|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:10:20 GMT 9
CHƯƠNG 22 Ra sức cứu vãn tình thế
Chính trị động loạn, sóng gió cuồn cuộn, nhưng từ đằng sau chiếc bóng của Molotov, Chu Ân Lai đã vụt xuất hiện lên thành nhà ngoại giao sáng chói nhất trong hội nghị Genève. Ông kiên quyết nói với Molotov, chúng ta phải tận lực cứu vãn tình thế, ra sức tranh thủ hòa bình tại Đông Dương. Chu Ân Lai chỉ ra, hành động then chốt để gỡ cuộn chỉ rối là phải công nhận có quân đội Việt Nam hoạt động tại Lào và Campuchia, có thể rút về. Nên đối xử cụ thể với tình hình ba nước Đông Dương, thực hiện thống nhất ngừng bắn. Vào lúc đó chủ động kiến nghị lùi một bước, khiến Eden nhìn thấy hy vọng. Tiếp đó, Chu Ân Lai muốn tranh thủ càng nhiều đồng minh hơn.
Hội nghị lần thứ 15 về vấn đề Triều Tiên ngày 15 tháng 6 là cuộc đánh giáp lá cà dữ dội trên hội nghị quốc tế của hai mặt trận lớn Đông, Tây trong thế kỷ XX. Hai bên giằng co không ngã ngũ cuối cùng kết thúc bằng vấn đề Triều Tiên tan vỡ.
Sau khi đọc các tuyên bố và đề án của mỗi bên, trong tranh luận dữ dội với đối thủ, Molotov và Chu Ân Lai mỗi người đã phát biểu năm lần, là những người tham gia hội nghị phát biểu nhiều nhất trong ngày hôm đó. So sánh tương đối hai người, phát ngôn tại chỗ của Chu Ân Lai so với bàn luận của Molotov phong phú hơn, ngôn từ càng trí tuệ, nắm vững thời cơ càng thích đáng. ba lần phát biểu cuối cùng của Molotov về cơ bản chỉ là một câu, hoặc là “ủng hộ đề án của Chu Ân Lai”, hoặc là đồng ý ý kiến của Eden, sẽ “ghi chép vào hồ sơ” các phát biểu của hội nghị. Còn phát biểu của Chu Ân Lai trước sau đã đề xuất hai đề án. Đề án đầu tiên là yêu cầu “triệu tập hội nghị có tính hạn chế bảy nước tiếp tục thảo luận vấn đề Triều Tiên”, tức đề xuất một “Phương án hội nghị năm nước lớn và hai Triều Tiên”. Sau khi công bố tuyên bố 16 nước, ông lập tức đề xuất đề án thứ hai: các nước tham dự hội nghị biểu thị tiếp tục cố gắng giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên, còn thời gian và địa điểm khôi phục đàm phán sẽ có quyết định khác. Với sự hợp tình hợp lý của đề án thứ hai, đối phương khó từ chối.
Chu Ân Lai nắm chắc cơ hội, biểu thị ủng hộ và tán đồng phát biểu của ngoại trưởng Bỉ, nhấn mạnh Spaak đã thể hiện “tinh thần hòa giải”. Phát biểu này đã đóng một cái nêm vào mặt trận phương Tây khiến trong mặt trận đối phương xuất hiện một vết nứt rõ rệt. Trong phát biểu cuối cùng ông chỉ ra, then chốt của việc đối phương nắm chặt không buông “khuôn khổ LHQ” là để từ nay về sau khi giải quyết vấn đề Triều Tiên sẽ bài xích sự tham gia của Trung Quốc, Chu Ân Lai đã tự nhiên mà khôn khéo nêu ra vấn đề khôi phục chiếc ghế hợp pháp của Trung Quốc tại LHQ.
Chính trị động loạn, sóng gió cuồn cuộn, nhưng từ đằng sau chiếc bóng của Molotov, Chu Ân Lai đã vụt xuất hiện lên thành nhà ngoại giao sáng chói nhất tại hội nghị Genève. Tài hoa ngoại giao của ông dã tung hoành bốn phỉa trong cuộc đối trận dữ dội, được điểm nhiều hơn trong tranh luận với đại biểu Mỹ. Tại hội nghị ngày hôm đó, Smith đại biểu Mỹ phát biểu không nhiều, cũng không có ý kiến đặc biệt. Đối mặt với những lời lẽ sắc bén của Chu Ân Lai và sự chuyển hướng khi lâm trận của Spaak, rõ ràng là Smith ở vào thế bị động. Thế nhưng, với tư cách là tham mưu trưởng và nhà ngoại giao cao cấp, có tư lịch già dặn, trong một loạt bàn luận về vấn đề Triều Tiên, Smith đã nắm chắc không buông hai điểm có tính then chốt: một là nắm chắc không buông “khuôn khổ LHQ” kiên trì mọi vấn đề phải giải quyết trong khuôn khổ đó. Hai là nhiều lần chỉ trích Bắc Triều Tiên đầu tiên phá hoại hiệp định, phát động tấn công đại qui mô Nam Triều Tiên. Nắm chắc hai điểm đó, tại hội nghị ông ta được người ủng hộ nhiều. Do trong hội nghị chiều ngày 15 tháng 6 ông ta đã hai lần phát biểu quan trọng, gây ảnh hưởng mới giữ được đề án của Spaak, làm cho đề án cuối cùng của Chu Ân Lai không được thông qua. Từ ý nghĩa này mà nói, Mỹ đã hoàn thành mục tiêu đã định đầu tiên của hội nghị Genève lần này: làm cho vấn đề Triều Tiên tiếp tục trở thành đề án treo, duy trì cục diện không đánh không hòa, hai mặt trận lớn phương Đông, Tây vẫn tiếp tục đối kháng tại Viễn đông lấy “vĩ tuyến 38” làm ranh giới. Vì vậy tại hội nghị ngày 15 tháng 6, Mỹ cũng là một phía được điểm. Hơn nữa Mỹ còn đang tiếp tục tăng áp lực làm cho vấn đề Đông Dương bàn không xong, dọn sẵn đường cho mình dính líu vào công việc Đông Dương.
Dulles cảm thấy vừa lòng vì kết quả hội nghị hôm nay, nên tối ngày 16 tháng 6 đã gửi điện chúc mừng Smith cho rằng Smith đã làm cho vấn đề Triều Tiên thu được “kết cục vừa lòng”. Sự việc giống như Chu Ân Lai đã dự liệu, vấn đề Triều Tiên tan vỡ, đã trực tiếp đe dọa triển vọng vấn đề Đông Dương. Làm không tốt, cuộc chiến Việt Nam có nguy hiểm leo thang và mở rộng
Molotov đã tỉnh táo ý thức được tính nghiêm trọng của tình thế, ngày 16 tháng 5 sau khi hội nghị về vấn đề Triều Tiên tan vỡ, ông đã rất lo lắng nói với Chu Ân Lai, đàm phán đã đến một ranh giới nguy hiểm, nếu như vấn đề Đông Dương cũng bàn không xong, công lao trước đây của hội nghị Genève sẽ mất sạch.
Chu Ân Lai quả đoán nói với Molotov, chúng ta nên tận lực cứu vãn cục diện, hết sức giành lấy hòa bình ở Đông Dương. Ngay tối hôm đó Molotov đã hội kiến Eden, thảo luận, nghiên cứu khả năng cứu vãn cục diện. Cũng như thế, hội nghị trong ngày vừa kết thúc, Chu Ân Lai đã đề xuất với Eden, đề nghị ngày hôm sau gặp gỡ khẩn cấp.
Tối hôm đó, tại nơi ở của đoàn đại biểu Trung Quốc không khí tương đối căng thẳng. Chu Ân Lai chỉ thị cho đoàn đại biểu Trung Quốc, phải “cô lập phái cứng rắn, tranh thủ phái trung gian” tranh thủ hòa bình cho Đông Dương..
Cung Bành đã tham gia hội nghị tại phòng họp lớn Kim sắc chiều hôm đó, tận mắt nhìn thấy cuộc tranh luận dữ dội của các nhân vật đại biểu cho phương Đông và Tây trong hội nghị. Kết cục của hội nghị là một chuyện, phát biểu của Chu Ân Lai trong hội nghị đã đại biểu cho phong độ và trí tuệ của nhà chính trị nước lớn, đã để lại cho Cung Bành ấn tượng vô cùng sâu sắc. Sau khi tham gia hội nghị trở về, với lòng kích động, Cung Bành đã tìm gặp Lý Thận Chi, trình bầy với ông tiến trình của hội nghị đồng thời đưa những ghi chép tại hội nghị yêu cầu Lý Thận Chi sau khi nhanh chóng đọc và nghiên cứu, ra tay viết một bài, phê phán đả kích Mỹ ý đồ phá hoại hội nghị Genève, khắc họa phong độ nhà ngoại giao nước lớn của Chu Ân Lai.
Lúc ấy Lý Thận Chi 31 tuổi, phong nhã hào hoa hết mức. Ông xuất thân từ một gia đình thư hương có nguồn gốc học vấn sâu xa, tại Vô Tích, Giang Nam, ngay từ nhỏ đã được rèn luyện quốc học truyền thống. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, ông thi đỗ vào Khoa Kinh tế, Đại học Yên Kinh, Bắc Bình, đi sâu học tập triết học và kinh tế học phương Tây. Sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Đại học Yên Kinh bị quân Nhật chiếm đóng, ông chuyển tới Thành Đô, theo học tiếp tại Đại học Yên Kinh đã chuyển đến đây cho tới khi tốt nghiệp. Trong thời gian này ông đã trở thành đảng viên ĐCS Trung Quốc. Trước khi kháng chiến chống Nhật thắng lợi Lý Thận Chi đã từ Thành Đô tới Diên An, nhận công tác tại Tân Hoa Xã. Trong chiến tranh Triều Tiên, Lý Thận Chi tham gia đoàn đại biểu Triều Trung đàm phán tại Bàn Môn Điếm, làm việc dưới sự lãnh đạo của Kiều Quán Hoa, Hoàng Hoa.
Nhận nhiệm vụ do Cung Bành giao, Lý Thận Chi đọc ngay ghi chép hội nghị, dùng một đêm viết xong bài “Thông tin Genève” gửi về nước. Ngày 19 tháng 6, “Nhân Dân nhật báo” đăng bài viết đó với nhan đề “Kẻ thù của hòa bình đã lộ nguyên hình”. Bài viết rất có sắc thái cảm tình, trước những hành vi của các nước phương Tây từ chối giải quyết vấn đề Triều Tiên tại hội nghị Genève, sự phẫn nộ của tác giả đã tràn đầy khắp trang viết. Bản tin đã viện dẫn một số ghi chép hội nghị, nhưng phần miêu tả của tác giả về hội nghị hôm đó đúng là không nhìn thấy trong bản ghi chép:
Kiến nghị của Nam Il, kiến nghị của Chu Ân Lai, kiến nghị của Molotov, bọn họ đều không nhìn tới, đều không đề cập tới, bất kể là phát sinh sự tình gì, tất cả đều động thủ theo kế hoạch đã định: bóp chết hội nghị hòa bình Triều Tiên.
Lúc này ở bên ngoài hội trường vang lên tiếng loa trên xe chỉ huy:”Chú ý! Chú ý! Hội nghị sắp giải tán, hãy lái xe tới.”
Đoàn ô tô giống như một con rắn dài chạy tới cửa số 4 của tòa nhà LHQ. Những người từ tòa nhà báo chí đi ra trên tay đã có bản in roneo tuyên bố 16 nước; nhưng có người ngay buổi sang hôm ấy đã có được.
Trên tấm bảng đen ở đây, có ngườì đã viết trước khi hội nghị bắt đầu một câu: “hội nghị cuối cùng của vấn đề Triều Tiên, mời toàn thể phóng viên tới kiểm tra thi thể.”
………
Chủ tịch sau khi cân nhắc quyết định mọi phát biểu đều được đưa vào ghi chép hội nghị đã tuyên bố hội nghị bế mạc. Lúc đó là 8 giờ 36 phút. Khi mọi người đi ra khỏi hội trường vấn không thể không cảm thấy tiếng nói cuối cùng của Chu Ân Lai như còn vang lên bên tai.
Tại cửa ra vào số 4 Tòa nhà LHQ, các ôtô đã phân tán từ lâu, lại tụ tập lại đón các đại biểu đang đi ra khỏi hội trường. Đèn ô tô sang chưng, vì trời đã tối. Đây là dầu tiên sau 51 ngày, mọi người có mặt tại chỗ không cảm thấy thời gian trôi nhanh như vậy, bởi vì ở đây đã tiến gành cuộc chiến đấu căng thẳng. …Từ nơi này, nhân dân Trung Quốc cảm thấy tự hào bởi vì đất nước chúng ta đã cùng với các lực lượng hòa bình đã vì sự nghiệp hòa bình tiến hành cuộc đấu tranh trác việt. …Có người nói, trên thực tế hội nghị Genève không có một ghi chép chung nhưng tất cả những cái đó đều đã được ghi chép trong lịch sử, chứng cứ đanh thép, nhưng dù có dựa vào cái gì cũng không thể xóa bỏ nó bởi vì nó đã được khắc ghi vào trong lòng nhân dân thế giới.
Hơn 50 năm đã trôi qua, tác giả bài viết, Lý Thận Chi đã là học giả quan hệ quốc tế nổi tiếng từ lâu, đã từng giữ chức Phó Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Nhớ lại bài viết thông tấn này, ông chỉ ra nó đúng là sản phẩm của cuộc chiến tranh lạnh Đông, Tây. Ông nhớ lại nói, không khí lúc đó tương đối căng thẳng, đoàn đại biểu Trung Quốc vô cùng lo lắng hội nghị Genève vì thế mà tan vỡ. Ngay tối hôm đó Chu Ân Lai triệu tập cuộc họp, bàn bạc phát biểu của ngày hôm sau về vấn đề Đông Dương. Cuối cùng xác định tinh thần then chốt của bài phát biểu là, công nhận ba nước Đông Dương đều có vấn đề ngừng bắn đòi hỏi giải quyết chứ không phải là chỉ có một mình vấn đề Việt Nam. Đây là một bước nhượng bộ chủ động, Chu Ân Lai cho là tất yếu, nếu không sẽ khó có thể cứu vãn toàn bộ cục diện của hội nghị Genève.
Tối hôm đó vừa vội vàng ăn xong cơm tối, Chu Ân Lai đã tới biệt thự của Molotov. Lúc đó Phạm Văn Đồng đã ở đó.
Tinh thần của Molotov khi ấy xáo động rất lớn, ông hỏi Phạm Văn Đồng, nếu tạm hoãn tháo luận vấn đề Đông Dương anh thấy thế nào?
Chu Ân Lai kiên quyết chỉ ra, vấn đề Đông Dương không thể ngừng lại, nếu không sẽ tan tành trong chốc lát. Ông phân tích nói, then chốt của đàm phán trước mắt là phía ta liệu có thừa nhận QĐND Việt Nam có tác chiến ở Lào và Campuchia hay không. Tình hình thực tế là có, nếu phía ta kiên quyết không thừa nhận, thì có muốn bàn cũng không bàn được. Vì vậy phía ta có thể lùi một bước, thừa nhân trước đây có quân đội Việt Nam tác chiến tại đây, là quân tình nguyện, hiện nay đã rút về. Nếu hiện nay vẫn còn thì có thể theo cách rút hết mọi quân đội nước ngoài để xử lý.
Molotov đồng ý như vậy, sau một hồi do dự, Phạm Văn Đồng cuối cùng cũng đồng ý. Ba phía xác định do Chu Ân Lai đại biểu, trình bầy với hai đoàn đại biểu Anh, Pháp như trên.
12 giờ 30 phút trưa ngày 16 tháng 6, Chu Ân Lai tới biệt thự của Eden, trao đổi với ông ta một giờ về tình hình hội nghị hiện nay.
Vừa gặp, Chu Ân Lai đã nói ngay với Eden, Trung Quốc không hài lòng trước tình hình hội nghị thảo luận vấn đề Triều Tiên chưa có kết quả đã kết thúc, vì nó chưa thể hiện được chút tinh thần hòa giải nào. Nếu như có khó khăn với đề án của chúng tôi, vẫn có thể thương lượng mà! Thế nhưng ngay hội nghị hạn chế cũng không muốn họp. Cảm giác của chúng tôi là, nước Mỹ muốn làm cho không đạt được bất kỳ hiệp nghị nào. Đó là kế hoạch đã dự tính của họ, kết quả quả nhiên như vậy.
Chu Ân Lai nói, đoàn đại biểu Trung Quốc mang theo tinh thần hòa giải đến tham gia hội nghị lần này, nhưng hòa giải phải đến từ sự cố gắng của hai bên. Chúng tôi hy vọng hội nghị về vấn đề Đông Dương sẽ không xẩy ra tình hình như vậy. Nếu không cánh cửa hòa giải sẽ đóng lại. Tôi nghĩ, ngài Eden vốn có tinh thần hòa giải, chúng tôi hy vọng tình hình sẽ không phát triển đến bước như vậy.
Eden nói một câu, tôi sẽ hết sức để tình hình không phát triển như vậy Tiếp đó ông ta chuyển đầu đề câu chuyện: bây giờ tôi muốn bàn một chút vấn đề giữa Anh, Trung. Các ngài đã đồng ý cử người đến London, bất kể khi nào ông ta tới, chúng tôi đều rất vui lòng đón tiếp ông ta. Tôi hy vọng chúng ta có thể đồng thời phát biểu một tuyên bố về việc này, chúng tôi đã chuẩn bị hai dự thảo, mời các ngài chọn trước một bản.
Chu Ân Lai nói: lần này chúng ta chí ít cũng giành được một thu hoạch, đó là cải thiện quan hệ Trung, Anh. Tôi nghĩ, nói như vậy là đã biểu thị cảm tưởng chung của chúng ta.
Eden: đích xác là cảm tưởng chung, tôi nghĩ thu hoạch dó là có ích, Thủ tướng nước tôi hy vọng ngày mai tuyên bố việc này, liệu các ngài có đồng ý hay không.
Chu Ân Lai: tôi sẽ mang hai bản tuyên bố của các ngài về nghiên cứu, sẽ trả lời tại cuộc họp chiều mai.
Eden nói, còn một việc nữa trước đây tôi chưa bàn với ngài cũng chưa để Trevelyan bàn với các ngài. Các ngài cử người đến London, khiến chúng tôi gặp một vấn đề về pháp luật, chúng tôi muốn đại biểu của các ngài được hưởng quyền miễn trừ, biện pháp duy nhất là để tên ông ta vào danh sách nhân viên ngoại giao.
Chu Ân Lai trả lời, tôi có thể để ngài Hoạn Hương đến bàn với ngài Trevelyan về việc này, tôi nghĩ việc này không khó khăn lắm.
Eden nói: đúng vây, chúng ta ngày càng tiếp cận, đó là thu hoạch của Genève. Nếu như có khả năng, ngày mai tôi phải về nước, tôi muốn tháp tùng Thủ tướng đi Wasington nghỉ cuối tuần. Nếu như hội nghị Genève có tiển triển khiến người ta phấn khởi thì tôi có thể lưu lại. Còn nếu như tôi đi, tôi sẽ giao toàn quyền cho Reading.
Chu Ân Lai lại chuyển đầu đề câu chuyện về vấn đề Đông Dương, nói: hiện nay Việt Nam, Lào và Campuchia đều có chiến tranh, nhưng tình hình ba nước lại không giống nhau, biện pháp giải quyết của ba nước cũng không giống nhau, nhưng vấn đề của ba nước lại có liên hệ với nhau. Chúng tôi vui lòng nhìn thấy Lào, Campuchia là những quốc gia như các nước Ấn Độ, Miến Điện, Indonesia. Nếu như họ trở thành quốc gia của Liên hiệp Pháp thì là việc tốt đối với nước Pháp, còn đối với nước Anh và Trung Quốc mà nói, thì cũng tốt. Trước tiên chúng ta có thể chung sống hòa bình ở Đông Nam Á. Mặt khác, chúng tôi không muốn Lào và Campuchia trở thành căn cứ quân sự của nước Mỹ. Bởi vì như vậy sẽ cấu thành nhân tố khiến Đông Nam Á không thể hòa bình.
Về chính trị, chỉ cần nhân dân Lào và Campuchia có thể biểu thị ý chí, chính phủ Vương quốc của hai nước này cũng có thể được công nhận. Thế nhưng chính phủ Vương quốc của hai nước này cũng phải dùng biện pháp dân chủ để đối xử với phong trào giải phóng dân tộc trong hai nước - bao gồm chính phủ kháng chiến của hai nước vào trong đó, nhằm giải quyết chính trị. Điều này đương nhiên là việc của chính họ.
Về quân sự đúng là hai nước có bộ đội chống đối. Campuchia ít hơn một chút, vùng hoạt động cũng nhỏ, nên ngừng bắn ở đây. Bộ đội kháng chiến Lào nhiều hơn một chút, các vùng cũng lớn hơn, ở đây có vấn đề quân đội tập kết. Ở đó đích xác là có quân tình nguyện Việt Nam, đã có rút rồi, nếu quả vẫn còn, nên xử lý theo biện pháp rút hết quân đội nước ngoài.
Đó là những nhượng bộ của Chu Ân Lai khi hội nghị ở vào giờ phút then chốt. Lần đầu tiên đứng trước các ngoại trưởng đối phương, ông không chỉ thừa nhận có QĐND Việt Nam hoạt động ở Lào, hơn nữa còn biểu thị, QĐND Việt Nam tại Lào cũng là quân đội nước ngoài, cũng sẽ rút về.
Những nhượng bộ đó của Chu Ân Lai, vừa nghe Eden đã rõ, nên phấn khởi nói: “có hy vọng, rất có hy vọng.” Ông ta thuyết minh thêm, chúng tôi yêu cầu cũng chính là như vậy. Chúng tôi cũng không muốn nhìn thấy Lào và Campuchia trở thành căn cứ quân sự của bất kỳ nước nào, bất kể là của Việt Nam hay của Mỹ. Tôi nghĩ Lào và Campuchia cũng có cùng cách nghĩ. Tôi nghĩ, tại hai nước này đều cần bầu cử để quyết định tương lai của họ, nhưng các cuộc bầu cử đó phải chịu sự giám sát. Chỉ có điều là ở Lào, nếu Việt Minh kiên trì quân đội Pháp rút thì có khả năng dẫn tới khó khăn, cũng có thể quân đội Pháp tập trung tại một số vùng do điều ước qui định, may mà số lượng quân Pháp không nhiều, cho nên vấn đề này vì thế cũng không lớn. Nếu các vấn đề khác giải quyết thuận lợi, thì vấn đề này sẽ không dẫn tới khó khăn.
Eden hỏi Chu Ân Lai: liệu ngài có thể cùng người Pháp bàn một chút, tôi cũng có thể nói riêng cho bọn họ.
Chu Ân Lai trả lời: tôi vui lòng bàn với người Pháp, nghe nói ngài Bidault đã tới.
Eden nói: nghe nói chiều hôm nay tới, nhưng sẽ không ở được lâu. Chiều ngày mai sẽ về. Liệu tôi có thể nói với như thế này với ngài: hôm nay tôi đã bàn với ngài Chu Ân Lai, tôi cho rằng nếu ngài Bidault có thể bàn với ngài Chu Ân Lai sẽ có ích đấy.
Chu Ân Lai lập tức biểu thị đồng ý.
Eden nói: cách nghĩ của chúng tôi là, Lào và Campuchia phải trở thành quốc gia trung lập và tự do, và không là căn cứ của bất kỳ nước nào. Quân đội nước ngoài rút khỏi hai nước. Nếu quân đội Pháp lưu lại thì cũng phải tập kết tại vùng điều ước qui định, sau tiến hành bầu cử tại hai nước.
Chu Ân Lai đồng ý cách nhìn của Eden: về mặt nguyên tắc cơ bản là chúng ta giống nhau. Vấn đề quân sự có thể giao cho đại biểu Bộ Tư lệnh hai bên thương thảo tại vùng đó và nước đó, sau đó báo cáo kết quả thương thảo lên đại hội.
Eden nói: rất tốt. Bất kể chúng ta sắp xếp như thế nào nhất định phải bao gồm điểm này, tức Lào và Campuchia không thể là căn cứ. Như thế về mặt rút quân, Việt Minh liệu có khó khăn?
Chu Ân Lai trả lời: theo tôi thấy Việt Minh sẽ không có vấn đề. Bố trí cụ thể có thể do đại biểu Bộ Tư lệnh hai bên hiệp thương.
Eden chưa yên tâm, nói: không phải là tôi muốn truy hỏi vấn đề này, nếu như không đồng ý trong hạng mục thảo luận thuyết minh phải thảo luận rút quân đội nước ngoài, họ sẽ không đồng ý gặp gỡ đại biểu quân sự hai bên. Tôi nghĩ chỉ nói quân đội nước ngoài mà không thuyết minh cụ thể thì sẽ không liên quan đến bất kỳ người nào.
Chu Ân Lai nói: hai bên chúng ta đều cần phải hiệp thương với các phía, để dễ thúc đẩy.
Eden biểu thị: cuộc gặp hôm nay rất có ích, chúng ta cần suy nghĩ một chút, qua một thời gian sau, hy vọng chúng ta lại gặp mặt lần nữa. Chiều hôm nay chúng tôi sẽ họp thảo luận, theo tôi được biết, đại biểu Campuchia và Lào muốn phát biểu, thế nhưng đại thể vẫn là luận điệu cũ, tôi nghĩ tốt nhất là vấn đề được giải quyết bên ngoài hội nghị, chỉ dựa vào diễn thuyết là không được.
Chu Ân Lai nói: tốt, thế thì chúng ta sẽ gia tăng tiếp xúc bên ngoài hội nghị.
Eden hỏi: liệu chiều hôm nay ngài có thể nói một số lời khiến Lào và Campuchia phấn khởi. Ví dụ, nói các ngài vui lòng nhìn thấy bọn họ trở thành các quốc gia như Miến Điện.
Chu Ân Lai: hiện nay chúng ta nói là vấn đề quân sự, tôi sẽ nói một số lời cả hai bên đều có lợi.
Eden lại bàn đến quan hệ Anh, Trung, nói, tôi hy vọng mối liên hệ chúng ta thiết lập tại Genève lần này có thể tiếp tục duy trì. Vì vậy sau khi ngài Trevelyan về Bắc Kinh, nếu như ngài có thời gian, liệu có thể thường thường tiếp kiến ông ta hay không?
Chu Ân Lai gật đầu đáp ứng.
Eden đưa ra thái độ đền đáp, nói: đại biểu của các ngài có thể gặp tôi bất kỳ lúc nào, và tôi đều vui lòng gặp ông ta. Eden còn kiến nghị Chu Ân Lai trực tiếp tiếp xúc với đại biểu nhiều nước hơn nữa, đặc biệt là đại biểu các nước phương Tây, tranh thủ sự hiểu biết của bọn họ.
Chu Ân Lai tất nhiên đáp ứng, lập tức biểu thị vui lòng gặp gỡ các quan chức ngoại giao các nước phương Tây. Eden kiến nghị Chu Ân Lai nên gặp Casey, ngoại trưởng Australia trước, vì chiều ngày 18 ông ta sẽ rời Geneve. Chu Ân Lai đồng ý ngay. Eden lập tức chỉ thị Humphrey. Trevelyan, thành viên đoàn đại biểu Anh, đại sứ Anh tại Liên Xô liên hệ với Casey, cuối cùng định thời gian hội kiến vào buổi trưa ngày 18 tháng 6, trước khi Casey lên máy bay.
Ngày hôm đó một thành quả quan trọng của cuộc hội kiến giữa ngoại trưởng hai nước Trung Anh là Eden đại biểu chính phủ Anh chính thức trả lời phía Trung Quốc vui lòng cùng Trung Quốc ra tuyên bố chung hai bên tuyên bố cùng cử quan chức ngoại giao cấp đại biện tới thủ đô của nhau. Chu Ân Lai và Eden đã bàn định nội dung của tuyên bố: “ Chính Phủ Nhân Dân Trung ương nước CHND Trung Hoa và Chính phủ Liên hiệp Vương quốc Anh hiệp nghị: chính phủ nhân dân Trung ương nước CHND Trung Hoa cử đại biểu trú tại London, với địa vị và nhiệm vụ tương đồng với địa vị và nhiệm vụ của đại biện nước Anh trú tại Bắc Kinh. Nhiệm vụ của đại biện là đàm phán thiết lập quan hệ ngoaị giao và làm các việc thương vụ và kiều vụ, đãi ngộ của nhân viên Phòng đại biện giống như nhân viên ngoại giao bình thường.
Từ biệt Eden, Chu Ân Lai càng tăng thêm lòng tin, ông tin là vấn đề Đông Dương có khả năng tiếp tục được. Vào lúc Chu Ân Lai ở vào giờ phút then chốt ấy, Trương Dực trưởng phòng Việt Nam của Ban Đối ngoại ĐCS Trung Quốc là nhân viên trong đoàn đại biểu Trung Quốc lúc đó đã có một đoạn hồi ức quan trọng. Ông nói, vào giờ phút bước ngoặt quan trọng của hội nghị, một hôm ông tới biệt thự Vạn Hoa, báo cáo vấn đề Việt Nam với Chu Ân Lai, thấy ông đang đi dạo trên thảm cỏ. Gió nhẹ từ từ thổi, bốn xung quanh toàn một mầu xanh biếc, trên mặt thảm cỏ bằng phẳng chỉ có hai người Chu Ân Lai và Trương Dực tản bộ. Bỗng Chu Ân Lai đột ngột dừng lại, mắt nhìn chăm chú ra phía xa.
Được một lúc, ông thâm trầm nói với Trương Dực: “Chúng ta nên tranh thủ hội nghị Genève thành công, chúng ta nên thông qua đàm phán chứ không phải là thông qua chiến tranh để giải quyết những tranh luận giữa chúng ta và phương Tây. Giữa chúng ta đã đánh nhau rất lâu, chúng ta nên ngừng lại, đàm phán. Eden, bọn họ cũng có cách nghĩ như vậy.”
Chu Ân Lai nói: “Vì sao lại không thể đàm (phán) được? Bàn một chút, giữa chúng ta đều thông qua đàm phán giành được một thời kỳ hòa bình trong chung sống hòa bình. Chúng ta đều phát triển sản xuất trong thời kỳ hòa bình. Quay đầu nhìn lại xem ai phát triển nhanh hơn, càng tốt, như thế mới thuyết minh được vấn đề. Hãy thử nói xem, đồng chí Trương Dực?”
Nghe những lời nói vậy, Trương Dực lòng tràn đầy tư tưởng đấu tranh cách mạng đã hoàn toàn bị chinh phục, lần đầu tiên ông được nghe Chu Ân Lai trình bầy một cách đơn giản như vậy về ý nghĩa ngoại giao của chung sống hòa bình, các quốc gia phương Đông và phương Tây không còn gặp nhau bằng việc binh đao nữa.
Chu Ân Lai lại nói: “nếu chủ nghĩa xã hội chúng ta tràn đầy lòng tin, thì chúng ta nên làm như vậy. Phải biến thế giới đối kháng thành thế giới hòa bình. Mỹ vẫn còn là một quốc gia rất hùng mạnh, đối kháng với họ không bằng chung sống hòa bình, hai bên cạnh tranh về xây dựng kinh tế, đẻ cuối cùng giải quyết vấn đề ai hơn ai kém. Trong quá trình này phương Tây sẽ làm diễn biến hòa bình. Nhưng chỉ cần chúng ta làm tốt xây dựng kinh tế, chúng ta cũng có thể phản diễn biến hòa bình.”
Sau bao nhiêu năm, Trương Dực đã có những suy ngẫm sâu sắc của cuộc sống nghỉ hưu yên tĩnh. Ông cho rằng, Chu Ân Lai lúc đó cho rằng: trong hai mặt trận lớn Đông, Tây có nước lớn nhưng cũng có nước nhỏ, áp dụng chế độ xã hội nào là sự tự lựa chọn của nhân dân các nước, nước khác không thể can thiệp, mà can thiệp sẽ không có kết quả tốt. Tốt nhất là trong môi trường quốc tế chung sống hòa bình, sẽ do thực tiễn xã hội kiểm nghiệm loại chế độ nào là ưu việt hơn, cung cấp cơ hội cho nhân dân lựa chọn Chính la trong suy ngẫm vấn đề đó, tư tưởng về năm nguyên tắc chung sống hòa bình của Chu Ân Lai lúc này đã chín muồi và dần dần được làm phong phú thêm thành hệ thống. Hội nghị Genève chính là thực tiễn ngoại giao đột xuất để ông quán triệt hệ thống tư tưởng này
Sau này Đặng Tiểu Bình đã phát triển tư tưởng quan trọng này của Chu Ân Lai. Trong “Bài nói trong lần tuần du miền Nam” năm 1992, nhằm thẳng vào vấn dề chế độ xã hội ông đã chỉ ra: “tiêu chuẩn để phán đoán nên chủ yếu là xem có lợi cho sự phát triển sức sản xuất xã hội xã hội chủ nghĩa hay không, có lợi cho việc tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia hay không, có lợi cho việc nâng cao mức sống của nhân dân hay không”. Ông đã nâng cao tới ý nghĩa lý luận nói: “tóm lại chủ nghĩa xã hội muốn giành được ưu thế tương đối với chủ nghĩa tư bản, thì phải mạnh dạn hấp thu và học tập mọi thành quả văn minh do xã hội loài người sáng tạo, hấp thu và học hỏi mọi phương thức kinh doanh, phương pháp quản lý tiên tiến phản ảnh qui luật sản xuất xã hội hóa hiện đại của các nước trên thế giới ngày nay bao gồm cả các nước tư bản phát triển.”
Về ý nghĩa đó, tư tưởng Đặng Tiểu Bình và tư tưởng Chu Ân Lai một mạch nối liền.
Chiều ngày 16 tháng 6, đã cử hành hội nghị có tính hạn chế lần thứ 14 về vấn đề Đông Dương. Hoàng thân Tep Phan đại biểu Vương quốc Campuchia phát biểu trước tiên, chủ yếu nói về ý kiến ba điểm. Một là đòi Việt Minh rút quân, hai là trao đổi nhân viên hai bên bị bắt, ba là Campuchia sẽ không cho phép tồn tại căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ nước mình. Ông còn phủ nhận tại Campuchia có “phong trào chống đối”.
Sananikone, đại biểu Lào trong phát biểu tại hội nghị cũng như vậy, đầu tiên yêu cầu Việt Minh rút quân. Ông biểu thị sẽ căn cứ vào hiệp nghị với Pháp, giới hạn hoạt động của quân Pháp trong các căn cứ quân sự. Ngoài ra ông yêu cầu giải trừ mọi vũ trang của quân đội phi chính qui, thả nhân viên hai bên bị bắt, tiến hành giám sát quốc tế, đại biểu quân sự hai bên hội đàm ở Genève.
Lúc này Chu Ân Lai phát biểu: “trong hội nghị này tôi đã từng nhiều lần nói, tình hình ba nước Đông Dương hoàn toàn không giống nhau, nên khi giải quyết vấn đề cần xem xét tới tình hình cụ thể mỗi nước; đồng thời vấn đề của ba nước cũng không thể dứt khoát tách rời, cần liên hệ với nhau suy xét mới có thể có được sự giải quyết thích đáng.”
Phát biểu này lập tức khiến những người tham dự hội nghị chú ý. Chu Ân Lai nói, căn cứ quyết nghị ngày 29 tháng 5 của hội nghị này, những hành động đối địch tại Đông Dương nên chấm dứt sớm và đồng thời. Nghiên cứu vấn đề Lào và Campuchia phải căn cứ vào nguyên tắc này, làm cho ba nước Việt, Lào, Campuchia đồng thời ngừng bắn. Vì nhân viên quân sự của Việt Nam và Pháp đã bắt đầu đàm phán tại Genève và địa điểm giao chiến, nên Lào và Campuchia cũng nên như vậy. Còn “đình chỉ hành vi đối địch” nói ở đây chủ yếu là nghiên cứu vấn đề bố trí quân đội hai bên giao chiến, và còn bao gồm việc rút hết mọi quân đội nước ngoài.
Chu Ân Lai lại xuất phát từ tình hình thực tế của hai nước Lào và Campuchia suy tính vấn đề, chỉ ra, dù đã đình chỉ hành động quân sự, vẫn phải đình chỉ đưa quân đội và vũ khí đạn dược mới từ bên ngoài vào. Tuy vậy đại biểu Trung Quốc chú ý tới, đoàn đại biểu Campuchia đã đề xuất tới việc đưa vào vũ khí tự vệ. Điều này có thể lí giải là không chỉ Campuchia như vậy mà Lào cũng phải như vậy. Trung Quốc còn đặc biệt nhấn mạnh: sau khi ngừng bắn, bất kỳ nước ngoài nào cũng không được thiết lập căn cứ quân sự trong biên giới ba nước.
Tiếp đó Chu Ân Lai đề xuất “Kiến nghị của đoàn đại biểu Trung Quốc về việc giải quyết vấn đề Lào và Campuchia”:
Các nước tham dự hội nghị Genève hiệp nghị như sau:
Đình chỉ hành động đối địch trong biên giới Lào và Campuchia sẽ đồng thời tuyên bố với việc đình chỉ hành động đối địch với Việt Nam.
Đại biểu Bộ Tư lệnh hai bên giao chiến sẽ đồng thời trực tiếp đàm phán tại Genève và tại chỗ về vấn đề đình chỉ hoạt động đối địch trong biên giới Lào và Campuchia.
Sau khi đình chỉ hành động đối địch, không cho phép từ ngoài biên giới đưa vào Lào và Campuchia bộ đội và nhân viên lục, hải, không quân mới cũng như các loại vũ khí và đạn dược.
Về vấn đề số lượng và chủng loại vũ khí cần để tự vệ mà đưa vào sẽ có hiệp thương riêng.
Quyền lực của Ủy ban Giám sát quốc tế nên mở rộng tới Lào và Campuchia, nhưng nên chiếu cố tình hình đặc biệt của mỗi nước.
Sau khi các Bô tư lệnh đã hiệp nghị, sẽ thả hoặc trao đổi tù binh và dân thường bị bắt.
Những nhân viên hợp tác với đối phương trong thời chiến không được chịu bức hại.
Trong đề án này, đại biểu Trung Quốc thừa nhận, tình hình Lào và Campuchia không giống với Việt Nam, có thể đối xử khu biệt, không bàn vấn đề có thiết lập Ủy ban liên hiệp hai bên giao chiến ba nước Đông Dương nữa, cũng không bàn phương án phân chia ranh giới ra để quản lý ở Lào và Campuchia nữa. Thế mà trước đó đại biểu ba nước Việt, Trung, Xô đều từ chối chia tách vấn đề Việt, Lào, Campuchia ra giải quyết.
Sau Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng đại biểu Việt Nam cũng đề xuất một kiến nghị về giải quyết vấn đề Đông Dương, điều kiện quan trọng hàng đầu là: “để xây dựng hòa bình lâu dài ở Đông Dương, cần phải trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc Việt Nam, Lào và Campuchia có chủ quyền hoàn toàn, thực sự và độc lập dân tộc, giải quyết các vấn đề chính trị.” Kiến nghị của ông đề xuất: “trong biên giới Việt Nam rút hết mọi quân đội nước ngoài.” Ông ta không đề cập vấn đề liệu có rút quân độ nhân dân Việt Nam ra khỏi Lào và Campuchia hay không, đồng thời còn cho rằng, khi giải quyết vấn đề Đông Dương, không thể tách rời vấn đề chính trị và quân sự, cần giải quyết đồng thời Phạm Văn Đồng biểu thị ủng hộ đề án của Chu Ân Lai ngoại trưởng Trung Quốc. đại biểu Pháp, Chauvel lập tức phát biểu, chỗ khiến ông ta cảm thấy phấn khởi là Phạm Văn Đồng không phản đối đề án của Trung Quốc. Ông ta nói, chỉ cần quân đội Việt Nam rút khỏi Lào và Campuchia, thì quân đội Pháp lưu tại đó là không cần thiết. Về điểm mọi quân đội nước ngoài đều rút khỏi Lào và Campuchia, nước Pháp vui lòng tiếp nhận giám sát quốc tế.
Smith phát biểu ngắn gọn, nói ông ta rất phấn khởi nghe đề án của Trung Quốc cho rằng có sự “kiềm chế và có lý trí” nhưng không thể nói kiến nghị của Phạm Văn Đồng là kiềm chế và có lý trí. Ông ta hy vọng hội nghị quay về vấn đề Lào và Campuchia. Ông ta nói lại lần nữa, mấy điểm trong đề án của Trung Quốc về Lào và Campuchia là có thể đồng ý. Đây là lần đầu tiên trong hội nghị Genève đoàn đại biểu Mỹ biểu thị ý tán thành đề án của Trung Quốc.
Phát biểu của Smith rõ ràng là một bước ngoặt. Trong thời gian hội nghị nghỉ, Molotov đi tới bên cạnh Smith một lần nữa hỏi, ngài cảm thấy đề án Trung Quốc về biện pháp giải quết vấn đề Lào và Campuchia như thế nào? Smith nói, đề án này là lý trí, nhưng chưa đề xuất biện pháp cụ thể rút quân như thế nào. Nếu như có, chúng tôi cũng đồng ý thành lập tổ chức giám sát quốc tế, và như vậy đề án này có thể được suy tính tới một cách nghiêm túc.
Molotov nói, ông sẽ đề nghị ngay tại hội nghị, nêu tên Indonesia tham gia tổ chức giám sát quốc tế.
Một lần nữa Smith nói, chỉ cần giống như vừa rồi tôi nghe, chỉ cần đề án Trung Quốc có tiền đề như thế này: nước Mỹ không có căn cứ quân sự tại Lào và Campuchia và hai nước nói trên chỉ cần bảo đảm mình không bị xâm lược, nước Mỹ cũng không cần thiết xây dựng căn cứ quân sự ở đó. Nếu là như vậy, nước Mỹ không phản đối đề án của Trung Quốc.
Đề án của Chu Ân Lai đã đưa tới đoạn nói chuyện có tính hòa giải như vậy, trở thành cơ sở khiến hội nghị Genève có thể giành được đột phá quan trọng.
Trong động loạn chính trị đã lộ rõ bản sắc anh hùng. Đúng như Chu Ân Lai đã dự liệu, vấn đề Đông Dương là có thể đàm phán được, vì việc này cần phải nỗ lực.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:10:55 GMT 9
CHƯƠNG 23 Thấy ánh sáng cuối đường hầm
Tiền trình Hội nghị Genève không biết trước được. Bidault đang lún sâu vào khủng hoảng chính trị đưa mắt nhìn, bên bờ hồ Lemon đầy những mầm xanh, ba phần sắc đẹp, hai phần buồn lại thêm một phần mưa gió, nhưng dù sao ông ta vẫn ôm ấp hy vọng vào hội nghị Genève. Trong lần cuối cùng đến Genève với tư cách là Ngoại trưởng Pháp ông ta đã nói với Chu Ân Lai, yêu cầu mọi người đừng vội tan vỡ. Chu Ân Lai với hy vọng tràn đầy liên tục hội kiến nhiều ngoại trưởng phương Tây, kiên nhẫn phân tích triển vọng giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương. Ngày 17 tháng 6, chính phủ Laniel Pháp đổ, [Pierre] Mendès-France nhận chức Thủ tướng mới của Pháp, hội nghị Genève đã xuất hiện một thay đổi lớn.
Trưa ngày 17 tháng 6, Chu Ân Lai dự hội nghị đại biểu Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam để điều hòa lập trường. Ba bên thảo luận bức điện về phương án chia vùng ngừng bắn ở Đông Dương do Trung ương ĐLĐ Việt Nam gửi ngày 13 tháng 6. Chu Ân Lai chỉ ra, muốn khôi phục hòa bình Đông Dương có thể rút kinh nghiệm “phương thức Triều Tiên” chia giới tuyến Nam, Bắc thực hiện phân trị trước. Ông chỉ ra, phương án của ta nên lấy Việt Nam làm trọng điểm tranh thủ, còn Lào và Campuchia có thể theo tình hình mà nhượng bộ. Tại Campuchia không chia vùng, chỉ mong giải quyết chính trị; tại Lào thì ở hai đầu nam, bắc chia “vùng biên khu”
Chu Ân Lai nói, căn cứ vào thực lực của chính phủ kháng chiến Campuchia, không có khả năng chia vùng tại Campuchia. Chỉ nên tiến hành đàm phán theo phương châm ngừng chiến tại chỗ, hai bên hiệp thương, nước trung lập giám sát, giải quyết chính trị.
Molotov ủng hộ Chu Ân Lai, hy vọng Phạm Văn Đồng tiếp nhận kiến nghị của Chu Ân Lai. 12 giờ trưa, Chu Ân Lai đến nơi ở của đoàn đại biểu Pháp gặp Bidault vừa từ Paris trở lại, thông báo cho ông ta nội dung nói chuyện với Eden hôm trước.
Tiền trình của hội nghị Genève chưa định, bên bờ hồ Lemon một mầu xanh ngắt, ba phần sắc đẹp hai phần buồn lại thêm một phần mưa gió. Bidault đang lún sâu vào cuộc khủng hoảng chính trị của nước Pháp, nhưng vẫn ôm ấp hy vọng vào hội nghị Genève. Ông ta biểu thị với Chu Ân Lai: “nguyên nhân khiến tôi trở lại Genève lần này là để yêu cầu mọi người đừng tan vỡ quá sớm. Vào lúc tôi rời khỏi, ấn tượng của tôi là hội nghị đã thu được tiến triển, ngài Molotov đã đề xuất nhân tố khẳng định, đặc biệt là phát biểu của ngài Thủ tướng rất đáng để chúng ta suy nghĩ. Bây giờ chúng ta nên xem xét xem liệu đã có thể thu được kết quả cụ thể hay chưa. Chúng tôi hy vọng ngoại trưởng các nước không nên ra về quá sớm, không nên kết thúc hội nghị vào lúc này.”
Lời nói của Bidault là một tín hiệu quan trọng, người Pháp không mong muốn hội
nghị Genève đi vào tình cảnh tuyệt vọng.
Bidault nói tiếp, đại biểu quân sự có thể tiếp tục thảo luận vấn đề đình chiến. Đợi đến sau khi bọn họ thảo luận thu được kết quả, sẽ lại đề nghị hội nghị ngoại trưởng thảo luận. Ông ta nói: “tôi biểu thị lần nữa, kiến nghị mà các ngài đề xuất hôm qua đáng để bất kỳ chính phủ Pháp nào –cho dù tôi không tham gia chính phủ- phải tiến hành quan tâm chú ý đặc biệt. Kiến nghị của đoàn đại biểu nước CHND Trung Hoa là một kiến nghị có tính xây dựng.”
Chu Ân Lai nói: lập trường nhất quán của chúng tôi là làm cho hội nghị Genève có thành quả. Rất tiếc hội đàm vấn đề Triều Tiên đã tan vỡ, ngay hiệp định có tính thỏa hiệp ở mức thấp nhất cũng không đạt được. Hôm qua tôi nói với ngài Eden, chúng tôi không muốn nhìn thấy hội nghị vấn đề Đông Dương gặp phải kết quả như vậy. Về hội nghị ngoại trưởng Đông Dương nói chung phải có ngoại trưởng các nước lớn ở Genève mới được. Nếu như theo kế hoạch của Anh, Mỹ (ngoại trưởng các nước) sẽ nhanh chóng phải ra đi, thế thì Xô, Trung sẽ rất khó lưu lại đây. Chúng tôi tán thành ý kiến của đoàn đại biểu Pháp, làm cho hội nghị tiếp tục mới tốt. Thế nhưng rốt cuộc áp dụng phương pháp gì để hội nghị có thể tiếp tục, ngài Bidault hội kiến ngoại trưởng Anh, Mỹ, nghe nói hôm nay lại hội kiến Molotov, không biết đã có biện pháp gì chưa?
Bidault nói: tôi nhắc lại một chút, mục đích tôi trở lại Genève là để các ngoại trưởng không đến nỗi phân tán quá sớm. Căn cứ vào những điều đã bàn với các ngài Eden, Smith, Molotov, chúng tôi nguyện không rời trước tuần lễ sau. Thế thì chúng ta còn thời gian một tuần lễ nữa có thể lợi dụng, các chuyên gia quân sự nên tiếp tục hội đàm, giao mọi kiến nghị mà họ đưa ra cho các ngoại trưởng thảo luận. Nếu công việc của họ không có thành quả, các ngoại trưởng có thể ra về để đại diện của họ tiếp tục làm việc. Thế nhưng đại diện ngoại trưởng các nước phải là đại biểu cao cấp nhất, không nên chỉ là chuyên gia. Tôi cho rằng chí ít phải là đại biểu cấp đại sứ có kinh nghiệm, của Pháp sẽ là ngài Chauvel, hy vọng các đoàn đại biểu khác cũng là đại diện có cùng địa vị như vậy. Nếu công việc của bọn họ có thành tựu, các ngoại trưởng sẽ quay lại Genève để có xác định cuối cùng.
Chu Ân Lai nói: hiện nay xem ra không thể toàn bộ đạt được hiệp nghị, cần có thời gian thương thảo để cụ thể nó. Nếu ngoại trưởng Xô, Anh, Mỹ đều có ý kiến này, đoàn trưởng đoàn đại biểu Pháp cũng có ý kiến như vậy, thế thì theo lập trường vốn luôn tích cực của chúng tôi, chúng tôi tán thành, sẽ không phản đối. Tuy vậy nói chung phải làm cho các ngoại trưởng trước khi rời khỏi dây có thể đạt được một vài cụ thể, cho dù không phải là hiệp nghị cuối cùng thì cũng có lợi.
Bidault nói: tôi hoàn toàn đồng ý cách nhìn của ngài. Theo hội nghị hôm qua thì xem ra hiệp nghị về vấn đề Đông Dương không phải là không thể đạt được. Hôm qua trong cuộc đối thoại giữa ngài và ngài Smith trên hội nghị đã làm cho mọi người đều cảm thấy không nên tự tan đi lúc này. Phát biểu của ngài Smith là rất khách khí. Ý kiến của ngài và của ông ta đều rất quan trọng, là nhân tố thúc đẩy hội nghị tiến lên.
Chu Ân Lai nói: hôm qua tôi cũng nói với ngài Eden là vui lòng bàn bạc với đoàn đại biểu Pháp. Chúng tôi đã liên hệ vấn đề Lào, Campuchia và vấn đề Việt Nam lại để xem xét. Chúng tôi cho rằng phương án của nước Việt Nam DCCH đề xuất về vấn đề Việt Nam là hợp lý, đó cũng là hòa bình quang vinh mà hai bên tìm kiếm. Đối với vấn đề Lào và Campuchia tôi đã luôn nói, tính chất của chiến tranh là giống nhau, thế nhưng tình hình ba nước không giống nhau, vì thế biện pháp giải quyết cũng cần phải có chỗ không giống nhau, nhưng cần phải liên hệ lại với nhau giải quyết. Chúng tôi vui lòng nhìn thấy Lào, Campuchia trở thành quốc gia dân chủ, quốc gia hòa bình, giống như quốc gia kiểu Đông Nam Á, đồng thời lại là nước thành viên của Liên hiệp Pháp. Nếu như họ vui lòng chung sống hòa bình với nước Pháp, chung sống hòa bình với nước Việt Nam DCCH, chung sống hòa bình với các nước Đông Nam Á, với Ấn Độ với Trung Quốc, thì như vậy đều tốt cho Đông Nam Á.
Thế nhưng chúng tôi không muốn nhìn thấy Lào và Campuchia trở thành căn cứ quân sự của nước Mỹ. Chúng tôi cũng tin là nước Pháp cũng không vui lòng nhìn thấy tình hình nay. Nếu không an ninh của Việt Nam, Trung Quốc sẽ bị đe dọa, Trung Quốc không thể không hỏi han.
Về chính trị, Lào và Campuchia nên dân chủ hóa, phải tôn trọng ý chí của nhân dân, nếu nhân dân vui lòng thừa nhận chính phủ vương quốc của hai nước thí chính phủ này có thể thành chính phủ của hai nước. Thế nhưng họ cũng muốn căn cứ vào nguyên tắc dân chủ tìm cách giải quyết chính trị trên cơ sở dân chủ đối với lực lượng phong trào dân tộc và chính phủ chống đối vì như vậy mới có thể giành được hòa bình thật sự. Chúng tôi biết nước Việt Nam DCCH cũng thừa nhận độc lập, chủ quyền và thống nhất của hai nước.
Về quân sự nên giải quyết từ hai mặt. Một mặt thừa nhận trong hai nước Lào và Campuchia đúng là có bộ đội chống đối của bản quốc, tại Campuchia số lượng có thể ít hơn một chút, vùng hoạt động nhỏ hơn một chút. Tại Lào số lượng và vùng hoạt động lớn hơn một chút. Vì vậy tại Campuchia nên đình chiến tại chỗ, hai bên hiệp thương, giải quyết chính trị; tại Lào vì vùng hoạt động lớn, lực lượng cũng tiương đối lớn nên thừa nhận dùng biện pháp tập kết để giải quyết. Mặt khác mọi quân đội nước ngoài dều phải rút khỏi, hai nước nên tiếp nhận nguyên tắc này. Việt Nam có quân tình nguyện đã từng vì quan hệ tác chiến mà tới Lào và Campuchia, có một số đã về nước. Nếu bây giờ vẫn còn thì có thể tuân theo nguyên tắc “mọi quân đội nước ngoài đều phải rút khỏi Lào, Campuchia” mà xử lý. Tôi cho rằng chỉ cần nước Pháp và nước Việt Nam DCCH, bộ phận chủ yếu của hai bên giao chiến đều đồng ý thì vấn đề sẽ giải quyết được.
Bidault nói: tôi vui lòng biểu thị, cuộc hội đàm như thế này của chúng ta là có chỗ rất tốt. Chúng ta đã có được một số điểm đồng thuận, như thế mới là hội đàm chân chính có hiệu quả đồng thời có thể giúp đạt được hiệp nghị. Căn cứ vào tinh thần như vậy và phát biểu trên hội nghị ngày hôm qua, mọi người lại biểu thị một số thành ý, hòa bình giải quyết là có thể đạt được. Bây giờ chúng ta phải chú ý một diểm, đó lag không để cho bất kỳ người nào đến phá hoại hội nghị. Chúng ta phải làm cho hội nghị quân sự đạt được kết quả tốt, đồng thòi làm cho toàn bộ hội nghị tiếp tục tiến triển.
Ngay đêm hôm đó Chu Ân Lai gửi điện cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và
Trung ương ĐCS Trung Quốc, nói lên cách nhìn của mình đối với việc Ngoại trưởng Anh, Eden thông tri, nước Anh sẽ tuyên bố chính phủ Trung Quốc đồng ý phái nhân viên ngoại giao thường trú London. Chu Ân Lai cho rằng trong tình hình hiện nay tuyên bố hiệp nghị đó là có ích bởi vì “công nhận lẫn nhau thân phận đại biểu và địa vị của nhân viên ngoại giao đối phương có thể biểu thị quan hệ hai nước đã bắt đầu đi vào bình thường hóa, nhưng trước khi hai bên thông qua đàm phán trao đổi đại sứ thì quan hệ hai nước vẫn chưa hoàn toàn bình thường hóa, vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi giai đoạn đàm phán thiết lập quan hệ ngoại giao, cơ cấu đại biện nên gọi là “phòng đại biện” Chu Ân Lai kiến nghị, Tân Hoa xã cũng trong tối hôm nay (ngày 17 tháng 6) tuyên bố tin này và quảng bá trong toàn quốc.
Ngày 18 tháng 6 Chu Ân Lai đã chuẩn bị xong việc hội kiến với Casey. Casey là nhà ngoại giao lâu đời của Australia giữ chức ngoại trưởng nhiều năm sau chiến tranh. Đối với hội nghị Genève, Casey có “lạc quan thận trọng”. Ông vốn cho rằng hội nghị Genève đối với vấn đề Triều Tiên rất khó có thể đạt được cái gì, nhưng hai mặt trận lớn Đông, Tây nên cố gắng khôi phục hòa bình Đông Dương. Đối với Trung Quốc mới, Casey giữ thái độ tương đối ôn hòa, ông không dự tính công nhận Trung Quốc trong thời gian gần, nhưng cho rằng thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc chỉ là việc sớm muộn.
Casey vô cùng coi trọng cuộc hội kiến với Chu Ân Lai, ngày 17 đã chuyên gặp Eden trong thời gian cực ngắn. Eden nói với Casey, ngày hôm qua ông ta đã gặp Chu Ân Lai, thái độ của Chu Ân Lai là then chốt làm cho hội nghị Genève thoát khỏi cục diện cứng nhắc. Eden còn nói, ông ta đã gọi điện thoại báo cáo với Churchill về thái độ của Chu Ân Lai hy vọng khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Ở đầu dây điện thoại bên kia, thủ tướng Anh hy vọng cục diện cứng nhắc vì thế có bước ngoặt.
Casey còn gặp Smith đại diện Mỹ và có cuộc nói chuyện dài. Smith nói với Casey, có thể có lý do nào đó cho rằng, Việt Minh có thể thành lập chính quyền tại miền Bắc Việt Nam (trong đó bao gồm Hà Nội), nhưng nước Pháp muốn khống chế Hai Phòng và giáo dân Thiên chúa Việt Nam. Smith còn nói, nếu tương lai nước Pháp rút khỏi Việt Nam, nước Mỹ sẽ thay thế. Ông ta có lòng tin vào việc sau này nước Mỹ huấn luyện quân đội của chính quyền Bảo Đại cho rằng hoàn toàn có thể đạt được trình độ như người Pháp.
Sau khi đã bàn bạc với đại biểu Anh và Mỹ, trước buổi trưa ngày 18 tháng 6, Casey dẫn tùy viên John Roland cùng tới biệt thự Vạn Hoa hội kiến Chu Ân Lai.
Chu Ân Lai đứng trước cửa nhà biệt thự đón Casey, rất lịch sự, rất phong độ.
Ấn tượng đầu tiên của Casey là mình đã được Chu Ân Lai đón tiếp cực kỳ lịch sự. Thủ tướng Trung Quốc ăn nói sinh động thú vị, phiên dịch tiếng Anh trẻ Phố Thọ Xương của ông nói một thứ tiếng Anh chính cống, dịch rất lưu loát khiến người ta khâm phục.
Chủ khách vừa yên vị, Chu Ân Lai ra hiệu tay, lập tức có người xuất hiện, lễ phép rót nước trà. Vừa mở nắp cốc, đã thấy lá chè xanh biếc, hương thơm xộc mũi. Đây là loại chè “Bích Loa xuân”, Đông Sơn, Tô Châu từ trong nước mang ra theo chỉ thị của Chu Ân Lai. Casey luôn miệng khen “chè ngon”, vừa nhấp một hớp đã có người rót thêm nước, uống đến đâu, rót thêm nước đến đó, Casey không biết mình đã uống bao nhiêu nước.
Chu Ân Lai nói, hoan nghênh ngoại trưởng Casey đến thăm, đáng tiếc là ngoại trưởng Casey sắp phải rời Genève, nếu như chúng ta có cơ hội gặp nhau bàn bạc sớm thì tốt bao nhiêu.
Casey giỏi dẫn dắt đầu đề câu chuyện. Ông nói ngày 27 tháng 5, ngoại trưởng Trung, Anh đạt được nhất trí ý kiến, xác định hai bên sẽ mở Phòng Đại biện tại thủ đô của nhau, thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại biện. Nên chúc mừmg việc này! Casey nói, Eden là gentleman nước Anh điển hình là một người lịch sự.
Trước sự đánh giá của Casey, Chu Ân Lai cười rồi nói, trong việc quan hệ Trung, Anh ngoại trưởng Eden rất tích cực, chúng tôi đã cùng nhau giải quyết một việc khó khăn. Bây giờ tôi rất vui lòng nghe ý kiến của ngoại trưởng lão thành, ngài Casey về tiến trình của hội nghị Genève.
Chu Ân lai không cảm thấy nuối tiếc vì hội nghị Genève về vấn đề Triều Tiên không đạt được hiệp nghị. Ông nhấn mạnh nói, chúng ta không nên vì vấn đề Triều Tiên bị cản trở mà dừng lại trên đường đàm phán, bây giờ chúng ta nên cố gắng giải quyết vấn đề Đông Dương.
Casey nói, vấn đề Triều Tiên gặp phiền phức là có thể tưởng tượng được, bởi vì đó vốn là một vấn đề khó, như nước và dầu khó có thể tan vào nhau. Casey nói, đối với vấn đề này thì có thể để cho sau này hai bên nam, bắc Triều Tiên thiết lập quan hệ mậu dịch trước thì càng tốt.
Casey nói với Chu Ân Lai: “có thể ngài Eden cũng đã nói với ngài, sau này nếu lại họp thảo luận vấn đề Triều Tiên, Trung Quốc sẽ nhận được lời mời.”
Chu Ân Lai nói, ông ngờ là sẽ không nhận được lời mời này.
Casey nói: “từ góc độ cá nhân tôi thấy, có thể khẳng định phải mời Trung Quốc.”
Tiếp đó Chu Ân Lai và Casey thảo luận vấn đề Đông Dương. Chu Ân Lai giới thiệu cách nhìn của chính phủ Trung Quốc đối với vấn đề Lào và Campuchia. Ông nói với Casey, tôi biết nước Việt Nam DCCH vui lòng tôn trọng độc lập, chủ quyền và thống nhất của Lào và Campuchia. Từ chính trị mà nói thấy, chính phủ của hai vương quốc này cũng có thể được công nhận.
Casey nói, thái độ chủ động của Trung Quốc đối với Lào và Campuchia được mọi người hoan nghênh, hy vọng thảo luận hơn nữa những vấn đề chi tiết của bước tiếp sau.
Chu Ân Lai nói: “các nước đều hy vọng nhìn thấy một nước Lào và Campuchia hoàn chỉnh, độc lập và được hưởng đầy đủ an ninh. Chúng tôi hy vọng hai nước này về các mặt đều độc lập tự chủ như các quốc gia châu Á khác Thế nhưng có một điểm, không thể xây dựng căn cứ quân sự của Mỹ tại Lào và Campuchia.”
Casey nói, có khả năng không xây dựng căn cứ quân sự ở đó, hơn nữa hai bên cũng không nên xây dựng căn cứ quân sự ở đó.
Chu Ân Lai truy hỏi: “ngài chỉ hai bên là cái gì?”
Casey trả lời: “Australia không tham gia công việc Đông Dương, tôi cũng không được chỉ thị nói đến cái khác, thế nhưng nếu có người kiên trì yêu cầu Trung Quốc không xây dựng căn cứ quân sự hoặc sân bay không quân tại vùng biên giới Trung Việt, tôi sẽ không cảm thấy kỳ quái.”
Chu Ân Lai nói: “Căn cứ mà Trung Quốc xây dựng đều có tính phòng ngự.” Ông lời lẽ nghiêm chỉnh chỉ ra với Casey, chẳng lẽ một quốc gia có chủ quyền bố trí quân đội trên lãnh thổ của mình lại phải chịu sự hạn chế từ bên ngoài sao? Điều này rõ ràng là nói không xong.
Casey khôn khéo nói: “điều này cần phải xem người của bọn họ sử dụng như thế nào, khu biệt giữa phòng ngự và tấn công là ở chỗ này.”
Đến đây Casey phát hiện được tiếng Anh của Chu Ân Lai tương đối tốt, khi người phiên dịch dịch một câu nói của Chu Ân Lai là: “không xây dựng căn cứ quân sự nước ngoài ở châu Á”, Chu Ân Lai đã bảo người phiên dịch ngừng lại, sửa lại: “phải dịch là, không xây dựng căn cứ quân sự nước ngoài tại Lào và Campuchia.”
Casey hỏi Chu Ân Lai: “có phải ngài đã hội kiến ngoại trưởng Lào và Campuchia?”
Chu Ân Lai nói: “ngoài ở hội trường ra, còn chưa có cơ hội gặp nhau nói chuyện.”
Casey nói: “Tốt nhất là ngài nên gặp họ, giống như hôm nay gặp tôi.”
Chu Ân Lai nói, tôi cũng hy vọng có cơ hội cùng hai vị ngoại trưởng đó bàn bạc, có vấn đề gì, có chỗ nào hai bên còn chưa được lý giải, thông qua gặp mặt trao đổi mới nói rõ được. Trên thực tế, tôi đã biểu đạt với Ngoại trưởng Vương Quốc Lào Phui Sananikone, và ngoại trưởng Campuchia Tep Phan, Trung Quốc cùng với Lào và Campuchia đều là láng giềng gần, chúng tôi có tình hữu nghị truyền thống. Trung Quốc không có ý đồ xâm lược và bành trướng ra chấu Á, Trung Quốc mong muốn nhìn thấy các nước châu Á giành được tự do và độc lập, đòng thời có chính phủ dân chủ của mình. Vấn đề Việt Nam cũng bao gồm trong đó, nếu thực hiện ngừng bắn ở Việt Nam, nên hết sức nhanh chóng tiến hành bầu cử.
Casey nói, Việt Nam chịu vết thương chiến tranh rất nặng, nên có một thời kỳ thích ứng.
Chu Ân Lai hỏi Casey, nếu như vậy, ngài cảm thấy thời kỳ thích ứng nên dài bao nhiêu?
Casey nói: “chẳng ai uỷ quyền cho tôi phát biểu việc này, nhưng cá nhân tôi thấy, chí ít cũng cần thời gian 12 tháng.”
Nghe xong, Chu Ân Lai ngừng một lúc mới nói: “tôi đồng ý, tiến hành bầu cử phổ thông ở Việt Nam cần một đoạn thời gian thích đáng.”
Chu Ân Lai nói, chúng ta nên làm cho hội nghị Genève đạt được thành quả tích cực, chúng ta không mong muốn đánh nhau, nhân dân Trung Quốc khát vọng hòa bình. Xét trong phạm vi thế giới thấy, chỉ cần hai bên Đông, Tây đều không ý đồ bành trướng và xâm lược là có thể thực hiện được chung sống hòa bình. Vì sao chúng ta lại không thể thực hiện được chung sống hòa bình?
Cuộc nói chuyện giữa Chu Ân Lai và Casey kéo dài 45 phút. Tinh lực dồi dào của Chu Ân Lai cũng như cách nhìn nhạy cảm của ông đối với các vấn đề quốc tế đều để lại ấn tượng sâu sắc cho Casey. Vì buổi chiều phải rời Genève nên Casey đứng dậy từ biệt, và nói với Chu Ân Lai: “từ nay trở đi, ngài không còn là tên gọi mà tôi nhìn thấy trên báo chí, mà là một nhân vật sống động ngay trước mắt tôi.”
Sau khi từ biệt Casey, Chu Ân Lai lên ô tô vào thành phố, tham gia hội nghị có tính hạn chế lần thứ 15 về vấn đề Đông Dương vào 3 giờ chiều.
Không ngờ Smith vắng mặt ngày hôm đó, Robertson đại biểu Mỹ phát biểu đầu tiên, tiến hành công kích phương án ngày 16 tháng 6 của Chu Ân Lai. Cho đến nay, vẫn chưa từ hồ sơ lưu trữ phát hiện được ý kiến của Dulles đối với phát biểu ngày 16 tháng 6 của Smith nhưng xem xét từ chỗ, Smith không tham gia phiên họp ngày 18 tháng 6 có thể thấy, rất có thể bài phát biểu của ông ta đã bị Quốc Vụ viện phê bình. Thứ hai quan điểm của Robertson và Smith có chỗ không giống nhau, người trước có thái độ rất thù địch Trung Quốc mới. Một khi có cơ hội phát biểu tại hội nghị là Robertson nói, đề án của Trung Quốc có lợi cho lực lượng chống đối tại Lào và Campuchia lưu lại, không có sự hạn chế rõ ràng việc này, vì thể nước Mỹ không thể chấp nhận đề án của Trung Quốc.
Trong chốc lát không khí hội trường căng thẳng lên. Tep Phan ngoại trưởng Campuchia yêu cầu phát biểu. Với tư cách là người đương sự trực tiếp, thái độ của ông này trái hẳn với thái độ của Robertson, biểu thị vui lòng nhìn thấy ba nước Đông Dương đồng thời ngừng bắn, nhưng không thiết lập “vùng tập kết” trong biên giới Campuchia. Campuchia vui lòng tiếp nhận đề án của Trung Quốc, thực hiện các điều khoản trong phương án của Trung Quốc không có khó khăn gì.
Những người trong cuộc trực tiếp, vui lòng tiếp nhận đề án của Chu Ân Lai đã khiến không khí hội trường dịu đi.
Sau đó là phát biểu của Chu Ân Lai. Vương Bỉnh Nam nhớ lại nói, Chu Ân Lai rất giận dữ trước bài phát biểu của Robertson, đã chỉ ra, phát biểu của Robertson không giống như phát biểu của Smith hôm qua. Chu Ân Lai phẫn nộ nói với Robertson, chúng ta đã từng gặp mặt, nếu ngài Robertson kiên trì muốn gây chiến, chúng tôi sẽ kiên trì ứng chiến.
Chu Ân Lai chỉ ra thêm, phát biểu và kiến nghị trên hội nghị của đoàn đại biểu Trung Quốc ngày 16 tháng 6 là rất rõ ràng, không cho phép có sự hiểu sai nào. Lào và Campuchia có tình hình hai mặt, một mặt đúng là có quân đội do chính phủ chống đối lãnh dạo. Một mặt do quan hệ tác chiến, hai bên đều đưa vào quân đội nước ngoài, hoặc là từng có đưa vào quân đội nước ngoài, hơn nữa có số đã rút khỏi. Bây giờ muốn đạt được ngừng bắn có hiệu quả thực sự, cần đạt được hiệp nghị mọi lực lượng vũ trang nước ngoài đều rút khỏi Lào và Campuchia.
Điểm then chốt trong phát biểu của Chu Ân Lai là: ngừng bắn tại ba nước Đông Dương phải đồng thời thực hiện, không thể một nước ngừng bắn còn nước khác lại không ngừng bắn. Ông còn chủ trương, tiến hành giám sát quốc tế ngừng bắn ở ba nước.
Phạm Văn Đồng phát biểu ủng hộ ý kiến của Chu Ân lai, ông cũng biểu đạt ý tứ giống như vậy: “trước đây từng có quân đội tình nguyện Việt Nam tác chiến tại Lào và Campuchia, hiện nay một số quân đội đó đã rút khỏi hai nước. Nếu hiện nay vẫn còn, cũng tự nhiên nên rút khỏi.” Ông bổ sung nói, ở đó còn có lực lượng chống lại của riêng Lào và Campuchia, điều này không được phép phủ nhận.
Molotov cũng phát biểu ủng hộ kiến nghị của Chu Ân Lai. Trong phát biểu đại biểu Lào cũng nói, kiến nghị của Trung Quốc có thể dùng làm cơ sở để thảo luận thêm. Đại biểu Lào thừa nhận trong biên giới Lào có căn cứ quân sự của Pháp, ông vui lòng thảo luận vấn đề giám sát quốc tế đối với quân đội nước ngoài.
Sau giờ nghỉ giải lao, Robertson, đại biểu Mỹ đề xuất một tuyên bố với hội nghị, nói: “phát biểu mà tôi vừa nói không có chỗ nào mâu thuẫn với lập trường của tướng Smith tại hội nghị lần trước.” Tuy vậy ông ta không tiến hành giải thích điều này, tức là nói đề án của Campuchia và của Lào phải rõ ràng hơn so với dề án của Trung Quốc, do đó càng thuận tiện hơn cho thảo luận.
Mặc dù có sự công kích của Robertson cục diện hội trường vẫn phát triển theo hướng hòa dịu. Vào lúc hội nghị kết thúc, Eden kiến nghị, đề án của Trung Quốc, và Lào, Campuchia có thể làm cơ sở để hội nghị lần tới thảo luận. Chủ tịch hội nghị Molotov tuyên bố, không có lý do để từ chối đề nghị của Eden, ngày mai (ngày 19 tháng 6) tiếp tục cử hành hội nghị.
Đúng vào lúc đó tại Paris thủ đô Pháp đã xẩy ra sự thay đổi cục diện một cách kịch tính.
Ngày 17 tháng 6, ứng cử viên Thủ tướng Pháp, Mendès-France đảng viên đảng Xã hội Cấp tiến tới quốc hội phát biểu diễn thuyết cầm quyền.
Mendès-France (1907-1982) sinh ngày 11 tháng 1 năm 1907 trong một gia đình Do Thái ở Paris. Ngay từ trẻ đã tốt nghiệp tại Học viện Chính trị Paris, vì có hứng thú đặc biệt với luật pháp nên đã vào học Học viện Luật, Đại học Paris và có bằng tiến sĩ luật. Trong thời gian theo học, ông đã gia nhập đảng Xã hội Pháp. Năm 1932 khi 25 tuổi, Mendès-France bắt đầu cuộc sống chính trị, được bầu làm nghị sĩ đảng Xã hội Cấp tiến tỉnh Aire. Năm 1938 giữ chức Thứ trưởng Bộ Tài chính. Trước khi bắt đầu chiến tranh thế giới thứ thứ hai, ông phục vụ trong không quân, do bất mãn với chính sách đầu hàng của chính phủ Vichy mà bị bắt. Sau này Mendès-France vượt ngục thành công, dấn thân vào phong trào kháng chiến của Pháp. Năm 1943-1944, ông giữ chức Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ lâm thời Pháp. Năm 1944-1945 giữ chức Bộ trưởng Kinh tế quốc dân của chính phủ.
Bắt đầu từ năm 1950, Mendès-France phản đối chính sách Đông Dương của chính phủ Pháp, cho rằng nên thông qua đàm phán giải quyết vấn đề Đông Dương. Một năm trước, Mendès-France ra tranh cử Thủ tướng nhưng không thành công. Lần này ông tự cho rằng cơ hội của mình đã tới. Chính phủ Laniel đổ, các nghị sĩ quốc hội gửi nhiều hy vọng vào Mendès-France.
Băt đầu từ ngày 14 tháng 6, Mendès-France liên tục gặp gỡ những người phụ trách quân sự nước Pháp, nghe họ giới thiệu về cuộc chiến tranh Đông Dương. Ông ta còn hội kiến Bidault vừa về Paris. Bidault nói với ông ta: “tình hình còn khó khăn hơn so với tưởng tượng của ngài.” Thế nhưng Mendès-France vẫn kiên định cho rằng giành được hòa giải ở hội nghị Genève là hành động then chốt để chấn hưng nước Pháp.
Giờ đây khi ông ta đến gặp các nghị sĩ chính là lúc hội nghị Genève đứng giữa sự thành, bại. Bài diễn thuyết của ông ta được công chúng Pháp quan tâm chú ý rộng rãi. Đó là một bài diễn văn ảnh hưởng đến vận mệnh nước Pháp
Vào khoảng một năm trước đúng ngày hôm nay cùng mang một sứ mệnh tương tự, được sự uỷ nhiệm của Tổng thống nước Cộng hòa, tôi đã đến đây đề xuất một nghị quyết án phục hồi kinh tế và chấn hưng dân tộc. Khi đó tôi nói với các vị, chính sách này là một chỉnh thể bạn không thể tiếp nhận phần này mà từ chối phần kia. 301 người trong các ngài tiếp nhận đề án đó, còn 205 người thì không, tôi cho rằng điều này cho thấy rõ người bỏ phiếu đã đồng ý với cách nhìn của tôi về nhiều mặt, nhưng không thể hoàn toàn nhất trí ủng hộ tôi.
Nếu như tôi không thể được đại đa số phiếu bầu, điều đó ngược lại không phải là vì chính sách kinh tế của tôi quá nghiêm khắc. Chính sách này vì đất nước chúng ta đã chế định ra kế hoạch nhằm đạt đựoc mục tiêu vĩ đại, quyết không che giấu những khó khăn trên con đường đó. Không giành được đại đa số phiếu bầu cũng không phải là vì người bỏ phiếu khó lựa chọn một sự nghiệp rất khó, mà chủ yếu là vì bọn họ trên một vấn đề không biết theo ai, đó là vấn đề Đông Dương.
Tôi muốn nói với những người một năm trước chưa thể ủng hộ tôi, những sự việc phát sinh từ đó đến nay khẳng định đã làm cho cách nhìn của chúng ta thống nhất. Hiện nay chúng ta có thẻ đoàn kết với nhau, tôi thấy đó là nguyện vọng chung đối với hòa bình, và đó cũng là sự đáp ứng lại khát vọng của cả đất nước.
Chúng ta đã bị cuốn sâu vào trong cuộc đàm phán đang tiến hành. Nếu mọi người tín nhiệm, tôi có thể gánh vác trách nhiệm đàm phán, trách nhiệm của tôi là nói với các bạn trong đàm phán nên xác lập nguyên tắc kiểu gì.
Mấy năm nay, tôi cho rằng có thể thông qua thỏa hiệp giành được hòa bình, thông qua đàm phán với kẻ địch giành được hòa bình, đã có một loạt sự thực thuyết minh có thể làm đựoc như vậy. Mà hòa bình như thế sẽ có lợi cho việc khôi phục tình trạng tài chính nước ta, có lợi cho việc phục hưng kinh tế nước ta, bởi vì cuộc chiến tranh này đối với nước ta mà nói là một gánh nặng khó mà chịu nổi.
Hiện nay chúng ta đang đối mặt với một hiện thực như thế này, đó là sự xuất hiện một nguy hiểm đáng sợ mới. Nếu như cuộc xung đột Đông Dương không thể giải quyết rất nhanh chóng, sẽ có khả năng lại dẫn tới chiến tranh, dẫn tới một cuộc chiến tranh quốc tế, thậm chí là một cuộc chiến tranh hạt nhân. Đó là vì sao trong khi trong tay chúng ta vẫn còn không ít con chủ bài mà phải có một số nhượng bộ và hy sinh, bởi vì chúng ta hy vọng giành được hòa bình lý tưởng một cách nhanh nhất. Nước Pháp tuyệt đối không tiếp nhận, trong tương lai cũng sẽ không tiếp nhận biện pháp giải quyết nào đó trong tình huống trái với lợi ích căn bản của nó. Nước Pháp sẽ giữ vững sự tồn tại của nó tại Viễn Đông, bất kể là đồng minh hay là kẻ thù của chúng ta đều không thể làm lòng tin của chúng ta có mảy may dao động nào.
Bây giờ chúng ta cùng đại biểu các nước đồng minh và ba nước Đông Dương tiến hành đàm phán ở Genève. Nếu các vị nghị sĩ có mặt tại đây đồng ý, tôi sẽ cùng chính phủ sắp thành lập mang theo lòng tin hòa bình vững chắc tiếp tục tiến hành đàm phán, giải quyết vấn đề. Làm như vậy là để bảo vệ lợi ích của chúng ta và giành được biện pháp giải quyết có thể diện. Vì thế chúng ta sẽ đánh cho tốt những con chủ bài trong tay, tập trung sức mạnh vật chất và tinh thần các mặt của chúng ta, giành được sự ủng hộ của các bạn đồng minh, ngoài ra còn có lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng khí khái của sĩ quan binh lính chúng ta. Những cái đó chính là sức mạnh cơ bản nhất mà nước Pháp dựa vào để sinh tồn. Khi chúng ta hồi tưởng lại màn bi tráng của Điện Biên Phủ, ở đó nhiều tướng sĩ đã trả giá bằng những hy sinh thầm lặng trong chiến dịch nổi tiếng thế giới ấy, chúng ta càng phải nhấn mạnh điểm này và gửi lời chào trang nghiêm tới bọn họ.
Đó là vì sao, bảo đảm an ninh cho đội quân viễn chinh cũng như bảo vệ và duy trì được lực lượng của họ là tuyệt đối tất yếu, trên vấn đề này bất kỳ là chính phủ hay quốc hội đều không được trù trừ, do dự. Đó là vì sao, chỉ cần đạt được mục đích này, chúng ta vui lòng thưởng thức bất kỳ phương thức nào. Đó là vì sao, có một con người như vậy đứng trước các bạn, cách nhìn của anh ta đối với vấn đề Đông Dương là kiên định không thay đổi. Và bây giờ anh ta đang kêu gọi đại đa số người trong các bạn ủng hộ, mặc dù trong đó có nhiều người xưa nay chưa trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ anh ta. Nhưng chính anh ta cần binh sĩ của chúng ta cho anh ta lòng tin khiến anh ta có thể hoàn toàn độc lập tiến hành đàm phán với kẻ thù.
Tôi đã nghiên cứu tỉ mỉ mà rất nhiều ghi chép của hội nghị (Genève) đồng thời đã trao đổi ý kiến với những quan chức quân sự và ngoại giao xứng đáng với chức vụ nhất, bọn họ khiến tôi tin chắc, giải quyết hòa bình xung đột là có thể.
Chúng ta phải hết sức nhanh chóng ngừng bắn, chính phủ sẽ được thành lập do tôi sẽ giao cho tôi và các trợ thủ có liên quan một thời hạn, tổng cộng là bốn tuần lễ để thực hiện ngừng bắn. Hôm nay là ngày 17 tháng 6, trước khi kết thúc ngày 20 tháng 7 tôi sẽ đến trước các bạn báo cáo kết quả với các bạn. Nếu như trong thời hạn trên không làm cho vấn đề được giải quyết khiến người ta vừa lòng, tôi sẽ căn cứ vào hiến pháp đề xuất từ chức với Tổng thống Cộng hòa.
Vào lúc này không cần nói nhiều vì sao, bắt đầu từ ngày mai mọi biện pháp quân sự cần thiết sẽ được sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ cấp bách nhất. Nếu tình hình đòi hỏi chúng ta không thể không như thế, chính phủ cũng cần phải làm tốt việc chuẩn bị tiếp tục chiến tranh. Nếu như có vấn đề nào đó đòi hỏi phải do quốc hội quyết định thì tôi sẽ đề xuất với quốc hội.
Trong bài diễn thuyết hôm đó, Mendès-France người tranh cử Thủ tướng đã đưa ra lời hứa, nếu như trúng cử, ông ta nhất định trước ngày 20 tháng 7 thông qua một hiệp nghị mà mọi người có thể tiếp nhận, thực hiện hòa bình cho Đông Dương. Nếu không, ông ta sẽ từ chức ngay.
Diễn thuyết có tiếng vang, sau khi thảo luận quốc hội tiến hành bỏ phiếu. Kết quả Mendès-France được 413 phiếu ủng hộ, 47 phiếu phản đối và 143 phiếu trắng. Thủ tướng chính phủ khóa mới đã được sản sinh. Bản thân Mendès-France kiêm luôn ngoại trưởng mới, Chauvel được cử làm đoàn trường đoàn đại biếu Pháp tại hội nghị Genève.
Hội nghị Genève về vấn đề Đông Dương do đó mà đứng trước một bước ngoặt trọng đại.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:11:34 GMT 9
CHƯƠNG 24 Đột phá trước vào vấn đề Campuchia, Lào
Căn cứ vào sự hòa giải của Chu Ân Lai và Eden, ngày 19 tháng 6 hội nghị Genève thông qua hiệp nghị đình chỉ hành động đối địch tại Campuchia và Lào, đó là một tiến triển quan trọng để giải quyết vấn đề Đông Dương. Chu Ân Lai đã đi một nước cực kỳ khôn khéo, phân hóa Lào và Campuchia ra khỏi mặt trận thân phương Tây truyền thống, đứng vào lập trường trung lập. Ông đã lần lượt tiến hành thành công các cuộc gặp gỡ với Ngoại trưởng Campuchia và Lào, cuối cùng làm cho đoàn trưởng các đoàn đại biểu các nước Đông Dương cùng đến Vạn Hoa dự buổi tiệc tối của đoàn đại biểu Trung Quốc.
Chu Ân Lai coi trọng động thái của Paris, sau khi biết được Mendès-France thành lập nội các, ngày 19 tháng 6 đã gửi điện cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương ĐCS Trung Quốc, báo cáo phán đoán của mình:
Mặc dù Mendès-France chủ trương đình chiến ở Đông Dương, nhưng ông ta không phải là phái tả thực sự, ông ta dùng khẩu hiệu hòa bình để đoàn kết đa số các đảng phái tư sản. Vì thế ông ta phải thỏa mãn yêu cầu của các mặt, và có tính dao động. Nước Mỹ sẽ tăng sức ép với ông ta. Nước Anh biểu thị chần chừ, thế nhưng chỗ khác nhau giữa ông ta và Bidault là ông ta có thể thực hiện đình chiến ở Đông Dương, nội các của ông ta có thể tiếp tục được.
Vì thế, nếu có thể cùng Pháp đạt được đình chiến thì có lợi cho toàn bộ tình hình. Trọng tâm sách lược của chúng ta nên đặt vào việc cổ vũ tính tích cực của Pháp, phải làm cho Pháp không hoàn toàn nghe Mỹ, làm cho Anh cũng biểu thị tán đồng đình chiến, chỉ cần điều kiện hợp lý là sẽ nhanh chóng đạt được đình chiến. Mendès-France chủ trương Pháp, Việt trực tiếp đàm phán. Vì vậy tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của Mỹ khiến đàm phán trực tiếp Pháp Việt chặt chẽ lên là tương đối có lợi. Nếu đoàn đại biểu quân sự có thể đạt được hiệp nghị, hội nghị Genève không thể không phê chuẩn.
Tình hình trước mắt là: nếu ta có thể đề xuất phương án cụ thể, hợp lý trong hội đàm quân sự, thì có thể tranh thủ được Pháp nhanh chóng giải quyết vấn đề, đạt được đình chiến. Như vậy vừa có thể thúc đẩy chính phủ mới của Pháp chống lại sự can thiệp của Mỹ lại vừa có thể kéo dài vấn đề quân đội châu Âu. Điều này có lợi cho cả Đông và Tây.1
Vào 11giờ 45 ngày hôm đó, Eden mang theo Casey và phiên dịch viên đến Vạn Hoa chào Chu Ân Lai.
Chu Ân Lai nói với Eden, đoàn đại biểu Trung Quốc đã nhận được hai dự thảo phương án về vấn đề Đông Dương do đoàn đại biểu Pháp dự thảo, còn chưa kịp thương lượng với đoàn đại biểu Liên Xô, Việt Nam. Ý kiến cá nhân ông là, hiệp thương trước rồi mới họp, điều này so với việc mọi người phát biểu tại đại hội càng tiện thương lượng vấn đề hơn. Còn về đề án của Pháp sẽ xem xét như vấn đề của mình, nhưng đối với yêu cầu của đối phương thì chưa cụ thể, đề án mới của Campuchia cũng có vấn đề như vậy.
Eden nói, vì chúng ta đã quen biết, tôi xin thẳng thắn nói với ngài, cách nghĩ của nhiều người trong nước tôi là, khi chúng ta đang giải quyết vấn đề ở đây, phía cộng sản đang chuẩn bị giành thắng lợi mới. Nếu như ở Lào, Campuchia sau khi hiệp thương mà bộ đội Việt Nam vẫn tiếp tục tấn công và hội nghị Genève vẫn tiếp tục tiến hành thì ảnh hưởng sẽ tuơng đối không tốt. Người ta sẽ cho rằng họ không thành thực. Sáng nay tôi vừa nhận được một bức điện, nói quân đội Việt Minh đã chiếm một nơi có tên là “Kang” thuộc vùng Bassac bên hữu ngạn sông Mekong, biên giới Campuchia.
Chu Ân lai trả lời, sở dĩ chúng tôi chủ trương nhanh chóng đạt được hiệp nghị đình chiến nhanh một chút vì đó là điểm chung của chúng ta. Bởi vì còn đang tiến hành chiến tranh nói chung là không tốt. Hiện nay chính phủ mới của Pháp cũng hy vọng nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Eden đồng ý cách nhìn của Chu Ân Lai.
Chu Ân Lai lại nói, hiện nay mặc dù vẫn còn đánh, nhưng nói chung chiến tranh có tiến có thoái, chỉ cần chiến tranh vẫn tiếp tục là không tốt.
Eden nói, tôi chỉ muốn ngài chú ý điểm này: chiến tranh Lào, Campuchia và Việt Nam không giống nhau. Nếu như mấy tiểu đoàn quân Việt Minh ở chỗ chúng ta sau khi đã có được hiệp nghị mà vẫn tiếp tục đánh, người trong nước chúng tôi sẽ nói, đó là sự đối chiếu rõ ràng bao nhiêu, bên này đang thu xếp rút quân, đang muốn bàn bạc cụ thể, thì bên kia lại tấn công.
Ý của Eden là, hy vọng Chu Ân Lai đưa ra lời hứa, khiến thế tấn công của QĐND Việt Nam dừng lại.
Chu Ân Lai nói với ông ta, phía chúng tôi còn chưa biết được tin (Việt Nam) có phát động tấn công ở Lào, Campuchia. Chúng ta có thể nghe ngóng một chút.
Eden nói, nghe ngóng thăm dò một chút là có ích. Ngài Phạm Văn Đồng không nhiệt tình với Lào và Campuchia mà.
Chu Ân Lai giải thích nói, tình hình không phải như vậy, vấn đề là tại chỗ cũng có khó khăn. Ba nước Đông Dương đều rất tôn trọng lẫn nhau, chúng tôi cũng chỉ sau khi đến Genève mới biết điểm này. Ba nước đều rất coi trọng lợi ích nước mình, chúng tôi cảm thấy so với vấn đề Việt Nam còn khó thương lượng hơn. Thế nhưng bất kể như thế nào, những lời chúng ta nói nhất định được thực hiện. Ở Lào và Campuchia đều không có ĐCS, họ đều là phần tử phong trào dân tộc. Ngài biết đấy, tâm tình dân tộc chủ nghĩa ở Đông Nam Á là rất cao.
Eden tiếp tục bàn cãi nếu như họ làm tại đây một loại sắp xếp, thế nhưng cái gọi là quân đội của Việt Minh sẽ đánh lớn ở đó, mọi người sẽ cho rằng như thế là nghiêm trọng.
Chu Ân Lai tiếp tục giải thích, vấn đề có hai mặt. Nói chung chiến tranh là có tiến có lùi, quân viễn chinh Pháp cũng không được mở chiến dịch lớn. Ví dụ như hồi đó Điện Biên Phủ vốn không có chiến dịch lớn, nhưng nước Pháp đưa nhiều không quân tới. Một chiến dịch như vậy là không thể tránh khỏi. Ngoài ra, còn có những xung đột nhỏ có tính địa phương. Nếu như không đình chiến, thì điều đó khó tránh được. Tính chất của hai loại tình hình đó là không giống nhau.
Eden nói, theo hiểu biết của tôi thì khó khăn là tại Việt Nam. Nếu như Việt Nam không có dã tâm quá lớn muốn chiếm lĩnh Lào và Campuchia, các nơi khác là không khó.
Lúc này Trương Văn Thiên nói xen vào, chỉ cần đạt được hiệp nghị tại đây (Lào và Campuchia) thì sẽ không có tấn công.
Eden quay lại hỏi Chu Ân Lai, kế hoạch sau này của ngài là gì?
Chu Ân Lai nói, điều này phải xem liệu giữa hội nghị Ngoại trưởng có thu xếp nghỉ ngơi hay không?
Eden nói, nếu như tối hôm nay chúng ta có thể thông qua văn kiện này, tôi nghĩ không ngại thời gian nghỉ họp, để các đại biểu Bộ tư lệnh tiếp tục công tác. Mendès-France muốn tôi khi về nước ghé qua Paris, chúng tôi sẽ cùng ăn cơm, tôi sẽ nói cho ông ta biết mọi khó khăn trong Uỷ ban giám sát, và giải thích cho ông ta vấn đề đó. Đó cũng là những vấn đề chủ yếu mà chúng tôi lưu lại cần giải quyết.
Chu Ân Lai hỏi, về vấn đề giám sát, ngài thấy đề án của tôi hôm qua thế nào?
Eden nói, chúng tôi vẫn chưa đạt được hiệp nghị về vấn đề thành viên của Uỷ ban giám sát. Tôi cho rằng nếu không có Pháp, chúng ta định cũng đạt được hiệp nghị về vấn đề thành viên là không thành vấn đề lớn.
Chu Ân Lai nói, đối với nước Pháp mà nói, chủ yếu vì họ là một trong hai bên giao chiến. Thế nhưng chúng tôi cảm thấy, đại biểu quân sự hai bên đối với vấn đề Việt Nam và Lào, Campuchia có thể nhanh chóng đạt được hiệp nghị, vấn đề giám sát sẽ không thành vấn đề nữa.
Khi kết thúc cuộc hội kiến, Eden lộ ra nét cười, nói, việc khiến tôi phấn khởi nhất lần này là Anh và Trung Quốc cải thiện quan hệ. Chuyện khác tôi không quản.2
Chiều ngày hôm đó, tại hội nghị hạn chế lần thứ 16 về vấn đề Đông Dương
Dương, đoàn đại biểu chín nước tham dự hội nghị đã nghe Chauvel đại biểu Pháp đọc đề án, đề án này được hình thành trên cơ sở sửa chữa nhỏ đề án của Chu Ân Lai. Các đại biểu tham dự hội nghị đồng ý hạng mục đình chỉ hành động đối địch tại Lào và Campuchia của hiệp nghị này, toàn văn như sau:
Để thúc đẩy đồng thời nhanh chóng thực hiện đình chỉ hành động đối địch tại Đông Dương, nay kiến nghị:
Đại biểu Bộ tư lệnh hai bên sẽ gặp nhau ngay tại Genève hoặc tại chỗ.
Họ sẽ tiến hành nghiên cứu các vấn đề đình chỉ hành động đối địch trong ranh giới Campuchia và Lào và từ đó bắt đầu vấn đề rút khỏi Campuchia và Lào mọi lực lượng vũ trang nước ngoài và nhân viên quân sự nước ngoài, đồng thời có sự chú ý cần có đối với những ý kiến và kiến nghị mà đoàn đại biểu các nước tham gia hội nghị đề xuất.
Bọn họ sẽ cung cấp sớm nhất cho hội nghị những kết luận và kiến nghị của họ.
Lại qua hiệp thương, hội nghị sẽ tiếp tục tiế hành. Đã yêu cầu xử lý báo cáo tạm thời hoặc báo cáo cuối cùng do đại biẻu Bộ tư lệnh vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia đề xuất với hội nghị ngày 21.3
Hiệp nghị này không nêu “Việt Nam rút quân” mà chỉ nêu rõ ràng rút khỏi “mọi lực lượng vũ trang nước ngoài và nhân viên quân sự nước ngoài”, điều này đã bao gồm vào đó cả lực lượng quân sự của Pháp tại các nơi đó. Một điều khoản như vậy được đoàn đại biểu Pháp đề xuất càng có sức ràng buộc, vừa chiếu cố thể diện nước Pháp và vừa làm cho mặt trận phương Tây do Mỹ đứng đầu dễ tiếp thu. Thời hạn “21 ngày” đề xuất trong hiệp nghị nhất trí với thời hạn do Mendès-France đề xuất. Hiệp nghị này đã làm cho vấn đề Đông Dương tránh được sự tan vỡ, đặt nền tảng cho việc tiếp tục cố gắng thực hiện hòa bình ở Đông Dương.
Nửa đầu Hội nghị Genève đến đây kết thúc, ngoại trưởng các nước lần lượt rời Genève về nước, tuy vậy đoàn đại biểu các nước có liên quan đến vấn đề Đông Dương đã để lại nhân viên cấp đại sứ hoặc cấp Thứ trưởng ngoại giao giữ nhiệm vụ quyền trưởng đoàn, để tiếp tục hiệp thương những vấn đề cụ thể. Ngoại trưởng các nước sẽ lần lượt trở lại vào trung tuần tháng 7, tiếp tục thảo luận. Phạm Văn Đồng và trưởng đoàn ba nước Đông Dương ở lại, những việc lớn mà họ phải bàn quá nhiều.
Chu Ân Lai chỉ định Lý Khắc Nông làm quyền Trưởng đoàn, quyền Trưởng đoàn Liên Xô do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Kuznetsov phụ trách, đoàn đại biểu Mỹ do Johson phụ trách.
Chu Ân Lai không về nước ngay, ông ở lại Genève mấy ngày chờ tin từ Paris, và tiến hành một loạt cuộc gặp gỡ ngoại giao khẩn trương. Ngoài Casey ra, ông đã trước sau hội kiến các đại sứ Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Indonesia tại Thụy Sĩ, còn gặp cả quyền Trưởng đoàn đại biểu Canada, Rangning.
Cuộc gặp giữa Chu Ân Lai và ngoại trưởng Campuchia và Lào vô cùng quan trọng 1giờ 30 chiều ngày 20 tháng 6, tại biệt thự Vạn Hoa, Chu Ân Lai đã gặp ngoại trưởng Campuchia Tep Phan được mời (dự hội nghị), cùng đi còn có nguyên Phó Thủ tướng Son Sann và Pu Tian Bí thư trưởng đoàn đại biểu.
Chu Ân Lai nói với các vị khách, khi hội nghị họp, chúng ta không có cơ hội gặp gỡ nói chuyện, rất phấn khởi được tiếp đón các vị trước khi rời Genève.
Tép Phan chúc Thủ tướng Chu lên đường bình an, hy vọng ông sớm quay lại Genève để cuối cùng giải quyết vấn đề hòa bình Đông Dương.
Khi nói chuyện với khách, Chu Ân Lai đã đề cập tới lịch sử qua lại giữa hai nước Trung Quốc, Campuchia. Đáng tiếc là bị gián đoạn một thời gian, hy vọng quan hệ của chúng ta từ nay trở đi có thể chặt chẽ lên.
Tép Phan nói, chúng tôi cũng hy vọng như vậy. Trước đây chúng tôi bị đế quốc Pháp thống trị, đã từng có một thời kỳ khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của hoàng thân [Norodom] Sihanouk nước tôi, chúng tôi đã thoát khỏi sự thống trị của chủ nghía đế quốc, tự mình giành được giải phóng. Hiện nay chúng tôi đã cùng các nước khác thiết lập quan hệ bình thường.
Chu Ân Lai nói, trước đây chúng tôi cũng bị áp bức. Chúng tôi luôn luôn giành sự đồng tình cực lớn cho nhiều dân tộc bị áp bức Đông Nam Á. Hiện nay mọi người chúng ta đều đã đứng dậy. Phương pháp mà chúng ta sử dụng không nhất định giống nhau, nhưng mục tiêu của chúng ta là nhất trí, chúng ta đều yêu cầu tự do.
Tép Phan nói, chúng tôi dùng phương thức không đổ máu giành được tự do. Chúng tôi dùng phương thức đàm phán khiến nước Pháp ký hiệp định chuyển giao chính quyền.
Chu Ân Lai nói, Campuchia có điều kiện bên trong và bên ngoài tương dối tốt, vì thế đã đạt được kết quả như vậy. Hiện nay chúng tôi hy vọng chính phủ Campuchia cũng có thể giải quyết rất tốt vấn đề trong nước. Trước đây và hiện nay, Campuchia đều có phong trào giải phóng, mặc dù phương pháp mà phong trào áp dụng có chỗ không giống, nhưng chúng cũng đều là để giành lấy tự do và dân chủ. Đứng trên lập trường của bè bạn, chúng tôi hy vọng chính phủ Campuchia có thể đoàn kết được lực lượng giải phóng này, coi như là một giải quyết chính trị hợp lý.
Tép Phan mở rộng đầu đề câu chuyện, có người muốn chia Campuchia ra vùng tập kết, đó là chia rẽ, chứ không phải là đoàn kết, điều đó không phù hợp với nguyện vọng của chúng tôi.
Chu Ân Lai trả lời nói, bộ đội chi viện bên ngoài nên rút khỏi, vấn đề bản địa có thể do hai bên giải quyết trực tiếp. Các ngài là chính phủ, nên cùng lực lượng hoạt động tại chỗ, trên cơ sở dân chủ tìm được cách giải quyết mà mọi người hài lòng.
Tép Phan nói, nếu bọn họ muốn thì có thể tham gia bỏ phiếu bầu cử. Điều nguy hiểm hiện nay là có người ở bên ngoài thúc đẩy. Đối với Trung Quốc, người Campuchia rất dễ tiếp cận, nhưng xưa nay chúng tôi làm không tốt với người Việt Nam.
Chu Ân Lai nói, trong, ngoài là hai chuyện. Nói từ bên ngoài thấy, nước Việt Nam DCCH và các ngài là nước anh em, trước đấy bị chủ nghĩa đế quốc chia rẽ, bây giờ nên tiếp cận lại với nhau, cùng sống hữu hảo, không đe dọa lẫn nhau. Điều này không chỉ có lợi cho hai nước mà cũng có lợi cho toàn bộ hòa bình châu Á. Nước Việt Nam DCCH không đe dọa nước láng giềng. Vì duyên cớ chiến tranh, dẫn đến một số khó khăn, nhưng sau khi khôi phục hòa bình sẽ không có tình hình như thế nữa. Nếu như nói, để bảo đảm trung lập, Campuchia cần xây dựng vũ trang tự vệ không dẫn tới đe dọa người khác, điều này có thể hiểu được. Tôi vui lòng nhìn thấy Campuchia trở thành quốc gia kiểu mới của Đông Nam Á, giống như Ấn Độ, Indonesia và Miến Điện, không xây dựng căn cứ đe dọa nước khác.
Tép Phan biểu thị đồng ý nói, đó cũng là nguyện vọng của chúng tôi, ở Cămpchia không có căn cứ nước ngoài.
Chu Ân Lai nói, tôi nói không chỉ là nước Pháp, quan hệ của Pháp và Campuchia nên cải thiện. Lo lắng của chúng tôi là căn cứ của Mỹ. Nếu có như vậy chúng tôi không thể không hỏi tới.
Tép Phan trả lời, chúng tôi và Mỹ không ký bất kỳ điều ước nào. Chúng tôi tiếp cận vẫn là nước Pháp, chúng tôi đều nói tiếng Pháp.
Chu Ân Lai nói, nước Mỹ đang tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á, muốn kéo Campuchia tham gia. Điều này không có lợi cho Campuchia. Chúng tôi vui lòng tham gia chín nước bảo đảm. có thể làm cho mọi người chung sống hòa bình. Chúng tôi không muốn nhìn thấy bất kỳ nước nào trong Đông Dương xây dựng căn cứ quân sự trong nước.
Tép Phan nói, hiện nay suy tính của chúng tôi là, Việt Nam muốn thay thế Pháp thống trị Campuchia. Đó là cách nhìn của toàn thể nhân dân Campuchia.
Chu Ân Lai nói, nước Việt Nam DCCH không có cách suy nghĩ đó, nếu không sẽ thành đế quốc chủ nghĩa nhỏ, chúng tôi cũng phản đối.
Tép Phan nói, tôi xin phép được trao cho ngài một bức bản đồ, nó thuyết minh một phần đất đai hiện nay của Nam Kỳ (miền nam Việt Nam, TG) trước đây thuộc Campuchia, vào thời kỳ Pháp thống trị bị sáp nhập vào Nam kỳ. Ở đó có hơn 5 vạn người Campuchia, có chùa có sư sãi, mọi tập quán đều là Campuchia. Việt Nam luôn luôn tìm cách mở rộng loại xâm lược đó.
Chu Ân Lai nói, nên tôn trọng dân tộc thiểu số, và trao cho quyền tự trị đầy đủ, Trung Quốc cũng như vậy. Ở Campuchia có người Việt Nam hay không?
Tép Phan trả lời, có, thế nhưng đều là di dân lưu động, không phải là định cư.
Chu Ân Lai hỏi, các ngài có ý định thu hồi mảnh đất đó?
Tép Phan nói, nếu người ta vui lòng làm việc công bằng thì nên trao trả.
Chu Ân Lai nói, thế liệu có xảy ra xung đột không?
Tép Phan nói, hiện nay chính phủ Bảo Đại đã bắt lính trong người Campuchia ở đó.
Chu Ân Lai nói, Campuchia và Việt Nam chung sống hòa bình thì mới có lợi cho hòa bình.
Tép Phan nói, chúng tôi hy vọng tôn trọng lẫn nhau, láng giềng chung sống hòa thuận.
Chu Ân Lai chỉ ra, điều này phải dựa vào sự cố gắng của hai đoàn đại biểu tại Genève.
Tép Phan nói, tôi muốn trưng cầu ý kiến ngài Thủ tướng một chút về vấn đề tiếp xúc của đoàn đại biểu quân sự hai bên. Trước tiên tôi muốn hỏi, đại biểu hai bên lúc nào có thể tiếp xúc?
Ngày hôm ấy là ngày chủ nhật, vì thế Chu Ân Lai trả lời, hy vọng vào ngày thứ tư (tức ba ngày sau) bắt đầu, thế nhưng hiện nay đoàn đại biểu có thể tiến hành trực tiếp liên hệ.
Tép Phan nói, cho đến bây giờ, hai bên chúng tôi đều chưa có liên hệ, đều là do Pháp làm người trung gian. Liệu ngài có cho rằng từ nay về sau có thể thông qua Trung Quốc để thiết lập quan hệ, hay là tiếp tục để cho người Pháp làm người trung gian?
Chu Ân Lai nói, nếu ngài vui lòng để người Pháp làm người trung gian, chúng tôi đồng ý. Thế nhưng tôi vui lòng trước khi rời Genève giúp các ngài liên hệ, sau này có thể chặt chẽ hơn nữa.
Tép Phan nói, hiện nay chúng tôi đã độc lập rồi, muốn trực tiếp quan hệ, không cần nước Pháp kẹp ở giữa.
Chu Ân Lai nói, liên hệ trực tiếp là biện pháp tốt nhất. 8 giờ tối mai, mời các ngài và đoàn đại biểu Việt Nam xơi bữa cơm thường tại đây có được không?
Thì ra Chu Ân Lai có ý thiết lập quan hệ trực tiếp giữa các bên Đông Dương, đã trù tính trước rồi.
Tép Phan đáp lời nói, tốt lắm, vô cùng cám ơn! Tôi muốn bàn thêm một chút vấn đề tiếp xúc của đoàn đại biểu quân sự. Nước Pháp đã trao quyền chỉ huy quân sự cho chúng tôi, nhưng họ muốn cử một quan sát viên bên cạnh đoàn đại biểu phía tôi, ngài thấy như thế nào?
Chu Ân Lai nói, tôi cho rằng là có liên quan đến cuộc chiến tranh tiến hành trong ba nước, để thực hiện đình chiến, chúng tôi khó phản đối, nhưng chúng tôi cần thương lượng với Liên Xô, có thể ngày mai lại bàn.
Tép Phan nói, hiện nay phần lớn lực lượng chống đối trong nước Campuchia đã đầu hàng. Trước đây họ phản đối chủ nghĩa đế quốc Pháp, hiện nay chủ nghĩa đế quốc đã rút khỏi, bọn họ kêu gào “độc lập” sẽ không có ý nghĩa. Nếu không có sự khuyến khích từ bên ngoài, nhiều người sẽ không chống đối nữa.
Chu Ân Lai nói, ngoài ảnh hưởng của chiến tranh ra, có thể bọn họ có ý kiến của mình, bọn họ sử dụng phương pháp khác, thế nhưng dùng phương pháp thương lượng là có thể đoàn kết được. Trước đây Trung Quốc có nhiều ý kiến, trải qua năm năm phấn đấu, chúng tôi cuối cùng đã đoàn kết được mọi người, giành được thống nhất cả nước. Chúng tôi hy vọng chính phủ Campuchia cũng có thể đoàn kết nhất trí.
Cuộc nói chuyện sắp kết thúc, Tép Phan cám ơn nói, ngài Thủ tướng bỏ nhiều thời gian vì tôi, cám ơn ngài đã suy nghĩ vì nước nhỏ chúng tôi. Trung Quốc là một nước lớn, mong muốn từ nay trở đi tiếp tục giúp đỡ nước nhỏ chúng tôi có thể sống hòa bình.
Chu Ân Lai nói, chúng ta không phải là nước lớn nước nhỏ. Chúng ta đều là các quốc gia, phải tôn trọng lẫn nhau.
Khi từ biệt, Tép Phan nói, chúng tôi và Trung Quốc là tiếp cận được, nhiều người có huyết thống Trung Quốc, hôm nay trong bốn người chúng tôi đến đây đã có ba người có huyết thống Trung Quốc. Ông nội tôi còn để lại cho tôi các đồ thờ Trung Quốc như bát hương, đồ thắp nến v.v.
Cuộc nói chuyện giữa Chu Ân Lai và Tép Phan là cuộc nói chuyện dài đầu tiên giữa Thủ tướng Trung Quốc với Ngoại trưởng Vương quốc Campuchia vừa độc lập, cũng là cuộc đối thoại bình đẳng đầu tiên trong lịch sử giữa đoàn đại biểu chính phủ hai nước Trung Quốc, Campuchia. Thái độ khiêm tốn và sự nhanh nhạy của Chu Ân Lai khiến Tép Phan vô cùng khâm phục. Trong lịch sử đương đại, quan hệ hữu hảo giữa Trung Quốc và Campuchia từ lần nói chuyện này bắt đầu mở ra màn mới.
Sau đó cuộc gặp gỡ giữa Chu Ân Lai và Ngoại trưởng Lào Sananikone cũng trí tuệ và nhanh nhạy như thế.
12 giờ trưa ngày 21 tháng 6, theo lời mời, Sananikone đến biệt thự Vạn Hoa, cùng đi có hoàng thân Xuphanupheng Công sứ tại Mỹ, đại biểu đoàn đại biểu Lào, [Thao] Lenam Chánh Văn phòng Bộ Ngoại giao Lào. Khi các vị khách tới Vạn Hoa, Chu Ân lai, Lý Khắc Nông, Trần Gia Khang ra tận cửa đón.
Sau khi các vị khách yên vị, đều dùng tiếng Pháp, vẫn do Đổng Ninh Xuyên làm phiên dịch.
Sananikone nói về quan hệ của ông ta với Trung Quốc, nói, trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng, tôi đã đến Tư Mao (思茅) và Côn Minh, Vân Nam Trung Quốc. Trên đường từ Lào đến Tư Mao qua một số thôn, trại, thấy dân cư ở đó đều nói tiếng Lào, tập quán sinh hoạt hoàn toàn giống người Lào chúng tôi. Theo ghi chép trong lịch sử Lào, người Lào đến từ cao nguyên Tây Tạng, vì thế tổ tiên chúng tôi ở Trung Quốc.
Chu Ân Lai nói, đúng vậy, các dân tộc phương đông chúng ta có một số quan hệ thân thích. Chúng ta nên hợp tác hữu hảo, tôn trọng độc lập, chủ quyền và thống nhất lẫn nhau. Ở Lào có bao nhiêu người Trung Quốc? Phần lớn ở tại địa phương nào?
Sananikone trả lời, có khoảng 12.000 người. Trong đó phần lớn đã kết hôn với người Lào, chúng tôi đều coi họ như người địa phương. Nói chung bọn họ cư trú tại các thành phố chủ yếu ven bờ sông Mekong như Vientiane, Luang Prabang, Thakhek v.v.
Chu Ân Lai hỏi, họ có tuân thủ pháp luật của các ngài không?
Sananikone trả lời, bọn họ rất có qui củ, phần lớn là thương nhân, không để ý chính trị.
Chu Ân lai nói, hội nghị Genève đã họp một thời gian tương đối dài, đã đạt được hai hiệp nghị có thể coi là cơ sở cho công tác sau này. Ngài Ngoại trưởng có cách nhìn như thế nào đối với hai hiệp nghị đó?
Sananikone nói, tôi rất hài lòng. Đó là ảnh hưởng của cá nhân ngài Thủ tướng, mới có thể có được kết quả như vậy. Chỉ cần mọi người cố gắng có một số thành ý thì hiệp nghị cuối cùng có thể đạt được. Nếu chúng ta mang tất cả các hiệp nghị ra so sánh một chút sẽ thấy điểm đồng nhiều hơn điểm bất đồng một chút.
Chu Ân Lai nói, cho dù điểm đồng nhiều hơn điểm bất đồng, nhưng mọi người cố thêm sức nữa, cuối cùng tính khả năng của hiệp nghị là rất lớn. Bây giờ đạt được thành công không phải là do cố gắng của tôi mà là do cố gắng của ngài và mọi người.
Chu Ân Lai nói, ba nước Đông Dương là anh em, có quan hệ chặt chẽ trong lịch sử, ba nước nên tiếp cận, không nên đối lập, mà nên tôn trọng lẫn nhau, hợp tác hữu hảo, điều đó là có lợi cho hòa bình ở Đông Dương. Chúng ta nên hết sức thúc đẩy ba nước tiếp cận. Chúng tôi tôn trọng độc lập của ba nước, chúng tôi không muốn can thiệp, cũng phản đối nước khác can thiệp, như sự can thiệp của Mỹ. Chúng tôi phản đối ba nước thiết lập bất kỳ căn cứ quân sự nước ngoài nào, bao gồm căn cứ của Mỹ. Nếu như có căn cứ như vậy, chúng tôi không thể không hỏi han. Bởi vì chúng là một loại đe dọa an ninh của chúng tôi
Trên hội nghị chúng tôi đã nghe phát biểu của ngài Ngoại trưởng, trong đó có đề cập tới cần bảo trì lực lượng vũ trang tự vệ, chúng tôi cho rằng có thể hiểu được. Chúng tôi tôn trọng an ninh và độc lập của nước khác.
Sananikone nói, rất phấn khởi nghe được những lời nói như vậy của ngài Thủ tướng. Lào là một nước nhỏ, dân số rất ít, so với bất kỳ nước nào khác chúng tôi đều cần hòa bình hơn.Về căn cứ của nước ngoài, chúng tôi đã từng ký với nước Pháp một hiệp định căn cứ quân sự, nước Pháp bảo lưu căn cứ tại Lào, nhưng chỉ có thiểu số quân Pháp. Nếu Việt Minh rút quân, chúng tôi có thể yêu cầu Pháp rút quân, tất nhiên phải yêu cầu nước Pháp bảo lưu một số bộ đội an ninh. Do đất nước chúng tôi rất nhỏ, xung quanh có Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc, vì vậy chúng tôi cần vũ trang tự vệ với giới hạn thấp nhất. Chúng tôi hy vọng ngài Thủ tướng trong khi suy nghĩ vấn đề Lào có thể chú ý tới hiệp định giữa Lào và Pháp.
Chúng tôi không trực tiếp nhận viện trợ Mỹ, vì thế khi Trung Quốc đề xuất không cho phép quân đội nước ngoài tiến vào Đông Dương, chúng tôi lập tức đồng ý.
Chu Ân Lai nói, chúng tôi chú ý đến tình hình này. Lào là nước nhỏ, nền độc lập của Lào phải được tôn trọng. Trung Quốc là nước lớn, Trung Quốc vui lòng cùng chung sống hòa bình với các nước khác, xây dựng quan hệ hữu hảo, vì thế chúng tôi đồng ý tham gia chín nước bảo đảm.
Sananikone nói, Sau khi Lào khôi phục hòa bình, chúng tôi hy vọng có thể thiết lập quan hệ ngoại giao, kinh tế và văn hóa với Việt Nam. Tại hội nghị chúng tôi đã biểu thị, vấn đề Lào là rất dễ giải quyết. Thế nhưng ngài Phạm Văn Đồng nói vấn đề Lào phải giành được giải quyết chính trị, phải công nhận sự tồn tại của phong trào giải phóng, mới có thể giải quyết vấn đề Lào. Chúng tôi cho rằng, cho dù không chính thức công nhận cũng vẫn có thể giải quyết. Hai bên Việt Minh và Bảo Đại không trải qua công nhận mà đã tiến hành đàm phán. Liệu ngài Thủ tướng có thể nói cho tôi, giải quyết chính trị mà ngài Phạm Văn Đồng nói rốt cuộc có những điều kiện nào? Thực ra, sau khi đình chiến, những người trong phong trào giải phóng, có thể tham gia bầu cử, công chức nhân viên của họ cũng có thể tham gia cơ cấu chính phủ. Tháng 8 sang năm chúng tôi tiến hành tổng tuyển cử, nếu như họ tham gia vào, chúng tôi có thể tổ chức một chính phủ hòa giải. Sau bầu cử, nếu quốc hội đồng ý, chúng tôi có thể sửa đổi hiến pháp, thậm chí thành lập nước Cộng hòa.
Chu Ân Lai nói, nếu đoàn đại biểu Lào và đoàn đại biểu Việt Nam trực tiếp gặp nhau, không bị ảnh hưởng bên ngoài, là có sự lợi cho giải quyết vấn đề.
Sananikone biểu thị nguyện vọng vui lòng tiếp xúc trực tiếp với Phạm Văn Đông.
Chu Ân Lai lập tức biểu thị nói, điều này rất tốt! Tôi vui lòng trước khi rời Genève, giúp các vị thiết lập tiếp xúc trực tiếp. Hôm qua tôi đã hội đàm với ngài Tép Phan, ông cũng vui lòng liên hệ trực tiếp. Thế thì xin mời các ngài 7 giờ 30 tối hôm nay cùng ngài Phạm Văn Đồng đến đây dự bữa cơm thường. Mọi người gặp nhau một lần, sau đó có thể trực tiếp duy trì liên hệ. Có được không?
Sananikone luôn miệng cám ơn, nhận lời mời.
Chu Ân Lai lại nói, sau hội nghị hòa bình, ba nước Đông Dương trên cơ sở tự nguyện có thể tham gia Liên hiệp Pháp, thiết lập quan hệ hữu hảo. Vấn đề nội chính, có thể dùng phương pháp trong nước giải quyết, cần phải tách khỏi quân đội nước ngoài. Trong nước yêu cầu thống nhất, nếu kết quả bầu cử là công nhận Vương quốc thì mọi người đều nên công nhận Vương quốc.
Sananikone nói, vấn đề chính trị của Lào không lớn. Tôi nghĩ, hoàng thân Souphanouvong cũng không muốn lật đổ Vương quốc để mình làm quốc vương, ông chỉ muốn tham gia chính phủ. Ông là em trai Thủ tướng đương nhiệm, vấn đề có thể giải quyết.
Chu Ân Lai nói, nên công nhận lực lượng đối phương, dùng phương pháp đoàn kết để giải quyết. Bất kỳ một quốc gia nào đều cần phải thống nhất độc lập và dân chủ. Trước đây chính phủ Pháp thi hành chính sách hai mặt hòa bình và chiến tranh, chính phủ hiện nay yêu cầu hòa bình. Việt Nam và các ngài cũng yêu cầu hòa bình. Những người đương sự đều có yêu cầu như vậy, liệu ai có thể ngăn cản được việc thực hiện hòa bình? Tất nhiên, Nước Mỹ không tán thành Đông Dương hòa bình, họ nghi ngờ mọi hiệp nghị, họ sẵn sàng chuẩn bị phá hoại. Lần trước, trước hiệp nghị được mọi người đồng ý, Smith vẫn biểu thị nói vừa không tán thành vừa không phản đối. Vì thế chúng ta phải đề cao cảnh giác, không để cho người khác phá hoại.
Sananikone nói, để làm việc đó nhanh hơn một chút, ví dụ như đối với vấn đề quân sự, liệu có thể giải quyết trước vấn đề Lào tương đối dễ giải quyết?
Chu Ân Lai trả lời, đại hội quyết định, sau khi hội nghị Ngoại trưởng nghỉ, dùng thời hạn ba tuần lễ để giải quyết một số vấn đề. Có một số người đề xuất bốn hoặc năm tuần lễ, chúng tôi cảm thấy ba tuần lễ là đủ rồi. Như vậy có thể thúc đẩy hội nghị khẩn trương làm việc. Thảo luận có kết quả, các Ngoại trưởng sẽ quay lại, đưa ra quyết định cuối cùng.
Chu Ân Lai nêu với Sananikone ba ý kiến trọng điểm: một là ngừng bắn của Lào có thể sớm hơn so với Việt Nam. Hai là, có thể trên cơ sở điều ước Pháp-Lào bảo lưu căn cứ quân sự và nơi huấn luyện của Pháp, để vấn đề này qua một số thời gian sẽ lại giải quyết. Ba là, hoàng thân Souphanouvong không có ý đồ đối với vương vị Lào, nguyện vọng của ông là hòa bình và độc lập của Lào.
Chu Ân Lai còn cùng Sananikone thảo luận khả năng hoàng thân Souphanouvong hội kiến hoàng thân thủ tướng Lào Souvana Phuma.
Khi cuộc gặp gỡ kết thúc, Chu Ân Lai và Sananikone bắt tay nhau, hai người đều lộ ra vẻ vô cùng nhẹ nhõm
Quả thật Chu Ân Lai có ma lực. Tối hôm đó, Tép Phan đã thông báo nội dung hội đàm giữa Chu Ân lai với ông ta ngày hôm qua cho đoàn đại biểu Mỹ, trưng cầu có nên dự tiệc hay không? Xem ra vẫn còn do dự, nên phải thăm dò khẩu khí Mỹ trước. Nhưng đến tối, Tép Phan với dáng bộ tự tin đã cùng xuất hiện một lúc với Sananikone tại biệt thự Vạn Hoa, cười nói như không bắt tay nói chuyện với Phạm Văn Đồng, ba phía rõ ràng là sẽ duy trì tiếp xúc chặt chẽ tại Genève.
Do Chu Ân Lai khoản đãi, ba vị Ngoại trưởng các nước Đông Dương nâng cốc nhiều lần. Chu Ân Lai lại cùng họ xem bộ phim mầu Kinh kịch “Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài”. Ba vị Ngoại trưởng các nước Đông Dương cùng ngồi với nhau là một việc lớn trong thời gian hội nghị Genève.
Chu Ân Lai có lòng tin trong việc giành lấy hòa bình cho Campuchia và Lào, ông đã nói nhiều lần với Phạm Văn Đồng, nên dùng thái độ hiện thực đối với Lào và Campuchia, không thể một mực theo đuổi “Liên bang Đông Dương” hoặc “cách mạng hóa Đông Dương”. Làm như vậy sẽ khiến Lào và Campuchia cảm thấy sợ hãi. kết quả là ngả vào phía Mỹ, khiến đàm phán tan vỡ. Tư tưởng của ông dần dần ảnh hưởng tới Phạm Văn Đồng.
Chu Ân Lai nói với các trợ thủ của mình càng rõ hơn: “dùng chiến tranh để có thể đoàn kết Lào và Campuchia hay là dùng hòa bình có thể đoàn kết? Dùng chiến tranh đoàn kết Đông Nam Á hay là dùng hòa bình đoàn kết họ? Câu trả lời là dùng hòa bình có thể đoàn kết họ,dùng thủ đoạn quân sự chỉ có thể khiến họ ngả vào Mỹ.”
1 Kim Xung Cập, sđd, t.1, tr. 171.
2 - Lý Liên Khánh, Chu Ân Lai – nhà ngoại giao lớn t.2, sđd, tr. 299-305;
- Niên giám Chu Ân Lai 1949 – 1976, sđd, tr. 387-388.
3 Tuyển tập văn kiện Hội nghị Genève, sđd, tr. 255.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:12:14 GMT 9
Chương 25 Gặp Thủ tướng Pháp mới
Cuộc gặp gỡ giữa Chu Ân Lai và Mendès-France vừa nhận chức Thủ tướng Pháp mới, đánh một dấu chấm câu sáng rõ cho giai đoạn thứ nhất của hội nghị Genève. Thủ tướng Pháp mới đánh giá Chu Ân Lai: “Ông có khí chất chính trị gia thế giới, có đầu óc nhanh nhạy, cơ trí nhất khiến người ta khâm phục.” Thủ tướng Trung Quốc mới chỉ ra, Mendès-France là “người có thể thâm giao” Mang theo tâm tình thoải mái, Chu Ân Lai mua cho Đặng Dĩnh Siêu - vợ mình một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ.
Sáng sớm ngày 23 tháng 6, trời rất mát mẻ, phiên dịch Đổng Ninh Xuyên chẳng bao giờ quên được cái ngày đẹp đẽ đó. Ông cùng ngồi trên chiếc ô tô du lịch với Chu Ân Lai đi Bern thủ đô Thụy Sĩ. Đã theo Chu Ân Lai hơn một tháng rồi, Đổng Ninh Xuyên dần dần quen được Thủ tướng nước Cộng Hòa. Chu Ân Lai có sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa đông, tây hơn nữa lại rất hiểu được nhiệm vụ của phiên dịch.
Chỉ cần bài nói có bản thảo bao giờ cũng cho phiên dịch viên đọc trước một lần; nếu không có bản thảo, chỉ cần có thời gian là ông nói cho phiên dịch viên biết trọng điểm cuộc hội đàm hoặc bài nói, hoặc những chỗ then chốt, cho đến những từ ngữ then chốt. Như vậy khiến người dịch cho ông dễ chịu nhiều.
Đổng Ninh Xuyên cho rằng, tiếng Anh của Chu Ân Lai khá tốt, nghe tốt nhất. Còn về tiếng Pháp của ông “lúc đầu tôi nghĩ là ông đã lưu học tại Pháp, tiếng Pháp sẽ rất khá. Nhưng trên thực tế đã quên mất rất nhiều, hoặc là hồi trước chưa học được tốt. Thế nhưng nhiều câu nói tiếng Pháp thường dùng, ông còn nhớ, cũng có thể nói, điều này rất có ích khi ông hội kiến nhân sĩ nói tiếng Pháp.1
Genève cách thủ đô Bern không xa, đã nhanh chóng đến nơi, Chu Ân Lai về Đại sứ quán Trung Quốc nghỉ ngơi. Mấy hôm nay vì cuộc gặp gỡ với Mendès-France, hai bên Trung Pháp đã có những cuộc thương thảo khẩn trương.
Ngày 29 tháng 6, tại Paris, Mendès-France đã lần lượt gặp Eden và Smith trên đường về nước. Eden yêu cầu Mendès-France gặp Chu Ân Lai sớm nhất, ông ta còn đáp ứng thủ tướng mới của Pháp, khi hội nghị cần thiết ông ta sẽ trở lại Genève. Trước việc Mendès-France muốn gặp Chu Ân Lai, Smith không vui lắm.
Mendès-France tự có định kiến, yêu cầu Chauvel vừa về Paris lập tức trở lại Genève để liên hệ với Chu Ân lai, xác định địa điểm và thời gian thủ tướng hai nước Trung Pháp gặp nhau. Mendès-France hy vọng, Chu Ân Lai đến thăm Paris, thủ tướng hai nước sẽ gặp nhau tại địa điểm X. ngoại ô Paris.
4 giờ chiều ngày hôm đó, Chu Ân Lai hội kiến Racos nghị sĩ Đảng Xã hội, nguyên Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Pháp và Savari nghị sĩ đảng Xã hội, tại Vạn Hoa.
Racos nói với Chu Ân Lai, hiện nay nước Pháp có một số nhân vật có tư tưởng
muốn dẫn nước Pháp vào con đường mạo hiểm, chúng tôi phản đối loại tư tưởng đó, điều này gần đây đã được phát biểu khi cải tổ chính phủ. Đảng Xã hội tán thành chính phủ mới vì họ có thành ý muốn hòa bình. Nếu ủng hộ chính phủ mới, chúng tôi có thể tiến lên theo con đường hòa bình. Điều này có lợi cho cả châu Á, nước Pháp và Trung Quốc. Savari nói, Mendès-France hứa trước Quốc hội và nhân dân Pháp, dùng thời hạn bốn tuần lễ tranh thủ được hòa bình, đó là một sự đặt cược lớn. Trong cuộc cạnh tranh giữa hòa bình và chiến tranh này, đảng Xã hội ủng hộ Mendès-France. Thế nhưng có người không ủng hộ ông ta, mà hy vọng ông ta thất bại.
Chu Ân Lai nói với hai vị khách Pháp, chúng tôi mang theo nguyện vọng hòa giải đến Genève, thúc đẩy khôi phục hòa bình Đông Dương. Chúng tôi rất phấn khởi biết chính phủ mới yêu cầu hòa bình. Vấn đề hòa bình của Đông Dương tự nhiên có liên quan với các nước xung quanh, nhưng trước tiên hai bên giao chiến Pháp, Việt nên có trách nhiệm trong việc nhanh chóng có được hòa bình. Chúng tôi phản đối bất kỳ quốc gia nào cản trở sự tiếp cận giữa Pháp và Việt Nam DCCH. Hai vị đều biết, nước Mỹ muốn phá hội nghị, khiến hội nghị không thể có được kết quả, họ không tin bất kỳ hiệp nghị nào, thái độ đó là không đúng. Chúng ta nên giúp hai bên giao chiến tiếp cận, khiến họ có thể đạt được hiệp nghị. Đương nhiên thời gian bốn tuần lễ rất căng, thế nhưng hai bên Pháp Việt có thể nắm chắc cơ hội tiếp xúc trực tiếp, khả năng giải quyết hòa bình là rất lớn.
Chu Ân Lai chỉ ra: hòa bình quang vinh phải toàn diện, tức không một bên cưỡng ép ý chí của mình lên bên kia. Nếu như chạy theo nước khác thi hành chính sách mạo hiểm và chính sách mở rộng chiến tranh, vinh dự của nước Pháp chỉ có thể bị tổn hại.
Cùng ngày, sau khi biết được tin nhắn của Mendès-France, Chu Ân Lai đã trả lời thủ tướng Pháp mới nhận chức, bản thân ông hy vọng gặp thủ tướng Mendès-France, vì việc này thậm chí có thể về nước chậm hai ngày. Thế nhưng địa điểm gặp nhau không thể tại nước Pháp vì hiện nay hai nước Trung, Pháp còn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao, do vậy ông đề nghị địa điểm gặp gỡ tốt nhất được thu xếp tại Genève, nếu như không tiện, có thể chọn một địa điểm nào khác của Thụy Sĩ thì tốt hơn.
Mendès-France đã nhanh chóng trả lời Chu Ân Lai, thủ tướng mới nhận chức Pháp tới Genève có chỗ bất tiện, ông ta kiến nghị hai bên gặp nhau ngày 23 tháng 6 tại Bern thủ đô Thụy Sĩ. Ông ta đề xuất, các đại biểu hàng đầu của Liên Xô, Mỹ, Anh và Trung Quốc đều đã gặp Chủ tịch hội nghị Liên bang Thụy Sĩ ở đó, duy chỉ nước Pháp là chưa, ông ta chuẩn bị đến đó chào, hy vọng có thể tại Bern hội kiến Chu Ân Lai. Theo hồi ký của Chauvel thì ý đó do Chu Ân Lai đề xuất và Mendès-France đồng ý ngay.
Chu Ân Lai cũng cho rằng kiến nghị đó rất hay, nên đồng ý. Ngày 22 tháng 6, Chauvel cùng [Jacques] Guillermaz và Ligaros, trong đoàn đại biểu Pháp đến Vạn Hoa hội kiến Chu Ân Lai. Từ khi nội các mới của Pháp thành lập, Bidault mất chức, Chauvel quản đoàn đại biểu Pháp cảm thấy sức ép tăng lớn.
Chauvel nói với Chu Ân Lai, ngày hôm qua tôi đã gặp ngài Mendès-France tại
Paris, tôi đã chuyển cho ông ấy ý ngài vui lòng muốn gặp ông ấy. Ông rất phấn khởi. Thế nhưng nội các Pháp vừa mới thành lập, sáng hôm nay phải họp hội nghị bộ trưởng, buổi chiều phải họp hội nghị nội các, vì thế ngày mai ông ấy mới có thể đi Bern. Bây giờ tôi sắp xếp thời gian của ông ấy như sau: 11 sáng ngày mai đến chào nhà đương cục Thụy Sĩ, 12 giờ 30 trưa có một buổi tiệc trưa, 3 giờ chiều gặp ngài tại Đại sứ quán Pháp, không biết ngài có cảm thấy thuận tiện hay không?
Chauvel báo với Chu Ân Lai, tin tức về cuộc gặp gỡ này đã được giới truyền thông, báo chí tuyên truyền rất rộng, trong đó có một số tuyên truyền xuyên tạc, chúng tôi đoán là do người Mỹ làm. Sáng nay tôi nhận được nhiều điện thoại, hỏi tôi bình luận thế nào về các thông tin trên? Tôi trả lời, tôi không có lời nào cần nói cả, đề nghị họ trực tiếp hỏi Paris. Để tránh tin đồn, tôi cảm thấy nên có một biểu thị chính thức. Tại hội nghị nội các hôm nay, ngài Mendès-France sẽ công bố với các thành viên nội các tin sẽ gặp ngài, sau đó hội nghị nội các sẽ ra một thông báo trong đó đại khái có câu: “Thủ tướng Pháp đến Thụy Sĩ chào nhà đương cục Thụy Sĩ, tiện đường sẽ gặp thủ tướng kiêm bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Chu Ân Lai.” Không biết ngài có đồng ý hay không?
Chu Ân Lai nói, cám ơn những cố gắng của ngài Chauvel. Chúng tôi biết các ngài cũng có khó khăn, chúng tôi vui lòng lùi hành trình lại một ngày. Tin tức bên ngoài rõ ràng là do người Mỹ tạo ra. Bọn họ đi khắp nơi gieo rắc thông tin, ví dụ như việc chúng tôi đến Ấn Độ, Ấn Độ và chúng tôi đều không có thông cáo báo chí. Bọn họ thăm dò được tại sân bay. Về vấn đề công bố thông cáo, tôi không phản đối, có thể xác định thời gian vào 3 giờ chiều.
Chauvel nói, thời gian công bố thông báo tốt nhất là Trung, Pháp cùng đồng thời.
Chu Ân Lai nói, đợi đến sau khi các ngài xác định xong thời gian, đề nghị ngài Ligaros thông tri cho ngài Vương Bỉnh Nam.
Chauvel nói, về nội dung hội nghị ngày mai, ngài Mendès-France không có vấn đề gì đặc biệt, thế nhưng ông ấy rất vui lòng nghe mọi điều ngài muốn nói. Yêu cầu của ông ấy là nhanh chóng giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương. Sau khi thời hạn do ông ấy tự qui định tới, ông ấy phải trả lời hội nghị. Mọi khó khăn trong cuộc đàm phán hiện nay của chúng ta là khó khăn giữa chúng tôi với các nước đồng minh, chúng tôi hy vọng có thể khắc phục khó khăn. Chúng tôi rất phấn khởi vì hai nước Trung, Pháp có thể có cố gắng chung. Sau khi ngài rời Genève, do ai ở lại phụ trách?
Chu Ân Lai nói, ngài Lý Khắc Nông, Thứ trưởng Ngoại giao của chúng tôi sẽ ở lại phụ trách, còn có Trần Gia Khang Vụ trưởng Vụ châu Á cũng sẽ ở lại. Chúng tôi hy vọng đoàn đại biểu Trung, Pháp có thể duy trì được liên hệ trong ngoài khiến công việc của chúng ta được tiến triển. Hôm qua và hôm kia, tôi và Ngoại trưởng Campuchia và Lào hội đàm ở đây, tối hôm qua lại mời Ngoại trưởng Lào, Campuchia và Ngoại trưởng nước Việt Nam DCCH ăn cơm tại đây, tôi nói với họ, chúng tôi hy vọng ba nước có thể thiết lập quan hệ hữu hảo với Pháp, đồng thời sau khi khôi phục hòa bình, trên cơ sở mới thiết lập quan hệ càng tốt hơn với Pháp. Chúng tôi là thúc đẩy, thúc giục thành công, chứ không là chướng ngại.
Chauvel nói, điều này cũng hoàn toàn là ý kiến của tôi. Cám ơn những cố gắng to
lớn của ngài đã làm vì khôi phục hòa bình Đông Dương! Trong công tác mấy tuần lễ tới, tôi nghĩ chủ yếu là tiến hành hội nghị quân sự. Thế nhưng chúng ta không thể làm cho hội nghị chín nước gây cho người ta ấn tượng bế tắc. Vì vậy tôi cảm thấy hội nghị này vẫn cần họp, phải biểu thị với dư luận các nước, hội nghị chín nước vẫn đang tiến hành. Sáng nay tôi và ngài Phạm Văn Đồng đã trao đổi ý kiến, ông ấy nói, chúng ta không cần một “hỷ kịch” như vậy. Tôi nghĩ đây không nhất định là một “hỷ kịch”, một hội nghị như vậy còn có tác dụng nhất định. Nếu như công việc không nhiều, chúng ta mỗi tuần lễ có thể họp hai, ba lần mỗi lần một giờ. Kết quả thảo luận của hội nghị chuyên gia, có thể báo cáo lên hội nghị của chúng ta.
Chu Ân Lai nói, tôi nghĩ ý kiến của ngài Chauvel là rất hay. Thế nhưng chúng tôi cần thương lượng với đoàn đại biểu Liên Xô và Việt Nam một chút. Hội nghị như thế này cần có việc để làm, mỗi người không nên nói quá nhiều, làm cho không khí căng thẳng lên. Bây giờ điều then chốt là hội nghị quân sự phải có thành tích.
Chauvel nói, đó là cơ sở duy nhất của chúng ta. Sáng sớm hôm nay ngài Phạm Văn Đồng nói, phải sau khi vẽ xong bản đồ thì việc thảo luận thành viên của Uỷ ban giám sát mới có căn cứ. Đại hội có đình đốn hay không đối với chúng tôi và đối với các ông không có quan hệ gì, nhưng với người khác có thể không giống thế, vì vậy vẫn phải tiếp tục họp.
Lúc này Chauvel lấy ra hai văn kiện giới thiệu với Chu Ân Lai, chúng tôi muốn tại hội nghị hôm nay đề xuất hai văn kiện này. Văn kiện thứ nhất là về việc thiết lập uỷ ban chuyên môn của Uỷ ban giám sát. Nước Mỹ rất không tiếp nhận văn kiện này, sợ rằng sau khi có uỷ ban này đại hội sẽ không quản được. Về thành viên của uỷ ban này có thể căn cứ vào nhiệm vụ mà quyết định. Văn kiện thứ hai là do nước Pháp nêu ra trên cơ sở sáu điểm kiến nghị của ngài Chu Ân Lai, chúng tôi coi nó là chương trình làm việc, để thúc đẩy tiến hành hội nghị. Ngài Phạm Văn Đồng nói, còn phải thêm vấn đề bố trí bộ đội bản địa. Ngài Johson Mỹ còn chưa trả lời cụ thể. Thế nhưng ông ấy không phản đối. Bây giờ chúng tôi muốn biết ý kiến của Trung Quốc, chúng ta có thể hợp tác giống như tuần lễ trước.
Nói xong, Chauvel đưa hai văn kiện do phía Pháp soạn thảo cho Chu Ân Lai.
Chu Ân Lai nói với Chauvel, chúng tôi sẽ trả lời ngài trước phiên họp lần sau.
Chu Ân Lai và Chauvel hẹn nhau, trong những ngày các ngoại trưởng không ở Genève, Pháp và Trung Quốc duy trì quan hệ chặt chẽ mà thận trọng, bí mật.
Cuộc hội đàm giữa Chu Ân Lai và Chauvel đã chuẩn bị tốt cho cuộc gặp gỡ với Mendès-France ngày hôm sau.
Sáng ngày 23 tháng 6 dường như Mendès-France cùng đến Bern một lúc với Chu Ân Lai với tâm tình rất kích động không yên. Tại hội nghị Quốc Vụ viện Pháp họp ngày hôm qua, ông ta nói với các thành viên nội các: “sau khi nói chuyện với các tướng lĩnh cao cấp của chúng ta, tôi xác nhận, nếu tiếp tục chiến tranh, nếu như không thể chậm trễ trong việc gửi quân tiếp viện thì quân đội viễn chinh Pháp trong hoàn cảnh đã khó khăn sẽ càng thêm khó khăn. Nếu như không thể thực hiện ngừng bắn nhanh chóng tại Đông Dương, chúng ta sẽ không thể không tuyển thêm tân binh.”
Mendès-France nói: “như vậy, cũng có thể tôi chỉ có thể nói, tình hình đã khiến mọi người dễ dàng hiểu được, dường như đây là một cuộc ‘đánh bạc’. Nếu như chúng ta không thể trong 30 ngày tới thực hiện ngừng bắn, thì những người trẻ tuổi của chúng ta không thể không phải ra chiến trường. Và như thế là trước khi họ chưa có thể đến được Đông Dương, quân viễn chinh nước Pháp chúng ta vẫn ở trong hoàn cảnh nguy hiểm.”.
Ba giờ chiều, thủ tướng Trung Quốc và Pháp gặp nhau tại đại sứ quán Pháp tại Thụy Sĩ, Chauvel đã chuẩn bị từ sớm tại đây đầy đủ nước cam. Ông ta là người giới thiệu khi thủ tướng hai nước gặp nhau lần đầu, và khi nhận thấy, Chu Ân Lai vẫn vui vẻ giống như ở Genève, trong chốc lát, lòng ông ta trở nên nhẹ nhõm nhiều.
Thủ tướng hai nước trực tiếp dùng tiếng Pháp bắt đầu cho cuộc hàn huyên đầu tiên. Mendès-France nói, ông đã biết từ sớm rằng thủ tướng Chu lúc trẻ tuổi đã lưu học tại Pháp, hoan nghênh ngài thủ tướng trở lại thăm Paris.
Chu Ân Lai nói, ông có cảm tình với Paris. Đáng tiếc là tiếng Pháp học năm đó do nhiều năm không dùng nên đã quên gần hết, nhưng vẫn hy vọng có cơ hội đến xem lại những nơi đã sống thời lưu học.
Sau đó bắt đầu vào câu chuyện chính, thủ tướng mới nước Pháp nói với Chu Ân Lai: “tôi vui lòng giải quyết nhanh chóng mọi vấn đề chúng ta quan tâm. Ngài thủ tướng biết đấy, chính phủ của chúng tôi đã được thành lập trong tình hình nào. Nghị viện nhân dân Pháp đã định thời hạn, hy vọng đạt được hiệp nghị trong thời gian gần. Hiệp nghị này nhất định phải có lợi cho hòa bình.”
Chu Ân Lai cũng nói thẳng ra rằng: “Chính là vì nguyên nhân này, tôi tin là người lãnh đạo hai nước chúng ta sẽ trao đổi ý kiến sớm, như vậy có lợi cho việc thúc đẩy hội nghị từ nay về sau.”
Mendès –France nói: ngài thủ tướng luôn luôn tham gia hội nghị, một thời gian trước đây tôi chưa thể tham gia hội nghị, thế nhưng tôi biết tình hình nói chuyện giữa ngài Thủ tướng và ngài Bidault tôi hy vọng ngài Thủ tướng nói cho tôi, hiện nay nên áp dụng biện pháp nào dể thực hiện hòa bình ở Đông Dương?
Chu Ân Lai: “trong hội nghị trước đây, tôi đã trao đổi nhiều ý kiến với ngài Bidault và ngài Chauvel, bây giờ tôi vui lòng nói những ý kiến của đoàn đại biểu Trung Quốc đối với hội nghị với ngài thủ tướng mới kiêm ngoại trưởng Pháp.”
Chu Ân Lai đã có một cuộc trình bày dài: đoàn đại biểu Trung Quốc đến Genève là để thực hiện khôi phục hòa bình ở Đông Dương, không có mục đích khác. Chúng tôi phản đối mở rộng, quốc tế hóa chiến tranh, phản đối sử dụng biện pháp đe dọa, thách thức, bởi vì như vậy không lợi cho thương thảo. Trung Quốc không sợ đe dọa, ngài thủ tướng hẳn biết việc này. Chúng tôi dùng biện pháp hòa giải để thúc đẩy hai bên đạt được hiệp nghị. Chính vì như vậy, tôi vui lòng nói với ngài thủ tướng ý kiến của chúng tôi.
Về việc giải quyết vấn đề Đông Dương, trước tiên phải ngừng bắn. Vấn đề quân sự và chính trị là có liên hệ. Hiện nay là thảo luận vấn đề quân sự, sau đó còn phải thảo luận vấn đề chính trị. Sau khi đạt được hiệp nghị, trước tiên là đình chiến, bởi vì đó là điều nhân dân Pháp, Đông Dương và toàn thế giới tán thành. Đúng như ngài thủ tướng đã nói, quốc hội Pháp đã biểu thị yêu cầu đó. Ở Đông Dương tình hình hiện nay là, ba nước đều có chiến tranh, là giống nhau. ba nước đều phải ngừng bắn, nhân dân đều yêu cầu độc lập, thống nhất. Chính phủ Pháp từng có nguyện vọng công nhận độc lập của ba nước, mỗi nước thống nhất. Trung Quốc cũng vui lòng thấy họ ở lại trong Liên hiệp Pháp, chúng tôi cũng vui lòng cùng nước Pháp thiết lập quan hệ hữu hảo hòa bình. Tình hình ba nước không hoàn toàn giống nhau, vì vậy chúng tôi công nhận giải quyết vấn đề ba nước có chỗ không giống nhau. Lấy Việt Nam ra nói, sau khi đình chiến rồi, họ còn phải trải qua bầu cử mới có thể đạt được thống nhất, xác định chế độ trong nước. Điều này do nhân dân Việt Nam tự giải quyết. Còn đối với Lào và Campuchia, nếu như nhân dân hai nước vẫn vui lòng công nhận chính phủ Vương quốc hiện tại, thì nước tôi cũng vui lòng coi hai nước như là quốc gia kiểu Đông Nam Á, như các nước Ấn Độ, Indonesia. Những điều này tôi đã nói với ngài Bidault.
Chu Ân Lai đã điểm ra chỗ then chốt: “đương nhiên, mặt khác chúng tôi không muốn nhìn thấy ba nước trở thành căn cứ quân sự Mỹ, hoặc tập đoàn quân sự do Mỹ và họ thành lập. Đó là điều chúng tôi phản đối. Nếu có căn cứ quân sự Mỹ, chúng tôi sẽ hỏi han, không thể bỏ qua.”
Chu Ân Lai nói: mấy hôm trước tôi đã đều nói với các ngoại trưởng là, Campuchia, họ bảo đảm với tôi, họ không cần căn cứ quân sự Mỹ. Tôi nói tốt, đồng thời cổ vũ họ và Pháp hữu hảo, nếu như nước Pháp tôn trọng độc lập của họ.
Tôi cũng nghe được ngài Phạm Văn Đồng biểu thị với họ, họ vui lòng tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất của hai nước Lào và Campuchia, và không xâm phạm lẫn nhau, Tôi nghe thấy các bên bàn với nhau như vậy, đó là tốt.
Về chính trị, chúng tôi cho rằng ba nước Đông Dương có chỗ không giống nhau. Việt Nam có hai chính phủ, phải phân chia tốt vùng tập kết quân sự, không thể giải thích là phân trị. Bởi vì sau khi đình chiến một thời gian, nói chung phải bầu cử tự do, điều này cần hai bên hiệp thương. Đó là việc của riêng họ, chúng ta không thể can thiệp, nhưng phải thúc đẩy. Ở Lào và Campuchia cũng phải qua bầu cử để thống nhất. Về điểm này tôi thấy nước Việt Nam DCCH có thể đồng ý. Vấn đề là, chính phủ vương quốc hai nước phải công nhận phong trào chống đối tại chỗ, phải đoàn kết với chính phủ kháng chiến để được thống nhất. Chính phủ Bảo Đại cần áp dụng biện pháp hiệp thương tiếp cận nước Việt Nam DCCH, chứ không đối lập. Nhưng trước mắt phương án chính trị của ông ta là đối lập, độc bá, đưa LHQ tới can thiệp, không thể đồng ý điều đó.
Về quân sự, đoàn đại biểu quân sự hai bên đang đàm phán về vấn đề Việt Nam, chúng ta đều hy vọng nhanh chóng đưa ra được đề án. Lào và Campuchia có hai tình huống, một là lực lượng chống đối bản địa, tại Campuchia nhỏ hơn, tại Lào lớn hơn. Tại Campuchia, chính phủ vương quốc nên trực tiếp thương lượng với phong trào chống đối, đình chiến, nước trung lập giám sát, để giải quyết chính trị. Tại Lào cũng như vậy, chính phủ vương quốc cũng phải cùng chính phủ Pháp tiến hành hội đàm hai bên, cần có một số vùng tập kết cho bộ đội địa phương, có như vậy mới có được thống nhất chính trị. Một tình hình khác là, lực lượng vũ trang và nhân viên quân sự nước ngoài ở hai nước phải rút khỏi. Việt Nam từng có quân tình nguyện, nếu như hiện nay vẫn còn thì có thể dựa vào biện pháp toàn bộ quân đội nước ngoài rút khỏi Đông Dương, để giải quyết trong các cuộc đàm phán của đại biểu quân sự.
Hiện nay vấn đề gặp gỡ giữa đại biểu Bộ tư lệnh hai bên dã đạt được hiệp nghị nguyên tắc, cần khẩn trương bàn bạc trong ba nước. Hiện nay hội đàm giữa hai bên giao chiến đã trở thành chủ yếu. Mà Pháp, Việt là hai bên chủ yếu hơn. Chúng tôi rất hy vọng hai bên trực tiếp tiếp xúc, sớm đạt đựoc hiệp nghị. Các nước tham dự hội nghị bao gồm cả Trung Quốc trong đó, nói chung cần phải cống hiến lực lượng để thúc đẩy, phản đối mọi ngăn cản và phá hoại. Trên đây là phần ý kiến chủ yếu của tôi.
Chu Ân Lai nói đến đây, Mendès-France nói ngay, những lời của ngài thủ tướng làm tôi nhận thức được, thủ tướng đã nêu vấn đề rất rõ. Tất nhiên tôi sẽ trả lời từng điểm, với một số điểm đặc biệt sẽ có thảo luận tỉ mỉ. Điều tôi phấn khởi là, ý kiến của chúng ta tiếp cận trên những điểm chủ yếu. Tôi biết mấy hôm nay vấn đề Lào và Campuchia có tiến triển và được biết phần lớn những tiến triển là do những cố gắng của đoàn đại biểu dưới sự chủ trì của thủ tướng Chu mà đạt được. Tôi nghĩ về vấn đề Lào và Campuchia, giữa chúng ta không có khó khăn nào không thể khắc phục được.
Mendès-France nói, tôi cho rằng vấn đề Việt Nam có khác, ngài thủ tướng đã nêu, đây là vấn đề tương đối khó. Hai là tình hình rất không tốt, bởi vì tại đây, thời gian chiến tranh liên tục rất dài. Cũng như ngài thủ tướng đã nói, chính phủ hai nước đều có chế độ, quân đội của mình. Nhân dân Việt Nam chia làm hai mặt trận, đánh lẫn nhau nhiều năm nay. Vừa rồi ngài thủ tướng đề cập tới một điểm rất đáng chú ý đó là nhiều vấn đề có thể qua hai bên trực tiếp tiếp xúc giải quyết. Nếu như có thể làm được, tất nhiên chúng tôi rất hoan nghênh. Thế nhưng trên thực tế có một số khó khăn. Bản thân tiếp xúc là có khó khăn, kết quả cũng có khó khăn. Nhưng chúng ta phải cố gắng đạt được mục tiêu, tôi tán thành phương hướng đó.
Ngài thủ tướng đã nói, mục đích đối với khu vực này là thống nhất, vấn đề phương pháp, trình tự có thể xem xét riêng. Việt Nam phải chia thành hai mặt trận, muốn đạt mục đích trong nhât thời là có khó khăn, không thể vừa ngừng bắn là đã hoàn toàn thống nhất. Vấn đề vừa đề xuất này là do chiến tranh đã tiến hành dài như vậy, hòa bình không thể thực hiện ngay.Coi thủ tục rất đơn giản như lập tức bầu cử, trên thực tế nếu có thống nhất thực sự, muốn người Việt Nam hợp tác, thì cần phải có trình tự nhất định. Tóm lại, mục đích và nguyên tắc không bất đồng.
Cuối cùng còn một điểm, tôi rất phấn khởi nêu với ngài Thủ tướng ý kiến như thế này, tức tốt nhất là trải qua hai giai đoạn: ngừng bắn trước, sau đó bầu cử chính trị. Tôi hoàn toàn đồng ý lý do mà ngài thủ tướng đã nói: nếu chúng ta muốn triển khai thật, thì bước thứ nhất phải tập trung giải quyết vấn đề ngừng bắn, bao gồm việc chế định vấn đề vùng tập kết. Điều này cần thực hiện nghiên cứu, giải quyết nhanh chóng.Tôi xin hỏi ngài thủ tướng, liệu có cho rằng điểm đồng của chúng ta không ít?
Vẫn còn một điểm quan trọng, vừa rồi ngài thủ tướng có đề xuất tới vấn đề xây dựng căn cứ quân sự Mỹ, tôi hoàn toàn đồng ý ý kiến đó, và vui lòng nói rõ là, chúng tôi không dự tính xây dựng căn cứ Mỹ tại khu vực này. Chúng tôi không có kế hoạch như vậy.
Chu Ân Lai lắng nghe phát biểu của Mendès-France, đợi đến lúc đối phương ngừng nói, ông mới đáp lại ngay, về mấy ý kiến của ngài, tôi phải nói một chút, ngài đã có sự trả lời rất tốt, thuyết minh nước Pháp không có ý thiết lập căn cứ Mỹ. Điều này không chỉ đối với ba nước Đông Dương mà đối với nước Pháp, Đông Nam Á đều tốt. Mọi người hy vọng chung sống hòa bình, cùng thiết lập cơ sở chung vì tương lai.
Ngài nói đến trước, vấn đề quân sự chính trị của Lào, Campuchia cũng cần giám sát quốc tế, ý kiến của chúng ta về điểm này là giống nhau.
Về vấn đề Việt Nam, tình hình bất đồng, là có một số khó khăn. Nhưng tôi nghĩ nên định trước nguyên tắc quân sự chính trị, nói chung bước đi giải quyết là phải định vùng tập kết quân sự trước. Ngừng bắn trước, thì mới có thể giải quyết chính trị. Nói chung phải có hai bước đi, chứ không phải một bước. Độ ngắn dài của bước một, bước hai chủ yếu phải xem sự cố gắng của cả hai bên, phải qua sự hiệp thương của hai bên. Nước Pháp phải có trách nhiệm nhiều hơn là để làm cho chúng tôi tiếp cận, chứ không phải là đối lập. Hai bên không tiếp cận, không nói với nhau là trở ngại cho đình chiến. Tin là ngài sẽ phát hiện, Trung Quốc không chỉ thúc đẩy phía Việt Nam tiếp cận với phía Pháp mà còn tiếp cận với chính phủ Bảo Đại. Nước Pháp sẽ thấy Bảo Đại tiếp cận người khác có khó khăn. Khó khăn đến từ chỗ nào, ngài thủ tướng có thể biết được. Tình hình này, ngài Chauvel càng rõ.
Lúc này Mendès-France nhấn mạnh tính lâu dài của chiến tranh Pháp Việt đã mang lại khó khăn cho sự tiếp cận. Ông ta nói, trải qua nhiều năm chiến tranh, chia rẽ lâu dài, về tâm lý về chính trị rất khó tiếp cận. Thế nhưng cần phải theo yêu cầu này để được một số kết quả, tốt nhất là cuối cùng đề xuất một cách cụ thể trên cơ sở nào thực hiện được các vấn đề như ngừng bắn và tập kết quân đội v.v.. Ngài biết đàm phán chuyên gia quân sự vẫn đang tiến hành, tuy không khó khăn, nhưng cũng không làm hội nghị minh bạch thêm. Nếu như có thể biết rõ được có thể đạt được hiệp nghị trên vấn đề nào, chúng tôi sẽ dễ dàng gây ảnh hưởng đối với Việt Nam. Hiện nay hội đàm Pháp Việt không có tiến triển lớn. Ngày hôm qua ngài Phạm Văn Đồng và ngài Chauvel cũng có tiếp xúc, nhưng hiện nay mọi cái tập trung vào mặt quân sự, tiến triển không lớn. Tối hôm nay sau khi về đến Paris, tôi sẽ gặp tướng Ely, nhất định tôi sẽ cùng ông ta thảo luận vấn đề này, để tiện đưa ra chỉ thị cho đại biểu quân sự trong thời gian này tiến hành công tác. Thế nhưng nếu Việt Minh cũng có chỉ thị như vậy thì rất tốt, sẽ dễ đạt được hiệp nghị. Liệu ngài thủ tướng có thể như chúng tôi lợi dụng ảnh hưởng của các ngài đối với Việt Minh, giúp chúng tôi làm như vậy? Chỉ cần thảo luận của chuyên gia quân sự có tiến triển, bọn họ có hiệp nghị, sau khi có cơ sở, ngoại giao sẽ tiến hành tốt.
Còn một điểm nữa, cần căn cứ vào kiến nghị do Việt Minh đề xuất ngày 25 tháng 5, thành lập hai vùng tập kết lớn, cái này chỉ có chuyên gia quân sự mới có thể cung cấp cơ sở cho ngoại giao chúng ta thảo luận.
Chu Ân Lai nói, để tránh hiểu nhầm, tôi muốn giải thích một chút: tôi nói hai bên
Việt Nam nên tiến hành tiếp xúc chứ không nói “hợp tác”. Bởi vì hai bên đã qua tác chiến nhiều năm, hiện nay tự nhiên đã không thể nói là hợp tác. Chúng tôi hy vọng nước Pháp gây ảnh hưởng tới Bảo Đại, khiến Việt Nam có thể tiếp xúc với Việt Nam DCCH. Tại điểm này tôi và ý kiến của ngài Thủ tướng là giống nhau. Thảo luận bây giờ là cụ thể hóa vấn đề. Chúng tôi biết, đại biểu quân sự của Việt Nam DCCH cũng chuẩn bị đề đàm phán thành công sớm.
Tôi rất vui khi nghe ngài Mendès-France nói, sau khi trở về Paris ông sẽ hội đàm với tướng Ailie, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp, đồng thời sẽ chuẩn bị chỉ thị rõ ràng cho đại biểu quân sự phía Pháp tại Genève, Sau khi hai bên đã định được vùng tập kết lớn, là có cơ sở cho đàm phán ngoại giao. Về điểm này, tôi cũng đồng ý với cách nhìn của ngài Thủ tướng. Về vấn đề vùng tập kết lớn không biết ngài thủ tướng có cách nghĩ cụ thể gì không? Nếu như chua có ý kiến khẳng định thì hiện nay có thể không cần tiếp xúc vấn đề đó.
Mendès-France nói, để tránh hiểu nhầm, tôi cũng vui lòng giải thích một chút, tôi nói “hợp tác” chỉ là dùng phương pháp “hợp tác” để giải quyết tranh chấp.
Tôi đồng ý cách nói của Thủ tướng Chu Ân Lai, chúng tôi hy vọng đàm phán của đại biểu quân sự có thể nhanh chóng tiến vào giai đoạn cụ thể hóa, đồng thời hy vọng đại biểu phía Việt Minh cũng có thể nhận được chỉ tiêu rõ ràng. Xác định vùng tập kết lớn có thể làm cơ sở để thảo luận ngoại giao, xem ra vấn đề vùng tập kết lớn có thể nhanh chóng giải quyết. Còn vấn đề cụ thể hóa vùng tập kết lớn, hiện nay tôi chưa thể biểu thị ý kiến gì. Bởi vì hiện nay đàm phán của chuyên gia quân sự còn chưa rõ ràng lắm. Bọn họ chuẩn bị chế định một đường ngang từ đông sang tây. Phía Việt Minh yêu cầu vạch đường, so sánh tình hình thực tế còn hơn Triều Tiên. Nhưng chuyên gia hiểu biết tình hình của chúng tôi đã chú ý đến các điểm mà phía Việt Minh đề xuất ngày 25 tháng 5. Chúng tôi nghĩ là, kết quả có được để trao cho ngoại giao thảo luận là có khả năng. Còn một luận cứ nữa, mấy ngày gần đây đang đàm phán. Về biện pháp giám sát cụ thể, chúng tôi cho rằng nếu như biết được cụ thể đối tượng giám sát là cái gì, vấn đề giám sát sẽ dễ giải quyết. Vì vậy chúng ta nên nhanh chóng thúc đẩy đàm phán về vấn đề tập kết. Như vậy sẽ thuận tiện cho thảo luận vấn đề giám sát.
Chu Ân Lai đồng ý cách nhìn đó của Mendès-France, ông nói: “rất tốt, chúng ta nên giải quyết trước vấn đề vùng tập kết bộ đội. Tôi đã chú ý tới tính chất của vấn đề mà ngài thủ tướng đã nói, chúng tôi tin là, sau khi cụ thể hóa thảo luận của đại biểu quân sự hai bên, vấn đề giám sát sẽ dễ giải quyết. Tôi đã từng trao đổi ý kiến về vấn đề này với ngài Eden, ông cũng đồng ý cách nhìn như vậy.
Nỗ lực của chúng tôi hiện nay là muốn hai bên sớm đạt được hiệp nghị. Trong ba tuần lễ đạt được kết quả, khiến hai bên giao chiến có thể đạt được hòa bình vinh quang, thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân hai bên Pháp, Việt và thế giới, các ngoại trưởng có thể trở lại Genève sớm.”
Mendès-France nói, ba tuần lễ nên là thời hạn lớn nhất. Trong thời hạn đó, khi đại biểu quân sự hai bên giành được hiệp nghị, nên liên hệ ngay với các đại biểu khác, một mặt để lại thời gian mấy ngày để các ngoại trưởng trở lại.
Chu Ân Lai nói, càng sớm càng tốt, sau khi tôi về nước, Lý Khắc Nông, Thứ
trưởng bộ Ngoại giao của chúng tôi sẽ phụ trách ở đây, hy vọng ngài Chauvel duy trì liên hệ với ngài Lý Khắc Nông. Tôi rất phấn khởi được gặp ngài thủ tướng ở đây, cám ơn ngài đã bớt thời gian đến Bern.
Mendès-France đáp ngay: “đó là vì sự nghiệp hòa bình chung của chúng ta.”
Hội đàm đến đó không khí đã tương đối hòa hợp. Mendès-France cảm thấy rất vừa lòng với cuộc gặp gỡ, nói: “đây là lần tiếp xúc đầu tiên của chúng ta, hy vọng sau này càng có nhiều tiếp xúc. Tôi cảm thấy rất phấn khởi với lần tiếp xúc này, xin biểu thị cám ơn tại đây.”
Mendès-France còn đề xuất với Chu Ân Lai, nên ra một thông báo về cuộc gặp gỡ hôm nay, dự thảo là: thủ tướng hai nước đã tiến hành trao đổi tự do với nhau về vấn đề hòa bình Đông Dương. Ngoài ra rất nhiều điều không nên nói.
Chu Ân Lai biểu thị đồng ý, ông còn dặn thêm một câu, hy vọng Mendès-France có thể trực tiếp tiếp xúc Phạm Văn Đồng, điều đó có chỗ tốt.
Mendès-France nói, ngày hôm qua Chauvel đã gặp Phạm Văn Đồng, chuyển lời nói tôi vui lòng gặp mặt Phạm Văn Đồng. Nhưng hiện nay tôi không biết lúc nào có thể thực hiện được, điều này cũng cần nhìn tình hình tiến triển của hội nghị mà định. Tôi cho rằng cuộc gặp mặt như vậy là quan trọng, hy vọng có thể thực hiện được cuộc gặp mặt như vậy.
Cuộc gặp gỡ sắp kết thúc, Mendès-France nói: “Ngài thủ tướng là thủ tướng kiêm ngoại trưởng lâu năm có kinh nghiệm, tôi là mới, là thủ tướng kiêm ngoại trưởng chưa có kinh nghiệm, cho nên nhiều việc đều bận bận rộn rộn, thế nhưng tôi phải hết sức làm cho quan hệ hữu hảo giữa Pháp và Việt Nam thiết lập được.”
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của thủ tướng hai nước Trung, Pháp đạt được đồng thuận quan trọng, đó là một đột phá trọng đại trong tiến trình hội nghị Genève, hai bên đều cảm thấy hài lòng. Sau hội đàm Mendès-France nói với Chauvel và những người khác: “Chu Ân Lai là một trong những người thông minh nhất mà tôi đã gặp. Ông ta có khí chất nhà chính trị thế giới, có đầu óc nhanh nhạy, cơ trí nhất khiến người ta khâm phục.”
Chu Ân Lai cũng rất tán thưởng Mendès-France, ông nói với Trương Văn Thiên, Lý Khắc Nông: “ông ta vô cùng quen thuộc chính trị, là một người có thể thâm giao.”. Câu cuối cùng mà Chu Ân Lai nói ra càng có ý vị sâu xa.
Sau khi gặp Mendès-France, Chu Ân Lai đã hoàn thành nhiệm vụ giai đoạn thứ nhất tại Genève, ngày hôm sau đi máy bay qua Ai Cập bay đến Ấn Độ tiến hành chuyến thăm chính thức. Đồng thời với việc ra về của Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên đã bay về Moskva và Vương Gia Tường thì về nước, Lý Khắc Nông lưu lại Genève, chủ trì công việc của đoàn đại biểu Trung Quốc.
Trước khi rời Genève, Chu Ân Lai nghĩ tới việc nên mang cho vợ chút gì. Đối với người Trung Quốc mà nói, đồng hồ Thụy Sĩ nổi tiếng đã lâu, Chu Ân Lai nhờ thư ký Mã Liệt chọn mua hộ một chiếc đồng hồ đeo tay, với bốn yêu cầu: một là không nhỏ quá, dễ nhìn, đọc rõ; hai là không phải đồng hồ vàng; ba là phải có dạ quang; bốn, tốt nhất là tự động.
Đồng hồ được mua trước lúc Chu Ân Lai lên đường, từ đó Đặng Dĩnh Siêu chỉ đeo chiếc đồng hồ này cho đến lúc lâm chung năm 1992.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:12:56 GMT 9
Chương 26 Hành trình xác lập “năm nguyên tắc”
Chu Ân Lai đến Ấn Độ cùng Nehru xác nhận “năm nguyên tắc chung sống hòa bình”, do đó góp phần tạo nên sự ra đời một bài diễn thuyết nổi tiếng của Nehru. Trước lời mời đi Kashmir do phía Ấn Độ bất ngờ đưa ra, Chu Ân Lai đã khéo léo từ chối. Ông đến Miến Điện, đã xóa bỏ nỗi hoảng sợ và lo lắng của đối phương. Chuyến đi hòa bình này đã đề lại dấu ấn sâu xa trên đất lớn Nam Á.
Hội nghị Genève nghỉ họp, Chu Ân Lai là ngoại trưởng nước lớn rời đó chậm nhất, trên đường về nước ông sẽ thăm Ấn Độ và Miến Điện.
Menon, đặc sứ của Thủ tướng Ấn Độ Nehru, ngay từ lần đầu tiên đến chào Chu Ân Lai đã đại biểu Nehru, mời thủ tướng Trung Quốc thăm Ấn Độ. Chu Ân Lai biểu thị cám ơn ngay và chỉ ra, trong việc giám sát đình chiến ở Triều Tiên, Ấn Độ đã có tác dụng tích cực. Ông vui lòng thăm Ấn Độ, chỉ có điều không biết là hội nghị Genève phải họp bao lâu.
Trong hội nghị Menon đã nhiều lần đại biểu phía Ấn Độ mời Chu Ân Lai tới thăm Ấn Độ, Chu Ân Lai biểu thị đồng ý và báo cáo ý đó với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương ĐCS Trung Quốc. Ngày 13 tháng 6, Trung ương ĐCS Trung Quốc gửi điện cho Chu Ân Lai đồng ý ông thăm Ấn Độ và Miến Điện trong thời gian hội nghị Genève nghỉ họp.
Trước khi lên đường ngày 22 tháng 6 một lần nữa Chu Ân Lai điện cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, đề xuất kế hoạch thăm Ấn Độ, nói: “mục đích chuyến thăm Ấn Độ lần này là để làm công tác chuẩn bị ký công ước hòa bình châu Á dưới một hình thức nào đó, nhằm đả kích âm mưu của Mỹ tiến hành tổ chức Tập đoàn xâm lược Đông Nam Á, và từ đó thúc đẩy khôi phục hòa bình Đông Dương.”
Sáng ngày 24 tháng 6 năm 1954, Chu Ân Lai rời Genève đi thăm Ấn Độ, trước khi lên đường ông nhận lời phỏng vấn của phóng viên “Báo Ấn Độ giáo đồ” [“The Hindus”], đã không bỏ lỡ cơ hội, trình bầy “năm nguyên tắc chung sống hòa bình”. Chu Ân Lai chỉ ra: “chính sách xâm lược chia rẽ các nước Châu Á thành những tập đoàn quân sự đối địch lẫn nhau đang ngày càng đe dọa hòa bình và an ninh của các nước châu Á. Đó là vấn đề chủ yếu mà nhân dân các nước châu Á đang phải đối mặt. Tôi cho rằng, để bảo đảm hòa bình của châu Á, để bảo vệ độc lập dân tộc và quyền tự chủ giữa nhân dân các nước châu Á, giữa các nước châu Á nên tiến hành hiệp thương, dùng phương pháp cùng gánh vác nghĩa vụ với nhau, cùng cố gắng để bảo vệ hòa bình và an ninh châu Á.”
Phóng viên hỏi: “liệu chính phủ Trung Quốc có phủ nhận quan hệ giữa hai nước láng giềng vĩ đại Trung, Ấn đang phát triển một cách hài lòng không? Liệu Thủ tướng Chu có kiến nghị một số biện pháp làm cho quan hệ hai nước phát triển hơn nữa hay không?”
Chu Ân Lai trả lời: “nhân dân Trung Quốc rất phấn khởi có nước láng giềng hết lòng vì hòa bình như Ấn Độ. Gần đây hai nước Trung, Ấn trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng lãnh thổ chủ quyền của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hòa bình, qua hiệp thương đầy đủ đã ký hiệp định thông thương và giao thông giữa Tây Tạng Trung Quốc và Ấn Độ. Hiệp định này không chỉ tăng cường quan hệ giữa hai quốc gia vĩ đại Trung, Ấn mà còn cung cấp cho sự hợp tác giữa các nước châu Á một điển hình tốt đẹp. Tôi tin chắc rằng, trên cơ sở đó, sự hợp tác hai nước Trung, Ấn trong công việc quốc tế cũng sẽ phát triển hơn nữa, tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung, Ấn cũng phát triển sâu sắc hơn nữa. Điều này có ý nghĩa trọng đại đối với việc củng cố hòa bình châu Á và thế giới.”
Phóng viên hỏi: “đề nghị thủ tướng Chu nói một chút về cách nhìn của ngài đối với cuộc sống và công tác của Gandhi.”
Chu Ân Lai trả lời: “Nhân dân Trung Quốc biểu thị sự tôn kính trước cuộc sống phấn đấu lâu dài giành độc lập dân tộc dân tộc của Gandhi. Tinh thần này có ảnh hưởng sâu sắc tại Ấn Độ.”1
Sáng sớm ngày 25 tháng 6, đoàn Chu Ân Lai đến New New Delhi. Nehru và hơn 5.000 nhân sĩ các giới ra sân bay đón. Nehru mặc áo ngoài cổ cao mầu trắng, trước ngực đeo hoa hồng nhung đỏ, tràn đầy sức sống.
Hai thủ tướng Trung Quốc và Ấn Độ bắt tay nhau rất chặt. Đây là lần đầu tiên Chu Ân lai và Nehru gặp nhau.
Các em thiếu nhi Ấn Độ ra chào đón đã choàng lên cổ Chu Ân Lai vòng hoa kết bằng hai loại hoa thơm mầu vàng và mầu trắng, dòng người đứng bên đường tung những đoá và bó hoa tươi vào Chu Ân Lai. Nehru tháp tùng Chu Ân Lai tới nhà khách quốc gia.
Javaharlal Nehru (1889-1964) tổ tịch ở Kashmir, nơi có nhiều núi non, sông nước. Gia tộc Nehru có tài sản giầu có tại bản địa theo đạo Balamon, là tôn giáo cao quí nhất trong bốn tôn giáo lớn tại Ấn Độ.
Nehru sinh ngày 14 tháng 11 năm 1989.Cũng tương tự như truyền thống Trung Quốc, đại gia đình Ấn Độ coi trọng con trai. Theo tập quán của Ấn Độ giáo, sau khi có thai phụ nữ phái cử hành một nghi lễ sinh con trai, cầu khấn thần linh phù hộ cho sinh con trai, bởi vì con trai là người chủ trì tang lễ cha mẹ. Theo cách nói của Ấn Độ giáo, người đàn ông chết mà không có con trai sẽ vào địa ngục; người phụ nữ mà không sinh con trai sẽ bị vứt bỏ.
Ông bố Nehru đã vợ chết, con chết từ sớm, sau khi tục huyền lại mất một con trai, đến lúc này mới có con trai, vì vậy ông bố mới đặt tên con là “Javaha” có nghĩa là “ngọc quí”, cộng thêm chữ cuối tên ông là “rlal” đặt thành tên “Javaharlal” có nghĩa là “ngọc quí đỏ”. Tuổi trẻ Nehru được hưởng sự giáo dục tốt đẹp, đọc sách nhiều, hiểu sâu sắc văn học, tôn giáo (chủ yếu là Ấn Độ giáo). Ông cũng rất hứng thú đối với khoa học tự nhiên, gia sư đã trang bị cho ông một phòng thí nghiệm khoa học tự nhiên.
Năm 1905, Nehru 15 tuổi đến Anh học tập. Sau khi được học tập bổ sung, năm 1907 đã thi đỗ vào Viện 31, Đại học Cambridge học nhiều ngành khoa học như hóa học, sử học, chính trị học và kinh tế học v.v… Ông học tập tại Anh 7 năm, tương đối hòa nhập với chính trị học và sinh hoạt phương Tây.Trong tự truyện, Nehru nói, sau khi học tập tại Anh mình đã trở thành “vật hỗn hợp phương đông và phương tây kì dị”.
Năm 1912, Nehru trở về Ấn Độ bắt đầu cuộc sống luật sư. Không lâu sau, ông tham gia đảng Quốc Đại. Năm 1916 trong hội nghị lần thứ nhất của đảng Quốc Đại, Nehru gặp và biết Gandhi, người lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ. Nehru cho rằng, phong trào hành động phi bạo lực bất hợp tác để giành lấy tự do, do Gandhi đề xuất là phù hợp với truyền thống Ấn Độ, cũng thích ứng với hiện thực Ấn Độ. Năm 1919, Nehru bỏ nghề đi theo Gandhi. Hoạt động chính trị của ông thậm chí đã ảnh hưởng tới ông bố, đến nỗi ông bố cùng gia nhập đảng Quốc Đại, và được bầu làm Chủ tịch đảng Quốc Đại. Từ đó, số phận của gia tộc Nehru đã kết hợp chặt chẽ với phong trào giải phóng Ấn Độ, không bao giờ tách rời, ngay phương thức sinh hoạt của gia tộc cũng thay đổi, từ hào hoa dần dần hướng về giản dị.
Những năm 30 của thế kỷ XX, Nehru nhiều lần được bầu làm Chủ tịch đảng Quốc Đại, trở thành ngọn cờ của phong trào độc lập Ấn Độ.
Để làm cho Ấn Độ giành được độc lập tự do từ sự thống trị của thực dân Anh, Nehru nhiều lần bị bắt, từ năm 1921 đến năm 1945, tổng cộng ông vào ngục chín lần, lần dài nhất phải giam trong ngục 1.041 ngày. Một số tác phẩm quan trọng của ông như “Một cái nhìn lịch sử”, “Tự truyện”, “Sự phát hiện Ấn Độ” v.v.. đều được viết trong ngục.
Năm 1939 Nehru tới thăm Trung Quốc. Đến Trung Quốc ông hy vọng gặp một số người, trong đó có Chu Ân Lai, đại biểu ĐCS Trung Quốc đang ở Trùng khánh. Ngày 3 tháng 9 năm 1939, nước Anh tuyên chiến với Đức. Cùng ngày hôm đó Tổng đốc Anh ở Ấn Độ tuyên bố Ấn Độ ở vào tình trạng chiến tranh, điều này làm cho Nehru phải ngừng chuyến thăm về nước. Nghe nói, nếu như Ấn Độ không bị cuốn vào cuộc chiến tranh thế giới thứ thứ hai, bản thân Nehru còn dự tính đi thăm Diên An.
Về nước không lâu, Nehru lại bị bắt, phải sống trong ngục 3 năm, mãi đến ngày 15 tháng 6 năm 1945 mới được thả. Trong những năm tháng trong song sắt, Nehru đã viết xong cuốn sách “ Phát hiện Ấn Độ”. Bản thảo cuốn sách này dày trên 1000 trang, tràn đầy nhiệt tình yêu nước. Trong cuốn sách tác giả đã dự báo tương lai của Ấn Độ, ông nói: “Ấn Độ với địa vị mà nó có, không thể đóng vai trò thứ hai trên thế giới. Phải đóng vai trò một nước lớn có thanh có sắc, phải xuất đầu lộ diện.”
Sau chiến tranh thế giới thứ thứ hai, phong trào độc lập dân tộc phát triển mạnh mẽ. Nhân dân Ấn Độ dấy lên cao trào phản đối sự thống trị của thực dân Anh, cuối cùng nước Anh phải nhượng bộ. Ngày 15 tháng 8 năm 1947, Tổng đốc Anh trao lại chính quyền. Theo phương án “Ấn Độ, Pakistan phân trị” nước Anh tuyên bố trước đó, Ấn Độ thuộc Anh chia làm hai vùng tự trị, Liên bang Ấn Độ và Pakistan, lần lượt thiết lập chính phủ. Pakistan do Đông Pakistan và Tây Pakistan tổ thành.
Ấn Độ đã giành được độc lập. Ngày hôm ấy, quảng trường Hồng Bảo tại New Delhi cử hành lễ trọng thể có 20 vạn người tham gia. Sau khi tổng đốc cuối cùng của Anh tại Ấn Độ Louis Mountbatten hạ lá cờ Anh xuống, Nehru đã từ từ kéo quốc kỳ Ấn Độ lên. Ông tuyên bố: “sau khi trải qua ngủ yên và phấn đấu lâu dài, Ấn Độ đã đứng dậy!” “Chúng ta sẽ không bao giờ để cho ngọn lửa tự do bị tắt, cho dù gió to bao nhiêu, sóng cao bao nhiêu!”
Ấn Độ và Pakistan đã độc lập nhưng đồng thời với việc này giữa hai nước đã xuất hiện cuộc di dân lớn hiếm thấy trong lịch sử nhân loại, một loạt lớn tín đồ Ấn Độ giáo đi khỏi Pakistan, một loạt lớn tín đồ Hồi giáo trốn khỏi Ấn Độ. Điều vô cùng bất hạnh là, giữa hai dân tộc đã xuất hiện cuộc tàn sát thù địch lớn, 50 vạn người bị chết trong ngọn lửa, 12 triệu người không có nhà để về.
Ngày 30 tháng 1 năm 1948, lãnh tụ tinh thần của phong trào độc lập Án Độ, vị thầy của Nehru là Gandhi bị ám sát tại New Delhi, từ đó “thời đại Nehru” đã bước vào lịch sử Ấn Độ.
Năm 1947, Nehru giữ chức Thủ tướng Ấn Độ, lúc đó ¾ dân số Ấn Độ sống dưới mức nghèo khổ, tuổi thọ bình quân chỉ có 32 tuổi, 84% tổng dân số mù chữ. Tính theo thu nhập bình quân đầu người, Ấn Độ là một trong những quốc gia có thu nhập thấp nhất trên thế giới.
Nehru đã lựa chọn “con đường kiểu Ấn Độ” cho tổ quốc mình, trên thực tế là con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước: thông qua nhiều phương thức nhà nước can thiệp, cố gắng cải tạo Ấn Độ từ một xã hội cấy trồng nông nghiệp thành một nước lớn công nghiệp hóa, đồng thời với việc tăng gia sản xuất giảm bớt chênh lệch giầu nghèo trong nước.
Nehru kiêm chức Ngoại trưởng, ông thân tự chế định khuôn khổ ngoại giao. “Không liên kết” là tư tưởng ngoại giao quan trọng của Nehru.
Duy trì quan hệ hữu hảo với Trung Quốc là chính sách ngoại giao quan trọng thời kỳ mới cầm quyền của Nehru. Nehru có thái độ tôn trọng hiện thực đối với Trung Quốc mới. Nehru có tình giao tiếp lịch sử với vợ chồng Tưởng Giới Thạch. Vào đêm trước thành lập Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch thông qua đại sứ Ấn Độ tại Mỹ lúc đó là em gái lớn của Nehru tìm kiếm sự ủng hộ của Ấn Độ, không công nhận Trung Quốc. Nehru đã từ chối việc này. Ông nói: “Mặc dù tôi và Tưởng Giới Thạch có tình hữu nghị, nhưng với tư cách là thủ tướng, ngoại trưởng tôi không thể nhắm mắt không nhìn hiện thực.” Sau này ông còn nói: “trên thực tế một chính phủ có sức mạnh, ổn định và bền vững đã tồn tại trên đại lục Trung Quốc, công nhận Trung Quốc không phải là vấn đề ưa thích hay không ưa thích chính quyền mới đó.”2
Ngày 30 tháng 12 năm 1949, Ấn Độ công nhận Trung Quốc. Tháng 2 năm 1950, đại biểu đàm phán của chính phủ Ấn Độ đến Bắc Kinh cùng Trung Quốc đàm phán thiết lập quan hệ ngoại giao, Ấn Độ là quốc gia đầu tiên trên thế giới đàm phán thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc mới.
Ngày 1 tháng Tư năm 1950, Trung Quốc và Ấn Độ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Tháng 5, đại sứ Ấn Độ đầu tiên tại Trung Quốc đến nhận nhiệm vụ. Tháng 9 cùng năm, Viên Trung Hiền đại sứ Trung Quốc đầu tiên tại Ấn Độ đến nhận nhiệm vụ. Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Ấn Độ tích cực ủng hộ Trung Quốc khôi phục chiếc ghế của mình tại LHQ, bỏ phiếu phản đối đề án chống Trung Quốc của LHQ. Ngày 31 tháng 12 năm 1953, đoàn đại biểu chính phủ Ấn Độ tới Trung Quốc thương thảo vấn đề quan hệ hai nước tại địa phương Tây Tạng, ngay trong ngày Chu Ân Lai đã hội kiến họ, lần đầu tiên đề xuất năm nguyên tác chung sống hòa bình nổi tiếng. Đầu những năm 50 của thế kỷ XX, dường như gần như là thời kỳ “trăng mật” của hai nước Trung, Ấn, giữa hai nước Trung, Ấn cũng tồn tại một số mâu thuẫn, thể hiện đột xuất trên vấn đề biên giới hai nước và Tây Tạng. Tháng 10 năm 1950, quân giải phóng tiến vào Lhasa, thực hiện thống nhất bản đồ đại lục quốc gia. Chính phủ Ấn Độ tuyên bố, biểu thị lấy làm tiếc trước việc quân giải phóng vào Tây Tạng. Ngoài ra Nehru kiên trì “đường MacMahon” do nước Anh đơn phương vẽ, đồng thời đề xuất yêu cầu lãnh thổ đối với vùng Aksai Chin thuộc đoạn phía tây biên giới Trung, Ấn.
Chu Ân Lai khẳng định đầy đủ tác dụng tích cực trong chính trị quốc tế của Nehru, hy vọng hai nước lớn Trung, Ấn đoàn kết với nhau, phát huy tác dụng trọng đại trong cục diện thế giới. Rút kinh nghiệm quan hệ đặc biệt giữa Anh và Ấn Độ, Chu Ân Lai cho rằng, Nehru có ảnh hưởng tới Eden, ông hy vọng trong quá trình giải quyết vấn đề Đông Dương, Nehru có thể làm được cái gì đó.
Bây giờ Chu Ân Lai và Nehru đã gặp nhau, cuộc trò chuyện hoành tráng giữa hai vị thủ tướng vĩ đại vừa mới bắt đầu đã được thế giới để mắt tới.
9 giờ sáng ngày 25 tháng 6, Thủ tướng Chu Ân Lai vừa đặt chân xuống nhà khách là đã được đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ Viên Trọng Hiền, cùng với Kiều Quán Hoa, Vương Trác Như tháp tùng, đáp ô tô tới ngay nơi hỏa táng thánh Gandhi, người sáng lập phong trào độc lập Ấn Độ để viếng người thành lập nước Cộng hòa Ấn Độ.
Trước bậc thềm bia kỷ niệm, Chu Ân Lai tháo giầy, chân đi tất đen bước lên thềm trước bia đá kỷ niệm, cung kính đặt bốn vòng hoa, đứng im mặc niệm một phút, sau đó phát biểu bài nói ngắn. Ông chỉ ra, nhân dân Trung Quốc biểu thị ý tôn kính thánh Gandhi suốt đời đấu tranh vì độc lập dân tộc, cuộc đấu tranh đó đã có ảnh hưởng sâu sắc tới nền độc lập, và cũng có ảnh hưởng sâu sắc với nhân dân Trung Quốc.
Từ 3 giờ 30 tới 6 giờ 15 chiều, hai vị thủ tướng tiến hành hội đàm, sau cơm tối lại tiếp tục hội đàm.
Chu Ân Lai giới thiệu với Nehru tình hình hội nghị Genève, rồi trao đổi ý kiến về vấn đề hòa bình của Đông Nam Á và toàn bộ châu Á. Chu Ân Lai nói, thái độ của Mỹ là phản đối và cản trở bất kỳ hiệp nghị nào, còn chính sách của Trung Quốc với Đông Nam Á là chung sống hòa bình. Trước mặt Nehru, Chu Ân Lai đề xuất rõ, trong đàm phán hai bên xác định nguyên tắc của “hiệp định về thông thương và giao thông giữa địa phương Tây Tạng Trung Quốc với Ấn Độ”, tức nguyên tắc chung sống hòa bình, có thể ứng dụng cho mọi nước châu Á, là rất có lợi.
Về cơ bản Nehru đồng ý với những phán đoán của Chu Ân Lai về tình hình hội nghị Genève. Ông nhờ Chu Ân Lai chuyển tới Hồ Chí Minh, trong thời gian hội nghị Genève, giữ được kiềm chế không phát động tấn công đồng bằng sông Hồng. Thì ra, ngày 19 tháng 6, khi từ biệt, Eden đã đề xuất với Chu Ân Lai yêu cầu này. Ông ta biết Chu Ân Lai sẽ tới thăm Ấn Độ, vì thế khi vừa về tới London đã chuyển thư miệng cho Nehru, muốn Nehru cũng làm như thế, khuyên Việt Nam không nên phát động tấn công.
Nehru đồng ý năm nguyên tắc chung sống hòa bình do Chu Ân Lai đề xuất. Ông còn biểu thị, trong Phật giáo cổ có từ ngữ “fan cha xi la” là hiện thành của “năm nguyên tắc”. Trong kinh điển Phật giáo Ấn Độ có “ngũ giới” kiềm chế hành vi cá nhân, tức không sát sinh, không lừa dối, không trộm cắp, không gian dâm, răn tà. Nehru đã giải thích các điều này, nói, đó là do A Dục vương [Aśoka] người cai trị vương triều Khổng Tước [Maurya, nghĩa là "con công"] cách đây hai ngàn năm đề ra trước tiên, năm giới được khắc trên tảng đá. Tiếng Phạn gọi ngũ giới là “fan cha xi la”, người Ấn Độ đọc theo âm tiếng Phạn thì có thể gọi “năm nguyên tắc” là “fan cha xi la”. Như vậy càng hình tượng, càng có thể khiến nhân dân Ấn Độ hiểu được.
Thấy Nehru lý giải như vậy, Chu Ân Lai cảm thấy phấn khởi, ông đòng ý đề nghị của Nehru công bố thông cáo chung giữa chính phủ hai nước khi kết thúc chuyến thăm, và đề nghị Nehru thảo bản thông cáo đó. Chu Ân Lai giao dự thảo thông cáo mà phía Trung Quốc đã thảo từ trước, đề nghị phía Ấn Độ tham khảo khi dự thảo thông cáo.
Từ 8 giờ đến 10 giờ sáng ngày 26 tháng 6, Chu Ân Lai tham quan New Delhi, mấy vạn người đứng bên đường hoan nghênh, hoa tươi bay đầy trời.
Ngày hôm đó thủ tướng hai nước Trung, Ấn tiến hành hội đàm lần thứ ba lần thứ tư. Trao đổi ý kiến về quan hệ hai nước và vấn đề kiều dân.
Chu Ân Lai nói, về quan hệ hai nước Trung Ấn, tôi hoàn toàn đồng ý những điều Thủ tướng Nehru đã nói, nên xây dựng sự tin cậy lẫn nhau. Chế độ chính trị hai nước Trung, Ấn không hoàn toàn giống nhau. Thế nhưng chúng ta đều được giải phóng từ sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc,văn hóa phương đông của hai nước chúng ta lại có đặc điểm chung. Vì thế, trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng chủ quyền lãnh thổ lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hòa bình, hai nước Trung, Ấn không chỉ tự mình xây dựng lòng tin, hơn nữa còn có thể xây dựng lòng tin lẫn nhau. Như vậy sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với các nước châu Á, khiến họ tin tưởng là có khả năng chung sống hòa bình, là có thể từng bước thực hiện. Chúng ta phải cố gắng xóa bỏ nỗi hoảng sợ không hề có căn cứ của các nước châu Á.
Chu Ân Lai nói với Nehru, không thể xuất khẩu cách mạng, nếu nhân dân tán thành một loại chế độ thì có phản đối cũng vô hiệu. Nếu nhân dân không tán thành một loại chế độ, có miễn cưỡng áp đặt cũng nhất định thất bại. Chúng ta nên lấy nguyên tắc cùng tin của chúng ta thiết lập một điển hình trên thế giới., chứng minh các nước có thể chung sống hòa bình. Vì vậy trong thông cáo của hai thủ tướng Trung, Ấn chúng ta có thể đề cập tới năm nguyên tắc một chút, bởi vì đó là điều chúng ta nhấn mạnh, thường xuyên đề cập đến có cái hay, có thể thuyết minh, những nguyên tắc này không chỉ thích dụng ở châu Á hơn nữa còn ở toàn thế giới.
Nehru đồng ý quan điểm của Chu Ân Lai, nói, nếu như những nguyên tắc này có thể được công nhận trong phạm vi rộng rãi, thì có thể làm mất đi nỗi sợ hãi chiến tranh, và tinh thần hợp tác có thể phát triển. Ông đồng ý trong tuyên bố chung bao gồm cả năm nguyên tắc.
Cùng ngày, đoàn đại biểu Trung Quốc tại New New Delhi tuyên bố: Chu Ân Lai sẽ thăm Miến Điện.
Buổi chiều, sau khi thủ tướng hai nước Trung, Ấn tiến hành cuộc hội đàm lần thứ tư, vào chập tối, Chu Ân Lai hội kiến trên 90 Hoa kiều tại đại sứ quán Trung Quốc.
8 giờ 30 tối, Nehru cử hành tiệc chào mừng to lớn tại Phủ thủ tướng. Với nhiệt tình dào dạt ông đã phát biểu một bài nói quan trọng tràn đầy chất văn, nói rõ lòng tin của Nehru lúc đó đối với năm nguyên tắc:
Năm nguyên tắc chung sống hòa bình thích hợp với mọi quốc gia
15 năm trước, tôi đã tới Trung Quốc với hy vọng dừng ở đó thời gian một tháng hoặc lâu hơn một chút. Tôi đặc biệt hy vọng hội kiến một số người, trong đó có ngài Chu Ân Lai. Thế nhưng không lâu sau, tại châu Ân đã phát sinh một cuộc chiến tranh mà sau này phát triển thành chiến tranh thế giới thứ thứ hai, nên tôi không thể không vội vàng trở về đất nước mình. Điều đáng tiếc là, lần đó tôi không có cơ hội hội kiến ngài Chu Ân Lai. Giờ đây sau khi đã trải qua 15 năm động loạn không yên, căng thẳng, nhiều biến đổi, nguyện vọng ban đầu của tôi đã được thực hiện. Tôi rất phấn khởi được gặp một nhà chính trị kiệt xuất của nước láng giềng chúng ta, tôi càng phấn khởi hơn vì được hội kiến vị đại biểu trác việt của một dân tộc vĩ đại.
Chúng tôi gặp nhau với thân phận cá nhân, đồng thời cũng gặp nhau với thân phận đại biểu cho hai quốc gia vĩ đại có quá khứ huy hoàng và tiền đồ vĩ đại là Ấn Độ và Trung Quốc. Hai quốc gia này sống chung với nhau như thế nào, họ có thể hợp tác với nhau ở mức độ nào vì hòa bình và hạnh phúc của thế giới là vấn đề có ý nghĩa trọng đại và rất đáng chú ý, không chỉ đối với hai nước chúng ta mà hơn nữa đối với châu Á, thậm chí đối với toàn thế giới cũng như vậy.
2.000 năm quá khứ là kiến chứng cho những quan hệ giữa chúng ta. Trong những năm tháng dài dằng dặc đó, chúng ta luôn luôn là láng giềng, chúng ta luôn luôn trao đổi tư tưởng và văn hóa và là quốc gia quan trọng trong tiến hành giao lưu với các nước láng giềng. Tại nhiều nơi, đặc biệt là tại Đông Nam Á, nhân dân chúng ta đã thiết lập những tiếp xúc, trong lịch sử chưa hề có ghi chép giữa hai nước đã phát sinh chiến tranh. Cái để lại là, những ghi chép về giao lưu tư tưởng, tôn giáo, nghệ thuật và văn hóa trong thời gian dài giữa hai nước
Trung Quốc và Ấn Độ đều có bối cảnh lịch sử đặc biệt của mình, đều có truyền thống văn hóa đặc biệt của mình. Về nhiều phương diện, họ không giống nhau, đều trưởng thành theo những đặc trưng của mình. Thế nhưng, dù có những bất đồng đó, chúng ta luôn luôn là láng giềng hòa thuận, là bạn bè của nhau.Trong quá trình lịch sử mấy ngàn năm, giữa chúng ta với nhau chưa hề phát sinh xung đột.
Những cái đó là kiến chứng lịch sử, còn hiện nay, do chúng ta đang ở trong cái thế giới động loạn không yên này, chúng ta có thể từ những bài học thu được trong quá khứ trợ giúp cho hiện tại và tương lai của chúng ta, cách đây không lâu hai nước chúng ta đã có cơ hội giành được tự do và sắp xếp số phận theo ý chí của mình. Từ những tình hình khác nhau, chúng ta đã dùng phương pháp khác nhau giành được tự do. Lãnh tụ và người thày vĩ đại của chúng tôi, Gandhi đã dùng phương thức hòa bình lãnh đạo chúng tôi thông qua nhiều khó khăn gian khổ để được tự do.
Trung Quốc đi một con đường khác. Hai nước chúng ta đều vì nhân dân mưu cầu phúc lợi, hơn nữa muốn thông qua con đường không giống nhau để nâng cao đời sống của ngàn vạn nhân dân trước đây đã chịu nhiều đau khổ còn bây giờ đang kỳ vọng vào một tương lai tốt đẹp. Tiền đồ của chúng ta hoặc các quốc gia khác trên thế giới quyết định chủ yếu bởi việc tránh được chiến tranh, bảo đảm hòa bình và an ninh.
Vì thế, vấn đề trọng đại mà hòa bình hiện nay đang đối mặt là làm thế nào xua tan bóng đen chiến tranh, hoảng sợ và hận thù đang đè nặng lên nhiều quốc gia và nhân dân.
Thưa ngài, gần đây ngài và các nhà chính trị trác việt khác đang cùng nhau giải quyết một số vấn đề trọng đại của chiến tranh và hòa bình. Chúng tôi rất phấn khởi biết được, những cố gắng của ngài và những cố gắng của các nhà chính trị khác đã thu được thành công nhất định. Chúng tôi chúc mừng ngài và các nhân sĩ đã tham gia hội nghị Genève làm xoay chuyển đáng mừng cục diện đó. Chúng tôi thành khẩn hy vọng, điều đó sẽ dẫn tới việc sớm kết thúc chiến tranh Đông Dương, tiếp đó cầu mong có được một loại giải quyết đủ để bảo đảm hòa bình và tự do cho các nước Đông Dương.
Nếu như chúng ta có thể xóa bỏ được nỗi hoảng sợ nặng nề của nhân dân đối với chiến tranh và xâm lược, bảo đảm cho mỗi quốc gia đều có thể tự do theo nguyện vọng của mình , trong tình hình không bị sự can thiệp của nước khác sắp xếp số phận của chính mình thế thì chúng ta càng phục vụ thế hệ này của chúng ta tốt hơn, hơn nữa còn đặt cơ sở cho hòa bình bền vững trên thế giới.
Toàn thế giới đều cần thiết hòa bình. Ngày nay hòa bình là không thể tách rời. Thế nhưng hòa bình ở châu Á so với bất kỳ nơi nào trên thế giới còn quan trọng hơn, càng không thể thiếu được bởi vì chúng ta cần phải xây dựng đất nước mình, chúng ta cần dùng toàn bộ tinh lực vào việc xây dựng chứ không phải là phá hoại.
Trên thế giới tồn tại chia rẽ và bất đồng. Thế nhưng cũng có một loại cảm giác thống nhất và cảm giác chỉnh thể ngày một tăng trưởng. Tôi tin tuởng một cách thành khẩn rằng, tư tưởng của chúng ta sẽ hiến dâng cho cảm giác chỉnh thể ngày càng tăng trưởng ấy, hiến dâng cho sự theo đuổi và thực hiện lý tưởng chỉnh thể mà ngày nay nhân loại đang hoài bão, chứ không nghiêng về chia rẽ và bất đồng.
Gần đây Ấn Độ và Trung Quốc đã ký hiệp nghị về một số sự việc nào đó, trong quá trình ký kết những hiệp định này, chúng ta đã định ra một số nguyên tắc nào đó, những nguyên tắc đó nên là quy phạm cho quan hệ hai nước chúng ta. Những nguyên tắc đó là công nhận chủ quyền và hoàn chỉnh lãnh thổ, không xâm phạm nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống hòa bình. Những nguyên tắc này không chỉ thích dụng với hai nước chúng ta mà cũng thích dụng với các nước khác. Đối với các nước khác mà nói, những nguyên tắc ấy rất có thể là một tấm gương. Giả sử những nguyên tắc ấy được công nhận trong phạm vi rộng rãi hơn, thế thì, sự hoảng sợ chiến tranh sẽ tan mất, tinh thần hợp tác quốc tế sẽ được phát huy, mỗi một quốc gia đều được tự do thi hành chính sách của mình, sắp xếp số phận của mình, học tập người khác và hợp tác với người khác, nhưng về cơ bản là căn cứ vào tài trí của mình.Khoa học hiện đại khiến chúng ta có cơ hội xóa bỏ trên thế giới những hiểm hại trước đây gây ra tai họa cho thế giới. Điều không may là, loại khoa học đó dùng cho phá hoại thì nhiều mà dùng cho xây dựng thì ít. Giả như ngày nay chúng ta nắm chắc, khiến nó phát triển theo phương hướng hòa bình và cố gắng hợp tác, làm cho khoa học phục vụ hạnh phúc của loài người chứ không thành tai họa. Thế thì, chúng tất có thể làm cho lòng người thoát li khỏi hoảng sợ và hận thù, mà hướng về hiểu nhau, hợp tác. Như vậy chúng ta sẽ có thể xây dựng một không khí hòa bình và thay đổi bộ mặt trái đất.
Số phận đang vẫy gọi hai nước chúng ta, tôi hy vọng hai nước chúng ta vào giờ phút vĩ đại của lịch sử này đều không phải xấu hổ.
Tôi thành khẩn hy vọng: thưa ngài ,những cố gắng của ngài và những cố gắng của các nhà chính trị trác việt khác tham gia hội nghị Genève sẽ thu được thành công. Cũng hy vọng hai nước có thể bảo vệ hòa bình, hơn nữa còn vì hòa bình và tiến bộ của loài người mà chung sống hòa mục và hợp tác chung, đúng như chúng đã làm trong 2.000 năm lịch sử đã qua.
Nehru vừa dứt lời, cả hội trường vang rền tiếng vỗ tay. Bài diễn thuyết đó đã trở thành tác phẩm đại biểu bất hủ của Nehru.. Nó được tán thưởng lâu dài trong nhân dân Ấn Độ, đến mức nhiều người dân Ấn Dộ cho rằng năm nguyên tắc chung sống hòa bình là do Nehru đề ra trước. Còn Chu Ân Lai cũng có ý khiến người ta cảm thấy thủ tướng Trung, Ấn cùng đề ra năm nguyên tắc, điều này càng làm cho năm nguyên tắc có sức hiệu triệu lớn mạnh hơn ở châu Á và trên thế giới.
Chu Ân Lai đã phát biểu một bài diễn thuyết ngắn. Ông nói:
Trung Quốc và Ấn Độ, hai ngàn năm nay luôn luôn có tình hữu nghị truyền thống. Mấy năm gần đây, trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền của nhau nước Cộng hòa Ấn Độ và nước CHND Trung Hoa đã thiết lập quan hệ ngoại giao khiến tình hữu nghị đã tồn tại giữa hai nước có sự phát triển mới.
Chính phủ và nhân dân Trung Quốc vô cùng coi trọng tình hữu nghị với chính phủ và nhân dân Ấn Độ. Quan hệ giữa hai nước chúng ta hiện nay đang ngày được tăng cường, liên hệ văn hóa và kinh tế ngày càng phát triển, nhất là tháng Tư năm nay, hai nước Trung Ấn đạt được hiệp định về thông thương giữa địa phương Tây Tạng Trung Quốc và Ấn Độ và hiệp định giao thông, không chỉ tăng cường thêm tình hữu nghị Trung Ấn mà còn thể hiện nguyên tắc hai nước tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hòa bình. Việc làm này đã cung cấp một điển hình tốt đẹp trong việc dùng phương thức hiệp thương để giải quyết vấn đề trên quốc tế.
Hai nước Trung Ấn đều là nước yêu chuộng hòa bình, Trung Quốc rất phấn khởi vì có nước láng giềng ra sức vì hòa bình như Ấn Độ. Ấn độ đã có cống hiến có giá trị trong cố gắng tranh thủ đình chiến ở Triều Tiên. Đối với việc tranh thủ chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương, Ấn Độ luôn thể hiện sự quan tâm chú ý, và không mệt mỏi cố gắng để ủng hộ hội nghị Genève về việc khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Rất rõ ràng lập trường đó của Án Độ là có ý nghĩa trọng đại đối với việc bảo vệ hòa bình ở châu Á.
6 giờ sáng ngày 27 tháng 6, đoàn Chu Ân Lai đáp máy bay đến Agra tiến hành tham quan dạo chơi, thăm lăng Taj Mahal nổi tiếng. Lăng này được xây dựng bằng những phiến đá Đại lý khổng lồ, hình tròn ưu mỹ trên đỉnh lăng đã nổi tiếng trên thế giới. Chu Ân Lai đứng trên bậc thềm của lăng mộ, theo nghi lễ Ấn Độ chắp hai bàn tay cám ơn tình hữu nghị nồng hậu sâu sắc của nhân dân Ấn Độ. Sau đó dưới sự hướng dẫn của nhân viên tháp tùng ông đã tới tham quan lăng mộ hoàng hậu [Mumtaz] Mahal và tiếp nhận mô hình cỡ nhỏ phỏng tạo hình dạng bên ngoài vật kiến trúc này làm bằng đá Đại Lý.
Ngày hôm đó, phía Ấn Độ đề xuất mời Chu Ân Lai tới thăm Kashmir. Nhân viên tiếp đón Ấn Độ nói, đó là nơi Nehru được sinh ra, phong cảnh rất đẹp, khí hậu trong lành. Thì ra Kashmir vốn là nước “Già Hiển Mật La” được đề cập tới trong cuốn sách cổ “Đại Đường Tây vực ký” của Trung Quốc, vào thời Đường Trung Quốc đã thịnh hành Phật giáo.
Kashmir giáp Ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc. Do diễn biến của lịch sử, từ cận đại đến nay, vương công của Kashmir vẫn là quí tộc Balamon của Ấn Độ, nhưng thần dân mà ông ta cai trị phần lớn đều theo đạo Hồi. Khi Ấn Độ và Pakistan phân trị, vương công Kashmir không chịu vứt bỏ địa vị đặc biệt của mình, nhân đó Ấn Độ đã cử quân đội chiếm một phần lãnh thổ, còn Pakistan thì cho rằng, theo “phương án MacMahon”, Ấn Độ, Pakistan đã phân trị, thì Kashmir nên thuộc về Pakistan. Ấn Độ tiến quân vào Kashmir khiến Pakistan phản ứng dữ dội, và cũng tiến quân chiếm phần lãnh thổ Kashmir giáp với mình. Thế là Kashmir bị chia làm hai, và từ đó trở thành tiêu điểm tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan.
Chu Ân Lai hiểu bối cảnh này. Tháng 8 năm 1953, đại sứ Pakistan tại Trung Quốc đã nhiều lần gặp Chu Ân Lai, trình bầy vấn đề Kashmir. Chu Ân Lai chỉ ra, hai bên tranh chấp Ấn Độ, Pakistan nên thông qua hiệp thương hòa bình để giải quyết thỏa đáng. Nếu sử dụng vũ lực sẽ chỉ có lợi cho Anh, Mỹ không có lợi cho nhân dân Pakistan, Ấn Độ.
Trong chuyến thăm Ấn Độ lần này, khi hội đàm cùng ông, Nehru không thảo luận riêng về vấn đề Kashmir, chỉ khi nói đến quan hệ Ấn Độ, Pakistan mới đề cập tới việc này. Chu Ân Lai nói cho Nehru biết, ông đã nói chuyện với đại sứ Pakistan ở Bắc Kinh về vấn đề Kashmir, quan điểm cơ bản của chính phủ Trung Quốc không thay đổi.
Trước việc phía Ấn Độ có ý mời Chu Ân Lai thăm Kashmir, Viên Trọng Hiền đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ đã kiến nghị Chu Ân Lai từ chối lời mời đó, Chu Ân Lai đã đồng ý ngay. Thân Kiện, tham tán đại sứ quán Trung Quốc tại Ấn Độ do đó đã thuyết minh với phía Ấn Độ, chuyến thăm Ấn Độ của thủ tướng Chu Ân Lai lần này thời gian ngắn, khó có thể tới thăm các vùng biên giới xa xôi, ngoài vùng Agra ra.
12 giờ trưa, Chu Ân Lai bay về New New Delhi. Từ 3 giờ đến 5 giờ 30 chiều, Chu Ân Lai và Nehru tiến hành cuộc hội đàm lần thứ năm. Trong hội đàm, Chu Ân Lai nói, để thúc đẩy hòa bình tập thể ở châu Á, trước tiên là Đông Nam Á, bước đi đầu tiên là khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hai thủ tướng Trung, Ấn còn trao đổi ý kiến về tình hình trù bị hội nghị Á, Phi.
Sau hội đàm, Chu Ân Lai tiến hành họp báo. Ông mời các phóng viên tùy ý uống các loại nước quả, nói, trong thời gian tại hội nghị Genève tôi chưa hề họp báo, nhưng hôm nay tôi vui lòng trả lời các câu hỏi của các phóng viên. Do quan hệ về thời gian nên ông dùng hình thức trả lời bằng văn bản. Trả lời câu hỏi của phóng viên ông nói: “phản đối chiến tranh, bảo vệ hòa bình là biện pháp chủ yếu để làm dịu tình hình căng thẳng quốc tế. Đình chiến ở Triều Tiên đã làm cho tình hình quốc tế hòa dịu một bước, nếu như có thể chấm dứt được chiến tranh Đông Dương, có thể khôi phục hòa bình Đông Dương, thì cục diện căng thẳng thế giới sẽ hòa dịu hơn nữa.”
Nhằm thẳng vào vấn đề “quốc gia có lớn, nhỏ làm thế nào mới có thể chung sống hòa bình” ông đã trả lời: “chúng tôi cho rằng, căn cứ vào năm nguyên tắc quy định trong lời nói đầu của Trung Quốc và Ấn Độ về vấn đề Tây Tạng gần đây, các nước trên thế giới, không phân biệt lớn nhỏ, mạnh, yếu bất kể chế độ xã hội như thế nào, đều có thể chung sống hòa bình, độc lập dân tộc và chủ quyền tự chủ của nhân dân các nước đều phải được tôn trọng. Nhân dân các nước đều có quyền lợi được lựa chọn chế độ quốc gia và phương thức sinh hoạt của mình, không chịu sự can thiệp của các nước khác.. Không thể xuất khẩu cách mạng. Đồng thời cũng không cho phép nước ngoài can thiệp vào việc nhân dân trong một quốc gia thể hiện ý chí chung. Nếu các nước trên thế giới đều căn cứ vào những nguyên tắc này để xử lý quan hệ giữa họ với nhau, thì không thể phát sinh tình trạng một quốc gia này đe dọa và xâm lược một quốc gia khác, khả năng chung sống hòa bình của các nước trên thế giới sẽ biến thành hiện thực.”
6 giờ 45 phút tối hôm đó, Nehru đã đến Phủ Thủ tướng đón Chu Ân Lai tới điện lớn “Hồng Bảo” trong cố cung Ấn Độ dự lễ hoan nghênh lớn của các giới nhân sĩ New Delhi cử hành trên thảm cỏ trước điện, hai người cùng ngồi chung xe đến New Delhi. Bốn chung quanh thảm cỏ lớn trước Viện Cơ Mật Hồng Bảo đèn màu sáng choang, quốc kỳ hai nước được kéo lên, thủ tướng hai nước lại một lần nữa phát biểu những lời nói tràn đầy nhiệt tình.
Sau khi mọi người ra về, Chu Ân Lai và Nehru hội đàm lần thứ sáu đến tận sáng sớm ngày 28 tháng 6, cuối cùng đã sửa chữa xong văn bản bản tuyên bố chung cuối cùng. “Tuyên bố chung của Thủ tướng hai nước Trung, Ấn” được công bố ngày 28 tháng 6, đó là văn kiện lịch sử quan trọng về vấn đề quan hệ hai nước, ngôn ngữ của bản tuyên bố mang đậm đặc điểm thời đại:
Tuyên bố chung của Thủ tướng hai nước Trung, Ấn
Ngài Chu Ân Lai, thủ tướng kiêm ngoại trưởng nước CHND Trung Hoa, theo lời mời của ngài Javaharlal Nehru thủ tướng kiêm ngoại trưởng nước Cộng hòa Ấn Độ đã tới New Delhi, ông đã dừng tại đây ba ngày. Trong thời gian đó, thủ tướng hai nước đã thảo luận nhiều sự việc có liên quan chung tới Trung Quốc và Ấn Độ. Họ đã đặc biệt thảo luận về tiền đồ hòa bình của Đông Nam Á và những phát triển đã có trong hội nghị Genève về Đông Dương. Tình hình của Đông Dương là quan trọng đối với hòa bình châu Á và thế giới, thủ tướng hai nứoc kỳ vọng những cố gắng đang có tại Genève nên thành công. Họ vui lòng chú ý tới việc đàm phán về ngừng bắn ở Genève đã thu được một số tiến triển. Họ nhiệt tình hy vọng những cố gắng đó trong tương lai gần sẽ có thể thành công và sẽ dẫn tới giải quyết chính trị cho các vấn đề của khu vực này.
Mục đích hội đàm của hai vị thủ tướng là dùng các phương pháp có thể được, trợ giúp cho những cố gắng đang tiến hành nhằm giải quyết hòa bình ở Đông Dương và các nơi khác. Mục đích chủ yếu của họ là hiểu rõ ràng hơn những quan điểm của nhau để tiện cho việc hợp tác với nhau đồng thời hợp tác với các nước khác nh ằm trợ giúp bảo vệ hòa bình.
Gần đây Trung Quốc và Ấn Độ đã đạt được một hiệp nghị. Trong hiệp nghị này họ đã qui định một số nguyên tắc quan hệ giữa hai nước. Những nguyên tắc này là:
Tôn trọng chủ quyền lãnh thổ lẫn nhau,
Không xâm phạm lẫn nhau,
Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
Bình đẳng cùng có lợi,
Chung sống hòa bình.
Thủ tướng hai nước nhấn mạnh những nguyên tắc này, hơn nữa cảm thấy trong quan hệ giữa họ và châu Á cũng như các nước khác trên thế giới cũng nên thích dụng những nguyên tắc này. Nếu như những nguyên tắc này không chỉ thích dụng giữa các nước mà còn thích dụng trong quan hệ quốc tế nói chung thì chúng sẽ hình thành cơ sở vững chắc cho hòa bình và an ninh, và những nỗi hoảng sợ và nghi ngờ đang tồn tại hiện nay sẽ được cảm giác tín nhiệm thay thế.
Thủ tướng hai nước thừa nhận ở các nơi tại châu Á và trên thế giới đang tồn tại chế độ xã hội và chế độ chính trị khác nhau. Tuy nhiên, nếu tiếp nhận các nguyên tắc nói trên rồi làm việc theo các nguyên tắc đó, bất kể nước nào đều không can thiệp vào nước khác, những khác biệt đó không nên trở thành chướng ngại của hòa bình hoặc tạo thành xung đột. Chủ quyền lãnh thổ và không xâm phạm lẫn nhau của mỗi một nước trong các nước có liên quan được bảo đảm thì các quốc gia này có thể chung sống hòa bình và hữu hảo với nhau. Điều đó sẽ có thể làm dịu cục diện căng thẳng hiện nay đang tồn tại trên thế giới đồng thời có ích cho việc tạo ra không khí hòa bình.
Thủ tướng hai nước đặc biệt hy vọng, những nguyên tắc này thích dụng trong giải quyết vấn đề Đông Dương. Giải quyết chính trị Đông Dương nên lấy việc tạo ra tự do, dân chủ, thống nhất và độc lập cho các nước làm mục đích. Những nước này không nên bị lợi dụng vào mục đích xâm lược và cũng không nên chịu sự can thiệp của bên ngoài. Điều này sẽ làm tăng trưởng lòng tự tin của những nước đó, đồng thời dẫn đến quan hệ hữu hảo giữa các nước này với nhau và với các nước láng giềng khác. Tiếp nhận những nguyên tắc nói trên sẽ có lợi cho việc tạo ra một khu vực hòa bình. Nếu tình hình cho phép, khu vực đó có thể mở rộng, từ đó giảm nhỏ khả năng chiến tranh đồng thời tăng cường sự nghiệp hòa bình của thế giới.
Thủ tướng hai nước biểu thị lòng tin vào tình hữu nghị giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Tình hữu nghị này sẽ có ích cho sự nghiệp hòa bình thế giới, đồng thời cũng có lợi cho sự phát triển hòa bình giữa nước họ với châu Á và các nước khác.
Mục đích của các cuộc hội đàm này giúp cho sự hiểu biết vấn đề châu Á càng lớn hơn đồng thời thúc đẩy những cố gắng cho hòa bình và hợp tác, cùng phối hợp với các quốc gia khác trên thế giới cùng mục đích nhằm giải quyết những vấn đề này và vấn đề tương tự.
Thủ tướng hai nước đồng ý, hai nước Trung, Ấn nên duy trì tiếp xúc chặt chẽ nhằm thuận tiện cho việc hai nước tiếp tục duy trì được sự hiểu biết đầy đủ. Họ rất phấn khởi có được cơ hội gặp gỡ và trao đổi ý kiến đầy đủ lần này, khiến hai nước có sự hiểu biết và hợp tác càng rõ rệt hơn trong sự nghiệp hòa bình.
New Delhi ngày 28 tháng 6 năm 1954.
7 giờ 15 sáng ngày 28 tháng 6 Chu Ân Lai rời New New Delhi đi Miến Điện. Nehru ra sân bay tiễn. Trước khi lên máy bay Chu Ân Lai nói, hội đàm của Thủ tướng hai nước Trung, Ấn được tiến hành trên tinh thần thông cảm và hợp tác lẫn nhau, vì thế đã thu được thành tích có thể khẳng định, hơn nữa còn có ích cho việc củng cố hòa bình châu Á và thế giới. Ông đặc biệt ca ngợi tác dụng tích cực to lớn mà Nehru phát huy trong đàm phán.
Thực ra trong hội đàm Thủ tướng hai nước cũng có không ít chỗ chưa đạt được nhất trí, chủ yếu là vấn đề biên giới Trung, Ấn. Chu Ân Lai chỉ ra, “đường MacMahon” không chỉ có trên biên giới Trung, Ấn mà biên giới Trung, Miến cũng có, đó là do bọn thực dân Anh tạo thành, họ dùng bút chì vẽ từ Hymalaya đi, giống như phân chia châu Phi. Chính phủ Trung Quốc không công nhận đường này. Thế nhưng trước mắt duy trì hiện trạng, cả hai bên đều không được vượt qua đường này.
Nehru có cách nhìn của mình, nhưng ông đồng ý sau này sẽ thương thảo thêm. Ông còn tiếp nhận lời mời của Chu Ân Lai sẽ tới thăm Trung Qúc lần nữa vào thời gian thích hợp. Vì thế tại sân bay khi có phóng viên hỏi Nehru liệu có dự tính đi thăm Trung Quốc nữa hay không? Nehru đã nói, tất nhiên ông hy vọng đi Trung Quốc. “Tôi sẽ bói một quẻ, chọn một ngày lành tháng tốt đi Trung Quốc.”
1 giờ 45 phút chiều hôm đó, Chu Ân Lai đến thủ đô Rangoon, Miến Điện. Thủ tướng Miến Điện, Unu và nhân sĩ các giới hơn 5.000 người ra sân bay hoan nghênh.
Sau đó Chu Ân Lai đến nghỉ tại Phủ thủ tướng. Giống như trong thời gian thăm Ấn Độ, Chu Ân Lai vừa tạm ổn là đã lên ô tô tới đặt vòng hoa viếng mộ Aung San, anh hùng dân tộc Miến Điện. Sau đó tới thăm thánh địa Phật giáo Miến Điện là Tháp vàng lớn.
Tại Rangoon, Chu Ân Lai và Unu tiến hành hai lần hội đàm, giới thiệu tình hình hội nghị Genève, rồi trao đổi ý kiến về quan hệ Trung, Miến. Trong hội đàm Chu Ân Lai phát hiện Unu tràn đầy nghi ngờ Trung Quốc mới, cử chỉ cẩn thận dè dặt.
Chu Ân Lai hiểu được điều đó, nên rất khiêm tốn thận trọng, dùng thái độ bình đẳng nói chuyện với Unu.
Trong hội đàm, Unu nói với Chu Ân Lai: “dân số Miến Điện chỉ bằng tỉnh Vân Nam Trung Quốc, không thể so sánh với toàn quốc Trung Quốc được. Chính phủ Miến Điện luôn luôn có sự nghi ngờ Trung Quốc, đặc biệt là trên vấn đề lãnh thổ lại càng như vậy. Hơn nữa mối lo trong ruột chúng tôi là ĐCS Miến Điện, ĐCS Trung Quốc giúp đỡ ĐCS Miến Điện, chúng tôi không có biện pháp. Tôi nói một số lời nào đó chỉ là để chôn vùi oán thán, để hữu hảo.”
Để xóa bỏ nỗi ngờ vực của Unu, trước tiên Chu Ân Lai cám ơn Miến Điện đã ủng hộ việc khôi phục chiếc ghế hợp pháp của Trung Quốc tại LHQ, ca ngợi Miến Điện từ chối viện trợ của Mỹ, phản đối Mỹ xây dựng căn cứ quân sự tại Miến Điện. Ông giới thiệu tình hình hội nghị Genève, lại cùng Unu trao đổi cách nhìn về quan hệ Trung, Miến. Nhằm thẳng vào sự ngờ vực của Unu, Chu Ân Lai nói: theo ý kiến của ĐCS Trung Quốc, không thể xuất khẩu cách mạng, xuất khẩu tất thất bại. ĐCS các nước phải dựa vào lực lượng của chính mình mới có thể thành công.
Trong cuộc hội đàm giữa hai Thủ tướng tiến hành ngày 29 tháng 6, Chu Ân Lai đề xuất, Trung Quốc vui lòng cùng Miến Điện ký một hiệp định, khiến hai nước chung sống hòa bình, tăng tiến quan hệ hữu hảo. Trước khi ký kết hai nước có thể phát biểu tuyên bố chung trước.
Nhằm thẳng vào vấn đề biên giới Trung, Miến và vấn đề quốc tịch của Hoa kiều, Chu Ân Lai nói với Unu đó đều là vấn đề do lịch sử để lại, những vấn đề chính phủ Quốc Dân đảng chưa thể giải quyết. Về vấn đề biên giới có thể lưu lại giải quyết sau. Hiện nay, Trung Quốc đang cùng Indonesia thương thảo giải quyết vấn đề hai quốc tịch của Hoa kiều. Sau khi bàn bạc thỏa đáng rồi, sẽ lấy qui định giống như thế để giải quyết vấn đề này với các nước khác bao gồm cả Miến Điện.
Chu Ân Lai bảo đảm, Trung Quốc thi hành chính sách mgoại giao hòa bình. Nguyên tắc lập quốc căn bản của chúng tôi là làm tốt nước mình, chúng tôi không hề có dã tâm lãnh thổ. Đồng thời chúng tôi hy vọng các nước xung quanh cường thịnh lên, và chung sống hòa bình với họ, bởi vì như vậy có lợi cho hòa bình châu Á và thế giới. Chúng tôi không muốn thấy láng giềng của chúng tôi để cho những kẻ can thiệp nước ngoài đến xây dựng căn cứ quân sự. Miến Điện, Ấn Độ, Indonesia đều không tán thành Mỹ tổ chức tập đoàn xâm lược ở Đông Nam Á, phản đối thiết lập căn cứ quân sự, điều này chứng minh chúng ta có cơ sở hợp tác hữu hảo. Sau khi đã trải qua nhiều năm tiếp xúc, tin rằng Miến Điện sẽ hiểu là, mặc dù Trung Quốc lớn, đông dân nhưng dễ dàng chung sống.
Sự chân thành của Chu Ân Lai đã làm Unu cảm động, ông đồng ý ý kiến của Chu Ân Lai, chủ động đề xuất đưa năm nguyên tắc vào trong tuyên bố chung Trung, Miến.
8 giờ 30 tối ngày 29 tháng 6, Chu Ân Lai kết thúc chuyến thăm Miến Điện đáp máy bay về nước. Tại sân bay ông đã phát biểu một tuyên bố ngắn, biểu thị cám ơn sự tiếp đãi thịnh tình của người lãnh đạo chính phủ Miến Điện, ông nói: “hội đàm Trung, Miến hai ngày qua là có thành tựu, tuên bố chung của thủ tướng hai nước Trung, Miến sắp công bố là thể hiện cụ thể của thành tựu đó.”
Ngày hôm sau, hai nước Trung, Miến đồng thời công bố “Tuyên bố chung của thủ tướng chính phủ hai nước Trung, Miến” hoàn toàn nhất trí với tinh thần tuyên bố chung của Thủ tướng hai nước Trung, Ấn. Toàn văn tuyên bố chung như sau:
Tuyên bố chung của thủ tướng chính phủ hai nước Trung, Miến
Nhận lời mời của ngài Unu, thủ tướng Liên Bang Miến Điện, ngài Chu Ân Lai thủ tướng nước CHND Trung Hoa, trên đường từ Genève về Bắc Kinh đã tới thăm thủ đô Rangoon, Miến Điện hai ngày. Trong thời gian này thủ tướng hai nước đã có những cuộc thảo luận tự do và thẳng thắn về những việc mà hai nước cùng quan tâm.
Thủ tướng hai nước nhấn mạnh lập trường của họ, họ sẽ nỗ lực xúc tiến hòa bình toàn thế giới đặc biệt là ở Đông Nam Á. Họ hy vọng vấn đề khôi phục hòa bình Đông Dương đang được thảo luận tại Genève sẽ được giải quyết hài lòng.
Về các nguyên tắc chỉ đạo quan hệ hai nước của hiệp nghị Trung Quốc và Ấn Độ, tức:
Tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau,
Không xâm phạm nhau,
Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
Bình đẳng cùng có lợi,
Chung sống hòa bình.
Hai thủ tướng đồng ý những nguyên tắc này cũng nên là nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa Trung Quốc và Miến Điện. Nếu như những nguyên tắc này được mọi quốc gia tuân thủ thì chung sống hòa bình giữa các nước không cùng chế độ xã hội sẽ được bảo đảm, còn sự đe dọa xâm lược và can thiệp vào công việc nội bộ và sự hoảng sợ đối với xâm lược và can thiệp vào công việc nội bộ, sẽ được thay thế bởi cảm giác an ninh và tin tưởng lẫn nhau.
Hai Thủ tướng nhấn mạnh: nhân dân các nước đều nên có quyền lợi lựa chọn chế độ quốc gia và phương thức sinh hoạt của họ, không nên chịu sự can thiệp của các nước khác. Cách mạng là không thể xuất khẩu, đồng thời, ý chí chung mà nhân dân trong một nước thể hiện cũng không cho phép can thiệp từ bên ngoài.
Thủ tướng hai nước đồng ý hai nước Trung, Miến duy trì tiếp xúc thân mật, để tiếp tục tăng cường hợp tác hữu hảo giữa hai nước. Cuộc hội đàm Trung, Miến lần này rất hữu hảo và thành ý. Thủ tướng hai nước rất phấn khởi có được cơ hội gặp gỡ lần này, họ cho rằng điều này có ích cho sự nghiệp hòa bình.
Rangoon ngày 29 tháng 6 năm 1954
Ý đồ chủ yếu của Chu Ân Lai thăm Ấn Độ và Miến Điện là xác lập năm nguyên tắc chung sống hòa bình, thành lập tại châu Á mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là phản đối “Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á” sắp ra đời. Chu Ân Lai tin chắc khi năm nguyên tắc được các nước tiếp nhận phổ biến thì hòa bình sẽ được bảo đảm, phương đông của thế giới sẽ dập tắt ngọn lửa chiến tranh, mang kiếm đúc lưỡi cầy, đón sự phục hưng kinh tế quốc gia. Chu Ân Lai đã thực hiện được mục đích chủ yếu thăm Ấn Độ và Miến Điện. Bước tiếp là ông phải về nước gặp Hồ Chí Minh.
1 2 Lương Hạo Vận, Ghi chép về sự chìm nổi của gia tộc Nehru, Thời sự XBX, 1994.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:14:30 GMT 9
CHƯƠNG 27 Hội nghị Liễu Châu then chốt
Đang lúc giữa hè nóng nực nhất, lãnh đạo hai bên Trung Việt tiến hành tám lần họp trong ba ngày tại Liễu Châu, đưa ra quyết định trọng đại cho số phận tương lai của Việt Nam, điều hòa lập trường của hai bên tại Genève được nhất trí. Chu Ân Lai là người định ra luận cứ cho Hội nghị Liễu Châu, sự lý giải và ủng hộ của Hồ Chí Minh cũng có tác dụng then chốt. Hoàn toàn thực hiện dự tính của Chu Ân Lai, Hội nghị Liễu Châu đã lát con đường cho hội nghị Genève cuối cùng giải quyết được vấn đề Đông Dương.
Ngày 30 tháng 6, Chu Ân Lai đáp chuyên cơ “Công chúa” do Ấn Độ cung cấp, trở về Quảng Châu, rồi tập trung tinh lực chuẩn bị cho cuộc gặp mặt Hồ Chí Minh, điều hòa lập trường của hai nước Trung Việt tại Genève, bởi vì tại Genève, ý kiến của Phạm Văn Đồng, đại biểu Việt Nam chưa thể thống nhất với ý kiến của hai Ngoại trưởng Trung Xô.
Truy ngược lại thời gian thì rõ, khi chuẩn bị tham gia Hội nghị Genève, ba phía Trung, Xô, Việt chưa hoàn toàn nhất trí ý kiến về dự án đàm phán vấn đề Việt Nam; rốt cuộc là vạch một giới tuyến quân sự Nam Bắc hay là xác định vùng tập kết quân sự của hai bên Việt Pháp, phương án nào là lợi nhất, còn đang trong thương lượng. Chu Ân Lai nghiêng về vạch giới tuyến Nam Bắc và cho rằng vĩ tuyến 16 là thích hợp. Lúc này chiến dịch Điện Biên Phủ còn đang gay go quyết liệt, chưa phân thắng bại; vì vậy, mặt trận phương Đông quyết định sau khi đến Genève, sẽ căn cứ vào kết cục của chiến dịch Điện Biên Phủ mà xác định phương án đàm phán.
Tại Genève, phương án giới tuyến dần dần rõ thêm. Ngày 7 tháng 5, quân đội Việt Nam toàn thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thái độ của Phạm Văn Đồng nhanh chóng cứng rắn lên, đưa ra ý tưởng to gan, vạch giới tuyến quân sự tại vĩ tuyến 13. Như thế Việt Minh có thể khống chế hai phần ba lãnh thổ cả nước. Các cường quốc phương Tây, phản đối dữ dội phương án này.
Phạm Văn Đồng phản đối mạnh mẽ việc rút quân đội Việt Nam ra khỏi Lào và Campuchia. Thái độ của nhà đương cục Việt Nam như vậy đã làm cho Chu Ân Lai, Molotov cảm thấy vô cùng tế nhị, không tiện nói. Sau nhiều lần khuyên can của Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng mới đồng ý rút quân đội Việt Nam ra khỏi Lào và Campuchia; nhưng trên vấn đề vạch giới tuyến, Phạm Văn Đồng chỉ đồng ý lùi có giới hạn. Ngày 19 tháng 6, khi Hội nghị Genève thông qua quyết nghị về việc trước tiên rút quân đội ra khỏi Lào và Campuchia; sau hội nghị, Phạm văn Đồng đã biểu thị có bảo lưu với đại biểu Trung Xô.
Trước việc giữa đoàn đại biểu Liên Xô và đoàn đại biểu Việt Nam xuất hiện bất đồng, ngày 19 tháng 6, Chu Ân Lai gửi điện cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ ra nếu trong vấn đề Lào và Campuchia có nhượng bộ thì tại Việt Nam có thể yêu cầu được nhiều hơn một chút, “tình hình trước mắt là, nếu trong hội đàm quân sự ta đưa ra phương án cụ thể, hợp lý thì có thể tranh thủ Pháp nhanh chóng giải quyết vấn đề, đạt được đình chiến. Như vậy có thể thúc đẩy chính phủ mới của Pháp chống lại sự can thiệp của Mỹ, lại vừa có thể kéo dài vấn đề quân đội châu Âu. Điều này có lợi cho cả Đông, Tây. Vì thế, những vấn đề có tính quan trọng như vậy cần phải bàn cho rõ.” Do đó, nhân dịp Ngoại trưởng các nước rời Hội nghị Genève, tôi “cần phải, sau khi thăm Ấn Độ và trên đường về nước, giữa đường cùng đoàn đi Nam Ninh, Quảng Tây, mời mấy vị phụ trách Trung ương ĐLĐ Việt Nam để tôi báo cáo tình hình với họ, thuyết minh trọng điểm phương châm chia vùng.”1
Ngày 20 tháng 6, Chu Ân Lai gửi điện cho Đặng Tiểu Bình, chuyển Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nói đã bàn và được sự đồng ý của Molotov và Phạm Văn Đồng, sau khi thăm Ấn Độ trên đường về nước sẽ đến Nam Ninh gặp Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, và La Quí Ba, Vi Quốc Thanh, giới thiệu “tình hình đàm phán và vấn đề chia vùng, mong được nhất trí ý kiến nhằm làm cho đàm phán Genève tiến triển” Chu Ân Lai dự tính trong ngày sẽ được phê chuẩn.
Lúc này trong nước [Trung Quốc] đã chuẩn bị nơi hội đàm lãnh đạo Trung Việt tại Nam Ninh. Thế nhưng khi về tới Quảng Châu, Chu Ân Lai lại một lần nữa tỏ ra thận trọng, cho rằng Nam Ninh cách biên giới Trung Việt quá gần, lại đông dân, khó bảo mật, nên chuyển lên phía bắc thì tốt hơn. Tuân theo ý kiến của ông, địa điểm gặp gỡ lãnh đạo Trung Việt lần này tạm thời được đổi đến Liễu Châu.
Lãnh đạo Việt Nam đồng ý việc đổi địa điểm hội nghị của phía Trung Quốc. Hồ Chí Minh cử Võ Nguyên Giáp đến Trung Quốc trước. Trung Quốc cử La Quí Ba, Vi Quốc Thanh cố vấn chủ yếu ở Việt Nam, ngoài ra còn có Giải Phương, nguyên Tham mưu trưởng chí nguyện quân Trung Quốc tại Triều Tiên, vừa đến Việt Nam không lâu, trợ giúp lãnh đạo quân sự Việt Nam tiến hành đàm phán quân sự [với Pháp tại] Trung Giã, và Phùng Mục Minh, cán bộ Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã tham gia đàm phán đình chiến Triều Tiên cũng theo đoàn về Quảng Tây.
Giải Phương là Tham mưu trưởng rất được Bành Đức Hoài, Tư lệnh quân chí nguyện tín nhiệm, sinh năm 1908, vốn tên là Giải Bái Nhiên. Ông sớm gia nhập quân Đông Bắc, biết rất rõ hai anh em Trương Học Lương, Trương Học Minh2; sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông được hai người này bảo đảm, đưa tới học tập tại Trường Sĩ quan lục quân Nhật Bản, sau khi tốt nghiệp lại trở về quân Đông Bắc, nhanh chóng được thăng là thiếu tướng. Ông bí mật gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1936, là một trong những đảng viên hoạt động bí mật đầu tiên trong quân Đông Bắc. Sau khi cuộc kháng chiến bùng nổ toàn diện, ông gia nhập Bát lộ quân, từng công tác tại Bộ tham mưu Diên An, sau đó ra mặt trận. Trong chiến dịch vượt biển giải phóng đảo Hải Nam, ông là phó quân đoàn trưởng kiêm tham mưu trưởng quân đoàn 40, Dã chiến quân thứ tư, trợ giúp quân đoàn trưởng Hàn Tiên Sở chỉ huy quân đội giải phóng Hải Nam. Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, ông giữ chức Tham mưu trưởng quân chí nguyện, phò tá Bành Đức Hoài xuất mưu tính kế. Bành Đức Hoài kiêu dũng thiện chiến gọi ông là “Gia-cát Lượng trong quân”.
Sau khi tham gia chỉ huy “năm chiến dịch” trên chiến trường Triều Tiên, Giải Phương được cử làm đại biểu đàm phán của phía Trung-Triều. Ông giỏi tiếng Nhật, hơi hiểu tiếng Anh, đầu óc nhanh nhậy, trí tuệ hơn người, ngoan cường kiên định trên bàn đàm phán, từng làm cho đại biểu đàm phán phía Mỹ trực tiếp nếm đủ những lợi hại của ông. Sau khi chiến trường Triều Tiên yên tĩnh dần, Bành Đức Hoài đã nhiều lần nói: “sau khi về nước tôi phải giới thiệu Giải Phương với Thủ tướng Chu, để anh ta làm ngoại giao, nhân tài ngoại giao như thế không nhiều!”
Vì thế, vào đêm trước của cuộc đình chiến Triều Tiên năm 1953, sau khi về nước, Giải Phương cứ đi ở không quyết giữa việc lưu lại quân đội hay sang ngoại giao. Hội nghị Genève quyết định tiến hành cuộc gặp gỡ Tư lệnh hai bên tại mặt trận Việt Nam thảo luận vấn đề cụ thể của đình chiến, Hồ Chí Minh đề xuất với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đề nghị cử cán bộ hiểu biết về đàm phán quân sự sang Việt Nam giúp đỡ, thế là Giải Phương tự nhiên trở thành nhân vật đầu tiên có tên trong danh sách. Nhưng ban đầu, lãnh đạo Quân uỷ còn có chút chưa muốn để Giải Phương vừa mới rời khỏi chiến trường Triều Tiên phải tới ngay chiến trường Việt Nam, nên đã từ chối, ngay cả Chu Ân Lai đang ở Genève cũng gửi điện về nước nói, các tướng lĩnh quân sự quan trọng như Đặng Hoa, Đỗ Bình, Giải Phương có kinh nghiệm quân sự tại Triều Tiên không thể điều đi, “nếu cần thiết chỉ có thể điều đồng chí Phùng Mục Minh tương đối có kinh nghiệm đàm phán tại Triều Tiên đi công tác [tại Việt Nam]”.3
Lưu Thiếu Kỳ phê chuẩn Phùng Mục Minh đi Việt Nam. Không ngờ phía Việt Nam kiên trì mời Giải Phương đi, kết quả là vào tháng 6, Giải Phương và Phùng Mục Minh cùng đi Việt Nam, rồi lại cùng về nước tham gia Hội nghị Liễu Châu.
Về đoạn thời gian đã qua này, Phùng Mục Minh còn nhớ như in. Ông là người Thiên Tân, sinh năm 1913, tốt nghiệp chuyên ngành tiếng Anh, Khoa Ngoại ngữ Trường Đại học Bắc Kinh, trong kháng chiến tới Diên An, sau khi thành lập nước công tác tại Phòng Ngoại vụ Thiên Tân. Ông tham gia đàm phán Bàn Môn Điếm, sau đình chiến vẫn tiếp tục ở lại Bàn Môn Điếm giải quyết vấn đề tù binh.
Đầu tháng 6 năm 1954, ông và Giải Phương tới Việt Nam. Khi hội kiến họ, Hồ Chí Minh đã biểu thị hoan nghênh nhiệt liệt. Hồ Chí Minh nói, Việt Nam đã đánh nhau nhiều năm, đã học được cách đánh nhưng chưa học được cách đình chiến, cho nên mời các đồng chí đến giúp đỡ.
Theo ấn tượng của Phùng Mục Minh thì Tham mưu trưởng Giải Phương tự coi mình là khách nợ về ngoại giao. Trên đường từ căn cứ địa Việt Nam trở về Liễu Châu, khi chợt thấy những ngọn núi nhô cao, như Thạch Lâm xinh đẹp của Quế Lâm, mọi người đều vui vẻ, đua nhau nói ngọn núi đó giống nơi nào, nơi nào. Không ai ngờ, Giải Phương đã bất thình lình nói xen vào một câu: “ngọn núi này không có giá trị quân sự.”
Thế nhưng đối với vấn đề đình chiến ở Việt Nam sẽ phải đối mặt, Giải Phương hiểu biết vô cùng sâu sắc, trên đường đi xe lửa tới Liễu Châu, ông chậm rãi nói với Phùng Mục Minh: “Các đồng chí Việt Nam có chút miễn cưỡng đối với đình chiến.”
Trên đường đi Liễu Châu, Hồ Chí Minh thường cùng ngồi với các cố vấn Trung Quốc, dọc đường các địa phương đều chiêu đãi, ăn thịt gà rất nhiều. Võ Nguyên Giáp thường gắp thức ăn cho Hồ Chí Minh, đủ thấy quan hệ thân thiết của họ.4
Sau khi về Quảng Châu, do tiết trời nóng bức, ăn uống kém nên sức khỏe của Chu Ân Lai có chút không tốt, nên đã nghỉ một ngày, đến trước trưa ngày 2 tháng 7 mới đáp máy bay rời Quảng Châu, buổi trưa đến Liễu Châu. Ông không kịp nghỉ ngơi, lập tức đến thăm Hồ Chí Minh vừa đến trước, trao đổi ý kiến bước đầu.
Lúc này các trợ thủ thân cận chủ yếu của Chu Ân Lai là Kiều Quán Hoa, Chương Văn Tấn, phiên dịch chủ yếu của Hội nghị Liễu Châu là Trương Dực. Thư ký đối ngoại của Chu Ân Lai là Mã Liệt cũng tới. Mã Liệt tham gia công tác tại nhóm quân sự của Hội nghị Genève, tương đối nắm được tình hình. Cộng thêm các cố vấn từ Việt Nam trở về và Trần Mạn Viễn, Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân [tỉnh] Quảng Tây, phụ trách viện trợ Việt Nam, nhân tài của Hội nghị Liễu Châu rất đông.
Phiên họp thứ nhất của hội nghị bắt đầu lúc 9 giờ sáng ngày 3 tháng 7, phía Trung Quốc tham dự có Chu Ân Lai, Vi Quốc Thanh, La quí Ba, Giải Phương, Trần Mạn Viễn, Kiều Quán Hoa, phía Việt Nam là Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan. Phùng Mục Minh làm nhiệm vụ ghi chép.
Trước tiên Hồ Chí Minh mời Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình thực chiến trường của cuộc chiến tranh Đông Dương.
Võ Nguyên Giáp lấy ra bản đồ tình hình hai bên giao chiến ở Đông Dương, báo cáo về bốn bộ phận: tình hình chung của chiến tranh, so sánh lực lượng địch ta, tình hình Việt Nam, tình hình Lào và Campuchia.
Võ Nguyên Giáp chỉ ra: sau chiến dịch Điện Biên Phủ, tình hình rất có lợi. Trước mắt vùng Tây Bắc Việt Nam đã được giải phóng hoàn toàn và đang được củng cố, chiến trường Lào cũng phát sinh thay đổi trọng đại. Tại Liên khu Năm, hơi nằm về phía nam Trung bộ Việt Nam, lực lượng quân đội Việt Nam vốn tương đối yếu, nhưng hiện nay kẻ địch đã rút chạy khỏi nhiều nơi, quân đội Việt Nam đã giành được quyền chủ động chiến tranh.
Trên toàn Đông Dương, tổng binh lực quân Pháp và quân đội của Bảo Đại ước khoảng hơn 400.000 người, trong đó gồm cả hương dũng5 địa phương. Do bị chiến tranh tiêu hao, nước Pháp đã tăng thêm binh lực từ trong nước, trong tổng số 190.000 quân viễn chinh Pháp có khoảng 120.000 quân Âu, Phi. Quân đội của Bảo Đại vào khoảng 240.000, quân đội Vương quốc Lào ước khoảng 17.000 người. Quân đội của chính phủ Campuchia ước khoảng 15.000 người. Trong số quân trên, gồm quân chính qui và quân bổ sung, lính hậu cần và hải quân, không quân. Quân Pháp phân tán cao, quân cơ động không quá 110.000 người. Tại vùng đồng bằng sông Hồng, tổng binh lực của địch có khả năng đạt 180.000 người.
Võ Nguyên Giáp nói, tổng binh lực của chúng ta khoảng 300.000 người (bao gồm bộ đội địa phương, đội du kích) trong đó 295.000 người là bộ đội Việt Nam, có sáu sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn pháo binh do Tổng bộ chỉ huy. Ngoài ra còn có 4.000 bộ đội Lào và khoảng 3.000 bộ đội Campuchia, nhưng trong những bộ đội này, phân đội cấp đại đội biên chế hỗn hợp cả người Việt Nam, người Lào, người Campuchia.
Chiến trường Việt Nam là chiến trường chính của Đông Dương, 90% lực lượng của đối phương ở tại Việt Nam. Hiện nay các trung tâm kinh tế đều đang dưới sự khống chế của quân Pháp, như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng v.v.. Xem xét từ lực lượng kinh tế thấy, một phần ba là ở Bắc Bộ, chủ yếu là công nghiệp than, xi măng. Thực lực kinh tế Nam Bộ chiếm hai phần ba.
Lào đất rộng người đông, ven bờ sông Mekong sản xuất nhiều lúa gạo. Hiện nay liên quân Việt, Lào khống chế một vùng rộng 130.000 km2, miền bắc đã được củng cố, nhưng vùng mới khống chế miền nam còn chưa nối liền thành một mạng. Quân đội Việt Nam đã tiến vào Lào là 14.000 người, cộng thêm mấy ngàn bộ đội của Souphanouvong, tình hình quân sự tương đối có lợi. Nhưng nếu quân đội Việt Nam rút khỏi đây, thì bộ đội của Souphanouvong sẽ lâm vào khó khăn. Hiện nay ở Lào số người tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương6 ước khoảng 220 người, có cơ cấu lãnh đạo.
Võ Nguyên Giáp cho rằng, hoàng thân Sihanouk còn có ảnh hưởng ở Campuchia. Trong lịch sử Việt Nam và Campuchia thường xuyên có chiến tranh, nước Pháp thường dùng cái đó để xúi giục quan hệ hai bên. Hiện nay quân đội Việt Nam có khoảng 1.000 người đã vào Campuchia. Có khoảng hơn 100 người là đảng viên Campuchia của Đảng Cộng sản Đông Dương7.
Vì báo cáo của Võ Nguyên Giáp cần phải phiên dịch, nên trình bầy cả buổi sáng vẫn chưa xong, buổi chiều còn phải bổ sung. Sau đó đến Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc, Vi Quốc Thanh phát biểu. Vi Quốc Thanh chỉ ra, những số liệu nêu trong báo cáo của Võ Nguyên Giáp tương đối mới, có thể thấy quân Pháp đã bổ sung binh lực vì vậy không giảm bớt về tổng số nhưng chất lượng thì thấp. Do quân đội Pháp đang rút gọn lớn ở vùng đồng bằng sông Hồng, bây giờ nếu tấn công vào đó sẽ khó khăn tương đối lớn.
Trong khi Vi Quốc Thanh phát biểu, Chu Ân Lai đã hỏi xen vào: nếu Mỹ không
can thiệp, Pháp gia tăng binh lực như cũ, tiếp tục đánh nhau thì phải bao lâu nữa chúng ta mới lấy được toàn Đông Dương?
Vi Quốc Thanh cho rằng: trong tình hình sửa chữa tốt đường sá, vẫn còn cần hai, ba năm, mà cũng chưa có căn cứ tuyệt đối. Ông nói thêm, La Quí Ba cũng đồng ý quan điểm này.
Hồ Chí Minh cũng đồng tình nói, trong điều kiện nói trên, phía Việt Nam phải đánh thêm từ ba đến năm năm nữa mới có thể giành thắng lợi.
Buổi chiều khi kết thúc hội nghị, Chu Ân Lai đã trình bầy tóm tắt cách nhìn về tình hình quốc tế. Ông chỉ ra, vấn đề Đông Dương đã quốc tế hoá, Mỹ và Liên Xô chưa bị cuốn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, nên đều muốn cục bộ hoá vấn đề. Vấn đề Đông Dương cũng ảnh hưởng đến cả Đông Nam Á, ảnh hưởng đến tình hình châu Âu và thế giới. Hội nghị Genève có ảnh hưởng tới nội các Pháp khiến nước Pháp phải thay đổi nội các, có thể thấy có mối liên hệ giữa địa vị của nước Pháp tại châu Âu và mâu thuẫn trong nước. Vấn đề Đông Dương cũng ảnh hưởng tới nước Anh. Nước Anh có liên hệ với bảy lãnh thổ như Pakistan, Ấn Độ, Xây Lan, Malaysia, Hongkong, Australia và New Zealand. Vấn đề Đông Dương cũng ảnh hưởng tới Mỹ. Nước Mỹ đang đặt ra tuyến phong tỏa trên toàn thế giới mà Đông Dương là một khâu quan trọng. Đông Dương đã trở thành sợi dây xích nối liền ba châu Á, Phi, Âu.
Chu Ân Lai nói, chúng ta nên tranh thủ hòa bình, mở rộng lực lượng hòa bình. Phải phát triển hòa bình khiến Mỹ không thể tìm được cớ gây chiến. Phải đề phòng Mỹ can thiệp vũ trang vào ba nước Đông Dương. Ông chỉ ra, vấn đề Triều Tiên phức tạp hoá là do Mỹ tăng viện, mà tăng viện của họ nhanh như vậy là ngoài dự kiến. Nhân lúc Liên Xô không có mặt tại Hội đồng Bảo an, LHQ tiến hành can thiệp. Nếu không có tăng viện của Mỹ, phía Triều Tiên đã đuổi Lý Thừa Vãn xuống biển từ lâu. Bây giờ Đông Dương lại là một vấn đề như vậy. Những nhà đương cục thường bị cục bộ hạn chế. Gần đây Mỹ, Xô họp hội nghị ở Wasington, Mỹ cũng chuẩn bị hai con đường, nếu Đông Dương không hòa bình được, Mỹ sẽ tiến hành can thiệp. Từ điểm đó cho thấy, chúng ta còn chưa có khả năng ngay lập tức được cả Đông Dương.
Chu Ân Lai đề xuất, nếu như tại Việt Nam lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến; Lào, Campuchia trung lập, cô lập Bảo Đại, hai năm sau do LHQ giám sát bầu cử, ĐLĐ có khả năng thành công trong bầu cử. Làm tốt công tác, có khả năng giành được cả Việt Nam, xu thế này có thể khẳng định. Vì thế hiện nay chỉ có một nhiệm vụ, đó là tranh thủ Đông Dương hòa bình, dùng phương thức hòa bình giành được cả Việt Nam, tiến hành cạnh tranh hòa bình, khiến tình hình thế giới phát sinh thay đổi có lợi cho chúng ta.
8 giờ tối, cử hành phiên họp lần thứ ba. Chu Ân Lai đã phát biểu dài về đề tài “Vấn đề chiến tranh và hòa bình”. Tư tưởng trung tâm của bài nói là, phải toàn lực tranh thủ giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương. Nếu không làm được điểm này, cuộc chiến Đông Dương có nguy cơ mở rộng. Nếu như vậy là nguy hiểm, sẽ phải trả giá nặng nề.
Ông chỉ ra, áp dụng mô hình Triều Tiên vào vấn đề Việt Nam, vạch ra một giới tuyến tạm thời, xem ra phải cắt miền Nam, miền Nam tạm thời không có lợi. Nhưng có thể chờ đợi bầu cử, và có thể giành thắng lợi trong bầu cử. Vấn đề là phải nhìn về lâu dài, nếu Mỹ tiến hành can thiệp thì có khả năng mọi cái đều mất hết. Nếu Mỹ xây căn cứ ở Xiangkhoang, Bảo Đại ngả vào lòng Mỹ thì miền Nam Việt Nam cũng sẽ chịu ảnh hưởng, thậm chí bị tàn phá. Cho nên phải xem xét vấn đề từ trong thay đổi và phát triển. Dù cho không thay đổi, tiếp tục đánh cũng phải 3 năm. Nếu Mỹ tiến hành can thiệp thì khu Đỏ sẽ biến thành Trắng. Kinh nghiệm của Trung Quốc về mặt này quá nhiều. Hồng quân công nông Trung Quốc khi trường chinh đã từng để lại [ở khu Xô viết Giang Tây] mấy ngàn người địa phương, sau này không còn ai.
Nếu như theo phương châm của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tranh thủ Đông Dương hòa bình vạch đường giới tuyến, đối với Việt Nam mà nói, đã có thể củng cố được địa phương, vùng giải phóng có 12, 13 triệu dân, so với Bắc Triều Tiên còn nhiều hơn, lại có cửa biển, có thể thành một cục diện ở Đông Nam Á. Tương lai khi Trung Quốc và Việt Nam sửa thông đường sắt, cho dù miền Nam Việt Nam nhất thời chưa thể tuyển cử, chúng ta vẫn có thể ảnh hưởng tới nó. Lào, Campuchia cho dù có lạc hậu một chút thì vẫn tốt hơn là biến thành căn cứ của Mỹ.
Lật ngược lại vấn đề mà nói, nếu tình hình Đông Dương bước đầu không lợi, nếu Mỹ can thiệp, trước tiên Đông Dương sẽ bị tàn phá. Có khi một địa phương chậm giải phóng, nhưng lại có lợi cho toàn cục, cho nên có khi phải biết chờ đợi một chút. Phải căn cứ vào khả năng mà làm việc. Điểm này phải nói cho rõ. Trung Quốc đã có ví dụ như vậy, chúng tôi rút khỏi vùng đã chiếm, như Đại Biệt sơn, Đông Giang, Quảng Đông v.v... Chúng tôi rút đi, cách một, hai năm hoặc bốn năm, rồi chúng tôi lại trở lại. Phải nói rõ cho cán bộ, đại bộ phận cán bộ sẽ rút đi, để lại một bộ phận cán bộ, tương lai sẽ tốt. Cũng nên nói rõ với dân chúng, sau này không nên oán trách. Nên nói rõ với Uỷ viên Trung ương, cán bộ cao cấp, cán bộ trung cấp và cấp dưới, thuyết minh nếu đánh nhau nữa, về quân sự không thể giành được cả Việt Nam, mà lợi ích trước mắt cũng không thể giữ nổi. Còn nếu sử dụng phương thức hòa bình thì có khả năng giành được cả Việt Nam, nhưng cũng không phải là nói nhất định giành được, phải xem sự phát triển.
Chiến dịch Điện Biên Phủ chứng minh chúng ta đang có sự thay đổi về chất, mặc dù còn chưa thể nói rằng chúng ta có thể giành được thắng lợi trên toàn Việt Nam. Thế nhưng chiến dịch này đã làm quân địch kinh hoàng tỉnh ngộ, thúc đẩy nó hạ quyết tâm can thiệp. Nhưng phương pháp can thiệp của kẻ địch có khó khăn. Kẻ địch sợ Trung Quốc “bành trướng” cho nên không muốn để một nuớc Việt Nam giành được thắng lợi qui mô lớn. Vì vậy, muốn dựa vào thắng lợi quân sự để giành được toàn Việt Nam, xét từ mặt nào cũng đều không có khả năng. Nhưng tồn tại khả năng hòa bình thì giành được toàn Việt Nam. Thế nhưng giành được vào lúc nào phải có bước đi. Đường số 9 hiện nay dường như không có vấn đề, chúng ta có thể bảo trì. Cảng Đà Nẵng có thể suy tính để cho nước Pháp một, hai năm, cũng có thể coi là một biện pháp. Vĩ tuyến 16 trở ra bắc là nơi Việt Nam hưng quốc, có 13 triệu dân, có thể xây dựng, có cảnh biển lại có thể sửa chữa đường sắt, cán bộ cũng có thể ra nước ngoài huấn luyện quân sự, chí ít có thể tăng cường vũ trang đã có, tương lai lưu lại ở vùng du kích làm công tác.
Vấn đề Đông Dương cần tham chiếu tình hình Triều Tiên. Bầu cử ở Triều Tiên cần hai bên hiệp thương, chế định biện pháp bầu cử. Hiệp thương hai bên Triều Tiên làm không tốt, Việt Nam cũng sẽ không thành, nói chung cần một, hai năm phát triển tình hình.
Chu Ân Lai chỉ ra thêm, hòa bình có thể làm tăng thêm mâu thuẫn Pháp, Mỹ, thậm chí Mendès-France cũng đã nói, nếu như không thể hòa bình chỉ có quốc tế hoá, nếu như Mendès-France thất bại, Đảng Cộng hòa Nhân dân hoặc Đảng Xã hội lên cầm quyền đều không có lợi đối với vấn đề Đông Dương.
Còn về điều kiện ngừng bắn tại Việt Nam, Chu Ân Lai chỉ ra, sau khi lên cầm quyền, Mendès-France tranh lấy Hải Phòng. Trong điều kiện ngừng bắn làm tốt, cuối cùng có thể lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến. Vạn nhất còn chưa được có thể tính tới việc lấy đường Chín làm giới tuyến. Cảng Đà Nẵng, Thuận Hoá [Huế] có thể coi là đặc biệt lưu lại cho Pháp một, hai năm, như thế chúng ta có thể đòi các điều kiện khác.
Điều kiện ngừng bắn ở Đông Dương là: một, ngừng bắn đồng thời; hai, vạch vùng; ba, không đưa vào quân đội mới và vũ khí đạn dược. Như vậy có thể bịt chặt Mỹ. Trước khi ngừng bắn, quân đội Việt Nam còn cần bao nhiêu vũ khí, chúng tôi có thể vận chuyển trước, sau đó trong nửa năm không vận chuyển vào bất kỳ vũ khí nào. Đề nghị các đồng chí làm một kế hoạch để tiện vận chuyển vào. Có thể vận chuyển vào những thứ mà mười sư đoàn bộ binh cần thiết.
Về vấn đề bầu cử. Khi thuyết minh với cán bộ và nhân dân, không nên nói bầu cử rất dễ, vấn đề này phải trải qua đấu tranh lâu dài. Tất nhiên Đông Dương không thể chia ra mà cai trị lâu dài.
Hội nghị ngày hôm ấy chia ra làm ba đoạn sáng, chiều và tối. Giữa hè nóng bức, lúc này còn chưa có điều hòa không khí, ngồi ở trong phòng mồ hôi ra như tắm. Do quá nóng bức, Hồ Chí Minh quấn khăn ướt lên đầu để giảm nhiệt, Chu Ân Lai vẫn quần áo chỉnh tề.
Để họp tốt Hội nghị Liễu Châu, Phòng Giao tế Quảng Tây đã cử tới những nhân viên đắc lực. Khương Chấn Kiệt, người phụ trách các phòng đại biểu Việt Nam vốn theo Dã chiến quân thứ tư từ Đông Bắc đánh xuống Quảng Tây, sau khi vào thành phố được cử làm công tác tiếp đón. Mấy năm qua, bà đã trở thành một cán bộ đón tiếp có kinh nghiệm. Hôm đó Hồ Chí Minh đi họp, Khương Chấn Kiệt tới phòng ngủ của Hồ Chí Minh kiểm tra vệ sinh, phát hiện thấy trên nền nhà có một mảnh vải. Suy nghĩ một lúc bà cũng không biết là dùng để làm gì, hay là Hồ Chí Minh đã dùng để buộc cái gì vậy? Rồi bà thuận tay vứt vào một hộp giấy.
Ai ngờ sau cuộc họp, khi về đến phòng Hồ Chí Minh lập tức tìm người phục vụ hỏi: “cái thắt lưng của tôi đâu rồi?” Các nhân viên phục vụ đều nói không thấy, rồi báo cáo lên Khương Chấn Kiệt. Và điều này đã làm Khương Chấn Kiệt nghĩ ra, bà tới phòng Hồ Chí Minh, từ thùng giấy nhặt mảnh vải lên, hỏi Hồ Chí Minh: “Có phải mảnh vải này không ạ?” Hồ Chí Minh gật đầu nói phải, đại khái là đặt vào lưng ghế tựa rồi bị rơi xuống đất, còn nói nó là cái ông cần dùng. Khương Chấn Kiệt nói một cách cảm khái: “Hồ Chủ tịch, người thật gian khổ, giản dị vậy!”8
Vào hạ tuần tháng 6, bốn sư đoàn chủ lực quân đội Việt Nam hoàn thành chiến dịch Điện Biên Phủ đã về tới vùng tập kết ở tây bắc Hà Nội 80 km. Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng quân đội [Nhân dân] Việt Nam chỉ huy một bộ phận nhỏ sư đoàn 320 thâm nhập vào nơi chỉ cách Hà Nội 15 km. Để cố giữ chặt đồng bằng sông Hồng, Mỹ cho máy bay vận tải chở tới một trung đoàn 2.100 quân từ Bắc Phi, đến lúc này đã lộ rõ đó chỉ là đem muối bỏ biển, chẳng được tích sự gì. Chiến trường Việt Nam tiếp tục xảy ra những thay đổi có lợi cho quân đội Việt Nam.
Ngày 24 tháng 6, Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh chiếm thị xã An Khê trên đường quốc lộ 19 tại Trung bộ Việt Nam, một bộ phận Trung đoàn cơ động số 100 của Pháp rút từ An Khê về Pleiku, giữa đường bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tập kích. Trong trận đánh này binh lực hai bên Việt, Pháp hầu như bằng nhau, binh lực của Việt Nam không nhiều hơn bao nhiêu, hai bên hoàn toàn có thể đánh nhau. Nhưng quân Pháp không còn sĩ khí, thần hồn nát thần tính, hoảng hốt sợ hãi vừa đánh đã thua, hơn 1.000 quân hầu như bị tiêu diệt toàn bộ. Qua trận đánh này quân đội Việt Nam hoàn toàn chiếm quyền chủ động trên chiến trường miền Trung Việt Nam.
Từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 6, tại miền Bắc Việt Nam quân Pháp rút bỏ năm huyện lỵ, hơn 60 cứ điểm, trong đó có thủ phủ hai tỉnh Ninh Bình và Thái Bình. Ngày 3 tháng 7 quân Pháp lại rút khỏi một thủ phủ tỉnh. Khi quân đội Pháp rút lui, quân đội Việt Nam tiến hành tấn công, quân Pháp tổn thất trên một ngàn người.
Trước tình hình này, dù đang ở Liễu Châu, nhưng Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh đều rất quan tâm chú ý.
Phiên họp thứ tư của Hội nghị Liễu Châu họp vào sáng ngày 4 tháng 7, do Chương Văn Tấn ghi chép.
Chu Ân Lai nhấn mạnh nói về những vấn đề có liên quan tới việc Việt Nam vạch giới tuyến tạm thời để cai quản. Ông chỉ ra, căn cứ vào mức độ mà hai bên có khả năng tiếp nhận, nói chung cuối cùng đạt được hiệp nghị ở vĩ tuyến 16 mới là tốt. Một bộ phận người lãnh đạo ở nam vĩ tuyến 16 có thể rút lên phần bắc vĩ tuyến 16, nhưng những người lãnh đạo chủ yếu có liên hệ với quần chúng, nói chung phải ở lại, chuẩn bị bầu cử. Công tác công khai và bí mật đều cần người. Nếu có thể tiến hành bầu cử tất nhiên là tốt rồi, còn nếu bầu cử chậm, thậm chí không thể tiến hành vẫn có thể công tác trong quần chúng. Về việc rút khỏi phần nam vĩ tuyến 16, phải thuyết phục quần chúng. Dù có khó khăn cũng phải thuyết phục họ, làm như vậy là vì lợi ích chung.
Về vấn đề Lào và Campuchia, Chu Ân Lai cho rằng, phương châm cần phải khác với Việt Nam. Việt Nam dựa vào sự phấn đấu của mình mà đi lên, mà bản chất là chủ nghĩa dân chủ mới. Nhưng Lào và Campuchia không giống thế, trước mắt chỉ cần họ được tự do, dân chủ, độc lập là tuyệt lắm rồi. Điều quan trọng là làm cho họ
không ngả về phía đế quốc, bảo trì được trung lập.
Nhìn lại phía sau, một lần nữa Chu Ân Lai chỉ ra, Hội nghị Genève tám tuần lễ qua, nói chung cho rằng là có thành tích, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cũng cho là như vậy, chủ yếu là do lực lượng ba nước, thêm nữa là tác dụng lãnh đạo của Đoàn đại biểu Liên Xô. Đoàn đại biểu Liên Xô có nhiều kinh nghiệm, không chỉ cần họ nắm về sách lược mà kỹ thuật, văn kiện, cũng phải dựa vào họ. Tất nhiên họ cũng có một số khuyết điểm, có lúc chuẩn bị chưa được tốt, có khi nói quá nhiều, có khi lại nói ít.
Từ sau ngày 20 tháng 6, Ngoại trưởng các nước rời Genève. Ba tuần lễ sau đó, công tác của chúng ta là, tuần lễ thứ nhất làm tốt không khí. Vì vậy tôi đã gặp Mendès-France, cũng gặp Đoàn đại biểu Lào, Campuchia. Tuần lễ thứ hai, cố ý kéo dài ra một chút, thế là nước Pháp đề xuất một phương án về vạch giới tuyến ở Việt Nam, thể là nắm được con bài của ông ta. Tuần lễ thứ ba, cũng tức là hiện nay, chuẩn bị giải quyết một số vấn đề. Như thế là trong tuần lễ thứ ba, cũng có thể có tuần lễ thứ tư cố sức có thể bàn xong vấn đề. Sau đó trong tháng 7 phải họp Hội nghị Ngoại trưởng thông qua vấn đề nguyên tắc và bàn vấn đề chính trị. Hy vọng là Hội nghị Genève không đứt đoạn, đợi đến cuối năm mới họp một lần nữa, như thế thì LHQ không có tác dụng. Đợi sau khi đình chiến mấy tháng họp lại, đem cụ thể hoá vấn đề chính trị, đồng thời do các nước bảo đảm, thẩm tra tình hình đình chiến, cũng có thể suy tính tới việc mở rộng nước bảo đảm. Nếu như thu hút được các nước như Ấn Độ vào thì có chỗ tốt, có thể buộc chặt Mỹ.
Chu Ân Lai nói rất tỉ mỉ, trình bầy ý kiến Trung Quốc hy vọng vạch đường phân giới tạm thời tại vĩ tuyến 16 vô cùng rõ ràng. Lúc này quan điểm hai bên về việc có thể đạt thành hiệp nghị tại vĩ tuyến 16 trên thực tế đã được phía Việt Nam tiếp thu. Tiếp đó đã thảo luận một số vấn đề cụ thể.
Chu Ân Lai chỉ ra, về vấn đề ĐLĐ Việt Nam bỏ một số căn cứ địa tại miền Nam, rút quân đội đi không phải là sẽ nộp vũ khí quân không chính qui. Chúng ta có thể giải thích, phàm là đơn vị quân đội đều rút đi, nhưng không rút đi tất cả vũ khí, Vũ khí, thứ nào cất giấu đươc thì cất giấu, cán bộ quân đội ai lưu lại được thì lưu. Cất giấu vũ khí phải phân tán, không được tập trung nhằm tránh rơi vào tay quân địch.
Võ Nguyên Giáp nói, bước đầu chúng tôi dự tính rút khỏi miền Nam khoảng 60.000 người, trong đó 50.000 bộ đội, 10.000 là những người làm công tác chính trị, những người “đỏ” quá phải rút đi. Cũng có tính toán, lưu lại một ít trong số 60.000 người. Ví dụ từ 5.000 đến 10.000 người ở lại miền Nam, chờ thời cơ.
Trong đối thoại liên tục, Chu Ân Lai nói, tình hình trước mắt có ba khả năng, tức là cũng có ba thượng, hạ và trung sách.Thượng sách là hòa được, trung sách là đánh rồi hòa, hạ sách là đánh tiếp. Nếu như tình hình đòi hỏi phải đánh, phương hướng chủ công của các đồng chí là ở đâu?
Võ Nguyên Giáp nói, nếu chiến tranh mở rộng, chủ trương đánh trước ở đồng bằng sông Hồng, một bộ phận ở Lào và Liên khu Năm có tác dụng kiềm chế.
Chiều ngày hôm đó họp hội nghị lần thứ năm, vẫn Chu Ân Lai là người nói chủ yếu, giới thiệu vấn đề kiểm soát quốc tế một khi ngừng bắn. Sau khi nói xong vấn đề đó, ông kiến nghị, văn kiện về tình hình trước mắt và phương châm chính sách liệu có thể dùng danh nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh thảo luận tại hội nghị Bộ Chính trị ĐLĐ Việt Nam hay không? Vì hiện nay thời cơ đã đến rồi, thảo luận trước tại Bộ Chính trị, rồi lại thảo luận tại hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương. Sau đó truyền đạt cho các địa phương, nhằm đạt được sự thống nhất tư tưởng chính trị trong cán bộ. Nếu không, qua bước ngoặt này không dễ. Ông chỉ ra, trong Hội nghị Genève, yêu cầu chính của chúng ta có khả năng là như thế này: tại Việt Nam lấy vĩ tuyến 16 vạch đường ranh giới. Tại Lào chúng ta yêu cầu tại Thượng, Trung, Hạ Lào mỗi nơi đều được một mảnh, cuối cùng là tranh thủ được Thượng Lào, còn có khả năng được thêm một mảnh ở Trung Lào. Tại Campuchia có thể yêu cầu vạch vùng tập kết, nhưng không thể có hy vọng tương đối lớn.
Hội nghị đã tới xế chiều, lúc này Hồ Chí Minh, người từ khi hội nghị họp đến nay phát biểu không nhiều, đã phát biểu. Ông nói, trên vấn đề lớn của Hội nghị Genève chúng ta phải giúp Mendès-France một chút, đừng để ông ta bị đổ. Mendès-France đối với hội nghị vẫn là tích cực, nếu đàm phán không thành, ông ta sẽ đổ, không có lợi đối với chúng ta. Phải có quan hệ tốt với Pháp, tranh thủ hòa bình. Mặc dù Hồ Chí Minh nói không nhiều nhưng phân lượng rất nặng, thuyết minh ông đã hạ quyết tâm, tranh thủ triển vọng hòa bình tại Hội nghị Genève.
Hội nghị Liễu Châu họp đến lúc này, lập trường và cách nhìn của hai bên đã điều hòa được.
Tối hôm đó không sắp xếp họp tiếp. Nhưng lãnh đạo hai bên cũng không nghỉ ngơi, Chu Ân Lai báo cáo tiến trình hội nghị với Trung ương, nói rõ, ngoài nói chuyện trong hội nghị ra, còn trao đổi ý kiến riêng với Hồ Chí Minh. Hội nghị Liễu Châu vốn dự định họp hai ngày, bây giờ thấy do liên quan đến phương án giải quyết cụ thể, ngày mai phải họp thêm một ngày nữa, nên phải lùi ngày về Bắc Kinh.
Nói một cách tương đối, các trợ thủ của Chu Ân Lai được thoải mái hơn một chút. Mấy hôm trước khi vừa tới Quảng Châu, đang lúc mùa vải chín, Mã Liệt ăn hơi nhiều, bị đau bụng. Sau khi đến Liễu Châu, Kiều Quán Hoa đã nói đùa với ông: “Ăn tại Quảng Châu, chết tại Liễu Châu”. Câu sau chỉ ở Liễu Châu có nhiều gỗ tốt có thể đóng quan tài. Tối hôm đó không có việc, hai người ra đường tìm kiếm. Kết quả chẳng thấy gì. Thì ra vật đổi sao rời, các khu rừng cổ của Liễu Châu đã bị người đời sau chặt hết, môi trường thiên nhiên rất đáng lo, nghề đóng quan tài đã mất từ lâu rồi.9
Đúng vào ngày hôm đó, 9 giờ sáng ngày 4 tháng 7, trên chiến trường miền Bắc Việt Nam, căn cứ vào [thoả thuận tại] Hội nghị Genève, đại biểu hai quân đội Việt, Pháp đã tiến hành hội đàm tại một địa điểm tên là Trung Giã, nằm trên đường quốc lộ số 3 cách thị xã Thái Nguyên 30 km về phía nam. Hai bên cử đoàn đại biểu mỗi bên đều gồm năm sĩ quan,, thiếu tướng Văn Tiến Dũng đại biểu Quân đội Nhân dân Việt Nam và đại tá [Marcel] Lennuyeux, đại biểu quân đội Pháp đều phát ngôn. Hai bên quyết định, trong khuôn khổ của hiệp nghị Genève thảo luận:
Trong khuôn khổ hiệp nghị Genève thảo luận vấn đề tù binh.
Vấn đề thực hiện ngừng bắn.
Vấn đề điều chỉnh vùng tập kết.
Vấn đề hai bên thành lập Uỷ ban Liên hiệp.
Giải quyết những vấn đề cụ thể do Hội nghị Genève nêu ra.
Ngày 5 tháng 7, hai bên đạt được vấn đề trao trả trước tù binh bị thương, bị ốm, quyết định loạt tù binh bị thương, bị ốm đầu tiên sẽ được trao trả vào ngày 14 tháng 7.
Thế nhưng đàm phán trên chiến trường Việt Nam chỉ có thể tiến hành trong khuôn khổ hiệp định Genève qui định. Lúc này cuộc hội đàm Văn Tiến Dũng - Lennuyeux vừa cử hành đã phải dừng lại chờ Hội nghị Genève phát triển hơn nữa. Vì thế, giới hạn đàm phán cuối cùng của mặt trận phương Đông phải dựa vào Hội nghị Liễu Châu để xác định.
Sáng ngày 5 tháng 7 cử hành phiên họp thứ sáu Hội nghị Liễu Châu, Mã Mục Minh ghi chép. Hôm ấy, Hồ Chí Minh đề xuất với Chu Ân Lai nhiều vấn đề, bao gồm trong hiệp nghị sắp tới liệu có trình bầy lý luận hay không, xử lý ngụy quân như thế nào v.v.. Võ Nguyên Giáp cũng biểu thị với Chu Ân Lai đồng ý phương án vĩ tuyến 16, nhưng ông lại nói, hiện nay Phạm Văn Đồng đang đề xuất phương án vĩ tuyến 13 hoặc vĩ tuyến 14. Võ Nguyên Giáp cho rằng có thể lùi từng bước, nhưng đến vĩ tuyến 16 là giới hạn cuối cùng. Vì vậy yêu cầu đề xuất đối ngoại hiện nay có thể từ vĩ tuyến 13 đến vĩ tuyến 14.
Chu Ân Lai đồng ý với Võ Nguyên Giáp.
Hồ Chí Minh nói, nếu lấy vĩ tuyến 16 làm giới hạn thì cả Vịnh Bắc bộ thuộc về chúng ta.
Võ Nguyên Giáp còn đề xuất không ít ý kiến sửa chữa đối với những soạn thảo trong dự thảo hiệp nghị, cho thấy rõ ông suy xét vấn đề chặt chẽ tỉ mỉ. Nhiều chỗ, Chu Ân Lai biểu thị đồng ý, đồng thời yêu cầu Kiều Quán Hoa căn cứ vào ý kiến nhất trí của mọi người sửa chữa phương án.
Võ Nguyên Giáp còn đề xuất ý tưởng, khi rút quân khỏi miền Nam, các vùng từ cấp tỉnh trở lên, đơn vị từ cấp đại đội trở lên, đều rút; nhưng từ cấp huyện trở xuống và đội du kích thôn không rút, đem cất giấu vũ khí, để lại phục vụ cho việc tranh giành miền Nam sau này.
Tại phiên họp thứ 7 buổi chiều hôm đó, Chu Ân Lai nhấn mạnh, nhất định cần phải giải thích nhiều lần cho cán bộ: “trải qua bầu cử, đạt được thống nhất”. Ở đây có hai hàm nghĩa, thứ nhất là nói, cán bộ có cố gắng công tác thì mới có thể giành được thắng lợi bầu cử. Thứ hai là nói, phải tạo thành cục diện bầu cử, tạo thành xu thế không bầu cử không được. Đặc điểm của Việt Nam là, bất kể là Anh, Pháp, Bảo Đại đều không dám phản đối thống nhất. Về phương diện này, điều kiện của Việt Nam tốt hơn so với Triều Tiên, Đức.
Võ Nguyên Giáp nói, phải thống nhất tư tưởng trong Đảng. Tháng 7 có thể họp hội nghị Trung ương. Khó khăn là đại biểu miền Nam không dễ dàng đến được, mà truyền đạt cho miền Nam rất khó khăn.
Chu Ân Lai nói, hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay đúng là vô cùng phức tạp, có sự khác biệt giữa vùng cũ, vùng mới, có sự khác biệt giữa thành thị, nông thôn, có sự khác biệt trong Đảng ngoài đảng, có sự khác biệt giữa miền Nam, miền Bắc, có sự khác biệt giữa ba nước, lại còn sự khác biệt với các nước khác. Quan hệ của sáu loại khác biệt này vô cùng tế nhị. Khi đạt được hiệp nghị, nhất định phải đồng thời tuyên bố các nguyên tắc cơ bản. Những nguyên tắc này là, nước Pháp công nhận nền độc lập, thống nhất của ba nước Đông Dương cũng như nước Pháp rút quân, tiến hành bầu cử v.v..
Vi Quốc Thanh phát biểu tiếp, biểu thị ủng hộ những ý kiến của Chu Ân Lai. Trung tâm tư tưởng của những phát biểu của Vi Quốc Thanh là nắm chắc thời cơ có lợi, chấm dứt chiến tranh vào lúc có thể chấm dứt được. “Nếu tiếp tục đánh, có thể đuổi được kẻ địch yếu [Pháp] nhưng lại đưa vào kẻ địch mạnh [Mỹ]. Đó là tình hình, đòi hỏi chúng ta phải tránh né nhất.” Lúc này Chu Ân Lai nói xen vào: “Đó không phải là giả thiết mà là sự thực.”
Vi Quốc Thanh còn đề xuất, nếu khi đàm phán không đạt được dự án của hiệp nghị, nếu “hòa” không đến thì vào tháng 10 sẽ chuẩn bị đánh đồng bằng sông Hồng.
Vào lúc hội nghị gần kết thúc, Võ Nguyên Giáp phát biểu, nói “trước đây được nghe Hồ Chủ tịch truyền đạt, [bây giờ] lại được [nghe] Chu Thủ tướng báo cáo, càng hiểu thêm tình hình mới và nhiệm vụ mới. Vấn đề trung tâm trước mắt là tranh thủ thống nhất tư tưởng trong Đảng. Mặc dù có khó khăn, nhưng lòng tin được nâng cao. Nếu Trung ương truyền đạt chính sách này xuống dưới, lòng tin của bên dưới càng nâng cao. Ở Lào và Campuchia cũng sẽ như thế. Đợi đến lúc đàm phán có kết quả, cán bộ miền Bắc nhìn thấy thắng lợi, tâm tình sẽ thoải mái nhẹ nhõm. Còn cán bộ miền Nam có thể xuất hiện tâm tình bi quan. Campuchia và Lào cũng có thể có tình hình giống như thế. Tất nhiên, vấn đề này cần phải giải quyết.
Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến có tính tổng kết. Ông nói: đồng chí Chu Ân Lai không chỉ phấn đấu tại Hội nghị Genève hơn nữa còn đến Liễu Châu báo cáo, nói rất thấu triệt. Chúng tôi rất cám ơn! Kể từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, 30 năm nay đều được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và đồng chí Chu Ân Lai giúp đỡ. Trong lần hội nghị này, các đồng chí bổ sung rất tốt, tôi đồng ý, còn phải cám ơn các loại giúp đỡ của các đồng chí Quảng Tây. Hiện nay Việt Nam đang đứng trước ngã tư đường, có khả năng hòa cũng có khả năng chiến. Phương hướng chủ yếu là tranh thủ hòa chuẩn bị chiến. Tính phức tạp của công việc đòi hỏi phải có hai loại chuẩn bị. Đối với người bình thường, thậm chí là cán bộ, vấn đề này rất phức tạp. Bởi vì khẩu hiệu trước đây là “kháng chiến đến cùng” bây giờ lại muốn hòa, “rốt cuộc thì cái nào đúng đây?” Người ta có thể hỏi như vậy. Tôi đồng ý với cách nhìn của mọi người, vấn đề hàng đầu là đánh thông tư tưởng, tuy khó khăn nhiều, nhưng trước tiên phải dựa vào sự cố gắng của các đồng chí Việt Nam, ngoài ra còn phải dựa vào sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc.
Công tác của Trung ương ĐLĐ Việt Nam là phải đả thông tư tưởng của cán bộ cao cấp, còn phải đả thông tư tưởng các đồng chí Campuchia, Lào, thời gian rất khẩn trương. Vấn đề là cán bộ không nhiều mà công việc lại rất nhiều. Nếu chuẩn bị tiếp thu Hà Nội, Hải Phòng thì phải chuẩn bị một loạt cán bộ, hiện nay lo lắng nhất vẫn là cán bộ không đủ, nói những cái đó vì còn cần các đồng chí cố vấn giúp đỡ.
Hồ Chí Minh nói, tôi thay mặt hội nghị lần này hỏi thăm Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đến đây Hội nghị Liễu Châu đạt được sự đồng thuận của cả hai bên. Cuối cùng Chu Ân Lai phát biểu, nói: cám ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi thăm Mao Chủ tịch. Kết luận vừa rồi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngoài phần khen ngợi ra, tôi hoàn toàn tiếp nhận. Mỗi chúng ta đều có khuyết điểm sai lầm, chủ yếu là dựa vào lực lượng tập thể.
Tối ngày 5 tháng 7, cử hành phiên họp thứ tám. Thời gian tương đối eo hẹp, chủ yếu thảo luận là một khi thực hiện ngừng bắn, những tình hình mới mà quân đội Việt Nam tiếp quản thành thị sẽ phải đối mặt. Hội nghị thảo luận và sửa chữa bốn điều trong “Bố cáo yên dân khi vào thành phố” do La Quí Ba khởi thảo, cũng thảo luận và sửa chữa “Chính sách vùng tiếp quản” cũng do La Quí Ba khởi thảo. Cuối cùng Chu Ân Lai tuyên bố hội nghị kết thúc.
Trong Hội nghị Liễu Châu, Chu Ân Lai trình bầy thấu triệt, kiên nhẫn giải thích vấn đề đã để lại ấn tượng sâu sắc trong những người tham dự hội nghị. Tình hữu nghị giữa Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh cũng thường xuyên thể hiện ra. Trong tiến trình hội nghị, Chu Ân Lai phát hiện đồng hồ đeo tay của Hồ Chí Minh hỏng, ông bảo La Quí Ba tìm ngay cho Hồ Chủ tịch một chiếc đồng hồ khác. La Quí Ba làm theo, đã mang tới cho Chu Ân Lai một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ rất tốt, Chu Ân Lai đã tặng chiếc đồng hồ đó cho Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không từ chối, nói “cám ơn” rồi đeo vào tay. Theo ấn tượng của La Quí Ba, Hồ Chí Minh đã đeo chiếc đồng hồ đó trong một thời gian rất dài.10
Mã Liệt, sau này là đại sứ Trung Quốc tại Hungari chỉ ra, then chốt của Hội nghị Liễu Châu lần đó là “vạch giới tuyến”, vấn đề trung tâm là phải để nước Pháp rời khỏi Đông Dương, đồng thời không để Mỹ can thiệp vào. Đó là suy nghĩ rõ ràng của Chu Ân Lai khi đến Hội nghị Liễu Châu, kết quả đã thực hiện hoàn toàn dự kiến của ông.11
Chiều ngày 6 tháng 7, Chu Ân Lai trở về Bắc Kinh. Ngày 8 tháng 8, Nhân dân Nhật báo đăng “Tuyên bố về cuộc hội đàm Trung Việt” tại vị trí trang trọng đầu trang nhất, toàn văn như sau:
Thủ tướng nước CHND Trung Hoa Chu Ân Lai và Chủ tịch nước Việt Nam DCCH Hồ Chí Minh đã cử hành hội đàm tại biên giới Trung Việt từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao đổi ý kiến đầy đủ về vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan khác. Tham gia hội nghị còn có, Hoàng Văn Hoan, đại sứ nước Việt Nam DCCH tại Trung Quốc và Kiều Quán Hoa, cố vấn Đoàn đại biểu nước CHND Trung Hoa tại Hội nghị Genève.
1 Chu Ân Lai niên phổ: 1949-1976, quyển thượng, sđd, tr. 386.
2 Các con của Trương Tác Lâm, quân phiệt Đông Bắc Trung Quốc. Trương Học Lương nổi tiếng với Sự biến Tây An năm 1936.
3 Chu Ân Lai niên phổ 1949-1976, sđd, tr. 384.
4 Ghi chép của tác giả trong lần phỏng vấn Mã Liệt ngày 28 tháng 9 năm 1995 tại Bắc Kinh. Mã Liệt còn cho biết, tại hội nghị ông ghi chép rất nhiều, nhưng sau khi xem lại, Chu Ân Lai bảo không cần ghi chi tiết quá và cầm bút xoá đi rất nhiều. Đại bộ phận phần xoá bỏ là những điểm bất đồng của hai bên. Do vậy phần lưu trữ của Bộ Ngoại giao và người ghi chép đương thời có khác biệt nhất định.
5 Dân vệ.
6 Về danh nghĩa, thời gian này, Đảng Cộng sản Đông Dương không còn tồn tại nữa mà Đảng Nhân dân Lào và kế nhiệm nó là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào/ Phak Pasason Pativat Lao tới 22/3/1955 mới đại hội lần thứ nhất.
7 Về danh nghĩa, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia (kế tục Đảng Cộng sản Đông Dương) đã thành lập ngày 28/6/1951.
8 Phỏng vấn Hứa Kỳ Tình ngày 9 tháng 6 năm 2004.
9 Phỏng vấn Mã Liệt ngày 29 tháng 5 năm 1998.
10 Phỏng vấn La Quí Ba tại Bắc kinh ngày 18 tháng 4 năm 1990, theo tư liệu La Quí Ba bảo tồn được từ Hội nghị Liễu Châu.
11 Phỏng vấn Mã Liệt tại Bắc Kinh ngày 29 tháng 5 năm 1998.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:15:33 GMT 9
Chương 28 Lãnh tụ đã quyết thì vũ trụ cũng chẳng là cái gì1
Trong khi Chu Ân Lai thăm Ấn Độ và Miến Điện thì những người đứng đầu hai nước Mỹ, Anh cũng đang bận rộn, hạ tuần tháng 6, bọn họ đã đạt được “Phương châm bảy điểm” về vấn đề Đông Dương tại Washington. Ở Bắc Kinh, Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ phê chuẩn báo cáo và quyết tâm tiếp tục tiến hành đàm phán của Chu Ân Lai. Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh gửi cho Phạm Văn Đồng “chỉ thị 5/7” xác định rõ phương án thấp nhất trong đàm phán. Chu Ân Lai gió bụi dọc đường trở lại Genève, phát hiện sự việc vẫn còn tương đối phức tạp.
Ngày 23 tháng 6, sau khi trở về nước Anh, Eden đã chủ trì cuộc biện luận về chính sách ngoại giao tại Hạ nghị viện Anh, đồng thời báo cáo về tình hình nước Anh tham gia hội nghị Genève.
Eden nói: “Tôi thật không thoải mái mà báo cáo rằng, trong thảo luận về vấn đề Triều Tiên, chúng tôi đã không có sự tiến triển thực sự trong việc tìm kiếm biện pháp giải quyết. Chỉ có thể nói như thế này, so với trước đây, chúng tôi có thể trình bầy rõ ràng hơn những chỗ then chốt nhất trong bất đồng nguyên tắc giữa hai bên đối địch.”
Eden chỉ ra rằng: “chúng tôi không đạt thành hiệp nghị về vấn đề thống nhất Triều Tiên, nhưng kiến nghị tiếp tục tiến hành đàm phán thì vẫn còn hiệu lực.” Ông ta nhấn mạnh: “mục đích và quan điểm của chính phủ Anh vẫn là LHQ không thể trông đợi có thể giải quyết được vấn đề Triều Tiên trong tình hình không được Trung Quốc và hai bên Triều Tiên đồng ý.”
Eden giới thiệu ba Uỷ ban được thành lập do thảo luận vấn đề quân sự tại ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và nói rằng bọn họ phải đề xuất báo cáo trước ngày 10 tháng 7. Eden nói: “trước khi chúng tôi rời khỏi đó, giữa chúng tôi đã có sự thông cảm, sau khi nhận được báo cáo của đoàn đại biểu quân sự, chúng tôi sẽ lập tức tiến hành trao đổi ý kiến để quyết định chúng tôi sẽ quay lại Genève hoàn thành sứ mệnh, đối với bản thân tôi mà nói, nếu tôi có thể có cống hiến gì đó cho hòa bình, tôi sẽ quay lại.”
Eden đã có ý riêng khi nói tới quan hệ Anh, Trung: “một kết quả của hội nghị Genève là quan hệ Anh Trung được cải thiện, hơn nữa đã sản sinh được một số kết quả. Đó là điều mà mọi người đã nhìn thấy. Tôi rất phấn khởi vì có cơ hội gặp gỡ ngài Chu Ân Lai. Rõ ràng là những cuộc hội đàm của hai nước tại Genève là có giá trị. Đối với tôi thì những cuộc hội đàm đó đã chứng minh là có lợi cho nước ta, hơn nữa còn thực sự có lợi cho chung sống hòa bình, mà chung sống hòa bình vẫn là mục đích và tôn chỉ trong giao tiếp giữa chúng ta và mỗi nước.”
Cuối cùng Eden nói, hiện nay vẫn còn hy vọng đạt được hiệp nghị trên vấn đề Đông Dương, sự tồn tại của cơ hội này dựa vào những cuộc đàm phán nhẫn nại mà lâu dài, quyết định bởi nguyện vọng của nhân dân Đông Dương đối với hòa bình, “nếu có thể đạt thành hiệp nghị sẽ cung cấp một cơ sở cho nền an ninh Đông Nam Á, tác dụng của nó không chỉ giới hạn ở đó, mà còn là một sự củng cố to lớn cho hòa bình thế giới.”2
Trong thời gian biện luận tại Hạ viện, Attlee, lãnh tụ Công đảng - đảng phản đối, đã nói một cách hiếm thấy, Eden đã có những cố gắng vì việc hòa bình giải quyết vấn đề Đông Dương. Ông ta còn nói: “đặc điểm nổi bật nhất của hội nghị Genève là những người cầm quyền chân chính ở Trung Quốc lần đầu tiên tham gia hội nghị ở châu Âu, đến tận bây giờ mà vẫn không thừa nhận chính phủ hiện nay của Trung Quốc - một chính phủ của nhà nước công nhân, quả thật là một việc hoang đường.”3
Gác công việc ở Hạ viện bận mất một số thời gian lại, ngày 24 tháng 5, Churchill và Eden tới Washington. Eden cho rằng mục đích của chuyến đi này là “thuyết phục Mỹ cho Pháp một cơ hội, để mấy tuần lễ nữa đạt được một hiệp nghị hòa bình tại Genève. Trước khi đạt được việc này không được triệu tập bất kỳ hội nghị quốc gia chống đảng cộng sản tại tổ chức Đông Nam Á. Đồng thời tôi muốn một lần nữa bầy tỏ rõ với nước Mỹ, trước khi hội nghị Genève đạt được thành quả nào đó, chúng tôi quyết không tham gia “hành động liên hợp”4
8 giờ 30 phút ngày 23 tháng 6 (giờ Washington), Smith báo cáo tình hình hội nghị Genève với Eisenhower, Dulles và đoàn đại biểu hai đảng tại quốc hội. Ông ta nói, lập trường của Mỹ về vấn đề Đông Dương và vấn đề Triều Tiên nên có sự khác nhau. Ông ta nói, trước đây đã lâu, Dulles đã nói với Bidault, nếu như vấn đề Đông Dương được đưa vào chương trình của hội nghị Genève thì sẽ thúc đẩy xung đột quân sự ở đây bùng nổ dữ dội hơn, hai bên đều muốn tranh thủ ưu thế trong đàm phán. Bây giờ quả nhiên là như vậy, tình hình trên chiến trường Đông Dương là khẩn cấp. Mặt khác, nước Anh đang đóng vai diễn người tạo ra hòa bình ở hội nghị Genève.
Smith nói, trong thời gian hội nghị Genève, sĩ khí quân đội Bảo Đại Việt Nam xuống thấp và việc chính phủ Laniel Pháp bị đổ đã buộc nước Mỹ phải điều chỉnh lại lập trường của mình về Đông Dương. Lập trường ban đầu của Mỹ là, quân đội nhân dân Việt Nam phải rút quân khỏi Lào và Campuchia. Bởi vì đó là xâm luợc, cái mà họ tiến hành không phải là một cuộc nội chiến. Và cho dù cuối cùng hội nghị có đạt được biện pháp giải quyết nào đó, chúng ta đều hy vọng xây dựng được một Uỷ ban giám sát quốc tế công bằng có hiệu quả, và không thể tiến hành bầu cử nội bộ tại Việt Nam. Trên vấn đề sau, nước Anh đã đề xuất kiến nghị muốn các nước hội nghị Colombo tham gia Uỷ ban giám sát, nhưng bị Liên Xô phản đối.
Smith nói, mặc dù Mỹ luôn luôn kiên trì lập trường trên, nhưng rốt cuộc thì nước Mỹ không phải là người tham dự trực tiếp vào công việc của Đông Nam Á, quan
điểm của Mỹ không có ảnh hưởng có tính quyết định.
Smith chỉ ra, trên hội nghị Genève đã xuất hiện hai nhân tố quan trọng: một là chính phủ Pháp đã suy yếu, một là chính phủ Anh yêu cầu tránh khỏi một cách toàn diện những xung đột ở Viễn Đông, điều này đã làm mạnh thêm lập trường của các nước cộng sản. Trong tình hình đó, hai bên tại hội nghị Genève đang có khuynh hướng tiếp nhận kết cục sau:
Căn cứ nguyên trạng, tiến hành phân trị tại Việt Nam.
Phía cộng sản khống chế một nửa hoặc 1/3 Lào.
Bên trong Campuchia không thành lập vùng khống chế của cộng sản.
Thành lập cơ cấu giám sát quốc tế có hiệu quả.
Trong khoảng thời gian mà cộng sản có thể tiếp nhận, sẽ quyết định tương lai của vấn đề Đông Dương.
Smith cho rằng, xét tới sự thay đổi của tình hình, nước Mỹ có thể không cần phải phản đối việc xuất hiện kết quả trên, bởi vì trong tình hình đó mà đạt được bất kỳ hiệp nghị nào tại hội nghị Genève, “đều sẽ thiết lập được sự cân bằng mới giữa hai tập đoàn [khối] lớn Đông và Tây.”5
Cần phải nói là, kết luận của Smith rất có kiến giải, trực tiếp ảnh hưởng tới Eisenhower, trên thực tế cũng ảnh hưởng tới quyết tâm của Dulles.
Khi Churchill và Eden tới Washington, Dulles ra sân bay đón. Một đàm đông phóng viên, nhiếp ảnh vây lấy vị Bộ trưởng Ngoại giao ốm yếu này, bọn họ vui vẻ nói đùa với nhau, phải tận mắt nhìn thấy liệu có phải Dulles đã đi tới bước không còn muốn bắt tay Eden nữa hay không. Thực tế là tháí độ của Dulles so với khi ở Genève có mềm hơn một chút. Điều này không thể tách rời việc khi trở về Washington, Smith đã làm công tác.
Lúc này nước Mỹ đặc biệt cần sự hợp tác của Anh tại châu Âu trên vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia. Chính phủ Laniel đã đổ của Pháp đã từng là người ủng hộ đắc lực cho Tập đoàn tổ chức bảo vệ an ninh quốc gia châu Âu, còn Mendès-France thì lại dao động. Bây giờ thời gian phê chuẩn kế hoạch bảo vệ an ninh quốc gia châu Âu đang tới gần, không có kế hoạch này thì cũng không có kế hoạch vũ trang lại nước Đức. Trước khi Thủ tướng và Ngoại trưởng Anh tới, Eisenhower đã nói với Dulles: “Churchill không ủng hộ vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia châu Âu, nhưng ông ta không nói ra. Do vậy ông và tôi phải vô cùng thận trọng trong vấn đề này.” Nói một cách đơn giản, nước Mỹ phải có sự nhượng bộ nào đó trên vấn đề Đông Dương.
Quả nhiên, hai nước Anh, Mỹ đã có sự thỏa hiệp tại Washington. Sau khi thương thảo vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia châu Âu , những người lãnh đạo Anh, Mỹ đã thảo luận vấn đề Đông Dương. Giành được nhất trí ý kiến đối với mục tiêu thấp nhất: Lào và Campuchia độc lập, Việt Minh rút quân khỏi hai nước này, Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 làm đường giới tuyến, một chia làm hai, do Việt Minh khống chế miền Bắc. Do Hồ Chí Minh yêu cầu được cả Đông Dương, hơn nữa trước mắt ông ta là phía có ưu thế quân sự, nên nếu ông ta đồng ý chia đường giới tuyến như vậy, có thể coi là một sự nhượng bộ trọng đại của bọn họ, bởi vì trong trường hợp công khai nước Mỹ nói chung đều yêu cầu người Pháp tiếp tục đánh.6
Ngày 29 tháng 6, tại Washington Mỹ và Anh đạt được “phương châm bảy điểm” về vấn đề Đông Dương. Nội dung chủ yếu là:
Bảo đảm chủ quyền và độc lập cho Lào và Campuchia, Việt Nam rút toàn bộ quân đội ra khỏi hai quốc gia này.
Chí ít bảo đảm Việt Nam phải có một nửa lãnh thổ, nếu có khả năng thì bao gồm cả đồng bằng sông Hồng. Tận cùng phía nam của giới tuyến tạm thời không thể vượt quá Đồng Hới mà vị trí là ở bắc vĩ tuyến 17.
Không thể cưỡng bức Lào, Campuchia, Việt Nam giải tán chính quyền khống chế phi cộng sản của họ, phải làm cho họ giữ gìn được lực lượng tự vệ của mình, 3 nước không được nhập khẩu vũ khí, không được mời cố vấn nước ngoài.
Trong hiệp nghị chính trị có khả năng đạt được không thể có điều khoản dẫn tới sự thống trị của cộng sản.
Phải bảo đảm khả năng sau này Đông Dương hòa bình thống nhất.
Cung cấp giao thông thuận tiện, dưới sự giám sát quốc tế làm cho những dân cư quyết định di chuyển có thể đến được nơi họ muốn đến.
Thiết lập hệ thống giám sát có hiệu quả.
“Phương châm bảy điểm” của Anh, Mỹ đã tăng cường địa vị đàm phán của Pháp tại Genève.
Trưa ngày 6 tháng 7, Chu Ân Lai về đến Bắc Kinh. Ngay tối hôm đó đã tới chỗ Mao Trạch Đông báo cáo. Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình cũng đến, Cũng trong ngày, Chu Ân Lai gửi điện cho Trương Văn Thiên đã trở về Moskva, nhờ ông chuyển cho Lý Khắc Nông biết: Đại biện lâm thời Liên Xô tại Trung Quốc cho biết, Molotov “định ngày 7 bay đến Genève để gặp Mendès-France, đồng thời mong tôi sớm quay lại Genève, nhằm thúc đẩy đàm phán tiến triển. Được chỉ thị của Trung ương, tôi phải ở lại Bắc Kinh hai, ba ngày rồi mới trở lại, vì vậy mong đồng chí ngày 7 cùng đi với Molotov.” Theo ý kiến của Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên đã đến Genève trước thời hạn.
Ngày hôm sau Bộ Chính trị Trung ương ĐCS Trung Quốc họp hội nghị mở rộng tại Bắc Kinh, nghe báo cáo của Chu Ân Lai về việc tham gia hội nghị Genève cũng như chuyến thăm Ấn Độ, Miến Điện và hội đàm giữa người lãnh đạo hai nước Trung, Việt.
Chu Ân Lai giới thiệu, tại hội nghị Genève, chúng ta áp dụng phương châm liên hiệp với Pháp, Anh, các nước Đông Nam Á, ba nước Đông Dương, tức đoàn kết với mọi lực lượng quốc tế có thể đoàn kết được, cô lập Mỹ, hạn chế và phá bỏ kế hoạch mở rộng bá quyền thế giới của Mỹ, trong đó vấn đề then chốt là thúc đẩy hòa bình ở Đông Dương. Căn cứ vào phương châm đã định đó, đoàn đại biểu Trung Quốc, Liên Xô và Việt Nam tại hội nghị đều muốn thực hiện ngừng bắn ở Đông Dương. Hai tháng nay hội nghị đạt được một số thành tựu, đã làm cho cục diện căng thẳng quốc tế hòa dịu được một bước, khiến kế hoạch mở rộng bá quyền thế giới của Mỹ bị cản trở. Theo xu thế hiện nay thì khả năng thực hiện ngừng bắn ở Đông Dương là lớn, là phải đạt được hiệp nghị.
Nghe xong báo cáo của Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông biểu thị tán thành. Ông nói, báo cáo của Chu Ân Lai rất tốt. Đồng ý phương châm ông trình bầy và phê chuẩn hoạt động hơn hai tháng qua. Phương châm của chúng ta tham gia hội nghị là chính xác, hoạt động là có thành tích, cần nhượng bộ thì nên nhượng bộ, cần kiên trì thì phải kiên trì, sẽ đạt được việc cô lập thiểu số (Mỹ) đoàn kết đa số. Từ nay trở đi sẽ tiếp tục phương châm này, nắm chặt vấn đề, dự đoán là có thể đạt được hiệp nghị.7
Mao Trạch Đông lại mở rộng câu chuyện, dùng kiến giải đặc biệt của mình trình bầy thế lớn trong thiên hạ. Ông nói, tình hình chung hiện nay là Mỹ tương đối cô lập. Sau khi vấn đề Đông Nam Á, Đông Dương được giải quyết, sự cô lập của Mỹ còn tiếp tục phát triển.
So với trước đây toàn bộ tình hình đã chuyển biến tốt. Làm dịu cục diện căng thẳng, không cùng chế độ vẫn có thể chung sống hòa bình, những nguyên tắc do các nước xã hội chủ nhĩa đề xuất này đã từng bước được một số nước phương Tây tiếp nhận. Chủ nghĩa tư bản thế giới rất không thống nhất, chia năm xẻ bảy. Mục đích chủ yếu của Mỹ hiện nay vẫn là chỉnh đốn giải đất trung gian từ Nhật đến Anh. Những nước ở đó bị chỉnh đến mức kêu oai oái.
Mao Trạch Đông đề xuất, phải lợi dụng thời cơ có lợi đó, mở rộng việc kết bạn, phải phát triển quan hệ với các nuớc không cùng loại hình. Công tác ngoại giao của chúng ta hiện nay không phải là đóng chặt cửa mà là phải lợi dụng tình hình có lợi hiện nay để “đi ra”. tiến hành công tác ngoại giao với nhiều nước, ví dụ với các nước đế quốc như Anh, Pháp, các nước thuộc địa như Ấn Độ, Miến Điện, thậm chí với các nước như Thái Lan.
Mao Trạch Đông nói, chế độ khác nhau vẫn có thể chung sống hòa bình, phải tách rời sự bất đồng về hệ thống tư tưởng và sự hợp tác về chính trị, bất đồng về hệ thống tư tưởng không nên cản trở tới sự hợp tác về chính trị giữa nước này với nước khác.8
Lưu Thiếu Kỳ là người tổng kết cuối cùng báo cáo của Chu Ân Lai, tỏ ý hài lòng về hoạt động ngoại giao của Chu Ân Lai tại Genève. Ông nói: “nên đưa ra quyết định, phê chuẩn công tác và phương châm từ nay trở đi của đoàn đại biểu tại Genève.”9
Theo thỏa thuận từ trước, ngày 8 tháng 7, Trevelyan, đại biện lâm thời của Anh tại Trung Quốc trình thư uỷ nhiệm của Eden lên Chu Ân Lai. Không lâu sau đó, ngày 2 tháng 9, chính phủ Trung Quốc bổ nhiệm Hoạn Hương làm đại biện lâm thời của Trung Quốc tại Anh. Từ đó hai nước Trung, Anh thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại biện.
Chiều ngày 8 tháng 7, Uỷ ban toàn quốc hội nghị Chính trị hiệp thương họp hội nghị mở rộng, những nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc như Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Đặng Tiểu Bình và Lý Duy Hán, Đặng Dĩnh Siêu v.v.. đã tham dự hội nghị cùng với các nhân sĩ dân chủ tham gia hội nghị như Lý Tế Thâm, Thẩm Quân Nho, Quách Mạt Nhược, Trần Thúc Thông, Vương Côn Luân, Trương Lan, Chương Bá Quần, Hoàng Viêm Bồi, Cương Nãi Khí, Mã Tự Luân, Trương Hề Nhược v.v.. nghe Chu Ân Lai báo cáo về vấn đề hội nghị Genève và chuyến thăm hai nước Ấn Độ, Miến Điện.
Chu Ân Lai cho rằng hội nghị Genève đã xuất hiện cục diện có lợi. Ông nói: “bề ngoài Mỹ thể hiện rất dữ, nhưng đằng sau lại rất suy yếu. Ngày 22 tháng 6, (khi diễn thuyết tại quốc hội) Eden đã từng nói, vấn đề Triều Tiên chưa bị gạt bỏ trong chương trình. Mặc dù vấn đề Triều Tiên chưa đạt được bất kỳ hiệp nghị nào, nhưng đã thấy vấn đề rất rõ, khả năng đánh lại rất nhỏ.”
Chu Ân Lai báo cáo: “khôi phục hòa bình ở Đông Dương, là một khâu then chốt để làm dịu cục diện căng thẳng thế giới hiện nay.” Ngày mai quay trở lại Genève, ông sẽ tiến hành những cố gắng cuối cùng tranh thủ đạt được hiệp nghị hòa bình tại đây.
Chu Ân Lai chỉ ra một cách rõ ràng: “chúng ta phải tranh thủ làm dịu tình hình căng thẳng hơn nữa. Các nước không cùng chế độ có thể chung sống hòa bình, dùng biện pháp thi đua hòa bình để chứng minh tính ưu việt của chế độ dân chủ nhân dân làm cho thế giới cũ thay đổi, chúng ta không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, phương châm này là có khả năng. Vì vậy phải tạo dựng một mặt trận thống nhất quốc tế, phải liên hiệp với nước Pháp, liên hiệp với nước Anh, liên hiệp với các nước Đông Nam Á, liên hiệp các nước Đông Dương để cô lập Mỹ, chủ yếu là cô lập phái chủ chiến Mỹ.”10
Tư tưởng mà Chu Ân Lai trình bầy lúc đó hoàn toàn nhất trí với cách nghĩ mà ông thổ lộ với Trương Dực khi trao đổi ý kiến trên thảm cỏ của biệt thự Vạn Hoa tại Genève. Chuyến thăm Ấn Độ và Miến Điện là thực tiễn về hai mặt lý luận và thực tiễn của Chu Ân Lai đối với “năm nguyên tắc chung sống hòa bình”. Thực tiễn này sau khi trở về Bắc Kinh lại được lãnh tụ phê chuẩn, khiến lòng tin của ông càng lớn thêm.
Chu Ân Lai tạm nghỉ ba ngày ngắn ngủi tại Bắc Kinh, sau đó ngày 9 tháng 7 đã đáp máy bay đi Moskva, trở lại Genève.
Lúc này từ một phương diện khác, Hồ Chí Minh đã có sự ủng hộ đắc lực với Chu Ân Lai, ngày 6 tháng 7 [bản tiếng Trung: ngày 9] Hồ Chí Minh đã trả lời phóng viên [bản tiếng Trung không có: Việt Nam Thông tấn xã] về vấn đề Đông Dương11. Toàn văn như sau:
Hỏi: Thưa Chủ tịch, đối với sự tiến triển của hội nghị Genève về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương và tiền đồ của hội nghị đó, Chủ tịch nhận xét như thế nào?
Trả lời: Hội nghị Genève thảo luận vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương tiến triển tuy chậm, nhưng với những vấn đề đã thỏa thuận, hội nghị cũng đã mở đường cho việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trên cơ sở đó nếu đối phương [bản tiếng Trung: các mặt có liên quan] cũng thành thật muốn đàm phán như chúng ta mà cũng cố gắng để lập lại hòa bình ở Đông Dương thì hòa bình Đông Dương có thể thực hiện. Theo đúng lập trường của ta từ trước đến nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ tiếp tục đấu tranh cho hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ của tổ quốc. Đồng thời chúng ta cũng phải có tinh thần cảnh giác rất cao đối với âm mưu của đế quốc Mỹ [bản tiếng Trung thêm: mở rộng chiến tranh] định cản trở hai bên đi đến hiệp định đình chiến và mưu mô lập khối liên minh quân sự có tính xâm lược, chia châu Á thành những tập đoàn đối lập để dễ xâm lược và khống chế Đông Dương cùng Đông Nam Á.
Hỏi: Xin Chủ tịch cho biết ý nghĩa của những lời tuyên bố chung gần đây của Thủ tuớng hai nước Trung - Ấn và Thủ tướng hai nước Trung – Miến.
Trả lời: bản tuyên bố chung mà Thủ tướng hai nước Trung - Ấn và Thủ tướng hai nước Trung - Miến vừa phát biểu rất quan trọng. Hai bản tuyên bố chung đó phù hợp với nguyện vọng hòa bình của nhân dân thế giới, nhất là nhân dân châu Á. năm nguyên tắc quan trọng đề ra trong bản tuyên bố chung của Thủ tướng hai nước Trung - Ấn và Thủ tướng hai nước Trung - Miến là: cùng tôn trọng chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và hai bên cùng có lợi, cùng chung sống hòa bình. Những nguyên tắc ấy [bản tiếng Trung bỏ: những nguyên tắc ấy] cũng thích hợp cho việc giải quyết vấn đề Đông Dương. Nhân dân Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh hai bản tuyên bố chung đó. Tôi tin rằng hai bản tuyên bố chung đó nhất định có lợi cho hòa bình châu Á và thế giới.
Hỏi: Ngày 17-6, (bản tiếng Trung: ngày 27-6) trong bài diễn văn nhận chức của Thủ tướng Pháp Mendès-France đọc trước quốc hội Pháp, khi nói đến vấn đề Đông Dương ông ta nói việc ngừng bắn ở Đông Dương phải thực hiện mau chóng. Ý kiến của Chủ tịch đối với những lời tuyên bố đó của ông Mendès-France như thế nào?
Trả lời: chúng ta hoan nghênh nguyện vọng của ông Mendès-France, nhưng phải bài trừ chính sách của đế quốc Mỹ ngăn cản và phá hoại hội nghị Genève, mới có thể thực hiện nhanh chóng ngừng bắn ở Đông Dương được.
Càng quan trọng hơn là, ngay trong ngày kết thúc hội nghị Liễu Châu, Hồ Chí Minh đã thân tự viết điện chỉ thị cho Phạm Văn Đồng. Chỉ thị nói, sau hội nghị Liễu Châu, Trung ương ĐLĐ Việt Nam đã hình thành một văn kiện về phương án đàm phán thấp nhất, đã gửi cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trước, nếu không có ý kiến sẽ chuyển cho đồng chí, đề nghị đoàn đại biểu Việt Nam căn cứ vào phương châm đã định của văn kiện này để tiến hành đàm phán. Đồng thời đề nghị các đồng chí chuyển văn kiện này cho Kuznetsov - đoàn đại biểu Liên Xô tại Genève. Nếu Phạm Văn Đồng có ý kiến sửa chữa hoặc bổ sung cá biệt đề nghị lần lượt báo cho Trung ương ĐCS Trung Quốc và Trung ương ĐLĐ [Việt Nam], Còn những việc cụ thể liên quan đến đàm phán như cân nhắc câu chữ, đề xuất thời gian trước sau, cũng như đề xuất vấn đề địa điểm v.v.. đều do ba đoàn đại biểu Việt, Trung, Xô thương lượng xử lý hợp tình hợp lý. Còn về tình hình cụ thể của hội nghị Liễu Châu, đề nghị Hoàng Văn Hoan và Chu Ân Lai trực tiếp nói cho biết.
Phương án đàm phán thấp nhất do Hồ Chí Minh phê chuẩn gửi cho Phạm văn Đồng ở Genève là văn kiện vô cùng quan trọng, trong đó then chốt nhất là vấn đề thuộc về ngừng bắn và vạch giới tuyến cũng như vấn đề liên quan đến Việt Nam tiến hành tổng tuyển cử. Yêu cầu của phương án đàm phán thấp nhất là trên vấn đề ngừng bắn phải đồng thời tuyên bố ngừng bắn trong ranh giới Việt Nam, ngừng bắn tại Lào, Campuchia, đồng thời có hiệu lực với cả lục, hải, không. Thời gian và phương thức ngừng bắn, do đại biểu quân sự hai bên thương tháo quyết định tại Đông Dương.
Trên vấn đề vạch giới tuyến quân sự, Phạm Văn Đồng đã từng kiên trì phương án chia giới tuyến quân sự từ vĩ tuyến 13 đến 14 bắc, bây giờ Hồ Chí Minh quyết định có thể có nhượng bộ, ông đề xuất lấy vĩ tuyến 14 hoặc 15 làm ranh giới. Nếu phía Pháp tối đa chỉ nhường đến vĩ tuyến 17 và do đó làm cho đàm phán bế tắc thì phía Việt Nam có thể nhường tới vĩ tuyến 15, tìm lý do để phản bác Pháp, ra sức đạt thành hiệp nghị tại vĩ tuyến 16. Nếu như ở vĩ tuyến 16 còn có khó khăn, phía Việt Nam có thể nhượng bộ từ ba mặt sau:
Đà Nẵng có thể do phía Pháp bảo lưu thêm một thời gian, ví dụ một năm.
Lào có thể lợi dụng đường số 9 để ra biển.
Cố đô Huế có thể mở cửa cho hoàng tộc, để cho họ tảo mộ. Ngoài ra, còn vạch ra khu phi quân sự ở hai bên nam bắc giới tuyến này, nó cũng kéo dài đến biển như giới tuyến tạm thời.
Trên vấn đề chính trị liên quan đến tổng tuyển cử, phải yêu cầu Pháp công khai thừa nhận: Việt Nam giành được độc lập, chủ quyền lãnh thổ và thống nhất hoàn toàn. Trong sáu tháng đến một năm sau ngày ngừng bắn tiến hành tự do bầu cử trên toàn Việt Nam để khôi phục Việt Nam thống nhất. Ngoài ra mọi quân đội nước ngoài đều phải rút khỏi Việt Nam và phải hoàn thành trước bầu cử. Nhưng đối với quân đội Pháp tại số ít bến cảng có thể để cho bảo lưu thêm một thời gian.
Phương án đàm phán thấp nhất còn liên quan đến vấn đề Lào và Campuchia. Phương án đàm phán thấp nhất này hoàn toàn nhất trí với ý tưởng của Chu Ân Lai, và cũng được gọi là “chỉ thị 5/7”12
Ngày 9 tháng 7, Chu Ân Lai tới Moskva, lập tức hội kiến người lãnh đạo Liên Xô. Lúc này Khrushchev đang ở bên ngoài [Moskva]. Molotov đã trở lại Genève trước rồi. Malenkov, Voroshilov, Kaganovich hội kiến Chu Ân Lai, trao đổi tình hình quốc tế và cách nhìn về triển vọng hội nghị Genève. Hai bên nhất trí cho rằng, Mỹ đang lôi kéo phái chủ chiến của Pháp, thi hành sức ép với Mendès-France có ý cầu hòa. Vì vậy cần phải đưa ra những điều kiện rõ ràng, đơn giản, công bằng hợp lý mà chính phủ mới của Pháp có thể tiếp nhận, nhanh chóng đạt được hiệp nghị khôi phục hòa bình ở Đông Dương.
Ngay tối hôm đó, Chu Ân Lai gửi điện báo cáo Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ về tình hình hội đàm với phía Liên Xô, một lần nữa chỉ ra: “bây giờ xem xét từ tình hình các mặt thấy, lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến, cộng thêm điều kiện để cho phía Pháp tạm thời sử dụng Tourane [Đà Nẵng] và cho phép Lào ra vào trên đường 9, là về đại thể có thể đạt được hiệp nghị.”13
Trong thời gian Chu Ân Lai tham gia hội nghị Bộ Chính trị tại Bắc Kinh, thì ngày 8 tháng 7, Trương Văn Thiên trở lại Genève. Từ ngày 21 tháng 6 sau khi rời Genève về Moskva, ông đã duy trì tiếp xúc chặt chẽ với Bộ Ngoại giao Liên Xô, tiếp tục điều hòa lập trường về vấn đề hiệp nghị Genève, đồng thời chỉ thị cho Phòng Nghiên cứu chính sách Đại sứ quán Trung Quốc tại Liên Xô, nghiên cứu những vấn đề hội nghị Genève gặp phải. Ngày 4 tháng 7, Phòng này đã hoàn thành báo cáo nghiên cứu “Về cái gọi là kế hoạch Locarno [?] của Anh” do Hà Phương chấp bút. Báo cáo cho rằng: “nước Anh hy vọng cuộc chiến tranh ở đây (chỉ Đông Dương) được ngừng lại có điều kiện, thực hành phân trị tại Việt Nam, đồng thời vạch một giới tuyến, khiến lực lượng quân sự hai bên rút về sau giới tuyến; thực hiện trung lập ở Lào và Campuchia, tức là không cho có quân đội và chính quyền cách mạng ở đó, và cũng không có căn cứ quân sự của Mỹ và chịu sự khống chế của Mỹ ở đó.”14
Trương Văn Thiên tán thành những ý kiến của báo cáo này, đã gửi cho Chu Ân Lai tham khảo và duyệt.
Ngay trong ngày trở lại Genève, Trương Văn Thiên và Lý Khắc Nông đã mở tiệc chiêu đãi đoàn đại biểu Pháp do Chauvel đứng đầu. Trong bữa tiệc Chauvel bảo đảm với Trương và Lý, ông ta đã nhận được thông tin khẳng định từ phía Mỹ, trước mắt Mỹ không có dự định thiết lập căn cứ quân sự tại Lào và Campuchia. Chauvel nhiều lần hỏi, bao giờ Thủ tướng Chu Ân Lai có thể trở lại Genève.
Ngay tối hôm đó và buổi chiều ngày 10 tháng 7, Trương Văn Thiên và Lý Khắc Nông còn trước sau gặp Molotov, Kuznetsov và Phạm Văn Đồng hai lần để trao đổi ý kiến làm thế nào quán triệt được “chỉ thị 5/7” của Hồ Chí Minh. Phía Liên Xô hoàn toàn đồng ý với ý kiến của các nhà lãnh đạo Trung, Việt, nhưng điều làm họ kinh ngạc là Phạm Văn Đồng đã thể hiện tinh thần tương đối miễn cưỡng đối với “chỉ thị 5/7”. Trong cuộc gặp gỡ ngày hôm đó Phạm Văn Đồng còn nói: “vấn đề khó khăn nhất bây giờ là vạch giới tuyến quân sự. Tôi đề xuất lý do vĩ tuyến 14 hoặc 15, nếu vạch tại vĩ tuyến 16 thì phía chúng tôi có tổn thất.”
Ngày 10 tháng 7, Ngoại trưởng các nước tham gia hội nghị Genève lần lượt trở lại Genève, Đầu đề bàn luận chủ yếu của giai đoạn sau là: giới tuyến tạm thời của Việt Nam nên ở chỗ nào. Hai là liệu ba nước Đông Dương đều cần tiến hành toàn dân bầu cử hay không? Cử hành vào thời gian nào?
Sau khi dừng lại một thời gian ngắn tại Moskva, chiều ngày 12 tháng 7, Chu Ân Lai trở lại Genève, và gặp ngay Trương Văn Thiên, Lý Khắc Nông, nghe họ giới thiệu tình hình xẩy ra tại đây trong thời gian Ngoại trưởng các nước rời Genève.
1 Xin độc giả chú ý tới cách đặt đầu đề này. Người dịch.
2 Sir Anthony Eden, sđd, tr. 131.
3 Nhân dân nhật báo, 26/5/1954, tr. 4.
4 Sir Anthony Eden, Sđd.
5 Foreign Relation of the United States 1952-1954, Volume XIV, sđd, tr. 1223-1126.
6 Truyện Eisenhower, Khoa học Xã hội XBX, 1989, tr. 209-210.
7 Chu Ân Lai niên phổ: 1949-1976, sđd, tr. 395 và Kim Xung Cập, sđd, tr. 173-174.
8 Phong vân ngoại giao của Mao Trạch Đông, Trung nguyên Nông dân XBX, 1996, tr. 96-97.
9 Kim Xung Cập, sđd, tr. 174.
10 Bản ghi báo cáo của Chu Ân Lai ngày 8/7/1954, tại Hội nghị thường vụ, Hội nghị chính trị hiệp thương toàn quốc khoá 1, kỳ họp thứ 57.
11 Chúng tôi lấy theo toàn văn bài đăng trong “Hồ Chí Minh toàn tập” 1951-1954, tập 6, NXB Sự thật, 1986 và chú thích những đoạn bị cắt bỏ, hay thay thế trong bản tiếng Trung. ND.
12 Phỏng vấn La Quý Ba tại Bắc Kinh ngày 18/4/1990, và dẫn theo ghi chép của TG.
13 Chu Ân Lai niên phổ: 1949-1976, sđd, tr. 396.
14 Trương Văn Thiên Truyện, Đương đại XBX, 1993, tr. 611 và Phỏng vấn Hà Phương tại Bắc Kinh ngày 31/12/1995.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:19:30 GMT 9
CHƯƠNG 29 Ngân Hà quay ngược, bàn luận đêm khuya Trở lại Genève, Chu Ân Lai không hề nghỉ ngơi một chút đã bước ngay vào cuộc hòa giải ngoại giao khẩn trương. Lúc này ông cảm thấy tình hình tế nhị nhất là suy nghĩ của Phạm Văn Đồng trước chỉ thị truyền tới từ nơi xa vạn dặm: “tướng ở ngoài, lệnh vua có cái không nghe”. Giờ phút ngả bài của hai bên Pháp, Việt đã tới gần. Không thể lại do dự khi đứng trước cơ hội dễ mất. Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng đã có một cuộc nói chuyện dài thâu đêm, kiên trì phân tích, chỉ ra bến mê, cuối cùng làm cho phương hướng giải quyết hòa bình hội nghị Genève tiến lên một bước quan trọng.
Ngày 12 tháng 7, Chu Ân Lai đặc biệt chăm chú nghe Lý Khắc Nông và Trương Văn Thiên báo cáo.
Từ ngày 22 tháng 6 đến ngày 9 tháng 7, người đứng đầu các đoàn đại biểu lần lượt về nước, đại biểu các nước lưu lại Genève trước sau đã họp 6 hội nghị có tính hạn chế về vấn đề Đông Dương, chủ yếu thảo luận các vấn đề như thành lập Ủy ban các nước trung lập và giám sát ngừng bắn v.v.. Cuộc đàm phán giữa nước Pháp và chính phủ Bảo Đại là một bên, cùng đoàn đại biểu quân sự nước Việt Nam DCCH bắt đầu từ ngày 2 tháng 6 đã từng bước đi sâu. Đại biểu phía Việt Nam tham gia lần đàm phán này là Tạ Quang Bửu, chức vụ đối ngoại là Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, trợ thủ chủ yếu của ông là Hà Văn Lâu, Cục trưởng Cục Tác chiến Tổng quân ủy quân đội Việt Nam, Đặng Tính, Nguyễn Thanh Sơn, Phó Cục trưởng. Người phụ trách đàm phán thực tế là Hà Văn Lâu. Để giúp Việt Nam đàm phán với đối thủ, ba phía Trung, Xô, Việt tổ thành một hội nghị liên tịch quân sự. Ngoài phía Việt Nam ra, những người tham gia của phía Trung Quốc là Lôi Anh Phu, Lâm Phong, Quách Anh Hội, Mã Liệt, Trương Dực, người của phía Liên Xô tham gia có trung tướng Philinkov, Cục trưởng Cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu. Nói chung không khí trong hàng loạt hội nghị này tương đối hòa nhập, trên các vấn đề như trao trả thương, bệnh binh v.v. đã thu được thành quả tích cực, nhưng trên vấn đề vạch giới tuyến tạm thời Nam, Bắc đã bị kẹt. Lý Khắc Nông trình bầy cách nhìn của mình: “Tôi có cảm giác có khả năng đoàn đại biểu Việt Nam không lãnh hội hoàn toàn ‘chỉ thị 5/7’ của Trung ương ĐLĐ Việt Nam, không chịu hạ quyết tâm bỏ khu vực Việt Minh khống chế nam vĩ tuyến 16 để đổi lấy khu vực đồng bằng sông Hồng, do quân Pháp khống chế, vì thế nên cứ lần lữa không đưa kiến nghị mới với phía Pháp, đàm phán tiển triển không lớn.
Trương Văn Thiên đồng ý với ý kiến của Lý Khắc Nông, cũng nói với Chu Ân Lai: “Tôi cho rằng đoàn đại biểu Việt Nam lần lữa không tuân theo tinh thần ‘chỉ thị 5/7’ của Trung ương ĐLĐ đề xuất kiến nghị mới với phía Pháp. Một mặt là do chưa tiêu thụ nổi, lãnh hội chưa đủ ‘chỉ thị 5/7’. Một mặt là do có người về tư tưởng đã đánh giá lực lượng của mình quá cao, đặc biệt là đánh giá chiến thắng Điện Biên Phủ quá cao, cho rằng Việt Minh đã giành được thắng lợi có tính quyết định, quân Pháp khó có thể đánh tiếp. Vì thế đã không đưa ra những nhượng bộ thích ứng, nói chung muốn Pháp nhượng bộ nhiều hơn một chút. Đồng thời họ còn có tư tưởng ‘Liên bang Đông Dương’, không giỏi phân biệt cách mạng nhân dân và đấu tranh giải phóng dân tộc là hai loại không cùng tính chất.”
Trương Văn Thiên cho rằng, nhất là ở Campuchia và Lào, chính phủ Vương quốc còn được lòng dân, “cách mạng là không thể xuất khẩu”, dựa vào Việt Minh, lực lượng bên ngoài không thể tiến hành cách mạng tại hai nước đó. Ông kiến nghị Chu Ân Lai: “làm tốt công tác với đoàn đại biểu Việt Nam, đi sâu bàn bạc trao đổi, đánh thông tư tưởng họ, thì sẽ có thể thúc đẩy đàm phán tiến lên.”
Nghe xong báo cáo, Chu Ân Lai giới thiệu với Lý Khắc Nông và Trương Văn Thiên quyết sách của Trung ương ĐCS Trung Quốc đối với hội nghị Genève, cũng như cách nhìn của mình. Ông nói, nhiệm vụ của đoàn đại biểu Trung Quốc là ra sức khôi phục hòa bình Đông Dương. Lần này tôi và Hồ Chủ tịch đã bàn đi bàn lại, nghiên cứu kỹ, Hồ Chí Minh và Trung ương ĐLĐ Việt Nam cho rằng tình hình có lợi cho Việt Nam vì thế mới hình thành “chỉ thị 5/7” yêu cầu đoàn đại biểu Việt Nam chấp hành. Trung ương ĐCS Liên Xô cũng cho rằng Đông Dương đình chiến là tốt, vì thế Molotov mới trở lại Genève trước thời hạn, để thúc đẩy tiến trình hội nghị.
Đối với phía Pháp mà nói, Mendès-France đã buộc số phận của mình với hòa bình Đông Dương, không thực hiện được hòa bình ông ta sẽ đổ, không được làm thủ tướng. Tôi và ông ta đã hội đàm mấy giờ, cảm thấy con người này tương đối thẳng thắn, có thể kết bạn, tôi tin là trong tay ông ta có thể thực hiện hòa bình Đông Dương.
Chu Ân Lai nói, nước Anh cũng cần hòa bình Đông Dương. Thuộc địa của Anh là láng giềng Đông Dương, họ vừa sợ làn sóng cách mạng xung kích vào thuộc địa của họ ở Châu Á, lại vừa sợ Mỹ dính líu vào với qui mô lớn. Còn sợ chiến tranh Đông Dương mở rộng sẽ cuốn họ vào chiến tranh với Trung Quốc. “Con người Eden thông minh, có kinh nghiệm ngoại giao, giỏi xoay sở, tôi tiếp xúc với ông ta cảm thấy ông ta muốn tác thành hòa bình Đông Dương. Tất nhiên ông ta có tính hai mặt, ví dụ như ông ta giúp Mỹ phá hoại hội nghị về vấn đề Triều Tiên, nhưng khi Bỉ đề nghị thông qua đề án cuối cùng của tôi lại thể hiện tính hai mặt. Ông ta đồng ý với tôi, thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại biện, nhưng lại không muốn ủng hộ việc khôi phục chiếc ghế của ta tại LHQ.”
Còn về Mỹ, họ tương đối cô lập trên vấn đề Đông Dương, họ làm “liên hiệp hành động” không thành công. Đại biểu Campuchia và Lào vốn trước đây đi theo họ, qua công tác của chúng ta, bọn họ thấy được là bị mắc mưu, hiện nay bọn họ đang thoát khỏi sự khống chế của Mỹ, dựa vào chúng ta. Trước mắt chỉ còn một Bảo Đại, Việt Nam vẫn còn theo Mỹ.
Chu Ân Lai chỉ ra, trên đây là những nhân tố có lợi, cũng có những nhân tố bất lợi. Chủ yếu là Mỹ không muốn nhìn thấy Trung Quốc mới phát huy tác dụng trong hội nghị Genève, muốn thi hành chính sách “kiềm chế”. Họ đang gia tăng áp lực với chính phủ Pháp. Mặc dù phái chủ chiến của Pháp đã bị đổ, nhưng vẫn có ý đồ sẽ trở lại cầm quyền. Họ muốn kéo dài qua thời hạn bốn tuần lễ, khiến Mendès-France bị đổ.
Chu Ân Lai nói, còn một nhân tố không lợi xuất hiện trong nội bộ chúng ta, có đồng chí trong đoàn đại biểu Việt Nam chưa thông tư tưởng đối với “chỉ thị 5/7”, sợ bị hố. Đó là điều tự nhiên và cũng có thể hiểu được. Nâng cao cảnh giác, đề phòng mắc mưu khi chơi với chủ nghĩa đế quốc là đúng, thế nhưng cũng cần có tính linh hoạt trong đấu tranh. Tôi đã nhiều lần bàn bạc với Phạm Văn Đồng, đánh có thể tranh thủ được thắng lợi, nhưng phải trải qua đấu tranh gian khổ lâu dài, hơn nữa phải chuẩn bị Mỹ mở rộng chiến tranh. Vì thế hòa càng có lợi, có thể tranh thủ cơ hội phát triển, củng cố lực lượng của mình, sẽ lại có tiến thủ.
Về vấn đề Campuchia, Lào, tôi cũng đã nói với Phạm Văn Đồng đạo lý “không thể xuất khẩu cách mạng”, tôi cũng đã phân tích tỉ mỉ với đồng chí đó là tình hình Việt Nam, Lào, Campuchia không hoàn toàn giống nhau, giới hạn của dân tộc và quốc gia ba nước vô cùng rõ ràng.
Chính phủ Vương quốc Lào và Campuchia vẫn là chính phủ hợp pháp trong tim óc đại đa số nhân dân, hơn nữa còn được mấy chục nước công nhận. Ở hai nước Lào, Campuchia, cục diện kháng chiến chủ yếu là dựa vào sự giúp đỡ của Việt Minh mở ra. Trong tình hình này, nếu không chú ý tới sự khu biệt và giới hạn quốc gia rõ ràng của ba nước Đông Dương mà đề xuất xây dựng “Liên bang Đông Dương” là làm tổn hại nghiêm trọng tới chủ quyền và độc lập của hai nước Lào, Campuchia, và trên thực tế cũng là “xuất khẩu cách mạng”. Điều này không đứng vững về lý luận và trong thực tiễn cũng không thi hành được. Vì thế phải công nhận chính phủ Vương Quốc hai nước Lào, Campuchia, tranh thủ và cổ vũ họ trung lập, tiến tới từng bước tiếp cận chúng ta. Hiện nay xem ra Phạm Văn Đồng dường như thông rồi mà vẫn chưa thông, vì thế cần kiên nhẫn làm công tác đồng chí đó. Bởi vì xét cho cùng chúng ta không phải là nước đương sự, quyết định vẫn phải dựa vào việc làm của họ và Pháp, chúng ta chỉ có thể thúc đẩy từ trong đó.
Chu Ân Lai hạ quyết tâm: “Tối hôm nay tôi sẽ phải dựa vào ý kiến của Trung ương ba đảng, gặp đồng chí đó, nói chuyện dài, bàn bạc tỉ mỉ.”
Chu Ân Lai còn chỉ rõ, khó khăn hiện nay phải đối mặt, cũng còn ở chỗ hai phía Việt Nam tồn tại nhiều bất đồng, đặc biệt là trong việc chia giới tuyến bất đồng rất lớn. Nước Pháp chủ trương lấy vĩ tuyến 18 làm giới hạn, Trung ương ĐLĐ Việt Nam chủ trương trên vĩ tuyến 16, nhưng đoàn đại biểu Việt Nam vẫn dừng lại ở vĩ tuyến 14-15. Muốn giảm nhỏ khoảng cách giành được thỏa hiệp, cả hai bên đều phải có nhượng bộ, thậm chí nhượng bộ tương đối lớn.
Phát biểu của Chu Ân Lai được sự tán thành nhất trí của những người phụ trách đoàn đại biểu Trung Quốc. Sau đó ông tới chào Molotov, thông báo dự tính của mình. Molotov hoàn toàn đồng ý cách nhìn của Chu Ân Lai.
9 giờ 30 tối hôm đó, dưới sự tháp tùng của Trương Văn Thiên, Lý Khắc Nông, Sư Triết, Chu Ân Lai đã tới khách sạn đoàn đại biểu Việt Nam ở, hội đàm với Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan, Phan Anh, Trần Công Tường.
Trước tiên Phạm Văn Đồng thông báo với Chu Ân Lai những điểm chính trong hội đàm giữa ông và Mendès-France trong hai ngày qua. Thì ra ngày 11 và 12 tháng 7, Phạm Văn Đồng đều đến biệt thự của đoàn đại biểu Pháp hội đàm với Mendès-France, mỗi lần bàn bạc một giờ, tiêu điểm của đàm phán là vạch đường giới tuyến.
Phía Pháp kiên trì lấy vĩ tuyến 18 bắc làm đường giới tuyến. Tất nhiên Phạm Văn Đồng không đồng ý, nói, đường chia giới tuyến này rất không công bằng, không hợp lý. Mendès-France nói, rất khó tìm được biện pháp tốt hơn.
Phạm Văn đồng thử thăm dò đề xuất vĩ tuyến 16. Mendès-France ngang nhiên từ chối, về căn bản không bàn tiếp được nữa.
Về vấn đề tiến hành bầu cử phổ thông thực hiện Việt nam thống nhất, Mendès-France biểu thị đồng ý trên nguyên tắc, nhưng không xác định thời hạn từ lúc ngừng bắn đến khi bầu cử. Ông ta hy vọng đẩy lùi thời gian về phía sau một chút, nói phía Việt nam yêu cầu quân đội Pháp nhanh chóng rút khỏi Việt Nam, nhưng trên thực tế rút quân quá nhanh, quá sớm cũng không được, muốn nhanh chóng bầu cử phổ thông cũng không làm được. Bởi vì rút quân và bầu cử phổ thông có liên quan, cũng phải chiếu cố tới quan hệ giữa Pháp và chính phủ Bảo Đại.
Thế nhưng phía Pháp đồng ý nguyên tắc Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất, tán thành thông qua bầu cử phổ thông tổ thành chính phủ toàn quốc.
Phạm Văn Đồng nói với Mendès-France, nhân dân mong muốn là như vậy, chúng tôi cũng yêu cầu thực hiện một số. Phạm Văn Đồng hỏi, khi phía Pháp thúc đẩy thực thi phương án bầu cử phổ thông liệu thái độ với chính phủ Bảo Đại có xuất hiện thay đổi hay không?
Mendès-France trả lời, tôi sẽ hết sức thực thi ảnh hưởng với họ, khiến chính phủ Bảo Đại phát triển theo phương hướng đó.
Khi bàn đến quan hệ Việt, Pháp Phạm Văn Đồng cho rằng đó là vấn đề lớn mang tính căn bản. Nếu quan hệ hai bên tốt thì vấn đề gì cũng có thể giải quyết tốt. Hai nước Pháp, Việt nên xây dựng quan hệ chặt chẽ về kinh tế và văn hóa.
Mendès-France biểu thị đồng ý với ý kiến Phạm Văn Đồng, cho rằng vấn đề này còn có thể tiếp tục thương thảo. Mendès-France nói, tôi xuất thân từ làm kinh tế, tất nhiên quan tâm đến quan hệ kinh tế Pháp, Việt.
Phạm Văn Đồng nói, về vấn đề liệu Việt Nam có gia nhập Liên hiệp Pháp hay không, còn có thể thương thảo nữa.
Khi bàn đến vấn đề Lào và Campuchia, Mendès-France cho rằng vấn đề Việt Nam mới là then chốt nhất. Nếu vấn đề Việt Nam giải quyết không tốt, thì vấn đề Lào và Campuchia không biết bàn từ đâu. Nếu vấn đề Việt Nam giải quyết tốt, thì vấn đề Lào và Campuchia chỉ dùng mấy giờ là có thể giải quyết, vì thế hiện nay không vội giải quyết vấn đề hai nước Lào, Campuchia.
Phạm Văn Đồng giới thiệu với Chu Ân Lai nói, ông và Mendès-France đàm phán, ngoài việc phân chia giới tuyến quân sự như thế nào ra, các vấn đề còn lại đều thuận lợi. Phạm Văn Đồng nói, Mendès-France thể hiện tròn trịa lão luyện, nhưng vẫn gây cho người ta ấn tượng thành thực đáng tin, không khí hội đàm là hòa nhập.
Phạm Văn Đồng nói rất nghiêm túc, chọn câu lựa chữ, lại cộng thêm phiên dịch nên giới thiệu xong tình hình đã nửa đêm.
Đến lượt Chu Ân Lai phát biểu, ông kiến nghị với Phạm Văn Đồng và những người khác, bàn bạc ở khách sạn này điều kiện bảo mật kém, hay là đến biệt thự Vạn Hoa bàn tiếp?
Thế là Phan Anh, Trần Công Tường rút lui, chỉ còn Phạm Văn Đồng cùng Chu Ân Lai v.v.. đến biệt thự Vạn Hoa. Phía đoàn đại biểu Trung Quốc, Sư Triết cũng rút lui.
Sau khi đến biệt thự Vạn Hoa, Phạm Văn Đồng nói với Chu Ân Lai, khi ông hội đàm với Thủ tướng Pháp, Mendès-France đã đưa một dự thảo phương án của Pháp về vấn đề giải quyết Đông Dương để ông xem một chút và trưng cầu ý kiến. Phạm Văn Đồng nói, văn kiện này gồm hai tờ giấy đánh máy, nội dung gồm các điểm có thể đạt thành hiệp nghị giải quyết vấn đề Đông Dương, trong đó điều khoản liên quan đến Việt Nam tương đối nhiều một chút. Mendès-France nói với Phạm Văn Đồng, ngày 13 sau khi sửa xong phái Pháp sẽ trao văn kiện này để phía Việt Nam nghiên cứu.
Tình hình này cho thấy rõ, đàm phán đã tiến vào giai đoạn cuối cùng, thời gian hai bên ngả bài đã tới gần.
Chu Ân Lai giới thiệu với Phạm Văn Đồng những kinh qua khi ông thăm Ấn Độ và Miến Điện, sau đó kể lại tỉ mỉ tình hình hội nghị Liễu Châu.
Chu Ân Lai nói, liệu có thể thông qua chiến tranh giành được toàn bộ Việt Nam không? Tại hội nghị Liễu Châu đã nêu ra vấn đề này. Mọi người cho rằng làm như vậy rất khó khăn. Giả định không có sự can thiệp của Mỹ, chỉ đánh nhau với Pháp, Võ Nguyên Giáp cho rằng còn phải dùng ba năm nữa mới được. Vi Quốc Thanh cho rằng chí ít là ba năm. Thế nhưng một khi Mỹ tiến hành can thiệp thì sao? Lúc đó không phải là vấn đề ba năm nữa.
Chu Ân Lai nói, trên thực tế, sự can thiệp của Mỹ là không thể nào tránh khỏi. Từ khi chiến tranh Việt nam bùng nổ đến nay, nước Mỹ không hề chắp tay đứng nhìn, sự can thiệp của họ vào Việt Nam ngày một mở rộng. Đến giờ phút then chốt, sự can thiệp của Mỹ có thể đột ngột mở rộng đến bước nghiêm trọng. Trước khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, phía Triều Tiên giành hết thắng trận này đến thắng trận khác, tiến sát Pusan. Lúc đó Mao Trạch Đông đã từng đề xuất với Kim Nhật Thành, Choi Yong Kun [Thôi Dũng Kiện], nên tính tới vấn đề Mỹ tiến hành can thiệp vũ trang. Quả nhiên không lâu sau đó can thiệp vũ trang của Mỹ đã đến. Bọn họ một mạch tiến sát sông Áp Lục, Trung Quốc gửi sang hơn một triệu quân chí nguyện, chỉ làm được việc đuổi họ về vĩ tuyến 38, chiến sự trở nên giằng co.
Chu Ân Lai nói, hiện nay QĐND Việt Nam chưa tạo thành cục diện giống như thế.Thế nhưng vẫn phải đề phòng Mỹ tiến hành can thiệp. Bởi vì một khi Mỹ can thiệp, phía chúng ta chưa chắc thông qua chiến tranh giành được toàn thắng, mà còn có khả năng mất vùng giải phóng hiện nay đã giành được.
Vậy thì liệu có thể thực hiện được hòa bình không? Chu Ân Lai nói, giả sử tại vùng phụ cận vĩ tuyến 16 vạch đường giới tuyến quân sự, thực hiện ngừng bắn, đối với phía chúng ta có lợi hay không? Đáp án của mọi người đối với việc này là khẳng định. Như vậy sẽ có lợi cho miền Bắc Việt Nam, vì như vậy sẽ có khả năng có lãnh thổ liền một khối. Vạch giới tuyến ở vùng gần vĩ tuyến 16 vẫn còn có thể có 12 triệu dân, còn miền Nam chỉ có 9 triệu.
Chu Ân Lai nói, vạch giới tuyến tại vĩ độ 16, miền Bắc có thủ đô có hải cảng, có thể tiến hành xây dựng giao thông, phát triển kinh tế. Về chính trị Việt Nam không giống nước Đức và Triều Tiên, chúng ta ở vào địa vị ưu thế có lợi rất nhiều. Chính phủ Bảo Đại yếu hơn chính phủ Lý Thừa Vãn. Trước tiên hòa bình có lợi cho phát triển kinh tế miền Bắc Biệt Nam. Có thể tranh thủ nước Pháp, tranh thủ các nước trong Liên hiệp Anh, tranh thủ các nước Đông Nam Á, làm suy yếu lực lượng của phần tử hiếu chiến.
Chu Ân Lai nói, phái chủ hòa Pháp là đối tượng chủ yếu chúng ta tranh thủ hôm nay. Có thể nói chính phủ Mendès-France là chính phủ tương đối tốt mà phái chủ hòa nước Pháp có thể lập được, chúng ta phải tranh thủ chính phủ đó. Tất nhiên tại Việt Nam sau khi trải qua bẩy, tám năm chiến tranh muốn tiến hành mặt trận thống nhất với quốc gia vốn là đối địch (nước Pháp) và chính phủ đối địch (Bảo Đại) là có khó khăn. Năm 1935 khi chúng tôi trường chinh đến Ngõa Dao Bảo, đồng chí Mao Trạch Đông đã chỉ ra, phải cùng tập đoàn Tưởng Giới Thạch thiết lập mặt trân dân tộc thống nhất chống Nhật. Đa số trong Trung ương đảng tán thành, thiểu số đồng chí phản đối, tranh luận khoảng nửa năm. Tôi là một trong thiểu số đó, bởi vì tôi đã cùng Tưởng Giới Thạch làm mặt trận thống nhất và tận mắt nhìn thấy hắn ta phản bội cách mạng. Tôi có kinh nghiệm đó cho nên không tin có thể cùng Tưởng Giới Thạch làm mặt trận thống nhất. Thế nhưng đồng chí Mao Trạch Đông đã đúng. Sau này trong sự biến Tây An tôi đã chấp hành chủ trương của Trung ương tiến hành công tác phóng thích Tưởng Giới Thạch.
Nếu như muốn hòa bình, chia vùng, nhất định sẽ có vấn đề rút quân. Chu Ân Lai nói từ bài học kinh nghiệm trong lịch sử ĐCS Trung Quốc, đề nghị Phạm Văn Đồng suy ngẫm: rút quân đội của mình ra khỏi vùng giải phóng hoạt động lâu dài là một việc rất không dễ dàng, rất tổn thương đầu óc. Nhưng để giành được lợi ích toàn cục, có khi không thể không hy sinh lợi ích cục bộ; vì lợi ích lâu dài có khi không thể không hy sinh lợi ích trước mắt. Các đồng chí hiện nay đang đứng trước việc phải rút bỏ vùng Nam bộ và nam Trung bộ và những khó khăn do việc rút quân đội khỏi những nơi đó. Đảng Trung Quốc chúng tôi cũng có kinh nghiệm của hai lần rút quân tương tự, đã trải qua những khó khăn như vậy. Vì thế chúng tôi cảm thấy hiểu biết sâu sắc về những khó khăn của các đồng chí Việt Nam hôm nay. Kinh nghiệm của chúng tôi nói cho chúng ta, trong tình hình giống như vậy, “vứt bỏ” ngược lại chính là giành được, “hai không vứt bỏ” ngược lại sẽ là “tổn thất”. Trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, tại Tân Tứ quân miền nam An Huy, mặt trước chúng tôi kháng chiến chống Nhật, mặt sau bị quân Quốc Dân đảng công kích, đồng chí Mao Trạch Đông chủ trương rút sang phía bắc sông, Hạng Anh, người có trách nhiệm lãnh đạo lúc đó cho rằng cơ sở quần chúng vùng đó kém, vì thế đã do dự, kéo dài bốn tháng, kết quả là lâm vào bị động, khiến Tân Tứ quân ở nam An Huy trong “sự biến nam An Huy” năm 1941 bị tổn thất lớn. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, chúng tôi có kế hoạch rút bộ đội ở nam Giang Tô và Đông Giang lên bắc Giang Tô và Sơn Đông, chỉ để lại cán bộ làm công tác quần chúng, kết quả là đã bảo lưu được bộ đội dễ bị tan vỡ, tập trung được lực lượng, đồng thời cũng bảo tồn được cơ sở công tác quần chúng địa phương một các thích đáng, có lợi cho việc tiếp tục phát triển chiến tranh giải phóng sau này. Nhưng ở vùng Trung Nguyên, do cơ sở quần chúng tốt, tương đối gần vùng giải phóng miền Bắc, đã kéo dài 5 tháng, cuối cùng bị bao vây, không thể không phá vây trong thế yếu, kết quả ba vạn người của sư đoàn 5 Tân Tứ quân chỉ còn mấy ngàn người ra được, còn không kịp để lại cán bộ, cơ sở quần chúng cũng bị phá hoại rất lớn. Lúc đó việc rút quân của chúng tôi không có vùng trao đổi, nếu đối phương muốn lấy Bắc Kinh, Thiên Tân để trao đổi hoặc lấy Đông Bắc để trao đổi, thì trong Đảng lúc đó nhất định sẽ tán thành rút quân lớn hơn nữa, thậm chí có thể hoàn toàn rút khỏi bắc Giang Tô.
Trước mặt có chỉ thị của Hồ Chí Minh, nên Chu Ân Lai nói đến đó, thái độ của Phạm Văn Đồng đã có thay đổi rõ rệt. Chu Ân Lai tiến tới bàn tiếp một số vấn đề cụ thể.
Về vấn đề chia giới tuyến quân sự ở Việt Nam, Chu Ân Lai cho rằng, nếu như phía chúng ta bảo lưu vùng tập kết nhỏ tại Liên khu Năm thì phía Pháp cũng sẽ đề xuất vấn đề bảo lưu vùng tập kết nhỏ tại đồng bằng sông Hồng, nếu vậy phía ta sẽ tương đối bị động. Bây giờ nếu như có thể rứt khoát lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới, thì có thể thành lập trước một dạng quốc gia, tiến thì có thể thông qua bầu cử phổ thông mà hoàn thành thống nhất cả nước, lùi thì cũng có thể từ vùng vĩ tuyến 16 trở ra bắc tiến hành xây dựng hòa bình dân chủ. Những thay đổi trên thế giới thường xuyên phát sinh, bầu cử phổ thông có thể thực hiện sau ngừng bắn cũng có thể bị kéo dài vô thời hạn, hãy nắm trước cái có thể nắm chắc trong tay mình là thỏa đáng hơn. Nắm chắc trước vùng từ vĩ tuyến 16 ra bắc là biện pháp tương đối thỏa đáng.
Chu Ân Lai đề xuất lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới, đối phương có khả năng đề xuất không thể nhường Đà Nẵng, Huế và đường 9 làm lý do để từ chối. Phía chúng ta nên nhượng bộ về ba điều kiện dưới đây, để tiện giành được hiệp nghị, một là nhường cho đối phương sử dụng đường 9 làm đường giao thông đến Lào, phía chúng ta có thể giành được một số điều kiện trao đổi với đối phương trong đàm phán một cách thích đáng. Nếu như đối phương bảo lưu quyền khống chế, quyền sử dụng cảng Đà nẵng một năm, chúng ta cũng có thể yêu cầu bảo lưu quyền khống chế, quyền sử dụng trong một năm tại một nơi nào đó ở Trung bộ hoặc Nam bộ; nếu như đối phương yêu cầu bảo lưu Hải Phòng làm trạm trung chuyển quân đội trong nửa năm hoặc mười tháng, yêu cầu tiến hành chiếu cố về chính trị, áp dụng biện pháp khoan dung với hai vùng giáo dân Bùi Chu và Phát Diệm, thì phía chúng ta cũng có thể đề xuất yêu cầu giống như vậy tại Trung bộ, Nam bộ; đối phương yêu cầu phía chúng ta bảo đảm an toàn rút quân, phía chúng ta có thể đề xuất yêu cầu đối phương ngừng oanh tạc đường giao thông của phía ta.
Chu Ân Lai bổ sung nói, văn kiện ngày 5 tháng 7 của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi gửi xuống dưới, đồng chí Mao Trạch Đông có điện hỏi, liệu vĩ tuyến 16 có thể đạt thành hiệp nghị, liệu có thể suy tính tới việc vạch giới tuyến ở vĩ tuyến 16 ra bắc? Qua thương nghị lại với Hồ Chủ tịch đã quyết định lấy đường 9 làm giới tuyến. Mặc dù điểm này không viết trong văn kiện, nhưng đúng là đã quyết định như vậy. Cuối cùng Chủ tịch Mao Trạch Đông còn nói, để đạt được hiệp nghị, chỉ cần không thay đổi những điểm quan trọng nhất, trong đàm phán có thể tiếp nhận những phương pháp thay đổi không vi phạm nguyên tắc có thêm bớt đôi chút so với phương án.
Về vấn đề bầu cử. Chu Ân lai chỉ ra, Mendès-France đã nhiều lần biểu thị tán thành nguyên tắc thông qua bầu cử thực hiện thống nhất, nhưng chủ trương không nên quá nhanh mà muốn chậm lại. Ông ta đang suy nghĩ, nên dùng cách nói nào hoặc biện pháp nào để giải quết vấn đế này. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tốt nhất là định thời hạn, qui định cụ thể là sau ngừng bắn một, hai năm sẽ tiến hành bầu cử, nói chung so với không định thời hạn là tốt hơn, nhưng để tránh tạo thành cục diện cứng nhắc, Chu Ân lai cho rằng có thể đạt thành hiệp nghị có tính nguyên tắc trong lần hội nghị này, sau đó sẽ có hiệp định khác định thời hạn.
Về Lào và Campuchia, Chu Ân Lai chỉ ra, ở Lào có thể vạch hai tỉnh vùng đông bắc, chỉ cần làm cho không thể xây dựng căn cứ quân sự Mỹ là có thể tiếp tục chịu ảnh hưởng của Việt Nam. Về Campuchia, nên đồng ý rút quân đội Việt Nam khỏi nơi này.
Chu Ân Lai chỉ ra thêm, Trung ương ĐCS Liên Xô và Trung ương ĐCS Trung Quốc đều cho rằng phải tiến hành đàm phán tại hội nghị Genève một cách chủ động, tích cực, nhanh chóng, phải làm cho vấn đề đơn giản hóa, tránh làm cho đàm phán phức tạp hóa, phải lấy phía Pháp làm đối tượng chủ yếu, điều kiện nêu ra phải tính tới khả năng tiếp nhận của đối phương.
Bàn chuyện đến đây, trời đã đầy sao sáng, Ngân hà như đang trôi, thành Genève đang ngủ say trong vòng tay của đêm lớn.
Chu Ân Lai vẫn phấn chấn tinh thần, nói với Phạm Văn Đồng, giờ đây hội nghị Genève đã bước vào giai đoạn cuối cùng, công việc thành hay bại sẽ sớm rõ. Vì thế Molotov đã đồng ý chủ trương của Eden, trước mắt chưa triệu tập hội nghị tập thể, mà phần nhiều để cho các nước tham dự tham dự hội nghị tiến hành hoạt động ngoài hội nghị và hòa giải ngoại giao. Một sự việc cũng đã rõ, chiều mai (13 tháng 7) Mendès-France và Eden sẽ đến Paris gặp Dulles.
Chu Ân Lai nói với Phạm Văn Đồng để làm tốt công việc trước khi Mendès-France xuất phát, đồng chí nên chủ động gặp ông ta hội đàm một lần nữa, chủ động đề xuất kiến nghị cụ thể về một số vấn đề quan trọng, làm cho Mendès-France khi hội đàm với Dulles trong lòng đã có cơ sở. Như vậy vừa có thể giảm bớt tính phá hoại của Dulles đối với hội nghị Genève, thậm chí còn có thể khiến ông ta cũng đến Genève tham gia phiên họp cuối cùng của hội nghị.
Trước khi hội đàm với ngoại trưởng Pháp, Anh, Mỹ phía chúng ta nói gì với bọn họ? Chu Ân Lai một lần nữa chỉ ra rõ ràng, chủ yếu là vấn đề vạch giới tuyến. Phía chúng ta có thể suy tính lấy vĩ tuyền 16 làm giới tuyến. Chúng ta không nên do dự nữa, bởi vì thời gian đã trở nên ngắn ngủi, kéo thêm nữa, ngược lại sẽ không tốt. Thứ hai là về vấn đề vùng tập kết quân sự của Lào, vấn đề nước thành viên của Ủy ban Giám sát, vấn đề tiến hành bầu cử phổ thông tại Việt Nam, tất cả đều có thể đề xuất với Mendès-France.
Chu Ân Lai nói, trên không ít vấn đề lời nói và việc làm của Mendès-France vẫn còn nhất trí, ông ta muốn thực hiện lời hứa, chúng ta nên tranh thủ Mendès-France khiến hội nghị Genève về Đông Dương đạt được hiệp nghị, giành được thành công.
Nghe Chu Ân Lai nói đến đó, cuối cùng Phạm Văn Đồng đã thay đổi thái độ nói, ông cảm ơn những giới thiệu và ý kiến của thủ tướng Chu, ông nhất định sẽ nghiêm túc suy nghĩ những kiến nghị của thủ tướng Chu, đồng thời làm theo quyết định của Trung ương ĐLĐ Việt Nam.1
Một lần nữa, thông qua những cố gắng của mình, Chu Ân Lai đã thúc đẩy hội nghị Genève tiến thêm một bước lớn theo hướng giải quyết hòa bình.
Lúc này Genève đã là buổi bình minh.
1 Phỏng vấn La Quí Ba tại Bắc Kinh ngày 18/4/1990, và dẫn theo những ghi chép có liên quan của ông.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:20:13 GMT 9
CHƯƠNG 30 Đề nghị nước Pháp đi trước một bước
Hoạch định giới tuyến tạm thời là khó khăn lớn nhất trong đàm phán Pháp, Việt. Lần thứ hai hội kiến Chu Ân Lai, Mendès-France hy vọng nhượng bộ về bầu cử để đổi lấy việc Việt Nam tiếp nhận vĩ tuyến 18. Chu Ân Lai tiếp tục hòa giải giữa Mendès-France và Eden, tỏ rõ cho họ biết, nếu nước Pháp tiến trước một bước, Chủ tịch Hồ Chí Minh Việt Nam sẽ vui lòng có những nhượng bộ lớn hơn. Chỉ có làm như vậy thì Dulles đã tới Paris mới không tìm được cớ phá hoại hòa bình Đông Dương
Từ sau cuộc gặp gỡ Chu Ân lai ngày 23 tháng 6 tại Bern, để làm cho hội nghị Genève đạt được hiệp nghị, Mendès-France trước sau đều cố gắng. Ông ta chỉ thị Chauvel lưu lại Genève, duy trì tiếp xúc chặt chẽ với Phạm Văn Đồng, dò cho rõ tủ của Việt Nam. Mặt khác ông ta tiếp tục tìm kiếm sự ủng hộ của hai nước Mỹ, Anh. Trong thời gian thủ tướng và ngoại trưởng Anh tới Mỹ hội đàm, Mendès-France đã nhiều lần gửi điện cho Dulles hy vọng ông ta trở lại Genève.
Lúc đầu, Dulles ngang nhiên từ chối lời thỉnh cầu của Mendès-France. Nhưng Mendès-France khăng khăng kiên trì, gọi điện nói nếu ngài không thể đến Genève thì làm thế nào có thể đến Paris thương thảo được? Dưới sự kiên trì đề nghị, Dulles và tổng thống Eiseinhower phải tiến hành thảo luận 45 phút. Eisenhower cho rằng nước Mỹ vẫn có sức mạnh ảnh hưởng đến tiến trình hội nghị Paris, ông ta nghiêng về phía Dulles đi Paris gặp Mendès-France.
Trong thời gian hội nghị Genève nghỉ họp, thái độ Phạm Văn Đồng vẫn cứng rắn, nhiều lần nhấn mạnh lấy vĩ tuyến 13 nhiều nhất là 14 để chia giới tuyến, hội đàm Pháp, Việt lâm vào cục diện cứng nhắc.
Ngược lại Chauvel vẫn bình tĩnh như ban đầu và Mendès-France vẫn nén được cơn bực. Ngay 2 tháng 7, ông ta gửi thư cho Chauvel: “Chúng tôi có thể tượng tượng được những khó khăn ông gặp trong hội đàm, chúng tôi cảm thấy phấn khởi là mặc dù đàm phán phức tạp như vậy biến hóa vô định như vậy, nhưng ông vẫn tự mình giữ được bình tĩnh. Tôi cho rằng giống như ông đã làm được như vậy, chúng ta còn phải “kiên trì thêm chút nữa” chứ không thể để lộ sự lo lắng và không yên của chúng ta. Rõ ràng là đối thủ đàm phán của chúng ta đang dùng thời hạn ngày 20 tháng 7 để kiếm chuyện, bọn họ đã cho rằng chúng ta đã gấp đến mức không thể đợi được nữa. Đúng thế, chúng ta xác nhận là có lo lắng, thế nhưng chúng ta không thể tiếp nhận bất kỳ điều kiện nào của đối thủ, ví dụ như vĩ tuyến 13 bắc. Vì vậy tôi cũng không vì đối thủ chế tạo ra cục diện cứng nhắc mà hoảng sợ. Từ góc độ xấu nhất mà nói, có thể vào ngày 12 tháng 7 (thậm chí muộn hơn vài ngày), khi chúng ta họp lại sẽ nhặt đám dây thừng rối lung tung đó lên gỡ lại, không đến ngày 19 tháng 7 chúng ta sẽ đánh con chủ bài cuối cùng.
Ngày 8 tháng 7 Molotov trở lại Genève, hai hôm sau, Mendès-France đến gặp ông, thảo luận vấn đề thực chất” giới tuyến tạm thời sẽ vạch ở đâu? Mendès-France kiên trì chủ trương lấy vĩ tuyến 18 làm giới tuyến.
Molotov trả lời nam vĩ tuyến 18 có mấy tỉnh do Việt Minh khống chế.
Mendès-France tranh luận nói: “cần phải đạt được so sánh tương đối cân bằng về chính trị, ở đây tính quan trọng của nguyên trạng là thứ hai. Chúng ta phải tập trung lực lượng phân chia hai vùng tập kết lớn. Phải thông qua hoạch định đường giới tuyến để giảm bớt ma sát của hai bên, giới tuyến này càng ngắn càng tốt. Đoạn thích hợp nhất là vùng gần vĩ tuyến 18. Không được quên rằng chúng ta phải làm cho mọi đoàn đại biểu tham dự hội nghị đều có thể tiếp nhận hiệp nghị. Cần phải biết đại biểu chín phía làm sao có thể tiếp nhận được đường giới tuyến vượt qua vĩ tuyến 18 (xuống nam)
Sáng sớm ngày 11 tháng 7, dưới hàng cây trong biệt thự đoàn đại biểu Pháp ở, Mendès-France triệu tập các trợ thủ họp một cuộc họp nhỏ, xác nhận xem hiện nay nước Pháp đang ở vị thế nào. Chauvel báo cáo cuộc hội đàm hôm qua của ông ta với Phạm Văn Đồng.
Người Pháp cho rằng từ khi hội nghị Genève khai mạc đến nay rốt cuộc đã thu được không ít tiến triển, một là từ tháng 5, Việt Minh đồng ý tách rời vấn đề quân sự để đàm phán, thực hiện ngừng bắn trước, ngày 25 tháng 5 lại đồng ý phân trị Việt Nam, quân đội Việt Nam rút khỏi Lào, Campuchia. Bây giờ phương án cơ bản của phía Pháp là:
Tận khả năng đẩy đường giới tuyến lên phía bắc.
Tận khả năng đẩy lùi thời gian tổng tuyển cử, giành thời gian cho chính phủ Bảo Đại củng cố chính quyền.
Tranh thủ tận khả năng nới rộng thời gian quân Pháp rút khỏi miền Bắc. Để nhấn mạnh quyết tâm của nước Pháp, hội nghị quyết định công khai trong nước việc trưng binh đi Đông Dương.
Nhưng làm thế nào bảo đảm Việt Nam rút quân khỏi Lào và Campuchia? Hội nghị cho rằng cuộc nói chuyện của Chu Ân Lai với Bidault ngày 17 tháng 6 và cuộc nói chuyện với Mendès-France ngày 23 tháng 6 là đã có bảo đảm.
Chỉ có vấn đề Lào tương đối phức tạp, ngày 9 tháng 7 đại biểu quân sự Việt Minh trong hội đàm đã đột ngột đề xuất cũng phải vạch đường giới tuyến quân sự nhằm bảo đảm an toàn cho Pathet Lào, còn đề xuất phải vạch một dải tập kết cho lực lượng vũ trang Campuchia chỉ có mấy trăm người.
Sau cuộc họp này Mendès-France hội kiến Phạm Văn Đồng. Vừa gặp Phạm Văn Đồng đã biểu thị phía Việt Nam có thể nhượng bộ, khiến Mendès-France phấn khởi đến mức tim đập rộn rã. Kết quả Phạm Văn Đồng nói, giới tuyến tạm thời có thể từ vĩ tuyến 13 lùi lên vĩ tuyến 14. Điều này khiến Mendès-France trong lòng vô cùng bực tức. May mà Chauvel mang lại một tin khiến ông ta có thể yên lòng: chiều ngày 9 ông ta gặp Lý Khắc Nông đoàn đại biểu Trung Quốc và Trương Văn Thiên vừa từ Moskva trở về. Trương Văn Thiên nói với ông ta, trong khoảng ba, bốn ngày Chu Ân Lai sẽ quay lại Genève. Trước đó Chu Ân Lai đã cùng Hồ Chí Minh cử hành một “hội nghị rất tốt” sẽ giúp cho giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước Việt, Pháp.
Nhưng trái tim Mendèss-France lại lập tức co bóp mạnh, đó là vì Dulong đại sứ Mỹ tại Pháp vừa chuyển cho ông một bức thư của Dulles. Dulles tuyên bố mình không thể đến Genève được.
Không ngờ vào ngay tối hôm đó, Dulong đã tìm gặp Mendès-France và nói với ông: “Dulles hy vọng gặp ông.”
“Có phải ông ta dự định tới Genève?” Mendès-France hỏi.
“Không, Dulles dự định tới Paris, ông ta không muốn đi Genève.”
“Vào hôm nào?”
“Có thể ngày mai ông ta tới Paris.” Câu nói đó của đại sứ Mỹ khiến Mendès-France nhìn thấy tia hy vọng.
Điều càng làm cho Mendès-France phấn khởi là sáng sớm ngày 13 tháng 7, Mendès-France nhận được lời mời hẹn gặp của Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc, điều này thuyết minh sự tình rất có thế chuyển biến tốt. 10 giờ 30 sáng, Mendès-France cùng Chauvel, và phiên dịch viên đến Vạn Hoa gặp Chu Ân Lai.
Chu Ân Lai vừa kết thúc cuộc nói chuyện dài thâu đêm với Phạm Văn Đồng dường như không nghỉ ngơi, đã hội kiến Mendès-France. Trước tinh lực rồi rào của ông, các phiên dịch trong đoàn đại biểu khâm phục tới mức không biết nói thế nào.
Vừa gặp mặt Mendès-France đã nói, rất phấn khởi vì được gặp ngài lần nữa, cùng làm việc với nhau tại giai đoạn cuối cùng của hội nghị Genève không biết ngài thủ tướng có mang lại tin tức tốt lành gì cho chúng tôi không?
Chu Ân Lai nói: “Tôi phát hiện những người gặp tôi đều nhất trí hy vọng vào hòa bình.”
Chu Ân Lai nói, tôi đã gặp Thủ tướng Ấn Độ, Thủ tướng Miến Điện và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi hài lòng với những cuộc gặp gỡ đó. Cách suy nghĩ và mục tiêu của mọi người chúng ta là đồng thuận, tức khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Đúng như tôi đã nói với ngài tại Bern, chúng tôi hy vọng nhìn thấy hòa bình công bằng và hợp lý, hòa bình quang vinh của hai bên.
Ông nói, sau khi trở lại Genève đã trao đổi ý kiến với đại biểu của các đoàn.
Biết được những cố gắng của đoàn đại biểu Pháp, đặc biệt là những cố gắng của ngài thủ tướng, tất cả đều nhằm vào phương hướng đó. Chúng tôi cảm thấy đặc biệt phấn khởi trước những điều này. Điều này thuyết minh, trong 3 tuần lễ ở lại, ngài Chauvel và ngài Lý Khắc Nông đều đã tận lực làm việc, mặc dù tiến triển chậm, nhưng đã có tác dụng thúc đẩy hội nghị.
Chu Ân Lai nói thời gian của phía Pháp là có hạn, tôi vui lòng muốn biết ý kiến của ngài thủ tướng, để tiện hết lòng thúc đẩy việc thực hiện nguyện vọng chung khôi phục hòa bình.
Mendès-France nói, sau khi đến Genève tôi đã gặp đoàn trưởng các đoàn đại biểu, hiện nay mọi người đã có nhiều điểm chung, nhưng trên điểm chủ yếu, tức vấn đề vạch giới tuyến vẫn chưa được giải quyết. Tôi đã từng cùng ngài Phạm Văn Đồng có hai cuộc nói chuyện dài, thẳng thắn, tôi nói với ông ấy, nếu như có thể đạt thành hiệp nghị trên vấn đề này thì các vấn đề khác sẽ dễ dàng giải quyết.
Chu Ân Lai nói, hiện nay điểm chung tương đối nhiều, vấn đề có thể giải quyết được, vừa rồi ngài nói tới việc vạch giới tuyến ở Việt Nam, tôi nghĩ nếu hai bên lại cố gắng hơn nữa, nhượng bộ lẫn nhau thì hiệp nghị sẽ dễ đạt được. Nhìn bề ngoài, khoảng cách hai bên rất lớn, thực ra chỉ cần hai bên tiếp cận nhiều thêm, là có thể tìm được biện pháp trong khoảng cự ly đó. Không biết ngài Mendès-France có ý kiến cụ thể gì không, tôi vui lòng lắng nghe.
Mendès-France trả lời, nghĩ là ngài Chu Ân Lai đã biết ý kiến của phía chúng tôi, bây giời tôi vui lòng nói vắn tắt một chút. Đúng như ngài hy vọng, chúng tôi đã trực tiếp cùng Việt Minh tiến hành đàm phán. Hiện nay khoảng cách hai bên còn rất lớn. Tôi cho rằng biện pháp giải quyết không phải là đòi hai bên, mỗi bên lùi mấy km để trong đó tìm ra đường giới tuyến. Nếu Việt Minh có thể nhượng bộ về đường giới tuyến thì phía chúng tôi có thể nhượng bộ về mặt chính trị. Ví dụ như trong tương lai sẽ phát biểu một tuyên ngôn chính trị. Vì vậy chúng tôi cho rằng nhất định cả hai bên đều phải có một nhượng bộ như nhau, thì sẽ có thể có được một biện pháp giải quyết phù hợp với yêu cầu của hai phía.
Ban đầu Việt Minh đề xuất hứng thú chủ yếu của họ là ở miền bắc, đó là vùng rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế, dân số. Chúng tôi vui lòng suy tính tới kiến nghị này, đồng thời hy vọng giành được đền bù hợp lý. Thế nhưng vạch đường giới tuyến về địa lý, lịch sử và lôgich đều nên tại An Nam môn [Quảng Bình Quan?] gần vĩ tuyến 18. Đường giới tuyến này phù hợp với tiêu chuẩn yêu cầu của ngài Phạm Văn Đồng hồi đầu tháng 5. Đương nhiên, ngài Phạm Văn Đồng yêu cầu hoạch định một đường giới tuyến lịch sử, truyền thống và ngắn. Vì thế chúng tôi cho rằng An Nam môn là một đường giới tuyến bình thường. Hơn nữa nước Pháp đang khống chế những thành thị quan trọng như Huế v.v.. ở miền nam An Nam môn.
Cố nhiên, tại Nam bộ, Việt Minh cũng khống chế một vùng đỏ, muốn họ vứt bỏ vùng đó, tất nhiên là khó khăn. Thế nhưng những hy sinh mà chúng tôi bỏ ra tại đồng bằng sông Hồng lớn hơn rất nhiều những lợi ích mà Việt Minh có thể vứt bỏ. Chúng tôi cho rằng yêu cầu vạch giới tuyến tại vĩ tuyến 18 là hợp lý, hy vọng ngài Phạm Văn Đồng có thể tiếp nhận. Yêu cầu của chúng tôi không phải là để mà cả, mà là để tránh mọi phiền phức phát sinh trong tương lai.
Chu Ân Lai nói, những giải thích mà ngài thủ tướng đưa ra, có một số tôi hiểu được. Thế nhưng cũng có một số tình hình khác hy vọng các ngài cũng có thể hiểu cho, đúng là nước Việt Nam DCCH có quan hệ mật thiết với nhân dân đương địa tại miền trung và miền nam Việt Nam, phải rút khỏi những vùng đó cần phải có lực lượng rất lớn đi giải thích. Mặc dù loại rút lui đó là tạm thời nhưng cũng cần thời gian. Xét về diện tích mà nói, vùng mà họ phải rút có diện tích rất lớn, hy vọng các ngài hiểu được tình hình đó và những khó khăn Việt Nam phải đối mặt. Việc phải giải quyết bây giờ là vấn đề ngừng bắn, ngài thủ tướng vừa rồi nói, về chính trị phải chú ý tới lợi ích nhân dân, thế là tốt. Chúng tôi hy vọng nhìn thấy nước Pháp duy trì được địa vị tại Đông Dương, đồng thời trên cơ sở mới, thiết lập được quan hệ hữu hảo bình đẳng với Việt Nam. Tôi đều nói điểm này với thủ tướng Ấn Độ, Miến Điện và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong tuyên bố chung Trung Ấn, Trung Miến đều đã đề cập tới. Nghĩ là ngài thủ tướng đã hiểu được ý nghĩa chân chính của hai tuyên bố đó.
Chu Ân Lai nói, hiện nay mọi người lâm vào cục diện bế tắc trong vấn đề vạch giới tuyến là không tốt. Hai bên đều nên tiến lên. Một phía đi nhiều thêm một bước, một phía đi ít hơn một bước là vấn đề có thể giải quyết. Nếu như hoàn toàn không tiến lên, đều không có lợi cho cả hai nước Việt, Pháp.
Chu Ân Lai nhấn mạnh thêm khẩu khí: tại miền bắc Việt Nam, Pháp có vùng khống chế, phía Việt Nam cũng có vùng khống chế tại miền trung và miền nam, khi hai bên rút khỏi các vùng đó, phía Việt Nam cần chiếu cố đến những khó khăn của Pháp trên vấn đề rút lui. Nếu như nước Pháp tiến lên một bước, tôi biết đoàn đại biểu Việt Nam DCCH, Hồ Chủ tịch cũng sẽ vui lòng đi một bước lớn hơn để đón sự nhượng bộ của nước Pháp.
Đây là một sự ra hiệu ngầm quan trọng, Chu Ân Lai thể hiện vô cùng khéo léo. Rõ ràng là Mendès-Frace hiểu được. Ông nói tiếp, cách nhìn của ngài thủ tướng và chúng tôi hoàn toàn như nhau.Tôi rất hiểu vứt bỏ vùng nhiều năm trung thành với Việt Minh là khó khăn về chính trị. Tôi đã nói với ngài Phạm Văn Đồng nếu như khó khăn chỉ là ở điểm này thì chúng ta có thể thay đổi cách nhìn vốn có, tức là tại miền nam Việt Nam vạch ra một vùng do Việt Nam khống chế, tất nhiên tại miền bắc Việt Nam chúng tôi cũng được yêu cầu như vậy.
Khi nói tới đó Mendès-France lấy ra một bản đồ, đặt trước mặt Chu Ân Lai, làm điệu bộ nói: “không có đường giới tuyến nào thích hợp hơn vĩ tuyến 18, xin nhìn tấm bản đồ này. Nhất định ngài sẽ nói với tôi, Việt Minh chiếm nhiều nơi giữa vĩ tuyến 13 đến vĩ tuyến 16, thế nhưng giữa vĩ tuyến 16 và 18 chúng tôi cũng có vùng chiếm lĩnh. Vì vậy nếu lấy vĩ tuyến 16 làm đường phân giới đúng là đã điên đảo vị trí, sẽ có nhiều việc nói không rõ được.”
Mendès-France còn nói, ngài Chu Ân Lai nói, diện tích Việt Minh rút khỏi tương đối lớn, tôi nghĩ không thể lấy diện tích ra để so sánh. Trên thực tế những thành phố như Hà Nội v.v. tính quan trọng về dân số, và về chính trị và kinh tế đều lớn hơn những vùng mà Việt Minh rút khỏi. Lấy dân số ra mà nói, dân số (vùng) mà chúng tôi phải rút khỏi là 30 vạn, còn Việt Minh chỉ phải rút khỏi (vùng) có ba vạn người.
Một lần nữa Mendès-France nhấn mạnh, vĩ tuyến 18 là thích hợp nhất.
Chu Ân Lai nói, tôi muốn thuyết minh một chút, điều tôi nói không phải là hai bên phải có nhượng bộ như nhau, mà là hy vọng nước Pháp tiến lên, như thế, Việt Minh sẽ có nhượng bộ càng nhiều hơn.
Một lần nữa ông nhấn mạnh, Việt Nam có khả năng nhượng bộ.
Mendès-France ý thức được nên kết thúc cuộc nói chuyện. Ông ta nói, cám ơn những lời nói của ngài thủ tướng. Bây giờ bàn thêm hai điểm ý kiến: chiều nay tôi sẽ về Paris, ngài Eden cũng cùng đi, chúng tôi sẽ gặp ngài Dulles. Đến nay chúng tôi còn chưa biết, cuối cùng chính phủ Mỹ quyết định như thế nào. Thế nhưng để cho hòa bình dược củng cố, chúng tôi cho rằng hiệp nghị của hội nghị phải được sự bảo đảm của các nước tham dự hội nghị. Ngày hôm qua ngài Phạm Văn Đồng nói, nếu như tôi ở vào địa vị của ông ta, tôi sẽ bớt yêu cầu hai vĩ tuyến mà có sự bảo đảm của Mỹ, không muốn nhiều hai vĩ tuyến mà không có bảo đảm của Mỹ. Lợi ích chung của chúng ta là thu được sự đồng ý tối đa của đa số các nước.
Mendès-France cũng nói rất khéo léo, ông ta nói “các nước tham dự hội nghị” trên thực tế là chỉ không biết liệu Mỹ có đồng ý nước Pháp nhượng bộ hay không, và điều này là một thanh kiếm hai lưỡi trong tay Mendès-France.
Mendès-France tiếp tục nói, tôi về Paris thời gian không lâu, hy vọng hội nghị Genève có thể tiếp tục thảo luận. Hiện giờ tôi đã soạn xong một tuyên bố chính trị, ngài Phạm Văn Đồng đã nghiên cứu qua, hơn nữa đã đề xuất ý kiến. Chúng tôi dựa vào ý kiến của ông ta đã có một số sửa chữa. Văn kiện này có thể hoàn thành vào tối hôm nay, chúng tôi sẽ gửi ngài Chu Ân Lai một bản, hy vọng sẽ nghiên cứu sớm.
Chu Ân Lai chỉ ra, nước Mỹ đang phá hoại hội nghị, ngoại trưởng các nước đều trở lại Genève chỉ có Dulles chưa tới, chúng tôi không hài lòng về thái độ đó. Dulles hiện nay đã tới Paris, nếu không tới Genève, chúng tôi sẽ cảm thấy kỳ quặc. Mỹ là nước không tuân thủ hiệp nghị nhất trên thế giới.
Mendès-France nói, tôi không hoàn toàn đồng ý điểm này, có khả năng chúng ta có cách nhìn khác nhau, thế nhưng cố gắng của chúng ta là phải làm cho cách nhìn của mọi người có thể tiếp cận.
Cuối cùng Chu Ân Lai nói, tôi đồng ý điểm ngài nói cuối cùng. Thực ra những điểm chúng tôi nói cũng là ý kiến của báo chí Pháp và Mỹ.
Cuộc nói chuyện của Thủ tướng hai nước Trung, Pháp tiến hành trong hơn một giờ. Ngày hôm sau, Chu Ân Lai gửi điện cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương ĐCS Trung Quốc báo cáo nội dung gặp Mendès-France. Chu Ân Lai viết:
Men [dès-France] nhấn mạnh đường giới tuyến 18 là đều có đạo lý về địa lý, lịch sử và lô gich, cho rằng những nhượng bộ của Pháp tại đồng bằng sông Hồng lớn hơn nhiều lợi ích mà Việt Minh có khả năng vứt bỏ, vùng Pháp rút quân đều rất quan trọng về kinh tế, chính trị, dân số. Bàn về dân số, Pháp phải rút 30 vạn người, mà Việt Minh chỉ phải rút ba vạn. Yêu cầu của Pháp là phải tránh mọi sự kiện phát sinh trong tương lai, đồng thời có thể phù hợp với nguyện vọng của chín nước dự hội nghị, không muốn nhiều thêm hai vĩ độ mà không có sự bảo đảm của Mỹ. Về vấn đề liệu Pháp có còn có thể nhượng bộ hay không, Men biểu thị nếu Việt Minh có thể nhượng bộ về đường giới tuyến thì phía Pháp có thể nhượng bộ về mặt chính trị, như công bố tuyên bố chính trị. Tôi, ngoài việc biểu thị phấn khởi trước những nỗ lực của đoàn đại biểu Pháp, đặc biệt là của Mendès-France ra, đã nhấn mạnh hai bên nên nỗ lực thêm nữa, nhượng bộ lẫn nhau để đạt được hiệp nghị. Tôi nói, nước Việt Nam DCCH với nhân dân đương địa [miền] trung Việt [Nam] và [miền] nam Việt [Nam] có quan hệ chặt chẽ muốn rút khỏi các vùng này cần lực lượng rất lớn, tiến hành giải thích cần thời gian, diện tích rút quân rất lớn, phía Pháp nên hiểu tình hình này và những khó khăn của phía Việt Nam. Tôi còn nói với Men, chúng tôi hy vọng nhìn thấy địa vị của nước Pháp tại Đông Dương được duy trì. Tôi đã từng hai lần biểu thị, nếu như nước Pháp khẳng định tiến lên một bước thì Việt Nam sẽ vui lòng đi một bước lớn hơn để nghênh đón nhượng bộ của Pháp, hy vọng ông ta suy nghĩ thêm. Trước việc đại biểu Mỹ đến Paris mà không đến Genève và ý đồ phá hoại hội nghị của họ, tôi biểu thị không thể hài lòng, đồng thời chỉ ra người Mỹ không tuân thủ hiệp nghị, mà ngược lại lại nói người khác không tuân thủ hiệp nghị, thực ra trên thế giới này không tuân thủ hiệp định nhất, là người Mỹ.
Thủ tướng Pháp vừa về được một lúc thì 11 giờ 45 phút, Eden đã đến chào, ông ta nói thẳng vào vấn đề, trước khi đi Paris tôi đến thăm ngài, chủ yếu là muốn biết sau khi nói chuyện với phía Pháp, ngài cảm thấy tình hình như thế nào?
Chu Ân Lai nói, sau khi nói chuyện xong, cảm thất trên nhiều vấn đề có những điểm chung, ý kiến cũng tương đối tiếp cận, hiện cần giải quyết là vạch giới tuyến tại Việt Nam. “nước Pháp cần từ vĩ tuyến 18 tiến về nam một chút. Theo tôi được biết, phía Việt Nam sẽ vui lòng có nhượng bộ nhiều hơn để đón tiếp sự di động của người Pháp.” Chu Ân Lai cũng mang câu nói quan trọng đó báo cho Eden: “theo tôi biết ngài Phạm Văn Đồng và ngài Mendès-France hôm nay sẽ gặp nhau, tôi hy vọng ý kiến của bọn họ tiếp cận.”
Eden biểu thị cám ơn mấy hôm trước Chu Ân Lai đã gửi thư miệng qua Dweling. Ông ta nhớ lại nói, trong thư miệng, ngài nói đã từng gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn nữa còn nói chuyện rất hay. Về những cuộc nói chuyện hứng thú như vậy, liệu có thể nói cho tôi một chút không?
Chu Ân Lai nói sau cuộc nói chuyện với ngài ngày 16 tháng trước, ngày 23 khi hội kiến ngài Mendès-France tôi cũng nói rất nhiều. Sau đó tôi tới Ấn Độ, Miến Điện lại cùng thủ tướng hai nước này hội đàm. Về những vấn đề mà các cuộc hội đàm bàn tới tôi đều bàn với Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuối cùng chúng tôi đã có được ý kiến nhất trí. Tôi tin là khi nghe những điểm này ngài Eden cũng rất phấn khởi. Lần này trở lại giải quyết vấn đề Đông Dương, đối với phía Trung, Xô, Việt mà nói, đối với nước Pháp mà nói, bao gồm cả đối với chính phủ Nữ hoàng Anh mà nói, là sẽ tìm được biện pháp giải quyết chung.
Rõ ràng là lời nói của Chu Ân Lai hiển thị lòng tin.
Eden nói, ngài thủ tướng đi Ấn Độ, ngài Nehru đã gửi điện nói với tôi. Tôi tin là hội đàm của các vị có chỗ có ích. Mỗi người đều hy vọng đạt được hiệp nghị, tôi nói câu này cũng bao gồm cả Washington vào trong đó. Tôi rất hy vọng sự sắp xếp mà chúng ta đạt đưọc không chỉ được sự ủng hộ của các nước tham dự hội nghị chúng ta, mà hơn nữa cũng có thể làm cho các nước hội nghị Colombo dùng biện pháp nào đó làm cho loại sắp xếp đó phát sinh quan hệ.
Chu Ân Lai nói, chuyến đi Ấn Độ, Miến Điện lần này cũng đã mang hết một số cố gắng về mặt đó. Tôi đặc biệt cám ơn hai vị Thủ tướng Nehru nà Unu đã nhiệt tình ủng hộ. Đáng tiếc là thời gian quá ngắn, tôi không thể đi Indonesia.
Eden dùng một câu có hai nghĩa nói, ngài quả là một nhà lữ hành không biết mệt, rồi chuyển đầu đề câu chuyện, theo tôi được biết, Việt Minh đã đề xuất một bản đồ, yêu cầu một mảng lãnh thổ lớn của Lào.
Chu Ân lại nói, về vấn đề Campuchia sau khi tiếp xúc thêm, tôi tin là sẽ được giải quyết. Về vấn đề Lào, tôi đã từng bàn với ngài và ngài Mendès-France, tin là cũng sẽ được giải quyết. Còn về vấn đề đoàn đại biểu quân sự trong hội đàm nhiều thêm một điểm và ít đi một điểm, là có khả năng phát sinh, mà cho dù có như vậy cũng không phải là không thể thương lượng. Nehru và Unu đều hy vọng thấy Lào trở thành quốc gia kiểu Đông Nam Á.
Eden nhấn mạnh lãnh thổ của bất kỳ nước nào trong hai nước Lào và Campuchia đều không thể đào đi một mảng.
Chu Ân Lai trả lời vùng tập kết của Lào là tạm thời, sau khi trải qua bầu cử phải thống nhất. Hiện nay thời gian rất gấp, mọi người đều phải nỗ lực, không thể để cho bất kỳ người nào tiến vào ngăn cản.
Câu nói sau của Chu Ân Lai là chỉ vào Mỹ mà nói.
Eden hiểu rõ. Lời nói của ông ta ngầm chứa cơ mưu: “chúng tôi đều hy vọng ngài Mendès-France thu được thành công. Giả sử ông ấy thất bại thì đều không có lợi cho chúng ta. Sự việc này quan hệ lợi hại rất lớn.”
Chu Ân Lai nói: “Thế nhưng cũng có người hy vọng thất bại.”
Eden trả lời: “Tôi hiểu được ý của ngài. Thế nhưng cách nhìn của tôi không hoàn toàn như vậy.”
Chu Ân Lai dấn thêm: “trước đây ngài Eden đã ở Washington, chắc biết nhiều hơn.”
Eden dịu giọng lại, nói: “Tôi phát hiện hai bên nghi ngờ lẫn nhau rất lớn. Nước Mỹ cho rằng Trung Quốc có dã tâm ở Đông Nam Á, không chỉ là nói hiện nay mà là xem xét về lâu dài. Chúng tôi phát hiện các ngài cho rằng Mỹ có dã tâm ở Đông Nam Á, nói Mỹ muốn xây dựng căn cứ quân sự ở Đông Nam Á v.v.. Nếu như giữa những nghi ngờ đó giành được một hiệp nghị thì tốt.”
Chu Ân Lai nói, chúng tôi và Ấn Độ, Miến Điện công bố tuyên bố chung, chúng tôi cũng vui lòng cùng bất kỳ một nước Đông Nam Á công bố một tuyên bố như vậy, đồng thời chịu sự ràng buộc của tuyên bố đó. Điều này không chỉ bảo đảm cho hiện tại mà là tương lai chúng tôi cũng không có dã tâm. Thế nhưng Mỹ vẫn chưa từ bỏ làm căn cứ quân sự và đồng minh quân sự tại Đông Nam Á. Vì vậy nước Anh nên đưa ra một đánh giá công chính.
Eden lại dịu giọng nói: đúng như tôi vừa nói, hai bên đều nghi mgờ lẫn nhau. Các bạn Mỹ nói chúng tôi bị lừa, thế nhưng chúng tôi vẫn vui lòng mạo hiểm thử một chút
Chu Ân Lai ứng tiếng trả lời: thời gian có thể làm chứng. Ngày 22 tháng trước ngài Eden báo cáo tại Hạ nghị viện Anh và tuyên bố của ngài Churchill tại Washington đều nói tới các nước chung sống hòa bình, chúng tôi biểu thị hoan nghênh, điều này có lợi cho việc làm dịu tình hình căng thẳng quốc tế.
Eden nói, sau khi tôi rời Washington, Tổng thống Mỹ cũng dùng con chữ “chung sống hòa bình”.
Chu Ân Lai nói, có thể thấy ngài Churchill đã có một số ảnh hưởng đến ông ta
Sau khi cuộc gặp gỡ giữa Mendès-France và Chu Ân Lai kết thúc, Phạm Văn Đồng đã tới gặp. Trước tiên1, Phạm Văn Đồng nói với Mendès-France, ông có sự việc quan trọng muốn nói với người lãnh đạo nước Pháp. Ông lấy ra một tấm bản đồ, chỉ vào đó nói, Việt Nam vui lòng lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến tạm thời. Ông nhấn mạnh, đây là một nhượng bộ lớn của Việt Nam, chỉ trong bốn ngày đã lùi về phía sau 200 dặm Anh! Việt Nam không thể nhượng bộ nữa.
Mendès_France không thể thư giãn trong lòng, nhưng không để lộ thanh sắc nói, đối với giới tuyến này, nước Pháp vẫn không thể tiếp nhận. Bởi vì nếu điều đó xẩy ra thì cố đô Huế và cảng Đà Nẵng quan trọng đều rơi vào tay Việt Minh, hai thành phố này là vô cùng quan trọng đối với chính phủ NamViệt. Nếu như lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến, Việt Minh còn khống chế đường quốc lộ số 9, con đường quốc lộ duy nhất để Lào ra biển, chính phủ Pháp làm thế nào giao đãi được với chính phủ vương quốc Lào?
Phạm Văn Đồng nói, chúng tôi có thể cho phép Lào sử dụng con đường đó.
Mendès-France trả lời, từ kinh nghiệm của Berlin thấy, nước Pháp không thể có lòng tin đối với điều này. Thế nhưng hai bên còn có thể thương lượng.
Căn cứ vào thông báo sau đó của Phạm Văn Đồng, ngày 14 tháng 7 Chu Ân Lai báo cáo với Mao Trạch Đông: “sau khi Men [dess-France] gặp tôi, thì đồng chí Phạm Văn Đồng đến gặp Men, Men cố ý biểu thị không thể nhượng vĩ tuyến 18 nữa, nhưng ba lần hỏi Phạm, phía Việt còn có kiến nghị gì về việc chia giới tuyến. Cuối cùng Phạm đề xuất với Men vĩ tuyến 16. Men chỉ ngay vĩ tuyến 16 có khó khăn, vấn đề Đà Nẵng, Huế và quốc lộ 9, nhưng chưa đưa vào thảo luận cụ thể.”
“Trên thực tế nước Pháp muốn đạt được hiệp nghị ở giữa vĩ tuyến 18 và 16”, “trong ba ngày sau khi đến Genève, Mendès-France bận rộn vì phải chia ra mà tiếp khách, xem ra ông ta muốn đạt được hiệp nghị trước ngày 20 tháng 7, phía Pháp đã giao ba văn kiện do họ dự thảo cho phía chúng ta. “Câu nói cuối cùng của Chu Ân Lai là chỉ vào lúc 7 giờ tối ngày 13 tháng 7, Chauvel đại biểu Pháp khi hội kiến Chu Ân Lai đã giao một văn kiện không chính thức do phía Pháp khởi thảo về một số vấn đề nguyên tắc thuộc hiệp định đình chiến và sau đình chiến.
Từ sau khi trở lại Genève, Chu Ân Lai đã làm việc liên tục hơn 30 giờ hầu như không có chút nghỉ ngơi. Sau khi tiễn Eden, Chu Ân Lai đơn giản ăn bữa cơm trưa, sau 10 phút, lại phấn chấn tinh thần hội kiến Menon vừa trở lại Genève.
1
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:22:01 GMT 9
CHƯƠNG 31 Lựa chọn tốt nhất là hòa dịu
Trong cuộc hội đàm giữa Ngoại trưởng ba nước Mỹ, Anh, Pháp, Mendès-France và Eden đã bắt tay du thuyết, cuối cùng đã khiến Smith tranh thủ đến Genève. Đứng trước sự xoay chuyển cơ hội tế nhị đó, Chu Ân Lai liên tiếp tới thăm Ngoại trưởng Lào, Campuchia, hy vọng cùng họ tranh thủ cục diện hòa bình lâu dài ở Đông Nam Á. Chu Ân Lai lại thành công trong việc thúc đẩy hơn nữa hội nghị Genève theo hướng đạt thành hiệp nghị về vấn đề Đông Dương. Menon nói với Chu Ân Lai, địa vị của ngài so với trước đây đã quan trọng. Trong các đại biểu, địa vị của ngài quan trọng nhất. Bởi vì không những ngài có tiếp xúc với hai vị Chủ tịch hơn nữa còn có sức thuyết phục với hai vị đó.
Chiều ngày 13 tháng 7, Mendès-France và Eden cùng đáp máy bay trở về Paris, kết quả, Dulles còn đến sớm hơn họ một chút.
Chập tối, Mendès-France tới Đại sứ quán Mỹ gặp Dulles. Vừa gặp, Mendès-France đã yêu cầu Dulles tới Genève tham dự hội nghị. Dulles lảng tránh câu chuyện, nói, hãy tính tới chuyện ăn tối.
Sau khi ăn tối xong, Mendès-France giới thiệu với Dulles và Eden về tình hình đàm phán với Việt Nam về vùng tập kết lực lượng quân sự. Ông ta đưa ra một tấm bản đồ, chỉ ra vùng chiếm đóng của quân đội Việt Nam và quân đội Pháp, và thuyết minh tỉ mỉ về các phương án và phản phương án.
Mendès-France nói, xưa nay nước Pháp chưa bao giờ xa rời phương án xác định ban đầu, xác định đường giới tuyến tại phụ cận vĩ tuyến 18, điều này đã được phản ánh trong bản ghi nhớ của hai bên Mỹ, Anh. Còn phương án đầu tiên của Việt nam là tại phụ cận vĩ tuyến 13 vạch một đường giới tuyến hình chữ “S”. Hiện nay phía Việt Nam đã đẩy con đường đó lên bắc, tới vĩ tuyến 16.
Mendès-France chỉ ra, ngày 12 tháng 7, phía Việt Nam nghe nói Dulles muốn gặp Mendès-France và Eden tại Paris lại đề xuất phương án vĩ tuyến 16 mới, con đường này vừa khéo đi qua giữa căn cứ không quân và hải quân Pháp tại Đà Nẵng. Có thể cho rằng, đề án mới của Việt nam đúng là có liên quan đến cuộc gặp gỡ sẽ tiến hành giữa ngoại trưởng ba nước Mỹ, Anh, Pháp.
Mendès-France nói, nước Pháp quyết không tiếp nhận đề án mới của phía Việt nam, từ bỏ căn cứ không quân, hải quân Đà Nẵng cực kỳ quan trọng cũng như đường quốc lộ 9 sang Lào. Ông ta nói bổ sung, Molotov hy vọng Pháp tiếp nhận phương án này của Việt Nam. Về đường quốc lộ 9, Liên Xô kiến nghị, có thể tăng thêm điều khoản quyền đặc biệt lợi dụng đường quốc lộ 9 của phía Pháp: phía Pháp có thể tự do đi lại trên con đường này, giống như các nước phương Tây có thể lợi dụng “con đường không trung Berlin” của châu Âu
Mendès-France nói, đường 9 rất hẹp, ven đường có nhiều khe núi, vực sâu đèo cao, có rất nhiều cầu. Để đi lại an toàn, phía Pháp phải khống chế toàn bộ đường 9 và hai bên đường. Vì vậy phía Pháp chỉ có thể đồng ý có sự điều chỉnh nhỏ đối với phương án vĩ tuyến 18, di chuyển xuống nam một chút nhỏ.
Bàn đến vấn đề Lào, Mendès-France nói, phía Việt Nam hiện nay đã công nhận có quân đội tác chiến tại Lào và chuẩn bị rút quân về Việt Nam. Nhưng phía Việt Nam lại kiên trì thiết lập vùng quân sự tạm thời tại Lào, để cho lực lượng Pathet Lào rút lên miền bắc. Mendès-France nói, theo tình báo mà Pháp nắm được, lực lượng chống đối bản thổ Lào tổng cộng không quá 2.500 người, chính phủ Lào có lòng tin giải quyết được họ. Thế nhưng phía Việt Nam đề xuất vùng tập kết quân sự tạm thời là một hình chữ “S” dài từ bắc đến nam, nối tiếp với vĩ tuyến 13 mà phía Việt Nam đề xuất ban đầu. Chuyên gia quân sự Pháp đã thuyết minh với phía Liên Xô, việc vạch chia con đường này vô cùng “hoang đường”, không thể tiếp thu.
Mendès-France cảm thấy, triển vọng giải quyết vấn đề Lào xem ra tương đối tốt. Sau này nước Pháp cho dù phải để lại quân đội ở lại Lào cũng không thể quá 2.000 người. Ông ta nói, xem ra phía cộng sản vui lòng đồng ý chuyên gia quân sự Pháp tiếp tục giúp đỡ huấn luyện quân đội Lào và Campuchia. Cái mà đối phương không muốn nhìn thấy nhất là sự tồn tại của lực lượng, căn cứ quân sự của Mỹ tại Đông Dương.
Dulles nói đãi bôi một câu, nước Mỹ không có ý xây dựng căn cứ quân sự tại Lào và Campuchia, nhưng sẽ giúp đỡ hai nước phát triển kinh tế. Thế nhưng nước Mỹ quyết không muốn tiêu oan tiền ở đó.
Khi bàn đến vấn đề Việt Nam, Mendès-France nói, ban đầu Phạm Văn Đồng kiên trì yêu cầu tiến hành bầu cử trong sáu tháng, trước thời hạn đó quân Pháp phải rút khỏi Việt Nam. Hiện nay Phạm Văn Đồng đã lùi một bước, đồng ý sau đó sẽ do chính phủ hai miền Nam, Bắc Việt Nam hiệp thương về thời hạn rút quân Pháp. Khi thảo luận về Ủy ban giám sát quốc tế, nước Pháp đồng ý có cả các quốc gia cộng sản trong đó.
Dulles đã giới thiệu tỉ mỉ lập trường của Mỹ. Trước tiên ông ta cho rằng, mục tiêu chiến lược chủ yếu của Liên Xô là châu Âu, đặc biệt ra sức phân hóa Pháp và Đức. Còn Viễn đông đối với người Liên Xô mà nói, chỉ là vị trí thứ hai. Thế nhưng họ muốn đưa ra những vấn đề khó cho phương Tây ở Viễn đông, nhằm thu hút sức chú ý của phương Tây. Người Nga đang lợi dụng vấn đề Viễn đông để li gián quan hệ giữa Mỹ và Pháp.
Dulles chỉ ra, nói chung người Pháp cho rằng, nếu không có sự giúp đỡ của Mỹ, họ đành phải cùng đối phương đạt được một hiệp nghị chẳng ra làm sao. Thực ra ngay từ mấy tháng trước, Mỹ đã nhắc nhở Pháp cần sử dụng “hành động liên hiệp” thì mới có thể bảo vệ được Đông Dương. Do tình hình xấu đi, cái “hành động liên hiệp” mà chúng ta nói bây giờ không còn là loại đã nói trước đây. Quan điểm của nước Mỹ là không được “bán rẻ” Lào và Campuchia. Bởi vì nước Mỹ còn chưa thể quên những sự giao dịch trong hội nghị Yalta, không muốn Genève trở thành một Yalta thứ hai.
Mendès-France nói, nước Pháp sẽ dốc toàn lực đạt thành hiệp nghị Genève trên khuôn khổ bảy điểm trong tuyên bố chung Mỹ, Anh. Thế nhưng nếu Mỹ không thể cử đại biểu cấp cao đến Genève thì chỉ có thể mang lại tổn hại cho khuôn khổ bảy điều. Nếu như đến ngày 20 tháng 7 vẫn chưa đạt được hiệp nghị thì chiến tranh sẽ vẫn tiếp tục.
Mendès-France nói với Dulles: “Chúng tôi cần ngài tham dự hội nghị để cho hiệp nghị tương lai được hoàn thiện, khiến hiệp nghị nhất trí với “phương châm bảy điểm” Anh, Mỹ. Nếu như chúng ta thất bại, thì sự vắng mặt của ngài càng làm cho thất bại đó càng nghiêm trọng hơn, chiến tranh sẽ bắt đầu lại. Trước khi lính mới chúng tôi động viên đến Việt Nam, Việt Minh còn có thể có thắng lợi mới, cũng có thể là thắng lợi có tính quyết định. Trước tháng 9 tình hình chiến tranh sẽ cực kỳ nghiêm trọng” Ông ta nói, đối thủ biết là Pháp còn có thể cử binh lực tăng viện, nhưng chủ lực của quân tăng viện không thể tới được trước tháng 9, Việt Minh sẽ lập tức phát động công kích qui mô lớn. Lúc đó, quân Pháp sẽ khó mà giữ được Hà Nội. Nếu như không có sự ủng hộ của lực lượng hải, không quân sợ rằng Hải Phòng cũng không giữ nổi. Trong tình hình này nước Pháp phải đạt được hiệp nghị hòa bình kịp thời.
Dulles nói, ông ta hiểu rõ, dưới sức ép to lớn, quân Pháp không thể không đưa ra nhượng bộ, về điểm đó, xét về phía Pháp là nên làm. Nhưng về phía chính phủ Mỹ mà nói thì khó phê chuẩn một điều ước như thế. Vì vậy ông ta không thể để mình lâm vào tình cảnh như vậy.
Mendès-France nói, bộ trưởng ngoại giao Mỹ không thể đi Genève, sẽ làm suy yếu lớn vị thế của nước Pháp. Nếu xuất hiện những tình huống như vậy cũng sẽ tổn hại đến “nguyên tắc bảy điểm” của tuyên bố chung Mỹ, Anh. Ông ta có chút bị bức tới mức sốt ruột, nói: “liệu ngài có cho rằng, đoàn đại biểu cấp cao Mỹ cố ý không tham dự hội nghị Genève đã hiển thị sự coi khinh tập đoàn phương Đông không? Liệu ngài có biết hay không, tin ngài tới Paris và hội đàm với tôi đã làm cho các đoàn đại biểu cộng sản tại Paris cảm thấy không yên không? Sáng hôm nay, Phạm Văn Đồng tới gặp tôi, thậm chí ông ta đã nói với tôi, phía Việt Minh vui lòng nhượng bộ, sẽ vạch đường giới tuyến tại vĩ tuyến 16…Tôi cho rằng, ngài, hoặc là thứ trưởng ngoại giao tham dự hội nghị Genève chỉ tăng cường lập trường của phương Tây. Nếu như ngài vắng mặt, thì chỉ càng làm cho đối thủ của chúng ta tin chắc là từ chiến tranh thế giới thứ thứ hai đến nay, đây là lần đầu tiên thế giới phương Tây đã xuất hiện bất đồng to lớn.”
Mendès-France nén cơn giận nói: “Ngài có biết chúng tôi muốn ngài làm gì không? Chúng tôi không muốn ngài đến để ký kết văn bản với những người cộng sản, hoặc là làm một số việc gì khác với họ. Chúng tôi yêu cầu ngài tham dự là hy vọng để mặt trận của chúng ta càng tề chỉnh hơn, là để tỏ rõ với đối thủ tại hội nghị Genève rằng, nếu sau này vi phạm điều ước là phải chịu những rủi ro cực lớn đấy.”
Lúc này đêm đã khuya, cuối cùng Mendès-France biểu thị: “với nguyện vọng thành khẩn nhất, nước Pháp muốn nói, nếu bộ trưởng ngoại giao Mỹ tới Genève, nếu trong hiệp nghị đó có chỗ nào vi phạm “bảy nguyên tắc” bản thân tôi vui lòng nhận trách nhiệm.” Đến lúc này coi như Mendès-France đã nói hết lời.
Cuối cùng Dulles nói, ông ta hiểu hoàn cảnh của Pháp, ông ta sẽ tận khả năng có câu trả lời vừa ý Mendès-France. Đến lúc đó Dulles mới nghiêm chỉnh nhìn vào tấm bản đồ mà Mendès-France mở ra trước mặt mình, sau đó nói một câu làm Mendès-France vô cùng kinh ngạc: “bây giờ tôi mới rõ, đường giới tuyến của ngài còn gần với phía bắc hơn của tôi, nhiều hơn nhiều yêu cầu của chúng tôi.”Thái độ của ông ta mềm đi một chút.
Ba bên tham gia hội đàm hẹn nhau, 11 giờ 30 ngày hôm sau sẽ tiếp tục hội đàm tại điện Éliser. Hội nghị ngày 14 kéo dài suốt hơn ba giờ, giọng Dulles có dịu đi, mặc dù vẫn nói mình không thể đi Genève, nhưng lại nói nếu như “sức khỏe cho phép” Smith có thể đi Genève.
Smith đi Genève là yêu cầu thấp nhất của Mendès-France. Ông ta nói, bất kể thế nào ngày 20 tháng 7 cũng phải có kết quả.
Sau khi kết thúc hội đàm, Eisenhower nói chuyện bằng điện thoại với Dulles, ông ta phê chuẩn Smith lại đi Genève. Dulles lập tức dùng phương thức gửi thư chính thức thông tri cho Mendès-France.
Cuối cùng Mendès-France đã đạt được cái chờ đợi trong lòng, nên ngày 15 đã trở lại Genève. Còn Eden có cảm giác nhẹ cả người. Ông ta cảm thấy xét về không khí hội nghị Genève mà nói, Smith đến dự hội nghị còn tốt hơn Dulles một chút.
Ngay trong ngày 3 ngoại trưởng Mỹ, Anh, Pháp ra tuyên bố, tung tin ba nước đã giành được sự hiểu biết về khả năng hội nghị Genève đạt được hiệp nghị, nước Mỹ sẽ cử thứ trưởng ngoại giao Smith tham dự hội nghị.
Chu Ân Lai không mệt mỏi tiến hành hòa giải ngoại giao khẩn trương. 12 giờ 45 trưa ngày 14, ông gặp Menon, nghe ý kiến ông này lần nữa.
Lần này Menon đến là để làm thuyết khách cho Pháp. Ông ta nói, Pháp đang chịu những chỉ trích của Mỹ, nói là họ đầu hàng. Vì thế muốn hội nghị Genève đạt được thành quả cũng phải nghĩ đến tình cảnh của Mendès-France một chút. Ông ta muốn đứng vững trên đường giới tuyến rồi thì mới có thể đối thoại với Mỹ được. Ấn tượng của tôi là, muốn Pháp di chuyển giới tuyến xuống 18 vĩ độ nam là không có nhiều hy vọng. Nhưng tôi có thể nói riêng với ngài, Mendès-France đã nói, nếu đối phương đồng ý vĩ tuyến 18 thì ông ta có thể nhượng bộ về các mặt khác. Như thế là có thể có cái để nói, thế nhưng ông ta nói, ngài Phạm Văn Đồng rất khó làm.
Những lời nói của Menon, Chu Ân Lai đã trực tiếp nghe được từ miệng Mendès-France. Chu Ân lai nói, vĩ tuyến 18 quá thiên về bắc, hiện nay cả hai bên đều phải thuyết minh, nếu như Pháp đã hứa với Mỹ, thì Pháp có còn là một quốc gia độc lập không?
Nghe xong những lời này, Menon quay đầu bỏ đi, nói sẽ chuyển lời của Chu Ân Lai cho Pháp. Một thời gian sau, Menon lại đến Vạn Hoa gặp Chu Ân Lai, ông ta nói với Chu Ân Lai, hiện nay hai ngoại trưởng Amh, Pháp đều đi Paris hiệp thương với Dulles.
Chu Ân Lai hỏi: ngài dự đoán liệu có kết quả gì không?
Menon nói, tôi cho rằng những lời khuyên của họ có thể làm cho Mỹ cử Smith trở lại Genève. Tôi hy vọng là Dulles không đến, hôm qua tối đã nói với Eden, tôi hy vọng những lời khuyên của họ không thành công quá.
Chu Ân Lai cười nói, ngài nói thật thẳng thắn, nghe nói Smith muốn nghỉ hưu.
Menon trả lời nếu Eisenhower lưu lại, Smith sẽ ở lại. Trên báo nói, nước Mỹ đang tăng sức ép trên vấn đề quân sự ở châu Âu để làm cái trao đổi, đó là vấn đề liên quan tới Molotov. Cách nhìn của tôi là Dulles cảm thấy ông ta đến Genève không tăng cường thêm vị thế cá nhân, vì thế có khả năng ông ta cử Smith đến.Tại Paris không thể phát sinh chuyện gì, bởi vì Churchill và Eden đều đã đi Mỹ, những vấn đề cần bàn luận đều đã bàn rồi, có một số còn đã định xong, vì thế không thể có thay đổi nhiều.
Những lời nói của Menon đã khá rõ. Chu Ân Lai nói, dự tính của ngài phù hợp với một thức tế nào đó. Tất nhiên Pháp và Mỹ không có khả năng phân liệt, thế nhưng Pháp phải thể hiện được nó là chính sách của một quốc gia độc lập.
Menon trả lời, điều đó rất đúng. Thời gian Mendès-France còn giữ chức ngắn hay dài, hoàn toàn xem ông ta liệu có thể đạt thành hiệp nghị ở hội nghị Genève hay không. Nếu như không được, ngày 20 tháng 7 ông ta sẽ phải từ chức. Ông ta định ngày tháng không phải để tuyên truyền chính trị mà là nghiêm túc. Trước ngày 20 tháng 7, ông ta phải báo cáo với quốc hội những vấn đề của hội nghị Genève đã được giải quyết hay chưa, hoặc là những cái đã đủ để dẫn tới giải quyết vấn đề.
Nói chuyện dến đó Menon thở dài cảm khái. Nhà ngoại giao già này trong cuộc hòa giải khó khăn phức tạp dần nhận thức được vị thế và tài năng ngoại giao của Chu Ân Lai. Ông nói với thủ tướng Chu Ân Lai, lần này vị thế mà ngài trở lại so với ngài trở lại lần trước càng quan trọng hơn. Hiện nay ngài đều có quan hệ mật thiết với hai vị Chủ tịch hội nghị, còn lần trước ngài chỉ có quan hệ chặt chẽ với một vị Chủ tịch. Tôi có thể nói với ngài rằng, Eden rất khâm phục ngài, ông ta cho rằng có thể bàn bạc trao đổi với ngài mọi vấn đề. Vì vậy trong các đại biểu, địa vị của ngài là quan trọng nhất, bởi vì không chỉ ngài có tiếp xúc với hai vị Chủ tịch mà ngài còn có sức thuyết phục hai vị đó.
Chu Ân lai nói, ngài quá khen, tôi sẽ hết sức làm cho hai bên giao chiến đạt được hiệp nghị.
Menon nói, tôi không ca ngợi ngài, tôi chỉ căn cứ vào sự thực khách quan mà nói. Ngài cử người tới nước Anh, sau đó lại cử đoàn thương mại đi, hiện nay dư luận Anh có lợi cho Trung Quốc. Thậm chí trên vấn đề Trung Quốc tham gia LHQ, Churchill cũng rất thận trọng. Căn cứ vào những sự thực này, vị thế của ngài so với trước càng quan trọng hơn.
Chu Ân Lai cám ơn những lời nói đó của Menon, nói với ông ta mình đã hẹn với ngoại trưởng Lào, 3 giờ 30 đến thăm, sau đó 4 giờ 30 lại đến chào ngoại trưởng Campuchia. Bởi vì họ đều đã đến thăm tôi, bây giờ tôi phải đến đáp lễ, điều này là nghi lễ. Tốt nhất là ngày mai sẽ nói chuyện với ngài nữa.
Menon từ biệt, Chu Ân Lai liền tới nơi ở của đoàn đại biểu Lào chào Sananikone. Ông nói với Sananikone, lần này trở lại Genève ý kiến đồng thuận của mọi người nhiều lên, mặc dù còn hai vấn đề quan trọng chưa được giải quyết nhưng khoảng cách giữa hai bên đã không còn xa. Chỉ cần mọi người cố gắng thêm, hiệp nghị sẽ có thể đạt được.
Sananikone nói, ông cho rằng thái độ của Mỹ khiến người ta khó hiểu. Dulles không tới Genève, và dường như không tính tới chuyện đi tới, điều này không tránh khỏi làm chúng ta thất vọng. Hiệp nghị đình chiến cần các bên tuân thủ, nếu Mỹ không tham dự thì không tốt.
Nhằm thẳng vào nỗi lo lắng của Sananikone, Chu Ân lai nói, tôi cũng cảm thấy kỳ quái, mọi người vốn đã thỏa thuận sau ba tuần lễ sẽ trở lại Genève. Hiện nay mọi ngoại trưởng đều đã quay lại, chỉ có Dulles đến Paris chứ không đến Genève. Đây là một hiện tượng kỳ quái trong hội nghị quốc tế. Hiện nay rất khó nói, liệu Dulles có quay lại hay không, có khả năng ông ta làm một số hoạt động cản trở. Thế nhưng hiện nay có Johnson ở đây. Nếu chúng ta giành được hợp lý công bằng, đối với ngoại giao hai bên đều là hòa bình quang vinh, thì nước Mỹ cũng khó mà một mình đứng ngoài câu chuyện.
Sananikone nói, đài phát thanh sáng sớm hôm nay nói, có khả năng hội nghị Paris phát biểu một thông cáo. Tôi rất muốn xem thông cáo đó. Chúng ta ở đây chuấn bị ký kết hòa bình, còn nước Mỹ lại chuẩn bị chiến tranh ở sau lưng, điều đó không tốt. Tốt nhất là có thể đạt được một hiệp nghị mà mọi người đều đồng ý.
Chu Ân Lai bình tĩnh nói, nếu như 8 nước đều đồng ý, nước Mỹ khó mà không đồng ý. Nước Mỹ muốn lựa chọn chiến tranh cũng khó khăn.
Sananikone nói, ngài Menon đại biểu riêng của Nehru hỏi tôi, liệu trước ngày 20 tháng 7 có đạt được hòa bình hay không? Tôi nói, hòa bình không tại tôi, hòa bình ở trong túi ngoại trưởng năm nước lớn. Nếu bọn họ vui lòng thì hòa bình có thể thực hiện.
Ông ta nói với Chu Ân Lai, đàm phán giữa đại biểu Lào và Phạm Văn Đồng Việt Nam tiến triển không nhanh, thế nhưng Phạm Văn Đồng đã đề xuất một kiến nghị rất tốt: do Thủ tướng Lào và em trai ông ta là hoàng thân Souphanouvong trực tiếp gặp nhau, thảo luận vấn đề chính trị. Hiện đã điện báo cho Vientiane biết thỏa thuận đó, thủ tướng Lào đã điện trả lời đồng ý về nguyên tắc, nhưng hy vọng là sau khi đạt được tiến triển trước về vấn đề quân sự sẽ nói sau.
Sananikone thẳng thắn nói tới băn khoăn của mình về việc tập kết bộ đội Pathet Lào tham gia tác chiến với bộ đội Việt Minh, Lào không muốn áp dụng phương thức chia đường giới tuyến của Việt Nam “bởi vì như vậy có nghĩa là phân trị”. Biện pháp tốt nhất là bộ đội Pathet Lào tập trung tại các tỉnh, tham gia quân đội quốc gia, nhưng vẫn bảo lưu quân quân của mình.
Chu Ân Lai nói, tình hình Lào và Việt nam không giống nhau, Việt Nam có hai chính phủ, còn Lào chỉ có một. Biện pháp chỉ định mấy vùng tập kết cho bộ đội phong trào chống đối của Lào chỉ là một quá trình, sau này còn cần phải hội hợp họ làm một, và thông qua bầu cử thực hiện thống nhất Lào. Đó là nguyên tắc, với tư cách là người thứ ba, chúng tôi chỉ có thể bàn một số nguyên tắc như vậy, chứ không thể bàn rất cụ thể.
Sananikone nói với Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng kiến nghị chúng tôi mời một, hai đại biểu lực lượng chống đối tham gia chính phủ, điều này không được. Chúng tôi có chế độ dân chủ, chính phủ là do quốc hội bầu cử sản sinh. Nếu chúng tôi đồng ý, quốc hội không công nhận, một hiệp nghị như vậy là vô hiệu.
Chuyến thăm của Chu Ân Lai mang tính lễ tân. Chủ yếu là để đáp lễ chuyến thăm lần trước của hai ngoại trưởng Lào và Campuchia. Ông lấy thân phận thủ tướng nước lớn tới thăm ngoại trưởng hai nước nhỏ trên thực tế còn đang trong tiến trình độc lập, những lời nói của Chu Ân Lai nói chung đều tràn đầy thành khẩn và hòa bình, Sananikone luôn miệng cám ơn.
Từ chỗ đoàn đại biểu Lào đi ra, 5 giờ Chu Ân Lai đã tới khách sạn nơi đoàn đại biểu Campuchia ở để hội kiến Tep Phan, ngoại trưởng Campuchia, và lại kiên trì trình bày quá trình hình thành “năm nguyên tắc chung sống hòa bình”
Tep Phan nói với Chu Ân Lai, chúng tôi quan tâm đến hành tung của ngài, trên báo đã nhìn thấy tuyên bố chung của hai nước Trung Ấn và Trung Miến. Tuyên bố đã thể hiện được nguyện vọng của chúng tôi.
Khi Chu Ân Lai hỏi Tep Phan về triển vọng của hội nghị Genève, Tep Phan nói, ông ta và Phạm Văn Đồng đã tiếp xúc một mình hai lần. Phạm Văn Đồng đề xuất “hai cái lưu lại” khiến ông ta cảm thấy không vui. Một là quan chức do phong trào chống đối bổ nhiệm tại một số tỉnh nào đó phải được “lưu lại”, thậm chí được cử làm huyện trưởng. Hai là tổ chức thanh niên trong phong trào chống đối phải được “lưu lại”. Ông ta biểu thị ngay là không thể đồng ý.
Chu Ân Lai nghe xong cả cười, nói, đó là vấn đề nội bộ của Campuchia, nên do Campuchia tự mình giải quyết.
Chu Ân Lai nói, tôi vừa tới thăm ngài Sananikone, ngoại trưởng Lào, ông biểu thị vui lòng cho nhân viên đối lập được hưởng quyền lợi công dân như nhau: quyền bầu cử và quyền ứng cử. Tôi nghĩ nếu như vậy vương quốc Lào có thể đoàn kết được lực lượng nội bộ, giành được thống nhất. Lực lượng chống đối tại Campuchia bất kể là nhiều ít đều phải đoàn kết họ lại, có như vậy “tinh thần hòa hợp” mà chúng ta đã bàn ngày 20 tháng 6 mới có thể thực hiện. Sau khi giải quyết vấn đề chính trị, vấn đề ngừng bắn chỉ là việc của mặt quân sự. Vấn đề chủ yếu hiện nay là hai bên bản địa trực tiếp đàm phán. Nên tranh thủ làm cho sau đình chiến mọi người cùng yên, muốn vậy phải tìm lối ra cho bộ đội chống đối bản địa, nếu không xung đột vũ trang không thể ngừng được.
Tep Phan biểu thị hoàn toàn đồng ý với kiến giải của Chu Ân Lai, lại nói, chỉ vì là Phạm Văn Đồng đòi chúng tôi bổ nhiệm nhân viên phong trào chống đối làm huyện trưởng là vi phạm hiến pháp. Ngài chủ trương không can thiệp vào công việc nội bộ nước khác, còn Phạm Văn Đồng lại muốn tìm phiền phức cho chúng tôi.
Chu Ân Lai gắng làm dịu tâm tình của Tep Phan nói, đó là vì tại Genève không có đại biểu của phong trào chống đối, Phạm Văn Đồng thay họ phát biểu ý kiến, khiến các ngài cảm thấy là can thiệp vào công việc nội bộ. Thực ra bản địa đúng là có một số phần tử yêu nước ưu tú, nên đoàn kết họ lại.
Tiếp đó, Chu Ân Lai bàn đến việc ngày hôm kia ông nhận được hai dự thảo văn kiện của đoàn đại biểu Pháp, một bản là Tuyên bố của hội nghị Genève, còn một bản là tuyên bố của nước Pháp về vấn đề Lào và Campuchia. Trong dự thảo tuyên bố, nước Pháp công nhận nền độc lập của Campuchia, các chính đảng trong nước Campuchia nhất loạt bình đẳng, quân đội nước ngoài rút khỏi Campuchia. Chu Ân lai cho rằng, văn kiện này còn có nghĩa là, từ nay trở đi ba nước Đông Dương không cho phép căn cứ quân sự nước ngoài tồn tại trên lãnh thổ nước mình. Chu Ân Lai nói, như vậy, mọi lực lượng quân sự của phong trào chống đối đều phải quay về xã hội của mình, còn vấn đề quân sự được để lại cho bước tiếp theo giải quyết.
Tep Phan nói, cùng với việc kết thúc đối địch quân sự, mọi nhân viên đã từng hiệp đồng với Việt Minh sẽ trở về xã hội và được hưởng quyền công dân. Thế thì, thủ tướng Trung Quốc nhìn nhận, nên đối xử như thế nào với “những nhân viên kháng chiến” cũ sau khi đình chiến?”
Chu Ân Lai nói, vấn đề này không chỉ Campuchia có mà Lào cũng có, cần nghiêm túc nghiên cứu. Hiện nay ông vừa đọc dự thảo do đoàn đại biểu Pháp gửi tới, đối với vấn đề này còn cần có những nhận thức sâu sắc hơn.
Chu Ân Lai nhấn mạnh, hội nghị Genève nên phân biệt đối xử với Lào và Campuchia. Sau khi xác lập đình chiến, quân đội nước ngoài tuyệt đối không thể tiến vào Việt Nam. Nhưng Lào và Campuchia thì có thể trong phạm vi hiệp nghị bảo lưu và đưa vào một mức nhất định nhân viên vũ trang và trang bị mình cần thiết.
Điều này, ngược lại là một loại đặc quyền.
Chuyến thăm của Chu Ân Lai đã làm cho tâm tư của Tep Phan được bình ổn rất lớn.
Sau khi chia tay Tep Phan, Chu Ân Lai lại đến nơi ở của đoàn đại biểu Liên Xô, tham dự bữa tiệc do Molotov tổ chức. Ngay sau đó, ông và Molotov, Phạm Văn Đồng thảo luận dự thảo bản tuyên bố cuối cùng của hội nghị Genève do đoàn đại biểu Pháp đề xuất, và sửa bản dự thảo vốn có chín điều thành 13 điều, rồi quyết định do đoàn đại biểu Liên Xô ngày mai đề xuất với đoàn đại biểu Pháp.
Mãi cho đến sau cuộc gặp gỡ ba bên Trung, Xô, Việt tối hôm đó, Chu Ân Lai sau hơn 30 giờ không được nghỉ ngơi mới có cơ hội ngủ một giấc.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:22:58 GMT 9
CHƯƠNG 32 Từng giây từng phút thúc giục
Bước vào nửa sau tiến trình của hội nghị Genève, Chu Ân Lai vọt lên trở thành nhân vật trung tâm của hội nghị, mọi vấn đề khó đều phải qua ông điều hòa, hóa giải, thúc đẩy hai bên tìm được biện pháp giải quyết vấn đề. Chu Ân Lai cảnh giác loại bỏ từng chút nhân tố, sợ là đe dọa an ninh Đông Nam Á. Kết cục của hội nghị Genève càng khiến người ta để mắt: càng gần thời gian cuối cùng, tiếng nói hòa bình càng ngày càng mạnh, nhưng trước sau vẫn hòa lẫn âm thanh không hài hòa.
Ngoại trưởng ba nước Mỹ, Anh, Pháp tại Paris mặc cả với nhau, điều hòa lập trường. Ở Genève không khí hòa giải rốt cuộc dần dần dày đặc lên. Ngày 13 tháng 7, Phạm Văn Đồng và Trần Văn Đỗ, ngoại trưởng Nam Việt Nam lần đầu tiên gặp nhau. Ngày hôm đó Menon đặc sứ Ấn Độ hẹn Johnson tiến hành hội đàm từ 2 giờ chiều tại nơi ở của đoàn đại biểu Mỹ. Menon với ý định điều hòa nói với Johnson, người của Việt Minh đến Genève không nghi ngờ gì đều là đảng viên cộng sản, nhưng cũng là những người dân tộc chủ nghĩa từ đầu đến chân, họ hy vọng tiếp tục duy trì quan hệ chặt chẽ với nước Pháp. Mặt khác, bọn họ không phải là bù nhìn của Moskva và Bắc Kinh, phía Mỹ chưa ý thức đầy đủ điều này.
11 giờ 30 sáng ngày 15, Chu Ân Lai và Kiều Quán Hoa hội kiến Menon tại Vạn Hoa, một lần nữa thảo luận “vấn đề đường giới tuyến”. Chu Ân Lai nói, đợi đến lúc Mendès-France và Eden từ Paris trở về Genève, dự đoán là mấy ngày sau đó sẽ vô cùng bận rộn, cũng sợ rằng không kịp thảo luận tỉ mỉ với bản thân ngài, vì vậy sẽ do ngài Kiều Quán Hoa liên hệ với ngài. Ngài Kiều Quán Hoa đã cùng đi với tôi thăm Ấn Độ và Miến Điện, rất quen thuộc tình hình.
Chu Ân Lai cho rằng, hiện nay Pháp đã đề xuất dự thảo “tuyên ngôn chín nước”, mà phương hướng là muốn giải quyết vấn đề, rất đáng hoan nghênh, có một số nội dung rất khá. Phía Trung, Xô cảm thấy một số chỗ cá biệt có thể sửa chữa đôi chút, vấn đề đã không lớn nữa. Trên việc đình chiến và tổ thành Ủy ban giám sát quốc tế, mọi người cũng dần dần có được ý kiến nhất trí. Vấn đề bây giới là “vạch đường giới tuyến”. “Trước đây khoảng cách hai bên rất xa, hiện nay Việt Nam đã đi một bước, Mendès-France cũng biểu thị, vĩ tuyến 18 không phải là không thể sửa. Tôi cảm thấy vĩ tuyến 16 là có thể.”
Menon liền nói với Chu Ân Lai, tôi thấy người Pháp sẽ không đồng ý vĩ tuyến 16. Ngài và Phạm Văn Đồng nên kiên trì vĩ tuyến 16, nhưng cuối cùng cũng sẽ không đòi được. Tất nhiên, bây giờ mà nhượng bộ thì quá sớm một chút.
Meno xứng đáng là một nhà ngoại giao già dặn, nhìn xa thấy rộng. Ông ta cho rằng hai bên có thể mỗi bên lùi một vĩ độ bắc.
Chu Ân Lai không hề để lộ ý gì, nói, vĩ tuyến 16 là hợp lý.
Ba phía Trung, Xô, Việt đều cho rằng muốn đạt được hiệp nghị vào ngày 20 tháng 7 những điều khoản cần thảo luận hiện nay còn quá nhiều, không thuận tiện cho đàm phán ngoại giao. Có thể kiến nghị với hai bên, ngày 20 tháng 7 thông qua trước một hiệp nghị có tính nguyên tắc, những chi tiết có liên quan sẽ ký kết sau.
Ngày 16 tháng 7, ba phía Anh, Pháp, Xô tiến hành hội đàm chuyên gia. Thứ nhất, xác định, tình hình cụ thể ba nước Đông Dương không giống nhau, phải lần lượt ký ba hiệp định, nhưng không phải là hiệp định đã suy tính trước. Thứ hai, chuyên gia ba phía phải qui nạp các dự thảo mà ba nước Đông Dương đề xuất thành một đề án mà mọi người có thể tiếp nhận. Thế nhưng bàn đến cuối cùng, vừa bàn đến “vạch đường giới tuyến” là phía Pháp vẫn kiên trì phải là vĩ tuyến 18. Còn Việt Nam nói, vĩ tuyến 16 bắc là giới hạn cuối cùng, không thể dời ra bắc nữa. Ngoài ra, ngày tháng tổng tuyển cử tại Việt Nam cũng có bất đồng. Các chuyên gia cho rằng bất đồng trọng đại như vậy, chỉ có mời các ngoại trưởng đến giải quyết.
Ngay tối hôm đó, Molotov, Chu Ân Lai và Phạm văn Đồng thảo luận quyết định mấy nguyên tắc: một, trên vấn đề bầu cử ở Việt Nam, kiên trì “phương án hai năm” đã định. Hai, kiên quyết phản đối bất kỳ ai ý đồ lôi kéo ba nước Đông Dương tham gia SEATO. Bởi vì phía chúng ta đã có nhượng bộ về vấn đề Lào và Campuchia, nên không thể để Lào và Campuchia tham gia đồng minh quân sự của đối phương. Nếu không, một khi miền Bắc và miền Nam Việt Nam phân trị, Mỹ có thể lợi dụng “điều ước phòng ngự” chỉnh đốn lại binh lực ở Việt Nam và Lào, Campuchia. Ba, về vấn đề vạch đường giới tuyến Việt Nam, phía Việt Nam tiếp tục kiên trì vĩ tuyến 16, nhưng khi Phạm Văn Đồng hội đàm với Mendès-France có thể để lộ, có thể suy tính tới nhường cho nước Pháp một số đặc quyền trên vấn đề đường quốc lộ 9, Đà Nẵng và Huế. Bốn, về thời hạn quân Pháp hoàn toàn rút khỏi Việt Nam, có thể tính tới việc nới ra một chút, bởi vì hiện nay Bảo Đại và Mỹ ngược lại đều hy vọng quân Pháp rút nhanh để dư địa lại cho họ. Phía chúng ta có thể qui định quân Pháp rút khỏi Việt Nam trước khi bầu cử ba tháng.1
10 giờ sáng ngày 17 tháng 7, Tep Phan ngoại trưởng Campuchia cùng hai trợ thủ là Sam Sary và [Nhiek] Tioulong đến chào Chu Ân Lai tại Vạn Hoa, ông ta đến là để nhờ Chu Ân Lai điều hòa vấn đề khó. Ông ta nói, Campuchia là nước nhỏ, dự toán ít, muốn hấp thu thành viên phong trào chống đối vào công tác trong chính phủ sẽ có khó khăn.
Chu Ân Lai rất thông cảm giải thích, ngài nói là một vấn đề, thế nhưng người phải hấp thu rốt cuộc không nhiều. Nước Trung Quốc mới khi thành lập đều bao quân đội, cảnh sát, nhân viên công vụ của Quốc Dân đảng cả, làm như vậy họ không làm loạn, đất nước do đó đã củng cố thống nhất. Có thể ngài sẽ nói, Trung Quốc rất lớn, dự toán cũng nhiều. Thế nhưng số người chúng tôi phải hấp thu cũng hàng chục triệu. Chỉ cần chính phủ vương quốc nhận trách nhiệm, không phân biệt đối xử, không bức hại, là có thể tìm được biện pháp giải quyết. Tất nhiên chính phủ không thể tiếp nhận toàn bộ, bởi vì còn có sự lựa chọn tự nguyện. Quân đội của chính phủ vương quốc cũng chưa đạt tới trình độ cần thiết, cho nên cũng cần phải gia tăng quân và vũ khí.
Lúc này Sam Sary nói, chúng tôi vui lòng tiếp nhận những người mà các ngài gọi là “bộ đội kháng chiến”, mà chúng tôi gọi là nhân viên của “quân phiến loạn”. Các ngài muốn họ tham gia quân đội vương quốc từng đại đội, từng tiểu đoàn, hay là tham gia với thân phận cá nhân? Nếu như là thân phận cá nhân thì không có vấn đề. Nhưng nếu là từng đại đội, từng tiểu đoàn thì chúng tôi có khó khăn. “Chúng tôi vui lòng phát biểu tuyên bố của phía mình về việc này, chứ không muốn áp dụng phương thức hiệp định quốc tế.”
Chu Ân Lai nói, vấn đề này không lớn, bộ đội này không đông, có thể tìm được biện pháp giải quyết.
Điều Chu Ân Lai quan tâm hơn là, liệu Campuchia có tham gia tổ chức “hiệp ước Đông Nam Á” mà Mỹ đang tổ chức hay không, vì thế đã yêu cầu nói rõ.
Tep Phan nói, về nguyên tắc, Campuchia còn đang suy tính một số vấn đề, chủ yếu là vì lực lượng vũ trang của mình còn nhỏ. Thế nhưng “xưa nay Campuchia không muốn có căn cứ nước ngoài trên lãnh thổ của mình, chúng tôi đã tự mình đuổi người Pháp đi, cũng không muốn người khác đến thay thế.”
Chu Ân Lai nhấn mạnh, thái độ của Trung Quốc là, không muốn Mỹ xây dựng căn cứ quân sự trên bất kỳ ba nước Đông Dương nào. Nếu như có, “tình hình sẽ xấu đi”
Xilong, trợ thủ của Tep Phan nghe xong câu nói có ý ngoài lời nói đó, đã hỏi: có phải là ý kiến của ngài Thủ tướng muốn nói, không thể có người Mỹ, người Pháp thì còn có thể.
Chu Ân Lai nói một cách uyển chuyển, đó lại là vấn đề khác.
Các vị khách Campuchia một lần nữa đề nghị Chu Ân Lai xuất diện, thúc đẩy hội nghị Genève đạt được kết quả hòa bình. Đối với họ thì xem ra, Chu Ân Lai là bảo đảm cho hội nghị Genève có thành công hay không.
Chu Ân Lai đề cập với ngoại trưởng Campuchia tới thăm vấn đề SEATO, là có nguyên nhân. Ngày hôm kia sau khi Mendès-France và Eden trở lại Genève, đã xuất hiện một cách nói: ba nước Đông Dương sẽ gia nhập SEATO do Mỹ đang tổ chức, điều này làm Chu Ân Lai cảnh giác.
Sau khi bắt tay từ biệt Tep Phan, 11 giờ 40 sáng, Chu Ân Lai đến thăm Eden. Ông nói với Eden, có một tin đồn, có người muốn muốn lôi kéo ba nước Đông Dương vào liên minh phòng ngự Đông Nam Á, liệu có phải Mỹ định dùng vấn đề đó để phá hoại hiệp định hòa bình Đông Dương hay không? Tháng 6 vừa qua, ngài và Mendès-France đều đã đồng ý không thiết lập đồng minh quân sự với nước ngoài, thế mà hiện nay đã không giống với cách nói trước đây. Nếu Anh, Pháp và ba nước Đông Dương đã đưa ra lời hứa với Mỹ về vấn đề này, thì hòa bình sẽ không còn ý nghĩa gì.
Chu Ân Lai không khách sáo nói, nếu như hội đàm Paris của những người đứng đầu ba nước lớn Mỹ, Anh, Pháp tạo ra chia rẽ, chúng tôi kiên quyết phản đối. Chúng tôi phản đối chia rẽ Đông Nam Á. Nếu như chế tạo chia rẽ, sẽ làm cho hòa bình của Đông Dương gặp khó khăn, hội nghị Genève sẽ không có kết cục tốt
Trả lời của Eden giống như giấu kim trong chăn. Ông ta nói, hai nước Anh, Mỹ đã thảo luận “hiệp ước Đông Nam Á” tai Washington, nhưng là “có tính phòng ngự” hiện nay các chuyên gia còn đang thẩm tra bàn bạc, là một loại đối ứng với hiệp ước đồng minh Trung, Xô. Thế nhưng bản thân ông ta có thể bảo đảm, “không nghĩ tới việc muốn ba nước Đông Dương tham gia”.
Chu Ân Lai cám ơn Eden đã nói rõ, một lần nữa nhấn mạnh, nếu Mỹ lôi kéo ba nước Đông Dương vào “hiệp ước Đông Nam Á” mà Anh, Pháp lại công nhận, “thì tình như vậy sẽ khác đi, hòa bình sẽ không có ý nghĩa”. Nếu như vậy, chúng tôi không thể không quan tâm.
Chu Ân Lai đã nói rất nặng, hy vọng Anh sẽ chuyển đạt ý kiến của ông cho Mỹ, không nên vì việc đó dẫn tới Trung, Mỹ đối kháng.
4 giờ 50 chiều ngày hôm đó, Chu Ân Lai lại đến thăm Mendès-France lần nữa, trình bầy những lời ông đã nói với Eden, yêu cầu nước Pháp làm rõ.
Mendès-France trịnh trọng nói, nước Pháp “không suy tính đồng minh Đông Nam Á bao gồm ba nước Đông Dương. Xin tin tưởng tôi, đây là lời nói không hề có bảo lưu.”
Mendès-France nóng vội tiếp tục thảo luận với Chu Ân Lai về “vạch đường giới tuyến”. Ông ta đã đề xuất với Chu Ân Lai một cách nói tràn đầy biểu thuật mà trước đây chưa có, nếu như hoạch định vĩ tuyến 16, Việt Minh sẽ khống chế đường quốc lộ 9 ở phía bắc Huế từ Lào đến Đà Nẵng. Con đường này quan hệ đến tính mệnh Lào, là cửa khẩu duy nhất ra biển của Lào, ảnh hưởng rất lớn tới kinh tế Lào, là “con đường sinh mệnh của Lào”.
Chu Ân Lai nói, đường quốc lộ 9 này vừa đúng ở phía bắc vĩ tuyến 16, đối với miền bắc mà nói, không có lợi ích đặc biệt nào. Ông đổi giọng, nói: “về vấn đề cửa khẩu đi ra của Lào, điều này ngược lại đáng chú ý đấy.”
Đây lại là một bước ngoặt tế nhị. Mendès-France lập tức ý thức được, ông ta nói: “liệu có phải ý của ngài Thủ tướng muốn nói, ngài Phạm có thể đồng ý vạch con đường quốc lộ này. Nếu quả nhiên như vậy, điều này ngược lại là một tiến bộ. Thế thì chúng tôi cũng vui lòng biểu thị nhượng bộ của chúng tôi tại các mặt khác.”
Chu Ân Lai dùng lời nói chặn đứng đầu đề câu chuyện, nói: “về vấn đề này tôi không thể bàn cụ thể hơn, nên do ngài Phạm Văn Đồng trực tiếp bàn với ngài. Trước đây ngài đã từng nói, trước mắt không chỉ có vấn đề vạch đường giới tuyến, mà còn có vấn đề chính trị. Tôi đã nói với vấn đề đó với ngài Molotov và ngài Phạm Văn Đồng. Sợ rằng liên hệ hai vấn đề đó lại với nhau thì tương đối dễ giải quyết.”
Mendès-France đề nghị Chu Ân Lai chú ý vấn đề Lào. Ông ta oán thán nói, vấn đề Lào gặp phiền phức. Việt Minh đề xuất yêu cầu vạch vùng tập kết dài trên một ngàn km từ nam đến bắc Lào cho nhân viên phong trào giải phóng Lào, phía Pháp khó có thể tiếp thu. “Hy vọng ngài Thủ tướng khuyên ngài Phạm Văn Đồng có suy nghĩ tương đối hiện thực.”
Chu Ân Lai biểu thị, vấn đề Lào tốt nhất là cũng phải liên hệ vạch giới tuyến và bầu cử lại với nhau như Việt Nam, hy vọng phía Pháp trực tiếp bàn với ngài Phạm Văn Đồng.
Mendès-France nói, ông ta đã cử người đi tìm nhân viên Việt Minh liên hệ, hy vọng có thể tiến triển.
Chu Ân Lai nhắc nhở ông ta, trước tiên nên tìm ra điểm chung chủ yếu để bàn hiệp nghị, “hôm nay đã là ngày 17, phải trong hai ngày, giành được hiệp nghị trên các phần chủ yếu, thì mới coi là thành công.”
Ngay trong tối hôm đó, Chu Ân Lai và Molotov, Phạm Văn Đồng bàn bạc, trao đổi ý kiến. Chu Ân Lai nêu ra một cách rõ ràng, phải xuất phát từ tình hình thực tế, để lại đường số 9 cho miền nam. Như vậy đường giới tuyến cần phải dời lên phía bắc một chút, nhưng không cần nhiều, nhượng bộ như thế là có thể làm được. Tất nhiên nhượng bộ sẽ được đưa ra vào phút cuối cùng. Vấn đề cụ thể do Phạm Văn Đồng bàn với Mendès-France. Còn Molotov chuẩn bị trong hội nghị có tính hạn chế ngày 18 lấy thân phận chủ tịch phát biểu có tính tổng kết.
Sau khi ba phía hội đàm xong, Chu Ân Lai gửi điện báo cáo Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ.
Đàm phán trong hội nghị Genève lại xuất hiện một số giảm căng thẳng. Mendès-France cũng ngầm biểu thị, có thể lại nhượng bộ trong việc vạch đường giới tuyến giữa vĩ tuyến 18 và đường số 9. Cũng có nghĩa là nói, đường giới tuyến mà Pháp kiên trì lại di động xuống nam. Pháp còn thông qua đoàn đại biểu Anh, biểu thị với đoàn đại biểu Trung Quốc, nước Pháp quyết không vứt bỏ đường 9, thế nhưng đồng ý bầu cử tại Việt Nam có thể tiến hành vào năm 1956. Tuy vậy vào lúc Mendès-France làm như thế đã gặp một chút phiền phức. Ngay hôm đó, Trần Văn Đỗ, ngoại trưởng chính phủ Bảo Đại đã đề xuất một kháng nghị với chính phủ Pháp, kháng nghị nước Pháp phản lại chính phủ Bảo Đại “làm hết mọi việc”, ông ta yêu cầu đường biên giới Việt Nam đặt dưới sự bảo hộ của LHQ. Kháng nghị này làm Mendès-France vô cùng giận dữ.
Lúc này khuôn khổ hiệp nghị cuối cùng hội nghị Genève đã cơ bản hoàn thành. Đó là, các đại biểu tham dự hội nghị sẽ lần lượt ký hiệp định ba nước Đông Dương. Quân đội mọi nước rút khỏi Lào và Campuchia, quân đội chống đối của Lào tập kết vào hai tỉnh miền bắc, tại Việt Nam vạch một đường giới tuyến ở miền trung, chỉ có điều là đường giới tuyến này còn chưa xác định được.
Sáng ngày 18 tháng 7, Phạm Văn Đồng và Mendès-France hội đàm, tiếp tục mà cả một cách vất vả về vấn đề đường giới tuyến.
11 giờ sáng hôm đó, ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng Lào đến chào Chu Ân Lai, Lý Khắc Nông, Trần Gia Tường cùng tiếp khách với ông.
Sananikon đến để bàn về vấn đề giải quyết vùng tập kết của bộ đội giải phóng Lào. Ông ta chỉ ra, hiện nay bất đồng giữa đoàn đại biểu Lào và Phạm Văn Đồng không phải là về mặt quân sự mà là về chính trị. Bởi vì Phạm Văn Đồng yêu cầu chính phủ Lào phải “nghiêm chỉnh công nhận” phong trào chống đối, sau đó mới vạch vùng tập kết, tại vùng tập kết phải có cơ cấu hành chính độc lập tự chủ. Điều này chẳng phải là phân trị trong một nước ư? Chính phủ Lào khó có thể tiếp thu. Bộ trưởng quốc phòng Lào cũng nói, chúng tôi công nhận có phong trào chống đối, nhưng lực lượng của họ không lớn, chẳng qua là hai, ba ngàn người. Vì vậy chúng tôi đồng ý tại vùng tập kết thiết lập Ủy ban hỗn hợp, có nghĩa là như chính phủ liên hiệp. Hoàng thân Souphanouvong có rất nhiều ưu điểm, ông tốt nghiệp Đại học kỹ thuật Paris, nhân tài như vậy tại Lào không có nhiều. Chúng tôi tin tưởng sau bầu cử, ông nhất định có thể giành được địa vị vinh dự nhất trong chính phủ, thậm chí có thể làm thủ tướng của chúng tôi.
Ý của đoàn đại biểu Lào là trong vùng tập kết tại bắc Lào không thể có chính phủ “độc lập”, mọi vấn đề nội chính cuối cùng phải do bầu cử quyết định.
Chu Ân Lai trả lời, bộ đội chống đối Lào nên công nhận chính phủ Vương quốc, chính phủ Vương quốc cũng nên công nhận bộ đội chống đối. Còn về lực lượng nhiều ít không phải là vấn đề quan trọng nhất, các ngài nói hai, ba ngàn người, chúng tôi nói không chỉ có số đó. Chủ yếu là phải liên hệ được với họ, xác định vùng tập kết. Nếu những vùng tập kết như vậy tại thượng, trung, hạ Lào đều có, sẽ rất phân tán, như vậy sẽ khiến mọi người đều không yên tâm, thậm chí sẽ phát sinh xung đột địa phương. Vì thế chúng tôi cho rằng thiết lập vùng tập kết tốt hơn điểm tập kết. Tôi và các ngài, còn có ngài Eden và Mendès-France đều đã nói, phải hoạch định vùng tập kết tại đông bắc Lào, thành lập một Ủy ban hỗn hợp để xử lý quan hệ hai bên, quan hệ địa phương. Còn sau khi bầu cử, phong trào chống đối có thể tham gia chính phủ Vương quốc, đó là một biện pháp tốt.
Chu Ân Lai nói, theo tôi biết, mọi người đều không coi Lào là một bộ phận của Việt Nam. Lào chỉ có một chính phủ Vương quốc, không thực hiện phân trị. Sau khi mọi quân đội nước ngoài rút đi, Lào sẽ là một quốc gia hòa bình, độc lập và thống nhất. Tương lai còn có bốn cửa khẩu tiến hành giám sát. Như vậy an ninh của Lào cũng có bảo đảm. Trong thời gian đình chiến, Lào có thể đưa vào vũ khí tự vệ, còn có thể hiệp thương qui định.
Chu Ân Lai thể tất chỗ khó khăn của Lào, nói, cũng có thể các ngài cảm thấy Trung Quốc là một nước lớn, có chút không yên tâm. Chúng tôi vui lòng thiết lập quan hệ hữu hảo với Lào, năm nguyên tắc mà chúng tôi đã từng nêu tới cũng thích dụng cho quan hệ giữa chúng ta. Chúng tôi cũng vui lòng phát biểu tuyên bố như thế, gánh vác những ràng buộc của chúng tôi. Chúng tôi không muốn uy hiếp bất kỳ ai, cũng không muốn chịu sự đe dọa của bất kỳ người nào.
Đại biểu Lào vô cùng cám ơn những bảo đảm của Chu Ân Lai, luôn miệng biểu thị sẽ “về nghiên cứu tỉ mỉ”
Từ trung tuần tháng 7 sau khi các đoàn đại biểu trở lại Genève, các loại hòa giải ngoại giao về cơ bản đều tiến hành ở ngoài hội trường. Ngày 18 tháng 7, cử hành lần đầu tiên hội nghị có tính hạn chế kể từ giai đoạn hai đến nay, trong phát biểu có tính tổng kết, Molotov chỉ ra: “trên vấn đề phức tạp nhất, hòa bình ở Đông Dương, biện pháp chủ yếu để giải quyết vấn đề đã rõ. Qua những đàm phán gần đây, mọi người đã công nhận cơ sở để giải quyết và khôi phục vấn đề hòa bình của Việt Nam.”
Ông chỉ ra: “hội nghị về việc khôi phục hòa bình của Lào và Campuchia cũng đạt được hiệp nghị tương ứng. Mặc dù về mặt này không phải là mọi việc đã làm thỏa đáng, thế nhưng không thể nghi ngờ, các mặt có liên quan đều đi theo phương hướng đó.”
Molotov chú trọng chỉ ra, cho dù đến hôm nay, chỉ cách ngày 20 tháng 7 quan trọng còn có hai ngày mà đàm phán về vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia hai bên vẫn mỗi bên một ý. Cũng như vậy đại hội cũng có hai loại phương án đối với tuyên bố của hội nghị Genève.
Hai ngày tới chưa chắc đã giải quyết nổi tranh chấp này. Smith đại biểu Mỹ trở lại Genève có bài phát biểu mặc dù ngắn ngủi nhưng vô cùng quan trọng. Ông ta nói: “nếu như hội nghị Genève đạt được hiệp nghị mà Mỹ tán thành, thì Mỹ sẽ công bố tuyên ngôn đơn độc, nói rõ là không sử dụng vũ lực, cũng không sử dụng vũ lực uy hiếp và phá hoại hiệp nghị.” Tức là, Mỹ không ký vào tuyên bố chung nhưng nếu như vừa lòng thì cũng sẽ tôn trọng hiệp nghị.
Thái độ của Smith đối với hội nghị Genève tích cực hơn nhiều so với Dulles, ông ta có thể phát biểu như vậy cũng thuộc loại tương đối không dễ.
Nắm lấy cơ hội này, Chu Ân Lai nhượng bộ thêm một bước. Ông phát biểu nói, chúng tôi đã suy tính tới ý kiến của các nước phương Tây, bây giờ tôi kiến nghị, Ủy ban giám sát quốc tế do Ấn Độ, Ba Lan, Canada tổ thành.
Kiến nghị này của Chu Ân Lai, có cảm giác chung là để các nước phương Tây cho rằng, trong Ủy ban này, mặt trận phương Đông chỉ chiếm 1/3, có khuynh hướng có lợi cho phương Tây một chút, dễ tiếp thu.
Eden lập tức biểu thị, ngài Chu Ân Lai đề xuất kiến nghị rất hay, nhiều vấn đề trong đàm phán sẽ nhân đà này mà được giải quyết, hội nghị càng có lý do thu được thành công.
Thế nhưng hội nghị hôm này đã xuất hiện một tạp âm. Trần Văn Đỗ đại biểu chính phủ Bảo Đại phát biểu nói, đoàn đại biểu của ông ta sẽ từ chối ký vào bất kỳ hiệp định đình chiến nào dẫn tới Việt Nam phân trị.
Lời nói ấy vừa được đưa ra, mọi chỗ ngồi [chỉ những người tham dự hội nghị] đều ngạc nhiên.
Thì ra vào hạ tuần tháng 6, chính phủ Bảo Đại Việt Nam xuất hiện sự thay đổi trọng đại. Ngô Đình Diệm, tín đồ Thiên chúa giáo có liên hệ chặt chẽ với chính trường Mỹ, đã từng ở Mỹ nhiều năm đã trở về Sài Gòn ngày 24 tháng 6. Rất nhanh chóng ông ta được cử làm thủ tướng chính phủ, quyền lực của Bảo Đại đã suy yếu lớn, khuynh hướng thân Mỹ của chính phủ Ngô Đình Diệm ngày càng rõ. Trong bối cảnh đó, ngày 17 tháng 7 Trần Văn Đỗ đã gửi thư cho Mendès-France trách móc nước Pháp đi ngược với chính phủ của ông ta, làm hết mọi chuyện, ngang nhiên hứa rút về phía nam chính quyền cơ sở và quân đội Việt Nam [Bảo Đại] tại bắc vĩ tuyến 18.
Vì việc này đoàn đại biểu Pháp vô cùng ngượng nghịu. Để vỗ về chính quyền Bảo Đại, nước Pháp lại phải bận rộn một trận.
Cuối cùng thời hạn càng ngày càng tới gần, tiếng nói hòa bình càng ngày càng mạnh, nhưng trước sau vẫn nhiễm tạp những âm điệu không hài hòa.
1 Chu Ân Lai niên phổ: 1949-1976, t.1, sđd, tr. 399.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:23:34 GMT 9
CHƯƠNG 33 Hồ Leman nước liền trời
Triển vọng của vấn đề Đông Dương đã giống như ở cuối đường hầm dài dằng dặc đã lộ ra một tia sáng, tâm tình Chu Ân Lai cũng theo đó mà thoải mái hơn, ông hội kiến [Charlie] Chaplin nhà hài kịch nổi tiếng tại Vạn Hoa, mong nhanh chóng đưa vào Trung Quốc những tác phẩm tiêu biểu của ông. Vào lúc thời hạn cuối của hội nghị Genève sắp tới, Eden và Mendès-France cùng đến Vạn Hoa hội kiến Chu Ân Lai, họ còn muốn tranh thủ cái gì đây?
Hội nghị có tính hạn chế chiều ngày 18 tháng 7 kết thúc tương đối sớm. Ra khỏi cung Vạn Quốc, dường như Chu Ân Lai đã nhìn thấy, triển vọng của vấn đề Đông Dương giống như tại cuối đường hầm dài dằng dặc đã lộ ra một tia sáng. Tâm tình ông cũng theo đó mà thoải mái hơn, muốn làm một việc nhẹ nhõm gì đó.
Từ thuở còn là học sinh, Chu Ân Lai đã yêu thích kịch và điện ảnh, trước sau phong trào “Ngũ tứ” đã từng lên sân khấu diễn kịch nói vừa truyền vào Trung Quốc không lâu. Những năm 30 ở Thượng Hải, những năm 40 ở Trùng Khánh, Chu Ân Lai đã xem không ít phim ảnh. Ông đặc biệt ưa thích sự biểu diễn của diễn viên hài điện ảnh Mỹ, Chaplin. Khi tới Genève ông được tin Chaplin bị “chủ nghĩa McCarthy” trong nước bức hại đã định cư tại Lausanne, một thành phố nhỏ bên bờ hồ Leman, nên muốn tới thăm nhà nghệ thuật biểu diễn điện ảnh tâm phục đã lâu.. Tháng 7, sau khi trở lại Genève, ông đề nghị Vương Điếu Nhu, phụ trách công việc lễ tân của đoàn liên hệ với Chaplin, mời ông tới ăn cơm tối tại biệt thự Vạn Hoa. Đồng thời Chu Ân Lai cũng gửi điện về Công ty Điện ảnh Trung Quốc ở trong nước muốn Tổng Giám đốc La Quang Đạt đến Genève, tham gia cuộc hội kiến Chaplin.
Khi La Quang Đạt nhận được điện thì thời gian hẹn hội kiến chỉ còn bốn năm ngày. Lúc đó từ Bắc Kinh đi Genève chỉ có thể đi máy bay quá cảnh Liên Xô hoặc Tiệp Khắc, và nếu mọi việc thuận lợi thì cũng chưa chắc đã đến đúng hẹn. Bộ Văn Hóa và Cục điện ảnh liền quyết định cử Dương Thiếu Nhiệm, Phó Tổng giám đốc Công ty điện ảnh Trung Quốc lúc đó đang tham dự tuần lễ điện ảnh quốc tế Karlovy Vary tại Tiệp Khắc đến Genève vì gần đường hơn..
Tại Genève Chu Ân Lai trực tiếp chỉ thị cho Dương Thiếu Nhiệm, do Dương đại biểu Công ty điện ảnh Trung Quốc thương lượng với Chaplin, nhập hai tác phẩm tiêu biểu của Chaplin là “Nhà đại độc tài” và “Thời hiện đại” về chiếu tại Trung Quốc. Dương Thiếu Nhiệm đến Lausanne gặp Chaplin. Chaplin trả lời quyền cho chiếu các phim của ông đều đã ủy nhiệm cho người đại lý Pháp toàn quyền xử lý, nhưng ông vui lòng thúc đẩy việc này hoàn thành. Ông còn xác định đã nhận được thiếp mời của Chu Ân Lai, chuẩn bị đi dự tiệc.
5 giờ chiều ngày 18 tháng 5, Chu Ân Lai ra cửa phòng khách, đón tiếp vợ chồng Chaplin. Khi Chaplin vừa ra khỏi ô tô, Chu Ân Lai đã dẫn Vương Bỉnh Nam và Chương Văn Tấn ra đón, bắt tay Chaplin, nói: “tôi là khán giả trung thành của ngài, là khán giả từ hơn 30 năm rồi, chúng ta là bạn cũ.”
Chu Ân Lai và Chaplin tay nắm tay đi tới nơi có thảm cỏ xanh, tại đây đã thu xếp đầy đủ bàn ghế. Chương Văn Tấn làm nhiệm vụ phiên dịch lần đó.
Chu Ân Lai giới thiệu với Chaplin các trợ thủ tham gia cuộc hội kiến, còn có nhân sĩ điện ảnh đến từ Trung Quốc. Chu Ân Lai chúc mừng Chaplin được “Giải thưởng hòa bình quốc tế” do Ủy ban hòa bình thế giới tặng, ông nói: “Ngài là chiến sĩ vĩ đại chống xâm lược, chống chiến tranh, là chiến sĩ kiên cường bảo vệ hòa bình, hữu ái, tiến bộ văn hóa của nhân loại! Xin chào mừng ngài!”
Chu Ân Lai nói với Chaplin: “từ những bộ phim nhiều màu sắc do ngài quay, chúng tôi cảm thụ được một cách sâu sắc tiếng gọi nhân loại hữu ái, thế giới hòa bình.”
Nghe những lời ca ngợi của Chu Ân Lai, Chaplin cảm thấy phấn khởi, nắm chặt tay và chăm chú nhìn ông.
Sau khi chủ khách đã ổn định chỗ ngồi, Chu Ân Lai đã nói quan niệm của mình đối với các phim của Chaplin: “từ những bộ phim không lồng tiếng cho đến những bộ phim mới quay gần đây của ngài như “Hỷ kịch giết người” và “Cuộc sống vũ đài”, tôi đều xem, và vô cùng khâm phục! Khiến người ta tỉnh ngộ sâu sắc, dư vị vô cùng!”
Chu Ân Lai nói: “ trong bộ phim “Kẻ đại độc tài” ngài đã diễn tả Hitler, tên cuồng chiến vô cùng tài tình, khiến người tin phục, và khiến người khâm phục! Hắn ảo tưởng trở thành kẻ độc tài thống trị toàn thế giới, hoang tưởng coi trái đất như quả bóng để hắn đùa chơi, để dưới chân chơi… Những cái đó cũng là do sức tưởng tưởng nghệ thuật khác thường của ngài xử lý khéo léo sáng tạo ra.”
Nói rồi, Chu Ân Lai cười. Chaplin nói tiếp câu chuyện: “thế nhưng trái đất không như thứ đồ chơi mà hắn bầy ra, sự nổ tung của quả bóng khiến hắn kinh sợ tỉnh lại giấc mộng độc tài. Kẻ cuồng chiến, nói chung chỉ muốn chinh phục người khác, xâm lược nước khác, cuối cùng đã bị ngọn lửa chiến tranh nuốt chửng. Napoleon đã chinh phục một nửa châu Âu, ông ta tự phong là anh hùng thống trị toàn thế giới, thế nhưng cuối cùng đã phải chết mòn trên đảo Corse.”
Chaplin đã bàn tới những thể hội trong sáng tác, nói: “trong bộ phim “Ghi chép đào vàng” có rất nhiều tình tiết là những chân thực trong cuộc sống, Các vị thấy tôi ăn giày da, ăn rất ngon phải không. Đương thời đúng là có nhiều công nhân bị nhà tư bản lừa gạt tới vùng mỏ, đói đến mức cái gì cũng ăn hết, rồi đến lúc không tìm được cái gì để ăn nữa, đành phải ăn giày da của mình…Công nhân trong nhà máy của nhà tư bản đều trở thành những cỗ máy biết nói, thường làm những công việc đơn điệu. Phải nói là mỗi giờ, mỗi phút đều chỉ làm một động tác giống nhau, không biết mình đang làm vì cái gì? Không có mục tiêu, cuộc sống không có mục đích.”
Chaplin tiến hành phê phán và đả kích thời đại công xưởng hóa công nghiệp đã trở thành quá khứ. Nhớ lại khi quay bộ phim “Thời hiện đại” tác phẩm tiêu biểu trong những năm 30, ông nói, trong bộ phim “người công nhân đó từ sáng đến tối nói chung chỉ có vặn đinh ốc, điều này đã trở thành động tác quen tay của anh ta, nên không khống chế nổi động tác lúc nào cũng chỉ muốn vặn đinh ốc, vì thế khi thấy áo khoác phụ nữ có hai chiếc khuyết đã phản xạ vô điều kiện đuổi theo để cài lại.” Chaplin nói rất sinh động, còn huơ tay nói: “ranh giới giữa bi kịch và hài kịch không lớn, chỉ cách nhau một bước thôi.”
Chu Ân Lai đồng ý với cách nhìn của Chaplin: “từ mấy tác phẩm đó, hoàn toàn đã thể hiện được thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, những áp bức của nhà tư bản trong giai đoạn tích lũy nguyên thủy đối với quần chúng lao động quá tàn khốc.” Đáng tiếc là Chu Ân Lai không bàn tới những thay đổi to lớn của đời sống xã hội trong các nước phát triển sau chiến tranh, bởi vì tiến bộ của khoa học kỹ thuật đang và sẽ đẩy, quét phương thức sản xuất đại công nghiệp truyền thống về phía ngày một suy thoái. Còn cuộc sống nghệ thuật của bản thân Chaplin sau khi đến định cư tại Thụy Sĩ cũng đã bước vào phần vĩ thanh nhàn nhạt.
Chuyện trò một lúc, Chu Ân Lai mời vợ chồng Chaplin vào phòng ăn. Cùng ăn có mấy thành viên trẻ trong đoàn đại biểu điện ảnh Trung Quốc đang thăm Thụy Sĩ, trong đó có Phạm Thụy Quyên, Nhật Na, Hướng Lê v.v..
Trong bữa tiệc, Chaplin chỉ vào đĩa vịt quay Bắc Kinh trên bàn tiệc khôi hài nói: “Cá nhân tôi có cảm tình đặc biệt với chú vịt này, vì thế tôi không ăn vịt.”
Chủ nhân vội hỏi nguyên nhân, Chaplin trả lời: “Tôi đóng chàng lãng tử Patrice Chereau trong phim, bước đi của anh ta khiến mọi người ôm bụng cả cười, là được gợi ý từ thần thái đi đường của những chú vịt. Để cám ơn vịt, từ đó trở đi tôi không ăn thịt vịt nữa.”
Chu Ân Lai nói, ông không nghĩ đến chuyện đó, và biểu thị xin lỗi. Chaplin vội nói: “Thế nhưng lần này có thể không tính, bởi vì đây là vịt Mỹ.” Câu nói đó khiến mọi người cười vang.
Vịt quay Bắc Kinh bầy trên bàn tiệc là tài nghệ của nhà nấu ăn nổi tiếng của khách sạn Bắc Kinh theo Chu Ân Lai đến Genève, da vịt rất ròn. Chaplin vừa ăn vừa luôn miệng khen, nói chuyện càng say: “Năm 1932 tôi phát hiện ra phương Đông, năm 1936 đã tới Thượng Hải, xem Kinh kịch của ngài Mai Lan Phương, tôi rất khâm phục. Tôi còn xem kịch của ngài Mã Liên Lương, thật rất hay!” Ông vừa nói vừa cuộn khăn ăn làm thành roi ngựa vung lên, mô phỏng động tác trong Kinh kịch Trung Quốc.
Chaplin nói tiếp: “Nghệ thuật của các ngài rất có đặc sắc dân tộc của mình. Nghệ thuật có đặc sắc, có cá tính; thì nghệ thuật càng nồng đậm đặc sắc dân tộc, cũng là một viên ngọc kỳ dị lấp lánh trong kho báu nghệ thuật nhân loại.”
Chaplin càng nói càng phấn khởi, và chuyển đầu đề câu chuyện sang chính trị, nói: “quốc gia các ngài mới ra đời, có tiền đồ, nhân dân các ngài rất yêu cuộc sống, nghệ thuật của các ngài cũng hừng hực khí thế, tràn đầy sức sống, bởi vì phương hướng của các ngài đúng đắn. Còn phương Tây thì lại khác, một không khí suy tàn bao chùm, bọn họ tự mình sợ hãi, và nghệ thuật của họ cũng thể hiện điểm này, đều nhiễm bệnh thời đại, bệnh hiện đại, một tâm tư tuyệt vọng. Tôi không hợp tác với Hollywood, họ rất tức giận, gây áp lục với tôi từ các mặt, muốn tôi phải nghe theo chiếc gậy chỉ huy của họ. Chủ nghĩa tư bản không chỉ lũng đoạn về kinh tế mà cũng muốn lũng đoạn cả nghệ thuật. Thế nhưng tác phẩm nghệ thuật không giống sản phẩm công nghiệp, thống nhất hóa, tiêu chuẩn hóa được. Ông nội tôi là một thợ giày, ông đóng mỗi đôi giày đều có kiểu dáng mới, làm xong còn tự khâm thưởng hồi lâu, bởi vì đó là tác phẩm nghệ thuật của ông…”
Chu Ân Lai tán thành nói: “trong lĩnh vự văn hóa nghệ thuật và học thuật, nước chúng tôi đề xướng phương châm “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” để phồn vinh sự nghiệp văn hóa nghệ thuật. Chaplin không hiểu phương châm “hai trăm”, nên đề nghị phiên dịch Chương Văn Tấn dịch lại và giải thích.
Chu Ân Lai còn nói: “nhìn ngài diễn “cuộc sống vũ đài” chúng tôi đều rơi lệ đồng tình với người nghệ nhân già. Một nhà nghệ thuật được người xem rất yêu quí, ông ta là một nghệ nhân già suốt đời mang lại cho quần chúng những niềm vui vô hạn, đến cuối đời phải lang thang đầu phố, cuối cùng đã gục ngã trên sân khấu trong đau thương của người xem…Còn ở đất nước chúng tôi, cuộc sống của các nhà nghệ thuật tiền bối rất hạnh phúc, nhà nước không chỉ sắp xếp điều kiện bảo đảm cuộc sống yên ổn trong những năm tháng cuối đời, còn sáng tạo điều kiện để họ truyền nghề, bồi dưỡng lớp người mới, còn bảo đảm để họ có sự kế thừa, phát triển và tiếp tục lưu truyền cho trường phái của mình.”
Những lời nói đó của Chu Ân Lai là có ý, Phạm Thụy Quyên ngồi nghe mà xúc động. Chaplin đã biết Phạm Thụy Quyên là diễn viên chính trong “Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài”, nên quay sang hỏi bà: “nghệ thuật kịch hát của Trung Quốc vô cùng phong phú nhiều vẻ, các dân tộc, các địa phương đều có các loại kịch cực giầu đặc sắc của mình, (Việt kịch) có được coi là kịch địa phương đặc sắc không?”
Phạm Thụy Quyên gật đầu nói phải.
Tiệc vui đến đó, mọi người yêu cầu Phạm Thụy Quyên diễn tại chỗ một đoạn Việt kịch. Phạm Thụy Quyên đứng dậy đáp ứng, cất cao giọng hát một khúc “lâu đài hội”(gặp nhau ở lầu) trong vở “Lương, Chúc”
Hát xong khúc hát đó, bữa tiệc bước vào vĩ thanh, Chu Ân Lai cười hỏi Chaplin, món ăn hôm nay có hợp khẩu vị hay không?
Chaplin nói vui: “mùi vị ngon thơm của món vịt quay của quí quốc có thể nói là trên thế giới không đâu có, nhưng có một thiếu sót nho nhỏ là không để cho tôi ăn nhiều.”
Về điểm này Chu Ân Lai đã có chuẩn bị, gọi người đưa ra hai con vịt quay đã chuẩn bị tốt tặng vợ chồng Chaplin
Chaplin ca ngợi rượu Mao Đài Trung Quốc, nói ông thích loại rượu mạnh như vậy, bởi vì đó là loại rượu dùng cho những người đàn ông chân chính. Đợi đến lúc cáo từ, Chu Ân Lai lại tặng Chaplin một chai Mao Đài.
Nhìn xe của Chaplin đi đã xa, Chu Ân Lai còn chưa hết vui, nói với các nhân viên công tác bên mình: Chaplin là một người chân chính, giống như những vai mà ông đóng trong phim, xứng đáng là một bậc thày lớn về nghệ thuật có ảnh hưởng nhất đương đại!
Đó là lần hội kiến duy nhất giữa Chu Ân Lai và Chaplin. Do sự thay đổi của tình hình trong thời kỳ cuối những năm 50 của thế kỷ XX, Chaplin không thể thực hiện được nguyện vọng thăm Trung Quốc, và nguyện vọng của Chu Ân Lai muốn nhập khẩu mấy bộ phim tiêu biểu của Chaplin trước sau cũng không làm được. Mãi đến năm 1978, khi “Đại cách mạng văn hóa” không còn nữa, một số bộ phim của Chaplin như “Thời đại hiện đại” v.v.. cuối cùng mới được nhập vào Trung Quốc. Giữa khoảng cách đó có 24 năm lặng lẽ trôi qua. Tuy nhiên, chỉ cần nói đến nhận thức rộng rãi của người xem Trung Quốc đối với phim ảnh của Chaplin, thì tác dụng đề xướng đầu tiên của Chu Ân Lai tại Genève là không thể dao động. Ông đã kiên định lòng tin, những người theo nghề điện ảnh Trung Quốc một khi điều kiện cho phép là sẽ nhập khẩu phim của Chaplin.
Vào lúc Chu Ân Lai cười nói tại Vạn Hoa, thái độ của hai mặt trận lớn của hội nghị Genève đã sáng lên. Hai bên đều hy vọng ngừng lại ở chiến trường, thông qua phương thức vạch đường giới tuyến giữ vững đội hình thế trận để ung dung mưu tính sự tiến thủ sau này. Duy chỉ có Mỹ là chưa cam chịu, Dulles nói chung, muốn duy trì uy hiếp vũ lực. Trong tiến trình hội nghị, cùng với việc Chu Ân Lai và Eden đưa ra tiếng nói hòa bình càng ngày càng mạnh mẽ, trở thành giai điệu chính trong bản đại hợp xướng quốc tế, những tạp âm do Dulles phát ra dần dần lùi vào sau màn, thực hiện thao túng từ cự ly xa.
Trước đây, Molotov là người đàn ông thép của ngoại giao Liên Xô, là “Mr. No” (tiếng Anh trong nguyên bản) rong ruổi trên vũ đài ngoại giao, hiện nay âm hưởng dường vẫn như cũ, vẫn là hình tượng một người đàn ông cứng rắn, nhưng khó tránh khỏi cảnh anh hùng đã xế chiều, tuy vẫn nhìn ngang nhìn ngửa nhưng đã bị sức thắng địch trên bàn tiệc của Chu Ân Lai thuyết phục, nên tại hội nghị Genève càng ngày càng để ý tới tiếng nói của Chu Ân Lai. Eden là chiếc cầu nối không thể thiếu được giữa Đông và Tây, những nỗ lực ngoại giao của ông ta là thuốc bôi trơn cho toàn hội nghị tiếp tục tiến lên. Trong tiến trình hội nghị, ông ta dần dần nhận thức được Chu Ân Lai, càng về sau, càng tiếp xúc với Chu Ân Lai càng nhiều, càng cho rằng Chu Ân Lai có vai trò quan trọng trong toàn bộ nền ngoại giao thế giới. Ông ta tôn trọng Chu Ân Lai, hết lòng nghe ý kiến của ông.
Trong thời gian hội nghị Genève, nước Pháp có hai vị ngoại trưởng - Bidault và Mendès-France, cả hai đều đã làm thủ tướng đều quen thuộc công tác ngoại giao, họ cũng đều trong tiến trình hội nghị nhận thức được tính quan trọng của Chu Ân Lai, nhận thức được rằng muốn giải quyết vấn đề Đông Dương thì chìa khóa nắm trong tay Chu Ân Lai.
Phạm Văn Đồng giống như một con ngựa ô nhảy vào trường đua Genève thay thế hình bóng tướng Nam Il hôm trước. Nhất cử nhất động của ông đều kéo theo con mắt của mọi phóng viên. Ông đã tận lực trong việc bảo vệ lợi ích của tổ quốc mình, hơn nữa trong đàm phán phức tạp dần dần quen thuộc vũ đài ngoại giao quốc tế, càng ngày càng nắm tốt nghệ thuật ngoại giao. Đối mặt với mọi đối thủ ông đều dũng cảm không sợ. Đối với các bạn đồng minh của mình, ông lại tôn trọng, đối với Molotov và Chu Ân Lai càng như vậy. Nhất là đối với Chu Ân Lai, trong tiếp xúc nhiều lần, ấn tượng của ông rất sâu sắc. Những lời nói của Chu Ân Lai tại Genève ông rất để tâm, cuối cùng là phải nghe theo.
Tất nhiên tại Genève còn có nhiều tiếng nói, ví dụ như tiếng nói của đại biểu Lào, Campuchia và NamViệt Nam đã trở thành những âm thanh hỗn tạp, khiến vấn đề càng thêm phức tạp. Đại biểu ngoại giao Ấn Độ, Australia, Canada, Bỉ đều là sản phẩm đẹp của cùng một nước, mỗi nước đều có sở trường riêng, mỗi nước đều làm theo khả năng của mình, đều hy vọng hội nghị tiến theo phương hướng mong muốn của mình.
So với những tay thợ lớn ngoại giao quốc tế tham gia hội nghị Genève, những biểu hiện của Chu Ân Lai trên hội nghị Genève càng khiến người ta chú ý. Nếu như nói, trước khi Trung Quốc mới xây dựng nước, tài năng của Chu Ân Lai chủ yếu thể hiện tại công việc trong nước, chỉ có những người lãnh đạo Liên Xô và tướng năm sao Marshall cả về chiến tranh và ngoại giao mới có lĩnh hội, nhưng đến hội nghị Genève năm 1954, khi hội nghị còn chưa qua được một tháng tiến trình, Chu Ân Lai đã sớm trổ hết tài năng, cả thế giới đều phải nhìn. Chu Ân Lai là ngôi sao ngoại giao sáng chói trên bầu trời hội nghị Genève, giải quyết mọi vấn đề quan trọng giữa hai bên Đông, Tây đều không tách khỏi Chu Ân Lai. Ông nắm chắc sợi dây chính chống đối Đông, Tây, và được Molotov hoàn toàn ủng hộ, đã ảnh hưởng cực lớn tới thái độ của Phạm Văn Đồng; lại thông qua cố gắng giành được sự lý giải và tôn trọng của Eden, thông qua Eden làm mềm Dulles đi ít nhiều, làm yếu ảnh hưởng của Dulles với hội nghị. Ông còn thông qua Eden và Churchill ảnh hưởng tới Eisenhower, đốc thúc phía Mỹ từng bước xóa bỏ ý nghĩ “liên hiệp hành động” mở rộng chiến tranh. Đúng là Chu Ân Lai trong tiến trình hội nghị Genève đã giành được sự tín nhiệm của người lãnh đạo Pháp. Ông thuyết phục Pháp phải có những nhượng bộ cần thiết, đồng thời làm cho họ tin chắc rằng chỉ có thông qua những nhượng bộ như vậy mới có thể đổi lấy “hòa bình quang vinh”. Ngoại trưởng Lào và Campuchia lần đầu tiên gặp Chu Ân Lai trong hội nghị này, thông qua những gặp gỡ ban đầu đã thiết lập được sự tín nhiệm đối với Chu Ân Lai. Ban đầu xem ra những qua lại giữa Chu Ân Lai và ngoại trưởng Lào, Campuchia dường như là một nhàn bút, mãi đến khi hội nghị Genève kết thúc người ta mới tỉnh ngộ chính là Chu Ân Lai đã tranh được thời cơ trước, mới làm cho hội nghị Genève đi tới kết cục mà mọi người kỳ vọng.
Sự thực là đến ngày 19 tháng 7, hội nghị Genève vẫn chưa đạt được hiệp nghị cuối cùng, “vấn đề vạch đường giới tuyến” vẫn đang còn giằng co.
12 giờ 45 trưa ngày hôm đó, Mendès-France và Eden mang theo các trợ thủ chính cùng đến gặp Chu Ân Lai. Ngoại trưởng Anh, Pháp cùng đến Vạn Hoa, là lần đầu tiên kể từ khi hội nghị Genève khai mạc đến nay.
Trương Văn Thiên, Lý Khắc Nông, Vương Bỉnh Nam, Trần Gia Khang tháp tùng Chu Ân Lai hội kiến khách.
Hội đàm bắt đầu từ vấn đề Lào. Mendès-France nói, hiện nay có hai vấn đề, một là khôi phục hòa bình tại Lào và vấn đề ở đó sau khi đã khôi phục hòa bình. Còn một nữa là vấn đề nước Pháp đóng quân tại Lào.
Ông ta nói, Lào yêu cầu nước Pháp đóng quân, quân số khoảng 3.000, là để có được cảm giác an toàn. Không nên coi là sự uy hiếp. Điểm này đã bàn với ngài Phạm Văn Đồng. Không biết ngài Chu Ân Lai có đồng ý hay không. Ông ta nhấn mạnh: quân Pháp đóng tại Lào không có tính xâm lược, không đe dọa bất kỳ ai.
Chu Ân Lai nói, trong một thời gian nhất định, một địa điểm nhất định, trong phạm vi số lượng nhất định quân Pháp lưu tại Lào có thể liên hệ với các vấn đề khác để suy tính. Không biết vấn đề hai tỉnh đông bắc Lào được hoạch định làm vùng tập kết của bộ đội chống đối đã được giải quyết chưa? Pháp nên đóng quân ở hai bên đường công lộ, không nên quá gần biên giới Việt Nam.
Mendès-France nói, quân Pháp có hai căn cứ ở ven bờ sông Mekong, điểm này xem ra không có vấn đề. Căn cứ ở Cánh đồng Chum có thể nghĩ biện pháp khác. Chúng tôi đồng ý, tiến hành hạn chế số lượng quân đội Pháp, nhưng về mặt thời gian hy vọng sẽ suy nghĩ thêm. Bởi vì Lào cần có đủ thời gian để xây dựng quân đội quốc phòng của mình.
Mendès-France còn nói, vấn đề bộ đội phong trào chống đối Lào rất tế nhị, nhưng vấn đề không lớn. Bởi vì số người của bộ đội chống đối không nhiều, lúc đầu nói 2.000, sau này nói 2.500, bây giờ nói có 4.000. Sợ rằng 4.000 người cũng chưa phù hợp thực tế. Tuy nhiên số lượng rốt cuộc không lớn, nên có thể giải quyết được. Chúng tôi cũng đồng ý đơn vị bộ đội này có thể tham gia sinh hoạt chính trị của quốc gia, không bị báo thù. Những công vụ viên của họ có thể làm việc trong cơ cấu chính phủ, quân nhân có thể biên chế vào quân đội quốc gia, bọn họ có thể được hưởng quyền bầu cử, quyền ứng cử và mọi quyền lợi công dân khác. Thế nhưng chúng tôi không hiểu vì sao bộ đội có tính quân sự như thế này lại được hưởng quyền lợi chính trị đặc biệt đồng thời khống chế một vùng hành chính đặc biệt? Mặc dù đó là một vùng. Đa số người không có đặc quyền như vậy, thiểu số người lại yêu cầu đặc quyền chính trị như vậy, là không thích hợp. Chúng tôi nguyện lấy tinh thần hòa giải để suy tính mọi kiến nghị cụ thể. Thế nhưng chia rẽ Lào, vạch ra vùng chính trị có tính phân biệt đối xử, không phải là một biện pháp tốt.
Những lời nói này của Mendès-France là chỉ, đàm phán giữa Phạm Văn Đồng và phía Pháp đã cơ bản xác định vạch hai tỉnh đông bắc Lào - Phongsali và Xiangkhoang làm vùng tập kết quân đội do hoàng thân Souphanouvong lãnh đạo, đồng ý để bộ đội chống đối tại Trung Lào rút về hai tỉnh này.
Mendès-France chưa hài lòng, muốn trước mặt Chu Ân Lai làm một lần xoay chuyển cuối cùng.
Chu Ân Lai trả lời: nên khu biệt hai vấn đề này. Một là, quân đội nước ngoài nên rút khỏi, một cái khác là tập kết quân đội bản quốc. Bộ đội chống đối nên tập kết tại một vùng chứ không nên chia ra làm 11 điểm. Tập kết của bộ đội chống đối phải có được bảo đảm: sau khi bầu cử, bọn họ có thể tuân theo nguyên tắc tự nguyện, tham gia quân đội, cảnh sát quốc gia hoặc phục viên. Như vậy có thể thực hiện thống nhất. Sau khi quân đội nước ngoài rút khỏi, còn có giám sát quốc tế tại các cửa khẩu bốn xung quanh, đó là một loại bảo đảm.
Ngoài ra còn phải khu biệt hai vấn đề: bộ đội chống đối là quân đội, sau khi qua tập kết và công tác chính trị, phải được bảo đảm, sau khi thông qua bầu cử giành được thống nhất, bọn họ sẽ được sắp xếp. Còn về vấn đề hành chính địa phương đó là vấn đề nội chính, nên do chính phủ vương quốc và đại biểu phong trào chống đối, tiếp xúc tại chỗ, nhằm tìm ra biện pháp giải quyết. Trong thời chiến bộ đội chống đối, đối lập với chính phủ, bây giờ họ công nhận chính phủ vương quốc, vương quốc nên đoàn kết họ. Vừa rồi ngài Mendès-France cũng nói, nên trao cho họ các loại quyền lợi, hấp thu họ tham gia công tác, đồng thời sắp xếp họ.
Chu Ân Lai chỉ ra, vấn đề trung tâm hiện nay là, phải vạch vùng tập kết tại nơi mà bộ đội chống đối đã hoạt động lâu dài trước đây, điều này càng có lợi cho giải quyết vấn đề. Tôi vui lòng thẳng thắn nói rằng, nước Pháp dự tính trong một thời kỳ nhất định, tại một vùng nhất định giữ lại một số quân Pháp để nâng đỡ và tăng cường lực lượng tự vệ của Lào, chúng tôi vui lòng suy tính. Chúng tôi hy vọng nhìn thấy Lào trở thành một quốc gia hòa bình, độc lập, tự do và các mặt hữu hảo, hơn nữa còn có thể tự vệ. Chúng tôi cho rằng ngài Mendès-France cũng nên suy tính, chế định một vùng tập kết tương đối lớn, sau đó thông qua bầu cử có giám sát giành được thống nhất đất nước, từ đó khiến bộ đội chống đối được sắp xếp. Điều này sẽ từ mặt khác thúc đẩy thống nhất. Sau khi quân tình nguyệnViệt Nam rút về, bộ đội chống đối Lào nên được bảo đảm (an toàn)
Chu Ân Lai lại nói với Eden, chúng ta có thể thúc đẩy thống nhất từ hai mặt. Chúng tôi vui lòng để Lào trở thành một dải đất bảo hộ giống như ngài Eden đã nói. Rất phấn khởi vì ngài Eden có ở đây, chúng ta có thể cùng nghiên cứu đạt được biện pháp cho mục tiêu chung. Mọi người chúng ta nên thúc đẩy chính phủ vương quốc gánh lấy trách nhiệm, tất cả đều thông qua chính phủ vương quốc như vậy có thể bình thường hóa được.
Nghe xong giải thích của Chu Ân Lai, Mendès-France nói, đúng như ngài thủ tướng vừa nói, ý kiến của chúng ta đã không còn cách nhau xa nữa. Đối với việc đóng quân của Pháp, xem ra dễ giải quyết. Quân Pháp lưu lại Lào không thể khiến bất kỳ người nào cũng cảm thấy lo lắng. QĐND Việt Nam nên rút về, bộ đội chống đối nên được sắp xếp. Tìm được biện pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề này, xem ra không có khó khăn lớn quá. Nguyên nhân mà chúng tôi nêu ra 11 điểm bởi vì chúng tôi cho rằng đó là một biện pháp tương đối thông thường. Nếu như các ngài cho rằng nên ít đi một chút, điều này cũng dễ làm thôi. Thế nhưng nếu người miền nam đều dời lên miền bắc, vấn đề sẽ tương đối phức tạp. Lực lượng chống đối Lào đều có trong cả nước, liệu có nên tính tới cũng vạch một vùng tập kết ở miền nam, bởi vì phần lớn người ở đây đã quen với cuộc sống của vùng này, nên giải quyết tại chỗ. Còn lại một phần có thể tập kết lên miền bắc.
Về vùng tập kết miền bắc, cũng tương đối dễ, chúng tôi kiến nghị hết sức bảo vệ bộ dội chống đối, khiến họ giành được mọi quyền lợi công dân, nhưng không thể có quyền lợi chính trị đặc biệt.
Mendès-France nhấn mạnh, Lào là một quốc gia nhược tiểu, mọi người chúng ta đều đồng ý họ hoàn toàn độc lập. Điều nên tránh bây giờ là, không nên gây cho Lào và các quốc gia khác một loại ấn tượng, tức là vào lúc một nước vừa được độc lập, người ta lại suy tính tới việc chia rẽ nó, vạch ra vùng hành chính có địa vị đặc biệt. Nền độc lập hoàn toàn thực sự của Lào phải được bảo đảm, trong, ngoài đều không thể bị đe dọa. Nếu không tại châu Á và các địa phương khác sẽ có ảnh hưởng không tốt. Hy vọng ngài chú ý.
Chu Ân Lai nói, tháng 6, tôi đã từng cùng bàn với ngài Mendès-France và ngài Eden, bộ đội chống đối Lào nên có một vùng tập kết. Tình hình Lào không giống Việt Nam, Việt Nam có hai vùng tập kết và hai chính phủ, trong một thời gian nhất định mỗi bên đều có thể quản phần của mình, nhưng vùng tập kết của Việt Nam cũng là một loại biện pháp tạm thời, và không ảnh hưởng tới thống nhất. Ở Lào mà chia tới 11 điểm thì sẽ không ổn định, có khả năng phát sinh xung đột tại đương đại. Bộ đội Pháp lưu lại Lào là để giúp Lào xây dựng lực lượng vũ trang của mình, khiến Lào thống nhất, độc lập. Chúng ta không nên nói, đó là xâm lược của Pháp.
Chu Ân Lai chỉ ra, nếu như nói có một số người miền nam không muốn lên miền bắc, điều này là có khả năng, đó là vấn đề chính trị, có thể do đại biểu bộ đội chống đối và đại biểu chính phủ vương quốc thương lượng giải quyết, nên tách vấn đề hành chính và vấn đề quân sự ra. Những lời tôi nói tháng 6 là căn cứ từ tình hình thực tế mà đưa ra, hiện nay vẫn không thay đổi. Ngược lại chúng tôi vui lòng suy tính vấn đề [quân] Pháp lưu lại Lào, vấn đề này ngược lại là một điểm mới.
Đến đây, Mendès-France kiến nghị các vấn đề cụ thể giao cho chuyên gia thảo luận.
Eden ngồi bên nghe ra vấn đề. Ông ta nói, để chuyên gia thảo luận những vấn đề này tốt, ý kiến của tôi là ở những điểm nào đó đã có sự nhất trí. Theo sự hiểu biết của chúng tôi, ngài Chu Ân Lai không phản đối vạch một vùng tập kết tại nam Lào, mà là phản đối 11 điểm phân tán.Vấn đề này, cũng như vấn đề quân Pháp lưu lại Lào có thể giao cho chuyên gia cùng thảo luận.
Chu Ân Lai, một lần nữa nói, biểu thị của tôi từ tháng 6 đến nay, đều là chỉ ra muốn vạch tại đông bắc Lào một vùng tập kết, chứ không phải phân tán ở 11 điểm. Nếu không sẽ tiếp tục tạo thành không yên, đình chiến sẽ không ổn định.Vùng tập kết (đông bắc) cũng có tính tạm thời, sau khi qua bầu cử giành được thống nhất, bộ đội chống đối có thể trở thành một bộ phận của quân đội chính phủ vương quốc, hoặc là một bộ phận của cảnh sát địa phương, hoặc là phục viên, như vậy là thúc đẩy thống nhất mà không là chia cắt.
Mendès-France đáp lời Chu Ân Lai nói, về vấn đề số lượng và vùng tập kết, tôi nghĩ vùng tập hợp chủ yếu có thể vạch tại vùng đông bắc, miền nam cũng có thể hoạch định vùng tập kết. Còn về ranh giới cụ thể, có thể giải quyết tại chỗ. Sau khi tập kết, người phụ trách bộ đội chống đối có thể thiết lập quan hệ với người phụ trách hành chính vương quốc đương địa, giải quyết mọi vấn đề sau tập kết.
Chu Ân Lai trả lời, tôi đồng ý những lời ngài vừa nói, do chuyên gia tiến hành nghiên cứu.
Mendès-France nói, chiều hôm nay có thể họp.
Cuộc hội đàm của Chu Ân Lai, Mendès-France, Eden kéo dài một giờ. Khi kết thúc Eden kiến nghị Caccia, trợ thủ chủ yếu của ông ta hẹn gặp Trương Văn Thiên vào năm giờ chiều.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:25:42 GMT 9
CHƯƠNG 34 Đồng hồ cung Vạn Quốc ngừng chạy
Bên hồ Leman, liễu ám hoa minh, “vạch giới tuyến tạm thời” Việt Nam cuối cùng đã định trong trần ai. Ai ngờ sóng gió lại nổi lên, mà nguyên nhân lại là đại biểu Campuchia, Lào vốn không được đặc biệt chú trọng từ trước. Những cố gắng của Chu Ân Lai cho đến giây phút cuối cùng. Đêm khuya, nhưng ông không thể ngồi yên tại Vạn Hoa, thế là đến nơi ở của đoàn đại biểu Liên Xô để nghe tiếp tin tức từ cung Vạn Quốc. Đúng vào lúc trước khi “thời hạn cuối cùng” đến, đồng hồ chỉ giờ tại phòng lớn ký kết của cung Vạn Quốc ngừng chạy, mọi con mắt thiện lương đều tràn đầy hy vọng: hội nghị Genève có thể đạt được hòa bình trong mong đợi của mọi người. Khi ánh sáng ban mai tới, cuối cùng Chu Ân Lai đã yên tâm.
Mấy ngày liền trên vấn đề “vạch giới tuyến” tại Việt Nam, ngoài việc hai bên Pháp, Việt trực tiếp hội đàm ra, còn thông qua Trung Quốc, Anh truyền đạt tin tức, đã làm cho vấn đề tế nhị cảm thấy càng phức tạp, lẫn lộn khó phân biệt. Sau khi Mendès-France từ Paris trở lại Genève ngày 15 tháng 7, hướng đi của “đường giới tuyến” xuất hiện trên bản đồ là, đường giới tuyến do Pháp vạch dần dần chuyển về nam, còn Việt Nam thì đưa đường đó dần dần ra bắc, hai đường giới tuyến càng ngày càng tiếp cận, nhưng vẫn chưa hòa nhập làm một.
5 giờ 45 ngày 19 tháng 7, Trương Văn Thiên đến nơi ở của đoàn đại biểu Anh, hội kiến đại biểu ngoại giao Caccia, truyền đạt nhượng bộ cuối cùng về “đường giới tuyến” của miền bắc Việt Nam: “đường giới tuyến có thể thông qua phía bắc đường số 9 khoảng 10km.” Trương Văn Thiên nhấn mạnh: “nếu đối phương không tiếp thu, chúng tôi chỉ có thể mua vé máy bay về nhà. Bởi vì theo đường kiến nghị này, an toàn của đường 9 đã không thành vấn đề.”
Thực chất của nhượng bộ này là, miền bắc không chỉ nhường đường 9 mà còn tiếp tục nhường về bắc 10km.
Caccia có ý tranh thủ thêm một ít, nói: “10km, sợ rằng hẹp quá.”
Trương Văn Thiên nói, có thể bắt chước đường giới tuyến tạm thời của Triều Tiên, ở hai bên đường giới tuyến mỗi bên đều lùi 5km thiết lập khu phi quân sự.
Caccia biểu thị, nước Pháp nhất định phải tranh lấy đường số 9. Bây giờ lại có cơ hội mới, mặc dù tôi không thể đại biểu Pháp tiếp thu kiến nghị này, thế nhưng có thể truyền đạt, có thể do Mendès-France và Phạm Văn Đồng thảo luận thêm. Dự đoán phía Pháp còn muốn tranh thêm vài km nữa. Ông ta đề nghị, giữa đường 9 và vĩ tuyến 17 có hai con sông, có thể chọn một trong hai con sông đó làm đường giới tuyến.
Tiếp đó, Trương Văn Thiên bàn đến ngày tháng tổng tuyển cử tại Việt Nam, đề xuất, phía Việt Nam cũng vui lòng nhượng bộ, đồng ý sẽ lùi ngày tổng tuyển cử “sẽ được cử hành trong hai năm từ khi ký hiệp định đình chỉ hành động đối địch” Ngày tháng xác định sẽ do đại biểu hai bên hiệp thương, phải đưa ra quyết định trước tháng 6 năm 1956.
Caccia nói thêm, vấn đề này cũng do hai nước Pháp, Việt đàm phán.
Caccia còn trình bầy với Trương Văn Thiên một số ý kiến quan trọng, ông ta thuyết minh, những ý kiến này đã trưng cầu cách nhìn của đoàn đại biểu Mỹ từ trước. Về vấn đề liên minh quân sự, thái độ của nước Anh và Liên bang Anh là: nếu như tại nơi này giành được hiệp nghị mà mọi người có thể tiếp thu, trong hiệp nghị qui định ba nước Đông Dương không được tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, thì phía Anh cho rằng không được mời ba nước tham gia liên minh, bản thân nước Anh càng không thể làm như vậy. Caccia còn nói, Lào và Campuchia có thể phát biểu tuyên bố riêng biểu thị không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào.
Caccia đặc biệt đề cập tới việc ngày hôm qua đại biểu Mỹ nói, nếu như hội nghị Genève đạt được hiệp nghị thì họ vui lòng tôn trọng, nước Mỹ sẽ phát biểu tuyên bố riêng, biểu thị không phá hoại hiệp nghị này. Nếu như người khác ý đồ phá hoại, họ sẽ cho rằng đó là một sự kiện nghiêm trọng. Caccia nói, thái độ này của đoàn đại biểu Mỹ cho thấy rõ, họ đã dự tính không ký vào hiệp nghị. Vì vậy, giải quyết vấn đề tuyên bố chung còn tồn tại một chỗ tế nhị.
Trương Văn Thiên và Caccia đã phân biệt báo cáo tình hình hội đàm với Chu Ân Lai và Eden.
Nghe Caccia báo cáo, Eden mừng ra mặt, cho rằng bất đồng đã đến điểm nhỏ nhất, hai bên nhượng bộ lẫn nhau một chút nữa là có thể đạt được hiệp nghị.
Ngay trong ngày, đại biểu Việt Nam và hai nước Trung, Xô đã bàn bạc xong “phương án cuối cùng”, có bốn điều và lập tức giao cho Eden - người ở địa vị trung gian. Nội dung bốn điều khoản này là:
Hai năm sau khi ký hiệp định ngừng hành động đối địch, cử hành bầu cử. Ngày tháng chính xác cử hành bầu cử và biện pháp chuẩn bị bầu cử do nhà đương cục có tư cách, có tính đại biểu của hai vùng nam, bắc Việt Nam hiệp thương, trước tháng 6 năm 1956 phải đưa ra quyết định.
Ủy ban giám sát quốc tế do đại biểu ba nước dưới đây tổ thành: Ấn Độ, Ba Lan, Canada, do Ấn Độ làm chủ tịch.
Đường giới tuyến đi qua phía bắc đường số 9 khoảng 10 km, chiếu cố đến địa hình.
Tập kết quân đội trong ranh giới Việt Nam phải thực hiện trong 245 ngày.
Ngay tối hôm đó, Mendès-France và Phạm Văn Đồng cử hành hội đàm lần nữa, cuối cùng trên cơ sở “phương án cuối cùng” đạt được nhất trí.1
Biết được tình hình hội đàm giữa Trương Văn Thiên và Caccia, Chu Ân Lai cũng vô cùng phấn khởi. 7 giờ tối hôm đó khi hội kiến Phillips, Tổng thư ký Công đảng Anh tại Vạn Hoa ông đã trả lời những câu hỏi về cải thiện quan hệ Trung, Anh và triển vọng hội nghị Genève v.v..
Chu Ân Lai chỉ ra một cách rõ ràng, do hai bên Trung, Anh gần đây thỏa thuận phái đại biểu Trung Quốc đến trú tại London, quan hệ Trung Anh đã được cải thiện, hy vọng hai nước tăng cường qua lại. Mặc dù chế độ xã hội giữa Trung Anh khác nhau, nhưng trên cơ sở hai nước bình đẳng, cùng có lợi và mở rộng hợp tác công, thương nghiệp đúng là có khả năng.
Ông đã nói một cách lạc quan về triển vọng của hội nghị: “nếu như không có cản trở mới, hội nghị Genève có thể đạt được hiệp nghị về khôi phục hòa bình trên toàn bộ ranh giới Đông Dương.
Sau khi tiễn Phillips, đến 8 giờ tối, Chu Ân Lai thết tiệc Menon tại Vạn Hoa, có mặt Tổng lãnh sự Ấn Độ tại Genève, Kiều Quán Hoa và Trần Gia Khang tháp tùng.
Trong bữa tiệc, Chu Ân Lai ca ngợi tác dụng tích cực hòa giải của Menon tại hội nghị Genève. Chu Ân Lai còn cho rằng, Mỹ không tham gia ký vào tuyên bố chung cuối cùng là triệu chứng chẳng lành.
Đa mưu túc trí Menon nói với Chu Ân Lai, nước Mỹ không tham gia ký kết có hay có dở. “Suy tính tới dư luận thế giới, nước Mỹ đã thay đổi thái độ im lặng, quyết định phát biểu tuyên bố đơn phương, rốt cuộc vẫn là gánh vác nghĩa vụ không phá hoại hiệp định. Thứ hai, Mỹ không tham gia cơ cấu tập thể nên không thể lợi dụng cơ cấu tập thể. Nếu Mỹ làm trái hiệp nghị, các nước tham gia hiệp nghị có thể tiến hành hiệp thương, có thể gọi Mỹ đến hội nghị. Nếu như một quốc gia trong tập thể hiệp nghị vi phạm hiệp ước, Mỹ lại không có quyền tham gia hiệp thương tập thể, nếu Mỹ muốn tham gia, cơ cấu tập thể vẫn có thể tiến hành suy xét.”
Trên thực tế, tối ngày 19 tháng 7, Liên Xô và Anh còn có tranh chấp trong việc thông qua “tuyên ngôn cuối cùng” như thế nào. Liên Xô kiên trì cử hành một lần hội nghị toàn thể cuối cùng, đại biểu các nước đều ký vào tuyên bố. Vì Smith kiên trì nói ông ta không thể ký, Eden đã lặp đi lặp lại nói, “tuyên bố cuối cùng” và quyết nghị án riêng về ba nước Đông Dương chỉ cần xướng phiếu là có thể thông qua.
Ngày 20 tháng 7, hội nghị Genève bước vào ngày làm việc cuối cùng. Đông Dương sẽ là chiến hay hòa? Chức thủ tướng của Mendès-France liệu có giữ được không? Sẽ công bố ngay.
Điều ra ngoài dự tính là, 11 giờ sáng, Tép Phan ngoại trưởng và Tioulong đại biểu quân sự Campuchia đến Vạn Hoa chào Chu Ân Lai, đề xuất họ còn có ý kiến bất đồng đối với tuyên bố cuối cùng của hội nghị Genève và hiệp nghị khôi phục hòa bình tại Campuchia, muốn đề nghị Chu Ân Lai xem xét quyết định.
Vấn đề cụ thể là có. Phạm Văn Đồng đề xuất, thời hạn QĐND Việt Nam rút khỏi Campuchia nên là 6 tháng. Phía Campuchia cho là dài quá, chỉ một tháng là đủ. Phía Việt Nam còn đề xuất, nhân viên chống đối Campuchia được giữ vũ khí đến ngày bầu cử, đồng thời tham gia bầu cử. Thế nhưng theo pháp luật hiện hành của Campuchia, quân nhân và sư sãi, đều không có quyền bầu cử và quyền ứng cử. Lại nữa, Phía Việt Nam đề xuất, khi quân đội Việt Nam rút lui thì 2 km hai bên ven đường quốc lộ, không được có quân đội chính phủ Campuchia. Phía Campuchia cho là xâm phạm chủ quyền chính phủ Campuchia, bởi vì cư dân Campuchia chủ yếu phân bố ven đường quốc lộ.
Chu Ân Lai có phần bất ngờ trước việc đoàn Campuchia tới thăm. Ông lịch sự nói rằng: “cám ơn các vị đã nêu ra những điểm bất đồng, tôi biểu thị sự nuối tiếc sâu sắc vì vấn đề Campuchia đến bây giờ vẫn chưa đạt được hiệp nghị.”
Tiếp đó ông chỉ ra, bây giờ điều then chốt là, phải làm cho các điểm bất đồng gần lại nhau. Về thời hạn quân đội Việt Nam rút khỏi, nếu như quá dài có thể rút ngắn lại một chút, thế nhưng thời hạn một tháng là quá ngắn, về các chiến sĩ phong trào chống đối trong nước Campuchia, có thể tiến hành phân loại, chiếu cố nguyện vọng của họ. Có người vui lòng ở lại, có người từ miền trung Việt Nam đến, đều không được phân biệt đối xử với họ. Nếu như họ muốn ở lại Campuchia, cũng không được đuổi họ đi, tiền đề là tôn trọng pháp luật của vương quốc.
Lực lượng chống đối Campuchia có thể tập kết tại chỗ. Dùng phương pháp chính trị, hòa bình giải quyết, hết sức hấp thu họ tham gia tổ chức quân sự và hành chính trong nước. Không được tiến hành bức hại những người đã từng hợp tác với đối phương, phải cho họ công tác thích đáng. Đối với tổ chức chính trị, chính đảng cũng như đoàn thể của họ, phải căn cứ pháp luật công nhận địa vị hợp pháp của họ. Như thế, có thể tiếp xúc, đàm phán với người lãnh đạo tổ chức chính trị của các nơi.
Chu Ân Lai nhấn mạnh, nói tới vấn đề quân sự, trước hết là không được vận chuyển quân đội và vũ khí mới từ nước ngoài vào, không xây dựng căn cứ quân sự nước ngoài, không tham gia liên minh quân sự. Chu Ân Lai cố ý thêm một câu: “không được thân Mỹ”. Đó mới là điều ông lo lắng nhất.
Tep Phan nói, sau khi độc lập, Campuchia cảm thấy không hứng thú gia nhập liên minh Pháp, Campuchia đã không muốn lại chịu sự thống trị của Pháp. Thế nhưng ông ta lo lắng: “Việt Nam muốn chúng tôi trở thành thuộc địa của họ.”
Chu Ân Lai nói, tôi bảo đảm với ngài một cách rõ ràng xác đáng rằng, Việt Nam không có ý đó. Hồ Chí Minh nói với tôi, họ có thể bảo đảm không xâm lược bất kỳ quốc gia nào, bởi vì xâm lược nhất định thất bại. Chu Ân Lai hy vọng đoàn đại biểu Campuchia một lần nữa họp gấp với đoàn đại biểu Việt Nam, bản thân ông cũng sẽ thúc đẩy tiến hành việc này.
Tep Phan cảm động vì việc này, nói: chúng tôi muốn sinh tồn, muốn bảo vệ nền độc lập của chúng tôi, chúng tôi là nước nhỏ quyết không vô cớ công kích người khác.
Tioulong, trợ thủ của Tep Phan cũng nói với Chu Ân Lai: “tổ tiên tôi là người Trung Quốc, tên tôi là Tioulong. Bây giờ chúng tôi được ngài thủ tướng giúp đỡ, sau này còn cần Trung Quốc giúp đỡ về các mặt.”
Chu Ân Lai giỏi xử lý các trường hợp giống như vậy, ông thành khẩn nói, tương lai nếu có cơ hội, hoan nghênh các vị đến thăm Trung Quốc, tương lai Trung Quốc sẽ có quan hệ ngoại giao với Campuchia.
Chuyến thăm viếng của Tep Phan khiến Chu Ân Lai cảnh giác lại, phát hiện mình biểu thị thái độ lạc quan sớm một chút. Sau khi tiễn Tep Phan ông lập tức đến gặp Molotov và Phạm Văn Đồng, bàn bạc lần nữa về tuyên bố cuối cùng và văn bản hiệp nghị, trao đổi bàn bạc về mấy vấn đề Tép Phan vừa đề xuất. Mới đầu, cả Molotov và Phạm Văn Đồng đều cho rằng yêu cầu của Tép Phan không có đạo lý, nhất định có Mỹ nâng đỡ ở đằng sau, nên chặn đứng. Chu Ân Lai không hoàn toàn cho là như vậy, ông chỉ ra cho Molotov và Phạn Văn Đồng, cũng có thể là đằng sau Campuchia có sự ủng hộ của Mỹ, nhưng rốt cuộc Campuchia là nước nhỏ, vừa mới giành được độc lập, đặc biệt sợ người coi khinh, cũng có khả năng là ôm hy vọng vào Mỹ. Đại biểu của họ không yên tâm với thân phận nước lớn, cũng có thể hiểu được tâm tư này, và cũng có thể thông cảm. Nhưng vào lúc này nếu có thể tranh thủ Campuchia trung lập, đều có lợi đối với Việt Nam, đối với Trung Quốc. Chúng ta cần tách rời vấn đề hình thái ý thức và quan hệ quốc gia, đồng ý những yêu cầu hợp lý của họ. Vì thế trên vấn đề hiệp nghị đình chiến về Campuchia, có thể theo yêu cầu của đại biểu Campuchia, có thêm một số nhượng bộ.
Trước những trình bầy cuối cùng của Chu Ân lai, Molotov và Phạm Văn Đồng đã đồng ý, sau đó đi gặp Eden và Mendès-France.
Chu Ân Lai nghỉ một chút, rồi hẹn Trương Văn Thiên, Lý Khắc Nông, Vương Bỉnh Nam và Đổng Ninh Xuyên hai giờ chiều rời Vạn Hoa theo lời mời của Mendès-France đến biệt thự của ông ta uống trà buổi chiều. Mendès-France và Chauvel tươi cười ra đón, cho thấy cuộc gặp gỡ buổi sáng giữa ông ta và Molotov, Phạm Văn Đồng thu được thành quả tích cực.
Không khí trong bữa tiệc thoải mái, lễ tân chu đáo.Hai bên chủ khách dường như tùy ý bàn luận tới lịch sử Trung Quốc và nước Pháp, và cả giao lưu văn hóa giữa hai nước. Chu Ân Lai nhớ lại cuộc sống lưu học sinh tại Pháp năm xưa, Mendès-France biểu thị hoan nghênh Chu Ân Lai tới thăm Paris một lần nữa, đồng thời biểu thị “Hiệp hội giáo dục Pháp Hoa” chủ trì học sinh Trung Quốc cần công kiệm học lưu học tại Pháp năm nay nên được khôi phục v.v..
Mendès-France để lộ ra đặc biệt dễ chịu. Thì ra, sau một hồi nỗ lực, Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại biểu nước Việt Nam, hôm nay đã chính thức biểu thị với ông ta, đoàn đại biểu chính phủ Bảo Đại không phản đối ký hiệp nghị ngừng hành động đối địch tại Việt Nam nữa. Việc này đã loại bỏ cho Mendès-France một tâm bệnh.
Thủ tướng hai nước đều bàn tới hai nước Trung, Pháp nên cải thiện quan hệ, hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chỉ là việc sớm muộn.
Thủ tướng hai nước bàn bạc quyết định, tối nay đại biểu các nước đến cung Vạn Quốc ký hiệp nghị ngừng bắn tại Đông Dương, rồi bắt tay từ biệt nhau.
7 giờ 20 chiều, phòng họp lớn trong cung Vạn quốc ánh đèn rực rỡ, rất đông phóng viên, cả thế giới đều chờ đợi ba văn kiện quan trọng chấm dứt hành động đối địch tại ba nước Đông Dương, được ký tại hội nghị Genève.
Buổi tối, Chu Ân Lai lưu lại Vạn Hoa, chờ đợi tin tức từ cung Vạn quốc.
Mendès-France cũng ở lại biệt thự của mình, ông ta ủy nhiệm Chauvel làm đại biểu toàn quyền đến cung Vạn quốc ký kết.
Eden đối với toàn bộ cục diện rất có cảm giác chừng mực, 11 giờ 19 phút sáng, trong điện gửi Churchill, ông ta nói, Pháp và Việt Minh đã đồng ý ký hiệp nghị ngừng bắn. Về Lào cũng có hy vọng sau một, hai giờ cũng đồng ý làm như vậy, còn Campuchia có khả năng có một số phiền phức.
Nhưng đến 8 giờ tối, Eden gọi điện thoại, báo cho Mendès-France biết: tình hình có những thay đổi mới, Molotov giận dữ vừa gọi điện thoại cho ông ta, nói, Tep Phan đại biểu vương quốc Campuchia đang truyền tin rộng rãi nói, Campuchia sẽ không ký hiệp định hòa bình. Eden nói, Molotov tin chắc, đó là Mỹ đứng đằng sau giở trò quỷ, ông ta đề nghị lập tức triệu tập hội nghị khẩn cấp đoàn trưởng đoàn đại biểu ba nước Anh, Pháp, Xô để nghe ý kiến của đại biểu Campuchia. Được tin, Mendès-France lập tức tới cung Vạn quốc, Phạm Văn Đồng cũng bị tìm tới cùng thương thảo.
Hội nghị khẩn cấp cử hành nửa giờ sau đó. Tep Phan người không cao nhưng đầu tóc rối bù, nói với đại biểu ba nước lớn: “tôi không ký vào hiệp định, bởi vì hiệp định hạn chế tự do của Campuchia, Campuchia dự tính liên minh, để cho một quốc gia xây dựng căn cứ tại Campuchia.” Rõ ràng “quốc gia” này là chỉ nước Mỹ.
“Thế thì vì sao ngài không nói sớm?” Đại biểu Anh và Liên Xô nối nhau chất vấn.
Tép Phan nói: “tôi quản không nổi nhiều thế.”
Đại biểu Mỹ ở đâu? Robertson đã rời Genève, Smith không khỏe đang bệnh nằm trên giường, sau khi nghe tin, ông ta đã nhờ người chuyển lời cho Tep Phan, nói đại biểu Campuchia có thể ký hiệp định.
Sau đó có tin đồn nói Ngô Đình Luyện, đại biểu chính phủ Bảo Đại Việt Nam cũng biểu thị không đồng ý với hiệp nghị đình chỉ hành động đối địch tại Việt Nam. Cung Vạn Quốc có chút hỗn loạn.
Nghe xong những tin tức đó Chu Ân lai cũng không tránh khỏi sốt ruột, ngồi không yên ở Vạn Hoa. Mặc dù biết đêm đã khuya, nhưng ông vẫn cùng Sư Triết đến biệt thự của đoàn đại biểu Liên Xô, cùng ngồi để kịp thời nghe được tin tức từ cung Vạn quốc truyền về.
11 giờ 19 tối, Eden dứt ra gọi điện thoại báo cáo Churchill, đề án kết thúc hành động đối địch tại Việt Nam cuối cùng đã giành được sự đồng ý của đại biểu chính phủ Bảo Đại Việt Nam, dự đoán một, hai giờ nữa đại biểu Lào và Campuchia cũng biểu thị tán đồng hiệp nghị. Đã tới 12 giờ đêm, mấy quan chức ngoại giao Pháp và Anh xuất hiện trong phòng họp lớn, điệu bộ đầy vẻ giận dữ. Họ nói với phóng viên: Campuchia không dự tính ký! Hiện nay Eden, Mendès-France, Molotov đang khuyên ông ta, tìm phương án thỏa hiệp mới
Thế chẳng phải là đã vượt thời gian biểu do Mendès-France tự qui định ư?
Các phóng viên và quan chức các nước trong phòng họp lớn cung Vạn quốc không ai là không quan tâm chú ý tới chiếc đồng hồ chỉ giờ trên tường phòng họp.
Không ngờ là chiếc đồng hồ này vào lúc gần tới 12 giờ khuya đã ngừng lắc! Nhân viên phục vụ đại hội đã làm động tác gì đó với chiếc đồng hồ chỉ giờ này - ngay những nhân viên công tác bình thường của cung Vạn quốc cũng mong chờ hội nghị Genève đạt được thành công cuối cùng.
Tại một phòng họp khác của cung Vạn Quốc, Molotov, Eden, Mendès-France vây chặt lấy Tep Phan, bọn họ khuyên giải liên tục đến 2 giờ sáng.
Cuối cùng, Molotov đã thỏa hiệp. Ông hỏi Tep Phan: “Rốt cuộc ông yêu cầu cái gì?”
Câu trả lời là, trong tình hình bị đe dọa, ngoài việc có thể cầu viện nước Pháp ra, còn có thể xin viện trợ của quốc gia khác. Chỉ cần Campuchia đồng ý, quốc gia khác có thể xây dựng căn cứ quân sự tại Campuchia.
“Tốt thôi, điều này không có vấn đề.” Molotov nhắc lại hai lần, “thế nhưng cần suy tính tới phương thức dính líu vào, khi Campuchia bị đe dọa, cụ thể, thực sự như thế nào thì mới được xin viện trợ của nước ngoài.”
Sau khi Molotov nhượng bộ, cuối cùng đại biểu Campuchia biểu thị, ông ta sẽ ký vào hiệp định.
Molotov thở một hơi dài, nói: “bây giờ tôi nghĩ mọi người đều vừa lòng.”
Đột nhiên nghe thấy tiếng Mendès-France; “tôi còn có lời muốn nói.”
Molotov vô cùng ngạc nhiên: “làm sao ngài lại đến?”
“Vâng.” Mendès-France nói, “cho dù Campuchia đã như vậy, cũng nên đối xử bình đẳng với Lào, đó là nguyên tắc công bằng đơn giản.”
Molotov để lộ rõ không phấn khởi lắm, nhưng ông ta lập tức thay đổi thái độ, nói: “được, Lào cũng sẽ như vậy.”
Cuối cùng hiệp định đình chiến đã đạt được!
Lúc này đã gần 3 giờ sáng, trong túi của Mendès-France có bức điện của Navarre, trong bức điện, Navarre dùng thân phận Tư lệnh mặt trận ủy quyền cho [thiếu] tướng [Henri] Delteil đại biểu quân sự Pháp tại Genève ký vào hiệp định đình chiến.
Mendès-France ra khỏi phòng họp, trong một phòng nhỏ thuộc tầng hai, ông ta tìm được và trao cho Delteil bức điện của Navarre, khẽ nói: ông biết đấy, tôi yêu cầu ông làm việc này, đối với một sĩ quan mà nói, đó là một sứ mệnh đau khổ. Thế nhưng ông biết, ngày hôm nay ngoài việc làm đó ra chẳng còn sự lựa chọn nào tốt hơn. Mà làm như vậy lại tương đối phù hợp với vinh dự của quân đội, với lợi ích của quốc gia và với lời hứa của chúng ta đối với bạn đồng minh.”
Delteil nhận điện, đi vào phòng ký kết. Chiếc bàn dài hình móng ngựa đã bầy xong, trên bàn đặt văn kiện thứ nhất: hiệp định đình chỉ hành động đối địch tại Việt Nam.
3 giờ 20 sáng, đại biểu quân sự hai bên tụ tập tại phòng họp lớn, nghi thức ký kết bắt đầu. Delteil, đại biểu Navarre, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương ký tên, Tạ Quang Bửu đại biểu Việt Nam DCCH ký tên.
Sau khi ký xong, Tạ Quang Bửu tươi cười đi tới trước mặt Delteil cũng vừa ký xong đề nghị: “tướng quân, hy vọng ngài đồng ý, bây giờ chúng ta hãy cùng uống một cốc sâm banh.”
Delteil không hề có biểu lộ gì, ngửng đầu lên nói: “chắc ông biết rõ là tôi thể không nhận lời”, nói xong ông ta đi thẳng về hàng ngũ của mình.
Trong phòng báo chí của cung Vạn quốc vang dậy những tiếng hoan hô.
4 giờ sáng Molotov bứt ra khỏi cung Vạn quốc trở về nơi ở của mình. Chu Ân Lai đang sốt ruột chờ đợi.
Molotov báo cho Chu Ân Lai, đại cục đã định, Lào và Campuchia đã đáp ứng, mỗi nước sẽ ký vào hiệp nghị đình chỉ hành động đối địch của mình, nhưng bọn họ vẫn kỳ kèo. Nói chung họ vẫn cảm thấy mình còn một số lời chưa biểu đạt được, không vừa lòng với chính phủ Pháp, nên đã cố ý kéo dài đến lúc trời sáng mới ký, khiến Mendès-France cảm thấy rất khó xử.
Molotov nói, chiêu này của Tep Phan đại biểu Campuchia đã dọa cho người Pháp một trận thất kinh, cuống lên. Chúng tôi đã khuyên, cuối cùng nên theo ý kiến của ngài, có thêm một chút nhượng bộ, thế nào Tep Phan cũng gật đầu.
Cuối cùng Chu Ân Lai đã yên tâm, có thể tương đối bình tĩnh uống chè chờ đợi. Cho đến lúc từ cung Vạn quốc truyền đến tin nói, Tep Phan đang chuẩn bị ký, Chu Ân Lai mới đứng dậy bắt tay từ biệt Molotov.
Lúc này buổi sớm ngày 21 tháng 7 đã tới. Từ nơi xa xăm, đỉnh núi Blanc nước Pháp đang bị tuyết phủ trắng bỗng chùm lên một vầng ánh sáng.
Ánh sáng ban mai đã chiếu vào cung Vạn Quốc, vào lúc đại biểu Lào và Campuchia lần lượt ký tên, kim giờ của chiếc đồng hồ chỉ giờ tại phòng ký kết vẫn chỉ vào 12 giờ đêm ngày 20 tháng 7.
1 sđd, t.1, tr. 176-177;
- Lý Liên Khánh, Chu Ân Lai – nhà ngoại giao lớn t.2, sđd, tr. 408-411.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:26:21 GMT 9
CHƯƠNG 35 Một ngày hoàn toàn mới
Ngày 21 tháng 7 là một ngày hoàn toàn mới, hội nghị Genève cuối cùng đã thực hiện được hòa bình ở Đông Dương. Cho dù vẫn còn sóng gió, cho dù vẫn còn xuất hiện những tiếng nói bất đồng khó mà dự đoán, nhưng tất cả những sóng gió và âm thanh hỗn tạp đó không thể ngăn cản được ngọn triều lớn hòa bình. Phạm Văn Đồng khi nói những lời trình bầy cuối cùng đã kích động tới mức không tự chủ nổi, Chu Ân Lai cũng sóng lòng lên xuống. Đối với các nước Đông Dương mà nói, một thời đại đã kết thúc, một thời đại mới bắt đầu.
Ngày 21 tháng 7 là một ngày tương đối nhẹ nhõm. Trải qua một đêm căng thẳng khó mà ngủ được, các đại biểu chủ yếu của hội nghị Genève đều ngủ dậy hơi muộn một chút.
11 giờ trưa, Eden đến Vạn Hoa thăm Chu Ân Lai.
Eden đến để chào từ biệt. Chỉ đợi “Tuyên bố cuối cùng” thông qua là ông ta phải rời Genève về nước.Tại Genève, Eden làm quen được Chu Ân Lai, vào lúc đó ông ta nói: “chân thành cảm ơn ngài thủ tướng Chu Ân Lai đã ủng hộ tôi với tư cách là Chủ tịch hội nghị Genève. Trong hội nghị, Chu tiên sinh đã có tác dụng trác việt mà người khác không thể có được. Không có những nỗ lực của ngài, muốn đạt được hiệp nghị hòa bình về Đông Dương là điều không thể tưởng tượng nổi, có thể chúng tôi đã về nhà từ lâu rồi. Chính phủ Anh coi trọng hai nước Trung, Anh thiết lập quan hệ lần này, hy vọng từ nay về sau hai nước bảo trì được mối liên hệ này với tràn đầy lòng tin.”
Chu Ân Lai trả lời: “cám ơn ngài Eden về những nỗ lực với tư cách là một trong hai Chủ tịch hội nghị! Hiện nay quan hệ Trung, Anh đã được cải thiện, hơn nữa còn có phát triển.”
Eden đến thăm có tính lễ tân, buổi chiều bọn họ còn gặp nhau tại hội nghị toàn thể. Chỉ có điều là hai vị ngoại trưởng đều không ngờ là đó là cuộc gặp mặt riêng cuối cùng trong đời họ.
1 giờ chiều, Chu Ân Lai tiếp Mendès-France và các trợ thủ chủ yếu của ông ta tại Vạn Hoa.
Mendès-France tươi cười hớn hở, vừa tới cửa là bắt tay Chu Ân lai, nói vui, hội nghị Genève không tuân theo thời gian do tôi qui định, ngài thấy tôi có nên từ chức hay không?
Chu Ân Lai cười nói: “việc chủ yếu đã làm xong, việc bé tí xíu đó chẳng là gì cả.”
Với dáng điệu khôi hài, Mendès-France nói với Chu Ân Lai: “ý kiến của Tổng thống của tôi và ngài giống nhau, sáng hôm nay ông gọi điện nói với tôi không nên từ chức. Hiện nay càng tốt hơn, đợi đến lúc tôi về báo cáo với Quốc hội, tôi sẽ nói Chu Ân Lai không muốn tôi từ chức.” Mendès-France còn bổ sung một câu, nói ông ta đã hỏi Molotov, Molotov cũng nói không phải từ chức
Không khí bữa tiệc rất hữu hảo. Mendès-France nâng cốc chúc Chu Ân Lai. Ông ta nói, lần thứ nhất đến Genève đàm phán đã may mắn được hội kiến ngài Chu Ân Lai, cuộc gặp Bern hôm ấy để cho hội nghị Genève thành công và cũng mở ra con đường phát triển quan hệ hữu hảo giữa Pháp và Trung Quốc.1
Mendès-France cám ơn Chu Ân Lai đã có tác dụng có tính then chốt tại hội nghị Genève.
Ba giờ chiều, phiên họp toàn thể lần cuối cùng của hội nghị Genève cử hành tại cung Vạn quốc.
Lần cuối cùng Eden giữ chức chủ tịch hội nghị, trước tiên hỏi, vị đại biểu nào cần phát biểu?
Trần Văn Đỗ đại biểu chính phủ Bảo Đại Việt Nam phát biểu đầu tiên, nói đại biểu nước Việt Nam từng đề xuất một kiến nghị, yêu cầu quân đội giao chiến hai bên lui về vùng tập kết nhỏ nhất, giải trừ vũ trang, do LHQ thực thi khống chế tạm thời đối với cả nước Việt Nam, thông qua tuyển cử khiến nhân dân Việt Nam tự do lựa chọn tương lai của mình.
Tiếp đó Trần Văn Đỗ tuyên bố mấy kiến nghị: trước tiên là kháng nghị đề án trước chưa được thẩm tra đã bị hội nghị từ chối. Thứ hai, kháng nghị, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp và Tổng tư lệnh bộ đội Việt Minh vội vàng ký hiệp nghị đình chiến, coi thường lợi ích của nước Việt Nam. Mặc dù Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp được ủy quyền chỉ huy quân đội nước Việt Nam, thế nhưng nước Pháp không thể đem lợi ích của nước Việt Nam ra giao dịch. Một số đất đai quân Pháp nhường cho Việt Minh trên thực tế là dưới sự khống chế của quân đội nước Việt Nam. Cuối cùng, ông ta kháng nghị Pháp đã làm quá chức trách, phận sự, chưa được sự đồng ý của nước Việt Nam đã xác định ngày tháng tổng tuyển cử của Việt Nam trong tương lai.
Phát biểu của Trần Văn Đỗ lại làm cho không khí hội nghị căng thẳng lên.
Mendès-France lập tức phát biểu bào chữa nói, đoàn đại biểu Pháp tin chắc lúc phía Pháp làm như vậy đã suy nghĩ đầy đủ tới lợi ích của nhân dân Việt Nam. Chính phủ Pháp luôn luôn quan tâm chú ý tới an ninh của vùng giáo dân Thiên chúa tập trung tại miền bắc Việt Nam, tán thành bọn họ tự do biểu đạt ý chí. Phía Pháp hy vọng lời hứa của ngài Hồ Chí Minh là có hiệu lực.
Tiếp đó, Eden đọc hiệp nghị về đình chỉ hành động đối địch của ba nước Đông Dương.
Hiệp định về đình chỉ hành động đối địch tại Việt Nam:
Sau khi ký 48 giờ, hiệp nghị có hiệu lực, mọi lực lượng vũ trang đình chỉ chiến đấu. Suy nghĩ tới tình hình thực tế, tại Bắc bộ Việt Nam, sau khi hiệp nghị có hiệu lực năm ngày ngừng bắn, tại Trung bộ sau mười ngày ngừng bắn, Nam bộ sau 20 ngày ngừng bắn, mỗi chiến trường 30 ngày sau ngừng bắn thả tù binh và dân thường bị bắt.
Hiệp nghị qui định, từ vĩ tuyến 17 về nam, hơi về bắc đường số 9, vạch đường giới tuyến quân sự tạm thời, phía bắc đường này là vùng tập kết QĐND Việt Nam, sau khi ký hiệp định, quân đội hai bên trong 300 ngày hoàn thành việc tập kết tại các vùng của mỗi bên. Nam bắc đường giới tuyến quân sự tạm thời là khu phi quân sự.
Trước khi thành lập chính phủ Việt Nam thống nhất do bầu cử, hai bên tự quản lý công việc trong vùng tập kết của mình. Bắt đầu từ lúc hiệp định đình chiến có hiệu lực, cấm mọi tăng viện quân đội và nhân viên trợ giúp quân sự vào Việt Nam, trên toàn bộ ranh giới Việt Nam cấm thiết lập căn cứ quân sự mới (bao gồm căn cứ quân sự nước ngoài)
Hiệp định về đình chỉ hành động đối địch tại Lào
Sau khi ký 48 giờ hiệp định có hiệu lực, mọi lực lượng vũ trang đình chỉ chiến đấu. Suy nghĩ tới tình hình thực tế, Thượng Lào sau khi hiệp định có hiệu lực năm ngày ngừng bắn, Trung Lào trong mười ngày ngừng bắn, Hạ Lào trong 20 ngày ngừng bắn. Mỗi một chiến trường 30 ngày sau ngừng bắn thả tù binh và dân thường bị bắt mọi quốc tịch.
Rút khỏi và di chuyển bộ đội, cấp dưỡng và vật tư quân dụng hai bên hoàn thành 120 ngày sau khi hiệp định có hiệu lực, bộ đội và nhân viên tình nguyện Việt Nam tại Lào rút về Việt Nam, trước khi hành động đối địch phát sinh, địa vị nhân viên tình nguyện tại Lào do hiệp nghị đặc biệt qui định.
Mọi bộ đội chiến đấu “Pathet Lào” trong 120 ngày hoàn thành tập kết tại hai tỉnh Phongsali và Xiangkhoang đông bắc Lào. Từ ngày công bố lệnh đình chiến, cấm đưa vào ranh giới Lào quân đội tăng viện và nhân viên quân sự, nhưng quân Pháp có thể lưu tại Lào nhân viên quân sự cần thiết để huấn luyện quân đội quốc gia Lào, nhưng tổng số không được vượt 1.500 người.
Cấm đưa vào Lào các loại vũ khí, đạn được và quân dụng phẩm, nhưng không kể số lượng vũ khí cần thiết nhất định để tự vệ.
Từ ngày hiệp đựng có hiệu lực, cấm thiết lập căn cứ quân sự mới tại Lào, nhưng quân Pháp có thể duy trì tại Lào hai cơ sở quân sự và nhân viên cần thiết, tổng số không được vượt quá 3.500 người.
Hiệp định về đình chỉ hành động đối địch tại Campuchia
Sau khí ký 48 giờ hiệp định có hiệu lực, vào 8 giờ ngày 23 tháng 7 giờ Bắc Kinh (giống giờ địa phương) hai bên giao chiến hạ lệnh đình chỉ hành động đối địch, suy nghĩ tới tình hình cụ thể của thông tin liên lạc, 8 giờ ngày 7 tháng 8 thực hiện ngừng bắn hoàn toàn
Rút hết mọi quân đội nước ngoài, bao gồm:
Quân đội Pháp và nhân viên vũ trang.
Nhân viên chiến đấu các loại tính chất của các nước khác tiến vào Campuchia.
Mọi người nước ngoài trong các đơn vị vũ trang các loại tính chất, hoặc trong các loại tổ chức có liên quan với quân đội Việt Nam, hoặc không phải là người Campuchia xuất sinh tại Campuchia.
Trong 30 ngày công bố lệnh ngừng bắn, quân đội kháng chiến Campuchia phục viên tại chỗ, quân đội vương quốc Campuchia không sử dụng hành động quân sự với họ. Căn cứ vào hiến pháp và qui định bầu cử của Campuchia, quyết định địa vị thành viên kháng chiến đã phục viên. Đối với những người đề xuất yêu cầu trong số đó, nếu phù hợp luật binh dịch quốc gia và điều lệ cảnh sát, có thể tham gia quân đội quốc gia hoặc bộ đội cảnh sát địa phương.
Eden đọc xong ba văn kiện đó, đã đặc biệt đề xuất với hội nghị, muốn thực hiện ba văn bản này còn cần phải trải qua một số hiệp thương cụ thể, trong đó bao gồm địa đồ cụ thể và vấn đề giám sát, các bên trong ba nước đồng ý, trước khi đạt được hiệp định hơn nữa, không công bố những văn bản này.
Tiếp đó Eden đọc qui định về giám sát ngừng bắn, qui định thiết lập Ủy ban liên hiệp do đại hiểu hai bên bằng nhau về số lượng tổ thành, Ủy ban giám sát quốc tế do đại biểu Ấn Độ làm chủ tịch, cộng thêm đại biểu Ba Lan, Canada. Quan hệ của hai ủy ban này là bình đẳng. Khi phát sinh tình hình vi phạm liên quan đến vấn đề đình chiến, phải qua Ủy ban giám sát quốc tế trọng tài. Khi một bên cự tuyệt ý kiến của Ủy ban giám sát quốc tế, Ủy ban giám sát quốc tế sẽ đề xuất tố cáo lên các nước bảo đảm hội nghị Genève.
Eden nhắc mọi người quan tâm chú ý tới các văn kiện khác:
Tuyên bố của chính phủ Lào về bầu cử;
Tuyên bố của chính phủ Campuchia về bầu cử và sẽ thống nhất toàn thể công dân trong sinh hoạt chung cả nước;
Tuyên bố của chính phủ Lào về tình hình quân sự nước này;
Tuyên bố của chính phủ Campuchia về tình hình quân sự nước này;
Tuyên bố của nước Pháp về tôn trọng độc lập ba nước Đông Dương;
Tuyên bố của Pháp về rút quân khỏi ba nước Đông Dương;
“Tuyên bố cuối cùng”của hội nghị Genève về mọi văn kiện của hội nghị.
Ông ta đề nghị đại biểu dự hội nghị đọc tỉ mỉ “Tuyên bố cuối cùng” đã phát đến tận tay.
Tổng cộng “Tuyên bố cuối cùng” có 13 điều, nội dung hạt nhân là các nước tham gia hội nghị Genève cùng bảo đảm thực thi ba hiệp nghị đình chỉ hành động đối địch.
Sau khi, xác nhận các vị đại biểu đã đọc xong Tuyên bố cuối cùng, Eden đề nghị các đại biểu lần lượt biểu thị ý kiến đối với Tuyên bố.
Smith đã nói với Eden trước cuộc họp, nước Mỹ sẽ không ký vào văn bản, điều cuối cùng mà chính phủ Mỹ có thể làm là hứa sẽ không cản trở việc ký kết hiệp định này. Trung Quốc kiên trì mọi nước tham dự hội nghị Genève đều ký vào hiệp định. Cuối cùng mọi người thỏa hiệp, toàn thể hội nghị thông qua phương thức gọi tên đại biểu để thông qua “Tuyên bố”.
Mendès-France đại biểu chính phủ Pháp biểu thị đồng ý bản Tuyên bố này.
Sananikone đại biểu chính phủ Lào biểu thị đồng ý.
Phạm Văn Đồng đại biểu chính phủ nước Việt Nam DCCH biểu thị đồng ý.
Chu Ân Lai đại biểu Trung Quốc biểu thị đồng ý.
Eden đại biểu chính phủ Anh biểu thị đồng ý.
Molotov đại biểu chính phủ Liên Xô biểu thị đồng ý.
Sáu đại biểu nói trên hoàn toàn đồng ý Tuyên bố cuối cùng hội nghị Genève.
Tép Phan đại biểu Campuchia có lời muốn nói. Ông ta cho rằng trong các văn kiện mà chủ tịch hội nghị hy vọng mọi người chú ý, có một văn kiện không được đề cập. Đó là tuyên bố về Tuyên bố cuối cùng mà Campuchia đã phân phát cho mọi người. Trong các điều thứ 7, thứ 11, thứ 12 của Tuyên bố cuối cùng, các nước đã xác nhận sự tôn trọng hoàn chỉnh lãnh thổ đối với Việt Nam. Thế nhưng đại biểu Campuchia cho rằng, tại Nam bộ Việt Nam, có một số lãnh thổ vốn là của Campuchia, hiện nay đang dưới sự khống chế của Việt Nam, vì thế lợi ích của Campuchia chưa được bảo đảm đầy đủ. Vì vậy Campuchia có ý kiến bảo lưu, đồng thời với việc ủng hộ Tuyên bố cuối cùng hội nghị Genève, Campuchia sẽ thông tri vấn đề lãnh thổ tại Nam bộ Việt Nam cho các nước tham dự hội nghị.
Phản ứng của Eden nhanh nhậy, nói, tuyên bố của Campuchia về vấn đề này tôi vừa nhận được, vì thế không đưa vào các văn kiện mà tôi vừa tuyên đọc. Ngoài ra, tôi không cho rằng xử lý tranh chấp lãnh thổ giữa Campuchia và Việt Nam là nhiệm vụ của hội nghị lần này.
Phạm Văn Đồng lập tức biểu thị, đại biểu chính phủ nước Việt Nam DCCH, tôi đề xuất bảo lưu minh bạch nhất đối với bản tuyên bố của đại biểu Campuchia. Tôi làm như vậy là vì quan hệ tốt đẹp và thông cảm lợi ích giữa hai nước chúng ta.
Lúc này, Smith như có chuẩn bị trước móc ra mấy tờ giấy, phát biểu một tuyên bố ngắn gọn, nhằm thay thế việc cùng ký vào Tuyên bố cuối cùng. Smith nói:
Thưa ngài Chủ tịch, các vị đại biểu:
Giống như tôi đã nói với các vị đại biểu tại hội nghị của chúng ta ngày 18 tháng 7, chính phủ nước tôi không chuẩn bị tham gia tuyên bố hội nghị đã đề xuất trước. Thế nhưng, nước Mỹ, thái độ của nó đối với vấn đề này, là phát biểu tuyên bố đơn phương sau:
Chính phủ Mỹ quyết tâm tuân theo nguyên tắc và mục đích của LHQ hết sức tăng cường hòa bình, chú ý tới những hiệp định đã ký (a) giữa Bộ tư lệnh Pháp, Lào và Bộ tư lệnh QĐND Việt Nam;(b) giữa Bộ tư lệnh quân đội vương quốc Campuchia và Bộ tư lệnh QĐND Việt Nam;(c) giữa Bộ tư lệnh Pháp - Việt và Bộ tư lệnh QĐND Việt Nam, ngày 20 tháng 7 và ngày 21 tháng 7 tại Genève, và từ tiết 1 đến tiết 12 bao gồm trong Tuyên bố giao cho hội nghị Genève ngày 21 tháng 7 năm 1954.
Về các hiệp định và các tiết nói trên, *Chính phủ Mỹ tuyên bố: (1) Theo điều thứ 2 và điều thứ 4 trong hiến chương LHQ qui định các nước hội viên có nghĩa vụ trong quan hệ quốc tế của mình không được sử dụng đe dọa hoặc vũ lực, nước Mỹ sẽ không sử dụng đe dọa hoặc vũ lực làm phương hại đến họ; Nước Mỹ sẽ chú ý đầy đủ tới việc lại dấy lên bất kỳ cuộc xâm lược nào làm trái hiệp định nói trên đồng thời cho rằng điều đó đe dọa nghiêm trọng hòa bình và an ninh quốc tế.
Căn cứ vào lập trường nhất quán của Mỹ trong thời gian hội nghị Genève thấy, tuyên bố này của Smith có thể nói là phản ứng tốt nhất mà nước Mỹ có thể đưa ra, trong đó bao gồm cả những nỗ lực của bản thân tướng Smith.
Sau khi Smith tuyên bố, Eden hỏi ý kiến của Trần Văn Đỗ đại biểu nước Việt Nam. Trần Văn Đỗ hy vọng có hai câu sửa chữa với văn bản Tuyên bố.
Eden nói, tôi vui lòng nghe những ý kiến mà các đồng nghiệp vui lòng biểu đạt. Thế nhưng, văn bản Tuyên bố cuối cùng đã khởi thảo xong, mà những ý kiến muốn sửa chữa thêm thì chỉ vừa được nghe. Trong tình hình này, tôi kiến nghị, biện pháp tốt nhất mà chúng tôi có thể áp dụng là hội nghị sẽ chú ý đến ý kiến bảo lưu của nước Việt Nam.
Các đại biểu tham dự hội nghị không có ý kiến khác, “Tuyên bố cuối cùng” của hội nghị có 13 điều khoản, đã được thông qua.
“Tuyên bố cuối cùng” xác nhận, chấp hành tuyên bố và ba hiệp nghị đình chỉ hành động đối địch, “sẽ làm cho Campuchia, Lào và Việt Nam từ nay có thể phát huy tác dụng của họ trong đại gia đình hòa bình quốc tế một cách hoàn toàn độc lập tự chủ.”
“Tuyên bố cuối cùng” xác nhận, chính phủ Campuchia và Lào sẽ áp dụng biện pháp làm cho các công dân khác tham gia bầu cử hòa bình, hai nước này từ nay bước vào đại gia đình quốc tế.”
“Tuyên bố cuối cùng” xác nhận, mục đích chủ yếu của hiệp định về Việt Nam là giải quyết vấn đề quân sự, đường giới tuyến quân sự là có tính tạm thời, không thể bị giới thiệu là đường biên giới chính trị và lãnh thổ. Trước tháng 7 năm 1956, dưới sự giám sát quốc tế, Việt Nam sẽ tiến hành bầu cử.
“Tuyên bố cuối cùng” xác nhận, nước Pháp sẽ rút quân khỏi ba nước Đông Dương. Đã qua hai bên hiệp nghị, số quân Pháp lưu lại trong thời hạn nhất định, với số lượng nhất định không nằm trong hạn này.
“Tuyên bố cuối cùng”xác nhận, các nước tham dự hội nghị Genève sẽ tiến hành hiệp thương các vấn đề do giám sát quốc tế và Ủy ban giám sát xuất, nhằm bảo đảm thực hiện cuối cùng hòa bình tại ba nước Đông Dương (Toàn văn bản Tuyên bố xem phụ lục).
Eden kiềm chế tâm tình vui vẻ của mình để đọc lời bế mạc. Ông ta nói,: “Bây giờ đã đến lúc chúng ta kết thúc công việc của chúng ta. Do nhiều nguyên nhân, công tác của chúng ta đã kéo dài, hơn nữa vô cùng phức tạp… Hiệp định ký hôm nay có thể không làm cho mỗi người đều hoàn toàn vừa lòng, thế nhưng những hiệp định này đã khiến việc đình chỉ cuộc chiến tranh kéo dài tám năm và mang lại tai họa cho hàng triệu nhân dân trở thành có khả năng. Chúng ta hy vọng, vào giờ phút hòa bình thế giới có nguy hiểm cấp bách, những hiệp định này đã làm dịu tình hình căng thẳng quốc tế.”
Eden biểu thị cám ơn công tác của những nhân viên đã khiến hội nghị tiến hành thuận lợi.
Smith, một lần nữa phát biểu tiếp, nói một đoạn như thế này: nếu như tôi dám vì các vị đồng liêu trong đoàn đại biểu mà nói, đó là vì tôi cho rằng họ đều có cảm giác giống tôi. Tôi hy vọng các đồng liêu sẽ cùng tôi cùng gửi lời cám ơn tới hai vị chủ tịch hội nghị này, lòng nhẫn nại và những cố gắng không mệt mỏi của họ cũng như thành ý của họ đã giúp rất nhiều khiến những giải quyết trở thành khả năng. Chúng ta phải thành tâm cám ơn họ!”
Molotov phát biểu, chỉ ra: “mục đích chủ yếu của hội Genève đã đạt được, nhiệm vụ khôi phục hòa bình Đông Dương đã hoàn thành.”
Phạm Văn Đồng phát biểu, nhớ lại lịch trình gian khổ mà hội nghị đã trải qua một cách tràn đầy tình cảm mãnh liệt. Nói đến đoạn sau, ông không khống chế nổi tình cảm đang trào dâng như sóng, nói lớn với các bạn của mình: “Chúng tôi muốn hòa bình thống nhất đất nước của chúng tôi, và bắt tay xây dựng đất nước chúng tôi… Nhân dân Việt Nam, các đồng bào miền Nam: thắng lợi thuộc về chúng ta, độc lập và thống nhất tổ quốc chúng ta do chúng ta nắm giữ…Xin các người ghi nhớ lời Hồ Chủ tịch, đấu tranh là gian khổ, thắng lợi cuối cùng thuộc về chúng ta.”
Chu Ân Lai phát biểu cuối cùng:
Đoàn đại biểu chín nước hội nghị Genève trải qua 75 ngày làm việc, cuối cùng đã khắc phục được cản trở cuối cùng đạt được hiệp nghị khôi phục hòa bình Đông Dương. Tôi tin tưởng sâu sắc, những hiệp nghị chúng ta đạt được không chỉ sẽ kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương tám năm mang lại hòa bình cho nhân dân Đông Dương và nhân dân Pháp, mà còn làm hòa dịu hơn nữa cục diện căng thẳng ở châu Á và thế giới. Không nghi ngờ gì nữa, thành công của hội nghị chúng ta rất lớn.
Để làm cho hòa bình Đông Dương trở thành nền hòa bình củng cố và lâu dài, hội nghị này đã luôn luôn cố gắng làm cho vấn đề đình chiến và vấn đề chính trị ở Đông Dương đều được giải quyết.Hiện nay chúng ta đã có được hiệp nghị qui định các biện pháp cụ thể đình chỉ chiến tranh Đông Dương, đồng thời cũng qui định nguyên tắc giải quyết vấn đề chính trị Đông Dương. Căn cứ vào những nguyên tắc này, nước Cộng hòa Pháp tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của ba nước Đông Dương; ba nước Đông Dương trong thời hạn mà mỗi nước tự qui định cử hành bầu cử tự do trong cả nước để thực hiện dân chủ và thống nhất ở mỗi nước. Chúng ta chú ý tới, ba nước Đông Dương sau khi đình chiến sẽ không tham gia bất kỳ liên minh nào, cũng không cho phép bất kỳ nước ngoài nào xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ của họ. Những hiệp nghị này sẽ làm cho nhân dân ba nước Đông Dương có thể xây dựng đất nước của họ trong hoàn cảnh hòa bình. ba nước này trên cơ sở tôn trọng chủ quyến lãnh thổ của nhau phát triển quan hệ hữu hảo giữa họ với nhau và giữa họ với nước Pháp. Những hiệp nghị này cũng sẽ dẫn tới quan hệ hữu hảo của họ với mọi nước láng giềng. Đoàn đại biểu nước CHND Trung Hoa hoàn toàn đồng ý và ủng hộ những hiệp nghị này đồng thời tuyên bố vui lòng cùng với các nước có liên quan bảo đảm sự thực hiện triệt để những hiệp nghị này.
…
Tại hội nghị Genève làn này từng thảo luận hai vấn đề lớn, tức giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên và vấn đề khôi phục hòa bình Đông Dương. Về việc giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên, mặc dù không đạt được bất kỳ hiệp nghị nào, thế nhưng, nó không hề bị xóa bỏ trong nghị trình. Hiện nay, hội nghị này, đối với vấn đề khôi phục hòa bình Đông Dương không chỉ đạt được hiệp nghị đình chỉ hành động đối địch hơn nữa còn đạt được hiệp nghị nguyên tắc về giải quyết vấn đề chính trị. Điều này đã mang lại hy vọng mới cho hòa bình giải quyết vấn đề Triều Tiên.
Cuối cùng tôi vui lòng chỉ ra, nếu như các quốc gia có liên quan có thành ý hòa bình, thì những tranh chấp quốc tế có thể trải qua hiệp thương đạt được giải quyết. Trong hội nghị lần này, người đứng đầu đoàn đại biểu nước Việt Nam DCCH, ngài Phạm Văn Đồng và ngài Mendès-France đoàn trưởng đoàn đại biểu Pháp đều phát biểu với tinh thần hòa giải rất tốt. Ngài Molotov, đại biểu đứng đầu đoàn đại biểu Liên Xô và ngài Eden đoàn trưởng đoàn đại biểu Anh, hai vị Chủ tịch lần hội nghị này đã có những nỗ lực thúc đẩy hai bên và hội nghị đạt được hiệp nghị, rất đáng được chúng ta khen ngợi.
Thưa ngài Chủ tịch,phải thực hiện đình chỉ hành động đối địch ở Đông Dương, phải khôi phục hòa bình Đông Dương mà mọi người khát vọng. Cũng giống như ở Triều Tiên, một lần nữa hòa bình lại chiến thắng chiến tranh, chúng ta hãy kiên định lòng tin hơn nữa, tiếp tục nỗ lực vì bảo vệ và củng cố hòa bình thế giới.
Khi phát biểu những lời nói trên, tâm tình Chu Ân Lai nhất định có xúc động.
Một lần nữa Eden biểu thị cám ơn các đại biểu tham dự hội nghị, và vào lúc 5 giờ 20 phút tuyên bố: bế mạc hội nghị Genève.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:28:51 GMT 9
CHƯƠNG 36 Thuyền nhẹ đã qua cơn sóng gió
Khi biết hội nghị Genève thông qua “Tuyên bố cuối cùng” Mao Trạch Đông lập tức gửi điện mừng tới Hồ Chí Minh. Cùng ngày chính phủ Liên Xô ra tuyên bố, ca ngợi thành quả của hội nghị Genève, chỉ ra Trung Quốc đã phát huy tác dụng trọng đại trong công việc quốc tế. Eden trở về nước Anh nói với quốc hội, hiệp nghị Genève là thành quả tốt nhất có thể đạt được trong tình hình hiện nay. Smith về đến Mỹ phát biểu tuyên bố: mặc dù những hiệp định mà hội nghị Genève đạt được bao gồm những cái mà Mỹ không ưa thích, nhưng tôi tin là kết quả của hội nghị là kết quả tốt nhất có thể thu được trong tình hình đương thời. Ông ta còn nói, cần ghi nhớ: những cái không lấy được hoặc không giữ chắc được trên chiến trường, rất ít khả năng giành được bằng phương pháp ngoại giao trên bàn hội nghị. Khi đến Vạn Hoa, ngoại trưởng Lào nói với Chu Ân Lai: “một lần nữa tôi vui lòng biểu thị lời cám ơn của Lào đối với ngài! Những nỗ lực của ngài đã cứu được hàng ngàn hàng triệu sinh mệnh, đó là cống hiến cao cả đối với nhân loại. Trong kinh Phật nói, người làm sự nghiệp từ bi trọng đại, tất sẽ hạnh phúc trăm đời!” Chu Ân Lai đã hoàn thành sứ mệnh tại Genève, vẫy tay từ biệt thành phố xinh đẹp này.
Những hiệp nghị hội nghị Genève đạt được đã xua tan đám mây mù chiến tranh đang chùm lên Đông Dương. Những người đứng đầu các nước lớn trên thế giới lần lượt phát biểu tuyên bố hoặc lời nói, hoan nghênh hiệp định Genève.
Do nguyên nhân chênh lệch múi giờ, tin tức Genève truyền đến Bắc Kinh đã là ngày 22 tháng 7, Mao Trạch Đông lập tức gửi điện mừng tới Hồ Chi Minh nói: “Thắng lợi này có lợi cho việc thúc đẩy hòa bình và an ninh tập thể châu Á, có lợi cho việc làm dịu hơn nữa tình hình căng thẳng quốc tế.” Điều này đối với Mao Trạch Đông mà nói, là một hành động không thấy nhiều.
Cùng ngày chính phủ Liên Xô ra một tuyên bố dài, ca ngợi thành quả của hội nghị Genève, chỉ ra Trung Quốc đã có tác dụng trọng đại trong công việc quốc tế.
Tâm trạng nhiệt tình của các nước Đông Nam Á càng lộ rõ và dễ thấy.
Tại nước Pháp, Mendès-France giữ vững được chính phủ của mình.
Eden về đến nước Anh, dứng trước hàng trăm vị nghị sĩ chăm chú lắng nghe, đã nói, những hiệp nghị Genève là kết quả tốt nhất có thể đạt được trong tình hình hiện nay.
Smith đã biểu đạt ý tứ tương đồng. Ngày 23 tháng 7, khi về đến Mỹ ông ta đã phát biểu tuyên bố sau:
Mặc dù những hiệp định mà hội nghị Genève đạt được gồm những cái mà nước Mỹ không ưa thích, nhưng tôi tin rằng kết quả của hội nghịlà những kết quả tốt nhất có thể đạt được trong tình hình đương thời.
Thái độ của Mỹ đã được thuyết minh chính thức trong tuyên bố đơn phương mà Mỹ đã đưa ra tại hội nghị Genève, hơn nữa trong tuyên bố ngày 21 tháng 7, Tổng thống cũng thuyết minh minh bạch những điểm chính của nó. Tôi cũng tin, việc vào giờ phút cấp bách hội nghị Genève sắp kết thúc, quyết định của chúng ta cử đại biểu tham dự, bất kể xét về mặt thời gian và sách lược mà nói đều là minh tri và có hiệu quả. Hơn nữa tôi có thể chỉ ra, khi chúng ta phân tích và thảo luận kết quả của hội nghị Genève, cần phải ghi nhớ: những cái không giành được hoặc không nắm chắc được trên chiến trường rất ít khả năng giành được trên bàn hội nghị bằng phương pháp ngoại giao.
Những lời nói của tướng Smith có ý nghĩa sâu sắc. Không lâu sau khi báo cáo tình hình công tác với Tổng thống và Dulles, ông đã từ chức Thứ trưởng Ngoại giao, không lâu sau đó đã làm Chủ tịch Hội đồng quản trị một công ty lớn. Hội nghị Genève trở thành bài ca ngoại giao tuyệt đẹp của vị tướng này. Hội nghị Genève có thể đạt được thành quả cuối cùng, trong đó có bao gồm những cố gắng và cống hiến của tướng Smith, những cố gắng vì hòa bình của ông ta trong chiến tranh thế giới thứ thứ hai và sau chiến tranh nên được khắc sâu.
Ngay trong ngày hội nghị Genève đạt được hiệp nghị, quan hệ Trung, Mỹ lại cẩn thận đi lên phía trước một bước nhỏ, hai bên đã cử hành hội đàm liên lạc viên chính thức lần thứ hai. Trước đó ngày 16 tháng 7 hai bên Trung Mỹ đã tiến hành hội nghị liên lạc viên lần thứ nhất, đại biểu Trung Quốc là trưởng khoa1 Phố Sơn, đại biểu Mỹ là trợ lý chính trị Vụ Trung Quốc Quốc Vụ viện, trong cuộc hội đàm có tính tiếp xúc, chủ yếu xác nhậnlại danh sách nhân viên trở về nước mà mỗi bên đã đưa.
10 giờ sáng ngày 21 tháng 7, liên lạc viên hai bên Trung, Mỹ cử hành cuộc gặp gỡ lần thứ hai. Cuộc gặp tiến hành 55 phút, không khí bình tĩnh.
Phố Sơn phát biểu trước, đọc danh sách 6 người Mỹ tại Trung Quốc đã được phép xuất cảnh. Sau khi trao danh sách cho đại biểu Mỹ, ông đã hỏi lại phía Mỹ, liệu Mỹ có thể cung cấp tình hình lưu học sinh Trung Quốc tại Mỹ? Liệu Mỹ có đồng ý kiến nghị, nhờ sứ quán nước thứ ba quản lý lợi ích của kiều dân hai nước mà phía Trung Quốc đã đề xuất trong mấy lần hội đàm trước?
Đại biểu Mỹ nói, ông ta không thể nói gì về vấn đề này. Ông ta cám ơn phía Trung Quốc phê chuẩn sáu người xuất cảnh, nhưng không đề xuất về tình hình kiều dân Trung Quốc và học sinh Trung Quốc, từ chối kiến nghị nước thứ ba thay mặt quản lý lợi ích kiều dân hai bên do Trung Quốc đề xuất.
Lúc kết thúc hội đàm đại biểu Mỹ nói, hy vọng từ nay về sau duy trì liên lạc, Mỹ còn hy vọng nếu có cách nhìn nào đó,sẽ thông qua đại biện của Anh tại Bắc Kinh truyền đạt. Phố Sơn trả lời, trực tiếp tiếp xúc tốt hơn.
Tại hội nghị lần này, hai bên đều không muốn cắt đứt con đường tiếp tục tiếp xúc, cuối cùng bàn bạc quyết định, sau khi hội nghị kết thúc, tiếp tục bảo lưu con đường tiếp xúc tại Genève. Đây chính là bước đệm thích hợp để sau này Trung, Mỹ bắt đầu làm cuộc đàm phán cấp đại sứ dài dằng dặc. Bắt đầu từ ngày 2 tháng 9 năm đó, hai bên Trung, Mỹ đã tiến hành hội đàm cấp lãnh sự tại Genève.2
Ở Việt Nam, ngày 22 tháng 7, Hồ Chí Minh đã phát biểu “Lời kêu gọi” nhân dịp hội nghị Genève đạt được hiệp nghị khôi phục hòa bình Đông Dương với toàn quốc: “hội nghị Genève đã kết thúc, chúng ta đã thu được thắng lợi vĩ đại về mặt ngoại giao.”
Trong “Lời kêu gọi”, Người nói:
Để thực hành ngừng bắn, tất phải tập kết bộ đội vũ trang hai bên vào hai vùng tập kết khác nhau, có nghĩa là phải điều chỉnh lại vùng quân sự.
Vạch giới tuyến quân sự là một cách làm có tính tạm thời, quá độ được áp dụng để thực hiện đình chiến, khôi phục hòa bình, dùng phương pháp bầu cử phổ thông thực hiện thống nhất cả nước. Đường giới tuyến tuyệt đối không có nghĩa là đường biên giới về chính trị hoặc lãnh thổ.
Trong thời gian đình chiến, bộ đội vũ trang của chúng ta sẽ tập trung tại miền bắc Việt Nam, còn bộ đội Liên hiệp Pháp tập trung tại miền nam Việt Nam, điều này có nghĩa là hai bên sẽ trao đổi một số vùng, có một số vùng Pháp chiếm đóng sẽ thành vùng giải phóng, một số vùng giải phóng của chúng ta sẽ trở thành nơi tạm trú của bộ đội Pháp trước khi về nước Pháp.
“Lời kêu gọi” của Hồ Chí Minh đã thuyết minh một cách thích đáng nhất ý nghĩa của đường phân giới đình chiến. Người “tha thiết kêu gọi mọi người yêu nước, không phân biệt giai cấp xã hội, tín ngưỡng tôn giáo và kiến giải chính trị, cũng như bất kể trước đây họ đứng với bất kỳ đảng phái nào hãy chân thành hợp tác với nhau, phấn đấu vì lợi ích dân tộc và quốc gia, để thực hiện hòa bình thống nhất, độc lập và dân chủ tại tổ quốc yêu mến của chúng ta.”
Cùng ngày, Võ Nguyên Giáp Tổng tư lệnh QĐND Việt Nam công bố mệnh lệnh, yêu cầu toàn quân kiên trì mệnh lệnh đình chiến. Ngày hôm sau ông công bố mệnh lệnh ngừng bắn, ra lệnh cho bộ đội, đội du kích, dân quân Việt Nam, tại các chiến trường: “tại chiến trường miền bắc Việt Nam, bắt đầu từ 7 giờ sáng ngày 27 tháng 7 năm 1954 theo thời gian tiêu chuẩn của nước Việt Nam DCCH; tại chiến trường miền trung Việt Nam từ 7 giờ sáng ngày 1 tháng 8; tại chiến trường miền nam Việt Nam từ 7 giờ sáng ngày 11 tháng 8,” các bộ đội nhất loạt ngừng bắn. Bộ đội Việt Nam tại Lào và Campuchia cũng đồng thời ngừng bắn.
Nhìn thấy tất cả những cái đó, có lẽ Chu Ân Lai là người sung sướng và cảm thấy được an ủi nhất tại Genève. Ngay tối đạt được hiệp nghị, Chu Ân Lai đã thết tiệc chiêu đãi Molotov và Phạm Văn Đồng tại Vạn Hoa. Chu Ân Lai mở chai Mao Đài mời khách và uống một hơi dài, Molotov cũng phấn khởi uống không ít, mặt đỏ bừng. Chu Ân Lai cố ý mời Molotov uống thêm hai chén, nói, hiện nay ở Lausane, Thụy Sĩ đang cử hành giải vô địch bóng đá thế giới, mà trên sân bóng của chúng ta, chúng ta là người thắng, đội trưởng đội bóng của chúng ta là Mô lão3. Nghe những lời nói ấy Molotov cả mừng, sau khi cạn chén với Chu Ân Lai đã cạn thêm một chén nữa.
Văn Trang ngồi làm nhiệm vụ phiên dịch cho Phạm Văn Đồng, nhìn thấy vẻ mặt phấn khởi của Molotov bỗng cảm thấy, sự thay đổi thần sắc của Molotov quả là vô cùng khác thường. Có mấy lần với tư cách là thành viên đoàn đại biểu Việt Nam ông đã đến nơi ở của đoàn đại biểu Liên Xô đưa văn kiện, và có mấy lần tiếp xúc với Molotov. Hễ những lúc Molotov ở một mình, nói chung vẻ mặt đều ưu sầu, nhăn mày nhăn trán đi dạo trong sân. Nhưng khi thấy Chu Ân lai, Molotov liền biến thành vui vẻ, những nếp nhăn trên lông mày đều dãn ra. Điều chưa hiểu nổi này đã ẩn giấu trong lòng Văn Trang một số năm. Ba năm sau, Molotov bị Khrơrutsev hạ bệ, chết già tại nhà về chính trị, lúc đó Văn Trang mới cảm thấy, có thể là trong thời gian tại hội nghị Genève, Molotov đã lãnh giáo những dày vò của cuộc đấu tranh trong ĐCS Liên Xô
Tác dụng của Chu Ân Lai tại Genève là việc mọi người đều biết, một thời người đến thăm nườm nượp không dứt. Ngày 22 tháng 7, Chu Ân Lai mở tiệc tối, chiêu đãi ngoại trưởng các nước Đông Dương tham dự hội nghị. Sáng ngày hôm đó, ông tiếp đại sứ Indonesia tại Pháp tại Vạn Hoa, ông ta đến để mời Chu Ân lai trên đường về nước đến thăm Indonesia.
Sau khi biểu thị chúc mừng thành quả của hội nghị Genève, đại sứ Indonesia tại Pháp nói với Chu Ân Lai: thủ tướng Indonesia lấy làm tiếc khi thăm Ấn Độ và Miến Điện, ngài chưa thể thăm Indonesia. Indonesia vốn mong đợi tiến hành thương thảo để có thể ký công ước không xâm phạm lẫn nhau giữa hai nước. Indonesia chính thức biểu thị tán thành ký kết điều ước này, tôi được ủy quyền mời ngài thủ tướng, hy vọng ngài thủ tướng khi thăm Đông Đức, trước khi về đến Tokyo có thể thăm Indonesia hai ngày. Trước tiên thảo luận việc ký điều ước, đồng thời cũng để cho nhân dân Indonesia vinh dự được đón tiếp ngài.
Chu Ân Lai biểu thị, ông vui lòng suy tính thăm Indonesia, nhưng lần này chưa được. Bởi vì ông đã ra nước ngoài gần ba tháng, đòi hỏi sau khi về nước thương lượng lại việc này.
Đại sứ Indonesia tại Pháp đã đề xuất vấn đề quan tâm nhất, nói, khi thăm Ấn Độ ngài đã bàn vấn đề Hoa kiều. Indonesia cũng có hai triệu Hoa kiều, liệu chính phủ Trung Quốc có công bố luật qui định địa vị của Hoa kiều tại Đông Nam Á?
Chu Ân Lai trả lời, vấn đề Hoa kiều là một vấn đề có tính lịch sử, chủ yếu là vấn đề hai quốc tịch. Trung Quốc mới cũng thừa nhận vấn đề này. Năm năm từ ngày thành lập Trung Quốc mới đến nay, do bận rộn những công việc nội bộ, hơn nữa còn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước sở tại của Hoa kiều, nên chưa giải quyết vấn đề này. Số lượng Hoa kiều của Indonesia rất lớn, nhiều người trong bọn họ đã có được quốc tịch Indonesia, cũng giành được quyền bầu cử và quyền ứng cử, thậm chí tham gia chính quyền. Đương nhiên, quốc tịch của họ nên được giải quyết. Chúng tôi đồng ý đàm phán vấn đề này với Indonesia, nên thu được sự giải quyết có lợi cho hai bên.
Sau đó Chu Ân Lai lại hội kiến Sananikone, ngoại trưởng Lào đến chúc mừng và chào từ biệt. Ông ta nhiệt thành nói với Chu Ân Lai: “với tinh thần hòa giải và thông cảm ngài thủ tướng đã có những cố gắng có hiệu quả, do đó hòa bình của Đông Dương mới được khôi phục, chúng tôi phải cám ơn! Chân thành cám ơn ngài!”
Chu Ân Lai nói: đó là kết quả của sự cố gắng của mọi người. Vấn đề Lào là trên cơ sở công nhận chính phủ vương quốc mà được giải quyết. Nếu có đối lập các ngài sẽ không tiếp nhận. Từ nay trở đi, sẽ còn có khó khăn, nếu như có chỗ nào các ngài cần chúng tôi, chúng tôi vui lòng đem sức giúp đỡ. Chúng tôi mong muốn sống hòa bình với nước láng giềng và mong muốn nhìn thấy Lào trở thành quốc gia hòa bình, độc lập, hữu hảo và tiến bộ.
Sananikone nói, chúng tôi hy vọng ngài thủ tướng thường xuyên ủng hộ.
Chu Ân Lai hỏi, hiện nay Lào và Trung Quốc chưa có quan hệ trực tiếp, liệu có thể thông qua Sài Gòn [?!] và Pháp để có được liên hệ.
Sananikone trả lời, có thể thông qua Sài Gòn.
Chu Ân Lai nói, nếu như các ngài có khó khăn có thể gửi điện cho Bắc Kinh, chúng tôi vui lòng hết sức giúp đỡ. Các ngài có thể cử người tới Bắc Kinh, đồng thời các ngài cũng nên thiết lập quan hệ với nước Việt Nam DCCH. Ngày hôm qua Mendès-France nói với Phạm Văn Đồng, nước Pháp hy vọng cử người tới trú ở Hà Nội đồng thời hy vọng nước Việt Nam DCCH cử người tới ở Paris.
Đến lúc này Sananikone nói một câu cảm động: “sau khi đình chiến, chúng tôi phải cử người tới Hà Nội, chúng tôi còn muốn nâng cao quan hệ giữa Lào và Trung Quốc, tôi vui lòng yêu cầu được đi làm đại sứ đầu tiên tại Bắc Kinh.”
Ông ta còn nói, sẽ vui lòng gặp lại thủ tướng Chu và ngài Phạm Văn Đồng vào tối nay.
Chu Ân Lai nói, chúng tôi vốn đã mời ngài Trần Văn Đỗ, ngoại trưởng Việt Nam, không ngờ ông ta đã từ chối, tối hôm nay ngài Ngô Đình Luyện sẽ tới.
Chu Ân Lai lại lái câu chuyện sang hội nghị Genève, nói, về việc đoàn đại biểu Campuchia từ chối đóng góp kinh phí cho Ủy ban các nước trung lập, chúng tôi cho rằng, nếu như Campuchia có khó khăn, thì Lào càng khó khăn hơn. Vì thế chúng tôi đồng ý để các nước lớn gánh vác. Chúng tôi rất đồng tình những khó khăn của Lào, Lào là nước rừng núi không có cửa biển.
Sananikone trả lời, cám ơn sự quan tâm chú ý của thủ tướng Chu. Điểm này đã đặc biệt thể hiện được tinh thần hòa bình của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc nhất định muốn quân Pháp phải rút khỏi Lào, thì hoàn cảnh của Mendès-France sẽ rất khó khăn.
Chu Ân Lai nói, ngài Mendès-France nói đường số 9 là đường ra biển của Lào, chúng tôi đồng ý bảo lưu cho Lào con đường này để thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Lào.
Khi đàm phán kết thúc, Sananikone cảm động nói: “một lần nữa tôi vui lòng biểu thị lòng cám ơn của Lào đối với ngài! Những nỗ lực của ngài đã cứu được sinh mệnh của hàng ngàn hàng vạn người, đó là những cống hiến cao cả đối với nhân loại. Trong kinh Phật có nói, người làm những việc từ bi trọng đại tất sẽ hạnh phúc trăm đời!”4
Sananikone ra về, nhưng từ đó, ông đã bôn ba vì quan hệ hữu hảo Trung Quốc và Lào cho đến điểm cuối cùng của cuộc sống.
Buổi chiều Menon, đặc sứ Ấn Độ lại tới thăm Chu Ân Lai, hai bên chúc mừng lẫn nhau. Chu Ân Lai nói, thành quả hội nghị lần này thu được, công lao của ngài Nerhu và Menon đều không ai sánh kịp, ngài Phạm Văn Đồng cũng thành khẩn hy vọng giải quyết vấn đề.
Hai bên nghiên cứu thảo luận con đường giải quyết vấn đề Triều Tiên, cũng như khả năng Trung Quốc thông qua Ấn Độ và Thái Lan tiến hành tiếp xúc ngoại giao.
Tại hội nghị Genève, Menon được Nehru ủy nhiệm nhận nhiệm vụ nặng nề, đến để hòa giải ngoại giao, không nề hà gian khổ, bôn ba khắp nơi, đúng là đã có những cống hiến tích cực cho thành công của hội nghị, Chu Ân Lai cũng khẳng định đầy đủ tác dụng của ông ta. Chẳng ngờ sau này gió mưa biến đổi, vào cuối những năm 50, quan hệ Trung, Ấn vì vấn đề biên giới mà lâm vào thời kỳ băng hà, thậm chí dẫn tới xung đột quân sự trọng đại. Vào lúc quân đội hai bên giao chiến, Menon đang là Bộ trưởng Quốc phòng, ủng hộ ý kiến khăng khăng của Nehru là dùng vũ lực, ngớ mắt ra nhìn làn khói chiến tranh xóa đi tình hữu nghị ngày nào, nhưng đó là chuyện sau này.
Ngay tối ngày 22 tháng 7, Chu Ân Lai mở tiệc lớn tại Vạn Hoa, chiêu đãi ngoại trưởng các nước Đông Dương. Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu, Hà Văn Lâu, Trần Lâm, Hoàng Nguyên tham dự. Ngô Đình Luyện, đại biểu Việt Nam Bảo Đại. Đại biểu Lào là Sananikone, Gaorama Taonuan (quân nhân), Busai (quân nhân), đại biểu Campuchia là Tep Phan, Tioulong, Sam Sary, Dabuchuan (quân nhân), phía Trung Quốc còn có Trương Văn Thiên, Vương Bỉnh Nam, Kiều Quán Hoa, Trần Vĩnh Khang, Vương Trác Như tháp tùng. Chủ khách tất cả là hơn 20 người ngồi quanh một chiếc bàn tròn, có rượu ngọt, món nhắm ngon trợ hứng. Chu Ân Lai nâng cốc mời rượu, dẫn đầu cạn một chén, uống liền một mạch mười chén, các vị khách đều khen là hải lượng.
Phạm Văn Đồng, Tep Phan, Sananikone lần lượt phát biểu lời chúc rượu nhiệt tình, những người dự tiệc nói chuyện sôi nổi, không khí náo nhiệt.
Tép Phan khi chúc rượu đã ca ngợi những nỗ lực của Chu Ân Lai, nói, nếu như thủ tướng Chu không thúc đẩy đại biểu ba nước tiếp xúc trực tiếp thì hiệp nghị không thể đạt được. Đại biểu Campuchia Sengsari cũng nói, lần trước sau khi chúng ta gặp mặt ở đây, không khí hội đàm mới bắt đầu chuyển biến tốt, giọng điệu phát biểu của chúng ta cũng thay đổi, thậm chí sửa chữa lại dự thảo phát biểu đã viết xong, ngôn từ hữu hảo nhiều lên, những lời công kích nhau giảm bớt. Chu Ân Lai nói khi trao đổi với Ngô Đình Luyện đại biểu chính phủ Nam Việt Nam, mặc dù về hình thái ý thức chúng tôi và ngài Phạm Văn Đồng có gần gũi hơn đôi chút, nhưng chúng tôi vẫn hoan nghênh ngài đến. Các vị đều là người Việt Nam, nên làm việc vì thống nhất tổ quốc.
Bữa tiệc kéo dài ba giờ, mọi người ra về trong niềm vui lớn.
Đến đây, Chu Ân Lai mới thực sự coi là đã hoàn thành sứ mệnh tại Genève.
Ngày 23, Chu Ân Lai rời Genève, tại sân bay ông đã phát biểu tuyên bố:
Hội nghị Genève đã hoàn thành nhiệm vụ khôi phục hòa bình Đông Dương của mình, khát vọng đình chiến ở Đông Dương mà ai cũng thấy đã được thực hiện.
Thành tựu của hội nghị Genève là một cống hiến trọng đại đối với việc củng cố hòa bình và an ninh thế giới, trước hết là củng cố hòa bình và an ninh châu Á. Nó một lần nữa lại chứng minh một cách có sức mạnh, tranh chấp quốc tế có thể kinh qua hiệp thương hòa bình mà đạt được giải quyết.
Khôi phục hòa bình tại Đông Dương đã làm hòa dịu cục diện căng thẳng thế giới đồng thời mở ra con đường hiệp thương giải quyết các vấn đề quốc tế trọng đại hơn nữa. Tôi tin tưởng sâu sắc, chỉ cần các quốc gia và nhân dân yêu chuộng hòa bình kiên trì cố gắng không mệt mỏi thì hòa bình thế giới có thể được bảo đảm. Nước CHND Trung Hoa vui lòng cùng cố gắng với các nước có liên quan để đạt được mục đích này.
Sự quan tâm thường xuyên và sự trợ giúp đáng quí của Chính phủ và nhân dân Thụy Sĩ là một cống hiến cho hội nghị thành công. Vào lúc từ biệt thành phố hòa bình, xinh đẹp này, một lần nữa tôi xin biểu thị lòng trân trọng và cám ơn tới Chính phủ Liên bang Thụy Sĩ và nhà đương cục Genève cũng như nhân dân Thụy Sĩ!
Với ấn tượng tốt đẹp và lưu lại sâu xa trong lòng mình đối với thành phố Genève, Chu Ân Lai đã vẫy tay từ biệt nó!
1 Khoa là một đơn vị hành chính dưới cấp phòng của Trung Quốc.
2 3 Cách gọi Molotov một cách kính trọng, nhưng thân mật của người Trung Quốc.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:29:37 GMT 9
PHỤ LỤC Tuyên bố cuối cùng của hội nghị Genève (thông qua ngày 21 tháng 7 năm 1954)
Tuyên bố cuối cùng của hội nghị Genève về vấn đề khôi phục hòa bình Đông Dương ngày 21 tháng 7 năm 1954 do đại biểu Campuchia, nước Việt Nam, Hợp chúng quốc Mỹ, Cộng hòa Pháp, Lào, nước Việt Nam DCCH, nước CHND Trung Hoa, Liên hiệp vương quốc Anh, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tham gia:
Hội nghị chú ý tới các hiệp định kết thúc hành động đối địch tại Campuchia, Lào và Việt Nam, những hiệp định này đã thiết lập những điều khoản để chấp hành giám sát quốc tế và giám sát
Hội nghị chúc mừng kết thúc hành động đối địch tại Campuchia, Lào và Việt Nam. Hội nghị tin chắc: việc thực thi các điều khoản qui định trong bản tuyên bố này và hiệp định đình chỉ hành động đối địch, sẽ làm cho Campuchia, Lào và Việt Nam từ nay có thể có tác dụng của mình trong đại gia đình hòa bình quốc tế một cách hoàn toàn độc lập tự chủ.
Hội nghị chú ý tới tuyên bố của chính phủ Campuchia và Lào, tức chính phủ hai nước vui lòng áp dụng biện pháp khiến toàn thể công dân đều có thể tham gia cuộc sống chung cả nước, đặc biệt là tham gia cuộc bầu cử phổ thông gần nhất, cuộc bầu cử phổ thông này sẽ cử hành chính thức trong năm 1955 bằng phương pháp bỏ phiếu kín trong các điều kiện tôn trọng tự do cơ bản căn cứ vào hiến pháp của mỗi nước.
Hội nghị chú ý tới điều khoản trong đình chỉ hành động đối địch tại Việt Nam, về việc cấm chỉ đưa vào Việt Nam quân đội nước và nhân viên quân sự nước ngoài cũng như các loại vũ khí và đạn dược. Hội nghị cũng chú ý như vậy đến tuyên bố của chính phủ hai nước Campuchia và Lào, tức chính phủ hai nước không yêu cầu nước ngoài viện trợ vật tư quân sự, nhân viên và sĩ quan huấn luyện, trừ phi vì mục đích bảo vệ lãnh thổ bản quốc một cách có hiệu quả, nhưng ở Lào thì phải giới hạn trong phạm vi mà hiệp định đình chỉ hành động đối địch qui định.
Hội nghị chú ý tới điều khoản của hiệp định đình chỉ hành động đối địch quân sự về việc trong vùng tập kết của hai bên không được xây dựng bất kỳ căn cứ quân sự nước ngoài nào. Đồng thời hai bên nên chú ý vùng qui hoạch của họ không được tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào và không được dùng để khôi phục hành động đối địch hoặc phục vụ chính sách xâm lược. Hội nghị cũng chú ý như vậy tới tuyên bố của chính phủ Campuchia và chính phủ Lào, căn cứ vào tuyên bố này hai nước sẽ không ký kết bất kỳ hiệp định nào với nước khác, nếu hiệp định đó bao gồm những nguyên tắc không phù hợp với hiến chương LHQ mà ở Lào lại càng không phù hợp với nghĩa vụ liên minh quân sự của những nguyên tắc trong hiệp định đình chỉ hành động đối địch tại Lào, hoặc bao gồm nghĩa vụ khi an ninh của họ không bị đe dọa, mà xây dựng căn cứ cho lực lượng quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Campuchia hoặc Lào.
Hội nghị xác nhận: mục đích chủ yếu của hiệp định về vấn đề Việt Nam là giải quyết vấn đề quân sự nhằm tiện kết thúc hành động đối địch và xác nhận giới tuyến quân sự là giới tuyến có tính tạm thời, bất kể như thế nào cũng không thể bị giải thích là biên giới về chính trị hoặc lãnh thổ. Hội nghị tin chắc: thực thi những điều khoản mà bản tuyên bố này và hiệp định đình chỉ hành động đối địch qui định, sẽ tạo ra tiền đề tất yếu để trong thời hạn ngắn nhất thực hiện giải quyết thống nhất Việt Nam.
Hội nghị tuyên bố: về Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập, thống nhất và hoàn chỉnh lãnh thổ, nên làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những tự do cơ bản bảo đảm bởi những cơ cấu dân chủ được thiết lập qua bầu cử tự do, bỏ phiếu kín. Để làm cho việc khôi phục hòa bình được tiến triển đầy đủ và làm cho mọi điều kiện tất yếu để tự do biểu đạt ý chí dân tộc được đầy đủ, sẽ cử hành bầu cử phổ thông, trong tháng 7 năm 1956, dưới sự giám sát của Ủy ban quốc tế, tổ thành bởi các nước thành viên Ủy ban giám sát và Ủy ban kiểm soát quốc tế theo qui định trong hiệp định đình chỉ đối địch. Bắt đầu từ ngày 20 tháng 7 năm 1955, đương cục phụ trách có tính đại biểu của hai vùng nên tiến hành hiệp thương về vấn đề này.
Các điều khoản trong hiệp định đình chỉ hành động đối địch về bảo đảm bảo vệ sinh mệnh tài sản, phải được chấp hành một cách nghiêm túc nhất, đặc biệt là phải làm cho mỗi một cá nhân người Việt Nam đều có thể tự do lựa chọn vùng mà họ muốn cư trú.
Đương cục trách nhiệm có tính đại biểu của hai miền nam, bắc Việt Nam cũng như đương cục của Lào và Campuchia, không được trả thù cá biệt hoặc tập thể đối với nhân viên và gia thuộc của họ từng hợp tác với đối phương dưới bất kỳ phương thức nào.
Hội nghị chú ý tới tuyên bố của chính phủ Pháp: tức chính phủ Cộng hòa Pháp vui lòng căn cứ vào đề nghị của các chính phủ có liên quan, trong thời hạn do hiệp nghị hai bên qui định, sẽ rút quân đội của mình khỏi lãnh thổ Campuchia, Lào và Việt Nam; nhưng theo hiệp nghị hai bên, một số lượng nhất định quân đội Pháp trong thời hạn qui định lưu trú tại địa điểm qui định không nằm trong thời hạn này.
Hội nghị chú ý tới tuyên bố của chính phủ Pháp, tức chính phủ Pháp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Campuchia, Lào và Việt Nam, sẽ giải quyết mọi vấn đề có liên quan tới khôi phục và củng cố hòa bình tại Campuchia, Lào và Việt Nam.
Mỗi quốc gia dự hội nghị Genève trong quan hệ với ba nước Campuchia, Lào và Việt Nam bảo đảm tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước nói trên, đồng thời không có bất kỳ can thiệp nào vào công việc nội bộ của họ.
Các nước tham dự hội nghị đồng ý, Ủy ban giám sát quốc tế và kiểm soát giám sát đề xuất với họ bất kỳ vấn đề nào sẽ được họ tiến hành hiệp thương nhằm tiện nghiên cứu những biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm hiệp định đình chỉ hành động đối địch của Campuchia, Lào và Việt Nam đều được tôn trọng.
Lời cuối sách
Biến truyền kỳ thành sự thực
“Chu Ân Lai và phong vân Genève” là tác phẩm chị, em với cuốn “Cuộc chinh chiến bí mật - ghi chép thực về cuộc chinh chiến của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt Nam chống Pháp” (hai tập) của tôi xuất bản năm 1999, là tác phẩm được voi lại đòi tiên.
Phạm Diệp trong “Hậu Hán thư. Truyện Sầm Bành” ghi: Hán Quang Vũ đế Lưu Tú cử đại tướng Sầm Bành dẫn quân chinh chiến Sủng Hữu. Trong lúc hai quân ác chiến, Lưu Tú phán đoán, Sầm Bành cầm chắc phần thắng, xuống chiếu tuyên bố: “Người ta khổ vì không biết thế nào là đủ, lấy được Sủng (Hữu) lại muốn Thục (vùng Tứ Xuyên ngày nay)” (dịch thoát nghĩa là: được voi lại đòi tiên). Rồi lệnh Sầm Bành, sau khi lấy được, phải thừa thắng nam hạ, tiến thêm một bước lấy luôn cả Tây Thục. Sau này, nguyện vọng đó được thực hiện.
Khi hạ quyết tâm viết cuốn sách này tôi đã thể hội sâu sắc cái hay của điển cố thành ngữ ấy.
Trong cuộc sống trẻ thơ1 tôi đã được nghe nói tới “hội nghị Genève”. Sau này lại nghe nói địa vị trong hoạt động ngoại giao quốc tế của Chu Ân Lai được đặt cơ sở tại hội nghị Genève. Trong thời thiếu niên của tôi, hội nghị Genève là đại danh từ cho những truyền kỳ ngoại giao, mọi người thường vui vẻ nói: bắt đầu từ hội nghị Genève, giữa Trung Quốc và Mỹ đã qua những từng trải quanh co, lúc bắt đầu muốn bắt tay rồi lại từ chối bắt tay2, cuối cùng lại bắt tay nhau.
Thế nhưng trong một quãng thời gian rất dài, mặc dù biết hội nghị Genève vô cùng quan trọng, nhưng rốt cuộc tiến trình lịch sử của nó là chuyện gì? Nó sản sinh ảnh hưởng ra sao đối với chính sách đối nội, đối ngoại của Trung Quốc? Có ảnh hưởng gì đối với cục diện lớn quốc tế? Thì trước sau vẫn không biết nội tình.
Kiều Quán Hoa, người tham dự hội nghị Genève sau này đã từng giữ chức Bộ trưởng ngoại giao, lúc cuối đời khi nhớ lại đoạn từng trải này của Chu Ân Lai đã từng nói, sau này người ta nếu muốn bàn đến vị thế và cống hiến của Chu Ân Lai về ngoại giao thì phải trình bầy tỉ mỉ về hội nghị Genève. Ngoại giao giống như đánh nhau, không nói rõ tình hình cụ thể người ta sẽ khó mà hiểu được. Khi tiên sinh Kiều Quán Hoa nói những lời đó là lúc đã bị ở nhàn rồi3 và đang bệnh nặng, không có khả năng tự mình cầm bút viết. Rõ ràng là ông muốn giao nhiệm vụ này cho người khác. Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, mấy người bạn của Kiều Quán Hoa truyền đạt cho tôi ý tứ nói trên của Kiều Quán Hoa, thế nhưng tôi chẳng hề nghĩ rằng đó là việc mà tôi có thể tiếp nhận. Bởi vì lúc ngửng đầu lên nhìn nó, tôi cảm thấy nó rất cao rất xa, với sức của tôi khó mà trèo lên đỉnh được.
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, sau khi được thử thách trong tiếng súng trên tuyến biên giới Trung-Việt, tôi bắt tay thu thập những sử liệu trong tiến trình Trung Quốc tham gia vào cuộc chiến tranh giúp Việt chống Pháp, dần dần đụng chạm tới những tài liệu đầu tay của hội nghị Genève. Nhưng tôi vẫn chưa động tâm, cảm giác lúc đó là, nếu như mang toàn bộ quá trình Trung Quốc tham gia vào cuộc chiến tranh giúp Việt chống Pháp viết ra, sẽ tốn quá nhiều công sức.
Trước sau tôi vẫn nhớ một việc xẩy ra trước đó. Mùa hè năm 1985, tôi phỏng vấn tiên sinh Vương Trác Như, nguyên Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ ngoại giao, muốn viết một bài ghi chép thực khi ông làm thư ký cho tướng Phùng Ngọc Tường. Vương tiên sinh rất ủng hộ, chuyện trò rất sôi nổi. Vào lúc cuộc phỏng vấn sắp kết thúc, ông nói trong lúc còn đang chưa hết phấn khởi, những ngày tháng ở cùng tiên sinh Phùng Ngọc Tường đương nhiên là rất đáng nhớ lại, nhưng tôi vẫn còn một đoạn ngày tháng rất đáng ghi nhớ, nếu như viết ra mới cảm động lòng người cơ! Ông nói, đó là những kinh qua khi theo Thủ tướng Chu Ân Lai tham gia hội nghị Genève năm 1954. Thông qua những ngày tháng ở Genève, tôi mới hiểu được Chu Ân Lai một cách sâu sắc, khâm phục tài hoa ngoại giao và tinh lực hơn người của ông. Năm đó tôi phụ trách công việc lễ tân của đoàn đại biểu Trung Quốc, hễ là những việc mời tiệc các ngoại trưởng dự hội nghị bao gồm cả việc mời nhà nghệ thuật điện ảnh Chaplin đều qua tay tôi sắp xếp. Nói xong Vương tiên sinh đưa ra một tập album, lấy ra một tấm ảnh Chu Ân Lai và Chaplin chụp chung tại Vạn Hoa Genève, chỉ vào đó nói: “lúc đó tôi đứng cạnh họ.”
Đầu óc tôi chợt phát hoảng, ngập ngừng một lúc mới đứng dậy từ biệt. Thì ra tôi bị cơ hội làm cho hoảng hốt. Từ đó về sau, mắt tôi thường hiện lên tình cảnh đó, và thường tự hỏi mình nhiều lần: “có phải đã bỏ mất một cơ hội, một điểm tiếp xúc lịch sử tuyệt hảo?”
Năm 1992, tôi vào Cục lưu trữ quốc gia Mỹ đọc kiểm tra hồ sơ chiến tranh Việt Nam, kết quả là còn đọc được hồ sơ về hội nghị Genève, tổng cộng là 29 hòm. Lúc này phần thượng cuốn ghi chép thực về Trung Quốc giúp Việt chống Pháp, cuốn “Trong cuộc chiến tranh thần bí” đã ra được hai bản, đã có căn cứ để hoàn thành cuốn sách. Tôi đột nhiên minh bạch, phải hạ quyết tâm, bắt đầu viết ngay cuốn “Phong vân Genève” để hoàn thành việc trình bầy hoàn chỉnh một giai đoạn lịch sử. Tôi nhận định, năm đó không biết nắm lấy cơ hội phỏng vấn tiên sinh Vương Trác Như đã ngoài tám mươi là một sai lầm to lớn, là một việc không làm tròn nhiệm vụ mà không bao giờ tôi tha thứ cho mình. Sai lầm đó không thể nào sửa chữa được bởi vì Vương tiên sinh đã cưỡi hạc về tây, không đợi tôi nữa.
Để sửa chữa sai lầm này chỉ có cách kiên trì không ngừng cố gắng, tôi phải chạy đua với thời gian.
Cũng vẫn là Phạm Diệp, tác giả “Hậu Hán thư”, trong “Hậu Hán thư. Truyện Cảnh Yểm” ông viết một câu so với “ được voi lại đòi tiên” còn hay hơn: “hữu trí giả sự cánh thành” (người có trí việc nhất định thành). Tôi hy vọng cuốn sách này tăng thêm một lời chú thích cho cuốn sách đó.
Nhà văn Áo, Stefan Zweig khi bàn đến mệnh đề “lịch sử” đã nói một câu thú vị: “ đọc lịch sử không thể chỉ tin mà không ngờ, bởi vì xem ra, lịch sử mặt sắt vô tình vẫn phải khuất phục trước sự yêu mến mãnh liệt của loài người đối với những truyền kỳ và sự thần hóa - nó đã cố tình và vô tình tiến hành anh hùng hóa thiểu số mấy vai chính, và đẩy những vai chính của cuộc sống ngày thường - những nhân vật loại hai và loại ba vào trong hắc ám. Truyền kỳ khéo thông qua những hấp dẫn, thông qua ánh sáng cầu toàn cầu mỹ mà trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của chân lý, vì vậy thường xuyên tiến hành kiểm chứng nó và trả lại bộ mặt vốn có của lịch sử đã trở thành nghĩa vụ của chúng ta”. Câu nói đó nói sao mà rất thấu triệt, rất có triết lý. Tôi may mắn là khi vừa bắt đầu viết cuốn “Phong vân Genève” đã được đọc đoạn trình bầy này. Vì thế tôi đã qui định cho các cuộc phỏng vấn, nghiên cứu và sáng tác của mình, quyết không được tùy tiện theo đuổi màu sắc truyền kỳ, mà phải dùng những ngôn ngữ chất phác nhất để thể hiện tiến trình lịch sử. Còn việc thể hiện như thế nào, toàn dựa vào sử liệu hiện còn và sự kiểm chứng của bạn đọc. Tôi chỉ muốn nói, lịch sử đã phát sinh như vậy đó.
Đến lúc hoàn thành toàn bộ cuốn sách, tôi đã phỏng vấn 18 vị là người trong cuộc có liên quan đến hội nghị Genève, thông qua những lời trình bầy miệng về lịch sử và những văn kiện quan trọng thu được từ họ, đã định được cơ sở của cuốn sách này. Tuy vậy tôi thừa nhận, thời gian phỏng vấn để viết cuốn sách này quá ngắn, nếu như tôi có thể đưa số người phỏng vấn lên gấp đôi, cũng có nghĩa là nói nếu như ngay từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước đã bắt đầu đi sâu phỏng vấn, thì bạn đọc nhất định sẽ được xem một tài liệu sử học quí báu sinh động hơn nhiều... Điều duy nhất tôi có thể tự mình an ủi là, nếu như đến bây giờ mới quyết tâm làm việc này thì dường như bất kỳ cuộc phỏng vấn nào cũng không kịp nữa. Từ lúc tiếp xúc với đề mục cho đến lúc ấn bàn phím viết lời cuối sách này, 15 năm đã trôi qua, thế kỷ XXI đã tới. Vào lúc xuất bản cuốn sách này, đã cách hội nghị Genève năm 1954 vừa đúng nửa thế kỷ. Những thay đổi phát sinh trên trái đất này của chúng ta trong 50 năm đó, vượt qua bất kỳ niên đại nào trong quá khứ.
Hội nghị Genève năm 1954 đã ảnh hưởng sâu sắc tới nửa sau của thế kỷ XX, ảnh hưởng của nó đối với hai Triều Tiên vẫn còn kéo dài đến tận ngày nay. Hội nghị lần đó đã thực hiện đình chiến Đông Dương làm cho ba nước Đông Dương-Việt Nam, Lào, Campuchia mỗi nước đều trở thành quốc gia độc lập. Cục diện đó kéo dài đến thế kỷ XXI và vẫn vững chắc.
Nếu xét về cuộc “chiến tranh lạnh” giữa hai khối lớn Đông, Tây mà nói, hội nghị Genève đã một lần nữa xác nhận sự phân chia phạm vi thế lực của hội nghị Yalta, thuyết minh mặt trận đông, tây lúc đó đều ý thức được thông qua xung đột vũ trang không thể về căn bản thay đổi được so sánh lực lượng của hai bên, từ đó, “chiến tranh lạnh” hoàn toàn thay thế chiến tranh nóng, một mực kéo dài đến những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô sụp đổ lớn.
Đối với mặt trận phương đông lúc đó mà nói, hội nghị Genève là thành quả ngoại giao lớn nhất giành được do Trung Quốc liên minh với Liên Xô, là tiêu chí của thời kỳ toàn thịnh trong quan hệ Trung, Xô. Từ đó trở đi, giữa đảng cầm quyền của hai nước Trung, Xô đã xuất hiện mâu thuẫn càng ngày càng rõ rệt, sau đó càng ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn này vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX dần dịu đi thậm chí cuối cùng đạt được hòa dịu. Thế nhưng lúc ấy, thời gian mà lịch sử lưu lại cho Liên Xô chỉ còn hai năm ngắn ngủi, nước lớn khổng lồ này không kịp quay lại quỹ đạo chung sống thân mật với Trung Quốc, mà chia năm xẻ bẩy, trở thành di tích lịch sử.
Điều khiền người ta hiểu được sau khi nhớ lại là sự thống nhất của Việt Nam. Sau hội nghị Genève, Hồ Chí Minh rút hết toàn bộ quân chính qui miền Nam về phía bắc giới tuyến lâm thời biên chế thành hai sư đoàn chính qui, và mai phục ngầm tại miền nam hàng vạn đội du kích, tổ thành chính quyền địa phương hợp pháp hoặc chính quyền bí mật, toàn lực tranh thủ đoạt lấy thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử toàn dân cử hành vào trước cuối năm 1956.
Lúc này cục diện chính trị miền nam Việt Nam phát sinh thay đổi rất lớn. Tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ độc tài, từ chối tham gia cuộc bầu cử đã dự định. Tiến trình thống nhất của Việt Nam bị cản trở. Hồ Chí Minh lãnh đạo chính phủ miền Bắc chuyển sang và quyết tâm áp dụng đấu tranh vũ trang, thực hiện thống nhất quốc gia. Từ sau 1958, qui mô chiến tranh du kích tại miền nam dần dần mở rộng.
Tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam thành lập, đấu tranh vũ trang tại miền Nam triển khai toàn diện, miền Bắc Việt Nam cử quân chính qui thâm nhập vào miền nam tham gia chiến đấu. Dưới sự dẫn dắt của tư duy “chiến tranh lạnh”, Mỹ coi Việt Nam là một khâu trong chiến lược “kiềm chế”, ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm. Đến cuối năm 1961, số quân đội Mỹ đến Việt Nam đã từ 800 người tăng mạnh lên đến 18.000 người, đi vào tác chiến tại chiến trường. Đến năm 1967, Mỹ tăng nhanh quân đội lên 38,9 vạn người, qui mô chiến tranh tương đối lớn. Liên Xô, Trung Quốc chi viện miền Bắc do Hồ Chí Minh lãnh đạo, lần lượt cung cấp viện trợ quân sự to lớn. Chiến tranh Đông Dương từ đó đã có bối cảnh quốc tế đối kháng giữa các nước lớn. Trên thực tế đến tháng Tư năm 1970, ngọn lửa chiến tranh đã mở rộng tới Lào và Campuchia, trở thành cuộc chiến tranh Đông Dương đúng nghĩa. Quân dân Việt Nam đã có những hy sinh trọng đại, quân Mỹ không đánh thắng trên chiến trường.
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, cuộc đàm phán hòa bình Paris giữa chính phủ Việt Nam, chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Mỹ, Nam Việt (Nam) [Việt Nam Cộng hòa] đã đạt được hiệp nghị, ngay hôm sau miền Bắc và miền Nam Việt Nam ngừng bắn, quân đội Mỹ rút toàn bộ, cục diện thất bại của chính quyền nam Việt đã định. Mùa xuân năm 1975 hai năm sau đó QĐND Việt Nam phát động tổng tấn công. Ngày 30 tháng Tư, QĐND đánh chiếm Sài gòn, ngảy 2 tháng 7 năm 1976, hai miền nam, bắc Việt Nam thống nhất thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, định thủ đô là Hà Nội.
Tình hình Triều Tiên lại không giống như vậy, cục diện hiệp định đình chiến năm 1953 vạch ra vẫn không thay đổi, hơn nữa còn tiến vào thế kỷ XXI. Thế nhưng hoàn cảnh quốc tế chung quanh Triều Tiên đã phát sinh những thay đổi trọng đại. Từ ý nghĩa này quay đầu nhìn lại hội nghị Genève năm 1954 có thể phân tích rõ hiện thực mà người ta phải đặt mình vào để hiểu vấn đề Triều Tiên từ lúc bắt đầu đến hiện nay.
Lướt qua phong vân thế kỷ, khi tác giả cuốn sách này cầm bút viết văn, đã lúc nào cũng nhìn thấy có một nhân vật được đặt vào tiêu điểm của hội nghị Genève, người đó chính là thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Chu Ân Lai. Từ tác phẩm đầu tiên “Ngoại giao bóng bàn” của tác giả xuất bản năm 1987 đến nay, cuộc sống ngoại giao của Chu Ân Lai trước sau vẫn là mệnh đề nghiên cứu quan trọng của tác giả. Nhiều năm tháng qua, trước sau tôi đã phỏng vấn trên một trăm nhân sĩ đã từng tiếp xúc với Chu Ân Lai, cũng đã từng cùng dự hội nghị với các học giả nghiên cứu nổi tiếng về Chu Ân Lai, thỉnh giáo họ.
Muốn nhận thức Trung Quốc thế kỷ XX, không thể không hiểu Chu Ân Lai. Cuốn sách này đã hoàn thành, nhưng nguyện mình sẽ lại tiến một bước nữa trên con đường nghiên cứu Chu Ân Lai.
Con đường nhận thức của nhân loại, xưa nay đều dựa vào những cố gắng lát hết tảng đá này đến tảng đá khác.
Thưa các bạn, tôi chờ mong sự phê bình của các bạn, để khi tái bản sửa chữa nó càng tốt hơn.
(ngày 25 tháng 11 năm 2004)
1 Tác giả sinh năm 1950.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:35:22 GMT 9
Hồi ức về chiến dịch Điện Biên Phủ Đại tá HOÀNG MINH PHƯƠNG Nguyên trợ lý Bộ chỉ huy chiến dịch Điên Biên Phủ
7.5.2009 là kỷ niệm lần thứ 55 chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhân dịp này, Diễn Đàn giới thiệu với bạn đọc chứng từ của đại tá cựu chiến binh Hoàng Minh Phương. Đây là toàn văn bản tham luận tác giả đọc tại cuộc hội thảo khoa học tổ chức trong hai ngày 19 và 20.4.2004 tại Trường Đại học Bắc Kinh, “vòng ba” của hội thảo quốc tế Kỷ niệm 50 năm chiến dịch Điện Biên Phủ và hội nghị Genève (mà hai vòng đầu đã được tổ chức tại Paris và Hà Nội trong thời gian nửa năm đầu 2004), với sự tham gia của những nhà nghiên cứu Pháp, Trung Quốc và Việt Nam.
Chứng từ của ông Hoàng Minh Phương là một tài liệu quý báu, vì nhiều lẽ. Trước hết, trong suốt thời gian chiến dịch, ông là người phiên dịch giữa tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh, trực tiếp chứng kiến quá trình diễn biến dẫn tới quyết định buổi sáng ngày 26.1.1954, “kéo pháo ra”, bài binh bố trận lại để “đánh chắc tiến chắc”, từ bỏ hẳn “oa tâm tạng chiến thuật” (chiến thuật moi tim kẻ địch), dùng biển người “đánh nhanh, thắng nhanh” của phó trưởng đoàn cố vấn Mai Gia Sinh. Chứng từ này xác nhận một lần nữa rằng đó là quyết định của chính cá nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Vị tướng “ngoài mặt trận” đã đảm đương trách nhiệm của mình, trong hoàn cảnh mọi liên lạc với chủ tịch Hổ Chí Minh và Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam ở Việt Bắc phải tiến hành qua giao liên đi ngựa, đi về phải mất nhiều ngày. Từ sau năm 1975, phía Trung Quốc đề cao vai trò viện trợ quân sự của mình (hàm ý trách móc Việt Nam bội bạc). Thậm chí họ còn thổi phồng công lao của các cố vấn Trung Quốc tại Điện Biên Phủ (xem Hồi ký của các cố vấn Trung Quốc đã công bố trên Diễn Đàn). Tại cuộc hội thảo 50 năm Điện Biên Phủ ở Paris và Hà Nội, họ đã rêu rao là tới Bắc Kinh, phía Trung Quốc sẽ công bố tư liệu lịch sử cho thấy chính Mao Trạch Đông là người quyết định thay đổi chiến thuật ở Điện Biên Phủ. Và, đến hẹn lại lên, đúng là bức điện của Mao Trạch Đông gửi Vi Quốc Thanh, tán thành việc thay đổi kế hoạch tiến công, đã được công bố. Nhưng, cuối cùng, các nhà sử học và chứng nhân Trung Quốc đã thừa nhận rằng, bức điện ấy mãi tới ngày 27.1.1954, Vi Quốc Thanh mới nhận được. Nghĩa là một ngày sau khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra lệnh kéo pháo, rút quân và các điểm tập kết, và đưa đại đoàn 308 sang Thượng Lào làm “nghi binh”. Cụ thể hơn nữa, sau khi đại tá Hoàng Minh Phương đọc bản tham luận của mình bẳng Hán ngữ, giáo sư Văn Thanh, phiên dịch viên của Trung Quốc tại Điện Biên Phủ, có mặt trong cuộc gặp Võ-Vi sáng ngày 26.1.1954, đã tuyên bố tại hội trường : “ Những điều mà ông Hoàng Minh Phương vừa phát biểu hoàn toàn đúng với sự thực lịch sử mà tôi được chứng kiến ”.
Diễn Đàn cảm ông Dương Danh Dy (dịch giả tập hồi ký cố vấn Trung Quốc) đã cung cấp bài tham luận của đại tá Hoàng Minh Phương và những thông tin soi sáng một sử kiện quan trọng. Để bảo đảm tính trung thực của văn bản này, ngày 7.5 vừa qua, chúng tôi đã công bố 13 trang ảnh chụp. Nhưng để bạn đọc dễ bề theo dõi, chúng tôi xin đăng dưới đây toàn văn bài viết, mà một bạn đọc, ông Nguyễn Học, đã bỏ công thực hiện.
Thưa các vị đồng chủ tịch,
Thưa các học giả Trung Quốc, Pháp và Việt Nam,
Thưa tất cả các bạn,
Nửa thế kỷ trước đây, tôi là trợ lý của Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ trong quan hệ với đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc sang giúp Việt Nam chống Pháp. Tôi được giao nhiệm vụ này vì biết tiếng Trung Quốc và từng được sang học tập ở Trường Đảng trung ương Đảng Cộng sân Trung Quốc (Học viện Mác Lênin Bắc Kinh) năm 1949-1950. Điều rất vui mừng đối với tôi tại cuộc hội thảo này là được gặp lại đồng chí Văn Trang, người từng dạy chúng tôi học tiếng Hoa ở căn cứ địa Việt Bắc cách đây hơn 55 năm, nay là Giáo sư ở Trường Đại học ngoại ngữ Bắc Kinh. Đồng chi Văn Trang sang Việt Nam khoảng cuối năm 1947, công tác ở Nha Hoa kiều vụ trung ương của Việt Nam, về sau là tổ trưởng tổ phiên dịch của Đoàn cố vấn Trung Quốc do đồng chí La Quý Ba lãnh đạo. Xin cho phép tôi được nhiệt liệt chào mừng và cám ơn đồng chí, người thầy, người bạn Trung quốc đã cùng nhân dân Việt Nam đồng cam cộng khổ từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nhớ lại thời bấy giờ, trong hoàn cảnh bị chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động Tưởng Giới Thạch bao vây bốn phía, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt nam đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, kiên cường chiến đấu trong những điều kiện cực kỳ gian khổ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch, chúng tôi đã thực hiện được càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của quân đội Pháp. Dân quân du kích và bộ đội địa phương ngày một trưởng thành, bộ đội chủ lực không ngừng lớn mạnh. Từ các tiểu đoàn, trung đoàn tập trung ban đầu, đến năm 1949-1950, chúng tôi đã tiến lên xây dựng được các đại đoàn chủ lực.
Tuy nhiên, vũ khí của các đơn vị lúc ấy vừa thiếu vừa không thống nhất, cán bộ chiến sĩ còn thiếu kinh nghiệm tác chiến tập trung, khả năng bảo đảm vật chất của hậu phương cho các chiến dịch lớn còn hạn chế. Trong bối cảnh đó việc Quân giải phóng nhân dân Trung quốc gíải phóng Hoa Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời đã tạo cho cuộc kháng chiến của Việt Nam những điều kiện cực kỳ thuận lợi. Từ chỗ phải hoàn toàn tự lực chiến đấu trong vòng vây chúng tôi bắt đầu nhận được sự viện trợ quốc tế, trước hết là của Đảng, Chính phủ Nhân dân và Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Dựa vào sức mình là chính cộng với sự giúp đỡ về vật chất và kinh nghiệm của Trung quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam đã chuyển sang thời kỳ phản công chiến lược, mở đầu bằng chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950.
Tháng 1 năm 1953, qua kinh nghiệm của 3 chiến dịch ở Trung du và Đồng bằng, của 2 chiến dịch Hoà Bình và Tây bắc diễn ra trong 2 năm 1951-1952, hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Narn đã đề ra phương hướng chiến lược cho bộ đội chủ lực là : “ Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch, giải phóng đất đai, đồng thời bắt chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ, do phải phân tán bình lực mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng ” 1.
Trung ương Đảng lại một lần nữa xác định : “ Phương châm chung của cuộc chiến tranh giải phóng của ta là TRƯỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN TỰ LỰC CÁNH SINH vì vậy ta không chủ quan khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh ” 2.
Quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương, sau chiến dịch Thượng Lào thắng lợi mùa xuân năm 1953, các đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam khẩn trương chuẩn bị để thu đông năm 1953, sẽ tiến lên Tây bắc, tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Nà Sản và giải phóng Lai Châu. Nhưng thượng tuần tháng 8-1953, quân Pháp rút toàn bộ binh lực ở Nà Sản về tập trung ở đồng bằng Bắc bộ. Trước tình hình đó, ngày 22 tháng 8 năm 1953, Bộ chính trị Trung ương Đảng họp hội nghị để nhận định tình hình và bàn chủ trương tác chiến. Lúc bấy giờ đồng chí Vi Quốc Thanh về nước chưa sang, đồng chí La Quý Ba đã tham dự cuộc hội nghị đó.
Tại hội nghị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã báo cáo đề án của Tổng quân ủy nhan đề : “ Tình hình địch ta ở Bắc bộ sau khi địch rút khỏi Nà Sản và chủ trương tác chiến của ta trong thu đông 1953 ”. Báo cáo có đoạn viết : “ Căn cứ vào tình hình địch ta hiện nay ở đồng bằng, vì lực lượng cơ động địch mạnh, công sự kiên cố, vì ta chưa thực hiện được binh lực ưu thế tuyệt đối, lại có những vấn đề chiến thuật mới để ra để giải quyết. Vì vậy hiện nay chưa có điều kiện tác chiến lớn ở đồng bằng. Việc dùng các binh chủng mới như trọng pháo hay XX 3 cũng chưa có lợi mà trái lại dễ làm cho bộ đội nặng nề, khó giữ bí mật, khó vận động nhanh chóng, dễ đi đến bị động ” 4.
“ Địch tập trung lực lượng ở đồng bằng Bắc bộ, ta cần phân tán chủ lực của chúng ra các chiến trường khác. Đó là một chủ trương chính xác Trung ương đã đề ra trước đây và thực tế chúng ta đã phân tán được khá nhiều chủ lực của địch lên Tây bắc và Thượng Lào trong một thời gian ” 5.
Đồng chí La Quý Ba đã phát biểu ý kiến trong hội nghị, biểu thị sự nhất trí với báo cáo của Tổng quân ủy, phân tích thêm âm mưu của địch và nhiệm vụ trước mắt của chúng ta là phải phá âm mưu tập trung binh lực và bình định đồng bằng của địch để tạo điều kiện tác chiến tương đối lớn. Sau khi đồng chí Vi Quốc Thanh trở lại Việt Nam vào hạ tuần tháng 10-1953 và cung cấp cho Việt Nam toàn văn bản kế hoạch Navarre do tình báo Trung Quốc thu được, Tổng quân uỷ và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam càng có cơ sở để khẳng định và hoàn chỉnh chủ trương tác chiến đã được đề ra từ tháng 8 : Dùng một bộ phận quân chủ lực, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương, mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Tây nguyên, lấy Tây bắc làm hướng chính nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phải phân tán quân cơ động ra đối phó. Khối chủ lực lớn còn lại bí mật giấu quân ở Trung du và cửa ngõ Việt Bắc, sẵn sàng đánh địch tiến công vào hậu phương ta hoặc cơ động đi hướng khác khi tình hình đòi hỏi.
Ngày 20 tháng 11 năm 1953. sau khi phát hiện chủ lực Quân đội Việt Nam tiến lên Tây bắc, Navarre cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ. Ngày 26-11 đoàn cán bộ đi trước của Tiền phương Bộ Tổng tư lệnh do thiếu tướng Phó Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái dẫn đầu lên đường đi Tây Bắc. Cùng đi có Phó đoàn trướng - Tham mưu trưởng Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Mai Gia Sinh, một số cán bộ và cố vấn tham mưu, chính trị, cung cấp. Tôi cũng được phân công đi trước trong đoàn này.
Ngày 30-11-1953, Đoàn đến Nà Sản, chủ trương dừng lại một ngày để nghiên cứu tập đoàn cứ điểm mà địch vừa rút bỏ hồi tháng 8. Ngày 6-12-1953, Đoàn đến Sở chỉ huy đầu tiên của Chiến dịch Điện Biên Phủ ở hang Thẩm Púa.
Đoàn dành 3 ngày để nắm tình hình địch và địa hình Điện Biên Phủ, chỉ đạo Đại đoàn 316 đánh địch ở Lai Châu đang rút chạy, lệnh cho Đại đoàn 308 nhanh chóng bao vây Điện Biên Phủ, chỉ đạo bộ đội công binh gấp rút mở rộng đường Tuần Giáo đi Mường Thanh để xe kéo pháo và xe vận tải có thể vào sát chiến trường.
Lúc này, căn cứ vào báo cáo và bản vẽ của các mũi trinh sát tiền phương và các đơn vị thuộc trung đoàn 148 đã bám sát và đánh địch từ đầu, kết hợp với tin trinh sát kỹ thuật, ta đã nắm được tương đối cụ thể địa hình và các vị trí đóng quân của địch. Hơn nửa tháng sau khi nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, binh lực chúng đã lên đến 9 tiểu đoàn. Chúng đã san bằng thị trấn Mường Thanh để xây dựng Sở chỉ huy và trận địa pháo. Tuy nhiên, phần lớn công sự còn làm theo kiểu dã chiến, phòng ngự địch ở phía tây còn nhiều sơ hở. Anh em báo cáo : Một chiến sĩ trinh sát có lần vào gần sân bay lấy đồ tiếp tế và phục bắt tù binh, đến sáng không ra được, đã giấu minh trong đống dù, nằm ăn đồ hộp và ngủ cả ngày mà địch không hề hay biết !
Ngày 9-12-1953, căn cứ vào tình hình địch và địa hình, Phó Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, cố vấn Mai Gia Sinh cùng một số cán bộ và cố vấn tham mưu bàn cách đánh. Tôi phiên dịch cho cả hai bên. Có hai phương án được đề ra :
- Một là : Dùng toàn bộ lực tượng bộ binh dưới sự yểm trợ của pháo binh và cao xạ, nhiều hướng cùng một lúc tiến công vào tập đoàn cứ điểm, hướng chính thọc sâu vào Sở chỉ huy, giống như một lưỡi gươm đâm thẳng vào tim, tạo nên sự rối loạn ở trung tâm phòng ngự địch ngay từ đầu rồi từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào tiêu diệt địch trong thời gian tương đối ngắn.
- Hai là : Bao vây địch dài ngày rồi đánh dần từng bước một, lần lượt tiến công từng trung tâm đề kháng bằng nhiều trận công kiên kế tiếp, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch.
Cố vấn Mai Gia Sinh gọi cách đánh thứ nhất là “chiến thuật moi tim” (oa tâm trạng chiến thuật), cách đánh thứ hai là “chiến thuật bóc vỏ” (bóc bì chiến thuật). Ông phân tích : “ Năm ngoái đánh Nà Sản ta dùng “chiến thuật bóc vỏ” lần lượt đánh từng vị trí, lại không có trọng pháo tầm xa để chế áp pháo binh và Sở chỉ huy địch, nên chúng tập trung được toàn bộ hoả lực của tập đoàn cứ điểm chi viện cho từng vị trí bị tiến công. Ta thương vong nhiều mà không dứt điểm được. Mà có dứt điểm thì cũng không giữ được như vị trí Pú Hồng. Ở Điện Biên Phủ hiện nay, địch còn trong trạng thái tạm thời phòng ngự, công sự chưa vững chắc, lại có nhiều sơ hở ở phía tây. Ta nên tranh thủ đánh sớm, đánh nhanh bằng sức mạnh mới của của bộ pháo hiệp đồng, dùng “chiến thuật moi tim” để tiêu diệt dịch. Nếu không đánh sớm, địch tăng thêm binh lực. củng cố công sự và hoàn chỉnh thế bố phòng thì e sẽ gặp khó khăn ”.
Thiếu tướng Hoàng Văn Thái đặt vấn đề : “ Làm thế nào để đưa pháo vào trận địa khi ta chủ trương đánh sớm, đánh nhanh mà chưa kịp làm đường cho xe kéo pháo ? Làm thế nào để hạn chế tác dụng của máy bay, pháo binh, giảrn bớt thương vong khi ta đánh liên tục cả ban ngày ? ”.
Mai cố vấn giải đáp : “ Sau khi hoàn thành mở rộng đường Tuần Giáo - Mường Thanh, ta chỉ cần đốn cây, phát cỏ rồi dùng sức người kéo pháo vào trận địa. Việc này chúng tôi đã từng làm, tuy có khó khăn vất vả nhưng sẽ tạo được bất ngờ lớn. Về việc đối phó với máy bay và pháo địch, ta có khả năng làm được : trận đánh sẽ bắt đầu bằng một trận pháo cấp tập dữ dội, làm cho pháo địch và máy bay thường trực ở sân bay bị tổn thất nặng ngay từ đầu. Tiếp đó là các mũi đột kích của bộ binh thọc sâu vào chia cắt đội hình, mũi chủ yếu đánh vào Sở chỉ huy theo kiểu “nở hoa trong lòng địch” (tâm trung khai hoa). Ta làm được như vậy thi các trận đánh ban ngày sẽ diễn ra trong trạng thái địch ta xen kẽ. Máy bay và pháo địch không dễ dàng bắn trúng đội hình chiến đấu của ta mà không gây thương vong cho quân của chúng. Tôi được thông báo là các tiểu đoàn pháo cao xạ của Liên Xô viện trợ và đưa qua Trung Quốc huấn luyện đã tiến bộ khá nhanh. Trước khi về nước, cán bộ và chiến si đã nắm vững chiến thuật và kỹ thuật. Đây là một lực lượng đáng tin cậy để hạn chế hoạt động của không quân địch ”.
Sau khi cân nhắc thuận lợi và khó khăn về cách đánh cũng như về khả năng bảo đảm hậu cần, hai ông nhất trí chọn phương án đánh nhanh thắng nhanh để chuẩn bị báo cáo với Đại tướng Tổng tư lệnh và Trưởng đoàn cố vấn.
Trong lúc đó thì ở hậu phương, ngày 6 tháng 12 năm 1953, hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, sau khi hạ quyết tâm tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đã thông qua “ Phương án tác chiến mùa xuân năm 1954 ” của Tổng quân uỷ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày. Phương án tác chiến có đoạn viết :
“ Về thời gian : …Sau khi đợt chiến đấu đầu tiên kết thúc vào khoáng cuối tháng 1-1954, bộ đội sẽ chấn chỉnh độ 20 ngày, đồng thời đợi tập trung binh lực cho đầy đủ rồi có thể bắt đầu tiến công Điện Biên Phủ. Thời gian tác chiến ở Điện Biên Phủ ước độ 45 ngày nhưng còn tuỳ tình hình thay đổi cũng có thể rút ngắn hơn.
…Chiến dịch có thể kết thúc vào khoáng đầu tháng 4-1954 sau đó đại bộ phận chủ lực sẽ rút về và một bộ phận sẽ còn phải ở lại tiếp tục phát triển sang Thượng Lào và uy hiếp địch về phía Luông Prabang ” 6.
Ngày 5-1-1954 Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh lên đường đi Tây Bắc. Cùng đi có Cục trưởng Cục tác chiến Trần Văn Quang, Cục trưởng và cố vấn một số cục khác.
Sáng 12-1-1954 Đoàn đến Tuần Giáo. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái từ Sở chỉ huy ra đón, tranh thủ báo cáo tình hình và phương án “ đánh nhanh, thắng nhanh ” đã bàn với Chủ nhiệm chính trị Lê Liêm và Chủ nhiệm cung cấp Bằng Gìang. Thấy phương án này trái hẳn với dự kiến của Tổng Quân uỷ trình lên Bộ chính trị ngày 6-12-1953, Đại tướng vào ngay Sở chỉ huy Thẩm Púa, triệu tập hội nghi đảng uỷ. Ngoài các đảng ủy viên, còn có Chánh văn phòng đảng uỷ Nguyễn Văn Hiếu được phép dự họp để ghi biên bản. Ông Hiếu kể lại : “ Trong cuộc họp, tất cả các Đảng uỷ viên đều nhất trí chọn phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh”. Mọi người cho rằng quân ta đang sung sức quyết tâm chiến đấu rất cao. Lại có trọng pháo và cao xạ lần đầu xuất trận. Ta có thể tạo bất ngờ và đánh thắng Nếu không đánh sớm, để tập đoàn cứ điểm được tăng cường quá mạnh, ta sẽ bỏ lỡ cơ hội đánh tiêu diệt lớn trong Đông Xuân này. Đánh dài ngày sẽ rất khó giải quyết vấn đề tiếp tế. Tại khu vực Điện Biên Phủ mỗi ngây tiêu thụ gần 50 tấn gạo. Nếu tính từ Sơn La trở lên, bình quân phảì có 90 tấn gạo/ngày cho cả bộ đội và dân công. Địch sẽ tăng cường đánh phá đường tiếp tế vận chuyển của ta. Nếu chiến dịch kéo dài thì không thể có đủ gạo ăn mà đánh. Về tư tưởng bộ đội vốn thích về đánh ở đồng bằng nay đã thông suốt hăng hái quyết tâm ; nhưng nếu ở chiến trường rừng núi quá lâu ăn uống kham khổ, bênh tật phát sinh thì cả thể lực cũng như ý chỉ đều có thể dần dần giảm sút…”.
Đại tướng không nhất trí với những ý kiến đó, sang bàn với Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh, hy vọng sẽ có sự đồng tình. Đại tướng nói : “ Trước khi lên đây, tôi và đồng chí đã dự kiến chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ được thực hành bằng cách đánh dần từng bước khoảng 45 ngày, nay các đồng chí Thái và Mai lên trước lại chủ trưởng đánh sớm đánh nhanh. Tôi thấy phương án này không ổn. Đồng chí suy nghĩ gì về phương án đó ? ”. Vi đoàn trưởng nói : “ Tôi đã gặp đồng chí Mai Gia Sinh và các cố vấn cùng đi chuấn bị chìến trường với cán bộ Việt Nam, trong đó có một ngày dừng lại ở Nà Sản để nghiên cứu kỹ tập đoàn cứ điểm mà quân Pháp vừa rút bỏ. Qua bài học Nà Sản, tất cả đều nhất trí là ở Điện Biên Phủ lần này ta nên tranh thủ đánh sớm đánh nhanh và có nhiều khả năng đánh thắng ”. “… Chúng ta đều vừa mới đến chiến trường, hai đồng chí Thái và Mai thì đã lên đầy từ hơn một tháng. Đảng ủy và cán bộ đều nhất trí, quyết tâm, ta chưa đủ căn cứ để phản đối phương án của các đồng chí ấy. Cũng cần cân nhắc là nếu không tranh thủ đánh sớm khi địch còn đứng chân chưa vững, để nay mai chúng tăng quân và củng cố công sự thi không đánh được, ta sẽ bỏ mất thời cơ ”.
Tuy vẫn không tin vào phương án “đánh nhanh, thắng nhanh”, nhưng Đại tướng tự thấy mình chưa có đủ cơ sở thực tế để bác bỏ phương án đã được đa số trong đảng ủy và tất cả cố vấn đổng tình. Cũng không còn thời gian xin ỷ kiến của Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị, vì không thể trao đổi vấn đề tuyệt mật ấy qua điện đài viết thư cho cán bộ cầm về rồi cầm thư trả lời lên thì không thể kịp, Đại tướng đồng ý triệu tập hội nghị cán bộ vào ngày 14-1, để kịp triển khai công tác chuẩn bị. Đại tướng chỉ thị cho Cục quân báo theo dõi sát tình hình địch bằng cả trinh sát mặt đất và trinh sát kỹ thuật chú ý hướng tây và hướng bắc, báo cáo với Đại tướng mỗi ngày ba lần, không kể khi có tin đặc biệt. Đại tướng trao đổi riêng những suy nghĩ của mình với Chánh văn phòng Nguyễn Văn Hiếu, cho rằng đánh như vậy là mạo hiểm, dặn là biết vậy để giúp theo dõi, không được nói với bất cứ ai.
Ngày 14-1-1954, phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” và nhiệm vụ của các đơn vị, các binh chủng được phổ biến trên một sa bàn lớn ở hang Thẩm Púa. Thời gian tác chiến dự kiến là 3 đêm 2 ngày, ngày nổ súng 20-1-1954. Không khí hội nghị phấn khởi và tin tưởng. Chỉ huy các Đại đoàn đều biểu thị quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Không một ai có ý kiến khác.
Khi kết luận hội nghị để chuẩn bị tư tưởng phần nào cho cán bộ, Đại tướng nói : “ Hiện nay tình hình địch chưa có triệu chứng thay đổi lớn. Chúng ta cần hết sức chú ý theo dõi ý đồ và hành động của chúng để một khi tình hình thay đổi thì kịp thời xử trí ”.
Sau hội nghị, theo báo cáo của Cục quân báo, binh lực địch ở Điện Biên Phủ đã từ 9 tiểu đoàn tăng lên 11 tiểu đoàn. Hàng ngày máy bay địch, kể cả máy bay C119 do phi công Mỹ lái tiếp tục vận chuyển và thả dù hàng trăm tấn lương thực vũ khí, đạn dược, dây kẽm gai và cọc sắt xuống sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm. Đồi Độc lập lúc đầu chỉ là một cứ điểm tiền tiêu nay đã trở thành một trung tâm đề kháng vững chắc. Cụm cứ điểm Him Lam được tăng cường.
Đêm 17 rạng ngày 18-1-1954, Sở chỉ huy chiến dịch từ cây số 15 chuyển vào ngang cây số 62, trong một khu rừng thuộc bản Nà Tấu. Các thành viên Bộ Chỉ huy chiến dịch chia nhau đi kiểm tra đôn đốc các đơn vị : Việc làm đường kéo pháo từ cửa rừng Nà Nham qua núi Pha Song cao 1.150m, xuống Bản Tố tới Bản Nghịu (tây bắc Điện Biên Phủ) dài 15 km, rộng 3m, đã được hoàn thành sớm hơn dự kiến. Nhưng việc kéo pháo phải kéo dài. Phải dùng hàng trăm người kết hợp với tời kéo dần từng khẩu nặng hàng tấn, qua những đoạn có dốc cao vực thẳm, trung bình mỗi giờ chỉ nhích được từ 150 đến 200m. Đến ngày 19-1, pháo vẫn chưa vào tới vị trí.
Ngày nổ súng được hoãn đến 25-1-1954.
Ngày 20-1, Cục Quân báo báo cáo tiếp : Sau khi củng cố hệ thống phòng ngự trên các ngọn đồi phía đông, địch đóng thêm một số vị trí ở phía tây bắc Mường Thanh. Có khả năng hình thành một trung tâm đề kháng mạnh ở đây. Địch ráo riết củng cố công sự và hệ thống vật cản. Chung quanh các cứ điểm đều cố bãi mìn dày đặc, kết hợp với nhiều hàng rào kẽm gai rộng từ 50 đến 70m, có nơi rộng đến gần 200m. Đặc biệt, trinh sát phát hiện một loại súng trọng liên 4 nòng đặt gần sở chỉ huy của De Castries có thể quay bắn về nhiều hướng.
Sáng 23-1, sau khi kiểm tra tình hình chuẩn bi chiến đấu của Đại đoàn 312 qua điện thoại, nghe Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn báo cáo địch đã tăng cường công sự, có thêm loại dây thép gai bùng nhùng 7 đơn vị phải đột phá liên tục 3 phòng tuyến của địch mới vào được trung tâm tập đoàn cứ điểm, tuy có khó khăn nhưng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Đại tướng cho gọi Cục phó Cục Quân báo Cao Pha sang và chỉ thị : “ Địch đã tăng cường lực lượng công sự và vật cản, mà ta thì chưa hiểu rõ cách bố trí phòng ngự bên trong của chúng ở nam sân bay và Mường Thanh. Sắp tớỉ Đại đoàn 312 từ phía bắc sẽ phải đánh một mạch tử đồi Độc Lập, vị trí 105, Căng Nă qua sân bay vào tới trung tâm. Tôi lo là anh em sẽ thương vong nhiều và khó hoàn thành nhiệm vụ. Cậu phải xuống cùng đi theo mũi của 312. Đi đến đâu, đánh đến chỗ nào, cậu nắm ngay tình địch, chú ý khai thác tù binh và báo cáo về ngay ”.
Chiều 23-1, Cục phó Cục bảo vệ được cử làm phái viên theo dõi việc kéo pháo vào trận địa phía tây bắc sân bay, đề nghị gặp Đại tướng qua điện thoại. Cục phó Phạm Kiệt nói : “ Pháo của ta đều bố trí trên trận địa dã chiến, địa hình rất trống trải, nếu bị phản pháo hoặc không quân đánh phá thì khó tránh khỏi tổn thất. Một số pháo vẫn chưa vào vị trí. Đề nghị anh cân nhắc ”. Sau này Đại tướng cho biết : sự phát triển của tình hình địch và lời của Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn đã làm cho Đại tướng suy nghĩ rất nhiều. Qua ý kiến của Cục phó Phạm Kiệt, người duy nhất phát hiện khó khăn, Đại tướng càng thấy là không thể mạo hiểm đánh theo kế hoạch đã đề ra.
Ngày 24-1 một chiến sĩ ta bị địch bắt. Qua tin trinh sát kỹ thuật, biết chúng đã nắm được thời gian ta nổ súng là 17 giờ ngây 25-1-1954, Đại tướng quyết định hoãn giờ nổ súng thêm 24 tiếng.
Tảng sáng 26-1, liên lạc xuống gọi tôi lên gặp Đại tướng gấp. Ông đang ngồi nghiên cứu tình hình qua tấm bán đồ trải trên bàn nứa, đầu quấn đầy lá ngải cứu.
Tôi ngạc nhiên hỏi : “ Anh nhức đầu hay sao mà đắp ngải cứu nhiều như thế ? ”. Đại tướng thân mật đáp : “ Mười một ngày qua mình suy nghĩ rất nhiều và suốt đêm qua không ngủ được. Chiều nay trận đánh sẽ bắt đầu nhưng những yếu tố thắng lợi thì ta chưa hoàn toàn nắm chắc. Cậu sang báo với đồng chí Vi là tôi có việc cần bàn gấp sáng nay ”.
Tôi dịch cho Đại tướng trong cuộc trao đổi ý kiến với Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh. Gặp Đại tướng, Vi đoàn trưởng ngạc nhiên nhin nắm lá ngải cứu trên đầu, ân cần hỏi thăm tình hình sức khoẻ rồi nói :
- Trận đánh sắp bắt đầu, đề nghị Võ Tổng cho biết tình hình mới nhất ra sao ?
- Đó cũng là vấn đề tôi muốn trao đổi với đồng chí. Qua 11 ngày đêm theo dõi sát tình hình, tôi thấy địch không còn trong trạng thái lâm thời phòng ngự, mà trở thành một tập đoàn cứ điểm kiên cố. Vì vậy không thể đánh theo kế hoạch đã định. Có ba khó khăn lớn mà bộ đội Việt Nam không thể vượt qua :
Một là : Các đơn vị chủ lực của chúng tôi cho đến nay chỉ mới có khả năng cao nhất là tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch tăng cường trong công sự vững chắc. Chưa có khả năng, trong một thời gian ngắn, tiêu diệt cả chục tiểu đoàn địch phòng ngự trong tập đoàn cứ điểm. Ở Nà Sản cuối năm 1952, một trung đoàn đánh một tiểu đoàn địch trong công sự dã chiến mà chưa thành công. Nay địch có 49 cứ điểm, binh lực hoả lực mạnh hơn, có công sự vững chắc và hệ thống vật cản dầy đặc, lại càng không thắng được, mặc dù một năm qua bộ đội có nhiều tiến bộ.
Hai là : trong trận này ta có thêm lựu pháo và pháo cao xạ đã được các đồng chí Trung Quốc giúp huấn luyện, có kết quả tốt, nhưng bộ pháo hiệp đồng quy mô lớn mới là lần đầu. lại chưa qua diễn tập. Cán bộ còn lúng túng trong việc chỉ huy. Có Trung đoàn trưởng đã đề nghị trả bớt hoả lực trợ chiến về cho Bộ !
Ba là : Như đồng chí đã biết, không quân Pháp mạnh hơn không quân Tưởng Giới Thạch khi các đồng chí tiến hành chiến tranh giải phóng. Nay lại có không quân Mỹ tăng cường. Bộ đội chúng tôi lâu nay mới quen tác chiến ban đêm ở những địa hình dễ ẩn náu để hạn chế chỗ mạnh của địch về không quân và pháo binh. Nay phải chiến đấu liên tục trong 3 đêm 2 ngày với kẻ địch có ưu thể về máy bay, pháo và xe tăng trên địa hình trống trải nhất là trên cánh đồng Mường Thanh khá rộng, thì rất khó tránh thương vong, khó hoàn thành nhiệm vụ.
Tất cả những khó khăn này ta đều chưa bàn kỹ cách giải quyết, chỉ mới dựa vào khả năng cấp tập hoả lực để tiêu diệt pháo và máy bay địch trong đêm đánh đầu tiên. Ngày 12-1, khi thấy đa số tán thành phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh”, tôi không tán thành và đã nói với đổng chí. Nhưng đồng chí cũng như tôi là những người vừa mới đến chiến trường, chỉ mới nghe báo cáo, chưa nắm chắc được tình hình, nên chưa tiện bác bỏ ý kiến của các đồng chí đã lên trước hơn một tháng. Đến nay, tình hình đã khác. Tôi đã cử cán bộ trực tiếp đi kiểm tra các trận địa pháo, phần lớn đều nằm ở nơi trống trải. Nếu trong đêm đầu ta không diệt được pháo địch, ban ngày địch dùng không quân oanh tạc, dùng pháo binh bắn phá, dùng bộ binh và xe tăng phản kích thì không có đường và xe kéo, pháo ta sẽ rút đi đâu ?
Nói tóm lại : Theo tôi, nếu đánh theo kế hoạch cũ thì thất bại. Trung ương Đảng chúng tôi từng nhắc nhở : “ Chiến trường ta hẹp, người của ta không nhiều, cho nên chỉ được thắng không dược bại, vì bại thì hết vốn ”. Qua 8 năm kháng chiến chúng tôi mới xây dựng được 6 Đại đoàn bộ binh chủ lực, rnà phần lớn đều có mặt trong chiến dịch này...
Vi đoàn trưởng suy nghĩ một lúc rồi hỏi :
- Vậy theo ý Võ Tổng thi nên xử trí như thế nào ?
- Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công chiều hôm nay ; kéo pháo ra, thu quân về vị trí tập kết. Chuẩn bị lại theo phương châm “đánh chắc tiến chắc”. Thời gian chiến dịch kéo dài, khó khăn sẽ không ít, nhất là về mặt tiếp tế. Nhưng tôi tin tưởng vững chắc rằng, với sự cố gắng của cán bộ và chiến sĩ, sự chi viện của toàn Đảng, toàn dân ở hậu phương, với sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí cố vấn, chiến địch này nhất định thắng !
Sau lát giây suy nghĩ, Vi đoàn trưởng nói :
- Tôi đồng ý với Võ Tổng. Tôi sẽ đả thông tư tưởng cho các đồng chí trong đoàn cố vấn. Võ Tổng đả thông tư tưởng cho cán bộ Việt Nam.
- Thời gian gấp. Tôi cần họp ngay đảng uỷ để quyết định. Tôi đã có dự kiến cho Đại đoàn 308 tiến về hướng Luông Prabang cố ý bộc lộ lực lượng chừng nào để kéo không quân địch về hướng đó, không để chúng gây khó khăn khi ta lui quân và kéo pháo ra.
Cuộc trao đổi giữa hai người diễn ra hơn nửa tiếng.
Hơn nửa giờ sau, các ủy viên đảng ủy mặt trận đã có mặt đủ ở Sở chỉ huy. Đại tướng trình bày những suy nghĩ từ lâu về cách đánh tập đoàn cứ điểm, về 3 khó khăn chưa thể vượt qua như đã nói với cố vấn Vi Quốc Thanh, rồi tóm lại : Ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhưng phải thay đổi cách đánh.
Mọi người im lặng mặt lúc.
Qua hơn 2 giờ thảo luận sôi nổi và căng thẳng, cuối cùng Đảng uỷ mới nhất trí với ý kiến của Đại tướng.
Đại tướng kết luận :
“ Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là : “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm chiến dịch từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn mặt trận lui về vị trí tập kết và kéo pháo ra. Công tác chính trị bảo đảm chấp hành triệt để mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới ”.
Lúc đó là 11 giờ trưa ngày 26-1-1954. Sau đó Đại tướng nói với thiếu tướng Hoàng Văn Thái : “ Tôi sẽ ra lệnh cho pháo binh và giao nhíệm vụ mới cho 308. Anh ra lệnh cho các đơn vị còn lại ”.
Sau khi gọi điện thoại cho pháo binh, ra lệnh kéo pháo ra từ ngay chiều hôm đó, đến 14 giờ 30, Đại tướng mới liên lạc được qua điện thoại với Đại đoàn trưởng đại đoàn 308 Vương Thừa Vũ :
- Chú ý nhận lệnh : Tình hình thay đổi. Đại đoàn đồng chí có nhiệm vụ tiến quân ngay chiều nay về hướng Luông Prabang. Gặp địch dọc đường, tuỳ điều kiện cụ thể mà tiêu diệt. Giữ vững lực lượng có lệnh trở về ngay. Giữ liên lạc vô tuyến đỉện. Khi được hỏi mới trả lời.
- Rõ. Xin chỉ thị về sử dụng binh lực ?
- Toàn quyền quyết định : từ một tiểu đoàn đến toàn đại đoàn. Hậu cần tự giải quyết. Đúng 16 giờ 26-1 xuất phát.
- Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh !
Ngay chiều hôm đó, Đại tướng đã viết thư hoả tốc cho cán bộ cầm về báo cáo với Bác và Ban Thường vụ Trung ương.
Đêm 30 rạng 31-1-1954, Sở chỉ huy chiến dịch chuyển vào khu vực Mường Phăng, trước Tết Nguyên đán 3 ngày.
Sáng mồng 1 tết (3-2-1954) Đại tướng sang lán Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh chúc Tết đoàn cố vấn và báo tin thắng lợi trận các chiến trường. Đây là lần thứ tư, vì sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam, các cố vấn Trung Quốc phải tiếp tục ăn một cái Tết xa Tổ quốc, xa gia đình. Và lần này ở ngay mặt trận.
Vi đoàn trưởng vui vẻ chúc mừng năm mới và những thắng lợi mới của quân và dân ta. Ông cho biết : Sau khi được phân tích đầy đủ về chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và ta, các cố vấn ở cơ quan và đơn vị đều nhất trí với chủ trương thay đổi phương châm chiến dịch. Mọi người đều bày tỏ quyết tâm đồng cam cộng khổ, đem hết trí tuệ và năng lực giúp bộ đội Việt Nam giảnh toàn thắng. Ông đã đề nghị Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc gửi gấp những tài liệu tổng kết kinh nghiệm chiến đấu mới nhất ở Triều Tiên, nhất là kinh nghiệm xây dựng trận địa và chiến đấu đường hầm kể cả cuốn truyện Thượng Cam Lĩnh để bộ đội Việt Nam tham khảo.
Trong quá trình chuẩn bị chiến địch theo phương châm mới, đoàn trưởng Vi Quốc Thanh đã trực tiếp giới thiệu cách xây dựng trận địa tiến công và bao vây cho cán bộ Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong chiến dịch Hoài Hải và của Quân chí nguyện Trung Quốc ở Triều Tiên. Tôi phiên dịch cho đoàn trưởng Vi trong các buổi giới thiệu đó. Phó đoàn trưởng Mai Gia Sinh đã hướng dẫn công binh Việt Nam xây dựng trận địa mẫu để cán bộ các đơn vị tham quan học tập. Cố vấn các đơn vị đã hướng dẫn cụ thể cho cán bộ Việt nam ở thực địa, nên việc làm đường và xây dựng trận địa cho bộ binh, pháo binh, cao xạ được tiến hành thuận lợi.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ ở các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần cũng như ở các binh chủng, các đơn vị chiến đấu, trước cũng nhu sau khi thay đổi phương châm chiến dịch, các cố vấn quân sụ Trung Quốc đã giúp bộ đội Việt Nam một cách chân thành, tích cực, tận tình, không nề hà hiểm nguy gian khổ.
Mao chủ tịch từng chỉ thị cho lãnh đạo đoàn cố vấn : “ Thực dân Pháp là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, cũng là ké thù của nhân dân Trung Quốc, là kẻ thù chung của nhân dân hai nước. Trung Quốc giúp Việt Nam đánh bại thực dân Pháp xâm lược, khôi phục hoà bình, đó là sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam đánh bại và đuổi thực dân Pháp xâm lược ra khỏi bờ cõi Việt Nam, cũng tức là vùng biên cương phía nam của Trung Quốc thoát khỏi tình trạng bị thực dân xâm lược Pháp uy hiếp, đó là sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Trung Quốc ”. Thấm nhuần lời dạy đầy tinh thần quốc tế cao cả đó của Mao Chủ tịch, các cố vấn Trung Quốc đã coi sự nghiệp cách mạng Việt Nam như sự nghiệp của chính mình, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng cán bộ và chiên sĩ Việt nam.
Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những ấn tượng tốt đẹp đó không hề phai nhạt trong ký ức cán bộ chiến sĩ Việt nam thời ấy. Tôi là người chứng kiến mối quan hệ giữa các vị lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc từ khi Đoàn sang Việt Nam tháng 8-1950 cho đến khi Đoàn hoàn thành nhiệm vụ về nước đầu năm 1956, ấn tượng đó trong tôi lại càng sâu sắc.
Tôi nhớ mãi lời dặn dò của Hồ Chủ tịch ngày 12 tháng 9 năm 1950 tại Sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tổng Tư lệnh trong chiến địch Biên giới :
“ Chú đi với Đoàn cố vấn... Sau mấy chục năm chiến tranh, nay Cách mạng Trung Quốc thành công, đáng ra các đồng chí ấy có quyền nghỉ ngơi một thời gian để hưởng thành quả cách mạng, đoàn tụ gia đình. Song vì tinh thần quốc tế cao cả, các đồng chí sang giúp ta, cán bộ ta phải biết rõ điều đó mà cố gắng học hỏi và quan tâm săn sóc ”.
Cán bộ Việt Nam đã cố gắng làm theo lời Hồ chủ tịch, chân thành học tập và biết ơn các cố vấn, thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân và quân đội hai nước Việt - Trung.
Năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mời Thượng tướng Vỉ Quốc Thanh và gia đình sang thăm Việt Nam. Ông đã tặng Đại tướng một bức trướng có chim ưng và dòng chữ “ Đông Phong nghênh khải hoàn ”. Ông nói : “ Những năm ở Việt Nam là thời kỳ hoàng kim trong cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi ”.
Đại tướng và tướng Vi Quốc Thanh cùng hai gia đình đã đi thăm Vịnh Hạ Long và Hải Phòng. Phó Tổng tham mưu trường Hoàng Văn Thái đã cùng tướng Vi Quốc Thanh và gia đình về thăm Điện Biên Phủ. Tôi đã cùng đi trên cương vị Trưởng phòng Ngoại vụ Bộ Quốc phòng.
Quan hệ giữa các bạn chiến đấu cũ ngây càng thắm thiết. Mỗi lẩn Đại tướng Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc hay Liên Xô, khi qua Nam Ninh đều ghé thăm Thượng tướng Vi Quốc Thanh, qua Bắc Kinh ghé thăm Đại tướng Trần Canh, người được Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc cử sang Việt Nam tham gia chỉ đạo chiến dịch Biên giới thành công theo lời mời của Hồ chủ tịch.
Tình hữu nghị Việt - Trung đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông dày công vun đắp. Tôi tin tưởng rằng, với sự cố gắng của lãnh đạo và nhân dân hai nước, tình hữu nghị ấy sẽ mãi mãi xanh tươi, bền vững đời đời.
Bắc Kinh, ngày 19-4-2004
HOÀNG MINH PHƯƠNG
1 Đại tướng Võ Nguyên Giáp : Điện Biên Phủ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994, trang 85.
2 Đại tướng Võ Nguyên Giáp : Điện Biên Phủ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994, trang 86.
3 Mật danh của pháo cao xạ 37 ly.
4 Một số văn kiện chỉ đạo chiến cuộc Đông xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân - Hà Nội, 2004, trang 59.
5 Một số văn kiện chỉ đạo chiến cuộc Đông xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân - Hà Nội, 2004, trang 61.
6 Một số văn kiện chỉ đạo chiến cuộc Đông xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân - Hà Nội, 2004, trang 209.
7 Loại được cuộn thành vòng tròn theo kiểu lò xo, đường kính khoảng 50 cm, được vây quanh cứ điểm xen kẽ với các loại dây thép gai hình mái nhà hoặc cũi lớn để ngăn cản bộ đội Việt Nam mở cửa đột phá.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 29, 2020 19:04:38 GMT 9
45 năm chính sách “triệt người”April 24, 2020 Facebook Email Print Giáo sư Lê Xuân Khoa, cựu phó Viện trưởng Viện Đại Học Sài Gòn (Ảnh: Uyên Nguyên) MẠNH KIMTrong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long (cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học, người nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”), kể lại thảm cảnh một vụ tịch thu sách năm 1975 sau khi chính quyền mới tiếp quản Sài Gòn: “Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhập tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu… Cả chủ tiệm cũng mạng vong”… Câu chuyện ông chủ hiệu sách uất ức thà chết còn hơn nhìn “băng đỏ” gom và ném sách đi đốt chỉ là một trong những bi kịch của miền Nam sau 1975. Không chỉ đốt sách, con người cũng bị triệt, đến tận cùng. Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư… đều bị tống đi học tập cải tạo. Miền Nam không chỉ đột nhiên rơi vào tình trạng thống khổ cùng cực mà còn chứng kiến những cảnh không thể tưởng tượng: phu nhân đại tá đi bán rong, vợ giáo sư buôn vỉa hè, thầy giáo mưu sinh bằng xích lô, ký giả chạy xe lam, con sĩ quan xếp hàng mua từng ký gạo… Những hình ảnh đã đột ngột làm biến dạng miền Nam sau 1975. Những câu chuyện trải dài theo ký ức và nghe (tưởng chừng) “phi thực tế” đến nỗi những thế hệ sau này khi được kể nghĩ chắc hẳn là chuyện bịa. Đã có cả trăm quyển sách viết về những câu chuyện này, từ đi tù cải tạo đến vượt biên bỏ mạng. Nhắc lại không phải “đào xới” chuyện cũ. Để thấy rằng, “di sản” 1975 đến giờ vẫn tiếp tục còn sau 45 năm. Chính sách triệt tiêu con người sau 1975 vẫn tồn tại. Đó mới là điều cần nói. Trong số “đối tượng” hứng chịu sự trả thù vô lý và nghiệt ngã có những trí thức đỉnh cao mà trí tuệ họ xứng đáng đại diện cho dân tộc Việt. Có lẽ không gương mặt nào trong Bộ Chính trị hoặc nhân vật nào trong “nội các” hiện tại có thể so với những bậc trí thức VNCH về trình độ lẫn nhân cách. Điều đáng tiếc nhất là một số trí thức này đã phải “trả giá” cho lòng yêu nước, chỉ bởi họ quá yêu nước, khi họ chọn ở lại mà không đi nước ngoài sau 1975, với niềm tin ngây thơ vào chế độ mới và với nhiệt tâm đóng góp tái thiết sau chiến tranh. Quê hương, với họ, là nước nhà; là đất nước và mái nhà. GS Nguyễn Duy Xuân (trái) và GS Phạm Hoàng Hộ Sinh năm 1929 tại Cần Thơ, giáo sư Phạm Hoàng Hộ có bằng Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực Vật học, Paris; bằng Cao học Vạn Vật học, Paris; bằng Thạc sĩ/Agrégé Vạn vật học; bằng Tiến sĩ Khoa học/Vạn vật học, Paris. Giáo sư Hộ từng là giám đốc Hải học viện Nha Trang; Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn; Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục; Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ… Ông cũng là Hội viên Hội Thực vật học Pháp; Hội viện Hội Tảo học Quốc tế; Hội viện Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế; Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Quốc Tế Sông Mekong… Giáo sư Hộ chính là người vận động cho bằng được việc thành lập ngôi trường đại học đầu tiên ở miền Tây vào giữa thập niên 1960. Đó là Viện Đại học Cần Thơ, nơi canh nông trở thành môn khoa học chính quy được đào tạo như một chuyên ngành đại học. Sau 9 năm sống dưới chế độ mới, giáo sư Hộ, từ khát vọng, trở nên thất vọng. Môi trường giáo dục bị thay đổi hoàn toàn. Nó bị cào xé rách nát để thay bằng chiếc áo thô đính băng đỏ. Ý nghĩa và triết lý giáo dục khai phóng bị vất xó. Theo lời kể của bác sĩ Ngô Thế Vinh, năm 1977, giáo sư Hộ phải học lớp chính trị 18 tháng về “chủ nghĩa xã hội khoa học”. Không chấp nhận chương trình giáo dục bị “đảng hóa”, giáo sư Hộ phản đối quyết liệt. Cuối cùng, năm 1984, khi được Chính phủ Pháp mời sang thỉnh giảng, giáo sư Hộ quyết định ở lại Paris. Tại Pháp, ông vùi mình vào Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris (thuộc hệ thống Đại học Sorbonne), miệt mài làm việc suốt sáu năm, bổ túc cho công trình Cây Cỏ Việt Nam của ông – một công trình đồ sộ có giá trị đến mức giới thực vật học thế giới phải nghiêng mình ngưỡng mộ. Nhắc đến giáo sư Hộ, không thể không nhắc đến giáo sư Nguyễn Duy Xuân. Không như giáo sư Hộ, giáo sư Xuân có số phận cay nghiệt gấp nhiều lần. Từng được giáo sư Hộ mời về Viện Đại học Cần Thơ thay mình ở ghế viện trưởng, giáo sư Xuân tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Đại học Vanderbilt-Hoa Kỳ. Giáo sư Xuân cũng là vị Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Một bài báo trên Thanh Niên (28-4-2015) nhắc lại: “Theo giáo sư Võ Tòng Xuân, trước ngày 30-4-1975, những người nào có chức sắc ở Viện Đại học Cần Thơ đều được cấp một tấm giấy coi như giấy thông hành để ra nước ngoài khi có biến cố. Với chức vụ tương đương bộ trưởng, giáo sư Nguyễn Duy Xuân có thể ra nước ngoài bất cứ lúc nào nếu muốn nhưng ông vẫn ở lại Việt Nam”. Không chỉ không được trọng vọng, giáo sư Xuân còn bị tống đi tù, bị giam tại trại Hà-Nam-Ninh. Cuối cùng, năm 1986, giáo sư Xuân bỏ mạng chốn thâm sơn cùng cốc. Nhắc lại điều này, bác sĩ Ngô Thế Vinh không giấu được chua xót: “Tôi không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đọa độc ác và vô ích của những người cộng sản thắng cuộc, nếu giáo sư Nguyễn Duy Xuân, một tiến sĩ kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước, vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975 thì không biết Viện Đại học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ phát triển và tiến xa tới đâu”… (Ảnh: Uyên Nguyên) Sẽ phát triển và tiến xa tới đâu, nếu Việt Nam sau 1975 trân trọng trí tuệ và tài năng của các trí thức như giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân, giáo sư Lê Xuân Khoa, cụ Bùi Diễm, bác sĩ Ngô Thế Vinh, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, ông Đỗ Văn Thảo (cựu Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia; bị đi “cải tạo”), giáo sư Vũ Quốc Thông (Khoa trưởng Đại học Luật khoa Sài Gòn, cũng bị đi tù)?… Sẽ còn phát triển và tiến xa tới đâu, nếu chế độ đang cai trị – luôn dễ bị “kích động” một cách thái quá cái gọi là “tự hào dân tộc” – biết dùng hiền tài, để sự tự hào có phần đóng góp của những trí thức đỉnh cao và trí thức đúng nghĩa? Trí thức chân chính là những người không chỉ “thể hiện” lòng yêu nước bằng ngôn từ. Họ là những người không bao giờ ngưng bồn chồn lo lắng cho sự tụt hậu nước nhà cùng sự lấn át ngoại bang. Trong bài viết trên tờ Một Thế Giới ngày 2-2-2017, tác giả Lê Học Lãnh Vân thuật lại tâm sự của giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong một lần gặp ông tại Pháp giữa thập niên 1980: “Nhiều người Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp!”… Bác sĩ Ngô Thế Vinh (Ảnh: Quảng Pháp) Cách đây hai năm, khi nghe giáo sư Lê Xuân Khoa vừa trải qua ca phẫu thuật ngặt nghèo, tôi đã vào viện thăm. Ông nằm giữa đống dây nhợ gắn quanh gần như kín người. Không thể nói vì miệng mũi còn vướng ống, ông ra hiệu cho cô con gái lấy tấm bảng. Ông viết, chỉ một câu, nhưng nghe nặng trịch, mỗi chữ như một nhát búa: “Tôi lo mất nước về tay Tàu rồi”. Và ông rươm rướm. Nằm trên giường bệnh, thập tử nhất sinh, ông chẳng nghĩ gì khác ngoài quê hương. Ông không lo gì khác ngoài cái lo “mất nước”, về sự lệ thuộc gần như toàn diện của Việt Nam với Trung Quốc. Bao nhiêu người trong hệ thống lãnh đạo Việt Nam hiện tại có thể bị đánh thức lòng tự ti dân tộc bởi nhát búa lương tri của một vị trí thức gần 90 tuổi như giáo sư Lê Xuân Khoa? Chưa ai thống kê cho thấy hiện có bao nhiêu trí thức kiều bào vang danh nước ngoài nhưng không được mời về hoặc họ không buồn về. Thậm chí có những người bị cấm về, dù hệ thống tuyên truyền chế độ luôn ra rả về sự “trân trọng đón chào” trí thức hải ngoại. Một số trí thức đã quyết định không về. Họ không tin và họ có đủ bằng chứng để không tin nhà cầm quyền. Khi những Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Chu Hảo… còn là “thành phần phản động” thì không ai còn ngây thơ để ngộ nhận sự “thành thật” của nhà cầm quyền đối với trí thức. 45 năm sau 1975, chế độ cai trị vẫn tiếp tục chính sách “triệt người”, “triệt” cả chính người của họ. Trí thức muốn đóng góp và xây dựng nhằm thay đổi chính sách đã và sẽ không có cơ hội. Một trong những trí thức mà khi tiếp xúc, tôi luôn nhìn thấy sự nhiệt tình dữ dội của ông dành cho nước nhà. Nói chuyện với ông có cảm giác như đang ngồi trước một sinh viên tràn đầy nhiệt huyết, dù ông đã gần 80 tuổi. Đó là bác sĩ Ngô Thế Vinh. Ông là một trong những người Việt Nam luôn nặng tình với miền Tây, với đồng bằng sông Cửu Long, một cách bền bỉ, dù quê quán ông ở Hà Nội. Ông là tác giả quyển khảo cứu Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng. Ông cũng là tác giả quyển Mekong, dòng sông nghẽn mạch… Việt Nam không chỉ có dòng Mekong nghẽn mạch. Việt Nam đang bị nghẽn cả dòng trí tuệ của các bậc trí thức minh tuệ-hùng tâm.
|
|
|
Post by Huu Le on May 1, 2020 4:49:46 GMT 9
THÁI BÁ TÂN VÀ HỘI CHỨNG STOCKHOLMchepsuvietblog.blogspot.com/2016/09/thai-ba-tan-va-hoi-chung-stockholm.htmlPhó Giáo Sư, Tiến Sỹ NGUYỄN VĂN ĐỆ, Hiệu Trưởng Đại Học Đồng Tháp Chuyển Tin – ĐÀN CHIM VIỆT: Thơ năm chữ, còn gọi là thơ Ngũ Ngôn, một dạng biến thể của thơ Đường luật, gồm có Ngũ ngôn Tứ cú (5 chữ, 4 câu), Ngũ ngôn Bát cú (5 chữ, 8 câu) và Ngũ ngôn Trường thiên (5 chữ, dài hơn 16 câu). Đại diện cho thể thơ Ngũ ngôn Trường thiên được nhiều người biết đến là nhà thơ Thái Bá Tân với những bài thơ diễn tả thực trạng chế độ, xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của đảng CS. Ngoài những bài thơ ngắn, nhà thơ Thái Bá Tân có một bài thơ 5 chữ, dài 392 câu, đăng trên trang mạng Tinh Hoa, có tựa đề: “Thơ 5 chữ” Thái Bá Tân và mong muốn xã hội Việt Nam nhìn lại chính mình. Nội dung bài thơ chê văn hóa Tầu, đề cao văn hóa phương tây, đặc biệt là Mỹ.
Những bài thơ này nhanh chóng lan truyền trong nước cũng như hải ngoại vì dễ đọc, dễ nhớ, lại diễn tả đúng tình trạng suy đồi văn hóa, kinh tế, an ninh, xã hội, cũng như về ngoại giao, quốc phòng ở Việt Nam. Có lẽ vì thế mà nhà thơ Thái Bá Tân nổi tiếng trong giới tranh đấu, trở thành một nhà thơ phản kháng chế độ. Có một điểm đặc biêt nhiều người không nhận ra, có thể do không để ý, đó là những bài thơ của Thái Bá Tân dù phê phán, chỉ trích chế độ cai trị, chỉ trích đảng CSVN nặng nề, nhưng tác giả không hề bị công an hăm dọa, thẩm vấn hay giam giữ, điều tra…, chỉ có một số dư luận viên hoặc bồi bút của chế độ viết bài đả kích, chửi bới, vu khống. So sánh mức độ đã kích, phê bình trong các bài thơ của Thái Bá Tân với bài thơ Đất Nước Mình Ngộ Quá Phải Không Anh của cô giáo Trần Thị Lam, trường Trung học PT Hà Tĩnh, thơ của Thái Bá Tân có lời lẽ mạnh mẽ hơn, tác động rõ ràng đến tư duy người khác nhiều hơn, ảnh hưởng qua đó cũng nghiêm trọng hơn nhưng Thái Bá Tân chưa hề bị công an bắt giữ, điều tra hay bị côn đồ hành hung, hăm dọa trong lúc Trần Thị Lam bị công an mời lên thẩm vấn, đe dọa, suýt bị mất việc. Cho đến khi Thái Bá Tân bất ngờ phổ biến trên facebook một bài thơ ca tụng đảng, ca tụng chế độ, lãnh đạo liêm khiết… có tựa Đôi Lời. Bài thơ gần như gián tiếp phủ nhận tất cả những gì Thái Bá Tân đã viết, phổ biến, làm nhiều người chưng hửng, ngơ ngác, không tin đó là thơ Thái Bá Tân. Có lẽ cảm thấy bài thơ Đôi Lời chưa đủ sức phá vỡ ấn tượng của cộng đồng mạng, Thái Bá Tân bắn thêm một viên đạn… đại bác 130 ly nữa bằng bài thơ Ghi Nhận. Đúng với tựa dề, nội dung bài thơ này “ghi nhận công ơn” của ĐCSVN đã đem đến cho Thái Bá Tân cùng gia đình hạnh phúc đang có. Nhiều người cho rằng Thái Bá Tân bị áp lực của công an hay ban tuyên giáo nên phải làm 2 bài thơ nói trên. Tuy nhiên sau đó, Thái Bá Tân phủ nhận chuyện bị công an đe dọa hay sách nhiễu bằng một bài viết cải chính: Thông Điệp Hôm Nay. Chuyện Thái Bá Tân đột ngột đổi hướng 180° thật ra không lạ, nếu mọi người hiểu được đó chỉ là hội chứng Stockholm (Stockholm syndrome). Hội chứng Stockholm là gì? Khái niệm về Hội chứng Stockholme (Stockholm syndrome) được hiểu như một trạng thái tâm lý, không phải là một căn bệnh về tinh thần hay thể chất rõ rệt với những triệu chứng khác thường. Hội chứng này lần đầu tiên được biết đến vào năm 1973, nơi xẩy ra vụ bắt giữ con tin tại một nhà băng chuyên về tín dụng (Credit Bank) ở thủ đô Stockholm, Thụy Điển. Sự việc bắt đầu khi Jan Erik Olsson, một tù nhân đang trốn thoát đã xâm nhập vào nhà băng Norrmalmstorg ở Stockholm, Thụy Điển. Cảnh sát được gọi tới và sau một cuôc chạm súng ngắn ngủi, một trong hai cảnh sát chạy đến đầu tiên đã bị thương. Sau đó, Olsson bắt giữ 4 con tin là Birgitta Lundblad, Elisabeth Oldgren, Kristin Enmark và Sven Säfström và đưa ra những yêu cầu như sau: 1. Chính phủ Thụy Điển phải thả tội phạm đang bị giam trong nhà tù nổi tiếng là Clark Olofsson, đưa đến nhà băng gặp Olsson. 2. Trả cho Olsson 3.000.000 Krone (300.000 USD) 3. Đem đến 2 khẩu súng, áo giáp chống đạn, nón an toàn và một xe hơi để di chuyển. Sau khi Clark Olofsson được đưa đến nhà băng thì Olsson cùng với Olofsson lập một hàng rào phòng thủ với 4 con tin trong tay. Vụ bắt giữ con tin kéo dài 5 ngày, từ 23 tới 28.08.1973. Trong lúc điều đình câu giờ, cảnh sát khoan được một lỗ trên mái của nhà băng, đưa camera đến theo dõi được mọi diễn tiến bên trong vào ngày 26.08. Sau đó họ quyết định dùng hơi ngạt làm bất tỉnh 2 tên tội phạm, và đưa con tin qua lỗ hổng khoan trên mái. Việc giải thoát con tin chấm dứt một cách êm thắm, không có thiệt hại nhân mạng. Olsson bị kết án 10 năm tù, nhưng chỉ ở tù 8 năm thì được ân xá. Clark Olofsson lúc đầu bị kết án 6 năm nhưng sau đó tha bổng vì hoàn toàn thụ động trong vụ bắt giữ tù nhân ngoài ý muốn. Điều cần nói ở đây là thái độ của con tin trong thời gian 5 ngày bị bắt giữ. Qua những giao tiếp với kẻ bắt giữ mình như xin phép đi vệ sinh, tiếp tế thực phẩm, ăn uống… các con tin đã không sợ hãi Olsson và Olofsson bằng sợ cảnh sát tấn công vào nhà băng giải thoát cho họ. Những giao tiếp gần gũi đã khiến cho các con tin sau đó đã bày tỏ nhiều thiện cảm với kẻ bắt giữ. Họ cám ơn Olsson và Olofsson đã buông tha họ, đến thăm hai người này trong nhà giam, kêu gọi chính quyền khoan dung 2 tội phạm này… Nhưng sự thật như thế nào? Phải chăng vì thời gian án binh bất động, kéo dài thương thuyết, đã khiến cho những nhượng bộ nhỏ nhoi của kẻ bắt giữ đối với con tin như nới lỏng dây trói, cho đi làm vệ sinh, cho thêm một ít thức ăn, nước uống… trở thành những ân huệ to lớn, đáng quý, khiến cho các con tin cảm thấy gần gũi, thân cận với kẻ bắt giữ hơn là với cảnh sát? Lý do nào các con tin quên đi sự hành hạ thể xác, kềm kẹp tinh thần, không khí trấn áp trong những ngày bị giam giữ để trở nên thân thiện với kẻ bắt giữ mình? Các nhà tâm lý học đã gọi đó là hội chứng Stockholm. Thay vì cám ơn cảnh sát đã làm đủ mọi cách để giải cứu họ, các con tin đã cám ơn, bày tỏ cảm tình với kẻ bắt giữ, đầy đọa mình hơn 5 ngày. Có thể nói không sợ sai lầm rằng, đa số người Việt Nam có nguồn gốc là khách thợ, du sinh ở các nước Đông Âu cũ, ra đi từ miền Bắc XHCN, sau khi bức tường Berlin sụp đổ, được chính phủ Đức, Ba Lan, Tiệp… cho ở lại đều mắc phải hội chứng Stockholm. Nói thế không có nghĩa là tất cả những người miền Bắc đều mắc hội chứng Stockholm hoặc người miền Nam thì được miễn nhiễm. Sinh ra, lớn lên và được đào tạo trong môi trường xã hội chủ nghĩa, những người này có thể là dân vượt biên Hải Phòng, dân đi lao động bên Đông Đức, Tiệp-Khắc, Liên xô cũ… nay được ở lại làm ăn, sinh sống luôn nơi xứ người, có đời sống yên ổn, khá giả hơn nhiều người dân khốn khổ trong nước. Nhiều người trong số này, dù hiện nay được sống trong chế độ dân chủ tự do như ở Đức, Ba Lan, Tiệp-Khắc (nay chia thành 2 nước Tiệp – Czech và Khắc – Slovakia)… nhưng suy nghĩ của họ về đảng cộng sản VN, về chế độ xã hội chủ nghĩa không hề thay đổi. Sống một thời gian dài mấy chục năm trong một chế độ sắt máu, lấy tuyên truyền dối trá và bạo lực làm phương tiện cai trị, tinh thần bị kềm kẹp, lèo lái… đầu óc họ trì trệ trong suy nghĩ, phán đoán, trẻ cũng như già, có học cũng như ít học. Họ không tìm hiểu, suy nghĩ nguyên nhân nào họ phải xa xứ, phải chạy chọt, luồn lọt, xin xỏ, tốn kém, mắc nợ… để được ra nước ngoài làm việc, rồi khi bức tường Berlin sụp đổ họ đã khốn đốn trong một thời gian dài, nhiều người cả chục năm không có nghề nghiệp, việc làm, nơi cư trú ổn định, sống lây lất, chùm đụp với nhau trong những căn hộ chung cư tối tăm, chật hẹp nằm trong các chúng cư… Chính phủ Đức (*), Ba Lan, Tiệp-Khắc… với những quyết định sáng suốt, khôn ngoan, những chính sách đúng đắn, kịp thời đã giúp họ có lại cuộc sống bình yên. Trong số những người đó, có nhiều người khá giả, đời sống vật chất hầu hết đã ổn định, không còn thiếu thốn, khốn khổ, nhọc nhằn như ở quê nhà, không còn sự quấy nhiễu, vòi vĩnh quà cáp, tiền bạc, được tự do bày tỏ tư tưởng, chính kiến mà không sợ bị trả thù, trù ẻo, bầm dập. Qua tiếp xúc, nói chuyện với họ, người ta có thể thấy ngay, thay vì cám ơn chính phủ và người dân Đức, Ba Lan, Tiệp… họ chỉ cám ơn chế độ Hà Nội và đảng cộng sản Việt Nam đã cho họ cuộc đời hôm nay qua chính sách cho ra nước ngoài làm lao động thuê. Hơn 25 năm sau, hội chứng Stockholm ở những người này chẳng những không hề thuyên giảm mà còn có triệu chứng nặng hơn. Họ vẫn tiếp tục ca tụng đảng cộng sản, ca tụng ông Hồ chí Minh, vẫn ước mong sự tồn tại, lãnh đạo của đảng CSVN kéo dài vĩnh viễn cho dù mỗi khi cần đến giấy tờ hộ tịch, hoặc có việc liên quan đến tòa đại sứ, phải đến lãnh sự quán cộng sản Việt Nam, họ vẫn gặp khó khăn, phiền phức, bị hạch hỏi, làm khó dễ hay phải trả nhiều khoản tiền lệ phí quái đản cho những dịch vụ ma quỷ. Mỗi khi về Việt Nam họ lại bị xét hỏi, phải quà cáp cho công an, bị theo dõi ngấm ngầm… Cho rằng đó là thói quen, do tuyên truyền đã ăn sâu vào trong tiềm thức, tim óc của họ là không đúng, bởi thế giới ngày hôm nay với thông tin bùng nổ qua internet, smartphone… ai cũng có thể truy cập, tìm hiểu, kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng. Người viết bài này cũng đã gặp nhiều người miền Bắc có bằng kỹ sư, tiến sĩ (thật sự) tốt nghiệp ở nước ngoài. Mỗi khi nói về Việt Nam, họ gân cổ lên, tìm mọi cách bênh vực cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam do ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản VN khởi xướng, đồng thời lên án Mỹ là đế quốc thực dân mới. Nói đến tình trạng tụt hậu, sự tham nhũng, hối lộ, rút ruột công trình, bán đất, bán biển, sự tàn ác, hoành hành của công an, sự hèn hạ của lãnh đạo trước thái độ hung hăng, hiếu chiến của Tầu cộng… họ luôn có đầy đủ lý lẽ để bào chữa. Khi đưa ra những dữ kiện, những bài báo, hình ảnh, tin tức quốc tế không thể chối cãi được, thì họ chế nhạo, cho rằng báo chí truyền thông phương tây cũng nói láo như báo chí Việt Nam. Hiểu được nguyên nhân hội chứng này thì sẽ đánh giá thái độ của Thái Bá Tân là bình thường, nó chỉ khác các nạn nhân ở nhà băng Norrmalmstorg một điều: Thái Bá Tân lúc đầu ra vẻ lên án, chán ngán chế độ CS để thu hút người đọc trong một thời gian dài, sau đó mới thay đổi thái độ. Để kết luận, cách hành xử của Thái Bá Tân chỉ nằm ở một trong hai trường hợp sau: 1. Thái Bá Tân thật sư bị hội chứng Stockholm nhưng khôn ngoan hơn người khác. Cố gắng tạo cho mình thương hiệu, một vùng ảnh hưởng với những bài thơ phản kháng, sau đó mới quyết định phản công. Đây là một thủ đoạn cực kỳ thâm độc, có tính toán kỹ lưỡng từng bước. 2. Thái Bá Tân bị công an hăm dọa hành hung, giết hay gia đình sẽ bị hãm hại từ lâu nhưng không dám nói ra. Đến thời điểm này vì sức ép quá mạnh nên buộc lòng phủ nhận tất cả những gì mình đã viết, đồng thời tỏ vẻ ăn năn, hối lổi, đoái công chuộc tội bằng hai bài thơ Đôi Lời, Ghi Nhận và cuối cùng chấm dứt nghiệp thơ ngũ ngôn của mình bằng bài viết Thông Điệp Hôm Nay. Dù nằm ở trường hợp nào thì Thái Bá Tân cũng đã tự mình phủ nhận tư cách, nhân phẩm cũng như chỗ đứng của mình trong lòng dân tộc đã xây dựng trong nhiều năm qua. Bởi khi đã dấn thân, lên tiếng phản đối chế độ thì phải chấp nhận hi sinh, chấp nhận hậu quả xẩy đến cho mình hoặc cho gia đình. Còn nếu vừa đé…o vừa run thì nên im lặng từ đầu. Hơn thế nữa, nếu chỉ nhận định hời hợt, sẽ không thấy được sự tác hại trong hành động của Thái Bá Tân, và nếu chịu khó suy nghĩ sâu xa, người ta sẽ thấy ảnh hưởng trong vụ Thái Bá Tân sẽ lan rất rộng. Những người tranh đấu cho tự do, dân chủ, cho dân oan, công đoàn độc lập…, nói chung là các phong trào xã hội dân sự sẽ dấy lên những sự nghi ngờ, đố kị lẫn nhau. Nhiều người sẽ đặt câu hỏi: Ai là người thật tâm trong tranh đấu? Những người đang có những phát biểu nẩy lửa, những hành động, lời nói mạnh mẽ đối lập với chế độ CS, bao giờ sẽ trở cờ? Từ đó đưa đến thái độ nghị kị, dè chừng, đề phòng lẫn nhau, làm giảm đi sức mạnh của phong trào, tổ chức. Đó mới là điều đáng nói và đáng sợ. ĐÀN CHIM VIỆT
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2022 9:37:43 GMT 9
MẶT THẬT CỦA AI ? (Nguyễn Gia Kiểng)
Ông Bùi Tín sinh ra trong một gia đình Nho Giáo truyền thống. Thân sinh ông là Bùi Bằng Đoàn, làm thượng thư (bộ trưởng) trong triều đình Huế. Cách mạng tháng 8 bùng ra lúc cậu Bùi Đường Ấm, sau này đổi tên là Bùi Tín, mới vừa 19 tuổi. Ông Bùi Bằng Đoàn, nổi tiếng thanh liêm và học giỏi, trở thành chủ tịch quốc hội đầu tiên của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một chức vụ hữu danh vô thực. Ông Bùi Bằng Đoàn chỉ ở đó để đem lại cho chính phủ Hồ Chí Minh một bộ mặt trí thức và đoàn kết dân tộc. Ông Bùi Bằng Đoàn tham gia chính quyền Việt Minh vì sợ hơn là vì nhiệt tình. Ông Phạm Quỳnh, thủ tướng Nam Triều, đã bị giết, như nhiều quan chức triều đình Huế khác. Nhưng nếu ông Bùi Bằng Đoàn chỉ theo Việt Minh vì sợ thì cậu ấm Bùi Tín lại theo vì lý tưởng. Cậu hăng say theo cách mạng mùa thu, đi bộ đội, tham dự nhiều trận đánh, từng bị thương và sau cùng được sử dụng ngay trong sở trưởng của cậu : nghề viết báo. Bùi Tín trở thành đại tá phó tổng biên tập tờ Nhân Dân, cơ quan trung ương của đảng cộng sản Việt Nam. Chức vụ này rất lớn, bởi vì tuyên truyền là công tác trọng yếu hàng đầu của chính quyền cộng sản. Tờ Nhân Dân quan trọng hơn nhiều so với một bộ, nó được tổ chức như một chính phủ trong một chính phủ, với tất cả các ban tương ứng với các bộ : ban quốc phòng, ban quốc tế, ban nông nghiệp, ban công nghiệp, ban văn hóa, xã hội, v.v... Vị thế của Bùi Tín cao hơn một thứ trưởng, vai trò của ông đặc biệt quan trọng. Bùi Tín là thành viên của phái đoàn cộng sản trong hội nghị bốn bên tại Tân Sơn Nhất. Do một sự tình cờ Bùi Tín cũng là người đại diện cho phe cộng sản nhận sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh sáng ngày 30/4/1975. Nhưng năm 1990, trong một chuyến công du sang Pháp Bùi Tín lấy quyết định xin tị nạn chính trị. Từ đó Bùi Tín đã viết rất nhiều bài báo, trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, tố giác chế độ cộng sản và vận động cho dân chủ đa nguyên. Bùi Tín cũng viết một số sách thuật lại những gì mà ông đã thấy trong một cương vị đặc biệt thuận lợi để quan sát chế độ cộng sản từ bên trong. Trong cuốn Mặt Thật, cuốn sách gây sôi nổi nhất của ông, Bùi Tín mô tả chiến dịch cải cách ruộng đất được chính phủ Hồ Chí Minh phát động năm 1955, trong đó hàng ngàn, hàng vạn người bị giết oan. Bùi Tín kể : Các cố vấn Trung Quốc ngồi ưỡn bụng ra, để chân lên bàn uống rượu Mao Đài, vừa "nhổ nước bọt ồn ào", vừa dạy dỗ các học trò dễ bảo Trường Chinh (tổng bí thư đảng cộng sản), Hoàng Quốc Việt (ủy viên bộ chính trị, sau đó là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc), v.v... về cải cách điền địa. Họ ra lệnh giết bà Nguyễn Thị Năm, người đã từng ủng hộ Việt Minh từ năm 1937, đã từng che chở và nuôi dưỡng chính các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và có con đang làm chính ủy trung đoàn. Ông Hồ Chí Minh được tin la lên là không thể giết một phụ nữ, một ân nhân cách mạng, một người mẹ của một anh hùng quân đội. Nhưng các cố vấn Trung Quốc bảo là đã quá trễ, mọi việc đã chuẩn bị xong. Ông Hồ Chí Minh im mồm, và bà Năm bị bắn. Phong cách của ông Hồ Chí Minh là thế. Còn các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt thì không biết phải gọi là hạng người gì. Ông Phạm Văn Đồng thấy các bộ trưởng, thứ trưởng của mình bị vu oan, bị thanh trừng, bị bỏ tù, không dám lên tiếng bênh vực. Sau khi nghỉ hưu dù đã ngoài tám mươi tuổi, ông còn cố bám lấy hư vị "cố vấn" để giữ lợi lộc. Ông Lê Đức Thọ là một con người nham hiểm, dùng đủ mọi thủ đoạn nhơ bẩn và độc ác để triệt hạ các đồng chí cũ của ông. Ông Lê Duẩn là một thứ ếch ngồi đáy giếng, vừa thiển cận, vừa lỗ mãng, vừa tự cao tự đại. Các ông tướng Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, v.v... đều thiếu văn hóa, nông cạn và cực đoan. Riêng ông Nguyễn Chí Thanh thì còn hèn nhát, lúc bị mật thám Pháp bắt đã khai nhiều bí mật gây thiệt hại nặng cho đảng rồi đổ tội cho người đồng chí cùng bị bắt với mình là Đặng Xuân Thiều làm ông này bị trù dập hơn ba mươi năm cho đến lúc về hưu. Còn ông Đỗ Mười ? Ông là thợ sửa khóa, nhận thức chính trị sơ sài và lại mắc bệnh tâm thần, ban đêm leo lên cây bàng ngồi ngất ngư. Ngòi bút Bùi Tín mô tả các lãnh tụ cộng sản một cách tàn nhẫn. Tàn nhẫn vì Bùi Tín chỉ kể lại mà không phê phán. Tay nghề bốn mươi năm cầm bút của Bùi Tín là ở chỗ đó. Mặt Thật là một cuốn sách hay, một tài liệu lịch sử thành công về diễn đạt và có giá trị văn học. Một cuốn sách cần đọc. Tôn Thất Thiện trong một lá thư cho tôi nói rằng đọc xong ông phải kinh phục (kinh không có dấu sắc) tác giả. Nhưng nếu như vậy thì phải đặt ra một số câu hỏi. Tại sao những con người như vậy lại có thể khuất phục được cả một dân tộc ? Tại sao hàng ngàn, hàng vạn trí thức lỗi lạc đã phục tùng họ một cách ngoan ngoãn, và còn hết lời tâng bốc họ, làm biết bao nhiêu người khác tưởng họ là những thần tượng và chạy theo họ ? Chính Bùi Tín, tác giả cuốn Mặt Thật, trong bao nhiêu năm làm "đại tá - nhà văn - nhà báo" cũng đã tô son điểm phấn một cách đắc lực cho cái chế độ mà ngày nay ông muốn lột trần bộ mặt thật. Không lẽ trong cả mấy chục năm trường những trí thức xuất sắc như thế lại không nhận ra thực chất tồi tệ của những người lãnh đạo cộng sản ? Tại sao họ đã tự lừa dối lương tâm mình và đóng góp lường gạt cả một dân tộc ? Người trí thức cộng sản không thể trả lời được những câu hỏi gay gắt đó, nhưng họ có thể hỏi ngược lại những người chất vấn họ những câu hỏi không kém nhức nhối. Bởi vì đa số - dù không phải là tất cả - những trí thức không cộng sản cũng đã phục tùng những công cụ chẳng ra gì của ngoại bang. Những trí thức quốc gia cũng đã đem hết tâm huyết hô hào biết bao nhiêu thanh niên bỏ mình cho một lý tưởng dân chủ không hề làm bận tâm ông Diệm, ông Nhu, hay cho một "chính nghĩa quốc gia" không hề có trong đầu óc các ông Big Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều trí thức khác đã tự đặt mình ra ngoài lề lịch sử, tự cắt bỏ khỏi số phận đất nước, đào nhiệm và cầu an. Cuối cùng đất nước như ngày hôm nay, sau tất cả những gì đã xảy ra. Vai trò của người trí thức Việt Nam - cộng sản và không cộng sản - thật là bẽ bàng. Công bình mà nói cũng có những trí thức Việt Nam không làm tay sai cho một bè lũ hay một chế độ gian trá nào mà vẫn phấn đấu, vẫn cố hiện diện trong cuộc vận hành của lịch sử. Nhưng họ đã thất bại. Trí thức Việt Nam đã thất bại hoàn toàn. Đổ lỗi cho nhau, luận tội nhau chỉ là để xem ai tồi hơn ai, có ích lợi gì ? Hơn nữa, lên án và kết tội nhau còn sai vì nói chung trí thức Việt Nam lương thiện, yêu nước và cũng đã hy sinh nhiều. Có một cái gì đó vượt khỏi lô-gích bình thường mà ta cần nhận diện để đừng buộc tội lẫn nhau một cách bất công và vô ích. Có lẽ chúng ta phải tìm giải thích cho sự phá sản này trong lý lịch và trong gia phả của người trí thức Việt Nam chúng ta. Trí thức Việt Nam ngày nay là hậu thân của giai cấp sĩ phu ngày trước. Mối liên hệ phụ-tử vẫn còn rất thắm thiết. Kẻ sĩ vẫn còn là mẫu mực của rất nhiều trí thức Việt Nam. Ngày nay người ta vẫn còn tự hào là có tư cách của kẻ sĩ, người ta vẫn còn khen nhau là có thái độ của kẻ sĩ. Nhưng kẻ sĩ là gì nếu không phải là một mẫu người tồi hèn, vong thân ? Chúng ta vẫn còn là kẻ sĩ, và vì thế vẫn còn mang cái tật nguyền này của kẻ sĩ. Vấn đề là như thế. Người ta có thể hấp thụ mau chóng những kiến thức và những kỹ thuật mới, nhưng từ bỏ một tập quán và một tâm tính đã được nhào nặn qua nhiều thế hệ, đã ăn rễ vào con người và đã biến thành một bản năng, là một điều khó gấp nhiều lần. Hãy thử lấy một thí dụ về trọng lượng của tập quán. Tại sao người Nhật lại lái xe bên tay trái ? Họ có bị người Anh đô hộ bao giờ đâu ? Lý do chỉ giản dị là các hiệp sĩ Nhật quen đi bên trái các hành lang để có thể nhanh chóng rút gươm bằng tay mặt ! Nho Giáo không tạo ra kẻ sĩ để làm một con người tự do, để chịu trách nhiệm trước xã hội và để lãnh đạo xã hội mà chỉ tạo ra kẻ sĩ để làm dụng cụ cho một guồng máy và làm thủ hạ cho các vua chúa. Trong suốt dòng lịch sử, kẻ sĩ Trung Hoa và Việt Nam đều chỉ biết sống với số phận tôi tớ. Sĩ là một nghề, nghề đi học và nghề làm quan. Trước sau là nghề quì. Quì trước mặt thầy để học với ước vọng "thành đạt" để được quì trước các vua chúa. Nếu quì là thái độ của kẻ sĩ thì chờ đợi là triết lý của kẻ sĩ. Thời gian trưởng thành của kẻ sĩ được gọi là thời "chưa gặp" [lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất], gặp một chủ để thờ. Kẻ sĩ không khởi xướng ra một sự nghiệp nào mà chỉ chờ đợi để được làm bầy tôi cho một minh chủ nên hậu quả tất nhiên là kẻ sĩ phải chấp nhận luật chơi sẵn có của kẻ đã làm nên sự nghiệp, đem trí tuệ của mình minh họa cho ý của chủ. Và luật chơi của chủ rất khắc nghiệt. Các vua chúa muốn dùng họ thì dùng, muốn cách chức đuổi đi, muốn căng nọc ra đánh, muốn thiến họ như thiến heo thiến gà, muốn giết họ thì giết, muốn giết cả nhà họ cũng được, kẻ sĩ cam chịu hết. Thân phận kẻ sĩ chẳng có gì vinh, đó chỉ là thân phận của một tôi tớ, một dụng cụ thuộc quyền sử dụng và vứt bỏ tùy tiện của các vua chúa. Cái bản chất dụng cụ và tôi tớ ấy ngay cả những kẻ sĩ lỗi lạc nhất cũng không trút bỏ được. Điều kinh ngạc là trong hàng chục thế kỷ kẻ sĩ đã có thể chấp nhận một khuôn mẫu đầy đọa và hạ nhục mình như thế, để rồi cuối cùng sự phục tùng vô điều kiện trở thành một bản năng và một giá trị. Khổng Minh tài ba như thế mà gặp thời nhiễu nhương cũng chỉ biết ngồi trong lều cỏ để chờ một minh chúa. Nguyễn Trãi là một kẻ sĩ siêu việt cả về văn lẫn võ, lại có cả chí khí hơn người, Lê Lợi là một phú nông cục mịch. Tại sao lại "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần" ? Tấn thảm kịch còn lớn hơn ở chỗ Lê Lợi không có đủ trí tuệ để viết ra câu đó, chính Nguyễn Trãi đã sáng tác ra câu đó. Cao Bá Quát là một kẻ sĩ ưu việt và ngang ngược, dám nổi loạn chống lại nhà Nguyễn. Nhưng Cao Bá Quát không lãnh đạo cuộc nổi dậy mà chỉ phò Lê Duy Cự. Giả thử cuộc nổi dậy thành công thì cũng chỉ để đưa đến kết quả "Lê Duy Cự vi quân, Cao Bá Quát vi thần". Ngay cả khi kẻ sĩ chống lại một ông chủ thì cũng chỉ để hy vọng được phò một ông chủ khác, họ không sinh ra để làm chuœ. Cao Bá Quát thất bại, bị chặt đầu và tru di tam tộc. Nguyễn Trãi thành công, để cũng chỉ được cái vinh dự quì gối trước Lê Lợi, rồi cũng bị chặt đầu và tru di tam tộc. Trong lịch sử Trung Hoa, những kẻ làm nên nghiệp đế vương, dù là Lưu Bang, Hạng Võ, Lý Thế Dân, Triệu Khuông Dận, Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương đều không phải là kẻ sĩ. Họ là hào phú, là các tay anh chị, hay vốn thuộc dòng dõi bá vương. (Tào Tháo là một ngoại lệ, nhưng Tào Tháo bị kẻ sĩ chối bỏ và lên án là gian thần). Trong lịch sử Việt Nam, những kẻ giành được ngôi vua, dù là Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Lê Lợi, Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh đều là quí tộc, võ tướng hay các tay anh chị chứ không phải là kẻ sĩ. (Hồ Quí Ly là một ngoại lệ, nhưng Hồ Quí Ly hành động như vậy vì tự coi mình là người Hoa hơn là người Việt nên coi thường nề nếp Việt Nam ; chiếm được ngôi vua, Hồ Quí Ly đã lập tức đổi tên nước là Đại Ngu theo tên cố quốc của mình). Một thực tế thê thảm như vậy chứng tỏ khuôn mẫu Khổng Nho đã tha hóa kẻ sĩ tới mức nào. Một thực tế bi thảm khác là tất cả những tiến bộ về tư tưởng của Trung Hoa đã chỉ có trước khi Khổng Giáo được đưa lên hàng một quốc giáo. Hơn hai ngàn năm ngự trị của khuôn mẫu Khổng Giáo đã làm tê liệt hẳn óc sáng tạo. Các hậu quả vẫn còn thấy được : nhiều nước châu Á, nhờ không chịu ảnh hưởng Khổng Giáo một cách quá nặng nề, ngày nay đã rất phát triển, nhưng người châu Á vẫn hầu như vắng mặt trong các giải Nobel, họ vẫn thua xa người phương Tây về óc sáng tạo trong mọi địa hạt. Trong xã hội Khổng Nho, kẻ sĩ không hội nhập vào xã hội. Lúc hàn vi kẻ sĩ sống qua ngày, đợi cơ hội làm quan. Lúc được làm quan kẻ sĩ trở thành những tay sai không điều kiện cho các vua chúa để thống trị quần chúng. Kẻ sĩ được vua chúa xếp hàng đầu trên nông, công, thương, nhưng thực ra kẻ sĩ bị loại khỏi xã hội. Một điều rất đáng chú ý là trong xã hội ta ngày xưa kẻ sĩ hoàn toàn vắng mặt trong các chức quyền địa phương xuất phát từ dân gian như chánh tổng và lý trưởng, những chức vụ đã có thể là những bàn đạp để tiến lên quyền lực quốc gia. Kẻ sĩ không có hậu thuẫn quần chúng vì sống ngoài lề xã hội. Kẻ sĩ cũng không có tài sản vì không biết và cũng không muốn kinh doanh buôn bán, không những thế kẻ sĩ còn được giáo dục và nhồi nặn để khinh thường và thù ghét hoạt động kinh doanh, buôn bán. Phi thương bất phú, kẻ sĩ không có độc lập về kinh tế cho nên cũng không có thể có tự chủ về chính trị. Tại sao lại "Nguyễn Trãi vi thần" ? Bởi vì không muốn "vi thần" cũng không được. Nguyễn Trãi không có thủ túc và cũng không có tài sản để phất cờ khởi nghĩa. Kẻ sĩ trong khuôn mẫu Khổng Nho là mẫu người lệ thuộc vào vua chúa và cuối cùng chịu ơn vua chúa. Quyền lực quốc gia chỉ truyền tay giữa một bên là các vua chúa và một bên là đám anh hùng áo vải, những người không chịu ơn vua chúa và do đó dám thách thức vua chúa. Tình trạng vong thân kéo dài từ đời này sang đời khác đã khiến kẻ sĩ mất hẳn lòng tự tin. Tuy bề ngoài có khi kẻ sĩ huênh hoang "có giang sơn thì sĩ đã có tên, từ Chu Hán vốn sĩ này là quí" [Nguyễn Công Trứ], nhưng trong thâm tâm kẻ sĩ không tin ở mình và cũng không tin ở cả giai cấp sĩ của mình ; do đó kẻ sĩ không những không dám có ý định dựng nghiệp mà còn không sẵn sàng giúp một kẻ sĩ khác dựng nghiệp. Kẻ sĩ phải làm bầy tôi, nếu từ chối số phận tôi tớ và dám mơ ước làm vua, kẻ sĩ đã vi phạm đạo lý của giai cấp mình và bị lên án là gian thần, thoán nghịch, phản tặc. Nguyễn Hữu Chỉnh coi thường vua Lê chúa Trịnh bất lực và muốn nắm quyền thì đã sao, mà người ta lên án ông là gian hùng và hả hê khi ông bị bốn ngựa xé xác ? Có sử gia nào đủ khách quan để nhận định rằng chính hành động vào Nam liên kết với Tây Sơn của Chỉnh đã mở đầu cho tiến trình thống nhất đất nước ? Luân lý Nho Giáo bắt người có học không được làm chủ mà chỉ được làm tôi cho một ông chủ nào đó, và tệ hơn nữa phải làm tôi suốt đời cho một chủ bởi vì "tôi trung không thờ hai chúa". Kẻ sĩ trong quan niệm Nho Giáo là một kẻ nô lệ chứ không phải là một con người tự do. Do bản năng và địa vị xã hội, kẻ sĩ không dám và không thể, và do đó khiếp phục những kẻ dám và có thể. Bài Bình Ngô Đại Cáo hùng tráng vì Nguyễn Trãi viết cho Lê Lợi chứ không viết cho mình, vì lúc viết Nguyễn Trãi đã tự đặt mình vào địa vị của Lê Lợi, tưởng tượng mình là vua ["Trẫm đây, núi Lam Sơn dấy nghĩa..., một mảnh nhung y dựng nên nghiệp lớn..."]. Tôi nói nhiều về kẻ sĩ như vậy bởi vì cái tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện rất mạnh trong tiềm thức của chúng ta. Di sản nặng nề nhất là triết lý ở ẩn, tránh hiểm nguy và chờ thời. Tâm lý này ngự trị trong đầu óc hầu hết mọi trí thức Việt Nam. Nó cũng ngự trị ngay cả trong đầu óc những người có ý chí nhất, nghĩa là dám hoạt động chính trị. Ở các vị này nó thể hiện qua lối làm chính trị nhân sĩ. Những người trí thức tự cho là mình có một giá trị nào đó - có khi chỉ là do một sự tự đánh giá mình rất chủ quan - thường không chịu tham gia tạo dựng ra một lực lượng chính trị nào và cũng không lên tiếng bênh vực một lập trường nào, ngay cả khi họ thấy là đúng. Họ chỉ muốn là những nhân sĩ đứng ngoài các tổ chức và các cuộc tranh cãi gay go để vừa khỏi tốn công sức vừa khỏi bị cháy. Họ tin rằng một khi họ đã là nhân sĩ thì dù ai nắm được chính quyền cũng vẫn cần họ. Đó là một tính toán mà họ cho là sáng suốt, và quả thực là một chọn lựa sáng suốt khi người ta chỉ có tham vọng làm công cụ. Chính cái thái độ nhân sĩ này, hậu thân của tâm lý kẻ sĩ ngày xưa đã khiến các tổ chức đối lập dân chủ hiện nay không được hưởng ứng và không mạnh lên được trong một giai đoạn đầy thử thách như giai đoạn chúng ta đang sống. Một di sản khác là sự thiếu quyết tâm. Trí thức Việt Nam có nhiều người không thiếu ý kiến nhưng cái quán tính "không dám và không thể" thừa hưởng từ tâm lý kẻ sĩ do hàng ngàn năm uốn nắn này vẫn còn quá mạnh khiến họ do dự bất quyết, sẵn sàng thỏa hiệp và nhượng bộ trước những giải pháp thô bạo trái ngược với nguyện ước của mình, rồi sau cùng đánh mất chính mình. Nhiều trí thức còn thực sự ngưỡng mộ những tay anh chị bởi vì họ ngưỡng mộ cái liều, cái bạo mà họ không có được. Họ bị hớp hồn trước những người có bản năng mạnh và dám làm, bởi vì đó là một phần của chính họ mà họ đã mất đi và vẫn tiếc. Mẫu người kẻ sĩ không phải chỉ còn tồn tại mà còn đang có cơ được hồi sinh. Các chế độ độc tài tại châu Á, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, đang dụng tâm thiết lập một thứ Khổng Giáo Mới làm chỗ dựa cho các chế độ độc tài ngày nay, như Khổng Giáo Cũ đã từng làm nền tảng cho các chế độ quân chủ chuyên chế ngày xưa. Một âm mưu tha hóa trí thức mới đang xuất hiện. Và lần này kẻ sĩ có một cái tên gọi mới : chuyên viên. Ngay trong lúc này đang có nhiều trí thức Việt Nam chủ trương hãy thôi làm chính trị, tạm chấp nhận chế độ này, hợp tác với nó trên các mặt chuyên môn. Họ hy vọng sẽ dần dần dân chủ hóa được chế độ. Nhưng nếu kẻ sĩ ngày trước trong hơn hai ngàn năm không thay đổi được chế độ quân chủ thì trí thức chuyên viên ngày nay dù có bản lĩnh hơn và có bối cảnh thuận lợi hơn cũng không thể thay đổi được chế độ độc tài này trong một hai thế hệ, nếu họ chỉ là những chuyên viên. Hãy coi chừng lịch sử lập lại. Tại sao chủ nghĩa cộng sản bị phủ nhận tại Tây Âu, nơi đã khai sinh ra nó, mà lại thành công tại Trung Hoa, Việt Nam và Triều Tiên ? Tại sao, ngoại trừ hòn đảo Cuba nhỏ bé, chế độ cộng sản chỉ tồn tại được trên ba nước này ? Lý do chính là vì chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện hồi đầu thế kỷ này như là một thứ Khổng Giáo Mới. Có gì khác giữa Khổng Giáo và chủ nghĩa Mác Lênin ? Cũng đặt nền tảng trên bạo lực, cũng độc tài toàn trị, cũng giáo điều, cũng độc tôn, cũng giai cấp, cũng “nhân trị” nghĩa là cai trị một cách tùy tiện bất chấp luật pháp, cũng bưng bít, cũng cấm đoán tư tưởng, cũng bài xích các tôn giáo, cũng triệt hạ kinh doanh, cũng đề cao sự nghèo khổ để cai trị bằng sự nghèo khổ. Cả hai đều là những hệ thống nửa tôn giáo, nửa chính trị. Cả hai đều đưa đến bế tắc và cả hai đều có cùng một biện hộ sau khi đã thất bại : không phải lý thuyết sai mà là áp dụng sai. Chỉ cần lấy Marx và Anghen đặt vào địa vị của Khổng Tử và Mạnh Tử, lấy các cuốn Tư Bản Luận, Lênin Toàn Tập thay cho Tứ Thư và Ngũ Kinh, lấy Trung Ương Đảng thay cho Triều Đình, đem các đảng viên thay cho đám quân tử là đâu lại vào đó. Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản. Chỉ có điểm mới là chủ nghĩa cộng sản tâng bốc quần chúng vô sản mà Khổng Giáo mạt sát, dù chỉ là một sự tâng bốc giả dối. Nếu trước đây Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản thì ngày nay những tồn đọng của tư tưởng Khổng Giáo đang giúp các chế độ này kéo dài. Trích Tổ Quốc Ăn Năn
|
|
|
Post by trandzantieng on Dec 6, 2022 10:50:34 GMT 9
Trần Độ, người của sự thật
( Tướng Trần Độ. Ảnh BBC ) Vũ Thư Hiên Ra tù năm 1976, sau chín năm, qua nhiều trại, tôi bỡ ngỡ, tôi ngu ngơ trước cuộc sống xô bồ. Vắng người đàn ông trụ cột, gia đình tôi rơi xuống đáy vực nghèo khổ. Vợ tôi gày nhom, xanh rớt, mấy đứa con quần áo vá chằng vá đụp. Tôi làm hùng hục mọi việc đến tay, không dể ý đến cái gì khác. Phải hai năm sau tôi mới gặp lại Trần Độ. Tôi không có ý tìm anh. Là phó chính uỷ kiêm phó bí thư quân uỷ Quân Giải phóng Miền Nam, Trần Độ rất bận với công việc tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, viết quân sử vv… Bạn bè cho tôi biết như vậy. Còn một khía cạnh tâm lý khác, ai có qua cầu mới hay. Đó là tôi không muốn gặp các quan chức. Không một tẹo nào. Nhưng rồi Trần Độ tìm tôi. Trong bữa rượu hàn huyên đạm bạc có ba người. Ngoài hai chúng tôi còn có một chị cán bộ trẻ, phụ tá của anh. Trần Độ biết tôi ở tù. Anh nhìn tôi thương hại: – Chín năm! Chắc chú có làm gì sai thì Đảng mới xử nặng đến thế chứ. Tôi sững người. Vậy ra anh chẳng biết gì về cái gọi là vụ án “nhóm xét lại chống đảng” mà tôi bị đính vào. Tôi dùng chữ “đính vào” như nói về một cái khuy áo, trong đó tôi là cái khuy dưới cùng, có cũng được, mất không sao. Mà khốn nạn, có cái nhóm chó nào đâu cơ chứ! Chỉ có những cuộc luận bàn thế sự của mấy cán bộ hoạt động từ hồi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc còn trứng nước với lớp cán bộ trẻ tới sau. Ấy thế mà mấy thằng “lãnh tụ” quen thói nhìn đâu cũng thấy kẻ chống mình phát hoảng, vội vã làm một cuộc bắt bớ đại quy mô. Lê Duẩn, lãnh tụ tối cao tuyên bố: “Kẻ nào không theo ta là chống ta”. Lê Đức Thọ, đầu sai của Lê Duẩn, quăng lưới. Thế là các cán bộ lũ lượt vào tù. Cao nhất là uỷ viên trung ương, thấp nhất là tôi, cán sự 3. Lê Duẩn lúc nói “xử lý nội bộ”, lúc nói cho đi “tập trung cải tạo”. Để tạo ra chính danh cho hành động của mình, anh Ba, anh Sáu (Ba Duẩn, Sáu Thọ tức Sáu Búa) và bộ hạ liền nghĩ ra cho nó một cái tên thật kêu là “Nhóm tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”. Tổng bí thư mất ghế Trường Chinh tuy đã bị gạt ra rìa,cũng nhào vô vỗ tay ké. Bắt cán bộ đảng chưa đủ, Lê Duẩn cho tóm cả người ngoài đảng cho vào một rọ được gọi là “nhóm” đó. Thế là tôi vào tù, Vũ Huy Cương vào tù, Bùi Ngọc Tấn vào tù, cũng một tội “xét lại”. Cả ba đều không phải đảng viên. Tôi dám cá là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ “xét đi” còn chưa thuộc, làm sao biết “xét lại” là cái gì. Vào tù rồi tôi càng tin mình hiểu đúng – cán bộ công an cấp vụ cấp bộ làm cviệc hỏi cung, tên chữ là chấp pháp, cũng chẳng hề đọc Marx. Chủ nghĩa Mác trong họ chỉ gồm mớ kiến thức lẻ tẻ nhặt được từ mấy cuốn mác-xít nhập môn. Tôi ngạc nhiên là phải. Một vụ án lớn, nhiều cán bộ cao cấp bị khai trừ, bị bắt, bị bỏ tù, các cán bộ cao cấp và trung cấp đều được nghe “báo cáo số 1” “báo cáo số 2″… của Sáu Búa Lê Đức Thọ, sao tướng Trần Độ lại không biết? Nghe anh nói thế, tôi nhìn anh trân trân – thì ra ông anh mà tôi kính trọng cũng mù loà như mọi quan chức khác. Với họ, nghị quyết của đảng có giá trị Kinh Thánh. Chả cứ Trần Độ, tới tận năm 1988, tướng Trần Văn Trà cũng chẳng biết gì về vụ bắt bớ này. – Hồi đó tôi đang lo đường vận chuyển vũ khí trên biển – Trần Văn Trà phân trần – Có, tôi có nhận được thông tin của Ban tổ chức Trung ương, nhưng tôi không chú ý. Chúng tôi đang bận tối tăm mặt mũi với việc của mình. Chuyện trong Đảng chia ra nhiều cấp, nhiều đối tượng trong việc được nhận hoặc không được nhận thông tin, tôi biết lắm. Nhưng đến mức những cán bộ cấp tướng mà cũng không được biết về vụ bắt bớ to lớn ấy thì thật lạ. Trần Văn Trà là một tướng cấp tiến. Đó là hồi tờ “Truyền thống Kháng chiến” của “Câu lạc bộ Những Người Kháng Chiến Cũ” mới ra hai số đã bị cấm. Trần Văn Trà kêu tôi tới nhà anh ở đường Nguyễn Thị Minh Khai để bàn chuyện ra một tờ báo độc lập, tiếng nói khác với báo chính thống. Tôi từ chối. Đó là việc làm vô ích. Tờ báo sẽ bị bóp chết từ trong trứng. Khác với Trần Văn Trà, Trần Độ được tôi coi như người anh lớn, vì nhân cách, chứ không vì địa vị. Đáp lại, tôi cười buồn: – Em có nói gì bây giờ anh cũng sẽ nghĩ là em thanh minh. Tốt hơn hết, ta cạn với nhau chén rượu tái ngộ này, kèm theo một giao ước: “Anh sẽ xem xét sự việc bằng con mắt của mình, suy xét bằng cái đầu của mình, để rồi có kết luận”. Em chờ câu trả lời của anh trong một bữa rượu sau. Anh hứa chứ? Anh gật đầu, cạn chén. Trần Độ hơn tôi đúng 10 tuổi. Với anh, tôi là đàn em, không dám lắm lời. Gần một năm sau mới có bữa rượu thứ hai. Tôi nâng ly: – Em lắng nghe câu trả lời của anh. Trần Độ thở dài: – Một lũ chó má! Không thể ngờ. Và văng một câu chửi tục, lần đầu tôi nghe thấy từ miệng anh. Trần Độ rồi còn nhận nhiều chức vụ mới – Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ của Đảng, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, rồi Phó Chủ tịch Quốc Hội. Đã tưởng sau cuộc gặp tôi, nghe tôi kể, anh đã biết tỏng cái đảng của anh nó thế nào, nhưng anh vẫn không từ chối bổng lộc của nó. Tôi không buồn nói chuyện với anh nữa. Tôi chán anh. Trần Độ hoá ra không như tôi nghĩ. Thiên hạ xì xào sự thăng quan tiến chức cho anh về dân sự thực chất là nhằm đưa anh ra khỏi quân đội. Qua những câu nói bị nghe lén mà anh không biết, kèm theo những báo cáo mật được gửi lên, những người cầm trịch quốc gia cảm thấy anh đã xa rời họ, và họ khó chịu. Khó chịu rồi bực tức. Những lời đồn về một Trần Độ ương bướng xúi tổng bí thư Nguyễn Văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, tháo gỡ việc ngăn sông cấm chợ, toa rập với Nguyên Ngọc đưa ra bản “Đề dẫn” ngang ngạnh rõ ràng rời xa đường lối văn nghệ của Đảng vv… Văn Cao chăm chú theo dõi thời cuộc, thở dài: -Trần Độ thẳng quá, hỏng! Cao Biền dậy non. Phí! Tôi đồng ý với Văn Cao. Trần Độ được phong trung tướng cùng lúc với Lê Đức Anh, nhân vật sau này làm mưa làm gió trong chính trựờng. Nếu biết xuôi dòng anh có thể lên cao hơn nữa trong hệ thống quyền lực, hơn đứt Lê Đức Anh. Trần Độ là người nghĩ gì nói nấy, không giữ gìn. Anh không biết lui tới, không biết náu mình chờ thời. Anh hành xử theo lương tâm, cứng đầu trong cuộc đấu tranh cho chân lý. Về mặt này anh giống Hoàng Minh Chính. Cả hai đều có tố chất người lính can trường. Nhưng không có tố chất người làm chính trị. Không ai có thể ngăn Trần Độ. Những phát biểu của anh lúc này lúc khác, chỗ này chỗ nọ tiếp tục làm chối tai các “lãnh tụ”. Mà có phải anh chỉ phê bình sơ sơ những khuyết điểm cục bộ đâu. Từ chỗ nhỏ nhẹ, anh dần nói to, nói trắng ra ý muốn thay thế thể chế hiện tại bằng chế độ dân chủ với tam quyền phân lập… Người khác nói thế đã khó nghe, đàng này lại là người cộng sản từ khi chính quyền còn trứng nước, đang giữ chức vụ cao. Những phát biểu như thế có ảnh hưởng lớn tới quần chúng đảng viên, chưa nói gì tới người ngoài đảng. Một anh bạn công an cấp cao khuyên tôi: – Cậu chớ dây với Trần Độ. Nguy hiểm đấy. Những bài viết của anh, không được đăng báo, nhưng được chuyền tay rộng rãi. Anh nhanh chóng trở thành “tên phản động”. Thời thế đã khác – người ta không thể bỏ tù anh tức khắc. Người ta chỉ có thể dùng đủ mọi cách hạ uy tín của anh. Còn nhớ năm 1997 tôi ở thành phố Strassbourg cùng với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Một hôm, Trần Độ gửi cho tôi bài anh vừa viết, bảo tôi xem lại trước khi anh công bố. Tôi đưa Thiện cùng đọc. Thiện đọc xong, nói anh không hài lòng một số câu chữ trong đó. Tôi bảo Thiện cứ nói thẳng ý kiến của mình khi nói chuyện với Trần Độ. Thiện bốp chát: – Không hiểu sao đến nay anh vẫn còn có thể dùng những từ “giải phóng”, “Mỹ-Nguỵ”. Nó không đúng, không chỉnh, người đọc sẽ khó chịu lắm đấy. Trần Độ cười hề hề: – Do thói quen ấy mà, cậu sửa lại hộ mình. Tôi ngạc nhiên khi đọc ở đâu đó có người viết Trần Độ quan cách, hách dịch. Tôi không hề thấy tính cách ấy ở anh. Rất có thể người nào đó bị anh khinh, không thèm trò chuyện, đã nghĩ thế. Là người trực tính, Trần Độ không biết giấu đi thái độ của mình trong giao thiệp, và chỉ có thế. Năm 2001, trong một cuộc điện đàm với Trần Độ khi tôi đang ở Frankfurt, có mặt một chú em rất hâm mộ bác Độ. Chú nằng nặc đòi tôi cho chú nói với bác Độ vài câu: – Bác ơi, cái đảng của bác sao kỳ quá, ai đời chống tham nhũng mà lại chống từ cấp cơ sở? Quét nhà thì người ta phải quét từ tầng trên xuống tầng dưới chứ! Ai lại đi làm chuyện ngược đời – quét từ dưới lên trên?. Trần Độ cười to: -Hay, chú nói hay lắm. Chỉ sai một chút thôi: cái đảng ấy không phải của tôi. Nó là của một lũ vừa ngu vừa rồ. Này, chú tên gì nhỉ?” – Dạ, cháu tên Cóc, Nguyễn Văn Cóc. Dễ nhớ lắm, bác ạ. Ở Đức này chỉ có mình cháu có cái tên xấu xí ấy thôi. Anh Độ lại cười: – Xấu gì mà xấu, cậu ông Giời nói đúng lắm, cái đảng ấy toàn làm chuyện lộn ngược thôi!. Việc Trần Độ bị khai trừ Đảng năm 1999 mọi người đều biết. Đảng cộng sản vốn không thích vạch áo cho người xem lưng đã kiên nhẫn với Trần Độ lắm rồi, nhịn Trần Độ nhiều lắm rồi. Lẽ ra, không bắt anh bỏ tù thì đảng cũng phải khai trừ anh từ lâu. Anh cười, anh nói anh bị đảng của anh khai trừ là may. Như thế, anh được thừa nhận không phải là người nằm trong “vũng bùn mà cái đảng ấy đang đằm mình một cách ngạo nghễ”. Khai trừ anh, đảng cộng sản thêm một lần không thèm giấu giếm cái hẹp hòi truyền thống – không chịu nghe lời nói ngược. Hành hạ anh cho tới khi chết, cấm người đi đưa tang không được dùng chữ “Vô cùng thương tiếc”, đảng cộng sản càng cho thiên hạ thấy nó tiểu nhân tới mức nào. Đảng của anh căm ghét anh, đuổi anh ra khỏi hàng ngũ. Bù lại, anh được nhân dân đón vào lòng. Anh được rất nhiều, mà không mất gì. Nói cách khác, cái người ta cho là mất chẳng là cái quái gì đối với anh. Khi lâm bệnh, anh không dùng một viên thuốc nào của nhà nước. Có hai người rất sốt sắng lo cho anh có thuốc đủ dùng là Tưởng Năng Tiến và Đinh Quang Anh Thái. Khi anh qua đời, những bọc thuốc cuối cùng vẫn còn ở trên đường. Trần Độ không bao giờ quên nhắn tôi gửi lời cảm ơn hai người bạn thiết anh không biết mặt. Được tin anh mất, tôi không khóc. Nước mắt chảy vào tim. Tôi hiểu rằng mất mát này lớn hơn rất nhiều mất mát cho riêng tôi, đứa em yêu mến và kính trọng anh. Mất mát này là của cả dân tộc đang nhọc nhằn đi tìm quyền sống, quyền làm người. Trong bức thư chót Trần Độ gửi cho tôi trước khi mất, anh dặn: “Giai đoạn chuẩn bị cho sự chuyển đổi chế độ có thể kéo dài. Việc hàng ngày của ta, không được quên, là nâng cao dân trí. Dân trí càng được nâng cao bao nhiêu thì sự chuyển đổi sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu. Thời cơ đến, việc mới thành. Chuẩn bị tốt thì thành tốt”. Thời cơ mà ta chờ đợi sẽ đến, bao giờ cũng bất ngờ, lịch sử vốn thế, nhưng nó sẽ đến, tất yếu sẽ đến, bởi nó là quy luật của muôn đời. Như nó đã từng xảy ra cùng với sự kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai bất ngờ đưa lại nền độc lập cho các nước thuộc địa. Như nó đã đến với sự sụp đổ không thể nào đoán trước của cường quốc Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Nó sẽ đến, như Trần Độ mong ước. Như chúng ta cùng mong ước với anh. Ở thế giới bên kia, hẳn anh sẽ mỉm cười. Vũ Thư Hiên Nguồn : Đàn Chim Việt
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 16, 2023 17:45:39 GMT 9
CÂU CHUYỆN CHIẾN TRANH VIỆT NAM ÍT NGƯỜI BIẾT (ST) SỰ KIỆN TRẠI DAVIS TRONG PHI TRƯỜNG TÂN SƠN NHỨT NGÀY 21/1/1974Ngày 19/1/1974 hải chiến Hoàng Sa xảy ra, Trung cộng đã cưỡng chiếm những hải đảo của Việt Nam. Ngày 21/1/1974 Ủy ban Liên hợp Quân sự bốn bên họp định kỳ ở trại Davis, bên trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Nghị trình của phía CS Bắc Việt đưa vào cuộc họp lần này vẫn là những luận điệu vu cáo và lên án VNCH vi phạm hiệp định Paris bằng miệng như thường lệ. Họ cứ lải nhải tố cáo VNCH vi phạm tại Quảng Ngãi, Nam An Lộc…v.v.. Phái đoàn cộng sản không đả động gì tới sự kiện Hoàng Sa vừa diễn ra hai hôm trước. Phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà đưa vấn đề Hoàng Sa vào nghị trình. Vấn đề Hoàng Sa được viết bằng văn bản gồm có hai phần: 1) Đề nghị chính thức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cùng với Việt Nam Cộng Hoà ra thông cáo lên án hành động xâm lược lãnh thổ – lãnh hải của Việt Nam. 2) Yêu cầu phía quân đội VNDCCH cùng MTGPMN không tấn công phá rối các phi trường, quân cảng Đà Nẵng, Nha Trang thuộc Quân Đoàn I, II để VNCH phối trí tập trung lực lượng tái chiếm Hoàng Sa. Đến phần bàn về Hoàng Sa, phái đoàn CS Bắc Việt và VC vẫn ngồi im thin thít không phát biểu gì. Mọi con mắt của đại diện quốc tế đều đổ dồn về phía họ. Phái đoàn cộng sản bí quá đành giở trò câu giờ… cho hết buổi họp. Phái đoàn VNCH yêu cầu tiếp tục họp bất thường. Yêu cầu của VNCH được Uỷ ban Giám sát đồng ý, vì vấn đề có liên quan tới tình hình quân sự và vừa xảy ra trong phạm vi kiểm soát (lãnh thổ) VNCH. Không thể thoái thác, Thiếu tướng Lê Quang Hòa trưởng đoàn CS Bắc Việt liền đánh điện về xin ý kiến Trung ương. Lê Đức Thọ trưởng ban Miền Nam, Uỷ viên thường trực Bộ chính trị đã trả lời “Lập trường chính trị của các anh để đâu? Đang có chiến tranh, lại phối hợp hoạt động với địch à? Cuộc chiến tranh gay go của ta rất cần sự ủng hộ của Trung quốc, mà lại nói quay sang chống bạn. Họ có giải phóng giúp ta, thì sau này cũng trả lại cho ta thôi.’’ Trong phiên họp bất thường, Trung Tướng Ngô Du trưởng phái đoàn VNCH, người chủ trì cuộc họp đưa ra đề nghị: “Trong phiên họp này, tôi đề nghị không cáo buộc, cãi nhau về những vụ xâm phạm lãnh thổ, vi phạm hiệp định Paris nữa. Trung cộng đã ngang nhiên xâm lược và chiếm giữ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Đất của chúng tôi thì cũng như đất của các anh vì cùng là đất tổ tiên chúng ta để lại cả. Vì thế, chúng ta nên xếp ba bốn cái vụ tranh cãi lại, để ngồi cùng nhau bàn bạc về việc phối hợp hoạt động chống lại sự xâm lăng này. Yêu cầu VNDCCH cùng VNCH gửi công hàm lên án Trung cộng tại Liên Hiệp Quốc, VNDCCH nên vận động phe XHCN và cũng như thế giới lên tiếng phản đối (Trung Quốc)” Mọi con mắt của các đại diện quốc tế trong uỷ ban đổ dồn về phía phái đoàn Cộng Sản. Họ tảng lờ… Một lúc, tướng Ngô Du nổi nóng. Xen lẫn trong tiếng văng tục, ông chỉ thẳng mặt tên tướng CS Lê Quang Hòa: “… Chúng mày tảng lờ, là tiếp tay cho Trung Cộng, là bán nước mà còn tiếp tục định đánh, không cho chúng tao giành lại đất đai của tổ tiên”. Tướng Ngô Du chụp lấy cái gạt tàn thuốc lá bằng thủy tinh ném thẳng vào mặt Lê Quang Hòa. Hắn né được, cái gạt tàn đập vào tường vỡ nát. Cận vệ của Lê Quang Hòa lao tới tướng Ngô Du thì liền bị cận vệ của tướng Ngô Du ngăn cản và bẻ (khóa) tay. (Sĩ quan bảo vệ an ninh tướng Lê Quang Hòa, và các cựu cán bộ của đảng CSVN kể lại).
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 18, 2023 18:48:57 GMT 9
Bản báo cáo tháng 2 năm 1979 của Việt nam về chiến tranh biên giới Việt – Trung gửi Liên Hiệp Quốc Vũ Đức Trung dịch từ bản tiếng Anh nghiencuulichsu.com/2021/02/19/ban-bao-cao-thang-2-nam-1979-cua-viet-nam-ve-chien-tranh-bien-gioi-viet-trung-gui-lien-hiep-quoc/BIên giới giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã được vạch rõ trong các hiệp ước giữa Chính quyền Pháp và triều đình nhà Thanh (Trung Quốc) những năm 1887 và 1895 và kể từ đó biên giới này đã được xác định một cách chính thức kể từ đó. Tiếp nối tình hữu nghị lâu đời giữa nhân dân hai nước, trong những năm 1957-1958, Hội Đồng Trung Ương của Đảng Lao Động Việt Nam đã cùng với Hội Đồng Trung Ương của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đồng ý duy trì nguyên trạng biên giới do lịch sử để lại, tìm kiếm giải pháp cho mọi vấn đề biên giới và lãnh thổ nằm trong thẩm quyền của hai Chính phủ và chủ trương dùng thương lượng nhằm giải quyết mọi tranh chấp có thể xảy ra. Trong tinh thần của sự nhất trí trên, các cấp chính quyền dọc theo biên giới hai nước đã tổ chức nhiều buổi đối thoại để giải quyết các vấn đề biên giới trong thẩm quyền của các địa phương. Các liên lạc và trao đổi về vấn đề biên giới cũng được tổ chức giữa các vị đại diện hai bên chính quyền. Cho đến nay, phía Việt nam vẫn luôn tuân thủ thỏa thuận giữa hai Hội đồng Trung Ương, và đã rất nỗ lực góp phần xây dựng biên giới Việt-Trung trở nên một biên giới của tình hữu nghị. Nhưng, nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn tiếp tục các âm mưu đen tối, trong suốt thời gian dài đã vi phạm thỏa thuận năm 1957-1958 giữa hai Hội đồng Trung Ương, và từng bước gây nên những tranh chấp biên giới ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Từ năm 1957 tới năm 1977, sử dụng những thủ đoạn ghê tởm, họ xâm lấn vào địa phận Việt nam với trên 50 điểm dọc theo biên giới, liên quan tới 6 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên và Lai Châu. Con số thống kê này không bao hàm những vùng đất mà họ đã xâm lấn trước năm 1957. Các hành vi xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ Việt Nam, quấy rối và khiêu khích đã diễn ra ở nhiều nơi cho tới năm 1973 và được gia tăng với nhịp độ cao hơn kể từ năm 1974, cụ thể: Năm 1974: 179 trường hợp Năm 1975: 294 trường hợp Năm 1976: 812 trường hợp Năm 1977: 873 trường hợp. Trong số 2158 trường hợp được ghi nhận trên, có 568 trường hợp liên quan tới việc canh tác trái phép trên đất của Việt Nam, 1355 trường hợp liên quan tới tuần tra vũ trang, 61 trường hợp tấn công và bắt cóc người dân Việt nam ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Đáng chú ý là sự kiện đàu năm 1955, phía Trung Quốc đã lợi dụng việc trợ giúp Việt Nam sửa lại tuyến đường sắt từ Hữu Nghị Quan tới ga Yên Viên, họ đã đặt đường nối dài 300 mét trong địa phận Việt Nam, và từ đó tuyên bố đây là điểm phân cách giữa biên giới Việt nam và Trung Quốc. Cũng trong cùng gia đoạn 1975-1977, tàu thuyền Trung Quốc đã hơn 1500 lần xâm phạm vào lãnh hải Việt nam, và trong một số trường hợp, họ đã tiến vào vùng biển chỉ cách đất liền Việt Nam có 5 Km. Diễn tiến nghiêm trọng là vụ quân đội Trung QUốc tấn công và chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngày 20 tháng 1 năm 1974. Hơn nữa, phía Trung Quốc cũng vô lý tuyên bố chủ quyền trên những đảo khác của Việt nam ở Biển Đông. Tiếp nối chính sách thù nghịch, nhà cầm quyền Trung Quốc từ năm 1978 đã tăng cường các hành vi gây hấn và tấn công có vũ trang lên biên giới Việt Nam và ráo riết chuẩn bị cuộc chiến tranh chống lại Việt nam A. Nhà cầm quyền Trung Quốc kích động người Hoa để gây sự tại khu vực biên giới Đầu năm 1978, phía Trung Quốc đã thực hiện một kế hoạch có tổ chức và bài bản nhằm lôi kéo và ép buộc hàng trăm ngàn người Hoa sang Trung Quốc hòng gây nên những bất ổn kinh tế, chính trị, xã hội cho Việt Nam. Lợi dụng các yếu tố địa lý và dân số ở khu vực biên giới, đồng thời sử dụng các thủ đoạn tâm lý chiến, Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch của họ trên những người Hoa sống dọc theo biên giới phía bắc của Việt Nam, sau đó là ở các thành phố và tỉnh lị khác nơi mà người Hoa sinh sống. Trên 170.000 người Hoa đã di cư sang Trung Quốc, gần 100.000 người trong số đó đến từ tỉnh Quảng Ninh, tỉnh có đường biên giới với khu tự trị Quảng Tây. Thâm độc hơn, sau khi dụ dỗ và cưỡng ép nhiều người Hoa ở nhiều tỉnh di tản đến vùng biên giới, nhà cầm quyền Trung Quốc liền đóng các điểm kiểm tra, buộc những người Hoa bị kẹt lại sống cảnh màn trời chiếu đất. Sau đó Trung Quốc gửi các điệp viên dọc theo biên giới để trà trộn với đám du côn trong số người Hoa và gây nên những bất ổn, đồng thời tấn công người Việt trong khu vực, khiến tình hình xã hội và an ninh ở biên giới Việt nam trở nên bất ổn. Một trường hợp nghiêm trọng xảy ra ở Hữu Nghị Quan ngày 25/8/1978: Trong khi các đồng chí cán bộ đang thuyết phục người Hoa bị bỏ rơi trở lại nơi sinh quán, phía Trung Quốc đã sử dụng loa phóng thanh ra lệnh cho đám du côn trong người Hoa gây loạn và phái hàng trăm lính Trung Quốc mặc thường phục xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam, sử dụng gậy sắt, dao, … để tấn công cán bộ và biên phòng, sát hại hai đồng chí và làm bị thương 25 người khác, 7 trong số này bị thương nghiêm trọng. B. Nhà cầm quyền Trung quốc không ngừng gia tăng các hoạt động có vũ trang để xâm phạm lãnh thổ Việt Nam Trung Quốc gia tăng việc xâm lấn lãnh thổ Việt nam bằng việc sử dụng vũ trang. Nam 1978, có 583 trường hợp. Chỉ riêng tháng 1 vừa qua và những tuần đầu tháng 2 năm 1979, đã có không dưới 230 trường hợp. Việc xâm phạm biên giới cũng tăng về qui mô dọc theo biên giới từ Quảng Ninh tới Lai Châu. Tính chất các vụ việc cũng trở nên nghiêm trọng: Từ sách nhiễu gây rối nhân dân khu vực biên giới, bao vây, khiêu khích lực lượng an ninh vũ trang Việt Nam và dân quân đang làm nhiệm vụ trên lãnh thổ Việt Nam, tới việc phục kích, nổ súng, bắt cóc người Việt Nam sang Trung Quốc, tập kích đồn dân quân tự vệ, đồn biên phòng Việt Nam. Các lực lượng xâm nhập từ Trung Quốc được tăng cường. Ở một số nơi, hàng ngàn người trong đó có quân đội cảnh sát, dân phòng Trung Quốc đã tham gia tấn công vào đồi Chong Mu ở Tỉnh Cao Bằng, ngày 1 tháng 11 năm 1978. Ở một nơi khác, một tiểu đoàn quân Trung Quốc đã lán sâu 2 cây số vào trong lãnh thổ Việt nam, chiếm đóng các đồn biên giới trong khu vực gần đồn 25 thôn Thanh Loa, Huyện Cao Lộc, Tỉnh Lạng Sơn, vào ngày 10 tháng 2 năm 1979 Một lượng lớn vũ khí đã liên tục được sử dụng, từ các loại vũ khí cho bộ binh tới các loại súng máy hạng nặng và súng cối. Trong cuộc tấn công vào đồn Xa Hồ đóng ở Lnagf na Li Chai, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu vào ngày 6 tháng 2 năm 1979, lính Trung Quốc đã sử dụng súng cối loại 82 mm và súng 12.7 mm. Trong cuộc tấn công vào biên giới đồn biên giới Ho Pa, và vùng lân cận ở bản Mây, tỉnh Hà Tuyên, ngày 8 tháng 2, phía Trung Quốc đã sử dụng súng không giật loại 75 mm và 85 mm Các lực lượng vũ trang Trung Quốc cũng liên tục nổ súng hạng nặng một cách bừa bãi dọc theo biên giới, nhắm vào phương tiện đi lại và dân cư đang di chuyển trên đất Việt nam, vào các đồn biên hòng, làng mạc, thị trấn các điểm xây dựng và rừng … Ví dụ, Trung Quốc nổ súng máy vào ấp Pahi lau, thôn Đồng Văn, Huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh ngày 14 tháng 2 năm 1979; hay như vụ pháo kích vào Thị xã Lào Cai, Tỉnh Hoàng Liên Sơn cùng ngày; vụ nổ súng 12.7 mm vào đồn biên giới Tà Lùng, nhà máy mía Phúc hoa, và ấp Hưng Long, Thôn Quí Thuận, Huyện Quảng Hóa, Tỉnh cao Bằng vào ngày 2 tháng 2 năm 1979. Nhiều lần các vụ nổ súng và pháo kích diễn ra trong nhiều ngày liên tiếp tại cùng một địa điểm, chẳng hạn vụ nổ súng cối 82 mm tại đồn biên giới Trà Linh, tỉnh Cao bằng, và các làng xung quanh từ ngày 10 tới cuối tháng 2 năm 1979. Nhà cầm quyền Trung Quốc đã gây nên mất mát về sinh mạng và tài sản của nhân dân Việt nam. Chỉ tính riêng vào tháng 1 và những ngày đầu tháng 2 năm 1979 thôi, các lực lượng vũ trang Trung Quốc đã giết hại hơn 40 thường dân, cán bộ chiến sĩ, làm bị thương hàng trăm người và bắt cóc sang Trung Quốc hơn 20 người. Rất nhiều nhà cửa của người dân đã bị phá hủy. Nhiều nơi dọc biên giới, cuộc sống của người dân Việt nam luôn bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cùng với việc gia tăng tấn công vũ trang trên các khu vực biên giới, phía Trung Quốc cũng cho máy bay chiến đấu xâm phạm vùng trời Việt Nam, và các tàu thuyền xâm phạm lãnh hải Việt nam. Năm 1978, có hơn 100 chiến đấu cơ xâm phạm không phận việt nam và 481 tàu thuyền thực hiện các hành vi khiêu khích trong lãnh hải việt nam. C. Nhà cầm quyền Trung Quốc ra lệnh tập trung quân đội gần biên giới Việt Nam và chuẩn bị cho cuộc chiến điên cuồng xâm chiếm Việt Nam Sau khi đơn phương rút đình chỉ các cuộc đối thoại về vấn đề người Hoa (tháng 9 năm 1978), nhà cầm quyền Trung Quốc tiếp tục gia tăng việc chuẩn bị cho chiến tranh tại khu vực biên giới. Họ đã triển khai dọc biên giới lượng lớn quân đội bao gồm hàng tá các sư đoàn bộ binh và các sư đoàn không quân, các đơn vị pháo phòng không, và lính đặc nhiệm đánh trong rừng, cùng lượng lớn vũ khí và các trang thiết bị chiến tranh khác bao gồm máy bay tiêm kích, xe tăng, pháo cao xạ. Theo một báo cáo của hãng tin AFP đề ngày 21 tháng 1 năm 1979 xác nhận đã có sự di chuyển quan trọng của linh dọc theo khu vực biên giới, ước tính tương đương với lực lượng quân đội đóng ở Bắc Kinh, với 15 tới 17 sư đoàn Trung Quốc, nghĩa là 150.000 người. Ngày 3 tháng 2 năm 1979, hãng tin BBC cho biết Trung QUốc đã tăng cường lính tại biên giới Việt Trung, và theo nguồn tình báo Hoa Kỳ, có khoảng 20 sư đoàn Trung QUốc. Trong tạp chí xuất bản ngày 9 tháng 2 năm 1979, thời báo “Far Eastern Economic Review” viết rằng dọc biên giới Việt Trung, Trung QUốc đã sử dụng khoảng 160.000 lính và 700 máy bay chiến đấu bao gồm máy bay thả bom F9 sản xuất bởi Trung Quốc. Cùng thời điểm, Trung QUốc đã gửi tới biên giới rất nhiều tướng lĩnh cao cấp. Theo tờ “Washington Star”, tướng Yang Te-chin, một trong những tướng nhiều kinh nghiệm nhất và có vị trí quan trọng tại Bắc Kinh đã được bổ nhiệm làm chỉ huy các lực lượng Trung Quốc dọc biên giới Việt Trung. Gần biên giới Việt Nam và ở một số nơi khi xâm lấn, các lực lượng vũ trang trung Quốc đã đào hào lũy, lô cốt, và đồng thời, họ đã thực hiện các hoạt động quan sự trên diện rộng, ép buộc các thường dân ở vùng biên giới di tản vào nội địa; họ cũng tạo ra tình hình mà xung đột có thể xảy ra bất cứ lúc nào trên biên giới giữa hai nước. Trong khi chuẩn bị cho chiến tranh, nhà cầm quyền Trung Quốc cũng khởi động bộ máy tuyên truyền, từ trung ương tới địa phương, để phát tán các xuyên tạc trơ trẽn và vu khống thô bạo lên Việt Nam. Gần đây, một nhân vật lãnh đạo của phía Trung Quốc đã có những phát ngôn cực kì ngạo mạn và đe dọa chiến tranh chống lại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Trong những chuyến viếng thăm gần đây tới Hoa Kỳ và Nhật bản, Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình đã thẳng thừng xác nhận các báo cáo về việc Trung Quốc tập trung quân gần biên giới Việt nam và không ngừng thốt ra những lời ngạo mạn và hiếu chiến cho thấy thái độ của chủ nghĩa sô-vanh của nước lớn. Ngày 31 tháng 1 năm 1979, trong cuộc phỏng vấn với các nhà báo Hoa Kỳ, Đặng Tiểu Bình nói: “Việt nam phải bị dạy cho một bài học đáng đời.” Ngày 7 tháng 2 năm 1979, tại Tokyo, Đặng Tiểu Bình nói: “Việt nam phải bị trừng trị.” Việc Trung Quốc tập trung quân, vũ khí và các trang thiết bị chiến tranh khác cùng với việc đột nhập có vũ trang vào lãnh thổ Việt nam, đe dọa chiến tranh đã gây nên một tình thế vô cùng nguy hiểm dọc theo biên giới Việt Trung. Theo một báo cáo ngày 23 tháng 1 năm 1979 của A.N.S.A từ New York, các chuyên gia của cơ quan quản lý Hoa Kỳ về các vấn đề ở Vùng Đông Á đã cho rằng: Chắc chắn sẽ có có cuộc xâm chiếm Việt Nam bởi các lực lượng Trung Quốc. Trong số báo ra ngày 28 tháng 1 năm 1979, tạp chí “Newsweek” của Hoa kỳ trích nguồn của chính phủ Hoa Kỳ cho hay các hoạt động quan sự gia tăng tại biên giới Việt nam sẽ dẫn đến những hành vi leo thang khác hơn là đơn thuần việc trình diễn sức mạnh quân sự. Bất kì ai cũng nhận thấy rõ ràng tính chất nghiêm trọng của các hành vi quân sự của nhà cầm quyền Trung Quốc và các đe dọa ngáo ngược chống lại Việt Nam. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh công khai đe dọa khai chiến với một quốc gia có chủ quyền và độc lập, và tự cho mình quyền sử dụng vũ lực chống lại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam. Họ đã không che dấu những âm mưu hiểm độc nhắm tới Việt nam và dã tâm bành trướng tới vùng Đông Nam Á. Nhân dân và chính Phủ nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mạnh mẽ tố cáo và lên án nghiêm khắc những đe dọa gây chiến của nhà cầm quyền Trung Quốc. Những hành vi leo thang này có thể gây nên những hâu quả nguy hiểm không lường trước được cho hòa bình và sự ổn định ở Đông Nam Á và trên toàn thế giới. Trung Quốc đi ngược lại hiến chương Liên Hiệp Quốc, vi phạm các nguyên tắc căn bản của luật quốc tế, và tạo nên thách thức nghiêm trọng tới những người và quốc gia yêu chuộng hòa bình công lý trên khắp nơi. Nhân dân Việt nam và chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tin tưởng rằng nhân dân và chính phủ các nước bạn bè và dư luận quốc tế sẽ đoàn kết, ủng hộ Việt Nam, sẽ can thiệp kịp thời trước các âm mưu và hành vi leo thang chiến tranh của nhà cầm quyền Bắc Kinh, và rút bàn tay lông lá ra khỏi Việt nam. Nhân dân Việt nam luôn trân quí mối tình hữu nghị lâu đời giữa nhân dân hai nước và kiên trì quan điểm sử dụng đàm phán để giải quyết các tranh chấp giữa hai nước. Nhưng nhân dân việt nam cũng kiên định bảo vệ sự độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng và những thành quả lao động. Nhà cầm quyền Trung QUốc, kẻ đang theo đuổi chính sách thù nghịch tới VIệt nam, gây nên những căng thẳng dọc biên giới giữa hai nước, phải gánh chịu toàn bộ trách nhiệm cho những hành vi leo thang nguy hiểm của họ. Hà Nội, ngày 14 tháng 2 năm 1979
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 18, 2023 18:56:21 GMT 9
Quan hệ quốc phòng Trung Quốc- Campuchia gióng lên hồi chuông cảnh báo tại Việt NamMột sĩ quan hải quân Campuchia chào tại Căn cứ Hải quân Ream. Ảnh: Twitter Abdul Rahman Yaacob ngày 4 tháng Năm 2023 Biên dịch: GaD Việt Nam lo ngại Trung Quốc đang sử dụng Campuchia như một công cụ để gây áp lực lên biên giới phía nam và củng cố các yêu sách tranh chấp ở Biển Đông. Đã hơn 40 năm kể từ khi quân đội Việt Nam tràn vào Campuchia và lật đổ chế độ Pol Pot tàn bạo. Một trong những động lực khiến Việt Nam tiến hành chiến dịch quân sự chống lại Campuchia là ý thức về tính dễ bị tổn thương chiến lược, bị kẹp giữa Trung Quốc ở phía bắc và chế độ Campuchia do Trung Quốc hậu thuẫn ở phía nam. Một tài liệu giải mật của CIA từ tháng Hai 1983 gợi ý rằng Trung Quốc đã khuyến khích chế độ Pol Pot “trong thái độ thù địch với Việt Nam” trong những năm dẫn đến cuộc xâm lược. Trong thời gian này, Khmer Đỏ đã tiến hành các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam đồng thời nhận vũ khí từ Trung Quốc, bao gồm cả xe tăng T-54 và T-63. Việc Pol Pot từ chối tham gia ngoại giao với Việt Nam để giải quyết tranh chấp biên giới đã thúc đẩy Việt Nam tiến hành một cuộc xâm lược quy mô lớn vào Campuchia vào năm 1978. Ngày nay, Việt Nam một lần nữa lo ngại về mối quan hệ quốc phòng ngày càng tăng của Trung Quốc với Campuchia. Hà Nội lo ngại rằng Trung Quốc đang sử dụng Campuchia như một công cụ để gây sức ép với Việt Nam ở biên giới phía Nam. Biển Đông là nguồn tranh chấp đang diễn ra giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các tranh chấp lãnh thổ trước đây đã dẫn đến các cuộc đụng độ đẫm máu với hải quân Trung Quốc, như đã được chứng minh trong sự cố năm 1988 tại Gạc Ma. Trung Quốc đã liên tục thách thức các nỗ lực của Việt Nam trong việc khai thác tài nguyên từ bên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình ở Biển Đông. Trong một số trường hợp, Trung Quốc đã gây áp lực thành công để Việt Nam ngừng phát triển mỏ dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Ngư dân Việt Nam bị tàu Cảnh sát biển Trung Quốc tấn công, sách nhiễu và cướp tài sản. Một người lính Việt Nam tại quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Ảnh: Twitter/VnExpress Sự hiện diện của các cơ sở quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông càng làm suy yếu khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Những cơ sở này cho phép các khí tài của hải quân Trung Quốc duy trì sự hiện diện nhất quán trên khắp Biển Đông, làm gián đoạn hoạt động của các quốc gia trong khu vực, bao gồm cả Việt Nam. Mối quan hệ quốc phòng ngày càng tăng của Campuchia với Trung Quốc đã ảnh hưởng đến tính toán chiến lược của Việt Nam. Kể từ khi quan hệ quốc phòng của Campuchia với Mỹ trở nên tồi tệ vào năm 2010, Trung Quốc đã bước vào để lấp đầy khoảng trống. Cùng năm đó, Bắc Kinh cung cấp xe tải và đồng phục cho Campuchia. Trong những năm gần đây, Trung Quốc cũng đã hỗ trợ Campuchia phát triển năng lực hải quân. Điều này bao gồm việc phát triển cơ sở hạ tầng tại Căn cứ Hải quân Ream của Campuchia, đối diện với Vịnh Thái Lan và chỉ cách đảo Phú Quốc của Việt Nam 30 km. Việc làm sâu vùng nước xung quanh Căn cứ Hải quân Ream sẽ cho phép các tàu chiến lớn hơn, bao gồm cả tàu của Trung Quốc, cập cảng và hoạt động trong khu vực. Những diễn biến gần đây xung quanh căn cứ hải quân là một mối lo ngại an ninh đối với Việt Nam. Theo một quan chức Việt Nam, đã có sự gia tăng đột biến về nhân sự, thiết bị và vật liệu của Trung Quốc được chuyển vào căn cứ kể từ đầu tháng Tư 2023. Mối quan tâm lớn hơn nữa là sự phát triển của các khả năng giám sát và radar gần Căn cứ Hải quân Ream. Một tài liệu của chính phủ được các quan chức Campuchia chia sẻ với tác giả bài viết này nêu chi tiết việc giao khoảng 187 ha đất, bao gồm các phần của Vườn Quốc gia Ream, cho Bộ Quốc phòng Campuchia. Hầu hết đất được giao cho Đơn vị Phòng không Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Campuchia, trong khi phần còn lại được chỉ định cho hệ thống radar hải quân. Những cải tiến trong khả năng giám sát và phòng không của hải quân và không quân Campuchia xung quanh Căn cứ Hải quân Ream không có gì đáng ngạc nhiên. Các quan chức Campuchia trước đây đã chỉ ra việc hải quân thiếu khả năng liên lạc và giám sát cũng như sự cần thiết phải tăng cường khả năng phòng không của đất nước. Việc phát triển các cơ sở quốc phòng mới ở Vườn Quốc gia Ream sẽ không liên quan đến sự hiện diện hoặc tài trợ của Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn lo lắng về sự thiếu minh bạch liên quan đến các hoạt động xây dựng hiện tại của Campuchia tại Căn cứ Hải quân Ream, trở nên tồi tệ hơn do tiềm năng phát triển các cơ sở phòng không trong Vườn quốc gia gần đó. Cũng theo quan chức Việt Nam, Campuchia không chia sẻ chi tiết về việc xây dựng căn cứ hải quân Ream đang diễn ra với Việt Nam, mặc dù hai nước có quan hệ tốt. Lập trường chính thức của chính phủ Campuchia là sẽ không cho phép bất kỳ căn cứ quân sự nước ngoài nào hoạt động trong lãnh thổ Campuchia. Bất chấp sự đảm bảo này từ Campuchia, các quan chức Việt Nam nhận thấy việc phát triển các cơ sở phòng không ở Vườn Quốc gia Ream là một mối lo ngại về an ninh, đặc biệt nếu Trung Quốc quản lý chúng. Bất kỳ radar giám sát trên không nào cũng sẽ cho phép quân nhân Trung Quốc theo dõi chuyển động của máy bay Việt Nam ở miền nam Việt Nam. Cùng với khả năng Trung Quốc có thể điều động các tàu hải quân từ Căn cứ Hải quân Ream và nhắm vào lợi ích của Việt Nam, Bắc Kinh cuối cùng có thể đe dọa Việt Nam từ cả phía bắc và phía nam. Lực lượng hải quân Campuchia trên một cầu cảng tại Căn cứ Hải quân Ream ở tỉnh Preah Sihanouk. Ảnh: AFP/Tang Chhin Sothy Các cuộc tranh luận xung quanh việc Trung Quốc sử dụng Căn cứ Hải quân Ream và các cơ sở phòng không gần đó vẫn chỉ là suy đoán. Khi tất cả các công việc xây dựng được hoàn thành, một bức tranh rõ ràng hơn sẽ phát triển. Cho đến lúc đó, Việt Nam sẽ tiếp tục theo dõi mối quan hệ quốc phòng đang phát triển giữa Campuchia và Trung Quốc với sự thận trọng. Abdul Rahman Yaacob là nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Trường Cao đẳng An ninh Quốc gia, Đại học Quốc gia Australia. Một số thông tin cho bài viết này được rút ra từ thư từ và các cuộc phỏng vấn với các quan chức quốc phòng Campuchia và Việt Nam. Nguồn: asiatimes.com/2023/05/china-cambodia-defense-ties-ringing-alarm-in-vietnam/
|
|