|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 4:13:30 GMT 9
Hồi ký Dương Văn Ba:Những Ngã Rẽ – Chương 1 Vài nét tiểu sử DƯƠNG VĂN BA
Sinh năm 1942 tại Bạc Liêu. Năm 1961 đậu vào Đại Học Sư Phạm Đà Lạt, sau khi tốt nghiệp tháng 8.1964 được bổ nhiệm về Mỹ Tho dạy môn Triết lớp Đệ nhất (tương đương lớp 12 bây giờ). Tham gia hoạt động chính trị, trở thành một trong những dân biểu trẻ thuộc phái đối lập trong Hạ nghị viện khóa 1967-1971 thời Việt Nam Cộng Hòa.
Đầu năm 1968 bước vào nghề báo với các bài xã luận thường xuyên đăng trên nhật báo Tin Sáng, rồi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Đại Dân Tộc. Từ tháng 11. 1971, sau khi thất cử Hạ nghị viện, đã cùng vài đồng nghiệp chủ biên nhật báo Điện Tín. Cuối năm 1972, để tránh bị bắt lính, dọn vào ở và tiếp tục làm báo tại Dinh Hoa Lan của tướng Dương Văn Minh. Ông được cử làm Thứ trưởng Bộ Thông tin trong chính quyền ngắn ngủi 3 ngày của Tổng thống Dương Văn Minh, nhờ vậy đã có dịp chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong những ngày cuối cùng của chế độ.
Sau 30.4.1975, tiếp tục làm báo ở nhật báo Tin Sáng. Từ 1984 đến 1987, hoạt động hợp tác kinh tế với Lào với tư cách là phó giám đốc Công ty CIMEXCOL Minh Hải, và mặc dù ăn nên làm ra nhưng vẫn bị chính quyền bắt nhốt vào ngày 25.12.1987, ra tòa tại Bạc Liêu với án chung thân. Dư luận cả nước đều coi đây là một trong những vụ án lớn “có vấn đề” của chế độ mới XHCN mà khi đọc hồi ký Những ngã rẽ này người đọc sẽ được rõ thêm.
Sau khi được ra tù trước thời hạn vào ngày 30.4.1995, ông làm ăn liên tiếp thất bại, mất hết tài sản, phải ở nhà thuê trong suốt nhiều năm. Hiện bị tai biến xuất huyết não, nằm bất động khoảng 6 tháng nay trên giường bệnh.Chương 1: CHUYỆN THUỞ MỚI LỚN Gốc nông dân Miền Tây Tôi không nhớ rõ gương mặt bà ngoại. Chỉ mang máng bà tôi trắng, gương mặt dễ nhìn. Bà rất thương đứa cháu trai, con đầu lòng của cô con gái duy nhất. Mẹ tôi có tên là Hai Án. Án tiếng Triều Châu có nghĩa là đỏ hồng. Bà con lối xóm thường gọi mẹ tôi là Hai Hồng. Mẹ tôi sinh ra và lớn lên ở Vĩnh Châu, một vùng cát biển giáp với Sóc Trăng, Bạc Liêu, hai tỉnh gần cực nam đất Việt, nơi có nhiều người Khơ Me sinh sống, xen lẫn với người Việt, người Tiều. Sự hòa đồng giữa ba dân tộc đã có bao đời trên mảnh đất của ruộng đồng và cát biển, xứ của nước biển pha nước lợ, xứ của đồng chua đất phèn, xứ của cỏ năn, lát sậy sát với rừng tràm, rừng đước, xứ của tôm, cua và bao nhiêu loài cá nước lợ, cá đồng cá biển. Ai về Bạc Liêu không thể nào quên con cá chốt kho sả ớt, con cá kèo kho tiêu, không thể quên vị ngọt tươi của con tôm đất vớt lên từ trại đáy ăn với bún rau sống bánh tráng chấm tương bầm. Trong những ngày mưa dầm, ực thêm ly rượu công-xi thật khó quên. Càng không thể quên con cua gạch. Mỗi con chứa đầy gạch son béo như phó-mát. Chỉ ăn gạch cua thôi đủ thấy sự màu mỡ của biển Bạc Liêu, Cà Mau đủ thấy cây mắm, cây tràm, cây đước vùng U Minh đã tạo cho thiên nhiên và sinh vật vùng biển bao nhiêu chất tươi, bao nhiêu chất béo bổ phục vụ dân cư địa phương. Mỗi lần có dịp đi xuồng trong các kinh rạch chằng chịt vùng quê Bạc Liêu, Cà Mau, tôi có thói quen mở rộng buồng phổi hít thật sâu mùi thơm của cây tràm, một mùi dễ chịu khó tả không thể nào nhầm lẫn được. Càng đi sâu vào vùng quê, tôi có cảm giác đất trời mênh mông càng lúc càng thấp xuống, gần sát vào nhau – Trời, Đất, Nước và con người như một, lẫn vào nhau, gần gũi nhau. Dân Bạc Liêu, Cà Mau dễ hội nhập với nhiều nền văn hoá, nhiều lối sống, nhiều phong tục tập quán. Họ thể hiện sự cởi mở của ruộng đồng mênh mông, biển cả bát ngát vây quanh. Một người Bạc Liêu có thể nói 3 thứ tiếng Việt, Tiều, Khơ Me. Họ vừa biết trồng lúa, làm rẫy, vừa biết đánh lưới đi biển, vừa biết chăn nuôi heo, gà, cá. Một đời sống cực khổ nhưng phong phú. Một vùng đất bước ra khỏi nhà đã gặp thức ăn. Chỉ cần học hỏi, lao động, chỉ cần một chút thông minh, siêng năng, cuộc sống hàng ngày không đến nỗi thiếu trước hụt sau. Cha tôi, một nông dân khỏe mạnh, thông minh, cần cù lao động, sinh ở Trà É – Nhu Gia thuộc huyện Thạnh Trị, Sóc Trăng. Trà É, vùng ruộng đồng phì nhiêu, nơi sinh sống của người Hoa lai Việt, lai Khơ Me. Hiểu biết về nghề nông về đồng ruộng của cha tôi khá phong phú, ông lại chăm chỉ làm lụng nên được nội tôi thương, cho phép lấy vợ sớm. Cha tôi cưới má tôi lúc ông mới 24 tuổi. Ông từ bỏ vùng quê Trà É đi ở rể tại Xóm Lò Heo mới. Về vùng chợ Bạc Liêu cha tôi được lối xóm gọi là ông Hai. Ông Hai theo nghề buôn bán hàng xén của bên vợ, ông mua bán giỏi, biết gõ bàn toán, biết tiếng Hoa. Người dân Xóm Lò Heo không ai không biết ông Hai Án bán tạp hóa, chồng của cô Hai – một thiếu nữ hiền dịu có chút ít học thức. Bằng sức lao động cần cù, bằng tài mua bán tháo vát, chẳng mấy năm gia đình anh chị Hai Án trở nên khá giả, có tiệm hàng xén, có chành vựa lúa, mỗi năm mua bán nhỏ cũng được vài chục ngàn tạ lúa. Tuổi thơ và khát vọng Tôi lớn lên trong khung cảnh lao động. Hàng ngày ngoài việc cắp sách đến trường tiểu học, tôi phụ mẹ giữ các em và làm công việc lặt vặt trong nhà. Sống và lao động để sinh sống, bài học đó cha tôi đã dạy cho tôi ngay từ lúc còn năm, sáu tuổi. Thể chất tôi bình thường, nhưng trí tưởng tượng và ước mơ thật lớn. Tôi thích được làm tay nghĩa hiệp trừ gian diệt bạo. Lúc còn bé, bắt đầu biết xem sách, thích xem các tập sách hình của Hồng Kông. Chỉ cần dùng mấy ngón tay lướt nhanh qua tập hình, các hiệp sĩ tha hồ đánh võ, đánh kiếm quần thảo nhau xem đã con mắt, khêu gợi óc giang hồ kỳ hiệp của các cô các cậu tuổi thơ. Các sách in hình chữ Hoa nhưng tôi vẫn đoán ai là kẻ gian, ai là hiệp sĩ. Tuổi thơ của tôi được nuôi bằng các ảo tưởng anh hùng nghĩa hiệp. Lớn hơn một chút nữa, lúc sắp rời ghế nhà trường tiểu học, tôi lại vùi đầu vào các truyện phiêu lưu, truyện trinh thám, Vàng và Máu, Bàn tay máu, Người nhạn trắng… Hồi còn học tiểu học, được dịp xem xinê, tôi thích xem phim “Hoàng giang Hiệp nữ”. Cả một thời thơ ấu, trí tưởng tượng của tôi được nuôi bằng ảo vọng mong được làm các hành động nghĩa hiệp trừ gian diệt ác. Tôi là con mọt sách kiếm hiệp từ lúc còn học lớp ba. Sách tranh ảnh giai đoạn này tác động mạnh vào tính cách tôi lúc trưởng thành. Tôi và anh Tư, người anh bà con chú bác, hễ có được mấy “cắc” là tìm dịp ra chợ Bạc Liêu mướn sách đọc. Không phải là truyện ái tình, mà là truyện trinh thám, kiếm hiệp, Tề Thiên đại thánh, Thủy hử, Tam quốc… Những mẫu chuyện hoang tưởng kỳ thú thỏa mãn ước mơ, khát vọng làm anh hùng của đám con nít. Ở thời kỳ phim đen trắng còn quá ít, phim còn câm, sách báo còn hạn chế, coi sách kiếm hiệp, đọc truyện Tề Thiên đã là thú tiêu khiển của người có xu hướng văn hóa. Lớn lên suy nghĩ lại, sách báo tuổi thơ đã tạo nên phần nào nhân cách của tôi. Một nhân cách ưa phiêu lưu, thích làm chuyện đại nghĩa, chuyện lớn, không tính toán nhiều tới hậu quả, không lượng sức mình, không so đo đối chiếu cọ xát nhiều với thực tế. Tính cách này vừa là một ưu điểm gặp lúc bùng phát thịnh thời nhưng cũng là một nhược điểm dễ dẫn tới những thất bại không lường trước được. Nói theo kiểu tính tình học đây là đặc điểm của người đam mê, say mê lý tưởng, mộng tưởng nên gặp nhiều lúc thất bại ê chề. Cảm giác về kẻ khác giống Là một đứa trẻ thông minh, da dẻ sáng láng, tôi sớm hiểu nhanh nhiều chuyện của người lớn. Mới có năm, sáu tuổi, tôi đã lưu ý tới chuyện người chú thứ Mười, ở chung nhà, dan díu với một cô gái hàng xóm. Chuyện tình của cô gái kia với chú Mười, tôi thắc mắc không biết phạm điều cấm gì mà thấy cha tôi la rầy dữ dội. Có lẽ vì thế chú Mười bỏ nhà đi đâu mất. Lúc đó khoảng năm 1947. Sau nầy tôi mới hiểu chú Mười bị tai tiếng tình cảm, đã bỏ đi theo Việt Minh từ dạo ấy. Chuyện quan hệ trai gái sớm có sức hút sự chú ý của tôi. Ở chung xóm cách nhà mấy căn, có mấy cô bé cùng tuổi, họ cùng chơi đùa với tôi hàng ngày. Nhiều buổi trưa, tôi và các cô bạn gái vào lẫm lúa, giả đóng vai trò yêu đương của người lớn. Đó là sự tò mò về người khác giống, đồng thời cũng là dấu hiệu của sự sớm phát triển tâm sinh lý. Có những đêm, lúc đó tôi ngủ chung một bộ ván ngựa với người chú, lớn hơn tôi chừng hai tuổi, cả hai người không biết do vô thức hay ý thức, thích cọ sát mơn trớn giới tính của nhau, sự mơn trớn đó đã tạo cho tôi khoái cảm. Bắt đầu thời kỳ cuối của bậc tiểu học, tôi đã chú ý đến các cô bạn dễ nhìn ở hàng xóm. Hai cô bạn gái học cùng lớp nhì lớp nhất được tôi quyến luyến là Hảo và Lệ. Mỗi lần các cô bạn này đi chợ ngang nhà, cậu bé chín mười tuổi lúc đó hay dõi theo ra chiều quyến luyến. Trong nhiều giấc mơ, tuổi bé tí, tôi thấy mình làm bạn tình cảm với họ. Giới tính và sự phát triển lần hồi của giới tính như những đợt sóng nhẹ vỗ từ từ vào bờ cảm quan xác thịt của trẻ thơ, êm dịu và có lúc cuốn hút, không gì đẹp bằng những phút ngây ngây đó. Có lẽ giới tính phát triển sớm nơi những trẻ con lai giống. Sự kích thích của giới tính khiến trẻ sớm hiểu biết chung quanh, sớm hiểu người khác.Một chỉ số cường độ giới tính lành mạnh cũng là một chỉ số về cường độ thông minh nơi trẻ. Qua kinh nghiệm bản thân, tôi sớm hiểu thế nào là khoái cảm, thế nào là sự êm ái do người khác giống tạo ra cho mình khi có được cảm giác người đó chú ý tới mình. Sự quan tâm đối với các cô bạn bé tí là chỉ dấu thôi thúc phát triển, chỉ dấu hướng ngoại, hướng tha. Tôi không thể sống cô đơn từ lúc bảy tám tuổi, luôn cần có bạn, thích lựa chọn bạn. Nào Lệ, nào Hồng, nào Hảo, nào Hoàng Anh, hình ảnh các cô bạn gái theo đuổi và thay đổi từng thời kỳ phát triển tâm sinh lý của tôi. Thời kỳ nào, tháng nào, ngày nào trong tuổi thơ của tôi luôn có những giấc mơ được dệt ra với những hình ảnh đó. Với các bạn trai cũng thế. Những Cơ, Tập, Thanh, Tựu, lớn hơn một chút, những Khương, Thọ, Tỷ, Phát. Thế giới của tôi lẫn lộn giữa nam và nữ, giữa mơ mộng và thực tiễn, lẫn lộn giữa ước ao khát vọng với các giới hạn hàng ngày, giới hạn của chung quanh. Chưa lớn đã khát khao yêu, chưa lớn đã mơ sự nghiệp lớn. Có những đêm trong chiêm bao, tôi mơ thấy mình là anh hùng, là kẻ tài năng, giàu có và mơ thấy mình được chắp cánh bay xa với những người yêu bé nhỏ. Mộng và thực. Ước mơ và giới hạn. Đó là những thúc bách của kẻ đang lớn, đang hình thành nhân cách, đang có nhiều ước vọng và ảo vọng. Trí tưởng tượng thật dồi dào và thực tế cũng ê chề. Nhiều lúc, tôi ngồi thừ nhìn dòng sông trước mặt nhà, thấy mình hóa thân thành người thuyền trưởng dong buồm đi xa cùng nhiều nàng tiên đẹp. Tiếng gọi của cha tôi kéo tôi về với công việc thực tế, gánh gạo, gánh thóc đem giao cho hàng xóm. Tuổi thơ của tôi đầy mơ mộng nhưng cũng là một tuổi thơ làm lụng vất vả. Mơ và thực lẫn vào nhau giữa ngày và đêm trong giấc ngủ, giữa công việc lao động và các cuốn truyện phiêu lưu kỳ hiệp. Sau này, khi lớn lên có lúc tôi vô cùng thực tế, cái thực tế cuả người Triều Châu mua bán, có lúc tôi lại là người mộng mơ bay theo những chuyện trong sách vở. Sài Gòn của thuở mới lớn Tôi lên Sài Gòn học từ năm 1957, lúc chỉ mới mười lăm tuổi. Nhà tôi có chiếc xe đò chạy đường Sài Gòn – Bạc Liêu, năm mươi chỗ ngồi. Nhờ đó, việc liên lạc với gia đình khá dễ dàng. Được cha chăm sóc thường xuyên nên tôi cố gắng học tốt, tôi đỗ tú tài I năm mười sáu tuổi. Ở trọ nhà bà cô được mấy tháng, trong khu chợ Vườn Chuối, sau đó tôi cùng bạn bè đi ở trọ sau lưng chợ Nancy. Từ mười sáu tuổi, tôi đã sống xa nhà, được tự do nên nhanh chóng thấu hiểu ngõ ngách của Sài Gòn. Sài Gòn năm 1958 trong con mắt của cậu học sinh mới lớn, với nhiều con đường đầy bóng râm mát. Đường Phan Thanh Giản có những cây dầu cao vút. Đường Trần Quang Khải với những cây sao đen kịt. Đường Đinh Tiên Hoàng rợp những tàng me. Đường Trần Quý Cáp yên ắng với nhiều biệt thự xinh đẹp. Nhiều cặp nam nữ dắt nhau đi bộ ung dung trong một thành phố có nhiều thảm cỏ. Sài Gòn của những quán cà phê nhỏ, quán thạch chè đặc sản, quán mì cây nhãn, quán hủ tiếu Cả Cần, bánh tôm, bánh cuốn Phan Đình Phùng (ăn lúc nửa đêm). Sài Gòn của Đêm Màu Hồng, của vũ trường Văn Cảnh, Sài Gòn với các hội quán sinh viên và bữa cơm tự phục vụ một đồng bạc, cùng lúc hàng ngàn người ở đường Bùi Viện. Sài Gòn thời đó là Sài Gòn của các nhà sách nổi tiếng; Khai Trí đường Lê Lợi, Trần Văn đường Lê Văn Duyệt, Lê Phan đường Phạm Ngũ Lão, Albert Portail đường Tự Do… Tất cả đầy những người ham học đứng lựa sách và đọc sách báo. Người Sài Gòn hồi năm mươi mấy, sáu mươi… thích đi dạo phố Catinat, Bonard, Charner… thích ăn kem uống cà phê ở các quán lề đường thanh nhã. Mỗi thứ, mỗi kiểu đều có hương vị, sắc thái riêng. Ăn phở là phở Tàu Bay, phở Bắc Huỳnh. Ăn sáng ở Thanh Bạch, Thanh Vị, Cả Cần, Sing Sing, ăn bánh paté chaud ở Phạm Thị Trước, nhậu ở Kim Hoa… Một Sài Gòn vừa phải, văn minh lớp lang, sạch sẽ. Không có cảnh se sua, bát nháo. Không có cảnh cóc nhảy lên làm sang. Một Sài Gòn thi vị đầm ấm, đầy màu sắc văn hoá… Mặc dù Sài Gòn của bên kia sông, của bến tàu, của quận tư, Khánh Hội vẫn là một Sài Gòn lam lũ, nước đen, ổ chuột, nơi sôi sục bao nhiêu tệ nạn xã hội, bao nhiêu bất công, cũng là nơi sôi sục những mầm mống đấu tranh liên lỉ âm thầm. Sài Gòn cuối thập kỷ năm mươi với vài tờ nhật báo Tiếng Chuông, Thần Chung, Tin Điển, Sài Gòn Mới… bước sang thập kỷ sáu mươi với hơn chục tờ nhật báo lớn nhỏ… Một Sài Gòn cựa mình tự do ăn nói, tự do vẽ ra cung cách sống, cung cách suy nghĩ cho thế hệ hiện tại và tương lai. Cùng lúc Sài Gòn âm thầm bộc phá, len lỏi với hàng chục hàng trăm ngòi bút chịu ảnh hưởng của xu hướng cách mạng cộng sản. Sài Gòn mở cửa đón chào nhiều làn sóng chính trị, văn hóa, văn nghệ, nhiều luồng sóng văn minh với sự âm ỉ ngún lửa của nhiều ngòi nổ đấu tranh cách mạng. Một Sài Gòn bắt đầu trăm hoa đua nở sau mấy chục năm chịu áp bức, kiềm chế của nền văn minh thuộc địa. Ở tuổi 17, 18 với sự bùng lớn lên của sức vóc và tầm suy nghĩ, với sự dẫn dắt vượt bến bờ của trí tưởng, óc sáng tạo, tôi có dịp học hỏi, đọc sách tìm hiểu nhiều nguồn văn hóa, nhiều trào lưu tư tưởng, nhiều phong trào chính trị. Cùng với nhiều thanh niên thời đó, tôi bắt đầu bị cọ xát bởi thuyết hiện sinh, bởi chủ nghĩa hiện thực xã hội, cọ xát với thuyết Mác xít, lý thuyết cộng sản. Tôi thần tượng Karl Marx, ở bên kia sông và rào kẽm gai, nhưng tôi mê Jean Paul Sartre, Françoise Sagan với tác phẩm “Buồn ơi chào mi”, thích lối sống hiện sinh đồng thời cũng bị cuốn hút bởi chuyện những người ly khai thành thị, dứt áo ra đi, hẹn một ngày trở lại. Thời kỳ cuối năm 50 đầu 60, những chàng trai mới lớn như tôi có chút mơ mộng trộn lẫn với hiện thực xã hội, thường nuôi trong lòng nhiều tình cảm đối chọi nhau, vừa thuận vừa nghịch thay phiên lấn chiếm tâm tư hàng ngày. Nhớ lại năm 1961, tôi và Huỳnh Phan Anh, cả hai vừa tròn 20 tuổi đã nổi hứng viết lá thư ngỏ đăng trên tuần báo Mã Thượng, đối thoại với nhóm Sáng Tạo (một thế lực văn hóa văn nghệ thời đó giữa Sài Gòn). Nhóm Sáng Tạo tuyên ngôn khai tử văn nghệ tiền chiến và đòi hỏi làm lại một nền văn hoá văn nghệ mới mẻ từ con số không. Hai chàng trai trẻ đã gióng tiếng chuông về một nền văn nghệ có tính chất lịch sử liên tục. Mọi thứ vận động văn hóa đều có tính cách thời gian và lịch sử. Tuyên chiến với quá khứ là một điều vô nghĩa, vì sáng tạo nhất là sáng tạo trong văn hóa văn nghệ luôn luôn là sáng tạo trong một không gian và thời gian: “Từ chối đối thoại với quá khứ bao gồm ý nghĩa chối bỏ quá khứ. Thử hỏi người ta có thể làm một cuộc thanh toán với quá khứ và các anh, các anh có thể làm gì được trước quá khứ của các anh, trước nghệ thuật tiền chiến? Khi các anh dứt khoát lật nhào quá khứ, các anh đã mặc nhiên công nhận – và đây là một trong những thất bại đầu tiên – là quá khứ ấy chưa hẳn đã đi qua, đã thành xác chết. Sự hiện diện của quá khứ trong lòng nghệ thuật hôm nay, không phải là một hồi quang đơn giản mà tự nó đã là một thực tại, một vấn đề, một dấu hỏi, một thách đố… …Bởi vậy là một vô lý nếu không nói là một nông nổi lãng mạn khi chúng ta nhân danh một nghệ thuật để lên án một nghệ thuật. Nghệ thuật là một trong thể hiện lớn lao nhất của tự do con người…. Thái độ cần thiết là xem nghệ thuật tiền chiến như bất kỳ một nghệ thuật nào – là một công trình nhân loại, một sự sống và tác phẩm chính là thể hiện sự sống… Nói đến một xác chết nghệ thuật là một cái gì không thể quan niệm được…. ….Thời đại chúng ta không thể giải thích bằng những danh từ im lìm băng giá của tâm lý học, xã hội học, siêu hình học. Sự thật và cuộc sống không nằm trọn trong những danh từ ấy. Tại sao lại phẫn nộ hoang mang, thắc mắc, quằn quại trước thực tại vì thử hỏi khi đó cuộc đời có thay đổi chút nào không hay nó vẫn tràn đầy ra đó, ương ngạnh và tự do. Nó vẫn không thay đổi với người học trò vẫn đi học, người thợ vẫn âm thầm làm việc, nó vẫn gần gũi và xa cách chúng ta muôn trùng. Một nhà văn Mỹ, Kerouac đã nói:“Tôi sẽ phải chọn lựa giữa văn nghệ và nghề lái xe chạy trên các con đường trong nước Mỹ. Tôi nghĩ rằng tôi nên chọn nghề lái xe vì ở đó tôi sẽ không phải phát biểu gì cả mà tất cả đều có thực.” Chúng tôi tìm thấy trong lời nói ấy một thái độ nghệ thuật lớn lao, dũng cảm mà mọi chủ trương nghệ thuật kết bằng những danh từ, những lý thuyết suông không thể so sánh được. Vì cuộc đời vẫn tiếp diễn, bất khả xâm phạm trong khi những tác phẩm nghệ thuật vẫn tiếp tục ra đời và tạo nhiều giông bão trong những câu chuyện vô trách nhiệm quanh những tách càphê…”. Tác giả Huỳnh Phan Anh và Dương Trần Thảo (Trích tuần báo Mã Thượng xuất bản năm 1961 tại Sài Gòn) Thời sinh viên và tự do tư tưởng Huỳnh Phan Anh và tôi cùng đậu vào trường Đại học Sư phạm Đà Lạt giữa năm 1961. Hai chàng trẻ tuổi đầy ước mơ và tham vọng làm một chuyện mới trong thực trạng văn hóa thời đó. Ở Đà Lạt trong khung cảnh nên thơ của xứ thông reo và xứ hoa đào, chúng tôi vùi đầu vào sách vở triết lý tôn giáo, xã hội học, văn chương hiện thực, hiện sinh. Giữa vòng tay của tôn giáo và giáo điều, những chàng thanh niên đó mơ làm kẻ nổi loạn, vô thần, không tin có Chúa ở trên trời. Tôn giáo là cái mũ, cái áo mặc ngoài, con người đàng sau và bên trong vỏ bọc là gì? Thần thánh hay trần tục. Xác thịt hay cao thượng. Tất cả là sản phẩm của suy tư được nhào nặn trong thực tế va chạm của cuộc sống. Chỉ có con người tự quyết định và làm nên số phận của mình từng phút, từng giờ. Con người là sản phẩm của chính anh ta trong cuộc vật lộn với người khác, với môi trường và thế giới chung quanh. Con người tự quyết định lấy số phận của mình không ai sống dùm và sống thay kiếp sống của người khác. Tôi suy tư vậy là tôi hiện có. Tôi suy tư là tôi sống và quyết định đời sống của tôi mỗi giây phút đi qua. Giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, giữa giảng đường thênh thang lúc nào cũng ẩn hiện hình bóng Chúa, chúng tôi không một ngày đi nhà thờ cầu nguyện, cũng không một buổi ghé Chùa Linh Sơn tĩnh tâm. Chúng tôi lăn xả vào sách vở cũng như thả hồn suy tư, bay tản mạn theo khói thuốc lá, theo những dòng nhạc lãng mạn thời thượng hàng đêm ở quán Càphê Tùng. Tiếng hát u uẩn của Thuý Nga, tiếng hát da diết buồn của Thanh Thuý lúc nào cũng văng vẳng bên tai. Chúng tôi sống theo những suy nghĩ riêng vừa thu nhặt được từ sách vở hiện sinh, từ văn chương hiện thực xã hội. Sartre hay Camus ? Về tư tưởng triết học, về quan niệm văn chương hư vô hay nổi loạn. Goethe hay Kant? Jesus Christ hay Karl Marx? Tất cả chỉ là suy tư, giáo điều. Tất cả chỉ là tư duy của một thời kỳ (nghĩ như thế có chắc đúng không?!) Con người phải làm lại từ đầu và làm lại tất cả. Đó là sự sáng tạo, sự tiến lên của dòng chảy vận động văn hoá xã hội. Một cuộc phiêu lưu, va chạm trong tư tưởng không bến không bờ, phá vỡ các công thức, các giáo điều, các lý tưởng. Con người không phải là tượng đá. Con người luôn thay đổi, luôn hình thành. Tôi là ai ? Hôm nay và ngày mai. Đó là sự phát triển không giới hạn. Đó là tự do. Tự do tư tưởng là phá vỡ các giới hạn, các ràng buộc. Cách mạng tư tưởng là phá xiềng tinh thần. Điểm khởi đầu cho các xáo trộn và đổi mới xã hội. Những chàng thanh niên trí thức thời kỳ 1960-1963 sống trong tâm tình và suy tư tương tự như thế. Và vì không có một chỗ để đỡ đầu, để tựa lưng cho nên phương hướng của họ là sự vô phương hướng. Nhớ lại giai đoạn đó tôi và bạn bè thường sống trong nỗi suy tư và tâm tình của những kẻ nổi loạn (Revolté). Nhiều người đã nổi loạn và có lẽ đã may mắn, gặp con đường đi làm cách mạng theo kiểu cộng sản. Trong giới sinh viên Đại học Đà Lạt thời đó không thiếu những chàng trai âm thầm đi theo tiếng gọi của cộng sản. Võ Văn Điểm, Nguyễn Trọng Văn, sau nữa… Cao Thị Quế Hương… là thể hiện tích cực của những tình cảm nổi loạn, bức phá. Đại đa số đi theo chiều ngược lại. Hiện sinh, vô thần, không chấp nhận khuôn thước, rào cản, luôn đi tìm cái mới. Trong số những người này có Huỳnh Phan Anh, Huỳnh Đạt Bửu, Võ Văn Bé, Tô Văn Lai, Huỳnh Quan Trọng…và nhiều thanh niên khác đứng giữa dòng cộng sản và tôn giáo. Chúng tôi đi không bến không bờ Trước mặt là dòng sông, sau lưng là nghĩa địa (thơ Tô Thuỳ Yên, nhóm Sáng Tạo) Não trạng sống của trí thức Sài Gòn, trí thức miền Nam thời bấy giờ tương tự như thế. Còn ngày mai sẽ ra sao? Đó là những bến bờ không định trước được của lịch sử. Tôi và nhiều bạn bè đã rời ghế trường đại học trong hoàn cảnh suy tư đó. Chúng tôi đã bị xô đẩy và vùi dập bởi nhiều cơn sóng lớn nhỏ của lịch sử kể từ 1965 về sau này… Chương 2: ĐẢO CHÁNH HAY CÁCH MẠNGanhbasam.wordpress.com/2015/02/04-03-2015 Tháng 9-1963, tôi được tiếp nhận vào dạy môn Quốc văn ở bậc Trung học Đệ nhất cấp tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt Nhớ một hôm trong tháng 8 năm ấy, tôi đột nhiên được Cha Viện trưởng Đại học Đà Lạt gọi lên văn phòng. Ngài trao cho tôi quyết định của Nha Đại diện Giáo dục Trung phần do ông Tôn Thất Chước ký quyết định bổ nhiệm làm giáo sư dạy giờ tại trường Trung học Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Cha Lập, Viện trưởng có hỏi tôi do đâu, trong lúc còn đi học năm cuối cùng của trường Đại học Sư phạm, lại được thu dụng dạy giờ. Tôi thành thật báo với Cha Viện trưởng, do lấy vợ sớm cần tiền để sống, tôi có nhờ gia đình bên vợ xin với ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Phủ Tổng thống can thiệp với Bộ Giáo Dục. Đời là một vở kịch Bước vào đời tìm sự sống, tôi đã được một “ông lớn” giúp đỡ. Dù vậy, trong đầu óc chàng thanh niên mới lớn, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Cẩn vẫn là thể hiện sinh động của chế độ gia đình trị. Đối với nhiều thanh niên trí thức thời bấy giờ, chế độ Ngô Đình Diệm là chế độ độc tài phong kiến bị bà Trần Lệ Xuân thao túng ở trong Nam, còn ở ngoài Huế, ông Cố “Trầu “ làm vương một cõi. Đảng Cần Lao Nhân Vị là một Đảng cầm quyền dựa trên thuyết “nhân vị”, một lý thuyết vừa triết học, vừa chính trị theo kiểu đầu đụng trời mà chân không đạp đất. Thuyết nhân vị dựa trên tôn giáo là Công giáo nhưng nhấn mạnh con người có bản thể riêng. Chế độ Ngô Đình Diệm hô hào phát huy vị trí của con người nhưng là con người hữu thần theo Kitô giáo. Nếu không phải là người Kitô giáo thì đáng nghi. Do đó phải kềm kẹp, nếu không sẽ bị vô thần cộng sản tha hóa . Chính dựa trên nền tảng giáo điều nầy mới phát sinh chiến dịch đàn áp Phật giáo ở miền Trung, ngòi nổ làm sụp đổ chế độ nhà Ngô. Thuyết nhân vị vấp phải sai lầm lớn trong một đất nước đa số dân theo đạo Phật. Chủ nghĩa nhân vị đã tự đào hố chôn mình khi đối đầu với thực tế đa nguyên, đa giáo tại Việt Nam. Tôi nhận được tin Sài Gòn có đảo chánh, Ngô Đình Diệm đã bị lật đổ chiều ngày 1-11-1963 khi đang dạy Việt văn cho lớp đệ thất ở trường Trần Hưng Đạo. Cả thầy lẫn trò lúc đó nhốn nháo, lớp học được cho tan sớm. Ngoài chợ Đà Lạt chung quanh công trường Hoà Bình, từng đoàn Phật tử mặc áo nâu sòng, áo già lam, tuần hành miệng hô khẩu hiệu “đả đảo chế độ độc tài Ngô Đình Diệm”. Sáng hôm sau, tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt, ông hiệu trưởng Kỳ Quan Lập cho tập họp toàn thể học sinh trước sân trường để nghe chính quyền mới phổ biến tin tức cách mạng. Trung tá Đinh Văn Đệ (tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Đức) và Đại uý Lâm Thành Gia (trưởng ty cảnh sát) đại diện cho Hội Đồng Cách Mạng xuất hiện trước hàng ngàn học sinh và cô thầy giáo, công bố “Hội Đồng tướng lĩnh cách mạng đứng đầu là đại tướng Dương Văn Minh đã lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Việt Nam Cộng Hoà bắt đầu sống trong chế độ tự do, tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, không phân biệt tôn giáo. Mọi người đều bình đẳng tự do trước pháp luật. Đất nước bước vào một thời kỳ mới, an ninh trật tự đã được vãn hồi, mọi sinh hoạt vẫn tiếp tục bình thường, trường học tiếp tục mở cửa, các em học sinh tiếp tục tới lớp học như thường”. Cả sân trường vang dậy tiếng vỗ tay, mọi người thầy trò đều hoan hỷ. Lúc đó nhìn gương mặt Trung Tá Đinh Văn Đệ vô cùng hớn hở. Sau này khi gặp lại ông cựu Tỉnh Trưởng Tuyên Đức, tại Hạ Nghị Viện Sài Gòn, tôi nhận thấy gương mặt ông vẫn không có gì thay đổi. Khi phát biểu những ý kiến căng thẳng, gương mặt đó vẫn đỏ bừng lên như hồi còn thanh niên trong cương vị “Ông Sếp” quyền lực ở xứ hoa đào. Ông Đệ cuối năm 1963 đóng lon Trung Tá tỉnh trưởng Tuyên Đức, người đứng về phe Dương Văn Minh. Năm 1967, ông Đệ ứng cử dân biểu Đà Lạt, đắc cử vào Hạ Nghị Viện. Ông Dân biểu Đệ theo phe thân chính phủ, ủng hộ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Cũng như bao dân biểu thân chánh khác, mỗi lần bỏ phiếu ủng hộ các quyết định của chánh quyền hoặc mỗi lần bỏ phiếu ủng hộ các dự án luật do Hành Pháp đề xuất, các dân biểu thân chánh đều được ông Phụ tá Tổng thống Nguyễn Cao Thăng, nhà tỷ phú thuốc tây OPV, gởi bao thư quà cáp. Giá trị lá phiếu thân chính quyền được tính bằng tiền. Một lá phiếu 300.000 đồng (2.000 đô la Mỹ). Một năm thông qua khoảng 10 dự luật, mỗi dân biểu thân chính quyền được bỏ “bao thư” chu cấp khoảng 4.000.000 đồng tương đương 35.000 đô la Mỹ. Lương dân biểu hồi đó 1.400 đô la Mỹ/tháng. Tổng cộng các dân biểu thân chính quyền mỗi năm thu được lợi nhuận trên 50.000 đô la Mỹ. Món tiền béo bỡ đó, ông Đinh Văn Đệ đương nhiên được hưởng. Nhưng có ai ngờ, sau giải phóng, người theo dõi thời cuộc mới vỡ lẽ ra Trung Tá Đinh Văn Đệ, cựu Tỉnh Trưởng Tuyên Đức, cựu Dân biểu Hạ Nghị Viện, cựu Chủ tịch Uy ban Quốc phòng Hạ Nghị Viện, từng là trưởng phái đoàn Quốc Hội Việt Nam Cộng Hoà được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cử sang Mỹ giải độc (1972), lại là một nhân vật Việt Cộng nằm vùng. Một số hồ sơ và tài liệu mật của Quốc Hội thời đó, liên quan đến Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng Hoà, ông Đinh Văn Đệ đã gởi báo cáo cho bên trong. Sau năm 1975, ông Đệ có lúc làm chánh văn phòng của ông Ủy viên Bộ Chính trị Võ Văn Kiệt. Ông Đệ hoạt động đàng sau hậu trường. Giờ đây ông đã về hưu, đi tu theo đạo Cao Đài Tây Ninh. Gia đình yên ấm, con cái đàng hoàng, người nào cũng có tài sản riêng. Cô Đinh Thanh Tùng, con Trung tá Đệ là chủ khách sạn Trúc Mai. Với nhiều chi nhánh tại Quận Phú Nhuận, Quận Gò Vấp và cũng có hoạt động karaoke . Hồi chinh chiến làm “Việt Cộng” nằm vùng, đồng thời làm quan lớn trong chế độ cũ, làm nhà hoạt động chính trị có uy thế, ông đi đêm âm thầm phục vụ cho cách mạng. Thời bình đi tu và an dưỡng tuổi già, trong khung cảnh con cái đều có sản nghiệp do ông để lại. Đời là vở kịch, ông Đệ đã đóng vai của ông rất giỏi, chế độ cũ đã không phát hiện được. Công trạng của ông đối với cách mạng chắc không phải là nhỏ. Ai giết Ngô Đình Diệm Có một vấn đề trong cuộc đảo chính 1-11-1963 mà cho tới nay nhiều người vẫn còn thắc mắc, chưa có một tài liệu nào kết luận rõ ràng, đó là: Ai đã giết Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhìn hiện tựơng bề ngoài, dư luận có thể cho rằng quân đảo chính đã bắn chết Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhưng quân đảo chính là ai, ai đã ra lệnh giết, và ai đã giết? Tại sao phải giết mà không để cho sống hầu đưa ra công luận xét xử công tội? Có cơ hội sống cùng với Bộ tham mưu của tướng Dương Văn Minh từ cuối năm 1971 đến sau năm 1975 tôi có các ghi nhận sau đây : - Tướng Dương Văn Minh có tình cảm quý trọng Ngô Đình Diệm và không có ân oán gì riêng với Ngô Đình Nhu. Cho nên khi làm đảo chính, tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh bắt Tổng thống Diệm và Ngô Đình Nhu để sau này xét xử. Dương Văn Minh quý trọng Ngô Đình Diệm vì hiểu rằng Ngô Đình Diệm là một quan lại yêu nước. Diệm sống không có gì riêng cho bản thân, thậm chí chẳng có vợ con. - Cá nhân Tổng thống Diệm đối xử với Dương văn Minh bằng sự nể vì sau khi tướng Dương Văn Minh đánh thắng chiến dịch Hoàng Diệu, dẹp yên Hoà Hảo ở miền Tây và dẹp yên Bình Xuyên ở mạn Nhà Bè Chợ Lớn (các con hùm xám Chợ Lớn và Miền tây như Bảy Viễn, Năm Lửa, Ba Cụt đều bị xoá sổ), Ngô Đình Diệm thưởng công cho Duơng Văn Minh bằng cách ban tặng cho vị tướng cao to da ngâm đen này căn biệt thự với khuôn viên 2500 m2 tại số 3 đường Trần Quý Cáp Q.3 Sài Gòn (căn biệt thự này có mặt tiền ở số 98 đường Hồng Thập Tự). Tướng Dương Văn Minh từ chối không nhận ban tặng chỉ xin Tổng thống Ngô Đình Diệm được mua nhà để ở. Diệm rất khôn ngoan, đồng ý bán căn nhà lịch sự đó cho tướng Dương Văn Minh với giá 1 đồng bạc danh dự. Dương Văn Minh trở thành chủ căn biệt thự có giấy tờ mua bán hợp pháp. Ông đã biến nơi này thành Biệt thự Hoa Lan. Sau 1975 chính quyền mới vẫn không tịch thu nhà của Dương Văn Minh, ông tiếp tục sống ở đó đến khi được chính phủ mới chấp nhận cho đi Pháp. Có sách ngoại quốc nói rõ người điều khiển việc bắt giết Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là Trung tướng Mai Hữu Xuân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tướng Xuân là người thân tín với Dương Văn Minh. Rất có thể tướng Xuân đã ra lệnh bắn chết Diệm, Nhu để tuyệt trừ hậu hoạ. Người thi hành lệnh bắn là Thiếu tá Nhung, một trong những cận vệ của tướng Minh. Tướng Mai Hữu Xuân trực tiếp chỉ huy việc tiến chiếm Dinh Gia Long, ông chịu trách nhiệm về cái chết của Diệm, Nhu với tư cách người chỉ huy trực tiếp trận đánh. Nhưng một vấn đề chưa sáng tỏ là ông Xuân thi hành lệnh của Dương Văn Minh hay tự ý quyết định tại mặt trận. Giết Diệm, Nhu để tránh hậu họa, một giả thuyết hợp lý đối với một con người mưu lược như ông Mai Hữu Xuân. Thiếu tá Nhung, trong cuộc chỉnh lý của Nguyễn Khánh, bị phe chỉnh lý bắt về Bộ Tổng tham mưu, ông ta bị thắt cổ chết trong toilet. Nhiều người cho rằng đó là sự trả thù của nhóm sĩ quan thân cận Diệm, Nhu nắm thế lực trong cuộc chỉnh lý. Trên đây là những ghi chép theo tường thuật và phỏng đoán của báo chí, của các ký giả nước ngoài có mặt tại Sài Gòn thời đó. Về phần Dương Văn Minh ông chưa lần nào lên tiếng nói rõ vấn đề này. Dù có ra lệnh giết hay không, tướng Minh vẫn chịu trách nhiệm trước lịch sử về cái chết của Diệm, Nhu. Công hay tội? Đối với đa số nhân dân miền Nam, Diệm Nhu chết làm cho mọi người hả hê. Nhưng đối với một bộ phận công giáo, đó là một mối oan cừu. Cách mạng hay đảo chính đương nhiên phải có chết chóc, phá vỡ, đạp đổ. Cuộc phá vỡ đó có lợi cho đa số. Tác phong hiền hoà từ tốn của Dương Văn Minh trước mắt quần chúng gây được nhiều cảm tình nhưng chính quyền của tướng Dương Văn Minh chỉ tồn tại trong khoảng 8 tháng, sau đó bị Nguyễn Khánh lật đổ. Sự kiện Dương Văn Minh bị lật đổ, có nhiều giả thuyết và nhiều giải thích khác nhau. Một là: – Dương Văn Minh là một nhà quân sự, không có tài làm chính trị. Chính quyền của ông không được sự ủng hộ của nhiều thế lực. - Thế lực chống đối ngấm ngầm nhưng mãnh liệt là các nhóm công giáo đã từng được Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu sủng ái. Cụ thể nhóm công giáo ở Đồng Nai (Hố Nai – Bùi Chu, Phát Diệm). - Ngay trong các thế lực Phật giáo, tướng Dương Văn Minh cũng không được sự ủng hộ hoàn toàn. Đối với các Thượng toạ miền Bắc, như Thượng toạ Thích Tâm Châu, Thượng toạ Hộ Giác, Thượng toạ Thiện Minh, Thượng tọa Thích Tâm Giác, tình cảm đối với chính quyền của tướng Minh không được mặn nồng nếu không muốn nói có sự ngấm ngầm chống đối - Tướng Dương Văn Minh đã sai lầm lớn khi bổ nhiệm ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Thủ tướng đầu tiên sau cách mạng. - Nguyễn Ngọc Thơ trước mắt quần chúng là người của Tổng thống Diệm. Chính quyền Cách mạng không thể thối thân từ cái cũ. Sử dụng ông Thơ, ông Minh đã tạt gáo nước lạnh vào ngọn lửa đang bùng cháy trong quần chúng. Ông Thơ và ông Minh là bạn thân. Dù ông Đốc Phủ Thơ của xứ Long Xuyên là nhà hành chính tài giỏi lại uyên thâm về kinh tế, nhưng tên của ông đã cháy nhiều năm khi ông phò tá Ngô Đình Diệm. - Làm cách mạng mà dùng cái cũ để thay thế cái cũ, ông Minh đã tự đốt hình ảnh thần tượng của mình, đặc biệt trước mắt quần chúng thanh niên. Hai là: - Tướng Dương Văn Minh có người em ruột là Thiếu tá Dương Văn Nhựt (sau giải phóng, đeo lon Thượng tá) sĩ quan tình báo quân đội Miền Bắc. Hà Nội có nhiều lần sử dụng ông Nhựt làm cầu nối với ông Minh, tình báo Mỹ biết điều này: Tướng Minh không phải là người được CIA Mỹ tin cậy (Dương Văn Minh và Dương Văn Nhựt tuy là hai anh em ruột nhưng cá tính khác nhau, thực tế họ không thuận thảo với nhau lắm. Mặc dù, lúc ông Nhựt đi tập kết, Tướng Dương Văn Minh nuôi nấng hầu hết ba đứa con gái của ông Nhựt; những người này đều ăn học thành tài). - Tướng Minh không ủng hộ việc đưa quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Tướng Minh cũng không ủng hộ việc dội bom Bắc Việt, không ủng hộ giải pháp đưa quân đội miền Nam cùng với quân đội Mỹ trực tiếp tấn công ra Bắc. Vì những điểm khác biệt then chốt, chinh quyền Mỹ trực tiếp là CIA lúc đó không thể để cho Dương Văn Minh tồn tại lâu dài. Cuộc chỉnh lý do Nguyễn Khánh thực hiện không thể tách khỏi sự dàn dựng của CIA. Dương Văn Minh bị lật đổ cùng với các tướng lĩnh như Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính. - Nguyễn Khánh cầm đầu cuộc chỉnh lý Dương Văn Minh nhưng Nguyễn Khánh không tồn tại lâu, vì sau đó Mỹ đã sữ dụng ngay lá bài Thiệu – Kỳ, những tướng lãnh trẻ được Mỹ trực tiếp nhào nặn sau thời kỳ 1954. - Lật đổ Dương Văn Minh do Mỹ dàn dựng. Lật đổ Ngô Đình Diệm cũng có sự dàn xếp giữa Dương Văn Minh và Trung tướng Times, tướng CIA làm việc thường xuyên bên cạnh ông Minh. Nếu Dương Văn Minh không ngoan cố, mà chịu nghe theo lời của Đại sứ Mỹ Cabot Lodge, có lẽ đã không có cuộc chỉnh lý của phe Nguyễn Khánh. - Dương Văn Minh không hoàn toàn đồng ý với sách lược chiến tranh của Washington nhưng việc Dương Văn Minh lưu vong sang Bangkok tị nạn chính trị có bàn tay sắp xếp của chính quyền Mỹ với Chính phủ Thái Lan. Dương Văn Minh là một lá bài còn sáng trong canh bạc của Mỹ ở Đông Dương nên ông vẫn tồn tại và sống ở Bangkok trong sự bao che, kính trọng của Chính phủ Thái Lan. Một phần chi phí của Tướng Minh và Đoàn tuỳ tùng trong thời gian lưu vong vẫn do Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng Hòa đài thọ. Các sĩ quan cấp Tá bên cạnh Tướng Minh vẫn lãnh lương và lên lon theo niên hạn. Ở Bangkok Dương Văn Minh sống trong một biệt thự sang trọng. Quân đội Thái Lan dành cho Tướng Minh những sự ưu đãi. Hàng tháng đều có gặp gỡ giữa Tướng Minh và các tướng lãnh cao cấp của Thái. Tướng Minh là hội viên danh dự của Câu lạc bộ Thể thao Hoàng gia Thái Lan. Tướng Mỹ Times đếnThái Lan thường xuyên và chơi tennis cùng Tướng Minh để giải trí. Một “con cọp” được chăm sóc kỹ lưỡng trong cái chuồng sang trọng chờ thời. Thời cơ lại đến với Tướng Minh sau biến cố Tết Mậu thân 1968. Sự kiện 1-11-1963 nên gọi là đảo chính hay cách mạng? Về tầm vóc đó chỉ là một cuộc đảo chính. Phe quân sự, cầm đầu là Tướng Minh với sự ủng hộ ngấm ngầm của Mỹ đã lật đổ chế độ độc tài nhà Ngô. Nhà Ngô chấm dứt rất hợp với lòng đa số nhân dân miền Nam thời bấy giờ. Sụp đổ cùng Ngô Đình Diệm, có sự sụp đổ của phe Công giáo thống trị. Nhờ đó, các tôn giáo khác như Phật giáo, Cao Đài mới có điều kiện thuận lợi để phát triển và tham gia chính trị. Dưới góc độ này, sự kiện 1-11-1963 có thể gọi được là một cuộc cách mạng: dẹp bỏ bè nhóm thống trị cũ, tạo điều kiện cho một thời kỳ mới, cho sự vươn lên của nhiều lực lượng mới. Nhưng cách mạng 1963 đã chết non, những người tạo nên nó cũng thuộc về giai cấp thống trị đương thời và lâu đời. Họ cũng là sản phẩm của công cuộc đô hộ miền Nam Việt Nam từ thời Pháp thuộc bước qua thời Mỹ can thiệp. Họ không nắm được các tổ chức quần chúng, không có được sự ủng hộ mạnh mẽ của các tôn giáo, họ chỉ là những quân cờ trong canh bạc chính trị của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Vẫn còn vai trò tương lai Giữa năm 1968, trong kỳ nghỉ hè của Quốc hội, một đoàn dân biểu trẻ của Việt Nam Cộng Hòa, trên đường đi thăm xã giao các nước Đông Nam Á có ghé qua Bangkok -Thái Lan 5 ngày. Đoàn này gồm các Dân biểu Dương Văn Ba (Bạc Liêu), Trương Vĩ Trí (Chợ Lớn), Trần Minh Nhựt (Biên Hoà), Nguyễn Văn Quí (Hậu Nghĩa), Nguyễn Văn Tiết (Long An). Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Bangkok lúc đó là luật sư Đinh Trình Chính, người thân cận với Nguyễn Cao Kỳ. Thủ tướng Thái Lan Thanom Kittikachorn tiếp đoàn dân biểu đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa thăm Thái Lan. Cuộc tiếp kiến kéo dài 25 phút. Thủ tướng Thái bày tỏ sự băn khoăn về những bất đồng chia rẽ trong nội bộ miền Nam Việt Nam bấy giờ, và cũng bày tỏ ý kiến ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa chống Cộng, nhưng mong muốn phía Việt Nam Cộng Hòa phải đoàn kết hơn nữa mới có thể đối đầu với cộng sản ở Miền Bắc. Đoàn dân biểu này có yêu cầu Đại sứ quán Việt Nam Cộng Hòa sắp xếp để được thăm xã giao Tướng Dương Văn Minh. Đại sứ Đinh Trình Chính đồng ý tổ chức cuộc gặp gỡ. Tướng Dương Văn Minh đã gặp Đoàn dân biểu miền Nam tại Câu lạc bộ Thể thao Hòang Gia Thái Lan trong hơn 60 phút, vào một buổi chiều nắng đẹp . Trong cuộc gặp gỡ Tướng Minh bày tỏ ý muốn về Sài Gòn, chấm dứt thời kỳ lưu vong. Ý kiến này được các dân biểu trẻ trong đoàn sốt sắng ủng hộ. Tướng Minh nói “sống ở đây thấy đất nướcThái Lan hòa bình và phát triển, họ tiến bộ hơn Việt Nam nhiều mặt. Tôi cảm thấy buồn vì quê nhà đang tiếp tục chịu đựng chiến tranh. Vấn đề của người Việt chúng ta hiện nay là phải làm sao cho sớm có hòa bình. Tôi rất mong các vị dân biểu trẻ đại diện cho xu hướng tiến bộ trong nước, tích cực góp sức tìm kiếm hòa bình cho quê hương. Hòa bình tôi muốn nói đây là hòa bình dân tộc, giữa người Việt Nam với nhau”. Ý tưởng hoà bình dân tộc, Tướng Minh đã mớm vào đầu các thanh niên trí thức miền Nam trong cuộc gặp gỡ đó, tại Bangkok vào tháng 6 năm 1968. Sau khi về nước những dân biểu này đã tích cực vận động phong trào đòi đưa Tướng Dương Văn Minh về Sài Gòn, trên các nhật báo lớn. Đầu tiên là tờ Trắng Đen của Việt Định Phương, với ý kiến hô hào của dân biểu Ngô Công Đức đòi thành lập tổ chức nhân dân vận động Dương Văn Minh về nước. Tiếp theo là các tờ báo khác như tờ Tiếng Nói Dân Tộc của Lý Quý Chung, tờ Thời Đại Mới của Nguyễn Kiên Giang. Dư luận báo chí chín muồi, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu –Nguyễn Cao Kỳ buộc phải cho Tướng Minh trở lại Sài Gòn vào đầu 1969. Ngày Dương Văn Minh về nước, báo chí Sài Gòn rầm rộ hô hào ủng hộ, sân bay Tân Sơn Nhất đầy nghẹt người ra đón chào sự trở về của người anh hùng cách mạng 1963.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 4:17:45 GMT 9
Những Ngã Rẽ – Chương 3
Posted by adminbasam on 07/03/2015
Viet-studies
Chương 3: DẠY HỌC
05-03-2015
Những người Thầy và những ngôi trường muôn đời
Tháng 8 năm 1964, từ Đà Lạt, tôi được bổ nhiệm về Mỹ Tho dạy tại trường trung học Nguyễn Đình Chiểu .
Ở miền Nam, thời thực dân Pháp có bốn trường trung học lớn do nhà nước thành lập :
- Sài Gòn có trường trung học Pétrus Ký, trường Gia Long dành cho nữ sinh đi học mặc áo dài tím, còn gọi là trường áo tím
- Mỹ Tho có trường trung học Ecole le Myre de Vilers sau này đổi lại là trung học Nguyễn Đình Chiểu.
- Cần Thơ có trường trung học Phan Thanh Giản, nơi đào tạo các học sinh giỏi thuộc lưu vực sông Hậu Giang như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc.
Trường Nguyễn Đình Chiểu đón rước học sinh Tân An, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Bến Tre, Cao Lãnh.
Từ năm 1965 trở về trước đó, đỗ bằng thành chung (Diplôme), đỗ bằng Brevet, đỗ tú tài I – tú tài II, đã được coi là có học thức. Nhiều thanh niên vác được các mảnh bằng đó ra đời kiếm cơm khá dễ.
Ba trung tâm giáo dục Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ đã đào tạo nên nhiều thế hệ thanh niên yêu nước.
Các trường này cũng từng là cái nôi của nhiều phong trào đấu tranh học đường, sản sinh ra nhiều lớp thanh niên ưu tú yêu nước, yêu tự do dân chủ, đòi hỏi công bằng xã hội. Họ là nồng cốt thúc đẩy bước tiến lên của dân tộc.
Viết lại lịch sử của các nhà trường lớn, lập phòng truyền thống của các nhà trường là một điều nên làm. Trước 1975, rất ít trường ghi lại lịch sử của mình để các thế hệ tiếp nối có thể hiểu được thêm một khía cạnh văn hoá của các lớp đàn anh. Giữ gìn truyền thống học đường, ghi chép lịch sử của các lớp thầy cô giáo, của các thế hệ học sinh là lưu giữ cho mai sau những dấu tích văn hoá của từng khu vực tiến bộ xã hội.
Mỗi đầu năm học, mỗi cuối năm, các trường nhắc lại quá khứ của mình để thầy cô giáo và học sinh biết rõ mình đang đứng ở đâu vào thế hệ thứ mấy được sản sinh từ trong lòng các mái trường. Có nhắc, có ôn lại mỗi bước đi, mỗi sự lớn lên, thay hình đổi dạng, con người mới nhớ lại mình là ai, đang ở đâu, được nhào nặn thế nào và biết mình sẽ làm gì, phải làm gì khi bước ra khỏi mái nhà của thời niên thiếu.
Các trường học của quê hương đã mọc lên từ thưở nào, đã trải qua bao nhiêu giông tố của lịch sử, các trường vẫn không già, vẫn cho ra bao lớp tài năng. Nhà trường, một chặng đường được nhào nặn với bao nhiêu kỷ niệm, suy tư, trăn trở, tiếp thu để lớn lên, để định hình con người, thật không thể nào quên được.
Cha mẹ đẻ ra thân xác này, nhà trường với các thầy cô đẻ ra khối óc này, trái tim này. Ôi! Những mái nhà thân yêu của vạn vạn người con, của hàng triệu trái tim khối óc, các trường đã thổi cho mỗi người chúng ta thành những Phù Đổng của tương lai. Những thầy cô thân yêu trong cuộc sống của học trò luôn có hình bóng, cử chỉ, suy tư, luôn có tấm lòng của các người.
Nguyễn Đình Chiểu, Pétrus ký, Phan Thanh Giản, Gia Long, Chu Văn An, Taberd, Võ Trường Toản, Jean Jacques Rousseau… và hàng trăm hàng ngàn trường khác ở khắp mọi miền, các người, những người thầy vĩ đại của lịch sử đã hun đúc tim óc của mai sau, chúng con xin dâng tặng các người những bông hoa tươi thắm nhất.
Niên học 1964-1965, trường trung học Nguyễn Đình Chiểu có ba thầy dạy triết học.
Thầy Trần Quang Minh phụ trách lớp Đệ nhất C (văn chương) và hai lớp Đệ nhất B (toán), thầy Phạm Thanh Liêm phụ trách ba lớp Đệ nhất B và tôi phụ trách ba lớp Đệ nhất A. Thầy hơn trò khoảng 5-6 tuổi. Lớp học trao đổi với nhau thoải mái. Các thầy luôn đặt ra các vấn đề. Triết học là đối thoại tìm hiểu, phân tách và tổng hợp, kể cả phê phán.
Trình độ ABC trong triết học nhập môn, thầy cố gắng mở các cánh cửa của các giáo điều để học sinh nhìn thấy bầu trời tư tưởng rộng thênh thang, không đóng kín, không dừng lại ở những tín điều cũ kỹ.
Triết học là đi tìm, là tập cách suy tư, cách đặt các vấn đề, là tìm giải đáp cho các vấn đề của đời sống vật chất, đới sống tâm linh và đời sống xã hội.
Kiếp người là kiếp diễn biến, luân lưu không bao giờ dậm chân tại chỗ. Có chăng định mệnh? Tôn giáo là gì? Giải quyết các vấn đề nào của đời sống tinh thần? Chủ nghĩa vô thần đúng hay sai? Thuyêt hữu thần đúng chỗ nào? Con người nương dựa vào đấng tối cao hay nương tựa vào nhau? Karl Marx là ai? Chủ trương duy vật của ông sẽ đẩy xã hội đến đâu?
Suy tư triết học là suy tư tìm cội nguồn, căn nguyên. Thầy và trò quần thảo nhau mỗi tuần 3 – 4 giờ cho một lớp học. Các em sắp kết thúc lớp cuối cùng của chương trình trung học phổ thông, đi vào đời, đi vào đại học, các em cần được khêu gợi các vấn đề căn bản của cuộc sống xã hội. Thầy đã làm công việc đó với tư cách của người mở cửa chào đón và giới thiệu chương trình. Các em hãy suy nghĩ ngay từ hôm nay về cuộc sống cơ bản của mình, hãy lựa chọn, hãy quyết định.
Đạo là con đường. Đạo đức là con đường dẫn tới cuộc sống có ánh sáng văn hoá, văn minh. Đại học là phương pháp giúp con người đi vào văn minh. “Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chí ư chí thiện”.
Những giờ triết học ở lớp Đệ nhất là những giờ thầy bắt đầu mở cửa cho các em đi vào một thế giới đầy rẫy những vấn đề ngổn ngang của cuộc sống bản thân và xã hội. Bản thân thầy cũng phải đi tìm như các em. Rồi mỗi người phải tự đi tìm cách sống, con đường sống thích hợp riêng. Thầy cùng các em đặt vấn đề. Thầy gợi ý một số cách trả lời. Các em có câu trả lời cho riêng mình trước xã hội, trước tâm linh, trước gia đình, trước kẻ khác. Đó là mục tiêu cốt lõi của môn triết học vào năm cuối cùng của bậc trung học.
Thầy giáo xưa được trọng vọng
Lương thầy giáo cấp 3 (hồi trước gọi là Trung học Đệ nhị cấp) mỗi tháng được 7.800 đồng (bảy ngàn tám trăm đồng) vào năm 1964. Mỗi tuần tôi dạy nghĩa vụ chinh thức 16 giờ. Ngoài ra, thầy nào cũng có cơ hội dạy thêm giờ phụ trội. Tôi được ông Giám học trường Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ là ông Lâm Văn Trân, người Châu Đốc, phân thêm 16 giờ phụ trội.
Mỗi giờ thù lao nhà nước chi trả thêm là 100 (một trăm đồng). Hàng tháng tôi lãnh thêm 6.400 (sáu ngàn bốn trăm đồng) tiền lương phụ. Tổng cộng mỗi tháng tôi được hưởng 14.200 (muời bốn ngàn hai trăm đồng).
Ở Mỹ Tho tôi mướn căn nhà 400đ/tháng, chi tiền gạo, chợ, tiền điện nước mỗi tháng thêm 1.200đ (một ngàn hai trăm đồng). Tiền xài lặt vặt cà phê, ăn sáng, nhậu lai rai mỗi tháng 500đ (năm trăm đồng). Tổng chi phí gia đình thầy giáo một vợ hai con năm 1965, sống phủ phê là 4.000đ (bốn ngàn đồng). Vàng y (vàng 24 cara) lúc đó giá 4.000đ / lượng. Hàng tháng tôi vẫn có dư để dành gần 2 lạng vàng.
Các thầy dạy môn Toán, Lý Hóa, Anh văn dạy phụ trội mỗi tuần 25 giờ. Dạy thêm ngoài trường tư 10 – 5 giờ mỗi tuần. Vừa dạy chính thức tại trường nhà nước lại dạy thêm cho trường tư, có thầy như thầy Bùi Văn Chi (dạy toán), thầy Lê Phú Thứ (dạy Anh văn), mỗi tháng thu nhập đến 40 – 50 ngàn đồng (hơn 10 lạng vàng/tháng). Do đó, sau khi tốt nghiệp chừng 2 – 3 năm, các thầy có thể mua nhà lầu, xe hơi riêng.
Ở miền Nam vào những năm 1960 – 1970, thầy giáo trung học là niềm hãnh diện của nhiều gia đình. Có con gái ai cũng thích gả cho giáo sư trung học, vừa được tiếng tốt, vừa an toàn bản thân, vừa có tiền sống cuộc sống thanh thản đầm ấm.
Trước năm 1965 ngoài việc đi học kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, các thanh niên miền Nam sau khi đỗ tú tài đôi, có người còn đi học Trường Võ bị Quốc Gia Đà Lạt. Ở thành phố cao nguyên này, giáo sư và sĩ quan Đà Lạt là hai hình ảnh thân quen. Mỗi sáng chủ nhật, các sinh viên võ bị mặc lễ phục, các sinh viên Đại học Đà Lạt ăn diện đông đảo đi bát phố Hoà Bình. Ăn sáng ở phở Đắc Tín, phở Bằng, uống cà phê Tùng nghe nhạc lãng mạn thời thượng. Những hình ảnh thân quen đó của một thời vàng son cũ trên xứ hoa đào.
Chế độ cũ ưu đãi thầy cô giáo hơn các ngành khác của nhà nước. Các thầy giáo tiểu học bị bắt đi quân dịch 2 năm lại được trả về nhiệm sở cũ, các giáo sư dạy trung học được tiếp tục hoãn dịch cho đến năm 1968, sau biến cố Tết Mậu Thân mới bị tổng động viên. Sau 12 tháng ở trường học quân sự đa số các thầy dạy các môn quan trọng lại được biệt phái về ngành cũ. Trong khi dốc toàn lực cho chiến tranh, chế độ Thiệu vẫn cố gắng giữ thăng bằng và ưu tiên cho ngành giáo dục. Ngân sách của ngành giáo dục hàng năm vẫn được giữ trên 17% so với tổng chi phí nhà nước.
Thầy cô giáo dạy tiểu học từ trước năm 1954 đến về sau này vẫn là thành phần được trọng vọng trong xã hội. Các thầy cô giữ một chỗ đứng khiêm nhường nhưng vinh dự kể cả trong thời chiến. Cuộc sống giáo chức đạm bạc nhưng đầy đủ no ấm không thiếu trước hụt sau. Vì vậy, đa số các thầy cô giáo không phải làm thêm một nghề phụ để nuôi gia đình. Chất lượng giáo dục vẫn đủ đáp ứng tương đối cho nhu cầu tiến bộ của toàn xã hội. Thầy cô giáo và trường học là những thành trì đã cung ứng cho đất nước này biết bao nhân tài.
Ở Bạc Liêu, Cà Mau bao nhiêu lớp học trò lớn lên đã đi khắp mọi ngả đường tổ quốc. Có người đi Tây, đi Mỹ, có người làm tướng, làm quan, kỹ sư, bác sĩ, làm thợ, làm du kích, làm đặc công… nhưng không quên được các thầy đã rèn luyện cho mình từ tấm bé.
Thầy Nhạc, Đốc Lương, Đốc Chi, Đốc Hợi, Đốc Hỗ, Thầy Táo, Thầy Sáng, Thầy Quý, Thầy Cân… Cô Hương, Cô Tám, cô Lan, Cô Mót… bao nhiêu thế hệ thiếu nhi, thiếu niên đã đi qua trong đời, họ làm sao quên được, họ không thể nào quên thời kỳ mài đũng quần trên băng ghế trường xóm, trường làng, trường tỉnh… những người thầy của một thời khai sáng, khai tâm.
Thay đổi cái nhìn về một thời kỳ
Học đường của chế độ cũ đã sản sinh ra không biết bao nhiêu đứa con thân yêu sẵn sàng hy sinh theo tiếng gọi tổ quốc. Đứng bên này hay bên kia chiến tuyến, ở phía tả hay phía hữu, họ vẫn là những chàng trai dám hy sinh khi đất nước cần. Ai sai ai đúng? Điều đó thuộc về các giai tầng lãnh đạo, thuộc về các tầng lớp bên trên. Những người trai trẻ của đất nước này vẫn luôn nêu gương dũng cảm. Trang sử Việt Nam thời hiện đại, sau năm 1954, cần được nhìn lại, đánh giá lại dưới góc cạnh dân tộc và tiến bộ xã hội. Học đường bên này hay bên kia vẫn luôn sản sinh ra bao nhiêu gương tuấn kiệt, yêu đất nước và yêu dân tộc này.
Xin hãy đánh giá lại và xin hiểu cho bao nhiêu lớp người đã ngã xuống.
Chúng ta đã đắp cho những chiến sĩ ngã xuống trên chiến trường hay trong nhà tù màu cờ đỏ sao vàng. Họ là những anh hùng của chế độ hôm nay nhưng chúng ta cũng cần hiểu hàng triệu thanh niên đã ngã xuống trên đất nước này mà quá khứ đã đắp cho họ một màu vàng đó không phải là những kẻ phản bội, những tội đồ, đó là những nạn nhân lịch sử, những người vô danh đã bất đắc dĩ ngã xuống.
Lịch sử nào, thời đại nào cũng có các anh hùng và các nạn nhân vô danh. Sau 30 năm khi cuộc chiến đã chấm dứt, cái nhìn của lịch sử phải chăng đã rộng hơn, bao quát hơn và đầy niềm xúc cảm của sự đoàn kết dân tộc, của sự bao dung giữa những người Việt Nam mới sinh ra sau năm 1975.
Không còn chiến tranh nữa, các chiến tuyến cách ngăn thù hận đã lung lay và sẽ không còn nữa. Lịch sử đã đổi quá nhiều màu. Cái màu vàng xưa kia, cái màu đỏ hôm nay phải chăng sẽ trở thành một màu tươi sáng của tổ quốc của các thế hệ mai sau.
Nhớ lại năm 1975, sau ngày 30 tháng 4, những người cầm quyền chiến thắng đã ra lịnh tập trung các cấp chỉ huy của quân đội cũ đi học tập cải tạo. Còn đại bộ phận binh lính vẫn ở lại quê nhà mặc dù luôn bị phân biệt đối xử. Sự kiện này đã hé mở cho mai sau thấy rõ chiến tranh chia rẽ, xung đột là nhất thời. Đối với đất nước, đối với dân tộc lợi ích lớn nhất, lâu dài nhất vẫn là đại đoàn kết bao dung, xoá bỏ phân biệt đối xử. Tất cả mọi người Việt Nam phải có cơ hội đồng đều để sống, để nhìn về phía trước và đi lên phía trước.
Một nước Việt Nam của tất cả mọi người Việt Nam, của mọi thế hệ và tầng lớp Việt Nam, chân lý đó không bao giờ có ai thay đổi được.
Đại học Cần Thơ, sự lớn lên của vai trò đồng bằng
Thời kỳ dạy học ở Mỹ Tho, tôi có khá nhiều kỷ niệm.
Mỹ Tho thành phố đẹp của sông nước Tiền Giang với Cồn Rồng “dù mặc bụi tro bay”, với bóng dừa xỏa xuống dòng sông, với trái mận hồng đào, với ông đạo Dừa và bao nhiêu trai thanh gái lịch. Mỹ Tho 1964-1965 trường Nguyễn Đình Chiểu đẹp trang nghiêm, trường Lê Ngọc Hân với bao nhiêu tà áo trắng thơ ngây.
Mỹ Tho nơi xuất bản tờ tuần báo đầu tiên vào năm 1965, báo Tiếng Gọi Miền Tây, đấu tranh cho dân chủ tiến bộ, đấu tranh cho sự phát triển kinh tế xã hội và vươn lên của các tỉnh phía Nam.
Tuần báo Tiếng Gọi Miền Tây do bác sĩ Trần Văn Tải, một người trí thức của tỉnh Gò Công làm chủ nhiệm. Giáo sư Lý Chánh Trung làm chủ bút, tôi làm Tổng thư ký toà soạn.
Báo Tiếng Gọi Miền Tây năm 1965 đòi chính quyền Nguyễn Cao Kỳ chấm dứt kỳ thị địa phương, yêu cầu Nguyễn Văn Thiệu cho thành lập Đại học Cần Thơ. Tờ báo được sắp chữ và in tại nhà in tư nhân trên đường Lê Lợi (Mỹ Tho). Khi phát hành phải chở báo lên Sài Gòn và nhà phát hành Nam Cường mới phân tán đi khắp các nơi.
Tiếng Gọi Miền Tây xuất bản được 8 tháng với 30 số báo thì bị Nguyễn Cao Kỳ rút giấy phép. Các vấn đề được nêu ra trên tờ báo đầu tiên của đồng bằng sông Cửu Long vào thời kỳ đó, báo trước sự thay đổi và vùng dậy của miền Tây về mặt văn hóa chính trị, cho thấy sự lớn lên của trí thức đồng bằng Nam bộ qua các phong trào chính trị, đòi hỏi Mỹ và Thiệu – Kỳ phải lưu ý tới nguyện vọng và sự góp mặt của Nam bộ trong trào lưu tiến hóa của cả nước.
Trong giai đoạn này, đã nổi lên mạnh mẽ phong trào đòi hỏi chính phủ Nguyễn Văn Thiệu phải thành lập ngay Viện Đại học Cần Thơ. Sáng kiến này do nhóm kỹ sư Võ Long Triều, giáo sư Nguyễn Văn Trường, giáo sư Lý Chánh Trung khởi xướng.
Hưởng ứng mạnh mẽ sự vùng lên về giáo dục của Miền Tây, ở Cần Thơ có giáo sư Nguyễn Trung Quân – hiệu trưởng trường trung học Phan Thanh Giản, có bác sĩ Lê Văn Thuấn một trí thức lớn tuổi được nhiều người biết đến ở Tây Đô, giáo sư tiến sĩ sinh vật học Phạm Hoàng Hộ, người trí thức đầu đàn của Nam bộ tốt nghiệp tại Pháp về nước phục vụ phát triển giáo dục theo lời kêu gọi của Ngô Đình Diệm.
Giáo sư Nguyễn Trung Quân đã tổ chức cuộc hội thảo vận động dư luận các giới trí thức ở Sài Gòn và ở Lục Tỉnh lên tiếng ủng hộ thành lập Viện Đại học Cần Thơ. Cuộc hội thảo được đông đảo người có tên tuổi tại Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc tham dự.
Ở Mỹ Tho tham gia vận động nhân dân ủng hộ phong trào này có bác sĩ Trần Văn Trực, bác sĩ Trần Văn Tải, giáo sư Trần Bá Phẩm, giáo sư Lâm Văn Bé, Dương Văn Ba, bộ ba thầy giáo trẻ của trường Nguyễn Đình Chiểu .
Phong trào quần chúng này được hầu hết các trường trung học ở Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bạc Liêu, Châu Đốc cổ vũ. Họ chuyền tay nhau ký bản kiến nghị yêu cầu chính phủ Nguyễn Văn Thiệu quyết định thành lập ngay Viện Đại học đầu tiên của Đồng bằng sông Cửu Long. Kỹ sư Võ Long Triều, người bạn chuyên môn đá gà, đánh xì phé với Nguyễn Cao Kỳ, Đặng Văn Quang lãnh nhiệm vụ làm ”lobby” với chính phủ.
Trước nguyện vọng chinh đáng của trí thức Miền Nam, Nguyễn Văn Thiệu với tư cách Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia thời bấy giờ, cũng là “một người con rể của xứ Mỹ Tho”, đã phải tức tốc ký ngay sắc lệnh thành lập Viện Đại Học Cần Thơ bổ nhiệm giáo sư Phạm Hoàng Hộ vào chức Viện Trưởng đầu tiên.
Cho đến hôm nay, khi những dòng này được viết Viện Đại học Cần Thơ đã hơn 38 tuổi.
Trường Đại học này đã đào tạo hàng trăm ngàn trí thức Miền Tây, đã trở nên một trung tâm khoa học kỹ thuật nông nghiệp lớn của đất nước và uy tín của nó đã có tầm vóc quốc tế. Đó là Viện Lúa của Việt Nam, trung tâm nghiên cứu phát triển nông nghiệp của cả nước. Hàng trăm ngàn con em của vùng châu thổ sông Cửu Long đã được trui rèn thành những bàn tay khối óc biết làm giàu cho đất nước từ mảnh đất chôn nhau cắt rún của mình. Miền Tây đã lớn lên ngang tầm với sức vóc và tiềm năng tự nhiên, với nhân lực của nó.
Có thể những giáo sư, những sinh viên của trường Đại học lớn nhất ở đồng bằng miền Nam không biết và không nhớ đến những người đã vận động và đấu tranh với chính phủ Thiệu-Kỳ để cho ra đời Trung tâm văn hóa to lớn này.
Có thể sau một cuộc cách mạng lớn và toàn diện như cuộc cách mạng 1975, người ta có xu hướng quên mất sự liên tục của quá khứ và lịch sử. Nhưng lẽ sinh tồn của tạo hóa cho thấy bất cứ điều gì trong xã hội văn minh đều có khởi đầu, bắt nguồn.
Cội nguồn của Viện Đại học Cần Thơ là sự kêu đòi phát triển của các phong trào trí thức miền Nam. Đại học Cần Thơ là hậu thân, là sự lớn lên của các trường trung học Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên, Sa Đéc, Bạc Liêu… Các thế hệ trí thức miền Nam đã lớn lên từ cội nguồn lịch sử đó.
Cây có cội, nước có nguồn. Những người đã vận động đòi hỏi sự hiện thực của một trung tâm văn hóa, khoa học, công nghiệp của vùng đồng bằng này, hiện nay đã không còn nhiều nữa.
Một số họ đã chết đi, đã chôn vùi trong đêm đen của lịch sử, nhưng nếu có một giây phút nào tỉnh thức sẽ có một niềm vui lóe lên, nó giống như nguồn vui của Archimede ngày xưa khi người bỗng nhiên khám phá ra chân lý “Euréka” .
Chân lý bất tử, không lệ thuộc vào thời gian, chế độ, phong trào.
Xin chào Đại học Cần Thơ như chào dòng sông Mekong đã làm cho đất nước này càng ngày càng giàu hơn về trí lực, nhân lực và vật lực.
Một kỷ niệm đáng nhớ
Tôi sống ở Mỹ Tho hai năm, dạy môn triết học nhập môn cho sáu lớp đệ nhất với khoảng ba trăm học sinh. Tôi phụ trách môn Quốc văn cho lớp đệ thất và đệ lục, khoảng sáu lớp, gần ba trăm học sinh. Như vậy, thời gian sống ở Mỹ Tho trong năm 1965-1966 tôi đã tiếp xúc với gần sáu trăm thiếu niên. Có những người sau này trở thành ưu tú, nghệ sĩ quay phim truyền hình, tiến sĩ khoa học ở Pháp, thương gia ở Bỉ và cũng có rất đông người trở thành cán bộ cộng sản, sĩ quan cảnh sát cao cấp của chế độ cũ, bác sĩ, dược sĩ.
Điều gì tôi đã để lại được cho họ tôi không biết rõ, nhưng tôi biết đa số họ rất giống tôi ở chỗ hay bất mãn với những tham ô, trì trệ trước mắt và luôn khát khao thay đổi, tiến bộ.
Một lần, tôi cùng thầy Trần Bá Phẩm và em Trần Văn Quá, học sinh lớp Đệ nhất A, đại diện cho học sinh toàn trường, đã theo dõi và đuổi bắt chiếc xe Volkswagen tải nhẹ của trường Nguyễn Đình Chiểu được ông hiệu trưởng Trần Thanh Thủy dùng chở xi măng, sắt của nhà trường đem về Sài Gòn xài vào việc riêng gia đình.
Chúng tôi đã làm việc đó với tư cách giáo sư cố vấn Hiệu đoàn. Em Trần Văn Quá đã làm việc đó vì em là đại diện của học sinh toàn trường, trước đây gọi là đại diện Hiệu đoàn. Một hành động chống tham ô rất non trẻ của thầy và trò thuở đó.
Khi chiếc công xa của trường Nguyễn Đình Chiểu chạy tới bót Phú Lâm (Chợ Lớn), cảnh sát chận lại hỏi giấy tờ. Thầy trò chúng tôi đã mang sẵn theo máy hình vội vã chụp ngay cảnh chiếc xe bị xét, với dụng ý làm bằng chứng.
Không ngờ chụp hình bót cảnh sát vào thời chiến là việc làm bị cấm đoán. Thay vì có được tấm hình làm bằng chứng về sự tham ô của ông hiệu trưởng, thầy trò chúng tôi bị cảnh sát Phú Lâm bắt giữ về tội chụp hình cơ quan an ninh và nghi ngờ chúng tôi là Việt Cộng, chụp hình để chuẩn bị phá hoại (1965). Cả trò lẫn thầy bị giữ tại bót Phú Lâm hơn 4 giờ đồng hồ và suýt bị lấy luôn máy ảnh. Sau đó anh Trần Bá Phẩm nhanh trí gọi điện thoại cho đại tá Lê Quang Hiền, đổng lý văn phòng Bộ Thanh Niên. Nhờ ông Hiền can thiệp, cảnh sát bót Phú Lâm mới cho 3 thầy trò ra về. Đúng là một tai nạn không phải do rủi ro nghề nghiệp, rất khó quên.
Có lẽ thầy Phẩm, bạn tôi, năm nay đã gần 70 tuổi cũng khó quên. Còn em Trần Văn Quá bây giờ đã trên 50 tuổi, nếu còn sống ở đâu đây trên quả đất này, có lẽ cũng không thể nào quên.
Quê hương của một “Bà Lớn” – Thiệu “playboy”
Mỹ Tho còn là quê hương của bà Nguyễn Thị Mai Anh, vợ của ông Nguyễn Văn Thiệu.
Thầy Lâm Văn Bé, giáo sư sử địa, cùng được bổ nhiệm về dạy tại trường Nguyễn Đình Chiểu, một thời kỳ với tôi, là người thân cận trong gia đình bà Nguyễn Thị Mai Anh. Ba má bà Mai Anh gốc người xứ Quảng Trị. Dân Mỹ Tho quen gọi ông thân bà Mai Anh là thầy Quảng chuyên bắt mạch cho toa thuốc. Thầy Quảng vào Nam lập nghiệp và xây căn nhà thật bự (tại số 1 đường Lý Thường kiệt, kế bên Giếng nước lớn).
Thuở nhỏ, anh Lâm Văn Bé đi học tại Mỹ Tho, ở trọ nhà thầy Quảng, cho nên các chị em của bà Mai Anh thân tình với thầy Bé, xem thầy như người trong nhà. Tôi và anh Bé về dạy tại trường Nguyễn Đình Chiểu, trở nên thân nhau về nhiều mặt, coi nhau như anh em nối khố. Tôi dạy Triết và Quốc văn, thầy Bé dạy Sử Địa. Ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau rượu chè ở nhà bà Thiệu. Anh Bé và tôi được chị Năm Jacqueline mến mộ, thân tình. Chị Jacqueline là vợ sau của anh Tôn Chánh Trung, một ông chủ người gốc Hoa, giàu có nổi tiếng ở Tiền Giang. Ông Trung có căn biệt thự “to đùng” ở bên đầu nầy Giếng Nước, đường Hùng Vương, nhà chị Năm cũng là căn biệt thự lớn ở đầu bên kia đường Lý Thường Kiệt.
Hàng tuần, cứ mỗi buổi sáng chủ nhật, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, tự mình lái xe chở vợ về thăm nhà. Thiệu đi giả dạng thường dân nhưng luôn có hàng chục xe giả dạng khác đi trước, đi sau hộ tống.
Ông Thiệu về nhà bên vợ rất vui, uống rượu whisky Mỹ, đánh cách- tê, đánh xì phé với các anh em bạn rể, có khi đánh cùng giáo sư Lâm Văn Bé. Tôi thường đến chơi, nên lần lần mặc nhiên được các bà chị của phu nhân trung tướng Thiệu xem như người thân.
Năm 1965, tướng Thiệu còn rất thanh niên, nhanh nhẹn, uống rượu rất cừ và thật là vui tính. (Khi Thiệu làm Chủ Tịch UB Lãnh đạo Quốc gia mới có 41 tuổi. Lúc lên làm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, ông Thiệu mới 43 tuổi).
Một dáng vóc vừa phải, khỏe mạnh, một cái đầu chải tém màu xám bạc (không phải do già mà chỉ vì máu xấu), một cặp mắt tinh anh sắc bén. Từ trong con người ông Thiệu toát ra một sức sống dồi dào, năng động. Ông Thiệu đối với gia đình bên vợ vui tính, hòa đồng, khi uống rượu và đánh bài không bao giờ nói chuyện chính trị.
Ông ta là một “playboy”. Mèo chuột bồ bịch khá nhiều. Mối tình của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với bà chủ nhà hàng Cyrnos – Vũng Tàu, một người đàn bà đẹp lẳng lơ đã từng được Tư Trời Biển rêu rao trên báo Tin Sáng trong mục Tin Vịt Nghe Qua Rồi Bỏ.
Nữ ca sĩ Kim Loan từng là người tình của Tướng Thiệu, có bầu được Thiệu gửi đi Tây Đức tránh dư luận đàm tiếu. Thiệu còn là bồ của bà chủ hãng thuốc tây Bùi Đình Nam, một tỷ phú giàu không thua kém hãng OPV của Nguyễn Cao Thăng. Căn biệt thự sang trọng ở khu An Phú có hồ bơi, có sân tennis từng là nơi hẹn hò, tình tự của vợ Nam với trung tướng Thiệu. Thiệu rất thích trượt nước bằng hors-bord trên sông Sài Gòn. Đặc công Sài Gòn hồi đó đã từng bố trí ông Võ Viết Thanh đào hầm ngay bờ sông cách căn biệt thự của Bùi Đình Nam vài trăm thước, chờ đón ám sát Nguyễn Văn Thiệu cả tuần lễ mà không có cơ hội thực hiện được. Vì trung tướng Thiệu đi du hí rất kỹ, bảo vệ dầy đặc, giờ giấc lại bất thường.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 4:52:49 GMT 9
Chương 4: LÀM BÁO SÀI GÒN
06-03-2015
Phần 1: Nghiệp làm báo
Trong đời học sinh và sinh viên của tôi, có 3 lần tập tành nghề làm báo. Lần thứ nhất vào năm 1956, lúc mới 15 tuổi, tôi được thầy dạy Việt Văn là thầy Lâm Ngọc Bình chọn làm bỉnh bút của tờ đặc san Nhành Lúa Mới, tiếng nói của học sinh trường Công giáo Bạc Liêu. Cùng lo tờ báo đầu tay trong đời này có Phạm Văn Tập dân Cà Mau, sau này là nhà văn Hoài Điệp Tử, chuyên viết feuilleton cho một số báo như báo Tia Sáng, Trắng Đen.
Cách thức làm báo học trò như sau:
- Chúng tôi viết bài, đa số là tùy bút, thơ, truyện ngắn.
- Thầy Bình chọn, tôi và anh Tập lo biên tập, sắp xếp, trình bày. Báo dày 42 trang, khổ tập học trò, bìa in hai màu.
Tôi và anh Tập, đại diện cho nhà trường đem báo lên Cần Thơ mướn in. Nơi in báo của chúng tôi là một nhà in nhỏ của Tây Đô, nằm gần cầu Tham Tướng.
Tôi còn nhớ, bài báo đầu tay của tôi được in là một bài tùy bút về “chiếc áo bà ba đen”, nói lên cảm nghĩ về các cô gái lao động, bán buôn. Hồi đó nhà trường chỉ cho chúng tôi 1.800 đồng để in 300 số báo, kể cả tiền ăn xài, tiền xe lên xuống Cần Thơ hai lần để giao bài và nhận báo. Việc sắp chữ, sửa bản vỗ, cho chạy “bon” đều do chủ nhà in làm vì lúc đó chúng tôi không biết sửa morasse vả lại chỉ ở lại nhà in vài tiếng đồng hồ.
Tờ báo được Trưởng ty Thông tin Bạc Liêu lúc đó cho phép xuất bản là một điều hãnh diện cho trường Công giáo, cho thầy Bình và cá nhân tôi .
Nguyễn Văn Năm, Trưởng Ty Thông Tin lúc đó là một thanh niên đi kháng chiến ở Khu về Thành năm 1952, cùng thời với thầy Lâm Ngọc Bình. Điều này cho thấy ngay từ năm 1953-1954, hoạt động văn hoá, giáo dục của các tỉnh thành miền Nam đã có sự xâm nhập và âm thầm lan tỏa của những cán bộ Việt Minh từng theo kháng chiến. Như trường hợp trường trung học Long Đức của bà Bùi Thị Mè thành lập ở Trà Vinh năm 1955 (bà Bùi Thị Mè và chồng là ông Ngô Tấn Nhơn hoạt động Thành đến năm 1960 lại bỏ vào rừng).
Xâm nhập về văn hóa, văn nghệ, giáo dục là xâm nhập vào trái tim, cái đầu của học sinh, thử hỏi làm sao không có các phong trào đấu tranh thành thị về sau này?
Tôi nhớ lại phía những người cộng sản đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam ngay trước khi Hiệp định Genève được ký kết. Việc xâm nhập về văn hóa giáo dục được tiến hành ưu tiên. Năm 1953, 1954, các bài thơ kháng chiến yêu nước nổi danh của nhà thơ Tố Hữu dã đựơc truyền tụng và đem giảng dạy trong các trường trung học lớn ở Sài Gòn, ở các tỉnh, trường công cũng như trường tư. Học sinh trung học thời đó không mấy ai mà không biết bài thơ tràn đầy tình yêu nước, tràn đầy khí thế cách mạng tiến công, thắng lợi của Tố Hữu. Bài “Ta Đi Tới :”
Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái thong dong ta bước.
….Đường Bắc Sơn, Đinh Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường cách mạng dài theo kháng chiến
Đến hôm nay đường xuôi về biển
Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi…
Họ cũng thuộc lòng bài thơ ca ngợi anh bộ đội nổi tiếng của nhà thơ Chính Hữu….
….Em về cấy lúa trồng bông
Cho lúa mau nở cho bông được mùa
Trưa hè rụng lá bàng khô
Tôi đi ra trận….nghe hò bốn phương
Súng ơi súng ở với tôi mùa thu, theo tôi mùa hạ
Theo tôi diệt nốt quân thù
Tôi nhớ thương người bạn cũ
Miệng cười mắt nhắm ngàn thu…
Lần thứ nhì tôi viết báo vào năm 1959 lúc vừa đổ tú tài. Tôi lấy bút danh Dương Trần Thảo, Huỳnh Thành Tâm lấy bút danh Huỳnh Phan Anh. Hai anh em chúng tôi cộng tác với Tuần báo Mã Thượng do anh Trịnh Văn Thanh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Bài viết của tôi là bài “nhận thức thời gian trong thi ca Hàn Mặc Tử” đăng trên tuần báo Mã Thượng (khổ lớn). Bài thứ nhì là thư ngõ gởi nhóm Sáng Tạo do Huỳnh Phan Anh và tôi cùng ký tên.
Một xu hướng triết lý trong văn chương, một kiểu “ếch nằm đáy giếng” đâu thấy trời bao la. Vừa viết báo vừa đi dạy học ở quận Chợ Mới Long Xuyên (dạy trường bán công ở Chợ Mới của anh Trương Phước Đức – bạn thân của Huỳnh Thành Tâm). Huỳnh Phanh Anh dạy Pháp văn, tôi dạy Việt văn, Nguyễn Tấn Trọng dạy tóan, lý, hóa (Nguyễn Tấn Trọng hiện nay ở Mỹ. Trong chiến tranh, anh là Phi công lái F5, bị bắn rơi ở miền Đông, bị bắt làm tù binh và được trao trả năm 1973, ngay sau khi hiệp định Paris được ký kết).
Đời viết báo và đời dạy học thường gắn bó với nhau. Chúng tôi 3 thanh niên mới lớn đã biết tháo vát dùng chút ít học thức của mình để kiếm thêm tiền sinh sống. Hồi năm 1960, nhật báo rất hiếm chỉ có 4,5 tờ. Báo về văn học càng hiếm hơn. Trường trung học cũng ít. Mỗi tỉnh chỉ có một trường công lập và một, hai trường tư. Còn ở cấp huyện, lớn như huyện Chợ Mới, các nhà tư sản, trí thức hoạ hoằn mới lập ra một trung học tư thục. Giấy phép phải lên tới Sài Gòn xin. Lúc đó, đỗ được tú tài đôi đã có thể tự coi là trí thức. Ở mỗi tỉnh họa hoằn mới có vài chục tú tài. Cái chữ cái nghĩa thời đó sao mà quí giá thế. Không phải như thầy đồ Tú Xương ca cẩm “văn chương hạ giới rẻ như bèo” .
Đến lần thứ ba, tôi lại cùng với Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Ngọc Thạch (Tư Trời Biển trong báo Tin Sáng), Võ Văn Điểm viết báo ở đại học Đà Lạt. Tập san Chiều Hướng Mới, tên báo do Huỳnh Phan Anh đặt.
Sau năm 1963 Tổng thống Kennedy bị bắn chết, chiến tranh ở miền Nam Việt Nam bắt đầu sôi động. Tờ báo của chúng tôi có những suy tư trăn trở thoát ra khỏi tháp ngà văn chương. Con người phải dấn thân nhập cuộc. Không dấn thân bằng cách đi lính, thầy giáo sinh viên cũng phải dấn thân bằng những suy tư phản kháng. Báo Chiều Hướng Mới lúc đó đã nói lên những trăn trở của lớp trẻ về sự vô lý của chiến tranh.
Ba bước tập tành theo nghề báo hình như đó là giáo đầu tuồng của định mệnh.
Chính thức vào nghề viết lách
Đầu năm 1968, tôi chính thức bước vào nghề làm báo với các bài xã luận thường xuyên đăng trên báo Tin Sáng. Chưa chịu dừng ở đó, tôi xin giấy phép xuất bản Tuần báo Đại Dân Tộc. Tôi làm chủ báo nhưng không có quan hệ với dân buôn giấy, in báo, không biết cách bọc lót với giới phát hành, toàn là những “trùm sò” có ăn chịu với Hội cựu Chiến binh, với Trung ương Tình báo. Cho nên Tuần báo là của tôi, nhưng lại do Ngô Công Đức bỏ tiền ra in, phát hành, thu lợi nhuận.
Chủ nhiệm kiêm chủ bút Dương Văn Ba ăn lương một tháng 30 ngàn đồng (lúc đó bằng 3 lạng vàng). Tuần báo Đại Dân Tộc, nhật báo Tin Sáng, nhât báo Tiếng Nói Dân Tộc (do Lý Quí Chung làm chủ nhiệm) là ba diễn đàn đối lập công khai với chính phủ Thiệu – Kỳ.
Cùng tham gia viết báo trên tuần báo Đại Dân Tộc có Nguyễn Hữu Chung, Kiều Mộng Thu, Trần Ngọc Châu, Lý Chánh Trung…. Đại Dân Tộc đi vào chiều sâu của những vấn đề thời sự chính trị, là diễn đàn chống chiến tranh, đôi khi bị coi là thân cộng, phản diện với Tuần báo Con Ong của Minh Vồ, một tiếng nói hậu thuẫn của Nguyễn Cao Kỳ và các chính trị gia chống cộng gốc Miền Bắc. Tuần báo Con Ong coi cộng sản là kẻ thù không đội trời chung, còn tuần báo Đại Dân Tộc chủ trương hoà bình hoà giải dân tộc. Chúng tôi thẳng thắn và công khai chỉ trích Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ. Chúng tôi chủ trương người Mỹ, quân đội Mỹ không nên can thiệp trực tiếp vào Việt Nam.
Báo Đại Dân Tộc vừa có những bài bình luận chính trị nghiêm túc, vừa có những bài châm biếm khó quên. Nhà thơ Cung Văn mỗi tuần có một bài “móc lò” châm biếm chính trị vừa cay vừa chua đối với chính quyền và các nhân vật gia nô thời đó. Ông Đạo Ù Ù (bút danh của ông Hồ Hữu Tường), Hai Mã Tấu (bút danh của Nguyễn Ngọc Thạch) cũng có mặt trên Đại dân Tộc. Tuần báo của tôi cũng thường bị tịch thu và luôn luôn bị nhiều đoạn “TYĐB”.
Tự ý đục bỏ là biện pháp kiểm duyệt của chính quyền đối với báo chí. Báo chí cứ tự do viết, tự do nói, tự do xuất bản. Đồng thời Nha báo chí của Bộ Thông tin cũng tự do tha hồ đục bỏ, tha hồ tịch thu. Để tránh khỏi sự bao vây của kiểm duyệt và của cảnh sát, chúng tôi thường thuê in báo ở nhiều nơi khác nhau. Có nhà in ở Gia Định, có nhà in ở Quận 1, Quận 3, có nhà in ở Chợ Lớn.
Thường thì mỗi ngày cứ vào khoảng 2-3 giờ chiều Nha Báo chí mới kiểm duyệt xong các bản in thử. Họ gạch bỏ các hàng in nguy hiểm, xoá trắng những chỗ cấm đoán và thay thế bằng dòng chữ “TYĐB”.
Các nhà in ở đường Gia Long, nhà in ở đường Võ Tánh đương nhiên phải thi hành nghiêm túc lịnh TYĐB. Chúng tôi nộp lưu chiểu các ấn bản có TYĐB. Nhưng các ấn bản nguyên xi ở Gia Định, Gò Vấp, Chợ Lớn chúng tôi đã cho in từ sớm và in “nguyên con”.
Các chủ nhà in ở Quận 5 rất “chịu chơi” cho chạy máy toàn bộ các ấn bản không thông qua kiểm duyệt. Đội quân hàng mấy trăm người phát hành sẵn sàng xông vào các nơi in báo lậu để lãnh báo đi bán rộng khắp hang cùng ngõ hẻm.
Chúng tôi in báo được nguyên con nhờ các ông chủ nhà in gan dạ. Dĩ nhiên họ có thêm lợi nhuận, còn nhà báo thì liều mạng với chính quyền. Các em bán báo nhờ sự xé rào của chủ báo và chủ nhà in có được báo hấp dẫn để bán đắt như tôm tươi. Các chú cảnh sát, công an chìm làm ngơ cho báo in lậu, phát hành lậu cũng được thêm tiền lương súp do các tay đầu nậu phát hành báo đài thọ. Cả một hệ thống phân phối báo lậu, in lậu nhưng công khai tựa vào nhau mà giành lấy sự sống, và chiến đấu. Vô cùng sôi động và khó quên thời kỳ làm báo vưà công khai vừa chui vừa lậu.
Số phận tuần báo Đại Dân Tộc mặc dù in lậu nhiều số được “nguyên con”, nhưng vẫn không khác số phận của tờ Tiếng Gọi Miền Tây ở Mỹ Tho. Tổng Trưởng Thông tin Ngô Khắc Tỉnh ký án tử cho Đại Dân Tộc sau 9 tháng hoạt động. Có điều lạ là nhật báo Tin Sáng đấu tranh chống chính phủ Thiệu-Kỳ mãnh liệt, nhưng không hề hấn gì. Cùng thời đó, nhật báo Tiếng Nói Dân Tộc của ông Lý Quý Chung đối lập nhẹ nhàng hơn, phản ảnh tiếng nói vừa mức của thành phần thứ ba, đứng giữa cũng bị đóng cửa vĩnh viễn. Nhà báo Lý Quý Chung quá ngứa nghề, có lúc phải nhận làm chủ bút nhật báo Điện Tín trong 6-7 tháng .
Câu hỏi tại sao nhật báo Tin Sáng chỉ bị tịch thu nhiều lần mà không bị ông Nguyễn Văn Thiệu buộc đình bản, có nhiều người thắc mắc. Giải đáp tạm bợ của một số dư luận: Ngô Công Đức gốc công giáo, cha từng bị cộng sản giết, lại có bà con xa gần với Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, nên Nguyễn Văn Thiệu còn nể vì. Cũng có nhiều người không tin vào ý kiến đó, họ đặt nghi ngờ xa hơn, Ngô Công Đức từ lâu đã có quan hệ với nhiều người Mỹ. Tài sản của Đức có được khi còn làm ăn ở Hậu Nghĩa do thầu cung cấp nước đá cho lính Mỹ và do thầu các quán xông hơi massage phục vụ quân đội Mỹ. Tiếng nói của Đức có thể phản ảnh một nước bài chính trị: đối lập với chế độ Thiệu, theo chủ trương của người Mỹ. Trong cuộc chơi chính trị tư sản, có thân chánh, phải có đối lập. Nếu triệt hạ báo Tin Sáng có nghĩa là huỷ bỏ toàn bộ cuộc chơi. Bàn cờ dân chủ được sắp đặt như thế, không thể đổi khác.
Ở một xứ sở lệ thuộc vào Mỹ quá nhiều, điều gì người ta cũng có thể nghi ngờ. Người ta nghi Ngô Công Đức dính với Mỹ cũng như Ngô Công Đức đã từng dính sâu với Nguyễn Cao Kỳ, với Nguyễn Thiện Nhơn, cánh tay mặt của Kỳ trong mọi cuộc ăn chơi đàng điếm.
Đại Dân Tộc hàng tuần bị đóng cửa, tôi tiếp tục viết xã luận mỗi tuần cho Tin Sáng và Thời Đại Mới do anh hai Nguyễn Kiên Giang phụ trách chủ nhiệm kiêm chủ bút. Một bài xã luận được lãnh 10.000 đồng nhuận bút, một tháng tôi viết cho Tin Sáng 5-6 bài, nhưng đối với báo Thời Đại Mới, tờ báo nghèo của anh Hai Kiên Giang tôi không nhận bút phí. Tình cảm của anh chị Hai Kiên Giang đối với các đàn em trong làng báo Sài Gòn lúc đó rất dễ thương. Đối với tôi, một ngòi bút chính trị trẻ lúc bấy giờ anh Hai Kiên Giang là tấm gương sáng trong nghề làm báo miền Nam.
Báo Thời Đại Mới không có nhiều độc giả như Tin Sáng, nhưng đó là tờ báo của một ký giả nhà nghề. Qua bao đổi thay sóng gió, hoan hô, đả đảo, Thời Đại Mới của anh Hai Kiên Giang vẫn luôn có mặt, luôn tồn tại, góp phần vào sự nghiệp làm báo nhà nghề miền Nam.
Khi tôi viết những dòng này, có lẽ anh Hai Kiên Giang đã khuất, xin coi như nén nhang tưởng niệm một đàn anh nhà nghề bất khuất, luôn lạc quan, luôn có mặt để nói lên những gì cần nói và nói được những gì mà nhà cầm quyền không đục bỏ, vẫn cứ nói theo thể cách riêng để tồn tại vì tồn tại là trên hết để làm nhân chứng lịch sử.
Tự do báo chí?
Giai đoạn 1965-1975 báo chí Sài Gòn đầy màu sắc, khá phức tạp. Có thể tạm chia làm 5 loại:
- Báo chống cộng sản: Các tờ Chính Luận, Tự Do, Sóng Thần, Tiền Tuyến.
- Báo thương mại, làm báo để làm giàu, để kiếm sống, không lập trường chính trị rõ rệt: Báo Tia Sáng của ông Nguyễn Trung Thành, Sài Gòn Mới của bà Bút Trà.
- Báo nhà nghề, chuyên đào sâu các vấn đề thời sự, chuyên môn dưới cặp mắt báo chí không phản ảnh rõ rệt đứng bên này hay bên kia: Báo Thần Chung của Nam Đình, Đuốc Nhà Nam của Trần Tấn Quốc.
- Báo đối lập gồm có báo Tiếng Nói Dân Tộc, Tin Sáng, Điện Tín, Đại Dân Tộc
- Báo được CIA Mỹ tài trợ hoặc báo của trung ương tình báo Sài Gòn như báo Trắng Đen, Chính Luận.
Có tự do báo chí hay không dưới thời Nguyễn Văn Thiệu 1965-1975?
Không có và có.
Không có: vì hàng ngày báo nào cũng bị kiểm duyệt. Phóng viên, ký giả có thể bị bắt nếu suy ra viết bài hay tung tin có lợi cho phía cộng sản.
Các ký giả vừa viết báo vừa hoạt động cho cộng sản có thể bị bắt không cần một phán quyết nào của tòa án. Thường một số nhà báo từng tham gia kháng chiến chống Pháp tiếp tục hoạt động cho cách mạng hay các phóng viên cộng sản mới vào nghề, lộ diện dễ dàng bị bắt bởi công an chìm.
Chế độ cũ kiểm duyệt và kìm kẹp báo chí thường chỉ chú trọng tới nội dung chính trị, báo có làm lợi cho cộng sản hay không. Còn về mặt văn hoá văn nghệ, xã hội hầu như họ thả lỏng. Ở những lãnh vực này báo chí được tự do muốn viết gì thì viết. Từ đó, một tiểu thuyết kích dâm hạng nặng như tiểu thuyết Chín Củi được đăng tải trong báo Tia Sáng, một tiểu thuyết khác như tiểu thuyết Cậu Chó có nhiều pha nhơ nhớp, tục tĩu vẫn được đăng trên báo Trắng Đen, vẫn ùn ùn bán chạy.
Có tự do báo chí:
- Hiểu theo nghĩa ai muốn viết gì cứ tha hồ viết. Chẳng có một rào cản nào ngoại trừ rào cản cộng sản.
- Hiểu theo nghĩa chưa có ký giả nào bị bắt bỏ tù vì dám viết bài chống hoặc phỉ báng chế độ. Các mục tiếu lâm, móc lò trên các báo tha hồ xỏ xiên, bôi đen Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ. Ví dụ Thiệu được gọi là Anh Bảy Tê Tê, Kỳ được gọi là Tướng Đá Gà Râu Kẽm. Trên báo Tin Sáng, Tư Trời Biển tha hồ tung tin vịt nghe qua rồi bỏ, nhà thơ Cung Văn tha hồ ví von chính quyền theo sở thích.
- Hình phạt nặng nhất của chế độ cũ: đóng cửa báo.
- Cũng chưa có ai bán các tờ báo lậu mà bị bắt bỏ tù.
Chế độ cũ chỉ bưng bít sự thật trên báo chí được nửa vời. Các báo hàng ngày chống chế độ vẫn tới tay đọc giả thông qua hệ thống phát hành lậu. Biện pháp nửa vời đã là ngòi nổ giựt sập uy tín chế độ cũ trong tâm lý quần chúng. Chế độ cũ có giăng lưới bao vây tự do báo chí chỉ giăng lưới một nửa. Còn một nửa kia, độc giả vẫn thấy được sự thật 100%. Báo chí của chế độ cũ đã góp phần liên tục “đánh mìn chế độ” trong dư luận.
Thời kỳ làm báo Điện Tín
Tuần báo Đại Dân Tộc cáo chung. Đến năm 1971, do yêu cầu của kỹ sư Võ Long Triều, tôi ký giấy đồng ý nhượng tên Đại Dân Tộc để anh Triều đứng tên xin phép xuất bản tờ nhật báo cũng lấy tên Đại Dân Tộc.
Vào khoảng cuối năm 1971, Đại Dân Tộc tái xuất giang hồ với tư cách báo hàng ngày. Ba nhân vật chính điều hành báo này là anh Võ Long Triều (lúc đó đã là dân biểu Quốc hội ) dân biểu Kiều Mộng Thu, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận. Đại Dân Tộc trở nên sáng giá, là nhật báo đối lập hàng đầu.
Cuối năm 1971, sau khi thất cử, Ngô Công Đức đã bỏ trốn đi nước ngoài. Báo Tin Sáng tiếp tục xuất bản đến đầu tháng 4-1972 phải tự đình bản vì Bộ Thông tin không cho nộp lưu chiểu nữa dù không có lệnh đóng cửa.
Anh Hồ Ngọc Nhuận và tôi được anh Hồng Sơn Đông mời về làm chủ biên nhật báo Điện Tín kể từ tháng 11-971.
Đầu não của báo Điện Tín được sắp xếp như sau:
- Nghị sĩ Hồng Sơn Đông: Chủ nhiệm
- Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: Chủ bút.
- Dương Văn Ba (đã thất cử): Phó chủ bút kiêm Tổng thư ký Toà soạn
- Giáo Sư Lý Chánh Trung: Giám đốc chính trị
Nhật báo Điện Tín vào giai đoạn này ngấm ngầm trở thành tiếng nói chính thức của nhóm chủ trương hoà bình dân tộc, đứng đầu là Đại Tướng Dương Văn Minh.
Dương Văn Minh và Hồng Sơn Đông trong quân đội có quan hệ thầy trò. Hồng Sơn Đông đóng lon Đại tá (theo đạo Cao Đài) dưới quyền chỉ huy của Tướng Minh. Về chính trị Hồng Sơn Đông ủng hộ đường lối hòa bình của Tướng Minh. Vì lúc đó đang khá giàu có, Hồng Sơn Đông một phần nào đã chia xẻ gánh nặng tài chinh cho Tướng Minh. Trong Quốc hội, Hồng Sơn Đông đứng chung liên danh với luật sư Vũ Văn Mẫu, nhân vật được phật giáo Ấn Quang hậu thuẫn, chủ trương giải pháp hòa bình giữa các bên Việt Nam.
Khoảng thời gian đầu, khi nhận làm phó chủ bút báo Điện Tín, tôi vẫn tiếp tục nghề dạy học tại trường trung học Mạc Đĩnh Chi (sau khi thất cử dân biểu tỉnh Bạc Liêu tôi bị buộc trở về Bộ Giáo dục. Bộ trưởng Bộ Giáo dục Ngô Khắc Tỉnh đã ký quyết định chuyển tôi về dạy học). Trường Mạc Đĩnh Chi lúc đó do anh Lý Di, người Trà Vinh làm hiệu trưởng. Tôi và anh Di là bạn, anh ấy phân cho tôi dạy môn Pháp văn, 16 giờ một tuần. Tôi tiếp tục nghề dạy học thêm 3 tháng, sau đó vì công việc nhà báo tràn ngập, tôi bỏ ngang nghề thầy giáo.
Lúc tôi điều hành tờ Điện Tín hàng ngày, báo này mới chỉ có 8 ngàn độc giả. Đó là vào khoảng tháng 12-1971.
Cùng làm việc với tôi hàng ngày ở toà soạn (địa chỉ số 101 đường Võ Tánh, quận 1 – ngày nay là đường Nguyễn Trãi) – có những người sau đây :
- Anh Trương Lộc – Thư ký toà soạn
- Anh Huỳnh Bá Thành tức hoạ sĩ Ớt – Trưởng ban trình bày – lúc đó chúng tôi gọi là Giám đốc kỹ thuật (sau ngày giải phóng Huỳnh Bá Thành mang lon Trung tá Công an – Tổng biên tập báo Công an TP.HCM), Nguyễn Văn Phúc – Kỹ thuật viên montage, trợ lý trình bày cho Huỳnh Bá Thành (sau giải phóng mới lộ ra Phúc là Trung úy công an).
- Anh Kiên Giang, anh Sơn Nam phụ trách trang văn hóa văn nghệ.
- Anh Nguyễn Vũ, anh Tường Hữu cung cấp các bản dịch tin nước ngoài và tin tổng hợp lấy từ các thông tấn xã AFP, UPI, AP, Reuter
- Anh Trần Trọng Thức bút danh Trần Văn Lê phụ trách mục ký sự nhân vật (lúc đó Trần Trọng Thức đã bị động viên đóng lon trung úy Hải quân)
- Anh Cung Văn tức Nguyễn Vạn Hồng – Phóng viên Việt Tấn Xã – phụ trách mục thơ châm biếm. Anh Nguyễn Ngọc Thạch thường xuyên viết mục Án Thua Đủ ký tên Hai Mã Tấu – trước đây Cung Văn cũng thường viết Tư Trời Biển trên báo Tin Sáng cùng với Nguyễn Ngọc Thạch.
- Đội ngũ phóng viên có nhiều người trẻ. Trong đó có Nguyễn Ninh, Điệp Liên Anh, có Quốc Trang (sau giải phóng mới lộ ra Quốc Trang hoạt động cộng sản, hiện nay giữ vai trò quan trọng trong việc quan hệ với người Hoa Chợ lớn)
- Phụ trách viết xã luận có nhiều người: Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Văn Tòng..( Dương Văn Ba lúc đó ký tên nhiều người như dân biểu Huỳnh Ngọc Diêu, dân biểu Huỳnh Trung Chánh, Nghị Sĩ Hồng Sơn Đông, dân biểu Trần Văn Thung, dân biểu Nguyễn Công Hoan… những người này không có thì giờ viết, khoán cho Dương Văn Ba viết và trả thêm phụ cấp vì ông Ba đã thất cử, không thể công khai ký tên).
- Viết feuilleton có Lý Quý Chung. “Nhựt ký của nàng Kiều Dung” là một truyện dài rất ăn khách mô tả lối sống ăn chơi của giai cấp thượng lưu trong xã hội Sài Gòn, cũng có những pha tình ái du dương lãng mạn, hấp dẫn. Tôi với tư cách phó chủ bút thường trực quyết định cho đăng feuilleton này. Nhiều người phản đối cho rằng tiểu thuyết đó có tính cách khiêu dâm. Tôi nhớ không lầm đó là phản ứng của Lý Chánh Trung và Hồ Ngọc Nhuận. Nhưng càng đăng, tiểu thuyết này càng có đông độc giả vì nó lột tả được một cách sống động nếp sống xa hoa đàng điếm của một giai cấp thượng tầng xã hội.
- Về phóng sự, nổi bật của báo Điện Tín vào thơi kỳ 1972-1973 có phóng sự “Nhật ký của G.I” do Hoàng Minh Phương thực hiện.
- Hoàng Minh Phương, gốc Huế, lúc đó khoảng 30 tuổi, đầu năm 1972 xuất hiện tại toà soạn, giao cho tôi một tập bản thảo và tự giới thiệu anh đang làm thông dịch viên cho Mỹ ở PleiKu, chán cảnh làm tay sai, bỏ về Sài Gòn với một ngòi bút có khả năng sinh ngữ. Sau khi đọc nhanh tập bản thảo, tôi thấy có sắc thái, nhạy bén, hấp dẫn, tôi nhận đăng đồng thời sử dụng Hoàng Minh Phương dịch một vài tài liệu tiếng Anh ngắn hàng ngày.
- Phóng sự của Hoàng Minh Phương khá thành công, mô tả cuộc sống thác loạn của các thanh niên “chích choác”, pha trộn nhiều cảnh làm tình tập thể hỗn tạp. Việc khai thác phóng sự này giúp độc giả ở các địa phương hiểu sâu thêm bộ mặt đen, ma quái của Sài Gòn cũ. Sau này khi giải phóng xong, hình như Hoàng Minh Phương được tuyển dụng làm phóng viên của báo Đảng “Sài Gòn Giải Phóng”. Hoàng Minh Phương ít nói, có cuộc sống thầm lặng đôi khi khó hiểu. Tôi đã mạnh dạn sử dụng anh, dựa vào ngòi bút có màu sắc của anh, bất kể đằng sau lưng anh là màu xanh hay đỏ. Đã hơn 28 năm nay, tôi chưa hề gặp lại Hoàng Minh Phương, dù cả anh và tôi đều biết là đang cùng sống ở Sài Gòn, riêng tôi từng đi tù cộng sản hơn 7 năm.
Toà soạn nhật báo Điện Tín thời kỳ 1971- 1972, không khí làm việc tích cực, sôi nổi quyết liệt. Bộ bốn Dương Văn Ba, Trương Lộc, Minh Đỗ, Huỳnh Bá Thành luôn luôn có mặt tại toà soạn từ 6 giờ 30 phút sáng, vùi đầu vào công việc cho đến 12 giờ trưa mới xong.
Nhiệm vụ của Trương Lộc và Minh Đỗ, hai thư ký toà soạn, là lựa tin lựa bài, Trương Lộc lo về tin Thông Tấn Xã,têlêtype, các bản tin của các hãng thông tấn nước ngoài Reuter, AFP, AP, UPI (do Tường Hữu và Nguyễn Vũ cung cấp). Anh Minh Đỗ chọn lựa các tin quốc nội và chuyên lo về trang 3 trang 4.
Tiện đây, tôi xin nói thêm mấy dòng về anh Minh Đỗ. Anh tên thật là Đặng Văn Nên, từng đi kháng chiến chống Pháp ở khu 8, cùng một thời kỳ với ông Lê Hồng Cẫm. Sau 1954, anh Minh Đỗ về thành, làm báo, nhờ nghề chuyên môn đánh Morse trong kháng chiến chống Pháp nên có thời gian anh được chọn làm ở Trung Tâm Kiểm Soát Không Lưu, sân bay Tân Sơn Nhất. Anh Minh Đỗ khá về tiếng Anh, tiếng Pháp, có hiểu biết về chuyên môn. Là một người làm báo chuyên nghiệp, một phụ tá có năng lực cho chủ bút, vui tính, ít nói, tận tụy, say mê nghề nghiệp. Anh phụ giúp tôi tận tình ở báo Điện Tín suốt mấy năm. Qua đến thời kỳ báo Tin Sáng, hồi II, tôi cũng làm phó chủ bút, Hồ Ngọc Nhuận làm chủ bút, anh Minh Đỗ cũng với tư cách thư ký toà soạn,đã phụ giúp tôi đắc lực.
Viết đến những dòng này sau hơn 30 năm làm báo, thời kỳ cộng tác với tôi ở báo Điện Tín và báo Tin Sáng, kỷ niệm giữa chúng tôi khá đậm đà. Anh Minh Đỗ từng là một cán bộ kháng chiến, yêu nước, yêu nghề làm báo, anh là một trong những cột trụ âm thầm của làng báo Sài Gòn xưa và nay. Bây giờ anh đã khuất, trong âm thầm lặng lẽ, trong sự thương tiếc của bạn bè và đồng nghiệp. Tôi ghi lại những dòng này để tưởng nhớ đến anh, một người cộng tác, đầy đủ những đức tính để các lớp đàn em học hỏi.
Minh Đỗ, Phan Ba, Sơn Tùng, Tô Nguyệt Đình những đàn anh nhà nghề mà ai viết về lịch sử của làng báo Sài Gòn trước ngày giải phóng không thể bỏ sót.
—–
Viet-studies
06-03-2015
Phần 2: Tờ báo, công cụ đấu tranh chính trị
- Với vai trò phó chủ bút thường trực mỗi ngày cùng làm việc với anh em từ đầu giờ cho đến lúc xong tất cả các trang, tôi là người phải ký bon cho máy chạy. Tôi duyệt các tin tức quan trọng, quyết định các tít lớn nhỏ, quyết định tin nào đi 8 cột, tin nào đi 5 cột, 4 cột…….2 cột, 1 cột.
- Chủ đề thời sự chinh trị thay đổi hàng ngày tùy theo tình hình chiến sự lúc đó, tùy theo nhiệt độ chính trị ở Quốc Hội, ở phủ Đầu Rồng (Dinh Độc Lập ) và tuỳ theo những diễn biến chinh trị ở Mỹ. Do đó luôn luôn phải có sự phối hợp tin tức trong ngoài, sự quan hệ giữa toà soạn với các giới thạo tin, với các trung tâm tin tức trong nước, ngoài nước. Điều hành một tờ báo lớn, mối quan hệ giao dịch phải rộng và làm sao lấy được nhiều luồng thông tin càng tốt.
Là một tờ báo đấu tranh chinh trị, mỗi ngày tôi phải viết một bản tin tổng hợp chính trị, có chủ đích, hướng dẫn dư luận theo chiều hướng mình muốn.
Để viết loại tin này, thứ nhất, tôi phải dựa vào các tin thời sự lớn về quân sự chính trị về các phong trào đấu tranh thành thị; thứ nhì phải suy xét xem hôm nay cần phải đánh vào mục tiêu nào; thứ ba phải xào nấu các nguồn tin cho hợp lý. Tin tổng hợp một phần dựa vào các nguồn thực tế, một phần dựa vào dư luận và một phần có tính cách kích động, vẽ vời, phóng lớn, làm nóng thời sự. Có khi tin tổng hợp được đưa lên “vedette”, có khi là một bản tin bình luận nằm phía dưới trang một, đi thành 3 cột hoặc 4 cột. Tên tác giả của các bản tin này thường là một bút danh hoặc ký dưới danh nghĩa nhóm phóng viên. Báo tranh đấu thường sử dụng tin tổng hợp làm vũ khí tiến công trong dư luận, đi trước dư luận hoặc hướng dẫn phân tách dư luận thời sự theo mục đích riêng.
Tôi nhớ lại giữa năm 1972 lúc chiến dịch tấn công các tỉnh miền Trung, các tỉnh vùng ven Sài Gòn của phía Việt Cộng đang hồi ác liệt, có lần tôi vào phủ Phó Tổng Thống Trần Văn Hương (bây giờ là nhà văn hoá thiếu nhi Thành Phố Hồ Chí Minh) để nói chuyện chơi và cũng là để moi tin tức từ ông phụ tá của Phó Tổng Thống Hương. Ông Nguyễn Thạch Vân là học trò thân cận của thầy Trần Văn Hương. Dịp đó ông Nguyễn Thạch Vân có cho tôi biết tình hình chiến sự quanh Sài Gòn, ở các tỉnh Vùng III chiến thuật rất là bi đát “mỗi ngày Việt Cộng vây quanh Sài Gòn như vết dầu loang. Gọng kềm ngày càng siết chặt như cái thòng lọng. Việt Nam Cộng Hòa thua là cái chắc”.
Từ giữa năm 1972 người thân cận nhất với nhân vật số 2 của chế độ Sài Gòn đã nói với tôi rõ ràng như thế. Tin tức đó trở thành một đầu mối chỉ đạo hướng chiến đấu của báo Điện Tín, đang do tôi cầm cân nảy mực. “Sài Gòn đã hết thuốc chữa” từ dạo đó.
Tướng Dương Văn Minh lúc đó cũng đã về nước và không có ảo tưởng gì khác hơn “Sài Gòn sẽ thất thủ không chóng thì chầy” nếu Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục ngồi ở ghế lãnh đạo miền Nam. Nhắc tới anh Nguyễn Thạch Vân, tôi cũng xin kể lại công của anh ấy đối với cá nhân tôi trong việc xin cho tôi được hoãn dịch sáu tháng từ tháng 6 năm 1972 đến tháng 12 năm 1972. Lúc ấy tôi sắp bị Thiệu ra lệnh bắt đi quân dịch sau khi thất cử dân biểu. Tôi có mò vào dinh Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, xin bác Hương can thiệp với Bộ Quốc Phòng cho hoãn đi lính 1 hoặc 2 năm. Ông Trần Văn Hương tiếp tôi niềm nở và nói với Nguyễn Thạch Vân: “Thằng Ba tôi rất thương nó. Nhớ lại lúc làm Thủ Tướng, ra điều trần trước Hạ Nghị Viện, bị đám dân biểu gốc Bắc, thân Nguyễn Cao Kỳ la hét, đập bàn đập ghế mạt sát. Lúc đó tôi nhớ mãi: Chỉ có thằng Dương Văn Ba dám đăng đàn binh vực cho Thầy. Bây giờ Thầy phải trả ơn cho nó. Thạch Vân, em liên lạc với Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng nói Thầy xin cho Dương Văn Ba được hoản dịch 6 tháng đến 1 năm “.
Anh Nguyễn Thạch Vân đã sốt sắng làm việc đó. Chỉ mấy ngày sau tôi được Nha Động viên gởi giấy thông báo cho tôi được hoản dịch đến hết ngày 31 tháng 12 năm 1972. Giấy hoãn dịch do Thiếu Tướng Bùi Đình Đạm ký.
Giờ đây, thầy Trần Văn Hương đã chết. Anh Nguyễn Thạch Vân không biết đã chết hay còn sống ở nước ngoài. Tôi không quên ơn hai người đã giúp tôi khỏi phải đi lính, trong đời chưa phải cầm súng một giây phút nào để bắn lại đồng bào tôi. Nhờ đó tôi còn tránh được tai họa do em út của Nguyễn Văn Thiệu trả thù trong trại lính, tránh được roi đòn của anh em Hoàng Đức Ninh, Chuẩn tướng tỉnh trưởng Bạc Liêu, kẻ thù trực diện của tôi khi tôi làm dân biểu. Nhờ đó tôi vẫn được tiếp tục cầm ngòi bút chiến đấu chống chiến tranh cho tới lúc có hoà bình.
Kỷ niệm về một bản tin tổng hợp
Một lần nhào nặn tin tổng hợp để hướng dẫn dư luận tôi suýt mang họa vào thân vì bản tin tôi viết hôm đó gây bực mình cho Tướng Dương Văn Minh. Lúc đó vào khoảng gần cuối năm 1974. Dư luận chống chinh phủ Sài Gòn đang mong muốn có sự hợp tác, bắt tay giữa phái Phật Giáo Ấn Quang, do Thượng toạ Thích Trí Quang cầm đầu và phe chủ trương hoà bình của Tướng Dương Văn Minh.
Đối với Phật Giáo Ấn Quang, Tướng Dương Văn Minh có cảm tình nhưng rát dè dặt ít khi nào chịu lộ diện công khai hợp tác trước dư luận.
Ông Dương Văn Minh có nhiều tình cảm thân thiện với hoà thượng Thích Thiện Hoa nhưng rất giữ kẽ với Thượng tọa Thích Thiện Minh và Thượng tọa Thích Trí Quang.
Đối với quần chúng Phật Tử ở miền Nam Thượng tọa Trí Quang được coi như thần tượng một phần vì sự ít nói và lập trường cứng rắn của ông ta đối với Thiệu, một phần vì vẻ mặt lúc nào cũng trầm tư. Dư luận muốn có sự nối kết công khai giữa Tướng Minh và Thượng toạ Trí Quang để hình thành một liên minh vì hoà bình, gây áp lực với chính quyền Thiệu.
Ngày hôm đó trong cơn sốt nóng bỏng của thời sự tôi và anh em đầu não báo Điện Tín “phịa” ra nguồn tin về sự xích gần của liên minh Big Minh và Trí Quang. Tin tung ra ngầm cho dư luận hiểu là giữa hai phía đã có sự đi đêm.
Bản tin đã không được cảm tình của Tướng Minh, còn khiến ông ta nổi nóng. Ông Minh không phản ứng thẳng với tôi mà bày tỏ sự bực mình về bản tin đó với luật sư Vũ Văn Mẫu, bác sĩ Hồ Văn Minh, nghị sĩ Hồng Sơn Đông, giáo sư Lý Chánh Trung (thời kỳ đó Thiệu đã ra lịnh bắt lính tôi. Tôi đã phải di tản vào ngụ tại văn phòng chính trị cuả Đại tướng Dương Văn Minh vừa để trốn lính, vừa để tiếp tục trực tiếp và thường xuyên điều hành toà soạn báo Điện Tín. Mỗi ngày cứ 6giờ 30 sáng, bộ phận chủ yếu của tòa soạn gồm có Trương Lộc, Minh Đỗ, hoạ sĩ Ớt vào làm việc với tôi tại văn phòng số 3 đường Trần Quí Cáp. Đại tá Trương Minh Đẩu Chánh văn phòng của Tướng Minh, sắp xếp riêng cho chúng tôi một căn phòng lớn có tiện nghi đầy đủ để sửa soạn tin tức bài vở cho tờ báo. Một liên lạc viên được sử dụng dùng xe gắn máy –xe BC- chạy tới chạy lui giữa toà soạn và nhà in, vừa lấy các bản tin vừa đem bài vở đi sắp chữ. Liên lạc viên đó là NguyễnVăn Nhạn, em út của nhà thơ Cung Văn từ Đà Nẵng vào được tôi sử dụng tín cẩn và thân tình. Sau giải phóng Nguyễn Văn Nhạn chính thức vào nghề làm báo với tư cách phóng viên từ tháng 9-1975. Nhạn trở thành phóng viên Triệu Bình, khá năng nổ của báo Tin Sáng tập 2. Bây giờ trở thành biên tập viên của báo Sài gòn Giải Phóng. Một bước thăng tiến trong đời – từ vai trò giao liên đến vai trò ký giả – một chặng đường khó khăn, vất vã với nhiều biến cố ).
Tôi còn nhớ, hồi đó mỗi tuần vào chiều thứ ba và chiều thứ sáu tại văn phòng Tướng Minh thường xuyên có cuộc họp của Ban tham mưu chính trị
Hôm đó, vào chiều thứ ba, có Dương Minh Đức con trai của Tướng Minh ở Pháp về, tham dự. Dương Minh Đức đứng cản đường ở đầu cầu thang hàm ý không muốn cho tôi vào họp. Nhưng Luật sư Vũ Văn Mẫu, hiểu ý đã vội vã khéo léo kéo Dương Minh Đức tránh lối đi. Cuộc họp bắt đầu. Luật sư Mẫu nhắc chuyện bực mình của Tướng Minh đăng trên báo Điện Tín. Để xoa dịu, Giáo sư Lý Chánh Trung nói nhỏ với tôi “mày nên xin lỗi ổng đi” (tôi là học trò cũ của Thầy Trung ở Đại học Đà Lạt – môn Đạo Đức Học).
Tôi đã xin lỗi Đại Tướng Minh, sau khi nói rõ mục đích của bản tin: muốn kích động dư luận, gây phấn khởi cho quần chúng. Nhưng Tướng Minh chỉ nói một câu tiếng Pháp :” Je ne veux pas être compromis avec Trí Quang devant l’opinion publique” (Tôi không muốn bị công luận xem là có dính líu với Trí Quang). Mọi người cười giải hoà, Luật sư Mẫu tiếp tục ngay cuộc họp với dụng ý cho sự bực mình của Tướng Minh được tan mau.
Một sự kiện khác trong năm 1972 đã khiến báo Điện Tín của chúng tôi đi quá đà là việc khai thác tin tức về cái chết của sinh viên Nguyễn Thái Bình bị FBI Mỹ bắn chết trên máy bay của hãng hàng không Pan Am trên đường từ Mỹ về Sài Gòn, lúc sắp đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất.
Nguyễn Thái Bình là không tặc hay là người phản chiến yêu nước cướp máy bay để tạo dư luận khơi dậy lòng phẫn nộ đấu tranh của dân Sài Gòn chống Mỹ?
Bản tin của Hãng UPI đến tay chúng tôi vào khoảng 9 giờ sáng hôm đó. Lập tức Trương Lộc phụ tá của tôi kích động “mình phải làm lớn vụ này”. Tôi đồng ý thổi phồng ngay thành xi căng đan yêu nước chống Mỹ. Đòn đánh đó của anh em chúng tôi thật thành công vì hôm đó phải phát hành thêm gần 10 ngàn số báo. Ngày hôm sau, chúng tôi cho viết bài ngay về lai lịch Nguyễn Thái Bình (phóng viên Nam Thái Sơn phụ trách viết) ca ngợi hết mực một học sinh giỏi được học bổng du học Mỹ, học xuất sắc, gốc gác nhà nghèo. Thế mà vẫn dám đấu tranh chống bạo quyền ngay tại đất Mỹ, tham gia phong trào phản chiến.
Chúng tôi chỉ mới nắm hiện tượng, vội vàng thêm mắm dậm muối ngay vào hiện tượng đó, để khuấy động phong trào chống Mỹ, chống Thiệu. Thực tế trong hồ sơ nhà báo, không có một tài liệu hay vết tích gì về lịch sử bản thân của Nguyễn Thái Bình.
Biệt tài “chế biến” làm sôi động chính trường vào thời đó là sở trường của tôi và Trương Lộc trong khi điều hành, dàn dựng tin tức thời sự hàng ngày. Báo Điện Tín trong tay chúng tôi đã trở thành một chuỗi bom xăng đặc hàng ngày thường xuyên được cho nổ trong dư luận độc giả.
Báo chí và các tài phiệt
Tháng 11-1971 Điện Tín chỉ mới in được 8 ngàn bản một ngày. Sang đến tháng 9-1972, nhật báo Điện Tín đã vượt lên con số 60 ngàn một ngày, vượt qua mặt luôn tờ báo đông độc giả Sài Gòn lúc bấy giờ là tờ nhật báo Sóng Thần, do nữ sĩ Trùng Dương, tác giả tiểu thuyết “mưa không ướt đất” làm chủ nhiệm, nhà văn Chu Tử làm chủ bút. Qua năm 1973, nhật báo Điện Tín mỗi ngày đã bán ra trên 85 ngàn số, mặc dù luôn luôn bị “TYĐB” (tự ý đục bỏ).
Bị Nha Báo chí thường xuyên TYĐB, nhưng nhật báo Điện Tín phần lớn vẫn phát hành nguyên con từ Quảng Trị đến Cà Mau. Đài phát thanh Hà Nội và đài phát thanh Giải Phóng thường xuyên trích đọc tin và bài của báo Điện Tín hàng đêm. Tôi còn nhớ bài viết ký tên nghị sĩ Hồng Sơn Đông về ngày giỗ Tổ Hùng Vuơng mồng 10 tháng 3 (năm 1973) được đài phát thanh Hà Nội trích đọc ngay đêm hôm đó.
Hai nhà tài phiệt chủ thầu báo Điện Tín hưởng thật nhiều huê lợi do tờ báo mang lại là nghị sĩ Hồng Sơn Đông và tay trùm nhà in Nguyễn Văn Như (chủ nhà in Long Giang ở số 67 đường Lê Lai quận I).
Hồng Sơn Đông vừa là chủ nhà in số 101 đường Võ Tánh quận I vừa là Nghị sĩ Quốc hội.
Ông ta làm chủ báo được 3 cái lợi :
- Thứ nhất: được danh tiếng là chủ tờ báo đối lập số 1 ở Sài Gòn.
- Thứ nhì: thực hiện được yêu cầu chính trị của nhóm Tướng Dương Văn Minh đề ra: Chủ trương hoà bình hoà giải dân tộc giữa các thành phần Việt Nam với nhau.
- Thứ ba: hưởng được lợi ích tài chính hàng ngày khá lớn.
Tờ báo Điện Tín mỗi ngày bán ra 80 ngàn số, mỗi số 15 đồng. Báo in 8 trang với hơn 2 trang quảng cáo.
Tiền bán báo mỗi ngày thu được trên 1 triệu đồng, các mục quảng cáo mỗi ngày thu trên 200 ngàn đồng. Chi phí cho ban biên tập toàn bộ khoảng 200 ngàn đồng (kể cả tiền mua các bản tin và mua các tạp chí quốc tế làm tài liệu, mua ảnh thời sự). Tiền giấy, tiền công in, tiền trả thợ sắp chữ trên dưới 400 ngàn đồng. Mỗi ngày lợi nhuận thu vào của tờ Điện Tín trên 500 ngàn đồng. Lãi thu được hàng tháng khoảng 20 triệu đồng. Đô la năm 1972 – 1973 tương đương 250 đ/1 đô la. Lãi hàng tháng tính bằng ngoại tệ khoảng 80 ngàn đô la, trong khi đó lương hàng tháng của toàn bộ ban biên tập, thợ sắp chữ trên dưới 20 ngàn đô la. Bài toán trên giúp chúng ta thấy được nghề làm báo là một nghề đạt siêu lợi nhuận nếu tờ báo đó có trên 10 ngàn độc giả và có từ 1 đến 2 trang quảng cáo.
Báo Thời Đại Mới chỉ in mỗi ngày 8 ngàn số, chỉ có hơn 1 trang quảng cáo, thế mà vợ chồng anh Hai Nguyễn Kiên Giang, chủ báo, vẫn có một đời sống ung dung dư dả, chiều nào anh Nguyễn Kiên Giang vẫn nhậu lai rai 3 – 4 ly Martell soda, còn chị Hai tháng nào cũng có thêm hột xoàn.
Tôi nhớ rất rõ, nhà in số 101 đường Võ Tánh quận I của anh Hồng Sơn Đông ban đầu chỉ có 4 máy in Typo cũ. Sau khi báo Điện Tín (bộ mới) do anh Hồ Ngọc Nhuận và tôi làm chủ biên, chỉ trong 4 tháng anh Hồng Sơn Đông đã còm măn (commande) và đưa về 1 dàn máy in hiện đại Rotative offset 4 màu trị giá nửa triệu đô la (anh Hồng Sơn Đông lúc đó khoe cho tôi xem hoá đơn mua máy bằng ngoại tệ 500 ngàn đô). Ngay khi đó tôi thầm nghĩ tại sao Hồng Sơn Đông quá giàu; ban đêm về gác tay lên trán làm bài toán cộng trừ nhân chia mới thấy rõ ông chủ báo phát tài mạnh từ lúc Điện Tín vượt lên 40 ngàn số/ngày.
Làm chủ, nhất là làm chủ báo, thời đại nào cũng khỏe ru và còn được nhiều đặc quyền đặc lợi. Ở chế độ cũ, trong báo chí cũng chỉ có hai lớp người xa cách nhau rõ rệt. Lớp chủ báo và đầu nậu báo gồm ít người nhưng thụ hưởng trên 80% lợi nhuận. Còn lớp làm công, viết báo, biên tập viên, ký giả, thợ sắp chữ hưởng khoản 15% còn lại. Thợ lao động tay chân hay thợ lao động trí tuệ cũng xấp xỉ nhau. Thuyết Mác xít của Karl Marx và Lênin có khá nhiều điều không đúng trong thời hiện đại, nhưng đối với chủ và thợ, giữa tư bản và công nhân, quả là Karl Marx đã nói lên sự thật não nề, nhất là ở các nước đang phát triển. Người chủ hay giai cấp chủ nhân thường dựa vào tình trạng không có đầy đủ luật lệ hoặc luật lệ chưa rõ ràng hoặc dựa vào thế lực của các cấp chính quyền mà họ mua chuộc được, đồng thời dựa vào tình trạng người thất nghiệp đông đảo để luôn bóc lột những người đi làm thuê làm mướn. Chủ hưởng trăm lần, công nhân không được hưởng đến mười phần. Bóc lột trong báo chí ở chế độ cũ cũng không khác với quy luật trên. Thời trước có rất nhiều cai thầu báo chí. Một trong những cai thầu báo Điện Tín, báo Đại Dân Tộc là Nguyễn Văn Như, Nguyễn Văn Hiển, Tỷ Giấy.
Nguyễn Văn Như chủ nhà in Long Giang, chủ thầu in báo, bán báo Điện Tín, Đại Dân Tộc suốt bốn năm liền (có lúc thầu luôn báo Tin Sáng). Quyền lợi Như và Hiển được hưởng to lớn không kém gì các ông chủ báo thứ thiệt.
Cai thầu báo chí không cần dính líu tới nội dung tờ báo. Chỉ cần báo chống chính quyền càng mạnh, có càng nhiều quảng cáo, số phát hành càng cao, bàn càng đắt. Họ bóc lột sức lao động của công nhân, ký giả, ngay đến kỳ thưởng lương Tết, tháng thứ mười ba, họ cũng kèo nài bớt nửa tháng. Tình trạng này xảy ra cho báo Điện Tín Tết năm 1972-1973. Dù số lượng phát hành lớn, cai thầu Như, Hiển và chủ báo Hồng Sơn Đông cũng chỉ chịu trả thêm cho anh em nửa tháng lương. Tôi với tư cách chỉ huy toà soạn chịu trách nhiệm trước anh em phải đấu tranh kỳ kèo mãi. Thế mới biết đối với đa số chủ tư bản và cai thầu, cắt xén được tiền bạc của công nhân dù là công nhân trí thức, được thêm mớ nào để túi họ đầy thêm mớ nấy. Làm sao quên được dù cảnh đó đã xảy ra cách đây gần 30 năm rồi.
Ở những báo không có cai thầu vì chủ báo là tư sản có tiền trực tiếp đầu tư như báo Tia Sáng, Sài Gòn Mới, Trắng Đen, Thần Chung, tình trạng khai thác lợi nhuận, cắt xén bớt quyền lợi của công nhân, ký giả vẫn xảy ra. Ở các báo này tình hình thu nhập hàng tháng của những người viết lách cũng không sáng sủa hơn. Làm ký giả, phóng viên lãnh lương cũng chỉ đủ sống tàm tạm qua ngày nếu những người đó không biết kiếm thêm bằng cách chạy mánh.
Mánh báo chí
Có quá nhiều loại.
Viết báo bôi đen, gây xì căng đan để làm tiền. Nhiều cô ca sĩ, minh tinh màn bạc từng bị ngón đòn này.
Viết báo lăng xê gà cũng để làm tiền. Gà có nhiều loại. Diễn viên, kịch sĩ cũng có thể là gà. Thầy bói, thầy tướng số cũng mướn báo chí lăng xê. Thầy tu, thầy bùa cũng cần có báo nhắc đến tên mới có đông tín đồ, đông thiện nam nhất là đông tín nữ.
Dân biểu, nghị sĩ, Hội đồng Thành phố, Hội đồng Tỉnh cũng phải nuôi đàn em ở một vài toà báo phòng khi hữu sự.
Lăng xê các mưu đồ mua bán, lũng đoạn thị trường cũng có thể bỏ tiền ra nhờ báo chí làm giùm.
Quý vị độc giả có tuổi có thể nhớ lại chiến dịch nuôi chim cút khoảng năm 1965-1966. Một cặp chim cút mua từ Hồng Kông mang về phải trên 1 ngàn đô la. Gian thương Hồng Kông và Chợ Lớn đã hợp tác nhau mướn báo chí lăng xê chim cút biết đẻ ra trứng vàng làm cả Sài Gòn và một số tỉnh lớn ở miền Nam như Cần Thơ, Biên Hoà, Mỹ Tho ùn ùn đổ tiền ra đi mua chim cút về nuôi.
Chim cút ăn vào cường dương, hồi sinh, sung mãn. Trứng cút ăn nhiều trị được bịnh hen suyển, dị ứng kinh niên. Báo chí thời đó nhứt là báo Trắng Đen đã đi tiên phong và đưa phong trào nuôi chim cút lên ào ạt. Sau khi đã hốt được hàng chục triệu đô la của dân có máu buôn chợ đen, dân đầu cơ Sài Gòn, Chợ Lớn, đám đại xì thẩu Hồng Kông bắt đầu cho quả bóng chim cút xẹp xuống thật nhanh. Chỉ trong vài tuần lễ không còn ai mua chim cút với giá cao nữa. Biết bao gia đình đã điêu đứng vì cao trào chim cút. Lúc đó mới vỡ lẽ ra: có một bọn gian thương quốc tế mua chuộc báo chí để thổi phong trào lên mà hốt đô la.
Đám gian thương này dính líu với chủ các câu lạc bộ ăn chơi nổi tiếng của Sài Gòn, Chợ Lớn là Câu lạc bộ Xanh, Câu lạc bộ Tím, Câu lạc bộ Hồng, những nơi chiêu đãi nhất dạ đế vương các quan quyền cao cấp thời kỳ trước. Chính quyền cũ không màng đến các suy sụp, do đầu cơ trong tình hình kinh tế, nên không hề truy tìm nguyên nhân và thủ phạm.
Làm báo cũng có số mệnh …?!
Nhật báo Điện Tín bộ mới xuất bản liên tục từ tháng 11-1971 đến tháng 3-1975 (có lẽ vào ngày 20-3-1975) bị đóng cửa. Người ký tên rút giấy phép báo Điện Tín là Hoàng Đức Nhã em cùng mẹ khác cha với Nguyễn Văn Thiệu, Bộ trưởng Bộ Thông tin Chiêu hồi.
Điều đáng buồn đối với riêng cá nhân tôi suốt đời 3 lần làm trụ cột 3 tớ báo khác nhau, từ năm 1965 đến năm 1975, cả 3 tờ báo đều bị chính quyền rút giấy phép xuất bản.
Tuần báo Tiếng Gọi Miền Tây ở Mỹ Tho từ 1965 đến 1966 bị ông Nguyễn Cao Kỳ buộc đình bản.
Tuần báo Đại Dân Tộc xuất bản tại Sài Gòn năm 1968 đến giữa năm 1969 bị ông Ngô Khắc Tỉnh cấm xuất bản.
Lần thứ ba, nhật báo Điện Tín bị đóng cửa cách ngày tàn của chế độ Thiệu sáu tuần lễ.
Nếu tin vào số mạng, phải kết luận số của tôi đen không làm được việc gì lớn mà vững bền. Điều này sẽ ứng nghiệm một lần nữa sau ngày giải phóng khi tôi làm hợp tác phát triển kinh tế với đất nước Lào. Bước đầu đang có nhiều thành công lớn, đang được chính phủ Lào trọng vọng, mới trong vòng 3 năm tôi trực tiếp bị ông Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam do hiểu lầm, do bị xúc xiểm tôi là đệ tử của một ông lớn khác, không điều tra rõ ràng đã ra lịnh bắt bỏ tù tôi. Chuyện dài này tôi sẽ xin kể lại ở phần thứ nhì của tập sách .
Đến nay trên 60 tuổi chiêm nghiệm lại cuộc đời nhiều khi phải nhìn nhận con người có số mệnh.
Như Ngô Công Đức ông ta có số mệnh làm việc gì cũng thành công.
Làm chủ báo Tin Sáng thời Nguyễn Văn Thiệu, phát tài lớn dù là báo đối lập, “nặng ký lô”, không một lần bị đóng cửa.
Qua thời kỳ giải phóng sau năm 1975, Ngô Công Đức được chính quyền cách mạng giao làm chủ nhiệm nhật báo Tin Sáng “tư nhân”, tiếp tục làm giàu cho đến khi Tin Sáng cáo chung vì hết vai trò sử dụng trong chế độ mới. Đến thời kỳ làm chủ hãng sơn mài, chủ hãng đồ gốm Ngô Công Đức vẫn được chính quyền giúp đỡ. Chính Ngô Công Đức thường rêu rao dân giàu nước mới mạnh trong khi một thời ông Đỗ Mười chủ trương nước giàu dân mạnh. Phải nhìn nhận Ngô Công Đức là một tay chính trị già dặn có nhiều khi đi trước thời cuộc, cái hay của ông ta là tạo được sự tin tưởng để chính quyền cách mạng giao cho tờ nhựt báo Tin Sáng tư nhân, tiếp tục hưởng lợi trong thời kỳ quá độ. Trong những lúc rượu say ngà ngà, Ngô Công Đức thường khoe về chiến thuật sống của ông ta: đó là chiến thuật “lắc”. Ông ta là chuyên viên lắc tới, lắc lui, vừa lắc vừa nhậu, lắc qua lắc lại để tìm cách đi tới, đi lên. Khi đụng phải vật cản, ông ta tạm dừng lắc hoặc tạm né qua một bên, sau đó tìm cách lắc tới. Chiến thuật “con lắc” tuyệt vời đem đến cho ông ta nhiều sự thành công.
Xin đóng ngoặc lại, tạm ngưng không nói về chuyện số mệnh nữa, để nhắc lại chuyện Điện Tín bị đóng cửa, có một kỷ niệm rất là “militant” (tranh đấu). Sau khi báo Điện Tín bị đóng cửa, tôi và anh Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu quyết định tiếp tục xuất bản nhật báo Điện Tín, Tin Sáng, in Ronéo phát hành hàng ngày. Bán rất chạy.
Trụ sở tòa soạn báo phát tay dưới dạng truyền đơn này vẫn là văn phòng của Tướng Dương Văn Minh tại số 3 đường Trần Quý Cáp. Chủ bút kiêm chủ nhiệm là Hồ Ngọc Nhuận. Dương Văn Ba vẫn là Phó chủ bút kiêm Tổng thư ký tòa soạn. Nhưng lần này chỉ có Dương Văn Ba một mình ngồi soạn tin soạn bài làm công việc của biên tập viên. Còn những cây bút bình luận chính trị có thêm Nguyễn Hữu Chung, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu. Người đánh máy của nhật báo phát tay như truyền đơn là Trung sĩ Đỗ Tấn Phát, lính của Đại tá Trương Minh Đẩu. Trung sĩ Phát có biệt tài đánh máy 10 ngón tay và đánh rất nhanh. Mỗi ngày phải đánh máy tối thiểu 50 trang in ronéo. Công việc đó một mình Trung sĩ Phát làm, rất hăng say tận tụy.
Người quay ronéo, in báo là Dương Thị Nhung, còn hệ thống phát hành báo là chiếc xe LaDalat của Hồ Ngọc Nhuận, chiếc xe Toyota 800 cuả Kiều Mộng Thu cùng với các dân biểu đối lập. Mỗi ngày chúng tôi phát hành trên 5 ngàn tờ Điện Tín Tin Sáng in ronéo. Cuộc chiến đấu trên báo chí vẫn tiếp tục với quy mô nhỏ hơn tại Sài Gòn nhưng căng thẳng hơn và nguy hiểm hơn. Báo in ronéo vẫn bán chạy, vẫn thu được tiền. Các độc giả ở các chợ, các chùa, các Trung tâm Đại học vẫn đổ xô mua báo lậu. Báo in tay của chúng tôi phát hành đến ngày 26-4-1975 mới đình bản. Lý do: ngày 27-4-1975, Tướng Dương Văn Minh được Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa giao quyền Tổng Thống. Tôi, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt), Trương Lộc và Nguyễn Ngọc Thạch chuẩn bị cho tờ Điện Tín (Lớn) tái xuất giang hồ vào ngày 28-4-1975.
Số báo Điện Tín bộ thứ 3 in 4 trang ra mắt độc giả ngày 29-4-1975 đặt tòa soạn tại nhà in số 101 đường Võ Tánh quận I, phát hành 10 ngàn tờ.
Dương Văn Ba, Trương Lộc, Huỳnh Bá Thành, Minh Đỗ, Nguyễn Ngoc Thạch vẫn tiếp tục điều khiển tờ báo. Nhớ lại ngày đó Sài Gòn tán loạn, tan tác như đàn vịt vỡ bầy, ùn ùn đua nhau tìm cách di tản. Thế mà chúng tôi vẫn tiếp tục săn tin viết báo, in báo và phát hành báo.
Nhật báo Điện Tín bộ thứ 3 chỉ có 1 ngày tuổi. Đến bây giờ không biết tìm đâu ra ấn bản hi hữu đó. Trong tủ sách riêng của gia đình Huỳnh Bá Thành, bà Nguyễn Thị Ninh, vợ anh Thành, có giữ được một vết tích nào không?
Sáng hôm sau, ngày 30-4-1975 Sài Gòn vang dậy tiếng súng và cờ đỏ đã tràn ngập phố phường. Báo Điện Tín, tờ báo cuối cùng của chúng tôi khai tử vào ngày đó. Đó cũng là ngày cáo chung vĩnh viễn của làng báo tự do tư sản ở miền Nam Việt Nam (29-4-1975).
Kỷ niệm của hai ký giả với Cảnh sát Đô thành
Tôi xin kể thêm 2 kỷ niệm nhỏ nhưng cũng khá vui trong đời làm báo Điện Tín của tôi, Trương Lộc và Huỳnh Bá Thành.
Kỷ niệm đầu, vào năm 1972 khoảng giữa tháng 3. Lúc đó, nhà tôi ở trong đường Nguyễn Tri Phương quận 10, gần nhà Trương Lộc (dân biểu Lý Quý Chung cũng ở kế cận). Sáng sớm mỗi ngày, khoảng 6 giờ, Trương Lộc chạy chiếc xe Lambretta cũ, đèo tôi đi từ đường Nguyễn Tri Phương ra đường Võ Tánh. Một buổi sáng, chúng tôi chạy đến gần trường Nguyễn Bá Tòng, bị 2 quân cảnh chận lại xét giấy tờ. Tôi trình thẻ dân biểu (lúc đó tôi vẫn còn giữ). Trương Lộc bị quân cảnh hỏi giấy hoãn dịch, mặt mày tái mét. Anh đang trốn quân dịch. Hai lính quân cảnh đòi bắt Trương Lộc. Tôi điều đình “chung” cho họ 100 ngàn đồng (bằng 2,5 lạng vàng ), lính quân cảnh đồng ý. Tôi để Trương Lộc đứng đó chờ, vội vã chạy đến nhà Nguyễn Văn Như, thầu báo Điện Tín, mượn tiền. Nhà Nguyễn Văn Như ở đường Lê Lai, gần đó. Sau 15 phút tôi quay lại lãnh Trương Lộc đi. Khi chung tiền xong, hai anh em, lên xe Lambretta, dông thẳng.
Bây giờ, chắc Trương Lộc chưa quên chuyện đó dù ông ta đang rất giàu và cũng là một nhân vật có máu mặt thời nay.
Chuyên thứ 2 liên quan đến Huỳnh Bá Thành, về sự dũng cảm của anh ta.
Mỗi buổi trưa khoảng 12 giờ 30, sau khi báo lên khuôn, máy in bắt đầu chạy, anh em đầu não của toà soạn Điện Tín thường rủ nhau đi ăn cơm ở đường Lê Lai. Thời gian đó tôi có chiếc xe hơi Datsun màu trắng 1.500 (xe mang biển số X nhưng tôi cho đổi bảng số thường, đổi lậu). Xe này thỉnh thoảng dân biểu Hồ Ngọc Nhuận hay lấy sử dụng (không biết ông ta đi đâu, có khi là đi liên lạc với Việt Cộng, Hồ Ngọc Nhuận thường hay bị công an chìm theo dõi, cho nên xe tôi cũng bị theo dõi mà không hay).
Trưa hôm đó, khoảng 13 giờ 30 tôi, Trương Lộc, hoạ sĩ Ớt đi ăn cơm về đến nửa đường Lê Lai, bên hông ga xe lửa. Một đám công an áo vàng, áo thường phục chận xe lại xét. Ớt thắng xe lại và nói “anh Ba, anh Lộc vọt đi để tôi đối phó”.
Lộc vọt nhanh nhất vào hẻm (vì đang trốn quân dịch). Tôi cũng vọt theo vì xe mình không có giấy tờ hợp lệ (biển số lậu). Huỳnh Bá Thành ở lại bị bắt về bót quận Nhì, giam mất hai ngày.
Cũng may Trưởng ty cảnh sát quận Nhì là Trung tá Phan Trung Chánh, bạn của tôi. Lúc đó hồ sơ của tôi trong công an cũng đã bị ghim đen. Buổi tối, hai lần liên tục, tôi phải đến nhà riêng của Phan Trung Chánh năn nỉ vợ anh ta nói giùm để thả hoạ sĩ Ớt ra (Trung Tá Chánh không dám tiếp tôi ban ngày, ngại bị Trang Sĩ Tấn – Giám đốc Cảnh sát Sài Gòn phát hiện).
Huỳnh Bá Thành vì bạn, vì tờ báo phải ở tù 2 ngày, bị muỗi cắn, mà vợ ở nhà không hay biết tưởng là anh ta đi làm việc như thường lệ.
Sau giải phóng tôi mới biết Huỳnh Bá Thành là công an cộng sản. Lần ở tù đó anh Thành bị cấp trên trong bí mật khiển trách vì tật dám phiêu lưu, không sợ lở hư việc lớn. Tưởng cũng nên nói thêm chiếc xe hơi của tôi bị Trang Sĩ Tấn ra lệnh tịch thu vì trên xe chứa toàn phim ảnh biểu tình xuống đường của các sư cô và của sinh viên (đó là tài liệu của Hồ Ngọc Nhuận) và vì xe mang biển số lậu.
Vài dòng về mục ký sự nhân vật trong báo Điện Tín
Trong đoạn trên, nhân nhắc lại những kỷ niệm với anh Huỳnh Bá Thành (tức Hoạ sĩ Ớt), một người đã có quá nhiều kỷ niệm với tôi thời kỳ làm báo Điện Tín từ năm 1972 đến 30-4-1975, tôi xin được phép nói rõ thêm một vài chuyện liên quan đến anh Thành:
- Anh Huỳnh Bá Thành một con người tài hoa, đầy nhiệt huyết: một nghề tay trái nhưng rất giỏi của anh Thành có thể nhiều người chưa biết đến, đó là nghề tạc tranh truyền thần, chân dung trên đá cẩm thạch. Huỳnh Bá Thành quê ở Đà Nẵng, lúc nhỏ anh có học nghề tạc tranh trên đá ở Non Nước. Nét tạc của anh rất điêu luyện, duyên dáng và rất có thần. Để tạc một bức chân dung, anh sử dụng không quá 3 giờ đồng hồ. Chính mắt tôi đã thấy tài tạc tranh của anh cho nhiều người. Ai nhận được bức tranh anh tặng, thật là một điều hạnh phúc. Khi cha tôi mất năm 1981, anh Thành có tạc một bức chân dung của cha tôi để kỷ niệm. Sau này nghe nói anh có tặng cho ông Đinh Đức Thiện và ông Mai Chí Thọ mỗi người một tác phẩm truyền thần của anh.
- Huỳnh Bá Thành tức Hoạ sĩ Ớt, người vẽ hí họa nhân vật rất sắc nét và được độc giả miền Nam mến mộ thời kỳ 1972-1975. Những bức tranh châm biếm của hoạ sĩ Ớt về Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Hương, Kissinger, Nixon… là những tác phẩm nghệ thuật trào phúng chính trị để đời. Tưởng nên làm một cuộc sưu tập tất cả các tranh trào phúng ở trang nhất của báo Điện Tín từ tháng 12-1971 đến hết tháng 3-1975, chúng ta sẽ có một kho tàng tài liệu hí họa chính trị quí báu. Điều đáng nói là hoạ sĩ Ớt vẽ tranh trào phúng rất nhanh. Thường thường mỗi buổi sáng khoảng 8 giờ 30 đến 9 giờ, anh Ớt hội ý với tôi và Truơng Lộc về đề tài cần vẽ cho ngày hôm đó. Sau khi nghe hai chúng tôi góp ý, Ớt quyết định phát thảo những đường nét tiêu biểu. Chỉ sau 20 phút, báo Điện Tín chúng tôi đã có một bức tranh châm biếm, đủ sức hấp dẫn dư luận độc giả ngày hôm đó. Ớt vẽ rất nhanh, nhưng chiều sâu ý tưởng châm biếm của anh rất tiềm tàng, mỗi người có thể khám phá một nét duyên dáng riêng qua tranh của anh.
- Cũng trong thời kỳ Ớt vẽ tranh biếm họa cho trang 1, ở trang 4 của báo Điện Tín có mục “ký sự nhân vật”. Mục này do tác giả Trần Văn Lê phụ trách. Trần Văn Lê là bút danh của Trần Trọng Thức thời kỳ làm báo Điện Tín. Các bài viết về các nhân vật chính trị, văn hoá, thời sự của Trần Văn Lê đăng trên báo Điện Tín thu hút khá đông độc giả. Ngòi bút của Trần Văn Lê khá duyên dáng gợi cảm, phân tích những đặc điểm của nhân vật khá lý thú, cho nên mục ký sự nhân vật cũng là một thế mạnh của báo Điện Tín, thời kỳ tôi phụ trách. Nhưng mục “ký sự nhân vật” có tiếng vang tốt chỉ đem lại cái hại cho Trung Uý Hải Quân Trần Trọng Thức (lúc đó Thức đã bị động viên vào Hải quân). Bộ Tư lệnh Hải Quân Sài Gòn doạ kỷ luật Thức nếu anh không bỏ nghề viết ở báo Điện Tín. Để tránh bị trù dập, Thức phải bỏ ngang mục “ký sự nhân vật”. Thời kỳ đó, tôi với tư cách Phó chủ bút thường trực phải tiếp tục viết thay cho Trần Văn Lê và ký tên “người giấu tên”. Để mục “ký sự nhân vật” có thêm sức sống, hấp dẫn, tôi bàn với họa sĩ Ớt, cứ mỗi nhân vật, phát thảo một chân dung dựa vào các bức ảnh có được và dựa vào nét hài hước chủ yếu trong cuộc đời của đương sự. Thế là, từ đầu năm 1973, mục “ký sự nhân vật” giai đoạn II do tôi viết thế cho Trần Trọng Thức, có kèm theo hí hoạ của Ớt. Mục này tồn tại cho đến thời kỳ báo Điện Tín bị đóng cửa vào cuối tháng 3-1975.
- Vào năm 2002, nhà xuất bản Trẻ của TPHCM có sưu tập các bức ký họa của Ớt trong Mục ký sự nhân vật của báo Điện Tín, in thành một tác phẩm rất dầy và đẹp.
Anh Hồ Ngọc Nhuận, nguyên chủ bút báo Điện Tín thời kỳ 1971 – 1975, biết rõ có sự nhầm lẫn về quyền tác giả trong cuốn sách ký sự nhân vật đó. Tác giã các bức tranh là Ớt, còn tác giã các bài viết là tôi – Dương Văn Ba. Anh Nhuận có gửi thư cho nhà xuất bản Trẻ, cho anh Trần Tử Văn, báo Công An TPHCM, anh Lý Tiến Dũng – báo Phụ Nữ TPHCM, chị Nguyễn Thị Ninh- vợ anh Ớt, để nói rõ về sự nhầm lẫn nầy. Tôi cũng xác nhận những bài viết là của tôi, thời kỳ tôi thay thế Trần Trọng Thức. Còn những bức vẽ độc đáo là của Ớt – tự những bức vẽ đó đã nói lên chân tài của một nghệ sĩ quá cố.
Báo chí mạnh hơn các quân đoàn
Trong đấu tranh cách mạng, báo chí là một mặt trận, đôi khi quan trọng hơn cả chiến trường quân sự.
- Báo chí tung tin, tạo dư luận, hướng dẫn dư luận.
- Báo chí tung hỏa mù, soi sáng hỏa mù
- Báo chí là những họng súng có sức công phá lớn hơn các loại đạn pháo, bom chùm hay bom bi. Báo đánh thẳng vào cân não kẻ địch, gây hoang mang, làm lụn bại tinh thần đối phương.
Một tờ báo có nhiều độc giả mạnh hơn một quân đoàn. Báo đánh vào chiều sâu chiều rộng, đánh vào đầu, vào sâu thẩm trái tim kẻ thù.
Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu trong 10 năm cầm quyền không thấy hết sự nguy hiểm thâm sâu của báo chí. Theo đường lối dân chủ tư sản, chính quyền Thiệu buộc phải tạo ra bề ngoài có tự do báo chí.
Chính vì không lường hết sự thâm sâu của sức mạnh báo chí, một phần nguyên nhân gần khiến Thiệu phải thua và phải lưu vong.
Hầu như trong bất cứ tờ báo nào ở Sài Gòn cũ từ 1965 đến 1975 cũng đều có cán bộ cộng sản hoặc người thân cộng giả danh nằm vùng. Báo Công Luận của Tướng Tôn Thất Đính từng có Lê Hiền tức Cao Minh Hựu là cán bộ địch vận của Việt Cộng. Có thời gian Lê Hiền trở thành chủ nhiệm báo Bút Thép. Báo bề ngoài có vẻ thương mại là báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà. Bà Bút Trà cũng có người thân là Việt Cộng.
Báo Tin Sáng do Ngô Công Đức làm chủ nhiệm, Ngô Công Đức cũng đã đi theo Việt Cộng (theo tới cùng hay theo nửa chừng hoặc bên trong còn bọc lót áo màu gì chưa biết). Riêng Hồ Ngọc Nhuận đã được móc nối tại Paris bởi Đại Sứ Phạm Văn Ba và Đại Sứ Nguyễn Văn Tiến trong năm 1968.
Báo Điện Tín do Hồng Sơn Đông làm chủ nhiệm, nhưng Trương Lộc thư ký toà soạn hoạt động thân cộng sản trước năm 1968. Giám đốc trình bày, hoạ sĩ Ớt là sĩ quan công an (năm 1975 đeo lon đại úy). Nguyễn Đình Phúc, trợ lý về montage của Ớt, đeo lon trung úy công an. Nhiều báo khác nữa như báo Trắng Đen, Đông Phương, Bút Thần, Tia Sáng kể cả báo Tự Do của cha Nguyễn Quang Lãm, cũng có người thân cộng sản được cài vào.
Cán bộ cộng sản nằm trong ban biên tập, nằm trong hệ phóng viên hoặc nằm trong nhà in, trong thợ sắp chữ. Xếp typo của báo Điện Tín, giải phóng xong mới biết là Việt Cộng nằm vùng.
Cũng như cố vấn của Tổng thống Thiệu, Huỳnh Văn Trọng hay Vũ Ngọc Nhạ, là nhân viên tình báo cao cấp của cộng sản. Đầu bếp của Tướng Dương Văn Minh, mỗi ngày nấu ăn cho vợ con ông ta, là anh Năm quê ở Mỹ Tho, sau giải phóng mới biết là người do cộng sản cài đặt từ lâu.
Báo chí Sài Gòn bị màng lưới tình báo cộng sản vây chặt dưới nhiều hình thức, đóng nhiều vai trò qua nhiều thời kỳ liên tục. Kể cả ông Phạm Xuân Ẩn, một tay làm báo có cỡ của tờ Time, là nhân viên tình báo chiến lược của Trung Ương Cục. Nhìn bề ngoài, ông Phạm Xuân Ẩn giống như tay chơi, nuôi chó bẹcgiê, nhậu whisky Mỹ liên tục, ngày nào cũng có mặt ở quán Givral đường Bonard trước cửa Hạ nghị viện.
Nguyễn Văn Thiệu đã thua ngay trong những lúc ông ta tưởng là mình mạnh nhất, thời kỳ độc diễn 1971-1972. Thiệu không có đạo quân vô hình, Mỹ cũng không có đạo quân vô hình. Ngược lại họ còn bị cô lập, bôi đen, bắn lén từ tứ phía bởi đạo quân ma, quân chữ viết in trên giấy, trăm đầu trăm tay không biết đánh lúc nào, không biết bắn từ đâu mà chỉ thấy mỗi chữ như một viên đạn, bắn từ nhiều nơi, không biết đường đâu mà đỡ.
Nhà thơ Kiên Giang, nhà văn Sơn Nam, các thư ký tòa soạn, Sơn Tùng, Minh Đỗ những người này từng là cán bộ kháng chiến luôn hoạt động có lợi cho cộng sản kiểu này hay kiểu khác.
Những ông chủ báo, những ông chủ thầu, đâu có khi nào sống một ngày 24 giờ với tờ báo của mình. Chính các lực lượng ngầm bên trong các toà soạn điều khiển trực tiếp hay gián tiếp, xa hay gần đội quân ma trong báo chí. Báo Sài Gòn vô tình trở thành công cụ tuyên truyền và đấu tranh trong chiều hướng có lợi cho cộng sản. Các cuộc xuống đường biểu tình của phong trào báo chí, ký giả đi ăn mày, được tổ chức bởi những nhà báo nổi tiếng như Nguyễn Kiên Giang, Lý Quí Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung. Nhưng bên trong và đàng sau của những cuộc xuống đường rầm rộ đó, sau thời kỳ luật báo chí 007 được ban hành, hầu như đều có mặt của những người mặc áo lót đỏ.
Cuộc chiến đấu nhiều mặt
Chế độ cũ giới hạn quyền tự do báo chí bằng việc ràng buộc ai muốn xin ra báo phải đóng ký quỹ 100 triệu đồng (tương đương 300 cây vàng). Thực tế luật ký quỹ chỉ cản trở được nhà báo nghèo như Lý Quí Chung (Lý Quí Chung hết làm chủ báo từ sau luật 007). Còn 100 triệu hay một hoặc vài tỷ bạc, những người hoạt động nội thành của cộng sản khi nào cần là có ngay. Cuộc chiến đấu ở thành thị muôn mặt. Sử dụng đồng tiền để ngăn chặn cộng sản hoạt động, chế độ Thiệu với anh thanh niên playboy Hoàng Đức Nhã làm Tổng trưởng Thông tin chiêu hồi, đã phạm sai lầm lớn.
Bộ phận hoạt động thành của cộng sản có tiền nhiều hơn những nhà tài phiệt lớn ở Sài Gòn đang đi theo Mỹ và Thiệu. Tiền của cộng sản hoạt động thành đến từ nhiều nguồn tài trợ nhất là tài trợ quốc tế. Nó đến từ Trung Quốc, đến từ Liên Xô, đến từ những phong trào Việt kiều yêu nước thân cộng. Chính mắt tôi có lúc đã chứng kiến 2 nhà yêu nước thật sự của Sài Gòn (nghèo thấy mẹ) mà cầm xấp đô la tài trợ cho một số sinh viên hoạt động biểu tình. Không biết tôi có nên nói tên hay không. Cũng cứ nói, dù các đàn anh đáng kính của tôi có giận: Thầy Lý Chánh Trung và anh Hồ Ngọc Nhuận.
Những người hoạt động nội thành của cộng sản sử dụng đồng tiền để tăng thêm thế mạnh áp đảo của súng đạn, tăng thêm sức mạnh ngấm ngầm nhưng dữ dội của đạo quân ma trong làng báo thành thị. Sau ngày giải phóng mới rõ ra Lữ Minh Châu – Giám đốc Ngân hàng Phát triển Nông thôn ở Cần Thơ là cán bộ cao cấp của cộng sản. Ông Lữ Minh Châu đã sử dụng xe của ngân hàng Cần Thơ chở tiền đồng và đô la Mỹ đi phân phối cho các tổ kinh tài tại Sài Gòn và các tỉnh. Lữ Minh Châu, gốc người Cà Mau tham gia kháng chiến chống Pháp, tập kết ra Bắc. Hai năm sau (1956) ông được gởi đi Liên Xô du học. Từ Liên Xô ông được đánh vòng qua Pháp học về ngành tài chinh ngân hàng. Từ Pháp, ông được đưa về Nam Vang với tư cách Việt kiều Cam Bốt, giàu có. Ông ta có dáng vẻ thư sinh, nho nhã, trắng trẻo còn hơn nhiều người nhà giàu Sài Gòn chính cống. Trong cái vỏ bọc đó, rất giàu sang, từ Nam Vang, ông Lữ Minh Châu được đưa về Cần Thơ tham gia hoạt động ngân hàng. Ông trở thành giám đốc Ngân hàng Phát triển Nông thôn có hùn vốn lớn với mấy ông “đại xì thẩu” ở Tây Đô. Chính đó là môi trường thuận lợi, hợp pháp để ông Lữ Minh Châu dùng tiền tài trợ cho không biết bao nhiêu hoạt vụ.
Chế độ cũ phạm nhiều sơ hở về tình báo và kinh tài so với cộng sản. Sử dụng tiền để làm rào cản trong báo chí, Thiệu và các quân sư của ông đã sa vào cái hố to. To đến sau khi thất trận, mới thấm thía, đau đòn về chiến lược cài người đánh trên mọi mặt trận của phía cộng sản.
Ba mũi giáp công… năm mặt bao vây… báo chí Sài Gòn là một mặt trận lớn. Người điều binh khiển tướng là Khổng Minh Cộng Sản, chớ không phải các cố vấn Mỹ hay anh công tử bột, cao bồi Hoàng Đức Nhã.
Xin các bạn chịu khó tìm lại đọc các bản tin chiến sự từ giữa năm 1973 cho đến đầu năm 1975 trên hầu hết các báo Sài Gòn.
Soi rọi lại các dòng tít lớn mỗi ngày trên các nhật báo thời đó, con ma trốn trong bóng đêm cũng phải thấy rằng Việt cộng sẽ thắng, Việt Nam Cộng Hòa sẽ thua.
- Hàng rào điện tử McNamara đã bị vô hiệu
- Quảng Trị đã thất thủ
- Huế bị bao vây, đêm là việt cộng, ngày là chính quyền
- Việt cộng sắp đánh Pleiku.
- Ban Mê thuột thất thủ
- Tây nguyên hoảng loạn
- VNCH chỉ còn giữ được từ Phan Thiết trở vào
- Việt cộng đã về tới và bao vây Long Khánh
- Mỹ dội bom 7 tấn cản đà tiến quân Bắc Việt
Trước những dòng tít đại loại như thế liên tục từ ngày này qua ngày khác, chỉ có trái tim bằng đất và cái đầu bằng thép mới có thể giữ được sự thản nhiên. Dân chúng Sài Gòn và dân chúng miền Nam làm sao không bị hoảng loạn. Tướng tá chạy trước, sĩ quan cấp úy chạy sau, binh lính rã ngũ… cảnh đó tất nhiên phải đến, nhất là khi từ Đà Nẵng, từ Quảng Ngãi, từ Phan Rang, từ Biên hòa… lần lượt máy bay quân sự của Mỹ đã di tản cơ giới và binh lính của họ lần lần về nước trước cuối năm 1974.
Nhiều đàn bà đẹp Việt Nam đã được đưa di tản từ 1973…
Tưởng cũng nên nhắc lại phong trào lính Mỹ, các nhân viên dân sự Mỹ, các cố vấn Mỹ ở khắp miền Nam Việt Nam từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Huế cho đến Cà Mau, Bạc Liêu, đâu đâu họ cũng tìm lấy vợ Việt Nam, và họ đã đưa vô số những cô gái trẻ đẹp từ nông thôn đến thành thị ồ ạt đi về Mỹ từ đầu năm 1973. Tôi đã chứng kiến thường xuyên sự kiện này trong vòng 2 năm 1973-1974. Lý do: Thiếu Tá Trịnh Bá Lộc, một sĩ quan tuỳ viên của Đại tướng Dương Văn Minh, ngoài phận sự phục vụ cho Tướng Minh, ông Lộc còn làm thêm nghề chạy lo thủ tục giấy tờ cho vợ lính Mỹ, vợ các nhân vật cao cấp của Mỹ xuất cảnh. Những cô gái này muốn theo chồng hoặc theo người yêu về Mỹ phải làm đầy đủ thủ tục giấy hôn thơ hôn thú, giấy phép xuất cảnh, giấy thông hành… thủ tục xuất ngoại ở chế độ cũ cũng khá rườm rà, cũng mất khá nhiều thời gian. Thiếu tá Trịnh Bá Lộc, lúc đó để có thêm nhiều tiền đã tự động hành nghề dịch vụ xuất nhập cảnh cho vợ Mỹ. Mỗi hồ sơ phải chạy tới chạy lui về quê chứng giấy, lên Bộ Nội Vụ khai báo, xin xuất cảnh các cô vợ Mỹ và thân nhân của những người đó không thạo đường đi nước bước phải mướn những người làm dịch vụ như Thiếu tá Lộc. Mỗi hồ sơ ông ta lấy chi phí trọn gói 1,500 USD. Dịch vụ này lúc đó cũng vô cùng ì xèo, có lúc Tướng Minh phải rầy la Thiếu Tá Lộc, nhưng ông ta vẫn làm ngơ để ông Lộc kiếm sống, vì ông Lộc là con của ông Hai Tiểng, bạn của Đại Tướng Minh từ lúc nhỏ.
Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, dân biểu Lý Quý Chung, Đại tá Trương Minh Đẩu và tôi, thời kỳ đó thấy quá nhiều đàn bà đẹp của Việt Nam làm thủ tục để lính Mỹ dẫn về xứ, chúng tôi cũng thường hay chắc lưỡi hít hà. Sự kiện Mỹ đưa đông đảo phụ nữ Việt Nam sang nước của họ vừa là một sự kiện xã hội, kinh tế, văn hoá đã xảy ra từ năm 1973, đồng thời cũng là một dấu hiệu chính trị cho thấy người Mỹ đã rộn ràng quay về cố quốc một hai năm trước ngày giải phóng. Một số lớn người Việt Nam, những người đàn bà đẹp, đã di tản theo Mỹ trước khi chiến tranh chấm dứt. Con số “di tản” này ước lượng không phải là nhỏ, chắc cũng cả vài chục ngàn người vì tại Sài Gòn lúc đó không phải chỉ riêng văn phòng Thiếu tá Lộc làm dịch vụ đưa các “em đẹp Việt Nam sang sông”.
Về việc làm của Thiếu tá Lộc, Đại tá Trương Minh Đẩu tính hay khôi hài có lúc đã nói một câu: “Thằng Lộc làm chuyện mất tư cách, nó tham gia đưa gái Việt Nam ra nước ngoài, coi không được chút nào. Ông Tướng dễ quá. Gặp “ngộ” là không có “lược”…”
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 4:54:12 GMT 9
Chương 5 LÀM CHÍNH TRỊ – VÀO QUỐC HỘI
08-03-2015
Tôi xuất thân là một thầy giáo.
Lúc đi học, từ tiểu học đến đại học, luôn luôn là một người học giỏi. Học là phân tich và tổng hợp. Cái đầu của tôi, may mắn trời phú cho, phân tich nhanh tổng hợp mau. Học để nhớ và sau đó để quên. Do vậy, phải học nữa. Bởi vì trong việc học luôn luôn có cái mới. Không chỉ học ở trường mà còn học ở người khác, ở trong đời (đời là giao tiếp, cọ xát. Tồn tại và phát triển khoẻ mạnh, còn đủ sức cọ xát nữa mới là đời).
Cọ xát nhẹ, mạnh, tình cờ hay cố ý. Mọi biến đổi trong xã hội do có cọ sát. Phải có năng lượng mới có cọ xát. Cọ xát sinh ra năng lượng để tiếp diễn những cái mới. Có người gọi đó là biện chứng. Cũng có người gọi đó là biến dịch. Có biến dịch mới có phát sinh. Biện chứng khác hơn dòng nước. Dòng nước chảy mãi không ngừng. Biện chứng có thể do cọ xát nhiều chiều nhiều mặt. Biện chứng là luân lưu là đổi mới. Dòng chảy của cuộc sống có nhiều biến hóa hơn dòng chảy của thác Niagara. Dòng biện chứng lắm giông tố thác gềnh, bao la, trăm chiều biển cả. Con người lặn ngụp trong dòng chảy của cuộc sống không buông xuôi. Chỉ có chết mới đem lại sự buông xuôi. Chúng ta lặn ngụp trong dòng chảy cuộc sống không phải như cánh bèo. “Bèo dạt hoa trôi”. Mỗi người như con cá trong đại dương. Cá kình hay cá chép là do trong cọ xát của dòng chảy, mỗi người đã vận động, như thế nào, đến mức nào, với những ai.
Dòng chảy trong cuộc đời thầy giáo của tôi sớm gặp nhiều khúc quanh.
Quan hệ rủ rê, một định mệnh
Năm 1965, giáo sư Lý Chánh Trung gởi lời mời chúng tôi đến nhà ông ở Làng Đại học Thủ Đức dự một buổi họp mặt. Chúng tôi có 3 anh em: giáo sư Trần Bá Phẩm, Lâm Văn Bé và tôi.
Trong cuộc họp mặt đó, kỹ sư Võ Long Triều xuất hiện. Có cả Hồ Ngọc Nhuận, bác sĩ Hồ Văn Minh. Bà Tô Thị Viễn giáo sư, tiến sĩ Anh văn, học ở Anh quốc về, Hiệu trưởng trường London School, vợ của kỹ sư Triều thiết đãi mọi người món trừu nướng ăn với cous cous Á Rập. Bia lon Ham, rượu Johnny Walker, Coca Cola được đem ra uống. Giáo sư Lý Chánh Trung nói: “tao nghèo không có những thứ này. Đây là của vợ chồng Võ Long Triều lo”. Hôm đó không khí rất đông vui. Có Nguyễn Bá Nhẫn kỹ sư học ở Bordeaux, Nguyễn Khắc Thành Giám đốc nhà máy đường Hiệp Hòa, Bành Ngọc Quý giáo sư ở Bạc Liêu. Có giáo sư Nguyễn Văn Trường, Đại học khoa học, giáo sư Lê Thanh Liêm trường Cao Thắng, kỹ sư Lê Văn Danh Đại học Bách khoa, ký giả thể thao Lý Quý Chung (một người trẻ, đẹp trai, ăn nói lưu loát).
Hôm đó trước đông đảo anh em trí thức trẻ miền Nam, kỹ sư Võ Long Triều có nói: “đã tới lúc anh em mình nên hợp tác lại làm một cái gì đó có lợi cho dân miền Nam. Không thể để cho nhóm Nguyễn Cao Kỳ muốn làm gì thì làm trên phần đất quê hương của chúng ta”. Kỹ sư Triều đề nghị hợp lại lập một mặt trận chính trị công khai hoạt động cho quyền lợi của các tỉnh phía nam. Nhiều người có vẻ tán thành ý kiến của anh Triều. Giáo sư Trần Bá Phẩm hăng hái ủng hộ.
Giáo sư Lý Chánh Trung đưa ý kiến: “mình nên xuất bản một tờ tuần báo và để có ý nghĩa, tuần báo nên đặt trụ sở ở Mỹ Tho”.
Hầu hết mọi người đồng ý với đề xuất của ông Trung. Anh Trần Bá Phẩm và tôi được phân công về Mỹ Tho mời bác sĩ Trần Văn Tải đứng tên xin phép xuất bản báo với tư cách chủ nhiệm.
Tuần lễ kế tiếp, giáo sư Lý Chánh Trung, kỹ sư Võ Long Triều có cả nhà báo Lý Quý Chung xuống MỹTho gặp bác sĩ Tải. Bác sĩ Tải đồng ý nhận trách nhiệm vì ông vừa là bác sĩ vừa có máu làm văn thơ.
Tôi còn nhớ giáo sư Lý Chánh Trung, miệng luôn luôn ngậm ống pipe, tự lái chiếc xe Chevrolet 6 máy sơn màu xanh lá cây cũ kỹ từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho. Các ông trí thức Sài Gòn gặp gỡ giới trí thức Mỹ Tho, bác sĩ Trần Văn Tải, bác sĩ Trần Văn Trực hàn huyên với nhau tâm đầu ý hiệp.
Tôi được bác sĩ Trần Văn Tải và giáo sư Lý Chánh Trung chọn làm Tổng thư ký tòa soạn của báo Tiếng Gọi Miền Tây. Anh Võ Long Triều về Sài Gòn gặp ngay Nguyễn Cao Kỳ để xin giấy phép ra báo. Cộng tác với báo còn có giáo sư Lê Thanh Liêm, giáo sư Phan Công Minh, giáo sư Trần Văn Nghĩa. Mọi thủ tục được tiến hành thật nhanh, không đầy một tuần lễ đã có giấy phép. Anh Võ Long Triều chịu trách nhiệm đi tìm sự ủng hộ về tài chinh. Anh Âu Trường Thanh có góp phần (anh Thanh gốc người Gò Công) giáo sư Nguyễn Đình Đầu, công giáo, tích cực ủng hộ. Luật sư Trần Ngọc Liễng cũng góp một tay…
Mỹ Tho bỗng nhiên trở thành trung tâm hoạt động văn hóa chính trị của các tỉnh phía nam. Tuần báo Tiếng Gọi Miền Tây ra mắt ngay trong vòng 5 tuần lễ sau cuộc họp mặt đó. Tôi vừa dạy học, vừa viết báo, vừa lo sửa bản in, vừa lo trình bày với sự tiếp sức của giáo sư Lê Thanh Liêm, Phan Công Minh, Trần Bá Phẩm, Nguyễn Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Cầu, Võ Văn Điểm (bút danh Võ Trường Chinh).
Làm báo lúc đó, thể hiện một hành động dấn thân chính trị, nói lên một tiếng nói hiện diện và góp mặt. Chúng tôi hiện diện nơi đây giữa đồng bằng nam bộ, các thế lực chính trị, các thế lực chính quyền công khai hay bí mật, các anh nên nhớ và phải biết tới vùng sông nước và đầm lầy này.
Báo Tiếng Gọi Miền Tây cụ thể hóa hành động dấn thân tham gia sinh hoạt chính trị. Nhóm kỹ sư Võ Long Triều, giáo sư Lý Chánh Trung, giáo sư Nguyễn Văn Trường phát pháo và trở thành trung tâm đoàn kết. Trái bóng được tung ra giữa sân chơi chính trị. Ngay tiếp theo sau đó là phong trào vận động thành lập Đại học Cần Thơ. Kế đó nữa, nhóm Võ long Triều, Âu Trường Thanh, Nguyễn Văn Trường, Trần Ngọc Liễng được Thiệu Kỳ mời tham gia nội các chiến tranh.
- Kỹ sư Võ Long Triều, Ủy viên Thanh niên
- Giáo sư Nguyễn Văn Trường, Ủy viên Giáo dục
- Giáo sư Âu Trường Thanh, Ủy viên Kinh tế
- Luật sư Trần Ngọc Liễng, Ủy viên Xã hội
Trong nội các chiến tranh, các ủy viên chính là các Bộ trưởng. Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (Quốc trưởng), Nguyễn Cao Kỳ Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (Thủ tướng).
Bốn người trí thức đầu đàn của các tỉnh phía Nam xuất hiện trên sân khấu chính trị nổi bật. Trên báo chí Sài Gòn lúc đó có nhiều sự kiện sôi động rộn ràng.
Lần đầu tiên, đội bóng đá của Sài Gòn sang Mã Lai tranh giải bóng đá toàn Đông Nam Á, giải Merdeka, lẫy lừng đoạt cúp vô địch. Bộ trưởng Thanh niên Võ Long Triều nhờ đó hưởng phần danh dự do công lao sắp xếp động viên khích lệ các cầu thủ miền Nam.
Trí thức “xăn tay áo”, lội bùn
Cùng xuất hiện với Võ Long Triều trong phong trào phát triển thể dục thể thao, có một ông phụ tá Bộ trưởng Thanh niên rất hiếu động làm nên nhiều chuyện nổi đình nổi đám, ông Hồ Ngọc Nhuận. Một giáo sư, một thanh niên rất thành công trong hoạt động xã hội, trong các tổ chức hoạt động cộng đồng. Dưới “triều đại” Võ Long Triều và Hồ Ngọc nhuận, không khí hoạt động xã hội của các giới thanh niên, nhất là của sinh viên học sinh đi vào chiều sâu, phát triển rộng, ồn ào sôi nổi có nhiều tiếng vang.
Hồ Ngọc Nhuận, bác sĩ Hồ Văn Minh cùng một số thanh niên trí thức đã khá thành công trong hoạt động xã hội, phát triển cộng đồng ở các quận 8, quận 6 và quận 11. Lúc đó, với sự thúc đẩy của kỹ sư Võ Long Triều, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã nổi hứng giao cho nhóm thanh niên trí thức thử nghiệm chương trình Xây Đời Mới. Trong cuốn hồi ký mới đây của Kỳ, xuất bản tại Mỹ, Kỳ xác nhận đã từng đồng ý giao cho Võ Long Triều và các anh em của Triều toàn quyền làm cuộc cách mạng xã hội thí điểm ở ven đô thành. Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh đã đưa chính quyền quận 8 hoà đồng với dân lao động, xây dựng đổi mới các xóm nghèo, các khu ổ chuột, các bãi rác to lớn như bãi tha ma thành những khu nhà ở sạch sẽ có điện có nước, có nhà vệ sinh tự hoại bằng chính sức dân, bằng chính sự lao động dấn thân của lớp trí thức trẻ cùng ăn cùng ở cùng làm với dân. Chính quyền không chỉ tay năm ngón xóa đói giãm nghèo. Chính quyền cùng với dân tìm phương cách tạo ra phương tiện từ trên những khó khăn, thiếu thốn để cải thiện dân sinh. Ông Quận trưởng quận 8 Hồ Ngọc Nhuận cùng nhiều kỹ sư, bác sĩ, đại học quốc gia hành chinh, thầy giáo, mỗi người một việc “xắn tay áo, xăn quần” cùng với dân lội vào những bãi sình, những nơi dơ dáy đầy rác rưởi tìm cách thực hiện việc đổi đời.
Chương trình Xây Đời Mới ở quận 8, quận 6, quận 11 là thí điểm cải cách xã hội, giao toàn quyền cho đám thanh niên trí thức, “ thử phổi” các anh em, thầy giáo, kỹ sư, bác sĩ xem tự họ có làm được gì không, bằng chính trái tim khối óc của họ, hoà hợp cùng với dân khi họ có đầy đủ quyền hành trong tay. Trên thực tế, nhóm thanh niên trí thức này đã thành công. Tinh thần xung phong, tình nguyện vượt khó không phân biệt giai cấp nghèo giàu, cùng với đầu óc sáng tạo muốn đổi mới của họ đã đánh động được lòng dân, họ đã làm được nhiều điều mà trước đây người ta không thể tưởng và cho đến nay sau mấy chục năm, nhân dân vùng quận 6 – quặn 8 – quận 11 vẫn còn nhiều người nhắc tới. Những giáo sư Võ Văn Bé, Hồ Công Hưng, Uông Đại Bằng, Phó Đốc sự Mai Như Mạnh, Luật sư Đoàn Thanh Liêm, Bác sĩ Hồ Văn Minh và nhiều nữa…những tên tuổi thanh niên hăng hái đầy nhiệt tình, trong sạch được dân ngoại thành Sài Gòn lúc đó tin tưởng giống như những bông hoa tươi đầy sức hút, vuợt nở trên bãi lầy của chính quyền thời đó.
Đâu ngờ, ngọn lửa đổi mới ở các quận ven đô vừa bùng lên, vừa bắt đầu tỏa sáng, mưa bão chính trị của chế độ cũ đã nổi lên chận đứng, dập tắt. Hục hặc giữa Thiệu và Kỳ trong việc tranh ghế, tranh quyền đã khiến Đô trưởng Sài Gòn, bác sĩ Văn Văn Của, tay chân của Nguyễn Cao Kỳ, bị thay thế bởi Đại tá Đỗ Kiến Nhiễu, người theo phe Thiệu và Đặng Văn Quang. Đại tá Nhiễu nắm quyền chỉ huy đô thành Sài Gòn Chợ Lớn lập tức buộc nhóm Hồ Ngọc Nhuận phải bàn giao kế hoạch Xây Đời Mới và chương trình phát triển cộng đồng các quận ven đô cho phe cánh của Thiệu.
Tham gia chính trị, vào quốc hội
Ngọn gió đổi mới tắt lịm dần từ sau năm 1967, nhưng các cải cách đã được dân địa phương ủng hộ, chương trình xây đời mới đã hậu thuẫn nhiều người trẻ nhiệt huyết đưa họ vào quốc hội chế độ cũ.
■ Bước 1: Nhà báo Lý Quí Chung đã đắc cử Dân biểu Quôc hội Lập Hiến đầu năm 1966 với sự ủng hộ công khai của chương trình xây đời mới ở quận 8.
Cũng vào thời kỳ đó tại nhiều nơi khác ở miền Nam, nhiều người trẻ đã mở cửa đi vào quốc hội theo xu hướng mới.
Kỹ sư canh nông Nguyễn Hữu Chung đắc cử ở Phú Bổn. Thầy giáo Phan Xuân Huy, một con gà của Phật giáo, đắc cử ở Đà Nẵng.
Thầy giáo Bành Ngọc Quý thắng cử ở Gò Công. Tại Đà Lạt và Lâm Đồng hai thầy giáo trẻ, theo đạo Thiên Chúa thắng trận. Đó là thầy giáo Nguyễn Hữu Hiệp, thầy giáo Lê Thành Châu.
Thời Ngô Đình Diệm, lọt được vào quốc hội thường là người có tuổi, có tài sản, có địa vị xã hội.
Thời Nguyễn Văn Thiệu giới trẻ tham gia hoạt động chính trị sôi nổi. Phải chăng do ngẫu nhiên của tình hình đất nước? Hay do có sự vận động của các thế lực Công giáo, Phật giáo, các nhóm trí thức muốn thổi vào bầu không khí chính trí ngột ngạt ở miền Nam một luồng sinh khí mới, sôi nổi, bộc phá. Một phần Mỹ gia tăng các hoạt động quân sự và trực tiếp đưa quân Mỹ ồ ạt vào miền Nam, đối ngược lại, các thế lực thân Mỹ cũng gây náo động trong sinh hoạt chính trị với sự xuất hiện của giới trí thức trẻ trong các cơ chế dân cử, cùng lúc đó diễn đàn báo chí được mở rộng ồn ào.
■ Bước 2: Nhóm kỹ sư Võ Long Triều, kỹ sư Nguyễn Bá Nhẫn, kỹ sư Nguyễn Khắc Thành đầu năm 1966 đã thành lập Phong trào chính trị Phục Hưng miền Nam.
Trong cuộc tranh cử Hạ nghị viện, Phong trào nầy đưa nhiều người trẻ ra ứng cử chinh thức hoặc không chính thức. Vận động tài chính để ủng hộ các ứng cử viên vẫn là kỹ sư Võ Long Triều, kỹ sư Nguyễn Bá Nhẫn. (Có người nói, kỹ sư Triều chơi thân với Nguyễn Cao Kỳ, có thể lấy một phần tiền từ phía của Tướng Râu Kẽm, một phần vận động sự tài trợ của các nhà trí thức miền Nam).
Lý Quí Chung, Nguyễn Hữu Chung ứng cử ở đơn vị quận 1, quận 2.
Bác sĩ Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận ứng cử ở quận 6, quận 8.
Nguyễn Hữu Hiệp ứng cử ở Đà Lạt.
Bành Ngọc Quý ứng cử ở Gò công
Ngô Công Đức ứng cử ở Trà Vinh (Vĩnh Bình)
Dương Văn Ba ứng cử ở Bạc Liêu.
Thật ra không biết anh Võ Long Triều vận động được bao nhiêu tài chính, nhưng những người nói trên đều có sự yểm trợ của anh. Những người ứng cử ở đơn vị Sài Gòn Chợ Lớn, tốn nhiều tiền hơn. Các con gà ở tỉnh tốn ít tiền vận động hơn. Nhưng tự lực của mỗi người ngoài bộ máy vận động bầu cử lớn, nhỏ do chính mình sắp xếp, họ vẫn phải bỏ ra một phần lớn tài chinh để chi xài trong suốt 30 ngày vận động tranh cử. Guồng máy vận động tốt, sức bật của cá nhân từng người mạnh, chiêu bài tranh cử của từng người có phù hợp với nhân dân địa phương hay không, chính quyền có quyết liệt tổ chức gian lận bầu cử hay không, đó là những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại.
Nói chung, trong kỳ bầu cử Hạ nghị viện 1967, chính quyền Thiệu – Kỳ có lẽ nhận được chỉ đạo của các cố vấn Mỹ tại một số địa phương và nhất là ở Sài Gòn Chợ Lớn, họ thả cho “đánh võ tự do” để xem màu sắc chính trị của các nơi vào lúc đó. Lớp ứng cử viên trẻ bằng cách phân tích thời sự chính trị đất nước rõ ràng, bằng khả năng ăn nói lưu loát, bằng lập trường đòi hỏi chấm dứt chiến tranh, đòi hỏi thực hiện tự do dân chủ, họ đã tạo ra được luồng gió mới mẻ trong dư luận quần chúng, chinh phục được cảm tình của nhân dân lao động ở các thành thị miền Nam. Người ta trông đợi ở họ những bước bộc phá, muốn thấy ở họ một lập trường dứt khoát chống chiến tranh, đòi hỏi độc lập và xây dựng dân chủ triệt để.
Về phía Mỹ, họ muốn thử nghiệm màu sắc chính trị, nhiệt độ nóng lạnh trong tâm lý quần chúng, muốn thử nghiệm một cuộc bầu cử tương đối tự do để tìm hiểu nhân dân các nơi ở miền Nam đứng ở vị trí nào, xu hướng chính trị ra sao, đỏ hay vàng, hồng hay xanh. Trong kỳ bầu cử đó, các cố vấn Mỹ muốn thử xem trăm hoa đua nở. Các cán bộ, tình báo của họ đã thăm dò dư luận các từng lớp dân chúng, họ đặt tay mắt ở khắp nơi để lấy màu sắc và nhiệt độ, đoán trước và chờ kết quả cuối cùng của ngày bầu cử. Bóng dáng của những người thanh niên Mỹ làm công tác thăm dò dư luận ẩn hiện ở khắp nơi. Đó là một thời kỳ thuận tiện để những người mới có sức bật, có năng lực đáp đúng nguyện vọng của dân, chiến thắng. Nhiều thành phần thật sự có quần chúng ủng hộ đã thắng cử. Nhiều nhân vật trẻ với lập trường chống chiến tranh đòi dân chủ không đứng về phe chính quyền đã lọt được vào quốc hội.
Màu sắc của các tôn giáo nổi rõ. Ở miền Tây đại diện của hai ba phe Hòa Hảo có mặt trong Hạ Nghị Viện. Nhóm Cao Đài Tây Ninh chiếm được một số ghế. Nhiều đại biểu của Phật giáo miền Trung thuộc phe chống đối chính quyền, cũng có mặt tại nghị trường. Phía Công giáo đương nhiên có nhiều ghế vì đa số là những người thân chinh. Các Đảng phái nhỏ như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín cũng có được tiếng nói chính thức.
Bàn cờ dân chủ được chính phủ Thiệu và phía Mỹ bày ra. Cuộc cờ cũng có nhiều pha éo le gay cấn tạo nên bầu không khí khá sôi động từ tháng 10-1967.
Trường hợp tỉnh Bạc Liêu
Thử phân tich cuộc bầu cử Hạ nghị viện năm 1967 đơn vị tỉnh Bạc Liêu, để xem lúc đó thái độ của phía Mỹ như thế nào, chính quyền Thiệu Kỳ muốn gì, nhân dân Bạc Liêu có xu hướng nào và phía Mặt Trận Giải phóng miền Nam chọn thái độ nào đối với cuộc bầu cử đó.
Tại Bạc Liêu lúc đó có 8 ứng cử viên người Việt Nam và 2 ứng cử viên người Khờ Me. Cuộc bầu cử có 2 người thắng. Một Việt, một Khờ Me.
- Phía thân chính quyền tỉnh và chính quyền Sài Gòn gồm có những người sau đây:
- Lâm Hoàng Hôn- một tay cựu thư ký Toà Hành chinh, giàu có. Hằng ngày chuyên ăn nhậu với các quan chức có thế lực trong tỉnh.
- Trương Hữu Thành – người gốc Hoa lai (Quảng Đông) Nghị viên Hội Đồng hàng tỉnh. Giàu có thường xuyên quan hệ với Tỉnh trưởng, Phó tỉnh trưởng và các sĩ quan quân đội.
- Nguyễn Xuân Thu – Giám đốc thương mại của công ty Hàng không Air Việt Nam, em ruột của Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Nguyễn Cao Kỳ là ông Nguyễn Xuân Phong. Ứng cử viên Thu còn là con của “Trường Tiền Thạch”, Trưởng ty Công chánh thời Pháp. Thu vừa có thế lực, vừa có nhiều tiền.
- Tạ Thị Nguyệt – một người đẹp, con của đại địa chủ ở huyện Giá Rai (tỉnh Bạc Liêu) từng học ở Pháp, vợ của tiến sĩ Nguyễn Hoàng Cương, giáo sư đại học, cố vấn kinh tế của Nguyễn Cao Kỳ.
- Phía ứng cử viên độc lập:
- Bác sĩ Lý Quốc Bằng, quân y sư đoàn 21, gốc người Bắc di cư năm 1954, mới về công tác tại Bạc Liêu 4 năm.
- Thầy giáo Dương Văn Ba, sinh đẻ tại Bạc Liêu, cha mẹ và bà con thân tộc ở cùng khắp các nơi trong tỉnh, lúc nhỏ học ở Bạc liêu, đến măm 15 tuổi lên Sài Gòn học, có nhiều quan hệ với giáo chức trong cả tỉnh.
- Phía ứng cử viên người Khờ Me:
- Thạch Phen, trí thức Khờ Me, nguyên đại úy quân đội, ứng cử viên độc lập.
– Kim Sang nguyên Đại uý quân đội, ứng cử viên thân chinh quyền.
Một tháng trước khi bầu cử, mọi người đều biết nếu cuộc bầu cử tương đối tự do, phía ứng cử viên Khờ Me, Thạch Phen sẽ thắng vì mấy lý do sau đây: Thạch Phen là người trí thức đỗ bằng Thành chung (diplôme) từng làm nhân viên Toà án Bạc Liêu. Khi bị động viên ông ta vào quân đội thăng chức đại uý có lúc làm Quận trưởng Vĩnh Châu. Thạch Phen được các sư sãi người Khờ Me ủng hộ, anh ta rất bình dân. Người Khờ Me, Bạc Liêu rất kính trọng.
Riêng cuộc tranh cử phía 8 ứng cử viên Việt Nam, tình hình sôi nổi gay gắt, chưa biết ai sẽ thắng ai.
Lợi thế của hai ứng cử viên thân chính quyền địa phương: được Toà tỉnh trưởng và một số công chức ủng hộ. Một số cán bộ xã ấp tham gia vận động cho 2 người này. Nhưng chính họ cũng đã tự chia đôi lực lượng vì chỉ có một ứng cử viên đắc cử.
Lợi thế của hai con gà đến từ Sài Gòn: có nhiều tiền, được sự che chở của chính quyền Sài Gòn và sự nể vì của chính quyền địa phương. Nhưng kỳ bầu cử này chính quyền Sài Gòn được lệnh cho đánh võ tự do ở một số địa phương, nên 2 ứng cử viên Sài Gòn cũng chia mất phiếu của 2 con gà được chính quyền tỉnh hỗ trợ. Điểm yếu của cặp gà Sài Gòn: không có hệ thống thân thuộc ở khắp các làng, xã.
Riêng 2 ứng cử viên độc lập có những khác biệt rất lớn.
Bác sĩ Lý Quốc Bằng, dù có màu áo quân đội và có danh hiệu bác sĩ nhưng không có gốc rễ ăn sâu trong các làng xóm. Ông Bằng là người mới sống ở Bạc Liêu không đầy bốn năm, hệ thống bạn bè của ông không đông đảo. Trước mắt cử tri, ông cũng là người của chính quyền, ông cũng là yếu tố làm mất đi thế mạnh của phe thân chánh. Một nguồn phiếu bị chia làm năm: một phần cho hai con gà thân chánh địa phương, một phần cho hai con gà thân chánh trung ương, phần bác sĩ Bằng cũng làm phân tán số phiếu nói trên.
Do đó, lợi thế mạnh nhất thuộc về ứng cử viên Dương Văn Ba. Các ưu điểm của thầy giáo Ba có thể phân tích như sau:
- Trẻ, ăn nói lưu loát (gốc là một nhà giáo dạy Triết học và Quốc văn).
- Lập trường chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, chống bất công áp bức, chống quan liêu bè phái. Những điều này phù hợp với lòng dân lúc đó.
– Có nhiều nguồn lực hậu thuẫn từ quần chúng:
– Là một thầy giáo, ông Ba tranh thủ được hầu hết sự ủng hộ của giáo chức trong tỉnh.
– Là người gốc Bạc Liêu, ông Ba có hệ thống bà con thân quen khắp các làng xã. Bạn bè cùng lứa tuổi với ông khá đông đảo đang công tác trong nhiều ngành trong tỉnh.
- Là người gốc Hoa, khi vận động tranh cử ông Ba khai thác rất mạnh lợi thế này. Thân phụ của ông Ba là một người có uy tín trong giới người Hoa tại Bạc Liêu. Chính thân phụ ông Ba đích thân đi khắp nơi trong các làng, xã, các chợ, móc nối giới người Hoa ủng hộ cho con mình.
- Ông Ba phát huy được lợi thế gia đình gốc Phật giáo. Ba má của ông có uy tín với các Ban đại diện của Giáo hội Phật giáo tỉnh Bạc Liêu.
- Cha Sở Họ Đạo Bạc Liêu là Linh mục Nguyễn Văn Nhì nhiệt tình ủng hộ thầy giáo Ba vì lúc nhỏ thầy giáo Ba là học sinh của trường Công giáo Bạc Liêu. Dù không phải người công giáo, số phiếu của cử tri công giáo dành cho thầy giáo Ba khá lớn. (Sau khi giải phóng xong mới lộ rõ thêm một lý do tại sao cha Nguyễn Văn Nhì ủng hộ Dương Văn Ba, cha Nhì gốc có quan hệ với cộng sản ở Bình Định từ xưa).
- Chiến lược tranh cử của ông Ba khá khôn khéo: tranh thủ giới trẻ, tranh thủ giáo chức, tranh thủ bạn bè làm ở khắp các ngành trong tỉnh, tranh thủ người Hoa, tranh thủ Phật giáo, Công giáo. Đặc biệt, công khai liên kết với ứng cử viên người Khờ Me Thạch Phen. Ông Phen và ông Ba được toàn bộ giới sư sãi người Khờ Me ủng hộ. Đối với người Khờ Me, các sư chủ các chùa, nói gì về chính trị dân Khờ Me đều nghe theo.
- Ông Ba còn được một lợi thế mà các ứng cử viên khác không ngờ tới: thầy giáo Ba là bạn thân của thầy giáo Lâm Phi Điểu, Hiệu Trưởng trường Sư phạm Vĩnh Long. Thầy giáo Điểu là em của Tỉnh trưởng Bạc Liêu, Trung tá Lâm Chánh Ngôn. Vì vậy Trung tá Ngôn đã không quyết liệt ăn gian bầu cử. Chỉ cần ông ta khoanh tay thả lõng, cuộc đánh võ tự do đã nghiêng phần thắng về thầy giáo Ba.
Với những ưu thế gần như tuyệt đối kể trên, cộng với tổ chức vận động tranh cử nhiệt tình và rộng khắp, được sự tận tụy cổ vũ của hệ thống đông đảo các cổ động viên, những người vì nghĩa không màng đến lợi lộc, cộng với một lập trường độc lập với chính quyền, với Mỹ, với Thiệu, luôn luôn kêu đòi thực hiện dân chủ chấm dứt chiến tranh, hoà giải với những người Việt Nam với nhau, thầy giáo Dương Văn Ba đã thắng cử với đa số phiếu gần như tuyệt đối.
Phân tich kỹ các lý do thắng cử, thầy giáo Ba nhận thấy một điều mà trong cuộc tranh cử ông không dám công khai bộc bạch: đó là sự ngấm ngầm ủng hộ của các cán bộ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng miền Nam Tỉnh Bạc Liêu. Những người này đã ngầm vận động dân các vùng “xôi đậu” bỏ phiếu cho dấu hiệu bồ câu trắng ngậm bông lúa trên bông lúa có treo ngôi sao 5 cánh (dấu hiệu của ứng cử viên Dương Văn Ba).
Xin nói một kỷ niệm về dấu hiệu này. Trước khi nộp đơn ra ứng cử dân biểu, tôi và một người bạn đi xe đò từ chợ Bạc Liêu xuống Huyện Giá Rai. Xe xuống tới Giá Rai, vừa bước xuống, tình cờ tôi nghe một chị bán bánh tét (bánh tét Giá Rai ngon nổi tiếng) đọc 2 câu thơ:
Chiến tranh khổ lắm ai ơi
Bồ câu ngậm lúa khắp nơi hoà bình
Tôi nói nhỏ với người bạn: “mình chọn dấu hiệu chim bồ câu trắng ngậm bông lúa “ vì đây có lẽ là duyên tiền định. Anh bạn tôi đồng tình nhưng thêm: “trên bông lúa ta phải treo cái ngôi sao 5 cánh” tôi hiểu ý người bạn: ngôi sao 5 cánh tượng trưng cho 5 giới sĩ, nông, công, thương, binh. Và ngôi sao 5 cánh cũng có thể ngầm hiểu tranh thủ sự ủng hộ của phía bên trong (mặt trận).
Sau giải phóng, mới lộ ra anh bạn của tôi là con của một ông sư nổi tiếng tại Bạc Liêu, ông sư đó có gốc theo cộng sản từ lúc còn trẻ ở quê Bến Tre. Sau ngày giải phóng, tôi có gặp ông Năm Quân (Lê Quân) nguyên Phó Bí thư tỉnh Bạc Liêu, ông nhắc lại: “hồi bầu cử 1967 tụi tui ở bên trong hết sức vận động nhân dân bỏ phiếu cho chú (chú em). Lúc đó anh Tám Bí thư Khu Ủy (Võ Văn Kiệt) có phân tich tình hình và chỉ đạo – Nếu ta không phá được cuộc bầu cử vì tương quan lực lượng lúc đó còn yếu, ta tập trung ủng hộ những người trẻ trí thức ở các nơi trong khu 9, để những người này làm ngòi nổ trong cuộc đấu tranh chính trị hợp pháp sắp tới”.
Sự thắng cử của tôi ở Bạc Liêu, của Ngô Công Đức ở Trà Vinh, của Lý Quí Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh ở Sài Gòn phải chăng gián tiếp có sự ủng hộ của phía bên kia. Đây là một cuộc chơi chính trị, phía Mỹ và phía Thiệu buộc phải đánh lá bài tự do dân chủ bề ngoài, phía bên trong Mặt Trận cũng tương kế tựu kế lấy gậy ông đập lưng ông, còn phía các thanh niên trí thức chúng tôi lúc đó với bầu nhiệt huyết sẵn có, dựa vào biến chuyển của thời cuộc, cứ theo con đường lý tưởng mà xốc tới.
Ý nghĩa của một sự thắng cử
Trong mười người tranh cử dân biểu ở Bạc Liêu, tôi và anh Thạch Phen là hai người yếu thế và lực nhất. Tôi và Thạch Phen không được cảm tình của chính quyền Sài Gòn, không được hậu thuẫn của các giới chức có thế lực trong tỉnh. Các Quận trưởng, Xã trưởng, các cấp chỉ huy quân đội thời bấy giờ hầu hết đều không ủng hộ chúng tôi. Lẻ tẻ một vài nơi, một vài người ở trong chính quyền và quân đội có cảm tình ngầm ủng hộ chúng tôi vì các mối quan hệ thân quen cũ. Chiêu bài tranh cử của chúng tôi là chống chiến tranh, đòi hòa bình, đa số người dân bỏ phiếu cho chúng tôi thắng, chứng tỏ khát vọng hoà bình lúc đó đã lên đến cực điểm. Họ bỏ phiếu cho chúng tôi là giao cho chúng tôi sứ mạng đấu tranh đòi hòa bình và dân chủ .
Tôi còn nhớ rõ suốt kỳ vận động bầu cử, tôi tốn không nhiều tiền. Nhớ lại, nhắc lại như một kỷ niệm… Khi tôi quyết định về Bạc Liêu tranh cử, kỹ sư Võ Long Triều ủng hộ tôi 40 ngàn đồng (bằng 2 lạng vàng). Vợ chồng chúng tôi lúc đó gom góp lại cũng được thêm 40 ngàn đồng. Các anh em giáo sư trường trung học Bạc Liêu đứng đầu là 2 anh Trương Vĩnh Án (hiệu trưởng), anh Huỳnh Trung Nghĩa (Giám học – hiện nay ở Mỹ) ngấm ngầm quyên góp tiền bạc của các anh em giáo sư ủng hộ được 20 ngàn đồng. Bà Quản Phan, trên 60 tuổi, một bà dì có quan hệ bà con bên vợ gom góp ủng hộ cho tôi được một lạng vàng. Ba má tôi lúc đó cũng cho tôi 20 ngàn đồng.
Trong quá trình vận động, bà con bán tôm cá ở chợ Bạc Liêu cũng gom góp cho tôi được mấy ngàn đồng. Các bạn học hồi nhỏ như thầy giáo Khương cho vài trăm đồng, thầy giáo Tựu cho 50 đồng, mấy cô bạn gái làm cô giáo góp cho được vài trăm. Một số ban đại diện Phật giáo ở các xã cũng góp cho một số tiền. Các sư sãi người Khờ Me ủng hộ tiền cho Thạch Phen cũng khá.
Tôi liên kết với ứng cử viên Thạch Phen tổ chức chung một Ban vận động tranh cử gồm có ba sắc tộc người Việt, người Hoa lai và người Khờ Me. Các cổ động viên, các người đi dán bích hương, phát truyền đơn cho chúng tôi đều tự nguyện, không lấy tiền chỉ cần một ly nước trà, một ly nước đá, một gói xôi là đủ. Chúng tôi đã hoà lẫn được trong nhiều giới đồng bào. Ở các xã các ấp, nhiều người có uy tín tự nguyện đại diện và làm tai mắt cho chúng tôi. Họ báo cho chúng tôi biết những động tịnh đen tối mà phe thân chính quyền định bày ra để phá phách chúng tôi trong các cuộc nói chuyện trước dân chúng. Ngày bầu cử, tất cả những người đại diện cho chúng tôi tại các phòng phiếu đều là người tình nguyện, hơn thế nữa những giáo chức được chính quyền chỉ định kiểm phiếu và ghi biên bản kết quả kiểm phiếu đa số là những người có cảm tình với tôi. Cho nên nhất cử nhất động tôi đều có người theo dõi, nắm bắt tình hình.
Tiền bạc cũng cần thiết để làm chi phí tối thiểu trong một cuộc tranh cử. Nhưng những người có nhiều tiền hơn chúng tôi gấp bội, các cán bộ vận động tranh cử của họ được đãi ngộ nhiều thứ tiền bạc vật chất. Kết quả những người lắm tiền, chi vô số tiền bạc đều thua tôi và Thạch Phen trong cuộc “đấu võ đài tự do” trước mắt nhân dân. Dân Bạc Liêu trong kỳ bầu cử đó đã tin, đã giao cho tôi và Thạch Phen nhiệm vụ đấu tranh cho hòa bình, không được đi theo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, họ giao cho chúng tôi nhiệm vụ chống áp bức, chống bất công đối với người nghèo. Giới trẻ, giới trí thức Bạc Liêu thời đó đã đặt hy vọng vào chúng tôi .
Tôi còn nhớ mãi nhiệt tình của họ trong lúc vận đông tranh cử, họ đi ngày đi đêm khắp các xã ấp để phát truyền đơn Bồ câu bông lúa hòa bình. Không khí náo động của đêm thắng cử vẻ vang tại chợ Bạc Liêu, trước công trường rạp hát Nam Tiến, những người trẻ đó, cả những phu xích lô, những anh đẩy xe ba gác, họ đã công kênh tôi lên giữa công trường, đã thức trắng đêm để ăn mừng cho một niềm hy vọng mới.
Chính họ, những người trẻ vô danh, những người lao động bình thường nhất, những người dân ngay thẳng mộc mạc khắp các xã ấp Bạc Liêu, chính họ đã nhắn gửi tôi: anh không được đi theo con đường của Nguyễn Văn Thiệu, của Mỹ. Tôi đã cố gắng làm điều đó.
Như đã nói ở chương 3 của cuốn sách này, lúc dạy học ở Mỹ Tho, tôi có dịp chơi thân với gia đình bên vợ ông Nguyễn Văn Thiệu.
Khi vào Quốc hội, tôi là người trẻ tuổi nhất, đương nhiên theo luật bầu cử trong 3 tháng đầu, tôi là Tổng thư ký Hạ nghị viện. Còn ông Nguyễn Bá Lương, lớn tuổi nhất, niên trưởng kiêm chức Chủ Tịch.
Khi tôi theo phe đối lập, nhiều ý kiến chống đối của tôi được đăng tải trên báo chí. Ông Nguyễn Văn Thiệu rất bực mình, có lần ông tuyên bố với các nhà báo trong và ngoài nước: “Dương Văn Ba là tên hỗn nhất nước”.
Chị Năm Jacqueline, chị của bà Thiệu, một lần vào Quốc hội (nhà hát Thành phố bây giờ) thăm tôi tại phòng Đệ nhất Phó Tổng thư ký Hạ nghị viện. Chị nói: “Thằng Ba, sao mày quên tình chị em. Mày chống ông Thiệu làm chi, đó là mày không khôn. Tình chị em, nếu mày muốn gì kể cả làm Bộ trưởng Thông tin, tao và con Bảy (vợ Thiệu) đủ sức lo cho mày. Bỏ đối lập đi, cái gì em cũng sẽ có”. Tôi đã vô cùng cám ơn chị Năm Jacqueline, vì nhớ tới những ngày ở Mỹ Tho đầy kỷ niệm. Nhưng tôi đã trả lời chị: “Chị đừng buồn, em đã lỡ đi theo con đường khác với ông Thiệu, không thể quay lại được”. Đó là kỷ niệm của tôi với chị Jacqueline, một người đàn bà đẹp, hiền dịu. Tôi và thầy Lâm Văn Bé đang sống ở Canada lúc nào cũng kính mến, chúng tôi không thể quên những ngày dạy học ở trường Nguyễn Đình Chiểu.
Tại sao tôi đi theo con đường chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu?
Tôi gốc là một thầy giáo học triết học, thích thơ văn. Tôi đỗ thủ khoa Khóa 4 Đại học Sư phạm Đà Lạt. Đối với chúng tôi cuộc đời phải có những lý tưởng trong sáng. Thầy dạy học tôi, mặc dầu thời gian ngắn, giáo sư Lý Chánh Trung đã để lại trong tôi hình ảnh đáng kính của một người trí thức thanh sạch, từng du học ở Châu Âu, khi về nước vẫn chấp nhận làm một thầy giáo nghèo, có lúc dạy học ở trường tư thục Long Đức Trà Vinh.
Thời kỳ 60-65 đa số thanh niên trí thức đều nung nấu trong lòng một tình yêu nước âm ỉ, nồng nàn, luôn chờ cơ hội bộc phát. Khi học ở Đại học Đà Lạt hình ảnh cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập thân thiết với chúng tôi như cha con trong gia đình, người đã dạy chúng tôi đạo đức làm người lương thiện, đi theo đường ngay lẽ phải. Chúng tôi là những Thụ Nhân, những cây thông con mọc giữa núi đồi Đà Lạt, phải đứng sừng sững không cong queo. Cha Lập một truyền nhân đã đem tới cho chúng tôi niềm tin tưởng vào lẽ sống ngay ngắn, hòa đồng, tin vào tương lai. Tôi xin kể một kỷ niệm về sự ngay ngắn, cứng cõi, về sự độc lập của người Viện trưởng Đại học trước áp lực của chính quyền lúc đó.
Năm 1968 khoảng tháng 9, cha Viện trưởng Đại học Đà Lạt có tổ chức Lễ Tốt nghiệp Khóa đầu tiên của trường Đại học Chính trị Kinh doanh thuộc Viện Đại học Đà Lạt (niên khóa 1964 – 1968 ). Lễ trao bằng tốt nghiệp cho gần 100 sinh viên khóa Quản trị Kinh tế đầu tiên ở Việt Nam, cha Nguyễn Văn Lập tổ chức long trọng. Ngài mời Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, một người Công giáo lên chứng kiến và Chủ toạ danh dự buổi Lễ.
Trong dịp đó Viện Đại học Đà Lạt mời một cựu sinh viên về họp mặt và phát biểu cảm tưởng. Cựu sinh viên đó chính là tôi, người được cha Lập chọn, một danh dự lớn lao cho đời sinh viên của tôi.
Lúc đó tôi đã là một dân biểu đối lập, phát biểu nhiều ý kiến chống đối rùm beng trong Hạ Nghị Viện, tôi còn công khai viết nhiều bài xã luận trên nhật báo Tin Sáng, nhật báo Thời Đại Mới.
Tình cờ trong những người ra đón Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại sân bay Liên Khương Đà Lạt, cha Nguyễn Văn Lập kêu tôi đi theo. Ông Thiệu thấy tôi đứng cạnh cha Lập, nét mặt ông vẫn bình thường. Trên đường từ sân bay Liên Khương về Đà lạt, cha Lập ngồi chung xe với ông Nguyễn Văn Thiệu. Cha Lập báo cáo chương trình buổi lễ, trong đó có bài phát biểu cảm tưởng của Dương Văn Ba. Khi nghe tới mục này, ông Thiệu không hài lòng, nói với cha Lập: “Thưa cha, con không muốn thấy người này đọc diễn văn trước mặt con, xin cha sắp xếp lại”. Cha Lập trả lời: “Thưa Tổng thống, rất tiếc tôi không biết ý kiến của Tổng thống trước. Bây giờ mọi chương trình đã sắp đặt. Với tư cách Viện trưởng Đại học, tôi không thể hủy bỏ việc đó vì phải tôn trọng danh dự cựu sinh viên, cũng là bảo vệ danh dự của Viện trưởng Đại học Đà Lạt. Xin Tổng thống tha lỗi”. Ông Thiệu không được vui trong buổi lễ đó, mặc dù bài phát biểu của tôi không có tính chính trị, chỉ ca ngợi công ơn cuả người Viện trưởng và mái trường xưa.
Những bí mật này, không có gì ghê gớm lắm, nhưng tôi chỉ được biết sau đó 30 năm vào năm 1998 trong một lần tới thăm cha Nguyễn Văn Lập tại nhà thờ Fatima – Bình Triệu. Lúc đó cha đã trên 90 tuổi. Cha vẫn còn sáng suốt, tiếp hai vợ chồng tôi. Cha cho xem một cái áo pull trắng lớn, trên đó có in hình “Thụ Nhân – biểu tượng cây thông xanh” với hàng ngàn chữ ký của cựu sinh viên Đại học Đà Lạt đang ở khắp nơi trên thế giới. Cha có cho tôi ký một chữ vào đó, có lẽ không phải chữ ký cuối cùng.
Sau đó khoảng 2 năm cha mất đi với sự mến tiếc của nhiều ngàn học trò của cha trên khắp thế giới và ngay tại Sài Gòn.
Câu chuyện cha Lập thuật lại cho vợ chồng chúng tôi nghe ngày đó rất rõ ràng tỉnh táo. Cha nói: “Trước đây cha không muốn nói cho con nghe. Bây giờ nó đã trở thành một kỷ niệm không thể quên nên cha nhắc tới”.
Thái độ của cha Lập đối với người đứng đầu chính quyền Sài Gòn lúc đó rất thẳng thắn, nói lên quan điểm về tự trị đại học, truyền thống của nhiều quốc gia trên thế giới. Đại học là tự trị, độc lập với chính quyền mọi thời kỳ. Đại học đào tạo nên những con người cho tương lai, chứ không phải đào tạo nên con người thời vụ. Cha Lập lúc về già đã nhắc cho chúng tôi nhớ sự thẳng thắn, chân thật bắt buộc phải có nơi một người trí thức.
Gốc gác nông dân và gốc “phản Thanh phục Minh”
Yếu tố gia đình của tôi cũng góp phần tạo nên thái độ chính trị của tôi lúc làm dân biểu.
Hình ảnh mà tôi nhớ nhất là cha tôi dù đã lớn tuổi vẫn một thân một mình đạp chiếc xe đạp kiểu đàn ông cộc cạch cộc cạch đi khắp các làng xã quanh Bạc Liêu để vận động người dân bỏ phiếu cho tôi.
Khi tôi đắc cử, tôi đứng về phía đối lập, cha tôi không một lời trách móc, ông còn tỏ dấu ủng hộ tôi. Bà má của tôi vốn là một phụ nữ ở trong vùng kháng chiến, từng đi theo phụ giúp kháng chiến, cho nên bà cũng đồng tình về thái độ chính trị của tôi lúc ở Quốc hội.
Gia đình tôi thuộc vào loại dư dả chút đỉnh. Hàng ngày ba má tôi vẫn phải lao động, mua bán vất vả để có miếng ăn. Có lần tôi thuật lại cho cha tôi nghe về ý kiến của chị vợ ông Thiệu, muốn tôi bỏ phe đối lập, đi theo ủng hộ chính quyền. Tôi thuật cả việc dược sĩ Nguyễn Cao Thăng Phụ tá Tổng thống Thiệu có mời tôi đến nhà riêng ăn cơm chiêu dụ tôi theo chính quyền. Ông Nguyễn Cao Thăng có hứa ngoài việc trợ cấp bao thư “lì xì” mỗi lần bỏ phiếu ủng hộ chính quyền, Phủ Tổng thống sẽ can thiệp với Tỉnh trưởng Bạc Liêu chia phân nửa tổng số quota đường, sữa, bột mì hàng tháng cho gia đình tôi. Mỗi tháng tỉnh Bạc Liêu có quota 1.000 tấn đường cát trắng, 1.000 tấn bột mì, 1.000 thùng sữa hộp. Lãnh được phân nửa số quota đó, tôi có thể bán cho các hiệu buôn lớn của người Hoa ở chợ Bạc Liêu, làm giàu thật nhanh chóng. Trong lúc gia đình tôi không giàu, đó là một món lợi béo bở, kéo dài 3-4 năm trời. Nhưng ba má tôi đã không ham việc đó. Ba tôi nói: “Con làm dân biểu mà làm giàu kiểu đó người dân Bạc Liêu sẽ ta thán. Thôi mình chấp nhận có gì ăn nấy, làm việc gì đừng hổ thẹn lương tâm là tốt rồi”.
Cái gốc nông dân, lao động chân chính của cha tôi, thừa hưởng từ đời ông nội tôi đã khiến cho chúng tôi không bị cám dỗ bởi tiền bạc. Mặc dù bản thân tôi có nhiều lúc thiếu thốn, nhưng nhìn những người ủng hộ chung quanh tôi, những người nghèo lam lũ, những cô những bác xóm giềng lúc nào cũng động viên tôi đi theo con đường đúng, tôi không có khả năng quay ngược lại.
Nếu tin ở ảnh hưởng của huyết thống đối với khí tiết của con cháu, tôi xin nhắc thêm ông cố ngoại tôi gốc người Quảng Đông, thuở thanh niên đã đứng theo phe phản Thanh phục Minh bên Trung quốc. Bị rượt đuổi truy bắt bởi nhàThanh, ông cố ngoại tôi đã cùng với 3 người thanh niên khác đóng bè vượt biên về Việt Nam. Bè của ông đã trôi giạt vào đất Vĩnh Châu- Bạc Liêu khoảng gần cuối thế kỷ 19.
Ông cố ngoại tôi lên đất Trà Nho một vùng đất rẫy pha cát biển lập nghiệp. Ông đã thành đạt trở nên giàu có, chủ công-xi rượu lớn, một trong những ông Bang họ Trần đầu tiên của đất Vĩnh Châu. Ông ngoại tôi mang dòng máu khí phách giang hồ của cha ông, cũng từng sống một đời này đây mai đó. Ông có máu nghệ sĩ nên lập gánh hát tuồng của người Hoa, đem gánh hát đi lưu diễn, bỏ ngoại tôi. Ông ngoại tôi đã chết trên đường phiêu bạt. Tôi còn nhớ rõ má tôi thường hát những bài hát rất hay bằng tiếng Hoa lúc tôi còn nhỏ. Những kỷ niệm về một thời thơ ấu, từng theo mẹ về quê ông ngoại ở đất Vĩnh Châu với những vườn rau cải, vườn hành đỏ, vườn dưa, với những ghe lưới biển không thể nào xóa nhòa trong đầu óc của tôi.
Tôi lớn lên mang dòng máu của những người muốn làm một cái gì đó khác lạ để đổi đời. Tôi không thể nào quên hình ảnh của cha tôi khoảng năm 1945 – 1946 bị lính kín của Tây ruồng bố bắt giam lỏng ngoài sân phơi lúa, nắng cả ngày, cùng với hàng trăm đàn ông khác chờ đưa về bót bên chợ Bạc Liêu. Ngày đó mẹ tôi, đứa em trai kế tôi và tôi đã khóc tức tưởi như đàn gà lạc bầy. Mẹ tôi và chúng tôi phải nhịn đói, may mắn có người ở xóm quen với lính kín mới xin lãnh cha tôi về được.
Cảnh Tây đi ruồng, cảnh lính kín xét nhà bắt người trói thúc ké, cảnh thằng trõng chết trôi, cảnh mấy tên lính Maroc đầu đội khăn đỏ, đi quần gái ở khắp xóm làng, nhửng cảnh tượng luôn gây lo âu, sợ hãi ở các vùng nông thôn được lặp đi lặp lại đã để lại trong đầu óc trẻ thơ của tôi mặc cảm không ưa kẻ cầm quyền.
Làm thiện …hưởng thiện
Tôi làm dân biểu được mấy tháng, xảy ra biến cố Tết Mậu Thân. Tôi nhớ đó là đêm mồng một tết.
Đêm đó tôi, vợ tôi và 2 đứa con ngủ bên nhà bà mẹ vợ ở chợ Bạc Liêu. Nửa đêm bỗng nghe tiếng súng nổ vang rền đều khắp. Tôi nhủ thầm: mấy ông Việt cộng đã tấn công Bạc Liêu. Vặn đài phát thanh Sài Gòn mới biết không phải chỉ Bạc Liêu mà cả Sài Gòn và khắp nơi đều có tiếng súng nổ. Thế là đã có cuộc tổng tấn công.
Tại chợ Bạc Liêu, tiếng súng đánh nhau giòn giã ở khu Miễu ông Tề, khu xóm mới, khu xóm làng. Hàng mấy trăm nhà ở khu Xóm Lò gạch bị bốc cháy. Khu chợ không có tiếng súng, mọi nhà mọi cửa tiệm đều đóng im thin thít.
Đến 7-8 giờ sáng nhiều người trong khu chợ, mới dám ra đường. Lúc đó mới biết trận đánh vẫn còn tiếp diễn, đánh nhau lẻ tẻ dọc theo kinh Cả Phượng, khu Lò gạch, khu xóm làng và khu cầu Hứng gió.
Nhiều người đã đổ xô ra đường để xem tình hình. Hàng trăm người đổ về khu Lò gạch để xem nhà cháy.
Tôi còn nhớ có một thầy giáo tên Hứa Hiền Thinh. Anh ta lúc nhỏ có theo một hai người anh đi vào khu kháng chiến, nhưng đến trước năm 1953, anh ta trở về thành, lò dò đi làm thầy giáo. Không biết thầy giáo Thinh có mối thù gì với kháng chiến, với Việt cộng mà sáng hôm đó 30 – 4 – 1968 thầy giáo Thinh lại là người chỉ dẫn cho lính tiểu khu Bạc Liêu đi bắt một số người lính giải phóng còn trốn trong nhà dân. Cảm giác của tôi lúc đó, mặc dù không theo phe Việt cộng, nhưng không chịu nổi hành động “khốn nạn” của thầy Thinh. Tôi với thầy gốc người cùng chung xóm Lò heo Mới Bạc Liêu, cùng là gốc thầy giáo, nhưng sự ghê tởm hành động chỉ điểm của thầy đến nay vẫn còn đọng lại trong ký ức của tôi.
Trận đánh Tết Mậu Thân ở Bạc Liêu gây nổi kinh hoàng cho dân ngoài chợ. Họ có cảm giác chính quyền tỉnh và cả sư đoàn 21 Bộ binh không đủ sức đảm bảo an ninh cho họ. Trong mấy ngày tiếp theo, đêm đêm, tỉnh trưởng Bạc Liêu Lâm Chánh Ngôn rủ tôi vào dinh ông ta để nhậu và ngủ lại đó.
Anh Tạ Kim đại diện của tôi ở Bạc Liêu và các bạn của tôi là lục sự Đỗ Khắc Tường, giáo sư Tạ Văn Bo, thầy tu “Đại đức Thích Quãng Thiệt” tiến hành ngay công tác cứu trợ đồng bào bị hỏa hoạn Tết Mậu Thân.
Dịp đó tôi vội vã lên Sài Gòn, với tư cách Phó Tổng Thư ký Quốc hội, gặp ngay Bộ Trưởng Bộ Thương binh Xã hội bác sĩ Nguyễn Xuân Quế xin đặc biệt yểm trợ tôi cứu trợ cho dân bị hỏa hoạn ở Bạc Liêu.
Bác sĩ Quế đồng ý cấp ngay cho tôi 1.500 cái mùng tuyn, 1.500 cái mền và một số đường sữa, bột mì. Làm sao chở ngay số hàng cứu trợ đó về Bạc Liêu? Tôi nghĩ đến một ông bạn Mỹ tên là Colebaugh, Đệ nhị Tham vụ Toà Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Tôi nhờ anh ta tìm giúp tôi máy bay chở hàng về Bạc Liêu. Chỉ trong vòng 24 giờ sau, Colebaugh đã giúp tôi đưa hàng về đến sân bay Bạc Liêu.
Số hàng đó tôi giao cho anh Tạ Kim tổ chức phân phối ngay cho dân bị hỏa hoạn ở Xóm Lò gạch. Tỉnh Trưởng và Trưởng Ty Xã hội Bạc Liêu lúc đó tỏ vẻ “không khoái” vụ cứu trợ của tôi. Lý do: Hàng cứu trợ tôi lãnh về nhanh chóng đến tay dân trước khi chính quyền tỉnh có biện pháp ủy lạo. Hơn thế nữa, có số hàng của tôi, phía Tỉnh mất một phần “quota” cứu trợ do chính phủ Sài Gòn tiếp tế.
Cũng sau thời kỳ Tết Mậu thân khoảng 6 tháng, anh Tạ Kim, lục sự Tường, giáo sư Bo tới tấp giao cho tôi nhiều đơn xin của dân gởi chính quyền Sài Gòn được bảo lãnh chồng con đang bị bắt làm tù binh giam ở trại Phú quốc. Số hồ sơ lên đến gần 400 người. Tôi nhờ anh Tạ Kim, Đại đức Thích Quảng Thiệt sắp xếp hướng dẫn họ làm đầy đủ thủ tục có địa chỉ rõ ràng.
Số hồ sơ đó kể cả có hình ảnh kèm theo, tôi mang lên Sài Gòn trực tiếp gặp Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng, vận động ông ta cho lệnh thả.
Ông Nguyễn Văn Vỹ đồng ý, yêu cầu tôi có công văn chính thức can thiệp của quốc hội. Tôi vào quốc hội làm ngay công văn ký tên bảo lãnh cho những người đó được thả về nhà làm ăn. Tôi ký tên với tư cách Đệ Nhất Phó Tổng Thư ký Quốc hội.
Vài tuần lễ sau văn phòng của tôi nhận được giấy báo có lệnh thả những người đó yêu cầu tôi báo cho thân nhân họ ra Phú Quốc lãnh về. Họ nghèo làm sao có đủ tiền ra Phú quốc. Văn phòng của tôi lúc đó trợ cấp cho mỗi người đi lãnh chồng con về một số tiền, đủ trả tiền tàu xe, tiền ăn dọc đường.
Tôi nghĩ: những người tôi lãnh về là những thanh niên Việt Nam có cha me, vợ con ở nhà, họ đáng được thả về dù bất kể họ là ai.
Tôi rất cám ơn ông Nguyễn Văn Vỹ, gốc Miền Bắc một Trung tướng từng đi lính Pháp, thân phe Nguyễn Cao Kỳ. Ông ra lệnh thả những người đó (gần 400 người). Ông đã nghĩ gì? Có lẽ một phần muốn “fair play” với tôi trong buổi đầu mới có Quốc hội. Hay do ông hời hợt không nghĩ nhiều đến vấn đề bảo vệ an ninh quốc phòng: dám mạnh tay ký thả gần 400 người trong thời gian 6 tháng, những người đã cầm súng bắn ngược lại phe cánh của ông, một ngày nào đó có thể bắn sụp cái ghế ông đang ngồi, bắn nát cái lon ông đang gắn trên mũ.
Hay là trong đầu ông, dù ở chức vị cao to như thế, đã lởn vởn tư tưởng “chiến tranh thúi nát, vô nghĩa”, tình người Việt Nam vẫn còn trong trái tim ông? Ông Nguyễn Văn Vỹ khi thả những người tôi xin, cũng khiến cho tôi suy nghĩ nhiều, vì tôi không xin thả thường dân, mà thả những cán binh theo cộng sản.
Đầu óc tôi lúc đó nghĩ gì? Bổn phận của tôi là cứu những người dân Việt Nam bị hoạn nạn. Đối với tôi họ là lính quốc gia hay lính cộng sản cũng giống nhau. Tôi đại diện cho những người Việt Nam muốn có hòa bình.
Nói theo đạo Phật, có lẽ lúc đó tôi “đã gây được cái nhân thiện”, tôi đã mở cửa nhà tù cho hàng mấy trăm người về với vợ con họ. Sau năm 1975, nhiều người gặp tôi ở Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau biết tôi tên là Dương Văn Ba, chạy tới chào hỏi, nhắc lại hồi đó họ được tôi can thiệp thả ra khỏi nhà tù Phú Quốc.
Bản thân tôi đã hưởng được cái quả thiện. Tôi bị chế độ này kết án tù chung thân vào cuối năm 1987. Nhưng nhiều người, kể cả một vài ông lớn của chế độ một số báo chí đã vận động thả tôi ra trước hạn tù. Tôi đã được thả sau khi ở tù 7 năm 4 tháng. Tôi đã được hưởng quả lành.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 4:57:09 GMT 9
Chương 6 NHỮNG CHUYỆN KHÓ QUÊN…
09-03-2015
Chuyện mấy ông Tỉnh Trưởng Bạc Liêu và giai thoại “muốn vào phòng tôi xin hãy đạp cửa”
Thời kỳ 1967 đến 1971, Bạc Liêu có 2 ông tỉnh trưởng.
Ông Lâm Chánh Ngôn, Trung tá, quê ở Vĩnh Long. Ông làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu từ cuối năm 1966 đến đầu năm 1970. Ông này để râu ngạnh trê, thích đá gà mê uống rượu. Dĩ nhiên rượu ấy phải là Martell hoặc Cognac. Ông rất sợ vợ; có người kháo nhau chức Tỉnh trưởng của ông do bà xã (Alice) mua từ chỗ Trung tướng Đặng Văn Quang, tư lệnh vùng 4, sau này có lúc làm cố vấn an ninh quốc gia cho Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí dư luận trong các giới chức có cỡ còn đồn rằng bà Alice là tình nhân của Đặng Văn Quang. Đồn đại không biết trúng trật nhưng Đặng Văn Quang rất thân với bà Alice, Quang nhận con gái của Alice làm con nuôi. Chuyện lẹo tẹo tình ái giữa các ông lớn bà lớn chế độ cũ là thường, người ta nói nghe đến nhàm cái lỗ tai. Ví dụ Tổng thống Thiệu, người có rất nhiều bồ, một trong những cô bồ của ông ta là Helen, vợ Đại tá Hoàng Đức Ninh, Tỉnh trưởng Bạc Liêu. Giữa Nguyễn Văn Thiệu – Hoàng Đức Ninh – Hoàng Đức Nhã có mối họ hàng rất gần (họ là anh em cùng mẹ khác cha). Do đó, Hoàng Đức Ninh tha hồ tung hoành sách nhiễu dân lành.
Tỉnh trưởng Lâm Chánh Ngôn, xuất thân từ một gia đình gia giáo ở Vĩnh Long cho nên thời kỳ làm Tỉnh trưởng của ông ta không đến nỗi dữ dằn, độc ác. Chỉ có một chuyện nhắc để cho vui giữa ông Ngôn và Dương Văn Ba, trong một cuộc nhậu nhân dịp Tết năm 1969 hai bên suýt đánh lộn với nhau. Ngày đó Phó Tỉnh trưởng Hành chính Bạc Liêu (xin lỗi quên mất tên) tổ chức ăn tết tại Dinh Phó Tỉnh trưởng. Quan quyền, chức sắc có cỡ trong tỉnh đều có mặt. Lâm Chánh Ngôn uống rượu say rủ Dương Văn Ba cụng ly. Nhưng để chứng tỏ là bề trên, ông ta cố tình đưa ly đụng ngay giữa trán của ông Ba. Tuổi trẻ máu nóng và cũng đã ngà ngà rượu, ông Ba đánh một thoi vào bụng ông Ngôn (cũng là nhẹ thôi để khỏi mất mặt). Tỉnh trưởng Ngôn nổi nóng, chửi bới và đòi bắn Dương Văn Ba tại chỗ. Chánh án Xuân, Quận trưởng Thới, Tiểu Khu phó Xính can ngăn giải hoà. Tiệc tan, Lâm Chánh Ngôn chiều hôm sau mời ông Ba lại nhà chơi, cười khà khà lại tiếp tục uống rượu. Thực ra giữa tôi và Lâm Chánh Ngôn không có đụng chạm nào sâu sắc. Một số thường dân bị bắt bớ oan ức, tôi can thiệp và bảo lãnh, ông ta đều thả ra. Quan hệ giữa một dân biểu với tay Tỉnh trưởng trong thời kỳ đó, dư luận trong tỉnh rất chú ý. Tay Ngôn có phần nào nể vì tôi, ông biết rõ giữa tôi và em của ông có tình bạn khá thân, cùng hoạt động cho Hội Liên Trường (Hội Cựu Ái hữu Học sinh các trường Pétrus Ký, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Gia Long – những trường lớn nhất của miền Nam. Hội này làm công tác xã hội cấp học bổng cho nhiều học sinh giỏi, con nhà nghèo. Họ đã xây được một trụ sơ lớn ở góc đường Hùng Vương và Trần Phú, quận 5). Trước mặt đông đảo quan khách, tôi vẫn phải giữ ý với ông ta. Phải nói Lâm Chánh Ngôn là tay hay uống rượu, mà uống rượu nhiều thì không phải là người có lòng dạ hiểm độc, tiểu nhân. Một tay tỉnh trưởng muốn hại một dân biểu đối lập, muốn làm mất mặt một người, quá dễ. Chỉ cần sai mấy tên sĩ quan “tà lọt” cho uống vài chai whisky, biểu bắn ai nó cũng bắn, đừng nói chi tới chuyện “đánh cho bể mặt ngoài đường”. Lâm Chánh Ngôn không làm việc đó với tôi.
Bạc Liêu là một tỉnh mua bán trù phú. Có rất nhiều tay “xì thẩu”, muốn làm giàu thêm nữa, chỉ cần bợ đỡ tỉnh trưởng, sẽ có thêm nhiều đặc quyền đặc lợi.
Thời kỳ ông Ngôn làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu là do sự đỡ đầu của Tướng Đặng Văn Quang. Nhưng Tướng Quang làm sao mạnh bằng Thiệu, cho nên Hoàng Đức Ninh thời kỳ đó đang làm Quận Trưởng quận Thạnh Trị đã tạo dư luận râm ran trong giới em út là “tao sẽ về làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu thay thế thằng Ngôn”. Dân Bạc Liêu đã biết việc đó 6 tháng trước khi anh ta về, vì gốc của anh ta là gốc bự số 1. Tỉnh Bạc Liêu dĩ nhiên béo bở hơn quận Thạnh Trị (Phú Lộc). Hoàng Đức Ninh không giành ghế tỉnh trưởng Sóc Trăng của Đại tá Quách Huỳnh Hà vì Đại tá Hà có nhiều thời gian làm thư ký riêng cho Thiệu. Ninh nhắm ghế tỉnh trưởng Bạc Liêu, “món ăn” ở Bạc Liêu béo bở không thua Sóc Trăng. Helen, vợ của Ninh, là người vận động chức đó cho chồng. Đầu năm 1970, Hoàng Đức Ninh chính thức về Bạc Liêu thay thế Lâm Chánh Ngôn.
Lúc Trung tá Ninh làm Quận trưởng Thạnh Trị (Phú Lộc) có nhiều chuyện kể cười ra nước mắt.
Chuyện thứ nhất là chuyện “Đại đội heo”
“Đại đội heo” là một đại đội địa phương quân dưới quyền trực tiếp chỉ huy của Trung tá Ninh, quận trưởng. Biệt tài của đại đội này trước khi đi hành quân, tên nào tên nấy cũng được uống rượu cho say. Vào các vùng xôi đậu tha hồ vét của, tha hồ bắt heo: heo lớn, heo bé, đực cái đều bắt tuốt. Mỗi lần đại đội hành quân đi về, chiến lợi phẩm là 50-70 con heo của dân.
Thành tích lẫy lừng của Đại đội heo là hể gặp người tình nghi Việt cộng là “sát”. Chưa hết, vẻ vang hơn, đại đội này được tha hồ hãm hiếp đàn bà con gái. Nhỏ cũng hiếp, già lão cũng hiếp, không tha. Đại đội heo là đại đội hung thần ác qủy đối với dân các vùng trong ở Thạnh Trị Sóc Trăng. Một ông Hội Đồng tỉnh ở Bạc Liêu tên Đỗ Khắc Tường, máu còn trẻ và nóng, chơi “gan” lên tiếng tố cáo đại đội heo trên nhật báo Tin Sáng thời đó (chính tôi cho đăng các tin tức này).
Tên Đại đội trưởng Đại đội heo, đọc tin đó trên báo, đang nằm dưỡng bệnh tại bệnh viện Trương Bá Hân – Sóc Trăng, lập tức bỏ bệnh viện về, tính kế hoạch “sát” Đỗ Khắc Tường. Một người bà con ở Phú Lộc biết tin vội vã cấp báo cho Nghị viên Hội đồng tỉnh Đỗ Khắc Tường, ông này lúc đó sợ quá, bỏ lên Sài Gòn “trốn “ gần 2 tháng. (Khi hăng tiết, tố cáo tùm lum trên báo. Lúc hay tin đại đội trưởng Đại đội heo sắp “hỏi thăm sức khoẻ” . Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng).
Trời cao có mắt, khoảng 2 tháng sau, tên đại úy Đại đội trưởng Đại đội heo trong một cuộc hành quân càn quét, đạp nhằm mìn cụt cả hai giò. Người bà con ở Phú Lộc lại thông báo tin vui, Đỗ Khắc Tường trở về Bạc Liêu. Bà má và vợ của ông mừng quá cúng heo quay tạ lễ trời phật đã cứu chồng thoát nạn.
Chuyện một xe gạo và chuyện hãy đạp cửa phòng tôi
Hoàng Đức Ninh ăn hối lộ rất công khai, dạn dĩ. Ông ta thường nói thẳng điều mình muốn.
Một lần đi thực tế tra xét tình hình các nhà máy xay lúa trong quận Thạnh Trị, cứ vào mỗi nhà máy, kêu chủ lại, ông ta nói thẳng: “Quân đội đổ mồ hôi và lấy tính mạng bảo vệ cho các ông bà chủ được an toàn làm ăn, khỏi bị Việt cộng phá phách thu thuế. Đổi lại mấy người nên làm nghĩa vụ đóng góp cho chi khu. Hai tháng một lần, mỗi nhà máy đóng góp cho chi khu một xe gạo 7 tấn”.
Thạnh Trị có hàng chục nhà máy xay lúa dọc theo Quốc lộ 4 và kể cả ở xã Ông Kho. Cứ 2 tháng, Hoàng Đức Ninh thu được từ các nhà máy xay lúa hàng chục xe gạo. Mỗi xe trị giá 6-7 lạng vàng, tính ra Quận trưởng Ninh mỗi tháng kiếm được trung bình cở 50 lạng vàng từ ngành chà gạo. Có một ông chủ nhà máy, không biết vô tình hay cố ý dở hơi “chơi xỏ” Hoàng Đức Ninh bằng cách chở thẳng một xe gạo 7 tấn đến ngay chi khu Thạnh Trị báo là giao nộp cho Quận trưởng. Ninh nổi giận đùng đùng, gọi tay chủ nhà máy khù khờ vào văn phòng quát: “Mày chơi khăm tao hả?! Tao nói một xe gạo, tức là bọn mày phải đem gạo đi bán mang tiền hoặc vàng đem nộp cho tao. Mày mau đem gạo về đem vàng trở lại. Bằng không tao đóng cửa nhà máy mày lập tức.
Đó là chuyện thật 100%. Giống như chuyện bạc chẵn bạc lẻ. Một Hoa thương hàng tháng phải nộp cho Ninh 1 triệu đồng (do ăn chia quota). Có lần anh chủ tiệm xi măng mang 1 triệu đồng gồm giấy lẻ một đồng, năm đồng, vào văn phòng Tỉnh trưởng nộp. Ninh chửi thề: “Đ..M mày đem tiền lẻ chỗ đâu tao cất. Mau mau đi đổi lại cho tao”. Ông Hoa kiều nộp tiền cho Ninh đến nay vẫn còn sống ở chợ Bạc Liêu, đã hơn 60 tuổi.
Dân buôn bán ở Bạc Liêu còn kể cho nhau nghe giai thoại: “Muốn vào phòng tôi xin cứ đạp cửa” ngụ ý: Thương buôn nào cần làm việc với Tỉnh trưởng, phải mang theo quà cáp. Thông thường quà là các khánh bằng vàng y, mỗi cái 1-2 lạng vàng. Ai đi tay không vào, Ninh không tiếp, cho đứng ngoài chờ. Những thương gia có máu mặt biết Ninh rất thích vàng Kim Thành, có việc gì cần xin, cứ mang 2-3 thẻ vàng vào, mọi việc xong xuôi. Vào phòng của Ninh không cần lấy tay gõ cửa, chỉ cần lấy chân đạp. Cửa phòng bị đạp, chứng tỏ khách có mang qùa biếu trên tay. Ninh vui vẻ tiếp đón. Người nào dùng tay gõ cửa, Ninh không tiếp. Giai thoại “gõ cửa, đạp cửa” tưởng như chuyện tiếu lâm. Tính cách của Ninh rất ngang tàng, y chẳng sợ ai, kể cả Đặng Văn Quang ở Vùng 4, vì anh của y là Thiệu đang ngồi ở trên ghế vàng Dinh Độc lập.
Hoàng Đức Ninh giỏi đánh hơi thời cuộc. Làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu đến năm 1973, Ninh xin Thiệu cho về làm Tư lịnh Đặc khu 44 gồm 3 tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Cao Lãnh. Thiệu lúc ấy thăng chức cho cậu em lên hàm Chuẩn tướng (người ta đồn vợ của Ninh là Helen, lai đầm khá đẹp từng là bồ nhí của Nguyễn Văn Thiệu). Ở Đặc khu 44 thành tích của Hoàng Đức Ninh là cho các tay em bán nhiều xe súng đạn cho dân buôn lậu biên giới, để họ tiếp tế cho Việt cộng. Ninh cũng vơ vét tiền đút lót của các tay trùm buôn lậu biên giới Việt Nam – Campuchia. Thời kỳ này Ninh thường sử dụng máy bay trực thăng của Đặc khu 44 lên Sài Gòn ăn chơi. Mối tình lâm ly của Chuẩn tướng Ninh với cô đào hát cải lương nổi tiếng, cả Sài Gòn ai cũng biết. Vì mê tiền và quyền lực của Ninh mà cô đào dễ thương phải phụ rẫy hậu vệ Tam Lang của Đội tuyển Sài Gòn. Chuẩn tướng Ninh có nhiều tiền đã đạt được tất cả những gì anh ta muốn. Đầu năm 1974, đánh hơi trước được thời cuộc, Ninh xin Thiệu đi làm Tuỳ viên Quân sự tại Bonn (Tây Đức).
Hoàng Đức Ninh, anh của Hoàng Đức Nhã, có nhiều nợ máu, nợ tiền với nhân dân Vùng 4. Thời anh ta làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu, dựa vào thế lực của Ninh, nhiều sĩ quan cấp dưới phạm nhiều tội ác tày trời với nhân dân vùng xôi đậu. Điển hình Thiếu tá địa phương quân Nguyễn Văn Sỹ, gốc là trung uý Phòng Nhì Tiểu khu Bạc Liêu, khi vào Phước Long làm quận trưởng Sỹ đã sát hại nhiều thường dân vô tội. Vào ruồng bố ở xã Vĩnh Hưng, một xã xôi đậu hạng nặng, Sỹ cho bắt đàn bà con gái ở truồng như nhộng đi ngoài đường biểu diễn. Sỹ còn bắt các ông sư lấy gióng gánh khiêng các phụ nữ trần truồng đi khắp xã, như khiêng heo. Cùng một thành tích và cùng một đòn ngón như Nguyễn Văn Sỹ cũng vào thời đó, dưới quyền Hoàng Đức Ninh, còn có Thiếu tá Mã Thành Nghĩa, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Địa phương quân 414. Thành tích của Nghĩa mỗi lần trước khi hành quân, cho lính được nhậu say bí tỉ, vào xã Vĩnh Hưng, xã Phước Long, tha hồ hãm hiếp đàn bà con gái.
Ngày 30 tháng 4-1975, biết thế nào cũng phải đền tội, Thiếu tá Mã Thành Nghĩa đã tự sát bằng súng Rulô. Còn Nguyễn Văn Sỹ có quá nhiều nợ máu, UBND Cách Mạng quận Phước Long đã lập Toà án, đem Sỹ xử bắn. Kết thúc cuộc đời gian ác của hai thanh niên hễ uống rượu vào là muốn thấy máu của đồng bào.
Đại đội trưởng Đại đội heo, Thiếu tá Sỹ quận trưởng Phước Long, Thiếu tá Nghĩa tiểu đoàn trưởng 411, là những đàn em điển hình sự tàn ác của Hoàng Đức Ninh. Chúng đã dám tàn ác, do có Ninh che chở. Lịch sử của dân Bạc Liêu có thể quên nhiều thứ, nhưng dân Phước Long, Thạnh Trị không thể nào quên chuyện của Ninh và đàn em tàn ác vào một thời kỳ hỗn mang, coi mạng người rẻ hơn mạng cầm thú, nhân danh chiến tranh.
Giai thoại về Hoàng Đức Ninh giống như một cuốn tiểu thuyết ly kỳ, rùng rợn. Chỉ nhắc lại một vài sự vụ để nói rằng lịch sử có thể tha thứ nhiều điều, lòng thù hận có thể nguôi đi theo thời gian, nhưng những con cháu sinh ra sau 1975 cần được biết về những nỗi thống khổ mà cha ông chú bác của họ đã phải trải qua trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập. Chiến tuyến có thể xóa mờ nhưng tội ác ngàn đời vẫn phải ghi chép là tội ác. Tội ác không phải tràn lan. Tội ác giống như dòng nước bẩn đổ xuống thung lũng ma quái. Ánh sáng văn minh phải có thời gian mới soi rọi, xua tan những hắc khí của một thời ma quỷ lộng hành.
Nghe nói Tướng Nguyễn Cao Kỳ đang vận động xin sớm trở về Việt Nam, kể cả gặp Ngô Công Đức tại Hoa kỳ, nhờ ông Đức vận động. Thực tế, Nguyễn Cao Kỳ đã được chính phủ ở Hà Nội cho phép về Việt Nam trong dịp tết năm 2004. Người ta không thể quên Tướng Kỳ năm 1965 đã đích thân lái máy bay dội bom miền Bắc cùng chuyến với Phạm Phú Quốc. Phạm Phú Quốc tử nạn vì máy bay bị bắn rơi. Còn Tướng Kỳ an toàn trở về. Ông ta chỉ làm màn trình diễn một lần. Khoảng cuối tháng 4-1975, trước cảnh di tản ồ ạt của dân, kể cả sĩ quan, tướng lãnh VNCH, Nguyễn Cao Kỳ đã từng tuyên bố một câu với đài BBC: “Tôi còn cái quần đùi cũng ở lại Việt Nam đánh nhau với cộng sản”. Kỳ cũng đã từng xin gặp Đại tướng Dương Văn Minh đề xuất hợp tác với Tướng Minh một giải pháp quân sự. Cũng đừng quên rằng dưới thời Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ Tướng, đã có một Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh sát Quốc gia, ngông nghênh gấp mấy lần Chuẩn tướng Hoàng Đức Ninh. Người ta không thể nào quên tấm ảnh trên báo Newsweek. Nguyễn Ngọc Loan kề súng lục ngay vào màng tang một người tù Việt cộng và bóp cò. Đó là một tấm ảnh thuộc vào loại hy hữu của thế kỷ thứ 20, làm cả thế giới chấn động. Nguyễn Ngọc Loan không thể là một Loan ngông nghênh (điên điên, luôn luôn mặc áo nhà binh cụt tay, bỏ ra ngoài, chân đi dép cao su Thái) nếu không có Nguyễn Cao Kỳ. Hoàng Đức Ninh không thể là Ninh tàn ác, vô đạo nếu không có ông anh Nguyễn Văn Thiệu.
Nguyễn Ngọc Loan đã chết tại Mỹ khoảng cuối năm 2001, trước đó ông ta là chủ một nhà hàng ăn ở bang Virginia. Ông ta bị các chủ nhà hàng ăn khác trong tiểu Bang Virginia phản đối không cho tham gia vào nghịêp đoàn các chủ nhà hàng ăn uống vì tội “sát nhân”. Nguyễn Ngọc Loan đã vận động ký giả chụp bức ảnh “giết người” của ông ta, để ký giả này lên tiếng, “tôi chỉ chụp ảnh ông ta vì lý do nghề nghiệp, tôi không kết tội ông ta giết người, vì lúc đó là thời chiến tranh, bắn chết một người cộng sản, ông ta chỉ làm nhiệm vụ của một người lính. Cũng như tôi, tôi chụp ảnh ông ta, là tôi làm nhiệm vụ của một nhà báo. Tôi không có ý kiến khắt khe buộc tội ông ta”. Mặc dù được lời bào chữa của tác giả chụp bức ảnh, Nguyễn Ngọc Loan cũng không thuyết phục được giới chủ nhà hàng ăn bên Mỹ. (Tưởng cũng nên nhắc lại trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, Nguyễn Ngọc Loan lúc chỉ huy trận đánh trong Chợ Lớn, đã từng bị quân giải phóng bắn què giò).
Nay mai Hoàng Đức Ninh, Hoàng Đức Nhã có thể lại nhờ người vận động xin được về nước, giống như Nguyễn Cao Kỳ đã từng làm (ông ta đã được về ). Lịch sử có còn là lịch sử hay không?
Đức Chúa có thể tha thứ mọi điều, kể cả đối với Luxiphe.
Nhưng một số dân Bạc Liêu, Cà Mau khó quên và khó tha thứ những vết bẩn đầy máu của thời kỳ Hoàng Đức Ninh.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 4:58:29 GMT 9
Chương 7: NHỮNG MỐI LIÊN LẠC
10-03-2015
Quan hệ với Mặt Trận Giải Phóng tỉnh Bạc Liêu
Quan hệ với người Hoa trong Chợ Lớn
Lúc tôi giữ chức vụ Đệ nhất Phó Tổng thư ký Hạ Nghị Viện, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Tuần báo Đại Dân Tộc, không phải chỉ có bà Jacqueline, chị vợ Tổng Thống Thiệu và ông Nguyễn Cao Thăng chủ hãng thuốc OPV liên hệ riêng với tôi. Sau Tết Mậu thân, khoảng tháng 4-1968, MTDTGP miền Nam tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng có cử người quan hệ móc nối tôi. Người trực tiếp làm việc đó, thân cận với tôi, nhà sư trẻ Thích Quảng Thiệt tục danh Nguyễn Thái Hạo.
Quảng Thiệt mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng ăn nói hoạt bát, khéo giao dịch. Màu áo già lam mở rộng nguồn giao du đi lại của ông ta với chính quyền. Cửa Dinh Tỉnh trưởng thỉnh thoảng mở rộng đón ông ta vào để nghe tường trình về nguyện vọng của dân. Lợi dụng nhãn hiệu thầy tu, Quảng Thiệt chơi với đủ hạng người trong xã hội. Từ Phó Trưởng ty Công an Bạc Liêu phụ trách Cảnh sát Đặc biệt Đặng Thành Lý tới Đại tá Tỉnh trưởng Bạc Liêu, các sĩ quan an ninh tiểu khu, an ninh Sư đoàn 21, đâu đâu cũng có vóc dáng đi lại của nhà sư trẻ. Miệng luôn luôn lớn tiếng giải bày các oan ức của dân, Quảng Thiệt lúc đó cũng là cái loa tuyên truyền cho các hoạt động dân cử của tôi. Nhưng sâu sắc hơn, Quảng Thiệt âm thầm nhiều lần đi vào bưng dự các cuộc họp của Ban Dân vận Măt Trận với tư cách đại diện tôn giáo. Mỗi lần đi về Quảng Thiệt đều có nói nhỏ cho tôi nghe. Có lần Thiệt nói: “Chú Ba Quốc, chú Năm Quân đánh giá tốt vai trò dân biểu của anh. Các chú nói anh cứ đà ấy tiếp tục làm. Các chú muốn gặp trực tiếp anh để bàn cụ thể về tình hình”. Tôi trả lời: “Gặp họ tôi sẵn sàng nhưng phải tìm lúc thuận lợi và phải ngụy trang khéo. Để bọn an ninh Sư đoàn 21, bọn Phòng Nhì tiểu khu biết được là không hay. Tạm thời có cần gì xin họ cứ nói qua Thầy”.
Lúc đó trong khu cần vài cái máy radio cassette, mấy cái loa phóng thanh, tôi mua và giao cho Quảng Thiệt bí mật chuyển đi, kể cả máy chụp hình. Tôi còn nhớ rõ: Má tôi hiện nay đã có lúc hoạt động cho kháng chiến thời chín năm. Việc tôi gián tiếp ủng hộ phần nào cho Việt cộng cũng chẳng có gì xấu. Tôi nhớ ngoài Thích Quảng Thiệt, còn có một cô giáo lớn tuổi, gốc người Bắc dạy ở trường Xóm Làng, cô cũng bí mật giao dịch với tôi về ý muốn của “những người bên trong”. Tôi ngầm ủng hộ cô giáo những gì cô cần. Thậm chí có lúc can thiệp với Quận trưởng Lâm Quang Thới thả một vài người của Việt cộng Quận Vĩnh Lợi theo gợi ý của cô giáo.
Đến tháng 7-1968, do móc nối với Quảng Thiệt tôi đi Cần Thơ gặp chú Năm Quân ở khu vực cầu Tham Tướng. Chú Năm, một con người trắng trẻo, to con ăn nói hoạt bát, lúc đó là Phó Bí thư Tỉnh Ủy Sóc Trăng – Bạc Liêu. Chú nghe tôi nói về lập truờng chống chiến tranh và đòi hỏi hoà bình, chú khen tôi đã lựa chọn đúng đường, yêu cầu tôi tiếp tục mạnh dạn đi theo con đường đó. Chú nói: “Anh Tám Bí thư Khu ủy rất thích những bài báo chú viết trên Tin Sáng. Anh Tám giao cho Tỉnh ủy Bạc Liêu – Sóc Trăng quan hệ với chú”. Tôi đồng ý liên lạc với chú Năm thông qua Thầy Quảng Thiệt. Đó là lần gặp gỡ đầu tiên giữa tôi và cán bộ cao cấp của Mặt Trận. Sau đó tôi rất giữ ý. Có gì chỉ thông qua Thầy Quảng Thiệt, bên trong có nhắn gửi gì, có yêu cầu gì cũng do Quảng Thiệt truyền đạt lại. Lúc đó tôi nghĩ, quan hệ với Mặt Trận ở mức độ đó là tốt, làm cho họ hiểu lập trường hoà bình của một số anh em trí thức Sài Gòn, điều cần làm. Việc ủng hộ lặt vặt của tôi về tài chinh, vật chất không quan trọng, quan trọng là xác định với họ rằng ở Hạ Nghị viện Sài Gòn có những người đồng tình với quan điểm tranh đấu cho độc lập dân chủ của MTGPMN.
Trong cuộc gặp ngắn ngủi, tôi không được giao nhiệm vụ chính thức của một cán bộ, họ đối xử với tôi như thêm một thành phần có cảm tình hỗ trợ cho họ trong cuộc đấu tranh chính trị. Quan hệ đó tôi và chú Năm Quân giữ mãi đến ngày giải phóng miền Nam.
Lập trường đấu tranh cho hoà bình của tôi cũng có lợi cho MTDTGP.
Trong cuốn sách viết về lịch sử thành lập MTDTGPMN Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đứng chủ biên, ông Nguyễn Văn Linh Tổng Bí thư Đảng CSVN cố vấn chỉ đạo (người đã ra lệnh bắt tôi bỏ tù vào cuối năm 1987) cũng có mấy dòng ghi nhận thái độ chính trị của tôi là có lợi cho hoà bình.
Trong cuốn hồi ký về giai đoạn thương thuyết ở Paris của bà Nguyễn Thị Bình, ông Dương Đình Thảo, phát ngôn viên của Phái đoàn MTDTGPMN có viết vài dòng là Dương Văn Ba đã có gửi nhiều tài liệu bí mật cho đoàn thương thuyết hoà bình của ông từ năm 1968 đến 1972. Nhờ đó ông nắm bắt một số tin tức chính xác làm chứng liệu đấu tranh trong những cuộc họp báo của Đoàn Đại diện MTDTGP tại Paris. Tôi làm thế nào để gửi các tài liệu cho anh Dương Đình Thảo?
Thực tế lúc đó tôi không quan hệ trực tiếp với anh Thảo, cho dù đầu năm 1969, tôi cùng ông Trương Gia Kỳ Sanh dân biểu tỉnh Phan Thiết, có một lần tham gia cuộc họp báo của ông Dương Đình Thảo với tư cách người của Việt Nam Cộng hoà.
Các tài liệu của tôi được gửi cho nhà báo Mỹ trẻ tuổi tên John Spragens (1944-2013). Anh nhà báo Mỹ này hàng tuần đều vào Ban Liên hợp Quân sự 4 bên, săn tin và dự các cuộc họp báo. Chính John Spragens đã mang các tài liệu báo chí của tôi cho Thiếu tá Phương Nam, phát ngôn viên của Đoàn đại diện Mặt Trận trong Ban Liên Hợp Bốn Bên tại Sài Gòn. Thiếu Tá Phương Nam nhận thấy những tài liệu có lợi mới chuyển qua Paris và anh Thảo đã khai thác các tài liệu đó. Thiếu tá Phương Nam thỉnh thoảng có gửi John Spragens mang cho tôi mấy gói trà Bắc và bánh cốm xanh. Không biết vô tình hay cố ý, John Spragens hàng tuần trở thành giao liên của tôi và anh Phương Nam. Sau giải phóng, Phương Nam làm Phó Trưởng Ban Ngoại vụ của Thành phố, tôi và anh gặp nhau lần đầu, chưa biết mặt nhau nhưng mới nghe tên đã tay bắt mặt mừng. Anh Phương Nam kể lại: “Hồi đó các tài liệu của anh chúng tôi sử dụng rất có hiệu quả”.
Chiến tranh chấm dứt, nhà báo John Spragens về nước. Giữa năm 1977 anh có trở lại Sài Gòn cũng với tư cách nhà báo Mỹ. Lúc đó tôi giữ nhiệm vụ Phó Tổng biên tập thường trực của nhật báo Tin Sáng (bộ 2 sau giải phóng). Tôi phụ trách mảng thời sự, chính trị kinh tế. Gặp tôi trở lại hình như anh không được vui vẻ cho lắm. Anh ta cũng quen với Hồ Ngọc Nhuận, lúc đó chỉ mới quen Ngô Công Đức. Tôi có cảm giác anh ta không hài lòng lắm về những gì mà chúng tôi đang làm ở báo Tin Sáng (bộ 2)
Những quan hệ với nguời Hoa Chợ Lớn
Ở Hạ nghị viện ngay từ những tháng đầu, tôi chơi khá thân với dân biểu Trương Vĩ Trí, cùng tuổi với tôi nhưng lớn hơn vài tháng. Anh gốc người Hoa ở Rạch Giá. Gia đình anh gồm một số nhà kinh doanh lớn: Trương Dĩ Nhiên, người anh thứ tư của Trí kinh doanh về ngành chiếu bóng, đầu tư tại rạp hát Victory và rạp Hảo Huê, nghề chuyên môn của Nhiên: lồng âm thanh phụ đề Việt ngữ những bộ phim Hongkong và Đài Loan. Người anh thứ hai của Trí là Trương Vĩ Hùng, kinh doanh ngân hàng và tài chính, một Hoa thương có cỡ trong bang hội của người Hoa Tiều Châu. Trương Vĩ Trí học Trung học Yersin Đà Lạt, sau đó học trường Quốc Gia Hành Chính. Người thẳng thắn và ham mê hoạt động chính trị. Vì gốc sinh viên Quốc Hia Hành Chính nên Trí kính trọng giáo sư Nguyễn Văn Bông, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, anh ta đi theo con đường chính trị do hai người này vạch ra. Nhưng chính trị chỉ đóng một vai trò nhỏ trong sinh hoạt của Trí. Vấn đề lớn của anh ta là hoạt động cho giới người Hoa. Trí được sự hỗ trợ của Bang Hội Tiều Châu – Sài Gòn – Chợ Lớn.
Một kỷ niệm giữa tôi và Trí, sau ngày giải phóng, Trí rất hoang mang về số phận tương lai của mình. Có lần trong tháng 5-1975 anh gặp tôi than thở: “Moi rất lo cho số phận của moi, không biết chính quyền cộng sản sẽ đối xử với mình ra sao. Tối hôm qua, moi nằm chiêm bao thấy ác mộng: một con cọp dữ chận moi dọc đường vồ lấy người moi”. Giấc mộng đó làm Trí hãi hùng, và chừng mấy ngày sau anh được lệnh gọi đi học tập cải tạo. Thời gian học tập cải tạo của Trương Vĩ Trí bạn thân của tôi 12 năm trời, không biết anh đã trải qua bao nhiêu gian khổ. Khoảng giữa tháng 12-1987 tôi được tin Trí và Trần Cảnh Chung (nguyên Trưởng ty Cảnh sát quận 5, nguyên dân biểu tỉnh Long An) đã đi học tập cải tạo xong được thả về nhà. Ngày 25-12- 1987, tôi có chương trình đi thăm 2 người bạn cũ sau hơn 12 năm xa cách. Nhưng ngày đó cũng là một ngày định mệnh đen tối của tôi: tôi bị Tổng Cục An ninh Bộ Nội vụ thi hành lệnh của ông Nguyễn Văn Linh Tổng Bí thư, bắt tôi lúc 10 giờ 30 sáng tại số 10 Đinh Bộ Lĩnh quận Bình Thạnh TPHCM.
Coi như số trời không cho tôi gặp lại 2 người bạn cũ. Trong thời gian tôi ở tù, 2 người bạn đó đã có giấy tờ bảo lãnh đi Mỹ theo diện HO. Đã hơn 28 năm chúng tôi không gặp lại nhau. Trí và Chung là những thanh niên trí thức, tấm lòng trong sáng dù họ làm bất cứ điều gì, đứng bất cứ ở vị trí nào trong xã hội, họ luôn là những người bạn lương thiện, có tâm huyết. Tôi viết những dòng này qua cuốn sách gửi tới họ những cái bắt tay, những lời chào của tình bạn không thể nào quên, dù từ nay đến cuối đời chưa chắc gặp lại nhau.
Vào một ngày trong tháng 10-1968 “bác Hai” của tôi, ông Trịnh Tài Nguyên, Chủ tịch Liên hợp Hợp tác xã Toàn quốc của Việt Nam Cộng hoa, dẫn một người bạn xấp xỉ tuổi của ông, tên là Trầm Đức Quang, người Hoa, gốc Vĩnh Châu, đến gặp tôi ở Hạ nghị viện.
Tôi xin nói vài dòng về bác Trịnh Tài Nguyên. Ông là một địa chủ khá giả ở Trà Nho, quê ngoại của tôi. Bác Hai rất đẹp người, phong cách sang trọng tao nhã. Ông là một người có tên tuổi, có uy tín ở toàn quận Vĩnh Châu. Thời Pháp thuộc, bọn Tây cầm quyền ở xứ Trà Nho cũng phải kính nể ông. Những năm cuối cùng của bậc trung học, tôi ở trọ tại nhà của bác Hai số 115/1 đường Phát Diệm, quận 1, nay là đường Trần Đình Xu. Bác Hai rất thích tôi và tôi kính mến bác như người cha đỡ đầu. Sự khôn ngoan, từ tốn, phong cách tao nhã của bác Hai đến nay vẫn còn để lại ấn tượng trong lòng tôi. Dù tôi đã hơn 60 tuổi, mà lòng quý mến vẫn như thuở còn học sinh.
Bác Hai Trịnh Tài Nguyên dẫn ông Trầm Đức Quang đến thăm tôi và giới thiệu: “Đây là một người bà con ở Vĩnh Châu, quê ngoại của cháu. Chú Quang buôn bán lớn ở quận 5, có theo dõi thời sự hàng ngày. Qua báo chí, chú Quang mến cháu, yêu cầu bác giới thiệu cháu với chú. Bác dẫn chú Quang đến để hai người đồng hương gặp nhau, bác hi vọng chú Quang với kinh nghiệm, có thể giúp cháu được nhiều thứ”.
Tôi cám ơn bác Hai Nguyên, bày tỏ tình cảm biết ơn đối với chú Quang và xin được nhận làm em cháu trong trường đời. Sau buổi gặp đó, giữa tôi và chú Quang, mối giao hảo trở nên thân thiết lần lần. Tôi có vào nhà của chú Quang ở cuối đường Nguyễn Trãi, quận 5 thăm hỏi, chơi thân với các con ông. Chú Quang có dẫn tôi giới thiệu với ông Trần Thành, một “Đại cái bang” của Hội người Tiều châu trong Chợ Lớn. Ông Trần Thành là chủ hãng bột ngọt Vị Hương Tố chủ nhiều cơ sở kinh doanh lớn. “Đại gia Trần Thành” nhiều lần thông qua chú Quang ủng hộ tài chinh cho tôi, đặc biệt vào kỳ bầu cử 1971-1975, ông Trần Thành ủng hộ tôi 200 ngàn đồng trị giá lúc đó là 6 lạng vàng. Riêng chú Quang là chủ một tiệm buôn xi măng lớn, cứ vài ba tháng chú cho tôi vài chục ngàn đồng. Sau thời gian 1972, lúc đó tôi phải trốn sự đuổi bắt của Nguyễn Văn Thiệu, bất cứ khi nào tôi cần trợ giúp tài chinh, chỉ một lá thư, vợ tôi mang vào Chợ lớn, chú Quang giúp đỡ ngay. Trong cuộc đời của tôi, sự ủng hộ của chú Quang gần như vô điều kiện. Đó là một sự ủng hộ của một người lớn tuổi đồng hương. Sau này tôi được biết thêm, ông nội của chú Quang là bạn chiến đấu của ông cố ngoại tôi ở Quảng Đông. Hai vị này nằm trong số bốn người đóng bè vượt biên về Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 sau khi bị triều đình Mãn Thanh truy đuổi, kết án tử hình.
Chú Trầm Đức Quang rất có uy tín trong giới Hoa thương người Tiều ở Chợ lớn. Ông là Chủ tịch Hội người Hoa bảo trợ bệnh viện Triều Châu (bịnh viện An Bình). Sau giải phóng 1975, chú Quang vẫn tích cực hoạt động bảo trợ cho bệnh viện An Bình. Nhưng đùng một cái đến khoảng giữa 1976, chú Quang và con trai ông bị công an TPHCM bắt giam với tội danh “cán bộ gián điệp của cộng sản Trung Quốc”. Chú Quang bị giam ở Chí Hoà trong những phòng giam đặc biệt dành cho những người trọng tội về chính trị. Mãi đến cuối năm 1980, tôi hay tin ông và con trai được trả tự do. Vài tháng sau đó tôi vào thăm ông (lúc đầu chưa dám vào vì sợ bị tình nghi theo dõi có quan hệ với gián điệp Trung Quốc). Nhưng sau một thời gian suy nghĩ, tôi bỗng nổi máu “cóc cần”, chú Quang là cô bác của tôi, có ơn nghĩa với tôi, làm người tôi có bổn phận đi thăm sau khi ông ở tù ra. Trớ trêu thay, ngày tôi vào thăm ông cũng là ngày chú Quang và Thím của tôi sửa sọan vali để đi về Trung Quốc (chính quyền lúc đó theo yêu cầu của phía Trung Quốc, sắp xếp cho chú Quang cùng gia đình ra Hà Nội, từ Hà Nội họ đưa gia đình ông về Quảng Châu).
Nhớ lại những ngày cuối cùng của tháng 4-1975, giữa tôi và chú Quang liên lạc thường xuyên bằng điện thoại, dù tôi vẫn còn trốn trong tư dinh Tướng Dương Văn Minh. Đến ngày 26-4-1975 tôi và chú Quang gặp nhau ở một quán ăn lớn trên đường Tổng Đốc Phương. Lúc ấy đã sắp giải phóng, Tướng Dương Văn Minh sắp được Mỹ trao quyền lãnh đạo miền Nam. Chú Quang có hỏi: “Cháu có biết ông Minh định sắp xếp chính phủ như thế nào không?”. Tôi báo cho chú biết: Ông Vũ Văn Mẫu được Tướng Minh cử làm Thủ tướng. Ông hỏi: “Đô trưởng Sài Gòn là ai?” Tôi trả lời: “rất có thể là Hồ Ngọc Nhuận” “Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia là ai?” “có lẽ là Triệu Quốc Mạnh.”- “Còn cháu sẽ làm gì?” Tôi nói: “Thứ trưởng Bộ Thông tin hoặc Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Còn nếu có thể tiếp tục thương thuyết với MTGP, luật sư Trần Ngọc Liễng được ông Dương Văn Minh chọn làm Quốc vụ khanh phụ trách thương thuyết. Luật sư Trần Ngọc Liễng dự định chọn tôi làm trợ lý cho ông và là phát ngôn viên của phái đoàn thương thuyết của Chính phủ Dương Văn Minh”. Chú Quang nói: “Nếu Hồ Ngọc Nhuận làm Đô trưởng Sài Gòn hoặc làm Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia thì tốt”.
Đó là những mẩu đối thoại chính trị cụ thể của tôi và chú Quang về tình hình Sài Gòn mấy ngày trước khi Sài Gòn giải phóng. Trước đó ít khi nào chú Quang đi sâu vào tình hình chính trị với tôi. Ông than thở: “Chính quyền Sài Gòn thúi nát quá, chú làm thương gia phải quan hệ với họ đủ điều để có thể bình yên làm ăn”. Chú nói thêm: “Ngay cả Đại tá Trần Cảnh Chung Trưởng Ty cảnh sát quận 5 cất nhà lầu ở số 305 Trần Bình Trọng, nó cũng vào đây xin chú cho xi măng.” Sau giải phóng, lúc chú Quang bị bắt tôi mới được biết ông là một cán bộ chính trị của Cộng sản Trung Quốc. Trước đó, tôi chỉ nghĩ ông quan hệ với tôi vì tình đồng hương và vì ông nội của ông là bạn chiến đấu với ông cố ngoại của tôi.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 4:59:42 GMT 9
Chương 8: NHỮNG CHUYẾN ĐI THĂM NƯỚC NGOÀI
11-03-2015
Trong thời gian làm dân biểu từ 1967 đến 1971, tôi có nhiều dịp đi thăm nước ngoài. Lần đầu tiên tôi cùng 5 dân biểu khác được Hạ Nghị Viện chính thức cử đi thăm xã giao các nước Ấn Độ, Thái Lan, Philippine, Nhật Bản, Đài Loan, Nam Triều Tiên. Lần đó tôi làm Trưởng đoàn, cùng đi với tôi có Nguyễn Văn Lễ, dân biểu tỉnh Gò Công (sau giải phóng mới lộ diện ông Lễ là cán bộ quân báo của Cộng sản. Trước đây ông từng là Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia của nhiều tỉnh. Không ai ngờ ông Nguyễn Văn Lễ hoạt động cho cộng sản. Tướng tá ông có vẻ nông dân, ông luôn theo phe thân chính phủ, từng nhiều lần ngửa tay nhận tiền của Phụ tá Tổng thống Nguyễn Cao Thăng và Phụ tá Tổng thống Nguyễn Văn Ngân. Trong các kỳ họp của Quốc hội, ông Lễ chẳng bao giờ phát biểu ý kiến, ông chỉ giơ tay bỏ phiếu thuận theo phe thân chính quyền. Ông chơi thân với những tay “cù lự” như Nguyễn Bá Cẩn, Võ Văn Phát, Huỳnh Ngọc Anh…Thế mới biết phía Cộng sản chuyên môn cài tình báo vào sâu trong phe chính quyền “bảo hoàng hơn vua”. Tiền của Nguyễn Cao Thăng và Nguyễn Văn Thiệu ông Lễ cứ ăn, nhưng phận sự làm điệp báo ông vẫn cứ âm thầm làm. Đâu có ai ngờ Cựu trưởng ty công an Gò Công, Trưởng ty công an Trà Vinh lại mang hàm Trung uý của quân giải phóng). Xin đóng ngoặc lại về ông Nguyễn Văn Lễ để tiếp tục câu chuyện đi thăm sáu nước Á Châu. Cùng trong chuyến đi của tôi còn có Bùi Văn Nhân, dân biểu đại diện cho Phật giáo Hoà Hảo tỉnh Long Xuyên, Danh Cường dân biểu tỉnh Trà Vinh, Tăng Cửu dân biểu Chợ Lớn.
Tại Ấn Độ, đoàn chúng tôi được Thủ Tướng Morarji Desai tiếp kiến. Ông Desai chỉ tiếp xã giao, chào hỏi cầu chúc cho chuyến đi thăm Ấn Độ được vui vẻ, tốt đẹp. Ông không phát biểu ý kiến gì về chính trị, vì Ấn Độ lúc đó có lập trường trung lập, cả phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng có Đại sứ tại New Delhi. Chuyến viếng thăm của chúng tôi tại Ấn kéo dài 4 ngày, lập trường hoà bình của chúng tôi được báo chí Ấn Độ đăng tải rùm beng. Lúc đó chúng tôi chủ trương các phía tham chiến tại Việt Nam phải ngồi lại với nhau, để có thể đàm phán với Bắc Việt, Việt Nam Cộng Hòa cần có thủ tướng dân sự.
Nước thứ hai chúng tôi viếng thăm là Philippines. Lúc đó Đại sứ tại Manila là ông Phạm Đăng Lâm. Ông Lâm rất ủng hộ chúng tôi, đích thân ông đưa đoàn chúng tôi đến chào tổng thống Ferdinand Marcos. Tổng thống Marcos tiếp đoàn chúng tôi tại phòng khách Phủ Tổng thống. Ông rất nhanh nhẹn và có nói thẳng: “Tôi mong muốn Tổng thống và Phó Tổng thống của các ông phải thật đoàn kết, các ông mới có sức mạnh”. Cách tiếp đón của ông Marcos rất giản dị, không khách sáo. Phòng đại sảnh của Dinh Tổng thống Philippine thời đó thiết kế cùng lúc cả chục khu salon tiếp khách. Ông Marcos liên tục tiếp kiến nhiều đoàn trong một buổi sáng, cho nên thời gian ông dành tiếp đoàn dân biểu Việt Nam Cộng Hòa chỉ khoảng 15 phút.
Thái Lan hưởng lợi lớn từ chiến tranh VN
Tại Thái Lan, tôi được Đại sứ Đinh Trình Chính hướng dẫn đi thăm Thủ tướng Thanom Kitti Kachorn. Ông Kachorn bày tỏ lập trường ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa mạnh mẽ để tiến hành cuộc chiến tranh chống cộng sản. Ngay trong tình hình chính trị của Thái Lan, Chính phủ Thái lúc bấy giờ chưa dẹp yên được quân nổi dậy Cộng sản. Ông Thanom Kittikachorn nhiệt tình bày tỏ quan điểm chống cộng vì lúc đó nước Thái Lan đang hưởng lợi lớn do có cuộc chiến tranh Việt Nam. Thời kỳ đó Mỹ đã đổ vào Việt Nam hơn 300 ngàn quân. Mỗi tháng đều có vài ngàn lính Mỹ sang Thái Lan nghỉ phép, du lịch, ăn chơi. Nhờ vậy ngành du lịch Thái Lan bắt đầu phát triển mạnh.
Trong chiến tranh Việt Nam, tính từ khoảng thời gian năm 1965 đến 1975, ròng rã hơn 10 năm, Thái Lan hưởng món lợi to lớn qua việc cung phụng các dịch vụ du hí, nghỉ ngơi, các sex –tour cho lính Mỹ. Ngoài ra Thái còn có 2 căn cứ không quân lớn dành riêng cho Mỹ làm điểm xuất phát máy bay khổng lồ B-52 tàn phá Việt Nam. Thu nhập từ khoản du hí của lính Mỹ cộng với khoản cho mướn đất làm căn cứ không quân để đánh phá nước láng giềng, chính phủ Thái Lan đã làm giàu cho đất nước họ trên những đau khổ của Việt Nam. Cho đến nay, Thái Lan vẫn là đồng minh lớn của Mỹ tại lục địa Châu Á, là lính canh của Mỹ trong mọi tình huống. Chính phủ Thái Lan đang phát huy vai trò đó để tranh thủ nhiều món lợi đưa nhanh đất nước họ thành một nước phát triển lớn trong lục địa da vàng.
Đoàn dân biểu của chúng tôi còn được chính phủ Thái cho người hướng dẫn thăm 2 sân bay lớn cũng là 2 căn cứ không quân lớn của Mỹ tại miền Bắc Thái Lan: căn cứ Udon Thani và căn cứ Nakhon Thani. Chúng ta thử làm bài toán lợi nhuận mà chính phủ Thái Lan đã thu vét được từ chiến tranh Việt Nam. Với tổng số 500 ngàn lính Mỹ tham chiến tại Đông Dương, mỗi năm 1 lính Mỹ chỉ cần chi tiêu 1,000 USD cho ngành du lịch Thái Lan. Như vậy trong 8 năm liền từ năm 1966 đến năm 1974, số ngoại tệ chính phủ Thái thu được là:
1.000 USD x 500.000 x 8 = 4.000.000.000 USD
(bốn tỷ đô la – tính vào thời giá của năm 1975)
Con số đô la Mỹ lọt vào các tài khoản của ngân hàng Thái Lan còn lớn hơn nhiều. Đó là nguồn lợi tức khổng lồ mà chính phủ Thái dùng để phát triển kinh tế của nước họ từ nông thôn cho đến thành thị. Năm 1970, nhiều người Việt Nam có dịp đi thăm Bangkok đều có chung nhận xét: Bangkok và cả nước Thái lúc đó so với thành phố Sài Gòn không hơn bao nhiêu. Thế mà sau 5 năm, trong khi Việt Nam tiếp tục đổ nát điêu tàn do bom đạn của Mỹ, với sự khôn ngoan khai thác món lợi từ chiến tranh Việt Nam, chính phủ Thái đã đưa nước họ vào một quỹ đạo tiến bộ nhảy vọt.
Biện pháp mạnh của Đại Hàn
Đến Đài loan, đoàn dân biểu của chúng tôi được Liên Minh Á Châu Chống Cộng tiếp đón nồng nhiệt. Ông Cốc Chính Cương, Chủ tịch Liên minh Á Châu Chống Cộng mở đại tiệc chiêu đãi đoàn dân biểu VNCH, coi như đoàn của chúng tôi với Đài Loan là một phe.
Ấn tượng sâu đậm của chúng tôi là nước Đại Hàn (hiện nay là Nam Triều Tiên). Chúng tôi được Thủ Tướng Kim Chong Pil đích thân mở tiệc thiết đãi. Giữa ông và chúng tôi không có nói gì khách sáo, chỉ nhấn mạnh đến lập trường chống cộng sản. Ông Kim Chong Pil nói: “Nước chúng tôi chủ trương mạnh tay đối với những ai làm cản trở công việc chống cộng sản của chính phủ. Nếu cần chúng tôi sẵn sàng sử dụng biện pháp quân sự”.
Nhớ lại thời đó là thời kỳ của tổng thống Đại Hàn Pak Chung Hi, người chủ trương dùng bàn tay sắt, dùng vũ khí mạnh để giải tán tất cả cuộc biểu tình của sinh viên. Chính quyền thật mạnh tay đối với ai chống chính phủ, nhưng ngược lại họ đặc biệt đãi ngộ những gia đình có con em đi lính, có con em đã tử nạn vì chiến đấu chống cộng sản. Tổng thống Pak Chung Hi đã thành công trong việc đàn áp sinh viên, đàn áp các cuộc biểu tình chống đối. Nhưng họ cũng đã thành công trong việc xây dựng một chính phủ mạnh, ổn định được trật tự xã hội, tạo tiền đề cho việc phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế, biến Nam Triều Tiên thành một trong năm con rồng ở Châu Á. Họ cũng không giấu giếm việc các quan lớn sau khi tận lực làm việc được vui chơi hưởng lạc. Trong tiệc chiêu đãi đoàn Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa cả quan chức chính phủ cùng với khách mỗi bên mỗi người đều có một cô gái đẹp ngồi phục vụ.
Nhật Bổn là nước đoàn chúng tôi đến thăm sau cùng. Chúng tôi được Chủ tịch Thượng Nghị Viện Nhật Bổn là ông Takeo Kishi tiếp đón. Tôi có dịp đại diện cho đoàn Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa phát biểu ý kiến trước hơn 15 Nghị sĩ Quốc hội Nhật về lập trường hoà bình càng sớm càng tốt cho Việt Nam. Tôi mong mỏi Quốc hội Nhật đóng góp vào việc giúp đỡ cho Việt Nam có hoà bình với vị thế cường quốc kinh tế của họ. Ông Takeo Kishi cũng đã hoan nghinh đoàn chúng tôi đến thăm Thượng Nghị viện Nhật Bổn. Ông nói: “Nhật Bổn rất vui mừng thấy Việt Nam Cộng Hòa đã có sinh hoạt dân chủ”. Ông hứa sẽ làm hết sức mình để Việt Nam sớm có hoà bình. Đoàn của chúng tôi sau đó, còn được chính phủ Nhật cho người hướng dẫn đi thăm thành phố Yokohama, thăm hồ nghỉ mát Hakonei ở cách Tokyo 150 cây số.
Chuyến đi thăm 6 nước Châu Á lần đầu tiên của đoàn chúng tôi, có thể đã đạt được mấy kết quả sau đây:
- Tạo cho các nước láng giềng của Việt Nam hiểu được miền Nam Việt Nam đang cựa mình chơi trò dân chủ.
- Trong miền Nam Việt Nam, có một lực lượng mới, tha thiết muốn có hoà bình nhưng không thích Mỹ, đó là lực lượng quần chúng trẻ.
- Ngược lại qua chuyến đi đó tôi đánh giá được một điều: Các nước bạn bè của Việt Nam Cộng Hòa không đánh giá cao Tổng thống Thiệu và Phó tổng thống Kỳ. Họ cho chúng tôi thấy Việt Nam Cộng Hòa khó thắng nổi Cộng sản.
Đi thăm một số nước Châu Âu
Đầu năm 1969 ông Trương Gia Kỳ Sanh dân biểu tỉnh Phan Thiết và tôi được cử đi thăm một số nước Âu Châu. Cùng đi có dân biểu Nguyễn Thế Linh, dân biểu Tăng Cửu và 2 dân biểu khác tôi không nhớ tên.
Chặng đầu tiên chúng tôi ghé Oslo, Thủ đô của nước Norway (Na Uy). Trời quá lạnh, đầy tuyết phủ trắng. Đón chúng tôi là những đoàn biểu tình phản chiến, chống chính phủ VNCH. Chúng tôi đi đến đâu trong thủ đô Oslo nhất là ở các đại học, cũng chỉ thấy những biểu ngữ “Long live Ho Chi Minh”, “Peace for Viet Nam”. Tiếp đón đoàn chúng tôi trong quốc hội Na Uy chỉ là các dân biểu thuộc cánh hữu. Na Uy để lại trong tôi ấn tượng tuyết phủ trắng, giá cóng tay cóng chân, hai vành tai không còn cảm giác giống như có thể xút ra khỏi cái đầu. Dân chúng, sinh viên, báo chí của Na Uy lúc đó chống Mỹ, chống chiến tranh Việt Nam, chống chính phủ Sài Gòn mà họ cho là do Mỹ dựng nên. Dĩ nhiên họ ủng hộ Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam, ủng hộ Hồ Chí Minh.
Khách sạn nơi chúng tôi ở luôn luôn có cảnh sát bảo vệ vì các nhóm phản chiến ở Na Uy rất hăng, sẵn sàng ném cà chua trứng thối vào đoàn chúng tôi. Ông Trương Gia Kỳ Sanh, dù là một người nổi tiếng chống cộng sản ở Phan Thiết vẫn phải lắc đầu ngao ngán. Ông nói với tôi: “Miền Nam thua chắc rồi anh Ba ơi. Trước tình hình này mình đâu có tuyên truyền được cái gì cho chủ nghĩa chống cộng ở bên nhà”.
Ông Trương Gia Kỳ Sanh là trưởng đoàn, ông nói tiếng Pháp khá giỏi vì từng là giáo sư Pháp văn ở Phan Thiết, ông đỗ tú tài đôi Pháp, là một trí thức nổi tiếng ở miền Trung. Trong chế độ Ngô Đình Diệm, nghi ngờ ông theo cộng sản, Diệm-Nhu đã bắt ông, thả dù ra ngoài Bắc cùng với bác sĩ Phạm Văn Huyến thân sinh của bà luật sư Ngô Bá Thành. Rơi xuống Đồng Hới, ông Sanh bị dân quân Đồng Hới chém một nhát vào đầu mà không chết. Ông bị chính phủ miền Bắc nghi ngờ là gián điệp, lại ra lệnh buộc ông phải trở lại miền Nam. Ông bị bắt đi đường bộ băng qua cầu Hiền Lương. Khi ông Sanh được thả về miền Nam với vết dao chém trên đầu, chính quyền Diệm Nhu mới tin và không truy đuổi ông nữa. Ông Sanh rất thương và tin tôi. Trong chuyến đi Châu Âu, tôi luôn ngủ chung phòng khách sạn với ông. Có lần ông tâm sự với tôi “anh Ba, tôi tin anh nên mới tiết lộ tôi là chú ruột của Trần Bạch Đằng. Cháu tôi Tết Mậu thân là Bí Thư Thành uỷ Sài Gòn Gia Định, chỉ huy tiến đánh Sài Gòn Chợ Lớn. Nó rất tin vào sinh viên, sử dụng lực lượng sinh viên học sinh trong nội thành Sài Gòn như ngòi nổ của cách mạng tiến đánh và lật đổ chính quyền. Trần Bạch Đằng, có cảm tình với các bài báo của Dương Văn Ba đăng trên Tin Sáng. Nếu có cơ hội, tôi sẽ giới thiệu anh với nó”. Là một người chống cộng nổi tiếng ở miền Trung, ông Trúc Viên Trương Gia Kỳ Sanh lại có cháu ruột làm khá lớn trong Mặt trận Giải phóng. Sự đặc thù trong chiến tranh Việt Nam là như thế. Chằng chịt về máu mủ, gia tộc, chằng chịt về tình cảm thân thuộc, về tình xóm giềng, tình bạn bè lúc thiếu thời. Người Mỹ vào Việt Nam giống như rơi vào một màng nhện hay lọt vào một rừng tre nứa, song mây quấn quít lấy nhau, khó thoát ra được.
Công du hay đi chơi? Thu hoạch được gì?
Oslo là chặng đầu tiên của Châu Âu cũng là chặng mà chúng tôi cảm nhận được một điều hiển nhiên: “Bênh vực cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa là làm một điều không tưởng. Trong con mắt của người Châu Âu lúc đó Việt Nam Cộng Hòa là bù nhìn của Mỹ”.
Từ cảm nhận đó, khi sang Pháp. Thụy Sĩ, Bỉ, Anh Quốc ông Trương Gia Kỳ Sanh và tôi đều đồng ý với nhau ca bài hát: “Chúng tôi là thành phần chống Thiệu Kỳ, chúng tôi muốn ở miền Nam Việt Nam thật sự có dân chủ. Chúng tôi muốn chấm dứt chiến tranh. Chúng tôi muốn ở miền Nam Việt Nam có một chính phủ dân sự để thương thuyết với MTGP và với Bắc Việt”. Bài hát đó của ông Sanh và tôi lọt lỗ tai một số báo chí, một số dân biểu nghị sĩ tại các nước Châu Âu. Các ông Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Anh, Bỉ, Ý, Đức đều đồng tình với bài hát của chúng tôi. Vì tại Châu Âu lúc đó mà đi bênh vực cho Nguyễn Văn Thiệu chẳng khác nào chọc giận, đổ dầu thêm vào ngọn lửa căm phẫn đang bùng cháy. Mục đích riêng của các cá nhân trong đoàn dân biểu chúng tôi là đi du lịch để cho biết xứ người văn minh đến mức nào, để tận tai nghe rõ ràng sự phi chinh nghĩa của một chính quyền thân Mỹ tại Sài Gòn. Điều thu lượm được của mỗi một thành viên trong đoàn Quốc hội miền Nam đều khác nhau.
Như Dân biểu Nguyễn Thế Linh, do đánh xì phé ăn ông Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Bỉ (Bruxelles), anh ta đã ghé Ý mua một chiếc xe Fiat 850, gửi tàu chở về Sài Gòn. Ông Trương Gia Kỳ Sanh, trong chuyến đi tại Bỉ đã rất vui vì được dịp gặp lại nhiều cựu học sinh của ông trước đây là con cháu của các chủ hãng nước mắm tại Phan Thiết, đi học xong ở luôn bên Bỉ sinh sống.
Cá nhân tôi, thu hoạch được nhiều điều riêng tư. Trước nhất tôi được đi chơi các hộp đêm tại Paris và Bonn nhờ tiền đánh bài ăn ông Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Bỉ, được biết thêm nhiều cô đầm khá đẹp. Thứ hai, mua được nhiều sách hay ở Paris, ăn được paté gan ngỗng, được Đại sứ Phạm Đăng Lâm ở Paris đãi ăn món hàu sống ướp đá ở một quán danh tiếng nhất nước Pháp. Tôi được đi xem bảo tàng Louvre, được lựa sách cũ bày bán bên bờ sông Seine, được cùng Dương Minh Đức, con trai lớn của Tướng Dương Văn Minh lái xe hơi đi Tours với ông Lê Văn Lâu để thăm anh Âu Trường Thanh (lúc đó đang dạy kinh tế tại đại học Tours). Trao đổi về tình hình chính trị, anh Thanh cho chúng tôi biết, anh không thích về Việt Nam nữa, vì theo anh Sài Gòn khó tồn tại lâu dài, chính quyền quân sự ở Sài gòn ăn chơi quá đáng, tham ô quá mức, không có cách gì chống cộng nổi.
Trong mấy ngày ở London tôi được quen với anh Diệp Quang Hồng, Cố Vấn Đại sứ Việt Nam tại Anh Quốc. Anh Hồng, quê quán ở Bạc Liêu, thuộc dòng dõi địa chủ lớn, là anh ruột của Phó Đề Đốc Diệp Quang Thuỷ, tham mưu trưởng hải quân VNCH. Tôi và anh Hồng đã đi thăm Đại học Coventry, thành phố dệt lớn ở phía Nam London. Đến đại học Coventry, giữa giá tuyết, nhưng người của chúng tôi nóng lên vì được nghe những tiếng hoan hô “Long live Ho Chi Minh”, “Victory for the Front”, “Thiệu American puppet in South Vietnam”…
Anh Hồng nói với tôi: “Nếu chiến tranh Việt Nam chấm dứt, moi sẽ ở luôn bên này vì làm sao về Việt Nam sống được dưới chế độ cộng sản”. Và anh Hồng, anh Thuỷ Tư lệnh Phó Hải quân đã làm như thế. Thuỷ rời Việt Nam trên con tàu hải quân ngày 28-4-1975. Tôi vẫn nhớ anh Hồng với những kỷ niệm ở London, anh dẫn tôi đi chơi cho biết xứ người. Dù ở xa, thật xa Bạc Liêu, anh từng nói với tôi, anh luôn nhớ về xứ sở nơi có những người Tiều Châu làm rẫy, trồng rau, nơi có những cánh đồng rộng xa tít tắp với những đàn cò trắng bay trong những chiều quê thanh bình.
Bài học đáng suy gẫm về dân chủ
Tôi học được ở Quốc hội các nước Châu Âu một vài điều lý thú: Mỗi dân biểu hay Nghị sĩ đều thuộc về một chinh đảng, đa số hay thiểu số. Họ đều có lập trường rõ ràng về các vấn đề của đất nước, có ý kiến rõ rệt đối với các đạo luật, nhất là về thuế. Họ tự do phát biểu ý kiến về bất cứ vấn đề gì, dù những ý kiến đó có tính cách chỉ trích đích danh Thủ tướng hay Tổng thống. Báo chí được tự do đăng tải các ý kiến đó. Cử tri ở các địa phương có quyền yêu cầu dân biểu hay nghị sĩ tìm cách giúp giải quyết các vấn đề đặc thù. Dân biểu, nghị sĩ bắt buộc phải có trả lời, họ có quyền yêu cầu chính phủ làm sáng tỏ các vấn đề cử tri thắc mắc. Dân biểu, nghị sĩ không nhất thiết phải tham dự tất cả buổi họp của quốc hội. Vấn đề nào họ cần lên tiếng ở nghị trường, họ mới đăng đàn trình bày. Đối với các vấn đề quan trọng, họ chỉ cần có mặt lúc biểu quyết. Ví dụ các phiên họp khoáng đại của quốc hội Anh, quốc hội Ý, có khi chỉ có vài chục người hiện diện (có mặt mà không dám nói điều gì cần thiết, sự có mặt đó chỉ là nghị gật). Nhưng không phải vì thế mà sinh hoạt quốc hội tại các nước buồn tẻ. Các nghị sĩ, dân biểu ít khi nói theo một chiều đã có sẵn. Vấn đề nào, văn phòng của họ cũng có ý kiến bằng văn bản. Quốc hội cung cấp tài chinh để dân biểu, nghị sĩ mở văn phòng riêng, mỗi người đại diện cho dân đều được quyền lựa chọn một hay hai cố vấn, quốc hội chi trả lương. Các cố vấn thường là các chuyên gia về luật pháp, kinh tế, tài chính, xã hội, các giáo sư đại học. Các cố vấn có trách nhiệm giúp ý kiến rõ ràng cho dân biểu, nghị sĩ về những vấn đề quan trọng của đất nước. Dân biểu hay nghị sĩ chỉ phải lấy quyết định dựa trên các ý kiến của cố vấn. Do đó, nghị sĩ dân biểu lúc nào cũng nắm sâu sát được các vấn đề. Thời gian họ dành nhiều cho việc vận động, tiếp xúc, trao đổi ý kiến cụ thể với các giới cử tri. Một văn phòng của một đại biểu quốc hội hàng năm nhận được nhiều ngàn thư từ góp ý kiến bày tỏ nguyện vọng, nêu thắc mắc của nhiều giới cử tri. Quốc hội của họ thật sự là một cơ quan quyền lực tối cao của dân.
Ngân sách hàng năm là vấn đề trọng đại nhất, không dân biểu nghị sĩ nào dám tự tiện bỏ qua các cuộc họp xét duyệt ngân sách. Thảo luận xét duyệt từng chương, từng mục của ngân sách nhà nước, chấp nhận cho chi tiêu khoản nào, bác bỏ khoản nào họ đều họp công khai trong khoáng đại hội nghị, luôn luôn có báo chí truyền thanh, truyền hình trực tiếp tham dự. Tiền của dân nộp thuế, họ công khai quyết định việc chi xài trước mắt của nhân dân. Trước hết, họ xem xét kết quả việc sử dụng ngân sách nhà nước trong tài khóa vừa qua. Họ cân đối tỷ lệ sử dụng các khoản chi tiêu. Những việc cần sử dụng ngân khoản to lớn, họ xét nét cặn kẽ. Các Bộ trưởng phải ra trước khoáng đại hội nghị trình bày chi tiết các đề án, phân tich hiệu quả của việc sử dụng tài chinh. Đề án nào được chấp thuận mới có ngân sách. Các Bộ, các địa phương không thể tự tiện chi tiêu. Không hề có sự ưu đãi về quyền lợi và tiện nghi riêng cho các Bộ Trưởng, Thị trưởng, Tỉnh trưởng. Tất cả đều phải có quy chế nhà nước. Không phải địa phương nào muốn sắm phương tiện sử dụng cho các cá nhân nắm quyền, cứ tự tiện quyết định (ở Việt Nam hiện nay, nhiều tỉnh muốn mua xe Toyota Land Cruiser 70-80 ngàn đô la một chiếc, Phó Chủ Tịch Tỉnh, phụ trách tài mậu đã đủ quyền quyết định).
Được gặp Đức Giáo Hoàng Paul VI
Vinh dự lớn nhất của đoàn chúng tôi trong chuyến đi Châu Âu là được Giáo Hoàng Paul VI tiếp kiến. Ngài thăm hỏi về tình hình đất nước Việt Nam và cầu nguyện cho nhân dân Việt Nam sớm có hoà bình. Chúng tôi mỗi người trong đoàn đều được vinh dự bắt tay Đức Giáo Hòang Paul VI, hôn nhẫn thánh của ngài, được chụp hình kỷ niệm. Tấm ảnh chụp chung với Giáo Hoàng Paul VI trong kỳ tái tranh cử lần thứ nhì 1971 – 1975 là vũ khí có giá trị lớn của tôi đối với các cử tri Công giáo Bạc liêu. Nhờ tấm ảnh đó, đa số người Công giáo ở Bạc liêu đã bầu phiếu cho tôi. Đối với họ, cá nhân nào trong cuộc đời được diện kiến và hôn nhẫn thánh của Giáo Hoàng, đó là phúc đức và là người được ân sủng của Thiên Chúa.
Một mình đi Mỹ quốc
Tháng 6-1970, tôi quyết định đi thăm nước Mỹ một mình. Trước khi đi, tôi tìm gặp dân biểu Trần Ngọc Châu, còn bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu giam giữ tại khám Chí Hoà. Nói là giam giữ, thật sự Trần Ngọc Châu vẫn được thường xuyên liên lạc với bên ngoài. Nữ dân biểu Kiều Mộng Thu có lúc là người tình của Châu, mỗi tuần đều vào khám Chí Hoà tâm sự với Châu nhiều giờ. Lúc đó, Đại tá Trần Vĩnh Đắc là Giám đốc Trại giam Chí Hoà, đã dành nhiều dễ dãi và tình cảm ưu đãi anh Châu, coi như là một loại tù chính trị.
Tôi cho anh Châu biết tôi dự định đi Mỹ và nhờ anh giới thiệu với các bạn bè Mỹ. Thời gian Trần Ngọc Châu làm Tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre anh chơi thân với John Paul Vann một trùm tình báo Mỹ ở Vùng 4. Châu cũng là bạn thân của Daniel Ellsberg, người tiết lộ và xuất bản bộ sách “Pentagon Papers” gây chấn động nước Mỹ. Trần Ngọc Châu cho tôi địa chỉ của Daniel Ellsberg, dặn khi tôi đến Nhật Bổn hãy đánh điện tín cho Ellsberg biết tin, để ông ta ra sân bay đón tôi.
Tôi làm y như thế. Trên đường đi Mỹ tôi ghé ngang Osaka Nhật Bản 2 ngày. Tại Osaka, tôi gửi điện tín cho Ellsberg, nói rõ mình là bạn của Trần Ngọc Châu muốn nhờ Ellsberg tổ chức đón và hướng dẫn tôi đi thăm các nơi trong một tuần lễ ở Hoa Kỳ. Khi tôi đến sân bay Los Angelès trong chuyến bay Boeing 747 của hãng hàng không Pan Am, vợ chồng Ellsberg đã có mặt tại sân bay để đón tiếp tôi. Anh ta tự lái xe đưa tôi về nơi nghỉ mát ngay bờ biển Santa Monica. Căn nhà nhỏ xinh đẹp của vợ chồng Dan ở sát mé nước biển, đầy ánh nắng và lộng gió. Tôi như bị choáng ngợp bởi sóng biển tràn sát mí nhà, nắng mênh mông trên bờ cát trắng dọc dài. Biển Santa Monica xanh biếc, đầy những cánh buồm trắng của những người lướt sóng trên tấm ván (surf-riding). Cảm giác choáng ngợp đó cho tôi thấy nước Mỹ rộng mênh mông, mỗi con người như viên sỏi được ném xuống dòng biển, tha hồ thỏa thích quay lăn, người giỏi đủ sức lăn được đến nơi mình muốn, kẻ yếu kém phải chấp nhận số kiếp của viên cuội nằm yên trên bờ cát. Tôi đến Santa Monica lần đó với cảm giác của người say rượu, thấy đã đời nhưng cũng chẳng biết mình sẽ rẽ về đâu.
Vợ chồng Daniel Ellsberg lập ngay chương trình làm việc cho tôi sau khi đưa tôi về ở một khách sạn nhỏ, sát bờ biển. Tối hôm đó, Daniel đãi tôi ăn bít tết bò Mỹ, uống rượu vang đỏ của Mỹ. Daniel hỏi thăm tình hình của Trần Ngọc Châu, tôi nói: “Sức khỏe của anh Châu khá tốt. Nhưng khi nào Thiệu sụp đổ Châu mới ra khỏi khám Chí Hoà”. Tôi hỏi Daniel: “Anh có giúp cho chúng tôi làm cho Thiệu sụp đổ được hay không?”. Daniel Ellsberg cười và nói: “Tôi sẽ đưa anh đi gặp Tướng Haig và tiến sĩ Henry Kissinger để anh nói điều đó với họ”. Tôi hỏi ngược lại Daniel: “Có thật là tôi có thể gặp Henry Kissinger không?” Daniel trả lời: “Những người bạn của tôi có thể làm được việc đó”.
Hai ngày sau, Daniel và một thanh niên Mỹ, từ Santa Monica, chở tôi đi San Clemente trên một xe Ford 4 chỗ ngồi, rộng rãi. Đường xa lộ trên nước Mỹ thênh thang, lần đầu tiên đến Mỹ quốc cảm giác của tôi thấy mình thật nhỏ bé. Không gian, kích cỡ quen thuộc của mình ở Việt Nam đột nhiên thay đổi hẳn. Một kích cỡ mới, một không gian mới bao quanh con nguời cũ. Tôi tự cảm thấy không thể nào sống lâu ở Mỹ được.
Báo chí Mỹ chi phối thế giới
Điểm đến đầu tiên của chúng tôi là Trung tâm Báo chí của Toà Bạch ốc miền Tây. Đó là một cao ốc năm tầng. Ở mỗi tầng, hàng trăm phóng viên đang làm việc với các máy móc của họ. Daniel quen rất nhiều nhà báo. Một số người ngưng công việc đang làm để nói chuyện với Daniel. Họ đang chuẩn bị cho cuộc họp báo buổi chiều hôm đó của Tổng Thống Richard Nixon. Trung tâm báo chí của Tổng Thống Richard Nixon ở San Clemente gây ấn tượng mạnh nơi một nhà báo còn ở trong giai đoạn “thủ công” như tôi, đến từ miền Nam Việt Nam. Máy quay phim, máy ghi băng, máy viễn ký bày đầy la liệt trên bàn làm việc của mỗi phóng viên. “Caféteria” phục vụ cho khách ngày đêm. Lần đầu tiên tôi đến với nền công nghiệp báo chí lớn nhất thế giới (tháng 6-1970) tôi mới mường tượng được ảnh hưởng lớn lao của nền công nghịêp đó đối với mọi vấn đề của thế giới và đối với mọi nước trên toàn cầu. Người ta làm báo để thông tin cho toàn thế giới, để loan truyền những điều mới lạ sắp xảy ra liên quan đến vận mạng nhân loại.
Chiến tranh ở Việt Nam là một đề tài nóng. Không phải vì số phận đau đớn quằn quại của nhân dân Việt Nam hàng ngày. Đối với họ những người làm báo ở tầm cỡ quốc tế, quyết định số phận của chiến tranh Việt Nam là quyết định mối tương quan toàn cầu, Mỹ, Liên Xô, Trung quốc, thế giới Ả Rập, cả thế giới thứ ba chịu ảnh hưởng lan đi từ kết cuộc và diễn biến từng ngày của chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam ngay lúc đó đã bị toàn cầu hoá. Nixon, Kissinger đang tiến hành cuộc giải quyết chiến tranh Việt Nam trong chiều hướng Việt Nam là một mắc xích quan trọng trong dây chuyền xếp đặt thế giới. Thiệu không thể nào tồn tại lâu dài được vì Nixon và Kissinger phải cởi bỏ gánh nặng của mắc xích Việt Nam để sắp xếp lại cuộc cờ thế giới trong một thế chủ động mới. Toàn thể báo chí hình ảnh và báo viết đang tập trung tại San Clémenté để theo dõi những gì sắp xảy ra trong thời gian tới, xuất phát từ kỳ nghỉ hè của Bộ Tham Mưu của Nixon tại toà Bạch Ốc miền Tây.
Gặp Cố vấn An ninh của Tổng thống Nixon
Sau Trung tâm Báo Chí Quốc tế, tôi được Daniel và bạn của anh ta đưa thẳng vào khu dinh thự mùa hè của Nixon, Kissinger và Haig.
Người đầu tiên tôi được gặp là một thanh niên Mỹ khoảng 27 tuổi, cao khỏang 1m 8 phụ tá báo chí của Tướng Haig. Đó là Winston Lord (sau này Winston Lord trở thành Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ). Lord tiếp tôi và Daniel trong 15 phút. Anh ta dặn tôi trình bày những điều muốn nói với Tướng Haig thật ngắn gọn vì Haig và Kissinger sắp có cuộc họp với tổng thống Nixon.
Tướng Haig là phụ tá An ninh quốc gia của tổng thống Nixon cùng với tiến sĩ Henry Kissinger. Haig là một tỷ phú (không đúng – THD) trong nhóm Cộng hoà, nhỏ hơn Nixon chừng 10 tuổi. Alexander Haig tiếp tôi trong phòng làm việc của ông ta khoảng 30 phút. Ông ta hỏi tôi: “anh nghĩ thế nào về việc chấm dứt chiến tranh Việt Nam?” Tôi nói: “Dân Việt Nam nghĩ tổng thống Thiệu là cản trở số một trước mắt. Hãy thay đổi Thiệu một chính phủ dân sự sẽ nói chuyện được với Việt cộng và sẽ có hoà bình nhanh chóng”. Tướng Haig nói: “Ông không sợ chính phủ dân sự sẽ giao miền Nam cho cộng sản hay sao?” Tôi nói: “Dân Việt Nam muốn có hoà bình. Nếu nói chuyện được với cộng sản để sớm có hoà bình là một điều tốt nhất cho dân tộc chúng tôi”. Haig cười không trả lời. Ông lại nói tiếp: “Ông có muốn chính phủ Mỹ giúp gì thêm cho Việt Nam?”. Tôi nói: “Chính phủ Mỹ nên giúp Việt Nam sớm có hoà bình là điều cần làm nhất”. Tướng Haig nói: “Tôi sẽ nói chuyện với tiến sĩ Kissinger về cuộc gặp ông hôm nay”. Chúng tôi từ giã Haig ra về. Bên ngoài chiếc trực thăng Air Force One của Richard Nixon đậu lù lù trong sân chờ sẵn. Chuyến viếng thăm nước Mỹ của tôi có thể coi như kết thúc tại đó, sau khi nói chuyện với Tướng Alexander Haig. Vì tôi đi Mỹ, trong lòng chỉ có từng ấy nguyện vọng, nói thẳng với Toà Bạch ốc là nên gạt bỏ Thiệu.
Daniel Ellsberg nói với tôi: “Haig là phần tử cứng trong Bộ tham mưu của Nixon. Anh đã nói với Haig ngắn gọn như thế, có lẽ ông ta sẽ suy nghĩ”. Daniel vui vẻ chở tôi đi một vòng dạo quanh bờ biển San Clemente. Tôi trở lại Santa Monica, ở chơi với vợ chồng Daniel thêm 2 hôm, cố ý thăm dò quan điểm của anh ta về tình hình chính trị ở Việt Nam. Daniel cho tôi biết đang thu thập tài liệu để công bố thêm những bí mật chưa được tiết lộ của Toà Bạch ốc thời kỳ Nixon về chiến tranh Việt Nam. Từ giã vợ chồng Daniel Ellsberg tôi bay đi Washington DC gặp thêm một số bạn bè của Daniel trong phong trào phản chiến. Tôi đi lang thang ở một số Bar và Night Club trong hai đêm một mình. Sau đó đến nhà Đại Tá Nguyễn Linh Chiêu, Tuỳ viên Quân sự Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ. Đại tá Chiêu có lúc làm Tỉnh trưởng tỉnh Trà Vinh. Vợ ông ta khá đẹp, nấu phở rất ngon. Ông ta chở tôi đi chơi New York một ngày. Đại tá Chiêu một con người lịch sự nhẹ nhàng, có căn biệt thự đẹp ở Thủ đô Mỹ. Trong vườn nhà ông có nhiều cây táo chín đỏ. Vườn nhà bên Mỹ không có hàng rào ngăn cách hai bên láng giềng. Họ có thể qua lại với nhau bằng đường bên hông nhà. Hàng rào chỉ có phía trước mặt nhà, trang trí cho đẹp. Đại tá Chiêu, một người có văn hoá có tài sản, ngoại giao lịch sự. Nhưng ông ta lại mắc một chứng bịnh bẩm sinh, bịnh ăn cắp vặt. Cứ vào siêu thị, ông có tật hay lén lấy đồ bỏ túi áo, không tính tiền. Nhiều lần bị bảo vệ siêu thị Mỹ bắt tại trận. Bộ Ngoại giao Mỹ có lưu ý VNCH, nhưng không ra lệnh trục xuất ông vì biết đó là một loại “chứng tật di truyền” của một người giàu có.
_____
Viet-studies
Chương 9: ĐỐI MẶT VỚI GIAN LẬN BẦU CỬ
12-03-2015
Thời gian 4 năm tôi làm dân biểu tỉnh Bạc Liêu qua cũng khá nhanh. Sau khi tôi đi Mỹ về, cuối tháng 6-1970, quỹ thời gian của tôi chỉ còn lại có 12 tháng.
Kiểm điểm lại những gì mình đã làm được với tư cách đại diện nhân dân Bạc Liêu, tôi có những đánh giá sau:
- Với tư cách một người trí thức trẻ, quê quán gốc Bạc Liêu, tôi đã chứng tỏ được mình là một con người không quay lưng trước bạo quyền, dám công khai chỉ trích những tệ nạn do chính quyền cũ gây ra, và chỉ trích mạnh trên báo chí.
- Tôi đã gây dựng được một phong trào đấu tranh trong lòng quần chúng Bạc Liêu, những người trẻ khác, cùng lứa tuổi với tôi, tại tỉnh Bạc Liêu, đã mạnh dạn dám ăn dám nói, dám đối lập với chính quyền. Những người đó đã đi đầu trong việc hướng dẫn quần chúng, kết hợp với sự đấu tranh của Phật Giáo. Nhiều người trẻ ở Bạc Liêu đã trở thành diễn đàn nói thẳng với chính quyền và là chỗ dựa của dân khi họ gặp chuyện bất công, oan ức. Các bạn trẻ của tôi Đỗ Khắc Tường, Tạ Văn Bo là những thầy giáo của trường Trung học Bồ Đề, nhờ mạnh mẽ đứng ra nói tiếng nói của quần chúng, trong kỳ bầu cử Hội đồng tỉnh năm 1970, anh Tường và anh Bo đã đắc cử Nghị viên tỉnh Bạc Liêu, cùng với anh Tạ Kim, đại diện chính thức của tôi, cũng đắc cử. Ba người này tạo ra tiếng nói đối lập với chính quyền của Tỉnh trưởng Hoàng Đức Ninh. Họ công khai chống đối với Ninh trong việc đuổi chợ Bạc Liêu, giao cho một tay thầu ở Vĩnh Long xuống Bạc Liêu sắp xếp lại toàn bộ việc mua bán trong chợ. Giới mua bán nhỏ trong chợ kêu cứu, các ông Nghị viên trẻ đã chống đối ngăn cản không cho Ninh phá chợ, phá chén cơm của nhiều người đem giao cho một tay thầu có ăn chia với ông ta. Để tạo áp lực, các Nghị viên Bo, Tường, Kim đã tuyệt thực tại Hội đồng tỉnh với biểu ngữ chống Tỉnh trưởng phá chợ. Ninh đã cho lịnh bắt giam những nguời này, tôi đã bay về Bạc Liêu để can thiệp. Tôi đã dẫn theo một đoàn mấy nhà báo Sài Gòn, kể cả mot nhà báo Mỹ, nữ phóng viên Marie Joannidis người gốc Hy Lạp. Tôi đã yêu cầu ông Chánh An Huỳnh Văn Xuân phải xét lại việc Ninh bắt giam 3 Hội Đồng tỉnh. Chánh An Xuân đã lập phiên toà xử công khai, tuyên án trả tự do cho họ. Việc bắt giam 3 hội đồng tỉnh trong cả 4 ngày, là thêm một việc làm bạo ngược của Tỉnh trưởng Hoàng Đức Ninh. Tôi đã loan tin trên báo, phê phán Ninh nặng nề, Ninh rất căm ghét tôi, Thiệu thì cho tôi là thằng luôn phá rối trật tự trị an. Đối với độc tài, không có cách nào khác hơn là phải công phá dư luận. Liên tiếp trong nhiều tháng, trên báo Tin Sáng, báo Thời Đại Mới, báo Bút Thép, báo Công Luận là những tờ báo thân hữu, hầu như tuần nào tôi cũng loan tin, nêu bật các sự kiện hỗn loạn, vô trật tự, mất dân chủ ở tỉnh nhỏ Bạc Liêu. Vận dụng sức mạnh của dư luận báo chí, một vũ khí tấn công của tôi đối với chính quyền ngang ngược ở tỉnh. Một lần, Hoàng Đức Ninh đã cho lính địa phương quân thuộc tiểu khu Bạc Liêu tổ chức giết tôi.
Chết hụt 2 lần
Trong tháng 4-1971, tháng Thanh Minh, những người dân Bạc Liêu, Cà Mau, xa quê thường về thăm gia đình và nhân đấy cúng mã mồ ông bà tổ tiên. Có một Đại úy làm việc ở Bộ Tổng Tham Mưu Sài Gòn, lần đó, mặc thường phục chở vợ con về xã An Trạch, quận Giá Rai cúng Thanh Minh. Xui cho ông ấy, ngày đó cũng là ngày tôi đi Giá Rai thăm cử tri, vận động quần chúng. Từ Giá Rai, khoảng 3 giờ chiều tôi đã đi về Bạc Liêu. Tôi đi trên một xe Datsun 1300, sơn màu trắng. Về đến Bạc Liêu gần 4 giờ chiều. Tối hôm đó, tôi nghe một số người trong chợ Bạc Liêu báo: “Hồi chiều có một xe du lịch từ Cà Mau ra khỏi xã An Trạch vừa qua ấp Khúc Tréo bị Việt Cộng phục kích bắn chết tài xế.”
Tôi cũng mừng mình về sớm, nếu không, lỡ gặp cảnh đó không biết số mạng mình sẽ ra sao. Ai ngờ, ba tháng sau, tôi gặp chị Nguyễn Thị Trung, vợ thứ nhì của anh Hồ Ngọc Nhuận, chị Trung cho biết: “Anh Ba, mạng anh lớn lắm đó”. Tôi hỏi tại sao chị lại nói như vậy. Chị Trung kể: “Ba tháng trước, thằng cháu rể của tôi là đại uý, mặc civil, chở vợ con về An Trạch cúng mả, dọc đường bị lính địa phương quân phục kích bắn chết. Bắn xong, chúng nó chạy ùa lên đường, lật xác người chết xem, có đứa chỉ huy la lên: “Đ.M. không phải thằng Dương Văn Ba tụi bây ơi”. La xong, cả bọn lại lũi xuống ruộng dông mất. Vì tôi có ân oán giang hồ với Hoàng Đức Ninh, hắn đã cho người phục kích giết tôi nhưng lại giết lầm kẻ khác. Ông đại uý, cháu rể chị Trung, đã thay mạng tôi chết oan, tôi chưa thắp nén nhang nào để cầu siêu cho anh ấy. Hôm nay, qua những dòng chữ này, tôi xin lỗi đối với oan hồn của anh và tin chắc anh đã tiêu diêu nơi cõi Phật. Mạng sống của tôi, anh đã thay thế tới bây giờ, tôi mới hối hận là hồi đó, khi biết tin, mải mê với công việc, tôi chưa lần nào vào chùa để cầu siêu cho anh. Kẻ tổ chức giết tôi, lại giết nhầm anh. Đó là số phận. Kẻ giết anh đến nay cũng chưa đền tội.
Lần thứ nhì, Hoàng Đức Ninh giết tôi hụt, cũng là vận may của tôi. Ngày đó, một ngày trong tháng 8-1971, tôi đã sắp xếp chương trình đi vào xã Vĩnh Hưng quận Phước Long để vận động dân chúng. Thầy Quảng Thiệt và dân biểu Thạch Phen đã chuẩn bị sẵn sàng mấy chiếc Honda 70 cùng với 8 học sinh trường trung học Bồ Đề đi theo. Sáng hôm đó, tự nhiên tôi có linh cảm không hay. Tôi nói với thầy Quảng Thiệt: “Tôi cảm thấy trong người bất an, không muốn đi, hay là thầy cùng 8 em học sinh đi thay tôi và Thạch Phen. Thầy đầy đủ tư cách để nói chuyện với bà con ở Vĩnh Hưng”. Quảng Thiệt đồng ý, nói: “Vĩnh Hưng là một xã nguy hiểm. Vào đó, có thể gặp tụi lính của Mã Thành Nghĩa tiểu đoàn 411 làm bậy. Để tôi đi một mình với mấy em học sinh Bồ Đề là đủ rồi”. Thầy Thiệt và mấy em học sinh, khăn gói đầy đủ truyền đơn vận động tranh cử, hình ảnh của tôi và Thạch Phen. Thầy Thiệt dẫn đám quân học sinh đi bằng 5 xe Honda 70 đàn ông. Tôi tiễn họ đi mà trong lòng không yên. Mãi đến khuya hôm đó họ vẫn chưa về. Cả ngày hôm sau, chúng tôi chờ đến 6, 7 giờ tối mới thấy tàn quân của Quảng Thiệt dẫn về. Ao thầy tu màu lam của thầy rách tả tơi. Học sinh có em bị sưng mặt, có em bị lọi tay, có em chân đi cà nhắc. Chúng tôi họp nhau ở nhà của Đỗ Khắc Tường, kế bên Chùa Vĩnh Hoà thầy Thiệt nói: “Anh Ba không đi chuyến này là hên lắm. Thầy trò tụi tui bị Mã Thành Nghĩa đích thân tiếp đón. Tụi nó cho tui một trận đòn nhừ tử, cả chục thằng lính địa phương quân vây đánh bọn tôi. Chúng nó vừa đánh vừa chửi: “Đ.M. thằng Dương Văn Ba chưa tới số, hôm nay, nó xuống đây, tụi tao cho tụi bây ôm xác nó về chợ Bạc Liêu”. Mã Thành Nghĩa uống rượu say bí tỉ, chống nạnh, chửi thề: “Đ.M. thằng Ba Dương xuống đây, đích thân tao đánh nó chết. Đ.M. nó còn hên lắm. Tụi tao đươc lệnh chờ nó ở đây mấy ngày rồi. Mày thầy tu hả, tao đánh theo kiểu thầy tu. Tụi bây bắt chúng nó nhốt trong mấy chuồng trâu cho muỗi cắn, cho nó biết thế nào là dám chống chính quyền, thế nào là lễ độ với Đại tá Ninh…”. Thầy Quảng Thiệt nói: “Tụi nó định bắn anh tại Vĩnh Hưng. Không có anh, tụi nó đánh thầy trò tui ê mình, ê mẩy, may mà tôi có chút võ công, nên không đến nổi”. Mấy em học sinh vừa khóc vừa nói: “Thầy Ba ơi, rất hên cho thầy đó, hôm qua thầy xuống dưới, tụi em đã phải ôm xác thầy về”.
Quảng Thiệt và các em học sinh đã nói lên sự thật: Hoàng Đức Ninh đã cho lệnh “phơ” tôi ở các vùng xôi đậu nặng như vùng Vĩnh Hưng, Phước Long. Số tôi chưa hết nên tôi đã không đi xuống chỗ tử địa.
Không thể đào ngũ
Trước ngày bầu cử Hạ Nghị Viện lần thứ hai mấy tháng, vào khoảng tháng 6-1971, tôi và các anh em trí thức ở Bạc Liêu có họp bàn kế hoạch: “Tôi có nên tái tranh cử ở Bạc Liêu hay không?”. Anh Tạ Kim người lớn tuổi nhất trong nhóm nói: “Dương văn Ba không nên về Bạc Liêu tái ứng cử. Hoàng Đức Ninh nó mạnh lắm. Chắc chắn nó tổ chức gian lận, mình không địch lại nó được đâu”. Thầy Quảng Thiệt có ý kiến khác: “Dương Văn Ba phải sống chết ở Bạc Liêu đấu tranh, bỏ về Sài Gòn ứng cử, rất có thể thắng vì bây giờ Dương Văn Ba đã có nhiều tiếng vang tốt trên báo Sài Gòn. Nhưng bỏ Bạc liêu là đào ngũ. Tụi tôi ăn nói làm sao với những người ủng hộ Dương Văn Ba đây”.
Đỗ Khắc Tường, Tạ Văn Bo cũng đồng tình với ý kiến của Thầy Thiệt. Riêng tôi, tôi không muốn bỏ chạy vì biết rõ mình được đại đa số cử tri Bạc Liêu ủng hộ. Bỏ chạy là hèn nhát. Ở lại chiến đấu chống gian lận bầu cử của Hoàng Đức Ninh mới đáng là đại diện cho dân. Tôi quyết định tái tranh cử năm 1971 ở Bạc Liêu, mặc dù bác Trầm Đức Quang khuyên tôi nên ra tranh cử ở Chợ Lớn, Bang Hội Triều Châu Chợ lớn sẽ ủng hộ tôi vận động người Hoa, kể cả tài chinh nữa. Tôi hơi phân vân. Nhưng vẫn quyết định ở lại Bạc Liêu, vì còn có Thạch Phen, tôi không thể bỏ ông ta một mình ở lại đối mặt với Hoàng Đức Ninh.
Buổi chiều ngày nộp đơn ứng cử, tôi vào Tòa Tỉnh trưởng làm thủ tục. Gặp Đại tá Ninh, anh ta nói: “Ông dân biểu tái tranh cử ở Bạc Liêu, chắc chắn là thắng rồi, yên chí đi”. Anh ta vừa nói vừa cười, vẻ mặt hớn hở. Anh ta biết chắc tôi đã lọt vào cái bẫy mà ông ta đã giăng sẵn, chờ đó, cả mấy tháng rồi.
Trong 30 ngày vận động tranh cử, nhóm anh em cộng sự cuả tôi giới hạn việc đi xuống các vùng sâu, vùng xa, sau biến cố Quảng Thiệt và các học sinh Bồ Đề bị đánh nhừ tử ở Phước Long. Chúng tôi mời các Ban đại diện Phật Giáo ở các xã về, mời các đại diện sư sãi Khơ Me về, mời các thầy giáo trong hệ thống của tôi về. Mọi người đều nói: “Thầy Ba và Thầy Phen kỳ này chắc chắn đắc cử, nếu chính quyền không gian lận. Thầy Ba không nên một mình đi đâu xa khỏi chợ Bạc Liêu, chỉ cần đưa truyền đơn, chúng tôi âm thầm phát cho bà con các nơi. Uy tín thầy Ba, thầy Phen to lớn lắm, không phải tuyên truyền nữa. Tạ Kim nói: “Chúng nó càng cấm cản đường đi của thầy Ba, chúng nó càng làm cho dân đổ xô ủng hộ thầy Ba thêm. Không lo vận động nữa, Hoàng Đức Ninh đã vận động dân bỏ phiếu cho Dương Văn Ba rồi”. Đỗ Khắc Tường nói: “Tôi lo là không giữ nổi các thùng phiếu, tụi nó sẽ tráo phiếu, sửa biên bản”.
Ngày 19-8-1971, tôi nhớ mãi ngày đó, có cuộc nói chuyện công khai của các ứng cử viên với đông đảo công chức, giáo chức, cán bộ và đại diện nhân dân trong tỉnh Bạc Liêu tại hội trường của tỉnh Bạc Liêu, ngay sát bên toà hành chinh tỉnh.
Sáng sớm hôm đó, lúc 6 giờ, tôi và bạn tôi là thầy giáo Khương cùng dân biểu Thạch Phen ngồi ăn sáng ở quán Năm Châu, truớc rạp hát Nam Tiến trên đường Trưng Trắc. Đang ăn, có một thanh niên khoảng 25 tuổi, mặc thường phục, tạt vào ngồi bàn của chúng tôi. Người thanh niên mắt ngó dáo dác xung quanh, nói nhỏ và rất nhanh: “em báo cho anh Ba biết, 9 giờ sáng nay, trong cuộc nói chuyện tại Hội trường tỉnh, lính tiểu khu Bạc Liêu đã được lịnh tổ chức phá anh và thầy Phen, không cho nói, chúng nó sẽ ném cà chua trứng thúi, đập bàn đập ghế và nếu cần, được lệnh đánh luôn những người ủng hộ các anh. Em là Trung sĩ làm ở tiểu khu. Em nghe việc này hồi sớm, vội vã ra đây tìm các anh báo để các anh liệu đề phòng”. Cho thông tin xong, anh thanh niên vội vã đi mất.
Tôi và Thạch Phen vội vàng về nhà Thạch Phen ở đường Triệu Ấu. Tôi cử người ra chợ mua ngay 5m vải trắng khổ 0,9m. một hộp sơn đỏ, một cây cọ. Dụng cụ mua về, tôi nhờ thầy Tạ Văn Bo viết ngay biểu ngữ: “Đả đảo tỉnh trưởng Bạc Liêu, tổ chức đàn áp bầu cử, đả đảo Nguyễn Văn Thiệu tác giả của chiến tranh”. Biểu ngữ đó, tôi xếp nhỏ lại, lận vào lưng quần tây, tôi mặc áo sơ mi 3 túi bằng vải kaki màu, áo bỏ ngoài. Tôi nói với Thạch Phen và Quảng Thiệt: “Khi tôi lên nói chuyện, tụi nó ném cà chua trứng thúi, mình phát động ngay cuộc biểu tình”. Mọi người đồng ý và khí thế nổi nóng rất hăng.
Cuộc biểu tình tự phát tại chợ Bạc Liêu
Đúng như điều được mật báo trước, hôm đó, công chức giáo chức trong tỉnh đi nghe diễn thuyết rất đông. Ban tổ chức sắp xếp cho Lâm Hoàng Hôn, Nguyễn Văn Chi, hai con gà thân chính quyền lên diễn đàn nói trước 15 phút. Tới lượt tôi, người thứ ba, tôi vừa đứng lên, chuẩn bị tiến lên sân khấu, ở phía dưới hội trường, nhiều tên lính mặc đồng phục đứng lên, đập bàn đập ghế “ĐM không cho nó nói. Đánh chết mẹ tụi nó, đánh chết mẹ tụi nó”.
Y như dự liệu, tôi rút tấm biểu ngữ đã giấu sẵn trong người, Thạch Phen cùng với tôi căng biểu ngữ, tiến ra phía ngoài hội trường. Các học sinh thanh niên ủng hộ chúng tôi, đánh nhau với lính Hoàng Đức Ninh. Chúng tôi hô to: “Đả đảo Hoàng Đức Ninh, tên tham ô giết hại dân Bạc Liêu. Đả đảo Nguyễn Văn Thiệu tên khát máu”. Ngoài đường hàng trăm dân chúng ùa vào hàng ngũ của chúng tôi, tự phát biến thành cuộc biểu tình sôi động trong chợ Bạc Liêu. Bọn lính đánh nhau với dân một lát, rã hàng. Đoàn biểu tình của chúng tôi kéo qua đường giữa chợ Bạc Liêu, kéo qua cầu Quây, đi về phía nhà thờ Lớn. Cha Nhì mở cổng ra đón chúng tôi vào. Cha nói: “Hoan nghinh các anh đã dám biểu tình, nhưng không thể ở nhà thờ lâu, chúng nó sẽ cô lập nhà thờ”.
Tôi nói với Quảng Thiệt: “Mình kéo về Phường 4, Chùa Vĩnh Hoà, ở đó có nhiều nhà dân”. Đoàn biểu tình của chúng tôi gồm đủ hạng nguời, học sinh có, lao động có, dân buôn bán ở chợ có, phu xe lôi, xe xích lô có, họ bỏ mọi việc đi theo sau tôi và Thạch Phen. Chúng tôi tiếp tục hô: “Đả đảo Hoàng Đức Ninh tỉnh trưởng độc ác. Đả đảo Nguyễn Văn Thiệu, còn Thiệu còn chiến tranh”.
Một khí thế sôi sục đấu tranh. Lúc đó, tôi và Thạch Phen, bất chấp việc gì sẽ xảy ra. Khi đoàn biểu tình đi ngược lên cầu Quây, tôi chạm mặt với Trung tá Nguyễn Oanh, Trưởng ty Cảnh sát Bạc Liêu. Tôi nói: “Oanh, anh dám chận đường chúng tôi hả?”. Oanh trong quân phục cảnh sát dã chiến nói: “Tôi không cản đường anh, nhưng anh nên giải tán sớm. Hoàng Đức Ninh sẽ dùng lính tiểu đoàn 411 tấn công anh, nếu tiếp tục biểu tình”. Trung tá Oanh, tự động lách sang một bên, cảnh sát dã chiến dưới quyền anh cũng kéo dây kẽm gai giãn ra, tránh đường cho đoàn biểu tình. Chúng tôi vừa đi vùa la to các khẩu hiệu tự phát. Phu xe lôi và phu xe xích lô Bạc Liêu được một dịp đả đảo chính quyền thỏa thích. Thấy tình hình không thể kéo dài, chúng tôi hướng đoàn biểu tình nhanh về cầu số 4, xóm làng, tản hàng vào chùa Vĩnh Hoà, một cứ điểm ủng hộ phe đối lập của chúng tôi. Ở đó, thầy Thích Trí Đức cho giọng chuông thật lớn, thật lớn như trong ngày lễ Phật, chào mừng một ngày dân Bạc Liêu xuống đường hả hê đả đảo bạo quyền. Chúng tôi ở lại Chùa Vĩnh Hoà tới chiều, khuyên anh em cảm tình viên, ủng hộ viên về nhà lánh mặt một buổi, đè phòng bọn cảnh sát chìm, bọn phòng Nhì Bạc Liêu biết mặt, bắt giam trả thù.
Nhiều người lớn tuổi tại chợ Bạc Liêu cho biết “Cuộc biểu tình ngày 19-8-1971 tại chợ Bạc Liêu là cuộc biểu tình tự phát đông người tham gia lần thứ nhì trong tỉnh Bạc Liêu. Cuộc biểu tình lần thứ nhất xảy ra cũng tại Bạc Liêu ngày 19-8-1945 dưới phong trào Việt Minh”. Lịch sử về cuộc nổi dậy của dân chợ Bạc Liêu đã có sự lặp lại. Cả 2 lần cũng chỉ với một mục tiêu: “Chống cường quyền áp bức, đòi hỏi tự chủ, tự do”.
Cuộc biểu tình tự phát của dân chợ Bạc Liêu ngày 19-8-1971 dưới sự sách động của tôi và Thạch Phen và những người ủng hộ chúng tôi, đã xảy ra với sự vô cùng bất ngờ của chính quyền tỉnh và của cả dân trong chợ. Cho nên, chính quyền không kịp trở tay, họ cũng không kịp ra lệnh cho cảnh sát bắt bớ và đàn áp. Đã có cuộc biểu tình, vì đã có sự thông báo đột xuất của một người dân. Chúng tôi đã hành động đúng theo ý nguyện của dân. Nhiều người thấy biểu tình, vội vàng bỏ việc chạy theo ủng hộ. Nguyễn Oanh, Trưởng Ty Cảnh Sát, là một trí thức, cũng không biết phải tính làm sao. Vì anh ta biết rõ có đàn áp bầu cử, con người trí thức trong anh cảnh sát lúc đó dạy anh ta phải đứng yên, không cản trở. Cuộc biểu tình đó, bây giờ vẫn còn sống trong tôi như lúc tôi 30 tuổi. Con người bị đè bẹp quá, phải có lúc bung lên như phản ứng của chiếc lò xo bị dồn nén. Ngày 19-8-1971 dân chợ Bạc Liêu đã bùng lên, cho thấy sức đề kháng của đa số thầm lặng nhưng bất khuất.
Anh Tạ Kim nói: “Hoàng Đức Ninh tổ chức cuộc đàn áp cuộc nói chuyện của Dương Văn Ba trước quần chúng, Dương Văn Ba đã sách động được dân biểu tình. Hoàng Đức Ninh đã lùa dân tự động về phía Dương Văn Ba, chúng ta có nhắm mắt cũng thấy Dương Văn Ba nắm được đại đa số phiếu bầu”.
Đánh đập sinh viên để gian lận bầu cử
Trước ngày 29-8-71, một ngày, các sinh viên Sài Gòn ủng hộ tôi đã lần lượt kéo nhau về Bạc Liêu để tình nguyện làm quan sát viên giữ thùng thăm. Kế hoạch chống gian lận bầu cử của tôi là sử dụng quan sát viên sinh viên và sử dụng một số phóng viên nhà báo. Đâu có ngờ Hoàng Đức Ninh cao tay hơn, trưa ngày 28-8-1971 Ninh thả vài chục an ninh chìm và mật vụ của tiểu khu Bạc Liêu ra chật cả bến xe đò Bạc Liêu, hễ thấy thanh niên lạ mặt mà từ xe đò xuống, chúng hè nhau vây đánh cho sưng mặt, sưng mày không kịp bỏ chạy. Mấy người quan sát viên của tôi không kịp la, không kịp báo, chỉ tìm đường chạy thoát thân ra quốc lộ 4 đón xe lôi máy chạy về Cái Dầy, đón tiếp xe đò, xe hàng chạy về Sài Gòn. Cả ngày hôm đó, bến xe Bạc Liêu xảy ra hàng chục cuộc ấu đả. Sinh viên bị “đánh bề hội đồng” làm sao mà đỡ, chỉ tìm cách thoát thân. Kết cục kế hoạch kiểm soát thùng phiếu bằng lực lượng sinh viên Sài Gòn bị Ninh bẻ gãy.
Vụ đánh đập sinh viên lan nhanh khắp nơi trong tỉnh. Những người quan sát viên bầu cử của tôi không ai dám rục rịch, ho hen nói năng gì trong ngày bầu cử, im thin thít như đám ma. Chỉ có những nhân viên giữ thùng phiếu, kiểm tra phiếu, ghi biên bản phiếu là còn làm việc. Đa số những người nầy là giáo chức. Họ âm thầm làm, không nói không rằng, nhưng sau khi kiểm phiếu xong, họ đều mật báo cho các đại diện của tôi ở tất cả các xã “con chim bồ câu ngậm bông lúa mang ngôi sao” của tôi thắng lớn. Phiếu của dân bầu cho tôi chiếm 81%, các ứng cử viên của chính quyền chia nhau khoảng 20% còn lại. Có những nơi xa xôi, Ninh cho lính canh cửa, cầm súng chĩa vào dân cấm không cho bỏ phiếu cho Dương Văn Ba. Kết quả ngược lại, vào phòng kín họ chỉ bỏ cho con chim bồ câu, mấy phiếu khác, họ xé bỏ quăng vào thùng rác. Cuộc kiểm phiếu kết thúc vào lúc 11giờ đêm. Kết quả hoàn toàn trái ngược với mong muốn của Ninh. Hắn ra lệnh tất cả trưởng phòng phiếu phải làm lại biên bản, lấy kết quả phiếu của tôi chia cho Lâm Hoàng Hôn và Nguyễn Văn Chi. Nhiều thầy giáo sợ quá, không làm, phải ngất xỉu. Như thầy giáo Nguyễn Văn Hiệp ở Xã Hoà Bình, quận Vĩnh Lợi, hiệu trưởng tiểu học Hoà Bình, phải chở đi bệnh viện vì khủng khiếp quá. Hiệp từng là học trò lớp Đệ Nhất A của tôi ở trường Nguyễn Đình Chiểu năm 1965 ở Mỹ Tho. Sau nầy gặp lại, Hiệp kể: “Sau vụ đó, họ cho em nghỉ. Em bây giờ thôi dạy học, thôi làm Hiệu Trưởng, đi phụ bán hàng xén với vợ ở chợ Hoà Bình”. Cô giáo Trần Kim Nhan bạn học cũ của tôi, nói: “Tụi em kiểm phiếu thấy toàn là phiếu chim bồ câu, con Thu ở trường tiểu học Hoà Bình cũng nói như vậy. Họ đổi ngược hết kết quả bầu cử”.
Hoàng Đức Ninh 3 giờ sáng hôm sau, cho lệnh chở tất cả thùng phiếu về Toà Hành chinh ở Bạc Liêu. Cô lập 2 căn phòng bên hông toà tỉnh trưởng, tập trung 6 công chức ngồi làm lại tất cả biên bản kiểm phiếu, làm tới đâu bắt các trưởng phòng phiếu ký lại biên bản tới đó. Làm như thế ròng rã 3 ngày, 3 đêm mới xong. Năm đó, kết quả bầu cử đơn vị Bạc Liêu, Trà Vinh của Ngô Công Đức, công bố chậm nhất. Đến ngày 5-9-1971, Bạc Liêu mới công bố kết quả chính thức. Tôi đã tập hợp tất cả các tài liệu, các nhân chứng, có số liệu đầy đủ tất cả các phòng phiếu ở các đơn vị xã, quận, viết thành cuốn Bạch thư về gian lận bầu cử ở Bạc Liêu, đem tố giác trước báo chí Sài Gòn và quốc tế tại tiền sảnh Nhà Hát Lớn vào ngày 3-9-1971. Tài liệu của chúng tôi rõ đến mức: Số phiếu của tôi, họ lấy làm phiếu của Lâm Hoàng Hôn và ngược lại, phiếu của Lâm Hoàng Hôn họ gắn cho tôi.
Tài liệu công bố xong, tôi nộp đơn thưa bầu cử gian lận ở toà án Bạc Liêu. Toà Bạc Liêu không xử, tôi chuyển cho toà Sài Gòn, toà Sài Gòn không xử bảo là thuộc thẩm quyền của toà án thượng thẩm. Toà thượng thẩm bảo thuộc quyền của tối cao pháp viện. Vụ án gian lận bầu cử Bạc Liêu bị nhận chìm xuồng. Báo chí có la lớn thế mấy, ngày họp Hạ Nghị Viện Khoá II vẫn khai mạc. Lâm Hoàng Hôn thay tôi vào ngồi ghế ở Nhà Hát Lớn. Cuộc bầu cử diễn ra như một tuồng hát. Thiệu đã quyết định cho Lâm Hoàng Hôn thắng cử ở Bạc Liêu, thay tôi vì tôi là “thằng hỗn nhất nước” và vì Hôn là ông thầy Ký, chủ tịch Đảng Dân Chủ tỉnh Bạc Liêu, một tên gia nô hạng I ở chợ Bạc Liêu, từ thời Tây cho đến thời Mỹ.
Thất cử xong, tôi trở lại nghề cầm bút để chiến đấu. Tôi cầm ngòi bút mạnh mẽ hơn, sâu lắng hơn, tiếng nói của tôi tại diễn đàn quốc hội. Cầm bút hay cầm micro, để nói những điều cần nói, cầm bút khó hơn, nhưng có nhiều người đọc và suy nghĩ nhiều hơn khi nghe mình nói.
Trốn khỏi quê hương Bạc Liêu
Tôi suýt quên kể thêm một chuyện quan trọng vào ngày bầu cử 29-8-1971.
Sáng hôm đó, anh em trong Bộ Tham Mưu của tôi đóng trụ sở tại chùa Vĩnh Hoà. Máy bay trực thăng có chở 2 nhà báo Mỹ xuống Bạc Liêu quan sát bầu cử để hổ trợ cho cuộc chiến đấu của chúng tôi. Nhà báo nữ Marie Joannadis là bạn tôi ở Sài Gòn, chị nhờ Quảng Thiệt chở xe Honda chạy loanh quanh trong tỉnh đến 3 giờ chiều thì về. Máy bay trực thăng đáp xuống chùa Vĩnh Hoà, khiến thầy Trí Đức trụ trì chùa, phải cho chặt mất 3 cây dừa để làm chỗ đáp. Sự hiện diện của ký giả Mỹ và trực thăng của Kỳ làm cho Hoàng Đức Ninh nổi khùng hơn, anh ta cho lính tiểu đoàn 411, bao vây quanh chùa để canh tôi ở các ngõ ra, và bọn lính trẻ luôn luôn được cho uống rượu “thả giàn”. Buổi chiều, nhà báo Mỹ về Sài Gòn, trực thăng đã bay đi mất, bọn lính siết vòng vây chùa chặt hơn. Buổi tối, thầy Trí Đức cho tụng kinh gõ mõ vang rân để trấn an mọi người trong chùa. Thầy Trí Đức và thầy Thiệt bàn: “Coi mòi đêm nay chúng nó sẽ tấn công vào chùa. Bọn lính đứa nào đứa nấy say rượu và nói năng toàn giọng điệu khát máu”. Thầy Trí Đức nói: “Phải tìm cách bảo vệ thầy Ba và thầy Phen”. Thầy Đức cho chúng tôi trốn trong 1 cái buồng kín của thầy, chung quanh che bởi 4 cái tủ gỗ đứng. Đến 2 giờ sáng, thầy Quảng Thiệt bàn với ông giáo Trần Trung Tình, phải tổ chức cho Dương Văn Ba và Thạch Phen đang đêm trốn về Sài Gòn. Ở đây, hết bầu cử, Hoàng Đức Ninh có thể bắt Dương Văn Ba. Tôi đồng ý trốn đi. Cách trốn: Lúc 3 giờ sáng, vợ thầy giáo Tình đóng vai kẻ ăn sương. Tôi và Thạch Phen trùm áo mưa kín, nón che mặt, theo chị Tình băng ngang một chiếc đòn dài bắc ngang con rạch nhỏ, từ chùa Vĩnh Hoà băng qua rạp hát Chung Bá ở gần đó. Đến rạp hát Chung Bá là ra khỏi vòng vây của lính tiểu đoàn 411, đã có sẵn 2 xe Honda ôm chờ chúng tôi. Họ đưa chúng tôi trốn ra khỏi chợ Bạc Liêu vào 4 giờ sáng ngày 30-8-1971 xe Honda ôm dừng lại bên kia cầu Cái Dầy thuộc địa phận tỉnh Sóc Trăng, chúng tôi xuống xe ngồi trong bóng tối. 15 phút sau, tôi và Thạch Phen, đón xe hàng (xe tải) quá giang lên sân bay Sóc Trăng. Chúng tôi vào sân bay lúc 6 giờ 30 sáng, gặp Chỉ huy trưởng sân bay là Trung tá Không quân Nguyễn Hồng Tuyền. Trung tá Tuyền vồn vã đón tiếp tôi, hỏi thăm tình hình. Tôi kể: “Bọn này phải trốn Hoàng Đức Ninh ra khỏi Bạc Liêu ban đêm, ban ngày sợ Ninh cho lính bắt”. Tuyền an ủi tôi: “Anh đến chỗ tôi là an toàn rồi. Thằng Ninh không có quyền gì ở đây. Hôm nay tôi sẽ liên lạc với ông Kỳ, xin ý kiến cho máy bay trực thăng chở hai anh về Sài Gòn”.
Nguyễn Hồng Tuyền lớn hơn tôi chừng 3 tuổi, nguyên là học sinh College Phan Thanh Giản Cần Thơ. Nhà có cây xăng ở ngay bến xe Cần Thơ. Lần đầu tiên gặp nhau, phong cách nhanh nhẹn thẳng thắn của Tuyền gây được cảm tình của tôi và Thạch Phen. Chúng tôi biết đã tạm yên thân khi thoát khỏi nanh vuốt của con Hùm Xám Hoàng Đức Ninh. (Tôi tuổi Ngọ, Ninh tuổi Cọp. Con cọp đã vồ hụt con ngựa hai lần, vì con ngựa đi chung với con rồng Thạch Phen).
Nguyễn Hồng Tuyền, Chỉ huy trưởng sân bay Sóc Trăng, cho chúng tôi uống cà phê sữa, ăn phở gà, mở phòng máy lạnh cho hai anh em chúng tôi ngủ. Chiều hôm đó, Hồng Tuyền cho 1 trực thăng chở 2 anh em chúng tôi về Sài Gòn. Lần đó, ngày 30-8-1971 tôi trốn khỏi Bạc Liêu, trong đầu không hiểu ngày nào chắc còn xa lắm mới quay lại được, vì Thiệu còn đó, Ninh vẫn còn đó. Cảm giác này giống hệt cảm giác của tôi 18 năm sau vào ngày 22-4-1989, khi tôi bị Toà Hình sự thuộc Toà Án Tối Cao xử án tù chung thân tại rạp hát Chung Bá của tỉnh Bạc Liêu.
Rạp hát Chung Bá là nơi lúc nhỏ, tôi thường níu áo mẹ tôi đi xem hát bội. Người ta dựng rạp hát để xử tội tôi, như lời tuyên án trong một vở kịch. Chiều ngày 22-4-1989, tôi bị đưa lên xe tải của Bộ Công An chở khỏi chợ Bạc Liêu giữa cái nắng chứa chan của xứ lúa đồng bằng, tôi tự hỏi: Biết bao giờ mình sẽ được trở lại quê hương, sống vô tư lự như lúc tuổi thơ đi bắt dế, bắt cá lia thia trong những ngày bãi trường.
Quê hương của tuổi thơ giống như khúc ruột mẹ, không bao giờ dứt ra được.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 9:28:19 GMT 9
Chương 10: NHỮNG MÀN KỊCH CUỐI CÙNG…
15-03-2015
Nguyễn Văn Thiệu trốn chạy
Ngày 20-4-1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc bài diễn văn dài 45 phút kể tội Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà. Thiệu đã gần như muốn khóc trước màn ảnh truyền hình. Màn kịch chiến tranh chống cộng do Mỹ đạo diễn, từ sau biến cố 1954 kéo dài cho đến ngày hôm đó, kể như đã hạ màn.
Một tay trung tướng nắm quyền tổng thống, người được chính phủ Mỹ dựng nên tại Sài Gòn, đã công khai tố giác Mỹ bỏ rơi. Sau ngày hôm đó, làn sóng di tản trở nên vô cùng ồ ạt người ta chen lấn, đạp nhau rớt cả xuống máy bay. Có người còn bám cả càng của máy bay trực thăng để cố níu cho được một chỗ chạy đi. Sài Gòn tan tác như đàn ong vỡ tổ từ sau bài diễn văn ô nhục đó. Từ các tỉnh miền Trung, người ta chạy tản loạn vào Sài Gòn bằng đủ mọi cách, đi bộ, đi xe gắn máy, đi xe tải, đi xe thồ. Người ta ùa xuống thuyền đánh cá, sử dụng cả ghe bầu, cả xuồng máy để đi. Trên những chiếc tàu lớn đủ thứ lính, đủ thứ hạng người, con nít, con gái, đàn bà cố gắng giành cho được một chỗ để di tản. Trong cuộc chạy tán loạn đó, nhiều đàn bà, nhiều cô gái vị thành niên bị đủ thứ lính tha hồ hãm hiếp. Trốn chạy cộng sản để tránh “hoả ngục”, hỏa ngục đâu chưa thấy chỉ thấy khốn khổ, hoảng loạn, cướp giật ngay trong cuộc hành trình của những người di tản. Trên đường bộ cũng thế, năm, sáu năm sau cuộc sụp đổ ở Daklak, Pleiku, người ta còn kể lại cảnh chết đói, chết khát trên dọc đường đi (đường 14, đướng 19) pha lẫn cảnh cướp bóc, hãm hiếp.
Sĩ quan chạy trước, tướng tá lên máy bay dông trước, đến dân chúng hoảng loạn ùn ùn tháo chạy từ tỉnh này sang tỉnh khác, tất cả nhắm hướng Sài Gòn đổ về. Đến lượt Nguyễn Văn Thiệu cùng gia đình bên chồng, bên vợ, cùng đàn em tháo chạy ngày 25-4-1975, mang theo tài sản, của chìm, của nổi. Cùng đi với Nguyễn Văn Thiệu có cả đại sứ Nguyễn Văn Kiễu anh ruột của Thiệu người đã được bố trí sẵn làm đại sứ ở Đài Loan từ nhiều năm trước, dọn ổ sẵn chờ ngày cả gia đình Nguyễn Văn Thiệu qua đó tạm trú. Thiệu không chạy đi nước nào khác có thể an toàn bằng Đài Bắc, tiếng đồn chống cộng sản Trung Quốc chỉ cách Sài Gòn 2 giờ máy bay Boeing 707. Chiếc máy bay phản lực duy nhất của Air Việt Nam thời đó được Thiệu sử dụng để bay đi lánh nạn, sau này, chính phủ Đài Loan đã phải trả lại cho chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Thiệu trốn đi nhưng vẫn còn tiếc của, vớt vát cú chót, y ta đã ra lịnh lấy 7 tấn vàng ở Kho bạc nhà nước mang theo (trị giá khoảng 100 triệu đôla), may mà tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo lúc đó còn làm Phó Thủ tướng kinh tế tài chinh trong nội các Trần Thiện Khiêm, biết được tin tức, đã ngăn chận lại kịp. Một con người hèn nhát chỉ xúi người khác đánh nhau rước lấy cái chết, đến lúc cùng đường vẫn còn quá tham lam. Thế mà vẫn có hàng khối tướng tá bám đuôi theo hầu hơn 10 năm trời ròng rã. Thiệu ở Đài Loan một thời gian, thấy tình hình êm ả, đã ngầm vận động được chính phủ Anh đồng ý cho sang Luân Đôn tị nạn. Ở Luân Đôn Thiệu chẳng xuất hiện bất cứ nơi nào công khai, quanh năm ở trong biệt thự. Ba, bốn năm cuối đời, Thiệu mò sang được bên Mỹ sống ở Boston, New York và chết ở đó, vào năm 2001.
“Thiệu không có trứng dái”
Xin nhắc lại lời của Phó Tổng thống Trần Văn Hương, một người có chí khí của dân miền Nam, thời Ngô Đình Diệm, lúc làm Đô Trưởng Sài Gòn chỉ sử dụng xe đạp để đi làm việc. Thầy Trần Văn Hương trong những lần tôi đến thăm thầy tại Dinh Thủ Tướng, hoặc tại Dinh Phó Tổng Thống đã nhiều lần nói với tôi: “Thiệu c’est un type qui n’a pas de couille” (Thiệu là một tên không có trứng dái). Dân biểu Nguyễn Hữu Chung có lần cùng đi thăm ông Trần Văn Hương với tôi, được ông “Già” Hương đãi ăn mì rất khoái khẩu, khi nghe câu nói đó cũng đã cười lớn khoái chí. Dân biểu Chung hỏi: “Bác nói như thế là nghĩa gì?”. Ông già cười khà khà “rồi sau này suy gẫm, hai em sẽ thấy thầy nói đúng” (thú ăn mì gõ của ông Trần Văn Hương cũng là một thú đặc biệt của dân Sài Gòn chinh cống. Mì gõ thời trước ăn ngon khó quên). Tại sao ông Trần Văn Hương nhiều lần nói Thiệu là một tên chết nhát với chúng tôi. Suy gẫm lại thấy ông “già gân” nói có phần chí lý. Thiệu hô hào binh lính đánh cộng sản, cộng sản chưa đến đuợc Sài Gòn Thiệu đã lên máy bay dông tuốt. Thiệu còn chết nhát ngay cả lúc nắm quyền Tổng thống. Chẳng bao giờ ông ta dám đụng thẳng mặt với Nguyễn Cao Kỳ, Thiệu rất ngại Kỳ xúi đám đàn em đang nắm Bộ Tư lệnh Không quân lấy máy bay làm hỗn.
Nhiệm kỳ tổng thống 1967-1971, ban đầu cả gia đình tổng thống chiếm lĩnh toàn bộ cánh phải của Phủ Đầu Rồng. Phó Tổng thống Kỳ chiếm lĩnh cánh trái. Trong năm 1968, hai bên lục đục, Nguyễn Cao Kỳ tự động dọn về tư dinh trong sân bay Tân Sơn Nhất, đề phòng có gì đã có đám đàn em không quân bảo vệ. Nguyễn Cao Kỳ còn chiếm giữ một dinh thự lớn nằm ở góc đường Công Lý và Tú Xương để làm Phủ Phó Tổng thống (hiện nay là Nhà Văn Hoá Thiếu Nhi TPHCM). Có lúc, để lấy lòng sinh viên, Phó Tổng thống Kỳ còn cho muợn cả trụ sở Phủ Phó Tổng thống để làm bản doanh của lực lượng sinh viên tranh đấu chống Mỹ, chống Thiệu. Trên bậc tam cấp tiền sảnh của Phủ Phó Tổng thống, Ngô Công Đức (một tay dân biểu rất thân với Nguyễn Cao Kỳ và với phụ tá của Kỳ là Nguyễn Thiện Nhơn) đã có lần đăng đàn diễn thuyết trước hàng ngàn sinh viên vào những ngày đầu năm 1971. Ngô Công Đức đã có nói một câu nói bất hủ: “Nguyễn Văn Thiệu, tên đệ nhất gia nô của Mỹ. Còn Nguyễn Văn Thiệu là còn chiến tranh”. Bài hát đó của Ngô Công Đức đã được nhiều sinh viên hoan hô vỗ tay nhiệt liệt. Một lần, nhóm sinh viên tranh đấu đóng bản doanh ở Phủ Phó Tổng thống bị lực lượng cảnh sát của Trang Sĩ Tấn bao vây. Ngô Công Đức đã liên lạc với Nguyễn Thiện Nhơn yêu cầu ông Tướng Râu Kẽm đích thân giải vây. Tướng Kỳ, cựu thủ tướng, cựu Phó tổng thống đã rất chịu chơi. Đích thân ông ta mặc quân phục không quân, vai mang lon thiếu tướng, ngồi xe jeep nhà binh mui trần dẫn thêm nhiều xe lính không quân chạy thẳng tới Phủ Phó tổng thống đang bị cảnh sát bao vây “dẹp tan”. Lính cảnh sát thấy đoàn quân tiền hô hậu ủng của Tướng Râu Kẽm tiến tới, tự động vòng vây tan ra, Tướng Kỳ vào dinh vui vẻ, bắt tay các sinh viên. Đó là những cảnh đầy kịch tính như trong một phim cao bồi miền Viễn Tây do Kỳ với Đức phối hợp cùng Nguyễn Thiện Nhơn dựng nên. Trước những màn trình diễn đầy kịch tính đó Thiệu kông hề dám ra lệnh cho Trang Sĩ Tấn tiến công. Đó là một sự “chết nhát” của Thiệu, trước mắt Trần Văn Hương.
Tổng Thống Thiệu luôn cố thủ trong Dinh Độc Lập. Tại Sài Gòn, ông ta ít khi nào dám xuất hiện trong đám đông công chúng như Nguyễn Cao Kỳ. Trên nóc dinh tổng thống, lúc nào cũng có hai máy bay trực thăng bố trí đầy đủ đại liên, trung liên, sẵn sàng cất cánh. Hai máy bay đó trong một chuyến có thể bốc đi được 30 người. Thầy địa lý và chiêm tinh gia Đà Lạt (bây giờ vẫn còn sống) là cố vấn số một của Thiệu về phong thuỷ, về hên xui, may rủi. Xin kể thêm một chi tiết: Thiệu lúc nào xuất hiện trước đám đông, trước khoáng đại quốc hội, trước ống kính truyền hình cũng đều có đánh phấn hồng nhạt trên gương mặt, đánh son nhạt trên môi. Đứng gần ông ta trong những buổi tiếp tân tại Dinh Độc Lập, thấy ông ta rất bảnh trai, đôi khi có dáng vẻ của một kép hát (Thiệu làm như thế là do thầy tướng số gợi ý để giữ mãi vận đỏ trước mắt quần chúng). Thiệu rất mê tín luôn luôn nghe lời ông thầy Chiêm (gốc người Huế). Thầy nói rằng: “Đầu con rồng nằm ở Dinh Độc Lập, đuôi con rồng nằm ở Hồ Con Rùa. Muốn cho sự nghiệp vững bền, phải ếm cái đuôi con rồng lại,đừng để nó quậy bằng cách xây chỗ cho con rùa nằm trên đuôi rồng”. Thiệu lập tức cho xây theo lời chỉ dẫn của thầy Chiêm để trấn an long mạch. Bản lĩnh của thầy Chiêm đối với Thiệu, nói gì Thiệu cũng nghe theo. (Phải chi hồi năm 1972 thầy Chiêm Đà Lạt khuyên Thiệu từ chức luôn có lẽ đã đỡ cho dân Việt Nam phải tốn thêm bao nhiêu xương máu).
Thiệu đã không dám đụng thẳng với Kỳ, cho nên lúc ông Trần Văn Hương làm thủ tướng yêu cầu Thiệu cách chức Tướng Nguyễn Ngọc Loan khỏi ghế Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia. Trần Văn Hương định sử dụng Trang Sĩ Tấn Giám đốc Cảnh sát Đô Thành thay Nguyễn Ngọc Loan. Thiệu không thực hiện. Để ngăn ngừa những đòn đánh bất ngờ của phía Tướng Kỳ và Tướng Loan, Thủ Tướng Trần Văn Hương chỉ trực tiếp sử dụng lính của cảnh sát đô thành. Ban đêm Hương không ở Phủ Thủ tướng mà về ngủ tại số 5 đường Bạch Đằng, nằm sát bên Bộ Tư lệnh Hải Quân. Lúc đó Thủ tướng Trần Văn Hương tin cậy lực lượng Hải quân vì dưới quyền Chung Tấn Cang có đại tá Diệp Quang Thuỷ, người gốc Bạc Liêu là tham mưu trưởng hải quân rất được ông Hương tín nhiệm. Đại tá Thuỷ có trách nhiệm bố trí quân canh phòng bảo vệ Thủ tướng Hương ban đêm. Ít lâu sau Đại tá Thuỷ được thăng chức Phó Đề Đốc Hải quân.
Nói tới Kỳ… nhớ tới Loan
Kỳ sử dụng Nguyễn Ngọc Loan làm hung thần sát thủ vì Chuẩn Tướng Loan là đàn em của Nguyễn Cao Kỳ trong Bộ Tư lịnh Không quân. Loan vừa nổi tiếng ngang tàng vừa có một tác phong rất “bụi”. Đặc trưng về cách ăn mặc của ông ta luôn luôn là một bộ đồ kaki hơi bạc màu, áo ngắn tay, chân đi đôi dép cao su kiểu Thái Lan. Kể cả vào Dinh Độc Lập họp, có sự hiện diện của đầy đủ thành phần chính phủ, đông đảo nghị sĩ dân biểu, ông ta vẫn ngang nhiên chân đi dép cao su lẹp xẹp vào phòng “mục hạ vô nhân”. Tướng Loan nổi tiếng khắp thế giới về sự tàn ác, dã man do bức ảnh hi hữu được đăng trên tờ Tuần báo Newsweek của Mỹ. Bức ảnh cho thấy Tướng Loan kề súng lục vào ngay màng tang của một thanh niên tù nhân cộng sản, bóp cò. Loan tàn ác nhưng Trang Sĩ Tấn cũng nổi tiếng không kém. Trang Sĩ Tấn từng đích thân tra tấn tù sinh viên tranh đấu, đích thân cầm dây điện 300V tra vào qui đầu của nam sinh viên tranh đấu; tra tấn nữ tù nhân là thú vui của y. Đối với Kỳ, Thiệu không đụng chạm thẳng mặt, làm sao Thiệu dám đụng thẳng vào Mỹ. Chiến lược của Thiệu luôn luôn là giùn giùn thẳng thẳng. Thiệu sử dụng Trung Tướng Đặng Văn Quang làm cố vấn về an ninh quốc gia và phụ trách luôn ngành tình báo trung ương Việt Nam Cộng Hòa. Thật ra Đặng Văn Quang cũng chỉ là người được tình báo Mỹ lựa chọn. Thời kỳ John Paul Vann còn sống, đóng trụ sở cơ quan ở Cần Thơ, Tướng Quang làm Tư lịnh Vùng IV Chiến thuật, thường xuyên gặp John bàn quốc sự. John sử dụng một máy bay trực thăng 3 chỗ ngồi cơ động, có thể đáp ngay trên nóc trụ sở cơ quan USAID Cần Thơ bất cứ lúc nào. Tướng Quang thường xuyên đi kinh lý với John trên máy bay đó. Cuối năm 1970, máy bay của John bị lực luợng phòng không của quân giải phóng bắn hạ gần biên giới Campuchia. Sau này, sống tại Mỹ, Tướng Quang có một tài sản to lớn. Không biết ông ta còn làm việc gì, năm nay đả gần 80 tuổi, có lần ông ta đã nói với một tiến sĩ kinh tế của Việt Nam, từng làm việc cho Mỹ và thân Mỹ: “Ngô Công Đức thoát thân khỏi Việt Nam, tôi không phải không biết lúc nó rục rịch ra đi. Tôi được đèn xanh để cho nó đi”. Có thể là Đặng Văn Quang nói khoác lác để chứng tỏ ta đây là ông trùm tình báo, cũng có thể là ông ta nói thật. Vì chuyện Đức trốn đi khỏi Sài Gòn cuối năm 1971, không phải là một chuyện tuyệt mật.
Dương Văn Minh đầu hàng
Ngày 1-11- 1963, Dương Văn Minh, Đại Tướng đứng đầu cuộc đảo chinh Ngô Đình Diệm, đó là năm Quý Mão, thuộc về hành kim – kim bạch kim. Dương Văn Minh sanh năm 1915 là năm Ất Mão thuộc về hành thuỷ – đại khê thuỷ. Theo thuyết âm dương ngũ hành, luôn luôn có biến dịch. Kim bạch kim biến dịch thành Đại khê thuỷ. Năm 1963, Dương Văn Minh 49 tuổi, năm đó ông được sinh nhập tức là có thu vào. Ông làm đảo chinh thành công là chuyện đương nhiên.
Năm 1975, cũng là năm Ất Mão, năm giải phóng hoàn toàn miền Nam. Năm đó Dương Văn Minh 61 tuổi, năm tuổi của ông ta, ông ta phải đầu hàng quân giải phóng. Việc đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh không bị lịch sử đánh giá là nhục nhã. Ngược lại, cho đến nay sau gần 30 năm, đa số người Việt Nam đã trưởng thành vào thời kỳ 1975 ở Sài Gòn đều phải nhìn nhận “Dương Văn Minh đầu hàng quân giải phóng là có đức và có công với dân Sài Gòn”. Lúc đó nếu không phải là Dương Văn Minh đứng đầu chính phủ Sài Gòn, một người khác ví dụ như Trần Văn Hương hoặc Nguyễn Cao Kỳ ương ngạnh cầm cự đánh trả cuộc tiến công của quân giải phóng, Sài Gòn chắc chắn phải đổ nát, một cuộc tắm máu khó tránh khỏi. Thường dân vô tội có thể thương vong nhiều. Nhà cửa, lầu đài, dinh thự phải sụp đổ. Các trận đánh trong đường phố ngày đó ở Sài Gòn chắc phải diễn ra ác liệt.
Với nhiệm vụ Thứ Trưởng Bộ Thông tin trong chính phủ Dương Văn Minh, ngày 28-4-1975 tôi được lệnh Tướng Minh, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ đạo tôi phải viết một thông báo hỏa tốc công bố trên đài truyền thanh và đài truyền hình Sài Gòn, nội dung: chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Tổng thống Dương Văn Minh đứng đầu ra lệnh cho tất cả cơ quan viện trợ quân sự quốc phòng Mỹ “DAO” và toàn thể nhân viên người Mỹ phải lập tức rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ kể từ 28-4-1975. Thông báo lịch sử đó do tôi đóng dấu và ký tên được truyền đi ngay tức thì. Tài liệu chứng từ lịch sử đó sau ngày giải phóng lọt vào tay ông Trần Bạch Đằng, Phó Trưởng Ban Tuyên Huấn Trung Ương, khi cơ quan tuyên huấn của Trung Ương Cục miền Nam tiếp thu trụ sở Bộ Thông Tin Sài Gòn nằm ở đường Nguyễn Đình Chiểu. Chứng từ lịch sử đó cũng là một trong những lý do để người ta cho tôi được miễn học tập cải tạo, bắt đầu từ tháng 6-1975.
Sài Gòn vẫn còn đông đảo quân lính… vào ngày đó
Ở đoạn trên tôi có nói nếu lúc đó tiếp tục đánh nhau, chắc chắn Thành phố Sài Gòn phải hứng chịu nhiều tan nát vì ngày đó tôi nắm rõ lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ Sài Gòn còn rất đông. Một sư đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, một sư đoàn Dù trang bị đầy đủ, 4 Tiểu đoàn Biệt Động Quân, 1 sư đoàn Cảnh sát Dã Chiến, nhiều trung đoàn xe tăng thiết giáp, sư đoàn trực thăng chiến đấu, sư đoàn oanh tạc cơ F5 vẫn còn đầy đủ (sáng ngày 29-4-1975 Tướng Kỳ mới trốn chạy ra Hạm Đội 7 của Mỹ bằng trực thăng trong khi đó cả phi đoàn bay sang Thái Lan). Với từng ấy lực lượng lọt vào tay ông già gân Trần Văn Hương, đã từng đọc diễn văn truyền hình “chiến đấu giành tấc đất cuối cùng” hoặc lọt vào tay Tướng Kỳ đá gà, gà sống hay gà chết mặc kệ “đá thắng tao ở, đá thua tao bay”. Nên nhắc lại ngày 27-4-1975 Tướng Kỳ còn trả lời phỏng vấn của đài BBC: Tôi quyết ở lại chiến đấu đến giọt máu cuối cùng. Còn cái quần đùi tôi cũng đánh”. Các bạn thử đánh giá xem tình hình sẽ thê thảm thế nào. Dĩ nhiên là không thể nào giữ nổi Sài Gòn, nhưng với những kẻ vô trách nhiệm như Tướng Kỳ, hoặc với một ông già say máu điên như Thầy Trần Văn Hương, thường dân sẽ lãnh đủ hậu quả, đổ nát vật chất, tương lai đất nước phải gánh chịu. Chính vì lẽ đó, nhiều người có suy nghĩ đều phải nhìn nhận: Dương Văn Minh nhận chức Tổng thống để lấy trách nhiệm làm một cuộc đầu hàng lịch sử, vận may của đất nước, của thường dân vẫn còn. Phải chăng chính vì nhận thức được điều đó mà cơ quan Bộ Chính Trị ở Hà Nội lúc bấy giờ đứng đầu là Bí Thư thứ nhất Lê Duẩn đã quyết định thả về nhà tất cả những người trong Bộ Tham Mưu của Tướng Dương Văn Minh vào đêm 2 rạng ngày 3-5-1975 sau khi bắt giữ toàn bộ những người đó vào lúc 11 giờ sáng ngày 30-4-1975 trong Dinh Độc Lập.
Nhân ngày 30-4-2004, đọc lại một số nhật báo Sài Gòn (Chú thích của người biên tập: Tác giả viết chương này vào năm 2004)
Về tình hình miền NamViệt Nam vào đầu năm 1975 cho đến ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn:
Chế độ Nguyễn Văn Thiệu thực chất đã sụp đổ ngay từ những ngày đầu của tháng 1-1975:
VỀ CHIẾN SỰ: Ngày 8-1-1975 Việt Nam Cộng Hòa chính thức công bố đã thất thủ tỉnh Phước Long, cách Sài Gòn 130 km về phía đông bắc. Nguyễn Văn Thiệu lên đài truyền hình kêu gọi dân chúng Sài Gòn và các tỉnh phía Nam ngưng ăn chơi xa hoa phù phiếm trong 3 ngày kể từ 9-1-975. Đồng thời Thiệu chính thức yêu cầu chính phủ Mỹ lập tức tăng viện quân sự, bất chấp những điều khoản đã ghi trong điều khoản Paris. Về phía Mỹ phát ngôn viên Toà Bạch Ốc trả lời báo chí Mỹ: “Cho đến nay Tổng thống Gerald Ford chưa có yêu cầu Quốc hội Mỹ viện trợ khẩn cấp”. Vào ngày 10-1-1975 báo chí Sài Gòn loan tin các tỉnh Bình Dương, Biên Hoà báo động quân sự toàn diện. Tỉnh Tây Ninh bị bao vây nhiều phía, Sài Gòn mất liên lạc viễn thông với núi Bà Đen, Bộ Tổng tham Mưu Sài Gòn cho máy bay thả bom tiêu hủy trạm truyền tin trên núi Bà Đen. Ở miền trung, quận Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định bị phía quân giải phóng tràn ngập theo chiến thuật biển người. Ngay tại phạm vi Sài Gòn đánh lớn mấy ngày liên tục tại huỵên Nhơn Trạch, chỉ cách Sài Gòn 15 km, vào ngày 14-1-1975. Hơn 70% dân chợ Tây Ninh, sợ đánh nhau lớn đã di tản tạm thời vào ngày 16-1-1975. Tỉnh Kiến Tường cách Sài Gòn 110 km về phía tây và 3 quận lỵ của tỉnh thường xuyên bị quân giải phóng bao vây đe doạ, đường bộ đầy mìn, đường hàng không đầy lưới đạn phòng không của quân giải phóng. Quốc lộ 4 về Miền Tây bị đắp mô nhiều chặng, xe đò xe tải kẹt đường nhiều đoạn dài thậm thượt mỗi ngày. Theo Thông Tấn Xã AP của Mỹ tháng Giêng 1975 tại Nam Việt Nam cứ 8 phút có một người Việt Nam chết vì chiến tranh, cứ 2 phút có người trở thành vô gia cư. Nguyễn Văn Thiệu, trước tình thế đó, đã có kế hoạch gọi toàn bộ giáo chức tái nhập ngũ.
VỀ CHÍNH TRỊ: Nghị sĩ thân chính quyền là Cao Văn Tường chính thức lên tiếng công khai đả kích Quốc hội Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà. Phía đối lập với Thiệu dân biểu Lý Quí Chung tuyên bố với báo chí quốc tế: “Đã tới lúc Tổng thống Gerald Ford phải lựa chọn làm nạn của một số ít người Việt Nam hay làm bạn của đa số dân Việt Nam. Tại Toà thánh Tây Ninh, 3.000 chức sắc Cao Đài họp cầu nguyện cho hoà bình và nhịn ăn một ngày để góp 1 tấn gạo nhờ nhật báo Điện Tín phân phối cứu đói cho dân nghèo. Về phía Mỹ Tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương xác định quân đội Mỹ không thể trở lại Việt Nam. Các quan chức lớn của Toà Bạch Ốc tuyên bố: “Tổng thống Mỹ không làm được gì nhiều để giúp Việt Nam Cộng Hoà”. Ngày 10-1-1975, cố vấn an ninh Henry Kissinger trong cuộc họp báo tại Hoa Thịnh Đốn không đá động gì đến tình hình Việt Nam Cộng Hòa chỉ nhấn mạnh chính sách của Mỹ lúc này là theo đuổi thực hiện hoà dịu với Nga và Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Mỹ cho báo chí biết không thuyết phục được Quốc hội Mỹ yểm trợ cho Việt Nam Cộng Hoà. Quốc hội Mỹ chuyển hướng tích cực vào việc giải quyết các vấn đề nội bộ của Mỹ.
Ngày 23-1-1975, Tổng thống Gerald Ford xác nhận với báo chí Mỹ, không đưa quân trở lại Việt Nam, không tái dội bom. Trong khi đó Thiệu không biết nhục chính thức lên tiếng xin chính phủ Mỹ tiếp tục viện trợ. Trong một bài diễn văn, Thiệu công khai tuyên bố: “Việt Nam Cộng Hoà không thiếu xương máu. Mỹ đã hứa sau khi rút quân Mỹ khỏi Việt Nam sẽ tiếp tục viện trợ quân sự mạnh. Để Việt Nam hoá chiến tranh, Việt Nam Cộng Hòa cần thêm 300 triệu đôla Mỹ”.
Tình hình bi thảm hơn cho Nguyễn Văn Thiệu vào tháng 3-1975.
VỀ CHÍNH TRỊ: Báo Chính Luận ngày 1-3-1975 loan tin về thái độ chính thức của chính phủ Mỹ đối với số phận Việt Nam Cộng Hòa. Phó Tổng Thống Mỹ Rockefeller tuyên bố: “Trên thế gian này, không ai có thể đảm bảo gì hết cho một việc có thể xảy ra trong tương lai”. Báo chí Mỹ tổng kết trong thời gian Thiệu cầm quyền tại Sài Gòn, Mỹ đã đổ ra 22 tỷ đôla cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Ngoài ra suốt thời gian quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến ở Đông Dương, chính phủ Mỹ đã tiêu xài 130 tỷ đôla cho bom đạn và trả lương cho quân lính Mỹ. Các Nghị sĩ Mỹ nổi tiếng như Nghị sĩ Mansfield, McGovern, Jackson, Brooke lên tiếng mạnh mẽ Mỹ phải dứt khoát rút lui khỏi Việt Nam, không chần chờ nữa. Ngày 8-3-1975 Tổng thống Ford họp báo xác nhận quân đội Mỹ dứt khoát không trở lại Đông Dương. Ngày 9-3-1975 Nam Vang thất thủ, phi trường Pochentong hoàn toàn do Khờ Me Đỏ kiểm soát. Thế là Mỹ đã rõ rệt thua và dứt khoát rút toàn bộ người Mỹ ra khỏi Campuchia. VỀ QUÂN SỰ: Ngày 10-3-1975: Quân giải phóng đánh mạnh ở phía bắc tỉnh Thừa Thiên, Huế. 25.000 dân Quảng Trị đổ về Huế tị nạn chiến tranh. Cùng ngày, tỉnh lỵ Phú Bổn trên quốc lộ 20 lọt vào tay quân giải phóng. Ban Mê Thuột hoàn toàn thất thủ đúng vào ngày 10-3-1975, nhưng đến 13-3-1975 phát ngôn viên quân sự của Thiệu mới xác nhận chính thức. - Ngày 14-3-1975 Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, ba tay đầu sỏ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa bay ra Cam Ranh họp bàn với Tướng Phú, Tư lệnh Vùng II. Trong cuộc họp này, Phú đòi viện quân mạnh, phải có 2 sư đoàn nhảy dù và thủy quân lục chiến mới có thể bảo vệ được Pleiku. Thiệu, Cao Văn Viên, trước tình thế đó quyết định rút lui chiến thuật, cho phép Tướng Phú được âm thầm rút chạy khỏi Pleiku, co cụm về bảo vệ Cam Ranh – Nha Trang. Cuộc rút lui chạy khỏi Pleiku ngày 18-4 sau đó đã gây cảnh thất kinh hồn vía cho toàn bộ binh lính và sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa ở Tây Nguyên. Mặc Tướng tướng chạy, mặc quan quan chạy, mặc lính vừa chạy vừa cướp bóc tạo ra thảm cảnh di tản tàn ác chưa từng thấy trong lịch sử, dân chúng chết đói chết khát đầy đường 19 và đường 21. Quyết định của Nguyễn Văn Thiệu kéo theo sự sụp đổ hoàn toàn về tinh thần của binh lính Việt Nam Cộng Hòa tại Vùng II và Vùng III. Ngày 20-3-1975, quân Việt Nam Cộng Hòa chính thức bỏ toàn bộ Tây Nguyên, Tây Nguyên nằm trọn vẹn trong vòng kiểm soát của quân giải phóng.
- Ngày 26-3-1975, Mỹ chính thức cùng với Việt Nam Cộng Hòa lập cầu không vận chuyển 1 triệu dân từ Huế – Đà Nẵng vào co cụm ở Cam Ranh, Mỹ có kế hoạch mỗi ngày chở 5.000 người di tản khỏi Đà Nẵng. Bình luận về sự kiện này, chuyên gia Anh Quốc về chống du kích của chính phủ Hoàng Gia Anh là Robert Thompson đánh giá Mỹ đã chính thức đầu hàng chiến lược. Chính phủ Mỹ có kế họach di tản 1 triệu 300 ngàn dân Quảng Nam – Đà Nẵng vào miền Nam.
- Ngày 29-3-1975, Tướng Weyand, tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương cùng Đại Sứ Mỹ Graham Martin chính thức gặp Thiệu: Mỹ loan báo tăng cường cầu không vận ở Việt Nam để đưa dân di tản. Các chính phủ Đại Hàn, Phi Luật Tân, Trung Hoa Dân Quốc đưa tàu hải quân của họ đến Việt Nam tiếp sức Mỹ di tản. Tính đến ngày 29-3-1975 còn hơn 6.000 người Mỹ dân sự sống ở Việt Nam, trong đó có 1.300 người làm việc cho tuỳ viên quân sự Mỹ, 1.400 chuyên gia kỹ thuật làm cho các hãng thầu, 1.500 chuyên gia làm các việc khác và gần 2.000 vợ con người Mỹ ở Việt Nam.
- 30-3-1975: Quảng Nam, Đà Nẵng, Lâm Đồng chính thức bỏ chạy, chuyên gia dân sự của Mỹ cũng chạy khỏi các tỉnh trên, Đà Nẵng hoàn toàn thuộc vào tay quân giải phóng.
Như vậy, đến cuối tháng 3-1975, Thiệu đã mất gần trọn vẹn Vùng I và Vùng II chiến thuật. Cuộc rút quân chiến lược khỏi Pleiku đã đẩy ông ta đến chân tường. Chiến lược của Thiệu lúc bấy giờ là cố giữ cho được Vùng III và IV chiến thuật để làm điều kiện thương thuyết. Chính quyền Mỹ cũng ngầm ủng hộ kế hoạch này. Trong tháng 3-1975, một sự kiện rất có ý nghĩa: Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng của Thiệu xin từ chức ngay sau khi Pleiku thất thủ. Khiêm đã biết trước tình hình sẽ sụp đổ toàn diện nên ông ta đã khôn ngoan tháo lui trước, trong khi giữa ông ta và Thiệu mối quan hệ rất khắng khít. Trần Thiện Khiêm sau năm 1963 lúc nào cũng là người khôn ngoan hoạt động âm thầm cho chính phủ Mỹ, theo những chỉ đạo của Washington.
Tháng 4-1975, sự sụp đổ toàn diện của Thiệu phải đến, đã đến
Trong khi Việt Nam Cộng Hòa thất thủ Ban Mê Thuột vào ngày 10-3-75, còn 9 người Mỹ bị sót lại trong vùng kiểm soát của quân giải phóng. Chính phủ đã tìm cách liên hệ ngoại giao với Hà Nội và quân giải phóng để bảo vệ sinh mạng cho 9 nguời này. Ngày 1-4-1975, trong khi Qui Nhơn, Tuy Hoà, Nha Trang, Đà Lạt hoàn toàn mất liên lạc viễn thông với Sài Gòn, Cao ủy Tị nạn của Liên Hiệp Quốc chinh thức cho biết sẽ gửi đồ cứu trợ thông qua ngõ Hà Nội. Chinh phủ Tây Đức cho báo chí biết Tây Đức sẵn sàng đón tiếp dân tị nạn. Ngày 5-4-1975 Tổng thống Ford tạm thời xin Quốc Hội Mỹ cấp 100 triệu đôla giúp giải quyết vấn đề người Việt Nam tị nạn. Ford đã ưu tiên chỉ đại Hải quân Mỹ chở 2.000 trẻ con mồ côi Việt Nam sang Mỹ. Tại Sài Gòn, người đứng đầu của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam chính thức yêu cầu thay đổi lãnh đạo của Việt Nam Cộng Hòa trong vòng trật tự và thật nhanh chóng.
Ngày 6-4-1975 trong khi Nguyễn Bá Cẩn Chủ Tịch Hạ Viện Sài Gòn nhận chức Thủ tướng thay thế Khiêm, tàu Hải quân của Mỹ chính thức mở đầu chiến dịch chở dân di tản ra khỏi Việt Nam. Thịêu công khai chửi Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa không giữ các lời cam kết khi ký Hiệp Định Paris.
Ngày 7-4-1975 chính phủ Pháp loan báo khởi xướng kế hoạch hoà bình, dàn xếp giải pháp chính trị cho miền Nam Việt Nam, chính phủ Pháp cũng công khai gửi hàng cứu trợ cho những vùng quân giải phóng đã kiểm soát. Tại Hoa Thịnh Đốn trả lời báo chí về việc Thiệu chửi Mỹ bỏ rơi, Tiến sĩ Kissinger nói: “Thiệu tuyên bố lung tung, đó là lời nói nhảm nhí của kẻ đang buồn phiền”. Ngày 8-4-1975 Tổng thống Ford nói với báo chí Mỹ: Chỉ cam kết với Việt Nam Cộng Hòa về tinh thần, không cam kết về pháp lý. Đặc biệt ngày đó Mỹ đã cho chuyển chính thức các nhiên liệu nguyên tử ở Viện Nguyên tử Đà Lạt đến đảo Johnson ngoài khơi Thái Bình Dương. Ngày 9-4-1975 phi cơ F5 ném bom Dinh Độc Lập. Thiệu lên truyền hình đọc diễn văn xác nhận vẫn bình an và tiếp tục làm tổng thống. Trong ngày đó, Liên Hiệp Quốc công bố đã mở tài khoản đặc biệt để các cơ quan nhân đạo quốc tế ở các nước đóng góp vàp quỹ cứu trợ chiến tranh Đông Dương.
Ngày 12-4-1975 Mỹ rút lui hoàn toàn ra khỏi Campuchia, phải sử dụng 36 trực thăng Chinook mới di tản hết Mỹ kiều ra khỏi Nam Vang trong một ngày.
Ngày 18-4-1975 tỉnh Phan Rang lọt vào tay quân giải phóng. Ngày 21-4-1975, quân giải phóng hoàn toàn kiểm soát tỉnh Phan Thiết. Bình Tuy, Hàm Tân, Long Khánh bị uy hiếp dữ dội. Ngày 22-4-1975 Thiệu tố cáo Mỹ phản bội và đối xử vô nhân đạo với Việt Nam Cộng Hòa, Trần Văn Hương chính thức nhận chức Tổng thống. Tại Sài Gòn Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo tuyên bố sẵn sàng chấp nhận cho bọn nhà giàu hèn nhát ra đi với điều kiện phải bỏ lại tài sản.
Ngày 26-4-1975 Quốc hội Mỹ chấp thuận chi 327 triệu đôla để giúp 1 triệu 300 ngàn dân di tản. Tại Sài gòn, Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố còn cái quần đùi cũng đánh, Trần Văn Hương xác nhận không thương thuyết đầu hàng. Tại Paris Tổng thống Pháp cho biết đã tích cực thúc đẩy Toà Đại sứ Pháp nổ lực tối đa dàn xếp chính trị giữa các bên.
Ngày 28-4-1975 Đại Tướng Dương Văn Minh nhận chức Tổng thống do Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa chuyển quyền (cũng ngày này, tại Lào quân Pathet Lào chính thức vào Vientiane nắm quyền). Đặc biệt chính phủ Mỹ nhờ Liên Hiệp Quốc liên lạc với chính phủ Việt Nam ở Hà Nội, xin chấp thuận giải pháp ngưng bắn tại chỗ, đổi lại Mỹ sẽ viện trợ nhanh chóng tái thiết Bắc Việt. Những người cầm quyền ở Hà Nội dứt khoát bác bỏ ý kiến này.
Ngày 29-4-1975 Tổng thống Dương Văn Minh cử đoàn thương thuyết gồm có luật sư Trần Ngọc Liễng, giáp sư Châu Tâm Luân, luật sư Chân Tín vào sân bay Tân Sơn Nhất gặp đại diện của Mặt Trận Giải Phóng là Thiếu Tướng Hoàng Anh Tuấn (Ban Liên hợp Quân Sự 4 Bên) xin ngừng bắn, Thiếu Tướng Tuấn đã giữ đoàn thương thuyết này ở lại trại Davis đến ngày 1-5-1975 mới cho về.
Ngày 30-4-1975: 8 giờ 30, đại tướng Pháp hồi hưu tên là Vanuxem gặp tổng thống Dương Văn Minh ở số 7 đường Độc Lập, Tướng Vanuxem cho biết nếu tổng thống Minh có yêu cầu trên truyền hình, truyền thanh công khai, chính phủ Trung Quốc sẽ đổ quân can thiệp. tổng thống Dương Văn Minh đã lập tức bác bỏ ý kiến này, ông nói với Vanuxem: “đã tới lúc người Việt Nam tự sắp xếp với nhau để có hoà bình, yêu cầu người nước ngoài đừng can thiệp vào”.
Lúc 9 giờ: tổng thống Dương Văn Minh lên đài truyền thanh, truyềh hình cùng Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc bản văn tuyên bố thành phố Sài Gòn mở cửa chính thức mời Mặt Trận Giải Phóng vào Dinh Độc Lập nhận bàn giao chính quyền.
Lúc 10 giờ 30 xe tăng của quân giải phóng ủi sập cửa rào Dinh Độc Lập. Đại diện quân Giải phóng yêu cầu Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu lên truyền thanh và tuyền hình đọc lời xin đầu hàng.
Lúc 11 giờ Dương Văn Minh chính thức đọc bản văn đầu hàng trên truyền thanh truyền hình. Cờ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng miền Nam trên nóc Dinh Độc Lập bay lồng lộng trong gió trước mắt hàng trăm ngàn người Sài Gòn, trước ống kính truyền hình của hàng mấy trăm phóng viên ký giả quốc tế. Chế độ sài Gòn hoàn toàn sụp đổ sau giờ phút đó.
Với tư cách một người có mặt trực tiếp bên cạnh Tổng thống Dương Văn Minh từ ngày 27-4-1975 cho đến giờ phút cuối cùng của chế độ cũ, tôi xin xác nhận đậm nét một số sự kiện vào những giây phút cuối cùng liên quan đến con người của Dương Văn Minh:
Trong đêm 28-4-1975, tổng thống Dương Văn Minh sau khi nghe thuyết trình về tình hình quân sự lúc đó, do Tướng Vĩnh Lộc và Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, đã quyết định phải lập tức đầu hàng quân giải phóng để tránh cho thành phố Sài Gòn khỏi đổ nát và nhân dân Sài Gòn vô tội khỏi phải chết thảm khốc vì đánh nhau giữa hai bên. Cũng trong đêm đó trên nóc Dinh Độc Lập vẫn còn 2 trực thăng do 2 đại tá phi công trẻ tuổi phụ trách. Hai ông đại tá này đề nghị tổng thống Minh và toàn bộ người thân trong chính phủ DươngVăn Minh di tản ra Đệ Thất Hạm Đội. Hai viên phi công cho biết chỉ mất 4 tiếng đồng hồ để thực hiện 2 lượt bay, hai viên phi công đảm bảo đưa Tướng Minh an toàn ra tàu Mỹ. Tướng Dương Văn Minh đã nói với hai viên đại tá: “Qua là quân nhân, không thể đào ngũ trước giờ phút lịch sử. Hai em và những người ở đây ai muốn đi, Qua cho phép hai em chở họ đi”. Hai viên Phi công quá cảm động đã nói: “Đại tướng ở lại, các em cũng quyết ở lại”. (Hai viên đại tá phi công này sau ngày giải phóng phải đi học tập cải tạo hơn 10 năm).
Sáng ngày 30-4-1975, trong Dinh Độc Lập còn 1 tiểu đoàn nhảy dù bảo vệ và trong thành phố Sài Gòn còn 1 sư đoàn cảnh sát dã chiến, 1 sư đoàn dù, 1 sư đoàn thuỷ quân lục chiến. Khả năng chống cự lại quân đội giải phóng vẫn còn có thể tiếp tục được nhiều ngày. Tiều đoàn Trưởng tiểu đoàn bảo vệ Dinh Độc Lập xin Tướng Minh cho lệnh chiến đấu. Chính tôi đã tận mắt thấy và nghe Tướng Minh nói chuyện với anh tiểu đoàn trưởng: “Đã tới lúc đất nước chúng ta có hoà bình, các em hãy nghe lời tôi bỏ súng xuống, cởi bỏ quân phục và các em có thể tự động ra về với gia đình”. Tiểu đoàn trưởng và cả tiểu đoàn của anh ta đã khóc, nghe lời Tướng Minh, bỏ vũ khí, cởi bỏ quân phục, tự động tản hàng.
Trước đó Tướng Minh đã nhanh chóng bác bỏ lời đề nghị của người bạn cũ là Đại Tướng Pháp Vanuxem. Tướng Minh đã nhanh chóng và tự quyết định những hành động này một cách dũng cảm, trong khi ông ta chưa biết trước khi quân giải phóng tràn vào dinh Độc lập, số phận của ông ta và bà vợ, cùng tất cả những người cộng sự sẽ ra sao. Đó quả thật là một hành động dũng cảm, thật sự muốn có hoà bình giữa những người Việt Nam với nhau.
Quay lại khúc phim 10 ngày cuối cùng của chính phủ Sài Gòn
Ngày 20-4-1975, TT Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn báo cáo với quốc dân “sắp mất nước” vì bị phía Mỹ bỏ rơi.
Ngày 21-4-1975, Chủ Tịch Hạ Nghị viện Nguyễn Bá Cẩn nhậm chức Thủ tướng nhưng không hề có một lễ nhậm chức rình rang.
Ngày 22-4-1975, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương nắm quyền Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Đọc diễn văn truyền hình tyên bố cùng chiến đấu với các binh sĩ đến tấc đất cuối cùng. Ý hướng của Trần Văn Hương là không bàn giao chính quyền cho ai hết.
Báo chí Sài Gòn loan tin quân Việt Cộng đã kiểm soát quốc lộ 1 đến Trảng Bom, quốc lộ 15 Cầu Cỏ May gần Vũng Tàu bị giật sập. Trận đánh ở Long Khánh vẫn còn ác liệt.
Ngày 23-4-1975, đường từ Long An đến Mỹ Tho bị chận đứng nhiều khúc. Xe đò từ Sài Gòn về miền Tây phải chạy qua nhiều đoạn nguy hiểm.
Ngày 24-4-1975, nhiều cựu tướng lãnh ra vào Dinh Hoa Lan tấp nập. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạnh, mặc quân phục, xuất hiện đột nhiên tại nhà Tướng Dương Văn Minh.
Ngày 25-4-1975, Thịêu âm thầm nhưng chinh thức ra đi tại sân bay Tân Sơn Nhất vào lúc 10 giờ sáng bằng chiếc Boeing 707. Đoàn đi gần 70 người trong đó có cả gia đình Hoàng Đức Nhã, dân biểu Ngô Văn Luông, và bà con bên vợ Nguyễn Văn Thiệu. Riêng ông Ngô Khắc Tỉnh, Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục vì còn kẹt vợ bé “đào nhí” nên ở lại sau đó phải đi học tập cải tạo (Ngô Khắc Tỉnh bà con dòng họ ngoại của Nguyễn Văn Thiệu).
Đêm 25-4-1975, theo một người bà con của Trần Văn Hương (xin giấu tên) kể lại, một toán biệt kích ăn mặc rằn ri, vẻ hung bạo xông vào Phủ Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Họ đòi “làm thịt” ông già. Cận vệ của Phó Tổng thống Hương là một Thiếu tá Nhảy Dù chận họ ở chân cầu thang không cho lên lầu, hai tay cầm một quả lựu đạn rút chốt sẵn, la lớn: “Tụi bây đụng tới ông già, tao cùng cưa đôi quả lựu đạn này với tụi bây”.
Theo diễn giải của người bà con với ông Trần Văn Hương: Phe của Tướng Dương Văn Minh muốn sớm nắm quyền Tổng thống, biết tánh ông già Hương là lì lợm nên đã tổ chức biệt kích đòi “lấy máu ông già” để cướp tinh thần trước.
Theo tôi biết rõ, Tướng Dương Văn Minh không hề làm việc này. Bản thân ông Minh cũng không thích thú lắm về sự việc sắp được nhượng quyền quá trễ. Có lẽ tổ chức hù doạ ông già gân, do một phía khác thực hiện. Phía nào đây? Chúng ta có thể đoán ra được tên phía đạo diễn.
Ngày 26-4-1975, Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa họp phiên khoáng đại Lưỡng Viện (Thượng và Hạ nghị viện). Lưỡng Viện gồm 185 người đã bỏ dông mất gần phân nửa, nhưng cuộc họp cũng khá sôi nổi. Tướng Trần Văn Đôn với tư cách Nghị sĩ quốc hội, cựu tướng lãnh, đứng lên trình bày cặn kẽ tình hình chiến sự. Đôn cho rằng không còn giải pháp nào khác hơn là phải giao quyền Tổng thống cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Nghị sĩ Trần Văn Đôn thuyết phục quốc hội nên ý thức trách nhiệm và sớm biểu quyết.
Cuộc họp Quốc hội kéo dài từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều, cuối cùng đại đa số dân biểu nghị sĩ có mặt biểu quyết chấp thuận yêu cầu Tướng Dương Văn Minh nhận lãnh trách nhiệm Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa để thương thuyết cứu nước.
Khoảng 6 giờ chiều ngày 26-4-75: Ngô Công Đức (lúc đó đã từ Thụy Điển về đến Bangkok), từ Bangkok, gọi điện thoại thẳng về số riêng đặt tại phòng Tướng Minh. Tướng Minh nói chuyện với Đức được vài phút, sau đó giao điện thoại cho Hồ Ngọc Nhuận bàn tình hình chi tiết với Ngô Công Đức, và Đức cho Nhuận biết trong vài ngày tới chắc chắn Sài Gòn sẽ sụp đổ. Ông ta từ Bangkok sẽ tìm máy bay đi về Hà Nội. Ở Hà Nội vài ngày rồi ông ta sẽ về Sài Gòn. Đức khuyên Nhuận đừng nhận chức vụ gì trong chính phủ Dương Văn Minh.
Ngày 27 và ngày 28-4-1975, Tướng Dương Văn Minh nhận chức Tổng thống bổ nhiệm Trung tướng Vĩnh Lộc làm Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạnh làm Phó Tổng tham mưu Trưởng. Cử nghị sĩ Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng chính phủ, nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền làm Phó Tổng thống, bác sĩ Hồ Văn Minh Phó Thủ Tướng, dân biểu Nguyễn Hữu Chung Bộ Trưởng tại Phủ Tổng Thống, dân biểu Lý Quý Chung Bộ Trưởng Bộ Thông Tin, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận Đô trưởng Sài Gòn Gia Định, biện lý Triệu Quốc Mạnh Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia, giao nhiệm vụ cho Hồ Ngọc Nhuận và Triệu Quốc Mạnh lập tức thả các tù chính trị và sinh viên tranh đấu.
Sáng sớm ngày 28-4-1975, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm được Tổng Nha Cảnh sát do Triệu Quốc Mạnh đứng đầu thả ra ngay sau khi ông Mạnh, tân Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia phải mất hơn 2 giờ đồng hồ mới dò tìm được chỗ nhốt Huỳnh Tấn Mẫm. Lúc đó anh Mẫm đã bị chuyển từ nơi này sang nơi khác nhiều lần. Sau khi được thả Huỳnh Tấn Mẫm yêu cầu ông Mạnh cho về nhà, nhưng ông Mạnh đề xuất Huỳnh Tấn Mẫm nên gặp Dương Văn Minh trước để cám ơn. Vì thế Huỳnh Tấn Mẫm có vào Dinh Độc Lập gặp Dương Văn Minh và theo lời đề nghị của Bộ Trưởng Thông Tin Lý Quý Chung, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm có xuất hiện trước truyền thanh và truyền hình để thông báo tin mình được thả và có lời cám ơn ông Dương Văn Minh. Dụng ý của sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm khi lên truyền hình là muốn báo cho mọi nguời biết chổ mình ở, mình được thả về an toàn, chớ không phải là hình thức công khai đồng ý chấp nhận chính phủ Dương Văn Minh. Nhưng cũng chính vì sự xuất hiện đó mà sau này, Huỳnh Tấn Mẫm nhiều phen bị kiểm điểm, cũng khá “nhức đầu, nhức óc”. Cùng được thả với Huỳnh Tấn Mẫm. Hàng mấy trăm người tù khác ở Chí Hoà và Tổng Nha Cảnh sát dính líu tới chính trị và sinh viên tranh đấu cũng được thả theo.
Tổng Thống Dương Văn Minh cử ngay một đoàn thương thuyết đi vào căn cứ Tân Sơn Nhất để gặp Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn, trưởng đoàn đại diện Ban Liên hợp Bốn bên của Mặt Trận Giải Phóng. Đoàn thương thuyết gồm có luật sư Trần Ngọc Liễng, Quốc Vụ Khanh (Phó Thủ tướng) phụ trách hoà giải hoà hợp dân tộc, cùng với giáo sư Châu Tâm Luân đại diện chính phủ Dương Văn Minh. Đoàn này có nhiệm vụ gặp Tướng Hoàng Anh Tuấn đề nghị phía Mặt Trận ngừng bắn tại chỗ, thương thuyết thành lập chính phủ liên hiệp. Sáng 29-4-1975, đoàn đi ô tô vào sân bay Tân Sơn Nhất, bị Thiếu Tướng Hoàng Anh Tuấn cho mời ở lại ăn cơm, ngủ lại trong đó hai đêm đến ngày 1-5-1975 mới cho về.
Ngày 28-4-1975, khoảng 16 giờ trưa, hai chiến đấu cơ F5 của quân giải phóng (lấy được tại sân bay Phan Rang bay vào Sài Gòn thị uy, sau khi ném hai quả bom tại Tân Sơn Nhất, quần trên bầu trời Dinh Độc Lập 2 vòng, không bỏ bom rồi bay đi mất. Sau này được biết một trong hai phi công tạo ra sự bất ngờ ngày đó là nguyên đại úy phi công Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Thành Trung lái máy bay vào Sài Gòn thị uy (Nguyễn ThànhTrung sau năm 1975 là Đại tá Không quân CHXH Chủ Nghĩa Việt Nam, hiện là một trong hai phi công trưởng huấn luyện lái máy bay Boeing 727 cùng với Đại tá Huỳnh Minh Bon – nguyên gốc là đại tá phi công của VNCH, là em ruột của bà Hoàng Thị Mai Khanh, vợ của cố Thủ tướng Phạm Hùng).
Ngày 29-4-1975, cả một phi đoàn F5 do Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy bỏ Sài Gòn sang Bangkok lưu vong. Riêng Nguyễn Cao Kỳ dùng trực thăng bay ra Hạm Đội 7.
Tổng Thống Dương Văn Minh ký lịnh cho tàu Việt Nam Thương Tín nhổ neo, theo yêu cầu của dân biểu Nguyễn Hữu Chung.
Diễn tiến đêm 28-4-1975 tại dinh Độc Lập
Đêm 28-4-1975 toàn bộ những người sống trong Dinh Hoa Lan tạm thời dọn vào ở trong Dinh Độc Lập để tránh những đòn đánh bất ngờ của phe Nguyễn Cao Kỳ bằng máy bay, để tránh bạo loạn có thể xảy ra do những nhóm quân nhân “nổi khùng”. Cả gia đình vợ con tôi, gia đình vợ con Thiếu tá Hoa Hải Đường, vợ con Thiếu tá Trịnh Bá Lộc, gia đình tài xế lâu năm của Tướng Dương Văn Minh là Thượng sĩ Thạch Panh, tất cả có hơn 70 người khăn gói, lũ lượt, tay xách nách mang, từ 7 giờ tối xếp hàng đi bộ từ góc đường Trần Quý Cáp – Công Lý, tiến thẳng về cửa chánh Dinh Độc Lập. Đàn bà con nít được bố trí ngủ ở dưới tầng hầm của Dinh Tổng thống. Việc sắp xếp chỗ ngủ cho mọi người do Đại tá Trương Minh Đẫu thực hiện. Trong đời mấy đứa con nhỏ của tôi cũng có một lần được ngủ trong dinh thự của “nhà vua”.
Cũng tối hôm đó rất đông người gồm có nghị sĩ dân biểu, một số tướng tá trong phe Dương Văn Minh đến dự cuộc họp bất thường tại Dinh Độc Lập do Tổng Thống Dương Văn Minh triệu tập. Trong số những người đó có luật sư Vũ Văn Mẫu. luật sư Nguyễn Văn Huyền, Thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạnh, dân biểu Ngyễn Hữu Chung, dân biểu Lý Quý Chung, nghị sĩ Hồng Sơn Đông và một số nhân vật khác tôi không nhớ hết. Điểm đặc biệt không thấy bóng dáng của Hồ Ngọc Nhuận viện cớ Nhuận phải ngủ ở dãy nhà ngoài bên trong Dinh Hoa Lan (trong khoảng tháng 4-1975, anh Hồ Ngọc Nhuận, chị Kiều Mộng Thu thường xuyên đến tá túc trong căn nhà của Thiếu tá Hoa Hải Đường để né tránh việc bắt bớ bất ngờ của nhóm cảnh sát do Trang Sĩ Tấn chỉ huy).
Tiện đây cũng xin nhắc lại kẻo quên, trong thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn vào những đêm 23, 24, 25, 26, 27 tháng 4-1975, đêm nào cũng có những trận đánh cướp vào những tiệm vàng lớn. Cướp có vũ trang, mặc quân phục cảnh sát, mặc đồ rằn ri, đầu đội nón sắt. Dư luận cho rằng đó là những trận đánh cướp có nghiên cứu, có tổ chức, được trang bị mạnh và được Trang Sĩ Tấn, Giám Đốc Cảnh sát Đô thành “feu vert”. Chúng nó, nhân lúc Sài Gòn di tản, lộn xộn, bất an, cướp của nhà giàu chia nhau để chuẩn bị chuồn khi biết chắc rằng trận lụt Đại Hồng Thuỷ đã sắp sửa tràn đến Sài Gòn. Tất cả những người chỉ huy cảnh sát đô thành đã dông mất trong đêm 28-4-1975, một ngày sau khi Dương Văn Minh nhậm chức.
Tổng Nha Cảnh sát chỉ còn lại một cái đầu đó là Thẩm Phán Phạm Kim Qui vừa mới nhậm chức Phó Tổng Gíam Đốc Cảnh sát Quốc gia trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn. Đêm 28-4-1975, theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, tôi có nói chuyện bằng điện thoại với Phạm Kim Qui yêu cầu ông ta bằng tất cả khả năng còn lại của Tổng Nha Cảnh sát cố gắng giữ trật tự trị an, đừng để xảy ra các cuộc cướp bóc nữa, nhất là vào ban đêm. Phạm Kim Qui cho biết ông ta còn có thể điều động được 1 sư đoàn cảnh sát Dã Chiến, ông ta sẽ cố gắng thực hiện chỉ thị của Tổng Thống Dương Văn Minh (Phạm Kim Qui là một trí thức đậu cử nhân luật từng nhiều năm hành nghề Biện Lý. Vì có máu trí thức, không bỏ chạy, ở Sài Gòn đến ngày cuối cùng cho nên ông ta bị bắt đi học tập cải tạo trên 12 năm)
Cuộc họp đêm 28-4-1975 tại Dinh Độc Lập cũng không có sự tham dự của giáo sư Lý Chánh Trung, ông ta kẹt đêm đó ở Thủ Đức. Thực ra, sau này đối chiếu lại thực tế tôi được biết cả anh Hồ Ngọc Nhuận, cả thầy Lý Chánh Trung từ đêm 28-4 đã nhận được chỉ đạo không tham gia chính thức chính phủ Dương Văn Minh vì đã kề ngày giải phóng. Giáo sư Lý Chánh Trung một người trí thức tên tuổi đáng kính, công giáo, từng tốt nghiệp Đại học Louvain ở Bỉ qua trung gian của gia đình bên vợ (bà Bùi Thị Mè là chị ruột vợ của Thầy Trung) đã được cộng sản móc nối từ lâu. Năm 1965, ông và em vợ ông giáo sư Bùi Thế Xương đã từng lên mật khu Hố Bò họp mặt với Thủ tướng Huỳnh Tấn Phát. Còn anh Hồ Ngọc Nhuận đã hoạt động mạnh mẽ cho công cuộc giải phóng miền Nam từ năm 1968, sau khi anh Nhuận đi Pháp với tư cách dân biểu Việt Nam Cộng Hòa lại được Đại sứ của Mặt Trận Giải Phóng, ông Phạm Văn Ba; Đại sứ Nguyễn Văn Tiến của Hà Nội móc nối giao nhiệm vụ.
Ngay trong những người thân cận của Tổng Thống Dương Văn Minh cũng đã có nhiều người làm việc theo lệnh của phía bên trong mà Tổng Thống Dương Văn Minh không biết.
Cuộc họp mật của chính phủ Dương Văn Minh, hai thuyết trình viên báo cáo về tình hình quân sự là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng. Hai ông này cho biết về quân sự Sài Gòn đã hết thuốc chữa. Tướng Hạnh chỉ trên bản đồ Thành phố Sài Gòn – Gia Định các mũi tiến công của quân giải phóng đã áp sát Sài Gòn. Một cánh từ phía Long An băng ruộng tiến lên bao vây ngõ Tây Sài Gòn, một cánh từ Thủ Đức đổ xuống có cả xe thiết giáp chỉ còn cách Sài Gòn hơn 20 cây số, mạn Gò Vấp – An Phú Đông cũng đầy nghẹt quân chính qui và du kích. Nếu đánh nhau Sài Gòn không cầm cự được quá vài ngày. (Tướng Nguyễn Hữu Hạnh trước đây là sĩ quan thân cận của Tướng Dương Văn Minh. Trong thời kỳ ông ta làm Tư Lịnh Phó Vùng IV Chiến Thuật đã có móc nối với bên trong. Phía Mặt Trận đã từng đồng ý cho ông ta dùng máy bay trực thăng đáp xuống một khu do Việt Cộng kiểm soát để an táng ông thân của ông ta. Do ơn nghĩa đó, Nguyễn Hữu Hạnh động lòng, âm thầm theo phía bên trong).
Trước tình hình bi thảm đó về quân sự, sau khi tham khảo riêng ý kiến của luật sư Nguyễn Văn Huyền, luật sư Vũ Văn Mẫu, bác sĩ Hồ Văn Minh, Tổng Thống Dương Văn Minh đã quyết định: Ngưng không đánh nhau nữa, sắp xếp việc bàn giao chính quyền cho phía Mặt Trận Giải Phóng. Do đó mới có việc gửi luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân đại diện cho chính phủ Dương Văn Minh vào Trại David ở Tân Sơn Nhất vào sáng sớm 29-4-1975 để báo cho Thiếu Tướng Hoàng Anh Tuấn rõ ý đồ của Dương Văn Minh.
Đầu hàng là anh hùng
Có một sự kiện rất ý nghĩa về thái độ anh hùng của người tướng lãnh Dương Văn Minh. Đêm 28-4-1975 Dương Văn Minh đã biết chắc phải đầu hàng, nhưng ông vẫn tỉnh táo. Lúc đó trên nóc Dinh Độc Lập vẫn còn 2 máy bay trực thăng trang bị đầy đủ, do 2 đại tá phi công trẻ tuổi, đẹp trai, vóc dáng cao to hùng dũng chịu trách nhiệm. Hai chàng phi công này, trước tình hình bi thảm đó có đề xuất ý kiến với Tổng Thống Dương Văn Minh, nội dung: “Hai anh em chúng tôi là những sĩ quan không quân ở lại sau cùng để phục vụ Tổng thống. Từ nóc Dinh Độc Lập, bay ra Đệ Thất Hạm Đội, cả đi lẫn về chỉ mất 2 giớ đồng hồ. Chúng tôi đề nghị bốc tất cả những người trong gia đình và trong Bộ Tham Mưu Tổng Thống bay ra Đệ Thất Hạm Đội để đảm bảo an toàn. Chúng tôi chỉ thực hiện 2 phi vụ là xong”. Trước đề xuất đột ngột của hai viên phi công có sự hiện diện của nhiều nguời trong bộ tham mưu của Tướng Minh, bà Dương Văn Minh hăng hái tán đồng thúc đẩy chồng vội vã ra đi. Đại Tướng Dương Văn Minh đã ôn tồn trả lời hai viên phi công: “Tôi vô cùng xúc động và cám ơn thành ý của hai em. Nhưng là một quân nhân, đang nhận trách nhiệm nặng nề trước lịch sử, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy. Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo có thể ra đi với hai anh em phi công. Phần tôi không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”. Mọi người có mặt rất xúc động trước những ý kiến hùng hồn và chắc nịch của Tướng Minh. Vẻ mặt của vợ ông trở nên sa sầm. Hai viên phi công trẻ tuổi phản ứng đồng loạt: “Đại Tướng quyết ở lại, chúng tôi cũng không thể hèn nhát ra đi. Chúng tôi ở lại tới cùng với Đại Tướng”. Một số người có mặt ở đó cảm động quá, đã ràn rụa nước mắt.
Đại Tướng Dương Văn Minh đã ghi dấu ấn mãi mãi trong con tim và trí óc của những người có mặt hôm đó. Ông đã không sợ chết, không sợ tù đày, không biết ngày mai sẽ ra sao khi quân Cộng sản tràn vào Dinh Độc Lập. Nhưng ông vẫn sừng sững hiên ngang đứng đó, chờ đợi. Đối với tôi và nhiều người nữa, kể cả hai viên đại tá phi công: Người anh hùng của cuộc cách mạng 1963 vẫn mãi mãi là anh hùng dù là kẻ cầm cờ trắng. Dương Văn Minh đã đầu hàng dân tộc của ông, không phải đầu hàng quân thù. Ông đầu hàng những người anh em để dân tộc ngưng đổ máu, để có hoà bình.
Những người ra đi vào giờ chót
Sáng 29-4-1975, dân biểu Nguyễn Hữu Chung đã âm thầm ra đi với chiếc tàu Việt Nam Thương Tín cùng mấy trăm người có máu mặt trong giới làm ăn kinh tế, tài chinh, ngân hàng. Trên tàu có cả Nguyễn Chánh Lý. Tàu Việt Nam Thương Tín nhổ neo với công lệnh hỏa tốc trên nền cờ vàng 3 sọc đỏ do Tổng Thống Dương Văn Minh ký theo yêu cầu của dân biểu Nguyễn Hữu Chung. Tướng Vĩnh Lộc cũng ra đi trên những chiếc tàu cuối cùng của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Ông phải lạy lục van xin đám sĩ quan chỉ huy tàu họ mới cho ông và bà vợ trẻ một chỗ đứng trên chiếc Tuần Dương Hạm. Cảnh một ông tướng phải quì lạy các sĩ quan trẻ tuổi chỉ huy tàu là một cảnh “đổi đời”, “quả báo”.
Ngày 30-4-1975 tại dinh Độc Lập
8 giờ sáng: Chính phủ do Tổng Thống Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu cầm đầu họp phiên bất thường tại số 7 đường Độc Lập, Trụ sở Phủ Thủ tướng chế độ cũ (hiện nay là đường Lê Duẩn).
8 giờ 30: Tôi được lệnh Tổng Thống Dương Văn Minh gọi Tổng Giám đốc Đài truyền hình Sài Gòn là Trung tá Lê Vĩnh Hoà cùng với Tổng Giám đốc Đài phát thanh Sài Gòn lên gấp Phủ Thủ tướng để chuẩn bị thu bằng ghi hình cho một bài diễn văn quan trọng.
8 giờ 40 phút: Mmột ông già người Pháp, tướng hơi thấp, to béo, mặc “complet” thắt cà vạt đến tiền sảnh Phủ thủ tướng. Tôi đích thân ra tiếp.
Ông ta tự giới thiệu là Đại Tướng Vanuxem trong quân đội Pháp, từng là bạn thân của Đại Tướng Dương Văn Minh, ông ta muốn gặp Tướng Minh có việc gấp. Tôi vào phòng Thủ Tướng báo cáo sự việc. Tướng Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đồng ý tiếp.
Tướng Vanuxem được tiếp kiến khoãng 15 phút . Ông ta nói với Tổng Thống Dương Văn Minh “Bắc Kinh sẵn sàng có hành động quân sự cứu lấy Việt Nam Cộng Hòa khỏi rơi vào tay quân đội Bắc Việt. Ông là sứ giả mật của Bắc Kinh. Nếu Tổng Thống Minh đồng ý cứ lên truyền hình kêu gọi quốc tế can thiệp vì quân đội Bắc Việt đã xé hiệp định Paris. Tướng Vanuxem đảm bảo lập tức Bắc Kinh sẽ đổ bộ vào Việt Nam”.
Tổng Thống Dương Văn Minh đã phản ứng: “Cám ơn, cám ơn bạn. Đây là chuyện riêng của người Việt Nam, tôi không muốn có bất cứ người nước ngoài nào can thiệp vào”. Tôi vội vả đưa Vanuxem ra ngoài.
9 giờ 10 phút: Bài diễn văn ngắn gọn của Tổng Thống Dương Văn Minh được truyền đi trên truyền thanh truyền hình. Tổng Thống Minh tuyên bố: “Thành phố Sài Gòn mở cửa, xin mời Mặt Trận Giải Phóng vào Dinh Độc Lập bàn giao chính quyền”.
9 giờ 20 phút: Toàn bộ Chính phủ Dương Văn Minh di chuyển lên Dinh Độc Lập. Tại Dinh Độc Lập đã có sẵn rất đông đảo người ngồi sẵn trong phòng khánh tiết. Đa số là những người lớn tuổi từng là quan chức lớn của chế độ cũ, đã về hưu từ thời Ngô Đình Diệm. Trong số đó tôi nhớ có Đại tá Trần Bá Thành, nguyên là Giám đốc Cảnh sát Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm, có những tay “cộm cán” từng làm lớn trong ngành cảnh sát của chế độ cũ. Họ tự động di tản vào Dinh Độc Lập với hy vọng núp dưới bóng của Tướng Minh, phó mặc hên xui may rủi, vì đã quá trễ họ không có đường nào khác để chạy. Điều đặc biệt, có cả tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ Tướng, (Chính phủ Trần Thiện Khiêm). Tiến sĩ Hảo trong bộ complet ba túi màu nâu đậm nói với Tổng Thống Dương Văn Minh: “Cách đây mấy ngày, em vừa chận kịp không cho Nguyễn Văn Thiệu tẩu tán 7 tấn vàng theo ông ta ra nước ngoài”. Nguyễn Văn Hảo có vẻ bị kích động, vẫn ăn nói ồn ào, vào ngồi ngay cả ghế tổng thống trước đây mà Nguyễn Văn Thiệu từng ngồi. Ông ta xây ghế vòng vòng, cười ha hả nói với tôi và Lý Quý Chung (chúng tôi quen nhau khá thân từ lâu qua môi giới của Võ Long Triều): “Đâu ngờ có ngày, moi lại ngồi lắc lư trên ngai vàng của Thiệu”. Tổng thống Dương Văn Minh vẫn tự nhiên để cho Hảo nhập chung với số người trong bộ tham mưu của ông.
9 giờ 30 phút: Tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù và nhiều binh sĩ xin gặp Đại tướng Dương Văn Minh tỏ ý muốn chiến đấu đến cùng. Đó là Tiểu đoàn bảo vệ Dinh Độc Lập, trang bị mạnh. Hai máy bay trên nóc Dinh vẫn đậu nguyên tại chỗ. Tướng Minh xúc động nói với binh lính: “Đây là giờ phút lịch sử, đất nước chúng ta sắp có hoà bình sau mấy chục năm chém giết lẫn nhau. Các em hãy nghe tôi bỏ khí giới, bỏ cả quân phục, chúng ta chờ đón hoà bình”. Viên tiểu đoàn trưởng và hàng trăm binh sĩ đã khóc nức nở, thi hành lệnh Tướng Minh. Họ cởi áo, xếp súng đạn vào một góc, mạnh ai nấy bỏ về. Nhiều người có mặt ở đó cũng không cầm được nước mắt. Không biết vui hay buồn lẫn lộn.
10 giờ: Tất cả mọi người còn lại trong nhóm Dương Văn Minh tập họp ngồi trong phòng khánh tiết của Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Phó Tổng tham Mưu Trưởng mặc quân phục và tôi đứng trên tiền đình Dinh Độc Lập đón chờ. Chung quanh Dinh Độc Lập xa xa vang nhiều tiếng súng đại liên bắn thị uy.
10 giờ 30 phút: 4 xe tăng của quân giải phóng tràn tới trước cửa chinh của Dinh Độc Lập. Nhiều loạt đạn bắn bổng nổ ầm ầm. Khói đạn khét lẹt bay mù mịt.
Xe thứ nhứt hùng hổ ủi sập cửa chính của Phủ Tổng thống. Người lái xe đã làm một động tác rất đẹp: Anh ta cho chiếc xe chạy thẳng vào bãi cỏ trước sân, bánh xích ken két quần một vòng quanh bãi cỏ như động tác dẫm nát tất cả quá khứ ở đây.
Ba chiếc sau chia nhau chạy bọc vào phía cánh tả và cánh hữu. Trên xe nhiều người nhảy xuống, tay cầm những lá cờ đỏ thật to quơ qua quơ lại tiến sát vào tiền đình. Rất ấn tượng. Theo sau hàng trăm lính bộ binh ùa tới. Và tiếp theo nữa, hàng trăm nam nữ phóng viên ký giả nước ngoài trang bị máy quay phim, máy hình chụp lia lịa. Người chỉ huy tóan quân la lên: “Nguyễn Văn Thiệu đâu, Nguyễn Văn Thiệu đâu”. Nhiều người lính khác vừa chạy vừa chĩa súng vào phía trong Dinh Độc Lập cũng la to: “Nguyễn Văn Thiệu đâu, Nguyễn Văn Thiệu đâu”. (Tới giờ phút đó những người lính của Quân Giải phóng cũng chưa biết Thiệu đã chuồn mất – có lẽ vì họ hành quân liên tục).
Thiếu tướng Hạnh cản viên đại uý ngay tại tiền sảnh nói: “Tôi xin đón tiếp các anh, tôi xin đón tiếp các anh”. Viên chỉ huy nói: “Chỉ đường cho binh sĩ chúng tôi hạ cờ ba que”. Tôi ra dấu chỉ cầu thang lên nóc dinh cho họ. Mấy người lính tràn lên lầu, hạ cờ cũ, lập tức treo cờ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng trên nóc dinh.
Từ 1945 cho đến 1975, ngày mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh mong muốn đã đến. Lá cờ đỏ đã sừng sững lộng gió bay trên nóc dinh thự lớn nhất Sài Gòn.
Phía dưới, kỹ sư Tô Văn Cang, tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng, kiến trúc Sư Nguyễn Hữu Thái (tay mang brassard đỏ) cũng đã vào đến phòng khách Dinh Độc Lập. Kỹ sư Tô Văn Cang nói với Đại Tướng Minh: “Các anh an tâm, có phía dân sự của chúng tôi dàn xếp”.
Viên đại uý chỉ huy toán quân nói to: “Tất cả các anh vào ngồi thứ tự trong phòng chờ. Riêng anh Minh, anh Mẫu đi theo tôi. Các anh lên đài phát thanh đọc bài xin đầu hàng”. Họ chĩa súng vào Tướng Minh và ông Mẫu. Đến đài phát thanh ông Vũ Văn Mẫu phải viết mấy chữ xin đầu hàng. Tổng Thống Dương Văn Minh đã đọc những lời đó vào đúng 11giờ 5 phút trên đài phát thanh Sài Gòn (có sách nói rằng quân Giải Phóng đã buộc Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu vừa đi vừa giơ hai tay lên để đầu hàng. Đó là sự tưởng tượng của người viết. Tôi trực tiếp ở trong cảnh đó. Người chỉ huy của quân Giải Phóng đã đối xử tương đối rất tế nhị với ông Minh và ông Mẫu, không có chuyện bắt hai cụ giơ tay lên trời).
11giờ 30 phút: Đông đảo thanh niên hiếu kỳ tràn vào Dinh Độc Lập. Tôi và dân biểu Lý Quý Chung thừa lúc lộn xộn, những người lính canh mới không để ý lẻn ra ngoài phòng lớn, hoà mình trong đám đông dân chúng, tràn trở ra ngoài đường Công Lý.
12 giờ: Tôi đang đứng trước nhà thờ Đức Bà, tìm xe Honda ôm đi về nhà, họa sĩ Ớt tức Huỳnh Bá Thành đột nhiên xuất hiện. Ớt nói với tôi: “Anh và anh Lý Quý Chung yên tâm. Tôi nói thật, tôi là đại úy công an của Việt Cộng, tôi sẽ làm chứng để bảo vệ thái độ tốt đẹp của các anh”.
Tôi bắt tay Ớt, cám ơn, đón được một chiếc Honda chạy về nhà ở sau Dinh Hoa Lan. Tôi thấy nhiều binh sĩ đang lục soát nhà Dương Văn Minh. Lúc đó có một cô nữ cán binh mặc bộ đồ bà ba đen, đầu quấn khăn rằn, tay cầm súng AK bá xếp, từ trong cửa nhà Dương Văn Minh đi ra ngoài. Tôi đứng ngơ ngác trông theo. Bóng dang cô nữ cán binh rất đẹp, ấn tượng. Tôi không biết cô vào nhà Tướng Dương Văn Minh để làm gì. Vài phút sau, tôi lại thấy luật sư Đỗ Hữu Cảnh (tức Ba Sơn), từ phía trong cổng số 3 Trần Quí Cáp đi ra ngoài. Thấy tôi đứng trước nhà, Ba Sơn gật đầu chào. Khói súng khét lẹt bay vần vũ ở chung quanh. Tôi đột nhiên quyết định dẫn vợ con và hai đứa em gái tản cư vào nhà của Lý Quý Chung, lúc đó còn ở trong một đầu hẻm lớn đường Nguyễn Tri Phương. Gia đình tôi được chị Nga – vợ Lý Quý Chung- đón tiếp niềm nở. Đêm đó cả hai gia đình tôi và anh Chung được chị Nga đãi ăn món chè thật ngon, chè sầu riêng nấu với nước cốt dừa.
Từ sau đêm đó, cuộc đời của hai gia đình chúng tôi rẽ vào một khúc quanh mới.
Những dòng ghi thêm về ông Dương Văn Minh
Nhớ lại chuyện gần 30 năm về trước, giống như một giấc chiêm bao…
Giấc Nam Kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không…
Ông Duơng Văn Minh, ông Vũ Văn Mẫu và đoàn tuỳ tùng của ông tất cả trên dưới bảy, tám mươi người bị giữ lại tại Dinh Độc Lập sau khi ông lên đài phát thanh và đài truyền hình Sài Gòn công khai đọc lời đầu hàng quân Giải Phóng. Trong số những người bị (hay được) giữ lại trong Dinh Độc Lập không phải chỉ có những người trong nhóm ông Dương Văn Minh, chen lẫn trong đó còn có những ngừơi ở phe phái khác thuộc diện chống cộng, nhưng vì do dự chần chờ đã không tự động di tản trước, có thể gọi đó là những bị “kẹt” lại vào giờ phút chót, không biết đường trốn đi đâu, họ tự động tấp vào Dinh Độc Lập sáng ngày 30-4-1975, sau khi ông Dương Văn Minh đọc lời mời đại diện Mặt Trận Giải Phóng vào Dinh Độc Lập để bàn giao chính quyền. Những ngừơi bị kẹt lại đa số những ngừơi đã lớn tuổi, từng phục vụ cho Pháp, cho Ngô Đình Diệm và chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Họ có mặt tại Dinh Độc Lập vào những giờ phút cuối cùng của sự tan rã chế độ cũ. Có lẽ họ nghĩ rằng núp dưới bóng cây cổ thụ Dương Văn Minh, họ còn một chút hy vọng được sống sót, được bình an… nếu có xảy ra chuyện gì xấu đi nữa, họ cũng có thể được hưởng chung biện pháp đối xử như quân Giải Phóng đối xử với ông Minh và nhóm của ông. Tôi không nhớ hết và biết hết tên của những người đó vào giờ phút tàn cuộc, chỉ khẳng định một điều đa số những ngừơi đó không thuộc về nhóm Dương Văn Minh, mà họ thuộc về tàn tích của những thời kỳ cũ, của thời Tây và Mỹ còn ở Sài Gòn. Dĩ nhiên quân Giải Phóng đã không đối xử với họ giống như đối xử với nhóm của ông Dương Văn Minh. Chỉ duy nhất có Nguyễn Văn Hảo, dù không có ở trong nhóm của ông Dương Văn Minh, vào giờ chót, giờ thứ 25, có mặt trong tiền đình Dinh Độc Lập khoảng 10 giờ ngày 30-4-1975 vẫn hoà mình được với nhóm Dương Văn Minh vì bản thân ông Hảo từng là bạn bè thân thuộc với những cộng sự viên của ông Minh. Ông Dương Văn Minh và ông Nguyễn Văn Hảo chưa từng gặp nhau trước ngày 30-4-1975, nhưng lúc đó họ vẫn đối xử với nhau với tình thân thiện. Bản thân ông Dương Văn Minh cũng có cảm tình với Nguyễn Văn Hảo vì biết đó là một trí thức lỗi lạc, ông Hảo cũng có cảm tình với Dương Văn Minh vì biết ông Dương Văn Minh là người chân chinh yêu nước. Việc giữ lại kho bạc Sài Gòn 7 tấn vàng, không để cho nhóm Nguyễn Văn Thiệu mang đi, t sĩ Nguyễn Văn Hảo có thuật lại cho đông đảo những người có mặt trong Dinh Độc Lập sáng hôm đó được nghe. Ông Nguyễn Văn Hảo ngồi trên ghế của Nguyễn Văn Thiệu, nói oang oang và cười hà hà, chờ quân Giải Phóng đến.
Về tài năng kinh tế của ông Nguyễn Văn Hảo, giới trí thức Sài Gòn cũ đa số đều mến mộ ông. Ông xuất thân từ một gia đình nghèo, gốc ở Long Xuyên, do là một học sinh thật xuất sắc, ông được học bổng đi học đại học ở Thụy Sĩ và tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại đó vào khoảng năm 1964. Trong chế độ cũ, có lúc Nguyễn Văn Hảo giữ chức Tổng Giám đốc Ngân hàng Phát triển Nông thôn, chức vụ sau cùng trong chính quyền cũ của ông là Phó Thủ Tướng phụ trách kinh tế. Ông Hảo có rất nhiều quan điểm sáng giá về thời cuộc làm ăn, được nhiều người khâm phục. Từ đầu năm 1974, ông Nguyễn Văn Hảo đã đưa ra ý tưởng phải thúc đẩy doanh nhân đóng góp tích cực vào việc làm giàu cho đất nước. Trong lúc nhiều người giàu có, bỏ chạy, ông vẫn quyết định ở lại và chủ trương tạo mọi điều kiện thuận lợi hco nọn người có tiền của ra đi với điều kiện họ tự nguyện để lại tài sản cho đất nước. Tư tuởng này của ông Nguyễn Văn Hảo đã được báo Chính Luận đăng tải vào giữa năm 1974 tại Sài Gòn.
Đêm 30-4-75 ông Hảo cùng với ông Minh và mấy chục người nữa được cho ở dưới tầng hầm của Dinh Độc Lập. Họ được cho ăn uống đầy đủ. Chỉ riêng một mình ông Dương Văn Minh được một nhân vật cỡ bự của quân Giải Phóng mời nói chuyện riêng. Người đó là ông Cao Đăng Chiếm. Đêm hôm sau, ông Dương Văn Minh được mời nói chuyện với ông Trần Văn Trà, ngày 2-5-75 ông Dương Văn Minh được nói chuyện với ông Võ Văn Kiệt. Đêm 2-5-1975 rạng 3-5-1975, vào lúc 3 giờ sáng ông Dương Văn Minh, vợ ông và nhiều người thân cận được thả về ra khỏi Dinh Độc Lập. Một số người khác, có lẽ là tàn tích của chế độ thực dân Pháp, chế độ Mỹ – Thiệu không được cho về và đưa đi nơi khác ngay sau đó. Quân Giải Phóng cho 3 cái ô tô chở Dương Văn Minh và những người của ông về tận nhà ở số 3 đường Trần Quý Cáp vào lúc gần sáng. Kể từ giờ phút đó, ông Dương Văn Minh tiếp tục sống một cuộc đời an bình tại Dinh Hoa Lan cho đến khi ông được phép của chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cho đi Pháp cư trú với các con và cháu của ông. Tưởng cũng nên nhắc lại suốt từ ngày 3-5-1975 cho đến khi được cấp hộ chiếu đi Pháp ông Dương Văn Minh sống đời bình thản, không tiếp xúc chính trị với ai, không tiếp báo chí nước ngoài, ông chỉ tiếp bạn bè thân hữu, bà con, em cháu. Buổi sáng thức dậy ông chăm sóc hàng ngàn chậu hoa lan mà ông đã dầy công nuôi trồng từ nhiều năm trước. Hoa lan của ông Dương Văn Minh được chính bàn tay ông cắt tỉa, tưới tắm, chăm bón. Suốt ngày ông quanh quẩn ở nhà, không đi đâu ra khỏi bốn bức tường của Dinh Hoa Lan. Vườn phong lan của ông Dương Văn Minh lúc nào cũng có hoa nở, hoa đủ màu, đủ loại hình, đủ mọi giống, có những giống, có những cây ông mang từ những ngày lưu vong ở Bangkok về nước. Ông Dương Văn Minh chơi lan theo kiểu của một nhà hiền triết, rỗi rảnh nhìn vạn sắc màu, vạn hình thể, vạn phong thái của hoa lan để suy gẫm nét đẹp của thiên nhiên. Ông Dương Văn Minh là loại người trầm lắng, suy tư dù gốc của ông là một quân nhân, một tướng lãnh. Triết lý của ông là triết lý trầm lắng của Phật giáo, ông không đua chen, không tham lam sân si; ông thuộc vào loại biết đủ, thấy đủ; biết nhàn thấy nhàn. Đó là một loại triết lý pha lẫn giữa Phật giáo và Lão giáo. Ông sống khá bình dị, hoà mình với mọi người đa số bạn bè bà con đều thương ông. Có những người mang gạo đến cho gia đình ông ăn, mang cá mắm, khô từ miền quê đem đến cho ông vào những ngày cuối đời ông ở Sài Gòn. Trong tuần lễ đầu tiên sau khi ông được thả từ Dinh Độc Lập ra, Thượng toạ Thích Trí Quang bất ngờ có đến số 3 đường Trần Quý Cáp để thăm. Ông Dương Văn Minh đã thân tình tiếp ông Trí Quang khoảng 30 phút. Hai người chỉ thăm hỏi nhau về sức khoẻ, không bàn tán bất cứ điều gì về chính trị. Ông Dương Văn Minh thuộc vào loại người không có tham vọng cá nhân và hình như ông đã biết thời của ông đã hoàn toàn đi qua sau ngày 30-4-1975. Ngày đó, ông tự hãnh diện và tự mãn nguyện đã dũng cảm cầm lá cờ trắng để chấm dứt chiến tranh. Sau này chính quyền TPHCM có lần mời ông tham gia Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam với tư cách thành viên, ông cũng khéo léo và nhẹ nhàng từ chối. Có lúc, để cổ vũ cho việc nhân dân tham gia ủng hộ và phát triển học đường, người ta đã mời ông hai ba lần làm Chủ Tịch phong trào nhân dân bảo trợ học đường, ông có hơi do dự từ chối hay chấp nhận, sau cùng ông cũng đã từ chối vì ông dứt khoát muốn ở ẩn không tham gia vào việc công nữa dù đó là việc xã hội. Ở miền NamViệt Nam, trước đây người ta cứ lầm tưởng hễ làm lớn trong giới cầm quyền là giàu có, là no đủ. Chính tôi là người đã sống gần gia đình ông Dương Văn Minh gần 3 năm trước ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam và sau ngày giải phóng, tôi vẫn tiếp tục ở bên cạnh gia đình ông mãi cho tới năm 1983. Gia đình ông Dương Văn Minh thuộc vào loại thanh bạch, không có dư dả nhiều. Tài sản ông để lại trước khi ông đi Pháp là hàng ngàn chậu hoa lan, 3-4 con chó bẹc giê, 5-7 cái máy chụp hình loại chuyên nghiệp và lũ khũ những đồ đạc, vật dụng linh tinh không giá trị nhiều lắm của một vị tướng lãnh. Điều tôi còn nhớ rất rõ có khả năng chứng minh sự thanh bạch, liêm khiết không ham giàu có của ông Dương Văn Minh là sự việc sau đây:
- Trước ngày giải phóng 30-4-75 chừng hai tháng, lúc đó nhiều dư luận chính trị của các giới có thế lực ở Sài Gòn đều nghĩ rằng Mỹ sẽ sử dụng giải pháp Dương Văn Minh thay thế cho Nguyễn Văn Thiệu và dùng giải pháp đó để thực hiện kế hoạch đàm phán đình chiến theo kiểu da beo. Đa số người có hiểu biết đều tin tưởng ông Dương Văn Minh có đủ uy tín và tư thế dể đạt một thoả hiệp hoà bình với phía Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, với chính phủ Hà Nội. Đa số những nhà tài phiệt lớn ở Sài Gòn đều mong muốn giải pháp đó và đều ủng hộ ông Dương Văn Minh như ngọn cờ có thể phần nào cứu rỗi được họ. Tôi nhớ có một lần ngồi trong vườn phong lan nói chuyện với ông Dương Văn Minh, ông đã kể cho tôi nghe việc Tiến sĩ Trương Thái Tôn – Chủ tịch Việt Nam Ngân hàng, Tổng Giám đốc nhiều công ty lớn đánh bắt thủy sản, có nhiều tàu lớn đi biển đánh cá đại dương – qua trung gian của nhiều người bạn ông Minh, tới thăm và bày tỏ sự ủng hộ nồng nhiệt giải pháp Dương Văn Minh. Vì là chủ tịch Việt Nam Ngân hàng, là một người từng làm Bộ Trưởng Bộ Kinh tế dưới chính phủ Thiệu, ông Trương Thái Tôn rất cụ thể trong việc ủng hộ Tướng Minh. Ông trao tặng Tướng Dương Văn Minh một tập ngân phiếu trắng đã có đầy đủ con dấu và thủ tục để sử dụng rút tiền, yêu cầu ông Dương Văn Minh và vợ con ông Minh, bất cứ khi nào cần sử dụng tiền, với bất cứ số lượng nào, cứ viết ngân phiếu ra ngân hàng Việt Nam mà lãnh. Tập chi phiếu đó có thể rút ra được nhiều tỷ bạc Việt Nam vào thời kỳ trước giải phóng với lý do để cho Tướng Minh xài trong việc nước. Nhưng Tướng Dương Văn Minh đã không sử dụng và vợ ông ta cũng không sử dụng (dù là một đồng bạc). Lúc đó ông Dương Văn Minh nói với tôi: “Moi không thể xài tiền của họ cho dù với các mục tiêu chính đáng”. Việc đó không ai biết nếu tự động ông Dương Văn Minh không nói ra cho tôi nghe. Đó là một kỷ niệm khiến tôi nhớ mãi về ông Dương Văn Minh, trong những ngày tôi nghèo đói sau này.
- Bà Bùi Thị Mè, bà mẹ Việt Nam anh hùng, có bốn người con là tử sĩ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, là một người từng đóng vai trò tích cực vận động để chính phủ CHXHCNVN chấp nhận cho ông Dương Văn Minh được xuất ngoại. Mỗi lần gặp tôi có dịp nhắc về Tướng Dương Văn Minh bà luôn nói đến với tình cảm trân trọng và với sự cảm động. Bà Mè nói với tôi: “Cô đã muốn rớt nước mắt khi một lần đến thăm ông Dương Văn Minh ở nhà con trai của ông tại Paris. Cô thấy anh Minh đang ngồi đơm lại cái áo sứt nút (lúc đó ông Minh đã trên 70 tuổi). Con dâu của anh Minh được giáo dục tại Pháp, nó đâu có quen phục vụ cho người già cả. Anh Minh phải tự vá quần áo và đơm nút áo”. Bà Bùi Thị Mè vừa nói với tôi vừa nhắc đến ông Minh và rơm rớm nước mắt. Bà còn nhắc lại với tôi nhiều lần về việc ông Dương Văn Minh, dù không có đủ tiền để trị bệnh tiểu đường cũng đã mạnh dạn từ chối không nhận trợ cấp của chính phủ CHXHCNVN trong thời gian ông sống ở Pháp, lúc về già ông nói: “Ở trong nước còn nhiều người khổ hơn tôi, tôi không thể nào nhận lãnh trợ cấp đó”. Được biết chính quyền TPHCM thông qua bà Bùi Thị Mè đã có nhiều lần ngõ ý trợ giúp ông Minh vì biết cảnh sống không được đầy đủ lắm của ông những ngày cuối đời ở Pháp. Viết đến đây tôi xin kể ra thêm một chi tiết về bản tánh khí khái của người tướng lãnh Dương Văn Minh. Trong thời gian còn ở Việt Nam, làm thủ tục để đi Pháp, ông Dương Văn Minh có được Tổng Lãnh Sự Pháp tại Sài Gòn đến nhà ông thăm viếng và bày tỏ lòng ngưỡng mộ. Vị Tổng Lãnh Sự Pháp lúc đó có nói với ông Dương Văn Minh: Chính phủ Pháp có chỉ thị cho Tổng Lãnh Sự quán Pháp tại Sài Gòn sắp xếp chu đáo cho việc ông Minh sang Pháp (sau khi được chính phủ Việt Nam ở Hà Nội chấp thuận). Ông Tổng Lãnh Sự Pháp có hỏi Dương Văn Minh: “Đại Tướng có cần bất cứ việc gì, chính phủ Pháp sẽ sẳn lòng giúp đỡ”. Ông Dương Văn Minh đã trả lời: “Tôi rất cám ơn ông Tổng Lãnh Sự và xin ông Tổng Lãnh Sự vui lòng chuyển lời cám ơn của tôi đến chính phủ Pháp. Tôi đã được chính phủ Việt Nam dành mọi dễ dàng và giúp đỡ để cùng gia đình đoàn tụ tại Paris. Do đó tôi không có yêu cầu gì thêm nữa”. Vị Tổng Lãnh Sự Pháp đã rất bất ngờ khi nghe ông Dương Văn Minh nói như thế. Trước khi lên đường sang Pháp, ông Dương Văn Minh có nói với bà Bùi Thị Mè nhờ bà chuyển lới của ông đến chính phủ Việt Nam, sang Pháp ông không làm chính trị, không tiếp xúc báo chí và không trả lời phỏng vấn báo chí. Lời hứa đó suốt nhiều năm ở Paris và ở Mỹ, ông Dương Văn Minh giữ trọn mặc dù báo chí Mỹ và báo chí Pháp rất nhiều lần săn đón. Ông Minh sống đời bình thường với các con và các cháu nội, cháu ngọai của ông. Những ngày cuối đời ông Dương Văn Minh rất muốn được về Sài Gòn sống, chính phủ Việt Nam cũng đã nhiều lần tỏ ý thuận tình. Nhưng chẳng may vào năm 2002, trước khi được trở về Sài Gòn, tại đất Mỹ ông đã bỏ đi xa vĩnh viễn. Ông không trở lại Việt Nam nữa. Vào ngày lễ thứ 100 kỷ niệm ông mất, tại nhà ông ở đường Võ Văn Tần có một buổi lễ truy điệu trong nội bộ, bà con thân hữu của ông và đặc biệt của một số bạn bè chí cốt. Khi ông Dương Văn Minh chết tại Mỹ, cựu dân biểu Nguyễn Hữu Chung lúc đó đang ở Canada, có bay sang California để đọc một bài điếu văn rất cảm động về cuộc đời của Tướng Dương Văn Minh. Dân biểu Nguyễn Hữu Chung hiện nay cũng đã đi xa vĩnh viễn. Con trai của Tướng Dương Văn Minh đã đem hài cốt của ông từ Mỹ về vào ngày giỗ năm thứ hai, và đặt bàn thờ ông tại nhà số 3 đường Võ Văn Tần, quận 3 TPHCM. Căn nhà đó là một biệt thự xinh đẹp, lúc xưa được mang tên Dinh Hoa Lan, mấy năm gần đây đã xuống cấp, vẫn là nơi đầy kỷ niệm, ghi dấu những ngày nhiều người Sài Gòn tụ tập chung quanh ông Dương Văn Minh để đấu tranh cho nền hoà bình dân tộc. Hiện nay sau 30 năm, đa số những người đó đã vĩnh viễn ra đi. Chỉ còn lại tại căn nhà số 3 Võ Văn Tần một dấu tích: Ông tài xế của Tướng Minh, người gốc Khờ Me tên là Thạch Panh, năm nay (2004) đã 70 tuổi. Ông Panh mấy chục năm lái xe cho Tướng Dương Văn Minh, được ông và các con của ông Minh cho ở lại trong Dinh Hoa Lan. Mỗi lần những người quen thân với ông Dương Văn Minh gặp lại chú Panh, thấy chú Panh ai cũng nhớ đến người thầy cũ của ông. Cả gia đình chú Panh bây giờ đã có cháu chắt hàng mười mấy người đều tụ họp sống ở nơi trước kia gia đình ông Dương Văn Minh sinh sống. Một tình cảm thầy trò chung thuỷ, không phân biệt giai cấp, không phân biệt sang hèn đã thể hiện trong cuộc sống bình dị đầy tình cảm đạo đức và rất trong sạch của người tướng lãnh Dương Văn Minh, người con thân yêu của đất Láng Cò, Tân An; một con người đã sống và chết cho nền hoà bình của Việt Nam, cho sự độc lập của dân tộc. Theo nhiều người và rất nhiều người nữa, trong đó có tôi, ông Dương Văn Minh xứng đáng được tôn vinh là một người anh hùng, có đóng góp công sức vào nền hoà bình của Việt Nam. Lịch sử sau này có lẽ sẽ ghi đậm nét hình ảnh của một Dương Văn Minh trong sạch, yêu nước, yêu hoà bình và anh hùng.
______
Viet-studies
Chương 11: THÁNG 5-1975 NHỮNG NGÀY KHÓ QUÊN
16-03-2015
Ngày 1- 5-1975 chính quyền mới vừa vào đến Sài Gòn đã có thể tổ chức ngay một cuộc mít tinh lớn gồm hàng chục ngàn người trước Dinh Độc Lập để mừng ngày đại thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam và mừng ngày Quốc tế lao động 1- 5. Về mặt tổ chức quần chúng, biểu tình xuống đường, hoan hô đã đảo, đó là nghề “của chàng”. Không ai giỏi bằng những người của Mặt Trận Giải Phóng trong việc rỉ tai tuyên truyền, nói nhỏ và cũng không ai giỏi bằng cán bộ Mặt Trận trong việc sắp xếp ngày biểu tình vĩ đại đầu tiên dưới chế độ mới. Mới vào Sài Gòn nắm quyền toàn diện không đầy 24 tiếng đồng hồ thế mà những cán bộ dân vận, tôn giáo vận đã có mặt đều khắp. Không phải chỉ riêng sinh viên học sinh đi biểu tình mà cả nhà sư, linh mục, ni cô áo vàng áo lam ,các giáo sĩ Cao Đài, đại diện các đoàn thể đều có mặt đông đủ trước Dinh Độc Lập trước 3 giờ sáng ngày 1-5-1975. Đáng nói hơn nữa là các nghệ sĩ sân khấu cải lương, kịch nói như Kim Cương, Bạch Tuyết, Ngọc Giàu, Thành Được…đều có mặt trong cuộc mít ting mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng. Chưa từng có một cuộc huy động hàng mấy chục ngàn dân tràn ra ngoài đường nhanh như thế. Không khí chiến thắng sục sôi trong lòng nhiều tầng lớp dân thành phố Sài Gòn. Có những người trong lòng hồi hộp âu lo chưa biết số phận mình ra sao, nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười hớn hở. Trước đây, tại Sài Gòn trên báo chí, trên cửa miệng đầu môi chót lưỡi của mọi người, rất ít thấy những từ ngữ như “hồ hởi phấn khởi”, nhưng vào ngày đó những từ ngữ mới mẻ này được loan truyền qua hàng trăm hàng ngàn loa phóng thanh khắp mọi nơi trong Sài Gòn. Người ta thấy hàng đoàn xe Jeep, xe lam ba bánh chở hàng trăm, hàng ngàn người, xe nào xe nấy cũng trương cờ đỏ sao vàng hoặc cờ đỏ nền xanh (cờ Mặt Trận Giải Phóng). Rất nhiều thanh niên đứng, ngồi trên các xe chạy quanh thành phố, đầu đội mũ tai bèo, cổ quàng khăn choàng tắm, vai mang băng brassard đỏ. Hai người làm tôi nhớ nhất khi thấy những cảnh này và hồi tưởng lại sau mấy chục năm vẫn như in trước mặt: đó là nhà văn Cung Tích Biền và phóng viên tập sự Nguyễn Văn Nhạn. Lúc đó tôi cứ ngỡ hai người này là cán bộ lâu năm hoạt động thành cho Mặt Trận Giải Phóng. Tôi có cảm giác nể nang họ vô cùng. Nhưng vài tháng sau tự nhiên bóng dáng của Cung Tích Biền của ngày đầu giải phóng lăng xăng chạy tới chạy lui trên các xe Jeep, bỗng nhiên mất hút. Cũng như bóng dáng của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, của tiến sĩ báo chí Huỳnh Văn Tòng trong ngày tiếp thu Dinh Độc Lập, hai người bạn đó của tôi theo đoàn quân Giải Phóng chạy xồng xộc vào Dinh Độc Lập, trên cánh tay mang brassard đỏ (hai bạn tôi chỉ xuất hiện hùng dũng vào ngày đó, hầu như chỉ có ngày đó thôi), sau này cũng lặn mất. Họ chẳng phải là cán bộ “cộm cán” gì của phía Mặt Trận Giải Phóng, họ chỉ là những thanh niên yêu nước, bấy lâu nay trong lòng sục sôi một ngày giải phóng độc lập, tự do, tự chủ. Họ “sướng” quá, nhảy cỡn lên. Có lẽ có ai đó trong Mặt Trận tổ chức các anh bạn trí thức này, ngày đó cho họ đeo băng đỏ trên tay, chạy ù ù vào Dinh Độc Lập tượng trưng cho các tầng lớp nhân dân cùng bộ đội cụ Hồ, lật đổ chính quyền cũ, tung hô vạn tuế, vạn vạn tuế chính quyền mới.
Nỗi vui mừng dâng trào phụt lên từ mọi phía, mọi nơi, từ trong mọi người giống như sự phụt lên của những mạch nước ngầm khi có cơ hội bộc phát lên trên. Những ngày như thế là những ngày vui sướng của hàng vạn vạn con người từng khát khao chiến thắng sau bao nhiêu năm chịu đựng đắng cay, đau khổ. Lửa chiến thắng đã bùng lên trong đại đa số người dân Sài Gòn, lửa đó không ai dập tắt nỗi. Một điều mà những người cầm quyền mới, lúc đó có thể không thấy được, là lửa chiến thắng vào ngày 1-5-1975 cũng đã bùng cháy lên trong lòng, trong tận sâu thẳm trái tim của hàng trăm ngàn cán bộ, viên chức, quân nhân, sĩ quan, trí thức, thầy cô giáo thuộc về chế độ cũ. Họ là những người sống và phục vụ cho chế độ cũ, vì sự sinh sống hàng ngày với những bó buộc đã tạo cho họ thói quen trong nếp sống của người công chức cũ. Nhưng trong sâu thẳm của lòng dạ từng con người Việt Nam vẫn tiềm tàng lòng yêu nước. Những người bình thường nhất trong số họ, sau những phút giây ngắn ngủi đầu tiên bỡ ngỡ, cũng chợt tỉnh thức và cũng chợt dấy lên niềm sung sướng được sống đời độc lập, không thấy bất cứ một bóng dáng ngoại nhân nào trên quê hương họ. Niềm vui sướng đó là động lực lớn, là yếu tố chính khiến hàng triệu người đã từng sống dưới chế độ cũ, cảm thấy thoải mái tự nhiên tuân hành và đi theo những mệnh lệnh sắp xếp của chính quyền mới.
Tôi còn nhớ ngày chế độ mới công bố lệnh buộc quân nhân công chức chế độ cũ, những người tương đối ở các vị trí then chốt, phải đi học tập cải tạo. Sĩ quan từ cấp đại uý trở xuống, đi học tập 10 ngày, từ cấp thiếu tá trở lên, chuẩn bị áo quần và lương thực, tiền bạc để đi học tập một tháng. Lệnh này cũng áp dụng cho các loại công chức khác, cấp từ chủ sự phòng trở xuống, đi học 10 ngày, các loại công chức cao cấp hơn đi học một tháng. Đại loại, lệnh triệu tập đi học cải tạo tập trung được ban ra, đại đa số các thành phần sĩ quan công chức cao cấp đều răm rắp tuân theo. Trong lòng họ dĩ nhiên có nỗi lo âu, nơm nớp, nhưng vẫn pha lẫn chút hy vọng loé lên: sau khi đi học tập 10 buổi hoặc một tháng trở về, họ sẽ được sống đời bình thường của một công dân đàng hoàng tử tế. Đại đa số những người đó với tinh thần tôn trọng kỷ luật mới của chế độ mới, họ đi tập trung rần rần và ào ào cả vài trăm ngàn người. Ở thành phố Sài Gòn lúc đó người ta bàn tán xôn xao, chắc là đi học xong không lâu sẽ được về. Với niềm hy vọng và sự tin tưởng sẽ được trở về, họ đã chuẩn bị thu xếp gia đình từ giã vợ con để đi đến trường cải tạo với một niềm tin sẽ có cuộc sống mới. Đâu có ai ngờ, họ không phải đi 10 ngày hay một tháng mà hầu như đại đa số bọn họ phải đi nhiều tháng nhiều năm. Họ không phải đi học ở gần nhà, ở các trường huấn luyện quân sự hay ở các trường huấn luyện chính trị. Đại bộ phận họ phải đi học thật xa, đa số ra ngoài miền Trung rồi ra miền Bắc. Họ sống ở những trại cải tạo đúng với ý nghĩa của những trại giam và bọn họ được đối đãi như những người tù, những người tù không có bản án, không có những án lệnh riêng tư, họ là những người tù tập thể. Họ sống đời sống của những tù nhân chính trị không thua gì những người tù khổ sai. Về mặt công khai, họ không bị kết án tù. Về mặt công khai gia đình vợ, con họ nhiều năm nhiều tháng không liên lạc được với họ, không hiểu số phận của họ ra sao. Đối với bản thân họ, thông cáo kêu gọi đi học tập cải tạo tập trung là một thông cáo lường gạt, đẩy họ vào nhà tù một cách không ngờ, không lý do giải thích, không bản án và không có thời hạn.
Sau này, vài ba năm kể từ ngày họ đi học tập cải tạo vợ con họ mới tìm đường liên lạc, chạy hỏi han khắp nơi khắp nẻo mới biết được họ đang ở đâu và mới có thể tìm thăm gặp. Những bi kịch về đời đi học tập cải tạo của hàng triệu sĩ quan và công chức chế độ cũ, đi học ở tận những tỉnh, những vùng sâu vùng xa, trên núi trên rừng, những thảm cảnh đó chỉ có những người sống trong cuộc mới có thể hiểu và lột tả được hết. Có ít ra là một hai trăm ngàn người đã ngã bệnh và đã chết trong thời gian đi học tập cải tạo. Đúng ra, họ đã phải sống đời của những người tù bị xử như tù thua trận. Họ không phải là tù binh, cũng không phải là tù chính trị. Trong ròng rã hơn 10 năm kể từ tháng 6-1975 và những năm sau đó, họ, những ngươi đã đi vào trại cải tạo với niềm tin là sẽ đuợc trở về sau một tháng rèn luyện, họ và gia đình của họ đã bị nhầm lẫn to lớn. Điều đó đã để lại trong họ những vết tích, những dấu ấn mà vài chục năm sau mới mong xoá nhòa đi được. Đại bộ phận của những người đi học tập cải tạo trên 10 năm, đã lâm vào những cảnh tan nát, éo le khó lòng tả hết được. Sau khi chồng con họ đi học tập vài ba năm đại bộ phận những người thân ở lại, đã tìm đường di tản, tị nạn. Họ đi bằng đường biển, họ đi bằng đường rừng núi. Đi đường nào thì cũng đầy những khổ ải gian truân. Hầu như 30 – 40% những người vượt biên là thân nhân của những người đi học tập cải tạo. Trên 1,5 triệu người đã vượt biên và chỉ có non một triệu người may mắn được tới những bến bờ sống sót. Ngày nay viết lại những dòng mô tả, nhắc nhở về giai đoạn những tháng cuối năm 1975 cho đến những năm 1985 – 1986 là nhắc về thời kỳ đen tối trong lịc sử của những người sống sót từ chế độ cũ, là nhắc về giai đoạn sống trong khổ ải và hờn căm của đại bộ phận những người đi học tập cải tạo. Bươi lại những vết đau của lịch sử, những vết đen của một thời kỳ thật ra không có ích lợi gì cho đất nước, cho bất cứ ai và nhất là cho người viết. Nhưng phải nhắc lại để nói đó là một thời kỳ lầm lẫn đáng tiếc của những người đã chiến thắng trong trận đấu tranh trường kỳ cho độc lập và tự do của tổ quốc. Công lao của những người chiến thắng đối với nền độc lập tự chủ của đất nước không ai có thể chối cãi được. Nhưng sai lầm của quyết định triệu tập hàng triệu người của chế độ cũ đi học tập cải tạo dài ngày giống như và đôi khi còn hơn những người tù khổ sai là một sai lầm lớn làm giảm mất hơn phân nửa khí thế của chiến thắng, làm thiệt hại to lớn tình đại đoàn kết dân tộc. Quyết định đó không phản ảnh được chính sách đại xá, đại hỷ xả của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Tôi còn nhớ rất rõ một buổi nói chuyện với đại đa số trí thức Sài Gòn vào năm 1976 của Cụ Hà Huy Giáp, một bậc học giả uyên thâm của miền Bắc, một người rất thân cận với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ Hà Huy Giáp có thuật lại cho các trí thức Sài Gòn nghe tại hội trường Dinh Độc Lập. Bác Hồ vào những ngày cuối đời, trước khi Bác mất, có gọi Bộ Chính Trị vào gặp Bác tâm sự. Bác Hồ có hỏi những vị trong Bộ chính trị: sau này nếu giải phóng hoàn toàn miền Nam, Bộ chính trị sẽ làm gì trước hết. Cụ Hà Huy Giáp không có thuật lại là những vị trong Bộ chính trị trả lời với Bác như thế nào. Cụ Hà Huy Giáp chỉ nhấn mạnh, trong cuộc gặp gỡ đó, Bác Hồ có căn dặn các vị trong Bộ chính trị, nếu giải phóng miền Nam xong là phải lập tức miễn thuế cho nông dân nhiều năm, là phải áp dụng ngay chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử, là phải đại xá ngay cho những người tù và kêu gọi mọi người đem tài đem sức cùng nhau xây dựng đất nước. Chính sách đại đoàn kết dân tộc, sau này người ta có nói đến, nhưng chính sách đại xá, hỷ xả quên đi những chuyện xấu trong quá khứ hình như người ta không áp dụng đúng, kể cả việc miễn thuế cho nông dân nhiều năm, hầu như cũng chẳng ai làm. Khi nói chuyện với các nhà trí thức Sài Gòn, cụ Hà Huy Giáp đã nhấn mạnh tới sự quảng đại bao dung của Bác Hồ, điều đó hình như khi ban hành lệnh học tập cải tạo tập trung, người ta đã không nhớ đến lời căn dặn của Hồ Chủ Tịch. Nếu quả đúng, chỉ đi học tập cải tạo 10 ngày và 30 ngày theo như sự căn dặn trong thông cáo kêu gọi, không khí trong nhân dân miền Nam liền sau những ngày và những năm tháng mới giải phóng sẽ khác hẳn. Chúng ta sẽ có đựơc hàng triệu bàn tay, khối óc đắp xây cho một nước Việt Nam giàu mạnh sau chiến thắng. Hàng triệu người đã không phải ồ ạt tị nạn vượt biên, mang theo vô số của cải và mang theo hàng trăm ngàn đầu óc thông minh, trí tuệ sáng suốt, có kỷ thuật, có tay nghề và chắc chắn có trái tim yêu nước. Tiếc thay, bối cảnh lúc đó, người ta chỉ nghĩ đến việc cũng cố và xây dựng quyền lực thật vững chắc, thật chặt chẽ. Người ta nghi ngờ ở đâu cũng có kẻ địch và người ta khiếp sợ kẻ địch luồn lách trong đại đa số những nguời chế độ cũ để quấy phá và tìm cách lật đổ chính quyền. Người ta đã áp dụng chủ trương thà bắt lầm hơn thả lầm, thà giữ được quyền lực vững chắc trong tay bằng những biện pháp sắt máu hơn là để cho chính quyền cách mạng lung lay hay chông chênh trong bão táp chính trị của những phe phái phản động gây nên. Người ta đã quên một điều rất lớn: đại đa số nhân dân miền Nam yêu nước, đại đa số nhân dân miền Nam trước đây đều có mối quan hệ chằng chịt với hai phe hai phía, người ta đã quên một điều rất hiển nhiên, yếu tố thúc đẩy và làm nên chiến thắng chẳng thể đảo được của cách mạng là đa số nhân dân miền Nam đều yêu nước, đều phân biệt được chinh và tà, đều phân biệt được đâu là con đường đúng đắn và có lợi nhất cho dân tộc trong tương lai. Chính tính cách đó của nhân dân miền Nam đã góp phần quyết định chiến thắng vẻ vang của cách mạng. Nhưng cũng ngay sau đó người ta không phát huy mạnh mẻ tính cách này, người ta đâm ra đề phòng, người ta đâm ra chỉ thấy có những âm mưu quấy phá của kẻ địch và điều đó đã khiến có một thời kỳ có những sai lầm lớn mà hậu quả sau này lịch sử phải tốn nhiều thời gian để sửa chữa và hàn gắn lại. Theo tôi được biết, trong số những nhân vật lãnh đạo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam có rất nhiều người không đồng tình với những giải pháp mạnh, cứng ngắt, với “bàn tay sắt” mà những nhà cầm quyền ở Hà Nội đem ra áp dụng vào những năm 1975…1980. Cụ thể, tôi nghe nói luật sư Nguyễn Hữu Thọ, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát kể cả ông Trần Bạch Đằng là những người đại diện cho khuynh hướng ôn hoà, chủ trương hoà bình – hoà giải – và hoà hợp dân tộc. Những vị này, gốc người miền Nam, hiểu rõ tâm tính của dân miền Nam, muốn có một giai đoạn giao thời kéo dài, trong giai đoạn đó, những khác biệt về cơ cấu, về tính cách, về hoàn cảnh, về trình độ văn hoá, về cách sống cách ứng xử của nhân dân hai miền sẽ có cơ hội làm quen hoà hợp, lần lần sẽ tiến tới một sự thống nhất, đồng thuận đương nhiên trong cơ cấu văn hoá chính trị xã hội. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, chân lý đó không có ai thay đổi được. Chân lý đó theo thời gian sẽ hàn gắn hoà đồng mọi khác biệt sau hơn 20 năm chia cắt. Tự thân cuộc sống của dân tộc trong bước đường phát triển, trong bước đường đi lên sẽ dẫn tới sự đại đoàn kết, sự đại thống nhất trong một nước Việt Nam hùng mạnh, có khả năng dung hợp mọi thành phần, luôn đón chào mọi sự đóng góp của những người con thân yêu của đất nước, của mọi trí tuệ Việt Nam, không phân biệt màu sắc tôn giáo, không phân biệt địa phương, không phân biệt thành phần xã hội; một nước Việt Nam của mọi con người tiến bộ. Chúng ta đã làm mất gần 20 năm sau chiến thắng 1975, chúng ta đã đẩy lùi và chận bước tiến của dân tộc bằng những biện pháp phân biệt đối xử, bằng đối sách nghi kỵ, bằng sự củng cố quyền lực quá mạnh, quá tay, nếu không muốn nói là bằng giải pháp độc quyền yêu nước của thời kỳ 1975 và một số năm về sau. Đó là một lỗi lầm quá lớn đối với lịch sử, nó đã khiến đất nước chúng ta không phải đi chậm lại, mà đôi khi còn bị đẩy lùi về sau so với một nước bạn láng giềng trước đây chỉ so kè với ta. Đó là Thái Lan.
Nhắc lại những ngày tháng đầu tiên kế tiếp theo sau tháng 4-1975, chúng ta không khỏi nhắc tới, với lòng ưu phiền, với sự ân hận và với sự tiếc rẻ. Nhiều người đã giải thích cuộc cách mạng nào trong bước đầu thành công cũng có một thời kỳ ấu trĩ đáng tiếc và đáng buồn. Nhận chân ra được những năm sau 1975 là những năm trưởng thành trong ấu trĩ, đó cũng là một nhận định can đảm trước thực tế chua chát, đôi khi đáng nản và đáng phẫn nộ của những người cầm quyền. Bản thân tôi, một trí thức yêu nước, không đảng phái, không tôn giáo, đã lớn lên trong một thời kỳ đất nước có nhiều nghiêng ngửa, nhiều xáo trộn, tôi đã may mắn đi theo con đường hoà bình của nhóm ông Dương Văn Minh. Tôi không phải là một người theo chính quyền cũ, một người đi theo Mỹ mặc dù tôi có nhiều cơ hội để đi theo. Mới đây, một ông bạn tôi, bác sĩ Trương Thìn, một chuyên gia đáng quý của đất nước về y học cổ truyền của dân tộc, đã nói đùa với tôi: “vous êtes l’homme bien marqué par les deux régimes” (anh là người được hai chế độ đánh dấu khá cẩn thận). Ông bạn tôi là người rất ít nói, ông vừa là một bác sĩ có tài, vừa là một nhà thơ, một hoạ sĩ và là một nhạc sĩ. Công lao của ông đối với nền y học dân tộc rất lớn lao, ông đã đem sự an vui đến cho hàng trăm ngàn người sau mấy chục năm hành nghề vừa Tây y vừa Đông y. Ông là một nhà văn hoá, một nhà chuyên môn giỏi không màng đến lợi danh chính trị. Ông nói về tôi như thế với sự thông cảm của một người hiểu đời, hiểu số phận cay đắng của những kẻ từng lội giữa hai dòng nước. Mà ở miền Nam này đâu phải có mình tôi lội giữa hai dòng nước. Đã có biết bao nhiêu thanh niên trí thức vào lớp tuổi của tôi, không đi theo phe này phe kia, chỉ sống một đời bình thường của một người vô danh, yêu đất nước Việt Nam, muốn cho đất nước độc lập, hoà bình, dân chủ và giàu mạnh. Đã có bao nhiêu người như thế bị vùi dập giữa hai dòng nước, giữa hai dòng đời. Cái may của tôi là có một thời kỳ tham gia làm báo và làm chính trị. Tôi khác hơn nhiều người cùng một tâm trạng và một tâm tinh với tôi, chỉ ở điểm đó. Tôi nhớ lại, sau ngày giải phóng, không phải đương nhiên tôi được xếp vào loại miễn đi học tập cải tạo vì trước ngày 30- 4-1975 tôi không hề trực tiếp tham gia hay được trực tiếp móc nối để hoạt động cho cách mạng. Nhât báo Điện Tín do tôi làm phó chủ bút thường trực (tổng thư ký toà soạn) từ cuối năm 1971 đến 2-1975, đóng góp rất lớn vào cuộc đấu tranh chống Mỹ can thiệp vào Việt Nam, chống chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu. Tôi hướng tờ báo theo đường lối đó vì đường lối đó hợp với tâm tinh và nguyện vọng của tôi. Cọng tác với tôi để làm nên tờ báo, để biến nó thành một vũ khí đấu tranh cách mạng còn có sự tham gia hàng trăm cây viết khác, trong đó có sự trực tiếp tham gia của một vài cán bộ cộng sản nằm vùng. Trong quá trình làm việc, do có một vài va chạm vì tinh tình và quyền lợi cá nhân, có một người cán bộ cũng khá có thế lực, có lẽ không ưa tôi. Đo đó, anh ta đã có những báo cáo không trung thực. Chính vì thế, ban đầu tôi được quyết định xếp vào loại phải đi học tập cải tạo. Tôi đã chuẩn bị tư thế sẵn sàng, đầu hớt tóc cua, trong túi xách thủ theo vài ba cái quần đùi, vài ba cái áo thun, sẵn sàng lên đường. Anh bạn tôi, vừa là ông anh, Hồ Ngọc Nhuận, vào thời 1975 rất có uy tín với những người nắm chính quyền mới. Chính anh Hồ Ngọc Nhuận đã đấu tranh quyết liệt, anh kết luận: “suốt nhiều năm làm việc với Dương Văn Ba, tôi nhận thấy anh ta có lòng yêu nước nồng nàn, có tích cực đấu tranh cho cách mạng. Nếu cách mạng buộc Dương Văn Ba đi học tập cải tạo, Hồ Ngọc Nhuận cũng tình nguyện đi học tập cải tạo theo”. Sự đấu tranh tích cực của Hồ Ngọc Nhuận âm thầm, tôi không hay biết đã khiến cho chính quyền cách mạng ở Sài Gòn thay đổi thái độ với tôi. Vào đêm trước ngày khắp nơi ở miền Nam, hàng triệu người phải khăn gói lên đường đi học tập cải tạo, tôi còn nhớ khoảng 10 giờ đêm, lúc đó trời đang mưa, có một chiếc xe Volswagen 12 chỗ ngồi lù lù chạy đến cổng số 3 đường Trần quý Cáp – quận 3, Sài Gòn, bóp kèn inh ỏi. Tôi ra mở cửa, mặc quần xà lỏn và áo thun lá, chuẩn bị sáng mai lên đường sớm. Một người ngồi trên xe ô tô bước xuống hỏi: “Có phải ông là Dương Văn Ba hay không?”. “Dạ phải”. “Tôi mang công văn của Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia định đến cho anh”. Vừa nói, người ấy vừa đưa cho tôi một phong bì màu trắng. Tôi nhận lấy và cám ơn. Người khách vội vã trèo lên xe ra đi không kịp từ biệt tôi. Tôi quay vào nhà. Cả nhà em út, vợ con xúm xít lại đọc bức thư của Ủy Ban Quân Quản gửi cho tôi:
Ủy Ban Quân Quản Thành phố Sài Gòn Gia Định
Kính gửi: Ông Dương Văn Ba
Tôi xin trân trọng báo tin cho ông biết: Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định đã có quyết định cho ông được miễn đi học tập cải tạo kể từ ngày….(tôi không còn nhớ rõ).
Chánh văn phòng Ủy Ban Quân Quản
Thành phố Sài Gòn Gia định
Ký tên
Thượng tá Nguyễn Văn…
Đọc xong bức thư thông báo của Chánh Văn Phòng Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định, cả nhà tôi reo lên. Ai nấy cũng vui mừng kể cả thằng con nhỏ nhất của tôi vừa mới 4 tuổi. Lúc đó, cả tôi và vợ tôi đều nói: “Thế là Bác Hồ đã soi rọi đến gia đình mình” vừa nói như thế chúng tôi đều đồng loạt nhìn lên ảnh Bác Hồ đang treo trên tường giữa nhà (vào thời gian đó, ở thành phố Sài Gòn, bất cứ nhà của ai cũng đều có treo ảnh của Hồ Chủ Tịch để bày tỏ quan điểm ủng hộ chính quyền và để đảm bảo được yên thân).
Tưởng cũng nên nhắc lại một vài sự kiện liên quan đến vấn đề học tập cải tạo: tôi được miễn đi học tập cải tạo tập trung như hàng mấy trăm ngàn người khác. Ở Sài Gòn, mấy tháng sau ngày giải phóng, Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc có mở lớp học tập đặc biệt cho khoảng 40 trí thức chế độ cũ trong đó có cả Hồ Ngọc Nhuận và Ngô Công Đức. Tôi được danh dự tham gia khoá học tập này. Khóa này chỉ kéo dài 3 tuần lễ. Giảng viên nổi bật lúc đó là ông Mai Chí Thọ, sau này có thời gian là Giám đốc Công an TP.HCM, Chủ Tịch UBND Thành phố, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ. Một giảng viên khác của khoá học ngắn ngày này là ông Tạ Bá Tòng, Thường trực UBMTTQ Thành phố. Sau khoá học đó khoảng một năm, chúng tôi được cấp giấy chứng nhận trả lại quyền công dân. Anh Hồ Ngọc Nhuận, khi nhận được giấy này cũng rất buồn cười, có nói với anh em: kể cả tôi, đã từng có thời gian làm việc móc nối cho cách mạng, vẫn có lúc bị coi như không có quyền công dân. Xin kể lại một chuyện có thật, ngay những ngày đầu sau giải phóng, trong lúc sắp xếp bộ máy nắm quyền tại thành phố Sài Gòn, anh Hồ Ngọc Nhuận từng được đề bạt dự kiến giữ vai trò Phó Chủ Tịch của UBND Cách Mạng Lâm Thời Sài Gòn – Gia Định. Những người khác như ông Lý Quý Chung cũng từng tham dự khoá học ngắn ngày cùng với chúng tôi, trong đó có cả bác sĩ Hồ Văn Minh người từng được ông Dương Văn Minh mời đứng chung liên danh ứng cử Tổng Thống. Đặc biệt, trong tháng 5 và tháng 6-1975, tôi và anh Lý Quý Chung hai , ba lần được Ban Quân Báo của miền Nam mời đến nhà số 2 đường Lê Văn Hưu, quận 1 để hỏi thăm chi tiết về một số sự việc trong tình hình Sài Gòn mấy tháng trước ngày giải phóng. Tôi được Đại tá Ba Lâm (hình như sau này phụ trách Giám đốc nhà Bảo Tàng tội ác Mỹ Ngụy) yêu cầu viết bản báo cáo về tình hình hoạt động 6 tháng liên tục trước ngày 30 – 4 –1975. Tôi đã để dành thời gian 2 tuần lễ cắm cúi viết bản báo cáo thời sự chính trị này đem đến nộp tại cơ quan của Đại tá Ba Lâm. Bản báo cáo của tôi dày gần 200 trang, ghi lại tất cả những diễn biến trong tình hình Sài Gòn lúc bấy giờ qua phản ảnh của báo chí hàng ngày tại miền Nam Việt Nam. Bản báo cáo của tôi cũng phân tich rõ ràng và trung thực những hoạt động của nhóm Hoà Bình Dân Tộc do ông Dương văn Minh đứng đầu. Một điều mà đến bây giờ tôi còn tiếc rẻ: đó là toàn bộ các bản “coupure de presse” mỗi ngày từ tháng 6-1974 đến hết tháng 4-1975 tôi đều đem nộp cho cơ quan của ông Ba Lâm. Các tài liệu báo chí đó rất quí giá để sau này có thể làm tài liệu viết sách. Bây giờ không biết còn được lưu trữ và giữ hìn hay không.
Những ngày trong tháng 5-1975, đa số trí thức Sài Gòn cũ có chút tên tuổi và có dính líu đến các hoạt động chính trị, mà còn ở lại đều được quan tâm chăm sóc kiểu này hay kiểu khác. Thực tế không có một sự làm khó làm dễ nào, mà chỉ là những nỗ lực, những động tác tìm hiểu, những động tác làm quen của những người cầm quyền mới, đối với lực lượng có thể được coi là cốt lõi, tinh hoa còn sót lại của Sài Gòn cũ, mà báo chí thời kỳ bấy giờ thường quen gọi là thành phần thứ ba…
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 9:44:33 GMT 9
Chương 12: NGÔ CÔNG ĐỨC TRỞ VỀ SÀI GÒN
17-03-2015
Ngày 26-4-1975, từ một khách sạn ở Bangkok Ngô Công Đức gọi điện thoại về nhà Đại Tướng Dương Văn Minh ở số 3 Võ Văn Tần. Ông Đức có được số điện thoại này là do con trai của Tướng Dương Văn Minh ở bên Pháp. Thời gian lưu vong, Ngô Công Đức có nhiều tháng ở Paris, ông hoạt động với tư cách thành phần thứ ba. Dương Minh Đức con trai lớn của Tướng Minh là một đầu mối liên lạc để Ngô Công Đức nắm tình hình bên nhà.
Ngô Công Đức điện thoại về gặp Tướng Minh chỉ nói sơ về tình hình chính trị và báo cho Tướng Minh biết chắc chắn phải có thay đổi ở Sài Gòn. Mục đích chính của cuộc điện đàm là để trực tiếp nói chuyện với ông Hồ Ngọc Nhuận, lúc đó đang tạm trú trong nhà ông Dương Văn Minh. Tướng Minh trao máy điện thoại để dân biểu Hồ Ngọc Nhuận có điều kiện trực tiếp đàm đạo với ông Ngô Công Đức. Qua gần 40 phút trao đổi, Ngô Công Đức cho biết từ Bangkok ông đang tìm đường đi Hà Nội thông qua ngõ Hong Kong vì hoàn cảnh lúc đó giữa Hà Nội và Thái Lan không có trực tiếp bằng đường hàng không. Hồ Ngọc Nhuận cũng được Ngô Công Đức khuyên đừng giữ bất cứ chức vụ gì trong chính phủ Dương Văn Minh vì chắc chắn Sài Gòn sẽ được giải phóng. Ngô Công Đức qua Hà Nội để biết thủ đô của Việt Nam và để làm một số nhiệm vụ, sau đó ông ta sẽ nhanh chóng trở về Sài Gòn. Những nội dung này anh Hồ Ngọc Nhuận không nói hết cho tôi nghe, chỉ úp úp mở mở vì nó còn nằm trong vòng bí mật. Sau này có dịp ông mới nói rõ lý do tại sao trong những ngày 27, 28, 29 và 30-4-1975 ông đều rất ít có mặt trong nhóm Dương Văn Minh, mặc dù những đêm đó ông và bà Kiều Mộng Thu đêm đêm vẫn về ngụ tại nhà số 3-2 Võ Văn Tần là nhà của Thiếu Tá Hoa Hải Đường, cận vệ và là sĩ quan tùy viên trung tín nhất của Tướng Minh. Thiếu tá Hoa Hải Đường luôn có mặt sát cạnh Tướng Minh vào những giờ nguy hiểm nhất. Sau ngày 30-4-1975, Thiếu tá Đường phải đi học tập cải tạo gần 3 năm trời, sau đó theo yêu cầu của ông Dương Văn Minh, chính quyền cách mạng mới cho Thiếu tá Đường trở về nhà sum họp với vợ con. Về nhà được ít lâu, người sĩ quan tùy viên trung thành nhất của Tướng Minh, đã cùng vợ và hai con gái vượt biên sang Mỹ. Ông Đường và gia đình sang Mỹ trót lọt và sống đời bình yên ở đó. Tướng Minh có ba sĩ quan tuỳ tùng. Đại tá Trương Minh Đẩu, cựu học sinh Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh và cả tiếng Hoa. Ông Trương Minh Đẩu tinh tình vui vẻ và hay tếu, vợ ông là ca sĩ Mộc Lan, nổi danh một thời. Sau ngày giải phóng ông Trương Minh Đẩu không phải đi học tập cải tạo. Do giỏi Anh Pháp ngữ có lúc ông làm cán bộ xuất nhập khẩu của công ty Xuất khẩu Nông sản Sài Gòn. Ông Đẩu mất khoảng năm 1986, vợ ông rất nghèo, có căn nhà ở trong phạm vi Bộ Tư Lệnh thành, bị đuổi, hiện nay đã trên 70 tuổi, phải ở trong một căn nhà nhỏ thuê mướn trong xóm lao động nghèo, nuôi đứa con gái bị bệnh tâm thần nhẹ. Hoàn cảnh gia đình của chị Mộc Lan, những người biết chị và ông Đẩu rất thương tâm, nhưng chẳng ai giúp được gì nhiều. Ông Đẩu mất đi vì bệnh hoạn, trong tuổi già và nghèo. Đời của một sĩ quan chân chất làm tuỳ tùng cho một ông Tướng sạch, kết thúc trong âm thầm lặng lẽ.
Thiếu tá Hoa Hải Đường là sĩ quan nhảy dù, con của ông Hoa Văn Mùi, có lúc làm giám đốc cảnh sát Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm. Ông Đường tinh tình khẳng khái đơn giản là một con người trong sáng. Ông theo ông Dương Văn Minh đến giờ phút sau cùng, chứng tỏ ông là một quân nhân có kỷ luật, một thanh niên trung thành với những điều tốt đẹp mà lương tâm và kiến thức đã dạy cho ông. Tôi có thời gian sống gần Thiếu tá Hoa Hải Đường trên 2 năm phải nhìn nhận ông ta là một con người ngay ngắn, trung thực và tôn trọng lẽ phải.
Thiếu Tá Trịnh Bá Lộc, sĩ quan tùy viên thứ 3 của Dương Văn Minh, con của ông Hai Tiễn, bạn thân của Tướng Minh. Ông Lộc lo các công vịêc cần vụ cho Tướng Minh. Ông cũng là một thanh niên thông minh, nhạy cảm, biết tính toán và biết chọn đúng thời cơ để tạo cho vợ con một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ông Lộc có gần 2 năm vừa làm việc cho Tướng Minh, vừa chạy giấy tờ thủ tục lo cho vợ con của lính Mỹ và của các viên chức Mỹ di cư sang Mỹ. Ở đoạn trên trong quyển hồi ký thứ nhất, tôi đã có nói về việc này. Ông Lộc biết rõ thời cơ Mỹ đã bỏ chạy từ tháng 3-1975 qua nhiều lần nói chuyện với tôi. Ông xác định chắc chắn Việt Nam Cộng Hoà sẽ sụp đổ, các lực lượng quan trọng của Mỹ ở Đà Nẵng đã rút lui về nước từ tháng 2-1975. Ông Lộc không tin chắc vào thời cơ hoà bình sẽ lọt về tay Tướng Dương Văn Minh. Ông đã thẳng thắn xin phép Tướng Minh đưa vợ con ông đi Mỹ từ những ngày đầu tháng 4-1975.
Tôi dành những trang này trong quyễn hồi ký để nhắc về những con người đã sống, làm việc và đi theo phò cận tướng Minh. Những người thanh niên ngay thẳng, đơn giản, sống cuộc đời lương thiện bình thường, trong một xã hội hoàn toàn không bình thường có rất nhiều tệ nạn và thảm cảnh. Những người lính của ông Dương Văn Minh dù họ còn hay mất vẫn để lại trong ký ức của tôi, vợ và các con tôi những hình ảnh tốt đẹp, chân chất. Tôi không khỏi buồn khi nhắc về những ngày tháng từng sống chung với họ trong sự đùm bọc của Tướng Dương Văn Minh.
Anh Đẩu, anh Đường, anh Lộc, tôi bằng cuốn sách này xin gửi đến các anh những tình cảm quí mến nhất. Chúng ta là những thanh niên cùng thời, dù có thể chúng ta sinh lầm thời đại, nhưng theo gương các anh tôi vẫn cố giữ một nếp sống và nếp nghĩ của con người lương thiện và trung thực. Tất cả rồi sẽ qua đi như những lượn sóng phải tan trong đại dương bao la.
Từ sau cuộc nói chuyện với anh Ngô Công Đức, anh Hồ Ngọc Nhuận ít có mặt trong những cuộc họp rầm rộ của ban tham mưu của Tướng Minh. Từ đêm 27, 28-4-1975, ông Nhuận và bà Kiều Mộng Thu như biến đi đâu mất. Kể cả bác sĩ Hồ Văn Minh, người mà năm 1971 ông Dương Văn Minh đã chọn làm ứng cử viên phó tổng thống chung liên danh, cũng biến mất. Sau này gặp lại, tôi hỏi bác sĩ Minh lý do, tại sao những ngày cuối cùng không thấy bóng dáng của anh đâu. Bác sĩ Minh trả lời: “moi thấy tình hình không còn thuốc chữa nữa, moi có khuyên ông Tướng đừng nhận chức tổng thống vì trễ quá rồi. Ông Tướng không nghe lời moi, nói rằng ở địa vị của ông, ong không thể trốn tránh nhiệm vụ trước lịch sử, dù là để đầu hàng”. Như vậy, phản ánh của bác sĩ Hồ Văn Minh càng cho tôi thấy ông Dương Văn Minh đã biết rõ vai trò của mình khi nhận chức tổng thống vào ngày 27-4-1975. Ông Dương Văn Minh biết rõ trách nhiệm của ông nhận vai trò để đầu hàng từ trước. Ngô Công Đức trong một dịp nói chuyện với tôi sau này vẫn nhắc lại: “Từ Bangkok ngày 26-4-1975, moi đã khuyên ông Tướng đừng nhận chức Tổng thống vì đã trễ lắm rồi. Ông Tướng Minh đã không nghe moi”.
Từ Bangkok Ngô Công Đức bay qua Hongkong và về đến Hà Nội vào ngày 1-5-1975. Ngô Công Đức ở lại Hà Nội nhiều ngày. Ông quen biết khá nhiều nhân vật ở Hà Nội như đại sứ Phạm Văn Ba, đại sứ Nguyễn Văn Tiến, bà Nguyễn Thị Chơn (vợ của ông Trần Bạch Đằng), ông Phan Nhẫn, đại diện Mặt trận Giải phóng miền Nam tại Thụy Điển. Những ngày ở Hà Nội là những ngày ông làm quen với tình hình mới, nghiên cứu tình hình mới, thắt chặt mối dây liên lạc đã sẵn có từ những ngày ông lưu vong ở nước ngoài và phải chăng là cũng để nhận một số nhiệm vụ. Ông Ngô Công Đức quen khá thân với Bộ Trưởng Nguyễn Văn Hiếu, ông cũng quen biết thân tình với Mã Thị Chu – vợ ông Hiếu. Có lần ông Ngô Công Đức kể lại cho tôi và Hồ Ngọc Nhuận nghe, thời gian lưu vong ông từng được gặp Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, trong một cuộc tiếp xúc bí mật với Thủ Tướng Phạm văn Đồng nhân dịp Thủ Tướng Đồng công du tại Budapest, thủ đô của Hungary. Ông được sự sắp xếp của Đại sứ Nguyễn Văn Tiến và Đại sứ Phạm Văn Ba để từ Pháp ông bí mật đi Hungary. Ngô Công Đức là một nhân vật chính trị nổi tiếng trong thành phần thứ ba ở Sài Gòn, ông lưu vong với tư cách thành phần thứ ba, ông xuất hiện trước quốc tế như một đại diện độc lập nổi tiếng của thành phần thứ ba, tiếng nói của ông lúc đó là tiếng nói đại diện cho một lực lượng, ông ngã về phía nào, sẽ rất có lợi cho phía đó. Ông Ngô Công Đức đã đóng vai trò của mình khá xuất sắc. Ông từng sống ở Thụy Điển với vai trò đại diện cho thành phần thứ ba ở miền Nam. Những tin tức về tình hình ở Sài Gòn do Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quí Chung, Kiều Mộng Thu, linh mục Chân Tín, linh mục Nguyễn Ngọc Lan cung cấp là những tài liệu quí giá để ông khai thác, chiến đấu trước dư luận quốc tế, như tiếng nói của một khát vọng hoà bình, tiếng nói của đại đa số. Vị trí của ông Ngô Công Đức có được trong tình hình chính trị Việt Nam lúc bấy giờ, do ông là một người có tài biết xoay sở ứng phó với bản lĩnh và cung cách riêng. Nhưng vị trí đó càng thêm mạnh mẽ do cuộc đấu tranh của các phong trào quần chúng ở miền Nam lúc bấy giờ tăng thêm sức mạnh cho ông. Vị trí đó càng vững chắc khi ông được tiếp sức bởi các nhà ngoại giao lỗi lạc như đại sứ Ba, đại sứ Tiến, như anh Nguyễn Ngọc Hà và phong trào Việt kiều yêu nước ở Pháp. Chính phủ ở Hà Nội lúc đó và các nhà lãnh đạo Đảng, những người đóng vai trò nồng cốt trong Mặt Trận Giải Phóng Miền nam đã khôn khéo sử dụng tiếng nói của Ngô Công Đức như một tiếng nói độc lập của phong trào quần chúng hỗ trợ cho cách mạng. Những phân tích trên đây có lẽ phần nào cắt nghĩa được vai trò của Ngô Công Đức thời bấy giờ, một phần nào cắt nghĩa được lý do tại sao ông Trần Bạch Đằng với tư cách Phó trưởng ban Tuyên huấn Trung ương hỗ trợ tích cực cho Ngô Công Đức được tái xuất bản nhật báo Tin Sáng, nhật báo mang tính cách tư nhân mấy tháng sau ngày 30-4-1975.
Ngày 7-5-1975, từ Hà Nội, Ngô Công Đức bay về Sài Gòn trên máy bay TU 134 của hãng hàng không Việt Nam. Không có người nào ra đón ông ta tại sân bay Tân Sơn Nhất, kể cả ông anh rễ Nguyễn Văn Binh. Thời gian ấy, việc thường dân đi vào sân bay, dù là sân bay dân sự, còn khá khó khăn. Ngay sau khi Ngô Công Đức về đến nhà ở bên chợ Thị Nghè, người đầu tiên có mặt là Hồ Ngọc Nhuận, sau đó là tôi. Lúc ấy gia đình của Ngô Công Đức ở tầng trệt và tầng 1 trong một căn nhà lầu gần mũi tàu chợ Thị Nghè. Gia đình của chị Hai Ngô Công Đức (vợ anh Nguyễn Văn Binh) ở chung nhà trên lầu 2 và lầu 3. Anh em dân biểu và từng làm báo với nhau nhiều năm, những ngày đó gặp lại nhau vô cùng mừng rỡ và thân thiết. Hồ Ngọc Nhuận là người bạn rất thân với Ngô Công Đức từ thuở còn học trường nhà dòng Taberd Sài Gòn, ông Nhuận tin ông Ngô Công Đức một cách triệt để. Tôi khá thân với Ngô Công Đức từ năm 1967 cho đến khi ông ta lưu vong. Trong tập hồi ký số 1, tôi đã kể lại việc sắp xếp cho Ngô Công Đức di tản theo ngõ Campuchia như thế nào. Thời gian mấy năm Ngô Công Đức ở Pháp, ở Mỹ và ở Thụy Điển, chúng tôi thuờng xuyên qua lại bằng thư từ. Tôi nhỏ hơn Ngô Công Đức 6 tuổi, anh ta tuổi Tý sinh 1936, tôi tuổi Ngọ sinh 1942. “Tý Ngọ Mẹo Dậu tứ hành xung”, nhưng trên đấu trường chính trị ở Quốc hội, trên báo chí tôi và Ngô Công Đức đứng cùng một phía. Tuổi trẻ, thông minh, lanh lợi, đầy sáng tạo, đầy sức sống, Ngô Công Đức đã nhiều lần chứng tỏ mình là một tay bản lĩnh trên chính trường Sài Gòn, nhờ báo Tin Sáng anh ta càng chứng tỏ là một tay bản lĩnh trong báo chí. Mối quan hệ của Ngô Công Đức ở Sài Gòn lúc làm báo Tin Sáng trước năm 1972 thật rộng. Là người Công giáo ông Ngô Công Đức có quan hệ bà con với Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình. Ông ta chơi khá thân với linh mục Nguyễn Ngọc Lan, linh mục Huỳnh Công Minh, đồng thời ông ta có quan hệ khá gần gủi với linh mục Chân Tín và linh mục Trần Khắc Từ. Người Công giáo ở Trà Vinh, Vĩnh Long, Mỹ Tho coi Ngô Công Đức như một anh em chí cốt. Thế đạo giáo của Đức khá mạnh vào những năm tháng ấy. Ngoài vị thế đạo giáo, những năm làm ăn với quân đội Mỹ ở Hậu Nghĩa cũng tạo cho Ngô Công Đức một mối quan hệ khá chặt với nhiều tay sừng sỏ trong chính quyền cũ. Ngô Công Đức chơi thân với tỉnh trưởng Hậu Nghĩa, tỉnh trưởng Vĩnh Bình, với nhiều sĩ quan cấp tá ở Vùng IV Chiến thuật, ông lại biết đá gà và có lắm tiền cho nên cũng chơi khá thân với Nguyễn Thiện Nhơn phụ tá đặc biệt của phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, qua trung gian của Nguyễn Thiện Nhơn, Đức dễ dàng chơi thân với Kỳ. Trong vai trò dân biểu hạ nghị viện, một tiếng nói sừng sỏ trong phe đối lập, Đức càng dễ bề tạo ảnh hưởng và gây ấn tượng đối với Kỳ. Thời gian Kỳ làm phó tổng thống (1967-1971), vai trò của Kỳ lu mờ trước ảnh hưởng của Nguyễn Văn Thiệu, cho nên Nguyễn Cao Kỳ không phải là đích nhắm của phe đối lập, ngược lại đôi khi ông ta còn ngầm ủng hộ phe đối lập để phe này có thêm sức mạnh, có thêm phương tiện trong việc chống báng Nguyễn Văn Thiệu. Ngô Công Đức cũng đã khéo léo trong việc ngầm bắt tay với phe Nguyễn Cao kỳ, để từ vị trí của môt trong những người đầu đàn phe đối lập tại quốc hội, tiếng nói của Ngô Công Đức càng có thế mạnh hơn trong việc đối đầu với Thiệu. Phân tich tình hình chính trị ở Sài Gòn những năm 1967-1971, mới thấy rõ thế đứng của dân biểu Ngô Công Đức, thế đứng của một người khá bén nhọn trong nghề làm chính trị. Trên báo chí, trước mắt quần chúng, trước dư luận của phe Phật giáo đối lập, Phật giáo Ấn Quang, vị thế của Ngô Công Đức khá nổi bật, ai cũng dễ có cảm tình với ông trong vai trò đối lập nổi bật. Người ta không để ý đến việc ông Ngô Công Đức có thể đi đêm với Nguyễn Cao Kỳ hoặc có thể đi đêm với Mỹ, hay hơn thế nữa đi đêm với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Từ lúc nào và do hoàn cảnh nào, do những động lực nào đưa đẩy, ông Ngô Công Đức đã ngã hẳn sang hàng ngũ của những người đi theo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền nam.
Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận về thời gian sau này có lần đã nói với tôi sau chuyến đi Pháp về năm 1968 được người của phía MTDTGP Miền Nam móc nối tại Paris, được đại sứ Nguyễn Văn Tiến và đại sứ Phạm Văn Ba tiếp xúc, anh Hồ Ngọc Nhuận đã giác ngộ con đường cách mạng. Chính sự giác ngộ đó của anh đã là nguyên do lôi kéo Ngô Công Đức đi theo. Bởi vì sau khi ở Pháp về (Hồ Ngọc Nhuận đi Pháp với tư cách dân biểu của chế độ cũ) anh Hồ Ngọc Nhuận đã nói rõ mọi việc và phân tích con đường tương lai cho Ngô Công Đức thấy. Chính sự phân tích đó đã ảnh hưởng đến thái độ chính trị của Ngô Công Đức. Riêng tôi nghĩ rằng phân tích của ông Hồ Ngọc Nhuận có phần đúng, nhưng cũng có phần chủ quan vì xét về quá trình bản lĩnh chính trị, bản lĩnh ở đời trong mọi dàn xếp tiếp xúc và giao hảo, Ngô Công Đức bén hơn, sắc nét hơn, lém lỉnh hơn anh Hồ Ngọc Nhuận rất nhiều. Việc Ngô Công Đức đi theo lập trường của anh Hồ Ngọc Nhuận có thể chỉ là một sự trùng hợp về động cơ chính trị, trùng hợp về phân tích thời cuộc, một sự trùng hợp do hoàn cảnh chính trị thời bấy giờ tạo ra. Qua những hành động cụ thể nổi rõ trước mắt từ năm 1967 đến năm 1975, khó ai phủ nhận được Ngô Công Đức đã có những đóng góp có lợi cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, cũng khó ai phủ nhận được động cơ của những việc ông làm phát xuất từ lòng yêu nước của một con người có bản lĩnh. Chính tôi cũng đã tìm gặp Ngô Công Đức trong những hoàn cảnh đó, thấy được ở ông ta những sắc nét có lợi cho công cuộc chung, tôi đồng tình với ông ta trong nhiều quan điểm công khai và từ đấy có một thời gian khá dài tôi và ông ta là những người bạn chính trị có thể tin tưởng lẫn nhau. Đọc lại những bức thư tôi viết cho Ngô Công Đức thời kỳ ông ta lưu vong ở Pháp và Thụy Điển, mới thấy hết mối thân thiết và sự tin cậy lẫn nhau trong tình bạn của chúng tôi. Tôi xin trích lại sau đây một vài đoạn trong những bức thư tôi đã gửi lén lút từ Sài Gòn cho Ngô Công Đức qua đường dây của anh Hồ Ngọc Nhuận.
“Đức thân, hôm nay viết thư cho mày vào lúc 12 giờ đêm sau một ngày mệt óc vì họp hành liên miên.
Thông thường, mỗi thứ sáu, “nhóm” đều có họp từ 5 giờ chiều đến 8 giờ tối, sau đó dùng cơm thân mật với “ông già” và bàn chuyện nọ kia luôn tới 10 giờ hơn. Nhưng hai tuần rồi, vì thời buổi mắc mỏ nên phần thứ hai của chương trình “cơm tối” được anh em hủy bỏ cho đỡ tốn. Tuy nhiên sau tết lại cứ một tháng có hai lần ăn cơm, theo “ông già” là để giữ tình thân. Cũng hai tuần rồi Nhuận buồn không đi họp vì một vài sự thiếu tế nhị của người lớn, nhưng chỉ không đi để làm một cử chỉ tượng trưng. Sau này sẽ đi họp lại vì mày biết tao, Nhuận và Minh Hồ cùng Chung Lý thường ăn ý nhau hơn. Thiếu Nhuận, dĩ nhiên thiếu rất nhiều.
Hôm nay mệt vì từ 3 giờ đến 5 giờ có cuộc họp của báo Điện Tín để bàn về tiền thưởng tất niên cho anh em Ban Biên Tập. Kể về báo chí cho mày đỡ buồn. Mày biết hễ cuối năm là phải trả lương lao động ít nhât ½ tháng cho anh em, nhưng hai năm nay thằng Như (cai thầu báo Điện Tín) không bao giờ chịu trả, chỉ kì kèo cho qua để rồi cuối cùng chỉ nhả ra chút đỉnh cho anh em tượng trưng ăn tết. Năm nay, cũng không tránh khỏi cảnh đó nhất là lại có ông Đông (Hồng Sơn Đông) xen vào chuyện tài chinh, họ xiết được mức nào là họ mừng mức đó. Tao ở trong thế làm công phải lo cho mấy anh em, nhưng chẳng được kết quả như ý. Hơn nữa phần mình nghèo thấy tổ chỉ chờ tết, kiếm chút thưởng lao động nhưng họ lại nói mình thuộc vào Section đầu não khỏi đặt vấn đề, thành ra chẳng có mẹ gì. Trong khi đó kể từ tháng 10-1973 tao không còn nắm trọn vẹn quyền hành trong tờ báo nữa vì có Lý Chánh Trung cộng thêm thằng Chung “mắt kiếng” nên sự việc càng rắc rối thêm. Tao có lần viết thư than với mày bây giờ chuyện tờ báo khó lắm. Hơn thế nữa, mấy thằng nhỏ cũng mất tinh thần. Tao thì dù bản chất rất hăng nhưng cũng có lúc nản, dầu vậy vẫn phải cố lo hết sức để cho tờ báo đừng rớt. Chuyện xử sự ở đời có lắm kẻ chẳng bao giờ dám phiêu lưu và chịu đổ mồ hôi, nhưng khi thấy mòi công cuộc kẻ khác làm nên, thì thường dựa hơi kẻ lớn thế để nhảy vào làm cha thiên hạ (làm cha tao thì chẳng được vì sợ mang tiếng và kẹt, tao gầy dựng nên tờ báo này, cũng khổ công lắm, trong đó có Nhuận từ đầu…). Nói thế cho mày hiểu chuyện nhà cũng có nhiều thứ li ti đáng lý không nên nói ra, nhưng phải nói để mày hiểu chuyện tờ báo mà còn như vậy. Sau này chuyện lớn còn khó đến mực nào… Dầu vậy, tao vẫn tự hào là mình đã lấy mồ hôi ra để kiếm bát cơm, mình đã gầy dựng được một cái gì dù là trong những phút kẹt nhất của một giai đoạn không lấy gì làm sáng sủa…Mày biết lúc luật 007 (luậtt báo chí) ra đời, mấy ông lớn, ông nào cũng đòi dẹp tờ báo. Một mình tao chống trả với phong ba ngay cả bằng nước mắt và nhịn nhục, thúc đẩy cho nó đóng ký quỹ để ra tiếp, tới nay người ta mới thấy là mình có lý. Lúc đó nghe lời mấy ông trên mây trên gió không những một đám anh em đói queo mà ngày nay cũng không còn gì để ăn nói hay hiện diện gọi là… Nhắc lại chuyện cũ không phải để khoe công, nhưng để nói cho mày rõ là vấn đề quan niệm hành động, chiến lược, chiến thuật hành động chính trị, ứng phó với thời cuộc là một mối khổ tâm không nhỏ ở bên nhà cho Nhuận và tao. Dĩ nhiên thế của Nhuận dễ hơn vì dù sao “lui” cũng còn nhiều phong độ. Hôm 18 tháng 12 (1973), nếu tụi tao không làm mạnh, chưa chắc gì đã có mấy cái “bánh tráng” gửi ra ngoài (bánh tráng đồng nghĩa với các bản tuyên bố của ông Dương Văn Minh) cùng với chuyện ông Thích Thiện Châu ra tuyên bố ở bển…
…. Tuy nhiên, bánh xe vẫn đi tới vì dù sao cũng không có đường nào khác nhất là thời cuộc cũng khó có thể ngồi chờ. Tao tin là dù có chậm, cũng vẫn cứ phải đẩy cho bánh xe lăn. Dĩ nhiên mình cũng nhớ rằng không có ai giống mình hoàn toàn, bởi một lớp tuổi, một quá khứ, một hành động theo kiểu và theo nếp riêng. Hoà hợp và tin cậy nhau để làm việc từ hơn một năm nay ở bên này, như vậy là cũng đã khá lắm rồi. Có lúc tao nóng lên nhưng nghĩ lại có nôn nóng cũng không xong vì vấn đề là phải biết làm theo hoàn cảnh và thấy rõ con đường mình đi….Tao có đọc một đoạn thư mày viết cho Nhuận, vấn đề là đường dài, vấn đề là của chúng ta trong tương lai…tao đồng ý và thường thúc Nhuận phải định cho rõ bốn, năm thằng trẻ, định làm cái gì, thế ở đâu, phải làm cách nào, từng bước một, phải nối kết với bên ngoài….Trong tết này mày suy nghĩ xem sao và sau tết biên về những dự định trên một qui mô lớn để anh em bên này cùng liệu…
Trên đây tôi xin phép trích lại một đoạn thư cá nhân gửi cho Ngô Công Đức vào dịp cuối năm 1973 đầu năm 1974 khoảng trước tết. Chúng tôi đã có một thời kỳ gắn bó với nhau mật thiết vì xu hướng chính trị giống nhau, vì cùng chơi chung với một nhóm bạn, những người có đầu óc tương đối phóng khoáng, muốn làm một điều gì đó mới mẻ để đất nước sớm thoát khỏi cảnh chiến tranh. Lúc Ngô Công Đức bị Tỉnh trưởng Vĩnh Bình (tên gọi cũ của Trà Vinh) là đại tá Chung Văn Bông lập mưu bắt quả tang đánh người trong một tiệc nhậu nhân dịp tết 1970-1971, vì tình bạn, tôi rất nóng lòng cùng anh Hồ Ngọc Nhuận mượn máy bay của Tướng Nguyễn Cao Kỳ, bay xuống Trà Vinh để giải vây cho Ngô Công Đức. Trong hoàn cảnh đấu tranh của chế độ cũ, lập trường chúng tôi giống nhau nên dễ kết thân, dễ chung vai chiến đấu. Tôi thường xuyên viết những bài báo chính trị trên nhật báo Tin Sáng trước năm 1971. Lúc tôi xuất bản tuần báo Đại Dân Tộc với tư cách chủ nhiệm, chính Ngô Công Đức xuất vốn đầu tư vì Ngô Công Đức cũng biết rõ tôi là người có năng khiếu nhạy bén về làm báo, viết báo. Cho nên, tháng 5-1975 sau khi Ngô Công Đức về nước được ông Trần Bạch Đằng và Thành Ủy TP Sài Gòn Gia Định chấp nhận giao cho xuất bản Nhật báo Tin Sáng (hồi II) với tư cách báo tư nhân, hai người đầu tiên mà Ngô Công Đức luận bàn để hình thành nhật báo Tin Sáng sau ngày giải phóng là anh Hồ Ngọc Nhuận và tôi. Căn nhà tôi ở tại số 3-14 Võ Văn tần Phường 6, Quận 3, Tp Sài Gòn Gia Định lúc bấy giờ, là nơi hội họp của báo Tin Sáng bộ mới trong những ngày đầu tiên lúc Ngô Công Đức mới về nước. Chính Ngô Công Đức, anh Hồ Ngọc Nhuận và tôi cùng nhau bàn bạc quyết định mời anh Lý Quý Chung, anh Nguyễn Hữu An tham gia lãnh đạo tờ Tin Sáng ngay từ đầu. Ngô Công Đức giữ vai trò chủ nhiệm được chính quyền giao phó, chịu trách nhiệm trước pháp lý về nội dung chính trị của nhật báo Tin Sáng. Anh Hồ Ngọc Nhuận giữ vai trò chủ bút hiện nay gọi là Tổng Biên Tập. Anh Nhuận có 3 phó chủ bút phụ giúp anh trong việc quán xuyến nội dung tờ báo: tôi, Dương Văn Ba – phó chủ bút phụ trách kinh tế chính trị, anh Nguyễn Hữu An (bạn học của Hồ Ngọc Nhuận) – phó chủ bút đặc trách các vấn đề quốc tế, anh Lý Quý Chung – phó chủ bút đặc trách vấn đề văn hoá xã hội.
Ròng rã trong 6 năm trời, từ tháng 7-1975 đến tháng 6-1981, bộ phận đầu não của nhật báo Tin Sáng (hồi II) đã làm việc cật lực với tinh thần hăng hái, làm việc từ sáng sớm đến hơn 12 giờ đêm để tờ nhật báo Tin Sáng có được một tiếng nói mới mẻ, hấp dẫn quần chúng độc giả, góp phần soi đường dẫn lối những ngày đầu sau khi cách mạng thành công. Đánh giá về vai trò của nhật báo Tin Sáng trong giai đoạn ấy có thể có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng một điều không thể chối cãi được là nhật báo Tin Sáng do chúng tôi phụ trách có một số độc giả khá đông đảo, trên 60 ngàn độc giả mỗi ngày suốt từ năm 1976 đến năm 1981. Tờ báo có một sức mạnh không thể chối cãi. Chính vì sức mạnh đó mà phải tới lúc Tin Sáng được cho hoàn thành nhiệm vụ, nói một cách văn hoa nhưng thực tế là cho nghỉ xuất bản vào tháng 6-1981. Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này ở những trang sau.
Xin nhắc lại giai đoạn đầu của tờ nhật báo Tin Sáng (hồi II) sau giải phóng. Việc cho xuất bản tờ báo Tin Sáng và để cho nhóm Ngô Công Đức cầm đầu tờ báo là một sáng kiến khôn ngoan của Ban Tuyên Huấn Trung Ương lúc bấy giờ mà nhân vật đứng đầu ở phía Nam là ông Trần Bạch Đằng. Theo tôi được biết không có sự yểm trợ mạnh mẽ của ông Trần Bạch Đằng và bà Nguyễn Thị Chơn, có thể không có việc xuất bản nhật báo Tin Sáng. Để quản lý tốt nội dung tờ báo trong buổi đầu, khỏi lệch lạc với đường lối của TW Đảng, chính ông Trần Bạch Đằng đã lựa chọn một cán bộ kỳ cựu của Ban Tuyên Huấn TW, là ông Kỳ Phương, từng làm Tổng Biên Tập báo Đại Đoàn Kết ở Hà Nội, về làm cố vấn và thường xuyên ngồi tại toà soạn Tin Sáng cùng với anh Hồ Ngọc Nhuận duyệt lại các bài vở, các tin tức mỗi ngày trước khi cho lệnh in tờ báo. Tôi có điều kiện làm việc thường xuyên với ông Kỳ Phương mỗi ngày từ 9 giờ sáng cho đến hơn 10 giờ đêm. Tôi phụ trách trang 1, 3, 7, 8 của tờ báo; những trang dính líu tới tin tức kinh tế chính trị, xã hội hàng ngày, những trang thường làm cho đến 9-10 giờ đêm mới xong và là những trang quan trọng phải đọc và duyệt bài thật kỹ để tránh các sơ hở có thể vi phạm đường lối chính trị chủ trương của Đảng, rất dễ mang đến tai họa không lường trước được cho những người chủ trương và những người viết báo. Trong vai trò của người cố vấn chính trị, cố vấn cho tổng biên tập, từng câu từng chữ, từng ý từng lời, anh Kỳ Phương đã tận tụy làm việc và đảm nhận vai trò của anh một cách khá hoàn hảo. Nhờ đó, nhật báo Tin Sáng đỡ vấp phải những lỗi lầm ấu trĩ về chính trị, nhờ đó anh Hồ Ngọc Nhuận, Tổng Biên Tập của báo Tin Sáng đỡ được phần lớn gánh nặng có thể đổ trên vai anh, nhờ đó tôi, anh Lý Quí Chung, anh Nguyễn Hữu An cũng đỡ vất vả. Anh Kỳ Phương tinh tình ít nói, thâm trầm, nói năng nhẹ nhàng, những câu những chữ anh đề nghị sửa đổi hay cắt bỏ, anh không bao giờ áp đặt, anh chỉ gợi ý để chúng tôi thảo luận và chấp nhận. Thông thường những ý kiến của anh đều được toà soạn chấp hành vì nó rất hợp lý hợp tình, không áp đặt, nó giúp cho tờ báo vững vàng về quan điểm chính trị. Có con mắt và bàn tay của anh Kỳ Phương nhúng vào, nội dung tờ nhật báo Tin Sáng được an toàn hơn, báo Tin Sáng có thể đảm nhận vai trò tuyên truyền chính trị được Đảng giao phó một cách vững vàng và nhuần nhuyễn hơn. Sự thành công của báo Tin Sáng trong suốt hơn 6 năm, có sự đóng góp rất lớn của anh Kỳ Phương về mặt an toàn chính trị.
Ban biên tập nhật báo Tin Sáng có những người trợ lý tòa soạn khá vững vàng và thông thạo nghề. Anh Trương Lộc, anh Minh Đỗ từng là thư ký toà soạn của nhật báo Điện Tín trước đây, hai anh này tiếp tục trợ lý cho tôi và anh Nguyễn Hữu An. Phần nhà thơ Kiên Giang thì trợ lý anh Lý Quý Chung về văn nghệ và văn xã. Biên tập viên nồng cốt của nhật báo Tin Sáng thời kỳ 1975-1981 có thêm Trần Trọng Thức, Hoàng Ngọc Nguyên, Cao Thanh Tùng, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Ngọc Thạch, Võ Văn Điểm… những người này là những ngòi bút khá vững chắc, bén nhọn và là những người có kiến thức, tồn đọng lại sau giải phóng và đều tập trung hội tụ về nhật báo Tin Sáng. Cộng tác viên nổi bật của báo Tin Sáng sau giải phóng cũng rất nhiều. Có thể kể đến tiến sĩ Chu Phạm Ngọc Sơn, tiến sĩ Phạm Hoàng Hộ, tiến sĩ Châu Tâm Luân…và rất nhiều ngòi bút tên tuổi khác. Nhật báo Tin Sáng sau giải phóng, xuất hiện với tư cách tư nhân đã quy tụ được hầu hết lực lượng trí thức có tâm huyết và có tay nghề báo chí. Đó là một diễn đàn thể hiện những ý kiến, những đề xuất tích cực phản ánh những tồn tại cần phải sửa đổi trên bước đường xây dựng một nước Việt Nam mới. Phải nói rằng ông Trần Bạch Đằng với tư cách là người đỡ đầu cho nhật báo Tin Sáng về mặt nội dung tư tưởng đã có những sáng kiến và những đóng góp tích cực cho việc hình thành một nền báo chí mới mẻ tại Sài Gòn sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 9:45:48 GMT 9
Chương 13: LÀM BÁO TRONG CHẾ ĐỘ MỚI, LÀM CHÍNH TRỊ THEO SỰ HƯỚNG DẪN CỦA ĐẢNG…
18-03-2015
Báo chí hiểu theo quan niệm của chủ nghĩa tư bản tại Pháp, tại Anh và Mỹ là quyền thứ tư của các công dân đứng sau nhưng ngang hàng với quyền lập pháp (Quốc hội), với quyền hành pháp (Chính phủ), với quyền tư pháp (Tòa án, Công tố viện). Báo chí là thể hiện quyền làm chủ của mọi công dân đối với các vấn đề của đất nước. Báo chí trong chế độ tư bản có quyền chỉ trích đường lối của chính phủ, có quyền đưa ra một chủ trương khác với chính phủ, báo chí có quyền đòi hỏi chính phủ phải trình bày những điều mà dân chúng thắc mắc. Hiểu theo nghĩa đó, báo chí là quyền thứ tư trong việc điều hành đất nước.
Nước Mỹ ngay từ thời kỳ lập quốc cũng đã có những tờ báo lớn của từng bang, của các nhóm thế lực, chính trị và tài phiệt. Nói báo chí là quyền thứ tư ngang hàng với ba quyền và ba sức mạnh khác trong xã hội là để thể hiện tự do ăn nói, tự do ngôn luận, tự do phát biểu ý kiến của mọi người dân, từ chuyện nhỏ nhất là chuyện đổ rác, hốt rác trong phạm vi nơi mình ở, đến chuyện lớn nhất là chuyện lựa người đứng đầu đất nước, nắm quyền hành pháp và chuyện lựa chọn Quốc hội. Nói như thế chỉ nói về nguyên tắc, về cơ sở pháp lý xây dựng nên chế độ dân chủ tư bản.
Trong chế độ dân chủ tư bản quy luật tự do cạnh tranh, cạnh tranh để sinh tồn và phát triển là quy luật được đương nhiên chấp nhận. Quy luật này dẫn đến sự hình thành và cấu kết của các thế lực mạnh, hình thành các xu hướng chính trị, hình thành các đảng phái và hình thành các cơ quan ngôn luận. Nói là tự do báo chí theo chủ nghĩa Tư bản phải hiểu đó là tự do phát biểu của các phe nhóm, các thế lực cạnh tranh. Quần chúng vẫn đóng vai trò kẻ đứng ngoài quan sát, phê phán, chấp nhận hay không chấp nhận, đi theo quan điểm này hay quan điểm kia. Tự do báo chí trong chế độ tư bản cũng tuân theo quy luật cạnh tranh để sinh tồn, ai cũng có quyền ăn nói, ai cũng có quyền nghe và không nghe. Người mạnh có sức mạnh nhiều hơn để lấn át kẻ yếu, tiếng nói của họ và đường lối của họ là thể hiện sức mạnh của những đám đông đi theo.
Không ai quên việc ở London, Thủ đô của nước Anh có công viên High Park là nơi để bất cứ ai có ý kiến về mọi vấn đề xã hội, mọi xu hướng chính trị đến đó tự do đăng đàn diễn thuyết, có người nghe và có người không nghe. Người nói cứ nói cho đã miệng và có quyền tự do trình diễn các ý kiến của mình bằng những show cụp lạc, công chúng đứng nghe hoặc không nghe hoặc bỏ đi, bên ngoài công viên xe cộ vẫn ầm ầm qua lại. Công viên High Park là hình ảnh thu nhỏ của tự do ngôn luận trong chế độ tư bản.
Cuộc cạnh tranh để sinh tồn và phát triển đã tạo nên những luồng thông tin lớn, những thế lực báo chí lớn, những ông vua trong diễn đàn ăn nói của xã hội tư bản. Các tờ báo lớn ở Mỹ như Newyork Times, Washington Post, Wall Street Journal… là những tiếng nói quyền lực nhất nước Mỹ thể hiện sức mạnh của dư luận, dư luận đó luôn luôn có ảnh hưởng tới các quyết định, các chính sách của một chính phủ. Tờ báo không chỉ là tiếng nói suông, tờ báo tượng trưng, hội tụ sức mạnh của các quyền lực chính trị và kinh tế trong nước Mỹ. Chính phủ Mỹ không thể cai trị đất nước nếu không cư xử theo những phản ánh của báo chí, cư xử đối đầu hoặc cư xử thuận chiều…
Ở các do tuyệt đối cũng chỉ là một chuyện không tưởng. Báo là sức mạnh là quyền lực, các nhóm chính nước nhỏ đang phát triển, báo chí không có sức mạnh và có quyền lực ghê gớm như ở Mỹ, ở Anh và Pháp. Báo chí ở Nhật Bản cũng thể hiện quan điểm của các phe phái, các thế lực chính trị và tài phiệt. Các ông trùm báo chí ở Nhật cũng là những ông trùm tài phiệt và đảng phái. Họ không xuất hiện công khai trên chính trường, nhưng các thế lực chính trị trong nước luôn luôn phải lắng nghe và có phần phải cấu kết với họ. Nói tóm lại, báo chí là sức mạnh của các tập đoàn quyền lực chính trị hay kinh tế. Báo chí trong chế độ tư bản cũng chỉ là cơ quan ngôn luận trực thuộc các thế lực. Quan niệm tự do báo chí chung chung chỉ là một quan niệm có trên sách vở, không có trên thực tế. Ngày nay dù là ở một nước tự do theo kiểu Thái Lan hay theo kiểu Singapore, quyền lực báo chí cũng chỉ nằm trong tay các nhóm thế lực chính trị và tư bản. Báo chí ở Thái Lan chỉ tự do trong việc tôn trọng vương quyền của vua Thái, trong việc tôn trọng đạo giáo của quốc gia Thái là đạo Phật, trong việc thể hiện quyền lực và ý muốn của các đảng cầm quyền hay đối lập tại Thái. Trong bất cứ nước nào dù là đã phát triển hay đang phát triển quan niệm tự trị, các nhóm tư bản luôn luôn sử dụng sức mạnh đó. Ở Singapore tự do báo chí còn được quy định khắt khe hơn, quyền đăng đàn diễn thuyết để tự do nói những ý kiến cá nhân theo kiểu ở High Park London, chỉ mới được chấp thuận dưới trào của tân thủ tướng Lý Hiền Long. Quá trình phát triển tự do báo chí ở một nước tiên tiến như Singapore trong suốt thời gian dài từ ngày lập quốc đến nay cũng phải tháo cởi lần lần bớt những hạn chế.
Ở Việt Nam từ sau ngày 30- 4- 1975, quan niệm về sự tự do của báo chí cũng khác hẳn quan niệm tự do báo chí thời chế độ cũ. Tự do báo chí thời chế độ cũ là một thứ tự do lừa phỉnh, không nên hình nên dáng, cóp nhặt và sao chép không đúng chính hiệu của các nước phương Tây. Thực tế mà nói hoàn toàn không có tự do báo chí thời kỳ Ngô Đình Diệm và thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu. Ở hai thời kỳ đó nhật báo đã phát triển từ số lượng 4, 5 tờ (thời Diệm) lên tới số lượng vài ba chục tờ (thời Thiệu). Tư nhân quả thật trong chế độ cũ có quyền làm chủ báo. Nhưng những ông chủ báo thời đó cũng chỉ là nhà tư bản, nhà chính trị hay tay sai của các nhà chính trị, nhà tư bản núp ở bên trong. Thời Diệm Đảng Cần Lao Nhân Vị cũng xuất bản nhật báo. Thời Thiệu có rất nhiều tờ báo của chính quyền trá hình. Nhật báo của trung ương tình báo, nhật báo của Đảng Dân chủ hay nhật báo của các đảng phái chính trị theo đuôi Thiệu và theo đuôi Mỹ. Những tờ nhật báo này hoàn toàn bị chi phối bởi chính quyền Diệm, Thiệu, bởi CIA Mỹ hoặc bởi Trung ương Tình báo Việt Nam. Các tờ báo gọi là báo của tôn giáo như báo Chánh Đạo, báo Tự Do cũng chỉ là cơ quan ngôn luận của các đảng phái tôn giáo thân Mỹ hoặc chống Mỹ. Đứng từ trên vị trí chính trị của họ, đứng từ trên gốc gác tài chinh yểm trợ họ, hoặc từ trên gốc gác quyền lực họ hậu thuẫn, báo chí chế độ cũ cũng chỉ có một thứ tự do trong vòng rào của kẽm gai quyền lực, trong vòng rào của đô la xanh, đô la đỏ. Tìm hiểu nội dung và cách thức thể hiện của báo chí trong chế độ cũ có thể tìm thấy nội dung qua bản chất của cái gọi là chế độ dân chủ. Chỉ có một thứ dân chủ hình thức bề ngoài, bên trong luôn luôn tàng ẩn, chứa đựng ý hướng quyền lực trá hình của phe này hay phe nọ. Cuộc giải phóng và chiến thắng hoàn toàn ở miền Nam của lực lương cách mạng, của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng, của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lật qua những trang hoàn toàn mới cho nên báo chí tại miền Nam Việt Nam và nền báo chí đó sau thời kỳ non trẻ, đã lần hồi chuyển tải được những nội dung chân thật, những kêu đòi mới của dân chúng sau cách mạng, nền báo chí của miền Nam Việt Nam cũng có tác động thay đổi cung cách báo chí cứng ngắt, khuôn sáo, giáo điều của nền báo chí miền Bắc trong suốt thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc. Hiện nay giữa báo chí Sài Gòn và báo chí Hà Nội đã có nhiều thay đổi so với gần 30 năm về trước. Sự lớn mạnh của dòng báo chí Sài Gòn, của những tờ báo như Tuổi Trẻ, Thanh Niên…. đã thể hiện sự trưởng thành không thể phủ nhận được của những người làm báo Sài Gòn mà cách đây 30 năm họ mới chỉ là những thanh niên tập tễnh bước vào nghề cầm bút. Báo chí Sài Gòn hiện nay có một đội quân những người viết báo, săn tin, viết phóng sự, ký sự, viết xã luận, viết nghiên cứu những vấn đề thời sự kinh tế xã hội. Đội quân này đã lớn lên từ những ngày đầu non trẻ sau thời kỳ cách mạng chiến thắng. Trong thực tại của tình hình miền Nam sau ngày giải phóng, việc tiếp tục cho ra đời nhật báo Tin Sáng đóng góp một bước nối tiếp, một thời kỳ chuyển đổi quá độ từ cung cách làm báo theo những thói quen dưới chế độ cũ qua cung cách mới mẻ, làm báo chân chinh, hậu thuẫn cho sự phát triển của chế độ, hậu thuẫn cho sự lớn mạnh cho cách mạng, làm báo không còn là chống phá chính quyền mà làm báo chính là hỗ trợ để chính quyền có thể vững mạnh, tốt hơn, có kinh nghiệm nhiều hơn, biết nghe ngóng nguyện vọng nhân dân hơn trong vấn đề phát triển đất nước, trong việc sửa sai những lỗi lầm quản lý, những sai sót do ấu trĩ trong các chủ trương chính sách. Báo chí trong chế độ Sài Gòn cũ đã tiếp tay với cách mạng giựt sập toàn diện bộ máy chiến tranh kềm kẹp do chính quyền Mỹ dựng nên. Báo chí trong chính quyền mới từ sau tháng 4 – 1975 , đặc biệt với sự hiện diện của tờ Tin Sáng (hồi II) đã góp phần làm công cụ đấu tranh và xây dựng đất nước theo đường lối của Đảng cộng Sản Việt Nam. Báo chí được sự chỉ đạo, hướng dẫn, quan sát, kiểm tra của Đảng để ngày ngày báo chí càng mạnh hơn, càng có sức nặng trước dư luận quần chúng, báo chí góp phần tạo nên tiến trình phát triển của đất nước trong hướng có văn hoá, văn minh, trong hướng càng ngày càng phát triển các quyền tự do dân chủ cơ bản của nhân dân: đó là quyền tự do làm ăn kinh tế, đó là quyền được hưởng một nền giáo dục hiện đại, tiến bộ kịp trào lưu thế giới, đó là quyền được nói thẳng thắn về những điều còn khiếm khuyết, còn lạc hậu của những người cầm quyền, đó là quyền được tự do tìm hiểu các thông tin tiến bộ của thế giới, đó là quyền được sống ngang tầm hoà bình, giao lưu hữu nghị với mọi dân tộc tiến bộ. Quan điểm cơ bản về thế nào là tự do báo chí sau gần 30 năm giải phóng, đã có những thay đổi rõ nét. Tự do báo chí là tự do phát biểu ý kiến trong việc xây dựng một chính quyền càng ngày càng tốt hơn. Tự do báo chí chỉ có được trong hướng phục vụ tối đa quyền lợi đất nước. Báo chí bây giờ đã có thể nói là trưởng thành, trong quá trình trưởng thành đó, 6 năm liên tục làm và viết báo của những nhà báo trong nhóm Tin Sáng đã có những đóng góp nhất định cho sự tiến bộ chung. Nhiều người đọc và nhìn ngẫm tờ Tuổi Trẻ hoặc tờ Thanh Niên những ngày hôm nay, không khỏi nhớ lại những ngày đã qua mà nhật báo Tin Sáng trong đó có tâm huyết đóng góp liên tục, nhẫn nại, trong sáng của hàng trăm trí thức Sài Gòn cũ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, với sự khuyến khích và dìu dắt của những con người như Trần bạch Đằng, Kỳ Phương, những nhà quản lý báo chí như Trần Tâm Trí, Bảy Thủ, những đàn anh trong làng báo miền Bắc như Thép Mới, Hoàng Tùng, Lưu Quý Kỳ, những nhà văn nhà thơ lừng lẫy như Cù Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…. Tất cả những người đó đã có góp phần không ít trong việc tạo dựng nên một phong cách làm báo khá đặc biệt của nhật báo Tin Sáng: Phong cách vừa cũ của những người đã từng làm báo trong chế độ tư sản, bộc phá, hăng hái đôi khi quá khích phóng túng cộng với sự mềm mỏng, chững chạc, trưởng thành phá bỏ những khuôn sáo rào cản của thời kỳ làm báo theo giáo điều. Theo tôi nhật báo Tin Sáng hồi II có một vị trí đặc biệt trong lịch sử báo chí miền Nam sau giải phóng, có một đóng góp cụ thể nhất định cho sự trưởng thành của những tờ báo sau này.
Ngô Công Đức không có tiền để xuất bản tờ báo Tin Sáng sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng
Tôi còn nhớ rõ, khi về Sài Gòn những ngày đầu tài sản của Ngô Công Đức không còn có bao nhiêu. Những năm tháng anh ta sống ở nước ngoài, vợ và con ở nhà cố giữ nếp sống phong lưu nhàn tản và một phần cũng dựa vào hoạt động của dân biểu Nguyễn Văn Binh và bà chị ruột của anh Đức là bà Ngô Thị Mão. Anh Binh (gốc là trung tá quân đội cũ, có lúc làm quận trưởng Gò Vấp), chị Mão, chị ruột của Ngô Công Đức là người kinh doanh về ngành thẩm mỹ viện. Hai anh chi Binh và Mão đã góp phần giữ vững mối quan hệ của Ngô Công Đức với bên nhà và đặc biệt là với Giáo Hội Công Giáo Sài Gòn. Có thể nói trở về Sài Gòn sau 3-4 năm làm chính trị ở nước ngoài, Ngô Công Đức với hai bàn tay không bề ngoài, đã sử dụng cơ hội làm chủ nhiệm nhật báo Tin Sáng để vừa kinh doanh, vừa làm chính trị phục vụ chế độ mới. Khi được giao tờ Tin Sáng, Ngô Công Đức cũng phải chạy lăng xăng tìm vốn đầu tư. Dân biểu Lý Quý Chung thời đó có một người bà con khá giàu, còn để kẹt trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín của Sài Gòn cũ gần cả tỉ bạc. Người bà con đó của ông Lý Quý Chung đề nghị với Ngô Công Đức và ông Chung sẵn sàng hiến 2-3 tài sản còn kẹt ở ngân hàng cho báo Tin Sáng. Ông Ngô Công Đức đã tìm cách vận dụng để rút số tiền to lớn đó ra khỏi ngân hàng, sử dụng vào việc đầu tư xuất bản nhật báo Tin Sáng. Người mà ông Ngô Công Đức nhờ cậy để làm động tác giải ngân đó là ông Trần Bạch Đằng (ông Tư Ánh). Anh Tư Ánh rất tốt bụng và rất khẳng khái, nghĩ rằng việc tạo cho Ngô Công Đức có tiền xuất bản nhật báo Tin Sáng theo chủ trương của Đảng thời bấy giờ, là một việc làm phải đạo. Anh Tư đã chấp nhận lời đề nghị của Ngô Công Đức, anh viết một lá thư riêng cho ông Trần Dương (tức là ông Ba Dương) quyền Thống đốc ngân hàng miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, đề nghị ông Ba Dương giải toả số tiền đó cho báo Tin Sáng. Thư của ông Trần Bạch Đằng gửi ông Ba Dương, Ngô Công Đức có rủ tôi cùng đi tìm ông Ba Dương để xin giải quyết vấn đề. Ông Ba Dương vui vẻ tiếp đón, hứa nghiên cứu và bàn bạc với chính phủ. Nhưng kết quả việc vận động đó không thành. Ông Ngô Công Đức vẫn kiên trì tìm những đầu mối có tiền khác để yểm trợ cho việc ra báo Tin Sáng, một sự kiện thật mới mẻ trong chế độ Cộng sản, thời kỳ mới giải phóng. Ông Ngô Công Đức đã tìm được một người bà con khác ở Trà Vinh, là chủ sở hữu một dãy nhà khá lớn có 4 tầng lầu ở Trần Hưng Đạo, Quận I. Thời chế độ cũ dãy nhà này là chỗ cho nhân viên người Mỹ thuê mướn để ở. Ngô Công Đức có dẫn tôi đến đó để xem xét và bàn bạc với chủ nhà về việc thuê mướn dãy nhà đồ sộ đó làm văn phòng tòa soạn báo Tin Sáng. Giữa ông và chủ nhà có bà con, việc thương lượng với chủ nhà có nhiều thuận lợi. Trong quan niệm của ông Đức, nếu có điều kiện, tòa soạn báo Tin Sáng thời kỳ mới phải thật to, thật đồ sộ để gây ấn tượng ở trong nước cũng như đối với nước ngoài. Cuộc thương lượng thứ hai cũng dây dưa 5-7 ngày, chưa thành công, ông Ngô Công Đức có sự gợi ý của một vài linh mục thân quen mới tìm đến thương lượng với nhà in Nguyễn Bá Tòng của Cha Sở Họ Đạo Huyện Sĩ. Lúc đó, phía Công giáo cũng đang bỏ không nhà in Nguyễn Bá Tòng, chưa biết sử dụng vào việc gì, chưa biết số phận của nó ra sao. Ngô Công Đức gõ cửa nhà in Nguyễn Bá Tòng là gõ cửa đúng lúc và đúng chỗ. Phía nhà thờ Công giáo đồng ý giao cho Ngô Công Đức toàn bộ nhà in Nguyễn Bá Tòng ở góc đường Bùi Thị Xuân và đường Bùi Chu (nay là đường Tôn Thất Tùng) không biết rõ mỗi tháng Ngô Công Đức thuê nhà in, thuê cả căn nhà 3 tầng lầu rộng mênh mông bao nhiêu tiền, chỉ biết báo Tin Sáng đã đặt trụ sở tại đó khá thuận lợi, căn nhà đồ sộ, rộng rãi, thừa khoảng không gian để sắp xếp các phòng làm việc. Phòng phát hành và phòng quảng cáo nằm dưới tầng trệt. Phòng chủ nhiệm nằm ngay góc chính của tầng 1 rộng thênh thang có thể nhìn xuống đường Bùi Chu và cả đường Bùi Thị Xuân. Kế bên phòng chủ nhiệm là phòng kế toán, phòng công tác bạn đọc, phòng tổng biên tập nằm một bên cũng trên tầng 1, chiếm một vị trí cũng khá khang trang. Lầu 2 là phòng biên tập, ba ông phó tổng biên tập mỗi ông chiếm một góc nhà, vây chung quanh mỗi phó tổng biên tập là bàn của các phóng viên được chia ngồi theo khối. Lúc mới khởi đầu, phóng viên Tin Sáng chỉ trên dưới 20 người. Đa số là những phóng viên từ thời chế độ cũ còn đọng lại. Ngô Công Đức giao cho tôi nhiệm vụ lựa chọn và dìu dắt một số phóng viên mới, hướng dẫn họ cách làm việc, cách săn tin và viết tin. Nhớ lại thời kỳ đó công việc khá mới mẻ và khá bộn bề. Những phóng viên xin vào làm việc tại báo Tin Sáng thời kỳ này, hầu hết là những người mới, chưa có chuyên môn làm báo nhưng lại là những người tốt nghiệp cử nhân luật, cử nhân kinh tế, cử nhân quản trị kinh doanh và một số phóng viên trẻ của Việt Tấn Xã. Tuy chưa có tay nghề vững vàng, ngoại trừ các phóng viên của Việt Tấn Xã, những người trẻ trí thức vào làm báo Tin Sáng đều là những người có năng lực, có người thông thạo hai ngoại ngữ. Những chị như Đặng Thị Ánh Nguyệt (luật sư tập sự thời chế độ cũ), Huỳnh Thị Mỵ Cơ từng là vợ phó đốc sự hành chinh, Lã Thị Kim Thoa (cử nhân luật), Phan Thị Kim Hoanh, Phạm Thị Minh Tánh, Hoàng Hữu Ly (cử nhân xã hội học), Phạm Thanh Vân (cử nhân luật), Huỳnh Thị Thanh Vân (cử nhân luật), sau này là vợ của linh mục Nguyễn Ngọc Lan… Những người trí thức trẻ đó xuất phát từ những gia đình có học vấn bề thế, sau giải phóng, không có việc gì làm thích hợp, hội tụ về nhật báo Tin Sáng giống như những bông hoa rơi rụng xuống dòng sông, tắp vào bến bờ có người đang cần những tài năng, những hương sắc mới, cầm vợt vớt lên đem vào nhà trưng bày sử dụng. Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận đã có sáng kiến mở lớp huấn luyện nghề làm phóng viên cho lực lượng trẻ mới đó. Tất cả có trên 30 người vừa được thu dụng làm phóng viên tập sự cho báo Tin Sáng, vừa được tham dự lớp tập huấn nghề làm báo. Ban giảng dạy lớp học đó do Hồ Ngọc Nhuận đứng đầu, tôi phụ trách giảng dạy về cách săn tin, viết tin, về quan điểm phân loại tin tức, Nguyễn Hữu An giảng dạy về những vấn đề tin tức quốc tế, Lý Quý Chung giảng dạy về cách tường thuật thể thao, cách viết những chuyên đề về thể thao các loại. Trương Lộc, Minh Đỗ, Trần Trọng Thức cũng có tham gia trong khoá huấn luyện hướng dẫn kỹ thuật làm báo viết báo. Anh Hồ Ngọc Nhuận có mời các diễn giả như Trần Bạch Đằng, Lưu Quý Kỳ kể cả mời anh Thép Mới – Phó tổng biên tập báo Nhân Dân lúc đó từ Hà Nội vào Sài Gòn phát biểu quan điểm về báo chí. Khoá huấn luyện phóng viên của nhật báo Tin Sáng đã mang lại hiệu quả tích cực. Những cây viết trẻ của nhật báo Tin Sáng thời kỳ đó như Huỳnh Cẩm Nhung, Phạm Thanh Vân, Hoàng Hữu Ly đã có những bài viết và những bản tin khá tốt. Các phóng viên mới vào nghề như Triệu Bình, Trần Hồng Sư, Lã Thị Kim Thoa đều hoàn thành tốt vai trò của mình mỗi lần được tòa soạn cử đi công tác. Loạt bài phóng sự của phóng viên Huỳnh Thị Cẩm Nhung nói lên tâm tình của những cán bộ tập kết ra Bắc 21 năm sau trở về miền Nam, với những ký ức, những kỷ niệm thời kỳ ở đất Bắc gian khổ nhưng vẫn chịu đựng chấp nhận dấn thân cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, loạt phóng sự của Huỳnh Cẩm Nhung đã gây xôn xao dư luận. Có người đánh giá đó là một loạt bài tiêu cực, nhưng cũng có rất nhiều người cho đó là loạt ký sự có giá trị lịch sử trong bước đầu hoà hợp dân tộc. Sau này, cô Huỳnh Cẩm Nhung, vì hoàn cảnh riêng đã vượt biên sang Mỹ. Nghe nói trong thời gian ở trại tị nạn Mã Lai, Huỳnh Cẩm Nhung từng bị ăn đòn bởi những tay lưu vong quá khích về loạt bài phóng sự cô viết trên nhật báo Tin Sáng phản ánh tâm tình của những nguời cán bộ tập kết.
Báo Tin Sáng xuất bản với tư cách báo tư nhân, với những cây viết tên tuổi quen thuộc trong làng báo Sài Gòn cũ như Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, linh mục Chân Tín, linh mục Nguyễn Ngọc Lan, giáo sư Châu Tâm Luân, giáo sư Phạm Hoàng Hộ, tiến sĩ Chu Phạm Ngọc Sơn, thể hiện sự liên tục của hai thời kỳ báo chí. Độc giả không phải ngỡ ngàng, không phải hụt hẫng và thái độ tham gia mua báo, đọc báo của họ khá tích cực. Ngày nào nhật báo Tin Sáng cũng phải đón tiếp hàng chục độc giả đến trao đổi, hỏi thăm, bàn bạc. Anh Hồ Ngọc Nhuận đã có sáng kiến thành lập phòng công tác bạn đọc để tiếp xúc thu thập những thắc mắc của dân chúng, trả lời những vấn đề đó trong phạm vi có thể và chuyển những nguyện vọng của họ đến chính quyền là một cách biến báo chí thành nhịp cầu giữa dân và nhà cầm quyền. Nhịp cầu đó rất có lợi cho việc trị an, thoả mãn được một phần thắc mắc của nhân dân, từ đó việc liên lạc giữa nhà báo với bạn đọc càng ngày càng phát triển mạnh. Mối quan hệ bạn đọc và nhà báo được coi quan trọng ngang tầm với mối quan hệ nhà báo và chính quyền. Từ việc coi trọng mối quan hệ đó, báo Tin Sáng đã nắm bắt thêm nhiều đề tài thực tế sát cạnh đời sống quần chúng. Tính quần chúng của báo Tin Sáng phần lớn xuất phát từ chủ trương khai thác các vấn đề do độc giả nêu ra. Báo Tin Sáng có diện mạo hoàn toàn khác hẳn với các tờ báo của Đảng như tờ Nhân Dân, tờ Sài Gòn Giải Phóng. Hai tờ báo này của Đảng đứng trên góc độ phổ biến chủ trương của nhà nước, quảng bá ý đồ của nhà nước. Trong khi đó báo Tin Sáng nêu lên những vấn đề của dân, phản ánh cuộc sống của dân. Hai vị trí khác nhau, cho nên hai cung cách làm báo cũng khác nhau.
Cách thức chăm sóc báo Tin Sáng của chính quyền mới
Trước ngày giải phóng, không bao giờ chính quyền chăm sóc, hướng dẫn báo chí một cách bài bản và có hệ thống chặt chẽ như sau ngày 30- 4-1975. Biện pháp quản lý các báo của Bộ Thông Tin chế độ cũ là kiểm duyệt công khai, nếu cần thiết thì tịch thu hoặc đóng cửa, không cho tiếp tục xuất bản. Sau ngày giải phóng, báo chí được quan niệm là cơ quan tuyên truyền của Đảng, cho nên Ban Tuyên huấn Trung ương hoặc Ban Tuyên huấn Thành Ủy TP.HCM chăm sóc báo chí rất kỹ.
Đầu tiên là việc thường xuyên hội họp của Ban Tuyên huấn với các nhà báo. Lúc tôi làm phó tổng biên tập báo Tin Sáng phụ trách phần tin tức thời sự hàng ngày, tôi được Ngô Công Đức cử đi dự các cuộc họp của Ban Tuyên huấn Thành ủy để nghe các chỉ đạo về cách thức tuyên truyền hàng ngày và để nghe phổ biến chủ trương đường lối của Đảng về các vấn đề thời sự. Ông Nguyễn Sơn – Phó ban Tuyên huấn Thành ủy – là người tập cuộc họp của các báo và thay mặt cho ông Trần Trọng Tân – Trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy – để nêu bật ý nghĩa của các vấn đề thời sự, nói rõ quan điểm của Đảng về các vấn đề quan trọng hàng ngày. Dĩ nhiên đó là một cách thông tin có lựa chọn và cũng là một cách chỉ đạo tế nhị vấn đề nào nên hay không nên nói đến. Trong các cuộc họp đó, ông Nguyễn Sơn luôn luôn nêu bật các điểm trọng tâm, các ưu tiên thời sự trong tuần và đề nghị các báo nên hướng dẫn dư luận thế nào về các vấn đề đó. Ông Trần Trọng Tân rất ít khi xuất hiện trong những cuộc họp chỉ đạo báo chí. “Anh Hai Tân” một nhân vật đứng đầu của Tuyên huấn Thành ủy, chỉ xuất hiện công khai mỗi khi có vấn đề thời sự trọng đại. Ông Tân nói chuyện khá hấp dẫn, khá logic và cũng khá đanh thép. Các báo rất nể ông Hai Tân và thích nghe những lời trực tiếp chỉ đạo của ông. Về phần Vụ Báo chí Trung ương, ở phía Nam có ông Trần Tâm Trí là vụ phó và anh Bảy Thủ là thường trực của Vụ Báo chí tại Sài Gòn, hai anh này làm việc khá thân với Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận và tôi. Những cuộc tiếp xúc riêng của ông Ba Trí với Ngô Công Đức, ông Đức thường kéo tôi đi theo để nghe và ghi chép. Ông Đức nói với Vụ Báo chí của Đảng: Dương Văn Ba là người trực tiếp được báo Tin Sáng giao cho nhiệm vụ thực hiện đúng đắn những chỉ đạo của Vụ Báo chí đối với các vấn đề thời sự. Do đó, sự thân quen của ông Ba Trí với ông Đức, với tôi càng ngày càng rõ rệt và chúng tôi luôn cố gắng thể hiện hướng chỉ đạo của Đảng đối với các vấn đề thời sự. Cách thức làm việc, chỉ đạo của Tuyên huấn Trung ương đối với báo chí, thông qua ông Ba Trí khá nhẹ nhàng và thành công.
Ông Ba Trí là người thích uống rượu mạnh, mỗi lần kéo tôi đến nhà riêng ông Ba Trí ở đường Trần Nhật Duật – Tân Định, Ngô Công Đức thường mang theo một chai whisky (hoặc Hennessy), kèm theo một hoặc hai chai rượu chát đỏ. Thời đó, rựơu vang đỏ của Pháp và Mỹ chưa tràn lan như bây giờ, nên Ngô Công Đức rượu đỏ Cabernet. Lần nào ở nhà anh Ba Trí cũng mất đôi ba tiếng đồng hồ, ba người vừa uống vừa lai rai nói chuyện. Dĩ nhiên, tôi chỉ là người hụ hợ. Đối ẩm chinh của Ngô Công Đức vẫn là anh Ba Trí. Ông Trần Tâm Trí tinh tình hiền hòa, cởi mở cho nên việc tâm tình thân quen trong tiệc nhậu quả là càng ngày càng khắn khít. Người “commissaire” của báo Tin Sáng rất nhẹ nhàng, những chỉ đạo của ông thường mang tính cách tâm tình, do đó rất sâu lắng và hiệu quả. Vị thế của Ngô Công Đức đối với ngành báo chí của Đảng được vun vén bằng cảm tình và sự ủng hộ trong sáng của anh Ba Trí. Đối với tôi, anh Ba Trí là một công chức cao cấp có tầm cỡ và dễ mến. Nhiệm vụ tuyên truyền của báo Tin Sáng được Tuyên Huấn TW Đảng giao phó, suốt thời kỳ 1975-1981 đã được khéo léo vuông tròn, phần nào cũng do công dìu dắt, tích cực nâng đỡ của ông Trần Tâm Trí. Nhưng thực ra ông Ba Trí chỉ đóng vai “nổi” công khai, người đóng vai trò hậu thuẫn tích cực và có hiệu quả dẫn dắt Tin Sáng đi qua con đường gần 6 năm tròn làm báo theo sự chỉ đạo của Đảng Cộng Sản, chính là ông Phó Ban Tuyên Huấn TW Trần Bạch Đằng. Ông Trần Bạch Đằng khá sâu và khá bén nhạy trong vấn đề dìu dắt và hướng dẫn báo Tin Sáng đi theo đường lối cách mạng. Những ý kiến có tính cách chỉ đạo của ông thường được đưa ra rất nhẹ nhàng như những gợi ý, soi đường. Ban Lãnh đạo báo Tin Sáng đã noi theo những gợi ý đó và hành xử việc làm báo hàng ngày với những sáng kiến, những vận dụng sáng tạo chủ trường của Đảng vào các vấn đề thực tế của đời sống. Đọc báo Tin Sáng người ta vẫn thấy hơi hướm của một sự thoải mái, không gò bó trong ngôn từ, không qua công thức cứng ngắt trong cách viết tin, viết bài, trong cách nêu các vấn đề quan trọng và trong cung cách đặt “tít” (tựa đề) cho các tin và các bài. Những dòng tít ngắn gọn, phá bỏ khuôn sáo, phá bỏ giáo điều được nêu lên hàng ngày trên nhật báo Tin Sáng, có tính cách mở đường, khai phá, xé bớt rào cản khô cứng, khuôn thước không cần thiết, xa rời đọc giả của dòng báo chí cách mạng cũ. Đặc tính nổi bật của các dòng tít, của cách thức viết tin hàng ngày trên báo Tin Sáng, thể hiện sự phá bỏ khuôn sáo, phá bỏ khẩu hiệu mà người đọc đã khá nhàm chán. Không có sự ủng hộ, sự hướng dẫn, sự đồng thuận của những người có vai vế trong ngành tuyên huấn của Đảng như ông Trần Bạch Đằng, ông Lưu Quý Kỳ…, báo Tin Sáng sẽ không thể hiện được phần nào tính cách phóng khoáng trong nền báo chí mới, từ cung cách phóng khoáng đó, đã tạo nên một trào lưu mới trong việc đọc báo, trong việc viết báo, trong cung cách thông tin, xử lý các vấn đề hàng ngày của báo chí Sài Gòn từ sau năm 1980 cho đến nay. Một mặt những người điều hành tờ báo Tin Sáng đã có những đóng góp cụ thể trong việc thay đổi cung cách thông tin tuyên truyền, một mặt chính sự thoải mái chấp nhận và hướng dẫn của “những cây cổ thụ” trong ngành thông tin báo chí thời cách mạng, mặt khác cùng với sự kêu đòi một nhu cầu thông tin mới của quần chúng đọc giả, tất cả những yếu tố đó đã góp phần chủ yếu gầy dựng nên phong cách và nền nếp làm báo của thời kỳ sau 1990 cho đến nay. Đối với tôi, nhật báo Tin Sáng thời kỳ II đã góp phần khá quan trọng trong sự chuyển đổi phong cách làm báo cũ, sang phong cách làm báo thời hiện đại.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 26, 2015 9:07:38 GMT 9
Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị ̵ Trahison politique ̵ trong nhóm trí thức thành phần thứ ba Có thể có hai Hồ sơ đen: hồ sơ đen trong nước sau 1975 và một hồ đen ngoài nước. Nguyễn Văn Lục Biết cái chết của anh mình do cộng sản cuồng tín sát hại một cách dã man, làm thế nào họ vẫn có thể nhẫn tâm cúi đầu làm tay sai cho cộng sản?Hồ sơ đen thứ nhất nói về tội ác của cộng sản trong việc xô đẩy người miền Nam tìm con đường thoát đi ra biển. Hồ sơ này đã được Michel Tauriac và nhà báo Hồ Văn Đồng gọi là Hồ sơ đen về chủ nghĩa cộng sản(1), Le dossier noir du communisme. Hồ sơ này nhằm tố cáo về những chính sách tội ác của người cộng sản đối với người dân miền Nam. Từ đánh tư sản mại bản đến đổi tiền và cuối cùng họ bị đẩy ra biển để tịch thu nhà cửa. Những nạn nhân cộng sản chết trên biển trở thành lời tố cáo tính cách dã man và tàn bạo đối với lương tâm nhân loại. Và thế giới đã gọi họ là những thuyền nhân, Boat People. Đây là một hồ sơ đen như một tội ác diệt chủng (génocide) của chế độ cộng sản chống lại con người. Bộ nội vụ cộng sản đã đề ra Kế Hoạch II nhằm quét sạch những thành phần ‘rác rưởi’ thuộc ngụy quân, ngụy quyền, ném họ ra biển. Trong Hồi Ký của đại tá Châu Thái Hùng, ông cho biết việc mua bãi tại tỉnh Đồng Nai, các xã ấp cứ lấy một cây vàng cho hai đầu người. 100 thuyền nhân thì phải trả 50 cây vàng. Cũng theo viên đại tá này: “Thời gian sau tình hình còn diễn biến theo chiều hướng phức rạp hơn. Đó là việc Bộ Nội Vụ ra chỉ thị cho phép các cơ quan công an các tỉnh được quyền tổ chức vượt biên (Lúc bấy giờ gọi là đi bán chính thức)”(2). Chính sách của Bộ Nội Vụ chẳng khác gì một cuộc xuất khẩu người để tich thu nhà cửa, vàng bạc. Ông Bùi Xuân Quang ở Paris đã để công viết một tập hồ sơ đồ sộ gồm phối hợp vấn đề địa chính tri, géopolitique, vấn đề lịch sử, xã hội trong một cuốn sách dầy 821 trang. Ông có đề cập đến vấn đề thuyền nhân mà theo ông Bùi Xuân Quang trong La troisième guerre D’Indochine, 1975-1999(3) đem lại cho ngân khố chính quyền cộng sản là 25 tấn vàng. Số vàng ấy trị giá tính ra tiền là 2 tỉ rưỡi Mỹ Kim. Trong khi đó, số người bỏ mình trên biển hiện nay là bao nhiêu? Không một tài liệu nào cho biết chính xác cả. Có người cho rằng cứ ba người sống sót thì có một nạn nhân xấu số. Dù không có con số chính xác thì hồ sơ đen tội phạm này của chế độ cộng sản Hà Nội cũng cần đưa ra trước một tòa án Quốc tế. Trước khi bị xô đẩy ra biển, họ đã mất nhà mất cửa, phải nộp vàng bạc cho mỗi đầu người. Họ đã bị trấn lột khi ra đi chỉ còn hai bàn tay trắng. Khi đến được xứ người. Bọn tay chân của Hà Nội, đặc biệt qua Hội Việt Kiều Đoàn kết tại Canada một lần nữa, trấn lột họ một cách tự nguyện: Họ com cóp từng đồng một để gửi về cho thân nhân còn kẹt lại bên nhà. Nghĩa là họ bị trấn lột đến hai lần: Lúc ra đi và ngay cả lúc đến định cư ở xứ người. Michel Tauriac gọi họ là những con bò sữa bị vắt sữa đến hai lần. Vắt lúc ra đi và lúc tới nơi. Câu chuyện Hồ sơ đen thứ hai -cũng là mục tiêu chính của bài này- được viết lại ngày hôm nay về nhóm sinh viên thiên tả nằm trong một tổ chức có tên là Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Ca-na-đa(4), là một câu chuyện của quá khứ cách đây có thể trên 40 năm. Tưởng đã chìm vào dĩ vãng mà nhiều người trong cuộc tin chắc rằng họ có thể hạ cánh an toàn, gác lại chuyện dĩ vảng và an hưởng tuổi già vì nay họ đều sấp sỉ tuổi 70 trở lên. Câu chuyện xem ra không đơn giản như họ nghĩ! Và dứt khoát những người tỵ nạn là thuyền nhân trên biển còn sống sót sẽ không bao giờ quên được chuyện đó. Hồ sơ đen thứ nhất có thể đã được nhiều tác giả, nhiều sách vở đề cập tới. Nhưng hồ sơ đen thứ hai thì hầu như đã bị chìm trong quên lãng nay được khơi lại như một hồ sơ nóng. Những người trong cuộc cần hiểu rằng, họ gián tiếp tay với chính sách của cộng sản Hà Nội. Họ là cánh tay nối dài của cộng sản Hà Nội bằng cách trấn lột tiền bạc, biến những người miền Nam còn kẹt lại trong nước thành một thứ con tin. Hiện nay, DCVOnline.net đang đưa một loạt hồ sơ đen về những ai thuộc nhóm sinh viên ‘phản chiến’ và được gọi là thành phần thứ ba ra ánh sáng công luận về những điều họ nói và nhất là về những điều họ làm. Đây là một công việc làm nghiêm chỉnh, mất nhiều công sức tìm tòi tài liệu nguồn! Đưa ra tập hồ sơ đen (Dossier noir) của Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada này không nhằm riêng rẽ một cá nhân nào. Và các tài liệu được trích dẫn đều dựa trên những nguồn khả tín nhất hoặc trên băng thu âm, trên tài liệu viết thành sách, trên các báo chí của thời đó. Nó có giá trị của loại tài liệu mang đúng tiêu chuẩn khoa học, đạt trình độ tri thức luận và nhận thức luận cao. Nói một cách nôm na, tập Hồ sơ đen này dựa trên giấy trắng mực đen, có ngày tháng, có hình ảnh đi kèm, không thêm bớt và vì thế khả năng phản biện và phủ nhận hầu như là điều không thể. Nó có giá trị thuyết phục ngay đối với những người có tên trong Hồ sơ. Họ chỉ còn biết im lặng tâm phục, khẩu phục! Mục đích tối hậu của Hồ sơ đen này là lột trần chân tướng của kẻ đứng đằng sau là đảng Cộng sản ở Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam, qua hai hồ sơ đen này, bộc lộ bản chất tàn độc nhất, dã man một cách tinh vi nhất, thất nhân tâm nhất và cũng xảo trá nhất. Người viết xin thú nhận rằng khi lần đầu tiên tiếp nhận tập tài liệu The Vietcong Front in Quebec – Mặt trận Việt Cộng ở Québec của Gilbert Gendron vào khoảng đầu tháng tư. Người viết đã hoan hỉ đọc. Nhưng đọc xong lần đầu thì như thể đụng phải một bức tường. Đọc lần hai và đọc đến lần thứ ba. Nhiều chi tiết quá không sao nhớ hết được. Đọc trước quên sau. Đọc lại tưởng như chưa đọc. May mắn là sau đó có bài của Trà Mi, Đứng ngoài cuộc chiến. Bài này nó cho thấy một cái trahison politique của đám sinh viên trẻ, trốn lính, nhưng lại mang mặt nạ yêu nước lý tưởng, chống chiến tranh mà tiêu biểu là bốn người trong một cuộc phỏng vấn của John G. Rogers, viết từ 45 năm trước, 14-6-1970, cho tạp chí Parade và cũng đăng trên tờ Washington Post, một tờ báo thường có truyền thống chẳng mấy tốt đẹp gì với miền NamViệt Nam cả. Bốn người này có thể nay chẳng nhớ họ đã phát biểu gì trong cuộc phỏng vấn đó. Bốn người trong bức hình là Lương Châu Phước, Đỗ Đức Viên, Trần Tuấn Dũng và Nguyễn Văn Nhã. Sinh viên “yêu nước” trốn quân dịch không về nước: (từ trái qua phải): Lương Châu Phước, Đỗ Đức Viên, Trần Tuấn Dũng, và Nguyễn Văn Nhã. 1970. Nguồn: Tạp chí PARADE/Washington Post June 14, 1970 Người nào trông mặt mũi cũng thông minh, bảnh bao mà tâm địa sao hèn kém thế. Bọn trốn lính!Với lời chú thích mỉa mai của người đi phỏng vấn ngay từ năm 1970 mà các chàng ‘ngây thơ’ chẳng hiểu rõ thâm ý của nhà báo. “Sitting out the war: South Vietnamese students evade service by refusing to go home. Most arrived on Canadian government scholarship.” Người viết xin tạm dịch với vốn tiếng Anh ăn đong như sau: Ngồi ngoài cuộc chiến ở Montréal: các sinh viên của miền Nam đã trốn lính bằng cách từ chối quay trở về miền Nam. Hầu hết họ đã đến đây qua học bổng của chính quyền Canada. Trong đó, trừ Đỗ Đức Viên, ba người kia sau này đều có chức vụ, giữ vai vế quan trọng trong Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Ca-na-đa. Định mệnh sắp xếp chăng? Trong hình, người viết, do một người bạn đã giúp, nhận diện ra Nguyễn Văn Nhã giống hệt nhà văn Y Uyên, một chuẩn úy Địa phương quân đã hy sinh tại Phan Thiết. Đúng là cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Người anh làm anh hùng, thằng em bất nghĩa theo giặc! (T) Thầy giáo/nhà văn Y-Uyên | Circa 1968. (P) SV phản chiến Nguyễn Văn Nhã, 1970. DCVOnline tổng hợp Tiếp đến bài của Lê Quốc Trinh, Lời sám hối muộn màng. Có thể Lê Quốc Trinh đã cho nổ một quả bom nổ chậm trong nội bộ đám Việt kiều yêu nước. Lời văn, giọng điệu chân thật, chữ dùng hầu như chưa gọt dũa, còn nguyên vẹn bản chất con người của một người có thói quen ‘cầm búa sửa nhà’, tay chắc dính dầu, bùn đất vì vốn là kỹ sư làm trong ngành mỏ như tác giả tự mô tả. Chính ở chỗ đó làm nên cái đẹp của tác giả. Tác giả mở đầu, Hôm nay ngày 3 tháng 3 năm 2015, tôi quyết định viết bài sám hối… Và lời cuối trong bài Sám Hối: “Nghĩ lại thời gian đã qua, tôi thầm tiếc nuối cho một đời thanh niên đã bị lừa dối, bị đánh cắp và cảm thấy rất ăn năn vì đã không trực tiếp góp phần với cuộc đấu tranh đòi lại công lý cho toàn thể nhân dân miền Nam.” Tôi đã đọc nhiều những sách viết về thái độ phản tỉnh của các nhà văn trí thức như Thanh Lãng, Chân Tín, Lê Hiếu Đằng, Tiêu Dao Bảo Cự, Đào Hiếu, Ngô Công Đức, Trần Đức Thảo, Tô Hải, Hoàng Hữu Quýnh, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ, Hà Sĩ Phu, Hoàng Minh Chính, v.v. Nhưng đây là lời sám hối khác hẳn các trường hợp trên. Không phải người trong đảng, hoạt động nhiều năm trong lòng chế độ. Nhưng ông là một cựu sinh viên ở hải ngoại, có trình độ, có dịp sống trong môi trường xã hội chính trị có truyền thống dân chủ. Vậy mà từ năm 1973, ông đã tự nguyện hoạt động cho cộng sản qua hội Việt kiều yêu nước. Lời thố lộ của ông mộc mạc mà cũng trung thực nhất! Thẳng thừng không úp mở. Và theo đúng tinh thần ngưởi chủ chiên trong Phúc Âm kể lại là mỗi khi có một con chiên trở về thì người chủ chiên sai mở tiện ăn mừng sự trở về ấy. Tôi cũng có niềm hân hoan ấy khi đọc Lời sám hối của Lê Quốc Trinh. Ông Lê Quốc Trinh đã có thời là bè bạn, là đồng chí của những thành viên trong Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Ca-na-đa. Mặc dầu gia nhập hội trễ năm 1973, nhưng ông là người có công đóng từng cái bàn, cái ghế, ngăn phòng, sửa chữa hội quán ở số 1450 Beaudry, năm 1980. Những tiết lộ của ông giúp phần đông bạn đọc, những ‘boat People’ hiểu được cái tổ chức trên cũng như công việc của họ. Tuy nhiên tôi cũng không đến nỗi quá ngây thơ đển tin rằng một ngày nào đó những Nguyễn Văn Nhã, Trần Tuấn Dũng, Quách Tinh Văn, Lương Châu Phước lại có thể có lời sám hối tương tự. Bởi vì trong một bài viết nhan đề Nhân đi thăm Tích Lan, trong nhóm sinh viên Colombo 1964, ông Lương Châu Phước trong phần kết luận có viết: “Thôi thì cũng phãi tự tha thứ và tự an ủi rằng ít ra là mình biết nhớ ơn, dù có muộn màng và sau khi đã nhận lãnh sự giúp đỡ, đã không làm điều gì sai quấy, không đem phiền muộn cho ai…” Điều này cho thấy, ông Lương Châu Phước không nhận thức rõ được việc làm của ông trong Hội Việt kiều yêu nước của ông. Tôi đã có dịp đọc tờ Đất Việt do ông làm “Tổng biên tập”. Một số nội dung báo Đất Việt cho thấy tính cách tuyên truyền từ cách chọn bài, chọn tác giả, chọn thông tin, tên tuổi các ông cộng sản như Nguyễn Cơ Thạch, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng. Chắc rằng ông đã viết sai sự thật hay che dấu sự thật không ít. Cộng tác viên trong nước thì có Trần Bạch Đằng, Sơn Nam, Vũ Hạnh. Hoàng Phủ Ngọc Phan, Ngọc Linh. Đặc biệt đăng truyện dài Ông cố vấn của Hữu Mai. Hữu Mai là Trần Bạch Đằng. Cảm tưởng của tôi là nó giống như một tờ báo đảng ở Sài Gòn. Báo in và xuất bản ở Montréal của Hội Việt kiều mà tuyệt nhiên không có bài vở, sinh hoạt ở đây! Chỉ xin gửi đến ông một số đề thi tú tài hai bên Pháp năm nay cho 685.000 thí sinh. Riêng thí sinh ban Khoa học thực nghiệm (S) thì đề thi triết năm nay như sau: “La politique échappe-t-elle à l’exigence de la vérité?” Làm chính trị có cần tôn trọng sự thật không? Chắc là ông không làm được bài thi này. Tôi là thầy giáo dạy môn Triết, đành đánh rớt ông thôi! Với tư cách một người đọc, một người đứng xa, đứng ngoài không có quan hệ quen biết gì với đám người trong tổ chức trên, trừ một hai người vốn quen biết sẵn, tôi xin đóng góp như cái nhìn thứ hai (second regard) vào tổ chức này. Cái nhìn của người viết mang tính cách đánh giá và phê phán cá nhân cũng như tổ chức này và đặt ra một số câu hỏi. Hài danh tính một số thành viên phản bội chính trị trong tập Hồ sơ đen ở hải ngoại Cho đến nay, đa số trong số gần 40.000 người Việt sinh sống và định cư ở Montréal đã không hề biết gì về những thành viên trong tổ chức hội Việt kiều yêu nước cũng như công việc họ làm. Đó là một thiếu sót mà người viết thấy cần thiết phải làm. Nhiều người từng là thành viên của nhóm Hồ sơ đen Việt kiều yêu nước nay đã chọn sự im lặng và tránh mọi tiếp xúc hay tránh không muốn cho phỏng vấn. Tại sao họ phải làm như vậy? Chỉ vì nay họ biết cái trách nhiệm, cái sai phạm mà họ đã làm trong quá khứ cách đây 40 năm! Họ không muốn ai nhắc tới nữa. Tiêu đề Trahison Politique là muốn nhấn mạnh là tất cả thành viên của Hội này đều gốc gác ở miền Nam hoặc di cư từ Bắc vào Nam trong cuộc di cư năm 1954-55. Họ đã được ăn học, giáo dục đến nơi đến chốn cho đến lúc đỗ xong hai bằng tú tài. Không có miền Nam, không có nền giáo dục tốt đẹp của miền Nam, không có sự chọn lựa công bằng trong sự tuyển chọn thì dù họ học giỏi – Tôi nhận thức một cách không khâm phục – khi trong thâm tâm, họ cho rằng, họ giỏi nên chẳng cần ai, họ đương nhiên được đi du học. Nói thật, không có những điều kiện ắt cỏ và đủ ở miền Nam. Thân phận họ không được như vậy! Vậy mà họ chưa một lần biết cám ơn miền Nam. Họ cũng chưa hề đóng góp công sức ngay cả phục vụ trong quân ngũ như những thanh niên khác đồng lứa tuổi với họ. Họ thiếu cái tình con người mới không hiểu rằng biết bao nhiệu thanh niên cùng trang lứa với họ đã phải nhập ngũ, ra chiến trường và chết thay cho họ. Tôi đọc Đỗ Lệnh Dũng của Lê Thiệp và cảm thức được cái oan nghiệt của cuộc chiến tranh(5). Mười tám tuổi, hào hùng, lúc nào điếu thuốc lá cũng trên môi như một thách thức, từ giã tuổi trẻ Sài Gòn, từ giã cha mẹ, nhập ngũ, rồi mất tích giữa Chiến Khu D sau một trận đánh dữ dội. Thử hỏi xem họ có cái gì hơn Đỗ Lệnh Dũng? Trường hợp Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn Hương và nhà văn Y Uyên Tôi biết nhà văn Y Uyên đã lâu. Nhưng lại không bao giờ có ý tưởng liên kết nhà văn chết trước 1975 với hai người em của ông ở Canada, cho đến khi tôi viết bài này. Thật là một cái duyên kỳ lạ. Gia đình Y Uyên vốn người Bắc di cư. Ông cụ bị cộng sản lên án tử hình khiếm diện. Năm 1954, ông cùng với đại gia đình di cư vào Nam và định cư tại Gò Vấp, nơi có đông đồng bào công giáo di cư lập nghiệp. Gia đình ông theo đao Phật. Căn nhà của gia đình Y Uyên ở số 109-2C đường Thống Nhất, quận 11, Gò Vấp. Ngày 8 tháng 1, năm 1969, nhà văn Y Uyên đã vĩnh viễn ra đi. Trước khi ra đi, anh cũng đã gửi cho Ng., người yêu của anh, kể chuyện về đêm Noel lạnh lẽo ở núi đồi với một lời chúc, Mừng em ăn tết, năm mới thật nhiều bánh kẹo. Năm nào gia đình anh cũng làm lễ giỗ, tổ chức long trọng và mời bạn bè anh đến dự. Nguyễn Văn Hương, em ông, là người mong muốn tái bản 6 tác phẩm của anh mình. Như nhiều thanh niên khác đã không được cái may mắn như họ và nhiều người đã hy sinh vì lý tưởng quốc gia như trường hợp chuẩn úy Nguyễn Văn Uy – bút hiệu Y Uyên. Ông đã hy sinh tại đồi Nora, gần chân núi Tà Lon (còn gọi là Tà Zon, Tà Dôn), Bình Thuận năm 1969, lúc vừa 29 tuổi. Chuẩn úy Nguyễn Văn Uy – nhà văn Y Uyên – trước hầm trú ẩn ở đồn Nora, vùng núi Tà Dôn, Bình Thuận. 1969. Nguồn Thư quán Bản thảo số tháng 2/2005 Bạn bè thân hữu, nhà văn rất đông trong tạp chí Văn đã ra số tưởng niệm ông. Tên tuổi nhiều người như Thư Trung, Võ Hồng, Mường Mán, Huỳnh Phan Anh, Thanh Tâm Tuyền, Trần Phong Giao, Cao Thoại Châu, Trùng Dương, Nguyễn Mạnh Côn, Trần Huiền Ân, Lê Bá Lăng và người bạn chí thiết của ông Mang Viên Long, v.v. Nhắc tới ông, vì ông là anh ruột của những kẻ đã phản bội miền Nam là Nguyễn Văn Nhã, và Nguyễn Văn Hương. Thật uổng phí cho sự hy sinh cao cả của cố thiếu úy Nguyễn Văn Uy. Và cũng thật đáng hổ thẹn vì ông có hai người em ruột bất xứng. Ông Nguyễn Văn Nhã nay là đại gia. Người ta nói với tôi như thế. Vợ ông cũng là thứ đại gia giầu ngất ngưởng. Ông không thể ngờ rằng có ngày hôm nay, có một nhóm người cầm bút trước 1975 trong Thư quán Bản thảo. Họ đã có lòng và bỏ công sức thời giờ cũng như tiền bạc, đã sưu tập tất cả truyện ngắn của nhà văn Y Uyên. Và in lại trong Tuyển Tập truyện thời chiến của nhà văn có tên tuổi mà tuổi đời mới 29, người miền Nam, một chiến sĩ Việt Nam Công Hòa đã nằm xuống năm 1969. Tôi xin trích lại một bài thơ cuả Trần Huiền Ân đăng trên Bách Khoa tháng 01-69 để tưởng nhớ Y Uyên với những câu: “Mình tôi ngồi đây thương tiếc anh Càng thêm căm uất cuộc tương tranh Đầy sông máu đục tình huynh đệ Xương trắng từng phơi biết mấy thành” Tôi cũng xin trích dẫn lời giới thiệu tập sách của nhà văn Y Uyên được Thư Quán Bản Thảo in lại ở hải ngoại: “Việc sưu tầm 9 truyện ngắn này quả thật là cả một sự khó khăn đối với chúng tôi… Chúng tôi phải nhờ những bạn bè cầm bút cũ trong nước ra công tìm kiếm những sáng tác của ông đăng rải rác trên những tạp chí văn học miền Nam trước 1975 […] Những trang tạp chí ấy hôm nay đã ố vàng với thời gian, nhưng truyện ngắn của Y Uyên vẫn không-và-không-bao- giờ ‘ố vàng’ trong lòng độc giả miền Nam, trong lòng bạn bè của ông hôm nay.”(6) Là trai thời binh lửa thì chuyện gục ngã ở sa trường là chuyện thường ngày trong suốt cuộc nội chiến Việt Nam. Nhưng cái chết của chuẩn úy Nguyễn Văn Uy không phải là một cái chết bình thường. Xin trích một đoạn trong bài Núi Tà Dôn và dấu chân Uy của Lê Văn Chính (Sương Biên Thùy) đã đăng trong Tạp Chí Văn, số 129, phát hành ngày 1 tháng 5 năm 1969 – Số đặc biệt thương nhớ Y-Uyên. “11.1.69 Tôi nghĩ Uy sẽ không bị chết nếu bị bắt, nếu Uy biết cách nói cho những người ở phía bên kia biết Uy là một nhà văn. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp, sau khi bị bắt, Uy sẽ được ra Hà Nội, và guồng máy tuyên truyền phía bên kia sẽ khai thác nhà văn của chúng ta. Nhưng tất cả những điều tôi tưởng tượng đều trái ngược với thực tế, một thực tế phũ phàng, tàn nhẫn: Y Uyên, sau khi chết rồi, còn bị bắn bồi mấy phát súng ở mắt, tai và đâm bồi thêm mấy nhát dao ở hai cánh tay và hai bên hông. Tôi không có mặt khi bạn hữu tẩm liệm chàng, nhưng Học nói lại những nhận định như thế khi quan sát xác chết với những dấu đạn, dấu dao trên mình chàng. Có những dấu đạn người ta biết được là từ đâu, như thế nào, và người ta cũng biết được những dấu đạn nào là vô ích, là của hận thù. Trên thân xác của Uy, khi chở về Quân y viện, có những dấu đạn thừa, những dấu dao vô lối. Những dấu đạn, vết dao không thể cắt nghĩa được. Nếu không phải là chúng có từ những thù hận ghê gớm, những chất ngất căm hờn, thì không thể làm sao tìm ra lý do giải thích sự hiện diện của chúng trên thân hình một người đã chết. Từ những dấu đạn vết dao đó, tôi có một nhận định về những người ở bên kia chiến tuyến. Tôi không hiểu bằng cách nào, trong cuộc chiến tương tàn, ròng rã hơn hai mươi năm này, những người lãnh đạo cộng sản đã dạy cho binh lính của họ như thể nào để lòng thù hận chất ngất mênh mông đến thế? Tôi chấp nhận những viên đạn thứ nhất là hợp lý – Ừ, thì cứ cho là hợp lý. Nhưng những viên đạn bắn bồi, những nhát dao đâm thêm trên một xác thân đã chết là những viên đạn, những nhát dao không thể cắt nghĩa, không thể chấp nhận được. Những người Cộng sản Việt Nam đã làm những điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận, từ sự cuồng tín. Từ đó, chúng ta có một nhận thức mới, họ mù quáng trong khi chiến đấu, họ không mảy may hiểu về những căn nguyên cuộc chiến tương tàn này.”(7) Tôi tự hỏi, cách ứng xử nào được coi là tốt đẹp nhất, nếu tôi là em của của cố thiếu úy Nguyễn Văn Uy! Tôi cũng hỏi Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn Hương như thế. Tôi thật sự không hiểu được con người các ông Nhã và Hương. Họ đã có một người anh, một nhà văn, một người anh đã hy sinh ngoài chiến trường(8). Khi Nguyễn Thái Bình, một sinh viên du học ở Hoa Kỳ, ngày 1 tháng 7, 1972 trên đường về nước, âm mưu cướp máy bay và bị giết, xác ném xuống phi đạo thì một số người trong HVKYNTC mà hai ông Hương và Nhã là thành phần lãnh đạo đã định chiếm lãnh sự quán của Mỹ ở Montreal để trả thù cho đồng chí/không tặc(9). Tôi lại tự hỏi, thế những người thân cộng đó và cả hai anh Hương và Nhã đã nghĩ gì và đã định làm gì khi biết chuẩn úy Nguyễn Văn Uy chết như thế nào bên một dòng suối ở chân núi Tà Dôn vào ngày 8 tháng 1, 1969. Biết cái chết của anh mình do cộng sản cuồng tín sát hại một cách dã man, làm thế nào họ vẫn có thể nhẫn tâm cúi đầu làm tay sai cho cộng sản? Tôi chỉ hỏi họ điều đó thôi. Điều mà tôi cũng đã hỏi tiến sĩ triết học Thái Kim Lan, cha bị Việt Minh sát hại lúc 5 tuổi chỉ vì làm công chức bưu điện cho Pháp. Nghĩ tới cảnh mồ côi cha, biết bao thiệt thòi, vậy mà cũng cúi đầu đi theo cộng sản? Thật sự tôi không hiểu được họ, Tôi không thể nào hiểu được họ. Họ có đầu không, có trái tim không? Có một chút lòng thương tiếc anh mình không? Và nhất là họ có còn bản tính người không? Nếu không, họ còn thua cả loài súc vật. Hoàn cảnh miền Nam mà mỗi người mỗi phía là hoàn cảnh không tránh được. Phần tôi, tôi có một người anh ruột, bị tù cộng sản trên suốt 20 năm. Và tôi nghĩ rằng, tôi không cần biết họ là ai, là cộng sản hay không cộng sản. Kẻ nào ám hại anh tôi thì tôi căm thù họ suốt đời. Tâm trạng ấy, tại sao lại không có được nơi Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn Hương? Sau đây, tôi xin ghi chép đầy đủ tên một số những thành viên của Hội Việt Kiều Đoàn Kết Tại Ca-na-đa. Vĩnh Anh. Võ Văn Bang, đại gia ở Việt Nam. Tạ Công Bằng, về Việt Nam và chết đuối một cách bí ẩn ở sông Trà Khúc. Thục Bình. Phan Minh Dũng và vợ. Trần Tuấn Dũng, Phân hội trưởng Phân hội Sinh viên HĐKVKTC, Phó Giám Đốc Vinamedic Inc., công ty xuất cảng dược phẩm và vải may mặc, thành lập năm 1981, thuộc nhóm Đổi Mới, có mặt ở Hà Nội năm 1988. Phan Kim Điển, thành viên Hội đồng quản trị Q.T.K Express Inc và CIIC Internatioal Investment & Trade Corporation mà giám đốc là Nguyễn Văn Hương. Phí Thịnh Đức, giáo sư khoa kỹ sư Điện tại đại học Moncton. Hoàng Hải Học, giáo sư trường Ecole Polytechnique, Montreal, không có mặt ở trong phiên họp tháng 10, 1988, nhưng được cộng sản giao trách nhiệm trong buổi họp giải quyết tranh chấp hai phe. Nguyễn Mạnh Hùng, dạy khoa kinh tế đại học Laval, sinh hoạt văn học với bút hiệu Nam Dao. Nguyễn Văn Hương, cựu chủ tịch HĐKVK đến năm 1986, giám đốc Q.T.K. Express Inc., và CIIC Internatioal Investment & Trade Corporation, em của nhà văn Y-Uyên. Nay thì Nguyễn Văn Hương thường ở Việt Nam. Lưu Liên, nhân viên quản lý của Laser Express Inc. Bị thất sủng và khai trừ ra khỏi mọi chức vụ. Phí Thịnh Long, Toronto. Nguyễn Xuân Lộc. Tôn Nữ Thị Nga, Chủ tịch Vietimex.Inc, vốn là 98.000 đô la, Lưu Liên Phó chủ tịch, Huỳnh Hữu Tuệ, Phó chủ tịch và Lê Tiền Phong, Tổng thư ký. Nguyễn Văn Nhã, Phân Hội trưởng, Phân hội Trí thức HĐKVKTC, Giám đốc Vietimex Inc. và Giám Đốc Vinamedic Inc. Nhã còn thành viên Mặt Trận tổ quốc. Nhã thuộc nhóm đa số thuộc Thành Viên Ban Thường Vụ. Nhã cũng có mặt theo sự triệu tập của Hà Nội năm 1988 để giải quyết tranh chấp giữa hai phe: Phe Thường vụ và phe Đổi Mới. Công ty Vinamedic của Nhã có những thùng thuốc gửi bằng Telex về Việt Nam. Có các thùng 55 đô la Mỹ, thùng 100 đô la Mỹ và thùng 200 đô la Mỹ. Có những thùng đặc biệt lên đến 220 đô la và 320 đô la. Oanh, trong nhóm Thường Vụ. Lê Tiền Phong, Thái Thị Khánh Hạnh, vợ Lê Tiền Phong; chồng về Việt Nam năm 1988, theo lệnh triệu tập của Hà Nội, ở trụ sở Ban Việt Kiều Trung Ương. Ông đứng về phe Thường vụ-Kinh doanh như trong hồ sơ Vixileaks của Trần Giao Thủy tiết lộ. Ông đã qua đời vì ung thư phổi khi quay trở lại Canada. Đinh Văn Phước và vợ. Lương Châu Phước, nguyên Tổng Biên Tập (Chức vụ giống hệt như ở Việt Nam sau 1975) tờ Đất Việt, được trả lương, được cung cấp xe hơi. Đã mất job chủ báo từ năm 1987 nhưng cũng về Việt Nam năm 1988, thuộc Nhóm Đổi Mới. Hội Việt Kiều đoàn kết vỡ làm hai năm 1990, và hoàn toàn ngưng hoạt động sau 1991. Nay Lương Châu Phước lấy cửa chùa làm nơi nương tựa. Bỏ dao thành Phật. Lê Phúc và vợ Lê Hữu Phùng, bác sĩ tốt nghiệp ở Pháp. Chủ tịch ủy ban cố vấn HĐKVKTC, thành viên Hội Đồng quản trị Laser Express. Dương Quý Nguyễn Minh Sang, đại úy nha sĩ, đào ngũ. Chụp hình cùng vợ con, trên mặt bàn còn để chiếc mũ kêpi sĩ quan, nhưng đằng sau treo cờ giải phóng. Ở Toronto, đã cộng tác với tờ Đất Việt. Con trai y, cũng là nha sĩ, cũng đi theo vết chân lấm bùn của bố. Cha nào con nấy! Đỗ Lâm Sinh. Nguyễn Kỳ Toàn, dạy đại học Quebec tại Trois-Rivières. Nguyễn Thị Thanh, vợ Lương Châu Phước. Lê Quốc Trinh, kỹ sư khai khoáng. Tác giả Lời sám hối muộn màng, Đôi lời tâm sự và bài Yêu nước hay yêu tiền đã đăng trên DCVOnline.net Võ Văn Trương, giáo sư đại học Moncton. Võ Quang Tu, nhân viên của tòa đại sứ Việt cộng năm 1979. Trong Hội Đồng Quản trị của công ty Laser Express Inc. thành lập tháng 7, năm 1980 cùng với Lê Hữu Phùng, Mai Tất Đắc, Nguyễn Cao Đàm, Nguyễn Như Thường. Trị giá cơ sở địa ốc của công ty là 239.900 đô la vào năm 1986. Nguyễn Đức Tuấn. Phạm Ngọc Tuấn, trong Hội Đồng Quản trị Vietimex Inc. Công ty này giải thể năm 1997. Huỳnh Hữu Tuệ, giáo sư khoa kỹ sư Điện, chủ tịch HNVTC từ năm 1986, thuộc nhóm Thường Vụ, có mặt năm 1988 trong vụ tranh chấp giữa hai nhóm: Thường Vụ và Đổi Mới, hiện tình nguyện về dạy học tại trường Đại Học Quốc Tế trong Đại Học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh. Việt Nam. Lý Thanh Tùng. Nguyễn Quát Ti. Quách Tinh Văn, có anh ruột là Quách Tinh Cần, đỗ thủ khoa sĩ quan Đà Lạt, khóa 20, ngày 20-11-1965. Quách Tinh Cần sau đó làm sĩ quan tùy viên cho đại tướng Cao Văn Viên. Đây là một hoàn cảnh bi kịch của miền Nam khi gia đình chia hai, mỗi người đứng về một phía. Quách Tinh Văn, Phó Giám đốc Vietimex Inc., Phó Giám đốc Laser Express Inc., Phó Giám đốc Vinamedic Inc. chuyển hàng về Việt Nam. (T) Cựu Thủ khoa Trường Võ Bi Quốc gia Việt Nam - Khóa 20, cựu đại úy VNCH Quách Tinh Cần (2010). (T) SV thân cộng, doanh nhân Quách Tinh Văn (2014). Nguồn: DCVOnline tổng hợp Đỗ Đức Viên. Phùng Kim Vy, vợ Nguyễn Văn Nhã, sang Canada năm 1975, là giám đốc Saigon Tours, Montréal, Giám đốc Khu du lịch Thiên Phú – Seahorse Resort Phan Thiết, Phó chủ nhiệm Câu lạc bộ Doanh nhân Việt kiều, hiện là Chủ tịch HĐQT The Cliff Resort & Residences (Khu nghỉ dưỡng Dốc Đá) ở Phan Thiết (Bình Thuận), v.v. Trong số những người trên, có nhiều cấp độ tham gia: tham gia ít hay nhiều, tích cực hay không tích cực, tham gia như một cảm tình viên hay vì tò mò. Có nhiều người tham gia nhưng vẫn giữ được tinh thần tự trọng, có nhân cách. Có người tham gia chỉ vì tiền, vì quyền lợi. Có những người bị lợi dụng. Có những người là nạn nhân. Có những người bị thất sủng, bị khai trừ. Có những người nay chỉ có tên mà thực sự họ đã tránh xa, không dính dáng với chuyện làm ăn của hội. Có những người chỉ có tiếng mà không có miếng. Nói chung có một sự phức tạp ràng buộc trong cách thức tham gia vào Hội. Điều thứ hai, khi hội có liên hệ chặt chẽ với tòa đại sứ cộng sản ở Ottawa thì chỉ những thành viên nào tỏ ra ‘biết điều’ mới được tin dùng. Như trường hợp bác sĩ Lê Hữu Phùng mà chức vụ chính thức là Chủ Tịch Ủy Ban Cố vấn! The President of UGVC’s Committee of counsellors. Ai cũng thừa hiểu rằng chức vụ đó chỉ có danh tước mà không có quyền hành gì trong nội bộ tổ chức. Và cũng chẳng chấm mút ăn được cái giải gì cả. Một trường hợp khác, Trần Tuấn Dũng. Đỗ Đức Viên, Nguyễn Xuân Lộc. Cả ba đều làm cho một hiệu sách nhỏ có tên Librairie Hồ Chí Minh, ở số 72, đường Prince Arthur, phía Đông, Montreal. Họ đã bị bắt lầm trong sự kiện Khủng hoảng tháng Mười tại Canada (October Crisis, 1971) vì đã có mặt ở một chỗ đáng lẽ họ không có mặt, nhà của một nhân vật trong danh sách cảnh sát cần bắt giữ. Họ không phải là mối quan tâm của chính phủ Canada và đã được phóng thích vài ngày sau đó. Có trường hơp đặc biệt như trường hợp vợ chồng Nguyễn Tấn Phục và Hoàng Thị Vĩnh Thủy; cả hai đã tình nguyện về Việt Nam năm 1977. Đến năm 1979, biết rõ bộ mặt thật của chế độ và quyết định trốn được sang Mã Lai và nhờ có hai con có quốc tịch Canada nên được bốc đi ngay sang Canada. Từ đó, họ chọn thái độ quy ẩn. Thái độ này, tôi cho là đáng trách. Đáng lẽ họ nên cho đồng bào ở đây biết rõ nguyên do nào họ phải liều chết trốn ra khỏi Việt Nam. Họ còn sợ cái gì? Không lẽ bóng ma cộng sản vẫn chập chờn trong giấc ngủ của hai vợ chồng sau 40 năm? Cộng đồng người Việt ở đây rộng tay đón họ như thể đón đứa con trở về như một niềm vui, như xóa sạch nợ nần, ân oán! Nợ nần ai làm người đó trả. Họ có làm gì đâu? Nhưng thực chất những người vừa nêu tên tuổi trên kia họ là ai mới được? Thưa đó là những thành phần có ăn học, được các chính phủ thời Đệ Nhất và Đệ Nhị cộng hòa cho học bổng đi học tại Pháp, tại Mỹ, tại Tân Tây Lan và tại Đức, Thụy Sĩ và nhất là tại Canada. Trong đó có 40 người đi với học bổng của chương trình Colombo vào năm 1964. (Còn phần Kết) đăng lại bài từ DCVOnline.net Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline minh hoạ. (1) Michel Tauriac là nhà văn am hiểu đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam. Ông là nhà văn có hơn 30 tác phẩm trong đó có cuốn La nuit du Tet ( Đêm Giao thừa). Nhân vật chính là Mạnh, sau này trở thành một bác sĩ, sinh sống và làm việc ở bên Pháp. Ông có đầy đủ tất cả, trừ người anh của ông bị cộng sản bắt cóc đi mất. Nỗi băn khoăn của Mạnh là giữ gìn bản sắc người Việt, duy trì cội nguồn. Nhưng bị xâu xé, dằng co giữa hai nền văn hóa và lo sợ sẽ đánh mất cội nguồn và không còn có uy quyền trên con cái nữa!! (2) Đại tá Châu Thái Hùng, Một cuộc đời đây thử thách, trang 194. (3) Bùi Xuân Quang, La troisième guerre d’Indochine, 1975-1999, Sécurité et géopolitique en Asie du Sud-est, Paris, Pharmattan, 2000, 821 trang. (4) Tổ chức có ít lắm 4, 5 danh xưng tùy theo mỗi thời kỳ như Hội Đoàn kết Việt kiều tại Canada, Hội Người Việt Nam Tại Canada, Liên Hiệp người Việt Nam tại Canada, v.v. (5) Lê Thiệp, Đỗ Lệnh Dũng, nxb Tiếng Quê Hương. (6) Y Uyên, Tuyển truyện Thời chiến, trang 5. (7) Lê Văn Chính (Sương Biên Thùy, bút hiệu sau này là Lê Mai Lĩnh) Núi Tà Dôn và dấu chân Uy, Thư quán Bản thảo, Tưởng nhớ Y-Uyên, 1943-1969, năm thứ 3, tập 18, tháng 2, 2005, trang 77-78 (8) Văn miền Nam, truyện ngắn, tập III, trang 1581. Truyện ngắn Bão Khô. Y Uyên, tên thật Nguyễn Văn Uy, sinh năm 1940 nhưng trên giấy tờ ghi 6-8-1943, tại làng Dục Nội, quận Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, Bắc Việt. Trước 1975, ông có cho xuất bản nhiều tuyển tập truyện ngắn như: Tượng đá sườn non, 1966, Bão Khô, 1966. Quê Nhà, 1967 Ngựa tía (truyện dài), 1967 Chiếc xương lá mục, 1968. Đuốc sậy, 1969. Có loài chim lạ. Trần Phong Giao đã cho xuất bản tập Có loài chim lạ, Tân Văn, năm 1971 nhân ngày giỗ của anh. Nhà văn Y Uyên dạy học tại Tuy Hòa (1964-68). Nhập ngũ khóa 27 Thủ Đức. Tử trận ngày 8-1-1969 trong trận phục kích, bên dòng suối, dưới chân núi Tà Zon, gần đồn Nora, Phan Thiết. (9) Trần Giao Thủy, Khủng bố hay anh hùng? DCVOnline, 27 tháng 2, 2015.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 26, 2015 9:38:13 GMT 9
Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị (Kết) Nguyễn Văn Lục Với tư cách người cầm bút, tôi có bổn phận trình bày lại một giai đoạn đã qua. Và đã có một thời như thế. Một thời mà ngay những kẻ trong cuộc cũng tự cảm thấy có điều gì mà chính họ phải tự xét mình và tự sám hối.
Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị -Trahison politique – trong nhóm trí thức thành phần thứ ba(Tiếp theo phần I) Ông Huỳnh Văn Lang, một sinh viên du học lớp thế hệ 1945-1955 đã nhận xét về thế hệ sinh viên du học của ông như sau: “Phải nói ngay là số người ra đi rồi còn về làm được cái gì thì thật ra quá ít ỏi… Xã hội Việt Nam đầu tư vào sinh viên Việt Nam trong thập niên 1945-1955 kể như hoàn toàn thua lỗ. Một tỉ dụ cụ thể: chiếc tầu Champollion của tôi đi đã chở theo 240 sinh viên mà sau đó 5, 6 năm, khi về nước, tôi chỉ gặp ba sinh viên học hành thành đạt và đã về làm việc ở quê nhà trong đó có anh Ngô Trọng Anh, Nguyễn Quang Lệ, Hoàng Anh Tuấn và không biết có ai khác nữa không. Thật là một mất mát quá lớn cho Quốc gia […] Nhưng dù sao đi nữa tỉ lệ người ra đi và trở về có thể phỏng định không quá 10% mà trong số 10% này còn phải kể là hết phân nửa chỉ trở về với một cái bằng nhảy đầm hay thợ rửa hình là cùng.”(10) Ông Huỳnh Văn Lang còn nhận xét thêm là Pháp có ý viện trợ kỹ thuật và y tế cho Việt Nam vào năm 1961 là 12 bác sĩ đủ các ngành. “Trong khi đó, ở trong nước gom tất cả các bác sĩ tốt nghiệp y khoa Hà Nội và Sài gòn và cả từ các trường y khoa bên Paris và Montpellier bên Pháp về thì chỉ gom được 158 ông. Trong khi đó chỉ trong vùng Métropolitain Paris đã có đến trên 260 bác sĩ người Việt đang hành nghề, có nhiều bác sĩ chuyên môn. Thế thì ai viện trợ cho ai?” Một nhận xét cuối cùng của ông Huỳnh Văn Lang: “Ngoài những sinh viên làm chính trị, một số lớn sinh viên Việt Nam con ông cháu cha đi qua Pháp là để trốn lính và chơi bời hơn là học hành. Lúc bấy giờ xã hội Pháp còn nghèo nàn quá, các cô gái Pháp lại rất dễ dãi với sinh viên Việt Nam, vì sinh viên Việt Nam rất hào phóng, đồng bạc Việt Nam ăn những 17 quan, những bao gạo trắng ba, bốn ký và nhất là những gói tiêu đen một hai ký là những món hàng thị trường Pháp đang đòi hỏi thật mạnh mà nhiều sinh viên Việt Nam sanh ra chuyên môn chợ đen hàng hóa, không kém gì chợ đen đồng quan Pháp.”(11) Hoạt cảnh mà ông Huỳnh Văn Lang mô tả về giới sinh viên du học dưới thời Bảo Đại có phần bát nháo không phản ảnh thực trạng giới sinh viên thế hệ 1960. Nhiều sinh vên thế hệ 1950 được gửi sang Pháp là loại con ông cháu cha nên đã không học được. Nhưng nó cũng hé lộ cho thấy một góc tối về một số sinh viên do những hoàn cảnh riêng đã không đáp ứng được đòi hỏi chung của trình độ đại học ở nước ngoài. Cộng thêm những trở ngại về ngôn ngữ, cuộc sống cô độc thiếu sự nâng đỡ và chia xẻ khi gặp những khó khăn. Bản thân người viết có biết một trường hợp một nữ sinh viên con nhà có một vị thế ưu đãi trong xã hội được gia đình gửi đi du học. Có thể là vì gặp những khó khăn trong việc học, cô đã sống cuộc sống ngoài khuôn khổ, rồi cặp với một sinh viên ngoại quốc và tụt sâu xuống một bực nữa, cô trở thành gái điếm đứng đường. Số phận kết thúc một cách bi thảm là cô đã bị bọn du đãng giết và vứt ra đường như xác vô thừa nhận! Việc một số sinh viên trở thành thiên tả, xoay ra hoạt động chính trị có phần do những lý do chẳng có gì là chính trị cả. 40 sinh viên theo chương trình Colombo đến Canada đáng lẽ phải về nước làm việc sau thời hạn bốn năm thì hầu như đều tìm cách trốn ở lại. Năm 1957, Tổng thống Ngô Đình Diệm có yêu cầu ông Huỳnh Văn Lang đi một vòng thế giới tìm hiểu xem sinh hoạt, đời sống của sinh viên đi du học. Khi về ông Lang bá cáo với ông Diệm một kết quả thật phũ phàng là hầu hết sa vào chuyện đàn bà con gái. Đa số sống bất hợp pháp nên cũng lấy vợ đầm để hợp thực hóa. Ngay cả làm hôn thú với các cô gái ăn sương ở tiệm Rickshaw ( 力車, Lực Xa, Xe Kéo) ở phố Tầu Montréal nếu cần để được ở lại chính thức. Cũng do tình trạng hôn nhân tạm bợ đó mà nhiều cặp đã đổ vỡ, nhất là từ năm 1975 có nhiều cô gái trẻ đẹp tỵ nạn mới tới! Cũng cần nói thẳng là nữ sinh viên Việt Nam không muốn lấy mấy anh sinh viên thân cộng này. Phần Tổng thống Diệm, sau đó đã cho thiết lập một quán cơm Việt Nam đầu tiên cho sinh viên Việt Nam tại Paris. Rất tiếc những ngươi có trách nhiệm quản lý quán cơm đã tham lam đến cuối cùng phải đóng cửa. Những gì ông Huỳnh Văn Lang nhận xét là một thực tế nan giải. Đã thế ở lại là trốn lính, là bất hợp pháp nên tìm cách biện minh cho việc ở lại mang một ý nghĩa chính đáng, cao cả. Không muốn về, vì sợ chết rồi đổ cho đó là cuộc chiến phi nghĩa trong một xã hội tham nhũng! Thế là trở thành kẻ phản chiến, thành phần thứ ba tạo cho họ một cái căn cước của những người sinh viên trí thức có chính nghĩa, có lý tưởng. Thật ra bản chất thực sự của họ là hèn nhát, ích kỷ, ham sống sợ chết, phản bội lại miền Nam! Ở đây, chúng tôi cũng không muốn nói tới các trường hợp các sinh viên ở Pháp, ở Mỹ như Cao Huy Thuần, Thái Thị Kim Lan (Munich, Đức), Nguyễn Ngọc Giao, Trương Hồng Quang, Vũ Quang Việt, Trần Hữu Dũng, Trần Văn Thọ (Nhật). Đây là loại sinh viên đã thành công, có bằng cấp và do những hoàn cảnh ngoài sự thẩm đoán của người ngoài cuộc đã trở thành những kẻ thiên tả, rồi lực lượng thứ ba. Ca sĩ Joan Baez, một nhân vật phản chiến nỏi tiếng viết thư cho chính quyền CSVN yêu cầu tôn trọng nhân quyền 4 năm sau ngày đợt sóng thuyền nhân bỏ nước ra đi trốn chế độ cộng sản. Ảnh: Lisa Pacino. Nói chung họ chỉ tả theo sách vở. Họ chỉ là lý thuyết gia sách vở không vượt ra khỏi khuôn khổ trường ốc. Họ cũng muốn đóng góp đôi chút gì, cũng viết cho Đảng đọc. Đảng không đọc, Đảng vứt sọt rác. Người có chút chữ nghĩa như tôi, đọc họ thấy nó thối um lên vì là chuyện trên trời dưới biển. Tôi nói thật. Sắp tới đây, họ tổ chức Hội Thảo ở Munich. Bà Thái Kim Lan sẽ thuyết trình về đề tài: 40 năm sau – Nhìn lại Văn hóa Việt trong viễn tượng Khai Sáng. Văn hóa, giáo dục Việt Nam hiện bây giờ là một cái bãi rác, đi qua mùi hôi thối xông lên nghẹt mũi. Vậy mà có một chị từng được nhà nước vinh danh trong số 17 Việt Kiều có đủ can đảm bàn về giáo dục trong mối tương quan với chủ thuyết Khai Sáng. Viết, thuyết trình đề tài như thế chẳng khác gì chửi cha giáo dục và văn hóa của người cộng sản. Trong tài liệu của tác giả Gendron, cuốn The Vietcong Front in Quebec (Mặt trận Việt Cộng ở Québec) trong lời mở đầu, họ đánh giá rất thấp tổ chức Việt kiều yêu nước – như một thứ băng đảng – một thứ bên lề như một số đảng phái tả phái đủ loại ở Canada với một tập hồ sơ buôn bán, chuyển tiền có bằng cớ do những người lãnh đạo có đầu óc cộng sản thuộc loại bất trị(12). Trong nhiều năm nay, ít lắm là 10 năm trở lại đây, nhiều người trong bọn họ đã chọn lựa thái độ ẩn náu, im lặng vì biết việc mình làm là bất nghĩa, bất nhân theo cộng sản. Tuy nhiên chỉ còn một vài người trong số họ vẫn muốn xuất đầu lộ diện vì quyền lợi vật chất của họ có liên quan đến cộng sản bên nhà. Đó là trường hợp như Quách Tinh Văn chẳng hạn. Đó cũng là lý do để tác giả Lê Quốc Trinh viết bài Yêu nước hay yêu tiền? Theo ông Lê Quốc Trinh trong số 22 người đại diện ký tên dưới Lá thư ngỏ gửi Ngài Andrew Scheer và các dân biểu không đồng ý với dự luật S-219, 30 tháng tư, Ngày Hành Trình Tìm Tự Do, người đi thu thập chữ ký phản đối tại Montréal là Quách Tinh Văn, từng là thành viên lãnh đạo nòng cốt của hội Việt kiều yêu nước. Quách Tinh Văn cũng từng là Phó Giám đốc Vietimex Inc., Phó Giám đốc Laser Express Inc., Phó Giám đốc Vinamedic Inc. chuyển hàng về Việt Nam. Sau 1975, phần đông bọn họ lần lượt đã tìm đường trở về Việt Nam để xem tình thế, để kiếm một địa vị, để về giúp giảng dạy. Và cũng không thiếu kẻ quay trở về với áo mũ xênh xang, lợi dụng và tham lam nhiều thứ. Tôi đã biết có những kẻ về thu mua tranh ảnh với gía vài chục đô la một bức tranh của những họa sĩ nổi tiếng đem sang đây để trục lời. Mua một bán gấp trăm, gấp ngàn lần hơn. Mua đồ cổ chất đầy nhà, nạo vét cái gì còn có thể nạo vét được của triều đình nhà Nguyễn của các gia đình thuộc Hoàng tộc nay phải bán tống bán táng lấy tiền đong gạo. Rồi còn về mua nhà, mua cửa, mua đất đai, mua một lời mười. Có nhà ở những khu quan trọng nhất, sang nhất Sài gòn như một tiểu Cali giữa Sài gòn! Không ai quên được, mỗi người di tản phải ra đi là đã bị trấn lột đến không còn gì nữa. Mất nhà hay “hiến” nhà, gom góp tiền bạc đổi ra vàng để mua vé đi tìm tự do, mua bãi với hàng trăm ngàn nỗi hiểm nguy. Sang đến đất tự do, tiếng Tây, tiến u nhiều người chưa rành đã cắm đầu cắm cổ đi làm – làm bất cứ nghề gì – lương tối thiểu từ 3 đồng đến 3 đô la rưỡi một giờ. Mỗi tháng trừ thuế còn được vài trăm bạc đã lo tích lũy để gửi các thùng quà 50 đô la cho đến 350 đô la về cho gia đình ở Việt Nam. Bọn Việt kiều yêu nước đã như những kẻ không tim, không óc, không có tình nghĩa đồng bào một lần nữa chúng trấn lột người di tản. Tất cả bà con, anh em, vợ con những người di tản còn kẹt lại ở Việt Nam trở thành con tin của bọn tay sai cộng sản. Người di tản không còn con đường nào khác phải gửi tiền về Việt Nam nuôi béo bọn cộng sản. Kiều hối từ một vài tỉ lên đến mười mấy tỉ một năm. Chúng ta thù ghét cộng sản chỉ muốn chúng bị xóa sổ. Nhưng thật mâu thuẫn, chúng ta đang tiếp máu, nuôi béo chúng. Cạnh cái tổ chức Việt kiều yêu nước làm tay sai trực tiếp cho cộng sản, nhiều chủ tiệm thuốc Tây của người Việt di tản ở Canada và cả bên Mỹ cũng làm giàu hốt bạc cũng vô tình làm trung gian gửi tiền cho bọn chúng. Tôi có cần phải kể tên các hiệu thuốc Tây tại đây và bên Mỹ ra không nhỉ? Một số chủ tiệm thuốc tây người Việt ngay khi còn miền Nam cũng đã từng buôn lậu thuốc tây cho Việt Cộng. Họ là những người chỉ cần biết có tiền. Họ ăn nên làm ra nên các buổi gây quỹ, chống cộng phần đóng góp của họ có thể hậu hỹ hơn người khác! Nghĩ mà chua chát. Nếu nhìn lại miền Nam sau 1975 thì quả thực các công ty làm ăn buôn bán của đám Việt kiều yêu nước tại Montréal đã tiếp máu cho chính quyền cộng sản vì cộng sản đã rơi vào tình trạng cạn kiệt ngoại tệ. Không có nguồn ngoại tệ chảy về duy nhất tập trung tại Canada thì không biết số phận Việt Nam thập niên 1980 trở đi sẽ ra sao? Sụp đổ chăng? Tình trạng kiệt quệ của Việt Nam từ 1965-1985 Chúng ta cần ghi nhận rằng kể từ 1965 đến 1975, khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, chế độ cộng sản Hà Nội đã vận hành bởi một chế độ kinh tế thời chiến. Các chỉ số văn hóa xã hội kinh tế như mức sống, trình độ học vấn, nạn mù chữ, trình độ học hết tiểu học, trung học, lợi tức đầu người năm, tuổi thọ trung bình, tổng số y sĩ phần trăm so với dân số, bao nhiêu đầu sách xuất bản đều là những thống kê vô nghĩa không cần xét tới. Mọi chuyện liên quan đến đời sống, đến phát triển kinh tế đến cải tiến xã hội đều tạm thời được xếp lại. Nói chi những thống kê về mức tăng trưởng năm, mức đầu tư, mức lạm phát, mức sản xuất nông nghiệp, sản xuất kỹ nghệ. Mức nhập khẩu, xuất khẩu. Không ai bận tâm tới những con số ấy. Đất nước chìm đắm trong sự trì trệ, lạc hậu và không phát triển. Mệnh lệnh quyết liệt, vắn gọn cho mọi người là tất cả cho tiền tuyến. Hậu phương chẳng những cung cấp người cho chiến trường mà người dân còn phải hy sinh từ miếng ăn, miếng mặc nuôi quân đội. Sản xuất hầu như ngưng trệ. Vì thế, khẩu phần ăn của người dân bị cắt đi một cách thảm bại. Gạo không đủ nuôi dân vì nông dân phải bỏ ruộng nương, bỏ sản xuất xung phong ra chiến trường. Khẩu phần ăn nay giảm xuống còn ¼ là gạo với ¾ là sắn hay khoai lang. Sinh hoạt kinh tế nay giản lược vào thứ kinh tế mua chui, bán chui để có thêm phẩm chất cho khẩu phần. Vì không đủ thực phẩm cung cấp nên giá chợ đen cao gấp 6 lần giá chính thức. Vì thế trong dân chúng có những câu vè chế diễu như sau: “Đại cán biển thủ, trung cán chợ đen, tiểu cán cửa hậu.” Hay những câu đại loại: “Cán lớn ăn xoay, cán nhỡ truyền tay, cán nhỏ chực ngay cửa hậu”(13) Bọn này trở thành giai cấp trung lưu thành thị sống bám vào một thứ kinh tế tiểu ngạch như một cái bình thông đáy. Của cải tiêu dùng giao lưu từ chỗ giá thấp chuyền đến chỗ giá cao kiếm lời theo đúng nguyên tắc nước ở hai bình thông đáy. Đã thế, ngay sau 1975, viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam bị chấm dứt ngay. Khi có xung đột hai bên, nhiều cơ sở kinh doanh, nhiều công trình xây dựng bị Trung Quốc bỏ dở, rút người về. Các ngân khoản vay mượn Liên Xô cho nhu cầu chiến tranh bị cắt giảm hơn một nửa. Đồng thời Liên Xô cũng yêu cầu Việt Nam trả những món nợ trong thời chiến. Thay vì trả nợ, Việt Nam đã xuất cảng lao động mỗi năm 20.000 nhân công xuất cảng sang Liên Xô để trừ nợ. Việc thống nhất Nam Bắc năm 1975 nhất thời đã trở thành một món bổng lộc trời cho. Miền Nam với vốn liếng, kho hàng dự trữ, vật tư, tiền đô la vàng bạc, của cải đồ dùng ít lắm cũng nuôi cả hai miền được một hai năm trước khi nạn đói xảy ra. Hàng hóa trong Nam ùn ùn được chuyên trở ra Bắc như tủ lạnh, tivi, quạt máy, xe gắn máy, Radio, cát sét, nồi cơm điện và đồ gia dụng. Cả một thị trường tiêu thụ mới mọc lên ở miền Bắc. Những chiếc quạt máy, xe đạp trong Nam đã loại ra khỏi thị trường các quạt máy của Tầu với giá rẻ. Thời đó thì ai ai cũng có thể mua một chiếc xe đạp giá rẻ (60 đồng so với 400 đồng trước dây) mà không cần đăng ký chờ đợi. Rồi thị trường thuốc tây, vải may mặc trong Nam ùn ùn ra Bắc đổi lại xăng dầu từ Bắc đổ vào Nam. Tuy nhiên chỉ không bao lâu sau thì nguồn hàng hóa ngay cả trong Nam cũng cạn kiệt. Nguồn ngoại tệ trong nước trở thành rỗng tuếch. Chính quyền vội mang 16 tấn vàng còn để lại trong ngân hàng Quốc gia sang Liên Xô để đổi lấy một số ngoại tệ. Sự bóc lột vơ vét của cải trong miền Nam từ việc đánh tư sản, đổi tiền, xuất khẩu người cũng chẳng khác bao nhiêu như câu chuyện cách đây 85 năm. Năm 1930, nhiều nông dân miền Bắc được thực dân Pháp mướn sang tân đảo Nouvelle-Caledonie làm phu thợ mỏ, giao kèo 5 năm với đồng lương chết đói. Hết hạn 5 năm bị cưỡng ép ở lại đến dần dần trở thành dân bản xứ. Vậy mà bọn cộng sản cũng móc nối được và từ năm 1960, kiều bào có bao nhiêu tiền dành dụm trong bao nhiêu năm trời với mồ hôi nước mắt cũng bị khuyến dụ gửi tiền về cho ‘Bác Hồ’. Số tiền mỗi lần không nhiều – vài trăm ngàn Francs. Nhưng lại rất lớn so với đồng lương thợ mỏ. Kiều bào còn ngu dại nghe lời khuyến dụ bảo nhau gom tiền mua xe hơi Peugeot 403 từ Pháp gửi về Hà Nội biếu bác Hồ. Bản chất cộng sản là thế đấy! Giàu họ bóc lột theo giàu, nghèo họ bóc lột theo nghèo. Một cửa hàng gạo tại Sài Gòn cuối thập niên 1970. Nguồn: static.talkvietnam.com/Việc trình bày tóm lược tình trạng kiệt quệ kinh tế của Việt Nam sau 1975 cho thấy nguồn ngoại tệ chảy về từ nước ngoài từ Mỹ, Canada, Pháp đã giúp Việt Nam thoát cảnh kiệt quệ ngoại tệ. Người ta được biết năm 1981, Việt Nam còn tạm đóng cửa tòa đại sứ Canada vì không có đủ tiền trang trải chi phí. Chắc hẳn công đóng góp của Việt Kiều hải ngoại trước 1975 và sau 1975 là không nhỏ. Trước 1975 là một hỗ trợ chính trị cho công cuộc giải phóng miền Nam. Sau 1975 đến 1990 là phong trào hỗ trợ kinh tế, cứu đói cho chính quyền cộng sản trong nước. Trước 1975, những việc họ làm thời tuổi trẻ nay nhìn lại đã có ý nghĩa của một vấn đề lịch sử! Họ trở thành thứ tay sai cho cộng sản Bắc Việt. Đó cũng là trường hợp tiêu biểu của cựu sinh viên Ngô Vĩnh Long. Ngô Vĩnh Long từng hãnh diện với thành tích là đã tổ chức được một nhóm sinh viên Việt Nam đột nhập và chiếm giữ tòa Lãnh sự của chính quyền Sài Gòn, tại New York trong lúc các nhân viên chính quyền Sài Gòn ra ngoài ăn trưa. Việc đột nhập này vào ngày 10.2.1972 và sau đó đưa ra những lời tuyên bố với thế giới về những đòi hỏi của nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam là ai? Họ đòi hỏi gì? Hay chỉ là chính bọn họ, vỏn vẹn chưa tới mười người(14)? Sau này, trả lời phỏng vấn của đài BBC vào ngày 28.9.2013, ông Ngô Vĩnh Long nhận xét một cách chua chát: Đảng đang làm mất thời gian của nhân dân và và các giới trong xã hội. Có lẽ đây là đóng góp có ý nghĩa nhất của ông. Và đã có bao nhiêu sinh viên ở Mỹ, ở Pháp, ở Canada hành động một cách ‘hồ đồ’ như ông? Chẳng những thế việc họ làm thời sinh viên nếu nhìn ở góc độ con người rõ ràng là một việc bội phản lại miền Nam Việt Nam. Nhiều người trong bọn họ ‘phản chiến’ chống chiến tranh mà thực chất họ trốn lính, muốn an thân. Điều này phơi bầy tính chất ngụy tín, phỉnh gạt của họ như trong bài báo của John G. Rogers, do Trà Mi dịch đăng trên DCVOnline.net(15). Theo thiển ý của tôi, nội dung bài báo của 45 năm về trước đã bóc trần sự thật, lột mặt nạ những kẻ vênh váo nhân danh lý tưởng mà thực sự chỉ là những kẻ đứng ngoài cuộc chiến! Những việc biểu tình, tranh đấu, những lời tuyên bố như của cựu sinh viên du học Lương Châu Phước nói: “Chúng tôi lảm thế nào đó phải xây dựng được một cuộc sống tốt hơn cho người Việt Nam. Cuộc sống ở Sài Gòn nay đã trở thành điên cuồng. Nào là Cadillacs, Chryslers, tivi, máy rửa bát, nhưng ở nông thôn thì chẳng có gì hết ngoài tàn phá và những điều bất hạnh.”(16) Trong khi đó, bản thân Lương Châu Phước thì visa đã hết hạn từ năm 1968. Phước ở lì Canada. Chính quyền Canada đã đưa ra tòa, nhưng rồi cũng không có quyết định trục xuất Phước về Việt Nam. Cũng vậy Lê Phúc tuyên bố, “Tôi không bao giờ có thể cho phép bản thân mình tham dự vào cuộc chiến tranh phá hoại hay làm bất cứ điều gì liên hệ với chính quyền Sài Gòn tham nhũng!” Trong khi đó, bản thân Lê Phúc là một công chức đào nhiệm trốn từ Mỹ qua Canada. Nguồn Washington Post, 14-6-1970. Sau 1975, do hoàn cảnh Việt Nam bị Mỹ cấm vận. Mọi giao thương, liên lạc đều bị cấm cửa. Nhóm Việt Kiều yêu nước ở Canada đương nhiên có lợi thế, có đất làm ăn – một thứ làm giàu bất chính dựa trên mồ hôi và sức lao động của những người mới định cư ở nước ngoài. Họ đã chẳng có chút lòng giúp đỡ những đồng bào mới tới mà còn thừa dịp bóc lột từng đồng xu của họ. Lo giúp đồng bào mới tới như hướng dẫn, thông dịch, làm thủ tục giấy tờ, lo hướng dẫn tìm công việc làm đều do các sinh viên quốc gia tình nguyện đứng ra làm. Bọn sinh viên Việt kiều yêu nước đứng ngoài. Bọn họ còn tuyên bố, các boat people đều là những thành phần người tỵ nạn kinh tế chứ không phải chính trị. Nay họ rất sung sướng gửi tiền về giúp bà con bên nhà một cách tự ý. “The Committee purported to prove the validity of its viewpoint with a catalogue of statistics, dates and quotations indicating that Viet Nam shares the world–wide concern for its emigrants and has cooperated with the United Nations to resolve this problem from the outset and that most of those who leave Viet Nam do so because of severe economic conditions.”(17) Thật đúng là những kẻ bất nhân. Nguồn ngoại tệ hầu như chỉ có đường chuyển vận duy nhất nằm trong tay chính quyền cộng sản. Việc chuyển những số tiền lớn từ bên nảy gửi về Việt Nam đã bị Thượng viện Quốc Hội Mỹ mở cuộc điều tra về hoạt động bất hợp pháp chuyển tiền về việt Nam. Số tiền được nêu ra là 140 triệu đô la mỗi năm. McPhail cho rằng phần lớn số tiền 140 triệu đô la là tiền của cộng đồng tỵ nạn cộng sản tại Bắc Mỹ(18). Phần suy nghĩ của tôi thì có thể số tiền đó còn lớn hơn nhiều. Họ đã có một thời như thế! Thời đảo điên và lừa lọc của cộng sản! Họ tưởng là họ có lý tưởng, có chính nghĩa. Nói cho đẹp thế thôi, cùng lắm họ chỉ là những kẻ ảo tưởng có thời đi buôn mộng. Le marchand de rêve. Nhưng nhiều phần, nói cho rốt ráo, họ chỉ là những kẻ thời cơ, chụp giựt, không có căn bản đạo làm người ở đời, có trước có sau và có cội nguồn! Cuối cùng họ trở thành những kẻ lưu lạc, kẻ vô thừa nhận từ hai phía. Vào thập niên 1950-1960, đã có một lớp sinh viên thuộc thế hệ thứ nhất như ông Huỳnh Văn Lang sang học ở Đại Học Laval, Québec. Theo Hồi ký của ông, ông đã bỏ trốn từ Pháp sang học ở Đại học Laval năm 1951 và ông là người Việt Nam duy nhất ở đây. Ông đã học về ngành kinh tế trong ba năm từ 1951-1954. Có những sinh viên khác như Phạm Nam Trường lại có học bổng của Nam Phương Hoàng hậu năm 1952. Nữ sinh viên năm 1957 còn có chị Đỗ Thị Soi là một trong ba nữ sinh viên đầu tiên đang theo học ở Montréal. Thời kỳ 1951, Việt Nam đã gia nhập Plan Colombo. Kế hoạch Colombo mà biểu hiệu là: Planning. Prosperity. Together. Và từ đó mỗi năm sinh viên Việt Nam được gửi sang Canada, tỉnh bang Québec, học ở đại học Laval. Tôi có nói chuyện với một cựu sinh viên đại học Laval, nay đã lấy vợ đầm cho hay, thời đó sinh viên lo học và không có vấn đề chính trị, chính em gì cả. Nhưng mốc điểm thay đổi sinh hoạt chính trị của sinh viên du học là khi có đợt 40 sinh viên Nam Nữ từ Sài Gòn sang Canada du học theo Plan Colombo niên học 1964. Sau chương trình 4 năm, 1964-1968, đáng lẽ họ phải về nước làm việc. Nhưng phần lớn đã chọn ở lại. Sự chọn ở lại này có thể có nhiều nguyên do: Nguyên do chính yếu là gia cảnh là đã lập gia đình với người ngoại quốc. Thứ đến là do hoàn cảnh chiến tranh. Nguyên do này cũng được ông Huỳnh Văn Lang, một cựu sinh viên của đại học Laval nhìn nhận khi ông có dịp đi một vòng các nước để kêu gọi sinh viên về nước làm việc theo lời kêu gọi của ông Ngô Đình Diệm. Tôi đặt giả thiết sự thành lập Hội Việt kiều yêu nước là do 4 người được nêu tên tuổi, hình ảnh và trả lời phỏng vấn trong bài Đứng ngoài cuộc chiến? trên DCVOnline.net? Tháng tư, 1970, Liên hiệp người Việt ở Canada ‘Union Générale des Vietnamiens au Canada’ (Union des Vietnamiens au Canada) Canada được thành lập. Trong đó phần lớn thành viên có xu hướng ngả theo cộng sản. Hay ít ra chịu ảnh hưởng sự tuyên truyền của cộng sản(19). Cuối cùng thì cuộc đấu đá nhau giữa các thành viên đã được triệu tập ngay tại Hà Nội. Những tiết lộ qua một cuộn băng đã công bố ở DCVOnline.net cho thấy nhóm cựu sinh viên Việt Kiều yêu nước chỉ là thứ tay sai cho Hà Nội. Họ tỏ ra hèn nhát, khúm núm sợ hãi và kiểm điểm thú tội. Tôi chăm chú, tập trung để đọc những lời nói của bảy thành viên Việt kiều yêu nước thưa bẩm, khum núm với đại diện chính quyền cộng sản. Họ cón tự kiểm thảo, nhận khuyết điểm trước những ông chủ của họ. Họ còn xin sỏ như trường hợp Lương Châu Phước mong giữ lại chức vụ Tổng Biên tập tờ báo. Những thành viên hoặc đã về Hà Nội dự phiên họp theo lệnh của cộng sản hay có liên hệ trực tiếp gồm có 3 phụ nữ và 14 đàn ông như sau: Thái Thị Khánh Hạnh, Lê Thị Thanh, Oanh, Lê Tiền Phong (chết), Nguyễn Văn Nhã, Trần Tuấn Dũng, Lương Châu Phước, Võ Quang Tu, Quách Tinh Văn, Hoàng Hải Học, Huỳnh Hữu Tuệ, Nguyễn Văn Hương, Phan Kim Điểm, Lê Hữu Phùng, Lưu Liên, Hoàng Bích Sơn và Bùi Đức Lập(20). Hoàng Bích Sơn và Bùi Đức Lập đại diện cho chính quyền Hà Nội. Tuy nhiên chính thức chỉ có 7 người có mặt lên tiếng trong cuốn băng ấy. Cuối năm 1989, hai công ty Vinamedic Inc. và Q.T.K. Express Inc cũng đồng loạt đóng cửa. Riêng Laser Express Inc. tiếp tục hoạt động đến năm 1999, rồi tái hoạt động năm 2004, thêm được hai năm và đóng cửa lần cuối năm 2006. Việc tiết lộ cuốn băng này hẳn làm cho nhiều thành viên của Hội Việt kiều yêu nước cảm thấy khó xử. Ít lắm thì đối với bảy người có tên tuổi, có tiếng nói trong cuộc tranh cãi này tại Hà Nội. Nội dung cuộc tranh chấp này gay go hơn, kéo dài trong nhiều năm chỉ vì bổng lộc chia không đều. Kẻ có ăn, kẻ không được gì. Bổng lộc thu tóm vào tay một vài người như Nguyễn Văn Nhã và vợ, Quách Tinh Văn, v.v. Sau khi hết cấm vận, khi liên lạc giữa Hoa Kỳ và Hà Nội được bình thường hóa, tôi nghĩ rằng, Hà Nội đã đến lúc không cần đến bọn trung gian ở Canada nữa. Hội tan rã và mạnh ai người đó kiếm sống. Viết về giai đoạn này và những thành viên Hội Việt kiều này hầu hết đều chọn lựa thái độ quy ẩn. Tôi không biết nên chọn lựa thái độ nào thích hợp nhất: Hoặc tội nghiệp cho họ hay khinh thường họ. Họ có ăn học, phần lớn có công ăn việc làm nơi xứ người, hà cớ gì phải rui rúi kéo nhau về Hà Nội nhờ phân xử, rồi khúm núm sợ hãi. Thật sự, không cách nào tôi hiểu được họ. Với tư cách người cầm bút, tôi có bổn phận trình bày lại một giai đoạn đã qua. Và đã có một thời như thế. Một thời mà ngay những kẻ trong cuộc cũng tự cảm thấy có điều gì mà chính họ phải tự xét mình và tự sám hối. Lời sám hối dù muộn màng vẫn được mọi người trông đợi. Cũng xin đưa ra đây một vụ giết người xảy ra vào 21 tháng 11, năm 1972 giữa 3 sinh viên trong Hội Viêt kiều Đoàn kết tại Canada. Tờ The Montreal Gazette đã đưa tin, Trà Mi lược dịch mà không có lời bình luận(21). Vụ thứ hai như một cảnh báo đồng bào người Việt sinh sống ở Montréa cho thấy bàn tay cộng sản luôn luôn thọc vào nội bộ cộng đồng để phủ dụ, tuyên truyền, phá rối hù dọa, v.v. “Bộ ngoại giao Canada công bố ra lệnh trục xuất Hồ Xuân Đích, đệ nhị tham vụ của Đại sứ quán nước CHXHCN Việt Nam trong vòng 72 giờ phải rời khỏi Canada. Lý do: đã có những hành vi can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của cộng đồng người Việt Nam tại Canada nhằm làm áp lực, gây ảnh hưởng về ý thức hệ và lòng trung thành của cư dân gốc Việt tại Canda. Cảnh sát Liên bang Canada cho biết Hồ Xuân Đích đã đe dọa người Việt tại Canada sẽ trả thù thân nhân của họ còn sinh sống tại Việt Nam.”(22) Báo Ottawa Journal, 30 tháng 5, 1979 Báo Ottawa Journal, 30 tháng 3, 1979, trang 5 Ngay sau vụ Hồ Xuân Đích bị trục xuất, HĐKVKTC lập tức mở cuộc họp báo biện hộ. Phó chủ tịch HĐKVKTC Lương Châu Phước, nói, “không có gì đáng trách trong việc tha thiết kêu gọi đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng Việt”. Thêm nữa, Lê Hữu Phùng và Nguyễn Văn Hương cũng đã gởi thư cho chính phủ Canada “mô tả một cách tốt đẹp vai trò của Đại sứ quán Việt Nam trong việc thúc đẩy tình đoàn kết và tình hữu nghị giữa cộng đồng của chúng tôi và người dân Canada” và yêu cầu chính phủ Canada “thể hiện thiện chí hơn trong mối quan hệ với Việt Nam”(23). Nhìn lại bối cảnh sinh hoạt chính trị trong 40 năm ở Montreal qua không khỏi có những suy nghĩ. Người Việt Nam hiện nay sinh sống làm ăn và đã hội nhập tốt đẹp nơi xứ người. Ngay từ 1975 thì đã có tổ chức, hội đoàn nọ kia đủ loại. Cũng đã có chủ tịch cộng đồng được bầu bán và hoạt động cả 40 năm nay. Vậy mà chúng ta vẫn chưa có một cơ sở cho riêng cộng đồng, vẫn phải thuê mướn và lúc nào cũng ở trong tình trang cheo leo về tài chánh. Trong khi đó, Hội Việt Kiều yêu nước leo teo chưa tới trăm người đã ngay từ thập niên 1970 đã có một cơ ngơi rộng lớn khang trang để sinh hoạt, buôn bán và cũng là nơi đã mở ra nhiều cuộc hội thảo quốc tế cho các hội đoàn bạn. Cộng đồng người Việt cũng có một tờ báo Quốc Gia chính thức, nhưng báo đã không đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng cùa thành viên cộng đồng. Báo in ra không biết được bao nhiêu số, có bao nhiêu người đọc và hiện nay sự sống còn không biết nữa. Lỗi tại ai? Càng ngày sinh hoạt cộng đồng càng mang tính hình thức, tổ chức một vài lễ lạc và ít có những sinh hoạt ngang tầm với một con số người Việt mỗi ngày mỗi lớn mạnh, mỗi ngày mỗi trẻ trung hóa. Ai cũng cảm thức được sự thiếu hụt một sự kế thừa vốn làm nên sức phát triển của cộng đồng. Bốn mươi năm rồi vẫn từng ấy khuôn mặt, từng ấy não trạng vừa cứng nhắc, vừa thiếu nhạy bén, vừa tụt hậu. Ấy là sự đố kỵ chia rẽ, phân cách vốn làm nên căn tính người Việt. Trong suốt những năm thông qua tờ báo Quốc Gia từ lúc nó có mặt, tôi không biết có lần nào, trường hợp nào, tác giả nào lên tiếng tố cáo một lần tổ chức Việt kiều yêu nước và những công việc họ làm tại ngay Montreal này không? Tố cáo nhau thì có, có rất nhiều và không thiếu người là nạn nhân bị truy chụp của tờ báo Quốc Gia? Có cần tôi đưa ra bằng cớ không? Rất may là cái tổ chức Việt kiều, vì tranh dành quyền lợi, vì chia chác không đều đã chia ra hai phe đấm đá nhau không cách nào hòa giải được đã giúp cộng đồng người Việt Nam tạm thời bớt được một kẻ thù? Nhưng tương lai thì sao? Mới đây nhất cả những người quốc gia chống Cộng được coi là “có uy tín và thẩm quyền nhất” lên tiếng chống đối đạo luật Hành Trình tìm Tự do trước và sau khi được Quốc Hội Canada phê chuẩn. Nhưng cạnh đó, Nhóm Việt Kiều yêu nước mà đại diện tiêu biểu là Quách Tinh Văn cũng đệ đơn phản đối đạo luật trên. Chưa kể chính quyền cộng sản đã gửi những công hàm ngoại giao chính thức của chính quyền Hà Nội phản đối công khai tinh thần đạo luật cũng như danh xưng của đạo luật. Điều này làm cho chúng tôi phải có thái độ ứng xử thế nào cho thỏa đáng? Đặc biệt là những người quốc gia lên tiếng phản đối cũng chỉ nhắm đích danh vào Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải hoặc nhắm vào đả kích lẫn nhau và không đụng chạm gì đến nhóm Việt kiều yêu nước cũng như chính quyền cộng sản(24). Khi cộng sản cũng chống đạo luật ấy và người quốc gia cũng chống thì sự thật phải được hiểu thế nào? Trước khi chấm dứt bài này, tôi xin thú thực là tôi có cảm thức là đã làm xong một nhiệm vụ của một người quốc gia chống cộng sản. Việc tôi nêu ra những khuyết điểm của cộng đồng thì ai cũng đều biết như vậy. Đáng lẽ những người lãnh đạo có trách nhiệm thì phải có trách nhiệm sửa đổi. Nhưng xem ra chẳng những họ sẽ chẳng thay đổi gì mà còn có thể oán hận những người lên tiếng! Thế thì làm sao khá được? Và sau này rất có thể sự tồn tại của cộng đồng chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi! đăng lại bài từ DCVOnline.net” Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline minh hoạ. (10) Ký ức Huỳnh Văn Lang, nxb Trình Bày, 2011, trang 363 (11) Ibid., trang 362 (12) Gilbert Gendron, B.A, The Viet cong Front in Quebec, C-FAR, 1987, trang 3 (13) Philippe Pépin, Parcours d’une nation, Hành trình một dân tộc, bản dịch của Nguyễn Khánh Long (đã quá vãng), các trang 130-135 (14) Ngô Vĩnh Long còn khoe đóng góp 300 bài viết. Chẳng hiểu có bài viết nào được chính quyền cộng sản dùng hay không? (15) John G. Rogers, Canada – New Sanctuary for the South Vietnamese” Parade, June 14, 1970. Trà Mi dịch, DCVOnline.net, ngày 1/5/2015. (16) John G. Rogers, Ibid., DCVOnline.net, ngày 1/5/2015 (17) Gilbert Gendron, Ibid., trang 37 (18) Trần Giao Thủy, Vixileaks, phần I, ngày 6-6-2015 (19) Họ chủ trương tập họp mọi người Viêt Nam ở Canada trong những hoạt động chung. Hợp tác với tất cả những phong trào hòa bình cho Việt Nam, nhất là các phong trào tranh đấu cho hòa bình ở hải ngoại, dân chủ, thịnh vượng và trung lập. Thực tế, họ đã hợp tác với phong trào phản chiến Bắc Mỹ được Edward Martin Sloan thành lập năm 1969. Edward Martin Sloan có nhiều quan hệ quốc tế rộng rãi theo nhà báo Nick Auf Der Maur. Theo Maur, Martin Sloan có quan hệ Hội đồng Hòa Bình thế giới ở Helsinki. Nhóm Liên Hiệp người Việt yêu nước ở Canada còn tham dự vào các sinh hoạt tả phái như các nhóm Old Left- Parti Communist, Ligue des Jeunesses Communistes, Vietnam Moratory Committee, The New Left, ngay cả The Troskytes Workers’ Socialist League dưới sự tài trợ tờ Combat. Năm 1971, nhóm Việt kiều yêu nước chuẩn bị đón tiếp 5 thành viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhưng bị chính quyền Canada từ chối cho nhập cảnh. Sloan đã viết thư phản đối chính quyền Canada. Trong dịp này, nhóm Việt kiều yêu nước tổ chức mừng vụ Tết Mậu Thân đồng thời cho chiếu phim Chiến thắng Điện Biên Phủ sản xuất tại Hà Nội. Ba năm sau, nhóm Việt kiều yêu nước lại tổ chức đón tiếp một “phái đoàn chính phủ Cách Mạng lâm thời miền Nam”. Một lần nữa Visa của họ bị từ chối. Một lần nữa Sloan rồi SUCO, Oxfam-Quebec, Amnesty international, the CEQ, CSN và FTQvv… đã cùng hiệp đồng lên tiếng phản đối chính quyền Canada. Tháng hai, 1975, để phản đối chính sách đối xử với tù nhân chính trị ở miền Nam, luật sư Georges Le Bel với sự bảo trợ của nhà báo Nick Auf Der Maur, giám mục Guy Bélanger, thượng nghị sĩ Therese Casgrain và một loạt những tổ chức vừa nêu trên dưới danh hiệu Union des Vietnamiens au Canada. Tháng 7, 1977, đại sứ cộng sản của Việt Nam, Trần Tuấn Anh đến phi trường Mirabel . Có khoảng 50 thành viên Việt kiều yêu nước ra đón tiếp, do một ủy ban tổ chức do Vinh Quy cầm đầu. Ngoài ra, hội Việt kiều yêu nước còn tham gia vào nhiểu những sinh hoạt Quốc tế như tham gia vào việc đoàn kết với dân tộc Uruguay năm 1978. Với đảng xã hội Chí Lợi, năm 1982, ủng hộ chính nghĩa Liban-Palestine. Trụ sở của hội Việt Kiều yêu nước, số 1450 đường Beaudry thường được dùng để tổ chức những buổi hội thảo này. (20) Trần Giao Thủy, Ibid., DCVOnline.net, 6 tháng 6, 2015. (21) Trà Mi, Chuyện chém bay đầu trong nhóm sinh viên thân cộng tại Montreal, DCVOnline 21/6/2015 (22) Lê Quốc Trinh, Yêu nước hay yêu tiền của, DCVOnline, 30 tháng tư 2015. Chú thích của DCVOnline trích từ Gilbert Gendron, Ibid, trang 61. (23) Gilbert Gendron, Ibid., trang 33-34 (24) Đọc thêm Trần Giao Thủy, Về Dự luật “Ngày Hành trình tìm Tự do” tại Canada, DCVOnline, February 15, 2015. Share ‹ Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị (I)Thông báo › Posted in Con Người & Sự Kiện, Nguyễn Văn Lục, Quan Điểm Search for: Columns Columns Babui Huỳnh Việt Lang Nguyễn Văn Lục Sổ Tay Thường Dân TNT Trịnh Bình An Thư tòa soạn Popular Posts Bom nổ trong hàng ngũ Việt kiều Cộng sản tại Gia Nã Đại VixiLeaks (I) Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị (I) Thư em gái Hà Nội Thế và tôi Chuyện chém bay đầu trong nhóm sinh viên thân cộng tại Montreal Chea Sim qua đời là lời nhắc Việt Nam không còn nhiều ảnh hưởng ở Cambodia Nhà thơ Hữu Loan và CCRĐ Những nẻo đường Canada Đại hội đảng 2016 sẽ là lúc chính trường Việt Nam thay đổi? Bài mới Sử gia lớn nhất (không ai biết đến/không được công nhận) của Việt Nam Việt Nam, công dân hạng 2 Thành dân tộc lớn từ những bài học rất nhỏ Thông báo Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị (Kết) Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị (I) Người võ sĩ già và Ngày của Cha Chuyện chém bay đầu trong nhóm sinh viên thân cộng tại Montreal Cuộc Cách mạng xã hội thầm lặng của Ai Cập Mừng Ngày Quân Lực 19 tháng 6 Chính quyền đàn áp sinh viên trong và ngoài nước Trung Quốc: Xây dựng đảo ở Biển Đông sẽ hoàn thành ‘trong những ngày sắp tới’ Magna Carta: Một cách nhìn khác Vũ khí của đảng giúp ngư dân chống tàu lạ Những nẻo đường Canada Một loại quyền lực mềm mới của Trung Quốc trỗi dậy Chea Sim qua đời là lời nhắc Việt Nam không còn nhiều ảnh hưởng ở Cambodia Đảng bưng bô Ba Đình Aung San Suu Kyi đâu rồi khi Miến Điện cần bà? Đầu tư Trung Quốc bị đuổi khỏi Saint-Bruno vì lý do an ninh Sinh hoạt sủa của Đại biểu Hà Minh Huệ Báo và blog và… VixiLeaks (Kết) VixiLeaks (II) Đại biểu bù nhìn Thích Thanh Quyết RSS – Tin nhanh National Geographic Photo of the DayVietnam | The GuardianTin bài hàng đầu - Google Tin tứcTop StoriesVOAErrorBBCVietnamese.com | Trang tin chínhBusiness and financeNYT > Asia Pacific
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 5:33:03 GMT 9
Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (I)Nguyễn Văn Lục 3rdKhi tôi viết những dòng này thì ông Dương Văn Ba ở trong tình trạng sức khỏe đáng lo ngại. Ông bị tai biến mạch máu não lần thứ ba và nằm liệt tại chỗ từ nửa năm nay trong hoàn cảnh gia đình không mấy khá. Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Un choix malheureux – Một chọn lựa bất hạnh Dương Văn Ba (thứ hai từ trái), cựu dân biểu đối lập VNCH, Tổng Thư Ký Tòa Soạn báo Tin Sáng, Phó Giám Đốc Cimexcol Minh Hải, bị cáo đầu vụ trong oan án Cimexcol Minh Hải. Nguồn: OntheNet Gia đình ông sau nhiều nỗi gian truân của những lớp sóng chính trị xô đẩy vùi dập cuối cùng kết thúc là sự tù đầy. Ông bị kết án tù chung thân, nhưng chỉ ngồi tù hơn bảy năm và được thả ra nhờ sự vận động của nhiều người. Nhưng tài sản của công ty Cimexcol lên đến bạc triệu cũng như nhà cửa của ông đều bị tịch biên hết. Nay được tha ‘coi như trắng án’ thì theo lẽ phải trả lại hết tài sản của công ty Cimexcol – với tư cách phó Giám đốc – cho Dương Văn Ba mới phải. Căn nhà riêng của ông ở đường Đinh Bộ Lĩnh không đòi lại được vì thủ tục hành chánh. Một căn nhà khác ở làng đại học Thủ Đức cũng mất luôn. Khi tịch biên, người ta không quên bắt theo cả một đàn heo. Lần đầu tiên, heo cũng bị ra tòa như chủ nó và chắc lãnh án tử? Ra tù, ông toan tính xây dựng lại sự nghiệp từ đầu nên làm ăn lại như mở Restaurant, đấu thầu bếp ăn tập thể. Cuối cùng cũng thất bại luôn.(1) Nay tình trạng vật chất không khấm khá gì đến nỗi không có nổi một căn nhà, phải đi ở thuê. Phải nói là ông ở trong tình trạng túng quẫn theo một vài thông tin nhận được. Hiện ông đang ở địa chỉ 78-31 đường Nguyễn Thị Tú, Khu công nghiệp Tân Bình T.p. Hồ Chí Minh. Vì sao nên nỗi? Bài viết này nhằm trả lời câu hỏi ấy. Thật ra, tôi chỉ thực sự có ý định viết về ông khi được đọc hai cuốn hồi ký Hồi Ký Những ngã rẽ ông gửi cho viet-studies.info cách đây ít lâu, lúc mà ông biết mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Hồi ký ấy như muốn để lại một cái gì và tôi nghĩ nên được công bằng tìm hiểu, đồng thời giúp giới trẻ sau này biết tới một thời kỳ với rất nhiều biến động. Biến động lớn nhất là đổi đời! Người xuống hàng trâu ngựa và trâu chó lên làm người. Hồi ký thứ hai, cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận. Cuốn này tôi đã có dịp đọc bản thảo ngay từ khi chưa được phép xuất bản dưới dạng photocopy. Photocopy là một thứ dạng văn hóa chui để có mặt. Chui ở Việt Nam là một nếp sống văn hóa. Sau này bản photocopy này được sửa chữa khá nhiều, có chương mới liên quan đến những tranh chấp giữa Lý Quý Chung, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba và Hồ Ngọc Nhuận. Bản hồi ký này của Hồ Ngọc Nhuận là để trả lời một số điều được coi là viết sai lầm trong hồi ký của Dương Văn Ba. Và sau đó được cho đăng trên Diễn Đàn Forum (diendan.org). Bản hồi ký đã sửa chữa của Hồ Ngọc Nhuận, thêm nhiều chi tiết, đặc biệt chủ yếu nhắm vào việc phê phán Lý Quý Chung – từ những sự việc rất nhỏ đến không đáng nói – và một phần về Dương Văn Ba mà có thể trước đây ông đã cố tình im lặng để giữ hòa khí anh em trong lần đầu. Lần này, ông xả láng như thể nói một lần cho xong. Khi một người theo cộng sản xả láng là lúc họ bắt đầu nói thật. Nói thật là thứ quý hiếm lắm nên cần phải đọc. Cuốn hồi ký của Dương Văn Ba trên đây tôi nghe nói đã lâu, ngay từ khi Hồi Ký Không Tên của Lý Quý Chung được cho xuất bản lần đầu trong nước. Tôi hỏi bạn bè trong nước thì được biết có hai cuốn Hồi Ký không được phép xuất bản là cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận và cuốn Những ngã rẽ của Dương Văn Ba. (Lúc đó tôi không được biết tên cuốn hồi ký này). Cũng vì thế ở đây cũng phải cám ơn ông Trần Hữu Dũng, của viet-studies.info, đã cho đăng lại cuốn Hồi Ký do chính ông Dương Văn Ba gửi ra hải ngoại. Nhờ đó ít ra một lần, Dương Văn Ba được bày tỏ, viết lại những hoạt động của ông từ thời sinh viên đến lúc làm báo, làm chính trị và làm kinh tế với chức vị Phó chủ tịch công ty Cimexcol, rồi bị án tù chung thân, bị sa cơ thất thế, bị rơi vào hoàn cảnh túng quẫn, mất nhà mất cửa và bệnh hoạn như hiện nay. Hành trình nhận thức thời tuổi trẻ với “những ngã rẽ” như ông viết đã đưa đến một kết thúc khá bi kịch của một người trí thức miền Nam. Ông trôi theo dòng bị đẩy đưa từ một thầy giáo dạy triết, ông trở thành người khuynh tả, rồi lực lượng thứ ba. Rồi đến lúc nước ngập đến chân vào năm 1975, cuối cùng ông bám vào cái đuôi cộng sản như cái phao cứu sinh. Cái đuôi ấy đã giúp ông qua một dòng sông đi một đoạn đường dài. Nhưng cũng chính cái đuôi ấy quất ông chết chìm trước khi qua được bờ sông bên kia. Kết thúc cuộc đời chính trị của Dương Văn Ba cũng là kết thúc vai trò của thành phần lực lượng thứ ba – kết thúc một ảo tưởng. Lý Quý Chung trước 1975 tự nhận là những người đứng giữa mà thực tế chính trị sau 1975 không thể nào cái lực lượng ấy có bất cứ vai trò gì cũng như lý do gì để tồn tại. Đứng giữa tự nó là không đứng chỗ nào cả về mặt chính trị. Lực lượng thứ ba đối với phía cộng sản ví như con thuyền. Khi đã qua sông thì con thuyền chở qua sông sẽ trở thành gánh nặng nếu tiếp tục vác nó lên bờ. Có ai dại khờ vác thuyền lên bờ không? Không. Cách tốt nhất là dẹp bỏ nó như một vật dư thừa. Phải chăng tìm đọc lại hồi Ký Dương Văn Ba sẽ là một bài học muộn, bài học trễ cho tất cả những ai đã đang và không theo cộng sản? Bất cứ ai cũng có thể rút ra một bài học cho mình. Ngay những người quốc gia như tôi thì giúp chúng tôi củng cố thêm niềm tin rằng cộng sản là một điều xấu – tồi tệ nhất trong các điều xấu. Vậy điều xấu nhất ấy là gì? Là họ mất tính người. Nó biểu tượng cho một cái bi kịch làm người-ở-đời-trong chế độ cộng sản mà lúc ‘ngộ’ ra thì đã quá muộn. Sự chọn lựa của những người trí thức lực lượng thứ ba là một chọn lựa bất hạnh ngay từ đầu. Đối với miền Nam, họ là những kẻ bội phản. Và đối với cộng sản, họ trở thành kẻ dư thừa sau 1975. Bất hạnh nằm ở chỗ đó. Và những người như Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận và Ngô Công Đức đều đã có một chọn lựa có thể là sai lầm lúc thời trẻ? Chọn lựa ấy đến ngày hôm nay trở thành một chọn lựa bất hạnh – choix malheureux-? Ngô Công Đức đã chết. Nguyễn Trọng Văn đã chết. Nguyễn Ngọc Thạch đã chết. Bành Ngọc Quý đã chết. Lý Quý Chung đã chết. Lê Hiếu Đằng đã chết. Dương Văn Ba kể cũng như chết. Lý Chánh Trung cũng vậy. Nhưng nỗi bất hạnh vẫn đeo dính vào cuộc đời họ! Họ ăn năn cũng trễ, họ muốn chuyển trục cũng không còn cơ hội nữa. Nay chỉ còn Hồ Ngọc Nhuận còn sống đại diện cho ít nhất ba người trong số họ. Liệu ông có gánh vác nỗi cái nỗi bất hạnh thay cho những người đã ra đi? Mới đây nhất, vào ngày 23-7-2015, Ông Hồ Ngọc Nhuận đã viết một lá thư gửi ông Nguyễn Phú Trọng lên án đảng cộng sản Việt Nam. Sự suy nghĩ lại của ông Hồ Ngọc Nhuận là điều đáng mừng.(2) Trong Hồi ký không tên của Lý Quý Chung, có một đôi dòng thú nhận mà tôi cho là thấm thía và chua xót nhất của thân phận những kẻ đứng giữa, cần được trích lại ở đây của tác giả như sau: “Nhưng trong 30 năm đó, tôi vẫn cảm nhận mình là người khách đặc biệt. Chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới. Tôi cũng không hề phiền hà về cái quy chế không chính thức này. Là một người từng làm chính trị (dù là do thời cuộc mà làm), tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho người cộng sản tin dùng trọn vẹn một người không phải của mình… […] Trong các cuộc đấu tranh hay mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan mà tôi từng cộng tác, cái chuẩn ‘Người của Đảng’ đáng tin cậy hơn ‘người ngoài đảng’ vẫn thường đuợc vận dụng.”(3) Sự thú nhận của Lý Quý Chung cũng đã được ông Trần Bạch Đằng, người giới thiệu tập hổi ký viết, “Thật ra, giới trí thức Sài gòn như Lý Quý Chung, ‘phơi phới sống với chế độ mới’ là chuyện không thể có, tức không thể đòi hỏi.”(4) Họ đã chịu đựng âm thầm, nhẫn nhục cố khuôn mình trong cái khuôn cộng sản hẳn là có. Vậy mà cũng không xong. Mà xong sao được. Họ làm sao ‘phơi phới’ được. Nếu có phơi phới thì chỉ là đóng kịch mà thôi. Cái không xong sẽ bám dính lấy họ trong suốt cuộc đời còn lại. Nguyễn Ngọc Lan về chầu Chúa sớm nhất vẫn còn mang theo nỗi bực tức cộng sản. Bành Ngọc Quý chết lãng xẹt bị xe đụng. Nguyễn Hữu Hiệp chết quá trẻ khi bị sốt rét ác tính khi đi làm gỗ với Dương Văn Ba bên Lào. Nguyễn Ngọc Thạch, một người lúc trẻ lúc nào cũng sẵn những câu chuyện vui tếu giữa đám đông bạn bè, cũng lẳng lặng ra đi. Còn một số đông bạn bè còn ở lại. Họ muốn giữ thái độ im lặng trong tuổi già. Không biết trong tất cả những bạn bè, những người quen biết ấy, vào lúc này, có can đảm cho rằng sự chọn lựa đi theo ‘con đường cách mạng xã hội’ là một chọn lựa đứng đắn nhất? Tôi không tin một ai đó dám trả lời, đó là một chọn lựa đúng. Những người còn lại có lúc gắn bó, tưởng chừng như anh em một nhà. Rồi cũng chia rẽ nhau, lên án, kết tội nhau trước Đảng (trường hợp Lý Quý Chung, Dương Văn Ba kết tội Ngô Công Đức. Hồ Ngọc Nhuận) Rồi còn bao nhiêu bạn bè, anh em họ hàng, vợ con họ cả trăm người sau 1975 sống bám vào tờ Tin Sáng, bộ mới để sống còn cho đến lúc tan đàn, tản mác mỗi người mỗi nơi. Họ đành mỗi ngưởi tự tìm cho mình một lối thoát. Lối thoát với dầy gian nguy và thử thách đó là vượt biên. Lối thoát không lối thoát chính là ở lại, tiếp tục cuộc sống lưu đầy trên chính quê hương mình. Tôi sẽ lần lượt điểm mặt những khuôn mặt tiêu biểu để cho thấy chỉ là một đám người đối lập ‘phá làng, phá xóm’, chữ dùng của Hồ Ngọc Nhuận trước 1975 và sau 1975, chỉ là đám lục bình trôi. Ở đây cũng xin bỏ trong ngoặc trừ một số nhà giáo có căn bản học lực, thầm lặng cộng tác làm báo như Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Ngọc Thạch, Võ Văn Điểm, Trần Ngọc Báu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đồng và vợ Nguyễn Thị Hợp, v.v. Phần những người chủ chốt như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung kiến thức đều thuộc loại làng nhàng – học dở dang chưa ra ngô ra khoai! Hồ Ngọc Nhuận, chỉ đủ điều kiện theo học khóa sĩ quan Thủ Đức 14 ra trường với cấp bậc chuẩn úy. Lý Quý Chung bỏ Quốc gia Hành Chánh khóa 10. (Võ Long Triều cho rằng Lý Quý Chung chưa có tú tài II) Riêng Ngô Công Đức thì kỹ sư Võ Long Triều trong Hồi ký của ông, chương 26 viết, “Dù biết rằng văn hóa của Ngô Công Đức rất kém, không có được văn bằng tú tài!” Thật ra thì chuyện bằng cấp có chi quan trọng cần đến một sự miệt thị như thế! Nhưng cứ bình thường thì làm thế nào một chuẩn úy như Hồ Ngọc Nhuận ra trường, về dạy tại Trung Tâm Huấn Luyện vùng IV Chiến Thuật mãi miệt núi Thất Sơn, sau 1-11-1963, lại có công điện khẩn của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gọi về trình diện. Trong công điện lại thòng thêm chi tiết: Nếu cần sẽ cho trực thăng đến đón!(5) Tất cả câu chuyện bức công điện khẩn này có nguyên do của nó và đã xoay chuyển cuộc đời sự nghiệp chính trị của Hồ Ngọc Nhuận sau này. Chi tiết nảy cũng làm tôi chợt nghĩ đến Lý Quý Chung với cuốn Hồi Ký Không Tên đã gây biết bao tranh luận sóng gió, đã bắt buộc Ngô Công Đức, chủ nhiệm Tin Sáng, bộ mới phải lên tiếng về những lời kết tội ‘giết Người’ của Lý Quý Chung. Nó cũng bắt buộc ông Hồ Ngọc Nhuận phải viết lại, sửa chữa một số chương trong cuốn Hồi Ký Đời của ông đến như đọc cuốn Hồi Ký Đời của Hồ Ngọc Nhuận đã sửa như thể Hồi Ký đã mang một bộ mặt khác. Và cũng như thế khi đọc Hồi Ký Những ngã rẽ của Dương Văn Ba. Tôi có cảm tưởng khi đọc những hồi ký này, những nhân vật trẻ trên chẳng khác gì trường hợp Vi Tiêu Bảo trong truyện Kiếm Hiệp của Kim Dung. Và có thể áp dụng cho Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Ngô Công Đức! Vậy mà ông kỹ sư Võ Long Triều mà tôi gọi là ‘người hùng ngây thơ vô số tội’ đã bao che, nâng đỡ, cất nhắc, tài trợ tiền bạc để cho đám này và nhiều dân biểu gốc miền Nam ra tranh cử, tài trợ ra báo, dùng trung gian Nguyễn Cao Kỳ cất nhắc bọn họ có những chức vụ lớn trong chính phủ cho Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Ngô Công Đức. Ngay cả bao che trốn quân dịch cho Lý Quý Chung, Dương Văn Ba để cuối cùng bọn họ đều phản phé ông cả. Hồi Ký của ông Võ Long Triều, theo người viết nên dành hẳn một chương Hồi ký viết về những kẻ bội phản. Riêng phần Dương Văn Ba, đảng thưởng cho ông 20 năm tù chung thân, rút lại ngồi tù hơn 7 năm mà trong Hồi Ký, Những ngã rẽ, ông cũng chỉ dám dành chương chót – chương 20 với nhan đề: Vài chuyện nhỏ về ông Nguyễn Văn Linh, người đã ra lệnh bắt tôi. Chuyện án tù chung thân, mất nhà mất cửa, thân bại danh liệt mà ông gọi là chuyện nhỏ? Ông viết vỏn vẹn chỉ có 4 trang giấy thì quả là chuyện nhỏ thật? Trong khi đó, tôi nhận được hẳn một cuốn sách in photocopy do Hồ Ngọc Nhuận chịu khó thu tập tài liệu để trình bầy lại toàn bộ vụ án của ông, dài mấy trăm trang. Không có Hồ Ngọc Nhuận, người ta sẽ không cách nào hiểu nội vụ, đầu đuôi câu chuyện vụ án Cimexcol như thế nào. Lúc ấy, tôi cảm nhận được là Dương Văn Ba cần tuyệt đối im lặng đễ giữ được cái mạng sống của mình, gia đình mình – mạng chính trị thì kể như đã tiêu tan – để cho Hồ Ngọc Nhuận lên tiếng thay cho anh ta. Sau đây, xin lần lượt khai triển lại những gì Dương Văn Ba viết trong Hồi Ký Những ngã rẽ, phần nào đúng, phần nào sai, phần nào cường điệu, phần nào nổ, phần nào che đấu, phần nào nói thật. Dù thế nào đi nữa thì chúng tôi cũng từng xuất thân từ cùng một ngôi trường, cùng học một thầy mà mỗi người đi theo những ngả khác nhau. Phải chăng đó là cuộc đời, nhân sinh hệ lụy mà không một ai có thể biết trước được đời một người sẽ ra sao! Dương Văn Ba và bạn bè thời sinh viên Triết Đà Lạt Viện Đại học Đà Lạt. Nguồn: thunhan.org Trong Hồi ký của mình, Dương Văn Ba đã dành hẳn một chương nói về bạn bè thời còn đi học của mình. Phải nói Dương Văn Ba sống vì bạn bè, lúc nào cùng có bạn bè bao quanh, thứ bạn bè đàn đúm, có thể làm việc chung, có thể chửi thề, có thể nhậu nhẹt, ăn tục nói phét, có thể sống bạt mạng, ngay cả uống máu ăn thề, rồi nuốt lời thề như chơi. Tôi nghĩ Dương Văn Ba có một thứ đạo lý hay một thứ triết lý sống được gọi là thứ đạo lý giang hồ, thấm đậm tình tự con người dân của vùng đất mới mà tổ tiên họ có thể là những kẻ lưu dân hoặc trôi sông lạc chợ hoặc Phản Thanh Phục Minh. Dương Văn Ba gốc gác người Triều Châu ở Cà Mâu mà tổ tiên đã trôi dạt từ bên Tàu sang ta lánh nạn. Gốc gác ấy ở mặt triết lý sống như thế có thể là đẹp. Vì thế, cuộc đời một người đôi khi có những dấu ấn định đoạt mang tính tiền định như một sắp xếp, một nếp gấp của tờ giấy và điều đó phải chăng có thể áp dụng trong trường hợp Dương Văn Ba? Trước sau gì nó cũng phải đi đến chỗ đó thôi. Có thể, không bao giờ Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn nghĩ rằng có một ngày nào đó họ sẽ đóng một vai trò xã hội, chính trị trong một đất nước dưới sự cai trị của một đảng (duy nhất)? Và theo tôi, phải nhìn nhận, tuy họ đều là những người thông minh và có tài, lại trở thành nạn nhân của chế độ ấy. Nguyễn Trọng Văn bị cấm cầm bút ngay từ những năm đầu sau 1975. Điều đó, theo sự hiểu biết của tôi, nó là mội nỗi đau, nỗi nhục không nói ra được, vì cá tính Nguyễn Trọng Văn mạnh lắm. Trước 1975, Nguyễn Trọng Văn viết như một kẻ bứt phá, ngòi bút lý luận sắc gọn, ngay cả khi cần viết truyện khiêu dâm. Nghĩa là trước 1975, người cầm bút như Nguyễn Trọng Văn có một sự thỏa mãn trọn vẹn cá tính qua ngòi bút không bị cương tỏa. Nhưng khác hẳn Dương văn Ba, Nguyễn Trọng Văn vẫn là mẫu người khó tính không có bạn bè, cô độc và cô đơn một mình. Ngoài chuyện viết lách ra, Văn khó có thể chơi với ai mà có chơi rồi cũng đến lúc rã đám. Dương Văn Ba cũng là một mẫu người cá tính mạnh, tung hoành không chỉ trong phạm vi làm báo, ngang dọc trong phạm vi chính trị, kết bè kết đảng xem ra đời sống phóng khoáng và thoải mái hơn Nguyễn Trọng Văn. Nhưng tiếc thay, khi bỏ làm báo, ông lao vào vào việc kinh doanh gỗ, cấu kết với nhiều thành phần, cuối cùng lãnh bản án án tù chung thân và kể từ đó sống vất vưởng vay nợ, quỵt nợ để sống qua ngày cũng không xong. Tôi vẫn tự hỏi với cá tính của họ, học vấn của họ, khả năng của họ liệu có thể đưa họ tới một vị trí vững vàng trong một xã hội cộng sản không? Câu trả lời là không. Hoàn toàn không. Cá tính càng mạnh như một vật cứng trong cỗ máy nghiền thì càng chết mau. Guồng máy đảng sẽ nghiền nát họ như cám. Nguyễn Trọng Văn rơi vào trường hợp đó. Những phát biểu thẳng thừng như dao cắt của Nguyễn Trọng Văn trước đám đông cựu trí thức miền Nam và lãnh đạo Đảng trong các buổi họp. Nhiều người nghe thấy lạnh gáy, sợ thay cho Nguyễn Trọng Văn! Võ Văn Kiệt là người dễ tính nhất cũng không chịu nổi Nguyễn Trọng Văn. Biện pháp nhẹ nhất là cấm cầm bút. Nhưng phần Dương Văn Ba khôn khéo hơn nhiều rồi cũng chết. Tôi vẫn còn giữ cái cảm thức về một Nguyễn Trọng Văn có vẻ vênh váo, hãnh tiến, cái vinh dự hão huyền vì còn được ngồi lại ở Đại Học Văn Khoa. Cũng như tôi vẫn còn giữ cái kỷ niệm trong khi tôi gò lưng dạp xe đạp vào một buổi trưa trên đường Bùi Thị Xuân, gần trường Nguyễn Bá Tòng, nghe tiếng gọi giật của Dương Văn Ba. Ông đang lái một chiếc xe Land Rover, mầu trắng, vẻ tự hào! Sự cách biệt giữa chiếc xe đạp và chiếc xe Land Rover khác nhau xa quá. Quả thực đã có hai thế giới giữa bạn bè? Sau này nghĩ lại thì khác, chúng tôi tất cả đều ngồi chung một nhà tù mà không biết. Nhận xét đầu tiên có tính trổi bật đến như không chối cãi được là hầu như phần đông các sinh viên ấy đều thuộc một tầng lớp người có trí thông minh hơn người. Họ là những Nguyễn Đa, Vĩnh Đễ, khóa đàn anh, ngay từ thời còn sinh viên đã được anh em kính nể. Nhưng có lẽ sự đánh giá họ trở nên chính xác hơn nếu ta dựa trên cái ta gọi là esprit de révolte, tinh thần phản kháng, theo Tây Phương. Khả năng ấy dấn xa hơn nữa trở thành thái độ ‘nổi loạn’, dấu hiệu của sự thông minh, trưởng thành? Phần đông đám sinh viên ấy đều ít nhiều có sự phủ nhận như điều kiện ắt có và đủ để họ là họ. Có nghĩa là họ khác người khác. Họ không bị lẫn vào đám đông. Và nhiều khi người bàng quan nhìn vào họ như thể những hiện tượng không giống ai. Mỗi người là một thế giới riêng -tôi là tôi và không là ai khác- tự tạo cho mình một nhân cách, một vóc dáng. Nói thẳng ra, họ tự coi như những đỉnh núi của đỉnh núi. Có những ngọn núi như Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, Phùng Quyên. Cho đến bây giờ phong cách Huỳnh Phan Anh vẫn vậy, vẫn thấy ngông nghênh một mình, vẫn có phong cách nghệ sĩ khác người, những suy tư một mình một cõi. Ông viết nhiều, dịch vô số kể, nhưng tôi chưa hề đọc một tác phẩm nào của ông. Phần dịch thuật, tôi thầm nghĩ, đó có thể chỉ là món nợ trả áo cơm, bia rượu và thuốc lá sau 1975. Hay dở, nó ngoài khả năng thẩm định của tôi! Thứ hai phần đông đều là thứ ‘mọt sách’. Trong giao tiếp, họ gián tiếp cho biết điều đó. Dương Văn Ba trong Hồi ký Những Ngã rẽ đã cho thấy anh đọc đủ thứ ngay từ tiểu học. Nhưng không thiếu người khác cũng đã đọc Nam Phong tạp chí, Phạm Quỳnh, đã đọc Tự Lực Văn Đoàn, đã đọc các nhà văn tiền chiến như Nam Cao, Trần Tiêu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan. Đã say mê các nhà thơ như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên. Nhưng đã ít người nói đến Sáng Tạo, đến Mai Thảo, v.v. Và chưa kể, họ liệt kê, bầy hàng về sự hiểu biết của họ về các nhà văn, nhà tư tưởng Pháp, nhà văn Nga hay Mỹ. Người được viện dẫn nhiều nhất có thể là J.P. Sartre. Không nói về Sartre thì như thể chưa là trí thức. Phần Dương Văn Ba, 16 tuổi đã đỗ tú tài. Không biết có khai gian tuổi không? Thứ ba, phần đông bọn họ có nếp sống ngoài khuôn khổ, khác người trong lối ăn mặc, lối suy nghĩ như thể mỗi người cố tạo cho mình một phong cách, một cái gì riêng độc đáo, cố biểu hiện một tư cách không giống ai, một cái gì ngoài quy củ. Như ngậm ống píp, để râu, quần áo bỏ ngoài quần cẩu thả, hút thuốc lá đến hai ngón tay ám khói, tối ngày ngồi cà phê. Và xem ra họ tự hào về điếu ấy và sự trình diễn phái tính nam tính một cách công khai chẳng khác giới phụ nữ. Nếu phụ nữ phô bầy cái vẻ đẹp, nét dịu dàng. Họ làm ngược lại! Họ phơi bày cái nam tính trong tính cách thô kệch của nó. Họ cho thấy sự thô bạo trong ngôn ngữ, buông thả trong những lối nhận định và luôn luôn tỏ ra bất cần đời. Và đặc biệt không hề biết ngượng. Dương Văn Ba sống phô bầy một cá tính mạnh mẽ trong lối nói, lối suy nghĩ, trong thứ ngôn ngữ đôi khi sắc sảo, đôi khi đao búa, hạ đối phương bằng được ngay cả bằng sự nhạo báng, báng bổ cay độc, qua cách cười của ông. Tiêu biểu cá tính ấy có thể tụ lại trong một vài mẫu hình tiêu biểu như Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Họ chỉ một có một cái chung nếu gọi là cái chung. Đó là ‘thích’ triết học mà phần đông nghiêng về thái độ triết học tả phái, thái độ phủ nhận, hoặc thái độ hiện sinh vô thần hầu như trở thành một cái mốt. Mốt sống hiện sinh! Là một thái độ sống phủ nhận tất cả. Đối với họ, phủ nhận là thái độ tiến bộ, phủ nhận là đi tới, là khai phá, là tìm kiếm, là đi trên đường mà không phải là lối mòn, biết nói không trước nhiều sự kiện. Phủ nhận làm cho người đó lớn lên, nhân cách lớn lên. Ngay cả phủ nhận của phủ nhận. Phủ nhận điều mà ta phủ nhận và rơi vào hư vô. Trên thực tế về mặt chính trị, họ phủ nhận và chống đối chiến tranh một cách gratuit! Họ là cực tả và việc theo cộng sản chỉ là bề mặt trái của sự cực tả. May mắn thay là phần đông anh em sinh viên chúng tôi, đa số dù có là nạn nhân của chế độ cộng sản thì cuối cùng phần đông chúng tôi vẫn có một cuộc sống của người bình thường. Sống bình thường đôi khi nghĩ lại mới thấy thực sự là khó và mới thực sự là có ý nghĩa của đời sống. Bởi vì thế mới là sống thật. Những lo toan đời thường. Những bổn phận làm cha, làm chồng tưởng chừng dễ dàng lại là những mục đích ở đời, sống cho trọn kiếp người. Lối sống kia mới thật là sống giả, sống vay mượn. Phủ nhận trước hết và ngay cả tôn giáo mà đúng nghĩa ở đây là công giáo. Nơi một đại học được coi là công giáo. Phủ nhận thứ hai là các giá trị đạo đức, chính trị, xã hội đã được nhìn nhận. Đi rốt ráo hơn là sự phủ nhận chính mình và rơi vào những suy tư siêu hình, trừu tượng, ảo tưởng như trường hợp Huỳnh Phan Anh, một người bạn thân thiết của Dương Văn Ba khi ngồi ở ghế đại học. Tôi nhớ không lầm thì Huỳnh Phan Anh viết cuốn Văn Chương và kinh nghiệm hư vô? Tôi tự hỏi mình kinh nghiệm hư vô là thứ kinh nghiệm gì? Một vài dòng tóm tắt trên để thế hệ sau nảy hiểu được nếp sống của một số bạn bè chúng tôi trong môi trường đại học miền Nam. Lối sống ấy đã làm nền cho việc tìm hiểu cuộc đời Dương Văn Ba sau này đi vào những ngã rẽ. Những ngã rẽ mà nhiều người trong chúng tôi tránh được trong khi Dương Văn Ba không tránh được. Dương Văn Ba không tránh được vì máu phiêu lưu mạo hiểm, máu liều, tính bạt mạng đã dẫn đường đến việc dấn thân vào chính trị thiên tả và cuối cùng theo cộng sản! Theo tôi, thái độ cực tả là con đường ngắn nhất để đi tới chủ nghĩa cộng sản. Cùng học một trường, cùng chịu ảnh hưởng một nền giáo dục lành mạnh, được giảng dạy bởi phần đông các vị giáo sư đủ quốc tịch, người ngoại quốc, mà đặc điểm của họ là sự hiểu biết thông thái, thái độ trí thức cởi mở, chấp nhận đối thoại, tinh thần khoan nhượng và khiêm tốn. Họ diễn giảng như một mời gọi mà không có tính cách áp đặt hoặc tham vọng giảng đạo. Nhưng quyết định chọn lựa một thái độ sống, thái độ hành động lại tùy thuộc vào mỗi người. Điều này cũng đã được Nguyễn Trọng Văn kể lại khi anh ta dự kỳ thi nhập học ban Triết. Đề thi triết nhập học năm chúng tôi dự thi có nhan đề: Triết học là một thái độ luôn luôn đi trên đường (en route). Và vì thế, những câu hỏi thường quan trọng hơn những câu trả lời. Anh nghĩ gi về tư tưởng trên? Không biết Nguyễn Trọng Văn viết cái gì, chỉ biết bài viết của Nguyễn Trọng Văn có nhiều điều ‘chệch hướng’, đi ngược với hướng chung của phần lớn các triết gia hiện sinh. Người chấm bài của Nguyễn Trọng Văn là giáo sư André Gautier, dạy môn triết sử. Mặc dù nếu cứ theo thường tình, ông có thể đánh rớt Nguyễn Trọng Văn, nhưng đã chấm đậu và cho Nguyễn Trọng Văn đậu cao. Sau này, giáo sư André Gautier đã cho Nguyễn Trọng Văn biết điều đó. Dĩ nhiên là Nguyễn Trọng Văn cảm phục và nhớ ơn thầy. Chẳng phải chỉ có mình A. Gautier mà còn nhiều giáo sư khác như Ch’en Ch’ung Ling, Joseph và ch’en Wen Yu, Claude Larre, Yves Raguin, Alberto Palacios, cha giáo sư Crass, tên Việt Đỗ Minh Vọng và nhiều người khác đã không nhớ hết tên. Trong số giáo sư này, tôi đặc biệt nêu tên linh mục dòng Đa Minh, chi Lyon, giáo sư Bernard Pineau. Ông dạy môn luận lý. Ông ở Câu Lạc Bộ Phục Hưng, Sài Gòn và thường thích chơi thân với đám dân trường tây, trí thức tây hoặc các bà sơ tây ở các dòng tu nữ. Cũng vì thế, có thể ông rất gần gũi với tướng tá quân đội VNCH gốc Tây như Lê Văn Kim. Khi học ông, tôi cảm thấy không gần gũi ông được, mặc dầu ông có cái bề ngoài đẹp trai, nhã nhặn, ăn nói lịch sự, khéo léo, tươi cười. Nhiều nữ sinh viên chắc là thích nói chuyện với Pineau. Tôi chưa hề nói chuyện riêng với ông một lần nào. Trong con người chúng ta, có một giác quan thứ sáu. Đó là sự dị ứng hay linh cảm. Sự dị ứng ấy mười lần như một sau này tôi thấy là đúng. Tôi dị ứng với ông Bernard Pineau là đúng. Linh mục Bernard Pineau cùng với Lm Đỗ Minh Vọng làm tuyên úy hướng dẫn một nhóm nhỏ Thanh Sinh Công, phong trào này lúc đó có khoảng 4500 đoàn viên. Riêng phong trào Thanh Sinh Công (TSC, JEC, YCS) Việt Nam thì phần đông là sinh viên công giáo và nhóm nổi bật là sinh viên ở Câu Lạc Bộ Phục Hưng. Sau 1963, linh mục Bernard Pineau đã giới thiệu một số sinh viên trong Phong trào Thanh Sinh Công với tướng Lê Văn Kim trong Hội đồng quân lực. Do sự giới thiệu của linh mục Bernard Pineau, một số người đang ở trong quân đội đã được gọi về Sài Gòn hoạt động. Theo Hồ Ngọc Nhuận, ông và Nguyễn Hữu An (kiến trúc sư) đã trình diện tướng Lê văn Kim vả được điều về Bộ Thanh Niên làm việc một cách bất ngờ. Ngoài Nguyễn Hữu An còn có Hoàng Ngọc Tuệ, dược sĩ, nay ở trong Hội đồng quản trị báo Người Việt, Hồ Văn Minh, bác sĩ cũng thuộc nhóm này. Chính việc giới thiệu này có thể là nguyên cớ mở đường cho Hồ Ngọc Nhuận và một số người khác lăn vào chính trị sau này. (Mặc dầu Hồ Ngọc Nhuận không phải công giáo nhưng lại chơi và quen biết nhiều giới công giáo vì học trường Taberd). Sau này, tôi được biết ông Bernard Pineau bị chính quyền VNCH trục xuất ra khỏi Việt Nam mà nhiều phần bị nghi ngờ dính dáng cho một giải pháp trung lập miền Nam. Sự trục xuất này, tôi không lấy làm ngạc nhiên. Phần Dương Văn Ba, chẳng ưa gì công giáo, nhưng cũng đành hạ bút viết: Đức Ông (Monsignor) Simon Nguyễn Văn Lập, Viện Trưởng Viện Đại Học Dalat (Từ 8-3-1961 đến 1-10-1970). Nguồn: thunhan.org “Khi học ở đại học Đà Lạt, hình ảnh cha Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập thân thiết với chúng tôi như cha con trong gia đình, người đã dạy chúng tôi đạo đức làm người lương thiện, đi theo đường ngay lẽ phải. Chúng tôi là những Thụ Nhân, những cây thông con mọc giữa núi đồi Đà Lạt, phải đứng sững không cong queo. Cha Lập một truyền nhân đã đem tới cho chúng tôi niềm tin tưởng vào vào lẽ sống ngay ngắn, hòa đồng, tin vào tương lai.”(6) Trong một số suy nghĩ của Dương Văn Ba, ông đã bày tỏ những khát vọng tuổi trẻ, một khát vọng mà ông gọi là thái độ nổi loạn, một thái độ mà ông cho là đa số sinh viên thời đó chọn lựa. Cái đa số mà ông nói đến ở đây không ra khỏi con số những người cùng học chung dưới mái trường đại học, môn triết thời đó. Trước hết, hãy cứ viết lại những nhận định của ông: “Nhiều người đã nổi loạn và có lẽ đã may mắn gặp con đường đi làm cách mạng theo kiểu cộng sản. Trong giới sinh viên đại học Đà Lạt thời đó, không thiếu những chàng trai âm thầm đi theo tiếng gọi của cộng sản. Võ Văn Điểm, Nguyễn Trọng Văn, sau nữa Cao Thị Quế Hương… là thể hiện tích cực của những tình cảm nổi loạn, bức phá. Đại đa số đi theo chiều ngược lại. Hiện sinh, vô thần, không chấp nhận khuôn thước, rào cản, luôn đi tìm cái mới. Trong số những người này có Huỳnh Phan Anh, Huỳnh Đạt Bửu, Võ Văn Bé, Tô Văn Lai, Huỳnh Quan Trọng và nhiều thanh niên khác đứng giữa dòng cộng sản và tôn giáo. Chúng tôi đi không bến bờ Trước mặt là dòng sông, sau lưng là nghĩa địa (Thơ Tô Thùy Yên, nhóm Sáng Tạo) Não trạng sống của trí thức Sài Gòn, trí thức miền Nam lúc bấy giờ tương tự như thế. Còn ngày mai sẽ ra sao? Đó là những bến bờ không định trước được của lịch sử. Tôi và nhiều bạn bè đã rời ghế trường Đại Học trong hoàn cảnh suy tư đó. Chúng tôi đã bị xô đây và vùi dập bởi nhiều cơn sóng lớn nhỏ của lịch sử kể từ 1965 về sau này.”(7) Theo tôi, từng là bạn cùng lớp với những bạn bè vừa kể trên, tôi cho phần nhận xét của Dương Văn Ba có tính cách tô hồng quá khứ tuổi trẻ, mặc cho nó một cái áo khoác quá rộng với một ngôn ngữ cường điệu, một thói quen của Dương Văn Ba! Cuộc sống thực của chúng tôi hồi đó như thế nào? Chắc chắn không phải như Dương Văn Ba mô tả. Số người cực tả là hiếm hoi lắm. Số người theo cộng sản đếm chưa đủ mười ngón. Đa số chúng tôi là những thày giáo dạy Triết, sống bình thường và thanh bạch. Lớp chúng tôi là khóa 4, Đại học Sư phạm Triết Sài Gòn được lên học nhờ Đà Lạt. Về vật chất với học bổng 1500 đồng/tháng. Bảo rằng thiếu vẫn là thiếu. Bảo rằng thừa vẫn là thừa. Tiền trọ 200 đồng, tiền ăn hai bữa, mỗi bữa 5 đồng. Nói chung ăn ở mất 500 đồng còn lại để chi tiêu. Ăn sáng tự liệu, mua bánh mì kẹp đường, uống sữa bột của viện trợ Mỹ. Một cái bánh mì nóng hổi, hai đồng, mà tôi và Trương Đình Tấn, Nguyễn Văn Vũ thường ăn thêm, kẹp thêm mỡ shortening và đường trắng vào buổi tối. So sánh với giá một chiếc xe Solex là 3000 đồng một chiếc thì quả số tiền 1500 là một gia tài. Phải nhìn nhận so với người lính VNCH, chúng tôi quá được ưu đãi. Chế độ Ngô Đình Diệm lo cho chúng tôi được ăn học, có tiền trợ cấp đầy đủ hơn cả lương một người lính. Một người sinh viên hiểu biết nghĩ được tới cái chung phải biết điều đó mà bổn phận chính yếu của họ là lo chăm học sau ra giúp giới trẻ miền Nam được học hành tử tế. Tôi nhìn nhận rằng hơn 100 giáo sư Triết ấy đã tỏa ra khắp bốn vùng chiến thuật và dạy cho học sinh một giai đoạn vỡ lòng về triết học! Những đóng góp nhỏ ấy có thể không được ai nhìn nhận, nhưng nó lại làm ra miền Nam là miền Nam và sau này cho thấy vốn văn hóa là cái vốn lớn nhất làm cho một dân tộc mạnh hay yếu! Những trò khuấy động chính trị thật ra chỉ là nhất thời thôi. Nhưng những người như Dương Văn Ba đã không nghĩ được như thế. Họ cũng như nhóm sinh viên phản chiến du học ở hải ngoại, nhận học bổng của chính phủ mà phản bội lại miền Nam. Dưới mắt tôi thì bọn những người như Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức thiếu hắn một tấm lòng đối với miền Nam. Từ con người đến cuộc sống của họ đáng được nói lại ở đây. Họ đã làm gì cho miền Nam ngoài sự phá rối! Tôi đã từng chứng kiến những ‘kẻ nổi loạn’ khi còn sinh viên như đánh banh bàn cá độ 100 đồng! Họ chơi như thế đấy, họ sát phạt nhau như thế đấy. Tôi cũng đã từng nhìn cái cảnh họ cởi trần với chiếc quần sà lỏn, ngồi xổm trên bàn học, bên cạnh là một cọc tiền, được chặn bởi một con dao. Chung quanh là một vài con bạc sinh viên. Chắc là đang đánh phé! Phải chăng đó lá cách nổi loạn? Tiền chính phủ cho rộng rãi là để cho ăn học, nào phải để đánh phé?(8) Họ có bao giờ dám đả động đến cái quá khứ yên hùng đó không? Rảnh thì họ kéo nhau ra Cà Phê Tùng, xuống dốc Minh Mạng, phì phèo thuốc lá, nghe nhạc. Nhạc phản chiến hồi đó hình như chưa có thì phải. Nếu cần nói một cách trung thực và công bằng thì phải nói: Có một đại đa số sinh viên chăm chỉ học hành và một thiểu số nhỏ nhoi làm ra vẻ mốt hiện sinh chán đời, sống bất cần đời. Tôi gọi đó là thứ triết lý vỉa hè. Triết học cao thâm không phải như thế. Có thể có một thứ triết lý sống mà thực sự không phải là thứ triết học. Họ nhân danh chủ thuyết Hiện sinh để sống trác táng, ngoài khuôn khổ, nếu cần đánh mất cả nhân cách chỉ vì lợi lộc.(9) Ngay những người được Dương Văn Ba hài tên ra, có thể ngoài Huỳnh Phan Anh là có vẻ sống ‘mốt hiện sinh’ một chút, xét theo bề ngoài. Những anh em bạn khác như Huỳnh Quan Trọng, Võ Văn Bé, Tô Văn Lai hoặc Huỳnh Đạt Bửu được xếp vào thành phần ‘nổi loạn’ thì quá đáng chăng! Tôi cũng không thấy dấu hiệu và bằng cớ gì cho thấy là họ theo cộng sản? Trường hợp Nguyễn Trọng Văn thì tôi chơi khá thân với anh ta thời sinh viên; theo trí nhớ của tôi, Nguyễn Trọng Văn bàn cãi nhiều vấn đề triết lý với tôi, nhưng tên tuổi K. Marx là không thấy nhắc tới. Sau này, tôi đến nhà Nguyễn Trọng Văn tại khu Nguyễn Tri Phương, vào khoảng 1970 trở đi, Nguyễn Trọng Văn cho biết, anh được học trò ở Vĩnh Long móc nối và dọa rằng, “Nu thầy không theo MTGPMN thì việc đi đường từ Vĩnh Long-Saigon có thể gặp nguy hiểm.” Sau này, sự móc nối chặt chẽ hơn với MTGPMN thế nào thì tôi không biết. Nhưng khi Nguyễn Trọng Văn cho in bài nói chuyện tại trường Đại Học Văn khoa Saigon ngày 6-6-1971, sau đó cho in thành sách.(10) Cuốn sách có nhan đề: Phạm Duy đã chết thế nào. Tôi đọc xong cuốn sách, nhưng vẫn chưa nhận ra được con người thật Nguyễn Trọng Văn. Tôi vẫn cho là anh ta quá hăng say chỉ trích và bất mãn. Cũng như Nguyễn Trọng Văn khi cộng tác viết bài trên tờ Đất Nước do Nguyễn Văn Trung làm chủ nhiệm.,Trong một số Đất Nước, Nguyễn Trọng Văn viết bài: Hoàn cảnh những người cầm bút trước và sau 1963.(11) Tôi vẫn cho rằng do ảnh hưởng lôi kéo của Nguyễn Văn Trung mà Nguyễn Trọng Văn viết như thế. Cũng trong số đó có bài thơ của nguyên Sa: Giã từ khóa đàn anh. Sự không nghi ngờ ấy cũng được hiểu tương tự như trường hợp anh Nguyễn Tử Lộc, một thày giáo dạy Triết khác lý tưởng, đầy lòng nhân ái, hòa nhã, đạo đức cũng có viết một bài khá danh thép: Vấn đề dân tộc đặt cho người công giáo. Phải nhìn nhận rằng, ở cái thời kỳ đó, không dễ gì đánh giá ai là thiên tả, ai theo cộng sản, ai là quốc gia? Chỉ sau này, tôi mới thực sự nghĩ rằng việc Nguyễn Trọng Văn phê bình Phạm Duy có sự điều động ngấm ngầm của cộng sản. Phần tôi còn nhớ những kỷ niệm đẹp đời sinh viên nghèo. Những kỷ niệm rất tình người, rất bình thường của những con người bình thường. Vào mùa hè, số tiền 1500 tiền học bổng không phải đụng đến, tôi mang xuống cho anh chị cả của tôi. nhà đông con, lương trung sỉ Bảo An Đoàn. Phải chăng đó cũng là cách nổi loạn của tôi? Thật ra, những điều suy nghĩ của Dương Văn Ba chỉ là những suy nghĩ thuần túy sách vở, ngoài luồng và chỉ là sự nhái lại cái không khí thời thượng của thời thập niên 1945 bên Pháp? Tôi thú thật nhiều khi ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi chán thứ chủ nghĩa hiện sinh đã mối mọt. Tôi thích tìm về các tư tưởng đạo học trong triết học Đông Phương như của Lão Tử. Việc học Triết nhiều khi là một công việc lao dịch, khổ sở, vất vả, kiên trì và tốn kém thời giờ. Không dễ dàng gì để hiểu hết. Nào những Apologie de Socrate trước tòa (biện luận của Socrate trước tòa án), Nào học thuyết lý tưởng của Platon, rồi sau đó tiếp đến các hệ thống của Descartes, rồi Kant và Hégel. Tiếp đến triết học kinh viện với thánh Thomas. Học là để quên. Ngay cả triết học Hiện Đại với Martin Heidegger đầy thi ca và thi vị mà tôi thích thú một thời rồi cũng trở thành những tư tưởng cứng đọng. Triết học không phải là môn học mà không phải bất cứ ai cũng có thể bước vào ngưỡng cửa của ngôi trường Platon. Triết học dạy tại trường Đại học Đà Lạt là có mục đích để đào tạo một số thầy giáo có thể chuyển tải một số kiến thức cơ bản về Triết như một thứ nhập môn triết học cho học sinh chứ không phải để đào tạo những triết gia hay nhà tư tưởng. Những cao vọng và ước mơ của một số sinh viên ngay từ khi bước vào đại học đã tự cho mình một cái vai trò mà thực sự họ không xứng tầm! Nếu sau này họ có thể tiếp tục con đường ấy thì thật sự họ vẫn có đủ cơ hội để đi tiếp con đường mà đại học Đà Lạt chỉ là viên gạch lót đường. Và theo tôi, trên nửa thế kỷ nay, ngoại trừ trường hợp thạc sĩ Trần Đức Thảo ngoài Bắc vào thập niên 1950. Kể từ 1995 cho dù các thế hệ thứ hai học Triết ở Việt Nam, ở Pháp, Đức, Mỹ đi nữa thì chưa một ai trong số đó vượt qua được bốn giáo sư Triết thế hệ đầu tiên ở Việt Nam là các giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm và Trần Văn Toàn. Có một số những người tận tụy, hầu như để cả đời say mê với triết học, vẫn cầy bừa trên mảnh ruộng triết như một khai phá từ lúc trẻ đến giờ như Đặng Phùng Quân. Người khác như Bùi Văn Nam Sơn, học xong cử nhân triết ở đại học Văn Khoa, Sài Gòn, rồi sang học ở Đức học thêm, nay ông dành trọn thời giờ để dịch tác phẩm Triết từ tiếng Đức sang tiếng Việt. Công trình dịch thuật quan trọng nhất của ông là cuốn Immanuel Kant, Phê phán lý tính thuần túy (Kritik Der Reinen Vernunft, 2004, dày 1260 trang). Nhưng trước sau, họ vẫn là người học triết chứ không phải triết gia như một vài người đã lạm dụng danh từ. Vai trò của họ vẫn là vai trò người bửa củi chứ không phải vai trò người thợ mộc. Hiểu như thế nên đại học Đà Lạt có thể hãnh diện vì đã có thể đào tạo được một số thầy giáo đáp ứng được nhu cầu giáo dục môn triết vốn còn quá mới mẻ ở Việt Nam. Có những vị là thầy giáo dạy Triết gương mẫu như: Vĩnh Đễ, Trần Đức An, Nguyễn Đình Tuấn, Nguyễn Hữu Khánh (vừa quá vãng), Trương Đình Tấn, Nguyễn Tử Lộc, Nguyễn Đa, Hồ Công Hưng, chị Hoàng Mỹ Hiền, chị Đoàn Phi Loan (đã mất), chị Phan Thanh Gia Lai, Ngô Đức Diễm, Võ Doãn Nhẫn, Uông Đại Bằng, Huỳnh Quan Trọng và nhiều người khác không thể nhớ hết được. Tôi vẫn nghĩ rằng những thầy giáo này vẫn chưa được đánh giá đúng mức trong vai trò của họ. Một đất nước có chiến tranh như miền Nam mà vẫn duy trì được một một nền giáo dục nhân bản và khai phóng là nhờ vào những vị thầy này. Càng nhìn vào xã hội Việt Nam hôm nay thì càng nhận thức rõ vai trò giáo dục trong một đất nước nó quan trọng như thế nào. Có một số nhỏ những người khác do thời thế đã tham gia vào một số hoạt động chính trị, phần đông là hoạt động đảng phái, hoặc làm việc cho Mỹ trong các chương trình xã hội, giáo dục cho Mỹ. Chẳng hạn các chương trình CPS của Mỹ trực tiếp tài trợ và hoạt động với Hà Tường Cát, Phan Văn Phùng, Charles Sweet, Phạm Phú Minh, Đỗ Ngọc Yến. Có những người theo hướng khuynh tả như Nguyễn Hữu Hiệp (đã mất), Bành Ngọc Quý (đã mất), Vũ Ngọc Điểm, Nguyễn Ngọc Thạch (đã mất), Nguyễn Trọng Văn (đã mất), Dương Văn Ba. Thôi thì hãy coi đây là những ngã rẽ trong số sinh viên Đà Lạt. Số phận họ ra sao thì sau này đã rõ. Lớp cựu sinh viên triết một cách không mời mà đến đã chọn thêm việc cầm bút một cách đông đảo hơn cả. Hình như cầm phấn viết bảng và cầm bút là khoảng cách gần hơn cả? Nguyễn Vĩnh Đễ, Bùi Ngọc Dung, Nguyễn Tử Lộc, Ngô Đức Diễm, Nguyễn Trọng Văn, Bành Ngọc Quý, Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn (Đỗ ) Hữu Dư, Đặng Thần Miễn, Phạm Phú Minh, Nguyễn Văn Lục, Phùng Quyên, Nguyễn Văn Vũ, Võ Văn Điểm, bút hiệu Võ Trường Chinh. Các chị Hoàng Mỹ Hiền, Chu Kim Long, Phan Thanh Gia Lai, Đoàn Phi Loan, Thanh Tân. Rồi Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Đỗ Dũng, Võ Doãn Nhẫn, Nguyễn Nhật Duật, Tô Văn Lai (sinh hoạt văn nghệ), Nguyễn Đồng (hội họa). Thử hỏi rằng các sinh viên trong nhóm này này đâu có cái tâm trạng bất mãn, chán chường rồi sau này trở thành những thành phần quá khích, quậy phá miền Nam như Dương Văn Ba quyết đoán? Ngã rẽ thứ nhất của Dương Văn Ba: gia nhập nhóm Liên Trường Câu hỏi đặt ra là có thể nào suốt đời Dương Văn Ba sẽ cặm cụi làm một thày giáo Triết không ? Câu trả lời của tôi nghĩ là không. Với cá tính con người ấy, với tham vọng và sự thông minh ấy, nó sẽ vùng dạy khi thời cơ đến. Đúng vậy, trong chương 5: Làm chính trị vào Quốc Hội. Dương Văn Ba đã viết: “Chúng ta ngụp lặn trong dòng chảy cuộc sống không phải như cánh bèo. ‘Bèo dạt hoa trôi’. Mỗi người như con cá trong dại dương. Cá kình hay cá chép là do trong cọ xát của dòng chảy, mỗi người đã vận động như thế nào, đến mức nào, với những ai. Dòng chảy trong cuộc đời thầy giáo của tôi sớm gặp nhiều khúc quanh.”(12) Lý Chánh Trung là người gốc gác ở miền Nam nên đã cùng với Võ Long Triều tổ chức một buổi họp mặt vào năm 1965. Trong buổi họp mặt này dĩ nhiên là những quan hệ quen biết đều là cánh miền Nam cả. Từ một khởi đầu mang tính dịa phương, tính miền và tham vọng đóng góp vào sự phát triển và thăng tiến cho miền Nam. Và một lúc nào đó, nó biến thành mộ tham vọng và một lực lượng chính trị. Trong số những người có mặt hôm ấy có ba anh em giáo sư là: Trần Bá Phẩm, Lâm Văn Bé và Dương Văn Ba. Thật ra còn có cả Bành Ngọc Quý (Triết khóa 3), giáo sư Nguyễn Văn Trường, giáo sư Lê Thanh Liêm, Cao Thắng, kỹ sư Lê Văn Danh, đại học Bách Khoa và ký giả thể thao Lý Quý Chung. Sau này Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Bành Ngọc Quý. Cả bốn người sau đó đều tham gia sinh hoạt chính trị khởi đầu bằng cách ra một tờ báo ở Mỹ Tho với sự tham dự của một số giáo sư như Lê Thanh Liêm, Phan Công Minh, Trần Bá Phẩm, Nguyễn Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Cầu, Võ Văn Điểm. Báo Tiếng gọi miền Tây, theo Hồ Ngọc Nhuận sau đó phải tự đóng cửa vì những bài viết đặc sệt mùi kỳ thị Nam Bắc của bác sĩ Trần Văn Tải, chủ nhiệm báo. Nhưng theo Dương Văn Ba thì báo Tiếng Gọi Miền Tây xuất bản được 8 tháng với 30 số báo thì bị Nguyễn Cao Kỳ rút giấy phép. Cho đến nay thì tôi không có chút xíu tài liệu nào về tờ báo này. Từ chỗ nghỉ làm báo, họ xoay ra làm chính trị. Thứ chính trị khuynh đảo, một thứ chính trị thời thượng được nhiều người trân trọng. Họ đều nộp đơn ứng cử dân biểu Quốc Hội. Và cả bốn đều đắc cử do sự tài trợ tiền bạc của ông Võ Long Triều và bà vợ ông Triều là bà Tô Thị Viễn, học ở Anh Quốc về, hiệu trưởng trường London School. Nhiều yếu tố đã giúp họ thành công trong việc đắc cử vào Hạ Nghị Viện như yếu tố miền, yếu tố tôn giáo, sự ủng hộ của phụ huynh học sinh và ngay cả sự ủng hộ ngầm của cộng sản. Tiền thì không có, nhưng đã có tổ chức cung ứng đầy đủ. Từ chỗ đó họ trở thành một lực lượng, một phong trào! Tôi có nhận xét rất sát thực là một trong những câu ý nghĩa nhất, nó gói ghém trọn vẹn ý đồ của nhóm Liên Trường nằm trong câu phát biểu của Võ Long Triều như sau: “Đã tới lúc anh em mình nên hợp tác lại làm một cái gì đó có lợi cho dân miền Nam. Không thể để cho nhóm Nguyễn Cao Kỳ muốn làm gì thì làm trên phần đất quê hương của chúng ta”(13). Nguyễn Cao Kỳ đinh ninh là mua chuộc được phe cánh miền Nam, đặc biệt giới trí thức khoa bảng Nam Kỳ, qua trung gian Võ Long Triều để cân bằng lực lượng với Nguyễn văn Thiệu. Lá bài của Nguyễn Cao Kỳ đã hoàn toàn thất bại nếu không nói là ông đã trở thành con cờ cho phái Liên Trường xoay sở ông. Câu phát biểu của Võ Long Triều, nếu đúng như ở trên, cho thấy ông Triều chơi lá bài hai mặt: Đi với Nguyễn Cao Kỳ để lợi dụng và đồng thời hạ bớt tay chân của Nguyễn Cao Kỳ. Việc quét sạch đám giáo chức chung quanh giáo sư Trần Ngọc Ninh cũng như thay Trần Ngọc Ninh, nhóm Học Đường Mới với Nguyễn Văn Trường là một thành công nhỏ phải chăng của Võ Long Triều-Lý Chánh Trung-Nguyễn Văn Trường-Dương Văn Ba? Tôi biết ông Nguyễn Văn Trường là người hiền lành mà sự có mặt của ông mang tính tình cờ lịch sử, đúng thời, đúng lúc mà vị tất bản thân ông đã muốn như thế! Từ đây, con đường làm chính trị của Dương Văn Ba đã có một số credit để sẽ đưa ông đi xa hơn nữa trong vai trò dân biểu đối lập. Việc thứ hai không kém quan trọng là việc vận động để thiết lập Đại Học Cần Thơ cho các tỉnh miền Tây Nam Phần. Về mục đích và ý nghĩa của cuộc vận động này thì đây là một việc đáng làm, nên làm, và phải làm. Không có lý do gì mà miền Tây lại không có một Viện Đại học so với Huế, Đà Lạt và Sài Gòn. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cũng lên tiếng ủng hộ việc này. Nhóm Liên Trường đã một lần nữa lợi dụng Nguyễn Cao Kỳ trong công việc này. Cuộc vận động này do các ông Võ Long Triều, Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trường khởi xướng. Ở tỉnh Cần Thơ thì có Nguyễn Trung Quân, hiệu trưởng trường Trung Học Phan Thanh Giản đứng ra tổ chức hội thảo. Ở Mỹ Tho thì có sự vận động của các bác sĩ Trần Văn Trực, Trần Văn Tải và bộ ba giáo sư Trần Bá Phẩm, Lâm Văn Bé và Dương Văn Ba của trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu. Nhờ những sự vận động ấy, qua trung gian Võ Long Triều-Nguyễn Cao Kỳ. Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh thành lập đại học Cần Thơ và bổ nhiệm giáo sư Phạm Hoàng Hộ làm Viện Trưởng đầu tiên. Đây là một điều đáng mừng và hãnh diện cho các tỉnh phía Nam. Cũng như sau này mở thêm cái đại học Cao Đài, Đại học Hòa Hảo mà phẩm chất giáo dục đáng nghi ngại, chỉ là sự vá víu vay mượn giáo sư ở Sài Gòn. Nhưng đây cũng là một bước tiến thêm nữa về mặt ảnh hưởng chính trị cho Dương Văn Ba và Lâm Văn Bé theo cái kiểu rượu gọi thêm rượu, một công đôi ba việc. Sau này, ông Lâm Văn Bé trở thành Khu trưởng Khu giáo dục miền Tây kiêm nhiệm thêm chức Tổng Thư Ký Viện đại Học Cần Thơ. Cũng phải nói thêm là theo lời Dương Văn Ba, qua quen biết với bà chị của vợ ông Nguyễn Văn Thiệu là bà chị Năm Jacqueline nên Dương Văn Ba và Lâm Văn Bé thường ghé nhà bà Năm ăn nhậu. Và đến cuối tuần, Trung tướng, chủ tịch Ủy Ban lãnh đạo Quốc gia về thăm nhà bên vợ, đánh cách tê hoặc đánh xì phé với các anh em bạn rể, trong đó có cả Lâm Văn Bé và Dương Văn Ba. Dương Văn Ba viết: Tôi thường đến chơi nên lần lần mặc nhiên được các bà chị của phu nhân trung tướng Thiệu xem như người thân.(14) Có một nhận xét mà tôi thấy cần đưa ra ở đây là, ngoại trừ hồi ký của Dương văn Ba, trong các Hồi Ký Võ Long Triều cũng như trong cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận, Hồi Ký Không Tên của Lý Quý Chung, nhất là Lý Chánh Trung, tôi không thấy họ nhắc đến hai chữ Liên Trường. Không hề đả động đến các buổi họp mặt, các sinh hoạt ra báo, các vận động của Liên Trường, v.v. Xem ra đó là trò ném đá dấu tay. Người húy kỵ và né tránh vấn đề này nhất lại chính là Lý Chánh Trung. Nó không có một chữ nào trong các bài viết của ông. Nhưng người phát động phong trào ấy cũng chính lại là ông. Họ có nói tới một số vấn đề vận động Viện Đại Học Cần Thơ. Nhưng như không nhắc tới Nhóm Liên Trường. Lý Chánh Trung cũng vậy mà tất cả những thành viên khác như Lâm Phi Điểu, Lâm Văn Bé, cũng như Bành Ngọc Qúy, Lê Thanh Liêm đều tránh né, im lặng, v.v. Nếu Dương Văn Ba không bộc lộ rõ ra trong Hồi Ký, chắc câu chuyện Liên Trường sẽ không được ai biết tới nữa! (Còn tiếp) © 2015 DCVOnline Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net” (1) Hồ Ngọc Nhuận, “48 năm, một mẩu chuyện nhỏ”. (2) Hồ Ngọc Nhuận, “Thư gửi Nguyễn Phú Trọng”, diendan.org (3) Lý Quý Chung, “Hồi ký Không tên”. (4) Lý Quý Chung, Ibid., Lời giới thiệu của Trần Bạch Đằng, bản chưa sửa chữa (5) Hồ Ngọc Nhuận, Ibid., Chương XIII (6) Dương Văn Ba, Hồi ký “Những ngã rẽ”, Chương 5, Làm Chính trị, vào Quốc Hội. (7) Dương Văn Ba, Ibid., phần vài nét tiểu sử. (8) Hồi Ký Võ Long Triều kỳ 26, 2007. Tính mê cờ bạc và bê bối tiền bạc sau này Võ Long Triều đã viết lại trong Hồi Ký của ông như sau: “Với tư cách là Đặc Ủy Viên thanh niên vùng IV Chiến thuật, thay thế cho anh Lâm Phi Điểu, ứng cử Dân biểu ở Vĩnh Long. Với tư cách Đặc Ủy Viên, tôi yêu cầu anh Ba ghé các tỉnh miền Tây, nơi có những ứng cử viên do tôi ủng hộ. Có một lần tôi gửi thêm mỗi người ba chục ngàn đồng dùng làm vận động phí. Dương Văn Ba đam mê cờ bạc tôi không biết, anh ta đã thua hết số tiền tôi gửi cho anh em. Mãi đến khi Bành Ngọc Quý và Lâm Phi Điểu kêu vang là đã ‘cạn dầu’, tôi hỏi ra mới biết là Dương Văn Ba đã giở trò ma giáo. Anh ta liền viết cho tôi một thư từ chức và nói rằng: “Em là thằng đốn nhứt đời, không còn mặt mũi nào gặp anh nữa, từ nay em sẽ trở về vị trí một ông giáo làng.” Gặp lại Dương Văn Ba, trách mắng xong, tôi đưa cho anh 90.000 để giao lại cho Bành Ngọc Quý, Gò Công, Trần Văn Tuất Mỹ Tho, Lâm Phi Điểu, Vĩnh Long.” (9) Hồi ký Võ Long Triều, Ibid., Võ Long Triều viết thêm: “Sau khi vào Quốc Hội,, Nguyễn Cao Thăng, phụ tá Tổng thống Đặc trách Liên lạc Quốc Hội, bỏ tiền mua chuộc Dân Biểu để lập một khối gia nô và một số dân biểu vòng ngoài, tùy cơ hội, trong đó có Dương Van Ba (…) Nhuận cho biết là Dương Văn Ba lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng bỏ phiếu những điều khoản nghịch lý, phi dân chủ, hại cho đại cuộc, lợi cho địa vị hay cá nhân Tổng Thống. Anh em đề nghị khai trừ Dương Văn Ba. Tôi gọi Ba đến nhà và hỏi sự thật, anh có lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng không? Anh chối quanh co, cuối cùng phải thú nhận là có. Tôi suy nghĩ không nên loại bỏ một tay chân hữu ích khi cần, nên tôi đề nghị: ‘Nếu cậu hứa với tôi sẽ tuyệt đối tuân theo chỉ thị của tôi khi cần thiết thì tôi cho phép cậu lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng, nhưng trước khi lấy cậu phải hỏi và được tôi cho phép, tùy theo tầm quan trọng của sự biểu quyết lần đó. Nếu tôi không cho phép, cậu phải bỏ phiếu theo khối của anh em, bằng không thì tôi sẽ để cho anh em khai trừ cậu vì lý do nhận tiền của hành pháp. Nhục nhã ấy sẽ làm hư cả đời cậu.’ Dương Văn Ba đồng ý và tiếp tục sinh hoạt trong điều kiện anh đã hứa với tôi cho đến ngày anh thất cử.” (10) Nguyễn Trọng Văn, “Phạm Duy đã chết thế nào”, Văn Mới (11) Đất Nước, tạp chí xuất bản hàng tháng, 11-1968 (12) Dương Văn Ba, Ibid, chương 5. (13) Dương Văn Ba, Ibid, chương 5. (14) Trước đây, dư luận cứ đồn thổi rằng giáo sư Lâm Văn Bé trong ngành giáo dục đã lên như diều vì có quan hệ họ hàng với bà Thiệu. Đây là dịp để cải chính tin đồn thất thiệt ấy ấy. Ông Lâm Văn Bé chỉ quen các bà chị của phu nhân tổng thống. Vậy mà tương lai sự nghiệp cũng đã phất lắm và hơn mọi người. Phần Dương Văn Ba sau này làm dân biểu hạ viện thì chống lại Nguyễn Văn Thiệu. Tội nghiệp cho bà chị Năm Jacqueline bị bọn thanh niên lợi dụng.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 13, 2015 8:03:54 GMT 9
Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (II)Posted on August 9, 2015 by editor — 1 Comment Nguyễn Văn Lục duongvanbaViết được nhận xét trên, quả thực Dương Văn Ba có cái khí chất miền Nam trong đó. Loại người dám nói, nói huỵch tẹt chẳng kiêng nể gì, dám làm, ngay cả làm bậy. Ông có phải là loại người có lý tưởng, theo lý tưởng cộng sản không? Theo tôi được biết là không! Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Un choix malheureux – Một chọn lựa bất hạnh (Tiếp theo phần I) Ngã rẽ thứ hai: Chương trình Xây Đời Mới ở Quận 8 Chợ Xóm Củi, Quận 8, Sài Gòn 1965. Nguồn: OntheNet Đây là một chương trình nhằm cải thiện đời sống dân nghèo rất là tốt đẹp; thành phần tham dự chủ chốt vẫn là thành phần giáo sư triết, tốt nghiệp đại học Đà Lạt và một số khác là người Bắc theo Thiên Chúa giáo như các anh Uông Đại Bằng, Hồ Công Hưng, Đoàn Thanh Liêm, Nguyễn kim Khánh và Nguyễn Đức Tuyên. Chương trình quả thực là có một mục đích, một tầm vóc như một thí điểm làm một cuộc cách mạng xã Hội. Nhiều người đã mang thiện chí của mình ra, dấn thân nhập cuộc, đi tìm một lối đi cho Việt Nam. Nhưng như mọi điều tốt đẹp khác trên đời này, Chương trình Phát tiển Quận 8 trở thành một bước nhảy vào chính trị của một số người. Lý Quý Chung không dính dáng gì đến chương trình này lại được cài đặt ra tranh cử Quốc hội Lập hiến tại quận 8. Và do uy tín và sự vận động của các thành viên trong ban quản trị quận 8. Lý Quý Chung đắc cử. Mặc dầu một số người ra tranh cử dân biểu đã không dính líu gì đến chương trình xã hội này cũng coi chương trình ấy như của chung cả nhóm và họ đã ra tranh cử dựa trên cái vốn chính trị đó. Lý Quý Chung, một người trẻ nhất trong bọn đã ra tranh cử Quốc Hội Lập Hiến đấu năm 1966 với sự ủng hộ công khai của chương trình Xây Đời Mới ở quận tám. Lý Quý Chung được coi như một bài toán thử, một test mở đường cho những Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Hiệp, Ngô Công Đức thong dong bước vào nghị trường. Mục đích của chương trình thì tốt đẹp, nhưng sau này nó trở thành một bàn đạp chính trị cho một số người như Lý Quý Chung, bác sĩ Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận.(15) Họ là những người trẻ làm chính trị mà không vốn. Thật sự cũng như Lý Quý Chung, Dương Văn Ba đã không dính dáng gì trong Chương trình phát triển quận 8 cả. Cũng cần nhắc lại rằng có hai loại thành phần sinh viên tham gia các sinh hoạt xã hội, chính trị lúc bấy giờ: Một loại Sinh viên xuống đường Đó là thành phần những sinh viên tranh đấu. Họ biểu tình, chống chiến tranh, chống chính phủ, đòi đủ thứ. Loại này không nhiều, nhưng lại gây tác động mạnh tới quần chúng và có ảnh hưởng chính trị đến tình hình miền Nam. Bản chất của nó có tính cách phá hoại và gây rối. Đó là thành phần sinh viên tranh đấu, biểu tình, chống chiến tranh, chống chính phủ, đòi đủ thứ Nhóm sinh viên lên đường Những sinh viên Lên Đường. Loại thứ hai âm thầm, thay vì chống đối, phá hoại thì họ âm thầm xây dựng mà trong đó có nhiều loại tổ chức khác biệt: Như các phong trào Du ca, phong trào Hướng đạo, phong trào Thanh niên Thiện chí, Phong trào Học đường mới. Trong đó nhiều tổ chức do sự tài trực tiếp của Mỹ. Trong các phong trào đó có chương trình phát triển quận 8, do kỹ sư Võ Long Triều đứng ra xin với ông Kỳ mà số thành viên là các cựu sinh viên Triết Đà Lạt các khóa ba và bốn như các anh Uông Đại Bằng, hiệu trưởng ở quận 8, Võ Văn Bé hiệu trưởng ở quận 6 với anh Nguyễn Đức Tuyên. Cộng với một số nhà giáo khác như các anh Nguyễn Phúc Khánh, Dương Văn Long, Nguyễn Ngọc Thạch, Đăng Kỳ Trân. Bên cạnh đó có hai anh Quốc gia hành chánh là Nguyễn Ngọc Phan và Phạm Duy Tu. Ngoài ra một người không thể quên là anh Đoàn Thanh Liêm, một luật sư cùng với bác sĩ Hồ Văn Minh là những người quản lý chương trình phát triển quận 8. Một trong những thầy giáo đầu tiên và hiệu trưởng đầu tiên của Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 8: (T) Hồ Công Hưng (2014, (P) Uông Đại Bằng (1966). Nguồn: luongvancan.avcyber.com/ Phần Hồ Công Hưng, nếu tôi nhớ không lầm, anh cũng hoạt động ở quận 8. Họ đã cùng nhau chọn quận 8, một quận nghèo nhất ở Đô Thành làm thí điểm vào năm 1965, một năm sau lan sang các quận 6, quận 7. Họ giúp dân xây cầu đường trường học. Năm 1968, sau tết Mậu thân, họ phải giúp dân tái thiết xây dựng lại hàng ngàn căn nhà bị tàn phá vì bom đạn. Chương trình hình thành từ năm 1965-1971. Các khu được chia ra thành các ‘hẻm ước’ ‘khóm ước’. Tôi rất trân quý những tên gọi này. Nguyễn Cao Kỳ đã hưởng ứng tích cực và đã có lần đưa Phó tổng thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey đến thăm quận tám mà dại diện là Hồ Ngọc Nhuận ra tiếp đón. Điều thứ hai là sau khi đã lập xong Phong trào chính trị Phục Hưng miền Nam, Võ Long Triều cùng với kỹ sư Nguyễn Bá Nhẫn, kỹ sư Nguyễn Khắc Thành đã đưa nhiều người trẻ của Phong trào ra tranh cử. Vận động để có tiền yểm trợ các ứng cử viên này vẫn là kỹ sư Võ Long Triều. Nhưng nhiều người tự hỏi, kỹ sư Võ Long Triều lấy tiền ở đâu để tài trợ nhiều ứng cử viên như vậy? Dương Văn Ba đã có câu trả lời là kỹ sư Võ Long Triều đã lấy một phần tiền từ Nguyễn Cao Kỳ, phần khác vận động sự tài trợ của các trí thức miền Nam. Tất cả điều này ngay chính những người nhận thụ hưởng số tiền tài trợ cũng không biết thì mọi chuyện suy đoán chỉ bằng thừa. Một lần nữa, họ đã chính trị hóa các hoạt động xã hội như vận động xây đại học Cẩn Thơ, chương trình xây dựng quận 8 cũng như lợi dụng sự ngây thơ của tướng Kỳ để có đường vào Quốc Hội. Khi những người này vào được Quốc hội rồi với sự tài trợ tiền bạc của tướng Kỳ, như Dương Văn Ba thố lộ, không một dân biểu đắc cử nào đứng về phe tướng Kỳ. Sau đây là một danh sách đắc cử vào Hạ viện: Thầy giáo Phan Xuân Huy ở Đà Nẵng, một con gà nòi của Phật Giáo. Một số các dân biểu trẻ khác, không có một ly ông cụ kinh nghiệm chính trị nào như Bành Ngọc Quý ở Gò Công, Nguyễn Hữu Hiệp tại Đà Lạt và Lê Thành Châu tại Lâm Đồng, Ngô Công Đức ở Trà Vinh, Dương Văn Ba ở Bạc Liêu, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung đơn vị quận một và hai. Bác sĩ Hồ Văn Minh ở quận 6 và Hồ Ngọc Nhuận ở quận 8. Tôi còn nhớ khi nghe tin các ông Nguyễn Hữu Hiệp và Lê Thành Châu đắc cử ở Đà Lạt (cả hai anh đều học ở Đà Lạt), tôi đặt dấu hỏi phải chăng linh mục viện trưởng đại học Đà Lạt đã nâng đỡ, dùng ảnh hưởng và uy tín của mình để giúp cho Nguyễn Hữu Hiệp đắc cử? Không có một sự tài trợ cả về tiền bạc và ảnh hưởng uy tín cá nhân của linh mục Viện Trưởng, làm sao Nguyễn Hữu Hiệp có thể thong dong vào Hạ Viện? Bằng cách nào họ đã dành được phiếu thắng lợi, hơn phiếu những nhân vật chính trị có uy tín từ ngoài Bắc cỡ bác sĩ Hoàng Cơ Bình? Những người khác được đắc cử dựa vào tính địa phương. Nhưng bác sĩ Hồ Văn Minh và Hồ Ngọc Nhuận hoạt động trong quận 8 và 6 nên lấy phiếu dễ dàng của các cử tri! Tôi không hiểu những anh em giáo chức hoạt động ngày đêm, ăn ngủ ngay tại chỗ, đi sát với đồng bào, hy sinh thời giờ và ngay cả sự an nguy đến tính mạng để cho hai ứng viên trên vào Quốc Hội và nhất là Hồ Ngọc Nhuận sau đó trở thành dân biểu đối lập, rồi theo cộng sản, đã nghĩ gì? Ông Hồ Ngọc Nhuận chỉ có bằng tú tài một, sĩ quan quân đội nay trở thành quận trưởng quận 8 đi trái với mọi thủ tục hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa? Tôi đã có dịp gặp các anh Hồ Công Hưng (giáo sư triết, dân Kontum, công giáo) và Uông Đại Bằng (giáo sư triết, dân Bắc Kỳ, công gíao) các anh Đoàn Thanh Liêm, anh Nguyễn Đức Tuyên cũng công giáo, xem ra các anh không để ý đến khía cạnh chính trị Liên Trường cũng như thành phần thứ ba và các anh chỉ biết bằng lòng với những kết quả xã hội đã thực hiện được. Phải nhìn nhận các anh là người có lý tưởng thật. Chỉ biết phục vụ mặc ai làm gì thì làm. Riêng anh luật sư Đoàn Thanh Liêm (luật sư, Bắc Kỳ, công giáo) còn ngây thơ và dớ dẩn gấp bội lần. Anh ngồi tù cũng làm thơ nghĩ về các công trình quận 8 và coi Quận tám như một thí điểm về một Xã hội Dân sự trong tương lai? Ls. Đoàn Thanh Liêm, Tổng Quản lý thứ 2 (sau Bs. Hồ Văn Minh, trước ông Hồ Ngọc Nhuận) của Kế hoạch Xây Đời Mới. Nguồn: luongvancancausa.com Trong trận chiến tranh dành quyền lực giữa Nam Và Bắc, phải nhìn nhận rằng cánh Liên Trường qua Võ Long Triều, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung đã vượt xa cánh Bắc Kỳ với tướng Nguyễn Cao Kỳ và nhóm giáo sư công giáo, dạy triết nhiều phần. Câu chuyện vẫn chưa chấm dứt ở đây, Hồ Ngọc Nhuận khi làm dân biểu đối lập còn nhiều lần đưa Nguyễn Cao Kỳ vào bẫy như chính ông thú nhận. Cũng chính Hồ Ngọc Nhuận khi phản bác Võ Long Triều đã lật tẩy như sau: “Tôi cũng dần hiểu ra, sau nhiều lần Triều gọi điện thoại thúc giục, là anh đã có liên lạc với ông Dương Văn Minh, đã được ông Dương Văn Minh cho biết về việc tôi đề nghị ông về nước, và việc Triều bỏ ra rừng đọc sách khi tôi đang ở nhà ông Minh là một sự giả vờ, một thứ hỏa mù. Tôi cũng nhớ ra Triều là người, từ năm 1965, vừa tính chuyện hợp tác với Nguyễn Cao Kỳ, vừa luôn tính chuyện ‘đá bàn’, theo chính lời Triều.”(16) Ông Hồ Ngọc Nhuận sang Pháp chơi có đi thăm ông Dương Văn Minh và ông Triều tình nguyện chở ông Nhuận đến nhà ông Minh. Nhưng để cho ông Nhuận nói chuyện riêng với ông Minh, phần ông Triều ra cánh rừng gần đó nằm đọc sách. Cho nên Nguyễn Cao Kỳ sau này có thua Nguyễn Văn Thiệu cũng là điều xứng đáng lắm. Một con người như ông Nguyễn Cao Kỳ sau này cứ tức tối ông Nguyễn Văn Thiệu mà không liệu sức mình, không tự xét mình, đánh giá khả năng lãnh đạo của mình thì nói làm gì nữa! Ngã rẽ thứ ba: Làm chính trị đối lập và làm báo Trong một số suy nghĩ của Dương Văn Ba, ông đã bày tỏ những khát vọng tuổi trẻ, một khát vọng mà ông gọi là thái độ nổi loạn, một thái độ mà ông cho là đa số sinh viên thời đó chọn lựa. Cái đa số mà ông nói đến ở đây không ra khỏi con số những người cùng học chung dưới mái trường đại học, môn triết thời đó. Nay thì đã đến lúc, Dương Văn Ba nghĩ đến tương lai chính trị của ông qua cửa ngõ ra tranh cử dân biểu. Ông nhận định: “Chúng tôi hiện diện nơi đây giữa đồng bằng Nam Bộ, các thề lực chính trị, các thế lực chính quyền công khai hay bí mật, các anh nên nhớ và phải biết tới vùng sông nước và đầm lầy nơi đây.”(17) Có khoảng gần 20 giáo chức trung học, một số không nhỏ tốt nghiệp ban Triết Đại Học Đà Lạt đã ra tranh cử và đắc cử. Họ thường chưa tới 30 tuổi, không có một chút xíu kinh nghiệm chính trị. Tiền bạc để tranh cử hầu như không có. SAIGON 1967 – Kết quả bầu cử Hạ Nghị Viện tháng 10, 1967 – Nguồn ảnh: Ken Bằng cách nào họ đã có thể đắc cử vào năm 1967? Xét về trình độ văn hóa, trình độ chính trị của dân chúng kể như không có. Điều đó chính là lợi thế của mấy thầy giáo tại địa phương. Họ có cái lợi thế nhất định là người địa phương, có thể được nhiều người biết tới và nếu động viên được một đám đông học sinh, phụ huynh học sinh, họ có nhiều cơ may thắng cử. Người dân địa phương đã bỏ một phiếu tín nhiệm (vote de confiance) cho một thày giáo, một thày giáo đã từng dạy con cái họ, chứ không phải bỏ phiếu cho một chính khách, nhất là nhà chính trị thiên tả. Đây là một vấn đề ít ai lưu tâm tới. Nó chứng tỏ trình độ chính trị của dân chúng còn thấp kém và đơn thuần. Vì thế khi vào được Quốc hội rồi, mấy dân biểu thày giáo này không còn nghĩ tới ai đã bầu họ vào quốc hội. Khi họ đã đắc cử rồi, họ làm theo cái mục đích họ theo đuổi mà đôi khi phản bội lại những người đã đặt niềm tin vào ông thày giáo là họ. Phiếu tín nhiệm và phiếu bầu cử là một bài test dân chủ chính trị Việt Nam ở giai đoạn sơ khởi. Nhưng thiệt thòi là đám thày giáo phần đông đều nghèo, không có tiền để cho những chi phí vận động tranh cử. Nội tiền ký quỹ cho việc tranh cử không biết là bao nhiêu, nhiều khi họ cũng không có đủ tiền. Chi phí giao tế hoặc tiền để mua chuộc phiếu cử tri? Theo Dương Văn Ba, có 10 ứng cử viên ra tranh cử hai ghế dân biểu tại Bạc Liêu, nhưng ông và Thạch Phen là hai người yếu thế nhất. Vì họ không được sự hậu thuẫn của chính quyền Sài Gòn cũng như giới chức trong tỉnh. Họ không được sự hậu thuẫn của các quận trưởng, các cấp chỉ huy quân đội cũng như các xã ấp trưởng. Vậy bằng cách nào họ thắng cử? Ai là người trách nhiệm tài trợ cho họ, dù là những số tiền tối thiểu. Theo Dương Văn Ba, ông được Võ Long Triều tài trợ cho một số tiền là 40 ngàn đồng bằng hai lạng vàng. Vợ chồng Dương Văn Ba gom góp thêm cũng được khoảng chừng 40 ngàn đồng. Các giáo sư bạn gom góp được 20 ngàn. Một bà dì bên vợ cho thêm 20 ngàn nữa. Ba má Dương Văn Ba góp thêm được 20 chục ngàn nữa. Cộng chung số tiền là 140.000, một số tiền quá ít để có thể ra tranh cử. Vậy mà Dương Văn Ba đã thắng? Tôi nghĩ rằng ngay khi thắng cử, Dương Văn Ba cũng không hiểu hết ý nghĩa của việc thắng cử này! Dương Văn Ba có thêm một lợi thế ít người khác có được. Ông đã liên kết với Thạch Phen, một người Việt gốc Khờ Me, rồi gia đình Dương Văn Ba có gốc người Triều Châu và người Việt. Hai người đã lập ra một ban tranh cử chung, xin phiếu cả ba thành phần dân chúng địa phương. Cả ba yếu tố đó cộng lại khiến sau này cả Dương Văn Ba và Thạch Phen đều đắc cử dân biểu Hạ Viện. Dương Văn Ba còn tiết lộ, ông được Võ Văn Kiệt ủng hộ ngầm ở bên trong dân chúng các xã. Tôi có cảm tưởng Dương Văn Ba là một Xuân tóc đỏ? Vào Quốc hội với tư cách một dân biểu đối lập Sau đây là nhận định tổng kết của Dương Văn Ba sau khi đắc cử ở Bạc Liêu như sau: “Sự thắng cử của tôi ở Bạc Liêu, của Ngô Công Đức ở Trà Vinh, của Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh ở Sài Gòn phải chăng gián tiếp có sự ủng hộ của phía bên kia. Đây là một cuộc chơi chính trị, phía Mỹ và phía Thiệu buộc phải đánh lá bài tự do dân chủ bề ngoài, phía bên trong mặt trận cũng tương kế, tựu kế lấy gậy đập lưng ông, còn phía các thanh niên trí thức chúng tôi lúc đó với bầu nhiệt huyết sẵn có, dựa vào biến chuyển của thời cuộc, cứ theo con đường lý tưởng mà xốc tới.”(18) Với cái tinh thần đó, bọn họ vào Quốc Hội với mục đich chính là chống phá Thiệu và Mỹ. Tôi thiển nghĩ với sự tiết lộ này, các vị dân biểu trên chưa bao giờ là người đại diện cho nhân dân miền Nam cả. Họ đã đại diện cho một chính sách xâm lược xuất phát từ Hà Nội và đó là điều đáng tiếc nhất của thể chế dân chủ miền Nam. Và đây cũng là bước khởi đầu cho cái choix malheureux của cuộc đời làm chính trị của họ. Họ đã sai ngay từ đầu. Họ đã lạm dụng danh từ đối lập trong các thể chế dân chủ. Sai lầm ấy có từ trước đó nơi các dảng phái chính trị. Các đảng phái đối lập thay vì tìm các phương tiện chính đáng hợp pháp, họ chỉ tìm những âm mưu lật đổ chính phủ. Chữ đối lập của họ mang nội hàm đả phá hơn là xây dựng. Tinh thần đối lập ấy mong muốn một sự lật đổ chính phủ, ngay cả thay đổi một thể chế. Nên, đáng tiếc thay, một cách gián tiếp, qua nhóm dân biểu này Cộng sản Hà Nội đã có tiếng nói chính thức của họ tại diễn đàn Quốc hội miền Nam. Và chính quyền miền Nam đã trả lương cho đại diện cộng sản để họ cơ hội chống phá lại miền Nam một cách hợp pháp! Về điểm này, có bao giờ kỹ sư Võ Long Triều tự trách mình về nhận xét người và việc của ông một cách hồ đồ như thế không khi ông nhân danh một người quốc gia chống cộng? 20 người ông vận động đưa vào Quốc Hội thì cả 20 người trở thành người của cộng sản sau này! Vì không đủ túc số, chỉ có trên dưới 10 người cộng cả các đảng phái chính trị nên nhóm Hồ Ngọc Nhuận (Dân Tộc, ủng hộ Dương Văn Minh.) phải liên kết với nhóm dân biểu thân Ấn Quang (Khối xã hội) thành nhóm đối lập Dân Tộc Xã Hội (DTXH). Để bầu ra Trưởng Khối thì sau này mọi người đồng ý mời luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ VNQDĐ làm trưởng khối. Dân biểu Trần Văn Tuyên vốn là một người Quốc gia chân chính, có nhiều kinh nghiệm chính trị, nhưng liệu ông có thể điều khiển được hai thành phần dân biểu: Một bên Ấn Quang, một bên là ủng hộ Dương Văn Minh mà đằng sau có sự giật giây của cộng sản? Lại thêm một người quốc gia chân chính, một chính trị gia hàng đầu lão luyện cầm đầu một đám người mà sau 1975 ông mới biết họ là ai? Phần ông Tuyên âm thầm đi học tập cải tạo và chết trong nhà tù cải tạo! Phần các dân biểu khối Ấn Quang, nhiều người là người quốc gia như dân biểu Trần Văn Sơn, sau này họ nghĩ sao về việc hợp tác này? Thành phần dân biểu còn lại thuộc khối đa số gần 90 dân biểu thân chính quyền. Nhóm này do Phụ tá tổng thống, dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, điều động chi tiền và mua phiếu khi cần. Sau Nguyễn Cao Thăng bị ung thư chết thì phụ tá của ông là Nguyễn Văn Ngân lên thay. Nhóm Võ Long Triều-Hồ Ngọc Nhuận-Ngô Công Đức-Dương Văn Ba-Lý Quý Chung làm báo Nhóm Võ Long Triều-Hồ Ngọc Nhuận-Ngô Công Đức-Dương Văn Ba-Lý Quý Chung. Nguồn: OntheNet/DCVOnline tổng hợp Trong số 5 người được nêu tên ở đây, có thể coi ông Võ Long Triều là người đầu đàn. Đầu đàn xét về mặt tuổi tác, học vấn, thế lực chính trị và tiền bạc. Cái thế lực chính trị được nói ở đây là cơ hội của ông Võ Long Triều quen biết Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Làm thế nào để có sự quen biết này? (Phỏng vấn Võ Long Triều – Người Việt TV 2011) Chính ông Võ Long Triều cũng không hề bao giờ tiết lộ trong hồi ký của ông. Nhưng trong giới công giáo qua Chủ nhiệm báo Xây Dựng, linh mục Nguyễn Quang Lãm kể lại thì ông Kỳ khi đó muốn tìm một nhân vật công giáo sạch, nghĩa là không dính líu gì đến chế độ cũ, phải là người miền Nam. Linh mục Lãm đã nghĩ đến ông Võ Long Triều và giới thiệu ông với tướng Kỳ. Kỹ sư Võ Long Triều đã nhắc nhở nhiều lần đến mối giao thiệp giữa ông và tướng Kỳ- một mối liên hệ chính trị mà còn có mối liên hệ bạn bè toi-moi, rất gần gũi, gặp nhau bất cứ lúc nào, có thể cãi nhau nếu cần.(19) Riêng phần tướng Kỳ, ít nhất trong hai cuốn sách của ông, tìm mỏi mắt mới thấy một đoạn ngắn trong cuốn “Buddha’s Child” nhắc đến ông Võ Long Triều trong chương trình phát triển quận 8.(20) Theo tôi thì chương trình phát triển quận 8 là món quà duy nhất tạo được sự tin cẩn nơi tướng Kỳ của kỹ sư Võ Long Triều. Khi Phó tổng thống Mỹ Humphrey đến Việt Nam, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã có dịp dẫn ông Humphey đến thăm quận 8 như một bằng chứng về một chương trình mang tầm vóc một cuộc Cách mạng Xã Hội cho người nghèo. Sự quen biết đó sau này đưa đến chỗ tướng Kỳ tin tưởng và nhờ ông Võ Long Triều giới thiệu thêm ba người khác vào nội các chính phủ. Ông Kỳ cũng dễ dãi mỗi khi ông Võ Long Triều đề nghị các công việc khác như Chương trình phát triển quận 8 cũng như việc thành lập Viện Đại Học Cần Thơ. Ông Triều cũng là người tài trợ tiền bạc cho một số dân biểu cánh miền Nam ứng cử dân biểu vào Hạ Nghị Viện. Ông cũng là người bỏ tiền ra cho các ông Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận làm báo. Dưới đây, thử tìm hiểu cặn kẽ mối liên hệ cũng như sự xích mích đến đổ vỡ của họ diễn ra như thế nào? Mối liên hệ Võ Long Triều-Lý Quý Chung Theo Võ Long Triều, đại tá Lê Quang Hiền, đổng lý văn phòng của bộ Thanh niên đã nhận Lý Quý Chung là cháu -thật sự họ không có họ hàng gì- biết viết báo xin vào làm việc. Sau khi tiếp Lý Quý Chung, ông đã nhận cho làm phụ trách về báo chí. Thấy Lý Quý Chung là người trẻ trung lanh lợi nên sau này ông Triều cử làm Giám đốc tác động tâm lý. Làm việc chưa được bao lâu thì có quân cảnh đến bắt Lý Quý Chung về tội trốn quân dịch. Lại một phen vận động liên lạc của ông Võ Long Triều để xin hoãn dịch cho Lý Quý Chung. Và để tránh cho Lý Quý Chung khỏi đi quân dịch một lần nữa, ông Triều giới thiệu ông Chung ra tranh cử vào Quốc Hội lập hiến. Lý Quý Chung đã đắc cử ở quận 8. Tất cả là công trạng của ông Võ Long Triều!(21) Khi đắc cử, Lý Quý Chung đã không một lời cám ơn các người phụ trách ở quận 8 đã vận động cho anh như các ông Hồ Văn Minh, quản lý chương trình. Nổi giận, ông Võ Long Triều đã gọi Lý Quý Chung vào văn phòng mắng cho một trận. Cứ theo như Hồi Ký của Võ Long Triều thì dưới mắt ông cỡ Dương Văn Ba cũng như Lý Quý Chung chỉ là một thứ đàn em cắc ké, bội phản, làm bậy và vô ơn bạc nghĩa. Xin trích dẫn vắn tắt một vài đoạn: Hai người mạnh miệng nài nỉ kết thân là Lý Quý Chung và Dương Văn Ba lại là hai người phản bội trước tiên. Nhưng đối với con người thiếu đạo đức như anh [chỉ Lý Quý Chung – NVL] mà nên dù anh có thực hiện nhiều công tác đáng khen nhờ sự hăng say, liều lĩnh và sáng kiến. Trong ‘Hồi ký không tên’ của anh, anh viết nhiều điều sai trái. Vì thế, tôi tin tưởng, giao trọng trách này cho Dân Biểu Lâm Phi Điểu, con người chín chắn, hiền từ, biết hy sinh vì bạn bè nhứt là vì đại cuộc. Anh Điểu lại có tài khéo léo, giải tỏa mọi bất đồng, hàn gắn mọi rạn nứt giữa anh em và bao che mọi sai lầm của người khác. Tôi còn nhớ có một lần các anh phải thảo luận và biểu quyết một điều khoản nào đó của Hiến Pháp mà Lý Quý Chung và Bành Ngọc Quý vì quá nông nổi phát biểu sai lầm làm tôi bất bình. Sau đó, một mình Lâm Phi Điểu tới nhà giải thích và chịu mọi sự trách móc. Cuối cùng tôi nói thôi bỏ qua đi, anh về bảo với anh em tôi đã quên việc đó rồi. Anh Điểu liền nói: “Tụi nó ngồi trong xe chờ ngoài cửa không dám vô, nhờ tôi đỡ đòn thế, khi nào thuận tiện mới vào gặp anh, bằng không thì chuồn luôn chờ khi khác.” Chỗ khác, ông Triều viết: “Sự thật, Lý Quý Chung chưa bao giờ thấy được phòng họp của nội các chiến tranh ra sao mà dám khẳng định rằng: ‘Trung tá Nguyễn Ngọc Loan tự coi mình là nhân vật thứ hai trong chính quyền của Kỳ. Các phiên họp nội các có sự hiện diện của Trung tá Loan với khẩu súng ‘ru lô’ mang kè kè bên hông.’ Sự bịa đặt khôi hài như vậy mà Lý Quý Chung dám viết, tôi không hiểu nổi.” Cũng theo Võ Long Triều, lý tưởng của Lý Quý Chung là tiền bạc, địa vị. “Có lần Lý Quý Chung rủ tôi chơi hụi 300.000 đồng cùng với những người bạn của tôi như Trương Thái Tôn, Nguyễn Chánh Lý và La Thành Nghệ. Cuối cùng mới khám phá ra rằng Lý Quý Chung đã ‘giựt hụi’. Tôi ra lệnh văn phòng tôi đưa Lý Quý Chung ra tòa. Hồ Ngọc Nhuận phải đến gặp tôi: “Tôi lậy ông, xin đừng bỏ tù thằng Chung.” Sau đành tha không kiện.” Những nhận xét của Võ Long Triều về Lý Quý Chung có phần đúng. Sau này Hồ Ngọc Nhuận cũng nêu ra một số nhận xét tương tự. Mối liên hệ Võ Long Triều-Dương Văn Ba Ông Triều viết trong Hồi Ký của mình: Nói về Dương Văn Ba thì cũng đáng buồn cỡ đó. Qua lời giới thiệu của Lý Chánh Trung, Võ Long Triều đã cử Dương Văn Ba làm Đặc Ủy Viên thanh niên vùng IV chiến thuật thay thế Lâm Phi Điểu, ứng cử dân biểu Vĩnh Long. Việc đầu tiên là ông Võ Long Triều đã nhờ Dương Văn Ba cầm tiền mà ông gửi thêm cho vài ứng cử viên dân biểu như Bành Ngọc Quý, Lâm Phi Điểu, mỗi người 30.000 ngàn. Dương Văn Ba mê cờ bạc đã thua hết số tiền trên. Trách mắng Dương Văn Ba về vụ này xong, ông Võ Long Triều lại đưa thêm 90.000 để Dương văn Ba đưa lại cho ba ứng cử viên dân biểu. Và đễ gỡ mặt cho Dương Văn Ba, ông Võ Long Triều dạy Dương Văn Ba phải nói dối như sau: “Tao bận việc ở Sài gòn nên xuống văn phòng ở miền Tây trễ, tụi bay làm gì phải mét với ảnh để ảnh lo âu rồi rủa tao một trận thê thảm, tiền của ảnh gửi đây, tao có cắt xén đồng nào đâu mà tụi bay vội vàng la hoảng như vậy.” Cũng chính Võ Long Triều thúc đẩy Dương Văn Ba nộp đơn ứng cử dân biểu khi chỉ còn hai ngày hết hạn nộp đơn. Nhờ đó Dương Văn Ba đã đắc cử cùng với Ngô Công Đức ứng cử ở Vĩnh Bình, Hồ Văn Minh ra ở quận 8. Nhưng sau khi vào Quốc Hội, dù thuộc nhóm dân biểu đối lập. Nhưng theo Hồ Ngọc Nhuận nói lại cho Võ Long Triều viết: “Dương Văn Ba lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng bỏ phiếu những điều khoản nghịch lý, phi dân chủ, hại cho đại cuộc, lợi cho địa vị hay cá nhân tổng thống. Anh em đề nghị khai trừ Dương Văn Ba. Tôi gọi Ba đến nhà và hỏi sự thật, anh có lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng không? Anh chối quanh co và cuối cùng phải thú nhận là có.” Sau khi Dương Văn Ba thất cử lần tranh cử thứ hai vào Hạ Nghị Viện, cũng theo ông Võ Long Triều, “Ông đã buộc Ngô Công Đức phải nhận Dương Văn Ba làm việc trong tờ Tin Sáng. Mặt khác, tôi nài xin với Trung tướng Nguyễn Văn Vĩ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, cho anh Ba được hoãn dịch hai lần. Anh tiếp tục làm báo kiếm tiền nuôi gia đình. Rồi nghề dạy nghề, Dương Văn Ba trở thành ký giả sáng giá trong tờ báo Điện Tín. Cho đến ngày tôi xuất bản nhựt báo Đại Dân Tộc, gọi Dương Văn Ba về cùng làm việc chung với nhóm anh em, Ba yêu cầu tôi phải trả lương cho anh mỗi tháng năm trăm ngàn đồng thì mới về, bằng không anh vẫn làm việc cho báo Điện Tín, thoái thân của tờ Tin Sáng. Số tiền Dương Văn Ba đòi phải trả lớn gấp năm lần hơn lương của một tổng thư ký giỏi trong làng báo thời đó. Hồ Ngọc Nhuận tức giận tột cùng, nói với Ba rằng:’ Mầy dám bỏ lời thề, phản bội anh em, nhưng anh em sẽ không bao giờ phản bội, bây giờ tao hỏi mầy có bằng lòng làm việc với anh em không? Hay là mày chỉ biết đồng tiền mà bất kể tình bạn kết nghĩa? Câu trả lời của Ba là Không!” (hết trích).(22) Trên đây, chúng tôi vừa trích dẩn Hồi Ký Võ Long Triều viết về hai người bạn trẻ của ông là Dương Văn Ba và Lý Quý Chung. Để cho đầy đủ, xin được trích dẫn Hồi ký Những ngã rẽ của Dương Văn Ba. Theo thiển ý, Dương Văn Ba chưa có cơ hội đọc hai tập Hồi Ký của kỹ sư Võ Long Triều nên Hổi Ký Những ngã rẽ hầu như không đế cập đến trường hợp Võ Long Triều phê phán ông. Nếu có đọc thì tôi tin chắc sẽ có một cuộc bút chiến long trời lở đất. Điểm thứ nhất: Hồi ký Những ngã rẽ cho thấy Dương Văn Ba tự mô tả là người thật thà, không ham tiền, ham bạc. Trái lại là một người lương thiện. Ông viết như sau: “Chị Năm Jacqueline, chị của bà Thiệu, một lần vào Quốc Hội, thăm tôi tại phòng Đệ nhất Phó Tổng thư kỷ Hạ nghị Viện. Chị nói: ‘Thằng Ba, sao mày quên tình chị em. Mầy chống ông Thiệu làm chi, đó là mầy không khôn. Tình chị em, nếu mày muốn gì kể cả làm Bộ Trưởng thông tin, tao và con Bảy (vợ Thiệu) đủ sức lo cho mày. Bỏ đối lập đi cái gì em cũng sẽ có.” Tôi đã vô cùng cám ơn chị Năm Jacqueline, vì nhớ tới những ngày ở Mỹ Tho đầy kỷ niệm. Nhưng tôi đã trả lời chị, “Chị đừng buồn, em đã lỡ đi theo con đường khác với ông Thiệu, không thể quay lại được.” Ông luôn bị ám ảnh về chuyện lương thiện. Trong phần nhận xét về các đại tá Đẩu, thiếu tá Đường, thiếu tá Lộc, những sĩ quan thân cận của tướng Dương Văn Minh, ông Dương Văn Ba đề cao ba người ấy và ‘theo gương các anh, tôi vẫn cố giữ một nếp sống và nếp nghĩ của con người lương thiện và trung thực.’(23) Sau đây, Dương Văn Ba có thuật lại việc dược sĩ Nguyễn Cao Thăng có mời ông đến ăn cơm chiêu dụ tôi theo chính quyền. Ông Nguyễn Cao Thăng có hứa ngoài việc trợ cấp bao thư ‘lì xì’ mỗi lần bỏ phiếu ủng hộ chính quyền, phủ Tổng thống sẽ can thiệp với Tỉnh trưởng Bạc Liêu chia phân nửa số quota đường, sữa, bột mì hàng tháng cho gia đình tôi. Mỗi tháng tỉnh Bạc Liêu có quota 1.000 tấn đường cát trắng, 1.000 tấn bột mì, 1.000 thùng sữa hộp. Lãnh được phân nửa số quota đó, tôi có thể bán cho các hiệu buôn lớn của người Hoa ở chợ Bạc liêu, làm giàu thật nhanh chóng. Dĩ nhiên, Dương Văn Ba đã từ chối không làm. Và ông kết luận: “Ông làm thiện, hưởng thiện. Bản thân tôi đã hưởng được cái quả thiện. Tôi bị chế độ này kết án tù chung thân vào cuối năm 1987. Nhưng nhiều người, kể cả một vài ông lớn của chế độ, một số báo chí đã vận động thả tôi ra trước hạn tù. Tôi đã được thả sau khi ở tù 7 năm 4 tháng. Tôi đã được hưởng quả lành.”(24) Điều thứ hai khi nói về việc ông được hoãn dịch, ông đã nói khác hẳn những gì mà ông Võ Long Triều đã viết trong Hồi ký. Theo Dương Văn Ba, khi thất cử lần thứ hai, ông sắp sửa bị bắt đi quân dịch nên ông mò vào dinh Phó tổng thống Trần Văn Hương, xin bác Hương can thiệp cho tôi được hoãn dịch một hoặc hai năm. Ông viết: “Ông Trần Văn Hương tiếp tôi niềm nở và nói với Nguyễn Thạch Vân (học trò thân cận của ông Trần Văn Hương): ‘Thằng Ba tôi rất thương nó. Nhớ lại lúc làm Thủ tướng, ra điều trần trước Hạ Nghị Viện, bị đám dân biểu gốc Bắc, thân Nguyễn Cao Kỳ la hét, đập bàn, đập ghế, mạt sát. Lúc đó, tôi nhớ mãi chỉ có thằng Dương Văn Ba dám đăng đàn binh vực cho thầy. Bây giờ Thầy phải trả ơn cho nó. Thạch Vân, em liên lạc với Bộ trưởng bộ Quốc phòng nói thầy xin cho Dương Văn Ba được hoãn dịch 6 tháng đến một năm.’” Anh Nguyễn Thạch Vân đã sốt sắng làm việc đó. Chỉ mấy ngày sau, tôi được Nha Động viên gởi giấy thông báo cho tôi được hoãn dịch đến hết ngày 31 tháng 12 năm 1972. Giấy hoãn dịch do Thiếu tướng Bùi Đình Đạm ký.(25) Riêng về báo Đại Dân Tộc, tôi xin trích đăng lại Hồi Ký của Dương Văn Ba đã viết như sau: “Đầu năm 1968, tôi chính thức bước vào nghề làm báo với các bài xã luận thưởng xuyên đăng trên báo Tin Sáng. Chưa chịu dừng ở đó, tôi xin giấy phép xuất bản tuần báo Đại Dân Tộc.” [Xin ghi nhận ở đây là tuần báo chứ không phải nhật báo – NVL]. Nhưng vì không có quan hệ với dân buôn giấy nên ông đành để Ngô Công Đức lo liệu. Ông viết tiếp: “Tuần báo là của tôi, nhưng lại do Ngô Công Đức bỏ tiền ra in, phát hành, thu lợi nhuận. Chủ nhiệm kiêm chủ bút Dương Văn Ba ăn lương một tháng 30 ngàn đồng (lúc đó bằng 3 lạng vàng) […] Tổng Trưởng Thông tin Ngô Khắc Tỉnh ký án tử cho Đại Dân Tộc sau 9 tháng hoạt động.” Nhận xét: Về đoạn trích dẫn trên, cho thấy Dương Văn Ba hậm hực với Ngô Công Đức ngay từ trước 1975, vì cứ bị Ngô Công Đức hớt tay trên, ăn trọn gói. Cũng theo Dương Văn Ba: “Đến năm 1971, do yêu cầu của kỹ sư Võ Long Triều, tôi ký giấy nhượng tên Đại Dân Tộc để anh Triều đứng tên xin phép xuất bản tờ nhật báo cũng lấy tên Đại Dân Tộc. Vào khoảng cuối năm 1971, Đại Dân Tộc tái xuất giang hồ với tư cách báo hằng ngày. Ba nhân vật chính điều hành báo này là anh Võ Long Triều, (lúc đó là dân biểu quốc hội) dân biểu Kiều Mộng Thu, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận.” Ông Dương Văn Ba đã không nhắc gì đến những chi tiết đã được ông Võ Long Triều viết một cách chi tiết cả. Ông Võ Long Triều đã xét đoán sai về người và việc và bỏ rơi những người xem ra xứng đáng hơn những người ông đã tài trợ về khả năng và đức độ. Tôi được biết những người sau đây đều cộng tác làm việc một cách xả thân, hết mình, ăn ở tại chỗ, bất kể nguy hiểm ở quận 8 như luật sư Đoàn Thanh Liêm, các thầy giáo như Hồ Công Hưng, Uông Đại Bằng, Nguyễn Đức Tuyên. Những người này ông dư biết họ đều có học vấn đàng hoàng, có tư cách, có lý tưởng phụng sự xã hội. Và cho đến giờ phút này, họ đều là những người quốc gia chân chính. Vậy mà ông đã không dùng một người nào chỉ vì họ là người Bắc? Trừ Hồ Công Hưng là người Kontum. Phải chăng vấn đề Nam-Bắc là một đề tài cấm kỵ mà mọi người đều tìm cách né tránh? Phải chăng chỉ những người thuộc phe cánh miền Nam như vừa nêu trên thì bất kể họ theo cộng sản hay không, ông đều thu nhận, ủng hộ hết mình. Trong Hồi ký của ông, tôi không hề nhận thấy một lời xác nhận nào về việc này? Nếu chỉ vì tình bạn bị sứt mẻ thì những nhân vật nêu trên có đáng để viết trong Hồi ký cho bạn đọc hay không? Nhưng có một chi tiết lý thú tôi phải viết ra đây để sổ toẹt những nhà yêu nước, chống Mỹ, những lực lượng thứ ba như Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận do Dương Văn Ba tiết lộ. Ông Dương Văn Ba viết như thế này: ‘Bộ phận hoạt động thành của cộng sản có tiền nhiều hơn những tài phiệt lớn ở Sài Gòn đang đi theo Mỹ-Thiệu. Tiền của cộng sản hoạt động thành đến từ nhiều nguồn tài trợ, nhất là tài trợ Quốc tế. Nó đến từ Trung Quốc, đến từ Liên Xô, đến từ những phong trào Việt Kiều yêu nước thân cộng. Chính mắt tôi đã chứng kiến hai nhà yêu nước thật sự của Sài Gòn (nghèo thấy mẹ) mà cầm xấp đô la tài trợ cho một số sinh viên hoạt động biểu tình. Không biết tôi có nên nói tên hay không. Dương Văn Ba hài đích danh hai người cầm đô-la phát cho sinh viên biểu tình, “Cũng cứ nói, dù các đàn anh đáng kính của tôi có giận: Thầy Lý Chánh Trung và anh Hồ Ngọc Nhuận”(26). Ông Hồ Ngọc Nhuận hình như chưa đọc đoạn văn này! Dương Văn Ba đã đưa ra nhận xét: “Chế độ cũ phạm nhiều sơ hở về tình báo và kinh tài so với cộng sản. Sử dụng tiền để làm rào cản trong báo chí, Thiệu và các quân sư của ông đã sa vào cái hố to. To đến sau khi thất trận, mới thấm thía, đau đòn về chiến lược cài người đánh trên mọi mặt trận của phía cộng sản.” Viết được nhận xét trên, quả thực Dương Văn Ba có cái khí chất miền Nam trong đó. Loại người dám nói, nói huỵch tẹt chẳng kiêng nể gì, dám làm, ngay cả làm bậy. Ông có phải là loại người có lý tưởng, theo lý tưởng cộng sản không? Theo tôi được biết là không! Cuộc đời đưa đẩy, hoàn cảnh bầy ra như thế, ông trôi theo. Vì thế, ông đặt tên cho Hồi ký của ông là Những ngã rẽ! Ông khôn ngoan, nhưng vẫn không tính hết được những cái bá đạo, tàn bạo, cái bẫy sập của cộng sản. Tưởng bám vào Võ Văn Kiệt như cái dù hộ mệnh là xong. Dễ mấy ai leo lên được chức Phó thủ tướng, rồi thủ tướng? Người ta kể cho tôi, ông và một số người khác thường tụ họp ở Thủ Đức, đánh tennis vởi ông Võ Văn Kiệt, rồi ăn nhậu với nhau. Nhưng guồng máy ấy khi cần, họ thanh toán nhau, khai trừ nhau mà ông là nạn nhân. Trong thời gian ông ra tòa, rồi đi tù, Phó thủ tướng Võ Văn Kiệt đã không dám có một lời can thiệp trực tiếp. Dương Văn Ba đúng là nạn nhân của cặp Nguyễn Văn Linh-Võ Văn Kiệt. Bảo rằng ông hối lộ, tham nhũng, hủ hóa cán bộ. Tôi nghĩ có thể là có. Làm ăn trong chế độ ấy mà không biết hối lộ, có ăn có chia chác phải quấy thì chỉ có dẹp tiệm! Nhưng cuối cùng thì họ chỉ gán ghép ông vào tội chính trị thì hết đường đỡ. Tội cấu kết, phản động thì chẳng khác một bản án tử hình. Ông bị tù hơn 7 năm trời mới được cứu gỡ ra. Kể cũng là một thời gian khá dài đấy chứ. Mối liên hệ Võ Long Triều-Ngô Công Đức Theo nhận xét của Dương Văn Ba: Ngô Công Đức có số mệnh làm việc gì cũng thành công!(27). Nhận xét ấy có thể là tóm tắt cả cuộc đời hoạt động của Ngô Công Đức. Học lực ít, nhưng lanh lẹn, tháo vát, chơi với đủ giới nhất là dân giang hồ, biết soay sở, nắm thời cơ. Ngô Công Đức vốn có bà con xa gần với tổng giám mục Nguyễn Văn Bình. Tôi được biết sau 1975, vị tổng giám mục bị nhiều áp lực tứ phía mà vốn bản tính hiền lành nên cũng lao đao nhiều chiều. Buổi tối rảnh rỗi có khi Ngài ra nhà Ngô Công Đức ăn cơm, hàn huyên trong tình gia đình đã làm ông thư giãn nhiều. Cũng nhờ mối liên hệ này mà khi Ngô Công Đức ra tờ Tin Sáng viết bài chửi bới ‘nặng ký’ chế độ Nguyễn Văn Thiệu cũng hăng lắm. Nhưng vẫn được để yên. Không một lần bị đóng cửa cho đến 1975. Phải chăng ông Nguyễn Văn Thiệu còn nể mặt Tổng giám Mục Nguyễn Văn Bình? Sau 1975, Trần Bạch Đằng giao cho làm tờ Tin Sáng, đến 1981 thì tan gánh, được coi là đã: hoàn thành nhiệm vụ. Ngô Công Đức có điều kiện tài chánh, cộng uy tín cá nhân, cộng tài làm ăn tháo vát đứng ra quy tụ anh em cũ lại trong đó có Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận và nhiều anh em khác như Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Ngọc Thạch, Võ Văn Điểm, Nguyễn Hữu An, Nguyễn Văn Binh, Trần Ngọc Báu, Hoàng Ngọc Biên, Trương Lộc, Trần Trọng Thức, Phan Ba, Minh Đỗ, Hồ Ngọc Cứ. Và nhiều nữ cựu sinh viên luật hay Văn Khoa cũng có mặt trong tờ Tin Sáng. Tôi vẫn nhận ra cái việc quần hào tụ họp chung quanh tờ Tin sáng là có ý nghĩa nhất. Cái ý nghĩa là trong lúc khốn quẫn, bị vây bọc và mất hết phương tiện mưu sinh. Ngô Công Đức vẫn là thứ hảo hán thu nhận mọi liên hệ anh em vào làm Tin Sáng. Chưa có tòa báo nào như thế mà trí thức có, nhà báo có, nhà chính trị có, giáo sư có, cựu quân nhân có, tù cải tạo được thả về. Rồi vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, chị của bạn bè, cháu của bạn bè đều quây quần trong một tờ báo để người nào cũng có việc. Để không phải đạp xe xích lô, xe ôm không phải bán thuốc lá lẻ, bán vé số đầu đường, để không phải mở cà phê ‘ôm’ và nhất là không mất nhân phẩm làm vợ một tên cán bộ. Việc làm của Ngô Công Đức sau này cũng y hệt khi Dương Văn Ba thu nhận người làm cho Cimexcol Minh Hải. Nó có cái nét đẹp của nó trong cái hoàn cảnh cực đoan bi phẫn! Đây cũng là hình ảnh nổi bật công việc làm báo bất đắc dĩ của mấy chị để khỏi mất nhân phẩm! Nào là các chị Đặng Thị Ánh Nguyệt (luật sư tập sự thời chế độ cũ), Huỳnh Thị Mỵ Cơ từng là vợ phó đốc sự hành chính, Lã Thị Kim Thoa (cử nhân luật), Phan Thị Kim Hoanh, Phạm Thị Minh Tánh, Hoàng Hữu Ly (cử nhân xã hội học), Phạm Thanh Vân (cử nhân luật), Huỳnh Thị Thanh Vân (cử nhân luật)(28). Bà Huỳnh Thị Thanh Vân sau này lập gia đình với linh mục Nguyễn Ngọc Lan là một thái độ chọn lựa có nhân phẩm nhất. Thật ra, Sài Gòn sau 1975, người ta đều sống bất đắc dĩ, làm bất đắc dĩ như thế cả. TT. Trí Quang đang làm chính trị thì bất đắc dĩ phải trở lại chùa quy ẩn. TGM Nguyễn Văn Bình đang tu thì bất đắc dĩ ra làm chính trị. Kẻ làm chính trị phải đi tu. Kẻ đi tu lại phải làm chính trị. Thày giáo thì nay đi đạp cyclo. Kẻ trước đây đạp cyclo nay lên làm phường trưởng. Đại tá đi đánh giặc thì nay đi bán vé số hay vá xe đạp. Trong số gần 200 nhân viên của Tin Sáng, thật sự chỉ có độ 2, 30 chục người là có tay nghề còn tất cả đều làm bất đắc dĩ cả. Và cả miền Nam làm những công việc bất đắc dĩ như thế! Có biết không? Sau khi Tin Sáng ‘đứt phim’, Ngô Công Đức xoay ra buôn bán, làm chủ hãng sơn mài, đồ gốm vẫn được chính quyền mới giúp đỡ. Lại hái ra tiền chả thua gì lúc làm báo cả. Không lạ gì cả Võ Long Triều đến Dương Văn Ba trước đây khi ra báo đều phải nhờ đến một tay của Ngô Công Đức, vì ông có quan hệ đến dân buôn giấy, biết lo lót giới phát hành, biết phải quấy với nhóm Cựu chiến binh lo phát hành và cả với Trung Ương tình báo VNCH cũ. Ông cũng từng làm ăn với Mỹ, với chính quyền miền Nam cũ cũng trót lọt. Mà đi với cánh phản chiến miền Nam là hợp khẩu vị, vì Ngô Công Đức cũng như Lữ Phuong rất kỵ “rơ” với cán bộ miền Bắc. Nhiều phần do sự thúc đẩy và ảnh hưởng của Hồ Ngọc Nhuận mà Ngô Công Đức xoay trục. Rơi vào vòng xoáy của cộng sản, tôi nói thật ông là người duy nhất không bị cái guồng máy đó nghiền nát. Sau này là dân biểu được dịp sang Paris cùng với Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, ông có cơ hội móc nối với cộng sản và trở thành người của họ sau 1975. Được Trần Bạch Đằng tin cẩn và giao cho làm tờ Tin Sáng bộ mới với điều kiện cứ làm báo như cũ. Do khéo xoay sở, ông đã được các linh mục gốc Bùi Chu giao lại cơ sở nhà in Nguyễn Bá Tòng với toàn bộ máy móc và một cơ sở đồ sộ 3 tầng ở đường Bùi Chu. Ông đã thu tập được hầu hết các nhà báo cũ của các tờ Tin Sáng, Điện Tín, Đại Dân Tộc về hợp tác với Tin Sáng bộ mới. Một số đông trí thức miền Nam cũng thỉnh thoảng viết bài cho Tin Sáng như quý ông Phạm Hoàng Hộ, Trần Kim Thạch, Võ Tòng Xuân, Chu Phạm Ngọc Sơn, Nguyễn Xuân Oánh cũng như các cộng tác viên cũ như Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Châu Tâm Luân, Vũ Hạnh. Một người có tài năng như thế xem ra trái ngượu với những điều nhận xét của ông Võ Long Triều sau đây. Theo Võ Long Triều thì văn hóa của Ngô Công Đức rất kém, không có được văn bằng tú tài. Mặc dầu vậy, ông Võ Long Triều đã trao cho Ngô Công Đức một triệu rưởi để hùn làm báo Tin Sáng (báo Tin Sáng được độc giả thích đọc, nhất là mục ký tên Tư Trời biển do Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận và My Sơn Nguyễn Ngọc Thạch thay nhau viết). Nói là hùn nhưng Võ Long Triều cũng thừa biết rằng Ngô Công Đức làm gì có một triệu rưởi để hùn. Võ Long Triều chỉ đặt để Hổ Ngọc Nhuận làm Giám Đốc chính trị để kiểm soát Ngô Công Đức. Cũng theo ông Võ Long Triều thì tờ báo lời nhiều, nhiều lắm, nhưng Ngô Công Đức không hề chia một cắc lời, thậm chí không trả vốn. Ông viết: “Tôi có nhắc một lần, nhưng Đức làm ngơ. Tôi cũng không quan tâm, vì mục đích xuất bản báo là để tạo một vũ khí chính trị phục vụ lý tưởng chứ không phải để kiếm lời. Vả lại lợi tức của trại chăn nuôi, trường Anh Văn London School, trường Mẫu giáo Claire Joie cũng đủ cho việc chi tiêu trong gia đình.”(29) Ở đây, ông Triều không nói rõ, lý tưởng gì, chăn nuôi gì? Theo Hồ Ngọc Nhuận thì ông Triều rất thành công trong việc nuôi heo và nuôi chim cút!(31) Nói chung, Võ Long Triều đánh giá Ngô Công Đức là ‘tính nết quá khích và xảo quyệt’. Khi Võ Long Triều đòi 100.000 đồng để cho Hồ Ngọc Nhuận có tiền vận động ra tranh cử, Đức không đưa và chỉ đưa cho Nhuận chiếc xe La Dalat cũ kỹ để làm phương tiện đi vận động mà thôi. Cái tính xảo quyệt của Ngô Công Đức đã có sẵn khi cùng học với Võ Long Triều, Hồ Ngọc Nhuận tại trường Saint Joseph Mỹ Tho rồi. Vì thế, Võ Long Triều biết được bản chất của Ngô Công Đức nên xa dần lẩn tránh anh ta một cách nhẹ nhàng. Mọi giao dịch ít khi trực tiếp mà chỉ qua trung gian Hồ Ngọc Nhuận mà thôi. (Còn tiếp phần Kết) trích đăng lại bài từ DCVOnline.net (15) Theo Hồi Ký Võ Long Triều, ông đã cài đặt Lý Quý Chung về quận 8, để ứng cử vào Quốc Hội Lập Hiến, mặc dầu Lý Quý Chung không dính dáng gì đến sinh hoạt của chương trình này. Đây cũng là một việc làm tắc trách của ông Võ Long Triều, lạm dụng các anh em làm việc ở quận 8, vận động cho Lý Quý Chung. Sau đó, Lý Quý Chung đã không một lần bầy tỏ dù là một lời cám ơn với các anh em trong chương trình xây dựng quận 8. Sau này đến lượt bác sĩ Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận ra ứng cử các quận 6 và quận 8 thì đều đắc cử cả. (16) Hồ Ngọc Nhuận, Hồi Ký Đời, đã sửa chữa đăng trên diển đàn Forum, Chương 15-16 (17) Dương Văn Ba, Những ngã rẽ chính trị, Chương 5 . Làm chính trị-Vào Quốc Hội (18) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 5 (19) Có thể tin cẩn vào lời nói của linh mục Nguyễn Quang Lãm, vì sau này cũng chính vị linh mục này giới thiệu đại tá Lê Quang Hiền làm đổng lý văn phòng cho Tổng trưởng Thanh niên võ Long Triều. Cũng chính đai tá Hiền giới thiệu Lý Quý Chung vào làm việc trong Bộ. Tất cả những chi tiết này được ông Triều viết lại trong Hồi Ký Võ Long Triều, bài 24: Hoạt động trong Nội các. (20) Nguyễn Cao Kỳ, Buddha’s child, trang 127-138 (21) Hồi ký Võ Long Triều, Hoạt động trong nội các (22) Tất cả phần Dương Văn Ba, Lý Quý Chung được trích dẫn trong Hồi ký Võ Long Triều, kỳ 26, 19-1-2007. (23) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 12, Ngô Công Đức trở về Sài Gòn (24) Dương Van Ba, Ibid., Chương 5, Làm chính trị- Vào Quốc Hội (25) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 4, Làm Báo Sài Gòn, phần 2 (26) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 4, Làm báo Sài Gòn, Phần 2 (27) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 4, Làm báo Sài Gòn, Phần 2 (28) Dương Văn Ba, Ibid.,Chương 3, Làm báo trong chế độ mới (29) Hồi ký Võ Long Triều, bài 27
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 13, 2015 8:15:30 GMT 9
Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (Kết)Nguyễn Văn Lục “Sau 30-4-75 lãnh đạo Cách mạng ở Thành phố cho tôi một đặc ân: lên danh sách đề nghị cho một số người có dính dáng đến các hoạt động của tôi khỏi đi học tập cải tạo tập trung. Danh sách khá dài của tôi đã bị lọc bớt khá đông.” – Hồ Ngọc Nhuận.
Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Un choix malheureux – Một chọn lựa bất hạnh
(Tiếp theo phần I, phần II)Những lời kết án của Lý Quý Chung về Ngô Công Đức *************************************************** Lý Qúy Chung và nội các 48 giờ (t), với Võ Văn Kiệt (p). Nguồn: DCVOnline tổng hợp. Có thể nói cuốn Hồi Ký không tên của Lý Quý Chung là một là một cái tát vào mặt bạn bè cũ của ông. Khi nó được cho xuất bản với sự chuẩn y của Trần Bạch Đằng cùng với lời đề tựa là lúc Lý Quý Chung biết mình không còn sống được bao lâu nữa. Vào cái lúc cận kề bên bờ tử sinh mà còn viết được một cuốn Hồi ký như thế kể cũng là điều lạ. Riêng cá nhân tôi nhận xét về những khuyết điểm của cuốn sách này như sau với tư cách một người đọc. Cuốn sách dành quá nhiều trang để nói về giai đoạn làm báo, làm dân biểu và vai trò nhân chứng của tác giả vào giây phút chót của ngày lịch sử 30/4/1975. Đây là những trang sách vung bút nhất và ‘bốc nhất’. Nhưng lại tỏ ra quá ít ỏi, hầu như không nói được gì để nói về giai đoạn 1975 cho đến lúc tác giả qua đời (3/3/2005). Mà nói đúng ra giai đoạn sau quan trọng hơn giai đoạn trước. Phải chăng cũng là một cách để ông tránh né bị kiểm duyệt và bị cắt bỏ? Đọc toàn bộ cuốn Hồi Ký, nó toát ra hai điều: Sự đề cao mình một cách hơi lộ liễu trong vai trò làm báo, làm dân biểu đối lập, về việc tiếp xúc với vài người ngoại quốc. Sư tự đề cao còn trở nên quá lố như trong vai trò Tổng trưởng thông tin trong chính phủ 48 giờ Dương Văn Minh. Về điều này, nó trở thành đối tượng cho cựu chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh gửi thư cho Ủy Ban Mặt trận Tổ Quốc, thành phố Hồ Chí Minh đặt một số vấn đề với tác giả Lý Quý Chung về sự đầu hàng vô điều kiện của ông Dương Văn Minh và về sự vắng mặt vào hai ngày chót của cuộc đầu hàng-( 30-4 đến ngày 2-5) của Lý Quý Chung. Sự tự đề cao này còn được Hồ Ngọc Nhuận phản bác lại trong vai trò Lý Quý Chung là phụ tá chủ nhiệm, v.v. Một sự đề cử bốc đồng- theo Hồ Ngọc Nhuận- của Ngô Công Đức. Nếu có mặt tự đề cao mình, về mặt kia thì thói đời, ông lại tỏ ra quá nhún nhường nếu không nói là quỵ lụy như việc rắp tâm xin được gia nhập đang cộng sản. Sự tự hạ mình như vậy- cũng khó nói- nhưng nó lại bàng bạc trong thứ ngôn ngữ của những nhà báo tự hạ thấp mình xuống. Chẳng hạn khi ông hạ bút viết: “30 năm sau nhìn lại ngày 30-4-1975 mới thấy rõ hơn gíá trị của ngày giải phóng. Nếu không có ngày đó- chấm dứt hoàn toàn sự can thiệp của người Mỹ, giành được độc lập và thống nhất xứ sở- thì chắc chắn đất nước hôm nay không an bình phát triển, ổn định như đang có.”(30) Sự tự hạ mình này cũng được Võ Long Triều ghi nhận: “Lý Quý Chung là người mà tiếng đời thường gọi là ‘theo voi hít bã mía’. Chỗ nào có lợi lộc là anh hết lòng phò tá. Cho nên mới đọc sơ vài trang ‘Hồi ký không tên’ của anh là tôi đã ngửi thấy mùi nịnh hót cộng sản, bóp méo sự thật để chứng minh cái lý tưỡng ba xu, có lẽ của Trần Bạch Đằng mớm cho anh cũng như cộng sản bóp méo hay sửa đổi lịch sử để biện minh cho cái gọi là cách mạng và chế độ cộng sản.”(31) Khi viết bốc và nịnh bợ như thế, ông đã quên cái cảnh vợ con ông đói meo, nheo nhóc. Cái cảnh mà người ta chưa hề bao giờ thấy ở miền Nam trước 1975. Đó là cái cảnh cười ra nước mắt khi vợ ông âm thầm ở nhà đã cho người tháo các cửa kính trên lầu ba để lấy tiền mua gạo cho con ăn. Khi về, ông tưởng mấy người đó là ăn trộm.. Mấy dòng sau đó ông viết: “Nhìn đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện nay, đến bây giờ tôi vẫn tưởng nằm mơ!” Ông đã tố cáo người chủ nhiệm tờ Tin Sáng, Ngô Công Đức bộ mới, bóng gió gọi là ‘có người muốn theo Tito hay Walesa’ hay ‘móc nối với sư sãi gốc Miên và với Khmer Sơrai của Sơn Ngọc Thành. Đây là sự ám chỉ quá độc ác, giết người dưới chế độ cộng sản. Lý Quý Chung viết: “Nếu không có mâu thuẫn nội bộ, liệu Tin Sáng có kéo dài được sự tồn tại? Một tờ báo gồm các trí thức cũ Sài gòn, hoạt động như một doanh nghiệp tư nhân, anh Đức nắm tờ báo như một ông chủ báo trước 1975, lại rơi vào thời điểm Đông Âu bắt đầu chứng kiến những biến động.”(32) Công đoàn đoàn kết của Walesa đã phát động lật đổ chế độ cộng sản ở Ba Lan. Vậy nếu báo Tin Sáng tiếp tục tồn tại thì sẽ ở vị trí nào trong bối cảnh chính trị đó? Tài liệu dẫn chứng của Hồ Ngọc Nhuận cho thấy Lý Quý Chung là người bất tín, bất nghĩa. Nhưng tôi chỉ không đồng ý với nhận xét của Hồ Ngọc Nhuận đổ cho lòng dạ con người hay thói đời. Nhận thức như thế là trốn tránh sự thật. Việc làm của Lý Quý Chung là việc làm bình thường trong chế độ cộng sản. Trước đây, những trí thức bạn bè của Trần Đức Thảo cũng làm cái việc mà Lý Quý Chung đã làm ngày hôm nay và nhiều người khác cũng đã làm như vậy. Trong cái tổ chức ấy, họ tổ chức sắp xếp, phân tổ để kiểm soát lẫn nhau, rồi rình mò, ám hại nhau, ngay cả tố cáo nhau lấy điểm nếu cần. Chính Trần Bạch Đằng khi cổ võ cho Tin Sáng được tái xuất hiện, ông ta cũng cài một nhân viên thân tín của ông là Kỳ Phương vào tòa báo. Dương Văn Ba cũng phải nhìn nhận: làm báo trong chế độ mới là theo sự hướng dẫn của Đảng. Nhờ sự hướng dẫn và dìu dắt của ông Kỳ Phương mà tờ Tin Sáng an toàn hơn.(33) Dương Văn Ba còn viết thêm: “Ông Trần Bạch Đằng khá sâu và khá bén nhạy trong vấn đề dìu dắt và hướng dẫn báo Tin Sáng đi theo đường lối Cách Mạng. Những ý kiến có tinh cách chỉ đạo của ông thường được đưa ra rất nhẹ nhàng như những gợi ý, soi đường.”(34) Trong chế độ VNCH ai có thể chỉ đạo các ông? Các ông hung hăng tố cáo các lãnh đạo miền Nam mà không sợ, vì biết rằng tối nay về ngủ ngon, không có người đến bắt cóc mang đi thủ tiêu! Khác nhau là ở chỗ đó. Dương Văn Ba nặng nhẹ với Ngô Công Đức Ngô Công Đức (6/3/1975). Nguồn: Bruce McKim / Staff Photographer / The Seattle Times Trước đây tôi cứ đinh ninh bộ ba Ngô Công Đức-Hồ Ngọc Nhuận-Dương Văn Ba là thân thiết nhau lắm. Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba đã từng cứu Ngô Công Đức tại Vĩnh Bình, khi viên tỉnh trưởng là đại tá Chung Văn Bông tìm cách bắt Ngô Công Đức trong việc đánh người trong bữa tiệc nhậu. Hồ Ngọc Nhuận phải mượn máy báy của tướng Kỳ xuống cứu Ngô Công Đức. Khi Ngô Công Đức tìm đường tỵ nạn sang Pháp, họ thường thư từ với nhau, bạn mày tao chia xẻ nhiều chuyện. Sau 1975, khi Ngô Công Đức từ Pháp về lại Việt Nam, sau 1975, Hồ Ngọc Nhuận và Dương Văn Ba là những người đầu tiên đến nhà Ngô Công Đức ở Thị Nghè (nhà của chị Hai Ngô Công Đức). Nhưng không phải vậy sau khi đọc Hồi ký Những Ngã rẽ của Dương Văn Ba. Dương Văn Ba có một nỗi bực bội là nghĩ rằng ông bị người khác bót lột, lợi dụng sức lao động của ông. Ngay khi làm báo Điện Tín, ông Dương Văn Ba đã ‘đốt’ Nghị sĩ Hồng Sơn Đông, một tay chân của Dương Văn Minh là làm giàu trên xương máu ký giả. Ông tính ra tờ Điện Tín bán ra mỗi ngày 80 ngàn số, mỗi số 15 đồng. Tiền bán báo thu vào trên một triệu đồng, tiền quảng cáo thu trên 200 ngàn đồng. Trong khi đó chi phí cho toàn Ban Biên Tập khoảng 200 ngàn đồng. Tiền giấy, tiền công in, tiền thuê thợ sắp chữ khoảng 400 ngàn đồng. Lãi thu hàng tháng khoảng 20 triệu đồng. Lãi tính ra ngoại tệ khoảng 80 ngàn đô-la. Dương Văn Ba than tiếp, “Làm chủ báo kiếm lời 80% lợi nhuận còn ký giả, người viết báo, thợ sắp chữ chiếm 15% còn lại.”(35) Chính ở điểm này mà Dương Văn Ba ghét Ngô Công Đức khi làm tờ Tin Sáng, Bộ Mới, sau 1975. Dương Văn Ba dựa vào câu nói sau đây để thấy Ngô Công Đức không giữ lời: “Tôi đứng cái, chủ nhiệm tờ Tin Sáng để làm chỗ dựa hoạt động cho các anh em trong thời kỳ mới. Chúng ta cùng ra sức xây dựng và phát triển nhật báo Tin Sáng có sức mạnh và độc giả đông đảo hơn thời kỳ trước đây. Tài chinh thu được, một mình tôi không giữ hết, tôi sẽ lo cho các bạn để các bạn cũng có cơ ngơi, nhà cửa đàng hoàng, sống thoải mái về tài chính…tôi là người đủ khả năng làm việc này. Tôi hứa không quên sau này sẽ chia phần cho các bạn… các bạn hãy làm việc hết sức mình…”(36) Và như trước đây, Ngô Công Đức dựa vào bọn lái buôn giấy người Hoa như tên Thạch Như Ke, tục gọi là Tỷ Giấy và sự tiếp sức của Nguyễn Tống Hạnh cũng như con trai của Nghị sĩ Hồng Sơn Đông là Hồng Ngọc Hải. Ba người này là những trợ thủ đắc lực cho Ngô Công Đức làm giàu. Công việc làm ăn cứ thế điều hành thông suốt, tiền thu vào ào ào. Gần 6 năm trời làm báo, Ngô Công Đức thu vào được bao nhiêu? Phần những người làm công viết báo thì được đối xử như chủ và thợ trước đây. “Khi giải thể báo Tin Sáng, dù đó là một điều rất bất ngờ đối với Ngô Công Đức nhưng chính ông ta là người tiếp tục được thụ hưởng hầu hết mọi quyền lợi vật chất được tạo ra trong 6 năm lao động của tập thể viết báo Sài Gòn trong chế độ mới.” Thế là vào đầu năm 1981 nổ ra cuộc tranh chấp và đã đến tai các cơ quan có trách nhiệm của đảng Cộng sản ở thành phố và Trung ương. Sự tranh chấp và nứt rạn đến hồi phải chấm dứt. Chính quyền thành phố buộc lòng phải rút giấy phép, không cho phép Ngô Công Đức tiếp tục xuất bản báo Tin sáng. Tin Sáng bị đóng cửa và được gọi một cách văn vẻ là ‘hoàn thành nhiệm vụ lịch sử’ của thời kỳ quá độ. Chỉ có Lý Quý Chung đứng về phía Dương Văn Ba. Riêng Hồ Ngọc Nhuận vẫn tỏ ra bênh vực Ngô Công Đức bằng mọi giá và lên tiếng phản biện lại Lý Quý Chung và Dương Văn Ba trong một bài báo được đăng trên Dien dan forum ngày 10/7/2015, nhan đề “48 năm , một mẩu chuyện nhỏ”. Và Dương Văn Ba kết luận, việc Tin sáng nghỉ hưu non không có vấn đề chính trị mà chủ yếu là không thể để một người tiếp tục thụ hưởng và những người khác tiếp tục bị bóc lột bất công. Dương Văn Ba còn nhắc lại lời của Âu Quang Cảnh, một cựu doanh nhân nổi tiếng của Sài Gòn, ban tặng cho Ngô Công Đức biệt danh rất độc, “người Do Thái da vàng” (c’est un Juif jaune). Sau khi Hồi ký Những ngã rẽ được lưu hành trên Việt Studies, một số những người từng quen biết hoặc làm việc trên tờ Tin Sáng đã yêu cầuu Hồ Ngọc Nhuận phải lên tiếng thay cho Ngô Công Đức nay đã không còn nữa để có cơ hội trả lời. Tôi nghĩ là cả hai Ngô Công Đức cũng như Hồ Ngọc Nhuận đã không muốn làm lớn chuyện và vì thế trong Hồi ký Đời của Hồ Ngọc Nhuận, bản cũ đều không hề đả động đến công việc này. Trong bài 48 năm, một mẩu chuyện nhỏ, ông thú nhận không biết viết những gì và viết thế nào. Bởi vì ông cho đó là chuyện gia đình, không muốn tự mình vạch lưng mình. Nhưng có một số sự việc thiết tưởng ông nên bạch hóa. Đó là về các bá cáo mật ông đã đề cập đến trong bài 48 năm một mẩu chuyện nhỏ, đăng trên diendan.org “Các bá cáo này có bản viết tay, có bản đánh máy cẩn thận, có bản nói về chuyện hằng ngày, về phát biểu trong các các cuộc họp phóng viên, tòa soạn, về việc đi đây đi đó của người này người nọ: có bản phân tích tỉ mỉ về quá khứ, hành động lời nói, thái độ lập trường, tư tưởng, ý đồ… đặc biệt của Ngô Công Đức, cả những lời ‘dặn dò, tâm sự’ của Đức với người nầy, người nọ cũng được nêu lên để dẫn chứng, cả những lưu ý phải tìm hiểu, đi sâu , điều tra thêm về những biểu hiện hay quan hệ với đây đó của Đức. Đặc biệt trong một bá cáo dài, với mấy tóm tắt về quá trình hoạt sđộng của Đức, có một điểm viết:’ Từ 1975-1979: Đức muốn tạo tại Tin Sáng thành một giang sơn, mộc ốc đảo riêng và từ đó làm bàn đạp cho các hoạt động ngầm của mình. Tin Sáng là một khu an toàn’. Tôi cứ nghĩ những bá cáo sẽ mãi mải nằm đó, để luôn nhắc nhở tôi về ‘lòng dạ con người’, về ‘thói đời’. Nhưng tôi cũng nghĩ, ngày nào đó, chúng cũng sẽ trở thành một cuốn sách nhỏ thuộc thể loại ‘ điều tra’ khá hấp dẫn. Nếu thật cần.” Sự thực mà nói, khi có Hồi ký không tên được xuất bản thì Hồi ký Đời của ông Hồ Ngọc Nhuận và Hồi ký Những ngã rẽ của Dương Văn Ba đều đã tới tay Trần Bạch Đằng. Trần Bạch Đằng đã xác nhận điều ấy trong lời giới thiệu mở đầu Hồi ký không tên của Lý Quý Chung. Ông Trần Bạch Đằng viết: “Gần đây, tôi có hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận, cùa Dương Văn Ba, và bây giờ của Lý Quý Chung. Sắp tới sẽ còn nhiều hồi ký nữa.”(37) Sự lên tiếng muộn màng của Hồ Ngọc Nhuận chỉ vì tình thế không cho phép ông giữ im lặng được nữa. Tuy nhiên, Hồ Ngọc Nhuận tỏ ra thẳng thừng với Lý Quý Chung, Nhưng đối với Dương Văn Ba, ông do dự và tìm cách gỡ rối cho Dương Văn Ba. Hồ Ngọc Nhuận đối đầu với Võ Long Triều-Dương Văn Ba-Lý Quý Chung Võ Long Triều 2011. Hình chụp lại từ YouTube Người Việt Online. Trước 1975, tôi không có cơ hội để biết đến tên tuổi Hồ Ngọc Nhuận. Tôi chỉ thực sự biết đến ông khi về Việt Nam và có dịp đọc một bản Hồi Ký Đời của ông. Hồi Ký Đời, nếu tôi nhớ không lầm thì hầu như không có mấy ai có cơ hội đọc hồi ký này. Vì trên nguyên tắc nó không được phép xuất bản. Phải thú thực là tôi đã đọc kỹ. Theo tôi và có thể dưới mắt ông Võ Long Triều cho thấy Hồ Ngọc Nhuận khá nhất trong đám Dân biểu đối lập. Ông có thể là bạn thân của Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Huỳnh Công Minh, Lý Chánh Trung, nhất là Võ Long Triều và nhiều anh em làm việc ở quận tám như Uông Đại Bằng, Hồ Công Hưng, Võ Văn Bé, v.v. Về phía dân biểu thì có các dân biểu như Dương Văn Ba. Ngoài ra còn có dân biểu Kiều Mộng Thu mà hai người sát cánh nhau như bóng với hình. Họ hoạt động chung với nhau ban ngày, ban đêm về lại nhà của… Dương Văn Minh. Cũng chính Hồ Ngọc Nhuận bảo lãnh chẳng những cho Kiều Mộng Thu mà còn cả ông chồng của bà là ông Nguyễn Chức Sắc khỏi đi học tập. Ngoài ra còn có các ông Lâm Phi Điểu, cụ Nguyễn Văn Huyền, luật sư Trần văn Tuyên, v.v. sinh viên tranh đấu như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Dương Văn Đầy. Sau này qua Võ Long Triều, ông có thể quen cả Nguyễn Cao Kỳ và nhiều người khác trong chính phủ. Khi ông có dịp qua Pháp và có cơ hội tiếp xúc với đại diện chính quyền cộng sản như đại sứ Nguyễn Văn Tiến, ông Đinh Bá Thi. Về sự tiếp xúc liên lạc này cũng như gặp gỡ với Trần Bạch Đằng sau này, ông đều dấu kín không thấy viết trong Nhật ký. Về phía các nhân vật chính quyền cộng sản, ông thân quen với Trần Bạch Đằng, Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ, Mai Chí Thọ, nhất là ông Sáu Dân tức Võ Văn Kiệt. Cứ nhìn chung, người ta thấy ông Võ Long Triều có một sự ưu ái đặc biệt với Hồ Ngọc Nhuận. Ông viết: “Hồ Ngọc Nhuận là người thuộc đàn em, tôi quý mến vì có tài, có tình, khá lanh lợi, năng nổ, nhưng rất tiếc thay thiếu sự hiểu biết sâu xa về chính trị. Ngày nay, viết về anh ta, tôi hối tiếc vì đã mất một người cộng sự đắc lực có khả năng. Tôi buồn gần như mất một người em, một người bạn đồng hành.”(38) Tôi cho rằng những giãi bầy của ông Võ Long Triều là chân thành. Trên thực tế, chính ông Triều đưa ông Hồ Ngọc Nhuận về làm quận trưởng quận 8. Còn hơn thế nữa, ông Triều đưa bạn mình về giữ chức Tổng Giám Đốc thanh niên và sau này tính giao Bộ Thanh niên cho Hồ Ngọc Nhuận. Về công việc làm báo, cũng chính ông Triều đưa Hồ Ngọc Nhuận về làm giám đốc chính trị của tờ báo Đại Dân Tộc. Khi Hồ Ngọc Nhuận cần tiền để tranh cử cũng chính Võ Long Triều đòi Ngô Công Đức đưa 100.000 cho Hồ Ngọc Nhuận. Ngô Công Đức không đưa tiền mà chỉ đưa cho Hồ Ngọc Nhuận chiếc xe La Dalat cũ để đi vận động tranh cử. Về phía Hồ Ngọc Nhuận, ông cũng không phải loại người vô tình. Chính Võ Long Triều cũng nhìn nhận “Nhuận là người đã giúp tôi rất nhiều trong mọi hoạt động.” Khi Võ Long Triều ra tranh cử dân biểu thì chính Hồ Ngọc Nhuận vận động cho Võ Long Triều ở khóa II tại Bến Tre dưới nhãn hiệu của tờ Tin Sáng. Sau 1975, khi Võ Long Triều bị đi học tập cải tạo thì cùng với người cậu của ông Triều là ông Trí Việt cùng với Dương Văn Long vận động xin cho ông Triều được đi học tập cải tạo về sớm. Khi được có giấy xuất cảnh, ông Triều gặp rắc rối với giấy nợ thiếu thuế 25 triệu. Số tiền 25 triệu này do ông Triều đã đứng ra bảo lãnh cho người quản lý báo tại một ngân hàng. Cũng chính Hồ Ngọc Nhuận phải can thiệp với ông Mai Chí Thọ và cuối cùng ông Trưởng Ban Thanh Lý đã cho một tờ giấy hợp lệ ngân hàng. Vậy thì nếu có sự bất đồng giữa hai người chỉ vì họ không cùng đi một hướng? Năm 1968, khi sang Paris, ông Hồ Ngọc Nhuận đã gặp phía bên kia. Và cụ thể khi về Sài Gòn, ông đã được móc nối với Trần Bạch Đằng. Ông trở thành người của phía bên kia. Sự ngăn cách chia đôi giữa tình bạn và chính trị là một chọn lựa mất mát cho cả cả hai phía? Mặc dầu vậy, họ vẫn giữ liên lạc cho đến 1994. Vào những ngày 27, 28, 29 tháng Tư, do được lệnh của phía bên kia, ông cũng như Hồ Văn Minh, Lý Chánh Trung đã lánh mặt không liên lạc với nhóm ông Minh và không có trong danh sách trong chính phủ Dương Văn Minh. Và cũng nhờ cái thế liên lạc với phía bên kia mà Hồ Ngọc Nhuận được cái đặc ân là lên danh sách những người khỏi phải đi học tập. Năm 1994, Hồ Ngọc Nhuận sang Paris và gặp lại Võ Long Triều, họ đã để cả một đêm để dốc bầu tâm sự và rồi đường ai nấy đi. Hồ Ngọc Nhuận cũng nhìn nhận việc chọn lựa theo cộng sản là một choix malheureux. Nhưng cả hai người hiểu chữ malheureux khác nhau. Và căn cứ vào lời thú nhận này, Võ Long Triều trách cứ Hồ Ngọc Nhuận nặng lời và cuốn Hồi Ký của ông đã được tờ Người Việt đăng tải. Từ đó câu chuyện trở thành lớn hơn kéo theo Đỗ Quý Toàn (Ngô Nhân Dụng) vào cuộc. Tình bạn mà những người như Hồ Ngọc Nhuận, Võ Long Triều, Dương Văn Ba, Ngô Công Đức coi như lẽ sống ở đời, như gạch nối giữ họ lại với nhau lại luôn luôn bị thử thách vì những tham vọng chính trị hay những tham vọng danh vọng và nhất là tiền bạc vật chất chia rẽ họ. Cho nên sứt mẻ và đổ vỡ lúc nào đó sẽ bộc phát không tránh khỏi. Võ Long Triều cuối cùng đã dành chia tay với Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Dương Văn Ba và nhất là Hồ Ngọc Nhuận. Đến lượt Ngô Công Đức với Lý Quý Chung, Dương Văn Ba rồi Hồ Ngọc Nhuận với Lý Quý Chung, với Ba. Để còn lại gì? Trong khi vô số những người bạn bên lề, bạn thân không đủ thân, đồng chí không đủ mức độ tin cậy, làm báo, làm xã hội không đủ tài trí ngang tầm, luôn luôn ở thế nghe, thế thi hành một số đông như thể thì vẫn giữ được một khoảng cách không quá xa mà cũng không quá gần. Họ vẫn giữ được cái quan hệ tình người và sống đẹp cho đến ngày hôm nay. Viết điều này, tôi muốn những người bạn của Dương Văn Ba có cơ hội nhìn lại mình. Rất tiếc những người như Lý Quý Chung, Ngô Công Đức đã không còn nữa. Phần Dương Văn Ba thì nay sống cũng như thể chết sau ba lần bị đột quỵ; thần chết gõ cữa nhà ông có thể đã không tìm ra số nhà, vì ông thuê nhà, đổi địa chỉ nên thần chết đành quay gót! Nay chính thức chỉ còn có Hồ Ngọc Nhuận, một mình. Phần Hồ Ngọc Nhuận, ông đã để công viết một bài dài nhan đề 48 năm, một mẩu chuyện nhỏ. Mẩu chuyện tuy gọi là nhỏ này kéo dài 48 năm và viết dài khoảng 42 trang. Ông đã đi lại từ đầu những ngày chung nhau làm báo, cùng hoạt động trong môi trường chính trị khuynh đảo miền Nam, cùng tìm tới một ngã rẽ chung và chia xẻ những khó khăn, niềm hãnh diện nếu có của tờ Tin Sáng trong một chế độ cộng sản. Niềm vui này đã tắt lịm sớm sủa sau 6 năm thử thách. Cái test và bài học làm báo tự do không thể nào có thể có được trong chế độ cộng sản, Cái câu nhắn nhủ Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận “làm một tờ báo y như cũ” của “mấy ông lãnh đạo cách mạng” là một câu lừa phỉnh từ đầu đến cuối. Mặc dầu là một bài viết biện hộ cho Ngô Công Đức với rất nhiều chi tiết, nhiều thiện ý vun xới vào. Tôi cũng chỉ nhìn thấy bài báo được tô hồng như một hoài niệm quá khứ, hoài niệm về những giai đoạn hào hùng của tuổi trẻ chống lại chế độ miền Nam. Và sau 1975 họ ăn một cái bánh vẽ có chia phần. Nhưng họ lại tưởng lầm họ đang viết lại lịch sử. Sự có mặt của tờ Tin Sáng như một trắc nghiệm xem, người ta có thể nào sống hòa đồng xây dựng trong một chế độ XHCN được không? Câu trả lời, đây là một ảo tưởng hay một đánh giá sai lầm nghiêm trọng về bản chất CNXH. Đó là thất bại thứ nhất của bài viết của Hồ Ngọc Nhuận. Thất bại thứ hai của bài 48 năm, một mẩu chuyện nhỏ là ông Hồ Ngọc Nhuận viết mà không dựa trên thực tế và những con số, viết mà che đậy rồi cũng lòi cái đuôi viết không trung thực. Tự bài viết nó tố cáo cái sự không trung thực ấy như sau. Trong trường hợp Lý Quý Chung, tôi cũng không đồng ý là ông Lý Quý Chung tỏ ra võ đoán khi gán ghép xa gần Ngô Công Đức với phong trào đoàn kết, với Walesa ở Ba Lan trong âm mưu lật đổ chính quyền cộng sản. Đây là cách thức hành xử thường thấy trong các tổ chức cộng sản, muốn ám hại ai thì gán cho tội âm mưu, tội phản động. Đó là một bản án tử hình đối với Ngô Công Đức rồi. Nhưng về mặt đời sống vật chất Lý Quý Chung có cái lý của ông. Tuy được sắp xếp là phụ tá chủ bút thứ ba của Tin Sáng, đồng lương không biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn là đồng lương chết đói. Nếu tất cả đều ăn ngô độn khoai thì còn chấp nhận được. Trong khi đó Ngô Công Đức, chủ nhiệm lại có đời sống quá dư thừa làm sao không so sánh và bực bội? Trong bài viết của ông Hồ Ngọc Nhuận, ông không che đấu được niềm vui và hãnh diện vì tờ Tin Sáng được độc giả miền Nam ái mộ. Báo bán chạy, nhiều khi các trẻ bán báo đã bán chợ đen. Nếu như thế thì số phát hành phải nhiều lắm. Tiền lời ấy đi đâu, để vào đâu? Nhân viên tòa soạn thì đã có mức lương do chính công đoàn quyết định. Tuy nhiên, trong Nhật ký của ông, không bao giờ ông nói rõ ràng, minh bạch về tiền. Lương công nhân bao nhiêu. Lương chủ nhiệm, chủ bút bao nhiêu? Ông Và Ngô Công Đức góp vốn vào Tin Sáng lúc đầu báo nhiêu? Phải có một tổng kết tài chánh cuối năm chứ? Rõ ràng là không minh bạch. Trong khi đó, qua ông Nguyễn Hữu Hiệp, trả lời nhà báo Alain Ruscio, tác giả cuốn sách “Vivre au Vietnam”, 1981, các ông lại có thể đưa ra những con số rất chính xác. Trong mục ‘liên lạc với bạn đọc ‘do ông Dương Văn Long phụ trách đã ghi nhận từ tháng 7-1975 đến tháng 7-1979, tòa báo đã nhận được 39. 673 thư, 2.7000 cú điện thoại., v.v.”(39) Thợ bửa củi hay thợ mộc? Cũng trong sách của Alain Ruscio có ghi lại câu trả lời của Lý Quý Chung như sau: “Comme la plupart de mes amis ici, j’ai vécu l’experience des deux régimes de presse. Tu connais le mot de Duc, notre Directeur: Auparavant, nous étions des bucheron, aujourd’hui des menuisiers.” Trong khi đó, trong hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận ghi khác: “Trước đây chúng tôi là thợ bửa củi, bây giờ chúng tôi là thợ mộc đục và bào nhẵn. Ý nghĩa trong câu trích dẫn của Hồ Ngọc Nhuận ngược hẳn. Phải chăng Lý Quý Chung hay chính Alain Ruscio đã sửa và cắt bỏ các chữ “đục, bào nhẵn”? Ông Hồ Ngọc Nhuận luôn nói tới Đại gia đình Tin Sáng. Điều đó cũng đúng, sau 1975, mọi gia đình đều sa cơ lỡ vận nên bám vào Tin Sáng. Hằng trăm nhân viên là bạn bè, là bà con thân thuộc, ngay cả vợ con các nhà báo, các giáo chức, các sinh viên đã chạy vào Tin Sáng như một chỗ tựa. Vợ Dương Văn Ba, em gái, em rể cũng làm cho Tin Sáng. Hai người con trai lớn và con dâu của cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông cũng là nhân viên Tin Sáng. Ông Nguyễn Chức Sắc, chồng bà Kiều Mộng Thu, một phó tỉnh trưởng hành chánh, vì không viết báo nên cùng con trai làm ở ban sắp chữ. Con trai lớn của Lý Quý Chung, chưa đủ tuổi đi làm cũng được sắp xếp làm văn phòng. Opposition deputies stage a 24-hour sit-in hunger strike on the steps of the national assembly to protest what they term ?The corrupt, inefficient and oppressive administration? of President Nguyen Van Thieu in Saigon, Feb. 10, 1975. One deputy hoists a placard with defaced photo of Thieu which says: ?If Thieu still remains in power, there will still exist war, poverty and starvation. Mr. Thieu must resign.? (AP Photo/Ut) DB Kiều Mộng Thu (bìa phải hàng sau), DB Ls Trần văn Tuyên (ngồi giữa, hàng trước), kế bên là DB Trần Văn Sơn (mặc veston, cầm giấy, Hải quân Trung tá, bút danh sau 1975 là Trần Bình Nam) và những dân biểu đối lập khác trong cuộc tuyệt thực 24 giờ trước thềm quốc hội để phản đối cái họ gọi là “Chính quyền tham nhũng, không hiệu quả và áp bức” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Sài Gòn, ngày 10 tháng 2, 1975. Một dân biểu cầm bảng với ảnh TT Thiệu bị gạch chéo với hàn chữ: “Còn Thiệu là còn chiến tranh, nghèo đói. Thiệu phải từ chức” trước một bàn thờ có lư và chân đèn cầy với một tu sĩ Phật giáo. Nguồn ảnh: AP Photo / Ut Điều đó tự nó bầy ra một thực trạng là dân miền Nam, ngay cả nhũng thành phần hợp tác với cộng sản cũng không có đất sống. Họ đổ xô vào Tin Sáng để kiếm miếng cơm và để có tư thế chính trị tạm ổn. Báo bán chạy mà để gần hai trăm nhân viên ăn những bữa ăn thanh đạm thì đó là một điều tủi nhục đầy nước mắt cho họ. Ông Hồ Ngọc Nhuận ghi: “Bếp ăn tập thể thời đó ở đâu cũng có và cũng vậy thôi, nghĩa là cũng cơm độn bo bo, khoai lang hay nhiều nhất là mì sợi, nhưng cái đáng nói là Đức và tôi, với sự giúp sức của anh chị Hồ Ngọc Cứ, đã đặt bếp ăn và phòng ăn tập thể ngay tại phòng khách lớn của nhà báo, người ăn cả chủ lẫn khách mời, kể cả khách nước ngoài đều có thể quan sát các chị bếp, qua các ô kính sạch trơn, trong suót.”(40) Không ai đặt câu hỏi: vì sao nên nỗi này? Vì sao trong chiến tranh, người dân miền Nam vẫn có của ăn của để? Vì sao sau chiến tranh, đã dành được độc lập, họ im lặng chịu đựng như thế? Tại sao sau chiến tranh, người ta phải ăn cơm độn ngô, độn khoai? Tại sao thế? Trong khi chủ nhiệm báo mỗi ngày nhậu nhẹt, uống rượu Tây với mấy tên bao thầu phát hành báo gốc người Tầu? Nhân viên Tin Sáng không có đủ tiền phải uống rượu pha cồn, rượu Lebon, uống xong người nào cũng ngất ngư, nửa sống, nửa chết. Không bao giờ Ngô Công Đức hoặc Hồ Ngọc Nhuận công bố kết quả tài chánh trong năm cho anh em Tin Sáng biết. Nhưng đây là hoàn cảnh của Lý Quý Chung viết lại một cách gián tiếp tố cáo Tin Sáng: “Có một hôm đi làm về tôi thấy có bóng ai leo bên ngoài cửa sổ phòng ngủ lầu một, tôi định hô lên ăn trộm thì vợ tôi kịp cản lại. Nàng bảo nhỏ: ‘Không phải ăn trộm đâu, em bán cửa kính cho người ta.’ Tôi định phản ứng. Sao lại tận cùng thế này! Nhưng kịp nhớ lại: những gì có giá trị có thể bán được thì đã bán hết rồi! Lúc đó không bán kính cửa sổ thì đào đâu ra tiền để chi dùng trong nhà. Nhà tôi bà tầng có đến hàng chục cái cửa sổ, cho nên cũng thu về một số tiền kha khá, có thể đối phó thêm một thời gian nữa. Ngay tức thời chiều hôm đó, cả gia đình tôi có một buổi cháo gà xé phay bù đắp những ngày ăn uống kham khổ. Nhưng bán mãi rồi cũng không còn gì để bán nữa. Thế là chúng tôi chỉ còn một giải pháp cuối cùng là… bán nhà. Nhà lúc đó giá rẻ mạt. Căn nhà đó bây giờ có thể bán với giá 600-700 cây vàng, nhưng lúc ấy bán không hơn hai chục cây. Khi dọn ra că nhà thuê ở đường Lê Lợi, nằm phía sau bệnh viện Sài gòn, vợ chồng tôi chỉ mang theo một số bàn ghế và một cây đàn Piano. Đây là chiếc Piano thứ hai. Chiếc đầu tiên chúng tôi đã bán trong những ngày đầu gỉải phóng.”(41) Vợ Lý Quý Chung xoay ra bán cơm tấm bì ngoài lề đường, nhưng bị phường ngăn cản, vào ngõ, ế khách nên đành dẹp. Ông Hồ Ngọc Nhuận nghĩ sao khi đọc đoạn trên? Sau khi Tin Sáng ‘hoàn thành nhiệm vụ’, ông Lý Quý Chung ra Hà Nội làm tổng thư ký báo Lao Động, năm 1990; ông viết: “13 năm tôi sống với Cúc Phượng tràn đầy hạnh phúc (chúng tôi có một đứa con trai Lý Quý Phúc). Hầu như chúng tôi không có một cuộc cãi vã to tiếng nào. Cuộc sống vật chất của gia đình dễ chịu hơn khi tôi bắt đầu làm báo Lao Động.”(42) Xin đọc tiếp những lời tố cáo của Dương Văn Ba. Theo Dương Văn Ba, do quen biết các linh mục trong nhà in Nguyễn Bá Tòng, các linh mục này đã đồng ý cho Ngô Công Đức xử dụng toàn bộ hệ thống máy in được coi là tân tiến nhất lúc bấy giờ với căn nhà ba tầng lầu, góc đường Bùi Chu và Bùi Thị Xuân. Tiền thuê nhà trả cho các linh mục là bao nhiêu không ai biết. Dương Văn Ba còn cho biết rõ báo Tin Sáng bán rất chạy. Theo Dương Văn Ba, “Các bạn cứ tưởng tượng, một tờ báo phát hành 60, 70 chục ngàn số một ngày, có cả gần một trang quảng cáo, thu hoạch lợi nhuận của tở đó to cỡ nào? Tờ báo tư nhân cũa Ngô Công Đức được chính quyền thời kỳ mới không đánh thuế, dành ưu đãi về giá giấy, doanh thu được hưởng trọn vẹn trong gần 6 năm trời, số lợi nhuận có được Ngô Công Đức sử dụng vào những việc gì?” Dương Văn Ba viết tiếp, “Quan hệ chủ thợ trong việc trả lương báo Tin Sáng vẫn giống như thời kỳ trước giải phóng. Mọi người được cấp phát lương cố định suốt 6 năm, không có một lần tăng lương, ngoài việc cấp phát một ít quà cấp nhân dịp lễ lộc.” Sở dĩ Dương Văn Ba ta thán như vậy, bởi vì khi mới thành lập tờ báo, Ngô Công Đức có nói riêng với mấy anh em chủ chốt được mời như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, Nguyễn Hữu An và một vài anh em khác: “Tôi đứng cái, chủ nhiệm tờ Tin Sáng để làm chỗ dựa hoạt động cho các anh em trong thời kỳ mới. Chúng ta cùng ra sức xây dựng và phát triển nhật báo Tin Sáng có sức mạnh và độc giả đông đảo hơn thời kỳ trước đây. Tài chính thu được, mộ một mình tôi không giữ hết, tôi sẽ lo cho các bạn để các bạn cũng có cơ ngơi, nhà cửa đàng hoàng, sống thoải mái về tài chính..tôi là người đủ khả năng làm việc này. Tôi hứa không quên sau này sẽ chia phần cho các bạn, các bạn hãy làm việc hết sức mình.” Phần Ngô Công Đức, theo Dương Văn Ba, đã biết xử dụng những người như ông Hồng Ngọc Hải, con trai nghị sĩ Hồng Sơn Đông tham gia vào việc tổ chức in ấn và phát hành, cùng với một tay trùm buôn giấy người Hoa tên là Thạch Như Ke, tục gọi là Tỷ Giấy với sự tiêp tay của Nguyễn Tống Hạnh. Bộ ba này vừa có tiền, vừa chạy áp phe giỏi, làm kinh tế giỏi, đẻ ra tiền để hỗ trợ cho Ngô Công Đức. Ba viết tiếp, “Họ thuộc vào loại “dân nhậu có cỡ”, sáng sớm đã có thể lai rai 5-3 chai bia, chiều tối luôn luôn có mặt ở các quán nhậu với 5 -7 chai rượu chát đỏ (thời kỳ đó thịnh hành rượu Cabernet của Hungary) ông Đức đã vận dụng được tài năng làm ăn của nhóm người này, để vẫn có thể trót lọt trong các ngóc ngách của phát hành, dù là phát hành thời kỳ mới, nhưng trong giai đoạn đầu vẫn nằm trong hệ thống của những anh chị có máu mặt thời kỳ phát hành cũ. Biệt tài của ông Đức là “nhậu“ thì vẫn cứ “nhậu”, đi “chơi” thì vẫn cứ đi “chơi”, “bồ bịch” trai gái (mặt này ông cũng mạnh không thua gì nhậu), thì vẫn cứ trai gái, nhưng quan trọng hơn, việc làm ăn vẫn cứ điều hành thông suốt, guồng máy vẫn cứ chạy đều, tiền tiếp tục vẫn thu vào ào ào. Đó là bản lãnh một nhà kinh doanh tài giỏi.”(43) Thay lời kết luận Nay thì kẻ còn sống để có thể trao đổi vỏn vẹn còn có hai người: Võ Long Triều-Hồ Ngọc Nhuận. Võ Long Triều-Ngô Công Đức-Hồ Ngọc Nhuận vốn cùng xuất thân trường St. Joseph Mỹ Tho (Lasan Mỹ Tho), rồi trường dòng Taberd ở Sài Gòn, tình như thủ túc, mà lúc cuối đời họ cũng đành chia tay nhau vì ý thức hệ. Võ Long Triều đi về một phía, hai người kia về một phía mà cuối cùng những người chọn lựa đi về phía kia cũng phải nhìn nhận như Hồ Học Nhuận với Võ Long Triều: un choix malheureux(44). Phần Ngô Công Đức mà cuộc đời được kể là có rất nhiều thành tựu, nhưng lên voi xuống chó cũng không thiếu, nhưng trước khi chết lại ví mình như cánh lục bình trôi bập bềnh trên sông nước Hậu Giang! Phải chăng ít nhiều, người dân miền Nam cũng rơi vào hoàn cảnh lục bình trôi? Có những người từng trôi từ Bắc vào Nam, rồi cuối cùng trôi ra hải ngoại? Phải chăng đó là những người may mắn, tốt số? Còn những kẻ khác như Ngô Công Đức-Hồ Ngọc Nhuận-Un choix malheureux. Lục bình trôi ấy trở thành bèo băm cho heo ăn? Đúng vậy. Tôi nhìn lại thì thấy hầu như như không một người nào, trí thức, chuyên viên của miền Nam, trong đám họ đã được trọng dụng. Họ chỉ là thứ bèo băm, độn thêm cho lợn ăn! Ngay những loại chuyên viên như Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh hay nhóm Chiều thứ Sáu với các ông Trần Bá Tước, Phan Thành Chánh, Đỗ Hải Minh, Nguyễn Thông Minh, Lê Mạnh Hùng, Võ Hùng, Vốc Văn Huệ, Mai Kim Đĩnh, Trương Quang Sáng, Lê Đình Khanh, Tuấn Anh, Võ Gia Minh, Trần Quý Hỷ, Đỗ Nguyên Dũng, Phan Tường Vân, Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu Sơn, Hồ Xích Tú, Nguyễn Ngọc Hồ, Đỗ Trung Đường cũng chỉ được dùng như một chuyên viên có tính giai đoạn mà không bao giờ có vai trò quyết định, vai trò lãnh đạo.(45) Ông Lâm Võ Hoàng, một chuyên viên ngân hàng trước 1975 là người có thiện chí thuộc loại ‘khùng’, hết lòng phục vụ mong cho đất nước khá hơn cũng đã có lần mai mỉa: “Nhiệm vụ của tôi như nhiệm vụ con gà đẻ trứng. Đẻ ở đâu cũng không hay, đẻ rồi người ta mang đi làm gì cũng không biết, họ luộc ăn hay đem đi ấp cũng chẳng quan tâm.”(46) Nhưng một nhận xét sâu sắc hơn nữa về chế độ cộng sản của Lâm Võ Hoàng nằm trong câu sau đây, “Việt Nam không có chuyện gì là không dám làm. Chỉ có một điều không dám thôi! Đó là làm đúng!” Nay thì Lâm Võ Hoàng đi ‘tu cạn’, làm các công tác xã hội từ thiện dưới bóng Thánh giá của Chúa. Riêng trường hợp nhóm lực lượng thứ ba tụ tập chung quanh Ngô Công Đức để làm tờ Tin Sáng. Một mục tiêu của bài viết này, nói cho chính xác thì chính Hồ Ngọc Nhuận là cái mắt lưới, chỗ trung gian liên lạc giữa cộng sản do ông Trần Bạch Đằng-Hồ Ngọc Nhuận trước 1975. Ông Hồ Ngọc Nhuận viết: “Sau 30-4-75 lãnh đạo Cách mạng ở Thành phố cho tôi một đặc ân: lên danh sách đề nghị cho một số người có dính dáng đến các hoạt động của tôi khỏi đi học tập cải tạo tập trung. Danh sách khá dài của tôi đã bị lọc bớt khá đông.”(47) Bao nhiêu người không phải đi học tập mà chỉ phải đi học tập tại chỗ là do sự quyết định cũng như sự can thiệp của Hồ Ngọc Nhuận? Trường hợp Dương Văn Ba đáng lẽ phải đi học tập như mọi người mà nếu không có sự vận động can thiệp tích cực của Hồ Ngọc Nhuận thì cũng phải đi học tập như mọi người khác. Nhưng có hai người mà đáng lẽ, theo tôi, Hồ Ngọc Nhuận phải can thiệp. Đó là trường hợp luật sư Trần Văn Tuyên, trưởng khối Xã Hôị-Dân tộc trong Hạ Nghị viện thì Hồ Ngọc Nhuận phải miễn cưỡng chịu bó tay. Quá khứ hoạt động đảng phái Quốc Dân Đảng trong hầu như suốt cuộc đời của luật sư Tuyên không thể nào cân bằng với vài năm đứng đầu nhóm dân biểu đối lập dù ông có tên trong danh sách đề nghị “khỏi đi học tập cải tạo tập trung” của Hồ Ngọc Nhuận. Và một người quan trọng hơn cả, gấp hai lần luật sư Trần Văn Tuyên, đàn anh và người đỡ đầu cho nhóm Hồ Ngọc Nhuận-Ngô Công Đức-Dương Văn Ba trong nhiều năm, là kỹ sư Võ Long Triều. Hồ Ngọc Nhuận cũng đành ‘bó tay’! Có lẽ đây là một nỗi cay đắng để lại trong nhiều năm đối với kỹ sư Võ Long Triều và cũng đưa đến sự chia rẽ không hàn gắn được. Nhìn lại tờ Tin Sáng sau 1975, nó như một cái phao cứu sinh cho đám chủ lực thành phần thứ ba. Hầu như không thiếu một ai cả. Nhập vào nhóm Tin Sáng ít ra có một bảo đảm chính trị như thể gia nhập hội trí thức yêu nước. Vì thế có mặt những người đã từng viết cho Tin Sáng, hay Điện Tín như các ông Phan Ba, Minh Đỗ, Trần Trọng Thức, Trương Lộc, Kiên Giang Hà Huy Hà, Sơn Nam, Vũ Hạnh. Rồi hàng chục nhà giáo bạn bè của Dương Văn Ba như Huỳnh Công Minh, Hoàng Ngọc Biên, Cao Thanh Tùng, Võ Văn Điểm, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng, Đào Văn Phước, Nguyễn Ngọc Thạch, Diễm Châu. Hai gương mặt chống đối nổi tiếng Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan. Trung tá Trương Minh Đẩu, chánh văn phòng Đại tướng Minh. Tiếp theo là các cựu dân biểu đối lập thời VNCH như Nguyễn Văn Binh, Phan Xuân Huy, Hồ Ngọc Cứ, Đinh Xuân Dũng, Hồ Văn Minh, Dương Văn Long, Tạ Văn Bo, Huỳnh Ngọc Diêu, Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Công Hoan, Trần Văn Thung, Nguyễn Hữu Hiệp. Chưa kể thêm bà con anh em, vợ con đem vào làm cho Tin Sáng. Càng đông người đổ xô về Tin Sáng càng chứng tỏ sự thất thế, sự mất chân đứng của họ trong chế độ mới. Tổng cộng gần 200 người sống dựa vào Tin Sáng! Sau đó, một số đã tìm cách vượt biển đi ra nước ngoài như Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Công Hoan, Trần Văn Thung, Diễm Châu, Đinh Xuân Dũng, v.v. Những người này thường ẩn mình để khỏi lộ diện một cách không cần thiết! Một vài lời nhắn với Ông Hồ Ngọc Nhuận Đọc hồi ký của ông, cảm tưởng chung là không đến nỗi nào. Tuy nhiên, tôi vẫn tìm ra nhiều sụ việc ông đã cố tình che dấu. Thứ nhất: ông đã không cho biết rõ ràng khi làm dân biểu và được đi sang Pháp, ông đã tiếp xúc với các đại sứ cộng sản tại Paris cũng như có dịp gặp ông Trần Đình Thi, v.v. Ông đã dấu tất cả công việc đi đêm lén lút với phía cộng sản mà sau này ông Võ Long Triều đã hé lộ ra một phần. Ông bỏ qua không đề cập đến lời tố cáo của Dương Văn Ba về ông và về Lý Chánh Trung. Lời tố cáo đích danh hai người đã nhận tiền của cộng sản Hà Nội, tiền đô-la la hẳn hoi, để tổ chức, chi trả cho sinh viên xuống đường đi biểu tình. Chuyện này như thế nào? Có thật như lời Dương Văn Ba tố giác không? Khi từ Pháp về, ông đã được Trần Bạch Đằng móc nối và ông là lá bài tay sai cho cộng sản. Về điều này, Lý Quý chung đã biết được và nói với bạn bè là: “Hồ Ngọc Nhuận đã móc nối với cộng sản và sau này, Hồ Ngọc Nhuận sẽ là cái dù che chắn cho anh em miền Nam.” Ông cũng là người móc nối với Họa sĩ Ớt, tức Huỳnh Bá Thành và vì vậy, Huỳnh Bá Thành đã khuyên ông cũng như Hồ Văn Minh, Lý Chánh Trung, vào phút chót không có mặt trong chính phủ Dương Văn Minh. Ông đã lánh mặt trong những ngày này ở dinh Hoa Lan. Đúng như nhận xét của Lý Quý Chung, ngay sau giải phóng, ông được trao cho nhiệm vụ chọn lọc một số người có công với cách mạng và khỏi phải đi trình diện học tập. Chỉ phải học tập tại chỗ. Ông cũng là trí thức miền Nam duy nhất có hy vọng nằm trong bộ máy chính quyền cộng sản sau 1975. Ông là người trích dịch khá nhiều cuốn sách của Alain Ruscio như phần dẫn chứng về tờ Tin Sáng. Nhưng ông lại cố tình không nhắc nhở gì tới Annexe no. 5 nhan đề ‘Lettres aux amis d’Occident’(48). Trong lá thư dài 4 trang và hai trang với chữ ký của các trí thức miền Nam trong đó nội dung là lên án Tàu Cộng không muốn Việt Nam độc lập và ý đồ xâm lăng của Trung Quốc. Phần thứ hai nội dung tập trung vào việc giải thích và biện hộ cho chế độ cộng sản Hà Nội sau khi cưỡng chiếm miền Nam đã không có tắm máu, không có khủng bố đỏ, không có bách hại tôn giáo, không có sự tố cáo công khai, không có bạo lực khủng bố ý thức hệ, không có tẩy não, học tập cải tạo, “Không phải là những người tù khổ sai, cũng không phải là những người tù chính trị và những trung tâm này mà chúng tôi có đến thăm một vài nơi, không có giống chút nào với những trại tập trung. Ở đây, người ta học tập và làm việc. Người ta nghe đài radio và đọc báo. Những chuyến viếng thăm của gia đình, việc gửi thư và gửi quà được cho phép. Một phần lớn những người học cải tạo đã được trở về với đời sống bình thường . Dĩ nhiên, đối với gia đình và cá nhân những người ấy thì đây là một thử thách lớn lao . Nhưng sự tham gia vào xã hội mới có cái giá phải trả. Hồ Chi Minh ville 29-6-1979.” Trong số những người ký tên có ông và những người bạn của ông như Lý Quý Chung, Ngô Công Đức, Châu Tâm Luân, Phan Khắc Từ, Huỳnh CôngMinh và không thể thiếu Lý Cháng Trung. Chẳng những ông là người ký tên vào ‘Lá thư gửi cho bạn bè ở Âu Châu’, có nhiều lý do cho thấy, chính ông là người đi vận động xin chữ ký vì ông là người giao thiệp rộng rãi với nhiều người nhất. Phải nhìn nhận với sự thú nhận của ông với Võ Long Triều là: Đó là một chọn lựa bất hạnh. Thưa ông, có đúng phải vậy không? Tôi còn một thắc mắc cuối cùng đặt ra với ông Hồ Ngọc Nhuận. Đó là thường thì những nhà văn, nhà bất đồng chính kiến trong nước muốn phổ biến tài liệu, sách vở của mình thì thường gửi cho một số cơ quan truyền thông ở hải ngoại. Chẳng hạn như Tủ sách Tiếng Quê Hương do các anh Uyên Thao, Trần Phong Vũ chủ trương đã từng in nhiều sách vở từ trong nước gửi ra, nhiều khi biết là lỗ, nhưng vẫn cho in để có dịp giới thiệu những người bất đồng chính kiến trong nước. Những nhà văn, trí thức bất đồng chính kiến này thường là những người xuất thân từ trong lòng xã hội cộng sản từ 1954-1955 trở đi như các trường hợp sau đây: Vũ Thư Hiên với Đêm giữa Ban Ngày, Trắng trên đen (sách dịch Gonzalez-Gallego) Bùi Ngọc Tấn với Hậu Chuyện kể năm 2000, Viết về bè bạn, Vũ Trụ không cùng Nguyễn Mạnh Tường, Kẻ bị khai trừ Tô Hải, Hồi Ký của một thằng hèn Lê Mỹ Hân, Một Người – Một đời, Quê Hương Ngày trở lại Tạ Duy Anh, Sinh ra để chết, Đi tìm nhân vật Võ Thị Hảo, Dạ tiệc Quỷ Vũ Cao Quận, Gửi lại trước khi về cõi Nguyễn Thanh Giang, Nhân Quyền và Dân Chủ ở Việt Nam.(49) Sau này thì có thêm công ty Người Việt vào cuộc và đã in một vài cuốn như Bên Thắng Cuộc (I và II) của Huy Đức và gần đây đây cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh. Liệt kê tạm đầy đủ như thế để thấy rõ ràng những nhà bất đồng chính kiến trên có một sự tin tưởng vào các cơ quan truyền thông hải ngoại như Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Trí thức ‘thiên tả’ miền Bắc và trí thức chống cộng hải ngoại có một sự đồng thuận không cần nói ra. Nhưng riêng những thành phần lực lượng thứ ba, vốn có gốc gác miền Nam, sau đó theo cộng sản thì hình như có một điều gì đó để họ cảm thấy dị ứng, e ngại đối với những người Việt hải ngoại. Như trường hợp Lữ Phương, ông chỉ gửi bài, tài liệu cho Viet-studies.org và Diendan.forum vốn nằm trong nhóm lực lượng thứ ba. Hai nhóm này cũng chả ưa gì cộng sản, chán mứa với cái chủ nghĩa ấy và công kích cộng sản một cách kịch liệt. Phê bình, công kích cộng sản là một chuyện, họ vẫn tránh né cộng đồng người Việt Quốc gia hải ngoại. Có điều gì tương đồng giữa lực lượng thứ ba hải ngoại và lực lượng thứ ba trong nước? Riêng trường hợp hai ông Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận có nhiều bạn bè thân đang làm truyền thông ở hải ngoại và có một số bạn bè từng cộng tác với tờ Tin Sáng sau 1975 mà hiện nay cũng đang ở hải ngoại. Vì cớ gì, các ông không gởi để bạn bè mình phổ biến? Chẳng hạn bạn bè cùng lớp và thâm giao của Dương Văn Ba như Huỳnh Phan Anh ở San Jose, Hoàng Ngọc Biên (không học cùng lớp), Phạm Phú Minh cũng cùng lớp hiện là chủ bút tờ báo mạng Diễn đàn Thế kỷ 21, Nguyễn Đồng và vợ là chị Nguyễn Thị Hợp làm việc cho Tin sáng sau 1975 và đã làm việc lâu năm cho tờ Người Việt. Tôi rất rõ ràng là không phải cứ làm việc cho Tin Sáng sau 1975 là cùng phe phái. Nếu muốn in cuốn hồi ký Những ngã rẽ mà giao cho Phạm Phú Minh thì chắc cũng được anh tận tình lo liệu không mấy khó khăn. Hoặc tôi cũng thẳng thắn – không cần dấu diếm, úp mở gì cả – là nếu giao cho tôi thì tôi cũng có thể tôi nhờ Tủ Sách Tiếng Quê Hương xuất bản không mấy khó khăn gì. Trường hợp Hồ Ngọc Nhuận lại càng dễ dàng hơn nữa. Ông có thể nhờ Võ Long Triều, một người cũng rất có uy tín với tờ báo Người Việt; hoặc giao cho dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ thì chắc ăn, một trong những người sáng lập góp vốn trong công ty Người Việt ngay từ lúc sơ khởi, cũng vốn là bạn trong Phong trào TSC, cũng được điều về làm giám đốc trong bộ Thanh Niên. Và chắc ăn hơn nữa là giao cho ông Đỗ Quý Toàn, thuộc lớp cựu trào và hiện nay vẫn là cây bút chống Cộng chủ lực của tờ Người Việt, thành viên sáng lập công ty Người Việt, có tờ báo mà trước khi có những xích mích ông coi là “Tờ báo đó lại là của những người tôi từng coi là bạn và tới giờ nầy tôi vẫn muốn kính nể như là những người không thể để cho bất cứ ai lợi dụng để dựng chuyện bôi xấu bạn bè mình.”(50) Theo Hồi ký Đời, khi hay tin ông có dịp sang Pháp, thì ông Đỗ Quý Toàn từ Montréal đã bay sang Bordeaux để gặp ông. Cũng theo ông thì vợ ông Đỗ Quý Toàn “và các bạn khác trong tờ Người Việt, tại Quán Văn Nghệ của anh Nguyễn Ngọc Thạch ở số 14 đường Lam Sơn, Quận Bình Thạnh, Sàigòn.” Phòng Trà VĂN NGHỆ 14 Lam Sơn, P 6, Q. Bình Thanh TP Hô Chí Minh ĐT ( 3510-4390 ). Ảnh (2010), www.phongtratiengxua.com/Phòng Trà VĂN NGHỆ, 14 Lam Sơn, P 6, Q. Bình Thạnh, TP Hô Chí Minh, ĐT ( 3510-4390 ). Ảnh (2010), www.phongtratiengxua.com/Nhưng khi ông gửi thư cho ông Đỗ Quý Toàn ghi địa chỉ báo Người Việt về bài số 28, Hồi ký Võ Long Triều đăng trên báo Người Việt thì tờ Người Việt đã tự động cắt bỏ đoạn này. “Sau khi nói để ông hiểu, chúng tôi vẫn cho đăng nguyên văn thư của ông để rộng đường dư luận và xin giành quyền cắt bỏ những điều không liên quan gì đến vấn đề được nêu trong thư.” (Trích thư báo Người Việt, trên số báo ngày thứ hai 26-02-2007). “Không biết quý vị chủ trương báo NV cắt bỏ đoạn nầy chỉ vì cho rằng nó không liên quan đến vụ việc, hay vì quý vị không thích về Sàigòn, cũng không muốn cho độc giả biết ở báo NV cũng không thiếu người về Sàigòn, mà không chỉ một lần.”(51) Và vì thế có sự xích mích giữa đôi bên. Nguyễn Ngọc Thạch là cựu sinh viên Đà Lạt, đồng khóa với Dương Văn Ba năm 1961, và cũng là cây bút viết phiếm sâu sắc của Tin Sáng trước 1975 và sau 1975. Nhân tiện đây cũng nói thêm, và chả có gì cần dấu diếm, là tôi có dịp ra Bắc và chỉ mong gặp nhiều trí thức, nhà văn miền Bắc ở Hà Nội. Vì thế, tôi có đến thăm và đến chơi tòa báo tiến bộ Tia Sáng của các trí thức thuộc loại ‘bô xít’ ngoài Bắc. Nơi đây, tôi có dịp gặp một số nhà văn, trí thức miền Bắc, dự hội thảo, dự các buổi trao giải thưởng, v.v. Ở Sài Gòn, tôi có được đi dự một buổi vinh danh ông Trần Văn Khê. Dự như thế là vừa được ăn thật ngon, thật đắt tiền, vừa có bao thư, về mở ra có 50.000 đồng. Đủ để bao bạn đi ăn phở và uống cà phê! Chỉ không biết mấy ông lãnh đạo từ miền Bắc vào dự như ông Vũ Mão, tiền máy bay, tiền Hotel và tiền bao thư là bao nhiêu? Cứ nghĩ đến chuyện bao thư 50.000 đồng là lạ thật. Trong đó đặc biệt có nhà thơ Lê Đạt (nay đã qua đời) và nhất là nhà văn Nguyên Ngọc. Biết tôi từ Montréal, họ hỏi thăm tôi có biết Đỗ Quý Toàn không. Tôi gật đầu. Họ khen ông Toàn lắm, khen đó là một người chống cộng sản ‘đứng đắn’. Với những bạn bè tâm giao như vậy, không hiểu vì lý do gì ông Hồ Ngọc Nhuận lại không trao cuốn Hồi Ký Đời cho công ty Người Việt, mà lại trao cho đám trí thiên thức tả ở Paris đã lỗi thời rồi! Và họ không có chủ trương và cũng có thể không có điều kiện xuất bản thành sách. Bây giờ mà còn tả cái nỗi gì! Thưa ông Nhuận. Và tôi tin chắc cuốn sách sẽ được công ty người Việt giới thiệu chả kém gì cuốn “Bên Thắng Cuộc” hay “Đèn Cù” cả. Cờ đến tay mà không phất thật uổng. ( trích đăng lại bài từ DCVOnline.net )
(30) Lý Quý Chung, Hồi ký Không Tên, phần sau ngày 30 tháng tư (31) Võ Long Triều, Hồi ký Võ Long Triều, kỳ 26, 19/1/2007 (32) Lý Quý Chung, Ibid. (33) Dương Văn Ba, Những ngã rẽ, chương 13, Làm báo trong chế độ mới (34) Dương Văn Ba, Ibid. (35) Dương Van Ba, Ibid. (36) Dương Van Ba, Ibid., Chương 14, Nội bộ báo Tin Sáng rạn nứt. (37) Lý Quý Chung, Ibid., Đọc hồi ký không tên, Trần Bạch Đằng, tháng 8, 2004 (38) Võ Long Triều, Ibid., bài 27. (39) Alain Ruscio, Vivre au Viet Nam. Con số vừa trích dẫn ở trên chỉ nằm trong phần chú thích của Alain Ruscio. (40) Hồ Ngọc Nhuận, Đời, Chương X, Anh em Tin Sáng của tôi. (41) Lý Quý Chung, Ibid., Chương sau ngày 30/4/1975 (42) Lý Quý Chung, Ibid. (43) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 14, Nội bộ Tin Sáng rạn nứt. (44) Hồ Ngọc Nhuận, Ibid., Bản 2010.
“Ông đã trả lời với tôi “không sai, nhưng mà c’est un choix malheureux.” Đúng nghĩa chữ Pháp un choix malheureux c’est-à-dire un mauvais choix. Tôi không muốn buộc ông phải nhận sai lầm, tôi càng không muốn chạm tự ái ông làm gì, tôi chỉ muốn hiểu ông rõ hơn thôi.” [Thư Võ Long Triều viết cho Hồ Ngoc Nhuận từ Paris, ngày 12 tháng 6, 1994.]
“Còn tôi nói “ choix malheureux ” là vì cái lý tưởng mà đã hơn một lần tôi sống thật chớ không chỉ nói, nó không thành hay chưa thành, thế thôi… Và vì đất nước vẫn chưa như lòng tôi muốn. Còn như ông muốn hiểu chữ malheureux chỉ có nghĩa là sai, thì đó cũng là cách hiểu vốn có của ông vậy.” [Thư Hồ Ngọc Nhuận viết cho Võ Long Triều từ Bordeaux ngày 17 tháng 6, 1994.]
(45) Người viết bài này có hai cuốn sách của ông Lâm Võ Hoàng, tập trung những bài viết báo của ông trong khoảng 20 năm, in tháng 08-2002. (46) Xem thêm Đông Hải, Đường hòa nhập của những nhân sĩ chế độ cũ, tuanvietnam.net, tháng 6, 2010. (47) Hồ Ngọc Nhuận, Đời, trang 163. (48) Alian Ruscio, Ibid., trang 229 (49) Tiêu Dao Bảo Cự, Tiếng Chim Báo bão, là trường hợp ngoại lệ, tác gỉa là dân miền Nam, theo MTGPMN. (50, 51) Hồ Ngọc Nhuận, Ibid., “Thơ gởi Đỗ Quý Toàn” 9 tháng 2 năm 2007.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 6, 2015 4:38:14 GMT 9
Dương Văn Ba (1942-2015)DCVOnline cimexcolSÀI GÒN | Ông Giuse Dương Văn Ba, cựu giáo chức, một người hoạt động chính trị và kinh doanh, vừa qua đời tại Sài Gòn. Dương Văn Ba (1942-2015). Hình do bạn học của ông Dương Văn Ba cung cấp. Sinh năm 1942 tại Bạc Liêu, trước 1975, ông Ba tốt nghiệp sư phạm ban Triết tại đại hoc Đà Lạt, là một thầy giáo dạy triết ở trung học, rồi nhà báo và dân biểu đối lập trong Hạ nghị viện khóa 1967-1971 thời Việt Nam Cộng Hòa. Ông cũng là Thứ trưởng Bộ Thông tin trong chính quyền 2 ngày của Tổng thống Dương Văn Minh.
Sau 1975, ông được chính quyền CSVN miễn không bắt đi học tập cải tạo và được cho đi học khóa đặc biệt 3 tuần lễ do ủy ban Mặt trận tổ quốc tổ chức và cũng cho phép ông tiếp tục làm báo; ông Ba làm việc cho tờ nhật báo Tin Sáng.
Từ 1984 đến 1987, ông đi buôn, làm phó giám đốc Công ty CIMEXCOL Minh Hải. Năm 1987, Cimexcol Minh Hải bị TAND tối cao truy tố trước tòa 21 bị cáo theo sáu tội danh: tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa; cố ý làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng; đưa hối lộ, nhận hối lộ; buôn bán hàng cấm và tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Dương Văn Ba bị hội đồng xét xử đánh giá là “người cầm đầu, chủ mưu, có vai trò quan trọng nhất và quyết định nhất trong vụ án”, phạm ba tội “tham ô tài sản XHCN; cố ý làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng; đưa hối lộ”, bị tuyên phạt tù chung thân nhưng chỉ ở tù đến năm 1995. Giới quan sát cho rằng sau vụ án Cimexcol Minh Hải là cuộc tấn công của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nhằm vào ông Võ Văn Kiệt.
Cuối năm 2014, ông bị tai biến mạch máu não, nằm bất động cho tới khi từ trần. Theo cáo phó của gia đình cho hay ông “đã được Chúa gọi về lúc 22 giờ 30 ngày 21 tháng 11, 2015”, thọ 73 tuổi. Lễ tang sẽ được tổ chức ngày thứ Hai 23 tháng 11, 2015; thánh lễ sẽ cử hành vào 5 giờ chiều thứ Năm, 26/11/2015, tại Thánh đường Giáo xứ Vườn Xoài và sau đó linh cữu sẽ được hoả thiêu ở Bình Hưng Hoà. Cũng theo tin từ gia đình, ông Dương Văn Ba đã được rửa tôi, trở thành một Ki-tô hữu từ năm 2012.Là một người hoạt động và gây sóng gió trước và sau 1975, tang lễ của ông Dương Văn Ba có một số vòng hoa phúng điếu mang những hàng chữ như “Phong trào HS SV 75”, “Gia đình Tin Sáng”, “Gia đình Cimexcol”, “Gia đình Châu Tâm Luân”, v.v. Trong hồi ký “Những ngã rẽ”, Dương Văn Ba nhận định: “Tự do báo chí thời chế độ cũ là một thứ tự do lừa phỉnh, không nên hình nên dáng, cóp nhặt và sao chép không đúng chính hiệu của các nước phương Tây. Thực tế mà nói hoàn toàn không có tự do báo chí thời kỳ Ngô Đình Diệm và thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu.”
“Báo chí trong chính quyền mới từ sau tháng 4 – 1975 được sự chỉ đạo, hướng dẫn, quan sát, kiểm tra của Đảng để ngày ngày báo chí càng mạnh hơn, càng có sức nặng trước dư luận quần chúng, báo chí góp phần tạo nên tiến trình phát triển của đất nước trong hướng có văn hoá, văn minh, trong hướng càng ngày càng phát triển các quyền tự do dân chủ cơ bản của nhân dân: đó là quyền tự do làm ăn kinh tế, đó là quyền được hưởng một nền giáo dục hiện đại, tiến bộ kịp trào lưu thế giới, đó là quyền được nói thẳng thắn về những điều còn khiếm khuyết, còn lạc hậu của những người cầm quyền, đó là quyền được tự do tìm hiểu các thông tin tiến bộ của thế giới, đó là quyền được sống ngang tầm hoà bình, giao lưu hữu nghị với mọi dân tộc tiến bộ.”Cho đến hôm nay, dường như không một tờ báo nào ở trong nước đưa tin về việc ông Dương Văn Ba từ trần. Vẫn theo tin từ gia đình và thân hữu cua ông Dương Văn Ba thì tờ “báo Tuổi Trẻ từ chối đăng Cáo phó Dương Văn Ba vì có ghi các chức vụ trước 1975, còn báo Thanh Niên cố tình đăng thật nhỏ.” Cáo phó của gia đinh ông Dương Văn Ba trên báo Thanh Niên. Nguồn: bạn cùng học với ông Dương Văn Ba.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 15, 2017 5:39:15 GMT 9
KINH NGHIỆM LÀM BÁO SINH VIÊN NỬA THẾ KỶ TRƯỚC 1964 - 1967 NGÔ THẾ VINH Đã 42 năm sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, vẫn còn những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Chỉ riêng tên tuổi Thích Trí Quang đã gây ra rất nhiều tranh cãi. (1) Có nhiều nhãn hiệu gán cho ông: với một số người Việt chống cộng hoặc còn suy tôn ông Diệm thì cả quyết Thích Trí Quang là cộng sản đội lốt tu hành hoạt động với sự chỉ đạo của Hà Nội; nhưng ngay với giới chức cộng sản cũng đã từng coi Trí Quang là một loại CIA chiến lược; còn theo tài liệu giải mật của CIA thì đánh giá Trí Quang không phải cộng sản, mà là một nhà tu hành đấu tranh cho hòa bình và muốn sớm chấm dứt chiến tranh. Thêm nguồn tài liệu còn lưu trữ về những cuộc đàm luận giữa Trí Quang và các giới chức Hoa Kỳ, cho rằng Trí Quang chống cộng mạnh mẽ và hiểu được sự việc xử dụng quân đội Hoa Kỳ để chống lại Cộng sản Bắc Việt và Trung cộng. Và trong phần trả lời phỏng vấn của báo Sinh viên Tình Thương, khi "đề cập tới sự nguy hiểm của Cộng sản, TT Trí Quang đã so sánh họ với những chiếc lá vàng có đóng đinh, phải cần tới một cơn gió lốc cách mạng thổi đúng hướng, không phải làm bay những niềm tin mà là bốc sạch đám lá vàng có đóng đinh là Cộng sản." Vậy thì đâu là sự thật? Đâu là con người thật của Thích Trí Quang? Như câu hỏi trong phim Rashomon, một kiệt tác điện ảnh của Nhật Bản. Người viết sẽ không đưa ra một kết luận nào về chân dung Thích Trí Quang, nhưng muốn trở lại bối cảnh chính trị xã hội của thập niên 1960s, khi mà tên tuổi Trí Quang hầu như gắn liền với những biến động thời bấy giờ. Trong khi thông tin về các phong trào Phật giáo tranh đấu ngoài miền Trung rất nhiễu loạn, thì tại Sài Gòn, ngoài một cuộc phỏng vấn hiếm hoi dành cho tuần báo TIME 04.22.1966 với hai ký giả McCulloch và James Wilde; Thích Trí Quang sau đó trở ra Huế và rất ít khi dành cho báo giới Tây phương những cuộc tiếp xúc nào khác. Riêng với TÌNH THƯƠNG tuy chỉ là tờ báo của sinh viên Y khoa nhưng lại rất quan tâm theo dõi thời cuộc, được sự chỉ định của Toà báo, hai phóng viên Phạm Đình Vy (5) và Ngô Thế Vinh đã bay ra Huế, được gặp và thực hiện cuộc phỏng vấn Chín mươi sáu phút với Thượng Toạ Thích Trí Quang buổi chiều ngày 5-5-1966 tại Chùa Từ Đàm Huế. Và bài phỏng vấn này đã được đăng ngay trên báo Tình Thương số 29, 1966, và đã được phóng viên của US News & World Report xin dịch sang tiếng Anh nhưng rồi không rõ lý do, bài báo đã không được phổ biến sau đó. Thích Trí Quang nay cũng đã 94 tuổi, ông sinh năm 1923; từ sau 1975 ông sống lặng lẽ những năm tháng cuối đời trong ngôi chùa Già Lam ở Gò Vấp. Và nay qua bộ báo Tình Thương mà Thư quán Bản Thảo của nhà văn Trần Hoài Thư (4) mới phục hồi lại được, trong đó có số báo TT 29, với 4 trang 2-3-4-5 đăng trọn vẹn cuộc phỏng vấn đã thực hiện từ hơn nửa thế kỷ trước. Chúng tôi cho phổ biến bài báo này, không ngoài mục đích chỉ muốn cung cấp thêm một sử liệu hiếm quý về một Thích Trí Quang khác tưởng như đã thất lạc tới các bạn trẻ và các sử gia tương lai. Ngô Thế Vinh CHÍN MƯƠI SÁU PHÚT VỚI THƯỢNG TOẠ THÍCH TRÍ QUANG [05.05.1966] NGÔ THẾ VINH & PHẠM ĐÌNH VY ĐỘNG CƠ THÚC ĐẨY Với những rối loạn chính trị trong tuần lễ vừa qua, có một hiện tượng TRÍ QUANG trên khắp các báo chương ngoại quốc. Tuần báo Time coi ông như xuất hiện một Machiavel mới, trong khi báo L'Express gán cho ông là mẫu người đang làm rung động cả Mỹ quốc, đó là chưa kể tới những bài báo nói về ông đăng trên US News and World Report và Newsweek... Hiện tượng trên cũng được các báo Việt ngữ toa rập theo, thích thú đem ra phiên dịch và đăng tải; nhiều người coi đó như một khám phá mới lạ về một nhà tu hành tài ba, nhiều quyền lực nhưng cũng rất bí ẩn và khó hiểu. Đã từ lâu chúng tôi vẫn có thành kiến với các nhà báo ngoại quốc khi họ nhận định về các vấn đề Việt Nam và chúng tôi thành thật tin tưởng rằng không một người ngoại quốc nào am hiểu vấn đề Việt Nam bằng chính những người Việt. Cái thái độ dễ dàng tin cậy vào mấy ông nhà báo ngoại quốc trong công việc tìm hiểu đất nước mình nếu không bắt nguồn từ một thái độ ỷ lại của báo chí Việt thì cũng đang coi là một hiện tượng quái gở. Trở lại trường hợp Thích Trí Quang, từ nhận định bảo ông là cộng sản đến ý nghĩ một tay quốc gia cực đoan, hình như chỉ cần một chút ngộ nhận. Nghĩ rằng tôn giáo sẽ còn đóng một vai trò quan trọng trong tương lai chính trị miền Nam, việc tìm hiểu mẫu một nhà tu-hành-dấn-thân đang có nhiều ảnh hưởng là điều cần thiết, đó là lý do cuộc gặp gỡ Chín mươi sáu phút với Thượng Toạ Thích Trí Quang buổi chiều ngày 5-5-1966 tại Chùa Từ Đàm Huế. NHỮNG SAI LẦM CỦA TIME Hình như có một sự khác biệt rất xa giữa thực trạng miền Trung và các tin tức thổi phồng trên báo chí. Sau hơn bốn tuần lễ tranh đấu, Huế đã có một khuôn mặt sinh hoạt bình thường ngoại trừ những biểu ngữ khẩu hiệu còn treo dán rải rác, các chữ Bãi Khoá Bãi Thị kẻ sơn còn lưu vết trên nền tường; các cô nữ sinh Quyết tử đã lại tóc thề áo dài trắng tới trường đi học, súng ống cũng được trả lại cho quân đội, đài phát thanh cho đọc thông cáo kêu gọi tất cả sinh viên họp đại hội để bàn về bình thường hoá sinh hoạt Đại học. Nơi bến Toà Khâm, ngay trước khu Đại học, các tàu Há Mồm của Mỹ đang đổ lên bến chồng chất những thực phẩm và đạn dược, đám trẻ con xúm quanh đùa rỡn với những anh lính Thuỷ quân Lục chiến Mỹ. Trước trụ sở Thông tin ngoài các khẩu hiệu đòi bầu cử Quốc hội, chống chánh phủ Trung ương, còn có khẩu hiệu lên án Việt cộng pháo kích vào Thành nội sát hại dân chúng... Dấu vết những ngày máu lửa chỉ có vậy. Trên dốc tới Nam Giao, chùa Từ Đàm vẫn yên tĩnh nằm đó. Ngoài một số đệ tử đi lễ chùa, trong sân không có chút náo nhiệt của những phút tranh đấu. Nơi nhà Trai, trong bộ đồ rộng trắng, Thượng toạ Trí Quang đang ngồi bình thản đánh cờ với một cụ già, ngồi cạnh đó là một nhà sư trẻ Thích Mẫn Giác. Khi chúng tôi tới ván cờ đã mãn với phần thắng về phía Thượng Toạ, dĩ nhiên. Tuy chưa giáp mặt ông lần nào, chúng tôi đã biết mặt Thượng toạ qua hình ảnh báo chí, và đặc điểm đầu tiên để nhận ra ông là đôi mắt vô cùng sắc sảo. Không với một cử chỉ xa cách nghiêm trọng, không với cả tia nhìn mãnh liệt như thôi miên, Thượng toạ vui vẻ tiếp chúng tôi qua những nụ cười dễ gây thiện cảm và những cử chỉ tự nhiên thoải mái. Vào đề ngay, chúng tôi nhắc tới những lời tuyên bố của Thượng toạ trên các báo chí ngoại quốc, đặc biệt là bài của tuần báo TIME (2). Thượng Toạ cho biết: -- Họ có tới gặp tôi hỏi ý kiến, tôi cũng có trả lời họ một số những câu hỏi, nhưng khi bài đăng có cả những ý kiến mà tôi không hề nói, tính tôi không bao giờ muốn đính chính, bởi vậy trong các bài báo đó có những điều sai lạc. Chẳng hạn tuần báo TIME gán cho tôi óc bài ngoại gay gắt và nhất là muốn quay lại thời Hoàng kim của đời nhà Lý là một điều hoàn toàn bịa đặt. Không bao giờ tôi chủ trương như vậy; hơn nữa công thức đời nhà Lý với những thày chùa hăng hái nắm quyền chính hoàn toàn không còn thích hợp với thời đại bây giờ, mơ ước điều đó là vô lý. Cũng như khi hỏi tôi về Quốc hội, tôi chỉ nhấn mạnh với họ ở mấy điểm: số người đi bầu, sự xâm nhập của Việt cộng và cách bầu gián tiếp người lãnh đạo hành pháp qua một Quốc hội trung gian. Còn về tiểu sử Thượng Toạ, ông cho rằng đó chỉ là tài liệu không xác thực của Công an. Xem ra bài báo TIME đã mô tả nhiều điều không đúng ý Thượng toạ nhưng chúng tôi không muốn đi sâu vào thêm. CHIẾN TRANH HAY HOÀ BÌNH Từ những nhận định cho ông có óc bài Mỹ, nhiều người e sợ rằng Quốc hội đầu tiên được thiết lập với ảnh hưởng của Phật giáo sẽ biểu quyết yêu cầu Mỹ rút lui khỏi Việt Nam để đi tới thương thuyết và chấm dứt chiến tranh. Thượng Toạ cho rằng: -- Bây giờ còn quá sớm để nói tới nên thương thuyết hoặc tiếp tục chiến tranh. Chỉ biết rằng chính quyền hiện tại chẳng đại diện cho một ai và hậu quả là tình trạng vô cùng bi thảm về chính trị cũng như quân sự. Nói chiến tranh thì chẳng ra chiến tranh, nói thương thuyết thì lại càng nhục nhã, chỉ có Mỹ với Hà Nội mà không ai đếm xỉa tới chính phủ Sài Gòn. Bởi vậy, chúng ta bắt buộc phải có một Quốc hội, một chính quyền dân cử, tạo một khuôn mặt quốc gia cho đúng nghĩa một Quốc Gia, việc chiến hay hoà là do nơi Quốc hội. Nếu tiếp tục chiến tranh thì lúc đó mới đúng nghĩa là một cuộc chiến tranh và nếu thương thuyết thì đó đúng là một cuộc thương thuyết nghĩa là chúng ta đã có một ưu thế. Phải ngồi trên chiếc xe lúc đó mới nói tới chuyện lái tới hoặc lui. Đó là phải cho có một Quốc hội. Và tôi cũng không dại gì đính chính là không muốn thương thuyết để mang lấy tiếng hiếu chiến. Khi nhắc đến giải pháp Trung Lập mà có người nghĩ rằng đó là chủ trương tương lai của Phật giáo, Thượng toạ Trí Quang nói: -- Nếu có thương thuyết để tiến tới giải pháp trung lập thì nền trung lập đó phải như thế nào. Người liều lĩnh nhất cũng không thể chấp nhận một hoàn cảnh như Lào. Pathet Lào trước đó là một phe nổi loạn, hiệp ước đình chiến 62 ở Lào là một công khai chấp nhận cuộc chiến tranh đó, Pathet Lào đương nhiên được hợp thức hoá và lại tiếp tục chiến đấu và thực sự không có một nền trung lập ở Lào. Như Việt Nam với tình trạng hiện giờ, một ký kết như thế là đương nhiên chấp nhận Việt Cộng và chỉ trong sáu tháng là miền Nam rơi vào tay họ. Bởi vậy tôi vẫn nghĩ phải có chiếc xe cái đã, một Quốc hội được đa số dân chúng đi bầu, đến lúc đó hãy tính xa hơn. Mọi dự đoán trước theo tôi là quá sớm. MỘT QUỐC HỘI KHÓ KHĂN Khi đề cập tới những khó khăn của một Quốc hội sắp tới: Cộng sản, Chính quyền hiện tại và người Mỹ; Thượng toạ cho rằng: -- Hơn ai hết, người dân quê Việt Nam đã có kinh nghiệm Cộng sản là thế nào rồi và họ biết rõ ai là Cộng sản ai không. Bởi vậy không đáng lo ngại sự xâm nhập của Việt cộng vào Quốc hội. Còn về phía chính quyền, Phật giáo đã giữ đúng lời hứa và để cho chính quyền có cơ hội thực hiện lời cam kết của mình với dân chúng về vấn đề Quốc hội. Nếu là một chính quyền thiện chí họ hãy tỏ thiện chí đó trong việc đi tới một Quốc hội. Nếu chính quyền phản bội thì không những lịch sử sẽ phán xét họ mà chính dân chúng sẽ có ngay phản ứng. Việc duy trì chính phủ hiện thời cho tới ngày bầu Quốc hội cũng là một cách để những tướng lãnh phản bội âm mưu phá hoại không có cơ hội lẩn tránh hèn nhát những trách nhiệm mà họ gây ra trước lịch sử. Còn người Mỹ thực tâm muốn miền Nam có một Quốc hội hay họ muốn ngăn cản, điều đó chưa thể đo lường được, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải tin ở mình và không nên có những hành động làm cho người Mỹ khiếp sợ. CÁC TƯỚNG LÃNH SAU QUỐC HỘI Khi đề cập đến vai trò các tướng lãnh hiện thời và sau ngày có Quốc hội, Thượng toạ Trí Quang nhận định: -- Nào là tình trạng chiến tranh, nguy cơ của Cộng sản, các tướng lãnh kêu gọi dân chúng, tôn giáo, đảng phái phải đoàn kết thì chính họ lại chia rẽ hơn ai hết. Họ tranh giành quyền hành, thanh toán nhau vì quyền lợi và loại dần những tướng lãnh có công khác. Nhưng trước sự chống đối của dân chúng, trước hiểm hoạ đe doạ họ liên kết chặt chẽ hơn ai hết để bảo thủ quyền lợi và lũng đoạn dân chủ. Bởi vậy mối băn khoăn chính của nhiều người là làm sao trả họ về vị trí thuần tuý quân sự, gây lại sức mạnh uy tín và kỷ luật quân đội cùng phục hồi danh dự cho những tướng lãnh có công khác. Hiện thời người ta phải chứng kiến một trung ương các tướng lãnh chỉ âm mưu thanh toán nhau để tự đi đến chỗ đào thải. Tại các địa phương dân chúng vẫn dành nhiều cảm tình cho các tướng lãnh trong sạch có công với cách mạng tháng 11. Như trung tướng Đính được dân chúng miền Trung chấp nhận cũng ở trong trường hợp đó. VỚI NGƯỜI MỸ Cuộc tranh đấu cho Quốc hội vừa qua có pha mùi Bài Mỹ khiến cho nhiều e ngại và tự đặt ra nhiều giả thuyết về sự lợi dụng của Cộng sản. Với vai trò của người Mỹ ở Việt Nam, Thượng toạ Trí Quang cho rằng: -- Sau cuộc cách mạng 63, người Mỹ được hưởng ở Việt Nam vô số lợi lộc: gia tăng gấp bội quân số, chiếm được những căn cứ tốt như Đà Nẵng, Cam Ranh; được thêm cả nước Thái Lan. Không chắc người Mỹ thực tâm muốn chống cộng tại Việt Nam, họ muốn duy trì Cộng sản, duy trì cuộc chiến tranh này để thủ lợi. Vì nếu thực tâm người Mỹ muốn, họ có thể làm khá hơn nhiều cục diện bây giờ bằng cách trợ giúp Việt Nam vừa chống cộng vừa xây dựng những căn bản dân chủ hơn là nâng đỡ những chính phủ tay sai. Điển hình là vụ Đà Nẵng vừa qua. MỘT TRƯỜNG HỢP ĐÀ NẴNG Theo Thượng toạ thì nhờ phước ông bà mới không xảy ra vụ đổ máu tại Đà Nẵng. Ngoài trách nhiệm lỗi lầm của ông Kỳ trước lịch sử còn những trách nhiệm lớn lao của Mỹ. Việc người Mỹ xử dụng những chiếc C130 để chở những tiểu đoàn Thuỷ quân Lục chiến và xe tăng ra đàn áp phong trào dân chúng đấu tranh tại miền Trung là một lỗi lầm không thể tha thứ, Thượng toạ nói: -- Chỉ cần một chút nữa là xẩy ra đổ máu lớn lao với trách nhiệm nặng nề về phía người Mỹ. Lịch sử Mỹ Thế kỷ Hai Mươi sẽ có ba vết nhơ: ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản, đàn áp nền cộng hoà San Domingo và vết nhơ thứ ba là vụ Đà Nẵng. MỘT CHÍNH PHỦ PHẬT GIÁO Khi nhắc tới nhận định của Tuần báo Newsweek cho rằng sở dĩ Thượng toạ Trí Quang đòi bầu cử gấp rút một Quốc hội vì ông tin rằng tổ chức Phật giáo sẽ thắng thế trong cuộc bầu cử đó và chính phủ tương lai sẽ là một chính phù Phật giáo với bàn tay chi phối trực tiếp của Chùa chiền, Thích Trí Quang đã phủ nhận mạnh mẽ ý kiến đó và bày tỏ rằng: -- Quan niệm đó không những không có lợi gì mà còn làm mất Danh Dự của Phật giáo. Tôi hoàn toàn không mong muốn như vậy. Kinh nghiệm cho thấy với những chính phủ tạm thời dù được hậu thuẫn của tôn giáo này hay tôn giáo khác chỉ cần những cuộc biểu tình vài trăm người cũng đủ xụp đổ. Như một chính phủ thành lập do hậu thuẫn của Phật giáo sẽ gặp ngay những khó khăn với các tôn giáo bạn, không làm được việc gì mà chính Phật giáo lại mang tiếng. Bởi vậy Phật giáo không bao giờ muốn tái diễn nhưng lỗi lầm của thời ông Diệm. Tranh đấu cho Quốc hội, Phật giáo chỉ muốn xây dựng một cái gì thực sự cho quốc gia dân tộc trong đó không phải chỉ có những Phật tử mà là cả những thành phân Tôn giáo bạn và các tầng lớp dân chúng. Quốc hội, Chính phủ sẽ không đại diện cho một ưu thế riêng nào mà là đại diện xứng đáng của dân chúng. CHIẾN TRANH TÔN GIÁO Rối loạn tháng Tám năm 1964 với những vụ thảm sát trong thành phố vẫn lá ám ảnh đen tối trong đầu óc nhiều người. Sự cọ sát giữa hai tôn giáo trong những ngày gần đây làm thức dậy nỗi ám ảnh đó. Viễn tượng một cuộc chiến tranh tôn giáo đã được một số báo chí e ngại nhắc tới. Theo ý Thượng toạ sự thật sự đe doạ đó như thế nào. Thích Trí Quang cho rằng: -- Sự e ngại đó quá đáng và không thể nào có. Những đáng tiếc hồi tháng Tám là do âm mưu của Nguyễn Khánh, hoàn toàn ngoài ý muốn của các vị lãnh tụ Tôn giáo. Khi phải tiếp xúc cới những vị lãnh đạo tôn giáo bạn, tôi có nói rằng chẳng thà thực sự có một cuộc chiến tranh tôn giáo vì quyền lợi hai phía; nhưng mâu thuẫn quyền lợi đó hoàn toàn không có. Bởi vậy không vì lý do gì để xảy ra những điều đáng tiếc mà nguyên nhân chỉ tại một anh tướng Kaki đứng ở giữa. TÍN ĐỒ HAY CÔNG DÂN Việc tiến tới Quốc hội Lập hiến một cách nhanh chóng là công của Phật giáo, nhiều người nghĩ như vậy. Đó là điều mà Thượng toạ Trí Quang không muốn. Ông nói: -- Một phong trào đấu tranh có màu tôn giáo sẽ gặp nhiều khó khăn, tự nó gây ra những mặc cảm thắng bại nơi các tôn giáo bạn. Bởi vậy tôi vẫn muốn các phong trào tranh đấu dân chủ phát xuất tự quần chúng không mang màu sắc tôn giáo, nếu có lợi cho tổ quốc, Phật giáo sẽ đứng sau hậu thuẫn. Trong cuộc xáo trộn vừa qua, khi gặp các Đại diện Hội đồng Đô Thành, tôi có nói: quý vị là đại diện cho các tầng lớp dân chúng, nếu chính quý vị đứng ra tranh đấu cho Quốc hội, Phật giáo sẽ đứng sau ủng hộ quý vị. Và trong thâm tâm tôi mong muốn như vậy. Sau khi tỏ ý không tin tưởng vào thực lực các đảng phái quốc gia, Thượng toạ cho rằng vai trò tranh đấu cho tự do dân chủ chính là bổn phận của thanh niên sinh viên chứ không phải của Phật giáo hay một tôn giáo nào. Thượng toạ nói: -- Tôi hiểu rằng khi các anh em sinh viên tham dự cuộc tranh đấu chống ông Diệm năm 1963, anh em nhìn các vị Thượng toạ hồi đó khác bây giờ. Tôi muốn được giữ nguyên cái nhìn lúc trước, bởi vậy tôi muốn Phật giáo cũng như các tôn giáo bạn được trở về vị trí của mình. Phật giáo bất đắc dĩ phải đứng ra lãnh đạo các cuộc đấu tranh là một điều tôi thấy rất chướng. blank Nguyệt san Tình Thương số 29: 4 trang 2-3-4-5 đăng trọn vẹn cuộc phỏng vấn Thích Trí Quang ngày 05.05.1966 tại Chùa Từ Đàm Huế [nguồn: tư liệu của Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo] NIỀM TIN TẤT THẮNG Trái hẳn với triết lý nhà Phật hiểu theo nghĩa thông thường là xuất thế và yếm thế, Thượng toạ Thích Trí Quang mang khuôn mặt của một nhà tu hành mới: một Nhà-Sư-Dấn-Thân, dấn thân vào tất cả những biến động xã hội, dùng tất cả những uy tín và quyền năng sẵn có để lèo lái tới một cảnh đời thích hợp với sự phát triển của đạo giáo. Với con mắt nhận xét tinh tế về thời cơ đúng lúc, với niềm kiêu hãnh cao độ về nhân cách Á Đông của mình cộng thêm với tinh thần quốc gia cực đoan cố hữu, triết lý hành động kỳ lạ của Thích Trí Quang ở nơi niềm tin sắt đá về sự tất thắng trong mọi mưu lược tranh đấu. Tên ông đồng nghĩa với những âm mưu nhưng chính ông muốn đối thủ phải kính trọng cái nhân cách Á Đông của mình nên mọi hành động của ông đều được báo trước. Thượng toạ nói: -- Nhiều người gán cho tôi mối liên hệ mật thiết với ông Lodge, sự thật không có. Với ông Lodge hay Taylor (3) cũng vậy, mỗi lần tranh đấu tôi đều gặp, nói cho họ biết lập trường của Phật giáo thế nào, còn người Mỹ muốn sao tuỳ họ. Tôi hành động đều có báo trước ít nhất là 24 tiếng. Như vụ tranh đâu gần đây tôi chỉ gặp ông Lodge có một lần, nói rõ lập trường của Phật giáo về Quốc hội. Ông ta nói Thượng toạ nên nghĩ lại. Tôi chỉ cười và trả lời đã nghĩ rồi. Có vậy thôi. Còn dư luận cho rằng ông Kỳ đã gặp tôi trước vụ hạ Trung tướng Thi là hoàn toàn bịa đặt. Tôi chưa hề gặp ông Nguyễn Cao Kỳ một lần nào. LÁ VÀNG VÀ GIÓ LỐC Có lá vàng thì phải có gió lốc. Đó là câu so sánh của Thượng toạ Trí Quang với hiện tình người Mỹ và Cộng sản: -- Lá vàng đó là Cộng sản, và gió lốc chính là người Mỹ. Muốn chống Cộng thì phải cần tới người Mỹ, thế thôi. Đối với tôi, những ảnh hưởng ngoại lai chỉ nên dùng như những phương tiện chứ bảo chấp nhận thì không. Đề cập tới sự nguy hiểm của Cộng sản, ông nói họ không phải chỉ là những chiếc lá vàng làm nhớp nhà mà là những chiếc lá vàng có đóng đinh. Vì khía cạnh chống Mỹ trong các phong trào tranh đấu vừa qua của Phật giáo, có báo ngoại quốc cho rằng Thượng toạ Trí Quang muốn đuổi Mỹ. Thượng toạ nói: -- Người Mỹ rất ngờ nghệch, họ không phân biệt được giữa Bài Mỹ và Chống Mỹ. Bài Mỹ là một thái độ thù ghét đương nhiên, dù người Mỹ có làm hay đến đâu cũng vẫn bị ghét bỏ, có khi lại còn thù ghét hơn. Trong khi Chống Mỹ là một thái độ phản kháng xây dựng. Bởi quan niệm hai người cùng ngồi trên một chiếc xe, thấy người kia lái bậy thì người nọ phải giành lấy mà lái nếu không muốn rớt xuống hố. Các phong trào vừa qua không mang tính chất bài Mỹ mà là chống Mỹ; chống Mỹ đã ngăn cản việc đi tới Quốc hội, chống Mỹ đã hậu thuẫn những chính phủ tay sai thối nát, chống Mỹ đã giúp phương tiện đàn áp Đà Nẵng. Thì ra thái độ của Thượng toạ là muốn cảnh giác người Mỹ. Cơn gió lốc phải được thổi đúng hướng, không phải làm bay những niềm tin mà là bốc sạch đám lá vàng có đóng đinh là Cộng sản. PHẠM ĐÌNH VY NGÔ THẾ VINH Huế 05.05.1966 [Trích Nguyệt san Tình Thương, số 29, 1966] Ghi chú: 1/ Only Religions Count in Vietnam: Thich Tri Quang and the Vietnam War. James McAllister; Department of Political Science, Williams College, Williamstown, MA 01267 2/ A Talk with Thich Trí Quang. McCulloch, James Wilde. Time Magazine, April 22, 1966 | Vol. 87 No. 3/ Henry Cabot Lodge, Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam 1963-1964. Maxwell D. Taylor, Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam 1964-1965 4/ Hành Trình Tình Thương. Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo, số 74, Tháng 4, 2017 5/ Phạm Đình Vy, nguyên chủ nhiệm Tình Thương 1964-1967, bác sĩ Thuỷ Quân Lục chiến VNCH, sau tù cải tạo 3 năm vượt biển, sang định cư và hành nghề y khoa tại Pháp.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 8:37:31 GMT 9
Giáo sư Lý Chánh Trung:“Tìm về Dân tộc” và hướng tới “điểm cùng tận” Nguyễn Nghị Nhớ lại những gì đã đọc được của Giáo sư Lý Chánh Trung, một nhân vật đã sống trong một thời kỳ ‘khó khăn’, và có thể nói, đã làm chứng về thời đại mình sống bằng những bài viết xuất hiện công khai trong dư luận, tập sách nhỏ mang tựa đề Tìm về dân tộc, do Trình Bầy xuất bản năm 1967 là cuốn sách đầu tiên của giáo sư tôi được đọc và đó cũng là một trong những tác phẩm và bài viết của ông tôi nhớ lâu nhất. Cuốn sách có vẻ hấp dẫn ngay từ những trang đầu khi ông nhớ về cái tỉnh “đẹp vô song”, đối với người quê ở tỉnh, nhưng chẳng mấy người ngoài tỉnh thèm đặt chân tới dù rất gần: “Vĩnh Bình là quê tôi, cách Saigon đúng 204 cây số. Muốn đi Vĩnh Bình, phải về miền Tây, qua Bắc Mỹ Thuận, tới Vĩnh Long rồi rẽ qua phía bờ biển. Đi Vĩnh Bình như chui vào cái rọ; tới nữa là lọt xuống biển, sang hai bên thì đụng hai cửa sông Cửu Long. Có lẽ vì cái vị trí “đường cùng” đó mà ít người dám xuống tới tỉnh tôi và mặc dầu không xa Saigon lắm, nó vẫn bị xem là một nơi khỉ ho cò gáy. “Nhưng ai chê thì chê, chớ đối với dân Vĩnh Bình thì tự nhiên là tỉnh Vĩnh Bình đẹp vô song”. “Nước mặn đất nghèo, nhưng lòng người chơn thật. Tôi đã sống nơi đây một thời thơ ấu yên lành và trong sáng. Cho nên bài thơ con cóc đầu tiên mà tôi đã rị mọ đẻ ra để ca tụng cái tỉnh “hóc bà tó” của tôi : “Ở tỉnh Trà Vinh, đất Phật vàng Đường thêu bóng mát, rộng thênh thang Chiều chiều sương xuống, đèn lên đỏ Rộn rã tưng bừng tiếng quốc vang1. Có thể xem đây là một trang trong những trang đầu của một cuốn Hồi ký mà nhiều người quen biết và quý mến giáo sư muốn ông viết, nhưng hình như ông đã không viết… …. “Lòng người chơn thật”, “một tuổi thơ yên lành và trong sáng”, quê hương ông, dù có bị đổi tên từ Trà Vinh thành Vĩnh Bình “mà không hỏi ý kiến của người dân bản xứ”, dù có nằm ở vị trí “đường cùng”, với “nước mặn đất nghèo”, nhưng vẫn là một “tỉnh đẹp vô song”, đến cái độ đã khiến ông xuất khẩu thành thơ và phải trả giá đắt : “Có lẽ vì cái tánh thơ thẩn lang thang đó mà năm 1940, tôi thi rớt tiểu học”, như ông đã thú nhận. Nhưng rồi ông cũng đã “giựt được mảnh bằng Tiểu học một cách oai hùng” mặc dù ông học với một ông thầy “làm biếng không ai bằng”. “Tôi được may mắn học Việt văn với cụ Diệp văn Kỳ -mà chúng tôi gọi là Papa2 Kỳ- một nhà báo nổi tiếng thời đó. Papa Kỳ làm biếng không ai bằng, trọn một năm chỉ cho một bài luận mà đến cuối năm, khi chúng tôi dâng hoa và đọc đít-cua3 từ biệt, có đứa cắc cớ nhắc lại bài luận đó thì Papa cười hề hề mà nói: “Văn của tụi bay ai mà sửa cho nổi!” Nhưng Papa có cái tài đặc biệt đưa tâm hồn chúng tôi vào không khí của một áng văn, một bài thơ. Papa cũng tùy hứng mà dạy, không theo một chương trình nào, nên năm đó, chúng tôi được thưởng thức đến cả thơ Lý Bạch: “Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai…”.Viết lại những giòng nầy, tôi có cảm tưởng còn nghe nước sông Hoàng Hà từ lưng trời ào ào đổ xuống theo giọng nói sang sảng của Papa Kỳ. Đó là cái vốn ‘Văn hóa dân tộc’ tối thiểu mà sau này tôi mới thấy rõ tầm quan trọng”4. Con đường thênh thang hướng đến “điểm tận cùng” Con đường Tìm về dân tộc của ông lại không dẫn người ta trở lại phía sau, tới một cái “hóc bò tó”, tuy có thơ mộng và “đẹp vô song” mà là hướng tới phía trước, tới một “điểm cùng tận”, nơi mọi sự trở thành hoàn hảo. Không ít bài viết của ông, dù là ký sự “Những ngày buồn nôn” đăng trong báo Tin Sáng trọn một năm, từ tháng 3/1970 đến tháng 3/71, cũng đều phảng phất một lời mời gọi hướng tới, và cùng xây dựng “một xã hội tốt đẹp”, như ông đã công khai phát biểu khi trả lời phỏng vấn của Tập san Thái độ do Thế Uyên chủ trương, về Chiến tranh, Cách mạng, Hòa bình5. Câu hỏi được Thái Độ nêu ra: “Cách mạng nào cũng phá hủy mọi cơ cấu tổ chức xã hội cũ để tiến tới xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Ông cho biết theo quan điểm riêng của ông, xã hội tốt đẹp hơn ấy phải như thế nào và ra sao?” Giáo sư trả lời: “Một xã hội tốt đẹp là một xã hội có đủ điều kiện để con người có thể đối xử với con người như anh em. Còn bóc lột, áp bức thì không thể có tình huynh đệ. Nhưng chấm dứt bóc lột, áp bức chỉ là điều kiện cần để thực hiện tình huynh đệ, không phải là điều kiện đủ. Một xã hội thực sự huynh đệ là một xã hội trong đó mọi người đều là thánh nhân, trong suốt với chính mình, với kẻ khác và do đó, có thể thông cảm hoàn toàn, hiệp nhứt hoàn toàn với kẻ khác. Đó là cái điểm “omega6” của cha Teillard de Chardin7: cái điểm này ở ngoài lịch sử”. Cái nhìn của ông về một xã hội tốt đẹp có thể mang bóng dáng của ảo tưởng, nhưng ông lại cũng tỏ ra là con người thực tế khi ông bàn về tính lịch sử của cuộc sống con người để làm nền tảng cho lời mời gọi xây dựng cái xã hội tốt đẹp ấy ngay trong lịch sử này. “Trong lịch sử, chúng ta chỉ có thể tìm cách đập tan những hình thức đàn áp, bóc lột, những điều kiện sinh hoạt trong đó con người chỉ có thể đối xử với con người như lang sói …. Những kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng chấm dứt một hình thức đàn áp, bóc lột không phải là chấm dứt bóc lột đàn áp, Những hình thức khác lại xuất hiện…”. Nhưng thực trạng này không ngăn cản người ta đi tới. Cái điểm ‘omega’ ấy, cái điểm cần hướng tới dù biết rằng con người chẳng thể đạt tới một cách trọn vẹn bao lâu còn ở trong lịch sử đã lôi kéo ông không dứt, khiến ông thao thức, tìm kiếm, chọn lựa và quyết định... Và ông bàn về con đường đi tới, nhất là về thái độ cần có của những người đồng hành. Trong một bài báo đăng trên báo Đại Dân tộc nhằm trao đổi với tác giả của Đường hay pháo đài8 về một chọn lựa của ông không được tác giả trên ủng hộ, Giáo sư đã mượn hình ảnh con đường trong tập sách này để khẳng định về chọn lựa của ông. Ông trích Đường hay pháo đài: “Nơi trang 15, có một đoạn rất hay : “Trên con đường đó, người ta tha hồ đi; có kẻ đã đặt một chuẩn đích phía trước mặt, có kẻ chỉ hướng về một chuẩn đích chưa rõ rệt và có lẽ chẳng bao giờ rõ rệt, có kẻ mãi mãi lang thang tìm kiếm. Nhưng ai cũng đi, người này bên cạnh người kia, không phải dẫm chân lên nhau, không ai dừng lại mà dựng lô cốt để yên nghỉ ngay giữa đường, chận bước tiến của kẻ khác. Không ai đem giây thép gai rào ngang. Mọi người vừa đi vừa gặp nhau trong cùng một nỗi khắc khoải của lòng mình, trong sự thu hút của chân trời đằng trước mặt”. Giáo sư Lý Chánh Trung nhận định: “Con đường thênh thang lộng gió trên đây là con đường tôn giáo. Nhưng bất cứ con đường nào cũng phải thênh thang như vậy, vì yếu tính của con đường là nối liền chớ không phải phân ly. “Con đường dân tộc hay con đường hòa bình cũng là một con đường thênh thang trên đó ‘người ta tha hồ đi’. “Có những người đi bên trái, có những người đi bên mặt, có những kẻ hăng hái tiên phong, có những kẻ tà tà hậu tập, có những người vững một niềm tin sắt đá, có những kẻ lưỡng lự hoài nghi, có những người xông pha ngày đêm không mỏi mệt, có những kẻ lâu lâu phải tìm một bóng mát nghỉ chân… Nhưng tất cả những người đó, khi nào họ còn hướng về phía dân tộc, về phía hòa bình, đều cùng đi trên một con đường” Đường rộng thênh thang nhưng lại đầy những lựa chọn khó khăn, đôi khi chỉ còn lại lương tâm làm chuẩn mực: “Mỗi lựa chọn là một sự ‘đánh cược’ với lịch sử mà mỗi người phải làm trước lương tâm mình, và ai cũng có quyền đánh cược. Nhưng dầu lựa chọn cách nào, chúng vẫn đang cùng đi trên một con đường nếu chúng ta thành thật muốn có sự hòa giải giữa người Việt”9. Giáo sư cũng đã từng cho thấy đối với bản thân ông, sự chọn lựa không phải là dễ dàng. Ông không che giấu những khắc khoải. Một sinh viên10 từng theo học lớp Triết với Giáo sư tại Đại học Văn khoa Saigòn nhớ lại: Có một lần, tại lớp học, Giáo sự đã thổ lộ ông muốn đổi tên thành một Lý Chân Nhân! hay Lý Chơn Tâm, Lý Chân Tâm ,… quả thực đến bây giờ tui không còn nhớ rõ ! Bọt biển và sóng ngầm Những khắc khoải này của ông cũng còn được bộc lộ qua các bài báo, đặc biệt năm mươi bài ký sự mang tên ‘Những ngày buồn nôn’ đăng trong báo Tin Sáng từ 3/70 đến 3/71. Nguyễn Ngọc Lan, giới thiệu sưu tập Năm chục bài ký sự này mang tựa đề Bọt biển và sóng ngầm của giáo sư Lý Chánh Trung với những hàng sau đây : “Năm mươi bài ký sự là một tài liệu lịch sử quý giá của những ngày đấu tranh gian khổ ở miền Nam. Qua giọng văn trầm buồn và nhất là với đề tựa ‘Những ngày buồn nôn’ người ta có thể liên tưởng đến một thái độ bi quan, co rút –nhưng vẻ chán chường này, nếu có thì chỉ bên ngoài, nhưng niềm lạc quan thật sự đã hiện rõ dần : mặc dù chiến tranh, mặc dù tàn phá, mặc dù gông cùm, mặc dù ngoại bang, dân tộc này vẫn tràn đầy sức sống và dân tộc này sẽ thắng!”. ‘Đó là những niềm tin tưởng mà tôi muốn gởi đến những khuôn mặt anh em trước thềm năm mới” (trong bài “Những khuôn mặt anh em”) –Phải chăng đó cũng là ý nghĩa của “Bọt biển và Sóng ngầm” : những đợt sóng ngầm mang tên Hòa bình, độc lập công bằng, tự do, đang lặng lẽ dâng lên từ lòng dân tộc.”11. Xin kết thúc bài viết này bằng một kỷ niệm nhỏ. Tôi thỉnh thoảng được giao nhiệm vụ tới nhà giáo sư Lý Chánh Trung lấy bài ông đã nhận viết và đã hẹn ngày tới lấy. Thời này chưa sử dụng mạng nên phải tới tận nhà nhận bài viết. Một lần nhận nhiệm vụ là một lần hồi hộp: may lắm thì được giáo sư hẹn “chờ một chút. Có mấy chỗ tôi cần coi lại.” Không may thì về không. Nhưng dù may hay không may, khi cầm bài viết của ông trong tay, tôi luôn được chút yên ủi là tin chắc bài viết mình nắm trong tay sẽ là bài viết có sức hấp dẫn đối với người đọc và được người đọc tin tưởng vì biết rằng những gì ông viết, dù hợp ý hay không hợp ý mình, cũng là những lời chân thành, những hàng chữ diễn tả những gì tác giả nghĩ, khắc khoải và như muốn kêu gọi người đọc cùng nhau đi tới cái “điểm tận cùng”, nơi mọi sự trở nên hoàn hảo. Nguyễn Nghị Nguồn: Bài viết cho tạp chí Xưa & Nay, số tháng 3.2016 LƯƠNG PHÁN(1921-2016) Chúng tôi được tin Bác sĩ Lương Phán đã từ trần ngày 21.10.2016 tại tư thất, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 95 tuổi. Lễ nhập quan đã tổ chức ngày 22.10, lễ động quan sẽ tổ chức 7g30 sáng ngày thứ ba 25.10.2016. Diễn Đàn xin thành thực chia buồn với các bạn Lương Huỳnh Ngân, Lương Cần Liêm, Lương Cần Nhân và toàn thể tang quyến. [Bác sĩ Lương Phán sinh ngày 11.8.1921 tại Bến Tre. Ông tốt nghiệp y khoa tại Paris. Cùng với vợ, nữ bác sĩ Nguyễn Thị Lợi, và một số bạn bè, đã thành lập hội sinh viên Việt Nam tại Pháp đầu tiên để ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất. Về nước, ông sinh sống ở Sài Gòn, làm giám đốc Bệnh viện Phước Kiến (sau năm 1975, trở thành bệnh viện Nguyễn Trãi). Trong suốt mấy thập niên, ông kín đáo và tận tình giúp đỡ người kháng chiến. Ở cương vị thầy thuốc, ông đã đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ. Vợ chồng bác sĩ Lương Phán là tác giả nhiều cuốn sách phổ thông về y khoa. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.] Bữa cơm thân mật với BS Lương Phán Bác sĩ Lương Phán là đàn anh, là bậc thầy của tôi, năm nay đã bước vào tuổi 90. Ông vẫn mỗi tuần 3 buổi đến khám bệnh ở bệnh viện Nguyễn Trãi và vẫn hướng dẫn chuyên môn cho lứa đàn em. Với ông, tôi còn có những mối thâm tình. Trong một bài viết, có lần tôi kể hồi nhỏ đã đến ông khám bệnh đau bao tử, lúc tôi còn đang học trung học. Ông không cho thuốc, chỉ khuyên mỗi sáng phải ăn một khúc bánh mì trước khi đi học. Vậy mà hết đau mới ngộ! Thì ra, tôi chỉ bị “dư acid” (hyperacidity) trong dạ dày, bị viêm chứ chưa đến nỗi loét. Nếu có cái gì “trám” vào, trung hòa lượng acid dư đó thì sẽ hết đau. Từ đó, trong cặp đi học của tôi lúc nào cũng sẵn bánh mì khô, nướng cháy để “nhâm nhi” khi cần. Sau đó tôi nhớ trong cuốn Tự điển Đào Duy Anh– phần thưởng Danh dự toàn trường cuối năm học– tôi ghi ở góc bìa sau mấy chữ: Nếu là bác sĩ, tôi sẽ cho bệnh nhân ăn uống, tắm rửa, phơi nắng, vận động… trước khi phải dùng đến thuốc. Quả là sau này tôi “nổi tiếng” là một bác sĩ Nhi khoa dùng rất ít thuốc khi chữa bệnh cho trẻ con. Thường tôi chỉ “chỉnh sửa” cách dinh dưỡng, chăm sóc bé… như vậy mà cũng đã góp phần giảm được bệnh nhiều, thuốc men chỉ phụ thêm (trừ khi bệnh nặng). Tôi còn học ông cách chữa tiêu chảy sinh lý ở trẻ bú mẹ. Chỉ cần dùng vôi (ăn trầu), pha loãng, lấy phần nước trong cho uống vài lần cũng khỏi. Thì ra, sữa mẹ dễ tiêu hóa, nhiều chất bổ dưỡng nhưng có tính acid cao. Chỉ cần “kiềm hóa” chút xíu là hết ỉa chảy! Tại bệnh viện Nhi đồng Saigon thời đó, chúng tôi cũng hay dùng CaCO3 và BiCO3 để chữa cũng với nguyên tắc như vậy. Những cuốn sách y học phổ thông của ông và vợ là BS Nguyễn Thị Lợi như Thành kiến sai lầm của người dùng thuốc, Bệnh Trẻ con, Bệnh đàn bà… có ảnh hưởng nhiều đến tôi. Dù không trực tiếp học với ông, tôi vẫn coi ông là thầy của mình. Năm 1972, khi viết cuốn Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò tôi trích dẫn sách của hai ông bà và mang tặng ông bà. Ông viết thư cảm ơn rất nhã nhặn. Thư ông viết nắn nót, phong bì đề tên người gởi và địa chỉ đàng sau để nếu thư không đến được thì bưu điện biết mà trả lại. Dán tem cũng luôn ở góc phải, khoảng cách các cạnh cân đối, thẳng thóm. Tôi nhớ đọc đâu đó rằng chỉ cần xem cách trình bày bức thư, bì thư, người ta đánh giá được người gởi là người nghiêm cẩn, đáng tin cậy hay người cẩu thả, ẩu xị… Bác sĩ Lương Phán (trái) và tác giả Năm 1973, lúc tôi đang làm bác sĩ điều trị tại Dưỡng đường Nhi khoa Trần Bình Trọng Chợ Lớn, ông tới thăm tôi, nói muốn xin bài thơ Thư cho bé sơ sinh của tôi để đăng trong một tạp chí y học do ông làm chủ bút. Điều hết sức bất ngờ với tôi là khi báo ra, ông mang đến tặng, kèm theo 5000đ là tiền nhuận bút bài thơ! Tôi nhớ thời đó, một bài thơ đăng trên Tạp chí Bách Khoa danh tiếng nhuận bút nhiều lắm cũng chỉ 150đ. Tôi ngạc nhiên hỏi sao kỳ vậy ông nói tại ông thích bài thơ này quá ! Bài thơ … lọt vào trong tù (vì chỉ có sách báo y học mới được phép) nhờ vậy mà nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đã đọc được và phổ nhạc, như tôi đã viết lại trong Chuyện kể về một bài thơ (Những người trẻ lạ lùng, NXB Tổng hợp, 2001). Đã lâu tôi không có dịp gặp ông, chỉ nghe ông đã dời nhà về Đakao, từ ngày bà mất. Thỉnh thoảng nghe ông đi Pháp thăm mấy người con. Một hôm tôi nhận được email của BS Lương Huỳnh Ngân, tự giới thiệu là em ruột của bác sĩ Lương Phán, ở Pháp mới về muốn đến thăm tôi. Rồi anh mời tôi đến dùng cơm trưa thân mật với anh em ông cùng GS Trần Văn Khê vào ngày 7.4 vừa qua. Hóa ra BS Ngân là em út của bác sĩ Phán, nhỏ hơn tôi mấy tuổi, du học ở Pháp từ năm 1964, đã đọc mấy cuốn sách của tôi nên có lòng mến mộ, lại biết tôi rất quý Bs Lương Phán bèn tổ chức một buổi họp mặt thân tình. Tôi đến nơi đã thấy có BS Lương Phán, GS Trần Văn Khê, Anh Tươi, BS Trần Y (nguyên giám đốc bv Nguyễn Trãi) anh Thanh (em họ bs Phán) cùng BS Ngân. Tôi bất ngờ thấy Bác sĩ Ngân đem tặng mỗi người một brochure với 2 bài thơ của tôi do chính tay anh trình bày rất đẹp : Thư cho bé sơ sinh và Paris tháng sáu, là hai bài anh nói anh thích nhất. Rồi anh đọc cho mọi người cùng nghe! Tôi cũng không ngờ GS Trần Văn Khê mà tôi quen gọi Chú Khê lại là cậu họ của bác sĩ Lương Phán. Ông Khê đi Pháp năm 1949, sau ông Phán một năm, nên khi mới qua ở trọ cùng ông Phán. Nghe mấy ông kể chuyện xưa tích cũ thật vui. Theo chú Khê thì trước 1945 ông học y khoa ở Hà Nội, năm thứ hai thì “xếp bút nghiên” về Nam. Lúc đó nhạc sĩ Lưu Hữu Phước cũng học y, nhưng sau đổi qua Nha vì sợ… máu! Cả ông Mai Văn Bộ cũng học y. Các ông đều lở dở chuyện học y cả. Nhờ có học 2 năm y khoa mà chú Khê đã bình tĩnh giúp đỡ đẻ cho đứa con trai đầu lòng của mình (GSTS Trần Quang Hải) tại Thủ Đức, năm 1944. Đêm đó gặp giới nghiêm, không vô bệnh viện được, phải mời một bà mụ vườn gần nhà qua đỡ, ông phụ. Ông kể cách ông nắm tay vợ, “rặn phụ” với vợ lúc bà qúa mệt mỏi một cách ì ạch thật là tức cười. Đứa bé bị ngộp lâu, lúc sinh ra đã trắng bệch, xụi lơ, không thở, ai cũng nghĩ đã chết. Ông vẫn bình tĩnh tiếp tục dùng miệng hút hết đàm nhớt cho đứa bé và xoa bóp hô hấp nhân tạo một lúc bé mới khóc lên được! Từ trái qua phải : Lương Huỳnh Ngân, Trần Văn Khê, Lương Phán, Đỗ Hồng Ngọc, Trần Y BS Lương Phán thì kể chuyện hội sinh viên Việt Nam ở Pháp thời đó. Lúc ông Khê qua Paris vì mới ở tù ra, quần áo bèo nhèo, luộm thuộm. Bạn bè tìm cách vay được 6000 fr, tổ chức một đêm văn nghệ để bán vé lấy tiến sắm quần áo cho ông. Rất lo ế, không ai coi. Chẳng dè đêm đó thật đông, ngoài sinh viên còn có các lính thợ, lâu ngày xa nhà, nghe có văn nghê việt nam bèn tới coi. Ông Khê trổ tài rao bán chiếu, bán chè… ai bột khoai bún tàu nước dừa đường cát… hông…, được mọi người vổ tay rần rần. Hôm đó trả nợ xong còn dư mua được cho ông Khê bộ đồ vía 16.000 fr. Bữa cơm thân mật gia đình với mắm kho rau ghém thiệt là ngon! Đỗ Hồng Ngọc
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 9:10:40 GMT 9
48 năm, một mẩu chuyện nhỏ
Thân gửi các bạn tôi và “gia đình Tin Sáng”
Nhân ngày giỗ Ngô Công Đức lần thứ 8 (22/6/2007–22/6/2015)
Nhằm ngày 8 tháng 5 năm Đinh Hợi
Hồ Ngọc Nhuận
Các bạn thân mến,
Vừa qua có một số bạn đã liên tiếp hỏi tôi về cuốn hồi ký của anh Dương Văn Ba trong đó có nói về tờ Tin Sáng và về chủ nhiệm Tin Sáng, anh Ngô Công Đức.
Chị Minh HIền, nguyên Tổng biên tập báo Doanh Nghiệp, anh Võ Văn Điểm, tức nhà văn Võ Ngàn Song, thành viên của “gia đình Tin Sáng trước và sau 1975”, và mấy bạn nữa đã gọi điện. Có bạn đã viết thư.
Anh Tống văn Công, người từng lần lượt điều khiển ba tờ báo Công Đoàn, Người Lao Động, Lao Động Mới và Lao động, trong thư gửi tôi đề ngày 29-3-2015, đã viết : “… Lâu quá không có liên lạc với anh. Nay có chuyện hồi ký Dương Văn Ba, tôi muốn hỏi ý kiến anh. Cách đây mấy năm khi đọc hồi ký này, tôi thấy nhiều chỗ không đúng. Vì không thân anh Ba nên tôi yêu cầu Trần Trọng Thức góp ý. Khi thấy Viet-studies đăng, tôi liền góp ý với anh Trần Hữu Dũng. Anh THD trả lời : anh ấy cũng thấy nhiều chỗ không đáng tin, nhưng anh DVB “sắp đi” và muốn gửi gắm quyển hồi ký cho THD nên anh ấy cứ phải đăng, sau nay ai thấy sai thì có ý kiến.
Sáng nay có anh bạn gọi điện hỏi tôi về nguyên nhân Tin Sáng "hoàn thành nhiệm vụ" có đúng như DVB nói không?”
Và anh tiếp : “Anh Ngô Công Đức đã qua đời. Anh Nhuận là người có đủ tư cách để trả lời câu hỏi này : Một là trả cho lịch sử đúng sự thật. Hai là minh oan cho người bạn đã qua đời” (Tống Văn Công, 29-3-2015)
Tôi chân thành cám ơn và xin lỗi các anh chị, vì đã chần chờ khá lâu. Bởi tôi không biết viết những gì và viết như thế nào. Mà viết thế nào thì cũng như là bới thêm chuyện gia đình mà phơi thêm ra. Tốt đâu chưa thấy, đã thấy tự mình vạch lưng mình. Mặc dù, với tư cách là một trong hai người chủ trương tờ Tin Sáng cũ, rồi Tin Sáng mới, và cả tờ Điện Tín của cựu Nghị sĩ Đại tá Hồng Sơn Đông, nếu tôi lên tiếng thì không phải chỉ để minh oan cho “người bạn đã quá cố” mà thôi, mà còn là minh oan cho chính tôi và cho cả tập thể gia đình Tin Sáng. Bởi có thể nói tờ Tin Sáng trước 1975 là một tờ báo đối lập chánh trị có nhiều độc giả nhất nhì Sài Gòn lúc bấy giờ, với những cây viết nổi tiếng mà ai cũng biết. Và tờ Tin Sáng sau 1975 là một tập hợp hiếm thấy chẳng những trong làng báo, làng văn xưa nay ở Sài Gòn, mà còn trong một số khá đông những thành phần tiêu biểu của Sài Gòn cũ, lại có cả sự tiếp tay của một số cây viết của Hà Nội hay từ Hà Nội về. Vì vậy, nếu có ai nói rằng mối quan hệ giữa chủ nhiệm Ngô Công Đức và tập thể Tin Sáng là mối “quan hệ chủ thợ” thì chẳng những là nói oan cho Ngô Công Đức, mà còn xúc phạm cả một tập thể rộng lớn những người từng đóng góp công sức cho Tin Sáng và xúc phạm cả chính tôi nữa.
Nhưng tốt nhất là đề cho các sự kiện lên tiếng. Và vì vậy tôi xin gởi đến các bạn một mẩu chuyện nhỏ sau đây. Một mẩu chuyện nhỏ có thực, đã thực sự diễn ra tại đây đến nay đã được 48 năm. 48 năm, một mẩu chuyện nhỏ, về một “gia đình” mà tôi gọi là “gia đình chánh trị nhỏ” của chúng tôi, mà trong đó cũng có một vài anh em thuộc “gia đình Tin Sáng”, và nhật báo Tin Sáng cũng là một thành phần quan trọng có liên quan 1. “Gia đình chánh trị nhỏ” nầy trong một thời gian dài mấy chục năm, qua mấy thời kỳ lịch sử tiếp nhau, đã cùng chung sức với nhau trong nhiều hoạt động, vui buồn, hoạn nạn thường có nhau. Trong đó có Ngô Công Đức, có Dương Văn Ba, có Nguyễn Văn Binh, có Hồ Ngọc Nhuận, có Hồ Văn Minh, có Nguyễn Hữu An và nhiều người nữa. Trong đó còn có nhiều anh từ nhiều miền đất nước lưu vong qua nhiều nước sau 1975, và có 09 anh từ đất Mỹ, và mấy anh từ mấy nước nữa, đã gởi thư điện tử về cho tôi để chia buồn cùng gia đình Ngô Công Đức, khi Ngô Công Đức qua đời ngày 22 tháng 6 năm 2007, nhằm ngày 8 tháng 5 năm Đinh Hợi.
Tôi gọi là “gia đình chánh trị nhỏ” chớ không gọi là “tổ chức chánh trị”, bởi không ai tổ chức, cũng không có tổ chức gì hết, mà chỉ là đồng thanh, đồng lòng tìm đến với nhau, và cùng sát cánh hoạt động với nhau trong mấy chục năm liền, trước và sau năm 1975. Ngoại trừ một thời gian ngắn 08 năm, từ 1967 đến 1975, với một “nhóm” nhỏ đối lập ở Hạ Nghị Viện Quốc Hội VNCH, nhóm Xã Hội Mới, mà tôi là trưởng nhóm. Gọi là “nhóm” vì chỉ có 11 thay vì 12 người là túc số cần thiết theo nội quy HNV để thành lập một Khối chánh thức tại Quốc Hội. Sau một thời gian hoạt động khá năng nổ, Nhóm Xã Hội Mới, gồm đa số là trẻ, đã kết hợp với vài nhóm đối lập khác, đặc biệt với nhóm Dân Tộc, và vài dân biểu độc lập, để trở thành một khối đối lập chánh thức có tên là khối Xã Hội Dân Tộc. Khối nầy, không lâu sau, lại lột xác một lần nữa để biến thành hai khối, một trong hai là Khối Xã Hội, mà anh Phan Thiệp, gốc Quốc Dân Đảng Quảng Nam, làm trưởng khối cho đến hết nhiệm khóa 1/HNV, vào năm 1971, và tôi là Phó Trưởng Khối. Sang khóa 2/HNV, từ 1971 đến 30-4-1975, một số dân biểu Khối Xã Hội bị chánh quyền tổ chức gian lận bầu cử đánh bại ở một số tỉnh, trong đó có anh Ngô Công Đức, nhưng Khối Xã Hội vẫn trụ vững, nhờ có một số dân biểu mới đặc cử gia nhập, trong đó có dân biểu luật sư Trần Văn Tuyên. Ở nhiệm khóa 2/HNV anh Trần Văn Tuyên là Trưởng Khối Xã Hội, tôi là Phó Trưởng Khối, cho tới ngày “đứt phim”.
Tôi nói “gia đình chánh trị nhỏ”, mà không nói riêng gia đình Tin Sáng. Bởi hoạt động của Đức, Ba và tôi, và một số anh em nữa, là có trước và sau cả Tin Sáng. Là gồm một số lãnh vực hoạt động khác hơn hoạt động báo chí, mà những anh chị em thuộc riêng gia đình Tin Sáng không phải ai cũng tham gia. Và nếu chỉ nói riêng về gia đình Tin Sáng thì thiết nghĩ bất cứ người nào trong gia đình nầy cũng có thể lên tiếng phủ nhận cái gọi là “quan hệ chủ thợ” ở Tin Sáng. Trừ phi có ai đó đã thực sự ngồi nhầm chỗ.
Nhưng nếu chỉ nói riêng về “gia đình Tin Sáng” thì “gia đình” nầy có tới ba tờ Tin Sáng, dưới những hình thức và thời kỳ khác nhau : Tin Sáng bộ mới, Tin Sáng bộ cũ và Tin Sáng hải ngoại. Trước “Tin Sáng bộ mới” ở thành phố Hồ chí Minh (1975-1981) với Ngô Công Đức làm chủ nhiệm, Nguyễn Văn Binh làm quản lý, Hồ Ngọc Nhuận làm chủ bút, cùng với hai phụ tá chủ bút Nguyễn Hữu An, Dương văn Ba, và ông Lý Quý Chung được mời làm Phụ tá chủ bút thứ ba, còn có tờ “Tin Sáng bộ cũ” ở Sài gòn (1968-1972), với Ngô Công Đức làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút, Hồ Ngọc Nhuận làm Giám Đốc chánh trị, với Chi Lăng, Phan Ba, Nguyễn Hữu An, trước sau, làm Thư ký tòa soạn. Với Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Nguyển văn Trung, Dương Văn Ba, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Phan Xuân Huy, và nhiều bạn nữa, là những cây viết chủ lực … Và cùng với tờ “Tin Sáng bộ cũ” ở Sài Gòn, là tờ “Tin Sáng hải ngoại” xuất bản ở Paris 2,cũng với thành phần chủ biên và những cây viết chủ lực như trên tờ “Tin Sáng quốc nội”, nhưng dưới hình thức bán nguyệt san. Tin Sáng hải ngoại số 1 đề ngày 08-21.4.1971, có mặt gần như đầy đủ các cây viết chủ lực của Tin Sáng quốc nội, đặc biệt có chuyện “Thị Kiều”, nói về cây cầu vượt (kiều) nối chợ Sài Gòn (thị) qua bùng binh Quách Thị Trang, nói lái lại là chuyện “Thiệu Kỳ” của Tư Trời Biển. Tin Sáng hải ngoại số 2 có bài “Chợ Chiều” của Lý Chánh Trung ; số 3 với bài “Mỹ thua Mỹ ở Mỹ” của Nguyễn Văn Trung ; số 4 với “Không còn ảo tưởng” của Dương văn Ba, và “Giả từ Việt Nam khói lửa” của Don Luce, người đã phát hiện chuồng cọp ở Côn Đảo. Đây cũng là vào khoảng thời gian Chủ nhiệm Ngô Công Đức đi lưu vong ở Pháp và Thụy Điển. Nhưng người chịu trách nhiệm bán nguyệt san Tin Sáng hải ngoại là linh mục Nguyễn Đình Thi, ở số 18 rue Cardinal Lemoine Paris và Montreuil. Linh mục Thi là bạn thân của linh mục Trương Bá Cần, chủ nhiệm báo Công Giáo và Dân Tôc, thành phố Hồ Chí Minh.
Tin Sáng song hành với Điện Tín. Tôi nói “gia đình chánh trị nhỏ”, mà không nói riêng “gia đình Tin Sáng”, bởi không chỉ có ba tờ Tin Sáng, mà cùng với “Bộ Ba Tin Sáng”, còn có tờ Điện Tín mà Nghị Sĩ Đại tá Hồng Sơn Đông là chủ báo, kiêm chủ nhiệm chủ bút, với Hồ Ngọc Nhuận là Giám Đốc Chánh Trị, với Dương Văn Ba là Thư Ký Tòa soạn (1971-1975). Với một bộ phận quan trọng của “Tin Sáng bộ cũ” chuyển sang, khi Tin Sáng bị chánh quyền đe dọa đóng cửa. Tôi nói một bộ phận quan trọng của “Tin Sáng bộ cũ” chuyển sang, chớ không phải toàn bộ Tin Sáng đã kéo qua Điện Tín, như có người đã viết. Trong những người chuyển sang Điện Tín có nhà giáo nhà thơ My Sơn Nguyễn ngọc Thạch, (Thạch là một trong năm anh Tư Trời Biển của Tin Sáng,l à bạn học cũ của anh Dương Văn Ba và anh Võ Văn Điểm ở Đại Học Đà Lạt, là một anh em cùng ê kíp cũ với tôi ở Chương trình Phát triển Quận 8, và về sau là một trong những trưởng ban biên tập của Tin Sáng bộ mới), có nhà báo Trương Lộc,có họa sĩ Ớt, có nhà thơ Cung Văn Nguyễn vạn Hồng,v.v… Nói là “chuyển sang” chớ kỳ thật coi như là được thỏa thuận phân công, chia nhau một phần qua Điện Tín, một phần vẫn ở lại với Tin Sáng. Đây có thể nói là một “chiến thuật”, trong hoạt động làm báo chánh trị của chúng tôi lúc bấy giờ. Số anh em Tin Sáng còn ở lại, với anh Phan Ba là Tổng thư ký tòa soạn, với nhà văn Sơn Nam, với nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà, v.v… và tôi là Giám Đốc chánh trị (của cả tờ Điện Tín), vẫn tiếp tục duy trì Tin Sáng bộ cũ, trong mấy tháng đầu Ngô Công Đức đi lưu vong (cuối năm 1971, đầu năm1972 ). Chánh quyền lại áp dụng một biện pháp đàn áp “không giống ai”, chưa hề có tiền lệ trong lịch sử báo chí trước đây ở Sài Gòn, là không chấp nhận cho Tin Sáng nạp lưu chiểu. Dù vậy, Tin Sáng vẫn tiếp tục phát hành, và “các bạn hàng báo”, cả các sạp báo và các em bán báo rao, đều vẫn tiếp tục nhận bán báo Tin Sáng hằng ngày. Và thường là bán chợ đen, vì báo in có hạn 3. Để có thể cầm cự lâu dài chống đỡ các đòn đàn áp của chánh quyền, Tin Sáng rút xuống 4 trang, rồi 2 trang. Và Giám Đốc chánh trị Tin Sáng thì liên tục phản đối trên trang nhất báo Điện Tín. Vậy là chánh quyền tìm cớ tịch thu luôn Điện Tín, khi lùng sục để tịch thu Tin Sáng. Cho tới khi không còn nhà in nào dám nhận in báo Tin Sáng nữa, và nhất là vì sợ Điện Tín bị vạ lây mà chết yểu, nên tôi đành chịu thua (nhất là chịu thua những người đã góp vốn cho ra tờ Điện Tín). Tôi nghĩ hầu hết những số báo của Điện Tín, và những số báo cuối của Tin Sáng bộ cũ (đầu năm 1972) chắc phải còn được lưu trữ ở Thư Viện Quốc Giá, nay là Thư Viện Tổng Hợp. Riêng những số báo Tin Sáng bị chánh quyền không chấp nhận cho nạp lưu chiểu thì không chắc còn.
Thư ký tòa soạn Điện Tín, Dương văn Ba và “Người giấu tên”. Dương văn Ba làm thư ký tòa soạn Điện Tín mà không có mặt ở tòa soạn Điện Tín ngày nào, cũng không có tên trên manchette báo. Khi viết bài thì ký dưới bút hiệu là “Người giấu tên” (đặc biệt trong mục “Ký sự nhân vật” của báo Điện Tín) 4. Bởi đây là thời kỳ Dương Văn Ba bị kết án 4 năm tù khiếm diện vì bị buộc tội trốn lính, sau khi bị gian lận bầu cử ở Bạc Liêu, và thất cử chức Dân biểu Quốc Hội VNCH nhiệm kỳ 2, phải “lánh nạn” tại nhà Đại Tướng Dương Văn Minh. Nói là “lánh nạn” tại nhà Đại tướng Dương Văn Minh, nhưng kỳ thật là tại nơi làm việc của Trung tá Trương Minh Đẩu, Chánh Văn Phòng Đại tướng, và ở nhà của Thiếu tá Trịnh Bá Lộc. Anh Lộc, cùng với anh Hoa Hải Đường, là tùy viên quân sự của Đại tướng. Người đặc trách liên lạc giữa TKTS Dương văn Ba và Tòa soạn Điện Tín mỗi ngày, và trong một thời gian dài suốt mấy năm liền, là em ruột của anh Nguyễn Vạn Hồng, sau 1975 trở thành ký giả Triệu Bình của Tin Sáng bộ mới, và là bí thư chi đoàn TNCS cùa tờ báo. Riêng tôi cũng có một thời gian “lánh nạn” nơi Đại tướng Dương văn Minh, ở nhà Thiếu tá Hoa Hải Đường, khít vách nhà Thiếu tá Lôc, nhưng vẫn lui tới tòa soạn Điện Tín, và không hề bỏ lỡ dịp xuống đường, hay bỏ họp Quốc Hội. Bởi tôi chỉ bị bắt đưa đến Tòa án Sài Gòn có một ngày, cùng với chị DB Kiều Mông Thu, vì bị vu “tội rải truyền đơn VC” trong cuộc biểu tình tại chợ Cầu Muối, với gia đình 18 ký giả bị bắt, trong đó có các anh Sơn Nam, Vũ Hạnh,Lê Hiền, Nguyễn Công Uẩn… 5. Sau khi gần như nằm vạ cả buổi trước pháp đình Sài Gòn, chị Kiều Mộng Thu và tôi được ông Biện Lý mời vô “hỏi cung” và được cho “tự do tạm”, với sự chứng kiến của Luật sư DB Trần Văn Tuyên, Trưởng Khối Xã Hội HNV/VNCH, và Trung tá DB Nguyễn Văn Binh, Trưởng Khối Quốc Gia /HNV/VNCH. Chớ không hề bị xử phải ngồi tù ngày nào.
Cùng với hai người của chúng tôi thất cử phải bỏ trốn là Đức và Ba, chúng tôi còn mấy người anh em nữa cũng bị nạn chung, trong số có anh cựu Đại tá Nguyễn Văn Thanh. Anh Thanh là đại tá thương binh giải ngũ, cựu tỉnh trưởng Trà Vinh, là “đồng viện” và “đồng khối” của chúng tôi ở HNV/QH/VNCH. Chẳng những anh bị gian lận cho thất cử tại cùng đơn vị Trà Vinh với Đức, mà còn bị đánh, bị nhốt hết mấy ngày nơi khám đường của tỉnh. Và sau năm 1975 thì bị đi tù tiếp, rồi bị nhiều kiếp nạn khác mà tôi đành chịu bó tay.
Ngô Công Đức và tờ Điện Tín. Khi Ngô Công Đức chuẩn bị đi lưu vong thì tôi cũng chuẩn bị những giấy tờ hợp pháp cần thiết để thay Đức làm chủ nhiệm Tin Sáng. Nhưng vẫn lo chánh quyền thừa cơ Đức vắng mặt lâu ngày để hạ độc thủ đóng cửa tờ báo vĩnh viễn, sau nhiều lần đóng cửa báo có thời hạn và tịch thâu liên miên. Trong khi đó thì tờ Điện Tín của anh Đại tá Hồng Sơn Đông do ông Lý Quý Chung ký hợp đồng bỏ vốn khai thác đang ngưng hoạt động. Ông Lý Quý Chung trước đây từng ký hợp đồng khai thác, và từng đứng tên làm chủ nhiều tờ báo ở Sài Gòn, mà tôi chỉ nhớ tên có hai tờ là Bút Thần và Tiếng Gọi Dân Tộc. Nay thì tờ Điện Tín do ông không khai thác nữa lại “bỏ không”. Vì vậy Đức và tôi cùng bàn với anh Hồng Sơn Đông cho ra lại tờ Điện Tín để tôi làm Giám Đốc chánh trị, và Dương văn Ba làm Thư ký Tòa soạn, hoạt động song hành với tờ Tin Sáng, cho tới khi nào Tin Sáng còn trụ được. Và tiếp nối con đường của Tin Sáng khi Tin Sáng không hoạt động được nữa. Xin nói thêm là lúc đó tôi cũng được anh Dân biểu chủ báo chủ nhiệm Võ Long Triều mời làm Giám đốc chánh trị của tờ Đại Dân Tộc. Nếu Tin Sáng “bị đòn” thì tôi cũng có được hai tờ báo anh em, nếu không nói là báo nhà, hiệp lực chống đỡ.
Mọi thứ cần thiết, từ vốn liếng, nhân sự, trụ sở tòa soạn, trị sự, phát hành… đã được ba anh em chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng cho tờ Điện Tín, trước khi anh Ngô Công Đức vượt biên. Công việc chuẩn bị cũng không có gì nhiều lắm. Trụ sở Tòa Soạn Điện Tín vẫn ở nơi nhà cũ của anh ĐT Hồng Sơn Đông, số 101 đường Võ Tánh Q1, nay là Nguyễn Trãi, gần như đấu lưng với tòa soạn Tin Sáng ở số 126 đường Lê Lai, hai bên qua lại chỉ bằng một con hẻm nhỏ. Và văn phòng Giám đốc chánh trị của Tin Sáng và Điện Tín thì nằm ở số 132 Lê Lai, sát với Tòa soạn báo Tin Sáng. Văn phòng đó vẫn được tôi giữ nguyên cho tới sau ngày 30-4-1975 6.
Bộ phận quản lý kế toán của Điện Tín cũng chính là bộ phận quản lý kế toán của Tin Sáng bộ cũ. Và bộ phận nầy, từ ngày đầu ra báo cho đến ngày báo ngưng hoạt đông, năm 1975, cũng không hề thay đổi. Nhưng tiền lương của tòa soạn và nhuận bút của các cộng tác viên ở Điện Tín là do Thư ký tòa soạn Dương văn Ba đề nghị để Giám đốc chánh trị Hồ Ngọc Nhuận duyệt. ( Bảng lương Điện Tín hiện tôi còn giữ trong hồ sơ tài liệu riêng).
Nhân sự của bộ phận quản lý kế troán Điện Tín, nay đã lớn tuổi, vẫn còn đây. Có người đi đi về về từ nước Mỹ, có người, cũng như nhiều người của Điện Tín (và Tin Sáng bộ cũ), trở thành nhân viên của Tin Sáng bộ mới (1975-1981), nhưng phục vụ trong những bộ phận khác, chớ không ở trong bộ phận quản lý kế toán, như ở báo Điện Tín. Bộ phận quản lý kế toán của Điện Tín (và Tin Sáng cũ) là thuộc quyền Chủ báo Chủ nhiệm, còn đối với Tin Sáng bộ mới thì hoạt động theo nội quy tập thể. Ban chấp hành các đoàn thể ở Tin Sáng mới, Công Đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Ban nữ công, đã hợp tác với tôi cùng soạn thảo bản nội quy Tin Sáng để tập thể thông qua và áp dụng cho tới khi hoàn thành nhiệm vụ. Chính bản nội quy nầy là cơ sở của chế độ tiển lương ở Tin Sáng mới. Tất cả mọi nhân viên Tin Sáng mới từ chủ nhiệm, chủ bút trở đi đều ăn lương theo ấn định của nội quy tập thể. Các anh chị em thuôc Ban Chấp hành các Đoàn thể đó hầu như tất cả đều còn đủ, có vài bạn đang ở nước ngoài. Nhưng ở cả hai thời kỳ cũ và mới, chế độ nhuận bút ở Tin Sáng vẫn được đặt dưới quyền Giám đốc chánh trị và chủ bút 7.
Kế hoạch vượt biên. Kế hoạch tổ chức vượt biên của anh em chúng tôi ban đầu dự tính là cho hai người, Ngô Công Đức và Dương Văn Ba, vì nếu ở lại trong nước cả hai thế nào cũng bị chánh quyền tìm cớ bắt nhốt. Nhưng sau cùng Ba không đi, vì nhiều lý do. Mà một là vì Ba con đông, tất cả đều còn nhỏ, nếu tôi nhớ không lầm thì tới lúc đó Ba đã có được 6-7 con. Còn Đức thì chỉ có một con trai, năm 1971 đã lên 12 tuổi. Giữa hai cuộc phiêu lưu, đi ra nước ngoài và bỏ trốn trong nước, sau cùng Ba đã chọn ở lại, và đưa hết vợ con vào lánh mặt nơi ĐT Dương ăn Minh, ở cổng sau “Dinh Hoa Lan”, số 3 Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần. Tại đây, với một phần phương tiện và sự giúp sức về nhân sự của một bộ phận văn phòng Trung tá Trương Minh Đẩu, Ba và tôi vừa cùng đặc trách khởi thảo, biên tập, in ấn các tài liệu hoạt động của “nhóm ông Dương văn Minh” vừa cùng làm báo Điện Tín. Ngoài ra Ba còn giúp tôi làm cả tờ Tin Sáng “bươm bướm” để tôi mang đi phổ biến đến các tổ chức đấu tranh ủng hộ đường lối hòa bình dân tộc của ông Dương Văn Minh. Để “hợp đồng tác chiến” giữa anh em trong nước và Ngô Công Đức cùng một số anh em ở nước ngoài, cho đường lối hòa bình của “nhóm ông Dương văn Minh”, tôi đã viết nhiều thư và kêu gọi nhiều anh em cùng viết cho Đức. Trong số đó, thư của Dương Văn Ba gởi cho Đức có lẽ là nhiều nhất sau thư của tôi, mà sau nầy tôi tập hợp in trong cuốn Tình Bạn. “In lậu”, để bạn bè cùng giữ làm kỷ niệm. Hồi Ngô Công Đức mất (22 tháng 6 năm 2007) tôi đã cho in lại quyển Tình Bạn gởi thân nhân bạn bè cùng đọc, nay chắc một số bạn còn giữ.
Người đưa Ngô Công Đức vượt biên qua kênh Vĩnh Tế, qua Campuchia, rồi Bắc Thái Lan, rồi Bangkok là anh Thạch Phen, nguyên Đại úy Quận Trưởng Quận Vĩnh Châu Bạc Liêu, nguyên dân biểu QH/VNCH, trong cùng “gia đình chánh trị nhỏ” của chúng tôi. Sau ngày Tin Sáng bộ cũ ngưng hoạt động, tôi đã kể về chuyến vượt biên của Đức cho nhiều bạn bè nghe chơi, đặc biệt tỉ mỉ hơn cho anh Cung Văn Nguyễn Vạn Hồng, với ý định để anh Vạn Hồng viết một “chuyện dài” trên báo Điện Tín, với một cái tựa do tôi chọn : “Một chuyến vượt biên”. Chuyện nầy thời đó là khá mới mẻ và “giựt gân”, đặc biệt người vượt biên lại chính là chủ nhiệm báo Tin Sáng, người đã góp phần “làm cho ông Thiệu sớm bạc đầu”, theo lời của chính ông Thiệu với Đức và tôi, nhân gặp nhau trong một buổi tiếp tân ở Hạ Nghị Viện VNCH, nếu được kể dài dài, hằng ngày trên báo Điện Tín, tôi tin chắc sẽ rất “ăn khách”. Nhưng chuyện không thành, vì một số lý do, mà một là do tôi cũng không muốn để cho Điện Tín “giỡn mặt” chánh quyền nhiều quá mà sớm có cùng số phận với Tin Sáng, làm liên lụy đến mấy anh em trong cuộc. Anh Thạch Phen nay đã ra người thiên cổ, Ngô Công Đức cũng vậy, không hỏi chuyện hai người được nữa, nhưng anh bạn Cung Văn Nguyễn Vạn Hồng thì chắc hỏi được, vì anh còn đây, đang ở quê nhà Đà Nẵng. Hỏi được ,nhưng anh Vạn Hồng có nhớ được nhiều và có kể được hay không thì tôi không biết.
Phụ tá chủ bút Tin Sáng đặc trách khai thác gỗ cho tỉnh Minh Hải. Ngoài lãnh vực làm báo, anh em chúng tôi còn hết mình hỗ trợ cho nhau trong các hoạt động hữu ích khác, và đặc biệt đối với Dương Văn Ba trong hoạt động hợp tác phát triển kinh tế. Ngay cả khi Tin Sáng bộ mới còn hoạt động, để đáp ứng yêu cầu của lãnh đạo tỉnh Minh Hải gồm Bạc Liêu Cà Mau), và yêu cầu đặc biệt của Dương Văn Ba, Ngô Công Đức và tôi đã đồng ý để cho Dương văn Ba vừa làm Phụ tá chủ bút Tin sáng vừa đi làm gỗ cho tỉnh Minh Hải 8 với nhiều chức vụ liên tiếp khác nhau, ngay từ năm 1978, tức 3 năm trước ngày Tin Sáng bị đóng cửa. Những chức vụ làm gỗ của Dương văn Ba ở Minh Hải, trong mấy năm Tin Sáng còn hoạt động, tôi không thể biết và nhớ hết. Nên phải dựa vào tài liệu chánh thức mà tôi có trong tay là toàn văn bản án ngày 14-22/4/1989 của Tòa án nhân dân tối cao về vụ án Cimexcol Minh Hải, trong đó có ghi như sau : “Cuối năm 1978 Dương văn Ba được… giới thiệu ký hợp đồng kéo gỗ ăn công với công ty vật liệu xây dựng chất đốt Minh Hải. Sau đó Dương văn Ba… tập hợp một số tư nhân đưa xe ô tô chuyên dùng… từ TPHCM, Đồng Nai về Minh Hải để hợp đồng kéo gỗ ăn công. Ba đứng đại diện. Lúc đầu đầu có 10 chiếc đến năm 1984 lên 18 chiếc… Trong nhiều năm làm đội trưởng đội xe hợp tác hợp đồng kéo gỗ ăn công… Dương Văn Ba… được tín nhiệm giao cho giữ nhiều chức vụ quan trọng : Phó Giám Đốc Công ty gỗ, Phó Giám đốc Liên hiệp xí nghiệp gỗ, Phó Giám đốc xí nghiệp khai thác vận chuyển, Phó giám đốc Cimexcol liên doanh và Phó giam đốc Cimexcol Minh Hải, từ năm 1979 đến 1987…”.
Trong Chuyện một vụ án và Chuyện về những người tù, tôi đã từng tỏ ý chẳng những không tin mà còn cho rằng vụ án và bản án Cimexcol Minh Hải là hoàn toàn bịa đặt. Nhưng đó là về nội dung và một số hình thức, còn về mấy chức vụ của Dương văn Ba do bản án liệt kê trên đây thì không thể là bịa đặt. Vả lại, có một người mà tôi bătt buộc phải tin. Đó là ông Năm Hạnh Lê văn Bình. Ông Năm Hạnh đã từng nói trước lãnh đạo Đảng trong phiên họp của Bộ chánh trị ngày 9-3-1994 tại T78 TP HCM như sau : “Hội đồng xử án kết tội Dương văn Ba trốn cải tạo đoàn xe… Thật sự vào năm 1979 là thời kỳ cải tạo công thương nghiệp, Dương Văn Ba… làm đơn xin UBND Tỉnh cho đăng ký cho xe (14 chiếc) được mang biển số xanh. Lúc nầy anh Nguyễn Minh Đức (Bảy Nông) là Chủ tịch UBND Tỉnh ký văn bản ngày 31/3/1979 cho phép đoàn xe đăng ký… Giả thuyết lúc cải tạo bỏ lọt đoàn xe, nhưng sau đó có chủ trương thừa nhận kinh tế nhiều thành phần thì luật đâu có hồi tố… Rõ ràng không có lý do nào buộc Dương Văn Ba trốn cải tạo đoàn xe. Nếu có thì chủ tịch Nguyễn Minh Đức chịu trách nhiệm... Về riêng phần tôi, bị kết tội không cải tạo đoàn xe của Dương Văn Ba, thực sự lúc đó (đầu năm 1979) tôi phụ trách tuyên huấn, rồi làm Bí thư Huyện ủy Vĩnh Lợi, kế đến huyện Gá Rai, mãi đến tháng 9/1983 tôi mới về công tác ở UBND Tỉnh Minh Hải. Không lẽ các anh lại nhầm lẫn đến thế. Khi kết tội bị cáo lại không biết sự việc xảy ra lúc đó họ ở đâu, làm gì, có liên quan đến vụ án hay không ?”
Công ty Cimexcol liên doanh. Sau khi Tin Sáng được cho “hoàn thành nhiệm vụ”, tỉnh Minh Hải, với sự vận đông của Dương văn Ba, và hai anh Huỳnh Kim Báu, Lê Công Giàu ở Sài Gòn, đã phối hợp với TP Hồ Chí Minh để cho ra đời Công Ty Cimexcol liên doanh hợp tác làm ăn với Lào. Thành phố cử anh Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thơ ký Hội Trí thức yêu nước TP làm Giám đốc Công ty Cimexcol liên doanh, anh Lê Công Giàu, nguyên Giám Đốc Công ty Savimex SàiGon làm một Phó Giám Đốc. Minh Hải cử một Phó Giám đốc là anh Dương văn Ba. Đối tác bên phía Lào là Công Ty BPKP, Công ty Chấn hưng Miền rừng núi Lào, thuôc Bộ Quốc Phòng Lào. Giám Đốc BPKP là tướng Bun Niên, Phó Giám Đốc là Đại Tá Chẹng Sayavong, không lâu sau cũng được phong tướng, cả hai vị nay đã qua đời.
Cimexcol liên doanh Minh Hải – TP Hồ chí Minh chỉ hoạt động một thời gian ngắn trong năm 1985, nhưng cũng đủ để “bắt dính” tôi với Cimexcol, khi tôi để bị các anh Huỳnh Kim Báu, Lê Công Giàu, Dương Văn Ba và nhiều bạn nữa thuyết phục đứng ra tổ chức gian hàng của Cimexcol liên doanh và BPKP tham dự hội chợ Vientane tháng 12 năm 1985, kỷ niệm 10 năm giải phóng Lào, mà tôi có nói qua trong bản thảo quyển ĐỜI. Sau đó là tham dự triển làm toàn quốc ở Giảng Võ, Hà Nôi, rồi đến các chương trình phát triển trên đất Lào… cho tới vụ án oan nghiệt năm 1989.
Công ty Cimexcol Minh Hải hợp tác kinh doanh với Lào. Khi thành phố Hồ Chí Minh không liên doanh nữa, Cimexcol trở thành Cimexcol Minh Hải, với anh Nguyễn Quang Sang , nguyên Giám Đốc Sở Tài chánh tỉnh được cử làm Giám Đốc, anh Dương Văn Ba và anh Trương công Miên, một cộng sự đắc lực của Ba thời còn Công Ty gỗ Minh Hải, làm Phó Giám Đốc. Một số nhân sự của Tin Sáng rã gánh đã sang đầu quân Cimexcol, trong đó đương nhiên là có anh bạn nối khố Thạch Phen, đã từng hợp tác với Ba từ hồi các công ty gỗ.
Đây có thể nói là thời kỳ hoạt động kinh tế năng nổ và có hiệu quả nhất của Dương Văn Ba, đặc biệt trong lãnh vực khai thác kinh doanh gỗ và kinh doanh tổng hợp.Thành công của Cimexcol đã làm nức lòng lãnh đạo và người dân Minh Hải vì giúp đem gỗ xây dựng về cho tỉnh, trong khi Minh Hải chỉ có hai loại gỗ tràm và đước, mà cũng không còn nhiều. Và làm nức lòng lãnh đạo nước Lào, vì giúp đem ngoại tệ về cho nước bạn, do xuất khẩu gỗ thông Lào qua Nhật, thay vì bị “chảy máu” gỗ lậu qua ngã Thái Lan. Đến nỗi lãnh đạo Lào, nhân kỷ niệm ngày thành lập Cimexcol, đã cho chuyên cơ chở Đoàn Văn Công của Bộ Quốc Phòng Láo, cũng là Đoàn Văn Công lớn nhất nước Lào, do ông tướng Chẹng Sayavong, Phó TGĐ/BPKP hướng dẫn, sang Minh Hải biểu diễn cho cán bộ và bà con Minh Hài xem mấy buổi liền, và chiếc chuyên cơ Lào chở Đoàn văn công thì nằm chờ suốt mấy ngày ở sân bay Tân Sơn Nhứt. Anh em trong “gia đình chánh trị nhỏ” của chúng tôi, trong đó không thể thiếu Ngô Công Đức, không thể không vui lây.
Riêng tôi, sau hội chợ Vientiane năm 1985, đã phải xin phép Thành Phố sang Lào nhiều lần để giúp các bạn Lào trong mộ số chương trình phát triển của bạn, do Cimexcol liên doanh và Cimexcol Minh Hải đề xuất, đặc biệt là ở Lạc Sao vùng Trung Lào. Lạc Sao, một địa danh từ hồi còn nghe vượn hú giữa rừng già, dày đặc hố bom,đã được lãnh đạo Lào quyết tâm biến thành một thị trấn chiến lược của cách mạng Lào, nay đã thật sự là một thị trấn sầm uất, cách thành phố Vinh của Việt Nam không xa, lại được nối liền với thành phố cảng nầy bằng con đường 8B huyết mạch đã từng bị phá nát trong chiến tranh, và đã được Cimexcol hợp tác với bạn Lào làm lại gần như toàn bộ, mà có tráng nhựa hẳn hoi. Nhưng không biết cái tên “Minh Hải” do bà con địa phương đặt cho một cây cầu trên đường nầy đến nay có còn được giữ hay không.
“Một tỉnh lẻ mà đi làm ăn… với một nước”. Nhưng đất Lào, từ nhiều chục năm qua, là địa bàn hoạt động gần như độc quyền, coi như một thứ sân sau, của một số ngành, công ty, xí nghiệp thuộc “loại đặc biệt” ở Trung Ương, còn Minh Hải thì lại là một tỉnh lẻ ở tận cùng đất nước, không một tấc đất dính với đất Lào. Thành công vang dội của Dương văn Ba và Cimexcol Minh Hải không thể không làm “động lòng” nhiều người, và bắt đầu râm ran đâu đó câu “Một tỉnh lẻ mà đi làm ăn… với một nước”. Cũng không thể không làm động lòng “ai đó” ở Trung ương Đảng vốn đang “nhắm” đến một người nào đó có quá nhiều quan hệ gốc rể ở các địa phương Bạc Liêu Cà Mau, Đồng Bằng Sông Cửu Long và Sài Gòn. Vì vậy mới có vụ “quăng một mẻ chài bắt gọn Dương Văn Ba và đồng bọn”, theo lời ông Đại tá điều tra ông Nguyễn Quang Sang, Giám Đốc Công ty Cimexcol, và “vụ án Cimexcol” năm 1989, xử “Dương văn Ba và đồng bọn”, cùng với ông 5 Hạnh Lê văn Bình, nguyên Chủ tịch tỉnh Minh Hải. Mà tôi đã kể lại trong quyển Chuyện một vụ án hay “hồ sơ về vụ án Cimexcol Minh Hải”, với 432 trang, viết xong tháng 7/1997. Và trong chương 14 của quyển “Đời”, tập 1, hay “Chuyện về những người tù của tôi” (bản thảo các năm 2000, 2003 và 2006).
Trong vụ án nầy Dương văn Ba đã bị xử tù chung thân, nhưng được thả sau 7 năm mấy tháng. Nhiều người từng giữ các chức vụ quan trọng ở Cimexcol bị xử các mức án khác nhau, trong đó không thể không có mấy anh em ở Tin Sáng cũ. Một thằng cháu họ Hồ của tôi phục vụ Cimexcol tại Lào thì ở lại Lào và thành dân Lào. Riêng anh Thạch Phen thì qua đời một thời gian ngắn sau khi được thả. Anh Phó Giám đốc Trương Công Miên cũng vậy. Một anh học trò cũ đồng thời là một người anh em của chúng tôi trong “gia đình Chương trình Phát triển Quận 8”, một cựu Trưởng Ban Biên tập của Tin Sáng bộ mới, một Trưởng Ban của Cimexcol Minh Hải cũng bị lãnh án 10 năm tù, cùng với nhiều người khác, và sau khi ra tù thì hợp tác với anh Ngô Công Đức và gia đình anh Đức cho tới nay. Riêng tôi đã may mắn thoát nạn, dù đã bị “mời” vô ra công an Bộ Nội vụ cả tháng trời, sau anh Huỳnh Kim Báu nguyên Giám Đốc Cimexcol liên doanh một thời gian, nhưng không bị tạm giam như anh Báu, và trước phiên tòa xử vụ Cimexcol chỉ có mấy ngày, vì bị cáo buộc trong hồ sơ vụ án là “cố vấn cấp cao của Dương Văn Ba, cùng với Hồ Văn Minh, Dương Văn Ba và đồng bọn trong Cimexcol nằm trong kế hoạch hậu chiến của Mỹ, và có dính với nhóm Hoàng Cơ Minh đã bị bắt ở Hạ Lào”. Tôi thoát nạn vì, với một bộ máy đồ sộ và một thời gian dài hằng năm tẩu tán, ngụy tạo hồ sơ các loại, “người ta” đã không thể có được một bằng chứng nào về những cáo buộc đối với tôi.
Cái tội của tôi. Tôi có cái tội là qua lại Lào nhiều lần để giúp Cimexcol và các bạn Lào, thường là qua ngả Vinh, qua đường 8 B qua đèo Keo Nưa trên dải Trường Sơn. Cái tội nữa của tôi, “nặng hơn”, là không đi Lào một mình, mà còn kéo theo hằng trăm công nhân Minh Hải và thành phố Hồ Chí Minh, hằng chục chuyên viên các ngành, cùng tôi sang Lào giúp nghiên cứu thực hiện các dự án phát triển miền rừng núi Lào. Trong đó không thiếu những sĩ quan chế đô cũ, khiến cho một ông Đại tá điều tra viên đã kết tội chúng tôi, là đã “sử dụng người của ngụy đưa vào nội bộ Cimexcol gồm đủ thành phần binh chủng, ngành nghề, đủ lập một quốc gia riêng, lấy Cimexcol làm chỗ dựa hợp pháp để thừa cơ lật đổ chính quyền hợp pháp”, khi hỏi cung ông Nguyễn Quang Sang, Giám Đốc Cimexcol, khi ông nầy bị bắt để điều tra. Tôi thoát nạn, chỉ có mấy ngày trước khi vụ án mở màn ở Bạc Liêu. Và vụ án sở dĩ mở màn trễ, theo lời mấy ông công an điều tra tôi, là vì phải “chờ” tôi (?). Chờ tôi là chờ để kết thúc cuộc điều tra kết tội tôi ? Hay là chờ để tìm ra cách kết tội tôi mà không phải kết tội Công An Minh Hải và Công An thành phố Hồ Chí Minh đã cung cấp giấy tờ hợp pháp cho tôi và những bạn đồng hành sang Lào ? Mà không phải chỉ một lần, cũng không phải chỉ trong một thời gian ngắn ? Có ông Trưởng Công An Minh Hải còn sang tận Lào để điều tra xem xét tình hình. Ngoài ra, để có thể kết tội tôi, có lẽ “người ta” còn phải lôi cả vài ông lãnh đạo Thành Phố ra tòa, như ông Nguyễn Võ Danh, sếp Công an TP và là lãnh đạo Thành ủy TP/HCM lúc bấy giờ, là người đã gặp tôi (với anh Lê Hiếu Đằng) trong thời gian tôi vô ra Công an Bộ Nội Vụ, và đã nói với tôi : “Anh cứ có gì nói nấy, có sao nói vậy”. Và tôi đã “có gì nói nấy”, không quên cả câu “có sao nói vậy”, với các điều tra viên. Nghĩa là lần nào đi Lào để giúp Cimexcol và các bạn Lào tôi cũng đều có “xin phép” lãnh đạo Thành Phố, “đi thưa về trình” hẵn hoi. Tôi nói “xin phép” là có thực, bởi tôi đang làm việc ở UBMTTQTP, và bởi tôi biết, trong “thời đại nhiễu nhương” như bây giờ, mọi “tai họa” là không hiếm, là có thể đến “gõ cửa” mọi người bất cứ lúc nào.Tôi còn cẩn thận viết thư chánh thức trả lời từ chối các thư mời tôi về làm việc chánh thức ở Cimexcol, kể cả với cái chức “Trưởng ban Quản lý” các chương trình phát triền của Cimexcol ở Lào, mà Cimexcol đã đặt cho tôi. Các chương trình nầy là khá đa dạng và đã bước đầu có hiệu quả, như xây dựng câu đường, xây dựng bệnh viện, trường học, xí nghiệp khai thác nhựa thông, xí nghiệp chế biến thảo dược, chương trình làm thủy điện “mini” (dọc theo nhiều con suối nhỏ mà không phải ngăn suối, theo đề án của một anh bạn chuyên viên người Ý nhiều năm kinh nghiêm), xây dựng khu du lịch, khu bảo tồn tài nguyên, chương trình trồng lúa nước, trồng rừng, trồng cây công nghiệp… Các chương trình nầy có cái còn nằm trong dự án, nhưng phần lớn đã bắt đầu đi vào thực hiện. Riêng hai chương trình trồng lại rừng và trồng cây công nghiệp đã cho kết quả “thấy mê”, khiến tôi nổi hứng đi khoe với ông Võ Văn Kiệt, và được ông hứa có dịp sẽ đi thăm. Nhưng chương trình nào thì có Ban Quản lý và Trưởng Ban Quản lý nấy, với các chuyên viên tôi mời đến từ Sài Gòn. Bởi mỗi chương trình đều có một hồ sơ đồ sộ, gồm các thủ tục, dự án, kế hoạch, nhân sự, dự chi ngân sách… không phải nhỏ. Như chương trình làm đường 8B đi từ “thị trấn” Lạc Sao trong rừng Lào ra Vinh. Trong số các chuyên viên của Sài Gòn cũ thuộc các Ban Quản lý các chương trình không thiếu người là sĩ quan chế độ cũ. Cả đội hợp tác xây dựng huyện Pha Thoong ở Trung Lào cũng do một anh bạn cựu sĩ quan chế độ cũ chỉ huy, lại được bộ đội bạn tin cậy trang bị đầy đủ vũ khì để hiệp lực chống phỉ. Cả tôi, khi đến đó thăm anh em mà ở lại nhiều ngày, cũng được cấp súng để tham gia phòng bị. Tất cả các bạn nầy đã hợp tác, giúp đỡ tôi rất tận tình, không trong chức vụ là tổng quản lý các chương trình, mà là người tập hợp anh em và “chạy việc” tại chỗ thay cho hai chánh và phó Giam Đốc Cimexcol, nhất là Phó Giám đốc Dương Văn Ba, luôn bận việc kinh doanh túi bụi ở Sài Gòn, Bạc Liêu hay Vientiane. Vì là chánh thức từ chối mọi chức vụ nên đương nhiên là tôi có đủ giấy tờ chứng minh. Nếu bắt tội tôi, như bị cáo buộc trong hồ sơ, là hoàn toàn không có bằng chứng gì hết, hoặc chỉ có bằng chứng là tôi vô can.
Bảo lãnh. Có một điều đặc biệt mà tới nay tôi mới nói rõ : đó là tôi được yêu cầu viết giấy bảo lãnh để Dương Văn Ba được thả trước thời hạn. Trong khi tôi cũng là người cùng bị nạn mà được thoát nạn sớm hơn, trong một vụ án mà một số báo Nhà nước lúc bấy giờ gọi là “một vụ án lớn nhất lịch sử”, với những vu cáo nặng nề, và hồ sơ cáo buộc nằm cả trong các báo cáo chánh thức của Ban Bí thư TƯ Đảng 9. Ai yêu cầu ? Cấp nào hay ngành nào yêu cầu ? Lần nầy thì thật sự tôi không biết. Chỉ biết có một bữa Dương Văn Ba đến gặp tôi, vì Dương Văn Ba thời đó vô ra trại là thường, và nói : “Anh phải viết gấy bảo lãnh cho tôi để tôi được thả”. Viết thì viết. Bởi đây không phải là lần đầu tôi “bị yêu cầu” viết giấy bảo lãnh, và cũng không phải chỉ đối với một mình Dương Văn Ba.
Về cái giấy bảo lãnh “cốt tử” nầy, tôi không còn bản lưu. Nhưng tôi tin trong hồ sơ các nơi có liên quan chắc phải còn, để làm bằng chứng và đề cho ai muốn tra cứu. Riêng ông Đại tá trưởng trại tù nơi anh Dương Văn Ba ở, là một người rất dễ mến, mà rất tiếc tôi không nhớ tên cũng không biết đang làm gì ở đâu, hôm gặp tôi trong buổi cơm sau khi anh Dương Văn Ba được thả, thì chắc phải còn nhớ. Hôm đó, ông Đại tá đã tỏ vẻ rất vui, và hé cho tôi biết rằng cái thư bảo lãnh của tôi để xin thả Dương văn Ba là rất quan trọng.
Cái thư bảo lãnh của tôi, mà tôi vừa nhắc lại ở đây, có thể coi như là cái dấu chấm cho câu chuyện tù của Dương văn Ba.
Kêu oan. Nhưng để đi đến cái dấu chấm nhỏ đó là cả một câu chuyện thật dài về công cuộc kêu oan cho Dương Văn Ba, cho Cimexcol và cho tập thể cán bộ nhân viên Cimexcol, cho một số anh em chúng tôi ở báo Tin Sáng, cho một số thành viên lãnh đạo Minh Hải và một số khá lờn cán bộ đảng viên Minh Hải và các tỉnh Đồng Bắng Sông Cửu Long, và cho hằng trăm lao động, trí thức chuyên viên các ngành nghề của Thành phố và Minh Hải… đã hết lòng theo Cimexcol tận tụy phục vụ trên đất Lào, mà bị vu oan là phản động. Trong đó có một số người đã hy sinh, trên đường, trong rừng, trên núi, dưới ngầm, nơi công trường, và suýt chết oan trong tù. Có một số đã bị Fulro bắt đi mất tích đến nay đã trên dưới 30 năm mà không biết bỏ xác ở đâu. Câu chuyện thật dài, bắt đầu từ khi Dương Văn Ba và lãnh đạo cùng cán bộ nhân viên chủ chốt của Cimexcol bị bắt giữ (1987), cho đến khi được ra khỏi tù, đối với Dương văn Ba là hơn 7 năm, nhưng không kết thúc ở đây. Cũng không kết thúc 10 năm sau, khi tôi viết “Chuyện một vụ án” (1997). Cũng không kết thúc 16 năm sau, khi ông Ba Hùng Phạm văn Hoài, nguyên Chủ tịch tỉnh Minh Hải qua đời, vào ngày 04-9-2003, sau khi đã viết lá “ĐƠN KHIẾU TỐ” cuối cùng của ông, đề ngày 15-5-2003, cùng với ông Đoàn Thành Vị, nguyên ủy viên trung ương Đảng, nguyên Bí thư tỉnh Minh Hải và ông 5 Hạnh Lê văn Bình nguyên Chủ tịch tỉnh Minh Hải, trong đó có câu : “Dẫu có chết đi chúng tôi cũng không nhắm mắt ngậm miệng”.
Tập thể kêu oan. Đây là cả một cuộc vận động kêu oan tập thể, và tập thể nầy là không nhỏ, lại rộng khắp nhiều địa phương ở miền Nam. Nhưng là hoàn toàn tự phát, gồm nhiều thành phần từ Đảng ta tới Đảng Lào (bởi Tổng Bí Thư Đảng Lào đã từng qua Hà Nội gặp TBT Đảng ta về vụ Cimexcol) 10, tới các Mặt Trận địa phương, tới các đoàn thể và người dân, tới các ngành, đặc biệt là ngành báo chí, từ Minh Hải đến An Giang, Cần Thơ, Bến Tre, và các tỉnh vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, cho đến tận Thành phố Hồ Chí Minh… Một tập hợp đông đảo những người bức xúc, bất bình về vụ án Cimexcol như vậy thì không thể nào kể ra cho hết trong một vài trang giấy. Vì vậy tôi hy vọng quý vị trong các địa phương, các giới tôi kể trên, như anh Vi Trăn và anh 6 Sơn ở Hội nhà báo, ông Nguyễn Văn Để ở MT, ông Nguyễn Quốc Sử ở Viện KS, chị 5 Hạnh Lê Văn Bình và các cán bộ lão thành cách mạng ở Minh Hải, nhà báo lão thành Tô Hòa nguyên Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng, anh Chánh Trực, gốc Minh Hải, nguyên Giám Đốc Đoàn Bông Sen, và nhiều người hơn nữa vì chắc chắn tôi đã kể sót, sẽ có dịp nói về các cuộc vận động minh oan cho Dương văn Ba và Cimexcol thời điểm đó.
Nếu không có tất cả những vị đó, và nhiều người nữa đã âm thầm giúp sức, với lòng trung thực và can đảm, thì không tài nào phát hiện, dù chỉ là một phần, hồ sơ giả mạo của vụ án Cimexcol, như tôi đã trình bày trong “Chuyện một vụ án”.
Hai vị Hội thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao. Nhưng có hai người mà nếu tôi không nói ra thì có thể rất ít người biết, cả người trong cuộc. Hai người đó không công khai ở trong tập thể kêu oan tự phát nêu ra trên đây, nhưng là những người chính trực, đã dám nói “không” với cỗ máy xử án oan nghiệt. Hai tiếng nói “không” tuy không ngăn được cổ máy lăn tới, nhưng cũng chứng tỏ nó đã “xì khói” từ bên trong. Một hôm, chỉ vài ngày trước khi phiên tòa xử vụ án Cimexcol khai mạc ở Bạc Liêu, Giáo sư Phan Gia Bền, Tổng thơ Ký Liên Hiệp các Hội Khoa học Kỷ thuật Thành phố bỗng gọi báo cho tôi biết anh vừa xin rút khỏi ghế hội thẩm Tòa án nhân dân tối cao trong vụ án Cimexcol. Tôi lo lắng nhắc anh phải có lý do chánh đáng vững chắc, và được anh đáp : “Anh không lo, tôi có lý do chánh thức là bận tiếp khách nước ngoài quan trọng không thể bỏ được.” Sau đó tôi được biết Toà án đã phải điều động cấp tốc nhà văn Viễn Phương, Phó Chủ tịch Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật TP, hội thẩm dự khuyết, để thay thế Giáo sư Phan Gia Bền. Tôi biết Giáo sư không có lý do gì phải báo tôi biết tin giáo sư đã rút khỏi ghế hội thẩm. Nhưng chắc giáo sư biết tôi lo lắm nên gọi tôi để ngầm “chia sớt”. Và tôi thật lòng cám ơn giáo sư. Người nói “không” thứ hai là một người đã chấp nhận ngồi ghế hội thẩm, nhưng lại không chịu ký vào biên bản kết luận bản án vì thấy có nhiều điểm “không bình thường”. Người đó là bà Võ Thị Thắng, lúc bấy giờ là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tôi mong hai vị sẽ chứng giám cho lời nói của tôi, vì hai vị nay đều đã qua đời. Mà không cần ai nhắc công.
Nòng cốt của tập thể kêu oan tự phát lớn đó là ba anh Ba Vị, Ba Hùng, 5 Hạnh Mà chủ yếu là anh 5 Hạnh Lê Văn Bình, người đã kiên trì đấu tranh cho tới hơi thở cuối cùng, vì công lý, vì những người đã bị tù tội oan trong vụ án Cimexcol. Cả cho đến khi nằm liệt ở bệnh viện Thống Nhất vì chứng bệnh nan y, ông Năm Hạnh vẫn không ngừng tranh đấu chống lại vụ án oan, và đã khiến cho bà 7 Huệ, phu nhân TBT Nguyễn Văn Linh, cũng nằm điểu trị ở đây, đã phải động lòng viết thư cho Trung ương Đảng yêu cầu xét lại vụ án Cimexcol.
Người hỗ trợ. Và người đã đứng sau hỗ trợ cho tấp thể lớn đó không ai khác hơn là ông Võ Văn Kiệt. Bởi không thể tự dưng mà ông Võ Văn Kiệt đã mấy lần về Bạc Liêu thăm các ông Ba Vị, Ba Hùng, 5 Hạnh khi các ông nầy đã về vườn, và thăm ông 5 Hạnh khi ông nầy bệnh nặng ở Bạc Liêu, và nằm ở bệnh viện Thống Nhất. Cũng không thể bỗng dưng mà có “BUỔI LÀM VIỆC” đặc biệt ngày 9-3-1994, tại T.78 Thành phố Hồ chí Minh, dưới sự chủ trì của TBT Đỗ Mười, gồm 6 ủy viên Bộ Chánh trị, trong đó có ông Võ Văn Kiệt, 8 ủy viên BCH Trung ương Đảng, lãnh đạo các cơ quan Pháp luật Trung ương và Bộ Nội vụ, các Ban Đảng, toàn bộ Thường vụ Tỉnh ủy Minh Hải, với ba ông Đoàn Thành Vị, Phạm Văn Hoài và Lê Văn Bình, để nghe ba ông nầy, đặc biệt là nghe ông Lê văn Bình, trình bày, hay có thể nói là “tố ngược”, về vụ án Cimexcol, nếu không có bàn tay của ông Võ văn Kiệt.
Tại “BUỔI LÀM VIỆC”, trước sự trình bày, chất vấn, gần như tố cáo của ba ông Ba Vị, Ba Hùng, Năm Hạnh, những người có trách nhiệm trực tiếp và cao nhất trong vụ án Cimexcol đã không thể có một lời nào để phản bác lại, mặc dù đã được ông Sáu Hậu, tức ủy viên Bộ Chánh trị Lê Phước Thọ, người điều khiển cuộc họp liên tiếp trao lời. BUỔI LÀM VIỆC đã kết thúc với lời tuyên bố của ông Sáu Hậu là “Ban Bí Thư sẽ có kết luận sau. Và, qua thông báo của Ban BT/ TƯ Đảng ngày 14/3/1994, kết luận đó là : “Vì Ban BT nhiệm kỳ VI theo dõi chỉ đạo xuyên suốt vụ án… nên Ban BT nhiệm kỳ VII không xem xét lại, cũng không cho xử lại, mà chỉ xem xét giải quyết từng trường hợp cụ thể”. Một kết luận đã đưa đến việc Dương Văn Ba được thả sau hơn 7 năm ở tù thay vì chung thân, nhưng không trả lại công bằng công lý cho rất nhiều người, nhất là các đảng viên đã bị hàm oan, bị mất Đảng tịch hay mất chức,lại còn xúc phạm nặng nề danh dự của nhiều người, đặc biệt đối với ba ông nguyên lãnh đạo tỉnh Minh Hải. Một kết luận đã khiến ông 5 Hạnh Lê văn Bình đã có nhận xét : “Trước đây, Ban Bí Thư nhiệm kỳ VI đã can thiệp quá sâu và cụ thể vào vụ án, mang tính chất nghiệp vụ của vụ án, nên không còn khách quan nữa. Giờ đây Ban Bí Thư nhiệm kỳ VII chưa chi đã ra lệnh không xét xử lại, thế là đứng trên phap luật. Qua thông báo ngày 14/3/1994 làm chúng tôi không thể hiều được chân lý thuộc về ai.” (Trích tường thuật của ông Lê văn Bình, “Chuyện một vụ án” trang 311, HNN).
Được thả. Dương Văn Ba được thả trước thời hạn, dù nền công lý vẫn tiếp tục bị bóp méo, cũng khiến mọi người đều vui, nhất là những ai đã bỏ ra rất nhiều công sức, và đánh cuộc cả sinh mạng chánh trị của mình, để góp phần kêu oan. Cả các vị lãnh đạo Thành phố cũng thở phào, và vui lây, vì đã thoát tội để cho Ba đi làm với Minh Hải, và cũng thoát luôn cái tội không bắt tôi làm kiểm điểm về tộ phát tán tài liệu bất hợp pháp, khi tôi phổ biến cuốn “Chuyện một vụ án”, tập hợp biên soạn từ nhiều “giỏ cần xé” đơn từ khiếu nại, như tôi đã “biện hộ” với ông Lê Khắc Bình, Chủ tịch UBMTTQTP, khi ông đại diện Thành ủy gặp tôi.
Con đường tự do. Ai cũng nghĩ được tự do đương nhiên là hơn ở tù. Nhưng mới đây lại có anh công dân Canada tên Omar Khadr, bị bắt cầm tù ở Afghanistan, rồi ở Guantánamo , rồi ở Canada, từ hồi 15 tuổi, mà bây giờ là 28 tuổi, vừa được bảo lãnh cho tự do tạm ở Canada, thì lại tuyên bố : “Sau Guantánamo thì con đường tự do là điều tốt hơn là tôi đã nghĩ”. Nói vậy phải chăng anh nầy cho rằng ở trong các nhà tù khác mà anh đã trải qua là tốt hơn được tự do ? Hay phải chăng, đối với một số người, bước ra khỏi nhà tù lắm khi là phải đối mặt với một con đường đầy chông gai, vô định ? Với một tương lai ảm đạm, mù mịt ?
Dù sao, đối với Dương văn Ba, và mọi người thân, thì được trả về đời sống tự do là không có gì hơn. Bởi ai cũng biết câu “một ngày ở tù như…” mà Dương văn Ba thì phải ở tù oan đến 7 lần 365 ngày hơn. Tuy rằng, nhờ có cuộc vận động minh oan ráo riết dồn dập của toàn bộ “tập thể” tôi đã nói ở trên, mà Dương văn Ba cũng có được những ngày tháng cuối cùng ở trong tù “dễ thở” hơn. Dương Văn Ba đã được cho ra cai quản một trại sản xuất đồ mộc riêng bên ngoài nhà tù (sản xuất cho Trại tù hay cho lãnh đạo các Trại tù thì tôi không biết), được đưa người nhà đến ở chung để lo cơm nước, và thỉnh thoảng được cho về Sài Gòn chơi. Được về Sài Gòn chơi chớ không phải về nhà. Và tôi biết có rất nhiều bạn bè đã đến thăm Dương Văn Ba khi Ba còn ở trại, mà không phải chỉ một lần, vì không phải quá khó khăn, nhất là quá tốn kém như cái thời nhiều gia đình phải tảo tần, có khi phải bán hết đồ đạc và lặn lội đi thăm những người đi cải tạo ở ngoài Bắc 11.
Qua cơn mưa. Người ta cũng thường nói “qua cơn mưa trời lại sáng”. Nhưng đây không là một cơn mưa, mà là một cơn dông. Hơn cả một cơn dông, đây chinh là một cơn bão. Sau dông bão thì gãy đổ là không thể tránh khỏi. Được tự do sau hơn 7 năm thử thách ở trong tù, Dương Văn Ba đã phải trải qua một thời kỳ thử thách mới kéo dài triền miên cho đến nay. Toàn bộ sản nghiệp gần như mất hết, Ba phải lo gầy dựng lại từ đầu gần như với hai bàn tay trắng. Bắt đầu là thử chạy vạy đòi lại mấy thứ đã bị tịch thâu, mà không đi đến đâu, lại còn đổ thêm nợ chạy đòi nợ. Có cái nhà ở đường Đinh Bộ Lĩnh Sài Gòn bị tịch giao cho Minh Hải bán. Sau nhiều tháng kiện, sau nhiều phiên xử, Minh Hải phải trả nhà thì Minh Hải lại tách đôi, Bạc Liêu trả một phần, Cà Mau một phần, bằng tiền Nhà nước. Tức trả nhỏ giọt, sở hụi đi về để lãnh từng giọt không đủ ăn cơm đường, tiền đâu trả nợ chạy đòi nợ ? Có cái nhà mua của Giáo sư Lê Văn Thới, nguyên Chủ tịch Hội Trí thức yêu nước Thành phố, ở mặt tiền Làng Đại học Thủ Đức, thì bị tịch thu luôn, cả mấy con heo được nuôi ở đó cũng bị hốt hết… Vậy là thử nhảy vô một số ngành mới, cả đấu thầu bếp ăn tập thể, cả mở quán ăn, cả trở lại đất Lào… Các bạn Lào ai còn lại sau biến cố Cimexcol cũng hết sức giúp. Bạn bè thân nhân ở đây cũng vậy. Mà thời vận đã khác, sức khỏe tuổi tác của Ba và mỗi ngưởi cũng khác, cái thì ngày càng xuống, cái thì ngày càng chồng cao. Vậy mà cuộc sống bây giờ, thường là không bình thường lắm, nó cứ không ngừng rượt đuổi theo. Dương Văn Ba bị tai biến mạch máu não lần nầy nằm liệt một chỗ là lần thứ ba. Với một người bình thường chỉ hai lần tai biến thôi cũng đủ vắt kiệt cả sức người sức của. Và mọi người, kể cả anh em con cái trong nhà, sau hơn 7 năm liên tục dốc hết sức mình để vận động cho Dương Văn Ba được trả tự do, cũng bắt đầu thấy đuối. Phải lo củng cố lại mình cũng là lẽ tự nhiên không khó hiểu.
Điều khó hiểu. Duy chỉ có điều khó hiểu, mà nhiều bạn bè đang hỏi tôi, như ba nhà báo, anh Tống văn Công, chị Minh HIền và anh Võ Văn Điểm đã hỏi. Đó là : Tại sao Dương văn Ba lại viết trong hồi ký, nói rằng “Ngô Công Đức đối xử vối cộng sự thân tín như xưa : một đàng là chủ báo, một đàng là công nhân. Quan hệ chủ thợ...” ..“Nguyên do khách quan khiến chính quyền Hà Nội đi tới quyết định.....Tin Sáng hoàn thành nhiệm vụ lịch sử”. Và đây không chỉ là điều “không tốt” duy nhất Ba viết về Đức,
Anh Tống Văn Công, và có thể có nhiều bạn nữa, đã “yêu cầu Hồ Ngọc Nhuận lên tiếng để : Một là trả cho lịch sử đúng sự thật. Hai là minh oan cho người bạn đã qua đời”.
Và tôi xin thưa :
1/ Câu nói trên không thể là của Dương văn Ba ;
2/ Dương văn Ba chỉ lặp lại câu nói của một người khác.
1/ Câu nói trên không thể là của Dương văn Ba. Tại sao ? Bởi khi nói “Ngô Công Đức đối xử vối cộng sự thân tín như xưa : một đàng là chủ báo, một đàng là công nhân. Quan hệ chủ thợ...” thì hai chữ như xưa ở đây có nghĩa là dưới chế độ cũ. Vậy thử xem “như xưa” với tờ Tin Sáng cũ, và “như xưa” với tờ Điện Tín, thì cái gọi là “Quan hệ chủ thợ” là thế nào :
a) “Như xưa”, từ 1967/1968 đến 1971, với tờ Tin Sáng cũ :
– Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, và nhiều anh em của cả ba từng viết báo Tin Sáng, là dân biểu Quốc Hội VNCH, là đồng viện, là đồng khối chánh trị ở Hạ nghị viện, đồng lập trường tranh đấu ở Miền Nam mà mọi người đều biết.
– Đức, Nhuận đứng tên tờ Tin Sáng thì Dương văn Ba là một trong những cây viết chủ lực của Tin Sáng. Cùng với các cây viết nòng cốt khác, như : anh Nguyễn Ngọc Lan, giáo sư Lý Chánh Trung, giáo sư Nguyễn Văn Trung, các dân biểu Phan Xuân Huy, Kiều Mộng Thu, Hồ Hữu Tường, Huỳnh ngọc Diêu,v.v…
– Viết báo thì có nhuận bút, theo quy chế nhuận bút. Tiền nhuận bút không phải là tiền lương và thường là rất hậu hĩ, đặc biệt với những cây viết chủ lực. Nhuận bút trên các báo tôi đứng tên giám đốc chánh trị hay chủ bút đều do tôi duyệt, bút tích đến nay vẫn còn. Các chủ nhiệm Hồng Sơn Đông, Ngô Công Đức đều ủy quyền đó cho tôi.
– Báo hằng ngày ở Sài Gòn cùng thời với Tin Sáng cũ, thường có khoảng trên dưới 30 tờ tùy thời điểm tịch thâu nhiều ít, vừa báo thương mại, báo chánh trị thân chính hoặc đối lập. Mà báo thương mại là đa số. Mỗi tòa soạn báo thường có một ê kíp nhỏ chuyên lo các trang báo mỗi ngày, là chỗ tin cậy của chủ báo chủ nhiệm, đa số ký giả còn lại đều làm freelance 12, môt người viết cho nhiều tờ báo, ai không bằng lòng tờ nào thì cứ bỏ đi, nhưng thường là được tờ báo “ôm cứng” nếu bài vở ăn khách, hay là cây viết nổi tiếng.
– Tất cả những người làm báo đều tập họp trong các hội đoàn hay tổ chức nghiệp đoàn độc lập để tương trợ lẫn nhau và tranh đấu bảo vệ quyền lợi của nghề báo và của cá nhân mình. Riêng các ký giả thì có hai nghiệp đoàn là Nghiệp đoàn ký giả Việt Nam và Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, cộng với Hội Ái hữu ký giả, để tự do tham gia bảo vệ quyền lợi của mình. Các nghiệp đoàn ở Miền Nam trước đây, đặc biệt là các nghiệp đoàn báo chí, ai cũng biết tiếng là đấu tranh không vừa, kể cả xuống đường, không dễ gì để bị chủ báo ăn hiếp 13.
– Tờ Tin Sáng là một tờ báo đối lập chánh trị, không là một tờ báo thương mại. Ai cũng biết Tin Sáng là một cơ quan tranh đấu, một tờ báo ngày “gần như hằng ngày” bị chánh quyền liên tiếp tịch thâu, liên tục bị đóng cửa, tòa soạn và nhà in liên tiếp bị đốt phá, các báo đương thời đều có đăng tin. Riêng tôi cũng từng bị “đạn thư” đe dọa mạng sống, Ngô Công Đức từng bị ném sơn đầy người khi về Trá Vinh, và cả hai chúng tôi đã từng bị treo hình nộm đốt ở tỉnh nhà, khi chúng tôi tổ chức kêu gọi hoà bình ở Paris và kêu gọi TT Nguyển Văn Thiệu từ chức, trên Tin Sáng. Nhưng Tin Sáng luôn được những người cùng chính kiến hợp tác coi như tờ báo của chính mình. Những tổ chức đấu tranh cho hòa bình dân tộc cũng đều coi Tin Sáng là như vậy. Và đông đảo độc giả nạn nhân chiến tranh, yêu chuộng hòa bình đều chọn Tin Sáng làm tiếng nói của mình 14. Có thể nói Tin Sáng dưới chế độ cũ là một tờ báo đã hội tụ được nhiều cây viết chánh trị nổi tiếng lúc bấy giờ, và nhiều nhà văn nhà báo tên tuổi.
Tất cả những phá hoại đối với Tin Sáng, tất cả những ủng hộ đối với tờ báo, trong đó có Dương Văn Ba, lẽ nào để yên cho chủ nhiệm Ngô Công Đúc đối xử với cộng sự thân tín như chủ thợ. Bởi thật sự là không hề có như vậy.
– Khi nói về “cộng sự thân tín” của Ngô Công Đức “thời xưa”, tức thời 1967-1971, thì ai có thể thân tín với Ngô Công Đức bằng Dương Văn Ba và Hồ Ngọc Nhuận, mà mọi người đều biết, vì luôn sát cánh với nhau ? Nếu không, thì làm sao có chuyện Ba cùng tôi đi cứu Đức ở Trà Vinh, và tôi đi cứu Ba ở Bạc Liêu khi Đức Ba bị nạn, như tôi đã kể trong quyển ĐỜI, trong chương “Ngô Công Đức ngồi tù” ? 15 Nếu không là thân tín với nhau, thì tại sao Ngô Công Đức khi chuẩn bị vượt biên lại sắp xếp cho ra tờ Điện Tín để Dương Văn Ba làm Thư Ký Tòa soạn trong mấy năm trời lánh nạn ở dinh Hoa Lan ?
Tóm lại, mọi người từng biết biết Dương Văn Ba, từ năm 1967 đến năm 1971, là một dân biểu đối lập, là một cây viết nổi tiếng của báo Tin Sáng, và hầu như duy nhất chỉ viết cho Tin Sáng, như anh Nguyễn Ngọc Lan ngoài tờ Đối Diện của anh. Dương văn Ba không hề là một công nhân ở Tin Sáng ngày nào. Để biết chế độ “chủ thợ” ở Tin Sáng là như thế nào. Trừ phi đã nghe ai nói ? Nếu vậy thì lúc đó sao không lên tiếng ? Nhất là với tư cách một dân biểu đối lập nổi tiếng ? Mà lại im lặng coi như a tòng ? Để đến bây giờ, hơn 40 năm sau, và gần 8 năm sau khi chủ nhiệm Tin Sáng đã chết, và nhiều người nữa cũng đã chết, thì mới lên tiếng ?
Và vì vậy tôi nói Dương văn Ba không thể là tác giả của những câu chết người kể trên.
b) “Như xưa”, từ 1971 đến 30-4-1975, với tờ Điện Tín.
– 1971 : Dương Văn Ba thất cử dân biểu ở Bạc Liêu và Ngô Công Đức ở Trà Vinh.
– Cuối năm 1971 : Ngô Công Đức chuẩn bị mọi thứ cho ra lại tờ Điện Tín, giao cho tôi và Dương Văn Ba điều khiển rồi đi lưu vong.
– Từ cuối 1971 đến 30-4-1975 : Dương Văn Ba trốn ở “Dinh Hoa Lan”, vừa làm Thư ký Tòa soạn Điện Tín
– Tháng 5-1975 : Ngô Công Đức về nước.
Tóm lại : Thời xưa, từ 1971 đến 1975 , với tờ Điện Tín do Ngô Công Đức góp công gầy dựng, Tòa soạn Điện Tín không hề thấy mặt Ngô công Đức ngày nào, hay có chăng cũng chỉ trong mấy ngày đầu. Tòa soạn Điện Tín cũng không hề thấy mặt Thư Ký Tòa soạn Dương văn Ba. Mà nhuận bút và chi phí biên tập các thứ đều do Dương Văn Ba đề nghị để Giám Đốc chánh trị Hồ Ngọc Nhuận duyệt cho mọi người lãnh. Trong đó có cả Dương Văn Ba, bút tích còn lưu.
Vì vậy cái gọi là chế độ chủ thợ thời xưa, ở Điện Tín, giữa Ngô Công Đức và những người làm báo với Đức cũng là đặt điều.
c) Tới thời nay, với tờ Tin Sáng bộ mới, từ ngày 10-8-1975 đến ngày 29-6-1981 khi Tin Sáng bị đóng cửa.
Trong thời gian gần 6 năm hoạt động, Tin Sáng bộ mới đã có một bộ mặt hoàn toàn khác với các báo cùng thời ở Thành phố Hồ Chí Minh, lại có một “đội ngũ” làm báo hùng hậu đa dạng mà cả Tin Sáng và Điện Tín ngày xưa không thể mơ ước có được, mà vài tờ báo cũ mới, xưa nay cũng khó có :
– Tập thể công nhân viên “Tin Sáng mới” gồm khoảng trên dưới 200 người, đông hơn cả tổng số nhân viên của Tin Sáng cũ, Điện Tín và nhiều tờ báo khác gộp lại. Mặc dù đã có hơn 50 anh chị em đã mất, gia đình Tin Sáng vẫn còn lại khá đông để hằng năm hoặc vài năm một lần cùng nhau đoàn viên kỷ niệm ngày Tin Sáng mới ra đời, mà ngày 10 tháng 8 năm nay (2015) là đúng 40 năm.
– Tòa soạn, bộ biên tập của Tin Sáng mới chẳng những tập họp gần như toàn bộ hai bộ biên tập của Tin Sáng cũ và Điện Tín, mà còn được sự tăng cường tiếp sức của nhiều thành phần tiêu biểu trong làng văn, làng báo Sài Gòn cũ, và một phần của miền Bắc cùng các bạn từ miền Bắc về, cùng nhiều trí thức tên tuổi, nhiều giáo chức, bác sĩ, luật sư, thẩm phán, sĩ quan chế độ cũ 16.
– Đặc biệt anh em chúng tôi còn có được một số đông anh em dân biểu, và nghị viên, là “đồng viện” cũ của Ba, của Đức và của tôi ở Quốc Hội chế độ cũ, tin cậy về hợp tác trong biên chế chính thức của Tin Sáng. Tổng cộng trước sau đếm được cũng phải hơn 15 anh, trong đó có nhiều người là bạn học cũ của nhau. Con số nầy là thừa túc số để có thể làm thành một khối chánh trị chánh thức tại một Quốc Hội như Quốc Hội VNCH 17. Đặc biệt trong những anh em dân cử cũ ở Tin Sáng có anh bác sĩ Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó Giám đốc bệnh viện Sùng Chính, nay là trung tâm chỉnh hình TP, trước khi đi định cư ở Mỹ, đã từng cùng mấy bạn bác sĩ nổi tiếng của Sài Gòn cũ, nhận luân phiên làm bác sĩ riêng cho gia đình Tin Sáng 18, và anh Nguyễn Hữu Hiệp, Trưởng ban Tư liệu thư viện Tin Sáng 19 từng là Thứ trưởng đặc trách liên lạc với Quốc Hội VNCH, thời Chánh Phủ Trần Văn Hương, nhưng trước đó là dân biểu Quốc Hội Lập Hiến Đệ nhị CHVN, đồng viện với dân biểu lập hiến chủ báo Lý Quý Chung. Gia đình hai anh Chung Hiệp đã từng, trong một thời gian rất dài trước khi Tin Sáng “bị nạn”, là bạn rất thân với nhau.
– “GIA ĐÌNH TIN SÁNG” còn là một Đại Gia Đình của nhiều gia đình nhân viên Tin Sáng, bởi có rất nhiều anh chị em, nếu không nói là đa số, có thân nhân, cha con, vợ chồng, anh em, cùng làm chung ở Tin Sáng, trong gần suốt 6 năm 20.
– Các đoàn thể như Công Đoàn, Chi Đoàn Thanh niên cộng sản hay Ban Nữ Công đã ra đời rất sớm ở Tin Sáng, bởi chủ nhiệm Ngô Công Đức đã sớm chủ động gởi người của Tin Sáng đi tập huấn đào tạo ở các nơi để về làm nòng cốt cho các đoàn thể ở Tin Sáng, để chuẩn bị chuyển giao tờ báo cho tập thể, bắt đầu từ năm thứ hai trở đi. Hầu hết anh chị em Tin Sáng đều có thể khẳng định rắng Ban chấp hành các đoàn thể ở đây đã hoạt động rất hăng hái, năng nổ. Nhân sự các BCH đó vẫn còn hiện diện khá đông đủ đó đây. Có người đã trở thành thành viên khá đắc lực ở một số đơn vị khác, sau khi Tin Sáng bị đóng cửa, nhưng vẫn không quên định kỳ về sinh hoạt với “gia đình Tin Sáng” nhân các dịp kỷ niệm.
– Không như ở Tin Sáng cũ, Điện Tín hay ở những tờ báo ở Sài Gòn cũ, Tin Sáng bộ mới được quản lý điều hành trong khuôn khổ một Bản Nội Quy do đại diện Ban Chấp Hành các đoàn thể cùng tôi hợp tác soạn thảo và toàn bộ tập thể nhà báo thông qua. Và khi nhà báo ngưng hoạt động thì cho ra đời một Ban Thanh lý Tin Sáng, mà tôi là trưởng ban, với sự chứng kiến của đại diện Ban Tuyên huấn Thành ủy và Sở Thông tin 21. Các nhân viên Tin Sáng đều ít nhiều được ban nầy phục vụ. Ít ra là cũng được xác nhận giấy tờ công tác ở Tin Sáng, hoặc để đi xin việc, mua gạo hay mua dầu lửa. Mọi người còn được chia phần thanh lý xí nghiệp sơn mài Lam Sơn của tập thể Tin Sáng, tính theo công điểm và thâm niên của từng người.
– Ngoài ra hai ông Võ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng còn thường xuyên theo sát chỉ đạo, hỗ trợ Tin Sáng hết mình. Ông Kiệt đã từng đến tham quan, thăm viếng, động viên anh em. Ông Trần Bạch Đằng thì đều đặn viết bài cho Tin Sáng. Đặc biệt, dù biết tôi đã có ba phụ tá Chủ bút trong biên chế Tin Sáng là Nguyễn Hữu An 22, Dương văn Ba và Lý Quý Chung 23, ông còn gởi đến một người để giúp tôi, mà ông gọi đùa với tôi là Phụ Tá đặc biệt 24.
– Đặc biệt đối với Dương Văn Ba, trong thời gian hoạt động gần 6 năm của Tin sáng (từ tháng 8/1975 đến 29/6/1981), thì Ba vừa làm Phụ tá Chủ bút vừa đi hợp tác khai thác kinh doanh gỗ với tỉnh Minh Hải hơn 3 năm (từ 1978 đến 1981), với quy mô làm ăn ngày càng lớn và những chức vụ không nhỏ. Việc để cho Ba đi làm với Minh Hải đã làm cho ông Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bô Nội vụ không bằng lòng và lên tiếng trách tôi và Đức 25.
2) Dương văn Ba chỉ lập lại một câu nói của một người khác. Người đó là ai ? Và tại sao ?
a/ Người đó là ai ? Để trả lời câu hỏi nầy, tôi xin trở lại những ngày trong tháng 6 năm 1981. Vào thời đó, những ai từng làm báo và làm văn nghệ ở Sài Gòn đều nhớ đây là thời kỳ ông Võ Văn Kiệt có kế hoạch kiểm điểm chỉnh đốn các cơ sở báo chí và văn nghệ toàn thành, bằng cách hằng tuần luân phiên đến tiếp xúc trao đổi với từng cơ quan. Tin Sáng cũng nằm trong kế hoạch đó. Khi đến ngày hẹn gặp, ở một cơ sở ở đường Tú Xương, Ngô Công Đức đề nghị có cả đại diện các đoàn thể Tin Sáng cùng dự, thay vì chỉ có Ban lãnh đạo tờ báo gồm chủ nhiệm, chủ bút, ba phụ tá chủ bút và Quản lý.
Tôi đại diện Tin Sáng báo cáo tình hình chung của tờ báo, hoạt động hằng ngày của nhà báo và tòa soạn, hình thức nội dung mỗi số báo, quá trình hoạt động trong gần 6 năm, từ số báo đầu tiên đề ngày 10-8-1975, một số thành quả bước đầu thu hái được, dư luận độc giả, những ưu và khuyết điểm… Và để kết luận, tôi nói, đại ý : “Tin Sáng có thể đã có một phần đóng góp nào đó cho việc xây dựng Thành Phố trong những năm đầu Thành Phố còn nhiều khó khăn. Chút công gì, nếu có, thì cũng không đáng kể. Mà khuyết điểm, hay “tội”, thì chắc phải nhiều hơn những gì đã được tôi báo cáo. Mong được lãnh đạo hết lòng chỉ dẫn”.
Tạm nghỉ, “ra chơi”, “toàn dân” Tin sáng đều “tán dương” tôi, cho rằng tôi đã nói đúng bụng anh em.
Khi vào họp lại, đại diện Ban Tuyên huấn Thành ủy đáp lời tôi. Một loạt các ưu khuyết điểm của Tin Sáng trong hoạt động mấy năm qua đã được vắn tắt nêu lên, mà nổi bật nhất trong các khuyết điểm, có thể nói là “cây đinh” trong buổi họp, là một “bài báo” của chủ nhiệm Ngô Công Đức. Không đừng được nên tôi đã “nổ”. Ngay giữa phiên họp và cả khi về đến tòa soạn. Vậy đó là bài báo nào ? Và tại sao tôi “nổ” ?
Đó là một “bài báo” không có đăng báo. Một hôm Ngô Công Đức chuyển cho tôi một bản thảo bài báo có tựa bài là “Nạn hồng về binh mới”, để tôi biên tập lại và cho đăng. Nhận thấy hạn cuối nạp bài đã sắp hết, bài viết lại thuộc loại “khó nuốt”, khó sửa, tôi xếp bỏ vào hộc tủ bàn viết, rồi gọi báo Đức rằng tôi tạm gác lại, không sửa cũng không cho đăng. Hai bên trao đổi một hồi thì Đức cũng để tùy tôi quyết định. Và tôi quyết là xếp. Nhưng có một người lúc đó đang có mặt tại tòa soạn lại không chịu “xếp”. Người đó, khi nghe Đức và tôi trao đổi qua điện thoại, đã đến gần tôi và nói : “Anh phải hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu cho đăng bài nầy của Đức”. Tôi hết sức kinh ngạc ! Bởi đây là lần đầu tôi được “nhắc nhở” về trách nhiệm của tôi, Mà tôi là ai ? Nếu chủ bút một tờ báo không chịu trách nhiệm trên hết về các bài đăng trên báo của mình thì là ai ? Từ trước tới nay, tôi đã duyệt bỏ không chỉ một bài, mà không biết bao nhiêu bài, kể cả của các đảng viên, kể cả của ông Trần Bạch Đằng, và tôi có phải hỏi ý kiến hay báo cáo với ai đâu ? Ở Tin Sáng cũ và Điện Tín cũng vậy. Các tin bài bị duyệt bỏ, bất cứ vì lý do gì, bởi nhiều cấp trách nhiệm khác nhau ở một tòa soạn báo trong một ngày, một tháng, một năm là không thể kể xiết, chưa nói đến những tin bài bị sửa, bị cắt xén trước khi cho đăng báo. Nếu bươi lại hết những thứ đã bị bỏ để kết tội thì làm sao gánh cho hết tội ? Kể cả các “ý kiến” có độc giả gửi đến chửi chế độ mà tôi đã xếp, cũng coi là tội hay sao ? Một bài viết đã được loại bỏ, không bao giờ được đăng báo, không ai biết nội dung là gì, thì sao gọi là một bài báo ? Bài viết của chủ nhiệm Ngô Công Đức, mà với tư cách là chủ bút tôi đã loại bỏ, với sự đồng tình của tác giả, mà tôi chỉ còn nhớ được cái tựa chớ không nhớ được nội dung là gì, thì may ra chỉ còn nằm trong đầu của tác giả, vì lúc đó làm gì có máy vi tính để truy tìm dấu vết. Không lẽ đi bắt tội cả những ý định trong đầu người khác ? Một ý định chưa biến thành hành động thì sao gọi là một hành động ? Không lẽ cứ có ý định tốt là được lên thiên đàng, có ý định không tốt là xuống địa ngục ? Nếu vậy thì đó là chế độ gì ? Hay là “ai đó”, trước khi đi báo cáo, đã lục lạo hộc tủ bàn viết của tôi để lôi ra “bằng chứng” báo cáo ? Mà nếu có bản nháp bài viết “làm bằng” thì đó cũng không phải là một bài báo, không phải là một cái tội.
Đại ý nội dung phát biểu phản ứng của tôi, mà đến nay tôi vẫn chưa quên, là như trên. Bởi tôi không chỉ phản ứng tại chỗ mà còn không dằn được cơn tức khi về đến tòa soạn. Tôi cũng không quên cho rằng ai đó đã đi báo cáo sau lưng Đức và tôi như vậy là “không thể chấp nhận” được, mặc dù tôi dư biết chúng tôi đã bị báo cáo đều đặn từ mấy năm nay. Những báo cáo có cái viết tay, có cái đánh máy, mà sau nhiều năm Tin Sáng đã rã đám, nhờ bạn bè thương tình đã gom góp cho tôi được một mớ 26. Nhưng tôi cũng nghĩ cái “tội” đụng đến “hồng vệ binh” lần nầy là nặng nhất, lại có “bằng chứng”, và công người đi tố cáo cũng là công lớn nhất.
Và màn một của vở tuồng “Tin Sáng hoàn thành nhiệm vụ” đã kết thúc ở đó.
Màn hai là khi ông Võ Văn Kiệt mời dự một phiên họp tiếp với ông. Nhưng lần nầy thì chỉ thu hẹp với ban lãnh đạo Tin Sáng, tất cả 5 người, gồm : chủ nhiệm, chủ bút, hai phụ tá chủ bút là Dương Văn Ba và Lý Quý Chung và quản lý Nguyễn Văn Binh. Anh Nguyễn Hữu An, Phụ tá thứ nhất không dự vì đang là Giám đốc Sơn mài Lam Sơn. Nội dung là để ông Kiệt nghe tiếp các bên. Nói là các bên, nhưng kỳ thật là chỉ có hai bên : bên tố và bên biện hộ. Bên tố là người đã “cảnh cáo” tôi là “tôi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu cho đăng bài về “Nạn hồng vệ binh mới” của Ngô Công Đức”. Bên biện hộ là tôi và Dương văn Ba, mà nhất là Dương Văn Ba. Chủ nhiệm Ngô Công Đức là người bị tố nặng nhất nên ít lên tiếng, Quản lý Nguyễn Văn Binh vì là anh rể Đức nên cũng ít lên tiếng.
Những “tội danh” Đức bị tố là gì ? Là những gì cả nhà báo đã từng râm ran nghe nói về Đức, và một phần về tôi, trong mấy tháng sau cùng của tờ báo. Những “tội” mà Ngô Công Đức đã “giữ kín” trong nhiều năm trời, và chỉ nói ra một phần, 3 năm trước khi mất, trong các thư gửi ông Trần Bạch Đằng, ông Dương Đình Thảo và bà Giám Đốc Nhà xuất bản Trẻ đề ngày 30 và 31-12-2004, sau khi có một cuốn hồi ký vừa được xuất bản, được tờ Công Luận, một tờ báo mới xuất bản số ra mắt và tờ Công An Thánh phố Hồ Chí Minh quảng cáo rầm rộ, có liên quan đến ngày 30-4-1975, đến ông Đại tướng Dương Văn Minh, và đặc biệt có nhiều đoạn nói đến báo Tin Sáng. Thư Đức gửi ông Trần Bạch Đằng có đoạn viết : “Tin Sáng đã đình bản bởi một loạt mâu thuẫn chia rẽ nội bộ, và anh LQC đã từng tố cáo tôi trước Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt với sự hiện diện của Ban Tuyên huấn và anh em Tin Sáng rằng tôi lãnh đạo Tin Sáng chống Đảng. Bây giờ tôi đã quên lời tố cáo “giết người” của anh, và còn đưa cho anh tài liệu để viết hồi ký, anh LQC lại tiếp tục gián tiếp tố cáo Tin Sáng và cá nhân tôi, để người đọc… hiểu rằng nếu không có mâu thuẫn với anh thì Tin Sáng cũng không thể tồn tại vì tôi sẽ như Walesa của Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan sẽ phát động lật đổ chế độ cộng sản…”. Thư gửi ông Dương đình Thảo có đoạn viết : “…Sau khi thấy báo chí ca ngợi trước khi sách phát hành, đọc lời tựa của anh Trần Bạch Đằng, và thấy anh (DĐT) đến (buổi ra mắt quyển HKKT tại Khách sạn Sofitel Plaza, số 17 đường Lê Duẩn, Q1 TP Hồ Chí Minh, lúc 10 giờ 30 ngày 04-12-2004. HNN) để tăng sức nặng cho sự ra đời của quyển hồi ký có lẽ nhiều người cũng hiểu vai trò của cuốn hồi ký nầy cho những gì sẽ mở màn cho năm 2005… Nếu ông Dương Văn Minh còn sống chắc có nhiều thay đổi trong nội dung hồi ký của (… ) có liên quan đến ông”. Thư gửi bà Giám đốc Nhà xuất bản Trẻ có đoạn viết : “Tôi xin được quyền dựa trên luật pháp để bảo vệ sự thật và danh dự của mình, và sẽ lên tiếng trước công luận về cuốn hồi ký của ông (…)”. (xem ĐỜI, bản thảo năm 2010).
Những tố cáo mà Ngô Công Đức gọi là “giết người” đó không chỉ nói về việc Đức muốn bắt chước Công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan, mà còn về nhiều “tội” khác, như :
– có những tư tưởng được cho là thân Nam Tư,
– lập trại sản xuất nông nghiệp “sát biển” ở Minh Hải, nằm giữa đông đảo bà con người Khmer,
– thu dụng hoặc kêu gọi sự hợp tác của quá nhiều thành phần của chế độ cũ, đặc biệt có tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, có cả đảng viên của đảng Cấp tiến của giáo sư Nguyễn ngọc Huy
– thu dụng cả con em có khuynh hướng tự do của các bạn đi tập kết miền Bắc về, điển hình là con gái anh Hồ Ngọc Chiếu, cháu ruột anh Hồ Ngọc Cứ,
– và về việc Đức không từ bỏ nếp sống của một ông chủ báo cũ, đối xử với nhân viên như chủ với thợ thời trước 1975.
Tin hay không tin ? Trước những lời tố cáo nặng nề đó, tôi nghĩ chính ông Võ Văn Kiệt cũng một phần nào bị bất ngờ, nhất là về tính cách dữ dội của những lời lẽ tố cáo, mặc dù chắc có thể ông đã biết qua hoặc đoán qua một phần, do những báo cáo đã có trước từ đâu đó 27. Ông đã kiên nhẫn ngồi nghe hết những lời lẽ “hùng hồn” của người tố cáo duy nhất, và của bên biện hộ gồm Dương văn Ba và tôi. Mà người bênh Ngô Công Đức hăng nhất, có khi còn lớn tiếng vì không dằn được cơn tức, là Dương Văn Ba, chớ không phải tôi. Tại sao ? Bởi tôi đã bắt đầu thấy ngán cho tình đời, và dự đoán khi người ta đã quyết liệt “tố hết lán” như vậy thì kết cục ở tờ báo phải có một thay đổi lớn, không đến nỗi là một cuộc “thanh trừng”, nhưng Đức thì khó có thể ngồi yên. Nhưng nếu Đức đi thì tôi cũng sẽ không ở. Vì vậy có thể là một cuộc thay bậc đổi ngôi, điều mà có người hằng muốn. Có thể là Tin Sáng sẽ bị “dẹp tiệm”, coi như “chìm xuồng” cả đám. Tôi thầm nghĩ như vậy. Còn Dương Văn Ba thì đang cùng trang lứa với người tố cáo và đang thời sung sức. Là người có quá trình hợp tác lâu dài nhất với Đức, so với nhiều anh em khác ở Tin Sáng, Ba lại đang trên đà hợp tác làm ăn tốt với Minh Hải, vừa làm phụ tá chủ bút Tin Sáng, nên Ba không thể không cảm thấy như chính mình bị đụng đến khi Đức bị tố oan, và Tin Sáng bị xúc phạm.
Mục tiêu của ông Võ Văn Kiệt là gì khi để cho hai bên “đối chất” trước mặt ông ? Để hòa giải chăng ? Có thể ông có nghĩ như vậy phần nào trước khi mở cuộc họp. Nhưng càng nghe càng thấy các lời trả đũa nhau giữa hai bên càng nảy lửa thì hàn gắn gì được nữa ?
Vậy thì sao ? Tạm cho những người bị tố nghỉ việc để tiến hành điều tra ? Giao cho người “trung tín” đã tố cáo tạm thời điều hành tờ báo một thời gian rồi sấp xếp lại ? Hay tạm giao tờ báo cho các đoàn thể ? Với bề dầy hoạt động của Tin Sáng cũ và mới, với bề dầy hoạt động chánh trị của những người chủ trương lãnh đạo Tin Sáng cũ và mới, những cái “tạm, tạm” đó không thể không gây những phản ứng nầy nọ trong dư luận quần chúng.
Hay cứ im lìm giữ nguyên trạng, tiếp tục để Tin Sáng hoạt động như không có gì, rồi từ từ tìm giải pháp ? Làm vậy tức là quyết giữ một trái bom nổ chậm trong nhà, và sẽ bị họa lây : họa lây cả khi bom chưa nổ, vì tội bao che một hiểm họa.
Tôi tin chắc ông Võ Văn Kiệt, trước những mâu thuẩn trầm trọng và những tố cáo nặng nề như vậy, qua quá trình tiếp xúc, “làm việc” với Ngô Công Đức và tôi trong suốt gần 6 năm, cũng thấy có “một cái gì đó không bình thường đàng sau những lời tố cáo quá nặng nề”, mà chỉ cần một thôi cũng đủ làm chết người, và chúng tôi bị tố oan. Mà bênh ai, bỏ ai ? Khi trong năm người cãi nhau quyết liệt trước mặt ông thì một người chưa là “chuẩn đảng viên”, vì muốn xin vô Đảng mà chưa được, và cả năm đều là những người làm chánh trị, là cựu dân biểu đối lập với chế độ cũ, và những tội bị đem ra tố là những tội chánh trị ? Tin hay không tin ai thì trước mắt tối thiểu cũng phải dẹp hết, không dẹp là mang họa vào thân….
Lựa chọn. Một sáng tinh mơ khi tôi đang say ngủ sau một đêm thức “canh báo” (vì tôi cũng là chủ hộ tập thể của Tin Sáng, thường phải thức khuya và “ngủ” lại tòa soạn cho tới lúc báo phát hành) thì Đức và Ba đến vực tôi dậy, cho biết ông Kiệt kêu ba người chúng tôi, Đức, Ba và tôi đến gặp ông gấp. Mà không gọi người tố cáo. Tại sao ? Tôi không biết, nhưng có lẽ người ấy đã được thông báo quyết định trước chúng tôi. Vì muốn để cho tôi ngủ, Đức và Ba đi gặp ông Kiệt và về báo : “Ông Kiệt cho biết Hà Nội đề nghị ông nên cho ngưng Tin Sáng. Và ông cho chúng ta chọn : một là tạm kéo dài Tin Sáng một tháng nữa rồi ngưng, để chuẩn bị dư luận ; hai là ngưng ngay, sau số báo đề ngày hôm nay, 29-6-1981. Tụi tui (Đức, Ba) đã chọn ngưng ngay, ý anh thế nào?” Ý tôi là thế nào ? Để làm gì ? Khi ba người được gọi để chọn mà có hai đã nhất trí thì tôi là thiểu số, có ý kiến hay không thì chuyện cũng đã rồi. Nhưng tôi vẫn có ý kiến : “Tôi đã dự đoán là không thể khác. Đối với riêng tôi, được nghỉ là quá tốt. Trước đây, khi cho Tin Sáng ra lại, tôi nghĩ và mong người ta cho làm thử vài năm rồi nghỉ, là cũng đủ mệt. Nào ngờ kéo tới sáu năm. Bề nào cũng ngưng, mà ngưng ngay là tốt nhất. Càng kéo dài ngày nào, càng chuẩn bị dư luận càng đổ thêm “nợ”. Mà chuẩn bị cái gì, làm sao chuẩn bị ?”
Và như vậy là bắt đầu cái ngày dài nhất của anh em Tin Sáng, mà cũng là của tôi, như tôi đã kể lại trong bản thảo quyển ĐỜI. Với việc hình thành số báo Tin Sáng cuối cùng đề ngày 29-6-1981, với lời xin lỗi, cáo biệt, cám ơn độc giả, với tổ chức buổi lễ “hoàn thành nhiệm vụ” có đít-cua của Tin Sáng và đại diện chánh quyền và Đảng, với việc hình thành Ban Thanh lý Tin Sáng, có sự hiện diện của đại diện Ban Tuyên huấn Thành ủy và Sở Thông tin (Riêng người tố cáo thì lánh mặt cả cho tới mấy năm sau khi Tin Sáng đóng cửa)
Thái độ ông Võ Văn Kiệt và ông Trần Bạch Đằng hồi năm 1981, sau khi Tin Sáng ngưng hoạt động ? Hơn một lần ông Võ Văn Kiệt, bằng cách nầy cách khác, đã tỏ cho Ngô Công Đức và tôi biết ông không thể không thấy tiếc khi thấy Tin Sáng phải ngưng hoạt động, một cách oan uổng. Làm sao ông không tiếc một tờ báo mà chính ông và ông Trần Bạch Đằng đã dày công giúp đỡ gầy dựng ? Mà ông đã từng đến thăm, với nhiều thích thú ? Một tờ báo mà Alain Ruscio, trước là đại diện thường trú của báo L’Humanité ở Hà Nội, về sau là nhà nghiên cứu sử học ở Paris, trong một cuốn sách có tựa là Vivre au Viêt Nam (sống ở Việt Nam) đã viết là “một tờ báo độc nhất vô nhị ở các nước xã hội chủ nghĩa”. Một tờ báo mà nhà báo Pháp Jean Lacouture đã cho là “một trắc nghiệm có tính quyết định về tinh thần dân chủ của chế độ mới”. Và tôi còn nhớ chính ông Võ Văn Kiệt đã kêu Đức và tôi chuẩn bị để cho ra lại tờ Tin Sáng hải ngoại, một thời gian không lâu trước khi nổ ra “sự cố Walesa – Tin Sáng” . Riêng ông Trần Bạch Đằng, vốn luôn thẳng tính, thì rất lâu sau khi Tin Sáng đóng cửa, vẫn luôn “than” với tôi, trong vụ Đức bị tố và Tin Sáng phải đóng cửa, rằng các ông lãnh đạo, trong đó có ông, rất được “nâng cao”, nhưng “ông cảm thấy rất bị… nhột…” (bảo đảm gần như nguyên văn), nhột đến mức ông không thể nhìn mặt người đã gây ra cái nhột đó trong một thời gian khá dài.
Tôi nghĩ dù sao thì hai vị ân nhân đã đỡ đầu cho Tin Sáng cũng có thể tự an ủi, bởi Tin Sáng khi bị đóng cửa đã vượt qua cái móc thời gian trắc nghiệm mà nhà báo Jean Lacouture đã đặt ra hồi năm 1980. Nhà báo viết : “…Báo Tin Sáng của Ngô Công Đức và các bạn ông vẫn ra đều. Trắc nghiệm như vậy là có tích cực không ? Người ta có thể kết luận rằng một chế độ đa nguyên chính trị và văn hóa tương đối vẫn còn là một thực tế của Việt Nam năm 1980 hay không”? (Alain Ruscio, Vivre au Việt Nam, xuất bản đầu năm 1981, trang 178). Jean Lacouture đã đặt cược cho Tin Sáng tới năm 1980, mà chúng tôi thì vẫn “ra đều” cho tới giữa năm 1981.
Và hơn 20 năm sau ? Vào năm 2004 thì thái độ của hai ông ra sao ? Như Ngô Công Đức đã có nhắc trong thư gửi ông Dương Đình Thảo, năm 2004 là giáp năm 2005, kỷ niệm 30 năm ngày “giải phóng Sài Gòn và Miền Nam”. Có Kỷ niệm thì phải có tuyên dương. Công lao sự nghiệp nầy là của lãnh đạo, mà cũng là của “quần chúng” được “lãnh đạo”. Để tuyên dương phải xác định vai tuồng, vị trí, công lao các nhân vật “được lãnh đạo”. Có những vị trí, vai tuồng phải đảo ngược nếu cần, vì lợi ích chánh trị, vì “đại sự quốc gia”. Như ông Tổng thống đã tuyên bố đầu hàng ngày 30-4-1975, dù có góp chút công chấm dứt đổ máu, công đó cũng không bằng người “có khả năng làm hòa bình” 28, nên chỉ là “đồng đội” của một tổng trưởng do ông đã dựng lên, vì đã có “cống hiến lớn nhường ấy” khi “đảm nhiệm Tổng trưởng Thông tin”, của chính ông Tổng thống đã đầu hàng. (Theo ông Trần Bạch Đằng trong lời giới thiệu HKKT, ấn bản 1, trước khi bị rút lại). Chánh trị là như vậy.
Còn Dương văn Ba, sau năm 1981, sau khi Tin Sáng bị ngưng hoạt động ? Anh vẫn tiếp tục hợp tác với Minh Hải,với quy mô hoạt động ngày càng quan trọng, với sự giúp sức đắc lực của một số anh em thuộc gia đình Tin Sáng, trong đó có chính tôi, cho đến năm 1987. Rồi bị tố oan, bị tù đằng đẵng gần cả chục năm, mà anh em vẫn luôn gắn bó với nhau. Để rồi, khi người người đã lần lượt ra đi gần hết, thì bỗng viết ra những điều gần như lặp lại những lời của một người khác đã tố cáo một người anh em đã chết, những lời tố cáo mà cách đây hơn 30 năm Ba đã cực lực phản đối, trước mặt ông Võ Văn Kiệt, và với hai người chứng còn lại là anh Nguyễn Văn Binh và tôi, hồi tháng 6/1981. Tại sao ?
Tại sao ? Giữa những người ruột thịt với nhau trong một gia đình cũng có khi có những bất đồng và nếp sống không giống nhau. Huống hồ là trong một “gia đình chính trị” hay một “gia đình làm báo”. Đó là sự thường.
Có điều đáng tiếc và không được bình thường lắm ở đây là : khi đi bôi bác một người đã gắn bó với mình hơn nửa đời người, một người có trách nhiệm đứng đầu một tập thể đã gắn bó với nhau như một đại gia đình trong đó có mình, Dương văn Ba đã đồng thời bôi bác cả tập thể anh em, và tự hạ thấp chính mình.
Những trường hợp tương tự là rất hiếm xảy ra, nhất là trong hàng ngũ những người thường được xã hội đem lòng trọng nể, gọi là trí thức, nên càng khiến cho nhiều người kinh ngạc. Càng kinh ngạc hơn là việc xảy ra khi Đức đã mất khá lâu, nên nhiều bạn phải hỏi tôi về lý do, tình huống đặc biệt bức bách nào đã khiến xảy ra việc đáng buồn đó.
Với tư cách là một người có quá trình lâu dài nhất với Ba và Đức và với tập thể gia đình Tin Sáng, thú thật tôi cũng có ngạc nhiên, nhưng ít hơn là buồn. Éo le chuyện đời, ai cũng biết, có khi chỉ bắt nguồn từ một việc nhỏ, không đáng gì, bỗng dưng hóa thành lớn, đến nỗi che hẳn chính mình và người thân. Một lời nói có khi cũng làm đổ vỡ tất cả mà không thể nào hàn gắn được. Có việc nhỏ như một “cục đất”, cục gạch hay như một “tờ giấy”… có khi cũng có một sức nặng gây tác động không ngờ. Có khi việc nhỏ đáng buồn nào đó lại không do một trong hai người có liên quan, mà do một người thứ ba ! Tôi có quen biết một gia đình mà cha con không nhìn nhau, cho tới chết. Và một gia đình thì hai anh em cũng vậy. Cũng vì một việc nhỏ mà tôi không biết, cũng không hỏi. Nhưng ở đây, giữa Dương Văn Ba và Ngô Công Đức, cái chuyện nhỏ đó là gì, tôi có biết không ? Tôi có biết !
Nhưng, như người ta thường nói : “Nếu có giặt đồ… thì nên giặt trong nhà”. Anh em trong gia đình Tin Sáng, hay cái gia đình chánh trị nhỏ của tôi, nay ra đi cũng khá nhiều, nhưng cũng còn được một mớ. Khi có dịp ngồi lại với nhau, giữa anh em cùng có trách nhiệm trong nhà với nhau, thì tôi sẽ nói. Để mọi người cùng “giặt”.
48 năm, một mẩu chuyện nhỏ, dù sao cũng là một chuyện nhỏ đáng buồn. Nhưng cũng là một thử thách, để cho tình nghĩa anh em trong “gia đình Tin Sáng” không chỉ tròn 50 năm trong 2 năm nữa, mà sẽ là mãi mãi.
Để kết thúc chuyện về thử thách nhỏ trên đây, và cũng nhân kỷ niệm ngày Ngô Công Đức qua đời cách đây vừa đúng 8 năm, tôi xin nêu lên vài lời chứng của một số anh chị em đã từng sống dưới cùng mái nhà Tin Sáng với Đức, và của vài người khác đã từng biết Đức, trong nhiều chục năm :
Một số anh chị em đang ở Mỹ, Pháp,Úc, Thụy Sĩ, trong đó có hai người đã qua đời là chị Huỳnh Thị Mỵ Cơ và anh Nguyễn Xuân Hoàng, đã viết :
“Chúng tôi, một số anh chị em trong gia đình TIN SÁNG, vô cùng thương tiếc được tin Anh GIOAN NGÔ CÔNG ĐỨC đã từ trần lúc 3.00 giờ sáng, ngày 22 tháng 6 năm 2007 (nhằm ngày 8 tháng 5 năm Đinh Hợi), Hưởng thọ 72 tuổi. Với tất cả niềm quý mến vẫn còn mãi trong lòng mỗi người, chúng tôi xin chia buồn với cháu Ngô Minh Hoàng và tang quyến, và cầu chúc Anh nghỉ ngơi bình an trên Nước Trời./. Trịnh Thị Ánh Nguyệt, Châu Tuyết Anh, Nguyễn Thái Vân, Đào văn Phước (Pháp). Cao Thanh Tùng, Hoàng Ngọc Biên, Võ Văn Điểm và Minh Kha, Tạ Thúy Thanh, Nguyễn Xuân Hoàng, Huỳnh Thị Mỵ Cơ, Trần Hồng Sư, Nguyễn Thị Kim Phượng, Kim Ngôn, Trần Huỳnh Thịnh, Lê Thụy, Nguyễn Đồng và Nguyễn Thị Hợp, Huỳnh Phan Anh (Hoa Kỳ).Tạ văn Bo, Trần thị Minh (Úc). Trần ngọc Báu (Thụy sĩ). (Ngày 22-6-2007)
Nhà báo Nguyễn Ninh Quang Anh Tử, nguyên phóng viên Thông Tấn Xã VNCH, nhật báo Tin Sáng, Đài BBC, đang ở Anh, viết : “Được tin anh Ngô Công Đức đã vĩnh viễn “rũ áo” ra đi, tôi bàng hoàng, ngẩn ngơ, tiếc nhớ. Tôi rời báo Tin Sáng vào tháng tư năm 1979… và có dịp gặp lại anh năm 1996…Về Việt Nam năm trước tìm cách liên lạc thì anh đi vắng. Không ngờ đó là lần liên lạc cuối cùng… Khi còn sinh tiền, anh Ngô Công Đức là một nhà báo đầy nhiệt huyết, đầy lý tưởng, đầy sáng kiến, và giàu lòng nghĩa hiệp, đầy tình thương và hăng say hoạt động. Nay Anh mất đi Anh không chỉ để lại một nỗi bàng hoàng nhớ tiếc, mà còn để lại biết bao kỷ niệm thân ái cho biết bao người về những ngày làm việc chung dưới mái nhà Tin Sáng…” (Nguyễn Ninh Quang Anh Tử, ngày 22-6-2007)
Nhà báo Jean-Claude Pomonti, báo Le Monde, Pháp, một người bạn chung của Đức và tôi, viết : “Nhuận thân mến, Tôi thật sự đổ sụp ! Tôi biết anh không bao giờ hồi phục hoàn toàn sau mất mát phải hứng chịu về sự ra đi của Đức. Đức thường kể với tôi về anh, như hai anh em song sinh, như hai “đồng lõa muôn đời”. Không thề có Đức mà không có Nhuận, và ngược lại. Và chắc anh cũng hình dung được tôi đã hạnh phúc và hãnh diện dường nào khi được cùng hai anh có cuộc thăm viếng ngắn vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày nào. Có một cái gì đó thật khủng khiếp – và cũng bất công khủng khiếp – trong một kết thúc.
Tôi bày tỏ lòng ngưỡng mộ Đức trên tạp chí FASE (Focus Asie Du Sud Est) của chúng tôi số đề ngày 01-7-2007 đính kèm. Nhưng có lẽ phải nghĩ đến, vào dịp thích hợp, một tập thể rộng lớn hơn. Thân ái”. (Jean-Claude Pomonti, ngày 22-6-2007).
Ông Võ Văn Kiệt viết : “ Khi nhận được tin Ngô Công Đức ra đi, tôi đang ở Hà Nội. Mặc dù biết trước là Đức khó lòng qua khỏi bạo bịnh, không ngờ Đức ra đi quá sớm như vậy ! Tôi rất buồn và rất tiếc một con người mà tôi hằng quý mến, đúng ra một người bạn thân, luôn chia sẻ vời nhau nhiều điều trong việc chung của đất nước. Tôi quý anh bởi con người có nghị lực, ứng xử trong những trường hợp không ít khó khăn, Anh đã vượt qua và phấn đấu không mệt mỏi. Ngay trong lúc phải đối mặt với bệnh hiểm nghèo, anh giành hết sức lực còn lại, Anh giành hết cho đời (cho nước, cho dân, cho bè bạn, cho quê hương còn nghèo Trà Vinh của Anh, và cho vợ con anh). Ngô Công Đức có một nhân cách lớn… đáng khâm phục, một người hoạt động chánh trị đa dạng, trong nhiều lãnh vực phong phú, và tư duy luôn sáng tạo. Tôi đánh giá cao về giá trị cống hiến của anh, và tôi hiểu là Anh không biểu hiện sự bằng lòng những gì Anh cống hiến được cho đời (đó là ngoài ý muốn của Anh). Những gì Ngô Công Đức gởi gắm lại, những gì Anh tâm sự với tôi về công việc lớn của đất nước, tôi đã hứa với Đức bữa đến thăm sau cùng, đó là lần vĩnh biệt Anh, sẽ làm những gì mà Anh gởi gắm.
Tôi thương tiếc Ngô Công Đức nhiều lắm, xin được chia sẻ nỗi đau tận cùng của gia đình Anh, vợ con Anh”. (Ngày 30-06-2007, Võ Văn Kiệt).
Hồ Ngọc Nhuận
Tháng 6-2015
Nhân ngày giỗ Ngô Công Đức
lần thứ 8 (22/6/2007 – 22/6/2015)
nhằm ngày 8 tháng 5 năm Đinh Hợi
NGUỒN : Bản do tác giả gửi Diễn Đàn
(6.7.2015)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 9:15:38 GMT 9
CHUYỆN MỘT VỤ ÁN (Vụ án CIMEXCOL - Minh Hải) của tác giả Hồ Ngọc Nhuận
Lời giới thiệu
Tiếp theo hồi ký ĐỜI, chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc tập sách CHUYỆN MỘT VỤ ÁN (Vụ án CIMEXCOL - Minh Hải) của tác giả Hồ Ngọc Nhuận.
Vụ án này đã được tác giả đề cập trong ĐỜI, trong chừng mực bạn ông, cựu dân biểu Dương Văn Ba, đã bị biến thành con vật tế thần, và chính ông cũng gặp nhiều khó khăn. Cũng như ĐỜI, hồ sơ CHUYỆN MỘT VỤ ÁN chưa bao giờ được công bố rộng rãi. Tác giả chỉ in ra một số bản để tặng bạn bè. Những ấn bản "thủ công" của CHUYỆN MỘT VỤ ÁN cũng đã được quy chụp là "tán phát" tài liệu "nhạy cảm".
Điều đó có phần đúng. Vụ án về CIMEXCOL - Minh Hải, công ti đã thành công trong việc hợp tác kinh tế vơi Lào, có mặt nổi là sự hợp tác kinh tế hai bên cùng có lợi. Chính vì thế mà nhiều đòn tấn công, vu cáo CIMEXCOL - Minh Hải xuất phát từ những tập đoàn và những đơn vị của Quân đội, cùng một lúc, đã khai thác (có thể hiểu thao cả nghĩa bóc lột) tài nguyên của nước bạn. Phe tấn công không từ cả những chiêu chính trị ác hiểm là vụ cho các ông Dương Văn Ba và Hồ Ngọc Nhuận dính líu tới Mặt trận Hoàng Cơ Minh.
Nhưng qua các tài liệu mà hồ sơ này đưa ra, độc giả có thể thấy rõ phần chìm của "vụ án" này : người chủ trương không ai khác là Nguyễn Văn Linh, và đối tượng là Võ Văn Kiệt. Sự hiềm khích sâu sắc và thái độ tiểu nhân của nguyên tổng bí thư ĐCSVN đối với ông Võ Văn Kiệt là điều "biết rồi, khổ lắm, nói mãi" trong những lời truyền miệng của "giới thạo tin". Phải những năm gần đây, nó mới đượ hé lộ trong những chứng từ thành văn được phổ biến công khai.
Đây là một chứng từ như vậy.
Diễn Đàn
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 9:29:41 GMT 9
Khí phách Trần Quang CơTS Đinh Hoàng Thắng gửi cho BBCVietnamese.com từ Hà Nội 29 tháng 6 2015 Ông Trần Quang Cơ (ở giữa, complet màu tối) đã tham gia quá trình bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ Chắc hẳn nhiều người còn nhớ buổi giao ban năm ấy… Với sắc mặt thất thần, ông Trần Quang Cơ gần như gào to giữa phòng họp: “Mọi người biết không, người ta sắp cắt thủ cấp Nguyễn Cơ Thạch để dâng cho nước ngoài rồi”. Đoán “triều đình” có biến, lũ chúng tôi (những đứa lần đầu được dự giao ban), chẳng ai bảo ai, im thin thít. Tôi cố gắng tập trung vào “Bản tin A” (*) nhưng đầu óc thì nghĩ mông lung. Không tham quyền cố vị Trước tháng 12/1986, đại sứ Trần Quang Cơ được Bộ triệu tập về họp. Khi trở sang nhiệm sở (Bangkok), ông kể lại với một cán bộ tâm phúc về quyết định của “anh Thạch” dự kiến điều ông về nước làm thứ trưởng ngoại giao và giới thiệu ông vào Ban Chấp hành TƯ Đảng. Ông lưỡng lự trước đề nghị của Bộ trưởng và tâm sự: “Với cơ chế của ta thì không thể làm việc được”. Sợ ông từ chối cái ghế nhiều người đang mơ ước, cán bộ tâm phúc ấy nói với ông rằng, anh nên nhận lời anh Thạch. Cố nhiên, anh không đi thì “chợ vẫn đông”, nhưng anh làm sẽ tốt hơn khối người khác. Thế mới biết, tại sao năm 1991, rồi năm 1993 ông lại đề nghị được rút khỏi danh sách Ban Chấp hành TƯ. Đặc biệt và có thể nói vô tiền khoáng hậu (xin lỗi nếu có ngoại lệ), ông từ chối cả cái ghế Bộ trưởng Bộ Ngoại giao khi Tổng Bí thư Đảng đã có quyết định. Khí phách Trần Quang Cơ hẳn nhiên đạt tới “đỉnh” khi ông quyết định công bố “Hồi ức và Suy nghĩ” khá sớm, khoảng đầu 2001. Chính nhà ngoại giao Dương Danh Dy cũng không hiểu vì sao được ông tín nhiệm, giao tận tay một lúc cả hai bản đánh máy. Thấy chắc chắn sẽ có ích cho cái chung, ông Dy góp thêm một số ý kiến, sau đó công khai đưa lên mạng. Hồi ký Trần Quang Cơ lập tức trở thành sách gối đầu giường đối với nhiều nhà quan sát và giới cầm bút muốn có nguồn tư liệu trung thực để phân tích tình hình Việt Nam những năm hậu chiến, thậm chí để hiểu thấu được cả những sự kiện mà hệ lụy của chúng còn kéo dài mãi tới hôm nay và mai sau. Cống hiến và phản biện Trần Quang Cơ đóng góp nhiều cho Ngành từ những ngày ông về phụ trách Vụ 2, vụ đối sách với Mỹ, đàm phán tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia, bình thường hóa với Trung Quốc. Từ những năm ấy, ông đã xác quyết các ý đồ và âm mưu của Trung Quốc đối với Việt Nam, đặc biệt là âm mưu cướp biển đảo. Và Trần Quang Cơ đã bảo vệ đến tận cuối cuộc đời mình tất cả những kế sách mà ông cho là hiệu quả trong cuộc đấu tranh không cân sức với Trung Quốc. Trần Quang Cơ đã bảo vệ đến tận cuối cuộc đời mình tất cả những kế sách mà ông cho là hiệu quả trong cuộc đấu tranh không cân sức với Trung Quốc. Ông đã lên tiếng kêu gọi phải khẩn trương trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và sớm gia nhập ASEAN. Triết lý sống còn về an ninh của đất nước được ông khái quát khá sớm: “Trong cái thế anh nằm ngay cạnh nước lớn, nước khổng lồ, mà không có bạn thì anh sẽ bị ép”. Đối với ông, chiến lược an ninh và đối ngoại phải hết sức linh hoạt, phải phù hợp với xu hướng chung của cục diện chính trị-kinh tế thế giới, nhất thiết phải tương thích với những đặc điểm lớn của thời đại đại. Nhưng rồi ông cũng cay đắng đưa ra nhận xét, ngày ấy, ta đã làm những việc cần thiết đối với Mỹ và ASEAN “chậm trễ tới cả mười năm”. Sau này, ngay cả khi đã “rửa tay gác kiếm” ông vẫn sẵn lòng cho chúng tôi biết thêm một số chi tiết giá trị trong cuộc vật lộn ngoại giao đằng sau các cuộc chiến, đặc biệt là những bão táp thời hậu chiến mà ông là người trong cuộc, có lúc từng là tác nhân và nhờ sự tỉnh táo mách bảo, biết rút ra sớm khỏi cuộc chơi trước khi có thể trở thành nạn nhân. Phản biện thông minh và luôn có ý thức tích lũy để cống hiến. Từng là cán bộ địch vận, thuyết phục binh lính Pháp, cùng làm việc với nhiều “cây đa, cây đề” trong làng ngoại giao và văn hóa, một thời dưới trướng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Từ ngày chuyển về Bộ Ngoại giao, ông càng có cơ hội phát huy tầm nhìn xa trông rộng đối với các vấn đề mỗi khi góp phần vào việc đề xuất chính sách. Có lẽ các phẩm chất tử tế nói trên đã làm Trần Quang Cơ thành danh như nhận xét của nhà báo tự do Huy Đức. Tuy nhiên, chiến cuộc ngoại giao mà suốt đời ông phụng sự một cách tận tụy thì vẫn còn đó… và đang hết sức nan giải. Nhưng vận mệnh đất nước không thể cứ “bèo dạt mây trôi” như thế này mãi. Ông ra đi nhưng dường như vẫn muốn nán lại để hỏi chúng ta: “Những người đang sống phải làm gì?” Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong của riêng tác giả, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, nguyên Trưởng Nhóm Tư vấn Lãnh đạo Bộ Ngoại giao. * Bản tin A: bản tin lưu truyền nội bộ hàng ngày của Bộ Ngoại giao Hồi ký Trần Quang Cơ - mở đầu Hồi ức và Suy nghĩ Trong 44 năm (1954-1997) làm ngoại giao, trải qua những giai đoạn khác nhau, bản thân chứng kiến và tham gia nhiều sự kiện ngoại giao đáng ghi nhớ của thời kỳ kháng chiến và của thời kỳ hậu chiến như cuộc đàm phán hoà bình với Mỹ ở Paris (1968-1973), đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ (1977 ở Paris, 1978 ở Nữu-ước), đấu tranh ngoại giao về vấn đề Campuchia và bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, sở dĩ tôi chọn quãng thời gian 1975-1991 này để viết ký ức này vì nó chứa đựng nhiều diễn biến khúc mắc tế nhị về đối ngoại, nhất là trong quan hệ của ta với ba nước lớn, dễ bị vô tình hay cố ý làm “rơi rụng” để cho lịch sử được “tròn trĩnh”; khiến cho việc đánh giá và rút bài học bị sai lệch, và đây cũng là giai đoạn mà mối quan hệ của ta với các nước lớn có những điều đáng phải băn khoăn suy nghĩ, không những cho hiện tại mà có thể cả cho tương lai... Bối cảnh quốc tế lúc này rất phức tạp, chiến tranh lạnh đã đi vào giai đoạn cuối, cả 3 nước lớn Liên Xô, Mỹ, Trung Quốc đều có những chuyển đổi về chiến lược, từ chỗ đối đầu quyết liệt với nhau chuyển sang hoà hoãn tay đôi rồi tay ba. Cục diện chính trị luôn biến đổi ở châu Á - Thái Bình Dương tác động trực tiếp đến tiểu khu vực Đông Nam Á và nước Việt Nam ta. Khu vực Đông Nam Á lúc này cũng đang trong quá trình chuyển đổi từ quan hệ đối đầu sang quan hệ đối thoại giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN. Hoàn cảnh này đúng ra (đòi hỏi) Việt Nam phải mạnh dạn sớm đổi mới tư duy về đối ngoại để có được một đường lối phù hợp với thực tiễn khách quan nhằm thoát ra khỏi thế cô lập, hoà nhập được với đà phát triển chung của khu vực và thế giới. Nhưng không ! Tư duy chính trị sơ cứng đã giam giữ nước ta trong cảnh khó khăn một thời gian dài. Chính vì thế, ngoại giao quãng thời gian này đã để lại trong tôi nhiều băn khoăn suy nghĩ về cái đúng, cái sai cái nên làm và cái không nên làm. Tôi nghĩ rằng nếu nghiên cứu một cách trung thực và có trách nhiệm những sự kiện của giai đoạn lịch sử này thì từ đây có thể rút ra những bài học bổ ích và đích đáng cho ngoại giao ta hiện tại và tương lai với mục đích tối cao là đảm bảo được lợi ích của dân tộc trong mọi trường hợp. Vì vậy tài liệu này tôi viết làm 2 phần: Hồi ức và Suy nghĩ. Phần Hồi ức cố gắng ghi lại một cách khách quan và trung thực diễn biễn của các sự kiện trong thời gian 1975-1991 trên cơ sở những tư liệu và nhật ký công tác còn lưu giữ được. Còn phần Suy nghĩ dành cho những ý nghĩ của riêng tôi, những điều trăn trở của tôi khi nghiền ngẫm lại các sự việc đã trải qua. Những ý nghĩ hoàn toàn theo chủ quan, có thể sai có thể đúng. 23.1.2001 Bản thảo này đã được bổ sung và hoàn chỉnh ngày 22.05.2003 Trần Quang Cơ1 [mục lục] [chương sau] 1 Văn bản này là tổng hợp của 2 văn bản: văn bản ngày 23.1.01 (gọi là Bản 01) và văn bản ngày 23.5.03 (gọi là Bản 03). Nguyên bản là bản 01, những phần bôi đen là bổ sung từ bản 03, những phần có trong bản 01 mà không có trong bản 03 nhưng xét thấy bạn đọc có thể tham khảo thì biên tập (BT) đưa xuống chú thích. Những chú thích có ghi (BT) là do biên tập bổ sung. Riêng chương 17 và Phần Đại sự ký 1975-1991 thì trong bản 03 dã bỏ đi. Ngày 10.9.03 Hồi ký Trần Quang Cơ - Chương 1.1. VIỆT NAM TRONG THẬP NIÊN 70 CỦA THẾ KỶ 20 Nước Việt Nam ta trong những năm 70 của thế kỷ 20 đã trải qua những sự kiện to lớn: Hiệp định Paris 1973 về Việt Nam kết thúc cuộc đàm phán “ma-ra-tông” 1968-1973 giữa Việt Nam và Mỹ toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín quốc tế. Thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ không chỉ là một tác nhân đưa đến những thay đổi rất quan trọng trong chiến lược của các nước lớn mà còn làm chuyển đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á. Nể sợ sức mạnh quân sự và ý chí kiên cường của Việt Nam, mặt khác lo ngại mối đe doạ từ nước Trung Hoa khổng lồ tăng lên một khi Mỹ rút khỏi Đông Nam Á, đồng thời lại có yêu cầu phát triển kinh tế, các nước ASEAN sốt sắng bình thường hóa cải thiện quan hệ với Việt Nam; tổ chức liên minh quân sự SEATO tan rã; xu hướng hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á phát triển. Sau khi bị “gáo nước lạnh” ở Việt Nam Mỹ lo tháo chạy khỏi Đông Nam Á, song lại sợ tạo ra một “khoảng trống” có lợi cho các đối thủ của mình. Một mặt sợ Liên Xô thừa thế mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á và thế giới, mặt khác lo Trung Quốc phát huy vai trò nước lớn Châu Á để lấp chỗ “trống” đó nên Mỹ vừa tìm cách khai thác mâu thuẫn Xô - Trung vừa muốn có một nước Việt Nam độc lập cả với Trung Quốc lẫn Liên Xô để duy trì thế cân bằng chiến lược giữa ba nước lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong tập “Tài liệu Lầu Năm Góc”2 của Mỹ có viết: “ Báo cáo của đại sứ Mỹ tại Anh gửi Bộ Ngoại Giao Mỹ ngày 1.3.67 ghi lại một đối thoại ngắn ngoại trưởng Anh Brown và ngoại trưởng Ba Lan Rapacski tại Luân- đôn ngày 22.2.67. Khi Brown hỏi nhận định của Rapacski về mức độ thế lực của Kossyguine (thủ tướng Liên Xô lúc đó) đối với Hà Nội. Rapacski trả lời: “ Không kém của ông đối với Hà Nội”. Và khi Brown hỏi: “Giữa Trung Quốc và Liên Xô nước nào có nhiều ảnh hưởng hơn đối với Hà Nội ?” Rapacski trả lời: “Bắc Việt Nam”. Đường lối độc lập tự chủ đó của Việt Nam thể hiện rõ nét trong suốt thời gian đàm phán với Mỹ ở Paris. Sau cuộc đàm phán với Mỹ ở Paris, năm 1973 tôi được đề bạt làm vụ trưởng vụ Bắc Mỹ nên có đầy đủ điều kiện trực tiếp theo dõi và xử lý mối quan hệ của nước ta với Mỹ sau chiến tranh. Vào quãng hơn một tháng sau khi giải phóng miền Nam, ta có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng “Lãnh đạo Việt nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) tán thành có quan hệ tốt với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm moị sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ”. Ngày 12.6.75, Mỹ gửi đến sứ quán ta ở Paris bức thông điệp đáp lại: “Về nguyên tắc, Mỹ không thù hận gì VNDCCH. Đề nghị trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên3. Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào mà phía VNDCCH có thể muốn đưa ra”. Thông điệp này do Sứ quán Mỹ ở Paris gửi tới Sứ quán ta, nội dung không nói rõ là của Bộ Ngoại Giao Mỹ hay của cấp nào. Ngày 11.7.75, ta gửi thông điệp cho Mỹ, chủ yếu nhắc lại đoạn nói về Mỹ Trong báo cáo của Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh đọc trước Quốc hội ngày 4.6.75: “Việc Chính phủ Hoa kỳ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, từ bỏ hoàn toàn sự can thiệp vào công việc nội bộ miền Nam Việt Nam, làm nghĩa vụ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh ở cả hai miền Việt Nam, sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ bình thường giữa VNDCCH và Hoa kỳ theo tinh thần Điều 22 Hiệp định Paris về Việt Nam”. Cuộc tiếp xúc đầu tiên sau chiến tranh giữa ta và Mỹ diễn ra tại Paris ngày 10.7 ở cấp bí thư thứ nhất đại sứ quán (Đỗ Thanh – Pratt) chủ yếu bàn về vấn đề MIA, cụ thể phía Mỹ xin được trao trả một số hài cốt phi công Mỹ bị bắn rơi ở miền Bắc. Đến cuộc gặp tiếp theo ngày 5.9.75, cũng vẫn giữa Đỗ Thanh và Pratt, ta đồng ý sẽ giao cho Mỹ 3 bộ hài cốt “giặc lái”, song mãi tới tháng 12 ta mới cho phép một đoàn 4 hạ nghị sĩ Mỹ do Chủ tịch Uỷ ban POW/MIA4 G.V. Montgomery dẫn đầu vào Hà Nội nhận. Đoàn này đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Sang năm 1976 Mỹ lại thông qua Liên Xô thăm dò việc tiếp xúc với ta, song khẳng định sẽ không thực hiện điều 21 của Hiệp định Paris. Công hàm ngày 26.3.76 của Henry Kissinger – lúc này là ngoại trưởng – gửi ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh cảm ơn ta đã đón tiếp đoàn Montgomery và sẵn sàng mở cuộc thảo luận về việc thiết lập mối quan hệ giữa hai nước5. Ngày 30.4 Bộ trưởng ngoại giao ta gửi công hàm trả lời, nêu lại những vấn đề tồn tại giữa hai nước (vấn đề bồi thường chiến tranh và vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh), trên cơ sở giải quyết 2 vấn đề đó sẽ bình thường hoá quan hệ với Mỹ theo quy định của điều 22 Hiệp định Paris. Ta sẵn sàng xem xét đề nghị cụ thể của Mỹ về việc mở thương lượng giữa hai bên. Ta sẽ có trả lời không để quá lâu, song sẽ không trước khi Quốc hội Mỹ bàn về việc bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Gần như đồng thời với việc G. Ford bác kiến nghị của Quốc hội Mỹ yêu cầu tạm ngưng trong 6 tháng lệnh cấm vận buôn bán với Việt Nam, Bộ Ngoại Giao Mỹ gửi thông điệp khẳng định sẵn sàng sớm có thảo luận với Việt Nam, song nhận xét quan điểm ta đặt thương lượng trên cơ sở “áp dụng một cách có chọn lọc các Hiệp định đã ký6” là không đem lại kết quả xây dựng; vấn đề “ kiểm điểm đầy đủ7” về MIA sẽ là một trong những vấn đề hàng đầu của Mỹ, chỉ khi nào vấn đề này được giải quyết “một cách cơ bản8 mới có thể tiến bộ thật sự tới bình thường hóa quan hệ giữa hai nước chúng ta. Đề nghị Việt nam xem lại một cuộc họp bàn về các vấn đề tồn tại là có bổ ích hay không ? Tình hình nhùng nhằng như vậy kéo dài cho tới khi Jimmy Carter trúng cử tổng thống thay Gerald Ford năm 1977. Chính quyền mới của Đảng Dân chủ có quan điểm chiến lược khác và thái độ đối với Việt Nam mềm mỏng hơn. Nguyên nhân quan trọng khiến chính quyền Carter quan tâm ngay từ đầu đến việc thiết lập mối quan hệ mới với Việt Nam là lợi ích chiến lược của Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đại sứ Mỹ tại LHQ, Andrew Young, đã nói rõ điều đó: “Chúng tôi coi Việt Nam như một Nam Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ” (tháng 1.77). Ngày 6.1.77, thông qua Liên Xô, Mỹ lại đưa ra một kế hoạch 3 bước về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: Việt Nam cho biết tin về những “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA). Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, cũng như bắt đầu buôn bán với Việt Nam. Mỹ có thể đóng góp khôi phục tại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khai thác. Ngày 3/3/1977 chính quyền Carter quyết định nới lỏng một phần cấm vận đối với ta, cho phép tàu thủy và máy bay nước khác chở hàng sang Việt Nam được ghé các cảng và sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu (nhưng vẫn cấm người Mỹ buôn bán với Việt Nam, cấm tàu Mỹ đến Việt Nam đến cảng và sân bay Mỹ). Ngày 9.3.77, Mỹ cho phép công dân Mỹ được đi thăm Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên, Campuchia kể từ ngày 18.3.77. Đến giữa tháng 3 ta nhận tiếp đón Léonard Woodthingy, đặc phái viên của tổng thống Mỹ Carter sang Việt Nam. Ngày 17.3.77 Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tiếp L. Woodthingy và 4 thành viên trong đó có Thượng nghị sĩ Mansfield – tại Chủ tịch phủ ở Hà Nội. Ngày hôm đó, đoàn Mỹ cũng đã đến chào Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh. Sau chuyến đi thăm mở đường này, hai bên đã thoả thuận mở cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ tại Paris. Đoàn ta lúc đó do Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu, thành viên có tôi, vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, anh Vũ Hoàng, vụ trưởng vụ Lãnh sự và mấy cán bộ vụ Bắc Mỹ: (các) anh Bùi Xuân Ninh, Cương, Hà Huy Tâm, Lê Mai. Anh Lê Mai khi đó là cán bộ vụ Bắc Mỹ, làm phiên dịch cho trưởng đoàn. Sứ quán ta ở Pháp có anh Đỗ Thanh, bí thư thứ nhất, và anh Nguyễn Thiện Căn, tùy viên báo chí, tham gia đoàn. Phía Mỹ do R. Holbrooke làm trưởng đoàn. Cuộc đàm phán diễn ra khá lâu, phải qua 3 vòng đàm phán trong tháng 5, tháng 6 và tháng 12 năm 1977. Địa điểm luân phiên ở đại sứ quán ta và đại sứ quán Mỹ tại Pháp. Trong đàm phán vòng 1 (ngày 3-4.5.77), lập trường của Mỹ là hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ ngay và vô điều kiện, còn những vấn đề khác giữa hai bên để lại giải quyết sau; Mỹ sẽ không cản Việt Nam vào LHQ. Còn về điều 21 (của Hiệp định Paris về VN), Mỹ có khó khăn về pháp luật nên không thực hiện được, hứa sẽ thực hiện khi đã có quan hệ, bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo. Theo chỉ thị đã nhận trước khi đi, ta kiên quyết đòi phải giải quyết “cả gói”9 3 vấn đề: ta và Mỹ bình thường hoá quan hệ (bao gồm cả việc bỏ cấm vận và lập quan hệ ngoại giao đầy đủ), ta giúp Mỹ giải quyết vấn đề MIA và Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô-la cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước đây. Trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hoá quan hệ là việc ta đòi Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô-la cho ta vì Quốc hội Mỹ khi đó dứt khoát không chấp nhận viện trợ làm điều kiện cho việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Ngày 2-3.6, đàm phán vòng 2, Mỹ nêu lại các đề nghị hồi tháng 5. Ngày 19.7.77, tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (LHQ), Mỹ quyết định rút bỏ việc phủ quyết Việt Nam vào LHQ. Sau vòng 2, anh Phan Hiền đã phải bay về Hà Nội báo cáo và xin chỉ thị, thực chất là đề nghị trên nên có thái độ thực tế và đối sách mềm dẻo hơn, nhưng nghe nói cả 4 vị lãnh đạo chủ chốt của ta lúc đó đều nhất trí lập trường trên. Trước đòi hỏi kiên quyết của ta, tại vòng 3 (19-20.12.78), Mỹ đề nghị nếu chưa thoả thuận được về việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng Quyền lợi10 ở thủ đô hai nước, nhưng như vậy thì chưa bỏ cấm vận được. Sau khi có Phòng quyền lợi thì sẽ tuỳ tình hình mà xét bỏ cấm vận, song ta vẫn giữ lập trường cũng nhắc đòi giải quyết “cả gói” 3 vấn đề. Rõ ràng năm 1977 chính quyền Carter thực sự muốn bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Ngoại trưởng Mỹ C. Vance, ngày 10.1.77 tuyên bố: “ Việc tiến tới bình thường hoá quan hệ Mỹ – Việt nam phù hợp với lợi ích của hai nước” Năm 1977 đã có khả năng thực tế để ta bình thường hoá quan hệ với Mỹ nhưng ta đã bỏ qua. Trong khi đó, theo sự xúi dục của Bắc Kinh, chính quyền Polpot bắt đầu chiến tranh biên giới chống ta từ ngày 30.4.77 và đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta ngày 31.12.77. Từ đầu năm 1978, quan hệ giữa 3 nước lớn Mỹ-Xô-Trung bắt đầu chuyển từ hình thái đối đầu từng đôi một sang hình thái Mỹ-Trung cấu kết chống Liên Xô, Liên Xô nhân thế yếu của Mỹ sau thảm bại ở Việt Nam ra sức tăng cường ảnh hưởng ở Á - Phi và Mỹ Latinh bằng học thuyết “chủ quyền hạn chế” của Brejnev tại châu Á. Liên Xô đưa quân vào Afghanistan (1979), đồng thời thực hiện chính sách bao vây Trung Quốc. Việt Nam cũng bị coi là một mắt xích của vòng vây đó. Đặng Tiểu Bình, cuối tháng 2.79, có nói với các nhà báo ở Bắc kinh: “Chúng tôi có thể dung thứ việc Liên Xô có 70% ảnh hưởng ở Việt nam, miễn là 30% còn lại dành cho Trung Quốc” Cũng từ năm 1978, Mỹ đẩy nhanh quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (từ tháng 2.73, khi Kissinger đi thăm Bắc Kinh. Trung Quốc và Mỹ đã ký thoả thuận lập Cơ quan liên lạc ở thủ đô 2 nước với quy chế như một sứ quán). Nước cờ “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” của cố vấn an ninh quốc gia Z.Bzrezinski đã dần dần lấn lướt chủ trương của ngoại trưởng Cyrus Vance và R.Holbrooke là “thúc đẩy song song việc cải thiện quan hệ với Việt Nam và Trung Quốc”. Ngày 23.8.78, trong lúc Mỹ đàm phán về bình thường hoá quan hệ với ta ở Paris, ngoại trưởng Mỹ C.Vance đã đi thăm Bắc Kinh. Cho đến khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Trung Quốc là NATO phương Đông” và “Việt Nam là Cuba phương Đông” (19.5.78) và Bizezinski đi thăm Trung Quốc (20.5.78) thì chính quyền Carter đã chọn con đường bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc và gác sang bên việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Ngày 21.8.78, Quốc hội Mỹ còn cử một đoàn 7 hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà do hạ nghị sĩ Dân chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Uỷ ban POW/MIA, dẫn đầu sang Việt Nam chủ yếu để trao đổi với thứ trưởng Phan Hiền về vấn đề tìm kiếm “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA). Ta đã trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt để tỏ thiện chí hợp tác trong vấn đề MIA. Và theo yêu cầu của họ, tôi đã dẫn đoàn Montgomery đi miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đấy là lần đầu tiên ta cho phép một đoàn Mỹ chính thức thăm thành phố Hồ Chí Minh kể từ khi giải phóng miền Nam. Sau đó đúng một tháng, tôi sang Nữu-ước để tiếp tục cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Cuộc đàm phán vòng 4 về bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Mỹ không kéo dài như năm 1977 ở Paris. Lần này trưởng đoàn đàm phán của ta là thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Còn phía Mỹ vẫn là R.Holbrooke. Đến lúc này khi ta quyết định rút bỏ đòi hỏi “Mỹ phải bồi thường chiến tranh – viện trợ 3,2 tỷ đô la mới bình thường hoá quan hệ” và nhận công thức “bình thường hoá quan hệ không điều kiện” của Mỹ thì đã muộn. Sở dĩ Mỹ tiếp tục đàm phán vấn đề bình thường hoá với ta lúc đó là chỉ nhằm làm Việt Nam chập chững trong quan hệ với Liên Xô và trong vấn đề Campuchia, trong khi đó Mỹ đã chuyển hướng sang phía Trung Quốc. R.Holbrooke nói với ta: “Mỹ coi trọng châu Á; Mỹ cần bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Nhưng Mỹ lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam Ranh.” Trong khi chờ đợi phía Mỹ trả lời dứt khoát về vấn đề bình thường hoá quan hệ, khoảng hạ tuần tháng 11, anh Thạch về Hà Nội trước; còn tôi vẫn ở lại Nữu-ước để giữ cầu. Ngày 30.11.78, R.Oakley, trợ lý ngoại trưởng Mỹ, trả lời sự thúc dục của tôi, còn nói: “Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ 3 vấn đề Campuchia, Hiệp ước Việt-Xô và vấn đề người di tản Việt Nam”. Rồi họ trao cho tôi tấm ảnh toà nhà của sứ quán nguỵ trên đường R. ở Hoa-thịnh-đốn, nói là sẽ trao trả ta toà nhà đó làm trụ sở đại sứ quán, và yêu cầu ta cung cấp sơ đồ ngôi nhà cũ của tổng lãnh sự quán Mỹ tại đường Tràng Thi (?) Hà Nội. Tôi ở lại Nữu-ước mãi tới cuối tháng 1.79, sau khi ta đưa quân vào Campuchia giúp bạn đánh đuổi Polpot giải phóng Nông-Pênh. Ngày 9.1.79, ngoại trưởng Mý Cyrus Vance nói: “Các cuộc nói chuyện Mỹ - Việt Nam về bình thường hoá đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”. Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ với ta từ khi tham gia khỏi COMECON và ký Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô (3.11.78), để bắt tay với Trung Quốc chống Liên Xô ở châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 15.12.78, Mỹ và Trung Quốc đã ra thông cáo chung chính thức công nhận nhau và thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1.1.79. Việc Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ (29.1 - 4.2.79) đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Mỹ - Trung Quốc, cũng là chính thức xếp lại việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam – Mỹ tới 17 năm sau. Khi ấy tôi còn lưu lại ở Nữu-ước nên được chứng kiến cảnh Hoa kiều Nữu-ước đón Đặng: trong khu người Hoa (Chinatown), dọc một đường phố treo toàn cờ đỏ năm sao11, còn dọc một đường phố song song treo toàn cờ “thanh thiên bạch nhật”12 ! Trong khi gặp Carter ở Hoa-thịnh-đốn. Đặng Tiểu Bình đã tỏ ý sẽ tiến công vào Việt Nam và không gặp phải phản ứng bất lợi nào từ phía Mỹ. Theo Brezinski, trong cuộc hội đàm với Carter hôm 29.1, Đặng yêu cầu có sự cộng tác giữa Mỹ và Trung Quốc để chống Liên Xô. Còn Carter có phần thận trọng hơn, đồng ý cần có những cuộc tham khảo chặt chẽ giữa hai nước để chặn chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô, nhưng thận trọng tránh đề cập tới đề nghị của Đặng. Sau đó, ngày 16.2.79, Carter có nêu 6 nguyên tắc xử sự khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam: Mỹ không can thiệp trực tiếp; khuyến khích các bên tự kiềm chế; Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam; cuộc xung đột không đe doạ lợi ích trước mắt của Mỹ; không đặt lại vấn đề bình thường hoá với Trung Quốc; quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe doạ. Cũng từ đó, cuộc xung đột Campuchia và quan hệ với Việt Nam đã được đặt trong khuôn khổ của mối quan hệ giữa 3 nước lớn Mỹ-Xô-Trung. Và cũng từ đó Mỹ gắn vấn đề quan hệ Mỹ - Việt Nam với quá trình giải quyết vấn đề Campuchia. Là nhân chứng lịch sử và cũng là người trực tiếp tham gia các hoạt động ngoại giao này với tư cách là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Bộ Ngoại giao, trực tiếp tham gia đoàn đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ ở Paris năm 1977, rồi ở Nữu-ước năm 1978, tôi thật sự đau xót vị ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hoà bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình13, Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”. Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hoá quan hệ không điều kiện” của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979 nếu như Việt Nam sau Chiến thắng 1975 có một chiến lược “thêm bạn bớt thù” thực sự cầu thị hơn ? Việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ và việc gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật. Theo tôi, tư duy đối ngoại có phần cứng nhắc của ta lúc ấy quả đã không theo kịp bước chuyển biến của chính trị thế giới thể hiện qua sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn sau sự kiện Việt Nam 1975, để dám có những quyết sách linh hoạt kịp thời đem lại lợi ích to lớn lâu dài cho dân tộc ta. Ngược lại, việc ta bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ lúc này đã khiến Việt Nam gần như đơn độc trước một Trung Quốc đầy tham vọng. Còn với Trung Quốc, sau khi có Hiệp định Paris 1973, Trung Quốc có lợi ích duy trì nguyên trạng ở Đông Dương, nhất là việc Việt Nam chia cắt thành hai miền dưới hai chế độ chính trị khác nhau là phù hợp với ý đồ lâu dài của họ ở Đông Nam Á. Sau khi đi thăm Trung Quốc về, thượng nghị sĩ Mỹ K.Mansfield báo cáo trước Quốc hội Mỹ (1.2.75): “Trung Quốc tán thành để hai nước Việt Nam tiếp tục tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia thống nhất, trung lập là điều chủ yếu trong một Đông Dương ổn định.” Từ 1973 đã xảy ra những va chạm ở biên giới Việt-Trung. Năm 1974, Trung Quốc chiếm ngon lành nốt phần còn lại ở quần đảo Hoàng Sa của ta. Có người cho rằng chỉ sau khi ta ngã hẳn theo Liên Xô thì Trung Quốc mới chống ta. Song sự thật là các hoạt động thù địch của Trung Quốc đối với Việt Nam đã xảy ra từ trước khi Việt Nam tham gia khối SEV (tháng 6.78) và ký Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô (tháng 11.78). Tháng 12.75, sau khi thăm Trung Quốc qua Paris, H.Kissinger nói: “Mỹ đang tính toán việc sử dụng Trung Quốc để hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực.” Nét đặc trưng của giai đoạn 1975-1978 là Campuchia trở thành tiêu điểm của sự đối đầu giữa một bên là Trung Quốc và một bên là Việt Nam được Liên Xô ủng hộ. Sự đối đầu ấy trở thành xung đột quân sự ngay từ tháng 5.75 và phát triển lên thành cuộc chiến tranh biên giới Tây-Nam nước ta. Trong khi trả lời phỏng vấn, ngày 8.1.78, Z. Brezinski, cố vấn an ninh của tôngt thống Mỹ, đã nhận định: “Điều lý thú đây là trường hợp đầu tiên của một cuộc chiến tranh qua tay người khác14 giữa Liên Xô và Trung Quốc: xung đột giữa Việt Nam được Liên Xô ủng hộ và Campuchia được Trung Quốc ủng hộ.” Như vậy chỉ hơn 4 năm sau khi giải phóng được đất nước, ta lại bị xô đẩy vào cuộc chiến thảm khốc ở Campuchia, đối đầu ngay với Trung Quốc, kẻ đã từng là đồng minh chiến lược của ta trong 30 năm chiến đấu chống xâm lược phương Tây. Sau hai cuộc kháng chiến gian khổ, dân ta mới chỉ được hưởng mùi vị của chiến thắng và hoà bình êm ả chưa đầy 5 năm. Vết thương chiến tranh chưa lành thì đã lâm vào cảnh nửa hoà bình nửa chiến tranh. Chiến tranh chống Mỹ tuy gian khổ khốc liệt song Việt Nam còn có được mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ, còn trong cuộc chiến đấu chống diệt chủng Polpot thì Việt Nam hầu như hoàn toàn cô lập. Các nước cùng khu vực lo sợ Việt Nam sau khi “hạ xong” Campuchia sẽ phát huy sức mạnh quân sự ra cả Đông Nam Á. Còn Trung Quốc ra sức vu khống “Việt Nam xâm lược Campuchia” và có mưu đồ lập “Liên bang Đông Dương” để làm chủ cả Lào lẫn Campuchia, xoá mờ tính chất “chống diệt chủng” của việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia. Cùng thời gian này, do những khó khăn kinh tế – xã hội chồng chất của thời kỳ chiến tranh chưa được tháo gỡ, lại bị bao vây cấm vận bên ngoài nên trong nước đã nảy sinh ra tình trạng “vượt biên” trốn ra nước ngoài của một bộ phận dân chúng ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, tạo thêm gánh nặng về đối ngoại cho ta, bôi đen thêm hình ảnh Việt Nam trên quốc tế. Vấn đề Campuchia và vấn đề “thuyền nhân”15 lúc đó quả là gánh nặng trên mặt trận đối ngoại của ta trong thập niên 80 của thế kỷ 20. Nửa cuối của thập kỷ 70 này là thời gian ta chồng chất nhiều sai lầm về đối ngoại nhất trong suốt lịch sử dựng nước sau cách mạng (từ 1945 đến nay): Ta không khôn ngoan duy trì quan hệ cân bằng với Trung Quốc và Liên Xô, nhân tố cực kỳ quan trọng đảm bảo thắng lợi của ta trong kháng chiến chống Mỹ. Bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ, năm 1977, khi chính quyền Carter đã chủ động đề nghị hai bên bình thường hoá quan hệ không điều kiện. Đánh giá sai và không gia nhập khối ASEAN ngay từ 1976 khi cả 6 nước này đều mong muốn ta tham gia vì lợi ích của mỗi một quốc gia và của chung khu vực. Dính líu quá sâu và quá lâu vào vấn đề Campuchia. Những sai lầm này có hệ quả liên quan chặt chẽ với nhau, gây thiệt hại lớn cho ta về đối ngoại về an ninh-quốc phòng, về phát triển kinh tế trong một thời gian dài. [mục lục] [chương sau] 2 Pentagone Papers 3 proceed on this basis in any relations between the two sides 4 Prisoner of War/Missing in Action 5 “I believe that the interests of peace and security will benefit from placing the past behind us and developing the basis for a new relationship between our two countries” 6 selective application of past agreements 7 full accounting 8 substantially 9 package deal 10 Interest section 11 Cờ CHND Trung hoa (BT) 12 Cờ Trung hoa Dân quốc - Đài loan (BT) 13 From Third world to First – Từ thế giới thứ Ba đến thế giới thứ Nhất 14 Proxy War 15 boat people
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 9:30:40 GMT 9
2. MỘT NHIỆM KỲ ĐẠI SỨ KHÔNG TẺ NHẠT
Tháng 10.82, tôi được bổ nhiệm đi làm đại sứ tại Vương quốc Thái Lan – một điểm tiền tiêu của mặt trận đối ngoại thời kỳ ấy vì chính quyền Thái Lan lúc đó gắn bó rất chặt với Trung Quốc trong việc nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng Polpot chống Việt Nam. Không thể nói nhiệm kỳ đại sứ của tôi ở Thái Lan khi đó là bình lặng hay tẻ nhạt. Hầu như không có tháng nào là không có những đám đông biểu tình trước sứ quán hò hét phản đối Việt Nam “xâm lược” Campuchia, xâm phạm lãnh thổ Thái. Thông thường những hoạt động này trở nên náo nhiệt vào đầu mùa khô hàng năm, cùng lúc với các hoạt động quân sự bắt đầu trên biên giới Campuchia – Thái. Đám “biểu tình” – có khi là dân “xám-lô”16, có khi là tổ chức dân vệ Thái, có khi là đám người Việt phản động ở mấy tỉnh Đông Bắc – thường tụ tập trong Công viên Lum-pi-ni ở gần đại sứ quán ta trên đường Oai-rơ-lét17, để nhận tiền “biểu tình phí”.
Báo chí Thái Lan hồi đó hình như rất khoái theo dõi phản ánh các hoạt động của đại sứ Việt Nam, đặc biệt là những khi có cuộc gặp gỡ không lấy gì làm vui vẻ giữa Bộ Ngoại giao Thái Lan và đại sứ Việt Nam. Phải nói rằng nhiệt độ không khí “chuyện trò” giữa tôi với các vị quan chức ngoại giao Thái phản ánh khá trung thành cường độ chiến sự ở vùng biên giới Campuchia Thái Lan. Tôi không thể nào quên lời phát biểu đầy phẫn nộ của ngài Tư lệnh lục quân đầy quyền uy Ac-thit Kham-lang-ec với báo chí: “Chẳng cần có đại sứ Việt Nam ở Thái Lan nữa”, sau khi tôi đã lịch sự nhưng kiên quyết từ chối nhận hai bức công hàm phản đối của ngoại trưởng Thái. Bức công hàm ngày 17.4.83 của Thái phản đối quân đội Việt Nam đã bắn rơi chiếc máy bay trinh sát L19 làm chết viên phi công lái máy bay đó, và sau đó lại bắn hỏng một chiếc trực thăng của quân đội Thái. Còn công hàm ngày 1.5.84 phản đối quân đội Việt Nam “pháo kích vào lãnh thổ Thái” thuộc tỉnh Surin làm chết và bị thương một số dân làng. Tuyên bố giận dữ của tướng Ac-thit đã được phụ hoạ bởi một số báo Thái, trong đó tờ nhật báo tiếng Anh “Daily News”18 có xã luận viết: “Chính phủ (Thái Lan) cần yêu cầu Việt Nam thay ngay đại sứ của họ ở Bangkok để phản đối việc ông này đã từ chối nhận công hàm phản kháng của Thái”. Sự việc đó xảy ra vào thời gian đầu mùa khô 1984-1985, lúc quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch đánh thẳng vào vùng “đất thánh” và xoá sạch các căn cứ của 3 phái Khmer phản động nằm trên đường biên giới Campuchia - Thái Lan và cắm sâu vào đất Thái Lan. Cũng thời gian đó đã xảy ra những vụ tập kích và pháo kích của quân Trung Quốc vào mấy tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để phối hợp cứu nguy cho bọn diệt chủng Polpot ở mặt trận phía Tây nước ta.
Thông qua báo chí Thái, tôi cũng đã có dịp làm cho nhân dân Thái Lan rõ sự thật về vấn đề Campuchia trong khi trả lời phỏng vấn của tờ Kledlap19 ngày 15.4.84:
Hỏi: Ngài có tán thành ý kiến cho rằng chiến tranh Campuchia là cuộc xung đột giữa Liên Xô - Việt Nam một bên với Trung Quốc – Khmer Đỏ một bên, còn ASEAN và các bên khác chỉ đóng vai trò phụ ? Nếu đúng như vậy, Ngài có ý kiến thế nào về sáng kiến của ông Adam Malik về đàm phán Liên Xô - Việt Nam - Trung Quốc để giải quyết vấn đề Campuchia ?
Trả lời: Thực chất của cái gọi là vấn đề Campuchia hiện nay là việc Trung Quốc sử dụng một trong những công cụ đắc lực nhất và cũng là thô bạo nhất của họ để can thiệp và đe doạ an ninh của các nước Đông Dương, trước hết là Campuchia. Nếu cho rằng đây là xung đột giữa Liên Xô - Việt Nam với Trung Quốc – Khmer Đỏ thì là mắc bẫy Trung Quốc cả, đều là sai lầm nguy hiểm. Vì như thế sẽ không thấy được mối đe doạ lớn đối với an ninh của tất cả các nước khu vực này là chủ nghĩa bành trướng và bá quyền Trung Quốc, Liên Xô từ trước đến nay chỉ giúp nhân dân ba nước Đông Dương bảo vệ độc lập và xây dựng hoà bình đất nước mình, không đe doạ ai cả. Vì vậy, xin miễn phát biểu về ý kiến của ông Adam Malik ở đây.
Hỏi: Chiến tranh ở Campuchia kéo dài sẽ ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và ASEAN, không rõ ai sẽ chịu đựng được lâu hơn ai ?
Trả lời: Tôi nghĩ rằng không nên đặt vấn đề như vậy, vì sẽ trúng hiểm kế của Bắc Kinh. Thủ đoạn lớn của họ trong chính trị quốc tế xưa nay vẫn là “ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”20. Nước chúng ta không lớn như họ, vì vậy ta cần phải thông minh hơn họ, ít nhất cũng không mắc mưu họ. Lợi ích của nhân dân các nước Đông Nam Á không cho phép chúng ta kéo dài tình hình đối đầu hiện nay để cho các nước khác đứng ngoài hưởng lợi.
Trong chuyến đi Inđônêxia tháng 3 vừa qua của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Việt Nam và Inđônêxia đã nhất trí nhận định là để tình hình tiếp tục như hiện nay là có hại cho các nước trong khu vực trong cố gắng xây dựng nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân mình. Hai bên đã thừa nhận là giải quyết được tình hình này sẽ có lợi cho tất cả các nước Đông Nam Á. Nếu không sẽ chỉ có lợi cho các bên thứ ba.
Hỏi: Không rõ Ngài có thể khẳng định được hay không rằng trong tình hình hiện nay quân Việt Nam sẽ không tràn qua biên giới Thái Lan.
Trả lời: Về điều này chúng tôi có thể đảm bảo chắc chắn rằng chúng tôi không xâm phạm lãnh thổ của Thái Lan.
Hỏi: Nhưng chính quyền và quân đội Thái Lan đã vạch rõ điều đã xảy ra. Một số phóng viên nước ngoài cũng đưa tin này.
Trả lời: Xin khẳng định lại rằng trong đợt tấn công bọn Khmer Đỏ vừa qua, bọn này đã chạm vào lãnh thổ Thái Lan. Lực lượng của chúng tôi đã dừng lại ở biên giới chứ không xâm phạm lãnh thổ Thái Lan, mặc dù phía Thái Lan đã tạo điều kiện cho bọn này chạy sang. Về tin nói rằng bắt được tù binh Việt Nam, có xác binh sĩ và xe tăng Việt Nam trong đất Thái Lan là hoàn toàn bịa đặt.
Hỏi: Ngài Tư lệnh tối cao kiêm Tư lệnh Lục quân (Ac-thit Khăm-lang-ẹc) đã đưa ra tin này.
Trả lời: Chính Ngài Tư lệnh tối cao quân đội khẳng định tin nói rằng quân đội Thái Lan đã sử dụng máy bay A.37 ném bom phá huỷ kho vũ khí của Khmer Đỏ, cũng chưa rõ kho này nằm trên đất Thái Lan hay trên đất Campuchia. Trong khi chiến sự đang xảy ra ở biên giới, quân đội Thái Lan đã không tạo điều kiện cho phóng viên nước ngoài vào làm tin ở khu vực đó. Nhiều phóng viên nước ngoài rất bất bình về việc này và nói rằng quân đội Thái Lan đưa tin rất lộn xộn, hôm nay nói thế này, ngày mai lại nói thế kia, không thống nhất. Ví dụ như lúc đầu nói bắt được 40 tù binh Việt Nam, sau đó nói là bắt được 41 người, tiếp đó nói chỉ bắt được 6 người, còn là người Khmer.
Hỏi: Không rõ Việt Nam sẽ có biện pháp sớm chấm dứt chiến sự như thế nào?
Trả lời: Theo ý kiến riêng tôi, nếu chiến sự lần này chấm dứt càng sớm sẽ càng có lợi cho các bên. Trước hết chúng tôi muốn giữ gìn mối quan hệ, muốn làm cho biên giới Thái Lan – Campuchia có hoà bình ổn định và muốn cho Việt Nam và Thái Lan sớm có quan hệ hữu nghị. Chúng tôi không muốn chiến tranh kéo dài, nhưng cũng không sợ chiến tranh kéo dài.
Hỏi: Vấn đề không an toàn hiện nay là quân đội Việt Nam đã áp sát biên giới Thái Lan. Nếu ở vào cương vị Thái Lan thì Việt Nam cũng sẽ cảm thấy mình không an toàn nếu như có lực lượng nước ngoài xâm phạm như vậy. Đây là điều suy nghĩ hiện nay của Thái Lan.
Trả lời: Nếu như các ông theo dõi kỹ vấn đề thì các ông sẽ thấy không phải là vấn đề gì mới mẻ cả. Chúng tôi đã nhiều lần đưa ra nhiều sáng kiến: từ năm 1980 chúng tôi đã đề nghị xây dựng khu an toàn dọc biên giới Thái Lan – Campuchia nhằm bảo đảm an ninh ở khu vực này, để làm cho phía Thái Lan khỏi lo ngại việc quân đội Việt Nam có mặt ở Campuchia. Nhiệm vụ của quân đội Việt Nam ở Campuchia chỉ nhằm tiêu diệt lực lượng Polpot. Chúng tôi đã nhiều lần tuyên bố quân đội Việt Nam sẽ rút ngay khi nguy cơ đe doạ từ Trung Quốc đã chấm dứt.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Khi cho in bài phỏng vấn này, Ban biên tập đã tự ý cắt bỏ không đăng trả lời của tôi nói về bằng chứng là quân đội Thái đã giúp quân Polpot và đã xâm phạm lãnh thổ Campuchia.
Trong khi Việt Nam đã tiếp tục sa lầy vào Campuchia thì ba nước lớn trong tam giác chiến lược Mỹ – Xô - Trung lại có sự điều chỉnh chiến lược để tập trung vào phát triển kinh tế, đi vào xu thế hoà hoãn nhằm vừa tranh thủ vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Vấn đề Campuchia bắt đầu được đưa vào chương trình nghị sự của các cuộc đàm phán từng cặp một giữa ba nước lớn. Ngay từ khi Trung – Xô khởi đầu quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ giữa hai bên, tháng 10.82 ở Bắc Kinh, Trung Quốc đã nêu “trở ngại” cho việc bình thường hoá quan hệ Trung – Xô là xung đột biên giới Trung – Xô, vấn đề Campuchia, vấn đề Afghanistan, và trao bản yêu sách 5 điểm về vấn đề Campuchia cho Liên Xô.
Liên Xô chấm dứt ủng hộ Việt Nam xâm lược Campuchia.
Việt Nam tuyên bố rút hết quân khỏi Campuchia. Đàm phán bình thường hoá quan hệ Trung-Việt sẽ bắt đầu sau khi những đơn vị quân Việt Nam đầu tiên rút.
Trung Quốc có những biện phạm cải thiện quan hệ với Liên Xô.
Lập chính phủ liên hiệp Campuchia đại diện cho tất cả các phe phái ở Campuchia (điều này có nghĩa là hợp pháp hoá phái Polpot diệt chủng).
Bảo đảm quốc tế cho một nước Campuchia độc lập và không liên kết.
Đến ngày 1.3.83, Trung Quốc đưa ra công khai 5 điểm trên. Thực ra lúc đó Trung Quốc đưa ra lập trường 5 điểm giải quyết vấn đề Campuchia chủ yếu để làm con bài mặc cả với Liên Xô, và gây sức ép với Mỹ và ASEAN chứ chưa định giải quyết vì Trung Quốc cho rằng ghìm chân Việt Nam ở Campuchia càng lâu càng có lợi cho họ. Thời gian tôi làm đại sứ Việt Nam ở Thái Lan thì đại sứ Trung Quốc ở Thái Lan là Trương Đức Duy, với Trương Thanh là tham tán. Những nhân vật này tôi lại gặp lại sau này khi đàm phán với Trung Quốc về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Thời gian làm đại sứ ở Bangkok cũng đã giúp tôi tìm hiểu được thêm về ý đồ lâu dài của Trung Quốc ở Đông Nam Á và trong vấn đề Campuchia.
Vấn đề Hoa kiều cũng là một đặc điểm mà Trung Quốc muốn khai thác để hòng giành thêm lợi thế chính trị và kinh tế ở Đông Nam Á. Số lượng người Hoa ở Thái Lan cũng như các nước Đông Nam Á khác đều khá lớn và nắm vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nhưng ở các nơi khác cộng đồng người Hoa thường tách biệt ra, còn ở Thái họ hầu như đã đồng hoá với dân địa phương. Rất khó phân biệt người Thái gốc Hoa với người bản địa, nhất là trong tầng lớp trung lưu trở lên, kể cả trong hoàng tộc.
Trong khi đó, người Việt ở Thái Lan lại chịu một số phận hẩm hiu hơn nhiều. Ta quen gọi là Việt kiều Thái Lan, nhưng chính quyền Thái Lan chỉ coi họ là những người “tị nạn bất hợp pháp” của nước Việt Nam cộng sản, không coi là ngoại kiều (không được cấp “tàng-đạo” – giấy chứng nhận là ngoại kiều) cũng không được nhập quốc tịch Thái. Vì vậy nên hàng chục vạn người Việt mặc dù đã làm an sinh sống trên đất Thái hàng chục năm vẫn bị “quản thúc” ở mấy tỉnh miền Đông Bắc Thái Lan. Phải xin giấy phép của chính quyền Thái nếu muốn ra khỏi nơi mình cư trú cũng như nếu muốn đến sứ quán ở Bangkok những dịp Tết Nguyên đán hay ngày Quốc khánh. Ngược lại đại sứ ta cũng không thể tới những tỉnh có đông người Việt ở Đông Bắc để thăm hỏi bà con kiều bào mình. Người tiền nhiệm tôi, anh Hoàng Bảo Sơn, trước khi kết thúc nhiệm kỳ đại sứ đã đặt vấn đề với Bộ Ngoại Giao Thái Lan xin được đi Đông Bắc thăm và chào từ biệt kiều bào và đã nhận được câu trả lời rất chi là “ngoại giao”: không đảm bảo an toàn trên đường đi. Để vượt qua sự ngăn cản đó đến với kiều bào, vào trung tuần tháng 6 năm 1985, không báo trước cho Bộ Ngoại giao Thái nhưng có thông báo với ban đại diện Việt kiều tỉnh, tôi cùng mấy anh em trong bộ phận lãnh sự đáp máy bay nội địa đi thẳng đến Ubon Thani, tỉnh có đông Việt Kiều nhất vùng Đông Bắc. Đến nơi bà con Việt kiều ở Ubon và các tỉnh lân cận tổ chức đón tiếp cực kỳ nhiệt tình, bộc lộ tình cảm khát khao với quê hương đất nước. Nhưng đồng thời, chính quyền và công an tỉnh cũng không kém phần quan tâm đến chúng tôi. Họ chất vấn tôi ngay khi vào phòng khách sạn: “Vì sao ngài đại sứ đi không báo cho Bộ Ngoại Giao ? Ngài đến Ubon có việc gì ?” Đã dự kiến trước tình huống này, tôi thản nhiên đáp: “Tôi nhận được thiếp báo cưới con cháu gái hơi chậm nên vội đi. Hơn nữa đây là chuyện riêng tư gia đình nên không muốn các ngài bận tâm đến.” Đại khái câu chuyện trao đi đổi lại lúc đầu có vẻ căng thẳng nhưng đã kết thúc khá êm thấm. Cuối cùng họ chỉ yêu cầu mỗi khi đại sứ đi đâu xin cho hai xe mô tô đi trước và một xe ô tô công an đi sau hộ tống. Và buổi lễ cưới hôm sau được biến thành một cuộc mít-tinh lớn tổ chức ở ngoài trời chiếm cả một đường phố lớn để đông đảo Việt kiều được tham dự. Sự kiện này là một kỷ niệm khó quên của tôi ở Thái Lan.
Tháng 10 năm 1986, vừa tròn 4 năm ở Thái, tôi kết thúc nhiệm kỳ đại sứ, rời Bangkok về Hà Nội. Ngay sau khi về nước, tôi được giao nhiệm vụ nghiên cứu giúp bạn Lào trong cuộc đàm phán với Trung Quốc vào cuối năm 1986 theo yêu cầu của Bộ Ngoại Giao Lào. Tôi đã sang Vientiane 3 lần trong mấy tháng 10, 11 và 12.86 để trao đổi ý kiến với bạn trong việc chuẩn bị nội dung chính trị và kế hoạch tiến hành cuộc đàm phán. Việc Trung Quốc đáp ứng khá nhanh lời tuyên bố của ngoại trưởng Lào – trong bản tuyên bố của Hội nghị bộ trưởng ngoại giao 3 nước Đông Dương lần thứ 13 (tháng 8.86) – trong khi họ vẫn từ chối đàm phán bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, nhằm chia rẽ ba nước Đông Dương, âm mưu bình thường hoá quan hệ riêng rẽ với Lào, cải thiện quan hệ với Liên Xô và Đông Âu để gây sức ép với ta trong vấn đề Campuchia. Vì vậy, trong đàm phán, Trung Quốc muốn kéo Lào đi vào bàn các vấn đề cụ thể thuộc quan hệ song phương hai nước. Cụ thể Trung Quốc nêu 4 vấn đề: lập lại quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, quan hệ mậu dịch, thoả thuận những điểm tồn tại về biên giới, nhân dân vùng biên hai bên qua lại tự do. Còn phía Lào nêu lại 3 vấn đề: tình hình căng thẳng ở biên giới Lào - Trung Quốc, Trung Quốc nuôi dưỡng bọn Lào lưu vong, giải quyết với cả 3 nước Đông Dương. Theo chủ trương đã nhất trí với ta là “không giải quyết gì, chủ yếu để thăm dò đối phương và giữ cầu để tiếp tục đàm phán”, Lào kéo Trung Quốc phải đi vào bàn những vấn đề có tính chất nguyên tắc và phải đề cập đến những vấn đề mà Bắc Kinh muốn lẩn tránh như vấn đề Campuchia, vấn đề quan hệ Trung Quốc - Việt Nam. Qua đàm phán chính thức cũng như qua những cuộc trao đổi riêng, ta đã hiểu rõ thêm được về ý đồ của Trung Quốc đối với khu vực này. Lúc này Trung Quốc tuy chưa thay đổi chính sách đối với Đông Dương - Đông Nam Á, song có khó khăn thúc bách về thời gian. Trước mắt họ còn muốn nắn gân cốt ta, muốn thăm dò mức độ đoàn kết nhất trí giữa Việt Nam – Lào – Campuchia, nhất là về vấn đề Campuchia. Thứ trưởng ngoại giao Lưu Thuật Khanh, trưởng đoàn đàm phán Trung Quốc, coi vấn đề Campuchia không liên quan gì tới Lào cũng như tới quan hệ Trung Quốc – Lào, nhưng đồng thời lại có ý qua Lào thăm dò ý đồ của ta trong vấn đề Campuchia.
Cuộc đàm phán không đem lại kết quả. Lưu mời Lào sang Bắc Kinh bàn tiếp. Đối với tôi, đây cũng là một dịp bản thân tôi được bổ sung thêm hiểu biết về chính sách của Trung Quốc đối với Đông Dương và dụng ý sâu sa của họ khi tiếp tục tung ra luận điệu “Việt Nam mưu đồ thiết lập Liên bang Đông Dương”.
[mục lục] [chương sau] 16 loại xe xích-lô máy của Thái
17 Wireless Road
18 Tin tức hàng ngày
19 Bí quyết
20 Toạ sơn quan Hổ đấu (BT)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 9:33:16 GMT 9
3. ĐẠI HỘI “ĐỔI MỚI”
Đại hội VI, mệnh danh là Đại hội “đổi mới” của Việt Nam, thực chất bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế mà đi tới đối mới tư duy đối ngoại. Đại hội diễn ra trong bối cảnh xu hướng hoà bình ổn định trên thế giới đang phát triển, các nước lớn đi sâu vào quan hệ hoà hoãn từng cặp Mỹ – Xô, Mỹ – Trung và Xô - Trung. Tác động mạnh nhất và trực tiếp nhất tới vấn đề Campuchia và Việt Nam là hoà hoãn Xô - Trung. Không phải ngẫu nhiên mà Nghị quyết 32/BCT21 ngày 9.7.86 quy định cần đặt giải pháp chính trị vấn đề Campuchia và đi vào bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (“giải pháp vấn đề Campuchia phải giữ vững thành quả cách mạng Campuchia, giữ vững đoàn kết 3 nước Đông Dương”) lại ra đời ít ngày trước bài diễn văn của Gorbachov ở Vladivodstock (28.7.86) trong đó Gorbachov công bố những nét lớn trong chính sách đối ngoại mới của Liên Xô đối với châu Á - Thái Bình Dương: xích gần lại với Trung Quốc, giải quyết “3 trở ngại” mà Trung Quốc nêu ra (rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt xung đột biên giới Trung – Xô, giải quyết vấn đề Campuchia). Gorbachov tuyên bố: “Vấn đề Campuchia không thể giải quyết ở các thủ đô xa xôi, kể cả ở Liệp Hiệp Quốc, phải giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước XHCN láng giềng”.
Cũng trong những năm 1986-1988, cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội ở nước ta lên tới đỉnh cao. Trước thúc bách của hoàn cảnh thế giới và trong nước như vậy, về đối ngoại, Đảng đã quyết định chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới trong cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ để nhanh chóng phục hồi kinh tế, phát triển trong hoà bình. Giai đoạn đấu tranh nhằm giành thắng lợi hoàn toàn cho cách mạng CPC với ảo tưởng “tình hình không thể đảo ngược”22 đã kết thúc, và ta phải chấp nhận thực tế đấu tranh từng bước để đạt một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.
Sau khi được đặc cử23 đi dự Đại hội VI (tháng 12.86), tôi được bầu vào Trung ương khoá 6. Rồi đến tháng 1.87, nhận chức thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, chuyên trách vấn đề giải pháp
Campuchia.
Ngày 7.3.87, Bộ Chính trị (BCT)24 họp xem xét đề án đấu tranh ngoại giao, nhận định Trung Quốc có hai mặt: vừa tồn tại nhân tố XHCN, vừa có chính sách bá quyền. Đánh giá về chiến lược của Trung Quốc đối với Đông dương, BCT nêu ba khả năng:
Tiếp tục đối đầu.
Cùng tồn tại hoà bình.
Hợp tác hữu nghị.
Trên tinh thần đó ta chủ trương tấn công ngoại giao trên hai mũi: một mặt đề nghị Việt Nam-Trung Quốc đàm phán bí mật tạo khuôn khổ cho giải pháp Campuchia; mặt khác Campuchia ra tuyên bố về chính sách hoà hợp dân tộc. Ta chủ trương làm với trung Quốc là chính, đồng thời thúc đẩy các diễn đàn khác.
Ngày 9.4.87, để giúp BCT xúc tiến việc thực hiện Nghị quyết 32/BCT và Nghị quyết về đối ngoại của Đại hội VI, Bộ Ngoại Giao đã ra quyết định thành lập Tổ nghiên cứu nội bộ lấy ký hiệu là CP87 với nhiệm vụ:
- Nghiên cứu chủ trương giải quyết các vấn đề bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, vấn đề Campuchia và hoà bình ở Đông Nam Á; chuẩn bị các phương án đấu tranh trước, trong và sau khi có giải pháp;
- Nghiên cứu các diễn đàn có thể tác động tích cực tới phương hướng đó;
- Nghiên cứu nội dung phối hợp hoạt động với Liên Xô, Lào, Campuchia theo phương hướng đó.
Bộ phận thường trực CP87 gồm có: Trần Quang Cơ, Đặng Nghiêm Hoành (Vụ trưởng vụ Tổng hợp đối ngoại), tổ phó; Nguyễn Phượng Vũ (Vụ trưởng vụ Trung Quốc); Trần Xuân Mận (Vụ trưởng vụ Á châu II). Các thành viên không thường trực của CP87 có : anh Đặng Nghiêm Bái (Vụ trưởng vụ Bắc Mỹ), anh Tạ Hữu Canh (Vụ trưởng vụ Liên Xô), anh Nguyễn Can (Vụ trưởng vụ Á châu III), anh Trịnh Xuân Lãng (Vụ trưởng Vụ Báo chí)... Là thứ trưởng chuyên trách vấn đề Campuchia, tôi có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo CP87.
Bộ Ngoại Giao CHND Campuchia cũng thành lập bộ phận B1 có thứ trưởng Ngoại giao Dith Munty, Sok An, Chom Prasit... làm đối tác của CP 87.
[mục lục] [chương sau] 21 viết tắt của: Bộ Chính trị (BT)
22 préversible
23 không phải qua ứng cử ở một đảng bộ địa phương
24 của Ban Chấp hành trung ương Đảng CS VN (BT)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 9:34:19 GMT 9
Chương 4.
4. CP 87 VÀ BA TẦNG QUAN HỆ CỦA VẤN ĐỀ CAMPUCHIA.
Trước tình hình quốc tế và khu vực ngày càng rối rắm phức tạp, vấn đề Campuchia đã được quốc tế hoá cao, chúng tôi không thể không cùng nhau rà lại những nhân tố cơ bản trước khi đưa ra những phương án giải quyết. Qua phân tích tình hình, chúng tôi thấy việc giải quyết vấn đề Campuchia nay đã quốc tế hoá cao nằm trong lợi ích không những phe phái Campuchia mà còn đụng đến lợi ích của các nước trong khu vực và chịu ảnh hưởng tính toán chiến lược của các nước lớn trên thế giới nữa. Cho nên những lực lượng trực tiếp can dự vào việc giải quyết vấn đề Campuchia có thể phân thành ba tầng:
Tầng 1 gồm 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An (P5), chủ yếu là 3 nước lớn: Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ.
Tầng 2 gồm các nước Đông Nam Á, chủ yếu là Việt Nam và Thái Lan.
Tầng 3 là các bên Campuchia gồm Nhà nước Campuchia (SOC) và 3 phái trong cái gọi là “Campuchia Dân chủ”.
Thoạt nhìn tưởng chừng như các phe phái Campuchia và những nước kế cận phải giữ vai trò quyết định vấn đề Campuchia vì có lợi ích “sát sườn”. Nhưng nếu suy xét thật thấu đáo thì mới thấy giữ vai trò quyết định lại là các nước lớn. Việc nghiên cứu giải pháp của chúng tôi tất nhiên phải tập trung vào theo dõi sát những nhân tố trực tiếp trong tầng thứ ba, nhưng không thể bỏ sót những động thái trong mối quan hệ giữa các nước thuộc tầng thứ nhất, chiến lược của các nước lớn Mỹ, Liên Xô và nhất là Trung Quốc.
Chúng tôi thấy: khác với Liên Xô và Mỹ, chiến lược của Trung Quốc luôn luôn thay đổi. Năm 1978 đánh dấu bước ngoặt trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc, chuyển từ chiến lược ủng hộ cách mạng thế giới chống đế quốc Mỹ sang chiến lược câu kết với Mỹ và các lực lượng phản động khác chống cách mạng thế giới. Để tranh thủ Mỹ, với yêu cầu có vốn và kỹ thuật phương Tây để thực hiện 4 hiện đại, Trung Quốc đã có những bước đi rất quyết liệt về mặt đối ngoại như năm 1978 cắt viện trợ cho Việt Nam, Anbani – hai nước chống đế quốc mạnh nhất, đưa ra khẩu hiệu chống :đại bá Lên Xô”, “tiểu bá Việt Nam”, tự xưng là NATO phương Đông và coi Việt Nam là “Cuba phương Đông”, công nhận chế độ độc tài Pinoche vừa lật đổ Allende ở Chile, ủng hộ bọn phản động châu Phi chống Angola, ủng hộ Thoả thuận trại Đa-vít giữa Mỹ-Israel và Ai-cập chống lại lợi ích của nhân dân Ả-rập và Palestine.25 Còn ở Đông Nam Á, Trung Quốc dùng vấn đề Campuchia để hình thành sự liên kết với Mỹ, Nhật, ASEAN và các nước phương Tây bao vây, cô lập Việt Nam. Trung Quốc sử dụng vấn đề Campuchia và việc đánh Việt Nam làm công cụ chính trong việc thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, thay đổi bạn và thù nhằm phục vụ mục tiêu “4 hiện đại”. Từ năm 1981, cả ba nước Mỹ, Xô, Trung bắt đầu điều chỉnh chiến lược, cải thiện quan hệ từng đôi một. Từ tháng 10.82, Trung Quốc nối lại đàm phán Trung-Xô. Đồng thời Trung Quốc chuyển từ chỗ “chống bá quyền Liên Xô” sang chống cả “hai siêu”, Mỹ và Liên Xô. Từ giữa năm 1984, Liên Xô bắt đầu điều chỉnh chính sách về vấn đề Campuchia, thúc đẩy ta và Campuchia đi vào giả pháp chính trị vấn đề Campuchia; gợi ý ta tiếp xúc với Sihanouk và bắt đầu thảo luận với Mỹ và Trung Quốc về vấn đề Campuchia.
Trung Quốc không có lợi ích chung với Việt Nam hay bất cứ nước XHCN nào khác trong sự nghiệp bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc. Trung Quốc tuyên bố bảo vệ chủ nghĩa xã hội nhưng Trung Quốc không hề tuyên bố bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở các nước trên thế giới. Điều đó có nghĩa là Trung Quốc chỉ bảo vệ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc.
Để có được phương hướng hành động giữa lúc nhiều nhận thức về đối ngoại của ta khi đó còn trong tình trạng tranh tối tranh sáng, chúng tôi đã tổ chức những buổi thảo luận trong nội bộ CP 87 với tinh thần tự do tư tưởng để cố nhìn thấu được thực chất của sự việc. Trong lúc nhận thức con người về thế giới bên ngoài còn bị chi phối bởi cảm tính mạnh hơn lý trí, người ta để xem nhẹ thực chất vấn đề mà hướng theo những hiện tượng nhất thời. Sau sự kiện Trường Sa 1988 mà hải quân Trung Quốc đã gây tổn thất khá nặng cho hải quân ta và việc Trung Quốc tiếp tục gây căng thẳng trong quan hệ với ta, bác bỏ các đề nghị của ta cải thiện quan hệ giữa hai nước, trong nội bộ ta đã xuất hiện những ý kiến khác nhau. Không khí chung lúc đầu là không thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc theo tinh thần Nghị quyết 13 của BCT. Ta nhìn mặt bành trướng bá quyền của Trung Quốc đậm nét hơn mặt XHCN. Nhiều ý kiến cho rằng trong khi Trung Quốc đang chống ta trong vấn đề Campuchia và tìm cách lấn chiếm biên giới hải đảo của ta, việc ta quyết định rút quân khỏi Campuchia, sửa Lời nói đầu của Điều lệ Đảng là hữu khuynh trong quan hệ với Trung Quốc. Chủ trương của Bộ Chính trị về giảm tuyên truyền chống đối Trung Quốc cũng không được thực hiện đầy đủ. Ngày 20.5.87, với tinh thần thực sự cầu thị. Bộ Ngoại giao làm tờ trình lên BCT kiến nghị sửa Lời nói đầu của Hiến pháp, bỏ chỗ nói Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất như đã sửa Điều lệ Đảng, mãi tới 26.8.88 Quốc hội mới có nghị quyết thông qua việc sửa này. Có người còn nói mỉa: có phải Ngoại giao định quỳ gối trước Trung Quốc không ?”.
Nhưng rồi sang năm 1989, khi bắt đầu cuộc khủng hoảng trong phe XHCN, một số ngành trong Trung ương và ngay trong Bộ Chính trị lại xuất hiện những ý kiến khác nhau về đánh giá sự kiện Thiên An Môn cũng như đánh giá tình hình Liên Xô - Đông Âu. Lúc này luận điểm được ưa dùng lại là “dù bành trướng thế nào Trung Quốc vẫn là một nước XHCN”.
Tôi và anh em trong bộ phận thường trực CP 87 đã mất khá nhiều thời giờ tranh luận về thực chất Trung Quốc là XHCN hay bành trướng bá quyền ? Mặt nào là chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc ? “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” cụ thể là gì? Trung Quốc muốn gì trong vấn đề Campuchia? Muốn gì khi nuôi dưỡng bè lũ Khmer Đỏ chống Việt Nam ? ý đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam ?
Chúng tôi thấy rằng: Trung Quốc ngày nay có hai mặt, mặt XHCN mặt bành trướng bá quyền. Tính chất XHCN thể hiện tương đối rõ nét hơn về chính sách đối nội, ở cơ cấu xã hội, cơ cấu kinh tế của họ. Còn đường lối đối ngoại của Trung Quốc lại mang tính chất cổ truyền của họ là bành trướng bá quyền. Cái bất biến của Trung Quốc là tham vọng bá quyền. Nhưng những cái mà Trung Quốc sử dụng làm công cụ để thực hiện chính sách đó lại là “vạn biến”. Tuỳ theo lợi ích của họ trong từng lúc mà một nước nào đó có thể được Trung Quốc coi là bạn hay là thù. Tại Đông Nam Á, khi Trung Quốc muốn chống hay gây sức ép với chính quyền tư sản các nước này thì họ lập ra hoặc giúp đỡ lập ra các đảng cộng sản Mao-ít ở Thái Lan, Miến Điện, Mã-lai,... khi Trung Quốc thấy cần tranh thủ các chính quyền tư sản khu vực này thì ta đã thấy các đảng cộng sản đó lần lượt tiêu tan để phục vụ cho mục đích của Trung Quốc. Rồi sau sự kiện Thiên An Môn để xoa dịu phản ứng của Mỹ và phương Tây, Trung Quốc hy sinh nốt Đảng Cộng sản Mã-lai. Theo kênh của Bắc Kinh, TBT đảng này là Trần Bình, gốc Trung Quốc, đã ra ký kết đầu hàng chính quyền Ma-lay-xi-a và giải tán đảng Cộng sản.
Trường hợp Khmer đỏ sau này cũng vậy, theo tờ “ý thức Khmer” ngày 17.10.00 dưới đầu đề “Trung Quốc giết Polpot để đe doạ những chỉ huy Khmer đỏ còn lại buộc trở về với Hun-xen” viết: “Sau khi đi gặp Sứ quán Trung Quốc tại Bangkok, Polpot chết không phải do bệnh tật cũng không phải do Hun-xen mà chết do thuốc độc của Trung Quốc (?). Bởi vì Trung Quốc vận động các chỉ huy Khmer đỏ trở về với chế độ của Thủ tướng Hun-xen không được nên đã giết Polpot để đe doạ những chỉ huy Khmer đỏ khác... Sở dĩ Trung Quốc muốn các chỉ huy Khmer đỏ trở về với Hun-xen vì Trung Quốc đã chọn Hun-xen làm con bài có lợi về chính trị cho họ sau khi Polpot không còn ý nghĩa đối với họ nữa”.
Trong lịch sử 50 năm của nước CHND Trung Hoa thì có hơn 30 năm Trung Quốc hết chống Liên Xô lại chống Việt Nam. Trên cơ sở đó, tôi hoài nghi là liệu có thể đứng trên lý tưởng chung XHCN để tranh thủ Trung Quốc được chăng ?
Trong khi nghiên cứu ý đồ Trung Quốc đối với Việt Nam và trong vấn đề Campuchia, chúng tôi đã thử liệt kê những thay đổi trong lập trường của Trung Quốc về việc nối lại đàm phán bình thường hoá quan hệ với ta trong thời gian 1980-1988. Kết quả cho thấy là từ khi Trung Quốc đơn phương chấm dứt vòng 2 đàm phán Việt – Trung về bình thường hoá quan hệ hai nước vào ngày 8.3.80, Trung Quốc đã luôn luôn nâng cao điều kiện nối lại đàm phán với Việt Nam:
a. (80-9.85) Trung Quốc đòi ta rút hết quân khỏi Campuchia thì sẵn sàng nối lại đàm phán:
- Tháng 10.82, tại vòng 1 đàm phán Xô-Trung, Trung Quốc trao cho Liên Xô bản đề nghị 5 điểm về vấn đề Campuchia trong đó điểm 2 nói: Việt Nam tuyên bố rút hoàn toàn thì Trung Quốc sẽ tiến hành tham khảo với Việt Nam về bình thường hoá quan hệ hai nước ngay sau khi Việt Nam rút những đơn vị đầu tiên. Tháng 3.83, Trung Quốc đưa ra công khai đề nghị này.
- Sau chiến dịch pháo kích và tập kích quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới miền Bắc nước ta kéo dài 3 tháng (tháng 4-6.84), Trung Quốc tuyên bố: chỉ cần Việt Nam hứa rút quân khỏi Campuchia thì hai bên sẽ mở đàm phán.
- Ngày 21.1.85, trả lời thư 8.1.85 của ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đề nghị hai bên nối đàm phán, ngoại trưởng Trung Quốc Ngô Học Khiêm viết: “Quan hệ Trung – Việt xấu đi, vấn đề cốt lõi là quân đội Việt Nam xâm chiếm Campuchia... Sau khi Việt Nam công khai cam kết và thực hiện rút quân khỏi Campuchia thì đàm phán mới có ý nghĩa thực tế”.
b. Từ tháng 9.85 đến cuối năm 1985 khi ta đã tuyên bố sẽ rút hết quân khỏi Campuchia trong năm 1990, Trung Quốc lại không nói “sẵn sàng đàm phán”với ta nữa, mà chỉ nói sẽ nói chuyện với đại sứ hai bên.
- Ngày 6.9.85, đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội gửi công hàm trả lời công hàm ngày 21.8.85 của Bộ Ngoại Giao ta trong đó nói: “Việt Nam tuyên bố thời gian rút quân kéo dài đến 1990 và đặt điều kiện vô lý cho việc rút quân, như vậy là chưa có thiện chí. Đàm phán giữa hai nước với bất cứ hình thức nào cũng khó đạt kết quả. Nếu Việt Nam có vấn đề gì cần nói thì cứ chuyển qua đại sứ hai bên”.
c. Từ cuối 1985 đến tháng 3.86, Trung Quốc một mặt vẫn đòi ta cam kết rút quân nhưng đưa ra điều kiện là nếu Việt Nam không loại trừ lực lượng Polpot thì Trung Quốc sẽ đàm phán ngay với Việt Nam.
- Ngày 18.12.85, lãnh tụ Rumani Ceaucescu sau khi thăm Trung Quốc thông báo với anh Hoàng Tùng để chuyển TBT Lê Duẩn: “Trung Quốc sẽ đàm phán ngay với Việt Nam, nếu Việt Nam đồng ý không loại trừ lực lượng Polpot. Đàm phán sẽ bắt đầu trong khi Việt Nam chưa rút quân khỏi Campuchia, song cần cam kết rút hết”.
d. Từ tháng 3.86 (khi 3 phái Khmer phản động đưa đề nghị 8 điểm) đến nay (6.87), Trung Quốc đòi Việt Nam rút hết quân nhưng đòi Việt Nam nói chuyện với “Chính phủ liên hiệp Campuchia dân chủ” và với Sihanouk còn Trung Quốc chỉ đàm phán trực tiếp với Việt Nam sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết theo cách của Trung Quốc.
- Ngày 25.8.86, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Thuật Khanh nói với Vũ Thuần, Vụ phó vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta: Trung Quốc không thể thay mặt Campuchia để bàn với Việt Nam vấn đề Campuchia được, Việt Nam phải bàn với “Campuchia Dân chủ.”
- Tháng 10.86, TBT Hồ Diệu Bang nói với Honecker, TBT Đảng Cộng sản Đức26 đang thăm Trung Quốc “Lúc đầu Trung Quốc nghĩ có thể đàm phán (với Việt Nam) trước, rút quân sau. Nhưng sau tính lại nhiều lần, Trung Quốc quyết định Việt Nam phải rút quân trước, sau đó mới đàm phán. Đây là phương án tốt nhất, nếu không sẽ tác động không tốt tới ASEAN và 3 phái (Sihanouk, Son San và Khmer đỏ)”.
- Ngày 14.5.87, Đặng Tiểu Bình tiếp Tổng thư ký LHQ De Cuellar và nhờ ông ta chuyển cho ta một “thông điệp miệng”27: “Chỉ khi nào vấn đề Campuchia được giải quyết theo cách này (Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, lập chính phủ liên hiệp 4 bên gồm Sihanouk, Son San, Khieu Samphon, Heng Xamrin; do Sihanouk đứng đầu) thì Trung Quốc mới đàm phán trực tiếp với Việt Nam. Đàm phán như vậy sẽ bao gồm cả vấn đề bình thường hoá quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Còn trước đó thì mọi cuộc đàm phán trực tiếp đều không thể có được.”
- Ngày 26.7.87, anh Thạch gặp Đại sứ Trung Quốc chuyển “thông điệp miệng” của Thủ tướng Phạm văn Đồng đề nghị hai nước đàm phán bí mật. Đến ngày 28.7.87, Ngoại trưởng Ngô Học Khiêm nói chưa trả lời thông điệp đó vì Trung Quốc không muốn chấp nhận “sự đã rồi” ở Campuchia.
Như vậy là từ sau khi đơn phương cắt đứt cuộc đàm phán (sau khi Trung Quốc gây chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2.79, ta đã có 2 vòng đàm phán với Trung Quốc: vòng 1 từ 18.4 đến 18.5.79 tại Hà Nội; vòng 2 từ 28.6.79 đến 6.3.80 tại Bắc Kinh) từ năm 1980 đến cuối năm 1988 đã ngót hai chục lần Việt Nam gửi thư hoặc công hàm cho Trung Quốc đề nghị nối lại đàm phán nhưng đều bị Trung Quốc bác với lý do này hoặc lý do khác. Và Trung Quốc nâng cao dần điều kiện lên (về quân sự đòi Việt Nam rút quân, về chính trị đòi Việt Nam chấp nhận sẽ lập chính phủ liên hiệp ở Campuchia, bao gồm cả Khmer đỏ). Trong khi thoái thác đàm phán, Trung Quốc xúc tiến đàm phán bình thường hoá quan hệ với Liên Xô (từ tháng 10.82) và Lào (từ cuối 1986) để cô lập và ép Việt Nam. Đặc biệt là thông qua đàm phán với Liên Xô. Sau khi Gorbachov lên làm TBT Đảng Cộng sản Liên Xô (11.3.85), Xô-Trung bắt đầu bàn đến vấn đề Campuchia trong vòng đàm phán thứ 7 ở Bắc Kinh (4-20.10.85), Trung Quốc thể hiện ngay thái độ làm cao, không nói đến đàm phán với Việt Nam nữa để gia tăng sức ép đối với Việt Nam về vấn đề Campuchia. Trong vòng 10 đàm phán Xô - Trung ở Mạc-tư-khoa (7.2.87), Trung Quốc nêu lại “3 trở ngại” trong việc bình thường hoá quan hệ với Liên Xô mà trở ngại lớn nhất là việc Việt Nam xâm lược Campuchia. Và cũng từ đó, các lần gặp gỡ Xô - Trung đều tập trung bàn vấn đề Campuchia và công khai hoá điều đó.
[mục lục] [chương sau] 25 Nhiều sự kiện tác giả kể, đã xảy ra 4-5 năm trước năm 78 (BT)
26 Đảng XHCN Thống nhất Đức (BT)
27 message oral
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 9:35:14 GMT 9
Chương 5.
5. TỪ CHỐNG DIỆT CHỦNG ĐẾN “GIẢI PHÁP ĐỎ” !
Rõ ràng Trung Quốc mưu dùng vấn đề Campuchia để cải thiện thế đứng trong quan hệ với các nước lớn, trước hết là trong quan hệ Trung – Xô và quan hệ Trung – Mỹ. Còn Gorbachov cũng sẵn sàng dùng món quà Campuchia để sớm gặp được Đặng, cải thiện quan hệ với Trung Quốc nhằm tác động đến quan hệ Mỹ – Xô. Chính trong bối cảnh đó, đã ra đời cái gọi là “giải pháp đỏ”, xuất phát từ ý tưởng của Gorbachov muốn vấn đề Campuchia được giải quyết giữa hai nước XHCN, Việt Nam và Trung Quốc, cho nên định gán ghép hai lực lượng cộng sản Khmer thù địch, Khmer đỏ của Polpot-Ieng Sary thân Bắc Kinh và Nhà nước Campuchia thân Hà Nội, bắt tay nhau dưới cái mũ “hoà hợp dân tộc”.
Đầu tháng 3/1987, ngoại trưởng Liên Xô Shevardnadzé đến PhnomPenh trong chuyến đi thăm 3 nước Đông Dương. Sau cuộc gặp Shevardnadzé, Hunxen nói với anh Đỗ Chính, trưởng đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia là: “Liên Xô có vẻ muốn thúc dục giải quyết nhanh vấn đề Campuchia cũng như vấn đề Afghanistan, Liên Xô chắc đã chuẩn bị một công thức giải pháp chính trị ở Campuchia, nhưng gạn hỏi không nói, chắc Liên Xô sẽ nêu trong cuộc gặp Gorbachov – Nguyễn Văn Linh ở Mạc-tư-khoa (tháng 5.87). Shevardnadzé nói đến hoà hợp dân tộc Campuchia và hỏi ai trong Khmer đỏ còn có thể dùng được ?” Hunxen liên hệ chuyện này với phát biểu của Gorbachov ở Vladivodstock (28.7.86) và cho rằng có thể Liên Xô nghĩ đến chuyện khuyến khích hai phái cộng sản Campuchia dàn xếp với nhau. Khi thuật lại lời Schevardnadzé khuyên Campuchia thúc đẩy mạnh hoà hợp dân tộc, Hunxen nói: “Chúng nó mà về thì chúng sẽ làm thịt những người tích cực, trước hết là bọn chúng tôi”.
Sau cuộc họp BCT 7.3.87, Lê Đức Thọ sang trao đổi với BCT Lào, rồi đến cuối tháng 4.87, Lê Đức Thọ lại cùng Lê Đức Anh bay sang Campuchia họp với những người lãnh đạo PhnomPenh bàn việc thúc đẩy giải pháp chính trị Campuchia và quan hệ với Trung Quốc, trong đoàn có tôi và anh Trần Xuân Mận của CP 87. Anh Lê Đức Thọ khi đó đã đưa ra gợi ý “giải pháp Đỏ”. Bản thân tôi lần đầu mới được biết tường tận về cái gọi là “giải pháp Đỏ”. Nói gọn lại, “giải pháp đỏ” là một sản phẩm của mộng tưởng giải quyết cuộc xung đột Campuchia bằng cách hoà giải PhnomPenh với bọn diệt chủng Polpot và lập nên một nước Campuchia XHCN vừa làm vừa lòng Trung Quốc vừa hợp ý của lãnh đạo ta. Trong thâm tâm chúng tôi – những anh em CP 87 - đều thấy không thể chấp nhận được cái “sáng kiến” kỳ quái này. Phần vì quá ghê tởm với tội ác của bọn Khmer đỏ đối với nhân dân Campuchia cũng như đối với nhân dân ta để có thể nghĩ đến chuyện hợp tác với chúng; phần vì nghĩ rằng khó có khả năng thực hiện được trò chơi nguy hiểm này. Quả nhiên lãnh đạo PhnomPenh đã đón nhận những gợi ý này với một thái độ lạnh nhạt. Họ chủ trương “ăn cả” bằng một giải pháp quân sự, coi Khmer Đỏ lẫn Sihanouk và Son San đều là đối thủ phải loại trừ. Nhưng dưới sức ép của hai đồng minh chính - Liên Xô và Việt Nam – trong cuộc họp giữa các bên Campuchia ở Jakarta, Hunxen đã thử tiếp xúc với Khiêu Samphon song tên đẩu sỏ Khmer Đỏ này chỉ đáp lại bằng một thái độ khinh miệt.
Ngày 22.12.87, cũng theo gợi ý của Liên Xô, ta và bạn Campuchia tán thành Liên Xô gửi “Message Oral” cho ngoại trưởng Trung Quốc đề nghị Liên Xô và Trung Quốc góp phần dàn xếp một cuộc gặp gỡ giữa CHND Campuchia và Khmer Đỏ. Nếu Trung Quốc đồng ý, Liên Xô sẵn sàng tiếp xúc với Trung Quốc ở cấp ngoại trưởng. Trung Quốc đã không đáp ứng đề nghị đó. Trung Quốc chưa muốn giải quyết vấn đề Campuchia, còn muốn dùng vấn đề này để mặc cả với Liên Xô và Mỹ, dủng “3 trở ngại” để hãm phanh quan hệ với Liên Xô.
Ngày 30.7.88, trong buổi thông báo kết quả cuộc Họp không chính thức ở Jakarta lần 1 (Jakarta Informal Meeting –JIM 1) cho đại sứ, đại biện các nước XHCN ở Phnôm Pênh, khi đại sứ CHDC Đức hỏi về khả năng lôi kéo Khiêu Samphon và những nhân vật ôn hoà của Khmer Đỏ, Hunxen nói: “Bọn này là thú chứ không phải là người. Cứ để chúng trong rừng, không có chúng, ta cũng giải quyết được. Chúng không thay đổi, nhân dân Campuchia không chấp nhận chúng. Chúng tôi rất hiểu Khmer Đỏ. Mong các đồng chí hiểu cho, bọn này không chơi được. Nếu chỉ riêng Campuchia thôi thì Campuchia không cần Khmer Đỏ. Nhưng Campuchia liên quan đến các nước xung quanh mà Việt Nam lại cần bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nên chúng tôi chấp nhận chúng về chính trị... Tôi cho rằng cứ để chúng ở ngoài rừng, không sao cả ! Thái Lan đã trung lập thì Campuchia tranh thủ Sihanouk, Son San để đánh Khmer Đỏ.
Ngày 12.10.89, tâm sự với đại sứ Ngô Điền, sau khi phê phán Liên Xô nhượng bộ Trung Quốc, ép Campuchia thoả hiệp với Trung Quốc và Khmer Đỏ, đánh đồng “tội phạm với phạm nhân”, không tôn trọng các nước bạn, Hunxen nói: “Việt Nam cũng có đồng chí nói phải nhượng bộ cái gì để giữ thể diện cho Bắc Kinh. Năm 1987 tôi cũng đã tính đến giải pháp đó. Bọn Khmer Đỏ, trừ số đầu sỏ, có thể tham gia, chúng phải xin lỗi nhân dân rồi hoà hợp dân tộc. Nay tôi đã suy nghĩ nhiều, tiếp xúc với dân ở nhiều nơi, trực tiếp gặp bọn Khiêu Samphon, tôi nhận thức rõ là dứt khoát không chơi với bọn này được, giải tán lực lượng của chúng”.
Tháng giêng 1989, Hunxen xuất bản cuốn sách “Campuchia – con đường 10 năm”, có dành một đoạn dài nói về “giải pháp Đỏ”, cho chủ trương đó là “sai lầm và nguy hiểm”, là “điều phi lý và trái đạo đức khi đánh đồng bọn tội phạm Polpot với nạn nhân của chúng”, rồi kết luận “giải pháp Đỏ là con đường nguy hiểm rất lớn cho nhân dân Campuchia. Nó không thể nào hình thành được, bởi vì chúng tôi không “Đỏ” như người ta hiểu là có thể hoà đồng vào cái “Đỏ” của bọn Polpot được”.
Ngày 1.6.90, khi gặp anh Thạch ở sân bay Nội Bài trên đường đi Tokyo găpk Sihanouk, Hunxen nói: “ BCT Campuchia thấy giải pháp như đã thoả thuận giữa 3 đồng chí TBT28 cũng có nhiều khó khăn vì 3 nhân tố:
Bọn Polpot là bọn rất cực đoan về chủ nghĩa dân tộc.
Sau hơn 10 năm đánh nhau, việc hợp tác giữa hai quân đội không thể dễ dàng được.
Bọn Polpot sẽ cố gắng đưa một số đảng viên lớn hơn số đảng viên đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia để giành đa số trong một đảng hợp nhất.”
Chiều 22.6.90, anh Phun Sipasot, ngoại trưởng Lào, nói với đại sứ ta Nguyễn Xuân: “Giải pháp Đỏ là không nên và không thể thực hiện, bất lợi cho ta. Trung Quốc đang bị cô lập vì là nước duy nhất ủng hộ diệt chủng. Chắc Trung Quốc không muốn Giải pháp Đỏ mà muốn giải pháp thực chất gồm 4 bên để duy trì vai trò và vị trí của Khmer Đỏ mà không mang tiếng là ủng hộ diệt chủng.”
Ngay chính phía Trung Quốc cũng đã nhiều lần nhận xét thẳng với ta về sáng kiến “giải pháp Đỏ”. Ngày 17.7.90, Lưu Thuật Khanh nói với Đại sứ Đặng Nghiêm Hoành: “ Việt Nam vẫn chưa có quyết tâm, chưa dứt khoát trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Chủ trương của Hunxen giải quyết với Sihanouk là không thực tế. Chủ trương của Việt Nam hợp tác hai phái công sản Khmer cũng không thực tế. Cần có cơ chế liên hiệp 4 bên do Sihanouk đứng đầu mới được quốc tế công nhận”. Ngày 27.7.90, trong một cuộc chiêu đãi của sứ quán Ai-cập tại Hà Nội, Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy nói rõ với Vụ phó vụ Trung Quốc Vũ Thuần: “Giải pháp Đỏ là không thực tế vì làm như vậy chẳng khác gì hút tất cả các mũi tên về mình, tự cô lập mình. Hiện nay Trung Quốc chủ trương bảo vệ CNXH ở trong nước chứ không chủ trương giương cao ngon cờ CNXH về mặt đối ngoại”.
[Vậy ai đã có sáng kiến nghĩ ra cái quái thai này? Gorbachev chính là cha đẻ của nó. Còn Hunxen không phải là không tính tới chuyện này. ngày 17.6.87, khi đi thăm Lào, Hunxen có nói với Ngoại trưởng Lào Phun Sipasot: “Muốn liên hiệp với phái Polpot không có Polpot hơn là với Sihanouk vì bọn Polpot có lực lượng nhưng không có thế chính trị, còn Sihanouk ngược lại, không có lực lượng nhưng có thế chính trị”. Song người “bảo dưỡng” Giải pháp Đỏ chu đáo nhất lại là lãnh đạo Việt Nam. Trong lãnh đạo Việt Nam suốt thời kỳ 1987-1991, có người vẫn coi Giải pháp Đỏ là nước bài hay]29, cho rằng giải quyết vấn đề Campuchia theo cách đó sẽ làm hài lòng Trung Quốc. Nhưng thực ra cái sáng kiến này chẳng hợp với đường lối “tranh thủ phương Tây vì mục tiêu 4 hiện đại” của Đặng Tiểu Bình chút nào mà lại gây thêm sự nghi ngại của Nhà nước Campuchia đối với ta, mà chính Trung Quốc đã đem chuyện này nói với Mỹ và các nước phương Tây để chứng tỏ rằng Việt Nam luôn có thủ đoạn lắt léo, là một đối tượng đàm phán không đáng tin cậy, bên ngoài thì hô to “chống diệt chủng” bên trong thì ép PhnomPenh thoả hiệp với bọn Polpot.
Thật đáng tiếc, ảo tưởng về “giải pháp Đỏ” này vẫn còn đeo đuổi khá lâu trong các tính toán của ta về vấn đề Campuchia, thậm chí cả sau khi Trung Quốc đã nói thẳng với ta trong cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô là họ không thể nuốt nổi “món quà” đó !
[mục lục] [chương sau] 28 Giải pháp Đỏ
29 Phần [ ], bản 01 viết: [Những ai đã có sáng kiến nghĩ ra (cho đến nay tôi cũng chưa biết được đích xác ai là tác giả của cái quái thai này. Liên Xô? Việt Nam ? hay Hunxen ? Có điều chắc chắn là lãnh đạo Việt Nam trong suốt thời kỳ 1987-1991 (vẫn coi đó là nước bài hay) hay tán thưởng “giải pháp Đỏ” chắc]
|
|