể bị hạn chế. Nhóm lãnh đạo này cũng chia sẻ quyền lực tương tự như các hệ thống lãnh đạo chính trị khác, bởi các cá nhân đều thăng tiến thông qua quá trình sàng lọc như nhau nên họ cho quá trình đó là tương đối công bằng.[7] Liệu những sự kiện nói trên có đảm bảo quá trình chuyển giao quyền lực trong tương lai được ổn định hay không vẫn còn bỏ ngỏ, nhưng khả năng đó được tăng lên khi quá trình chuyển giao quyền lực hiện tại giúp củng cố những quy định được giới lãnh đạo ủng hộ (ví dụ, giới hạn độ tuổi dưới 70) và dựa trên bài học lịch sử (như các quy định về hệ thống trọng dụng và đề bạt người tài), và sự cố kết về mặt cấu trúc dựa trên cơ cấu chính trị phi chính thức về cân bằng quyền lực giữa các phe phái.
Sự chuyên môn hóa các tổ chức trong bộ máy nhà nước
Các thể chế nhằm gia tăng sự tham gia chính trị và tính chính danh của chế độ
Chế độ chuyên chế đang chuyển đổi?
Xem các phần còn lại của bài viết tại đây: Authoritarian Resilience – A.Nathan
Andrew J. Nathan là giáo sư Khoa học chính trị tại Đại học Columbia. Ông đồng biên tập với Perry Link cuốn sách The Tiananmen Papers [Những tài liệu Thiên An Môn] (xuất bản 2001) và đồng tác giả với Bruce Gilley cuốn sách China’s New Rulers: The Secret Files [Những nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc: Những tài liệu mật] (xuất bản 2002).
[1] Ví dụ, xem thảo luận nhiều tác giả về nền dân chủ Trung Quốc trong Journal of Democracy 9 (January 1998)
[2] Nói theo một khái niệm của thuyết củng cố dân chủ, Đảng Cộng sản Trung Quốc thể hiện mình là lựa chọn duy nhất và đang trong quá trình thực hiện thành công quá trình chuyển giao quyền lực.
[3] Samuel P. Huntington, Political Order in Changing Societies (New Haven: Yale University Press, 1968), 12–24.
[4] Dữ liệu thực tế cho bài luận này có thể tìm thấy trong Andrew J. Nathan and Bruce Gilley, China’s New Rulers: The Secret Files (New York: New York Review Books, 2002), và được tóm tắt trong hai bài viết trong New York Review of Books, 26 September & 10 October 2002. Các bài viết này đều dựa trên Zong Hairen, Disidai (The Fourth Generation) (Carle Place, N.Y.: Mirror Books, 2002). Phân tích của Zong Hairen về thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc dựa trên các tài liệu lấy từ các báo cáo thẩm tra nội bộ các ứng viên cho Bộ Chính trị mới được soạn thảo bởi Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
[5] The Tiananmen Papers: The Chinese Leadership’s Decision to Use Force Against Their Own People—In Their Own Words, Zhang Liang, comp., Andrew J. Nathan and Perry Link, eds. (New York: PublicAffairs Books, 2001), 102, n. 1, và các nơi khác.
[6] Zong Hairen, Zhu Rongji zai 1999 (Zhu Rongji in 1999) (Carle Place, N.Y.: Mingjing Chubanshe, 2001); Bản dịch tiếng Anh do Andrew J. Nathan hiệu đính trong Chinese Law and Government (January–February & March–April 2002).
[7] Như mọi quy trình đề bạt dựa trên năng lực khác, kế hoạch này cũng có yếu tố dự phòng. Sự nghiệp của Hồ Cẩm Đào là một ví dụ điển hình, có thể thấy ở việc lựa chọn Hồ Cẩm Đào trong 4 ứng viên làm đại diện cho thế hệ thứ 4 bầu vào Thường vụ Bộ Chính trị.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:27:36 GMT 9
Nhật Bản trong lòng Châu ÁNguồn: Green, Michael (2008). “Japan in Asia”, in David Shambaugh & Michael Yahuda (eds), International Relations of Asia (Maryland: Rowman & Littlefield Publishers), pp. 170-191. Biên dịch: Đinh Nguyễn Lan Hương | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp Download: Nhat Ban trong long Chau A.pdf Trong bài luận vào cuối thời kỳ Tokugawa, Lý luận của ba kẻ say về Chính phủ, Nakae Chomin đã hình dung ra một vị chủ nhà vào một buổi tối đã cùng hai người bạn rượu của mình tranh cãi trong hơi men về tương lai của Nhật Bản ở châu Á. Một trong hai bạn rượu của ông ta là một “quý ông Tây học”, ăn mặc theo phong cách phương Tây và ca tụng những ưu điểm của dân chủ, quyền cá nhân và phát triển kinh tế. Người kia mặc quần áo truyền thống của một samurai và bảo vệ cho chiến lược chính trị hiện thực của việc bành trướng quân sự nhằm hất cẳng Trung Quốc và nước Anh địch thủ, trở thành một thế lực đế quốc có sức ảnh hưởng lớn ở châu Á. Cuối cùng, vị chủ nhà đã kết luận rằng Nhật Bản phải cân bằng cả hai, phải nắm lấy tri thức phương Tây và phát triển kinh tế đồng thời mở rộng thế lực của Nhật Bản tại châu Á. Kết luận này đã khiến người đọc ý thức sâu sắc về mâu thuẫn không giải quyết được giữa hai tầm nhìn tương lai của Nhật Bản nổi lên trong giai đoạn xuất hiện những Con tàu đen của Thuyền trưởng Perry và cải cách Minh Trị này.1 Tìm kiếm chiến lược Ít có quốc gia nào trong lịch sử dằn vặt với sự ngờ vực chính chiến lược quốc gia của mình như Nhật Bản. Càng có ít đất nước kiên định với lợi ích quốc gia hoặc ý thức sâu sắc về các mối quan hệ quyền lực xung quanh họ như đất nước này. Đối với Nhật Bản, những yếu tố giúp định hướng chiến lược quốc gia về cơ bản vẫn y hệt như thời kỳ Lý luận của ba kẻ say về Chính phủ: theo đuổi quyền tự trị và vị thế được tôn trọng trong hệ thống quốc tế dựa trên sự tính toán về sức mạnh địa chính trị của Trung Quốc (cùng với Triều Tiên như là một chất xúc tác khác) và sự chung sống với cấu trúc quyền lực quốc tế hiện hành.2 Mặc dù các yếu tố định hướng này đã không đổi trong suốt lịch sử Nhật Bản hiện đại, các công cụ được sử dụng lại đa dạng một cách đáng ngạc nhiên. Trên thực tế, Nhật Bản đã tự cách tân bản thân ở những giai đoạn khác nhau trong lịch sử để tối đa hóa nguồn lực sức mạnh quốc gia và quyền tự trị tương đối của mình phù hợp với bối cảnh hệ thống quốc tế trong từng giai đoạn. Có lúc, Nhật Bản đã đi theo con đường của quý ông Tây học; khi khác thì lại đi theo con đường của một quý ông truyền thống. Vào cuối thế kỷ 19, các nhà lãnh đạo thời Minh Trị đưa ra chiến lược dựa trên khẩu hiệu bốn chữ fukukoku kyohei hay “phú quốc/cường binh”, vận dụng Tây học để xây dựng quốc gia cường thịnh và từ đó tạo ra một lực lượng hải quân và quân đội hiện đại. Kết quả thật đáng kinh ngạc, từ năm 1860 đến năm 1938, tỉ lệ GDP của Nhật Bản trong GDP thế giới tăng từ mức chỉ 2,6% lên 3,8%; trong khi Nhật Bản đã khẳng định bản thân mình là một đối thủ tranh giành sự thống trị một nửa thế giới.3 Việc đánh bại Trung Quốc năm 1895 và Nga năm 1905 đã truyền sức mạnh cho các nhà dân tộc chủ nghĩa trẻ và những người chống chủ nghĩa đế quốc trên toàn châu Á; và các nhà chiến lược Nhật Bản đã phôi thai nên một chủ nghĩa Liên Á mang tính lý tưởng chủ nghĩa dựa trên kinh nghiệm của chính Nhật Bản về wakon/yosai, hay còn gọi là “tinh thần Nhật Bản và Tây học”. Chủ nghĩa lý tưởng Liên Á đó đã sớm nhường chỗ cho một trật tự đế quốc chủ nghĩa xấu xí hơn gấp nhiều lần mà cơ sở là hệ thống thứ bậc truyền thống của châu Á cùng một sự kết hợp đầy nguy hiểm giữa tâm lý mất an ninh chống lại phương Tây cộng với sự áp bức dựa trên sức mạnh ưu việt chống lại các quốc gia phương Đông. Nhật Bản cũng đã mắc sai lầm khi liên minh với Đức Quốc xã khi nhầm lẫn về các xu thế trong cấu trúc quyền lực thế giới. Kết quả là một thảm họa cho cả Nhật Bản lẫn châu Á. Sau chiến tranh, Nhật Bản buộc phải thích nghi với cấu trúc quyền lực thế giới mới dưới sự ảnh hưởng của đế quốc Mỹ và sắp xếp lại các thể chế của mình để tối đa hóa sức mạnh và quyền tự trị của Nhật Bản trong bối cảnh mới. Dưới sự cai trị đầy khéo léo của Thủ tướng Yoshida Shigeru, Nhật Bản đã tiếp nhận các thể chế dân chủ và thiết lập quan hệ liên minh với Mỹ, đồng thời đảm bảo rằng Điều 9 Hiến pháp về chủ nghĩa hòa bình được thể chế hóa trong luật pháp và chính sách quốc gia nhằm không rơi vào cái bẫy chiến lược Chiến tranh lạnh của Mỹ. Nhật Bản chỉ xây dựng quốc phòng ở mức tối thiểu để duy trì cam kết quân sự với Mỹ đồng thời tập trung vào việc khôi phục kinh tế và theo đuổi mối quan hệ mới với châu Á – bao gồm cả Trung Quốc – dựa trên thương mại. Vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh, nhiều nhà chiến lược Nhật Bản bắt đầu tranh luận rằng mô hình mới về phát triển kinh tế của Nhật Bản đã vượt qua chủ nghĩa tư bản truyền thống và sẽ đưa Nhật Bản vào vị trí của một chủ thể có sức ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 21, tự do theo đuổi các chính sách đối ngoại “độc lập” và định hình một trật tự kinh tế châu Á mới mà không có các công cụ quân sự truyền thống, đồng thời liên minh với siêu cường độc nhất trên thế giới nhưng không phụ thuộc vào nó. Tuy nhiên, viễn cảnh này đã bị phá vỡ vào những năm 1990 khi Nhật Bản lặng im không hành động trong suốt Chiến tranh Vùng Vịnh, đánh mất mô hình kinh tế khả tín sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng, không thể tận dụng sự phục thuộc lẫn nhau về kinh tế nhằm định hình sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc về quân sự và chiến lược, và bị đe dọa bởi một Bắc Triều Tiên theo đuổi phát triển vũ khí hạt nhân. Sau gần một thập kỷ dao động và không chắc chắn, Nhật Bản bắt đầu lấy lại niềm tin với Thủ tướng Koizumi Junichiro (2001-2006) và thu hút sự chú ý của thế giới với một sự quyết đoán mới về an ninh quốc tế và nới lỏng những ràng buộc hậu chiến truyền thống liên quan đến Điều 9 Hiến pháp. Nhưng sau đó, chiến lược quốc gia của Nhật dường như lại tiếp tục trở nên thiếu rõ ràng khi người kế nhiệm Koizumi, Abe Shinzo, đã vướng phải những vấp váp chính trị vào năm 2007. Việc tìm kiếm chiến lược của Nhật Bản đã làm phức tạp và phong phú thêm các thuyết về quan hệ quốc tế. Những người theo chủ nghĩa hiện thực cấu trúc truyền thống như Henry Kissinger và Herman Kahn đã lập luận rằng không thể tưởng tượng được Nhật Bản lại có thể phát triển sức mạnh kinh tế mà không thiết lập sức mạnh quân sự bao gồm cả vũ khí hạt nhân tương xứng.4 Những người theo chủ nghĩa kiến tạo như Peter Katzenstein đã phát triển những lý thuyết có thể khái quát hóa được xung quanh ví dụ về Nhật Bản bằng cách cho rằng văn hóa chính trị Nhật Bản thực sự đã thay đổi do chủ nghĩa hòa bình được củng cố thông qua các chuẩn tắc hậu chiến và các thể chế dựa trên Điều 9 Hiến pháp.5 Các thuyết xét lại của ngành kinh tế chính trị quốc tế đã nở rộ trong những năm 1980 và đầu những năm 1990 với ý tưởng rằng trên thực tế Nhật Bản đã xây dựng một mô hình mới về tăng trưởng kinh tế theo hướng pha trộn công nghệ và chủ nghĩa dân tộc cùng các mạng lưới sản xuất ở châu Á.6 Richard Samuels và Eric Heginbotham đã quay trở lại với các thuyết hiện thực về quan hệ quốc tế để cho rằng hành vi của Nhật Bản là theo chủ nghĩa hiện thực, nhưng dựa trên tư tưởng chủ nghĩa hiện thực “trọng thương” mới hơn là các khái niệm lấy sức mạnh quân sự làm trọng tâm truyền thống của thuyết tân hiện thực hay các biến thể khác gần đây của lý thuyết kinh tế.7 Tôi đã lập luận trong bài Japan’s Reluctant Realism [Chủ nghĩa hiện thực miễn cưỡng của Nhật Bản] năm 2001 rằng văn hóa chiến lược của Nhật Bản đang chuyển từ chủ nghĩa hòa bình truyền thống và bị động sang hành vi cân bằng quyền lực rõ ràng hơn nhằm ứng phó với sự gia tăng những đe dọa từ bên ngoài cũng như thất bại của các công cụ kinh tế truyền thống trong việc giúp nước này tăng cường an ninh.8 Trong nghiên cứu quan trọng về lịch sử và sự hồi sinh của tư tưởng chiến lược Nhật Bản, Kenneth Pyle đã đưa ra luận điểm rất thuyết phục vào năm 2007 rằng Nhật Bản luôn luôn theo chủ nghĩa hiện thực và đang ngược lại quá khứ theo nhiều khía cạnh bởi nó đang muốn đòi lại quyền lợi của mình ở châu Á.9 Điều nổi lên từ các nghiên cứu khác nhau về tư tưởng chiến lược Nhật Bản là quá trình rõ ràng trong việc thử nghiệm và khám phá những công cụ cho phép Nhật Bản tối đa hóa quyền tự trị và quyền lực theo hai yếu tố định hướng được nêu trước đó: tính toán sức mạnh địa chính trị của Trung Quốc (và Triều Tiên) và sự chung sống với cấu trúc quyền lực quốc tế hiện hành. Nhưng các thể chế và chuẩn tắc của Nhật vẫn cứng nhắc và không linh hoạt, gây khó khăn cho việc tìm kiếm một chiến lược mới ngay cả khi các nhà lãnh đạo Nhật Bản nỗ lực một lần nữa để sắp xếp lại bộ công cụ của mình khi mà bối cảnh địa chính trị châu Á đang bước vào một giai đoạn bất ổn. Phần còn lại của chương này sẽ nói rõ hơn về bộ công cụ đó, đánh giá những gì đã hoặc không có hiệu quả đối với Nhật Bản trong bối cảnh châu Á ngày nay và những yếu tố nào có khả năng là tiêu biểu nhất cho chiến lược của Nhật Bản trong những năm tiếp theo. Chương này được chia thành năm phần. Phần một bắt đầu với việc xem xét những công cụ được coi là hứa hẹn nhất cho tới cách đây một thập kỷ – mối quan hệ gần gũi với Trung Quốc và vai trò lãnh đạo về kinh tế trong việc mang lại một trật tự mới cho khu vực – và cách thất bại trong những lĩnh vực này đã thay đổi chiến lược của Nhật Bản và việc sử dụng những công cụ đó ngày nay như thế nào. Phần hai sẽ xem xét sự quay trở lại của Nhật Bản với trọng tâm chiến lược của nó ở châu Á: liên minh với Mỹ, các cơ hội và sự phức tạp mà liên minh này mang lại. Phần thứ ba khảo sát chiến lược cân bằng của Nhật Bản ở châu Á trong ba lĩnh vực. Phần thứ tư đánh giá chiến lược của Nhật Bản trong việc định hình sự hội nhập và xây dựng thể chế ở khu vực. Phần thứ năm xem xét lại những vấn đề lịch sử để lại, tại sao giới lãnh đạo Nhật Bản lại gặp khó khăn trong việc giải quyết chúng, và đâu là những lĩnh vực mà những vấn đề đó làm hoặc không làm phương hại ảnh hưởng của Nhật Bản. Cuối cùng, chương này sẽ kết thúc với việc xem xét lại những biến số có thể khiến Nhật Bản đi theo một hướng khác bằng một bộ công cụ hoàn toàn khác so với bộ công cụ đã được xem xét ở đây. Nhân tố Trung Quốc Khi Nhật Bản trỗi dậy từ đống tro tàn của Thế chiến thứ hai và chuẩn bị tái hòa nhập với cộng đồng quốc tế, giới tinh hoa theo xu hướng bảo thủ đã đưa ra những ý kiến khác nhau về việc một Nhật Bản dân chủ hóa hoàn toàn mới sẽ đóng một vai trò như thế nào. Một số quan chức cũ của Bộ Công thương, như Kishi Nobusuke, muốn liên minh chặt chẽ với Mỹ để chống lại chủ nghĩa cộng sản, thậm chí hợp tác [với Mỹ] sau chiến tranh Triều Tiên nhằm biến Nhật Bản trở thành một kho vũ khí ở châu Á. Trong khi đó, những người khác, như lãnh đạo Đảng Dân chủ Hatoyama Ichiro, lại muốn độc lập hơn với Mỹ thông qua việc ký một Hiệp ước Hòa bình với Nga (đến thời điểm hiện tại vẫn chưa ký) và sửa đổi lại Hiến pháp Nhật Bản. Nhưng các bên khác vẫn muốn tránh việc tăng cường quân đội vì lo sợ điều này sẽ đưa Nhật Bản đi theo lối mòn chiến tranh một lần nữa. Các phe phái khác nhau này đã được kéo vào cùng một liên minh cầm quyền bởi Yoshida Shigeru, người đã đưa ra một chiến lược đơn giản cho Nhật Bản vốn gom tất cả những chính trị gia theo xu hướng bảo thủ vào cùng một mái nhà và đảm bảo rằng liên minh đó sẽ thống trị nền chính trị Nhật Bản và gạt những người theo tư tưởng xã hội và cộng sản ra lề trong suốt nửa thế kỷ tới. Tuy nhiên, bên dưới mái nhà bảo thủ đó cũng có những ý kiến trái chiều về châu Á và đặc biệt là Trung Quốc. Yoshida đã đưa ra quan điểm chính xuyên suốt căn cứ trên một giả định sáng suốt rằng Trung Quốc cộng sản cuối cùng cũng dứt ra khỏi Liên Xô và xích lại gần Nhật Bản vì lý do thương mại. Trong khi những người bảo thủ “chống lại quan điểm chính thống này” tiếp tục ủng hộ Cộng hòa Trung Hoa (Đài Loan), những người thuộc phe Yoshida đã đảm bảo rằng Nhật Bản sẽ tránh vướng vào vấn đề an ninh của Đài Loan hoặc đối đầu với Bắc Kinh theo ủy quyền của Mỹ. Thủ tướng Sato Eisaku đã đồng ý trong một bản tuyên bố chung với Tổng thống Nixon rằng Nhật Bản có lợi ích trong việc đảm bảo ổn định eo biển Đài Loan vào năm 1969, nhưng ông làm vậy chỉ bởi muốn có được cam kết của Nixon trong việc trả lại chủ quyền Okinawa cho Nhật Bản. Không có bước tiếp theo nào trong quốc phòng hay chiến lược đối ngoại. Trên thực tế, trong cùng thời điểm, Nhật Bản đã âm thầm mở rộng quan hệ kinh tế với Trung Quốc thông qua quan hệ thương mại bán chính thức “L-T” (Liao Chengzhi và Tatsunosuke Takasaki), và sau chuyến thăm năm 1972 của Kissinger đến Trung Quốc, Thủ tướng Nhật Bản Tanaka Kakuei đã ngay lập tức bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh (tròn bảy năm trước khi Washington thực hiện điều này). Năm 1978, Nhật Bản và Trung Quốc đã ký Hiệp ước Hữu nghị, cho phép Trung Quốc bắt đầu các khoản vay bằng đồng yên, vốn được Nhật Bản coi là viện trợ, còn Bắc Kinh lại coi đó là khoản đền bù chiến tranh của Nhật cho Trung Quốc (lên tới hơn 1 tỷ đô la Mỹ vào thời điểm cao nhất đầu những năm 1990). Nhật Bản cũng đóng vai trò môi giới để giúp Trung Quốc và phương Tây hàn gắn lại với nhau sau sự kiện Thiên An Môn ngày 6/4/1989, phá vỡ chế độ trừng phạt của phương Tây đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh Houston năm 1990. Sự tiên đoán của Yoshida chính xác một cách kỳ lạ, và những trí thức Nhật Bản bắt đầu ủng hộ cho một mối quan hệ tay ba “cân bằng” hơn giữa Bắc Kinh, Washington và Tokyo. Tuy nhiên, giữa những năm 1990, mối quan hệ giữa Nhật Bản với Trung Quốc đột nhiên bắt đầu thay đổi. Yoshida đã đúng về mức độ phụ thuộc lẫn nhau của kinh tế Trung-Nhật, nhưng ông không lường trước được những khó khăn trong việc dùng sự phụ thuộc lẫn nhau này để định hình hành vi ứng xử của Trung Quốc. Bước ngoặt đã xảy ra vào ngày 15/5/1995, khi Trung Quốc thử nghiệm vũ khí hạt nhân tại cơ sở Lop Nor. Các nhà ngoại giao Nhật Bản đã cảnh báo rằng mối quan hệ kinh tế Trung – Nhật và việc cho vay bằng đồng yên sẽ bị ảnh hưởng bởi cuộc thử nghiệm này, và các đảng phái chính trị Nhật Bản dù theo xu hướng gì cũng đều chỉ trích Bắc Kinh. Nhưng các cuộc thử nghiệm vẫn được tiến hành. Tháng 3/1996, Trung Quốc đã bắn tên lửa xung quanh đảo Đài Loan. Tháng 4 năm đó, Nhật Bản và Mỹ đã tái khẳng định liên minh Mỹ-Nhật trong Tuyên bố an ninh chung giữa Thủ tướng Hashimoto Ryutaro và Tổng thống Bill Clinton, và Tokyo đã đồng ý sửa đổi đường lối quốc phòng để lên kế hoạch không chỉ cho những bất trắc trong Chiến tranh Lạnh xuất phát từ việc Liên Xô có thể tấn công trực diện vào Nhật Bản, mà còn cho “những tình huống xảy ra xung quanh Nhật Bản gây ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh nước này”. Trong suốt thập kỷ tiếp theo, sự cạnh tranh Trung-Nhật đã trở thành một đặc điểm không thể nhầm lẫn trong quan hệ quốc tế châu Á. Những kinh nghiệm từ những năm 1990 đã cho công chúng và lãnh đạo Nhật Bản thấy các ý định của Trung Quốc không chắc chắn như thế nào và việc Nhật Bản thiếu trang bị ra sao trong việc định hình hành vi ứng xử của Trung Quốc: các công cụ kinh tế kém hiệu quả so với dự kiến và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc lên đến hai con số một lúc trong khi Nhật Bản rơi vào tình trạng giảm phát kéo dài và không thể vượt được mức tăng trưởng 2% mỗi năm ngay cả trong kịch bản tốt nhất. Các mối đe dọa ngoại giao và quân sự cụ thể cũng gia tăng trong thập kỷ tiếp theo. Sách trắng quốc phòng Nhật Bản tăng dần mức độ cảnh báo của mình về việc Trung Quốc tăng cường quân đội, với lưu ý trong năm 2007 rằng Trung Quốc đã nắm giữ một “con số đáng kể” các IRBM/MRBM (tên lửa đạn đạo tầm trung-xa/ tầm trung) có thể nhắm tới Nhật Bản, bao gồm DF-3 và DF-21, cùng với các chương trình phát triển tên lửa hành trình, tàu ngầm mới và một kho máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư đang gia tăng bao gồm J-10, Su-27 và Su-30.10 Một tàu ngầm Trung Quốc đã đi vòng quanh Nhật Bản vào năm 2004 và sau đó đã xâm nhập vào lãnh hải Nhật Bản năm 2005, và 3 tàu khu trục Trung Quốc đã chĩa nòng súng vào máy bay tuần tra P-3C của Nhật Bản vốn đang giám sát các hoạt động xung quanh đảo Điếu Ngư vào năm 2005.11 Trên mặt trận ngoại giao, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã vận động hành lang khắp châu Á và châu Phi vào năm 2005 nhằm chống lại những nỗ lực của Nhật Bản trong việc giành ghế tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc dựa trên “đồng thuận” rằng Nhật Bản không chịu chuộc lại lỗi lầm của mình trong Thế chiến thứ hai. Những thay đổi trong chính trị nội bộ của Nhật Bản đều vừa làm phức tạp thêm, vừa bị thúc đẩy bởi những diễn biến này. Mối quan hệ Trung-Nhật trong suốt Chiến tranh Lạnh được gìn giữ bởi các phe theo quan điểm chính thống của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) và đặc biệt là phe của Thủ tướng Tanaka, lãnh đạo Đảng từ năm 1972 đến năm 1993 và đã duy trì sự tập trung vào việc phát triển kinh tế Nhật Bản mà không bị chi phối bởi vấn đề ý thức hệ. Cấu trúc chính trị Nhật Bản phản ánh cấu trúc của Chiến tranh Lạnh, và với sự sụp đổ của Liên Xô, phe cánh tả của Nhật Bản đã nhanh chóng thoái trào, và phe của Tanaka vốn trước kia chiếm ưu thế giờ dần dần đánh mất vai trò vào tay các chính trị gia bảo thủ thế hệ trẻ ở cả Đảng Dân chủ Tự do và Đảng Dân chủ đối lập mới của Nhật Bản, những người ủng hộ các chính sách quyết đoán và không xin lỗi của Hatoyama và Kishi. Với thế hệ mới này, đối đầu với Trung Quốc đã trở thành một vấn đề không chỉ thuộc về an ninh quốc gia mà còn là bản sắc dân tộc. Trung Quốc cũng đã đấu tranh với một Nhật Bản mà nó không lường trước được. Năm 1978, Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị được cho là đã khép lại mối quan hệ song phương dựa trên bản án của Tòa án tội phạm chiến tranh Tokyo. Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân đã tuyên bố trong chuyến thăm thất bại đến Tokyo vào tháng 10 năm 1998, rằng đây không phải là vấn đề chấp nhận lời xin lỗi của Nhật Bản, mà là Nhật Bản phải mãi mãi cảm thấy hối hận.12 Thực tế, sau Hiệp ước năm 1978, Bắc Kinh thấy rằng có thể vận động cánh tả và trung tả ở Nhật Bản chống lại những nỗ lực sửa đổi sách giáo khoa hoặc các chuyến thăm chính thức đến đền Yasukuni, nơi vinh danh những người đã chết trong chiến tranh của Nhật Bản (bao gồm 13 tội phạm chiến tranh loại A). Nhưng theo những gì Chủ tịch Giang Trạch Dân nhận thấy trong suốt chuyến thăm đến Tokyo năm 1998, quan điểm chính lưu đang dịch chuyển khỏi Trung Quốc, và Bắc Kinh càng gây áp lực kiềm chế với các vấn đề lịch sử nhạy cảm, công luận Nhật Bản lại càng ủng hộ một vị Thủ tướng kiên quyết, người có thể tiếp tục hành động bất chấp những áp lực từ Trung Quốc. Khả năng hai chính phủ và hai hệ thống chính trị có thể xử lý các vấn đề này đã ở mức tệ nhất trong năm 2005-2006. Thủ tướng Koizumi nhậm chức năm 2001 mà không hề có chương trình nghị sự nào chống đối Trung Quốc và đã tiến hành chuyến thăm đến cầu Lư Câu (Marco Polo) nơi cuộc chiến Trung-Nhật nổ ra năm 1937 để bày tỏ sự hối tiếc của mình. Nhưng ông cũng hứa với Hiệp hội các gia đình có người thân chết trong chiến tranh (Izzokai) trong một cuộc gặp đầy nước mắt rằng ông sẽ đến đền Yasukuni để bày tỏ sự tôn kính với những người thân của họ đã chết trong chiến tranh. Trung Quốc đã giận dữ và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào cố gắng thuyết phục Koizumi đừng đi đến đó khi hai nước đang ở thời điểm cận kề Hội nghị thượng đỉnh Bangdung năm 2005.13 Nhưng Koizumi đã hứa chỉ thực hiện “điều nên làm” – có nghĩa là ông vẫn sẽ đến thăm đền Yasukuni. Hồ Cẩm Đào đã công khai tuyên bố sẽ không có Hội nghị thượng đỉnh song phương nào với Koizumi cho tới khi Thủ tướng Nhật Bản hứa sẽ không đến thăm ngôi đền. Đa số người dân Nhật Bản, kể cả những người từng không ủng hộ chuyến viếng thăm này, cũng đã ủng hộ Koizumi thực hiện điều đó.14 Khi các đám đông Trung Quốc tấn công chiếc xe của một quan chức cấp cao Nhật Bản sau khi Nhật thắng Trung Quốc năm 2005 tại trận đấu vòng loại World Cup ở châu Á, cảm nhận của công chúng Nhật Bản coi mình như là nạn nhân của Trung Quốc càng tăng lên. Chuyến thăm cuối cùng của Koizumi đến đền Yasukuni với tư cách Thủ tướng diễn ra vào ngày 15/8/2007, ngày kỷ niệm sự đầu hàng của Nhật Bản và cũng là một ngày rất nhạy cảm đối với tất cả các kẻ thù cũng như nạn nhân chiến tranh của Nhật Bản. Tuy nhiên, trớ trêu thay, điều này đã mở ra cánh cửa cho người kế nhiệm, Abe Shinzo (người hiếu chiến hơn Koizumi về vấn đề Trung Quốc), đạt được một sự hâm nóng lại quan hệ với Trung Quốc bằng chuyến thăm Bắc Kinh ngày 9/10/2007, nơi ông được đón tiếp nồng nhiệt bởi dàn lãnh đạo Trung Quốc vốn quan ngại về việc suy giảm đột ngột mối quan hệ Trung-Nhật và nhận thấy ở Abe cơ hội cho một sự khởi đầu mới. Hồ Cẩm Đào khôn ngoan không công khai gây sức ép buộc Abe tránh xa Yasukuni, cũng như Abe đã khôn ngoan không hứa hẹn gì với các cử tri về việc này.15 Người kế nhiệm Abe, Fukuda Yasuo và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã có những chuyến viếng thăm lẫn nhau vào đầu năm 2008. Điểu này đã giúp cải thiện tốt hơn bầu không khí giữa hai nước, nhưng không giải quyết được gốc rễ của sự căng thẳng về quân sự, tư tưởng và chiến lược. Thời kỳ “kinh tế ấm và chính trị lạnh” đã thách thức lý thuyết quan hệ quốc tế, nhưng lại đặc trưng cho trạng thái quan hệ Trung-Nhật trong thời gian tới. Mỉa mai nhất là sự khôi phục kinh tế Nhật Bản năm 2004-2006 sau nhiều năm chống đỡ với giảm phát đòi hỏi những cải cách của Koizumi và một nền kinh tế đang trỗi dậy của Trung Quốc để thu hút hàng xuất khẩu Nhật Bản, vốn cuối cùng sẽ được xuất khẩu tiếp sang Mỹ sau khi được lắp ráp ở Trung Quốc. Thương mại Trung-Nhật đã vượt qua thương mại Nhật-Mỹ trong năm 2005, và theo thống kê của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, các nhà kinh doanh Nhật Bản tiếp tục xem Trung Quốc là mục tiêu chính cho đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.16 Nhưng dư luận Nhật Bản về Trung Quốc không được cải thiện sau khi trượt dốc từ thời kỳ mà quan điểm tích cực chiếm ưu thế trong suốt những năm hoàng kim 1980. (Hình 8.1). Hình 8.1. Quan điểm của Nhật Bản về Trung Quốc (Vui lòng download văn bản để xem hình) Nguồn: “Khảo sát về quan hệ ngoại giao”, Văn phòng Nội các, Chính phủ Nhật Bản Những thách thức về ngoại giao, quân sự và tâm lý được đặt ra bởi sự trỗi dậy đột ngột và một tương lai không chắc chắn của Trung Quốc là điều Nhật Bản không thể tránh khỏi. Châu Á vẫn duy trì trật tự thứ bậc, và Nhật Bản và Trung Quốc chưa bao giờ hùng mạnh cùng lúc giống như bây giờ. Tham vọng của cả hai nước cũng mâu thuẫn nhau. Cả hai nước đều được thúc đẩy bởi ý thức sâu sắc về sự không hoàn thiện. Trung Quốc tìm kiếm sự toàn vẹn lãnh thổ và việc quay lại với vai trò trung tâm ở khu vực, nhưng nó cũng phải đối đầu với Nhật Bản đang tìm cách vượt qua thời kỳ hậu chiến và xây dựng lại niềm tự hào dân tộc đã đánh mất. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa Nhật Bản và Trung Quốc tạo ra sự ổn định trong mối quan hệ song phương giữa hai nước, nhưng không phải là sự chắc chắn hay có thể dự đoán được về hướng đi tương lai của họ. Bán đảo Triều Tiên Chỉ đứng sau Trung Quốc với tư cách là một biến số khu vực có ảnh hưởng nhiều nhất đến chiến lược ngoại giao Nhật Bản chính là bán đảo Triều Tiên. Vị tướng thời Minh Trị Yamagata Aritomo từng nổi tiếng khi gọi bán đảo Triều Tiên là “con dao găm chiến lược nhằm vào trái tim Nhật Bản”. Triều Tiên là con đường truyền thống mà qua đó mọi thứ bắt nguồn từ lục địa châu Á có thể đến với Nhật Bản, bao gồm cả đạo Phật, chữ Hán, các cuộc xâm lược của quân Mông, món mì soba và có lẽ cả sushi (mặc dù hiện nay vẫn đang gây tranh cãi). Chính mâu thuẫn giữa những người theo xu hướng hiện đại hóa ủng hộ Nhật Bản và những người theo xu hướng truyền thống ủng hộ Trung Quốc trong triều đình Triều Tiên đã khiến Nhật Bản rơi vào cuộc chiến với Trung Quốc giai đoạn 1894-1895, và chính việc bành trướng của Nga vào Mãn Châu và hướng tới Triều Tiên đã dẫn đến cuộc chiến tranh Nga-Nhật 1904-1905 khi Nhật Bản tìm kiếm “lợi thế tối đa” để bảo vệ lợi ích của mình ở bán đảo này. Sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên năm 1950 là sự kiện hậu chiến quan trọng hơn bất kỳ sự kiện nào khác trong việc khiến Nhật Bản theo đuổi quỹ đạo chính sách ngoại giao hiện tại, bao gồm việc hình thành liên minh Mỹ-Nhật lần đầu tiên vào năm 1951, bên cạnh việc giúp khôi phục lại nền kinh tế Nhật Bản. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản nhanh chóng cử phái viên đến Washington để duy trì sự ủng hộ của người Mỹ đối với sự hiện diện quân sự ở bán đảo Triều Tiên, đáng lưu ý nhất là sau khi Tổng thống đắc cử Jimmy Carter cam kết vào năm 1976 rằng ông rút hết quân đội Mỹ ra khỏi Hàn Quốc.17 Nhưng ngay cả khi Nhật Bản hành động để duy trì cam kết quốc phòng của Mỹ tại Hàn Quốc thì các chính phủ Nhật Bản liên tiếp cũng cố gắng thiết lập mối quan hệ của riêng họ với bán đảo này trên lĩnh vực ngoại giao lẫn thương mại. Quan hệ ngoại giao được thiết lập với Seoul năm 1965 đi kèm với một chương trình viện trợ đáng kể từ Nhật Bản. Bắc Triều Tiên tỏ ra khó khăn hơn, nhưng khi Nhật Bản thoát ra khỏi Chiến tranh Lạnh với một nền kinh tế mạnh và hi vọng rằng căng thẳng hai cực trong hệ thống quốc tế sẽ góp phần tìm ra giải pháp cho các vấn đề với Bình Nhưỡng, thì đã xuất hiện suy nghĩ lạc quan về việc bình thường hóa quan hệ song phương. Được thúc đẩy bởi khoản miễn giảm hàng năm ước tính khoảng 600 triệu đô la dành cho người Triều Tiên định cư ở Nhật (phần lớn khoản tiền này tìm đường vào tài khoản của các chính trị gia ở Tokyo) và bởi cơ hội thể hiện sáng kiến ngoại giao độc lập của Nhật Bản, lãnh đạo LDP đầy quyền lực Kanemaru Shin đã đến thăm lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Nhật Thành vào năm 1990 và rời cuộc họp với Kim Nhật Thành với cam kết đặt cược cuộc đời chính trị của mình vào mục tiêu bình thường hóa hoàn toàn quan hệ song phương trong một buổi họp báo đầy nước mắt. Các cuộc đối thoại về bình thường hóa quan hệ Nhật-Triều (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên) đã diễn ra ngắt quãng kể từ đó. Nhưng sự lạc quanh quanh chuyến thăm của Kanemaru cũng không kéo dài. Bản chất thay đổi của mối đe dọa Bắc Triều Tiên với Nhật Bản trở nên rõ ràng hơn vào năm 1993 khi tài liệu dự báo tình báo quốc gia Mỹ (NIE) bị rò rỉ cho rằng Bình Nhưỡng có thể đã có bom [hạt nhân], và sau đó vào năm 1994 Bình Nhưỡng đã phóng tên lửa Nodong bay qua Nhật Bản (vào thời điểm đó người ta đã nghĩ rằng nó đã rơi xuống Biển Nhật Bản). Việc tái cơ cấu chính trị trong nước ở Nhật Bản cũng có tác động. Nhiều lãnh đạo kỳ cựu trong LDP, những người đã giúp duy trì quan hệ Trung-Nhật đồng thời cũng là những người, giống như Kanemaru, đã từng thúc đẩy quan hệ với Bắc Triều Tiên, đã được chống lưng bởi Đảng Xã hội Nhật Bản. Sự qua đời của họ, cùng với việc bắt giam Kanemaru vì cáo buộc tham nhũng, cũng như sự suy sụp của Đảng Xã hội, đã khiến cho chính sách Bắc Triều Tiên rơi vào tay một nhóm các chính trị gia trẻ hơn và thiên về chủ nghĩa dân tộc. Một trong những chính trị gia đó là Abe Shinzo, nổi lên với vai trò phó tướng của Koizumi và là người chủ trương theo đường lối cứng rắn hơn với Bắc Triều Tiên. Quan điểm cứng rắn của Abe nhận được sự ủng hộ của công chúng, những người đã phải chứng kiến Bắc Triều Tiên triển khai 200 tên lửa Nodong nhằm vào Nhật Bản, bán methamphetamine cho trẻ em Nhật, thử nghiệm tên lửa tầm xa Taepodong qua không phận Nhật Bản năm 1998, và sau đó là thử vũ khí hạt nhân vào tháng 10 năm 2006. Vấn đề nhạy cảm nhất là việc xác nhận hàng chục người Nhật bị bắt cóc bởi điệp viên Bắc Triều Tiên vào những năm 1970 và 1980 mặc dù chính phủ Nhật Bản đã phủ nhận là không có chứng cứ cho điều đó. Khi Thủ tướng Koizumi thành công trọng việc thuyết phục Triều Tiên phóng thích năm người bị bắt cóc sau chuyến thăm đầy kịch tính đến Bình Nhưỡng vào tháng 9 năm 2002, những câu chuyện được kể lại bởi những người Nhật trở về đã khiến người dân Nhật giận dữ hơn. Hiện nay, 74% người Nhật tỏ thái độ tiêu cực với Bắc Triều Tiên trong các cuộc thăm dò dư luận.18 Quan điểm của Nhật Bản về Bắc Triều Tiên là một yếu tố định hướng quan trọng đối với chiến lược ngoại giao của Nhật Bản vào đầu thế kỷ 21, nhưng nhiều nhà lãnh đạo bảo thủ Nhật Bản lại xem mối đe dọa Bắc Triều Tiên như là một công cụ hữu ích để đưa người dân Nhật ra khỏi sự mãn nguyện về nền hòa bình và chuẩn bị cho một sự cạnh tranh dài hạn với Trung Quốc mà không cần phải có những lựa chọn khó khăn về các vấn đề như phòng vệ tên lửa hoặc hợp tác quân sự Mỹ-Nhật, vốn là những vấn đề dễ dẫn đến việc đối đầu công khai với Bắc Kinh. Mối quan hệ Nhật Bản với Hàn Quốc đã thách thức sự tính toán chiến lược cẩn thận này. Mối quan hệ giữa hai đồng minh dân chủ của Mỹ bắt đầu cải thiện đáng kể sau khi Thủ tướng Nhật Bản Obuchi Keizo bày tỏ sự ăn năn và xin lỗi tới Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung ở Tokyo năm 1998 và ông Kim đã chấp nhận lời xin lỗi này (điều mà Chủ tịch nước Trung Quốc đã không sẵn sàng thực hiện vài tháng trước đó khiến Obuchi chỉ bày tỏ “sự ăn năn”). Nhóm giám sát và phối hợp ba bên (TCOG) giữa Mỹ-Nhật-Hàn được thành lập bởi đặc phái viên Mỹ về vấn đề Bắc Triều Tiên William Perry cũng đã thắt chặt mối quan hệ Nhật – Hàn về chính sách Bắc Triều Tiên vào năm 1999. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã có cuộc đàm phán về Hiệp định tự do thương mại (FTA) trong cùng thời kỳ đó. Trong bối cảnh Nhật Bản gia tăng nhận thức về sự cạnh tranh với Trung Quốc và mối đe dọa từ Bắc Triều Tiên, người ta mong chờ Tokyo sẽ tiếp tục tranh thủ Seoul và duy trì ảnh hưởng ở bán đảo. Tuy nhiên, mối quan hệ Nhật-Hàn lại bất ngờ bị xấu đi và Nhật Bản đã bị sụt giảm ảnh hưởng. Xu hướng đi xuống bắt đầu từ tháng 4 năm 2004, khi Quận Shimane thông qua một nghị quyết tuyên bố Takeshima (Tokdo trong tiếng Hàn) là lãnh thổ của Nhật Bản và Tổng thống Hàn Quốc Roh Moo Hyun phát động một chiến dịch chống Nhật Bản, khiến những người theo tư tưởng bảo thủ vốn thường ủng hộ Nhật Bản phải rơi vào thế chống đỡ. Thay vì tập trung vào những lợi ích lớn hơn ở Bán đảo Triều Tiên, Bộ Ngoại giao Nhật Bản tiếp tục thúc đẩy sự công nhận của quốc tế đối với yêu sách của Nhật Bản về lãnh thổ đang tranh chấp – một hành động chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa. Chuyến thăm của Thủ tướng Koizumi đến đền Yasukuni đã khiến vấn đề trở nên phức tạp hơn, và sau đó những lời lẽ thiếu cân nhắc của Thủ tướng Abe vào tháng 3/2007 biện minh cho sự đối xử trong thời chiến của Nhật Bản với các nô lệ tình dục bị cưỡng bức hay còn gọi là “phụ nữ giải khuây” từ Triều Tiên đã mở ra một cuộc cạnh tranh giữa hai chính phủ để vận động hành lang quốc hội Mỹ thông qua hoặc bác bỏ dự luật lên án Nhật Bản. Việc Chính phủ Tổng thống Roh từ chối tiếp tục tham dự các cuộc họp của TCOG về vấn đề Bắc Triều Tiên và những nỗ lực nhằm coi Nhật Bản là một kẻ thù chung trong kế hoạch phòng thủ chung Mỹ-Hàn (cuối cùng không thành công) đáng lẽ ra đã gióng lên hồi chuông cảnh báo cho Tokyo, nhưng thay vào đó chính phủ Nhật Bản lại chờ đợi và hi vọng rằng các mối quan hệ sẽ được cải thiện sau nhiệm kỳ của Tổng thống Roh. Với việc thắng cử của Tổng thống bảo thủ và thân Nhật hơn là Lee Myung Bok vào tháng 12/2007, mối quan hệ đã có vẻ sẽ được cải thiện hơn. Sự bất lực của Nhật Bản trong việc duy trì mối quan hệ tích cực với Hàn Quốc được thiết lập bởi ông Kim và ông Obuchi cho thấy rằng hành vi cân bằng quan hệ bên ngoài nhằm chống lại Trung Quốc chỉ thực hiện được tới như vậy. Trong trường hợp mối quan hệ với Hàn Quốc, kiểu chính trị liên quan đến vấn đề bản sắc của Nhật Bản và sự đấu tranh tư tưởng trong nước để kết thúc “chế độ hậu chiến” đã làm thất bại các tính toán quyền lực theo tư duy hiện thực. Điều này xảy ra bất chấp thực tế nhìn chung công chúng Nhật Bản đã có một cái nhìn tích cực hơn rất nhiều về người dân Hàn Quốc so với bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử hai nước.19 Tuy nhiên, kết quả chiến lược của việc Tokyo bận tâm nhiều hơn về bản sắc dân tộc và chính trị lãnh thổ so với chính trị thực dụng đã khiến vị trí chiến lược của Nhật trở nên suy yếu hơn ở Đông Bắc Á. Liên minh Mỹ – Nhật trong chiến lược Châu Á Định hình hội nhập khu vực Điểm mạnh và điểm yếu của công cụ ngoại giao Nhật Bản Kết luận Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Nhat Ban trong long Chau A.pdf —- Chú thích: 1. Nakae Chomin, A Discourse by Three Drunkards on Government, dịch bởi Nobuko Tsukui, Nobuko Tsukui và Jeffrey Hammond biên tập (New York: Weatherhill Books,1984). 2. Để xem nguồn gốc chiến lược của tư tưởng Nhật Bản trong giai đoạn đầu, có thể đọc Ronald P. Toby, State and Diplomacy in Early Modern Japan: Asia in the Development of the Tokugawa Bakufu (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1992); Kenneth B. Pyle, Japan Rising: The Resurgence of Japanese Power and Purpose (New York: Public Affairs, 2007); và Michael Auslin, Negotiating with Imperialism: The Unequal Treaties and the Culture of Japanese Diplomacy (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 2004). 3. Pyle, Japan Rising. 4. Để có một cái nhìn toàn cảnh về quan điểm của các nhà hiện thực, đọc bài của Kenneth Waltz, “Structural Realism after the Cold War,” International Security 5, no. 21 (mùa hè 2000): 5–41; David Kang, “Getting Asia Wrong: The Need for New Analytical Frameworks,” International Security 27, no. 4 (mùa xuân 2003): 57–85; Michael J. Green, Japan’s Reluctant Realism: Foreign Policy Challenges in an Era of Uncertain Power (London: Palgrave Press, 2001). 5. Peter Katzenstein, Cultural Norms and National Security: Police and Military in Postwar Japan (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1996). 6. Chalmers Johnson, Laura D’Andrea Tyson, và John Zysman, biên tập, Politics and Productivity: The Real Story of Why Japan Works (New York: Ballinger, 1989); Walter Hatch và Kozo Yamamura, Asia in Japan’s Embrace: Building a Regional Production Alliance (Cambridge: Cambridge University Press, 1996). 7. Eric Heginbotham và Richard J. Samuels, “Mercantile Realism and Japanese Foreign Policy,” in Unipolar Politics: Realism and State Strategies after the Cold War, Ethan B. Kapstein và Michael Mastanduno biên tập (New York: Columbia University Press,1999), 182–217; Richard J. Samuels, “Rich Nation, Strong Army”: National Security and the Technological Transformation of Japan (Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 1994). 8. Green, Japan’s Reluctant Realism. 9. Pyle, Japan Rising. 10. Boueichou (Bộ Quốc phòng Nhật Bản), Bouei Hakusho 2007 nendoban [Phòng vệ Nhật Bản, 2007], 52–53. 11. Tuần duyên Nhật Bản, Japan Coast Guard Annual Report, 2005 (Tokyo: Kokuritsu Insatsukyoku,2006), www.kaiho.mlit.go.jp/info/books/report2005/tokushu/p018.html. 12. Được ghi lại từ các bản tin và phỏng vấn với những người tham gia trong Green, Japan’s Reluctant Realism, 96–98. 13. Văn phòng nội các Thủ tướng Nhật Bản, “Speech by H.E. Mr. Junichiro Koizumi, Prime Minister of Japan” (Indonesia, 22 tháng 4, 2005), www.kantei.go.jp/foreign/koizumispeech/2005/04/22speech_e.html. 14. Tổng cộng 52,3% người dân Nhật Bản phản đối chuyến viếng thăm theo cuộc thăm dò dân ý được thực hiện bởi Kyodo (www.nishinippon.co.jp/nnp/politics/20060711/20060711_003.shtml); 51% người dân Nhật Bản bị xúc phạm bởi “sự can thiệp” của Trung Quốc trong vấn đề Yasukuni (www.yomiuri.co.jp/feature/fe6100/news/20060626it13.htm); 37% người dân Nhật Bản nghĩ rằng Trung Quốc là mối đe dọa với Nhật Bản (www.yomiuri.co.jp/national/news/20060704it13.htm?from=top). 15. Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, “China-Japan Joint Press Communiqué” (Bắc Kinh, 8 tháng 10, 2006), www.fmprc.gov.cn/eng/wjdt/2649/t276184.htm. 16. 30 tháng 11, 2007, Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), www.jbic.go.jp/autocontents/japanese/news/2007/000208/index.htm, và www.jbic.go.jp/ autocontents/japanese/news/2007/000208/sokuhou.pdf. 17. Chính phủ Nhật Bản vận động hành lang Mỹ về các vấn đề liên minh Mỹ-Hàn được ghi lại trong Murata Koji, “The Origins and the Evolution ofthe U.S.-ROK Alliance from a Japanese Perspective” (Trung tâm nghiên cứu châu Á Thái Bình Dương, Stanford University, tháng 3 1997). 18. Xem Văn phòng nội các Thủ tướng Nhật Bản, Gaiko ni Kansuru Yoron Chousa [khảo sát dân ý về ngoại giao], 3 tháng 12, 2007, www8.cao.go.jp/survey/index.html. 19. Theo một cuộc thăm dò được thực hiện bởi Văn phòng nội các Thủ tướng Nhật Bản năm 2007, có sự gia tăng trong những năm gần đây về tỷ lệ % người dân Nhật tin rằng mối quan hệ Nhật-Hàn đã được cải thiện. Xem Văn phòng nội các Thủ tướng Nhật Bản, Gaiko ni Kansuru Yoron Chousa.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:28:51 GMT 9
Tranh luận nội bộ Trung Quốc về chính sách Biển ĐôngNguồn: Li, Mingjiang (2012). “Chinese Debates of South China Sea Policy: Implications for Future Developments”, RSIS Working Papers, No. 239 (Singapore: S. Rajaratnam School of International Studies). >> PDF Biên dịch: Hồ Hải Yến | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp Download: Chinese debates of SCS policy Những năm gần đây là một giai đoạn đầy ắp sự kiện đối với tranh chấp Biển Đông. Vào năm 2009, việc các bên khác nhau đệ trình các yêu sách đối với thềm lục địa mở rộng lên Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Ranh giới Thềm lục địa đã khởi đầu cho một cuộc chiến ngoại giao nảy lửa. Đặc biệt, hành động của Trung Quốc trong việc đệ trình bản đồ đường chín đoạn ở Biển Đông lên Liên Hợp Quốc đã làm bùng lên sự phản đối mạnh mẽ từ các quốc gia tranh chấp khác. Sự đối đầu ngoại giao ở Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) vào năm 2010 ở Hà Nội, đặc biệt là giữa các quan chức Mỹ và Trung Quốc, đã đánh dấu sự gia tăng căng thẳng chưa từng có đối với vấn đề Biển Đông trong vòng hơn một thập kỷ. Nửa đầu năm 2011, hàng loạt các sự cố, bao gồm việc Bắc Kinh phản ứng nặng tay với các hoạt động khai thác năng lượng và hải sản của Philippines và Việt Nam ở Biển Đông, càng làm quan hệ giữa các bên tranh chấp ngày càng xấu đi. Kết quả là mối bang giao giữa Trung Quốc và các quốc gia tranh chấp trong ASEAN càng trở nên tồi tệ và các cường quốc bên ngoài ngày càng can thiệp sâu hơn vào vấn đề Biển Đông. Áp lực về ngoại giao và chiến lược nặng nề đặt lên vai Bắc Kinh đã thúc đẩy giới làm chính sách và các nhà phân tích Trung Quốc chú ý hơn đến vấn đề tranh chấp, khiến họ phải nghiên cứu chính sách của các quốc gia khác và đưa ra những phản ứng thích hợp cũng như các lựa chọn chính sách trong tương lai. Bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan về những tranh luận ở Trung Quốc đối với ba lĩnh vực: (1) cách thức các trường phái tư tưởng khác nhau nhìn nhận các tranh chấp ở Biển Đông, (2) những dạng đề xuất chính sách được đưa ra, và (3) những vùng đồng thuận và gây bất đồng. Bài viết cũng cố gắng phân tích cách thức mà những cuộc tranh luận này liên quan đến lập trường chính thức của Trung Quốc cũng như các chính sách và động thái thực tế của Trung Quốc đối với tranh chấp. Là bên tranh chấp mạnh nhất và đã từng tham gia ba cuộc xung đột quân sự liên quan đến tranh chấp lãnh thổ này, chính sách của Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc hình thành các diễn biến trong tương lai của cuộc tranh chấp cũng như xung lực của an ninh khu vực. Từ cái nhìn toàn diện này, chúng ta có thể có được một vài manh mối hữu ích để hiểu rõ thêm phản ứng của Trung Quốc đối với tranh chấp ở Biển Đông trong những năm sắp tới. Có bốn chủ đề đáng lưu ý nổi lên từ cuộc tranh luận ở Trung Quốc. Đầu tiên, đối lập với sự phê phán phổ biến từ bên ngoài về sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc, đa số quan điểm của những nhà phân tích Trung Quốc cho rằng sự căng thẳng và các tranh chấp chủ yếu là do sự câu kết giữa Mỹ và những bên yêu sách khác trong khu vực. Thứ hai, họ cũng cho rằng Trung Quốc cần chủ động hơn trên Biển Đông nhằm thay đổi trạng thái bị động hiện tại. Theo đó, Trung Quốc có thể thực hiện được mục tiêu này bằng việc chủ động trong ba lĩnh vực: tăng tốc khai thác tài nguyên ở Biển Đông; hạn chế sự can dự của Mỹ trong vấn đề Biển Đông; và linh hoạt hơn trong việc áp dụng chủ nghĩa đa phương nhằm giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống khác nhau ở Biển Đông. Thứ ba, đa số những nhà nghiên cứu và quan chức Trung Quốc tin rằng các tranh chấp xung quanh Biển Đông trong những năm qua đã khiến cho môi trường an ninh khu vực của Trung Quốc bị xấu đi. Thứ tư, dường như có một sự đồng thuận đang gia tăng cho rằng Bắc Kinh nên thi hành một chính sách Biển Đông ôn hòa, phù hợp hơn trong thời gian sắp tới. Người ta cho rằng có hai phe chính trong cuộc tranh luận ở Trung Quốc: phe cứng rắn và phe ôn hoà.[1] Nghiên cứu này cho rằng còn có một luồng quan điểm trung dung đáng lưu ý cho rằng cần có các chính sách cứng rắn hơn nhằm bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc tốt hơn, đồng thời cần duy trì tình trạng không có đối đầu với các cường quốc bên ngoài cũng như các quốc gia tranh chấp khác trong khu vực. Dựa vào những phát hiện này, nghiên cứu kết luận rằng Bắc Kinh có thể sẽ thi hành chính sách cứng rắn nhưng tránh đối đầu trong tranh chấp Biển Đông trong thời gian sắp tới. Các quan điểm của Trung Quốc về nguồn gốc căng thẳng ở Biển Đông Nhìn chung, dường như có ba luồng quan điểm chính về nguồn gốc căng thẳng ở Biển Đông trong thời gian gần đây. Nhiều học giả bên ngoài Trung Quốc cho rằng Trung Quốc đã thi hành một chính sách cương quyết ở vùng Biển Đông – dẫn đến căng thẳng trong khu vực.[2] Quan điểm này được thừa nhận rộng rãi bởi truyền thông quốc tế cũng như nhiều nhà quan sát và quan chức nước ngoài. Một số ít các nhà quan sát quốc tế lập luận rằng Trung Quốc, trong nhiều trường hợp, chỉ đơn giản là đã phản ứng lại những hành động của các bên tranh chấp khác mà Bắc Kinh cho là đang thách thức quyền lợi và yêu sách của mình trong cuộc tranh chấp.[3] Cuộc tranh luận ở Trung Quốc đã hé lộ một quan điểm thứ ba, cho thấy sự khác biệt về nhận thức đáng kể giữa Trung Quốc và thế giới bên ngoài về nguồn gốc của các căng thẳng và xung đột ở Biển Đông trong những năm gần đây. Quan điểm chủ đạo ở Trung Quốc cho rằng các quốc gia tranh chấp khác và Mỹ đã câu kết để chống lại Trung Quốc. Trung Quốc dường như tin rằng sự câu kết này là nguyên nhân của căng thẳng và xung đột ở Biển Đông từ năm 2009.[4] Các chuyên gia Trung Quốc thường cho rằng yếu tố cốt lõi trong tranh chấp Biển Đông trong những năm gần đây chính là chiến lược “trở lại châu Á”[5] của Washington. Dường như nhiều người Trung Quốc cho rằng mục tiêu chính của chiến lược “trở lại châu Á” là để ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ví dụ, quan điểm của Thiếu tướng hải quân (đã nghỉ hưu) Yang Yi thể hiện rõ tình cảm bài Mỹ ở Trung Quốc. Ông Yang buộc tội Mỹ về việc “đẩy mạnh chính sách ngăn chặn Trung Quốc đã có lâu nay: một mặt, họ (Washington) muốn Trung Quốc đóng vai trò nào đó trong các vấn đề an ninh khu vực, mặt khác, lại dần thắt chặt sự bao vây Trung Quốc và liên tục thách thức những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc”.[6] Nhóm các nhà phân tích Trung Quốc này cho rằng ủng hộ những nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc là một phần chiến lược của Washington.[7] Họ chỉ ra rằng sự can dự ngày càng nhiều vào tranh chấp Biển Đông của Mỹ cũng được cổ xuý bởi các quốc gia trong khu vực như Việt Nam và Philippines.[8] Nhiều tuyên bố chính thức của Trung Quốc đã minh chứng cho cách giải thích này.[9] Nhiều nhà phân tích cũng tìm cách xem xét toàn diện các nguyên nhân dẫn đến căng thẳng ở Biển Đông. Theo một bài báo trên Nhân dân Nhật báo, có ba nhân tố tạo nên căng thẳng gia tăng ở Biển Đông trong những năm gần đây. Thứ nhất, các quốc gia lân cận ngày càng chú ý khai thác nguồn lợi kinh tế, đặc biệt là tài nguyên năng lượng ở Biển Đông. Bài báo đặc biệt đề cập đến việc doanh thu dầu và khí của Việt Nam chiếm đến 24 phần trăm tổng GDP nước này trong năm 2010. Thứ hai, đó là sự dịch chuyển chiến lược sang Đông Á của Mỹ. Washington đã sử dụng Biển Đông như một con bài để duy trì vị thế an ninh vượt trội trong khu vực và điều này trùng khớp với mong muốn của nhiều quốc gia lân cận trong việc quốc tế hoá vấn đề Biển Đông. Thứ ba, sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc đã khiến cho các quốc gia láng giềng tìm cách lôi kéo Mỹ vào nhằm cân bằng lại sự trỗi dậy này.[10] Luận điểm cuối cùng, có phần nào nhìn vào bản thân Trung Quốc để mổ xẻ vấn đề, dù không được nhiều nhà phân tích ở Trung Quốc chia sẻ nhưng lại được chấp nhận bởi một số chuyên gia Đông Nam Á ở Trung Quốc. Theo ông Ma Yanbing, một chuyên gia Đông Nam Á tại Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc (CICIR), sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc, đặc biệt là sức mạnh hải quân, đã khiến Việt Nam lo sợ. Điều này khiến cho lãnh đạo Việt Nam nghĩ rằng họ nên chớp lấy cơ hội cuối cùng để xử lý ván bài Biển Đông trước khi Trung Quốc trở nên quá mạnh.[11] Những năm gần đây, một đề tài thường xuyên được chú ý về tranh chấp Biển Đông là các quan ngại về tự do hàng hải. Một luận điểm phổ biến được các chuyên gia phân tích Trung Quốc thường xuyên đưa ra là Washington đã dựng nên câu chuyện “tự do hàng hải” và sử dụng nó như một công cụ để gây áp lực cho Trung Quốc. Họ cho rằng Mỹ đã đưa ra một giả thuyết sai trái về mối đe doạ tự do hàng hải ở Biển Đông. Họ tin rằng Mỹ chỉ đơn giản đang niệm câu thần chú “tự do hàng hải” như một cái cớ để xen vào ở tranh chấp Biển Đông nhằm duy trì ưu thế quân sự vượt trội của Mỹ trong khu vực.[12] Nhiều chuyên gia Trung Quốc tin rằng luận điệu của Mỹ về tự do hàng hải ở Biển Đông là nhằm nhấn mạnh lập trường của Mỹ về việc tự do tiến hành các hoạt động trinh thám quân sự ở vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, như sự cố tàu Impeccable đã chứng minh.[13] Một bài báo trong Thời báo Quốc phòng chỉ ra rằng Mỹ đã tung ra hàng loạt những tàu giám sát quân sự để thu thập thông tin tình báo từ các quốc gia ven Biển Đông, đe doạ nghiêm trọng cho an ninh của các quốc gia này. Tác giả tuyên bố rằng “sự tự do hàng hải thật sự mà Mỹ muốn đảm bảo chính là sự tự do của Mỹ trong việc đe doạ quân sự các quốc gia khác”.[14] Quan điểm này dường như cũng phản ánh lập trường chính thức của Trung Quốc. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) vào tháng Bảy năm 2010 đã phản pháo lại tuyên bố của bà Hillary Clinton về Biển Đông bằng việc phủ nhận tự do hàng hải là một vấn đề. Sau đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nhiều lần nói rằng Washington chỉ sử dụng luận điệu về tự do hàng hải nhằm trục lợi về mặt chiến lược và ngoại giao mà thôi.[15] Xác định cách tiếp cận Sự gia tăng những quan điểm cứng rắn Các căng thẳng và tranh chấp trong những năm gần đây đã làm gia tăng tinh thần dân tộc ở Trung Quốc. Những cư dân mạng Trung Quốc thường thể hiện cái nhìn hết sức cứng rắn với những quốc gia tranh chấp khác, đặc biệt là Việt Nam, Philippines cũng như Mỹ. Họ chỉ trích chính phủ Trung Quốc đã quá nhu nhược trong vấn đề Biển Đông.[16] Một lá thư của độc giả gửi đến tờ National Defence Times với tựa đề “Nếu hiện tại không mạnh tay ở Biển Đông, sẽ không có bất cứ cơ hội nào trong tương lai” đã phản ánh cái nhìn diều hâu của một bộ phận đáng kể công luận Trung Quốc.[17] Tờ Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc, vốn có tiếng trong việc thu lợi từ việc kinh doanh chủ nghĩa dân tộc, đã xuất bản nhiều bài báo và xã luận có quan điểm gay gắt về việc gia tăng căng thẳng ở Biển Đông trong hai năm trở lại đây. Một bài xã luận thu hút được nhiều sự chú ý đã trình bày như sau: … một vài quốc gia láng giềng của Trung Quốc đã lợi dụng những chính sách đối ngoại mềm dẻo của Trung Quốc, biến nó thành cơ hội vàng để mở rộng lợi ích khu vực của họ… Hiện tại, theo như quan điểm chính thống, trước hết Trung Quốc nên thông qua những kênh đàm phán chính để giải quyết tranh chấp biển với các quốc gia khác. Nhưng nếu tình huống chuyển biến xấu đi, thì cần phải có những hành động quân sự… Nếu những quốc gia này không muốn thay đổi cách đối xử của họ với Trung Quốc, họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ chiến tranh. Chúng ta cần sẵn sàng cho điều này, bởi vì nó có thể là cách duy nhất để giải quyết vấn đề tranh chấp biển.[18] Có vẻ như giới quân sự Trung Quốc cũng đã lựa chọn một lập trường cứng rắn đối với tranh chấp Biển Đông. Không lâu sau những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Mỹ ở Diễn đàn ARF vào tháng 7 năm 2010 tại Hà Nội, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã tổ chức một cuộc diễn tập quy mô lớn ở Biển Đông. Tổng tham mưu trưởng PLA Chen Bingde đã nói rằng: “chúng ta phải đặc biệt chú ý sự thay đổi tình hình (ở khu vực) và sự gia tăng nhiệm vụ của chúng ta; tự thân chuẩn bị cho đấu tranh quân sự”.[19] Ba hạm đội của PLA đã tiến hành một cuộc diễn tập chung thay vì tiến hành các cuộc tập trận riêng rẽ như thường lệ trong suốt lễ kỷ niệm thành lập PLA vào ngày 1 tháng 8. Xu Guangyu, chuyên gia cấp cao tại Hiệp hội Kiểm soát Vũ khí và Giải trừ Quân bị Trung Quốc, cho rằng đây là phản ứng của PLA đối với “một đòi hỏi chiến lược”.[20] Thiếu tướng Luo Yuan thì cho rằng: “Trung Quốc là một nạn nhân của tranh chấp Biển Đông, tuy nhiên Trung Quốc đã nhẫn nhịn. Các quốc gia tranh chấp lân cận không nên tiếp tục lấn tới… Nếu không thì hậu quả có thể trầm trọng hơn là sự đe doạ suông.”[21] Sự ôn hoà có tính toán Giữa những tuyên bố và bình luận hiếu chiến, Trung Quốc nhận thức rõ được những tác động tiêu cực của các diễn biến ở Biển Đông đối với quan hệ an ninh của nó trong khu vực. Sách trắng thường niên về ngoại giao Trung Quốc, được xuất bản bởi Bộ Ngoại giao Trung Quốc, và Sách xanh về Châu Á – Thái Bình Dương (Asia-Pacific Blue Paper), được phát hành bởi Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (CASS) vào tháng 1 năm 2011 đã cho rằng Trung Quốc đang phải đối mặt với các thách thức an ninh chưa từng có trong năm 2010.[22] Một nhóm chuyên gia ở CASS cũng kết luận rằng việc Mỹ “trở lại châu Á” đã gây nguy hiểm cho mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng bằng cách tạo ra hàng rào ngăn cách giữa hai bên, làm suy giảm lòng tin chính trị và tạo ra sự phức tạp mới.[23] Tuy nhiên, nhiều chuyên gia Trung Quốc vẫn giữ thái độ điềm đạm và ủng hộ một cách tiếp cận ít nhiều thận trọng đối với vấn đề Biển Đông. Vào đầu tháng 6 năm 2011, một số viện nghiên cứu chính sách đáng chú ý, bao gồm CASS, Hội Thái Bình Dương của Trung Quốc, Quỹ Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược của Trung Quốc, Đại học Nhân Dân, Học viện Thương Hải về Nghiên cứu Quốc tế, phối hợp tổ chức một diễn đàn về các vấn đề an ninh liên quan đến Trung Quốc và khu vực Thái Bình Dương. Quan điểm bao trùm của diễn đàn, được tham dự bởi một số nhà phân tích Trung Quốc hàng đầu, đã khác biệt rõ rệt với thái độ cứng rắn và hiếu chiến như miêu tả ở phần trên. Ví dụ, Liu Jiangyong, một nhà phân tích an ninh tại Đại học Thanh Hoa, chỉ ra rằng Trung Quốc nên nỗ lực dung hoà vị thế “ẩn mình chờ thời” (tao guang yang hui) với việc “đạt được điều gì đó” (you suo zuo wei) trong tranh chấp Biển Đông. Ông cũng đưa ra một gợi ý đúng đắn cho chính sách an ninh Trung Quốc ở Đông Á: hợp tác lâu dài, phát triển lâu dài và an ninh bền vững, đồng thời ngăn chặn các mối đe dọa thông qua hợp tác, và thúc đẩy hợp tác trong khi ngăn chặn các mối đe dọa.[24] Nhiều nhà phân tích ở Trung Quốc bác bỏ thẳng thừng phương án sử dụng vũ lực ở Biển Đông. Họ cho rằng việc sử dụng vũ lực là không thực tế vì những hạn chế của Trung Quốc. Học giả đến từ Hải Nam Ngô Sĩ Tồn (Wu Shicun) nhấn mạnh rằng Trung Quốc phải biết cân bằng giữa việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình với việc gìn giữ ổn định ở Biển Đông, đồng thời hướng đến sự ổn định toàn cục ở Biển Đông nhằm giữ vững giai đoạn cơ hội chiến lược. Vì thế, ông tin rằng trong tương lai, việc giải quyết vấn đề Biển Đông sẽ nhiều khả năng thông qua biện pháp hoà bình, đặc biệt là thông qua đàm phán dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và luật biển đương đại.[25] Thứ hai, việc sử dụng vũ lực có thể khiến Trung Quốc rơi vào cái bẫy của Mỹ. Một học giả Trung Quốc cho rằng sự can thiệp của Mỹ ở Biển Đông có thể là một âm mưu của Mỹ để lôi kéo Trung Quốc vào một cuộc chiến tranh khu vực dai dẳng nhằm làm suy yếu Trung Quốc. Ông cho rằng chính vì lý do này mà Trung Quốc nên thận trọng. Hơn nữa, Trung Quốc vẫn còn kém xa Mỹ, nên cần nhiều thời gian hơn để phát triển quốc gia. Vì vậy, ông kết luận rằng Trung Quốc hoàn toàn không cần thiết và quá mạo hiểm khi tham gia vào xung đột quân sự.[26] Thứ ba, xung đột quân sự ở Biển Đông có thể làm chệch hướng chú ý của Trung Quốc khỏi tranh chấp đối với Đài Loan. Từ quan điểm địa chính trị, Trung Quốc nên duy trì quan tâm an ninh chủ yếu của mình vào Đài Loan và Nhật Bản trong khi tìm cách xây dựng các quan hệ đối tác ở Đông Nam Á. Một khi Trung Quốc vẫn chưa giải quyết xong vấn đề tranh chấp Đài Loan và đảo Điếu Ngư, Trung Quốc nên tránh đối đầu với các quốc gia Đông Nam Á.[27] Xue Li, một nhà chiến lược ở CASS cũng chứng minh rằng việc sử dụng bạo lực ở Biển Đông sẽ lôi Trung Quốc vào nhiều hệ quả khó khăn khác: áp lực ngoại giao nặng nề từ cộng đồng quốc tế về việc Trung Quốc thách thức luật pháp quốc tế, phá huỷ môi trường khu vực ổn định cho sự phát triển hoà bình của Trung Quốc, và làm mất đi giai đoạn cơ hội chiến lược cho sự phát triển xa hơn của quốc gia.[28] Bác bỏ việc sử dụng vũ lực, các nhà phân tích khác nhấn mạnh việc Trung Quốc cần tiếp tục sử dụng phương thức hoà bình để giải quyết tranh chấp, và can dự quân sự với các quốc gia trong khu vực để nâng cao sự tin tưởng lẫn nhau. Họ thúc giục Trung Quốc làm việc với các quốc gia tranh chấp khác để giảm căng thẳng và đạt được một số đột phá trong đàm phán nhằm tránh việc Mỹ có cớ để can thiệp.[29] Cách xử lý chính thức các tranh chấp Ở mức độ chính thức, phía Trung Quốc kiên định các yêu sách của mình ở Biển Đông và bảo vệ các hành động quyết liệt chống lại các bên tranh chấp khác. Cùng lúc đó, Bắc Kinh cũng tranh thủ cơ hội để cải thiện quan hệ với các quốc gia tranh chấp khác. Dù sao đi nữa, cách xử lý chính thức các cuộc khủng hoảng Biển Đông trong những năm gần đây đã phản ánh các chính sách mà các học giả ôn hoà ủng hộ. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng là cơ quan giữ vai trò chủ đạo trong xử lý tranh chấp Biển Đông và họ luôn ủng hộ chính sách mang tính ôn hòa. Khi được hỏi ý kiến về nội dung của bài xã luận nêu trên của Thời báo Hoàn Cầu, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho rằng các cơ quan truyền thông có quyền biên tập và bình luận. Bà cũng nói thêm rằng bà tin truyền thông Trung Quốc sẽ đưa tin một cách trung thực, khách quan và có trách nhiệm. Sau đó bà nhắc lại ý định hoà bình của Trung Quốc đối với các nước láng giềng và nhấn mạnh các cuộc đàm phán là cách thức tốt hơn nhằm giúp ổn định tình hình.[30] Nhận định của bà có thể được xem như là sự không đồng ý với bài xã luận của Thời báo Hoàn Cầu. Các quan chức Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nỗ lực bảo vệ chính sách bị cho là nhu nhược này. Một quan chức Ngoại giao tên là Zhang Yan đã phản bác lại những chỉ trích cho rằng chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông là quá yếu ớt tại diễn đàn hồi tháng 6 năm 2011. Bà bảo vệ chính sách của Trung Quốc trên cơ sở cho rằng chính sách đối ngoại Trung Quốc là để phục vụ cho mục tiêu tạo dựng một xã hội khá giả trong nước.[31] Nguyên Vụ trưởng Vụ Châu Á tại Bộ Ngoại giao Trung Quốc Zhang Jiuheng cũng bảo vệ cho chính sách này rằng: “Vấn đề Biển Đông thật sự rất phức tạp. Chúng ta cần thừa nhận sự tồn tại của tranh chấp… Không ai muốn thấy căng thẳng trong khu vực. Không ai mong muốn có xung đột quân sự trong khu vực cả.”[32] Đáp lại lời kêu gọi trong nước đòi Trung Quốc lựa chọn lập trường cứng rắn hơn trong các vấn đề quốc tế, Uỷ viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc (Dai Bingguo) đã đăng một bài trên tờ Nhân dân Nhật báo vào tháng 12 năm 2010, trong đó ông có đề cập rằng: “nếu chúng ta không thể xử lý đúng đắn các mối quan hệ với thế giới bên ngoài, cơ hội phát triển trong 20 năm của thế kỷ mới được gầy dựng nên bởi nền hoà bình quốc tế, sự ổn định tổng thể trong quan hệ giữa các cường quốc và sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ, sẽ bị đánh mất”.[33] Sự bất đồng ngoại giao tại ARF năm 2010 ở Hà Nội đã thúc đẩy Bắc Kinh nhìn nhận nghiêm túc vấn đề Biển Đông, đặc biệt là chính sách mang tính can thiệp ngày càng nhiều của Mỹ. Sau mùa hè năm 2010, Trung Quốc bắt đầu có nhiều hành động để xoa dịu tranh chấp ở Biển Đông. Các bên tranh chấp khác đã phản ứng tích cực trước những nỗ lực ngoại giao này. Vào tháng 8, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vinh đã đến thăm Bắc Kinh và một lần nữa cam đoan với Trung Quốc về các ý định và cam kết ôn hoà của Việt Nam. Ông tỏ ý rằng Việt Nam sẽ không theo đuổi ba hành động sau: tham gia liên minh với quốc gia khác; cho phép thiết lập các căn cứ nước ngoài ở Việt Nam; và phát triển mối quan hệ với các nước khác nhằm chống lại bên thứ ba.[34] Tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc –ASEAN vào tháng 10, thủ tướng Ôn Gia Bảo đã xác nhận lại rằng Trung Quốc sẵn sàng làm việc với các quốc gia ASEAN để thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Tại cuộc họp bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM Plus) lần đầu tiên, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt (Liang Guanglie) đã phản hồi nhẹ nhàng khi vấn đề Biển Đông được đưa ra. Vào tháng 10, Thứ trưởng Ngoại giao Trương Chí Quân (Zhang Zhijun) đã thăm bốn nước ASEAN trong một chuyến đi tìm kiếm sự thật. Vào tháng 11, Phó Chủ tịch nước Tập Cận Bình, trong một chuyến thăm Singapore, đã cố gắng đảm bảo với các nước về khuynh hướng hoà bình của Trung Quốc trong khu vực. Tới cuối năm 2010, nhiều nhà quan sát trông chờ một giai đoạn tương đối hoà dịu ở Biển Đông vì các quốc gia tranh chấp đã bắt đầu đàm phán về dự thảo bản hướng dẫn thực hiện DOC. Tuy nhiên, một loạt các hành động của các cơ quan chấp pháp Trung Quốc chống lại các hoạt động kinh tế của Philippines và Việt Nam ở Biển Đông một lần nữa lại thổi bùng mâu thuẫn từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2011. Trước khi mâu thuẫn leo thang, Bắc Kinh và Hà Nội đã đồng ý đàm phán. Tháng 6 năm 2011, Việt Nam đã cử đặc phái viên đến Bắc Kinh. Hai bên đồng ý về những điểm sau: giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán; kiềm chế không thực hiện những hành động có thể làm căng thẳng leo thang; chống lại sự can thiệp từ bên thứ ba; và chủ động định hướng dư luận ở mỗi nước.[35] Cuối tháng 8, các quan chức quốc phòng Việt Nam và Trung Quốc gặp nhau ở Bắc Kinh và thảo luận cách thức giảm căng thẳng ở Biển Đông. Một số quan chức cấp cao của cả hai nước tiếp tục gặp nhau ở Hà Nội vào đầu tháng 9 để tham dự cuộc họp lần thứ năm của Uỷ ban chỉ đạo quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Cả hai nước đều nắm lấy cơ hội này để làm giảm căng thẳng. Tuyên bố chung được đưa ra bởi các đồng chủ tịch của ủy ban, Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc và Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, đều mang giọng hoà giải, cả hai bên cam kết sẽ chấp hành DOC. Sau vài tháng đàm phán, Bắc Kinh cuối cùng đã quyết định ký kết văn bản này với ASEAN vào tháng 7 năm 2011 tại Hội nghị Ngoại trưởng Trung Quốc – ASEAN. Trung Quốc cam kết hợp tác với các quốc gia tranh chấp khác để thực hiện DOC và đề xuất đứng ra tổ chức một hội thảo về tự do hàng hải ở Biển Đông cũng như thiết lập ba ủy ban kỹ thuật về nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường, an toàn hàng hải và tìm kiếm và cứu nạn, và chống tội phạm xuyên quốc gia trên biển.[36] Sau khi bản hướng dẫn được thông qua, tờ Nhân dân Nhật báo đã nhận định rằng: “Điều này có lợi cho hoà bình và ổn định ở Biển Đông và sẽ đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và phân định các vùng biển của Biển Đông giữa các quốc gia liên quan. Nó chứng tỏ rằng Trung Quốc và các nước ASEAN đã có quyết tâm, niềm tin cũng như khả năng thúc đẩy hoà bình và ổn định ở Biển Đông.”[37] Chuyến thăm của lãnh đạo Đảng Việt Nam đến Trung Quốc vào tháng 10 năm 2011 là một cột mốc đáng kể. Trong chuyến thăm này, cả hai nước đã quyết định thiết lập một đường dây nóng giữa lãnh đạo hai nước, một chỉ dấu cho thấy mối quan tâm chung trong việc ngăn chặn những khủng hoảng trong tương lai. Hai nước cũng đồng ý thắt chặt hợp tác quân sự qua nhiều phương thức: tiếp tục đối thoại chiến lược ở cấp thứ trưởng quốc phòng; chuẩn bị thiết lập đường dây điện thoại trực tiếp giữa bộ quốc phòng hai nước, mở rộng giao lưu trao đổi giữa những sĩ quan trẻ, thăm dò tính khả thi của việc tiến hành tuần tra chung dọc biên giới; tiếp tục tuần tra hải quân chung tại Vịnh Bắc Bộ, và gia tăng các chuyến thăm cảng lẫn nhau của hải quân hai bên. Trong thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản cho việc giải quyết tranh chấp biển, Trung Quốc và Việt Nam cam kết tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho các tranh chấp. Cả hai bên cũng đồng ý thảo luận những giải pháp tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và yêu sách của mỗi bên, bao gồm cả việc khai thác chung. Hai nước đều đồng ý trước tiên cần giải quyết các vấn đề ít mâu thuẫn trước, bao gồm việc phân định ranh giới và khai thác chung khu vực phía Nam cửa Vịnh Bắc Bộ, hợp tác bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu biển, tìm kiếm và cứu nạn cũng như ngăn ngừa và cứu trợ thiên tai. Trung Quốc và Việt Nam cũng đồng ý để trưởng đoàn đàm phán về biên giới gặp gỡ thường xuyên và thiết lập đường dây nóng để trao đổi nhằm giải quyết các xung đột trên biển một cách kịp thời và hiệu quả.[38] Trong chuyến thăm của Tổng thống Philippines Aquino đến Trung Quốc vào cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 2011, cả hai nước đều làm nhẹ những tranh chấp của họ ở Biển Đông. Tuyên bố chung được công bố trong chuyến thăm chỉ đề cập ngắn gọn rằng tranh chấp biển không nên ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước. Lãnh đạo hai bên lặp lại rằng họ sẽ giải quyết tranh chấp qua đàm phán hoà bình và tuân thủ DOC.[39] Theo đó, Trung Quốc và Philippines tập trung vào việc thắt chặt kinh tế. Hai trăm doanh nhân Philippines cũng đã tháp tùng chuyến đi của Tổng thống Aquino. Trong chuyến đi, nhiều đề xuất cho việc tăng cường hợp tác kinh tế cũng được công bố. Cả hai bên đều thể hiện sự quan tâm chung đối với các liên doanh khai thác mỏ ở Philippines vốn có thể thu hút từ 2 đến 7 tỷ đô la Mỹ đầu tư từ Trung Quốc.[40] Bắc Kinh và Manila tuyên bố sẽ gia tăng mức thương mại song phương lên 60 tỷ đô la Mỹ và nâng số khách du lịch lên 2 triệu người vào năm 2016.[41] Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc vào tháng 11/2011, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cho rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục là một láng giềng tốt, người bạn tốt và đối tác tốt của ASEAN, nhấn mạnh Trung Quốc sẵn sàng làm việc với các quốc gia ASEAN để hướng đến việc thực thi toàn diện DOC. Ông nói thêm rằng Trung Quốc cũng sẵn sàng thảo luận soạn thảo Bản Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) và cam kết sẽ gia tăng viện trợ của Trung Quốc và hợp tác kinh tế với ASEAN. Ông đề nghị gửi nhiều nhóm doanh nghiệp đến ASEAN để gia tăng thương mại và đầu tư, thiết lập một trung tâm trưng bày sản phẩm ASEAN ở Nam Ninh (thành phố trung tâm của Quảng Tây), và thúc đẩy hơn nữa kết nối đường biển và đường bộ giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Ông Ôn cũng cam kết cung cấp các khoản vay trị giá 10 tỷ đô la Mỹ (bao gồm 4 tỷ đô la Mỹ vay ưu đãi) cho các dự án cơ sở hạ tầng ở các nước ASEAN và một quỹ hợp tác biển Trung Quốc-ASEAN với số tiền 3 tỷ nhân dân tệ để hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển, vận tải đường biển, an toàn hàng hải, tìm kiếm cứu nạn, và hoạt động chống tội phạm xuyên quốc gia.[42] Tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, ông Ôn đã không phản bác lại phát biểu của Tổng thống Obama và những lãnh đạo khác. Thay vào đó, ông xác nhận lại tự do hàng hải ở Biển Đông. Ông cũng thể hiện cái nhìn tích cực về DOC và lặp lại quan điểm chính thức của Trung Quốc về việc tìm kiếm một giải pháp hoà bình cho các tranh chấp với các nước có liên quan.[43] Nhiều nhà quan sát đồng ý rằng các cơ quan chấp pháp biển Trung Quốc đã trở nên hung hăng và cứng rắn hơn trong việc bảo vệ những gì được cho là lợi ích của nước họ trên Biển Đông. Trong khi nhận định này là đúng, cũng cần phải để ý rằng các tàu tuần tra của Trung Quốc dường như thể hiện thái độ thận trọng ít nhiều. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2011, sau khi cảnh báo tàu khảo sát của Philippines MV Veritas Voyager hoạt động gần Bãi Cỏ Rong (Reed Bank), hai tàu tuần tra của Trung Quốc đã nhanh chóng rời khỏi hiện trường trước khi máy bay và tàu của lực lượng tuần duyên Philippines đến. Những tàu tuần tra này sau đó đã không trở lại hiện trường để tiếp tục quấy rối tàu của Philippines. Các trường hợp tàu Trung Quốc cắt cáp của tàu khảo sát dầu khí Việt Nam vào tháng 5 và tháng 6 năm 2011 lại phản ánh sự khác biệt nhỏ trong cách thức Trung Quốc giải quyết hai sự kiện. Sự kiện đầu tiên vào cuối tháng 5, thuỷ thủ đoàn trên một tàu hải giám Trung Quốc đã cắt dây cáp của tàu khảo sát của Việt Nam. Trường hợp thứ hai vào đầu tháng 6, người Trung Quốc cố gắng tinh vi hơn. Theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, các tàu cá của Trung Quốc đã bị tàu có vũ trang của Việt Nam truy đuổi, và trong khi chạy trốn, lưới đánh cá của một trong những tàu Trung Quốc đã bị vướng vào dây cáp tàu khảo sát dầu Việt Nam. Tàu cá Trung Quốc đã bị kéo đi hơn 1 giờ trước khi nó được trả tự do. Trường hợp thứ hai, nếu những tuyên bố của Trung Quốc được chứng minh là đúng, sẽ chứng tỏ rằng Trung Quốc đã cố gắng khéo léo hơn nhằm tránh một cuộc đối đầu trực tiếp với Việt Nam. Bên cạnh việc cho rằng tàu Việt Nam đang hoạt động bất hợp pháp trên vùng biển mà Trung Quốc yêu sách, Bắc Kinh còn cố gắng biện minh cho hành động cắt dây cáp với lý do bảo vệ ngư dân và tàu cá Trung Quốc khỏi nguy hiểm.[44] Huớng tới tương lai Lợi ích cốt lõi? Chủ nghĩa đa phương? Đối phó với Mỹ Trung Quốc nên năng động hơn trong việc khai thác tài nguyên? Làm rõ đường chín đoạn? Tiếp cận pháp lý? Kết luận Xem phần còn lại của văn bản tại đây: Chinese debates of SCS policy [1] Sarah Raine, “Beijing’Singapore South Chine Sea Debate”, Survival, 53:5 (2011): 69-88. [2] Ví dụ, xem Mingjiang Li, “Reconciling Assertiveness and Cooperation? China’s Changing Approach to the South China Sea Dispute,” Security Challenges, vol 6, no.2, (Winter 2010), pp.49-68; Michael D. Swaine, “Perceptions of an Assertive China,” China Leadership Monitor, No. 32, 2010; Ian Storey, “China’s Missteps in Southeast Asia: Less Charm, More Offensive,” China Brief, December 17, 2010; Sarah Raine, “Beijing’s South China Sea Debate,” Survival, 53:5 (2011): 69-88; and Edward Wong, “China Navy Reaches Far, Unsettling the Region,” New York Times, June 14, 2011. [3] Michael D. Swaine & M. Taylor Fravel, “China’s Assertive Behavior; Part Two: The Maritime Periphery,” China Leadership Monitor, no. 35, 2011. [4] Ji Peijuan, “zhongguo xu jiasu kaifa nanhai” [China needs to accelerate development in the South China Sea], National Defense Times, June 29, 2011. [5] Phỏng vấn của tác giả với 10 học giả hàng đầu Trung Quốc vào tháng 5 và 6 năm 2011 tại Bắc Kinh và Thượng Hải. [6] PLA Daily, August 13; Reuters, August 13; China Daily, August 13; xem thêm Willy Lam, “Hawks vs. Doves: Beijing Debates “Core Interests” and Sino-U.S. Relations,” China Brief, Volume 10, Issue17, August 19, 2010. [7] Wang Xi, “zhongguo zai nanhai qiaomiao fanji meiguo ‘ruan e zhi’,” [China smartly fights back at American “soft containment”], National Defense Times, August 5, 2011. [8] Ji Peijuan, “zhongguo xu jiasu kaifa nanhai” [China needs to accelerate development in the South China Sea], National Defense Times, June 29, 2011. [9] Ví dụ, xem bình luận của người phát ngôn Bộ Ngoại giao ngày 21/9/ 2010 và 14/10/ 2010: www.fmprc.gov.cn/chn/sxh/tyb/fybt/jzhsl/t761090.htm và www.fmprc.gov.cn/chn/sxh/tyb/fybt/jzhsl/t754554.htm , truy cập ngày 10/11/ 2011. [10] Ding Gang, “nanhai wenti yuanhe hui bei chaore” [why the South China Sea issue has become so hot], People’s Daily, August 2, 2011 [11] Zhou Biao and Jiao Dongyu, “nanhai boyi xiyibu” [the next step in the South China Sea game], National Defense Times, August 17, 2011. [12] Li Xiaokun, “Navigation in South China Sea ‘not a problem’”, China Daily, October 23, 2010. [13] Zhang Jie, et al., “mei qiang tui nanhai wenti guojihua, yang jiechi qi bo xi lali ‘wailun’” [US forcefully pushes internationalization of South China Sea issue, Yang Jiechi uses seven arguments to counter Hillary’s “incorrect points”], Dongfang zaobao [oriental morning post], July 26, 2010. [14] Liu Feitao, “shui shuo nanhai buneng “ziyou hangxing?” [who says there is no freedom of navigation in the South China Sea?], National Defense Times, November 12, 2010. [15] www.fmprc.gov.cn/chn/gxh/tyb/fyrbt/jzhsl/t834597.htm, accessed December 10, 2011 [16] Phỏng vấn của tác giả với các nhà phân tích ở Trung Quốc trong vòng hai năm qua. [17] Long Siqi, “nanhai zai bu da, jiu meiyou jihui le” [no striking in the South China Sea now, no opportunity in the future], National Defense Times, October 3, 2011. [18] Global Times, “Don’t take peaceful approach for granted,” October 25, 2011, www.globaltimes.cn/NEWS/tabid/99/ID/680694/Dont-take-peaceful-approach-forgranted.aspx, accessed December 10, 2011. [19] South China Morning Post, July 30, 2010. [20] South China Morning Post, July 30, 2010. [21] Luo Yuan, “zhongguo zai nanhai wenti shang yijing yi ren zai ren” [China has tolerated time and again in the South China Sea issue], National Defense Times, June 20, 2011. [22] Dingli Shen, “A Chinese Assessment of China’s External Security Environment,” China Brief Volume 11, Issue 5, March 25, 2011 [23] Zhang Jie, et al., “zhoubian anquan xingshi si da bianhua yu zhongguo duice” [four changes in regional security situation and China’s responses], shijie zhishi [world knowledge], issue 2, 2011, pp. 14-21. [24] Shang Hao, “nanhai you cheng redian, zhongguo ying ruhe yingdui?” [South China Sea becomes a hotspot again, how should China respond?], huaxia shibao, June 6, 2011. [25] Ji Peijuan, [China needs to accelerate development in the South China Sea]. [26] Zhuang Liwei, “nan zhongguo hai duice ying fucong zhanlue daju” [south china sea policy should follow the overall strategic situation], dongfang zaobao [oriental morning post], March 18, 2009. [27] Yuan Huajie, “nanhai fengbo pinqi, zhongguo shishi ‘liang jian’,” [tensions in the South China Sea rise, China to show sword at the right moment], CASS bulletin, March 19, 2009. [28] Tu Fei and Xu Xin, “zhongguo ying jianli guojia haishi weiyuanhui bao nanhai” [China should set up a state maritime commission to protect the South China Sea], National Defense Times, October 7, 2011. [29] Zhang Jie, et al., [US forcefully pushes internationalization of South China Sea issue, Yang Jiechi uses seven arguments to counter Hillary’s “incorrect points”]. [30] news.xinhuanet.com/world/2011-10/25/c_111123305_2.htm, accessed December 9, 2011. [31] Shang Hao, [South China Sea becomes a hotspot again, how should China respond?]. [32] Deng Yajun, “xin ba guo lianjun tumou guafen nanhai” [new group of eight countries plotting to divide the South China Sea], National Defense Times, August 3, 2011. [33] Dai Bingguo, “jianchi zou heping fazhan daolu” [stick to a peaceful development road], People’s Daily, December 13, 2010. [34] VNA, August 26. [35] Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China, www.fmprc.gov.cn/chn/gxh/tyb/fyrbt/jzhsl/t834597.htm, accessed December 15, 2011. [36] Global Times, July 20, 2011, world.huanqiu.com/roll/2011-07/1835028.html, accessed December 15, 2011. Trung Quốc tổ chức hội thảo về tự do hàng hải ở Biển Đông vào giữa tháng 12/2011 tại Hải Khẩu. [37] Wang Muke, “zhongguo, nanhai hezuo de jiji tuidong zhe” [China: an active promoter of cooperation in the South China Sea], People’s Daily, August 2, 2011. [38] Xinhua News Agency, news.xinhuanet.com/politics/2011-10/12/c_122144683.htm, accessed December 10, 2011. [39] Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China, www.fmprc.gov.cn/chn/pds/gjhdq/gj/yz/1206_9/1207/t854349.htm, accessed December 12, 2011. [40] Xinhua, August 31. [41] Xinhua, September 1. [42] Straits Times, “China pledges to be ‘good friend’,” November 19, 2011; Lianhe zaobao, “zhongguo zongli wen jiabao: fandui waibu shili jieru nanhai” [Chinese premier Wen Jiabao: China opposes the involvement of external forces in the South China Sea], November 19, 2011. [43] Xinhua News Agency, news.xinhuanet.com/201111/19/c_111180192.htm?prolongation=1, accessed December 15, 2011. [44] Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China,June 9, 2011, www.fmprc.gov.cn/chn/gxh/mtb/fyrbt/dhdw/t829297.htm, accessed December 10, 2011.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:31:26 GMT 9
Các nguồn sức mạnh mềm của MỹNguồn: Nye, Joseph S. “Sources of American Soft Power”, Chương 2 trong J.S. Nye, Soft Power: The Means to Success in World Politics (New York: PublicAffairs, 2004), pp. 33-72. Biên dịch & Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp Download: Soft Power The Means to Success – Chuong 2 – Le Hong Hiep Nước Mỹ có nhiều nguồn lực có tiềm năng mang lại sức mạnh mềm, đặc biệt khi chúng ta xem xét những cách thức ưu thế về kinh tế dẫn tới sự thịnh vượng cũng như danh tiếng và sức cuốn hút. Mỹ không chỉ là nền kinh tế lớn nhất thế giới mà phân nửa 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới cũng đến từ Mỹ, nhiều gấp năm lần quốc gia xếp thứ hai là Nhật.[1] Sáu mươi hai trong số 100 thương hiệu toàn cầu là của các công ty Mỹ, và nước này cũng có 8 trong số 10 trường kinh doanh hàng đầu thế giới.[2] Các chỉ số về mặt xã hội cũng cho thấy điều tương tự. Ví dụ như: - Mỹ thu hút số người nhập cư nước ngoài gấp gần sáu lần Đức, quốc gia đứng thứ hai.[3] - Mỹ là quốc gia hàng đầu vượt trội về xuất khẩu phim và các chương trình truyền hình, mặc dù trên thực tế “Bollywood” của Ấn Độ hàng năm sản xuất nhiều phim hơn.[4] - Trong số 1,6 triệu sinh viên trên thế giới du học nước ngoài có tới 28% nhập học ở các trường đại học Mỹ, so với 14 % theo học ở Anh.[5] - Hơn 86.000 học giả nước ngoài làm việc ở các cơ sở giáo dục Mỹ vào năm 2002.[6] Các thống kê khác cho thấy Mỹ: - Xuất bản nhiều sách hơn bất cứ quốc gia nào khác. - Có doanh số bán các sản phẩm âm nhạc cao hơn gấp hai lần so với nước đứng kế tiếp là Nhật Bản. - Có số máy chủ internet nhiều gấp 13 lần so với Nhật Bản - Xếp số một về số giải Nobel vật lý, hóa học và kinh tế. - Xếp thứ hai ngay sau Pháp về số giải Nobel văn học. - Công bố số bài báo tạp chí và nghiên cứu khoa học nhiều gấp gần 4 lần so với nước đứng thứ hai là Nhật Bản.[7] Đương nhiên Mỹ không xếp hàng đầu trong tất cả các lĩnh vực có thể tạo nên sự hấp dẫn đối với người dân. Theo chỉ số chất lượng sống năm 2003 của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) (được tính dựa trên không những thu nhập mà còn giáo dục, y tế và tuổi thọ), Na Uy, Iceland, Thụy Điển, Australia, Hà Lan và Bỉ xếp trên Mỹ với tư cách là những quốc gia có cuộc sống tốt nhất.[8] Nhật xếp trên Mỹ về số bằng sáng chế cấp cho người dân sống ở Nhật và tỉ lệ GNP dành cho nghiên cứu và phát triển. Anh và Đức cũng xếp hạng cao hơn Mỹ về tiếp nhận người tị nạn. Pháp và Tây Ban Nha cũng thu hút nhiều khách du lịch hơn Mỹ (dù Mỹ xếp cao hơn về doanh thu từ du lịch). Còn nếu xét về các “chỉ số kém hấp dẫn” thì Mỹ lại đứng ở những hàng cuối trong danh sách các nước giàu cung cấp viện trợ phát triển, nhưng lại xếp hàng cao nhất về tỉ lệ dân số bị bỏ tù.[9] Đối với quyền lực, chuyện một vài chỉ số kém hấp dẫn cao cũng không quan trọng bằng thực tế là, như chúng ta đã thấy ở chương trước, các tài nguyên quyền lực tiềm tàng không phải luôn có thể chuyển hóa được thành quyền lực thực tế xét trên phương diện đạt được mục tiêu mong muốn. Để đạt được mục tiêu mong muốn, các chỉ số khách quan về sức mạnh mềm tiềm năng phải hấp dẫn trong mắt công chúng và sự hấp dẫn đó phải ảnh hưởng tới các kết quả của chính sách. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét một số ví dụ về cách thức sự hấp dẫn như vậy đã tác động tới các kết quả chính sách quan trọng như thế nào. Nhưng trước tiên chúng ta hãy xem xét một số nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi trong sự hấp dẫn của nước Mỹ và việc điều này đã tác động tới các kết quả chính sách như thế nào. SỰ THĂNG TRẦM CỦA CHỦ NGHĨA BÀI MỸ Bất chấp những nguồn lực ấn tượng, sự hấp dẫn của nước Mỹ đả giảm sút khá mạnh vào năm 2003. Trong giai đoạn chuẩn bị cho cuộc chiến tranh Iraq, các thăm dò dư luận cho thấy Mỹ mất trung bình 30 điểm ủng hộ ở các nước Châu Âu. Mức độ ủng hộ thậm chí còn thấp hơn ở các nước Hồi giáo. Sau chiến tranh, phần lớn người dân có ấn tượng không tốt về Mỹ ở gần hai phần ba trong số 19 quốc gia được điều tra. Phần lớn những người có quan điểm tiêu cực về Mỹ nói rằng thực tế này bắt nguồn từ các chính sách của chính quyền Bush hơn là do nước Mỹ nói chung.[10] Sự chống đối các chính sách của Mỹ không giống với sự chống đối nước Mỹ nói chung. Các phản ứng đối với các chính sách thường dễ thay đổi hơn so với các phản ứng ngấm ngầm đối với văn hóa và các giá trị. Hình ảnh hay sự hấp dẫn của một quốc gia bao gồm thái độ của người nước ngoài trên nhiều cấp độ và dưới nhiều dạng thức, trong đó các phản ứng đối với chính sách của Mỹ chỉ là một trong số các yếu tố đó. Hình 2.1 dựa trên kết quả của các cuộc thăm dò dư luận năm 2002 ở 43 quốc gia cho thấy mức độ nước Mỹ được ngưỡng mộ về các tiến bộ khoa học và công nghệ cũng như về âm nhạc, điện ảnh và truyền hình. Cùng lúc đó, phần lớn người được khảo sát ở 34 trong số 43 quốc gia nói rằng họ không thích sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ ở đất nước họ.[11] Chiến tranh Iraq không phải là lần đầu tiên một chính sách an ninh gây tranh cãi làm giảm sự hấp dẫn của hình ảnh nước Mỹ ở các quốc gia khác. Có bốn thời kỳ trước đây sức hấp dẫn của Mỹ đã bị giảm sút ở Châu Âu: sau vụ khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956; trong suốt phong trào “chống bom nguyên tử” những năm cuối thập kỷ 1950 và đầu những năm 1960 (dù chủ yếu ở Anh và Pháp chứ không phải ở Đức và Italia); trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam những năm cuối thập kỷ 1960 và đầu những năm 1970; và trong thời kỳ triển khai các vũ khí hạt nhân tầm trung ở Đức những năm đầu thập kỷ 1980. Hình 2.1. Các khía cạnh hấp dẫn của Mỹ Nguồn: Pew Global Attitudes Project, What the World Thinks in 2002 (Mức trung bình ở 43 quốc gia được khảo sát) Chiến tranh Việt Nam bị phản đối rộng rãi ở Anh, Pháp, Đức và Italia. Mặc dù có sự giảm sút về mực độ hấp dẫn nói chung của Mỹ từ năm 1965 đến 1972 (với mức khoảng 23 điểm ở Anh, 32 điểm ở Đức, 19 điểm ở Italia và 7 điểm ở Pháp), phần lớn người dân ở tất cả các quốc gia trừ Pháp đều tiếp tục thể hiện quan điểm tích cực về Mỹ trong suốt các chiến dịch lớn của cuộc chiến cho tới vòng đàm phán hòa bình Paris năm 1972.[12] Tuy nhiên sự giảm sút về mức độ ủng hộ đã có những tác động đối với khả năng của chính phủ Mỹ trong việc đạt được các kết quả chính sách mong muốn. Sự giảm sút tính hấp dẫn đã cản trở nỗ lực của Tổng thống Lyndon Johnson trong việc giành được sự ủng hộ từ các quốc gia khác đối với cuộc chiến ở Việt Nam và sự giảm sút sức mạnh mềm cũng đã gây ảnh hưởng tới các chính sách khác. Ví dụ, ở Pháp Việt Nam “góp phần làm tăng sự ủng hộ giúp duy trì lập trường ngày càng chống NATO và chống Mỹ của De Gaulle.”[13] Hình 2.2 Tỷ lệ người Tây Âu có ý kiến ủng hộ Mỹ, giai đoạn 1982 đến 2003 Vào đầu thập kỷ 1980, chính sách vũ khí hạt nhân của chính quyền Reagan nhiệm kỳ đầu đã làm dấy lên nhiều mối quan ngại. Trong một cuộc thăm dò dư luận của tạp chí Newsweek năm 1983, khoảng 40% số người được hỏi tại Pháp, Anh, Đức và Nhật phản đối chính sách của Mỹ. Cùng lúc đó, đa số người dân ở những nước này lại có cảm tình với người dân Mỹ.[14] Tổng thống Reagan đáng ra đã có thể nhận được sự đồng ý của Châu Âu trong việc triển khai các lực lượng hạt nhân tầm trung nhưng Châu Âu cuối cùng đã chống đối ra mặt các chính sách của Reagan nhằm cô lập Liên Xô về mặt kinh tế. Hình 2.2 cho thấy mức độ hấp dẫn của Mỹ đã biến đổi như thế nào qua từng năm. Những chính sách không phù hợp là yếu tố biến đổi nhiều nhất trong bức tranh chung, và yếu tố ổn định hơn dường như là thiện chí dành cho văn hóa và các giá trị Mỹ. Tuy nhiên chủ nghĩa bài Mỹ vẫn tồn tại theo nghĩa chối bỏ mạnh mẽ xã hội, các giá trị và văn hóa Mỹ. Đó là một xu hướng không mạnh nhưng tồn tại dai dẳng trong bức tranh chung, và điều này bắt nguồn từ những ngày đầu tiên của nước Mỹ khi người Châu Âu đã biến Mỹ thành một biểu tượng trong các cuộc chiến tranh văn hóa nội bộ của mình. Ngay từ thế kỷ 18, một số người Châu Âu đã lập luận một cách kỳ cục rằng độ ẩm quá cao ở Tân Thế giới đã khiến cho cuộc sống ở đó tồi tệ và khó khăn.[15] Mặc dù một số người Châu Âu ở thế kỷ 18 coi Mỹ là biểu tượng của tự do nhưng nhiều người khác như nhà văn Charles thingyens lại chỉ coi Mỹ là nơi tập trung “một lũ ồn ào bát nháo, những kẻ giả dối, xuẩn ngốc và đầy mánh khóe.”[16] Vào đầu thế kỷ 20, ngay cả những nhà văn nhạy cảm như Virginia Woolf cũng coi Mỹ là nơi pha trộn của những gì đáng khinh và nhàm chán. Đối với nhiều người cánh tả Châu Âu, Mỹ là biểu tượng bóc lột giai cấp lao động của chủ nghĩa tư bản, trong khi cánh hữu thì coi Mỹ là nơi xấu xa do sự không thuần khiết về chủng tộc.[17] Một số người theo quan điểm bảo thủ không thích tính bình đẳng của văn hóa đại chúng Mỹ. Năm 1931, một vị toàn quyền ở Ấn Độ đã phàn nàn với các nghị sĩ phe bảo thủ rằng Hollywood góp phần phá nát “hình ảnh của người da trắng ở phương Đông,” và Bỉ đã cấm người dân Châu Phi ở xứ thuộc địa Congo của mình không được xem phim Mỹ.[18] Tờ tạp chí The Economist có trụ sở đặt ở Luân Đôn thậm chí còn chỉ ra rằng ngày nay chủ nghĩa bài Mỹ là một phần của vấn đề giai cấp: “Những người Anh nghèo và ít học yêu thích nước Mỹ hơn so với những người Anh giàu có… Chủ nghĩa bài Mỹ của giới thượng lưu cũng giống như thói trưởng giả học làm sang.”[19] Thói trưởng giả của giới trí thức cũng có thể được thêm vào danh sách này. Giới tinh hoa của Châu Âu luôn chê bai nước Mỹ vì thiếu chiều sâu và sự tinh tế, tuy nhiên các thăm dò dư luận cho thấy nền văn hóa đại chúng của Mỹ lại được đông đảo người dân trên khắp thế giới đón nhận. Chủ nghĩa bài Mỹ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân mang tính cấu trúc. Mỹ là một siêu cường và sự chênh lệch về sức mạnh của Mỹ với các nước khác tạo ra một tình cảm pha trộn giữa sự ngưỡng mộ, ghen tị và giận dữ. Thực tế khi Mỹ nổi lên thành một siêu cường toàn cầu vào đầu thế kỷ 20, nhà văn Anh W. T. Stead đã viết một cuốn sách có tựa đề “Sự Mỹ hóa của thế giới” xuất bản năm 1902. Tương tự, vào giữa những năm 1970, đa số người dân ở Tây Âu cho rằng họ muốn thấy sự phân bổ quyền lực cân bằng giữa Mỹ và Liên Xô hơn là sự áp đảo hoàn toàn của Mỹ.[20] Nhưng những người coi sự trỗi dậy của chủ nghĩa bài Mỹ thời gian gần đây là điều không thể tránh khỏi đơn giản vì Mỹ quá mạnh đã sai lầm khi cho rằng Mỹ không thể làm được gì để khắc phục tình trạng này. Các chính sách có thể làm mềm hoặc mài sắc các góc cạnh của cấu trúc quyền lực và chúng cũng có thể tác động tới tỉ lệ yêu và ghét trong mối quan hệ phức tạp yêu-ghét. Mỹ giờ đây thậm chí còn mạnh hơn so với lúc kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi mà Mỹ chiếm tới hơn một phần ba sản lượng kinh tế thế giới và là nước duy nhất sở hữu vũ khí hạt nhân nhưng theo đuổi các chính sách được các nước đồng minh hoan nghênh. Tương tự, việc vai trò lãnh đạo của Mỹ được nhiều nước chào đón ngay cả sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc cho thấy không còn nước nào có thể cân bằng lại quyền lực của Mỹ. Ví dụ, một nhà trí thức người Nam Tư tên là Milovan Djilas đã lập luận vào năm 1992 rằng nếu quyền lực của Mỹ suy yếu “thì sẽ mở lối cho những điều tồi tệ bắt đầu.” Năm 1990, Naohiro Amaya, một quan chức cấp cao của Nhật thời kỳ Nhật đang nổi lên đã nói rằng “Dù chúng ta có thích hay không thì sẽ không tồn tại một thế giới tự do và một hệ thống thương mại tự do nếu như Mỹ không giúp bảo tồn chúng cho chúng ta. Vị trí tốt nhất mà Nhật có thể hướng tới là vai trò ‘phó tổng thống’ cho Mỹ.”[21] Sức mạnh quá lớn của Mỹ có thể tạo ra tình cảm yêu ghét lẫn lộn nhưng trong những thập kỷ vừa qua sức mạnh của Mỹ hầu như không đổi, vì vậy khó có thể giải thích tại sao chủ nghĩa bài Mỹ lại tăng hay giảm vào lúc này hay lúc khác. Bên cạnh quyền lực vượt trội, Mỹ từ lâu còn đồng nghĩa với sự hiện đại, điều mà nhiều người thường coi là mối đe dọa đối với nền văn hóa của họ. Vào thế kỷ 19, những người Châu Âu cánh tả chống đối xã hội công nghiệp và những người phái hữu muốn định hình lại xã hội đó đã nhìn nước Mỹ với ánh mắt sợ hãi hoặc khinh miệt. Một hiện tượng tương tự ngày nay vẫn diễn ra trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa đang gia tăng. Ở một số khu vực không những chỉ tồn tại sự giận dữ đối với các ảnh hưởng văn hóa nhập khẩu từ Mỹ mà còn đối với ngay chính cả nền văn hóa Mỹ. Các cuộc thăm dò dư luận năm 2002 cho thấy đa số người dân ở 34 trong tổng số 43 quốc gia đồng ý với nhận định cho rằng “Các tư tưởng và tập quán của Mỹ được phổ biến ở nước họ là điều không tốt.”[22] Một điều hầu như rõ ràng là những người bất bình trước sức mạnh của Mỹ và tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối với văn hóa đã lẫn lộn giữa hai vấn đề và đã vận dụng chủ nghĩa dân tộc để chống đối lại cả hai. Jose Bové, một nông dân nuôi cừu người Pháp, đã trở nên nổi tiếng sau khi phá hủy một nhà hàng McDonald’s ở một vùng nước Pháp nơi anh ta sinh sống.[23] Không ai ép ai dùng bữa tại McDonald’s nhưng khả năng thu hút sự chú ý của làng báo chí toàn cầu mà hành động của Bové có được cho thấy những dao động văn hóa đối với những gì thuộc về nước Mỹ. Như tổng thống Iran đã phàn nàn vào năm 1999 rằng “Trật tự thế giới mới và toàn cầu hóa mà một số cường quốc đang buộc chúng ta phải chấp nhận giống như một thứ chủ nghĩa thực dân mới, trong đó nền văn hóa của toàn thế giới đã không được đếm xỉa đến.”[24] Một nhà văn viết cho tờ Der Spiegel của Đức đã bình luận rằng đã đến lúc phải chống trả “trước khi toàn bộ thế giới được dán mác ‘Made in USA.’”[25] Nhưng thật quá thiển cận nếu đồng nhất hóa toàn cầu hóa với quá trình Mỹ hóa. Những nền văn hóa khác đều đóng góp mạnh mẽ cho các mối liên kết toàn cầu. Tiếng Anh, thứ ngôn ngữ phổ thông trong thương mại hiện đại, đã được truyền bá bởi nước Anh chứ không phải Mỹ.[26] Như chúng ta sẽ thấy trong chương sau, những mối quan hệ có tầm quan trọng toàn cầu giữa các nước nói tiếng Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không liên quan gì tới người Mỹ. Bệnh AIDS bắt nguồn từ Châu Phi và bệnh SARS bắt nguồn từ Châu Á. Bóng đá phổ biến trên phạm vi thế giới hơn nhiều so với môn bóng bầu dục Mỹ. Câu lạc bộ thể thao nổi tiếng nhất thế giới không phải đến từ Mỹ mà là câu lạc bộ Manchester United, ông vua của làng bóng đá Anh, với 200 câu lạc bộ người hâm mộ ở 24 quốc gia trên thế giới. Vị thế ngôi sao toàn cầu của danh thủ David Beckham lớn đến nỗi anh ta vẫn được tận hưởng danh tiếng đó sau khi được bán cho câu lạc bộ Real Madrid. Các ban nhạc The Beatles và Rolling Stones đều là những ban nhạc ngoài nước Mỹ. Ba trong số các hãng đĩa “Mỹ” hàng đầu thuộc sở hữu của các công ty Anh, Đức và Nhật. Nhật Bản là quốc gia đứng đầu về sản xuất phim hoạt hình và các trò chơi điện tử phổ biến nhất thế giới.[27] Sự ra đời của các chương trình truyền hình thực tế những năm gần đây lan từ Châu Âu sang Mỹ chứ không phải theo chiều ngược lại. Ngay cả McDonald’s cũng đang rút ra bài học từ nước Pháp để áp dụng vào việc thiết kế lại một số nhà hàng của mình tại Mỹ.[28] Dòng chảy toàn cầu hóa không hoàn toàn bắt nguồn từ Mỹ mặc dù những tác động của dòng chảy này phản ánh một cách khá tự nhiên những gì đang diễn ra trong nền kinh tế lớn nhất thế giới. Đồng nhất toàn cầu hóa với quá trình Mỹ hóa là đang đơn giản hóa quá mức một thực tế phức tạp. Tuy nhiên, một vài đặc điểm của Mỹ khiến nước này trở thành trung tâm của toàn cầu hóa. Mỹ vẫn luôn là miền đất hứa của những người nhập cư và nền văn hóa cũng như xã hội đa sắc tộc của nước này đã phản chiếu hình ảnh nhiều vùng đất khác nhau của thế giới. Mỹ từ lâu đã vay mượn một cách tự do các truyền thống khác nhau và dòng chảy di cư tiếp tục khiến cho Mỹ cởi mở với phần còn lại của thế giới. Điều này biến Mỹ trở thành một phòng thí nghiệm văn hóa nơi mà các truyền thống văn hóa khác nhau được pha trộn và xuất khẩu. Ngoài ra, do quy mô của nền kinh tế, Mỹ là thị trường lớn nhất để kiểm tra độ ăn khách của các bộ phim, bài hát hoặc trò chơi điện tử. Các ý tưởng và sản phẩm đều chảy vào Mỹ một cách tự do và cũng chảy ra khỏi nước Mỹ dễ dàng không kém, nhưng thường dưới dạng đã được thương mại hóa. Bánh pizza ở Châu Á dường như mang hương vị của Mỹ.[29] Tuy nhiên tác động của toàn cầu hóa phụ thuộc không chỉ vào người gửi mà còn cả người nhận. Một nửa thế kỷ trước, Hannah Arendt đã viết rằng “trên thực tế, quá trình Mỹ hóa mà người Châu Âu lo sợ là sự xuất hiện của một thế giới hiện đại với tất cả những sự phức tạp và hệ quả của nó.” Bà đã phán đoán rằng quá trình hiện đại hóa mang tính chất dường như của Mỹ đó sẽ được tăng tốc chứ không phải bị kìm hãm bởi chính sự nhất thể hóa của Châu Âu.[30] Ở Nigeria, nơi các chương trình truyền hình Mỹ chiến phân nửa thời lượng phát sóng truyền hình vào năm 1997, “sự hiện diện quá nhiều dưới dạng trực tiếp và gián tiếp ở hầu hết mọi lĩnh vực chủ chốt của đời sống người dân Nigeria giúp đảm bảo quá trình Mỹ hóa vẫn được tiếp tục, không chỉ trong lĩnh vực truyền hình mà còn trong cách khía cạnh khác của nền văn hóa Nigeria.”[31] Câu chuyện ở Nhật lại hoàn toàn khác. “Vẻ bề ngoài thì người Nhật có vẻ là những người tiếp thu văn hóa nhiệt tình và không phân biệt. Thế nhưng những yếu tố ngoại lai của văn hóa nhập khẩu, đặc biệt là văn hóa Mỹ, đều được sàng lọc bởi bàn tay cẩn thận của các nhà môi giới văn hóa…. Văn hóa Mỹ được “gỡ” ra và “tháo lắp lại” để phù hợp với bối cảnh văn hóa trong đời sống thường nhật của người dân. Văn hóa đại chúng Mỹ không phải là độc quyền của người Mỹ: đó là phương tiện trung gian mà qua đó người dân khắp thế giới thường xuyên sử dụng để cấu trúc lại bản sắc cá nhân và tập thể của mình.”[32] Nhiều cơ chế thúc đẩy toàn cầu hóa đều là các đặc tính của nền kinh tế và văn hóa Mỹ. Phần lớn cuộc cách mạng thông tin bắt nguồn từ nền kinh tế Mỹ, và một lượng lớn nội dung của các mạng lưới thông tin toàn cầu được tạo ra tại Mỹ. Các tiêu chuẩn Mỹ cũng ít khi tìm được tiêu chuẩn thay thế, như trong hệ điều hành Windows của Microsoft hay trong các quy định áp dụng cho mạng internet (mặc dù internet được phát minh tại Châu Âu). Mặt khác, một số các tiêu chuẩn và thông lệ của Mỹ – từ hệ thống đo lường bằng pounds và foot (chứ không phải là hệ mét) cho tới các hình phạt tử hình – đều gây nên sự bối rối và thậm chí là sự ghét bỏ thẳng thừng. Toàn cầu hóa có tính chất rộng lớn hơn so với quá trình Mỹ hóa, nhưng đối với những người tham gia các phong trào chống toàn cầu hóa muốn chống lại hoặc định hình lại quá trình toàn cầu hóa thì chủ nghĩa bài Mỹ thường là một vũ khí hữu ích, chính vì vậy việc chủ nghĩa bài Mỹ đi kèm với toàn cầu hóa dường như, ở một mức độ nào đó, là một điều khó tránh khỏi. Gây quan ngại đặc biệt chính là vai trò của chủ nghĩa bài Mỹ trong thế giới Hồi giáo. So sánh hình 2.3 với hình 2.1 chúng ta sẽ thấy các khía cạnh thể hiện sự hấp dẫn của Mỹ ở các nước Hồi giáo không giống các nơi khác. Một báo cáo do một ủy ban lưỡng đảng đưa ra vào tháng 10/2003 đã nhận định “sự thù địch đối với nước Mỹ đã đạt tới mức gây sốc. Điều cần làm không chỉ là sự điều chỉnh về mặt sách lược mà còn phải là những thay đổi chiến lược mạnh mẽ.”[33] Hơn nữa, hình ảnh của nước Mỹ trong con mắt người Hồi giáo đã xấu đi nhanh hơn rất nhiều so với các nơi khác. Năm 2003, dưới 15% công chúng ở Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia, Pakistan, Jordan, và dưới 27% công chúng ở Libăng và Marốc có thiện cảm với nước Mỹ.[34] Đây là một điều đặc biệt gây quan ngại vì một số phần tử Hồi giáo cực đoan sẵn sàng sử dụng khủng bố để buộc người dân Hồi giáo quay lại thứ tôn giáo tiền hiện đại mà theo quan điểm của họ là thuần khiết hơn. Ở một số khu vực, như các nước Ảrập chẳng hạn, chủ nghĩa bài Mỹ có thể là vỏ bọc cho sự bất lực chung của các nước này trong việc thích ứng với sự hiện đại, vốn có thể dễ dàng nhận ra qua sự phát triển kinh tế và quá trình dân chủ hóa chậm chạp ở đây như “Báo cáo Phát triển Con người các nước Ảrập năm 2003” mà Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc đã đưa ra gần đây.[35] Fouad Ajami, một học giả Mỹ gốc Libăng, đã đúng khi nói rằng nước Mỹ bị căm ghét bởi gánh nặng của nước Mỹ là “mang sự hiện đại tới cho những người mong muốn được hiện đại nhưng đồng thời lại phản đối chính điều đó, nước Mỹ là hiện thân cho những gì mà thế giới vừa thèm khát vừa sợ hãi.” Tuy nhiên Ajami đã sai khi kết luận rằng “Người Mỹ không cần phải lo lắng về việc giành được thiện cảm của người dân ở nước ngoài.”[36] Tình huống mà Ajami miêu tả đã thường xuyên diễn ra nhiều năm nay nên nó không thể lý giải tại sao danh tiếng của Mỹ lại xấu đi ở ngay cả những quốc gia Hồi giáo thành công về mặt kinh tế như Malaysia. Việc các nước Ảrập không thích nghi được với sự hiện đại cũng không thể lý giải được một cách đầy đủ cho việc nước Mỹ trở nên kém hấp dẫn hơn. Hơn nữa điều này cũng liên quan tới những chính sách gây bất bình của Mỹ đối với các cuộc xung đột ở Iraq và Israel. Tác động của cuộc Chiến tranh Iraq không nên bị thổi phồng. “Các dự báo tiêu cực đã không thành hiện thực, người dân Ảrập không nổi dậy để phá hủy các lợi ích của Mỹ ở Trung Đông… bởi nhiều người trong số đó cũng đã biết tới bảng thành tích không mấy tốt đẹp của Saddam Hussein.”[37] Như đã đề cập ở phần trước, hình ảnh của một quốc gia bao gồm một số yếu tố, và những người tham gia các cuộc thăm dò dư luận cho thấy họ ghét các chính sách của Mỹ chứ không phải người dân Mỹ.[38] Tuy nhiên cũng đã diễn ra các phong trào tẩy chay hàng hóa Mỹ và tỉ lệ hàng hóa Mỹ trong tổng hàng hóa nhập khẩu của Trung Đông cũng đã giảm từ mức 18% vào cuối thập kỷ 1990 xuống còn 13% vào năm 2001 một phần bởi phản ứng trước “các chính sách đối ngoại được cho là thiếu tính hợp pháp của nước Mỹ.”[39] Những phần tử Hồi giáo cực đoan cũng đã từng chống đối chiến dịch của Mỹ chống lại chính quyền Taliban ở Afghanistan, nên Iraq chỉ làm gia tăng cơ hội cho sự căm ghét nước Mỹ nảy nở thêm. Nhưng sự căm ghét như vậy càng ngày càng có vai trò quan trọng trong một thế giới nơi các nhóm nhỏ có thể sử dụng internet để tìm kiếm, tuyển mộ và huy động những người có cùng suy nghĩ vốn trước đây gặp khó khăn trong việc liên lạc với nhau. Như nhà văn Robert Wright đã nhìn nhận, các băng hình video tuyển mộ chiến binh của Osama bin Laden rất hữu hiệu, “và chúng càng vươn tới được các đối tượng mong muốn một cách hiệu quả hơn nữa thông qua con đường internet.”[40] Sự suy giảm hình ảnh hấp dẫn gần đây của Mỹ đã minh họa cho một điểm mà tôi đã nêu lên trong chương trước: Có các nguồn tài nguyên quyền lực hữu hình thôi chưa đủ. Đối với sức mạnh mềm, câu hỏi đặt ra là thông điệp nào được gửi đi và được ai tiếp nhận trong những hoàn cảnh nào, và thông điệp đó ảnh hưởng như thế nào tới khả năng đạt được những kết quả mà ta mong muốn. Các thông điệp và hình ảnh được truyền tải một phần thông qua các chính sách của chính phủ ở trong nước cũng như ngoài nước, đồng thời một phần khác thông qua văn hóa đại chúng và văn hóa chính thống. Nhưng những thông điệp giống nhau được những đối tượng tiếp nhận khác nhau “download” và diễn dịch và gây ra những tác động khác nhau trong những bối cảnh cũng không giống nhau. Sức mạnh mềm không chỉ là một hằng số không đổi mà là một biến số thay đổi theo thời gian và không gian. VĂN HÓA VỚI VAI TRÒ MỘT NGUỒN SỨC MẠNH MỀM Như chúng ta đã biết, các nhà phê bình về văn hóa thường phân biệt giữa văn hóa chính thống và văn hóa đại chúng. Nhiều nhà quan sát đồng ý cho rằng văn hóa chính thống đã mang lại đáng kể sức mạnh mềm cho nước Mỹ. Ví dụ như Ngoại trưởng Colin Powell đã từng nói “Tôi nghĩ tài sản quý giá nhất đối với đất nước chúng ta chính là tình hữu nghị của các nhà lãnh đạo thế giới tương lai, những người được giáo dục ngay tại nước Mỹ.”[41] Sinh viên quốc tế thường quay về nước với sự ngưỡng mộ trước các giá trị và thể chế của người Mỹ, đồng thời, như một báo cáo do một tổ chức giáo dục quốc tế biên soạn nhận định, “hàng triệu người học tập ở Mỹ trong nhiều năm qua đã tạo nên một nguồn tình cảm thiện chí đáng kể cho nước Mỹ.”[42] Nhiều người trong số các cựu sinh viên sau này đứng ở những vị trí có thể tác động tới các kết quả chính sách có ý nghĩa quan trọng đối với người Mỹ. Nhà ngoại giao và nhà văn nổi tiếng George Kennan của Mỹ là một người theo chủ nghĩa hiện thực truyền thống trong cách nhìn về vấn đề cân bằng quyền lực nhưng ông đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò của “các giao tiếp văn hóa như là một phương tiện để chống lại các ấn tượng tiêu cực về nước Mỹ, những ấn tượng vốn ảnh hưởng rất nhiều tới công luận thế giới.” Kennan nói rằng ông sẽ “sẵn lòng đánh đổi toàn bộ những biện pháp tuyên truyền chính trị còn lại để có được những kết quả mà chỉ cần mỗi phương tiện văn hóa kia cũng có thể đạt được.” Và Tổng thống Dwight Eisenhower cũng lập luận rằng cần phải tìm ra không chỉ một phương pháp mà là hàng ngàn phương pháp nhằm giúp con người từng bước hiểu biết về nhau nhiều hơn.” Thực tế, các cuộc tiếp xúc văn hóa chính thức thường mang lại thêm sức mạnh mềm cho nước Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hàng chục các cơ quan phi chính phủ như các nhà hát, viện bảo tàng và các đoàn hợp xướng opera đã biểu diễn ở Liên Xô. Một nhạc sĩ Liên Xô từng nhận xét rằng người Liên Xô từ lâu đã được giáo dục để tin vào sự thối nát của phương Tây, nhưng năm này qua năm khác những dàn nhạc giao hưởng xuất sắc đến từ Boston, Philadelphia, New York, Cleveland và San Francisco đã sang Liên Xô biểu diễn. “Làm sao mà phương Tây thối nát lại có thể sản sinh ra những dàn nhạc tuyệt vời như vậy?”[43] Các trao đổi về mặt học thuật và khoa học cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức mạnh mềm của Mỹ. Ngay cả khi những người Mỹ hoài nghi thời bấy giờ lo sợ rằng những nhà khoa học Liên Xô sang viếng thăm và các điệp viên KGB sẽ “ăn cắp mà chúng ta không hay biết”, họ đã không nhận ra rằng các vị khách viếng thăm này tiếp thu không chỉ các bí mật khoa học mà còn cả các lý tưởng chính trị. Nhiều nhà khoa học như vậy đã trở thành những nhà đối lập hàng đầu ủng hộ nhân quyền và tự do hóa trong lòng Liên Xô. Từ những năm 1950, quỹ Ford Foundation, Hội đồng Xã hội học thuật và Hội đồng Nghiên cứu Khoa học xã hội đã phối hợp với 110 trường đại học Mỹ tiến hành trao đổi sinh viên và cán bộ giảng dạy. Mặc dù Liên Xô đòi phải có một hiệp định cấp chính phủ nhằm giới hạn phạm vi các trao đổi như vậy nhưng đã có khoảng 50.000 người Liên Xô, gồm các nhà văn, nhà báo, quan chức, nhạc sĩ, vũ công, vận động viên thể thao và các học giả, sang thăm Mỹ từ năm 1958 đến 1988. Số lượng người Mỹ sang thăm Liên Xô thậm chí còn nhiều hơn con số trên. Vào những năm 1950, chỉ có khoảng 40 đến 50 sinh viên bậc đại học và sau đại học từ mỗi nước tham gia các chuyến trao đổi, nhưng dần dần những con số nhỏ nhoi đó vẫn tạo ra những kết quả chính sách mạnh mẽ. Do các trao đổi văn hóa thường liên quan đến những cá nhân xuất sắc nhất, một hoặc hai mối liên hệ chủ chốt cũng đã có thể mang lại những tác động chính trị quan trọng. Ví dụ như Aleksandr Yakovlev bị ảnh hưởng mạnh bởi quá trình học tập của mình cùng với nhà khoa học chính trị David Truman tại Đại học Columbia năm 1958. Yakovlev cuối cùng đã trở thành người đứng đầu của một học viện quan trọng, một ủy viên Bộ chính trị và có những tác động quan trọng theo hướng tự do hóa đối với nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev. Một nghiên cứu sinh khác là Oleg Kalugin đã trở thành một quan chức cấp cao của KGB khi nhìn lại vào năm 1997 đã nói rằng “Các chương trình trao đổi là một con ngựa Trojan đối với Liên Xô. Qua thời gian chúng thường xuyên tác động tới càng ngày càng nhiều người.”[44] Sự hấp dẫn và sức mạnh mềm xuất phát từ các giao tiếp văn hóa giữa những cá nhân xuất sắc đã có những đóng góp quan trọng cho các mục tiêu chính sách của Mỹ. Chứng minh các tác động chính trị cụ thể của các mối giao lưu văn hóa chính thức luôn dễ hơn việc chứng minh tầm quan trọng về chính trị của văn hóa đại chúng. Alexis de Toqueville vào thế kỷ 19 đã chỉ ra rằng trong một nền dân chủ không tồn tại các hạn chế về giai cấp hay khuôn mẫu dành cho các nghệ sĩ và các tác phẩm của họ. Thị hiếu đại chúng luôn áp đảo. Hơn nữa, các nhà sản xuất thương mại trong một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa luôn tìm kiếm các thị trường rộng lớn và dẫn tới các mẫu số chung bé nhất về văn hóa. Một số người tin rằng văn hóa đại chúng của Mỹ thu hút nhờ có công nghệ marketing và hứa hẹn tính giải trí cao.[45] Nhiều nhà trí thức và các nhà phê bình xem thường văn hóa đại chúng vì tính thương mại tầm thường. Họ coi văn hóa đại chúng là cách mang lại sự giải trí cho số đông chứ không phải là thông tin, chính vì vậy có ít hiệu quả về mặt chính trị. Họ coi văn hóa đại chúng là một thứ thuốc phiện gây mê không có tính chất chính trị dành cho số đông quần chúng. Tuy nhiên sự coi thường này đã được đặt nhầm chỗ vì văn hóa đại chúng thường chứa đựng các hình ảnh và thông điệp ngầm về chủ nghĩa cá nhân, lựa chọn của người tiêu dùng và các giá trị khác vốn có thể mang lại các tác động chính trị quan trọng. Như nhà văn Ben Wattenberg đã lập luận, văn hóa Mỹ chứa đựng sự hào nhoáng, tình dục, bạo lực, những nội dung tầm thường và chủ nghĩa vật chất, nhưng đó không phải là toàn bộ câu chuyện. Văn hóa đại chúng còn khắc họa các giá trị Mỹ như sự cởi mở, linh động, tôn trọng cá nhân, chống lại sự cứng nhắc, đa nguyên, tự nguyện, tôn trọng những cá nhân bình thường và sự tự do. “Cho dù được phản ánh một cách tích cực hay tiêu cực, chính nội dung này cuốn hút khán giả tới rạp. Nội dung đó còn mạnh hơn cả các biện pháp chính trị hay kinh tế. Chúng góp phần đẩy mạnh chính trị và kinh tế.”[46] Hay như nhà thơ Carl Sandburg đã nói vào năm 1961 rằng “Cái gì? Hollywood quan trọng hơn Havard ư? Câu trả lời là, dù không sạch sẽ như Havard nhưng Hollywood lại lan tỏa đến được số đông nhiều hơn.”[47] Ngay cả các môn thể thao đại chúng cũng có thể giúp truyền tải các giá trị. “Một nước Mỹ được tạo ra mà không phải là một kẻ bá quyền về quân sự, cũng không phải là một người đứng đầu về kinh tế, chỉ là một nơi thật thoải mái, ít cứng nhắc và tự do, nơi bất cứ ai đổ mồ hôi ném bóng hay khống chế cây gậy chơi hockey đều có thể trở nên nổi tiếng và (vâng) giàu có nữa.”[48] Và số người này không nhỏ. Các trận đấu trong giải bóng rổ quốc gia được truyền hình tới 750 triệu hộ gia đình ở 212 quốc gia bằng 42 thứ tiếng. Các trận đấu của các giải bóng bầu dục chính được phát sóng bằng 11 thứ ngôn ngữ ở 224 quốc gia. Giải Super Bowl của Liên đoàn bóng đá quốc gia thu hút tới khoảng 800 triệu người xem vào năm 2003. Số lượng khán giả xem thể thao là đối thủ đáng gờm của 7,3 tỉ lượt người xem các bộ phim Mỹ trên toàn thế giới vào năm 2002. Đường ranh phân biệt giữa thông tin và giải trí chưa bao giờ thực sự rõ ràng như các nhà trí thức tưởng tượng, và nó đang ngày càng bị mờ đi trong một thế giới truyền thông đại chúng. Một số ca từ của các bài hát có thể mang hiệu quả chính trị. Ví dụ, trong những năm 1990, đài phát thanh đối lập B-92 ở Belgrade đã phát đi phát lại bài hát của ban nhạc rap Mỹ Public Enemy có đoạn: “Quyền tự do ngôn luận của chúng ta, tự do hay là chết – chúng ta phải chiến đấu chống lại các thế lực cản ngăn.”[49] Các thông điệp chính trị cũng có thể được truyền tải thông qua ứng xử của các đội tuyển thể thao hoặc các ngôi sao, hay qua vô số những hình ảnh được chuyển tải qua sóng truyền hình và các bộ phim. Hình ảnh thường truyền tải các giá trị một cách mạnh mẽ hơn so với lời nói, và Hollywood chính là cỗ máy thúc đẩy và xuất khẩu các biểu tượng hình ảnh vĩ đại nhất của thế giới.[50] Ngay cả việc dùng đồ ăn nhanh cũng có thể chuyển tải một thông điệp ngầm về việc chối bỏ các phương thức truyền thống. Một gia đình người Ấn Độ miêu tả lần đi ăn của họ ở nhà hàng McDonald’s là một chuyến đi ra ngoài thưởng thức “một miếng hương vị Mỹ.”[51] Còn về mặt tiêu cực, sau khi chấm dứt cuộc chiến tranh Iraq, một số người Hồi giáo đã tẩy chay Coca Cola và quay lại dùng các thức uống như Mecca Cola hay Muslim Up như “một lựa chọn thay thế dành cho những ai tẩy chay các sản phẩm của những kẻ phục quốc Do Thái và các thương hiệu lớn của Mỹ.”[52] Tác động của văn hóa đại chúng không phải hoàn toàn mới. Nhà sử học Hà Lan Rob Kroes đã chỉ ra rằng các poster quảng cáo cho các tuyến vận tải biển và các xã hội nhập cư vào thế kỷ 19 ở Châu Âu đã tạo nên hình ảnh về miền Tây nước Mỹ như là một biểu tượng tự do trước khi cuộc cách mạng tiêu dùng thế kỷ 20 bắt đầu. Những người Châu Âu trẻ tuổi “lớn lên và xây dựng những thế giới ý nghĩa của mình dựa trên các thành phần và biểu tượng từ Mỹ.” Các quảng cáo thương mại Mỹ năm 1944 đề cập đến và phát triển ý tưởng về bốn quyền tự do của Franklin Roosevelt, qua đó củng cố các bài học giáo dục công dân chính thức. “Từ thế hệ thanh niên này tới thế hệ thanh niên khác lớn lên trong các bối cảnh khác nhau của Châu Âu, ở phía Đông lẫn phía Tây bức mành sắt, đã thưởng thức qua trí tưởng tượng những niềm vui mang lại bởi các lựa chọn văn hóa khác…. Những thứ đơn giản như chiếc quần jean xanh, Coca Cola, hay một nhãn hiệu thuốc lá đều có được một giá trị bổ sung giúp những thế hệ trẻ này thể hiện bản sắc của riêng mình.”[53] Sự cuốn hút của văn hóa đại chúng này đã giúp nước Mỹ đạt được các mục tiêu đối ngoại quan trọng. Một ví dụ là việc tái thiết dân chủ ở Châu Âu thời kỳ hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Kế hoạch Marshall và NATO là những công cụ cốt yếu về sức mạnh kinh tế và quân sự giúp đạt được các mục tiêu này. Nhưng văn hóa đại chúng cũng góp phần quan trọng không kém. Ví dụ, nhà sử học người Áo Reinhold Wagnleitner cho rằng “sự thích ứng nhanh với văn hóa đại chúng Mỹ của nhiều người Châu Âu thời kỳ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai rõ ràng đóng góp tích cực cho quá trình dân chủ hóa của các xã hội này. Nó giúp làm trẻ lại và hồi sinh các nền văn hóa hậu chiến của Châu Âu với những thông điệp căn bản về tự do, sự bình dị, sức sống, tính hiện đại và trẻ trung… Việc chấp nhận tuân theo chỉ dẫn của thị trường và thế giới kinh doanh cũng chứa đựng những yếu tố thể hiện sự giải phóng khỏi các ràng buộc của các lế thói, tập tục cổ truyền.”[54] Những đồng đô la được đầu tư thông qua Kế hoạch Marshall đóng vai trò quan trọng giúp Mỹ đạt được các mục tiêu về tái thiết Châu Âu, nhưng trong thành công này các lý tưởng được truyền tải bởi văn hóa đại chúng Mỹ cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Sự hấp dẫn của văn hóa đại chúng cũng góp phần vào một mục tiêu lớn khác của chính sách đối ngoại Mỹ – đó là chiến thắng cuộc Chiến tranh lạnh. Liên Xô sở hữu sức mạnh quân sự ấn tượng đe dọa Tây Âu, và trong giai đoạn đầu thời kỳ hậu chiến Liên Xô cũng sở hữu những nguồn tài nguyên sức mạnh mềm quan trọng nhờ vào sức hấp dẫn của hệ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa và lịch sử cuộc đấu tranh chống lại phát xít Đức. Tuy nhiên Liên Xô đã lãng phí phần lớn nguồn sức mạnh mềm này qua các chính sách đàn áp ở trong nước và ở Đông Âu,[55] cũng như thành tích kinh tế kém cỏi giai đoạn sau này (cho dù sức mạnh quân sự tăng lên). Các chương trình văn hóa và tuyên truyền do nhà nước điều khiển không thể cạnh tranh nổi với ảnh hưởng của văn hóa đại chúng mang tính thương mại của Mỹ về tính linh hoạt cũng như sự hấp dẫn. Rất lâu trước khi sụp đổ vào năm 1989, bức tường Berlin đã bị xuyên thủng bởi các chương trình truyền hình và điện ảnh. Búa và máy ủi sẽ không thể thành công nếu không có sự trợ giúp của các hình ảnh văn hóa đại chúng của phương Tây được truyền tải hàng năm trời giúp xuyên thủng bức tường trước khi nó sụp đổ. Cho dù Liên Xô hạn chế và kiểm duyệt các bộ phim phương Tây, những bộ phim đã được sàng lọc vẫn có thể mang lại những tác động chính trị mạnh mẽ. Đôi khi các tác động chính trị này là trực tiếp, mặc dù ngoài mong đợi. Một nhà báo Liên Xô đã bình luận sau suất chiếu đã được kiểm duyệt của bộ phim “On the Beach” và “Dr. Strangelove” (cả hai bộ phim đều phê phán chính sách vũ khí hạt nhân của Mỹ) rằng “Những bộ phim này đã làm chúng tôi sốc… Chúng tôi bắt đầu hiểu rằng điều tương tự sẽ diễn ra đối với chúng tôi giống như đối với họ trong một cuộc chiến tranh hạt nhân.” Những tác động bất ngờ khác được truyền tải một cách gián tiếp. Khán giả Liên Xô xem các bộ phim mang chủ đề chính trị thường nhận ra rằng người phương Tây không phải xếp hàng dài để mua thực phẩm, không phải sống trong các khu căn hộ chung, và được sở hữu những chiếc xe hơi riêng. Tất cả những điều này đều vô hiệu hóa cách nhìn tiêu cực được tuyên truyền bởi báo chí Liên Xô. Ngay cả nhạc rock and roll cũng đóng vai trò quan trọng bất chấp nỗ lực ngăn ngừa của Liên Xô. Như một phụ tá của Gorbachev sau này đã nói “Ban nhạc Beatles là cách phủ nhận “hệ thống” một cách thầm lặng cho dù vẫn tuân theo phần lớn các đòi hỏi của nó.” Georgi Shaknazarov, một quan chức cao cấp của Đảng Cộng sản đã tổng kết các tác động chính trị một cách rất hay rằng “Gorbachev, tôi, tất cả chúng tôi đều là những người suy nghĩ nước đôi. Chúng tôi thường xuyên phải cân bằng sự thật và tuyên truyền trong tâm trí mình.” Tác động mài mòn đối với sự tự tin và ý thức hệ của người Liên Xô trở nên rõ ràng qua hành động của họ khi thế hệ đó cuối cùng đã lên nắm quyền vào giữa những năm 1980.[56] Tương tự, các quan chức Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã tống giam một nhóm thanh niên vào những năm 1950 vì đã chơi một “băng nhạc Mỹ phản động” nhưng nỗ lực này hóa ra đã phản tác dụng. Milos Forman kể lại rằng vào những năm 1960 “khi bạn đang nghe nhạc của Bill Haley và Elvis Presley và cảm thấy thật yêu thích thì bỗng nhiên một gương mặt lạnh lùng trên truyền hình Tiệp Khắc nói với bạn rằng ‘Những con vượn này vừa trốn thoát khỏi rừng xanh – Liệu chúng đại diện cho lòng tự hào của nhân loại được không?’… Cuối cùng bạn đánh mất toàn bộ sự tôn trọng.” Vào năm 1980, sau khi John Lennon bị ám sát, một tượng đài của anh đã xuất hiện một cách tự phát ở Praha, và lễ kỉ niệm ngày mất người ca sĩ đã được đánh dấu bằng một lễ tuần hành thường niên vì hòa bình và dân chủ. Năm 1988, những người tổ chức đã thành lập Câu lạc bộ Hòa bình Lennon và các thành viên của câu lạc bộ này đã đòi rút quân đội Liên Xô khỏi lãnh thổ Tiệp Khắc.[57] Dần dần theo thời gian, Lennon đã vượt qua Lenin. Một nhà sử học đã tóm tắt tình hình rằng “Cho dù sức mạnh quân sự và các hứa hẹn chính trị của Mỹ có quan trọng đến đâu trong việc thiết lập nền tảng cho thành công của Mỹ ở Châu Âu thời kỳ Chiến tranh lạnh thì chính sự hấp dẫn về văn hóa và kinh tế của nước này mới thực sự giúp giành được sự ủng hộ của đa số thanh niên dành cho mô hình dân chủ phương Tây. Bất cứ khi nào sự tiêu dùng thực sự xuất hiện thì nhiều khả năng chủ nghĩa xã hội sẽ mất giá trị ảnh hưởng.”[58] Mỹ đã thắng cuộc Chiến tranh lạnh bằng một thứ vũ khí kết hợp cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm. Sức mạnh cứng tạo nên sự thành công của chiến lược ngăn chặn quân sự, còn sức mạnh mềm giúp làm xói mòn hệ thống Xô Viết từ bên trong. Không phải mọi tài nguyên sức mạnh mềm đều thuộc về Mỹ – minh chứng chính là vai trò của BBC và ban nhạc Beatles. Nhưng sẽ thật là sai lầm nếu bỏ qua vai trò của sức hấp dẫn đến từ văn hóa đại chúng Mỹ đóng góp cho vế sức mạnh mềm trong phương trình kể trên. Văn hóa đại chúng không chỉ đóng góp cho việc đạt được các mục tiêu chính sách Mỹ ở Tây Âu mà còn là một yếu tố quan trọng đối với một số các mục tiêu chính sách khác, bao gồm việc xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc apacthai ở Nam Phi, gia tăng số lượng các nền dân chủ ở Nam Mỹ và một phần Đông Á, việc lật đổ chế độ Milosevic ở Serbia, áp lực đối với quá trình tự do hóa ở Iran và việc củng cố một hệ thống kinh tế quốc tế mở, vv… Thực tế, khi Nam Phi tranh luận về việc có cho phép phát sóng truyền hình ở nước này không vào năm 1971, một cựu bộ trưởng Bộ Bưu chính và Điện tín thuộc phái bảo thủ đã phản đối vì cho rằng truyền hình là biểu tượng của sự đồi bại của phương Tây và nó “sẽ dẫn tới sự tha hóa nền văn minh Nam Phi và phá hủy chế độ apacthai.”[59] Cuối cùng những gì ông này tiên đoán đã thành sự thật. Tương tự, vào năm 1994, giáo sĩ cấp cao nhất của Iran đã ban hành một lệnh cấm các đĩa thu sóng truyền hình vệ tinh vì chúng chỉ mang lại một nền văn hóa ngoại nhập rẻ tiền và sự lây lan những căn bệnh đạo đức của phương Tây.[60] Và điều này cũng đã chính xác. Một thập kỷ sau, các cuộc biểu tình của công chúng ở Teheran đã nổ ra sau khi các kênh truyền hình Mỹ của tư nhân trở nên phổ biến. Các đài truyền hình này được cấp phép phát sóng bằng tiếng Farsi cho cộng đồng kiều dân Iran ở Los Angeles, nhưng cuối cùng các kênh này lại đưa tin về tình hình chính trị Iran suốt ngày đêm, đồng thời đưa các tin tức bị cấm vào Iran.[61] Đó không chỉ là một nhóm phản động nhỏ bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của phương Tây. Như một vị giáo sư nọ đã nhận xét “Chưa đầy một thập kỷ sau cái chết của Giáo chủ Ayatollah Khomeini, những điều này đã minh chứng rằng những nhà cách mạng – những cựu thành viên tham gia chiến tranh và cách mạng thời còn trẻ – đã đòi hỏi được hưởng nhiều tự do và quyền về chính trị hơn.” [62] Ở Trung Quốc, bất chấp sự kiểm duyệt gắt gao, các tin tức từ Mỹ vẫn thâm nhập qua biên giới đến với giới tinh hoa Trung Quốc thông qua mạng internet cũng như các phương tiện truyền thông khác và các giao lưu về giáo dục. Vào năm 1989, các sinh viên biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn đã dựng một bức tượng mô phỏng tượng Nữ thần Tự do. Một người bất đồng chính kiến đã nói với một phóng viên nước ngoài rằng khi bị buộc nghe các nhà lãnh đạo Đảng ở địa phương chỉ trích nước Mỹ cô luôn luôn ngâm nga những giai điệu của Bob Dylan trong đầu như cách tiến hành một cuộc cách mạng thầm lặng của riêng cô. Một nhà báo khác thì ghi nhận rằng “nhiều người tin dòng chảy của các bộ phim Hollywood gần đây vào các rạp chiếu phim Trung Quốc cùng với các phiên bản đĩa DVD bất hợp pháp của chúng đã góp phần thúc đẩy những người dân Trung Quốc bình thường mong muốn thay đổi tăng tốc nhanh hơn nữa.”[63] Như chúng ta đã thấy trong Chương 1, văn hóa đại chúng do không chịu sự quản lý trực tiếp của chính phủ nên không luôn luôn tạo ra các kết quả chính trị chính xác như các chính phủ mong muốn. Ví dụ như trong Chiến tranh Việt Nam, chính phủ Mỹ đã có nhiều mục tiêu chính sách khác nhau, bao gồm chiến thắng về mặt quân sự đối với chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và chiến thắng về mặt chính trị đối với chủ nghĩa cộng sản ở Trung Âu. Văn hóa đại chúng không góp phần mang lại những kết mong muốn đối với mục tiêu thứ nhất, nhưng đã giúp đạt được mục tiêu thứ hai. Ví dụ, Reinhold Wagnleitner đã miêu tả các cuộc biểu tình của sinh viên ở Áo chống Chiến tranh Việt Nam như sau: “Chúng tôi với quần jeans màu xanh và áo thun tham gia các cuộc biểu tình ngồi và các bài phát biểu dài của các diễn giả. Thế nhưng rất ít người trong số chúng tôi có thể hiểu được ý nghĩa của việc có thể tham gia biểu tình chống lại một cuộc chiến tranh trong lúc nó đang diễn ra mà không bị tòa án binh xét xử. Một số người cũng nhận ra rằng chúng tôi đã học được cách biểu tình và chống đối dân chủ một cách hòa bình từ phong trào đòi quyền công dân ở Mỹ và phong trào chống trang bị vũ khí hạt nhân. Rốt cuộc chúng tôi không ca vang bài ‘Quốc tế ca’ mà chúng tôi chỉ hát bài ‘We Shall Overcome.’”[64] Các phong trào biểu tình là một phần của văn hóa đại chúng có thể thu hút một số người nước ngoài nhờ sự cởi mở của nước Mỹ trong khi các chính sách chính thức cố gắng đẩy lùi chúng. Văn hóa đại chúng cũng có thể có những tác động trái ngược nhau đối với các nhóm khác nhau trong cùng một quốc gia. Nó không mang lại một nguồn sức mạnh mềm thống nhất. Những đoạn video thu hút giới trẻ Iran lại làm các giáo sĩ nước này nổi giận. Vì vậy việc bài trừ văn hóa đại chúng Mỹ sẽ khiến Mỹ khó khăn hơn trong việc đạt được các kết quả chính sách mong muốn từ nhóm lãnh đạo trong ngắn hạn, nhưng về dài hạn sự hấp dẫn của văn hóa đại chúng lại khuyến khích giới trẻ khao khát thay đổi. Đôi khi các tác động có thể làm suy yếu các mục tiêu dài hạn của Mỹ. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, theo một nhà báo Thổ Nhĩ Kỳ thì “sự phổ biến của văn hóa đại chúng Mỹ chủ yếu ở tầng lớp thượng trung lưu và một phần ở tầng lớp hạ lưu đã tạo ra sự chống đối đối với các tư tưởng mà văn hóa đại chúng Mỹ truyền tải. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan những năm gần đây vốn đe dọa nghiêm trọng các chính quyền thế tục là nguyên nhân gây nên sự chia rẽ giữa tầng lớp thượng lưu bị Mỹ hóa, tầng lớp hạ trung lưu và người nghèo.”[65] Nhưng ngay trong thời kỳ căng thẳng sau sự kiện 11/9, bất chấp lệnh hạn chế thị thực, một cuộc khảo sát do Hội đồng Anh tiến hành đối với 5.000 sinh viên ở 9 quốc gia Hồi giáo cho thấy Mỹ vẫn là lựa chọn số một đối với thanh niên ở Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Ảrập Xêut nhằm theo đuổi việc du học nước ngoài.[66] Sự không nhất quán là một phản ứng phổ biến đối với nước Mỹ, và nơi nào tồn tại sự không nhất quán thì ở đó vẫn còn chỗ cho các chính sách nhằm cải thiện tỉ lệ giữa các phản ứng tích cực so với các phản ứng tiêu cực. Cuối cùng, các công cụ của văn hóa đại chúng không cố định. Khó có thể biết chắc ảnh hưởng của văn hóa Mỹ sẽ tăng hay giảm trong tương lai. Một phần kết quả sẽ phụ thuộc vào việc các chính sách xa lạ của Mỹ có gây hiệu ứng tức nước vỡ bờ dẫn tới việc các phản ứng chung đối với văn hóa Mỹ trở nên tiêu cực hơn hay không. Hơn nữa điều này còn phụ thuộc vào các thay đổi thị trường độc lập mà hầu như không liên quan gì tới chính trị. Ví dụ, các bộ phim Mỹ tiếp tục chiếm tới 80% doanh thu thị trường ngành công nghiệp điện ảnh toàn cầu, nhưng các chương trình truyền hình Mỹ gần đây đã bị giảm thị phần. Truyền hình có thể vươn tới nhiều thị trường đơn lẻ hơn và các nội dung bản địa tỏ ra quan trọng hơn trong việc tiếp cận khản giả địa phương hơn là các chương trình liên quan tới văn hóa Mỹ được cung cấp bởi các sản phẩm văn hóa điển hình của nước này.[67] Viện Nghiên cứu Truyền thông Nielson đã phát hiện ra rằng 71% trong số 10 chương trình được yêu thích nhất ở 60 quốc gia mà họ khảo sát được sản xuất ở các nước đó, cho thấy mức tăng ổn định so với các năm trước. Các nguyên nhân của hiện tượng này dường như liên quan tới các thay đổi trên thị trường cũng như tính hiệu quả của quy mô trong việc đáp ứng thị hiếu của khán hơn là các phản ứng mang tính chất chính trị.[68] Hơn nữa, qua thời gian, việc tiếp thu văn hóa đại chúng Mỹ của khán giả nước ngoài dần dần khiến cho nó trở nên kém mới mẻ, và vì vậy kém hấp dẫn hơn đối với họ. Điều tương tự cũng xảy ra đối với sự tiếp nhận của người Châu Âu đối với các show diễn về miền Tây hoang dã của nước Mỹ thời thế kỷ 19, và kênh MTV của Mỹ cũng đã bị lép vế so với các kênh địa phương học theo phong cách tương tự. Một chuyên gia dự đoán rằng “quá trình toàn cầu hóa của văn hóa đại chúng Mỹ, như chúng ta đã được biết và đang tranh luận hiện nay, có thể sẽ chỉ là một hiện tượng nhất thời, một vấn đề mang tính quốc tế chỉ chừng nào nó còn có thể tạo ra các phản ứng ở các quốc gia sở tại giúp kiểm tra các khía cạnh văn hóa nào có thể thích nghi được một cách thành công với các điều kiện và mong muốn của người dân sở tại.”[69] Liệu việc mất đi tính hấp dẫn mới mẻ ngoại nhập có phải là một vấn đề nghiêm trọng đối với các tài nguyên sức mạnh mềm hay không là một điều khó có thể dự báo được. Tuy nhiên đối với tin tức truyền hình thì rõ ràng đã có sự thay đổi mang tính chất chính trị. Trong thời gian diễn ra Chiến tranh vùng Vịnh, CNN và BBC đã áp đảo tin tức chiến trường và chính các đài này định hướng các vấn đề. Ví dụ như việc Iraq đưa quân vào Kuwait tháng 8/1991 được miêu tả là hành động xâm lược hơn là việc thu hồi lại tỉnh Kuwait bị mất như cách nhìn của người Iraq. (Ấn Độ cũng dùng lập luận tương tự khi xâm chiếm tỉnh Goa nhưng hầu như không có phản ứng quốc tế nào đáng kể.) Cho tới cuộc Chiến tranh Iraq, kênh Al Jazeera và các kênh truyền hình khác là những đối thủ cạnh tranh tích cực với CNN và BBC trong việc dẫn dắt vấn đề. Ví dụ, cùng một hình ảnh các lực lượng quân sự di chuyển có thể được CNN miêu tả là “các lực lượng linh minh tiến quân” hoặc được Al Jazeera gọi là “các lực lượng xâm lược tiến quân.” Hiệu ứng cuối cùng là sự suy giảm sức mạnh mềm của Mỹ ở khu vực này vào năm 2003 so với năm 1991. Hiện nay Pháp đã quyết định thành lập kênh truyền hình tin tức đa ngôn ngữ cho riêng mình. Pháp kết luận rằng “Al Jazeera là bằng chứng cho thấy thế độc quyền có thể bị phá vỡ và thực sự tồn tại nhu cầu được tiếp nhận các tin tức không phải qua nguồn Anh – Mỹ.”[70] Một số nhà phân tích tin rằng “sự áp đảo của Mỹ trong dòng chảy truyền thông toàn cầu hiện nay yếu hơn so với trong quá khứ. Mặt khác, mối quan ngại mới hiện nay không phải là những lời phàn nàn từ lâu về ảnh hưởng quá mức của văn hóa Mỹ khắp thế giới mà là tốc độ nhanh đáng kinh ngạc mà Mỹ đang bán tháo các ngành công nghiệp văn hóa đại chúng của mình cho các ông chủ nước ngoài.”[71] Cũng cần lưu ý rằng trong khi các công ty Mỹ vẫn chiếm ưu thế về các thương hiệu toàn cầu thì các thay đổi của thị trường đã tạo ra tình trạng phân mảnh ngày càng tăng của các thương hiệu. Một thập kỷ trước đây người ta cho rằng khi các rào cản thương mại được tháo bỏ, các thương hiệu quy mô toàn cầu sẽ xóa sổ các thương hiệu địa phương. Trên thực tế công nghệ đã hỗ trợ các quốc gia vốn quan ngại về tính tự chủ của mình đạt được tính hiệu quả của quy mô trong việc sản xuất các sản phẩm chuyên biệt hóa, điều này dẫn tới việc chuẩn mực hóa các thương hiệu gặp nhiều khó khăn. Coca Cola hiện sở hữu hơn 200 nhãn hiệu (thường không thể hiện sự liên hệ rõ ràng với công ty mẹ), McDonald’s phải điều chỉnh thực đơn của mình theo từng khu vực, và MTV phải xây dựng các chương trình khác nhau cho các nước khác nhau.[72] Ngay cả trước khi xảy ra các cuộc tẩy chay về mặt chính trị sau sự kiện chiến tranh Iraq, các xu hướng của thị trường đã khiến cho các thương hiệu Mỹ bị sụt giảm vị thế. Các tài nguyên văn hóa đại chúng giúp mang lại sức mạnh mềm cho Mỹ có thể quan trọng nhưng không cố định mà luôn vận động, biến đổi. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIÁ TRỊ TRONG NƯỚC NỘI DUNG VÀ PHONG CÁCH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI PHỤ LỤC Xem phần còn lại của bài viết tại đây: Soft Power The Means to Success – Chuong 2 – Le Hong Hiep [1] Phillip Coggan, “Uncle Sam Stands Above the Rest”, Financial Times, FT Report – FT 500, trang 3. [2] “The 100 Top Brands” Business Week, ngày 4/8/2003, trang 72-78, có tại địa chỉ: www.brandchannel.com/images/home/bgb_2003.pdf; “Fiancial Times Releases 5th Annual Internartional MBA Survey,” Business Wire (tạp chí mạng), 20/1/2003 [3] Số liệu tổng hợp từ cơ sở dữ liệu “Chỉ số Phát triển Thế giới” của Ngân hàng Thế giới. [4] Neal M. Rosendorf, “Social and Cultural Globalization: Concepts, History, and America’s Role”, trong Joseph Nye và John Donahue (biên tập), Governance in a Globalizing World (Washington, D.C.: Brookings Institution Press, 2000), trang 109-34 [5] Alan Riding, “The New EU,” New York Times, 12/1/2003, phần Education Life, trang 30. [6] Hey-Kyung Koh (biên tập), Open Doors 2002: Report of International Education Exchange (New York: Institute of International Education, 2002), trang 22. [7] Thống kê từ Econonomist Books (biên tập) Pocket World in Figures 2003 Edition (London: Profile Books, Ltd., 2003), trang 90-92, trừ các thống kê về số ấn bản khoa học được biên tập từ các dữ liệu trong cơ sở dữ liệu “Chỉ số Phát triển Thế giới” của Ngân hàng Thế giới. [8] “Norway Tops Quality of Life Index,” New York Times, 9/7/2003, trang A6. [9] Economist Books (biên tập) Pocket World in Figures 2003 Edition (London: Profile Books, Ltd., 2003), trang 95. [10] Pew Global Attitudes Project, Views of a Changing World June 2003 (Washington, D.C.: Pew Research Center for the People and the Press, 2003), trang 19, 132-34. [11] Sđd, trang 19-23. [12] Xem Leo Crespi, “Trend Measuremnent of US Standing in Foreign Public Opinion,” bản thảo của Cục Thông tin Hoa Kỳ, 1/6/1978 (có thể tiếp cận theo yêu cầu từ Trung tâm Dữ liệu Quốc gia: , biểu đồ 2-5; và Steven K. Smith và Douglas Wertman, US-West European Relations During the Reagan Years (London: Macmillan, 1992), trang 92-93. [13] Thomas Alan Schwartz, Lyndon Johnson and Europe (Cambridge: Havard University Press, 2003), trang 85. [14] Jerry Adler (chủ biên), “What the World Thinks of America,” Newsweek, 11/7/1983, trang 44, bình luận cuộc thăm dò do Gallup tiến hành cho Newsweek. [15] James Ceaser, “A Genealogy of Anti-Americanism,” The Public Interest, số Mùa Hè 2003 [16] Simon Schama, “The Unloved American,” The New Yorker, 10/3/2003, trang 34. [17] Reinhold Wagnleiter và Elaine Tyler May (biên tập), “Here, There and Everywhere”: The Foreign Politics of American Popular Culture (Hannover: University Press of New England, 2000), trang 6. [18] John Trumpbour, “Hollywood and the Decline of European Empire,” trong Elisabeth Kraut và Caronline Auer (biên tập), Simulacrum America (Rochester, NY: Camden House, 2000), trang 206-8. [19] “Over Here”, The Economist, 15/3/2003, trang 54. [20] Leo P. Crespi, “Trends in the Image of US Strength in Foreign Public Opinion,” Cục Thông tin Hoa Kỳ, Phòng Nghiên cứu, 28/1/1977, trang 13. [21] John Burns, “Amid Serbia’s Battle Cries, Old Voice of Dissent,” New York Times, 27/3/1992, trang 4; Joseph Nye, “Manage Japan, Don’t Compete with It,” Wall Street Journal, 17/1/1991, trang A10. [22] Pew Global Attitude Project, What the World Thinks in 2002 (Washington, DC.: Pew Research Center for the People and the Press, 2002), trang T54. [23] Roger Cohen, “Fearful over the Future, Europe Seizes on Food,” New York Times, 29/8/1999, phần 4, trang I. [24] “Iranian, in Paris Speech, Aims a Barb at US,” New York Times, 29/10/1999, trang A8. [25] Được trích trong Walter LaFeber, Michael Jordan and the New Global Capitalism (New York: Norton, 1999), trang 20. [26] Barbara Wallraff, “What Global Language?” The Atlantic Monthly, 11/2000. [27] Michael Elliot, “A Target Too Good to Resist,” Newsweek, 31/1/2000, trang 27-28. [28] Neil Buckley, “Eyes on the Fries,” Financial Times, 29/8/2003, trang 9. [29] Xem Neal M. Rosendorf, “The Life and Times of Samuel Bronston, Builder of Hollywood in Madrid: A Study in the International Scope and Influence of American Popular Culture,” Luận văn tiến sĩ, Đại học Havard, 2000, “Appendix: The Power of American Pop Culture – Evolution of an Elitist Critique,” trang 402-15 và các nơi khác. [30] Arendt được trích trong Michael Ermath, “German Unification as Self Inflicted Americanization,” trong Wagnleitner và May, “Here, There and Everywhere,” trang 267 [31] Nosa Ownes-Ibie, “Programmed for Domination,” trong Wagnleitner và May, “Here, There and Everywhere,” trang 141. [32] Masako Notoji, Cultural Transformation of John Philip Sousa and Disneyland in Japan, trong Wagnleitner và May, “Here, There and Everywhere,” trang 225. [33] Steven Weisman, “US Must Counteract Image in Muslim World, Panel Says,” New York Times, 1/10/2003, trang 1. [34] Pew Global Attitude Project, What the World Thinks in 2002, trang T54-T58. [35] UNDP, “Arab Human Development Report 2003”, có tại địa chỉ: www.undp.org/rbas/ahdr/english 2003.html [36] Fouad Ajami, “The Falseness of Anti-Americanism,” Foreign Policy, 9-10/2003, trang 58,61. [37] Mamoun Fandy, “The Iraq the Arab World Saw All Along,” New York Times, 10/4/2003, trang A27. [38] Xem Andrew Kohut, Wall Street Journal, Thư gửi Ban biên tập, 10/7/2003. [39] Institute for Research: Middle Eastern Policy, “Dividends of Fear: America’s $94 Billion Arab Market Loss,” 30/6/2003, có tại địa chỉ: www.irmep.org/Policy_Briefs/6_30_2003_DOF.html[40] Được trích trong Thomas Friedman, “Is Google God?” New York Times, 29/6/2003, The Week in Review, trang 13. [41] Collin Powell, “Statement on International Education Week 2001,” có tại địa chỉ: www.state.gov/secretary/rm/2001/4462.htm. [42] Association of International Educators, “In America’s Interest: Welcoming International Students,” có tại địa chỉ: www.nafsa.org/content/PublicPolicy/stf/inamericasinterest.htm, trang 5 [43] Kennan, Eisenhower và người nhạc sĩ được trích trong Yale Richmond, Cultural Exchange and the Cold War (University Park: Pennsylvania State University Press, 2003) trang 123, 124. 127. [44] Sđd, trang 22-32. [45] Edward Rothstein, “d**ning (Yet Desiring) Mickey and the Big Mac,” New York Times, 2/3/2002, trang A17. [46] Ben Wattenberg, The First Universal Nation (New York: Free Press, 1991), trang 213. [47] Carl Sandburg, được trích trong Reinhold Wagnleitner, Coca-Colonization and the Cold War (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1994), trang 222. [48] Charles P. Pierce, “The Goodwill Games,” Boston Globe, 21/9/2003. [49] Matthew Collin, Guerrilla Radio (New York: Nation Books, 2001), trang 41. [50] John Fraim, Battle of Symbols: Emerging Global Dynamics (Enfield, UK: Daimon, 2003), chương 8. [51] Saritha Rai, “Tastes of India in US Wrappers,” New York Times, 29/4/2003, trang W1. [52] John Tagliabue, “US Brands Abroad Are Feeling Global Tension,” New York Times, 15/3/2003, trang B3. [53] Rob Kroes, “American Empire and Cultural Imperialism: A View from the Receiving End,” Diplomatic History 29 (số Mùa Hè 1999), trang 468-74. [54] Reinhold Wagnleitner, “The Empire of Fun, or ‘Talkin’ Soviet Union Blues: The Sound of Freedom and US Cultural Hegemony in Europe,” Diplomatic History 29 (số Mùa Hè 1999), trang 515. [55] Về bằng chứng chứng minh Liên Xô suy giảm sức mạnh mềm ở Tiệp Khắc sau vụ đàn áp Mùa xuân Praha, xem Đài Âu Châu Tự do, Phòng Nghiên cứu Thính giả và Công luận, Czech and Slovak Self-Image and the Czech and Slovak Image of Americans, Germans, Russians and Chinese (Munich: Đài Âu Châu Tự do, 1970), trang 67. [56] Richmond, Cultural Exchange and the Cold War, trang 128-131, 162, 205. [57] Đoạn này dựa trên Mathew Kohut, “The Role of American Soft Power in the Democratization of Czechoslovakia,” tài liệu chưa xuất bản, 4/2003, Trường Quản trị Kennedy. [58] Wagnleiter, “Empire of Fun,” trang 506. [59] “TV Finally Approved by South Africa,” New York Times, 28/4/1971. [60] Peter Waldman, “Iran Fights New Foe: Western Television,” Wall Street Journal, 8/8/1994, trang 10. [61] “Prodding the Clerics,” The Economist, 12/7/2003, trang 24. [62] Azar Nafisi, “The Books of Revolutions,” Wall Street Journal, 18/6/2003. [63] Jehangir Pocha, “The Rising Soft Power of India and China,” New Perspectives Quarterly 20 (số Mùa Đông 2003), trang 6; Rick Lyman, “China is Warming to Hollywood Glow,” New York Times, 18/9/2003, trang B1. [64] Wagnleitner, Coca-Colonozation, trang xi. [65] Gulriz Buken, “Backlash: An Argument against the Spread of American Popular Culture in Turkey,” in Wagnleitner và May, “Here, There and Everywhere,” trang 248b. [66] Meena Janardham, “Mideast: US May Be Unpopular, but Students Still Head for It,” Interpress Service, có tại địa chỉ: www.ipsnews.net, truy cập ngày 20/1/2003. [67] Neal Gabler, “The World Still Watches America,” New York Times, 9/1/2003, trang A27. [68] Suzanne Kapner, “US TV Shows Losing Potency Around World,” New York Times, 2/1/2003, trang 1; “Anti-Americanism and Television,” The Economist, 5/4/2003, trang 59. [69] Jogn G. Blair, “First Steps Toward Globalization,” trong Wagnleitner và May, “Here, There and Everywhere,” trang 27. [70] Jo Johnson, “Paris Deputies in Tune with Plans for State to Fund 24-Hour ‘French CNN,’” Financial Times, 15/5/2003, trang 10. [71] J. Mitchell Jaffee và Gabriel Weimann, “The New Lord of the Global Village?,” trong Wagnleitner và May, “Here, There and Everywhere,” trang 291. [72] Richard Tomkins, “Happy Birthday, Globalization,” Financial Times, 6/5/2003, trang 8. [73] Liên lạc của cá nhân tác giả, 6/2003. [74] Jim Yardley, “Training Site Is Questioned About Links to Hijackers,” New York Times, 14/9/2001, trang 4. [75] Jianying Zha, “Saddam Hussein as Surrogate Dictator,” New York Times, 8/4/2003, trang 31. [76] Times-Mirror Center for the People and the Press, “East-West Poll,” 1991 (có thể được Pew Research Center cung cấp, www.people-press,org.). [77] Quỹ Marshall Đức, Transatlantic Trends 2003, “Topline Data,” có tại địa chỉ: www.transatlantictrends,org, trang 49. [78] Pew Global Attitudes Project, What the World Thinks in 2002, trang T55. [79] Smith và Wertman, US-West European Relations During the Reagan Years, trang 108. [80] Derek Bok, The State of the Nation (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1996), trang 359. [81] Gregg Easterbrook, “America the OK,” The New Republic, 4/1/1999, trang 19-25. [82] David Whitman, The Optimism Gap: The I’m OK – They’re Not Syndrome and the Myth of American Decline (New York: Walker, 1998), trang 92. [83] Suzanne Garment, Scandal: The Culture of Mistrust in American Politics (New York: Doubleday, 1991). [84] Steven Holmes, “Defying Forecasts, Census Response Ends Declining Trend,” New York Times, 20/9/2000, trang 23. [85] Richard Berke, “Nonvoters Are No More Alianated Than Voters, a Survey Shoes,” The New York Times, 30/5/1996, trang A21; “Conventions and Their Enemies,” The Economist, 22/7/2000, trang 34. [86] Xem Joseph Nye, Philip D. Zelikow & David C. King (biên tập), Why People Don’t Trust Government (Cambridge, Mass: Havard University Press, 1997), Chương 9, 10 và “Kết luận”; xem thêm Pippa Norris (biên tập), Critical Citizens: Global Support for Democratic Government (New York: Oxford University Press, 1999) [87] Pew Partnership for Civic Change, “New Survey Dispels Myths on Citizen Engagemnet,” có tại địa chỉ: www.pew-partnership.org. [88] Robert Putnam, Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community (New York: Simon & Schuster, 2000), trang 48. [89] Public Policy Institute of California, “Silicon Valley’s Skilled Immigrants: Generating Jobs and Wealth for Caliornia,” Research Brief Issue 21, 6/1999, trang 2. [90] Tamar Lewin, “Family Decay Gobal, Study Says,” New York Times, 30/5/1995, trang 5. [91] Bok, State of the Nation, trang 376. [92] Pew Research Center for the People and the Press, “Bush Unpopular in Europe, Seen as Unilateralist,” có tại địa chỉ: people-press.org/reports/display.php3?ReportID=5, truy cập 15/8/2001. [93] Laurie Goodstein, “Seeing Islam as Evil Faith, Evangelicals Seek Converts,” New York Times, 27/5/2003, trang 1. [94] Laurie Goodstein, “Top Evangelicals Critical of Colleagues over Islam,” New York Times, 8/5/2003, trang 22. [95] Irene Kahn, được trích trong Sarah Lyall, “Amnesty Calls World Less Safe,” New York Times, 20/5/2003, trang 14; Kenneth Roth, được trích trong Bernard Wysocki, Jr., và Jess Barvin, “Issue of Guantanomo Captives’Treatment Resurfaces – As US Complains About Iraqi Conduct, Human Rights Groups Charges Hypocracy,” Wall Street Journal, 1/4/2003, trang A4. [96] “America the Scary Bends Democracy,” Financial Times, 9/6/2003, trang 14; “Unjust, Unwise, UnAmerican,” The Economist, 12/7/2003, trang 9. [97] Geir Lundestad, Empire by Integration: The United States and European Integration, 1945-1997 (New York: Oxford University Press, 1998), trang 155. [98] Để biết toàn văn cuộc thảo luận về tính phức tạp và các vấn đề về định nghĩa, xem Inge Kaul, Isabelle Grunberg và Marc A. Stern (biên tập), Global Public Goods: International Cooperation in the 21st Century (New York: Oxford University Press, 1999). Theo định nghĩa hẹp, hàng hóa công là những hàng hóa mà sự sử dụng của người này không ảnh hưởng tiêu cực và loại trừ sự sử dụng của người khác đối với hàng hóa đó. [99] “Economic Focus: Gauging Generosity,” The Economist, 3/5/2003, trang 72. [100] Richard Bernstein, “To Butt in or Not in Human Rights: The Gap Narrows,” New York Times, 4/8/2001, trang 15. [101] Steven Mufson, “Bush Nudged by the Right over Rights,” International Herald Tribune, 27-28/1/2001, trang 3. Xem thêm “American Power – For What? A Symposium,” Commentary, 1/2000, trang 21n. [102] Lawrence F. Kaplan và William Kristol, “Neither a Realist nor a Liberal, W. is a Liberator,” Wall Street Journal Europe, 30/1/2003, trang A8. [103] Charles Krauthammer, “The New Unilateralism,” Washington Post, 8/6/2001, trang A29. [104] Robert Kagan và William Kristol, “The Present Danger,” The National Interest, số Mùa Xuân 2000, trang 58, 64, 67. [105] Charles Krauthammer, “The New Unilateralism,” Washington Post, 8/6/2001, trang A29. [106] Kagan và Kristol, “The Present Danger,” trang 67. [107] Robert W. Tucker, trong “American Power – For What? A Symposium,” Commentary, 1/2000, trang 46. [108] Pew Research Center for the People and the Press, “Bush Unpopular in Europe.” Gallup International Association, “Post War Iraq Poll,” 5/2003, có tại địa chỉ: www.gallup-international.com. [109] Quỹ Marshall Đức, Transatlantic Trends 2003, “Topline Data,” “Survey Results,” trang 19-21. [110] John Ikenberry, “Getting Hegemony Right,” The National Interest, số Mùa Xuân 2001, trang 17-24. [111] Stephen Holden, “Revisiting McNamara and the War He Headed,” New York Times, 11/10/2003, trang 23. [112] Eric Schmitt, “Cheney Lashes Out at Critics on Iraq,” New York Times, 11/10/2003, trang 1b. [113] Quỹ Marshall Đức, Transatlantic Trends 2003, “Topline Data,” trang 24. [114] Sđd, trang 21. [115] Thom Shanker, “US Commander in Iraq Says New Troops May Be Needed to Cambat ‘Guerrilla’ War,” New York Times, 17/7/2003, trang 1. [116] “2nd Presidential Debate Between Gov. Bush and Vice President Gore,” New York Times, 12/10/2000. Trang A20. [117] “Roger Cohen, “Arrogant or Humble? Bush Encounters Europeans’ Hostility,” International Herald Tribune, 8/5/2001, trang 1. Các hiệp ước quốc tế đa phương mà chính quyền Bush phản đối trong sáu tháng cầm quyền đầu tiên bao gồm: Hiệp định về Tòa án Hình sự Quốc tế, Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện, Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo, Nghị định thư Kyoto, một Hiệp định về kiểm soát vũ khí nhỏ, một Nghị định thư về vũ khí sinh học và một văn bản của OECD nhằm kiểm soát việc trốn lậu thuế. “Với việc loại trừ một số hiệp ước quan trọng, khó khăn mới đạt được về kiểm soát vũ khí và môi trường, ông Bush đã hứng chịu sự giận dữ của một số người bạn thân nhất của nước Mỹ – những người đang băn khoăn cái gì sẽ thay thế cho thế giới vốn có được trật tự nhờ các hiệp ước này – cũng như của những quốc gia đối địch vốn đọc được sự ngạo mạn trong các hành động của ông Bush” (Thom Shanker, “White House Says US Is Not a Lober, Just Choosy,” New York Times, 31/7/2001, trang 1. [118] Audrey Woods, “US Is Arrogant, Poll in 11 Nations Says Bush Got Unfavorable Ratings Among 58 Percent of Those Questioned for the BBC,” Philadelphia Inquirer, 19/6/2003, trang A8. [119] Philip Stephens, “The World Needs a Confident America, Not a Fearful One,” Financial Times, 13/12/2002, trang 21. [120] Irwin Stelzer, “America Is Needlessly Scaring Its Friends Away,” The Times (London), 3/6/2003, trang 16. [121] Richard Cohen miêu tả John Bolton trong “But Still Ruffling Feathers,” Washington Post, 17/6/2003, trang 21. [122] James Harding, “Conflicting Views from Two Bush Camps,” Financial Times, 20/3/2003.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:32:59 GMT 9
Ba tư tưởng về kinh tế chính trị
Nguồn: Gilpin, Robert. “Three Ideologies of Political Economy” (Chapter 2), in R. Gilpin, The Political Economy of International Relations (Princeton University Press, 1987), pp. 25-64.
Biên dịch: Hoàng Thanh Hằng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: Ba tu tuong ve kinh te chinh tri
Trong một thế kỷ rưỡi qua, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa dân tộc, và chủ nghĩa Mác đã chia rẽ nhân loại. Cuốn sách này sử dụng thuật ngữ “tư tưởng” để chỉ “hệ thống các suy nghĩ và niềm tin mà các cá nhân và nhóm người dùng để giải thích hệ thống xã hội của họ vận hành như thế nào và theo những nguyên tắc nào” (Heilbroner, 1985,tr.107). Cuộc tranh luận giữa ba học thuyết này xoay xung quanh vai trò và tầm quan trọng của của thị trường đối với việc tổ chức xã hội và các hoạt động kinh tế.
Qua việc đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của của ba lý thuyết này có thể làm sáng tỏ việc nghiên cứu lĩnh vực Kinh tế chính trị quốc tế. Thế mạnh của những quan điểm này sẽ được áp dụng để thảo luận những vấn đề cụ thể như thương mại, đầu tư, và phát triển. Mặc dù tư tưởng của tôi là chủ nghĩa tự do, nhưng chủ nghĩa hiện thực và thậm chí đôi khi chủ nghĩa Mác mô tả rất tốt thế giới mà chúng ta đang sống. Việc kết hợp cả ba dòng tư tưởng có lẽ không phải là con đường chính xác về mặt lý thuyết, nhưng đôi khi có lẽ là con đường duy nhất mà chúng ta có để hiểu rõ thế giới.
Ba dòng tư tưởng này khác biệt nhau về một số vấn đề như: Thị trường có tầm quan trọng như thế nào đối với tăng trưởng kinh tế và sự phân phối của cải giữa các nhóm người và các xã hội? Thị trường nên đóng vai trò như thế nào trong việc tổ chức xã hội trong nước và quốc tế? Hệ thống thị trường có tác động gì tới các vấn đề như chiến tranh và hòa bình hay không? Những câu hỏi này và những câu hỏi tương tự chính là trọng tâm của kinh tế chính trị quốc tế.
Ba dòng tư tưởng này khác nhau cơ bản trong quan điểm về mối quan hệ giữa xã hội, nhà nước, và thị trường. Và không quá khi nói rằng tất cả tranh cãi trong lĩnh vực kinh tế chính trị quốc tế suy cho cùng đều liên quan đến sự khác nhau trong quan điểm về mối quan hệ giữa xã hội, nhà nước, và thị trường. Sự tranh luận không chỉ là một điều lý thú về mặt lịch sử. Chủ nghĩa tự do về kinh tế, chủ nghĩa Mác, và chủ nghĩa dân tộc kinh tế đều rất giàu sức sống vào cuối thể kỷ 20. Các lý thuyết này chỉ ra những quan điểm khác nhau của cá nhân về tác động của hệ thống thị trường đối với xã hội trong nước và quốc tế. Có nhiều vấn đề gây tranh cãi trong thế kỷ 18 và 19 nay lại được tranh cãi mạnh mẽ.
Việc hiểu nội dung và bản chất của những quan điểm trái ngược nhau này về kinh tế chính trị là rất quan trọng. Từ “dòng tư tưởng” được sử dụng thay vì từ “lý thuyết” vì mỗi quan điểm chứa đựng một hệ thống niềm tin về bản chất của con người và xã hội và do đó giống như những gì mà Thomas Kuhn gọi là “dòng tư tưởng” (Kuhn; 1962). Như Kuhn đã chứng minh các quan điểm học thuật được bảo vệ một cách chặt chẽ và khó bị đánh đổ bởi các logic hoặc những bằng chứng trái ngược. Điều này xuất phát từ thực tế rằng những học thuyết này không chỉ miêu tả một cách khoa học về việc thế giới thực tế vận hành như thế nào mà cả về mặt quy phạm, nghĩa là thế giới nên vận hành như thế nào nữa.
Mặc dù các học giả đã có nhiều lý thuyết giải thích về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, nhưng ba học thuyết này nổi bật và có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến giới học giả và các công việc chính trị. Theo một cách đơn giản hóa, có thể nói rằng chủ nghĩa dân tộc kinh tế (hay trước đây gọi là chủ nghĩa trọng thương), xuất phát từ hành vi của các nhà lãnh đạo nhà nước trong giai đoạn đầu cận đại. Tư tưởng này cho rằng chính trị quan trọng hơn kinh tế. Đây là một học thuyết về xây dựng nhà nước và cho rằng thị trường phải là thứ yếu so với mục đích theo đuổi lợi ích của nhà nước. Học thuyết này cho rằng các yếu tố chính trị quyết định, hay ít nhất nên quyết định các quan hệ kinh tế.
Chủ nghĩa Tự do, xuất phát từ Kỷ nguyên Khai sáng trong những tác phẩm của Adam Smith và một số tác giả khác, là một sự phản kháng chống lại chủ nghĩa trọng thương và đã được thể hiện trong kinh tế học chính thống. Chủ nghĩa này cho rằng kinh tế và chính trị tốt nhất là tồn tại tách biệt nhau. Chủ nghĩa này đưa ra ý tưởng rằng thị trường, nhằm đạt được mục tiêu hiệu quả, phát triển, và sự lựa chọn của người tiêu dùng, cần không bị chính trị can thiệp.
Chủ nghĩa Mác, xuất hiện vào giữa thế kỷ 19 như là một phản ứng chống lại chủ nghĩa tự do và kinh tế học cổ điển, cho rằng kinh tế chi phối chính trị. Các xung đột chính trị nổi lên giữa các giai cấp vì sự phân chia của cải. Do đó, các cuộc xung đột chính trị sẽ chấm dứt khi thị trường và các giai tầng xã hội bị loại bỏ. Bởi vì cả chủ nghĩa dân tộc và Chủ nghĩa Mác trong thời hiện đại đều phát triển chủ yếu chống lại các quan điểm của kinh tế tự do nên tôi sẽ bắt đầu việc thảo luận và đánh giá ba dòng tư tưởng này từ chủ nghĩa tự do về kinh tế.
Quan điểm tự do
Một số học giả cho rằng không có cái gọi là học thuyết tự do về kinh tế chính trị vì chủ nghĩa tự do tách biệt giữa kinh tế và chính trị và cho rằng mỗi lĩnh vực hoạt động theo một số quy luật và logic riêng. Nhưng thực ra chủ nghĩa tự do có quan tâm đến cả lĩnh vực kinh tế và chính trị. Cho dù họ chỉ rõ ràng trong các tác phẩm của mình hoặc chỉ ám chỉ, người ta có thể nhận ra được học thuyết kinh tế chính trị tự do.
Có những giá trị mà từ đó học thuyết tự do về kinh tế và chính trị phát sinh, và trong thế giới hiện đại những giá trị đó xuất hiện cùng nhau. Lý thuyết kinh tế tự do ủng hộ sự tự do của thị trường và sự cam thiệp của nhà nước ở mức tối thiểu, mặc dù như sẽ trình bày trong phần sau, sự nhấn mạnh vào thị trường tự do hay sự can thiệp của nhà nước có thể khác nhau. Lý thuyết chính trị tự do ủng hộ tự do và bình đẳng cá nhân, và một lần nữa sự nhấn mạnh có thể khác nhau. Chúng ta quan tâm chủ yếu đến những khía cạnh kinh tế của chủ nghĩa tự do.
Quan điểm tự do về kinh tế được thể hiện trong các ngành kinh tế học đã được phát triển ở Anh, Mỹ, và Tây Âu. Từ thời Adam Smith đến hiện đại, các nhà tư tưởng tự do chia sẻ một quan niệm chung về về bản chất con người, xã hội và các hoạt động kinh tế. Chủ nghĩa tự do có nhiều dạng – cổ điển, tân cổ điển, chủ nghĩa Keynes, chủ nghĩa trọng tiền, trường phái nước Áo, tính toán lý trí, vv… Những biến thể này khác nhau từ việc ưu tiên sự công bằng và xu hướng sử dụng dân chủ xã hội và sự can thiệp của nhà nước để đạt được mục tiêu này, cho đến việc nhấn mạnh tự do và không can thiệp và bỏ qua sự công bằng xã hội. Tuy nhiên, tất cả các dạng của tư tưởng tự do về kinh tế đều xem thị trường và cơ chế giá cả là biện pháp hiệu quả nhất nhằm tổ chức các mối quan hệ kinh tế trong nước và quốc tế. Thực ra, chủ nghĩa tự do có thể được định nghĩa là một học thuyết và các nguyên tắc tổ chức và quản lý kinh tế thị trường nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, tăng trưởng kinh tế, và sự giàu có cho các cá nhân.
Chủ nghĩa tự do cho rằng thị trường ra đời một cách tự phát nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, và thị trường vận động tuân theo những quy luật nội tại của mình. Con người về bản chất là những “sinh vật kinh tế”, do đó thị trường tiến hóa một cách tự nhiên mà không theo một hướng chủ đạo nào cả. Như Adam Smith từng nói, “trao đổi, trao đổi và trao đổi” thuộc về bản năng của con người. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi mua bán, gia tăng sự giàu có, con người tạo ra thị trường, tiền bạc, và các thể chế kinh tế. Do đó, trong cuốn sách “Tổ chức kinh tế của trại tù nhân chiến tranh”, R.A. Radford đã chỉ ra một thị trường phức tạp và tinh vi đã phát triển một cách tự phát như thế nào nhằm thõa mãn những mong muốn của con. Nhưng câu chuyện của ông còn chỉ ra rằng một dạng thức quản lý nào đó của chính phủ là cần thiết nhằm giám sát và duy trì hệ thống thị trường sơ khai đó.
Cơ sở tồn tại của hệ thống thị trường là nó gia tăng hiệu quả kinh tế, tối đa hóa tăng trưởng kinh tế, và do đó gia tăng của cải cho con người. Mặc dù, những nhà tự do tin tưởng rằng các hoạt động kinh tế cũng thúc đẩy quyển lực và an ninh của nhà nước, họ cho rằng mục tiêu chủ yếu của các hoạt động kinh tế là mang lại lợi ích cho mỗi người tiêu dùng cá nhân. Sự bảo vệ đến cùng thương mại tự do và thị trường mở của những người theo chủ nghĩa tự do là vì chúng gia tăng số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng có thể lựa chọn.
Tiền đề cơ bản của chủ nghĩa tự do là các cá nhân người tiêu dùng, các công ty, hoặc hộ gia đình là nền tảng của xã hội. Các cá nhân hành động một cách lý trí và cố gắng tối đa hóa hoặc thỏa mãn một số nhu cầu nhất định với chi phí thấp nhất. Tính lý trí chỉ áp dụng cho sự cố gắng, không áp dụng cho kết quả. Do đó, việc thất bại và không đạt được một mục đích do sự ngu dốt hoặc một số lý do khác, theo những nhà tự do, không làm vô hiệu tiền đề của họ là con người hành động trên cơ sở những tính toán về thiệt/ hơn và phương tiện/ mục tiêu. Cuối cùng, những nhà tự do cho rằng các cá nhân sẽ tìm cách đạt được mục tiêu của mình cho tới khi thị trường đạt đến điểm cân bằng, có nghĩa là khi chi phí để đạt được mục tiêu ngang bằng với lợi nhuận. Các nhà kinh tế tự do cố gắng giải thích các hành vi kinh tế, và trong một số trường hợp là tất cả các hành vi của con người, dựa trên những tính toán mang tính cá nhân và có lý trí như vậy.
Chủ nghĩa tự do cũng giả định rằng tồn tại một thị trường mà trong đó các cá nhân có đầy đủ thông tin và do đó có thể lựa chọn những hành động sao cho có lợi nhất. Những nhà sản xuất và những người tiêu dùng sẽ phản ứng nhanh nhạy đối với các dấu hiệu giá cả, và điều này sẽ tạo ra một nền kinh tế linh hoạt mà trong đó bất cứ sự thay đổi giá cả nào cũng sẽ tạo ra những phản ứng tương ứng trong mô hình sản xuất, tiêu dùng, và cả các thể chế kinh tế, và những yếu tố này chính là sản phẩm chứ không phải là nguyên nhân của các hành vi kinh tế. Hơn nữa, trong một thị trường thực sự cạnh tranh, các điều khoản trao đổi được quyết định chủ yếu bởi những cân nhắc về cung cầu hơn là dựa trên sức mạnh và sự ép buộc. Nếu như sự trao đổi là tự nguyện, cả hai bên sẽ có lợi. Theo cách nói thông thường, “tự do trao đổi không phải là cướp bóc”.
Kinh tế học, hay chính xác là kinh tế học được giảng dạy tại hầu hết các trường đại học Mỹ (mà Mác gọi là kinh tế học chính thống hay tư sản) được coi là khoa học thực chứng về hành vi tối đa hóa. Các hành vi được xem là bị chi phối bởi các quy luật kinh tế, các quy luật này không mang tính cá nhân và phi chính trị, do đó kinh tế và chính trị nên và có thể tách ra hai lĩnh vực riêng rẽ. Chính quyền không nên can thiệp vào thị trường trừ phi “thị trường thất bại” (Baumol, 1965) hoặc là khi cần phải cung cấp các sản phẩm và tiện ích công cộng (public good) (Olson, 1965).
Một nền kinh tế thị trường bị chi phối chủ yếu bởi quy luật về cầu. Quy luật này (hay có thể gọi giả định này) cho rằng người ta sẽ mua một sản phẩm nào đó nhiều hơn nếu như giá giảm và sẽ mua ít đi nếu giá tăng; người ta cũng sẽ mua nhiều sản phẩm hơn nếu như thu nhập của họ tăng và mua ít nếu thu nhập giảm. Bất kỳ điều gì làm thay đổi tương đối giá cả của sản phẩm hoặc thu nhập sẽ khiến các cá nhân có xu hướng mua hoặc sản xuất nhiều hay ít hơn sản phẩm đó. Quy luật này có những tác động to lớn đối với toàn xã hội. Mặc dù có một số ngoại lệ, quy luật đơn giản này vẫn là quy luật cơ bản chi phối sự vận động và thành công của một hệ thống trao đổi kinh tế thị trường.
Về mặt cung của nền kinh tế, kinh tế học tự do cho rằng các cá nhân theo đuổi những lợi ích của họ trong một thế giới khan hiếm và bị giới hạn về nguồn lực. Đây là điều kiện cơ bản và không thể tránh khỏi trong sự tồn tại của con người. Mỗi quyết định đều liên quan đến những chi phí cơ hội, một sự đánh đổi trong việc sử dụng theo những cách khác nhau các nguồn lực sẵn có (Samuelson, 1980). Bài học cơ bản của kinh tế học tự do là “không có gì có thể gọi là một bữa trưa miễn phí”, nếu muốn có một thứ gì đó thì bạn phải sẵn lòng từ bỏ một thứ khác.
Chủ nghĩa tự do cũng cho rằng một nền kinh tế thị trường chứa đựng những khuynh hướng dẫn đến sự cân bằng và ổn định, ít nhất là trong dài hạn. Quan niệm về một điểm cân bằng tự động và tự điều chỉnh đạt được nhờ sự cân bằng giữa các lực lượng trong một thế giới duy lý đóng vai trò cốt yếu dẫn đến niềm tin của các nhà kinh tế về sự vận động của thị trường và các quy luật chi phối sự vận động đó. Nếu thị trường bị rơi vào tình trạng mất cân bằng do một số yếu tố bên ngoài như sự thay đổi trong thị hiếu của người tiêu dùng hay các yếu tố về công nghệ sản xuất, sự vận động của cơ chế giá cả cuối cùng sẽ đưa thị trường trở về trạng thái cân bằng mới. Giá cả và số lượng sẽ một lẫn nữa cân bằng lẫn nhau. Do đó, sự thay đổi về cung hoặc cầu đối với một loại hàng hóa sẽ dẫn đến sự thay đổi về giá của sản phẩm. Phương pháp so sánh tĩnh, kỹ thuật cơ bản của phân tích kinh tế hiện đại, cũng dựa vào những giả định về khuynh hướng dẫn đến sự cân bằng hệ thống.
Một giả định khác nữa của những nhà tự do là sự hài hòa về mặt lợi ích lâu dài đằng sau sự cạnh tranh thị trường của các nhà sản xuất và những người tiêu dùng, sự hài hòa này sẽ vượt qua được những mâu thuẫn tạm thời về lợi ích. Sự theo đuổi lợi ích cá nhân trong thị trường sẽ tăng sự giàu có của toàn xã hội bởi nó tối đa hóa hiệu quả kinh tế, và cuối cùng sự phát triển kinh tế sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Do đó, mỗi người sẽ được hưởng lợi tương ứng với những đóng góp của họ, nhưng cũng nói thêm rằng không phải tất cả mọi người đều được hưởng lợi như nhau bởi vì năng suất lao động của mỗi người khác nhau. Trong điều kiện trao đổi tự do, cả xã hội sẽ giàu có hơn, nhưng mỗi cá nhân sẽ được hưởng lợi tùy theo năng suất biên và những đóng góp tương đối của của họ đối với tổng sản phẩm xã hội.
Cuối cùng, các nhà kinh tế học tự do gần đây tin tưởng vào sự tiến bộ xã hội, được định dạng là sự gia tăng của cải theo đầu người. Họ cho rằng sự tăng trưởng của một nền kinh tế vận hành hợp lý là theo tuyến tính, dần dần và liên tục. Mặc dù chính trị hay những sự kiện khác – như chiến tranh, cách mạng, hoặc các thiên tai – có thể làm gián đoạn sự tăng trưởng, nền kinh tế cuối cùng sẽ trở lại một mô hình phát triển ổn định được quyết định chủ yếu bởi sự gia tăng về dân số, tài nguyên, và năng suất lao động. Hơn nữa, các nhà tự do không cho rằng cần phải có sự liên kết giữa quá trình phát triển kinh tế và những yếu tố chính trị như chiến tranh và chủ nghĩa đế quốc; những điều xấu xa về chính trị này có thể ảnh hưởng và có thể bị ảnh hưởng bởi các hoạt động kinh tế, nhưng chúng chủ yếu do các yếu tố chính trị chứ không phải các yếu tố kinh tế gây nên. Ví dụ, các nhà tự do không tin là có bất kỳ sự liên hệ nào giữa sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào cuối thế kỷ 19 với sự nổi lên của chủ nghĩa đế quốc sau năm 1870 và việc nổ ra Chíến tranh thế giới lần thứ nhất. Các nhà tự do cho rằng kinh tế mang tính tiến bộ và chính trị mang những yếu tố chậm tiến. Do đó, họ coi sự tiến bộ không liên quan đến chính trị mà chỉ phụ thuộc vào sự tiến hóa của thị trường mà thôi.
Dựa vào những giả định trên, các nhà kinh tế học hiện đại đã xây dựng nên khoa học kinh tế thực chứng. Hơn hai thế kỷ qua, họ diễn dịch xung quanh quy luật tối đa hóa hành vi, thể hiện ở lý thuyết lợi thế so sánh và lý thuyết về lợi ích biên, lý thuyết về lượng tiền. Như Arthur Lewis đã nói, các nhà kinh tế cứ một phần tư thế kỷ lại phát hiện ra một quy luật mới. Những quy luật này vừa mang tính logic có điều kiện vừa mang tính quy phạm. Họ cho rằng tồn tại con người kinh tế – những con người lý trí, tối đa hóa lợi ích – một biến thể của người homo sapiens, tồn tại khá hiếm trong lịch sử nhân loại và chỉ trong một số điều kiện thuận lợi nhất định mà thôi. Hơn nữa, những quy luật này mang tính quy phạm theo nghĩa chúng đưa ra định hướng xã hội phải được tổ chức như thế nào đó và con người ta phải cư xử ra sao nếu họ mong muốn tối đa hóa sự gia tăng của cải. Các cá nhân và xã hội có thể vi phạm những quy luật này, nhưng như vậy họ sẽ làm giảm hiệu quả sản xuất. Ngày nay, những điều kiện cần thiết cho sự hoạt động của nền kinh tế thị trường đã tồn tại, và những cam kết mang tính quy phạm đối với thị trường đã lan rộng từ nơi sản sinh ra nó là nền văn minh phương Tây đến các nơi khác. Mặc dù có những bước lùi, thế giới hiện đại đã di chuyển theo hướng kinh tế thị trường và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng trong nền kinh tế thế giới chính là vì kinh tế thị trường hiệu quả hơn những hình thức tổ chức kinh tế khác.
Về bản chất, các nhà tự do tin rằng thương mại và các giao dịch kinh tế là nguồn gốc của các mối quan hệ hòa bình giữa các quốc gia bởi vì các lợi ích tương hỗ về thương mại và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng giữa các nền kinh tế sẽ giúp tăng cường các quan hệ hợp tác. Trong khi chính trị có khuynh hướng chia rẽ, kinh tế lại có khuynh hướng kết nối con người. Một nền kinh tế quốc tế tự do sẽ có những ảnh hưởng ôn hòa đến nền chính trị thế giới vì nó tạo ra những sợi dây liên kết về mặt lợi ích và những cam kết duy trì nguyên trạng. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa là mặc dù tất cả mọi người sẽ hoặc ít nhất là có thể sẽ được hưởng lợi theo nghĩa tuyệt đối trong điều kiện trao đổi tự do, nhưng lợi ích tương đối sẽ khác nhau. Chính vấn đề lợi ích tương đối và sự phân chia của cải do hệ thống thị trường tạo ra đã dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa dân tộc về kinh tế và chủ nghĩa Mác như là những lý thuyết trái ngược với các quan điểm của những nhà tự do.
Quan điểm của chủ nghĩa dân tộc kinh tế
Chủ nghĩa dân tộc kinh tế, cũng như chủ nghĩa tự do kinh tế, tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau trong những thế kỷ qua. Tên gọi của nó cũng có nhiều thay đổi: từ chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa nhà nước, chủ nghĩa bảo hộ, trường phái Lịch sử Đức, và gần đây là chủ nghĩa bảo hộ mới. Tuy nhiên, những dạng thức khác nhau đó đều có chung một chủ đề hay một thái độ, chứ không phải là một lý thuyết kinh tế hay chính trị nhất quán và mang tính hệ thống. Nội dung chính của nó cho rằng các hoạt động kinh tế nên chỉ là các yếu tố phụ so với mục tiêu xây dựng quốc gia và các lợi ích của nhà nước. Các nhà dân tộc chủ nghĩa đều đề cao tầm quan trọng của nhà nước, an ninh quốc gia và sức mạnh quân sự trong việc tổ chức và hoạt động của hệ thống quốc tế. Trong phạm vi những cam kết chung này, có thể thấy được hai quan điểm cơ bản. Một số nhà dân tộc chủ nghĩa xem việc bảo vệ lợi ích kinh tế quốc gia không quan trọng bằng an ninh và sự tồn tại của quốc gia. Quan điểm nhìn chung mang tính phòng vệ này được gọi là “chủ nghĩa trọng thương tích cực”. Mặc khác, có những nhà dân tộc chủ nghĩa xem kinh tế quốc tế là một đấu trường của sự phát triển chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa bành trướng quốc gia. Trường phái mang tính chất hiếu chiến này được gọi là “chủ nghĩa trọng thương tiêu cực”. Chính sách kinh tế của bộ trưởng kinh tế Đức quốc xã Hjalmar Schacht đối với Đông Âu vào những năm 1930 là thuộc loại này.
Mặc dù chủ nghĩa dân tộc kinh tế nên được xem là những cam kết đối với việc xây dựng quốc gia, nhưng những mục tiêu được theo đuổi và các chính sách được ủng hộ lại khác nhau theo từng thời kỳ và theo từng nơi. Dẫu vậy, Jacob Viner cho rằng các nhà dân tộc chủ nghĩa về kinh tế (những người mà ông gọi là nhà trọng thương) đều chia sẻ quan điểm về mối quan hệ giữa sự giàu có và quyền lực như sau:
Tôi tin rằng về mặt thực tiễn tất cả các nhà trọng thương, ở bất kỳ giai đoạn nào, hoặc địa vị cá nhân nào, đều tuân theo những quan điểm sau: (1) sự giàu có là một phương tiện tuyệt đối để giành được quyền lực, cho dù để phòng vệ hoặc tấn công; (2) quyền lực là một phương tiện cần thiết hoặc có giá trị để đạt được hay duy trì sự giàu có; (3) của cải và quyền lực đều là những mục tiêu cuối cùng của chính sách quốc gia; (4) có sự hòa hợp về dài hạn giữa những mục tiêu đó, mặc dù trong một số bối cảnh cụ thể có thể cần phải hy sinh lợi ích kinh tế để đảm bảo an ninh, cũng có nghĩa là đảm bảo sự thịnh vượng về lâu dài.
Trong khi các nhà tự do cho rằng sự theo đuổi quyền lực và sự giàu có, hay sự lựa chọn giữa “súng và bơ”, liên quan đến sự đánh đổi, các nhà dân tộc chủ nghĩa lại xem hai yếu tố này bổ trợ cho nhau.
Các nhà dân tộc kinh tế nhấn mạnh vai trò của các yếu tố kinh tế trong quan hệ quốc tế và coi sự đấu tranh giữa các quốc gia – các nhà nước tư bản, xã hội chủ nghĩa hay bất kỳ nhà nước nào khác đi nữa – là nhằm giành các nguồn lực kinh tế là một hiện tượng phổ biến và cố hữu trong chính bản chất của hệ thống quốc tế. Như một tác giả đã viết, vì các nguồn lực kinh tế là cần thiết đối với quyền lực của quốc gia, mỗi sự xung đột đều liên quan đến kinh tế và chính trị. Các nhà nước, ít nhất là trong dài hạn, sẽ đồng thời theo đuổi sự giàu có và quyền lực cùng lúc.
Ra đời trong bối cảnh lịch sử cận đại, chủ nghĩa dân tộc kinh tế phản ứng lại và phản ánh những thay đổi về kinh tế, chính trị và quân sự của thế kỷ 16, 17, 18: sự xuất hiện của các quốc gia dân tộc mạnh trong thế cạnh tranh liên tục, sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu ban đầu trong lĩnh vực thương mại và sau đó là sản xuất, và tốc độ ngày càng nhanh của các hoạt động kinh tế do sự thay đổi ở Châu Âu và sự phát hiện ra Tân thế giới cùng nguồn tài nguyên của nó. Sự phát triển của một nền kinh tế thị trường được tiền tệ hóa và sự thay đổi bản chất của các cuộc chiến tranh được mô tả như một “cuộc cách mạng quân sự” là hết sức quan trọng. Các nhà dân tộc chủ nghĩa, hay các nhà trọng thương, có lý do để ưu tiên an ninh hơn so với thương mại.
Do nhiều lý do khác nhau, mục tiêu quan trọng nhất của những nhà dân tộc chủ nghĩa là công nghiệp hóa. Trước hết, các nhà dân tộc chủ nghĩa tin rằng công nghiệp có hiệu ứng lan tỏa và dẫn đến sự phát triển toàn diện của nền kinh tế. Thứ hai, họ cho rằng sỡ hữu các ngành công nghiệp dẫn tới khả năng tự cung tự cấp và sự tự chủ về mặt chính trị. Thứ ba, và quan trọng hơn hết, công nghiệp được coi trọng vì đó là nền tảng của sức mạnh quân sự và thiết yếu đối với an ninh quốc gia trong thời hiện đại. Trong hầu hết các xã hội, kể cả các xã hội tự do, các chính phủ theo đuổi những chính sách có lợi cho sự phát triển của công nghiệp. Như mô tả của một nhà trọng thương Alexander Hamilton về sự phát triển kinh tế của Mỹ, “không chỉ sự thịnh vượng mà cả sự độc lập và an ninh của một quốc gia liên quan mật thiết đến sự giàu có của các nhà sản xuất”. Mục tiêu công nghiệp hóa của các nhà dân tộc chủ nghĩa trở thành một nguyên nhân chính của các xung đột kinh tế.
Chủ nghĩa dân tộc kinh tế, trong cả thời kỳ đầu hiện đại và ngày hôm nay, xuất hiện một phần từ khuynh hướng của thị trường trong việc tích tụ của cải và thiết lập sự phụ thuộc hay quan hệ quyền lực giữa các các nền kinh tế mạnh và các nền kinh tế yếu hơn. Ở dạng tích cực, chủ nghĩa dân tộc kinh tế cố gắng bảo vệ nền kinh tế trong nước trước những tác động kinh tế và chính trị từ bên ngoài. Chủ nghĩa dân tộc kinh tế mang tính phòng thủ như vậy tồn tại ở các nền kinh tế kém phát triển hoặc các nền kinh tế phát triển nhưng đang suy yếu, các quốc gia này theo đuổi những chính sách bảo hộ hay những chính sách tương tự nhằm bảo vệ các nghành công nghiệp non trẻ hoặc đang suy thoái cũng như lợi ích quốc gia. Ở dạng tiêu cực, chủ nghĩa dân tộc kinh tế là hành vi tiến hành chiến tranh kinh tế. Dạng này phổ biến đối với các cường quốc bành trướng. Ví dụ cổ điển là Đức Quốc xã.
Trong thế giới của các nhà nước cạnh tranh lẫn nhau, các nhà dân tộc chủ nghĩa cho rằng lợi ích tương đối quan trọng hơn các lợi ích chung. Do đó, các các quốc gia liên tục cố gắng thay đổi các luật lệ hoặc các thiết chế điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế quốc tế nhằm mang lại những lợi ích cho mình. Như Adam Smith đã chỉ ra tất cả mọi người đều muốn trở thành nhà độc quyền và sẽ cố gắng trở thành nhà độc quyền trừ khi bị các đổi thủ cản trở. Do đó, một nền kinh tế quốc tế tự do sẽ không phát triển được trừ phi nó được các quốc gia có sức mạnh kinh tế áp đảo ủng hộ vì điều này trùng hợp với lợi ích của các nước đó.
Trong khi các nhà tự do nhấn mạnh các lợi ích chung của thương mại quốc tế, các nhà dân tộc chủ nghĩa và các nhà Mác xít xem các mối quan hệ này mang tính xung đột. Mặc dù điều này không loại trừ các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế và sự theo đuổi các chính sách tự do, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế không bao giờ mang tính cân xứng, thực ra nó chứa đựng những nguyên nhân dẫn tới xung đột và bất ổn liên tục. Những nhà dân tộc chủ nghĩa từ Alexander Hamilton cho đến những nhà lý luận về thuyết phụ thuộc sau này đều nhấn mạnh tự chủ về kinh tế quốc gia hơn so với sự phục thuộc lẫn nhau về kinh tế.
Chủ nghĩa dân tộc kinh tế đã tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau trong thế giới hiện đại. Để đáp lại cuộc cách mạng thương mại và sự mở rộng thương mại quốc tế ở những giai đoạn đầu, các nhà trọng thương cổ điển nhấn mạnh sự phát triển của thương mại và thặng dư thương mại. Sau cuộc cách mạng công nghiệp, các nhà trọng thương công nghiệp như Hamilton và List nhấn mạnh ưu thế của công nghiệp và sản xuất so với nông nghiệp. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai bên cạnh những sự quan tâm trên còn có những cam kết mạnh mẽ đối với sự thịnh vượng trong nước và sự giàu có của quốc gia. Vào những thập niên cuối của thế kỷ qua, tầm quan trọng ngày càng cao của công nghệ tiên tiến, sự mong muốn kiểm soát đỉnh cao của nền kinh tế hiện đại, và sự xuất hiện của cái được gọi là “sự cạnh tranh về chính sách” đã trở thành đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa trọng thương đương đại. Tuy nhiên, trong mọi thời đại, sự mong muốn giành được quyền lực và sự độc lập trở thành mối quan tâm chủ chốt của các nhà dân tộc kinh tế.
Bất chấp những điểm mạnh và điểm yếu với tư cách là một lý thuyết về kinh tế chính trị quốc tế là gì đi nữa, sự nhấn mạnh của chủ nghĩa dân tộc kinh tế đối với vị trí địa lý và sự phân chia các hoạt động kinh tế đã mang lại cho nó những sức hút mạnh mẽ. Trong suốt lịch sử hiện đại, các quốc gia đã theo đuổi các chính sách thúc đẩy công nghiệp, công nghệ tiên tiến, và các hoạt động kinh tế có lợi nhuận cao và tạo ra nhiều việc làm trong phạm vi lãnh thổ của nước mình. Các quốc gia sẽ cố gắng tạo ra một sự phân công lao động quốc tế có lợi cho các lợi ích kinh tế và chính trị của mình. Thực ra, chủ nghĩa dân tộc kinh tế vẫn có một sức ảnh hưởng lớn đối với quan hệ quốc tế khi mà hệ thống các quốc gia vẫn tồn tại.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác
Cũng như chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Mác đã phát triển theo nhiều hướng quan trọng kể từ khi các ý tưởng cơ bản của nó được Karl Marx và Friedrich Engel đưa ra vào giữa thế kỷ 19. Chính tư tưởng của Mác cũng thay đổi trong suốt cuộc đời của ông, và các lý thuyết của ông cũng là chủ đề của các cách hiểu trái ngược nhau. Mặc dù Mác xem chủ nghĩa tư bản như là một nền kinh tế toàn cầu, ông đã không phát triển một hệ thống ý tưởng về quan hệ quốc tế; công việc này do những nhà tư tưởng kế thừa Mác thực hiện. Hơn nữa, sau khi chọn chủ nghĩa Mác làm hệ tư tưởng chính thức của mình, Liên Xô và Trung Quốc đã thay đổi cách hiểu về chủ nghĩa Mác khi cần thiết nhằm phục vụ lợi ích quốc gia của riêng mình.
Cũng như chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa dân tộc, có hai quan điểm cơ bản có thể rút ra từ chủ nghĩa Mác hiện đại. Trường phái thứ nhất là quan điểm tiến hóa của chủ nghĩa Mác về dân chủ xã hội với Eduard Berntein và Karl Kautsky, trong lịch sử đương đại tư tưởng này đã thay đổi và trở nên khó phân biệt với những quan điểm của chủ nghĩa tự do. Trường phái khác là những quan điểm cách mạng của Lenin, ít nhất là trên lý thuyết. Vì trở thành hệ tư tưởng chi phối ở một cường quốc trong số hai cường quốc của thế giới nên trường phái này quan trọng hơn và sẽ được nhấn mạnh ở trong bài viết này.
Như Robert Heilbroner đã lập luận, mặc dù tồn tại những dạng khác nhau của chủ nghĩa Mác, bốn yếu tố quan trọng có thể được tìm thấy trong các tác phẩm của những người theo chủ nghĩa Mác. Yếu tố thứ nhất là cách tiếp cận biện chứng đối với kiến thức và xã hội, theo phương pháp này bản chất của sự vật là luôn luôn vận động và mang tính mâu thuẫn, bất ổn xã hội và những thay đổi sau đó là do sự đấu tranh giai cấp và giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong các hiện tượng chính trị và xã hội. Do đó, theo những người theo chủ nghĩa Mác, không có sự hòa hợp nội tại trong lòng xã hội hay sự trở lại trạng thái cân bằng như những nhà tự do tin tưởng. Yếu tố thứ hai là cách tiếp cận mang tính duy vật đối với lịch sử; sự phát triển của các lực lượng sản xuất và các hoạt động kinh tế là trung tâm của những biến đổi lịch sử và xảy ra thông qua đấu tranh giai cấp về phân chia các sản phẩm xã hội. Yếu tố thứ ba là quan điểm về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản; phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và số phận của nó bị chi phối bởi các “quy luật kinh tế về sự vận động của xã hội hiện đại”. Yếu tố thứ tư là những cam kết mang tính mong muốn đối với chủ nghĩa xã hội; tất cả những nhà Mác xít tin tưởng rằng chủ nghĩa xã hội là kết cục vừa cần thiết vừa đáng mong đợi của sự phát triển lịch sử. Phần này chỉ trình bày về yếu tố thứ ba.
Chủ nghĩa Mác miêu tả chủ nghĩa tư bản là hình thức sỡ hữu tư nhân đối với các phương tiện sản xuất song song với sự tồn tại của những người lao động làm công ăn lương. Chủ nghĩa Mác cho rằng chủ nghĩa tư bản bị chi phối bởi mong muốn tìm lợi nhuận và tích lũy tư bản trong một nền kinh tế thị trường canh tranh của những nhà tư bản. Những người lao động bị bần cùng hóa và trở thành một dạng hàng hóa vận hành theo cơ chế giá cả. Theo Mác hai đặc điểm quan trọng trên của chủ nghĩa tư bản là nguyên nhân của sự năng động và làm cho nó đến giờ vẫn là phương thức sản xuất hiệu quả nhất. Mặc dù mang sứ mệnh lịch sử là phát triển và thống nhất nhân loại, sự thành công của chủ nghĩa tư bản cũng sẽ mang lại sự tiêu vong của chính nó. Theo Mác, nguồn gốc, sự tiến hóa, và cuối cùng là sự suy vong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bị chi phối bởi ba quy luật kinh tế không thể tránh khỏi.
Quy luật thứ nhất, quy luật chênh lệch giữa cung và cầu. Quy luật này phủ nhận quy luật của Say vốn cho rằng cung sẽ tạo ra cầu do đó cung và cầu sẽ luôn cân bằng, trừ một số thời điểm nhất định. Quy luật của Say cho rằng quá trình tự cân bằng này sẽ khiến việc sản xuất dư thừa không thể xảy ra trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hay nền kinh tế thị trường. Mác, cũng giống như John Maynard Keynes, phủ nhận sự tồn tại của khuynh hướng tự cân bằng và cho rằng nền kinh tế tư bản thường có xu hướng sản xuất dư thừa một số sản phẩm. Do đó, Mác cho rằng chủ nghĩa tư bản tồn tại mâu thuẫn nội tại giữa khả năng sản xuất và khả năng tiêu thụ của người tiêu dùng (những người làm công ăn lương), việc chênh lệch cung cầu xảy ra liên tục do tình trạng “vô chính phủ” của thị trường gây nên các cuộc khủng hoảng định kỳ và những bất ổn kinh tế. Ông tiên đoán rằng những cuộc khủng hoảng lặp đi lặp lại sẽ ngày càng trở nên nghiêm trọng và đến một lúc nào đó sẽ làm cho giai cấp vô sản bị áp bức nổi dậy chống lại hệ thống này.
Quy luật thứ hai chi phối sự phát triển của chủ nghĩa tư bản theo chủ nghĩa Mác là quy luật tích lũy tư bản. Mục tiêu của chủ nghĩa tư bản là lợi nhuận và nhu cầu của các nhà tư bản là tích lũy tư bản và đầu tư. Cạnh tranh buộc các nhà tư bản tăng cường hiệu quả và đầu tư tư bản hay tránh rủi ro. Kết quả là sự tiến hóa của chủ nghĩa tư bản hướng tới sự gia tăng tập trung của cải vào tay một ít người và sự bần cùng hóa của nhiều người khác. Trong khi giai cấp tiểu tư sản gia nhập hàng ngũ ngày càng gia tăng của giai cấp vô sản, đội quân thất nghiệp ngày càng lớn, lương lao động giảm, và xã hội tư bản trở nên chín muồi cho các cuộc cách mạng xã hội.
Quy luật thứ ba của chủ nghĩa tư bản là quy luật lợi nhuận giảm dần. Khi tích lũy tư bản ngày càng trở nên lớn hơn và dư thừa, tỉ lệ lợi nhuận đầu tư cũng giảm theo, qua đó làm giảm động lực đầu tư. Mặc dù các nhà kinh tế tự do cổ điển đã nhận ra khả năng này, họ tin tưởng rằng sẽ có giải pháp cho vấn đề này qua những công cụ như xuất khẩu tư bản và các sản phẩm công nghiệp và nhập khẩu thực phẩm rẻ. Trái lại, Mác tin rằng khuynh hướng lợi nhuận giảm dần là không thể tránh khỏi. Dưới áp lực của cạnh tranh, các nhà tư bản buộc phải gia tăng hiệu quả kinh tế và năng suất lao động thông qua việc đầu tư vào các công nghệ tiết kiệm lao động và cho năng suất cao hơn, do đó thất nghiệp tăng, tỉ lệ lợi nhuận hay giá trị thặng dư sẽ giảm. Các nhà tư bản sẽ mất đi động cơ để đầu tư vào các nhà máy có năng suất cao và tạo ra việc làm. Điều này sẽ dẫn đến trì trệ kinh tế, gia tăng thất nghiệp, và sự “bần cùng hóa” giai cấp vô sản. Cùng lúc đó, sự gia tăng về tần suất và chiều sâu của chu kỳ kinh doanh sẽ làm cho những người công nhân nổi dậy và phá hủy hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Nội dung chủ yếu của những chỉ trích của Mác đối với chủ nghĩa tư bản là mặc dù cá nhân từng nhà tư bản rất lý trí (như những nhà tự do giả định), nhưng hệ thống tư bản thì lại không lý trí. Thị trường cạnh tranh làm cho cá nhân những nhà tư bản phải tiết kiệm, đầu tư và tích lũy. Nếu như mong muốn đạt lợi nhuận là nhiên liệu của chủ nghĩa tư bản, thì đầu tư là motor và tích lũy là kết quả. Tuy nhiên, trên tổng thể, sự tích lũy tư bản của cá nhân từng nhà tư bản dẫn đến việc sản xuất dư thừa sản phẩm theo định kỳ, sự thặng dư tư bản, và sự biến mất của những động lực đầu tư. Cùng lúc đó, tính trầm trọng ngày càng tăng của khủng hoảng theo chu kỳ kinh doanh và xu hướng lâu dài hướng tới khủng hoảng kinh tế sẽ khiến tầng lớp vô sản đánh đổ hệ thống thông qua bạo lực cách mạng. Do đó, mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản là với tích lũy tư bản, chủ nghĩa tư bản ươm mầm cho chính sự tự hủy diệt chính mình và sẽ được thay thế bằng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Mác tin rằng vào giữa thế kỷ 19, sự trưởng thành của chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu và việc các quốc gia ngoại vi bị kéo vào kinh tế thị trường đã tạo ra bối cảnh cho cách mạng vô sản và sự kết thúc của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khi điều này không xảy ra, những người kế thừa Mác như là Rudolf Hilferding và Rosa Luxemburg bắt đầu quan tâm đến sự tiếp tục tồn tại của chủ nghĩa tư bản và việc nó không chịu biến mất. Sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, sự thành công về kinh tế của chủ nghĩa tư bản, và sự xuất hiện của chủ nghĩa đế quốc dẫn đến một dạng thức khác của chủ nghĩa Mác mà đỉnh cao là cuốn Chủ nghĩa đế quốc của Lenin, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1917. Được viết vào giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và dựa vào những tác phẩm khác của các nhà Mác xít khác, Chủ nghĩa Đế quốc vừa là một bút chiến chống lại những tư tưởng đối kháng vừa là một bản tổng hợp những điểm chỉ trích của chủ nghĩa Mác đối với nền kinh tế tư bản thế giới. Để bảo vệ quan điểm của mình, Lenin về cơ bản đã chuyển chủ nghĩa Mác từ một lý thuyết về kinh tế trong nước trở thành một lý thuyết về mối quan hệ chính trị quốc tế giữa các nước tư bản.
Lenin đặt cho mình nhiệm vụ giải thích cho việc chủ nghĩa dân tộc đã thắng thế trước chủ nghĩa vô sản quốc tế khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra và tìm cách để cung cấp những cơ sở học thuật cho việc thống nhất phong trào cộng sản quốc tế dưới sự lãnh đạo của ông. Ông muốn chỉ ra tại sao đảng cộng sản của nhiều nước Châu Âu, đặc biệt là Đảng Dân chủ Xã hội Đức dưới thời Karl Kautsky đã ủng hộ cho những người tư sản. Ông cũng cố giải thích tại sao sự bần cùng hóa giai cấp vô sản đã không xảy ra như dự đoán của Mác mà thay vào đó lương đã được tăng và các công nhân trở thành những thành viên nghiệp đoàn.
Những năm trong giai đoạn giữa Mác và Lenin, chủ nghĩa tư bản đã trải qua một sự thay đổi to lớn. Mác đã viết về Chủ nghĩa tư bản chủ yếu là ở Tây Âu, một nền kinh tế đóng sẽ ngừng phát triển khi gặp phải những cản trở. Tuy nhiên, giữa những năm 1870 và 1914, chủ nghĩa tư bản đã trở thành một hệ thống kinh tế mở toàn cầu phát triển mạnh và có trình độ kỹ thuật cao. Trong thời kỳ của Mác, sự kết nối chủ yếu của nền kinh tế phát triển chậm chạp lúc đó chủ yếu thông qua thương mại. Tuy nhiên, sau năm 1870 sự xuất khẩu tư bản với quy mô lớn của Anh và sau đó là của nhiều quốc gia phát triển khác đã làm thay đổi nền kinh tế thế giới; đầu tư nước ngoài và tài chính quốc tế đã thay đổi sâu sắc các mối quan hệ kinh tế và chính trị giữa các xã hội. Hơn nữa, chủ nghĩa tư bản của Mác chỉ bao gồm các nhà máy công nghiệp nhỏ và canh trạnh nhau. Tuy nhiên, đến thời của Lenin, các tập đoàn công nghiệp lớn do giới tư bản ngân hàng kiểm soát đã chế ngự nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đối với Lenin, việc kiểm soát tư bản bằng tư bản, có nghĩa là việc tư bản công nghiệp bị kiểm soát bởi tư bản tài chính, chính là giai đoạn phát triển tột cùng của chủ nghĩa tư bản.
Lenin cho rằng chủ nghĩa tư bản đã thoát khỏi ba quy luật thông qua chủ nghĩa đế quốc ở hải ngoại. Việc chiếm thuộc địa đã tạo điều kiện cho nền kinh tư bản tiêu thụ được những sản phẩm dư thừa, thu được các nguồn tài nguyên rẻ và giải phóng thặng dư tư bản. Việc khai thác các thuộc địa này gia tăng thặng dư kinh tế mà các nhà tư bản có thể dùng để mua chuộc lãnh đạo (các công nhân quý tộc) của chính giai cấp vô sản trong nước. Ông cho rằng, chủ nghĩa đế quốc thuộc địa đã trở thành một đặc điểm cần thiết của chủ nghĩa tư bản tiên tiến. Khi lực lượng sản xuất phát triển và trưởng thành, nền kinh tế tư bản phải bành trướng ra nước ngoài, chiếm thuộc địa, nếu không sẽ vấp phải trì trệ kinh tế và các cuộc cách mạng bên trong. Lenin chỉ ra sự mở rộng cần thiết này của chủ nghĩa tư bản cuối cùng sẽ dẫn đến sự suy tàn của hệ thống tư bản chủ nghĩa quốc tế.
Bản chất của lập luận của Lenin là chủ nghĩa tư bản quốc tế đã làm thế giới phát triển, nhưng phát triển không đồng đều. Các nền kinh tế tư bản riêng rẽ phát triển ở những trình độ khác nhau và sự phát triển sức mạnh quốc gia khác nhau này là nguyên nhân của chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh, và sự thay đổi chính trị quốc tế. Đáp lại những ý kiến của Kautsky cho rằng các nhà tư bản quá lý trí nên không thể đánh nhau vì các thuộc địa và có thể liên kết với nhau cùng bóc lột các nhân dân thuộc địa, Lenin nói rằng điều này là không thể do “quy luật phát triển không đồng đều”.
Vấn đề này (khả năng liên minh lâu dài và không xung đột với nhau của các nhà tư bản) cần phải được nói rõ ràng để không ai có thể đồng ý với khả năng đó, bởi không có cơ sở nào giúp chủ nghĩa tư bản có thể phân chia khu vực ảnh hưởng rõ ràng hơn là sự tính toán sức mạnh của những người tham gia vào sự phân chia đó, như sức mạnh tổng hợp về kinh tế, tài chính và quân sự. Và sức mạnh của những nước tham gia vào sự phân chia này không thay đổi để đạt mức cân bằng, bởi vì dưới chế độ tư bản, sự phát triển các nhà máy, các tập đòan và các ngành công nghiệp, hay các quốc gia không thể đồng đều nhau. Nửa thế kỷ trước, nếu nhìn vào sức mạnh tư bản, Đức là một quốc gia nghèo, không có sức ảnh hưởng nếu so với sức mạnh của Anh tại lúc đó. Nhật Bản cũng là một quốc gia kém quan trọng khi so sánh với nước Nga. Và liệu có thể cho rằng trong vòng mười hay hai mươi năm sức mạnh tương đối của các cường quốc đế quốc vẫn không thay đổi hay không? Điều này là hoàn toàn không thể (Lenin, 1917).
Trên thực tế, trong đoạn văn vừa rồi cũng như trong nỗ lực của ông nhằm chứng minh rằng hệ thống chủ nghĩa tư bản quốc tế chứa đựng những yếu tố nội tại không ổn định, Lenin đã bổ sung một quy luật thứ tư vào ba quy luật của Mác về chủ nghĩa tư bản. Quy luật này là khi nền kinh tế tư bản trưởng thành, khi tư bản được tích lũy và lợi nhuận giảm, các nền kinh tế tư bản buộc phải chiếm thuộc địa và tạo ra sự phụ thuộc để có được thị trường, nơi đầu tư và nguồn nhập khẩu thực phẩm và các nguyên liệu thô. Trong khi cạnh tranh với nhau, các nước này phân chia thuộc địa tùy theo sức mạnh tương đối của mình. Do đó, nền kinh tế tư bản phát triển nhất, ví dụ như Anh, có được phần thuộc địa nhiều nhất. Tuy nhiên, khi các nền kinh tế khác phát triển, họ tìm cách chia lại thuộc địa. Mâu thuẫn đế quốc này sẽ dẫn đến các cuộc đấu tranh vũ trang không thể tránh khỏi giữa các đế quốc đang nổi lên và các đế quốc đang suy tàn. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, theo như những phân tích này là cuộc chiến tranh nhằm chia lại lãnh thổ giữa đế quốc đang suy tàn là Anh và các cường quốc đang nổi lên khác. Ông cho rằng các cuộc chiến tranh phân chia thuộc địa như vậy sẽ tiếp tục, tới khi các vùng thuộc địa công nghiệp và giai cấp vô sản của các nước tư bản nổi dậy chống lại hệ thống này.
Xét một cách tổng thể, Lenin lập luận rằng vì nền kinh tế tư bản phát triển và tích lũy tư bản với những tốc độ khác nhau, một hệ thống tư bản quốc tế không bao giờ ổn định lâu dài. Đối lập lại với những quan điểm của Kautsky, Lenin cho rằng tất cả các liên minh tư bản đều là tạm thời và phản ánh cân bằng quyền lực nhất thời giữa các nước tư bản vốn cuối cùng cũng sẽ bị suy yếu bởi quy luật phát triển không đều. Và điều này sẽ dẫn đến cuộc xung đột giữa các nước tư bản để giành thuộc địa.
Quy luật phát triển không đồng đều, với những kết cục mang tính định mệnh của nó, đã được chứng minh trên hiện thực trong thời đại của Lenin vì thế giới bỗng nhiên trở nên có hạn, bản thân quả địa cầu trở thành một hệ thống đóng. Trong nhiều thế kỷ các cường quốc tư bản Châu Âu đã bành trướng, xâm chiếm các lãnh thổ nước ngoài, nhưng các cường quốc đế quốc cũng ngày càng giao thiệp với nhau nhiều hơn và do đó sẽ xung đột với nhau khi mà các vùng đất có thể biến thành thuộc địa giảm đi. Lenin tin rằng bi kịch cuối cùng sẽ là sự phân chia Trung Quốc giữa các đế quốc, và với sự khép lại của các vùng đất có thể làm thuộc địa, tranh chấp giữa đế quốc sẽ ngày càng khốc liệt. Cùng lúc đó, mâu thuẫn giữa các các cường quốc đế quốc sẽ đưa đến các cuộc nổi loạn của chính các thuộc địa và làm suy yếu sự áp bức của chủ nghĩa tư bản phương Tây đối với các dân tộc bị bóc lột trên toàn cầu.
Việc quốc tế hóa chủ nghĩa Mác của Lenin thể hiện một sự biến chuyển quan trọng. Theo những chỉ trích của Mác đối với chủ nghĩa tư bản, nguyên nhân của những suy thoái bắt nguồn từ kinh tế, chủ nghĩa tư bản sẽ thất bại vì những lý do kinh tế khi những người vô sản nổi dậy chống lại sự bần cùng hóa. Hơn nữa, Mác đã chỉ ra những chủ thể chính trong những bi kịch này là các giai cấp xã hội. Tuy nhiên, Lenin đã thay thế những chỉ trích chính trị đối với chủ nghĩa tư bản mà theo đó các chủ thể chính trên thực tế đã trở thành các quốc gia thương mại tranh giành nhau nguồn lực kinh tế. Mặc dù chủ nghĩa tư bản quốc tế đã thành công về mặt kinh tế, Lenin cho rằng hệ thống này không ổn định và tạo nên một hệ thống chiến tranh. Công nhân hay giới lao động quý tộc ở các nước tư bản phát triển tạm thời chia sẻ sự bóc lột các dân tộc thuộc địa nhưng cuối cùng sẽ phải trả giá cho những lợi ích kinh tế đó trên chiến trường. Lenin tin tưởng rằng mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản nằm ở những mâu thuẫn giữa các quốc gia hơn là sự đấu tranh giai cấp. Chủ nghĩa tư bản sẽ tiêu vong do sự nổi dậy chống lại xu hướng hiếu chiến cố hữu của chủ nghĩa tư bản cũng như các hậu quả chính trị của quá trình đó.
Tóm lại, Lenin cho rằng sự mâu thuẫn bên trong của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa tư bản phát triển thế giới nhưng đồng thời ươm những hạt mầm chính trị của sự hủy diệt chính nó thông qua quá trình phổ biến công nghệ, các nghành công nghiệp và sức mạnh quân sự. Nó tạo ra các đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài với mức lương và mức sống thấp hơn, vốn có thể cạnh tranh thắng lợi với những nền kinh tế áp đảo trước đây trên thị trường thế giới. Sự gia tăng cạnh tranh kinh tế và chính trị giữa các cường quốc đang nổi lên với các cường quốc đang suy tàn dẫn đến các cuộc xung đột kinh tế, tình trạng đối đầu, và cuối cùng là chiến tranh. Ông cho rằng nhận định này đã từng là số phận của nền kinh tế tự do mà Anh là trụ cột trong thế kỷ 19. Ngày nay Lenin sẽ cho rằng khi nền kinh tế Mỹ suy thoái, một số phận tương tự sẽ đe dọa trật tự kinh tế tự do của thế kỷ 20 mà Mỹ là trụ cột.
Với thắng lợi của chủ nghĩa Bolshevic ở Liên Xô, lý thuyết của Lenin về chủ nghĩa đế quốc tư bản trở thành lý thuyết Mác xít chính thống về kinh tế chính trị quốc tế; dẫu vậy những người kế thừa khác của Mác vẫn tiếp tục thách thức ý tưởng chính thống này. Lý thuyết này cũng đã được chỉnh sửa do những biến đổi về bản chất của chủ nghĩa tư bản cũng như những sự thay đổi lịch sử khác. Chủ nghĩa tư bản với nhà nước phúc lợi đã tiến hành nhiều cải cách mà Lenin tin là không thể xảy ra, sự cai quản về mặt chính trị các vùng thuộc địa không còn được các nhà Mác xít xem là một đặc điểm quan trọng chủ nghĩa đế quốc, tư bản tài chính của thời Lenin đã bị thay thế một phần bởi các công ty đa quốc gia, và quan điểm cho rằng chủ nghĩa đế quốc tư bản làm cho các quốc gia kém phát triển trở nên phát triển hơn đã được thay thế bằng những lập luận ngược lại. Và một số nhà Mác xít còn đi xa hơn khi áp dụng những lý thuyết của Mác vào nước Nga Xô Viết, một tác phẩm chính trị của Lenin. Vì vậy dù có thay đổi, vào cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa Mác dưới các dạng biểu hiện khác nhau vẫn có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và vẫn là một trong ba tư tưởng quan trọng về kinh tế chính trị.
Đánh giá ba quan điểm
Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Mác có những giả định khác nhau và đi đến những kết luận mâu thuẫn nhau về bản chất và hậu quả của nền kinh tế thị trường thế giới, hay như theo cách Mác vẫn ưa dùng là nền kinh tế tư bản thế giới. Quan điểm của cuốn sách này là những quan điểm hay học thuyết trái ngược này là những cam kết về mặt học thuật và được xây dựng dựa trên những niềm tin khác nhau. Mặc dù một số ý tưởng hay lý thuyết gắn liền với một lập trường nào đó có thể tỏ ra là không đúng hoặc đáng ngờ, những quan điểm này không thể được chứng minh đúng hay sai bằng các lập luận logic hay các bằng chứng dựa trên thực tế trái ngược. Có nhiều lý do lý giải cho sự tồn tại lâu bền của ba quan điểm trên cũng như khả năng miễn nhiễm của chúng trước các kiểm chứng mang tính khoa học.
Thứ nhất, chúng được dựa trên những giả định về con người và xã hội do đó không phải là đối tượng của kiểm tra thực chứng. Ví dụ, khái niệm về con người lý trí của chủ nghĩa tự do không thể chứng minh là đúng hoặc sai; các cá nhân có vẻ hành động trái với các lợi ích của mình thực ra có thể hành động dựa trên các thông tin sai lệch hoặc đang tìm cách để tối đa hóa một mục đích mà người quan sát không biết và do đó thõa mãn giả định cơ bản của chủ nghĩa tự do. Hơn nữa, các nhà tự do sẽ lập luận rằng mặc dù một cá nhân cụ thể trong một trường hợp cụ thể có thể xem như là hành động một cách không lý trí, nhưng nhìn tổng thể giả định về tính lý trí là đúng.
Thứ hai, khả năng tiên đoán kém của một quan điểm luôn luôn được che lấp bằng cách đưa vào phân tích các giả thuyết tạm thời. Chủ nghĩa Mác đầy rẫy những nỗ lực nhằm giải thích những thất bại về khả năng dự đoán của lý thuyết của Mác. Ví dụ, Lenin phát triển khái niệm “nhận thức giả” để giải thích cho thực tế công nhân trở thành các thành viên nghiệp đoàn chứ không phải là thành viên của giai cấp vô sản cách mạng. Lý thuyết của Lenin về chủ nghĩa đế quốc tư bản có thể được xem như là một nỗ lực nhằm giải thích việc Mác tiên đoán sai về sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản. Gần đây, như sẽ được thảo luận phần sau, những người theo chủ nghĩa Mác thấy cần phải hình thành một lý thuyết tinh tế hơn về nhà nước để giải thích sự xuất hiện của nhà nước phúc lợi và sự chấp nhận nhà nước này của các nhà tư bản, một điều mà Lenin cho rằng không thể xảy ra.
Thứ ba và quan trọng nhất, ba quan điểm trên có những mục tiêu khác nhau ở một mức độ nào đó chúng tồn tại dưới các cấp độ phân tích khác nhau. Ví dụ, chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa dân tộc có thể chấp nhận hầu hết các quan điểm kinh tế học tự do như là những công cụ phân tích nhưng lại bác bỏ rất nhiều những giả định và các nền tảng quy phạm của nó. Dẫu vậy, Mác vận dụng kinh tế học cổ điển một cách tuyệt vời, nhưng mục đích của ông là dùng nó để phục vụ cho một lý thuyết lớn về nguồn gốc, sự vận động, và sự chấm dứt của chủ nghĩa tư bản. Thực ra, sự khác biệt chủ yếu giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa Mác liên quan đến câu hỏi đặt ra và những giả định xã hội hơn là những phương pháp kinh tế mà hai chủ nghĩa này áp dụng.
Chủ nghĩa Mác sau khi được Lenin điều chỉnh đã trở nên gần như khó phân biệt với quan điểm của chủ nghĩa hiện thực về chính trị (Keohane, 1984). Chủ nghĩa hiện thực chính trị, cũng giống như chủ nghĩa dân tộc kinh tế, nhấn mạnh tầm quan trọng của quốc gia và an ninh. Mặc dù hai lý thuyết này rất gần nhau, chủ nghĩa hiện thực là một cách nhìn về chính trị trong khi chủ nghĩa dân tộc kinh tế lại về kinh tế. Hay nói một cách khác, chủ nghĩa dân tộc kinh tế dựa trên học thuyết hiện thực về quan hệ quốc tế.
Cả trong lý thuyết của Lenin và trong chủ nghĩa hiện thực chính trị, các quốc gia tranh giành của cải và quyền lực, và mức độ gia tăng quyền lực khác nhau là nguyên nhân của xung đột quốc tế và các thay đổi về chính trị (Gilpin,1981). Tuy nhiên, những giả định của hai lý thuyết này về nền tảng của những động cơ của con người, những quan điểm về nhà nước và bản chất của hệ thống quan hệ quốc tế là cơ bản khác nhau. Những người theo chủ nghĩa Mác xem con người là xấu xa, dễ dàng bị chủ nghĩa tư bản làm tha hóa và có thể được cải tạo bởi chủ nghĩa xã hội; còn những nhà hiện thực tin rằng các xung đột chính trị xuất phát từ bản chất không thể thay đổi của con người.
Trong khi những người theo chủ nghĩa Mác tin rằng nhà nước là đầy tớ của giai cấp thống trị về kinh tế, các nhà hiện thực coi nhà nước như một thực thể khá tự chủ theo đuổi những lợi ích quốc gia mà không thể bị quy về lợi ích nhất định của một tầng lớp nào. Với các nhà Mác xít, hệ thống quốc tế và chính sách ngoại giao bị chi phối bởi cấu trúc của nền kinh tế trong nước; đối với những nhà hiện thực bản chất của hệ thống quốc tế là yếu tố chí phối chính sách đối ngoại. Tóm lại, những người theo chủ nghĩa Mác xem chiến tranh, chủ nghĩa đế quốc, và nhà nước là những biểu hiện xấu xa của chủ nghĩa tư bản và sẽ biến mất với cách mạng vô sản; còn những nhà hiện thực xem những vấn đề trên là đặc điểm không thể tránh khỏi của hệ thống chính trị quốc tế.
Do đó, sự khác biệt giữa hai quan điểm là rất đáng kể. Đối với những người Mác xít, mặc dù nhà nước và cuộc đấu tranh giữa các nhà nước là hệ quả của hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tương lai sẽ mang lại sự hòa hợp và một nền hòa bình thật sự sau cuộc cách mạng không thể tránh khỏi mà hình thức sản xuất tư bản xấu xa đã phôi thai. Mặc khác, các nhà hiện thực tin rằng sẽ không có cõi niết bàn vì bản chất ích kỷ của con người và tình trạng vô chính phủ của hệ thống quốc tế. Sự đấu tranh giữa các nhóm và các nhà nước là không bao giờ chấm dứt, mặc dù thi thoảng có những thời gian tạm ngừng. Dường như không một quan điểm dự đoán nào có thể được minh chứng một cách khoa học.
Mỗi một quan điểm có những điểm mạnh và điểm yếu và sẽ được xem xét kỹ hơn ở phần dưới. Mặc dù không quan điểm nào cung cấp một cách hiểu đầy đủ và thỏa mãn về bản chất và sự vận động của kinh tế chính trị quốc tế, nhưng cả ba quan điểm cùng với nhau lại mang lại những cách nhìn hữu ích. Ba lý thuyết này cũng đặt ra những vấn đề quan trọng sẽ được xem xét trong những chương tiếp theo.
Đánh giá chủ nghĩa tự do kinh tế
Chủ nghĩa tự do là hiện thân của một bộ những công cụ phân tích và những định hướng chính sách tạo điều kiện cho xã hội tối đa hóa kết quả thu được từ những nguồn lực khan hiếm; cam kết đối với tính hiệu quả kinh tế và sự tối đa hóa sự thịnh vượng tạo nên sức mạnh cho lý thuyết này. Thị trường chứa đựng những phương pháp hiệu quả nhất nhằm tổ chức các mối quan hệ kinh tế, và cơ chế giá cả vận hành nhằm đảm bảo lợi nhuận cho cả hai bên và qua đó đảm bảo tổng lợi ích xã hội xuất phát từ các trao đổi kinh tế. Thực ra, kinh tế học tự do nói với xã hội, không kể trong nước hay quốc tế, “nếu bạn muốn trở nên giàu có, đây là những điều bạn phải làm.”
Từ thời Adam Smith đến bây giờ, các nhà tự do đã cố gắng phát hiện ra các quy luật điều chỉnh sự giàu có của các quốc gia. Mặc dù hầu hết các nhà tự do xem các quy luật kinh tế là các quy luật tự nhiên không thể bị xâm phạm, các quy luật này tốt hơn hết có thể được xem là những định hướng dành cho những người đưa ra các quyết định. Nếu các quy luật này bị xâm phạm, họ sẽ phải trả giá; việc theo đuổi các mục tiêu ngoài hiệu quả kinh tế nhất thiết sẽ dẫn tới các chi phí cơ hội và hiệu quả kinh tế bị mất mát. Chủ nghĩa tự do nhấn mạnh thực tế sự đánh đổi luôn luôn tồn tại trong chính sách quốc gia. Ví dụ, việc nhấn mạnh công bằng và tái phân phối của cải sẽ bị thất bại nếu như về lâu dài chính sách quốc gia lơ là hiệu quả kinh tế. Để một xã hội hiệu quả, như các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã cho thấy, nó không thể hoàn toàn bỏ qua các quy luật kinh tế có liên quan.
Lập luận quan trọng nhất bảo vệ chủ nghĩa tự do có lẽ là một lập luận không khả quan lắm. Mặc dù có thể đúng như những nhà Mác xít và những nhà dân tộc chủ nghĩa lập luận, lựa chọn thay thế cho hệ thống tự do là một hệ thống mà trong đó tất cả đều thu lợi bằng nhau, nhưng cũng hoàn toàn có thể là một hệ thống mà trong đó tất cả đều mất hết tất cả. Có thể còn phải nói nhiều về quan điểm về sự hài hòa lợi ích của chủ nghĩa tự do, dẫu vậy, như E.H. Carr đã chỉ ta, những chứng cứ được sử dụng để bảo vệ quan điểm này thường được lấy ra từ các giai đoạn lịch sử diễn ra “sự mở rộng sản xuất, dân số và thịnh vượng một cách vô tiền khoáng hậu” (Carr, 1951). Khi điều kiện duy trì hệ thống tự do bị đổ vỡ (như trong những năm 1930 và có nguy cơ xảy ra một lần nữa trong những thập niên cuối của thế kỷ 20), sự bất hòa sẽ thay thế cho sự hòa hợp, và tôi cho rằng, sự đổ vỡ diễn ra sau đó của hệ thống tự do thường dẫn tới các cuộc xung đột kinh tế mà khi đó tất cả sẽ đều bị thiệt hại.
Chỉ trích chủ yếu chống lại chủ nghĩa tự do kinh tế cho rằng những giả định cơ bản của nó, như sự tồn tại của các chủ thế kinh tế lý trí, một thị trường cạnh tranh, và những điều tương tự là phi thực tế. Một phần, sự chỉ trích này là không công bằng khi mà những nhà tự do rõ ràng đã làm đơn giản hóa những giả định này nhằm tạo điều kiện cho các nghiên cứu khoa học, không thể có khoa học nếu không có những sự đơn giản hóa đó. Điều quan trọng hơn, như những người bảo vệ chủ nghĩa tự do đã chỉ ra, là quan điểm này nên được đánh giá bởi kết quả và khả năng tiên đoán của nó, chứ không phải bởi những sự thật được dẫn ra (Posner, 1977). Với quan điểm như vậy và trong lĩnh vực của mình, kinh tế học đã tỏ ra là một công cụ phân tích mạnh mẽ.
Tuy nhiên, theo cách tương tự, kinh tế học tự do cũng có thể bị chỉ trích về nhiều mặt quan trọng. Nếu là một công cụ để thấu hiểu xã hội và đặc biệt là sự vận động của nó, kinh tế học có hạn chế, nó không thể là một cách tiếp cận toàn diện đối với kinh tế chính trị. Dẫu vậy, các nhà kinh tế học tự do thường quên sự giới hạn nội tại này, và xem kinh tế học như một khoa học xã hội thông thái, mang tính thống trị. Khi điều này xảy ra, bản chất và những giả định cơ bản của kinh tế học có thể dẫn dắt những nhà kinh tế lạc đường và hạn chế tính hữu ích của nó với tư cách là một lý thuyểt về kinh tế chính trị.
Hạn chế đầu tiên là kinh tế học cố tình tách kinh tế ra khỏi những mặc khác của xã hội một cách nhân tạo và chấp nhận các khung chính trị xã hội sẵn có, kể cả sự phân chia quyền lực và quyền sỡ hữu; tài nguyên và những nguồn lực khác của con người, cá nhân và xã hội; cũng như khuôn khổ các thể chế về chính trị, xã hội và văn hóa. Thế giới tự do do đó được xem là một thế giới hài hòa, lý trí, và các cá nhân bình đẳng sống trong một thế giới không có biên giới về chính trị và các cản trở xã hội. Các quy luật của chủ nghĩa tự do đưa ra các nguyên tắc tối đa hóa lợi ích cho các chủ thể kinh tế mà không tính đến việc họ sẽ xuất phát từ đâu và với những điều kiện gì, mặc dù trong cuộc sống thực, điểm xuất phát đầu tiên của một người thường quyết định điểm mà người đó kết thúc (Dahrendorf, 1979).
Một hạn chế khác của kinh tế học tự do với tư cách là một lý thuyết là nó thường bỏ qua công lý hoặc sự công bằng trong kết quả của các hoạt động kinh tế. Mặc dù nỗ lực mạnh mẽ nhằm tạo ra một ngành kinh tế học phúc lợi “khách quan”, sự phân chia của cải trong xã hội nằm ngoài sự quan tâm của kinh tế học tự do. Có một sự thật trong những chỉ trích của những nhà Mác xít là kinh tế học tự do là công cụ để quản lý một nền kinh tế tư bản hay nền kinh tế thị trường. Kinh tế học tư sản, theo quan điểm của những người Mác xít, là một nghành kỹ thuật hơn là một khoa học về xã hội. Nó chỉ người ta cách làm thế nào để đạt được một số mục tiêu nhất định với cái giá ít nhất trong một số giới hạn nhất định; nó không nhằm trả lời những câu hỏi liên quan đến tương lai và số phận của con người, vốn là những câu hỏi nằm ở trong tim của những người Mác xít và các nhà theo chủ nghĩa dân tộc kinh tế.
Chủ nghĩa tự do cũng bị hạn chế bởi giả định cho rằng sự trao đổi luôn luôn là tự do và diễn ra trong một thị trường cạnh tranh giữa những người bình đẳng với nhau, có đầy đủ thông tin và có thể cùng nhau đạt được lợi ích nếu như họ chấp nhận trao đổi các đồ vật có giá trị với nhau. Không may, như Charles Lindblom đã lập luận, trao đổi ít khi là tự do và bình đẳng (Lindblom, 1977). Thay vào đó, điều kiện trao đổi có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự ép buộc, sự khác nhau trong khả năng mặc cả (độc quyền bán hay độc quyền mua), và những yếu tố kinh tế quan trọng khác nữa. Thực ra, do bỏ qua cả những tác động của các nhân tố phi kinh tế đối với sự trao đổi và những tác động của việc trao đổi đối với chính trị, chủ nghĩa tự do thiếu một khía cạnh “kinh tế chính trị” thực sự.
Một sự giới hạn khác nữa của kinh tế học tự do là những phân tích của nó thường ở trạng thái đứng im. Ít nhất là trong ngắn hạn, các nhu cầu tiêu dùng, khung thể chế, và môi trường công nghệ được giả định là không thay đổi. Chúng được xem như là những giới hạn và những cơ hội mà trong đó các quyết định kinh tế và các sự đánh đổi được thực hiện. Các câu hỏi về nguồn gốc, hay các phương hướng, của các thể chế kinh tế và bộ máy công nghệ là những vấn đề thứ yếu đối với những nhà tự do. Các nhà kinh tế học tự do là những người tiệm tiến, tin rằng những cấu trúc xã hội thường thay đổi một cách chậm chạp khi phản ứng lại những thay đổi giá cả. Mặc dù những nhà kinh tế tự do cố gắng phát triển lý thuyết về sự thay đổi kinh tế và công nghệ, các biến số quan trọng về xã hội, chính trị, và công nghệ ảnh hưởng tới sự thay đổi thường được coi là đến từ bên ngoài và nằm ngoài biên giới của các phân tích kinh tế. Như những nhà Mác xít đã chỉ ra chủ nghĩa tự do thiếu một lý thuyết về sự vận động của kinh tế chính trị thế giới và thường đưa ra các giả định về sự ổn định và tính chất của hiện trạng kinh tế.
Kinh tế học tự do, với quy luật tối đa hóa lợi ích, được dựa trên những giả định khá hạn chế. Không xã hội nào đã từng hoặc có thể chỉ bao gồm những “con người kinh tế” thực sự của lý thuyết tự do. Một xã hội vận hành đòi hỏi các mối quan hệ tác động qua lại và sự nhún nhường các lợi ích cá nhân vì lợi ích xã hội lớn hơn; nếu không thì xã hội sẽ sụp đổ (Polanyi, 1957). Dẫu vậy, xã hội Tây Âu đã tiến xa trong việc kìm hãm xu hướng cơ bản của con người là hành động quá đáng vì lợi ích bản thân để có một nền kinh tế và xã hội tốt hơn (Baechler, 1971). Thông qua việc giải phóng cơ chế thị trường thoát khỏi các hạn chế xã hội và chính trị, văn minh phương Tây đã đạt được đến một mức độ giàu có chưa từng có và đã đặt ra một hình mẫu cho những nền văn minh khác muốn cạnh tranh với nó. Tuy nhiên, nó đã đạt được điều đó với cái giá phải trả là đánh mất những giá trị khác. Như kinh tế học tự do đã chỉ rõ, không có gì đạt được mà không phải trả giá.
Đánh giá chủ nghĩa dân tộc kinh tế
Sức mạnh quan trọng nhất của Chủ nghĩa dân tộc kinh tế là việc coi nhà nước như là chủ thể quan trọng trong quan hệ quốc tế và là một công cụ phát triển kinh tế. Mặc dù nhiều người cho rằng sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện đại đã làm cho quốc gia-dân tộc trở nên lỗi thời, nhưng vào cuối thế kỷ 20 hệ thống quốc gia-dân tộc thực sự đang mở rộng; các xã hội trên thế giới đang tìm cách để tạo ra các nhà nước mạnh có đủ khả năng tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc gia, và số quốc gia trên thế giới đang gia tăng. Thậm chí ở các quốc gia ra đời sớm hơn, tinh thần dân tộc chủ nghĩa có thể dễ dàng được thổi bùng lên, như đã xảy ra trong cuộc chiến tranh Falkland năm 1982. Mặc dù những chủ thể khác như các tổ chức quốc tế và liên quốc gia tồn tại và có ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế, hiệu quả kinh tế và quân sự của quốc gia làm cho nó vượt trội hơn các chủ thể khác.
Sức mạnh thứ hai của chủ nghĩa dân tộc nằm ở sự nhấn mạnh của nó đối với tầm quan trọng của các lợi ích chính trị và an ninh trong việc tổ chức và tiến hành các quan hệ kinh tế quốc tế. Không cần chấp nhận sự nhấn mạnh của chủ nghĩa dân tộc đối với tầm quan trọng của an ninh thì người ta cũng phải thừa nhận rằng an ninh quốc gia là điều kiện cần đầu tiên để có được sức mạnh chính trị và kinh tế trong một hệ thống các quốc gia cạnh tranh và vô chính phủ. Một quốc gia mà không thể đảm bảo được an ninh cho mình thì không thể giữ được độc lập. Mặc cho mục tiêu của xã hội là gì đi chăng nữa, tác động của các hoạt động kinh tế đối với sự độc lập chính trị và phúc lợi trong nước luôn luôn đứng đầu trong các mối quan tâm của các quốc gia (Strange, 1985).
Thế mạnh thứ ba của chủ nghĩa dân tộc là sự đề cao khuôn khổ chính trị của các hoạt động kinh tế, việc công nhận thị trường phải vận hành trong một thế giới của các quốc gia và các nhóm cạnh tranh lẫn nhau. Mối quan hệ chính trị giữa các chủ thể chính trị ảnh hưởng tới sự vận hành của thị trường cũng giống như thị trường ảnh hưởng các mối quan hệ chính trị. Thực ra, hệ thống chính trị quốc tế tạo thành một trong những cản trở quan trọng nhất và là nhân tố quyết định thị trường. Bởi vì các nhà nước tìm cách tác động tới thị trường theo hướng có lợi nhất cho mình, vai trò của quyền lực là hết sức quan trọng trong việc tạo ra và duy trì các quan hệ thị trường; thậm chí ví dụ cổ điển của Ricardo về sự trao đổi len của Anh lấy rượu Bồ Đào Nha không thoát khỏi ảnh hưởng quyền lực của nhà nước (Choucri, 1980). Như Carr đã lập luận, thực sự mỗi hệ thống kinh tế phải dựa vào một cơ sở chính trị vững chắc (Carr, 1951).
Một điểm yếu của chủ nghĩa dân tộc là khuynh hướng tin rằng quan hệ kinh tế quốc tế luôn luôn là một trò chơi có tổng bằng không, có nghĩa là một quốc gia được lợi thì nhất thiết quốc gia kia phải thua thiệt. Thương mại, đầu tư, và các quan hệ kinh tế khác được các nhà dân tộc chủ nghĩa chủ yếu coi là mang tính đối kháng và bên được bên thua. Dẫu vậy, nếu hợp tác xảy ra, thị trường có thể mang lại những lợi ích cho tất cả các bên (mặc dù không nhất thiết phải bằng nhau), như những nhà tự do đã khẳng định. Khả năng có được lợi nhuận cho tất cả mọi người là nền tảng của nền kinh tế thị trường thế giới. Một điểm yếu khác của chủ nghĩa dân tộc bắt nguồn từ thực tế rằng sự theo đuổi quyền lực và theo đuổi sự giàu có thường mâu thuẫn lẫn nhau, ít nhất là trong ngắn hạn. Phát triển và thực thi sức mạnh quân sự cũng như những dạng quyền lực khác dẫn đến những phí tổn đối với xã hội, làm giảm hiệu quả kinh tế. Do đó, Adam Smith lập luận rằng các chính sách trọng thương của các quốc gia thế kỷ 18 coi tiền đồng nghĩa với sự giàu có đã làm tổn hại sự gia tăng thịnh vượng thực sự thông qua tăng năng suất lao động; ông chỉ ra rằng tốt hơn các quốc gia nên đạt được sự giàu có thông qua các chính sách thương mại tự do. Tương tự, khuynh hướng ngày nay đồng nhất hóa công nghiệp với quyền lực có thể làm nền kinh tế của một quốc gia bị suy yếu. Sự phát triển các ngành công nghiệp mà không để ý đến thị trường hoặc các lợi thế so sánh có thể làm cho xã hội yếu đi về mặt kinh tế. Mặc dù các quốc gia khi gặp xung đột thỉnh thoảng cần phải theo đuổi các mục tiêu và chính sách trọng thương, nhưng về dài hạn, việc theo đuổi những chính sách như vậy có thể gây hại cho chính quốc gia đó.
Thêm nữa, chủ nghĩa dân tộc thiếu một lý thuyết thỏa đáng về xã hội trong nước, nhà nước, và chính sách đối ngoại. Nó thường giả định rằng xã hội và nhà nước tạo thành một thực thể thống nhất và do đó chính sách đối ngoại thường được quyết định bởi các lợi ích quốc gia khách quan. Dẫu vậy, như các nhà tự do đã nhấn mạnh một cách đúng đắn, xã hội là đa nguyên, bao gồm các cá nhân và các nhóm (liên minh giữa các cá nhân) cố gắng giành quyền quyết định chức năng nhà nước và buộc nhà nước phục vụ mục đích chinh trị và kinh tế của mình. Mặc dù các quốc gia sở hữu các mức độ tự chủ xã hội và độc lập khác nhau trong việc hoạch định chính sách, chính sách đối ngoại (bao gồm chính sách kinh tế đối ngoại) phần lớn là kết quả của cuộc tranh giành giữa các nhóm áp đảo trong xã hội. Bảo hộ thương mại và phần lớn những chính sách khác của những nhà dân tộc thường là kết quả của các nỗ lực của một nhân tố sản xuất nào đó (vốn, lao động, hay đất đai) để giành vị thế độc quyền và thông qua đó gia tăng tỉ lệ lợi nhuận kinh tế của mình. Các chính sách của những nhà dân tộc chủ nghĩa thường được thiết kế để tái phân phối thu nhập từ người tiêu dùng và xã hội nói chung vì lợi ích của các nhà sản xuất.
Chủ nghĩa dân tộc do đó có thể được hiểu như là một lý thuyết về xây dựng nhà nước hay là một lá chắn cho lợi ích của một nhóm các nhà sản xuất có khả năng ảnh hưởng đến chính sách quốc gia. Không thừa nhận đầy đủ hoặc không chịu phân biệt hai ý nghĩa của chủ nghĩa dân tộc kinh tế như trên, các nhà dân tộc chủ nghĩa có thể sai lầm khi không áp dụng, cả ở cấp độ trong nước lẫn trong việc hoạch định chính sách đối ngoại, giả định của họ cho rằng khuôn khổ chính trị ảnh hưởng đến kết quả kinh tế. Họ đã không tính tới một cách đầy đủ thực tế là các nhóm chính trị trong nước thường sử dụng lập luận của chủ nghĩa dân tộc, đặc biệt là lý do an ninh quốc gia, nhằm thúc đẩy các lợi ích riêng của họ.
Trong khi trong quá khứ, đất đai và tư bản là những thứ khơi dậy tình cảm chủ nghĩa dân tộc, thì trong các nền kinh tế tiến tiến lao động đã trở thành yếu tố mang tính dân tộc chủ nghĩa và có xu hướng bảo hộ cao nhất trong ba nhân tố của sản xuất. Trong một thế giới mà các nguồn lực sản xuất mang tính lưu chuyển cao, lao động tìm cách sử dụng nhà nước để thúc đẩy các lợi ích bị đe đọa của mình. Sức mạnh gia tăng của lao động trong một nhà nước phúc lợi đương đại, như tôi lập luận dưới đây, đã trở thành một lực lượng chủ yếu của chủ nghĩa dân tộc về kinh tế.
Tính đúng đắn của việc nhấn mạnh bảo hộ và công nghiệp hóa của chủ nghĩa dân tộc là khó có thể khẳng định hơn. Đúng là tất cả các tập đoàn công nghiệp lớn phải được hậu thuẫn bởi các quốc gia mạnh vốn bảo vệ và thúc đẩy các ngành công nghiệp trong các giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa và nếu không có sự bảo vệ như vậy, các ngành công nghiệp non trẻ của các nước đang phát triển có thể sẽ không sóng sót được trước sự cạnh tranh của các tập đoàn mạnh của các nước phát triển hơn. Dẫu vậy, cũng có trường hợp sự bảo hộ cao ở nhiều nước đã dẫn đến việc ra đời các ngành công nghiệp kém hiệu quả và thậm chí làm đình trệ sự phát triển kinh tế (Kindleberger, 1978). Trong một phần tư cuối của thế kỷ 20, các nền kinh tế như Đài Loan và Hàn Quốc vốn hạn chế chủ nghĩa bảo hộ và ưu ái các ngành xuất khẩu cạnh tranh đã hoạt động tốt hơn những nền kinh tế các nước kém phát triển, những nước cố gắng công nghiệp hóa phía sau bức tường thuế quan và theo đuổi chiến lược thay thế nhập khẩu.
Sự thiên vị sai lầm của những nhà dân tộc chủ nghĩa dành cho công nghiệp so với nông nghiệp cũng cần phải được xem xét lại. Đúng là công nghiệp có một số lợi thế nhất định so với nông nghiệp và việc áp dụng các công nghệ công nghiệp vào xã hội sẽ có những tác động lan tỏa và thường có xu hướng làm chuyển đổi và hiện đại hóa tất cả các mặt của nền kinh tế vì nó giúp nâng cấp chất lượng lao động và nâng cao khả năng sinh lợi của đồng vốn. Dẫu vậy chúng ta phải nhớ rằng rất ít xã hội phát triển mà không có một cuộc cách mạng nông nghiệp trước đó và một nền nông nghiệp có năng suất cao (Lewis, 1978). Thực ra, một số các nền kinh tế thịnh vượng của thế giới, ví dụ như Đan Mạch, vành đai nông nghiệp của Mỹ, và miền Tây Cananda, đều dựa vào những nền nông nghiệp hiệu quả (Vincer, 1952). Hơn nữa, trong tất cả các xã hội này, nhà nước đã thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Một số người có thể kết luận rằng các nhà dân tộc chủ nghĩa đã đúng khi tin rằng nhà nước phải đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Một nhà nước mạnh là cần thiết để thúc đẩy, và trong một số trường hợp, là để bảo vệ các ngành công nghiệp và tạo ra một nền nông nghiệp hiệu quả. Dẫu vậy, vai trò tích cực này của nhà nước, mặc dù là một điều kiện cần, chưa phải là một điều kiện đủ. Một nhà nước mạnh và có chính sách can thiệp không bảo đảm phát triển kinh tế; thực ra, nó có thể kìm hãm phát triển kinh tế. Điều kiện đủ cho phát triển kinh tế là tổ chức hiệu quả công nghiệp và nông nghiệp, và trong hầu hết các trường hợp điều này đạt được thông qua sự vận hành của thị trường. Những điều kiện cả về kinh tế và chính trị này đã tạo nên những nền công nghiệp phát triển và các quốc gia công nghiệp hóa nhanh trong hệ thống quốc tế đương đại.
Điều quan trọng là phải nhận ra rằng, cho dù điểm mạnh và điểm yếu của chủ nghĩa dân tộc kinh tế là gì đi chăng nữa, thì chủ nghĩa dân tộc kinh tế vẫn có những sức hút mạnh mẽ. Trong suốt lịch sử hiện đại, vị trí quốc tế của các hoạt động kinh tế đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Từ thế kỷ 17 trở đi các quốc gia đã theo đuổi các chính sách phát triển công nghiệp và kỹ thuật một cách có chủ đích. Nhằm đạt được sức mạnh quân sự ổn định và xuất phát từ niềm tin cho rằng công nghiệp cung cấp những giá trị gia tăng lớn hơn nông nghiệp, quốc gia-dân tộc hiện đại đã có mục tiêu chủ yếu là thành lập và bảo vệ sức mạnh công nghiệp. Đến khi nào hệ thống quốc tế đầy xung đột vẫn còn tồn tại, chủ nghĩa dân tộc kinh tế vẫn có những sức hút mạnh mẽ của riêng mình.
Đánh giá chủ nghĩa Mác
Chủ nghĩa Mác đã đúng khi đặt vấn đề kinh tế – việc sản xuất và phân phối các của cải vật chất – vào hoặc gần trung tâm của đời sống chính trị. Trong khi chủ nghĩa tự do thường bỏ qua vấn đề phân phối và các nhà dân tộc chủ nghĩa lại quan tâm chủ yếu đến sự phân phối quốc tế của của cải, thì chủ nghĩa Mác tập trung vào cả những tác động trong nước và quốc tế của kinh tế thị trường đối với sự phân chia của cải. Họ kêu gọi chú ý đến những cách mà các luật lệ hoặc những thiết chế điều chỉnh thương mại, đầu tư, và những quan hệ kinh tế quốc tế khác ảnh hưởng đến sự phân chia của cải giữa các nhóm và các nhà nước (Cohen, 1977). Tuy nhiên, không cần phải dùng đến cách hiểu duy vật lịch sử hay sự quan trọng của đấu tranh giai cấp mới có thể hiểu rằng cách tạo ra và phân phối của cải là những yếu tố quyết định đến cấu trúc xã hội và các hành vi chính trị.
Một đóng góp khác của chủ nghĩa Mác là sự nhấn mạnh bản chất và cấu trúc của sự phân công lao động cả ở cấp độ trong nước và quốc tế. Như Mác và Engel đã chỉ ra trong cuốn Tư tưởng Đức, mỗi sự phân công lao động ám chỉ sự phụ thuộc và do đó là các mối quan hệ chính trị. Trong một nền kinh tế thị trường các mối liên kết kinh tế giữa các nhóm và các quốc gia trở nên quan trọng trong việc quyết định sự giàu có của họ và các mối quan hệ chính trị. Tuy nhiên, các phân tích của Mác quá hạn chế, bởi sự phụ thuộc về kinh tế không phải là yếu tố quan trọng nhất hoặc duy nhất quyết định mối quan hệ giữa các quốc gia. Mối quan hệ chính trị và chiến lược giữa các chủ thể chính trị cũng có tầm quan trọng tương tự hoặc thậm chí quan trọng hơn và chúng không thể được tối giản hóa thành các vấn đề chỉ về kinh tế mà thôi, ít nhất cũng không như cách các nhà Mác xít định nghĩa kinh tế học.
Lý thuyết của Mác về kinh tế chính trị cũng có giá trị khi nhấn mạnh các thay đổi chính trị quốc tế. Trong khi chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa dân tộc đều không có một lý thuyết toàn diện về sự thay đổi xã hội, chủ nghĩa Mác đã nhấn mạnh vai trò của những sự phát triển kinh tế và công nghệ để giải thích sự vận động của hệ thống quốc tế. Như được thể hiện trong quy luật phát triển không đồng đều của Lenin, sự phát triển sức mạnh khác nhau giữa các nước tạo nên một nguyên nhân ngầm cho những sự thay đổi về mặt chính trị. Ít nhất Lenin đã đúng một phần khi cho rằng cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là do sự phát triển sức mạnh kinh tế không đều giữa các quốc gia công nghiệp và mâu thuẫn trong việc phân chia lãnh thổ. Rõ ràng việc phát triển không đồng đều của các cường quốc Châu Âu đã có những ảnh hưởng đến cân bằng quyền lực và gây ra sự bất ổn chung. Sự tranh giành thị trường và các đế chế làm mối quan hệ giữa các quốc gia xấu hơn. Hơn nữa, nhận thức ngày càng cao của người dân bình thường về những tác động của sự thay đổi đột ngột trên thị trường thế giới và các hành vi kinh tế của các quốc gia khác đến phúc lợi và an ninh cá nhân cũng trở thành một nhân tố quan trọng trong sự thù địch gia tăng giữa các quốc gia. Đối với các quốc gia cũng như các công dân, sự phụ thuộc về kinh tế ngày càng cao mang lại một cảm giác mới về sự mất an ninh, dễ bị tổn thương và sự căm ghét các địch thủ kinh tế và chính trị.
Rõ ràng chủ nghĩa Mác cũng đã đúng khi cho rằng kinh tế tư bản, ít nhất là như chúng ta biết trong lịch sử, có những động lực bành trướng mạnh mẽ thông qua thương mại và đặc biệt là xuất khẩu tư bản. Các nhà kinh tế tự do cổ điển cũng khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế và tích tụ tư bản tạo nên xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm dần. Tuy nhiên họ lại cho rằng sự suy giảm này có thể được ngăn chặn thông qua thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài và các biện pháp khác. Trong khi thương mại tiêu thụ lượng tư bản dư thừa trong các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, đầu tư nước ngoài cũng giúp đưa lượng vốn này ra hải ngoại. Vì vậy các nhà kinh tế tự do cổ điển cũng đồng ý với chủ nghĩa Mác rằng kinh tế tư bản có những khuynh hướng nội tại xuất khẩu hàng hóa và tư bản thặng dư.
Xu hướng này đã dẫn đến kết luận rằng chủ nghĩa tư bản mang bản chất quốc tế và sự vận động bên trong của nó khuyến khích sự bành trướng ra bên ngoài. Trong một nền kinh tế tư bản đóng và không có công nghệ tiên tiến, sức mua thấp, thặng dư tư bản, và kết quả là sự suy giảm lợi nhuận đầu tư cuối cùng sẽ dẫn đến cái mà John Stuart Mill gọi là “quốc gia đứng yên” (Mill, 1970). Tuy nhiên, trong một nền kinh tế mở đặc trưng bởi sự mở rộng của chủ nghĩa tư bản, sự gia tăng dân số, và sự phát triển không ngừng trong năng suất thông qua các tiến bộ công nghệ, không có lý do gì cho trì trệ kinh tế xảy ra.
Mặc khác, nền kinh tế xã hội hay cộng sản chủ nghĩa không có xu hướng nột tại để bành trướng ra quốc tế. Trong một nền kinh tế cộng sản, đầu tư và tiêu thụ được quyết định bởi kế hoạch và hơn nữa, nhà nước lại có độc quyền đối với mọi trao đổi với nước ngoài. Tuy nhiên một nền kinh tế cộng sản cũng có thể có những động cơ chính trị và chiến lược để xuất khẩu tư bản, hay có thể cần phải đầu tư ra nước ngoài nhằm dành những nguồn nguyên liệu thô thiết yếu. Một chế độ Mác xít cũng có thể thấy là sẽ có lợi nhuận khi đầu tư ra nước ngoài hoặc tham gia vào các trao đổi thương mại khác. Chắc chắn là Liên Xô đã thỉnh thoảng có lợi với tư cách là những người trao đổi thương mại khôn kheo, như Ralph Hawtrey đã chỉ ra rằng sự xuất hiện của một chính quyền xã hội hay cộng sản chủ nghĩa không loại bỏ động cơ tìm kíếm lợi nhuận và việc chuyển những động cơ này sang cho nhà nước cũng có một vài lợi ích (Hawtrey, 1952). Thế nhưng cấu trúc của một xã hội cộng sản với sự nhấn mạnh uy tín, quyền lực, và lý tưởng không khuyến khích sự mở rộng kinh tế ra nước ngoài. Khuynh hướng hiện hữu là biến kinh tế trở nên phụ thuộc vào chính trị và những mục tiêu mang tính dân tộc chủ nghĩa của quốc gia (Viner, 1951).
Chủ nghĩa Mác cũng đã đúng khi cho rằng chủ nghĩa tư bản cần một hệ thống kinh tế thế giới mở. Các nhà tư bản mong muốn tiếp cận các nền kinh tế nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và tư bản; xuất khẩu hàng hóa có tác động thúc đẩy các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế tư bản theo lý thuyết của Keynes, và xuất khẩu tư bản giúp gia tăng tỉ lệ lợi nhuận chung. Sự đóng cửa các thị trường nước ngoài và các nơi có thể xuất khẩu tư bản làm tổn hại đến chủ nghĩa tư bản, và một nền kinh tế tư bản đóng sẽ dẫn tới kinh tế suy giảm một cách mạnh mẽ. Có lý do để tin rằng hệ thống tư bản (như chúng ta đã biết) không thể tồn tại mà không có một nền kinh tế thế giới mở. Đặc điểm quan trọng của chủ nghĩa tư bản, như Mác đã chỉ ra, là mang tính toàn cầu, tư tưởng của chủ nghĩa tư bản là quốc tế. Chủ nghĩa tư bản tồn tại ở một quốc gia duy nhất là điều không thể.
Trong thế kỷ 19 và 20 các quốc gia tư bản chủ chốt, như Anh và Mỹ, đã dùng sức mạnh của mình để thúc đẩy và duy trì một nền kinh tế thế giới mở. Họ dùng sức ảnh hưởng của mình để loại bỏ các rào chắn đối với sự lưu thông tự do của hàng hóa và vốn. Khi cần thiết, như Simon Kunznets đã nói, “các cường quốc mạnh hơn của thế giới phát triển sẽ áp đặt lên những đối tác bất đắc dĩ của họ cơ hội tham gia thương mại quốc tế và phân công lao động” (Kuznets, 1966). Trong quá trình theo đuổi lợi ích riêng của mình, các quốc gia này đã tạo ra luật quốc tế nhằm bảo vệ quyền sở hữu tài sản của các nhà đầu tư và thương nhân (Lipson, 1985). Và khi các quốc gia thương mại lớn không thể hoặc không muốn thực thi các luật thương mại tự do, hệ thống tự do bắt đầu thoái trào từ từ. Do đó, đến lúc này, chủ nghĩa Mác đã đúng khi nhận định về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc hiện đại.
Điểm yếu cơ bản của chủ nghĩa Mác với tư cách là một lý thuyết về kinh tế chính trị quốc tế bắt nguồn từ việc nó không nhận ra vai trò của các nhân tố chính trị và chiến lược trong quan hệ quốc tế. Mặc dù đánh giá cao những tư tưởng sâu sắc của chủ nghĩa Mác, người ta có thể không chấp nhận lý thuyết của Mác cho rằng sự vận động của quan hệ quốc tế hiện đại được thúc đẩy bởi nhu cầu của các nền kinh tế tư bản về xuất khẩu hàng hóa và tư bản thặng dư. Ví dụ, liên quan đến nhận định cho rằng mức độ phát triển không đồng đều của kinh tế quốc gia dẫn đến chiến tranh thì nguyên nhân có thể là do sự thù hằn dân tộc, vốn có thể diễn ra mà không liên quan đến bản chất của nền kinh tế – mà xung đột giữa Trung Quốc và Liên Xô là một ví dụ. Mặc dù việc tranh giành thị trường và nơi đầu tư tư bản có thể là nguyên nhân của mâu thuẫn và là một nhân tố dẫn đến chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh, nhưng lập luận này không đưa ra một giải thích đầy đủ cho hành vi đối ngoại của các nước tư bản.
Ví dụ, các bằng chứng lịch sử không ủng hộ quan điểm của Lenin cho rằng nguyên nhân của chiến tranh thế giới lần thứ nhất là do logic của chủ nghĩa tư bản và hệ thống thị trường. Cuộc tranh giành lãnh thổ quan trọng nhất giữa các nước Châu Âu dẫn đến chiến tranh không phải là những cuộc tranh chấp lãnh thổ ở các thuộc địa hải ngoại như Lenin đã nói, mà cuộc tranh giành này nằm ngay trong lòng Châu Âu. Cuộc xung đột chủ yếu dẫn đến chiến tranh liên quan đến sự phân chia lại lãnh thổ ở Balkan thuộc đế chế Ottoman đang suy tàn. Và nếu xét về nguyên nhân kinh tế của cuộc xung đột thì nó lại liên quan đến mong muốn của Nga được tiếp cận vùng biển Địa Trung Hải (Hawtrey, 1952). Chủ nghĩa Mác không thể giải thích được một thực tế là ba đế quốc đối địch chủ chốt – Anh, Pháp, và Nga – thực ra lại cùng một chiến tuyến trong cuộc xung đột nổ ra sau đó chống lại nước Đức, một nước ít có những lợi ích ngoại giao bên ngoài Châu Âu.
Thêm vào đó, Lenin đã sai khi chỉ ra động cơ chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc là những yếu tố bên trong của hệ thống tư bản. Như Benjamin J. Cohen đã chỉ ra trong những phân tích lý thuyết Mác xít về chủ nghĩa đế quốc, sự xung đột về chính trị và chiến lược giữa các nước Châu Âu là quan trọng hơn; ít nhất chính tình trạng bế tắc trên Châu Âu lục địa giữa các cường quốc buộc họ phải đối đầu nhau ở thế giới thuộc địa (Cohen, 1973). Những mâu thuẫn thuộc địa này (trừ cuộc chiến tranh Boer) thực ra đều được giải quyết bằng các biện pháp ngoại giao. Và cuối cùng những thuộc địa ở nước ngoài của các cường quốc Châu Âu thực ra chỉ có những hiệu quả kinh tế nhỏ. Như tài liệu của chính Lenin đưa ra hầu hết vốn đầu tư nước ngoài của Châu Âu đều tập trung vào các “vùng đất định cư mới” (Mỹ, Canada, Australia, Nam Phi, Agentina…) hơn là vào các vùng thuộc địa phụ thuộc mà ngày nay được gọi là các nước thế giới thứ ba. Thực ra trái với quan điểm của Lenin cho rằng chính trị theo sau đầu tư, tài chính quốc tế trong suốt thập niên này chủ yếu phục vụ cho chính sách đối ngoại, như trong trường hợp các khoảng vay của Pháp cho Sa hoàng Nga. Vì vậy, mặc dù đã đúng khi tập trung chủ yếu vào sự thay đổi chính trị, chủ nghĩa Mác thực sự không hoàn hảo với tư cách là một lý thuyết kinh tế chính trị.
Ba thách thức đối với nền kinh tế thị trường thế giới
Chủ nghĩa tư bản phúc lợi trong một thế giới tư bản quốc tế không phúc lợi
Xem phần còn lại của văn bản tại đây: Ba tu tuong ve kinh te chinh tri
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:34:17 GMT 9
Ngoại giao dầu mỏ của Bắc KinhNguồn: Jaffe, Amy Myers and Lewis, Steven W. (2002) ‘Beijing’s oil diplomacy‘, Survival, 44:1, 115 – 134 PDF Biên dịch: Nguyễn Vĩnh Hằng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp Download: Ngoai giao dau mo cua Bac Kinh Việc Trung Quốc lặng lẽ trở thành một nước nhập khẩu ròng về dầu thô vào năm 1993 đã đánh dấu sự chuyển hướng mạnh mẽ sau “cuộc thử nghiệm” tự cung tự cấp kéo dài ba thập kỉ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời mở ra khả năng một ngày nào đó Trung Quốc có thể trở nên dễ bị ảnh hưởng như các nước công nghiệp khác trước những biến cố không mong muốn tác động tới thị trường dầu mỏ toàn cầu. Những tác động của thay đổi này lên quá trình hoạch định chính sách đối ngoại Trung Quốc vẫn đang diễn ra. Nhưng có một điều chắc chắn là những lo ngại về an ninh dầu mỏ đang ngày càng ảnh hưởng mạnh mẽ lên những tính toán chiến lược và ngoại giao của Trung Quốc. Một cường quốc bậc hai thế giới, với mối quan tâm đối ngoại (ngoài vấn đề hạt nhân) chủ yếu là bảo vệ biên giới lãnh thổ, đang trở thành chủ thể toàn cầu với những lợi ích mở rộng qua Âu Á sang Trung Đông và cả Bắc và Tây Phi. Nỗ lực tìm kiếm nguồn cung cấp dầu mỏ đã đưa Bắc Kinh tiến xa đến tận các nước Mỹ Latinh. Nó cũng đang tác động đến thái độ của Trung Quốc đối với các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Xét theo lô-gíc, việc là một nước nhập khẩu dầu thô có thể đưa những lợi ích của Trung Quốc gần hơn với những lợi ích của các nước phương Tây lệ thuộc vào dầu mỏ. Năm 1990, Trung Quốc đã bỏ phiếu trắng khi Hoa Kỳ huy động quân đội liên minh quốc tế đưa quân Iraq ra khỏi Kuwait. Do đó, một cuộc khủng hoảng trong tương lai, sau khi Trung Quốc trở thành một nước nhập khẩu lớn, có thể sẽ khiến Trung Quốc đứng trên lập trường ủng hộ hơn đối với những sự kiện tương tự. Nhưng sự thay đổi trong những lợi ích và định hướng của Trung Quốc cũng đặt ra những thử thách cho phương Tây: dưới tác động này, các nước công nghiệp tiêu thụ dầu mỏ của Hoa Kỳ, Châu Âu và Đông Bắc Á phải thuyết phục một Trung Quốc tham vọng, khát năng lượng rằng mức cung an toàn cho tất cả đòi hỏi một chính sách đối ngoại hợp tác. Tuy nhiên cho đến nay thật không may, Trung Quốc lại đang thực hiện một đường lối khác biệt. Đó là tìm kiếm an ninh năng lượng thông qua theo đuổi các tiếp cận song phương, đạt được mối quan hệ với những nước xuất khẩu dầu lớn như Saudi Arabia, Iraq, Iran và Sudan. Ý nghĩa của những động thái này đang gây ra nhiều quan ngại. Một khi thị trường dầu mỏ vẫn đang khan hiếm như trong hai năm gần đây, các thỏa thuận song phương có thể gợi ra nhu cầu thỏa hiệp về chính trị để đổi lấy một nguồn cung ổn định. Tệ nhất là những thỏa hiệp về chính trị đó có thể là việc trao đổi công nghệ liên quan đến vũ khí hủy diệt hàng loạt giữa Trung Quốc với những thị trường nhạy cảm về chính trị này. Trung Quốc không phải là nạn nhân tiềm năng duy nhất của tình trạng bị uy hiếp vì nhu cầu dầu mỏ. Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản đã từng phải đối mặt với vấn đề tương tự, đặc biệt trong những năm thập niên 70, và đã thỏa thuận với các nước này để đạt được mức độ thành công thay đổi theo từng năm. Các nước sản xuất dầu đã yêu cầu chuyển vũ khí từ các nước phương Tây, và vài nước đã sẵn sàng giúp đỡ. Tuy nhiên, liên minh các nước tiêu thụ dầu mỏ phương Tây đã ngăn chặn, tới một mức độ nào đó, tác động quá đáng của các nước sản xuất dầu chống lại các quốc gia đơn lẻ. Cụ thể, các liên minh đa quốc gia đã làm giảm bớt sức mạnh độc quyền của Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) trên thị trường thế giới, làm giảm nguy cơ của một cuộc khủng hoảng kiểu năm 1973. Sự hợp tác của phương Tây về an ninh năng lượng được hỗ trợ bởi liên minh chính thức của Tổ chức Năng lượng Thế giới (IEA), giúp chống lại các đòi hỏi về chính trị của các nước sản xuất dầu bằng cách đe dọa bán ra đồng loạt cổ phiếu của các nước tiêu thụ dầu, để đáp trả bất cứ sự kìm giữ sản lượng dầu nào nhằm mục đích chính trị của OPEC hay của các nhà sản xuất dầu lớn khác. Công cụ chính sách này đã giúp giữ cho chính sách đối ngoại của phương Tây không bị gắn chặt, phụ thuộc quá nhiều vào nhu cầu dầu mỏ. Cuộc chiến chống khủng bố chỉ là một ví dụ cho thấy sự tách biệt này là quan trọng. Nếu Trung Quốc từ chối tham gia câu lạc bộ các quốc gia tiêu thụ dầu mỏ trên thế giới, cái giá phải trả có thể rất đắt. Chính sách đối ngoại dầu mỏ song phương của Trung Quốc hiện nay có thể dẫn đến những phản ứng chính sách cản trở những sáng kiến đa quốc gia hiệu quả trong khu vực như việc giải quyết xung đột hay chính sách thương mại, hoặc cản trở những nỗ lực của phương Tây trong việc ngăn chặn sự phổ biến của các công nghệ quân sự nhạy cảm, cũng như việc tích trữ vũ khí truyền thống ở các vùng sản xuất dầu vốn đang bị chia rẽ sâu sắc. Bắc Kinh đã có minh chứng về những lợi ích của việc chống lại những chính sách cấm vận của Hoa Kì. Ngành công nghiệp dầu mỏ của Trung Quốc đang thu được những mối lợi ở Sudan, đánh dấu sự xuất hiện của mình ở Iraq và Iran, cũng như đang đàm phán với Lybia. Trung Quốc cũng đang tiếp cận với các nước sản xuất dầu tiềm năng có sản lượng không ổn định ở Bắc và Tây Phi. Chính sách đối ngoại về dầu mỏ của Bắc Kinh cũng bao gồm việc thắt chặt hơn quan hệ với Ảrập Xêut, coi Trung Quốc là một thị trường thay thế tiềm năng cho thị trường Hoa Kì và Nhật Bản. Một khi Trung Quốc phát triển các mối quan hệ song phương này và phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn dầu mỏ nước ngoài, Bắc Kinh sẽ trở nên nhạy cảm hơn với áp lực từ các nhà sản xuất năng lượng, bao gồm cả những nước đang tìm kiếm công nghệ quân sự chiến lược. Ít nhất chính phủ của một vài nước sản xuất dầu sẽ mua những vũ khí hạng nhẹ dùng cho các cuộc nội chiến và xung đột địa phương. Áp lực về chính trị có thể khiến Trung Quốc ủng hộ lập trường của các nước sản xuất dầu mỏ tại các diễn đàn như Liên Hiệp Quốc. Điều này có thể đặt ra những thách thức cho phương Tây trong hàng loạt các vấn đề, trong đó lớn nhất là sự phản đối của Trung Quốc và Nga đối với những lệnh cấm vận của Liên Hiệp Quốc, cũng như phản đối những cuộc tấn công quân sự nhằm vào Iraq. Những động thái này đã cản trở việc thực thi các chính sách hiệu quả chống lại Baghdad trong quá khứ. Trung Quốc chưa thực sự được xem là một thành viên trong liên minh đa phương với các nước tiêu thụ dầu khác. Phương Tây có thể phải chịu trách nhiệm một phần vì đã không tạo điều kiện đủ sức thuyết phục để thiết lập liên minh, hoặc đã không đưa ra những hỗ trợ trong lĩnh vực năng lượng, như tìm cách đưa Trung Quốc vào hệ thống dự trữ của IEA, hay thực hiện những nỗ lực chuyển giao công nghệ năng lượng mới, sạch hơn cho ngành công nghiệp Trung Quốc. Riêng đối với Hoa Kỳ, hợp tác năng lượng có thể là chìa khóa cho việc xây dựng một mối quan hệ tích cực với Trung Quốc. Nó có thể làm cho con đường tiến tới chương trình không phổ biến vũ khí Trung-Mỹ hiệu quả trở nên bằng phẳng hơn, cũng như giúp Trung Quốc ghi nhớ tầm quan trọng của các vấn đề về môi trường. Tình thế tiến thoái lưỡng nan về năng lượng của Trung Quốc Trong suốt những năm 1970 và 1980, Trung Quốc giữ thái độ trung lập xa xỉ đối với những sự kiện chấn động trên thị trường dầu mỏ thế giới. Giá dầu nội địa ở Trung Quốc được ấn định bởi các nhà hoạch định chính sách của chính quyền trung ương và không chịu ảnh hưởng của giá cả thế giới bên ngoài. Nguồn cung nội địa vừa đủ đáp ứng mức cầu nội địa. Với nền kinh tế tránh được những thay đổi thất thường của giá dầu toàn cầu, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không cần phải quan tâm đến những cuộc xung đột ở Trung Đông hay những vùng sản xuất dầu mỏ khác. Mặc dù việc xuất khẩu dầu mỏ với số lượng khiêm tốn đã đem về cho Trung Quốc một lượng nhỏ ngoại tệ để phục vụ các chương trình hiện đại hóa công nghiệp và quân sự của họ trong những năm giữa thập niên 1970, sự trồi sụt của thị trường năng lượng về căn bản không tạo ra lợi ích hay thiệt hại gì cho Trung Quốc. Ngược lại, nền kinh tế Mỹ, với tư cách là nước tiêu thụ và nhập khẩu dầu mỏ lớn, lại nhạy cảm với những chuyển biến đột ngột trên thị trường dầu mỏ thế giới. Chính sự nhạy cảm này khiến cho chính sách đối ngoại của Mỹ phải xúc tiến những nguồn cung ổn định và đáng tin cậy. (Lợi ích của Liên Xô lại hoàn toàn ở phía ngược lại: Nền kinh tế Liên Xô chủ yếu dựa vào xuất khẩu dầu và khí đốt và thu về ngoại tệ mạnh, kiếm lợi nhuận từ việc nâng giá dầu.) Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế đáng kinh ngạc, nhu cầu về dầu mỏ ở Trung Quốc đã tăng nhanh hơn sản lượng dầu sản xuất trong nước. Trong thập niên vừa qua, lượng tiêu thụ dầu tăng từ 2,1 triệu thùng/ngày năm 1990 lên 3,5 triệu thùng/ngày năm 1997 và hiện nay vào khoảng 4,6 triệu thùng/ngày.1 Trung Quốc hiện xếp thứ 3 trên thế giới về sử dụng sản phẩm từ dầu mỏ, sau Mỹ và Nhật. Bảng 1: Số lượng ước tính lượng cầu về dầu mỏ của Trung Quốc (Tỉ thùng/ ngày) 2000 2005 2010 2015 2020 Baker Institute - - 6.2 7.4 8.8 IEA - - 7.1 - 10.1 APERC 4.3 5.5 6.8 - - SDPC 4.0 - 5.7 6.8 - PRC State Councill 4.0 - 5.2 - 6.4 SETC - 4.9 - - - Nguồn Số liệu về Baker Institute từ Kenneth B. Medlock III and Ronald Soligo, ‘The Composition and Growth in Energy Demand in China’, (Houston: Baker Institute, 1999), available at International Energy Agency (IEA) from IEA, China’s Worldwide Quest for Energy Security, (Paris: OECD, 2000); Asia Pacific Economic Research Center (APERC) from APERC, ‘APEC Energy Demand and Supply Outlook: Updated September 1998’, (Tokyo: APERC, 1998); State Development Planning Commission (SDPC) from Shixian Gao, ‘China’, in Paul B. Stares (ed.), Rethinking Energy Security in East Asia (Tokyo: Japan Center for International Exchange, 2000), pp. 43–58; PRC State Council, China Energy Strategy Study (2000–2050), Beijing, (in Chinese), cited in IEA (above), p. 47; State Economic and Trade Commission (SETC) from SETC, ‘Tenth Five Year Plan for Developing the Petroleum Industry’ (Beijing: SETC) available at www.setc.gov.cn. Sự tăng trưởng này đã biến Trung Quốc thành nước nhập khẩu dầu lớn. Trong sáu tháng đầu năm 2001, lượng dầu thô nhập khẩu ở mức 1,29 triệu thùng/ngày, giảm nhẹ so với mức 1,41 triệu thùng/ngày trong năm 2000. Lượng nhập khẩu các sản phẩm dầu thành phẩm trong những năm gần đây đạt trung bình 400.000 thùng/ngày, không bao gồm lượng 70.000-100.000 thùng/ngày khí thiên nhiên, xăng và các sản phẩm từ dầu khác do buôn lậu. Những con số này được dự đoán sẽ tăng lên hơn gấp đôi trong 15 năm tới khi cầu nội địa của Trung Quốc tăng lên – nhất là ở các tỉnh ven biển phía Nam và Đông Trung Quốc nơi kinh tế tăng trưởng đầy sức sống nhưng lại nghèo về năng lượng – và sản lượng dầu sản xuất trong nước không thể theo kịp.2 Căn cứ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, lượng dầu tiêu thụ của nước này dự kiến sẽ tăng từ 750.000 thùng/ngày đến 3 triệu thùng/ngày, nâng tổng lượng tiêu thụ lên mức từ 5,4 triệu thùng/ngày đến 7,6 triệu thùng/ngày vào năm 2010. Đến năm 2020, nếu tăng trưởng mạnh về kinh tế tiếp tục, lượng cầu về dầu mỏ của Trung Quốc sẽ ở mức cao 7-12 triệu thùng/ngày.3 Nếu sản lượng dầu của Trung Quốc tiếp tục trì trệ so với lượng cầu, như trong vài năm gần đây, lượng nhập khẩu dầu của Trung Quốc sẽ tăng lên mức 2-4 triệu thùng/ngày trong 10 năm tới. Nếu lượng dầu sử dụng trong lĩnh vực vận tải từ mức 60-90% tổng lượng dầu hiện nay tăng lên, như những gì thường xảy ra ở các nước công nghiệp hóa, lượng cầu về dầu của Trung Quốc vào năm 2010 có thể lên đến 6,3-8,1 triệu thùng/ngày, tùy thuộc vào tốc độ tăng trưởng GDP, từ 11,4-17,9 triệu thùng/ngày vào năm 2020.4 Bảng 2: Ước tính lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc (Tỉ thùng/ ngày) 2000 2005 2010 2015 2020 Baker Institute - - 3.0 - 5.4 IEA - - 4.0 - 8.0 APERC 0.9 1.9 2.9 - - SDPC 0.7 - 1.9 2.7 - PRC State Councill 0.9 - 1.7 - 1.8 PRC Industry 0.7 - 1.3 - 2.6 SETC 1.2 1.7 - - - Nguồn Số liệu về Baker Institute từ Soligo and Jaffe, ‘China’s Growing Energy Dependence: The Costs and Policy Implications of Supply Alternatives’, working paper (Houston: Baker Institute for Public Policy, Rice University, April 1999), available online at IEA, China’s Worldwide Quest for Energy Security, (Paris: OECD, 2000); APERC, ‘APEC Energy Demand and Supply Outlook: Updated September 1998’, (Tokyo: APERC, 1998); State Development Planning Commission (SDPC) from Shixian Gao, ‘China’, in Paul B. Stares (ed.), Rethinking Energy Security in East Asia (Tokyo: Japan Center for International Exchange, 2000), pp. 43–58; PRC State Council, China Energy Strategy Study (2000–2050), Beijing, (in Chinese), cited in IEA (above); PRC Industry from China Oil, Gas and Petrochemicals Newsletter, vol. 7, no. 24, 15 December 1999, p. 1., cited in IEA, p. 47; SETC, ‘Tenth Five Year Plan for Developing the Petroleum Industry’ (Beijing: SETC) available at www.setc.gov.cn. Bảng 2 cho thấy lượng cầu nhập khẩu dầu ước tính của Trung Quốc trong những viễn cảnh tăng trưởng khác nhau. Các chuyên gia nước ngoài nhìn chung dự đoán rằng Trung Quốc sẽ nhập khẩu 3-4 triệu thùng/ngày vào năm 2010 và 5-8 triệu thùng/ngày vào năm 2020. Mặc dù những báo cáo công khai gần đây gợi ý rằng lượng dầu nhập khẩu đang tiến gần tới những dự báo nước ngoài, trong những năm gần đây các cơ quan chính phủ Trung Quốc và các nguồn công nghiệp dự đoán Trung Quốc sẽ nhập khẩu 1.3-1.9 triệu thùng/ngày năm 2010 và khoảng 2-3 triệu thùng/ngày năm 2020. Có thể thấy trong bảng 3, Trung Quốc đã đáp ứng nhu cầu nhập khẩu dầu tăng nhanh chóng những năm gần đây bằng cách chuyển từ các nguồn ở Châu Á sang một số nước Trung Đông – nhất là Oman, Yemen và Iran – và đang tăng cường ở Châu Phi, Nga và Trung Á. Bảng 3: Nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc từ 1 số nước Trung Đông và 1 số vùng, 1992–1999 (Nghìn thùng / ngày) 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Oman 61.2 81.6 67.2 73.0 113.0 180.6 115.8 100.4 Yemen 8.6 33.0 25.0 49.4 75.2 81.0 80.8 82.6 Iran 2.2 1.3 1.3 18.6 46.2 55.0 72.4 79.0 UAE 4.6 11.4 1.3 7.2 n/a 0.9 10.2 nil Saudi Arabia 3.6 4.2 2.8 6.6 4.6 9.8 36.0 49.8 Mid-East Total 80.6 131.8 98.0 155.2 239.2 335.6 333.2 348.2 Mid-East (%) 36% 42% 40% 45% 53% 47% 61% 48% Africa Total 10.0 42.6 10.0 36.8 38.6 118.2 43.8 134.8 Africa % 4% 14% 4% 11% 9% 17% 8% 18% Asia-Pacific Total 134.2 130.6 136.8 141.6 164.4 188.2 109.4 136.4 Asia-Pacific % 59% 42% 55% 41% 36% 27% 20% 19% Other 2.2 8.2 1.8 8.0 10.2 67.4 60.0 112.8 Other % 1% 3% 1% 2% 2% 10% 11% 15% Tổng 227.2 313.4 247.0 341.8 452.4 709.4 546.4 732.2 Nguồn Lấy từ những dữ liệu của Trung Quốc sử dụng trong Xiaojie Xu, ‘China and the Middle East: Cross Investment in the Energy Sector’, Middle East Policy, vol. vii, no. 3, June 2000, và được quy đổi thành 7,3 thùng /tấn. Sản xuất dầu trong nước Sản lượng khai thác trong lục địa Trung Quốc bị chi phối bởi hai tổ hợp dầu khí quốc gia bán tư nhân khổng lồ, Công ty Dầu Quốc gia Trung Quốc (CNPC) và Sinopec. Hoạt động khai thác gần bờ của các công ty dầu hỏa phương Tây ở Trung Quốc đã bị giới hạn chủ yếu ở các mỏ dầu nhỏ hơn và thực hiện các thăm dò liều lĩnh. Trong số các công ty đầu tư tại các mỏ dầu của Trung Quốc có Exxon, Texaco, Agip, BP, Shell, và một số công ty Indonesia và Nhật Bản. Trung Quốc đã đặt hi vọng vào việc phát triển các mỏ dầu phía tây lòng chảo Tarim, nhưng giá dầu thấp và môi trường không ổn định cho đầu tư nước ngoài đã làm chậm sự phát triển của khu vực này. PetroChina, công ty con quốc tế của CNPC, đã đưa ra bán một giấy phép khu vực gồm 15 lô dầu mỏ và khí thiên nhiên ở Đông Bắc lòng chảo Vịnh Bohai của Trung Quốc vào tháng 9 năm 2000, nhưng đến nay vẫn chưa có hợp đồng thương mại nào được kí. PetroChina cũng dự định đưa ra bán những lô mới ở lòng chảo Erdos ở tây bắc Trung Quốc vào cuối năm 2001. Sản lượng dầu ngoài khơi tăng từ 300.000 thùng/ngày vào cuối thập niên 1990 lên mức 410.000 thùng/ngày vào giữa năm 2001. Một công ty sản xuất và thăm dò dầu khí bán tư nhân, Công ty Dầu Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (China National Offshore Oil Corporation – CNOOC) gần như độc quyền phát triển các mỏ dầu ngoài khơi.5 Các nhà thăm dò nước ngoài đã tham gia cơ bản vào các cuộc khai phá các mỏ dầu ngoài khơi của Trung Quốc trong ba năm qua, phát hiện hơn một tỷ thùng dầu ở phía đông Vịnh Bohai6, châu thổ sông Châu Giang ở phía nam Trung Quốc và Vịnh Bắc Bộ. Ở biển Nam Trung Hoa, những cuộc thăm dò thất bại trong thập niên 1980 và 1990 mở đường cho những phát hiện mới. Các mỏ của Phillip ở Xiajiang gần đây đạt đỉnh với 100.000 thùng/ngày, nhưng đang giảm xuống còn 80.000 thùng/ngày. Mỏ Liuhua của BP hiện đang hoạt động với 26.000 thùng/ngày trong khi mỏ Lufeng của Statoil đạt trung bình 12.000 thùng/ngày. Trong khi đó, tập đoàn CACT, bao gồm Eni của Ý, Chevron, Texaco và CNOOC đã công bố phát hiện một mỏ dầu mới ở biển Nam Trung Hoa.7 Sáu mỏ dầu ở đây sản xuất khoảng 140.000 thùng/ngày và bốn mỏ dầu nữa đang được phát triển. Khoảng một phần ba sản lượng ngoài khơi được bán ra nước ngoài, chủ yếu cho các nhà máy lọc dầu ở Singapore, và phần còn lại được chuyển đến các tỉnh miền nam Trung Quốc. Tuy phát hiện thêm nhiều mỏ dầu mới nhưng không thể trông đợi sản lượng dầu mỏ sản xuất trong nước của Trung Quốc sẽ tăng trong những năm tới. Giá dầu thấp, cải cách giá cả không hiệu quả, lũ lớn ở mỏ dầu Daqing và cơ sở hạ tầng giao thông vận tải không thỏa đáng, tất cả gộp lại đã làm sản lượng dầu của Trung Quốc giảm từ 3,3 triệu thùng/ngày năm 1997 xuống 3,2 triệu thùng/ngày năm 1998. Sau đó giá dầu tăng đã kích thích sản lượng khôi phục nhẹ. Sản lượng năm nay đạt khoảng 3,21-3,31 triệu thùng/ngày.8 Trong khi vài phân tích vẫn dự đoán rằng sản lượng dầu của Trung Quốc sẽ tăng trở lại trong vòng 10 năm tới, có nhiều yếu tố chống lại khả năng này, bao gồm: thiếu hụt vốn trong các ngành công nghiệp chủ chốt của Trung Quốc; những chính sách tài chính hạn chế của chính quyền trung ương; thách thức cho các chính quyền địa phương và doanh nghiệp nhà nước phải hy sinh nguồn vốn khan hiếm để trang trải chi phí sa thải và việc tư hữu hóa các dịch vụ xã hội; sự thờ ơ của các nhà đầu tư đối với các vùng được đề nghị thăm dò và khả năng giá dầu tiếp tục giữ ở mức thấp trong dài hạn.9 Vì những lí do trên và nhiều lí do khác, sản lượng nội địa nhìn chung được cho là giữ nguyên một cách tương đối trong thập kỉ tới. Có thể thấy trong bảng 4, dự đoán sản lượng năm 2010 từ các nguồn đáng tin cậy nhìn chung trong khoảng 3,0-3,9 triệu thùng/ngày. Bảng 4: Số lượng ước tính sản lượng dầu nội địa của Trung Quốc (Triệu thùng/ ngày) 2000 2005 2010 2015 2020 Baker Institute - - 3.3 - 3.5 IEA - - 3.1 - 2.1 US DOE - 3.1 3.1 3.0 3.0 APERC 3.4 3.6 3.9 - - SDPC 3.2 - 3.8 4.1 - PRC State Councill 3.1 - 3.3 - 3.6 SETC 3.2 3.4 - - - Wood Mackensie - - 3.0 - - East-West Center 3.3 3.5 3.7 - - Nguồn Số liệu về Baker Institute từ Soligo and Jaffe, ‘China’s Growing Energy Dependence: The Costs and Policy Implications of Supply Alternatives’, working paper (Houston: Baker Institute for Public Policy, Rice University, April 1999), available online at IEA, China’s Worldwide Quest for Energy Security, (Paris: OECD, 2000); US DOE from United States Department of Energy, ‘International Energy Outlook 2001’, 28 March 2001, available at www.eia.doe.gov/oiaf/ieo/tbld1_d5.html; APERC, ‘APEC Energy Demand and Supply Outlook: Updated September 1998’, (Tokyo: APERC, 1998); SDPC from Shixian Gao, ‘China’, in Paul B. Stares (ed.), Rethinking Energy Security in East Asia (Tokyo: Japan Center for International Exchange, 2000); PRC State Council, China Energy Strategy Study (2000–2050), Beijing, (in Chinese), cited in IEA (above); SETC, ‘Tenth Five Year Plan for Developing the Petroleum Industry’ (Beijing: SETC) available at WoodMackensie Consultants, Asia Pacific Report, (Houston: WoodMackensie, 1998); East-West Center from Fesharaki, ‘China’s Downstream Industry to 2010: Multi-Client Study’, (Honolulu: Fesharaki Associates Consulting, 1997). Chính sách năng lượng của Trung Quốc giai đoạn 1996 – 2000. Nhận thức được sự hạn chế của nguồn dầu nội địa, cũng như cái giá phải trả về kinh tế và môi trường đối với việc phụ thuộc nặng nề vào than, giới lãnh đạo Trung Quốc đã phát triển những chiến lược đa dạng nhằm bảo đảm an ninh năng lượng trong tương lai của nước này. Thay thế bằng khí thiên nhiên Sáng kiến chủ chốt của Trung Quốc là tập trung vào việc mở rộng nguồn khí thiên nhiên bên trong quốc gia này, với mục tiêu tăng nguồn sử dụng khí thiên nhiên từ 3% hiện tại lên 8-10% trước năm 2015. Trung Quốc có nguồn dự trữ khí phong phú tại các khu vực ở Erdos, Sichuan, Tarim Basin, Junggar và Qaidam, cũng như ở phía tây biển Nam Trung Hoa. Chính quyền trung ương gần đây đã môi giới thành công một hợp đồng hợp tác giữa Sinopec và CNOOC cùng hợp tác phát triển mỏ khí Chunxiao ở Xihu Basin, ngoài khơi Thượng Hải. Tham vọng hơn, Bắc Kinh còn có kế hoạch xây dựng một hệ thống đường ống dài 4000 km, nối liền vùng dự trữ khí phía Bắc và phía Tây của lòng chảo Tarim, Tân Cương với Thượng Hải.10 Các công ty Exxon Mobil, cùng với CLP của Hong Kong; Royal Dutch Shell với công ty Dầu và Khí của Hong Kong; cùng với Gazprom của Nga và Stroitrangas là những nhà đấu thầu cho đường ống dẫn khí Đông –Tây Tarim – Thượng Hải trị giá 4.8 tỷ đô la, đường ống dự tính sẽ vận chuyển từ 34 đến 54 mét khối khí một ngày.11 Mặc dù cả chính quyền trung ương Trung Quốc lẫn các quan chức của CNPC đều nói đến đường ống Đông – Tây này như một kế hoạch đã được triển khai, vẫn còn có nhiều khó khăn đáng kể đối với sự phát triển của dự án. Đường ống này được liệt kê như công trình trọng điểm của Kế hoạch Năm Năm lần thứ 10, 2001 – 2005. Tuy nhiên chính quyền trung ương lại đang bỏ mặc phần tài chính phát triển dự án cho các hợp tác xã nhà nước, các chính quyền địa phương, và các đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, cũng không tồn tại một cơ chế pháp lý nào đủ minh bạch và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp tiềm tàng nổi lên từ việc xây dựng và hoạt động của dự án cơ sở hạ tầng năng lượng liên khu vực đầu tiên của Trung Quốc. Tuy nhiên, các nhà đầu tư tiềm năng, cả trong và ngoài nước đều đang nhìn nhận dự án đường ống này như một thí nghiệm chính sách đắt tiền. Cam kết của chính phủ đối với những công trình lớn tương tự, như Đập Tam Hiệp và hệ thống truyền tải điện miền Trung, đã được thể hiện một cách truyền thống thông qua việc thiết lập một nhóm làm việc cấp cao trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc nhằm phối hợp giữa chính quyền trung ương, chính quyền địa phương và với các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, công trình đường ống dẫn khí Đông – Tây lại chưa có một nhóm làm việc cấp cao nào của Đảng cầm quyền hỗ trợ, đây là một thiếu sót có thể ngăn cản sự phát triển của dự án. Quốc tế hóa ngành công nghiệp dầu hỏa Trung Quốc Một chiến lược khác của Bắc Kinh nhằm bảo đảm an ninh cho nguồn cung cấp dầu đó là tiến tới quốc tế hòa ngành công nghiệp dầu hỏa của Trung Quốc. Bắt đầu từ năm 1996, chính phủ Trung Quốc đã tiến hành thực hiện một kế hoạch với mục đích đạt được khoảng 1/3 nguồn năng lượng cần thiết của Trung Quốc thông qua các hoạt động thu thập và khai thác ở nước ngoài.12 Mặc dù mức độ nhập khẩu dầu của Trung Quốc vào thời điểm đó còn thấp, một nguồn tiền mặt thặng dư bất ngờ trong ngân sách của CNPC năm 1996 đã thúc đẩy Trung Quốc đầu tư ngay lập tức, nhằm ngăn ngừa việc ngân sách dư thừa này sẽ bị phân tán sang nhiều nơi. Thực hiện hướng dẫn của chính phủ trong việc mua lại các mỏ dầu ở nước ngoài, năm 1996 – 1997, CNPC đã nhanh chóng đầu tư vào các mỏ dầu quốc tế ở Sudan, Venezuela, Kazakhstan, và Peru, những nơi đang mở cửa cho các hoạt động thăm dò dầu và đồng thời cũng là những nơi CNPC có nhiều cơ hội có thể giành được các mỏ dầu một cách nhanh chóng. CNOOC cũng thực hiện chiến lược tương tự vào đầu năm 2002 khi mua hai mỏ dầu Widuri và Cinta của Indonesia từ Repsol-YPF với mức giá 585 triệu đô la Mỹ. Điều này đồng nghĩa với việc mỗi ngày sẽ có thêm 100,000 thùng dầu thô nhẹ được xử lý tại các nhà máy lọc dầu sẵn có ở Trung Quốc.13 Các hoạt động thăm dò và đầu tư dầu mỏ ở Trung Đông Trung Quốc cũng đang tích cực tìm kiếm khả năng hợp tác về thăm dò dầu mỏ và đầu tư vào các mỏ dầu ở Trung Đông, bao gồm hai quốc gia Iran và Iraq.14 Tháng 6/1997, CNPC và tổ hợp công nghiệp vũ khí nhà nước Northern Industries Cooperation của Trung Quốc đã ký một bản ghi nhớ “hậu cấm vận”, với mục tiêu phát triển mỏ dầu al-Ahdab ở miền trung Iraq. Dự án này chỉ có thể thực sự bắt đầu sau khi lệnh cấm vận đối với Iraq được Liên Hiệp Quốc gỡ bỏ. Mỏ dầu này ước tính chứa khoảng 360 triệu thùng dầu và cần một khoảng đầu tư khai thác 1,3 tỷ đô la Mỹ. Tuy nhiên, do lệnh cấm vận của Liên Hiệp Quốc, hoạt động của các công ty dầu lửa Trung Quốc hầu như chỉ giới hạn trong việc thăm dò khu vực mỏ dầu ở al-Ahdab. Năm 1998, CNPC bắt đầu tiến hành thương lượng về mỏ dầu thứ hai, mỏ Halfayah, nhưng không đạt được thỏa thuận nào. CNPC cũng đã tìm kiếm các khả năng hợp tác với Iran nhưng cuối cùng cũng không có giao dịch nào được thực hiện.15 Bảng 5: Các dự án đầu tư về dầu mỏ của Trung Quốc giai đoạn cuối 1990 Quốc gia Tên dự án Năm Giá trị đầu tư ký hợp đồng (triệu USD) Tổng giá trị Đóng góp nước ngoài Sudan Lô 1,2,4Lô 6Nhà máy lọc dầu 199619971997 187.373.0256.20 105.38-28.11 Kazakhstan ArkbinskUzen 19971997 91.3364.08 -44.16 Venezuela 1997 82.59 - Peru Lô 6,7 1997 6.14 - Iran Al – Ahdab 1997 64.83 - Nigeria 1997 26.09 13.04 Canada JV 1997 1.80 - Tổng 583.63 Nguồn Xiaojie Xu, “China and the Middle East: Cross Investment in the Energy Sector”, Middle East Policy, vol. vii, no. 3, June 2000. Trung Quốc đã theo đuổi các hợp đồng “đầu tư chéo” với Ảrập Xêut 16, theo đó, Trung Quốc sẽ để cho các công ty Ảrập đầu tư vào công nghệ lọc dầu tại Trung Quốc, trong khi các công ty dầu lửa của Trung Quốc sẽ thực hiện các hoạt động khai thác dầu thô tại Ảrập. Cả Riyadh và Bắc Kinh đều đạt được lợi ích của mình: Trung Quốc bảo đảm cho dầu thô của Ảrập Xêut một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng đang tăng trưởng; trong khi Ảrập Xêut với vị thế là nước cung cấp dầu lớn nhất thế giới, lại là nguồn cung quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng của Trung Quốc. Nền tảng của hợp tác Trung Quốc – Ảrập là một hiệp định được ký vào tháng 9/1999 khi Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đến thăm Ảrập Xêut. Theo hiệp định này, Trung Quốc cam kết mở cửa ngành công nghiệp lọc dầu của mình cho Ảrập Xêut. Tuy nhiên đồng thời, hiệp định cũng quy định Ảrập Xêut sẽ mở cửa thị trường nội địa cho các đầu tư của Trung Quốc, ngoại trừ trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu mỏ.17 Do thiếu hụt về tài chính, Trung Quốc rất hào hứng với khoản tài chính của Arab Saudi trong những dự án đầu tư, điều này cho phép các nhà máy lọc dầu của Trung Quốc có thể xử lý một lượng lớn dầu thô của Arập. Tuy nhiên, sự có mặt của các doanh nghiệp nước ngoài vào ngành công nghiệp lọc dầu của Trung Quốc chẳng dễ dàng gì, và hầu như rất ít dự án có thể diễn ra suôn sẻ.18 Nhìn chung, chính không khí đầu tư kém thân thiện trong ngành lọc dầu của Trung Quốc đã khiến ngăn cản sự xây dựng các nhà máy trên quy mô lớn để đáp ứng nhu cầu đang tăng của chính quốc gia này. Việc hợp tác giữa Trung Quốc và Trung Đông cũng mang một ý nghĩa chính trị nhất định. Những nhà phân tích chính sách đối ngoại Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt bài viết về tầm quan trọng của việc Trung Quốc cần thúc đẩy đưa ra một chiến lược ở khu vực này.19 Một số học giả lập luận rằng chính ưu thế của phương Tây tại Trung Đông có thể sẽ đe dọa đến nỗ lực tiếp cận với các nguồn cung cấp dầu của Trung Quốc.20 Vì thế, để hạn chế mối đe dọa này, Trung Quốc đã sử dụng vấn đề buôn bán vũ khí quân sự như một cách để thiết lập mối quan hệ khăng khít hơn với các quốc gia trong khu vực, đồng thời bù đắp cho khoản thâm hụt cán cân thanh toán do những hóa đơn mua dầu lớn gây nên.21 Lượng dầu nhập khẩu từ Iran của Trung Quốc đã tăng từ 20,000 thùng/ngày năm 1994 lên đến 60,000 thùng/ngày năm 2000. Cùng lúc đó, Trung Quốc cũng là nhà cung cấp ổn định các thiết bị quân sự cho Iran. Tổng trị giá các tên lửa và thiết bị kỹ thuật tiên tiến Trung Quốc bán cho Iran là 900 triệu đô la Mỹ giai đoạn 1993-1996, và 400 triệu đô la Mỹ giai đoạn 1997 – 2000. Sự sụt giảm này là do áp lực căng thẳng từ phía Mỹ đối với vấn đề buôn bán vũ khí cho Iran.22 Một phần trong chiến lược Trung Đông của Trung Quốc là ủng hộ Iraq tại Liên Hiệp Quốc. Trong thập niên 1990, Trung Quốc đã gia nhập hàng ngũ của Nga và Pháp trong việc kêu gọi Liên Hiệp Quốc sớm dỡ bỏ các lệnh cấm vận đối với Iraq, cũng như phản đối nhiều chiến dịch quân sự nhằm vào Baghdad.23 Quan hệ giữa Ảrập Xêut với Đài Loan cũng xấu đi vào năm 1990, khi nước này thiết lập quan hệ với Bắc Kinh.24 Cuối cùng, Trung Quốc cũng có khả năng phải đương đầu với áp lực khi chấp nhận một mối liên hệ giữa các nguồn cung cấp dầu ở Trung Đông với việc cung cấp các trợ giúp quân sự. Bắc Kinh được coi là lựa chọn thay thế hàng đầu khi các quốc gia muốn tìm kiếm kỹ thuật vũ khí đạn đạo mà Hoa Kỳ không sẵn sàng cung cấp. Vụ tấn công khủng bố 11/9 đã làm suy giảm sự trợ giúp quân sự của Hoa Kỳ đối với Ảrập Xêut, chính vì vậy nước này đang tìm đến Trung Quốc như một nguồn cung cấp khả thi nhằm đa dạng hóa kho vũ khí của mình.25 Tuy nhiên nỗ lực xây dựng quan hệ với các quốc gia vùng Vịnh của Trung Quốc cũng gặp không ít rào cản. Các lệnh cấm vận quốc tế tại Iraq đã ngăn không cho Trung Quốc phát triển hợp tác ở đây, trong khi sự phức tạp về địa chất cùng những khó khăn về điều kiện kinh tế đã ngăn cản các kế hoạch đầu tư vào Iran. Ngoài ra, Ảrập Xêut, nơi mà việc tư nhân hóa các mỏ dầu bị coi là điều cấm kỵ, hiện chỉ dám xem các nguồn đầu tư nước ngoài như một phần của những dự án khai thác nội địa. CNPC cho biết tập đoàn này có rất ít lợi nhuận trong việc đầu tư kiểu này, bởi nó không thể nắm giữ cổ phần trong nguồn cung cấp dầu để có thể mang về Trung Quốc. Các nguồn tin của Trung Quốc cũng bày tỏ quan ngại về khả năng tìm kiếm và khai thác dầu tại khu vực theo cách mà họ thực sự mong muốn.26 Các vấn đề kỹ thuật cũng là một rào cản đối với các hợp tác năng lượng của Trung Quốc tại Trung Đông. Các cơ sở lọc dầu cũ kỹ và lạc hậu của Trung Quốc chỉ được trang bị để xử lý một lượng lớn các sản phẩm dầu thô dạng sáp chất lượng cao nội địa của Trung Quốc, chứ không thể xử lý loại dầu nặng chất lượng thấp được nhập khẩu từ các nước Iraq, Iran, Ảrập Xêut và Kuwait. Để Trung Quốc có thể thật sự có lợi trong việc xử lý các nguồn dầu này, nước này cần đến hàng tỷ đô la đầu tư vào các cơ sở lọc dầu của mình. Mức đầu tư theo kế hoạch của 5 năm tới cũng chỉ giúp Trung Quốc xử lý không quá 1 triệu thùng dầu/ngày đối với loại dầu chất lượng thấp các quốc gia Vùng Vịnh, mặc dù cũng có khả năng Trung Quốc có thể sẽ nhập khẩu được các sản phẩm dầu thô chất lượng cao hơn của Abu Dhabi, Yemen hay Oman.27 Cuối cùng, việc tăng cường nhập khẩu dầu từ các quốc gia Vùng Vịnh có thể gây ra những tổn hại chiến lược. Quân đội của Trung Quốc, mà đặc biệt là hải quân, mặc dù có ưu thế về số lượng đông đảo, nhưng rất khó có khả năng kiểm soát các tuyến đường biển ở Đông Á, và càng ít khả năng bảo vệ các tuyến đường đến khu vực dầu mỏ ở Vùng Vịnh.28 Do đó, trong tương lai trước mắt, có thể khẳng định rằng Trung Quốc sẽ phải dựa vào quân đội Mỹ để bảo vệ các tuyến đường vận chuyển này, hạn chế đáng kể các lựa chọn địa chiến lược cho Trung Quốc. Nguồn dầu ở lục địa Âu Á Chính vì sự bất ổn định của nguồn cung cấp dầu tại Trung Đông, sự thống trị của Hoa Kỳ trên các tuyến đường biển quan trọng và các vấn đề khác đã khiến Trung Quốc quay sang tìm kiếm các nguồn cung cấp bên trong lục địa để thay thế. Một trong những lựa chọn là tăng cường khả năng của nguồn cung từ các quốc gia có biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, tiêu biểu nhất là Nga và Kazakhstan. Những biện pháp này có thể giúp Trung Quốc bớt bị ành hưởng bởi sự thống trị của Mỹ trên các tuyến đường hàng hải quan trọng, cũng như các mối gắn kết với Trung Đông.29 Trong chuyến thăm Nga tháng 07/2001 của lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân, Trung Quốc và Nga đã ký một số hiệp định quan trọng về trao đổi năng lượng, trong đó có một hiệp định kêu gọi xem xét tính khả thi của một đường ống dẫn dầu 400,000 thùng/ngày từ Đông Siberia cho đến Đông Trung Quốc. Dự án này sẽ kết nối thị trường Trung Quốc với lượng dự trữ 11 tỷ thùng dầu của hai vùng Yurubcheno và Takhomskaya hiện đang nằm dưới sự kiểm soát của hai công ty dầu hỏa của Nga là Yukos và Salvneft. Trung Quốc và Nga cũng đang thảo luận xây dựng một kết nối khí thiên nhiên giữa Irkutsk, Yakutia và thị trường Trung Quốc. Một nhóm các tập đoàn, đứng đầu là BP, cũng đang tích cực khai thác mỏ khí Kovykta Đông Siberia với dung lượng 1500 tỷ mét khối khí để xuất khẩu sang Trung Quốc.30 Trung Quốc cũng đang có ý định tăng cường nguồn dầu nhập khẩu từ Kazakhstan thông qua một hệ thống vận chuyển trên mặt đất. Đây là cách vận chuyển có thể tránh được những rủi ro an ninh và sự phụ thuộc so với quãng đường vận chuyển dài bằng tàu chở dầu từ vịnh Ba Tư đến Trung Quốc đã nêu trên. Nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng Trung Quốc đang xem những hoạt động của nó ở Trung Á như một cầu nối tiềm năng với Vịnh Ba Tư.31 Tuy nhiên, chi phí xây dựng của hệ thống ống dẫn vòng quanh lục địa Âu Á có thể sẽ còn cao hơn chi phí vận chuyển dầu từ các quốc gia Trung Đông về bằng đường biển. Điều này buộc Bắc Kinh phải suy nghĩ xem nước này sẽ sẵn sàng chi trả bao nhiêu cho mục tiêu đa dạng hóa nguồn cung cấp dầu.32 Cho đến lúc này, Hội đồng Nhà nước dường như không muốn cam kết một khoản chi lớn như vậy, và vào tháng 8/1999 cơ quan này đã yêu cầu CNPC hoãn kế hoạch xây dựng hệ thống đường ống ít nhất cho đến khi có được sự dự đoán chắc chắn hơn.33 Lượng dầu được sản xuất từ các mỏ dầu của CNPC ở Kazakhstan có thể sẽ được tinh lọc tại các nhà máy lọc dầu trong khu vực, chẳng hạn như ở Iran với điều kiện nước này đổi lại sẽ cung cấp cho CNPC dầu thô tại Vịnh Ba Tư hoặc tại một cảng biển khác.34 Đầu tư đầu tiên của Trung Quốc vào Kazakhstan là vào tháng 6 năm 1997, khi Tổng công ty Xăng dầu Quốc gia Trung Quốc (China National Petroleum Corporation), gọi tắt là CNPC, đồng ý mua lại 60% công ty dầu Aktyubinsk của Kazakhstan với mức tiền 4.3 tỷ đô la Mỹ. CNPC cũng công bố kế hoạch xây dựng 3000 km đường ống trị giá 3.5 tỷ đô la nối liền khu vực Tây Kazakhstan với khu vực Tân Cương Trung Quốc.35 Trung Quốc bày tỏ mong muốn tìm được một nguồn cung cấp dầu thô lâu dài với trữ lượng đáng kể, điều này không chỉ giúp tuyến đường ống Kazakhstan – Tân Cương đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, mà còn làm tăng tính hấp dẫn của dự án xây dựng tuyến đường ống rìa phía Đông nối Tân Cương với vùng công nghiệp trung tâm của Trung Quốc.36 Tuy nhiên, với những lý do tương tự như dự án tuyến đường ống dẫn khí Đông – Tây kể trên, việc xây dựng thực tế tuyến đường ống dẫn dầu này cũng có thể vấp phải nhiều thử thách, đặc biệt khi những bất ổn về kinh tế kết hợp với những rủi ro về chính trị. Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với những vấn đề khu vực tương tự như những vấn đề đã khiến các liên doanh phương Tây hoãn xây dựng hệ thống ống dẫn ở Trung Á. Các xung đột sắc tộc và tình hình bất ổn ở khu vực đã gây không ít khó khăn cho việc tìm kiếm các nhà đầu tư chịu cam kết xây dựng cơ sở hạ tầng và vận chuyển nguồn năng lượng đến các thị trường tiêu thụ.37 Trong trường hợp xuất khẩu năng lượng từ khu vực này sang Trung Quốc, mối đe dọa không chỉ bao gồm sự bất ổn định chính trị của các quốc gia Trung Á, mà còn có những vấn đề chính trị của chính Trung Quốc, như vấn đề những người ly khai Uighur ở Tân Cương, những người này đã không ít lần tấn công vào các cơ sở và thiết bị vận chuyển được lắp đặt.38 Gần phân nửa trong tổng số 16 triệu dân của vùng này tự coi mình là người Uighur.39 Chính sách Trung Á của Trung Quốc là khuyến khích khu vực Tân Cương hòa nhập vào thị trường Trung Á mới nổi – khi mà trao đổi thương mại giữa hai bên đạt 950 triệu đô la Mỹ năm 1998 – trong khi vẫn phản đối các phong trào đòi tự trị của khu vực này, cả các phong trào mang tính thế tục lẫn tôn giáo (Hồi giáo).40 Trong vài thập kỷ qua, Trung Quốc đã đấu tranh chống lại các hoạt động của chủ nghĩa ly khai sắc tộc và chủ nghĩa quốc gia Hồi giáo.41 Chính điều này đã khiến cho mối quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia Trung Đông trở nên khó khăn hơn, đặc biệt mối quan hệ đối với Ảrập Xêut, vốn là nước tích cực ủng hộ các phong trào Hồi giáo trên khắp thế giới. Các thiết chế tôn giáo của Ảrập Xêut đã bày tỏ sự quan tâm tới lợi ích của những người Hối giáo Trung Quốc. Các tổ chức này cũng gây sức ép lên chính phủ Ảrập Xêut buộc phải hỗ trợ cộng đồng Hồi giáo Trung Hoa cả về kinh tế lẫn chính trị ngoại giao. Năm 1998, cố quốc vương Sheikh Abdulaziz bin Baz của Ảrập Xêut đã phát biểu: “Chúng ta có nghĩa vụ đạo đức là giúp đỡ những người anh em Hồi giáo Trung Hoa.”42 Ảrập Xêut một mặt vừa tăng tài trợ cho việc xây dựng các nhà thờ Hồi giáo ở khắp Trung Quốc, mặt khác cũng rất thận trọng trong việc ủng hộ những người Hồi giáo Tân Cương, bởi nước này cũng mong muốn duy trì quan hệ tốt đẹp với Bắc Kinh. Mamoun, nguyên Phó Ngoại trưởng phụ trách về kinh tế và văn hóa của Ảrập Xêut đã nhận xét: “Chúng tôi rất thận trọng trong cách đối xử đối với người Uighur. Chúng tôi có trách nhiệm về việc này với vị thế là quốc gia Hồi giáo dẫn đầu và có ảnh hưởng nhất, tuy nhiên, chúng tôi cũng không muốn chọc giận Trung Quốc.”43 Thực tế, Trung Quốc luôn kiểm soát gắt gao các phong trào Hồi giáo diễn ra trong biên giới của mình. Ông Zhou Gouhai, Bộ trưởng phụ trách Tôn giáo của Trung Quốc đã tuyên bố: “Sau những gì xảy ra cho nước Mỹ (vào ngày 11/9), chúng tôi cần phải đảm bảo rằng Hồi giáo tồn tại ở Trung Quốc phải phù hợp với văn hóa và truyền thống của Trung Quốc.”44 Chiến lược năng lượng của Trung Quốc: Những công thức mới Ngành công nghiệp dầu hỏa của Trung Quốc phàn nàn rằng chính sự thiếu kinh nghiệm về tài chính và pháp lý của CNPC đã khiến cho công ty này khó cạnh tranh với các công ty dầu lửa quốc tế chủ chốt để giành được quyền thăm dò dầu trong các khu vực tiềm năng. Nhà phân tích chính sách đối ngoại Yishan Xia đã nhận định: “Các công ty độc quyền phương Tây, với sự ủng hộ và trợ giúp của chính phủ, đã cạnh tranh và giành được rất nhiều thị trường cung cấp dầu và khí thiên nhiên chủ chốt trên khắp thế giới. Hầu như tất cả các nguồn cung cấp tốt trên thế giới đều đã bị sở hữu và khai thác bởi họ. Có một sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty phương Tây này với nhau. Và chắc chắn, tất cả các công ty này sẽ còn cạnh tranh quyết liệt hơn nữa để ngăn cản các công ty Trung Quốc tiếp cận được với các nguồn dầu mỏ.”45 Chính vì vậy, theo các nhà hoạch định chiến lược Trung Quốc thì lời giải cho bài toán hóc búa này là tập trung mục tiêu thăm dò của Trung Quốc vào những quốc gia, nơi mà các công ty phương Tây, và nhất là các công ty của Mỹ, không dễ gì có thể can thiệp vào được. Các quốc gia đang gánh chịu cấm vận dầu mỏ đơn phương của Mỹ trở thành mục tiêu đầu tư số một của Trung Quốc. Các quan chức của CNPC cho biết trong khi phương án đầu tiên là tập trung thúc đẩy việc mua lại và hợp tác với các công ty dầu ở 16 quốc gia, nổi bật nhất trong số đó là Nga và Kazakhstan, thì những sáng kiến mới đây lại chú trọng đến nguồn năng lượng ở Sudan, Libya và Tây Phi.46 Việc chuyển hướng này không chỉ giúp Trung Quốc tránh được sự cạnh tranh của các công ty của Mỹ, mà còn có khả năng tìm được các nguồn cung cấp dầu có chất lượng phù hợp với các cơ sở lọc dầu của Trung Quốc khi nước này không cần tốn một khoảng tiền lớn đầu tư nâng cấp lại các nhà máy này. Năm 1997, CNPC đã ký một hợp đồng thăm dò và sản xuất với chính phủ Sudan cho những lô ở mỏ dầu Muglad. Đến tháng 7/1999, Trung Quốc thông báo sản lượng của mỏ dầu này đã đạt 150,000 – 200,000 thùng dầu/ngày. 1,540 km đường ống dẫn dầu với khả năng vận chuyển 300,000 thùng dầu/ngày từ Heglid tới Cảng Sudan cũng đã được hoàn tất. Tại đây, CNPC cũng đã xây dựng một nhà máy lọc dầu có công suất 50,000 thùng/ngày.47 Thông qua mạng lưới chi nhánh của mình, CNPC có đủ nhân lực và cơ sở hạ tầng phục vụ việc thăm dò và khai thác dầu trên lãnh thổ Sudan. Công ty này cũng đang lên kế hoạch mở rộng hoạt động của mình ra các vùng khác của Châu Phi, bao gồm Nigeria và Chad, thậm chí cả Niger và Equatorial Guinea.48 CNPC cũng đang tìm kiếm các mỏ dầu ở Algeria, Tunisia, và Lybia.49 Ở các khu vực khác, những hoạt động của Trung Quốc ở Châu Phi còn mang những ý nghĩa địa chính trị và thương mại nhất định. Với mong muốn nắm giữ vị trí lãnh đạo trong số các quốc gia đang phát triển, Trung Quốc cũng tranh thủ tìm kiếm sự ủng hộ của Châu Phi đối với vị thế của nước mình, đặc biệt trong vấn đề Đài Loan.50 Các phái đoàn kinh tế và quân sự của Trung Quốc đến Châu Phi thường tìm cách để có được lời cam kết ủng hộ “một Trung Quốc” từ các quốc gia này.51 Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã giành được sự công nhận ngoại giao về vấn đề này từ Ethiopia, Niger, và Nam Phi. Tuy nhiên, trên thực tế Bắc Kinh vẫn có nhiều việc phải làm: Burkina Faso, Chad, Gambia, Liberia, Malawi, Senegal và Swaziland là một trong số 26 quốc gia vẫn còn công nhận nền độc lập của Đài Loan.52 Quan trọng hơn hết, Trung Quốc cần phải tiếp tục khuyến khích các nước đang phát triển ở đây bằng các dự án kinh tế hoặc các hợp đồng buôn bán vũ khí quân sự, nếu không, nhiều khả năng Bắc Kinh sẽ đánh mất những gì vừa giành được bởi những gói viện trợ cho các quốc gia này của Đài Loan. Chẳng hạn như Senegal đã nhận viện trợ từ Bắc Kinh năm 1971 khi chính thức ủng hộ nước này, nhưng đến năm 1996, Senegal đã đổi lại những tuyên bố trên khi có những mối quan hệ và các gói viện trợ mới từ Đài Loan. Trung Quốc bắt đầu mở rộng buôn bán vũ khí và hợp tác với Châu Phi tại cùng những quốc gia mà nước này theo đuổi các hợp đồng đầu tư thăm dò, khai thác và buôn bán dầu lửa. Những đại diện của Bộ Quốc Phòng Trung Quốc và thành viên cấp cao của Giải Phóng Quân đã đi lại rất nhiều lần giữa Trung Quốc và Châu Phi trong hai năm 2000, 2001 với các quốc gia viếng thăm chủ yếu như Angola, Cameroon, Cote d’Ivoire, Congo, Gabon, Ghana, Ethiopia, Namibia, Niger, Nigeria, Sudan và Zimbabwe. Phái đoàn của một số trong số các quốc gia kể trên cũng đã có nhiều chuyến thăm đến Bắc Kinh. Tây Phi và Libya sẽ ngày càng trở thành những nhà cung cấp dầu quan trọng của thị trường dầu thế giới. Sản lượng có thể sẽ tăng từ mức 5 triệu thùng/ngày hiện tại lên đến 7 – 11 triệu thùng/ngày trước năm 2010, nhằm bù vào khoảng sản lượng dầu bị giảm sút của các mỏ dầu ở Biển Bắc của Anh. Tuy nhiên, ngành sản xuất dầu của Châu Phi cũng sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các vấn đề của lục địa này. Bất ổn chính trị và các xung đột vũ trang đã ngăn cản sự phát triển của ngành công nghiệp dầu mỏ cũng như việc xuất khẩu dầu của các nước Sudan, Angola, Chad và Nigeria. Việc buôn bán vũ khí của Trung Quốc có thể đã làm trầm trọng thêm các vấn đề này. Có một điều chắc chắn là mức độ xuất khẩu vũ khí của Trung Quốc thấp hơn nhiều so với con số này của Mỹ hay Nga, cũng như Trung Quốc chỉ tập turng buôn bán các loại vũ khí nhỏ, vũ khí thông thường cho các nước đang phát triển. Trung Quốc đã đạt mức thu khoảng 970 triệu đô la Mỹ hàng năm trong giai đoạn 1993 – 2000. Tuy nhiên, bởi Trung Quốc vẫn có khả năng cung cấp các loại vũ khí kỹ thuật cao và phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt (và thực tế nước này đã bị cáo buộc về hành động này với Pakistan, Iran và Bắc Triều Tiên), việc xuất khẩu vũ khí của Trung Quốc đang là một vấn đề đáng được quan tâm.53 Sự mở rộng hoạt động của quân đội Trung Quốc không chỉ ở Trung Đông mà còn sang Bắc và Tây Phi đã gây nên một mối lo ngại mới rằng Trung Quốc có thể sẽ xuất khẩu các thiết bị quân sự nguy hiểm sang những thị trường mới này. Tác động đối với phương Tây Nếu chính sách ngoại giao năng lượng của Bắc Kinh với các quốc gia sản xuất dầu chủ chốt tiếp tục gắn liền với việc tăng cường buôn bán vũ khí quân sự thì hậu quả kéo theo sẽ là sự bất ổn định đe dọa an ninh năng lượng của chính Trung Quốc. Trong bất cứ trường hợp nào, việc chuyển giao kỹ thuật nhạy cảm cho một trong số các quốc gia này sẽ gây bất lợi lớn cho quan hệ Trung – Mỹ. Trung Quốc nên hiểu rằng vẫn có những chiến lược thay thế bảo đảm an ninh năng lượng. Các quốc gia trong tổ chức OECD rất giàu kinh nghiệm trong việc sử dụng các thể chế quốc tế và các cách tiếp cận đa phương để giảm bớt những tổn thất khi các nguồn cung cấp dầu bị gián đoạn. Các nước này thường hoạt động cùng nhau để tránh những mối liên hệ song phương giữa nguồn cung cấp năng lượng với các vấn đề chính trị không liên quan. Các nước phương Tây sẽ có lợi khi lôi kéo được Trung Quốc gia nhập vào nhóm các nước tiêu thụ dầu lớn khác để đối phó với các tình huống khi nguồn cung cấp dầu bị gián đoạn, hoặc xử sự với những nước đã gây ra tình trạng gián đoạn đó. Bắc Kinh cần thiết phải xây dựng một chiến lược dự trữ dầu hợp lý nhằm giảm bớt những tổn hại của Trung Quốc trước các biến động trong thị trường dầu thế giới. Sử dụng nguồn dự trữ này, cũng như việc hợp tác với các nước khác trong Cơ quan Năng lượng Quốc tế IEA, có thể giúp giảm bớt tình trạng cạnh tranh căng thẳng giữa các nước trong một thế giới khát dầu mỏ, đồng thời ngăn chặn khả năng một nước hoặc một nhóm các nước sản xuất dầu mỏ ngừng cung cấp nguồn năng lượng này vì mục tiêu chính trị. Các quy định của WTO về thương mại quốc tế cũng là một công cụ hiệu quả ngăn chặn các thỏa thuận chính trị tiêu cực giữa nước sản xuất và nước tiêu thụ dầu. Một kho dự trữ dầu chiến lược cũng sẽ có lợi cho các quốc gia tiêu thụ dầu bằng cách xóa bỏ vấn đề “ăn theo” (free-riding) của Trung Quốc khi các nước khác sử dụng kho dự trữ dầu của mình. Nếu các quốc gia tiêu thụ dầu lớn của Châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ đồng ý xây dựng kho dự trữ dầu và giúp phát triển các biện pháp xử lý tình huống khẩn cấp thông qua hợp tác với IEA thì điều này sẽ giúp tăng khối lượng dầu dự trữ có thể sử dụng được trong giai đoạn nguồn cung bị hạn chế mà không đẩy toàn bộ gánh nặng sang cho IEA. Điều này cũng giúp việc phân phối dầu trong giai đoạn khan hiếm trở nên hiệu quả hơn và đồng đều hơn trên khắp toàn cầu, từ đó hạn chế bớt hậu quả của những trục trặc từ nguồn cung cũng như những biến động bất thường của giá dầu thế giới. Những sáng kiến hợp tác năng lượng khác cũng cần được tiến hành. Việc nghiên cứu và phát triển các nguồn năng lượng thay thế đóng vai trò quan trọng, bởi nó không chỉ giúp giảm bớt nhu cầu ngày càng tăng của Trung Quốc vào nguồn dầu nhập khẩu, mà còn giúp đem lại những hiệu quả tốt cho môi trường. Hiện tại Trung Quốc đang hợp tác với Nhật Bản trong nghiên cứu sử dụng than sạch. Những sáng kiến cũng có thể giúp Trung Quốc chuyển từ sử dụng xe hơi chạy xăng sang sử dụng phương tiện giao thông chạy bằng các nguồn nhiên liệu khác như propane, khí thiên nhiên, pin hoặc các nguồn năng lượng mới. Thay đổi này vừa giúp Trung Quốc giảm bớt nhu cầu năng lượng của mình, vừa giúp giảm bớt lượng các-bon và khí thải ô nhiễm trong không khí. Cuối cùng, bất chấp những khác biệt về chính trị, Bắc và Nam Mỹ vẫn sử dụng chung mạng lưới điện và khí đốt thiên nhiên một cách hiệu quả, góp phần cải thiện nguồn cung cấp và hạ chi phí rẻ hơn. Những mạng lưới chung như vậy cũng đã được xây dựng ở Châu Á, bao gồm mạng lưới khí đốt nối liền các quốc gia trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Khai thác nguồn năng lượng vùng Viễn Đông của Nga có thể giúp phát triển một mạng lưới chung tương tự cho khu vực Đông Bắc Á. Các nhà phân tích chính sách ở Bắc Kinh, cũng như các nhà phân tích chính sách phương Tây thường có khuynh hướng khắc phục khó khăn về địa chính trị dầu mỏ bằng cách cạnh tranh trong môi trường nguồn cung khan hiếm. Nhưng thực tế, trong những thập kỷ tới, thị trường năng lượng cũng có thể rơi vào tình trạng dư thừa sản phẩm, cung vượt quá cầu chứ không chỉ khan hiếm nguồn cung cấp. Điều này phụ thuộc vào việc các nước tiêu thụ dầu chủ chốt xây dựng một chương trình hợp tác chung như thế nào. Những hợp tác chung đó có thể ít nhiều giúp cân bằng viễn cảnh bất ổn định khi nhu cầu dầu mỏ của Bắc Kinh tăng cao. Phương Tây nên chủ động sử dụng các kỹ thuật và việc hợp tác chính trị để bảo đảm một nguồn cung cấp năng lượng dồi dào, ổn định với mức giá phải chăng vì sự thịnh vượng chung của nền kinh tế toàn cầu. CHÚ THÍCH ‘Asian Demand Flat, and May Get Worse’, Petroleum Intelligence Weekly, 30 July 2001, p. 2. Những số liệu được cung cấp bởi Asia Pacific Consulting; để xem số liệu từ năm 2010 trở đi của sản lượng quốc gia và lượng sử dụng của bốn tỉnh miền nam xem Sinopec, Zhongguo shiyou shichang xianzhuang ji xiangguan zhengce (The Current Situation in China’s Oil Market and Related Policies) (Beijing: Sinopec Information Center, 1999); để xem hết các thăm dò dầu mỏ, khí thiên nhiên và các sản phẩm từ dầu ở thị trướng Trung Quốc năm 2000 xem China National Petroleum Corporation (CNPC), 2000 nian zhongguo shiyou shichang fenxi baogao (In-Depth Analysis of China’s Oil Market in 2000) (Beijing: CNPC Information Research Center, 2001). Ronald Soligo and Amy Jaffe, ‘China’s Growing Energy Dependence: The Costs and Policy Implications of Supply Alternatives’, working paper (Houston: Baker Institute for Public Policy, Rice University, April 1999), available online at www.bakerinstitute.org/Như trên. Following a 1998 restructuring, CNPC, previously largely an upstream oil and gas enterprise, and Sinopec, previously a refining and distribution enterprise, swapped upstream and downstream assets such that CNPC enjoys almostexclusive exploration and production rights in the north-east, north and north-west, and Sinopec enjoys almost-exclusive distribution rights in the central, south and south-east. Through subsidiary enterprises such as Sinopec’s China Star Petroleum Exploration Corporation, and various oilfield administrations and refineries, CNPC, Sinopec and CNOOC have footholds in the ‘exclusive rights’ territories of each other. Since 1998 all three have undergone semiprivatisation through the establishment of subsidiaries selling shares in Hong Kong, New York and Shanghai capital markets (CNPC’s subsidiary is PetroChina). For a discussion of the restructuring see Steven W. Lewis, ‘Privatizing China’s State-Owned Oil Companies’, working paper (Houston: Baker Institute for Public Policy, Rice University, April 1999), available online at www.bakerinstitute.orgHai công ty Phillips Petroleum và CNOOC đang hợp tác khai thác mỏ dầu Penglai 19-3. Trữ lượng của mỏ dầu này ước tính vào khoảng 500–800 triệu thùng dầu. Trước tháng 8/2002, sản lượng được khai thác vào khoảng 35,000 đến 40,000 thùng/ngày, sau tăng lên đến 65,000 thùng/ngày trước năm 2005. CNOOC tuyên bố dự định tăng sản lượng dầu thô ở biển Bohai lên 360.000 thùng/ngày vào năm 2005. CNOOC cũng dự kiến tăng sản lượng tại mỏ Suizhong 36-1 công ty này sở hữu ngoài khơi Đông Bắc Trung Quốc, lên 69,000 thùng/ngày vào năm tới. Hiện nay mỏ này mới chỉ sản xuất ở mức tối thiểu. Mỏ Zhao Dong của Apache sẽ sản xuất 25.000 thùng/ngày vào cuối năm 2003. Kerr McGee và CNOOOC cũng có một phát hiện mới ở Caofeidian. Petroleum Argus Newsletter, 18 June 2001, p. 10. Energy Intelligence Group database, subscription service, www.energyintel.comCNPC, Sinopec và CNOOC thuê hơn 2 triệu lao động, phần lớn trong số này sẽ mất việc làm vì những kế hoạch thu hẹp quy mô hiện nay. Tái cơ cấu, nhất là đẩy mạnh tư hữu hóa, có vẻ diễn ra rất chậm, tuy nhiên, do chính quyền địa phương và người lao động có lợi ích lớn trong việc cùng nhau phản đối các kế hoạch của chính quyền trung ương và trụ sở công ty ở Bắc Kinh: Trung Quốc không có trợ cấp thất nghiệp quốc gia; hệ thống chăm sóc sức khỏe hay chế độ lương hưu, và do đó chi phí cho thiết lập các quỹ phúc lợi xã hội cho lao động trong lĩnh vực năng lượng do chính quyền địa phương trang trải. Dự án làm tăng sản lượng khí thiên nhiên năm 1997 với việc hoàn thành 864km đường ống từ Erdos đến Bắc Kinh, hiện truyền tải 1bn m3 (bcm) khí thiên nhiên về thủ đô. Công suất của đường ống sau này được dự đoán tăng lên 3 bcm. BP gần đây tuyên bố họ đang rút khỏi đấu giá dự án cần nhiều tỷ đô để đầu tư cơ sở hạ tầng trang thiết bị sử dụng khí thiên nhiên ở Bắc Kinh. BP đã cam kết xây dựng một cổng nhập khẩu LNG ở miền nam Trung Quốc. ‘China’s CNPC Leaps on to Global Oil Production Stage’, Petroleum Intelligence Weekly, 9 June 1997, p. 3. Erica Strecker Downs, ‘China’s Quest for Energy Security’, (Santa Monica, CA: RAND, 2000), p. 14; ‘Chinese Energy Majors in Long March Upstream’, Petroleum Intelligence Weekly, 28 January 2002, p. 3 Để xem mô tả chi tiết chiến lược đầu tư chéo của Trung Quốc ở Trung Đông xem Xu, ‘China and the Middle East: Cross Investment in the Energy Sector’, Middle East Policy, vol. vii, no. 3, June 2000. Như trên. Như trên. Cuối năm 2001, Saudi Aramco, một doanh nghiệp dầu mỏ nhà nước của Saudi, ExxonMobil và Fujian Petrochemical Company đã kí một thỏa thuận hợp tác nghiên cứu tính khả thi của việc nâng cấp nhà máy lọc dầu Fujian lên công suất 250.000 thùng/ngày. Ả Rập Saudi cũng đang dự kiến xây dựng một nhà máy lọc dầu công suất 100.000 thùng/ngày ở tỉnh Shandong và đang thương lượng với Sinopec triển khai nhà máy lọc dầu ở Maoming. Tổng SA của Pháp chiếm 20% trong vốn góp của Công ty Hóa Dầu Tây Thái Bình Dương (WEPEC) cho việc đầu tư vào nhà máy lọc dầu ở Dalian. Exxon, ARCO và Caltex cũng theo đuổi những dự án kinh doanh công nghệ lọc dầu ở Trung Quốc. BP hiện nắm giữ hơn 20% trong nhà máy lọc dầu Zhenhai. Xem Xiaojie Xu, ‘China and the Middle East: Cross Investment in the Energy Sector’; also Qiang Wu and Xuemei Xian, ‘China’s Energy Cooperation with the Middle East’, Strategy and Management, no. 2, 1999, p. 51 (in Chinese), and others cited in Downs, ‘China’s Quest for Energy Security’. Wu and Xian, ‘China’s Energy Cooperation with the Middle East’. John Calabrese, ‘China and the Persian Gulf: Energy and Security’, Middle East Journal, vol. 52, no. 3, Summer 1998, pp. 351–366; and Sergei Troush, ‘China’s Changing Oil Strategy and Its Foreign Policy Implications’, working paper (Washington DC: Center for Northeast Asian Policy Studies, Brookings Institution, Fall 1999) available at www.brook.edu/neasia/paprs/1999%5Ftroush.htmXem dữ liệu và bàn luận trong Richard F. Grimmett, ‘Conventional Arms Transfers to Developing Nations, 1993 to 2000’, (Washington DC: Congressional Research Service, 16 August 2001), p. 58, available on the website of the Federation of American Scientists at www.fas.org/asmp/resourcs/govern/crs2000.pdf. Calabrese, ‘China and the Persian Gulf: Energy and Security’. Như trên. Phỏng vấn với các nhà phân tích công nghiệp dầu mỏ Saudi tháng 12 năm 2001. Phỏng vấn công chức CNPC năm 2001. Xem bảng cung cấp bởi Asia Pacific Consulting in Soligo and Jaffe, ‘China’s Growing Energy Dependence: The Costs and Policy Implications of Supply Alternatives’. Evan Feigenbaum. ‘China’s Military Posture and the New Economic Geopolitics’, Survival, vol. 41, no. 2, Summer 1999, pp. 71–88. James Hsiung, ‘China’s Omni- Directional Diplomacy’, Asian Survey, vol. 35, no. 6, June 1995, pp. 573–586. ‘Russia to China Race’, World Gas Intelligence, 22 August 2001, vol. XII no. 24, p. 1; and ‘Russia Reaches for Chinese Oil and Gas Outlets’, Petroleum Intelligence Weekly, 23 July 2001, p. 4. Xiaojie Xu, ‘The Oil and Gas Links between Central Asia and China: A Geopolitical Perspective’, OPEC Review, March 1999. Để xem những phân tích chi tiết về chi phí bao gồm, xem Soligo and Jaffe, ‘China’s Growing Energy Dependence: The Costs and Policy Implications of Supply Alternatives’. ‘CNPC Shelves China-Kazakhstan Oil Pipeline’, Oil and Gas Journal, 30 August 1999, p. 44; and Quan Lan, ‘Transnational oil pipeline shelved’, China Oil, Gas and Petrochemicals , vol. 7, no. 16, 15 August 1999, p. 2. Downs, ‘China’s Quest for Energy Security’, p. 28. Tony Walker and Robert Corzine, ‘China Buys $4.3bn Kazak Oil Stake’, Financial Times, 5 June 1997, p.9. Amy Myers Jaffe and Martha Brill Olcott, ‘The Geopolitics of Caspian Energy’, in Yelena Kalyuzhnova and Dov Lynch (eds), The Euro-Asian World: A period of Transition, (London: Macmillan Press, 2000). Rajan Menon, ‘Treacherous Terrain: The Political and Security Dimensions of Energy Development in the Caspian Sea Zone’, Analysis, the National Bureau of Asian Research, vol.9, no. 1, 1998, p. 10. ‘Central Asia: China’s Strike’, The Economist, 16 August 1997, p.32. Justin Jon Rudelson, Oasis Identities: Uighur Nationalism Along China’s Silk Road (New York: Columbia University Press, 1998). Dru Gladney, ‘China’s Interest in Central Asia’, in Robert Ebel and Rajan Menon (eds), Energy and Conflict in Central Asia and the Caucasus (Oxford, UK: Roman & Littlefield Publishers, 2000). Không có thông tin mang tính hệ thống nhưng có thể xem những báo cáo gần đây của các nhà quan sát, như Norman Webster, ‘Simmering Discontent: Beijing Continues to Repress any Sign of Islamic Nationalism in Its West’, The Gazette (Montreal), p. B7, 13 October 2001, and Vivien Pik-Kwan Chan, ‘Mosque Leaders’ ‘Re-Education’ Campaign Stepped Up’, South China Morning Post, Business Post supplement, 14 November 2001. Báo cáo từ một bài giảng ở Riyadh tháng 9 năm 20001, như được xuất bản trong ‘The Sino-Saudi Energy Rapprochement: Implications for US National Security’, Nawaf Obaid, Amy Jaffe, Edward Morse, Chad Garcia and Kirk Bromley, US Department of Defense, Office of Net Assessment, Office of the Secretary of Defense, forthcoming, February 2002. Phỏng vấn, Riyadh,15 July 1998, như trên. Phỏng vấn ở Bắc Kinh với BBC World Service, phát sóng ngày 29/12/2001. 45. Yishan Xia, ‘Woguo nengyuan xingshi ji zhanlue zhi wo jian’ (‘My View on China’s Energy Situation and Energy Strategy’), Renmin Ribao (People’s Daily), 10 August 2001, p. 7. (English translation from FBIS-CHI-2001-0810). Kế hoạch phát triển tham vọng năm 1997 của CNPC bao gồm Argentina, Canada, Colombia, Ecuador, Egypt, Indonesia, Kazakhstan, Kuwait, Mexico, Pakistan, Peru, Russia, Sudan, Thailand, United States and Venezuela; see ‘China Wins Sudan Oilfield Project Bid’, Xinhua in English, 31 January 1997, in FBIS-CHI-97-022; information on revised plans from interviews with CNPC officials in2001. ‘CPECC Completes Oilfield Project inSudan’, Xinhua in English, 24 July 1999, in FBIS-CHI-1999-0724. GWDC marketing brochure, 1998, cited in Xu, ‘The Oil and Gas Links between Central Asia and China: A Geopolitical Perspective’. Phỏng vấn công chức CNPC năm 2001. Để xem những tranh luận về sự chấp thuận miễn cưỡng của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế khác như các diễn đàn đối với Trung Quốc cho việc nước này theo đuổi các chương trình chính trị và kinh tế trong chinh sách đối ngoại của mình, xem Robert Boardman, Post-Socialist World Orders (New York: St. Martin’s Press, 1994); để xem sự thay đổi thái độ của Trung Quốc đối với Liên Hiệp Quốc trong thời kì Chiến tranh Vùng Vịnh xem Yitzhak Shichor, ‘China and the Role of the United Nations in the Middle East’, Asian Survey, vol. 31, no. 3, 1991, pp. 255–269. Để xem các bài viết về việc Trung Quốc đã viện trợ phát triển cho các chính phủ ở Châu Phi để giành được sự công nhận chính trị chính thức như thế nào, xem Deborah Brautigam, Chinese Aid and African Development (New York: St. Martin’s Press, 1998). Để xem thêm về sự thay đổi quan điểm ở Châu Phi xem Richard J. Payne and Cassandra R. Veney, ‘China’s Post-Cold War African Policy’, Asian Survey, vol. 38, no. 9, 1998, pp. 867–879. Xem dữ liệu và tranh luận trong Richard F. Grimmett, ‘Conventional Arms Transfers to Developing Nations, 1993 to 2000’; for a discussion of the changing goals of China’s arms sales and a list of sales to individual countries see Daniel L. Byman and Roger Cliff, ‘China’s Arms Sales: Motivations and Implications’ (Santa Monica, CA: RAND, 1999).
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 10:37:42 GMT 9
Xử lý cuộc khủng hoảng Châu Á: IMF và Hàn Quốc
Nguồn: Corning, Gregory (2000). Managing the Asian Meltdown: The IMF and South Korea. Institute for the Study of Diplomacy School of Foreign Service, Georgetown University, Pew Case Study, 1.
Biên dịch: Lê Thị Mỹ Hương, Châu Ngọc Huyền, Trương Thị Thanh Hiền, Đặng Trang Ngọc Khánh, Lê Hoàng Ngọc Yến, Đỗ Hoài Thương |Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Download: Xu ly cuoc khung hoang Chau A
Cuộc chiến tranh Triều Tiên kết thúc vào năm 1953 đã gây nhiều thiệt hại cho Hàn Quốc. Hơn ¼ dân số quốc gia gồm 20 triệu người đã trở thành những người tị nạn vô gia cư và vô tài sản. Việc phục hồi sau chiến tranh đặc biệt khó khăn do sự phân chia bán đảo Triều Tiên với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên nắm giữ hầu hết nguồn tài nguyên thiên nhiên và những cở sở hạ tầng về công nghiệp. Tuy nhiên, hơn 40 năm qua, Hàn Quốc đã phát triển với tỉ lệ tăng trưởng ngoạn mục khi theo đuổi một chính sách phát triển năng động có sự can thiệp của chính phủ. Là một trong bốn con hổ châu Á, Hàn Quốc trở thành một nhà sản xuất tàu, ô tô, hệ thống chip điện tử lớn. Vào giữa những năm 1980, các tập đoàn Hàn Quốc như Huyndai, Samsung, Lucky- Goldstar đã bắt đầu tiến hành những đợt lấn chiếm sâu vào thị trường Mỹ. Tổng sản phẩm quốc gia của Hàn Quốc tăng lên với một tỉ lệ đáng kinh ngạc, đạt 11,6% vào năm 1986 và 12,5% vào năm 1987, cả hai năm đều giữ kỉ lục toàn cầu. Hàn Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 7 của Mỹ và nhanh chóng trở thành nền kinh tế lớn thứ 11 thế giới. Nhưng chỉ một thập kỉ sau đó, Hàn Quốc rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính hết sức tồi tệ.
Vào ngày 3/12/1997, Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF đã chấp nhận bỏ ra 57 tỉ đô la giúp Hàn Quốc thoát khỏi cơn khủng hoảng. Đây là khoản tiền lớn nhất trong số các khoản tiền mà IMF đã từng giúp đỡ các nước. Các điều kiện trong gói giải cứu của IMF khiến Hàn Quốc phải tiến hành những cải cách đầy đau đớn và làm cho nền kinh tế Hàn Quốc bị thu hẹp đáng kể. Đến tháng 4/1998, tỉ lệ thất nghiệp của Hàn Quốc tăng lên 8.5%, hơn năm trước đó 2.5%. Điều này có nghĩa là khoảng 10.000 công nhân đang bị mất việc mỗi ngày. Tỉ lệ phá sản ở các doanh nghiệp nhỏ tăng lên đến mức kỉ lục, ít nhất mỗi ngày có một chủ doanh nghiệp nhỏ đã phải tự tử. Cuộc khủng hoảng mang lại cho những người Hàn Quốc một ý thức mạnh mẽ về chủ nghĩa dân tộc, họ hạn chế nhập khẩu hàng hóa và ra sức phê phán sự can thiệp của IMF vào nền kinh tế quốc gia. Khi tình trạng sa thải công nhân tăng lên, liên minh các nghiệp đoàn Hàn Quốc đã xuống đường biểu tình với những bảng khẩu hiệu như “IMF= I Am Fired”. Các tập đoàn lớn như Samsung và Daewoo yêu cầu nhân viên của mình bán những món đồ trang sức của họ để giúp đất nước tăng ngoại tệ và thanh toán hết nợ. Trong khi đó, những chiếc xe hơi được nhập khẩu vào Hàn Quốc và những người sở hữu chúng đã trở thành mục tiêu cho những nhóm nổi loạn. Hàn Quốc đã bị tuột dốc từ nền kinh tế lớn thứ 11 xuống thứ 17 thế giới chỉ trong vòng vài tuần. Vậy điều này đã xảy ra như thế nào? Tự bản thân Hàn Quốc phải chịu trách nhiệm hay chỉ đơn giản rằng quốc gia này là nạn nhân của một cú sốc kinh tế bên ngoài? Phản ứng phù hợp đối với cuộc khủng hoảng này là gì? Và những quốc gia khác có trách nhiệm hay lợi ích tự thân gì không trong việc giúp phục hồi nền kinh tế của Hàn Quốc?
1. Hàn Quốc và “điều thần kỳ kinh tế Châu Á”
Từ năm 1965 đến năm 1990, Đông Á đã phát triển nhanh hơn Mỹ Latinh gấp 3 lần và gấp 25 lần so với khu vực Châu Phi hạ Sahara. Nguyên nhân chính của thành tựu này là sự tăng trưởng của tám nền kinh tế trong khu vực, bao gồm Nhật Bản; Bốn con hổ châu Á gồm Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan; và những nước công nghiệp mới (NICs) ở Đông Nam Á như Indonexia, Malaysia và Thái Lan. Nền kinh tế Nhật Bản là nền kinh tế đầu tiên cất cánh vào những năm 1950, tiếp theo đó là Bốn con hổ châu Á vào những năm 1960 và các nước công nghiệp mới Đông Nam Á vào những năm 1970. Mặc dù sự tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản đã chậm lại sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nhưng các nền kinh tế khác của khu vực vẫn tiếp tục bùng nổ vào giữa những năm 1990 với tỉ lệ lạm phát thấp và mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt gần 10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Những nền kinh tế này đã thành công ở những mức độ khác nhau trong việc tạo ra những môi trường kinh doanh thuận lợi, thông qua những chính sách nhấn mạnh sự ổn định nền kinh tế vĩ mô và các cấu trúc tài chính và pháp lý khuyến khích đầu tư tư nhân. Họ cũng đã hỗ trợ sự tích lũy tư bản và vốn con người thông qua đầu tư vào giáo dục và những chính sách khuyến khích tiết kiệm. Một số quốc gia trong số này cũng đã hướng sự phát triển kinh tế theo mô hình có sự can thiệp của chính phủ. Các nhà quản lý kinh tế cố gắng định hình các mô hình đầu tư và sản xuất để giúp những công ty quốc gia có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Mặc dù vẫn còn những bất đồng về tác động của những tác nhân giải thích cho sự tăng trưởng này, nhưng cũng có những sự đồng thuận rõ ràng rằng những quốc gia này đã tạo nên sự tiến bộ tuyệt vời, vượt trội trong một khoảng thời gian ngắn. Có thể nói rằng, không nơi nào có sự tăng trưởng kinh tế thời kì hậu chiến tranh gây ấn tượng hơn Hàn Quốc.
Sự trỗi dậy của Hàn Quốc
Hàn Quốc là một nạn nhân của cả chủ nghĩa đế quốc và cuộc Chiến tranh lạnh. Từ năm 1910 đến năm 1945, Triều Tiên là thuộc địa của Nhật. Mặc dù quá trình thực dân hóa đã mang lại không ít sự phát triển về cơ sở hạ tầng cho công nghiệp và nông nghiệp nhưng nó cũng gây nên sự đàn áp nặng nề về ngôn ngữ bản xứ, tôn giáo, lịch sử và văn hóa. Thất bại trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã kết thúc sự chiếm đóng của Nhật Bản ở Triều Tiên. Tuy nhiên, bán đảo đã bị phân chia giữa những nhà lãnh đạo ủng hộ chủ nghĩa cộng sản ở phía Bắc và những nhà lãnh đạo được Mỹ ủng hộ ở phía Nam. Cuối cùng, những căng thẳng giữa hai phe đã khơi mào cho một cuộc nội chiến khi 90.000 người thuộc quân đội nhân dân Bắc Triều Tiên, được trang bị hầu hết vũ khí từ Liên Xô, đã tấn công vào phía Nam vào ngày 25/6/1950. Tháng 6/1950, quân đội của Liên Hiệp Quốc dưới sự chỉ huy của đại tướng Douglas MacArthur đã tham gia vào cuộc chiến tranh – ủng hộ Nam Triều Tiên vào tháng 6/1950, và 5 tháng sau đó, Trung Quốc cũng tham chiến bên phía Bắc Triều Tiên. Sau 3 năm, cuộc xung đột đi đến bế tắc, hiệp định đình chiến được kí kết vào ngày 27/7/1953, chính thức hóa sự phân chia giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên. Tuy có nền văn hóa và lịch sử chung nhưng hai bên từ đó đến nay vẫn duy trì hiệp định đình chiến một cách khó khăn.
Hàn Quốc đã không phát triển nhanh ngay trong những năm ngay sau cuộc chiến tranh Triều Tiên. Gần như một thập kỉ đã bị đánh mất dưới sự lãnh đạo của Syngman Rhee – một người hùng trong phong trào độc lập kháng Nhật- người đã duy trì quyền lực thông qua một hệ thống độc tài sống bằng việc thao túng viện trợ của Mĩ. Sự tăng trưởng ấn tượng của nền kinh tế Hàn Quốc hiện đại chỉ xuất hiện sau khi Park Chung Hee lên cầm quyền thông qua một cuộc đảo chính vào năm 1961. Phải đối mặt với sự suy giảm nguồn viện trợ của Mỹ và nhu cầu thiết lập địa vị lãnh đạo hợp pháp trong nước, Park đã tập trung vào phát triển nền kinh tế.
Park đã thực hiện một chính sách kinh tế tập trung cao độ mang dấu ấn cá nhân. Đầu tiên, ông đã kiểm soát quyền tiếp cận tín dụng bằng cách quốc hữu hóa tất cả các ngân hàng. Luôn thận trọng trước những ảnh hưởng của nước ngoài, chính phủ đã luôn dựa vào các khoản vay hơn là mở cửa thu hút các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ hai, ông đã tập trung hóa việc lên kế hoạch, ngân sách và giám sát các chính sách kinh tế thông qua một bộ máy quan liêu chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp cho Park. Thứ ba, ông tăng cường sự liên kết giữa giới quân sự và một nhóm nhỏ những doanh nghiệp thành công, dùng đó làm phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời củng cố quyền lực. Park đã sử dụng các tập đoàn gia đình lớn, gọi là các chaebol, làm công cụ chính thúc đẩy tăng trưởng. Chính vì nhà nước kiểm soát tiếp cận đối với tín dụng, các chaebol này nhanh chóng thống trị nền kinh tế. Trong suốt những năm 1970, các chaebol đã mở rộng và xâm nhập vào các ngành công nghiệp quan trọng. Từ năm 1972 đến năm 1979, trung bình số công ty được sở hữu bởi 10 chaebol lớn nhất tăng từ 7,5 lên 25,4. Trong khi đó, trung bình số ngành công nghiệp mà họ tham gia kinh doanh tăng từ 7,7 lên 17,6. Sự mở rộng của các chaebol được cung cấp tài chính thông qua các khoản vay quy mô lớn do nhà nước bảo lãnh. Thật vậy, hầu hết các chaebol đều vay mượn vượt quá giá trị tài sản chủ sở hữu. Mặc dù tỉ lệ nợ so với tài sản ở mức 2:3 không phải hiếm ở các công ty phương Tây thì trong suốt những năm 1970, tỉ lệ lên tới 4:1 cũng rất phổ biến đối với các chaebol.
Park bị ám sát vào năm 1979. Hai tháng sau, Chun Doo Hwan lên cầm quyền trong một cuộc đảo chính quân sự khác. Ban đầu, chính phủ của Chun phải đối mặt với những vấn đề kinh tế hết sức nghiêm trọng. Những khoản nợ từ chương trình công nghiệp nặng hóa của Park vào những năm 1970, sự suy thoái từ sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1979, và mùa màng thất bát đã khiến kinh tế suy thoái mạnh. Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) giảm 5,2% vào năm 1980, nhưng với sự giúp đỡ của một chương trình thắt lưng buộc bụng do IMF bảo trợ, nền kinh tế đã nhanh chóng lấy lại sự ổn định. Để tài trợ cho sự tăng trưởng và điều chỉnh nền kinh tế, Hàn Quốc đã vay mượn rất nhiều từ thị trường vốn quốc tế, trở thành nước mắc nợ nhiều thứ tư trong số các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các ngân hàng nước ngoài đã không hề e ngại vì thành tích xuất khẩu của Hàn Quốc liên tục được cải thiện. Sự tăng giá của đồng Yên Nhật theo sau hiệp ước Plaza được kí kết vào năm 1985 đã giúp hạ giá các hàng xuất khẩu của Hàn Quốc so với hàng hóa của Nhật Bản. Điều này đã khởi đầu cho thời kỳ bùng nổ xuất khẩu của các chaebol khi TV và đầu VCR được sản xuất bởi Daewoo và Lucky Goldstar bắt đầu xuất hiện ở các gian hàng của Mỹ, và các loại xe ô tô của Huyndai bắt đầu cạnh tranh với những mẫu xe hạng thấp của Toyota và Nissan. Một thập kỉ trước, các khách hàng Mỹ không biết đến hàng hóa Hàn Quốc, thì nay các thương hiệu của Hàn Quốc đã ngày càng trở nên quen thuộc với người Mỹ. Việc chọn Seoul làm chủ nhà của Olympic mùa hè năm 1988 biểu tượng cho việc thừa nhận sự nổi lên của Hàn Quốc với tư cách là một quốc gia công nghiệp tiên tiến.
Sự phát triển của Hàn Quốc trở thành một quốc gia chế tạo lớn đã làm tăng sức ép từ nước ngoài lẫn trong nước đối với việc mở rộng tự do kinh tế. Đối mặt với khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng của Hàn Quốc, các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, đã ép Hàn Quốc tăng cường nhập khẩu và mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Trong một nỗ lực nhằm nắm quyền kiểm soát các chaebol, chính quyền Chun đã tư hữu hóa hệ thống ngân hàng, giảm việc “cho vay theo chính sách” đối với các khu vực chiến lược, buộc các chaebol phải tái cơ cấu, tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh chủ chốt. Tuy nhiên, việc tự do nền kinh tế tiến triển chậm chạp, một phần vì quá nhiều thời gian và sức lực được dành cho việc tự do hóa chính trị.
Sau khi chính quyền Chun bước khỏi vũ đài chính trị vào năm 1988, các chính quyền dân sự của Roh Tae Woo (1988 – 93) và Kim Young Sam (1993 – 98) đã theo dõi từng bước sự mở cửa hệ thống chính trị với kết quả cuối cùng là việc bầu nhà hoạt động dân chủ lâu năm Kim Dae Jung làm tổng thống vào tháng 12/1997. Thập kỷ này được ghi dấu bởi những nỗ lực khó khăn trong việc chấp nhận những sự vi phạm nhân quyền của các chế độ Park và Chun, cũng như những nỗ lực không thành nhằm tước bỏ các chaebol và các nghiệp đoàn những đặc quyền từ thời kỳ công nghiệp hóa của Park. Các chaebol chủ chốt đã trở nên quá lớn đến mức các ngân hàng ít khi dám từ chối tín dụng cho các chaebol này. Đối với các chaebol, càng nhiều tài sản đồng nghĩa với càng nhiều tài sản bảo đảm cho các khoản vay ngân hàng vốn được sử dụng để mua thêm thậm chí nhiều tài sản hơn nữa. Một vài chaebol quá lớn và tuyển dụng quá nhiều người khiến chính quyền dường như không dám để chúng sụp đổ. Chính môi trường mở rộng không được kiểm soát này có lợi cho các công nhân, những người trở nên quen thuộc với những bảo đảm có việc làm suốt đời.
2. Từ điều thần kỳ đến khủng khoảng
Nền kinh tế Hàn Quốc vào giữa thập niên 1990
Thậm chí trước khi nỗi hoang mang bắt đầu quét qua Châu Á vào tháng 7/1997, nền kinh tế Hàn Quốc đã bắt đầu gặp phải một số vấn đề. Đầu tiên là sự phá sản vào tháng 1/1997 của tập đoàn Hanbo, chaebol lớn thứ mười bốn của Hàn Quốc. Tại thời điểm giá thép giảm và sản xuất dư thừa tại Hàn Quốc, số nợ của công ty sản xuất thép của Hanbo đã lên đến 4,39 tỉ đô la Mỹ – gấp 22 lần giá trị tài sản của công ty này – khoản tiền vốn được vay để xây dựng một nhà máy thép mới. Việc phá sản của công ty thép Hanbo đã dẫn tới sự sụp đổ của bốn nhóm công ty khác và có nguy cơ khiến Korea First, một trong những ngân hàng lớn nhất của quốc gia, sụp đổ. Các công tố viên đã truy tố hơn mười người, bao gồm bốn thành viên quốc hội và các lãnh đạo của tập đoàn Hanbo và Korea First, về tội tham nhũng và các cáo buộc khác liên quan đến sự sụp đổ của các chaebol. Trước sự tức giận của giới truyền thông cùng sự giám sát gắt gao của chính phủ, thêm tám trong số ba mươi chaebol dẫn đầu của Hàn Quốc đã phá sản, bao gồm cả Kia Motors.
Sự sụp đổ của nhiều chaebol trong một khoảng thời gian ngắn như vậy cho thấy một vấn đề thứ hai sâu sắc hơn trong hệ thống tài chính của Hàn Quốc. Từ kỷ nguyên của Park với việc cho vay theo chính sách bởi các ngân hàng quốc doanh, khu vực tài chính đã hoạt động dựa trên cơ sở một hệ thống thân quen gọi là “cho vay kết nối” chứ không dựa vào các phán xét độc lập về rủi ro tín dụng và dòng tiền dự kiến của người vay. Trong nhiều thập kỷ, các tổ chức tài chính phương Tây đã mong muốn kiếm được lợi nhuận nhất định bằng cách cho các ngân hàng Hàn Quốc vay để giúp đỡ cho sự bùng nổ kinh tế ở đất nước này. Đến lượt mình, các ngân hàng Hàn Quốc hăm hở cho các chaebol đói vốn vay để tập trung vào việc mở rộng các ngành kinh doanh mới. Việc các ngân hàng chấp nhận cho các chaebol duy trì một tỉ lệ nợ so với tài sản cao như vậy dẫn đến sự tích tụ các khoản nợ nước ngoài đáng kể ở Hàn Quốc. Đến cuối năm 1996, tổng nợ nước ngoài của Hàn Quốc xấp xỉ 180 tỉ USD, trong đó 130 tỉ USD đến hạn phải trả trong vòng một năm. Mặc dù đáng kể, số tiền này không quá lớn theo tiêu chuẩn toàn cầu để khiến thị trường tài chính quốc tế phải lo lắng. Tuy nhiên, hàng loạt các chaebol phá sản trong năm 1997 đồng nghĩa với việc một tỉ lệ gia tăng trong số nợ đó sẽ trở thành những khoản nợ xấu, khó có khả năng được hoàn trả.
Diễn biến thứ ba báo hiệu những vấn đề tương lai là thâm thụt tài khoản vãng lai của Hàn Quốc gia tăng. Tài khoản vãng lai dùng để đánh giá tác động của cách các giao dịch quốc tế đến thu nhập hiện tại, có thể được xem như tài khoản thanh toán của một quốc gia. Nó gồm 4 phần chính: (1) xuất nhập khẩu hàng hóa, (2) xuất nhập khẩu dịch vụ, (3) đầu tư và các khoản thanh toán thu nhập, và (4) xuất nhập khẩu của chính phủ và viện trợ nước ngoài. Nguyên nhân sâu xa của sự tăng thâm hụt cán cân vãng lai ở Hàn Quốc là do xuất khẩu tăng chậm lại. Năm 1995, xuất khẩu Hàn Quốc tăng 30%, trong khi vào năm 1996 chỉ tăng 4%. Sự giảm sút này bắt nguồn từ một số yếu tố bên ngoài bao gồm việc giảm giá đồng Yên, một chu kỳ dư thừa trong nền công nghiệp điện tử toàn cầu, và sự cạnh tranh gia tăng của hàng xuất khẩu đến từ Trung Quốc vốn có chi phí nhân công thấp hơn.
Nói tóm lại, sự sụp đổ của tập đoàn Hanbo đã làm tăng sự lo lắng về tình hình của một vài chaebol và sự phụ thuộc vào các “khoản vay kết nối” trong hệ thống tài chính Hàn Quốc. Thêm vào những sức ép này là sự suy thoái của khu vực xuất khẩu. Tuy nhiên, dường như chính phủ Hàn Quốc lẫn các nhà đầu tư quốc tế đều không hề nghi ngờ về các yếu tố cơ bản của mô hình kinh tế Hàn Quốc. Đến tháng 6/1997, thị trường chứng khoán Hàn Quốc đang trên đà ổn định, tỷ giá hối đoái Won – Đô la tương đối bình ổn, và vốn quốc tế tiếp tục chảy vào Hàn Quốc. Tuy nhiên, tình trạng này thay đổi đáng kể trong vài tháng tiếp theo khi một cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Thái Lan lan rộng ra khắp Châu Á.
Căn bệnh truyền nhiễm Châu Á
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á bắt đầu từ Thái Lan vào mùa hè năm 1997. Xét trên nhiều tiêu chí, tình hình Thái Lan tương đối tốt. Kinh tế tăng trưởng gần 10% mỗi năm trong một thập kỷ, lạm phát thấp và ngân sách thặng dư. Tuy nhiên, mức tăng trưởng ấn tượng cùng với những quy định kế toán lỏng lẻo đã ngụy trang cho những món nợ nước ngoài ngày càng phình to. Mong muốn tận dụng các cơ hội tăng trưởng ở Thái Lan, các nhà đầu tư nước ngoài thi nhau bơm tiền vào nước này. Tuy nhiên, theo thời gian, các quỹ này ngày càng dồn vào các khoản đầu tư mang tính đầu cơ trong những lĩnh vực như bất động sản. Tới năm 1997, các ngân hàng Thái Lan đã nắm giữ 15 tỉ đô la những khoản nợ xấu của các nhà đầu tư bất động sản. Việc giảm tốc độ xuất khẩu suốt năm 1997 đã làm suy yếu khả năng của các doanh nghiệp Thái Lan trong việc trả nợ. Sự lo ngại ngày càng tăng về khả năng những doanh nghiệp này tuyên bố vỡ nợ làm tăng nguy cơ đồng Baht bị mất giá. Nhưng chính quyền Thái Lan lo sợ rằng việc đồng Baht mất giá nhiều hơn sẽ làm tăng chi phí vay nước ngoài và làm gia tăng gánh nặng nợ nần của những công ty đã vay bằng ngoại tệ. Trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm nâng giá đồng nội tệ, chính phủ Thái Lan đã rút hết những khoản dự trữ ngoại tệ của mình để mua vào đồng Baht trên thị trường tiền tệ quốc tế. Khi việc này thất bại, Ngân hàng trung ương Thái Lan không còn lựa chọn nào nữa và đồng Baht mất giá thê thảm hơn 40% trong vòng một tháng.
Trong vài ngày, đồng ringgit của Malaysia cũng phải chịu sức ép. Cũng như Thái Lan, Malaysia đã chứng kiến sự bùng nổ đầu cơ đi kèm với những món nợ lớn. Tuy nhiên hệ thống ngân hàng của nước này được quản lý tốt hơn và Malaysia dựa vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều hơn so với các khoản vay, giúp cho nền kinh tế ít bị tổn thương hơn trước các đợt rút vốn ồ ạt. Đổ lỗi cuộc khủng hoảng là do “các nhà đầu cơ bất hảo” và “những nhà tài phiệt Do Thái”, chính phủ có tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cao độ của thủ tướng Mahathir Mohammed đã từ chối tìm kiếm sự giúp đỡ từ IMF. Khi Malaysia nỗ lực hết sức để bảo vệ đồng ringgit, đồng rupiah của Indonesia cũng bị tấn công mạnh mẽ. Sau một cố gắng tuyệt vọng để nâng giá đồng rupiah, Ngân hàng Indonesia cuối cùng đã phải thả nổi đồng nội tệ vào giữa tháng Tám. Trong vòng hai tháng tiếp theo, giá trị của đồng rupiah giảm hơn 30%, buộc Indonesia phải tìm đến IMF để được giúp đỡ vào tháng 10. Ba quốc gia Đông Nam Á đã sụp đổ như những con cờ domino chỉ trong vòng 3 tháng.
Cơn bão khủng hoảng Châu Á di chuyển lên phía Bắc khi thị trường tài chính bắt đầu theo dõi Hồng Kông một cách chặt chẽ hơn. Trên nhiều phương diện, nền kinh tế Hồng Kông đang trong tình trạng tốt hơn các quốc gia Đông Nam Á. Nhưng khi Hồng Kông tăng lãi suất để bảo vệ đồng tiền của mình trước nguy cơ tấn công tiền tệ, các nhà đầu tư lại lo sợ về khả năng phá giá đồng tiền, và thị trường chứng khoáng đã sụp đổ. Sự lao dốc ngày 23/10 của thị trường chứng khoáng Hồng Kông đã xóa sạch 29,3 tỉ đô la khỏi giá trị các cổ phiếu, gây nên những cú sốc trên thị trường quốc tế. Bốn ngày sau đó, chỉ số Dow Jones Industrial Average giảm 554 điểm, và tại thời điểm đó, đây là số điểm bị mất lớn nhất chỉ trong một ngày.
Bên cạnh tác động trực tiếp lên thị trường chứng khoán trên toàn thế giới, cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á còn làm nổi lên một số mối quan ngại về an ninh và kinh tế rộng lớn hơn. Trước tiên, các ngân hàng Mỹ, Châu Âu, và Nhật Bản phải đối mặt với viễn cảnh các khoản nợ xấu trị giá hàng chục tỷ đô la của các chaebol Hàn Quốc. Nguy cơ vỡ nợ gây lo ngại nhiều nhất cho các ngân hàng Nhật Bản, vốn là chủ nợ lớn của khu vực. Nhật Bản vẫn đang phải cố gắng đối phó với cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng yếu ớt của mình xảy ra sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng vào năm 1989. Thứ hai, cuộc khủng hoảng châu Á còn tác động tới hệ thống thương mại; các thị trường xuất khẩu của các công ty Mỹ và Châu Âu ở Đông Á có thể thu hẹp trong khi việc đồng won bị phá giá và những nỗ lực tuyệt vọng của các chaebol nhằm tăng doanh số bán hàng có thể dẫn đến việc giá xuất khẩu các mặt hàng của Hàn Quốc giảm mạnh. Cuối cùng, xuất hiện những mối lo ngại cho rằng cuộc khủng hoảng tiền tệ có thể làm suy yếu nền dân chủ non trẻ của Hàn Quốc và Đài Loan, làm phức tạp thêm sự chuyển tiếp quyền lãnh đạo ở Indonesia, và dẫn đến những căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên vốn có thể gây bất ổn cho toàn khu vực.
Khủng hoảng đổ bộ vào Hàn Quốc
Khi cuộc khủng hoảng Châu Á lan rộng lên phía Bắc, các nhà đầu tư lo sợ bắt đầu theo dõi Hàn Quốc một cách sát sao. Hệ thống tài chính yếu kém của Hàn Quốc, các khoản nợ khổng lồ của các ngân hàng Hàn Quốc và các chaebol, và thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng xấu đi của Hàn Quốc bây giờ được coi là tồi tệ hơn nhiều so với một vài ngày ngắn ngủi trước đó. Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút khỏi thị trường chứng khoán Hàn Quốc càng nhanh càng tốt. Sự tháo chạy ồ ạt của các nguồn vốn đã đẩy đồng won Hàn Quốc xuống thấp kỷ lục mỗi ngày; tình trạng rơi tự do của đồng won chỉ được kìm hãm nhờ sự hạn chế lưu chuyển đồng tiền hàng ngày. Ngân hàng trung ương Hàn Quốc đã can thiệp sâu vào thị trường tiền tệ bằng cách mua đồng won để nâng giá trị của đồng tiền. Nhưng nỗ lực này chỉ mang lại kết quả rất khiêm tốn và làm cạn kiệt nguồn dự trữ ngoại tệ của nhà nước. Khi đồng won tiếp tục xuống dốc, Hàn Quốc nhận thấy rằng họ cần có sự giúp đỡ về mặt tài chính. Đầu tiên, họ tìm đến các nguồn vốn của Nhật Bản và Mỹ. Tuy nhiên, cả hai nước này đều không sẵn lòng giúp đỡ nếu Hàn Quốc không nhờ đến IMF trước tiên.
Hàn Quốc muốn tránh IMF vì hai bên nhận thức khác nhau về nguồn gốc của cuộc khủng hoảng. Hàn Quốc chỉ đơn giản cho rằng họ là nạn nhân của cuộc khủng hoảng châu Á. Các nhà đầu tư bắt đầu lo sợ về Hàn Quốc bởi các nền kinh tế khác trong khu vực đang lâm vào khó khăn. Khi các nhà đầu tư bắt đầu rút khỏi Hàn Quốc, đồng won cũng bắt đầu mất giá. Vì biết rằng họ sẽ chịu nhiều thiệt hại nếu tiếp tục ở lại nên nhiều nhà đầu tư đã rút khỏi thị trường Hàn Quốc. Vì vậy, khủng hoảng đến từ nhận thức của nhà đầu tư hơn là từ bất cứ điều gì khác. Theo nhận định của IMF, cuộc khủng hoảng Châu Á có nguyên nhân kết hợp từ sự mất cân bằng trong nền kinh tế vĩ mô và những vấn đề cấu trúc nền tảng, trong đó có sự yếu kém bám rễ sâu trong các thể chế tài chính và việc thiếu giám sát hệ thống ngân hàng. Seoul cũng biết rằng sự giúp đỡ của IMF sẽ kèm những điều kiện về việc tái cơ cấu ngành ngân hàng và các công ty. Điều đó sẽ phá hủy mô hình phát triển của Hàn Quốc.
Vào giữa tháng 11/1997, Giám đốc Điều hành của IMF, Michel Camdessus và nhà đàm phán phụ trách Châu Á, Hubert Neiss, đã đến Hàn Quốc và bắt đầu những cuộc thương luợng bí mật với chính phủ Hàn Quốc. Sợ rằng tin tức về các cuộc thương lượng có thể bị tiết lộ và kích động sự lo lắng trên thị trường tài chính thế giới, họ đã nhận phòng bằng hai cái tên Hàn Quốc trong một khách sạn ở ngoại ô thành phố Seoul và dùng bữa ngay trong phòng. Vào ngày 21/11, Hàn Quốc đã đề nghị IMF giúp đỡ 20 tỷ USD. Trong vòng một tuần, Seoul đã tăng đề nghị của họ lên trên 50 tỷ USD. Nhưng đất nước này vẫn miễn cưỡng trong việc chấp nhận các điều kiện mà IMF đề ra. Khi Camdessus quay trở lại Hàn Quốc vào đầu tháng 12, Thứ trưởng Bộ Tài chính đã ra đón ở sân bay và trao cho ông lịch làm việc trong ngày. Chương trình làm việc gồm có 45 phút đàm phán, một cuộc gặp ngắn với Tổng thống và sau đó là lễ ký kết. Để chống lại những nổ lực của Hàn Quốc trong việc lên chương trình làm việc, Camdessus đã nhanh chóng yêu cầu đàm phán thêm. Tin tức về sự thất bại của những cuộc thương lượng đã đẩy thị trường xuống thấp hơn nữa. Bị dồn vào chân tường, chính phủ Hàn Quốc đã không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận những điều kiện của IMF.
3. Xử lý cuộc khủng hoảng
Gói cứu trợ của IMF
Chi tiết về khoản cho vay lên tới 57 tỷ USD của IMF đã được công bố vào ngày 3/12/1997. Các bên cam kết đóng góp số tiền như sau: IMF (21 tỷ USD), Ngân hàng Thế giới (10 tỷ USD), Ngân hàng Phát triển Châu Á (4 tỷ USD), Nhật Bản (10 tỷ USD), Mỹ (5 tỷ USD), Anh, Pháp, Đức và Italy (mỗi nước 1,25 tỷ USD). IMF sẽ cung cấp khoản giải ngân ban đầu của gói cứu trợ, trong khi các cam kết của Mỹ và các nước khác sẽ là phụ trợ và được giải ngân khi cần thiết. Gói cứu trợ này không phải nhằm thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của Hàn Quốc. Mục đích của nó là để khôi phục lại nguồn dự trữ ngoại tệ của Hàn Quốc nhằm củng cố lòng tin của các chủ nợ, như các ngân hàng của Nhật Bản và các công ty quỹ của Mỹ. Từ đó, họ sẽ giãn nợ đối với các khoản vay ngắn hạn của Hàn Quốc.
Khoản giải ngân ban đầu từ gói cứu trợ đi kèm điều kiện là Hàn Quốc phải thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt như tăng thuế, tăng lãi suất và giảm chi tiêu của chính phủ. Sự kết hợp giữa thuế cao và giảm chi tiêu là nhằm giảm thâm hụt tài khoản vãng lai và để dành tiền phục vụ việc tái cơ cấu nền kinh tế. Tỷ lệ lãi suất cao là nhằm khôi phục lòng tin vào đồng won Hàn Quốc bằng cách làm cho nó hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, tỷ lệ lãi suất cao lại có nhược điểm là làm cho tình trạng yếu kém của các chaebol và các ngân hàng thêm tồi tệ bởi vì nó làm tăng chi phí của các khoản vay. IMF cũng yêu cầu cải cách cơ cấu, bao gồm yêu cầu Hàn Quốc phải: (1) cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tự do hơn trong việc mua cổ phần và nắm tỉ lệ chi phối trong các công ty Hàn Quốc; (2) mở cửa hơn nữa thị trường tài chính nội địa cho các ngân hàng và các công ty bảo hiểm nước ngoài; (3) yêu cầu các ngân hàng cho vay phải áp dụng các tiêu chuẩn định giá tín dụng của phương Tây, không được theo mệnh lệnh của chính phủ; (4) đóng cửa các ngân hàng vỡ nợ; (5) cải cách bộ luật lao động nhằm làm cho việc sa thải công nhân dễ dàng hơn và làm cho thị trường lao động thông thoáng hơn; và (6) mở cửa thị trường nội địa cho hàng nhập khẩu bằng cách phá bỏ các rào cản và giảm thuế.
Các cuộc cải tổ này đã dẫn đến một sự biến đổi căn bản trong mô hình nền kinh tế Hàn Quốc. Mặc dù, IMF không đề cập đến tương lai của các chaebol, nhưng các cuộc cải tổ được đưa ra nhằm chấm dứt hệ thống cho vay quá mức theo mệnh lệnh của chính phủ của các ngân hàng và vị trí độc tôn của chaebol trong nền kinh tế. Bằng cách yêu cầu các ngân hàng áp dụng các tiêu chuẩn định giá tín dụng của phương Tây, các cuộc cải tổ còn hạn chế các khoản vay cho việc mở rộng của các chaebol. Chúng cũng chấm dứt thông lệ là các công ty mạnh trong một chaebol vay dùm cho các thành viên yếu hơn trong cùng chaebol. Trong khi việc mở cửa lĩnh vực tài chính cho các ngân hàng và các công ty bảo hiểm nước ngoài là để đẩy nhanh việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào hệ thống tài chính thì việc phá bỏ các rào cản nhập khẩu và cắt giảm hàng rào thuế quan là nhằm mục đích chấm dứt tình trạng độc quyền của các chaebol trong nền kinh tế nội địa. Các lĩnh vực khác như ngành công nghiệp ô tô đã từng đóng cửa đối với hàng nhập khẩu thì nay sẽ được trải nghiệm sự khắc nghiệt của môi trường cạnh tranh quốc tế.
Những thay đổi như vậy nhiều khả năng sẽ mang lại hiệu quả cao hơn và nhiều lựa chọn hơn cho người tiêu dùng, nhưng cũng có thể phá vỡ cơ cấu xã hội của quốc gia với sự sụp đổ của thêm nhiều chaebol và các nhà thầu phụ của họ, đồng thời chấm dứt đảm bảo có việc làm suốt đời mà hàng triệu công nhân Hàn Quốc đã được hưởng. Cốt lõi vấn đề không chỉ đơn giản là việc xóa bỏ một vài nhà tư bản lũng đoạn mà còn là cuộc sống thường nhật của công nhân và người tiêu dùng.
Thật không dễ dàng để các nhà lãnh đạo Hàn Quốc có thể từ bỏ những yếu tố cơ bản của một mô hình đã hoạt động rất thành công trong một thời gian dài. Trong nhiều tuần tiếp sau đó, Hàn Quốc dường như đã đi từ sự phản kháng đến lưỡng lự và cuối cùng là cắn răng chấp nhận. Tuy nhiên, các quan chức Hàn Quốc nhận thấy rằng quyền ép buộc cải cách của IMF sẽ không tồn tại nữa một khi IMF hoàn thành việc giải ngân các khoản vay quan trọng trong năm đầu tiên. Theo một quan chức của Bộ Tài chính, “tất cả ảnh hưởng của IMF sẽ không còn trong năm tới nếu nói về các khoản tiền. Sau đó, IMF sẽ cho vay 250 triệu USD mỗi quý. Không đáng kể!” Nói cách khác, Hàn Quốc có thể gạt IMF ra trong tương lai và tiến hành các cuộc cải cách theo ý mình.
Kết quả tức thì của gói cứu trợ của IMF không khả quan. Đồng won vẫn tiếp tục đi xuống khi các chaebol vốn đã vay bằng ngoại tệ nay cần phải bán đồng won mua ngoại tệ để trả nợ. Điều này càng kéo giá trị đồng won đi xuống và làm niềm tin vào nền kinh tế Hàn Quốc bị xói mòn hơn nữa. Tuần ngay sau khi gói cứu trợ của IMF được công bố trở thành tuần tồi tệ nhất trong lịch sử thị trường tài chính Hàn Quốc khi đồng won sụt giá thêm 27% so với đồng USD. Sự rối loạn về mặt tài chính đã làm tê liệt hàng loạt các ngân hàng và các doanh nghiệp, đẩy người tiêu dùng vào một tình trạng hoang mang. Sự thiếu hụt nghiêm trọng đồng USD đã làm cho các ngân hàng không có khả năng thanh toán các thư tín dụng – tức cam kết thanh toán cho người bán sau khi hàng được giao. Các thư tín dụng rất thiết yếu, giúp các hoạt động thương mại quốc tế được trôi chảy; không có các giao dịch tài chính này, Hàn Quốc không có khả năng thu được lợi nhuận cần thiết từ xuất khẩu để khôi phục lại nguồn cung đồng USD của họ. Việc thiếu hụt nguồn vốn trong thị trường tiền tệ Hàn Quốc đã đẩy tỷ lệ lãi suất lên tới 25%; đồng thời, chi phí vay tăng cao đã gây áp lực cho ngay cả những công ty lớn. Người tiêu dùng lo sợ và bắt đầu dự trữ những hàng hóa nhập khẩu như đường và bột mì. Những mặt hàng này đã tăng giá gấp đôi từ tháng 11. Khăn giấy và giấy vệ sinh cũng không còn xuất hiện trên các kệ hàng khi người tiêu dùng lo sợ về sự thiếu hụt bột giấy nhập khẩu.
Tình trạng bất ổn trong dân chúng đã làm tăng áp lực lên hệ thống chính trị Hàn Quốc khi đất nước này đang chuẩn bị tiến hành bầu cử tổng thống vào ngày 18/12. Trước khi Hàn Quốc đề nghị sự giúp đỡ tài chính từ IMF vào tháng 11, thực trạng nền kinh tế không phải là một vấn đề quan trọng trong các cuộc vận động bầu cử. Tuy nhiên, trong tuần trước cuộc bầu cử, không một ứng cử viên nào có thể bỏ qua vấn đề khủng hoảng vốn đang trở thành vấn đề quan trọng nhất trong cuộc bầu cử. Cuộc khủng hoảng đã đặt các ứng cử viên vào một tình thế đặc biệt khó khăn; họ không thể phớt lờ các cử tri, những người có thể phải chịu thiệt hại nếu có một chương trình cải cách cơ cấu. Và họ cũng không thể phớt lờ IMF khi mà sự giúp đỡ tài chính của tổ chức này rất cần thiết. Mặc dù, cả ba ứng cử viên hàng đầu cho chức tổng thống đều chỉ trích chương trình của IMF ở một mức độ nhất định, nhưng họ đều buộc phải chấp nhận các điều khoản cơ bản của IMF như một điều kiện để nhận được sự chấp thuận cuối cùng đối với khoản vay ngày 3/12. Cuộc khủng hoảng cũng đặt IMF vào một tình thế khó xử. IMF tin là cần thiết phải cải cách cơ cấu nền kinh tế nhưng chính tổ chức này cũng nhận thấy rằng gây sức ép quá mạnh có nguy cơ mang đến những phản ứng cực đoan cho nền chính trị Hàn Quốc. Nó có thể làm mất ổn định hệ thống chính trị và gây nguy hiểm cho sự khôi phục nền kinh tế. Làm theo một đường lối đúng đắn là một nhiệm vụ phức tạp và là những thách thức khác nhau ở mỗi đất nước đang bị khủng hoảng.
Cuối tháng 12, tổng thống mới được bầu Kim Dae Jung phải đương đầu với một tình trạng vô cùng khó khăn. Dự trữ ngoại hối của Hàn Quốc gần như bằng không và các ngân hàng của Hàn Quốc phải gánh một khoản nợ xấu lên tới 12% GNP. Thị trường chứng khoán xuống thấp đến mức mà số cổ phiếu chi phối của hãng Hàng không Hàn Quốc chỉ trị giá 165 triệu USD – bằng giá của một chiếc Boeing 747. Hệ quả là các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin vào Hàn Quốc và miễn cưỡng gia hạn các khoản vay khi chúng đến hạn. IMF đã sẵn sàng thanh toán 9,1 tỷ USD trong số 21 tỷ USD đã cam kết. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Sau khi làm việc xuyên suốt cả kỳ nghỉ Giáng Sinh, các quan chức IMF đã đồng ý phân bổ thêm 10 tỷ USD trong nguồn vốn đã cam kết như là một khoản vay khẩn cấp để ngăn chặn tình trạng vỡ nợ. Quan trọng hơn, Cục dự trữ Liên bang Mỹ, Ngân hàng Nhật Bản và các ngân hàng trung ương khác đã gây áp lực lên các ngân hàng thương mại hàng đầu của họ để các ngân hàng đó đồng ý gia hạn các khoản nợ ngắn hạn, nếu không sẽ phải chịu trách nhiệm cho một thảm họa toàn cầu.
4. Thử thách của IMF: Các quan điểm về cuộc khủng hoảng ở Hàn Quốc và phản ứng của IMF
Những chỉ trích chính sách của IMF
IMF biện hộ cho chính sách của mình
5. Con đường đi đến phục hồi
Câu hỏi
Xem phần còn lại của bài viết tại đây: Xu ly cuoc khung hoang Chau A
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 9, 2015 12:25:16 GMT 9
Buông đao thành PhậtHỒNG THỦY (GDVN) - Lịch sử sẽ rất công bằng khi phán xét, bởi quá khứ đã qua không thể thay đổi, nhưng thay đổi tương lai là điều nằm trong tầm tay, miễn là các nhà lãnh đạo ... Người dân Myanmar lại mới nhận thêm một tin mừng khi Thống tướng Than Shwe, chính trị gia quân sự được cho là có ảnh hưởng lớn nhất trên bầu trời chính trị quốc gia Đông Nam Á này dù đã về hưu từ năm 2010, tuyên bố xem bà Aung San Suu Kyi là một "nhà lãnh đạo tương lai" của đất nước. Thống tướng Than Shwe, ảnh: BBC/Getty. Từ kẻ thù thành đối tácChỉ mới 5 năm trước, tướng Than Shwe đã từng ra lệnh quản thúc tại gia 21 năm đối với bà Aung San Suu Kyi, lãnh tụ đảng Liên đoàn Quốc gia vì dân chủ Myanmar (NLD), chủ nhân của giải Nobel hòa bình năm 1991. Trong cuộc bầu cử năm 1990, NLD đã giành thắng lợi áp đảo, nhưng chính quyền quân sự dưới thời tướng Than Shwe đã bỏ qua kết quả này. Tướng Than Shwe năm nay 82 tuổi, từng cai trị Myanmar trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến 2011, trước khi chuyển giao quyền lực cho một chính phủ bán quân sự do quân đội hậu thuẫn và trung thành với mình do tướng Thein Sein đứng đầu. Tờ Myanmar Times ngày 7/12 có bài điểm lại cuộc đời và sự nghiệp của chính trị gia quyền lực bậc nhất sau màn trướng này với tít bài: "Than Shwe: Từ nhân viên bưu điện đến nhà độc tài quân sự". Myanmar Times bình luận, dù không xuất hiện nơi công cộng trong suốt 4 năm qua, nhưng tướng Than Shwe vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh đằng sau hậu trường. Bà Aung San Suu Kyi đã bị chính quyền quân sự dưới thời Thống tướng Than Shwe quản thúc tại gia trong 15 năm. Cuộc gặp giữa hai chính khách cựu thù hôm 4/12 và kết quả tốt đẹp của nó được Myanmar Times xem như bước ngoặt lịch sử. Động thái này đã xác nhận vai trò mới của tướng Than Shwe như một kiến trúc sư của quá trình chuyển đổi chính quyền quân sự sang dân sự. Cuộc gặp lịch sửCuối ngày 5/12 cháu nội của Thống tướng Than Shwe, Nay Shwe Thway Aung đã viết trên Facebook của mình rằng, bà Aung San Suu Kyi và tướng Than Shwe đã có cuộc gặp kéo dài 2 tiếng hôm Thứ Sáu 4/12 tại nhà riêng của ông. Cháu nội Than Shwe dẫn lời ông mình cho biết: "Mọi người phải chấp nhận sự thật rằng, Daw Aung San Suu Kyi sẽ là nhà lãnh đạo tương lai của Myanmar sau thắng lợi trong cuộc bầu cử." Trong tiếng Myanmar, Daw là một tiền tố/kính ngữ thể hiện sự tôn trọng khi gọi tên người khác. "Tôi thực lòng ủng hộ bà ấy hết khả năng có thể nếu bà muốn phát triển đất nước", Thống tướng Than Shwe nói. Theo The Straits Times, người phát ngôn của NLD Win Myint xác nhận cuộc gặp diễn ra tối Thứ Sáu. Vợ chồng Thống tướng Than Shwe cầu nguyện cho tướng Aung San, cha đẻ bà Aung San Suu Kyi tại một ngôi chùa. Ảnh: The Irrawaddy. Win Htein, một nghị sĩ của đảng NLD nói rằng, bà Aung San Suu Kyi gặp tướng Than Shwe vì bà tin vào ảnh hưởng của ông đối với chính phủ và quân đội Myanmar. Cuộc gặp lịch sử xảy ra bất ngờ sau khi bà Aung San Suu Kyi đã có các cuộc tiếp xúc và làm việc với Tổng thống Thein Sein, Chủ tịch Quốc hội Shwe Man, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Min Aung Hlaing bàn về hòa giải dân tộc, thúc đẩy chuyển giao quyền lực. Xóa bỏ hận thù15 năm năm bị quản thúc tại gia mà không có bất kỳ bản án nào, người ta không nhận thấy bất kỳ sự thù hận nào từ người phụ nữ này đối với những người đã giam cầm bà. Ngược lại, bà Aung San Suu Kyi đã tìm cách đối thoại và nuôi dưỡng một quan hệ tốt đẹp với các "cựu thù" và nỗ lực thúc đẩy một chính phủ dân sự chia sẻ quyền lực với quân đội. Nehginpao Kipgen, một nhà bình luận chính trị Myanmar nói với Myanmar Times, bà Aung San Suu Kyi sẽ đảm bảo an toàn, an ninh cho các cựu lãnh đạo cũng như các tướng lĩnh quân đội khi bà lên nắm quyền điều hành đất nước sau bầu cử. Trên trang Facebook của mình, cháu nội tướng Than Shwe cho rằng, tinh thần hòa giải dân tộc của bà Aung San Suu Kyi có thể bao gồm một sự đảm bảo như vậy. Bởi bà Aung San Suu Kyi từng nói: "Tôi không có khái niệm trả thù bởi nó chỉ gây hại cho đất nước. Để xây dựng tương lai cho đất nước thành công, NLD cần hợp tác với tất cả các đảng phái, bao gồm cả các tướng lĩnh. Tôi muốn gặp Thống tướng Than Shwe". Ko Nay Shwe Thway Aung cũng đăng tải một thông điệp với sự đồng ý của cả NLD và ông nội mình, giải thích rằng lý do quân đội từ chối chuyển giao quyền lực cho NLD một cách hòa bình sau cuộc bầu cử năm 1990 là vì "thiếu vắng sự tin cậy đối với NLD": "Kết quả là có một sự hiểu lầm của công chúng về các tướng lĩnh quân đội và các thành viên của đảng thắng cử (NLD năm 1990) đã bị bắt giữ, đất nước thì bị áp đặt lệnh trừng phạt quốc tế, đau khổ kéo dài hơn 25 năm qua". Cơ hội làm Tổng thốngMặc dù chưa có thông báo chính thức nào về nội dung cuộc họp giữa bà Aung San Suu Kyi với các tướng lĩnh quân đội đương nhiệm lẫn nghỉ hưu có ảnh hưởng đến nền chính trị đất nước được công bố, nhưng những hoạt động của bà và hưởng ứng từ lãnh đạo quân sự đã làm lóe lên tia hy vọng bà có thể sớm trở thành Tổng thống Myanmar. Dưới thời Thống tướng Than Shwe, phe quân sự đã mất 18 năm xây dựng hiến pháp với các điều khoản bảo vệ lợi ích của mình. Năm 2008, các nhà lãnh đạo quân sự Myanmar sửa hiến pháp với quy định cấm các ứng cử viên có vợ/chồng hoặc con cái mang quốc tịch nước ngoài được đảm nhiệm cương vị Tổng thống, một quy định nhằm chặn đường bà Aung San Suu Kyi ngồi vào cương vị này. Bà Aung San Suu Kyi, ảnh: EPA. U Aye Thu San, biên tập viên Myanmar Times ngày 7/12 nhận định rằng, có hy vọng bà Aung San Suu Kyi có thể trở thành Tổng thống kế nhiệm tướng Thein Sein, mặc dù thay đổi hiến pháp đòi hỏi phải có sự đồng ý của quân đội vốn có quyền phủ quyết thông qua 25% số ghế mặc nhiên trong quốc hội. U Than Soe Naing, một nhà phân tích chính trị nói với Myanmar Times, tuyên bố mới nhất của tướng Than Shwe về bà Aung San Suu Kyi đã mang lại hy vọng cho người dân. Tuy nhiên kết quả cuối cùng vẫn còn phải chờ thời gian cũng như những nỗ lực từ cả hai phía. "Khả năng bà Aung San Suu Kyi trở thành Tổng thống cũng sẽ phụ thuộc vào cách thức bà xây dựng cơ cấu Nội các mới. Việc đưa vào Nội các những Bộ trưởng hiện nay của đảng USDP sẽ có ảnh hưởng đối với nhiệm kỳ Tổng thống của mình. Tôi nghĩ rằng hiến pháp hiện nay không thể sửa đổi mà không cần sự đồng ý của Than Shwe. Đó có thể là một điểm khởi đầu để bà Aung San Suu Kyi lên làm Tổng thống", U Than Soe Naing nhận định. The Wall Street Journal ngày 7/12 dẫn lời Richard Horsey, một nhà phân tích độc lập ở Yangon, Myanmar nhận xét, việc các tướng lĩnh Myanmar từ Than Shwe, Thein Sein, Shwe Man cho đến Min Aung Hlaing ủng hộ bà Aung San Suu Kyi lên nắm quyền đã cho thấy, quân đội đang háo hức để được nhìn nhận như là một lực lượng bảo đảm cho nền dân chủ phát triển mạnh ở Myanmar. Buông đao thành PhậtThông tin về cuộc gặp giữa bà Aung San Suu Kyi với Thống tướng Than Shwe cùng bầu không khí thân thiện, những đánh giá tốt đẹp dành cho nhau đang nhận được sự hoan nghênh, hưởng ứng và khen ngợi dặc biệt từ dư luận Myanmar, đặc biệt là trên truyền thông báo chí cũng như mạng xã hội. Tiếp theo lời chúc phúc chân thành và cam kết chuyển giao quyền lực trong hòa bình của Tổng thống Thein Sein là đến những phát biểu làm nức lòng người dân Myanmar từ Thống tướng Than Shwe. Có lẽ đó là những dấu hiệu một kỷ nguyên mới đang bắt đầu trên quốc gia Đông Nam Á này. Nếu như bà Aung San Suu Kyi trở thành anh hùng đấu tranh cho tự do, dân chủ và tương lai của dân tộc Myanmar, Tổng thống Thein Sein và các tướng lĩnh quân đội đương quyền được biết đến như những người tạo môi trường nuôi dưỡng nền tự do - dân chủ và tương lai ấy thì "Thái thượng hoàng" Than Shwe - người có quyền lực đặc biệt sau hậu trường chính trị Myanmar càng đóng vai trò quyết định trong việc chuyển đổi hòa bình chính quyền quân sự sang dân sự. Phương ngôn có câu, ai thắt nút chuông thì người đó cởi. Điều này thật trùng hợp trong trường hợp của Myanmar, một đất nước mà Phật giáo Nguyên thủy là quốc đạo. Quay đầu là bờ, buông đao thành Phật có lẽ đã trở thành chọn lựa của các nhà chính khách quân sự, các tướng lĩnh quyền lực và quyền lợi đầy mình trước vận hội mới, tương lai, tiền đồ của dân tộc. Họ đã chiến thắng chính mình, một chiến thắng khó khăn nhất và cũng vẻ vang nhất. Với những gì đã và đang diễn ra, hy vọng tương lai mới, cuộc sống mới hồi sinh đem lại ấm no, hạnh phúc, bình yên và thịnh vượng đang đến với Myanmar. Dư luận khu vực cũng như cộng đồng quốc tế đang dõi theo những diễn biến chính trị mới nhất tại đất nước Chùa Vàng với mong mỏi, chúc phúc và hy vọng Myanmar chuyển đổi trong hòa bình và vươn lên mạnh mẽ. Lịch sử sẽ rất công bằng khi phán xét, bởi quá khứ đã qua không thể thay đổi, nhưng thay đổi tương lai là điều nằm trong tầm tay, miễn là các nhà lãnh đạo biết hy sinh lợi ích riêng vì quốc gia, dân tộc, đoàn kết cùng nhau kiến tạo nên tương lai tốt đẹp ấy.
|
|