|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:28:01 GMT 9
Võ Quang Yến CÂY NHÀ LÁ VƯỜNCây thuốc và vị thuốc*** Tập 4 : Cây gỗ 36- Bát giác hồi hương 37- Cây cối trong đời sống đức Phật 38- Cây kơnia đượm tình Tây Nguyên 39- Cây vấp gỗ cứng 40- Ginkgo, một cây hóa thạch sống 41- Ngải ngậm hương trầm 42- Những chất thuốc của cây xoan 43- Quế thanh, quế quỳ 44- Sầu đâu, cây thuốc trị bá chứng 45- Trận chiến mù u 46- Văn bằng và thuốc men
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:30:18 GMT 9
36 - Bát giác hồi hươngCây chi thơm lạ thơm lùng, Thân cây tới lá, người trồng cũng thơm. Ca dao Cách đây hơn 20 năm, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài Cây hồi (tập văn Ai đã đặt tên cho dòng sông) đã kể chuyện mánh khóe ác nghiệt của người Tàu lặp lại biện pháp Trương Phụ thời nhà Minh ra tay tiêu diệt cây hồ tiêu, lần nầy qua trả giá đắt mua vỏ cây hồi, hòng làm tiệt giống ở nước ta. Cạnh tranh kinh tế về sản xuất cây hồi nầy giữa hai vùng biên giới Việt-Hoa mãnh liệt đến nỗi mọi phương sách đều tốt, bất chấp tình nghĩa, đạo lš. Cũng may mà người dân ta chỉ sušt bị lừa thôi .... Cây hồi là một loại hương liệu quí giá trong thức ăn, nước uống cũng như trong Đông dược, Tây y. Nếu ở bên nước ta, trái hồi hương là hương vị tô phở hay món xào ca ri, ở Nam Âu tinh dầu hồi là nền tảng một loạt rượu khai vị vùng Địa Trung Hải, từ ouzo bên các nước Hy Lạp, Nam Tư, Thổ Nhĩ Kỳ phía đông bắc, qua raki, pastis, sambucca ở Ý, anisette ở Pháp miền tây nam. Hỗn hợp với tinh dầu những cây khác, nó là thành phần của những rượu absinthe, grappa, ratefia, chartreuse, .... Gần đây, Bắc Âu cũng dùng hồi làm rượu brandy. Không phải tình cờ mà trước chiến tranh, từ những năm 30, người Pháp đã ra sức phát triển cuộc trồng hồi ở miền Bắc nước ta và hãng Schimmel lo chuyên chở về mẫu quốc. Mức tối cao đạt được vào những năm thập niên 40, diện tích đồn diền trồng hồi lên đến 100 ha. Người Pháp đầu tư vào cuộc trồng hồi nầy vì biết vùng đất biên giới Việt-Hoa có đất tốt nhất để trồng hồi : Vân Quang, Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Lãng, Tràng Định, .... quanh Lạng Sơn, đối diện với Hải Nam, Long Châu bên Quảng Tây, chiếm một diện tích tổng quát trên dưới một ngàn hecta. Tên cây hồi có phần rắc rối vì ở suốt miền Đông Á có nhiều cây cống hiến tinh dầu tương tự. Giữa thế kỷ XVIII, nhà thảo mộc kiêm bác sĩ người Thụy Điển Carl von Linné đặt tên cây hồi là Badanifera anisata từ các danh từ badiane, badiania, sau đó ít lâu ông cho đổi ra Illicium anisatum L. Qua năm 1825, von Siebold đặt tên những cây hồi mọc trong các sân chùa Nhật Bản là Illicium japonicum Sieb., năm 1837 đổi thành Illicium religiosum Sieb. et Zuss., thật ra chỉ là cây Illicium anisatum nói trên. Người bản xứ gọi cây hồi Nhật nầy (Japanese star anise) là shikimi, tên Tàu là mangtsao, có trái chứa chất độc, tinh dầu lại có mùi hôi, đã từng được sắp vào họ Mộc Lan Magnoliaceae. Năm 1886, nhà thảo mộc trẻ tuổi người Anh Joseph Dalton Hooker xác định cây hồi cánh sao, đặt tên Illicium verum Hook.f. (f. viết tắt chữ fils nghĩa là con, để khỏi lầm lẫn với ông cha, sir William Jackson Hooker, cũng là một nhà thảo mộc) tức là đại hồi, hay đại hồi hương, thường được gọi là hồi Tàu hay hồi sao (Chinese star anise hay rút gọn star anise). Người Pháp có tên essence de badiane. Ở miền núi nước ta (Lạng Sơn, Sa Pa, Đà Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn) có một loại cây có mùi hôi, cũng chứa chất độc mà ta gọi hồi núi hay đại hồi núi là Illicium griffithii Hook.f. et Thoms, chưa được dùng, ở Ấn Độ thường được biết qua tên hồi giả Bombay. Gần đây, cây Illicium floridanum Ellis mang tên hồi Mỹ, hồi bụi (American star anise, star bush) còn cây Illicium parviflorum ở Florida thì được gọi hồi vàng, hồi đầm (yellow star anise, swamp star anise). Ngoài ra còn có một loạt các Illicium khác : I. augustisepalum, I. brevistylum, I. difengi, I. dunnianum, I. flabellifolia, I. floridanum, I. majus, I. microanthum, I. parviflorum, I. tashiroi, I. tsangii. Bên cạnh các Illicium nầy thuộc họ Hồi Illiciaceae, còn có hai cây hồi Pimpinella anisum L. (lúc trước có tên Anisum vulgare Gartner) tức là dương hồi hay dương hồi hương và Foeniculum vulgare Mill. tức là tiểu hồi (fennel, fenouil), cả hai thuộc họ Hoa tán Umbelliferae. Theo lời giải thích của Gs Đỗ Tất Lợi, hồi là về, hương là thơm ; thịt thiu hay tương thối cho ít đại hồi vào thì mùi thơm lại trở về ngay, do đó có tên thơ mộng "bát giác hồi hương". Trái chín phơi khô của cây hồi mang tên Fructus Anisi Stellati hay Anisatum stellatum. Vì nhiều tên lẫn lộn như vậy, xác định cây không dễ và lắm khi các nhà khảo cứu gọi lầm tên. Trong một phần lớn các bản báo cáo, danh từ anise đã được dùng mà các tác giả thận trọng không chỉ rõ loại hồi nào tuy ngày nay người ta thường cho anise là Pimpinella anisum tức là dương hồi. Đại hồi, dương hồi Chất chính có nhiều trong đại hồi Illicium verum là chất trừ sâu anethol. Anethol cũng là chất chính trong tinh dầu chưng cất và kết tinh từ hoa hồi ở Lạng Sơn mà một phản ứng biến hóa thành obepin, tiếp tục tác dụng với các keton, aldehyd để cống hiến những chất thơm (18). Tinh dầu đại hồi (75-90% anethol) cũng là nguyên liệu sản xuất anisaldehyd (19). Trái đại hồi còn chứa feniculin, khác với dương hồi : chất nầy đã được dùng để phân biệt hai loại tinh dầu kia. Khi đốt nóng, feniculin biến thành anisoxid, không có trong tinh dầu dương hồi. Anethol cùng với estragol là hai phenyl propanoid cống hiến vị ngọt dịu. Những veranisatin có tính chất giảm nhiệt ở liều lượng nhỏ (1 mg/kg), nhưng qua 3 mg/kg chúng gây co giật dó thể dẫn đến chết (10). Đại hồi còn chứa methoxy cinnamaldehyd, những glycolipid, phospholipid gồm có phosphatidyl inositol, phosphatidyl serin, .... cùng những sterol như sitosterol, campesterol, những kaemferol, quercetin tự do hay ở thể rhamnosid, xylosid. Lá đại hồi chứa nigranoic acid methyester có sườn cốt cycloartan mà một chất đồng phân đã tìm ra được trong Illicium dunnianum. Tinh dầu đại hồi và dương hồi đã được dùng làm thuốc kìm khuẩn trong đồ ăn chống những trùng như Escherichia coli, Bacillus subtilis, Samonella enteridis (9) .. GÀn đây, nhiều văn bằng sáng chế xứ Luthuani cho trộn đại hồi trong một loại brandy làm thuốc bổ, chống co thắt, kích thích tim, tiết dịch tiêu hóa (17). Theo tài liệu cổ, đại hồi có tác dụng đuổi hàn, kiện tỳ, khai vị, dùng chữa nôn mửa, đau bụng, bụng đầy chướng, giải độc của thịt, cá. Thường dùng hiện nay làm thuốc giúp sự tiêu hóa, ăn uống không tiêu, nôn mửa, đau nhức tê thấp (ĐTL). Cũng như ở đại hồi, hóa chất chính trong dương hồi Pimpinella anisum là trans-anethol 57,4% từ toàn cây, 75,2% từ dầu trái với một liều gây chết LD50 trên ruồi là 75 µg/một con. Trong tinh dầu hồi Việt Nam, số lượng trans-anethol là 80-95% trong trái, 55-57% trong lá, còn anethol thì chỉ 0,04 và 0,07% (3). Bên cạnh anethol, đã được tìm ra carvon, estragol, limonen, carophyllen, pinen, camphen, phellandren, anisketon. Trái hồi còn chứa acid mỡ, coumarin, flavonoid, stigmasterol tự do hay ở thể palmitat, stearat. Rễ cây hồi chứa geijeren, zingireben, bisabolen. Còn trong tinh dầu hồi thì đã được tìm ra nhiều sterol mà nhiều nhất là sitosterol. Đem thử trong âm đạo và tử cung chuột, thỏ, tinh dầu hồi nhờ trans-anethol có hoạt động estrogen, nghẽn chặn hiệu ứng của testosteron vào túi tinh dịch, của progesteron lên âm đạo (1), được dùng để làm dịu những triệu chứng tuyệt kinh, phòng ngừa những bệnh loãng xương, đau tim, ung thư (28). Có tính chất co thắt (21), chống oxi hóa (22), nó được dùng làm thuốc che chở da, kích thích tóc mọc, chống phình tĩnh mạch, bảo vệ phòng ngữa phóng xạ, điều biến chất kích thích trong cà phê. Bột hồi dùng trong thuốc viên chống u khối tá tràng (15). Cây hồi trộn với khoai, trứng, đường,..làm thức ăn cho ong mật. Trái hồi được dùng trong nước tương, dung dịch nhũ tương, giấm bổ sức khỏe. Rễ hồi trộn với la khoai, lá trà, hoa hồng ,.. làm thuôc hút. Hương hồi được sự dụng làm thơm thức ăn hải sản, thuốc đánh răng, khử hơi miệng. Nhờ anisaldehyd, tinh dầu hồi có tính chất chống nhạy, những loại Dermatophagoides farinae, D. pteronyssinus (27) như trong tinh dầu tiểu hồi Foeniculum vulgare nhưng trong tinh dầu nầy hoạt chất fenchon, nhiều gấp 20,3 lần anisaldehyd, đóng vai trò quan trọng hơn (25). Tiểu hồi, hồi Nhật Cũng như đại hồi và dương hồi, tiểu hồi Foeniculum vulgare chứa đựng nhiều trans-anethol, 22 mg mỗi trái bên cạnh fenchon có thể đạt đến 10 mg mỗi 100 trái. Có loại tiểu hồi chứa đựng nhiều fenchon (70 mg/100ml tinh dầu) hơn anethol (6 mg). Trong tinh dầu tiểu hồi còn có estragol, tocopherol, coumarin, những glycosid, arabinosid đủ loại, những flavon, flavonol, limonen, rotundifolon. Hương vị trái tiểu hồi phát xuất từ những chất dễ bốc hơi, trong số ấy đã được thức biệt thujen, pinen, phellandren, ocimen, cymen, caren, camphon, farnesen, cadinen, những anisol, .... Lá tiểu hồi chứa đựng fenicularin, nelumbosid, isohamnetin. Trong rễ tiểu hồi đã đuợc tìm ra những coumarin như umbelliferon, bergapten, terpinen, terpinolen, pinen, myrcen, phellandren, cymen, limonen, myristicin, petersilienapiol. Đặc biệt tiểu hồi cống hiến một số sinh tố : những vitamin A, B1, B2, C, E, PP, nhưng cũng chứa đựng những mycotoxin như aflatoxin B1, B2, G1, G2, rubratoxin, citrinin, zearalenon, sterigmatocystin. Nhờ có mùi thơm, trái tiểu hồi được dùng để ướp hương dầu mè, thuốc làm tóc mọc, chữa da, gội đầu, đánh răng, khử hơi miệng, mùi chân tay. Tiểu hồi có tính chất kháng sinh, nhuận tràng, lợi tiểu, được dùng để chữa hen suyển (2), tiêu chảy, đầy hơi, chống đau, giảm nhiệt (14), chống co thắt, kích thích ăn ngon, giảm hạ đường trong máu (12), giảm hạ cholesterol nhờ petroselinic acid (11). Trái tiểu hồi nhờ những tính chất của anethol đã được dùng để khử trùng, trị giun sán (6) chống bệnh bạch cầu(4,8), giảm hạ các hiệu ứng phụ các thuốc chữa ung thư như adriamycin, cyclophosphamid, đồng thời tăng gia sự miễn dịch của cơ thể (7). Nó còn có tính chất chống nấm(24), chống oxi hóa nhờ oleanolic acid, glucosylsinapyl alcool và glycosyl oxybenzoic acid (13), những miyabenol và những feniculosid (16). Về mặt diệt trùng, tinh dầu hồi (85,63% anethol) chống rất hữu hiệu Escherichia coli, Listeria monocytogenes, Salmonella typhimurium, Staphylococcus aureus (26). Cây hồi Nhật Illicium anisatum, còn có tên I. religiosum ít dùng, lúc đầu được gọi shikimi no ki hay ashikimi, nay rút gọn lại shikimi. Từ nhiều thế kỷ, người ta đã biết trái cây nầy có tính chất gây co giật. Năm 1881, nhà hóa học J.F. Eykman chiết xuất một vài miligam một chất độc kết tinh còn uế tạp đặt tên shikimin. Sau đó nhiều công tác khác cũng đề cập đến shikimin nhưng không cho rõ những tính chất của nó. Phải đợi đến năm 1952 mới thấy J.F. Lane và các cộng tác viên thành công làm ròng và đặt tên anisatin. Cấu tạo dần dần được xác định bên cạnh những chất đọc tương tự khác, neoanisatin, noranisatin, nordeoxy anisatin, pseudo anisatin mà thể dáng thấy rõ qua quang tuyến X. Sau nầy, nhiều sesquiterpen khác cũng được tìm ra : deoxy pseudo anisatin, deoxy majucin, những anisalavcton, sesquiterpen lacton, những phenyl propanoid glycosid trong trái hay vỏ trái. Trái và lá hồi Nhật còn chứa catechin, epicatechin, proanthocyanidin, flavano, procyanidin. Tính chất co giật của anisatin đã được thực nghiệm : tiêm vào chuột, nó làm tê liệt cơ quan hô hấp và gây chết ở liều lượng 0,7 mg/kg. Những phần chiết từ lá, rễ, vỏ cây cũng có tác dụng tương tự. Tiêm vào tĩnh mạch mèo liều lượng 0,02-0,04 mg/kg, nó tăng gia tạm thời động mạch cảnh, động mạch vành và lưu lượng máu xương chậu động mạch. Những bản báo cáo về cây shikimi dưới tên I. religiosum gọi chất độc là hananomin bên cạnh chút ít estragol (tức là methy chavicol) và eugenol, acid mỡ, những sterol mà nhiều nhất là sitosterol. Tinh dầu trái ở liều lượng nhỏ gây cơn giật ở chuột trước khi giết chết ; với liều lượng lớn hơn, tinh dầu ấy có thể giết chết cả chó. Shikimi có tính chất chống ấu trùng muổi Culex quinquefasciatus (20), cống hiến shikimic acid dùng làm thuốc hủy hoại động vật gặm nhắm, đặc biệt chuột thui (5), hay trong thuốc làm mọc tóc (23). Những loại hồi khác Những loại hồi khác cũng bắt đầu được nghiên cứu. Vỏ trái cây I. majus Hoopk.f. et Thoms chứa anisatin, majucin, neomajucin, những chất độc neosatin và oxoneosatin gây co giật ở chuột, những sesquiterpen lecton loại anisatin. Safrol, linalool, limonin được xác nhận trong tinh dầu vỏ trái vừa I. majus vừa I. microanthum Dunn. Vỏ cây I. difenji B.N. Chang (hay I. jadifengpi) chứa magnolol, sitosterol, những epiisopimaric, abietatetranoic, mangiferolic, mangiferonic, betulinic acid, limonen, linalool. Hai chất sau nầy cũng đã được tìm ra trong I. brevistylum bên cạnh cineol, terpinol. Trong thân lá I. dunnianum có sesquilignan, trong vỏ trái có neodunniamin, deoxy pseudoanisatin. Phần chiết chứa những phenyl propanoid. Nhân một cuộc tìm kiếm những sesquiterpen lacton trong các loại Illicium, dunnianin, dibenzoyl dunnianin, deoxy oxodunnianin, pseudoanisatin cùng những floridanolid đã được tìm ra trong I. floridanum Ellis. Chất biocyclo illicinon asaron acetal trong gỗ cây I. tashiroi tăng gia cholin acetyl transferase ở neuron vách chuột. Thân lá I. angustisepalum chứa đựng abietan diterpen và prezizaan sesquiterpen. Phần chiết từ I. tsangii cống hiến một loạt tsangan là những sesquiterpen có sườn cốt allohimachalan, megastigman hoặc murolan, hoặc santalan và isocampherenan. Sau cùng, những cyclo parvifloralon cùng những lacton parviflorid, cyclo parviflorid đã được chiết xuất từ I. parviflorum ở Bắc Mỹ. Trong thị trường, trái hồi được biết nhiều nhất là nguyên liệu dùng để làm rượu khai vị hay rượu tiêu cơm. Sau đây là một vài công thức làm rượu. Liqueur d’anis : 500 g rượu 95°, 500 g đường, 30 g hột hồi, 2 cái trứng, 320 g nước. Chartreuse : 500 g rượu 95°, 500g đường, 1 g rễ bạch chỉ, 10 g hột tiểu hồi, 1 g hột dương hồi, một nhúm bột nghệ, 700 nước. Ratafia aux épices : 50 g rượu 95°, 100 g đường, 5g hột thìa là, 5 g hột cúc gai, 5 g hột rau mùi, 5 g hột đại hồi, 5 g hột dương hồi, 5 g hột tiểu hồi, 5 g trái mọng bách xù, 250 g nước. Nguyên tác cách thức làm rượu nói chung là ngâm các hột trong rượu 95°, cho tan đường trong nước rồi trộn với nhau ít lâu trước khi dùng. Trứng chỉ lấy lòng trắng cho vào nước dùng. Tin tức Khoa học và Công nghệ 3(29) 2000, khoahoc.net 06.2011 Tham khảo 1- A. Sharaf, N. Goma, Phytoestrogens and their antagonism to progesterone and testosterone, J. Endocrinol. 31(3) (1965) 289-90
2- Z.P. Kostennikova, O.I. Belova, T.V. Grigor’eva, K.I. Varentsova, M.N. Lyakina, Evaluation of the quality of the Traskov antiasthmatic mixture, Farmatsiya (Moscou) 25(4) (1976) 60-3
3- Hoang Van Phiet, Hoang Thanh Huong, Mai Nghi, Basic study of Lang Son anise as a contribution to plant chemistry, Tap san Hoa hoc 17(4) (1979) 12-6
4- Y. Liu, Pharmaceutical composition for treating nonlymphatic leukemia and its components, Eur. Pat. Appl. EP 203,386 (1986) 13 tr.
5- . Yamada, Rodenticides for moles, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 6245,508 (1987) 6 tr.
6- I. Yasuda, T. Hamano, I. Takano, T. Seto, I. Murata, S. Miyazawa, M. Oda, T. shibuya, Anthelminthic effects of Chinese medicines. III. Lethal and inhibitory effects of antyu-san and fennel components in Anisakis type I larvae, Kenkyu Nenpo-Tokyo-toritsu Eisei Kenkyushuo (39) (1988) 24-7
7- Y.G. Liu, Plant materials as immunostimulants for decreasing side effects in cancer chemotherapy, Can CA 1,264,474 (1990) 22 tr.
8- Y.G. Liu, Safe antileukemia drug comprising harringtonine, homoharringtonine, anethole, oleanolic acid, and ginsenoide, Can CA 1,267,845 (1990) 8 tr.
9- H. Fujita, T. Okumura, M. Hasegawa, K. Pponma, Bacteriostatic agents containing star anise powders or extracts for foods, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 04,278,069 (1992) 6 tr.
10- E. Okuyama, T. Nakamura, M. Yamazaki, Convulsants from star anise (Illicium verum Hook.f.), Chem. Pharm. Bull. 41(9) (1993) 1670-1
11- M. Then, G. Petri, B. Simandi, S.erneczky, Biologically valuable substances of common fennel (Foeniculum vulgare Mill.). I. Comparison and evaluation of samples extracted by conventional and supercritical methods, Olaj. Szappan, Kosmet (Hung) 44(4) (1995) 146-51
12- G.S. Essway, H.M. Sobbhy, H.A. El-Banna, The hypoglycemic effect of volatile oil of some Egyptian plants, Vet. Med.J. Gisa 43(2) (1995) 167-72
13- R. Nakayama, H. Kikuzaki, N. Nakatami, H. Horiuchi, Antioxidative activity of constituents from fennel seeds, Nippon Kasei Gakkaishi 47(12) (1996) 1193-9
14- M.O.M. Tanira, A.H. Shah, A. Moshin, A.M. Ageel, S. Qureshi, Pharmacological and toxicological investigations on Foeniculum vulgare dried fruit extract in experimental animals, Phytother. Res. 10(1) (1996) 33-6
15 Y. Pan, G. Chen, J. Sun, L. Xiao, Bismuth aluminate granules for peptic or duodenal ulcer, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,150,024 (1997) 10 tr.
16- M. Ono, C. Masuoka, Y. Ito, Y. Niiho, J. Kinjo, T. Nohara, Antioxidative and antihyaluronidase activities of some constituents from Foeniculi Fructus (fruit of Foenniculum vulgare Miller), Food Sci. Technol. Int. Tokyo 3(1) (1997) 53-5
17- G. Sargunas, G. Daniuniene, C. Talacka, S. Aleksiunas, J. Audrioniene, E. Jokubauskis, Formulation for alcoholic bitters, Lith. LT 3,679 (1996) 9tr. ; LT 3,690 (1996) 10 tr. ; LT 3,773 (1996) 7 tr. ; 4,127 (1997) 9 tr. ; LT 4,134 (1997) 9 tr.
18- Le Thi Anh Dao, Transformations of anethol from Vietnamese anis oil fragrant products, Tap chi Hoa hoc 35(1) (1997) 82-4
19- Mai Ngoc Chuc, Preparation of anisaldehyde from essential oil of Illicium verum, Hoa hoc va Cong nghiep Hoa chat (5) (1997) 30-2
20- T. Ikeda, K. Nagata, H. Honda, T. Shono, T. Narahashi, Insecticidal activity of sikimi extract and its modulation of the GABA receptor channel, Pesticide Sci.52(4) (1998) 337-42
21- M.H. Pourgholami, S. Majzoob, M. Javadi, M. Kamalinejad, G.H.R. Fanaee, M. Sayyah, The fruit essential oil of Pimpinella anisum exerts anticonvulsant effects in mice, J. Ethnophar. Iran 66(2) (1999) 211-5
22- I. Gulcin, M. Oktay, E. Kirecci, O.I. Kufrevioglu, Screening of antioxidant and antimicrobial activities of anise (Pimpinella anisum L.) seed extracts, Food Chem. 83(3) (2003) 371-82
23- I. Sakaguchi, N. Ikeda, M. Matsuo, M. Nakayama, K. Kato, Hair growth stimulants containing Illicium extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003012470 (2003) 6 tr.
24- N. Mimica-Dukic, S. Kujundzic, M. Sokovic, M. Couladis, Essential oil composition and antifungal activity on Foeniculum vulgare Mill. obtained by different distillation conditions, Phytoth. Res. 17(4) (2003) 368-71
25-2- H.S. Lee, Acaricidal activity of constituents identified in Foeniculum vulgare fruit oil against Dermatophagoides spp. (Acari : Pyroglyphidae), J. Agric. Food Chem. 52(10) (2004) 2887-9
26- I. Dadalioglu, G.A. Evrendilek, Chemical compositions and antibacterial effects oils of Turkish oregano (Origanum monutiflorum), bay laurel (Laurus nobilis), spanish lavender (Lavandula stoechas L.), and fennel (Foeniculum vulgare) on common foodborne pathogens, J. Agric. Food Chem. 52(26) (2004) 8255-60
27- H.S. Lee, p-Anisaldehyd acaricidal component of Pimpinella anisum seed oil against the house dust mites Dermatophagoides farinae and Dermatophagoides pteronyssinus, Planta Medica 70(3) (2004) 279-81
28- N. Tabanca, S.I. Khan, E. Bedir, S. Annavarapu, K. Willett, I. Khan, N. Kirimer, K.H.C. Baser, Estrogenic activity is isolayted compounds and essential oils of Pimpinella species from Turkey, evaluated using a recombinant yeast screen, Planta Medica 70(8) (2004) 728-35
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:32:59 GMT 9
37 - Cây cối trong đời sống Đức Phật Bồ đề hãy biết cây đất Phật, Gương sáng thì hay ánh sáng ngời. (*) Đời sống đức Phật Thích Ca luôn dính liền với cây cối, từ lúc xuất thế, qua khi giác ngộ, thuyết pháp đến thời nhập diệt. Theo tục truyền, mẹ Ngài, hoàng hậu Mahamaya (Ma ha ma da) có mang Ngài, năm 563 trước dl, trên đường rời Kapilavatthu (Ca tỳ la vệ) về quê nằm nơi, trong lúc ghé nghỉ ở vườn Lubini (Lâm tỳ ni) thưởng thức hoa tươi muôn màu và chim hát líu lo thì vịn vào cây sal hay sala tức là cây Shorea robusta, có tác giả viết là cây ashoka hay simsapa (16) tức là cây vô ưu Saraca indica, còn có tên vàng anh (8), và sinh Ngài từ nách tay. Vào cuối đời, ở Kusinagara (Câu thi na), Ngài cũng nằm trong chiếc vỏng mắc trên hai cây sala (hay, theo những giả thuyết khác, giữa bốn cặp cây sala hoặc trong một rừng cây sala) và xuất ly năm 483 trước dl, chứng nhập Niết Bàn sau bốn kỳ thiền định. Như vậy, cây sala đã chứng kiến cuộc sinh tử của Ngài (4,9). Nhưng trong thế gian ngày nay, được biết nhiều là sự chứng ngộ của đức Phật thực hiện dưới gốc cây đa bồ đề Ficus religiosa mà người Ấn Độ gọi là asvattha (cây điềm lành) còn có tên pipal, pippala, peepalbanti, Âu Mỹ dịch ra Bo tree, Bodh tree, ta có danh từ Giác thụ. Truyền thuyết kể rằng sau sáu năm khổ hạnh, Ngài rời bỏ Uruvilva (U lâu tần hoa), xuống tắm trong dòng sông Nairanjana (Ni liên hà), ăn cơm và uống sữa cô thôn nữ Sujata biếu tặng, xin một nắm cỏ lót đất rồi lại ngồi dưới gốc cây đề hay bồ đề cách thị trấn Gaya (Già da) 8 cây sốđể thiền định. Thị trấn nầy sau mang tên Both Gaya (Bồđề đạo tràng), một danh từ còn chỉ định sự giác ngộ. Từ sáng đến tối, Ngài thắng xung kích cám dỗ của thần chết, phóng thích đầu óc mọi liên hệ với thế giới cảm tính từ đó đạt được thiên cảm hùng vĩ những tiền thân do hành vi quyết định, nhận thức nguyên nhân những tiền thân ấy, phát động quy luật "sản xuất theo khái niệm liên tiếp" đạt chính pháp và đắc đạo (4,11). Ngài còn ngồi ở đây bäy tuần nữa, tận hưởng sự giải thoát, một thời gian đầy kỳ diệu, không ăn, không uống, trước khi lên đường đi thuyết giáo ở vườn Mrgadava (Lộc uyển) cây cao bóng mát tại Sarnath (Lộc vương), cạnh Banaras (Ba la nại). Ngày nay, Both Gaya là một nơi hành hương có tiếng. Chính vua Asoka (A dục) năm 258 trước dl đã xây quanh cây bồ đề một cái miếu lộ thiên và cạnh cây một ngôi tháp cùng một ngôi đền, một hành lang là nơi đức Phật đi dạo sau khi chứng ngộ, bước đầu cho một khuôn viên đồ sộ. Nhưng cây bồ đề nguyên thủy đã bị phá huỷ vào thế kỷ VII. Tại chỗ đó, người ta có trồng một cây con thì cây con cũng bị bão thổi trốc gốc năm 1876 (15). Còn cây bồ đề thấy ngày hôm nay là từ một nhánh ở Tích Lan đem qua. Tương truyền chính hai người con của vua Asoka, đại diện môn phái chính thống vương triều đã cho nhập Phật pháp vào Tích Lan thời nhà vua Devanam Piyatissa. Hoàng tử - La hán Mahendra (Ma hi đà) có đem theo nhiều thánh tích của đức Phật, phong chức cho nhiều tỳ kheo và thành lập tu viện đầu tiên Mahavihara (Đại tịnh xá) ở kinh đô Anuradhapura. Nhưng chính cô em, công chúa Sanghamitta 6 năm sau theo gót hai anh, vào năm 240 trước dl, mang qua Tích Lan một chồi rễ cây bồ đề Gaya gọi là Bodhidruma (Bồđề thị) và phong chức cho những tỳ kheo ni đầu tiên, đánh dấu trường phái Sthaviravada - Vibhajyavada (Thượng tọa bộ - Phân biệt thuyết độ) ở Sri Lanka (6). Có phải một chồi rễ cây nầy đã được đem trở về Gaya? Tại chỗ, người bản xứ tin tưởng cây bồ đề hiện nay là cây nguyên thủy còn lại. Bản thân tôi may mắn được chắp tay trước cây ấy, giữa đám khách hành hương suốt ngày không ngớt lại quỳ khấn, xúc cảm không ít khi ngắm cây cao trụi cành già cỗi, có khả năng trúc gảy nên người ta phải dùng nhiều gậy tre chống đở. Trong sự tích Phật giáo, cây cối luôn giữ một chỗ đứng quan trọng. Ở nơi diễn biến bốn giai đoạn chủ yếu trong cuộc đời tinh thần của đức Phật đếu có mặt của cây : xuất thế ở Lubini, giác ngộ dưới gốc cây bồ đề Gaya, thuyết giáo lần đầu tiên ở vườn Mrgadava, xuất ly trong rừng Kusinagara. Vì vậy, trong các công trình đầu tiên nay đang còn, cây đã được đưa ra thay thế tượng hình đức Phật. Trên 6 cánh cửa torana công trình Sanci (thế kỷ 1) ở Madhya Pradesh, bäy đức Phật cùng đức Di Lặc được trình bày với tám cây tượng trưng ở các hình chạm nổi thấp. Fouscher (1,12) kê một bản các đức Phật và những tên cây bản xứ tương ứng ( trong vòng ngoặc chữ xiên là tên Pali) : Vipasyin (Vipassin, Tỳ Bà Thi Phật), cây patali tức Bigonia suaveolens ; Sikhin (Sikhin, Thí Khí Phật), cây pundarika (một loại hoa sen trắng? (10)); Visvabhu (Vessabhu, Tỳ Sa Bà Phật), cây sala tức Shorea robusta ; Krakucchanda (Kakusandha, Câu Lưu Tôn Phật), cây sirisa tức Acacia sirissa ; Kanakamuni (Konagamana, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật), cây udumbara tức Ficus glomerata, cây sung ; Kasyapa (Kassapa, Ca Diếp Phật), cây nyagrodha tức Ficus indica, cây sanh ; Gautama (Gotama, CồĐàm), cây asvattha tức Ficus religiosa, cây đa bồ đề ; Maitreya (Metteya, Di Lặc), cây nagapuspa tức Michelia champaka, cây ngọc lan. Nhờ những hình tượng nầy ở Bharhut (2) có kèm theo lời dẫn nên cuộc xác định được thực hiện có phần dễ dàng. Một chú ý cần nêu ra là trên cửa số 3, có thêm vào một cây xoài Mangifera indica nhưng ở cánh cửa nầy các đức Phật không được sắp đặc có thứ tự như ở cửa số 1 nên khó xác định đúng chỗ, tuy có giả thuyết đặt nó tương ứng với đức Phật Sikhin, thay vì cây pundarika. Theo tục truyền, khi đức Phật đang thiền định dưới gốc cây bồ đề, Ngài bị ma quái lại phá phách, trong số nầy tiêu biểu nhất là quỉ thần Mara (Ma vương), lợi dụng quyền lực đã đạt được để thúc xúi sự ham muốn nhục dục và lòng quyền luyến từ đấy giam giữ con người trong vòng sinh tử liên tiếp. Dùng miệng lưỡi mật ngọt không dụ dỗđược đức Phật, đưa ba con gái là Trsna (Khát Khao), Priti (Hoan Hỉ) và Raga (Khoái Lạc) lại quyến dũ không thành, Mara tấn công với cả một đạo quân quỷ sứ cũng thất bại và phải rút lui. Trước những thách thức, đức Phật vẫn bình tâm trầm ngâm suy nghĩ về những hoàn thiện tinh thần thực hiện trong những kiếp trước và tay điểm xuống đất minh chứng đã vượt qua được quyến dũ của quỉ thần. Trên tháp Sanci thì trong tranh tường thuật lại chủ đề nầy, ngoài đạo quân quỉ sứ tán loạn, vợ chồng Mara và ba cô con gái, những thiên thần hân hoan trước thắng lợi của đức Phật, hai chiếc ngôi ở giữa và bên trái biểu tượng hành động của đức Phật và sự thừa nhận đức Phật của thiên thần,có một cây cao cành lá sum sê tượng trưng cho sự giác ngộ của đức Phật. Còn trong bức tượng mang tên " sự xung kích của Mara (Ma vương), trường phái Amaravati (thế kỷ II-III) tìm ra ở Uttah Pradesh, Chantarala, trên ngôi là một cây bồ đề tượng trưng cho đức Phật. Nghệ thuật Amaravati thường hình dung đức Phật bằng một cái ngôi với bên cạnh một cây có lá mang nét rõ hình trái tim ngày nay là hình đồ trang sức các cô gái Ấn Độ đeo trên ngực : tác dụng chiều sâu, phân trải lớp cảnh, đối xứng bố cục quanh tượng đức Phật ở trung tâm, .... tất cả những khả năng tạo hình chạm nổi đều được tận dụng (13). Vài tính chất dược lý và ứng dụng Bên phần khoa học, trong bước đầu khảo cứu một số cây cối trong đời sống của đức Phật, bên lề cấu tạo, chiết xuất,có thể đưa ra một vài nhận xét về tính chất dược liệu và ứng dụng. Bồ đề Ficus religiosa L., họ Dâu tằm Moraceae (5),là cây đã được nói đến nhiều nhất. Vỏ cây đem chiết với ethanol cống hiến nhiều nhựa, glycosid, chút ít alcaloid và có một hoạt động làm liệt đối giao cảm (parasympatholytic activity) : thả duỗi ruột chuột, heo, thỏ, chó; đối kháng hiệu ứng co giật và ngăn chặn tác dụng tim mạch của acetylcholin ; bảo vệ heo chống hen suyển do acetylcholin và histamin gây ra (17) cho nên dã được dùng làm thuốc chữa hen suyển (26). Uống và tiêm tĩnh mạch thì LD50 là 2,24 và 0,80 g/kg (17). Sitosterol glucosid chiết xuất từ bột khô vỏđề tiêm tĩnh mạch vào thỏ 5,0 và 7,5 mg/kg làm giảm hạ đường trong máu 23,2 và 33,86%. Trong hệ thống thần kinh trung ương chuột, chất nầy gây kích thích, co giật và hủy bỏ tình trạng suy thoái do reserpin gây ra ởđộc lượng 40-400 mg/kg, LD50 là 62 mg/kg (18). Trong vỏđề còn có vitamin K1 (22), đặc biệt hai chất bergapten và bergaptol có tác dụng kháng vi sinh vật (23). Nhờ những thớ sợi trong thân, cây đề có tính chất chống máu tăng lipid và có nhiều ảnh hưởng lên không những lipid mà còn cả cholesterol, triglycerid, phospholipid trong gan (21). Với 0,7-1,5% tanic acid, lá đề là một thức ăn rất được dê ưa chuộng (19) tuy acid nầy có phần độc cho nó thể hiện qua khám nghiệm ở tim, gan thận cũng nhưở da (20). Trong kỹ nghệ, cây đề được dùng trong mỹ phẩm bảo vệ da (24) hay thuốc khử mùi (25). Sal hay sala Shorea robusta Gaertn.f., họ Dầu Diphterocarpaceae, là một cây đã được thường dùng làm thuốc venkungiliyam trong hệ thống Ayurvedic Ấn Độ (31). Bơ cây được học hỏi rất nhiều(30), đã được dùng trong mỹ phẩm(29) . Hột cây chứa đựng nhiều amin acid (27), 98g/kg protein là một thức ăn tốt cho gà con (28). Hột cây còn cống hiến một chất nhờn rất công hiệu trong thuốc đạn hay thuốc mỡ (34) . Dầu hột có tính chất diệt trùng, cho vào thức ăn chữa bệnh thú vật (33). Gỗ cây đã được dùng làm bột giấy (32). Thân cây đem chiết xuất thì có được một chất khử nấm (35), đã được dùng trong thuốc thoa da (36) . Cây ashoka Saraca indica L., họ Điệp Caesalpinoideae (8),cũng có một số tính chất dược lý hay ho. Trộn lẫn với phần chiết các cây khác và sữa chúa, cây có khả năng ức chế lipase, ức chế sự hấp thu lipid, được dùng trị bệnh trứng cá, phòng ngừa béo phì (46), bảo vệ sức khỏe, nhất là phụ nữ có mang (45), làm thuốc ngừa thai, thử trên chuột hiệu nghiệm 33,3-85,7% (39) . Phần chiết nước là một thuốc chống u khối, tăng gia 24% đời sống chuột bị ung thư cổ trướng Ehrlich và giảm hạ 24% khối u S-180 (38). Vỏ cây ức chế hoạt động trùng HIV-1 PR hơn 70% ở liều lượng 0,2 mg/ml (40). Cũng như ở cây sala, vỏ cây đã được khảo cứu về khả năng ngăn chặn cuộc cấu tạo sạn đái là những calcium phosphat, oxalat hay carbonat (43). Chưá đựng conchiolin, nó là thành phần thuốc làm dịu da(44). Vỏ sắc ức chế hoạt động enzym nhờ có tannin và những hợp chất phenolic (37). Lectin chiết xuất từ hột cây dính kết hồng cầu nhiều loại máu người và thú vật, là một chất điều biến trong hệ thống miễn dịch động vật có vú (42). Những cây bồ đề ở Huế Trong số những cây cối có dính líu đến đời sống đức Phật, cây đa bồđề có lẽ là quan trọng nhất. Thời tiến chiến, ở Huế, cha Cadière (7) có ghi bốn cây : hai ở An Cựu, một ở đồn lính và một ở cạnh Câu lạc bộ Thể thao. Cây ở gốc chợ An Cựu là nơi lưu trú một con rắn hiền và thiêng, thường hiện ra với một mào lông, không phá hại ai, trái lại ai đến cầu khấn thì được thỏa mãn: bệnh tật, làm ăn, .... Cây kia nằm trong chợ gần bờ sông và đường quốc lộ thì thờ một Bà Hỏa. Nguyên gốc cuộc thờ cúng là người giữ đình tên Chút cho phơi những cây tre ngâm nước có phần hôi vào cây, lập tức ngay sau anh bị đau lưng, thầy thuốc, người nắn xương chẳng chữa được. Tối hôm đó, anh nghe từ cây có lời cảnh cáo, ra ngoài nhìn thấy có ánh sáng tỏa ngời, biết là có thần linh tọa, liền quỳ xin tạ tội và hôm sau mua hương đèn, giấy vàng bạc dâng cúng. Lành bệnh, anh vội xây am cúng thờ. Sau nầy Bà Hỏa còn chữa nhiều bệnh và giúp người lại cầu khấn làm ăn khá giả. Cây bồ đề ở đồn lính cạnh Tòa Khâm thí có bàn thờ Thủy sư của Hải quân và thường được gọi là Miếu Ông Voi vì có hai tượng voi ở trước cửa. Đặc biệt của miếu nầy là rước thờ nhiều thần ở các nơi khác về cho nên lẫn lộn nhiều vị Khai hoàng, Thần hoàng, Quan thánh, Thổ địa,.... Cây bồđề thứ tư nằm cạnh bể tắm Câu lạc bộ Thể thao, trước bệnh viện. Cây rất cao, choáng cả lề đường. Một bà già lo chuyện cúng lễ. Ởđây có 4 bàn thờ : hai quan lớn Ông Đệ Nhất, Ông Đệ Nhị và các Bà, thật ra chỉ có một Bà được gọi Đức Bà, Thánh Mẫu, Bà Mẫu hay Bà Chúa Ngọc , Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, thượng đẳng thần. Bên mặt, một bàn thờ nhỏ hơn, cũng tựa vào thân cây, là để cúng các Cô. Bên trái là bàn thờ Thổ thần. Trên cành cây to nhất còn có bàn thờ Bà Trung Thiên. Tục truyền Đức Bà nguyên quán ởđèo Ba Dội ngoài Thanh Hóa, có tiếng linh thiêng từ đời Gia Long. Người ta kể sự tích ông Đặng Huy Trứ, trên đường ra Bắc nhậm chức, đi ngang trước am, thấy một đàn công liền khấn xin, được Đức Bà biếu cho một con đậu lên cáng theo ông. Vua Thiệu Trị nhận thấy Bà rất linh thiêng, một mặt ra lệnh cúng Bà khắp nơi, một mặt rước Bà vào thờ ở Điện Hòn Chén. Qua miêu tả trên đây của một vị linh mục ngoại quốc đã từng sống lâu ở Huế, ta thấy lại tín ngưỡng của ông cha ta trước đây không lâu và cũng nhận ra cây đa bồ đề không còn chỉ là cây thờ Phật nữa trừ phi nhân dân đồng hóa Trời Phật với những vị Thánh Thần khác. khoahoc.net 19.05.05 Tham khảo (*) Trích Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm Đại cương
1- J. Marshall, A. Fouscher, N.G. Majumdar, The Monuments of Sanci, Calcuta-Dehli (1940) 199-200
2- A.K. Coomaraswamy, La sculpture de Bharhut, Paris, Vanoest, Annales du Musée Guimet, Bibliothèque d’art, Nouvelle Série, VI (1956) 65-6
3- G. Terral, Choix de Jâtaka, dịch từ Pâli qua Pháp ngữ, Connaissance de l’Orient, Collection UNESCO, nxb Gallimard, Paris (1958) 166-71
4- A. Bareau, En suivant Bouddha, nxb Philippe Lebaud, Paris (1985) 50-3
5- Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, (1986) 280, 574
6- D.T. Devendra, Le Bouddhisme à Sri Lanka – Expansion du Bouddhisme en Asie, trong bộ Présence di Bouddhisme, giám đốc René Berval, nxb Gallimard, Paris (1987) 6
7- L. Cadière, Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens, EFEO, Paris (1992) 9-70
8- Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Montréal, I, (2) (1991) 1087 ; II (1) (1992) 457
9- P. Harvey, Le Bouddhisme, dịch từ An introduction to Bouddhism, nxb Seuil, Paris (1993) 37,43
10- Phạm Hữu Dung, Từ điển đối chiếu Phật ngữ, tác giả xuất bản (1996)
11- Dictionnaire du Bouddhisme, trong bộ Encyclopaedia Universalis, nxb Albin Michel, Paris (1999) 92-3
12- S. Gill, Les discours des portails: Procédés de création dans la sculpture des portails du stupa majeur de Sanci, Arts Asiatiques 55 (2000) 32-54
13- I. Charleux, E. Parlier, L’art bouddhique, nxb Scala, Paris (2000) 36-7
14- V. Crombé, Le Bouddha, "Biographie ", nxb Desclée Brouwer, Paris (2000) 136-7, 155-6
15- Nguyễn Tường Bách, Mùi hương trầm, nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh (2001) 84-90
16- Trần Đình Sơn, Hoàng Anh, Tản mạn Phú Xuân, nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh (2001) 212-6
Ficus religiosa
17- C.L Malhotra, P.K. Das, N.S. Dhalla, Parasympatholytic activity of Ficus religiosa, Ind. J. Med. Res.(1913-1988) 48 (1960) 734-42
18- S. H. Ambike, M.R.R. Rao, Studies on a phytosterolin from the bark of Ficus religiosa, Indian .J. Pharm. 29 (3) (1967) 91-4
19- S.K. Panda, N.C. Panda, B.K. Sahu, Effect of tree-leaf tannin on dry matter intake by goats, Indian Vet. J. 60 (8) (1983) 660-4
20- K.C. Tripathy, B.K. Sahu, N.C. Panda, B.C. Nayak, Toxicity of tannic acid in goats, Ind. J. Anim. Sci.54 (11) (1984) 1091-3
21- V. Agarwal, B.M. Chauhan, A study on composition and hypolipidemic effect of diatery fiber from some plant foods, Plant Foods Hum. Nut. 38 (2) (1988) 189-97
22- K.D. Swami, G.S. Malik, N.P.S. Bisht, Chemical investigation of stem bark of Ficus religiosa and Prosopis spicigera, J. Indian Chem. Soc. 66 (4) (1989) 288-9
23- K.D. Swami, N.P.S. Bisht, Constituents of Ficus religiosa and Ficus infectoria and their biological activity, J. Indian. Chem. Soc. 73 (11) (1996) 631
24- M. Hayase, Skin conditioners containing urea, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11052428(1998) 4 tr.
25- M. Konishi, R. Fujimoto, Irritating odor masking for lower alcohols cosmetics containing the irritating odor masking agents, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10179967 (1999) 7 tr.
26- J.R. Patel, D.R. Patel, Compositions for treatment of asthma containing Ficus religiosa bark admixed with rice pudding, US US 6149914 (2000) 6 tr.
Shorea robusta
27- S. Chand, S.N. Mahapatra, Amino acid composition and analysis of sal (Shorea robusta) and mahua (Madhuca latifolia) seed meal, Oils Oilseeds J. 10-11 (26) (1974) 15-6
28- S.S. Zombade, G.N. Lodhi, J.S. Ichhponani, The nutritional value of salseed (Shorea robusta) meal for growing chicks, British Poultry Sci.20 (5) (1979) 433-8
29- A. Zabotto, J. Griat, Shorea robusta fats for aqueous or nonaqueous cosmetic compositions, Ger. Offen. DE 3242385 (1983) 22 tr.
30- S.Y. Reddy, J.V. Prabhakar, Confectionery fats from sal (Shorea robusta) fat and phulwara (Madhuca butyracea) butter, Food Chem. 34 (2) (1989) 131-9
31- A. Saraswathy, E. Sasikala, K.K. Purushothaman, Bergenin from Shorea robusta Gaertn., Idian. Drugs 26 (10) (1989) 574-5
32- R. N. Shukla, S.P. Sharma, R.M. Srivastava, On chemical composition of Shorea robusta, Vijnana Parishad Anusandhan Patrika 33 (4) (1990) 253-61
33- A.K. Banerjee, M. Jain, Analysis of seed oils of Annona squamosa, Tectona grandis and Shorea robusta, Scit. Phys. Sci. 3 (2) (1991) 106-12
34- S. Chaudhuri, D.K. Bhattacharyya, Utilization of sal (Shorea robusta) fat in ointment and suppository base, J. Oil Tech. Ass. India 26 (2) (1994) 43-7
35- P. Gupta, I. Dev, Studies on the fungicidal of sal (Shorea robusta) heartwood extractives, J. Timber Dev. Ass. India 45 (1-2) (1999) 16-24
36- K. Yamaha, A. Mononobe, T. Kataka, Skin external use agent, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2000319159 (2000) 9 tr.
Saraca indica
37- V. Prasad, S.C. Gupta, Inhibitory effect of bark and leaf decoctions on the activity of pectic enzymes of Alternaria tenuis, Indian J. Exp. Biol. 5 (3) (1967) 192-3
38- S. Mukerji, A.K. Banerjee, B.N. Mitra, Plant antitumor agents. I., Indian J. Pharm. 32 (2) (1970) 48-9
39- D. Suganthan, G. Santhakumari, Antifertility activity of an indigenous preparation Ayush-47, Indian J. Med. Res.70 (3) (1979) 504-16
40- I.T. Kusumoto, et all., Screening of various plant extracts used in Ayurvedic medicine for inhibitory effects on human immunodefiency virus type (HIV-1) protease, Phytother. Res. 9 (3) (1995) 180-4
41- S. Ray, B.P. Chatterjee, Saracin: a lectin from Saraca indica seed integument recognizes complex carbohydrates, Phytochem. 40 (3) (1995) 643-9
42- S. Ghosh, et all., Saracin: a lectin from Saraca indica seed integument induces apoptosis in human T-lymphocytes, Arch. Biochem. Biophys. 371 (2) (1999) 163-8
43- T.V.R.K. Rao, M. Das, In-vitro inhibition of mineralization of urinany stone forming minerals by some medicinal plant extracts, Asian J. Chem. 12 (3) (2000) 719-22
44- K. Shimomura, F. Hattori, Skin compositions containing conchiolin hydrlyzates and plant extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001316239 (2001) 14 tr.
45- P. Pushpangadan, D. Prakash, Herbal nutraceutical formulation for females/expectant mothers and its process of preparation, PCT Int. Appl. WO 2003017784 (2003)
46- K. Yoshizumi, Plant extracts and royal jelly as lipase inhibitors, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003192605 (2003) 7 tr.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:35:13 GMT 9
38 - Cây Kơnia , tình Tây NguyênTôi ghép từng hạt K’nia Tôi ghép thành cánh chim bay ... (Ngả lưng trên đồi) Bài thơ Bóng cây Kơ-nia (music.bennhac.com) vời vợi mênh mang rừng núi, phổ thành bài hát vang lừng trong thời kháng chiến. Tác giả đã dựa lên tinh thần núi rừng đưa kơnia lên làm cây tượng trưng, nhắc nhở Tây Nguyên là một mảnh đất của xứ sở, một bộ phận không rời của đất nước. Sáng tác trong khói lửa, nhà thơ không quên mình là một chiến sĩ văn hóa nên lời lẽ dụng ý có phần khí khái. Buổi sáng em làm rẫy, Thấy bóng cây Kơ-nia. Bóng ngả che ngực em, Về nhớ anh không ngủ. Buổi chiều mẹ lên rẫy, Thấy bóng cây Kơ-nia, Bóng tròn che lưng mẹ, Về nhớ anh mẹ khóc. Em hỏi cây Kơ-nia Gió mày thổi về đâu, Em hỏi cây Kơ-nia Gió mày thổi về đâu. Về phương mặt trời mọc. Mẹ hỏi cây Kơ-nia Rễ mày uống nước đâu, Uống nước nguồn miền Bắc. Con giun sống nhớ đất, Chim phí sống nhớ rừng. Em và mẹ nhớ anh, Uống theo nguồn miền Bắc. Như bóng cây Kơ-nia, Như gió cây Kơ-nia, Như bóng cây Kơ-nia, Như gió cây Kơ-nia, Ơ....Như bóng cây Kơ-nia, Như gió cây Kơ-nia. Nhạc sĩ gây nên dòng điệu trữ tình là Phan Huỳnh Điểu. Sinh năm 1924, quê gốc Đà Nẵng - Quảng Nam, từ thuở tiền chiến, ông được đã nổi tiếng khắp nước qua bài Trầu Cau (1945). Ông đến với Cách mạng vào tuổi đôi mươi, hăng hái lên đường gia nhập kháng chiến chống ngoại xâm. Bài hát Đoàn Giải phóng quân vang dậy tiễn đưa những đoàn quân đầu tiên thẳng tiến miền Nam. Sau Điện Biên phủ (1954), ông phải lên đường tập kết ra Bắc, những kỷ niệm còn lưu lại trong bài Liên khu 5 yêu dấu. Nhớ thương quê hương cách trở, ông gởi lòng vào Quê tôi miền Nam, Tình trong lá thiếp (1955),.... rồi Những ánh sao đêm (1963) trước khi leo đèo vượt núi trở vào miền Nam (1964-1970). Về lại miền Bắc, ông phổ nhạc nhiều bài thơ như Cuộc đời vẫn đẹp sao (Hương Ly), Hành khúc ngày và đêm (Bùi Công Minh), Sợi nhớ sợi thương (Thúy Bắc), ....và đặc biệt bài Bóng cây Kơ-nia của Ngọc Anh (1972). Sau 1975, định cư ở Tp Hồ Chí Minh, ông vẫn luôn dồi dào tình cảm với những bài Anh ở đầu sông, em cuối sông (Hoài Vũ 1978), Sợi nhớ sợi thương (Thúy Bắc 1978), Ở hai đầu nỗi nhớ (Trần Hoài Thu 1983), Người ấy bây giờ đang ở đâu (Hoài Vũ 1991), Thuyền và Biển (Xuân Quỳnh 1992).... Bài thơ phổ nhạc nầy cũng là tựa đề một băng nhạc mà tôi may mắn có trong tay. Bên cạnh những bản nhạc của ông do nhiều danh ca trình bày: Ở hai đầu nỗi nhớ (Bảo Yến), Sợi nhớ sợithương (Thu Hiền), Những ánh sao đêm (Ngọc Tân), Anh ở đầu sông, em cuối sông (Lê Dung), Thuyền và Biển (Tuấn Phong) ,.... có bài Bóng cây Kơ-nia. Mấy ai biết nhạc sĩ đã mất mười năm vật lộn với nốt nhạc để thử gởi tâm tình vào một luồng điệu trữ tình. Ca sĩ trình diễn lại là cô gái dân tộc ít người Măng Thị Hợi. Ai đã từng lên Tây Nguyên đón gió ban chiều, nhìn mây vời vợi trên đỉnh non cao, không sao tránh được cảm xúc khi nghe giọng hát lưu luyến, khêu gợi của một ca sĩ đã đổ dồn mọi tình cảm của mình vào bài hát. Nhiều người cho bài nầy thật là một tuyệt tác của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu (10,11). Nhưng ai còn nhớ nhà thơ đã sáng tác bài Bóng cây Kơ-nia ? Nguyễn Ngọc Anh tức Ngọc Anh, sinh năm 1934, là người đồng hương tỉnh Quảng Nam với Phan Huỳnh Điểu. Xuất thân từ Trường trung học Bình dân Quân sự Khu 5, ông đi làm phóng viên ở mặt trận Tây Nguyên trước khi về làm ở Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Thân mình mảnh mai, ông thường được phân công đóng vai con gái trong các vở kịch và rất được tán thưởng. Năm 1954, cũng như Phan Huỳnh Điểu, ông phải tập kết ra Bắc, công tác ở Ban Dân tộc Trung ương rồi ở Viện Văn học, chuyên về văn học miền núi. Khiêm tốn, ít át, Ngọc Anh lặng lẽ viết những bài thơ dần dần trở thành dân ca và nhất là được người Tây Nguyên thừa nhận nhờ đã biết rung động với rừng núi : Cheo reo quê mình, Có nhiều rừng núi, Có sông có núi, Có làng có rẫy,.... nêu cao công việc lao động : Trưa về ngồi kéo sợi, Dưới bóng mát nhà rông, Sợi dài hơn mây núi, Trắng ngỡ thác đầu buôn, .... đau thương mong nhớ làng rẫy : Đất ông bà, Ta nhớ ta thương, Nhớ rẫy cũ làng xưa, Nhớ mùa gặt mới, Nhớ tiếng trâu ngoài làng, Tiếng voi đằng xa, Và tiếng chim ăn hoa buổi sáng,.... Trong số các bài thơ nầy, có bài Bóng cây Kơ-nia cũng đượm hồn rừng núi không kém: Em hỏi cây Kơ-nia, Gió mày thổi về đâu, Về phương trời mọc. Mẹ hỏi cây Kơ-nia, Rễ mày uống nước đâu, Uống nước nguồn miền Bắc,.... Cũng như Phan Huỳnh Điểu, năm 1964, ông trở lại miền Nam sau khi xây dựng gia đình với một cô gái đồng hương. Ông ít sống với gia đình và đã vĩnh viễn ra đi năm 1965, để lại một bà vợ gầy yếu và hai đứa con nhỏ. Trong thời gian cuối đời này tuy ngắn ngủi, ông luôn cố gắng tiếp tục phục vụ Tây Nguyên, huấn luyện các tiết mục cho đoàn văn công tỉnh Kon Tum, ghi chép dân ca các sắc tộc, từ chối về khu an toàn làm báo Văn nghệ quân giải phóng khu 5 để luôn được ở cạnh núi non cây rừng, cạnh những cây kơnia thân thích tỏa bóng buôn làng (14a). Nêu hai nghệ sĩ Nguyễn Ngọc Anh và Phan Huỳnh Điểu đã nêu cao tinh thần cây kơnia về mặt văn hóa, người chăm lo về mặt kỹ thuật là kỹ sư lâm nghiệp Nhữ Văn Vẽ, một người say mê bài hát. Ông đã âm thầm nghiên cứu, tìm hiểu và nhân giống cây trong mục đích trồng nó trong địa bàn tỉnh. Mặc dầu cây rất hợp với các tuyến phố, thẳng đứng, tán tròn, không rụng lá, rễ cọc sâu không ăn lên vỉa hè và phá đường, lại có hoa tím đẹp thơm như hoa xoan nhưng mong muốn của ông không được thi hành. Tiếc thay! Nhờ ông mà ta biết được kơnia là một cây có sức sống rất mãnh liệt, không dễ bị cháy, không bị chất dioxin phá hoại. To nhất Tây Nguyên, cây có đường kính khoảng một mét và nếu cưa sát gốc thì nó vẫn tiếp tục nảy mầm. Gỗ cây rất dẻo và cứng, khi cưa thường xuyên phải nhúng nuớc lưỡi cưa thì mới kéo nổi, tuy thế khi hạ xuống một thời gian thì bị hà ăn rỗng ngay.... Phải chăng chỉ vì cây đã mất rễ! Nhà thơ Ngọc Anh đã từng viết Mẹ hỏi cây Kơ-nia, Rễ mày uống nước đâu, Uống nước nguồn miền Bắc, vì tuy không phải là chuyên gia, ông đã cảm thấy rễ cây ăn sâu vào đất (thật ra rễ trong đất dài gấp đôi thân cây bên ngoài) và nhiều ngôi hầm bí mật đã bám theo rễ cọc cây làm trụ, nếu vô ý cắt đứt rễ thì cây chết và hầm bị lộ (14b)..... Ngọc Anh không phải là người độc nhất được cây kơnia quyến rũ. Trong báo mạng Đặc Trưng Nhạc, Nguyễn Chánh Tín có trình bày bài nhạc phim Ngả lưng trên đồi (dactrung.net) ghép hạt kơnia thành cánh chim bay : Thả lưng dưới bóng cây Tôi nhìn bầu trời qua kẽ lá Bỗng đâu một làn gió lạ Thổi nhanh qua nắng hạ Làm rụng quả K’nia xanh Ngả lưng dưới bóng mây Tôi nhìn bầu trời vương chút nắng Thấy yêu một giờ vắng lặng Cao nguyên mơ đất bằng Tôi nhặt hạt K’nia khô Tôi ghép từng hạt K’nia Tôi ghép thành cánh chim bay Đôi mắt em từ bóng cây Đôi mắt em là bóng mây Tôi ghép liền cánh chim bay.... Cây kơnia, Kơ-nia, hay K’nia đã là nguồn cảm hứng cho những thi sĩ. Mang tên cây cầy (PHH), kơnia cũng đã đi vào lịch sử. Giữa Bình Định và Pleiku có đèo An Khê cao hơn 700 m, dài trên 10 km, đường đi hiểm trở, dốc đèo gay go, khách trèo đèo mỏi mệt thường dừng chân ngồi nghỉ ở Nghẹo Cây khế. Gần cây khế có hai cây cổ thụ sống đã lâu năm, một cây là cây ké, cây kia là cây cầy (12). Theo Quách Tấn và Quách Giao, thời Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc và bộ tham mưu đóng ở núi phía nam, Nguyễn Huệ và ban quân sự đóng ở ngọn núi phía bắc. Hai núi nầy cao và rậm, nằm phía đông đèo An Khê: An Khê đất rộng đẹp thay Biết bao thắng cảnh mê say lòng người Non Bình có hang Tối Trời Lại thêm núi Nhược cao vời nẻo xa Cây cầy khỉ cố ngân nga Tưng bừng chiên trống kéo ra đầy đường .... Rằm tháng tám năm Quý Tỵ (tháng 9 năm 1773), được tin Trương Phúc Loan cử Nguyễn Khắc Tuyên vào trấn thủ Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc ra tay trước, làm lễ xuất quân, lập đàn tế cáo trời đất giữa đèo An Khê, nơi Nghẹo Cây khế, nơi có tráng đất rộng rợp bóng mát của hai cây ké và cây cầy. Cây ké phất cờ Cây cầy gióng trống Tiền hô hậu ủng Đất thủng đá nhào .... Dùng mưu lược chiếm Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc tự ngồi vào cũi, sai thủ hạ khiêng đến thành nộp cho Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên. Quan trấn thủ tưởng thật, mở cửa thành cho vào. Nửa đêm, Nguyễn Nhạc tháo cũi, cũng các thủ hạ giết lính gác, mở cửa thành và đốt pháo hiệu cho quân Tây Sơn vào : Cây ké phất cờ Cây cầy gióng trống Hòn Chiêng vang động Hòn Trống đỗ hồi Lên ngôi Vương soái Quan ải đạp bằng Cuốn phăng hào lũy Phủ lỵ Qui Nhơn Oán hờn đất dậy Cò phất quân reo Dân theo chiếm phủ.... (13) Theo Bs Phạm Thúy Hồng, trong mục Mách thuốc một số báo Rừng và Đời sống thì cây kơnia tức cây cầy mang tên khoa học Irvingia malayana, thuộc họ Cầy Irvingiaceae. Cây cầy Irvingia malayana Oliv. ex Benn., tức I. oliveri Pierre hay I. harmandiana Pierre, cũng được cho thuộc họ Xang Ixonanthaceae(3) hay họ Thanh thất Simaroubaceae (4,7), còn được gọi cây cốc, cây đậu tường (14) . Đây là loài thân gỗ, phát triển tốt ở vùng đất đỏ ba dan, thường cao tới 20-30m, gốc đường kính tới 50-70 cm. Lá có phiến xoan, đầu nhọn, đấy tà tròn, mặt dưới màu lam mốc môc, gân phụ 10-13 cặp; cuống dài 5-7 mm, lá bẹ hẹp, dài ; chùm tụ tán ở ngọn nhánh, cánh hoa trắng; dĩa mật to, noãn sào hai buồng; quả nhân cứng tròn tròn, to 4-5 cm, nhân có xơ, hột to (3). Gỗ kơnia chắc, mịn, làm đồ gỗ mộc, làm nhà cửa. Loại cây nầy hay mọc đơn lẻ cao vút, từ xa đã nhận ra ở trên rẫy hoặc buôn làng, như một biểu tượng cho sự bất khuất không sợ phong ba, bão táp. Kơnia có quả, mà hạt của nó làm thực phẩm rất ngon. Đến mùa quả chín, lấy đập vỏ, bóc nhân, ăn sống hay rang giòn rồi giã trộn muối như ta làm muối mè, muối đậu phụng. Một số loài thú như cầy, sóc, chồn, .... rất thích quả kơnia nên thường mò quanh gốc, thợ săn có kinh nghiệm hay rình gần đấy để đợi thú đến. Cây kơnia mọc khắp vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan, Cao Mên, Lào, Việt Nam, qua Mã Lai, Tân Gia Ba, đến Nam Dương, Phi Luật Tân. Ở nước ta, cây mọc nhiều ở Tây Nguyên, phổ biến ở rừng luôn luôn xanh. Ở Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Cú (15), trong số 144 loài cây đại mộc cho gỗ quý, 38 loài cây làm cảnh, 34 loài cây có thể ăn được, 159 loài cây thuốc, Irvingia malayana là một trong 5 cây được kê trong sách đỏ Việt Nam (www.thuvienhoasen.org). Cây nầy ở Khe Tran mang tên địa phương a long chê (www.cifor.cgiar.org.). Bên Campuchia, Irvingia malayana, có tên khmer cham mo (www.phnomenom.com), là một cây thuộc vùng Ansar Chambok trên bờ hồ Tonle Sap, nơi những cây được thổ dân dùng lấy nhựa hoặc được những thầy Kru Khmer dùng làm thuốc chữa bệnh (www.wrm.org.uy). Người Lào dùng quả cây ép thành dầu máy, năng suất đạt đến 85.22% (6). Một cuộc khảo cứu cặn kẽ đã được thực hiện trên gỗ cây Irvingia malayana (tên Thái Lan kabok, tên Mã Lai thương mãi pauh kijang): mộc tâm màu nâu vàng, trắng hay xám, không gân, có lỗ phát tán, mạch dính vào nhau, sợi mạch lẻ tẻ, sợi vách mạch dày, nhu mô trục sắp theo tuyến mạng, tế bào thường xơ cứng, không có tế bào dầu hay chất nhờn, không có nhũ quản hay ống tanin (8). Châu Phi cũng có cây nầy, thường được gọi là xoài hoang, xoài rừng hay xoài Phi. Mang nhiều tên ogbono, etima, pdika hay quả dika, trái cây chứa đựng nhiều chất mỡ và protein. Nó thường được sấy khô ngoài trời, đem bán như vậy hay dưới dạng bột để làm một bột nhão làm bánh dika hoặc sô cô la Gabon, chất nhầy dùng để làm đặc món cháo ogbono. Quả hạch nhiều sợi cũng đã được ép ra thành dầu. Gỗ cứng thường được dùng trong kỹ nghệ xây dựng (biodiversity.mongabay.com). Từ thập niên đầu tiên thế kỷ XX, các nhà khảo cứu dược lý học đã tìm hiểu sâu rộng chất mỡ chiết xuất từ cây cầy Irvingia ở Đông Dương song song với những cây thuộc họ Cam quýt Rutaceae, tương đương với bơ dika trên bờ biển Tây Phi. Cây cầy nở hoa vào mùa xuân, qua các tháng 7-8 thì quả chín với một vỏ ngoài có sợi, vỏ trong thân gỗ. Cơm lấy từ hạch quả ra được đem ra chiết bằng hơi và cho cô lại. Chất mỡ (năng suất 21,86%) có thể dùng làm xà phòng hay cho vào ống tre đã có sẵn sợi tim để làm đèn. Bả còn lại được dùng làm thức ăn cho súc vật, làm phân bón hay chất đốt. 5 kg quả cống hiến 1 kg hạt và 430 g bơ. Đem những acid béo biến hóa thành ester rồi phân tích thì biết được bơ chứa đựng (%) olein (5), laurin (60-65) và myristin (60-65) (1,2). Một công tác khảo cứu trên Irvingia malayana ở Campuchia cho biết quả chứa đựng (%) nước (7,5) và dầu (70). Những acid béo phần lớn là bảo hòa, gồm có (%) những dãy C12 (42) và C14 (41,8). Thành phần sterol tuơng tự những dầu khác, chỉ ít giàu alpha-tocopherol hơn gamma-tocopherol, đặc biệt chứa đựng những chất kháng oxi hóa nên dầu có thể dùng trong các ngành dược học, mỹ phẩm, margarin, ... (5). Về mặt cấu tạo, còn được tìm ra trong Irvingia malayana những neolignan, phenylpropanoid bên cạnh những propanon, ferulaldehyd, ferulat, sitosterol, glutinol, caffeic aldehyd, oleanoic acid (4). Gần đây, khảo cứu về hoạt động cảm nhận ở thần kinh hệ trên 30 cây mọc bên Mã Lai, người ta đã biết được lá Irvingia malayana cùng với phần chiết 6 cây khác có tác dụng lên cơ quan cảm nhận 5HT1 nhưng không có hiệu quả gì lên GABAB và dopamin D2S (7), đằng khác có một tác dụng chống sốt rét đáng kể IC50 = 04-8,6 nmg/ml (9). Bs Phạm Thúy Hồng cho biết theo Đông y, vỏ kơnia tính mát, đắng nhẹ, không độc, kiện tỳ, lợi niệu. Trị kém ăn, ăn không tiêu, chướng bụng, dùng 50-100 g vỏ nấu với nửa lít nước uống trong ngày (có thể thêm trần bì 15 g, gừng 5g). Trị sốt cao, phù, nước tiểu đỏ : 500 g vỏ kơnia, 2 lít nước sắc uống nhiều lần trong ngày. Vỏ cũng được dùng cho đàn bà mới sanh (3). Trong dược thư Phật giáo Nam tông, cây Irvingia malayana đã được ghi trong mục các thuốc có vị mỡ trong số 13 vị căn bản để củng cố xương chẹn, chữa trị những chứng gân-thần kinh (perso.orange.fr). Ở tỉnh Đac Lac, huyện Ban Dôn, có một làng mang tên Chu K’nia. Ơ Tây Nguyên, bản mang tên nầy là chuyện thường. Cái lạ là cách đây mấy khoảng 10 năm, một em bé khi cởi áo quần thì thấy cơ thể phát ra một ánh sáng phôtpho, càng chùi cọ ánh sáng càng lớn thêm, gải vào tóc thì nghe tiếng nổ lốp đốp. Em cho biết có ba đứa em, sống bình thường, không có gì đảo lộn trong đời sống hằng ngày. Ngoài ra, chỉ có phần trên cơ thể phát quang, mỗi ngày giữa 22 và 23 giờ. Cái phiền là người tò mò, có khi tới từ xa, lại gõ cửa, ngay cả giữa khuya để "xem hiện tượng" ! Đã có các nhà báo và khoa học lại tiếp xúc nhưng chưa thấy một giải thích, kết luận (www.vn.ref.org). Một sự kiện khác có phần thời sự hơn. Sau cuốn nhật ký của Bs Đặng Thùy Trâm được đăng ra, cuộc hy sinh của liệt sĩ trẻ tuổi nầy trên chiến trường Đức Phổ (Quảng Ngãi) đã được trong và ngoài nước bàn tán nhiều. Một tour mang tên "Ngọn lửa Thùy Trâm và đất thép Phổ Cường" cũng được tổ chức ".... đi lại trên những con đường chị Đặng Thùy Trâm và đồng đội từng đi,....Tại gốc cây kơnia, nơi chị Đặng Thùy Trâm ngã xuống ngày 22.0.1970, du khách sẽ cùng thắp nhang tưởng niệm" (16). Đã từng được tôn vinh trong lịch sử, không bao giờ cây kơnia đi sâu hơn vào lòng dân tộc. Nghiên cứu và Phát triển 1(60) 2007, khoahoc.net 02.07 Tham khảo 1- Emile Bontoux, Irvingia butter, Matières grasses 8 (1909) 13276-8
2- Emile Bontoux, Butter of Irvingia, Bull. Sci. Pharmacol. 17 (1911) 78-82
4- K. Mitsunaga, Y. Ouyang, K. Koike, Y. Sakamoto, T. Ohmoto, T. Nikaido, Phenolic constituents of Irvingia malayana, Natural Med. 50(5) (1996) 325-7
5- J. Bandelier, T. Chunhieng, M. Olle, D. Montet, Original study of the biochemical and oil composition of the cambodia nut Irvingia malayana, J. Agric. Food Chem. 50(6) (2002) 1478-82
6- Somposh Sudajan, Sommuk Chusilp, Development of a Irvingia malayana nut sheller, KRU res. J. 9(1) Jan-Jun 2004
7- L.Y. Chung, S.H. Goh, Z. Im.champa.kku.ac.th iyabir, Central nervous system receptor activities of some malaysian plant species, Pharma. Biol. 43(3) April-May 2005, 280-8, taylorandfrancis.metapress.com
8- H.G. Richter, M.J. Dallwitz, Bois commerciaux – Irvingia malayana Oliv. Pau kijang delta-intkey.com 16.04.2006
9- Julie Nguyen-Pouplin, Hung Tran, Tuyet Anh Phan Ta, Christiane Dolecek, Jeremy Farrar, Tich Hien Tran, Philippe Caron, Bernard Bodo, Phìlippe Grellier, Activités antimalariques et cytotoxiques des plantes médicinales ethnopharmacologicales choisies du Vietnam du sud, J. Etnopharmacol. 15.08.2006
10- Le compositeur Phan Huynh Dieu, toujours jeune malgré ses 73 ans, www.vn.refer.org.
11- Nguyễn Thị Minh Châu, Phan Huỳnh Điểu - Composer of love, Vietnamese traditional Music, www.vnstyle.vdc.com.vn
12- Quách Tấn, Di tích và truyền thuyết về nhà Tây Sơn, e-cadao.com
13- Đào Đức Chương, Nhà Tây Sơn qua ca dao, Thế Kỷ 21, 20.11.2006, nguoi-viet.com
14a- Nhà thơ Ngọc Anh : Sống dưới bóng Kơnia, chết bên gốc Kơnia, Trang văn học, 20.11.2006, hanoi.vnn.vn ; 14b- Văn Công Hùng, Những chuyện chưa biết về cây kơnia, www.vnwe blog.com
15- Lưu Hồng Trường, Một số kết quả nghiên cứu thực vật núi Tà Kóu, thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Tà Kóu, tỉnh Bình Thuận, www.lamdong.gov.vn
16- Đặng Ngọc Khoa, Về với Phổ Cường, quê hương thứ hai của chị Đặng Thùy Trâm, Thanh Niên Online 20.11.06, www.2.thanhnien.com.vn
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:37:57 GMT 9
39 - Cây vấp gỗ cứng Kèn Saranai bập bùng trong mờ ảo Hận Đồ Bàn ai hát thật say sưa Rừng cây kraik thẩn thờ buốn khôn tả Lá tơ vàng thương tiếc hào quang xưa. Dorohiem Chế Liên Tục truyền vào thế kỷ XVII, ở nước Chiêm Thành có một cô con gái không chồng mà có con, bị cha mẹ cho là hư hỏng, la mắng đuổi đi, lại thêm hàng xóm hắt hủi, phải sống lang thang, ngủ dưới gốc cây, lượm lặt lúa rơi, ngắt hái rau hoang về ăn đởđói. Đứa con trai sinh ra sống lêu lổng, lớn lên làm nghề giữ trâu. Bị chế nhạo là con hoang, chàng xấu hổ bỏ nhà sang ở làng Hamubrâu bên cạnh. Ở đây cũng bị ghanh ghét, chàng lại tức tối dọn về làng Boh Muthuh gần Phan Rang (5). Có tài bắn cung lại nhờ tướng mạo vương giả, chàng được nhà chiêm tinh học của nhà vua Mahataha để ý và tiến cử vào triều. Vua không có con trai, nuôi chàng ăn học, còn gả ngay cả công chúa con mình làm vợ và sau cùng truyền ngôi báu cho chàng (2). Một tài liệu khác kể rằng trước cảnh loạn lạc, một người Thượng gốc Churư tên Thốt được dân chúng Chăm và người Thượng bầu ra làm lãnh tụ đứng ra dẹp loạn. Loạn dẹp xong, tù trưởng Thốt được dân chúng tôn lên làm vua (7). Dù sao vua Pô Rômê (từ danh từ Rama, tức là đức vua được thánh hóa, còn gọi Pô Ramê, Pa Rame), theo thiên niên sử của người Chăm, trị vì từ 1627 đến 1651. Bài ca tụng nêu lên vẻ đẹp vô song của ông : đầu bằng vàng, vai đùi bằng đồng thanh nhẵn bóng, tay đeo nhẫn lóng lánh, chân mang dày sáng loáng như những tia chớp, mặt ông chói lọi như vàng, trong suốt như nước thuần khiết (1). Là một vị vua sáng suốt, biết tổ chức, ông chăm lo đời sống nhân dân, nên đất nước sống trong thái hòa. Ông buộc các lãnh tụ tôn giáo Bà La Môn và Bani phải sinh hoạt chung với nhau, phân chia những ngày lễ lớn như các nghi lễ về nông nghiệp cho hợp lý để các thầy tế lễ và giáo dân đạo kia có thể tới tham dự. Nhiều đập nước lớn dẫn thủy nhập điền được xây dựng tại những nơi khô cằn và triền núi để nhân dân dễ bề canh tác. Nhà vua chọn Krong La (làng Palai Bacon, xã Hòa Trinh, thị xã Phan Rang bây giờ) làm kinh đô, cạnh sông Krong Binh, tức là sông Viêu. Nơi nầy trước kia là kinh đô cũ (Virapura) của vua Satyavarman, được trồng nhiều cây kraik (ta phiên âm cây krết) tượng trưng cho uy quyền nhà vua (7). Vua Pô Rômê có ba vợ. Bà thứ nhất là hoàng hậu Bia Suthi (hay Bia Suchi (2), Bia Thanh Chik (5)) không có con, vua qua xứ Lào tìm thuốc để cho vợ có con nối dòng. Ông chẳng tìm ra thuốc nhưng trên đường lại gặp và đem từ Đắc Lắc về một bà vợ thứ hai, sắc tộc Ê đê (tức Radhé lúc trước) hay Koho (2), công chúa Bia Tan Chan (hay Bia Thăng Chăn (3), Bia Thanh Chanh (5), Bia Suncan (2)). Ông có phước với bà nầy vì không những bà đã cho ông nhiều con mà sau nầy bà là người vợ độc nhất chịu theo ông lên hỏa đàn khi ông chết và được hỏa táng (4). Năm 1629, nhân Văn Phong là một người Chăm nổi lên đánh phá các làng di dân người Việt tại Phú Yên, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên sai Nguyễn Phúc Vinh mang quân đánh dẹp và thành lập Trấn Biên Dinh, lấn sâu vào lãnh thổ Chiêm Thành tới chân núi Thạch Bi (đèo Cả). Sau thất bại nầy, Pô Rômê làm hòa và xin cưới con gái thứ ba của Sãi Vương là công chúa Ngọc Khoa (8) trở thành Bia Út, tước hiệu hoàng hậu Akaran (7). Ba bà vợ không hòa thuận với nhau và lắm khi nhà vua phải rời cung điện để tránh nghe nhũng cãi vả ồn ào hằng ngày (1). Có thuyết cho rằng công chúa Ngọc Khoa giả làm gái đi buôn qua Chiêm Thành. Vua nguyên là người hiếu sắc, nghe tin có người đẹp, liền cho triệu vào, say mê sắc chim sa cá lặn của nàng liền cưới làm vợ thứ ba (5). Bà nầy đặc biệt là đẹp nhất trong hàng cung phi mỹ nữ, được vua sủng ái vô cùng, duy phải cái tật hay làm nũng. Muốn được độc quyền tình yêu của nhà vua, thỉnh thoảng bà giả vờ đau, rên xiết, lăn lóc (8). Vua sai bốn ngự y giỏi lại hội chẩn, nghe tâu bà không có bệnh gì thì ra lệnh chém đầu cả bốn ông. Theo giả thuyết cho bà bà là thám tử của chúa Nguyễn thì bà đã tìm hiểu cây kraik bảo vệ xứ sở là quan trọng đến bực nào và đòi vua chặt đốn cho được cây ấy. Sau một thời gian lưỡng lự, không chịu nghe lời khuyên ngăn của đình thần, của các nhà chiêm tinh, vua sai một trăm binh sỉ cầm rìu ra chặt cây nhưng chặt đến đâu thì vết thương hàn gắn ngay lại đến dấy. Tức giận, vua giật rìu dồn dập bửa vào cây thì máu phun ra và nghe cả tiếng rên. Vua la lớn :" Cây kraik, tại sao mày làm hoàng hậu ta đau khổ ? Làm sao ta để mầy sống được ? " Đúng vào sau câu hỏi ấy, cây quỵ sức sụp đổ, máu tràn lai láng trên đất (1). Cây bảo hộ bị đốn, như hết còn được phù hộ, năm 1651, trước một trận giáp chiến với quân Việt, trong khi quân sĩ và tướng tá chạy lên trốn ở đất người Thượng (4), chỉ một mình vua Pô Rômê ở lại kháng cự, bị bắt và hành hình. Cô con gái Pô Mum đem xác cha về hỏa táng và như đã nói, chỉ có Bia Tan Chan nhảy vào đống lửa hy sinh theo chồng, còn Bia Suthi thì lượm được một chiếc răng để thờ (1). Ngày nay Pô Rômê và bà hoàng hậu Bia Tan Chan được thờ trong một cái tháp xây trên một ngọn đồi cằn cỗi tại thôn Hậu sanh tức Palai Thươn, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Ngưòi lớn tuổi ở đây bảo đúng ra tháp Pô Rômê không phải xây ra cho ông vua nầy mà nguyên là tháp của vua cha vợ .... Còn bà hoàng hậu Bia Suthi thì được thờ trong một ngôi miếu nhỏ cạnh tháp. Chỉ còn thiếu bà hoàng hậu Bia Út, có thể đã được cho về nước lấy cớ thăm mẹ đau trước khi quân Việt tấn công Champa (5). Hàng năm, vào ngày lễ Katê, người Chăm lại đây cúng tế như ở tháp Pô Klaung Garai cạnh Phan Rang (3). Trước đây hơn một thế kỷ, cây kraik lạ thường kia đã được một tác giả (1) địnhdanh là cây vấp Mesua ferrea Linn. thuộc họ Bứa (PHH) hay Măng cụt (ĐTL) Guttiferae (PHH) hay Clusiaceae (ĐTL). Mọc nhiều ở vùng Assam, Myanmar, Hymalaya, nó mang một số tên khác nhau : nahar, nahor, nagkassar, nagkesar, negkesar, nagkeshara, nagkeshor, nageshwar (Ấn Độ), bunga lawang (Nhật Bản), Pháp gọi nó bois d’anis, bois de fer, Anh Mỹ ironwood hay Indian rose chesnut. Là một đại mộc cao 10-20m, tàn rậm, nhánh nhỏ, cây có phiến lá tròn dài thon, chót nhọn, không lông, hoa cô độc, thơm, cánh hoa trắng, tiểu nhụy nhiều, bao phấn vàng, chỉ dính nhau ở đáy. Nó đặc biệt được tả là một cây có gỗ rất cứng trong số các cây vấp Mesua khác : vấp Clemens tức M. clemensorum, vấp sét M. ferruginea, vấp nhiều hoa M. floribunda, vấp trái to M. macrocarpa (PHH). Gần đây, theo một học giả khác (8) thì kraik là cây căm xe (tên Cao Mên kram kraham) Xylia dolabriformis Benth. Hay Mimosa xylocarpa Roxb., thuộc họ phụ Trinh nữ Mimosoideae, họ Đậu Fabaceae hay Leguminosae. Còn được gọi irul, pyinkado, mang tên X. xylocarpa (Roxb.) Taubert hay X. kerrii Craib. et Hutch, nó cũng là một cây đại mộc cao đến 25m, lá xoan hay bầu dục, không lông mặt trên, mặt dưới có lông thưa hay dày, trái cứng nâu đỏ, hột bầu dục, dẹp, dài. Gỗ nó đo đỏ cũng đuợc miêu tả là rất cứng (PHH). Chỉ so sánh về độ cứng của gỗ, cả hai cây nầy đều có khả năng là cây kraik. Còn nên xem xét thêm về mặt tính chất hóa học, dược học, duợc liệu và ứng dụng của chúng vì một cây linh thiêng như kraik ắt phải có ít nhiều dấu ấn gì đặc biệt. Thật ra, cây X. dolabriformis hay X. xylocarpa (hai tên thường được dùng trong các bản báo cáo khoa học) tương đối ít được biết ngoài một số tài liệu học hỏi về tính chất gỗ cây để dùng nó làm giấy, đặc biệt về lignin, ảnh hưởng của nhựa lên sức chịu đựng của gỗ. Về thành phần hóa học, đã được tìm ra những ketomanoyl oxid, oxomanoyl oxid, sandara copimaradin -on, -ol, -diol trong gỗ, dolabri proanthocyanidin trong vỏ cây. Hột cây chứa đựng protein (albumin và globulin) gồm có nhiều amin acid cốt yếu trừ cystin và methionin, một số acid mỡ không bảo hòa mà nhiều nhất là linoleic acid. So sánh hai thành phần của protein, albumin gồm có nhiều isoleucin, cystin, methionin, tryptophan, threonin và ít leucin, lysin, phenylalanin, tyrosin, valin hơn globulin. Còn có những chất không dinh dưỡng là phenol tự do, tannin, phytic acid, hydrogen cyanid, trypsin. Dầu ép từ hột cây chứa đựng nhiều oleic, linoleic, behenic, lignoceric acid và chút ít palmitic, stearic, cerotic acid cùng phytosterol. Về mặt dược liệu, tính chất độc nhất được biết là sự ức chế kết dính tiểu cầu máu do serotonin gây ra của hydroxy pipecolic acid chiết xuất từ lá cây (15). Cây Mesua ferrea được các nhà khảo cứu chú trọng đến nhiều hơn. Phần cây được học hỏi nhiều nhất là hột cây và dầu ép ra. Hột cây chứa đựng nhiều acid mỡ : myristic, palmitic, stearic, linoleic, arachidic, mammeisin, những coumarin là ferruol (cũng được tìm ra trong vỏ cây), mammeigin, mesuarin, mesuol có vị đắng. Đem hột cây ép thì có được một loại dầu nhớt vàng nâu có mùi khó chịu, chứa đựng nhiều acid mỡ đã thấy trong hột : palmitic, steraric, arachidic, oleic, linoleic, bên cạnh hexa decanoic, octa decanoic, octa decatrienoic acid, stearin. Mùi dầu có thể do các chất carbonyl như acetaldehyd, hexaldehyd, glyoxal mà lại. Dầu hột cây giàu acid mỡ có thể là một nguồn kỷ nghệ dầu, đem nhiệt phân thành dầu thắp. Thành phần của dầu hột còn là các amin acid : cystin, arginin, serin, citrullin, hydroprolin, prolin, alanin, methionin, phenylalanin, isoleucin, leucin. Cũng có thể chiết dầu từ những bộ phận khác của cây : dầu lá cây non giàu copaen và caryophyllen, dầu hoa cây giàu copaen và germacren, dầu vỏ cây giàu bisabolen và selinen. Ngoài ra, những mesua xanthon, những hydroxy, dihydroxy, methyl xanthon, euxanthon, cùng sitosterol đã được tìm ra trong gỗ cây, những mesua bixanthon, betulenic acid, epicatechin, pyrano jacareubin, những mesuferrol, flavonoid epicatechin, trong vỏ cây, một flavanon glycosid là mesuein trong lá cây, amyrin, mesuaferrol, những biflavonon mesuaferron, mesuanic acid trong nhị hoa, những triterpenoid, tanin, samonin và các chất đường trong hoa và nhị hoa. Nhị hoa được xem là thành phần môn thuốc cổ truyền Ấn Độ negkesar (19). Về mặt dược liệu, cây Mesua ferrea cống hiến những chất mansuol, mensuon có tính chất kháng sinh, hữu hiệu nhất chống Staphylococcus aureus : nồng độ tối thiểu ức chế của mensuon là vào khoảng 30 g/cc tương dương với penicillin khoảng 0,30 g/cc còn mensuol thì quanh 1% so với penicillin (11). Những xa nthon như mensuaxanthon, jacareubin, calophyllin, dehydro cyclocyanidin đề có tác dụng làm suy nhược hệ thần kinh trung ương, có tính chất kháng viêm khi thử trên chuột, không có một tác dụng dược lý nào lên hệ thống tim mạch khi thử lên ếch và chó (16). Tinh dầu hột cây có tính chất chống hen suyển (13), khử vi khuẩn Pseudomonas solanacearum rất hữu hiệu (12). Được khảo sát về tính chất ngừa thai, dưỡng thai (14), hoa cây đem trộn với nhiều cây khác như hột tiểu hồi Foeniculum vulgare, hột kha tử Terminalia chebula, củ nga truật Curcuma zedoaria trong một liều thuốc cổ truyền Ấn Độ có khả năng ức chế 60% sự kết thai từ đấy tăng gia tỷ lệ hư thai với liều lượng 500 ml/kg trên chuột (17). Cây cũng được dùng trong cuộc chữa chứng khó tiêu và những bệnh ở thận (23). Một phần chiết của cây có tính chất ức chế tác dụng của pancreatic lipase ở tụy (25), của glucotransferase nên được cho vào thức ăn hay thuốc đánh răng chống viêm khớp răng (28), chống những vi khuẩn Gram âm, Gram dương và kỵ khí Trichophyton mentagrophytes, Candida albicans (22) nên được dùng trong một liều thuốc chống trứng cá (21), trong mỹ phẩm bảo vệ da (20) kích thích tóc mọc (26). Tinh dầu hoa cây rất thơm, nhờ những chất aldehyd, được dùng để ướp hương xà phòng (10). Hoa búp là một thuốc thiên nhiên nhuộm vàng (9). Dầu trong thuốc mỹ phẩm Krameris được chiết xuất từ hoa búp (1 kg) với hexan (4 lần 2 lít) đun sôi rồi đem tẩy màu với than và cho cô lại (14,5 g) (27) . Trong kỹ nghệ, dầu hột cây đã được dùng làm nhựa, vec ni, nhựa polyester và được xem là vật liệu rẻ tiền để tổng hợp dầu biodiesel (24). Tuy người Chăm lúc trước chẳng biết những tính chất dược liệu nầy của cây kraik ngày nay được khoa học chứng minh, rất có thể họ đã dùng các bộ phận của cây trong các liều lượng như đã thấy trong nền y khoa cổ truyền Ấn Độ. Nếu thật vậy thì rất dễ hiểu kraik được xem như là cây bảo hộ xứ sở, tương đương với cây neem Azadirachta indica (6a) đã được người Ấn Độ tôn vinh là "nhà dược phẩm" trong làng. Bây giờ còn cần phải xác định kraik là cây nào và kiếm cách khai thác những tính chất dược liệu của nó trước khi người ngoại quốc lại dành ghi văn bằng sáng chế như đã thấy với cây neem Ấn Độ và nhiều cây khác trên thế giới (6b). Nghiên cứu và Phát triển 1(54) (2006) 53-7 khoahoc.net 05.2007 Tham khảo
1- Antoine Cabaton, Nouvelles recherches, Hymne à Pô Ramé, Ernest Leroux Ed. (1901) Paris 112-4
2- Marcel Ner, Rapport. V- Trésors, traditions et vestiges chams. Traditions cham en pays kil, BEFEO (1930) 572-3
3- Trần Kỳ Phương, A la recherche d’une civilisation éteinte, nxb Thế giới (1993) Hà Nội 76-83
4- Bernard Bourotte, Histoire des Montagnards du Sud-Indochinois. Chute de la pricipauté des Che Ma, BSI (1) XXX (1995) 40
5- Ngô Văn Doanh, Tháp cổ Chămpa. Sự thật và huyền thoại, nxb Văn hóa-Thông tin (1994) Hà Nội 187-96
6- Võ Quang Yến a) Thuốc trị bá chứng từ cây sầu đâu, Thông tin khoa học và Công nghệ Huế (3) (1996) 3-34 ; b) Thuốc men thức ăn và văn bằng, Thông tin khoa học và Công nghệ Huế (3) 33 (2001) 37-42
7- Nguyễn Văn Huy, Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam. 7- Cố gắng tồn tại trong khó khăn, Thông Luận 174 (2003) 16-20
8- Hương Giang Thái Văn Kiểm, Trên đường Nam tiến theo dấu hai bà Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, Nhớ Huế, Westminster, California 15 (2004) 75-86
9- C.D. Mell, Interesting sources of natural dyestuffs, Textiles Colorist 53 (1931) 30-2, 100-3, 187-90, 268-70
10- N.C. Deb, Chemical examination of the stearin from the seeds of Mesua ferrea Linn. (Nag-Keshor). I- Ind. Soap J. 8 (1941) 15-7
11- D.P. Chakraborty, M. Purkayastha, P.K.B. Bose, Antibiotic properties of some constituents of Mesua ferrea, Proc. Nat. Onst. Sci. India 25B (1959) 8-11
12- A. Kar, S.R. Jain, Antibacterial activity of some Indian indigenous aromatic plants, Flav. Ind. 2 (2) (1971) 111-3
13- M.B. Bhide, P.Y. Naik, R.S. Joshi, Studies on the antiasthmatic activity of Mesua ferrea, Bull. Haffkine Inst.5 (1) (1977) 27-30
14- P.K. Meherji, T.A. Chetye, S.R. Munshi, R.A. Vaidya, D.S. Antarkar, S. Koppikar, P.K.Devi, Sreening of Mesua ferrea (Nagkesar) for estrogenic and progestational activity in human and experimental models, Ind. J. Exp. Biol. 16 (8) (1978) 932-3
15- L. Mester, L. Szabados, M. Mester, N. Yadav, Identification of carbon-13 spectroscopy of trans-hydroxypipecolic acid, a new inhibitor of platelet aggregation induced by seretonin in the leaves of Xylia xylocarpa, Planta Medica 35 (4) (1979) 339-41
16- C. Gopalakrishnan, D. Shankaranarayanan, S.K. Nazimudeen, S. Viswanathan, L. Kameswaran, Antiinflammatory and CNS depressant activities of xanthones from Calophyllum inophyllum and Mesua ferrea, Ind. J. Pharm. 12 (3) (1980) 181-91
17- C. Seshadri, S.R. Pillai, Antifertility activity of a compound ayurvedic preparation, J. Sci. Res. Plants & Med. 2 (1-2) (1981) 1-3
18- D. Konwer, S.E. Taylor, B.E. Gordon, J.W. Otvos, M. Calvin, Liquid fuels from Mesua ferrea L. seeds oil, J. Am. Oil Chem. Soc.66 (2) (1989) 223-6
19- R. Banerji, A.R. Chowdhury, Mesua ferrea : chemical constituents and biological activity, Ind. J. Forestry15 (3) (1993) 207-11
20- K. Kose, T. Ikeda, K. Kondo, S. Uehara, Mesua for skin cosmetics, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10265361 (1988) 8 tr.
21- E. Bombardelli, A. Cristoni, P. Morazzoni, R. Seghizzi, Pharmaceutical and cosmetic antiacne formulations containing plant extracts (Krameria triandra or Mesua ferrea), PCT Int. Appl. WO 9817293 (1988) 14 tr.
22- E. Bombardelli, P. Morazzoni, Pharmaceutical and cosmetic formulations with antimicrobial activity, PCT Int. Appl. WO 9817294 (1988) 13 tr.
23- T.J. Dennis, K. Akshaya Kumar, Constituents of Mesua ferrea, Fitoterapia 69 (4) (1988) 291-304
24- B.K. De, D.K. Bhattacharya, Biodiesel from minor vegetable oils karanja oil and nahor oil, Fett Lipid 101 (10) (1999) 404-6
25- N. Gowéadia, T.N. Vasudevan, Studies on effect of some medicinal plants on pancreatic lipase using spectrophotometric method, Asian J. Chem. 12 (3) (2000) 847-52
26- O. Nakaguchi, M. Katsada, M. Matsuyama, T. Hashigaki, T. Sakano, K. Onishi, Y. Yamaguchi, Y. Okamoto, Plant active ingredient or extract for hair restoration, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001031528 (2001) 10 tr
27- Indena S.P.A. Italy, Pharmaceutical and cosmmetic formulations with antimicrobial activity, Cont-in-part of U.S. Ser. N0 254 .038 (2001) 5 tr
28- K. Oshima, T. Mitsunaga, Glucosyltransferase inhibitor containing specified plant extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2002187843 (2002) 9 tr
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:40:21 GMT 9
40 - Ginkgo : Một cây hóa thạch sốngBản thể cây phải chăng một cội Tự mình chia chẻ làm thành đôi Hay cây là hai tự tìm chọn Để mọi người xem như một thôi. Johann Wolfgang von Goethe (1815)Sam là một động vật sống cách đây 500 triệu năm, trong rất lâu chỉ được biết dưới hình thức hóa thạch, phải đợi đến đầu thế kỷ XVII mới bắt gặp dưới biển. Sự tích cây ginkgo cũng ly kỳ không kém : vết ấn lá cây đã được tìm ra trong đá có 270 triệu năm tuổi, vào kỷ hai, nghĩa là trước cả những khủng long đã sống vào kỷ Jura (213 triệu năm). Có lẽ vào thời ấy có nhiều loài ginkgo, chẳng hạn Ginkgo primigenia, nhưng qua nhiều tai biến địa chất, tiếp theo sự tàn lụi của những khủng long là những động vật phân tán hột cây, chỉ còn hai loài vào kỷ ba (65 triệu năm) : Ginkgo adiantoides và Ginkgo gardneri theo những di tích hóa thạch. Cách đây khoảng 7 triệu năm, ginkgo không còn thấy ở châu Mỹ và 5 triệu năm sau đến lượt châu Âu cũng mất tích nó. Cây chỉ còn mọc ở châu Á, không thay đổi vì lá cây ngày nay không mấy khác là cây hóa thạch kỷ ba. Là cây độc nhất tồn tại từ thuở xa xưa, với những quả xem như là cổ nhất, làm giây liên lạc giữa hiện tại và quá khứ trong số hàng vạn loài cây, ginkgo là một kỳ quan trong ngành thảo mộc. Bên Trung Quốc cây đã được tìm ra trước ở miền bắc nhưng sau cũng bắt gặp mọc hoang trong nhiều dãy núi miền trung và miền nam. Từ thời nhà Hán (206 tCN- 220 sCN), quả hạt cây đã được dùng làm thức ăn và được ghi chép vào sách Thần nông bản thảo kinh nhưng phải đợịđến 1578 mới được Lš Thời Trân (1518-1593) kê vào cuốn Bản thảo cương mục. Một bài thơ đã đề cao nó như những viên ngọc đem tặng cho một người khách cực thân. Nhiều họa sĩ chiếu cố hình thức ngọn lá, còn các thi sĩ thì đua nhau ca ngợi vừa quả vừa lá. Người ta trồng nó bắt đầu từ các triều đại Tống (960-1280), Thanh (1280-1368), nhất là trong các sân chùa, sân miếu, những nơi có nhiều Phật tử và đồđệ Lão tử tuy không có liên hệ giữa cây và đạo giáo. Bên Nhật Bản thì quả được dùng trong các buổi trà đạo, làm bánh, kẹo và được biết qua sách từ 1492. Vào thời Edo (1600-1867), dân chúng ăn nó như rau, dùng nó trong dấm đóng hộp. Đã từng được tôn vinh là kho tàng quốc gia vì sống lâu đời, không hề bị môi trường ô nhiễm chi phối, lại vẫn còn tồn tại tươi tốt sau quả bom nguyên tử ở Hiroshima, ngày nay cây còn được xem như một cổ thụ thần thoại, hoang đường. Châu Âu biết được ginkgo nhờ ông bác sĩ kiêm nhà thảo mộc người Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716). Được Công ty Hòa Lan Ấn Độ Đông phương gửi đi công cán, ông sống ở Nhật Bản từ 1690 đến 1692. Năm 1691, lần đầu tiên ông có dịp xem xét cây và tả nó trong cuốn Amoenitatum Exoticarum năm 1712. Ông viết : "Cây đạt kích thước một cây hồ đào : thân dài, thẳng, dày, nhiều nhánh ; vỏ trở nên xám, có nhiều kẽ nứt, lỗ hổng khi về già ; gỗ cây nhẹ, ít dày đặc, ít bền ; lõi mềm, xốp .... Cuối xuân, đầu mút nhánh mang cụm hoa đuôi sóc chứa đầy một thứ bột mịn. Trái thịt, dày đặc, qua một cuốn dài bằng ngón tay cái mắc vào cây ở chỗ lá mọc, từ hình dáng tròn và dài ngoằn qua kích thước, vỏ ngoài sần sùi một màu vàng lạt, nó giống như một quả mận Damas : vỏ thịt, giàu, trắng, mùi vị chát, dính chặt vào quả hạch trừ phi tách nó ra, để ủng thối và khuấy trong nước như thường làm với Areca indica. Quả được gọi là ginnau, giống như quả đào lạt nhưng lớn gấp đôi, có dáng một nhân quả mơ với một vỏ gỗ mỏng, trong, mảnh dẻ ; nhân trắng chứa một quả hạnh độc nhất có vị dịu, dễ tách ra, thịt chắc. Ăn điểm tâm, những quả nầy giúp ích tiêu hóa, giảm hạ bụng trưóng do thức ăn gây ra : vì vậy, nó được dọn cho khách vào phần thứ hai của bửa ăn. Những quả hạnh được dùng nhiều cách trong bếp từ khi người ta khám phá ra có thể nấu hay nướng chúng ....." Ông đem hột về trồng những cây đầu tiên ở Utrech bên Hòa Lan trong vườn bách thảo. Sau đó cây mới được đem qua Anh (Gordon 1754), Nga (Kew 1762), Pháp (Montpellier 1778). Hoa Kỳ chỉ biết nó từ 1784 trong vườn ông William Hamilton và qua 1900 thì cây được trồng suốt ven đường những đô thị bờ biển miền đông. Nguồn gốc tên cây ginkgo là từ danh từ tiếng Tàu yin hsing, ta phiên âm ngân hạnh, người Tây phương dịch ra quả mơ bạc. Người Nhật phiên âm gin kyo : có thể ông Kaempfer chép lầm chữ y ra chữ g, hay ở vùng Lempo quê ông miền bắc nước Đức người ta không phân biệt y và g, hay chữ ông ta viết không rõ nên xảy ra sự lầm lẫn biến ginkyo thành ra ginkgo. Những tự điển ngày nay cũng sử dụng nhiểu danh từ khác : gingko, ginko, gingo hay ginkyo. Người Tàu còn gọi cây là it cho, ya chio (chân vịt), bai guo hay pei kuo. Từ danh từ nầy mà ta có tên cây bạch quả, hay nôm na hơn ta gọi cây lá quạt vì hình dáng lá cây (đừng lầm với cây rẻ quạt Daniella ensifolia DC hay Belamcanda sinensis Lem.). Năm 1771, bác sĩ kiêm nhà vạn vật học Thụy Điển Carl von Linné (1707-1778) xác định tên cây là Ginkgo biloba L., biloba chỉ loài cây vì lá có hai (bi) thùy (lobe). Sau nầy còn có hai tên Salisburia adiantifolia (Smith 1797), Phterophyllus salisburiensis (Nelson 1866) được đề nghị nhưng không mấy ai hưởng ứng. Một ông tác giả Loudon kể chuyện năm 1780, một người ở Paris tên là Pétigny qua London, gặp một người làm vườn chịu bán cho ông 5 cây ginkgo với giá tiền 25 ghinê (đồng vàng Anh) ; hôm sau, người làm vườn tiếc của, xin mua lại một cây thôi với cùng giá tiền ; ông Pétigny không chịu, đem 5 cây ginkgo về trồng ở Pháp. Vì 25 ghinê tương đương với 40 êcu (tiền Pháp) nên ngày nay ở Pháp có danh từ "cây 40 êcu". Tên nầy nay rất được thông dụng và thường được gặp trong các vườn bách thảo trên bảng đặt trước cây. Cũng còn có một tên ít thông dụng hơn là "cây 1000 êcu" vì khi lá vàng rụng xuống gốc cây trông như một thảm êcu. Cây ginkgo có những tính chất giữa những cây dương xỉ và những cây thuộc bộ thông nên rất khó xếp hạng nó. Lúc đầu, người ta muốn xếp nó vào lớp Coniferopsidaea như dương xỉ, nhưng sau thấy cần phải đặt cho nó một lớp riêng biệt Gingopsida hay Ginkgophyta. Ngày nay loài Ginkgo biloba L. chính thức thuộc chi Ginkgo, họ Ginkgoaceae, bộ Ginkgoales. Ginkgo là một cây biệt chu (dioïque) nghĩa là chùy (cône) phấn hoa (pollen) và tiểu noãn (ovule) nằm trên hai cây đực và cái khác nhau, tuy cũng có ginkgo ngày xưa mang cả hai bộ phận nầy trên một cây. Đằng khác, ginkgo là một loại cây khỏa tử hay hạt trần (gymnosperme) nghĩa là hạt không chứa trong trái như ở những cây bí tử (angiosperme) thường thấy. Trên cây đực, chùy phấn hoa màu vàng mọc từng nhóm 3-6 cái rủ thõng như những đuôi chồn, mỗi cái dài 1-2 cm. Hạt phấn hoa thường mang hai bao phấn hoa gọi là tiểu bào tử nang (microsporange) đằng mút có tinh dịch. Trên cây cái, tiểu noãn gồm có một cái bì bao quanh một bộ mô gọi là noãn tâm (nucellus) chứa đựng bốn đại bào tử (macrospore). Vào mùa xuân, những hạt phấn hoa rời cây đực được gió đưa lại cây cái thì luồn qua lỗ noãn (micropyle) là một lỗ nhỏ trên bì tiểu noãn, để lọt vào buồng thụ phấn rồi phát triển thành giao tử (gamétophyte). Tế bào giao tử phân chia, cấu thành hai tinh trùng mang tiêm mao rung động (một đặc tính của cây ginkgo và cây tuế cycas) rồi đợi thời kỳ thụ tinh vào mùa thu, từ lỗ noãn bên dưới bơi lên, một tinh trùng phối hợp với noãn tâm. Khi phôi thai bắt đầu phát triển, noãn tâm từ xanh thay màu phồng lớn bằng quả mận vàng và vẫn tiếp tục ngay cả khi quả rơi xuống đất nhờ chất dinh dưỡng có sẵn. Khi ấy, thai là một bì chất dinh dưỡng đùm bọc hai tử diệp (cotylédon); bì nầy gồm có một lớp trong cứng (sclerotesta) và một lớp ngoài vàng cam (sarcotesta) dày khoảng 5 cm. Lớp ngoài nầy trở dần nên vàng đỏ, mang nhiều vết và cho thoát ra một mùi thúi khi thoái hóa vì chất butanoic acid. Bì cây còn có thể gây nôn mửa, mụn nhọt trên cơ thể ta vì cơm quả chứa đựng urushiol là một chất gây dị ứng khi chạm vào da. Vì những mô bên trong của hạt là giao tử và phôi thai có thể ăn được nên phải dùng găng tay lượm hạch rồi phải rửa nước thật sạch để thải hết bì trước khi dùng. Bì nầy trì hoãn cuộc nảy mầm, may nhờ trong bao tử các thú ăn hạt, bì bị tiêu hủy và hạt hết còn bì khi được bài tiết ra ngoài. Ngoài cho hột nảy mầm, có thể phát tán cây ginkgo bằng các phương pháp giâm cành hay tháp cành. Giâm cành là cách chắc chắn nhất để có được một cây theo giới tính mong muốn. Người ta thường hay ghép cành cây đực lên thân cây cái để cuộc thụ tinh được dễ dàng. Rất khó phân biệt được giới tính khi chưa đến mùa cây trỗ hoa. Bên Nhật, trẻ con được nghe giảng khi lá hai thùy lá cây cách nhau rõ rệt như hai ống quần thì đó là cây đực, còn nếu hai thùy gần như gắn liền với nhau như một cái váy thì đó là một cây cái. Lắm người tin mùa xuân lá cây đực mọc sớm hơn lá cây cái và qua mùa thu lá cây đực cũng rơi sớm hơn. Nhận xét nầy nghe nói cũng diễn biến trong một cây ghép vừa đực vừa cái. Cây ginkgo cao 30-40 m nhưng cũng có lúc lên đến 50 m, choáng một khoảng càng rộng khi cây càng già. Cũng vào lúc nầy, cây có thể cho mọc những rễ ngoài trời, rơi xuống dọc thân cây và cành, chạm vào đất, nẩy rễ thành thân, mọc cành. Xem xét cặn kẽ gỗ cây, người ta nhận thấy mộc bộ (xylème) không có mạch dẫn nhựa mà là những sợi mạch (trachéide) gây ra những khoảng gian bào, chứa đựng những đám tinh thể (druse) mà thành phần là calcium oxalat. Muối oxalat nầy còn nhiều hơn trong vỏ cây. Đây là những đặc tính khác của cây ginkgo. Quả hạch ginkgo có vị dịu, nấu chín ăn tựa như hạt dẻ. Người ta có thể luột, hấp hay nướng, ăn với cơm, nấm, rau, đậu phụ hay trộn vào cháo. Chỉ chứa đựng 3% chất mỡ, nó cống hiến một nguồn tinh bột, protein, niacin. Ăn nhiều hay ăn lâu ngày, đặc biệt ở con trẻ thiếu vitamin B6, thường có xảy ra sự ngộ độc do chất methoxy pyridoxin gây ra. Bên Nhật Bản, từ thế kỷ 18, mang tên ginnan, quả được đem nướng làm đố nhắm rượu saké. Ngày nay, quả được dùng làm món nhúng nabe ryori hay đem nướng hoặc luột, hấp với trứng trong món chawan mushi. Ngoài chợ có bán quả hạch tươi hay đóng hộp qua những nhãn Pakewo, Pakgor,... Dầu quả hạt đã được dùng làm nhiên liệu thắp đèn. Người ta cũng cho trộn cơm quả hạt với dầu hay rượu làm xà phòng. Lá cây, trước khi được chiết để nghiên cứu chất thuốc, thường đã được sắc uống, chế trà, dùng trong mỹ phẩm bảo vệ da (20), điều hòa lưu thông máu trong da (28), thuốc rửa tóc, kích thích tóc lại mọc (25). Nó cũng được dùng làm thuốc sát trùng hay làm phân bón. Một sử dụng nghệ thuật là nhờ hình dáng lạ, màu vàng đẹp mùa thu, lá tự nó là một dải đánh dấu trang vừa rẻ tiền vừa trang nhã ; hơn nữa nhờ tính chất diệt trùng, một phần nào nó bảo vệ sách ! Có lẽ bên Nhật hình dáng lá cây được thấy nhiều nhất, trên áo kimono, khăn quàng, khăn tay cũng như trên bia mộ, huy hiệu các gia đình, trường học, tượng trưng cho thành phố Tokyo từ năm 1989. Nó được dùng làm mẫu cho những búi tóc các nàng gheisa, các lực sĩ sumo. Trong các viện bảo tàng, khách ngắm được những mảnh đốc kiếm sukashi tsuba bằng kim loại hình lá cây rất thanh nhã, nay thành mẫu những đồ nữ trang lắc lư trên ngực các cô, các bà. Sau cùng gỗ cây, nhẹ, trơn, dẻo, được dùng để chạm trổ, chế tạo bàn và con cờ, những vật dụng trong buổi trà đạo, trên bàn thờ chùa miếu, thùng vận dụng rượu saké, những tủ chống cự lại được sâu mối, gỗ cây cái trong kỹ nghệ làm giấy. Sách vở Tàu từ lâu đã bàn đến những vị thuốc trong cây ginkgo. Quả nhuộm đỏ được sử dụng trong các buổi lễ, dọn ăn trong các đám cưới, giúp tiêu hóa, giải rượu. Thường được dùng thay thế hột sen, quả là một thuốc lại sức trong thời kỳ bổ dưỡng, thuốc yang qui tăng cường năng lực tính phái. Nó là thành phần các liều thuốc chữa những bệnh tim, phổi, ho hen, viêm họng, iả chảy, nóng sốt, điều hòa đường niệu, tương quan giữa thận và bóng đái. Người ta tin nấu chín, nó ổn định tinh dịch, còn tươi thì nó có khả năng tác dụng chống ung thư, độc trùng. Nhờ các chất ginkolic acid (16,22), ginnol, nó có tính chất ức chế hoạt động vi khuẩn, nhiễm trùng do mốc meo gây ra. Quả hạch xay nhỏ đem sắc uống có khả năng kích thích sự tuần hoàn. Lá cây trong thang thuốc bai guo ye được dùng để chữa những chứng hô hấp như hen suyển, viêm phế quản, những chứng thính giác, những bệnh ngoài da, khí hư, ho lao, tuần hoàn, huyết áp, bệnh lậu, bao tử, kiết kỵ, trí nhớ, lo âu. Đem nghiền thành bột, lá cây được đem xông chữa tai, mũi, họng cũng như viêm mũi hay phế quản. Lá cây còn được dùng làm thuốc cao dán. Nó được xem là thuốc trị liệu khớp cắn (occlusion) động mạch ngoại biên gây ra tật đi khập khiểng cách quảng (claudication intermittente)(1,29). Chứa đựng nhiều flavonoid (14), nó có hoạt động phản oxy hóa, thu hồi những gốc tự do ở mức não và võng mạc ở mắt nên có tác dụng ngăn ngừa những rối loạn nguyên do từ tuổi già, rối loạn tuần hoàn óc não, chứng Alzheimer (12) và làm chậm sự lão hóa võng mạc (10). Tác động lên sự lão suy của não, kích thích sự tổng hợp dopamin, nó cải thiện trí nhớ, tâm trạng, cảnh giác, năng lực nhận thức (22). Tăng máu vào não, nó giảm nhẹ sự sa sút trí tuệ thoái hóa (7) tuy có khả năng tăng gia xuất huyết (18). Nó có thể giúp ích cho những người không thoải mái ở núi cao (15) hay bị loạn năng tình dục (27). Đặc biệt cho các bà, nó có khả năng giảm đau sau thời kỳ mãn kinh (17,33). Bắt đầu từ 1950, người Đức là những người Tây phương đầu tiên muốn khảo cứu sâu rộng tiềm lực y học của ginkgo, đặc biệt phần chiết từ lá, tưởng có phần phong phú hơn phần chiết từ quả hạch. Nói chung, ở Âu châu, những phần chiết được xem có hiệu nghiệm không kém gì những phương thuốc cổ điển để kìm hãm cuộc tiến triển của chứng Alzheimer cũng như để làm giảm bớt những hỗn loạn có liên hệ đến sự suy đồi của trí nhớ và chức năng nhận thức. Chính bác sĩ kiêm nhà thực vật học Willmar Schwabe ở Karlsruhe đầu tiên phân tích những thành phần của phần chiết từ lá, nghiên cứu những hoạt động của chúng và năm 1965 cho sản xuất thuốc Tebonin, nồng độ 10/1 (nghĩa là 1kg chiết từ 10 kg lá). Sau đó, hảng Beaufour ở Pháp và nhiều hảng khác tiếp tay phát triển phần chiết, phần lớn với nồng độ 50/1. Riêng ở Đức, phần chiết EGB 761 (ngoài Tebonin còn mang những tên Kaveri, Tanakan, Rokan, Ginkgold) là một trong 5 vị được ghi nhiều nhất trong các toa thuốc, theo sau là phần chiết Li 1370, chứa đựng 22-24% glucoflavonoid (quercetin, kaempferol, isohamnetin, ....)(32) và 5-7% terpenolacton (những ginkgolid, bilobalid) (14,30). Flavonoid là những chất chống oxy hóa, cũng đã tìm ra được trong rau quả. Còn những ginkgolid là những chất ức chế sự đông tụ máu, có hiệu nghiệm nhất là ginkgolid B (16) trong toa thuốc BN-52021(9). Được Furakawa chiết xuất năm 1932, phải đợi đến 1966 mới thấy Nakanishi khảo cứu tường tận cấu tạo, ginkgolid được Corey ở Viện Đại học Harvard năm 1988 thành công nhân tạo tổng hợp để nghiên cứu các tính chất chống sự hắt gạt những cơ quan vừa ghép và nhân đó hai năm sau đuợc thưởng giải Nobel. Hội đồng Liên bang Đức về Sức khỏe năm 1988 có kê khai một bảng những hoạt chất của cây ginkgo đuợc Hội đồng thực vật học Hoa Kỳ in. Nói chung, tính chất cốt yếu của ginkgo là chống oxy hóa (19), đào thải những gốc tự do (3), được dùng trong cuộc trị liệu chứng Alzheimer (12,26). Người ta dùng nó để điều trị bệnh trên nền tảng cơ chế bệnh lš gây ra một cuộc thoái hóa thần kinh(6), những biến chứng sau một cuộc nhồi máu não như những rối loạn nhận thức, trí giác, vận động, trí nhớ, ngôn ngữ(22), những chứng ù tai, chóng mặt(2). Phần chiết với ginkgolid có tính chất bảo vệ thần kinh, hoạt động tiết acetylcholin phụ thuộc cơ chế chứng Alzheimer(5), bảo vệ màng ruột (4), giảm hạ bệnh phù và tổn thương sau chứng tăng thân nhiệt (9). Bên phần chiết với flavonoid thì có tác dụng chống đầu độc tế bào, bảo vệ những tế bào thần kinh, tất nhiên cũng chống bệnh thiếu máu cục bộ não (11). Theo một văn bằng sáng chế Hàn Quốc, phần chiết chứa đựng isoginkgetin thi giảm hạ nhựa và nicotin trong thuốc hút, đồng thời làm tăng mùi hương(23), lá dùng quấn điếu thay thuốc lá(34). Phần chiết ginkgo không chỉ là chống oxy hóa, nó còn là một thuốc có tiềm năng chống viêm(13), giảm nhẹ bất an tâm thần(8,34), ngăn cản, kềm hãm, giảm hạ thiệt hại động lực thần kinh, mất cân (24). Trái cây ginkgo được dùng để làm dấm chữa các chứng tăng huyết áp, tăng lipid huyết, bệnh đái đường(36). Một văn bằng Nhật Bản đề nghị một thức uống hạ huyềt áp, điều hòa máu, tăng miễn dịch, phòng ngừa các chứng mạch tim, mạch não (35), bổ sức gồm có ginkgo và nga truật Curcuma zedoaria (21). Thuốc men thì đã sử dụng nhiều ginkgo. Năm 1997, số tiền bán phần chiết lá ginkgo vượt quá 100 triệu USD. Những lá nầy được sản xuất trong một đồn điền lớn 400 ha (25.000 cây mỗi ha) ở South-Caroline (Hoa Kỳ) của một công ty Pháp-Đức và những đồn điền nhỏ hơn ở Bordeaux (Pháp). Ở Á châu, Nhật Bản, Hàn QuÓc và gần đây Trung Hoa đều có trồng ginkgo. Năm 1990, một đồn điền ở tỉnh Shandong và nhất là ở tỉnh Jiangsu đạt đến 3000 ha. Khí hậu hai nơi gần giống nhau nên công ty Pháp-Đức đã kết hợp với người Tàu, đem qua máy móc gặt hái vì đến nay người Tàu hái lá bằng tay : những cây trồng nầy không cao quá con người và cứ 5 năm thì nhổ đi trồng lại. Nếu cây ginkgo ngày nay đang trở thành một cây thuốc quan trọng trong môn liệu pháp thực vật học, nó có thể ghi trong lịch sử một nạn nhân : ông Sakugoro Hirase (1856-1925). Cán sự thực vật học ở Phân khoa Khoa học, Viện Đại học Hoàng gia Tokyo, ông tự học kỹ thuật nuôi trồng. Từ năm 1894 ông khảo cứu thời gian thụ trái và cấu tạo phôi thai cây ginkgo. Khảo sát noãn tâm qua kính hiển vi, ông thấy được một cấu trúc tỏa tia đặc biệt, hai noãn cơ thực vật (archegonia) trong tiền phôi nhũ (endosperme), sau đó những tiêm mao rung động : ông đã khám phá ra những tinh trùng (1896) cây ginkgo. Sau những báo cáo ở Hội Thực vật học Tokyo, ông cho đăng kết quả trong tờ Tạp chí của Hội (1898) : ở Tokyo, thời kỳ thụ phấn nằm giữa tháng 4 và tháng 5, còn thời kỳ thụ tinh thì giữa tháng 9 và tháng 10. Cùng Seiichino Ikeno (1866-1943), giảng sư đại học, với những khám phá về tinh trùng cây tuế Cycas revoluta, hai ông được tặng thưởng giải Viện Hàn lâm Hoàng gia Tokyo năm 1912. Những khám phá của ông được chính thức thừa nhận, nhưng không phải giảng viên hay giáo sư đại học, thành công của ông có lẽ đã gây khó khăn cho ông trong giới khảo cứu, vì sau đó ông từ chức và đi làm giáo viên. Năm 1925, khi ông từ trần, S. Ikeno trở thành giáo sư ở Viện Đại học Tokyo, có viết bài ca tụng và năm 1967, Gs Y. Ogura cũng có bài nhắc lại sự tích khám phá tinh trùng cây ginkgo. Bên phần S. Hirase, dù sao đã để lại một tấm gương sáng không những cho những nhà thực vật học mà cho cả một thế hệ thanh niên Nhật Bản. Nghiên cứu và Phát triển 3 (62) 2007, khoahoc.net 03.2009, chimviet.free.fr 09.2011 Tham khảo
www.xs4all.nl/~kwanten, www.passeportsante.net/fr, www.biologie.uni-hamburg.de/b-online
1- H. Letzel, W. Schoop, Gingko biloba extract EGB761 and pentoxifylline in intermittent claudication. Secondary analysis of the clinical effectiveness, VASA (4) 21 (1992) 403-10
2- C.B. Cano, A.J. Marco, B. Perez del Valle, P.F.J. Pellicer, The effect of Ginkgo biloba on cocheleovestibulary pathology of vascular origin, A..Otorrinolaringologicos Iberoamericanos (6) 22 (1995) 619-29
3- M. Rosler, W. Retz, J. Thome, P. Riederer, Free radicals in Alzheimer’s dementia : currently available therapeutic strategies, J. Neu. Trans. Supp. 54 (1998) 211-9
4- A. Onen, E. Deveci, S.S. Inaloz, B. Isik, M. Kilinc, Histopathological assessement of the prophylactic effect of Gingko biloba extract on intestinal ischemia-reperfusion injury, Acta Gastroenterologica Belgica (4) 62 (1999) 386-9
5- E.K. Perry, A.T. Pickering, W.W. Wang, P.J. Houghton, N.S.L. Perry, Medicinal plants and Alzheimer’s disease : from ethnobotany to phytotherapy, J. Pharmacy and Pharmacology (5) 51 (1999) 527-34
6- S. Kieszek, Trials and perspectives in pharmacotherapy of Alzheimer’s disease, Psychiatria Polska (3) 33 (1999) 331-40
7- A. Gajewski, S.A. Hensch, Ginkgo biloba and memory for a maze, Psychological Rep. (2) 84 (1999) 481-4
8- D. Pratico, N. Delanty, Oxidative injury in diseases of the central nervous system : focus on Alzheimer’s disease, Amer. J. Med. (7) 109 (2000) 577-85
9- J. Westman, K. Drieu, H.S. Sharma, Antioxidant compounds EGB-761 and BN-52021 attenuate heat shock protein (HSP 72 kD) response, edema and cell changes following hyperthermic brain injury. An experimental study using immunohistochemistry in the rat, Amino acids (1) 19 (2000) 339-50
10- C.P. Juarez, J.C. Muino, H. Guglielmone, R. Sambuelli, J.R. Echenique, M. Hernadez, J.D. Luna, Experimental retinopathy of prematury : angiostatic inhibition by nimodipine, Ginkgo biloba, and dipyridamole, and response to different growth factors, Eur. J. Ophthalmology (1) 10 (2000) 51-9
11- M.S. Kobayashi, D. Han, L. Packer, Antioxidants and herbal extracts protect HT-4 neuronal cells against glutamate-induced cytotoxicity, Free Rad. Res. (2) 32 (2000) 115-24
12- H. Sienkiewicz-Jarosz, W. Kostowski, Perspectives of therapy of Alzheimer’s disease, Psychiatria Polska, (4) 34 (2000) 623-40
13- A. Wong, S. Dukic-Stefanovic, J. Gasic-Milenkovic, R. Schinzel, H. Wiesinger, P. Riederer, G. Munch, Anti-inflammatory antioxidants attenuate the expression of inducible nitric oxide synthase mediated by advanced glycation endproducts in murine microglia, Eur. J. Neurosci. (12) 14 (2001) 1961-7
14- K. Nakanishi, K. Stromgaard, D.R. Saito, Synthesis of gingolide probes for neuromodulatory studies, Abs. Papers 223rd ACS Nat. Meet. Orlando, FL, US 7-11(2002)
15- J.H. Gertsch, T.B. Seto, J. Mor, J. Onopa, Ginkgo biloba for the prevention of severe acute mountain sickness (AMS) starting one day before rapid ascent, High Alt. Med. Biol. (1) 3 (2002) 29-37
16- F. Drago, M.L. Floriddia, M. Cro, S. Giuffrida, Pharmacokineticks and bioavailability of a Ginkgo biloba extract, J. Ocular Pharmacological Therapeutics (2) 18 (2002) 197-202
17- H. Xu, D.S. Fabricant, C.E. Piersen, J.L. Bolton, J.M. Pezzuto, H. Fong, S. Totura, N.R. Farnsworth, A.I. Constantinou, A preliminary RAPD-PCR analysis of Cimicifuga species and other botanicals used for women’health, Phytomedicine(8) 9 (2002) 757-62
18- B.J. Tesch, Herbs commonly used by women : an evidence-based review, Amer. J. Obstetrics and Gynecology 188 (5 Suppl) (2003) S44-55
19- O. Lopez, D. Bonnefont-Rousselot, M. Edeas, J. Emerit, F. Bricaire, Could antioxidant supplementation reduce antiretroviral therapy-induced chronic stable hyperlactatemia ? , Biomedicine and Pharmacotherapy (3) 57 (2003) 113-6
20- M.M. Cals Grierson, A. Ormerod, Use with extracts vegetaux to improve the function barrier of the skin, Fr. Demande FR 2831443 (2003)
21- S. Toyota, Health beverage preparation from Curcuma rhizome juice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003111581 (2003) 4 tr.
22- T. Morimasa, Gingko biloba extracts for treatment of complications after brain infarction, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003095966 (2003) 7 tr.
23- C.W. Cho, C.Y. Jung, A filtering material for cigarettes composed of ginkgo leaves starch, spices, and a zeolite, PCT Int. Appl. WO 0313285 (2003) 22 tr.
24- M.F. Beal, R.J. Ferrante, J. Ribert, Use of gingko biloba extracts to promote neuroprotection and reduce weight loss, PCT Int. Appl. WO 0347511 (2003)
25- K.H. Lee, S.I. Han, G.H. Park, Y.E. Kwon, Evaluation of the herbal extract or the effects of hair-regrowth compared to 3% minoxidil ; elongation of anagen period on C3H mice, Yakhak Hoechi (1) 47 (2003) 14-9
26- B. Schmitt, T. Bernhardt, H.J. Moeller, I. Heuser, L. Froelich, Combination therapy in Alzheimer’s disease : a rewiev of current evidence, CNS Drugs (13) 18 (2004) 827-44
27. D. Wheatley, Triple-blind, placebo-controlled trial of Ginkgo biloba in sexual dysfunction d ue to antidepressant drugs, Hum. Psychopharmacology (8) 19 (2004) 545-8
28- E. Boelsma, R.J.A.N. Lamers, H.F.J. Hendriks, J.H.J. van Nesselrooij, L. Roza, Evidence of the regulatory effect of Ginkgo biloba extract on skin blood flow and study of its effects on urinary metabolites in healthy humans, Planta Med.(11) 70 (2004) 1052-7
29. M.H. Pittler, E. Ernst, Complementary therapies for peripheral arterial disease : systematic review, Atherosclerosis (1) 181 (2005) 1-7
30- K. Nakanishi, Terpene trilactones from Gingko biloba : from ancient times tothe 21 st century, Bioor. Med. Chem. (17) 13 (2005) 4987-5000
31- J. Liang, Cigarette-like product containing leaves of Gingko biloba, Lycium chinense and Mentha haplocalyx, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1559313 (2005) 8 tr.
32- G. Kostalova, D. Tekelova, Sz. Czigle, J. Toth, M. Mrlianova, S. Lalkovic, Comparison of flavonoid contents in mass produced drugs and diatery supplements containing Gingko bilola L., Farm. Obzor (Slovakia) (5) 74 (2005) 119-23
33 S. Elsabagh, D.E. Hartley, S.E. File, Limited cognitive benefits in stage+2 postmenopausal women after 6 weeks of treatment with Ginkgo biloba, J. Psychophamacology. (2) 19 (2005) 173-81
34- M. Atmaca, E. Tezcan, M. Kuloglu, B. Ustundag, O. Kirtas, The effect of extract of Ginkgo biloba addition to olanzapine on therapeutic effect and and antioxidant enzyme levels in patients with schizophrenia, Psychiatry and Clinical Neurosciences (6) 59 (2005) 652-6
35- X. Zhao, Vinegar manufactured from Gingko biloba and f*gopyrum tataricum, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1721521 (2006) 5 tr.
36- L. Weng, Method for producing pure Gingko biloba beverage, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1803032 (2006) 4 tr.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:42:09 GMT 9
41 - Ngải ngậm hương trầm Lên non đón gió tìm trầm, Xui ong làm mật, giục tằm nhả tơ. Ca daoTheo truyền thuyết, bà Thiên Y A Na khi rời cha mẹ nuôi lên Bắc Hải cũng như khi đem hai đứa con Tri và Quý trốn Bắc Triều về lại Cù Huynh, đều núp lén trong cây trầm rồi để cho dòng nước cuốn đi. Hương trầm thơm tỏa ngào ngạt nên nơi cây trao dạt vào bờ được gọi là Hương Sơn (thuộc tỉnh Khánh Hòa). "Ở huyện miền núi Con Cuông (Nghệ Tĩnh), có một địa danh tên là Trầm Hương. Người ta bảo, nơi đây, xưa kia có một rừng trầm nằm dọc theo bờ sông Lam. Rễ cây lan man khắp đồi núi và vệ sông, tỏa mùi thơm lên cả mặt nước, cỏ cây và bầu trời. Hương thơm đậm đặc đến nỗi những đám mây bay qua đó cũng tẩm hương, rồi mây bay theo chiều gió dạt về mạn dưới thành những trận mưa có vị thơm - người ta gọi là mưa hương "(8). Người Chăm tin đấng thượng đế khi giao phó thần Pô Ino Nagar xuống khai phá mặt đất cho phép bà đem theo lúa và trầm thể hiện oai quyền mầu nhiệm của mình. Chùa Báo quốc ở Huế chứa một mảnh gỗ trầm hương dài 80, phân rộng 40 phân, dày vài phân, có hình dung một con người. Tục truyến lúc trước có người mua đem về nhà thì tai họa liên miên nên phải đem lên chùa gởi để các vị sư luôn hương đèn cúng bái, mong bài trừ được những ảnh hưởng xấu (3). Cây trầm cống hương Những huyền thoại được lưu truyền bắt nguốn từ hương thơm của cây trầm. Cây gỗ không chìm nầy còn mang tên trầm kỳ, trà hương, gió núi, dó bầu. Gỗ cây thường được gọi gỗ kỳ nam hay gỗ trầm hương. Trong một cây trầm có thể có cả hai loại kỳ nam (bois d’aloès) và trầm hương (bois d’aigle), hương thơm xen lẫn chút cay, khác nhau ở chỗ mùi vị, một bên vừa chua vừa ngọt, bên kia hơi đắng lại có phần dịu ; thường kỳ nam quý hiếm hơn trầm hương (5). Trong các báo khoa học, tên nôm na của cây trầm là agarwood hay agalwood (gỗ thạch), có khi eaglewood (gỗ đại bàng). Riêng người Nhật Bản có nhiều tên gọi : jinko, jinkok, kanakok, kanankok, kyara hay ryoku-yu. Hai danh từ jinkok và kanakok thường được dùng để chỉ định những loại trầm thu nhặt ở Việt Nam và xuất cảng qua Hồng Kông, rất được chú trọng những năm gần đây (13-19). Thường kỳ hương được xếp thành loại hắc kỳ (màu đen, hảo hạng, đắc tiền nhất), thanh kỳ hay hoàng kỳ (màu xanh vàng) và bạch kỳ (màu trắng đục). Ngày nay, trên thế giới, nhu cầu vượt quá xa nguồn cung cấp và thu hoạch không có phương pháp, lắm khi bất hợp pháp ở vài nước nên Quy ước Thương mãi Quốc tế về những Loài động vật và Thực vật Hoang dã Lâm nguy cơ CITES đã lên tiếng báo động và kêu gọi thực thi Quy ước cùng kiểm tra thương mãi (9). . Cây trầm lớn, cao khoảng 15-30 m, có khi lên đến 40 m, mọc ở châu Á từ Ấn Độ, Miến Điện, Trung Quốc, Thái Lan, qua Mã lai, Cao Mên, Lào, Nam Dương. Ở Việt Nam, cây trầm mọc nhiều ở miền Trung, từ Quảng Trị, Thừa Thiên vào Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, đến đảo Phú Quốc (5b). Cây trầm thuộc chi Aquilaria, họ Trầm (ĐTL) hay Trầm hương Thymeleaceae (PHH) Aquilaria do tiếng La Tinh aquila (aigle, chim đại bàng) mà ra, nên danh từ Pháp bois d’aigle hay Anh eaglewood chỉ định những loại gỗ khối nhựa, màu nâu, có khi mang đường rạch vằn hay vết lốm đốm như lông chim (2). Aquilaria gồm có nhiều loài : A. agallocha Roxb., A. baillonnii Pierre ex Lam., A. banaensis Pham Hoang Ho, A. crassna Pierre ex Lecomte (tiếng Campuchia chỉ trầm là krasna hay chan krasna), A. malaccensis Benth, A. sinensis (Lour.) Gilg. hay Spreng (7), vừa rồi mới có tìm ra A. rugosa ở Việt Nam, lắm khi khó phân biệt. Trong các loài thuộc Aquilaria thì A. crassna, A. malaccensis và A. sinensis có tiếng cống hiến nhiều kỳ nam hay trầm hương, nhưng được khảo cứu nhiều nhất là A. agallocha và chẳng thấy dấu vết A. crassna trong tập Chemical Abstracts. Trái lại, ở Việt Nam thấy có nghiên cứu chọn giống cây có cơ chế tạo trầm tự nhiên cây trầm hương (dó bầu) A. crassma 20 năm tuổi trên vùng đảo Phú Quốc (10).Ngoài ra cũng thấy có khai thác các cây Aloexylon agallochum Lour., Excoecaria agallocha Linn (ĐTL). Gỗ cây trầm rất quý nên lúc xưa được các thổ dân miền sơn cước dùng làm lễ vật đưa về cống nộp cho vua chúa. Ngoài hương thơm, gỗ cây tương đối cứng có thể đẽo gọt, tạc thành tượng Phật chẳng hạn. Cách đây hơn 250 năm, nhận được biểu của Mạc Thiên Tứ, trấn thủ Hà Tiên, báo cáo về việc tế lễ, để tỏ lòng đặc biệt ưu ái với vị trọng thần biên trấn, chúa Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Thụ đã ban cho hai thanh gỗ trầm hương. "Hai thanh cống hương đen như huyền, bản rộng hơn tấc, cao những hàng xích. Một thanh dựng ở giữa tế đàn Sơn xuyên, một thanh dựng ở giữa tế đàn Xã tắc. Khói đốt bốc thẳng đứng, như hai cây cột khói thơm dựng ở giữa trời. Hương trầm tỏa ngan ngát giữa đêm thanh, trăng sao lồng lộng ; dân cư tận xa vòng ngoài Trúc bằng thanh, còn nghe thấy mùi thơm trộn trong gió chướng rao rao" (4). Nguyên gốc của kỳ nam hay trầm hương, tuy đã được nghiên cứu nhưng chưa thấy giải thích tường tận. Từ xưa nhiều giả thuyết đã được đưa ra, chẳng hạn như kiến sống trên cây chế mật rơi lên gỗ, lâu ngày thấm vào thành hương thơm (5b). Cũng cùng ý ấy, một giả thuyết khác cho những cây có tổ kiến hay tổ mối dưới chân thì đào tận rễ dễ tìm ra (5). Có người lại tin phân chim ở kẽ cành biến chất cũng có thể tạo thành trầm (ĐTL). Thật ra nhìn từ bên ngoài rất khó xác định một cây có trầm. Ngày nay, người ta nhận thấy kỳ nam hay trầm hương là một khối nhựa do cây tiết ra để tự băng bó, bảo vệ chống vi trùng, thời tiết khi có vết thương. Biết vậy, những người tìm trầm khi kiếm ra cây có khả năng cống hiến trầm thì cố ý vạch cắt cây gây vết thương rồi đợi khối nhựa cấu thành, có khi nhiều tháng, nhiều năm. Cơ chế cấu tạo khối nhựa có thể là một hiện tượng thoái hóa vi khuẩn, nhưng thực chất hơn là do nấm gây ra. Người ta đã tìm ra được những loại nấm Mycelia, Menanotus flavolines (16), Epicoccum granulatum (6) nhiễm gỗ cây trầm. Nấm Mycelia còn có một đặc điểm nữa là cho phát hiện trong mảnh trầm cắt những oleoresin trước không có trong cây. Ngoài ra, loại nấm bậc cao nâu sẫm Cytosphaera mangiferae Died. trích chiết từ gỗ cây A. agallocha đang biến chất thành trầm, cho nhiễm vào những mảnh gỗ Aquilaria thì chế biến ra gỗ có hương thơm mùi trầm. Thí nghiệm không thành nếu dùng những mảnh gỗ các cây Syzyum hay Amoora mọc cạnh các cây Aquilaria kia trong những khu rừng Sylhet ở Bangladesh hay dùng các nấm Penicillum sp., Aspergillus sp., Fusarium sp. cũng được trích chiết từ các cây A. agallocha đã bị nhiễm. Theo tác giả công trình khảo cứu nầy thì côn trùng đã đem nấm vào các lỗ nứt, kẽ nẻ của vỏ cây (6). Từ A. agallocha cũng đã chiết xuất một loại nấm Paecilomyces varioti đặc biệt có khả năng xúc tác những phản ứng khử, kết vòng, kết hydroxy, .... biến hóa citronellal ra isopulegol, menthon ra menthol, cinnamaldehyd ra cinnamid acid, .... (26). Hương thơm cây trầm Hương thơm trong cây trầm là do các phân tử chromon và sesquiterpen mà ra. Những chromon có thể là agarotetrol hay isoagarotetrol chứa nhiều nhóm hydroxy. Hai chất nầy có trong những cây trầm Tân Gia Ba và Việt Nam theo tỷ lê 2 :1 (14). Những chromon khác phần lớn là những dẫn xuất của ethyl phenyl chromon tìm ra trong A. agallocha và A. sinensis : hydroxy, dihydroxy, methoxy, dimethoxy, tetrahydroxy, tetrahydroxy tetrahydro; của ethyl phenyl pentahydroxy chromon ; của ethyl phenyl methoxy chromon : methoxy, dimethoxy ; của ethyl phenyl tetrahydro chromon ; của ethyl phenyl pentahydro chromon. Người ta cũng đã tìm ra được những ethyl biphenyl chromon và ethyl triphenyl chromon. Một công trình khảo cứu về tương quan giữa chất lượng và thành phần trầm bán ở Hồng Kông với agarotetrol và isoagarotetrol qua một loạt đo các làn sóng 270-400 nm cho thấy một số hoá chất khác ngoài chromon. Những sesquiterpen phần lớn tìm ra trong A. agallocha, cũng có một số tài liệu khảo cứu trên A. malaccensis và A. sinensis. Những phân tử được các nhà khảo cứu Ấn Độ chiết xuất trước tiên từ tinh dầu trầm là agarol bên cạnh gmelofuran và những agarofuran : dihydro, hydroxy dihydro, norketo hay epieudesmol là agarofuran mở vòng, đồng thời với agarospirol và oxoagarospirol. Cũng cùng loại selimanic furanoid nầy, những jinkohol đã được tìm ra cạnh jinkoh-ceremol. Với công thức tương tự, các tác giả Trung Quốc đã chiết xuất những baimuxinol, dihydro baimuxinol, isobaimuxinol, baimixinal, baimuxinic acid, baimuxifuranic acid, sinanofuranol từ A. sinensis bên cạnh những hóa chất tương đối thông thường như benzyl aceton, methoxy benzyl aceton, anisic, palmitic, octadecenoic, dienoctadecanoic acid trong tổ chức gỗ. Ba chất sau nầy thay đổi thành phần khi gỗ bị nhiễm nấm Menanotus flavolines, đồng thời cũng xuất hiện oxoagarospirol. Bước qua sườn guain thì một loạt bảy sesquiterpen được xác định trong trầm Việt Nam mà quan trọng nhất là guaiadienal đã góp phần lớn trong mùi hương thanh nhã. Tinh dầu trầm Việt Nam, theo các nhà khảo cứu Nhật Bản, thì ngoài guaiadienal, còn chứa selinadienol, selinadienon bên cạnh guaiene, bulnesen, agarofuran, kusunol, karanon, dihydro karanon, oxoagarospirol cùng các ethyl phenyl chromon đã thấy ở trên (15), năm eudesman sesquiterpen cùng epoxy norketo guaien, dehydro jinkoh-eremol và neopetasan (19). Các tác giả nầy cho jinkoh có thể là A. sinensis, còn kanankoh tức A. agallocha thì có hai loại : một loại giàu guaien và eudesman đã oxi hóa, loại kia có oxoagarospirol là thành phần sesquiterpen chính (17). Trước đó, một nhóm khảo cứu viên Nhật Bản khác đã so sánh tinh dầu hai loại trầm Việt Nam (loại A : A. agallocha) và Nam Dương (loại B : có thể là A. malaccensis) thì thấy thành phần và tỷ lệ rất khác nhau (13). Tinh dầu % loại A : agarofuran (0,6), norketo agarofuran (0,6), agarospirol (4,7), jinkoh-eremol (4,0), kusunol (2,9), dihydro karanon (2,4), oxoagarospirol (5,8) ; loại B : agarofuran (1,3), epieudesmol (6,2), agarospirol (7,2), jinkohol (5,2), jinkoh-eremol (3,7), kusunol (3,4), jinkohol II (5,6), oxoagarospirol (3,1). Ngoài hai loại chromon và sesquiterpen vừa thấy, một vài hóa chất khác cũng đã được tìm ra : liriodenin, aquillochin trong thân cây A. agallocha, dibehenyl ferulyl glycerid (0,55%), decatrienyl phorbol acetat trong vỏ cây A. malaccensis. Trong hai chất sau nầy, chất thứ nhất có một liều gây chết LD50 0,8 microg/ml chống hệ thống P-388 chứng bạch cầu lympho bào in vitro nhưng vô hiệu in vivo, liều gây chết LD50 của chất kia là 0,0022 microg/ml in vitro. Đây là lần đầu tiên những chất nầy được xác định có một hoạt động gây hại tế bào in vitro (11). Về mặt duợc liệu, tinh dầu chiết xuất từ A. agallocha có một hoạt động nhỏ trợ tim. Gần đây nhờ có tính chất gia tốc sự cấu tạo collagen, nó được dùng làm thuốc làm dẻo da, ngừa da nhăn, chữa chấn thương (24), nhờ tính chất chống melanin cấu tạo nên được dùng làm thuốc bảo vệ da chống nhiễm sắc tố, vết hoe (25); nó cũng được dùng trong một liều thuốc gồm có hổ phách, mộc hương, đinh hương, đàn hương, hương phụ, .... để làm thuốc chống co giật đồng thời gây ngủ (27). Bên phần A. sinensis thì tinh dầu có hoạt động khử những vi khuẩn gam âm và gam dương (28), hợp với nhiều chất khác để làm thuốc chống béo (23), chữa gan (22). Thật ra, từ xưa ở nước ta, kỳ nam và trầm hương đã được dùng làm thuốc giải nhiệt, chống đái, chữa đau bụng, đau ngực, ỉa chảy, nôn mửa, khí thủng, trị sốt rét, suyển kinh niên (5a) , bí tiểu tiện, bổ dạ dày nhờ có vị cay, tính hơi ôn, vào ba kinh tỳ, vị và thận, có tác dụng giáng khí nạp thận hình can tráng nguyên dương. Người ta dùng chúng dưới dạng bột hay ngâm rượu, ít khi sắc, thường chỉ mài với nước mà uống. Để chữa nôn mửa, đau bụng, dạ dày, đơn thuốc gồm có trầm hương, nhục quế, bạch đậu khấu, hoàng liên, đinh hương, tán nhỏ dùng nước nóng chiêu thuốc, ngày uống ba, bốn lần (ĐTL). Ngậm ngải tìm trầm Tuy vậy, công dụng chính của trầm là hương thơm. Cả hai loại hóa chất chromon và sesquitepen đều có mùi thơm đặc biệt, khi đốt nóng mới tỏa ra cùng các chất dễ bốc hơi khác, đặc biệt là những sesquiterpen carboxylic acid. Một nhóm khảo cứu viên Nhật Bản đã thử phân biệt hương thơm của một số sesquitetrpen. Họ nhận thấy có khi chỉ vì vị trí của một dấu nối đôi như hai chất selina-3,11 và selina-4,11 dienal mà mùi hương rất khác nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói, chất kia phảng phất hương bạc hà. Bốn chất đồng phân neopetasan, epineopetasan, dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi, còn khác nhau ở hướng các nhóm methyl thì có chất thơm mùi gỗ ngọt, có chất nặng mùi khói, có chất lại phảng phất mùi chua và nhựa thông (19). Mặt khác, những chức trong phân tử cũng đóng một vai trò : nếu là selinadienon có mùi dịu như hoa tươi, selinadienol lại thơm mùi gỗ ngọt, trong khi guaiadienal tỏa mùi gỗ giống mùi của damacenon thêm vào chút long não (15). Các tác giả nầy cũng có khảo sát khói của hai loại trầm Việt Nam (kamakoh và jinkoh) : một loại đầy benzaldehyd, acetic acid, vanillin, loại kia chứa toàn hoá chất hữu cơ vòng thơm nên khi đem đốt mùi hương rất khác nhau (18). Thơm như vậy nên dùng gỗ cây trầm làm nhang là chuyện dĩ nhiên. Một văn bằng sáng chế Nhật Bản cho trộn với bột tabu và nước để làm nhang (12). Để làm tăng hương thơm của tinh dầu trầm, nhất ra để tạo ra một mùi hương đặc biệt, quyến dũ, người ta cũng đã cho trộn với tinh dầu dạ hương (lấy từ túi thơm của con cầy hương). Ngoài ra, cây trầm còn có những ứng dụng khác. Gần đây, một văn bằng Trung Quốc dùng cây A. agallocha trong một hỗn hợp gồm có nhân sâm, ngải cứu, bạc hà, kinh giới, hoắc hương, ma hoàng để làm thuốc hút không có thuốc lá và rao là không độc cho cơ thể (20). Nó cũng được dùng trong một văn bằng để khử những mùi ammoniac, trimethylamin, methylmercaptan (21). Nhờ không bị sâu mọt phá hoại và chịu đựng thời tiết, gỗ cây trầm được sử dụng trong ngành chạm trổ. Sau cùng cũng nên biết bên Ấn Độ, gỗ cây trầm đã được dùng làm giấy viết và giấy in có chất lượng. Cây trầm rất hiếm quý nên giá bán rất đắt. Có một dạo, người ta đổ xô đi tìm trầm, phải lặn lội nhiều tháng trong rừng mới hầu mong bắt gặp. Có khi họ xây lều ngay cạnh để canh giữ. Người xưa bảo đi tìm trầm phải trong sạch về mặt tinh thần cũng như thể xác, suy tư đứng đắn, ăn nói đàng hoàng, kiêng cử đàn bà, rượu chè cờ bạc. Nếu đi thành toán thì không được chuyện trò ồn ào, cãi nhau ầm ỉ. Để tránh thú dữ, beo cọp, họ cầm roi dâu, vừa đi vừa quất lên cành lá bên đường. Để chống yêu quái, ma quỷ, họ ngậm ngải để làm bùa hộ thân. "Theo lắm người kể chuyện, ngải là một thứ củ do người Mọi Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong vò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Đoạn phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh. Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Đoạn phải bẫy cho được con hổ ấy, rối giết và lấy ngải ra. Ngải là một cái bùa thiêng lúc ấy có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không ăn uống cũng sống được. Và thú dữ đi sát bên cạnh cũng không thấy mình đuợc. Nhưng hạn trong ba tháng mươi ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật .... " (1). Một điều đáng ngạc nhiên là một cây hiếm quý như vậy, đã được sử dụng trong nhiều nước, chưa từng nghe đến một trại nuôi trồng. Đến nay chỉ thấy khai thác cây trầm mọc hoang, một ngày kia ắt sẽ tiệt giống như CITES đã lên tiếng kêu cứu. Đứng về mặt sản phẩm hương mùi, sợ e rồi trầm hương dần dần sẽ nhường chỗ cho các hóa chất nhân tạo tổng hợp như đã bắt đầu thấy. Thông tin Khoa học và Công nghệ 4 (22)1998 vietsciences 09.2009 Tham khảo 1- Thanh Tịnh, Ngậm ngải tìm trầm trong Quê mẹ, nxb Văn học , Hà Nội tái bản (1983) 64 ; in lần đầu 1943.
2-A. Pételot, Plantes médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam, Archives des Recherches Agronomiques et Pastorales du Vietnam, Saigon III (1954) 65-99
3- L. Cadière, Croyances et pratiques religieuses au Vietnam, EFEO Sài Gòn II (1955) 12
4- Mộng Tuyết thất tiểu muội, Nàng Ái Cơ trong chậu úp, nxb Văn hóa, Hà Tiên-Kiên Giang, tái bán (1996) 27 ; in lần đầu 1960
5- F. Mouton, Le bois merveilleux du Sud, Imp. Emmanuel Vitte, Lyon (1970) 37-9, 44-5
dẫn 5a- Nguyễn Văn Minh, Dược tính chỉ nam, Sài Gòn, kỳ nam (1964) 102 ; trầm hương (1969) 1481 ; 5b- H. Lecomte, Sur les graines de Thymeleaceae, Bull. Soc. Bot. France (1914) 410
6- M. Jalaluddin, Useful pathological condition of wood, Econ. Bot. 31 (1977) 222-4
7- Phạm Hoàng Hộ, Flore du Cambodge, du Laos et du Vietnam, Thyméleacées, Muséum national d’Histoire Naturelle, Paris 26 (1992) 46-9
8- Võ Văn Trực, Hương trầm trong Những ngày hội dân dã, nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội (1997) 111-2
9- Chu Hữu Tín, Cây trầm kỳ nam, Mua bán trầm hương và kiểm tra mua bán trầm hương, khoahoc.net21.04.2005, 16.06.2005
10- Thái Thành Lượm, Nghiên cứu chọn giống cây có cơ chế tạo trầm tự nhiên cây trầm hương (dó bầu) Aquilaria crassma Pierre 20 năm tuổi trên vùng đạo Phú Quốc Việt Nam, khoahoc.net06.09.2007
11- S.P. Guanasekera, A.D. Kinghorn, G.A. Cordell, N.R. Farnsworth, Plant anticancer agents. XIX. Constituents of Aquilaria malaccensis, J. Nat. Prod. (5) 44 (1981) 569-72
12- K.K. Yamamoto, Incense containing chromone derivatives isolated from Aquilaria agallocha, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 59, 106,414 (1984) 10 tr.
13- K. Yoneda, E. Yamagata, T. Nakanishi, T. Nagashima, I. Kawasaki, T. Yoshida, H. Mori, I. Miura, Sesquiterpene constituents in agawood. Part 4. Sesquiterpenoids in two different kinds of agarwood, Phytochem. (9) 23 (1984) 2068-9
14- T. Konishi, Y. Okutani, K. Iwagoe, S. Kiyosawa, Y. Shimada, Studies on the algalwood "Jinko". IX. Quantitive analysis of 2-(2-phenylenthyl) chromone derivatives (supplement), Shoyakugaku Zasshi (1)43 (1989) 1-6
15- M. Ishihara, T. Tsuneya, M. S higa, K. Uneyama, Three sesquiterpenes from agarwood, Phytochem. (2) 30 (1991) 563-6
16- S. Qi, B. Lu, L. Zhu, B. Li, Formation of oxo-agarospirol in Aquilaria sinensis, Zhiwu Shenlixue Tongxun (5) 28 (1992) 336-9
17- M. Ishihara, T. Tsuneya, K. Uneyama, Components of the volatile concentrate of agarwood, J. Essent. Oil Res.(3) 5 (1993) 283-9
18- M. Ishihara, T. Tsuneya, K. Uneyama, Components of the agarwood smoke on heating, J. Essent. Oil Res.(4) 5 (1993) 419-23
19- M. Ishihara, T. Tsuneya, K. Uneyama, Sesquiterpenes constituents of agarwood. 4. Fragrant sesquiterpenes from agarwood, Phytochem. (5) 33 (1993) 1147-55
20- J. Liu, Non-toxic tobaccoless cigaret, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,111,965 (1995) 4 tr.
21- T. Shimamura, T. Yamada, Deodorants containing aloe components for indoor air treatment, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 09099045 (1997) 5 tr.
22- Z. Guo, Plaster for treating liver disease, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 96,1170585 (1998) 4 tr.
23- P. Yan, Antiobesity essence compositions, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1171236 (1998) 5 tr.
24- M.H. Jin, S.Y. Kim, H.J. Kim, M.Y. Chagn, S.H. Kang, Skin composition containing collagen synthesis facilitator, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2000018467 (2000)
25- Y. Ochiai, A. Ogawa, Skin-lightening cosmetics containing tyrosinase inhibitors, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001316241 (2001) 12 tr.
26- M.A. Deodhar, N.H. Pipalia, S.M. Karmarkar, Biotransformation of terpenoids : reductive ability of Paecilomyces varioti, J. Med. Arom. Plant Sci. (1) 24 (2002) 1-5
27- B.S. Koo, D.U. Lee, Y.H. Shin, Treatment and prevention of insomnia and seizure containing perfume components of herbal material, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2003071213 (2003)
28- J.F. Hu, K. Kuhen, D. Hafenbradl, J. Li, T . Chen, J. Harris, N. Gray, P.G. Schultz, Twenty high-grade traditional Chinese medicines : their anti-Hiv, antibacterial, and anticancer biological screening, Abst.Pap.229th ACS Nat.Meet.San Diego,CA USA March 13-17 (2005)MEDI-397
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:43:59 GMT 9
43 - Những chất thuốc của cây xoan Xoan tây trước bến bao lần đỏ Lệ nhỏ hai lần chàng có hay ? Lưu Trọng LưSoạn xong bài viết, tôi chạy tìm một cây xoan để chụp hình so sánh với cây sầu đâu đã thấy ở trên bờ sông An Cựu. May mắn quá, ở Paris tôi bắt được một cây, và là cây độc nhất, ở Jardin des Plantes. Cây to lớn gần như cổ thụ nên khó so sánh với cây ở Huế non tơ mảnh khảnh. Hôm ấy lại vào xuân, chưa có hoa, chỉ còn trái trăng trắng lúc nhúc tô điểm thân cành trơ trụi đen thui, nổi bật trên nền trời xanh thẳm trông cũng ngoạn mục. Lẽ tất nhiên, tôi đợi đầu hè trở lại thì chiêm ngưỡng được những chùm hoa tím tươi thắm không khác gì những hoa sầu đâu. Thảo nào bên ta thường lẫn lộn xoan với sầu đâu, trong dân gian đã đành mà ngay cả ở trong sách vở. Theo Gs Đỗ Tất Lợi, xoan là loại cây mọc hoang bên nước ta nhưng cũng được trồng để lấy gỗ làm cột nhà, đồ dùng. Về mặt chữa bệnh, hột xoan được đem làm thuốc với tên khổ luyện tử. Người ta dùng vỏ thân và vỏ rễ gọi là khổ luyện căn bì để chữa giun sán ; lá sắc diệt được côn trùng. Người ta còn để lá xoan vào chum đựng các loại đậu để tránh mọt, hoặc lấy nước tắm súc vật (trâu, bò, ngựa) để chữa ghẻ (ĐTL). Tên khoa học của xoan là Melia azedarach Linn., thuộc họ Xoan Meliaceae (khác với cây sầu đâu Azadirachta indica A. Juss tức Melia azadirachta Linn. hay Melia indica cùng họ) (PHH). Ngoài Việt Nam, xoan còn mọc ở các nước châu Á, tràn qua cả châu Phi, châu Úc, châu Mỹ, vì vậy nó mang nhiều tên tùy theo xứ : kulen ở Trung Quốc, sendan hay ochi ở Nhật Bản, dharek hay dhrek ở Ân Độ, bakain ở Pakistan. Âu Mỹ gọi nó là chinaberry, China tree, chinaberry tree, bead tree, Persian lilac tree hay lilas du Japon, lilas des Indes, laurier grec, faux sycomone (ĐTL). Gần đây, tôi được đọc bài của bà Nguyễn Thị Hồng Nhung (noithatkhaihong.com.vn) xếp cây xoan làm 4 nhóm : xoan ta (còn gọi xoan trắng, có khi xoan lai), xoan tía (gỗ đỏ, còn gọi sầu đâu, sầu đông), xoan đào (tức xoan rừng, màu hồng xẩm), xoan chụi hạn (tức là cây neem), không phân biệt rõ ràng sầu đâu và xoan. Tuy không được khảo cứu sâu rộng như cây sầu đâu, cây xoan cũng đã được nhiều phòng thí nghiệm đặc biệt chú š vì cây có nhiều hoạt chất hay ho mà quan trọng nhất vẫn là azadirachtin hay ấn khổ luyện tử tố như ở cây sầu đâu. Chất nầy có khả năng xua đuổi hoặc phòng ngừa sâu bọ phá hoại, tác dụng lên nền sinh lš thần kinh và cơ thể của chúng, ngăn chặn hay phá hủy quá trình biến thái của nhộng trần, cuộc sinh trưởng của sâu lớn, giảm hạ hay ức chế việc đẻ trứng của sâu cái. Trong phòng thí nghiệm, nhiều loại M. azedarach đã được khảo xét, phần lớn thuộc var. japonica Makino, nhưng cũng thấy có var. australasica, var. subtripinnata, những giống mọc ở Ai Cập, Jamaique, Okinawa bên Nhật Bản, Cucurova bên Thổ Nhĩ Kỳ hay Porec bên Nam Tư. Độc tính của xoan Trong dầu hột xoan, nhiều hóa chất dễ bốc hơi đã được xác định : pinen, menthen, camphen, cymen, cadinen, terpinolen cùng linalool, citronellol, cadinol, guaiacol, cresol, phenol. Một nhóm hóa chất thường gặp là steroid, phần lớn ở rễ, có khi ở trái : sitosterol, campesterol, azedarachol, campestenon, stigmastenon. Những terpenoid được tìm ra trong đủ bộ phận của cây : kulinon, kulacton, kulolacton trong vỏ, melianon, melianol, melianodiol trong trái. Những acid khác như vanillic, cinnamic acid, những alcool như lupeol, tricosanol, triacontanol, những ceton như cycloartanon, cycloeucalenon, bakalacton, cũng đã được tìm ra. Tuy những amin acid không có nhiều trong dầu hột xoan, hột chỉ chứa 10,25% protein và lượng đạm N trong protein 13,9%, người Ấn Độ dùng hột xoan làm nguồn amin acid trong thức ăn. Quan trọng là những limonoid : những azedarachin và các dẫn xuất acetyl, đã từng thấy ở sầu đâu, được phát hiện trong vỏ cành, vỏ rễ cùng những trichilin và các dẫn xuất acetyl, diacetyl, những meliacarpinin và các dẫn xuất. Một phần lớn các hóa chất có mặt đưới dạng glycosid : sitosterol glucosid trong trái, trong rễ, flavon rhamnopyranosyl glucopyranosid trong vỏ cành, quercetin rutinnosid trong lá, meliacdien xylopyranoid trong hột, apigin galactopyranosid trong rễ, Ở nước ta, ai cũng biết sầu đâu và xoan mang chất độc (ĐTL). Nhiều cuộc thực nghiệm đã chứng minh cho cả người lẫn thú vật (12). Một phần chiết từ cây gây chết cho heo con, bò con, thỏ và nhiều loại gia cầm khi tiêm vào hay cho ăn vì gây hỗn loạn, chảy máu trong gan, thận, ruột, dạ dày (6). Con nít chơi nuốt hoa, lá, vỏ cây, hay thường là hột xoan thì buồn nôn, oẹ mửa, ỉa chảy, run giật và sau vài ngày có thể chết. Một nhóm khảo cứu viên ở Canberra bên Úc đã chiết xuất luôn đuợc bốn melatoxin từ trái cây. Những chất nầy không bền, gặp chút acid là tan hủy cũng như khi các hóa sư thử làm ròng hay phân tích qua silice. Vì vậy năng suất chiết xuất rất kém (0,5%), nhưng họ có đủ số lượng để thử lên heo và xác định các chất độc ấy đã gây ra những triệu chứng thần kinh dữ dội và giết chết heo (7) Tuy vậy, ác tính nầy, cũng như mọi chất độc khác, có thể có ích nếu biết dùng đúng liều lượng và biết hướng vào mục tiêu. Một phần chiết từ cành, vỏ rễ đã tỏ ra rất độc đối với tế bào khối u của người. Chiết từ vỏ cành, những chất hydroxy amoorastaton, hydroxy amoorastatin, acetoxy amoorastatin rất độc đối với các tế bào u tuyến ung thư thượng bì ở phổi A-549, buồng trứng SK-OV-3, ruột già HCT-15 cũng như melanoma ác tính SK-MEL-2 (15). Một phần chiết từ vỏ rễ trong ấy người ta đã tách chiết ra những dẫn xuất acetyl tigloyl melacarpinin, deacetyl và isobutyl sendanin cùng hydroxy amoorastin thì lại rất độc cho tế bào bạch cầu lympho P388 (16). Bảo vệ lúa trồng Đằng khác, chất meliacin gây một sức chống cản sự nhiễm trùng của virus vào tế bào động vật có vú (10), ức chế cuộc sinh sản nhiều loại virus thường tác động lên chân và miệng FMDV, poliovirus BHK-21(17) và cả những virus VPr, VSH-1, VSH-2, Junin, Tacaribe, Sindbis (13). Meliacin, chiết từ lá, là một peptid có một trọng lượng phân tử khoảng 2200-2300, chỉ gồm toàn những acid béo. Một bản báo cáo khá xưa có nói đến một phần chiết bằng nước có khả năng làm thuyên giảm một cơn hen (1). Đấy là chưa nói đến khả năng chống nhiệt, chữa hủi, eczema cùng những hỗn loạn khác trong cơ thể (7). Người ta cũng có báo cáo về chất vanillic acid tác dụng lên Ascaris suilla và Hymenolepis nana chữa được giun, sán (2). Còn genudin thì ức chế Plasmodium falciparum nên có thể dùng để chữa trị sốt rét (12). Như vậy, linonoid và cả glycosid (9)đều có tác dụng chống khuẩn. Nhưng quan trọng nhất của các hoạt chất cây xoan, cũng như cây sầu đâu, là trừ diệt sâu bọ. Các limonoid như meliacarpinin, trichlin, azedarachin cùng các dẫn xuất đều được đem thử lên nhiều loại sâu, đặc biệt Spodoptera exigua và S. eridania. Những meliacarpinin mạnh nhất vì hoạt tính đã diễn biến từ 50 ppm, tương đương với nồng độ 1micron/cm2, trong lúc những trichlin phải lên đến 200 ppm, còn những azadirachtin thì vào khoảng 200-4000 ppm. Suy ra, về mặt cấu trúc, những limonoid có công hiệu nhất là những loại apo-euphol mang vòng epoxid C14-C15 và có cầu lactol C19-C29. Sự kiện nầy đã được chú ý trong cuộc khảo cứu chữa trị ung thư (12). Ngoài ra melianoniol, chiết từ lá, phá rầy việc ăn uống của sâu bắp cải Pieris repae; salanin, ochninilid B, azadiron, melianon, cũng như một phần chiết từ lá ức chế cuộc sinh trưởng và ngăn chận sự biến thái của ấu trùng sâu đậu Epilachna varivestis ; còn azedarachol từ vỏ rễ thì lại tác động lên ấu trùng sâu Ajrotis sejetum. Nói chung, ngoài azadirachtin, dầu hột xoan chứa đựng meliantriol (4), có lẽ là chất thuốc cần yếu nhất cho một nước trồng lúa như nước ta vì nó diệt được sâu đục lúa Tryporyza incertulas cùng các sâu Sogatella furcifera, Nilaparvata lugens. Kỹ nghệ thuốc trừ sâu đã bán các loại thuốc JAP-821, JZAP-822 có khả năng bảo vệ cây lúa (8). Riêng genudin, chiết xuất từ gỗ thân cây, tác dụng rất hiệu quả lên các sâu ăn lúa Heliothis zea và Spodoptera frugiperda (12). Bột hột xoan cũng được dùng để bảo vệ lúa mì chống sâu Trogoderma granarium (4). Dùng nước chiết, người ta đạt được một chất khử nấm, chống sâu thuốc lá Peronospora tabacina(3). Từ nấm Penicillum janthinellum mọc trong trái xoan nhiều hóa chất đã được chiết xuất : emodin, jathinon, đặc biệt citrinin ức chế Leishmania phát triển (20). Còn từ nấm Penicillium mọc trong vỏ rễ, những chất preaustinosid A, B có tính chất kìm vi khuẩn trên Escherichia coli, Staphylococcus aureus, Pseudomonas aeruginosa, Bacillus sp. (19). Phần chiết với methanol cành xoan rất hiệu nghiệm chống các trùng Helicoverpa armigera, Earias vittella, Plutella xytostella (18). Lá và vỏ cây đã được dùng trong cuộc chữa trị các bệnh phong hủi và tạng lao (14). Một văn bằng sáng chế Trung Quốc cho trộn 65-75% chất độc của xoan với nicotin và stemonin để làm thuốc bảo vệ cây bông và rau cỏ, cam đoan không độc cho người và gia súc (11). Tính chất khử nấm của xoan cũng được khai thác làm dầu đánh bóng áo và quần da bên Nhật Bản. Cũng nên biết gỗ cây xoan có thể dùng làm giấy hay tơ vải. Người ta theo dỏi tiến triển của độ dày màng tế bào cũng như kích thước ruột, sợi trong vòng gỗ cây theo mùa để sử dụng đúng lúc. Như sầu đâu, cây xoan đã cống hiến một loạt hóa chất có tính chất sinh học hay ho có thể áp dụng vào y khoa, canh nông hay kỹ nghệ. Cây xoan Tứ Xuyên Trong số các cây xoan, có một loại mọc ở vùng tây bắc nước ta (Sơn La, Lai Châu,..) và cả ở miền mam Trung Quốc nên đưọc gọi là xoan Tứ Xuyên. Tên khoa học của nó là Melia toosendan Sieb.et Zucc., người Trung Quốc gọi lian ye (cây) và chuan lian zi (thuốc chiết từ trái), tương đương với tên sen ren shi của Nhật Bản. Một vài hóa chất trong cây đã được thấy với xoan và sầu đâu : isochuanliansu từ vỏ, melianon, diacetyl sendanin từ trái, trichlin với hai dạng I và J từ vỏ cành. Những chất khác là toosendanin từ vỏ, toosendansterol A, B, melia ionosid A, B, toosendanosid từ lá, acetyl toosendantriol, methyl toosendapentol từ trái. Tác dụng ngừa ăn, chống sâu bọ của toosendanin đã được khảo sát trên sâu Spodopstera litura (21). Đem so sánh với azadirachtin trên sâu đục cành Scirpophaga incertulas thì toosendanin có phần mạnh hơn, trái lại ít công hiệu bằng khi thử lên sâu đục lúa Ostrinia furnacalis. Dù sao, hột xoan có thể dùng trong canh nông để chống các sâu phá hoại lúa như Nilaparvata lugens, Orseolia oryzae và cam, chanh như Diaphorina citri, Panonychus citri (21). Một phần chiết từ vỏ chứa toosendanin đã được thử nghiệm với kết quả khả quan lên các sâu phá hoại hột dự trữ như Cryptolestes ferrugineus, Sitophilus oryzae, Tribolium castaneum (100). Cũng như cây xoan, một phần chiết từ trái đã tỏ ra rất độc hại cho tế bào ung thư vú và MCF-7 (27). Chất diacetyl sendanin chiết từ trái đã đuợc khảo sát về mặt chống ung thư. Các tế bào SF-539 và PC-3 ở CNS và tiền liệt tuyến rất nhạy cảm và so với adriamycin, deacetyl sendanin ức chế chọn lọc hơn lên cuộc phát triển tế bào ung thư ở người (25). Người ta đã có dùng thuốc chiết từ trái để chữa dạ dày khi bị đau cúm hay giun, sán hoành hành (22). Dầu chiết từ xoan cũng được đem trộn với borneol để rải vào giày, tất chống mùi hôi (26). Bột hột xoan và bột rễ bạch chỉ đã được dùng trong một công thức chữa đau chân (23). Sau cùng, một phần chiết từ hột gồm có alcaloid cũng được trộn với bột đậu nành và vài muối kim loại để làm phân bón (24). Như vậy, cây xoan Tứ Xuyên tuy ít, cũng góp phần vào canh nông, y học, kỹ nghệ như xoan và sầu đâu. Tất cả các loại cây xoan đều là tài nguyên thiên nhiên sẵn có, đáng được khai thác sâu rộng. Thông tin Khoa học và Công nghệ 4 1996 Tham khảo 1- B. Natl, Chemical examination of the heartwood of Melia azedarach, J. Sci. Ind. Res. (India) 13B (1954) 740-1
2- T. Tanaguchi, Anthelmintic constituents of Melia azedarach, Osaka Shiritsu Daigaku Igaku Zasshi 9 (1960) 445-6
3- D.B. Campbell, Fungicide from chinaberries, US 3 262,844 (1966) 2tr.
4- P.U. Saramma, A.N. Verma, Efficacy of some plant products and magnesium carbonate as protectants of wheat seed against attack of Trogoderma granarium, Bull. Grain Technol. (3) 9 (1971) 207-10
5- P.R. Zanno, I. Miura, K. Nakanishi, Structure of the insect phagorepellent azadirachtin. Application of PRFT/CWD Carbon-13 Nuclear Magnetic Resonance, J. Amer. Chem. Soc. (7) 97 (1975) 1975-7
6- D.S. Hothi, B. Singh, M.S. Kwatra, R.S. Chawla, A note on the comparative toxicity of Malia azedarach (Drek) berries to piglets, buffalo-calves, rabbits and fowls, J. Res. Punjabn Agric. Univ. (2) 13 (1976) 232-4
7- P.B. Oelrichs, M.W. Hill, P.J. Vallely, J.K. MacLeod, T.F. Molinski, Toxic tetranortriterpenes of the fruit of Melia azedarach, Phytochem. (2) 22 (1983) 531-4
8- J. Hu, J. Yang, L. Chen, Preliminary study on the antifeedant and toxicity properties of chinaberry (Melia azedarach L.) seed oil against major insect pests of rice, Zhongguo Nongyu Kexue (Beijing) (5) (1983) 63-9
9- S.D. Srivastava, Limonoids from the seeds of Melia azedarach, J. Nat. Prod. (1) 49 (1986) 56-61
10- G.M. Andrei, E.B. Damonte, R.A. De Torres, C. E. Coto, Induction of refractory state to viral infection in mammalian cells by a plant inhibitor isolated from leaves of Melia azedarach, Antiviral Res. (4) 9 (1988) 221-31
11- X. Cao, J. Li, M. Du, Insecticidal compositions containing Malia azedarach toxin for crops, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,045,684 (1994) 4tr.
12- D.E. Champagne, O. Koul, M.B. Isman, G.G.E. Scudder, G .H.N. Towers, Biological activity of limonoids from the rutales, Phytochem.(2) 31 (1992) 377-94
13- G. Andrei, A.S. Couto, R.M. De Lederkremer, C.E. Coto, Purification and partial characterization of an antiviral active peptide from Melia azedarach L. , Antìviral Chem. Chemother. (2) 5 (1994) 105-10
14- H.C. Kataria, Medicinal plant Melia azedarach used in leprosy control, Otiental J. Chem. (2) 10 (1994) 178-80
15- J.W. Ahn, S.U. Choi, C.O. Lee, Cytotoxic limonoids from Melia azedarach var. japonica, Phytochem. (6) 36 (1994) 1493-6
16- H. Itokawa, Z.S. Qiao, C. Hirobe, K. Takeya, Cytotoxic limonoids and tetranortriterpenoids from Melia azedarach, Chem. Phar. Bull. (7) 43 (1995) 1171-5
17- M.B. Wachsman, C.E. Coto, Susceptibility of picornaviruses to an antiviral agent of plant origin (meliacin), Rev. Argent. Microbiol. (1) 27 (1995) 33-7
18- M. Rani, P. Suhag, R. Kumar, R. Singh, S.B. Kalidhar, Chemical coponents and biologiacl efficacy of Melia azedarach stems, J. Med. Arom. Plant Sci. (4) 21 (1999) 1043-7
19- R.M. Geris dos Santos, E. Rodrigues-Filho, Meroterpens from Penicillium sp found in association with Melia azedarach, Phytochem. (8) 61 (2002) 907-12
20- A.M. Do Rosario Marinho, E. Rodrigues-Filho, M.L.R. Moitinho, S. Lourivaldo, Biological active polyketides produced by Penicillium janthinellum isolated as an endophytic fungus from fruits of Melia azedarach, J. Brazilian Chem. Soc.(2) 16 (2005) 280-3
Melia toosendan
21- S.F. Chiu, The active principles and insecticidal properties of some Chinese plants, with special reference to Meliaceae, Schriftenz. GTZ 161 (1984) 255-61
22- T. Nakanishi, A. Inada, M. Nishi, T. Miki, R. Hino, T. Fujiwara, The structure of a new natural a apotirucallane-type triterpene and the stereochemistry of the related terpenes. X-ray and 13C NMR spectral analyses, Chem. Letters (1986) 69-72
23- S. Qiu, Thermal-insulated onsoles for foot disease control, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 85,106,399 (1986) 6tr.
24- H. Zhang, Manufacture of trace element fertilizers containing amino acids, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,069,257 (1993) 6 tr.
25- H.M. Kim, G.T. Oh, S.B. Han, D.H. Hong, B.Y. Hwang, Y.H. Kim, J.J. Lee, Comparative effects of a adriamycin and 28-deacetyl sendanin on in vitro growth inhibition on human cancer cell lines, Arch. Pharmacal. Res. (2) 17 (1994) 100-3
26- D. Jun, Sprays containing Melia toosendan extracts and borneol for foot odor, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,089,136 (1994) 5tr.
27- Y.H. Kim, B.Y. Hwang, S.E. Kim, G.T. Oh, J.S. Ro, K.S. Lee, J.J. Lee, Isolation of two limonoids from the fruits of Melia toosendan, Yakhak Hoechi (1) 38 (1994) 6-11
28- Y.S. Xie, P.G. Fields, M.B. Isman, W.K. Chen, X. Zhang, Insecticidal activity of Melia toosendan extracts and toosendanin against three stored-product insects, J. Stored Prod. Res. (3) 31 (1995) 259-65
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:46:09 GMT 9
44 - Quế thanh, quế quỳVì nghĩa giao bang, hiếu trung đôi đàng ; Thân ngọc vàng đem vùi cát bụi, Cho rảnh nợ Ô Ly, ngậm ngùi kẻ ở người đi . Hàn Phương (Bài ca Nam ai)Tháng 6 năm Bính Ngọ 1306, nàng công chúa Huyền Trân, con vua Trần Nhân Tông, em vua Trần Anh Tông, rời Thăng Long lên đường đi Champa kết duyên với vua Chế Mân. Nàng được phong làm Hoàng hậu Paramesvari. Sính lễ của vua Chăm dâng vua Trần là vùng đất Uli, tức Ô Lý hay Ô Rí, còn gọi Việt Lý (sách Tàu chép Niao Li), đổi thành hai châu Thuận và Hóa, làm bàn đạp cho cuộc Nam Tiến, đã sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt mà không mất một mũi tên, không tốn một viên đạn. Huyền thoại kể tiếp khi vua Chế Mân qua đời hơn một năm sau, triều thần Đại Việt sợ công chúa phải bị thiêu với chồng, liền phái quan Hành khiển Trần Khắc Chung và quan An phủ sứ Đặng Văn đưa thuyền vào lập mưu cứu vớt. Sự kiện nầy chưa thấy có cơ sở chính xác, cần phải được tìm hiểu sâu rộng hơn: Hoàng hậu Pamavesvari là bà vợ thứ ba, có đủ điều kiện lên hỏa đàn không? Nếu bà phải bị thiêu thì liệu phái bộ Đại Việt có đủ thì giờ vào kịp để cứu không? Ai tin được mưu mô đưa bà ra biển cầu khấn linh hồn vua chồng trước khi lên hỏa đàn để dễ thoát chạy? Đáng tin hơn là, sau khi gởi phái bộ thái tử Chế dà da (Sri Jaya) ra Thăng Long báo tin, triều đình Cham Pa đã quyết định đưa trả công chúa Huyền Trân về lại kinh đô Đại Việt với một đoàn 300 thủy binh hộ tống, sau nầy được cho quay về quê quán, trong mục đích xin hoàn lại vùng đất Uli (một ý chí gây tranh chấp trong nhiều năm giữa Đại Việt và Cham Pa, để lại trong lịch sử trên tuổi Chế Bồng Nga). Dù sao, sau thời gian dài đăng dẳng một năm, nàng (và một đứa con?) mới về đến kinh đô Đại Việt làm người đời thêu dệt một mối tình tuyệt diệu giữa viên quan và bà hoàng hậu góa chồng trẻ tuổi. Quan hệ tình cảm giữa quan hành khiển và nàng công chúa phải chăng đã thắm thía trước khi nàng đi lấy chồng? Nếu vậy thì đôi uyên ương đã biết hy sinh đời mình cho lợi ích đất nước và bây giờ chỉ nối lại cuộc tình duyên sớm tạm bị ngừng. Nhưng đứng về phía người Chăm làm sao không khỏi oán hờn một viên quan ngoại quốc dám tư thông với bà hoàng hậu nước họ, xúc phạm đến danh dự một vương triều (2)! Dù sao, cuộc ái ân nầy, nếu đã xảy ra, như tuồng cũng không đi đến một kết thúc thỏa mãn vì sau nầy một đằng Trần Khắc Chung bị lăng nhục (Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng đã mắng : họ tên không tốt, có lẽ nhà Trần mất vì người nầy chăng ? - khắc là thắng, chung là tàn, khắc chung là thắng xong thì tàn lụi -) phải ẩn nấu (1), đằng kia dấu vết Huyền Trân đã được tìm ra ở chùa Nộn Sơn, xã Hồ Sơn, Huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, nghïa là bà đã từ bỏ cõi trần tục. Thời ấy, sinh ra làm công chúa là chuẩn bị một cuộc sống vàng son trong cung cấm. Nàng Huyền Trân đã chịu từ giả lâu đài điện ngọc để dấn thân vào một gia đình xa lạ, một xứ sở không cùng phong tục, tập quán, một chốn được xem như là rừng sâu nước độc. Không nói đến mối tình riêng tư của nàng, không cần biết nàng tình nguyện hay bắt buộc ra đi và cuối đời của nàng diễn biến ra sao, cử chỉ can đảm của nàng đáng được tôn trọng. Bài ca Nam bình (tác giả là Võ Chuẩn hay Tôn Thất Quế?) nói lên sự hy sinh cao cả, định mệnh đắng cay của nàng công chúa và lòng biết ơn của dân tộc: Nước non ngàn dặm ra đi, cái tình chi? Mượn màu son phấn đền nợ Ô Ly. Đắng cay vì đương độ xuân thì, độ xuân thì! Cái lương duyên, hay là cái nợ duyên gì? Má hồng da tuyết, quyết liều như hoa tàn trăng khuyết. Vàng lộn theo chì! Khúc ly ca, sao còn mường tượng nghe gì! Thấy chim hồng nhạn bay đi, tình lai láng như hoa quỳ.... Dặn một lời Mân Quân, nay chuyện mà như nguyện, Đặng vài phân, vì lợi cho dân, Tình đem lại mà cân, đắng cay muôn phần! Ở Huế còn thấy có nhiều đền miếu tưởng để thờ cúng nàng Huyền Trân nhưng có người tìm ra những đền miếu nầy thật ra thờ phụng bà chúa Ngọc, hiện thân của thần Uma, vợ thần Siva, tức là Thiên Y Ana, trừ phi người ta muốn đồng hóa hai bà với nhau. Nhân dân một phần nào đã trách nàng công chúa họ Trần không biết sống đúng tam cương ngũ thường là hệ thống Nho giáo một thời chế ngự phong tục nước ta? Ngày nay hệ thống đạo đức nầy hết còn được đề cao và không thể quên ơn nàng nên những người yêu Huế mới xướng lên một phong trào xây dựng tượng đài kỷ niệm nàng công chúa họ Trần. Riêng trong tờ Nhớ Huế xuất bản ở Thành phố Hồ Chí Minh, từ 2001 đến nay, đặc biệt số 12, đã có trên dưới 10 bài đề cập đến vấn đề nầy. Thật ra, vào thời nhà Trần, việc công chúa Huyền Trân đẹp duyên với vua Chăm đã được bàn tán xôn xao, mặc dù vị vua ấy không phải là một người tầm thường. Từ năm 1283, trước cuộc tấn công Cham Pa của Toa Đô với 5 ngàn quân, 250 chiến thuyền và 100 thuyền biển, sau còn thêm 15 ngàn quân nữa, thái tử Bổ Đích tức Sri Harijit Po Devada Svor (hay Po Devitathor), sách Tàu chép Pou Ti, con vua Indravarman V và hoàng hậu Gaurendraksmi, là người có tài thao lược, được cử ra chỉ huy quân đội kháng chiến. Điều khiển hai vạn quân Champa, được Đại Việt yểm trợ ngăn chặn đường bộ quân Nguyên, chàng chống cự lại được quân xâm lăng trong nhiều năm liền và sau đó quân Nguyên bỏ mộng xâm lược Cham Pa. Thái tử trở thành anh hùng dân tộc và năm 1288 lên ngôi nối nghiệp cha, lấy hiệu Jaya Sinhavarman III, từ đấy ta gọi Chế Mân (thay vì Chế Man, Chế phiên âm chữ Sri ra tiếng Việt, Man là vần cuối tên vua). Năm 1301, trong chuyến vào thăm hữu nghị đất Cham Pa, sau 9 tháng được đón tiếp nồng hậu, Thượng hoàng Trần Nhân Tông hứa gả cho vua Chăm một cô con gái của mình. Mặc dầu đã có một vợ cả con một đại vương Java là Vương phi Bhaskaradevi, một thứ phi con gái một tiểu vương Yavadvipa ở Mã Lai là "Nữ vương Tapasi", Chế Mân luôn nuôi dưỡng tinh thần thông gia với các nước láng diềng nên trong 5 năm liền kiên nhẫn đàm phán. Năm 1306, vua Chăm phái Chế Bồ Đày điều khiển một sứ bộ đem ra Đại Việt sính lễ gồm có vàng, bạc, bảo vật, hương liệu, thú quý và cốt yếu nhất, ngay ngày cưới, vùng đất Uli. Đặt tinh thần đất nước lên trên tình cảm gia đình, anh em ruột thịt, vượt qua những lời dị nghị chống đối cuộc hôn nhân dị chủng, vua Trần Anh Tông nhận lời gả em mình là công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân (1). Mặc dầu giao hảo thân thiện bảo đảm một nền hòa bình lâu dài giữa hai nước láng giềng, mặc dầu uy thế của Chế Mân, nhiều người trong triều đình nhà Trần cũng như trong đám sĩ phu phản đối cuộc kết giao chính trị nầy. Vàng thau lẫn lộn! Vàng lộn theo chì! Từ đấy được truyền tụng một câu hát chế nhạo cả Trần Khắc Chung lẫn Chế Mân vì cho "lửa rơm" cũng chẳng hơn gì "nước đục". Tiếc thay hột gạo trắng ngần Đã vò nước đục lại vần lửa rơm. Có những người nặng óc kỳ thị chủng tộc, cho người Chăm là dân man di không khác gì những người mọi rợ sống trong rừng và với lời lẽ khiếm nhã than vãn thân phận nàng công chúa. Tiếc thay cây quế giữa rừng Mặc cho thằng Mán thằng Mường nó leo. Dù sao, người được đề cao trong những câu hát nầy là công chúa Huyền Trân. Nàng được ví với hột gạo trắng ngần hay với cây quế là một cây thuốc quý, hương xạ đậm đà không kém gì mùi trầm. Cây quế Thiên Thai mọc nơi khe đá Trầm hương Vạn Giả hương tỏa sơn lâm Đôi lứa mình đây như quế với trầm Trời xui gặp gỡ sắt cầm trăm năm. Quế có nhiều loại mang tên La Tinh chung Cinnamomum, thuộc họ Long não Lauraceae. Trên thế giới, loại quế đứng đầu thị trường nhờ chất lượng của nó là C. zeylanicum Nees hay Blume mà ta thường gọi là quế quan, được trồng nhiều ở nước Sri Lanka (tên cũ Tích Lan - Ceylan). Nó còn mang tên C. verum Presl. Ở Việt Nam cũng có nhưng ít, mọc rải rác ở vùng Bái Thượng (Thanh Hóa), Co Ba (Nghệ Tĩnh), dọc đường Nha Trang đi Ninh Hòa và ở các vùng ẩm ướt Côn Đảo, Bà Rịa, Tây Ninh. Đứng sau cây nầy là cây quế Trung Quốc C. cassia Blume hay Presl hay Nees et Berth (người Pháp gọi canelle de Chine) tức quế nhục, quế đơn, quế bì, ngọc thụ của ta, rou gui của người Tàu. Nó chủ yếu được trồng ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và mọc rải rác ở Việt Nam. Cây quế mọc hoang và được trồng nhiều khắp vùng rừng núi nước ta, đặc biệt dọc dãy Trường Sơn, từ bắc Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh tới Quảng Nam, Quảng Ngãi là cây quế thanh, quế quỳ C. loureriiNees (người Pháp có tên canelle d’Annam hay canelle royale) (ĐTL). Cây quế nầy ở nước ta dường như được thưởng thức hơn mấy cây quế kia Lên non đón gió tìm trầm, Đốt lò hương xạ em lầm quế thanh. Trong sách Cây cỏ Việt Nam, giáo sư Phạm Hoàng Hộ kê hơn 20 cây quế, trong số ấy thấy được khảo cứu các cây quế rành, quế trèn hay quế lá hẹp C. burmannii, quế lá tà C. bejolghota, quế bạc C. mairei, quế Cambốt C. cambodianum. Quế quan hay quế Tích Lan C. zeylanicum là một loài cây cao 20-25m, có cành non hình bốn cạnh, lá mọc đối, dài, cứng, hình trái xoan hay thuôn, nhẵn bóng, hoa màu trắng vàng nhạt, quả mọng hình trứng thuôn. Nó được trồng bằng cách chiết cành, hoặc đào cây non mọc hoang trong rừng về nhưng chủ yếu vẫn là gieo hạt, sau 4 năm có thể tiến hành thu hoạch. Năm 1972, nó cùng 22 cây khác được đem từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa qua Cộng hòa Dân chủ Đức nghiên cứu tính chất sinh hóa học và sức bền của gỗ, đặc biệt về cellulose và lignium (3). Thành phần hóa học của cây đã được khảo cứu nhiều chục năm nay, đăc biệt phát hiện cinnamaldehyd và linalool, eugenol, benzyl benzoat ở vỏ, terpineol ở rễ, nhưng chỉ gần đây nhờ kết hợp sắc ký khí và phối ký (GC/MS) mới biết được rõ hơn cấu chất dễ bốc hơi của tinh dầu. E-cinnamaldehyd (E = entgegen = trans) có nhiều nhất ở cành cùng phellandren và limonen. Nó xuất hiện dưới dạng acetat cùng với neryl acetat và caryophyllen ở cuống hoa. Z-cinnamaldehyd acetat (Z = suzammen = cis) thì được tìm ra ở nụ và hoa cùng với humulen, cadinen, humulen oxyd, muurolol, cadinol. Còn trái cây thì chứa đựng nhiều linalool bên cạnh các pinen, caryophyllen, cadinen, muurolol. Hóa chất trong tinh dầu chiết xuất từ lá cây thay đổi với nơi cây mọc : ylangen, methyl và ethyl cinnamat ở Sri Lanka, eugenol và benzyl benzoat ở Ấn Độ, pinen, phellandren, cymen, carophyllen, benzyl, cinnamyl và eugenyl acetat ở Trung Hoa. Ở Brazyl, tinh dầu lá cây chứa đựng (%) : eugenol (58,7-55,1), safrol (29,6-38,5) và dầu vỏ cây cinnamaldehyd (54,7-58,4). Về mặt dược liệu, quế Tích Lan là một cây có tính chất sát trùng (5), rất có hiệu quả chống những trùng Gram âm và Gram dương với 200 và 500 ppm (12). Vỏ cây chống nấm mạnh hơn lá cây (5). Tinh dầu cây có tác dụng khử nấm, đặc biệt nấm da (9). Dầu vỏ cây bên Ấn Độ có khả năng khử những nấm Aspergillus niger, A. fumigatus, A. nidulans, A. flavus, Candida albicans, C. tropicalis, C. pseudotropicalis và Histoplasma capsulatum gây bệnh trong các ống hô hấp nên có thể dùng hơi dầu để chữa bệnh nấm nầy ; hoạt chất được xác định là cinnamaldehyd (6). Dầu cây ở Pakistan, ngoài Aspergillus niger, A. flavus, Candida albicans, còn rất hiệu nghiệm chống những nấm Fusarium oxysporum, Microsporum canis, Pseudallescheria boydii, Trichophyton mantagrophytes, T. simii (16). Ở Ghana, dầu đã được dùng để ức chế một số độc tố aflatoxin trên những bao chứa đậu phụng do các loài nấm như Aspergillus flavus, A. parasiticus, A. niger, A. candidus, A. tamarii, A. ochraceous, Fusarum spp., Penicillum spp., Mucor sp., Trichoderma sp., Rhizopus stolonifer sinh ra (13). Tinh dầu cây vừa sát trùng (10) vừa chống những nấm trong các bao dự trữ ngũ cốc, làm cho gạo có phần ngon hơn (7), vì vậy nó đã được dùng làm gia vị và trong mỹ phẩm (4,14). Tinh dầu còn có tính chất chống đau (4), chống oxy hóa (15) với hiệu quả 55,94 và 66,9 % khi dùng nồng độ 100 và 200 ppm (11). Bên ta, quế và tinh dầu quế là những vị thuốc kích thích tiêu hóa, hô hấp và tuần hoàn. Quế có tác dụng làm co mạch, làm tăng bài tiết, tăng co bóp tử cung, tăng nhu động ruột. Người ta dùng quế dưới hình thức rượu quế, xi rô hay rượu cất. Quế đơn, quế bì hay quế Trung Quốc C. cassia là một loài cây có kích thước trung bình 12-17 m, lá mọc so le, dài và cứng, cuống to, hoa mọc thành chùy ở kẽ những lá phía trên, quả hình trứng, thuôn, phía dưới có đài tồn tại hoặc nguyên hoặc hơi chia thùy (ĐTL). Phần chiết nước chứa đựng cinzeylanin, cinzeylanon, anhydrocinzeylanin, anhydrocinzeylanon. Có tính chất suy giảm miễn dịch, nó gồm có coumarin, cinnamic acid, sitosterol và protocatechuic acid. Những chất nầy cũng được tìm ra trong cành cây. Vỏ cành cây chứa cinnamic acid, coumarin, cinnamyl acetat, hydroxy cinnamaldehyd.. bên cạnh thành phần chính (62,4%) cinnamaldehyd. Chất nầy cũng là thành phần chính của dầu vỏ cây với eugenol, coumarin, cinnamic acid, sitosterol, .... Quế đơn đem từ Việt Nam qua trồng bên Trung Hoa được kê là C. cassia macrophyllum : số lượng dầu chiết xuất nói chung vượt hẳn quế bản xứ (%) : 2,0 (so với 1,98) ở vỏ ; 0,36 (so với 0,69) ở cành ; 1,96 (so với 0,37) ở lá ; cinnamaldehyd sản xuất cũng lớn hơn (%) : 61,20 (so với 52,92) ở vỏ ; 77,34 (so với 64,75) ở lá. Người Trung Hoa đánh giá quế ta tốt hơn quế họ để sản xuất thuốc chữa bệnh (19). Về mặt dược liệu, quế Trung Quốc là một thuốc khử nấm (26), chống dị ứng (17), ung thư dạ dày, tiêu chảy (20), làm đổ mồ hôi (18), kháng những chất gây đột biến benzopyren và cyclophosphamid (25). Chống oxi hóa, nó kháng lại H2O2 phá hoại tế bào V-79-4, chất diphenyl picryl hydrazyl có tính chất ngăn chận mọi hoạt động của prolyl endopeptidase với 40 ppm (21), hơn 80% hoạt động của aldose raductase ở chuột với 0,01 mg/ml ; những nhà khảo cứu Hàn Quốc đề nghị dùng nó làm thuốc chữa bệnh đái đường (27). Riêng cinnamaldehyd giảm hạ sự cấu tạo malondialdehyd và hoạt động glutathion S-transferase ở chuột (24). Vỏ cây có tính chất hạ sốt (22), kháng ung thư (28). Trong liều thuốc Tàu Duhuojisheng, quế đơn là một trong 15 cây thuốc đã được xác định cùng với hương độc hoạt Angelica pubescens và nhân sâm Panax ginseng ; hoạt chất chính được chiết xuất là columbianetin acetat (23). Quế thanh, quế quỳ hay quế Thanh Hóa C. loureirii là loài cây cao 12-20m, cành mọc có bốn cánh, dẹt, nhẵn, lá hơi hình trứng đầu hẹp lại, hơi nhọn, hoa màu trắng mọc thành chùy ở kẽ lá hay đầu cành, quả hạch hình trứng, lúc đầu xanh lục, khi chín ngả màu nâu tím, mặt quả bóng (ĐTL). Như quế quan, trồng quế thanh có ba cách : gieo hạt, chiết cành (quế mỏng, kém giá trị) hay bới cây hoang về. Sau 5 năm, có thể bắt đầu thu hoạch nhưng theo kinh nghiệm, cây quế càng lâu năm (20-30 năm hay lâu hơn) càng tốt. Lúc trước bên ta quế thanh được xếp thành 4 hạng : quế phiến thuộc hạng tốt nhất, thứ đến quế tâm thẻ tương đối nhỏ hơn, sau là quế bao tức quế vụn và sau cùng quế nhọn là vỏ các cành nhỏ. Theo giáo sư Đỗ Tất Lợi, việc bóc vỏ quế tiến hành vào các tháng 4-5 và 9-10, lúc quế lắm nhựa, dễ bóc, tránh bóc sót lòng bị coi là kém giá trị. Phần vỏ lấy từ cách mặt đất 0,20-0,40 cm đến 1,20 m gọi là quế hạ căn coi là kém. Từ 1,20 m trở lên đến chỗ quế chia cành thứ nhất gọi là quế thượng châu được coi là quế tốt nhất. Vỏ bóc ở những cành quế to gọi là quế thượng biểu. Vỏ bóc ở cành nhỏ gọi là quế chi. Một cây quế trung bình cho 30 kg quế tốt và 10 kg quế vừa. Tại Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh, quế hái xong phải đem ủ. Nếu ủ không tốt, quế cũng mất giá trị. Quế được cho ngâm nước một ngày, rửa sạch, để khô, cho vào sọt với lá chuối khô, đậy kỹ, buộc chặt. Mùa nóng ủ 3 ngày, mùa lạnh 7 ngày. Lúc hơi nước bốc ở quế lên ướt là lúc quế vừa chín. Quế được lấy ra, lại đem ngâm nước 1 giờ rồi cho ép giữa phên nứa cho đến khô. Từ khi ủ cho đến khi được quế thường phải 15-16 ngày (mùa nóng) đến 1 tháng (mùa lạnh), có khi 2 tháng tùy theo cây to, nhỏ. Sau đó quế được quấn vải, cho vào ống kẽm hay hòm gỗ lót kẽm, dưới có mật ong để giữ độ ẩm vừa, như vậy mới khỏi khô dầu, bảo vệ được hương vị (ĐTL). Quế Thanh Hóa tương đối ít được nghiên cứu về mặt khoa học. Như các loại quế khác, chất chiếm phần lớn tinh dầu là cinnamaldehyd, những acid mỡ nhiều nhất là (%) dodecanoic (58,0) và decanoic acid (37,5). Trong vỏ cây có chút ít vitamin B (6,2 ppm), nhiều tannin là chất tetrahydro flavandiol trùng hợp. Cành cây chứa đựng những sterol : sitosteol, campesterol, stigmastanol. Chất mỡ chiết xuất từ hột cây (37%) đem kết tinh trong aceton cống hiến một tinh thể dilauryl monocarpin. Một công tác khảo cứu đầy đủ nhất được thực hiện trên rễ, vỏ và gỗ cây. Trong rễ được phát hiện gần 30 hóa chất : 10 monoterpen, 6 sesquiterpen, 8 chất thơm bên cạnh sitosterol, palmitic acid, stearic acid và những hydrocarbon. Vỏ cây chứa đựng cinnamaldehyd, cinnamic acid, fenchen, những pinen, camphen, linalool, camphor, cinnamyl acetat, coumarin, eugenol, .... Còn trong gỗ cây thì có pinen, cineol, copaen, linalool, terpinol, camphor, eugenol, .... Quế thanh nằm trong số các cây thuốc có tính chất chống u khối (30). Theo tài liệu cổ, quế có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, hơi có độc, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng bổ mệnh môn tướng hỏa, trị cố lãnh trầm hàn, dùng chữa chân tay co quắp, lưng gối tê mỏi, bụng quặn đau, kinh nguyệt bế, tiểu tiện bất lợi, trên nóng dưới lạnh, ung thư. Người âm hư dương thịnh, phụ nữ có thai không dùng được. Đông y coi quế là một vị thuốc bổ, có nhiều công dụng, có khi chữa cả đau mắt, hoi hen, bồi bổ cho phụ nữ sau sinh nở, bệnh đau bung đi tả nguy hiểm đến tính mệnh. Tuy nhiên cần thận trọng trong việc dùng quế (ĐTL). Quế với trầm là hai tiên nữ trong rừng sâu. Người xưa đã không lầm khi ví công chúa Huyền Trân với cây quế. Trong cuộc đời long đong, chắc nàng đã hơn một lần khóc thầm nơi vương triều đất khách hay trong chốn tĩnh mịch chùa chiền. Cuối thế kỷ 18, nhà ngoại giao Hi Doãn Ngô Thời Nhiệm hình dung những giọt mắt u sầu của nàng đã hóa thành tiếng mưa đêm mùa xuân trên cành mai cũng là cây quý Huyền Trân sái tận u sầu lệ Hóa tác xuân mai dạ vũ thanh. Nghiên cứu và Phát triển 4-5(47-48) 2004, vietsciences 06.2006 Tham khảo 1- Georges Maspero, Le royaume de Champa, Ecole Française d’Extrême-Orient, Paris (1988) 177-191 2- Nguyễn Văn Huy, Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam, Thông Luận (4) (2003) 29 ; (6) (2003) 23
Cinnamomum zeylanicum
3- H. Goetze, G. Schultze-Dewitz, Structure and physicochemical and strength properties of the wood of tropical southeast Asian tree species, Holztch. 13(3) (1972) 167-72
4- B. Cheng, X. Yu, Cultivation of Ceylon cinnamon and chemical components of ist essential oil, Zhongcaoyao 14(3) (1983) 134-7
5- P.J. Raharivelomanana, G.P. Terrom, J.P. Bianchini, P. Coulanges, Study of the antimicrobial action of various essential oils extracted from Malagasy plants. II : Lauraceae, Arch.Inst. Pasteur Madagascar, 56(1) (1989) 261-71
6- H.B. Singh, M. Srivastava, A.B. Singh, A.K. Srivastava, Cinnamon bark oil, a potent fungitoxicant against fungi causing respiratory tract mycoses, Allergy 50(12) (1995) 995-9
7- R. Tiwari, V. Dixit, Organoleptic properties of rice treatad with the essential oil of Cinnamomum zeylanicum, Ind. Perf. 39(2) (1995) 67-9
8- M.B. Gewali, S. Manandhar, S. Thapa, A.H. Banskota, J.K. Shrestha, Studies on polygalacturonase from Aspergillus niger, J. Nepal Chem. Soc. 16 (1997) 18-22
9- M. Mastura, M.A.N. Azah, S. Khozirah, R. Mawardi, A.A. Manaf, Anticandidal and antidermatophytic activity of Cinnamomum species essential oils, Cytobios 98(387) (1999) 17-23
10- S.C. Chao, D.G. Young, C.J. Oberg, Screening for inhibitory activity of essential oils on selected bacteria, fungi and viruses, J. Essent. Oil Res. 12(5) (2000) 639-49
11- G.K. Jayaprakasha, L.J.M. Rao, K.K. Sakariah, Volatile constituents from Cinnamomum zeylanicum fruits stalks and their antioxidant activities, J. Agri. Food Chem. 51(15) (2003)4344-8
Cinnamomum verum
12- I.A. El-Kady, S.S.M. El-Maraghy, M.M. Eman, Antibacterial and antidermatophyte activities of some essential oils from spices, Qatar Univ. Sci. J. 13(1) (1993) 63-9
13- R.T. Awuah, K.A. Kpodo, High incidence of Aspergillus flavus and aflatoxins in stored groundnut in Ghana and the use of a microbial assay to assese the inhibitory effects of plant extracts on aflatoxin synthesis, Mycopathologia 134(2) (1996) 109-14
14- P.P. Joy, J. Thomas, S. Mathew, Cinnamon (Cinnamomum verum Presl) for flavor and fragrance, PAFAI J. 20(2) (1998) 37-42
15- J.N. Dhuley, Anti-oxidant effects of cinnamon (Cinnamum verum) bark and greater cardamon (Amomum subulatum) seeds in rats fed high fat diet, Ind. J. Exp. Biol. 37(3) (1999) 238-42
16- Atta-Ur-Rahman, M.I. Choudhary, A. Farooq, A. Ahmed, M.Z. Iqbal, B. Demirci, F. Demerci, K.H.C. Baser, Antifugal activities and essential oil constituents of some species from Pakistan, J. Chem. Soc. Pakistan 22(1) (2000) 60-5
Cinnamomum cassia
17- T. Nohara, Y. Kashiwada, T. Tomimatsu, I. Nishioka, Studies on the constituents of Cinnamomum cortex. Part VII. Two novel diterpenes from bark of Cinnamomum cassia, Phytochem. 21(8) (1982) 2130-2
18- C. Cai, X. Guan, Determination of the soluble calcium contents in two groups of Chinese traditional drugs, Zhongcaoyao 15(2) (1984) 61-2
19- Z. Zhu, Y. Feng, H. Fang, G. Liu, N. Li, Q. Hu, H. Chen, Y. Wang, Source utilization of macrophyllous cassia bark tree (Cinnamomum cassia var. macrophyllum) and its comparison with indigenous cassia bark tree (C. cassia) of China, Zhongcaoyao 16(7) (1985) 316-20
20- Z.P. Zhu, M.F. Zhang, Y.Q. Shen, G.J. Chen, Pharmacological study on spleen-stomach warming and analgesic action of Cinnamomum cassia Presl, Zhongguo zhongyao zazhi 18(9) (1993) 553-7, 514-4
21- K.H. Lee, H.J. Lee, H.I. Park, E.O. Hong, K.S. Song, Screening of prolyl endopeptidase inhibitors from natural products, Yakhak Hoechi 41(2) (1997) 153-60
22- M. Kurokawa, C.A. Kumeda, J.I. Yamamura, T. Kamiyama, K. Shiraki, Antipyretic activity of cinnamyl derivatives and related compounds in influenza virus-infected mice, Pharm. 348(1) (1998) 45-51
23- H. Wang, Z. Suixu, L. Zhang, P. Sun, Quality standard of Duhuojisheng oral solution, Zhongguo Yaoxue Zazhi 34(3) (1999) 185-7
24- J. Choi, K.T. Lee, H. Ka, W.T. Jung, H.J. Park, Constituents of the essential oil of the Cinnamomum cassia stem bark and the biological properties, Arch. Pharm. Res. 24(5) (2001) 418-23
25- N. Sharma, P. Trikha, M. Athar, S. Raisuddin, Inhibition of benzo[ a] pyrene- and cyclophosphamide-induced mutagenicity by Cinnamomum cassia, Mut. Res. 480-1(2001) 179-88
26- H. Sun, Study on antifungal effects of some Chinese medicines and their essential components, Zhonguo Zhongyao Zazhi 26(2) (2001) 99-102
27- M.K. Kim, S.Y. Kim, H.S. Lee, Rat lens aldose reductase inhibitory activities of oriental medicinal plants, Agric. Chem. Biotech. 45(2) (2002) 84-8
28- H. Ka, H.J. Park, H.J. Jung, J.W. Choi, K.S. Cho, J. Ha, K.T. Lee, Cinnamaldehyde induces apoptosis by ROS-mediated mitochondrial permeability transition in human promyelocytic leukemia HL-60 cells, Cancer Letters 196(2) (2003) 143-52
29- S.E. Lee, H.J. Hwang, J.S. Ha, H.S. Jeong, J.H. Kim, Screening of medicinal plant extracts for antioxidant activity, Life Sci. 73(2) (2003) 167-79
Cinnamomum loureirii
30- K. Sakuma, Antitumor health foods from natural products, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11279058 A2 19991012 (1999) 9 tr
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:48:09 GMT 9
44 - Sấu đâu, cây thuốc trị bá chứng Sầu đâu trong héo ngoài tươi Vui là vui gượng, cười là cười khuây Ca daoSầu đâu là một cây quen thuộc ở Việt Nam. Nó mọc ở ngoài Bắc cũng như ở trong Nam, trên đồi núi cùng suốt miền đồng bằng. Ông cha ta đã từng hái lá bỏ vào chum vại để trừ sâu, nấu nước tắm súc vật, sắc thuốc từ vỏ thân, vỏ rễ, hột, lá để tẩy giun, diệt trùng, chữa bệnh ngoài da hay viêm âm đạo. Tuy đã được dùng từ lâu trong hệ thống Ayurvedic bên Ấn Độ, trình bày trong các sách y khoa Phạn tự thời xưa như Susrutasanhita, được thế giới chú ý từ hơn một nửa thế kỹ nay, mãi đến gần đây nó mới được các phòng thí nghiệm, các hãng kỹ nghệ khảo cứu sâu rộng để khai thác những hoạt chất độc đáo của nó. Một số lớn luận án tiến sĩ, các văn bằng sáng chế đã nghiên cứu cặn kẽ cấu trúc, thành phần hóa học cùng những tính chất dược lý của những hoạt chất ấy. Không hiếm những bản tổng kết đăng ở các báo và những sách chuyên môn xuất bản riêng biệt gom góp những kết quả đạt được. Các nhà khảo cứu còn tổ chức nhiều hội nghị quốc gia như bên Ấn Độ hay quốc tế : Rottach Egern (1980), Rauisch Holzhausen (1983), Eschborn (1984) Sofia (1985), Nairobi (1986),.... để trình bày, trao đổi, thảo luận về những cơ chế tổng hợp hay tác dụng của những hoạt chất lên các cơ quan sinh vật. Năm 1995, cả một bộ sách dày hàng trăm trang gồm hàng chục chương đi vào chi tiết của mọi lãnh vực khảo cứu (1). Trong rất lâu, vấn đề danh từ chưa được thống nhất. Tên các hóa chất được đặt ra rất hỗn độn, không theo một hệ thống hay một trật tự nào. Ở Việt Nam ta ngay cả tên cây cũng chưa được định nghĩa rõ ràng. Cuốn Tự điển Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội (Hà Nội 1994, tr.824) chưa phân biệt cây xoan và cây sầu đâu. Ở Huế tên còn được thi vị hóa thành sầu đông. Trong cuốn Cây thuốc Việt Nam của Viện Dược liệu, Nxb Khoa học và Kỹ thuật (Hà Nội 1990, tr.97, 263), cũng như trong các cuốn Thuốc trị bệnh từ cây cỏ hoang dại của Lê Quý Ngưu và Trần Như Đức, Nxb Thuận Hóa (Huế 1995, tr.394), Les plantes médicinales au Vietnam của ACCT (Paris 1990, tr.151), cả hai tên xoan và sầu đâu (hay sầu đau) đều được đặt cho cây Melia azedarach. Xin tạm gác một bên những tên xoan rừng, sầu đâu rừng, sầu đâu cứt chuột dành cho cây Brucea javanica (Linn.) Merr. thuộc họ Thanh thất Simaroubaceae và tên sadao hay sầu đâu Thái Lan đặt cho cây Azadirachta indica siamensis. Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong cuốn Cây cỏ Việt Nam (Montréal 1992, Q.II, t.1, tr.487) sầu đâu là Azadirachta indica Juss., sầu đâu cao là Azadirachta excelsa (Jack) Jacobs, còn xoan là Melia azedarach L., xoan đào là Melia azedarach cultivar tosendam, tất cả thuộc họ Xoan Meliaceae. Trong sách Những cây thuốc thông thường, Nxb Đồng Tháp (Sa Đéc 1987, tr. 265) Võ Văn Chi cũng gọi Azadirachta indica là sầu đâu, còn thêm tên xoan đào. Sau cùng, Giáo sư Đỗ Tất Lợi trong cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật (Hà Nội 1986, tr.181, 1147) thì cho sầu đâu là Melia azedarach, thêm vào các tên xoan trắng, xuyên luyện, khổ luyện, đốc hiên,.... Sau đó ông phân biệt Melia azedarach hay Melia indica là xoan Ấn Độ, còn Melia toosendam là xoan Tứ Xuyên hay xoan Tây Bắc. Kiểm điểm những cách gọi vừa thấy, dựa lên đề nghị của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, trong khi chờ đợi ý kiến của các nhà thảo mộc, xin tạm thời thống nhất các tên thành 3 nhóm : * Sầu đâu là Azadirachta indica A.Juss. Người Ấn Độ trước kia đặt tên bakayan khác với nim (hay neem) từ chữ phạn mahanimba. Người Telugu có tên vepa. Âu Mỹ dùng danh từ china berry, china tree, neem tree hay margosa. Vì vậy hóa chất có những tên bakayanic acid, neobakayanin, nimbin, nimbinon, nimbinal, margosa, margocin, margoson,... azadirachtin, azadirachtol, azadirachion, vepaol. * Xoan hay xoan Ấn Độ là Melia azedarach Linn. Người Ấn Độ gọi nó là djharek, còn Âu Mỹ thì có tên berry tree, có khi cũng gọi china berry. * Xoan Tứ Xuyên là Melia Toosendam Sieb. et Zucc. Cây sầu đâu được các nhà khảo cứu Ấn Độ và Pakistan chú ý trước tiên và rất nhiều vì nó đã được kê khai vào những môn thuốc cổ truyền các nước ấy. Có tác dụng trong lãnh vực chống viêm, kháng vi khuẩn, kích thích miễn dịch, nó được tôn vinh là "cây dược phẩm trong làng" (2). Thật ra cây sầu đâu mọc ở nhiều nơi, ở Việt Nam cũng như ở các nước khác, từ châu Á qua châu Phi, đặc biệt ở Nigeria. Vào thập niên 30, máy móc phân tích chưa tinh vi, công thức các hóa chất chưa được biết rõ ràng. Khảo cứu có hệ thống chỉ bắt đầu với những công tác của S. Siddiqui ở Viện Đại học Karachi (Pakistan) từ những năm đầu thập niên 40. Hoạt chất nằm trong đủ mọi bộ phận của cây, từ hoa, lá, trái, hột qua thân, nhựa, cành, rễ. Ứng dụng của chúng bao gồm các lãnh vực canh nông, y khoa và ngay cả chút ít kỹ nghệ: bảo vệ mùa màng, chữa đủ thứ bệnh, chế tạo kính men. Việc khảo cứu tính chất trừ khử sâu bệnh đã được tăng gia những năm gần đây, mỗi năm hàng chục bản báo cáo trình bày tác dụng các hoạt chất của cây lên các loài sâu bọ. Hoạt chất được chiết xuất nhiều nhất là từ trái cây, phần lớn ở những trái chín tươi. Nhiều liều thuốc dùng ngay phần chiết thô. Một số lớn hóa chất được chiết từ hột, trung bình trọng lượng chiếm 10% của trái. Nhiều nghiên cứu chỉ cách ép hột ra dầu (thường được gọi neem oil, 45%) rồi mới chiết xuất từ dầu. Dung môi thường được dùng là rượu (methanol, ethanol), aceton, ether, ether dầu hỏa, chloroform, .... và nước. Cũng có phương pháp tách từ dầu ra một chất đắng vô định hình (25%) cống hiến hoá chất qua các phép rửa, lọc, làm ròng. Hóa chất quan trọng đầu tiên được chiết ra là azadirachtin hay ấn khổ luyện tử tố. J.H. Butterworth và D.E. Morgan ở Viện Đại học Keele bên Anh ngâm hột sầu đâu trong ethanol rồi dùng phép sắc ký trên alumin tách ra một chật vô định hình. Sau nhiều lần lọc qua sắc ký lớp mỏng và cho tan hòa trong carbon tetrahydrochlorid, azadirachtin kết tinh thành bột, năng suất 0,7g /kg. Về dung môi chiết xuất, sau nầy đã thấy có dùng hỗn hợp ethanol-nước, ethanol-hexan, một mình hexan hay dùng hexan rửa hột rồi mới chiết xuất với ethanol, năng suất đạt đến 5g/2kg. Cũng có thể dùng nước để chiết nhưng sau đó phải chiết lại với ethylacetat. Có báo cáo đã đề nghị dùng carbon dioxyd tới hạn trong một hệ thống luồng động thì ngoài azadirachtin còn chiết được cả salanin, nimbin, tiglyolazadirachtol và genunin. Nhưng muốn có azadirachtin thật ròng (hơn 99%) thì phải cho nó qua máy sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC. Azadirachtin ròng cần thiết để xác định cấu trúc của nó qua các phương pháp cọng hưởng từ hạt nhân NMR, quan tuyến X, phối ký MS, đánh dứt một cuộc thảo luận giữa K. Nakanishi, W. Kraus và H.B. Broughton trong gần 15 năm sau 1975. Ngày nay, nhiều azadirachtin đồng vị đã được chiết xuất : loại A và B có nhiều nhất, C và D chỉ có ít. Dùng phép HPLC thì đồng thời với các azadirachtin kia, những nimbin, nimbolid, ohchinolid, deacetynimbin, azadiradion, salanin, ba azadirachtin H, I, K cùng hydroxy norazadirachtin cũng được chiết ra. Một văn bằng sáng chế được đề nghị sản xuất azadirachtin bằng phương pháp cấy mô, dùng Agrobacterium tumefaciens gây nhiễm vào mô Azadirachta indica. Sau azadirachtin, phân tử được kảo cứu cặn kẽ nhất về cấu trúc là nimbin. Chất nÀy được S. Siddiqui chiết xuất từ 1942 trong dầu cùng với nimbinin và nimbidin. Sau đó, ông khảo cứu rất nhiều về những chất tương tự trong đủ các bộ phận của cây. Mãi đến 1959 mới thấy có khảo cứu về cấu trúc, tính chất hóa học, hóa học lập thể, .... và nguồn gốc : nimbin cùng như salanin có thể đều phát xuất từ vilasamin tìm ra trong lá. Ngoài azadirachtin, cây sầu đâu tổng hợp và tích lũy rất nhiều loại hóa chất, từ những muối như Ca, Cu, Fe, K, Na, Zn trong gỗ, trong dầu, ngay cả muối quinin, những chất hữu cơ đơn giản như alcan, sulphid thơm mùi hành tỏi, amin trong nhựa đến những phức tạp như flavanol trong hoa, trong lá, steroid trong gỗ, trong lá, đường trong nhựa, trong vỏ. Amin acid cũng có mặt trong nhiều bộ phận của cây : hoa, lá, dầu, nhựa. Ngoài ra, khoảng 120 hoá chất hữu cơ có vòng kín no hay không, mang đủ chức acid, alcool, ester, ether, epoxyd, ceton, .... Hầu hết các tên được đặt không theo một danh pháp nào. Những danh từ được dùng nhiều để làm gốc là azadirachta (azadirachtin, azadirachtinol, hay cắt ngắn lại thành azadiron, azaditol), nim (nimbin, nimbandiol) và margosa (margosin, margoson). Azadirachtin và các hoạt chất khác của cây đã được thử nghiệm lên nhiều loại sâu bọ, từ châu chấu, bọ hung qua dế mèn, sâu đậu, sâu lúa,.... Tác dụng đầu tiên của là xua đuổi hoặc ngừa ăn trước khi sâu bọ cắn vào lúa, đậu hay trái cây. Nếu lỡ ăn vào thì một loạt phản ứng khác tác dụng lên nền sinh lý thần kinh và cơ thể chúng chẳng hạn để dừng chậm hay ngăn chặn quá trình biến thái của nhộng trần. Cả bốn azadiractin đều có tác động tương tự lên sâu đậu và bọ hung. Một phần các bản báo cáo chỉ định rõ ràng các hoạt chất, một phần cho biết là một phần chiết nhưng không biết từ bộ phận nào của cây hay trình bày qua một tên thương mãi : Margocide OK, CK, Neem-Azal, RB-a, RB-b, hoặc Margosan-O, Azatin, RH-99099, Neem PTI-EC4, NSE,.... Trong y khoa, nhờ cống hiến chất bổ, làm se nên vỏ cây được dùng khi buồn nôn, oẹ mửa (16), để chữa tăng tiết dạ dày, loét thực quản, loét tá tràng (24). Phần chiết của hột có tác động lên tinh trùng nên được dùng ngừa thai (19). Lá dùng để chữa bệnh vàng da, đau gan, eczema (7). Hoạt chất diệt trùng, chống viêm thường được chỉ định trong phần chiết : nimbolid, nimbidin và nimbic acid trong hột, polysaccharid, nimbionon và nimbionol trong vỏ, alkenal, methylbutenol, flavanol glycosid trong lá, amin acid trong lá và vỏ. Nimbonon và nimbinol đã được đem thử với các vi khuẩn Gram dương như Bacillus subtilis, Staphylococcus epidermicis, S. aureus, và các vi khuẩn Gram âm như Klebsiella ozaen cùng khác vi khuẩn S. citreus, Streptococcus lactis, Acinetobacter calcoaceticus (15). Bên phần nimbolid thì tác dụng rất mạnh lên S. aureus, S. coagulase cũng như nimbic acid lên S. aureus, B. subtilis, S. coagulase và Diphtheroidae (9).Tính chất gây kháng thể (18), chữa loét, khối u (12,18), giảm hạ đường trong máu (23) đã được đề cập đến. Một tính chất cũng khá quan trọng là diệt muỗi, chữa trị sốt rét. Azadirachtin đã cho kết quả hiệu nghiệm theo thứ tự : Aedes togoi = Anopheles stephensi > Culex quinquefasciatus > Aedes aegypti Chiết từ lá, isonimbocinolid đã được thử lên Aedes aegypti (11), alcan Me(CH2)nMe (n = 16,17,24,32) lên Culex pipiens fatigans (8). Chiết từ hột, dipropyl disulphid diệt muỗi Aedes aegypti. Những chất có lưu huỳnh đóng vai trò trong việc xua đuổi không những muỗi mà còn các loài sâu bọ khác như sâu thuốc lá Heliothis virescens, sâu lúa mì H. zea (14). Gedium cũng là một chất chống sốt rét hiệu nghiệm (17). Một tính chất đã từng được biết ở nước ta là dầu sầu đâu không kích thích da (20) nên phần chiết từ hoa, lá, cành, rễ đã được pha trộn với nhiều chất khác để làm thuốc bảo vệ da (4,5), xà phòng liệu pháp (21), xà phòng chữa nấm da (22). Phần chiết từ hột được dùng để chữa da đầu, bảo dưỡng tóc, phòng ngừa tóc rụng (6). Còn phần chiết từ lá, gỗ, vỏ, thân pha với ethanol 90% thì được dùng trong việc phòng ngừa và chữa trị viêm lợi, viêm khớp răng (3). Sau cùng, qua một lãnh vực khác, tro gỗ thân cây được dùng trong kỹ nghệ đồ gốm : nhờ kích thước đúng mức, bản chất vô định hình, do đó khả năng phản ứng lớn, người ta đã đem nó thay thế calcite trong việc chế tạo kính, men phải nung lên đến 1250 độ. Như vậy, từ canh nông, y khoa qua kỹ nghệ, cây sầu đâu đã đóng góp đắc lực. Tạo hóa đã khéo tổng hợp, chỉ trong một cây mà không biết bao nhiêu là hóa chất : cây sầu đâu thật là một nhà máy hóa học tinh vi mà chưa có một thực hiện nào của con người có thể sánh được. Đặc biệt, trong số các hóa chất tự nó chế tạo ra, azadirachtin cũng như salanin, nimbin, deacetylnimbin đã từng được lập công thức thành thuốc trừ sâu bọ, bảo vệ mùa màng, hoa quả (10), bên cạnh các chất thuốc khử trùng, chống viêm, chữa loét, khối u, diệt muỗi, chữa trị sốt rét, bao dưỡng da, tóc, phòng ngừa thụ thai,.... để chỉ kể một số ứng dụng thường gặp. Thật dễ hiểu khi thấy những hãng thuốc Hoa Kỳ muốn ghi văn bằng đoạt chiếm một tài nguyên quí báu như vậy, một tài nguyên mà nước ta chú trọng về canh nông, bị nhiều bệnh nhiệt đới hoành hành, không thể không kiếm cách khai thác. Thông tin khoa học và Công nghệ 3 1996, khoahoc.net 01.2012 Tham khảo 1- Neem tree, Azadirachta indica A. Juss. Others meliaceous plants, Schmutterer Helmut Ed., VCH (Weiheim, Đức 1995)
2- Le neem ou arbre-pharmacie du village, Nutranews (10) (2004) 20-23
3- Keimiat G.m.b.H., Dental care compositions from Azadirachta indica, Brit. 1,314,136 (1973) 3 tr.
4- H. Sawanobori, H. Tanaka, K. Saito, Y. Takeuchi, S. Shirasawa, S. Saito, Melia azedarach extracts for skin cosmetics, Japan 77 28,853 (1977) 2 tr.
5- H. Sawanobori, H. Tanaka, K. Saito, Y. Takeuchi, S. Shirasawa, S. Saito, Melia azedarach extracts for skin cosmetics, Japan 77 28,854 (1977) 2 tr.
6- A. Latif, Formulation for treating hair, Brit. UK Pat. Appl. 2,000,971 (1979) 2 tr.
7- S. Siddiqui, B.S. Siddiqui, S. Faizi, T. Mahmood, Isolation of tetranortriterpenoid from Azadirachta indica Phytochem. (12) 23 (1984) 2899-901
8- S.R. Lange, Chemistry of alkanes separed from leaves of Azadirachta indica and their larcival insecticidal activity against mosquitoes, Schriftenr. GTZ (1984) 161 (Nat. Pestic. Neem Tree Other Top. Plants) 59-65
9- W. Rojapano, S. Suwanno, S. Somjaree, T. Glinsukon, Y. Thebtaranont, Mutagenic and antibacterial testing of nimbolide and nimbic acid, J. Sci. Soc. Thailand (4) 11 (1985) 177-81
10- K. Feuerhake, H. Schmutterer, Development of a standardized and formulated insecticide from a crude neem kernel extract, Z. Pflanzenkrankh. Pflanzenschutz (6) 92 (1985) 643-9
11- S. Siddiqui, S. Faizi, T. Mahmood, B.S. Siddiqui, Isolation of a new tetranortriterpenoid from Azadirachta indica Juss (Meliaceae), Heterocycles (5) 24 (1986) 1319-24
12- S. Siddiqui, S. Faizi, T. Mahmood, B.S. Siddiqui, Two new insect growth regulator meliacins from Azadirachta indica A. Juss (Meliaceae), J. Chem.Soc. Perkin Trans 1 (1986) 1021-5
13- C. Nishimura, Y. Kumazawa, S. Yamamoto, M. Shimizu, Y. Tamura, T. Normura, Polysaccharides as enhancers of antibody formation, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 62,167,729 (1987) 6 tr.
14- M.F. Balandrin , S.M. Lee, J.A. Klocke, Biological active volatile organosulfur compounds from seeds of the neem tree, Azadirachra indica (Meliaceae), J. Agric. Food Chem. (5) 36 (1988) 1048-54
15- S. Siddiqui, I. Ara, S. Faizi, T. Mahmood, B.S. Siddiqui, Phenolic tricyclic diterpenoids from the bark of Azadirachta indica, Phytochem. (12) 27 (1988) 3903-7
16- I. Ara, B.S. Siddiqui, S. Faizi, S. Siddiqui, Structurally novel diterpenoid constituents from the stem bark of Azadirachta indica (Meliaceae), J. Chem. Soc Perkin Trans 1 (1989) 343-5
17- S.A. Khalid, H. Duddeck, M. Ganzalez-Sierra, Isolation and characterization of an antimalarial agent of the neem tree Azadirachta indica, J. Nat. Prod. (5) 52 (1989) 922-7
18- P.G.K. Kigodi, G. Blasko, Y. Thebtaranoth, J.M. Pezzuto, G.A. Cordell, Spectroscopic and biological investigation of nimbolide and 28-deoxonimbolide from Azadirachta indica, J. Nat. Prod. (6) 52 (1989) 1246-51
19- S. Garg, G. Doncel, S. Chabra, S.N. Upadhvay, G.P. Talwar, Synergetic spermicidal activity of neem seed extract, reetha saponins and quinine hydrochloride, Contraception, (2) 50 (1994) 185-90
20- S.K. Tandan, S. Gupta, S. Chandra, J. Lal, R. Singh, Safety evaluation of Azadirachta indica seed oil, a herbal wound dressing agent, Fitoterapia (1) 66 (1995) 69-72
21- Y. Li, Preparation of therapeutuc toilet containing margosa seed oil, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1297028 (2001) 5 tr.
22- Y. Li, Medical soap fortinea treatment containing margosa seed oil, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1297029 (2001) 5 tr.
23- A.S. Chauhan, K.B. Chalasani, S. Surapanini, S.K. Yandrapu, R. Kataram, G.M. Chary, P.V. Diwan, K.V. raghavan, Therapeutic/edible compositions comprising herbal ingredients and methods for treating hyperglycemia, U.S. Patent Appl. Publ. US 20030180399 (2003)
24- U. Bandyopadhyay, K. Biswas, A. Sengupta, P. Moitra, P. Dutta, D. Sarkar, P. Debnath, C.K. Ganguly, R .K. Banerjee, Clinical studies on the effect of neem (Azadirachta indica) bark extract on gastric secretion and gastroduodenal ulcer, Life Sci.(24) 75 (2004) 2867-78
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:50:15 GMT 9
45 - Trận chiến mù uBướm vàng đã đậu trái mù u rồi Lấy chồng sớm làm gì để lời ru thêm buồn Trần TiếnNgười Huế hay tự hào về một chuyện đánh thắng Tây thời Tự Đức. Thấy quân Pháp, trong các cuộc duyệt binh, khi bước không co chân, tưởng họ không có đầu gối, vậy chỉ việc kiếm cách đánh ngã xuống đất thì họ không đứng lên lại được! Cũng như ta đã tưởng nước miếng của họ có hồ vì chỉ liếm vào là dán được tem. Nhà học giả Đông phương Thái Văn Kiểm dựa lên truyến thuyết kể chiến thắng nầy :"Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã tắc, bèn lấy trái mù u, đổ ra đầy đường. Quân Pháp đi giày da, đạp lên mù u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy ra đánh áp la cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì vậy mới gọi là trận giặc mù u. Ngày nay, hai bên đường Xã tắc, còn hai hàng mù u cao ngất nghễu thỉnh thoảng rụng trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang sử oanh liệt." (1). Một người quê gốc Huế, anh Võ Hương An, rất am hiểu những sự tích ở chốn Thần kinh, tìm hiểu sâu rộng thì nhận ra chuyện vậy mà không phải vậy (4a). Tối hôm 22 tháng 5 năm Ất Dậu tức là ngày 04.07.1885, hai vị đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thật muốn tấn công quân Pháp ở Trấn Bình Đài tức Mang Cá, không quên cho rải trước đồn những trái bàng và mù u. Suốt đêm, trước pháo đạn của ta, quân Pháp bình tĩnh thế thủ trong hầm, đợi đến rạng ngày 23 mới phản công. Quân ta ít thuốc đạn, thiếu tổ chức, tán loạn bỏ chạy, đạp lên các trái bàng và mù u, té ngã, chà đạp lên nhau, rất nhiều người chết. Thì ra gậy ông đập lại lưng ông! Và không có chuyện đánh thắng Tây, cũng không phải ở đàn Xã tắc. Theo nhà văn Pierre Loti, tức trung úy hải quân Julien Viaud, thì quân Pháp chỉ đánh chiếm Thuận An rồi thương thuyết đểđặt nền bảo hộ lên nước ta nên không có chuyện quân Pháp từ Thuận An lên đánh thành Huế (4b). Nếu sự tích được bố trí ở đàn Xã tắc thì có lẽ vì trước đàn nầy có trồng cây mù u. Câu hỏi không được trả lời rõ ràng là tại sao mù u được trồng ở đàn Xã tắc cũng như cây thông trước Văn thánh, cây bàng truớc Võ thánh? Văn thánh trồng thông, Võ thánh trồng bàng, Ngó vô Xã tắc: hai hàng mù u. Một giải thích theo lối chơi chữ (4a), ít được xem có sức thuyết phục, cần phải được dè dặt đón nhận với tất cả tính thận trọng cần thiết nếu không là để tìm hiểu cách lập luận của một số người Huế : Văn thánh hay Văn miếu là nơi văn học thì phải tinh thông nghĩa lý văn chương sách vở, nên trồng thông để nhắc nhủ người đi học. Võ thánh hay võ miếu là nơi tượng trưng cho việc dụng binh thì phải luận bàn kế hoạch cho chu đáo nên phải trồng bàng. Cần phải biết người Huế khi phát âm không phân biệt chữ có g và chữ không có g. Còn Xã tắc là đàn được lập ra năm Gia Long thứ năm (1806) để thờ các thần chủ về đất đai (TháiXã Thần) và mùa màng (Thái Tắc Thần), tức là nơi giao tiếp với đất trời mà thiên địa là mịt mù nên người ta mới trồng cây mù u để tượng trưng !!! Còn được gọi hồ đồng, nam mai, cây mù u mang tên khoa học Calophyllum inophyllum L. (hay Balsamaria inophyllum Lour.) thuộc họ Măng cụt Clusiaceae (3) hay Bứa Guttiferae (ñTK, PHH). Tiếng Hy lạp kalos có nghĩa là đẹp và phullon là lá. Tiếng Phạn gọi nó là punnaga nên Ấn Độ có tên punna hay punnagam, Miến Điện có tên ponnyet. Tây phương có những tên ballnut, laurel wood, laurier d’Alexandre. Bên đảo La Réunion, cây được gọi takamaka và mang tên khoa học Calophyllum tacamahaca Willd. (hay C. lanceolarium Roxb., hay C. lanceolatum Blume. hay C. spectabile Willd.)(5). Trong các đảo khác, còn có những tên domba ở Tích Lan, tamanu ở Tahiti, Tonga, kamani ở Hawai, dilo ở Fiji, fetau ở Samua, nambagura ở Vanuatu, faroha ở Madagascar ..... Trong chi Calophylum bên ta còn có khoảng 15 cây khác phần lớn mang tên còng (tía, nước, trắng, đa, dây, núi, nhám, nhiều hoa, ....), bên cạnh những tên choi, rù ri, vấy ốc (PHH). Cây cao chừng 15-20m, có lá mọc đối, mỏng, thon dài, phía cuống hơi thắc lại, đầu lá hơi tù, gân nhỏ, nhiều, chạy song song và nổi rõ ở cả hai mặt lá ; hoa khá to, thơm, màu trắng, mọc thành chùm xim ở kẽ lá hay đầu cành ; quả hạch hình cầu, khi chín có màu vàng nhạt, vỏ quả giữa mẫm, vỏ quả trong dày, cứng ; hạt có lá mầm chứa rất nhiều dầu. Mùa hoa: tháng 2-6, từ xa người ta phân biệt được cây mù u với cây khác nhờ màu trắng đặc biệt của hoa; mùa quả chín : tháng 10-12 (ñTL), có thể dùng để bổ sung cho đường phố và công viên (3b). Cây mù u có ưu điểm là dễ trồng, dễ mọc trên các loại đất, từ vùng đầm lầy, ven biển đến đồi trọc khô cằn (2), cần được chọn lọc làm vật liệu phục hồi các hệ sinh thái phòng hộ vùng cát ven biển (3a). Nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới đã học hỏi những tính chất dược liệu của cây mù u : sát trùng, làm se, long đờm, giảm đau, lợi tiểu, tẩy xổ (17). Phân tử được nhóm Gopalakrishnan ở Madras bên Ấn Độ khảo cứu nhiều là những chất có sườn xanthon: dehydrocycloguanandin, calophyllin B, jacareubin và dẫn xuất deoxy, mesuaxanthon A và B, euxanthon. Tất cả đŠu có tính chất chống viêm khi đem thử trên chuột. Hai chất jacareubin và deoxyjacareubin còn có khả năng ức chế lở loét (6). Jacareubin, chất xanthon quan trọng nhất, chỉ tìm ra được trong các loại Calophyllum. Chúng có tính chất kháng vi khuẩn khi đem thử trên những trùng Staphylococcus aureus, Bacillus subtilis, Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae, Proteus vulgaris, Samonella typhimuium, Pseudomonas aeruginosa và Vibro sp. Hai chất jacareubin và deoxyjacareubin có nhiều hiệu lực nhất: 4-5 trên số 8 vi khuẩn (7). Những xanthon như inoxanthon, caloxanthon A, B, macluraxanthon, calophyllic acid, brasiliensic acid, inophylloidic acid, friedelanon, calaustralin, calophyllolid, inophyllum C chiết xuất từ vỏ rễ và hột mù u đã được đem thử lên tế bào KB và thấy có tính chất chống vi khuẩn (28). Nhóm Mahmud ở Karachi bên Pakistan khảo cứu một số chất cholesterol, friedelin, canophyllol, canophyllic acid, inophynon, isoinophynon về những tính chất chống vi khuẩn và chống nấm. Dùng chất ròng hay tan hòa trong dung dịch (ethanol, butanol, chloroform), chúng có hiệu lực chống Staphylococcus aureus, Streptococcus pyrogenes (17). Một phòng thí nghiệm ở Nagoya bên Nhật Bản đem thử một số phenylcoumarin lên virus Epstein-Barr, thấy chúng có khả năng ức chế hoạt động chống trùng nầy. Đặc biệt calocoumarin A rất hiệu nghiệm trên loét da chuột và có thể dùng để ngăn chận ung thư (22). Dipyranocoumarin (37), những inophyllum A,B,C,D,E,P (16)đã được đem thử trong cuộc khảo cứu chống trùng HIV, hai inophyllum B và P ức chế HIV reverse transcriptase (IC50 38 và 130 nM), tác dụng chống HIV-1 trong tế bào cấy (IC50 1,4 và 1,6 microM) (11). Nói chung, những hóa chất được chiết xuất từ rễ, lá, thân cây và hột - dầu. Từ rễ, phòng thí nghiệm Phân khoa Hóa, viện Đại học Serdang ở Mã Lai đã chiết xuất inophyllin-A (27,33), viện Vật liệu Y khoa Bắc Kinh 11 xanthon (25), nhóm Iinuma ở viện Đại học Gifu bên Nhật Bản nhiều xanthon đủ thứ : dipyranon (15) , caloxanthon, hydroxanthon, methoxyxanthon (12), caloxanthon A, B (13), D, E (14). Từ lá, nhiều xanthon cùng jacareubin, amentoflavon đã được chiết xuất ở viện Vật liệu Y khoa Bắc Kinh (38), friedelanon, triacontanol, canophyllol (29), friedooleananon (20) ở viện Đại học Quảng Châu, inophynon, isoinophynon ở viện Đại học Karachi bên Ấn Độ (19), những loại friedelan ở viện Đại học Polynésia Tahiti (30). Từ hột, những inocalophyllin A, B và những ester của chúng đã được chiết xuất ở viện Đại học Kaohsiung Đài Loan (24), những coumarin ở Phòng thí nghiệm Quốc gia Pune bên Ấn Độ(21), những lipid đã được học hỏi (8). Từ dầu, một số một loạt acid : myristic, palmitic, stearic, oleic, linoleic, linolenic, eicosanic, hơn 58% acid không bảo hòa, đã được methyl este hóa (36). Trong thân cành, calophinon (26), trong thân gỗ tetrahydroxanthon (9), neoflavanoid, biflavonoid (10), cùng nhiều xanthon khác cũng đã được tìm ra. Trong số 36 chất dễ bốc hơi phát xuất từ những cành nhỏ, có nhiều nhất là amorphen, caryophyllen, cadinen và farnesen (35). Bên Việt Nam ta, dầu và nhựa mù u thường được dùng trong môn y khoa truyền thống. Các nhà khảo cứu ở viện Hóa học đã chiết xuất và xác định được cấu trúc những chất tovopyrifolin, amentoflavon (32), pyranocoumarin calophyllolid, inophyllum-D, isocalophyllic acid từ lá cây cùng những chất friedelan triterpen canophyllol, oxofriedelanoic acid, canophyllic acid, friedlin và epifriedelanol (23,31,34). Họ cũng đã học hỏi những lipid và acid mỡ trong dầu hột mù u để xác định hydrocarbon, triglycerid và acid mỡ tự do, nhất là thành phần chính phospholopid (18). Ngày nay, có nhiều quảng cáo dùng dầu mù u làm thuốc mỹ nghệ giàu các vitamin B, C, bảo vệ, tái sinh da. Ở nước ta, cây mù u thường mọc hoang, tại những vùng đất cát gần bờ biển, và được trồng ở nhiều tỉnh từ Kiến An cũ, Quảng Ninh đến Quảng Bình, Phan Thiết, vào Vĩnh Long, Mỹ Tho, Gia Định, Thủ Dầu Một, Bà Rịa,.... lấy hạt ép dầu thắp đèn (ñTL). Ở Huế, cây mù u được trồng ở nhiều đường, trong Đại nội, quanh công viên Phu Văn Lâu,.... Nhựa có mùi hôi đặc biệt, dùng để bôi tan các chỗ sưng tấy, chữa họng sưng, mụn nhọt, vết loét nhiễm trùng, tai có mũ. Dầu trị ghẻ, nấm tóc, các bệnh da, chữa viêm thần kinh trong bệnh cùi hủi, có thể bôi trị thấp khớp. Mủ dùng ngoài làm lành sẹo, nhất là bị bỏng. Vỏ dùng trị bệnh dạ dày và xuất huyết nội. Gỗ dùng thay nhựa. Rễ chữa viêm viêm răng (4a). Dầu mù u pha với iod dùng Çể điều trị nhọt, quần đinh, mụn, dùng xoa bóp trị được các bệnh phong thấp, dùng chữa bỏng rất có hiệu quả. Quả mù u đốt cháy thành than rắc lên mụn nhọt có kết quả tốt. Nhựa được dùng dưới dạng bột rác lên vết lở loét, mụn nhọt, làm thuốc dán để điều trị các vết thương. Ngoài công dụng của một cây dược liệu, mù u còn là một cây công nghiệp, dầu dùng thắp đèn, nấu xà phòng, gỗ dùng đểđóng tàu thuyền, làm cột buồm vì thân cây có sứa gỗ xoắn hình trôn ốc, chắc và dẻo (2). Thân cây, tỷ trọng cao, bền bĩ, còn được dùng trong ngành đóng đồ gỗ, nhạc khí, điếu hút, dụng cụ nấu ăn,.... Lá và hột cây cho phân hủy, thối hỏng có thể dùng làm phân bón. Hột cây đem nướng có tính chất đưổi muổi. Ở nhiŠu nước ven biển, cây được trồng để bảo vệ bờ biển chống xói mòn, ngăn chận bảo táp. Mù u thật là một cây có ích dù hột cây không giúp ta thắng Tây thời Hàm Nghi! Đáng lạ là không thấy có một văn bằng sáng chế nào về các vị thuốc của cây, thường dùng trong ngành đông y truyền thống, kể cả các phòng thí nghiệm Trung Quốc những năm gần đây cho đăng ký rất nhiều những liều thuốc dân gian. Nghiên cứu và Phát triển 4(87) 2011, khoahoc.net 07.2012 Tham khảo 1- Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha Văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn (1960) 3
2- Đoàn Văn Quýnh, Tìm hiểu một số cây có giá trị bề y dược học và môi trường trong quần thể cây xanh ở Huế, Thông tin khoa học và công nghệ, Huế 2 (1996) 98-9
3a- Đỗ Xuân Cẩm, Da dạng sinh học và khả năng tận dụng các loài cây bản địa làm nguồn tài liệu phát triển rừng phòng hộ ven bờ biển miền Trung, Nghiên cứu và Phát triển, Huế 2 (85)(2011) 81-92; 3b- Mai Văn Phô, Hãy làm cho Huế xanh hơn và đẹp hơn, Nghiên cứu và Phát triển, Huế 2 (85)(2011) 75-80
4a- Võ Hương An, Huyền thoại trận mù u, khoahoc.net 31.01.2008 ; 4b- Pierre Loti, Trois journées de guerre en Annam, Les Editions du Sonneur, Paris 2006
5- Arbres de la Réunion, arbres-reunion.cirad.fr/especes/clusiaceae/calophyllum_ tacahamac_willd
Tài liệu khoa học (giới hạn trong ba thập niên gần đây)
6- C. Gopalakrihnan, D. Shankaranarayanan, S.K. Nazimudeen, S. Viswanathan, L. Kameswaran, Antiinflammatory and CNS depressant activities of xanthones from Calophyllum inophyllum and Mesua ferrera, Ind. J. Pharmacol. 12(3) (1980) 181-91
7- B.M. Sundaram, C. Gopalakrishnan, S. Subramanian, Antibacterial activity of xanthones from Calophyllum inophyllum L. , Arogya (manipal, India)12(3) (1986) 48-9
8- J. Hemavathy, J.V. Prabhakar, Lipid composition of Calophyllum inophyllum kernel, J. Amer. Oil Chem. Soc. 67(12) (1990) 955-7
9- S.H. Goh, I. Jantan, A xanthone from Calophyllum inophyllum, Phytochem. 30(1) (1991) 366-7
10- S.H. Goh, I. Jantan, P.G. Waterman, Neoflavanoid and biflavanoid constituents of Calophyllum inophylloide, J. Nat. Prod. 55(10) (1992) 1415-20
11- A.D. Patil, A.J. Freyer, D.S. Eggleston, R.C. Haltiwanger, M.F. Bean, P.B. Taylor, M.J. Caranfa, A.L. Breen, H. Bartus et all. The inophyllums, novel inhibitors of HIV-1 reverse transcriptase isolated from the Malaysaian tree, Calophyllum inophyllum Linn., J. med. Chem. 36(26) (1993) 4131-8
12- M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, S. Yonemori, Two new xanthones in the underground part of Calophyllum inophyllum, Heter. 37(2) (1994) 833-8
13- M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, S. Yonemori Two xanthones from root bark of Calophyllum inophyllum, Phytochem. 35(2) (1994) 527-32
14- M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, S. Yonemori, Two xanthones from roots of Calophyllum inophyllum, Phytochem. 38(3) (1995) 725-8
15- N.U.D. Khan, N. Parveen, M.P. Singh, B. Achari, P.P.G. Dastidar, P.K. Dutta, Two isomeric benzodipyranone derivatives from Calophyllum inophyllum, Phytochem.42(4) (1996) 1181-3
16- K. Kawazu, T. Nitoda, H. Kazaki, Analytical method of inophyllum A,B,C,D,E, and P, anti-HIV constituents of Calophyllum inophyllum by HPLC, Okayama daigaku Nogakubu Gakujutsu Hokoku 87 (1998) 13-6
17- S. Mahmud, G.H. Rizwani, M. Ahmad, S. Ali, S. Perveen, V.U. Viqar, Antimicrobial studies on fractions and pure compounds of Calophyllum inophyllum Linn., Pakistan J.Pharmacolog.15(2) (1998) 13-25
18- Pham Quoc Long, Pham Hoang Ngoc, Tran Van Sung, Lipid composition from seed oil of Calophyllum inophyllum L. (Clusiaceae), Tap chi Hoa hoc 36(4) (1998) 48-51
19- M.S. Ali, S. Mahmud, S. Perveen, V.U. Ahmad, G.H. Rizwani, Epimers from the leaves of Calophyllum inophyllum, Phytochem. 50(8) (1999) 1385-9
20- C.F. Yao, H.P. Zeng, Studies on the chemical constituents of Calophyllum inophyllum Linn., Huanan Shifan Daxue Xuebao, Ziran Kexueban (3) (2000) 62-4
21- S.P. Joshi, V.B. Deodhar, U.D. Phalgune, A new coumarin from the seeds of Calophyllum inophyllum Linn., Indian J. Chem. B : Org. Chem. Med. Chem. 39B(7) (2000) 560-1
22- M.Itoigawa, C. Ito, H.T.W. Tan, M. Kuchide, H. Tokuda, H. Nishino, H. Furukawa, Cancer chemopreventive agents, 4-phenylcoumarins from Calophyllum inophyllum, Cancer Letters 169(1) (2001) 15-9
23- Tran Thanh Thao, Vo Thi Bach Hue, Nguyen Khac Quynh Cu, Isolation and structure determination of calophyllolide obtained from seeds of Calophyllum inophyllum L. grown in Vietnam, Tap chi Duoc hoc 40(9) (2002) 16-8
24- Y.C. Shen, M.C. Hung, L.T. Wang, C.Y. Shen, Inocalophyllins A,B and their methy esters from the seeds of Calophyllum inophyllum, Chem. Phar. Bull .51(7) (2003) 802-6
25- Y. Wu, P.C. Zhang, R.Y. Chen, D.Q. Yu, X.T. Liang, Two new xanthones from Calophyllum inophyllum, Huaxue Xuebao 61(7) (2003) 1047-51
26- H.C. Cheng, L.T. Wang, A.T. Khalil, Y.T. Chang, Y.C. Lin, Y.C. Shen, Pyranoxanthones from Calophyllum inophyllum, J. Chin. Chem. Soc .51(2) (2004) 431-5
27- G.C.L. Ee, A.S.M. Kua, Y.L. Cheow, C.K. Lim, V. Jong, M. Rahmani, A new pyranoxanthone inophyllin B from Calophyllum inophyllum, Nat. Prod. Sci. 10(5) (2004) 220-2
28- M.C. Yimdjo, A.G. Azebaze, G. Anatole, A.E. Nkengfack, E. Augustin, A.M. Meyer, B. Bodo, Z.T. Formum, T. Zaccharias, Antimicrobial and cytotoxic agents from Calophyllum inophyllum, Phytochem. 65(20) (2004) 2789-95
29- C. Yao, H. Zheng, X. Wang, Chemical constituents from cultivated Calophyllum inophyllum Linn, Guangdong Huagong 32(8) (2005) 40-1
30- F. Laure, G. Herbette, R. Faure, J.P. Bianchini, P. Raharivelomanana, B. Fogliani, Structures of new secofriedelane and friedelane acids from Calophyllum inophyllum of french polynesia, Mag. Res. Chem. 43(1) (2005) 65-8
31- Nguyen Thi Minh Hang, Nguyen Quyet Chien, Nguyen Van Hung, Coumarins from leaves of Calophyllum inophyllum L., Tap chi Hoa hoc 43(6) (2005) 683-7
32- Nguyen Thi Minh Hang, Nguyen Quyet Chien, Nguyen Van Hung, Tovopyrifolin C amentoflavone from the leaves of Vietnamese plant Calophyllum inophyllum L. Tap chi Hoa hoc 43(1) (2005) 3-4
33- G.C.L. Ee, A.S.M. Kua, C.K. Lim, V. Jong, H.L. Lee, Inophyllin A, a new pyranoxanthone from Calophyllum inophyllum (Guttiferae), Nat. Prod. Res. A: Struc.Synth. 20(5) (2006) 485-91
34- Nguyen Thi Minh Hang, Nguyen Quyet Chien, Nguyen Van Hung, Triterpenes from the leaves of the Vietnamese plant Calophyllum inophyllum L., Tap chi hoa hoc 44(1) (2006) 115-8
35- W. Mei, Y. Zeng, H. Dai, X. Zheng, Chemical constituents of the volatile oil from Calophyllum inophyllum Linn., Zhiwu Ziyuan Yu Huanjing Xuebao 15(1) (2006) 74-5
36- Y.J. Su, L.M. He, Study on components of fatty acids in oil from se eds of Calophyllum inophyllum, Fenxi Shiyanshi 26(6) (2007) 62-4
37- K.D. Pawar, S.P. Joshi, S.R. Bhide, S.R. Thengane, Pattern of anti-HIV dipyranocoumarin expression in callus cultures of Calophyllum inophyllum Linn., J. Biotech. 130(4) (2007) 346-53
38- Y. Li, Z. Li, H. Hua, Z. Li, M. Liu, Studies on flavonoids from stems and leaves of Calophyllum inophyllum, Zhongguo Zhongyao Zashi32(8) (2007) 692-4
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 6, 2015 7:53:12 GMT 9
46 - Văn bằng và thuốc menMấy đời bánh đúc có xương, Mấy đời trọc phú có thương dân nghèo. Ca daoỞ Ấn Độ, neem tức Azadirachta indica, một loại sầu đâu bên ta, là một thảo mộc cốt yếu trong đời sống nhân dân. Lá cây, vỏ cây, rễ cây, hột neem từ hàng ngàn năm nay được kê trong hàng trăm liều thuốc chữa bệnh, chống trùng, diệt vi rut, vừa rẽ tiền, vừa dễ kiếm, dễ dùng (2). Không ai dè năm 1990, Bộ Canh nông Hoa Kỳ và Công ty W.R. Grace ở New-York đăng ghi một văn bằng sáng chế về một chất thuốc chiết xuất từ hột cây neem, nghĩa là họ đòi độc quyền sử dụng chất thuốc ấy. Nói một cách khác, người dân Ấn Độ hết còn có quyền lấy hột cây neem làm thuốc nữa. Chuyện thật bất công, vô nghĩa, rõ rành rành, ai có chút lý trí đều thấy ngay, nhưng người dân nghèo Ấn Độ làm sao địch nổi một cường quốc như Hoa Kỳ, một hảng thuốc giàu mạnh như W.R. Grace! Tuy vậy không lẽ ngồi khoanh tay nhìn người ỷ giàu, ỷ mạnh lấn hiếp, họ chạy tìm phương cách chống đối. Rút cuộc, một nhà khoa học Ấn Độ, bà Vandana Shiva, chịu đứng ra cầm đầu cuộc cứu giải. Giúp sức bà có bà Magda Alvoet, Bộ trưởng Bộ Môi trường nước Bỉ và Liên bang Quốc tế các Phong trào Canh nông Sinh vật học IFOAM cũng tiếp tay hỗ trợ đểđưa đơn kiện vào năm 1995. Kết quả là vừa rồi, sau hơn 5 năm giấy tờ, sau 2 ngày thảo luận sôi nổi, nghe chính ngay những cụ già Ấn Độ lại tường trình đã trích chiết dầu từ hột cây neem làm thuốc từ hàng chục năm nay, rất lâu trước khi văn bằng của Hoa Kỳ được đăng ghi, Cơ quan Văn bằng Sáng chế Âu châu (European Patent Office EPO) ở Muenchen bên Đức đi đến kết luận chất thuốc diệt trùng, khử nấm và phương cách chiết xuất gọi là mới trong văn bằng không có gì mới lạ so với chất thuốc mà người Ấn Độ đã biết sử dụng từ 5.000 năm nay và tuyên bố văn bằng không có hiệu lực (4a). Thắng lợi thật rõ ràng cho người dân Ấn Độ, những người đứng hàng đầu về nhận thức giá trị tài nguyên của nước mình trong số các nước đang phát triển. Tuy nhiên bản án chỉ áp dụng ở Âu châu. Bên Hoa Kỳ và Nhật Bản, văn bằng vẫn tiếp tục có giá trị. Đủ bộ phận của cây được ứng dụng rộng rãi trong các lãnh vực sát trùng, trị nấm, khử vi rut, ngừa thai, chữa nhiều bệnh hô hấp, sốt rét, kiết lỵ, rối loạn tiêu hóa, .... Cây neem được các công ty Hoa Kỳ chú trọng nhiều nhất về tính chất ngừa sâu : hơn 200 loại côn trùng bị những hoạt chất của cây neem phá rối, tiêu diệt! Trái với những thuốc nhân tạo tổng hợp, các thuốc thiên nhiên của cây neem không nhất thiết trừ tiệt các loài sâu mà lắm khi chỉ kềm hãm sự phát triển ấu trùng của chúng. Mặt khác, các thuốc nầy không bắt buộc gây một cuộc kháng cự của sâu bọ ngay cả sau nhiều thế hệ. Ngày nay, những nhà khảo cứu về môi trường rất nhạy cảm trước hiệu lực quá mãnh liệt của nhiều chất thuốc. Dựa lên tính chất thần hiệu của cây neem, không dưới 70 văn bằng đã được đăng ghi trong 10 năm vừa qua : sau văn bằng thứ nhất năm 1990, có 4 cái năm 1995 và đến gần 40 cái năm 1999, phần lớn của hai công ty W.R. Grace và Rohm and Haas. Những chi tiết của các văn bằng nói chung chẳng có gì mới lạ so với cách thức thường thấy ở Ấn Độ, ngay cả những phương pháp chiết xuất mà các tác giả nêu cao là hiện đại, tối tân (4a). Cây neem mà những văn bản sách Veda của Ấn Độ giáo gọi là Sarve Roga Nivarini, nghĩa là cây chữa mọi chứng bệnh, được người Ấn Độ tôn vinh là "nhà dược phẩm" trong làng và người Persan đặt tên "cây tự do", thật đã biểu tượng cho sự phóng khoáng của người dân nghèo vì nó cung cấp đủ nguyên liệu thiên nhiên để làm thuốc bảo vệ sức khỏe. Không có lý do gì các hảng quốc tế lại ức hiếp đăng ghi văn bằng để giữ làm của riêng cho mình. Những cơ quan, hội đoàn như IFOAM phải luôn cảnh giác vì chuyện cây neem không phải là vụ phi pháp độc nhất. Người Ấn Độ còn nhắc lại chuyện buồn cười về cây lô hội hay hổ thiệt Aloa vera, thường được dùng để chữa những bệnh nhức đầu, nhuận tràng, ăn uống không tiêu, sung huyết phổi hay các phủ tạng. Một trong gần 1.000 văn bằng đăng ký về cây nầy chỉ dẫn cách dùng lá cây để làm chảy nước mắt: phương pháp chiết xuất cho là mới so với cuộc xử lý cách đây hơn 2.000 năm là đề nghị dùng nước có chứa chlor. Ông Devinder Sharma, chuyên viên Ấn Độ về văn bằng, mỉa mai nhận xét : thời trước, nước trong sạch, cần gì phải đổ chlor vào để tẩy sạch ! Văn bằng đăng ghi chỉ là một duyên cớ để cưởng chiếm kiến thức cổ truyền của người dân Ấn Độ(4a). Các hãng lớn cũng còn muốn cưỡng chiếm luôn nhãn hiệu của người ta. Từ lâu, một loại gạo đặc biệt gọi là basmati được trồng gần 2 triệu hecta ở Ấn Độ và Pakistan. Khắp thế giới ai cũng được thưởng thức loại gạo ngon nầy, có tiếng hơn nhiều so với gạo de An Cựu của Huế. Thế mà năm 1997, công ty buôn gạo Rice Tec bên Hoa Kỳ của nhà triệu phú Hans Adam II, hoàng thân tỷ phú xứ Liechenstein, cho đăng ghi một văn bằng về một "loại gạo basmati mới" mà tính chất thơm, ngon cho là giống gạo basmati của vùng Punjab kia và trồng ở đất nào cũng được. Lấy tên basmati đểđặt tên loại gạo cho là mới của mình đã là một chuyện phi pháp. Hãng buôn nầy còn đi xa hơn : họ quyết định chỉ có gạo của Rica Tec mới được mang tên basmati ! Người Ấn Độ và Pakistan không chịu cách xử lý của văn bằng : một loại gạo không phải chỉ được xác định qua hình thức và hương thơm : theo họ, và họ rất có lý, nếu rượu sâm banh chỉ có thể chế tạo với trái nho trồng ở vùng Champagne thì gạo basmati phải bóc vỏ từ lúa mọc ở miền Punjab (4c). Hoạt động phi pháp có khi lấn vào địa hạt tục lệ, văn hóa. Ở vùng Amazoni bên Nam Mỹ, ayahuasca tức Banisteriopsis caapi là một cây thường chỉ được dùng trong các cuộc tế lễ tương tự như phượng cúng bên ta. Năm 1986, một nhà khảo cứu Hoa Kỳ, Loren Miller, đăng ghi văn bằng dùng cây ấy để chữa ung thư và các chứng hỗn loạn tinh thần. Người bản địa cho đấy là một phạm thượng, nhất thiết không đồng ý để người ngoại quốc lấy bán và tư hữu hóa một loại cây mà họ coi là thiêng liêng, thường chỉ thầy pháp mới có quyền đụng tới. Năm 1999, họ đến biểu tình trước Cơ quan Văn bằng Sáng chế Hoa Kỳ và được toại nguyện. Đáng biết là văn bằng bị hủy bỏ không phải vì duyên do luân lý, lý lẽ văn hóa, tôn trọng đạo giáo mà vì về mặt luật lệ những chi tiết miêu tả không tương ứng với những tiêu chuẩn đòi hỏi và nhiều bản báo cáo trước đó đã nêu rõ tính chất y dược của cây ayahuasca(4b). Có trường hợp các hãng buôn cướp hẳn lợi nhuận cho mình và, đi xa hơn, phá phách nguồn lợi của người dân nghèo. Ở nước Gabon bên châu Phi, từ thuở xa xăm người bản xứ đã biết trồng cây "tôi quên" tức Pentadiplandra brazzeana để chiết dùng chất ngọt của nó. Năm 1995, sau khi khảo cứu tường tận cây và hoạt chất, Viện Đại học Visconsin bên Hoa Kỳ đăng ghi 4 văn bằng chiết xuất chất brazzein, một protein ngọt gấp 1.000 lần đường đồng thời cũng đem lại ít calo. Họ bán môn bài khai thác cho những công ty công nghệ sinh học ngoại quốc, thành thử người dân Gabon chẳng nhận được một xu nhỏ nào. Họ còn thực hiện một chương trình còn độc hại hơn : để khỏi còn lệ thuộc cây trồng ở Gabon, họ cho cấy gen chế tạo brazzein vào những cây biết tổng hợp protein như bắp chẳng hạn. Như vậy họ không cần tới cây "tôi quên" nữa và Gabon mất một nguồn lợi gần trăm tỷ USD mỗi năm trên thị trường thế giới trong lúc khắp nơi người ta đang kiếm cách tránh dùng những chất đường có tác dụng xấu lên cơ thể (4d). Nói đến chất ngọt, tưởng cũng nên nhắc đến cây cỏ ngọt Stevia ribaudiana một dạo đã được khảo cứu và trồng nhiều bên nước ta (1). Chất steviosid chiết xuất ra, ngọt gấp 300 lần đường, cần phải được tinh chế, đã được Nhật Bản khai thác trong nhiều văn bằng thành thử việc buôn bán hoạt chất ra nước ngoài chắc không được tự do như ta mong muốn. Cách mấy hai năm, hãng Monsanto bên Hoa Kỳ thực hiện một chương trình mang danh Hệ thống Bảo vệ Công nghệ không kém phần phi nghĩa : cho cấy gen vào lúa, bắp, .... nhắm mục đích giúp cây tự vệ chống trùng, tăng năng suất nhưng đồng thời cũng làm hột cây tuyệt sản, nghĩa là sau nầy không thể dùng hột cây làm giống được nữa. Nói một cách khác, người nông dân, nếu không nghĩ xa, chỉ nhìn năng suất trước mắt, sẽ không còn khả năng giữ một ít hột làm giống nữa như trước mà lại phải đi mua ! Họ đã gán cho chương trình tên Terminator, một nhân vật trong phim ảnh dã tưởng có nhiệm vụ đánh phá làm tiệt nòi những phần tử kháng chiến (3). Năm 2001, ông Percy Schmeister, một nhà nông tỉnh Saskatchewan bên Gia Nã Đại bị kết án phải bồi thường cho hãng Monsanto 15.450 CD vì hãng nầy kiện ông đã dùng giống của họ mà không chịu mua. Nhà nông cải lại là lúa ruộng ông không còn bị côn trùng phá hoại vì có lẽ đã hợp lai với lúa các ruộng bên cạnh dùng giống Monsanto, nhưng cũng có thể là nhờ ông biết chăm sóc kỹ lưỡng. Để trả đủa, ông đưa đơn kiện lại hãng Mosanto đã làm nhiễm bẩn ruộng của ông vốn phát triển tốt đẹp từ 50 năm nay (5). Đăng ghi văn bằng sáng chế trong lãnh vực thuốc men là để bảo đảm quyền sở hữu của những hội dược phẩm. Nếu là các vị thuốc lấy từ cây cỏ, theo lý thuyết chỉ có thể đăng ghi về phương cách chiết xuất và ứng dụng chứ không có quyền chiếm dụng hoạt chất có sẵn trong cây. Đứng về mặt bảo vệ sức khỏe nhân dân, như đã thấy, những văn bằng nầy dần dần lấn áp quyền lợi công cộng. Đối với người dân nước nghèo, văn bằng sử dụng nguyên liệu thiên nhiên là một áp bức. Nói chung, những thuốc nầy cũng như những thuốc nhân tạo tổng hợp ưu đãi người giàu. Theo Tổ chức Y tế Thế giới OMS, giữa 1975 và 1995, trong số 1.233 nhãn thuốc nhân tạo tổng hợp bán ra thị trường, chỉ có 11 cái (mà một nửa dành cho thú vật) chữa bệnh nhiệt đới, nghĩa là bệnh ở những nước nghèo. Những nhãn thuốc khác nhắm chữa những bệnh thần kinh, tim, mạch thường xảy ra ở các nước no ấm, sung túc. Biết bao công của đã được đổ vào các cuộc khảo cứu chẳng hạn để làm sụt cân, xóa vết nhăn trên mặt hay chữa chứng kinh hoàng ở thú vật nuôi trong nhà như chó, mèo, .... The Nation, một tờ báo Hoa Kỳ thiên tả, đã đưa ra một nhận xét khách quan nhưng cũng là một phán xét luân lý : một người giàu có, già béo, sói tóc, bất lực được coi trọng hơn 500 triệu bệnh nhân sốt rét! Dễ hiểu thôi: hãng buôn nào mà không đặt lợi nhuận lên cao nhất. Mặc dầu công ty hoá chất Merck đã có biếu 65 triệu viên thuốc Ivermectine trong khoảng 10 năm góp phần trừ tiệt bệnh giun chỉ bên Phi châu, nhiều phòng thí nghiệm tự nguyện khảo cứu về bệnh buồn ngủ đang hoành hành dữ dội ở Ouganda, hãng Pfizer hứa phát không thuốc Flucanazole cho Nam Phi để chữa một chứng viêm màng não liên quan đến bệnh sida, không ai nuôi ảo tưởng một tấm lòng hào hiệp của các hãng buôn. Bác sĩ Jean-Marie Kindermans ở Hội các Y sĩ không biên giới MSF nhận định: cách suy luận cũa kỹ nghệ dược phẩm không đi đôi với hoạt động xã hội (7). Cũng may (nếu có thể cho là may !) nếu chứng chagas giới hạn ở Bolivie, chứng sốt rét vàng phá hoại ở Guinée, chứng buồn ngủ tồn tại ở Ouganda, nhiều bệnh như ho lao, ung thư, sida, gần đây cả sốt rét, không phân biệt ranh giới địa lý, xã hội, xâm nhập ngay cả các nước tân tiến, giàu có, buộc các phòng thí nghiệm, các nhà khảo cứu những "nước phía bắc" phải lưu tâm kiếm cách trừ khử. Tuy nhiên, không phải nhờ vậy mà thuốc men tràn ngập các nước nghèo. Trước tình trạng thiếu thốn và nằm trong phạm vi khả năng của mình, nhiều nhà buôn ở các "nước phía nam" như Ấn Độ, Thái Lan, Brazyl, Argentina đua nhau chế thuốc đã quá hạn văn bằng, tung ra thị trường những nhãn thuốc có khi rẻ hơn 40 lần thuốc tương đương trước kia. Phản công thấy ngay tức khắc : năm 1998, Hoa Kỳ đe dọa đánh thuế mọi sản phẩm Thái Lan xuất khẩu qua bên ấy, lấy cớ nước nầy đã dùng hoạt chất fluconazol chế tạo thuốc chống màng viêm não cạnh tranh với thuốc Triflucan của hãng Pfizer. Đúng ra, về mặt nhân đạo, các hãng thuốc lớn phải ủng hộ các cuộc chế tạo nầy, đồng thời làm dịu bớt những điều kiện khắt khe trong văn bằng. Đằng khác, các hãng buôn lớn tưởng cũng nên xác định hai giá thuốc cho các nước giàu và các nước nghèo. Sức khỏe không phải là một thị trường giống các thị trường khác. Vậy mà trước đây không lâu, 39 công ty dược phẩm quốc tế đưa đơn kiện chính phủ Nam Phi năm 1997 đã cho phép dân chúng tùy ý sử dụng những thuốc cốt yếu mà ưu tiên là những thuốc quá hạn văn bằng rẽ tiền chế tạo tại chỗ hay nhập cản. Hội MSF kêu gọi quốc tế ủng hộ chính phủ Nam Phi và yêu cầu 39 công ty kia rút đơn kiện: cuộc bảo vệ tính mệnh con người cần phải được coi trọng hơn bảo vệ văn bằng. Hội nhắc lại Nam Phi là nước bị sida hoành hành nhiều nhất với hơn 4 triệu dân mang trùng. Bác sĩ Eric Goemaere ở hôi nầy nhấn mạnh : thật là một điều khiếm nhục khi kỹ nghệ khăng khăng đặt lợi nhuận cao hơn đời sống và tiếp tục chống đối những sáng kiến của chính phủ Nam Phi để cải thiện khả năng đạt được thuốc men (6). Phải nói pháp lý đứng về phía các công ty dược phẩm vì chính phủ Nam Phi đã ký những điều khoản của Tổ chức Thương mãi Thế giới OMC, gọi là hiệp định Trips, trong đó 137 nước cam kết tôn trọng trong 20 năm độc quyền của các văn bằng. Tuy vậy, có nhiều điều khoảng nhân nhượng có thể điều đình : ở tình trạng cấp cứu, có thể thực hiện một môn bài bản xứ hoặc nhập cảng những thuốc men mua rẻ. Theo ông Tony Leon, lãnh đạo phe đối lập, Nam Phi có 250.000 bệnh nhân chết vì sida trong năm 2000 thì tất nhiên được đặt vào tình trạng cấp cứu. Nhưng ông Tổng thống Thabo Mbeki thì nhất định từ chối giải pháp ấy. Ông bảo có nhiều phương cách khác đểđạt thuốc men và hiện các bệnh nhân đang cấp bách chờ đợi các liều thuốc hiệu nghiệm chứ không phải những bàn cãi pháp lý tế nhị (6). Lời kêu gọi của MSF có kết quả : 39 công ty dược phẩm đã rút đơn kiện. Nhưng nay mai OMC còn phải đương đầu với những tranh chấp khác với các nước Thái Lan, Brazyl, Argentina và các nước nhỏ khác, luôn kiếm cách đạt được những liều thuốc rẻ tiền, một cách nầy hay cách khác. Ngày nào chưa dung hòa được lợi nhuận của các hãng buôn lớn và việc cung cấp thuốc men cho dân các nước nghèo thì cuộc tranh chấp còn tiếp tục. Hiện các "nước phía nam" đang cần phát triển lanh chóng viêc chế tạo thuốc men và từ đấy cũng đang cần được ủng hộ tài chánh. Theo ông Viren Mehta, giám đốc Phòng tham vấn về dược liệu Mehta Partners ở New York, thì kỹ nghệ dược phẩm đang đạt đến một khúc ngoặt. Công nghệ sinh học đã hé mở một tương lai thích thú : nó giúp ta tránh những sai lầm và thực hiện việc khảo cứu chủ yếu về những cơ chế thiên nhiên. Ở chân trời hai thế hệ, có thể dự tính những giải pháp dựa lên một quan hệ giá tiền - hiệu lực tốt nhất.. Nếu những kết quả được bảo vệ trong một thời gian chỉ định, giới tư nhân có thể chờ đợi có đủ lợi nhuận để chịu nhận một cuộc phân phát toàn bộ trong ngắn hạn. Phần lớn các hãng thuốc đều đồng ý cần phải sản xuất nhiều hơn. Thành quả là cuộc khảo cứu đang tăng cường ở các nước Brazyl, Mexico. Ở Ấn Độ, phần lớn 28.000 phòng thí nghiệm trước đây chỉ bắt chước chế tạo những nhãn thuốc có văn bằng, bây giờ tung ra thị trường những sản phẩm độc đáo (7). Ta có thể lạc quan nhìn tương lai. Thông tin khoa học và Công nghệ 3(33) 2001, vietsciences 03.2008 Tham khảo 1-Võ Quang Yến, Cây cỏ ngọt và các chất đường, Thông tin Khoa học và Công nghệ 4 (1995) 8
2- Võ Quang Yến, Thuốc trị bá chứng từ cây sầu đâu, Thông tin Khoa học và Công nghệ 3 (1996) 3
3- Hervé Ratel, "Terminator", l’arme ultime des semenciers, Sciences et Avenir 5(1999)76
4- Hervé Ratel, a- L’arbre aux brevets ; b- Ayahuasca, Pas touche à la plante sacrée ; c- Riz basmati, le fat du prince ; d- La brazzénine, un sucre au goût amer, Scoences et Avenir 10 (2000) 63
5- Qui sème des OGM récolte un procès, Sciences et Avenir 5 (2001) 35
6- Michel de Pracontal, Quel prix pour 4 millions de vie ? Le Nouvel Observateur 3 (2001) 122
7- Ivan Brisco, Industrie pharmaceurique : charité bien ordonnée, Le Courrier de l’UNESCO 2 (2001) 122
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 26, 2015 2:46:05 GMT 9
Ích lợi của trái cranberry Trái cranberry (tiếng Việt gọi là nam việt quất) là một loại cây nhỏ mọc và sống rất khỏe tại các vùng khí hậu lạnh, trên đất rêu ngập nước. Cũng giống như black berry, blueberry, cranberry chữa được nhiều bệnh tật nguy hiểm do nó có chứa chất chống ôxy hóa cao hơn hẳn các loại quả khác nhờ mức độ anthocyanins (một trong những chất chống oxy hóa mạnh nhất) cao. Trái cranberry (nam việt quất) (Hình: Getty Images) 1. Cranberry là một liều thuốc giúp ngăn ngừa nhiễm trùng đường tiết niệu bằng cách ngăn chặn vi khuẩn bám vào niêm mạc của đường tiết niệu. 2. Gần đây cranberry còn được phát hiện có các thuộc tính giúp giảm vi khuẩn bám dính vào răng miệng, làm giảm sự hình thành các mảng bám trên răng, phòng tránh sâu răng và các bệnh răng miệng tối ưu. 3. Các hợp chất trong cranberry còn hạn chế một số vi khuẩn có hại gây bệnh để không cho chúng dính vào niêm mạc dạ dày, từ đó giúp ngăn ngừa viêm loét dạ dày. 4. Cranberry cũng được coi là một loại thực phẩm tuyệt vời cho sức khỏe tốt vì chứa phenol - một chống oxy hóa mạnh mẽ, giúp chống lại các tế bào gốc tự do trong cơ thể. Theo nghiên cứu đã công bố thì cranberry có chứa chất phenol nhiều hơn hẳn 20 loại trái cây phổ biến bạn thường ăn. 5. Các nhà nghiên cứu còn tin rằng các hợp chất phenol hay còn được gọi là flavonoid còn có tác dụng giúp giảm bệnh tim mạch tương tự hiệu quả như rượu vang đỏ. Nghiên cứu cho thấy flavonoid hoạt động bằng cách tăng đường ô xy hóa bên trong mạch máu, bảo vệ cholesterol trong máu. Điều này sẽ khiến sức khỏe tim mạch của bạn được cải thiện rõ rệt. 6. Flavonoids có trong cranberry là một chất chống ô xy hóa mạnh mẽ và khi kết hợp với các chất khác nó cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa một số loại bệnh ung thư ở con người. 7. Ngoài ra, cranberry cũng được coi như một "chế phẩm sinh học" tự nhiên vì nó cho phép các vi khuẩn có lợi trong đường ruột phát triển mạnh, trong khi lại giết chết các vi khuẩn có hại luôn thúc đẩy nhiễm trùng và các bệnh truyền qua thực phẩm ở con người. Uống nước ép cranberry mỗi ngày có thể làm tăng mức độ cholesterol HDL (cholesterol tốt) (Hình: Getty Images) 8. Trái cranberry có khoảng 80% nước, 10% tinh bột và 10% các hợp chất hữu cơ khác. Chúng chứa 3 axit quan trọng là: quinic, malic và citric. Đây là những axit mà từ lâu được cho là liều thuốc giúp chữa bệnh hoặc ngăn ngừa nhiễm trùng đường tiết niệu hữu hiệu. Nguyên nhân là do khi một số hợp chất phenol trong cranberry kết nối với nhau, chúng tạo thành một nhóm gọi là proanthocyanindins. Nhóm này giúp ức chế vi khuẩn Escherichia coli trong niêm mạc của đường tiết niệu. Mà các vi khuẩn escherichia coli được biết là thủ phạm số một gây nên bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu ở bạn. 9. Nhiều nghiên cứu khẳng định cranberry còn là liều thuốc hữu hiệu để chống ung thư, đột quỵ, nhiễm virus, bệnh tim và bệnh nhiễm trùng men. 10. Theo một số nghiên cứu sơ bộ còn cho hay việc chăm chỉ uống nước ép cranberry mỗi ngày có thể làm tăng mức độ cholesterol HDL (cholesterol tốt) và giảm mức độ cholesterol LDL (cholesterol xấu).
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 14:04:17 GMT 9
Võ Quang Yến CÂY NHÀ LÁ VƯỜN Cây thuốc và vị thuốc - Tập 5 - 47 - Cà phê chồnĐen như quỷ sứ Nóng như địa ngục Trong như thiên thần Dịu như tình yêu Talleyrand (1754-1838)Hồi mới qua Ý lần đầu tiên, khi gọi cà phê, nhà tôi và tôi thấy được bưng ra hai tách nhỏ chứa đâu khoảng hai phần ba cà phê và nhất là có kèm theo hai ly nước lạnh. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn nhau vì chúng tôi không có gọi nước. Khi uống vào mới hiểu: cà phê Ý vô cùng đậm và ly nước lạnh không phải chỉ để nhìn. Bên Đức cũng như ở miền bắc nước Pháp, cà phê trái lại rất loảng, có thể uống suốt ngày, có khi thêm sữa như trà bên Anh, hay như nưóc trà bên ta. Ở các miền khác nước Pháp, cà phê vừa phải, tuy có phần đậm. Trong các gia đình bình cà phê gồm có ở dưới một ấm đun nước, bên trên có một cái lọc đựng cà phê bột, hơi nóng phải thông qua lớp bột cà phê nén, chiết xuất những hóa chất trong bột để sau đó đọng lại ở phần trên. Ngày nay, phần lớn các tiệm đều có máy pha chế cà phê espresso, cùng nguyên tắc nhưng hoàn hảo hơn, áp lực lớn hơn, sử dụng loại cà phê arabica (có khi trộn với cà phê robusta ít thơm và rẻ tiền hơn tuy có người cho mặn nồng hơn nên có nhiều cuộc bàn tán về tỷ lệ của hai loại), rang một thời gian chỉ định làm sao để vừa làm mất vị đắng nhưng đừng giảm hương thơm. Nước trong máy lên đến khoảng 100 độ, thông qua lớp cà phê xay nhuyễn với áp suất 9-10 bar, trong một thời gian dưới một nửa phút để tránh những chất đắng nhưng rút theo đủ hương vị. Cà phê nầy đậm và ngon hơn các cà phê pha cách khác, trừ những người sành uống thì thích một thứ cà phê còn đặc biệt hơn gọi là cappuccino. Đây là một loại cà phê espresso thêm vào sửa nóng và sửa sủi bọt, có khi cho rãi lên trên một lớp ca cao hay bột quế. Hai lớp sữa giữ độ nóng ở dưới được lâu. Cà phê nầy có thêm độ béo, hương thơm mà lại giảm độ đắng. Bột rãi lên trên cống hiến thêm một phương diện thẩm mỹ nhờ các hình nghệ thuật có thể tạo ra khi khuấy. Lẽ tất nhiên cà phê nầy phải được dọn và uống thật nóng nên thường tách phải được sưởi trước khi rót cà phê vào. Ở hai nuớc Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, người ta có thói pha cà phê không lọc, nghĩa là trong tách có cả nước lẫn bột, thành thử trước khi uống phải đợi cho bột lắng xuống đáy tách. Đợi lâu thí cà phê lạnh ngắt. Quen sử dụng nóng thì chắc người uống sẽ thất vọng khi qua bên các nước ấy cũng như khi về Việt Nam. Mấy năm về trước, tôi thấy bên ta còn uống cà phê phin (filtre), mặc dầu tách được giữ trong nước nóng, cà phê hết còn nóng sau nhiều phút chờ đợi nước chảy qua màng lọc, không có áp lực. Nhưng cũng chẳng can gì vì ta còn đặt ra món cà phê đá với một mớ nước đá đập nhỏ cho vào ly. Thật ra, nếu cà phê chỉ là một cớ để cùng ngồi lại với nhau tán gẫu hay bàn chuyện đại sự thì bất tất nóng lạnh. Nghe nói Sài Gòn ngày nay là thiên đàng cà phê với hàng ngàn quán. "Cuộc sống khá hơn, con người đòi hỏi nhu cầu phục vụ và tiện ích tốt hơn. Từ cà phê bình dân, ghế gỗ thấp, chuyển sang ghế có tựa, rồi phải có nhạc, có video, máy lạnh, .... và tiếp viên phục vu. Tùy vào sở thích của khách, người ta trang trí và để nhạc theo từng thể loại. Thế là một cuộc chạy đua về hình thức, không gian kiến trúc của các quán cà phê, nhằm tạo ra những không gian mới hơn, đặc sắc hơn, để bán! Bởi người bán hiểu rằng, nhu cầu của người mua không phải là cà phê. Họ cần mua một khoảng không gian, theo sở thích và tâm trạng của họ .... Không gian ở đây, không kín, không hở. Không tối, không sáng. Có cái chung, cái riêng. Bên ngoài, sơn thủy hữu tình, có những khoảng trời riêng. Bên trong thân thiện, ấm áp. Khách có thể ngồi cả buổi, với một ly nuớc. Không sao, vì ở đây, người ta đã tính tiền không gian và thời gian vào trong ly nước rồi ...." Cà phê được đem qua nước ta từ 1867 nhưng phải đợi đến 1920 mới được đem trồng lớn trên các vùng cao nguyên.. Từ lúc được biết đến lúc lan tràn khắp thế giới thật là một đoạn đường dài. Chưa hẳn chắc chắn, cà phê có thể nguyên gốc xứ Etiôpi, chính xác trong tỉnh Kaffa. Tục truyền bắt đầu có anh chăn dê tên Kaldi nhận xét hột cà phê làm tăng sức dê, bèn nói với những thầy cả, họ đem về nấu với nước làm thức uống. Cũng còn có chuyện cháy rừng ở Abysini (tên cũ của Etiôpi), hương thơm ngào ngạt tỏa ra nên dân làng đem hột cây về pha nước uống. Sau đó cà phê được phổ biến qua tên qhawa, có nghĩa là phục hồi sức mạnh, ở các nước Ẳ rập là những nơi cấm rượu, rồi qhawè (Thổ), caffè (Ý), từ đó có những tên xưa kawa (Pháp), java (Mỹ). Những khám phá khảo cổ cho biết cà phê chỉ được thông dụng từ thế kỷ XV. Tác dụng cà phê khá mảnh liệt buộc các thấy cả chính thống và thủ cựu Hồi giáo ra lệnh cấm nhưng cà phê quá được phổ biến, nhất là trong giới trí thức, nên phải xóa bỏ sắc lệnh. Dần dần cà phê được nhập cảng vào Ai Cập, Ba Tư, Bắc Phi, Thỗ Nhï Kỳ, .... Người ta kể ở nước nầy, nơi cà phê đầu tiên được phát triển, hồi ấy, một phụ nữ có quyền đòi ly dị nếu ông chồng không cung cấp đủ cà phê ! Ở La Mecque, ông tổng trấn Khair Bey triệu tâp một cuộc nhóm các nhà trí thức và luật học để xét xem cà phê có hợp hay không với kinh Coran đạo Hồi thường cấm chỉ mọi thức ăn uống đầu độc. Ở Âu châu, bác sĩ người Đức Leonhard Rauwolf đầu tiên đem cà phê từ Cận Đông về năm 1583, tả là một thức uống đen như mực, chữa được nhiều chứng như bệnh bao tử, pha từ hột một cây mang tên bunnu. Bắt đầu từ giữa thế kỷ XVII, những nhà buôn Vénitien đua nhau nhập cảng cà phê. Mặc dầu bị đức Giáo hoàng cấm đoán, cho là có khả năng phát triển óc phê phán, cà phê không mấy chốc được uống khắp nơi, ngay cả những tu sĩ Công giáo vì, cũng như những thấy cả Hồi giáo, họ thấy cà phê giúp thức khuya, sáng dạ, mặc sức đọc sách. Chính ở nước Ý mà cà phê trở nên vô cùng thông dụng nên ta không lạ thấy nhiều danh từ Ý xung quanh tách cà phê .... Cuối thế kỷ XVII, cà phê vượt trùng dương qua Hoa Kỳ. Cũng vào dạo đó, ngưòi Anh đem qua trồng bên Tích Lan nhưng cây chóng bị bệnh chết. Đến lượt người Hoà Lan cho nhập vào quần đảo Nam Dương. Năm 1714, đại úy người Pháp Gabriel Mathieu de Clieu đánh cắp một một cành giâm trong số cây Hòa Lan biếu cho vua Louis XIV, đem qua trồng bên các đảo Saint-Domingue và Martinique. Cà phê phát triển mạnh ở đảo nầy và qua cả Brazil, nơi mà các đồn điền vận dụng nhiều nhân công nô lệ. Ngày nay, cà phê được trồng nhiều không những ở Nam Mỹ (Brazyl, Colombie) mà còn cả ở châu Phi (Kenya, Côte d’Ivoire) và châu Á, đặc biệt ở Việt Nam. Tuy nhiên hảo hạng và đắt tiền là những cà phê trồng ở Hawaï, Jamaique (Blue Mountain), La Réunion (Bourbon pointu). Những nước tiêu thụ nhiều nhất nằm ở Bắc Âu (300-400 g), Trung Âu, Bắc Mỹ (200 g mỗi người mổi ngày). Những nước tiêu thụ ít nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Syrie, Ai Cập,.... và lạ nhất là những nước sản xuất Kenya, Côte d’Ivoire, Brazyl. Đáng để š là cà phê cạnh tranh với trà, những nước nào uống trà nhiều tất nhiên uống cà phê ít, nhưng nói chung số lượng cafein từ trà hấp thụ vào con người trên thế giới thấp hơn nhiều caféin do cà phê cống hiến. Ở Hoa Kỳ, thống kê cho thấy số lượng trà mỗi người tiêu thụ mỗi năm chỉ bằng một phần tư số lượng cà phê. Ai cũng biết người uống cà phê đi tìm những cảm giác kích thích. Thật vậy, hột cà phê chứa đựng khoảng 700 hóa chất, ngoài 30% những chất đường (có những chất không tan hòa trong nước), 15-20 % chất mỡ, 11% protein (một phần lớn bị hủy sau xử lš), 6-13% nước (còn lại 6% sau khi rang) và những khoáng chất K, Ca, Mg, P, đặc biệt một số hoá chất hữu cơ tạo ra mùi thơm (carbonyl, pyrazin, puran, pyridin, pyreol, puran, quinolin, phenol, ....), một số trong nhóm các alcaloid (betain, cholin, trigonellin,....) mà chất quan trọng nhất là cafein. Trung bình mỗi tách 150ml chứa mg từ 80 (espresso), 85 (arabica), 95 (bột pha nước) đến 200 (robusta). Bác sĩ thường khuyên uống trung bình mỗi ngày 350mg và không nên quá 700mg. Khi kích thích một phận chỉ định nào đó của não, cafein khích động khả năng thụ cảm, ghi nhớ, tập trung. Uống với liều lượng vừa phải, cà phê cũng giúp ta giữ tỉnh táo vì tránh mệt, giúp tránh đau đầu nhờ giảm hạ trạng thái căng của sự tuần hoàn mạch não mà không làm rối loạn nhịp tim, tăng gia mức cholesterol, nguy cơ bệnh tim mạch. Cà phê còn tác động lên phổi vì làm giản nở cuống phổi tuy bụi bột có thể gây ra dị ứng, tăng gia sự tiết nước miếng, dịch vị, mật, nên uống sau bửa ăn thì có tác dụng tiêu hóa, kích thích hoạt động enzym gan, tăng gia nội tiết tuyến tụy làm dễ vận chuyễn đồ ăn qua ruột, tác động lên thận gây ra lợi tiểu. Có những người thích uống cà phê mà sợ tác dụng của cafein (đánh trống ngực, đau dạ dày, hay mất ngủ, dễ nổi cáu, triệu chứng ở những người thường uống nhiều) thì có thể uống cà phê khử cafein. Lúc trước muốn thải loại cafein, người ta dùng một dung dịch hydrocarbua có nhiều chlor nhưng dung dịch nầy rất độc cho cơ thể và dù rửa sạch nó vẫn còn tồn tại ít nhiều trong cà phê. Ngày nay dung dịch được thay thế bằng khí carbon dioxyd dưới áp lực. Cũng có thể cho hấp thu cafein qua than hoạt hóa hay sử dụng sắc phân khí. Dù sao, những người nghiện cà phê thì cho cà phê nầy không ngon. Đằng khác, như mọi thức ăn thức đồ uống khác, người sành phải biết chọn loại cà phê. Cà phê chè arabica chiết xuất từ hột cây Coffea arabica, nguyên gốc Etiôpi, chiếm 75% sản xuất toàn cầu, mọc giữa 600m và 2000m, cống hiến mỗi cây mỗi năm 400g - 2kg cà phê, chứa đựng 1-1,5 cafein, thường là loại được ưa thích nhất. Cà phê vối robusta chiết xuất từ hột cây Coffea canephoravar. robusta được khám phá ở nước Congo thuộc Bỉ (tức là Zaire ngày nay), hiện được trồng nhiều ở Việt Nam là một trong những nước sản xuất lớn nhất thế giới, chịu đựng được miền thấp độ, dưới 600m, ít bị sâu bọ phá hoại, lại sản xuất lớn (mỗi cây mỗi năm 600g - 2,2kg) nên rất có lợi về mặt kinh tế. Đằng khác, nó chứa đựng 1,6-2,7 % cafein, tác động tăng sức mạnh, thường được dùng để chế tạo cà phê bột tan trong nước (café soluble) hay đông khô lạnh (café lyophilisé). Còn có những loại ít được biết vì ít ngon hơn là liberica từ hột cây Coffea liberica, cà phê mít exelxa gần giống robusta. Nói chung, cà phê ít thích lạnh nên chỉ mọc ở vùng 13-26 độ, đất ẩm nhưng nước mưa cần phải được tháo dần, nơi giàu đất mùn, bụi núi lửa và những hoá chất hữu cơ, cần phải tránh gió. Thường cũng phải 4-6 năm mới bắt đầu có trái, sau đó cây sống nhiều chục năm, và mỗI năm phải khoảng 8-10 tháng trái mới chín. Chất lượng cà phê còn rất cần yếu ở phương cách pha chế. Lúc đầu, người ta sắc cà phê uống, sau dần dần mới nghỉ cách chế biến. Trước tiên là giai đoạn sấy hột để loại vỏ ngoài và lớp thịt. Có hai phương pháp : - sấy khô trong khí trời, sau nhiều tuần hột còn ẩm 12%, năng suất 50% : - sấy ẩm là cho ngâm hột trong nước, tách cơm ra khỏi, cho hột lên men (có khi sử dụng enzym) rồi để sấy khô ngoài trời, hột còn ẩm 10-15%, năng suất 20%. Giai đoạn thứ nhì rất quan trọng là rang hột trong nồi 200-250 độ, hột phồng lớn, thay màu, mất 15-20% trọng lượng, biến thành caffeol hay cafeon mang toàn thể hương vị của cà phê: những chất đường đã được biến hoá thành caramel. Vào sau cuối, khi carbon oxyd tiết ra bao phủ không cho caffeol bốc hơi, đấy là lúc phải cho dừng cuộc chế biến cà phê rang vì rang lâu hơn thì có mùi cháy, trái lại rang ít hơn thì cà phê có hương vị rau, cải. Không những thời gian rang, nhiệt độ rang cũng ảnh hưởng nhiều lên chất lượng cà phê. Như vậy vai trò của người rang rất là quan trọng, phải có lỗ mũi rất thính, đồng thời thông thạo kỹ thuật chế biến. Trước đây, trước khi rang thường người ta cho trộn nhiều loại cà phê nhưng càng ngày người uống thích tự mình chọn loại và tự trộn lấy. Ở Paris có quán bán bột cà phê còn hỏi khách muốn xay hột ra bột với kích tất nào. Sau khi chịu khó tìm mua cà phê ngon, khách còn phải biết lưu trữ nó vì ai cũng biết hương vị là từ những hoá chất dễ bốc hơi mà lại. Thường cà phê xay rồi được giữ trong hộp đóng kín, có khi phải tích trong tủ lạnh hay tủ đông lạnh. Tốt hơn là giữ cà phê hột rồi chỉ xay ngay trước khi dùng. Trung bình mỗi cây cà phê mỗi năm cung cấp 2,5kg hột, sau khi xử lš còn lại 500g hột xanh, từ đấy đem lại 400g hột rang. Nếu tính phải 9g bột cà phê mới pha được một tách cà phê ngon thì phải 60 hột mới có đuợc tách ấy. Hai tính chất thường được đưa ra để đánh giá cà phê là mức axit và sức đắng của nó. Những nhà thiện nghệ còn nói tới sáu điểm khi thưởng thức hương vị cà phê. Ngoài mức axit (cảm thấy trên đầu luỡi như chanh), sức đắng (sau khi hột được rang, tương tự như bưởi, hoa bông) đã thấy, còn có sức mạnh (còn được gọi là chiều dày, dính vào lưỡi), độ thơm (nhờ những hoá chất dễ bốc hơi), mùi hương (qua những cơ quan khứu giác sau mũi, đặc biệt với arabica), tính tròn trặn (tổng kết những đức tính kia làm thành một tách cà phê chững chạc, thăng bằng). Nói tóm lại, uống xong mùi vị cà phê luôn còn phải được giữ trong miệng, dễ chịu, khoan khoái, đặc điểm của một tách espresso hay capucinno. Những năm gần đây, người nghiện còn có một dịp nữa để thưởng thức một loại cà phê có mùi vị quyến rũ vô cùng hấp dẫn, ít đắng hơn, lại có thêm hương vị đường thắng hay sôcôla, mấy ai may mắn được uống vì hiếm và rất đắt tiền: cà phê chồn hay cà phê cứt chồn. Có tên như vậy là vì thịt (pulpe) và vỏ quả ngoài (exocarpe) những hột cà phê được con chồn ăn, nội nhũ (endosperme) không tiêu hóa trong dạ dày bị thải ra ngoài nguyên vẹn. Nói nguyên vẹn là nhìn bên ngoài, thật ra có gì thay đổi bên trong vì hương vị khác hẳn cà phê thường. Ở cao nguyên miền Trung loại cà phê nầy được gọi là cà phê Tây Nguyên. Lâu lắm người ta tưởng là một huyền thoại, nhưng chuyện có thật, không chỉ có bên ta : ở quần đảo Nam Dương (Sumatra, Java, Borneo, Sulawesi) cà phê nầy được gọi là Kopi Luwak, Kopi Muncak, Kopi Muntjak, ở Philippines Kape Alamid, ở Đông Timor Kafé-laku. Ở vùng Tây Nguyên con chồn nầy mang tên cầy vòi đốm, tiếng Ê Đê là mijia, kích thước cỡ con mèo, có ba vệt đen chạy dọc trên lưng, đứt khoảng về phía đuôi tạo nên những vết đốm đen. Người Ấn Độ ở Kerala gọi nó marapatti, người Tích Lan ugudawa hay kalawedda, một con vật ít được ưa thích vì kêu gào ầm ĩ trong đêm lại sinh đẻ và bài tiết trên nóc nhà.... Tên khoa học của nó là Paradoxurus hermaphroditus thuộc họ Cầy Viverridae. Bên châu Phi thì gọi nó Civettictis civetta. Nó sống trong những cánh rừng cạnh cây có trái, đặc biệt những trái có nhựa khi lên men thì thành rượu có mùi vị ngọt. Chân có vuốt nhọn, nó dễ trèo lên ăn trái chín trên cây. Ơ Dak Lak có người cho nó chỉ thích cà phê arabica, vào mùa thu lúc trái tròn, mọng và bổ dưỡng, cũng là vào thời gian giao phối của chồn. Không rõ hột cà phê nằm trong bao tử hay nội nhũ lướt qua bộ phận tiêu hóa của chồn bao lâu trước khi được thải ra ngoài. Có người tin là chỉ trong một đêm, chịu khó đợi dưới chân cây là lượm được của quý. Thậm chí cũng có người cho chồn chỉ nuốt hột rồi mửa ra .... Dù sao, một điều chắc chắn là nội nhũ cà phê không được chồn ăn và nội nhũ sau khi thông qua bộ phận tiêu hóa của chồn, có tính chất khác nhau. Có người cho những hạch xạ hương quanh vùng hậu môn chồn đã tác động lên chất lượng cà phê. Có kẻ tin những amin axit trong cơ thể chồn tương tác với vỏ nội nhũ tạo ra những thay đổi ở hương vị cơ bản hột cà phê. Phần lớn các bài đăng trên báo hay đưa lên mạng đều đưa ra một thủ phạm : những enzyme, còn gọi giếu tố, có nhiệm vụ xúc tác các phản ứng biến hóa cấu tạo cà phê. Enzym là chất tìm ra được trước tiên trong bột chua (bột men), theo gốc Hy Lạp en : trong, zume : bột chua. Cái khó là làm sao biết enzym nào. Từ khi lọt vào lỗ miệng đến khi bị thải ra ngoài ở hậu môn, đồ ăn tiếp xúc với một loạt enzym có nhiệm vụ tiêu hóa nó. Trước tiên trong miệng, nước bọt (nước dãi, nước miếng) phát tiết lysozym có khả năng tiêu hủy vi khuẩn nhưng nó không được liệt vào các enzym tiêu hoá, và ptyalin là một alpha-amylase bẻ gãy tinh bột thành những phân tử đường lớn rồi những mảnh đường nhỏ tan hòa. Qua dạ dày (bao tử), dịch vị phát tiết pepsin bẻ gãy những protein ra peptid. Đến lượt tuyến tụy phát tiết lại một lần nữa amylase như ở nước bọt, lipase bẻ gãy lipid ra axit mỡ cùng glycogen và trypsin bẻ gãy peptid ra amin axit. Sau cùng, ruột hồi (hồi tràng) phát tiết sucrase bẻ gãy sucrose ra glucose và fructose. Trong số các phòng thí nghiệm trên thế giới khảo cứu về cà phê và chồn, đến nay chỉ thấy có Gs Massimo F. Marcone ở Phân khoa Khoa học Thức ăn, viện Canh nông Ontario tại Guelph bên Canada lần đầu tiên đặc biệt chăm chú đến cấu tạo và tính chất nội nhũ cà phê Kopi Luwak rồi đem so sánh với nội nhũ cà phê chồn Etiôpi. Chính bản thân giáo sư đã lại tại chỗ lượm các hột và nội nhũ cà phê, không quên rửa sạch để loại thải mọi rác rưới có thể làm sai cuộc đo lường. Đặc điểm thứ nhất là vỏ nội nhũ tức vỏ quả trong (endocarpe) cả hai loại cà phê chồn có sắc thái rất đỏ và có phần đậm hơn ở những vỏ hột cà phê thường. Khảo sát tường tận thì thấy trên mặt vỏ nội nhũ cà phê chồn, trở nên cứng và giòn, có những lỗ hiển vi (thấy rõ khi phóng đại 10.000 lần) do tác dụng dịch vị (vốn là axit mạnh) và những enzym tiêu hóa gây ra. Đằng kia, nội nhũ cà phê chồn chứa đựng ít protein hơn nội nhũ cà phê thường. Tác động lên protein còn có lactic axit của những vi khuẩn mà giáo sư ngạc nhiên tìm ra trong nội nhũ, tồn tại sau khi thông qua suốt bộ phận tiêu hóa của chồn là một thành tích. Những nhận xét nầy đưa đến kết luận dịch vị đã xuyên quả vỏ nội nhũ và enzym tiêu hóa tác động ắt phải là loại phân giải protein. Mỗi khi vào bên trong nội nhũ rồi, tất nhiên những enzym bẻ gãy những protein như trong một cuộc sẩy ẩm lên men. Khi đem rang, những chất đường sẵn có trong nội nhũ tác động lên những protein đã được bẻ gãy (phản ứng hóa học nầy mang tên phản ứng Maillard) cống hiến những hương vị khác nhau ngay cả khi so sánh hương vị hai loại cà phê chồn thí nghiệm. Để phân biệt rõ ràng những hương vị nấy, người ta đã "ngửi" với "lỗ mũi điện tử". Một áp dụng thật tế là "lỗ mũi điện tử" có thể dùng để phân biệt cà phê chồn chính cống và cà phê chồn giả hiệu: ai cũng đoán biết là vì giá bán vô cùng đắt cà phê chồn (trung bình 3000 đô la một ki lô, sản xuất thế giới mỗi năm 200-300 kg), biết bao người đã dùng enzym cho nhân tạo tác dụng lên nhân cà phê để đánh lầm người mua. Lương thiện hơn là trên Tây Nguyên, có vườn trồng cà phê nuôi luôn cả chồn để khỏi chạy quanh thu nhặt....Và còn bao lâu nữa nếu các vườn cà phê bị phá hủy để khai thác mỏ bô xit? Cà phê chồn là một trong những thức ăn của ta được thú vật giúp làm. Người giàu thường có khả năng lấy tổ yến xây từ bọt chim để nấu cháo, nấu chè. Người ít giàu cũng có dịp nếm mùi mật do ong hút nhụy hoa rồi cho enzym tác dụng lên mà tạo ra. Trên nguyên tắc cà phê chồn, người Maroc lượm hột cây argan - arganier được dê ăn rồi thải ra để ép làm dầu. Trong sách vở xưa còn có chuyện trảm mã trà là trà cho vào lên men trong ruột ngựa một thời gian rồi chặt cổ ngựa lấy trà ra dùng. Những người thưởng thức loại trà nầy chắc không cùng chung sống với những người quen đi cà phê "cóc" hay cà phê "bệt". "Cà phê cóc gần như là linh hồn của mảnh đất này. Không phủ nhận TpHồChíMinh có rất nhiều kiểu cà phê, trang trí đẹp và hoành tráng, nhưng mang tính đặc trưng dường như chỉ có cà phê cóc. Cà phê cóc ở khắp mọi nơi, mọi nẻo đường ngõ xóm, từ nhà, ra phố, vào hẻm, đi đâu cũng gặp cà phê cóc". Đằng kia cà phê bệt cũng không kém phần hấp dẫn. "Khách ở đây, đủ mọi thành phần. Quán không có bàn ghế, khách uống cà phê cứ việc ngồi bệt trên vê cỏ, sẽ có người đến hỏi : Uống gì ? Chỗ pha chế cà phê, nước giải khát ở đâu? Không thấy. Chỉ thấy người phục vụ từ đâu mang tới, rối tính tiền. Ly uống bằng nhựa, uống xong cứ việc bỏ lại, không mất! Đúng là quán bán không gian, của trời. Tuyệt đẹp! Mà không cần kiến trúc sư thiết kế". Thì ra cà phê có cả một nền văn hóa của nó! Nghiên cứu và Phát triển 5(76) 2009, vietsciences 06.20 Tham khảo Cà phê chồn, www.y5cafe.infoMassimo Marconi, Exotic foods from home and afar, www.culinaryhistorians.caDamien Galtier, Coeur et café, Cœur et santé 150 (8-9).2005 Massimo. F. Marconi, Composition and properties of Indonesian palm civet coffee (Kopi Luwak) and Ethiopian civet coffee, Food Research International (2004) 37 (9) 901-912; (2005) 38 (3) 233 Nguyễn Thượng Chánh, Cà phê cức chồn, khoahoc.net 30.10.2008 Nguyễn Trường Lưu, Không gian cà phê, văn hóa cà phê, www.sgtt.com.vn 08.01.2009 Vietnam : Kopi Luwak, un café nommé désir, Vietnam New Agency 25.01.2009 Sài gòn: Muôn mặt…cà phê, www.sggp.org.vn/vanhoavannghe 22.03.2009 Emily Brady, 36 giờ "hối hả" ở Tp Hồ Chí Minh, www.baodatviet.vn04.08.2009
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 14:06:25 GMT 9
48 - Diêm mạch, cơm gạo của người Inca Võ Quang Yến (Nhân năm quốc tế quinoa 2013) Hạt gạo làng ta - Có vị phù sa - Của sông Kinh Thầy - Có hương sen thơm - Trong hồ nước đầy - Có lời mẹ hát - Ngọt bùi đáng cay.... Trần Đăng Khoa
Ngày xưa, thật ra chỉ cách đây khoảng ba mươi năm, một ngưới Pháp vùng Alsace, Jean-Marie Galliath, chuyên viên hóa học, nhân một chuyến công tác nhân đạo ở nước Bolivia, theo dấu một tu sĩ, ông kiếm cách tìm hiểu đời sống của người dân bản xứ. Xúc động trước tình cảnh nghèo nàn của họ, ông quyết định làm một cái gì để giúp ích. Cùng với anh bạn Dodier Perréol, ông lập ra công ty Jataryi, theo ngôn ngữ Quechua (tiếng Inca xưa) có nghĩa " Đứng dậy " giúp người dân khai thác cây diêm mạch quinoa coi như là cơm gạo của họ. Ông muốn xây dựng một ngành "thương mãi công bằng" (commerce équitable) trong khuôn khổ chuơng trình Tổ chức Quốc tế WFTO, nhắm mục đích điều hòa nền thương mãi thế giới, bảo vệ thị trường những nước nghèo hòng đáp ứng những nhu cầu cốt yếu của họ. Sản xuất diêm mạch của công ty Jataryi đang trên đường phát triền: từ 40 tấn năm 1977 lên 600 tấn năm 2000. Tuy nhiên những con số nầy còn rất khiêm tốn….Và khai thác diêm mạch đang và sẽ gây thành vấn đề .... Ở nước Bolivia cũng như trong các dân tộc sống ở quanh núi Andes Nam Mỹ, diêm mạch đuợc xem quý hơn cả cơm gạo của ta. Tuy nhiên diêm mạch Chenopodium quinoa không phải như thường tưởng là một ngũ cốc như lúa, bắp, mà là một cây thuộc họ Kinh giới Chenopodiaceae gồm có một loạt các cây kinh giới (nhọn, chổi, trắng, lai, nhiều hột) cùng những cây diêm giác Anthrocnemum indicum, phi diệp biển Suaeda maritima, cải đường Beta vulgaris, êpina Spinacia oleracea,… Thường dân quê ở miền núi ăn diêm mạch nhiều hơn dân thành thị không những vì rẻ tiền mà còn vì trời lạnh hơn và họ nấu thành cháo ăn cho ấm bụng. Tôi nhớ những năm 45-46 ở miền Trung quê tôi, vì quá đói, nhà tôi nhờ mấy người anh làm công chức có được chút gạo, mẹ tôi đem nấu cháo mấy ngày Tết phát cho dân nghèo! Lúc trước, diêm mạch được cho là món ăn của dân nghèo, của người bản xứ Indien, nói như quân chiếm đóng Tây Ban Nha, tương tự khoai, bắp của ta. Điều kiện sinh sống cúa những người nầy thật là lầm thang vì công việc nặng nhọc, ở cao độ, trèo đèo lặng suối xa xôi từ nhà ở đến nương ruộng, .... Muốn bán chút ít diêm mạch cũng chẳng biết bán cho ai. Ông Teodocio Huaylliani, ngày nay làm giám đốc một xí nghiệp 80 nhân công với một số mậu dịch hằng năm 4 triệu euro, còn nhớ hồi đó, lúc chỉ có diêm mạch để ăn, mang lên phố năn nỉ mà chẳng ai chịu mua. Nhiều ngưòi nản lòng di cư đi tìm nơi trồng cây cola, may ra dễ sống hơn nhưng nay chính quyền kiểm soát chặt chẽ nên phải trở lại trồng diêm mạch không thỉ đi ăn xin! Tuy nhiên từ nhiều năm nay, bắt đầu từ những nước lân cận ở Nam Mỹ như Chile, Argentin, dần dần các nước ở trên thế giới ở Bắc Mỹ, Âu châu, ngay cả Trung Quốc xa xăm cũng chú ý đến món ăn quí báu nầy. Tổ chức Quốc tế Liên Hiệp Quốc về lương thực và canh nông FAO kê diêm mạch vào danh sách những thức ăn đầy hứa hẹn nhất trên thế giới như là một nguồn giải pháp trước những vấn đề trầm trọng về nuôi dưỡng nhân loại. Nhiều khám phá khảo cổ học cho biết diêm mạch có mặt trên mặt đất cách đây 5000 năm nhưng chỉ được dùng làm thức ăn khoảng 3000 năm. Tiếng Tây Ban Nha có nhiều tên gọi quanh danh từ quinoa : quinua, quinqua, kinoa, kvinuo, jiwra hay triguillo, trigoinca, arrocillo, swell hay lúa xứ Peru. Thời đế quốc Inca, diêm mạch được xem như là một thức ăn thiêng liêng, "siêu thực phẩm", một môn thuốc thần diệu. Người Inca gọi diêm mạch là chisiya mama, theo ngôn ngữ Quechua có nghĩa "mẹ của các loài hột". Ngày nay cây được trồng trong nhiều nước Bôlivia, Peru, Chile, Colombi, Argentin, Equatơ. Người ta sắp nó hoặc theo kích thước hột (lớn, vừa, nhỏ), hoặc theo màu hột (trắng, cà phê, vàng, xám, hồng, đỏ, đen). Trồng giữa hai cao độ 3000 và 4000m, nơi bắp không còn mọc được, trên các cánh đồng bậc thang, tưới nước khó khăn, diêm mạch là một cây gặt hái mỗi năm giữa 150 và 240 ngày. Mặc dầu thời tiết, nó chịu đựng dễ dàng điều kiện môi sinh, đặc biệt đông giá. Nó chứa trong bao ngoài hột chất saponin, một chất diệt trùng có khả năng xua đuổi chim chóc sâu bọ, độc và có vị đắng nên cần phải chà xát rửa nước để loại đi mới ăn được tuy, thử trên động vật, nó có tính chất kháng viêm, chống dị ứng, phòng ngừa ung thư. Đáng biết là phụ nữ bản xứ dùng nước rửa để gội đầu! Tuy được cho là thức ăn cốt yếu từ thời cổ đại, ngày nay diêm mạch phải qua các cuộc đo lường phân tích mới đánh giá được rõ ràng giá trị thực sự, khả năng dinh dưỡng cao cả của nó so với những ngũ cốc lúa, lúa mì, bắp, đại mạch. Lợi ích dinh dưởng của cây là độc nhất vô nhị: 13-14% protein nghĩa là nhiều hơn bất cứ ngũ cốc nào, nhiều glucid, ít lipid mà phần lớn là axit mỡ chưa bảo hòa. Linolenic axit (mệnh danh oméga-3) chiếm 8% tổng số chất mỡ của hột! Diêm mạch chứa đủ các amin acid cốt yếu (g)/10kg: (16) tryptophan, (18) methionin, (40) threonin, (41) tyrosin, 68 (isoleucin), (76) valin, (79) phenylalanin, (79) lysin, (104) leucin, không kém gì đậu nành. Lysin, một trong những amin acid hiếm trong những thức ăn thực vật, chỉ có trong bắp và lúa mì, hiện diện trong diêm mạch với một hàm lượng gấp đôi các ngũ cốc. Diêm mạch cống hiến nhiều sinh tố: (mmg)/100g : (6,24) ascorbic acid tức vitamin C, (1,2) niacin tức vitamin PP, (0,51) thiamin tức vitamin B1, (0,39) riboflavin tức vitamin B2, (0,12-0,36 tùy loại) retinol tức vitamin A, một số lớn tocopherol tức vitamin E. Các tính chất nầy là một ưu điểm cho những người ăn trường chay. Diêm mạch chứa đựng nhiều thớ không tan hòa cần yếu cho sự vận chuyển tiêu hóa, duy trì một chức ruột thích đáng, đóng góp giảm hạ ung thư ruột già. Đằng kia những thớ tan hòa giúp chữa những chứng tim mạch, tiểu đường loại 2 nhờ điều hòa tỷ lệ cholesterol, glucose và insulin trong máu. Ngoài ra, trong diêm mạch còn có nhiều kim loai như sắt, đồng, kẽm, mangan, khoáng chất, đặc biệt calci Ca, kali K, photpho P. Đáng chú ý là diêm mạch không chứa gluten, nên bột diêm mạch không dậy, một tin mừng cho những ai dị ứng với chất nầy. Diêm mạch là một thức ăn dùng đủ cách, nấu mặn hay nấu ngọt. Là một thức ăn mang đăc tính, nó có thể dung hợp với các thức ăn khác cũng có vẻ riêng như cà phê, sô cô la, phó mát. Quê gốc Nam Mỹ, nó có thể hỗn hợp với các rau trái cùng vùng như bắp, khoai, đậu đỏ, cà chua. Khi nấu chín hột có phần dòn nên tốt nhất là cho vào thực đơn cùng với những thức ăn mềm như cá hấp, khoai nghiền hay lê tàu, nước xôt Béchamel (nước xốt trắng làm với kem). Như các ngũ cốc, diêm mạch phối hợp đúng điệu với các hột có dầu như mè (vừng), hồ đào, hột phỉ, nhân hạnh, hột đào lộn hột. Ở Bolivia, hột được thêm vào cháo, nướng nghiền ra bột, thêm nước thành "sửa", nấu thành "kem", thổi phồng rồi lấp một lớp xirô bắp, lên men thành rượu bia hay chicha, thức uống của người Inca. Sản xuất bên các nước Bolivia, Peru, lắm khi bột bột diêm mạch được đem thay thế bột mì. Có hương vị hạt dẻ, lẫn một chút mùi lúa mạch và mùi bắp non, có mùi thơm hột phỉ hay hồ đào, nó được cho chêm vào bánh mì, bánh ngọt, bích quy để tăng hương vị. Đem trộn với bắp, khoai, bột mì, yến mạch, diêm mạch là một thức ăn vừa ngon vừa bổ, đặc biệt cho con trẻ thiếu dinh dưỡng. Lá cây tuy chứa chút ít nitrat và oxalat cũng có thể ăn tươi hay nấu ăn như rau. Lá diêm mạch còn được dùng để nuôi súc vật như cừu, lừa, lama (lạc đà không bướu). Hột và rễ cây là thức ăn rất tốt cho heo gà. Ngày nay, hai nước sản xuất diêm mạch còn được gọi "hột vàng núi Andes" nhiều nhất là Peru và Bolivia. Song những con số đưa ra không giống nhau. Theo Tổ chức Quốc tế FAO, từ 2004 đến 2010, Peru sản xuất 41079 tấn (58% tổng số), Bolivia 29.500 tấn (41%), Equatơ 641 tấn (1%) trong khi Hiệp đoàn quốc gia các nghiệp chủ ANAPQUI đưa ra những con số lớn hơn. Tuy nhiên sản xuất của Bolivia có thể còn lớn hơn nữa vì từ 2005 đến 2012, diện tích trồng diêm mạch đã tăng gấp đôi, đạt đến khoảng 70.000 hecta, xuất cảng tăng 20 lần. Vì thiếu con số xuất cảng diêm mạch của Peru, hiện nay Bolivia là nước được biết xuất cảng nhiều nhất, mỗi năm trên 60 triệu đôla, chiếm 70% thị trường, trước Equatơ. Một phần nửa được gởi qua Hoa Kỳ, khoảng một phần ba qua Au châu, 6% qua Canađa, tổng cộng 94% số lượng xuất cảng diêm mạch Bolivia. Giá diêm mạch từ 3 euro mỗi tạ (50kg) cách đây 30 năm bây giờ tăng lên 70 euro. Người dân bắt đầu kêu la vì bao nhiêu sản xuất dành cho xuất khẩu, giá lại quá cao, họ không còn mua được. Tôi nhớ một hồi ở nước ta, người dân cũng kêu la vì chỉ mua được đầu cá, thân cá dành để xuất khầu. Bắt đầu từ 2009, nước Pháp trồng diêm mạch ở các vùng từ Anjou đến Poitou: giữa 2009 và 2010, diện tích trồng tăng từ 100 lên 200 hecta. Bây giờ, Hoa Kỳ, Brasil, Canađa cũng bắt đầu trồng diêm mạch. Nhu cầu diêm mạch ngày càng tăng, mới thấy như là một mối lợi bất ngờ cho nông dân các nước vùng núi Andes. Nhưng nhu cầu càng tăng cường thì phải sản xuất cũng phái nối gót tăng gia. Rút cuộc diêm mạch trở thành độc canh, chiếm chỗ những cây lương thực ở hoang mạc hay đồng bằng và ngay cả ở đồi núi. Nhiều hậu quả mọi mặt. Về môi trường : hưu canh giảm hạ, đất đai xấu thêm. Về xã hội: đảo ngược di dân. Những người nghèo bỏ đồi núi đi tìm việc làm ở thành thị bây giờ trở về lại quê sinh sống, nếu không mua được thì muốn chiếm lại đất đai cho là của mình lúc trước (tuy không có giấy tờ) mặc dầu đã có người khác ra công khai thác. Và từ đây sinh ra tranh chấp! Cuộc xung đột quyền sở hữu đất trồng giữa hai vùng Quillacas và Coroma đã làm tám người bị thương và ông tỉnh trưởng Potosi phải yêu cầu quân đội can thiệp Theo báo La Razon, không phải tám người bị thương mà hằng chục người vì ném đá và nổ mìn. Trong một diện tích 250 km2 đã có tranh chấp vì nhiều mỏ uran giữa hai tỉnh Potosi và Oruro, rồi đây còn thêm xung đột vì diêm mạch trong thời kỳ gặt hái. Một hiểm họa nữa là vì giá diêm mạch tăng, muốn gặt hái mau và nhiều, các điền chủ thực hiện thâm canh, quên bỏ kỹ thuật truyền thống giảm hạ thời gian để cho đất nghỉ! Người dân miền núi nước ta rất am hiểu lợi ích của cuộc luân chuyển thời gian trồng trọt nầy.Thảm hại nay thấy rõ không những ở nước ta mà còn ở những quốc gia lớn như Hoa Kỳ hay Mông Cổ, để chỉ kể những nơi dễ thấy. Một thảm họa khác nữa là tương lai những con lama (lạc đà không bướu) ở đồi núi mà phân bón cũng là một sản phẩm thiên nhiên, rẽ tiền, còn tốt hơn những hoá chất nhân tạo mà không làm hư hại đất đai. Con lama sống trên một vùng thu hẹp cao nguyên 4000m dãy núi Andes có tiếng là một nơi khô cằn, thiếu nước, gió mạnh, khi khô hạn, khi đông giá, lại thêm ánh nắng mặt trời gay gắt vì ở cao độ. Như diêm mạch, nó có một sức chịu đựng khí hậu cực độ, và nếu diêm mạch được cho là "hột vàng núi Andes" nó được xem là "nhà băng có chân". Một đằng càng ngày nó càng bị diêm mạch chiếm đoạt không gian sống, đằng kia vì suy nghĩ kém diêm mạch đem lại hoa lợi nhiều hơn, dân núi dần dần đem bán nó lấy tiền mua phân hóa học. Rõ ràng hệ thống mất thăng bằng vì chính lama cống biến phân bón diêm mạch rất tốt ! Trên bờ biển muối Uyuni, ngắm làng Jiria cống hiến một phong cảnh ngoạn mục với dưới chân đồi đỏ rực hoa bông, xanh rờn xương rồng, những cây diêm mạch vàng lục lay theo chiều gió trông như một bức tranh trường phái ấn tượng, ông Faustina Moralès, 60 tuổi, than phiền làng của ông nay giống như một làng ma! Thật vậy, trong số 50 gia đình sống ở đây ba mươi năm trước, bây giờ chỉ còn vỏn vẹn 5. Làng đang suy tàn mà không ai chịu bỏ tiền ra trùng tu : ai cũng chỉ muốn mua hay chiếm cho bằng được nhiều đồng diêm mạch, ngay cả những người trước đây đã từng bỏ làng ra đi .... Sự tích bắt đầu với ông Jean-Marie Galliath, xin kết thúc với ông. Ông không có óc làm giàu, trái lại muốn làm cho và làm với người dân Bolivia. Ông nuôi mộng lớn mua máy bơm nước, máy kéo, máy gieo,..lập phòng thông tin, xây nhà thương, nhà trường, nhà con trẻ,.... Nhưng ông gấp phải những chướng ngại tuy nhỏ nhưng rầy rà. Ví dụ: có sắc lệnh bánh mì phải chứa đựng 5% bột diêm mạch vì có bệnh thiếu dinh dưỡng trong dân chúng, nhất là ở trẻ con, thấy rõ ở hàm răng đen. Diêm mạch rất cần thiết và lại sản xuất ở ngay Bolivia. Vậy mà 14 năm sau ở Bolivia vẫn không có diêm mạch trong bánh mì vì bột diêm mạch quá đắt ! Ông không thể thương lượng với người dân. Lúc đầu, ông nghĩ là vì ngôn ngữ bất đồng, kiến thức tiếng Tây Ban Nha của ông còn kém. Sau nhờ thông ngôn, ông mới phát giác ra hai tâm tính, hai văn hóa khác nhau trên cao nguyên núi Andes. Nếu người Quechua (Inca xưa) nghĩ "khi cộng đồng phát triển, ta cùng phát triển", người Aymara (quê gốc cạnh hồ Titicaca, trung tâm miền Andes) lý luận "tôi lo trước cho gia đình tôi, sau mới đến cộng đồng". Cách lập luận nầy không xa lạ ở nước ta. Hậu quả là có nhiều người Bôlivia đang làm giàu trong khi vô số dân đen vẫn còn nghèo. Đáng tiếc là Bolivia cũng như vài nước lân cận có được một cây diêm mạch quí báu, một "hột vàng núi Andes" như họ thường nói mà không ngững đầu lên được. Liên Hiệp Quốc tuyên bố năm 2013 là "Năm quốc tế diêm mạch" để tỏ lòng cảm phục dân chúng vùng Andes biết giữ gìn một thức ăn trồng từ hằng ngàn năm nay, cơ sở thực phẩm những nền văn minh xưa cổ như văn hóa Inca. Liệu lời biết ơn nầy tác dụng ra sao lên đời sống người dân vùng núi Andes? Nghiên cứu và Phát triển 1(108)2014, khoahoc.net 03.2014 Tham khảo - Quinoa, Adtech 05.2006 - Tout ce qu’il faut savoir sur le quinoa, Magasins du monde 05.2007 - Clara Delpas, La graine - storming du quinoa, Libération 23.06.2009 - Reza Nourmamode, La fièvre du quinosa, Le point (lepoint.fr) 07.04.2010 - Quinoa, Ekopedia 30.10.2011 - La guerre du quinosa a commencé, Green et vert (greenetvert) 31.05.2012 - Le quinoa, l’or contreversé des Andes, Le Monde 18.06.2012 - Quinoa, Incanatural 23.11.2012 - Quinoa, Wikipedia, 11.04.2013 - C’est quoi le quinoa, Marmiton (marmiton.org) 1999-2013
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 14:09:54 GMT 9
49- Hương vị cà cuống Võ Quang Yến Cà cuống chết đến đít còn cay ! Ca dao Bên nước ta có nhiều loại cà. Trừ cà kheo, cà mèn, cà rá, cà ròn, cà sa, cà vạt,.... những cà bát, cà dái, cà dại, cà dừa, cà độc dược, cà gai, cà hoang, cà hôi, cà lào, cà na, cà ổi, cà pháo, cà quánh, cà quinh, cà tím, ngay cả cà rốt, cà phê .... nhập khẩu thuộc loài thảo mộc, còn những cà ghim, cà kếu, cà niễng, cà tong, .... thì lại thuộc loài động vật. Trong số nầy, cà cuống, còn g†i sâu qu‰, là một côn trùng được nói đến nhiều nhất. Trước ở miền Bắc, nay phổ biến khắp nơi, dầu cà cuống hương mùi độc đáo, có người cho cay đắng, nhưng giõ một vài giọt vào bát phở, tô bún thì lại nâng cao mùi vị của món ăn. Ở Á châu, cà cuống thường được dùng toàn cơ thể làm thức ăn, từ Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar qua Trung Hoa, Singapore, Indonesia (14). Người Tàu ăn cà cuống luộc thêm một chút muối ở Quảng Châu hay xào trong dầu mè ở Bắc Kinh. Ở Singapore, fwai fa shim im là một món cà cuống rất được ưa thích (3). Người Thái Lan gọi cà cuống là mangda. Họ trộn nhuyễn toàn cơ thể, có khi vứt bỏ mắt, cánh và những bộ phận xơ cứng, với hành, kiệu, ớt, đường, thêm vào nước chanh, nước mắm thành một thứ bột nhão gọi là nam prik mangda để ăn với cơm hay rau (14). Ở ngoài Bắc, cà cuống được loại chân, cánh, đuôi phụ rồi hấp cách thủy trong một cái chõ hay nướng trên lò than để ăn ; cũng có khi để nguyên con còn cả vỏ chitin đem thái nhỏ rồi xào mỡ để ăn ngay hay ướp muối để tích trữ. Người biết thưởng thức không sao quên được hương vị cà cuống thịt. "Bỏ cánh đi rồi, anh nhần nhần sáu cái chân nó, lấy cái đầu, xé ra nhấm nhót cái ức trước rồi cái đuôi sau, anh sẽ thấy nó có một vị ngon khác hẳn các món ăn ngon nào khác: nó nhận nhận, bùi bùi, beo béo mà lại thanh thanh, một người tục có thể ăn cả trăm con mà không biết ngán" (6). Cà cuống sinh trưởng ở dưới nước, tại các ruộng sâu, hồ ao, sông lạch, sống bằng trứng cá và các loài nhuyễn thể. Mùa cà cuống vào tháng 10 âm lịch, sau vụ gặt lúa mùa ở các đồng ruộng, ao hồ. Tháng 7-8, ban đêm cà cuống thường bay vào các nơi đèn sáng (6). Trứng cà cuống lượm trên các thân cỏ dưới nước. Con trẻ thường thích ăn trứng cà cuống sống hay nướng. Để bắt cà cuống, người ta thường dùng những dụng cụ đánh cá như lờ, đó, rưu, dậm. Ở Thái Lan và Việt Nam, cách dùng đặc biệt cà cuống cay là chiết xuất tinh dầu của nó để làm tăng hương vị món ăn, cuốn, thang, bánh chưng, nước mắm (1). Thạch Lam, thời tiền chiến, đã thi vị hóa món ăn: "Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm ngát, lại điểm thêm một chút cà cuống thoảng nhẹ như một nghi ngờ" (2). Vũ Bằng, một nhà văn quê ngoài Bắc vào sống trong Nam, luôn nhớ đến cà cuống và cho nó là một gia vị quý hơn cả bát trân. Ông kể trong cuốn Thương nhớ mười hai : " Tục truyền rằng Triệu Đà là người đầu tiên ở nước ta ăn cơm với con cà cuống. Thấy thơm một cách lạ lùng, ông ta gửi dâng vua Hán một mớ và gọi là quế đố nghĩa là con sâu cây quế. Vua Hán nếm thử thì nhận rằng nó giống mùi quế thực, khen ngon và phân phát cho quần thần mỗi người một con. Bất ngờ, trong đám có một ông lắm chuyện lại tâu rằng : Đó không phải là con sâu sống trong cây quế, mà chỉ là một con sâu sống dưới nước, thủy đồ ". Vua mới phán rằng : "Thử nãi Đà chi cuống dã " nghĩa : đó là lời nói láo của Đà. Từ đó cà cuống thành ra đà cuống. Nó còn có một tên nữa là long sắt nghĩa là rận rồng " (6). Trước đó hơn một nửa thế kỷ, sự tích nầy đã được cụ Nguyễn Công Tiễu, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Công nghiệp và Lâm nghiệp Đông Dương, cán sự Sở Công nghiệp, kể lại trong Tạp chí Kinh tế Đông Dương (1)với lời phán của vua Tàu có phần khác: "Nam Việt hà nhân quế đố, anh hùng vị tất bất khi nhân " vẫn cùng hàm ý chế nhạo. Cà cuống là một loại côn trùng Belostomatidae sống dưới nước thuộc họ Cryptocerate, bộ cánh khác Heteroptera, lớp cánh nửa Hemiptera. Nó mang tên khoa học Belostoma indica Vitalis hay Lethocerus indicus Lep. et Serv. Khi non giống như con dán, mình dài 7-8cm, rộng 3cm, màu nâu xám, có nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt tròn và to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa cứng. Khi mỗ cà cuống, ta thấy nó có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 45cm, gồm có một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu dưới phình to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu chứa nước nầy là hai ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra thụt vào được. Nếu lấy tay rút mạnh hai ngòi nầy thì cả bộ tiêu hóa của cà cuống có thể bị lôi ra ngoài. Ở dưới ngực, ngay gần phía lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống. Mỗi bọng dài 2-3cm, rộng 2-3cm, màu trắng, trong chứa một chất thơm, đó là tinh dầu cà cuống. Nhưng chỉ có con đực mới có tuyến nầy phát triển. Muốn lấy dầu cà cuống, người ta áp bụng cà cuống xuống phía dưới, để phía lưng lên, lấy một que tre đầu vót nhọn, đem rạch ngang lưng nơi tiếp giáp với ngực, nghĩa là ở vị trí đôi chân thứ ba, sau đó gấp bụng cà cuống xuống, tức khắc hai cái bọng dầu cà cuống sẽ lòi lên phía trên. Lấy đầu tre nhọn khều hai cái bọng này ra, dùng ngón tay khẻ bỏ bọng vào bát hay chén. Khi được nhiều bọng, chích bọng cho dầu thoát ra khỏi bọng. Vỏ bọng được loại bỏ đi, nếu không, để lâu dầu cà cuống sẽ có mùi hôi. Tinh dầu cà cuống là một chất lỏng trong như nước lọc. Để ngoài không khí rất dễ bay hơi do đó dầu cà cuống cần đựng trong lọ nhỏ, nút kín. Tùy theo con to, nhỏ mà tinh dầu có nhiều hay ít. Trung bình một con cho 0,02 ml, 1.000 con đực mới thu được chừng 20ml. Dầu cà cuống, nhẹ hơn nước, cho thoảng ra một mùi đặc biệt giông giống như mùi quế. Ông Trịnh Văn Hợi, kỷ sư hóa học ở Phòng Thí nghiệm Nông học ở Hà Nội, không có phương tiên phân tích, đoán chất dầu có thể là amyl valerianat (1) . Năm 1957, nhân được Ban Khoa học Kỹ thuật và Văn hóa Tòa Đại sứ Pháp cấp học bổng, kỷ sư Nguyễn Đăng Tâm, nay đã qua đời, qua Đức dự thảo luận án tiến sĩ tại phòng thí nghiệm của giáo sư Adolf Butenandt tại Viện Sinh vật học Max-Planck ở Tubingen-München. Vào hồi đó, giáo sư Butenandt và các cộng sự viên đã khảo cứu nhiều về các chất hấp dẫn tính phái pheromon, đặc biệt của bướm tằm hay bạch cương tàm Bombyx mori L. Bắt đầu từ 2-hexenol, họ thấy càng tăng gia dãy carbon và các dấu nối đôi như trong các chất 2,4-hexadienol hay 2,4,6-octatrienol, sức hấp dẫn lại càng lớn. Nhiều văn bằng sáng chế mang tên ông và các nhà cộng sự đã đề nghị dùng, hoặc một mình, hoặc trộn lẫn với các chất diệt trùng, những chất hấp dẫn tính phái như tetradecadienol, pentadecadienol, hexadecadienol,.... (4). Đến phiên anh Tâm lấy tinh dầu cà cuống làm nguyên liệu. Sử dụng những phương pháp phân tích mới mẻ nhất hồi ấy, anh phát hiện được thành phần chính của dầu là phân tử E-2-hexenol acetat (E = entgegen hay trans là một trong hai thể của dấu nối đôi giữa hai carbon 2 và 3, dạng kia là Z = zumammen hay cis). Để hoàn thành luận án, anh còn đề nghị một phương pháp nhân tạo tổng hợp phân tử ấy từ butyraldehyd và ethyl malonat trong môi trường pyridin (5). Hexenol acetat chế tạo ra, độ sôi 168-170°, chỉ số khúc xạ n25D = 1,4160, cũng có dạng E như chất thiên nhiên (7). Nhưng chất anh Tâm tìm ra được không phải độc nhất trong dầu cà cuống mà chỉ là thành phần lớn nhất. Bảy năm sau, ở Hà Lan, nhờ máy sắc ký khí tinh xảo hơn, V. Devakul và H. Maarse khám phá ra dầu cà cuống chứa đựng cả một chục chất khi khảo sát sắc khí phổ. Ngoài hexenol acetat, họ xác định được một thành phần khác, tương đối ít hơn, là 2-hexenol butyrat cũng ở dạng E (8). Ngoài ra, môt số amin acid như alanin, arginin, glutamic acid, methionin, phenylalanin, tryptophan, tyrosin, valin,.... đã được tìm ra trong nhiều bộ phận của cà cuống trưởng thành : bắp thịt lồng ngực, màng treo dạ dày, máu và bạch huyết, buồng trứng (9). Người ta cũng nhận thấy chất prolin liên quan đến sự cầm giữ và bảo quản nước thì lại vắng mặt trong máu và bạch huyết (10). Bên cạnh E-2-hexenol acetat, chất đồng vị Z-3-hexenol acetat đã được phát hiện trong tế bào trái một loại táo (14), trong thân một cây mùi tây Anthriscus nitida (18), trong lá loại đậu nành Davis (15), trong trái nho Vitis vinifera (17), trong dầu ô liu (11), hay trong số các chất dễ bốc hơi của cây đậu Vigna unguiculata (16). Những phân tử nầy cống hiến mùi hương (12,19) có tính chất hấp dẫn sâu bọ (15) và đã được hòa trộn với nhiều chất khác làm thơm thuốc thoa da hay thuốc đánh răng (20). Đáng để ý là song song với hexenol acetat, hexenol butyrat , những chất hấp dẫn tính phái tương tự như E-2-octenyl acetat, E-2-decenyl acetat, .... đã được phát hiện trong những loại sâu như Rhoecocoris sulciventris, Biprorulus bibax (4). Cũng nên biết là Z-hexenol có mặt trong cây cỏ nên thường được gọi là " rượu của lá " còn E-hexenal hiến mùi lá nên mang tên " aldehyd của lá " (8). Người ta nghĩ đến mùa sinh nở, cà cuống đực tiết tinh dầu làm cho cà cuống cái ngửi thấy ngoi theo và đôi cà cuống đực cái tìm nơi yên ổn mà giao phối. Ngoài chức năng tính phái nấy, dầu cà cuống còn có phận sự săn mồi, bảo vệ. Khi kiếm mồi gặp cá lớn, cà cuống lao mình bám lấy, tìm chỗ huyệt châm ngòi chích tinh dầu vào, tức thì con mồi bị tê liệt, lăn kềnh ra, cà cuống cứ việc bám vào mà hút máu ; hoặc khi cà cuống bị con vật khác đuổi thì phun chất tinh dầu nầy, làm cho kẻ địch ngửi thấy mùi phải rút lui. Trên thực nghiệm, dùng với liều nhỏ thì tinh dầu cà cuống có tác dụng kích thích thần kinh và hưng phấn bộ phận sinh dục, nhưng dùng với liều cao thì có thể gây ngộ độc. Hồi còn công tác ở Viện Hóa Học các Chất Thiên Nhiên ở Gif-sur-Yvette (Pháp), trong phòng thí nghiệm của cố giáo sư Bửu Hội, tiến sĩ Nguyễn Đạt Xường, nay cũng đã mất, và cộng sự viên có chương trình khảo cứu những chất tương tự. Non 50 hexanyl, hexenyl, hexynyl, cyclohexanyl, cyclohexenyl ester (acetat, butyrat, propionat, hexanoat, decanoat, valerianat, benzoat, ethoxalat, theonat, furoat, nocotinat, ....) đã được nhân tạo tổng hợp dựa lên phản ứng ester hóa các phân tử rượu với một acid chlorid. Những kết quả không đăng báo nầy không được khai thác về mặt ứng dụng có lẽ các chất nhân tạo nầy thoạt xem không thấy có hương vị thơm cay, ngon lành như dầu thiên nhiên. Thật ra, ngay cả chất hexenol acetat nhân tạo mà người Thái Lan đã khai thác trên thương trường, hoàn toàn ròng sạch, cũng không làm vừa ý người dùng. Phải chăng dầu cà cuống thơm ngon vì nó có hương vị của một hỗn hợp nhiều chất mà ngoài hexenol acetat và hexenol butyrat, ta chưa xác định được cấu tạo các thành phần khác, tuy số lượng không bao lăm nhưng góp phần tích cực vào hương vị dầu. Đây cũng là một đề tài khảo cứu hữu dụng cho các phòng sinh vật học. Một cảnh tượng quê hương mỗi lần gợi lên biết bao thương nhớ ở người sống xa xứ : ".... những người đàn bà bán cà cuống ấy sở dĩ không cần rao vì họ đã có khách quen cả rồi : có hàng thì cứ tự nhiên đem vào bán, mà đã vào thì các bà nội trợ cứ tự nhiên mua. Người bán và người mua cùng ngồi nhễ bọng cà cuống cho vào một cái đĩa nhỏ, đến khi xong cả thì mới trút vào trong một cái ve nhỏ bằng ve dầu Vạn Ứng, đậy thật kín, lấy giấy bóng bao ngoài cái nút rồi lấy giấy quấn chặt cho không bay hơi đi mất " (6) . Nghiên cứu và Phát triển 4(34) 2001, khoahoc.net 07.07.2005, vietsciences 05.2007, chimviet.free.fr 05.2007 Tham khảo 1-Nguyễn Công Tiễu, Notes sur les insectes comestibles du Tonkin, Bulletin économique de l’Indochine, 31ème année, Nouvelle série, VIII 198 (1928) 735-794 2- Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường, nxb Đời nay, Hà Nội (1943) 42 3- F.S. Bodenheimer, Insect as human food, W. Junk Publishers, The Hague (1951) 266, 272 4- M. Jacobson, Insect sex attractants, Interscience Publishers NewYork-London-Sydney (1965) 39, 46, 84, 103 5- K. Mori, Synthetic chemistry of insect pheromones and juvenile hormones, Akadémiai Kiadó, Budapest (1979) 39 6- Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, nxb Văn học, Tp Hồ Chí Minh (1989) 205-10 7- A. Butenandt, Nguyen Dang Tam, Uber eines geschlechsspezifischen Duftstoff Belostoma indicaVitalis (Lethocerus indicus Lep.), Hoppe-Seyler’s Zeitschrift fur Physiologische Chemie (1)308 (1957) 277-83 8- V. Devakul, H. Maarse, A second compound in the odorous gland liquid of the giant water bugLethocerus indicus (Lep. and Serv.), Analytical Biochemistry (3) 7 (1964) 269-74 9- A.P. Saxena, Free amino-acids in the tissues of Belostoma indica (Hemiptera : Belostomidae), Current Science (13) 40 (1971) 355-6 10- J. Singh, Proline metabolism in heteroptera from different environment, Biochem. Exper.Biol. (2) 14 (1978) 181-3 11- M.C. D.Gracia, J.M. Olias, R.G. Gonzales-Quijano, Volatile components in the aroma of virgin olive-oil. III. Reproductibility of the method used for its isolation, concentration, and separation, Grasas y Aceites (Sevilla, Spain) (5) 31 (1980) 317-21 12- K. Laats, V.O. Chernylshev, H. Rang, S. Viitmaa, 5-Methyl-1-(3-methylphenyl)-4-hexen-1-ol acetate as component of scent composition, U.S.S.R. SU 81 3248309 19810105 (1982) 13- R.G. Berger, A. Kler, F. Drawert, C6-aldehyde formation from linolenic acid in fruiy cells cultured in vitro, Plant Cell, Tissue and Organ culture (2) 8 (1987) 147-51 14- R. W. Pemberton, The use of the Thai giant waterbug Lethocerus indicus (Hemiptera : Belostomatidae) as human food in California, Pan-Pacific Entomologist (1) 64 (1988) 81-2 15- S.H. Liu, D.M. Norris, P. Lyne, Volatiles from the foliage of soybean, Glycine max, and lima bean, Phaseolus lunatus : their behavioral effects on the insects Trichoplusia ni and Epilachna varivestis, J. Agric. Food Chem. (2) 37 (1989) 496-501 16- W. Lwande, P.G. McDowell, H. Amiani, P. Amoke, Analysis of airborne volatiles of cowpea, Phytochem., (2) 28 (1989) 421-3 17- C. De La Presa-Owens, R.M. Lamuela-Raventos, S. Buxaderas, C. De La Torre-Boronat, Characterization of Macabeo, Xarel, and Paredella white wines frol the Penedes region. II., Amer. J. Enol. Vitic. (4) 46 (1995) 529-41 18- B. Muckensturm, F. Diyani, J.P. Reduron, Grilactone and other terpenoids from Anthriscus nitida, Biochem. Syst. Ecol. (7/8) 23 (1995) 875-6 19- X. Wan, J. Tang, X. Ding, Q. He, Free and glucosidically bound volatile flavor compounds in hawthorn, Shipin Yu Fajiao Gongye, (2) 24 (1998) 20-6 20- H.D. Kim, Y.H. Kim, S.Y. Yoon, Perfume composition for reducing irritation of skin whitening agent and improving flavor in toothpaste composition which uses peroxide and sodium bicarbonate as whitening agent, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KRXXA7 KR 2002045226 (2002)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 14:12:44 GMT 9
50- Huyền điểu, yến sào Võ Quang Yến Bay qua, bay đi chim yến nhỏ Từng tuổi thơ từng dấu chân Trên cánh đồng em nghiêng nón, Lúa dậy thì hương trẻ vào hoàng hôn. Lê Thị MâyTrong các thức ăn hiếm và quý của Viễn Đông từ hàng trăm năm nay, yến sào đứng hàng đầu bản bát trân: yến sào (tổ chim yến), hải sâm (sâm biển), bào ngư (nhím biển), hàu xì (sò huyết), lộc cân (gân hươu), cửu khổng (hàu chín lỗ), tê bì (da tê giác), hùng chưởng (tay gấu). Sách Thần nông bản thảo kinh kê nó trong số ba đặc sản nổi tiếng: trầm hương, tê giác, yến sào. Vì sống ở hang động các đảo ngoài biển nên chim yến còn được gọi hải yến, chim biển hay chim én biển. Nó cũng còn mang tên Việt yến (chim yến đất Việt), Nam yến (chim yến miền Nam), Hồ yến (chim yến xứ Hồ). Sách Đại Nam nhất thống chí dẫn Bản thảo cương mục đưa tên ất điểu (vì đường bay của chim), huyền điểu (vì màu sắc của lông), chí điểu, ý nhi, du ba, thiên nữ oa (3). Ngoài ra có những tên ít được dùng: yến oa, yến thái, quan yến, kim ty yến, gợi ý nhất là du hà ưu điểu (chim bay trên sóng nước) (ĐTL). Nười Anh có những tên enso, swiftlet, có khi swallow (chim én) và người Pháp salangane, một danh từ thông dụng ở Manille (1). Chưa thấy chim nào có nhiều tên như thế. Ở Hang Trống hòn Ngoại thuộc tỉnh Khánh Hòa có bài thơ khắc trên vách đá : .... Dịch tâm sào dựng tử Mỹ phú kiện nhân sinh. nghĩa là rút ruột nuôi con làm tổ, vừa làm cho con người khỏe mạnh vừa làm đep non sông (18). Không phải tình cờ mà vua Minh Mạng cho chạm hình chim yến, tổ yến và hai chữ yến oa vào Tuyên đỉnh trong Đại nội Huế, tượng trưng cho một sản phẩm của đất nước, một tấm gương cho dân gian. Khắp miền Đông Nam Á, chim yến sống rải rác trong hang ở những hải đảo từ Trung Hoa qua Việt Nam xuống Nam Dương, Phi Luật Tân. Ở nước ta, ngoài vài đảo ở Thanh Hóa (Hòn Mê), Quảng Bình (Hòn La, Vùng Chùa), chim sống nhiều nhất suốt bờ biển từ Quảng Nam (Cù lao Chàm), Quảng Ngãi (mũi Sa Huỳnh), Bình Định (hòn Ông Căn, bán đảo Phước Mai, Cù lao Ré), Khánh Hòa (những hòn Đôi, Hố, Đun, Tre, Mun, Ngọc, Nội, Ngoại, Nhàn, Chà Là) qua Cù lao Thu (ngoài khơi Thuận Hải), hòn Bông Lau, hòn Côn Sơn, đến Kiên Giang (các hòn Nhạn, Rái, Thổ Chu, Nam Du, An Thái). Những hang có tiếng nhất là Hang Khô (Thương đảo), Hang Cả (Thiên đảo), Hang Tây (Tây đảo), Hang Vò vỏ (Ca đảo) (1). Ở những nơi chim yến có nhiều thì người ta lấy tên chim đặt cho chỗ đó như núi Mũi Yến là núi bán đảo Phước Mai, Yến Dư là mũi của Nhĩ Dư tức hòn Tai trong dãy Cù lao Chàm,... và gần Hội An có một làng mang tên Yến Xã hay Làng Én. Hòn Tre thật ra là một quần đảo gồm có 11 hòn, nơi cống hiến mỗi năm hơn hai tấn yến sào, nghĩa là hơn 80% tổng sản lượng toàn quốc. Công ty Yến sào Khánh Hòa quản lý vùng khai thác nầy hy vọng những năm tới số chim yến sẽ tăng gấp ba, gấp bốn thì sản lượng yến sào sẽ tăng lên chừng ấy. Chỉ có khoảng 30 loài chim yến nhưng cuộc phân loài và đặt tên không giản dị (21). Giản lược có thể chia họ chim yến Apodidae thành hai chi Chaeturinae và Apodinae. Chi Apodinae gồm có hai giống Apodini, còn gọi Collocalia (hay Collocalini) và Aerodramus (hay Aerodramini). Ở nước ta, những chim khảo sát ở miền Quảng Bình, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Khánh Hòa, Côn Đảo được phân biệt thành hai loại : chim yến núi C. brevirostris innominata Hume và chim yến hàng C. fuciphaga germani Oust. (13), cơ thể tương đối nhỏ hơn nhóm kia. Nếu chim yến núi đã đuợc thống nhất về mặt danh pháp, chim yến hàng còn có nhiều tên gọi khác nhau : C. francica, C. germani, C. inexpectata, C. fuciphaga. Chim yến núi C. brevirostris innominata mà tổ gồm có nước bọt và lông cơ thể, không ăn được, thật ra gồm có C. brevirostris innominata và C. brevirostris inopina tùy theo giò có lông hay không có lông. Còn chim yến hàng C. fuciphaga germani, tổ hoàn toàn bằng nước bọt, ăn được, thì được phân loài ra yến biến dị màu lông (thân, lưng, đỉnh đầu) và yến biến dị tổ (tổ có pha rác và phân, tổ yến máu) (13). Cấu tạo tổ yến Chim yến làm tổ trên các hóc đá hang động rộng lớn, có ít nhiều ánh sáng, có loại tìm chỗ yên tĩnh, có loại thích vách trơn, gió lộng, cheo leo giữa nơi có tiếng sóng vỗ rầm rập ngày đêm như thách thức khó khăn để thi thố tài năng của mình. Nhỏ con (8-12g), cánh dài, chim yến bay hằng ngày nhiều chục, có khi nhiều trăm, cây số để kiếm ăn. Người ta thường tin nó có khả năng bay xa đến 500 cây số. Nó đớp côn trùng bay trong khí quyển, thường ít ăn sâu bọ đậu trên cành cây, dưới đất. Chân mảnh nhưng nhờ có vuốt sắc, nó dễ bấu vào thành đá để làm tổ. Tổ làm sát nhau trong hang, vào mùa sinh nở, mỗi tổ một cặp, không khi nào chim lầm tổ. Nếu tổ bị người lấy mất, nó bỏ công làm lại một lần thứ hai, có khi một lần thứ ba nhưng hiếm có, dù sao tổ làm lại không tốt bằng tổ thứ nhất. Bên phần chim vận dụng nhiều mánh lới để xây tổ, người đi "hái yến" cũng cần phải lanh lợi, tháo vát, kiên nhẫn, dũng cảm. Lắm kẻ không thận trọng hay rủi ro gặp tai nạn đã rơi chết. Hàng trăm nấm mồ người "tử ư nghệ" ở các đảo Hòn Tre luôn còn đấy để chứng minh những nguy hiểm của nghề gỡ tổ chim yến. Nghe kể ở Chiêm địa trước kia, tức là các đảo từ Quảng Nam đến Khánh Hòa, có ông nuôi khỉ đi gỡ tỗ cho mình (1). Thường người chuyên nghiệp dùng nhiều thang tre nối nhau, hoặc từ dưới dựng lên, hoặc từ trên thả xuống. Mỗi cử động tuy nhỏ nhưng bất thường có thể nguy cho tính mệnh người trèo và nhiều khi phá hỏng cả một loạt tổ. Đó là chưa nói dến những chim chóc khác lại phá tổ. Thời kỳ gỡ tổ cũng rất quan trọng. Thường có hai mùa thu hoạch. Đợt thứ nhất mươi ngày sau khi chim đẻ, khoảng tháng tư, lấy cả tổ lẫn trứng. Chim phải làm lại tổ. Đợt thứ nhì, khoảng một, hai tháng sau, lần nầy chim mệt, tổ nhỏ hơn, khoảng một nửa hay hai phần ba tổ trước và chất lượng cũng kém hơn. Thường chỉ lấy tổ và đợi cho chim con bay đi để bảo tồn giống chim. Nếu ham lấy trứng thì chim có thể tiệt nòi. Lúc trước thỉnh thoảng thấy có đợt thứ ba, khoảng tháng bảy, nhưng lần nầy tổ vô cùng mảnh khảnh, đầy lông, có khi nhuốm máu vì chim qua cố gắng, kiệt lực vì vậy nay không còn mấy thực hiện. Tổ thu lượm về, dù ở đợt nào, cũng không hoàn toàn sạch để có thể dùng ngay. Trong tổ, ngoài chim chết, còn có rác, lông, phẩn, mảnh trứng cần phải thải ra, lần đầu tại chỗ, sau đó tại nhà, với những dụng cụ như kim, móc tre hay bằng kim loại, vận dụng cẩn thận để khỏi mất mát dù chút ít chất hàng quí báu vì mỗi tổ yến chỉ cân nặng 7-15g. Sau cùng ở nhà bếp, tổ yến thường được xử lý trong nước và đầu bếp phải rất khéo tay mới lấy ra được những mảnh lông bé tý con tồn tại. Một câu hỏi mà từ lâu nhiều người tò mò muốn biết là với vật liệu gì chim yến đã làm tổ. Sách vở Trung Quốc từ nhiều thế kỷ trước đã có đặt vấn đề. Sách Tùng tân bảo chim yến ở các biển Chương Tuyền, Duyên Hải bắt cá để làm tổ. Sách Mân tiểu ký rõ ràng hơn, xác định chim tô thịt cá lên hóc đá. Sách Nam Châu thì cho chim ăn cá rồi mửa ra những sợi dây làm tổ dự phòng ngày đông tháng rét. Bên nước ta, sách Tra phố tập vấn cũng nói đến chim dùng cá làm tổ, còn sách Lãnh Nam tạp ký lặp lại quan điểm phổ biến bên Nhật Bản kể chim ăn rêu meo, rong biển và chính những chất không tiêu đã được ựa ra. Sách Việt lục cũng có ý kiến tương tự: thức ăn của chim yến là rêu móc ở các hóc đá. Chi tiết lạ lùng nhất nhưng cũng dẫn đường đến một kiến thức mới được trích từ cuốn Tuyền Nam tạp chí xuất bản thời Vạn Lịch nhà Minh: chim ăn ốc sò mà các loại nầy mang trên lưng vỏ những gân cứng có đặc điểm bổ dưỡng, tăng lực, chống lao. Những gân nầy lại khó tiêu và chim mửa ra trộn lẫn với nước bọt để làm tổ. Sách Quảng Đông tôn ngữ nói chim yến mổ ăn loại thạch phầnở bờ biển rồi mửa ra làm tổ (3). Những nhận định nầy được các du khách đem từ Viễn Đông về châu Âu và được các nhà vạn vật học để ý. Người nói đến đầu tiên là một bác sĩ người Hòa Lan, Jacques Bontius, sống ở Batavia vào giữa thế kỷ XVII. Theo ông, chim yến đã lấy chất dẻo từ bọt biển, có thể là mỡ cá nhà táng hay trứng cá mà làm tổ. Trứng cá cũng là quan điểm của ông Pierre Poivre, một người Pháp miền Lyon. Bác sĩ Georges-Everard Rumpf tức Rumphius, một nhà thực vật học người Đức, thì cho chim đã ăn một loại cây mềm, dẻo, vừa trắng, vừa đỏ ở bờ biển và tổ được cấu tạo với chất ngoại tiết. Đấy cũng là ý kiến sau nầy của Thomas Stamford Raffles, nguyên Thống đốc Mã Lai và cũng là một nhà vạn vật học người Anh. Theo Engelbert Kaempfer, một bác sĩ vừa là một nhà vạn vật học khác người Đức, thì tổ yến gồm có những tàn tích của một con mực phủ đã được chim chế biến. Vào những thế kỷ XVII, XVIII, các nhà truyền giáo đi lại ngang dọc châu Á cũng lượm lặt nhiều nhận xét trong dân gian. Cha Cristofoto Borri, người Ý, tả chim yến tương tự như con chim nhạn arondelle (có lẽ vì vậy sau nầy có tên hirondelle cho chim én và chim yến) và cho tổ yến là một chất lấy từ bọt biển trộn với thủy dịch ở dạ dày. Theo cố Alexandre de Rhodes, người có công nhiều cho chữ quốc ngữ ta, thì chim yến đã hút nhựa cây trầm hương hòa với bọt biển để làm tổ. Cuối thế kỷ XVIII, cha Richard, người Pháp, cũng lặp lại ấy trong cuốn Histoire civile et politique du Tonquin: ông giải thích bọt biển và nhựa trầm hương trộn lẫn với nhau, khô cứng thì biến ra một chất trong suốt, trắng khi còn tươi, trở thành vàng xanh khi khô hơn. Ông đồng ý với các giáo sĩ dòng Tên, những người đã xem xét cặn kẽ tổ chim, là nhựa trầm hương đã chuyển qua tổ yến những tính chất cùng khẩu vị ngon lành, mùi vị êm dịu. Qua thế kỷ XIX, lý giải thức ăn của chim có phần thay đổi trong kiến thức các học giả. R.P. Lesson lặp lại nhận xét của Wurmb đã khảo sát ở Java, nhất trí là chim ăn sâu bọ, côn trùng, nhưng khi cần làm tổ thì lượm lặt vật liệu trên mặt biển rồi vận dụng nội tạn thanh lọc, trộn nhào với với nước nhầy thành một chất dẻo. Home là người đầu tiên giải phẩu cơ thể chim yến nhưng rủi ro đi đến kết luận sai là những tuyến bao tử đã cho phát tiết chất dẻo. Bernstein nhận thấy những tuyến dưới lưỡi phát triển phồng to lanh chóng và phát hiện chúng có khả năng phát tiết một thứ nước nhầy để khô giống hệt vật liệu tổ chim. Ông tả cách làm tổ của chim rất tường tận. Các tuyến cho dồn vào phần trước mỏ chim chất nhầy vừa nhớt vừa chảy thành dây. Khi muốn xây tổ, chim lấy đầu lưỡi cho rải vào hốc đá đã chọn một lớp nước bọt, lặp đi lặp lại mươi, hai mươi lần, vẽ thành một hình móng ngựa. Chất nhầy khô rất mau. Trong lúc vận dụng quanh tổ, thế nào cũng có một vài sợi lông dính vào. Các tuyến phồng lớn gây ít nhiều kích thích và chim vừa ép vừa cọ để dốc hết chất nhầy ra ngoài. Nếu có thương tổn, vài giọt máu trộn vào nước bọt nhuộm đỏ tổ chim (1). Thành phần tổ yến Tuy nước bọt là nguyên liệu chính của tổ chim, thức ăn của chim cũng rất quan trọng trong chất lượng của tổ. Rong tảo như Alga coralloides, Fucus edulis, Gelidium đã được Rumph rồi Dorvault nhắc đến. Tuy vậy, nhận xét không có vật liệu thực vật trong tổ đã được nhiều nhà khảo cứu xác nhận. Mudler phân tích ra được 90% vật liệu động vật. Tollens, nhân khảo sát những carbohydrat, phát hiện một chất đường kết tinh được, lên men được, rất giống glucose mà Green đã thành công chiết xuất. Payen cho chất nầy là cubilose (từ cubile có nghĩa là tổ), một chất albuminoid trung hòa phát tiết trong thời gian tình ái, phân phối không đồng đều trong các tổ. Người ta chỉ thấy nó có nhiều hơn trong các tổ trắng và chắc chắn nó không phải mượn từ rong tảo vì có tính chất hoàn toàn khác với gelose là chất dẻo thực vật. Ngày nay, khảo sát tuờng tận tổ chim yến, các nhà vạn vật học nhận ra một hệ thống chằng chịt những dây sợi tương tự như một chất dẻo đóng cứng sắp đặt thành từng lớp mỏng đồng tâm có thể tách rời khi để ngâm lâu. Những sợi dây nầy chính là nước bọt của chim đóng cứng. Màu sắc của nó trăng trắng, nhưng thường thì ít nhiều nhuộm màu vàng lạt thêm chút màu sắt rỉ. Loại "chim yến tổ trắng" Aerodramus. fuciphagus germani sống ven miền biển Việt Nam làm tổ từ cuối đông đến suốt mùa xuân, đẻ trứng giữa tháng 3 và tháng 5 trong một thời gian 10-15 ngày và ấp trứng trên dưới 25 ngày, trung bình 2 trứng một tổ (15). Khi tổ và trứng bị lấy mất thì nó lại làm lại tổ một lần thứ nhì. Lần nầy người ta để chim nở ra trước khi lấy tổ. Một bản báo cáo công bố khảo cứu được thực hiện ở vùng Khánh Hòa trên một nửa triệu chim cho biết nặng 7-10g, dài 9-10cm, con cái to hơn con đực, chim thường bay kiếm thức ăn cách hang tổ chừng 200 km, ở cao độ 800 m, trừ mùa nuôi chim con thì không xa quá 80 km, có khi ở cao độ 50 m và ngay ở bầu trời trên hang tổ. Để khảo sát thức ăn của chim, có hai phương cách: một đằng là mổ bụng chim, đằng kia tìm kiếm trong tổ những đồ chim đã mang về cho con trong cái bọc dưới lưỡi. Chim chỉ bắt ăn côn trùng khi đang bay, có khi sát bụi để bắt nhện chẳng hạn trong mạng, nhiều nhất là những sâu bọ cánh màng Hymenoptere (trừ thời gian mối bay có nhiều), ít hơn là sâu bọ hai cánh Diptere, cùng một số sâu bọ lặt vặt khác như sâu bọ cánh giống Homoptere hay sâu bọ cánh đều Isoptere. Số sâu bọ nầy có phần lớn trong thức ăn đem về cho con, 2 lần mỗi ngày, tỷ lệ khác nhau tùy mùa, số lượng (0,3-1g) tùy tuổi chim con. Nhận xét nầy cho thấy chim yến biết chọn lựa côn trùng bắt ăn. Mặt khác, một con trong tổ thì ăn nhiều hơn hai con (3-4 lần mỗi ngày) từ đấy lớn lên mau hơn và cũng ít chết hơn. Khảo sát một số ít "chim yến tổ đen" A. maximus cũng ở Khánh Hòa cho thấy nó ăn sâu bọ cánh màng nhiều hơn, thêm nữa vì lớn con hơn, nó bắt những mồi lớn hơn như ong hoang, kiến bay. Có loại chim én Hirundo rustica thì chỉ săn mồi dưới cao độ 30 m, gần mặt nước ao, hồ, đồng ruộng .... (22). Mặc dầu là một món ăn bổ dưỡng quý báu biết đã lâu ngày, cuộc khảo cứu sâu xa thành phần tổ yến chỉ được thực hiện những năm gần đây. Phần hữu cơ gốm có 45% protein và 24% carbohydrat kể cả các chất đường (11). Dùng nước chiết xuất, ly tâm rồi cho đông khô thì được 10 amin acid và, sau khi cho tác dụng với HCl, hexoamin cùng đường: những glycoprotein có tính chất ức chế cuộc chế tạo cuộc kết dính máu do myxovirus gây ra và cũng là một chất nền cho enzym mang tên neuromidase (2,4). Đem glycoprotein nầy cho cảm ứng vào Anthrobacter sialophilum nuôi trồng thì sản xuất được neuromidase (7). Dùng phưong pháp điện chuyển thanh lọc glycoprotein, một công trình khảo cứu khác cặn kẽ hơn phát hiện được 17 amin acid, theo thứ tự nhiều ít: (30,4 - 0,4 microM/100g) serin, prolin, glutamic acid, threonin, aspartic acid, valine, glycin, leucin, arginin, alanin, phenylalanin, isoleucin, lysin, tyrosin, histidin, ½ cystein, methionin (4,6). Phần glucidic gồm có galactose, mannose, glucosamin, galactosamin và sialic acid. Acid nầy hoàn toàn được phóng thích khi xử lý với neuromidasecủa Clostridium perfringens hay Diplococcus pneumoniae (6). Đem thanh lọc phần nước chiết tổ chim C. fuciphaga ở Mã lai qua Sephadex thì xác định được một trọng lượng phân tử khoảng 100.000 - 500.000, gồm có 18,5% saccharid và 45% protein. Xử lý với H2SO4, saccharid táchra (%) fucose, mannose (8,9) và galactose (63,7). Xử lý với HCl, một số amin acid đã được xác định, nhiều nhất là (%) : aspartic acid (11,7), serin (10,7), valin (10,2) và threonin (10,1)(8). Trước đây, tác giả nầy dùng NaI cắt đường đã đạt được 24% agarose và 76% agaropectin (5). Trong khoảng 20 năm gần đây, nhiều nhà khảo cứu muốn biết cặn kẽ hơn các oligosaccharid, đặc biệt những liên kết O và N-glycosidic của glycoprotein nước bọt chim yến, một nguồn vật liệu giàu carbohydrat (12). Dùng phương pháp sắc phân đông băng, họ tìm ra những cấu chất của phần carbohydrat (ít nhất cũng 35% trọng lượng) trong chất dẻo sialomucin là L-fucose, N-acetylneuraminic acid, galactose, mannose, N-aceyl galactosamin và N-acetyl glucosamin theo tỷ lệ 1:17:29:3:17:13. Những liên kết O và N-glycosidic giống hệt với các cấu tạo ở glycophorin của bò, mucin cuốn phổi và mucin dạ dày của người hay của chó, ngựa, cừu, globulin miễn dịch của người hay k-casein của sữa non (9,14). Nhận thấy yến sào thường được dùng vào các thang thuốc chống khối u dạ dày, nôn mửa ra máu, suy nhược hay bồi dưỡng cho con trẻ gầy gò ốm yếu, nhiều nhà khảo cứu chú trọng về nhân tố sinh trưởng biểu bì EGF (Epidermal Growth Factor). Là một peptid có trọng lượng phân tử khoảng 6.000-8.000, EGF kích thích việc tăng sinh các mô, tế bào biểu bì và biểu mô, kích thích thymidin và những amin acid sáp nhập những nguyên bào sợi tơ con người gây sinh cuộc phân chia tế bào. EGF đã đuợc tìm ra trong nhiều mô động vật như chó, mèo, khỉ, bò, cừu, chồn, thỏ, heo, chuột gà, ếch, nhái, ở đây các tác giả chứng minh có EGF ở chim chóc, từ đấy lần đầu tiên tin là có thể dự kiến hợp lý việc dùng tổ chim yến làm thuốc chữa bệnh (11). Glycoprotein yến sào còn có khả năng tăng cường cuộc kích thích phân bào ở bạch cầu máu ngoại vi với concanavalin A hay phytohemaglotinin A. Như vậy, yến sào có thể tác động lên nhiều yếu tố sinh lý học để trở thành một môn thuốc hiệu nghiệm (10). Tuy vậy, cũng nên biết trong yến sào còn có một chất ức chế serin protease có thể gây phân vệ nơi con trẻ đưa đến dị ứng (20). Công dụng yến sào Yến sào được dùng trong nhiều thang thuốc. Theo tục truyền, tính chất quý của nó là kích dục, vì vậy một số đông người Trung Quốc dùng nó trong mục đích nầy. Ở bên nước ấy, những người hút thuốc phiện ăn nó buổi sáng để lấy lại sức. Họ tin là yến sào củng cố lưu thông, nuôi dưỡng huyết tương, làm ẩm bộ máy hô hấp cũng như da thịt, tiếp tế năng lực đời sống, bồi dưỡng sức khỏe, giúp ích chuyển hóa, hấp thu thức ăn của cơ thể. Tụ kết khí âm dương trong vũ trụ mà thành, được gọi là tâm dịch, huyền tương, ngọc dịch, nó có tác dụng điều hòa khí huyết, bồi bổ lục phủ ngũ tạng, tăng dinh dưỡng toàn diện cơ thể, làm cho trí não minh mẫn, thân thể cường tráng, mặt sáng, tai thông, .... thật là một vị thuốc cải lão hoàn đồng, hồi xuân cường lực (18). Thật vậy, trong Bản thảo cương mục thập di (1765) đã có ghi tính chất của yến sào là vị ngọt, tính bình, vào hai kinh phế và vị. Tác dụng của nó là nuôi phế âm, tiêu đờm, hết ho, nên thường dùng chữa hư hao, ho lao, hen suyển, thổ huyết, sốt từng cơn (ĐTL). Sách Đạt nguyên giải thích tổ yến là hải phẩn từ khí trong và gió mát mà ra: như vậy nó tăng cường kim tương ứng với phế và thủy liên hệ với thận. Những sách Hứa cẩn trai, Tùng tân, Việt lục đều có nêu lên những đức tính ấy của tổ yến. Những sách Hương tổ bút, Hoàn du bút ký nhấn mạnh về những tổ chim đỏ, yến huyết sào, vì có máu của chim, rất hiếm. Ngày nay còn lại nhiều thang thuốc bổ duỡng như Truyền thi lao trái hoàn: yến huyết sào (5 lượng), tử hà xa (tức là nhau người, 2 cái), ngưu hoàng (sỏi mật bò, 1 lượng) và cáp giới (thằn lằn bay, 2 con) nghiền thành bột rồi trộn với mật ong, nhồi thành viên lớn cỡ hạt sen, ăn mỗi tối 20 viên trong luông 10 ngày (1). Người ta còn bảo yến sào có tính chất chống già, gia hạn đời sống. Những nhà hàng Hồng Kông quảng cáo nó có khả năng chữa bệnh lao phổi, ung thư, SIDA và giúp bệnh nhân đã được chữa bằng bức xạ mau phục hồi (16). Bên nước ta, yến sào thường được dùng dưới dạng thuốc sắc, 6-12g mỗi ngày: cho vào túi vải, thêm nước đun sôi, để lắng mà uống (ĐTL). Nhưng chim yến không chỉ có thành phần cấu tạo tổ là quý. Bên cạnh còn có những tạp chất cũng được dùng làm thuốc. Yến nhục thảo là mốc meo mọc trong tổ bị ẩm ướt. Lương y Tàng Khí trong sách Trung Việt dược kê nó có khả năng ngừa đái ban đêm. Lương y Lý Thời Trân dùng nó trong thang thuốc Thiên kim phương để chữa chứng đái đường. Yến phẩn, tức là cức chim, có tính chất giải độc. Người ta nghiền nó với hành thành viên to bằng hột bắp, uống mỗi ngày 3 viên, gây ra bài tiết nước tiểu đưa luôn chất độc ra ngoài. Sào yến nội tử là chim yến chết trong tổ, có đặc tính chữa ho lao, phổi kiệt. Xác chim sạch lông được đốt với tổ rồi nghiền thành viên để dùng (1). Tuy được dùng làm thuốc, độc đáo của tổ yến vẫn là món ăn. Điều cần thiết trước tiên là phải thanh lọc tổ. Như trên đã thấy, dùng kim, móc đãi rác, phẩn lông chưa đủ; ở nhà bếp thường phải ngâm nó trong một thể tích nước lớn gấp mười thể tích tổ, khoảng một, hai tiếng đồng hồ cho đến khi sợi yến tơi ra. Thời gian nầy phụ thuộc độ keo dính của sợi, từ đấy chỉ định luôn chất lượng của tổ. Sau đấy phải nhào trộn sợi yến với dầu phụng để tách những lông tơ cuối cùng, rồi dùng nước rửa nhiều lần dầu ấy. Nếu cần, phải lặp lại nhiều lần cách rửa nầy. Khi đã sạch hết lông, yến sào mới được đem đi nấu ăn. Có nhiều cách ăn yến sào, phần lớn món nào cũng nấu chưng cách thủy. Người ta thường nấu cháo yến với thịt gà hay thịt bò. Có thể nấu bồ câu non với yến sào gọi là bì câu tân yến sào: bồ câu phải hầm chín rồi mới cho thêm tiêu, muối, gia vị và yến sào, mỗi con chim một tô. Ai thích ăn ngọt thì nấu chè yến: cứ 750 ml nước bỏ vào hai tổ yến, nếu có nên dùng đường phèn. Cũng có thể nấu chè yến với hột sen: cứ một tổ dùng khoảng 30 hột sen, đường cân bằng nửa hột sen, nước thể tích bằng 7-8 lần hột sen. Một chất thuốc độc đáo, một món ăn ngon bổ như vậy, tất nhiên yến sào là một món hàng quý báu, đắc tiền. Từ xưa, trong sách vở Trung Quốc, người ta đã xếp yến sào tùy theo màu của tổ: đen, trắng và đỏ. Cả ba đều ăn được nhưng tổ trắng quý hơn tổ đen, tổ đỏ còn quý hơn thì dành để làm thuốc. Cả một thời, yến sào Hội An đã nổi tiếng không những ở nước ta mà còn qua cả Trung Quốc là nơi tiêu thụ nhiều. Nó được xếp làm ba hạng: quan yến sào, hay quan tự yến sào tức là tổ yến quan, màu trắng ngà, dày, lớn, hạng nhất; thiên tự yến sào tức là tổ yến trời, màu xanh da trời, ít dày hơn, hạng nhì; địa tự yến sào tức là tổ yến đất, màu vàng hay đen, mỏng và nhỏ hơn, hạng ba. Thường người ta cho tổ gỡ lúc chim còn ở, quý hơn tổ trống vì các tổ nầy đã nhuốm màu vàng lại thêm chứa đựng đủ thứ tạp chất như rác, lông, phẩn,.... Ngoài ra còn có các loại bài tự yến sào hay yến bài là tổ chưa làm xong, mao yến là tổ vừa mới làm xong và yến huyết sào là tổ có tẩm máu vì, như đã thấy, được chim làm vào lúc vô cùng mệt mỏi, phải nổ lực đến quỵ sức. Loại tổ sau nầy hiếm nên được cho là có giá trị, nhất là người ta tin chúng có những đức tính y học như chữa bệnh lao phổi và những chứng suy sút tinh thần (1). Trên thế giới ngày nay, nhiều nước tiêu thụ và nhập cảng yến sào; năm 1991: (kg), Canada (395), Đài Loan (2.095), Nhật Bản (2.811) và chiếm kỷ lục là Hồng Kông (124.093). Nơi vừa nhập cảng vừa xuất cảng, Hồng Kông là ngã ba thị trường. Trong khoảng 30 năm, số nhập cảng đã tăng 30 lần và năm 1988 đạt mức tối cao 161.000 kg. Tính số tổ thì Hồng Kông nhập cảng 19,9 triệu cái năm 1989, sụt xuống 18,7 triệu năm 1990 và chỉ còn 17,5 triệu năm 1991. Những con số nầy xem gần như là số hàng lưu động toàn thế giới, ngoại trừ số tiêu thụ nội địa. Giá tiền mua thay đổi tùy xứ, lẽ tất nhiên phụ thuộc chất lượng tố yến, chẳng hạn như giá yến của các nước tại Hồng Kông năm 1991: (USD/kg) Mã Lai (216,77), Tân Gia Ba (224,14), Thái Lan (472,39), Nam Dương (573,88), Miến Điện (A1.010,18) và đắt nhất là Việt Nam (1.333 ,04) vì yến nước ta được xem thuộc loại "trắng", hảo hạng. Giá yến ngày càng tăng vì ở nhiều nước sản xuất, chim dần dần bị tiệt nòi: tăng gấp 20 lần từ 1975 đến 1991 và trong những năm gần đây ước lượng tăng gấp 10 lần chỉ số lạm phát (16). Vào đầu thế kỷ 21, giá mỗi kilô đã đạt đến 5000 USD. Vài con số, tuy tương đối cũ, cũng nói lên phần nào thị trường quan trọng của yến sào và đánh một tiếng chuông báo động cho nòi giống chim yến. Liệu rồi những "trại nuôi chim yến bán thuần dưỡng" đặc biệt ở Pak Phanang bên Thái Lan, có bù đắp được gì không ? Và Quy ước Thương mãi về những loài Động vật và Thực vật Hoang dã (Convention on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora CITES) sẽ bảo vệ được phần nào chim yến ? Nhu cầu tăng nhiều, tổ chim ít lại, giá cả mặc sức leo thang. Chính những nhà buôn bán yến sào cũng muốn có một cuộc hợp tác quốc tế để bảo đảm một mức độ thương mãi vừa phải hòng tồn tại lâu dài một nguồn lợi thiên nhiên quý báu. Đằng khác, những người sinh sống nhờ yến sào, những người vui thú thưởng thức hương vị tô cháo, chén chè tổ yến, có nghĩ đến chăng khi người "hái yến" lại gỡ tổ, cướp bóc tàn phá hang yến là gây khổ đau cho những sinh vật sống chung thủy hiếm có với nhau trong tình nghĩa vợ chồng giữa thiên nhiên, suốt đời tận tụy làm tổ nuôi con, không hề lại gây phiền hà, phá phách, tuyên chiến với con người? ".... Nếu một trong hai vợ chồng chết trước thì con chim còn lại không bao giờ đi tìm một bạn tình khác, nó cứ sống vậy cho đến khi lìa bỏ cõi đời hoặc lao đầu vào vách đá chết cùng nhau. Trong bầy đàn yến không bao giờ bay vượt lên đầu những con khác và yến chỉ có duy nhất một quê hương. Dù có đưa yến đi bất cứ đâu xa ngàn trùng cuối cùng nó cũng quay về nơi cũ. Đấy mới là điều làm chúng ta cảm phục và trân trọng" (17). Cuốn phim tài liệu "Yến và người" của nhà đạo diễn Văn Lê đã đề cao những đức tính của chim yến cần phải được phổ biến, xem như là góp phần vào việc giáo dục con người. Yến làm tổ mà không đặng ở, Ong làm mật mà chẳng đặng ăn! Thông tin Khoa học và Công nghệ 3(21) 1998, vietsciences 07.2007 Tham khảo 1- A. Sallet, Les nids d'hirondelles, Bull. Amis Vieux Hué (1) 17 (1930) 1-79 2- C. Howe, L.T. Lee, H.M. Rose, Collocalia mucoid: a substrate for myxovirus neuraminidase, , Arc. Biochem. Biophys. 95 (1961) 512-20 3- Đại Nam nhất thống chí Thừa Thiên Phủ, dịch giả Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, tập hạ (12) (1962) 83 4- R.H. Kathan, D.I. Weeks, Structure studies of Collocalia mucoid. I. Carbohydrate and amino acid composition, Arc. Biochem. Biophys. 134 (1969) 572-6 5- M. Oda, Biochemical studies on mucilages. I. Separation and chemical characteristics of enso, Nagasaki Igakkai Zasshi (4) 48 (1973) 233-40 6- N. Houdret, M. Lhermitte, P. Degand, P. Roussel, Purification et étude chimique d'une glycoproteine de Collocalia, Bioch.57 (1975) 603-8 7- M. Flashner, S.W. Tanenbaum, Neuraminidase, Ger. Offen. US. 2,651,200 (1978) 26 tr. 8- M. Oda, Saccharides and amino acids of the mucoid in an edible bird's nest, Nippon Shokuhin Kogyo Gakkaishi (4) 30 (1983) 221-7 9- F.G. Hanish, G. Uhlenbruck, Structural studies on O-and N-glycosidicaly linked carbohydrate chains on Collocalia mucin, Hoppe-Seyler's Z. Physio. Chem. 365 (1984) 119-28 10- M.H. NG, K.H. Chan, Y.C. Kong, Potentiation of mitogenic response by extracts of the swiftlet's (Collocalia) nest, Biochem. Int. (3) 13 (1966) 521-31 11- Y.C. Kong, W.M. Keung, T.T. Yip, K.M. Ko, S.W. Tsao, M.H. Ng, Evidence that epidermal growth factor is present in swiftlet's (Collocalia) nest, Comp. Biochem. Physiol. (2) 87B (1987) 221-6 12- J.M. Wieruszeski, J.C. Michalski, J. Montreuil, G. Strecker, Structure of the monosialyl oligosaccharides derived from salivary gland mucin glycopreteins of the Chinese swiftlet (genus Collocalia), J. Biol. Chem.(14) 262 (1987) 6650-7 13- Nguyễn Quang Phách, Về giống Collocalia (Apodidae) ở Việt Nam, Tạp chí Sinh học (10) (1991) 33-6 14- G. Strecker, J.M. Wieruszeski, O. Cuvillier, J.C. Michalski, J. Montreuil, 1H and 13C-NMR assignements for sialyated oligosaccharide-alditols related to mucins. Study of thirteen components from hen ovomicin and swallow nest mucin, Biochem.74 (1992) 39-52 15- Nguyen Quang Phach, The breeding biology of the edible-nest swiftlet Collocalia fuciphaga germani Oustalet 1878 in Viêtnam, L'oiseau et R.F.O. (2) 62 (1992) 149-61 16- S.M. Lau, D.S. Melville, International trade in swiftlet nests with special reference to Hong Kong, Traffic International, A traffic network report (1994) 35 tr. 17- Thanh Huyền, Yến và người, Điện ảnh Kịch trường 49 (1997) 13 18- Vũ Hữu Sự, Yến sào - Nghề và nghiệp trong Chuyện đời thường mà không thường, nxb Công an nhân dân, Hà Nội (1998) 210-7 19- M. Oda, S. Ohta, T. Suga, T. Aoki, Study on food components: the structure of N-linked asialo carbohydrate from the edible bird's nest built by Collocalia fuciphaga, J. Agric. Food Chem. (8) 46 (1998) 3047-53 20- K. Ou, T.K. Seow, R.C.M.Y. Liang, B.W. Bee, D.L.M. Goh, K.Y. Chua, M.C.M. Chung, Identification of a serine protesase inhibitor homologue in bird's nest by an integrated proteomics approch, Electrophoresis (16) 22 (2001) 3589-95 21- Nguyen Quang Phach, Vo Quang Yen, J.F. Voisin, The white-nest swiftlet and the black-nest swiftlet, Ed. Boubée, Paris (2002) 297 tr. 22- J.F. Voisin, Vo Quang Yen, Nguyen Quang Phach, L'alimentation de la salangane à nid blanc Aerodramus fuciphagus germani au Viêt Nam, 28ème Colloque francophone d'ornithologie, Namur 28-30 nov. 2003.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 14:15:25 GMT 9
51- Hổ phách, ký ức của quá khứ Võ Quang Yến Cả Dĩ Vãng là chuỗi mồ vô tận Cả Tương Lai là chuỗi huyệt chưa thành. Chế Lan ViênCách đây hơn mười năm, những nhà khảo cứu Viện Bảo tàng Quốc gia Vạn vật học New York khai quật được một mỏ vô giá mà không phải vàng, bạc, hay kim cương, đá quý: hơn một trăm loại sâu bọ và cây cỏ ướp khô trong một lớp nhựa đóng cứng từ 90-94 triệu năm nay! Khối hổ phách nầy nặng khoảng 40 kg, chứa đựng những mẫu động vật và thực vật chưa từng thấy hay rất hiếm có ngày nay. Theo nhà côn trùng học David A. Grimaldi, người điều khiển cuộc khai quật, những mẫu sinh vật nầy có mặt vào thời kỳ kỷ Creta (từ -110 đến -65 triệu năm), đã chứng kiến những tác động biến chuyển đời sống trên mặt đất, các hiện tượng sinh nở và mất biến những khủng long dinosaure, các sự kiện xuất hiện và phát triển những bông hoa cùng những sâu bọ, ong, kiến, bướm, mối, ....chung sống với các loại cây kia (3).Năm 2014, tờ Plos One chỉ đăng một mẫu hổ phách 15 triệu năm lượm được ở Mexicô trình bày một con kiến Neivamymex cắm trong hàm mợt con mối Nasutitermes chứng minh tương gác giữa sâu bọ. Khủng long kinh hãi trên màn ảnh Trong số các sinh vật trong khối hổ phách New Jersey, đẹp nhất tuy nhỏ xíu (1,5 cm) là một đóa hoa cây sồi bên cạnh một tai nấm, một lông chim,…và đặc biệt một con muỗi thời nguyên sơ ấy. Khảo cứu miệng con muỗi, các chuyên gia đi đến kết quả: nó tiêu biểu một mẫu giao thời giữa các sâu hút nhụy và các vật đốt da. Nếu con muỗi nầy chích da hút máu một con khủng long, nó có thể chứa trong bụng máu con dinosaure kinh khủng kia, với thành phần cốt yếu DNA (Desoxyribo Nucleic Acid) của sinh vật. Giả thuyết nầy đã được chứng minh: nhà sinh vật học Georges Poinar, ở Trường Đại học Berkeley, thông báo đã chiết xuất được từ hổ phách DNA một con bọ đầu dài hóa thạch sống cách đây 100 triệu năm. Sau đó, nhà vi sinh vật học Raul Cano, ở Trường Đại học Bách khoa California, khám phá ra được trong hổ phách cũng một con bọ đầu dài, đầy đủ máu, còn xưa hơn (135 triệu năm) và tuyên bố nay mai sẽ chiết xuất DNA. Dễ hư hỏng ở một môi trường ẩm ướt, ổn định trong lòng hổ phách khô cứng, hóa chất DNA ấy là một tài liệu vô cùng hiếm quý để các nhà di truyền học phân tích, so sánh, hòng mong hiểu biết thêm về cuộc tiến hoá của sinh vật. Đi xa hơn, nhờ các chuyên gia góp sức, nhà văn Michael Crichton tưởng tượng và diễn tả thành truyện một giả thuyết trong cuốn sách Jurassic Park, xuất bản năm 1992: ông kể từ các DNA kia, các nhà bác học đã thành công làm sống lại những con khủng long và nuôi dưỡng chúng trong một công viên. Ông di chuyển kỷ Creta qua kỷ Jura (từ -150 đến -110 triệu năm), xưa hơn nhưng chẳng quan trọng vì sách viễn tưởng không phải là môt bản báo cáo khoa học mà chỉ là một chuyện phiêu lưu, giả định. Sau cuộc thành công sản sinh cách đây vài năm con cừu đầu tiên Dolly từ một tế bào vú cho vào buồng trứng một con cừu thứ nhì rồi đặt cho lớn lên trong tử cung một con cừu thứ ba, rất dễ suy qua một thí nghiệm với DNA, tuy đến nay chưa một nhà sinh vật học nào tuyên bố quả quyết thực hiện được. Dù sao, cuốn sách có công đưa ra một bộ mặt mới về các con khủng long dễ sợ kia: chúng không phải là những động vật ăn lá, không biết chạy nhảy, chỉ di chuyển nặng nề mà là những con thú ăn thịt, linh động không khác gì những quái vật, thuồng luồng, trăn rắn, đã vào sinh ra tử với những Siegfried, thánh Georges hay Thạch Sanh của ta. Cuốn sách của Crichton chắc ít được vang dội hơn nếu không có Steven Spielberg, một nhà đạo diễn luôn có đầu óc trai trẻ, đưa ra dựng thành phim ảnh. Một mặt cậy ngay Crichton viết kịch bản, mặt kia Spielberg chạy tìm Jack Horner làm cố vấn. Horner là một nhà sinh vật khảo cổ học ở Trường Đại học Montana, đồng thời là nhà bảo quản ở Viện Bảo tàng Les Rocheuses. Năm 1991, ông đã khai quật đuợc một bộ xương còn nguyên vẹn con khủng long có tiếng Tyrannosaurus Rex, con thú ăn thịt mãnh liệt nhất trên mặt đất và thuật lại trong cuống Complete T. Rex do Simon và Schuster xuất bản. Tuy bảo có khám phá ra máu trong cơ thể T. Rex, ông không tin có thể sản sinh con vật nầy từ DNA của nó. Ông tuyên bố nhiệm vụ cố vấn của ông chỉ là kiểm soát cho những con khủng long chế tạo trong phim có vẻ như thật (3). Kết quả vô cùng mỹ mãn: các con khủng long trên màn ảnh quả đã giống như gần thật. Với một ngân quỷ 70 triệu USD của hãng Amblin Entertainment and Universal Pictures, hàng Lucas Films bỏ gần hai năm thực hiện những hiệu ứng đặc biệt để vận dụng những con vật khổng lồ kia trên màn ảnh. Bốn toán làm việc song song: nhóm Phil Tippet chăm lo đồ hình linh động, nhóm Stan Winston tính mẫu hình lớn bằng thật, nhóm Dennis Muren và phòng thí nghiệm Industrial Light and Magic làm hình ảnh nhân tạo còn nhóm Michael Lantieri phối cảnh cùng những hiệu ứng cơ học (3). Thành quả là khán giả rùng mình, lo sợ trước những mẫu Velociraptor, Dilophosaurus, Tyrannosaurus, ....di chuyển lanh lẹ, gầm thét rầm trời. Chúng lại còn có phần tế nhị và có óc xã hội nữa là khác! Jurassic Park là một trong những cuốn phim ăn tiền nhất đến nay. Tuy vậy, như bao nhiêu phim ảnh khác, có khách đông đi xem thì người sản xuất phim lại muốn làm tiếp, nhưng lặp lại những cái hay, cái đẹp dù hoàn hảo quá sức cũng mất đi cái vui bất ngờ lần đầu, cái ngạc nhiên của chuyện chưa bao giờ thấy. Nhưa thông hóa thạch thành hổ phách Mọi việc bắt đầu từ cuộc phát hiện một con muỗi trong nhựa hổ phách! Từ thời đại đồ đá, con người đã tìm kiếm những vật thể thiên nhiên có hình dạng, bản chất lạ lùng, hấp dẫn. Họ thường bắt gặp những khoáng chất, khi quý, khi không. Trong số các vật nầy, hổ phách chiếm một địa vị đặc biệt vì không như đá quý, phải đào bới khó khăn để tách chiết, mà từ đáy biển dạt vào bờ chỉ cúi xuống lượm. Lúc ban đầu, ngoài nét thẩm mỹ quyến rũ, hổ phách được các người tiền sử dùng trong trò quỷ thuật hay để chữa bệnh. Thật vậy, nó mang những tính chất thần diệu như khi cọ xát thì có khả năng bốc nóng (cho nên ngôn ngữ Germain có tên bernstein là hòn đá nóng cháy), phát điện (các tiếng La Tinh, Hy Lạp đặt chữ electron mà ta dùng để chỉ điện tử). Người Lithuani gọi nó gintaras có nghĩa bảo vệ, từ đó hiểu rộng ra bùa ngải (1). Sau nầy, La Tinh còn có tên succin hay succinum, từ danh từ succus nghĩa là nhựa và acid chiết xuất từ hổ phách mang tên succinic acid. Người Âu Mỹ lẫn lộn dùng danh từ amber hay ambre, phiên âm chữ anbar mà người Ả Rập dùng để chỉ định con long duyên hương phát tiết những sản phẩm tiêu hóa có mùi thơm tương tự nên ngày nay người ta phải phân biệt ambre gris (loại xám) dành cho con vật và ambre jaune (loại vàng) là hổ phách. Về mặt hóa học, danh từ thông dụng là succinit. Bên ta còn có những tên huyết phách, minh phách, huyết hổ phách, hắc hổ phách, hồng tùng chi (ĐTL). Lượm nó trên bờ biển, người ta thường cho hổ phách từ biển mà ra nhưng khởi thủy trong rất lâu còn là chuyện huyền bí. Thần thoại kể chuyện Phaeton, con Helios và Clymen, một hôm được phép kéo chiến xa mặt trời, nhân vô ý kéo lại quá gần trái đất gây ra hạn hán. Tức giân, Zeus lấy sét đánh xe nhào xuống sông Eridan làm Phaeton chết đi. Mấy cô em Phaeton thương buồn khôn xiết, được các thần hoá thành cây. Những giọt nước mắt các cô biến ra những hột nhựa lâu ngày hóa thạch thành hổ phách, đúng như tin tưởng của người xưa, những khoáng chất lắm lúc là biến thân của một phần thể chất các đấng tối cao. Có nước, có nhựa, thần thoại đã dẫn bước đầu giải thích nguồn gốc hổ phách. Nếu thật vậy thì rất dễ hiểu, thêm với những tính chất bốc nóng, phát điện, hổ phách được dùng làm bùa hộ mệnh và chữa bệnh. Bên cạnh những đồ nữ trang, đeo cổ, nhất là cho con trẻ bị bệnh, những hình tượng, bình, chén, những lớp bao che tiểu phẩm vẽ hay chạm nhờ tính chất trong suốt của nó, hổ phách còn được dùng để thực hiện những dụng cụ có ý nghĩa đạo giáo. Những mẫu to xen lồng với hột vàng trong các vòng đeo cổ, những mẫu nhỏ xâu thành tràng hạt, phát xuất từ xuởng những hiệp sĩ dòng Teutonic ở Bruges bên Bỉ, một thời đã giữ độc quyền hổ phách, lúc đầu chỉ bán ở vùng Công giáo, dần dần tràn qua các nước Hồi giáo. Ở đây, đầu ống điếu thuốc làm bằng hổ phách không chỉ có ý nghĩa đạo giáo mà cũng còn vì tích chất cách nhiệt. Bên mặt y khoa, cuốn sách Le Parrfait Joaillier của lương y Anselme Boece de Boodt, trước thế kỷ XVIII, khuyên dùng hổ phách để chữa các bệnh tim, não, sạn thận, thủy thũng (1) Đông y coi hổ phách có vị ngọt (cam), tính bình, vào bốn kinh tâm, can, phế và bàng quang, có tác dụng an thần, định kinh, lợi tiểu tiện, tán ứ huyết. Dùng trong những trường hợp tâm thần bất định, hồi hộp mất ngủ, ngủ mê hay mê sợ, tiểu tiện ra huyết, mụn nhọt lâu lành. Trong sách cổ Đông y cho rằng hổ phách hay làm hao mòn chân khí cho nên những người hỏa suy thủy thịnh nên dùng, còn những người hỏa thịnh thủy suy thì không nên (ĐTL). Gần đây thôi, cuối thế kỷ 20, mới thấy có văn bằng sáng chế dùng hổ phách làm thuốc thoa lên da để chữa thấp khớp kinh niên cũng như các bệnh thuộc về xoang, bắp thịt, khớp nối hay các bệnh thần kinh (27). Hổ phách cũng được trộn với borneol, lauroylazepinon cùng nhiều chất khác để làm thuốc xức trị chứng trĩ (28), với long não, nhựa thông, trám hương, .... để chữa những chấn thương như nhức xương, táo bón đồng thời làm thông máu, chận chảy máu, .... (25) hay những chứng tai biến mạch não (23). Hỗn hợp với nhiều cây thuốc như hột hồ đào Juglans regia, rễ khương hoàng Curcumae,…hổ phách là một môn thuốc hạ nhiệt, chống đau, giảm bớt hiệu ứng sạn thận (26). Nói chung, nó là thành phần một số lớn thuốc Tàu chữa bá bệnh: Anshen Yangxin, Niuhuang Ninggong, Xiaoer, Hulu,....Vải bô nhuốm hổ phách vừa khử mùi, vừa có tác dụng chống thấp khớp, phòng ngừa giãn phình tĩnh mạch (22). Nó còn được dùng trong kỹ nghệ chế tạo sơn mài, vecni (5,15). Bên phần succinic acid thì ngoài tác dụng chống ngẫu biến, được dùng trong đồ ăn thuốc bổ (24), trong y khoa và sản xuất chất nhuộm đỏ rhodamin, còn được dùng để bảo vệ hột giống (6). Thật ra, khảo cứu khoa học về hổ phách đã bắt đầu từ thế kỷ 18. Sau hai nhà vạn vật học Pháp Buffon và Linné, khoảng 1750, chứng minh hổ phách có một nguồn gốc thực vật, đến lượt nhà bác học Nga Lomonosov tìm ra nó là một chất nhựa phát xuất từ cây. Năm 1811, Wrede, một nhà bác học người Phổ, đi thêm một bước trong kiến thức khi xác định nó là một chất nhựa hóa thạch. Đây là một hiện tượng kỳ diệu của tạo hóa. Nhựa nầy từ các cây thông phát tiết, có thể để bảo vệ cây chống các trùng ăn gỗ khi vỏ cây bị tổn thương. Nhựa chảy bao trùm vết thương và nếu khi đang còn nóng chảy, gặp cây cỏ hay bông hoa rơi vào, cũng như sâu bọ, chuồn chuồn, bươm bướm, hay các loại mạnh hơn như ếch, nhái, thằn lằn, ....thì cũng thu kéo luôn. Người ta đã phát hiện bên xứ Đôminicana một khối hổ phách tương đối nhỏ (5,8 cm), xưa 25 triệu năm, chứa đựng hai con ếch: một con còn nguyên vẹn, con kia chỉ còn bộ xương đầy giòi ruồi cạnh một con rết ăn xác chết khối nhựa là mồ chôn cả con ếch lẫn sâu bọ lợi dụng xác nó. Sau đấy cả cây thông hay chỉ khối nhựa rơi vào đáy nước, lấp vào lớp bùn. Nhiều triệu năm sau, nhựa cứng dần vì những hoá chất cấu tạo nhựa trùng hợp thành phân tử to, dài, ổn định tức là hổ phách. Thường người ta lượm nó thành từng cục cứng rắn, mờ đục hay trong suốt, màu vàng đỏ, không có khẩu vị, nhưng tỏa mùi thơm dễ chịu khi đốt nóng. Thị trường thế giới ngày càng tăng Hổ phách không phải là chất nhựa hóa thạch độc nhất. Tùy cây phát tiết, nhựa mang tên khác nhau, hiện đuợc biết nhiều nhất là copaline hay "nhựa Highgate" có mùi thơm đặc biệt, bathvillite ở xứ Scotlanh, idrialite tìm tra trong các mỏ thần sa, tasmanite chứa đựng đến 5% lưu hùynh. Hổ phách thường được gọi là nhựa vùng Baltic ở Bắc Âu. Những cây thông phát tiết nhựa đã mọc ở đây vào các kỷ Eocene (từ -65 đến -45 triệu năm) và Oligocene (từ -45 đến -25 triệu năm) (7) trước kia mang tên chung là Pinus succinifer. Để tìm hiểu sâu rộng hơn nguồn gốc, các nhà khảo cứu đã so sánh thành phần hổ phách và thành phần nhựa bốn cây thông loại Pinus: P. pinea, P. strobus, P. pinaster, P. halepensis (18,25). Họ khảo sát không những nhựa tươi vừa mới chiết mà còn nhựa "hóa già" nghĩa là nhựa chịu tác dụng nhiệt và ánh sáng (1100 trong 30-60 ngày) trong điều kiện phản ứng trùng hợp qua một cơ chế dạng gốc thiên nhiên. Kết quả là nhựa cây P. halepensis có khả năng trở thành hổ phách nhất. Giả thuyết nầy càng đáng được đáng tin hơn khi biết cây P. halepensis thích mọc ở đất có vôi mà ở kỷ Oligocene, vùng Baltic lại đầy vôi. Bên phần một tác giả người Nga, dựa theo thời tiết thì thấy khác, cho những cây thông mọc nhiều nhất ở kỷ Oligocene là P. silvatica, P. baltica, P. cembrifolia (6). Thành phần và cấu trúc hổ phách khá phức tạp với một chất trùng hợp làm phần chính. Trước đây, succinic acid (6,8,10) được chiết xuất từ hổ phách (3-8%), giữa 280 và 290°, ngày nay người ta nhân tạo tổng hợp nó từ fumaric acid qua tác dụng của Escherichia coli (21). Đem chưng, hổ phách cống hiến formic acid. Một acid khác đóng vai trò quan trọng là abietic acid (10) mà phản ứng trùng hợp qua một xúc tác acid biến hóa thành polyabietic acid. Acid nầy cũng được tìm thấy dưới dạng diabetic-, dehydro abietic-, diabitinic-, diabietinolic acid. Nhiều tác giả tìm ra 20-30% amyrin (8) trong hổ phách cũng như trong Highgate copaline, guayaquillite (7). Phần tan hòa trong các dung dịch hữu cơ chứa đựng những polycyclic acid như isoprimaric-, dihydro isoprimaric-, dehydro isoprimaric-, sandaracopimaric-, isodextropimaric acid cùng một số mono-, di-, tri sesquiterpenoid. Một số lớn terpinoid nằm trong phần bốc hơi của hổ phách, theo thứ tự nhiều ít : borneol, terpinenol, cymen, fenchyl alcohol, camphen, carvomenthon, pinen, isoborneol (11,14). Đáng chú ý là borneol, isoborneol, fenchyl alcohol và những cymen, phát xuất từ pinen, luôn luôn có mặt theo một tỷ lệ không thay đổi như thí nghiệm "hóa già" đã chỉ, góp phần chứng minh nguyên gốc hổ phách Baltic, khác với nhựa các vùng khác (14). Sau cùng, 17 khoáng chất, kim loại được xác định trong hổ phách, nhiều nhất là Si, Al, Mg, Fe, Ti, Cu (6). Mặc dầu những tính chất dược lý, những ứng dụng trong kỹ nghệ, công dụng chính của hổ phách vẫn là đồ nữ trang. Người Ai Cập, Romain ngày xưa đã từng hâm mộ hổ phách. Dần dần khách hàng tràn qua châu Âu, châu Á. Một con đường thương mãi hổ phách được mở ra giữa Bắc Âu và Địa Trung Hải, tương tự như đường tơ lụa, đường gia vị giữa châu Âu và châu Á. Ở dạng thô, được mài dũa, trong suốt hay chứa đựng sâu bọ hóa thạch, hổ phách ngày càng được mến chuộng khắp nơi. Những mẫu nhặt lượm ở bờ biển không đủ nữa để cung cấp thị trường. Nhiều nước như Myanmar cũng sản xuất nhưng không bao lăm. May thay, ở làng Iantarny thuộc tỉnh Kaliningrad bên Nga, người ta đã khám phá ra được một mỏ phỏng chừng một trăm triệu tấn, tương đương với 80% tổng sản lượng trên mặt đất. Nằm sâu không đầy 50 m, chôn vùi trong một lớp đất sét, thợ mỏ chỉ phun nước vào là lấy ra được hổ phách. Hằng năm, mỏ chính thức tách chiết được 850 tấn. Bên cạnh đấy, khắp đồng ruộng, ngổn ngan những lỗ sâu chừng 10 m là những mỏ lậu, hằng năm cũng cung cấp thêm 400 tấn. Gấn đây có tin ột mỏ hổ phách xưa 125 triệu năm, nghĩa là xưa hơn mỏ Baltic chỉ 25-45 triệu năm, được phát hiện bên nước Liban cống hiến nhiều sâu bọ và thảo mộc thời ấy. Ngoài một số gởi qua Lithuani, Hungari, hầu hết hổ phách Iantarny được chở qua Ba Lan cách xa chỉ vài trăm cây số để phân phối cho hai vạn tiệm kim hoàn, phần lớn ở vùng Gdansk, một thời đã lừng danh với Lech Walesa và Solidarnosc, để biến hóa thành đồ nữ trang. Thành thử nước này ngày nay chiếm giữ 85% thị trường thế giới, mỗi năm với 240 tấn gia công, xuất cảng 300 triệu USD hàng hổ phách. Đấy là Ba Lan chưa khai thác hết mức các mỏ của chính nước mình (2). Nghe nói thị trường hổ phách hàng năm tăng 20%, nhất là sau khi sách và phim Jurassic Park được tung ra thế giới. Một lời đồn đại đã góp phần vào sự tăng gia nầy: một mẫu hổ phách đặt trong túi quấn có khả năng tăng cường sức lực của đấng mày râu, khỏi phải mất công tốn tiền chạy mua thuốc Viagra! Nhiều văn bằng sáng chế đã trình bày các phương pháp tổng hợp hổ phách loại polyester (12) như Polylite TC141 (13), Polybern (9), các vật liệu tương tự như bakelite, celluloid hay chế biến mùi thơm hổ phách (4). Vẫn biết những hổ phách nhân tạo dễ mài dũa, biến hóa hơn nhưng cũng như kim cương, ngọc trai, chúng không làm sao thay thế được chất thiên nhiên. Nhất là chúng không có khả năng tích trữ quá khứ như hổ phách tự nhựa cây hoá thạch mà thành. Thông tin Khoa học và Công nghệ 3(25) 1999, vietsciences 06.2008 Tham khảo 1- Encyclopaedia Universalis, 41 2- Bernard Osser, La ruée vers l'ambre, L'Express 2477 24.12.1998, tr. 45 3- François Cusset, Le jurassique de synthèse, Sciences et Avenir 10 (1993) 47-8 ; Eric Buffetaut, Jurassic Park: la part du vrai, id. 88-9 ; Aline Kiner, L'ambre, mémoire du passé, id. 6 (1996) 98-9 4- Firmenich and Co., (2,5,5,9-Tetramethyl-2-hydroxydecahydro-1-naphtyl)-2-propanol, propen-1-ol-epoxide, Swiss 302.014, 302.015 (1954) 5- Z.K. Vigderkhaus, M.M. Tarmas, Electrically insulating lacquer, USSR.172.436 (1965) 6- E.E. Rozhko, Amber and amber-bearing sediments, Uch. Zap. Lening. Gos. Ped. Inst.267 (1964) 193-203 7- J.W. Frondel, X-ray diffraction study of fossil elemis, Nature (5108) 215 (1967) 1360-1 8- J.W. Frondel, Amber facts and fancies, Econ. Bot. (4) 22 (1968) 371-82 9- E. Brepohl, J. Jahnke, Newly developed gem stone, polybern, Goldschmiede Ztg. (2) 66 (1968) 140-1 10- R.C.A. Rothlaender, Formation of amber from Pinus resin, Archaeometry (Pt1) 12 (1970) 35-52 11- T. Urbanski, T. Glinka, E. Wesolowska, Chemistry of amber. Part IV. On the chemical composition of Baltic amber, Bull. Acad. Pol. Sci. Chim. (8) 24 (1976) 625-9 12- M. Kawaguchi, Accessory having a crack pattern, Jpn. Kokai Tokkyo Koho 79.134.767 (1979) 2 tr. 13- K. shigenobu, M. Tsujita, Generation of amber, Jpn. Kokai Tokkyo Koho 80.03. 4 73 (1980) 2 tr. 14- V. Mosini, M.L. Forcellese, R. Nicoletti, Presence and origin of volatile terpenes in succinite, Phytochem. 19 (1980) 679-80 15- F.Z. Faintsimmer, A.S. Kovalev, N.I. Ryabikov, Oil-resin varnish, USSR 798.150 (1981) 16-B.I. Srebrodol'skii, Ukrainian amber, Dokl. Akad. Nauk. SSSR (1) 261 (1981) 177-9 17- M. Mosini, R. Samperi, Correlations between Baltic amber and Pinus resin, Phytochem. (4) 24 (1985) 859-60 18- P. Huang, Manufacture of artificial amber, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1.034.562 (1990) 19- B. Twardowska-Decker, Analgesis amber extract for treatmant of muscle, joint, sinew, and/or nervous disorders, Ger. Offen. DE 3.901.575 (1990) 4 tr. 20- Y. Lu, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1.081.616 (1994) 4 tr. 21- X. Wang, C.S. Gong, G.T. Tsao, Succinic acid production from fumaric acid employing recombinant E. coli, Books Abst.213th ACS Nat.Meet.San Francisco April 13-17 (1977) 22- A. Niekraszewicz, Textiles modified by amber, Przeglad Wlokienniczy + Technik Wlokienniczy (9) (1997) 10-3 23- W.T. Liu, T. Shimoda, Y.M. Chao, Z.D. Liu, Z.C. Liu, Chinese patented for treatment of cerebrovascular diseases, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003034646 (2003) 4tr. 24- T. Shiraishi, M. Miyazawa, T. Nariharu, Organic acids as antimutagenicity medicines and healt foods, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003104880 (2003) 5tr. 25- W. Wang, External use pharmaceutical liquid spray for traumatic injury, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1082335 (2004) 26-- B. Ou, Z. Ye, A Chinese medicine for treating lithangiuria and its preparation method, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1559598 (2005) 10 tr.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 14:17:38 GMT 9
Võ Quang Yến 52- Máu sam phát hiện độc tố Con còng có cái cẳng còn co co Có con cua cái có cái càng cong cong.... Lê Quốc Thắng (Con còng con cua)Cách đây ít lâu, từ Hà Nội qua Huế vô Sài Gòn, đi đâu cũng nghe nói đến chuyện trích chiết máu sam làm thuốc và nhiều bạn nhờ tôi tìm kiếm vốn liếng đầu tư, thị trường thế giới. Sau đó, ở Viện Biển Nha Trang, chị Lâm Ngọc Trâm, sau luận án về máu sam, thành lập một nhóm nuôi sam và nghiên cứu chiết xuất máu làm chế phẩm có hoạt tính sinh học. Thấy cơ sở nghiêm túc, tôi đã giới thiệu nhóm chị với hảng buôn thuốc Pháp Amilabo và hai ông Tổng Giám đốc, Giám đốc kỹ thuật năm 1993 đã cùng tôi về Nha Trang để thử xây dựng một cuộc hợp tác. Sam là con vật gì, hoạt tính máu thế nào mà nhiều phòng thí nghiệm đua nhau khảo cứu, tìm kiếm phương cách trích chiết để chế tạo thành thuốc như vậy? Trừ phi là người sống ở miền biển, hay có dịp thấy con sam lẫn lộn với tôm cá mà dân chài thường đánh bắt được, ít người biết con vật nầy, nếu không là trong chuyện cổ tích. Có người vợ đợi chồng lâu không thấy về, bèn bỏ nhà bỏ cửa đi tìm dọc theo bờ biển. Đến chân hòn núi lớn, mệt quá bà ngủ thiếp đi. Thần Cây thấy bà là người chung tình, tặng bà viên ngọc quý dặn ngậm vào miệng sẽ giúp bà ra hải đảo gặp chồng nhưng luôn phải ngậm miệng để viên ngọc khỏi rơi ra ngoài. Thật bà gặp lại chồng và cõng chồng vượt biển cả đưa về nhà. Trên đường mải vui vẻ hàn huyên, bà há miệng lớn, viên ngọc rơi mất. Hai vợ chồng cũng rơi xuống biển chết đi và hóa thành đôi sam. Vì vậy ngày nay người ta thường thấy sam cái đèo sam đực dưới biển. Sam là một con vật sống dưới biển, vì vậy còn được gọi cua biển, to cở bàn tay, có loại lớn gấp đôi, gấp ba. Có những con trưng bày ở Viện Bảo tàng Vạn vật học Paris lớn đến 30-40 cm đường kính. Hình thể cốt yếu của nó là một cái thân trên có hai mai cử động độc lập với nhau: phần đầu ngực (prosoma) hình móng ngựa, to gấp đôi phần bụng (opisthosoma) hình thang. Giữa phần bụng thọc ra một mũi nhọn gọi là gai đuôi (telson), dài bằng bề rộng thân, mà lúc ban đầu nhiều người không biết đó là cái sừng hay cái đuôi. Phía trên, ở phần đầu ngực có đến bốn mắt: cặp lớn ở hai bên, cặp nhỏ nằm chính giữa. Phía dưới, đằng trước, có sáu cặp phần phụ (appendice): một cặp ngắn gồm có ba đốt gọi là kìm (chélicère), từ đấy có tên ngành phụ Chelicerata, và năm cặp dài vất vưởng; mỗi chân gồm có bảy đốt mà đốt cuối cùng là một cái kềm để bắt và xé mồi. Cũng ở phía dưới, đoạn giữa, có bảy cặp phần phụ: một cặp rất ngắn không cử động được gọi làchelicerum, một cặp có lỗ ở đằng cuối là cơ quan sinh dục và năm cặp chân mang dùng làm cơ quan bơi lội, có cặp kèm thêm bộ phận hô hấp. Người ta thường lẫm con so với con sam, nhất là vói bé sam vì sam to con hơn, tuy so có tiết diện hình tròn hoặc hình trúng, không có gai trong khi sam có tiết diện hình tam giác, ở đỉnh có gai nhọn như lưỡi chua. Khác nhau nữa là so chứa đựng trong thịt độc tố tetrodotoxin có triệu chứng gây liệt cơ hô hấp và hạ huyết áp, nấu chín vẫn không bị tiêu diệt, ăn vào có thể bị ngộ độc, tê môi, đau bụng, nôn ói, hôn mê, chết được. Một con vật kỳ quái như vậy, những nhà vạn vật học đã phát hiện được nhưng lúc đầu ở thể hoá thạch vì sam đã sống từ đời thượng cổ, cách đây 500 triệu năm. Bây giờ sam sống là một mẫu quí báu cho những nhà khảo cứu. Với một lớp vỏ bằng chitin (tức là một chất trùng hợp những đơn vị N-acetylglucosamin nối nhau qua một cầu oxy), sam lột xác theo định kỳ trên dưới một năm (15-16 lần trong 13-14 năm, bắt đầu khi nở từ trứng ra cho đến lúc trưởng thành): vỏ sam gảy theo đường chia hai phần thân và cơ thể lọt thoát ra ngoài. Bên trong có đầy đủ các nội quan quanh một cái bộ xương cũng bằng chitin. Thần kinh hệ cực kỳ giản yếu điều khiển các hoạt động của cơ thể, từ giác quan đến các phần phụ. Giác quan thấy rõ nhất là thị giác. Ngoài bốn mắt đã thấy, còn được phát giác một cặp nhỏ thứ ba nằm dưới bụng! Theo G. Johansson (1933) thì đây còn là một cơ quan thính giác. Thật vậy, quanh đôi mắt ấy có một lớp chitin dày có nhiều lỗ nhỏ mang những sợi tơ cảm giác. Thính giác còn vận dụng qua nhiều lông cảm giác ở dưới chân. Bộ phận tiêu hóa là một cơ quan chuyển biến hóa học và sinh lý học vô cùng phức tạp. Còn hô hấp thì điều hành qua một cơ quan hoàn hảo nhất so với các động vật cùng nhóm. Máu sam mang chất hemocyanin (0,173% đồng và 17,3% đạm) nên nhuộm màu xanh chàm (2). Một con vật như sam sống lâu trên mặt đất ắt phải trải qua nhiều biến thái. Đó là một vấn đề nan giäi cho các nhà vạn vật học khi muốn phân loại các loài sam. Chỉ có một chuyện đặt tên mà cũng phải mất hơn ba thế kỷ mới tạm đồng ý với nhau. Người viết sách đầu tiên miêu tả sam rõ ràng nhất là Charles de l'Ecluse hay Clusius (1605). Vì chỉ có một mẫu khô lượm được ở đảo Moluques, ông đã lẫn lộn cho đuôi là cái sừng. Sau đó, Jean de Laet khảo sát một con sam vớt từ bờ biển Mỹ châu (1633). Ông cho biết là dân bản xứ, bộ lạc Almouchiquosi, dùng đuôi sam làm tên bắn và gọi sam là siguoc hay siguenoc. Bắt đầu từ đây, rất nhiều người chú trọng đến sam, mỗi người miêu tả mẫu vật mình có trong tay và đặt cho nó một tên khác nhau: Cancer moluccanus (Oligerus Jacobaeus, 1696), Cancer perversus, 1705), ... Ông nầy cho biết người Mã Lai gọi sam là balanca và lấy trứng nấu món ăn rất ngon. Ông kể chuyện đứng trên bờ thấy sam bơi dạo từng cặp, con cái to mạnh đèo con đực trên lưng (ai bảo làm người sướng hơn?). Để chống cự, sam dương đuôi vì đầu có mũi nhọn. Engelbert Kaempler (1777) khảo sát ở Nhật Bản cho biết người xứ Phù Tang gọi sam là kabutogami hay ilkiu. Ở Âu châu, qua 1756 mới có J.C. Schaeffer miêu tả loài Apus cancriformis, khác với loài Monocullus apus của Linnaeus. Ông nầy đợi in lần thứ mười tập Systema naturae (1758) mới bàn đến loài Monocullus polyphemus. Còn Gronovius thì đặt tên sam là Xiphosura (1756-1781). Trước bao nhiêu là loài sam với bấy nhiêu tên khác nhau, nhà vạn vật học trứ danh O.F. Muller đề nghị một tên chung Limulus cho tất cả (1). Ngày nay, người ta xếp sam trong ngành phụ Chelicerata của các động vật ngành Anthropoda (tức là ngành động vật có vỏ bằng chitin). Ngành phụ nầy gồm có ba lớp chính: Merostomata, Arachnida (bò cạp nhện) và Pyonogonida. Lớp chính Merostomata lại chia ra làmhai lớp phụ: Xiphosura và Eurypterida. Trong lớp phụ Xiphosura có ba bộ: Limulida, Synziphosura và Aglaspida. Sam bắt được ở bờ biển Việt Nam là các loài Tachypleus tridentatus, Carcinoscapius rotundicauda (tÙc là con so) ÇŠuthuộc bộ Limulida, họ phụ Tachypleinae. Loài sam sống cạnh Mã Lai hay trong vịnh Thái Lan là Tachypleus hoeveni đều cùng thuộc họ phụ Tachypleinae. Bên họ phụ kia, Xyphosurinae, chỉ có một loài Xiphosur polyphenus sống cạnh Mỹ châu, ở Đại Tây Dương. Vì vậy, người Mỹ cũng sớm khảo cứu về con vật lạ lùng nầy. Từ năm 1588, Thomas Hariot đã có nói đến sam. Nhưng phải đợi 300 năm sau (1885), W.H.Howell ở Viện Đại học Johns Hopkins mới tìm ra một tính chất quan trọng của sam là sự đông máu. Ba năm sau đó, Phòng Thí nghiệm Sinh học Đại dương (MBL: Marine Biology Laboratory) được thành lập ở Woods Hole, hướng mạnh về khảo cứu máu sam, đặc biệt của loài Limulus. Ngay cả Phân khoa Tài nguyên Đại dương (Marine Resources Department) của MBL cũng khắc hình con Limulus polyphemus lên khuôn dấu của mình. Sau đó, Leo Loeb tiếp tục khảo cứu về việc tuần hoàn trong cơ thể sam, H.K. Hartline nghiên cứu về thị giác cùng thần kinh thị giác của sam. Nhiều kết quả đã đạt được, nhưng khám phá quan trọng nhất do Frederic Bang thực hiện là nguyên do sự đông máu của Limulus. Một mẫu chiết xuất từ máu sam có khả năng phản ứng với một số lượng độc tố cực kỳ nhỏ kết hợp với những chứng bệnh gốc vi trùng gây sốt, gây sốc, có thể dẫn đến chết. Những độc tố vi trùng, đặc biệt gây sốt, gọi là nội độc tố (pyrogen, endotoxin). Nói cho đúng, Bang chỉ tiếp tục những kết quả của MBL từ 1950. Trước đó, ngay ở MBL, người ta đã khám phá ra được nội độc tố vi trùng gây sốt và trích chiết hoạt chất của nội độc tố là hypopolysaccharid (LPS). Nội độc tố là một thành phần màng tế bào của một số vi trùng thuộc loại Gram âm, nghĩa là khi đem rửa trong rượu chúng mất sắc tím do iôt nhuộm (theo phương pháp của bác sĩ người Đan Mạch Hans Christian Joachim Gram (1850-1938). Phần lớn các vi trùng sống trong nước (mặn hay ngọt, kể cả nước uống) đều thuộc về loại nầy. Khi vi trùng còn sống, nó thải độc tố ra khỏi cơ thể; khi nó chết đi, nội độc tố tụ đọng lại trong nước. Thành thử, khi cần thiết, nước được chế biến, khử trùng để làm nước uống hay dùng trong ngành dược liệu, vi trùng đã chết mà nội độc tố vẫn còn đó. Điếu lạ là sam sống trong một môi trường đầy vi trùng Gram âm và nội độc tố. Người ta tìm đo trong một mililit nước có một triệu vi trùng và trong một gam cát có đến một tỷ con! Rất có thể nhờ sống chung đụng lâu năm, sam đã được miễn dịch. Cũng nên biết thêm nội độc tố, đặc biệt hoạt chất LPS là vô cùng ổn định, bền bỉ. Muốn loại nó ra khỏi nước, phải chưng cất nhiều lần chứ lọc không đủ. Bình tích trữ nước cũng cần phải được khử trùng trước. Trước đây, muốn biết thuốc có chứa đựng nội độc tố không, người ta tiêm thuốc vào máu thỏ: thỏ lên cơn sốt, bị sốc hay chết đi tùy theo số lượng nội độc tố trong thuốc. Ngày nay, máu sam được dùng để thay thế thỏ vì gặp nội độc tố thì nó đông lại, từ đấy phát hiên ra nội độc tố. Máu sam còn tốt hơn thỏ vì thời gian phát hiện ngắn hơn, khối lượng dùng ít mà kết quả lại chính xác, định lượng được cả nội độc tố.Năm 1964, Frederic Bang và Jack Levin cho xuất bản tập Vai trò của nội độc tố trong sự đông máu Limulus ngoài tế bào. Hai tác giả chỉ cách chế biến một dung dịch trong nước của tế bào máu sam. Máu sam chiết rút ra trong điều kiện vô trùng (có thể lấy được đến 30% tổng số máu của nó) rồi cho vào máy ly tâm để tách rời phần lỏng (plasma); phần đặc còn lại là một hỗn hợp phức tạp những protein và muối kim loại đủ thứ gọi là amebocyt. Cho nó trộn vào nước lọc (lẽ tất nhiên vô trùng): vì số ion trong tế bào lớn hơn số ion trong nước, một áp lực mạnh được gây ra, bẻ gảy amebocyt phương pháp nầy mang tên lysis. Vì vậy danh từ đặt cho chế phẩm là Limulus Amebocyt Lysat (LAL) chỉ vừa nguồn gốc vừa cách thức chế biến thuốc thử. LAL có thể hoạt hóa thêm bằng cách cho tác dụng với các tế bào khác do các muối natri, calci hay magnesi đem lại. Chế biến như vậy, LAL có thể tích trữ ổn định trong thời gian hơn bốn năm. Một công trình vừa được thực hiện ở Viện Nghiên cứu Biển Nha Trang trên sam vớt ngoài biển, sam nuôi trong đầm và sam nuôi phục hồi về hiệu suất trích chiết và hoạt tính LAL của loài Tachypleus tridentatus qua ảnh hưởng của giới tính, khí hậu, điều kiện chiết xuất, phương pháp lysis, dung dịch hoạt hóa, .... Kết quả rất đáng được khuyến khích. LAL có thể phát hiện những số lượng nội độc tố khoảng một phần triệu gam. Cách thức ứng dụng rất đơn giản: cho một lượng nhỏ LAL trộn với mẫu cần thử rồi ủ ấm trong khoảng một tiếng đồng hồ ở 370C; sau thời gian đó, nếu những cục máu hiện ra tức là mẫu có chứa nội độc tố. Cục máu nầy rất ổn định, nấu lên 1800C vẫn không tiêu tan. Một mâu thuẩn cần được nêu lên là LAL, vì quá nhạy đối với vi trùng sinh bệnh, không phân biệt được các loại, nên người ta ít dùng LAL để để cho phát hiện và xác định vi trùng (4)! Dù sao, vì nó phát hiện được nội độc tố, người ta dùng nó để kiểm tra các dược phẩm, thực phẩm, vaccin, ....có thể trở thành một thành phẩm chiến lược. Được Cơ quan Lương thực và Thuốc men Hoa Kỳ (FDA: Food and Drug Administration) chuẩn y, LAL đang được phổ biến rộng rãi và ngày càng được dùng nhiều. Từ máu sam, bên cạnh LAL, còn có một loại sản phẩm khác, mang hoạt tính tương tự nhưng ít được biết hơn: lectin. Lectin máu sam là lectin đầu tiên được trích chiết từ động vật. Chúng là những protein hay glycoprotein có khả năng liên kết với các polysaccharid và ngưng kết với các tế bào động vật. Máu sam chiết xuất từ Limulus polyphemus hay Tachypleus tridentatus (3,5) gọi là haemolymph, được cho đông lạnh rồi bỏ vào máy ly tâm; phần lỏng tách ra, cho qua nhiều cột sắc phân Sephadex thì được lectin. Muốn có lectin ròng hơn, cần phải sử dụng ái lực sắc phân (affinity chromatography) và sắc phân lỏng HPLC. Từ đấy, tỷ lệ các amin acid trong lectin cũng được xác định minh bạch. Lúc trước, chúng được gọi qua nhiều tên, đặc biệt agglutinin gợi ý rõ nhất nhưng chỉ sát với một phần định nghĩa. Sau cùng, danh từ lectin, từ động từ La Tinh legere (chọn lựa) được công nhận vì chất nầy có khả năng thức biệt những mẫu máu người (Boyle và Slaplaeigh, 1954). Chất lectin đầu tiên được chiết rút từ hột thầu dầu Rinus communis từ năm 1968 (Stellmark)! Lúc ban đầu nó chỉ tìm ra được trong hột, củ, lá, rễ thân cây. Dần dần người ta trích chiết nó từ nấm, vi sinh, động vật bậc thấp (ốc, sên) và ngay từ cả động vật có xương sống (gà, chuột, lươn). Vai trò của lectin trong thảo mộc chưa được xác định rõ ràng nhưng người ta nghĩ nó có nhiệm vụ chống vi trùng, sâu bọ song song với chức vụ cộng tác tích trữ. Tuy nhiên, ứng dụng lectin ngày càng nhiều, trong khắp các lãnh vực huyết học (thức biệt các nhóm máu), miễn dịch học (làm mẫu kháng chất), sinh vật học tế bào (khảo sát về cấu tạo của màng tế bào), khảo cứu ung thư (thức biệt các tế bào ung thối và các tế bào lành mạnh). Ở Khoa Sinh vật học các Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài máu sam, người ta đã trích chiết lectin từ mít, chay, dâu, muồng, .... Gần đây, trong nhiều phòng thí nghiệm ở Pháp, cộng tác với khảo cứu viên từ Việt Nam qua, lectin hột mít của nhiều loại Artocarpus đã được khảo sát đem dùng để ngăn chận ngăn cản độc trùng VIH của bệnh SIDA tấn công vào hồng huyết cầu con người (6). Rõ ràng máu sam ngày càng được dùng nhiều và số sam cần thiết ngày càng tăng thêm. Thường sau khi ngủ đông, sam kéo nhau từng cặp trở lại bờ biển để làm nhiệm vụ sinh sản: sam cái đào lỗ đẻ trứng, sam đực từ trên lưng vợ cho tiết và rải tinh trùng xuống trứng. Một con sam cái có thể đẻ 80.000 trứng mỗi mùa, trong nhiều lỗ, mỗi lỗ chứa đựng từ 3000 đến 4000 trứng. Trong thời gian nầy rất dễ bắt sam. Đến đây phải đặt vấn đề môi sinh. Ở Hoa Kỳ, dùng kim rút máu xong, người ta thả sam lại ra biển. Khảo sát nuôi sam thì biết sam chế tạo lại máu khá lanh, từ 3 đến 7 ngày, nhưng amebocyt thì từ 3 đến 4 tháng. Đằng khác, máu sam phục hồi không luôn cống hiến một lysat tốt. Sam có ích cho ta nhưng nếu không có luật lệ bảo vệ thì số sam sẽ ngày càng thuyên giảm, nhất là chưa thấy sam nuôi cho sanh con. Thường sam bắt lại đang còn mang sẹo thì không được chiết rút máu. Đừng nói đến chuyện bắt sam nghiền nhỏ mai để làm phân bón như đã thấy nhiều nơi bên Mỹ. Không phải tình cờ mà bên Nhật Bản, con kabutogami được xem như là một di tích quốc gia. Ở nước ta, không những sam đánh bắt được quanh năm mà kết quả nuôi sam khả quan cũng xác định một tiềm năng rõ rệt cho tương lai trong công cuộc sản xuất LAL Cần biết chăng LAL là sản phẩm đầu tiên dùng trong y học từ biển cả mà ra. Nhưng việc đưa LAL ra làm thương phẩm sẽ gặp nhiều khó khăn phải vượt qua. Trong số nầy, trước nhất là điều kiện vô trùng khi chiết rút và chế biến mà thiết bị một phòng thí nghiệm loại nầy thật vô cùng tốn kém. Thứ nữa là tìm cho ra thị trường thế giới, một thị trường đến nay hầu như là độc quyền của Hoa Kỳ. Như vậy là tuy có tài nguyên, ta cùng một lúc phải giải quyết cả "đầu vô" lẫn "đầu ra". Thông tin Khoa học và Công nghệ 2 1995, khoahoc.net 01.2010 Tham khảo 1- J. van de Hoeven, Recherches sur l'histoire naturelle et l'anatomie des limules, Loyde (1893) 2- P.P. Grasse, Traité de Biologie, IV (1949) 219 3- J.J. Marchalonis, G.M. Edelman, Limulus polyphemus, J.Mol.Biol. 32 (1968) 453 4- Thomas J. Novitsky, The blood of the Horseshoe Crab, Oceanus 27 (1984) 13 5- B.P. Thuan, A.D. Strosberg, J. Hoebeke, Tachypleus tridentatus, Lectins-Biology, Biochemistry, Chemical Biochemistry 6 (1988) 405 6- E. Blasco, Lien Do Ngoc, P. Aucouturier, J.L. Preud'homme, A. Berra, Mitogenic activity of new lectins from seeds of wild Artocarpus species from Vietnam, C.R. Acad. Sci. Paris 319 (1996) 405-9
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 15:13:06 GMT 9
53- Nhựa hương, một dược Võ Quang Yến "Đưa ra, nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên, chim tứ chiếng, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc, lòng nhũ hương, niŠm một dược". Hàn Mặc Tử (Ra đời - Chơi giữa mùa trăng)Ngày chúa Jesus ra đời, nhiều thầy pháp có tiếng thông thạo về giáo lý cũng như những phép thuật bói toán nhờ một thiên thể chỉ đường hướng dẫn tới Bethléem. Những đạo sĩ nầy, tiếng La Tinh gọi magus, tiếng Hy Lạp magos, là những nhà bác học uyên thâm về thiên văn, khoa học huyền bí, và cũng là nhà những giáo sĩ đạo Zarathustra ở vùng Medi, Ba Tư tức Iran bây giờ. Lúc ban đầu không ai rõ họ bao nhiêu người, chỉ biết họ từ phương Đông lại. Truyền thống dân gian xếp họ giữa hai con số 2 và 12. Bức tranh ở nghĩa địa Saint-Pierre và Marcellin ở Roma chỉ vẽ 2 người. Sau đó, những hình trang trí ghép mảnh ở Sainte-Marie-Majeure, Roma, cũng như ở Saint-Apollinare Nuovo, Ravenne, trình bày 3 vị mặc áo quần giáo sĩ Mithra, đội mũ Phrygie. Chỉ đến thề kỷ XII mới thấy phân biệt 3 người mang biểu hiệu nhà vua với 3 tên khác nhau: Gaspard thường được hình dung là một chàng trẻ không râu, Balthazar một ông vua đứng tuổi và Melchio một cụ già sói tóc, râu xồm. Truyền thống còn gán ba vua pháp (rois mages) nầy đại diện cho 3 châu Âu, Phi, Á, dòng dõi con cháu Noé. Truyền thuyết về họ được các nhà sử học xem như là một cách diễn xuất Kinh thánh trong mục đích khẳng định tính toàn năng quyền lực cứu thế của đấng Jesus. Tình tiết lịch sử của 3 ông được thể hiện ở nhiều tranh tượng trong các nhà thờ công giáo. Ở Paris, khách có thể ngắm búc chạm Sự bá cáo của ngôi sao thần diệu quanh điện nhà thờ Đức Bà, hay bức kính ghép màu Sự tôn thờ các vua pháp trong nhà thờ Chartres (1,2). Theo phong tục thời trước, khi đến trình diện một quốc vương hay một vị thần, 3 quý khách nầy mang lại 3 món quà : nhựa hương tiêu biểu quyền lực tôn giáo, một dược (hay mộc dược) quyền lực tiên tri, thoi vàng quyền lực thế tục. Đối với đấng Jesus, ba món quà nầy còn tượng trưng những lời cầu nguyện, sự hành xác cơ thể và tình yêu cao cả (1,2). Ngoài lịch sử của 3 vua pháp chưa được phân giải rõ ràng, câu hỏi được đặt ra là tại sao lại thoi vàng, một kim loại, thể hiện món quà thứ ba chứ không phải một sản phẩm thực vật như hai món quà kia (4)? Có thể qua truyền khẩu và dịch thuật, một sai lầm đã xảy ra. Để biện minh cho giả thuyết nầy, môn ngôn ngữ học cho biết từ dhb nghĩa là vàng, trong tiếng nói Sémite phương Tây cả nam lẫn bắc, có thể chỉ định một hương liệu màu sẫm, trái với bạc. Ở miền Nam Arabie cũng như trong tiếng nói dân tộc Araméen, từ nầy biểu đạt vừa vàng, vừa chất thơm. Còn trong ngôn ngữ Syrie, tức Aram của Kinh thánh, một cây hương liệu có quan hệ với từ dhb. Theo các tác giả nầy (4), đứng về mặt văn ngữ học, từ zâhâbh có thể hiểu là một hương liệu như nhựa hương, một dược, những vật liệu được tôn thờ, chứ không phải vàng, tiêu biểu cho quyền thế vật chất, nhất thời. Nếu thật vậy thì cả 3 món quà đều là hương liệu. Cũng như ở Á Đông, các dân tộc Ai Cập, Hébreu (Do Thái xưa) đốt nhiều chất hương sặc mùi lưu huỳnh trong các cuộc cúng lễ để xua đuổi ma quỷ. Các chất hương nầy là những nhựa hương (encens, incense) có nguồn gốc từ các loài thảo mộc mọc hai bên bờ Hồng Hải hay ở xứ Somalie, chẳng hạn những cây thuộc họ Trám Burseraceae như Boswellia carterii Birdw. Nhựa hương của cây nầy thường được gọi là olibanium, frankincense hay incense "Aden". Về mặt y dược, nó có tính chất kháng vi sinh vật, chống viêm. Hoá chất được khảo cứu và ứng dụng nhiều nhất là boswellic acid. Nó có khả năng ức chế tác dụng protease virus viêm gan (10), ngăn chận sự sinh sôi tế bào bạch cầu HL-60 (11). Cùng với một dược, nhựa hương là thành phần những thuốc bôi dẻo (9,12), phòng ngừa và chữa bệnh tim vành (6), chữa cúm gia cầm (8), tái sinh da cháy bỏng (7), trộn với da heo và chitosamin làm da nhận tạo có tính chất chống viêm (5). Những hóa chất như verbenon, verbenol chiết xuất từ olibanum được dùng trong công nghệ hương liệu. Quà biếu thứ nhì, một dược (myrrh, myrrha, myrrhe) là nhựa cây Commiphora abyssinica Engl. Hay C. molmol Engl. đều thuộc học Trám Burseraceae. Những cây nầy cũng mọc ở vùng Hồng Hải, Somalie cùng Arabie, Abyssinie (tức Ethiopie ngày nay). Một duợc được dùng làm nước hoa từ hoa từ đời thượng cổ, thuốc tắm, thuốc đắp rịt. Có tính chất chống co thắt, kích thích, bên phương Tây nó được dùng với quế, nghệ, quả nhục đậu khấu trong cồn ngọt Garus làm dễ tiêu, trong thuốc rược Fioravanti làm dịu chứng thấp khớp, cơn sỏi thận, trong cao dán cỏ xổ (emplâtre mercuriel) hay trong thuốc viên lưỡi chó có thuốc phiện (pilules de cynoglosse opiacées) (1). Bên Ai Cập, nhựa được chế biến thành thuốc Myrazid chữa bệnh giun ruột (24), sán dây (23), sán máng (21), sán lá gan (38,42). Một dược được đề nghị dùng làm thuốc trị ung thư (14), u hạt (13), làm thuốc hạ sốt (13), chống chứng huyết khối (16), giảm hạ đường huyết (17), bảo vệ niêm mạc dạ dày (15). Như trên đã thấy, nó được trộn với nhựa hương làm thuốc bôi dẻo, chữa bệnh tim vành, bệnh cúm gia cầm, tái sinh da cháy và làm da nhân tạp. Trong mỹ phẩm, nhựa được dùng làm thuốc bảo vệ da (18). Trong Đông y, một dược được dùng đề chế một số cao dán nhọt có tính chất hoại huyết, giảm đau, tiêu thủng, có khi dùng làm thuốc điều kinh (ĐTL). Nhựa có tính chất độc hại lên các ấu trùng Culex pipiens, Aedes caspius nên được dùng chống muỗi (19). Nó cũng có tác dụng đối kháng lên ấu trùng Spodoptera littiralis Boisd. nên có thể dùng một mình hay hỗn hợp với các chất trừ sâu khác làm thuốc bảo vệ cây bông. Cùng loại với một dược là nhũ hương (tức mastic, có khi gọi olibanum như nhựa hương) là nhựa cây Pistacia lentiscus (hay lenticus) L., thuộc họ Đào lộn hột Anarcadiaceae. Vì chất nhựa cây nầy chảy xuống đông thành hình giọt như đầu vú lại có mùi thơm do đó có tên nhũ = vú, hương = mùi thơm (ĐTL). Là một chất phản oxi, nó có tính chất chống nấm (29), kháng những vi sinh Helicobacter pylori (30, Staphylococcus aureus, Lactobacillus plantarum, Pseudomonas fragi, Samonella enteritidis (28), Bacillus subtilis, Streptococcus faecalis, Escherichia coli, Proteus vulgaris, Pseudomonas pyocyanea (47). Nhựa chứa đựng procyanidin có tác dụng giảm huyết áp (27). Trộn với polyethylen glycol, nhũ hương được dùng bao thuốc viên tan rã mau chóng trong dạ dày (22). Trộn với xylitol-sorbitol trong kẹo cao su, nó có khả năng tăng gia pH trên mảng răng biến đổi tác dụng của đường (31). Bên ta, nó được dùng để chế thuốc cao dán nhọt chữa đau sưng tiêu độc (ĐTL). Bên nước Hy Lạp, mastic Clio (tên một hòn đảo) là thành phần thuốc trám răng, vec ni loại quý, được cho vào ướp hương rượu trắng raki vùng Địa Trung Hải. Nhờ chứa đựng nhiều terpen, ester, aldehyd, nhựa cũng được dùng trong công nghệ mỹ phẩm dầu thơm (26). Song song với nhũ hương có tùng hương là nhựa những cây thông Pinus merkusii Jungh et De Vriese ở Việt Nam, Lào, Cao Mên (có một loại ở Hải Nam mang tên P. tonkinensis) ; P. khasya Royle ở miền nam Trung Bộ, Campuchia; thông đuôi ngựa (mã vĩ tùng) P. massoniana Lambert ; du tùng P. tabulaeformis Carr. ở Trung Quốc, đều thuộc họ Thông Pinaceae. Nhựa cây P. merkusii chứa đựng nhiều acid, đặc biệt hydroabietic acid có tính độc. Cây nầy ở Philippines, có tên mindora, là nguồn nhựa đóng tàu biển. Ở Việt Nam, nhựa cây P. khasya chứa ít pinen và longifolen nhưng nhiều phellandren. Cây P. massoniana có tính chất xua đuổi sâu bọ nhờ humulen, diệt giun nhờ pinosylvin ethyl ether, nortrachelogenin ở thân cây, methyl ferulat, pinoresinol ở vỏ cây. Chứa đựng pinen, copanen, caren, caryophyllen, longifolen,… nhựa ấy cũng là nguồn sinh tố, đặc biệt vitamin E. Ở bên ta, theo tài liệu cổ, tùng hương có vị đắng, ngọt, tính ôn, tác dụng tảo thấp, khư phong, sát trùng, sinh cơ, chỉ thống, bài nùng, thường được dùng chữa mụn nhọt, ghẻ lở. Món quà thứ ba, nếu là một hương liệu thì vì không được chỉ định, ta chỉ có thể phỏng đoán trong một số nhựa. Một loại nhựa thông hóa thạch cách đây hàng triệu năm, cứng dòn, gần như trong suốt, màu từ vàng lạt qua đỏ tía, được nghĩ đến ngay là hổ phách, phát xuất từ cây Pinus succinifer hay các cây cùng họ như P. pinea, P. pinaster,P. halepensis, P. silvatica, P. baltica, P. cembrifolia. Mang đủ tên bernstein trong ngôn ngữ Germain, electron, succin, succinum trong các tiếng La Tinh, Hy Lạp, gintaras bên người Lithuani, nay nó được Âu Mỹ đặt tên ambre, amber, phiên âm từ chữ anbar mà người Ả Rập dùng để chỉ định con long diên hương phát tiết những sản phẩm tiêu hóa có mùi thơm tương tự, nhưng danh từ thông dụng là succinit. Hổ phách không phải là chất nhựa hóa thạch độc nhất. Copalin là một loại nhựa cứng dễ gãy, màu vàng sẫm, khi nóng chảy phát tán mùi thơm, đặc biệt của những resinic acid trong nhựa copal những cây copalier, họ Vang Caesalpiniaceae. Những cây nầy tìm ra được trong đất sét xanh ở Highgate, gần London, nên còn được gọi là "nhựa Highgate". Ngoài ra còn có bathvillit ở xứ Scotland, idrialit trong các mỏ thần sa ở Idrija bên Slovenia, tasmanit xen lẫn với các lớp đá phiến ở Tasmanie bên Úc châu, chứa đến 5% lưu huỳnh. Trong số các nhựa thơm, cũng nên kể an tức hương, tức cánh kiến trắng hay săng trắng (người Tày gọi hu môn), còn có tên "nhựa hương Mỹ" tức galipot. Danh từ Anh chỉ định nó là benzoin, danh từ Pháp benjoin, phát nguyên từ tiếng Ả Rập luban jaouai, nghĩa là "nhựa hương Java", biến chuyển thành benjaouai. Nó phát tiết từ cây Styrax tonkinensis Pierre, thuộc họ Bồ đềStyracaceae, mọc hoang ở nước ta, nhiều nhất ở Hà Sơn Bình, Thanh Hóa, Nghệ tĩnh, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Sơn La, Lai Châu (3). Cùng họ Bồ đềStyracaceae, cây Styrax officinalis (hay officinale) L. mọc quanh bờ phía đông Địa Trung Hải, đã được nói đến trong sách Sáng thế. Nhựa hương Galaad vùng Palestin còn được gọi là "nhựa hương Do Thái" tức styrax, storax, phát xuất từ tiếng Hy Lạp sturax, tiếng Ả Rập assthirak. Một chất hương cũng được biết rất nhiếu là tô hạp hương (LTĐ), tô hợp hương hay tô hạp du (người Trung Hoa gọi su he xiang, người Thỗ Nhĩ Kỳ balsam) là nhựa cây tô hạp Liquidambar orientalis Mill., thuộc họ Sau sau Hamamelidaceae. Cây cao 12-15 m, mọc nhiều ở châu Phi, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư ; ở Việt Nam mới thấy tại nông trường Tràng Vinh, tỉnh Quảng Ninh (ĐTL). Những tanin của tô hạp hương kết dính mọi hồng cầu con người (34), máu thỏ, chuột (33), những vi khuẩn không vỏ, Candida albicans, ngay cả Klebsiella pneumoniae khi polysaccharid trên mặt màng tế bào được gọt đi (24). Tô hạp hương giảm sự bài tiết phế quản, có tính chất sát trùng nên được dùng để chữa ghẻ, chữa rận dương vật, làm lên da non (ĐTL). Nó được trộn với nghệ, gừng, phèn, borneol làm thuốc trị chứng động kinh (33). Trong hương liệu, nó được dùng chế mùi thơm hoa xoan hay làm chất định mùi. Cùng họ Sau sau, ở nước ta còn có cây sâu trắng Liquidambar formosana Hance, nhựa màu vàng nhạt, mùi thơm nhẹ. Còn nhựa cây tô hạp hương bình khang Altingia gracilipes Hemsl ở Điện Biên thì màu trắng, thường được dùng bôi lên giấy dán vào ngực khi bị ho. Trong loại tô hạp Altingia cũng nên kể A. chinensis Oliver. mọc ở Lào Cai, Tam Đảo, Ba Vì, cây cao 10-20 m, lá cuống ngắn, phiến lá hình giáo ngược, mũi lá ngắn, mép răng cưa và A. takhtajanii Thai V.T. gặp nhiều ở Mộc Châu lên tới biên giới Việt-Lào, cây cao 50 m, lá cuống dài, phiến lá hình trái xoan, mũi dài nhọn, mép khía răng cưa, đều cùng họ Sau sau (LTĐ). Trong bốn sách Phúc âm được Giáo hội Công giáo chứng nhận tính xác thực, cuốn của thánh Matthieu muốn chứng minh đấng Jesus là chúa cứu thế và kể chuyện ba pháp sư nhưng không xác định họ là vua, vua nước nào và mấy người. Như vậy 3 món quà cũng có thể hiểu là 3 vật tượng trưng, con số không quan trọng. Quan trọng hơn là chất liệu của những món quà. Sách đã nói đến hương liệu là những vật được tôn thờ, thường được dùng nơi tự, trong buổi cúng lễ, hương thơm xua đuổi những vong hồn quỷ quái. Rồi đây những cuộc khảo cứu khoa học trong lĩnh vực lịch sử đạo giáo sẽ đưa ra ánh sáng nhiều chi tiết hơn. Trong lúc chờ đợi, tưởng cũng không sai nghĩ cả 3 món quà đều là hương liệu như nhựa hương, một dược. Nghiên cứu và Phát triển 1(44) 2004, khoahoc.net 12 2007 Tham khảo 1- Grand Larousse encyclopédique, Paris, 6 (1962) 2- Jacques de Voragine, La Légende dorée, nxb Seuil, Paris (2002) 75-76 3- Võ Quang Yến, Hổ phách, ký ức của quá khứ, Thông tin Khoa học và Công nghệ, Huế (2) (1998) 40-46 4- J.P.Forestier, D.Lemordant, Les Rois Mages et leurs présents, Bull.Ass.Anc. El. INALCO, Paris (4) (2002) 121-6 Boswillia carterii 5- B. Lou, W. Liu, W. Zhang, Artificial skin preparation from chitosamine and pig skin, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1032294 (1989) 6 tr. 6- D. Ma, Pharmaceutical compositions for transdermal application for preventing and treating coronary heart disease, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1030183 (1989) 6 tr 7- M. He, Ointments containing potassium aluminium sulfate and other ingredients to promote tissue regeneration in burn, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1067177 (1992) 5 tr 8- Y. Li, Pharmaceutical capsules containing herbal medicine mixture for treatment of influenza in poultry, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1066185 (1992) 4 tr 9- G. Lu, Ointments for inflammation inhibition and tissue growth promotion, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai ShuomingshuCN 1079665 (1993) 5 tr 10- G. Hussein, H. Miyashiro, N. Nakamura, M. Hattori, N. Kakiuchi, K. Shimotohno, Inhibitory effects of Sudanese plant extracts on hepatitis C virus (HCV) protease, Phytoth. Res. 14(7) (2000) 510-6 11- R.K. Park, K.R. Oh, K.G. Lee, Y.J. Mun, J.H. Kim, W.H. Woo,, The water extract of Boswellia carterii induces apoptosis in human leukemia HL-60 cells, Yakhak Hoechi 45(2) (2001) 161-8 Commiphora abyssinica, C. molmol 12- J. Small, Asafetida and myrrh, Food 12(1943) 125-8, 154-6 13- M. Tariq, A.M. Ageel, M.A. Al-Yahya, J.S. Mossa, M.S. Al-Said, N.S. Parmar, Anti-inflammatory activity of Commiphora molmol, Agents and Actions 17(3-4)(1986) 381-2 14- M.M. Al-Harbi, S. Qureshi, M. Raza, M.M. Ahmed, A.B. Giangreco, A.H. Shah, Anticarcinogenic effect of Commiphora molmol on solid tumors induced by Ehrlich carcinoma cells in mice, Chemoth. 40(5)(1994) 337-47 15- M.M. Al-Harbi, S. Qureshi, M. Raza, M.M. Ahmed, M. Afzal, A.H. Shah, Gastric antiulcer and cytoprotective effect of Commiphora molmol in rats, J. Ethnopharm. 55(2)(1997) 141-50 16- O.A. Olajide, Investigation of the effects of selected medicinal plants on experimental thrombosis, Phytoth. Res. 13(3)(1999) 231-2 17- R.P. Ubillas, C.D. Mendez, S.D. Jolad, J. Luo, S.R. King, T.J. Carlson, D.M. Fort, Antihyperglycemic furanosesquiterpens from Commiphora myrrha, Planta Med. 65(8) (1999) 778-9 18- F. Bonte, A. Meybeck, M. Dumas, Use of a commiphora myrrha extract in a cosmetic or dermatological, PCT Int. Appl. WO 0004872 (2000) 19- A.M. Massoud, I.M. Labib, M. Rady, Biochemical changes of Culex pipiens larvae treated with oil and oleo-resin extracts of myrrh Commiphora molmol, J. Egyp. Soc. Parasitol. 3I(2)(2001) 517-29 20- A. Massoud, S. El Sisi, O. Salama, A. Massoud, Preliminary study of therapeutic efficacy of a new fasciolicidal drug derived from Commiphora molmol (myrrh), Amer. J. Trop. Med. Hyg. 65(2)(2001) 96-9 21- F. Badria, G. Abou-Mohamed, A. El-Mowaly, A. Massoud, O. Salama, Mirazid : a new schistosomicidal drug, Pharmac. 39(2)(2001) 127-31 22- S.M. Motawea, A. El-Gilany, M. Gaballah, F. Emara, A. El-Shazly, Control of Fasciola in an Egyptian endemmic rural area by a new safe, effective fasciolicidal herbal drug, J. Environ. Sci. 21(2001) 85-104 23- A. Massoud, A. El-Gilany, S.M. Motawea, A. El-Shazly, M. Gaballah, Effectiveness and safety of a new cestodicidal herbal drug, J. Environ. Sci. 21(2001) 105-120 24- A. Massoud, S.M. Motawea, A. El-Gilany, A. El-Shazly, A. Sitten, M. Gaballah, Mirazid, a new herbal treatment highly effective against intestinal nematodes. A study carried out under field conditions in rural Egypt, J. Environ. Sci. 21(2001) 121-137 Pistacia lentiscus 25- A.S. Abdel-Ghaffar, A.S. El Nawawy, M.S. Mohamed, The inhibitory effect of mastic gum on bacterial growth, Alexandria Med. J. 3 (1957) 119-24 26- L. Peyron, Some little-known oils of potential interest in perfumery, Soap, Perf. Cosm. 39(8) (1966) 633-43 27- M.J. Sanz, M.C. Terencio, M. Paya, Isolation and hypotensive activity of a polymeric procyanidin fraction from Pistacia lentiscus L., Pharmazie 47(6) (1992) 466-7 28- C.C. Tassou, G.J.E. Nychas, Antimicrobial activity of the essential oil of mastic gum (Pistacia lentiscus var. chia) on gram positive and gram negative bacteria in broth and in model food system, Int. Biodeterio. Biograd. 36(3-4) (1995) 411-20 29- P. Magiatis, E. Melliou, A.L. Skaltsounis, I.B. Chinou, S. Mitaku, Chemical composition and antimicrobial activity of the essential oils of Pistacia lentiscus var. chia, Planta Med. 65(8) (1999) 749-52 30- P. Marone, L. Bono, E. Leone, S. Bona, E. Caretto, L. Perversi, Bactericidal activity of Pistacia lentiscus mastic gum against Helicobacter pylori, J. Chemoth. 16(6) (2001) 611-4 31- E. Koparal, F. Ertugrul, E. Sabah, Effect of chewing gum on plaque acidogenicity, J. Clin. Pedia. Dent. 24(2) (2000) 129-32 Liquidambar orientalis 32- W. Zhang, L. Zhuang, Platelet aggregation inhibition by storax from Su He Xiang (Liquidambar orientalis), Zhongcaoyao 16(3) (1985) 112-4 33- C. Wang, Manufacture of capsules for epilepsy therapy, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 87102557 (1988) 4tr 34- N. Cakir, S. Tukel, N. Yulug, Agglutination characteristics of hydrolysable tannins of Liquidambarorientalis Mill on nonencapsulated bacteria, Turk. J. Med. Sci. 22(2) (1994) 85-7
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 15:18:24 GMT 9
54 - Phượng hoàng đậu gốc ngô đồng Chiều chiều ra đứng Tây lầu Tây Tây lầu Tây Thấy cô tang tình gánh nước tưới cây tưới cây ngô đồng Xui ai xui trong lòng tôi thương, thương cô tưới cây ngô đồng Lý chiều chiều - Dân ca Nam Bộ"Thượng đại phu Du Thụy hiệu Bá Nha và người đốn củi Tử Kỳ là hai người bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Năm đó, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua nước Sở. Trên đường về, khi thuyền đến cửa sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu sáng trăng, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cho lính cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha sai quân hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm, xông cây Dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây vặn trục. Sau đó đặt tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt rất âm thanh, quyện vào khói trầm. Chưa dứt bài, đàn bổng đứt dây. Bá Nha giựt mình tự nghĩ, dây đàn bổng đứt thế nầy ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai quân hầu lên bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt. Quân hầu lãnh lịnh lên bờ thì bỗng có người từ trên bờ lên tiếng : Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân nầy đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành !… Tử Kỳ tinh thông nhạc lý, tinh tường Dao cầm, thấu rõ lòng Bá Nha qua tiếng đàn, lúc cao vòi vọi chí tự non cao, lúc thì trời nước bao la, ý tại lưu thủy. Bá Nha vô cùng báo phục và xin kết nghĩa anh em. Thiên thu bần tiện thành tri kỷ Nhất khúc dao cầm sơn thủ tâm (Ngàn năm nghèo khổ thành tri kỷ, Một khúc đàn Dao rõ nỗi lòng) (3) Trước khi chia tay, hai người hẹn lại gặp nhau năm sau cũng tại chốn nầy. Mùa thu năm sau, khi Bá Nha trở lại Mã Yên thì Tử Kỳ, vì bệnh, mới chết mộ còn chưa xanh cỏ. Chúng Lão, thân phụ của Tử Kỳ, đưa Bá Nha đến mộ. Bên phần mộ Tử Kỳ, Bá Nha lạy và khóc nức nở rằng: Hiền đệ ơi, lúc sống anh tuấn tuyệt vời, nay chết, khí thiêng còn phảng phất, xin chứng giám cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt. Lạy xong, Bá Nha gọi đem Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu khúc Thiên thu trương hận, tiễn người tri âm tài hoa yếu mạng. Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi lâu mới tan. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung Lão thưa: Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn vừa ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu và xin đọc thành thơ đoản ca nầy ... Lời thơ vừa dứt, Bá Nha vái cây Dao cầm một cái, tay nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tan nát tung từng mãnh, trụ ngọc, phím vàng rơi lả tả. Chung Lão không kịp ngăn, hoàng kinh hỏi rằng: Sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí giá nầy? Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt: Suất toái dao cầm phượng vĩ hàn Tử Kỳ bất tại đối thùy đàm Đại thiên thế giới giai bằng hữu Dục mịch tri âm nan thượng nan! Tạm dịch thơ: Đập nát Dao cầm đau xót phượng Tử Kỳ không có đàn cho ai Bốn phương trời đất bao bè bạn Tìm được tri âm khó lắm thay! Dao cầm được làm từ phần gỗ tốt nhất của cây ngô đồng. Khi xưa vua Phục Hy thấy 5 vì sao rơi vào cây ngô đồng, rồi có chim phượng hoàng đến đậu. Biết là gỗ quí, hấp thu tinh hoa Trời Đất, nên vua bảo thợ khéo lấy gỗ chế làm nhạc khí gọi là Dao cầm, bắt chước nhạc khí ở Cung Dao Trì." (2) . Giáo sư Trần Văn Khê cũng có một cây đàn tranh làm bằng gỗ cây ngô đồng, dài, nặng, tiếng đàn vang lên rất ấm. Cây ngô đồng, còn được gọi tơ đồng, trôm đơn (**), mã đậu (1) , mang tên khoa học Sterculia platanifolia L (*) hay Firmannia simplex (L.) W.F. Wight, Hibiscus simplex L. (**), thuộc họ Trôm Sterculiaceae (*). Cây ngô đồng còn có tên Firmiana platanifolia Schott et Endl (Nhật Bản), (L.F.) Marsili (Trung Quốc). Bên nước nầy người ta còn nôm na kêu tên theo một tích xưa: cây phượng hoàng (8)! Tên ngô đồng cũng đã được đặt cho cây trẩu tức dầu sơn, mộc du thụ, thiên niên đồng Aleurites montana (Lour.) Wils., cây Jatropha podagrica Hook. thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae (*) và cây Brassaiopsis ficifolia Dunn. var. ficifolia, thuộc họ Đinh lăng Araliaceae(**). Ngoài ra, bên ta thường hay lầm cây ngô đồng với cây vông nem (1) tức hải đồng bì, thích đồng bì Erythrina indica Lamk., thuộc họ Bươm bướm Papilionaceae, và với cây vông đồng (1) tức điệp tây, ba đậu tây Hura crepitans L. thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae (*). Nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới, nhất là Nhật Bản, Trung Hoa, Hàn Quốc, từ lâu đã khảo cứu những hóa chất trong cây ngô đồng Firmannia (Firmiana) platanifolia, F. simplex, Sterculia platanifolia là những tên thông dụng trong các bản báo cáo khoa học. Lá cây non chứa đựng hentriacontan, bêta-amyrin, bêta-amyrin acetat, bêta-sitosterol, rutin. Bêta-sitosterol cũng có mặt trong hoa cùng với apigenin, oleanolic acid. Vỏ cây khô đem chiết với methanol cống hiến octacosanol với những dẫn xuất acetyl, benzoyl của nó cùng một số ít lupenon, sucrose. Từ vỏ cây cũng được chiết ra một chất nhầy chứa đựng galactan, pentosan, uronic acid, những chất đường đem thuỷ phân đem lại galactose, arabinose, glucuronic acid (4). Rễ cây cống hiến những firmianon A,B,C là những dimer của naphthoquinon. Một chất mới có tính chất an thần là simplidin tức là tetrahydroxy dimethoxy neolignan đã được chiết xuất từ cành cây cùng với sáu chất đã từng biết: scopoletin, syrigaresinol, aquillochin, nitidanin, tamarixetin rhamnosid và quercitrin. Trong mục tiêu làm giấy, những polysaccharid trong chất nhầy đã được xem xét: chúng gồm có D-galacturonic acid, D-galactose, L-arabinose, L-rhamnose đem thủy phân cống hiến những amin acid, L-glutamic acid, L-alanin, và số ít L-isoleucin, L-valin, L-lysin L-tyrosin, glycin (15). Alpha-linolic acid bromid, sterculenic acid, cyclopropenoic acid, malvalic acid thì tìm ra được trong dầu hột cây. Nhờ một enzym, oxalic acid dưới dạng muối Ca oxalate tang hòa trong cây, không hiện ra thành tinh thể. Nhiều saccharid cống hiến galactose từ monosaccharid (9), glucosamin từ polysaccharid (12). Những hoá chất quan trọng về mặt sinh lý học đã được phát hiện là những flavonoid: kaempferol và dẫn xuất rutinosid, quercetin và dẫn xuất hyperosid (7,10), những alkaloid như betain, cholin (6), xanthin, hypoxanthin (5). Về mặt ứng dụng thấy có một số công tác khảo cứu. Đem thử trên chuột, nhờ những alcaloid xuất tiến sự dính kết và kết tụ tiểu cầu, hột ngô đồng có tác động cầm máu phát xuất từ cấu tạo những cục huyết khối (8). Lá và hột cho vào 25, 40, 70 hay 90% ethanol là một môn thuốc kích thích loại Cola vera hay C. acuminata (5). Một văn bằng sáng chế Nhật Bản cho trộn dầu ngô đồng (1 phần) với estradiol (1 phần) trong petrolatum (98 phần) để làm thuốc chống béo (11). Hỗn hợp với nhiều cây khác như ma hoàng, cây dâu (tầm tang), cây nhút tây (tỳ bà diệp),…ngô đồng làm thành thuốc chữa ho suyển (24), viêm phế quản cấp tính (26), đặc biệt cho con trẻ khi cho trộn với bách bộ, hoàng cầm, tiền hồ (23). Hỗn hợp với đảng sâm, hoàng kỳ, thủ ô, lười ươi, lộc nhung, bò cạp hay với phấn hoa, mật ong, sửa chúa, rễ cây là một thuốc bổ cho con trẻ (22). Gần đây ngô đồng được dùng nhiều trong mỹ phẩm: bảo vệ da (19) (trộn với nhân trần cao (16)), bảo vệ tóc (17,21) hay chữa chứng bạc lông poliosis (20) (trộn với hoàng tinh, đương quy, sinh địa, phục linh, móng lưng rồng), kích thích tóc mọc, phòng ngừa tóc rụng (18), làm chất tẩy, chế phẩm bồn tắm có hiệu ứng giữ da ẩm lâu ngày, phòng ngừa da khô, nhám, nứt, gầu đầu (14). Hỗn hợp với lá chè, long não, tầm tang, lá quạt, lá cây còn đưọc dùng cuốn điếu hút không hại sức khoẻ (25). Trong nhân dân, ta thường dùng hạt và vỏ cây ngô đồng để chữa rụng tóc và nhuộm đen tóc, vỏ cây ngô đồng đốt thành than, trộn với dầu bôi lên tóc bạc, hột ngô đồng giả nát còn được dùng chữa loét miệng và bệnh ngoài da. Ngô đồng là một cây to, cao. Lá xẻ thùy chân vịt, cuống lá dài hơn phiến lá. Những thùy rất sít nhau, có khi hơi chồng lên nhau. Hoa nhỏ màu vàng. Quả gồm năm đại, mỏng với hai hạt hình trứng. Cây được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc và miền Nam nước ta. Miền Bắc hay gặp ở Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Ninh Bình. Còn thấy trồng ở Campuchia, Trung Quốc, Nhật Bản. Người ta dùng hạt thu hái ở những quả chín và vỏ cây hái gần như quanh năm, dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô (*). Cũng cần biết thêm có một con sâu sống trên cây ngô đồng tên là Notarcha derogata; người ta đã tìm ra được hai pheromon chính, tức là hormon tính phái, do con cái tiết ra là hai chất đồng phân (E,Z)- và (E,E)- hexadienal bên cạnh hai chất có ít hơn là hexadecanal và hexadecadienol (13). Thông tin rất quan trọng nếu ngày nào muốn loại trừ sâu nầy khỏi cây. Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, nay đã mất, dựa theo tài liệu nghiên cứu của Đỗ Xuân Cầm, đã thống kê những cây ngô đồng ở Huế cùng lịch sử của chúng. Anh đã sống với những cây ngô đồng, rung động với mỗi lá vàng rơi. "Cuối đông, cội ngô đồng bách lão bên hông nhà Tả Vu Đại Nội Huế lá đã vàng don don. Sắc vàng rỗ hoa xanh chơm chớm những đường gân nhỏ li ti như mạch máu trên bàn tay người. Lá ngô đồng Huế vàng như vậy rất lâu. Có khi kéo dài đến mấy tháng trời như một nỗi buồn ít nhiều thầm lặng. Lá có khi u sầu như một người tương tư, rơi xuống thảm cỏ với gương mặt ơ thờ vàng ửng. Cây ngô đồng Huế thường rụng lá cuối đông. Từng chiếc một rơi, rơi lần lượt. Không một chút vội vàng. Cách rơi thảnh thơi, lưu luyến, dè dặt như không muốn rời thân mẹ, khiến những tâm hồn đa cảm mang mang. Nếu không có chiếc cuống dài thanh mảnh, chiếc lá ngô đồng sẽ mang hình hài của một giọt lệ vạm vỡ, những giọt lệ không tan buồn vương vương như dấu vết cổ tích của một thành phố rất nhiều chim và hoa. Cái dáng lao thẳng lên trời xanh như một thanh bảo kiếm của cây ngô đồng, là lời ngụ cương trực, tiếng nói vô ngã hồn nhiên của một nhân-cách-cây. Lạ thay, lá ngô đồng vàng vọt ủy mị bao nhiêu thì vóc cây lại dũng mãnh cương cường bấy nhiêu. Người xưa yêu và thích trồng cây ngô đồng có lẽ ở dáng cây thẳng độc nhất vô vị. Cây như thay lòng người mang khát vọng lớn của con chim hồng, chim hộc, chỉ nhận sự gửi thân của bầy chim phượng hoàng. Tích xưa con chim phượng hoàng thường chọn cây ngô đồng làm chỗ dung thân. Đó là sự lựa chọn tri kỷ của một bản năng cao cả đã được lập trình. Ở đâu có cây ngô đồng mọc, ở đó có sự khang khác, như là cuộc sống này đã nguyên sơ và trinh bạch hơn " (1). Tôi chưa từng được hân hånh thấy cây ngô đồng rụng lá mùa thu Ngô đồng hất diệp lạc Thiên hạ cộng tri thu (Một lá ngô đồng rụng, Khắp nơi biết thu đến) (3). Tôi cũng không may mắn được ngắm hoa ngô đồng nở ngang tầm cửa, được hưởng hương thơm hoa ngô đồng thoảng vào giảng đường. Nhưng một sáng mùa hè năm ngoái, nhân chạy theo mấy đóa hoa sen trong Jardin des Plantes ở Paris, tôi tình cờ chạm vào một cây tưởng như cây ngô đồng đang nở hoa. Nghi hoặc, tôi tìm cho ra bản ghi tên cây, thật đúng chua nhỏ ở dưới Firmiana simplex. Bất giác tôi ngẩng đầu lên thử tìm con chim phượng hoàng. Biết đâu! Ngày nay thánh chúa trị đời, Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng (Nguyễn Đình Chiểu) Nhưng chim phượng hoàng không có đó và tôi cũng không phải Đỗ Phủ giang hồ dọc sông Hoàng Hà, đói lả người, lạnh rét thấu xương để có một cái nhìn tráng lệ Hương đạo trắc dư anh vũ lạp Bích Ngô thê lão phượng hoàng chi. (Chim anh vũ đã ăn những hạt lúa còn sót lại Chim phượng hoàng già thường về đậu trên cành ngô đồng xanh) (1). Không được chiêm ngưỡng phượng hoàng, tôi tự an ủi với tấm ảnh chụp hoa lá cây, cũng là hạnh phúc lắm rồi! Nghiên cứu và Phát triển 6(65)2007, khoahoc.net 06.2009 Tham khảo (*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 359-61, 484-5, 560-1, 782-3 (**) Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Mekong Ấn quán, Santa Ana (1991) I 645, II 631 1-Nguyễn Xuân Hoàng, Một trăm cây ngô đồng trong Tượng đài sông Hưong, nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh (2004) 137-4; tôi xin nhân đây thắp một nén hương trên mộ anh bạn trẻ tuy gặp nhau ít mà hiểu nhau nhiều 2- Phí Minh Tâm, Bá Nha, Tử Kỳ, khoahoc.net 24.9.2006 3- Trần Đình Sơn, Những nét đan thanh, nxb Văn Nghệ, TpHôChíMinh (2007) 108-9, 192, 234 ; xin thành thật cám ơn tác giả đã gởi tặng cuÓn sách quý Khảo cứu 4- S. Kosuge, Sizes for Japanese paper. I. Mucilage of Firmiana platanifolia, Res. Bull. Gifu. Coll. Agr. (Japan) (1950) 68 (Commem. 25th Anniv. of Fondation) 111-6 5- Yu.G. Trakman, Sterculia platanifolia – a new medicinal raw material for stimulative preparations, Nekotorye Voprosy Lekarstvoved (1959) 81-5 6- Yu.G. Trakman, Nitrogenous bases of Sterculia platanifolia, Sbornik Nauchnykh Trudov – Tsentral'nyi Aptechnyi Nauchno – Issledovatel'skii Institut 5 (1964) 174-81 7- Y. Ogihara, M. Ogawa, T. Aoyama, The constituents of the barks of Firmiana platanifolia Scott et Endl., Nagoya-shiritsu Daigaku Yakugabuku Kenkyu Nenpo 23 (1975) 52-3 8- X. Che, J. Liu, Y. Zhang, P. Lei, Hemostatic action of alcaloids of phoenix tree (Firmiana simplex) and its effect on experimental thrombus formation, Zhongcaoyao (5) 16 (1985) 212-3 9- D.A. Murv'eva, K.O. Gasparyan, O.I. Popova, Polysaccharides of some plants having tonic effect, Biologicheskie Nauki (Moscow) (12) (1990) 117-21 10- T.R. Seetharaman, Flavonoids of Firmiana simplex and Sterculia villosa, Fitoterapia (4) 61 (1990) 373-4 11- Y. Ota, Topical reducing drug containing Firmiana essence to inhibit obesity, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11035418 (1999) 6 tr. 12- D.A. Murv'eva, O.I. Popova, K.O. Gasparyan, Glucosamine in polysaccharide fractions from European mistletoe and Firmiana simplex, Khimiya Prirodnykh Soedinenii (6) (1990) 826-7 13- K. Himeno, H. Honda, (E,Z)- and (E,E)-10,12- hexadecadienals, major components of femelle sex pheromone of the cotton leaf-roller Notarcha derogata (Fabricius) (Lepidoptera : Pyralidae), Applied Entomology and Zoology (4) 27 (1992) 507-15 14- M. Toki, M. Kondo, M. Maeda, Cosmetics, bath preparations, and detergents containing plant-derived moisturizers, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2000143488 (2000) 22 tr. 15- Y. Fukagawa, H. Kouzai, Y. Kozai, Physicochemical properties of the Firmiana platanifolia mucilages, Nippon Kagaku, Kaishi (3) (2002) 415-9 16- C.H. Cho, Skin improving composition, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2002070566 (2002) 17- U.S. Park, Production of hair tonic for pirpose of promotion of hair growth, prevention of depilation and cleaning of scalp, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2002084718 (2002) 18- S.I. Jeong, Topical compositions for promoting hair growth and preventing hair loss, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2003070686 (2003) 19- H.G. Park, Skin care cosmetics containing Firmiana simplex, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2003008479 (2003) 20- Z. Lan, A medicated wine for treatment of poliosis, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1616028 (2005) 21- Z. Lan, A medicated tea effective in treating premature gray hair, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1634549 (2005) 22- L. Chen, A nutritious liquid for children and its preparation method, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 20060419 (2006) 23- Y. Zang, F. Yu, Miso medicine (syrup) for treating children bronchial asthma and bronchitis and its preparation , Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1785388 (2006) 4 tr. 24- Z. Zhang, A chinese medicinal composition for relieving cough and its preparation method, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1788756 (2006) 25- J. Cheng, G. Cheng, Method for manufacturing plant leaf cigarettes containing trace elements and bee products, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1817251 (2006) 12 tr. 26- P. Zhang, Chinese medicinal composition for treating cough with asthma and acute bonchitis caused by common cold, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1823961 (2006)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 15:20:30 GMT 9
55- Răng đen hột huyềnVõ Quang Yến Răng đen ai nhớ cho mình Để duyên mình thắm, để tình ra say Ca daoBác sĩ Hocquard kể chuyện vào cuối thế kỷ 19, một vị quan ta được mời dự một dạ hội tại dinh Thống sứ Pháp ở Sài Gòn. Thấy vị quan mãi ngắm quan khách khiêu vũ, một sĩ quan Pháp lại thì thầm hỏi ý kiến ông ta về các phụ nữ Pháp. Vị quan thành thật trả lời: "Các bà đẹp lắm, có điều răng các bà giống như răng chó!" (1). Ý ông muốn nói răng các bà quá trắng. Lẽ tất nhiên, viên sĩ quan Pháp rất ngạc nhiên nhưng ông ta không hiểu đuợc một người Việt hồi đó không thể hình dung một người đẹp mà không có hàm răng đen lánh đã được hằng bao thế hệ văn, thi, họa sĩ ca tụng. Nhớ hàng tre thẳng đọt măng Nhớ cô con gái hàm răng đen huyền Phong tục nhuộm răng, xâm mình khởi đầu từ thuở thượng cổ xa xăm, truyền thuyết đặt vào thời đại Hùng Vương. Nếu thói xăm mình về sau được bỏ, tục nhuộm răng thành công tồn tại qua nhiều thời buổi, ngay cả lúc quân đô hộ Trung Quốc bắt dân ta bãi bỏ. Nhưng tục nhuộm răng cũng như tục búi tóc không chống cự lại đuợc ảnh hưởng Tây phương và chỉ hơn một nữa thế kỷ là dần dần các cụ chịu cắt tóc, các bà cạo răng trắng (3a). Nghe nói những cô giáo là những người đầu tiên không muốn giữ răng đen nữa nên phải sáng đi sớm, chiều về muộn, luôn phải tìm cách lẫn tránh cha mẹ còn cho đàn bà con gái có răng trắng là không đứng đắn. Khiếu thẩm mỹ của một nhà tân học như Phạm Quỳnh cũng còn huớng về răng đen. Ông ghi trong nhật ký trong chuyến sang Pháp năm 1909: "Người Tây bình phẩm đàn bà An Nam có thói nhuộm răng đen thường nói rằng: Trông miệng người đàn bà An Nam tối om như cái hố sâu. Người Tây có lẽ lấy thế làm xấu thật, nhưng ta lại cho thế là đẹp. Có cô con gái nào nhuộm răng khéo, đen nhánh như hạt huyền, thì tựa hồ như có duyên thêm lên. Tôi xin thú thật rằng, tôi không thể trông được một người đàn bà An Nam để răng trắng, dẫu đẹp mười mươi mà xem bộ răng đủ chán ngắt rồi. Vì người đẹp là người nào ? Là một người hệt với hình ảnh một ý trung nhân của mình. Kẻ ý trung nhân của người An Nam ta là một người đàn bà da trắng, tóc dài, hình dáng yểu điệu… mà phải có bộ răng đen nhay nháy mới được. Nếu răng trắng thì hỏng toẹt, không hệt với người trong mộng nữa" (3b). May mà các bác lính thợ tùng chinh sang Mẫu quốc còn giữ răng đen. Nghe nói lính ta nhỏ con, thường bị quân Maroc, Sénégal cao to hành hung, áp bức. Một sĩ quan Pháp, để tránh lôi thôi, phiền nhiễu, bèn phao tin đồn mà ông bịa đặt: những người có răng đen ăn thịt người! Từ đấy lính thợ ta được yên thân… Tôi còn nhớ hồi nhỏ, mỗi khi mẹ tôi hay chị tôi nhuộm răng là cả nhà rộn rịp vì các bà tự nhuộm lấy, không qua tay các thầy nhuộm như ở các gia đình quan lại, ông hoàng bà chúa, cung tần mỹ nữ,… Những người ngoại quốc, ngay cả bây giờ, thường tin ăn trầu thì có răng đen. Họ không dè muốn có hàm răng đen đẹp phải mất biết bao công phu, chịu đựng, chuẩn bị kỹ càng, chế biến chất thuốc, kiên nhẫn nhuộm răng rồi sau đó còn phải săn sóc, bảo dưỡng cho lớp sơn luôn được láng bóng. Nhuộm răng cũng như sơn mài, trước cần phải có một mặt nền sạch sẽ. Thường trong luôn hai, ba ngày, các bà phải đánh răng, xỉa răng với vỏ cau khô hay than bột trộn với muối sống hầm chín, nhai chanh lát, rồi súc miệng với rượu trắng pha nước chanh. Các bà không biết nhưng từng trải qua kinh nghiệm, đã tìm ra trong chanh citric acid là một acid nhẹ có khả năng đánh gỉ, chùi sạch men răng. Tuy nhẹ, acid cũng tác dụng ít nhiều lên môi, lưỡi, nếu răng,…gây nhức đau tưởng như hai hàm răng lung lay, rụng được. Trong giai đoạn chuẩn bị nầy cũng như các giai đoạn sau, các bà không được nhai đồ ăn dai, cứng như thịt mà phải nuốt trửng cho nên thường người ta cho ăn bún trộn mỡ heo hay ăn cháo và trái chua, uống nước nóng. Kỹ thuật nhuộm răng nhiều đợt Nhuộm răng có nhiều phương pháp, tùy theo từng vùng. Ở miền Trung, nhất là ở Huế, nơi có nhiều vua chúa, quan lại, ăn chơi lịch sự, liều thuốc rất nhiều, lắm khi gia truyền cần giữ bí mật (2). Nói giản tiện, thường răng đuợc nhuộm làm hai đợt. Đợt đầu xem như là lớp sơn lót, nhuộm với một hỗn hợp cánh kiến, nước chanh vắt, rượu trắng, cho nấu thành hồ, phết lên lá chuối hay lá dừa, lá cau, có khi lên vải thô hay lụa, rồi cho áp vào răng, nhiều lần trong một đêm, cho đến lúc răng nhuốm màu cánh gián, giữa đỏ và nâu đậm như màu cánh con gián. Sáng hôm sau phải cẩn thận lột lá hay vải ra, súc miệng với nước mắm hảo hạng hay nước dưa chua để loại trừ mọi căn bả. Bây giờ có thể qua đợt thứ nhì, nhuộm với một hỗn hợp hắc phàn, thanh phàn, bầu bí, lựu bì, quế chỉ, đại hồi, đinh hương được nấu nóng, trộn với gạo nếp và rượu trắng rồi cũng cho áp lên răng nhiều lần, nhiều ngày cho đến lúc răng trở thành đen huyền. Lần nầy cũng lại phải súc miệng kỹ càng như sau đợt đầu để thải bỏ chất nhuộm dư thừa. Và sau nhiều ngày phải tránh nhai nhiều, nhai mạnh để khỏi làm tróc lớp sơn đang còn non, mềm. Răng nhuộm xong còn cần phải chiếc để củng cố lớp sơn. Thường người ta dùng một lớp nhựa chảy ra từ một sọ dừa đốt cháy đặt trên một cái rựa sắt, đem bôi thành một lớp lên trên răng. Ở Huế, hai liều thuốc xỉa có tiếng để chiếc là cố xỉ tán và cố xỉ cao (2). Cố xí tán gồm có thanh phàn, hắc phàn, ngũ bội, cam thảo, bình lang, tế tân, bạch chỉ, tam lăng, nhũ hương, nghiền thành bột rồi dùng que tăm đập nát một đầu để tô lên răng. Cố xí cao gồm có những chất vừa kể, thêm vào sinh địa, tật lê, cánh kiến, một dược, đương qui nấu trong nước sôi, cô lại thành cao trước khi dùng. Hắc phàn, thanh phàn là những sulfat sắt và đồng có nhiệm vụ ổn định chất sơn. Bầu bí hay ngũ bội, (hay ngũ bội tử, là túi con sâu Schlechtendalia sinensis Bell trên cây muối hay diêm phu mộc Rhus semialata Murray), lựu bì (tức là vỏ cây Punica granatum L. đem lại tannin có tính chất làm xẩm màu lá hái như chè, thuốc lá, cà phê, chống oxi nên bảo quản gỗ được lâu ngày và nhất là tác dụng lên da, gây tê, cầm máu, giải độc, kháng sinh). Còn những chất quế chi (cây Cinnamomum loureirii Nees hay C. zeylanicum Nees, chữa cảm mạo, tê mỏi), đinh hương (cây Syzygium aromaticum (L.) Merr. et Perry., chữa cam răng, đau bụng), cam thảo (thân rễ cây Glycyrrhiza uralensis Fish. hay G. glabra L., chữa ho hen, loét dạ dày), bình lang (trái cây cau Areca catechu L., chữa giun sán, viêm ruột lỵ), tế tân (cây Asarum sieboldii Miq., chữa đau răng, cảm lạnh), bạch chỉ (rễ cây Angelica dahurica Benth. et Hook., chữa lở mồm, hôi miệng), nhũ hương (nhựa cây Pisticia lenticus L., chữa đau sưng, tiêu nhọt), sinh địa (thân rễ cây Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Lobosh, chữa đau răng, chóng mặt, ho khan, bệnh lao), tật lê (trái cây Tribulus terrestris L., chữa đau mắt, kinh nguyệt không đều), một dược (nhựa cây Commiphora momol Engler, thuốc điều kinh, giảm đau, tiêu thủy), đương qui (cây Angelica sinensis (Oliv.) Diels, chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược), đại hồi (trái cây Illicium verum Hook., thuốc trung tiện, giúp tiêu hóa), ngoài tính chất dược liệu, là những chất thơm cống hiến hương vị cho liều thuốc nhuộm. Được bảo vệ cẩn thận, răng nhuộm có thể tồn tại mươi, hai mươi năm, màu đen huyền luôn lóng lánh giữa hai đôi môi, không thì những lớp sơn tróc ra, những vết vàng lạt hiện lên răng gọi là răng cải mả, phải nhuộm lại. Trái lại, từ răng đen muốn trở lại trắng cũng không phải dễ vì những phương pháp dùng acid mạnh hay mài răng đều không thích hợp, có thể làm hư răng. Ngày nay người trẻ tuổi khó lòng cảm xúc trước một nụ cười với hai hàm răng đen. Nhưng nhuộm răng không phải chỉ là một vấn đề mỹ quan mà còn có một lý do thực dụng : từ lâu người ta đã nhận thấy răng nhuộm đen ít bị sâu răng. Vì vậy có vài luận án nha y quan tâm đến đề tài nhuộm răng. Ngoài công trình của bác sĩ Vũ Ngọc Huỳnh ở Hà Nội (4), trong số những luận án tồn trữ ở Trường Đại học Nha y Paris, phần lớn các tác giả cốt yếu chú trọng đến phong cách, tập quán nhuộm răng (7). Hai bác sĩ Phùng Thị Cúc (sau nầy trở thành nhà điêu khắc có tiếng Điềm Phùng Thị) và phu quân Bửu Điềm (thầy cũ Anh văn của tôi ở Trường Trung học Khải Định) (cả hai đều đã mất) thì dựa lên công tác của nhóm Nguyễn Dương Hồng ở Hà Nội để đề nghị dùng nhựa sơn trong việc phòng ngừa bệnh sâu răng (5). Nhưng đi sâu vào khoa học nhiều nhất có lẽ là luận án của bác sĩ Trần Văn Phú, dùng nhựa sơn để lấp bít những khoảng trống tí hon trong răng (6). Thì ra, ông cha ta xử lý rất khoa học. Trước hết, như đã thấy, muốn thuốc dính chặt vào men răng, cần phải gây một mặt răng sần sùi. Vì men răng không xốp, một dung dịch acid yếu như citric acid trong chanh đủ để mài mà không đào những lỗ quá sâu làm hư men răng. Bên phần nhựa sơn cũng cần một trạng thái dễ trải với những hột sơn kích thước hiển vi có thể lọt vào bất cứ khoảng trống ở nào. Với một đường kính 17-20 angstrom, hột sơn nhỏ hơn một con trùng như streptocoque đến 250-500 lần, dễ dàng trám hết mọi lỗ hết còn chỗ cho vi trùng. Bọ cái phát tiết sáp nhựa Từ lâu người ra đã biết cây sơn Rhus vernicifera sp. hay R. succedana L., thuộc họ Xoài Anacardiaceae, có nhựa nhưng không dùng được trong miệng vì chất laccol rất độc. Nhựa trong thuốc nhuộm răng được lấy ra từ một côn trùng cánh nửa hemiptere tí hon (0,60-0,70mm) sống ký sinh từng tập đoàn từ 80-100 con (ở Việt Nam trung bình 170 con) trên thân, cành nhiều loại cây ở Đông Nam Á. Con sâu nầy tùy tác giả được gọi Tachardia lacca R. Bld., Carteria lacca Sign. hay Coccus laccae Kerr, trước khi mang tên thông dụng ngày nay Laccifer lacca Kerr, thuộc họ Sâu cánh kiến Lacciferidae thingyerell. Tachardia, Carteria từ Tachard (1709), Carter (1861) là tên những nhà khoa học đã khảo cứu và miêu tả nhựa sâu như Kerr (1781), Roxbary (1796). Lacci nguồn gốc từ tiếng Ấn Độ lakh hay Phạn tự laksha nghĩa là trăm ngàn vì số lượng sâu trên cây nhiều vô kể, từ đấy phát xuất những danh từ Âu Mỹ lak, lac, laque. Sâu chọn làm giống được buộc vào cây, có thể cho vào sọt tre nhỏ hay túi lưới rồi mắc lên cành, ở chỗ phân nhánh để sâu bò sang nhiều cành. Sâu hút nhựa cây mà sống, trưởng thành lớn lên thành bọ mới phân hóa đực, cái. Cả hai loại (hai phần ba là cái) cùng nhau làm tổ trong vỏ cành cây, tổ loại đực hình thoi, mỏng và nhỏ, tổ loại cái hình tròn, lớn hơn. Bọ đực thoát xác, mọc chân, mọc cánh, có thể di động được để đến với bọ cái. Trong lúc đó bọ cái nằm yên trong tổ, chỉ lòi bộ phận sinh dục ra ngoài để giao cấu. Làm xong nhiệm vụ, bọ đực kiệt lức chết đi, hy sinh cho giống nòi. Bọ cái có chửa, phồng lớn, cho phát tiết sắc tố và và sáp, nhựa để nuôi nấng và bảo vệ bầy con sắp đẻ. Mỗi bọ cái có thể mang đến một ngàn trứng (ở Việt Nam, trung bình từ ba đến bốn trăm trứng) hình bầu dục nhỏ, dài, chen lấn trong một túi dung dịch nhuộm màu đỏ son rất đẹp. Ấu trùng từ trứng nở ra, ăn sắc tố mà lớn lên làm dung dịch đặc lại, khô dần. Oái ăm thay, sâu càng trưởng thành thì tổ mẹ càng chật ra, bọ cái dần dần bị ngạt chết, cũng hy sinh cho giống nòi như bọ đực, sâu con không chịu đựng được nữa, luồng qua xác mẹ để thoát ra ngoài, bắt đầu một chu kỳ khác. Mỗi năm có hai chu kỳ. Những bọ đực mùa đông nhờ có cánh có thể bay qua thụ tinh những bọ cái ở các cành xa. Theo nguyên tắc, mỗi năm có thể lấy nhựa hai lần, song ở Việt Nam vì khí hậu ít ôn hoà nên chỉ thực hiện được một lần. Ở Mộc Châu, thả 5kg giống trên cây vải, nhựa thu hoạch được là 200 kg. Còn sắc tố cấu tạo trong tổ cho sâu con có thể thu hoạch cùng lúc với nhựa, nhiều khi trước khi trứng nở nhưng như vậy thì mất đi một lứa sâu mới (ĐTL). Bản chất của các cây trú sâu có ảnh huởng rất lớn lên nhựa sơn. Chúng phải mọc ở những vùng không quá nóng, không quá lạnh, cần ẩm ướt nhưng đừng mưa quá nhiều. Ấn Độ là nước sản xuất nhựa nhiều nhất trên thế giới, khoảng 50.000 tấn mỗi năm, xuất cảng qua Hoa Kỳ, Nam Dương, Gia Nã Đại, Đức, Nhật, Pháp, Nga,… Bên nước ấy, nhựa sơn hảo hạng được lấy từ những cây kusum Schleichera trijuga Willd., dhak Butea frondosa Roxb., arhar Cajanus indicus Sprengl hay C. cajan (L.) Mills. Ở Việt Nam, cây trú sâu mọc trong khoảng cao độ 400-700m. Ta cũng có cây kusum gọi là dầu trường hay cọ phèn (lúc trước dầu dùng để gội dầu, nhân hạnh thế đào lạc trong bánh trái), cây dhak gọi là giêng giêng (vỏ cây tán với gừng để đắp lên vết rắn hay bò cạp cắn), cây arhar gọi là cây đậu thiều hay đậu săng (cây thường được dùng để chữa đau xương mỏi chắc). Ngoài ra sâu nhựa cũng an bám trên các cây chưng bầu Combretum quadrangulare Kurz (trái và vỏ cây được dùng làm thuốc trừ giun), dầu dầu Schleichera oleosa (Lour.) Oken., bồ đề Ficus religiosa L., sen cát Shorea cochinchinensis Pierre, lá ngón Pterocarya tonkinensis Dode, ba chế Desmodium cephalotes Wall., hay một số cây ăn quả như vải Litchi sinensis Radk., táo Ziziphus mauritiana Lamk., nhãn Euphoria longan (Lour.) Steud.,… Nhựa sơn bên ta tùy theo địa phương được gọi cánh kiến (hay cánh kiến đỏ), cành kiến, kiền kiến,… nên có sự ngộ nhận : có người cho là cánh con kiến, có người hiểu là cành cây kiến, có người lại tưởng là thân con sâu kiền kiến hay kiến vương,.... Thành phần cấu tạo nhựa sơn Ngày nay trên thị trường người ta phân biệt ba loại nhựa sơn: nhựa thô lấy từ thân, cành cây ra còn chứa tạp chất như vỏ cây, lá cây, sâu non, xác bọ, đậm màu, gọi là sticklac tức là nhựa thỏi. Dùng nước chiết xuất để đào thải sắc tố, đem phơi khô, giã nát rồi rửa lọc các tạp chất thì được nhựa màu đỏ vàng, còn chứa chút ít sáp, gọi là seedlac tức là nhựa hột. Lại tiếp tục rửa nước, làm ròng, lọc sạch, có khi tẩy trắng với một dung dịch alcali hypochlorit (11) thì nhựa tinh khiết màu vàng lạt mang tên shellac tức là nhựa vẩy. Làm lớp sơn lót trong giai đoạn nhuộm thứ nhất, nhựa sơn đóng vai trò chủ chốt vì trực tiếp kết dính men răng. Tuy được chú ý từ những thế kỷ 18, 19, nhựa sơn chỉ bắt đầu được khảo cứu tường tận từ đầu thế kỷ 20 rồi bật tung vào những thập niên 70, 80. Chính vào những năm nầy mà nảy nở những luận án nha y đề cập đến vấn đề dùng nhựa sơn để nhuộm răng (4-7) . Khi khảo sát seedlac của cây palas, nhóm Mhaskar-Sukh Dev (18) dùng ethanol pha nước khử sáp rồi lấy ether làm kết tủa "nhựa cứng" tách nó ra khỏi phần "nhựa mềm". Phần "nhựa cứng" còn gọi "nhựa ròng", chiếm 70% tổng số nhựa cây, được đem phân tích qua các phương pháp sắc ký lớp mỏng và giấy (18de). 12 acid đã được xác định (18d) : butolic (14b,18b,20) , aleuritic (12ab,13,18b), jalaric (18ab), shellolic (10,12a,24), epishellolic (18ab,24a), laksholic (18b), epilaksholic (18b), laccijalaric (18c), laccishellolic (18c), epilaccishellolic (18c), laccilaksholic (18d) và epilaccilaksholic (18d) acid cùng 18 amin acid (22). Nếu những tên shellolic, lacksholic, laccishellolic, laccilaksholic acid dĩ nhiên từ shellac, lakh mà ra, những tên butolic, jalaric acid lấy gốc từ những tên cây trú sâu Butea monosperma Lamk., jalari Shorea talura Roxb. Hai aleuric và butolic acid là những phân tử dài, mở, những acid khác đều là những dẫn xuất của một vòng terpen. Bên cạnh các acid nầy, nhóm Gardner (12) còn chiết xuất ra được những kerrolic acid (12d), laccolic lacton (12cd), periolic acid (12c). Còn hai hóa chất quan trọng trong nhựa sơn là hai sắc tố màu vàng erythrolaccin (23) và màu đỏ laccaic acid (8ab,15,23b). Cấu tạo cả hai có đồng sườn anthraquinon mang ba hoặc bốn nhóm hydroxy ; laccaic acid có thêm hai nhóm acid và một nhóm keton. Sắc tố nầy được khai thác trong thực phẩm (15), mỹ nghệ (19). Vải bô nhuộm với sắc tố nhựa sơn có khả năng khử trùng chống Escherichia coli, Bacillus subtilis, Klebsiella pneumoniae, Proteus vulgaris, Pseudomonas aeruginosa (21).Gần đây cây đậu săng Cajanus cajan (L.) Mills được khảo cứu tường tận hơn. Lá cây chứa một số hóa chất như vitexin, salicylic acid, henritriacontan, laccerol, longistylin, pinostrobin, sitosterol, amyrin,… (9). Mục đích các nhà khảo cứu là tìm một cây trú sâu cống hiến đủ điều kiện để có nhựa sơn tốt (17). Theo đông y, nhựa sơn có tác dụng làm thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, cầm máu, đậu chẩn, tuy vậy ít được dùng làm thuốc. Sách xưa có nói đến chống thổ tả, trừ nôn mửa, tiêu chảy. Shellac phát triển nhiều hơn trong mặt kỹ nghệ. Được nói nhiều nhất là nguyên liệu để làm dĩa hát, bắt đầu với những dĩa 78 vòng mà phần lớn chúng ta đều biết cách đây một nửa thế kỷ, ngày nay khó chóng chỏi với nhựa nhân tạo. Nhựa sơn là một chất chịu acid, cách điện, chống tia cực tím, còn được dùng để làm vec ni, mực in, thuốc xức tóc, khuôn răng giả, bao chống ẩm, tô nón nỉ, đánh bóng sàn nhà, đồ gỗ, tre, vải, da,… (ĐTL). Ngày nay, nha y dùng nhiều nhựa nhân tạo để lấp bít các lỗ hổng trong răng. Những nha sĩ tôi gặp không có ai chịu hưóng về nhựa sơn dù là một hóa chất thiên nhiên có nhiều tính chất tốt về sức kết dính, độ thấm nước (rất cần để xử lý trong miệng luôn có nước miếng), thêm vào một kích thước khá nhỏ để dành chỗ các enzym, vi khuẩn có thể làm hư răng. Ngành nha y ta có nên chăng tiếp tục khảo cứu (4,5) để dùng trong công cuộc phòng ngừa bệnh sâu răng? Nhựa sơn tẩy trằng có thể là một thuốc nhuộm răng trắng, bảo vệ men răng. Thông tin Khoa học và Công nghệ 4 1997, vietsciences 04.2006 Tham khảo 1- Dr Hocquard, Une campagne au Tonkin, Hachette, Paris (1882); Arlea, Paris in lại (1999) 122 2- A. Sallet, Les laquages des dents et les tinctures dentaires chez les Annamites, Bull. Amis Vieux Hué (4) 15 (1928) 223 3a- Nguyễn Văn Ký, La société vietnamienne face à la modernité, l'Harmattan, Paris (1995) 231 3b- Phạm Tôn, Phạm Quỳnh - Người nặng lòng với nhà, Nghiên cứu và Phát triển, Huế 3 (56) (2006) 75 Vài luận án nha y vế nhuộm răng 4- Vũ Ngọc Quỳnh, Le laquage des dents en Indochine, Hà Nội 1937 5- Bửu Điềm, Phùng Thị Cúc, Le laquage des dents au Vietnam. Le shellac en dentisterie préventive, Paris 1973 6- Trần Văn Phú, La résine gomme laque. Orientation des recherches vers son emploi dans l'obturation des micro-espaces des dents, Paris 1975 7- Tô Huệ Mỹ (bà Lê Văn Lý), Le laquage des dents. Contribution à l'étude des mœurs et coutumes de l'ancien Viet Nam, Paris 1973; Trân Thị Phùng Giao (bà Hồ Võ Tuân), Réflexions sur le laquage des dents au Vietnam, Toulouse 1978; Claude Bosq, Noircissement des dents en Asie orientale, Paris 1982; Cyril Bourgaux, Pratiques traditionnelles, culturelles et rituelles intéressant les tissus durs et mous de la cavité buccale en Asie et Océanie tropicales, Bordeaux 1989 Nhựa sơn 8- Nhóm Burwood: a) R. Burwood, G. Read, K. Schofiels, D.E. Wright, J. Chem. Soc. (1965) 6067-73; b) id. (1967) 842-54 9- D. Chen, H. Li, H. Lin, Zhongcaoyao (10) 16 (1985) 2-7 10- Nhóm Cookson-Morisson: a) R.C. Cookson, N. Lewin, A. Morisson, Tetrahedron 18 (1962) 547-58 ; b) R.C. Cookson, A. Melera, A. Morisson, id. 1321-3 11- M.O. Faruq, M.I.H. Khan, M.M. Alam, M.Z. Haque, M.A. Rahman, Bangladesh J. Sci. Ind. Res.(3-4) 27 (1992) 134-40 12- Nhóm Gardner: a) B.B. Schaeffer, Wm.H. Gardner, Ind. Eng. Chem. 30 (1938) 333-6 ; b) B.B. Schaeffer, H. Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 451; c) H. Weingerger, Wm.H. Gardner, id. 454-8 ; d) Wm.H. Gardner, Official Digest Federation Paint and Varnish Production Clubs (1938) 473-8 ; e) P.M. Kirk, P.E. Epoeri, Wm.H. Gardner, J. Amer. Chem. Soc. 63 (1941) 1243-6 13- B.S. Gidvani, J. Chem. Soc. (1944) 306 14- Nhóm Gunstone: a) W. Caruthers, J.W. Cook, N.A. Glen, F.D. Gunstone, J. Chem. Soc.(1961) 5251-4; b) W.W. Chritie, F.D. Gunstone, H.G. Prentice, id. (1963) 5768-71 15- K. Harada, R. Higuchi, A. Ohwa, T. Ohtsubo, Japan 75 13,298 (1975) 3 tr. 16- M.G. Hussain, M.H. Ali, M.M. Ali, F.K.N. Chowdhury, J. Acad.Sci. (2) 11 (1987) 231-2 17- F. Liu, P. Yi, S.Li, Linye Kexue (1) 24 (1988) 106-12 18- Nhóm Mhaskar-Sukh Dev: a) M.S. Wadia, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, Tetr. Letters (8) (1963) 513; b) M.S. Wadia, R.G. Khurana, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, Tetrahedron 25 (1969) 3841-54; c) A.N. Singh, A.B. Upadhye, M.S. Wadia, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 3855-67; d) R.G. Khurana, A.N. Singh, A.B. Upadhye, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 26 (1970) 4167-75; e) A.B. Upadhye, V.V. Mhaskar, Sukh Dev, id. 4177-87 19- M. Matsumoto, Y. Yehara, Japan Kokai 78 29,965 (1978) 2 tr. 20- Nhóm Sen Gupt: a) S.C. Sen Gupta, P.K. Bose, J. Sci. Ind. Res.11B (1952) 458-61; b) S.C. Sen Gupta, id. 18B (1959) 210-2 21- R. Singh, A. Jain, S. Panwar, D. Gupta, S.K. Deepti, Dyes and Pigments (2) 66 (2005) 99-102 22- P.N. Srivastava, R.K. Varshney, Entom.Exp. Appl.(2) 9 (1966) 209-12 23- Nhóm Venkataraman: a) N.S. Bhide, A.V. Rama Rao, K. Venkataraman, Tetr. Letters (1) (1965) 33-5; b) E.D. Pandhare, A.V. Rama Rao, R. Srinivasan, K. Venkataraman, Tetrahedron Suppl. (1) 8 (1966) 229-39 24- Nhóm Yates: a) P. Yates, J. Amer. Chem. Soc. 82 (1960) 5764-5; b) P. Yates, A.C. Mackay, L.M. Pande, M. Amin, Chem. Ind. (1964) 1991; c) P. Yates, G.F. Field, Tetrahedron 26 (1970) 3135-58 ; d) P. Yat'es, P.M. Burke, G.F. Field, id. 3159-70
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 15:23:31 GMT 9
Võ Quang Yến CÂY NHÀ LÁ VƯỜN Cây thuốc và vị thuốc - Tập 3 - 24 - Bèo hoa dâu, chất phân xanh Ghét cụm bèo trôi che bóng nước, Giận chùm mây nối khuất vành trăng. Ưng Bình Thúc Giạ ThịTục truyền vào thế kỷ XII, thời nhà Lý, sư ông Khổng Minh Không một hôm gánh bèo dâu đi ngang qua sông Hồng vô ý đánh rơi mấy bó. Những dân quanh vùng, ở các làng Búng, Bích Du, La Vân, tỉnh Thái Bình, ngày nay được xem như là "quê hương" bèo dâu, lượm về đem trồng làm phân bón ruộng, kết quả vô cùng mỹ mãn. Nhớ ơn nhà sư, từ thế kỷ XVII họ lập đền thờ phụng, ngày nay ở làng La Vân vẫn còn (7). Họ còn bán bèo qua các làng lân cận. Thấy vậy nhiều làng khác cũng muốn sản xuất nhưng không làm được. Có người nông dân cuốc bộ hơn trăm cây số để mua cho được một bó. Chủ nhân một nguồn lợi tức đem lại khá nhiều tiền, dân các làng may mắn nầy kiếm đủ mọi cách để giữ độc quyền. Các cô gái làng khác về làm dâu phải thề không tiết lộ cho bất cứ ai biết bí mật nuôi trồng. Còn các cô gái trong làng, nay mai sẽ đi làm dâu làng khác, thì không được phép biết một chút gì về kỹ thuật sản xuất. Hơn nữa, để tránh mọi hớ hên, hở chuyện, họ còn đặt bày ra một thần bèo rất nghiêm khắc, có quyền lực vật chết bất cứ ai tiết lộ bí mật nuôi trồng bèo (5). Tuy nhiên, bí mật có giữ kín bao nhiêu rồi cũng có ngày bị phát giác. Câu chuyện bắt đầu với một sinh viên nông học trẻ tuổi, anh Nguyễn Công Tiễu, quê người Hưng Yên, cạnh Thái Bình. Năm 1921, anh lấy bèo dâu làm đề tài khảo cứu. Mất nhiều công của, thì giờ, cuối cùng anh biết được nguyên tắc phân bón của bèo dâu và qua năm 1929, đem trình bày kết quả ở Hội nghị Khoa học lần thứ 4 vùng Thái Bình Dương ở Java. Hơn nữa, như là phần thưởng dành cho người có chí, một nông dân làng La Vân, nơi có tiếng giữ gìn kín đáo bí mật nhất, lại kể cho anh nghe những chi tiết kỹ thuật nuôi trồng bèo dâu. Anh liền cho đăng ngay trên báo Khoa học (số 32,1932). Sách báo của nhà khoa học Nguyễn Công Tiễu (1) trên những đề tài dân dụng như dầu cà cuống, bèo hoa dâu ngày nay đã được phổ biến (5). Cộng sinh bèo dâu-rong lam Qua Nguyễn Công Tiễu, người ta biết được bèo dâu làm phân bón ruộng tốt nhờ khả năng cố định chất đạm N2 mà tính chất nầy lại do một vi khuẩn sống cộng sinh với nó thực hiện. Cộng sinh (symbiose, ghép hai danh từ Hy Lạp sun : với, bios : sống) là trạng thái hai sinh vật khác loại sống kết hợp chặt chẽ và thăng bằng với nhau để đôi bên đều có lợi. Trong trường hợp nầy, rong đem lại chất đạm cho bèo, trái lại bèo cung cấp chất dinh dưỡng nhu glucid cho rong. Nhỏ li ti, trông giống hoa cây dâu, lá kết với nhau trên mặt nước thành hình tam giác, bèo hoa dâu hay bèo dâu Azolla pinnata R. Brown gồm có hai chi A. pinnata imbricata và A. pinnata pinnata. Thuộc họ Bèo tai chuột Salviniaceae (Tự điển Larousse) hay họ Bèo dâu Azollaceae (theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ), nó là loại bèo được khảo cứu nhiều nhất trong những Azolla được biết : A. africana, A. anabaena, A. caroliniana, A. filiculoides, A. imbricata, A. japonica, A. mexicana, A. mycrophylla, A. nilotica, A. rubra. Công lao của bèo là mang trong cục bướu ở rễ một loại rong lam (algue bleu-vert) nửa vi khuẩn nửa thực vật, gọi là Anabaena azollae Strasb., vi khuẩn vì cấu trúc, thực vật vì có khả năng quang học tổng hợp. Trong số hơn ba chục Anabaena thường được miêu tả, A. variabilis là loại được khảo cứu tường tận nhất. Rong lam có khả năng cố định đạm khí, chế tạo protein từ khí quyển, quang hợp thán khí CO2 và nước ra glucid. Dưới hình thức những sợi nhỏ, dài, quấn quít nhau, nó là một dãy tế bào cá thể nằm trong một cái bao mỏng, xung quanh bao bọc một lớp chất nhầy. Xen lẫn trong dãy nầy, ở những khoảng cách đồng đều, là những tế bào có bao tương đối dày hơn, gọi là những dị bóng (heterocyste). Chính ở trong các dị bóng nầy mà nhiệm vụ cố định đạm khí được thực hiện. Nhờ những dẫn xuất của cuộc chuyển hóa các glucid như pyruvat, isocitrat, glucose-6-phosphat, .... rong lam có đủ khinh khí H2 để chợp lấy đạm khí N2 ở thể tự do làm thành khí ammoniac NH3 qua các tác dụng của một enzym gọi là nitrogenase. Ở ngay trong dị bóng, khí ammoniac được biến hóa thành glutamin để chuyển qua các tế bào thực vật dưới dạng glutamat và amin acid (6). Một điều đáng chú ý là rong lam không thể nuôi trồng ở thể tự do. Nhiều phòng thí nghiệm đã thành công tách chiết nhiều mẫu từ bèo dâu tán nghiền nhưng không có mẫu nào thực hiện được công cuộc cộng sinh. Giả thuyết được nghĩ đến là mỗi khi ra khỏi môi trường đặc biệt trong lòng bèo dâu, rong lam mất hết những tính chất cộng sinh (9). Nói một cách khác, rong lam chỉ đạt đuợc những tính chất ấy một khi xâm nhập vào lòng bèo dâu. Hai câu hỏi làm bận lòng các nhà khảo cứu : Tại sao những vi khuẩn chỉ cộng sinh với một loại cây nào đó thôi ? Khảo xét cặp Rhizobium-rau đậu, họ nhận ra một tác động qua lại giữa những glycoprotein phát tiết từ các rễ rau đậu và những polysaccharid màng vi khuẩn. Chắc chắn những polysaccharid ở Rhizobium tự do trong chất thừa nhận những glycoprotein ấy (gọi là lectin) tuy người ta chưa biết cơ chế rõ ràng. Hướng khảo cứu những năm gần đây là cặp đôi những vi khuẩn và rau đậu hay cây cối trong thiên nhiên chưa hề cộng sinh với nhau. Câu hỏi thứ nhì là nitrogenase ở Rhizobium chẳng hạn chỉ vận dụng ở môi trường nồng độ dưỡng khí CO2 kém, làm sao có tác động trong bướu ấy là nơi tiêu thụ nhiều dưỡng khi ? Người ta có thể giải thích sự kiện kỳ lạ nầy khi tìm ra được trong bướu một hóa chất có nhiệm vụ đem dưỡng khí lại cho vi khuẩn đồng thời điều hòa dưỡng khí làm sao cho có áp lực nhỏ trong bướu. Vì cấu trúc và nhiệm vụ gần giống huyết bào tố trong máu, người ta gọi nó là leghemoglobin (leg như légumineuse, rau đậu). Cũng mang nguyên tố Fe trong mình như hemoglobin, nó nhuộm bướu màu hồng đỏ, nhưng cấu trúc khác nhau tùy loại rau đậu (8). Cuộc cộng sinh thao diễn theo chu kỳ phát triển bèo dâu và rong lam. Khi lá bèo còn non, ở đỉnh lá đã thấy lơ thơ vài sợi rong tí hon nằm cạnh, chưa có dị bóng. Khi lá bèo lớn dần lên, những hốc nhỏ cũng dần dần được tạo ra trong lá để nắm giữ rong. Trong hốc, một số lông gồm có nhiều tế bào nhỏ, gây nên một sự cọ xát liên gục giữa bèo và rong. Những sợi rong cuốn lại thành cuộn, nhờ một màng chất dính bao bọc bên ngoài, bám vào thành hốc. Dị bóng thành hình, tăng số và lớn lên. Khi lá bèo đến độ trưởng thành, dị bóng đạt 30% (sau cùng có thể lên đến 45%) những tế bào ở sợi. Vào lúc nầy, rong lam chiếm toàn diện tích hốc, nhưng cũng là lúc nó bắt đầu chấm dứt phận sự tổng hợp quang học, không phát triển nữa và bước vào một trạng thái im lìm, bất động cho đến ngày lá bèo vàng úa rơi xuống đáy ruộng, thoái hoá, phân hủy để cống hiến chất đạm cho cây lúa. Trong 20 năm gần đây, giới khoa học chú trọng nhiều đến bèo dâu và rong lam. Về măt cấu trúc, amin acid, protein (23) đã được xác định trong bèo, lectin trong rong, trong bèo. Trong số 18 amin acid tìm thấy, nhiều nhất là glutamic và aspartic acid, theo sau là leucin, ít nhất là methionin, tryptophan và cystein (19). Các amin acid giảm hạ trong bóng tối và môi trường nitrat NO3, tăng gia với ánh sáng và môi trường ammonium NH4. Rong chứa đựng chất sắc phycocyanin (12), allophycocyanin, phycoerythrocyanin (17,22) tương quan với hoạt động cố định chất đạm, caroten một nguồn provitamin A cho đồ ăn gia súc (27). Ngoài ra, bèo biết tổng hợp gibberellin, cytokinin như isopentenyl adenin, isopentenyl adenosine, cis- và trans-ribosyl zeatin, polyphenol, ferredoxin. Người ta biết phân tử ferredoxin mang thêm nguyên tố Mo là một trong hai protein cấu thành nitrogenase. Từ lâu, ngay cả trước lúc người ta hiểu biết cơ chế cố định chất đạm, bèo dâu đã được dùng làm phân bón, nhưng chỉ ở một địa hạt giới hạn là Đông Nam Á, vùng ruộng lúa nước. Bên Trung Quốc, bèo dâu được trồng từ thế kỷ 17, đặc biệt ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông. Ở Việt Nam, người ta phỏng chừng bèo dâu đã có mặt từ nhiều thế kỷ hay lâu hơn nữa nếu tin ở huyền thoại. Thường người nông dân đi lượm bèo hoang ở ruộng, đem về trồng trong các ao sâu không quá 1m, đã dọn sạch từ mùa xuân trước và chứa toàn nước mưa. Các bờ ao phải được cào quét mọi rác rưới, lắm lúc có hàng rào tre chống gió và ánh nắng gao gắt mùa hạ. Mẫu bèo được ươm trong các khuôn tre nhỏ, nới rộng dần theo cuộc sinh trưởng của bèo. Thường bèo được nuôi với phân heo khô, tán bột, trộn với tro rơm. Bèo lớn lên trong lúc người nông dân sửa soạn, cày bừa ruộng. Cấy xong là bèo được thả vào ruộng. Bèo dâu là một loại cây mảnh dẻ, phải thận trọng khi vận dụng để khỏi nát và cũng không nên để khô héo ngoài nước. Không được vứt nó xuống ruộng bừa bãi mà phải nghiêng rổ trong nước rồi lấy tay khẻ quậy cho bèo nhẹ nhàng rời rổ trôi vào ruộng (5). Rong lam cố định chất đạm Có nhiều cách rải bèo nhưng phương pháp chắc chắn nhất là đặt nó ở trung tâm thửa ruộng, xung quanh dựng một cái đê nhỏ làm bằng rạ trộn với đất để bèo khỏi phân tán trước khi bám vào nước. Những đê nhỏ nầy, như khuôn tre truớc đây trong ao, được nới dần theo mức bành trướng của bèo. Ở Hải Dương, năm 1927, 120kg bèo (khoảng 6 triệu cây) phủ kín sau 46 ngày một diện tích lớn gấp 250 lần diện tích lúc đầu là 580 m2. Cuộc nảy nở theo chiều ngang của bèo không quấy rầy chút nào sự phát triển thẳng đứng của cây lúa. Trái lại, khi bao trùm mặt ruộng một lớp dày, bèo ngăn cản nước bốc hơi, đỡ mất công dẫn thủy nhập điền, đồng thời làm trở ngại việc phát triển dòi muỗi cùng các loài tảo có hại, từ đấy đỡ mất công nhặt tảo, diệt trùng. Cũng như ở mọi cuộc nuôi trồng khác, ngoài chuyện bảo vệ lượng nước đầy đủ (rễ bèo phải chạm đáy ruộng nhưng đừng quá nhiều để khỏi vướng vào bùn), nhiệt độ vừa phải (trung bình giữa 16 và 22°), còn cần phải tiêu diệt các loài sâu bọ như muỗi đỏ (chironome), bướm ống (pyrale), .... Ở Thái Bình, vì thiếu những chất diệt trùng như DDT, sau khi rải tro lên mặt bèo, người ta thường dùng lưới cho ngập bèo xuống nước một đêm (5,6). Viện Sinh vật học Tp Hồ Chí Minh kiếm cách dùng vi khuẩn sanh bệnh như Bacillus thuringensis để khử trùng (4). Suốt mùa đông, bèo tiếp tục sinh trưởng. Qua xuân, khi nhiệt độ lớn dần, bèo đổi từ màu xanh qua hồng, xám, đen rồi thối nát, phân tán dưới đáy ruộng thành phân, lúc bông lúa bắt đầu chớm nở. Trung bình, năng suất lúa tăng 53% mỗi ha, 27% nhờ phân chuồng, 26% nhờ bèo dâu. Tính trong một năm, bèo dâu cống hiến 300-350 kg chất đạm / ha (6), hay mỗi ngày gần 1kg chất đạm / ha (2) tương đương với số lượng chất đạm thu lượm được với các rau đậu khác như đậu tằm, đậu răng ngựa. Một ưu điểm của bèo so với phân chuồng là qua vụ sau, lúa còn được hưởng chất đạm còn lại của cuộc cộng sinh. Trong những thập niên 60-70, phong trào làm bèo dâu ở Thái Bình, phục vụ thâm canh năng suất lúa đã phát triển khá mạnh : trên 70% diện tích lúa chiêm xuân, liên tục qua nhiều năm, đều được phủ kín một lượt bèo, 100% riêng ở hai huyện Hưng Hà và Đông Hưng, đặc biệt được phủ hai lượt bèo ở hợp tác xã Vũ Thắng, lá cờ đầu về thâm canh tăng năng suất lúa của tỉnh Thái Bình. Tuy nhiên, theo tác giả bài báo (2) nhận thấy, nhìn chung phong trào sản xuất bèo dâu các tỉnh miền Bắc nước ta tiến triển còn chậm chạp, mặc dù bèo dâu là một giải pháp cần thiết trong vụ sản xuất đông-xuân. Một bài tính dễ chứng minh : tỉnh Thái Bình với 175.000 ha trồng lúa nước, nếu không có bèo dâu thì hằng năm phải dùng ít nhất 2 triệu tấn phân chuồng, tức phải có 2 triệu con lợn mà ở thời điểm nầy chỉ đếm có 4 vạn con ! Trong nhiều chủ trương kỹ thuật đã được đề nghị để đáp ứng những đặc tính sinh vật của bèo dâu, đáng để ý là một lực lượng lao động chuyên môn làm bèo vì thấy rõ bèo dâu làm dễ nhưng không phải ai cũng làm được. Đằng khác, tuy tỉnh Thái Bình hồi đó đã có 9 trại chuyên môn nhân giống bèo ở 7 huyện và 60 trại ở các vùng trong huyện, miền Bắc vẫn thiếu một trại giống, ruộng giống chuyên, lượng lao động chuyên, vật tư - kỹ thuật chuyên phục vụ cho sản xuất bèo nên phong trào làm bèo dâu không khả quan. Môt số kinh nghiệm kỹ thuật cũng đã được tổng kết và nâng cao. Vụ tốt nhất của bèo dâu là tháng giêng, ít sâu bệnh, nhưng cũng là tháng có nhiệt độ thấp nhất, cần áp dụng hai biện pháp để khắc phục tình trạng : "đổ ải đến đâu, thả bèo dâu đến đó", nhờ thế bèo dâu có thể lợi dụng được chất màu dễ tiêu và một nhiệt lượng lớn do đất ải tỏa ra ; dùng tro mộc rắc phủ kín lên mặt bèo trong những ngày có sương muối và gió bấc mạnh để tăng cường chống rét cho bèo (2). Ngoài ra, những thời gian phơi ải, kế hoạch đổ ải, kỹ thuật nuôi bèo cũng đã được học hỏi và áp dụng, góp phần nâng cao diện tích bèo dâu toàn tỉnh. Sau nhiều năm, tiến bộ kỹ thuật nầy có được áp dụng rộng rãi trong cả nước như mong muốn chưa ? Vào lúc vấn đề môi trường sinh thái đang được đặt ra khắp nơi, phải chăng nên nghĩ lại việc dùng bèo dâu làm phân bón thay cho hóa chất. Phân xanh thay thế hóa chất Trên mặt đất, rong lam không phải độc nhất có khả năng cố định đạm khí. Từ lâu, người ta đã biết hàng chục vi khuẩn, nấm tia có tính chất ấy, sống một mình trong đất hay cộng sinh với cây cỏ. Rhizobium là vi khuẩn thuộc loại độc bào kết hợp với các cây rau đậu. Ở đậu nành, vi khuẩn mang tên Rhizobium japonicum. Trong phòng thí nghiệm Sinh hóa hữu cơ và Sinh học công nghệ ở Paris, một thời chúng tôi đã bỏ công thử tổng hợp rhizobitoxin, một chất phytotoxin thiên nhiên hiện diện rất ít trong bướu rẽ cây đậu nành, có khả năng ức chế enzym cystathionase, mở đường dẫn tới những chất kháng sinh, chống nấm, trị ung thư. Bên cạnh Rhizobium, một vi khuẩn khác cũng đã được nói đến là Frankia (8), hình sợi, thuộc loại nấm tia, cộng sinh với những cây có hoa, trong những cục bướu như Rhizoboium. Cách thức xâm nhập phát triển của vi khuẩn nầy ở cây có phần khác hơn chút ít. Bên Rhizobium, tế bào vi khuẩn theo đường dây hình ống xâm nhập vỏ rễ cây, dính vào các mô phân sinh của rễ, biến hoá cả về mặt hình thái lẫn sinh lý thành một hình thể gọi là bacteroid, nơi diễn biến cuộc cố định chất đạm. Với Frankia, vi khuẩn tiến vào vỏ rễ cây dưới hình thức những sợi, có khi cấu tạo thành bọng, túi hình cầu hay hình trứng là hình thể tương đương với bacteroid. Đặc sắc những bướu của Frankia là có thể xuất hiện ở rễ cũng như ở thân, ở các rau đậu như Sesbania rostrata, S. grandiflora (cây so đủa), Pueraria phaseoloides (loại có củ lớn), Aechynomene afraspera phần lớn bên châu Phi, cũng như trên các cây lớn loại phi lao như Casuarina rumphiane, C. curinghaminane bên Senegal, C. esquisetifolia, cây dương bên nước ta. Ông Hoàng Gia Diêm, nghiên cứu sư ở cơ quan khảo cứu vi khuẩn Frankia chiết xuất từ bướu cây C. junghuniane gốc Thái Lan (8). Ngoài ra, các loại Leucaena, Acacia, Prosopsis, .... cũng đã được chú ý đến. Cuộc cộng sinh Frankia - S. rostrata (9) cống hiến chất đạm chỉ kém chút ít cặp A. pinnata - A. azollae, khoảng 50-150 kg / ha một mùa. Bên phần những cây phi lao Casuarina, qua lá rụng thành phân, trồng 3.000 cây / ha, mỗi năm cũng thu lượm được 150-200 kg chất đạm. Chúng còn cống hiến một lợi ích khác là làm màn chắn gió và gắn chặt cồn đồi bị xói mòn. Ở Senegal, nhiều cồn biển đã được cây nầy bảo vệ. Còn bên Trung Quốc, dọc một bờ biển dài 3.000 km, rộng 0,5-5 km, cây trồng đã chiếm một triệu ha cồn cát. Nhiều phòng thí nghiệm, đặc biệt của cơ quan khảo cứu Pháp ORSTOM bên châu Phi đang xúc tiến cuộc khảo cứu về vi khuẩn Frankia (8). Bên phần bèo dâu thì cuộc khảo cứu cũng được mở rộng. Một mặt, các cây Azolla khác được đem thử nghiệm : A. caroliniana, A. filiculoides, A. mexicana,…thường được xem như rau hoang vô dụng, có khi nguy hại, bây giờ được đem ra thử không những với lúa mà còn với nhiều cây khác như những khoai đậu (tarot) bên đạo Hawai chẳng hạn (6). Mặt kia, nguời ta tìm những ứng dụng khác của bèo dâu và rong lam. Vì chứa đựng protein trong lá, bèo dâu là một thức ăn tốt cho cá (24), gà con (11,26), động vật nhai lại (23). Đem ủ kị khí, bèo dâu cống hiến khí methan (21,14). Sinh khí có thể đạt đến 189 l / kg và xác bèo dùng làm phân bón. Trong số kim loại có mặt trong bèo, nếu Fe và Mn không có ảnh hưởng đáng kể, Cd và Ni tăng gia năng suất khí khi nồng độ không quá cao, Pb có tác dụng tai hại lên bèo ủ (28). Những nhà khảo cứu Trung Quốc còn tìm ra vàng Aụ(III) trong nhân rong lam (26). Bèo dâu là một nguyên liệu để sản xuất quang học khinh khí, dưỡng khí và khí ethylen (25). Khinh khí cũng có thể chế tạo từ bèo dâu qua một vi khuẩn tách chiết từ rễ, Rhodopseudomonas, nuôi cấy trong khoai tây (20). Bên phần rong lam, đem cố định trên polyvinyl, polyurethan, hay alginat thì không những ổn định được tác động nitrogenase mà còn tăng cường tốc độ cố định đạm khí, tốc độ sản xuất khinh khí và khí ammoniac (13,15). Rong lam tách chiết từ bèo còn có khả năng kết dính máu nhờ các lectin nhưng tính chất nầy bị trypsin phá hủy và cũng có thể bị fucose, rhamnose, fructose, galactose ức chế. Năm 1980, trong chiếc tàu vũ trụ Soyouz 37, Phạm Tuân, nhà du hành và nghiên cứu Việt Nam đến nay độc nhất, cùng Victor Gorbako, bạn đồng hành Liên Xô, đem ra không gian một mớ bèo hoa dâu trong số nhiều loại thực vật khác đã được chọn lựa như chlorella, spirulin, lúa mì, bắp cải, cà chua,…theo những tiêu chuẩn : có cường độ quang hợp cao để bảo đảm nhu cầu khí của người, có hệ số trao đổ khí phù hợp với hô hấp của người ; có năng suất cao, có khả năng sinh trưởng và sinh sản nhanh ; có khối lượng cơ thể bé để tránh gây mất cân bằng sinh thái lúc bị chết đi, có bộ phận sử dụng làm thức ăn chiếm tỷ lệ lớn ; có thành phần sinh hóa phù hợp với khẩu phần thức ăn của người và không quá phức tạp về mức độ công nghệ chế biến thức ăn ; và có khả năng thích nghi với điều kiện sống trong con tàu vũ trụ, thích hợp với phương pháp trồng trong vũ trụ như trồng trong nước theo phương pháp công nghiệp. Song song với những mục tiêu khoa học, kinh tế, trong ấy tìm cách thực hiện một hệ thống sinh thái hoàn toàn khép kín trong môi trường nhân tạo của con tàu vũ trụ là một điểm quan trọng, đem bèo dâu ra không gian trong tầm mắt các nhà khoa học ta là một dịp thuận lợi để thu lượm các dòng bèo có năng suất cao, cố định đạm tốt, chịu nhiệt độ cao, chống chịu với sâu bệnh. Các nhà khảo cứu Việt Nam chắc đang tiếp tục nghiên cứu về quang hợp, hô hấp, cố định đạm, thành phần sinh hóa môi trường dinh dưỡng, hệ vi sinh vật, siêu cấu trúc dưới kính hiển vi điện tử, .... của bèo dâu (3). Sách, báo đã thấy xuất hiện (14,18). Như vậy ta cùng hòa mình với thế giới đang xúc tiến tìm kiếm những phân xanh thay thế hóa chất trong một phong trào lớn mạnh được mệnh danh "cuộc cách mạng xanh". Thông tin Khoa học và Công nghệ 4(26) 1999, vietsciences 11.2008 Tham khảo 1- Nguyễn Công Tiễu (theo thư tịch của Kim Phan) (5) - Bèo hoa dâu dùng làm phân bón, Imp. Thần Nông Báo, Hà Nội (1930) - Sách làm ruộng, Imp. Tonkinoise, Hà Nội (1928) - Những điều bí mật về bèo hoa dâu, một thứ cây dùng làm phân bón, Imp. Ngô Tử Hạ, Hà Nội (1934) - Khảo cứu về bèo hoa dâu, Khoa Học số 9, 13, 14, 20, 85, 86, 87, 88, 89 - L’azolle cultivée comme engrais verts, Bull. Econ.Indochine , Série B, th.4 (1930) - Conservation de l’azolle en saison chaude, Bull. Econ.Indochine (1934) 1318-20 ; th.1-2(1936) 2- Nguyễn Xuân Tuân, Mấy kinh nghiệm về phát triển bèo dâu, phục vụ thâm canh lúa của tỉnh Thái Bình, Tạp chí Hoạt động Khoa học 9 (1979) 6-7,19 3- Nguyễn Hữu Thước, Thí nghiệm bèo dâu trong vũ trụ, Đoàn Kết trích báo N.D. 8 (1980) 4- V. Labeyrie, Azolla pinnata, Bull.Infor.Doc. AAFV th.6 38 (1981) 11 5- Kim Phan, L’Azolla pinnata, plante miracle des rizières du Vietnam, Biofurur th.5 (1982) 11-17 6- Pernette Langley-Danysz, Recherches sur l’azolla, Biofutur th.5 (1982) 19 7- Đào Thế Tuấn, Un engrais vert : l’azolle, Pour la Science th.3 65 (1984) 22-3 8- Y. Dommergues, B. Dreyfus, Hoang Gia Diem, E. Duhoux, Fixation de l’azota et agriculture tropicale, La Recherche th.1 (16) 162 (1985) 22 9- Catherine Allais, Sesbania rostrata, l’africaine à la conquête du monde, La Recherche th.5 (19) 199 (1988) 672 10- Claudine Franche, Azolla, une orientale plusieurs fois centenaire, La recherche, th.5 (19) 199 (1988) 674 11- B.P.R. Subudhi, P.K. Singh, Nutritive value of the water fern Azolla pinnata for chicks, Poult. Sci. (2) 57 (1978) 378-80 12- J.H. Becking, M. Donze, Pigment distribution and nitrogen fixation in Anabaena azollae, Plant Soil (1-2) 61 (1981) 203-26 13- M. Brouers, D.O. Hall, Hydrogen production, ammoniac production and nitrogen fixation by free and immobilized cyanobacteria, Comm. Eur. Communities [Pep.] EUR 10024, Energy Biomass (1985) 387-92 14- Vu Van Vu, W.F. Sang, Wong Fong, J.W. Kijne, K. Planque, R. Kraayenhof, Effects of temperature, pH and bound nitrogen on photosynthesis and nitrogen fixation of Azolla pinnata (Xanh, Vietnam) and Azolla filiculoides Lam, Photosynthetica (1) 20 (1986) 67-73 15- M. Brouers, D.O. Hall, Ammonia and hydrogen production by immobilized cyanobacteria, J. Biotechn.(5-6) 3 (1986) 307-21 16- L.J. Querubin, P.F. Alcantara, A.O. Princesa, Chemical composition of three Azolla species (A. caroliniana, A. microphyllia, and A. pinnata) and feeding value of azolla meal (A. microphyllia) in boiler ration II. Philipp. Agric. (4A) 69 (1986) 479-90 17- O.D. Bekasova, A.A. Mutuskin, S.V. Zore, Content and structural organization of phycobilin pigments in the nitrogen-fixing of cyanobacterium, Anabaena azolla, Biofizika (2) 33 (1986) 270-4 18- Nguyen Huu Thuoc, Photosynthesis and nitrogen fixation in the Azolla-Anabaena azollae symbosis, Nauka : Moscow, USSR (1988) 152 tr. 19- H. El-A.Weam, A. Khogali, Protein amino acid composition in six species of Azolla, Delta J. Sci. (4) 11 (1987) 2059-69 20- S.P. Singh, S.C. Srivastava, K.D. Pandey, Photoproduction of hydrogen by a non-sulfur bactarium isolated from root zones of water fern Azolla pinnata, Int. J. Hydrogen Energy (6) 15 (1990) 40-6 21- S.A. Abbasi, P.C. Nipaney, G.D. Schaumberg, Bioenergy potental of eight common aquatic weeds, Biol. Wastes (4) 34 (1990) 35-66 22- L.G. Erokhina, Composition and content of phycobiliproteins in the symbiotic nitrogen-fixing cyanobacterium Anabaena azollae from various Azolla fern species, Fiziol. Rast. (4) 38 (1991) 742-53 23- A. Dewanji, Amino acid composition of leaf proteins extracted from some aquatic weeds, J. Agric. Food Chem. (8) 41 (1993) 1232 24- D. Das, K. Sikdar, A.K. Chatterjee, Potential of Azolla pinnata as biogaz generator and as fish-feed, J. Environ. Health (3) 36 (1994) 186-91 25- E. Tel-Or, A. Rozen, E. Bar, H. Arad. Hydrogen photoproduction by Azolla and Anabaena azollae, J. Mar. Biotechnol. (1) 34 (1996) 52-6 26- J. Zhao, D. Shi, Y. Zhang, Bioaccumulation of Au (III) by cyanobacteria Anabaena azollae, Chin. Sci. Bull. (13) 43 (1998) 1119-24 27- A. Lejeune, J. Peng, E. Le Boulenge, Y . Larondelle, C. Van Hove, Carotene content of Azolla ands its variations during drying and storage treatments, Animal Feed Sci. Technol.(3-4) 84 (2000) 295-301 28- A. Arora, A. Pabby, P.K. Singh, Heavy metal accumulation by Azolla spp., Contaminated Soils 8 (2003) 39-47
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 15:26:15 GMT 9
25- Canh chua me đấtCanh rau cũng thể canh rau, Để ai cậy thế ỷ giàu mặc ai. Ca daoTrong bữa cơm của ta, bát canh rau không những ngon miệng mà còn là cần thiết. Mùa hè trời nóng, món canh chua lại càng được chờ đợi, thưởng thức. Trong Nam, thường bạc hà được dùng để thêm vị chua. Ở Huế, me đất là rau vừa dễ tìm vừa đem lại khẩu vị thích hợp. Cũng như mọi nhà nội trợ đảm đang khác, vào mùa xuân cũng như mùa hè, khi gấp gáp, đi ra vườn vài phút là mạ tôi hái đủ lá me để dùng. Cô Hoàng thị Kim Cúc đề nghị món canh cá cơm nấu me đất vào thực đơn mùa xuân : "Cá cơm rửa sạch, xé hai con cá, lấy tay tước xương và đầu vứt đi, rửa lại nước muối cho cá cứng, vớt ra, dầm cá vào hành giã nhỏ, tiêu, nước mắm, ớt trộn lại để đó. Nấu nửa soong nước sôi, đổ cá vào nấu, nếu có tôm xào thêm càng ngon. Sôi vài lần cá chín, nhắc xuống bỏ me đất lặt rửa sạch vào, thêm lá hành ngò xắt nhỏ". Cô cũng chỉ cách nấu me đất với tép : "Đổ mỡ quánh để nóng ; bỏ hành giã nhỏ xào chín, cho tép, ớt, tiêu, muối, nước mắm vào xào. Tép thấm, đổ một bát nước nấu sôi, nếm vừa, nhắc xuống, bỏ me đất lặt rửa sạch vào, trộn me cho chín đều" (1). Ấn tượng bát canh me đất tồn tại lâu dài trong trí óc người Huế sống xa quê. "Chan nước canh me chua vào cơm, bỏ thêm một nhúm rau sống tươi xanh, va vào miệng, chưa chi các hạch nước miếng đều đổ ra, có thể mọi sự phiền não, chán nản trên đời đều tan biết trên bát canh độc đáo đó" (2a). Làm sao quên được cảnh tượng gia đình cả thời tuổi trẻ : "Đứa nào cũng thử chan vào cơm và húp canh. Lũ nhỏ thì chê chua đắng. Tôi lớn hơn mấy tuổi, bắt đầu biết thưởng thức mấy món cay nên thấy hay hay. Chan thêm canh và rắc thêm một ít khuyết lùa cơm vào miệng. Ôi thấm thía ! .... Có lần mẹ tôi đố các con : Xăm xăm cầm búa nhìn quanh Thợ rèn thợ bạc thảy đành ngồi không. Là cây gì ? - Cây me đất (vì mất đe là me đất) " (2b). Me đất thường dùng là chua me đất hoa vàng hay tím lạt, thường gặp ở những nơi ẩm ướt, bờ ruộng, đồng cỏ hoang. Nó là một loại cỏ mọc lan bò trên mặt đất, thân đỏ nhạt, lá cuống dài, gồm ba lá chét, mỗi lá chét có một vết hõm trên đầu thành hình tim ngược. Hoa mọc thành tán, cuống gầy, nhị hai vòng, nở vào các tháng 5-7. Tên khoa học của nó là Oxalis corniculata L. hay O. repens Thunb., thuộc họ Chua me đất Oxalidaceae như cây khế. Tên thông thường là me đất, chua me đất, chua me hoa vàng, trong Nam có tên chua me ba chìa (LQN-TNñ), người Tày gọi sỏm hèn, người Nam Dương semanggi. Từ Trung Hoa có thêm những tên thố tương thảo, toan tương thảo, tạc tương thảo, toan vị thảo, toan vị vị, tam diệp toan. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ (PHH) phân biệt me đất nhỏ O. corniculata L. me đất hường là O. corymbosa D.C., me đất đỏ O. deppel, me đất chua O. acetosella). Cây me còn mang tên O. martiana Zucc., một loại cỏ không có thân, lá ở gốc, hoa màu hồng nên còn được gọi hồng hoa tạc tương thảo. Cũng có hoa cùng màu hồng là cây chua me đất đỏ O. deppei Sw., còn gọi rau bợ, thân ngầm, lá chét hình tím ngược, hoa năm cánh, nhị hai vành, mọc hoang dại. Ngoài ra có một loại cỏ mọc ở vùng khí hậu mát như Sapa, Hoàng Liên Sơn gọi là chua me núi O. acetosella L. (tức la me đất chua) hay sơn tạc tương thảo, không có thân, lá kép, hoa trắng hay hồng. Có bản báo cáo ghi tên chua me đất nầy là wood sorrel (15). Ở báo chí khoa học, cây rau sorrel (hay surelle, oseille, rau chút chít) thường được khảo cứu về dung lượng kim loại trong cuộc tìm hiểu và đo lường ô nhiễm môi trường. Giáo sư Đỗ Tất Lợi (ñTL) còn có ghi cây chua me đất hoa vàng O. corniculata L. khác với chua me hoa đỏ O. corymbosa, tức là me đất hường, cũng cùng họ Chua me đất, thân cao hơn, nhiều lá dài, hoa màu vàng, có vị chua mát, thường được nấu với rau muống. Rau có vị chua vì thân và lá chứa đựng vài acid hữu cơ. Sắc ký giấy cho phát hiện tartric acid và chút ít citric acid trong lá me đất (4), ascorbic acid tức vitamin C bên cạnh dehydroascorbic, pyruvic và glyoxalic acid trong me núi (6). Số lượng ascorbic acid được xác định qua phép so màu là 183 mg/100g trong me núi tươi (14). Trong toàn thân cây me đất có một chất bảo vệ ascorbic acid khỏi bị oxi hóa (3). Chất phylloquinon tức vitamin K1 đã được phát hiện qua phép đo độ nhạy cảm so với 2,4-dichloro phenoxy acetic acid (15). Một phần oxalic acid trong me đất (7,0%) hiện diện ở thể hòa tan (4,0%) (5). Những flavonoid như vitexin, isovitexin có mặt trong me đất (8). Dùng hexan chiết xuất, người ta đã phát hiện được octacosanal và sitosterol (12) trong toàn thân cây. Trong số 17 hoá chất tách từ me đất, heptanal-2, pentylfuran-2, phytol-tetramethyl-3,7,11,15 hexadecenol-2 đã được xác định (9). Phytol có tác dụng ức chế enzym lipoxygenase đậu nành với chỉ số IC50 ở nồng độ 0,22 microM (11). Những lipid (1,47%) chiết xuất từ lá me đất với một hỗn hợp CHCl3-MeOH phân tích qua cột sắc ký silicagel cho thấy gồm có phần lớn lipid trung hòa cạnh những glycolipid và phospholipid (10). Về mặt kim loại và khoáng chất, me núi chứ đựng Ca, Mg, Na (16), còn vỏ tế bào me đất qua kính hiển vi điện tử cho thấy khối ferritin là nguồn sắt ở phôi cây (7). Theo Đông y, chua me có tính chất chua (toan), lạnh (hàn), thường được dùng làm thuốc thanh nhiệt, khát nước, mát máu, an thần, điều kinh, giảm huyết áp, thông tiểu tiện, chữa sốt lỵ, cảm ho, viêm gan, viêm ruột, viêm niệu đạo, xích bạch đới, suy nhược thần kinh, bệnh đường tiết niệu. Thường khi khát nước, người ta lấy một nắm giã nát chế nước nguội vào vắt lấy nước cốt uống. Chữa đại tiểu tiện không thông thì hòa thêm một thìa đường vào nước cốt. Để chữa hậu môn sưng đau hay lở nẻ, cho giã nhỏ me đất với rau săm, bồ kết, nấu nước ngâm rửa. Bong gân sưng đau thì giã me đất chưng nóng xoa bóp hay giã vắt lấy nước dội vào. Ở Ấn Độ, Philippines, nhân dân dùng nó chữa bệnh scorbut nhờ có ascorbic acid. Một phấn chiết me đất có tính chất chống tăng đường huyết và chống tăng huyết áp, được đề nghị cho vào thức ăn (13). Đằng khác, một hỗn hợp gồm có oxalic acid rất hiệu nghiệm khi đem khử các trùng Escherichia coli và Staphylococcus aureus (20). Oxalic acid là một phân tử diacid (hai acid) nhỏ nhất HOCO-COOH (chỉ có hai nguyên tố carbon), có phần độc, được nhà hóa học kiêm dược sư Carl Wilhelm Scheele (1742-1786) người Thụy Điển khám phá ra năm 1776. Nó hiện diện trong thiên nhiên ở thể muối. Ở Pháp, kali oxalat được gọi là "muối chút chít" (sel d'oseille). Còn calci oxalat không tan hòa trong nước thì cấu thành những thể kết trong cây cỏ, những sỏi sạn trong cơ thể. Vì vậy người có sỏi sạn trong bàng quang không nên dùng me đất. Để chữa chứng thiếu máu vì thiếu sắt, người ta dùng muối ferreux oxalat. Trong cơ thể sinh vật, khi oxalat -OCO-COO- được enzym biến hóa ra format HOCO- để cấu thành khí CO2 thì phát ra năng lượng cần thiết cho những phản ứng khác. Trong kỹ nghệ, dựa lên tính chất có khả năng di chuyển những ion kim loại và kiềm thổ (cấu thành oxalat), người ta dùng oxalic acid để xử lý mặt kim loại, đánh sạch và mài nhẵn cẩm thạch, tẩy trắng bột giấy, sợi vải, da thuộc, làm thuốc cắn màu trong ngành nhuộm lông len. Nó cũng được dùng trong việc chế tạo các chất trùng hợp hay các chất dẻo. Trước kia, ở Âu châu, oxalic acid được chiết xuất từ me núi. Ngày nay, nó được nhân tạo tổng hợp bằng phương pháp oxi hóa với nitric acid những carbohydrat lấy từ bắp (Hoa Kỳ), đường (Ấn Độ), sắn (Brazyl) hay những olefin như propylen (Pháp), ethylen glycol (Nhật Bản). Trong dân gian, lá me đất thường được dùng để đánh bóng đồ đồng. Ở kỹ nghệ, lá me đất hay phần chiết được pha lẫn với nhiều chất khác chiết xuất từ thực vật như nhựa thông, hạt dẻ hay nguồn gốc khoáng vật như monmorilonit, vermiculit để tẩm thấm những lớp nền xốp màng lọc có khả năng ngăn chặn methylamin, methanthiol (17), hay những chất có mùi đạm như ammoniac, ngay cả mùi khói thuốc lá (19). Nói chung vận dụng áp suất thấm lọc một màng lọc tẩm me đất, người ta có thể phân ly nhiều chất lỏng hay hơi khí như ammoniac, đạm khí từ khí trời, hay khinh khí từ hỗn hợp khí phát xuất trong phản ứng khử lưu huỳnh (18). Loại màng lọc nầy rất hiện đại và rồi đây sẽ phát triển mạnh. Nhân đi dạo miền nam nước Pháp, một hôm lang thang trên một sườn núi vùng Haute Provence, tôi gặp một cụ già lom khom đi tìm nhặt một cây rau có ba lá chét hình tim ngược như me đất, gọi là anémone hépatique, không phải để nấu canh chua vì trong thực đơn Pháp không có canh. Trả lời câu hỏi của tôi, ông bảo mỗi buổi sáng, thay vì uống cà phê, ông sắc uống rau nầy thì thấy con người thư thái ra. Tuy nhiên cây rau nầy không được phổ biến rộng rãi như me đất của ta. Trong ký ức người Huế, me đất là cả một kỷ niệm êm đềm. Vừa là món ăn quen thuộc, nó lại hiến một cảnh tượng quê nhà khó quên : "Lá me đất màu xanh lục gồm có ba cánh hình trái tim, xếp châu đuôi lại với nhau rất đều đặn. Tôi nhớ hồi còn bé, chúng tôi nhổ những cọng rau me đất nầy, cầm trong hai ngón tay, xoay xoay như những chiếc dù xanh tí hon. Bây giờ tôi lại phát hiện thêm hoa me đất rất đẹp. Màu hoa hồng tươi năm cánh, ở giữa là nhị vàng cam. Hoa nở rộ lên khi ánh nắng chan hòa trong vườn. Búp hoa hình bình hoa, máu trắng ngà, khi hàm tiếu chúm chím mà tím hồng ở giữa và khi nở ra, màu tím hồng tươi của hoa xen lẫn giữa những đám lá màu xanh lục trông thật đẹp" (1). Nghiên cứu và Phát triển 3(37) 2002, vietsciences 12.2006 Tham khảo 1-Hoàng Thị Kim Cúc, Nghệ thuậ nấu món ăn Huế, nxb ,Đà Nẵng (1996) 31-32, 40-41 2a- Phong Sơn, Bát canh me đất, trong Hương Sen Huế - Nhớ Huế 6, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000) 67-68 2b- Trương Văn Ngọc, Bát canh me đất, trong Người Huế - Nhớ Huế 7, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000) 126-127 Oxalis corniculata 3- K. Ishimaru, Distribution of scorbic acid oxidase in plants, Shokuyô no Kagaku 1 (1946) 77-8 4- V.S. Govindarajan, M. Sreenivasaya, Papyrographic micromethod for the study of organic acids in plants, Current Sci. (India) 20 (1951) 43-4 5- R.H. Mathams, A.K. Sutherland , The oxalat content of some Queensland pasture plants, Queensland J. Agr. Sci. 9 (1952) 317-34 6- K.K. Patnaik, N. Samal, Identification of keto acids in three different species of Oxalis, Pharmazie 30(3) (1975) 194 7- Ferritin in the integumentary cells of Oxalis corniculata, P.Gori, J. Ultrastrut. Res. 60(1) (1977) 95-8 8- R. Gunasegaran, Flavonoids and anthocyanins of three Oxalidaceae, Fitoterapia63(1) (1992) 89-90 9- B.B. Lin, Y.S. Lin, K.J. Chen, F.C. Chen, Constituents of Oxalis corniculata L., Zhonghua Yaoxue Zazhi 44(3) (1992) 265-7 10- R. Sridhar, G. Lakshminarayana, Lipid classes, fatty acids, and tocopherols of leaves of six edible plant species, J. Agric. Food Chem. 41(1) (1993) 61-3 11- B.B. Lin, Y.S. Lin, Selective inhibition activity on 15-lipoxygenase of trans-phytol isolated from Oxalis corniculata L., Chem. Express8(1) (1993) 21-4 12- M.U. Ahmad, M.A. Hai, M. Sayeduzzaman, T.W. Sam, Chemical constituents of Oxalis corniculata Linn., J. Bangladesh Chem. Soc. 9(1) (1996) 13-7 13- Y. Kamata, T. Toyokawa, M. Teruya, T. Ichiba, K. Kuniyoshi, Antihyperglycemia and antihypertensive agents containing Okinawan plant products, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 200220821 (2004) 19tr. Oxalis acetosella 14- E. Jorma, The colorimetric determination of vitamin C with 2,6-dichlorophenolindophenol, Suomen Kemistilehti 19A (1946) 21-5 15- O.Jansson, Phylloquinone (vitamin K1) levels in leaves plant species differing in susceptibility to 2,4-dichlorophenoxyacetic acid, Physiol. Plant. 31(4) (1974) 323-5 16- J. Bednarova, V. Bednar, Calcium, magnesium and sodium levels in the above ground biomass of some plant populations from the Tatra National Park, Acta Univ. Palacki Normuc. Fac. Rerum Nat. 63(Biol.19) (1979) 71-80 Công dụng 17- M. Mizobuchi, Y. Saihara, H. Date, Deodorants for air conditioning, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 88 42857 (1989) 5tr. 18- M.J. Campbell, Process for flow control using permeable wood sorrel membranes, Braz. Pedido PI BR 88 04,223 (1980) 30tr. 19- Y.Saihara, H. Date, T. Yamauchi, Deodorizing filters, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 62 45312 (1987) 4tr. 20- M.A. Chernyavskaya, A.S. Belova, Antibacterial mechanism of hydrogen peroxide preparations, Z. Gesamte Hyg. Ihre Grenzgeb. 36(2) (1990) 86-8
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 29, 2015 15:27:45 GMT 9
26- Canh rau thập toànThà rằng ăn bát cơm rau, Còn hơn thịt cá nói nhau nặng lời. Ca daoMột trong những món ăn bình dân mà cần thiết trong bửa cơm của ta, nhất là khi chưa có thói quen uống bia, là món canh. Ở Huế có món canh rau thập toàn, các vùng khác ít nghe nói đến. Món canh nầy đúng tên thập toàn, nói trạnh ra tập tàng, tương đương với thang thuốc thập toàn đại bổ đã từng thấy trong sử sách. Trên nguyên tắc, món canh nầy gồm có 10 loại rau : cải cúc, dâu tằm, khoai lang, lá lốt, lá sưng, mồng tơi, rau má, rau ngót, rau sam, vông nem. Thật ra không khi nào cũng sẵn có tất cả các rau nầy và bà mẹ Huế tháo vát chế biến với những cây mình có. Với lại không nhất thiết phải có đủ 10 rau ấy canh mới ngon. Trong cuốn Những món ăn nấu lối Huế, cô Hoàng Thị Kim Cúc, với lời văn địa phương biết bao thú vị, chỉ nói đến lá sâng, lá lốt, lá bát lát, lá mồng tơi, thêm vào mướp ngọt gọt vỏ, măng non xắt lát mỏng (luộc trước cho khỏi đắng) và chỉ cách làm rất giản dị : "Tôm lột vỏ tao với ớt, hành, tiêu, nước mắm, muối cho vừa, bỏ măng xào trước, đoạn thêm một muỗng nước ruốc, để sôi vài lần thấm thêm nước cho nhiều, nấu sôi bỏ các thứ rau vào, bao giờ rau chín sẽ cho mướp ngọt vào trộn đều nhắc xuống liền " (HTKC). Dễ dàng quá và cam đoan rất ngon miệng. Mát dịu, giải nhiệt vào lúc hè nóng, nó lại là một môn thuốc bổ dưỡng, tăng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật. Một món ăn ngon lành và bổ ích như thế không thể để các nhà khảo cứu dửng dưng. Tuy nhiên, tài liệu về những cây rau trong món canh rau thập toàn vô cùng phong phú, khó lòng kể hết được. Trong phạm vi bài viết nầy, lắm khi chỉ xin giới hạn vài ba công tác khảo cứu trong lãnh vực tác dụng và phải bỏ qua đoạn thành phần, cấu tạo cùng các hoạt chất. Cải cúc Cải cúc hay rau cúc, còn gọi cúc tần ô, đồng hao, thường được trồng để lấy rau ăn. Mang tên khoa học Chrysanthemum coronarium L., nó thuộc họ Cúc Compositae. Anh, Mỹ thường dùng danh từ garland để chỉ cải cúc ; Pháp có tên chrysanthème (des jardins, à couronne) nhưng thường được hiểu là hoa cúc. Cũng như tỏi, su, mồng tơi, cải cúc chứa sắt Fe và các ascorbic, oxalic acid, oxalat còn folat thì nhiều hơn cả ở hành, tỏi, tiêu, cà rốt, dưa chuột. Đặc biệt vitamin C tích trữ nhiều trong rau già. Rễ cây shungiku (cải cúc bên Nhật) trao đổi cation, hấp thu Ca nhiều hơn tỏi, mì, cà chua, dưa chuột. Nhiều hóa chất hữu cơ như hyratol ester đã được xác định, những spiroacetal cùng các chất nhiều vòng như guaianolid, zuurbergenin đuợc chiết xuất. Hoa cải cúc chúa glucosid của quercetin, quercetagetin, luteolin, kaempferol cùng các chlorogenic, isochlorogenic acid, những sesquiterpen lacton như cumambrin, hydrocumambrin. Đặc biệt, phần chiết từ cải cúc chứa rutin, gingerol, hexahydrocurcumin, các dicaffeoyl quinic, dicaffeoyl succinyl quinic acid là những chất phản oxi hóa, có khả năng ức chế những gốc tự do thường phá hủy cơ thể làm ta chóng già. Trong kỹ nghệ, nhiều văn bằng sáng chế đã dùng cây ngâm nước rồi cho điện phân làm thuốc tẩy mùi tanh cá (1), lấy phần chiết hòa với dầu cây bạch đàn làm thuốc đuổi muỗi (3), chiết xuất anthocyanin dùng trong thực phẩm và mỹ nghệ (2). Bên ta, cải cúc có tác dụng thanh nhiệt, đã được dùng để chữa ho cảm, mờ mắt, thổ huyết, chậm tiêu, nhức đầu thần kinh, uống dưới dạng thuốc pha hay thuốc sắc (ĐTL, BKT). Dâu tằm Có khi chỉ gọi ngắn cây dâu, dâu tằm mang tên khoa học Morus alba Linn. hay M. australis Poir. tức là M. acidosa Griff, thuộc họ Dâu tằm Moracea, cung cấp nhiều vị thuốc : lá dâu (tang diệp), cành dâu (tang chi), trái dâu (tang thầm), vỏ rễ dâu (tang bạch bì), tầm gửi trên cây dâu (tang ký sinh), tổ bọ ngựa trên cây dâu (tang phiêu tiêu), sâu nằm trong thân cây dâu (ấu trùng một loại xén tóc gọi là tang đố). Bài nầy chỉ giới thiệu trong phạm vi tang diệp. Âu Mỹ thường gọi cây dâu mulberry, murier. Ngoài protein, amin acid, khoáng chất kim loại như Ca, Na, K, P, Fe, Mg, những hóa chất hữu cơ như keton, aldehyd, amin acid, đường, flavanol, polysaccharid,… lá dâu đặc biệt chứa các vitamin B, C đồng thời với caroten, các hormon lột xác sâu bọ như ecysteron, inokosteron, các enzym như superoxid dismutase kèm theo 4 coenzym. Chính nhờ ở caroten và tocopherol mà phần chiết dâu vói methanol có tính chất phản oxi hóa. Từ lâu, người ta đã biết lá dâu có khả năng chống bệnh đái đường. Cũng nhờ ở các chất đường chứa N như deoxyojirimycin, methyl galacto pyranosyl f*gomin, dideoxy imino arabinitol, calystegin B2 mà phần chiết với nước có hiệu lực lên sự phát tiết nước miếng và có tác dụng chống tăng đường ở chuột đã bị streptozocin gây bệnh đái đường. Đằng khác, phần chiết từ lá có hoạt động estrogenic lớn hơn xoài, mít, .... Chất kuwanon-I chiết xuất từ lá với ethyl acetat là một thuốc kháng sinh có tác dụng lên nhiều vi khuẩn, đặc biệt lên Staphylococcus aureus (4). Còn chất kuwanon-H cũng như morusin hay morusin-O-glucose thì lại có khả năng kháng : VIH1 in vitro (5). Nhờ những hoạt chất như arginin, lysin, histidin, lá dâu là một nguồn thuốc diệt khuẩn (6). Kỹ nghệ đã có dùng phần chiết trộn với nhân sâm, vitamin E, superoxid dismutase,… làm thuốc chống già, hay làm kem bảo vệ da chứa amin acid, acid béo không bảo hòa, lipid phi cực như glycerid, squalen, cholesterol và các ester, .... Ở nước ta, lá dâu thường được sắc uống để chữa sốt, cảm mạo, trừ đờm, cao huyết áp, nôn ra máu, làm sáng mắt, hay sao vàng tán nhỏ rắc vào mụn nhọt lâu ngày không liền miệng (ĐTL), chữa ho hen, mất ngủ (VDL, ACCT). Khoai lang Khoai lang là một loại rau vô cùng quen thuộc ở nước ta vì giàu nghèo ai cũng có ăn, lắm khi còn thích thú gặp khoai ngon, bở. Còn gọi phan chư, cam thự, hồng thự, cam chư, khoai lang mang tên khoa học Ipomoea batatas (L.) Poir., thuộc họ Bìm bìm Convulaceae. Âu Mỹ thường gọi nó sweet potato, patate douce. Đã lâu, người ta đã biết dùng nước hay methanol chiết xuất các chất kháng sinh có hoạt động kích thích chống những vi khuẩn gram âm và gram dương, biến khoai lang thành nguồn thuốc quý báu diệt trùng, diệt nấm. Nhiều loại khoai (I. batatas, I. alba, I. muricata, I. fictulosa) đã đuợc đem thử chống vi khuẩn gram dương Straphylococcus aureus ATCC 25923 và tuy tác dụng khác nhau, chúng đều có tính chất diệt trùng (7). Một phần chiết với methanol 70% cho một hoạt động phản oxi hóa nhờ sự đồng vận của các phenol (những chlorogenic, isochlorogenic, caffeic, caffeoyl quinic acid) với các amin acid. Dùng một hỗn hợp nước-methanol-chloroform chiết xuất thì được những glycolipid có khả năng ức chế cuộc tăng sinh những tế bào ung thư. Dùng nước cũng lấy ra được từ lá một phần chiết có tính chất chống đột biến. Một văn bằng sáng chế Nhật đề nghị dùng những chất sitosterol, ferulic acid và các ester của nó, triterpenoid, octacosanol .... trong khoai lang để làm một thuốc bổ điều hòa huyết áp, đề phòng viêm khớp (8). Khoai lang cống hiến những chất nhuộm thiên nhiên đồ ăn, chủ yếu là các caroten từ giống Yamkawa murasaki bên Nhật, chiết xuất với hexan, hay anthocyanin chiếc xuất với nước. Khoai lang cũng đã được cho lên men cùng sữa với vi khuẩn da ua làm thành một thức ăn giàu vitamin A và C (19). Một ứng dụng khác của khoai lang là đem thân và lá ủ kỵ khí ở 370C để sản xuất methan. Còn củ khoai lang lần lượt xử lý với NaOH và HCl, rồi cho tác dụng với những enzym loại glucoamylase, amylase, pectinase hay cellulase thì chế tạo ra ethanol. Cứ 400g khoai tươi thu được 41,6g rượu. Người ta cũng đã kết hợp hai việc sản xuất methan và rượu, còn cặn bã lên men thì dùng làm phân bón trồng khoai lang. Ở nước ta, lá khoai lang sắc uống thành thuốc nhuận tràng khỏi táo bón (ĐTL), bổ tì vị, giúp đi đại tiện dễ dàng (VVC). Lá lốt Những sách thuốc Việt Nam thường cho tên khoa học của lá lốt là Piper lolot C.DC., thuộc họ Hồ tiêu Piperaceae. Còn gọi tất bát, có tên poivre lolot ở Pháp, bibo bên Trung Quốc, danh từ P. lolot không tìm thấy trong các sách thông tin khoa học loại Chemical Abstracts. Trong cuốn Cây cỏ miền nam Việt Nam có kê P. lolot nhưng không thấy tên tương đuơng Việt Nam ; trái lại, trước danh từ lốt thì có chua P. sarmentosum Roxb. ex Hunter, trong khi dây lốt thì được cho là P. saigonense, còn tiêu lốt là P. longum L. Theo sách Thực hành dược khoa thì lá lốt là P. longum. Sau đây là tính chất dược liệu của P. longum và P. sarmentosum. Bên Ấn Độ, sách Ayurveda (Khoa học đời sống) từ lâu đã dẫn P. longum trong một hỗn hợp ngừa thai. Ngành mô hóa học đã chứng minh hoạt động alcalin phosphatase đặc biệt lên nội mạc tử cung thỏ, ngăn chận không cho trứng đã thụ tinh dính vào (10). Mặt khác, dầu P. longum có tác dụng lên giun sán, giảm hạ cholesterol ở chuột, gây phù lên chân chuột trong một cuộc khảo cứu tính chất chống viêm. Nhờ chất alcaloid piperin, P. longum gia tăng nồng độ các chất vasicin, spatein trong máu (11). Chất piperin đã được chiết xuất để dùng trong việc hấp thu đồ ăn vào hệ thống dạ dày-ruột (12). Bên phần P. sarmentosum thì ngoài khoáng chất, protein, amin acid, đường, lipid, nó còn chứa một số hóa chất như hydro cinnamic acid, sitosterol ở lá hay ở trái, asaron, asaron aldehyd, pellitorin, sammentin, sarmentosin ở trái, đặc biệt ba phenyl propanoid có tính chất diệt trùng Escherichia coli và Bacillus subtilis : allyl methoxy-, allyl dimethoxy methylen dioxybenzen và allyl trimethoxy benzen. Ở nước ta, lá lốt xem có vị cay, mùi thơm, tính ấm, có công năng ôn trung, tán hàn, hạ khí, chỉ thống (BKT). Người ta lấy nó làm gia vị hay làm thuốc chống viêm, thấp khớp, tê thấp, đổ mồ hôi tay chân, bệnh đi ngoài lỏng, dùng dưới dạng sắc uống hay cho ngâm chân tay (ĐTL). Mồng tơi Còn gọi lạc quỳ, đằng thái, mồng tơi là một loại dây leo mọc hoang, thường được trồng vào hàng rào để lấy rau ăn. Nó mang tên khoa học Basella rubra Linn., thuộc họ Mồng tơi Basellaceae. Trên thế giới, nó được gọi malabar spinach, malabar nightshade theo danh pháp Anh Mỹ, alugbati bên Phi Luật Tân hay pui sak ở Bangladesh. Toàn cây chứa đựng protein với 13 amin acid, đặc biệt với các acid béo giàu oleic và linoleic acid ở hột cũng như ở lá. Ngoài polysaccharid, khoáng chất kim loại như Ca, Fe, Zn(3), lá cống hiến các vitamin A, C, những carotenoid mà các caroten là những chất tiền vitamin A. Một số hóa chất hữu cơ khác cũng được tìm ra trong lá : violaxanthin, lutein, tunaxanthin, phytoen, phytofluen, neoxanthin, cryptoxanthin, xanthoflavin, cùng một loạt acid : ketoglutaric, levulinic, pyruvic, oxalacetic, succinic, lactic, malonic, glycolic, oxalic, malic, citric, propionic, acetic, formic, pyroglutanmic acid. Trái cây đem ép tiết ra những betanidin glycosid, mang những tên gomphrenin hay isogomphrenin. Đặc biệt, mỗi sắc tố được lấy ra để nhuộm đỏ đồ ăn, thuốc men mỹ phẩm có tính chất ổn định (14) ngay ở độ nóng (13. Một văn bằng sánh chế Pháp mô tả hoá chất methoxy methyl phenyl benzo pyranon cùng các dẫn xuất để dùng trong son môi, phấn xoa mặt, thuốc nhuộm tóc hay vec ni đánh móng tay (15). Hương vị mồng tơi là do các hóa chất methoxy propan, hexenol, methoxy phenyl acetat, acetophenon, vinyl guaiacol, phytol, isophytol, cùng các chất dễ bốc hơi ethyl acetat, benzen heptanon, hepten, ethyl benzen, xylen, limonen tạo thành. Rau mồng tơi tuy nấu canh ăn mát, ít được dùng làm thuốc, mặc dầu sách cổ ghi rau có vị chua, tính hàn, tán nhiệt, hoạt trường. Những người mắc bệnh đái đường, dư thừa cholesterol-huyết hay bị chứng mập phì, nên ăn rau mồng tơi (BKT). Có nơi dùng nó chữa trẻ con táo bón, phụ nữ đẻ khó, trái ép nước chữa đau mắt, nơi khác giã đắp chữa vú sưng nứt, giải độc (ĐTL). Rau má Rau má là một cây thuốc thông thường ở nước ta, sách thuốc nào cũng có nói tới. Còn gọi tích tuyết thảo, liên tiền thảo, nó mang hai tên khoa học Centella asiatica (L.) Urb. hay Hydrocotyle asiatica (L.) Urb., thuộc họ Hoa tán Umbelliferae hay Apiaceae. Người Trung Quốc có tên sanjinpian, người Tích Lan gọi gotukola, người Bangladesh dùng danh từ thankuni pata (nên sau nầy có những tên chÃt thankunisid, thankuni acid). Từ lâu, người ta biết rau má có tác dụng kháng khuẩn, đặc biệt chống Staphylococcus aureus. Những triterpenoid như asiaticosid, madecassosid, asiatic asid, madecassic acid là những hoạt chất có khả năng giảm hạ u hạt. Đặc biệt asiaticosid rất hiệu nghiệm trong việc phòng chữa phong hủi. Cùng với các glycosid khác như brahmosid, brahminosid, nó còn có tính chất chống co thắt, chống căng thẳng. Những triterpenoid còn có khả năng gây chồi trên các mạch trung phôi bì, từ đấy tăng cường sự kết sẹo, xúc tiến cuộc biểu mô hóa. Còn thankunisid, một triterpenglosid, là một tác nhân chống sinh sản rất công hiệu trên chuột cái. Với những saponin thì tác dụng giảm đau có thể so sánh với chlopromazin hay meprobamat, theo cơ chế phát tiết acetyl cholin trong thần kinh hệ. Hỗn hợp saponin-phospholipid có khả năng chống viêm, chống phù, cho nên đuợc đưa vào các công thức dược học (18). Nhờ những amin acid như glutamic, aspartic acid, rau má được dùng làm chất truyền chuyển thần kinh, ổn định hay kích thích những hoạt động của óc não. Nhiều văn bằng sáng chế đã lấy phần chiết từ rau má cho vào mỹ phẩm, ngăn ngừa tóc rụng, kích thích tóc mọc, chữa bệnh ngoài da như loét, chàm, eczema, ngứa lở hay phục hồi, tái sinh biểu bì (16,17). Ở nước ta, nhờ tính chất giải nhiệt thông tiểu, rau má đã được dùng để chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, lợi sữa (ĐTL), chữa sốt, sởi, táo bón, vàng da, dắc buốt, thống kinh (VDL), chữa viêm gan, viêm màng ngực, viêm sinh mũ (LQN, TNĐ), chữa viêm họng, viêm hạch nhân, viêm khí quản (VVC). Những người bị bệnh đái đường, sũng phù hay đau dạ dày cũng nên uống nước rau má (BKT). Rau má, ngoài nước vắt, sắc uống, có thể ăn sống, hay phơi khô tán nhỏ thành bột dễ dùng. Cũng có thể đâm nhuyễn đắp lên mụt nhọt, vết thương bên ngoài. Rau ngót Tên khoa học của rau ngót là Sauropus androgynus (L.) Merr., thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae. Có sách cho tên Phyllanthus elegans Wall., thuộc cùng họ. Còn được gọi chùm ngọt, bò ngót hay bù ngót, nó thường mọc hoang, có nơi được trồng để hái lá tươi nấu canh. Lá cây chứa một số khoáng chất kim loại : P, Ca, Mn, Na, Fe, Cu (4), carbohydrat, protein, thiamin, riboflavin, lipid, glycolipid mà nhiều nhất là linolenic acid. Trong lá tươi, nhiều sterol đã được xác định như cholesterol, campesterol, sitostetrol, isofucosterol. Với lá phơi khô, nghiền bột thì qua sắc ký trên giấy, một số amin acid đã được phát giác : arginin, aspartic acid, cystein, glutamic acid, glycin, histidin-glycin-HCl, isoleucin-leucin, methionin, phenyl alanin, serin, threonin, tyrosin, valin (20) . Người ta cũng đã tìm ra được trong lá rau ngót caroten, ascorbic acid (21), tocopherol (19), nghĩa là có đủ các vitamin A, C, E. Các nhà khảo cứu Ấn Độ nhận ra trong lá cây chekkurmenis (là rau ngót bên nước họ) những chất dinh dưỡng tăng với tuổi cây và có nhiều ở các lá phía bên hơn là các lá mọc cuối cành (21). Tác dụng dược lý của rau ngót chưa được khảo cứu nhiều. Ở nước ta, ngoài canh rau, lá ngót thường được dùng để chữa sót nhau, hóc xương, tưa lưỡi (ĐTL), chữa ban sởi, viêm phổi, bí tiểu tiện ; rễ dùng để lợi tiểu, thông huyết (VDL). Thường lá hay rễ tươi, giã nát, ép vắt lấy nước ngâm, uống. Còn không thì canh rau ngót cũng có tính bổ dưỡng, mát, lành nên dùng cho người bệnh mới khỏi, đàn bà mới sanh (BKT). Rau sam Còn gọi mã xĩ hiện (machixian của Trung Quốc), tức là có hình răng ngựa, rau sam mang tên khoa học Portulaca oleraceae Linn., thuộc họ Rau sam Portulacaceae. Sách Âu Mỹ mô tả nó qua tên purslane, poupier. Cây được trồng làm rau ở Âu châu, mọc hoang ở nước ta, quanh nơi ẩm uớt. Chứa các vitamin A, C, những chất phản oxi hóa, rau sam được xem như một nguồn acid béo omega-3, tức là những chất làm giảm hạ cholesterol cũng như để chữa xơ cứng động mạch. Cho gà ăn rau sam thì trứng đẻ ra cũng chứa nhiều loại acid ấy. Một số phenol như scoletin, bergapten, isopimpinellin, lonchocarpic acid, lonchocarpenin, robustin, genistein, genistin đã được chiết xuất và đem thử về mặt sát trùng, chống viêm. Nhờ có những tính chất ấy mà người ta dùng rau sam cũng như hành, tiêu, tỏi,… để bảo quản đồ ăn ướp muối, chống nấm trên các loại cải, bảo vệ da người, chữa chứng hôi miệng, phòng ngừa bệnh nấm và ỉa chảy ở gia súc, gia cầm. Ngoài ra, phần chiết từ rau sam có khả năng kích thích sự phát triển insulin ở tuyến tụy, cải tạo glycogen. Đem thử trên thú vật, nhờ những chất alcaloid, coumarin, flavon, cardiac và anthroquinon glycosid, dù không có ảnh hưởng lớn lên mức đường ở máu, phần chiết nầy đã kéo dài được đời sống của chuột và thỏ bị bệnh đái đường, vì đã điều hòa được sự hỗn độn trong cuộc chuyển hóa lipid (22). Từ rau sam, người ta đã chế ra được một loại thuốc uống ức chế kết tụ tiểu cầu, giảm lipid máu (23), hạ huyết đường, tăng insulin ở chuột (24). Đặc biệt, phần thấm tách lại có khả năng gây kích thích thần kinh cơ hoành, co thắt trực tràng ở chuột, dãn duỗi bắp thịt ở gà. Bên ta, rau sam có thể ăn sống hoặc nấu chín, luộc chấm muối vừng hay trộn với cháo gạo (BKT). Người ta cũng có thể sắc uống chữa trực trùng, giun kim, làm thuốc lợi tiểu, giã nát đắp mụn nhọt (ĐTL), trị ung lở, sưng độc (LQL, TNĐ). Rau sam có tác dụng thanh nhiệt, tán huyết, sát trùng, hoạt trường, chữa huyết nhiệt, đái, ho, kiết lỵ ra máu, táo bón (ĐTL), đau vú, chốc đầu (VDL). Cây sưng Cây sưng (hay sâng, sang, sang láng), nôm na gọi hột sẻn, hay văn hoa hơn : hoa tiêu (trái cây), hoàng lực (rễ cây), sơn tiêu, xuyên tiêu, lưỡng diện trâm, lưỡng phử châm. Sưng mang tên khoa học Zanthoxylum nitidum Roxb., thuộc họ Cam quít Rutaceae, là một cây mọc hoang miền Bắc nước ta. Ngoài kim loại như Mn, cây có nhiều alcaloid: nitidin, oxy-, dihydro nitidin, nhất ở vỏ rễ, oxy- , ethoxy-, methoxy dihydro-, sesmethyl chelerythrin, skimmianin, isofararidin, allocryptopin. Vỏ cây còn cống hiến những alcaloid khác ngoài một số đã kể: arnottianamid, isoarnottinamid, decarin, integriamid, ocyterihanin, magnoflorin ; những lignan : asarinin, sesanin, syringaresinol, ; một coumarin : esculetin dimethylether ; một sterol : sitosterol. Trong thân cây có hai phenyl propanoid: methyl nitinoat, dihydro cuspidil và một ligan: nitadanin. Những alcaloid như ethoxy chelerythrin có khả năng ức chế sự phát triển tế bào khối u cổ trướng (26). Nếu cả ba nitidin, chelerthrin, isofararidin ngăn cản topoisomerase phóng thích DNA, chỉ nitidin ức chế mảnh liệt sự liên hiệp giữa enzym ấy với DNA. Dưới dạng thể chlorid, nitidin rất hiệu nghiệm khi dùng để chữa bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính; cũng như methoxy dihydro chelerthrin, nó có khả năng gia tăng đời sống của chuột bị khối u cổ trướng (25). Một văn bằng sáng chế Trung Quốc đã dùng cây sưng trộn với nhiều cây khác làm thuốc kiêng khem chữa nghiện ngập (27). Ở nước ta, cây sung được dùng để chữa bụng lạnh đau, thổ tả, giun sán, nhức răng (ĐTL), nhức xương, phong thấp, cảm mạo, giải độc (LQN, TNĐ), ho hen, nôn mửa, ỉa chảy, tê bại (VDL). Đặc biệt, rễ cây sắc uống hay ngâm rượu là một môn thuốc chữa tê thấp, sốt rét kinh niên (ĐTL) ; trái cây cũng sắc hay ngâm rượu chữa đau răng, giã nát bôi chỗ rắn cắn (VDL). Vông nem Còn gọi cây vông hay hải đồng, thích đồng, vông nem thường được báo cáo qua hai tên khoa học Erythrina indica Lam., thuộc họ Cánh bướm Papilionaceae, hay Erythrina variegata L. var. orientalis (L.) Merr. thuộc họ Đậu Fabaceae. Có những tác giả cho hai tên nầy chỉ định một cây. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi tắt Erythrina orientalis (L.) Merr. và liệt cây vào họ Đậu Papilionaceae nhưng cũng có chua thêm tên Erythrina indica Lamk. Vông nem chứa anthoxanthin, isococcolin ở hoa, những alcaloid như erythrin, erysodin, N-methyl orientalin ở lá, erythratidin, epierythratidin, hydro epierythratidin ở vỏ, warangalon, erycristagallin, erythrabyssin, phaseollin, phaseolidin, isobavachin ở rễ, erythralin, erysovin cùng nhiều acid béo : oleic, linoleic, behenic, palmitic, eicosenoic, arachidic, lignoceric, stearic, docosenoic, hacadecanoic acid ở hột. Phân tích kỹ, bên cạnh quercetin, cellulose, lipid, sterol, có nhiều nhất là linoleic acid trong số các acid béo. Vỏ cây cống hiến những sterol : sitosrerol, campesterol, stigmasterol và citrostadienol, methylen lophenol cùng erysovin, stachydrin. Rhizobium chiết xuất từ rễ vông nem đã được dùng để sản xuất indoleacetic acid từ tryptophan. Ở Á châu, từ Ấn Độ qua Trung Quốc, vỏ cây vông nem thường được đem làm thuốc se da, tra mắt, chống sốt, sát trùng, chữa bệnh đau gan, làm dịu bực nhọc, thần kinh căng thẳng. Lá cây được dùng làm thuốc lợi tiểu, làm tăng hoạt động dạ dày, giảm nhẹ đau nhức khớp xương (30). Dầu chiết từ cây có khả năng khử nấm, diệt trùng, mạnh hơn cả thuốc penicillin, streptomicin, đặc biệt chống Echerichia coli (28). Nhờ những alcaloid, phần chiết ức chế adenositriphosphatase trong màng não chuột (29). Từ hột, chymotrypsin, chất có khả năng ức chế trypsin, cũng được chiết xuất. Ở bên ta, lá vông nem được dùng làm thuốc an thần, gây ngủ, giã nhỏ để chữa vết loét, hơ nóng đáp vào hậu môn chữa trĩ (ĐTL). Lá khô sắc hoặc nấu cao uống chữa mất ngủ do hồi hộp, lo âu (VDL). Vỏ cây có tác dụng chữa sốt, sát trùng, thông kinh lạc, dùng chữa lưng gối đau nhức, tê liệt, lở ngứa, thái nhỏ cho vào nước thành bột nhão đắp lên chỗ rắn cắn hay tán nhỏ rắc vào nơi răng sâu (ĐTL), sắc, cao thành rượu chữa phong thấp (VDL). Bài thuốc Hải đồng bì tán dùng vỏ cây chữa chân tay co quắp (THDK). Nói chung, tất cả các loại rau dùng trong món canh rau thập toàn đã là những môn thuốc riêng biệt. Chưa thấy có một cuộc khảo cứu nào thực hiện lên toàn bộ hỗn hợp nên chưa biết được tính chất dược liệu của toàn món canh, nhất là hiệu ứng đồng vận giữa các thuốc. Dù sao, Đông y đã có một khái niệm khá rõ ràng về phẩm lượng của nó, ta có thể yên tâm thưởng thức món canh ngon mát và bổ ích nầy. Thông tin Khoa học và Công nghệ 2 1998, khoahoc.net 05.03.2009 Tham khảo Chrysanthemum coronarium (Cải cúc) 1- K.K. Nishiyori, Y. Mori, Detergent compositions, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 60 28,498 (1985) 4 tr. 2- Y. Fuji, Manufacture of anthocyanin pigments by tissue culture of Chrysanthemum coronarium, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 02 222,691 (1990) 3 tr. 3- J. Li, Y. Liu, Terpenoid-containing mosquito-repellent cream, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,059,657 (1995) 5 tr. Morus alba (Dâu tằm) 4- Zenyaku Kogyo Co., Ltd, Kuwanone I, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 58 43,999 (1983) 5 tr. ; JP 58 150,538 (1985) 5tr. 5- S. Wan, Superoxide dismutase capsules containing vitamin E and medicinal plant extracts, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,110,178 (1995) 5 tr. 6- A. Tsunemitsu, H. Suido, Antimicrobial compositions containing arginine, lysine, histidine, bactericides and surfactants, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08 151,324 (1996) 6 tr. ; JP 08 151,325 (1996) 5 tr. ; JP 08 151,326 (1996) 6 tr. Ipomoea batatas (Khoai lang) 7- B.Q. Guevara et all., Comparative biological and chemical investigation of locally grown varieties of Ipomoea Linn. (Convulaceae), NRCP Res. Bull. (2) 38 (1983) 227-305 8- Y. Hashimoto, K. Kawanishi, Health food containing sweet potato extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 63 283,552 (1988) 3 tr. 9- J.L. Collins, C.B. Ebath, J.M. Mount, F.A. Draughon, B.J. Demott, Proximate, nutritional and microbiological analysis of milk-sweet potato mixtures fermented with jogurt bacteria – Production and evaluation of milk-sweet potato mixtures fermented with yogurt bacteria, J. Food Sci. (3) 56 (1991) 682-4 ; 685-8 Piper longum, P. sarmentosum (Lá lốt) 10- P.C. Das, Oral contraceptive (long-acting), Brit. 1,445,599 (1976) 11tr. 11- C.K. Atal, U. Zutshi, P.C. Rao, Scientific evidence on the role of Ayurvedic herbals on bioavailability of drugs, Ethnopharmacol. (2) 4 (1981) 229-32 12- M. Majeed, V. Badmaev, R. Rajendran, Use of piperine as bioacailability enhancer, PCT. Int. Appl. WO 96 25,939 (1996) 42 tr. Basella rubra (Mồng tơi) 13- T. Nishimoto, R. Hiroze, Red-coloring method using Basella rubra fruit juice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 03 146,775 (1991) 5tr. 14- Y. Cao, L. Hu, Z. Tang, Q. Ye, Stability of naturel Basella red pigment, Tianran Chanwu Yanjiu Yu Kaifa (1) 1 (1989) 61-6 15- B. Belcour, R. Martin, G. Hussler, Cosmetic compositions containing at least one derivative of 5-methoxy-8-methyl-2-phenyl 7H-1-benzopyran-7-one as a coloring material, PCT Int. Appl. WO 94 29,388 (1994) 28 tr. Centella asiatica, Hydrocotyle asiatica (Rau má) 16- J.N. Thorel, Composition for skin regeneration and stimulation, Fr Demande FR 2,594,690 (1987) 10 tr. 17- J.N. Thorel, Skin-rejuvenating cosmetic composition for application around the eyes, Fr Demande FR 2,668,061 (1992) 11 tr. 18- E. Bombardelli, G. Patri, R. Pozzi, Complexes of saponins and their aglycons with phospholipids and pharmaceutical and cosmetic compositions containing them, U.S. US 5,166,139 (1992) 3 tr. Sauropus androgynus (Rau ngót) 19- C. Engel, A.M. de Vries, The tocopherol (vitamin E) contents of different foods from the Dutch East Indies, Z. Vitaminforsch 18 (1946) 89-90 20- N.N. Satyanarayana, G.R. Rao, Nutritive value of the leaves of Sauropus androgynus, Food Sci (2) 6 (1957) 29 21- J. Giri, V. Bhuvaneswari, D. Rajeswari, Changes in the nutritive value of chekkurmenis at different stages of growth, Indian J. Nutr. Diet (11) 21 (1984) 419-23. Portulaca oleracea (Rau sam) 22- Zh. Stefanov, I. Ilarionov , D. Kolev, Preliminary photochemical and pharmacological studies of the relative wild prostrate form of Portulaca oleracea species, Farmatsiya (3) 16 (1966) 27-32 23- J. Zhou, G. Tian, J. Fu, W. Giao, Y. Zhu, Preparation of machixian oral liquid, Zhongcaoyao (5) 26 (1995) 239-41 24- E.F. Eskander, J.H. Won, Hypoglycemic and hyperindulinemic effects of some Egyptian herbs used for the treatment of diabetes mellitus (type II) in rats, Egypt. J. Pharm. Sci. (1-6) 36 (1995) 331-41 Zanthoxylumnitidum (Cây sưng) 25- Z.H. Huang, Z .H . Li, Studies on the antitumor constituents of Zanthoxylum nitidum (Roxb.) DC, Hua Hsuen Pao (6) 38 (1980) 535-42 26- M.H. Wang, Isolation of antitumor alkaloids from Zanthoxylum nitidum and structural study of its alkaloid C, Yao Hsueh T’ung Bao (2) 16 (1981) 48 27- X. Pan, G. Zhang, C. Liu et all., Pharmaceutical compositions for treating withdraw from drug additions, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,053,187 (1992) 13 tr. Erythrina indica, E. variegata (Vông nem) 28- R. Bhale, P.K. Jain, M.M. Bokadia, The in vitro antimicrobial activity of the fixed oil of Erythrina indica, Indian Drugs Pharm. Ind. (3) 14 (1979) 39-40 29- Nguyen Xuan Thang, Nguyen Thi Hang, Dang Hanh Phuc, Inhibitory effect of some traditional hypnotic drugs on adenosinetriphosphatase of rat brain membranes, Rev. Pharm.(1983) 82-9 30- H. Telikepalli, D.R. Gollapudi, A. Keshavarz-Shokri, L. Velasquez, R.A. Sandmann, E.A. Veliz, K.V.J. Rao, A.S. Madhavi, L.A. Mitscher, Isoflavonoids and a cinnamyl phenol from root extracts of Erythrina variegata, Phytochem. (6) 29 (1990) 2005-7
|
|