|
Post by Vĩnh Long on Sept 24, 2014 6:58:26 GMT 9
Đèn cù và Những lời trăng trối giải thích tại sao Việt Nam bị lệ thuộc Tàu suốt mấy chục năm qua GS Nguyễn Văn Tuấn H1 Tôi đọc 2 cuốn “Đèn cù” (của Trần Đĩnh) và ” Những lời trăng trối ” (Trần Đức Thảo) một lúc. Vì đọc chưa xong nên chỉ có thể viết linh tinh vài cảm nhận đầu tiên. Cả hai cuốn sách đều nói về chế độ cộng sản cùng những con người trong chế độ đó, và qua đó chúng ta có thể giải thích tại sao VN bị lệ thuộc vào Tàu suốt mấy mươi năm qua và tại sao VN vẫn còn ở dưới đáy của bậc thang phát triển như hiện nay và có thể cả tương lai.
Nhưng cách tiếp cận hay cấu trúc thì rất khác nhau giữa hai tác phẩm. Đèn cù có vẻ tập trung vào những cá nhân gầy dựng chế độ và những con người yểm trợ chế độ cộng sản ở VN. Tác giả được sống gần các nhân vật đó một thời gian dài và có thể tiếp cận nhiều thông tin có thể nói là thú vị. Chẳng hạn như tác giả được phân công viết một phần tiểu sử ông Hồ và có dịp tiếp cận thông tin về cá nhân ông ở địa phương, và ông cả Khiêm (anh ruột ông Hồ) cho biết ông Hồ sinh năm 1891 (chứ không phải 1890) nhưng tác giả không đào sâu phân tích chi tiết này. Tác giả cũng không viết một cách rạch ròi về gia phả của ông Hồ. Thật ra, hầu như bất cứ nhân vật nào, tác giả chỉ phác hoạ sơ sơ, bề mặt, chứ không hề có đào sâu. Tuy nhiên, cảm nhận của tôi khi đọc những đoạn trong Đèn cù, ông cụ Hồ là một người có vẻ thờ ơ và lạnh lùng với thân nhân, anh em của ông. Ông không hề nhắc đến cha mẹ, anh chị em, và từ ngày ông đạt được quyền lực tột đỉnh, cũng không về thăm và ở lại quê.
Lại có những đoạn mô tả các nhân vật chóp bu trong đảng làm cho độc giả ngạc nhiên về trình độ văn hoá và nhận thức của họ. Chẳng hạn như đoạn tác giả thuật lại chuyện Lê Duẩn hỏi Bs Phạm Ngọc Thạch rằng rau muống luột và rau muống xào cái nào tốt hơn. Một đoạn khác, tác giả cho chúng ta biết về quan điểm của Lê Duẩn liên quan đến in tiền. Chuyện kể rằng ông Duẩn phàn nàn với Thành uỷ Hà Nội sao không bán giường tủ cho công nhân viên và trừ lương hàng tháng, nhưng Thành uỷ nói không có tiền, ông Duẩn bèn phán không có tiền thì in tiền. Ông giảng giải thêm: “Không sợ lạm phát! Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ?”
Ở một đoạn khác, tác giả thuật lại một chuyện khá bi hài về số phận của ông Trần Đức Thảo (TĐT). Chuyện kể rằng Lê Duẩn mới viết xong một đề cương về con người, và triệu tập TĐT đến để nghe và cho ý kiến. Khi ông Duẩn đọc xong đề cương, ông TĐT im lặng không nói gì, nhưng khi được đốc thúc thì ông Thảo nói ông chẳng hiểu gì cả. Thế là ông Duẩn đùng đùng nổi giận “hai tay quàng ôm lấy ngực triết gia, xốc lên, dội xuống mấy lần, rồi ‘buông thịch’ xuống một cái cho ông giáo sư rơi xuống ghế ngồi.”
Có lẽ điểm làm cho Đèn cù thu hút nhiều độc giả là ở cái tính cá nhân, mà theo đó, tác giả mô tả có vẻ rất thật cá tính của từng người mà ông có dịp tiếp xúc. Thỉnh thoảng trong sách tác giả còn chêm vào những câu chuyện sex hay có màu sắc sex, rất dễ thu hút những người Việt tò mò. Có những chi tiết buồn cười như tác giả chạy theo để dòm ông Hồ Chí Minh … đi tiểu, và khi bị phát hiện, tác giả “liếc nhanh vào chỗ kia của Cụ. Và chỉ thấy vùng ấy hơi tôi tối – nâu nâu hay hồng hồng? Ô, cũng như mọi người?” Đọc đoạn đó chỉ làm cho chúng ta tức cười. Nhưng cũng có vài đoạn làm cho người đọc phẫn nộ về sự dã man của quân du kích khi họ dẫm đạp thi thể bà Nguyễn Thị Năm xuống áo quan vốn quá hẹp so với thân thể của bà. Có lẽ chi tiết quan trọng nhất trong phần “Cải cách ruộng đất” là ông Hồ từng viết bài dưới bút hiệu “CB” tố cáo bà Nguyễn Thị Năm, và ông cũng bịt râu để xem đấu tố bà Năm. Chi tiết này cho thấy ông Hồ hoàn toàn đứng đằng sau vụ đấu tố chứ không phải chỉ làm theo áp lực của cố vấn Tàu như nhiều người nghĩ.
Qua cách mô tả rất sinh động của Trần Đĩnh, độc giả sẽ thấy được những con người trong hệ thống đảng đã và đang được hệ thống tuyên truyền đề cao (hay thậm chí thần thánh hoá) chỉ là những con người rất bình thường và rất tầm thường. Họ không tỏ ra là những người minh triết hay có những phát kiến gì đáng chú ý. Qua ngòi bút của tác giả, ai cũng có thể thấy họ là những người cực kì giáo điều, tin tưởng vào Mao và Stalin gần như tuyệt đối. Họ sẵn sàng chấp nhận “giáo lí” Mao – Stalin, và có vẻ háo hức tình nguyện được làm “tín đồ” của tôn giáo đó. Họ muốn đưa VN thành một thành viên trong cái thế giới đại đồng mà tôn giáo Mao-Stalin vẽ ra. Còn sự tầm thường của họ sẽ làm cho nhiều người hâm mộ cảm thấy thần tượng bị sụp đổ hay khó tin.
Khác với “Đèn cù” có xu hướng tập trung vào nhân vật trong hệ thống, cuốn “Những lời trăng trối” thì tập trung vào phân tích nền móng của chế độ và chủ thuyết cộng sản. Những lời trăng trối cũng có những đoạn mô tả cá nhân, nhưng đó chỉ là một chất liệu để tác giả TĐT phân tích và diễn giải thêm. Chẳng hạn như đoạn mô tả TĐT gặp ông Hồ trong An Toàn Khu (ATK cũng được Trần Đĩnh nhắc đến) đầy kịch tính. Người ta phải đến nói cho ông TĐT biết về qui tắc gặp lãnh tụ ra sao, như phải đứng cách lãnh tụ 3 mét, không được giơ tay bắt tay trước mà phải chờ, không được nói leo, phải xưng là “bác” và “cháu” chứ không được xưng “tôi”, v.v. Đến khi lãnh tụ đến nơi, cuộc diện kiến chỉ có 1-2 phút với chưa đầy 4 câu nói:
- À! Chào chú Thảo! Chú về đây đã được bao lâu rồi? – Cháu xin kính cháo bác! Cháu về đây được 5 hôm rồi. – À này chú Thảo! Bác biết ở bên Tây, chú đã đọc nhiều sách vở, nhưng bây giờ về đây, thì chú phải gắng mà học tập nhân dân, nghe không? Thôi bác có hẹn nên phải đi kẻo trễ.
Thế là “bác đi”. Nhưng cái câu “nhưng bây giờ về đây, thì chú phải gắng mà học tập nhân dân, nghe không” được TĐT bỏ ra gần chục trang để phân tích! Ông cảm thấy ông là một đối tượng có vấn đề, và vấn đề là nhiễm tư tưởng phương Tây. Ông cảm thấy mình bị răn đe. Ông phân tích rằng trong cái nhìn của đảng, nhân dân chính là đảng, thành ra học tập nhân dân tức là học tập đảng! Ông TĐT lật đi lật lại cái câu “học tập nhân dân” và lí giải trong bối cảnh của ông. Ông đi đến kết luận rằng ông Hồ là một người rất phức tạp, hành tung bí mật (lúc thì đóng vai tình báo, lúc là sĩ quan mang lon thiếu tá trong Bát bộ quân, lúc vận áo cà sa, v.v.), thái độ khó hiểu, lời nói có khi đầy mâu thuẫn. Ông TĐT kết luận rằng đó là một “con người có tung tích bí ẩn, có tâm thức đa nghi, có phản xạ đa diện, nhạy bén, sẵn sàng chụp bắt mọi cơ hội, dù là mâu thuẫn với lí tưởng, với học thuyết, đối nghịch với lương tri, nhưng điều cốt yếu là để đạt tới mục tiêu.”
Trong Những lời trăng trối không có những câu chuyện cá nhân mang tín vụn vặt như Đèn cù. Thay vào đó, Những lời trăng trối có những kiến giải theo tôi là sâu sắc về chế độ và những phân tích tâm lí rất đáng học hỏi. Những kiến giải đó chỉ để tác giả kết luận rằng “Chính ông Marx đã sai”, và “không một ai muốn phấn đấu để trở thành con người vô sản”. Tác giả lặp đi lặp lại 2 khẳng định đó như để nói rằng chủ thuyết cộng sản (mà tác giả từng có thời ủng hộ) là sai, là nguyên do của những thất bại và đau khổ cho một thế giới không nhỏ trong một thời gian dài. Ông giải thích:
“Chính vì lâu đài tư tưởng của Marx, mà từ đó đi ra nhữg lãnh tụ đã thành những ác quỉ tuỳ tiện, lộng hành quyền lực, khiến hàng vạn chiến sĩ cộng sản đã bị hi sinh một cách oan uổng và vô ích … và ở nước ta có hàng triệu người bỏ làng mạc, bỏ mổ mả tổ tiên để di tản vào Nam năm 1954, và rồi đã có hàng triệu người đã liều chết bỏ cửa bỏ nhà chạy ra biển gây thảm cảnh “thuyền nhân” sau 1975 … làm cả thế giới rơi lệ. Thành phần dân chúng khốn khổ ấy, vì đã hiểu, đã nếm mùi lâu đài ‘thế giới đại đồng’ của Marx, nên họ đã liều chết bỏ chạy! Là vì họ muốn đi tìm nơi có công bằng, bác ái, có tự do và hạnh phúc thật sự” (Trang 342).
Một đoạn khác, ông giải thích cái gọi là “quỉ” như sau:
“Quỉ ấy là thứ đầu óc đầy gian sảo, hung bạo của quyền lực. Quỉ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp, là thứ cuồng tín bạo lực và hận thù, là những khái niệm sai trái, độc ác ở trong đầu con người, nó thúc đẩy con người lao vào đam mê tìm thắng lợi bằng mọi thủ đoạn của tội ác, bằng đủ thứ quỉ kế, để mưu đồ củng cố cho chế độ độc tài, độc đảng. Những vinh quang độc tài, độc đảng ấy đều là phù phiếm, vì chúng làm khổ con người! Xét như vậy là thấy rõ là quỉ nó vẫn ở với người, vẫn ở trong con người lãnh đạo.”
Còn rất nhiều đoạn như tôi vừa trích để cho thấy TĐT không quan tâm nhiều đến cá nhân, mà chỉ kiến giải hành vi của cá nhân. Một số người cho rằng một điểm yếu của Những lời trăng trối là do người khác ghi lại lời nói của ông TĐT, và nghi ngờ chẳng biết ghi chép có chính xác. Đến nay thì người ghi chép đã công bố cuốn băng có lời nói của ông Trần Đức Thảo.
Có thể nói rằng Những lời trăng trối có hàm lượng tri thức hơn hẳn cuốn Đèn cù. Nhưng trong thực tế, tôi thấy hai cuốn này bổ sung cho nhau. Một cuốn phân tích những sai lầm của chủ thuyết từ cơ bản, và một cuốn thì mô tả sự ứng dụng của chủ thuyết đó bởi những con người cuồng tín đầy ấp những bất cập và khiếm khuyết. Hệ quả là đất nước lâm vào cảnh điêu tàn trong một thời gian dài, và cho đến ngày nay vẫn còn nằm dưới đáy của bậc thang phát triển.
Nguồn: FB Nguyen Tuan ***********************************************
Trần Đĩnh
Giới thiệu Đèn Cù I
Quý vị phải lắng yên nghe bài Đèn Cù. Tự mình hát lên, hát cho thấm thía vào lòng, cho những câu dân ca văng vẳng trong đầu trong khi đọc Đèn Cù của Trần Đĩnh. Khen ai khéo vẽ (ối a) đèn cù. Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh… Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh nó chạy tít mù. Đèn Cù, cũng gọi là đèn kéo quân, là một trong số đèn Trung Thu, đồ chơi cho trẻ em và cho cả người lớn. Quý vị sẽ dần dần nhìn thấy hoạt cảnh xã hội Việt Nam những hình nhân voi giấy, ngựa giấy tít mù nó chạy vòng quanh trên màn ảnh đèn cù trong hơn nửa thế kỷ. Trong đó có Trần Đĩnh. Một nhân chứng, một người tham dự trong đám Voi giấy (ối a) ngựa giấy lần lần hồi tưởng lại những cảnh cùng nhau chạy vòng quanh (ối a) tít mù. Nhiều tác giả đã viết về xã hội miền Bắc Việt Nam dưới chế độ cộng sản, dưới dạng hồi ký, tiểu thuyết, biện thuyết và lý luận, vân vân. Đèn Cù nổi bật lên trong tủ sách đó. Nếu không phải là kho chứng liệu quan trọng và đầy đủ nhất thì đây là cuốn sách đọc lý thú nhất. Rất nhiều chuyện mới nghe lần đầu. Rất nhiều chuyện cũ được nhìn dưới con mắt khác, thấy những khía cạnh chưa ai từng thấy. Quý vị sẽ cười, sẽ khóc, sẽ thắc mắc, sẽ dằn vặt, thao thức, kinh tởm, giận dữ, sót thương, khi bị cuốn theo những Voi giấy (ối a) ngựa giấy chạy quanh trong cái đèn cù.
Dưới cái tựa Đèn Cù, Trần Đĩnh gọi cuốn sách này là “truyện tôi.” Đọc xong thì hiểu tại sao tác giả không gọi nó là một “hồi ký” hay “tự truyện,” những loại văn quen thuộc khi người ta kể chuyện cuộc đời mình đã sống. Cuốn sách không viết theo phong cách hồi ký hay tự truyện, khi người viết có sẵn một bản đồ để viết theo, một mục tiêu muốn đạt tới. Đây cũng không phải là tiểu thuyết, tác giả không kể những chuyện mình tưởng tượng ra. “Truyện tôi” là một thể loại văn suôi mới, do Trần Đĩnh tạo ra. Mai mốt có thể sẽ không còn ai viết “truyện tôi” nữa. Mà có ai viết thì chăc chắn cũng không viết giống như Trần Đĩnh. Đèn Cù là một cuốn sách độc đáo.
Trần Đĩnh vốn là một thi sĩ, loại người thích sáng tạo ngôn ngữ, bầy đặt, đùa rỡn, vui chơi với ngôn ngữ. Đẽo gọt, mài rũa, “như thiết như tha, như trác như ma,” rùng mình sảng khoái hay quằn quại đau khổ với ngôn ngữ. Trước khi gia nhập tòa soạn báo Sự Thật, ở chiến khu Việt Bắc vào năm 1949, tuổi 19, ông đã viết báo rồi. Nhưng cuốn sách này tuyệt nhiên không dùng lối văn viết báo. Nhà báo không ai mở đầu một bài bằng mấy chữ: “Viết này vất vả,” rồi chấm câu. “Lười là rõ,” lại chấm câu. Cái khí văn đó tràn suốt tác phẩm. Có thể gọi đó là Khí văn Trần Đĩnh. Cũng như chúng ta có thể nhận ra Khí văn Phùng Quán, Khí văn Thanh Tâm Tuyền, vân vân, các thi sĩ có lúc viết văn suôi. Nó riêng biệt, văn đó đúng là người, mỗi người một vẻ.
Nhưng Trần Đĩnh vẫn giữ nguyên cái đức của người viết báo, là kể sự thật, kể những chuyện thật. Ông dùng một lối viết mà đọc tới đâu người ta cũng cảm thấy ngay: Đây là những chuyện thật, sự thật được bày ra, sự thật ròng, như thịt xương còn sống, tàu lá còn xanh, như gỗ mộc không sơn phết. Những suy tư, thao thức của tác giả được trình bày riêng, bên ngoài các sự kiện. Người viết không thêm thắt tình cảm, suy tư, phê phán, như thêm mắm muối, tiêu, hành, vào cho món ăn thêm mùi vị. Như khi ông thuật lời nhà báo Tiêu Lang đã chứng kiến cảnh mấy anh du kích đặt cái xác bà Nguyễn Thị Năm vào áo quan, áo quan nhỏ quá không vừa. Mấy anh bèn đứng lên trên xác bà đẩy cho lọt xuống. “Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ.” Hay khi ông kể chuyện về họa sĩ Phan Kế An, một trong bốn năm người cùng phụ trách báo Sự Thật lúc đầu. “Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm hơn, An nói: À, cái Z. tự nhiên mang ba lô, chăn chiếu đến chỗ Ông Cụ, tớ được xua về sớm. Vài tháng sau, An lại về muộn. Hỏi vì sao thì An nói không thấy Z. đến nữa. Chắc ‘máy’ cụ yếu, giải đáp thuần túy sinh học. Không tính đến sở thích, ‘gu’ của cụ.” Trần Đĩnh cũng nhớ trong lớp học “chuẩn bị cải cách ruộng đất” tháng Bảy năm 1953, “Cụ Hồ đến giảng cách nhật, có lúc cụ đùa hô lên trong hội trường Hồ Chí Minh Muốn Nằm!” “Rồi tay chỉ vào đầu [nói]: Từ đây thì Bác già, nhưng từ đây (tay chỉ vào bụng) thì Bác trẻ.”
Trần Đĩnh kể chuyện vợ nhà thơ Lê Đạt, ông bị đưa đi lao động “cải tạo” vì tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Người đàn bà mang tội là “vợ Nhân Văn” … bị “cơ quan, tập thể liên tục ép bỏ chồng” nhưng bà không bỏ…” [N]hững đêm giá buốt Thúy diễn kịch ở Hải Phòng, Đạt từ chỗ lao động cải tạo xuống tìm vợ. Không có giấy chứng minh nhân dân, Đạt không thuê được nhà trọ, hai đứa ngồi ghế vườn hoa suốt đêm nghe còi tàu thủy hú thi với gió biển.” Một câu văn ngắn cho chúng ta sống cả một đêm dài nghe tiếng tầu thủy vang vọng trong tiếng gió hú. Tác giả đóng vai một nhân chứng, một người quan sát, chỉ thuật lại những gì mình nghe, mình thấy. Thời sau chiến tranh, báo Nhân Dân có cuộc họp năm sáu chục người “ôn lại thành tích tuyên truyền chiến tranh chống Mỹ. Nguyễn Sinh, xưa phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói. Lại tố cáo những chiến công giả người ta gán cho Mẹ Suốt, Trần Thị Lý sông Lấp Quảng Bình. Sông đã lấp thành tên [tên Sông Lấp] mà nhà báo cứ ca ngợi cô Lý oằn lưng chèo lái… Hầu hết nghe đều cười. Tự giễu và rộng lượng. Nhưng khi Sinh nói ở Vĩnh Linh, anh đã chứng kiến người bên kia bị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi lại thấy mọi người mặt lạnh tanh.” Thêm một chuyện ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản đã nổi tiếng đóng góp nhiều vàng cùng với nhà cửa trong “Tuần Lễ Vàng” thời trước kháng chiến. Sau chiến tranh bà Lợi Quyền vẫn còn một ngôi nhà tại Hà Nội. Đầu thập niên 1980 “được ban Tuyên Huấn Trung ương đến hỏi. Chê đắt [không mua]. Đùng một hôm xe tuyên huấn chở mấy bao tải tiền đến mua, đắt cũng được. Ba ngày sau đổi tiền.” Tác giả ghi thêm: “Tố Hữu [phó thủ tướng đổi tiền], nguyên trưởng ban tuyên huấn đã hạ thời cơ tuyệt hảo …” Và ông nhắc lại bài Quốc Tế Ca hát rằng: “Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình!” Phê: “Quá giỏi!”
Đèn Cù đầy rẫy những “đoạn phim” ngắn như vậy. Rất nhiều “clip” chợt hiện trên màn ảnh trong nửa phút, rồi chuyển ngay sang cảnh khác, liên tiếp chạy nhanh qua não bộ. Đoạn phim lưu đọng trong óc mình mãi mãi, trộn lẫn cùng những đoạn phim ngắn khác, không theo thứ tự thời gian, cũng không theo một dòng lý luận nào. Tất cả cho người đọc một toàn cảnh sống động về xã hội nước Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ, trước và sau khi tác giả đặt bút viết cuốn sách để đời này. Tất cả là “truyện tôi.” Nếu không có cái tôi sống, tôi quan sát, tôi rung động, tôi ghi nhớ, tôi suy nghĩ, thì không có “truyện tôi.” Trong trí não con người đời sống vốn không có trật tự, nó chợt hiện, chợt tắt, ngổn ngang, chắp nối, không xếp đặt theo không gian cũng không theo dòng thời gian đơn tuyến và trực tuyến. Đời sống thật vẫn như vậy. Đó là cảnh Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh. Cho nên Đèn Cù là một tác phẩm nghệ thuật. Đây là một sáng tác văn nghệ. Thử tưởng tượng có một người trước khi đọc không hề biết gì về bối cảnh lịch sử ở nước Việt Nam, chưa bao giờ nghe tên những nhân vật như Nguyễn Tư Nghiêm, Văn Cao, Lê Đức Thọ, Hồng Linh, Thép Mới, Lê Trọng Nghĩa, Hồ Chí Minh, Lê Đạt, Tô Hoài, Hồng Hà, vân vân; khi đọc Đèn Cù người đó cứ nghĩ đây là những nhân vật hoàn toàn do tác giả bịa ra. Độc giả nghĩ Trần Đĩnh sáng tác một cuốn truyện, sẽ thấy Đèn Cù là một thể loại tiểu thuyết mới, rất mới.
Suốt cuộc đời cầm bút (ông mới tập dùng máy vi tính khi đã về già), Trần Đĩnh nói, “Tôi vẫn mong rồi có một quyển sách thật sự của tôi, của chính tôi.” Bởi vì, gần suốt cuộc đời viết, lách “tôi đã tự nguyện làm thủ phạm tàn phá trước hết vào chính ngay mình. Tôi vốn yêu viết. Nhưng đã không viết nổi. Đứa thủ phạm là tôi bắt tôi viết dưới bóng tối của Thù Hằn và Dối Trá …”
Trần Đĩnh biết rất nhiều chuyện. Trần Đĩnh coi Trường Chinh là thầy trong nghề báo, được ông tổng biên tập báo Sự Thật (Trường Chinh) dậy từng chữ khi anh nhà văn 19 tuổi mới vào trong A Tê Ka (An Toàn Khu), năm 1949. Anh ngủ chung lều với Lê Quang Đạo, nhiều lần phải hất tay Lê Quang Đạo ra, và nghe lời xin lỗi, “Chúng tớ ở tù lâu ngày sinh hư.” Anh ngồi sau lưng Hồ Chí Minh trong buổi lễ truy điệu Stalin chết; nhìn cảnh Tố Hữu diễn vai đau khổ ôm bức hình Stalin đặt lên ban thờ, sau nay nghĩ có lẽ ông ta khóc Stalin là khóc thật. Rồi nhìn thấy hộp thuốc lá Trung Hoa Bài do Hồ Chí Minh bỏ quên trên ghế bên cạnh, anh cầm lấy mang đến tận phòng, “Dạ, thưa bác, Bác để quên ạ!” Và nhìn thấy “Mặt cụ xưng lên, đầm đìa nước mắt, hai mắt húp lại … Cụ ngơ ngẩn nhìn tôi, nhìn hộp thuốc lá như không hiểu tôi vào làm gì …” Trong lớp chỉnh huấn chuẩn bị cải cách ruộng đất năm 1953, một hôm “Cụ Hồ nói: Các chú các cô không sợ người ta kêu mình kém trí thức, ít lý luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi khôn. Chú tôi là Stalin, Mao Trạch Đông…” Trần Đĩnh chắc là người đầu tiên tiết lộ Hồ Chí Minh đã tới quan sát cuộc đấu tố đầu tiên ở Đồng Bẩm, hóa trang che bộ râu để không ai nhận ra. Và Trường Chinh thì đeo kính đen tới dự, để rút kinh nghiệm mà rèn luyện các đội cải cách đấu tố cho đúng tiêu chuẩn thù ghét. Xưa nay nhiều người vẫn kể rằng Hồ Chí Minh không muốn giết bà Nguyễn Thị Năm, nhưng bị cố vấn Trung Cộng ép buộc nên phải giết. Trần Đĩnh đưa ra một bài báo ngắn do Hồ Chí Minh viết kết tội đích danh bà Năm đồng thời đả kích cả giai cấp địa chủ. Bài báo này, được dẫn chứng đầy đủ, dùng một bút hiệu, ký tắt, cho nên chỉ người bên trong tòa báo mới biết người viết là Hồ Chí Minh. Trần Đĩnh cũng là tác giả đầu tiên đã gặp cô Xuân (nhân vật đã được Vũ Thư Hiên kể trong Đêm Giữa Ban Ngày) ở trên chiến khu từ năm 1953, cô là “Con nuôi Bác.” Có lúc Trần Đĩnh đã nắm tay cô Xuân, khoe đã lấy tên cô làm bút hiệu. Ông cũng kể chuyện đi theo Hồ Chí Minh dự mít tinh rồi “đi lượn phố, thăm trường học” ở Móng Cái, năm 1960. Hồ viết lên bảng một chữ Hán “nhân,” rồi hỏi: “Trây sấn mà chề” nghĩa là “Đây là chữ gì?” nói bằng tiếng địa phương, là tiếng Khách Gia, Hakka, miền Nam gọi là tiếng Hẹ. Tác giả thắc mắc, “tại sao đến đây Cụ đi chơi phố nhiều như thế? Khéo đã ở đây thật?” Và có lúc đi trong phố “Cụ chỉ vào một ngôi nhà phía bên kia đường nói với tôi, đi bên cạnh: Ở nhà này ngày xưa có một chị bí thư chi bộ. Tôi ngợ ngay. Có quan hệ tình cảm gì với Bác?” Độc giả sẽ không ngạc nhiên khi đọc những tình cảm thân mến của tác giả với nhân vật Hồ Chí Minh. Trong chương chót, Trần Đĩnh nhận định về Hồ Chí Minh: Lòng trung của Hồ Chí Minh đối với Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông là vô bờ. Cho nên lòng trung với nước Việt, dân Việt vơi đi. Trong lần đi thăm khu gang thép Thái Nguyên, “Sau bữa cơm trưa, thấy Cụ quần áo cánh nâu đi vòng ra sau dẫy nhà tranh đến rặng chuối thay hàng rào, tôi đi theo. … Thấy tôi gần như ở ngay bên, cụ quay ngoắt lại hỏi, điếu thuốc khẽ lật bật ở môi: ‘Người ta đái cũng theo à?’ ‘Không ạ, cháu …!’ ‘Thế đứng sát vào người ta nhòm gì?’” Rồi Trần Đĩnh kể tiếp, “Chiều ấy, khoảng bốn giờ về tới chủ tịch phủ, tha thẩn ở sân chờ lấy xe đạp … bất thần chợt nhớ đến Xuân, cô con gái nuôi của Bác. Hỏi mấy người đứng tuổi nom có vẻ quen từ trên rừng. A, cô Xuân ấy hả? Lấy chồng rồi. Chồng lái xe. Nhưng chết rồi. … bị ô tô đè …”
Năm 1962 Trường Chinh đã nhờ Trần Đĩnh viết hồi ký, nhắc lại từ những ngày đi họp ở Pắc Bó năm 1941, với ý định dùng quá khứ vinh quang “phất một ngọn cờ tập hợp” phe mình. Nhưng sau đó tập hồi ký không dùng đến vì biết mình đã thua hẳn phe cánh Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh rồi. Nhiều người cũng muốn nhờ, vì Trần Đĩnh nổi tiếng khi viết hồi ký giúp cho người khác. Anh kể chuyện những người tù Côn Đảo, văn sống và khích động, như chính anh đã trải qua các gian khổ đó. Cuốn Bất Khuất (viết năm 1965) kể chuyện Nguyễn Đức Thuận, một người tù Côn Đảo tranh đấu trong tù, được đưa ra ngoài Bắc. Lê Đức Thọ, Tố Hữu, Hoàng Tùng chủ trương dùng câu chuyện Nguyễn Đức Thuận để tuyên truyền khích động cho người miền Bắc ủng hộ cuộc tấn công vào miền Nam. Viết Bất Khuất, cái tên do Tố Hữu đặt, Trần Đĩnh không ký tên, tiền nhuận bút cũng nhường cho Thuận. “Vì không thích nói dối.” Nhưng được những độc giả như Trần Dần khen thì vẫn thích: “Mày viết cái Bất Khuất ấy, tao thích cái grammaire.” Nguyên Hồng thì bậm môi, vuốt râu nói: “Mày, Trần Đĩnh à, mày có tâm hồn, mày có nghệ thuật nên mày viết cái ấy cho Thuận hay.” Một lần năm 1960 gặp Vũ Kỳ (thư ký riêng của Hồ Chí Minh): “Vũ Kỳ bảo tôi sẽ cộng tác với anh viết hồi ký về Bác ‘khi Bác hai năm mươi.’ Viết xong tiểu sử, tôi (Trần Đĩnh) gửi lên cho Cụ một bản để duyệt. Cụ chữa từng trang. Có những đoạn viết ra ngoài lề: Xem lại? Hỏi lại? Bản thảo này tôi giữ.” Sau đó sách in ra, “Mừng tiểu sử chính thức đầu tiên của Hồ chủ tịch ra đời, Tố Hữu khao một bữa thịt chó thịnh soạn tại nhà” (Tố Hữu được lãnh nhuận bút 200 đồng vì có công đọc và kiểm duyệt, người viết chỉ được 400 đồng; còn “Huy Tưởng, Hoài Thanh chả [được] tẹo nào).
Trần Đĩnh cũng viết hồi ký cho Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm (một trong vài ba đảng viên cộng sản đầu tiên). Lê Đức Thọ cũng có lúc muốn nhờ. “Cậu viết giỏi lắm, tớ rất thích. Không ở tù mà viết y như thằng đã ở tù… Tớ sẽ nhờ cậu viết hồi ký cái đoạn tớ chuẩn bị tổng khởi nghĩa rất hay.” Và Thọ hứa hẹn sẽ đem Trần Đĩnh theo phái đoàn sang Paris đàm phán. Sau Trần Đĩnh không viết, “Hú vía!” Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh nhờ viết hồi ký, đều từ chối. Trần Đĩnh làm việc gần với các lãnh tụ cộng sản Việt Nam từ năm 19 tuổi, cho nên biết nhiều chuyện. Như đến nhà Sáu Thọ, ngồi ngoài sân bên cạnh cái hầm tránh bom, thì nhận ra cái hầm này sâu 10 mét, trong khi cái hầm nhà Lê Thanh Nghị (anh đã nhiều lần xuống ẩn trong hầm này), chỉ sâu có tám mét, dù cả hai đều trong Bộ Chính Trị. Gần gũi họ, cho nên mới biết cảnh trong nhà Lê Đức Thọ một ông tướng chào Sáu Thọ xong, bước ra về mà cứ thế đi giật lùi, đến nửa cái sân mới dám quay lưng rồi tiến ra cổng. Nhìn mặt, thì ra Lê Đức Anh.
Trần Đĩnh sống trong cái đèn cù đó, trong lòng không yên. Anh bắt đầu nẩy mối bất nhẫn trong lòng khi chứng kiến những tội ác trong cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào đảng, tin vào những động cơ tốt của các lãnh tụ. Chuyển biến tâm lý mạnh nhất phát sinh trong năm năm du học ở Bắc Kinh, sống qua thời kỳ các phong trào bước nhảy vọt, đánh hữu phái, công xã nhân dân, vân vân, từ 1955 đến 1959. Trong thư viện Đại học Bắc Kinh, một góc bày các sách cũ tiếng ngoại quốc, anh được đọc cuốn “Từ số không đến vô định” của Arthur Koestler; câu chuyện một người bị Stalin bỏ tù. Anh cũng được đọc báo Le Monde trong thư viện đại học, và biết chuyện tố cáo tội ác của Stalin trong đại hội thứ 20 đảng Cộng sản Liên xô. Nhưng ảnh hưởng quan trọng nhất là do anh sống bên người Trung Hoa, anh trực tiếp gặp nhiều sinh viên cùng tuổi, được nghe, được thấy, để biết chế độ Mao Trạch Đông giả dối, tàn bạo và coi khinh mạng sống dân chúng như thế nào. Khi Mao Trạch Đông cho phép “trăm hoa đua nở” báo Nhân Dân (Bắc Kinh) cũng đăng những bài phê phán đích đáng, mở mắt anh du học sinh người Việt “được thấy trí thức Trung Quốc sôi sục chống đảng.” Quan sát thực tế, lại thấy “dân Trung Quốc khốn khổ vì đảng.” Cho nên, “Tôi bắt đầu ‘hư hỏng’ (nghi ngờ đảng) vì đã nhận ra chân tướng đại bịp. Người ta lừa bịp đại trà được là nhờ khai thác những bản năng thấp kém của con người: Sợ và tham.” Từ đó, Trần Đĩnh chống Mao, kinh tởm Mao, sau khi về nước vẫn tiếp tục. Vì thế anh là đối thủ của đám các đồng nghiệp thần phục Mao trong báo Nhân Dân, mà anh gọi là bọn “Mao nhều.” Kiểu như Hồng Hà, người từng nghẹn ngào nói như mếu: “Tôi xin cảm ơn Mao Chủ tịch vĩ đại đã mở mắt ra cho tôi thấy Liên xô, Kroutchev là phản bội, đầu hàng, xét lại…”
Trần Đĩnh ghê sợ âm mưu lợi dụng của Mao Trạch Đông, vì nhớ mãi câu ông ta nói: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ.” Chủ trương này dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Mao chấp nhận chiến tranh nguyên tử. Tại Bắc Kinh, Trần Đĩnh được hai người bạn Trung Hoa làm báo tiết lộ về cuộc họp chi bộ trong Văn Nghệ Báo để nghe chỉ thị tối quan trọng. Hai anh kể, chỉ thị được ban xuống cho dân Trung Quốc thấu triệt là họ không phải sợ bom nguyên tử. “Vì dù Mỹ có ném xuống một nghìn quả bom nguyên tử, dẫu trái đất có bị tàn hoang đi nữa thì ít nhất cũng còn sót lại một huyện dân Trung Quốc, huyện ấy sẽ ương lại giống người trên trái đất này.” Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ. Cho nên Mao muốn phát động chiến tranh, “đánh Mỹ tới người Việt cuối cùng.” Mao cũng muốn đứng đầu phong trào cộng sản thế giới, sau khi thần tượng Stalin bị đàn em lật đổ. Lê Duẩn ngả theo chủ trương Mao; ghét những người muốn theo Cộng sản Nga muốn chung sống hòa bình với Mỹ và giảm bớt ách độc tài trong nước. Lê Duẩn từng ca ngợi Mao Trạch Đông là “Lê Nin của thời đại ba dòng thác cách mạng châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh.”
Đối nội, Duẩn tạo ra vụ án “xét lại, chống đảng;” đánh vào những người bị coi là thân Liên Xô. Lần đầu chỉ đánh giằn mặt bằng phê bình, kiểm thảo. Năm sau Chu Ân Lai sang Hà Nội phổ biến tin tức Mao đánh các đồng chí lãnh tụ trong đảng của ông ta rồi, Duẩn mở chiến dịch thứ hai, tống giam hết cả đám. Giống như đem họ ra làm vật “thế chấp” để được Mao ủng hộ. Trần Đĩnh cũng bị nghi ngờ, bị hạ tầng công tác, bị bắt giam và hỏi cung. Có lúc anh hãnh diện kéo chiếc xe hai bánh “diễu hành giữa thanh thiên bạch nhật, ở trung tâm Hà Nội, tươi tỉnh đi trình đường phố, nhận minh bạch đường hoàng mình chống đảng.” Lê Đức Thọ gọi Trần Đĩnh tới, kể tội đám xét lại cho nghe: “Vừa ở Paris về nghe an ninh nó nói cậu dính vào vụ chúng nó tớ … tiếc lắm. … Tớ đã nói là tớ mến cậu vì cậu trẻ, cậu có tài …”
Đối với bên ngoài, Lê Duẩn bám sát chủ trương của Mao gây cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam. Theo Trần Đỉnh thì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không muốn đánh, nhưng không chiếm được đa số nên chịu phục tùng. Khi cuộc Cách mạng Văn hóa gây lo lắng Trung Quốc sẽ loạn lớn, Lê Duẩn thấy phải đánh ngay, đánh trước khi Bắc Kinh tan vỡ không còn chỗ dựa. Cho nên mở cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Sau này, Lê Duẩn theo Nga, chống Trung Cộng, thì lại hết lời mạt sát từ Mao Trạch Đông tới Đặng Tiểu Bình.
Đèn Cù đưa chúng ta vào một xã hội điên đảo, “sáng đúng, chiều sai, mai lại đúng.” Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh…. Những đoạn phim thú vị nhất rút ra từ cuộc sống của những con người bình thường, các nhà văn, nhà báo, các cán bộ, những người qua đường.
Nhà báo Minh Tường từ Hà Nội, theo đoàn quân chiến thắng vào Sài Gòn. Anh tìm được đến nhà mẹ mình, bấm chuông. Bà mẹ mở cửa ra, chấp hai tay vái lạy: “Thôi, tôi xin anh, anh đi với các đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên.” Trần Đĩnh đứng với Tô Hoài trên lề đường nhìn toán tù binh Mỹ bị đưa diễn trên đường phố Hà Nội cho dân chửi rủa, ném đá. Khi người phi công cuối cùng qua trước mặt, bỗng Tô Hoài chạy ra với tay đấm vào mặt (đấm hụt). Tô Hoài giải thích, mình phải bày tỏ lập trường; nếu không có đứa nào nó báo cáo mình đứng ngoài coi trong lúc “nhân dân căm thù” thì nguy. Có ai được nghe lời Trần Độ tâm sự, sau khi đã tỉnh ngộ, viết Nhật Ký Rồng Rắn: “Này, nói thật chứ bây giờ … hễ nghe thấy cái gì là sự thật thì trong người sướng ghê lắm ấy!” Có ai được nghe một nữ nhân viên báo Nhân Dân đã về hưu bày tỏ nỗi oán hận: “Ông cha đổ bao xương máu giành được độc lập nhưng nô lệ vẫn hoàn nô lệ!” Trần Đĩnh rất gần Lê Đạt. “Một hôm Lê Đạt bảo tôi: Nhà thơ có lẽ là người yêu nước nhất. Họ chăm lo nhất đến tiếng mẹ đẻ…. Đạt nhiều lần giục tôi viết: Tiểu thuyết về mày, gia đình mày – Tôi im lặng. Biết viết là cực kỳ cô đơn. Và quả tình tôi đã thật sự cô đơn – đúng ta là bí mật – trong bao nhiêu năm với cuốn sách này.”
Sống hầu hết cuộc đời trong một xã hội mà Đảng Cộng sản và lãnh tụ chiếm “đặc quyền viết, đặc quyền nói;” chỉ dùng các nhà văn làm đầy tớ, “Ôi đã làm đầy tớ thì có đời thuở nào còn dám sáng tạo?” Bây giờ Trần Đĩnh đã viết. Lúc đầu, ông chỉ định viết để “tố cáo tội gây nội chiến Nam Bắc là sai lầm;” trong khi viết thì đổi ra hướng “phê phán toàn diện.”
“Vâng, tôi xin đối mặt với công luận đây. Tôi ăn gian nói dối thì các ông cứ việc vạch ra.” Đó là lời Trần Đĩnh, tác giả Đèn Cù. Xin mời quý vị bước vào, cùng sống trong cảnh Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh (ối a) nó tít mù.
Ngô Nhân Dụng Tháng Tám, 2014
***
Đèn Cù 1
Chương 33
Lê Đức Thọ không bắt tù tội nhưng bắt đi lao động cải tạo. Cùng Chính Yên. Tại nhà in báo đảng, cơ ngơi cũ của IDEO, Nhà in Viễn Đông Pháp, phố Tràng Tiền. Tôi hẹn Chính Yên 7 giờ sáng tới vườn hoa Nhà Kèn chuyện trò vài câu đã.
Đến đây xin một ngoặc đơn: Vườn hoa này mang tên bà thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi, con gái Nehru. Sao không phải Lê-nin hay Mao Trạch Đông? Khó, hai gánh ân tình của ta thù nhau nên ngáng nhau vào vườn hoa Hà Nội do đó Ấn Độ, quê hương Phật giáo vớ. Nhưng sao không phải Thánh Gandhi hay Nehru, hai vị sáng lập ra Nhà nước cộng hoà Ấn Độ mà lại là con cháu thua xa các vị về tên tuổi, tài cán? Bởi lẽ Gandhi kịch liệt chống bạo lực, còn Nehru thì bị Bắc Kinh chửi thậm tệ và Hà Nội đã té nước theo mưa…
Còn mãi sau này nhờ Trung Quốc đã thành thù, Lê-nin mới rộng chân đến được vườn hoa Canh Nông cũ. Ở đây trước đặt tượng Tứ dân sĩ nông công thương làm lụng dưới bóng che chở của một lính Pháp chỉ tay vào Cột Cờ ra ý bình định Hà Nội. Nay Lê-nin cũng chỉ tay song Người “chinh phục trái tim khối óc” chứ đất cát Người không thiết. Và rất lạc hậu về quan trí, dân Hà Nội đã vè:
Ông Lê-nin ở nước Nga, Cớ sao ông đứng vườn hoa nước này, Ông ưỡn ngực, ông chỉ tay, Ông xem như thể nước này của ông, Tự do hạnh phúc đừng hòng còn xa, Kìa xem gương của nước Nga, Bảy mươi năm lẻ mà có ra cái đếch gì!
Rồi từ đây kỷ niệm ông, chả biết phân cấp thế nào mà chỉ có thành uỷ mấy người đến cúi đầu tưởng nhớ ông còn Trung ương trở lên thì không…
Ngồi ở ghế góc giáp Bắc bộ phủ trông sang Ngân hàng, tôi bảo Chính Yên:
- Mình muốn nói cái này. Một là sự sống chắc chắn tiến lên chứ không hãm tài thế này mãi. Hai là, la sagesse du peuple - cái sự khôn ngoan của dân, không bao giờ coi chúng ta là phản động. Cậu thích Camus thì Camus có câu này đấy: Đâu không có hy vọng thì hãy phát minh ra hy vọng ở đấy…
Chính Yên lên xe đạp từ trên hè tụt xuống đường, ngửa cổ hát câu mở đầu quốc ca Pháp: Nous entrerons dans la carrière…
Giám đốc nhà in Trần Ngọc Phương, chốn quen biết từ tít thời rừng sâu núi thẳm đích thân đưa tôi lên gác năm đến tổ đồng mô (tiếng Trung quốc là mẫu chữ đồng), bộ phận chuyên sản xuất chữ chì. Trước đó chữ toàn nhập.
Ngọc Phương trước là công nhân sắp chữ ở báo l’Action, nơi bố tôi làm ở đó. Lúc chỉnh đốn tổ chức tôi đã hỏi Phương xem bố ông có vấn đề chính trị gì không thì Phương nói ông cụ nói tiếng Tây như Tây và cứ ra khỏi toà báo là đã có mấy cô chờ. Ông cụ ông bênh công nhân chứ? Đúng, có khi quát thằng cai người Đức Reitauffer, thằng này hay xà-lù anh em công nhân ta lắm. Bây giờ có lẽ Phương bênh tôi vì thế chăng?
Chỗ tôi làm việc là một xó biệt lập hoàn toàn. Một góc tường năm sáu mét vuông. Tôi sẽ ngồi chiếu thẳng vào đỉnh góc và sau lưng tôi một đường ray lượn đúng đến đó thì dừng lại với một cỗ xe goòng mặt bàn thấp bé đỗ ở trên, thứ đồ chơi luôn làm tức dậy náo nức ở sau lưng một thời thơ nhỏ và một sớm lên đường. Giữa góc tường là một lò điện lớn, tôn của thùng đựng mực vây kín xung quanh. Trên mặt lò, một chảo đại. Nắp chảo hình nón bằng tôn có một ống khói bằng sắt tây vươn lên rồi gẫy làm ba khúc luồn qua khung cửa sổ nhỏ giáp trần chui ra ngoài: hệ ống thải khí độc. Một cửa vuông ở rìa nắp chảo úp xuống miệng chảo; tôi thò muôi qua đó múc chì chảy đổ vào khuôn thạch cao. Bên phải tôi, một cửa vu vơ ra lưng trời. Đúng lưng trời! Vì ngoài đó là một cầu gỗ mảnh dẻ, kiểu lan can tàu thuỷ, dài chừng hai mét rồi chấm hết lơ lửng. Nếu không phải là dẫn đến nơi tự sát dễ nhất.
Lúc nghỉ tôi hay ra đứng tì tay thành cầu cúi nhìn xuống sân khách sạn Thống Nhất. Một lần bảo Chính Yên đoán xem Danièle Hunebelle, nhà điện ảnh Pháp nổi tiếng và xinh đẹp, nhân tình lừng thế giới của Henry Kissinger và bà nhà văn nổi tiếng cũng xinh đẹp người Ý, Oriana Fallaci đã ở cái buồng nào tại ba tầng gác trước mặt kia. Tôi không nhớ bà nào đã viết: ở đây khi cần nước thì vòi không chảy mà đêm khuya không cần thì nó lại chuyên cần nhỏ giọt cầm canh cho khách không nhắm mắt. Sáng đang thiu thiu thì khắp xung quanh nhạc tập thể thao ầm ầm nổi lên cho “các gã xương xẩu tội nghiệp hoa tay múa chân” trên ngay vỉa hè quanh khách sạn… Viết về Cụ Hồ tiếp mình: Cụ ga-lăng theo kiểu tỉnh lẻ, lấy một cành hoa trong bình ra tặng tôi… Lúc đó chưa có hồi ký “Kẻ bị truất phép thông công” (nguyên văn bằng tiếng Pháp Un Excommunié - BT) của Nguyễn Mạnh Tường nên tôi chưa đoán đúng ông vào gian phòng nào để gạ khách sạn mua bộ đồ ăn quý, quà bạn bè bên Pháp tặng đám cưới vợ chồng ông.
Bị đánh đuổi sau Nhân văn - Giai phẩm, Nguyễn Mạnh Tường đói quá - có lần lả đi ở đường Trần Hưng Đạo - ông đành đến đây. Quản lý ái ngại đã nói thật: Bác ơi, chúng tôi cho bọn nước ngoài chúng nó vào để tiện lục soát xem chúng mang cái gì vào đánh phá chế độ ta thôi chứ ai mua các thứ này về hầu chúng hả bác? Phải nói chữ bạn đọc của ta hay hơn chữ người đọc của các nước. Là bạn của người viết thật. Ngồi ở sát bên khách sạn Thống nhất tôi có cảm tưởng đúng như mình đã bắt tay thân mật với Hunebelle, Fallaci, Nguyễn Mạnh Tường. Và cả Charlie Chaplin và bà vợ Paulette Godard. Ông đã ở đây và chắc từng gây tiếng vang lớn vì bà nội tôi vẫn thường bảo tôi lúc bé là nom như anh Sạc-lố! Tất nhiên với bà nội thì lố là ghép vào tên Sạc của ông.
Ngoài những chảo gang, lò điện, hàng chục cân chì, các đồ nghề của tôi rất gọn nhẹ: nịt cắt ở săm xe đạp ra, những dải băng ni lông để quấn các thanh nhôm làm khung khuôn, một thùng gỗ đựng thạch cao, một bát chiết yêu đã mẻ, một muôi mẻ (hai cái để ngào thạch cao), mấy ga-lê chèn chữ để chèn khuôn. Một hòm gỗ tạp vuông ôm kín hết lò điện và chảo chì, trừ mặt hòm khoét vừa khuýp với mặt chảo. Rìa hòm gỗ là bàn nghề của tôi. Đến giờ làm việc, tôi đeo khẩu trang, hạ cầu dao. Luôn thấy mình giống một tướng phù thuỷ từ giây phút này cho diễn ra những biến động âm thầm mà dữ dội ở cái khối chì đông cứng trong lòng chảo kia. Chờ chì nóng chảy, tôi làm khuôn chữ, những chữ hoa. Rồi múc chì sôi rót vào miệng khuôn. Lát sau dỡ khuôn, cho ra mắt một con chữ mới. Nhiều chữ phải giũa cho đúng “dem” hoặc cho vuông thành sắc cạnh. Ba nhát giũa, bụi chì đã óng ánh vun đầy quanh con chữ.
Tôi tả chi tiết cái việc nó sẽ “cải tạo” tôi vì cần nói rằng thứ nghiệp vụ này không thể tìm ra nơi thứ hai thực hành nó trên thế giới.
Lạ là vào việc tôi thường có cảm giác vào một cuộc chơi. Mặt chảo khẽ chao sóng, chì như một thứ phún thạch bạc xám vật vờ tìm một nơi neo đậu bên lòng chảo để tạo lấy một lục địa riêng cho nó. Những khuôn thạch cao đầy chì sôi bỗng hôi hổi trong lòng bàn tay, ấm dần, ấm dần. Để rồi thon thót đập: chì nguội đi. Lúc ấy tôi ngỡ mình ấp trong tay một con chim trắng, quả tim tí hon của nó đang nhận lấy máu tôi. Mỗi lúc giỡ khuôn cho bong ra con chữ mới, tôi lại ngẩn ngắm cái ánh cầu vồng bảy sắc lấp loá bắn ra từ nền chì tối. Cố đoán đọc những tín hiệu phát đi từ một chiều sâu nào: có một hành tinh xa đang muốn tiếp xúc với tôi. Lặng lẽ trao cho tôi một sinh điện mới, một ngôn ngữ mới, một cách nhìn mới.
Ngồi bên chảo chì rất nóng - mấy trăm độ nóng chảy - nhưng mỗi khi cỗ máy in rotative chiếm hẳn một gian xưởng lớn dưới tầng trệt bắt đầu chuyển động cùng những hồi chuông réo, những tiếng hô theo lòng giếng trời dội lên tận chỗ tôi ở tầng năm, rồi cuối cùng máy chạy rầm rầm với một tiết tấu ngày một gấp, một gắt, một đều rồi trơn nhẵn, phẳng phiu đi thì tôi lại bỗng ngỡ như mình đang dự vào một cuộc đua xe tam mã, tứ mã Nga lồng phóng trên tuyết thảo nguyên. Người mát hẳn lại và lanh lảnh bên tai tiếng chuông ngựa, tiếng gió hú gào, tiếng reo cuồng vui, tiếng Tolstoi thúc ngựa cha cha cha…
Khi đã thân, Quỳnh, sư phụ tôi, một thanh niên đẹp trai thì thào bảo tôi:
- Anh tội nặng lắm nên người ta mới bới lại cái việc đã xếp xó từ tám hoánh này ra cho anh làm. Độc hại bậc nhất trong ngành in đấy ạ. Hơi chì này, bụi chì này, nóng bức này. Anh Chính Yên chỉ có làm việc tiếp giấy cho máy in. Khi anh sắp sang họ bảo anh nguy hiểm lắm. Gần ai anh tiêm ngay nọc chống Đảng cho nên khi nhà máy phân công em giúp anh học nghề, em cứ lạy van chối, sợ lắm.
- Thế nay còn sợ không? - tôi hỏi.
- Nghĩ đến ngày anh về toà soạn em đã buồn.
- Thế có thấy mình tiêm cho cái gì chưa?
- Nghe anh nói hay lắm. Không chỉ em đâu. Cái T. tổ chữ, con nhà tư sản nòi nên không được thi vào đại học phải vào đây làm, anh có thấy ngày mấy lần nó từ tầng hai leo lên ngồi bên anh nói chuyện đấy không? Toàn diện xa-tanh, vế với đùi cứ căng ánh lên thế này, đấy, tư sản khổ đến đâu nom vẫn cứ sang. Nó bảo ngày xưa để lại thì có mà dùng chứ vải lụa bây giờ bán lại không tiền mua. Một tối bỏ xi-nê tập thể, T. và tôi đã đạp xe đi trong các phố vắng Hà Nội. Đến trước cửa công viên Thống Nhất đen thui, tôi hỏi T. đi đâu nhỉ? T. nói: “Anh đi đâu em đi đấy!”. Câu nói ngoan quá làm cho tôi đưa T. về. Trả tận chân cầu thang sâu trong cùng tầng dưới nhà vắng tanh ban ngày vẫn có hàng bán bún thang, bán phở thuê. Bàn tay T. đặt trên tay vịn cầu thang bằng lim bóng nhẵn tự nhiên ngửa ra, trắng như một đoá quỳnh mà các cánh thon dài của nó chợt run lên khiến tôi đã toan cầm lấy.
Những ngày Linh đi biểu diễn tôi mang con gái đến tận lò chì. Rải hai chiếu manh rách toang lên xe goòng, đeo cho cháu hai lớp khẩu trang rồi để cháu ngồi tự “mẫu giáo” ở đấy. Sớm tôi vừa rón rén dậy, cháu đã bật nhổm lên. Tôi thật không hiểu cái gì khiến cháu phối hợp tác chiến với bố ngon lành như thế. Vừa ba tuổi rưỡi.
Sáng đầu tiên đến tổ đồng mô, tôi nói với anh em:
- Sang học giai cấp công nhân đây.
Thì Thái Cò, một công nhân trẻ nói ngay:
- Anh đưa em hai hìu em sang hàng ăn trước mặt kia mua cặp quẩy ăn cho đỡ đói rồi em sang tên cho anh cái chữ lãnh đạo!
Khốn nạn, nhọ đít thì lãnh đạo bánh vẽ thôi! Quẩy vẫn hơn bánh vẽ, nào hai hìu đưa đây, sang tên nóng hổi.
Mấy tháng sau, mẹ Thái mất. Tối tôi đến phúng. Vừa bước vào liền thấy Thái áo xô lom khom ra đón, một tay che miệng khóc, một tay hẩy hẩy vào ban nhạc hiếu ngồi ở sau. Nhạc liền cất lên lâm li ai oán suốt thời gian tôi đứng trước bàn thờ.
Sáng sau đi làm, Thái bảo tôi:
- Tối qua em chờ anh đến là nổi “xã luận” đón… Thì ban nhạc hiếu thổi kèn rầm rĩ lên đấy thôi. Anh có thấy mấy cha trưởng ban bên toà soạn ngồi cứ tròn mắt ra lúc ấy không? Đâu có được đón bằng “xã luận kèn” réo rắt như anh?
Không biết có phải A Quy của Lỗ Tấn không mà nhiều lúc tôi hay tự hỏi “Ai thắng ai?”. Lờ mờ thế, không đẩy tới cùng xem ai là ai, kẻ mà tôi tin sẽ thắng nó.
Chính trong thời gian cải tạo bằng lao động với giai cấp công nhân, tôi được nghe rất nhiều tiếu lâm về… cách mạng. Anh em vừa lao động vừa i ỉ ngâm khẽ. Phải hỏi, phải van nài mãi, các tướng mới đọc rõ cho nghe.
Nhân phẩm toàn dân mất sạch rồi, Chỉ còn lương thực giá cao thôi, Lương tâm giá rẻ hơn lương thực, Chân lý, chân giò cũng thế thôi…
hay
Đảng là mẹ, Bác là cha, Bác ta mất sớm, mẹ ta goá chồng. Bác ơi sống lại mà trông, Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều!
Có một toán công nhân sang Liên Xô học nghề in vừa về. Tỏ ra có phong cách Nga hơn. Tức là kể tiếu lâm thoải mái. Hỏi ngay tôi:
- Anh có thích nghe tiếu lâm Liên Xô không?
Và kể luôn. Brezhnev dắt cháu nội đi thăm lăng Lê-nin. Vẫn quen nghe ông ông vĩ đại, đứa cháu hỏi: “Ông ơi, sau khi ông chết thì ông cũng sẽ ở đây phải không?” “Ông còn đi đâu nổi với dân ta nữa chứ hả cháu?”. Thì Lê-nin lật hòm kính đứng ngay lên chỉ tay ra cửa lăng: “Cái thằng này! Mày tưởng đây là nhà tập thể hả? Cút mẹ mày đi!”
Những tiếu lâm và ca dao rất hay, không thể kể hết vào đây… Bác Hồ cũng chả thoát. Bài vè Bác và các cháu làm thơ đấu nhau về thế nào là ỉa đúng ỉa sai kỷ luật quá hay.
***
Tháng 9, viêm phế quản, tôi nằm bệnh viện. Cạnh giường là tham tán thương mại Ba Lan. Ngay sau cái nháy mắt đầu tiên, chúng tôi liền chuyện như ngô rang. Tiện là có lẽ ít ai hiểu tiếng Pháp trong gian phòng bốn người này. Ở bên trong cùng phòng là một người mặt nom lúc nào cũng khó đăm đăm. Tôi cảm thấy anh ta không thích chúng tôi tán chuyện với nhau bằng thứ tiếng từng là thù địch. Ít lâu sau, anh ta ra viện. Nhìn vào mặt tôi, anh ta nói: “Tôi ở Bộ công an, cũng biết tiếng Pháp”. Rồi quay sang chào anh tham tán Ba Lan: “Bonjour!”
Nằm bên nhau đã hai tuần mà chia tay lại chào mới gặp, thảo nào anh ta không sửng khi ông Ba Lan chế “kông” tức cộng sản.
Rồi anh ta ra khỏi phòng mặt tự nhiên oai vệ hẳn. Tao có ngọng cái tiếng chúng mày trộ tao đâu?
Anh bạn Ba Lan rất thích phụ nữ Việt Nam. Họ biết họ phải làm gì cho đàn ông. Phụ nữ Âu chỉ biết đòi hỏi đàn ông.
Sao cậu gặp được họ? Ồ, cảnh sát mải soi máy bay Mỹ thì mặt đất là của chúng ta. Chúng mày có gì xuất khẩu được nhỉ?
Không có. Cam chúng mày chua như chanh. Cam Maroc chúng nó ngọt như đường và không có hạt. Có một cái chúng mày xuất khẩu được là biển, đáy biển, lướt sóng, lặn săn bắn cá… Nhưng chúng mày lại cấm du lịch! Cái sự cấm của chúng mày thì không ai nghĩ ra nổi, - impensable. Chúng tao là xã hội chủ nghĩa, viện trợ chúng mày nhiều thế mà cũng không được gặp chúng mày. Nhà nào cũng kẻ khẩu hiệu “Nhà tôi không giao thiệp với người nước ngoài”. (Tôi hỏi: Biết?) Biết, bọn Nga chúng nó mách. Chúng tao bảo giá nước chúng mày dọn ra một hòn đảo giữa Thái Bình Dương rồi cả thế giới cung phụng cho mà sống thì gọn được biết bao nhiêu là chuyện cho chúng mày và thế giới.
Anh bạn Ba Lan ra vào Sài Gòn xoành xoạch khi làm việc cho Uỷ ban quốc tế giám sát ngừng bắn. Tôi hỏi bọn Mỹ thế nào? Anh bạn nhìn quanh rồi giơ ngón tay cái lên. Tôi đùa:
- Mais c’est l’ennemi? Kìa, kẻ thù đấy!
Anh ta nhún vai:
- Chúng tớ thấy họ là người làm từ thiện.
Một chiều tôi đang chuyện với Chính Yên vào thăm thì Phạm Song, chủ nhiệm khoa lây tìm tôi.
- Anh đến chỗ tôi đi, anh Sáu Thọ gọi.
Sáu Thọ cười rất vui ở đầu dây.
- Ốm sao? Lên tớ được chứ?… Ừ, sáng mai chín giờ hả.
Thăm tôi ở đây, Chính Yên cũng muốn lên.
- Ừ, bảo nó lên với cậu.
Thọ đã chờ sẵn ở bậc tam cấp. Vừa vào khỏi cổng sắt, thấy Thọ cười răng rất trắng, tôi gật đầu chào rồi đưa một tay go gõ vào thái dương.
- Làm quái gì mà chẳng bạc! - Thọ đáp.
Vào chuyện là cự ngay:
- Sao chúng nó lại đưa cậu đi lao động cải tạo? Lao động như thế chỉ tổ bất mãn. Đưa cậu xuống một hợp tác xã hay một nhà máy có phải là bây giờ cậu đã viết được một quyển tiểu thuyết rồi không? Tớ vừa ở Paris về là gọi cậu ngay…
Lan man chuyện chừng mươi mười lăm phút, Thọ nói sắp bắt thằng Lưu Động.
- Không nên bắt! - tôi nói.
- Tại sao?
- Vì khổ vợ con anh ấy. Hãy bảo công an doạ.
- Thằng này láo lắm. Nó đã được tớ khoan hồng mà cứ láo, nói bừa bãi, chửi tớ ghê lắm…
Tôi chột dạ. Lưu Động nay như tên biệt xứ rồi, có ai đến chơi nữa đâu mà bậy bạ?
Ra khỏi cổng, Chính Yên nói ngay:
- Sợ cho anh quá, cụ Kễnh vừa nói “bắt” là anh nói “không nên”.
- Tớ vẫn quen nói thế với các ông ấy. Có cái này mới sợ này. Bây giờ mà Lưu Động nó chuồn là tớ hay cậu vào tù thay, ông ấy sẽ bảo là báo cho nó chạy.
Chính Yên ngớ ra. Nhưng ngây ngô hết. Sáu Thọ muốn tôi lộ! Tôi lộ thì nhiều khả năng Lưu Động sẽ xin gặp Sáu Thọ hỏi tại sao anh đã thông báo toàn đảng không bắt tôi mà nay lại bắt. Sáu Thọ sẽ bảo cậu đem nộp ngay tớ các nhật ký cậu ghi chuyện chửi tớ và thế là yên chuyện.
Tôi không báo và Lưu Động vào tù.
Anh cho biết anh vừa chân ướt chân ráo vào là Sáu Thọ gặp anh ngay:
- Nhật ký chửi tớ đâu? Nộp ngay cho tớ.
- Tôi đốt nó rồi.
- Cậu nói láo, cậu gửi nó cho đại sứ quán Liên Xô, anh em chúng nó mách tớ. Bây giờ cậu phải đi cùng anh em vào bảo họ trả lại cho cậu.
- Thông báo anh nói không bắt tôi, tôi đã đốt…
Nhật ký này ghi chuyện Thọ thật. Lưu Động có cho tôi đọc cùng với một ít hồi ký anh viết dở chừng. Trong có chuyện làm trưởng trạm giao liên của Trung ương, Lưu Động đã ngủ với một cô liên lạc sau là vợ một uỷ viên Bộ chính trị. Anh hỏi tôi:
- Có để được không hay là bỏ?
- Nếu lúc ấy bà ấy là vợ ông ấy rồi thì nên bỏ còn vẫn chưa chồng thì chả bỏ làm gì, hoài của đi.
Cải cách ruộng đất đợt hai gì đấy, một hôm Hồ Viết Thắng bảo Lưu Động về Nam Định gặp hai chi bộ đã qua cải cách, một ở quê Sáu Thọ, hỏi xem có phải đúng Sáu Thọ gửi thư về quê mách cách phân tán ruộng đất thật như dư luận phản ánh không, và một ở quê Trường Chinh hỏi xem có phải bố đẻ Trường Chinh là địa chủ gian ác, thu cả tô tôm tép của trẻ con mót ở đồng của ông cụ không.
Chi bộ quê Thọ nộp thư Thọ mách cách đối phó cải cách ruộng đất. Lưu Động đưa nó cho Hồ Viết Thắng. Thắng nộp Thọ nhưng Thọ muốn xoá đi cả vết tích, thư này được ghi nguyên văn trong nhật ký Lưu Động, nhất là có tin nói đại sứ quán Liên Xô nắm được nhật ký này. Sau có lần tôi hỏi Lưu Động gửi nhật ký cho Liên Xô thật à, Lưu Động bậm mồm không nói, mắt gườm gườm rất bí mật. Tôi lại hỏi thế còn ở nhà không thì anh càng gườm mắt rồi hất đầu sang nhà đối diện, cách một cái ao to, ý như cẩn thận… Anh phải cái tính hay quan trọng hoá.
Về ông bố của Trường Chinh thì chi bộ mới tổ chức lại nói ông cụ dạy học, không là địa chủ và không thu tô tôm tép của trẻ con…
Bữa ấy ở Sáu Thọ về, tôi tạt nhà Lê Phát, Mã Mây nghỉ trưa. Thiếp đi trên chiếc ghế băng dài. Chợt có tiếng rì rầm cuối ghế. Lê Đạt! Bao lâu rồi không gặp? Mấy năm trước, lao động cải tạo về thăm vợ, Lê Đạt gặp tôi đang gọi cửa nhà bà chị ở đầu Hàng Đào. Rủ tôi đi chơi nhưng tôi đã hẹn đến đây ăn giỗ. Rồi một hôm tôi và Linh đang ăn bún thang ở Đồng Xuân thì Đạt và Thuý cũng mò tới. Đạt ngoác mồm cười, chắp tay vái: “Chào cây bút nhớn ạ!”, “chào nghệ sĩ nhớn ạ!”
Từ trưa hôm ở Lê Đức Thọ về, Đạt và tôi ngày ngày chuyện trò. Hàng chục năm trời. Hai chủ đề: thơ, văn học nghệ thuật và khoa học nhân văn, vật lý. Rồi thời sự.
Lúc này Đạt đang bế tắc. Làm thơ như cũ thì anh không thích còn làm khác tức là bằng cái nhìn mới thì sự dấn bước này thậm là khó ở một đất nước mà mọi cái đều cứ phải chẻ hoa ra là tin yêu và chiến đấu và chiến thắng và cấm nói mập mờ để xỏ lá ba que do đó thơ là không được khó hiểu. Phải nhận cái nọc thơ ở trong Lê Đạt nó quá ngoan cố. Có thể nói của nả dắt lưng Đạt lúc ấy là một quyển sổ tay giấy rơm, sáu chục trang, bìa màu hồng - màu da quả bồ quân - gồm chừng mươi ba mười lăm bài thơ viết bằng những chữ nguệch ngoạc không hàng lối của Đạt, trong đó có bài Anh mang tình em đi… tôi thích. Biết Đạt ít nhiều có nao núng về chuyện thơ - nên tiếp tục hay thôi, nên dễ hiểu hay khó hiểu - tôi động viên Đạt cứ chịu khó tìm tòi. Tôi lôi cả Saint - Pol Roux ra: Cây thơ ca cắm rễ của nó trong tương lai. Rồi Jean Cocteau: Nhà thơ nhớ lại tương lai. Và Apollinaire gọi thơ là “một nghệ thuật tiên báo”, vậy thì hãy căn cứ tương lai ở trong đầu cậu mà làm thơ đi. Anh kêu thơ tôi khó hiểu là vì anh chưa thấy được tương lai. Thắc mắc ba trăm năm sau có ai khóc mình không, Nguyễn Du đã biết thơ là từ tương lai đi lùi đến…
Một hôm, cuối 1969, Đạt bảo tôi:
- Nhà thơ có lẽ là những người yêu nước nhất. Họ chăm lo nhất đến tiếng mẹ đẻ.
Tôi nghe mà tủi phận thay cho bạn. Bản án của Đảng cùng thái độ xã hội đã làm cho Đạt lung lay ngay cả phần nào về lòng yêu nước của mình. Lúc ấy than ôi, trong “phẩm chất cách mạng” bao trùm tất cả, lòng yêu nước bị đặt xuống dưới lòng yêu Đảng. Âm thầm chống trả lại, Đạt đã bám lấy
thơ, cái trận địa mà trong thâm tâm anh vẫn coi Đảng thua kém anh về tài sản, tức là vô sản chay. Tóm lại tiếp tục giữ khẩu hiệu của Nhân Văn - Giai Phẩm: trả văn nghệ lại cho văn nghệ.
Đạt nhiều lần giục tôi viết. Tiểu thuyết về mày, gia đình mày. Tôi im lặng. Biết viết là cần cực kỳ cô đơn. Và quả tình tôi đã thật sự cô đơn - đúng ra là bí mật - trong bao nhiêu năm với cuốn sách này.
Đúng ra, trên thế giới ai muốn làm nhân chứng cho một điều gì đều viết hồi kí hay tự truyện. Nhưng ở ta kiềng hồi ký. Chưa có truyền thống tự sự ở ngôi thứ nhất. Song lại giàu truyền thống “bút sa gà chết” - muốn bút sa mà gà không chết thì phải cấp ra đầy đủ chứng cớ, phải dám đôi mặt một lời, nhất là chuyện dính đến an ninh, đến quyền lực, ôi, thôi xin là cho được yên! Có lẽ chặn cản nhiều hơn chính là tâm thức coi thường cái tôi - chỉ tập thể mới giá trị - vốn cũng bắt nguồn từ sự sợ tiền kiếp nó luôn đòi giấu cái tôi đi. Cuối cùng cũng còn bị chặn cản bởi định nghĩa sai lệch về thể loại văn học.
Coi thường. Chính cái tôi kiêu kỳ giấu mặt làm cao đã hạ giá hồi ký. Nhưng ai bảo Những con chim hồng hộc của Trương Nhung không phải tiểu thuyết? Ừ, Trường đại học của tôi và Đời tôi, hai hồi ký hay tiểu thuyết xuất sắc nhất của Gorki đó.
Nay khối hồi ký được ghi là tiểu thuyết ở bìa sách. “Tiểu thuyết” của cháu ngoại nhà văn Francois Mauriac, viện sĩ hàn lâm Pháp, giải Nobel văn học, là “hồi ký” về mối tình với một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng. Và chả nhân vật lớn nào trên thế giới lại không viết hồi ký. Vâng, tôi xin đối mặt với công luận đây. Tôi ăn gian nói dối thì các ông cứ việc vạch ra. Ở ta dĩ hoà vi quý, sợ đối mặt với sự thật, sợ trách nhiệm trước xã hội thì lại vin cớ tránh tự đề cao. Văn học khuất một mảng quan trọng.
… Thấm thoắt đã một năm. Tổ đồng mô tiễn tôi. Đám con gái sáu bảy đứa khóc sướt mướt hết. Cánh đàn ông thì hoe hoe mắt. Trai, tổ trưởng tổ đảng nói vài lời: “Kính thưa anh Trần Đĩnh, một năm qua gần anh chúng tôi thấy anh mới là người cộng sản”. (Tôi nghĩ ngay “Chết, không biết mình chống đảng sao?” Nhưng chả lẽ đính chính?) Rồi tặng tôi một con dấu “Trần Đĩnh” anh tự đúc lấy cùng một bài thơ lục bát.
Giám đốc Trần Ngọc Phương đến dự tiễn - như tự thân đưa tôi đến tổ đồng mô buổi đầu tiên, mà nom cứ hớn hở lên. Hình như công nhân tốt thế này với tôi là có công anh giáo dục. Tôi hết sức cảm động.
Chả biết đồn thế nào mà sau này, thế kỷ 21 lận, Dũng, “trung uý Dũng” như tôi hay đùa gọi, ở văn phòng báo Nhân Dân thấy tôi lại thường tủm tỉm:
- Ông anh sang lôi cuốn công nhân ghê quá nên lại phải tách cá ra khỏi nước, kéo ông anh về.
Cái sự tinh khôn của dân chúng mà tôi nói với Chính Yên sáng hôm nào thế là đã được chứng minh. Sự tinh khôn ấy đã cho tôi thấy dân nhìn cái tiêu cực của Đảng bao la hơn tôi, sát sườn hơn tôi.
Đó: tôi đâu nghĩ như Quỳnh rằng để tôi đúc chữ là đảng muốn tôi nhiễm độc chì mà rồi tàn phế hay chết.
Tôi đâu như Thái Cò lật tẩy ngay: “Anh cho em hai hìu mua quẩy rồi em sang tên cho cái chữ giai cấp công nhân lãnh đạo… Mẹ chứ, toàn cho bánh vẽ, con thằng nhọ đít vẫn lại nhọ đít”. Tôi đâu thuộc các câu ca vạch trần đảng bằng anh chị em thợ - “chân lý chân giò cũng thế thôi”. Hay: Ai nắm chân lý Mác-Lê thì dứt khoát vơ về chân giò, cút rượu. Mạt hạng cùng đinh, anh chị em thấy bộ mặt thường ngày của Đảng rõ hơn tôi và do đó sợ Đảng hơn tôi, đành cam phận. Tôi vẫn hy vọng làm cho đảng có mặt người được.
***
Tôi muốn kể một chuyện trong những ngày lao động cải tạo.
Một sáng, tôi kéo xe bò, Quỳnh - sư phụ đẩy đi từ Hàng Bài về nhà in ở Tràng Tiền. Đến trước cửa Bodéga, có tiếng người gọi hớt hải ở đằng sau:
- Trần Đĩnh!… Trần Đĩnh…!
Quay lại. Kim Lân đang cúi xuống nhét lại quai dép râu, tay kia vẫy vẫy. Rồi hổn hển chạy đến, nửa cười nửa ngậm ngùi (với cái dáng kém mọn ngoẹo đầu quen thuộc của anh), nắm tay tôi:
- Đang lên chợ Đồng Xuân thì thấy người anh em, vội rẽ đuổi theo. Từ bé chưa bao giờ tập thể dục căng đến như thế này… Ừ, nom người anh em vẫn được đấy, vẫn đàng hoàng, tư cách đấy, Đĩnh ợ, thôi, nhớ lấy nhá, rằng sông có khúc, người có lúc. Con Hiền nhà mình nó vẫn đến nhà in làm báo Phụ Nữ đấy, có gặp cháu thì bảo ban dạy bảo nó.
Ý nói tớ đếch cho cậu là phản động, cậu cứ dạy bảo con tớ.
Ba năm trước, 1967, bốn người “xét lại” bị bắt đầu tiên được vài tháng, một sáng tôi đến ngã tư Quang Trung - Lý Thường Kiệt thì Kim Lân từ đằng sau đi lên. Cùng dừng lại ở trước cổng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Kim Lân nhăn nhó nắm tay tôi:
- Này thôi nhớ, tớ bảo cái này nhớ, bây giờ thằng gian nó đánh người ngay. Nó móc túi mình rồi nó lại hô làng ối bắt cho tôi thằng ăn cắp là mình đấy.
Sau đó nửa tháng cũng tại chỗ đó, Nguyên Hồng thấy tôi thì nhảy đánh phịch một cái xuống khỏi chiếc xe đạp con vịt Liên Xô, nơi nới sợi dây đay thắt quanh bụng rồi chớp chớp mắt, ngùi ngùi nói:
- Tớ về trên Yên Thế Cầu Gồ rồi, chỗ cậu đã đến đấy, bao giờ có thể lại lên chơi… Tớ thôi phụ trách tờ Văn. Không làm được mà cũng không thích làm… Cứ bắt chửi Liên Xô thì tao chửi làm sao được? Tao nặng tình với Liên Xô từ khi tao viết Những ngày thơ ấu với Bỉ Vỏ rồi… Mày ấy, mày là Tư Mã Thiên, mày nói thật nên mày bị thiến, thôi cố nhớ, tao tin mày!
Cái giá Nguyên Hồng phải trả để được không chửi bậy quá lớn. Lên Cầu Gồ là anh mất hộ khẩu Hà Nội. Là mất sổ gạo! Là ăn đong quanh năm ngày tháng với năm sáu cái miệng hết tiêu chuẩn “ăn theo”. “Ăn theo” chỉ vợ con công nhân viên, còn “ăn bám” chỉ bọn bóc lột. Anh đã nhờ vào tem phiếu của bạn bè sau các chuyến công tác còn thừa đem cho. Lại may, anh cho biết, cậu bí thư huyện Yên Thế xưa làm thợ in, nghe tiếng tớ từ thời Tây thế là rộng cho tớ phần nào lương thực.
Nhưng anh vẫn cần mượn oai hùm là báo Đảng. Anh mời Xuân Trường, Như Phong, Địch Dũng và tôi lên dự giỗ Cụ Đề tại Phồn Xương. Dặn phải đi bằng ô tô lên. Xe chúng tôi còn cách nhà anh một cây số đã thấy anh vét-tông ka ki, ôm cặp da trâu đựng bản thảo, ngực đeo huân chương vàng choé chờ ở bên đường từ lâu. Anh không ngồi xe mà đứng ôm cửa xe để hô anh tài rẽ thế này, quặt thế kia. Người làm đồng khá đông đều quay lại nhìn. Anh thú thật:
- Trên này cái thế Nhà nước mạnh lắm, tao cần nó để họ còn cưu mang gạo mà.
Một sáng đầu thế kỷ XXI, Kim Lân, Trần Lưu Hậu, Trung Sơn… và tôi ăn uống ở nhà Trần Vũ. Rất vui. Tôi tán mọi sự.
Rằng tôi thấy cái cổng làng Thư Thị ở Hưng Yên ngày Tố Hữu xua văn nghệ sĩ cả đàn về đó “học tập thực tế” phong trào hợp tác hoá nông nghiệp - đông đến nỗi đi vào cái sân bày cơm canh trên nền gạch mà chỉ chen lách nhau cũng đã mất bao nhiêu thì giờ - Hậu vẽ đẹp hơn chân dung bao vị tên tuổi. Vì như Matisse nói: tầm quan trọng của một nghệ sĩ được đo ở số lượng tín hiệu mới mẻ mà hắn ta đưa vào ngôn ngữ của nghệ thuật trong khi các vị tên tuổi thì chỉ đưa lại những cái cũ mèm của ngôn từ xác xơ.
Sắp tàn cuộc, tôi bảo Kim Lân:
- Tôi kể một chuyện của Kim Lân có lý lịch đã hơn ba chục năm nhé.
- Ừ, thì có cái gì không phải xin xá cho em. - Kim Lân so vai lại nói.
Tôi kể chuyện anh bảo nay kẻ gian nó bắt người ngay, bắt rồi nó lại kêu làng nước ơi, này xem thằng ăn cắp…, rồi chuyện anh tụt cả quai dép đuổi tôi kéo xe bò.
Kim Lân gật gù:
- Cảm ơn mày, Trần Đĩnh ạ, mày đã nhớ cho tao cái chuyện mà dạo ấy thật tình chẳng biết ma quỷ nào nó xui tao vốn nhát lại dám nói láo nói lếu với ngay chính tội phạm chống đảng đang làm cỏ vê là mày thế chứ…
Có lẽ thú chuyện này, Trần Lưu Hậu đã vẽ tôi. Đúng hơn, vẽ một nhếch mép. Sơn dầu. Ngang 1 m. Cao 0,90 m.
Rồi bỗng một hôm tôi thấy cái nhếch mép chợt có nét siêu thoát lơ lửng của nụ cười Bayon. Nó nhạo tôi. “Đã thấy con cung quăng trong vũng nước chưa? Nó giống mày. Quẫy khỏe đấy nhưng câm miệng thì vẫn chỉ là cung quăng”.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 27, 2014 6:24:55 GMT 9
Ai là cha đẻ của cụm từ 'Xin đừng gọi anh bằng chú’?Du Tử Lê Tôi trộm nghĩ, thế hệ sinh trưởng sau biến cố 30 tháng 4, 1975, có thể không biết nhà văn Chu Tử là ai. Nhưng tôi tin, đôi lần, trong đời thường, họ cũng có nghe qua đâu đó cụm từ “Xin đừng gọi anh bằng chú!” Hoặc đảo ngược lại là “Xin đừng gọi chú bằng anh!” Cha đẻ hay tác giả của câu nói trở thành phổ cập này là nhà văn Chu Tử, trong tiểu thuyết “Yêu” đi ra từ chuyện tình giữa “chú Ðạt và cháu Diễm.” Tiểu thuyết đó xuất bản đầu thập niên 1960s tại Saigon; từng một thời được nhiều người tìm đọc, gây xôn xao dư luận. Chu Tử cũng là nhà văn chủ trương chỉ chọn một chữ cho tất cả mọi sáng tác của mình. Như tiểu thuyết đầu tiên xuất hiện trên thị trường, có tên là “Yêu.” Sau đó là một loạt những tiểu thuyết có nhan đề một chữ như “Huyền,” “Loạn” rồi “Tiền,” “Nắng”... “Yêu” của Chu Tử (Hình: Hồ Ðình Vũ) Theo lời nhà xuất bản Ðường Sáng thì mặc dù “Yêu” được ấn hành trước “Sống,” nhưng “Sống” mới thực sự là sáng tác đầu tay của nhà văn và cũng là nhà báo tài hoa, nhiều sáng kiến Chu Tử. Giải thích về sự việc vừa kể, trong “Lời Nhà Xuất Bản” trước khi vào nội dung tiểu thuyết “Sống,” nhà Ðường Sáng viết: “‘Sống’ là tác phẩm thứ hai của Chu Tử do Ðường Sáng xuất bản sau ‘Yêu’... Thực ra ‘Sống’ là tác-phẩm ‘đầu tay’ của Chu Tử, và nhiều văn hữu vẫn theo dõi tác giả, tỏ ý ngạc nhiên không hiểu sao tác giả và nhà xuất bản lại cho phát hành ‘Yêu’ trước ‘Sống’; vì theo ý các bạn đó, ‘Sống’ mới là tác phẩm ‘ruột’ của Chu Tử. Sở dĩ ‘Yêu’ được phát hành trước ‘Sống’ không phải vì giá trị của ‘Yêu’ hơn 'Sống’, nhưng chính vì tác giả cũng như người xuất bản nhận thấy nhan đề 'Yêu’ dễ hấp dẫn hơn 'Sống.’ Lý do kể trên là lý do duy nhất khiến 'Yêu' được phát hành trước 'Sống'”... (1) Nhân lời nói đầu của Ðường Sáng, nhà văn Chu Tử cũng đã nhờ nhà xuất bản gửi tới bạn đọc vài tâm tư của ông, để những người đọc ông nắm được phần cốt lõi của tiểu thuyết “Sống” như sau: “...‘Sống’ là một chuyện ghi đậm sắc thái, tâm tính của thời đại. Nhưng 'Sống' không thuộc loại 'tiểu thuyết có chìa khóa' (roman à clef). Vì vậy, các bạn đừng mất công tìm tòi, khám phá xem những nhân danh trong truyện là những nhân vật ‘bằng xương và thịt’ nào trong thực tại xã hội. Bất cứ tác phẩm nào bắt nguồn từ một không gian, thời gian nhất định, tất nhiên phản ảnh nếp sống và suy tư của thời đại, nhưng một sáng tác nghệ thuật đúng với danh nghĩa đó, phải vượt lên trên không gian và thời gian để tái tạo sự sống, tái tạo thời đại, tái tạo con người& Vì vậy, nếu một vài sự kiện, nhân vật trong ‘Sống’ có hao hao giống những sự kiện và nhân vật có thực ở xã hội, thì điều đó không có nghĩa là các nhân vật có thực bị ám chỉ; một nhân danh trong ‘Sống’ có thể là sự tổng hợp của năm, mười nhân vật có thực mà tác giả có dịp gặp và quan sát trong đời sống, thiên hình vạn trạng. “‘Sống’ vì là tác phẩm ‘đầu tay’, nên có những ưu, khuyết điểm, cái hùng khí, hứng khởi cũng như cái vụng về, sơ hở của một tác phẩm ‘đầu tay.’ Tác giả ước mong bạn đọc sẽ đón đọc ‘Sống’ với những cảm nghĩ mà bạn đọc dành cho một tác phẩm ‘đầu tay’...” (2) Ghi nhận về “Sống,” tiểu thuyết “đầu tay” của Chu Tử, Linh mục, Giáo sư Cao Văn Luận, viện trưởng Viện Ðại Học Huế đã có những đánh giá, so sánh cẩn trọng, nhất là khi giáo sư bác bỏ quan điểm của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, khi họ Nguyễn so sánh Chu Tử với J. P. Sartre và Dostoievsky. Nguyên văn phát biểu của Linh mục, Giáo sư Cao Văn Luận, viện trưởng Viện Ðại Học Huế, như sau: “‘Sống’ quả là một tác phẩm ‘sống’ rất linh động, sâu sắc, mà gần mười năm nay, mới thấy xuất hiện trên mảnh đất văn-nghệ hời hợt, giả tạo của chúng ta. “Tôi thường tự hỏi, thời đại chúng ta đầy những quần quại, bi thương hoặc hùng tráng, mà tại sao chưa có một ‘chứng nhân’ nào ghi chép, diễn tả một cách trung thực những băn khoăn của lớp người đang sống. Chu Tử chính là ‘chứng nhân’ mà ta đang tìm kiếm. Không biết Chu Tử là một ‘chứng nhân’ trung thực đến mực nào, nhưng ít nhất Chu Tử là một ‘chứng nhân’ có tâm hồn! Một tâm hồn ngang trái như thời đại ngang trái! Một tâm hồn quằn quại, đầy mâu thuẫn, tàn bạo mà tha thiết, ngổ ngáo mà thâm trầm, cay độc mà vẫn xót thương đời, trào lộng mà cười ra nước mắt... Và nhất là đau khổ! Vì, cũng như văn hào Keats có thể sờ mó thấy sự đau khổ của nhân loại, Chu Tử là nhà văn của Ðau Khổ. Tất cả những nhân vật trong 'Sống': từ Huyền, Tuyết, Phi Yến v.v... đến nhà trí thức chống Cộng Pháp, thích đàn bà và tiền, giáo sư lừng khừng Văn, thanh niên theo Việt Cộng Thịnh v.v... tất cả đều là những kẻ đau khổ, đáng thương, nạn nhân của hoàn cảnh, hay của chính họ... Dưới ngòi bút của Chu Tử, cả tội lỗi cũng đáng thương& Tuy nhiên, Chu Tử cho ta niềm an ủi là, với Chu Tử, sự đau khổ không phải sự tuyệt vọng, và cái bi quan của Chu Tử bắt nguồn từ lòng tha thiết yêu đời, chứ không phải cái bi quan tuyệt vọng của kẻ không tìm thấy sự cứu rỗi, ở bất cứ đâu... “Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn đã so sánh Chu Tử với J. P. Sartre và Dostoievsky, nhưng theo nhận định của tôi, những nhân vật của Chu Tử không phải là những kẻ tuyệt đối phủ nhận luân lý theo thái độ 'buồn nôn' của J. P. Sartre, hoặc hư vô 'nihiliste' như các nhân vật của Dostoievsky. Những nhân vật của Chu Tử không thừa nhận nền luân lý hiện tại, nhưng vẫn tin là có thể có một nền luân lý - 'une morale est possible' - như lời Camus. Những nhân vật của Chu Tử chưa tìm thấy sự cứu rỗi, nhưng vẫn tin là có sự ‘cứu rỗi’... Cũng như ‘Sống’ không đề ra một triết lý nhân sinh, nhưng buộc người đọc phải tự tìm cho mình một nhân sinh quan. “Do đó, tôi nghĩ Chu Tử là một nhà văn đáng cho ta cảm mến, gửi nhiều tin tưởng nơi ông.” (3) Ðược biết, nhà văn Chu Tử tên thật là Chu Văn Bình. Ông sinh năm 1917. Tốt nghiệp Ðại Học Luật Khoa năm 1939, khi ông mới 22 tuổi. Trước sự kiện này, ngay khi còn rất trẻ, nhà văn Chu Tử đã được ngưỡng mộ như một người thông minh xuất chúng. Tuy nhiên, ông không chọn con đường làm quan khi đất nước còn trong ách cai trị của người Pháp mà, ông chọn con đường dạy học, viết văn, rồi viết báo và làm báo... Ở lãnh vực nào, ông cũng cho thấy tài ba và, nhất là nhiệt tâm cống hiến trí tuệ, tim óc mình cho dân tộc và đất nước. Sáng 30 tháng 4 năm 1975, trên chiếc tàu Việt Nam Thương Tín, di tản khỏi Saigon, ông là người duy nhất tử nạn vì một trái đạn B-40 bắn trúng, trước khi tàu ra khỏi cửa Cần Giờ. Nhà văn Chu Tử: ‘chết dữ dằn và trầm hà’ Dù nổi tiếng ở nhiều lãnh vực khác nhau, nhất là lãnh vực báo chí, nhưng chi tiết về nhân thân, cũng như lộ trình làm báo dài đẵng, nhiều sóng gió của nhà văn Chu Tử không có được bao nhiêu. Rất may, nhân dịp kỷ niệm 29 năm ngày tử nạn trên đường đi tản của tác giả “Yêu,” nhà văn Ðào Vũ Anh Hùng (hiện cư ngụ tại thành phố Dallas, Texas), đã có một bài viết nhan đề “30 tháng 4, tưởng nhớ nhà văn Chu Tử.” Ðược coi như là một người thân trong gia đình, nếu không muốn nói, được nhìn như con nuôi, họ Ðào đã ghi nhận về những oan nghiệp, những thăng trầm một đời tài hoa họ Chu và, nhất là những thời kỳ làm báo của nhà văn kiêm nhà báo Chu Tử như sau: “...Ðịnh mệnh nào tai ác đã thù hằn theo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa ấy, trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh ấy của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như hình hài Chu Tử, trưa ngày 30 tháng 4, 1975 - khi ông buồn bã đứng dựa thành tàu, nhìn Saigon lần cuối, nhìn quê hương lần cuối... “Chu Tử bị bắn một lần hồi tháng 4, 1966 ngay trước nhà trong con hẻm trường Hoài An, Phú Nhuận - vỡ một mảnh hàm - nhưng ông sống sót và hồi phục chóng vánh kỳ diệu trong thương yêu phẫn nộ của công luận. Viên đạn oan khiên nghiệp chướng ngày 30 tháng 4, 1975 cũng đã thổi bay hàm dưới và là viên đạn chí tử, dứt điểm mà định mệnh đã dành cho đời Chu Tử. “Tôi như nhìn thấy ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trên vũng máu và kêu rên, và gọi tên thống thiết đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã cùng mẹ, cùng em và chồng con ở lại... Tôi như nghe được cả tiếng ông giục Sơn dốc trọn ống thuốc ngủ cho ông nuốt chửng để khỏi kéo dài cơn thảm thiết. Chu Tử đã chào thua định mệnh, chết dữ dằn và phải chết trầm hà. Số mệnh tham lam đã bắt ông phải trả cả vốn lẫn lời quá nặng. “Tôi đã vô cùng gần gụi và có quá nhiều kỷ niệm với nhà văn Chu Tử. Ðầu năm 1964, tờ Ngày Nay của ông Hiếu Chân bị đóng cửa, tôi đã rời Ngày Nay, theo ông trong cái ê-kíp đầu tiên viết mướn cho cho những vị chủ báo, có vị không bao giờ viết báo. Từ tờ Tương Lai, Tiền Tiến của ‘vua thầu khoán’ Ðỗ Cường Duy. Rồi tờ Thân Dân của cụ Nguyễn Thế Truyền, Tranh Ðấu của ông ‘vua đái đường’ Ngô Ðức Mão, Bến Nghé của ‘vua bóng bàn’ Ðinh Văn Ngọc... cho đến khi Chu Tử xin được măng-xét ra riêng tờ Sống, đứng tên chủ nhiệm, tất cả kéo nhau về tòa soạn cũ trên đường Hồ Xuân Hương. Anh Ngọc và Thanh Lan trong phim Yêu. (Hình: Hồ Ðình Vũ) “Cái ‘ê-kíp Chu Tử’ đầu tiên ấy chỉ vỏn vẹn có vài người. Ngồi thường trực trong tòa soạn có Hoàng Anh Tuấn, Trọng Tấu, Ðằng Giao và tôi. Vợ chồng Trần Dạ Từ-Nhã Ca và Tú Kếu mỗi đêm đến làm tin, dịch tin. Duyên Anh phụ trách trang thiếu nhi. Vũ Dzũng, Ðỗ Quý Toàn trang Thanh Niên, Sinh Viên. Nguyễn Ang Ca ký giả thể thao, kịch trường. Võ Hà Anh phóng viên chạy ngoài. ‘Cô’ Kim Chi Hoàng Anh Tuấn lo giải đáp tâm tình và tử vi đẩu số! Anh Hợp, Nguyễn Thụy Long, Tuấn Huy, Nguyễn Ðức Nam, Lương Quân, Tiền Phong Từ Khánh Phụng viết tiểu thuyết trang trong, lâu lâu mới ghé một lần đưa bài và lấy tiền nhuận bút. Nhân vật ‘ngoại hạng’ phải kể là ‘chí sĩ’ Minh Vồ đặc trách mua bông giấy và ngoại giao với phòng kiểm duyệt Bộ Thông Tin, xin lại giấy phép mỗi khi bị chính quyền đóng cửa... “Tôi đã gần gụi ông Chu Tử trong cả đời sống bên ngoài tòa báo, can dự vào nhiều biến cố của gia đình ông như một thành phần ruột thịt. Ông cũng coi tôi như ruột thịt của gia đình và dành cho tôi một tin cậy, mến thương sâu đậm. Tôi đã chứng kiến ông hoan lạc, bi thương, vui, buồn, hờn giận... Chứng kiến một Chu Tử hồn nhiên đúng như Nguyễn Mạnh Côn nhận xét, ‘Một tâm hồn đứa trẻ trong thể xác ông già.’ Nhưng có lẽ tôi thấy đời ông thống khổ nhiều hơn hạnh phúc. Thể xác ông phải chịu những đớn đau nhiều và quá độ đối với hình hài yếu mảnh nhưng mạnh mẽ tinh thần phấn đấu. Như chứng kiến lần Minh Vồ chở ông sau chiếc vespa, bị taxi đụng gẫy chân để Chu Tử phải chống nạng và có bút hiệu Kha Trấn Ác trong mục 'Ao Thả Vịt'. Lần ông bị bắn bốn viên đạn, phải đóng đinh trong hàm để giữ bộ răng giả, tay run lật bật khó khăn cầm bút và mất ngủ đến rên la kêu trời réo đất hàng đêm... “Nhưng tất cả những đau đớn thể xác ấy gom lại cũng không bằng cái đau thương thống khổ của ông ngày Chu Trọng Ly, đứa con trai út ông đặt lòng thương quý đã hủy mình bằng viên đạn carbine nổ vào đầu năm 14 tuổi. Nhà thơ Hà Thượng Nhân, dịch giả Phan Huy Chiêm và tôi đã ở bên ông, trong căn phòng cho mượn của ông Thẩm Phán Phạm Hải Hồ đằng sau khu chợ Bà Chiểu, mủi lòng, bối rối, cảm thương, cực cùng xúc động trước cơn vật vã và tiếng khóc thê lương của người cha cô khổ. “Bao nhiêu năm đã trôi qua. Bao nhiêu ngày 30 tháng 4 đánh dấu Việt Nam quốc hận. Bao nhiêu năm tôi đã ngậm ngùi tưởng niệm Chu Tử chết cùng vận nước. Tôi day dứt nhớ và tiếc nhiều điều chưa trọn vẹn cùng ông. Chu Tử sống mang không biết bao nhiêu ngộ nhận và ân oán. Một con người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bung phá và nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh... Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận...” (4) Tôi nghĩ, trong sinh hoạt văn học, nghệ thuật miền Nam, 20 năm, nhiều người biết, tác giả tiểu thuyết “Yêu” là nhà văn Chu Tử. Nhưng số lượng những người biết nhà báo Chu Tử còn nhiều hơn gấp bội. Lý do, ở lãnh vực báo chí, nhất là giai đoạn tác giả “Yêu” làm chủ nhiệm nhật báo “Sống”, ông đã không ngừng thổi một luồng sinh khí mới cho sinh hoạt báo chí miền Nam thời đó vốn hiền lành, ngại đương đầu với chính quyền hoặc, những nhân vật có quyền thế về tôn giáo, chính trị cũng như những tệ nạn xã hội... Nhật báo Sống. (Hình: minhduc7.blogspot.com) Cũng chính vì chủ trương làm một cuộc cách mạng đầy nguy nan cho xã hội miền Nam mà, nhà báo Chu Tử đã có không ít kẻ thù. Kẻ thù của ông đủ loại. Từ một ông tướng quyền uy nghiêng đất, lệch trời, tới một vị lãnh đạo tôn giáo... Từ nhân vật số một, số hai của miền Nam, tới quý vị tổng trưởng, bộ trưởng trong chính phủ... ông đều không tha một ai, nếu ông có tài liệu trong tay. Cụ thể, chủ nhiệm nhật báo Sống từng bị ám sát hụt vào tháng 4 năm 1966; sau loạt bài ông viết trong cột mục “Ao Thả Vịt” về một vị lãnh đạo tôn giáo thời đó. Lại nữa, trước đấy là loạt bài ông viết, cũng trong mục Phiếm hàng ngày, có tên “Ao Thả Vịt” về một ông tướng “trấn nhậm” một vùng ở miền Trung mà, ông gọi là “Quế Tướng Công,” và, nhiều nhân vật hét ra lửa khác... Nhưng giới chức hữu trách thời đó đã không điều tra ra phe phái hay, cá nhân nào đứng đằng sau những vụ ám sát ấy!!! Tuy nhiên, trước khi vào sâu hơn đóng góp của nhà báo Chu Tử, trong nỗ lực thay đổi bộ mặt báo chí miền Nam, thập niên 1960s, tôi nghĩ chúng ta nên trở ngược thời gian để biết từ đâu, bởi ai mà nhà văn Chu Tử có được giấy phép xuất bản nhật báo “Sống,” sau khi ông và nhóm người trẻ cùng chí hướng, nổi trôi từ báo này qua báo khác, dưới dạng thuê mướn “măng xét”. Tôi nghĩ, dường rất ít người biết được nguồn gốc sâu xa sự ra đời của nhật báo “Sống.” Ngay nhà văn Ðào Vũ Anh Hùng, được coi là “ruột thịt” trong gia đình tác giả “Yêu,” cũng không biết nguồn gốc của sự kiện đáng kể này, trong cuộc đời cố nhà văn Chu Tử. Tôi cũng không thấy họ Ðào ghi lại trong bài viết tưởng niệm cố nhà báo Chu Tử về những thăng trầm của nhật báo Sống. Tòa báo Sống bị đốt. (Hình: minhduc7.blogspot.com) Căn cứ theo chương 4 (tựa đề “Sống”, thuộc Phần Thứ Hai) của “Hồi Ký Nguyên Sa,” Ðời xuất bản tại Calif., 1998 thì: “...Trần Dạ Từ ở tù về nói chuyện muốn cùng Chu Tử ra báo. Báo gì? Báo Sống. Tên cụt ngủn. Có một chữ: Sống. Có liên lạc với Thông Tin chưa? Có liên lạc nhưng liên lạc là một chuyện, giấy phép báo lại là một chuyện khác. Từ hỏi tôi anh có cách nào không? Tôi cũng không biết là tôi có cách nào không. Buổi tối ghé sang chùa Từ Quang thăm Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Tôi muốn chuyển câu hỏi của Trần Dạ Từ tới nhà lãnh đạo tôn giáo đang có ảnh hưởng trên nhiều lãnh vực. Và tôi làm công việc đó. Tôi chờ đợi ở Thượng Tọa Tâm Châu sự từ khước, nếu vị chủ tịch Ủy Ban Liên Phái từ chối thì đó cũng là chuyện bình thường, nếu câu trả lời để rồi tính thì lại càng bình thường. Nhưng Thượng Tọa Tâm Châu trả lời: “Giáo sư muốn xin giấy phép nhật báo? “Tôi xác nhận. “Thượng tọa Tâm Châu cười hồn nhiên. “Giấy phép báo, được, được. “Thượng Tọa Tâm Châu thường dành cho tôi những đặc ân. Mỗi khi tôi tìm một cánh tay, nhà lãnh đạo tôn giáo luôn nhìn tôi bằng cặp mắt quảng đại cùng lúc với cánh tay đưa ra. Tôi không biết tại sao. Thượng Tọa Tâm Châu cởi mở. Tôi cảm thấy day dứt, lạm dụng. “Tôi hỏi chân thành có phiền thượng tọa nhiều không, thực hiện có khó không, TT Tâm Châu không trả lời khó hay dễ, chỉ nói để tôi thử xem. Tôi hỏi bằng cách nào, TT nói thì tôi a lô, a lô. “Tôi không phải là một Phật tử đấu tranh góp nhiều công sức trong những ngày tháng Phật Giáo đứng dậy thời kỳ Ủy Ban Liên Phái. Không, tôi không có khả năng tranh đấu và cũng không có ngọn lửa can đảm của một tín hữu quyết tâm. Tôi ở đường Phan Thanh Giản, chùa Từ Quang ở trên cùng một con đường, khúc đường gần gụi mang lại nhiều gặp gỡ chỉ có tính cách tôn giáo, triết lý và văn chương. Tôi không biết tại sao TT Tâm Châu lại đặt ở nơi tôi nhiều tín nhiệm và tình cảm. “TT Tâm Châu trả lời tôi xong, cầm ngay máy điện thoại, quay số và a lô a lô. Tôi không biết thượng tọa gọi điện thoại cho ai, đôi bên nói chuyện những gì, máy điện thoại đặt xuống, thượng tọa gật đầu nói được rồi. Tôi muốn nêu lên những câu hỏi thượng tọa nói chuyện với ai đó, câu chuyện như thế nào, chi tiết ra sao, nhưng khách đến viếng thăm nhà lãnh đạo đã tới đầy nhà, Ðại Ðức Giác Ðạo đã vào thông báo. Thượng Tọa Tâm Châu gật đầu, tôi hiểu và đứng dậy. Thượng tọa bảo tôi thôi giáo sư về nhé, xong rồi, được rồi, yên chí. Tôi thông báo cho anh em muốn làm tờ Sống là xong rồi, tìm gặp giới chức liên hệ làm thủ tục. Tờ Sống được giấy phép thật. Xuất quân. Xuất quân. Xuất quân. “Không khí hồ hởi kinh khủng. Sống chào đời, ra số một. “Không bao giờ có Sống số 2 của lần chào đời lớn đó. “Sống ra được một số xong là bị đình bản. Sống sống được có một số thì bị rút giấy phép vô hạn định...” (6) Như tôi biết, và nếu trí nhớ của tôi chưa đến nỗi quá tồi tệ thì, ngay số báo ra mắt, tác giả “Yêu” qua cột mục “Ao Thả Vịt” đã cho nổ một trái bom chứa nghìn cân thuốc nổ TNT - Giữa lúc tình hình chính trị miền Nam thời đó, đang ở giai đoạn cực kỳ nhậy cảm, với những tranh giành quyền lực. Tuy không quá lộ liễu, nhưng sự căng thẳng được ghi nhận là có thể tính trên từng địa chỉ, từng góc phố... Dư luận quen nhìn tác giả “Yêu” như hung thần của những cá nhân hét ra lửa, hay những đảng phái, tổ chức quyền thế nghiêng trời lệch đất… Nhưng sự thực, nhà văn / nhà báo Chu Tử cũng là người luôn sẵn sàng đưa đôi vai gầy guộc của ông, để nhận lãnh bất trắc, tranh đấu tận tình cho những người thấp cổ bé miệng. Ông cũng là người có công rất lớn trong việc thu xếp, vận động cho những cá nhân mà, ông thấy là xứng đáng vào những chức vụ thuộc lãnh vực công quyền như hành pháp, lập pháp. Hoặc ngược lại. Chu Tử (Người che miệng) cùng với cộng tác viên báo Sống (Hình: minhduc) Có thể nhiều người đã quên, hay không hề biết rằng, với mục phiếm hàng ngày “Ao thả vịt”, nhà văn / nhà báo Chu Tử đã thành công khi cố tình giới thiệu nhà văn / học giả Hồ Hữu Tường, một khuôn mặt trí thức tiến bộ miền Nam, khuynh hướng Trosky (Đệ tứ cộng sản), vào tòa nhà Quốc Hội thời Đệ nhị Cộng Hòa miền Nam. Ghi lại sự kiện hãn hữu này, thi sĩ Nguyên Sa, trong cuốn hồi ký của mình viết: “…Học giả Hồ Hữu Tường không có ý định ứng cử dân biểu, Chu Tử và nhóm Sống ‘lăn hòn đá ù lì’ ra sân chơi chính trị, tác giả Phi Lạc Sang Tàu nhất định không xuất hiện trước công chúng, không in bích chương, không phát bươm bướm, không lạc quyên, không vận động. Nhóm Sống làm công việc này bằng cách đập lên nồi niêu, khua những soong chảo để lăn ‘hòn đá ù lì vào tòa nhà quốc hội.’ Vận động bầu cử cho một cá nhân để làm gì? Dân biểu của một tôn giáo, đảng phái hay một nhóm tài phiệt đưa ra có ích lợi cho những nhóm này, nói lên tiếng nói của đoàn thể, bảo vệ quyền lợi của đoàn thể khi cần, có khi nhiều hơn cả cần thiết, vì nhiều người làm đại diện dân bỏ quên vai trò đại diện nước, chỉ còn là đại diện làng. Nhóm Sống và Hồ Hữu Tường không có liên hệ quyền lợi nào cả. Hồ Hữu Tường trở thành dân biểu không phải để bênh vực cái nhóm có tên khác lạ là ‘nồi niêu soong chảo’. Chu Tử và anh em báo Sống tìm hết cách vận động tranh cử cho Hồ Hữu Tường, và đã thành công, Hồ Hữu Tường, người ứng cử dân biểu nhất định không nhấc lên một ngón tay để vận động, đã trúng cử…” (6) Một đặc điểm khác nữa của nhà văn / nhà báo Chu Tử, cũng ít người biết, nếu không có tình thân đủ lớn với chủ nhiệm báo Sống - - Đó là tinh thần tin cậy, sống chết của ông đối với những người được ông coi là bằng hữu. Ở Phần thứ hai, tiểu mục “Cho đỡ buồn”, Hồi Ký Nguyên Sa, thi sĩ Nguyên Sa kể lại chuyện vài tháng trước khi nhập ngũ, (7) ông đã đưa cho chủ nhiệm Sống một tài liệu quan trọng, dẫn tới việc mất chức của Tổng Trưởng Giáo Dục đương nhiệm thời đó. Nhưng điều đáng nói là chủ nhiệm Sống nhất định không đọc, dù tác giả “Áo lụa Hà Đông” nhiều lần nghiêm chỉnh lưu ý, cảnh báo hậu quả nhiều phần có thể xẩy ra, như tờ báo có thể bị đóng cửa. Chu Tử có thể bị “đòn nguội” bởi những thế lực đỡ đầu cho vị Tổng trưởng đó. Chẳng những cho đăng ngay mà, chủ nhiệm Sống còn ghi “tám cột”. (Có nghĩa tin chính, lớn, chạy hết chiều ngang trang nhất của tờ báo). Liên quan tới sự việc nghiêm trọng này, “Hồi Ký Nguyên Sa”, có đoạn nguyên văn như sau: “…Chu Tử thầm thì quả bom của ông nổ to. Anh cho hay hai trăm ngàn số báo tung ra bộ Giáo Dục chấn động đã đành, còn làm chấn động cùng khắp, cả tướng Khánh… “Bài báo làm Bộ Giáo Dục phải rung lên, tôi không lạ, tôi cân đo từng chất lượng hóa học, tôi sấy khô ngòi nổ, tôi nhồi thuốc, tôi đặt kim đồng hồ, chơi chất nổ tôi biết nguyên tắc số một của trò chơi này là không bao giờ được sai lầm và mỗi người chỉ có cơ may sai lầm có một lần. “Đương nhiên tôi biết nguyên tắc số hai liên quan tới sức công phá của chất nổ. Ông Bộ trưởng Bùi Tường Huân từ khi lên chức không ngớt lớn tiếng hô hào cách mạng. Bộ trưởng Huân phất cao ngọn cờ chống văn hóa ngoại bang, chống chương trình Pháp, đề cao văn hóa dân tộc. “Chính phủ của ông Nguyễn Ngọc Thơ có phần chìm, không ca lên những bài thời thượng, thành ra sớm trở thành một ban hợp ca ‘Diệm không Diệm.’ Rút tỉa kinh nghiệm của chính phủ ‘Diệm không Diệm’ Nguyễn Ngọc Thơ, chính phủ của tướng Nguyễn Khánh ca mạnh mẽ những bài cách mạng, bài dân tộc, bài diệt Cần Lao, bài chống văn hóa ngoại bang… Tổng trưởng Huân tựu chung cũng chỉ làm công việc của một giọng ca trong một ban hợp ca. Cũng đúng thôi. Nhưng Bộ Giáo dục của ông Huân đã có cái lầm là viết một lá thư chính thức cho Đại sứ Pháp để xin ông này can thiệp với trường Trung học Bác Ái, dạy chương trình Việt, xin trường này cho con của một thân nhân của ông Bùi Tường Huân được đặc biệt nhận vào trường này. Đó là nội dung của phóng ảnh đăng trên nhật báo Sống. Sinh viên đang biểu tình rần rần chống văn hóa ngoại bang, chống chương trình Pháp, Tổng trưởng giáo dục đọc diễn văn lên án văn hóa ngoại bang, ngợi ca văn hóa dân tộc. Chính bộ giáo dục cách mạng lại gửi văn thư xin Đại sứ Pháp can thiệp cho con em của thân nhân ông Tổng trưởng, cháu ruột của ông Tổng trưởng, vào học chương trình dạy văn hóa ngoại bang. Bài viết không quên phân tích những vi phạm về mặt giáo dục, về mặt luân lý nói khác làm khác, về mặt thể thống quốc gia, Tổng trưởng Giáo dục mà phải viết thư xin học nơi đại sứ ngoại quốc, và cả về phương diện hành chánh và kinh nghiệm thông thường. Xin cho một em nhỏ vào trường Bác Ái thì một ông Thanh tra Tư Thục điện thoại hay gặp riêng một giới chức của trường Bác Ái được rồi cần gì nhiêu khê tới mức Tổng trưởng, Đổng lý…Lá thư có nhiều hy vọng làm đại sứ Pháp cười bò, làm cho ngoại giao đoàn ở Saigon cười bò, người cười tủm tỉm… “Anh em chúng tôi cười khoái trá, kéo nhau xuống phở xe Gia Long. “Chúng tôi có bàn tính ông Huân là người của Thượng tọa Trí Quang, ông nói hay hầu cờ Thượng tọa, tờ báo, người chơi chất nổ cho đỡ buồn có thể bị ông Tổng trưởng Giáo Dục trả đũa, có thể bị Thượng tọa Trí Quang quan tâm, hơn thế, có thể bị tướng Khánh vì bị Thượng tọa Trí Quang thúc đẩy hoặc vì tinh thần đoàn kết với một thuộc cấp mà ra chiêu?...Chúng tôi lo âu quá đáng. Không thấy Thượng tọa Trí Quang làm việc gì để tiếp nội lực ông Tổng trưởng Huân, cũng không thấy ông Khánh ưu ái ông nhiều hơn Thượng tọa. Chỉ thấy mấy tháng sau tướng Nguyễn Khánh bổ nhiệm luật sư Phan Tấn Chức vào chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thay thế ông Bùi Tường Huân. Chu Tử suốt trong thời gian đó hay dặn tôi: “- Anh phải cẩn thận! “Ngay cả thời gian trước khi tôi đi thụ huấn ở Thủ Đức, bạn tôi cũng vẫn dặn dò: “- Anh phải cẩn thận.” (8) Đọc lại đoạn hồi ký trên của cố thi sĩ Nguyên Sa, tôi như thấy được ngọn lửa thiêng của tình bạn, mới cao quý biết bao, dù chỉ qua mấy lời dặn dò ngắn ngủi!!! Nhưng, dường như cuộc đời luôn đem đến cho chúng ta, những tai họa, những thảm kịch mà, sự cẩn thận ở mức độ nào, cũng chỉ là trò hề của trớ trêu. Oan nghiệt. Tôi muốn nói tới cái chết của nhà văn, của tài hoa và nhân cách Chu Tử. Một cái “dữ dội, chết trầm hà” theo cách nói của Đào Vũ Anh Hùng!!!! Du Tử Lê (Garden Grove, July -2014) Chú thích: (1) Theo Tự điển Bách khoa toàn thư mở - Wikipedia. (2) (3) (4): Nđd. (5) Hồi Ký Nguyên Sa, trang 183, 184 & 185. (6) Nguyên Sa, sđd. Trang 227, 228. (7) Nhà báo Vương Hồng Anh cho biết, thi sĩ Nguyên Sa bị gọi động viên khóa 24/ LTVK/TĐ, cuối năm 1966. Sau giai đoạn 1, ông được chọn theo học ngành Quân Nhu, ở Saigon. (8) Nguyên Sa. Sđd. Trang 231, 232, & 233.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:43:12 GMT 9
Đại học Máu: Vào truyện Posted: 30/05/2013 in Hà Thúc Sinh, Hồi Ký Hà Thúc Sinh Chuyện kể về 1685 ngày tù dưới chế độ Cộng sản Việt Nam sangtao.org/2013/05/30/dai-hoc-mau-vao-truyen/THAY LỜI TỰATháng 6 năm 1975 – một tháng sau ngày bộ đội cộng sản tràn ngập miền Nam tự do – những quân nhân công chức của Việt Nam Cộng Hòa nghe Đài Phát thanh lần lượt loan báo các lệnh gọi trình diện “học tập cải tạo”. Đó là các thông cáo ngày 10-6, ngày 11-6, và ngày 20-6, ký tên Ủy Ban Quân Quản Thành phố Saigon – Gia Định. Ngoài sự chỉ định rõ ràng những địa điểm và ngày giờ trình diện, còn có lời yêu cầu những người đi học tập cải tạo phải “đem theo đầy đủ giấy, bút, quần áo, mùng mền, vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong mười ngày, kể từ ngày tập trung trình diện” (thông cáo ngày 20-6). Riêng đối với các sĩ quan cao cấp trong quân đội và cảnh sát, các Dân biểu và Thượng nghị sĩ, các lãnh tụ đảng phái “phản động” tại miền Nam, thì được lệnh “đem theo đầy đủ giấy, bút, quần áo, mùng mền, vật dụng cá nhân, đồ ăn hoặc tiền bạc để dùng trong một tháng kể từ ngày học tập đầu tiên” (thông cáo ngày 11-6). Bản tường trình tháng 4 năm 1983 của Ginetta Sagan và Stephen Denney (Aurora Foundation), căn cứ trên những kết quả điều tra và phỏng vấn, đã cho biết: “Rất ít, nếu có, người đi học tập cải tạo được thả về sau thời hạn mười ngày hay một tháng… Trong số hơn một triệu người đã đi vào các trại học tập cải tạo (trên 150 trại rải rác khắp nước Việt Nam) thì có khoảng 500.000 người được trả tự do trong vòng ba tháng; 200.000 người đã ở trong trại từ hai năm đến bốn năm; 240.000 người đã phải chịu đựng ít nhất năm năm trong cảnh tù đày; và cho đến nay (4-1983) vẫn còn ít nhất là 60.000 người đang bị giam giữ…”. Chúng ta thông cảm cho sự ngập ngừng, dè dặt của Sagan và Denney khi đưa ra những con số thống kê về tù cải tạo. Những con số ấy chỉ gợi lên được một ý niệm, chứ không thể có được giá trị dữ kiện. Làm sao đòi hỏi số thống kê chính xác về những nạn nhân của một chế độ mà sự dối trá vốn được coi là nguyên tắc chỉ đạo căn bản? Phần tường trình về “học tập cải tạo” chiếm 26 trang trong bản tường trình của Aurora Foundation, nhằm minh chứng một trong những hiện tượng vi phạm nhân quyền trầm trọng đang xảy ra tại Việt Nam, trong khoảng thời gian từ 30-4-1975 đến 30-4-1983. Thật ra, trước đó, miền Bắc suốt hai mươi mốt năm sống dưới chế độ Cộng Sản đã không được biết đến nhân quyền là gì. Nếu nói về văn kiện chính thức, thì chế độ “học tập cải tạo” đã được ban hành do Nghị quyết số 49 (ngày 20-6-1961) và Thông cáo số 121 (ngày 8-9-1961). Sự ban hành ấy có nghĩa là: mọi thành phần bị coi như đối nghịch, phản động, đã từng (hoặc đang) ở trong các nhà tù thì nay đều bị Đảng và Nhà nước “gom” lại trong một loại nhà tù mới, tổ chức quy mô hơn, theo đúng khuôn mẫu của các nước Cộng Sản đàn anh. Loại nhà tù này đặc sắc hơn những nhà tù bình thường khác ở chỗ nó có thể thỏa mãn cùng một lúc nhiều mục tiêu. Thí dụ mục tiêu an ninh (giam giữ vô hạn định những thành phần nguy hiểm mà khỏi phải mất công thực hiện các thủ tục pháp lý, đồng thời luôn luôn giữ được sự chủ động kiểm soát khối lượng tù nhân tùy theo tình hình an ninh nội chính); mục tiêu chính trị (có điều kiện thuận lợi để thực hiện chương trình tẩy não và nhồi sọ tư tưởng Cộng Sản, mặt khác tạo không khí thường xuyên khủng bố tinh thần nhân dân bằng hình thức đe dọa gián tiếp, nhờ đó dễ dàng tiến hành các kế hoạch chính trị); mục tiêu kinh tế (xử dụng không công một khối nhân lực đáng kể trong những công tác kiến thiết, sản xuất, và phục vụ bộ máy lãnh đạo; đồng thời tránh được trách nhiệm phối trí khối nhân lực này vào một guồng máy kinh tế vốn đang lâm vào cảnh khiếm dụng) v.v… Chế độ “học tập cải tạo” được mở rộng ngay sau khi miền Nam bị cưỡng chiếm, dĩ nhiên vẫn với sự áp dụng những phương pháp quản lý cũ, và vẫn nhắm vào những mục tiêu cũ, nhưng đặc biệt có phần khắc nghiệt và tàn nhẫn hơn trong cung cách quản lý. Nguyên nhân có thể là vì lòng căm thù (pha lẫn mặc cảm) đối với thành phần tù nhân mới. Nguyên nhân cũng có thể là vì sự suy đồi trầm trọng trong tình hình chính trị và kinh tế sau khi hoàn thành cuộc cưỡng chiếm đã khiến cho điều kiện ăn ở của tù nhân trong các trại học tập trở thành tồi tệ vượt ngoài sức tưởng tượng, thí dụ khẩu phần thường lệ của tù nhân cùng với những thực phẩm do thân nhân tiếp tế đã bị cắt xén hoặc tước đoạt nhằm cung ứng bù đắp cho chính những cán bộ quản giáo. Tính chất phi nhân của chế độ “học tập cải tạo”, thể hiện qua những sự thật khủng khiếp, chỉ từ sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ mới bắt đầu được phanh phui trước dư luận thế giới. Và được phanh phui bởi nguồn tài liệu đắt giá: tiếng nói của những người đã sống sót và đã vượt thoát, sau khi trở về từ các “trại học tập”. ĐẠI HỌC MÁU là một trong những tiếng nói đó. Không phải là tiếng nói đầu tiên, và chắc chắn cũng không phải là tiếng nói sau cùng. 822 trang sách, chia thành 70 chương, chỉ là lời tường trình của một chứng nhân về những điều mắt thấy tai nghe trong 4 “trại học tập”: Trảng Lớn, An Dưỡng, Suối Máu và Hàm Tân. Đó là những nơi mà Hà Thúc Sinh, một sĩ quan thuộc binh chủng Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, đã sống từ ngày 26-6-1975 đến ngày 9-2-1980, nghĩa là trong 4 năm 7 tháng 14 ngày. Tháng 11-1980, Hà Thúc Sinh bắt đầu viết ĐẠI HỌC MÁU tại đảo Pulau Bidong, mảnh đất tự do đầu tiên mà anh đặt chân tới sau khi vượt thoát khỏi Việt Nam. Bản thảo được hoàn tất vào tháng 12-1984 tại San Diego (California), mảnh đất tự do thứ hai của anh. Viết ĐẠI HỌC MÁU, Hà Thúc Sinh chẳng qua chỉ làm tiếp công việc đã từng được làm bởi nhiều người khác (và hẳn còn đang được tiếp tục làm bởi nhiều người khác nữa). Đó là nói lên tiếng nói của sự thật, cái sự thật bi thảm và kinh tởm về chế độ “học tập cải tạo” của Cộng Sản, cái sự thật mà cho đến giờ phút này vẫn còn hoặc chưa được biết tới đầy đủ, hoặc bị cố tình tảng lờ, cố tình phủ nhận, bởi những con người may mắn của một thế giới tự do nhất định không chịu tỉnh ngủ. Nghĩ cho cùng, tiếng nói của sự thật vốn không phải là thứ tiếng nói êm tai, dễ nghe. Và người ta có lẽ thích nhìn văn chương như cánh cửa mở ra một thế giới bình an, hạnh phúc, hơn là một thế giới đày đọa, khốn cùng. Tiếc thay, trên mặt địa cầu hiện nay có những bức màn sắt được dựng lên để chận bít tất cả mọi cửa ngõ dẫn đến bình an và hạnh phúc. Ngày nào những bức màn sắt đó chưa sụp đổ, ngày đó văn chương còn phải tiếp tục đóng vai trò của những viên đạn xuyên phá, của những hồi chuông cảnh tỉnh và báo động. Trong một bản “nhạc tù” viết tại trại Hàm Tân năm 1980, Hà Thúc Sinh đã tự nhủ rằng, nếu còn sống mà trở về, anh sẽ chỉ xin được làm “một đời thằng mõ không công”. Anh đã sống sót, đã trở về. Và anh đang làm đúng cái công việc mà khi ở trong tù anh ước nguyện. Làm thay cho những người bạn đã không được may mắn sống sót để trở về cùng anh. Làm thay cho những người bạn mà anh chỉ biết cầu nguyện rằng đến giờ này vẫn còn sống sót để sẽ có ngày trở về. Đồng thời, cũng làm thay luôn cho những người tuy đã may mắn sống sốt trở về, nhưng khi may mắn thêm lần nữa là thoát thân được đến vùng tự do thì lại đổi tính đổi nết, trở thành nhân từ và đãng trí. Tám trăm trang ĐẠI HỌC MÁU được kết thúc bằng một hoạt cảnh xảy ra bên một con suối trong trại Hàm Tân, khi tác giả cùng mấy anh em bạn tù vừa được “lệnh tạm tha”, hí hửng đi tắm rửa, bị một tên an ninh vòng đai trông thấy, quát hỏi: – Mấy thằng tù kia, đội nào nhà nào mà giờ này còn tắm ở đây? – Báo cáo cán bộ, tụi tôi được thả rồi, được tự do rồi. Tên công an thứ hai nghe vậy vội chen vào: – Này, ăn nói với cán bộ mà vô phép thế đấy phỏng? Mày tưởng thế là mày tự do đấy phỏng? Hà Thúc Sinh kết thúc bản tường trình ở đấy: câu hỏi chót đã không được trả lời. Nhưng đã được ghi lại nguyên văn để gửi đến chúng ta. Thỉnh thoảng người Cộng Sản lại buột miệng hỏi một câu, mà ít ai chịu để ý nghe. Nếu để ý nghe, thế giới tự do hẳn đã đỡ tốn rất nhiều thời giờ, bút giấy và xương máu NXB Nhân Văn 3-1985 QUYỂN SÁCH NÀY… ha_thuc_sinh-ta_ty Quyển sách này không thể là một tác phẩm tiểu thuyết văn chương, cũng không thể nằm trong hình thức một hồi ký chính trị hoặc một bút ký lao tù. Quyển sách này, thực tế, chỉ có thể được coi như một đống quặng mỏ, được khai quật và còn giữ nguyên hình thái chân thực của nó. Hoặc có thể nói một cách khác, bảy mươi chương sách này có thể xem như bảy mươi tấm ảnh, được chụp liên tục và được rửa ra bởi một phó nháy may mắn và có tính tiếc của, nháy được bảy mươi hoàn cảnh buồn nhưng có ý nghĩa trong đời tù cải tạo dưới chế độ cộng sản. Hoặc có thể nói một cách khác hơn nữa, quyển sách này là bản phúc trình của một người lính VNCH bị bỏ rơi, bị ở tù cộng sản, rồi thoát được ra ngoài, ngồi viết lại để kính gửi tới những ai còn thương yêu và còn quan tâm đến nước Việt Nam và con người Việt Nam còn ở lại… Quặng mỏ, những tấm ảnh chụp vội và chụp tham, hay bản phúc trình được thảo bởi một anh lính quèn, bản chất của nó thực khó tránh khỏi hai yếu tố chính thô và thực! Đồng lúc, mục đích của nó cũng không có gì khác hơn là ước ao sẽ được sử dụng như một thứ nguyên liệu cho một công trình biến hóa có ích lợi. Tác giả có nhiều hoài vọng, phải nói thật như thế, nhưng hoài vọng lớn nhất vẫn là mong sao mớ quặng mỏ này sẽ giúp cho một guồng máy chống cộng nào đó chạy thêm một vòng xích, một sử gia nào đó có thêm một chứng từ về cơn đau ốm quê hương, hoặc một người Việt Nam lưu lạc nào đó tìm được một quyết định: Phải cứu lấy người ở nhà!… Hà Thúc Sinh Hoa Kỳ 12-84. VÀO TRUYỆNMột trăm hai mươi “học viên” được dồn vào một “lớp học” gỗ mà trước kia người Mỹ dựng lên như một đơn vị phòng ngủ dành cho tám người. Người Việt Nam dù có nhỏ con hơn người Mỹ đi nữa, nhưng với một diện tích 15m x 5m cho một trăm hai mươi con người thì quả là tự điển Việt Nam không thể có một tĩnh từ nào mô tả cho chỉnh tình trạng này. – Tao lạy mày cho tao nhấc cái chân lên, tao đã tê đến bìu rồi! Một giọng nói khe khẽ cất lên trong đêm tối. Không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng thì thầm nói chuyện của một vài người. Giọng nói lại bắt đầu vang lên, nửa đau thương nửa hài hước. Tao lạy mày Hóa ơi, tao lạy mày cho tao nhấc cái chân lên một tí. Tiếng van nài hầu như vẫn chưa được đáp ứng. Giọng nói bỗng đổi tông, vừa lớn vừa quạu. Tiên sư nhà mày thế này mà ngủ được à? Ông tê lên đến rốn rồi. Cu dế không còn biết nó nằm ở đâu nữa này trời ơ…i… Tiếng trời ơi sau cùng đã lôi cả phòng thức dậy. Có tiếng cười rần rần tiếp theo là tiếng xô đẩy, âm thanh giống một đợt sóng từ xa đưa tới: Nhỏ, lớn dần và vỡ òa ra khi va vào chân núi. Sự lộn xộn khiến cái khối một trăm hai mươi người như nở lớn hơn ra. – Trời ơi bỏ cái cùi chỏ ra chỗ khác giùm đi ông cố nội! – Mày chân thật hay chân giả hả thằng quỷ? Sao cái đầu gối mày cứng gớm ghiếc vậy? – Ối mẹ ơi, nó chọc thủng mắt tôi rồi! – Chọc cái con củ c… Từ chiều đến giờ bộ vai tao là đùi vợ mày à? Đã tựa, đã ngủ, đã ngáy lại còn đổ nước rãi vào cổ ông nữa! Cái khối nở lớn ấy hình như teo lại tức khắc khi có tiếng lên đạn và tiếng quát tháo từ ngoài hắt vào. – Này, chúng mày nàm cái rì thế? Muốn bạo hành chống đối phỏng? Ổn định ngay không ông bắn bỏ mẹ bây giờ! Giọng nói của thằng bộ đội gác đêm vừa quê mùa vừa hỗn xược nhưng không đủ làm cho bọn tù bực bội. Họ yên lặng vì một ý thức bất chợt nào đó hơn là vì sợ hãi. Phải năm bảy phút sau khi tên bộ đội bỏ đi, không khí mới hoàn toàn im vắng trở lại. Một giọng thầm thì. – Mày nghĩ tụi nó dám bắn mình không? Một giọng khác. – Thằng bộ đội oắt con ấy à? – Không… là nói chính sách của chúng nó ấy chứ. – Bắn thế đếch nào được. Giọng thứ hai ra vẻ ta đây rành chuyện bàn cờ quốc tế. Hắn tiếp. Này nhé, một cái thây ma thằng Mỹ mà còn cò kè thêm một bớt hai năm này năm khác, cái thây sống này không đáng mười ngàn đô la à? Mười mấy thằng trong chính trị bộ chúng giàu thật đấy, nhưng liệu chúng có điên đến độ lâu lâu lại lôi ra một xấp đô la đốt chơi không? Không có tiếng trả lời. Giọng thứ hai tiếp tục, trầm và có vẻ dạy đời. Thương mại trước tất cả mọi sự, ông bạn ơi! – Thằng lính Mẽo và thằng lính Mít khác nhau chứ? Giọng một lên tiếng yếu ớt, tuồng như hắn nêu ý kiến với lòng cầu mong ý kiến mình được sai. – Đồng ý, nhưng mà… – Nhưng mà cái đếch! Một giọng thứ ba bỗng nổi lên với vẻ bực dọc. Ông cứ ngồi đó mà đợi thằng Mỹ nó chuộc! – Chứ sao! Giọng thứ hai chợt sôi nổi. Cờ hai bên đều kẹt thì bắt tay xóa đi làm lại, bộ xóa luôn à? – Ông như thế nào mà nhận định kiểu đó? – Đại úy, ba mươi năm quân vụ được không? – Thảo nào… Thôi tôi thua! Giọng thứ ba nói một cách cay đắng rồi im. Nhưng dường như tuổi trẻ không cho hắn im lâu. Hắn cựa quậy trong chỗ mình ngồi tựa như để buồng phổi được hít không khí nhiều hơn một chút, rồi chững chạc, hắn cất tiếng nói. Thưa ông đại úy, em chỉ là thiếu úy, em xin góp ý với ông đại úy thế này: Ông và em, ĐM chỉ là những con chốt. Những con chốt đã qua sông cả rồi. Những con chốt không còn xe, còn pháo, còn mã nào yểm trợ nữa cả! Và bọn đánh cờ chắc chắn giờ đây chúng đã mua bộ cờ mới, đánh ván cờ mới ở một chỗ mới mất rồi ông đại úy ơi! Ngừng một chút như để lấy hơi, hắn thở dài. Chỉ còn hai con đường duy nhất nếu muốn sống thoi thóp cho quãng ngày tàn là: Vượt ngục hoặc im mẹ nó cái mồm cho xong! – Nói khẽ chứ, họ nghe được thì khổ cả đám bây giờ! Một giọng thứ tư bỗng nổi lên. Giọng nói có vẻ thân mật ôn hòa của một người mà cái tuổi năm mươi của ông ta đã có thể cho phép ông ta thủ thế trong bất cứ vấn đề gì. Ông ta nói tiếp. Thế này nhé, tôi đề nghị các anh nên nghỉ cho khỏe. Mai mốt Cách mạng còn dạy mình học tập lao động cho phù hợp với đời sống mới. Mệt lắm chứ không chơi đâu. Rồi sẽ có lúc mình thèm ngủ mà sự bận rộn học hành sẽ chẳng còn được bao nhiêu thì giờ mà ngủ. Thức khuya nói nhảm chẳng lợi lộc gì. Ngừng một chút ông ta lại tiếp. Dù sao cũng mới có hai ngày. Giết nhau chẳng cái lưu cầu, Giết nhau bằng cái ưu sầu, độc chưa! (NGT) Chỉ có rừng sâu núi thẳm, Chỉ có trời cao đất dày, Nhật ký tôi viết không biết rõ tháng ngày… (HTS) Mời đọc tiếp: Chương [1] Hà Thúc Sinh
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:48:23 GMT 9
Những tháng năm cuồng nộ – Chương 1 Posted: 12/08/2013 in Khuất Đẩu, Truyện dài sangtao.org/2013/08/12/nhung-thang-nam-cuong-no-chuong-1/Lời mở đầuMột nơi không ngày tháng Tôi chỉ là một công dân hạng hai cầm bút chứ không phải là nhà văn. Lại càng không phải là nhà văn có thương hiệu cho dù là cấp xã hay cấp nhà nước. Tôi viết trước hết cho các con tôi vì chúng rất mù mờ không hiểu cha ông chúng đã sống và đã chết như thế nào trong suốt hơn nửa thế kỷ giông bão vừa qua. Tôi có người bạn bảo bây giờ viết như Kinh Kha buồn. Nghĩa là biết chẳng tới đâu mà vẫn phải cầm lấy bút như cây chủy thủ. Tôi nghĩ còn hơn Kinh Kha buồn vì sông Dịch bây giờ chẳng những lạnh mà hoang vắng đến rợn người. Chẳng có một tân khách nào dám tiễn đưa. Cái đất Tần ấy lúc này đang ngút trời gươm đao bất trắc. Từ lúc nạn đói năm Ất dậu đến nay có bao nhiêu triệu công dân hạng hai Việt Nam đã chết? Hai triệu? Năm triệu? Hay mười triệu? Chết vì đói, vì thủ tiêu, vì đấu tố, vì tố cộng, vì Mậu thân, vì cải tạo, vì vượt biên… Cho dù ở bên nào họ cũng chỉ là những nông dân nghèo, cả đời khát khao mảnh vườn thửa ruộng. Chính vì vậy mà họ bị lừa phỉnh, bị lợi dụng, bị sai khiến. Cho đến bây giờ những kẻ sống sót cũng không còn là những nông dân thuần Việt như xưa. Cái làng An Định không có trên bản đồ Việt Nam nhưng nhất định là có trong tâm tưởng của nhiều người. Và số phận của họ cũng trôi nổi như nhân vật bị thả trôi sông. Con sông ấy là con sông lịch sử. Cũng như nhân vật chính trong truyện vừa mới sinh đã bị đem thả trôi sông, tôi thả tác phẩm của mình lên mạng. Sống chết thế nào là số phận của nó. Dù sao tôi cũng xin được cảm ơn. Trân trọng, K. Đ. 1. Người đã sinh ra tôi nhưng không dám nhận tôi là con chắc vẫn muốn cho tôi được sống. Bởi vì, mặc dù thả tôi xuống sông, nhưng bà vẫn cẩn thận đặt tôi vào lòng một chiếc nắp bầu có trét dầu rái và đắp lên ngực tôi một chiếc yếm mà mãi sau này tôi vẫn còn nghe phảng phất mùi mồ hôi. Dòng sông đưa tôi đi vô tình như bao lần đưa những xác súc vật mà người ta vẫn thường ném xuống. Nếu hôm đó không có một người đang đãi cát tìm hến và không có một cơn gió nhẹ bất chợt thổi qua đưa cái nắp bầu tấp vào chân bà thì không biết số phận của tôi trôi nổi đến bờ bãi nào và liệu tôi còn có đủ cơ may để mà sống sót ở đời hay không! Cô Sáu nói, lúc đầu tao hoảng hồn tưởng là ma da định bỏ chạy lên bờ, nhưng nhìn kỹ thấy cái mặt mày tím ngắt, tao vội vàng mang cái nắp bầu chạy thẳng vào lều. Tao giựt đại một tấm tranh đốt lửa để sưởi ấm cho mày. May quá, nhà có con chó mới đẻ, tao nhét thử cái vú nó vào miệng mày, trời ơi, mày bú ngon lành! Như vậy, cô Sáu nói tiếp, con chó đó cũng như mẹ của mày. Ừ thì là mẹ của tôi, hay đúng hơn nó coi tôi như một trong bầy con của nó. Ngoài việc phải nằm phơi bụng ra cho tôi bú, nó còn dọn sạch cả cứt đái do tôi thải ra. Nó thường đưa cái lưỡi dài liếm láp khắp mặt mũi mình mẩy tôi. Nhờ vậy tôi trùi trũi lớn lên, không bị ghẻ chóc đầy mình như những đứa con nhà nghèo khác. Cái ngã ba sông vắng lặng và buồn hiu bỗng trở nên ồn ào khi tôi được đồn thổi là chó đẻ ra người hay tệ hơn là người lấy chó đẻ ra tôi! Không ngày nào là không có người đến xem và mặc dù chẳng ai dám tới gần vì con chó cái canh giữ tôi quá cẩn thận, nhưng khi ra về ai cũng bảo đích thị chính con chó ấy đã đẻ ra tôi. Khi cô Sáu đem tôi xuống chùa Thiên An xin “bán” cho Phật để lũ ma da ở ngã ba sông không dìm chết tôi, người khắp nơi kéo đến xem còn đông hơn cả đi lễ rằm tháng bảy. Mặc cho con chó nhe hàm răng trắng nhỡn ra gầm gừ hăm doạ, người ta vẫn cứ vạch đít tôi ra xem có cái đuôi như đuôi chó hay không. Người ta còn kéo cả chim vừa cười vừa bảo là giống hệt c… chó! Cho dù tôi có do người hay chó đẻ ra, ngài hoà thượng vẫn xem tôi là một sinh linh bé bỏng cần được Đức Phật chở che, nên ngài đã nhẹ nhàng bọc quanh tôi một tấm vải màu vàng, vừa niệm Phật vừa luồn tôi vào giữa bụng một cái đại hồng chung, bảo đệ tử nện đúng mười hai chày đến nỗi lúc nào tôi cũng nghe như có tiếng chuông ngân nga ở trong đầu! Vì đã vắt hết sữa cho tôi bú nên con chó teo tóp không còn đủ sức đẻ đái gì nữa. Nó thành bạn suốt ngày chơi đùa với tôi. Nó thường rít lên những tiếng ư ử, sủa hắc hắc rồi vụt chạy cho tôi đuổi theo. Khi đuổi kịp, nó liền nằm lăn ra đất để cho tôi nằm đè lên. Nó rối rít đưa cái lưỡi liếm khắp mặt tôi như thể tôi vừa đi đâu xa mới về. Chơi chán, tôi và nó cùng nằm lăn ra ngủ. Khi cô Sáu đem tôi xuống sông tắm rửa, nó vẫn chưa thôi cái cơn đùa giỡn. Nó bơi tít sang bờ bên kia đứng chóc mỏ lên mà sủa. Rồi nó lại lộn qua đuổi theo cô Sáu, chạy quắn quít khắp nhà. Cô Sáu phải nện một cán chổi vào lưng, nó mới chịu nằm yên. Một hôm, tôi và nó cùng chơi và cùng ngủ cạnh nhau như thế, thằng thủ ngữ Đực chuyên ăn trộm chó, đã lén quẳng dây thòng lọng vào cổ nó, lôi đi. Khi cô Sáu tôi tìm được thằng khốn nạn thì “người mẹ” tội nghiệp của tôi chỉ còn lại cái đầu đang bị nó gặm nham nhở! Cô Sáu, người đã cứu vớt tôi khỏi cái chết của một đứa bé vừa mới sinh đã bị đem thả trôi sông, người đã nuôi nấng dạy bảo nhiều khi đánh mắng tôi, người mà tôi thiết tha muốn gọi mẹ nhưng cô vẫn không cho. Cô nói, tao chưa có chồng sao lại có con được. Mày cứ gọi tao bằng cô, khi nào tìm được người đã đẻ ra mày thì hãy gọi mẹ. Đâu phải bạ ai cũng gọi là mẹ được. Nhưng biết đến bao giờ! Cứ như lời cô phỏng đoán thì mẹ tôi phải là người ở thôn An Đông chứ không ở đâu xa lạ. Nếu ở xa thì khi vớt được cái nắp bầu lên, là tôi đã chết cóng từ lâu rồi. Và cũng bởi vì chỉ có ở An Đông chuyên nghề làm cốm mới có những chiếc nắp bầu trét dầu rái để tránh nước mưa và giữ cốm cho dòn. Tôi đã đi khắp An Đông, chui vào các lò cốm, để mặc cho người ta đùa cợt sờ nắn, nhưng vẫn không biết ai là người đã đẻ ra mình. Mà dẫu cho có ai đó thì cũng không chắc đã đủ can đảm để nói với tôi rằng, ta chính là mẹ của con để cho tôi đựơc sung sướng gục đầu vào lòng mà khóc gọi Mẹ ! Tuy cô Sáu không cho tôi gọi mẹ, nhưng lòng tôi lúc nào cũng thầm gọi cô là Mẹ. Mẹ Sáu, Mẹ Sáu ơi ! Tôi gọi thế khi tôi ốm đau, khi tôi tuyệt vọng. Người cô thấp nhỏ, đen, một con mắt gần như bị chột vì một cành tre đâm phải. Tôi không biết cô bao nhiêu tuổi, nhưng trông cái dáng người khô đét như trái mướp khô, miệng lúc nào cũng nhai trầu bỏm bẻm, cô đúng là bà ngoại và tôi là đứa cháu nhỏ. Nhà cô, thực ra là cái chòi rách của cô, nằm ở địa đầu thôn Trung Lương. Đó là một doi đất mà những cơn lụt mỗi năm tràn qua đã cuốn hết đất màu, chỉ còn trơ lại cát gọi là đồng cây Sanh. Gọi là đồng nhưng chẳng có một cọng lúa hay cây bắp nào, chỉ lơ thơ một vài cây sậy lúc nào cũng nghiêng ngả trong gió như những người say rượu. Vào mùa nắng, những cơn gió nam đuổi bắt nhau trên bãi, tung cát lên cao, uốn lượn một hồi rồi trút cả xuống thôn Trung Lương. Cát trên mái nhà, trong buồng ngủ, trong mâm cơm, cát nhiều đến nỗi cả một xóm đầu thôn phải bỏ đi nơi khác, chỉ còn lại mỗi một chùa Thiên An phơi mình ra chịu trận. Đồng cây Sanh mỗi năm một phình to ra và cái ngã ba sông càng ngày càng hoang vắng hơn. Khi mùa mưa tới, chỉ trong một vài ngày là cả cánh đồng mênh mông như biển. Cô cháu tôi phải đem nhau vào trú trong mả Thập Miên. Đây là những ngôi mộ cổ nằm san sát bên nhau như những con trâu được ai đó lùa lên gò để tránh lụt. Cô cháu tôi mỗi người chui vào một nhà mồ thấp lè tè, che gió bằng một tấm tranh rồi nằm cuộn tròn trong đó suốt đêm như một con cuốn chiếu. Bên ngoài, gió rít lên the thé, sục sạo từng ngôi mộ như đang lùng kiếm lũ quỷ không đầu cũng đang lẫn trốn đâu đó. Cô Sáu nói, mấy mươi năm trước dân các làng nổi lên làm giặc. Họ là những người đàn ông trong tay chỉ có mỗi một cây rựa nên gọi là giặc Rựa. Họ cắt phăng búi tó, rùng rùng kéo nhau lên phủ xin giảm xâu giảm thuế. Quan phủ hoảng sợ phải đóng cửa thành. Họ liền tràn vào các vùng phụ cận, gặp ai để búi tó là đè ra cắt phập. Họ tung hoành đến cả tháng. Mãi đến khi quan công sứ cho lính Pháp hợp cùng với lính tập vây bắt suốt mấy ngày mới dẹp được yên. Bọn họ bị triều đình khép tội làm giặc và những ai ở ba làng An Định, An Đông và Trung Lương đều bị đem chém ở đồng cây Sanh. Đầu của họ bị đem bêu trên những cái cọc cắm ven đường, còn xác thì đem chôn ở bãi cát. Chỉ một mùa lụt là bao nhiêu cái xác không đầu đều bị nước cuốn trôi, xương trắng lăn lóc khắp cả cánh đồng, vung vãi tận các khu vườn ở thôn Trung Lương. Hoà thượng chùa Thiên An cho các sư sãi đi thu nhặt, gom thành một đống lớn hoả thiêu rồi lập đàn giải oan. Mặc dù nhà chùa đã tụng kinh siêu độ đến bảy ngày, nhưng nỗi oan to lớn quá nên những con ma không đầu không thể nào siêu thoát được. Chúng biến thành quỷ cứ rền rĩ khóc than mãi. Trời nắng chúng quay cuồng thành cơn gió trốt, trời mưa chúng biến thành những đám ma trơi lập loè. Một đôi khi chúng biến thành người cùng đi với khách bộ hành, cũng hỏi han chuyện trò, đến khi nhìn mặt mới biết là không có đầu! Nhưng, vẫn theo lời cô Sáu, những con ma đã biến thành quỷ ấy tuy đáng sợ thật, nhưng những con quỷ sống mới đáng sợ hơn. Đó là những bọn ăn mày chúa. Chúng tụ tập thành bầy đến vài mươi đứa tôn một thằng lên làm chúa. Ngoài việc ăn mặc lôi thôi rách rưới đã đành, chúng còn bó vào chân nào đầu tôm ruột cá để ruồi nhặng bám theo vo ve như đàn sáo. Thằng chúa nằm nghễu nghệnh trên một cái võng rách để cho hai thằng mù khiêng đi xiên xẹo, hai bên lại có hai cái lọng bằng nón cời do hai thằng thọt cầm. Việc đầu tiên khi vào được nhà ai là chúng tìm cách chọc cho chó cắn. Chỉ cần một con chó hung hăng ngu dại nào đó đớp một phát vào một đứa trong bọn là y như rằng bọn chúng trúng lớn. Cả lũ tức thì nằm lăn ra đất, vật vã kêu gào như đang bị ai thiến. Chúng nằm đó suốt ngày, hết khạc nhổ đến ỉa đái cho đến khi chủ nhà chịu hết xiết, phải đem gạo thịt tiền bạc ra van xin hết lời chúng mới chịu đi cho! Vì vậy, khi nghe tụi ăn mày chúa kéo tới đầu làng, nhà nào cũng vội vàng nhốt chó, đóng chặt cửa như trốn giặc. Những nhà giàu phải đem gạo tiền ra tống tiễn để chúng đi qua làng khác. Cả đám hương lý cũng phải xén bớt quỹ làng, ngọt ngào năn nỉ nếu không chúng tới nằm vạ trước đình làm ô uế đến cả thánh thần. Ngã ba sông là nơi chúng ưa thích dừng chân. Từ đây, chúng đi tới các làng ven sông mà không bỏ sót một làng nào. Chiều tối chúng kéo nhau về bãi cát tháo bỏ những thứ dơ dáy hôi hám, tắm táp kỳ cọ rồi tươi tỉnh ăn uống no say. Chẳng đứa nào câm. Cũng chẳng thằng nào chột, con nào què. Đứa nào cũng mạnh khoẻ béo tốt. Thằng ăn mày chúa lại có cả vợ hầu, cơm rượu xong lại rửng mỡ rúc rích suốt đêm. Có lần chúng đem gạo thịt tới cho cô Sáu nhưng cô không thèm nhận. Cô bảo thà chết đói chứ không bao giờ đụng vào của bất nhân. Cô Sáu kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện như thế, nhưng không hề nói cho tôi biết một chút gì về gốc gác của cô. Cô bảo, tao cũng là đồ trôi sông lạc chợ như mày, có hơn gì đâu mà nói. Ngay cả tên cô nghe cũng rất lạ đời, đàn bà ai lại đặt tên Chơi. Nhưng cô cười bảo tao ham chơi quá, người ta chửi mãi lâu ngày thành tên. Nói vậy chứ cô là người rất chăm làm. Sống bằng nghề đi mót, đánh tranh giũ rạ thì chơi thế nào được. Có điều cô làm những việc tẳn mẳn buồn bã ấy một cách rất nhẹ nhàng vui vẻ, làm mà cứ như chơi vậy. Thường thì bọn đi mót vừa đông vừa gian không thua gì bọn ăn mày chúa. Họ lấy cớ đi mót để rút trộm lúa, bẻ trộm bắp, nên chủ ruộng nào cũng đem theo một cây roi dài để thả sức mà quất lên lưng lên nón. Cô Sáu tôi không muốn bị đánh như đánh chó. Đợi cho lúa được bó xong gánh hết về nhà và cả bọn cướp cạn kia bỏ đi, cô cháu tôi mới xuống ruộng gom hết những hạt thóc rơi trước khi lũ vịt chạy đồng kéo tới. Chúng tôi cũng quét cả lúa rụng trên đường đi mặc dù có lẫn cả đất và phân trâu bò. Nhưng có hề gì, sau đó cô tôi đem hết ra sông đãi, chỉ trong chốc lát là có cả một mớ lúa vàng. Mót như thế thì chẳng ai thèm tranh với cô cháu tôi ngoài một vài con chim sẻ chim cu thỉnh thoảng sà xuống đớp vài hạt. Mùa mưa nước ngập đồng thì chúng tôi lại kiếm khá hơn vì bọn đi mót giả bộ kia không chịu được ướt át lạnh lẽo. Chúng tôi nhiều khi được thợ gặt chừa lại cho cả một vạt lúa ngập trong bùn. Những lúc không có gì để mót, cô tôi đi giũ rạ đánh tranh để người ta lợp nhà. Cô tỉ mẩn dùng liềm gạt những hạt thóc còn sót lại trong rạ trước khi giũ cho rơm bung ra, chỉ để lại những cọng rạ thẳng và cứng. Sau đó cô dùng những chiếc hom tre và với cách thức trong nghề, cô đan thành những tấm tranh rất đẹp. Tiền công cho mỗi một tấm tranh chẳng được bao nhiêu nhưng cô được rất nhiều lúa, tuy gạo có mùi dầu hơi nhưng vẫn đủ ăn quanh năm. Sau mỗi mùa lụt, cái bãi cát ở ngã ba sông rất nhiều hến. Cô đem một cái rổ thưa cứ việc xúc đầy cát rồi để nước cuốn đi chỉ chừa lại những con hến vừa ngọt vừa béo mà ai cũng thích. Chính trong một lần như thế cô đã cứu sống tôi. Cô Sáu tôi như thế đó, rất nghèo hèn cơ cực, nhưng ngoài con chó cái một thời vừa là mẹ vừa là bạn của tôi, thì chính cô là người đàn bà từ tâm mà phước đức lắm tôi mới gặp được trong đời. Mời đọc tiếp: Chương [2] Khuất Đẩu
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:50:31 GMT 9
Phê bình văn học thế kỷ XX: Phản xạ phê bìnhPosted: 04/02/2012 in Biên Khảo / Phê Bình, Thụy Khuê sangtao.org/2012/02/04/phe-binh-van-hoc-the-ky-xx-phan-xa-phe-binh/Vase with oleanders and books – Vincent van Gogh Phê bình là một trong những sinh hoạt hàng ngày của đời sống, là một phản xạ trước mỗi lựa chọn, mỗi hành động. Xuất phát từ ý thức bản thân: khi nghe một lời nói, một bản tin, một bài diễn văn, xem một cuốn phim, đọc một cuốn sách… phản xạ phê bình luôn luôn hiện diện, “nó” âm thầm “làm việc” trong đầu, chỉ cho ta biết điều này nghe được, điều kia ngụy biện, đoạn văn này dí dỏm, bức tranh này xấu, bản nhạc kia hay, v.v… Mặc nhiên, ý thức phê bình tiềm ẩn trong óc, nếu muốn lộ diện bằng lời nói hay trên văn bản, “nó” phải “có gan” vượt qua thử thách từ môi trường gia đình đến môi trường xã hội. Ở phương Tây, sinh hoạt tri thức này sớm được vun xới trong gia đình: Con cái có thể tự do phát biểu trong bữa ăn, đưa ra những nhận xét “độc đáo” để phê bình cha mẹ, mà ít khả năng bị mắng, bị đánh. Do không bị ảnh hưởng nho giáo và được sống dưới chế độ dân chủ từ hơn một thế kỷ, nguời Tây phương có ý thức phê bình cao. Ý thức ấy, chẳng những không bị tiêu diệt từ trứng nước, mà còn có điều kiện phát triển trong toàn bộ sinh hoạt sống và suy nghĩ của con người từ gia đình đến xã hội. Tại phương Đông, quyền huynh, thế phụ là trật tự kỷ cương, vì vậy, phê bình không những thiếu điều kiện phát triển mà còn bị đàn áp ngay từ đầu: Con cái chỉ có quyền “nghe lời” cha mẹ, chứ không được quyền “phát biểu”. Quyền đối thoại với cha mẹ, cho đến nay hầu như vẫn chỉ ở mức độ tối thiểu, ngay cả trong những gia đình rất Âu hoá, hoặc đang sống ở ngoại quốc. Truyền thống này làm nhụt chí con người: Rụt rè, e ngại, không dám nói trước công chúng trở thành quán tính, đặc sản của người Á đông. Đó là hậu quả của nền giáo dục ảnh hưởng đạo nho trong nhiều thế kỷ. Tại một số nước độc tài ở phương Đông, vấn đề còn đáng ngại hơn: con người bị hai lần quản thúc: Ảnh hưởng nho giáo trong gia đình kết hợp với hệ thống chính trị không dung đối lập, không chấp nhận bất cứ sự phê bình nào đến từ phía quần chúng. Hai giáo điều hợp thành cái vú lớn, đầy ắp miệng “con dân”. Biến con người thành trẻ thơ vĩnh viễn, thành bộ máy chỉ biết nhận lệnh, không có hoặc không còn khả năng phán xét những lệnh đó, có đáng nhận hay không. Sự công khai bảo vệ ý kiến của mình trở thành nguy hiểm, có thể bị bắt, bị rơi vào vòng tù tội. Trong những xã hội như thế, văn học nói chung, và phê bình văn học nói riêng không thể phát triển, hoặc nếu có, cũng phải đi theo một chiều duy nhất: chiều được phép. Người phê bình, chỉ có nhiệm vụ ca tụng những gì được phép ca tụng, chỉ trích những gì được phép chỉ trích. Nhưng cả ca tụng lẫn chỉ trích, đều không dựa trên bất cứ một đạo đức mỹ học, nghệ thuật nào, vì vậy nó đi ra ngoài mục tiêu của văn học. Khi nền kinh tế được “mở cửa”, xã hội tiệu thụ tràn vào, trong đó có các sản phẩm tinh thần như sách báo, điện ảnh, âm nhạc… nhưng người dân đã đánh mất phản xạ phê bình, không còn đủ khả năng để lựa chọn một cách sáng suốt cái gì nên “mua”, nên “nhận”, cái gì nên bỏ, trong đống rác khổng lồ mà xã hội phương Tây sa thải, bán đại hạ giá, hoặc cho không các nước nhược tiểu. Nghèo, chúng ta phải nhận rác của người giàu là điều dĩ nhiên, nhưng nếu còn phản xạ phê bình thì chúng ta vẫn có thể lựa trong đống rác ấy, những gì dùng được và những gì phải vĩnh viễn sa thải. Một điểm nữa: Ý thức phê bình phải đi đôi với ý thức trách nhiệm. Trách nhiệm của người viết đối với bản thân và đối với người khác. Mạ lỵ không phải là phê bình. Khi trách nhiệm vắng mặt, chưa thể có phê bình. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, phản xạ phê bình vẫn hiện diện trong con người như một đòi hỏi, một lương tâm thứ nhì, hướng về những lựa chọn thoả đáng cho mỗi tình thế, mỗi hành động. Người Việt Nam đã bị bắt buộc (hay tự nguyện) phải dồn ép ý thức phê bình trong tiềm thức quá lâu, từ sau 1954 ở miền Bắc và từ 1975, trên toàn quốc. Những ngòi bút phê bình tài năng và có tâm huyết hầu như đều phải viết khác đi, hoặc phải gác bút, đổi nghề. Còn lại là lối viết chính thống hoặc “đổi mới” giả tạo, chắp vá những khái niệm thời thượng Âu Tây vừa nhập cảng, chưa kịp tiêu hóa và cũng không rõ nguồn cội, xuất xứ từ đâu. Sự cố gắng của Nguyên Ngọc trong việc dịch cuốn Qu’est-ce que la littérature (Văn chương là gì?) của Jean-Paul Sartre và Le degré zéro de l’écriture (Độ không của lối viết) của Roland Barthes sang tiếng Việt, cũng không đem lại kết quả khả quan, điều này dễ hiểu, bởi vì đối với độc giả Việt Nam -phần đông còn xa lạ với những lý thuyết phê bình- nếu chúng ta giới thiệu thẳng một cuốn sách của J. P. Sartre hay Roland Barthes, mà không phác hoạ bối cảnh chung, thì người đọc khó tiếp nhận được. Một mặt khác, hiện nay, những tác phẩm dịch hoặc giới thiệu văn học nước ngoài, vẫn còn chịu quy luật kiểm duyệt gắt gao, cho nên các bản dịch của Nguyên Ngọc về Sartre và Barthes, đã bị cắt xén trầm trọng, chủ yếu là những đoạn mà hai tác giả này nói về tự do dân chủ hoặc phê bình ngôn ngữ mác-xít; riêng đối với Sartre, tự do và dân chủ là điều kiện tiên quyết của văn chương. Toàn thể tác phẩm của ông dựa trên nền tảng tự do tư tưởng. Cách đây hơn 40 năm, một cái nhìn đại cương về phê bình thế giới, đã được giáo sư Nguyễn Văn Trung phân tích trong bộ “Lược khảo văn học” phần ba, tựa đề “Nghiên cứu và phê bình văn học” [1]. Bộ sách này cho đến nay dường như vẫn là tác phẩm duy nhất đem những phương pháp phê bình văn học thế giới áp dụng vào văn học Việt Nam. Nhưng Nguyễn Văn Trung viết từ những năm 1966-67 (dành cho sinh viên văn khoa miền Nam, như trong lời tựa); ở thời điểm ấy, những trường phái phê bình lớn của Nga và của Đức vẫn chưa được thế giới bên ngoài biết đến. Chúng tôi muốn tiếp nối công việc của một bậc đàn anh, với chủ đích giúp cho độc giả, nhất là sinh viên ban văn chương trong nước ngày nay có một cái nhìn rộng rãi hơn về phê bình văn học thế giới, và cũng để đáp ứng yêu cầu của một số bạn đồng nghiệp ở trong nước, muốn biết thêm về nền phê bình thế kỷ XX, nhưng với điều kiện ngặt nghèo về tài liệu, với những khó khăn về ngoại ngữ, đã không thể tiếp cận trực tiếp những nguồn tư liệu gốc, mà chỉ đọc những gì các nhà nghiên cứu Liên Xô viết lại hoặc tóm lược. Đây chỉ là những nét phác đầu tiên, với những thiếu sót hiển nhiên, hy vọng trong tương lai sẽ có những công trình nghiên cứu khác, đầy đủ và đào sâu hơn. Nền phê bình của chúng ta chỉ có thể phát triển được trên một quá khứ đã được soi sáng, không chỉ quá khứ văn học “nước mình”, mà cả quá khứ văn học thế giới. Để mượn lời bà De Staël: “Một nền văn chương không có quá khứ, không phải là văn chương đích thực“, chúng tôi muốn nói: “Một nền phê bình không có quá khứ, chưa phải là phê bình”. © Copyright Thụy Khuê [http://thuykhue.free.fr] Nguồn: Tác giả gửi [1] Nam Sơn xuất bản tại Sài gòn, 1968. Xuân Thu tái bản tại California, 1990.
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 18:52:35 GMT 9
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm – Chương 1: Tìm hiểu Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm Posted: 18/04/2011 in Biên Khảo / Phê Bình, Thụy Khuê Thẻ:Nhân Văn Giai Phẩm Thụy Khuê sangtao.org/2011/04/18/phong-trao-nhan-van-giai-ph%e1%ba%a9m-ph%e1%ba%a7n-i/Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt tháng 6 năm 1958. Hai nguồn tư liệu sớm nhất về Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (THĐNTĐB) của Hoàng Văn Chí do Mặt Trận Tự Do Văn Hoá in ở Sài Gòn năm 1959, và Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận (BNVGPTTADL) do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm 1959. Ngoài hai tập tư liệu này còn có những tập tư liệu khác, ra đời hơn 30 năm sau. Trước hết là cuốn “Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam“ (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam) của Georges Boudarel. Georges Boudarel, nay đã qua đời, là nhà giáo, đảng viên cộng sản Pháp, 1947 sang Việt Nam với mục đích tranh đấu chống chính quyền thuộc địa. Sau hai năm dạy học tại Sài Gòn, Boudarel theo Việt Minh, đặc trách nhiệm vụ “cải tạo” tù nhân Pháp ở trại 113. Năm 1966, vì không còn đồng ý với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp. Trong thời gian ở Việt Nam, ông đã gặp gỡ nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có những thành viên NVGP và Boudarel đã mang được về Pháp những tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, và một số báo xuất bản ở Hà Nội trong thời kỳ này. Cuối 1987 đầu 1988, trong bối cảnh “cởi trói văn nghệ” của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Georges Boudarel đã viết loạt bài tựa đề Dissidences intellectuelles au Viêt-Nam L’affaire Nhan Van-Giai Pham (Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn Giai Phẩm), in trên hai tập san Sudestasie (số 50 tháng 1/1988) vàPolitique Aujourd’hui en Europe (phụ bản tháng giêng năm 1989), sau tập hợp và đào sâu thành cuốn “Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam” (Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam) do Jacques Bertoin in năm 1991 tại Paris. Ngoại trừ việc Boudarel (cũng như Hoàng Văn Chí) đều cho rằng phong trào NVGP bắt nguồn từ Trăm hoa đua nở bên Trung Quốc, là sai, và Lê Đạt, Hoàng Cầm đã đính chính trong những buổi trả lời phỏng vấn trên RFI, cuốn sách của Georges Boudarel là tập tư liệu có giá trị bằng tiếng Pháp viết về NVGP, nhờ đó mà bi kịch NVGP đến được với người đọc tiếng Pháp. Từ những năm 90 trở đi, một loạt những tài liệu mới về NVGP xuất hiện rải rác trong và ngoài nước, dưới dạng tự thuật, bút ký, sáng tác… của những thành viên đã tham gia phong trào như Phùng Quán, Phùng Cung, Hữu Loan, Hoàng Cầm… Trong số đó có hai tài liệu quan trọng là tập hồi ký viết bằng tiếng Pháp Un Excommunié (Kẻ bị khai trừ, nxb Quê Mẹ, Paris, 1992) của Nguyễn Mạnh Tường với tiểu tựa: Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel (Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức). Luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể lại những thăng trầm trong cuộc đời ông gắn bó với lịch sử từ 10 giờ sáng ngày 10/10/1954 khi quân cách mạng tiến vào Hà Nội đến tháng 5/1991, thời điểm ông viết xong tập hồi ký. Sau 9 năm theo kháng chiến, Nguyễn Mạnh Tường từ chiến khu trở về trong số những trí thức được ưu đãi của chính quyền. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm ra đời, ông tham gia và đã chịu sự trừng phạt nặng nề. Nhờ hồi ký Nguyễn Mạnh Tường mà chúng ta có thể hình dung được các giáo sư đại học cùng chí hướng với ông như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, đã phải trải qua những kỷ luật như thế nào, và hiểu được cuộc sống cách ly, đói khát, luôn luôn bị theo dõi của họ trong hơn ba mươi năm sa mạc. Cuốn nhật ký Trần Dần ghi (Văn Nghệ, California, 2001), trích những ghi chép hàng ngày của Trần Dần, đặc biệt trong hai thời kỳ: Cải cách ruộng đất và sau Nhân Văn Giai Phẩm. Nếu hồi ký Nguyễn Mạnh Tường là bản chúc thư (viết năm 1991, ở tuổi 82) gửi gấm cho thế hệ mai sau về sự đối đầu của một trí thức trước áp lực cách mạng, thì nhật ký Trần Dần, ghi lại những suy nghĩ và sinh hoạt hàng ngày của một nhà thơ đã chịu nhận mọi tội để mong được tha thứ, muốn được trở lại sống bình thường như mọi người, nhưng vô hiệu. Hoàng Văn Chí và Trăm hoa đua nở trên đất Bắc Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, soạn giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc(THĐNTĐB), do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá xuất bản tại Sài Gòn, 1959, cho biết: “Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ”, “Tôi làm việc một mình”, “Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội”, ” Tôi làm việc trong hai năm 56-58″. “Bộ Thông tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào”. “Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay (1986) chưa được thả”. “Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa” (Trích Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, bán nguyệt san Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ). Hoàng Văn Chí đã nói rõ lý do và điều kiện ra đời của tập Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Nhưng tại sao ông lại đặc biệt lưu ý đến phong trào NVGP? Ai là những người “ở lại” mà ông đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ ? Nếu tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, có thể chúng ta thấy câu trả lời : Sở Cuồng Lê Dư có ba người con gái – vì bà Lê Dư là em ruột Phan Khôi, cho nên ba cô này là cháu Phan Khôi – cô đầu gả cho Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì lấy Hoàng Văn Chí và cô út là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Riêng nữ sĩ Hằng Phương, vợ nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, sau này viết bài đả kích thậm tệ Nhân Văn Giai Phẩm. Rất có thể vì thế, mà người em ruột Hằng Phương, tức bà Hoàng Văn Chí, đã là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về Nhân Văn Giai Phẩm. Tác phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh nhất về phong trào NVGP. Trừ ba người : Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt bị loại ra (có thể Hoàng Văn Chí không thích hay không tin họ vì Nguyễn Hữu Đang đã từng là người tin cẩn của Hồ Chí Minh, Lê Đạt là bí thư của Trường Chinh và Trương Tửu là nhà phê bình lý luận Mác-Xít). Phần lớn những thành viên khác đều có mặt, với một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quý và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt tiểu sử Phan Khôi và Văn Cao, với những chi tiết mà hiện nay không tìm thấy ở đâu. Một phần vì Hoàng Văn Chí có liên hệ gia đình với Phan Khôi, nên một số dữ kiện chỉ ông biết, mà không tìm thấy ở những tư liệu khác. Những chi tiết ấy có thể một số người ở trong nước biết nhưng không dám viết ra. Sau này, không thiếu những cuốn sách viết về Văn Cao, Phan Khôi, nhưng thường lại tô hồng, tiểu thuyết hoá, hoặc cắt xén vo tròn, khó tìm thấy sự thật. Nhưng tác phẩm của Hoàng Văn Chí cũng có một số nhược điểm: – Soạn giả không phải là người trong cuộc, và đã rời miền Bắc từ đầu năm 1955, cho nên khi thuật lại một số sự việc đôi khi có những chi tiết ông nhớ sai, những sai sót này, ngày nay, chúng ta có thể điều chỉnh lại được. – Hoàng Văn Chí là người chống Cộng và ông để lộ lập trường khá rõ trong tác phẩm có tính cách biên khảo này. Vì vậy, ông chỉ nhắc sơ qua, hoặc không nhắc đến những bài quan trọng của Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt (vì những lý do đã nêu trên). – Ngoài ra, ông cũng cắt xén những đoạn mà các tác giả trong NVGP lên án “tội ác Mỹ Diệm”, hoặc ca tụng Đảng. Đặc biệt với bài Nhất định thắng của Trần Dần, ông đã lược bỏ những câu, những đoạn sắt máu, có tính cách khẩu hiệu, tuyên truyền, khiến cho tác phẩm hay hơn, nhân bản hơn, được độc giả miền Nam chấp nhận, nhưng đã làm lệch ý của Trần Dần trong thời điểm 1955-56. Bản in lại trong tập Trần Dần thơ (nxb Đà Nẵng, 2008) cũng là bản Hoàng Văn Chí. Ngày nay, chúng ta có thể phân tích rõ ràng tư tưởng của mỗi thành viên, qua các văn bản mà họ để lại trên các báo Nhân Văn và Giai Phẩm. Một mặt khác, qua nhân chứng của các thành viên, chúng ta có thể tái tạo lại diễn biến của phong trào: ai làm gì, ai giữ trọng trách gì. Đối chiếu những nhân chứng này với lời buộc tội của những ngòi bút chính thống được chỉ định đánh họ, in lại trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận (1959) và một số bài in trên các báo chính thức trong thời kỳ này, mà Lại Nguyên Ân đã sưu tầm và công bố, chúng ta có thể nhìn ra nhiều khía cạnh của sự thật hơn. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận Tập tài liệu tựa đề Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do Nxb Sự Thật (nay là Nxb Chính Trị Quốc Gia), in tháng 6, năm 1959, tại Hà Nội, là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, lên án, buộc tội NVGP. Trong phần cuối cuốn sách, có một chương nhỏ, trích “những lời thú tội” của các thành viên NVGP, còn hầu như toàn thể dành cho phía công tố “phát hiện tội”, với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng, hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP. Tập tư liệu dày 370 trang này -chứng tích một thời mà chữ nghiã đã đạt tới đỉnh cao của sự bồi bút- còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, nó mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà nhà thơ Lê Đạt đã mô tả tường tận trong các bài phỏng vấn trên RFI. Đồng thời nó cũng gián tiếp trả lời những lập luận gần đây, cố tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc của phong trào NVGP thành một cuộc “đánh đấm nội bộ”, tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ gì đến vấn đề tự do tư tưởng. Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ và các đoàn thể, báo chí, nhân dân cũng như các vị trong ban chấp hành trung ương Đảng, với những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v… phản ảnh rất rõ nhân cách của người tố. Cho nên, có thể nói, qua những “văn bản tố”, các tác giả đã để lại nhân cách trí thức của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng nhờ cách sắp xếp thứ tự “những tên đầu sỏ” mà chúng ta biết được thứ tự “tội” nặng, “tội” nhẹ, cùng hoạt động của mỗi người. Những buổi phỏng vấn trên RFI Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đề nghị ghi âm ông, mong ông soi tỏ những chỗ chưa được các tài liệu trước đề cập đến, hoặc viết sai. Buổi nói chuyện – thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử – tuy mang tính cách cá nhân nhưng có hệ thống về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng tôi đề nghị nhà thơ nói thẳng, nói thật hết và cam kết là sẽ chỉ công bố tài liệu sau khi ông qua đời, bởi lúc đó được biết, ông không định viết hồi ký. Đầu năm 2004, sau khi thực hiện chương trình phát thanh kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ (1954-2004) với nhà văn Hữu Mai trên đài RFI, chúng tôi dự định làm thêm một chương trình kỷ niệm 50 năm phong trào Nhân Văn Giai Phẩm(nếu coi 1954 như thời điểm manh nha sự gặp gỡ giữa các văn nghệ sĩ chủ trương phong trào) nên đã cố gắng liên lạc với nhà thơ Lê Đạt qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, muốn làm một cuộc phỏng vấn ngắn gọn có tính cách thời sự, phù hợp với đề tài này, nhưng không thể thực hiện được, vì chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu. Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của nhà thơ Lê Đạt, chúng tôi quyết định cho phát trên sóng RFI, toàn bộ buổi nói chuyện với ông đã thu thanh ngày 13/4/1999 tại Paris. Do đó mà tài liệu văn học sử này đã đến với thính giả RFI sớm hơn dự tính. Đây là lần đầu tiên, một tư liệu trực tiếp qua lời thuật của một thành viên cột trụ trong Nhân Văn Giai Phẩm được công bố. Bên cạnh Lê Đạt, còn có tiếng nói của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là cuộc phỏng vấn ngắn nhà chính trị và văn hoá Nguyễn Hữu Đang: Nhân dịp kỷ niệm ngày 2/9/1945, chúng tôi nhờ Lê Đạt liên lạc với Nguyễn Hữu Đang, để hỏi ông về việc tổ chức ngày lễ Độc Lập. Buổi nói chuyện này thu thanh qua điện thoại nhà Lê Đạt ngày 30/8/1995 và được phát thanh trên đài RFI ngày 10/9/1995. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chúng tôi có thể ghi âm được Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu. Những thính giả của RFI đã từng nghe những chương trình này, đều lưu ý thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, không đạt mức độ tự do như các cuộc trò chuyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng cả ba chứng nhân, cũng là ba người đầu tiên đã xây dựng nên phong trào Nhân Văn Giai Phẩm cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật. Có những câu hỏi cùng đặt cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau, nhưng sự trả lời gần như tương tự. Sau cùng là nhân chứng của Trần Duy. Hoạ sĩ Trần Duy đã liên lạc với chúng tôi từ nhiều năm qua, ông cho biết đã nghe những chương trình phát thanh trên đài RFI về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, có những điều ông muốn nói, dưới nhãn quan của riêng ông, nhưng cơ hội chưa thuận tiện. Tháng 6/2008, hoạ sĩ Trần Duy quyết định lên tiếng. Chúng tôi đã ghi âm ông qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội, không bị trở ngại gì. Và như thế, chúng ta có thêm nhân chứng của Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn. Nếu trong những bài viết trên báo hoặc các chương trình phát thanh, từ 1988 đến ngày nay, còn có những thiếu sót, đôi khi sai lầm, thì, những chứng nhân quan trọng của Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, đã đính chính và bổ sung. Các ông thay mặt những người đã khuất viết lại lịch sử của phong trào và lần này, không ai có thể ngăn ngừa sự thật. Tất nhiên, mỗi người có một sự thực của riêng mình, về mỗi dữ kiện, mỗi vấn đề. Thời gian trôi qua, ký ức cũng có đôi chỗ sai biệt, nhưng những sai biệt ấy, nếu có, thường là những chi tiết không mấy quan trọng. Độc giả sẽ rút ra từ những sự thực có thể khác nhau ấy, phần tổng kết riêng của mình, về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Những buổi phỏng vấn các thành viên chính của phong trào NVGP, phát thanh trên trên RFI, từ năm 1995 đến 2008: Nguyễn Hữu Đang (10/9/1995), Hoàng Cầm (21/2/1998 đến 10/1/2004, 4 kỳ), Lê Đạt (từ 24/3/2004 đến 5/6/2004, 7 kỳ) và Trần Duy (26/6/2008 đến 26/7/2008, 4kỳ), đã cung cấp cho chúng ta những tư liệu trực tiếp về NVGP, do những người trong cuộc nói ra. Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt (ghi âm tại Paris ngày 13/4/1999, khi ông sang Pháp lần thứ nhì, và phát thanh từ tháng 3 đến tháng 6/ 2004 trên đài RFI), cho đến nay, là chứng từ quan trọng nhất và đầy đủ nhất về lịch sử phong trào NVGP. Lê Đạt mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội. Những năm gần đây trang báo điện tử Talawas do Phạm Thị Hoài chủ biên, đã cho in lại và lưu trữ trên mạng Internet toàn bộ báo Nhân Văn Giai Phẩm. Lại Nguyên Ân đang sưu tầm những bài viết trên các báo chính thức thập niên 60, liên quan đến phong trào NVGP và đưa dần lên Internet. Những tư liệu này góp phần làm sáng tỏ thêm về NVGP, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại toàn diện bối cảnh phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn nghệ sĩ trí thức, lớn lao nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. * Từ tháng 4/1988, khi chúng tôi viết những dòng đầu về Nhân Văn Giai Phẩm đến nay đã hơn hai mươi năm. Chuyên luận này tưởng như hoàn tất một chương trình tìm kiếm lâu dài, nhưng thực ra nó lại là khởi điểm cho một cuộc tìm kiếm mới về những gì đã thực sự xẩy ra. Bởi càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ những khoảng trống chưa thể lấp được, những câu hỏi chưa được trả lời về biết bao nhiêu sự kiện lịch sử khác nhau, về những con người như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Phan Khôi, Thụy An, Trương Tửu… và còn bao nhiêu người khác nữa. Những gì chúng ta góp nhặt được về họ, ngoài những văn bản do chính họ đã viết ra, đôi khi lượm lặt được vài ba dòng nhật ký của người này, hồi ký của người kia, cũng chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật. Không kể những loại hồi ký đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho đúng đường lối, hoặc những di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông hành đi vào vĩnh cửu. Cho nên người nghiên cứu phải vô cùng thận trọng khi tìm và lựa thông tin, những gì là thật, là giả trong những tư liệu mà mình có được. Tìm tư liệu không khó trong thời buổi Internet này, nhưng sử dụng tư liệu để dựng lại sự thật là một việc khác hẳn. Làm sao biết được về hoạt động chính trị của Lê Đạt trước khi theo Việt Minh ? Lê Đạt đã từng theo Việt Nam Quốc Dân Đảng? Theo Văn Cao thì Phạm Duy là người đầu tiên đã dẫn ông liên lạc với Việt Minh, Phạm Duy cũng là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân ca, là người “cướp” micro trước cửa Nhà hát lớn ngày 17/8/1945 để hát bài Tiến Quân Ca lần đầu tiên trước công chúng. Khi in lại đoạn hồi ký của Văn Cao về bài Tiến quân ca, người ta đã cắt bỏ tất cả những chi tiết nói về Phạm Duy, có chỗ thay bằng Nguyễn Đình Thi. Một mặt khác, ngay chính bản thân Lê Đạt và Phạm Duy, vì an ninh của bản thân và của gia đình, các ông đã không thể nói tất cả sự thật, càng không thể viết ra trên văn bản. Chúng ta biết gì về hoạt động của Thụy An ? Về “mối tình đầu” của Thụy An với Võ Nguyên Giáp ? Về những bí mật giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân Quốc Dân Đảng ? Tại sao Thụy An quay trở lại Bắc, trong khi gia đình bà di cư vào Nam ? Những bí mật ấy, tuy chỉ là những chi tiết, nhưng ngày nay, những người muốn biết sự thật, phải có quyền được biết, đặc biệt là những nhà nghiên cứu về thời kỳ lịch sử này. Nếu biết được những chi tiết ấy, chúng ta sẽ thấy tất cả những hoạt động đảng phái thời kháng chiến chống Pháp không đơn giản như hai với hai là bốn: theo bên này là yêu nước, theo bên kia là bán nước. Mà bất cứ cá nhân nào dù là văn nghệ sĩ, trí thức hay hoạt động chính trị cũng có thể theo hai ba con đường khác nhau, trong suốt hành trình sống của mình. Vấn đề của người nghiên cứu là phải tìm hiểu những đầu mối đan cài vô cùng phức tạp giữa các khuynh hướng chính trị, văn hoá khác nhau giữa những đảng phái như Việt Minh, Quốc Dân Đảng, Đệ Tứ, trong mối tương giao không xé ra được. Những người đã từng tham gia các tổ chức khác nhau ấy, đã phải chối bỏ lẫn nhau hoặc không dám nói đến toàn bộ hành trình của họ, khi theo bên này, lúc ở bên kia, trên đường tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ. Bi kịch của họ phản ánh bi kịch chung của toàn thể dân tộc. © Copyright Thụy Khuê Nguồn: thuykhue.free.fr
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 2:41:31 GMT 9
Trần Đĩnh và Đèn CùNguyễn Văn Trần www.caidinh.com/ Đến nay, những người cộng sản ở Hà Nội viết về chế độ của họ và những người lãnh đạo chế độ ấy vẫn còn quá ít ỏi. Mỗi người phơi bày những điều họ nghe thấy hoặc chứng nghiệm khi họ là nạn nhơn của chế độ. Nghe, thấy và chứng nghiệm thường bị giới hạn nên những điều được tiết lộ vẫn còn là một phần cực nhỏ của một bộ máy kìm kẹp, gian ác khổng lồ bao trùm kín mít toàn xa hội từ hơn nửa thế kỷ nay.
Chỉ có tên Hồ Chí Minh mà cho tới nay, nhiều sử gia đã mất bao nhiều thì giờ, công sức vẫn chưa biết được hết về con người này một cách rõ ràng. Riêng một chi tiết cực nhỏ là ngày sanh của ông ấy, cũng chưa dứt khoát được. Hay ông có bao nhiêu tên giả? Lấy bao nhiêu phụ nữ, có bao nhiêu con rơi, thủ tiêu bao nhiêu người? Hãy còn trong bóng tối dầy đặc!
Trần Đĩnh trong Đèn Cù hơn 600 trang giấy cũng chỉ ghi lại được đây đó một số sự việc của chế độ, tức về người, và việc trong phạm vi quan hệ với ông. Nhưng ông đã nói hết chưa?
Cách Trần Đĩnh kể chuyện làm cho người đọc dễ nghe, dễ ghi nhận. Như có gì chơn chất.
Trần Đĩnh và Hồ Chí Minh
Trần Đĩnh là một nhà báo, nhà văn của đảng cộng sản Hà Nội. Ông viết từ báo Sự Thật, copie của Nga, tiền thân của Nhân Dân, nay là copie của Tàu. Trước sau Hồ Chí Minh, từ tên đảng cộng sản cho tới tên báo, tên nhà xuất bản, nhứt nhứt phụ thuộc Nga và Tàu, không hề dám có một tên hiệu của Việt Nam do chính mình chọn. Trần Đĩnh là một người viết suốt đời trong hệ thống lệ thuộc đó.
Tới Đèn Cù, ông mới hé lộ ra ông “thất tình thần tượng Hồ Chí Minh” của ông khi Lê Duẩn và phe cánh chủ trương theo Mao Trạch-Đông áp dụng tối đa bạo lực võ trang với chiến thuật biển người xâm lược Miền Nam mà Hồ Chí Minh không dám lên tiếng can thiệp như ông mong đợi. Thần tượng trong tim ông sụp đổ vì Hồ Chí Minh không phải là anh hùng, một vị lãnh tụ anh minh như ông tưởng.
Cũng may chớ nếu ông nghĩ Hồ Chí Minh muốn can thiệp để Lê Duẩn không đẩy mạnh chiến tranh vào Nam ngay vì muốn hòa hoãn để có giải pháp chánh trị, ông sẽ thất vọng nhiều hơn. Hồ Chí Minh không dám cả quyết theo Lê Duẩn dốc toàn lực đánh mạnh chỉ vì sợ thất bại mà thôi. Cái do dự của người lớn tuổi, khác hơn bản tánh du côn, liều mạng của Lê Duẩn. Mà thất bại thì sự nghiệp lãnh tụ của Hồ Chí Minh từ ngày “xin học trường thuộc địa” sẽ bỗng chốc thành mây khói hết. Nên nhớ Hồ Chí Minh đã từng tuyên bố “Ông sẳn sàng đốt cả dãy Trường Sơn để giải phóng Miền Nam” kia mà. Hồ Chí Minh là người sẵn sàng làm tất cả cho đảng cộng sản của ông! Tên tuổi, danh vọng và cả cuộc đời của ông gắn liền với đảng cộng sản!
Nhưng khi ông phải xuôi theo Lê Duẩn là để bảo vệ ngôi vị Chủ tịch nước và tên tuổi đã lỡ có nổi cộm quá lớn của ông, khi chết được quốc táng, mồ mả hoành tráng. Suốt đời Hồ Chí Minh khéo léo lách mình như lươn chỉ để thực hiện tham vọng tột cùng là làm Chủ tịch nước, “Cha già dân tộc”, phục hận thời trẻ khó khăn, gian khổ, cha bị bãi chức vì say rượu xử phạt đánh chết phạm nhơn, phải tìm đường vào Nam mưu sanh. Khó nói Hồ Chí Minh là người yêu nước vì bàn tay của ông chỉ bết đầy máu những người yêu nước lương thiện. Trong quá khứ, có bao nhiêu cơ hội đã có thể giải quyết vấn đề Việt Nam bằng chánh trị để đem lại độc lập và thống nhứt đất nước nhưng ông đều từ khước vì giải pháp đó không phải cho quyền lợi cộng sản Đệ tam. Cũng như Võ Nguyên Giáp chịu xếp hia mão trước uy quyền của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ chỉ để bảo vệ danh tiếng Đại tướng, người hùng Điện Biên, chết được đám ma rùm beng, bảo vệ sự nghiệp của con cháu. Đã “Chịu đấm [để] ăn xôi mà xôi lại [không] hẩm”, thì còn gì hơn?
Trần Đĩnh có kể Hồ Chí Minh, nhờ Mao giới thiệu, qua Mạc-Tư-Khoa năm 1952 được yết kiến Staline và sau đó, Staline đưa qua cho Mao “phụ trách” để chuẩn bị mở chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng không thấy ông kể lại một giai thoại khá lý thú này. Trong lúc hội khiến Staline, Staline kéo 2 chiếc ghế chỉ cho Hô Chí Minh và nói “Đây là ghế địa chủ, còn đây là ghế nông dân. Đồng chí muốn ngồi ghế nào?”. Lúc về Viêt nam, Hồ Chí Minh chỉ ra lệnh chuẩn bị làm cải cách ruộng đất, chọn cán bộ gởi qua Tàu thụ huấn, không kể lại chuyện này và cũng không nghe ông nói là ông đã chọn chiếc ghế nào (Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, du révolutionnaire à l’icône, Paris, 2003).
Trong Đèn Cù và trả lời Đài phát thanh, Trần Đĩnh thú nhận rất rõ trước kia ông mê Hồ Chí Minh vô cùng nhưng sau này, ông thất vọng lắm. Nhưng lại không thấy phản ứng tự nhiên phải có của ông trong Đèn Cù về sự gian ác có một không hai của Hồ Chí Minh trong vụ đấu tố và xử tội dịa chủ của Bà Nguyễn Thị Năm khi ông kể lại Hồ Chí Minh bịt râu để ngụy trang và Trường Chinh mang kiếng đen che bớt mặt tới dự khán. Vâng lệnh Tàu làm cải cách ruộng đất, phá tan hoang đất nước là đã quá dã man rồi. Ra lệnh giết người lương thiện yêu nước là cái gian ác chánh trị, viết báo tố cáo tội ác của Bà Năm mà những tội ác hoàn toàn do Hồ Chí Minh bịa đặt ra dưới tên CB, ngụy trang đi chứng kiến phiên xử tội của người lương thiện, ân nhân của kháng chìến, của đất nước, là thứ gian ác thuộc bản chất của con người cộng sản tinh ròng.
Cũng về Hồ Chí Minh, Trần Đĩnh kể cuối năm 1942 ở Hoa Nam, Tưởng Giới Thạch tổ chức Đại hội thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội để thống nhứt các Tổ chức Việt Nam chống Nhựt và làm tình báo cho Tàu. Tưởng biết Hồ Chí Minh là cộng sản nên bắt giam để Hồ Chí Minh phải ngả theo Tưởng. Nhờ Tập thơ (Ngục Trung Nhựt ký) bày tỏ tâm sự “tôi đây yêu nước chứ không cộng sản” rồi nhờ có thêm người như Hồ Học Lãm nói với Trương Phát Khuê. Hồ Chí Minh ra tù và lãnh đạo Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội (Đèn Cù, trg 39).
Trần Đĩnh ở chỗ này không nói rõ Hồ Chí Minh ra tù lúc nào. Nhưng trong thời gian đó, Hồ Chí Minh không thể ở tù và cũng không thể làm những bài thơ tù về hoàn cảnh lúc đó được. Bởi lúc đó, Hồ Chí Minh ở Cao Bằng và làm báo Việt Nam Độc Lập. Xin mời xem Bee.net.vn, 05/02/2010, trích dẫn lại từ báo Việt Nam Độc Lập:
“Ngày 5/2/1943 ứng với ngày mùng 1 Tết Quý Mùi, bài thơ “Mừng năm mới” vốn được đăng trên báo “Việt Nam Độc Lập” số đầu năm dương lịch 1943 (Báo “Việt Nam Độc Lập 1941-1945”, cơ quan tuyên truyền của Việt Minh tỉnh Cao Bằng, NXB Lao Động, Hà Nội 2000), đã đến với nhân dân trong không khí đang sục sôi cách mạng.
Bài thơ là một bản phân tích tình hình thế giới và đón chờ cơ hội :
Mừng Năm Mới
“Một nghìn chín trăm bốn mươi ba Năm mới tình hình hẳn mới Đông Á chắc rồi Tàu thắng Nhật Tây Âu nhất định Đức thua Nga Nhân dân các nước đều bùng dậy Cách mệnh nhiều nơi sẽ nổ ra Đức, Nhật chết, rồi Tây cũng chết Ấy là cơ hội tốt cho ta Ấy là cơ hội tốt cho ta Cơ hội này ta chớ bỏ qua Phấn đấu hy sinh đừng quản ngại Tuyên truyền tổ chức phải xông pha Đồng tâm một triệu người như một Khởi nghĩa ba kỳ giậy cả ba Năm mới quyết làm cho nước mới Non sông Hồng Lạc gấm thêm hoa”.
Nếu cuối năm 1942 qua đầu năm 1943, Hồ Chí Minh có ở tù thiệt, và có làm thơ tù trong thời gian này thì Báo Việt Nam Độc Lập phải đem đốt đi. Hoặc trái lại, Tập thơ tù phải đem trả lại cho tác giả thật của nó.
Đây là một vụ án văn học rất quan trọng cần phải sớm được giải quyết sòng phẳng
Trần Đĩnh sau 30 tháng 04/1975
Một năm rưỡi sau 30/04, Trần Đĩnh mới được phép vào Sài Gòn vì ông mang tội xét lại chống đảng, tức chống chủ trương đánh mạnh, đánh gấp rút chiếm cho được Miền Nam, nên ông không có quyền chia sẻ cái chiến thắng đó. Sự từ chối cấp phép cho ông có ý nghĩa rất cụ thể. Ông không dấy máu nên không được ăn phần. Những ngày đầu, của cải của Miền Nam hãy còn đầy ắp. Hơn năm rưỡi sau, vào Nam chỉ còn đi Chợ Trời Huỳnh Thúc Kháng, Lăng Cha Cả,…
Ngày đầu tiên vào Sài Gòn, Bà Dương Thu Hương ngồi bẹp xuống lề đường ôm mặt khóc ngất. Bà giác ngộ cách mạng cộng sản làm giải phóng Miền Nam được Hà Nội tuyên truyền làm động lòng người là nơi bà con ta bị Mỹ Ngụy kìm kẹp, bóc lột, không có cái bát ăn cơm! Bà đã vượt Trường Sơn, đem “tiếng hát át tiếng bom”. Có nhiều lúc phải ăn thức ăn của heo vì đói. Để vào cứu đồng bào Miền Nam! Bà khóc vì thực tế đã làm tan biến cái quyết tâm mãnh liệt trước đây của bà.
Ông Trần Đĩnh ngủ đêm ở Đà Nẵng và tỉnh giấc trông thấy tượng Quán Thế Âm bồ tát, tĩnh lặng, tỏa sáng ngay trên đầu. Ông chợt thấy lòng êm ả lạ. Được an ủi. Một điềm lành rất lớn, rất hãn hữu, đem lại cho ông một thứ hạnh phúc chơn thật tuyệt vời. Đã tiếp nhận ánh sáng của Đấng Cứu Khổ nhưng không biết đủ để ông giác ngộ chưa?
Trần Đĩnh rất buồn vì chưa được tin tức cha mẹ và các em ở trong Sài Gòn. Buồn hơn vì không biết nhân dân Miền Nam sẽ sống ra sao trong những ngày tới khi đảng đã bố trí đầy đủ bộ máy lãnh đạo xã hội chủ nghĩa. Một hôm gặp một người bạn vào Sài Gòn trước trở về thuật lại cho ông biết về đởi sống của dân ở Miền Nam. Ồ, sung sướng lắm! Họ toàn tư sản cả. Ông bạn mê nhứt là đi toa-lết vì phòng toa-lết rộng, thoáng, sang và thơm phức. Văn phòng của Phó Ban ta thua xa!
Nhờ Thép Mới tìm được gia đình của ông ở đường Nguyễn Thông, gần Kỳ Đồng, Quận 3 Sài Gòn. Khu gia cư tiểu tư sản. Ông Cụ của ông nhờ Thép Mới làm giấy chứng nhận là “tủ sách gia đình hiến cho báo Nhân Dân” để còn giữ lại được. Trần Đĩnh, mang bản án xét lại chống đảng, không thể làm giấy giới thiệu “gia đình cách mạng” được. Bùa Lỗ Bang hết linh với âm binh. Ông gởi vào mấy cái huân chương kháng chiến nhưng trẻ con đã lấy làm cầu đá chơi rồi.
Cơ quan báo chí họp nghe truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Phạm văn Đồng về chánh sách đối với quân nhơn và viên chức Chánh phủ VNCH mà lạnh xương sống “Ta nhân đạo đưa họ đi cải tạo để trở lại làm người, kẻ nào không chịu mà chống lại thì ta sẽ đối xử như chó. Bữa ấy cũng truyền đạt lời Lê Đức Thọ “Ta để cho họ tạm buôn bán thế mà đã có anh em chất vấn. Họ như con chim ta nắm trong lòng bàn tay: cần đến ta bóp lại ngay thôi mà”.
Trần Đĩnh thấy rõ bà con trong Nam từ nay là đồng minh không cần cam kết, họ sẽ bị đày ải như dân ngoài Bắc trước đây.
Ông gặp lại bà con ở Sài Gòn nói chuyện, hỏi han, gặp lại cán bộ, bộ đội từng vượt Trường Sơn, đi B, nay về vườn, cũng mò vào Nam sanh sống. Có người không muốn gì khác hơn, không muốn biệt thự, không muốn xe hơi, chỉ muốn Mỹ trở lại bỏ bom cho chết hết. Cái uất hận của người dân vì thực tế đã đập vỡ mộng của họ từng ôm ấp trước kia. Mộng là sức mạnh làm cho con người ta vượt qua mọi gian lao, nguy hiểm, để chiến đấu, để sống, để mong đợi. Cộng sản động viên được lòng dân vì giỏi xây mộng cho nhân dân. Ngày mai này, khi cách mạng giải phóng được Miền Nam thì bao nhiêu quyền lợi, bạc tiền, đất đai đều là của nhân dân cả.
Mộng là kết tinh của lòng tham con người. Trần Đĩnh chứng nghiệm thực tế ở Việt Nam sau khi im tiếng súng. Kẻ có quyền đạt được mộng giàu có, nhà cao, cửa rộng, xe cộ bóng nhoáng, người ở người hầu. Kẻ “áo chưa khô máu” thì mới bị vỡ mộng, trở lại thân phận khố rách, áo ôm. Riêng nông dân chủ lực của cách mạng, là khổ hơn ai hết!
Trần Đĩnh thấy thấm thía câu “Chiến thắng mang gương mặt khổ đau cùng cực” của nữ thi sĩ nga, Bà Olga Bergolzt, bị đày ải suốt đời vì bà sáng suốt và can đảm nói thay cho tất cả những ai sống với cộng sản. Thấy mà không dám nói. Hay không nói vì vô minh.
Giờ đây, ông thấy rõ cộng sản chỉ còn lo bành trướng quyền lực là nhu cầu duy nhứt phải làm để bảo vệ quyền lực của phe cánh cầm quyền. Còn dân, vỡ mộng, dân có nhu cầu trừng phạt cái tội của đảng lừa dân. Và cậy bất cứ cái gì không phải cộng sản. Cả Ngụy trở về, Mỹ trở lại cũng được!
Ông Cụ của Trần Đĩnh hài lòng thấy con của mình đã “sáng mắt, sáng lòng” nên viết báo tin với người thân “Il faut célébrer la grande sortie de Đĩnh”. Nhưng thật sự Trần Đĩnh đã giác ngộ lẽ phải chơn thật, đã thật sự tách đạo đức khỏi chánh trị, đã tự tiêu hủy con người cộng sản của mình chưa? Dứt khoát, rốt ráo như lúc ông đưa tay trái lên thề trước búa liềm, trước hình Lê-Nin, Staline và Mao? Hay ông chỉ mới “sorti” trong suy nghĩ, trong “nhựt ký” mà cũng mới định viết?
Khi nghe đảng viên kêu gọi nhau chú ý theo dõi phản ứng của quần chúng trước sụ kiện này, sự kiện nọ, ông đôi khi còn cảm thấy xấu hổ. Vì bị án xét lại chống đảng nó ám ảnh. Tư cách đảng viên là cái mộc che chắn nay bị rơi xuống và ông muốn rên thành tiếng. Ông cảm thấy ông không còn là ông nữa vì không còn trong đảng, tức trong thứ “bầy đàn”. Chính “bầy đàn” đã làm ra con người Trần Đĩnh từ năm 19 tuổi. Nhưng ông thừa nhận còn giữ được ở trong sâu thẳm con người ông cái bản tánh lương thiện, cái chất ”thú hoang”, nó giúp ông tự vệ.
Sống thật với người thân, với đất nước, dần dần ông nhận diện được kẻ đã đày ải ông và ông thấy hạnh phúc. Theo thời gian qua, ông đã nhận ra tội ác và lên án nó. Ông đã không quì gối trước nó cũng như ngay thẳng nhận mình từng có đi theo nó, tội ác.
Ở điểm này, Trần Đĩnh không nói rõ “Tội ác” là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, những kẻ đã đày ải ông vì tội xét lại chống đảng hay “Tội ác” là cái đảng cộng sản mà suốt đời ông phục vụ? Hồ Chí Minh có phải thật sự là nhà cách mạng ái quốc không? Hay chỉ là kẻ đại gian, đại ác? Nhưng nếu chỉ một mình Hồ Chí Minh thì không đủ. Phải có thêm những người cùng mang chủng tử ác mới “gian nhân hiệp đảng” được. Vì vậy mà đảng cộng sản mới gây nên tội ác tày trời, đày đọa cả dân tộc được.
Ở Việt Nam ngày nay, Trần Đĩnh thấy người dân bình thường được đảng dạy trong đời sống hằng ngày “cái đẹp là đểu, chỉ có cái xấu là thật”.
Không biết sau khi viết Đèn Cù, Trần Đĩnh có chuyển biến thêm tư tưởng nữa không? Có thật sự giác ngộ như ngày xưa đã giác ngộ cách mạng? Hay chỉ một thái độ bất mãn vì bị khai trừ khỏi đảng? Và ông còn ray rứt không?
Vài nhận định của Trần Đĩnh về chế độ
Đọc qua Đèn Cù, người đọc có thể ghi lại vài nhận định của Trần Đĩnh về chế độ ở Hà Nội của ông. Tư tưởng của ông có chuyển biến, nhưng con người ông đã thật sự mới chưa?
Trần Đĩnh trước đây vẫn bảo thủ ý “phi cải cách ruộng đất bất thành chiến sĩ cách mạng chân chính”. “Nhưng sau đó ông lại phản tỉnh [Hãy cảnh giác với thần tượng, và bỏ thần tượng]!
Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Hãy dám phê phán, dám lên tiếng, và dám chịu đựng. Cái đó nhờ phong trào phái hữu (ở Bắc Kinh lúc du học), mà ông say sưa, sung sướng chứng kiến, phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ từ có tính bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh. Phong trào chống sùng bái cá nhân ở Liên Xô ông tiếp nhận tại Bắc Kinh. Rồi kế theo là phong trào đòi dân chủ của phái hữu Trung Quốc (Đèn Cù, trg 156).
Ông phê phán tư tưởng Mao hiếu chiến. Ông muốn phải có một đảng theo đúng học thuyết cộng sản khoa học yêu hòa bình (Đèn Cù, trg 354).
Ở ta, yêu nước không được đảng đóng dấu xác nhận là công cốc, thậm chí còn là điều nguy hiểm. Bởi theo đảng thì ranh giới giữa yêu nước và phản động vô cùng mong manh.
Tự do này là nhằm cho loài người, do đó nó phải giam tự do của cá nhân vào trong cái lồng tập thể, đúc bằng kỷ luật thép mang tên chế độ tập trung dân chủ. Thế là cuộc đời liền bị giằng xé giữa 2 thứ tự do đối chọi nhau vô cùng nước lửa. Để không chóng thì chầy tất nhiên đi tới chống đảng, cái tổ chức độc quyền tất cả: bao cấp toàn bộ độc lập, tự do, chính nghĩa, đạo đức, nhân dân, đất nước, chân lý, quy luật, rồi miếng ăn, chỗ ở, hôn nhân, ma chay, quyền sống, phận chết đã được đảng thiết kế cho mỗi hạng người, mỗi con người (Đèn Cù, trg 44- 45).
Trần Đĩnh sám hối đã viết truyện Bất Khuất như bồi bút.
Ông đề cập phái hữu ở Bắc Kinh. Phải hiểu nó gồm một lớp người khá đông học ở ngoại quốc về và họ hoạt động mạnh, gần như công khai, trong giới Đại học, nghiên cứu, sau khi Mao chết, Đặng Tiểu Bình đưa ra chánh sách đổi mới. Họ chủ trương phải cất tư tưởng Mao Trạch-Đông vào tủ, lấy học thuyết Khổng Mạnh thay thế làm kim chỉ nam (Emilie Frenkiel, Parler politique en Chine, Puf, Paris, 4/2014). Vì ảnh hưởng Tây phương, họ chủ trương phải dân chủ hóa chế độ. Nhưng hoạt động của họ vẫn trong khuôn khổ Đại học, chưa phổ biến vào quần chúng. Việt Nam chưa có điều kiện nhân sự như ở Bắc Kinh.
Còn ông cho rằng “ học thuyết cộng sản khoa học yêu hòa bình” thì quả thật ông bị thấm nhuần cộng sản quá lâu nên vẫn còn mơ hồ. Ông không thấy thực tế cộng sản đã sụp đổ trọn vẹn trên ngay quê hương của nó chỉ vì nó không khoa học, nó không đủ sức mở ra tương lai. Cộng sản chỉ dùng bạo lực cướp chánh quyền chớ chưa bao giờ được dân chúng ủy nhiệm bằng bầu cử và cầm quyền. Quyền lực đến từ họng súng, như Mao dạy. Có nơi nào cộng sản yêu hòa bình chơn thật không? Hay hòa bình là phải theo cộng sản?
Nhưng dầu sao, viết Đèn Cù, Trần Đĩnh đã đặt vấn đề theo đảng cộng sản là theo tội ác. Có đặt vấn đề, có suy nghĩ, có thấy vẫn hơn vạn lần những kẻ ngày nay ăn cơm Tây, cơm Mỹ, nằm nhà thương Tây, nhà thương Mỹ, lãnh phụ cấp của Tây, Mỹ, ỏm tỏi phê bình dân chủ, tự do ở xứ tự do, mà ôm đầu chạy về phủ phục với cộng sản Hà Nội đang khủng bố dân chúng, cướp tài sản của dân và bán nước cho Tàu.
Về Hồ Chí Minh
Ông sanh năm 1891. Cả Khiêm, anh của ông xác nhận, có bằng chứng hẳn hoi trong gia đình và họ hàng. Cả Bà Thanh, chị của ông, cũng xác nhận năm sanh 1891. Báo cáo với ông thì ông nói “của người ta thế nào thì cứ để thế không sửa gì hết ”.
Lãnh tụ lúc nào cũng được phục vụ chu đáo tuy đang ở trên rừng. Những năm 1949, Lang Bách thường kỳ chế rượu thuốc cho Hồ Chí Minh uống. Một lần được hỏi giá bao nhiêu tiền 4 chai này, anh cho biết giá bằng sinh hoạt phí mấy tháng của những người ngồi đây. Thuốc bắc quý thì đắt mà lại phải mua trong Hà Nội. Có khi người mang ra bị Tây phục kích chết ở Đường số 5 nữa ấy chứ (Đèn Cù, trg 196). Rượu thuốc Minh Mạng hay toa thuốc bổ dương của Mao rất có tiếng?
Một hôm Tố Hữu đưa cho Trần Đĩnh 2 tập sách của mật thám Pháp sưu tra Nguyễn Ái Quốc, kể đầy đủ những việc ông ta làm dưới con mắt 2 mật thám sưu tra cùng ký tên. Như “Nguyễn đi bệnh viện Cochin (Paris, XIV) trích áp-xe (abcès) tay lúc mấy giờ. M., người tình của Nguyễn mấy giờ đến, mấy giờ đi. Nguyễn học thôi miên buổi tối ở đâu” (Đèn Cù, trg 176).
Ở An toàn khu, Lý Ban phụ trách Hoa kiều vụ. Lý Ban hoạt động ở Quảng Đông, vợ Tàu, và nói tiếng Việt thua Tàu phá sa Bờ Hồ. Ông là người đầu tiên sang Bắc Kinh chuẩn bị cho việc Hồ Chí Minh lần đầu tiên với tư cách Chủ tịch nước sang Bắc Kinh để trình diện Bắc Kinh mong được thừa nhận.
Tháng 10/1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Hơn 2 tháng sau, Hồ Chí Minh bí mật len qua vùng địch ở Phục Hòa, Cao Bằng, đi Trung quốc qua Thủy Khẩu. Trần Đăng Ninh, Vũ Đình Huỳnh, Phạm Văn Khoa theo ông. Lý Ban vốn tỉnh ủy viên Quảng Đông đi tiền trạm.
Ông sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Châu Ân Lai. Sau đó, Staline đã phân công Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam. Nghe qua, Trần Đĩnh cụt hứng. Nghĩa là Staline bàn giao cho Trung Quốc quản lý Việt Nam, tức cai trị Việt Nam thay thế Liên-Xô ở xa. Chiến tranh biển người ở Đông Dương của Mao Trạch-Đông khởi động từ sự phân công rất quan trọng năm 1950 của Staline! Đúng như Hồ Chí Minh nói với vẻ ngụ ý khiêm tốn “Mao mới có tư tưởng chánh trị”, tức có tài tính toán xa, chớ ông chỉ có tác phong thôi, tức vâng lời.
Hồ Chí Minh đã bị Lê Duẩn không cho tham dự họp Bộ Chánh trị, còn ra tay hạ ông sát ván. Lê Duẩn cho lệnh công bố Hồ Chí Minh là tác giả đích thực của 2 cuốn hồi ký: “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên” (NXB Trẻ Sàigòn 2008) và “Vừa đi vừa kể chuyện của T. Lan” (NXB Trẻ Sàigòn 2007) và cho phổ biến thật rộng, đưa cả vào sách giáo khoa của Hà Minh Đức (Hà Minh Đức, Tác phẩm văn của chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1985, trang 132 và trang 142).
Một hôm, khoảng năm 1987, nhà toán-tin học số 1 Hà Nội, Ông Phan Đình Diệu gặp bạn bè ở Paris, trả lời một câu hỏi của bạn về trường hợp tại sao tiết lộ chánh thức Hồ Chí Minh là tác giả 2 tập sách kia, ông giải thích: “Sau 30/4/1975, Lê Duẩn quyền khuynh thiên hạ, tự nghĩ là mình tài trí cao hơn Hồ Chí Minh một bực, bèn tìm cách hạ bệ Hồ Chí Minh thêm một cú ân huệ, để tự nâng cao mình lên tột đỉnh. Công bố Hồ Chí Minh là tác giả 2 quyển hồi ký trong đó Hồ Chí Minh tự đề cao mình là nhằm lố bịch hóa Hồ Chí Minh! Cho người đời nhìn thấy chính bác viết hồi ký để tự bốc thơm bác! Phan Đình Diệu rất thân thiết với Võ Nguyên Giáp.
Thế lực bá quyền của Trung quốc trên đảng CSVN từ 1950
Ở Hội nghị 9, Lê Duẩn đã xác định rõ “tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lê–Nin của thời đại ba dòng thác cách mạng Á-Phi-La” (Á châu, Phi châu, Châu Mỹ la-tinh).
Lê Duẩn suy tôn Mao làm lãnh tụ thì mới hạ Hồ Chí Minh được để lên ngôi thay thế. Áp dụng ngay chiến thuật biển người của Mao ở Đông Dương, nắm trong tay quyền lực chiến tranh, Lê Duẩn thực hiện tham vọng thay thề Hồ Chí Minh trên thực tế trước. Và tham vọng của Lê Duẩn làm thương vong hơn 10 triệu sinh mạng nhân dân Việt Nam. Con số này, Bà 7 Vân, vợ bé của Lê Duẩn, xác nhận trên BBC trả lời phỏng vấn của Ông Xuân Hồng. Bà còn nói thêm, “Lê Duẩn có thể hi sinh thêm nữa nếu Trung quốc không viện trợ nhiều hơn”.
Phần 2 tối mật của Nghị quyết 9, cuối năm 1963, là quyết định tiến hành chiến tranh giải phóng Miền Nam! Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh theo chủ trương của Mao đã thắng thế trong đảng. Nghị quyết 9 đưa ra nhắm lúc ở Miền Nam cánh quân nhơn, sau khi hạ được chế độ Ngô Dình Diệm, thừa thắng xông lên, tranh quyền thay phiên đảo chánh, làm cho Miền Nam suy yếu. Lê Duẩn biết lợi dụng thời cơ.
Năm 1954, những ngưởi đi kháng chiến thật sự vì lòng yêu nước, nay hết chiến tranh, họ chọn ở lại làm ăn, sống hạnh phúc với gia đình. Cuối những năm 50, Chánh quyền Ngô Đình Diệm đưa ra chánh sách rất hay, phục hồi “Tinh thần kháng chiến” cho những người đi kháng chiến chỉ thật vì lòng yêu nước, tách biệt với Việt Minh cộng sản. Cho phát hành tờ báo “Kháng Chiến” làm phương tiện tập hợp.
Nhưng khi những người kháng chiến không cộng sản thật thà tập hợp lại thì bị Chánh quyền kiểm soát chặt chẽ, như trình diện, khai báo, tối tập trung họ lại ngủ ở trường học, đình chùa. Lo sợ, họ tìm cách lẩn trốn tập hợp. Họ bắt đầu bị lùng bắt, gia đình họ bị khủng bố. Còn những người đi tập kết, phần lớn tập kết sang Miên, Lào. Và một số được lệnh chôn súng, bám trụ. Khi Nghị quyết 9 chiến tranh ban hành cuối năm 1963, họ kết hợp lại và tràn ngập lãnh thổ VNCH bằng đường bộ, đường sông, đường rừng!
Và cũng từ đây, Hồ Chí Minh thôi họp Bộ Chánh trị vì sức khỏe. Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm ngồi chơi xơi nước, học nhạc lý và đánh piano. Ung Văn Khiêm thôi ngoại giao.
Vậy năm 1975, Mỹ thua Mao ở Cao Miên và Sài Gòn chớ không phải thua Lê Duẩn và Pol Pot. Người đánh cờ thua nhau. Riêng sự sụp đổ của VNCH có lẽ đã được báo trước từ năm 1963. Nhưng VNCH sụp đổ ngoài sự quản lý của Mao. Lúc đó Mao cũng đã già yếu, bịnh hoạn. Đặng Tiểu Bình chưa kịp lên ngôi. Cơ hội tốt ngàn năm một thuở cho Lê Duẩn tung hoành cả Đông Dương. Đây là giai đoạn vàng son của đảng cộng sản Hà Nội. Và Việt Nam được độc lập tạm thời trong khối xã hội chủ nghĩa.
Xét sự nghiệp của Lê Duẩn. Lê Duẩn giết hơn 10 triêu người Việt Nam để làm “chiến tranh giải phóng cho Trung quốc và Liên-Xô”. Đó là tội diệt chủng và tội xâm lược VNCH theo luật pháp quốc tế. Đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Lê Duẩn mang tội phản nghịch. Đối với dân tộc Việt Nam, Lê Duẩn là tên nô lệ ngoại bang và đưa Việt Nam vào tròng lệ thuộc ngoại bang: tội trước Tòa án nhân dân và lịch sử Việt Nam.
Lê Duẩn phải được đặt ngoài vòng pháp luật.
Mao Trạch-Đông chỉ chọn một mình Lê Duẩn làm chiến tranh ở Việt Nam vì biết Lê Duẩn kiểm soát được đảng cộng sản và bản tánh du côn, tham vọng lớn nên dễ sai khiến. Chọn được một tay sai đắc lực thì phải loại bỏ những người khác.
Về Mao Trạch-Đông
Mao Trạch Đông từ lâu không cam làm “anh hai” trong phe xã hội chủ nghĩa. Staline chết, đó là cơ hội cho Mao đặt lại tư cách đại lãnh tụ. Mao lợi dụng hậu quả đấu tố của Đại hội 20 ở Mạc-tư-khoa để công khai đả kích Liên Xô.
Đã ngờ câu nói “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ”. Nhưng lúc ấy, Trần Đĩnh vẫn chưa bắt được trúng nọc của nó. Đó là có xúi và giúp Việt Nam và thiên hạ đổ máu đuổi Mỹ đi khỏi Việt Nam và Đông Nam Á thì Trung Quốc mới quàng lấy được hết Biển Đông và châu Á.
Xúi Hà Nội đánh Mỹ, Mao giấu đi mục tiêu chiếm Biển Đông, tuy Chu Ân Lai đã công khai đòi chủ quyền biển đảo từ 1949.
Mao cho làm Chiến tranh biển người ở Đông Dương từ 1949, phá bỏ cái Quốc tế Cộng Sản để Trung quốc mới tiến lên ngang ngửa với Nga và Mỹ được.
Từ 1957, Mao đã nhận định đúng tương quan thực lực giữa Liên Xô và Trung Quốc. Hiện nay (2014), Nga chỉ có khoảng 150 triệu dân, kinh tế lụn bại như một nước chậm tiến, trong khi đó Trung Quốc có từ 1,5 tỷ đến 2 tỷ dân, kinh tế chỉ thua Mỹ. Trong tương lai không xa, Trung Quốc sẽ khống chế vùng Tây Bá Lợi Á của Nga, Mông Cổ và Trung Á, về kinh tế và dân cư, và tranh hùng với Mỹ trong thế giới mới chỉ còn lưỡng cực! Lúc ấy, theo Trần Đĩnh, ông không nghĩ nổi Việt Nam cần phải theo Mao, vừa đánh phe “xét lại chống đảng”, vừa phải đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng như một thế chấp nộp Trung quốc. Nhưng chắc Mao vẫn chưa hài lòng lắm vì Hà Nội vẫn chưa nộp Võ Nguyên Giáp.
Từ vụ Nhân Văn Giai Phẩm phụ họa cho cộng sản Tàu đàn áp cánh hữu nổi lên đòi tự do ngôn luận ở bên Tàu tới 10 năm sau là vụ “xét lại chống đảng” hưởng ứng cuộc vận động của Tàu nhằm sắp xếp lại thế trận làm tan phe cộng sản quốc tế dưới trướng Liên-Xô mãi kìm hãm Trung Quốc ở vị trí phó tướng và thay đổi cục diện thế giới có lợi cho Trung Quốc, tất cả có thể nói Việt Cộng đã hăng hái dọn đường rước Trung Cộng tói thống trị Việt Nam.
Tư tưởng của Mao
Khoảng 1964, Đặng Thai Mai, Giáo sư Văn chương ở Đại học Hà Nội, cho đăng ở trang nhứt báo Văn Nghệ một bài ca ngợi “Thơ và Từ” bất hủ của Mao chủ tịch. Ông viết:
“Tính tư tưởng và tính nghệ thuật trong Thơ và Từ của Mao chủ tịch.
Trong tập Thơ và Từ, chúng ta có thể nhìn thấy một người anh hùng kiểu mới, người anh hùng của giai cấp vô sản, người anh hùng lý tưởng của thời đại chúng ta.
Đọc xong tập Thơ và Từ của Mao chủ tịch, chúng ta có lý do để mà nghĩ rằng: Phải là con người vĩ đại mới có thể viết được văn chương thật sự vĩ đại, vì một tác phẩm văn chương vĩ đại bao giờ cũng biểu hiện một cá tính vĩ đại”.
Đặng Thai Mai khám phá ở Mao có tới 3 thứ “anh hùng vĩ đại” nên phải bày tỏ lòng sùng bái. Hơn nữa, ông sùng bái để còn vớt vát cho ông con rể Đại tướng Võ Nguyên Giáp nữa.
Mời đọc bài Núi Côn-Lôn của Mao để thấy tư tưởng “vĩ đại” của ông (Thơ và Từ của Mao chủ tịch, Văn học, Hà Nội, 1966, trg 7-30 và 96-97).
Núi Côn-Lôn
Mà nay ta bảo Côn-Lôn: Không cần quá cao, không cần bấy nhiêu tuyết. Sao tựa được trời, rút bảo kiếm, Đem ngươi chặt làm ba khúc, Một gửi châu Âu, Một tặng châu Mỹ, Một trả về Đông quốc.
Phải chăng Mao muốn chia thiên hạ làm 3, không để cho 2 siêu cường Nga-Mỹ tranh hùng thế giới một mình? Mao chia phần Nga thống trị toàn thể châu Âu, biếu không Trung Nam Mỹ, kể cả Cu-Ba, cho Huê Kỳ. Châu Á phải là của Mao.
Châu Á được Mao trong bài thơ gọi là “Đông quốc”. Tại sao là “Đông Quốc” mà không gọi đúng như tên gọi xưa nay “Á đông”? Phải chăng Mao có chủ ý trong mưu đồ của ông ta? Và “Đông” trong “Đông quốc” có thể được hiểu rõ hơn. Đó là nước của Mao Trạnh-Đông theo cái nhìn đầy tham vọng của Mao. Những người chủ trương theo Mao Trạch-Đông, tưởng cũng nên biết qua Mao vốn là một con người tàn ác vĩ đại và ngông cuồng tham vọng.
Mao khi dể Tần Thủy Hoàng không có gì siêu quần. Y chỉ chôn 460 nho sĩ; còn chúng tôi, chúng tôi chôn 46.000 người (M.H.Bernard, Mao Tsé-toung, 1893-1976, VOIX, Paris 2003).
Tất cả phe cộng sản phải là “một chậu nước lớn, nhưng đã ngầu đục, bị Mao lắc cho nổi sóng cuộn gió, và bên trong chậu đó, các anh hùng hảo hán, các kẻ vệ đạo nghiêng ngửa hò hét hủy diệt nhau.”.
Đến 1963, bị ba bề Tây Tạng, Ấn Độ, Đài Loan áp lực mạnh, Bắc Kinh cần làm chiến tranh ở Việt Nam để bắt Mỹ phải đem quân vào can thiệp, tạo nên “cuộc đại loạn toàn thiên hạ cho Trung Quốc được nhờ”!
Quả thật Bắc Kinh đã góp phần làm tan phe cộng sản và chấm dứt chiến tranh lạnh. Nhưng mà tốn máu Việt Nam quá nhiều mà lại không cho Việt Nam! (Đèn Cù, trang 215).
Mao không muốn gởi quân lính Tàu qua tham chiến ở Đông Dương, vì Mao cho rằng một đại cường quốc như Trung Quốc không nên vi phạm Hiệp Định quốc tế như Hiệp Định Genève 1954, Hiệp Định Paris 1973? Một nước nhược tiểu cộng sản chậm tiến như Việt Nam thì có thể xóa bỏ bất cứ Hiệp Định nào!
Cái chết đột ngột của Nguyễn Chí Thanh
Tháng 6/1967, Mao hạ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, gần hết Bộ chính trị cùng 11 vị nguyên soái, thì ở Hà Nội, bất ngờ xảy ra cái chết của Tướng Nguyễn Chí Thanh sau bữa cơm tối hôm 6/7/1967 do Võ Nguyên Giáp mời, trước hôm Thanh đáp máy bay qua Cao Miên để về cục R.
Cái chết đột ngột của Tướng Nguyễn Chí Thanh thuộc phe thân Tàu không tránh khỏi gieo nghi ngờ ở nhiều người ở Hà Nội. Người ta bàn tán nhiều hơn khi đọc được lời phân ưu của Mao “Xin các đồng chí chớ đau buồn nhiều”. Tại sao có lời chia buồn kỳ lạ như vậy? Hay đó là một thông điệp gởi cho phe “xét lại chống đảng” ngụ ý hăm dọa phục thù?
Mao Trạch Đông còn đích thân đến Tòa Đại sứ Hà Nội ở Bắc Kinh phúng điếu, điều mà Mao không làm khi Hồ Chí Minh chết. Mao muốn biểu lộ sự nghi ngờ và nhấn mạnh ý thầm kín của Mao về cái chết của Thanh?
Nguyễn Chí Thanh chết ngày 6/7/1967, thì 28/7/1967, Lê Duẩn cho bắt bốn đảng viên xét lại đầu tiên, trong đó có Hoàng Minh Chính, Hoàng Thế Dũng, Phạm Viết, Trần Châu. Tháng 9/1967, Giáp thình lình đi Bratislava “dưỡng bệnh”. Lê Đức Thọ vào Quân Ủy trung ương, thế lực Thọ hùng mạnh lên nhiều.
Trong vòng 6 tháng người ta dọn sạch các trợ lý đắc lực của Giáp. Nhưng rồi Tết Mậu Thân thua thiệt, cần đến Giáp, người ta lại đành để cho Giáp về nước (Đèn Cù, trg 319).
Hồ Chí Minh cũng điêu đứng vì cũng bị liên can. Theo Lê Xuân Đức, “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” (NXB Văn Học, Hà Nội 2012, trang 224), Bác chấp hành nghiêm chỉnh quyết định của Bộ chính trị, hàng năm đi nghỉ và chữa bệnh ở Bắc Kinh. Lần này, Bác đi từ ngày 5/9/1967 đến ngày 22/4/1968!
Gần 7 tháng! Lê Duẩn không cho Hồ Chí Minh tham dự cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 vĩ đại của Lê Duẩn!
Trần Đĩnh nhận xét một hôm ấy máy bay Mỹ ầm ầm bay qua, rất thấp. Có lẽ dòm xem các băng-rôn lính Trung Quốc căng trắng sườn đồi: “Kháng Mỹ viện Việt. Đả đảo đế quốc Mỹ”.
Lê Duẩn bắt đầu thử đẩy mạnh chiến tranh giải phóng Miền Nam. Thừa cơ hội hưu chiến Tết Mậu Thân, Miền Nam lo đón Tết, Lê Duẩn ra lệnh tổng công kích các yêu điểm trên toàn Miền Nam, tin tưởng dân chúng sẽ hưởng ứng nổi dậy. Nhưng cuộc tổng công kích bị quân lực Miền Nam đẩy lui, gây tổn thất nặng nề cho phía Hà Nội. Theo nhà kinh tế học Võ Nhân Trí ở Pháp về Hà Nội làm việc từ năm 1960, thì Võ Nguyên Giáp phê phán lén cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 của Lê Duẩn là “thắng lợi tơi bời”!
Lúc mở tổng công kích Miền Nam, Hà Nội gần như bỏ ngỏ vì đã đưa gần hết chủ lực vào Miền Nam. Sợ Mỹ có thể trả đũa, Hà Nội nhờ quân chí nguyện Trung Cộng vốn luôn luôn đóng chực ở biên giới sẵn sàng can thiệp cho Hà Nội theo thỏa ước từ đầu của cả hai bên. Nhưng muốn được như vậy, Hà Nội phải có thế chấp lớn nộp gấp Bắc Kinh. Vụ án xét lại ra đời! Tháng 2/1968 đánh, tháng 7/1967, Lê Duẩn cho hốt đợt đầu tiên những người có tư tưởng chống lại chủ trương đánh chiếm gấp Miền Nam (Đèn Cù, trang 318).
Từ nay, Lê Duẩn một mình làm vua một cõi, chỉ cần chấp hành mệnh lệnh Thiên triều.
Tóm lược
Trần Đĩnh viết Đèn Cù với một sự thành thật của một đảng viên kỳ cựu phản tỉnh sau thời gian dài sống với đất nước, sau 30/04/1975, gặp lại gia đình ở Sài Gòn. Ông cũng chứng kiến những trường hợp vỡ mộng của những người trước kia từng hăng say xẻ dọc Trường Sơn xâm nhập vào Nam đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào để đem lại ấm no cho bà con trong Nam. Nay họ lại mong Mỹ thả bom cho tang hoang hết. Cái uất hận của người dân từng theo công sản nay tỉnh ngộ đã trào dâng tột cùng của sức chịu đựng. Còn người dân trong Nam, khi cái đảng của Trần Đĩnh tới thì họ chấp nhận thân phận “một con nuôi má, hai con nuôi cá, ba má nuôi con”! Số phận bi thảm này có tới hằng triệu người, đủ mọi thành phần xã hội.
Trần Đĩnh nhận diện được cái ác của chế độ. Nhưng ông nhận diện bằng cặp mắt tranh chấp phe cánh của một đảng viên “cộng sản khoa học yêu chuộng hòa bình”, chớ chưa bằng cái tâm trong sáng thuần túy của con người Việt Nam! Thỉnh thoảng ông vẫn còn ray rứt vì chuyện ông bị đuổi ra khỏi đảng. Ray rứt chính với lương tâm của ông bởi khi vào đảng, ông đã long trọng đưa cao tay trái lên thề “suốt đời trung thành với đảng”. Người đảng viên phải biết bỏ tất cả để chỉ còn giữ đảng trong trái tim của mình mà thôi. Nay bị khai trừ thì làm sao ông trung thành như đã thề được nữa? Trong Đèn Cù, nhiều lần ông viết “ông cảm thấy khá xấu hổ vì bị đảng khai trừ”. Nhưng ông cũng bảo vết thương đó lành lặn khá nhanh nhờ ông “không bịa đặt.”.
Trong việc thanh toán nhau về tội xét lại chống đảng, ông đã không bị bản án tù như những người khác mà chỉ bị hạ từng công tác, từ nhà báo xuống làm lao động nhà in. Nhờ ông du học ở Tàu, có vợ Tàu và từng được những “voi già” ưu ái? Đây cũng là một ưu điểm hơn nhiều người khác.
Trong Đèn Cù, điểm nổi cộm là Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh theo Mao Trạch-Đông đánh chiếm Miền Nam cho Tàu “Thiên hạ loạn, Trung quốc nhờ” nên ngày nay Việt Nam lệ thuộc Tàu bắt nguồn từ đó. Và Tàu tiến lần làm chủ Biển Đông. Riêng Lê Duẩn theo Mao, đánh giặc cho Mao, để được Mao cho thay thế Hồ Chí Minh. Hai con bài của Mao là Lê Duẩn về chánh trị, Nguyễn Chí Thanh về quân sự. Nhưng chẳng may, Nguyễn Chí Thanh chết sớm đã làm cho Mao tức giận.
Đảng cộng sản tranh chấp nhau, giết nhau, chỉ vì phe phái đi theo hoặc Tàu, hoặc Liên-Xô. Chưa có một ngày, đảng cộng sản này theo Việt Nam.
Việt Nam bất hạnh có Hồ Chí Minh, một thứ xách động (agit-prop), vì tham vọng phục hận thời trẻ của mình mà đem cái cộng sản về Việt Nam. Bất hạnh hơn là có một số người vô minh đi theo, một số khác không thể làm gì khác hơn là làm cách mạng cộng sản nên có hơn mười triệu người dân đã ngã gục cho sự nghiệp tàn phá đất nước của Hồ Chí Minh và cái đảng của ông để ngày nay nước mất cho Tàu.
Giết hại văn nghệ sĩ, trí thức trong vụ nhân Văn Giai Phẩm, giết hại nông dân, cả gia đình, tại hiện trường và kéo dài về sau, có cả nửa triệu, làm mất sự sản xuất xã hội trong mấy năm liền. Tất cả đều do Mao chỉ huy từ Bắc Kinh.
Phải chi trước kia, thực dân Pháp đã sáng suốt thấy được chơn tướng tay sai trung kiên của Hồ Chí Minh mà
nhận ông vào học trường thuộc địa thì chắc chắn Việt Nam đã có giải pháp chánh trị đem lại độc lập trươc 1975, không bị nạn cộng sản như ngày nay.
Năm 2012, người ngoài cuộc, Tiến sĩ Nguyễn thị Liên-Hằng trong quyển “Cuộc chiến tranh của Hà Nội”, viết: “Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã chọn con đường phát động chiến tranh (cho Tàu). Trong nội bộ đảng đàn áp, loại khỏi quyền lực những ai phản đối đường lối theo Tàu...” (Đèn Cù, trg 557).
Quyển Đèn Cù, với những thông tin chi tiết, rất có ích cho độc giả, nhứt là độc giả trong nước. Có nhiều người cho rằng tác giả cũng chỉ nói lại những điều được biết qua rồi. Thật ra, có nhiều chuyện phần lớn độc giả chưa biết hoặc biết chưa rõ. Nhưng dù có biết qua đi nữa, đọc Đèn Cù để những điều đã biết được xác nhận thêm bởi người trong cuộc thân cận thâm cung như Quan Thái giám và nhờ ở sự thành thật của ông.
Nếu hỏi Trần Đĩnh viết Đèn Cù phơi bày những chuyện “thâm cung bí sử” của đảng, nhứt là tố cáo rõ ràng đảng công sản Hà Nội theo Tàu, lệ thuộc Tàu từ đầu thập niên 50 của thế kỷ trước cho tới ngày nay mà sao ông vẫn an nhiên sống ở Việt Nam? Mà mai kia, có thể ông sẽ ra chơi ngoại quốc, ký tên sách cho độc giả? Tôi nghĩ những điều Trần Đĩnh nói đều phù hợp với đường lối của đảng cộng sản Hà Nội hiện nay. Tức ý muốn nói ông không làm gì khác hơn là công khai và xác nhận thực tế chánh trị của Việt Nam. Đồng thời ông cũng xúc phạm đến thần tượng Hồ Chí Minh? Nên nhớ người Hy-Lạp thờ thần và giữ nhiều huyền thoại nhưng họ không tin thần và huyền thọai. Đảng cộng sản Hà Nội thờ thần tượng Hồ Chí Minh và giữ đảng cộng sản nhưng chỉ tin Thần Tài và sự mầu nhiệm của tham nhũng.
Mong cuốn tiếp theo Đèn Cù II sẽ đem lại cho đông đảo độc giả sự hài lòng nhiều hơn.
Và cũng mong VN hiện nay sẽ có thêm nhiều Trần Đĩnh khác và nhiều Đèn Cù khác. Nguyễn Văn Trần Paris, Thu 2014
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 2:54:07 GMT 9
Trần Đĩnh Lời mở đầu Đèn Cù II
Có thể ĐÈN CÙ sẽ không hấp dẫn những độc giả khác như tôi bởi các nhân vật trong cuốn sách hoàn toàn xa lạ với họ hoặc vì họ không quan tâm đến chính trị. Nhưng với tôi, người coi việc chổng Cộng sản Việt Nam như ý nghĩa chính của cuộc đòi mình thì cuốn sách này vô cùng bổ ích. Thêm nữa, khá nhiều nhân vật xuất hiện trong đó đã có những lần gặp gỡ với tôi. Đọc ĐÈN CÙ là dịp gặp lại họ, cả người đã khuất núi lẫn những ai đang tồn tại. Một đoạn đường lịch sử của Việt nam được phản ánh qua các trang viết. Đọc, để thêm một lần nữa, khẳng định rằng con đường đấu tranh cho dân chủ là con đường duy nhất có thể thay đổi vận mạng của dân tộc, và con đường ấy phải đi qua nấm mồ chôn chủ nghĩa cộng sản cùng các di sản thối rữa cùa nó.
Dương Thu Hương, tác giả Thiên Đường Mù
Trần Đĩnh là một trong rất ít nhân chứng còn lại có thẩm quyền nhất để kể những câu chuyện này. Nhưng Đèn Cù là một cuốn tự truyện, giá trị ưu tiên của nó không phải là tư liệu mà là sự chia sẻ những trải nghiệm lịch sử hết sức con người.
Huy Đức, tác giả Bên Thắng Cuộc
Trần Đĩnh là nhà văn cung đình, như ông tự nhận. Nhưng nhờ có ông, người may mắn được “gần mặt trời” trong lịch sử Việt Nam cận đại nên mới thấy được những vết đen trên bề mặt nó, nay hào phóng kể lại cho bàn dân thiên hạ được biết trong đống rác cung đình nọ có cái gì. Dưới dạng đặc biệt của thể loại ký mà ông gọi là “truyện tôi” người đọc sẽ được biết nhiều sự kiện, đôi khi là động trời, với những con người, đôi khi được coi là thánh và á thánh, có hình thù ra sao. Tác giả dùng lối kể tếu táo của người chứng kiến, không cần đưa ra dữ liệu, ai tin thì tin, không tin thì thôi, mặc. Thế nhưng tác phẩm của ông lại rất đáp ứng nhu cầu của người đọc muốn biết những gì đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử không có lịch sử”.
Vũ Thư Hiên, tác giả Đêm Giữa Ban Ngày
Trung thu này không thấy con nít rước đèn cù mà chỉ thấy cư dân mạng rước sách “Đèn Cù” của Trần Đĩnh. Cụ Trần Đĩnh vốn Tây học, nên viết lách gãy gọn, linh hoạt và chính xác. Cụ viết từ gan ruột, hoàn toàn theo ý mình. Trước nay, những “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên, “Hoa xuyên tuyết” của Bùi Tín, “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương… mới chỉ tập trung vẽ chân dung một ông… Judas. Nay cụ Trần Đĩnh chơi tuốt luốt cả 13 ông… ông nào cũng Judas cả nên có thể nói cụ không chỉ lật đồ thần tượng mà cụ đã đốt đền, giống Herostratos ngày xưa đốt Artemis. Tất nhiên, cụ Trần Đĩnh “đốt đền” không vì háo danh như Herostratos mà vì ở “trong chăn” cụ biết quá nhiều sự thật về “ngôi đền cộng sản Việt Nam”, và tinh thần “sĩ phu Bắc Hà” thục ép cụ phải nói ra. Đám cháy này nhờ ngọn gió internet nên nó bốc đùng đùng, cháy lan khắp nơi tới cả “khu mật viện” của mấy bác Ba Đình. Không biết cỏ phải gỡ chút sĩ diện mà các bác (Ba Đình) dại dột cho triển lâm Cải cách ruộng đất không? Nhưng rõ ràng gậy ông lại đập lưng ông.
Nhật Tuấn, tác giả Đi Vê Nơi Hoang Dã.
Đế “trục độc” những ai muổn hiểu ra cái ác lại đầu nguồn của đảng cộng sản Việt Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cho tới sau này thì nên đọc - và đọc kỹ - bộ “Đèn Cù” của Trần Đĩnh. Những ai muốn thế giới nhìn ra sự lầm lạc của nhiều người về Việt Nam thì nên phiên dịch bộ sách ra ngoại ngữ, vì nội dung còn vượt xa những gì Boris Souvarine đã viết về chế độ Stalin tại Liên Xô.
Nguyễn Xuân Nghĩa, Chuyên gia Kinh tế.
Với một bút pháp linh động và riêng biệt, Trần Đĩnh kể từng mẩu chuyện của riêng mình suốt cuốn “Đèn cù”. Từng mảng nối tiếp nhau hồn nhiên không theo một bố cục trước. Nhưng khi nhìn toàn bộ cuốn sách thì những mảng ấy kết thành một bức tranh vĩ đại mô tả chính xác và nghệ thuật cảnh vật của chiếc đèn kéo quân ngót 70 năm qua trên đất nước Việt Nam: Một bức tranh cực tả bản chất của đảng Cộng sản với các đặc tính bất biến Dối trá, Bạo lực và Vô nhân.
Phạm Xuân Đài, Chủ bút Thể Kỷ 21 Online.
Ngòi bút Trần Đĩnh với khẩu ngữ sắc mạnh, chấm phá, khoan đục vào xã hội một thời để bật ra cái đồi bại chen lẫn cái cao quí nhất của con người. Hãy khoan lục bới những giai thoại “chống cộng” trong tác phẩm, mà hãy mở lòng ra quằn quại với nỗi đớn đau trên từng trang giấy của tác giả và của dân tộc. Chúng ta thường than vãn về sự thiếu vắng môt tác phẩm lớn cho một giai đoạn lớn, nhưng thực ra, chúng ta đã có sẵn tâm và tâm để nhận ra sự xuất hiện của nó hay chưa?
Phan Quốc Tâm, Tiến sĩ Tâm lý
“Đèn Cù” không chỉ là quyển sách nên đọc, mà là quyển sách cần phải đọc. Trở ngại duy nhất khi cầm quyển sách cần đọc này là nếu đã giở trang đầu, phải đọc một mạch cho đến trang cuối cùng mới buông ra được.
Nguyễn Văn Khanh, Giám đốc ban Việt ngữ RFA
Ngoài giá trị lịch sừ, giá trị chính trị và nhất ỉà giá trị văn học, điều làm cho cuốn sách vượt trên tất cả chính là mỗi câu chuyện, mỗi giai đoạn, mỗi sự kiện đều được tác giả viết lại bằng tấm lòng. Dưới tàn bạo và đàn áp, nhân cách con người nhất thời có thể bị chà đạp, vấy bẩn, nhưng tấm lòng tử tế còn ở lại khiến những trang sách quay vòng của Đèn Cù gây xúc động và hy vọng.
Hòa Bình Lê, nhà báo, California.
Nhận xét tinh tế, chi tiết, bút pháp chắc nịch và đậm ngôn ngữ điện ảnh, Đèn Cù soi rọi cận cảnh mọi khuôn mặt chính trị, văn hóa, văn nghệ, một thời thao túng xã hội Việt Nam mà di hại đến nay vẫn còn mồn một. Đèn Cù là tự truyện chính trị khắc họa rõ nét một xã hội lệch trong hành xử và bệnh trong tư cách - hệ quả của thứ văn hóa cộng sản bắt nguồn từ thượng tầng. Một tác phẩm cực kỳ quan trọng để tìm hiểu “số phận Việt Nam”. Với độc giả: Đừng chờ đợi sẽ có thêm một Đèn Cù thứ hai.
Phạm Phú Thiện Giao - Chủ bút Nhật báo Người Việt California.
Với lối hành văn khắc họa tài tình, Đèn Cù là sự diễn đạt ý tường bằng ảo thuật đậm thẫn thái của thư pháp gia. Dứt khoát, đứt đoạn, tùy ý, dửng dưng… cốt để phác họa một giai đoạn mông muội máu lửa. Ánh sáng của “Đèn Cù” cứ lênh loang soi tận vào những góc tăm tối nhất của cái bệ thờ được Trung Quốc dàn dựng nhằm nhát ma dân tộc Việt Nam mấy chục năm qua. Có thể nói, “Đèn Cù” là tư liệu lịch sử được viết bằng thứ văn chương nghệ thuật mang tính độc nhất vô nhị để hoàn thành sứ mệnh làm nhân chứng mà trên mình đang còn mang đầy thương tích.
Trân Đông Đức, Chủ nhiệm Tuân báo Người Việt Đông Bắc Mỹ
Đèn Cù với tôi như một cuốn Sử văn chương với ngồn ngộn chi tiết, thú vị như đọc Tư Mã Thiên phần Liệt truyện vậy. Dù có những tranh cãi về tính xác thực của nó, nhưng có điều chắc chắn rằng dù tin hay không vào Đèn Cù người ta cũng phải nhìn lại về một lớp người đã ảnh hưởng vô cùng to lớn đến lịch sử cận đại Việt Nam.
Ngô Nhật Đăng, blogger Việt Nam
Đèn Cù vạch ra rất rõ những xung đột về tư tưởng chính trị và những tranh chấp quyền lợi nhơ nhớp trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng một lúc, Đèn Cù cũng cho ta thấy “…một dẻo thung lũng rất êm ả, hết sức êm ả… đã chìm vào bóng chiều xẫm lại…” trước đêm đánh vào Đông Khê. Và từ đó, Trần Đĩnh đã cho ta thấy sự phi lý cũa chiến tranh từ cặp mắt cũa những người mẹ đã mất con từ phía bên kia. Đèn Cù hiếm hoi là vì những mẩu chuyện đầy ắp tình người như vậy.
Vũ Minh Hải, khoa học gia chuyên nghiên cứu bệnh ung thư.
***
“ĐÈN CÙ” MỘT NỖ LỰC “TRỤC ĐỘC”
Giới thiệu của Nguyễn Xuân Nghĩa
Vế “trục độc”, ai muôn hiểu ra cái ác tại đầu nguồn của đảng Cộng sản Việt Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cho tới mãi sau này, thì nên đọc - và đọc kỹ - bộ Đèn Cù của Trần Đĩnh.
Trong cả ngàn cuốn sách mà người Việt Nam và ngoại quốc đã viết về hiện tượng Cộng sản tại Việt Nam, cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh có một vị trí riêng. Đó là sách thuộc loại bán chạy trong năm dù ở trong nước còn là bán chui và bị tịch thu. Mãi sau này, Đèn Cù sẽ là tài liệu tham chiếu của rất nhiều người. Đọc hết quyển I cuốn Đèn Cù, mỗi độc giả lại có một cách thẩm định. Chỉ riêng phân ứng “không thế đọc chơi rồi bỏ” của nhiều độc giả cũng đủ nói lên giá trị đặc biệt của tác phẩm. Chẳng những vậy, đọc rồi, không ít người đã viết ra và lưu truyền nhận xét của mình.
Trong số này, một số độc giả còn may mắn… hài tội tác giả để nói về sự khôn ngoan tinh tế của họ. Nhẹ là “sao giờ này mới viết cái chuyện ai cũng biết?”. Nặng hơn thì “có ý chạy tội cho Hồ Chí Minh”. Thậm chí còn chạy tội cho Trung Cộng. Hoặc cuốn sách ra đời trong một âm mưu mờ ám để cho thấy là so với các lãnh tụ cộng sản Việt Nam ở đâu nguồn thì thế hệ ngày nay đã đổi mới, v.v…
Đôi ba người tinh quái lại xoáy vào nội tâm tác giả - hay của chính mình. Họ nói đến phản ứng tình dục lồng trong chính trị. Biết đâu chừng, bản năng thâm sâu ấy khiến một người bị kết tội “chống đảng” như Trần Đĩnh lại chỉ đi cải tạo thay vì bị tù đầy như các “đội bạn” của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”, hoặc các nhân vật lãnh tội “xét lại chống đảng” ngày xưa. Vẫn biết rằng khi đã xuất bản, tác phẩm hết còn là của tác giả, mọi người đều có quyền phán xét khen chê như vậy. Nhưng sự khen chê ấy cũng tùy trình độ - và cả giác độ - của người đọc. Được một cái là càng bị đây đó dị nghị thì cuốn sách lại bán càng chạy…
Thế rồi, do nhà xuất bản Người Việt ưu ái yêu cầu - có thể là với sự đồng ý của tác giả - người viết này may mắn được đọc bản thảo của quyển hai. “May mắn” cũng là một phán xét! Cái giá phải trả là viết đôi lời giới thiệu. Cung kính bất như tuân lệnh.
Giữa đám đông còn om xòm về quyển I, người viết xin chỉ vạch ra hai tội của Trần Đĩnh: một là mê văn hóa Trung Hoa, như nhiều người có học khác. Hai là mê lý tưởng cộng sản, ban đầu kết tinh vào Hồ Chí Minh hay Trường Chinh. Là người uyên bác - làm không ít độc giả hụt hơi khi đọc và phải đọc lại - Trần Đĩnh có biệt tài ngôn ngữ của một nhà văn lớn. Nhưng trước hết, ông hiển nhiên biết nhiều ý của chữ “mê”.
Ban đầu, ông chỉ là con mê, một loại nai, bị khớp đèn của các lãnh tụ trên rừng xanh khi họ chưa có dân trong tay để xiết. Trong tuổi thanh xuân ấy, mê có thể là thích, ai chẳng biết vậy? Những mê quá cũng làm ta mờ trí, chẳng mê tín thì mê thất ỉà lạc đường, đầu óc mụ mị. Trong cõi mê hoang mờ mịt ấy, người ta khó thấy được thực hư và có khi là đồng lõa của tội ác. Mê còn hàm ý mân mê sờ soạng - Lê Đức Thọ hiểu cảm giác này ở trong tù. Sợ quá thì mất luôn cảm giác, như tê mê, hoặc mê như bị chất ether trên giường bệnh. Hay bê bết dơ dáy như “chân minh đầy cứt mê mê”…
Đọc lại Đèn Cù I và đọc qua quyển II, chúng ta sẽ thấy ra ngần ấy nét mê!
Người viết này không nói quá mà vẽ rắn thêm chân. Ở chương 49 trong quyển II, chúng ta sẽ thấy ông luận bàn đầy tâm đắc với một người trong Nam, thuộc Việt Nam Cộng Hoà, về tiến trình phơi bày bản chất ô uế của đảng Cộng sản Việt Nam như “mở nắp bô”.
Việt cộng mải mê vùi cứt cho ông anh (là Trung Cộng) nên không dọn được cứt mình ngập hết bản thân mình và… - Và đang được nhân dân bới ra, vâng, chính xác, dân đang mở nắp bô đấy”.
Mê như vậy từ khi còn trai trẻ, sau cùng thì Trần Đĩnh đã tĩnh dần sau nhiều lãn choáng váng. Mà không chỉ tình lẩy một mình. Từ hơn hai chục năm nay, ông muốn viết lại cả tiến trình giải thoát của bản thân và giải độc cho người khác. Nên người viết xin đề nghị một từ là “trục độc”.
Để “trục độc”, những ai muốn hiểu ra cái ác tại đầu nguồn của đảng Cộng sản Việt Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cho tới mãi sau này, thì nên đọc - và đọc kỹ - bộ Đèn Cù của Trần Đĩnh.
Người sính văn chương có thể cất công xếp loại Đèn Cù là tự truyện hay hồi ký, bút ký, v.v… Qua quyển II, ta mới nhận ra nét chung là Trần Đĩnh nhớ gì kể nấy, như người viết tùy bút. Khổ nỗi, đây không là tùy bút của Mai Thảo hay Nguyễn Tuân để giải trí mà nhằm giải độc… ông lần giở ký ức như con tầm nhả tơ vì cái nghiệp, những sợi tơ rướm máu bạn bè và người thân, hoặc đầy mùi xú uế của đàng.
Nếu quyển 1 của Đèn Cù có những chương tập trung về các thủ phạm của cái ác, quyển II viết nhiều về các nạn nhân, trong đó có những người đáng kính trọng, ít ra là đáng được thông cảm. Trần Đĩnh kể lại thế giới của ông qua cà trăm giai thoại, với nhiều nhân vật còn xa lạ cho những ai không sinh hoạt trong môi trường hắc ám đó. Nhưng nếu cứ tưởng ông rút ruột viết ra từng đoạn rã rời thì người đọc vẫn chưa thấy được công phu trục độc.
“Sợi chỉ xuyên suốt” những đoạn tùy bút u ám vẫn là cái gian và cái ác của “Việt cộng”. Dùng từ này, Trần Đĩnh trả lại ngữ nghĩa nguyên thủy và chính xác là Cộng sàn Việt Nam. Y như khi ông viết về Trung Cộng.
Nhưng nếu chỉ là về từng nhân vật ngẫu hứng nhớ lại thì tùy bút Đèn Cù chưa đi tới tận cùng của trục độc - hay mở nắp bô để xả mùi xú uế.
Trần Đĩnh đọc nhiều, thuộc sử đảng và không hề quên mối quan hệ với Liên Xô cùng Trung Cộng từ thời Đệ tam Quốc tế cho đến ngày nay. Cho nên về từng người hay từng việc, ông đều nhắc lại dẫn chứng, nhất là trong báo đảng hay từ người trong cuộc.
Với nhiều độc giả thuộc thế hệ về sau, khung cảnh lịch sử ấy là một mê cung ngoắt ngoéo nên quyển II của Đèn Cù còn bắt người đọc phải nhớ tới hoặc đọc lại lịch sử cận đại. Trong từng mô tả về sự gian ác, đôi khi ông có cái lý “giảm khinh” là cái ngu của mấy kẻ trên chóp bu. Dù là ngu thì được cái gian bù lại. Xin đọc Trần Đĩnh kề lại về hậu trường của “Cách mạng Tháng Tám” năm 1945 ở Chương 50:
“Chỉ hai việc đầu não cách mạng Tân Trào mù tịt tin Hà Nội khởi nghĩa thành công và Việt Minh vũ trang phải được Nhật cho phép qua cầu Đuống mới vào được Hà Nội đã đủ cho thấy vận hội khách quan vô cùng tốt đẹp của đất nước. Nói lại: vận hội của toàn dân nhưng cuối cùng đã bị Việt cộng ẵm gọn làm vốn liếng riêng của mình. (Chữ in nghiêng là cùa tác giả Trần Đĩnh).
“Tân Trào ba ngày không biết Hà Nội đã khởi nghĩa thắng lợi và Quân Chiến Khu về phải xin Nhật cho qua cầu Đuống, chỉ hai việc ấy thôi đủ nói Việt Minh chả có đuối Nhật gì hết. Và tuy ngày 23 tháng 8 mới vào Hà Nội, Cụ Hồ vẫn cảnh giác bắt đi vòng qua sông Hồng ở mạn cây đa làng Sọi có Vũ Đình Huỳnh chờ đón Cụ lên xe hơi quacầu Sông Cái rồi rẽ phố Hàng Khoai và thế là Cụ đã được ngắm thủ đô ở cái góc mang tên thứ lương thực tiêu biểu nhất của dân ta - đúng là nông thôn bao vây thành thị… Rồi Cụ hài lòng ra ngay chỉ thị tiếp tục hòa hoãn với Nhật, tha Bảo Đại, một lần nữa mặc nhiên thừa nhận Quân lệnh sõ 1 yêu cầu tiến công Nhật, đàn áp chính quyền Trần Trọng Kim và tiêu diệt đảng phái phản động, là duy ý chí kiểu con ếch nằm trong đáy giểng. (Hết trích).
Từ những hồi tưởng đó, Trần Đĩnh mới kết luận là theo Việt cộng thì “bốn phương vô sản đều là anh em.. “vô tổ quổc” như thế!”
Đầy rẫy trong Đèn Cù, ta gặp nhiều chuyện cực khó tin mà chỉ người trong cuộc mới thấm được theo lối “nóng lạnh tự biết”. Trong mạch đó, độc giả có thể nhớ tới truyện giả tưởng “Đỉnh Cao Toang Hoác” (Yawning Heights hay Les Hauteurs Béantes) của nhà văn bất đồng chính kiến Alexander Zinoviev khi ông ta chơi chữ và châm biếm xã hội Xô viết. Nhưng Zinoviev còn phải dựng truyện giả tưởng, Trần Đĩnh viết về người thật, việc thật. Và xuyên qua hơn ngàn trang sách của hai quyển, Đèn Cù bổ dọc từ Marx tới Lenin, Staiine, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh, cho chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ - và cả Nguyễn Văn Linh với thành tích bái Tầu để chặn Duẩn và ngăn Thọ. Còn kinh hãi hơn giả tưởng.
Tuy nhiên, và đây mới là một kỳ thú của tác phẩm, Trần Đĩnh lại viết về Hồ Chí Minh như một nạn nhân hàng đầu. Những ai cho rằng Đèn Cù có dụng tâm chạy tội cho Hồ Chí Minh thì nên đọc quyển II để nắm lấy “tang vật”. Dù là cán bộ trước sau đã qua sáu năm đào tạo của Đệ tam Quốc tế, và sau nảy được quốc tế trao cho Trung Quốc dìu dắt, Hồ lần lượt là nạn nhân của Staline, rồi Mao và vì vậy mà từng có thòi ở nhà cũng là nạn nhân của Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ trong vụ tranh đoạt quyền bính nội bộ. Phần nào đó, Bác Hồ cùa Trần Đĩnh có thể là “vô can” trong nhiều chuyến động lớn chỉ vì cái tội vô tài. Vậy mà ngày nay Việt cộng còn nói mãi về thắng lợi của “Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cho nên Trần Đĩnh mới phang thành tích họ Hồ: “Bịa! Chính là thất bại! Vâng, thất bại đầu tay lập đảng và thất bại đầu tay lập nước!”
Rất đáng ngạc nhiên từ một người mắc bệnh mê Hồ khi còn trẻ. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là Trần Đĩnh không hết lời ngợi ca cụ Trần Trọng Kim. Từ đó, thế hệ ngày này ở trong nước phải tìm hiểu xem Trần Trọng Kim là ai - và vì sao Cách mạng Tháng Tám chỉ là một trò bịp…
Quyển II của Đèn Cù được tác giả đặt tựa là “Vén Mây Giữa Trời”, đọc mãi người viết này mới đoán ra Trần Đĩnh có ý phân công lao động. Bác Hồ và đảng ta chỉ là những vì sao, còn lại, Mặt Trời là những lãnh tụ xa lạ của Liên Xô hay Trung Cộng, như Lenin, Staline hay Mao… Vén mây lên, Trần Đĩnh bắn rụng cả mặt trời lẫn ngần ấy vì sao…
Mà vì sao dân ta lại khổ vậy? Cũng vì cái tội mê…
Sau khi cả dân tộc đã trả giá đắt đỏ, Trần Đĩnh viết ra chuyện mê muội ấy. Những ai muốn thế giới nhìn ra sự lầm lạc của nhiều người ngoại quốc về Việt Nam thì nên phiên dịch Đèn Cù ra ngoại ngữ. Nó cần xuất hiện bên những tác phẩm giải ảo lừng danh của thiên hạ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa California, ngày 11-11-2014
Vén mây giữa trời tặng bạn bè và Hồng Linh bị trừng trị
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Đèn Cù cuốn I của Trần Đĩnh xuất hiện giữa mùa Thu năm nay đã được chiếu cố và hoan nghênh từ nước ngoài về lại trong nước. Cuốn sách, với lối văn nói, trình bày nội dung phóng khoáng, rất người và rất thực, đã thu hút người đọc với vô số chuyện xảy ra mà tác giả là vai chính hay ít ra là nhân chứng. Chuyện “cung đình” cộng sản, điều mà ai trong chúng ta, tò mò hay không tò mò, cũng đều muốn biết. “Truyện tôi” của Trần Đĩnh kể lại với cái tôi của người viết, đương nhiên, và chỉ một; người viết này mới có cái tôi như thế… “Một lối kể tếu táo của người chứng kiến, không cần đưa ra dữ liệu, ai tin thì tin, không tin thì thôi…” như nhận xét của nhà văn Vũ Thư Hiên.
Trần Đĩnh cho biết từ ngày Đèn Cù I xuất hiện, cuộc sống (của ông) quả có gặp “khó khăn”. Các mối giao dịch xưa nay trử nên “lạ lùng, kỳ quái,” theo lời của tác giả. Cũng còn là may vì đừng quên rằng tác giả vẫn còn sổng dưới chế độ “kỳ quái” được mô tả rành rọt trong cuốn sách. Vì may mắn nào mà Đèn Cù II vẫn còn được tiếp tục xuất hiện và hy vọng tới lay bạn đọc?
Không, không có gì thay đổi cả. vẫn giọng văn ấy, vẫn “lội kể tếu táo” ấy, và với những muộn phiền ấy trong cuộc sống của chế độ mà tác giả cố gắng luồn lách qua ngày… Những điều trông thây mà đau đớn lòng… Trải dài trên mấy trăm trang giấy, đọc mệt luôn!
Cuốn II tiếp tục tiết lộ nhiều chuyện ly kỳ… xin trưng dẫn vài chuyện:
Chuyện ông Hồ, đúng ra chuyện giả cụ Hồ. Ở nước nào, cộng sản hay không cộng sản, lãnh tụ nào cũng sự bị ám sát, chết không kịp ngáp. Thế nên mới có chuyện nhờ người giả dạng lúc xuất hiện trước công chúng, chuyện nghe cũng bình thường thôi và không có chi lạ. Vậy lạ ở đây là cái gì? Xin nghe tác giả thuật lại chuyện của người đã giả ông Hồ theo lời kể của Xương.
“Chuyện của Xương nói chung rẩt khác người. Rất bông phèng”
“Có lần anh hỏi tôi năm 1946, lúc còn là thiếu niên tiền phong… có ra ga Hàng Cỏ đón ông Bác đi tàu thủy ở Pháp về Hải Phòng rồi lên Hà Nội bằng xe lửa. À, có đón hả?
“Xương cười nói tiếp: Thế thì cậu hoan hô với vẫy hão rồi. Hôm ấy ở xe lửa xuống, cụ lên dự cuộc đón tiếp công khai xong là có người dắt đi, bịt râu, đi tắt trong sân ga đến chỗ thằng Qua, thằng này sau là Cục trưởng Cục trại giam, chờ sẵn lái đưa cụ đi.
“Sợ phản động nó xơi mà. Còn Bác trên xe chính thức diễu phố là một cậu lâu ngày tớ quên tên nó mất rồi, thằng này giống ông cụ kinh khủng, nó đeo râu giả làm ông cụ, nhòm ra vẫy đồng bào. phản động phơ thì thằng này hứng…
“Đến Cải cách ruộng đất, tay hình nhân này bị đấu tố là địa chủ phản động gian ác, suýt ngỏm. Nó khóc: Tôi từng đóng thay Bác Hồ để phản động có bắn thì tôi chết thay bác, thế nhưng phản động không bắn mà nay Đảng lại bắn tôi, ôi bác Hồ ơi, hu hu…”
Chuyện thứ hai liên quan đến cuộc sống của công nông trong cái “thiên đường cộng sản” đó. Ly kỳ lắm vì rằng lương của họ chỉ đủ sõng 10 ngày… mà vẫn sống. Lương chỉ đủ sống 10 ngảy, người nói câu đó không phải là “một tên phản động, tàn dư Mỹ ngụy…” mà là Trường Chinh, Tổng bí thư đảng.
Trần Đĩnh viết:
“Tái xuất giang hồ, Trường Chinh có một câu quá hay: Lương của công nhân viên chức chỉ đủ để sống trong mười ngày.
“Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày. Trường Chinh cau mày khó tin - bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế?
“Hôm sau (Trường Chinh) bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày.
“Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cẩp công nhân!
“Hay thật! Ở một nước do giai cấp công nhân lãnh đạo mà đảng phải cứu giai cẩp công nhân ra khỏi đòng lương bóc lột? Tôi thấy ở đó một khẩu lệnh hành động. Trường Chinh rất giỏi đề khẩu lệnh. Nhưng ông không nói cứu công nhân khỏi tay ai? Và thằng khốn nào nó bóc lột công nhân?
“Song dân biết rất rõ cái Cơ chế gà què mổ lẫn nhau nó cho phép bộ máy với lương sống mười ngày vẫn cù cưa được cả tháng, tất nhiên ở mức khốn nạn…”
Thế là xong, hết thắc mắc. Nói chung cho cả nước. Gia đình Trần Đĩnh còn gặp khó khăn hơn với nạn đánh Hoa Kiều sau khi đương sự bị đuổi. Tại sao? Bà Trần Đĩnh là người Hoa.
“Tôi bị đuổi việc so với cái họa của Hồng Linh vợ tôi, còn sướng hơn nhiều. Một sáng, phó phòng tổ chức Nhà hát giao hưởng - hợp xướng - Nhạc vũ kịch Việt Nam gọi Linh đến bảo:
“Chị phải đi khỏi Việt Nam. Và đi một mình, vì Trần Đĩnh không được phép đi đâu cả, còn con gái chị là người Việt Nam nên phải ở lại. Chị không đi, mai kia phòng tuyến Bắc Giang vỡ là sẽ tập trung các người Hoa như chị vào một khu vực xa lắm, khổ ra”.
Tại sao Trần Đĩnh tiếc nuối chế độ? Bị cho nghỉ việc, không lương, vợ bị trục xuất”. Trong biên bản khai cung năm 1968, tôi (tác giả) viết:
“Chân lý Mác Lê nay như một vòm pha lê vỡ vụn, mỗi anh nhận một mãnh và bảo đó là chân lý chung.
“Tôi nhìn đảng như một quái vật hai đầu. Một đầu của cô gái xinh đẹp là cuộc Tổng khỏi nghĩa và một đầu nghiệt ngã dữ dằn là đảng hiện nay. Có khi muốn đẩy cái đầu dữ đi thì đầu cô gái mà tôi mê lại khuyên ráng chịu”.
Một chế độ công an trị đang vây bủa. Một lưới trời (thiên võng) đang chụp trên đầu cả nước, chỉ có internet, họa hoằn lắm, mới qua lọt.
Vẫn từng đó người trong từng đó chức vụ, của đảng, của chính phủ, của quốc hội, của đoàn… nối tiếp nhau… Voi giây ối a, ngựa giấy ơi tít mù nó chạy vòng quanh…
Nhà xuất bản Người Việt
NGHI LỄ MỘT LỜI MỞ SÁCH
Viết này vất vả. Lười là rõ. Cứ mượn “nguồn im ấy cổ nhân” của Nguyễn Trãi mà lần khân. Nhưng còn có giằng nhau giữa nhận thức và hư vô.
Nhận thức thôi thúc viết. Tuy nó biến đổi không ngừng. Một quá trình tự phủ định, tự mở mắt thấy mình đã mù lòa. Phủ định cái bùa mê đã dắt díu mình bội phản lại thiên chất của mình. Viết ra sự thoát bỏ nhọc nhằn ấy đòi ngay thẳng. Dĩ nhiên là không dễ.
Còn hư vô. Từ nhiều năm nay trong tôi hư vô ngày một mở rộng. Nhiều đêm không ngủ, ngoái nhìn lại sau lưng chẳng thấy gì. Không người, không việc, không ý, không cảm. Một thung lũng sương vần vũ, một màn u linh bạc xoá. Thò tay khoắng vợt: rách rưới mấy vạt sương mù… Giật mình chứng kiến trạng thái hơi khói của đòi mình. Ngỡ có ai đã bắt tôi cày cuốc lên cuộc sống mình rồi nộp hết tô đời cho hắn: trỏng trơ cái thân vô dụng.
Và làm hại.
Tôi đã viết vài hồi ký “cách mạng” quá được hoan nghênh. Vài câu thơ đến nay tôi vẫn hài lòng. “Con người ném gương lên treo giữa các vì sao, Ngửng đâu soi thấy mình đẹp quá…” (Vệ tinh đầu tiền lên trời, 1957). Đặc biệt quyển hồi ký về Côn Đảo đã đua tôi lên thành pháo hoa rực rỡ. Các đơn vị lính xuyên Trường Sơn vào Rờ, đêm thường nghe cán bộ văn nghệ đọc những trang hồi ký này. Đi quanh Hồ Gươm, tôi hay được chỉ trỏ hoặc chào hỏi.
Và rồi tôi ngượng khi được giới thiệu là tác giả. Cho tới một hôm tại nhà một giáo sư hiệu phó một đại học ở Sài Gòn, một số bạn giáo sư khen tôi viết hồi ký kia hay. Và lần đầu tiên trước chừng hai chục trí thức, nghệ sĩ, tôi nói đúng ra tôi chĩ là một anh bồi bút. Cũng là anh hèn giỏi viết chuyện người bị đàn áp còn chuyện tang thương của mình thì lờ đi. Dĩ nhiên lúc ấy quyến sách bạn đang đọc đây đã xong, song tôi không thể thổ lộ. Sau buổi liên hoan, ra bến xe bus vắng tanh chờ, tôi tình cờ nhìn thấy một vỏ côn trùng lột xác khẽ đung đưa ở trước mặt. Tôi hứng nó vào lòng bàn tay và chợt mừng lạ lùng, ngỡ như vừa nhận về tấm mặt nạ bản thân tôi vừa gỡ xuống. Tôi càng lột bỏ mặt nạ trên tôi thì tôi mới càng là tôi.
Giá như tôi được viết những trang dưới đây như đã viết trong nhật ký những dòng về cây, về lá, về ánh đèn, bóng nước quanh Hồ Gươm, về con công nhốt trong Nhà Kèn sáu cạnh ở ngang hông Bắc Bộ Phủ một tối chớm xuân bỗng rùng mình phóng tiếng kêu vào đêm gọi mái? ồ… ộ… ộ… Thèm khát như thanh sắt nhọn lao vút đi hừng hực trong mưa lạnh. Tôi chợt cay mắt. Ôi, người thày dạy cô đơn. Một chấm vàng bên má công loé thắp, điểm nạp đứa học trò tha thẩn.
Từ đấy ra ghế đá với bạn bè, tôi thường từ xa đã hướng tìm đốm lửa rừng, vương sót trên thân con công thăm thẳm một vùng khinh mạn khiến nhiều phen tôi chợn. Nếu các trang này chỉ viết cái đẹp của trời đất?
Người ta đã cất công xây dựng tôi nên một cái bị ăn mày. Phải chi li rằng chất liệu tạo nên bị là tôi. (Ra mới dai bền thế!) Còn nội dung của bị là các thứ người ta thả cửa quăng vào cho mà tôi ngụp lặn ở trong và cấm không được đê chúng hư hao suy suyển.
Hình như một đạo diễn điện ảnh tên tuổi đã nói: Cái gì bạn không thay đổi được thì ít ra bạn hãy lột tả mặt mũi nó.
Vâng, tôi xin cố. Coi như trẻ con mở bị đồ chơi bầy hàng. Song hàng người ta ném vào bị ăn mày khá nhiều nên bày ra hơi la liệt, có khi nhiều lần hàng đụng nhau, vi phạm yêu cầu mỹ học. Chỉ xin nhớ giúp cho rằng khi quãng rác vào bị tôi, người ta đâu có tính đến mỹ học hay các thứ học xa xỉ. Tồi thì lại muốn sòng phẳng. Ít ra cũng một đổi một nghìn, mong bày cho đủ.
Có một tục ngữ da đỏ: Ban thờ của người này là tha ma của người kia.
Vậy tha ma tôi là ban thờ của HỌ.
Cái nào đẹp? Tùy chỗ đứng của người nhìn. Thông thường ở tha ma ta mủi lòng thương cảm. Còn trước ban thờ không chắc ta đều muốn cúi đầu.
Trân Đĩnh
***
Đèn Cù (Tập 2)
Chương 49
Vào Sài Gòn sống, qua Q. móc nối, tôi được quen một ông bạn đặc biệt tinh quái, tinh quái ở con mắt biếm hoạ sâu sắc mọi sự liên quan đến cộng sản. Như nhòm thấy tổ chấy cộng. Cụ ví: cái tổ chấy ấy nó như xăng dễ cháy mà mắt mình lại như cái bật lửa hay cướp cò, chết thế. Rồi tự thú: Cái tính tôi nó nghịch, hay lỡm. Mà cộng thì lại nhị ngôn, cái thứ tạo lỡm nhạy nhất. Nhị ngôn quá chứ? Thống trị dân từ đầu đến chân, từ quá khứ - đó, tóm lý lịch ba đời con người ta nhét giọ! - đến bắt làm con - mà là con của Bác, mất trật tự quá ta - thế nhưng lại nói lấy dân làm gốc, làm chủ. Hứa thì trăm voi nhưng không được một tăm nước xáo! Bây giờ địa chủ đỏ lấy mất đất của nông dân chủ lực quân của cách mạng kia. À, còn, còn các ông anh ngoài biển cướp biển của ngư dân Việt Nam để gọi là phối hợp đồng tác chiến nữa. Hai gọng kìm cộng sản kẹp thế thì dân nào chịu nổi? Cụ ơi, đau quá mà bất lực thì sinh lỡm. Nên lỡm mang tính đảng phái rất rõ đấy nhá, nó thuộc về những người thấp cố bé họng - cộng sản không lỡm được đâu, chỉ thạo trần mỗi quy trình bất biến tự hương bái và bạt tai dân, đem chữ lãnh đạo toàn diện ra mà khui tới hồn cốt là thấy hai cái động tác xoắn xuýt hương bái và bạt tai này đó. Nói chứ, nếu Cộng sản tự lỡm được như tôi thì phúc tổ cho dân quá đi đấy!
Xin giới thiệu vội: Cụ là nạn nhân lớn của cuộc cải tạo công thương nghiệp trong Nam. Và thông gia với chị gái Q. Bởi lẽ cụ bạn tinh quái hay “bình loạn” - chữ của cụ - nên tôi đi bộ hàng chiều với cụ.
“Kiểu này ta có thể sưu thành sách như Vừa đi đường vừa kề chuyện của nhà văn nhất tập nhất tót vào lừng danh rồi biến: Trần Dân Tiên. Lấy tên ấy là tỏ ý đặt dân lên trên hết tất tần tận, gớm, hơn đế quốc thực dân chưa? Nhưng ông lại lòi đuôi ra khi cho đăng ký trước thế giới rằng dân Việt có một “Cha già dân tộc”, bất chấp vị Cha già đã nhận mình là Bác dân.
Lại gật gù: Kẻ độc quyền ăn nói thường như vậy đấy. Nào, hãy soi vào cái chiêu bài vỉ dân trước. Đây xem, dân thích tư hữu thì đảng vì dân ra sao? Thì đảng diệt luôn tư hữu! Dân thích yên ổn làm ăn thì đảng nội chiến, đánh Mỹ, đánh hàng xóm láng giềng…, dần muốn ăn nói đàng hoàng thì đảng bịt miệng. Mời xem Hiến pháp 1980 nói: “Chủ nghĩa Mác-Lê nin là hệ tư tưởng chì đạo sự phát triển cửa xã hội Việt Nam”. Thế rồi nghị quyết đại hội đảng nào cũng “làm cho toàn dân nắm được ý thức hệ Mác-Lê”. Muốn bụm miệng cười ghê quá à. Dân Đức, dân Nga đã cho hai ông tổ nội bị cả kim la này ra rìa mà Việt Cộng cứ xì xụp. Ý dân bản chất là phản động, tư hữu tới cùng mà, nên đảng mới phải nêu “ý đảng lòng dân”, công thức canh ty kiểu Mác-Lê. Đảng nhường cho dân cái lòng làm theo ý đảng. Để cho cái lòng thực hiện hợp đồng đúng phắp thì có vị trọng tài tên là chuyên chính! Lại có các thứ chẳng dính gì đến dân đến nước mà cũng bắt dân “tự hào” như “đã đánh lùi từng bước, đánh sập từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc” - xin lỗi, may mà chưa đánh sập chứ không thì moi đâu ra cái nạng vạn dặm của nó để mà mượn chống, tiến lên định hướng? Rồi thì “đã dựng nên Nhà nước công nông đầu tiên” - lại xin lỗi cụ chứ ở ta… éo có thằng nào khổ bằng hai thằng công nông nhá. Đấy, đi trên đường gặp cái xe nào mà cứ hãi khiếp vía lên thì chính Công Nông nó đó.
Khiếp vía cứ y như khi nghe Lê Duẩn nói ở Hội nghị Trung ương 25, khoá III, tháng 10 - 1976. “Nhất thiết phải xoá bỏ giai cấp bóc lột, xoá bỏ sản xuất cá thwe, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa… Đường lối đó là dường lối của giai cấp công nhân không ai được chống lại”. À, xem ai chống lại? Dạ, là thằng dân vẫn ôm giấc mộng tư hữu từ tổ tiên ông cha nó. Nhưng mộng nghìn đời của tổ tiên mà bằng được cái mộng công hữu ông Marx ốm suốt mấy chục năm ròng, ôm cùng với hệ thống nhọt mạch lươn làm cho đít ông ấy máu me, đau đớn khốn khổ ư? Rồi lại chỉ rước công nông trí lên. Mà trí thì cũng là mới được móc ra. Còn con người mới xã hội chủ nghĩa ông Hồ xây dựng là gì đây? Nghĩ mãi thì ra là ba cái hồn Do Thái Đức, Nga La Tư và Hán hộn tạp pí lù lên thay cho hồn Việt.
Nói một thôi có vẻ mệt, im được chưa tới ba phút cụ bạn đã lại: Này, nhân nói đến anh Hán, anh ta từng là trung tâm tập hợp bạo lực chống Mỹ, rồi là thày toàn diện của Việt Cộng thế nhưng lại thua trò một khoản tối quan trọng đấy.
- ?…
- Khoản dũng cảm yêu nước! Xem đây, bom hơi sức, súng đạn cho Việt Cộng uýnh đến cạn máu me nhưng sau sáu chục năm hơn rồi hắn có mó gì vào Đài Loan vẫn tách riêng ra của hắn đâu!
Tôi đứng đực một lúc với cái sự thật trời đánh này, như cụ bạn đã cho tôi nhòm thấy củ tỉ cộng sản. Ờ nhí, hắn lại chả thiết giải phóng!
Chiều nay, đi quá nhà thờ N. H. một lúc, cụ bạn thình lình dừng lại: Hôm nào ta nói ở cái xứ câm nhân tạo này dù trời sập đất lở thì rồi cũng chì im như cái… rắm xịt.
Im một lát rồi đá vào một cột xi măng bên đường:
- Trông cái cột này, cụ. Sứt mẻ, lở loét, lòi cuội với cọc thép ra. À, tượng đài lịch sử rồi cũng như thế đấy. Trần ai này cái bị vầy vò nhất, phá bậy nhất, vùi lấp nhất và được hương bái quỵ quỳ nhất chính là lịch sử! Kể ngay một thí dụ: ở Hàng Bún Hà Nội, có một bia kỷ niệm vụ quân Pháp giết nhân dân xóm này ngày 17 tháng 12 năm 1946. Bia cũ gạch vữa sơ sài có dòng chữ nhắc lại vụ sát hại. Dành cho dân thường thôi mà. Nhưng ở bia mới làm bằng hoa cương sang trọng thì khắc nối thêm hình búa liềm vào. Dành cho đảng ạ. Xí không còn sót thứ gì!
- Đầu chiến tranh với Pháp, lính Liên khu I có quá lắm ba cha cộng sản và mười chàng Việt Minh thế nhưng nay tại nhà lưu niệm ban chỉ huy trung đoàn người ta cũng bệ búa liềm lên. Xoá luôn danh phận cả nghìn người không cộng sản.
- Mà đâu ra búa liềm dạo đó? Ngày ấy chơi khăm Việt Cộng, sinh viên ủng hộ Việt Nam Quốc Dân Đảng, thì chính tôi chứ ai, đem treo cờ búa liềm lên đều bị bắt cơ mà. Vặn tôi nó giải tán rồi sao còn bệ nó ra? - “Tôi nhớ nó”. - “Nhớ hay xỏ lá phá hoại nó?” Ấy, cộng sản lại bắt đứa treo cờ búa liềm, vâng, bá láp thế đấy ạ. Bởi lúc ấy đã xảy ra một sự kiện kinh hoàng với cộng sản mà nay chả mấy ai biết, kể cả nhiều người lớn tuổi: ấy là đảng vừa ở trong bóng tối nhảy ra hưởng ánh sáng tự do và cầm quyền thiếu tám ngày đầy ba tháng thì ngày 11 tháng 11 năm 1945 đã phải “giải tán”, tự xoá số hộ tịch, giấu biến cờ quạt, chui lại vào bóng tối, vâng, biết dân ghét cộng tam vô, tay sai Đệ tam Quốc tế ạ. Ngày ấy chỉ thấy cờ Quốc Dân Đảng, cấm thấy búa liềm, giấu đi như thời thoái trào ấy mà. Ngày ấy cả khu vực Hàng Bún, cửa Bắc, cho tới chợ Đồng Xuân quành xuống Hàng Đào, Hàng Gai quay ngược trở lên, số lượng đảng viên cộng sản đếm chưa hết phần tư cái móng ngón tay út.
- Thế sao 1945-46 lại chưa dám nhận làm bố dân?
- Vì… mới nắm quyền.
- Cóc phải! Vì ngày… ấy… đa… đảng!
- … A, thảo nào ngày ấy ông Hồ mới nói “Hồ Chí Minh chết thì chết chứ không bán nước” ở ban công Nhà hát lớn! Đã có một bộ phận dân nghĩ như thế thật thì mới phải công khai phủ nhận trước dân và thế giới khả năng bán nước hay tư cách Việt gian chứ. Bữa ấy tôi đứng cách có bốn năm bước ở sau lưng ông Hồ, Cụ Huỳnh Thúc Kháng và Võ Nguyên Giáp. Trèo tường hông bên trái vào. Cùng Hải Rỗ Bát Đàn. Chính quyền mới mà. Chưa quen canh gác trật tự.
- Lúc ấy dân nghi ông Hồ bán nước không ít đâu. Nhưng nghe tuyên truyền, rất nhiều người vẫn ngây thơ tin rằng Hồ Chí Minh đã cho Pháp vào để đuổi Tàu Tưởng đi. Bịa, bịa. Pháp vào Đông Dương thay thế Trung Quốc là việc hai nước cùng phe Đồng Minh thương lượng với nhau, chả phải hỏi han gì ông Hồ. Ông Hồ không thích cũng phải chịu. Không chịu thì họ bứng ông đi luôn! Nên biết “Hoa quân nhập Việt” quân Tưởng vào còn là để “diệt cộng cầm Hồ”, diệt cộng bắt Hồ Chí Minh. Cho nên Cụ Hồ mới phải thề chứ, lúc ấy đảng kiềng dân thật. Không kiềng có mà dân a lê hấp đá đi cho Việt Quốc, Việt Cách lên. Chính quyền không một xu, hạt thóc, hỏi ai nuôi, ai che chở đây? Rồi Pháp trở lại, nguy cơ lớn quá! Vậy phải mọi cách lấy lòng dân. Phải thanh minh không bán nước! Phải giải tán đảng! Hương, một cháu gái đã giải thích: “Thời chú, đất nước còn gần”. Câu nói quá sâu sắc! Nghĩ chợt thấy ờ, đúng vậy, ngày ấy đất nước gần vì đảng cần dân đổ máu để giữ lấy cho đảng cái chỗ sau này đảng sẽ cầm quyền và thực hành món chuyên chính thẹo lệnh hai cha mũi lõ; còn nay đất nước ở đẩu đầu đâu ấy, của ai đó mất rồi, sờ mò mãi chẳng thấy. Phải nói hôm ấy nghe Hồ Chí Minh nói chết thì chết chứ không bán nước, tôi chạnh thương vì thấy ông ấy như đang thưa thốt với các đấng sinh thành là dân, tôi nghĩ khi đứa con kém mọn đã dám đưa hẳn hai ngả bán nước hay là chết ra để tự thanh minh thì khó có thể phản lại bố mẹ.
- Mẹo agit-prop - tuyên truyền kích động - của đại học Đông Phương. Vì nó mà dân ta rút đầu ra khỏi cái thòng lọng thực dân để rúc vào cái cổ dề chuyên chính và toàn dân thì chỉ ba năm sau đã quay ra làm con của Cha già chung. Vấn đề bây giờ là làm sao cho mặt nạ rụng. Mà việc này chả khó. Chính chúng ta là phù thuỷ úm ba la cho rụng mặt nạ. Hay mở nắp bô!
Tôi nhìn cụ bạn, thấy hơi quái dị.
- Ừ, cứ xếp hai ba hiện tượng cùng phạm trù vào cạnh nhau là tự nó nổ đoành ra một phát sự thật có sức làm kênh nắp bô đi cho tới khi bật ra hẳn.
Cười khà khà nhìn tôi: Nào, thử nhá, hãy mò vào chiến thắng 1975 của Việt Nam và thất bại ở Bức Tường Berlin năm 1989, hai cực trái nghịch của phe cộng. Ờ, thấy sao? Thấy phe cộng mới hơn ba chục năm đã bước vào thế bĩ, đánh lộn nhau, để thoát khỏi vai phó tướng được nguyên tắc tập trung dân chủ áp đặt, “gió Đông” đã cho nổi binh đao để chọi lại Bức Tường ô Nhục “gió Tây” dựng lên, để nện ngay chính Mỹ là kẻ Xô cộng đang muốn hoà hoãn. À, chúng mày ngồi vườn hoa bàn chuyện miễn chiến thì ông ị cho một bãi tại nhân tiền thối hoắc, ừ, ông sẽ làm cho máu chảy xương tan thật rồi khi Mỹ bắt đầu oải thì ông đòi phải bàn bạc tay đôi với ông. Lúc ấy, lắm người tin Mao, ngỡ cái khẩu lệnh Mao nêu ra - đánh Mỹ để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa, mà muốn đánh Mỹ thì phải đánh Liên Xô - là chính danh cách mạng hảo hán can tràng nên đã hăng hái nghe Mao nổ súng. Để tới năm 1972 Nixon gặp Mao thì Liên Xô và phe cộng chìm nghỉm. Mao thực tế đã góp sức cùng Mỹ hạ phe cộng, đúng không? À, quá đúng. Nhưng vết rạn nút, vâng, mới là vết rạn thôi xảy ra sớm nhất, xảy ra công khai trong phe cộng là ở đâu? Cứ xem Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vừa ra đời thì quạng ngay quả đấm đối ngoại phũ phàng đầu tiên vào đâu là rõ ngay tâp lự. Vâng, quạng vào chính Việt Nam. Đó, đòi Biển Đông và các quần đào Hoàng Sa, Trường Sa. Kỳ dị chưa, ơ hơ hơ! Nhưng còn chỗ này kỳ quái hơn nữa cơ: là cả phe cộng, nhất là Việt Cộng, đều coi Trung Cộng nhận vơ lãnh thổ Việt Nam là chính đáng, là chân lý, là phải nên không phản đối, còn Mỹ loã loà mới đích thị thằng xâm lược Việt Nam. Cái nhìn cộng sản kinh dị chưa?
- Bởi theo nó thì bốn phương vô sản đều là anh em… “vô tổ quốc” như thế!
- Rất hay! Hồi đánh Mỹ, Lê Duẩn nói chúng ta cần hiểu lự lực cánh sinh ở cả cái nghĩa chỉ để một mình Việt Nam đổ máu chứ Việt Nam phải có nghĩa vụ bảo vệ cho đại hậu phương yên bình. Lê Lai liều mình cửu chúa thế đấy!
- Đời ác ôn thật! Giá như 1960 Đặng Tiểu Bình hạ béng nó Mao đi để đại trị với cách nhìn “một quốc gia hai thế độ” thì Sài Gòn sẽ tồn tại vô tội vạ chẳng có Đông Dương loạn li.
Đến đây cụ bạn liếc tôi:
- Úm ba la thêm vào chỗ này nữa nha: cộng sản bảo làm cách mạng cần nhiệt tình, thôi được, cho qua, nhưng tôi hỏi thêm là vậy có cần tri thức hay không? Điên mới bảo rằng không, hầy. Lại hồi tới, nhạy bén thông tin có phải là một bộ phận quan trọng của trí tuệ cách mạng không? Nào, đây, ở Pắc Bó nhờ đám tình báo Mỹ OSS, Cụ Hồ đã kịp thời có thông tin về Nhật đầu hàng, tức là có tri thức để đề ra chủ trương mới. Thế nhưng, éo le thay, chỗ này khó ăn nói với dân đây, vâng, éo le đến nực cười chỗ này, chờ cho khởi nghĩa Hà Nội thành công đã ba ngày, long trồi lở đất cả lên rồi thì đầu não cách mạng mới ngã ngửa ra. Vì tình báo OSS Mỹ thôi ốp ở bên, chả còn ai thông luồng trí tuệ cho nữa! Vậy thì có thể suy ra là năm 1949 Việt Cộng không biết Chu Ân Lai tuyên bổ về lãnh thổ chủ quyền ở Biển Đông! Không biết điều này nghĩa là gì? Nghĩa là ở giữa Việt Nam và Trung Quốc đã bày ra trận mạc về chủ quyền lãnh thổ, mầm tai hoạ lâu bền nhưng Việt Cộng vẫn bình chân như vại! A, thưa cụ, đến đây lại bật ra câu hỏi tiếp theo: Vậy mù tịt thông tin hay yếu kém bản lĩnh chỉ đạo như thế mả cớ sao Việt Cộng lại cứ đòi độc quyền dắt dẫn dân tộc không chịu hợp tác chung sức với người khác ở trong nước? Tôi bổ sung một điều nữa cho thấy tri thức cách mạng của đảng hạn hẹp. Đó là về công tác tình báo, phe đã phân công cho ta chỉ làm tình báo nội địa còn tin tinh báo quốc tế thì hai ông anh bao sân, cho gì biết nấy. Còn lúc ở trên rừng bọn tôi không biết các chuyện tuyên bố với bản đồ chủ quyền lãnh thổ này thật.
- Có biết đấy. Ngô Mạnh chuyên gia cung cấp thông tin cho Cụ Hồ sau này vào Sài Gòn bảo tôi ngày ấy ông ấy đã có nhắc đến chuyện này, trong bản tin tham khảo đặc biệt in ronéo đưa Cụ Hồ.
Tôi chợt nhớ có lẽ tôi đã đọc tin “Trung cộng tuyên bố chủ quyền biển Đông” bên bếp lửa cho anh em báo Sự Thật. “La RPC procl. Mer de Ch. sa sveraineté”. Đúng cách Ngô Mạnh viết tắt.
- Nhưng hỏi sao Bắc Kinh chiếm Hoàng Sa, Trường Sa mà Mỹ và thế giới lại mặc kệ? Ừ, vì đó là chuyện nội bộ hai anh em nhà cộng, về ai cũng rứa cả, và đặc biệt nữa, Bắc Kinh lúc ấy so với Hà Nội lại hết sức niềm nở, thân thiện với phương Tây. Chính việc Việt Cộng cự tuyệt bắt tay với Mỹ năm 1977 đã tạo thuận lợi cho Bắc Kinh chiếm sáu đảo ở Trường Sa năm 1988! Anh tự trói anh vào cái cột trơ trụi giữa trời thì anh chết với lang sói thôi. Nếu Việt Cộng nhận đề nghị bình thường hoá của Tổng thống Carter thì e Bắc Kinh chưa chắc đã dám chiếm trắng trợn thế.
- Bởi hồi ấy đang cho rằng Mỹ sắp chết đến nơi, có điên mới đưa tay cho nó bíu? Với lại Liên Xô chưa sập nên cà cuống còn cay dược.
- Vâng, chính vì vị anh hùng này có cái gót A-sin (Gót chân Achilles là một câu ngạn ngữ rất nổi tiếng nói về điểm yếu của mỗi con người - BT) Vị cứ phải núp dưới bóng đa Liên Xô, bóng đề Trung Quốc thì mới thi thố được hai món võ độc là múa rá và đâm lê. Nên khi Liên Xô tan thì cà cuống lại vội cuống lên cà lấy Bắc Kinh.
- Thế là cầu xin cưu mang che chở hai lần ở chính cái kẻ tuyên bố công khai chiếm lãnh thổ Việt Nam! Mà lần cầu xin thứ hai là sau khi đã có dũng khí vạch mặt nó trên Hiến pháp là kẻ thù trực tiếp!
- Năm 1980 W. Burchett viết quyển sách theo đó, Phạm Văn Đồng đã giọng “rớm lệ” bảo tác giả rằng ở Hội nghị Genève, Trung Quốc “phản bội chúng tôi hết sức ti tiện”, “họ muốn bỏ ba nước Đông Dương vào túi họ” v.v… Nhưng hình như Đồng đã giấu các giọt lệ này đi với Cụ Hồ và Bộ chính trị?
- ?…
- Có giấu thì Bác với Bộ chính trị mới không sợ ông anh bỏ túi lần nữa để năm 1955 vẫn cho Võ Nguyên Giáp cùng tướng Vi Quốc Thanh vào tận vĩ tuyến 17 nghiên cửu phương án tác chiến mới ở miền Nam rồi sang Bắc Kinh để Bành Đức Hoài xét duyệt chứ.
- Vâng, tới 1956 - 1957, Bắc Kinh nẫng Hoàng Sa thì chính Đồng lại ráo lệ tuyên bố công nhận.
- Nhớ mang máng là hồi 1976 vẫn giải thích Trung Quốc vĩ đại không chỉ là đồng chí, mà còn là ông thày tin cẩn đã nhiệt tình giúp chúng ta để có được hôm nay, thế thì khi nào chúng ta muốn nhận Hoàng Sa về, Trung Quốc sẽ sẵn sàng trao lại.
- Ghê chưa, thế là cho hắn canh ti cổ phân mất rồi!
- Hay thật! Hai trang sử kề nhau mà đảo điên ngay tức khắc. Trang trước, tàu Việt nện làu Maddox Mỹ theo dõi tàu không số chở vũ khí Trung Cộng vào Nam đánh Mỹ và trang kế theo thì tàu Việt bị Hải giám Trung Cộng đuổi chạy re trên chính vùng biển của mình.
- Cuốn Đằng sau tấm màn tre - Trung Quốc, Việt Nam và Thế giới ngoài châu Á (Bchind the Bamboo Curtain: China, Vietnam, and the World beyond Asia) do Priscilla Roberts biên tập, Trung tâm Woodrow Wilson và Đại học Stanford xuất bản 2006 vạch ra chính Lê Duẩn thừa nhận Duẩn biết Mao muốn chiếm Việt Nam nhưng vì lẽ Việt Nam nghèo mà sứ mệnh lịch sử là phải đánh Mỹ nên Duẩn cũng đành tra cả hai tay hai chân vào cái còng viện trợ của đàn anh.
- Nhiều người vẫn tưởng Duẩn chống Mao. Lầm to! Dịp Nghị quyết 9 cuối 1963 nhất biên đảo theo Mao, Duẩn đã tôn Mao lên làm “Lê-nin thời ba dòng thác cách mạng”. Viết thành sách hẳn hoi, Nhà xuất bản Sự Thật đó. Cụ Hồ ba đào vì chuyển biến này. Khi Mao ức hiếp quá Duẩn mới bỏ “Lê-nin thời ba dòng thác” mà quay về Lê-nin oa-la-din.
- Để rồi Nguyễn Văn Linh lại mờ màn hai: ôm lại Anh Hai, y như các nước Đông Nam Á cũng bằng mọi giá quyết diệt cộng nội địa bằng xong. Vùng này nổi rõ hai tấm gương ý hệ kiên cường xin tiết nhau.
Bỗng cụ bạn khẽ huých vào sườn tôi:
- Vấn đề bây giờ là xem có gỡ ra khỏi được hay không? Thằng con tôi ở Hà Nội mua căn hộ trong một chung cư ở quá ô Cầu Giấy. Đầu chung cư xây một bức tường mỹ thuật hoành tráng đề tiếng Anh Landlord (chủ đất - BT) với tên họ thiếp vàng rực rỡ tức người chủ sở hữu công ty bất động sản có toà chung cư này. Nó dần phát hiện ra lúc Cải cách ruộng đất người ta đã bắn hai địa chủ ở cái bãi trống gần chung cư. Cải cách trước thì bắn địa chủ cho thuê ruộng lấy tô, đổi mới nay thì tôn vinh địa chủ cho thuê nhà lấy lợi tức. Mà lúc nào cũng đúng, cũng vĩ đại, cũng đòi dân biết ơn. Đúng là ma quỷ! Thế là con không thể nhìn được bố ạ…, con tôi nó nói. Có lúc con định sẽ bảo ông landlord có tên thiếp vàng kia hãy sửa một lễ mà thưa với hai vị landlords bị công nông liên minh bắn trước kia: “Chúng tôi thấy vết máu oan khiên của các vị trên tấm biển chúng tôi nhưng chúng tôi tin máu của các vị sẽ tìm về được tới đúng bàn tay của kẻ từng gây hoạ cho các vị”. Vẹm (biến âm chữ VM tức Việt Minh - BT) là ai, thưa bố? Chính là chủ sới bạc còn đất nước chính là con thò lò bị họ búng cho quay tít, bõ ơi. Nay giết tư sản mai rước tư sản lên. Thê thảm. Hàng chục năm rồi cứ tháng 5 Bắc Kinh lại cấm đánh cá hẳn một quý ở biển Việt Nam thì đáp lại sao? Nịnh rất bợm! Trung Cộng họp đại hội đề ra ba chữ Tam Nông, Việt Cộng bệ luôn tam nông vào nghị quyết mình tức thì. Còn nữa. Giữa lúc dân Việt sôi lên phản đối cho Trung Quốc khai thác bốc-xít thì Bắc Kinh cử Lý Nguyên Triều, Trưởng ban tổ chức Đảng cộng sản Trung Quốc sang ký kết giúp đào tạo cán bộ cao cấp Việt Nam, hay nói cách khác mở lại trường đảng cao cấp hay khoa sản từng đỡ cho ra đời bao nhiêu lứa lãnh đạo của Việt Nam và Việt Cộng. Ký là bảo rằng em xin rúc đầu sâu hơn nữa vào hom Hoa hoá đây ạ! Vâng, chính thế. Năm 2008, Hồ Cẩm Đào và Lý Trường Xuân, trùm ý thức hệ và Lưu Văn Sơn phụ trách tuyên truyền đã mở phong trào “Hoa hoá, hiện đại hoá và toàn dân hoá chủ nghĩa Mác”, thế mà cứ ký đại! Cụ biết không? Mỗi lần ra Hà Nội, đến ngã tư Hàng Bài -Tràng Tiền rồi Hilton Opera tôi lại giơ tay chào kiểu nhà binh rồi nói: “Chủ nghĩa tư bản, cảm ơn mi thắng vẻ vang cộng sản. Thì đấy mi xâm lăng đất nước nó, làm biến đổi đất nước nó, lại còn cài cả mầm mống của mi vào đất nước nó nữa kia”. Tại sao chào lối nhà binh? À, là tôi thay mặt anh con cả tôi, đại tá công binh “nguỵ” chết ở trại cải tạo Lào Cai. Có điều cụ ơi, gần đây tôi nhìn nước ta sao cứ giống hệt một cỗ xe cút kít, xe một bánh hai cảng, tức xe bù-ệch (brouette tiếng Pháp - BT) ấy, do một người đẩy và lái, thùng xe chính là thằng dân nằm duỗi thẳng cẳng ra đó để chủ nó, một cha vai u thịt bắp võ biền nhưng mồm lem lém lý thuyết nó lèn chất đú các thứ rác rười vào mình. Xe lăn đi nghiêng ngửa, loạng choạng còn người đẩy, tức là chủ xe thì dần cứ lún chân xuống, không cất bước lên được nữa. Nó sa lầy. Sức nặng khiến nó sa lầy là gì? Là chính những bao tải tiền nó lột của dân rồi quàng lên cổ, quẩn quanh mình và nó ngã gục vì núi tiền bẩn đó. Cuối cùng cái thùng xe cút kít bật dựng đứng lên thành người.
Tôi thở dài. Con thò lò bị búng quay tít, lũ chủ sới bạc, cỗ xe cút kít bật dậy thành người.
Có lẽ thấy tôi âu sầu, cụ bạn khẽ huých tôi và nói tiếp:
- Có chuyện này để dành giờ mới nói… Sáng nay tôi có việc đi buýt lên Thị Nghè. Buýt (xe bus - BT) đỗ, tôi xuống hơi chúi người, mấy người xe ôm đứng đó đỡ tôi. Tôi cảm ơn rồi chả hiểu sao lại phét lác: “Mình còn khá lắm. Sĩ quan Dù ngày xưa mà lại”. Cụ biết sao không? Mấy người tự nhiên hớn hở, tiến sát đến trước mặt, cười toác, như gặp người nhà vắng bóng lâu. “Good!” - một anh nói. Một anh nắm tay: “Bố mới bển về à? Bố đi đâu con xin chở đãi bố một cuốc”. Một anh giơ ngón lay cái lên: “Dư Quốc Đống! Bển (Mỹ) về thì bố lại được lĩnh lương thôi!”. Thì ra trong lòng người ta vẫn cứ sống động nguyên vẹn cả một thời óng ánh nào. Tôi rất cảm động. Nghĩ mãi mới nhớ ra Dư Quốc Đống là tư lệnh sư đoàn Dù thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà.
Im lặng rồi nói tiếp: Này, sau đó tôi tự hỏi sao những người kia, những người đang sống rất cực nhọc kia lại trung thành với một chế độ đã sụp đổ, cái có thể coi như đã phản bội họ đau đớn như thế. Trong khi những người từng đánh đổ Chế độ Cộng hoà Sài Gòn thì nay đầy bất bình mà chửi thầm cái hệ thống rút cục đem lại cho họ phẫn uất hay vô cảm. Chẳng phải Trần Độ đã ân hận đánh đổ một chế độ mà té ra nó lại tốt hơn cái chế độ ông ấy tiếp tay xây dựng lên đấy ư?
Đảo chiều được là nhờ dân đã thấy Việt Cộng chỉ là đứa em cúc cung phục vụ Trung Cộng. Nội dung phục vụ ông anh có một phân thế này: vâng, làm miu em giấu hộ cứt cho mèo anh. Đúng, một thời gian dằng dặc hắn ỉa đầy ra ở Hoàng Sa, Trường Sa mà dân ta có thấy qua một tẹo mùi gì đâu. Vâng, đảng vùi cứt mèo anh kỹ lắm. Trọng Lú còn bảo Biển Đông là bình yên vô sự.
Tôi tặc tặc lưỡi. Giấu hộ cứt cho mèo anh, ôi, lão này kinh thật. Đúng, báo chí toàn chửi Mỹ mà chả dám ho he một lời về Bắc Kinh! Nhờ báo Nhân Dân, Trung Cộng hiện ra trong sáng, mẫu mực, ngược lại với Mỹ xấu xa, mưu đồ.
Thì cụ bạn đã lại nói: Kể lại các bãi vùi từ thời Cự Hồ nha. Ở đây, có lên án Chu Ân Lai đem Việt Nam hối lộ cho Pháp ở Genève không? Có lên án Cách mạng Văn hoá không? Có lên án Bát Nhất bắn giết ở sáu tỉnh biên giới Bắc không? Tạm kể vậy. Thêm một tí hố vùi hộ mèo anh bĩnh ở bên ngoài. Khối đấy. Nepal có hai Đảng cộng sản Nepal ML và Đảng cộng sản thống nhất Nepal M, nhưng đưa tin về họ, báo Nhân Dân chỉ chú thích mỗi ML là Mác-Lê còn M kia thì lờ. Sao thế? Dạ, M là Mao-ít nên phải giấu kẻo bị ông anh cho là móc máy. Hay sau bạo loạn Tân Cương, Trung Quốc cách chức bí thư Thành uỷ Urumqi, báo Nhân Dân đưa đầu đề là thay, chữ cách chức chỉ hé ra tí tẹo ở trong bài. Với dân Việt mà cũng tinh tế hộ cho một tí tẹo như thế nhỉ?
Mưa dầm thấm lâu, dần người dân đã nhận ra cái điều ghê gớm sau: Viên đạn Bát Nhất làm đổ máu Việt ở Hoàng Sa, ở biên giới Bắc rồi tây nam chính là thằng anh cùng cha cùng mẹ với thằng em nó hiện đang nằm ở trong nòng súng Việt Cộng.
Đàn áp dân phản đối Trung Cộng cưỡng đoạt lãnh thổ, Đảng ngỡ đã giam giữ và khống chế được cơn lũ yêu nước của dân. Nhưng hậu quả lại hoá ra là tức nước vỡ đập. Nhưng ai hay qua đó, ít nhất cho tới năm 2010 này, dân bắt đầu nhận ra Trung Cộng xúc phạm đến lợi ích Việt Nam, Việt Cộng vẫn lặng lẽ đồng âm tín. Xem đây, ở Hoàng Sa, Trường Sa, một bên huỷ hoại thể xác Việt, một bên chôn vùi tinh anh Việt vào im lặng. Trong cuộc biểu tình chống Trang Quốc ở Hà Nội hồi tháng 6, dân đã giương cao tên các quân nhân Sài Gòn hy sinh năm 1974 ở Hoàng Sa và gọi là liệt sĩ, anh hùng, đón nhận vào lòng mình người lính Sài Gòn! Một hạm trưởng Sài Gòn hy sinh lại tên là Nguỵ Văn Thà! Vâng, Thà Như Nguỵ. Thà như nguỵ dám đánh kẻ xâm lược. Giương ảnh nêu tên các “chiến sĩ Cộng Hoà” lên chính là người Bắc u-mê-theo-cộng hắt đầu chuộc lỗi lầm từng u mê thù ghét, bắn giết những tâm lòng yêu-nước-phủ-nhận-cộng. Bắt đầu nhận thấy xưa đi giết anh chị em Cộng Hoà không có hề vì “độc lập dân tộc” mà là để mở rộng bờ cõi cho Trung Cộng, Xô Cộng, để lấy đất cho cái chủ nghĩa được coi làm báu vật “bảo đảm cho độc lập dân tộc”. Bản thân tôi một đời bốn lần chống, chống Pháp, chống Mỹ, chống Tàu rồi chống Cộng. Chống cộng ngay từ lúc nó ló mặt thì không chừng đỡ phải chống ba thằng kia!
- Này, như điềm báo trước ấy nhỉ. Sau Thà Như Nguỵ thì đến Đoàn Văn Vươn. Vươn thành Đoàn thành hàng ngũ rồi kìa. Tôi vẫn tin một vĩ nhân có tài biến đổi có tên Đại Lưu Manh… hay thằng Thời Đại.
- Đại gì, đại… đại nào? Cái gì?
Tôi tủm tìm cười khất mai nói, biết lão này đêm nay khó ngủ. Mai tôi sẽ bảo lão cái ANH trong câu “bao giờ em bén cái duyên anh” ở bài hát Đèn Cù kia chính là thằng Đại Lưu Manh hay thằng Thời Đại, hắn sẽ lôi cổ mọi kẻ cầm quyền ngang bướng với nó mà bắt đổ lướt đi chẳng khác nào cỏ rác như Phan chu Trinh nói.
***
Đêm đó, tôi đọc tờ giấy to cụ bạn đưa hồi chiều. Một ngày tin của Mạng Hữu nghị Hoàn Cầu. Phải nói không thể ngờ.
Chúng ta phải hành động thôi. Cái đồ Việt Nam coi hễ ai có sữa thì là mẹ này. Hễ ai có sữa cho thì gọi là mẹ. Không mạnh tay thì có lỗi với những anh em đã hi sinh trong chiến tranh tự vệ.
Đã đến lúc hành động rồi, mạnh mẽ kêu gọi lập tức giành lại Nam Sa.
Đất nước không thể mất những hòn đảo này, đó là cả núi vàng lấp lánh đấy. Đi bảo vệ Nam Hải đi. Bọn ta đi bảo vệ thì Giao Chỉ sợ một phép không dám xâm nhập nữa.
Nếu Việt Nam còn sinh sự, dẹp gọn luôn, biến làm một tỉnh của Trung Quốc.
Tối nay đến sông Bắc Luân cho tụi nó một trận. Nếu cứ như thế này, Nam Sa hết hi vọng thu hồi.
Xin mời, năm 79 đã nếm mùi, bây giờ làm trò ai mà sợ ai? Đừng nghĩ rằng Mỹ sẽ giúp tụi mày, cho những con khỉ này biến khỏi trái đất.
Chả lẽ đất ta nhiều quá, khống cần Nam Sa nửa hả?
Hãy cho những con khỉ này biến khỏi trái đất đi.
Nhịn nhịn nhịn, nhịn hết nổi rồi, chả lẽ cỡ Việt Nam cũng hoa tay múa chân được, ta không động đến được Mỹ, nhưng đến Việt Nam cũng không đụng nổi ư?
Đừng nói quần đảo Nam Sa, cả Việt Nam cũng là lãnh thổ Trung Quốc, không nhớ là Từ Hy Thái Hậu, gọi Việt Nam là An Nam sao?
Muốn chết đây, đừng xem Trung Quốc nhịn là yếu đuối! Xem tụi mày được mấy nâ?
Loại sài lang mắt trắng dã, quên ai cho chúng mày cơm ăn, đạp bằng Việt Nam đi.
Ha ha…, đến lúc dạy cho Việt Nam một bài học rồi, luôn tiện cảnh cáo mấy nước tốt hỉn đang còn chiếm giữ đảo của Trung Quốc.
Việt Nam bé tí mà dám ngông cuồng như vậy. Đã đến lúc đánh rồi! Trẻ con không nghe lời thì phải đánh đòn thôi.
Bây giờ đảo của ta một thùng dầu, thì rồi sẽ trả ta một thùng máu. Đồ ngu muốn chết đấy!
Con mẹ nó, nước tiểu nhân, trại tập trung, Việt Nam đây. (Ma đích, tiểu nhân quốc, tập trung doanh, Việt Nam).
Khuất phục Việt Nam thì Nam Sa yên ổn. Khuất phục Việt Nam chỉ bằng thép và máu, không còn cách nào khác.
Ngay đến ranh con (Việt Nam) cũng dám ăn hiếp chúng ta, hãy nhiệt liệt kêu gọi đánh đuổi kẻ xâm lược Việt Nam, bảo vệ Nam Sa của chúng ta.
Bài học chúng ta dạy cho “Việt bá” - kẻ vong ơn bội nghĩa 30 năm trước vẫn còn trước mắt. Hôm nay - 30 năm sau - tiểu Việt bá lại đang chiếm đóng mấy chục hòn đảo và hát vang tuyên bố chủ quyền, làm sao có thể nhẫn nhịn được! Đường đường một nước Trung Hoa, trường thành gang thép lẽ nào không giữ được vùng biển bao la của đất nước?
Việt Nam chẳng có chút tín nghĩa nào. Đừng tin Việt Nam.
Nếu Việt Nam xâm phạm Nam Sa, Trung Quốc xuất quân chiếm Hà Nội!
Quân đội chúng ta đâu? Nên thanh toán đi thôi! Bọn đồ chó Việt Nam.
Xin thử xem xưa nay trên thế giới đã có ai khinh miệt dân Việt chúng ta bằng mười sáu chữ vàng chưa?
Anh ôm giấc mộng vĩ đại giải phóng loài người mà anh không giải phóng nổi anh ra khỏi cái danh hiệu Trung Quốc Bọn đồ chó Việt Naml Anh nói quý độc lập tự do mà thin thít nghe những câu chửi sặc giọng côn đò như thể sao?
Cái đồ Việt Nam coi hễ ai có sữa thì là mẹ này… Hễ ai có sữa cho thì gọi là mẹ. Đau thật Có cái đút vào là miệng xưng con hết. Ôi, chân dung trung thực con cháu ông Anh tặng.
Quãng những năm 1987-89, Văn học Xồ viết đăng truyện ngắn Cây tre của một nhà văn hình như người Litva Liên Xô kể chuyện ông nhặt một mẩu tre cụt vì bom Mỹ ở tận Nghệ Tĩnh quê Bác đem về nước. Rồi nhà văn kinh hoàng chứng kiến sức sinh sôi hãi hùng của tre. Tre ăn trụi hết - tủ lạnh, ti vi, thảm len, thảm hoá chất, ô tô… - và cứ thế nó man rợ bành trướng thành rừng khắp phố nọ phường kia, có cơ tre hoá hết mất thành quả Cách mạng Tháng Mười. Công binh phá mìn, xe tăng ủi… Vô ích. Nhà văn nghĩ khéo phải giở vũ khí nguyên tử ra “chinh phục” tre ma quái này.
Quốc tế vô sản mà cứ ăn bám mãi thì người ta cũng bỉ.
Học Câu Tiễn, đề nghị từ nay ở nhà các vị uỷ viên trung ương nên ngày đêm mở đĩa nhạc ngâm đoạn thơ Hoa trên đá của Chế Lan Viên.
“Sinh thời nào chúng bịp theo thời ấy, Thời hố thật chứng bày trò hổ giấy. Giả cách mạng, giả anh em, giả mặt trời hòng. Thối hoắc gió Tây rồi còn giở giọng gió Đông, Quỳ gối cho đế quốc cưỡi từ lâu rồi còn đóng kịch, Pháo Bắc Kinh thay vào bom Mỹ. Hôm qua bạn bè nay thành đao phủ, vẫn hát Quốc tế ca và dương cờ đỏ. Lũ “thái thú” tân trang bằng một ngọn cờ hồng”.
***
Chung quy có lẽ do thiếu một thứ mà sáng 13 tháng 6 năm 1990, tôi đã nói với Lê Kim Phùng, cục trưởng A25 và sáu bảy quan chức an ninh: trí tuệ. Thiếu trí tuệ nên mới cứ đem miếng cao 16 chữ vàng dán đắp lên các vết thương tong tỏng máu trên mình đất nước rồi nguyện dù gì xảy ra ở Biển Đông (ngụ ý mất cả Biển Đông) cũng không làm phai được tình hai anh em cộng sản. Thiếu trí tuệ nên mới dám khinh dân, lừa dân, đàn áp dân. Mới không biết điều sơ đẳng này: Nước có thể chở thuyền, lật thuyền. Và thuyền thì hiện đang tránh dữ.
Chắc Nguyễn Chí Hùng, cựu trưởng phòng chính trị sở công an Hà Nội dự hôm đó vẫn nhớ. (Cuối 2011, con rể Hoàng Minh Chính gặp Hùng ở Hà Nội đã bấm điện thoại để Hùng chào thăm tôi). Chắc nhớ cả cái ý tôi nói năm 1991-92 với anh ở nhà tôi rằng Đảng nên chọn Tổng bí thư ở trong toàn dân, nếu chưa là đảng viên mà dân bàu thì lúc ấy cho anh ta vào đảng cũng có sao? Thời bí mật dân dành bát cháo củ khoai cho là cứu cái mạng sống cá nhân của đảng viên. Nay dân bàu người cầm quyền là cứu cái hồn đất nước.
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 3:56:09 GMT 9
“Đồng Quê”, tác phẩm của Phi Vân www.caidinh.com/Ăn cơm mới, nói chuyện cũ
...Ở đồng quê, thế mà lắm chuyện (Phi Vân) “Đồng Quê”, tác phẩm của Phi Vân (1) gồm 2 phần: 12 bài phóng sự ngắn và phóng sự tiểu thuyết “Dưới đồng sâu”.
Tác phẩm được giải nhứt cuộc thi văn chương của Hội Khuyến Học Cần Thơ năm 1943. (2). Lúc đó, Phi Vân 26 tuổi. Tuy chỉ là giải thưởng của một địa phương, một khu vực, nhưng ảnh hưởng và giá trị của tác phẩm đã vượt khỏi không gian và thời gian. Sức thu hút lạ kỳ của tác phẩm chính là ở chỗ, từ những ghi chép, có thật, sống thật ở một vùng tận cùng phía nam tổ quốc: Cà Mau – Bạc Liêu những năm đầu thế kỷ 20 mà trong toàn thiên phóng sự, có lần đề cập đến một câu chuyện vào “năm một ngàn chín trăm ba mươi ba”.
Cho nên ăn cơm mới, nói chuyện cũ là vậy. Nhất là đang ở hải ngoại gần mười năm đầu của thiên niên kỷ thứ ba mà nhắc lại Đồng Quê của Phi Vân, giống như “đem chuyện trăm năm trở lại bàn”, không biết có cổ lổ sĩ quá không?
Nhưng đọc trong Đồng Quê, có câu Phi Vân viết: “Đó là...ai kìa, chớ tôi, tôi là một kẻ từng lượm mót từ hột ngọc trời, từng cắm từng cọng lúa, có bao giờ tôi đang tay bứt cả cội nguồn.”
Đọc đến mà bàng hoàng, tuy trong tác phẩm, đó chỉ là suy nghĩ của một anh đi câu cá lén.
Như lời tác giả mở đầu thiên phóng sự:
“Đây là những bài báo. Bởi thế cách hành văn cũng như nội dung đều có tính cách “nhật trình”... lối văn gần như cẩu thả... câu chuyện có vẻ nhất thời...
Hình ảnh những nhân vật trong chuyện-những người đã cùng tôi sống chung-ngày nay đã mờ trong ký ức.
Kể lại một quãng đời phải chăng là sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: vẽ một bức tranh phong tục và tập quán”.
Đọc lại Đồng Quê, chúng ta thấy lối văn chơn chất miền Nam của tác giả không “cẩu thả”, trái lại thật gỉản dị và sinh động.
Nói về phong tục, tập quán, trước là nói về sinh hoạt cơ bản của người dân Cà Mau – Bạc Liêu thời đó. Lao động nông nghiệp giữa thiên nhiên khắc nghiệt nhưng họ vẫn không nhụt chí. Họ là ai? Có thể nói là những người tận cùng, dưới đáy xã hội đang mưu sinh trên một vùng đất hẻo lánh, xa xôi của tổ quốc. Họ chấp nhận số phận và đem mồ hôi lao động đổi lấy miếng cơm. Họ vẫn có những rung động của con người bình thường, biết thương yêu, biết cảm xúc trước thiên nhiên, ấp ủ những ước mơ, mà từ đó, đã góp phần tiếp nối hình thành dòng văn học dân gian Nam bộ, dòng văn học văn minh sông nước qua các điệu hò, câu hát. André Gide có “ Symphonie pastorale” thi Phi Vân cũng có “Khúc nhạc đồng quê”:
“Tôi chồm ra ngoài nhìn cảnh vắng. Bên vàm, hàng dừa nước âm-u lâu lâu thấy le-lói một ánh đèn; bên bờ kia thỉnh-thoảng nghe tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm. Đêm nay chỉ có vành trăng hai mươi, nhưng sao đầy trời góp ánh sáng lại làm cho cảnh vật thêm ảo-huyền thơ mộng.” (Tiếng hò trong đêm vắng)
Cuộc sống trên sông nước, gắn bó với thiên nhiên ruộng đồng là nền tảng sinh hoạt của cư dân Cà Mau. Cảm xúc trong sáng, dịu dàng trong nỗi vỗ về an ủi của thiên nhiên đã giúp họ quên đi lao công khổ trí:
“Thả câu xong, tôi nằm trên sạp, chờ tới giác đi thăm cá.
Đêm ấy không trăng. Muôn ngàn con mắt long lanh trên nền trời đen thẫm. Cánh đồng lặng ngủ trong ánh sáng mờ-mờ. Gió thoảng từng hồi, từng hồi ngọn lúa cựa mình xào-xạc. Tiếng giạt-sành vang lên trong im lặng xa-xa. Tôi cảm thấy bồi hồi tưởng nhớ đâu đâu, rồi nhẹ-nhàng, rồi khoan khoái, tôi rung đùi ca.” (Dưới đồng sâu).
Hãy quên đi ánh sáng đèn điện, các phương tiện giao thông như xe đạp, xe gắn máy, xe hơi và những xa lộ cao tốc... Quên hết đi các phương tiện văn minh vật chất hiện đang vây phủ quanh ta để đọc Đồng Quê. Họa hoằn lắm trong hôn lễ, trong giỗ quải kéo dần đến đêm hôm, mới có “đèn tọa đăng” hay “đèn măng-sông”, còn không thì chỉ bó lá dừa khô làm đuốc. Đi lại giữa các vùng sông rạch, xẻo, trấp... từ nhà ra ruộng, thăm đồng chủ yếu là... đi bộ, chèo ghe, chống xuồng. Đó là hình ảnh sinh hoạt của nông dân Cà Mau trong phóng sự của Phi Vân. Nhưng không vì thế mà sinh hoạt của họ trở nên bùn lầy nườc đọng, khi họ đã chấp nhận sống chết trên vùng đất đã phải chọn để mưu sinh. Không đi sâu vào cuộc sống của họ, không sống và lớn lên nơi đó, khó mà thấu hiểu được tình cảnh và tâm hồn của họ:
“Năm nay ở sân ông Chủ nhộn-nhịp lắm. Tá điền đập lúa ngày lẫn đêm. Ban đêm, nhứt là những đêm trăng tỏ, không thiếu mặt người nào ở sân lúa. Làm việc dưới ánh trăng đã ít nhọc lại không tốn đèn đuốc...
Trong những lúc ấy, họ nói chuyện tiếu lâm, chuyện ma, chuyện quỷ, chuyện đời.
Lúc nghỉ, họ lại tổ chức nhiều cuộc vui thú vị như là nhảy chan-chán, trốn kiếm, u, cút bắt, nhảy dây, thí võ...
Những trò ấy không phải chỉ dành riêng cho trẻ nhỏ mà cả đàn ông, đàn bà cũng nhào vô chơi”
Đêm ấy trời trăng sáng như ban ngày.” (Dưới đồng sâu)
Làng Thới Bình có lẽ là hình ảnh tiêu biểu nhất trong tác phẩm Đồng Quê, hình ảnh của đời sống mang tính đặc thù của Cà Mau thời đó. Vẻ thanh bình, thanh thản từ cuộc sống vật chất đến nội tâm của người dân chân lấm tay bùn sau những lo toan của đời thường, được miêu tả trong tác phẩm, dù đã hơn nửa thế kỷ qua, gợi nhớ trong lòng người đọc quê hương bên kia bờ Thái Bình về một dòng sông, một hàng dừa nước, rạch bần, ngọn mù u nơi quê cũ...
“Làng Thới Bình nép mình trong chòm dừa xanh rậm. Vài xóm nhà lá leo-heo ở dọc theo bờ kinh nhỏ, yên tỉnh với tháng ngày.
Cứ mỗi buổi sáng là đàn ông, đàn bà lẩn cả con nít vác cuốc ra đồng, quanh năm làm bạn với mấy mẫu ruộng nhà, vài công rẫy khóm.
Ở đầu kinh thông ra dòng sông Trẹm, một cái chợ nho nhỏ nổi lên. Hai bên, hai dãy phố ngói đứng sùm-sụp chịu đựng với nắng mưa như xiêu vẹo.
Đấy là nơi chứa đựng một phần dân chúng trong buổi sáng, đây là nơi người ta tìm những thức ăn, vật dùng.
Cứ độ hai ngày, con tàu Rạch-Giá ghé ngang, đem lại nhiều hàng hóa ở thị thành.
Mỗi lần tàu xúp-lê đàng xa, là thiên hạ nhao nhao ra đón, chen lấn ồn ào. Rồi mỗi khi tàu đi, chợ tan, làng Thới Bình yên tĩnh trở lại.
Dòng sông Trẹm lững-lờ trôi ngang và ban chiều, trong chòm dừa xanh ấy, mấy làn khói trắng bốc lên.
Người đàn bà xong việc bếp núc, ẵm con ra đợi chồng về, lâu lâu đuổi bầy gà đang bươi trên giồng rau cải.” (Quỷ vương)
Rời làng Thới Bình, tác giả dẫn người đọc “lội” vào các vùng sông nước chằng chịt, nào là: Rạch Ruộng, Rạch Ráng, Rạch Cui, Rạch Bần... nào là Tắc Ông Do, Vàm sông Mang Giỗ, sông Bãi Háp, Mương Chệc Kịch, Tham Trơi, Dớn, Năm Căn... Mới thấy vốn sống thực tế của nhà văn, nhà báo Phi Vân!
– Hò hơ... ớ người không quen ơi,
Nghe anh, em cũng muốn thương nhiều,
Nhưng hoa đà có chủ, khó chiều dạ anh...
-Hò hơ... chim kia còn thỏ thẻ trên cành,
Nghe em nói vậy, dạ không đành rẽ phân...
Buổi ban đầu, văn học miền Nam hình thành từ những giọng hò, điệu hát gắn liền với sông nước gió trăng. Cho nên trong Đồng Quê, tiếng hò cũng góp mặt trong phóng sự.
Cất một giọng hò và chờ đối đáp với niềm vui “điệu nghệ gặp nhau là mầy tao quấn quýt”. Có khi là điệu hò nên duyên nên nghĩa, có khi là điệu hò của khách thương hồ theo cuộc tình gió thoảng mây bay, hoặc bịn rịn hẹn ngày tao ngộ. Nhưng trong phóng sự ngắn “Tiếng hò trong đêm vắng”, tiếng hò đã dẫn tới một bi hài kịch, tiếng hò mồi chài cho một vụ cướp trên sông:
“Tôi hình dung một cô thôn nữ mày liễu, má đào, có vóc mình thon thon, có bộ tịch khả ái...
...Bỗng anh chèo đang ngồi nghỉ tay, giật mình đứng phắt dậy. Trong chớp nhoáng, anh bị một tên lực lưỡng thộp ngực anh, đưa ngọn dao ngay cần cổ ... Tôi giợm la nhưng một thằng trong bọn “ấn” cho tôi một cùi chỏ vào hông...
Đã thế, tiếng con nhỏ hò còn trêu gan trong mui nhỏ:
Chú bảy coi có con đàn bà nào ở trong mui, đè cổ lột cho tôi sợi dây chuyền!...”
Cho nên “ở đồng quê, thế mà lắm chuyện”.
Chuyện gì?
Đầu tiên là chuyện chữa bịnh. Trái gió, trở trời, cảm mạo hay bất cứ bịnh lạ gì thì đều được coi là mắc bịnh tà. Thậm chí ở nhiều nơi, con sanh ra trùng tuổi mẹ hoặc cha cũng là điềm không tốt. Phải mời thầy pháp, thầy cúng tới làm pháp sự, rồi giả bộ đem đứa bé ra bỏ ở gốc cây, bụi cỏ nào đó, rồi một người trong thân tộc làm bộ lượm được đứa bé bị bỏ rơi đem về và cho lại má nó nuôi... Vậy là hai má con không còn kỵ tuổi nữa mà cháu bé lại dễ nuôi.
Do đó, Cà Mau nói riêng, được coi là đất dụng võ của các loại thầy, mà chỉ riêng ở “Xóm Rạch Cóc” “cóc đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn là Thầy Rùa, Thầy Pháp, Ông Đồng, Bà Cốt, Cô Tư, Cô Hai, Cô Bảy... Ở đây có Xác Ông – tức Quan Công – là được nhiều người rước nhất.
Nhưng muốn cầu Đức Quan Thánh về thì phải tốn một con heo (con gỏi)... sau khi lễ đàn rồi, lẽ cố nhiên là phải về tay Ông Xác.”
Hay có đi “qua Rạch Bà Già Sốc thì phải dè chừng thần rừng quỉ bụi đất Khánh Lâm”.
Rồi thêm Ông Thầy Pháp có “bùa tổ” với “đạo phù thần”, bắt ấn quyết và niệm chú “Ôm mà xơ rốp”...”Mà ha xơ rốp”...
Cả nơi sằn dã quê mùa ở tận cùng Đất Mũi Năm Căn còn có sự hiện diện của “Mét Văn Quang (Maitre Văn Quang) là người có tài: Tài đoán số, tài coi tướng, coi tử vi, mà đặc biệt hơn hết là tài “lẻo mép lanh mồm”.
Bùa chú, phù phép, niệm chú, bắt quyết, trấn ếm... từ các nguồn Tây, Tàu, Miên, Lèo... được thi triển trên vùng đất tân bồi, nơi dân Miên đã từng sống lâu đời, cùng những đoàn lưu dân Việt, Trung hoa ( chủ yếu là Triều Châu, Quảng Đông, Phước Kiến).
Phóng sự Đồng Quê của Phi Vân cho thấy tình trạng tối tăm dốt nát của người dân trong xã hội đương thời, ở một nơi mà địa giới hành chánh còn nhiều thay đổi, tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, chánh trị và quân sự từng giai đoạn.
Và lúc đó, Cà Mau còn là một quận của tỉnh Bạc Liêu.
Cà Mau là xứ quê mùa
Muỗi bằng gà mái, cọp “tùa” bằng trâu. (3)
Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trên rùng cọp um
Bạc Liêu là xứ cơ cầu
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu...
Tưởng cũng nên lược qua chút ít sử liệu về phần đất cực nam tổ quốc này:
“ Cuối thế kỷ 17, Mạc Cửu dẫn một số người Trung Hoa bài Mãn phục Minh đến Hà Tiên, chiêu tập đám lưu dân, lập nên bảy xã dọc theo bờ biển, hai xã ở phía cực Nam là Rạch Giá và Cà Mau...
Năm Gia Long thứ 7 (1808) đổi Cà Mau ra huyện Long Xuyên...
Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), đặt một tri huyện để cai trị...
…Qua thời Pháp thuộc, từ khi Cà Mau thuộc về tỉnh Bạc Liêu, thì thường bổ nhiệm một ông phủ, hoặc một ông đốc phủ sứ làm chủ quận...
...Theo hiệp định Genève, ngày 20.10.54, Cà Mau được chỉ định là vùng “tập kết”. Tai Vàm sông Ông Đốc, tàu Nga (Stavropol), tàu Ba Lan (Kelinski) đậu chực sẵn sàng để chở ra Bắc những người đi tập kết... (Cà Mau là căn cứ địa quan trọng của Cộng sản: nơi ẩn núp của đám lãnh đạo Cộng sản như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt... nơi chôn giấu vũ khí và các cán bộ quân sự không đi tập kết, ở lại miền Nam để tiếp tục gây chiến tranh theo lịnh của Bắc bộ phủ và Cộng sản quốc tế.
Theo sắc lịnh số 143/NV ngày 25.10.55 thời Đệ nhứt Cộng Hòa, Cà Mau đổi tên là An Xuyên.” (4)
Từ sau 30.4.75, Cà Mau thay tên là Minh Hài.
Từ tình trạng dân trí thấp kém của đại đa số tá điền, dẫn đến niềm tin mê muội vào các đấng thần linh, mà họ nghĩ rằng sẽ giúp họ tiêu trừ hết các bịnh tật lẫn giải quyết các vấn dề khác trong cuộc sống. Nhiều người tìm Thầy học bùa chú vì tin rằng khi đạo bùa thành, “ thì nó linh nghiệm vô cùng. Theo lời thầy tôi, nó dùng được đủ cách... Trừ tà, ếm quỷ, trị các nọc độc, giải phá bùa khác, làm mờ mắt kẻ thù, làm thương hóa ghét, làm ghét hóa thương, thù ai có thể làm chết được họ, thương ai có thể làm cho họ mê...tùy theo tay ấn mình bắt, tùy theo ý muốn mình quyết định...”
Kết quả thế nào?
– Thằng Năm và Ông Xác chia nhau con heo cúng cho bịnh nhân, bịnh vẫn hoàn bịnh.
(Châu Xương cử thanh long đao)
“Ái ái, thằng cha thầy chó nầy, sao mầy dám ôm tao? Buông ra không?... Buông!... Guốc nè!... và sau cùng là tiếng thằng Năm... “Úi cha! Con ‘tinh' dữ quá!” (Ông tướng thầy ba)
– Thầy Pháp với lá “bùa Tổ” và đệ tử với “ đạo phù thần” cũng không cứu nổi con gái, không cứu nổi người thương: “Ối trời ơi! Ối quỷ thần ơii ! Quỷ vương đã bắt con tôi đem đi theo rồi.” (Dưới đồng sâu)
– Còn thầy tướng số “Mét Văn Quang”, sau khi bị tổ trác, bị đập một trận nhừ tử, đã “trút linh hồn tại xứ Năm Căn: cái xứ mà ‘mét' đã phụ vào một chút công làm trôi mất tiếng quê mùa.”
Trong cảnh cùng quẫn bị dồn đến chưn tường, cũng có hạng người lang bạt sống hôm nay biết hôm nay, khi thân phận cùng đinh đã đưa đẩy họ đến nơi cùng trời cuối đất. Họ quan niệm:
“Ván bài hễ không chín thì bù, đánh “mẹ” nó một tụ, cho nó ra sao thì ra!
Ở đời không làm được Phật, thì làm ăn cướp chớ có gì lo mậy!...”
Tuy sống trong tình trạng dốt nát quê mùa và mê tín dị đoan, họ vẫn gĩữ được bản chất lương thiện của người nông dân thuần phác “tin chắc có sự linh nghiệm của đạo bùa cũng như người ta tin có sự thưởng phạt của đất trời”.
Hết chuyện chữa bịnh, tới chuyện sinh hoạt giải trí.
Tác giả phóng sự Đồng Quê đã đúc kết phong tục, tập quán sống của người dân Cà Mau thời buổi ấy bằng vài nét chấm phá rất sống động!
“Muốn ăn uống? – Có quán cà-phê!
“ Muốn cúng kiến? – Có Miễu Bà!
“Không muốn sống nữa? – Có ông chủ bán hòm.
Nhưng sống vui vẻ, không phải chỉ ăn mà thôi. Cần phải có những cuộc vui khác: hí trường là một sự tối cần; chứng cớ, mỗi lần hát cho Bà xem, người hàng xóm đều đến xem ngập miễu!...
Miễu Bà ở bên kia sông Quan-Lộ! Mà bên kia sông Quan-Lộ nay là xóm... bến xe đò.”
Cà Mau đã có “Mét Văn Quang” đem chút “văn minh” xuống tới Năm Căn thì bây giờ Cà Mau cũng đã có những chuyến xe đò nối liền Cà Mau tới Bạc Liêu, tới các tỉnh miệt trên, lên tận Mỹ Tho, Saigon... Ông chủ bán hòm nghiễm nhiên làm chức Hội trưởng Hội Miễu Bà… Miễu Bà biến thành hí trường nên ông chủ bán hòm, Hội truởng Hội Miễu Bà, kiêm nhiệm Ông Bầu vì ông lập gánh hát bội. Ông nghĩ:
“Mình muốn ích nước lợi dân, đi hát đâu chi cho xa, mỗi đêm ở đây mỗi hát, vừa... cho Bà xem, vừa cầm chân đám dân “thân yêu”. Tốn bao nhiêu? Một cắt bạc!”
Và áp-phích chữ quôc ngữ được dựng lên:
“Đêm nay chúng tôi viễn tuồn: “Quê dun đạo: Tuồn thiệt là ly kỳ... Dô cửa: Một cắt bạc!”
Theo đà phát triển, gánh hát bội “chỉn đốn” theo cải lương - Ông bầu - ông hội trưởng - ông chủ bán hòm... là người kinh doanh.
Vào “năm một ngàn chín trăm ba mươi ba... Một hôm, cái bảng giấy liễn đỏ, đầy đặc những chữ to to bất chấp chánh tả:
Bổn ban mới tiển được nhiều cô đàu khát. Ngoài cô Tư Bé, Xáu Liệu, Ba Kiêm, còn tất cả 9 đàu. Luôn tiện, xửa rạp lại, chia hạn: Thượn hạn:5 cắt, hạn nhứt: 3 cắt, hạn nhì: 2 cắt, hạn ba: 1 cắt. Và mỗi chiều thứ bảy có đêm đặt biệt cho quý Ông, quý Thầy, có chưn bươm bướm. Bổn ban đã chỉn đốn theo cải lươn. Bỏ qua rất uổn... (Chợ hay quê?)
Đọc lại Đồng Quê mà thấy vui niềm vui hồn nhiên dễ dãi của người dân đầu tắt mặt tối chân lấm tay bùn.
Khi cô Tư Bé trong vai Điêu Thuyền, vì được một quan khán giả “chiếu cố” ...sắp sanh một quan con, nên ông bầu phải thay vai đào khác. Tuồng đang diễn, giới khán giả xe đò cũng thành thật góp ý:
“Điêu Thuyền mà “đẹp” như vậy, thì thằng cha Lữ Bố nếu có say mê, chắc là tại nó... buồn ngủ quá rồi !”
Và cô đào thế cô Tư Bé trong vai Điêu Thuyền cũng không ngại tạm ngừng vai diễn để đáp lễ:
“Xin lỗi quý ông, quý bà, khốn nạn cái anh nào nói tôi là Chung Vô Diệm ! “
Hay trong phóng sự “Đổng Trác biết sập giàn”, người đọc như hòa mình vào hoạt cảnh của khán giả, không phải ở tuồng hát mà là phản ứng của khán giả, được Phi Vân lột tả một cách tài tình :
“Anh chàng Lữ-Bố có cái bộ ghen tuyệt diệu. Mỗi lần anh hằn-học với Điêu Thuyền là mỗi lần mấy cô ngồi chen nhau ở “hạng ba” véo nhau gần nhẩy nhổm và hít hà chắt lưỡi như đám thằn lằn kêu đói ở trong đình...
...Bọn thanh niên đầu chải bóng láng, chen chúc nhau đứng cặp-kè, rọ-rạy nói chuyện vang trời...
...Có vài chị đàn bà bồng con, tay vạch áo đưa vú cho con bú mà mắt chăm ngay lên sân khấu, hồn gởi trọn cho Điêu Thuyền. Đứa con ngậm vú không được vùng khóc ré lên. Chị ta không kể đến, cứ đứng sững giơ tay đánh chan-chát vào đít đứa con. Đứa bé khóc ngất...”
Phóng sự ngắn “Quỷ vương”viết về giới trẻ. Cà Mau tuy xa và là xứ quê mùa nhưng làn gió văn minh “dởm” cũng có lần thổi về, mang lại những từ mới như “Văn minh, Hủ lậu, Nữ quyền, Giác ngộ...”, và người ta lấy làm lạ sao thằng Chột con ông Bính lại đổi tên là Hoàng Hoa, lần lần thằng Phinh cháu ông Phó Tám đổi là Tuấn Nghĩa, thằng Tích em Tuần Danh là Vân Mộng, cho đến con Đẹt, em gái chú Phồi cũng xưng là Thúy Liễu và con út của ông Phó Cao là Kiều Nga.
...hễ gặp nhau là cúi đầu rất sâu, chìa tay ra siết chặt :
– Vân Mộng xin kính chào Kiều Nga! hay:
– Thúy Liễu này đa tạ huynh ông Tuấn Nghĩa !
Các bực cha mẹ, cô bác và bà con láng giềng gọi gộp đám trẻ đó là “Quỷ vương”, dùng chổi quét làm “chúng xôn xao, té lăn ra, bò càng, mạnh ai nấy kiếm đường tẩu thoát...
Nhưng “bùa văn minh” còn ảnh hưởng nên chạy trối chết mà vẫn còn vớt vát:
“Minh Tâm thoát được ra ngoàì, hồn phi phách tán, lăn xã theo Vân Mộng kêu khe khẽ:
– Vân huynh, Vân huynh! Đợi đệ theo với!...
Ngoài giới nông dân, còn có các từng lớp khác nữa. Họ có ít nhiều vốn liếng nho học, biết chữ quốc ngữ và tiếng tây. Các nhân vật “thầy giáo” trong “Muốn ăn trứng nhạn”, “Tiếng hò trong đêm vắng”, “Các trò ơi, thầy phen nầy thọ tử”... phải biết “sống chết” với địa phương thì mới trị nỗi đám học trò rắn mắt, vì “đã không có biết bao nhiêu thầy vì chịu không nổi lũ con nít “trời đánh” ấy phải cuốn gói bỏ trường mà trốn đi.”
...Tuy nhiên trong các nghề kiếm ăn, nghề “dạy học” vẫn giữ một địa vị quan trọng ở trong đồng, đâu đâu cũng không dám coi thường.”
Được trọng vọng nhưng trong sinh hoạt thường nhựt, thầy cũng lắm phen thất điên bát đảo, như theo ghe đi đưa dâu lại bị cướp, hú hồn hú vía vì mê giọng hò thôn nữ trên ghe ăn cướp... hay cứ tưởng bị trúng độc bùa ngãi khi ham ăn “heo cấn” và hốt uống “ rượu rừng”.
Nói gì đến những người có chút địa vị vai vế ở nông thôn như Hương Ba, Chánh Khá trong “Trao thân con khỉ mốc” hay Ông Chủ, Phó Xã Việt trong “Đạo”.
Hôn lễ, giỗ chạp là những dịp tụ hội khá đông đủ các nhân vật này và cũng là dịp để họ “nói chữ”.
Bên cạnh cái vui thanh nhã còn có cái vui trần tục rất dân dã mà chỉ ở những đám giỗ, đám tiệc rất bình dân, bản tánh con người được phơi bày rõ nét. Nhất là khi đã vào vai ba chén rượu. Một Đình Úynh mê ăn, một pháp sư Nẫm chỉ chờ cơ hội là “ực một hơi ba ly rượu đế, chấp chấp ngon lành rồi cầm rót thêm ly mình và ly khách”.
Mở đầu cuộc nói chữ, tác giả dẫn người đọc vào “thế trận” bằng cách giới thiệu hai nhân vật chánh :
“Bỗng dưng Ông (chủ) đứng ngay lại, nhìn về phía cuối bàn :
– Úy chà ! Bữa nay có thắng Phó xã nữa chớ. Thằng siêng quá, mầy ở trên Đồng Cộ hay giỗ hồi nào mà xuống đây mậy ?
Phó Xã vui miệng :
– Bẩm Chủ, tôi theo màng mỡ trôi trong rạch mà tìm tới !
Rồi từ chữ “Đạo”, hai người thi nhau lý giải và nói chữ. Nào là “đương vị hành chánh” không “ ỷ chúng hiếp cô”, giờ “ cáo lão hồi gia” lẽ nào “Quân tử bất oán thiên hề bất vưu nhân”... rồi nào là”dõng bất quá thiên, cường bất quá lý”:
Tửu nhập ngôn xuất, Phó Xã Việt lý giải chữ “Đạo” theo lối chiết tự :
“Tự mình thông tri âm dương, biết phân phải trái, biết lẽ chánh tà, mới phải Đạo hoàn toàn chớ. Ấy là tôi chỉ chiết tự sơ sơ như thế, chớ phải nếu giải cho rành thì phải cắt nghĩa tại sao chữ Đạo liên tiếp đến mười hai nét, mười hai hội của khí vận tuần huờn từ “tý, sửu” chí ư “tuất, hợi”.
Đó là phong cách sống của người dân miền Nam. Có điều gì đó mới nhìn ở bề ngoài tưởng chừng như buông thả, nhưng trong đời sống nội tâm, họ vẫn hàm dưỡng đạo nghĩa (điệu nghệ) . Sống ở một vùng đất mới khai phá, đa số họ là lưu dân, nhiều người thân sơ thất sở. Họ muốn tạo dựng cuộc sống mới với một tâm hồn phóng khoáng tự lực tự cường, thoát khỏi ràng buộc khắt khe và bất công của chính quyền. Họ biết đến chữ nghĩa và đạo lý thánh hiền nhưng đồng thời cũng biết áp dụng vào cuộc sống thực tế của họ sao cho phải phải phân phân. Đó cũng là lý do tại sao ở những làng xã miền Nam trước đây, họ đều trọng đãi, mời mọc những “ông thầy Huế” về để dạy dỗ con em .
Hiểu được mạch sống ngầm trong suốt và cao vọng của người dân miền Nam, mới thấy được vì sao mà suốt đời, họ cắm mình trên mảnh đất, chịu đựng một nắng hai sương.
Qua phóng sự”Trao thân con khỉ mốc”, người đọc theo đám rước dâu, theo con tàu chạy “đã hai hôm rồi: sông Ông Đốc, kinh xáng Bà Kẹo, Đầm Cùn, kinh xáng Thọ Mai nhưng xóm Kiến Vàng vẫn còn xa lơ xa lắc”.
Người đọc biết được phong tục tập quán về một lễ rước dâu ngày trước ở sông rạch miền quê, nhưng để ý đến cách đối đáp giữa đàng trai, đàng gái về đôi liễn cưới, sẽ nhận ra ý thức đối kháng giai cấp cầm quyền của họ.
Đọc hai câu liễn :
Thừa long lạc ỷ tam chi thọ
Giá phụng quan thành bách lượng xa
Rễ lành đủ dựa tài lương đống
Dâu thảo vui nên bậc thế quyền
Ông tộc trưởng đàng gái nói thẳng ý kiến của mình:
“Già này thấp thỏi không biết nôm na cao kiến như mấy ông, già chỉ biết rằng trong rừng nho biển thánh, không thiếu chi tiếng dùng, sao lại đem nào là “thừa long... giá phụng”..., tiếng của bậc đế vương vua chúa vô làm chi cho tủi nhục thêm cho con nhà ‘dân dã' chúng tôi.”
Anh đi câu cá lén đã “ từng lượm mót từ hột ngọc trời, đã từng cắm từng cọng lúa”, ông tộc trưởng đã thấm nhuần cái thể, cái dụng của chữ nghĩa thánh hiền, thì có lý nào họ “đang tâm bứt cả cội nguồn”.
Dẫu là lời nói của nhân vật hay là tâm huyết của tác giả Phi Vân, thì mối quan hệ thống nhất giữa nhân vật - tácphẩm - tác giả vẫn tập trung nhất quán. Sự thật thật sự của xã hội
với muôn ngàn khía cạnh chơn chất thô thiển qua sự thật văn học dưới ngòi bút phóng sự được trau chuốt và sàng lọc của tác giả, cho người đọc thấy , lối văn mà tác giả khiêm tốn nói “cẩu thả”,... “có tính cách nhật trình”,... “câu chuyện có vẻ nhất thời”, thực ra đã nổi bật quan niệm sống trung hậu, thủy chung, gắn bó với đất nước trên tinh thần”quan nhứt thời, dân vạn đại” của người Việt miền Nam…
Sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu không đề cập đến một vấn đề quan trọng trong đời sống dân quê miền Nam thời ấy. Đó là mối quan hệ giữa tá điền - chủ điền. Tác giả dành hẳn một “phóng sự tiểu thuyết” để viết về mối quan hệ này. Như thể loại được xác định, các vấn nạn thực tế về thảm cảnh của tá điền được phần nào tiểu thuyết hóa, cho người đọc tránh được những cảm giác nặng nề căng thẳng trước những bất công xã hội, trước những thủ đoạn gian trá của kẻ bóc lột.
Sự cả tin của nhân vật Sáu đờn kìm vào “đạo bùa thần” một lần nữa cho thấy trình độ dân trí thấp kém thời đó, dẫn đến đời sống mê muội cùng quẫn của giới tá điền. Mà thật ra, thì dù không mê tín dị đoan, từng lớp tá điền cũng vẫn là nạn nhân của giới điền chủ. Một bên có thế, có lực, có tiền, có điền sản, một bên chỉ có mồ hôi lao động và niềm hy vọng.
Ông điền chủ Trần Háo Nghĩa lại là người háo sắc. Cũng như một số điền chủ không biết nương tay với tá điền, ông đã có sẵn những thủ đoạn để thủ lợi và làm giàu bất chánh. Khi ký tên vào “Tờ lãnh làm ruộng giao” là tá điền đã tự ký bản án mắc nợ chung thân.
Tin vào sự linh nghiệm của “đạo bùa thần”, Sau đờn kìm không thấy những mánh khóe xảo trá của Ông chủ Nghĩa, lúc được che giấu bằng giọng lưỡi ngọt ngào, lúc mua chuộc cảm tình bằng vật chất, lúc lại vừa mơn trớn vỗ về bao che kèm theo những hăm dọa... để chiếm đoạt phụ nữ cô thế... Đụng bất cứ chuyện gì, Sáu đờn kìm “cứ lâm râm đọc thần chú và vẽ bùa”... Lòng tin tưởng ở đạo bùa khiến tôi nói mạnh mẽ quá, hùng hồn quá, chắc chắn quá”... “Trong đêm trường vắng lặng, tôi càng suy nghĩ, càng thêm khoan khoái lạ kỳ? Ôi câu thần chú linh thiêng! Hãy gíúp tôi thêm bao đường vinh quang khác nữa...”, “Trong lúc đó, ông Chủ đã “mám” bùa tôi nhiều thêm, cứ lân la đến nhà tôi chơi mãi”...
Và rồi mối tình thoáng qua đối với cô Yến, mối tình đối với Tám Én – người đã có lần Sáu đờn kìm coi như kẻ tử thù, cả cuộc đời hai mẹ con, dẫn tới bi kịch. Tác giả không lý giải về “mâu thuẫn giai cấp” hay xung đột, đối kháng giữa hai từng lớp xã hội. Cái chết vì bị làm nhục của mẹ Sáu đờn kìm đưa tới hành động của kẻ bị dồn vào chưn tường, phản ứng của “tức nước vỡ bờ”.
Anh tá điền Sáu đờn kìm trước đã lãnh nợ, giờ lãnh án 5 năm tù và 10 năm biệt xứ.
Có hy vọng gì vào tương lai của cá nhân và xã hội?
Ở đoạn kết, tâm trạng của nhân vật như một nỗi buồn dằng dặc trên sông nước Cà Mau. Mãn hạn tù, Sáu đờn kìm bỏ làng cũ, “cất tạm một căn nhà trên hòn Đá Bạc. Ở đó, ngày ngày nghe gió thét sóng gầm. Chỉ có gió thét sóng gầm mới an ủi được lòng tôi...
Mà thôi, dĩ vãng đã chết, còn nhắc lại làm gì nữa !...
Họ không phải là người gây nên tội ác, họ chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội và của một thời kỳ...”
Còn bao nhiêu con người nữa, từ sau “cuộc đổi đời 75”, chiều chiều đứng bên này bờ đại dương vọng về Quê Mẹ?
“Ăn cơm mới, nói chuyện cũ” cũng không phải là vô nghĩa vì “ôn cố tri tân” đó mà !
Cà Mau bên ấy bây giờ ra sao?
Lật tập truyện “Cánh đồng bất tận” và “Tạp văn” mới xuất bản vài năm trước đây ở trong nước của nhà văn nữ Nguyễn Ngọc Tư, càng thêm thấm thía những điều mà tác giả Phi Vân đã ghi lại từ hơn 60 năm trước. Vẫn là “ở đồng quê, thế mà lắm chuyện”, nhưng Nguyễn Ngọc Tư còn nói thêm, cũng về Cà Mau:
“Cà Mau mình nổi tiếng quá chừng... sở dĩ quê tôi tiếng tăm vang dội vì có quá nhiều chuyện...lu bu.”
Chuyện gi? Chuyện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
“...với làn sóng di cư của hàng trăm, hàng ngàn người từ nơi khác tới, người Đất Mũi khép cửa lòng tin... Những người mới đến sống bằng cách phá rừng, càn quét bãi bồi...”
Hay những câu hát thời đại xã hội chủ nghĩa:
“ Bữa nay tôm chết thấy buồn
Ngày mai tôm chết lòng còn buồn hơn.”
“Lúa lên giá một, phân vọt lên mười”
Niềm tin của người dân vào chính quyền, vào cuộc sống cũng cạn kiệt theo thời gian:
“ Ba mươi tháng tư này nữa, là tròn hai mươi chín năm hòa bình, con đường quốc lộ ngay xã vẫn ca bài “Đường chỉ đẹp khi còn... dang dở”..., “...Hồi đó Thị Tường có “ba không”, không theo giặc, không bỏ Đảng, bỏ cách mạng... mà bây giờ “tùm lum không” – không gạo, không tiền, không cá, không rau cỏ.”
Hồi xưa vì nghèo dốt quá nên thường mê tín dị đoan, còn trong chế độ xã hội chủ nghĩa “ưu việt”, hầu như ra đường ai cũng lận lưng “bằng đại học” thì:
“Đã vái đủ bốn phương tám hướng, cầu xin trời đất, hồi đầu cúng vuông bằng đầu heo, tôm chết, cúng hột vịt lộn, tôm vẫn lụi đầu, có người bắt chó làm thịt cúng (cúng chó tức là “có trúng”). Chẳng biết ai đầu tiên phát minh ra cách cúng này. Nhưng nghe buồn cười đến rơi nước mắt.”
Từ văn học phản ảnh hiện thực, đến cuộc sống hiện thực “còn nóng hổi, vừa thổi vừa... xem”, đó là chuyện các cơ quan nhà nước tạo điều kiện và hướng dẫn thân nhân tìm mộ liệt sĩ bằng “phương pháp ngoại cảm”. (5)
Rồi thêm chuyện... lu bu về văn minh văn hóa.
“Hỏi cô con gái tên Trang đã học tới lớp mấy rồi, cô cười, nghèo quá, mấy anh em em hỏng ai biết chữ”...
“Và những dứa trẻ lớn lên... Bến đò, cũng là nơi nhiều đứa con gái qua sông lên thành phố rao bán mình trong những “chợ vợ”, để lại mấy thằng con trai chiều chiều ra bến đón đã đời mới ngơ ngác, trời ơi, mình đang chờ ai đây”.
Chuyện... lu bu, cuối cùng cũng vào cốt lõi “cái không cần thay đổi đã thay, còn cái cần thay đổi thì chưa đổi bao giờ” như lời một anh thanh niên:
“Nhà nước hay nói đảng viên, cán bộ là đầy tớ của nhân dân, sao tui thấy “đày tớ” bây giờ sống ngon hơn “chủ” quá trời đất, nhậu chỗ sang, ở nhà lầu. Tui hỏng hiểu gì hết.” (6)
Phóng sự Đồng Quê của Phi Vân gởi đến người đọc dù trước đây, dù hiện tại, hình ảnh cuộc sống của người miền quê Nam Việt. Trải qua vui buồn hay trăn trở một đời trên vùng đất mặn phèn, họ vẫn “không đang tay bứt cả cội nguồn” vì họ tin vào “luật thưởng phạt của đất trời”.
(Mà gẫm lại “trời cao có mắt” chớ! Đâu phải tự nhiên mà vùng Đất Mũi mỗi năm được phù sa tích tụ và bồi thên gần trăm mét. Trời đất công bằng lắm, “thưởng” cho dân miền Nam, vì hải đảo, đất đai biên giới phía Bắc Tổ quốc bị các lãnh đạo Cộng sản, từ Phạm Văn Đồng đến Lê Khả Phiêu, mỗi lần hiệp thương với Tàu cộng về ranh giới lãnh thổ, đều cắt đất dâng cho Tàu cộng, như Nam Quan, Bản Giốc, Trường Sa, Hoàng Sa... Rồi cũng có lúc trời “phạt”!)
“Người ta tin có sự thưởng phạt của đất trời !”
Đó là tấm lòng của người dân quê miền Nam, của Phi Vân trong toàn thiên phóng sự.
Nhưng câu cuối cùng trong đoạn kết của tiểu thuyết phóng sự “Dưới đồng sâu”, lời của nhân vật Sáu đờn kìm không khỏi làm người đọc phân vân:
“Họ không phải là người gây nên tội ác, họ chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội và của một thời kỳ...”
Họ ở đây là ai? Là đám đông tá điền một đời tối tăm lam lũ, là những thế hệ tá điền một nắng hai sương chịu nhiều oan ức, tội tình hay bao gồm cả những loại điền chủ như Trần Háo Nghĩa?
Cho nên, phóng sự Đồng Quê của Phi Vân dù đã hơn nửa thế kỷ vẫn còn là quyển sách mở, còn lắm chuyện về cuộc sống và con người ở Đất Mũi nói riêng, của cả đất nước và dân tộc nói chung, cần giải quyết trên cơ sở tự do, dân chủ và tôn trọng nhân phẩm.
Đối với ai còn nặng lòng với quê hương dân tộc, dù đang ở trong nước hay sống đời lưu vong!
Tháng chín gọi Thu về trên những chiếc lá vàng bắt đầu rơi trong gió nắng. Bên Cà Mau quê cũ, mùa gió chướng cũng đã trở mình. Trung Thu 2008 (14.9) Nguyễn Song Anh __________________ Chú thích: (1) Tác giả Phi Vân, tên thật là Lâm thế Nhơn, sinh năm 1917 trong một gia đình trung lưu ở Cà Mau (An Xuyên). Phi Vân là một nhà văn kiêm nhà báo, chuyên viết truyện ngắn và phóng sự. Từng cộng tác với hầu hết các nhật báo, tuần báo, tạp chí ở miền Nam; từng điều khiển ban biên tập các nhật báo Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân, Dân Quí, Thủ Đô, Cấp Tiến, là Tổng thư ký Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt trong liên đoàn ký giả quốc tế (I.F.J.) Đã xuất bản Dân Quê, Tình Quê, Cô Gái Quê nhưng đáng chú ý hơn hết là tập phóng sự Đồng Quê (Giải nhất cuộc thi Văn Chương của Hội Khuyến Học Cần Thơ năm 1943 và đã được một nhà văn Trung Hoa dịch ra bạch thoại năm 1950. (trích lại theo Đồng Quê, bản của nxb Văn nghê tp. HCM-2000). Theo Vy Thanh (Lớn lên với đất nước), Phi Vân còn có chân trong Ban biên tập báo “Tiếng súng kháng địch” của Quân khu 9 (Cộng sản). Tờ báo phát hành từ 10.1.1947 đến năm 1954, và “trong năm 1949, tôi (Bùi Đức Tịnh tự Thanh Ba) cùng với Lê Thọ Xuân, Nguyễn Văn Hiếu, Phi Vân, Thê Húc lãnh toàn bộ công tác biên tập của nhật báo Thần Chung do Nam Đình làm chủ nhiệm sáng lập.” (2) Cần Thơ là tỉnh đầu tiên ở miền Tây được lập Hội Khuyến học (23.3.1906) do ông Võ Văn Thơm làm Hội trưởng, hai ông Hồ Hưng Nhường và Nguyễn Háo Văn làm Hội phó. (3) “Tùa”: tiếng Triều châu (Tiều) có nghĩa là to lớn. (4) Cà Mau xưa và nay của Nghê Văn Lương, Huỳnh Minh (tr. 13 đến 24). (5) Báo An ninh thế giới số 641, ngày 31.3.2007 đưa tin: “Ba cơ quan (Liên hiệp Khoa học công nghệ Tin học ứng dụng (UIA), Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an), Trung tâm Bảo trợ văn hóa kỹ thuật truyền thống... hướng dẫn “Chương trình tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm”: - Phải tiết kiệm, giản dị, tránh ăn uống lãng phí và tránh ở khách sạn sang trọng… vì xác suất thành công rất ít, mọi người thường gọi hiện tượng này là “liệt sĩ cảnh cáo đấy”. - Cần phải xếp hàng theo thứ tự vì “các liệt sĩ không hài lòng với việc chen ngang nên làm nhiễu thông tin”. - Riêng các liệt sĩ tình báo thường được làm nhanh và thông tin rõ nét hơn... có lẽ Hội dồng tâm linh “ưu tiên cho các liệt sĩ tình báo... - Phải là người có vai trò và quan hệ mật thiết nhất đối với người đã khuất, nếu vì lý do chính đáng mà không thể tham gia trực tiếp được thì phải thắp hương ủy quyền cho người có vai trò tiếp theo. Không biết “Phương pháp ngoại cảm” này có áp dụng trong trường hợp tìm hài cốt quân nhân Mỹ tử trận tại Việt Nam hoặc tìm hài cốt, bia mộ các chiến sĩ Quân đội VNCH và các tù cải tạo của Cộng sản từ sau 75 ? (6) Xem “Tạp văn “ và “Cánh đồng bất tận” của nhà văn nữ Nguyễn Ngọc Tư. “Chính quyền tỉnh Cà Mau, cả các nhà nghiên cứu phê bình văn học cho rằng “Cánh đồng bất tận” là thứ văn chương phản động, thậm chí là chống Cộng, tục tĩu, dâm ô, chống lại chủ trương của Đảng và nhà nước....Báo Tuổi Trẻ trích dẫn báo cáo ngày 27.3.2006 của Ban Tuyên Giáo Tỉnh Ủy Cà Mau như sau: “Hội Văn Học Nghệ Thuật kiểm điểm, phê phán tác giả một cách nghiêm khắc, rút kinh nghiệm khi viết...” (Trich lại theo báo Sinh Hoạt Cộng Đồng, số tháng 5.2006). __________________________ Tham khảo: – Phi Vân: Đồng Quê, nxb Đại Nam, Cali, USA – Phi Vân: Đồng Quê, nxb Tiền Giang-Hậu Giang, 1987, Việt Nam. Sách không in lại phóng sự ngắn “ Quỷ vương” – Phi Vân: Đồng Quê, nxb Văn nghệ tp. Hồ Chí Minh, 9.2000. Sách không in “Lời nói đầu” của tác giả, không in lại câu cuối cùng trong phóng sự ngắn “Ông Tướng Thầy Ba”: “Ở đời không làm được Phật, thì làm ăn cướp chớ có gì lo mậy!...” – Phi Vân: Dân Quê, nxb Văn nghệ tp Hồ Chí Minh, 8.2002. – Vy Thanh: Lớn lên với đất nước, Tủ sách Sự-Thật Thật, California, 2006. – Nghê Văn Lương, Huỳnh Minh: Cà Mau xưa, nxb Thanh Niên, 2003. – Huỳnh Minh: Bạc Liêu xưa, nxb Thanh Niên, 8.2002. – Nguyễn Ngọc Tư: Tạp Văn, nxb Trẻ, 2006. – Nguyễn Ngọc Tư: Cánh đồng bất tận, nxb Trẻ, 2007. – Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, cơ sở xb Đại Nam. – Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường..., Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu long, nxb Khoa Học Xã Hội. – Nguyễn Quang Thắng: Tiến trình văn nghệ miền Nam, Văn Hiến, 1994.
|
|