|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 8:36:32 GMT 9
Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phíatai lieu cua Viet Cong Kỳ 1: Công bố hồ sơ mật của chính quyền Sài Gòn Đăng Bởi Một Thế Giới Sư kiện: Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Thống tướng Lê Văn Tỵ - Tham mưu trưởng Quân lực VNCH Cùng bạn đọc! Qua loạt bài này, chúng tôi hy vọng với những trích dẫn từ các tài liệu của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam (Hà Nội), của Phủ Tổng thống và Phủ Thủ tướng VN Cộng hòa (Sài Gòn), của cơ quan tình báo CIA (Mỹ) và tình báo Hoa Nam (Trung Quốc) sẽ cung cấp thêm đến bạn đọc thông tin từ nhiều phía về diễn tiến sôi động của cuộc chiến tranh VN dẫn đến sự kiện lịch sử 30.4.1975… Gần 40 năm sau ngày 30.4, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (TP. HCM) thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước (Bộ Nội vụ) lần đầu tiên cho công bố hồ sơ mật và tối mật của chính quyền Sài Gòn qua một số ấn phẩm, trong đó có hai cuốn: 1. “Về đại thắng mùa xuân năm 1975 - qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2010), do GSTS Phùng Hữu Phú, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, làm Trưởng ban chỉ đạo biên soạn (1). Lời tựa viết: “Thu thập và bảo vệ toàn bộ tài liệu lưu trữ của chính quyền Sài Gòn thời kỳ trước năm 1975, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước - Bộ Nội vụ muốn chia sẻ một phần "bí mật" về động thái của giới cầm quyền Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong cơn tuyệt vọng khởi từ hiệp định hòa bình tháng giêng năm 1973 cho đến trưa ngày cuối cùng của tháng Tư hai năm sau đó (...) với nhiều tư liệu lần đầu tiên được công bố” (PGS. TS.Hồ Sơn Đài). 2. “Từ chiến dịch xuân hè 1972 đến Điện Biên Phủ trên không” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2013), do TS. Vũ Thị Minh Hương - Cục trưởng Cục văn thư và Lưu trữ nhà nước chỉ đạo công bố (2). Cả hai cuốn gộp lại dày trên 760 trang, khổ 16 x 24cm, với nhiều tài liệu có đóng dấu “Mật” hoặc “Tối mật” như hồ sơ số 568 - Font ĐIICH (3), “Thượng khẩn” hoặc “Hỏa tốc” (hồ sơ số 241 - Font ĐIICH), cả bản thảo phát biểu viết tay có chữ ký của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (hồ sơ số 572 - Font ĐIICH) - được thâu giữ từ Phủ Tổng thống (dinh Độc Lập) và các cơ quan nội chính, tình báo và an ninh quân đội… Hồ sơ số 18620 - font PTTg (4) của Bộ tư lệnh Biệt khu Thủ đô (Sài Gòn) có đóng dấu "Kín" và "Thượng khẩn" (thảo ngày 14 và 15.4.1975) ghi nhận tình trạng xáo trộn trong quân đội Sài Gòn vào những tuần cuối của cuộc chiến: "Một số quân nhân thuộc các đơn vị phòng thủ hay đồn trú tại địa phương đã xin phép hoặc trốn về thu xếp di tản gia đình và đã không trở lại đơn vị, hoặc vì lưu thông gián đoạn, hay vì gia đình cầm giữ. Một số quân nhân khác vẫn để gia đình tại chỗ - khi cuộc tấn công xảy ra số quân nhân này đã bỏ để về lo bảo bọc gia đình. Các sự kiện trên đưa đến tình trạng tan rã ...". Văn bản đó do trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, kiêm Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định ký, huấn thị rõ về triển khai gấp rút hệ thống “tử thủ” Sài Gòn với 5 liên khu và các bộ chỉ huy chiến thuật “mỗi bộ chỉ huy do một đại tá làm chỉ huy trưởng với các thành phần tham mưu chuyên trách về hành quân”. Đồng lúc, biện pháp “quân sự hóa 335 khóm hiện hữu tại đô thành được thực hiện với quân số của Bộ Tổng tham mưu cung cấp”. Phân tích thêm: "Hiện trạng dân số đông đảo, hỗn tạp của Đô thành (Sài Gòn) đã gây trở ngại trong việc kiểm soát an ninh, thêm vào đó, đồng bào từ các vùng chiến nạn tản cư đến, cùng với những quân nhân lạc ngũ, vô kỷ luật từ các đơn vị trốn về Thủ đô (Sài Gòn) đã tạo thêm môi trường cho cộng sản xâm lược (chỉ Quân Giải phóng) lợi dụng để xâm nhập đặc công, cán bộ vào Đô thành" - gởi Phủ Tổng thống, Phủ Thủ tướng, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu cùng các đơn vị trực thuộc ngày 17.4.1975. Vào thời điểm trên, theo hồi ức của đại tướng Võ Nguyên Giáp: ông Lê Đức Thọ đã từ Hà Nội vào Nam công bố Quyết định ngày 6.4.1975 của Bộ Chính trị về thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch Sài Gòn - Gia Định (chiến dịch Hồ Chí Minh), gồm: Văn Tiến Dũng (Tư lệnh), Phạm Hùng (Chính ủy), Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện (Phó tư lệnh), Lê Quang Hòa (Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị), Lê Ngọc Hiền (Quyền Tham mưu trưởng, chuyên trách tác chiến), Nguyễn Văn Linh (Phó Bí thư Trung ương Cục, đặc trách phong trào nổi dậy của quần chúng, nhất là Sài Gòn), Võ Văn Kiệt (Ủy viên thường trực Trung ương Cục, chỉ đạo việc tiếp quản thành phố). Đúng 10 ngày sau (16.4.1975), Quân Giải phóng đánh chiếm Phan Rang, bắt sống đại tá tỉnh trưởng tỉnh Ninh Thuận Nguyễn Văn Tư (lúc 9 giờ 30), bắt chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang - Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân và trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Phó tư lệnh Quân đoàn 3 (lúc 10 giờ), cùng hàng nghìn sĩ quan binh lính Sài Gòn. Ngay sau đó Bộ Tổng tham mưu lệnh đưa tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang từ Phan Rang ra Hà Nội bằng máy bay gấp. Ra đó, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được đưa vào gặp các sĩ quan Cục tác chiến để trả lời một số câu hỏi. Về hướng hiểm yếu để tiến công Sài Gòn, tướng Nghi nhận định “tiến công từ Gò Dầu hạ - Trảng Bàng” là dễ chiếm thế thượng phong nhất (5). Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh cũng nắm được phương thức bố trí “các kho đạn chính ở Nhà Bè và Cát Lái (Long Bình chỉ là kho tiếp liệu)” và Sài Gòn “dựa chủ yếu vào lực lượng không quân, nên các sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hòa và Cần Thơ giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là sân bay Biên Hòa, nơi đậu các máy bay cường kích F5 và A37” (Võ Nguyên Giáp, sđd). Được hỏi lý do thất bại nhanh chóng của quân đội Sài Gòn tại mặt trận miền Trung và Phan Rang, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi nói thẳng: - Chúng tôi thiếu tiếp liệu và thiếu thời gian. Nếu các ông đánh chậm một tháng nữa thì chưa biết sẽ ra sao ! (còn nữa). Giao HưởngChú thích: (1) Ban chỉ đạo biên soạn: TS Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc - Tổng biên tập và TS. Khuất Duy Kim Hải, Phó giám đốc - Phó Tổng biên tập NXB Chính trị Quốc gia, TS. Vũ Thị Minh Hương, Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước thuộc Bộ Nội vụ, Ô. Phạm Việt, Trưởng ban Sách Nhà nước và Pháp luật (NXB Chính trị Quốc gia) và Ô. Nguyễn Xuân Hoài, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (sau đây viết tắt: Trung tâm). Cố vấn khoa học: PGS. TS. Hồ Sơn Đài (đại tá - Trưởng phòng khoa học Công nghệ - Môi trường, Bộ Tham mưu - Quân khu 7) và PGS. TS. Hà Minh Hồng - Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh. (2) Chỉ đạo biên soạn: TS. Nguyễn Xuân Hoài - Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia II. Ban biên soạn: TS. Phạm Thị Huệ, Hà Kim Phương, Nguyễn Thị Vui, Lê Vị. (3) Font ĐIICH (Phông Đệ nhị Cộng hòa - Sài Gòn). Tất cả số ký hiệu của hồ sơ dẫn trong loạt bài này theo đúng với số ký hiệu ghi trên tài liệu hiện lưu trữ tại Trung tâm. (4) Font PTTg (Phông Phủ Thủ tướng - Sài Gòn). (5) Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - 30.4.1975 Bản hùng ca thế kỷ 20, NXB Lao Động, Hà Nội 2006, tr. 227. ************************************************************************* Đối với anh em ông Diệm, 1.11.1963 là ngày kết thúc giấc mơ quyền lực Dan Chu cho VN kéo dài 9 năm. Nhưng với nhiều người khác, mới chỉ là thời khắc phôi phai những “mộng ban đầu”. Nguyễn Cao Kỳ chẳng hạn, thừa nhận: “Đối với tôi mọi việc bắt đầu từ ngày hôm ấy”! Lẽ ra, “mọi việc bắt đầu” sớm hơn một ngày. Vì theo dự tính, đảo chính nổ ra vào 31.10.1963 nhưng tướng Dương Văn Minh quyết định hoãn lại 24 tiếng đồng hồ. Thay đổi giờ chót đó do sơ suất không báo kịp đến Nguyễn Cao Kỳ nên Kỳ vẫn “độc diễn” phần việc được giao: Ông ta tập hợp khoảng gần 200 binh lính và sĩ quan dưới quyền vào một nhà kho lớn chứa máy bay trong căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Theo kế hoạch, ông cầm chân họ tại lớp học tâm lý chiến mà mình chủ trì sao cho đến 1 giờ trưa để đợi tín hiệu là tiếng xe tăng tiến vào căn cứ quanh chỗ tập họp. Nhận tín hiệu, ông sẽ bất thần tuyên bố: “Đảo chính bắt đầu”, và phát lệnh hành động. Nhưng, theo một VIP, K.K (sếp quân đội) kể lại, đến 1 giờ kém 5 phút, Kỳ “lắng tai nghe vẫn không thấy động tĩnh gì hết”; 1 giờ đúng: vẫn vậy!. VIP thuật: Năm phút sau “nghe tiếng động cơ hình như tiếng chiến xa vô (như tín hiệu đã báo), Kỳ lật đật xô ghế đứng dậy, chưa kịp tuyên bố thì một trung úy chạy vô cho biết đó là tiếng của một trực thăng Mỹ đang đáp” chứ chẳng phải xe tăng xe tiếc gì cả. May quá, Kỳ kịp ngậm miệng bước xuống, chưa hô “đảo chính” ai cả. Đợi thêm tới 1 giờ 30 trưa đó (31.10) đành giải tán, quay về gặp tướng Minh và trách: “Tại sao đình lại mà không cho biết, suýt một chút là chết hết cả đám!”. Ông Minh xin lỗi vì quên thông báo. Thật là một cái quên chết người và rất “khó quên”! Nguyen Cao Ky Đúng 1 giờ 30 trưa hôm sau 1.11, không phải Nguyễn Cao Kỳ, mà Dương Văn Minh tuyên bố: “Đảo chính bắt đầu” và tước vũ khí các tướng tá phe Diệm. Lúc đó, Nguyễn Cao Kỳ đang…ăn trưa tại một nhà hàng Sài Gòn. Tài xế ông ta từ căn cứ phóng xe tới phanh rít trước cửa, chạy vào kêu: “Trung tá trở về căn cứ ngay. Có chuyện lạ đang xảy ra”. Lập tức, Kỳ vọt ra xe đích thân cầm lái phóng như bay về Tân Sơn Nhất. Đến cổng, Tham mưu trưởng không quân là đại tá M. chặn lại la lớn: “Trời! Có anh đây rồi! Đảo chính đã bắt đầu và chúng tôi muốn anh bắt đại tá Nguyễn Hữu Hiền!”. Đại tá Hiền là tư lệnh không quân, vốn chơi thân với Ngô Đình Nhu. Kỳ chụp một cây súng tiểu liên, lái xe thằng đến văn phòng Bộ Tư lệnh Không quân, một mình gõ cửa bước vào. Đại tá Hiền dường như đoán trước việc phải xảy đến, ông ta ngồi yên trên bàn viết, Kỳ lễ phép: “Thưa đại tá tư lệnh, đại tá đã bị bắt giữ”. Ông ta không mấy ngạc nhiên trước diễn biến bất lợi cho mình đó. Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ viết: “Ông Hiền là một phi công xuất sắc, và trong vòng mấy tháng tôi đã có thể vận dụng ảnh hưởng của tôi để tìm cho ông ta một việc làm ở hàng không Việt Nam. Không bao lâu, ông ta được giao cho lái một phản lực lớn, lãnh được nhiều tiền hơn hẳn số tiền mà chẳng bao giờ tôi hy vọng lãnh được với tư cách là tư lệnh không quân”. Sau khi bắt giữ đại tá Hiền, lúc gần 3 giờ chiều, cuộc tiến công tuy “ít đổ máu nhưng tốc độ là điều sống còn” đó bị chận lại vì lực lượng trung thành phòng vệ Phủ Tổng thống chống trả quyết liệt. Trần Thiện Khiêm điện khẩn bảo Nguyễn Cao Kỳ “hành động ngay”. Kỳ lệnh lấy vài chiếc máy bay và bay ngay bên trên dinh tổng thống ở cao độ thấp để gây khiếp sợ, rồi bắn một vài tên lửa xuống thành lớn của bộ phim đóng gần dinh: “Sau khi họ bắn chỉ có hai tên lửa: quân giữ thành của Diệm đầu hàng. Đối với tôi đó là một giây phút lịch sử không phải chỉ vì đã làm thay đổi được cán cân trong việc lật đổ chế độ Diệm mà lần đầu tiên, với cương vị một người không quân, tôi còn thí nghiệm được giá trị của sức mạnh không quân khi được sử dụng để yểm trợ bộ binh khi gặp khó khăn. Tôi quả quyết rằng nếu tôi không ra lệnh hai chiếc máy bay nhỏ đó cất cánh thì cuộc đảo chính đã thất bại”. (Chúng ta đã thua trận ở Việt Nam như thế nào? – Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ) *. Mười ngày sau, bước xuống máy bay sau một chuyến đi dự lễ bên ngoài Sài Gòn, tướng Minh bảo: “Kỳ à, tôi đã quyết định bổ nhiệm anh làm tư lệnh không quân”. Sang năm 1964, Kỳ tiếp tục thăng tiến trong bối cảnh Mỹ muốn dùng “nhóm tướng trẻ” như Kỳ để mở rộng chiến tranh. Tháng 4 năm đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara đến Việt Nam cao hứng hô khẩu hiệu: “Việt Nam muôn năm” bằng tiếng Việt, sau đó tăng viện trợ quân sự lên 50 triệu đôla để Sài Gòn bắt thêm 50.000 thanh niên vào lính, huấn luyện và tung 7.500 cán bộ “dày xéo nông thôn”, tăng cường hải lục không quân và kho bãi hậu cần, quân tiếp vụ. Đầu năm 1965, Kỳ đã được phong tướng, làm ủy viên ngoại giao của thường vụ Hội đồng Quân lực Sài Gòn, tán thành sự kiện Mỹ đưa lực lượng thủy quân lục chiến đầu tiên tới Đà Nẵng tham chiến và ném bom miền Bắc. Sau khi đích thân lên máy bay chào từ biệt Nguyễn Khánh trong ngày Khánh ra nước ngoài, Kỳ và “nhóm tướng trẻ” nắm lấy quyền bính, loại thằng cò các “tướng già”, muốn độc quyền đứng dưới bóng tòa đại sứ Mỹ. Đến giữa năm 1965, sau một loạt các biến động, chính phủ do ông Phan Huy Quát làm thủ tướng lung lay, dẫn đến cuộc họp triệu tập vội vàng đêm 12.6 với sự có mặt của quốc trưởng Phan Khắc Sửu mà Nguyễn Cao Kỳ ghi lại qua những dòng không mấy văn vẻ, đôi chỗ giọng điệu hơi xấc: “Sửu có mặt tại phiên họp – với phần xác chứ không phải phần hồn, bởi vì không có một ai có thể bàn luận nghiêm chỉnh với ông già này về bất cứ một vấn đề gì được. Sửu luôn luôn nói lải nhải, giảng thuyết không mạch lạc về nguyên tắc thượng tôn pháp luật và cách xử sự khi làm chính trị. Rốt cuộc bất thình lình, Quát đập mạnh xuống bàn và không có một lời mở đầu nào cả, đã nói một cách cộc cằn: Tôi xin từ chức. Vì hội đồng quân lực đã chỉ định tôi làm thủ tướng, hôm nay tôi xin giao trả quyền hành thủ tướng lại cho hội đồng quân lực”. Như vậy, sau các “tướng già” bị loại, đến lượt các “chính khách già” tự phủ nhận đứng bên lề chính trường. Kỳ (và Thiệu) mau chân nhảy lên “bàn tiệc quốc gia” sau đêm đó. Tìm Thủ tướng mới, Thiệu bảo: “Để cho thằng Kỳ làm!” Cuộc họp trên kéo dài từ 8 giờ tối đến 12 giờ rưỡi khuya tạm ngưng. Sáng hôm sau, họp tiếp tại tổng hành dinh Bộ Tư lệnh Thủy quân lục chiến để cử thủ tướng mới thay ông Quát. Có 50 thành viên cấp cao của Hội đồng Quân lực và “nội các rệu rã” ngồi hai ngày một đêm để chỉ định người vào chức vị ấy. Nguyễn Văn Thiệu bấy giờ là trung tướng được ông Kỳ đề cử. Nhưng Thiệu từ chối và đề cử “ngược lại” Kỳ. Kỳ lúc đầu đẩy đưa qua Nguyễn Chánh Thi kèm theo lời “bình loạn” công khai trước mặt Thi: - Xét cho cùng, hình như thiếu tướng là người có đủ điều kiện để lãnh đạo. Thiếu tướng có ý thích chính trị nhiều hơn hầu hết các tướng lĩnh khác và thiếu tướng khoái được nổi tiếng! Nghe xong Nguyễn Chánh Thi nổi quạu, không chỉ từ chối một lần mà đến cả chục lần đây đẩy: “Không! Không! Không!” trong suốt hai ngày “nghị sự”. Cuộc họp “nghỉ ăn trưa với bánh “xăng-quych” và uống bia với nước ngọt Hoa Kỳ và khi chúng tôi nhóm lại, tôi đã đề cử tướng Có”. Ông Kỳ kể như vậy và tiếp “Có cũng từ chối”, mệt lả, cả hội trường tạm đình phiên họp vào 10 giờ đêm, ngủ và ăn cơm tối tại chỗ. Sáng sau nữa, “bầu” tiếp chưa xong, nghỉ uống cà phê, bất ngờ Thiệu bước về phía Nguyễn Cao Kỳ nói thẳng: “Kỳ, tại sao anh không nhận làm thủ tướng?”. Rồi vào họp, theo hồi ký của ông Kỳ, Thiệu nói với giọng van nài: -Yêu cầu anh Kỳ đứng ra thành lập chính phủ! Nhưng sau lưng Kỳ, ông Thiệu kêu Kỳ bằng “thằng”, đã khoèo Nguyễn Chánh Thi ra đứng riêng (như hồi ký của Thi kể) mà thì thầm vào tai: -Để cho thằng Kỳ làm đi! Đến khi Nguyễn Cao Kỳ nhận lời làm “thủ tướng” được một tháng (bấy giờ Thiệu lên làm quốc trưởng) bèn bảo Kỳ: -Chúng ta phải tổ chức một buổi lễ liên hoan. Kỳ có hơi “ngớ người” hỏi lý do vì sao mở tiệc? Thiệu bảo: “Thì chính phủ của anh đã tồn tại được một tháng rồi!”. Câu ấy hàm ý là “cái chính phủ” của Kỳ lẽ ra phải bị ngã đổ một, hai tuần sau khi ra mắt kia chứ. Tồn tại một tháng là “kỳ tích” đáng liên hoan rồi! Mặc kệ Thiệu mỉa mai, nhân đó hàng tháng Kỳ cùng các đồng sự mở tiệc! Cuộc họp trên có thể xem là một trong các điển hình về sinh hoạt chính trị bát nháo trên sân khấu Sài Gòn tả-pí-lù thời đó. Mà “Thủ tướng” Kỳ, vốn người trong cuộc, đã phải thốt lên là “đáng buồn cười”. Không lâu sau, với sự hỗ trợ của Mỹ, thế lực phe Kỳ nhanh chóng át hẳn Thiệu từ hội nghị Honolulu. Nhưng rồi Thiệu quật lại vào cuối năm 1967 lên làm “tổng thống”, đẩy Kỳ xuống hàng “phó”. Đầu những năm 1970. Kỳ thất thế hẳn so với Thiệu, tạm lui vào vòng tay người đẹp Đặng Tuyết Mai lúc ấy đã thành vợ mình và bắt đầu sống với những hồi ức. Trong đó tiệc cưới Kỳ - Mai có tiếng nổ đôm đốp của 7.800 chai sâm – banh mở đầu những ngày “mộng dưới hoa” ? Thử giở lại hồi ký những trang đầu Kỳ chép…(còn nữa) Mai Nguyễn
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 8:43:32 GMT 9
Tại sao hỗn loạn lại diễn ra quá đỗi nhanh chóng ? Hồ sơ số 31559 - Font PTTg (lưu trữ phát biểu của tổng thống Thiệu): “Nhiều tỉnh đã xảy ra chuyện đồng bào lũ lượt kéo hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn đi. Binh sĩ vô kỷ luật bắn phá, cướp bóc, trong đó có đặc công Cộng sản trà trộn, rỉ tai nói với đồng bào: “Đi lại chiếm phi trường đi, để có tàu bay mà đi (di tản); đồng bào đi lại chiếm hải cảng đi để có tàu thủy mà đi; đồng bào cứ ra giữa phi đạo ngồi đi, rồi có tàu bay mà đi”. Giành giựt nhau, đạp nhau, chém giết nhau, bắn giết nhau để rồi rốt cuộc không ai đi được hết. Trong sự hỗn loạn, nhà nước không tổ chức được cuộc di tản bằng máy bay, nhà nước không tổ chức được cuộc di tản có trật tự bằng tàu thủy, để trễ nải 3, 4 ngày sau. Trong lúc đó binh sĩ cũng không tổ chức được chiến đấu, Cộng sản nó sáp lại gần, than ôi, lúc đó đã trễ quá rồi (…) cho nên bây giờ hàng ngàn đồng bào còn kẹt lại những chỗ như Đà Nẵng, Qui Nhơn chẳng hạn”. Phát biểu trên (4.4.1975) cho thấy sợ hãi quá mức đã gây nên sức ép tâm lý trong dân chúng và binh lính Sài Gòn, dẫn đến hỗn loạn. Đại sứ Mỹ Martin nhận định (tương tự): “Yếu tố đáng sợ nhất chính là sự hoảng hốt. Sự hoảng hốt có thể là kẻ giết người, là kẻ phá đổ, và là yếu tố làm tê liệt mọi việc mà ta cần phải tránh với bất cứ giá nào vào lúc đó”. Câu ấy của Martin được TS. Nguyễn Tiến Hưng (cố vấn tổng thống Thiệu) trích dẫn trong cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” (xuất bản lần đầu năm 2005 bởi cơ sở Hứa Chấn Minh - San Jose, CA). Đến 16.4.1975 Phan Rang thất thủ (xem kỳ 1). Qua hôm sau 17.4.1975, đại sứ Martin nhận mật điện từ Mỹ: Người nhận: Martin Độ mật: Tối mật “Chúng tôi vừa họp xong một cuộc họp liên bộ để duyệt xét tình hình miền Nam Việt Nam. Ông Đại sứ phải biết rằng trong phiên họp của Ủy ban Đặc nhiệm Washington hôm nay, hầu như không có ai ủng hộ việc di tản người Việt và việc dùng quân lực Mỹ yểm trợ bất cứ việc di tản (người Việt) nào. Quan điểm chung của các giới quân sự, Bộ Quốc phòng và CIA là phải rút ra cho lẹ và ngay lập tức”. (“We have just completed an interagency review on the state of play in South Vietnam. You should know that at the WSAG (Washington Special Action Group) meeting today, there was almost no support for the evacuation of Vietnamese, and for the use of American force to help protect any evacuation. The sentiment of our military, DOD (Department of Defense) and CIA colleagues was to get out fast and now”). Để bạn đọc tiện theo dõi các diễn tiến đầy kịch tính trong các bài tới, ở cuối bài này, chúng tôi trích giới thiệu trước đoạn TS. Hưng viết về cuộc tháo chạy do Nhà Trắng lên kế hoạch điên rồ (crazy plans) sau: “Để giúp cho việc ra đi được yên ổn và không tổn hại nhiều đến uy tín của mình, Hoa Kỳ đã có 4 dự định chính: 1. Mang thủy quân lục chiến vào Sài Gòn để phụ trách di tản 6.000 người Mỹ và một số rất ít người Việt Nam liên hệ. 2. Tác động với phía Việt Nam để tránh tình trạng hỗn loạn vào giờ phút chót. 3. Nhờ cậy Liên Xô dàn xếp với Hà Nội để không cản trở việc di tản. 4. Sắp xếp một giải pháp chính trị để có một thời gian chuyển tiếp”. Martin: “Người Việt Nam sẽ cho rằng Hoa Kỳ mang thủy quân lục chiến vào để di tản người Mỹ và mặc kệ số phận người Việt ở đây - đó là một hành động phản bội trắng trợn của Hoa Kỳ (…) tình báo của chúng tôi đã có rất nhiều những báo cáo chính xác là nếu chúng ta mang số đông thủy quân lục chiến vào để di tản người Mỹ, chúng ta sẽ phải chiến đấu để mở đường tháo chạy. (Lúc ấy) không quân Việt Nam (không quân Sài Gòn) sẽ bắn rơi các máy bay vận tải của mình (chở người Mỹ ra đi), vì chúng ta bỏ rơi chiến hữu, phó mặc họ cho Bắc Việt”. Và một quan chức ở Sài Gòn nói thẳng với Kissinger rằng: “Nếu các ngài rút người Mỹ ra và bỏ rơi chúng tôi trong hoạn nạn, các ngài có thể phải đánh nhau với một sư đoàn quân đội miền Nam (quân đội Sài Gòn) để mở lối ra”… Để gỡ rối, giám đốc CIA Mỹ W. Colby nói gì và làm gì ? (còn nữa).
William Colby - Giám đốc Cục tình báo trung ương Mỹ CIA, từng có nhiều năm trực tiếp chỉ đạo hoạt động tình báo vùng Viễn Đông và Việt Nam, cố vấn Bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam, sáng 28.4 đã vội vã bước vào căn phòng đặc biệt nằm dưới tầng ngầm Nhà Trắng. Phòng này không trổ cửa sổ ra bên ngoài, mà được kiến trúc liên thông với các phòng đảm trách an ninh tình báo bên trong tòa nhà. Ở đó, các nhân vật chủ chốt trong nhóm “tháo gỡ khủng hoảng” và “phản ứng nhanh” mang tên: Nhóm hành động đặc biệt của Washington (Washington Special Action Group - WSAG) ngồi sẵn, như: Jim Schlesinger - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Bill Clements, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; George Brown, Tổng tư lệnh quân đội. Có mặt cả Henry Kissinger - Cố vấn Hội đồng An ninh quốc gia; Brent Scowcroft, Phó Cố vấn An ninh quốc gia… su kien lich su 30.4 William Colby - Giám đốc Cục tình báo trung ương Mỹ C.I.A Colby khai mạc cuộc họp theo đúng thể thức và cảnh báo ngay về tình hình nguy ngập của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, đại để : - Hiện chính quyền của tướng Dương Văn Minh đã không theo kịp đà phát sinh của thời cuộc với nguy cơ lớn nhất là Cộng quân (quân đội Cộng sản Việt Nam) đang tiến đến cửa ngõ Sài Gòn và sẽ đặt chân vào nội đô trong vòng ngày mai hoặc có thể ngay trong hôm nay… Vì Quân giải phóng đã và đang đánh chiếm các mục tiêu quan trọng theo 5 hướng tiến về Sài Gòn. Ngay hạ tuần tháng 4.1975, theo tài liệu Quân ủy Trung ương, các lực lượng lớn đã lần lượt điều động vào vị trí tiến quân: “1. Ở hướng bắc: Quân đoàn 1 đã có mặt ở khu vực nam Sông Bé. 2. Ở hướng tây bắc: Quân đoàn 3 tiến về Dầu Tiếng (về sau tràn ngập căn cứ Đồng Dù, bắt sống tư lệnh sư đoàn 25 bộ binh Lý Tòng Bá). 3. Ở hướng tây: Đoàn 232 áp sát tuyến sông Vàm Cỏ Đông và Hậu Nghĩa. 4. Ở hướng nam: Trung đoàn 88 và Trung đoàn 24 được tăng cường thêm Trung đoàn 271b đứng chặn ở Cần Giuộc. Sư đoàn 5 và Sư đoàn 8 áp sát đường số 4 đoạn từ Tân An đến Cai Lậy, khống chế Mỹ Tho. Đồng chí Lê Đức Anh, Phó tư lệnh Miền, Phó tư lệnh Bộ chỉ huy chiến dịch, trực tiếp chỉ huy hướng tây và hướng nam. 5. Ở hướng đông: Quân đoàn 4, sau khi giải phóng Xuân Lộc, áp sát Trảng Bom. Quân đoàn 2, Sư đoàn 3 và Lữ đoàn 52 (Quân khu 5) tiến sát Long Thành, Vũng Tàu, Nước Trong, Bà Rịa. Đồng chí Lê Trọng Tấn, Tư lệnh cánh quân phía đông, nay là Phó tư lệnh chiến dịch chỉ huy hướng này. Tất cả 6 trung đoàn đặc công và hàng chục đội biệt động đã sẵn sàng từ vùng ven đến nội thành”. Xét diễn tiến, đã quá bất lợi, nên Colby yêu cầu di tản gấp rút tất cả người Mỹ. Nhưng đại sứ Mỹ Martin ở Sài Gòn còn chần chừ, trì hoãn, vì hy vọng sẽ thương lượng với “Bắc Việt về một giải pháp hòa bình” vào giờ cuối. Nên Colby cùng Nhóm hành động đặc biệt của Washington gắng đợi thêm. Nhưng “phép lạ” đã không xảy đến. Vì : Cuối chiều hôm ấy, sau cuộc họp bất thường ở Nhà Trắng, lúc 16 giờ 5 phút 28.4 - giờ Washington (tức 4 giờ 5 phút, sáng 29.4 ở Sài Gòn), Quân giải phóng từ trận địa pháo Nhơn Trạch bắn hơn 300 quả đạn 130mm vào phi trường Tân Sơn Nhất, phá hủy máy bay C130, làm nổ kho nhiên liệu, đào lên xới xuống đường băng với những vết đạn pháo lổ chổ nên máy bay không cất cánh được và dĩ nhiên cuộc di tản theo đường Tân Sơn Nhất bế tắc. Nhận tin, tổng thống Ford triệu tập ngay cuộc họp bất thường với Hội đồng An ninh quốc gia lúc 19 giờ 30 tối 28.4 (giờ Washington) và quyết định triển khai kế hoạch di tản chỉ bằng trực thăng (chứ không bằng máy bay vận tải lớn ở Tân Sơn Nhất nữa) bốc đi từ nóc Tòa đại sứ và một số cao ốc ở trung tâm Sài Gòn. Đợt di tản cuối cùng này mang mật mã O.F.W, viết tắt của mật danh “Operation Frequent Wind”, có nghĩa đen: “Cuộc hành quân gió nhanh”- song người ta vẫn thích diễn dịch là: “Cuộc hành quân cuốn theo chiều gió”cho hợp với tình cảnh lúc ấy. Sau cuộc họp chỉ vài giờ, tổng thống Ford hạ lệnh bắt đầu đợt O.F.W ngay trong đêm 28.4.1975, lúc 22 giờ 51 - giờ Washington (nhằm 10 giờ 51 sáng 29.4.1975 - ở Sài Gòn). Colby viết trong hồi ký, khi O.F.W cất cánh có “đám đông người Việt Nam tìm cách nhập vào đợt di tản của người Mỹ” đưa đến tình trạng hỗn loạn. Hôm sau nữa, ngày 30.4: “Một số sĩ quan người Việt đã tự bắn vào đầu tự vẫn, người thì vì danh dự bị hoen ố trước thất bại, người thì lo sợ trước những nhục hình tàn bạo đang chờ đợi họ trong những “trại cải huấn” của cộng sản. Còn ở rất xa đấy, tại Washington, tôi không có cách nào để cứu họ. Suốt ngày hôm ấy, tôi đã sống trong một tâm trạng cay đắng ê chề khi cảm thấy mình bất lực trước thảm kịch của những sinh mạng bị mất đi và của biết bao năm nỗ lực của cả người Việt Nam và người Mỹ đã từng đổ ra để hy vọng biến Việt Nam thành một đất nước tự do” (William Colby - Một chiến thắng bị bỏ lỡ, bản dịch của Nguyễn Huy Cầu, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2007, tr. 14). Đến 3 giờ 15 ngày 30.4, lúc trời chưa sáng, một phi công Mỹ lái chiếc CH-46 đáp xuống nóc tòa đại sứ chuyển bức thư viết tay cho ông Martin do đô đốc Gayler gửi, cho biết Gayler được lệnh “chỉ gửi thêm 19 trực thăng, và không gởi thêm nữa. Đại sứ Martin sẽ phải ra đi chuyến cuối cùng (trên chiếc trực thăng thứ 19). Sau này ông Gayler tiết lộ là ông đã có thẩm quyền để áp giải (cưỡng bức) nếu ông đại sứ (Martin) cưỡng lại lệnh tổng thống” (David Butler, dẫn theo Nguyễn Tiến Hưng trong sđd. Kỳ 2). Đúng là trước đó đại sứ Martin đã “cưỡng” lại lệnh “di tản nhanh chóng người Mỹ” của tổng thống Ford. Mục đích của Martin nhằm có thì giờ để đưa thêm nhiều người Việt ra đi hơn nữa và tránh khả năng không quân Sài Gòn trong lúc tức giận vì bị bỏ rơi có thể dội bom xuống tòa đại sứ… (còn nữa).
Cuộc tiến quân “điên rồ” trên được bàn định và phác thảo bởi Ngũ Giác Đài, đứng đầu là J. Schlesinger (Bộ trưởng Quốc phòng); Bill Clements (Thứ trưởng Quốc phòng); William Colby (Giám đốc CIA) và một số quan chức cao cấp khác của Nhà Trắng… Họ chủ trương, cùng lúc với cuộc đổ bộ của TQLC, là triển khai lực lượng không quân đặc nhiệm với nhiều phi đội máy bay phản lực (sẽ đánh bom sát phạt khi cần) quần thảo và gầm rú, uy hiếp bầu trời Sài Gòn suốt đợt di tản. Dưới mặt biển, 4 hàng không mẫu hạm: Hanthingy, Coral Sea, Midway và Interprise (kéo theo nhiều tàu hộ tống khác có 2.200 TQLC bảo vệ) sẽ áp sát vùng biển Nam Việt Nam, sẵn sàng nã pháo vào các vị trí “nhạy cảm và cần thiết” ở trung tâm Sài Gòn nếu lực lượng TQLC trên bờ yêu cầu. Khi phối hợp tác chiến giữa TQLC (trên bộ) với không quân (trên không) và hạm đội 7 (ngoài khơi) đã “giáp vòng”, một “cầu hàng không” gồm hàng chục (khả năng có đến hàng trăm) chiếc trực thăng - chủ lực là loại lớn CH-53 có sức chứa 50-60 người mỗi chiếc - được huy động để bay ra bay vào Sài Gòn liên tục nhằm chở hết 6.000 người Mỹ, lần lượt đáp xuống các hàng không mẫu hạm kể trên, với phương châm: “tốc hành”, “nhanh và gọn”… Mọi việc nhằm mục đích không để những người Mỹ và gia đình của họ “lọt vào tay cộng sản” - còn số đông người Việt từng cộng tác với Mỹ di tản được hay không là “vấn đề thứ yếu”… Trên đây là tóm lược kế hoạch mang mật danh Talon Vise - một trong những “kế hoạch di tản điên rồ” (crazy plans) của Mỹ - lần đầu tiên được TS. Nguyễn Tiến Hưng đưa ra ánh sáng công luận, qua cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” (sđd Kỳ 2) ấn hành cách đây 10 năm (2005) - song đến nay (2015 và cả mai sau) vẫn còn nguyên giá trị tư liệu: “hy vọng những thế hệ con cháu của đoàn người di tản là những người Mỹ mai đây sẽ nắm địa vị quyền hành, sẽ không bao giờ đối xử như vậy đối với những đoàn người di tản từ các đồng minh khác trong một tình huống nào đó, như từ Iraq, Afghanistan, Đài Loan, Đại Hàn, khi đồng minh của họ cuốn gói ra đi” (Nguyễn Tiến Hưng). nguyen tien hung vach tran ke hoach di tan dien ro Taylor vise cua My Hải quân Mỹ đẩy một chiếc trực thăng từ tàu Blue Ridge xuống biển để lấy chỗ cho các trực thăng khác đáp xuống… Những “kế hoạch di tản điên rồ” như kiểu Talon Vise được Washington hối hả vạch ra từ những tuần cuối tháng 3.1975, trong bối cảnh cuộc tiến quân “thần tốc của phe Cộng sản” đang tăng cường độ: “Ngày 25.3: Bộ Chính trị chủ trương tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất để giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa - Ngày 26.3: giải phóng TP. Huế - Ngày 29.3: giải phóng Đà Nẵng (…) Các sân bay Gia Lâm, Vĩnh Phú, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Kontum nhộn nhịp khác thường. Các loại máy bay lên thẳng nặng, nhẹ, các loại máy bay chở khách đặc biệt của ta đều được huy động, không những để chở người, chở đạn, chở vũ khí, chở sách, báo, phim ảnh, tranh vẽ, các bản nhạc… mà còn chở hàng tấn bản đồ Sài Gòn - Gia Định vừa mới in xong (…) Các bến sông Hồng, sông Gianh, sông Mã, sông Hàn, các cảng Hải Phòng, cửa Hội, Thuận An, Đà Nẵng, cũng ngày đêm nhộn nhịp” (Văn Tiến Dũng - Đại thắng mùa Xuân). Những hoạt động đó ít nhiều được CIA thâu thập, kết hợp với nhận định và chủ trương của Bộ Quốc phòng Mỹ, để hình thành nên “kế hoạch điên rồ”. Sau đó nội dung các “crazy plans” được Nhà Trắng và Ngũ Giác Đài “thông báo nhanh” đến đại sứ Mỹ Graham Martin ở Sài Gòn để tham cứu. Và Martin “hết hồn” khi biết tổng thống Ford cùng cấp lãnh đạo ở Washington muốn dùng “sức mạnh quân sự” cho một giải pháp “di tản hết” người Mỹ. Lập tức, Martin gởi chính phủ Mỹ và Cố vấn An ninh quốc gia Kissinger bức mật điện khá dài, khẳng định: “Lệnh di tản người Mỹ đột ngột có thể gây bạo động ở Sài Gòn. Nếu không giữ bình tĩnh mà lại đưa thủy quân lục chiến vào đây thì có thể gây sự nổi giận không thể lường được (…). Tôi nhắc lại một lần nữa là sẽ có náo động lớn nếu gửi quân đội Mỹ vào Sài Gòn”. Những lời thẳng thắn đó phù hợp với bình luận của tờ Newsweek (28.4), rằng: Kế hoạch phòng hờ để bảo vệ (di tản) người Mỹ được soạn thảo ra dường như là để “đối phó với những người lính miền Nam (quân đội Sài Gòn) đang liều mạng tìm lối thoát hoặc uất hận vì bị bỏ lại, còn nhiều hơn là đối phó với đoàn quân cộng sản đang tiến tới !”. Kể cả sau ngày 30.4.1975, Martin đã một lần nữa trình bày trước Quốc hội Mỹ (1976): “Tôi cho rằng mang quân đội Mỹ vào là một sai lầm lớn, vì, thưa quý vị, nếu quý vị đứng vào hoàn cảnh của người Việt Nam thì quý vị sẽ phản ứng như thế nào?”. Khi bị (Quốc hội) chất vấn là tại sao ông đại sứ (Martin) không yêu cầu Tổng thống (Ford) cho di tản trước ngày 29.4 (ngày Tân Sơn Nhất bị pháo kích), Martin trả lời: “Không, vì theo đánh giá kỹ nhất của tôi, nếu làm sớm hơn sẽ có nguy cơ là xảy ra một tình trạng hỗn loạn với kết quả là một số rất đông người Mỹ sẽ chết. Nó sẽ dẫn tới một sự khủng khiếp nặng nề nhất, đó là nhu cầu phải đưa quá nhiều quân lực Mỹ vào, và chúng ta sẽ phải chiến đấu với quân đội miền Nam (Sài Gòn) để mở đường tháo lui”. TS. Hưng nhận định: “Ngày nay ta mới hiểu hết được tâm tư của đại sứ Martin. Rõ ràng là thoạt đầu Washington chỉ muốn di tản nhân viên tòa đại sứ Mỹ, cơ quan Tùy viên Quốc phòng DAO, công dân Mỹ và một số rất ít người Việt làm việc cho Mỹ mà thôi. Và phương thức di tản thì lại quá ư là nguy hiểm. Ta thử tưởng tượng: nếu Mỹ đem từ 3 tới 6 sư đoàn vào để chỉ di tản người Mỹ và bà con (của họ), trước hết là TQLC chiếm đóng phi trường Tân Sơn Nhất, rồi Tòa đại sứ Mỹ; sau đó trực thăng và từng đoàn xe Mỹ chở người tới phi trường (và cũng như vậy, di tản từ các địa điểm khác như Biên Hòa, Cần Thơ). Khi thấy sự phản bội quá lộ liễu như thế, liệu các đơn vị quân đội, cảnh sát, nghĩa quân, địa phương quân, dân chúng Việt Nam Cộng hòa (miền Nam) có để yên hay không ? Vào đầu tháng 4, sau những buổi họp tại dinh Độc Lập và Phủ Thủ tướng, tôi cũng đã bắt đầu nghe thấy hai chữ “đ.m” (chửi Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam - GH)”… (còn nữa).
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 8:46:43 GMT 9
..Ở giai đoạn tan rã (4.1975), lực lượng còn lại của quân chủng này vẫn làm đại sứ Martin phải nhiều đêm mất ngủ, vì nếu họ quay mục tiêu oanh kích về phía người Mỹ trong những giờ cuối của cuộc chiến, hậu quả sẽ ra sao ? Vì lẽ đó, Martin phản ứng quyết liệt về “những kế hoạch điên rồ” (xem Kỳ 4) của Nhà Trắng, thuyết phục để tổng thống Ford đồng ý với mình về chủ trương di tản người Việt, đồng thời xét lại các “crazy plans” đầy bất trắc. Cuối cùng, TT. Ford ngả về phía Martin và triệu tập phiên họp kín tại Nhà Trắng với những thành viên được chỉ định trước, trong đó có các thượng nghị sĩ thuộc Ủy ban Đối ngoại, để cảnh báo về hậu quả tiêu cực của phương án “chỉ di tản người Mỹ” và “bỏ mặc người Việt” (hoặc di tản người Việt với số lượng ít ỏi, chiếu lệ). Giả thử phương án kia thực thi, sẽ không tránh khỏi phản ứng quyết liệt của không quân Nam Việt Nam. TT. Ford trong hồi ký của mình (xuất bản 1979), nhắc lại: - Chúng tôi cảm thấy rằng một cuộc di tản vội vã sẽ có những hậu quả trầm trọng. Một tình trạng hoảng hốt lớn tại khu thủ đô miền Nam (Sài Gòn) sẽ có thể phát sinh, và trong sự chua cay là đã bị phản bội, quân đội miền Nam (Việt Nam Cộng hòa) có thể quay súng (bắn) vào người Mỹ !. Nguyễn Tiến Hưng viết, TT. Ford nói rõ thêm: “Nếu rút hầu hết người Mỹ ra cùng một lúc sẽ làm cho người Việt Nam nghĩ rằng Mỹ đang tháo chạy, sẽ có thể gây ra những cuộc tấn công vào người Mỹ”. Cuối cuộc họp, TT. Ford yêu cầu các nghị sĩ có mặt đừng để báo chí biết “phiên họp chỉ bàn tới chuyện di tản” - mà cần thông báo chung chung là: “phiên họp bàn chuyện ổn định tình hình tại miền Nam Việt Nam” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd Kỳ 2). Sau phiên họp trên, từ Sài Gòn, Martin đưa khá nhiều phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa và gia đình của họ ưu tiên ra đi trước: “tất cả khoảng 2.000 người tới phi cảng Atapao ở Thái Lan” - với mục đích: “giảm thiểu khả năng trả thù và đụng độ (của không quân Sài Gòn) với lực lượng Mỹ”. Martin cảnh cáo “nếu cảm thấy bị bỏ rơi quá tàn nhẫn, phía Việt Nam sẽ trút sự giận dữ lên đầu những người Mỹ còn lại”. Ông giải trình trước Quốc hội: - Không quân Việt Nam sẽ bắn rơi các máy bay vận tải của mình (máy bay chở người Mỹ di tản khỏi Sài Gòn - GH) khi chúng ta bỏ rơi chiến hữu, phó mặc họ cho (quân đội) Bắc Việt (Graham Martin - Testimony, tr. 548 - chú thích của Nguyễn Tiến Hưng, sđd Kỳ 2). Martin nhận định phi công là phần tử nắm trong tay phương tiện cơ động nhanh chóng và nguy hiểm nhất (máy bay) và có cơ hội cũng như điều kiện để trút “uất hận” lên bất cứ nơi nào tập kết người Mỹ (chuẩn bị di tản) và nếu phi công Việt Nam Cộng hòa bắn rơi ba bốn chiếc máy bay vận tải Mỹ thì “chắc chắn là sẽ có nhiều trong số 6.000 người Mỹ phải chết, thêm vào đó là số thương vong không thể lường của quân đội hai bên - dĩ nhiên (lúc ấy) không lực từ Đệ thất hạm đội (hạm đội 7) sẽ vào uy hiếp (đánh trả), dẹp tan hết mọi cuộc tấn công. Nhưng (hậu quả) là Sài Gòn sẽ đổ nát như Baghdad và bao nhiêu người dân (vô tội) sẽ là nạn nhân?” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd Kỳ 2). Martin giải bày: - Tôi có một sự lo nghĩ trong lòng nhưng nó đã được giải quyết trước ngày cuối cùng của cuộc di tản, đó là một phần đông không quân Việt Nam đã được bay sang căn cứ Utapao ở Thái Lan, như vậy là đã di chuyển được khả năng (chiến đấu) của một số phi công chống đối trên bầu trời - họ có lẽ là phần tử uất hận nhất trong các quân chủng (Graham Martin, Testimony, tr. 586 - NTH). Những lời trên của Martin phù hợp với hồi ký của tướng Nguyễn Cao Kỳ (từng làm Tư lệnh Không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa): “Cộng sản biết rằng mất sân bay thì Sài Gòn cũng mất” nên đã mở đầu đợt đánh chiếm Sài Gòn vào giai đoạn đỉnh điểm bằng động thái đánh bom Tân Sơn Nhất: “Ngày 28.4.1975, quả bom hạng nặng đầu tiên rơi cách nhà tôi 300 mét. Lúc ấy có gần 400 người tụ tập ở đó, hay trên những bãi đất xung quanh. Họ là những gia đình binh sĩ xin chỗ máy bay (để rời Việt Nam). Nhiều người quyết định ngủ đêm ngay tại văn phòng, hoặc những ngôi nhà gần bên. Quang cảnh giống như một trại tị nạn. Lúc những quả bom đầu tiên làm rung chuyển nhà tôi, một anh phi công chạy vào phòng khách kêu lớn: “Tôi cất cánh đây !”. Nguyễn Cao Kỳ cũng hét: “Đồng ý. Đi đi”! Thế là anh phi công kia lao đến chiếc máy bay gần nhất. Cùng lúc, tướng Kỳ phóng lên một chiếc xe jeep cùng với thiếu tá thân cận của mình nổ máy chạy ra đường băng để xem thiệt hại tới mức nào. Tướng Kỳ thuật lại, lúc ấy: “Căn cứ vắng vẻ im lặng, khác lạ, trái ngược hẳn với quang cảnh nhộn nhịp thường ngày. Ai nấy đều chạy vào hầm trú ẩn và xe jeep của chúng tôi là vật duy nhất mà người ta thấy đang di chuyển (trên sân bay). Các phi công cộng sản chắc đã phát hiện ra chúng tôi, vì lẽ các máy bay của họ ở trên cao lượn vòng vòng rồi bắt đầu bắn xuống chúng tôi”. Kỳ xuống xe, nhảy vào một cái hố tránh đạn đào sẵn bên đường, nhìn lên ông thấy “lửa tóe ra từ những họng súng nhằm vào xe jeep - hàng chục máy bay của chúng tôi bị phá hủy trên mặt đất”. Kỳ quay về: “Điện bị cắt đứt. Chúng tôi không liên lạc với Bộ tổng tham mưu được nữa. Những người ở trong nhà phải thắp nến ăn cơm”. Rồi ông lại quay đi, đến Bộ tư lệnh Không quân, để thấy “một cảnh tượng cực kỳ hỗn loạn bày ra trước mắt, toàn bộ Bộ tư lệnh gồm khoảng 100 sĩ quan, tướng, đại tá và thiếu tá, tập hợp ở văn phòng tư lệnh. Tôi nhận thấy có cả vài tướng lục quân nữa. Ông tư lệnh không quân (trung tướng Trần Văn Minh - GH) cho tôi biết là người Mỹ đã cho lệnh di tản tất cả máy bay F5 sang Thái Lan và Philippines, hiện bộ tham mưu của ông ta đang chờ tại văn phòng này để người Mỹ lo liệu việc di tản”. (còn nữa).
Những người Việt bị bỏ rơi vẫn tiếp tục áp sát vào tiền sảnh của Tòa đại sứ, để rồi bị “lính thủy Mỹ dùng roi da để trấn áp”. Quá sốc, một số tài xế xe tải nổ máy và nhấn ga lao thẳng vào cổng. Bấy giờ trong sân số đông người Việt bị kẹt lại đang đứng thẩn thờ, gần như tuyệt vọng. Họ hiểu rằng không còn cơ hội ra đi nữa… Tình cảnh và các chi tiết trên được ghi lại bởi Oliver Todd - một nhà báo kỳ cựu từng trải nghiệm những tác nghiệp của mình từ chiến khu Việt Bắc (thời Pháp), đến những giờ phút mong manh nhất ở Tòa đại sứ Mỹ (Sài Gòn 1975). Oliver Todd viết (Lê Tuấn dịch): * 3 giờ 15 phút, chiếc trực thăng CH-46 đã hạ cánh xuống nóc sứ quán. Viên phi công đưa ra một thông báo: “Dựa trên báo cáo với con số tổng cộng là 726 người được di tản, tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương được phép cử ngay 9 máy bay trực thăng, không được quá con số này”. Những từ “không được quá” đã được nhấn mạnh tới hai lần. “Tổng thống chờ đợi ông đại sứ Martin sẽ đi chuyến trực thăng cuối cùng… Thân ái !”. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ cũng mong chuyến “trực thăng cuối cùng” sẽ cất cánh vào lúc 3 giờ 45 phút. Martin được yêu cầu phải thể hiện hết trách nhiệm đối với bức điện của Phủ tổng thống Hoa Kỳ. Polgar (đứng đầu tình báo Mỹ CIA tại Sài Gòn) báo trước là ông ta sẽ ngừng tất cả mọi giao dịch vào lúc 3 giờ 20 phút. * 3 giờ 30 phút: máy bay chỉ huy C-130 bay lượn vòng quanh Sài Gòn và gửi bức mật mã (…): Từ bây giờ sẽ chỉ đưa người Mỹ đi di tản nữa mà thôi. Ông đại sứ Martin sẽ lên chiếc máy bay chỉ dùng cho ông. Kissinger cũng gọi điện cho Martin: “Ông và các anh hùng của ông bắt buộc phải về nhà ngay !”. Nhà Trắng nhận bức điện của Martin: “Chúng tôi đề nghị được chấm hết nhiệm vụ vào lúc 4 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 - giờ Sài Gòn, cần thiết phải phá hủy các máy móc giao dịch liên lạc. Đây là bức điện cuối cùng của sứ quán Mỹ tại Sài Gòn”. * 4 giờ 42: chiếc trực thăng CH-46 mang tên “Lady Ace 09” hạ cánh xuống nóc tòa đại sứ. Viên phi công trình một mệnh lệnh của tổng thống Ford: “Ông đại sứ phải lên ngay chiếc Lady Ace 09 !”. Martin cùng với người tùy viên thông tấn, Polgar và đại tá Jacobson, lên máy bay. Nếu ông đại sứ từ chối không chịu ra đi vào lúc đó thì lại đã có một mệnh lệnh khác của đô đốc hải quân hạm đội Thái Bình Dương ký, là: “phải bắt ngay Martin đưa lên máy bay” (Oliver Todd - Tháng 4 ác liệt, Lê Tuấn dịch, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2004, tr. 267-269). Oliver Todd tường thuật tiếp: * 5 giờ 30 phút: 200 người Mỹ, trong đó có 170 lính thủy còn chờ ở sứ quán. Nhiều giờ trôi qua. Người lính thủy cuối cùng trèo lên cầu thang. Họ đã đóng chặt cửa, lại còn chốt thêm các thanh sắt (ở phía sau họ). Trong các khoảng trống của cầu thang và trong thang máy, họ vứt tất cả đồ đạc, bàn tủ, tất cả những gì rơi vào tay họ, để lập hàng rào chặn những người chạy trốn (di tản) đang đuổi theo họ. Các lính thủy phải mất hàng giờ mới vượt qua được tầng gác cuối cùng. Họ thả xuống những quả lựu đạn cay làm chảy nước mắt. Có một người trong số họ ném theo quả lựu đạn tấn công. Những người Việt Nam không thể trèo lên cầu thang được. Xung quanh sứ quán có những người lính của miền Nam Việt Nam, mang súng, đi lang thang. Trên nóc sứ quán, người ta phải đặt khẩu liên thanh để canh chừng họ… (…) Súng cối đã nổ gần sứ quán Mỹ. Lúc bình minh không có sương mù. Chuyến trực thăng cuối cùng đã đến. Cánh quạt của nó hút phải làn khói của lựu đạn cay làm cho các lính thủy ngạt hơi mở mắt không được, chập choạng trèo lên máy bay. Người lính Juan Valder đẩy những người khác lên trước. Viên đội trưởng có cảm giác là những người lính của mình ai cũng muốn lên máy bay sau chót để có thể tự hào nói: “Tôi là người cuối cùng rút khỏi Sài Gòn”. * 7 giờ 53 phút, chiếc trực thăng cuối cùng bay lên, có những máy bay tiêm kích Cobra hộ tống. Đây là lần đầu tiên, kể từ 10 năm nay, không còn bóng một người lính Mỹ trên đất Việt Nam. Khi đáp xuống con tàu chỉ huy Blue Ridge, Martin vội vào ngay “buồng thông tin” nơi Polgar đang nói chuyện với các nhà báo, tuyên bố ngay: - Nếu chúng ta giữ đúng mọi lời cam kết như một quốc gia xứng đáng với tên của nó (Hoa Kỳ - Mỹ) thì tất cả mọi việc sẽ không phải diễn ra như thế này ! (còn nữa).
Nhưng trưa ấy, Quân giải phóng đã tràn vào dinh Độc Lập, nên bài diễn văn trên không bao giờ được đọc. Tuy vậy, dưới góc độ tư liệu, vẫn có thể xem đó là bài diễn văn cuối cùng của nền Cộng hòa miền Nam (Sài Gòn) trước khi bị khai tử và cần được tham khảo. Bởi, nội dung bài diễn văn cho thấy vai trò và quan điểm của giới trí thức Sài Gòn vào thời điểm lịch sử 30.4.1975: 1. Muốn tiến đến giải pháp hòa giải và hòa hợp dân tộc. 2. Khẳng định thành phần chính phủ mới (dự định ra mắt trưa 30.4.1975) gồm những vị đã từng là nạn nhân của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và chưa hề tham gia hoạt động trong chính quyền đó. Nay chúng tôi giới thiệu toàn văn bài diễn văn nói trên để bạn đọc và các nhà nghiên cứu lịch sử tham khảo: Kính thưa Tổng thống, Kính thưa quý liệt vị, Nhận lãnh trách nhiệm thành lập nội các trong giai đoạn hiện tại là nhận lãnh công việc đội đá vá trời. Chúng tôi tuyệt nhiên không hề có ảo tưởng và đã nhận thức rõ các khó khăn vô cùng lớn lao đang chờ đợi. Nhưng chúng tôi không thể cam lòng từ chối trọng trách mà Tổng thống Dương Văn Minh giao phó vì quá thiết tha với hòa bình và hòa giải dân tộc. Hơn nữa, nếu có phải hy sinh, thiết nghĩ chúng tôi cũng có thể tự an ủi hy sinh đây là hy sinh cho chính nghĩa, cho hòa bình, cho nhân đạo, cho tình dân tộc, chứ không phải cho chiến tranh tang tóc, điêu tàn vô ý thức. Kính thưa Tổng thống, Kính thưa quý liệt vị, Những vị chấp nhận tham gia vào Chính phủ do chúng tôi điều khiển đều là những nhân vật đã từng tranh đấu cho Hòa bình, đã từng nếm trải đắng cay, đau khổ, hay đã từng là nạn nhân của chính sách hiếu chiến, tham nhũng, độc tài, độc diễn, của ông Nguyễn Văn Thiệu. Là những người trong sạch chưa hề tham gia chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, các quý vị mà chúng tôi mời tham gia Chính phủ này, hằng thiết tha ôm ấp hoài bão làm một gạch nối để thực hiện một sự hòa giải giữa các phe lâm chiến. Như vậy, Chính phủ nay là một Chính phủ gom những phần tử hoàn toàn thuộc thành phần thứ ba, theo tinh thần Hiệp định Paris. Thành phần thứ ba là thành phần đông đảo nhất trong cộng đồng quốc gia và vì thế cũng phức tạp nhất, bao gồm nhiều xu hướng dị biệt, đi từ Trung hữu sang tới Trung tả. Trước tình thế vô cùng khẩn trương của đất nước, chúng tôi không có đủ thời giờ để tiếp xúc thăm dò ý kiến của tất cả các đoàn thể, lực lượng chính trị thứ ba. Do đó, chúng tôi không dám có tham vọng đại diện cho tất cả thành phần thứ ba ở trong và ngoài nước. Nhưng đây là kết quả tối đa mà chúng tôi có thể thực hiện trong một thời gian tối thiểu. Hơn nữa, điều mà chúng tôi có thể đoan quyết cùng toàn thể đồng bào là ý chí tha thiết phục vụ đất nước trong một giai đoạn tối khẩn trương, không cho phép một ai trì hoãn hay chậm trễ. Chính thiện chí ấy đã thúc đẩy tất cả chúng tôi cùng đứng ra nhận lãnh nhiệm vụ khó khăn này, chứ không phải vì mưu đồ danh lợi. Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã từng nhiều lần kêu gọi phía Việt Nam Cộng hòa có một Chánh phủ Hòa bình, với các nhân vật không dính líu với chế độ Nguyễn Văn Thiệu, để tái lập thương nghị. Chính phủ Hòa bình nay giờ đây đã được thành lập. Thành phần thứ ba đã đứng lên để đóng góp cho sứ mạng hòa bình, cho sự nghiệp hòa giải và hòa hợp dân tộc. Đồng bào toàn quốc đang trông chờ từng ngày, từng giờ, từng phút để máu và nước mắt dân tộc ngưng chảy vì chiến cuộc. Chúng tôi thiết nghĩ rằng những người anh em phía bên kia chắc cũng không vui sướng trước cảnh súng đao và các tang tóc điêu tàn của đồng bào ruột thịt. Chúng tôi tin tưởng rằng mọi vấn đề dù khó khăn đến đâu, cũng có thể được giải quyết trên bàn Hội nghị với tinh thần hòa giải, hòa hợp và tình huynh đệ giữa những người con cùng một mẹ Việt Nam. Tại sao chúng ta còn cần phải bắn giết lẫn nhau, gây thêm tang tóc, đau thương, cùng cực cho nhau, khi chính sách Nguyễn Văn Thiệu đã cáo chung và các người lãnh đạo chế độ này đã đưa nhau xa lìa Tổ quốc, nếu không muốn nói là chạy trốn? Vấn đề chính còn lại là sự lựa chọn giữa chiến thắng quân sự hay chiến thắng lòng người, sự đoàn tụ trong tiếng reo mừng của Dân tộc hay sự ly tán trong lời than tiếng khóc của Quốc dân. Trước khi chấm dứt, trong niềm tin tưởng rằng tinh thần Hòa giải Hòa hợp Dân tộc và tình nghĩa đồng bào ruột thịt sẽ thắng, chúng tôi xin vắn tắt tóm lược chương trình của chính phủ hòa bình này trong bốn điểm thiết yếu như sau : 1. Vãn hồi hòa bình bằng đường lối hòa giải hòa hợp dân tộc trên căn bản Hiệp định Paris. 2. Tôn trọng các quyền lợi tối thượng của dân tộc và các tự do căn bản của con người. 3. Kiến thiết đất nước trong Hòa giải và hòa hợp. 4. Giao hảo và hợp tác trên trường quốc tế với tất cả các quốc gia bạn, không phân biệt ý thức hệ, trên căn bản bình đẳng và tôn trọng chủ quyền quốc gia. Sau đây là thành phần của Chính phủ hòa bình do chúng tôi điều khiển: - Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng ngoại giao : Giáo sư VŨ VĂN MẪU - Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng : Giáo sư BÙI TƯỜNG HUÂN - Phó Thủ tướng đặc trách Xã hội và Cứu trợ : Bác sĩ HỒ VĂN MINH - Quốc vụ khanh kiêm Tổng trưởng Y tế : Bác sĩ LÊ KHẮC QUYẾN - Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa : Giáo sư PHẠM ĐÌNH ÁI - Quốc vụ khanh : Luật sư TRẦN NGỌC LIỄNG - Tổng trưởng Nội vụ : Ông HỒNG SƠN ĐÔNG - Tổng trưởng Thông tin : Dân biểu LÝ QUÝ CHUNG - Tổng trưởng Giáo dục : Giáo sư NGUYỄN VĂN TRƯỜNG - Tổng trưởng Xã hội và Cứu trợ : Bác sĩ NGUYỄN VĂN MẪN - Tổng trưởng Cựu Chiến binh : Dân biểu NGUYỄN VĂN BINH - Tổng trưởng Tài chính : Giáo sư VŨ THIỆN VINH - Tổng trưởng Kinh tế : Giáo sư NGUYỄN VŨ DIÊU - Tổng trưởng Tư pháp : Thẩm phán TRẦN THÚC LINH - Tổng trưởng Canh nông : Giáo sư CHÂU TÂM LUÂN - Tổng trưởng Lao động : Luật sư TRẦN VĂN TỐT - Tổng trưởng Giao thông, Công chánh và Bưu điện : Kỹ sư PHAN NGỌC THỂ - Bộ trưởng Ngoại giao : Tiến sĩ CAO HUY THUẦN - Bộ trưởng Nội vụ : Dân biểu ĐOÀN MAI - Bộ trưởng Phủ Thủ tướng : Dược sĩ TỐNG LỊCH CƯỜNG - Bộ trưởng Thông tin : Ông DƯƠNG VĂN BA - Bộ trưởng Giáo dục : Giáo sư NGUYỄN ĐỘ - Thứ trưởng Quốc phòng : Ông BÙI THẾ DUNG Trân trọng kính chào Tổng thống và Quý liệt vị. (còn nữa)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 8:52:52 GMT 9
Nhưng cú sốc ấy đã “được bù trừ bởi tâm trạng nhẹ nhõm của mọi người khi biết rằng cuối cùng chiến tranh đã kết thúc. Toàn bộ người Mỹ ở Sài Gòn đã được cứu thoát và người ta không có gì phải lo lắng về số phận của những con tin” (William Colby - sđd Kỳ 3, tr. 18) “Những con tin” nào ? Câu trả lời tìm thấy trong hồi ký chính trị Việt Nam nhân chứng của trung tướng Trần Văn Đôn, nguyên Phó thủ tướng (trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn) kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (sau khi thủ tướng Cẩn ra đi) - ấn hành lần thứ nhất bởi NXB Xuân Thu (tháng 4.1989) tại California, Mỹ; thuật lại: “Ngày 23.4 (1975), lúc 11 giờ, trung tướng Vĩnh Lộc, Chỉ huy trưởng Trường Cao đẳng Quốc phòng, trung tướng Nguyễn Bảo Trị, Phụ trách các trường huấn luyện quân sự, đại tá Nguyễn Huy Lợi, đại tá Vũ Quang và đại tá Trần Ngọc Huyến đến nhà tôi ở đường Alexandre de Rhodes (lúc đó tôi xử lý thường vụ chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng vì nội các Nguyễn Bá Cẩn từ chức, nay chờ nội các mới sẽ chuyển giao)” (Trần Văn Đôn, sđd tr. 462). Tại cuộc gặp, các tướng tá nói tới việc Mỹ đang “bỏ rơi ta” để “tháo chạy” cho nhanh, nên cần phải: “Bắt tất cả những người Mỹ còn lại làm con tin !”. Nếu ông Đôn đồng ý, 2 vị tướng và 3 vị tá kia sẽ đủ sức hợp đồng và điều động để “bắt người Mỹ làm con tin”. Nhưng ông Đôn ngăn lại, bảo: “thế nào Mỹ cũng biết và có kế hoạch để đối phó. Thủy quân lục chiến Mỹ đang chờ ở ngoài khơi (vùng biển Nam Việt Nam) sẽ đổ bộ với lực lượng hùng hậu, chừng đó sẽ đổ máu thêm nhiều người, tình thế sẽ rối rắm nguy ngập hơn (…). Bỏ rơi ta (Nam Việt Nam) là chính phủ Mỹ và quốc hội Mỹ. Bắt một số người Mỹ tại Sài Gòn làm con tin thì tội nghiệp cho họ mà chẳng ích lợi gì” (sđd, tr. 464). Căng thẳng qua đi. “Những con tin” đã không bị bắt và tất cả người Mỹ còn lại ở Sài Gòn ra đi an toàn, trừ một hai trường hợp hiếm hoi, thiếu may mắn phải tử nạn trên đường di tản. Như chiếc trực thăng định mệnh CH-46 khi vòng lại đáp xuống tàu Hanthingy đã trượt đường bay rơi xuống biển, lật nhào - khiến viên phi công và phụ lái chết đuối. Người ta đưa ra nhiều con số tổng kết, ở đây chúng tôi ghi nhận số liệu của Olivier Todd (sđd Kỳ 6, tr. 272) về đợt di tản “có một không hai” của Mỹ: * Ở sân bay Tân Sơn Nhất (trước 29.4.1975): bốc đi được 5.600 người. * Ở tòa đại sứ Mỹ: đưa 2.206 người - trong đó có 1.373 công dân Mỹ ra đi. * Lực lượng không quân và hải quân Mỹ: thực hiện 689 chuyến bay, trong đó có 160 chuyến bay đêm, không kể các máy bay tiêm kích hộ tống. * Tàu Pioneer Commander: tiếp nhận 4.669 người từ cửa sông Sài Gòn chạy ra biển. * 8 tàu của Mỹ: đón 29.783 người khác. Sau ngày tổng thống Ford xét lại kế hoạch “di tản điên rồ Talon Vise” và nới rộng số lượng đón tiếp người Việt, các phương tiện tổng hợp của Mỹ bao gồm các loại máy bay, chiến hạm, đã đưa đi tất cả 130.000 người Việt Nam (so với con số giới hạn là chỉ đón 50.000 người Việt lúc đầu). Colby viết: “Nam Việt Nam đã sụp đổ một cách hoàn toàn đến nỗi người Mỹ cảm thấy họ không thể làm bất cứ điều gì để thay đổi kết cuộc của nó. Rồi sau đó là những chăm sóc cần thiết cho 130.000 người Việt Nam chạy thoát được vào những giờ phút cuối và cho 500.000 người khác đã phải đương đầu với sóng gió biển Đông để trốn chạy trên những tàu thuyền cũ nát trong những tháng tiếp theo. Và cuối cùng là việc chuyên chở, thu xếp nơi ăn chốn ở cho họ. Tất cả những việc làm đó đã làm cho dư luận Mỹ quên đi mặc cảm tội lỗi của họ đối với Nam Việt Nam” (sđd. tr 18). Đúc kết, đàng sau sự kiện lịch sử 30.4, Colby đọng lại một câu hỏi lớn, đề dẫn từ một vài con số không nhỏ: “Cuộc chiến tranh này đã cướp đi sinh mạng của 58.000 binh sĩ Mỹ, làm 300.000 người khác bị thương và làm Mỹ thiệt hại tới 150 tỷ đô la”. Và: “vấn đề chủ yếu liên quan đến thất bại ở Việt Nam được nêu ra là tại sao nó lại có thể xảy ra như thế? Hạm đội hùng hậu của Hoa Kỳ gồm nào hàng không mẫu hạm, nào tuần dương hạm, ngư lôi hạm (…) có đủ hỏa lực mạnh để nghiền nát vũ khí của Bắc Việt ra thành tro bụi. Hàng mấy chục pháo đài hay B-52 của không quân chiến lược Hoa Kỳ có thể dễ dàng đến từ Guam để dội xuống đầu kẻ thù của mình hàng trăm “quả bom sắt thép”, hoặc thậm chí cả những vũ khí hạt nhân có trong tay. Quân đội Mỹ hãy còn triển khai ở nhiều nơi trên khắp thế giới để giúp đỡ các nước bạn bè hoặc ngăn cản quân thù hoạt động. Thế mà sức mạnh khổng lồ ấy đã không thể thay đổi gì được kết cục của cuộc chiến tranh ở Việt Nam - mâu thuẫn giữa tiềm lực ấy với thực tế thất bại ở Việt Nam đòi hỏi một sự giải thích…” (William Colby, sđd tr. 16-17). Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam có cách nhìn khác với Colby. Như: PGS. TS. Hồ Sơn Đài trong lời tựa cuốn “Về đại thắng mùa xuân năm 1975 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn” (sđd Kỳ 1, tr. 7) nêu lên những con số cụ thể hơn, có “6,5 triệu lượt binh sĩ Mỹ trực tiếp tham chiến, lúc cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thủy đánh bộ, 32% lực lượng không quân chiến thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược Mỹ” cộng với hơn một triệu lính VNCH và quân các nước đồng minh, cùng “gần 8 triệu tấn bom đạn, lôi kéo đến 39 quốc gia và vùng lãnh thổ” trực tiếp hoặc gián tiếp tham chiến - qua 6 đời tổng thống Mỹ “chi gần 700 tỷ đô la, huy động 22.000 xí nghiệp với 6 triệu công nhân công nghiệp, hơn 1/3 tổng số nhà khoa học, 260 trường đại học tham gia nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh”. Để rồi, từ sau 30.4.1975 “nước Mỹ chỉ thu về được một cơn địa chấn tâm lý - xã hội kéo dài nhiều thập kỷ”. Đến nay “hàng nghìn công trình nghiên cứu khoa học về cuộc chiến tranh Việt Nam, trong đó có cuộc tiến công và nổi dậy của nhân dân Việt Nam trong mùa xuân không thể nào quên năm 1975. Dù vậy, sự hiểu biết về cuộc chiến tranh ấy, về cuộc Tổng tấn công và nổi dậy ấy vẫn chưa thể gọi là đầy đủ, thấu đáo. Nhiều bí mật liên quan đến mưu toan, quyết sách, sự kiện, diễn biến thực tế của phía đối địch với cách mạng vẫn còn ẩn sâu đâu đó trong kho lưu trữ, trong trí nhớ của người trong cuộc. Làm lộ diện những bí mật ấy không chỉ để phục dựng đầy đủ hơn lịch sử cuộc chiến tranh đang mờ dần về quá khứ, mà còn để từ đó tìm ra những bài học lịch sử cho hôm nay - khi mà loài người vẫn đang hàng ngày đối diện với nguy cơ chiến tranh và nô dịch” (còn nữa). Sau lời kêu gọi buông súng đầu hàng của đại tướng Dương Văn Minh, lần lượt có đến 400.000 binh lính, cùng hơn 100.000 nhân viên công an và cộng sự viên thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia VNCH ra trình diện…
Có thể bạn quan tâm >> Xây hải đăng, Trung Quốc xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam >> Thoái toàn bộ vốn nhà nước tại 10 doanh nghiệp lớn >> Bạo hành trẻ mầm non - Liệu còn đau lòng đến bao giờ? Những con số trên do Ban tổng kết chiến tranh Thành ủy TP. HCM nêu qua cuốn Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến 1945 - 1975 (1) và thông tin thêm: trong chiến dịch Hồ Chí Minh, riêng Sài Gòn - Gia Định đã “diệt và làm tan rã” 31.000 quân đối phương, bắt sống 12.619 tù binh, chiếm “9 căn cứ quân sự, 5 chi khu, 21 phân chi khu và trụ sở, thu 12.275 súng và gần như toàn bộ hồ sơ các cơ quan từ Phủ tổng thống trở xuống” (sđd tr. 674) Cũng theo tài liệu đã dẫn, tiếng súng thật sự chấm dứt cuối chiều 30.4, lúc 17 giờ, giữ được: “thành phố hơn 3 triệu dân (đầu năm 1975 - GH) vừa qua cuộc chiến tranh 30 năm (1945-1975) vẫn nguyên vẹn, chuyển sang trạng thái bình yên đến độ gây ngạc nhiên cho mọi người trên thế giới đang có mặt (tại Sài Gòn)”. Ai nấy đều biết “nước vẫn chảy đều trong các đường ống và dòng điện chỉ tạm ngừng trong 2 giờ (của ngày 30.4) rồi mọi nhà lại sáng. Công nhân các nhà máy vẫn sẵn sàng cho máy chạy. Chợ búa, quán xá vẫn sẵn sàng mở - đường phố vẫn đông người và xe cộ”. Cùng ngày: “các tỉnh Long An, Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu, đảo Phú Quốc được giải phóng”. Hai ngày sau (2.5), Châu Đốc là tỉnh cuối cùng đã lọt vào tay Quân giải phóng (sđd tr. 674-675). Về giai đoạn đó, hồi ức của thượng tướng Trần Văn Trà thuật lại (trước giờ chiếm dinh Độc Lập - vào mờ sáng 30.4): * Tại Tổng hành dinh (ngoài Bắc) - tức: “từ Hà Nội, Bộ Chính trị điện chỉ thị cho mặt trận như sau: tiếp tục tiến vào Sài Gòn (…) giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của địch (…) nếu chỗ nào địch chống cự thì lập tức tiến công tiêu diệt ngay”(2). * Tại Sở chỉ huy (trong Nam): “chúng tôi chăm chú theo dõi từng giờ các mũi tiến quân của từng hướng. Trên bàn to trải bản đồ vùng Sài Gòn và xung quanh, mọi người nhìn theo vạch bút chì đỏ mà cán bộ tham mưu, từng lúc, căn cứ vào báo cáo của các cánh (tiến quân) để vẽ, đánh dấu nơi quân ta đến, mục tiêu ta đã chiếm. Bỗng một đồng chí cán bộ vừa reo mừng vừa xách máy ghi âm vào để lên bàn (phát lại) tiếng nói của Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Gòn xin đầu hàng vô điều kiện (…) mọi người nhảy lên reo mừng. Các anh Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng đều xúc động mạnh, ôm hôn mọi người, bắt tay nhau thật chặt. Có mấy phút giây trong đời ta mà được sung sướng đến nghẹn ngào, mừng vui trào nước mắt” (Trần Văn Trà, sđd tr. 395). Ngược với niềm hân hoan tràn khắp Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, là nỗi tuyệt vọng của các tướng lãnh VNCH - khiến một số trong họ đã tự kết liễu mạng sống của mình vào thời điểm lịch sử ấy, gồm : 1. Thiếu tướng Phạm Văn Phú, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 2, uống thuốc cực độc tự tử tại nhà riêng ở đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng), chết vào trưa 30.4.1975. 2. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 4, tự vẫn lúc 11 giờ 30 (30.4). 3. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, nguyên Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, điềm tĩnh từ biệt gia đình và các chiến hữu, rồi lặng lẽ quay vào phòng chỉ huy, khóa chặt cửa và rút súng tự sát lúc 20 giờ 45 (đêm 30.4). 4. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, tự sát tại tổng hành dinh ở Lai Khê (trưa 30.4). 5. Chuẩn tướng Trần Văn Hai, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, tự sát tại Trung tâm Đồng Tâm (đêm 30.4). Hàng chục sĩ quan cấp tá, cấp úy và một số hạ sĩ quan VNCH cũng đã tự sát tương tự tại nhiều đơn vị, địa phương, hoặc nhà riêng của họ trong ngày. Một số khác bị bắt sống như: thiếu tướng Đỗ Kế Giai (Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt động quân), thiếu tướng Lê Minh Đảo (Tư lệnh sư đoàn 18 Bộ binh), thiếu tướng Trần Bá Di (Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện Quang Trung), thiếu tướng Đoàn Văn Quảng (Tư lệnh Lực lượng đặc biệt), thiếu tướng Bùi Văn Nhu (Phó tư lệnh Bộ tư lệnh Cảnh sát quốc gia), chuẩn tướng Lê Trung Tường (Tham mưu trưởng Quân đoàn 3), chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc (Tư lệnh sư đoàn 9 Bộ binh), chuẩn tướng Trần Quang Khôi (Tư lệnh Lữ đoàn 3 Kỵ binh), chuẩn tướng Lê Văn Thân (Phó tư lệnh Biệt khu thủ đô), chuẩn tướng Hồ Trung Hậu (xuất thân binh chủng nhảy dù - Chánh thanh tra Quân đoàn 3), đại tá Nguyễn Thành Trí (Phó tư lệnh Sư đoàn Thủy quân lục chiến), đại tá Nguyễn Bá Trang (Tư lệnh Lực lượng đặc nhiệm thủy bộ 211), đại tá Nguyễn Văn Tấn (Quyền tư lệnh lực lượng Hải quân), đại tá Phạm Bá Hoa (Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận), đại tá Ngô Văn Minh (Tham mưu trưởng Biệt khu thủ đô), đại tá Nguyễn Văn May (Tư lệnh vùng 5 Duyên hải), đại tá Đàm Trung Mộc (Viện trưởng Học viện Cảnh sát quốc gia) và nhiều nữa… Riêng các nhân vật nổi bật trên chính trường Sài Gòn di tản ra nước ngoài có trung tướng Trần Văn Đôn, Phó thủ tướng, Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Quyền Tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH (những ngày cuối tháng 4.1975) đã viết hồi ký chính trị (sđd Kỳ 8) về chuyến đi của mình như sau: “Chiều 29.4: lúc đến Tòa đại sứ Mỹ, tôi không vào được vì người quá đông nên mọi cửa ra vô đều đóng chặt, tôi phải đi vòng ngã phía đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1- HCM) cũng không vô được. Tôi trở lại Bộ Quốc phòng điện thoại cho Tòa đại sứ Mỹ, nhưng gọi rất khó khăn vì họ đã cắt nhiều đường dây, kiên nhẫn gọi một hồi liên lạc được với ông Polgar (người có trách nhiệm cao nhất của Cơ quan trung ương tình báo Mỹ CIA tại Sài Gòn). Ông dặn tôi đến nhà riêng rồi ông sẽ bốc tôi đi. “Đến nơi tôi cũng thấy đông nghẹt người đang chờ. Cô thư ký của ông Polgar kêu chúng tôi đến khách sạn Mỹ Lee Hotel gần đài Chiến sĩ tự do. Chúng tôi tới đó thấy cửa đóng mà người chờ đợi để đi cũng quá đông nên đành trở lại nhà ông Polgar ngồi chờ. “Đến 4g chiều, chúng tôi trở lại khách sạn Lee Hotel cũng không vô được, tôi chán nản mệt mỏi dựa cửa muốn ngủ… (sđd tr. 478). Đang lúc nản lòng, định bỏ cuộc, bỗng cô thư ký của ông Polgar đến, nói nhỏ (với tướng Đôn): “Mình đi chỗ khác !” và “xe chúng tôi theo xe của cô ấy đến đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng) gần đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) tại một cao ốc 9 tầng. Tầng dưới là Alliance Francaise của Pháp. Còn 8 tầng trên là văn phòng tình báo CIA của Mỹ. Chúng tôi lên trên sân thượng tầng 9. Tại đó đã có sẵn khoảng 60 người đang chờ trực thăng hạ xuống. Người ta chen lấn nhau để lên máy bay nên tôi đành phải đứng phía sau” chờ đợi. Chuyến trực thăng cuối cùng đáp xuống sân thượng trên lầu 9 của tòa nhà CIA đã bốc Trần Văn Đôn ra đi (sđd, tr. 479): “7 giờ 30 tối ngày 29.4.1975, tôi giã từ Sài Gòn. Lúc đó Sài Gòn đã lên đèn, những ngọn đèn lờ mờ như chan hòa nước mắt, tôi giã từ quê hương đất nước, lúc quê hương đất nước đang chuyển mình quặn đau, cái đau đứt ruột (…) Trực thăng chở chúng tôi đáp xuống chiến hạm Hanthingy. Sáng hôm sau (30.4.1975), khi radio loan tin lời tuyên bố đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh, hầu hết những người trên tàu đều xúc động. Một nỗi buồn da diết đè nặng tâm hồn mọi người hiện diện. Tất cả đều im lặng. Im lặng nhìn nhau không muốn chuyện trò… đám đông người ở trên tàu đều nhòe nhoẹt nước mắt. Tàu nổ máy rồi rẽ sóng ra khơi”… (còn nữa)
Trong các tài liệu thâu giữ từ dinh Độc Lập và Phủ Đặc ủy trung ương tình báo của chính quyền Sài Gòn có lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm viết từ mặt trận Phước Long (hồ sơ số 568 - Font ĐIICH)...
Thư viết đúng dịp lễ Giáng sinh - gửi linh mục Cao Văn Luận: Phước Long ngày 25.12.1974 Kính trình cha Chính, Tuyệt vọng rồi cha Chính ơi ! Sáng ngày 19.12 (1974), con đã gọi điện kêu cứu cha chính là vì thấy Đức Phong, cầu 37, Bù Na, cầu 111, Bố Đức, đã mất hết, còn quanh Tỉnh một hai cây số có Việt Cộng xuất hiện (...) Chiều 19, con thúc Hội đồng Tỉnh nhóm họp và mời đại tá (tỉnh trưởng) đến để cùng xét lại tình hình. Suốt hơn hai tiếng đồng hồ con đã tay đôi đấu khẩu với đại tá, con đã nói thẳng cho ông biết tình cảnh đồng bào, tinh thần của lính, sĩ quan qua những sự kiện cụ thể. (...) Bố Đức vừa là quân lỵ mới, vừa là trung tâm tỵ nạn - sau khi giải tỏa được 3 ngày, sang Chúa nhật 22 lại bị đánh và 4 giờ chiều thì bị tràn ngập, bỏ chạy tán loạn. Xứ Phước (?) sang thứ hai cũng mất luôn. Thế là Phước Long chỉ còn chút quân lỵ Phước Bình và tỉnh lỵ Phước Long mà thôi. Hiện nay Việt Cộng đặt đại liên và hỏa tiễn phòng không nhiều nơi, nhất là dọc từ Bố Đức về Phước Bình. Mỗi lần máy bay lên là nó bắn. Lúc 11 giờ một chiếc C 130 lên tiếp tế vừa décoller thì bị hỏa tiễn (bắn) cháy, lao đầu xuống tan tành. Thấy thiết giáp T54, súng phòng không, xe molotova chạy cả đoàn, đồng bào, quân đội, và sĩ quan đều chỉ nghĩ đến chuyện một chạy hai chết ! Ông Tỉnh (tỉnh trưởng) không dám nói thật với thượng cấp nên tìm cách che giấu, không cho đồng bào đi, chúng con can thiệp cũng có cấp giấy đi máy bay nhưng dặn không cho ai (theo) lên máy bay. Đồng bào kéo nhau đến bãi đáp chờ cả tuần mà không đi được. Một số công chức, nhà giàu, họ hối lộ với phi công gunship thì thoát thân được với giá hai ba chục ngàn một người. Thế thì con nhà nghèo sao đi được. Sau khi thấy CIA ở Biên Hòa gọi nhân viên ở Phước Long về, chúng con biết là họ được (lệnh) bỏ Phước Long và con đã xin giấy cho thầy giảng (...) chạy , nhưng chờ chực 3 ngày mà chưa đi được. Còn con chưa giải quyết được, vì giáo dân chưa đi nên cầu cứu - từ sáng Chúa nhật tất cả giáo dân Bố Đức, Phước...(?), chạy luôn về tỉnh hết. Thật là bi thảm, chết đến nơi, phen này họ cần sự hiện diện của chúng con, nên chúng con đã cam kết với đồng bào là nếu đồng bào không đi được thì chúng con sống chết như họ. Nghe ngóng đài BBC, Manila, thì chắc chắn là Phước Long sẽ mất... Hiện nay nhìn vào tình hình Việt Cộng, nhìn vào tinh thần lính (Sài Gòn), nhìn vào sự tăng viện nhỏ giọt của quân đoàn, không ai có thể tin là Phước Long cầm cự nổi nếu bị đánh. Tất cả vợ con từ đại tá đến các ty sở đã đi từ một vài ngày đầu nổ súng. Như vậy không cho dân chạy, định giao luôn cho Cộng sản sao ! Chúng con biết lúc này chính phủ không có khả năng nuôi dân tỵ nạn nên không dám tổ chức di tản như năm 1972 (mùa hè đỏ lửa), nhưng ít nữa (hãy) cho dân chạy và họ tự kiếm chỗ ăn ở. Số lính ít ỏi quân đoàn vừa cho lên Phước Long là lính sư đoàn 5, bạc nhược và thua ở Snoul, mệt mỏi nơi chiến trường An Điền, nên chả làm được gì. Ông Tỉnh nay đang bị dân oán, công chức, quân nhân ghét, làm sao có thể giữ nổi mảnh đất còn lại trước sức mạnh dồi dào về vũ khí lẫn tinh thần của Việt Cộng. Tuyệt vọng, con đã dọn mình chết, đã làm testament và chờ chết - chờ lọt vào tay Việt Cộng và chỉ hy vọng 1% chạy thoát và sống sót khi Việt Cộng tấn công. Đến đây chắc cha Chính biết tinh thần con bị căng thẳng đến độ nào rồi. Nhưng thưa cha Chính, đức tin đã trấn an con, nay con đã chấp nhận và sẵn sàng…. Xin cha Chính thương. Con (Trần Đức Sâm) Đến nay, bức thư trên là tài liệu góp phần thông tin chính xác về mặt trận Phước Long ngày ấy và phản ánh phần nào một số nội dung chính trị xã hội liên quan. Nhận thư ngày 27.12.1974, linh mục Cao Văn Luận đã gửi bản sao lá thư đến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, kèm theo mấy dòng sau (ghép chung hồ sơ số 568 - font ĐIICH: Đệ nhị Cộng hòa - Trung tâm lưu trữ quốc gia II - TP. HCM): Sài Gòn ngày 27.12.1974 Kính thưa Tổng thống, tôi xin phép đệ trình tổng thống bản sao bức thư của cha Trần Đức Sâm, chánh xứ tỉnh lỵ Phước Long mà tôi vừa nhận được chiều nay do thầy giảng của cha Sâm mang về, để tổng thống biết rõ hơn tình hình bi đát của Phước Long. Nếu còn có thể, xin tổng thống cho lệnh di tản dân chúng theo nguyên vọng của họ. Trân trọng kính chào tổng thống (ký tên) - Cao Văn Luận. Cao Văn Luận thụ phong linh mục khoảng 1938-1939, học Trường sinh ngữ Đông Phương Paris 1942-1945, dạy Triết tại trường Quốc Học - Huế từ 1949. Ông đứng ra vận động thành lập Viện Đại học Huế và là Viện trưởng đầu tiên của Viện Đại học Huế từ 7.1957 cho đến ngày bị chế độ Ngô Đình Diệm cách chức vì lý do đã để phong trào sinh viên Huế đấu tranh chống đàn áp Phật giáo. Sau ngày nhà Ngô sụp đổ, linh mục Cao Văn Luận tiếp tục làm Viện trưởng Đại học Huế và từ chức vào tháng 9.1964. Từ đó ông giảng dạy tại Đại học Sư phạm Sài Gòn cho tới năm 1975. Là một giáo sư tận tuỵ, người mở đầu của nền đại học khu vực miền Trung, ông được giới trí thức miền Nam quý trọng. Ông mất tại Chicago (Mỹ) năm 1986, thọ 76 tuổi. Lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm gửi ông đã được ông chuyển ngay đến Nguyễn Văn Thiệu như đã nói trên. Nhưng Thiệu đã không đáp ứng. Và rồi, như cách diễn đạt của các đài phương Tây, toàn bộ tỉnh Phước Long đã “hoàn toàn do Cộng sản kiểm soát kể từ ngày 6.1.1975” - trở thành ngòi pháo làm bùng nổ dây chuyền các mặt trận tiếp đó, dẫn đến sự kiện 30.4 vào bốn tháng sau. Còn lúc ấy - ngay khi tiếng súng vừa dứt - Hà Nội luôn chờ đợi câu trả lời về hiệu quả của đòn “trinh sát chiến lược” giáng vào Phước Long do một điệp viên ngoại hạng từ Sài Gòn gởi ra: Phạm Xuân Ẩn… (còn nữa)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 9:04:48 GMT 9
Phạm Xuân Ẩn là một trong những điệp viên hoàn hảo và có tư chất “bình đẳng giác” cao đẹp - vì ông không xem đối thủ của mình mãi mãi là những “kẻ thù không đội trời chung” mà là những “kẻ thù anh em” có thể ngồi đối ẩm trò chuyện bên nhau sau cuộc cờ tàn... Dẫn chứng trường hợp Cao Giao ở Đài Phát thanh Catinat: Cao Giao (sau 30.4.1975) bị ghép tội “gián điệp CIA” và bắt biệt giam 4 tháng (từ 6.1978), tiếp đó chuyển đến khám Chí Hòa chung phòng với 72 tù nhân khác. Ở ngoài, Phạm Xuân Ẩn vẫn thường xuyên đến thăm gia đình Cao Giao, mang theo thực phẩm thuốc men để trợ giúp. Ẩn nói: “tôi cố gắng hết sức mình để chăm sóc gia đình Cao Giao trong khi ông ấy đang ở trong tù”. Mãn hạn, Cao Giao nói gì? Nói rằng: - “Phạm Xuân Ẩn là một kẻ lý tưởng hóa bị vỡ mộng và (bị) lừa dối”! Đáp lại, Phạm Xuân Ẩn ôn tồn bảo đại khái chủ nghĩa Cộng sản tuy không thành, nhưng vẫn là “giấc mộng đẹp”. Khi biết Phạm Xuân Ẩn hoạt động tình báo cho Cộng sản Việt Nam “Cao Giao cũng bỏ qua cho Phạm Xuân Ẩn, bởi vì (như Cao nói): “chúng tôi là người Việt Nam” anh em. (Larry Berman - Điệp viên hoàn hảo - NXB Thông Tấn 2007, tr.401). Trường hợp khác : Theo Larry Berman (sđd tr.398), Nguyễn Xuân Phong (bạn Phạm Xuân Ẩn) từng nằm trong nội các chính quyền Sài Gòn “giữ chức Bộ trưởng phụ trách đàm phán ở Paris” - đã quyết định về lại Sài Gòn vào giai đoạn hấp hối của chính quyền VNCH (25.4). Ông Phong chấp nhận mọi rủi ro đang chờ đợi, chỉ vì ông không thể bỏ cha mẹ già yếu của mình chưa được di tản. Cũng chính vì chữ hiếu mà ông Phong cám ơn và từ chối lời mời của đại sứ Mỹ Graham Martin để không phải ra đi một mình (bỏ lại song thân). Khi Quân giải phóng tiến chiếm Sài Gòn, Nguyễn Xuân Phong đã ra trình diện chính quyền cách mạng theo mệnh lệnh của tướng Trần Văn Trà rằng: “tất cả các quan chức của chế độ cũ từ cấp đứng đầu ngành, các sĩ quan thuộc các lực lượng vũ trang từ cấp trung tá trở lên phải ra trình diện để đi học tập cải tạo tập trung 30 ngày, từ tháng 5 đến hết tháng 6 (1975). Các viên chức và sĩ quan quân đội còn lại sẽ học tập cải tạo thời gian 7 ngày tại địa phương nơi họ cư trú”. Và: “cứ mỗi ngày trôi qua, bạn bè của Phạm Xuân Ẩn lại biến mất dần để đi học tập”. Rồi “sau khi đã kết thúc 30 ngày, Nguyễn Xuân Phong và bao người khác vẫn chưa được trở về nhà, mặc dù lệnh của tướng Trần Văn Trà là chỉ tập trung học tập thời gian 30 ngày. Sở dĩ có thay đổi này vì một số cán bộ từ Hà Nội mới vào miền Nam đã xem xét lại mệnh lệnh của tướng Trần Văn Trà, cho dù ông Trà không tán thành. Nguyễn Xuân Phong nhớ lại: “Chúng tôi được giảng giải rằng, chúng tôi có lỗi lầm là chống lại Tổ quốc (người ta không dùng cụm từ “những kẻ phản bội tổ quốc”) - nhưng chúng tôi được giải thích cho hiểu một cách rõ ràng rằng chúng tôi đã có tội tiếp tay cho Mỹ - đế quốc xâm lược kiểu mới, dẫn đến sự chết chóc và hủy hoại đối với người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chúng tôi không được biết liệu có bị đưa ra xử trước tòa án hay không, hay là nếu xử án thì xử trên cơ sở nào, hoặc tội như vậy thì bị tù trong bao lâu, hay là thời gian giam giữ chúng tôi được xác định như thế nào, theo từng cá nhân hay tập thể”. Không biết! “Cuộc hành trình đi vào thế giới “không biết” của Nguyễn Xuân Phong bắt đầu từ nhà tù Thủ Đức tháng 6.1975. Tại đây, Phong phải chung phòng giam với 20 người khác. Sau vài tuần, các tù nhân được lệnh ra tập trung ngoài sân, bị xích từng đôi một rồi đưa lên một chiếc xe tải quân sự để ra phi trường. Sau đó, họ được chở đến sân bay Gia Lâm, rồi chuyển tiếp đến Trại A15 vẫn được coi là cơ sở phụ của “Hilton Hà Nội”. Trại này cách Hà Nội 50 km và trước kia từng là nơi giam giữ nhiều tù binh Mỹ. Nguyễn Xuân Phong và 1.200 bạn tù phải ở trong trại đó cho đến khi nào được phép trở về. Đối với trường hợp của Nguyễn Xuân Phong, ngày được trở về là tháng 12.1979; còn nhiều người khác, ngày trở về là 10 hoặc thậm chí 15 năm sau”. (Larry Berman, sđd. tr.398) Từ ngày ra tù (1979) đến suốt 20 năm sau (Nguyễn Xuân Phong kể): “Phạm Xuân Ẩn và tôi thường gặp nhau mỗi tuần vài lần. Hầu hết những lần gặp nhau đó, chúng tôi ngồi uống cà phê bên đường phố Đồng Khởi (đường Tự Do cũ) để thư giãn và cũng để quên đi quá khứ. Thậm chí, các nhân viên an ninh (chế độ mới) chụp ảnh chúng tôi, họ cố gắng tìm hiểu xem chúng tôi đang trao đổi gì !” (Larry Berman, sđd. tr.411). Với mối tương giao rộng rãi, Phạm Xuân Ẩn làm bạn với các nhân vật như Cao Giao và Nguyễn Xuân Phong kể trên và nhiều tướng lĩnh VNCH khác, cùng các nhà báo nổi danh đương thời như David Halberstam hoặc Sheehan, kể cả người đứng đầu của cơ quan tình báo Mỹ CIA như William Colby (sau 1975, Colby đã hai lần sang Việt Nam và cả hai lần đều đề nghị được gặp Phạm Xuân Ẩn). Nhờ mối giao tiếp đặc biệt trên, Phạm Xuân Ẩn đã nắm được những “tin tức đầu nguồn” từ Tòa đại sứ Mỹ, Phủ Tổng thống, Phủ Thủ tướng, Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH, Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, Phủ Đặc ủy trung ương tình báo của chính quyền Sài Gòn, nắm cả bản báo cáo bí mật của Viện Nghiên cứu Chiến lược quân đội (VNCH) do tướng Nguyễn Xuân Triển làm giám đốc Viện (chỉ đạo biên soạn và đúc kết) với xác định có tầm sinh tử rằng: “Ban Mê Thuột là điểm yếu của Tây Nguyên trong hệ thống phòng thủ chiến thuật của quân đội Sài Gòn nên rất dễ bị tấn công và chọc thủng”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá rất cao các báo cáo đại thể như trên (của Phạm Xuân Ẩn). Nhưng đến 30.4, Phạm Xuân Ẩn vẫn “chưa nói được” về thân phận mình, để - như lời ông - vẫn phải “sống trong cô đơn và ngờ vực”. Mãi vài tuần sau, một đặc vụ của cách mạng phái đến gặp ông để nói một câu gọn lỏn: - “Phạm Xuân Ẩn, ông thì OK !” (?) - (còn nữa)
Phạm Xuân Ẩn đã đưa “trùm mật vụ” (?) Trần Kim Tuyến lên chuyến trực thăng cuối cùng của CIA để thoát khỏi Sài Gòn trong đường tơ kẻ tóc...
Trần Kim Tuyến (theo tài liệu của Cục tình báo trung ương Mỹ CIA) nắm trọng trách: “Trưởng Phòng Nghiên cứu chính trị và xã hội (S.E.P.E.S), tức Phòng tình báo và an ninh của dinh Tổng thống (Ngô Đình Diệm)… Tuyến có vóc người nhỏ thó, cao chưa đến 1,50m và nặng chắc dưới 50 kg. Ông giữ một thái độ ung dung của nhà nho xưa, móng tay út để rất dài một cách trau chuốt… Ẩn mình trong bóng tối, quyền hành Tuyến nắm giữ đã gây nên nhiều lời đồn đại, xoi mói (nhưng) trong khi thực tế ông ta chỉ là một trong những người “Tuyếc trẻ” - Jeunes Tures: nhóm trí thức và sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ có xu hướng tự do và cải cách” (William Colby - sđd Kỳ 3, tr. 60). Từ xu hướng đó, Trần Kim Tuyến đứng chân trên chính trường Sài Gòn theo hai ngả. Một mặt, ông tuân thủ các mệnh lệnh xuất phát từ chính sách “gia đình trị” của Ngô Đình Diệm (tổng thống) và Ngô Đình Nhu (cố vấn tổng thống) cùng bà Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu). Mặt khác, Trần Kim Tuyến lại “tìm cách mở tiến trình chính trị rộng hơn” (dân chủ hóa) nên bị hai ông Diệm - Nhu cách ly, đưa đi công cán ở Ai Cập vào cuối nền Đệ nhất Cộng hòa (1954 - 1963). Sang cuối thời Đệ nhị Cộng hòa (tổng thống: Nguyễn Văn Thiệu), Trần Kim Tuyến bị kẹt lại Sài Gòn (29.4.1975). Nếu Phạm Xuân Ẩn muốn bắt giữ Trần Kim Tuyến vào thời điểm đó hẳn nhiên sẽ dễ hơn trở bàn tay. Nhưng ông đã ứng xử ngược lại: cứu Tuyến! Điều đó gây phiền hà không ít cho Phạm Xuân Ẩn về sau. Vì, cơ quan an ninh phản gián Hà Nội nhiều lần thắc mắc tại sao Phạm Xuân Ẩn giúp một “con cá lớn” như Tuyến vọt thoát khỏi “lưới” nhà ? Ông giải thích (cũng nhiều lần) với họ: Bởi, Trần Kim Tuyến bạn ông, nên ông giúp chỉ thuần vì “mệnh lệnh của trái tim” chứ không vì gì khác. Song mối ngờ vực vẫn chưa hết. Nên có lần Phạm Xuân Ẩn nói “trung ương” (chỉ Hà Nội) nghi bất cứ ai (ở Sài Gòn) từng tiếp xúc với Mỹ “đều có thể là CIA - kể cả tôi”. Riêng việc đưa Trần Kim Tuyến ra đi, lược kể: Chiều 29.4.1975, Trần Kim Tuyến nhiều lần liên lạc với các sứ quán Mỹ, Anh, Pháp bất thành - đã khẩn khoản nhờ đến Phạm Xuân Ẩn. Nhận lời, ông Ẩn lái chiếc xe hơi Renault màu xanh lá cây của mình đưa ông Tuyến vòng đến sứ quán Mỹ, nhưng không vào được. Cả hai quay về văn phòng Tạp chí Time (nơi Phạm Xuân Ẩn cộng tác) đóng tại Khách sạn Continental và được Tom Polgar (Trưởng trung tâm CIA ở Sài Gòn) nhắn tin (qua nhà báo Dan Southerland) bằng điện thoại là bất cứ giá nào Trần Kim Tuyến cũng phải đến ngay tòa nhà 22 đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng - nơi CIA đặt các phòng ban trực thuộc trên ngót 8 tầng lầu). Và sân thượng tầng thứ 9 hiện đang trở thành bãi đáp để trực thăng bốc đi, với khoảng 20 - 30 người đứng chờ (di tản) trong đó có trung tướng Trần Văn Đôn (xem thêm Kỳ 9): “Khi Trần Văn Đôn lên được tầng thượng của tòa nhà, thì Phạm Xuân Ẩn và Trần Kim Tuyến đi xe hơi cũng vừa đến. Trần Kim Tuyến đã không gặp may như Trần Văn Đôn (bởi) những người lính gác đã đóng cổng và khóa lại. Phạm Xuân Ẩn liền phanh gấp cho xe hơi dừng lại, nhảy ra quát: “Theo lệnh của đại sứ (Graham Martin), người này (Trần Kim Tuyến) phải được cho vào !” (Larry Berman, sđd Kỳ 11, tr. 377). Dầu vậy những người lính gác vẫn khăng khăng từ chối, đẩy ra, nhất định không để một ai, kể cả Trần Kim Tuyến (người có danh sách do đại sứ Martin trao đến), được lọt vào tòa nhà CIA vào lúc chiếc trực thăng cuối cùng vừa đáp xuống nóc nhà và chuẩn bị cất cánh. Phạm Xuân Ẩn với Trần Kim Tuyến vẫn còn đứng dưới đất, ngoài cổng. Rõ là “tình thế có vẻ vô vọng”, nhất là khi cánh cổng bằng thép đang từ từ khép lại. Đột nhiên, dường như theo phản ứng khởi lên từ một năng lực tiềm ẩn, Phạm Xuân Ẩn đã “chạy lại dùng tay trái chặn cổng, rồi lấy tay phải đẩy mạnh Trần Kim Tuyến với dáng người bé nhỏ chui qua cổng - khe hở lúc đó chỉ còn khoảng chưa đầy 46cm - không có thời gian cho hai người ngỏ lời tạm biệt và cảm ơn. Phạm Xuân Ẩn nói “Chạy !”- cùng lúc đó, hai hàng nước mắt bỗng lăn xuống gò má của ông - Trần Kim Tuyến cũng khóc và chẳng thể nói được điều gì ngoài câu: “tôi sẽ không bao giờ quên !”. Larry Berman thuật tiếp: “Thang máy trong tòa nhà không hoạt động khiến Trần Kim Tuyến phải chạy bộ 8 tầng mới lên đến sân thượng. Mệt muốn đứt hơi. Những người di tản cuối cùng đang bước lên trực thăng. Đứng bên ngoài, Phạm Xuân Ẩn lòng dạ rối bời, lo cho Trần Kim Tuyến không kịp lên máy bay. Mãi đến khi ông (Phạm Xuân Ẩn) nhìn thấy cánh tay của Trần Văn Đôn thò ra ngoài cửa (trực thăng) đang mở” để nhấc dáng người thấp bé của Trần Kim Tuyến lên theo, bấy giờ ông mới an tâm, quay về... (Larry Berman, sđd tr. 379). Thoát ra nước ngoài, Trần Kim Tuyến viết một lá thư nhờ Henry Kamm bí mật trao Phạm Xuân Ẩn bày tỏ lòng tri ân đã cứu mình qua cơn hoạn nạn. Đáp lại, Phạm Xuân Ẩn cũng bí mật hồi âm, rằng ông giúp ông Tuyến ra đi vì ông biết ông Tuyến rất yêu vợ - mà vợ ông Tuyến cũng rất yêu chồng - lúc ấy bà lại đang mang thai. Nên, theo lời Phạm Xuân Ẩn, ông không muốn một cháu bé mới ra đời phải “bị mồ côi”. Sâu xa hơn, Phạm Xuân Ẩn ghi nhận qua mối quan hệ bằng hữu với Trần Kim Tuyến trong nhiều năm, thì họ Trần (vô tình) đã là một trong những chính khách Sài Gòn tạm gọi nắm “điều kiện ắt có và đủ” để góp một tay hữu hiệu giúp Phạm Xuân Ẩn hoạt động “tình báo chiến lược” giữa lòng chế độ. Về phần Trần Kim Tuyến, ở nước ngoài, khi nghe giới truyền thông quốc tế đưa tin Phạm Xuân Ần là “tướng tình báo của Cộng sản Hà Nội”, ông Tuyến đã không xem đó là điều “quan trọng” nữa. Bởi, tình bạn của hai người (Phạm Xuân Ẩn - Trần Kim Tuyến) đã vượt qua “ngăn cách chính trị” để vẫn còn nói được với nhau những lời dịu ngọt - như chưa bao giờ có cuộc tương tàn - như vĩnh viễn đẹp (tạm ví) với “tình không biên giới” của Văn Lương: “Lòng còn yêu mãi - dù ở chân mây nhờ cánh chim đem hành lý yêu em…” (còn nữa) Phong Anh hùng xong, Phạm Xuân Ần được đưa đi học một khóa “bồi dưỡng chính trị” vì nhiều lý do, trong đó một phần bởi “ông đã sống quá lâu với… người Mỹ”!
Ông vẫn còn “khâm phục người Mỹ” dầu Mỹ đã “thua cuộc”. Ông nói với Larry Berman - giáo sư khoa học chính trị trường Đại học California - Davis, được ông chọn để chính thức viết về những hồi ức do chính ông kể, rằng: - “Tôi đã sống và làm việc với người Mỹ trong thời gian rất dài. Tôi biết họ là những người tốt (…) tôi chẳng có lý do gì để ghét người Mỹ, cũng giống như những người Mỹ biết tôi chẳng có lý do gì để ghét tôi” (Điệp viên hoàn hảo, Larry Berman, Nguyễn Đại Phượng dịch, sđd Kỳ 11, tr. 466). Những phát biểu đại khái như trên khiến Hà Nội thấy cần phải “giúp” Phạm Xuân Ẩn “lập trình lại tư duy”. Nên, họ đã đưa ông vào Học viện chính trị cao cấp ở Hải Dương (gần Hà Nội) trong 10 tháng (từ 8.1978 đến 6.1979) để có dịp “học hỏi” về chủ nghĩa Mác Lênin. Ông cũng vui vẻ, nói thẳng: - Tôi cần phải đến đó (…) Tôi hiểu nhiều về hệ thống Mỹ hơn là hệ thống này (xã hội chủ nghĩa) do vậy tôi cần phải đọc tất cả các sách kinh điển về lối tư duy kinh tế Nga... Dầu hết sức chân thành và cố gắng, nhưng sau khóa học ông vẫn tồn đọng nhiều “khó khăn trong quá trình hòa nhập với chế độ mới”. Vì: “Chế độ mới” vẫn đang còn “những vấn đề” nghi vấn (về tướng tình báo của mình), thể hiện rõ trong mỗi lần có người bạn cũ nào ở Mỹ đến TP. Hồ Chí Minh muốn thăm ông, các quan chức (nội vụ và ngoại vụ) đều viện lẽ ông “không muốn gặp”. Hoặc “không có mặt trong thành phố”. Như trường hợp của Dan Southerland (1982) và Stanley Karnow (1981)… Thực ra, ông rất muốn gặp và chẳng đi đâu xa - mà đang nằm “đọc sách” ở Sài Gòn... Khoảng thời gian ấy, Phạm Xuân Ẩn không có sự lựa chọn nào khác, ngoài đảm nhận vai trò “ẩm thực” - tự nhận mình là “một ông chồng nội trợ”! Ông cũng “tự trào” ví mình là một “triệu phú”, nhưng là “triệu phú thời gian” (bởi ông rất rảnh). Không phải nhà nước không giao việc, nhưng gồm những lĩnh vực không phù hợp với “tâm” ông. Ví như mời tham gia cơ quan kiểm duyệt, hoặc đào tạo các nhà báo Cộng sản trẻ, ông đều từ chối để “suốt ngày đọc sách, nghe đài BBC và làm những việc lặt vặt cho vợ” - dư thời giờ ra thì… nuôi gà chọi! (Larry Berman - sđd tr.410). Mãi đến năm 1988, khi ngọn gió đổi mới đã thổi tan đi ít nhiều những đám mây mù trong quan hệ Việt Nam với Mỹ, lần đầu tiên cơ quan an ninh cho phép Phạm Xuân Ẩn gặp Bob Shaplen (bạn cũ) với điều kiện “có một thành viên của Bộ Ngoại giao cùng dự”. Sau cuộc gặp, ông “kiến nghị” để mình với Bob Shaplen “đi ăn tối riêng” tại khách sạn Majestic và được Bộ Ngoại giao đồng ý. Ông nói: - Đó là lần đầu tiên tôi được phép nói chuyện một mình với một người bạn cũ kể từ khi chiến tranh kết thúc (13 năm sau ngày 30.4 - GH). Tôi không muốn buổi tối hôm đó tan sớm. (sđd tr. 417). Tin Phạm Xuân Ẩn được “nới lỏng tiếp xúc”, một số bạn cũ của ông liền tìm đến thăm, như Nei Sheehan, Stanley Karnow, Robert Sam Anson… Trong số đó, Safer đã đặt câu hỏi “khá nhạy cảm” về nguyên do nào đã dẫn đến tình trạng trầm kha của cuộc “cách mạng kinh tế” đương thời. Phạm Xuân Ẩn đáp đại ý: không phải những nhà lãnh đạo (của Đảng CSVN) là những người độc ác, nhưng tác động của chủ nghĩa gia trưởng và lý thuyết kinh tế lỗi thời mà họ vẫn đeo bám, đã dẫn đến hậu quả đau lòng… Nghe vậy, Safer mạnh dạn hỏi: - Ông có sợ về việc đã nói thẳng thắn như vậy không ? Có nguy hiểm gì cho ông không? - Tôi công khai nói điều đó. Tôi đã già quá đến mức không thể thay đổi được nữa. Tôi đã quá già đến mức không thể im lặng được nữa (Larry Berman, sđd tr. 426). Cuối cùng, Safer hỏi Phạm Xuân Ẩn có hối tiếc điều gì về “quá khứ” không ? Phạm Xuân Ẩn khẳng khái: - Tôi ghét câu hỏi đó. Tôi đã tự hỏi mình câu hỏi đó cả ngàn lần. Nhưng câu trả lời còn làm cho tôi ghét hơn. Không! Tôi không có gì phải hối tiếc. Tôi phải làm điều ấy. Tôi yêu nước Mỹ, nhưng Mỹ chẳng có quyền gì ở đây… Cuộc trò chuyện trên được Safer công bố trong một tài liệu xuất bản tại Mỹ. Để sau đó, nhà nước Việt Nam bắn tin với Phạm Xuân Ẩn: (sđd, tr. 427). - “Cám ơn. (Hãy) về nhà, đọc sách và giữ im lặng ! Song ông vẫn “không im lặng”. Vẫn tiếp tục nói tốt về người Mỹ, khi cần: - Đảng dạy tôi những điều về hệ tư tưởng. Từ người Mỹ, tôi học được những điều quan trọng khác về nghề báo và phương pháp tư duy. Đó là điều tôi muốn con mình cũng học được như vậy. Tôi muốn con trai tôi có bạn là những người Mỹ. Và thêm: - Suốt cuộc đời mình tôi chỉ có hai trách nhiệm. Một là nghĩa vụ của tôi đối với Tổ quốc. Hai là trách nhiệm của tôi đối với những người bạn Mỹ. Sau những phát biểu ấy, điều bất ngờ gì đã xảy đến với ông? (còn nữa)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 9:06:27 GMT 9
Đó là bài được Phạm Xuân Ẩn phát đi bằng telex (từ Sài Gòn) đến trụ sở chính của tạp chí Time ở Mỹ (New York) và Time lập tức đăng trên số báo ra ngày 12.5.1975…
Gần như thời điểm đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đáp máy bay từ Hà Nội vào Sài Gòn để gặp tướng Trần Văn Trà (Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, Chủ tịch Ủy ban quân quản Sài Gòn - Gia Định) trong phòng Đại yến của dinh Độc Lập. Cách dinh Độc Lập không xa lắm, Phạm Xuân Ẩn - người trải nhiều năm bí mật cung cấp tin tức và tài liệu tình báo chiến lược hữu hiệu cho tướng Giáp lẫn tướng Trà - vẫn đang ngồi một mình đăm chiêu, tại khách sạn Continental, trong văn phòng thường trú của tạp chí Time đặt ở đó. Do Hà Nội chưa công bố danh phận điệp viên của mình, nên Phạm Xuân Ẩn không tránh khỏi nhiều phiền phức bởi một số biện pháp “quân quản” do chính những người đồng chiến tuyến với ông gây ra. Oái oăm là, lúc đó, không một ai giúp sức - ông phải tự mình xoay xở đơn độc - rơi vào tình cảnh cùng lúc hoạt động “đơn tuyến” hai chiều cho Time và cho cách mạng. Ông điện về New York: “Tất cả các phóng viên Mỹ (của Time) đã di tản vì tình trạng khẩn cấp. Văn phòng tạp chí Time hiện nay do Phạm Xuân Ẩn điều hành”. Nội dung trên được Time thông báo cho các chi nhánh toàn cầu biết, kèm theo “tấm ảnh Phạm Xuân Ẩn đang đứng trên một đường phố không người, hút thuốc lá và trông có vẻ thích gây gổ” (Larry Berman, sđd Kỳ 11, tr.395). Sau này, Phạm Xuân Ẩn kể để nhà sử học nổi danh Larry Berman viết cuốn “Perfect Spy - Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn - phóng viên tạp chí Time và điệp viên Cộng sản Việt Nam”, biên soạn công phu trong 5 năm, có ghi lại lời nói của Phạm Xuân Ẩn về những ngày cuối cùng trong “nghiệp làm báo” của mình: - Tất cả chỉ có một mình tôi (ở văn phòng Time tại Sài Gòn - GH), trừ người giám sát (cán bộ cách mạng được phái đến để theo dõi thường trực các hoạt động nghề nghiệp của Phạm Xuân Ẩn - GH). Ông ta không phải là người khó tính, nhưng là một người kiểm duyệt khắt khe. (Larry Berman, sđd tr. 395) “Khắt khe” để mắt đến từng trang giấy “có chữ”, vì thế suốt nhiều tuần sau 30.4, Phạm Xuân Ẩn “chẳng có tin bài nào được gửi đi”. Tuy vậy, bù lại, Time cũng đã nhận được bài báo cuối cùng của ông và đăng trên số ra ngày 12.5 như đã nói trên - mà Larry Berman trích lại một đoạn khá dài và đáng đọc (sđd tr. 396-397). Đáng đọc, bởi đoạn ấy có giá trị mô tả chân thực cảnh hỗn loạn khi Sài Gòn bị thất thủ và ghi nhận lời hứa hẹn “an dân” của chính quyền cách mạng, rằng: sẽ thiết lập một chế độ chính trị “trung lập và không liên kết” cho riêng miền Nam Việt Nam. Nguyên văn đoạn trích (Nguyễn Đại Phượng dịch): “Hình ảnh cuối cùng về cuộc chiến tranh: “Những người lính thủy đánh bộ Mỹ dùng báng súng giáng xuống những ngón tay của nhiều người Việt Nam đang cố bám tường tìm cách vào được bên trong khuôn viên tòa đại sứ Mỹ để chạy trốn khỏi đất nước họ. Một không khí lộn xộn, bừa bãi chẳng khác nào cảnh mô tả trong kinh Khải huyền. “Một số “kẻ cướp ngày” lái những chiếc xe hơi của sứ quán bỏ lại chạy như điên quanh thành phố cho đến khi hết sạch xăng. Một số kẻ khác vào lục soát Siêu thị PX Tân cảng Sài Gòn vốn được coi là giấc mơ (là mô hình thương mại lý tưởng thời ấy - GH), rập khuôn theo vùng ngoại ô của Mỹ. Một người phụ nữ đội hai thùng rượu anh đào và một thùng kẹo cao su Wrigley Spearmint… “ Ngoài khơi, những chiếc máy bay trực thăng trị giá hàng triệu đô la bị lật nhào khỏi boong tàu (cứu hộ Mỹ) một cách lãng phí, chẳng khác nào việc ném đi những lon bia (đã uống hết) để lấy chỗ cho những chiếc máy bay trực thăng khác sắp đáp xuống. “Cuối cùng, Việt Cộng và những người Bắc Việt Nam đổ vào Sài Gòn, kéo cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời, bắt giữ tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Đối với nhiều người Mỹ, điều đó giống như một cái chết đã được chờ đợi từ lâu, nhưng khi xảy ra thì người ta vẫn cảm thấy bị sốc. “Một cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ đã kết thúc bằng đợt di tản hiệu quả, nhưng nhục nhã. Đó là sự kết thúc giống như một cơn ác mộng. Không, có thể còn tồi tệ hơn cả cơn ác mộng nữa. Chỉ có rất ít lính Việt Nam Cộng hòa nổ súng vào những người Mỹ đang di tản, nhưng chẳng trúng phát nào. Ít nhất thì người Mỹ cũng đã gây ra cảnh tượng khủng khiếp cuối cùng về “người của mình đánh những người bạn” và “đồng minh của Mỹ đang chen lấn nhau (di tản)”. Mặc dù trên thực tế, người Mỹ đã tìm cách đưa khoảng hơn 120.000 người Việt Nam tị nạn ra đi với họ. “Có lẽ đúng hơn phải nói rằng, cuộc chia tay lần này của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam là một “hành động duy nhất không ảo tưởng” trong suốt những năm chiến tranh. “Những người cầm quyền mới ở miền Nam Việt Nam (Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam - GH) tuyên bố rằng họ sẽ quyết tâm thực hiện một chính sách hòa bình, độc lập, trung lập và không liên kết”. Đọc bài báo cuối cùng trên của Phạm Xuân Ẩn do Time đăng, những người Mỹ có lương tâm phải “trầm lặng” ưu tư và trăn trở nhiều. (còn nữa)
Ở tuổi 78 (2005), Phạm Xuân Ẩn lâm bệnh với 65% lá phổi không còn hoạt động bình thường và phải vào phòng cấp cứu của bệnh viện suốt 5 ngày trước khi gặp lại Larry Berman với bình oxy để thở tại nhà…
Ở câu cuối của Kỳ 11, chúng tôi có nêu câu hỏi là, sau những nhận xét “nhoáng lửa” của Phạm Xuân Ẩn về chủ nghĩa gia trưởng ở Việt Nam (thời điểm 1990), ông gặp điều bất ngờ gì? “Rắc rối” chăng? Không !. Ngược lại, Phạm Xuân Ẩn “gặp may !” (chữ ông dùng): nhà nước đồng ý để con trai lớn của ông là anh Phạm Xuân Hoàng Ân qua Mỹ du học. Nếu các nhà lãnh đạo quy tội cho ông là dám công khai “ca ngợi đế quốc Mỹ”, hoặc “có vấn đề tư tưởng” (cụm từ nguy hiểm) gì, lúc ấy họ đã xử lý khác đi: “Vào dịp lễ Tạ ơn năm 1990, mọi việc thẩm tra về an ninh đối với Phạm Ân (Phạm Xuân Hoàng Ân) đã được thông qua và cháu được cấp visa sinh viên hạng F1. Những người bạn đồng nghiệp của Phạm Xuân Ẩn (ở Mỹ) đã quyên góp đủ tiền chi phí cho hai năm học (khoa báo chí) ở trường đại học North Carolina” - ước tính cần 11.000 USD cho mỗi năm (Larry Berman, sđd Kỳ 11, tr. 433 và 440-441). Người tự nguyện đứng ra mở chiến dịch quyên góp trên là Robert Sam Anson đã nói: “Phạm Xuân Ẩn là đồng nghiệp, người thầy và là người bạn của tôi - đã cứu mạng sống của tôi trong cuộc chiến tranh (Việt Nam)”. Hàng chục nhà báo như : Neil Sheehan, Stanley Karnow, John Larsen, John Apple, Morley Safer, John Griffin, Bill Plante, Don Moser, Stan Cloud, Dean Brelis, Lara Plamer, thingy Swamson, Jason Shaplen, thingy Clurman đã lấy tiền riêng đóng góp, cộng thêm một phần của tạp chí Time. Riêng Phạm Xuân Ẩn gửi “toàn bộ tiền hưu trí của ông (do tạp chí Time trả) cùng với 3.000 USD nữa” để góp vào. Cũng cần nhắc, trước ngày qua Mỹ du học - vào thời Liên Xô chưa tan rã, Phạm Xuân Hoàng Ân được gởi vào Học viện ngoại ngữ Minsk và Đại học ngoại ngữ quốc gia Mát-cơ-va (Mauris Thorez) để học tổng cộng 5 năm và ra trường với bằng tốt nghiệp hạng ưu. Chuyến du học Liên Xô, không mấy ai ngạc nhiên. Nhưng đến chuyến du học Mỹ, đã thực sự gây bất ngờ lớn, kể cả với Larry Berman: “cho đến nay, tôi vẫn còn chưa hiểu được tại sao chính phủ Mỹ có thể cho người con cả của một điệp viên cộng sản lỗi lạc vào một đất nước (Mỹ) ở thời điểm rất khó xin visa như vậy (1990-1991)”. Còn, tại sao Hà Nội lại cho anh Hoàng Ân đi ? Frank và Phạm Xuân Ẩn có lời đáp tương tự nhau: “đó là hãy gia ơn cho ông già, để xem (chính phủ Việt Nam) sau khi đã làm một điều tốt lớn lao như vậy, liệu có thể làm cho ông ta bớt nói đi không ? (sđd tr. 427). Sau hai năm học, Phạm Xuân Hoàng Ân về lại Việt Nam (năm 1993) và làm việc tại Bộ Ngoại giao. Sáu năm sau (1999), Phạm Xuân Hoàng Ân lại sang Mỹ du học một lần nữa tại khoa Luật trường đại học Duke (trong 3 năm kế đó) do giành được học bổng Fulbright. * Ngày 20.9.2006: Phạm Xuân Ẩn qua đời tại TP. Hồ Chí Minh, thọ 79 tuổi. * Tháng 11.2006: Phạm Xuân Hoàng Ân được chọn làm phiên dịch cho cuộc gặp gỡ giữa tổng thống Mỹ Bush và chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Phạm Xuân Hoàng Ân nói với Larry Berman: - “Cháu ước gì ba cháu có mặt ở đây để chứng kiến những giây phút này” Giọng của Hoàng Ân đôi lúc đã nghẹn lại trong buổi phiên dịch cho tổng thống (Mỹ) và chủ tịch nước (Việt Nam) - anh nhớ đến cha mình: - Vâng, cha của cháu đã từng tự hào về con trai mình, nhưng cháu nghĩ chắc ông còn cảm thấy hạnh phúc hơn khi các mối quan hệ giữa hai nước (Việt - Mỹ) đã trở nên rất thân thiết và gần với trái tim ông. Sau ngày Phạm Xuân Ẩn qua đời, hai điều đáng nhớ được Larry Berman nhắc tới: 1. Vào dịp đại sứ Mỹ Raymond F. Burghardt sắp kết thúc nhiệm kỳ tại Việt Nam đã mời Phạm Xuân Ẩn đến dự chiêu đãi chào mừng phái đoàn ngoại giao mới và chia tay ông đại sứ. Nhưng vài ngày trước đó Phạm Xuân Ẩn “bị một con chim ưng quí của ông mổ, khiến ông không thể đi được. Cháu Ân đại diện cho gia đình đến dự”. Thấy vắng Phạm Xuân Ẩn, đại sứ Raymond F. Burghardt đã đích thân tìm đến nhà để tự mình nói lời tạm biệt trước ngày lên đường về Mỹ. Burghardt phát biểu: - “Câu chuyện và cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn thật không thể nào tin được, nhưng vượt lên trên tất cả những điều đó, Phạm Xuân Ẩn là một biểu tượng quan trọng của tình hữu nghị mới giữa hai nước chúng ta (Việt - Mỹ). Và con trai của Phạm Xuân Ẩn cũng là một người xuất sắc như thế” (Larry Berman - sđd tr. 470) 2. Larry Berman viết Phạm Xuân Ẩn có tuổi thọ đủ để chứng kiến “một chương mới mở ra trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (…). Tôi tin rằng cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn đã dừng lại ở đúng cái điểm làm cho vòng tròn được hoàn toàn khép kín”. Và rằng: “trên thực tế, ông đã trở thành một phần của quá trình hòa giải rộng lớn hơn giữa hai kẻ thù xưa”. Trước ngày định mệnh chấm dấu cuối cùng trong “vòng tròn được hoàn toàn khép kín ấy” Larry Berman có dịp đến thăm Phạm Xuân Ẩn trên giường bệnh, tại nhà riêng. Sau hơn hai tiếng đồng hồ trò chuyện, Phạm Xuân Ẩn xin lỗi phải nằm xuống nghỉ một lúc vì mệt và thân mật mời Larry Berman xem qua “tủ sách mở” của ông đặt trên các kệ gỗ. Và nhà sử học Larry Berman tìm thấy bản gốc cuốn “Sổ tay địa lý Đông Dương” ấn hành năm 1943 do một nhà tình báo hải quân Anh viết. Đó là cuốn sách mà sau ngày 30.4.1975, Phạm Xuân Ẩn dùng để “giúp đỡ nhiều gia đình bạn bè của mình phía đối phương (Việt Nam Cộng hòa) chạy trốn bằng cách chỉ cho họ những dòng hải lưu và những đường biển thuận lợi (để vượt biên)” - Larry Berman, sđd tr. 24. Larry Berman cũng giở nhiều cuốn trên kệ sách và thấy lồ lộ cả “một hồ sơ” tình bạn qua loạt sách do những nhà báo đồng nghiệp của ông từ Mỹ và các nơi khác trên thế giới gởi tặng. Ở rất nhiều trang mở đầu, họ ghi lại lời đề tặng nồng nhiệt như của Gerald Hickey, Neil Sheehan. Hoặc Laura Palmer: “Tặng Ẩn yêu quý và thân thiết của tôi, người đã hiểu rằng các chính phủ thì chỉ đến rồi đi, nhưng bạn bè thì ở lại mãi mãi” Bóng bẩy hơn, Robert Shaplen viết: “Tặng Phạm Xuân Ẩn, hiện tại cuối cùng rồi cũng đuổi kịp được quá khứ!” - người Mỹ “năm xưa” lại chính thức đặt chân đến Việt Nam lần nữa… (còn nữa)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 9:13:25 GMT 9
Tổng thống Ngô Đình Diệm tiễn đại sứ Mỹ Cabot Lodge rời dinh Gia Long lúc gần trưa 1.11.1963 và quay lại phòng họp - ông không ngờ mỗi bước đi của ông lúc đó đang nhích gần đến cái chết… Bởi, chưa đầy ba tiếng đồng hồ sau, lúc 13 giờ 30 - tiếng súng đảo chánh bắt đầu nổ vang giữa đô thành Sài Gòn. Lực lượng quân đội nổi dậy do tướng Dương Văn Minh đứng đầu đã nhanh chóng đánh chiếm Tổng nha Cảnh sát, Đài phát thanh, phi trường Tân Sơn Nhất và trấn áp hiệu quả một số ổ kháng cự trọng yếu khác. Xế chiều, họ siết chặt dần vòng vây Phủ tổng thống (dinh Gia Long - nay là Bảo tàng TP. HCM, số 65 Lý Tự Trọng, Quận 1). Để đối phó, tổng thống Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu tìm kế trì hoãn bằng cách yêu cầu Hội đồng các tướng lãnh (danh xưng của phe đảo chánh - còn gọi: Hội đồng Quân nhân cách mạng) cử người vào Phủ tổng thống thương nghị. Nhưng phía đảo chánh đã bác bỏ. Tổng thống Diệm quay sang liên lạc với đại sứ Mỹ Cabot Lodge qua điện thoại (lúc 16 giờ chiều) để hỏi lập trường của Mỹ thế nào trước biến động đang xảy ra ? Cuộc điện đàm trên giữa tổng thống Diệm và Cabot Lodge được Tòa đại sứ Mỹ ghi âm, kiểm thính và chép thành văn bản lưu trữ trong hồ sơ tối mật ở Bộ Quốc phòng Mỹ, tiết lộ và công bố tại Việt Nam qua bản dịch của Lan Vi - Hồng Hà và Dương Hùng - nguyên văn: DIỆM: Một vài đơn vị đã làm loạn, tôi muốn biết thái độ của nước Mỹ ra sao ?. LODGE: Tôi cảm thấy không được thông báo đủ tin tức để có thể nói với ngài. Tôi có nghe tiếng súng nổ, nhưng tôi không được biết hết các sự kiện. Hơn nữa lúc này là vào 4 giờ sáng ở Hoa Thịnh Đốn (Washington) và chánh phủ Mỹ không thể nào (kịp thời) có một quan điểm (cụ thể) được. DIỆM: Nhưng hẳn là ngài đã có những ý tưởng khái quát. Dầu gì tôi là một Quốc trưởng. Tôi đã cố gắng làm nhiệm vụ của tôi. Tôi muốn làm lúc này điều mà trách nhiệm và lương tri đòi hỏi. Tôi tin tưởng vào trách nhiệm trên hết. LODGE: Ngài chắc chắn đã làm (tròn) bổn phận của ngài. Như tôi đã thưa với ngài mới hồi sáng nay (1.11), tôi thán phục sự can đảm của ngài và những đóng góp to lớn của ngài cho xứ sở ngài. Không một ai có thể lấy được của ngài sự tín nhiệm về tất cả những điều ngài đã làm. Bây giờ tôi lo ngại cho sự an toàn của ngài. Tôi có tin là những người có trách nhiệm trong hoạt động hiện nay (phe đảo chánh) đề nghị để ngài và bào đệ của ngài xuất ngoại nếu ngài từ chức. Ngài có nghe thấy điều ấy chưa?. DIỆM: Chưa… Thế là đã rõ. Đại sứ Mỹ dùng “ngôn ngữ ngoại giao” để tế nhị cảnh báo và đưa ra lời đề nghị tổng thống Diệm từ chức, cùng em ruột của ông (cố vấn Ngô Đình Nhu) ra nước ngoài! Đoạn điện đàm trên cùng với rất nhiều bức điện của Cabot Lodge gởi về Nhà trắng, Bộ ngoại giao Mỹ, cơ quan tình báo CIA trong vài tháng cận kề cuộc đảo chánh xác nhận thêm thái độ ủng hộ của Mỹ trong việc lật đổ Ngô Đình Diệm và được in chung trong cuốn “Hồ sơ tối mật của Ngũ Giác Đài: Người Mỹ làm thế nào để giết tổng thống Việt Nam?” ấn hành tại Sài Gòn tháng 9.1971. Trước đó, vào năm 1969, Cao Thế Dung và Lương Khải Minh (một bút danh của Trần Kim Tuyến) đã biên soạn xong cuốn bút ký lịch sử với nhan đề từa tựa như tài liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ nói trên, là: “Làm thế nào để giết một tổng thống?” - có đoạn kể lại những giây phút cuối cùng của tổng thống Diệm tại dinh Gia Long: “…Từ khi súng nổ, tổng thống Diệm xuống hầm thì tất cả các bộ phận đầu não đều tập trung trong căn phòng khách nhỏ hẹp của tổng thống Diệm với một chiếc bàn tròn, một chiếc ghế bành, một chiếc tràng kỷ. Ông Nhu đi đi lại lại phía trên hành lang sâu hút của chiếc hầm…. ông Nhu vẫn đi như thế đầu cúi thấp, từng bước chầm chậm. Buổi chiều nặng nề trôi qua. Tổng thống Diệm chăm chú nghe lời nói của ông em: “Hừ hừ… Mỹ nó biểu làm thì làm… Mỹ nó cho mỗi đứa vài ngàn đô la là xong.” Ông Nhu búng tàn thuốc, gương mặt trĩu nặng: “Đính (Tôn Thất Đính - nguyên Tổng trấn Sài Gòn - Gia Định, Tư lệnh Quân đoàn 3) , Mậu (Đỗ Mậu - Giám đốc Nha An ninh quân đội) nó làm như rứa…” Tổng thống Diệm lặng thinh. Khoảng 6 giờ tối ông già Ẩn mang xuống một tô cháo gà để tổng thống Diệm lót lòng. Ông tổng thống với cử chỉ uể oải, chán nản tột cùng, cầm thìa múc cháo như chừng không còn đủ sức nuốt cho hết. Ông nhìn mọi người rồi bảo ông già Ẩn: “Múc vài tô nữa cho anh em ăn với “. Nhưng đây là tô cháo cuối cùng của đầu bếp dinh Gia Long. Khoảng 7 giờ tối, ông Nhu nói với bào huynh: “Thôi mình đi“. Tổng thống Diệm quay lại hỏi: “Đi mô?” Ông Nhu nói nhát gừng: “Cứ đi rồi tính“. Tổng Thống đứng lên nói: “Đi thì đi...” Tổng thống Diệm sai già Ẩn lên lầu lấy cặp da. Trung úy Sung thì thu xếp hành trang cho ông Nhu. Tổng thống Diệm nói với các sĩ quan tùy viên cùng bác sĩ Đinh Xuân Ninh và trung tá Kỳ Quan Liêm: “Đi một đứa thôi. Đi nhiều không nên“. Tất cả mọi người có mặt, đều có vợ con riêng. Đỗ Thọ thì còn độc thân. Đại úy Đỗ Thọ tình nguyện đi theo tổng thống. Đại úy Thọ quay lại nói với đại úy Hoàn: “Hoàn ở lại. Tao độc thân đi theo Cụ nếu có chết cũng không sao.” Khi già Ẩn đem chiếc cặp xuống trao cho tổng thống - nghẹn ngào, tổng thống Diệm trao chiếc cặp da cho Hoàn, đôi mắt ông vẫn lơ đãng, xa vời. Đỗ Thọ đỡ chiếc cặp da bước theo tổng thống rời khỏi hầm... Chiếc xe Chevaux loại fourgonnette đậu sẵn tại sân cỏ. Tổng thống Diệm bước lên xe theo sau là ông Nhu và đại úy Bằng – đại úy Đỗ Thọ ngồi băng trước cạnh tài xế. Tổng thống Diệm ngồi phía sau lưng lái xe và bên cạnh là ông Nhu. Xe rồ máy băng qua cửa nhỏ của dinh phía đường Pasteur rồi tiến vào sân sau Tòa Đô chánh, sau đó rẽ qua phía đường Lê Thánh Tôn, chạy ngang qua rạp Rex, rẽ tay phải đi theo ngã đường Lê Lợi trực chỉ vào Chợ Lớn theo ngã đại lộ Trần Hưng Đạo (…) Khi xe sắp chuyển bánh ông Cao Xuân Vỹ (Tổng giám đốc Thanh niên Cộng hòa) thấy tổng thống Diệm và ông Nhu ngồi trên sàn xe coi bộ thê lương quá nên ông quay vào dinh lấy tấm nệm mousse để tổng thống Diệm và ông Nhu ngồi tạm nhưng khi mang nệm ra thì xe đã đi. Trước sau, anh em tổng thống Diệm đã trở thành kẻ cô đơn trong cơn khói lửa” Sáng hôm sau 2.11.1963, tướng Dương Văn Minh - lãnh đạo Hội đồng Quân nhân cách mạng phái hai cánh quân vào Chợ Lớn săn lùng, truy bắt hai ông Diệm - Nhu. Cánh thứ nhất do trung tá Phạm Ngọc Thảo (điệp viên của Hà Nội) đến bao vây, lục soát nhà Mã Tuyên… (còn nữa)
Phạm Xuân Ẩn: “Vì sao CIA quyết định loại bỏ Ngô Đình Diệm“
Trả lời: “một trong những lý do khiến CIA loại bỏ Diệm là vì ông ta chống lại việc đưa quân Mỹ vào Việt Nam !”…
Lời đáp đó được Phạm Xuân Ẩn ghi vào bản phân tích gửi ra Hà Nội (về đảo chính 1.11.1963). Hơn 30 năm sau, nhận định trên của Phạm Xuân Ẩn được cựu điệp viên CIA hoạt động nhiều năm tại Việt Nam, Thái Lan, Lào và Campuchia là Sedgwick Tourison xác nhận qua cuốn Secret Army - Secret War (NXB Naval Institute Press Annapolis MD.USA, 1995) như sau: “Tổng thống Diệm muốn nhận được viện trợ của Mỹ nhưng lại không muốn quân đội Mỹ có mặt ở Việt Nam (…) Diệm sợ rằng nếu lực lượng bộ binh của Mỹ vào Nam Việt Nam thì quân Trung Cộng (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - GH) có thể nhảy vào phía Bắc” sẽ làm bùng nổ chiến tranh trên qui mô lớn và đổ máu triền miên… (Theo bản Việt dịch của nhóm Thiên Bảo với tựa: “Đội quân bí mật - Cuộc chiến bí mật” - NXB Công an Nhân dân, Hà Nội 2004, tr 59). Song khi ấy (1963) Hà Nội chưa tin hoàn toàn vào phân tích trong báo cáo trên của Phạm Xuân Ẩn. Không ít vị ở trung ương cho rằng sau ngày loại bỏ Diệm - thì Mỹ sẽ tìm cách rút khỏi Việt Nam. Phạm Xuân Ẩn đã “phá lên cười và nói rằng không có chuyện ấy đâu ! Người Mỹ sắp kéo vào đấy (...) hãy chuẩn bị sẵn sàng để đương đầu với một cuộc chiến tranh lớn” (Larry Berman, sđd tr. 256). Thực tế xảy ra đúng với lời Phạm Xuân Ẩn báo trước. Phạm Xuân Ẩn cũng biết bên Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến đã có Phạm Ngọc Thảo, người bạn thân của ông cũng đang hoạt động tình báo cho Hà Nội. Phạm Ngọc Thảo (trung tá, thời điểm năm 1963) là người có uy tín và có thực lực trong quân lực VNCH. Ông cùng với người chỉ huy trực tiếp của mình là tướng Trần Thiện Khiêm chủ trương chỉ thay đổi cơ cấu của chế độ Ngô Đình Diệm, chứ không giết chết ông Diệm. Nên khi tiếp quản dinh Gia Long và vào Chợ Lớn lục soát nhà Mã Tuyên, đều không thấy hai anh em ông Diệm - Nhu ở hai nơi đó, Phạm Ngọc Thảo thốt lên: “Nguy rồi !”. “Nguy” ở đây là nguy cho tính mạng của hai ông Diệm - Nhu. Bởi lẽ, trong Hội đồng Quân nhân cách mạng (phe đảo chánh) có hai khuynh hướng: * Một: nhổ cỏ tận gốc, tức là phải giết hai ông Diệm - Nhu trừ hậu họa. * Hai: vẫn giữ Ngô Đình Diệm làm tổng thống (trên danh nghĩa), thay đổi thực chất cơ cấu chế độ Đệ nhất Cộng hòa (dân chủ hóa và cởi mở ngoại giao với Hà Nội hơn), đưa Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Trung tá Phạm Ngọc Thảo (cùng một số lãnh đạo trong Hội đồng Quân nhân cách mạng - trong đó có tướng Trần Thiện Khiêm) nghiêng về chủ trương thứ hai, muốn đưa cả hai ông Diệm - Nhu vào một địa điểm an toàn để xúc tiến phương án đã định. Nhưng việc lỡ làng khi Phạm Ngọc Thảo đến nhà Mã Tuyên sáng sớm 2.11.1963, lúc hai ông Diệm - Nhu đã rời khỏi đó vào 5 giờ 15 phút, sau một đêm thức trắng. Mã Tuyên là ai? Mã Tuyên là Bang trưởng của 11 bang người Hoa ở Chợ Lớn. Ông tạo được ảnh hưởng mạnh đối với các bang hội của người Hoa trên toàn miền Nam Việt Nam, vì thế người Hoa gọi Mã Tuyên là “kiều lãnh”. Mã Tuyên được Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị và xã hội của Phủ tổng thống (là Trần Kim Tuyến) dàn xếp để Sở Cảnh sát đặc biệt không làm phiền hà trong công cuộc kinh tài thời ấy của Mã. Đổi lại Trần Kim Tuyến đề nghị Mã Tuyên góp công của vận động cho liên danh Ngô Đình Diệm - Nguyễn Ngọc Thơ được thắng cử. Nên hai ông Diệm - Nhu tin cẩn Mã Tuyên. Đêm 1.11.1963, ra khỏi dinh Gia Long, họ đã chạy về ẩn trong nhà Mã Tuyên. Đêm đó (mượn chữ của nhà văn Lê Tất Điều để nói) là “đêm dài một đời” của Bang trưởng Mã Tuyên. Thực vậy, đến sáng hôm sau 2.11, vì bị ghép tội (trước mắt): “chứa chấp hai anh em họ Ngô”, Mã Tuyên đã thực sự bước vào “một cuộc đời khác” đầy lao lý đón chờ ông ở ngay ngưỡng cửa nhà riêng. Bởi từ đó ông bị bắt, trải gần 4 năm qua nhiều trại giam, từ khám Chí Hòa cho tới Côn Đảo… Cũng từ 2.11, một số nhật báo Sài Gòn thổi phồng, phóng đại nhiều chuyện “động trời” khi nhắc đến Mã Tuyên, xem ông là “một tay kinh tài khét tiếng” cung cấp tài chính để Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu củng cố chế độ gia đình trị và đàn áp Phật giáo. Thế nên, họ đã tịch biên gia sản của Mã Tuyên và công khai đem ra bán đấu giá. Một số người Hoa hào hiệp đã góp tiền mua lại các món đồ quý bị phát mãi đó, rồi âm thầm tìm cách trao lại cho gia đình Mã Tuyên đang cơn tan nát. Mã Tuyên có 4 người vợ chính thức, với 20 người con, bị ảnh hưởng nặng nề sau đêm “tai bay vạ gió” đó. Đêm ấy, Mã Tuyên đã trả nghĩa cho Ngô Đình Diệm như thế nào ? Việc liên quan đến đại sứ Trần Văn Lắm (người đã thay mặt chính phủ VNCH ký vào hiệp định ngừng bắn Paris năm 1973) và là người sinh ra ở Chợ Lớn, đã từng lên tiếng phủ nhận nguồn tin của các mật báo viên trà trộn trong đám giang hồ “mã thầu dậu” tung ra, rằng: Mã Tuyên là cán bộ kinh tài cho Trung Cộng thời ấy. Thực hư sẽ viết rõ kỳ sau… (còn nữa)
Đại sứ Trần Văn Lắm và những "vết lăn trầm" của Mã Tuyên
Tổng nha cảnh sát Sài Gòn mở cuộc điều tra khẩn cấp để thẩm định hồ sơ mật báo về hai Hoa kiều: “Mã Tuyên (bang trưởng) và Phú Lâm Anh (chủ nhà hàng Mỹ Cảnh) nằm trong đường dây kinh tài bí mật của Cộng sản” thuộc đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn…
Cả hai người (Mã Tuyên và Phú Lâm Anh) bị Tổng nha đưa giấy triệu tập thẩm vấn và giao cơ quan an ninh nơi cư trú theo dõi ngày đêm. Hùa theo đó, đám giang hồ “mã thầu dậu” đến tận nhà họ khuấy rầy, đòi phải cung ứng tiền này tiền nọ để “giải tỏa sự vụ”. Đường cùng, hai người cầu cứu với một nhân vật có thế lực dưới trào Ngô Đình Diệm - là: đại sứ Trần Văn Lắm (nguyên Bộ trưởng Bộ ngoại giao VNCH từ 1969-1973). Tuy sinh ở Chợ Lớn, nhưng ông Trần Văn Lắm lại tiến thân trên lộ trình tri thức từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội (khoa Dược), tốt nghiệp năm 1939 (lúc 26 tuổi), trở thành Chủ tịch Quốc hội lập hiến của VNCH (1956-1957), Chủ tịch Hội đồng quản lý Ngân hàng Công thương (1964-1967) và là Trưởng phái đoàn VNCH tại Hội nghị Paris (1973). Dưới trào Ngô Đình Diệm, ông được tin dùng và thân cận với người đứng đầu tình báo Phủ tổng thống là Trần Kim Tuyến và đứng ra cam kết với Trần Kim Tuyến là hai người Hoa : Mã Tuyên và Phú Lâm Anh “không phải Cộng sản nằm vùng !”. Trần Kim Tuyến tin lời, lập tức gọi viên Chánh sở Cảnh sát đặc biệt vào Phủ tổng thống yêu cầu chấm dứt ngay những biện pháp bao vây và điều tra quấy nhiễu an ninh chính trị đối với Mã Tuyên và Phú Lâm Anh. Được chỉ thị trực tiếp của giám đốc tình báo Phủ tổng thống nên viên Chánh sở cảnh sát răm rắp thi hành mà “không cần thắc mắc hoặc tìm hiểu lý do” của mệnh lệnh. Ông ta trực tiếp buộc đô trưởng nội an Sài Gòn và mật vụ Quận 5 chấm dứt điều tra gây phiền phức cho Mã Tuyên (và Phú Lâm Anh). Nhờ vậy cả hai cự phú người Hoa ấy được yên ổn làm ăn. Từ đó đến ngày đảo chánh, Mã Tuyên chỉ gặpTrần Kim Tuyến một lần duy nhất trong cuộc vận động bầu cử năm 1961 (xem thêm Kỳ 17) và về sau được đề cử làm thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa vùng Chợ Lớn (Quận 5) - việc “tham chính” của Mã Tuyên cũng chỉ dừng lại ở mức “khiêm tốn” đó. Với Ngô Đình Diệm, Mã Tuyên đại diện Hoa kiều tại miền Nam và Chợ Lớn, vào dinh Độc Lập chúc mừng Quốc khánh vào 26.10 hàng năm, để được “bắt tay với tổng thống” rồi ra về. Với Ngô Đình Nhu, Mã Tuyên chưa hề gặp mặt. Nên đêm 1.11.1963 là lần đầu tiên gia đình Mã Tuyên được đón tiếp anh em tổng thống Diệm trong cơn lốc thời thế. Trần Kim Tuyến (cùng Cao Thế Dung) qua cuốn “Làm thế nào để giết một tổng thống” đã viết là, giả thử Mã Tuyên cam tâm phản bội, thì: “Ông ta chỉ cần cho vợ con đi cấp báo với phe đảo chánh, tất nhiên anh em ông Diệm sẽ không còn phương thế nào để chống đỡ và anh em ông tất đã bị phe đảo chánh bắt ngay vào đêm 1.11.1963. Song gia đình Mã Tuyên không đang tâm như vậy. Ngược lại đã đón tiếp tổng thống Diệm với tất cả lòng cung kính”. Mã Tuyên đưa anh em ông Diệm lên trú tại căn phòng khang trang nhất trên lầu, rồi bảo vợ con và tất cả người nhà lui xuống bên dưới tầng trệt, không ai được phép lai vãng lên đó. Đêm ấy, Mã Tuyên thức trắng để tự tay nấu nước pha loại trà quý nhất cho tổng thống uống và bưng lên những thức ăn ngon, mà không hề hay biết “một ngày sau đó cả gia tài cơ nghiệp nhà Mã Tuyên bị sụp đổ tan tành”. Gần sáng, Ngô Đình Nhu đề nghị Ngô Đình Diệm thực hiện “giải pháp tình thế” để thoát vòng vây của quân nổi dậy, bằng cách chia nhau hai người đi hai ngã: * Ngô Đình Nhu sẽ cải trang thành dân thường để len lỏi chạy lên vùng II chiến thuật - nương vào lực lượng của tướng Nguyễn Khánh để lật ngược thế cờ. * Ngô Đình Diệm sẽ đến vùng IV, tập hợp lực lượng phản công. Nhưng Ngô Đình Diệm không bằng lòng, bảo là anh em sống chết có nhau, không được rời nhau. Vì thế rạng sáng, hai ông thay quần áo, bận complet, lên chiếc xe Land Rover đến nhà thờ Cha Tam, do đại úy Thọ lái. Hồi ký Đỗ Thọ (ấn hành 1970 bởi cơ sở xuất bản Hòa Bình) kể lại, lúc ấy: “Trong nhà thờ (Cha Tam) đèn nến đã sáng trưng. Có lẽ buổi lễ đầu sắp sửa đến, tổng thống Diệm và ông Nhu quỳ xuống ở hàng ghế đầu. Tôi (Đỗ Thọ) đứng ở đằng sau lưng (đúng với vị trí) thường tình của một sĩ quan tùy viên (…) Tổng thống Diệm, ông Nhu và tôi theo chân Cha Xứ vào bên trong. Tổng thống nói với Cha Xứ là đến đây quá đường đột, phiền Cha. Nên sẽ đi nữa, chứ không lưu lại làm liên lụy, khổ sở cho nhà thờ. Cha Xứ trả lời là tổng thống đừng nghĩ điều đó. Nhà thờ là nước Chúa, ai đến cũng được, đâu phải riêng tổng thống. Tổng thống và ông cố vấn yên tâm ở lại đây, đừng ra đi, lắm phần nguy hiểm”. Tiếp đó, linh mục Jean ở nhà thờ Cha Tam tìm mọi lời thuyết phục để hai anh em tổng thống không nên gặp các tướng lãnh chỉ huy cuộc đảo chánh. Cuộc đối thoại được ghi lại qua “Làm thế nào để giết một tổng thống” - nguyên văn: Linh mục Jean: tổng thống và ông cố vấn không nên e ngại, tôi sẽ làm tất cả khả năng của tôi, tổng thống và ông cố vấn ra đi lúc này vô cùng nguy hiểm. Tổng thống Diệm: Cảm ơn Cha, tôi thấy không có gì nguy hiểm cả. Cá nhân tôi, tôi dâng trọn cho ý Chúa và Mẹ Maria nhưng tôi vẫn còn là nguyên thủ quốc gia, tôi còn trách nhiệm với dân. Linh mục Jean: Xin tổng thống và ông cố vấn nghĩ lại. Chính tôi sẽ đưa tổng thống và ông cố vấn đến một nơi an toàn nhất. Linh mục Jean có đề nghị tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu nếu không muốn tỵ nạn trong tu viện hoặc trong nhà thờ thì Cha Jean sẽ tìm cách tốt nhất để đưa hai ông đến tỵ nạn tại tòa đại sứ Pháp hoặc đại sứ Trung Hoa. Tổng thống Diệm từ chối lần cuối: “Xin cảm ơn Cha, tôi không có tội gì với quốc dân và quốc gia này, tôi không thấy có lý do gì phải lẩn tránh!”. Cuộc đối thoại chưa dứt, Hội đồng Quân nhân cách mạng đã tung cánh quân thứ hai do tướng Mai Hữu Xuân - nguyên Giám đốc Nha An ninh quân đội, đại tá Dương Ngọc Lắm và đại úy Nguyễn Văn Nhung (tùy viên của tướng Dương Văn Minh từ năm 1955) cùng một số sĩ quan khác dẫn đầu ào đến nhà thờ: “Chiếc xe tăng cồng kềnh (M113) tiến vào, rú lên những âm thanh ghê rợn. Rồi hai ba chiếc khác tiếp theo (xe Jeep) và còn một vài chiếc nữa đậu ở phía ngoài đường, họng súng chĩa vào phía trong (nhà thờ) như sẵn sàng nhả đạn”… (còn nữa)
Nhiều giả thiết cho rằng ten Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát anh em ông Ngô Đình Diệm
Nếu kế hoạch "phản đảo chánh" của Ngô Đình Nhu thành công sẽ “có một cuộc tắm máu - trong đó một số người Mỹ cũng như người Việt sẽ bị giết chết” (Robert Shaplen)…
Lẽ ra cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm xảy ra hồi tháng 8, hoặc cuối tháng 10.1963 nhưng bất thành - bởi các đầu mối tình báo của Ngô Đình Nhu phát hiện nhiều dấu hiệu bất thường trong quan hệ giữa các tướng lãnh Sài Gòn với Tòa đại sứ Mỹ - đặc biệt là các tài liệu liên quan đến âm mưu lật đổ. Nhận báo cáo, Ngô Đình Nhu “tương kế tựu kế” bí mật cùng các tướng lãnh tâm phúc phác thảo kế hoạch “đảo chánh giả” để tiêu diệt “đảo chánh thật”. Theo đó, vài ngày sau lễ Quốc khánh 26.10.1963, tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân đoàn 3 (đang nắm giữ lực lượng quân đội chính quy trong khu vực thủ đô) sẽ cùng đại tá Lê Quang Tung - chỉ huy trưởng Lực lượng đặc biệt (được phép hoạt động ngoài tầm kiểm soát của Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH) kết hợp Liên binh phòng vệ Phủ tổng thống trung thành với hai ông Diệm - Nhu, sẽ bắt tay thực hiện chiến dịch mang tên Bravo qua hai giai đoạn (do Robert Shaplen nêu trong cuốn “The Lost Revolution” - được dịch và in lại qua “Hồ sơ tối mật của Ngũ Giác Đài - Người Mỹ làm thế nào để giết tổng thống Việt Nam” - tài liệu đd ở Kỳ 16): * Giai đoạn 1 (Bravo 1): “Để đánh lừa người Mỹ và các tướng đang mưu toan đảo chánh, đại tá Tung (Lê Quang Tung) sẽ gởi một vài đơn vị của ông (lực lượng đặc biệt) ra khỏi Sài Gòn, nói là đi hành quân. Trong khi đó, các lực lượng trung thành khác cùng với các đơn vị thiết xa (thiết giáp) sẽ bí mật bố trí quanh thành phố (Sài Gòn). Rồi bất thần, các đơn vị cảnh sát và những toán phá rối làm ra vẻ chống Diệm để tạo một cuộc nổi dậy giả (đảo chánh giả). Hai ông Diệm - Nhu ngay trong giờ đầu hành động sẽ ra Vũng Tàu - nơi đây đã đặt sẵn một bộ chỉ huy có đầy đủ phương tiện liên lạc. Hai ông làm như thể đã “thoát được một cuộc nổi dậy”. Một chính phủ cách mạng giả hiệu ở Sài Gòn sẽ ra tuyên cáo về chương trình mới. Và một vài tù nhân chính trị có tiếng tăm sẽ được thả ra khỏi nhà tù. Những toán du đãng khác được chiêu mộ khi ấy sẽ bắt tay vào hành động và sẽ có một cuộc tắm máu…”. * Giai đoạn 2 (Bravo 2): “Trong vòng 24 giờ, “để tái lập trật tự” - các tướng Đính (Tôn Thất Đính), Cao (Huỳnh Văn Cao) sử dụng quân đội của họ quanh Sài Gòn, sẽ tấn công chiếm (giả vờ như tái chiếm) thành phố. Giai đoạn 2 này của cuộc “đảo chánh giả” gọi là Bravo 2. Và cuối cùng, hai ông Diệm - Nhu sẽ trở về từ Vũng Tàu như những vị anh hùng !”. Nhưng cuộc “tắm máu” như Robert Shaplen nhắc đến đã không xảy ra, vì kế hoạch Bravo phá sản, do một mắc xích quan trọng trong hàng ngũ tướng lãnh trung thành với Diệm - Nhu là tướng Tôn Thất Đính đã ngã sang phía Hội đồng Quân nhân cách mạng (phe đảo chánh) vào những ngày cuối. Nên khi bị bao vây, hai ông Diệm - Nhu liên lạc điện thoại với tướng Tôn Thất Đính nhưng tướng Đính không trả lời. Quân đảo chánh tiến chiếm dinh Gia Long và bao vây nhà thờ Cha Tam vào 2.11.1963 (như đã viết ở Kỳ 18). Trần Kim Tuyến (cùng Cao Thế Dung) tường thuật tiếp: Khi chiếc xe tăng M113 tiến vào nhà thờ, anh em ông Diệm vẫn đang còn đọc kinh: “đối với đời sống tôn giáo như Thiên Chúa giáo thì hai anh em ông Diệm đã làm tròn phép đạo trước khi lìa trần”. Lúc ấy, ông Diệm “vẫn bình thản đọc kinh”. Ông Nhu có vẻ bồn chồn, đứng lên trước và quay nhìn về hướng cửa chính. Ở hướng đó, một viên sĩ quan của phía đảo chánh từ dưới thềm bước lên, đưa tay mở rộng cửa. Nhật ký Đỗ Thọ (sđd Kỳ 18) ghi: “Họ đẩy mạnh ông Nhu xuống sân nhà thờ. Tổng thống Ngô Đình Diệm, tôi và cha Jean theo sau. Trong khi đó trục máy của chiếc M113 buông thả cửa xe. Lính đảo chánh đẩy ông Nhu lên xe. Ông Nhu cự nự quay lại nửa người và đưa tổng thống Diệm lên trước. Tôi chạy đến trao chiếc cặp da, chiếc ba-toong cho tổng thống. Nhưng đại úy Nhung đã giật lấy những món này. Đồng thời họ không cho tôi được phép đến gần tổng thống Ngô Đình Diệm. Tôi đứng lại nhìn. Cửa sau chiếc M113 đóng lại. Tôi không thể ngờ đó là nơi an nghỉ của tổng thống Diệm trong quan tài bọc sắt” (sđd tr. 267) Đến cổng xe lửa đường Hồng thập tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1, TP. HCM) đột nhiên đoàn xe dừng lại. Trần Kim Tuyến dẫn báo Công Luận (số 882 ngày 26-11-1970) tường thuật: “Đại tá Lắm ngồi với thiếu tướng Mai Hữu Xuân trong một chiếc xe jeep chạy giữa đoàn, thấy đoàn xe bất thần dừng lại, ông không biết chuyện gì nên đã thét vào máy truyền tin: - Ai cho lịnh các anh ngừng lại? Tiếng quân nhân trên thiết giáp đi đầu trả lời: - Thưa đại tá, kẹt xe lửa. Có một chuyến xe lửa sắp chạy qua, cổng rào đã kéo xuống. Đại tá Lắm “à” một tiếng; rồi tiếp tục nói chuyện với thiếu tướng Xuân. Chừng vài phút sau, giữa tiếng chuyển động ầm ầm của chuyến xe lửa chạy qua, ông nghe mơ hồ có nhiều tiếng súng nổ, nhưng hỏi phía trước không có một báo cáo nào cho ông biết chuyện gì bất ngờ xảy ra (…) Đó là tiếng súng của đại úy Nhung (…) đại úy Nhung đã bất thần từ chiếc xe jeep đi kèm nhảy qua chiếc thiết vận xa, khẩu rouleau ngắn nòng được rút ra khỏi vỏ và ông đã nhả đạn, sau đó dùng dao kết liễu đời hai ông Diệm - Nhu. Hai nhân vật đầu não của chế độ nằm xuống. Vĩnh viễn nằm xuống, không một phản ứng nhỏ nhoi nào”… Nhà báo quốc tế Robert Shaplen (rất thân thiết với Phạm Xuân Ẩn) - và là tác giả đã thông tin về kế hoạch “phản đảo chánh” Bravo của Ngô Đình Nhu, đưa ra một số luận cứ để cho rằng: “đại úy Nhung có thể đã ra tay hạ sát theo lệnh của tướng Dương Văn Minh”. Có một số giả thuyết khác nữa. Song dẫu thế nào, thì: “rõ rệt nhất là những viên đạn đó được chế tạo tại Hoa Kỳ. Nếu đại úy Nhung cầm súng nảy cò thì ông ta cũng là người thi hành lệnh cấp trên. Một đại úy như Nhung dù là sĩ quan tùy viên của chủ tịch Hội đồng Quân nhân cách mạng (tướng Dương Văn Minh) ông ta cũng chưa thể “điên” đến mức độ tự mình bắn anh em tổng thống Diệm” (Cao Thế Dung - Trần Kim Tuyến: Làm thế nào để giết một tổng thống?). Đài phát thanh Sài Gòn loan tin: “Anh em ông Diệm và ông Nhu đã tự sát”. Song tài liệu lưu trữ đến nay cho biết phản ứng của Khâm sứ Tòa thánh Sài Gòn là bác bỏ ngay nội dung của bản tin trên, bởi: “đối với người Công giáo không được phép tự sát, vì đó là trọng tội đối với thượng đế và sẽ mất hết mọi ân phước - một người Công giáo như ông Diệm thì chuyện này (tự sát) không thể xảy ra”. Dư luận cho rằng cái chết của Diệm - Nhu “đến nay tuy không còn là một điều bí mật, song có quá nhiều những chi tiết mâu thuẫn nhau”. Và đàng sau hai cái chết ấy là một âm mưu chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước, được tiết lộ qua “Hồ sơ tối mật của Ngũ Giác Đài” với nguyên bản các tài liệu dính dấp đến Tổng thống Kennedy, Phó tổng thống Johnson, Ngoại trưởng Rusk, Bộ trưởng Quốc phòng Mc. Namara, Thứ trưởng Quốc phòng Roswell L. Gilpatric, Phó giám đốc cơ quan CIA: trung tướng Marshall S. Carter và thiếu tướng Victor H. Krulak, phụ tá đặc biệt Tham mưu trưởng Liên quân đặc trách chống phản loạn của Mỹ, như thế nào? (còn nữa)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 9:23:41 GMT 9
Xác tổng thống Diệm được khiêng ra khỏi chiếc xe bọc thép và bị đặt nằm chơ vơ dưới đất - viên hạ sĩ quan trên chiếc M113 ấy nhảy xuống, lặng lẽ rút chiếc khăn tay trong túi mình đắp lên mặt ông Diệm, như chừng để người chết đỡ phải trơ trọi dưới nắng…
Có lẽ chiếc khăn tay kia là vật an ủi duy nhất dành cho linh hồn của người mới qua đời, vào những phút sa cơ, máu chưa khô hẳn. Lúc sống, không mấy ai dám nhìn thẳng vào mắt người chết đó (Diệm). Ngay những viên chức thuộc hàng cao cấp nhất của dinh Gia Long, khi ôm hồ sơ đến trình tổng thống cũng phải “đầu cúi ngó mũi giày” - chưa dám đường đột ngẩng lên vội. Cụ Vương Hồng Sển đã quan sát và ghi lại như vậy qua lần gặp tổng thống Diệm để thẩm định đồ cổ tại dinh Gia Long (đọc chi tiết trong : Vương Hồng Sển, Hơn nửa đời hư - NXB TP. HCM 1999, tr. 457 - 464). Nằm cạnh xác ông Diệm (dưới cột cờ của Bộ Tổng tham mưu) là xác ông Ngô Đình Nhu: “há hốc, mắt nhắm, máu ở miệng trào ra hai bên mép và máu ở cổ đã trở thành đen” (Cao Thế Dung và Trần Kim Tuyến: Làm thế nào để giết một tổng thống). Hai ông nằm hiu quạnh giữa trời hơn 8 tiếng đồng hồ - từ trưa đến lúc sập tối (11g15 đến 19g30 mới chuyển đi nơi khác). Quãng thời gian ấy, lực lượng phòng vệ nhận lệnh thiết lập “hàng rào sắt” đề phòng dân chúng đang quá đỗi phấn khích vì cuộc đảo chánh thành công có thể kéo đến cướp xác. Cũng ngăn cấm tuyệt đối các nhà báo đến chụp ảnh, đưa tin. Chỉ có các tướng lãnh của hội đồng quân nhân đảo chánh mới được lai vãng quanh hai xác chết. Song, ngay giữa trưa gần giờ ngọ hôm ấy (2.11), trong “tử địa” vắng lặng đó, xuất hiện bóng trung tá Lucien Conein của CIA bước đến lật chiếc khăn tay lên để nhận diện tử thi. Khi xác định hai xác chết nằm dưới cột cờ là tổng thống Diệm và cố vấn Nhu, Conein điện ngay về Tòa đại sứ để Cabot Lodge biết tin tức mới nhất về số phận Diệm - Nhu bằng một cách nói “mật khẩu” - đầy ẩn ý: - “Mùa thu thì lá phải bay thôi !”. Cabot Lodge hiểu ngay Diệm - Nhu đã bị thanh toán và Lodge tức tốc thảo bản tin gởi Nhà Trắng, hân hoan vì: “cuộc đảo chánh thành công mỹ mãn về mọi phương diện !”. Song, tổng thống Kennedy choáng váng, đã “tái mặt đi và bước ra khỏi phòng họp để trấn tĩnh lại” khi biết tin Diệm - Nhu bị bắn chết. Colby kể và ghi tiếp là ngay ngày hôm ấy (2.11.1963 - rơi vào “ngày lễ của những người chết theo lịch của Công giáo”), TT Kennedy triệu tập cuộc họp bất thường với Hội đồng An ninh quốc gia thông báo nội dung bức điện của đại sứ Cabot Lodge và không mấy ai có mặt tán thưởng nội dung trên (chỉ một người đánh giá cao “thành tích ngoạn mục” của đại sứ Lodge là ông Bộ trưởng Bộ ngoại giao Dean Rusk). Trong quá khứ, theo William Colby, khi Kennedy nghe một người bạn kết tội “Diệm - Nhu là hai tên bạo chúa, Kennedy đã đáp: “Không, họ ở trong một hoàn cảnh khó khăn và họ làm hết sức mình cho đất nước họ” - nhưng bây giờ ông biết mình đang phải đương đầu với một vấn đề nghiêm trọng, bởi chính là chính phủ ông đã ủng hộ cho cuộc đảo chánh” ” (William Colby - Một chiến thắng bị bỏ lỡ - sđd kỳ 3, tr. 207). William Colby viết, tối hôm đó Colby mời vợ chồng Nolting (cựu đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam) và vợ chồng Richardson (cựu Trưởng văn phòng CIA tại Sài Gòn) tới dự bữa cơm kéo dài đến tận khuya: “có lẽ đó là buổi túc trực đêm bên người chết duy nhất của người Mỹ dành cho hai anh em Diệm - Nhu” và những người có mặt đều kinh ngạc khi biết chính phủ Mỹ “góp phần trực tiếp vào việc lật đổ Diệm và cái chết của ông ta” (sđd tr. 208). Dưới đây gồm một số trích dẫn tiêu biểu từ cuốn “Hồ sơ tối mật (top secret) của Ngũ Giác Đài - Người Mỹ làm thế nào để giết tổng thống Việt Nam” theo bản in bằng chữ đúc chì (mất trang ghi tên NXB), dày 220 trang, để bạn đọc tham khảo thêm (về vai trò người Mỹ trong sự kiện 1.11): * Bản nghiên cứu của Ngũ Giác Đài xác định rằng: “Bắt đầu từ tháng 8.1963, chúng ta đã nhiều lần cho phép, chấp thuận và khuyến khích những cố gắng đảo chánh của các tướng lãnh Việt Nam và dành sự yểm trợ hoàn toàn cho một chính phủ kế tiếp (sau chế độ Diệm). Hồi tháng 10 (1963) chúng ta đã cắt viện trợ (cho Diệm)… và duy trì sự tiếp xúc kín đáo với họ (các tướng lãnh VNCH chống Diệm)” (tr. 13). * Ngày 10.7.1963: nội dung bản đánh giá tình báo quốc gia (số 53-2-63) dự đoán: “cuộc khủng hoảng Phật giáo ở miền Nam Việt Nam làm nổi bật và gia tăng sự bất mãn lan rộng từ lâu với chế độ Diệm (…) những xáo trộn và cơ hội của một cuộc đảo chánh hay cuộc mưu sát nhắm vào ông (Diệm) sẽ có thể thuận lợi hơn bao giờ hết” (tr. 40). * Ngày 25.8.1963: Cabot Lodge phúc đáp nhanh về Washington: “đề nghị chúng ta đi thẳng với các tướng lãnh (…) mà không cho Diệm biết”. Cùng ngày, thư của Bộ Ngoại giao Mỹ do ngoại trưởng George Ball ký gởi đại sứ Cabot Lodge: “nước Mỹ không dung dưỡng vai trò đầy thế lực của ông Nhu và bà vợ của ông (Trần Lệ Xuân) lâu hơn nữa” - đồng thời xác định: “ủng hộ ông (Cabot Lodge) đến cùng trong các hành động của ông nhằm đạt các mục tiêu (lật đổ Diệm)” (tr. 44). Trước đảo chánh một hôm (30.10.1963), từ Washington, Bundy (Phụ tá tổng thống Kennedy, đặc trách An ninh quốc gia) điện trả lời Cabot Lodge, nhấn mạnh: “vì quyền lợi của nước Mỹ, cuộc đảo chánh phải thành công” (tr.12). Nếu thất bại, Tòa đại sứ Mỹ và các cơ quan liên hệ khác của Mỹ sẽ mở rộng cửa đón các tướng lãnh chống chế độ Diệm vào tỵ nạn chính trị. Người Mỹ mỗi ngày chi ra 1 triệu USD (thời 1963) cho VNCH không thể để “kịch bản Sài Gòn” rơi vào tay kẻ khác… Sau ngày 1.11.1963, bất ổn chưa từng thấy làm nghiêng ngả chính trường Sài Gòn với 6 chính phủ liên tiếp thay thế nhau cầm quyền chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm (1963-1967) được cuốn “Lược sử lập hiến Việt Nam” của Phan Đăng Thanh - Trương Thị Hòa (NXB Tổng hợp TP. HCM 2013, tr. 119-120) nêu rõ thời hạn của từng chính phủ “lên rồi xuống” theo nhịp độ đổ quân của Mỹ vào miền Nam Việt Nam: 1. Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ từ 4.11.1963 đến 30.1.1964 2. Chính phủ Nguyễn Khánh từ 8.2.1964 đến 26.10.1964 3. Chính phủ Trần Văn Hương từ 31.10.1964 đến 27.1.1965 4. Chính phủ Nguyễn Xuân Oánh từ 28.1.1965 đến 16.2.1965 5. Chính phủ Phan Huy Quát từ 16.2.1965 đến 12.6.1965 6. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ 19.6.1965 đến 9.11.1967 Trong bối cảnh đó, hàng loạt các cuộc đảo chánh nổ ra. Làm rung chuyển Sài Gòn là cuộc nổi dậy ngày 19.2.1965 đánh chiếm căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh quốc gia và nhiều cứ điểm quân sự trọng yếu trên địa bàn Sài Gòn, dẫn đến phiên tòa Quân sự mặt trận tuyên án tử hình vắng mặt thiếu tướng Lâm Văn Phát và đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo! (còn nữa)
Được tin thiếu tướng Lâm Văn Phát đưa xe tăng đến nhà riêng tìm bắt mình - đại tướng Nguyễn Khánh tức khắc rời Bộ Tổng tham mưu…
Nguyễn Khánh bị lên án là tác nhân chủ chốt của những khủng hoảng chính trị và rối ren xã hội đương thời. Ông thâu tóm quyền hành, làm Thủ tướng, rồi Chủ tịch Hội đồng Quân nhân cách mạng, Chủ tịch VNCH, đại tướng Tổng tư lệnh Quân đội. Để chống lại khuynh hướng độc tài độc trị của ông, cuộc chính biến ngày 19.2.1965 nổ ra, muốn bắt giữ ông. Ông chưa biết chạy về đâu vì nhiều nẻo đường đã bị quân đảo chánh của Phạm Ngọc Thảo và Lâm Văn Phát trấn giữ. Trong lúc bối rối, ông điện thoại liên lạc với thiếu tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ, báo để Kỳ biết: hiện có nhiều xe tăng và binh sĩ đột ngột xuất hiện giữa Sài Gòn và ông phải chạy vào phi trường Tân Sơn Nhất để nhờ đến Kỳ. Khi nhận điện thoại của Khánh là lúc Kỳ đang đánh bài mạt chược với các viên phi công dưới quyền. Kỳ vội vàng đứng lên, giục các phi công trên phải trở về ngay phi đoàn lấy máy bay để bay lên quan sát xem có chuyện gì đang xảy ra. Thật bất ngờ, mới bước khỏi nhà, họ đã quay lại nói với Kỳ là họ không thể chạy đến các máy bay của họ được, vì quanh phi trường chỗ nào cũng có xe tăng đang vây ráp. Nghe vậy, Kỳ nhảy lên chiếc xe jeep tự lái đi, xem xét tình thế ra sao. Ra tới cổng, Kỳ đã gặp Khánh trờ tới trên chiếc xe Mercedes có cắm cờ lệnh của Bộ Tổng tham mưu. Khánh nói đại ý: Phát (thiếu tướng Lâm Văn Phát) và Thảo (đại tá Phạm Ngọc Thảo) đã động binh “tạo phản” đang hầu như làm chủ tình hình ở Sài Gòn từ 11g30 trưa hôm đó (19.2.1965), rồi hỏi Kỳ: - “Anh có cách nào đưa tôi ra khỏi đây không ?” - “Chắc tôi không thể làm được. Mấy phi công của tôi đã không thể cất cánh !” Khánh nài nỉ Kỳ hãy cố giúp mình: - “Đi bất cứ đâu, miễn chúng ta đi khỏi chỗ này!”. Kỳ đáp: - “Thôi được, nếu cần đi thì chúng ta nên đi mau !”. Nói xong, Kỳ bảo Khánh hãy bỏ chiếc Mercedes lại, để nhảy lên xe jeep với Kỳ, cùng nổ máy chạy đến phía sau một ngôi nhà có để sẵn máy bay theo một lối đi riêng: “nơi mà lúc nào cũng có một chiếc máy bay sẵn sàng cất cánh trong trường hợp khẩn cấp. Chúng tôi chạy nhanh đến nơi đó, tránh không cho binh sĩ của Phát trông thấy và các binh sĩ này hình như cũng không tiến sâu hơn nữa vào trong căn cứ không quân”. Kỳ khởi động máy bay và giục Khánh lên ngồi trên một ghế hành khách và lái ra phi đạo: “Chúng tôi ra phi đạo vừa đúng lúc. Bởi vì khi ấy tôi nhìn về hướng cuối phi đạo, thấy có 20 chiếc xe tăng đang tiến ngược chiều về phía chúng tôi. Tôi không thể trở lui được nữa, vì vậy mà tôi đã cho chiếc máy bay DC3 đã cũ quay hết tốc lực máy, chạy nhanh trên phi đạo và cất cánh, hai bánh xe của máy bay lướt sát trên các xe tăng” (Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ - Chúng ta đã thua trận ở Việt Nam như thế nào? - theo bản dịch của Thông tấn xã Việt Nam). Máy bay chở Khánh đáp xuống phi trường gần Đà Lạt, để Khánh xuống và Kỳ bay trở lại hướng Nam. Đến Sài Gòn, Kỳ phải bay vòng vòng một hồi bởi ông không thể đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất vì các đơn vị thiết giáp và cả bộ binh đang bao vây căn cứ không quân - họ có thể bất thần nổ súng bắn hạ Kỳ nếu có lệnh của thiếu tướng Lâm Văn Phát. Lâm Văn Phát (sinh 1920 tại Cần Thơ), từng làm Tổng trưởng nội vụ VNCH và Tư lệnh Biệt khu thủ đô (Sài Gòn). Ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Trường Võ bị liên quân Viễn Đông tại Đà Lạt năm 1947, học trường Thiết giáp kỵ binh Saumur (Pháp) năm 1950, Trường Sĩ quan Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth tại Mỹ (US Army Command and General Staff College) năm 1959, thăng cấp đại tá và bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân đoàn 3 năm 1963. (Chị ruột Lâm Văn Phát là “người đẹp Tây Đô” Lâm Thị Phấn - thiếu tá tình báo Quân đội Nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang). Người ta nhắc đến ông với đặc điểm là “chuyên gia đảo chánh” - qua 4 lần tham gia: 1. Lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm ngày 1.11.1963, được Hội đồng các tướng lĩnh thăng thiếu tướng ngày 2.11 năm ấy. 2. Chỉnh lý phế truất 4 tướng: Đôn, Đính, Kim, Xuân - ủng hộ tướng Nguyễn Khánh lên cầm quyền. 3. Do tướng Nguyễn Khánh muốn độc tài, độc trị, nên ông lại cùng trung tướng Dương Văn Đức kéo quân về Sài Gòn mưu lật đổ Nguyễn Khánh ngày 13.9.1964 nhưng bất thành. 4. Cầm đầu cuộc đảo chánh do đại tá Phạm Ngọc Thảo tổ chức ngày 19.2.1965. Nhắc lại, Nguyễn Cao Kỳ đưa Khánh thoát lên Đà Lạt bằng máy bay, khi quay về đã không đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất được, phải bay đi Biên Hòa cách Tân Sơn Nhất khoảng 20 dặm về phía Bắc đáp xuống (do căn cứ không quân Biên Hòa chưa lọt vào tay quân đảo chánh của Lâm Văn Phát). Ở đó Kỳ nhanh chóng tụ họp hội đồng nội các, có cả tướng Nguyễn Chánh Thi cũng từ Đà Nẵng bay vào. Cuộc họp quyết định bãi nhiệm Nguyễn Khánh và tiến chiếm Sài Gòn. Kỳ viết: “Chúng tôi phải dẹp được Phát trước đã. Tôi quyết định đe dọa sử dụng sức mạnh của không quân, một lối đe dọa mà trước kia đã tỏ ra có hiệu quả, và tôi sắp sửa tìm cách tiếp xúc với Phát thì, không báo trước, tướng Robert Rowland, cố vấn Hoa Kỳ cạnh không quân Việt Nam đã gọi giây nói cho tôi vào lúc 3 giờ trưa và hỏi: “Chính phủ của tôi muốn biết là ông có đứng về phía phe nổi loạn hay không ?”. Tôi trả lời là tôi không có theo phe nổi loạn và tiếp: “Tốt hơn là ông nên nói với mấy người đó (Lâm Văn Phát và Phạm Ngọc Thảo) hãy rút khỏi tổng hành dinh của tôi ở Sài Gòn. Nói với họ là tôi cho họ bốn tiếng đồng hồ để rút, nghĩa là cho đến 7 giờ chiều hôm nay. Nếu họ không rút ra, tôi sẽ đánh bom khu vực Sài Gòn”. Việc đánh bom Sài Gòn thực sự gần như đã có thể xảy ra. Đến 6 giờ rưỡi, Rowland lại gọi giây nói cho tôi: “Ông Kỳ, ngay bây giờ đừng làm như vậy. Gạt bỏ tất cả mọi chuyện khác ra, tôi hiện vẫn đang ở tại tổng hành dinh, nếu ông đánh bom tổng hành dinh, ông sẽ đánh bom luôn cả tôi nữa”. (Còn nữa).
Maxwell Taylor được báo trước về hành tung táo bạo của các cảm tử quân cộng sản Việt Nam nhưng ông vẫn bất ngờ và cay đắng khi Tòa đại sứ Mỹ của ông ở Sài Gòn bị đánh sập hoàn toàn bằng 150kg thuốc nổ…
Việc xảy ra trong vòng nhân quả. * Cái “nhân” gieo xuống từ cuộc đối đầu không khoan nhượng giữa hai phe Cộng sản và Quốc gia vào giữa thế kỷ 20, với những lời tuyên bố “một mất một còn” của đôi bên. Riêng định mệnh Việt Nam, bất hạnh đến gần hơn và rõ hơn vào tháng 1.1964 khi chính phủ Mỹ đồng tình với bản phúc trình mật của Bộ Tham mưu liên quân Mỹ và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân: đại tướng Maxwell Taylor, rằng: “Miền Nam Việt Nam là trụ cột trong cuộc đương đầu với cộng sản trên toàn thế giới”! (Hồ sơ tối mật của Ngũ Giác Đài, sđd Kỳ 16, tr. 208). Hiển nhiên, miền Nam Việt Nam nhanh chóng trở thành điểm nóng “máu lửa” nhất hành tinh. Mỹ thẳng tay gạt bỏ bất cứ ai ngăn cản họ đưa quân tham chiến. Điển hình trước đó, họ nhúng tay trực tiếp lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm và đưa tướng Dương Văn Minh lên. Khoảng 3 tháng sau, lại loại các “tướng già thân Pháp” như Đôn, Đính, Kim, Xuân (có xu hướng trung lập) để đưa các “tướng trẻ thân Mỹ” như Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu lên thay (1964 – 1965). Ở giai đoạn đó, đại tướng Nguyễn Khánh “vụt sáng” thành nhân vật tiêu biểu trên lộ trình mới của Mỹ – ông ở ngôi Quốc trưởng, Thủ tướng, nhưng không được lòng dân. Vì trước tiên, ông là người được Ngô Đình Diệm tin cẩn: “đêm đảo chánh tháng 11.1960 (Nguyễn Khánh) đã dũng cảm quyết leo qua tường dinh (Độc Lập) để cứu tổng thống (Diệm)… nên giới Phật giáo rất lo sợ (nếu Nguyễn Khánh nắm quyền) sẽ là sự quay trở lại của một chế độ Diệm mà không có Diệm” (đọc thêm: William Colby - sđd Kỳ 3, tr. 159 và 223). Sau nữa, Nguyễn Khánh bị hội đồng các tướng lĩnh bất phục. Do vậy, Mỹ muốn gạt Khánh. Sau những biến động chính trị dồn dập, đại sứ Maxwell Taylor (nhậm chức 4.7.1964) đứng sau lưng tướng Nguyễn Cao Kỳ (và Nguyễn Chánh Thi) để dập tắt cuộc nổi dậy do tướng Lâm Văn Phát chỉ huy và đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo lãnh đạo (ngày 19.2.1965 – xem thêm Kỳ 21). Nhân đó, Mỹ thúc đẩy các tướng trẻ đứng đầu là Nguyễn Cao Kỳ bãi nhiệm Nguyễn Khánh – buộc ông phải sống lưu vong ở nước ngoài suốt gần 50 năm (cho đến lúc qua đời tại San Jose, California - Mỹ năm 2013, thọ 86 tuổi). Khánh đi rồi, Mỹ tiếp tục đổ quân tham chiến vào miền Nam Việt Nam. Theo số liệu do Nguyễn Cao Kỳ nêu trong hồi ký của ông (sđd Kỳ 21, tr. 77), vào năm 1950 lực lượng Mỹ mới chỉ là cơ quan cố vấn và viện trợ quân sự (MAAG) với 327 người, đã tăng lên 900 người (1960) và 3.200 (1961). Khi cơ quan ấy (MAAG) nâng lên thành Bộ tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MAC V) dưới quyền điều động của tướng Paul Harkins đã đạt đến con số 11.300. Để rồi: “năm 1963, số quân Mỹ tổng cộng là 16.500 và vào năm 1964 (dưới quyền chỉ huy của tướng Westmoreland) đã lên đến 23.000. Năm 1965, khi các lực lượng Mỹ đảm nhiệm đầy đủ vai trò chiến đấu, số quân của họ tăng tới 180.000; năm 1966 số quân này là 389.000; năm 1967: 463.000; năm 1968: 495.000 và vào năm 1969: nó đã lên tới tột đỉnh với con số 541.500 người”. Nguyễn Cao Kỳ nhận định: “Không kể lực lượng Nam Việt Nam và các lực lượng khác, một quân đội gồm nửa triệu người là một lực lượng vũ trang hết sức to lớn và lực lượng Mỹ đã được trang bị những tàu sân bay, những máy bay ném bom phản lực và tất cả những vũ khí hiện đại nhất, tinh vi nhất và khủng khiếp nhất. Tuy vậy, họ đã không thắng nổi trận chiến tranh…”. * Và cái “quả” của việc đưa quân ồ ạt, mở rộng chiến tranh, là phải gánh chịu cuộc phản công mạnh mẽ của những người Cộng sản Việt Nam trên toàn miền. Riêng tại Sài Gòn, nơi đại sứ Maxwell Taylor cùng Trưởng ban bảo vệ các chung cư Mỹ là đại tá Kuntze vẫn cho “là nơi an toàn nhất” của miền Nam, đã phải bất ngờ trước đợt tấn công cảm tử vào chính tòa nhà 5 tầng dùng làm Tòa đại sứ Mỹ, tọa lạc ở nơi đô hội nhất số 49 Hàm Nghi, gần Chợ Cũ. Trước trận đánh, trinh sát lộ trình đã báo cáo: phòng làm việc dưới tầng trệt của Tòa đại sứ chỉ nằm cách lộ 5m. Để dễ kiểm soát người qua lại, đường Hàm Nghi được phân tuyến quy định cho xe cộ lưu thông một chiều. Tuy nhiên, do đường hẹp, cuộc tấn công cảm tử bằng xe phóng nhanh vào, sẽ đặt quân Mỹ bảo vệ tòa nhà ở thế bất ngờ, khó trở tay kịp. Và trận đánh có mật danh: M1 được thông qua với phương án ban đầu là đóng giả một Bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa đến “làm việc với sứ quán Mỹ” để đưa xe đặt sẵn chất nổ vào sát cửa Tòa đại sứ. Cách đánh trên an toàn hơn nhưng phải cần nhiều ngày chuẩn bị công phu. Mà, yêu cầu chính trị lúc ấy lại quá gấp, cần thực hiện nhanh, nên phải chuyển sang cách đánh táo bạo: “cho một khối lượng lớn chất nổ lao thẳng vào mục tiêu!”. Ai đảm nhiệm lái xe cảm tử xông vào? Loại xe nào được chọn để chở hơn một tạ rưỡi khối TNT? (còn nữa)
Người phóng xe cảm tử lao thẳng vào cổng Tòa đại sứ Mỹ là trinh sát Nguyễn Thanh Xuân (tức Bảy B) - anh ta phải nhanh chân thoát khỏi vòng sát thương của khối thuốc nổ TNT (do chính anh giật nụ xòe, kích nổ) trong 20 giây…
Nếu chậm hơn, anh sẽ phải bỏ mạng dưới tòa nhà đổ nát. Khối thuốc nổ ấy chở trên chiếc ô tô du lịch hiệu Frigate màu đen bóng loáng, được mua trước đó với giá 270.000 đồng - tương đương 2.289 USD, tính theo hối suất của năm 1965 (lúc mở trận đánh): 1 USD ăn 118 đồng tiền Sài Gòn (xem thêm: Lịch sử Sài Gòn thời kỳ 1945-1975 - Cao Tự Thanh, Hồng Duệ, Hoàng Mai chủ biên, NXB Tổng hợp TP. HCM và NXB Văn hóa Sài Gòn ấn hành 2007, tr. 164-166). Ngoài Bảy B, đội cảm tử trực tiếp vào trận còn có: Lê Văn Việt (căn cước giả mang tên: Nguyễn Văn Hai), Trần Văn Thế, Nguyễn Nông và Nguyễn Thị Minh Nguyệt. Minh Nguyệt hoạt động quân báo từ năm 1961, lần này đảm trách chuyển súng ngắn vào điểm X. và đưa hơn 150kg TNT cùng kíp gây nổ, nụ xòe, dây cháy chậm trên một chiếc xe buôn mủ cao su (theo “hợp đồng giả” với cơ sở cách mạng Tư Sao) đến ém tại nhà ông Mười Vĩnh Long (68/168B Trần Quang Khải, quận 1) và Nguyễn Nông (tức Năm Bắc) ở số 194/5/5 đường Bạch Đằng - Gia Định. 9g40 phút ngày 30.3.1965: họ xuất phát từ quán cà phê Văn Hoa số 85 Trần Quang Khải theo đội hình: “3 chiếc xe gắn máy lần lượt nối tiếp nhau, gồm: anh Năm Bắc (trinh sát lộ trình), Trần Văn Thế (bảo vệ xung kích), Lê Văn Việt (xung kích), chiếc Frigate đi hàng thứ 4 do Nguyễn Thanh Xuân lái (làm nhiệm vụ thọc sâu), sau cùng là Nguyễn Thị Minh Nguyệt trên chiếc mobylette có nhiệm vụ “coi chừng cái đuôi” (Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến, Trần Hải Phụng và Lưu Phương Thanh chủ biên, NXB TP. HCM 1994, tr. 396). Khi xe do Bảy B lái trờ tới đoạn đường ngang qua Tòa đại sứ, anh ta bất thần tăng ga leo lên lề, phóng thẳng đến sát cửa chính của tòa nhà, rồi bằng một động tác chuyên nghiệp đã thắng thật mạnh cho xe chồm lên phía trước, nhanh nhẹn tung cửa nhảy ra ; tay kia giật nụ xòe kích nổ, 5 giây - rồi 7 giây… Từ bên kia đường, hai cảnh sát có vũ trang nghi ngờ nhìn về phía cổng Tòa đại sứ, định bắn Bảy B. Tư Việt nổ súng hạ gục cả hai. Nghe tiếng nổ, đám đông công an Sài Gòn mặc thường phục đang ngồi trong các quán nước quanh đó đã ùa ra bao vây. Bảy B vẫn bình tĩnh rời xa “chiếc xe tử thần” - bắn gục hai lính Mỹ trước khi băng qua vệt vôi ranh giới - và thoát khỏi tầm bắn của ổ súng đại liên Mỹ đang khạc đạn từ trên lầu 5 xuống. Khoảng 190 nhân viên trong Tòa đại sứ hoảng hốt chạy vào thang máy và các hành lang thoát hiểm để đến tầng trệt, nhưng không may, chưa tới nơi khối TNT đã phát nổ: “Tiếng nổ long trời ở Tòa đại sứ Mỹ làm cả Sài Gòn náo động. Từng đoàn xe cứu hỏa lao tới cùng với các đoàn người đổ về đông nghẹt, ai cũng muốn được nhìn tận mắt cảnh tượng bi thảm của “Nhà Trắng phương Đông”. Sức thổi của khối thuốc hình lõm làm tất cả tường phía trong của lầu 1, 2, 3 đều bị sập rỗng lên đến tầng 4, song sắt cửa của các tầng đều bị cong queo, 30 chiếc xe du lịch của sứ quán đều cháy trụi, là cờ Mỹ 50 sao bị hất xuống đất, gạch ngói, ly cốc, giấy tờ bay tơi tả. Sứ quán Mỹ tan hoang. Trong tro bụi hoang tàn và hỗn loạn, số Mỹ còn sống sót lóp ngóp chui ra, mình mẩy bê bết máu (...) Người ta thấy cả phó đại sứ Alexis Johnson ôm đầu tháo chạy ra phía cổng đại sứ quán. Lúc đó là 10 giờ 55 phút (ngày 30.3.1965)”. Trên đây là đoạn trích từ cuốn Biệt động Sài Gòn của Nguyễn Đức Hùng (tức Tư Chu) - Phó tư lệnh Bộ chỉ huy chiến trường Sài Gòn - Gia Định các năm 1968-1972, kiêm Chỉ huy trưởng các lực lượng biệt động thành Sài Gòn (NXB Trẻ TP. HCM 1999, tr. 113). Tư Chu ghi nhận: *Phía chính phủ Mỹ: Tổng thống Johnson ngừng ngay bữa tiệc tiếp đãi phái đoàn của nước Thượng Volta để nghe báo cáo về tổn thất nặng nề của Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn (có hơn 190 người Mỹ vừa chết vừa bị thương). Nếu cụm từ “dưới bóng Tòa đại sứ Mỹ” dùng để chỉ các tướng lãnh và các chính khách VNCH hoàn toàn ủng hộ chính sách mở rộng chiến tranh của Mỹ thì lúc đó có thể tạm dùng để chỉ “nỗi lòng” của tổng thống Johnson trong ngày Tòa đại sứ này bị đánh tan hoang… * Phía cảm tử quân cộng sản: Lái xe cảm tử Nguyễn Thanh Xuân thoát khỏi vùng ảnh hưởng của 150kg chất nổ và lần ra phía ngoài, ngoắc tắc-xi “đến chợ Bến Thành (anh xuống), lách qua các gian hàng buôn bán để đề phòng bị theo dõi, sau đó ung dung về nhà cơ sở”. - Cảm tử quân Trần Văn Thế “bắn viên đạn cuối cùng yểm trợ cho Tư Việt, rồi cho xe gắn máy lách qua ngã ba để qua bên kia Chợ Cũ (…) chạy thẳng về nhà thu xếp đồ đạc đưa mẹ anh ra xe đón sẵn về thẳng chiến khu (bà cụ đứng tên mua chiếc Frigate)”. Những biệt động khác cũng an toàn (sau trận đánh). Chỉ riêng Tư Việt - cảm tử quân mà sau này chính phủ Mỹ, tổng thống Johnson, gia đình cố tổng thống Kennedy và cả ban giám đốc tình báo CIA đều phải nhắc đến tên. Vào giờ phút nguy kịch nhất, sau tiếng nổ đánh sập Tòa đại sứ Mỹ, Tư Việt bị công an cảnh sát Sài Gòn rượt đuổi. Anh phóng xe lao tới trước, nhưng một tay vẫn cầm súng quay đầu lại bắn trả. Cuộc đấu súng không cân sức diễn ra quyết liệt trên một đoạn ngắn dọc đường Nguyễn Công Trứ và Phó Đức Chính. Thất thế, anh bị trúng đạn ở bụng, từ phía sau xuyên ra trước, hất anh ngã xuống gốc cây bên đường: “Tư Việt một tay nhét ruột vào bụng, một tay cầm súng với hai viên đạn cuối cùng”… (Còn nữa).
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 9:29:49 GMT 9
Cảm tử quân Tư Việt trúng đạn, bị bắt và bị kết án tử hình với lệnh “xử bắn khẩn cấp”…
Nhưng người Mỹ chặn lại, không để chính quyền Sài Gòn thi hành bản án trên. Nguyên do: Tòa án Quân sự mặt trận của chính quyền VNCH khiêng Tư Việt ra xử (8 ngày sau trận đánh vào Tòa đại sứ Mỹ - xem Kỳ 23) dầu lúc ấy anh hãy còn phải băng bó, do viên đạn bắn xuyên qua bụng, đang mở rộng miệng vết thương nhức nhối về phía trước. Anh bị bắt khi đang gắng sức móc quả lựu đạn “quyết tử” lên miệng rút chốt tự vẫn, nhưng máu ra nhiều quá, kiệt sức ngã xuống. Do kết quả trận đánh làm rúng động dư luận Mỹ và thế giới, nên chính quyền Sài Gòn muốn xử nhanh, với mức án được tuyên tối đa: “tử hình” và “xử bắn ngay” !. Đáp lại, và để cứu cảm tử quân Tư Việt, ngay tối hôm Tòa án Quân sự mặt trận của chính quyền Sài Gòn tuyên án, Ủy ban trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam đã nhanh chóng chính thức và đanh thép tuyên bố trên Đài phát thanh Giải phóng: “Nếu Mỹ và chính quyền VNCH xử bắn Tư Việt, thì lực lượng vũ trang cách mạng viet cong của Mặt trận sẽ tử hình ngay lập tức trung tá tình báo Gustave Hertz của CIA bị bắt ở ngoại ô Sài Gòn (Thủ Đức) trước đó”. Nghe tuyên bố trên, lãnh đạo Nhà Trắng ở Washington và Ban giám đốc CIA Mỹ cấp thời ngăn cản để chính quyền VNCH đình chỉ lệnh “xử bắn khẩn cấp” đối với “tử tù Nguyễn Văn Hai (tức Tư Việt - tên thật: Lê Văn Việt”) và đày ra Côn Đảo để đó. Những ngày ấy, tâm trí của tổng thống Johnson vốn đã bị đè nặng bởi “bóng tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn tan nát” - nay lại càng rối lên vì áp lực của nhà Kennedy trong cuộc vận động nhằm đưa trung tá Gustave Hertz là “con ruột ông già vợ của em cố tổng thống Kennedy” đến vùng trao đổi… Việc trên, qua cuốn “Biệt động Sài Gòn” (sđd Kỳ 23, tr. 266) của Nguyễn Đức Hùng - thường gọi: Tư Chu (Chỉ huy trưởng các lực lượng biệt động Sài Gòn) đã trích dẫn hồi ký của ông Huỳnh Văn Tâm (nguyên đại diện Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở nước ngoài) kể rành mạch: Lúc cảm tử quân Tư Việt được hoãn lệnh “xử bắn khẩn cấp”, tổng thống Bel Bella của nước Cộng hòa Algérie có mời ông Huỳnh Văn Tâm lên dinh tổng thống để bàn việc tối quan trọng vào năm 1966: “Đến nơi tôi (Huỳnh Văn Tâm) bất ngờ vì (thấy) có mặt ông già vợ của em cố tổng thống Kennedy (do tổng thống Bel Bella giới thiệu). Ông ta khẩn thiết đề nghị trao đổi chiến sĩ biệt động (Tư Việt), người (xung kích) đánh sập sứ quán Mỹ ở Sài Gòn (đang bị bắt lưu đày ở Côn Đảo) với con trai của ông ta là trung tá Gustave Hertz (tình báo CIA) bị lực lượng biệt động ta (cảm tử quân Giải phóng) bắt giữ ở ven đô (Thủ Đức). Trung ương Cục đặt điều kiện “1 đổi 3” - ngoài anh Nguyễn Văn Hai (tức Tư Việt) còn có 2 cán bộ cao cấp khác do ta chọn. Phía Mỹ chấp thuận và chịu tổn phí 1 triệu đô la” để hoàn tất mọi việc. Tổ chức Hồng thập tự quốc tế tự nguyện đứng ra làm trung gian cuộc trao trả “vì hòa bình và đoàn kết tương thân”. Đáp ứng sự kiện “bồ câu trắng” đó, từ thủ đô Campuchia - hoàng thân Norodom Sihanouk lên tiếng sẵn sàng lấy Phnôm Pênh làm nơi trao trả cảm tử quân Tư Việt với trung tá CIA Gustave Hertz. Chính phủ Pháp cũng vào cuộc, với đề nghị lấy thủ đô Paris làm nơi gặp gỡ và hòa giải. Nhưng việc bất thành vào giờ chót, bởi trên đường áp giải Gustave Hertz về căn cứ Trung ương Cục, anh ta bị sốt rét ác tính qua đời đột ngột. Khoảng thời gian đó, tuy chưa bị xử bắn, song Tư Việt phải trải qua nhiều nhà giam từ khám lớn Chí Hòa đến Côn Đảo. Cuối đường, Tư Việt tìm cách vượt ngục nhưng không thành, bị bắt và đánh đập tàn nhẫn, chết nửa khuya 31.10.1966 tại Côn Đảo, lúc mới 26 tuổi. Qua chuyện khác: Khi Tòa đại sứ Mỹ bị tấn công, tướng Westmoreland - Tư lệnh Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ (MAC V) ở Sài Gòn suýt chết, đã kể qua cuốn “A soldier reports” (bản dịch của Phòng Khoa học Quân khu 9 không ghi tên dịch giả) như sau: “Sáng hôm đó 30.3.1965, tôi có dịp đến sứ quán gặp phó đại sứ Alexis Johnson (đại sứ Maxwell Taylor vừa rời Việt Nam về Mỹ). Nếu tôi đến đúng hẹn thì chắc tôi đã có mặt tại hành lang lúc vụ nổ xảy ra (và tính mệnh chưa biết sẽ ra sao). Qua máy bộ đàm trên ô tô tôi được tin về vụ nổ, lúc đó tôi chỉ còn ở cách sứ quán hai khối nhà” (NXB Trẻ, TP. HCM 1988). Khoảng hai tuần (sau ngày Tòa đại sứ Mỹ bị tấn công), vào 15.4.1965: “lực lượng không quân Mỹ và Nam Việt Nam đã tiến hành đợt không kích lớn nhất từ trước đến nay ở miền Nam Việt Nam, ném hơn 1000 tấn bom Napalm xuống tỉnh Tây Ninh (là nơi Mỹ coi là sào huyệt của lực lượng kháng chiến Nam Việt Nam và là khu vực “ném bom tự do”), giết chết hàng trăm dân thường vô tội, đốt cháy hàng trăm hecta rừng. Trận ném bom được thực hiện ngay sau khi tổng thống Mỹ Johnson cam kết tăng cường lực lượng quân sự Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam nhằm buộc Việt Nam phải tham gia “đàm phán hòa bình” theo các điều kiện của Mỹ”. Nhưng một lần nữa, cảm tử quân cộng sản Việt Nam lại xuất hiện trên đường phố Sài Gòn, họ hành động (thay lời nói) để phủ nhận các điều kiện của Mỹ đưa ra, bằng một loạt các trận đánh mới mà tướng Westmoreland ví von là đã bùng lên từ “những bóng ma”… (còn nữa).
Tới nay, tướng Nguyễn Chánh Thi vẫn được nhắc đến như một chuyên gia “đảo chánh” và “chống đảo chánh” lão luyện trong hàng tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa…
Nói đến “chống đảo chánh” trước. Lúc lực lượng quân đội của cựu thiếu tướng Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo nổi dậy làm chủ Sài Gòn chiều 19.2.1965 (xem Kỳ 21) - các tướng lãnh (của Hội đồng Quân lực) cùng đại diện công quyền (của Hội đồng Quốc gia lập pháp) và đại biểu chính phủ (của thủ tướng Phan Huy Quát) đã lánh về Biên Hòa đồng thuận đưa tướng Nguyễn Chánh Thi lên làm Tư lệnh Quân đoàn giải phóng thủ đô (Sài Gòn) trong phiên họp toàn thể hôm 20.2.1965. Ngay đêm ấy, tướng Thi điều động các đơn vị biệt động quân, thiết giáp, thủy quân lục chiến, nhảy dù, phối hợp với trung đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn 7 đóng tại Long An kéo về Sài Gòn. Bộ tham mưu lưu động của tướng Thi mở đợt “bôn tập” với tốc độ hành quân “gió lốc” đã nhanh chóng lật ngược thế cờ. Họ không phải dùng đến sức mạnh của không quân nên tránh được cho Sài Gòn khỏi “bị dội bom” như tướng Nguyễn Cao Kỳ đe dọa (xem Kỳ 21) và lần lượt đưa quân tái chiếm, thu hồi trại Lê Văn Duyệt, đài Phát thanh, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất, cùng các căn cứ quân sự và cơ sở hành chánh bị mất trước đó vào tay tướng Phát và đại tá Thảo. Điều hiếm thấy là, phe “chống đảo chánh” thành công đã tức khắc mở ra cuộc “đảo chánh mới” giữa lòng Sài Gòn. Mục đích: nhằm lật đổ nguyên thủ tướng, tổng tư lệnh quân đội: đại tướng Nguyễn Khánh. Đại tướng Khánh bị các tướng lãnh ghép “nhiều tội”, trong đó theo tướng Thi nguy hiểm nhất là tội đã “gây chia rẽ tôn giáo và lũng đoạn quân đội”. Tướng Nguyễn Cao Kỳ đồng ý gạt Khánh, lấy người khác thay vị trí tổng tư lệnh quân đội, với đòi hỏi “sự thay đổi đó phải được thực hiện trên căn bản pháp lý” (để tránh tai tiếng). Bằng cách nào? Kỳ đề nghị: “rước bác sĩ Sửu (Quốc trưởng Phan Khắc Sửu - GH) ở Thượng hội đồng quốc gia đến để thảo ra một sắc lệnh cho phép thực hiện” (hồi ký Nguyễn Cao Kỳ, sđd Kỳ 21, tr. 40). Được, nhưng chậm lắm. Bởi: Trong lúc tìm cánh cửa hợp pháp để đẩy Khánh ra đi theo cách của Kỳ nói, sợ Khánh có thể lợi dụng “khoảng giữa” của thời gian còn lại để sẽ “đảo chánh” ngược. Hãy nhớ, Khánh đầy kinh nghiệm qua 7 lần đảo chánh và tác động thay đổi lãnh đạo quốc gia chỉ trong 1 năm (1964). Cần phải hành động nhanh hơn, không để Khánh kịp trở tay, bằng giải pháp: ủy nhiệm Tư lệnh Quân đoàn giải phóng thủ đô Nguyễn Chánh Thi đến gặp Quốc trưởng Phan Khắc Sửu tối 21.2.1965 để yêu cầu ký ngay sắc lệnh giải nhiệm tướng Khánh (và đưa trung tướng Trần Văn Minh lên thay theo chỉ định của các tướng lãnh đang chủ trương: “đảo chánh không tiếng súng”). Nguyễn Chánh Thi kể (qua hồi ký: Việt Nam - một trời tâm sự, NXB Xuân Thu, California 1987, tr. 294-295) là khi ông đến gặp Quốc trưởng Phan Khắc Sửu để trình bày (uy hiếp ?- GH) đã thấy thủ tướng Phan Huy Quát và phó thủ tướng thứ nhất Nguyễn Văn Thiệu (tổng thống VNCH sau này) có mặt sẵn ở đó. Nghe Thi nói xong, Phan Khắc Sửu nhìn sang hai ông Quát và Thiệu hỏi ý kiến. Cả hai ông ấy đồng ý ký sắc lệnh “truất phế” Khánh. Tuy vậy ông Sửu vẫn chần chừ: “Nếu được, nên để đến ngày mai vì tôi muốn cân nhắc lại và cũng cần hỏi thêm một vài người nữa”. Nguyễn Chánh Thi không chịu, thúc tới: “Quốc trưởng phải có quyết định ngay, để ông Quát và ông Thiệu (có mặt ở đây) cùng ký với Quốc trưởng luôn thể”. Ông Sửu “bấm trán một lúc rồi thuận theo”. Thế là sắc lệnh “giải nhiệm Nguyễn Khánh” đã ký xong và lập tức đưa đến đài phát thanh loan báo ngay. Nghe bản tin, Khánh bàng hoàng và cay đắng phổ biến một công điện nêu rõ: “một vài tướng lãnh tiếp tục đảo chánh theo cuộc đảo chánh vừa mới dẹp yên hôm nay” (ý nói cuộc “chống đảo chánh” đã biến tướng thành “đảo chánh Khánh” do Nguyễn Chánh Thi và Nguyễn Cao Kỳ khởi xướng). Và rồi, khi tướng Khánh đã phải rời Việt Nam, lưu vong với danh nghĩa “đại sứ lưu động”, cuộc “đảo chánh không tiếng súng” đạt đến thành công trọn vẹn với tuyên bố từ chức của thủ tướng Quát và quốc trưởng Sửu sau đó vài ba tháng (11.6.1965), mở đường đưa trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương (14.6.1965). Chuyến “thăng hoa” của hai tướng Thiệu - Kỳ kéo theo một loạt các tướng tá cùng phe cánh của họ tăng thêm quyền lực. Nhưng ngược lại, số phận của các tướng lãnh không “chung đường” với họ thì sao ?. Thử nêu hai trường hợp: 1. Sau thất bại, những sĩ quan tham gia cuộc chính biến 19.2 bị Tòa án Quân sự Mặt trận vùng III chiến thuật xét xử (7.5.1965) tuyên án tử hình vắng mặt: Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát (như đã viết ở các kỳ trước) và Nguyễn Kim Báu - cùng 40 người khác với: “13 án khổ sai, 16 án tù ở, 6 án tù treo, tha bổng 5 bị cáo” (Phan Đăng Thanh - Trương Thị Hòa - sđd Kỳ 20, tr. 117). Nguyễn Cao Kỳ viết, Thảo và Phát cùng đại tá Robert Rowland, cố vấn Mỹ cạnh không quân VNCH bay tới Biên Hòa gặp Kỳ thương lượng trong giờ tướng Thi xuất quân - nhưng đã trễ. Về sau Thảo và Phát “bỏ trốn trong các làng Công giáo khoảng 2 năm (…) sau đó Thảo bị giết chết theo lệnh của tướng Thiệu (…) khi tôi lên làm thủ tướng tôi đã ra lệnh ân xá đưa Phát ra khỏi nơi ẩn trốn - suốt trong mấy tuần cuối trước khi Sài Gòn sụp đổ (30.4.1975), Phát thường hay đến nhà tôi, tỏ ý muốn cộng tác với tôi để lật đổ Thiệu - theo tôi biết thì Phát vẫn còn ở Sài Gòn sau 30.4…” (Nguyễn Cao Kỳ - sđd tr. 41). Lâm Văn Phát có thân phụ là cụ Lâm Văn Phận, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, từng làm Chủ tịch Ủy ban Liên Việt tỉnh Cần Thơ thời kháng chiến chống Pháp, tập kết ra Bắc năm 1954. Tướng Phát ở lại gia nhập quân đội VNCH, bị cách chức và sống âm thầm suốt 10 năm sau chính biến 19.2 (1965-1975), được tổng thống Dương Văn Minh phục hồi và thăng trung tướng, giao làm Tư lệnh Biệt khu thủ đô ngày 29.4.1975. Ông bắt tay củng cố lực lượng quân đội còn lại với mong muốn “cố thủ để tìm đường đàm phán” nhưng rốt cuộc đành buông súng sau quyết định đầu hàng của tướng Minh và phải đi học tập cải tạo hơn 10 năm. Khi được trả tự do, ông qua Mỹ định cư tại Cali và mất ở đó năm 78 tuổi (1998) sau một cuộc đời thăng trầm, chìm nổi, với 4 lần tham gia đảo chánh, bị kết án tử hình vắng mặt và được ân xá, được lên chức, rồi cuối cùng vẫn bị vướng vào vòng lao lý, tha hương… 2. Nguyễn Chánh Thi, một tuần sau ngày dẹp yên chính biến, đã từ chối tham chính để rời Sài Gòn quay về ngoài Trung, tiếp tục làm Tư lệnh Quân đoàn I, kiêm Tư lệnh vùng I chiến thuật, đóng ở Đà Nẵng và thường ghé thăm Huế (Nguyễn Chánh Thi sinh tại Thừa Thiên - Huế 23.2.1923). Những lần đến Huế, ông không khỏi có dịp nhắc đến buổi nói chuyện lần đầu (và duy nhất) với Ngô Đình Cẩn (em ruột của tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu) đầu năm 1960 - lúc ông Cẩn đang trên đỉnh cao quyền lực. Còn tướng Thi (lúc ấy) đang là đại tá tư lệnh Lữ đoàn dù “anh cả đỏ” đóng tại Sài Gòn. Ngô Đình Cẩn điện vào triệu tập ông Thi ra Huế. Hai bên gặp nhau ở dinh Phú Cam. Giữa câu chuyện, ông Cẩn đang nhai trầu bỏm bẻm, đột nhiên ngước lên nhìn Thi hỏi: - Đại tá có muốn tôi trình với tổng thống móc sao tướng cho đại tá không ? Ông Thi lịch sự cám ơn và nói một câu chắc hẳn đã làm Ngô Đình Cẩn bất ngờ: “Thật ra đối với cá nhân tôi, cấp bậc không phải là điều quan trọng”…. Về lại Sài Gòn, vài hôm sau đang chào cờ buổi sáng, sĩ quan trực của Nguyễn Chánh Thi đến khẩn báo: “Nha An ninh quân đội có lệnh mời đại tá đến văn phòng của Nha ngay bây giờ”. Nguyễn Chánh Thi lấy xe phóng đi, tới nơi thấy đại tá giám đốc Đỗ Mậu đang ngồi chờ. Đỗ Mậu lẳng lặng chìa công văn của Phủ tổng thống gởi Nha An ninh quân đội (và Bộ Tư lệnh Quân khu thủ đô) có đóng dấu “mật” và “tối khẩn” chỉ thị phải gấp rút điều tra đại tá tư lệnh Lữ đoàn dù Nguyễn Chánh Thi về “những hoạt động có hại cho quốc gia” ! Rời Nha An ninh quân đội, biết tình thế thúc bách, gấp gáp lắm, ông Thi bàn rút ngắn kế hoạch đảo chánh tổng thống Diệm với nhóm sĩ quan đối kháng nhà Ngô như trung tá Vương Văn Đông, thiếu tá Nguyễn Triệu Hồng, đại úy Phan Lạc Tuyên… Để không lâu sau, ngày 11.11.1960 - tướng Thi đã quyết định kéo Lữ đoàn dù, kết hợp với các đơn vị thiết giáp và bộ binh nổ súng tấn công dinh Độc Lập. Tiếng súng đánh thức giám đốc CIA William Colby đang ngủ với vợ con ở ngôi nhà gần đó phải choàng dậy lúc nửa đêm về sáng… (còn nữa).
William Colby kéo chiếc tủ sách để che chắn, làm “chỗ ẩn nấp tạm thời cho vợ con” và lận khẩu súng ngắn trong lưng để đề phòng những người “anh cả đỏ” của Nguyễn Chánh Thi bất thần ập đến...
Lẽ ra, theo dự định, đảo chánh sẽ bùng nổ vào 12.11.1960, nhưng buộc phải tiến hành sớm hơn một ngày: 11.11.1960. Lý do: một số sĩ quan trong ban tham mưu (như các trung tá: Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông, các thiếu tá: Phan Trọng Chinh, Trần Văn Đô, Nguyễn Văn Lộc và đại úy Nguyễn Thanh Chuẩn) lo ngại về những “réseau (nguồn) tình báo quân đội” (của Ngô Đình Nhu) dường như đang chú tâm theo dõi về nhiều “dấu hiệu khả nghi” quanh động tĩnh của các cánh quân trực thuộc Lữ đoàn nhảy dù sửa soạn di chuyển về “hướng Đ” (dinh Độc Lập). Nên, Nguyễn Chánh Thi quyết định đúng 3 giờ sáng 11.11, khi các cánh quân đã lặng lẽ ém sẵn quanh những địa điểm xung yếu trong thành phố, phát lệnh khai hỏa! Ngay lập tức, tiếng súng của tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 nhảy dù phá tan màn đêm yên tĩnh quanh khu vực dinh Độc Lập và đại doanh của Lữ đoàn liên binh phòng vệ Phủ tổng thống. Qua vài phút đầu ngỡ ngàng, lưỡng lự, lực lượng phòng vệ choàng dậy đánh trả dữ dội. Giao tranh quyết liệt nổ ra giữa hai lực lượng vũ trang vốn đều được xem là “con cưng” của nhà họ Ngô. Trước đó vài tiếng đồng hồ, giám đốc CIA William Colby dự xong vũ hội truyền thống do đội thủy quân lục chiến Mỹ (có nhiệm vụ bảo vệ sứ quán ở Sài Gòn) tổ chức - đã cùng đại sứ Durbrow dẫn vợ con của họ ra hóng mát ở một khách sạn nổi trên sông Sài Gòn. Về nhà lúc gần khuya, Colby mệt mỏi nằm ngủ chưa bao lâu đã phải ngồi lên vì “bất thình lình vào 3 giờ sáng, một loạt tiếng nổ đanh gọn vang trên đường phố, ngay trước nhà chúng tôi và dinh tổng thống Diệm. Rõ ràng đây không phải sấm chớp trong một đêm giông bão, vì tôi nhìn thấy trên bầu trời vạch lên ngang dọc những vệt sáng của đường đạn đi…” (William Colby - sđd Kỳ 3, tr. 103). Colby bước lại hốc tủ trên bức tường của phòng ngủ, lấy ra “chiếc máy thu thanh chuyên dụng” (chỉ dùng vào những trường hợp khẩn cấp) vặn nút bắt sóng và nghe được ngay “khúc dạo đầu” của đợt tấn công đang diễn ra. Ai đã bí mật, kịp thời truyền cả âm thanh lẫn tin tức qua làn sóng điện đến Colby lúc đó nếu không phải là một nhân viên CIA đang có mặt bên cạnh Bộ tư lệnh quân đảo chánh, ngay tại mặt trận ? Tình báo dinh Độc Lập cũng không vừa. Sau đảo chánh, chẳng hiểu bằng cách nào, họ đã len lỏi được vào “mắt bão” của những “cơn bão tin tức đa chiều” để lôi ra từ “hồ sơ tĩnh” tên tuổi, tướng trạng, địa chỉ cùng “vỏ bọc” chính xác của nhân viên tình báo CIA đó. Và Ngô Đình Nhu chính thức đòi hỏi Colby phải trục xuất người Mỹ nói trên khỏi Sài Gòn vì “những hoạt động gián điệp” cạnh phe đảo chánh. Chuyện ấy sẽ viết sau. Hồi ký Nguyễn Chánh Thi ghi: * Gần 4 giờ sáng (11.11.1960): “Tôi nhận điện tín báo cáo Bộ tư lệnh Quân khu thủ đô và các cơ quan quân sự trực thuộc đều đã được chiếm xong. Đồng thời Bộ tổng tham mưu, Nha Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia, trụ sở Quốc hội, Quân vụ thị trấn cũng đều về tay quân đội cách mạng (quân đảo chánh) kiểm soát”. * Đến 5 giờ 20: “đại úy Nguyễn Thanh Chuẩn vội vã đến tìm tôi và trình với giọng đứt quãng vì mệt: Thưa đại tá, không làm sao vào được Lữ đoàn liên binh phòng vệ Phủ tổng thống vì ở mặt tiền hỏa lực của chúng nó dồi dào, dữ dội quá. Nếu không hạ được mục tiêu này trước khi trời sáng thì nguy vô cùng. Xin mời đại tá đến quan sát để xem có thể dùng một phương kế nào khác chăng ?” Không do dự, Nguyễn Chánh Thi lên xe phóng đến trước đại doanh của Lữ đoàn liên binh phòng vệ, dùng loa phóng thanh gọi vào: - “Tôi là đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh tối cao quân đội cách mạng, đến đây ra lệnh cho toàn thể anh em trong Lữ đoàn liên binh phòng vệ hãy bỏ súng, thôi bắn ! Chúng ta vì quyền lợi chung của tổ quốc, phải sát cánh nhau để quật đổ cái chính quyền đã đi ngược lại lòng dân. Anh em đừng để cho máu phải đổ nhiều nữa thêm vô ích !” Đáp lời kêu gọi, tiếng súng bên trong thưa dần. Đến lần kêu gọi thứ hai “tiếng súng bên trong bắt đầu im bặt - giây phút ấy thật là thiêng liêng, cảm động (…) từ trên các tầng lầu, binh sĩ của Lữ đoàn liên binh phòng vệ đã ném súng xuống đất” - đầu hàng (NCT - sđd tr. 118-119). Nguyễn Chánh Thi giao thiếu tá Trần Văn Đô tước khí giới và đối xử tử tế với hàng binh, ra lệnh đưa 4 chiếc thiết giáp vừa lấy được của lữ đoàn phòng vệ khởi động tiến đến đường Hồng Thập Tự (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) để yểm trợ tiểu đoàn 3 nhảy dù sắp mở đợt xung phong quyết tử (còn nữa).
Có tổng cộng hơn 400 binh sĩ của hai bên (tính cả thường dân) chết và bị thương trong đợt giao tranh…
Sau hơn hai tiếng đồng hồ bắn nhau, trời gần sáng, nhiều xác chết đẫm máu lộ rõ trên mặt đường thủ đô, mà thắng bại giữa hai bên vẫn chưa ngã ngũ. Thi đứng trước dinh Độc Lập trấn an: - “Tất cả các điểm xung yếu của Sài Gòn đều đã được quân đội cách mạng đánh chiếm, chỉ còn dinh Độc Lập này thôi, chiến thắng đang đến gần!” Phía ngoài xa, báo về :“đã dàn xong trận địa pháo !” Các khẩu đại bác 57 ly đã hướng nòng vào dinh Độc Lập sẵn sàng chờ lệnh nhã đạn để yểm trợ Tiểu đoàn 3 nhảy dù xung phong đánh vỗ mặt vào cổng trước. Tất cả chỉ đợi lệnh của Nguyễn Chánh Thi (là nổ súng). Thi, lại đang nóng ruột, chờ cho được đại đội thiện chiến của Tiểu đoàn 1 nhảy dù (sau khi hoàn thành việc tước vũ khí và kiểm soát doanh trại của Lữ đoàn phòng vệ Phủ tổng thống) sẽ đến tăng viện và đảm trách đánh thọc ngang vào bên hông dinh. Đang lúc đó, Thi muốn bắn thử một trái vào dinh để “dò mục tiêu và điều chỉnh tác xạ”. Bất ngờ, sĩ quan tham mưu đến báo với Thi: trong dinh đơn phương ngưng bắn, để cử đại diện Văn phòng tổng thống Võ Văn Hải, cùng một viên tướng nữa ra gặp Bộ tư lệnh đảo chánh để điều đình. Họ đang chờ Thi trước cổng dinh. Thi gật đầu, mạnh bạo bước tới. Gặp mặt, Võ Văn Hải thông báo: - “Ông Cụ (Ngô Đình Diệm) đã bằng lòng giải tán chính phủ. Vợ chồng Ngô Đình Nhu sẽ phải ra đi ! Không nên đổ máu thêm vô ích !”. Hải trao Thi cuộn băng ghi âm lời hứa của tổng thống Diệm. Viên tướng đi kèm Hải nói với Thi, giọng thân mật: - “Vừa vừa thôi Thi ơi ! Tụi Việt Cộng đang đánh mạnh ở miền Tây !”. Hẳn ông Cụ và các yếu nhân trong Phủ tổng thống đã nghe “nhật lệnh của Nguyễn Chánh Thi” phát đi trên đài phát thanh Sài Gòn cách đó mấy giờ, nên họ ứng xử uyển chuyển như vậy. Do yêu cầu tư liệu, chúng tôi để nguyên văn Nhật lệnh trên (in trong hồi ký NCT, sđd Kỳ 25, tr.125) để bạn đọc và các nhà nghiên cứu rộng đường tham khảo: “Tổng tư lệnh Quân đội cách mạng Nguyễn Chánh Thi gửi: tướng lãnh, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính ! “Chánh phủ Ngô Đình Diệm sau 6 năm cầm quyền đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc, giữa lúc Cộng sản ngày càng tăng áp lực. Ngô Đình Diệm đã áp dụng chính sách độc tài phong kiến, gia tộc trị mù quáng, đặt những tham vọng ích kỷ của gia đình y lên trên quyền lợi tối cao của đất nước. “Quân đội, lực lượng chính yếu của Quốc gia bị nghi kỵ, chia rẽ, mọi tầng lớp nhân dân bị bóc lột, áp bức, miệt thị - tự do không được bảo đảm, dân tộc bị dồn vào họa diệt vong. “Trước tình thế đen tối ấy của đất nước, quân đội đã đứng lên lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm và tạm thời điều khiển chính phủ với sự tham gia của những nhân sĩ quốc gia để kịp thời thi hành những biện pháp cần thiết chống Cộng và cứu quốc. “Cuộc cách mạng của quân đội đã thành công ! “Quân đội đoàn kết tiến lên diệt Cộng, bảo vệ tự do, đem lại an ninh cho đất nước ! “Quân đội không đảng phái, chỉ nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, tôn trọng quyền lợi của đồng bào ! “Hội đồng cách mạng và Chính phủ lâm thời hoàn toàn tin tưởng ở lòng ái quốc và ý chí diệt Cộng của quân đội ! Vậy, toàn thể quân nhân các cấp, các đơn vị phải bình tĩnh tuân theo kỷ luật, cố gắng làm nhiệm vụ diệt Cộng, bảo vệ an ninh cho đồng bào trong giờ phút quyết liệt này. Nhiệm vụ chúng ta là nhiệm vụ lịch sử ! Hành động chúng ta là hành động cứu quốc ! Quân đội sẽ hoàn thành nhiệm vụ cứu quốc ! Sài Gòn, ngày 11.11.1960 Đại tá Nguyễn Chánh Thi - Tổng tư lệnh tối cao Quân đội cách mạng”. Nghe nhật lệnh, thiếu tá Lữ Đình Sơn và đại úy Phan Lạc Tuyên đã mang 10 đại đội biệt động quân, 6 thiết giáp xa, cùng toàn thể sĩ quan dưới quyền đến tham chiến (gia nhập lực lượng đảo chánh). Đáng ghi nhận, thống tướng Lê Văn Tỵ và đại tướng Dương Văn Minh đã lên tiếng đồng tình và ủng hộ Nguyễn Chánh Thi như thế nào ? (còn nữa).
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 9:36:35 GMT 9
Nguyễn Chánh Thi đưa một trung đội thuộc Lữ đoàn nhảy dù đóng giữ Bưu điện Sài Gòn và ra lệnh cắt tất cả hệ thống điện thoại và điện tín ở đó từ lúc trời chưa sáng…
Tuy nhiên hệ thống phát sóng đặc biệt nằm trong dinh Độc Lập vẫn hoạt động bình thường, giúp Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu liên lạc ra ngoài, để một mặt “thương lượng ảo” với phe đảo chánh, mặt khác đưa lời hiệu triệu cứu nguy như sau (NCT, sđd. Kỳ 25, tr. 131): “Đây là tổng thống Việt Nam Cộng hòa ra lệnh cho Bộ chỉ huy các quân khu: “Đêm nay (11.11.1960) hồi 3 giờ sáng, một số sĩ quan trung cấp đã bội phản và phỉnh gạt binh sĩ để mưu đảo chánh tại thủ đô. Hiện giờ Bộ Tổng tham mưu và Quân khu thủ đô đã tạm thời gián đoạn liên lạc... “Vậy các tư lệnh Quân khu phải bình tĩnh và tự vệ cẩn mật để chờ lệnh của sĩ quan liên lạc Phủ tổng thống. “Đại tá Trần Thiện Khiêm, quân khu 5, phải cho đoàn thiết giáp Mỹ Tho lấy một tiểu đoàn lên ngay đậu tại Phú Lâm chờ lệnh !”. Toàn văn hiệu triệu trên do chính tổng thống Diệm trực tiếp đọc, ghi âm và phát sóng cứ 5 phút một lần trên đài phát thanh “bảo mật”. Để ứng phó, Nguyễn Chánh Thi tạm rời khỏi vùng giao tranh đến gặp đại tướng Lê Văn Tỵ (vị thống tướng đầu tiên và duy nhất của Quân lực VNCH) ở nhà riêng trên đường Cường Để, mời tham gia đại cuộc. Tới nơi, toán lính phòng vệ “dáng cao lớn khỏe mạnh” án ngữ trước cổng với sắc mặt lạnh lùng, như chừng muốn uy hiếp tinh thần trung tá Vương Văn Đông (trong Ủy ban cách mạng) đang chờ Thi ở đó. Thi “ra lệnh cho toán lính hạ khí giới để đi vào cùng với Vương Văn Đông và sĩ quan tùy viên”. Đại tướng Lê Văn Tỵ đã “đón tiếp chúng tôi niềm nở hơn lúc nào hết” và tán thành cuộc vây đánh dinh Độc Lập: - “Tôi hết sức sung sướng khi nghe quân đội nổi dậy đánh đổ cái chính quyền mục nát này để cứu dân, cứu nước”. Câu ấy của đại tướng Tỵ tương tự với phát biểu của trung tướng Dương Văn Minh trước đó nửa giờ (khi Nguyễn Chánh Thi đến gặp ông Minh, cũng tại nhà riêng). Ông Minh nói: - “Tôi rất vui mừng khi thấy các anh làm được công việc lịch sử này cho dân nhờ…” Đại tướng Tỵ đã sốt sắng ra xe cùng Nguyễn Chánh Thi đến Bộ Tổng tham mưu gặp Ủy ban cách mạng bàn định hướng “giải quyết vấn đề”, mà theo tướng Tỵ - cần phải ngưng bắn để thương thảo giữa phe đảo chánh và anh em ông Diệm. Tướng Tỵ cũng nói “không” trước các giải pháp dẫn đến đổ máu giữa hai bên. Riêng ông Thi, đã không đồng ý “điều đình”, mà nhất quyết chủ trương đánh dứt điểm dinh Độc Lập, bắt sống hai ông Diệm - Nhu. Nhưng đa số thành viên của Ủy ban cách mạng muốn hòa giải, thương lượng. Nên lúc 4 giờ 45 phút sáng hôm sau 12.11.1960, Đài phát thanh Sài Gòn đã truyền đi “Nhật lệnh 3 điểm” của Tổng tham mưu trưởng VNCH Lê Văn Tỵ, nguyên văn (NCT, sđd. tr. 144): “Sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ Quân đội VNCH ! “Giữa lúc cuộc chính biến nghiêm trọng diễn ra tại thủ đô, hôm nay tôi đã hội đàm với tổng thống Ngô Đình Diệm và đã đi đến những sự thỏa thuận sau đây để duy trì đoàn kết của Quân đội. 1. Tổng thống đồng ý giải tán chính phủ hiện tại sau khi đã thảo luận về vấn đề quốc sự với Ủy ban cách mạng. 2. Với sự đồng ý của Ủy ban cách mạng, tổng thống ủy thác cho một số sĩ quan trong Quân đội VNCH trách nhiệm thành lập một chánh phủ quân nhân lâm thời. Chánh phủ này tiếp tục cuộc chiến đấu chống Cộng sản để bảo vệ tổ quốc. 3. Ngay sau khi nhận được lệnh này, tất cả các đơn vị phải lập tức ngưng bắn, tiếp tục hoạt động trở lại (bình thường) và phải luôn luôn bình tĩnh đề cao cảnh giác đề phòng sự phá hoại của Việt cộng. KBC 4002, ngày 12 tháng 11 năm 1960 Đại tướng Lê Văn Tỵ - Tổng Tham mưu trưởng QĐ VNCH”. Nhật lệnh dứt, nhạc quân hành trổi lên. Tiếp đến Đài phát thanh đưa lời kêu gọi của tổng thống Diệm gởi quốc dân đồng bào (NCT, sđd. tr. 145): “Quốc dân đồng bào ! “Tiếp theo cuộc gây hấn tại thủ đô, để cho Quân đội chúng ta được toàn vẹn trong cuộc chiến đấu chống Cộng, tôi - tổng thống VNCH - đã quyết định giải tán chính phủ hiện thời. Tôi kêu gọi các tướng lãnh của Quân đội VNCH thành lập một chính phủ lâm thời để có thể chiến đấu tiếp tục chống Cộng và bảo vệ xứ sở. Đồng thời tôi muốn phối hợp với Ủy ban cách mạng thành lập một chính phủ liên hiệp để tránh đổ máu và trấn an dân chúng. “Tôi ra lệnh Hội đồng các tướng lãnh tìm tất cả các phương pháp thích nghi để chấm dứt mọi cuộc tuyên truyền xuyên tạc và ngừng bắn”. Nhật lệnh của thống tướng Lê Văn Tỵ và lời kêu gọi của tổng thống Ngô Đình Diệm được tiếp tục phát đi phát lại suốt buổi, kể từ 5 giờ sáng 12.11.1960. Đa số thành viên Ủy ban cách mạng mặt mày rạng rỡ, ngỡ rằng đảo chánh đang chạm “đích đến” của cuộc đua chính trị lần này. Riêng Nguyễn Chánh Thi “vẫn giữ thái độ điềm nhiên”. Là vì, như ông nói: “mục đích của tôi không phải chỉ có chừng ấy. Tôi không hề nghĩ đến việc giải tán chính phủ này, hay lập chính phủ khác. Tôi cũng không bao giờ có dự định giữ “ghế” này, hay nắm quyền kia trong chính phủ. Tôi muốn lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, là muốn cởi bỏ cho đồng bào những xiềng xích áp bức, độc hại, đồng thời phải xóa sạch những bất công quá quắt, đầy rẫy hiện đang lũng đoạn tinh thần chiến đấu của binh sĩ” (NCT, sđd. tr. 146). Đang lúc đó, lực lượng cứu nguy nhà Ngô của đại tá Trần Thiện Khiêm, trung tá Huỳnh Văn Cao và trung tá Nguyễn Văn Chuân đang xiết chặt dần vòng vây Lữ đoàn dù “anh cả đỏ”… (còn nữa).
Bị bao vây, dinh Độc Lập dùng đường dây truyền tin riêng liên lạc với đại sứ Mỹ Durbrow để dò xem thái độ của người Mỹ đối với cuộc đảo chánh đang diễn ra...
Và cả hai ông Diệm - Nhu đều chẳng vui gì khi nhận câu trả lời hững hờ, lấp lửng của đại sứ Durbrow, rằng chính phủ Mỹ “đứng ngoài cuộc”, giữ vai trò “nhân chứng” chứ không can thiệp xung đột giữa hai phe. Thái độ “đứng ngoài cuộc” không lên tiếng cứu nguy dinh Độc Lập đồng nghĩa với việc Mỹ muốn gián tiếp thông báo để giới quan sát quốc tế biết: chính phủ Mỹ không dành cho chính phủ Ngô Đình Diệm sự ủng hộ toàn diện vào giai đoạn đó. Giám đốc CIA William Colby xác nhận: “trong lúc súng còn đang nổ, khi trao đổi với nhau trên điện thoại, Durbrow đã nói rõ với Diệm lập trường của Mỹ là không đứng về phe nào” (William Colby - sđd Kỳ 3. tr. 106). Lưu ý là, lúc trả lời như trên, Durbrow đang ở cạnh Colby: “Đại sứ Durbrow đến văn phòng CIA (ở Sài Gòn) gặp tôi để trong đêm được ở gần chiếc radio của chúng tôi, nơi luôn luôn nhận được những tin tức cho biết diễn biến của tình hình ở trong dinh, ở sở chỉ huy quân dù, ở Bộ tham mưu và ở chỗ đầu não chính trị của phe đảo chánh (Ủy ban cách mạng - GH). Có một lúc nghe cả tiếng súng nổ” vang ra từ “chiếc radio chuyên dụng” của CIA (W. Colby - sđd tr. 105). Rõ ràng mạng lưới CIA đã “phủ sóng” lên khắp bầu trời của chiến cuộc. Ngoài phố, mặc dầu có lệnh của Ủy ban cách mạng phát đi trên Đài phát thanh Sài Gòn cấm mọi người ra đường vì sợ đạn lạc nhưng dân chúng vẫn kéo về các tụ điểm đóng quân của Lữ đoàn dù để theo dõi và nghe ngóng tin tức - đi đầu là một đoàn rất đông các nhà báo của “hầu hết các nhật báo thủ đô như Dân Chúng, Thời Báo, Lẽ Sống, Sài Gòn Mới v.v…. - vì lương tâm nghề nghiệp, họ đã bất chấp cả nguy hiểm súng đạn để chạy đi lùng kiếm tôi ở khắp các địa điểm xung yếu. Khi gặp tôi, họ vui vẻ hân hoan ra mặt (…) tôi thấy ở họ thái độ hưởng ứng nồng nhiệt đối với công việc mà chúng tôi đang khởi động và tranh nhau phỏng vấn” (Nguyễn Chánh Thi, sđd Kỳ 25, tr. 122). Trả lời một trong các câu hỏi được báo chí nêu lên về “vai trò của ngoại bang (ám chỉ Mỹ hoặc Pháp) trong đảo chánh ra sao?” - Thi đáp: - “Tuyệt nhiên không có sự nhúng tay của ngoại quốc, dù xa hay gần, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù vật chất hay tinh thần. Tôi xin cam đoan rằng không một người ngoại kiều nào được biết đến cuộc đảo chánh này trước khi tiếng súng nổ” (Nguyễn Chánh Thi, sđd. tr. 123). Nhưng một tài liệu khác của GS Trần Gia Phụng phổ biến từ Toronto (Canada - đầu tháng 11.2012) khẳng định ngược lại: đã có mặt nhân viên tình báo Mỹ ở cả hai phía và CIA nắm biết nội tình của phe đảo chánh trước giờ nổ súng. GS Trần Gia Phụng dẫn cuốn “Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm” của Vĩnh Phúc để thông tin cụ thể: “Nhân vật chính về phía dân sự tham gia vào biến cố này lúc đầu là luật sư Hoàng Cơ Thụy. Trong cuộc họp tại nhà Hoàng Cơ Thụy vào đêm trước ngày đảo chánh, có mặt một nhân viên CIA tên là George Carver. Về mặt nổi, Carver là nhân viên USOM”. Riêng William Colby sau này thừa nhận có một số sĩ quan Mỹ đến sở chỉ huy quân dù gần dinh Độc Lập quan sát trận chiến để “liên lạc bằng radio về chỗ chúng tôi”. Khi Ngô Đình Nhu phản ứng (sau ngày dẹp yên chánh biến 11.11.1960), Colby phải giải thích về việc đó: - “Nhiệm vụ của CIA bắt buộc chúng tôi phải tìm hiểu xem thực sự tình hình là thế nào giữa cả hai bên”. Nhu nói thẳng thừng: - “Nước nào cũng chơi trò tình báo… nhưng không một nước nào kể cả chúng tôi có thể chấp nhận việc một nước khác nhúng mũi vào quyền hành và tiến trình chính trị của mình” (W. Colby, sđd. tr. 106). Nhu chỉ trích CIA cố tình vượt quá lằn ranh của vai trò “nhân chứng” và đứng vào “trong cuộc” nghiêng về phe nổi dậy. Rồi Nhu nêu bằng chứng để phiền trách việc một viên sĩ quan Mỹ gặp phe chống đối tham gia bàn kế hoạch đảo chánh quân sự. Dầu Colby phủ nhận sĩ quan đó không phải người của CIA, song biện bạch cách nào đi nữa Nhu vẫn “chẳng tin lấy nửa lời và yêu cầu chúng tôi phải cho người này (nhân viên CIA nói trên) về nước” (trục xuất). Colby lắc đầu, từ chối không đáp ứng yêu cầu ấy của Nhu. Hai bên “đi vào ngõ cụt” (chữ Colby dùng). Căng thẳng tiếp tục giữa CIA và tình báo dinh Độc Lập cho tới một hôm nhân viên CIA nói trên “thấy trong hòm thư của mình một lá thư (nhân danh phe đảo chánh vừa thất bại - GH) trách anh ta đã khuyến khích họ đảo chánh và bảo đảm với họ rằng Mỹ vẫn ủng hộ họ cho dù kết quả thế nào. Nay chính lúc họ cần được giúp đỡ để tránh bị chính quyền (Diệm) hỏi tội thì chẳng thấy sự ủng hộ ấy đâu. Bức thư còn dọa nếu anh ta không giữ lời thì cả anh ta lẫn gia đình đều bị sát hại” (W. Colby, sđd. tr. 107). Bằng phân tích nghiệp vụ, Colby biết ngay đây không phải thư của những người thuộc “phe đảo chánh” viết. Mà do tình báo dinh Độc Lập “giả danh phe đảo chánh” thảo ra từ văn phòng trung ương của giám đốc Trần Kim Tuyến - dĩ nhiên, phải có lệnh của Nhu. Xuất xứ của bức thư rất dễ phát hiện nhờ nét chữ đánh máy chỉ dùng riêng cho phòng điều hành của ông Tuyến. Lẽ nào người đứng đầu ngành tình báo Sài Gòn như ông Tuyến lại phạm phải “sai sót kỹ thuật” sơ đẳng như thế (để tự lộ diện chính mình là tác giả bức thư trước CIA)? Không, chẳng qua tình báo dinh Độc Lập dùng thủ thuật “cố tình sai sót” để “nhắn” với Colby rằng tính mạng của nhân viên CIA kia sẽ gặp nguy hiểm nếu không chịu rời khỏi Sài Gòn về nước. Colby đã đích thân cầm bức thư ấy đến dinh Độc Lập chìa ra trước mặt Nhu với một nụ cười nửa miệng và cái nhìn lạnh ngắt sau đôi kính trắng (còn nữa).
Nghệ thuật lôi kéo Sihanouk của Chu Ân Lai và tình báo Trung Nam Hải
“Phó vương” Dap Choun vượt vòng vây của quân đội Sihanouk chạy thoát vào rừng nhưng số mạng của ông cuối cùng đã bị “nàng tiên nâu” xóa sổ…
Tướng Dap Choun nghiện thuốc phiện. Khi quân nhảy dù của Lon Nol truy kích vào mờ sáng 22.2.1959 (xem Kỳ 30) Dap Choun chỉ còn “một cửa”: trốn chạy ! Ông bỏ lại tất cả, chỉ mang theo bên mình “nàng tiên nâu” (thuốc phiện) trên đường bôn tẩu. Đến một gốc cây lớn vắng vẻ Dap Choun mệt mỏi ngồi xuống, dựa lưng nghỉ. Người ta đồ chừng Dap Choun đã dùng bàn đèn dã ngoại để hút vội vã qua cơn ghiền. Có thể làn khói trắng thơm tho của loại thuốc phiện hảo hạng lấy nguyên liệu từ “tam giác vàng” đã đưa phó vương Dap Choun bay vào cõi mộng, để không bao giờ tỉnh dậy nữa. Quân Lon Nol từ phía bìa rừng lần theo khói thơm tìm đến bắn chết Dap Choun ngay tại chỗ, không cần một lời tuyên án, lúc ông còn đang bềnh bồng say thuốc. Một cái chết nhẹ nhàng không hay biết mình đã chết, cứ ngỡ mình đang gối đầu dưới gốc uất kim hương của Thần giấc ngủ Morphée (trong tên gọi morphin và morphinum). Giết Dap Choun, thu hồi dinh thống đốc Siem Reap, đánh bại mưu toan lật đổ của tình báo dinh Độc Lập, Sihanouk mời đại sứ các nước và báo chí quốc tế đang có mặt ở Phnom Penh đến dự cuộc họp báo tại Siem Reap ngay hôm sau 23.2.1959 để trưng bày bằng chứng... Đặc sứ Ngô Trọng Hiếu đứng trước hai điệp viên Sài Gòn đang bị trói tay dẫn ra trước đám đông nhà báo. Xúc động nhưng cố trấn tĩnh, ông im lặng lấy tay vuốt nhẹ lên tóc hai điệp viên trẻ thay lời cáo biệt… Sau họp báo, Sihanouk đòi chính phủ VNCH triệu hồi đặc sứ Ngô Trọng Hiếu về Sài Gòn song vẫn duy trì Tòa đại diện VNCH tại Phnom Penh như cũ. Nhân đó, Trần Kim Tuyến lại đưa một nhân vật nguy hiểm hơn thay Hiếu: Phạm Trọng Nhơn. Phạm Trọng Nhơn là điệp viên đơn tuyến hoạt động bí mật tại Nam Vang và chịu sự “chỉ đạo đầu nguồn” từ Sài Gòn bởi Trần Kim Tuyến. Ông có vai trò “ngòi pháo” trong giai đoạn đầu của điệp vụ mưu sát Sihanouk được chính Trần Kim Tuyến kể (bút danh Lương Khải Minh) viết chung với Cao Thế Dung(1) trong sđd Kỳ 18 - như sau: Lật đổ không xong (1959), tình báo dinh Độc Lập xoay sang mưu sát Sihanouk (1961) bằng khối chất nổ cực mạnh giấu trong chiếc va-ly ghi rõ bên ngoài: “Quà tặng quốc trưởng” do một điệp viên Sài Gòn mang bí danh N2 lái xe chở thẳng tới hoàng cung Campuchia. Xuống xe, điệp viên N2 tự tay mang chiếc va-ly đó vào phòng nghi lễ, nhân danh một kỹ sư Mỹ (vốn chỗ thân hữu lâu ngày với quốc trưởng và hoàng cung) gởi biếu từ Hong Kong và nhờ N2 chuyển giúp đến Sihanouk. Sau một số thủ tục “kiểm tra an toàn”, trưởng ban nghi lễ tiếp nhận, mang va-ly ấy vào phòng khách riêng của quốc trưởng - chỗ Sihanouk đang ngồi. Cái chết sờ tới, khó tránh khỏi, nhưng bỗng nhiên Sihanouk đứng dậy ra khỏi vòng sát thương của chiếc “va-ly tử thần” chưa lâu trước lúc nó phát nổ. Tiếng nổ làm rung chuyển hoàng cung, giết chết viên trưởng ban nghi lễ tại chỗ và đào sâu hố chia rẽ không cách gì hàn gắn được giữa Mỹ và Campuchia từ đó. Bởi, Sihanouk khăng khăng quy cho Mỹ chủ mưu vụ mưu sát ông. Ông không thể quan niệm nổi “Nam Việt Nam làm một việc gì mà lại không có sự tham gia của Mỹ” - để ngay sau đó Sihanouk phát động chiến dịch lên án chính phủ Mỹ, đồng lúc công khai mở “cuộc chiến chống CIA” (William Colby - sđd Kỳ 3, tr. 112). Thật ra, tình báo dinh Độc Lập tiến hành điệp vụ trên “không cần sự giúp đỡ của Mỹ”, không bàn bạc chi tiết về “mục tiêu đóng kín” đó (W. Colby). Nhưng đại thể, Mỹ có biết và có qua cộng sự CIA người Việt (cài trong dinh Độc Lập) thử lên tiếng ngăn cản (vì Mỹ cân nhắc lợi hại chưa muốn giết Sihanouk) nhưng Trần Kim Tuyến bác bỏ. Kết quả là CIA phải gánh chịu tai tiếng. Oan cho Mỹ ! Các hoạt động bài Mỹ rầm rộ của Sihanouk “sau tiếng nổ” đã đánh động dư luận quốc tế hướng mắt vào tìm hiểu. Họ muốn biết ngọn ngành sự việc, nhất là tại sao và từ bao giờ tổng thống Diệm và cố vấn Nhu lại quyết định “khai tử” cho được Sihanouk? Có thể nói, quyết định trên nẩy mầm từ mảnh đất xa lạ tận Indonesia trong hội nghị thượng đỉnh Á - Phi tổ chức ở Bangdung với đại diện 29 nước tham dự (khai mạc 17.4.1955) trong đó có Trung Quốc. Trước giờ lên đường, thủ tướng Chu Ân Lai cùng nguyên soái Trần Nghị đọc kỹ báo cáo đặc biệt và tường tận của tình báo Trung Nam Hải về quốc vương Sihanouk liên quan đến quan điểm chính trị, hướng đi “không liên kết”, kể cả tính tình, sở thích, thói quen, cách ăn mặc, giao tiếp, đi lại, lẫn niềm tin siêu hình và ước vọng riêng tư của Sihanouk. Để rồi, khi hội nghị nhóm họp, thủ tướng Chu Ân Lai “là người đầu tiên tiến đến gần tôi (Sihanouk)”. Vào giai đoạn đó (4.1955) giữa Campuchia và Trung Quốc vẫn chưa có bất kỳ quan hệ ngoại giao hay thương mại nào, nhưng: “Chính từ cuộc gặp gỡ đầu tiên này, tôi đã cảm nhận được rất rõ ràng rằng thủ tướng Chu Ân Lai kiên quyết tạo lập những mối quan hệ bền vững giữa hai nước. Ông đánh đúng vào tình cảm của tôi, nồng nhiệt ca ngợi “cuộc chiến đấu thắng lợi” của tôi để giành độc lập cho Campuchia (…) và ông đã giải thích hoàn toàn rõ rằng Trung Quốc cam kết luôn luôn tôn trọng chủ quyền và sự trung lập của Campuchia, không can thiệp vào nội bộ của chúng tôi. Hơn tất cả, tôi đã bị chinh phục bởi chính thái độ lịch sự và thông minh của ông trong việc làm cho tôi cảm thấy rằng đất nước Campuchia bé nhỏ của tôi được xếp ngang hàng với đất nước Trung Hoa bao la, và rằng ông và tôi là những cá nhân bình đẳng” (Hoàng thân Norodom Sihanouk - cùng Bernard Krisher: Hồi ký Sihanouk, những lãnh tụ thế giới mà tôi từng biết - Trần Chí Hùng dịch, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội 1999, tr. 121). Để làm vui lòng Sihanouk, ngay lần gặp đầu tiên Chu Ân Lai đã mời Sihanouk dự “bữa ăn cung đình Trung Hoa” tại ngôi biệt thự do tổng thống Sukarno của nước chủ nhà Indonesia bố trí cho đoàn Trung Quốc ở. Với phong thái đầy nghệ sĩ tính, Sihanouk nhận lời, tới nơi ông ngạc nhiên và bất ngờ được biết tất cả những người đầu bếp lo bữa tiệc hôm đó đều được Chu Ân Lai đem từ Bắc Kinh đến. Ngồi bên thủ tướng Chu có nguyên soái Trần Nghị vốn là “người Tứ Xuyên sành nhậu” (thích lấy trái sầu riêng làm mồi) uống rượu chỉ bằng “một ly không đáy” (rót mãi không đầy) tiếp Sihanouk như người nhà dầu chỉ mới lần đầu mời rượu. Sihanouk viết: “hương vị rất riêng của rượu mạnh Mao Đài khiến tôi hơi choáng váng, còn mọi thứ khác hoàn toàn như bùa mê”… (còn nữa).
Sau ngày Mao và Nixon bắt tay, Trung Quốc và Mỹ thay nhau gây nên cảnh chết chóc, cửa nát nhà tan ởcả hai miền Nam – Bắc Việt Nam…
Rời Bắc Kinh về Washington, tổng thống Mỹ Nixon đưa một lực lượng không quân và hải quân hùng hậu trút hơn 20.000 tấn bom rải thảm Hà Nội – Hải Phòng và nhiều nơi khác ở miền Bắc Việt Nam làm ít nhất 2.000 người chết trong vòng 12 ngày đêm của mùa giáng sinh 1972. Đức Giáo hoàng và các nhà hoạt động nhân văn trên thế giới chỉ trích Nixon mạnh mẽ. Phần Mao Trạch Đông chỉ phản ứng “chiếu lệ” vì Mao đã xem Nixon là “người bạn mới” đang cùng Mao toan tính “thay đổi thế giới” (chữ Nixon dùng lúc nâng cốc trong buổi tiệc từ giã Bắc Kinh đêm 27.2.1972). * ĐÁNH PHÁ MIỀN BẮC – CẮT VIỆN TRỢ MIỀN NAM: Để tiến hành cuộc đánh bom hủy diệt trên, theo Linebacker: Karl J. Eschmann – The Untold Story of the Air Raids Over North Vietnam, Nixon đã huy động: - Gần 50% số máy bay ném bom chiến lược B.52 của toàn bộ không lực nước Mỹ (197 trên tổng số 400 chiếc). Thực tế xuất kích 741 lần/chiếc. - Gần một phần ba (1/3) số máy bay chiến thuật của toàn lực lượng quân sự nước Mỹ (1.077 trên tổng số 3.041 chiếc). Thực tế xuất kích 3.920 lần/chiếc - Một phần tư (1/4) số tàu sân bay (6 trên tổng số 24 chiếc), cùng nhiều tàu chỉ huy – dẫn đường, tàu khu trục, tàu tên lửa, tàu rada, tàu bảo vệ, tàu cấp cứu,… - Các tập đoàn không quân số 7 và số 8 (Seventh air force và Eighth air force): trong đó có các liên đội không quân chiến lược B.52 (Strategic Wing) số 43 và 72 đóng tại căn cứ không quân Andersen trên đảo Guam gồm 143 chiếc B.52G, B.52D và liên đội không quân chiến lược số 307 gồm 54 máy bay B.52D đóng tại căn cứ Utapao (Thái Lan). - 6 liên đội không quân chiến thuật (Tactical Fighter Wing) gồm 455 máy bay đóng trên đất Thái Lan (tại các căn cứ không quân Ubon, Korat và Takhli), 2 liên đội gồm 124 máy bay đóng tại miền Nam Việt Nam (Đà Nẵng)” (Dẫn theo cuốn: “Từ Xuân – Hè năm 1972 đến Điện Biên Phủ trên không qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn” – sđd Kỳ 1 – tr.386) Luật gia Joseph Amter, chủ tịch Quỹ tổ chức nghiên cứu hòa bình (The Peace Research Organisation Fund), đồng chủ tịch Hội nghị nghiên cứu và cộng tác quốc tế của Nhà Trắng, viết: “Thật mỉa mai là khi tổng thống Nixon, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai say mê trong các bữa tiệc thịnh soạn ở Bắc Kinh, thì quân đội Mỹ đang đánh nhau ở Đông Dương, hàng nghìn tấn bom đang phá hủy các làng Nam Việt Nam, cũng như các khu vực Bắc Việt Nam và hàng nghìn các người dân Đông Nam Á tiếp tục chết” (Lời phán quyết về Việt Nam – Nguyễn Tấn Cưu dịch, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 1985, tr.375). Nếu Mao Trạch Đông “nhắm mắt” để Nixon mở đợt tấn công tàn khốc nhằm đưa Bắc Việt Nam về “thời kỳ đồ đá”, thì chỉ một năm sau đến lượt Nixon đáp lễ “làm ngơ” để Mao xua hải quân và không quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (19.1.1974). Mao nói trí trá là “để tự vệ”, nhưng “thực chất là xâm lược”, nhằm khống chế Việt Nam từ các vùng hải đảo, tạo bàn đạp độc chiếm biển Đông: “Hành động xâm lược của họ (Trung Quốc) có tính toán từ trước và được sự đồng tình của Mỹ. Vì vậy, khi đó đại sứ Mỹ Graham Martin ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu cầu cứu viện của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Và, hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã được lệnh tránh xa quần đảo Hoàng Sa” để mặc quân Mao tràn vào bắn giết người Việt Nam (trích công bố của Bộ Ngoại giao CHXHCN VN - Hà Nội 4.10.1979: “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” – Văn kiện dày 108 trang - tr. 25). Cũng năm đó (1974), trên tiến trình “thỏa hiệp và phối hợp hành động” với Mao, Nixon quyết định cắt xén nguồn viện trợ VNCH mạnh tay hơn nữa, tới mức “cạn tàu ráo máng” (chữ TS Hưng dùng) buộc tổng thống Thiệu không được sử dụng tiền do Quỹ đối giá (phát xuất từ viện trợ kinh tế đổi sang tiền Việt) để tài trợ ngân sách quốc phòng, trả lương cho quân đội (gồm 1.200.000 quân nhân) và cảnh sát (với lực lượng 120.000 người): “Lúc đó, nếu biết được đến nông nỗi ấy, thì liệu quân dân miền Nam nghĩ sao? Vì vậy, tin trên (giấu nhẹm) không được phổ biến” (…) Đến nay, ta có thể đặt lại câu hỏi: vậy (nếu tồn tại sau 1975) thì bắt đầu từ năm 1976 trở đi chính phủ VNCH lấy tiền đâu mà trả lương cho quân đội, cảnh sát?”. Có lẽ họ sẽ phải “cố gắng tan hàng” thôi (TS. Nguyễn Tiến Hưng – Khi đồng minh tháo chạy, sđd Kỳ 2, tr. 457). * VÌ SAO MỸ DỨT KHOÁT BỎ RƠI VIỆT NAM CỘNG HÒA? Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, nhận định: “một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6.1975 nếu không nhận được quân viện phụ trội”, chưa kể “thực phẩm, quần áo, thuốc men, băng cứu thương cho quân đội, cũng như nhu cầu sinh sống của gia đình họ (lấy đâu ra)?” (TS. Nguyễn Tiến Hưng, sđd như trên). Nguyên do nào khiến Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH? Theo TS. Nguyễn Tiến Hưng(1) vì: “Quyền lợi của Mỹ ở Việt Nam đã không còn nữa”. Ông dẫn chứng về hai trường hợp giống nhau cùng được Mỹ ủng hộ, viện trợ (Israel và Nam Việt Nam) nhưng đã và đang đón nhận hai số phận khác nhau: 1. Sau Thế chiến thứ hai (1945), Mỹ giúp thành lập quốc gia Israel (Do Thái) với tuyên bố độc lập ngày 14.5.1947. Lập tức quân đội của 5 nước Ả Rập (Ai Cập, Syria, Jordan, Lebanon và Iraq) hợp lực tấn công muốn xóa sổ Israel ngay. Mỹ nhảy vào can thiệp, yểm trợ và chính thức công nhận Israel là quốc gia độc lập, có chủ quyền. 2. Ngày 26.10.1955: “nước VNCH được thành lập, Hà Nội nhất quyết đòi hỏi phải tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc (tháng 7.1956) để đi tới thống nhất, theo như quy định của Hiệp định Genève. Tổng thống Diệm, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ, tiếp tục bác bỏ. Tổng thống Eisenhower tuyên bố ông có thể “trỏ tay vào quốc gia Việt Nam tự do với niềm hãnh diện”. Nghị sĩ John F. Kennedy (sau này kế vị Eisenhower) còn bình thêm: “Tự do chính trị ở miền Nam (Việt Nam) là một nguồn cảm hứng”. Tính ra, VNCH mai một đã 40 năm rồi (1975 - 2015), nhưng Israel vẫn còn trường tồn, là vì: “Mỹ vẫn còn cần đến Do Thái (Israel) làm tiền đồn để trấn giữ túi dầu ở Trung Đông (cho Mỹ)” nên dù phải gánh chịu những chi phí nặng nề, kể cả một số phản ứng bất lợi ở quốc nội và trên trường quốc tế, Mỹ vẫn chấp nhận, chịu đựng. Thực ra “nếu Do Thái không có Mỹ yểm trợ thì với chỉ vỏn vẹn chưa tới 6 triệu dân, quân đội Do Thái dù có tài giỏi, lãnh đạo dù có sáng suốt, trong sạch, dân chủ gấp mấy lần miền Nam (Việt Nam) đi nữa, thì chắc cũng đã bị toàn khối Ả Rập áp đảo rồi. Ta cứ chờ đến khi nào thế giới không còn cần nhiều đến dầu lửa nữa vì có được những nguồn năng lượng quan trọng khác như ánh sáng mặt trời hay kỹ nghệ nguyên tử lực, thì lúc đó mới biết Do Thái có còn trường tồn được hay không?” (TS. Nguyễn Tiến Hưng, sđd như trên). Nếu hiện nay “tiền đồn dầu lửa” ở Trung Đông (Israel) còn cần thiết, thì “tiền đồn của thế giới Tự do” ở châu Á (Nam Việt Nam - VNCH) lại không cần đến nữa, vì kể từ ngày TT Nixon bắt tay được với Mao Trạch Đông (1972), thì “giá trị của miền Nam (Việt Nam) trong vai trò “ngăn chặn làn sóng đỏ” đã không còn là bao nhiêu trong những tính toán của Mỹ về hơn thiệt (combenefits). Và như vậy, vấn đề còn lại đối với Mỹ chỉ là làm sao rút ra được cho êm thắm, ít bị tổn hại về uy tín là được rồi”. Song bất hạnh ở chỗ con đường triệt thoái của Mỹ sớm “bắt đầu rải đầy xác chết” không bao lâu sau lúc “ly rượu mừng” uống với Mao vừa cạn – Theo The Daily Telegraph 24.3.1975 – Font PTTg, hồ sơ số 3810 – nguồn dẫn từ Kỳ 1: Đọc hồ sơ mật của chính quyền Sài Gòn (còn nữa)
Ong Thiệu nói như hét vào mặt Kissinger và Bunker tại dinh Độc Lập: “Chúng tôi sẽ không ký vào hiệp định Paris !” - Vì sao?
Trước khi đọc lời giải thích của tổng thống Thiệu, chúng ta hãy thử tham khảo nguyên văn đoạn trích dưới đây trong công bố của Bộ Ngoại giao CHXHCN VN - Hà Nội 10.1979 (tài liệu đã dẫn Kỳ 33) liên quan đến sự việc: “Khi Nixon kết thúc cuộc đi thăm Trung Quốc hai bên đã ký thông cáo Thượng Hải ghi nhận kết quả hội đàm giữa hai bên, trong đó có một đoạn như sau: “Mỹ khẳng định mục tiêu cuối cùng là rút hết các lực lượng và cơ sở quân sự ra khỏi Đài Loan. Trong khi chờ đợi, tùy theo tình hình căng thẳng trong khu vực này giảm đi (hàm ý nói đến cuộc chiến sôi động ở Đông Dương – chủ yếu ở Việt Nam thời đó - GH), Mỹ sẽ dần dần giảm lực lượng và cơ sở quân sự của Mỹ ở Đài Loan (Mỹ nêu điều kiện để đánh đổi – GH). “Đầu tháng 3.1972, khi thông báo cho phía Việt Nam về cuộc hội đàm với Nixon, đại diện những người lãnh đạo Trung Quốc đã giải thích về đoạn thông cáo trên như sau: “Muốn bình thường hóa quan hệ Trung Mỹ, muốn làm dịu tình hình ở Viễn Đông, thì trước hết phải giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương (…)”. “Thâm tâm của Bắc Kinh là lợi dụng vấn đề Việt Nam để giải quyết trước vấn đề Đài Loan. Nhưng Việt Nam (Hà Nội - GH) kiên quyết giữ vững đường lối độc lập tự chủ của mình. Do đó những người lãnh đạo Trung Quốc và tổng thống Nixon mới thỏa thuận (rằng): “Trong khi chờ đợi, tùy theo tình hình căng thẳng trong khu vực này giảm đi…” “Điều đó có nghĩa là nếu Bắc Kinh muốn thúc đẩy việc rút lực lượng và các cơ sở quân sự của Mỹ ra khỏi Đài Loan thì họ cần ép Hà Nội đi vào một giải pháp thỏa hiệp với Mỹ”. Từ Sài Gòn, tổng thống Thiệu đinh ninh “giải pháp thỏa hiệp” đã được Kissinger (phía Mỹ) và Lê Đức Thọ (phía VNDCCH) âm thầm thể hiện trước (qua bản dự thảo hiệp định Paris 10.1972), rồi mới thông báo với ông sau. Nên lúc đầu ông phản ứng dữ dội, quyết liệt, không đồng ý ký vào hiệp định và Hồi ký Richard Nixon (sđd Kỳ 32) cũng nhắc đến phản ứng đó của Thiệu. Nixon gởi “tối hậu thư” đến dinh Độc Lập dọa nếu VNCH không ký thì chính phủ Mỹ vẫn ký và hàm ý thông báo trong trường hợp “đáng tiếc” đó hậu quả sẽ không mấy tốt đẹp sẽ đến với Sài Gòn và cá nhân Thiệu. Vào giờ cuối, Thiệu đã nhượng bộ để “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết bởi đại diện của 4 bên, gồm: 1. Nguyễn Duy Trinh - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 2. Nguyễn Thị Bình - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. 3. William P. Rogers - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. 4. Trần Văn Lắm – Tổng trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Lúc ấy (1.1973), dầu phải “gật đầu” ký hiệp định nhưng tâm tư Thiệu “không chấp thuận”. Đến khoảng hơn một tuần trước ngày 30.4.1975, Thiệu bộc lộ tất cả uất ức qua phiên họp với đại diện các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp của VNCH đêm 21.4.1975 tại phòng Khánh tiết dinh Độc Lập, nói rõ: “Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản. Và tôi đã có đủ can đảm nói với ông ngoại trưởng Kissinger lúc đó (rằng) nếu như ông chấp nhận bản hiệp định này, nghĩa là ông chấp nhận bán cái miền Nam này cho cộng sản. Còn tôi mà chấp nhận cái bản văn hiệp định này thì tôi cũng chấp nhận phản quốc, bán cái dân tộc và đất nước miền Nam cho cộng sản. Ông (Kissinger) có chấp nhận thì chấp nhận vì quyền lợi của Hoa Kỳ, vì lý do riêng tư tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận. Bản văn hiệp định đó là một bản văn mà tôi đã từ chối, tôi đã phản đối trong 3 tháng trời (từ 10.1972 đến 1.1973 - GH). Và trong 3 tháng trời ấy chỉ có 3 điểm chánh mà tôi tranh đấu sống chết. Và sự tranh đấu của tôi được chứng minh một cách rõ ràng bởi mỗi một lần tôi mời họp có ông chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền cũ, ông chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn, ông Tổng trưởng ngoại giao, ông chủ tịch Tối cao pháp viện, có Phó tổng thống, đại tướng Tổng tham mưu trưởng và Thủ tướng, thỉnh thoảng có một vài nhân vật chính trị khác. Ba cái điểm mà tôi cho là mất nước: 1. Một chính phủ ba thành phần ở trên chốp-bu đã chỉ huy hai chính phủ là chính phủ VNCH và chính phủ của Mặt trận giải phóng, và cái chính phủ liên hiệp ba thành phần đó được đặt để cho tới tỉnh, quận, xã, ấp. Tôi cho đó là một cái chính phủ liên hiệp, dù dưới hình thức nào, dù ở cấp bậc nào, tôi cũng không chấp nhận và tôi không chấp nhận cái chuyện đó là từ 5, 7 năm trước. Cho nên, đừng có nói gì tới ấp cho tới xã, mà ngay cả trung ương tôi đã không chấp nhận 3 thành phần, 4 thành phần và 2 thành phần tôi cũng không chấp nhận, cho nên tôi đã nói không chấp nhận !. 2. Là họ chỉ nói ở Đông Dương, chỉ có 3 quốc gia là Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam. Tôi nói ngoại trưởng Kissinger, Việt Nam nào? Việt Nam của Sài Gòn hay Việt Nam của Hà Nội? Nếu mà ông chấp nhận bản văn này là ông chấp nhận cái Việt Nam của Hà Nội (…) Tôi không chấp nhận. Tôi muốn trở về nguyên thủy hiệp định Genève là có hai quốc gia Việt Nam, hai chính quyền Hà Nội và Sài Gòn, tôi kêu họ là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, họ phải kêu tôi là Việt Nam Cộng hòa không xâm phạm lẫn nhau, lấy vĩ tuyến 17 và lấy hiệp định Genève làm căn bản, chờ đợi ngày thống nhất bằng phương tiện hòa bình và dân chủ, dù cho ngày đó không biết là ngày nào. Tôi bác cái chuyện đó. Tôi nói trở về hai miền Nam Bắc, hai quốc gia riêng biệt có thể vô Liên Hiệp Quốc, giữ cái vĩ tuyến 17, giữ vùng phi quân sự chờ ngày thống nhất. 3. (Về) quân đội Bắc Việt, thì ông ngoại trưởng Kissinger chấp nhận là quân đội Bắc được quyền ở trong miền Nam một cách hợp pháp, đương nhiên. Tôi nói điểm này là điểm quan trọng nhất (…) Tôi nói điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất là quân đội Bắc Việt phải rút lui về Bắc. Ông Kissinger trả lời với tôi rằng: “Cái chuyện này thương thuyết với Nga Sô, Trung Cộng đã 3 năm nay không được, Mỹ chịu thua”. Trên là đoạn trích từ bài nói chuyện cuối cùng của tổng thống Thiệu tại Sài Gòn sau 9 năm cầm quyền (1966 – 1975) được lưu giữ nguyên văn tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II - TP. HCM (theo số hồ sơ và Font đã nêu) dưới đề mục “Diễn văn từ chức của Nguyễn Văn Thiệu ngày 21.4.1975”. Đoạn cuối, ông Thiệu nhắc đến quyết định của Mỹ cắt giảm viện trợ VNCH từ 1,4 tỷ USD xuống 700 triệu, rồi cắt nữa chỉ còn 300 triệu. Con số hẩm hiu đó vẫn bị Mỹ “treo lắc lư, lắc lư cả năm trời không nói tới. Trong khoảng thời gian đó quân đội VNCH đã mất hết 60% tiềm năng chiến đấu. Một ông võ sĩ mất hết 60% sức lực, và cái vấn đề đánh nhau là hễ mạnh là mạnh luôn, mà yếu là yếu luôn, nó cũng như con bệnh, hễ mạnh là vượt qua, hễ yếu là bị kiệt sức luôn. Quý vị có thể tưởng tượng trong thời gian Hoa Kỳ cắt viện trợ của chúng ta, mà chúng ta mất hết 60% tiềm lực chiến đấu thì cái gì sẽ xảy ra ? Số thương vong gấp bội, bởi vì không có phương tiện không quân yểm trợ, mà pháo của ta lại thua pháo của họ, nội thương vong vì pháo của ta lên rất cao, rồi chết lại lên cao vì thiếu trực thăng để tải thương. Thậm chí, vô nhà thương mà một cái băng phải băng đi băng lại tới hai lần, thật vô nhân đạo đối với một chiến sĩ bị thương !”. Tướng Murray cùng các cộng sự trong ban tham mưu của Murray đã soạn thảo để gởi đến tổng thống Thiệu một tài liệu đặc biệt, nội dung phân tích về tương tác của viện trợ Mỹ đối với sức sống còn của VNCH, cô đọng qua 5 chữ “nếu” đáng sợ sau: 1. Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ thì có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả 4 vùng chiến thuật; 2. Nếu là 1,1 tỷ thì Quân khu 1 phải bỏ; 3. Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được QK I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tổng tấn công của Bắc Việt; 4. Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc và khó điều đình được với Bắc Việt; 5. Nếu quân viện dưới 600 triệu thì chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long; Đó là 5 tuyến phòng thủ tương đương với 5 mức độ quân viện. Tướng Murray kết luận: “Ta có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy” (Khi đồng minh tháo chạy, sđd Kỳ 2, tr. 234-235). Vậy, với mức quân viện quá thấp (300 triệu USD thời điểm 1974-1975), hẳn nhiên nhịp thở của nền đệ nhị Cộng hòa bị đứt quãng, lâm nguy, dẫn đến sụp đổ trước cuộc tấn công của đối phương. Các nhà nghiên cứu và quan sát quốc tế nhận định thêm: Ngoài “yếu tố Mỹ” (bỏ rơi), cần phải xét đến “yếu tố nội tại” (tự phân hóa) khiến VNCH suy yếu. Lỗi dễ thấy nhất là: những bất hòa dai dẳng trong hàng ngũ lãnh đạo của quân đội VNCH (xem rõ thêm: Đọc hồi ký các tướng tá Sài Gòn xuất bản ở nước ngoài - Báo điện tử Một thế giới tháng 11 & 12.2014) đã gây chia rẽ và bất ổn nội bộ triền miên. Nên sau 30.4.1975, vị phụ tá đặc biệt của tổng thống Thiệu đã kêu lên: - “Trước những thất bại, ta phải tự trách mình “mea culpa” (lỗi tại tôi)!”. (còn nữa)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2015 9:41:12 GMT 9
Một “thiên đường nhiễm độc” kiểu Mao Trạch Đông ở Đông ÂuChủ tịch Rumiania Ceausescu (áo sậm) cùng Mao Trạch Đông, đứng cạnh là Lâm Bưu - Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ceauşescu ra lệnh đập phá tan hoang một số nhà thờ Công giáo ở Rumania để rồi bị xử bắn bởi phe đối lập vào lễ Giáng sinh 25.12.1989… Hồi ký của tổng thống Mỹ Richard Nixon ghi nhận Nicolae Ceauşescu (Tổng bí thư Đảng Cộng sản Rumania từ 1965 – Chủ tịch nước Rumania 1967 – 1989) đã đóng vai trò “móc nối chủ chốt” trong quan hệ bí mật giữa Nixon và Mao Trạch Đông buổi ban đầu. * Năm 1969, Nixon đặt chân đến thủ đô Bucharest của Rumania - là tổng thống Mỹ đầu tiên sang thăm chính thức một quốc gia cộng sản. Gặp nhau, bên rượu nho Pháp và hoa hồng Bulgaria, Nixon kín đáo nhờ Ceauşescu giúp Mỹ mở “một cánh cửa mới” khai thông ngoại giao bình thường với Trung Quốc. Ceauşescu nhận lời, phái một quan chức cấp cao trong chính phủ thay mặt mình bay sang Bắc Kinh trực tiếp chuyển lời mời gọi của Nixon tới Mao. * Không lâu sau, đến lượt Ceauşescu sang thủ đô Washington của Mỹ thăm đáp lễ Nixon và tiếp tục làm sứ giả kết nối đường dây liên lạc giữa Mỹ với Trung Quốc, dẫn đến việc Chu Ân Lai (theo chỉ thị Mao Trạch Đông) gửi Henry Kissinger (cố vấn an ninh quốc gia của Nixon) một “thông điệp hảo hữu”… Xem thêm: Kỳ 32: Những "lừa dối hào nhoáng" của Mao Trạch Đông Với những đóng góp hữu hiệu cho “thỏa hiệp Bắc Kinh – Washington 1972”, Ceauşescu giành được thiện cảm đặc biệt của Mao. Thêm nữa, trước đó vào những năm cuối thập niên 1960, Mao rất hài lòng bởi Ceauşescu ngày càng thể hiện đường lối độc lập khác với Liên Xô như: - Chỉ trích khối Warszawa can thiệp quân sự vào nội bộ Tiệp Khắc (1968); - Vẫn giữ quan hệ ngoại giao với Israel lẫn các nước thuộc khối Ả Rập (đang căng thẳng nhau). - Hòa hiếu với Đông Đức (Cộng hòa dân chủ Đức) lẫn Tây Đức (Cộng hòa liên bang Đức). - Giao hảo với Mỹ và các nước phương Tây dân chủ khác (đang mâu thuẫn với Liên Xô)… Rõ ràng Ceauşescu muốn “lưỡng giao” cùng lúc vừa với các quốc gia theo chế độ cộng sản, vừa với những nước tư bản và trung lập. Nắm được hướng đi và thế đứng có phần phiêu lưu của Ceauşescu qua các tường trình và đánh giá bởi tình báo Trung Nam Hải nên Mao quyết định phải lôi kéo Ceauşescu ngã về phía Trung Quốc nhiều hơn nữa, tới mức đủ để tác động Ceauşescu biến Rumania thành “tiền đồn tư tưởng của Mao” ở Đông Âu chống lại Liên Xô… * ĐƯA “THIÊN ĐƯỜNG NHIỄM ĐỘC” KIỂU MAO VÀO RUMANIA Trước hết Mao mời Ceauşescu sang thăm Bắc Kinh, tiếp đãi yến tiệc và làm mọi cách để Ceauşescu cảm nhận (thực ra là ngộ nhận) rằng đã được Mao đối xử công bằng và trân trọng như một “hoàng đế phương Đông”. Rồi Mao, với thâm ý sẵn có, đã giới thiệu để đưa Ceauşescu đi thăm hai mô hình “xã hội chủ nghĩa đầy ấn tượng” ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (Bắc Hàn) và Việt Nam dân chủ cộng hòa (Bắc Việt). Đến Bắc Hàn, dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Kim Nhật Thành, Ceauşescu choáng ngợp với những thay đổi tận gốc - nơi “tôn giáo đang hoàn toàn bị loại bỏ - nhà thờ, chùa chiền bị phá hủy, tăng sĩ, giáo sĩ bị cưỡng bách lao động (…) nếp sống của dân chúng hoàn toàn đặt dưới quyền kiểm soát của Đảng, xã hội đặt dưới thể chế cá nhân toàn trị: Kim Nhật Thành là cha – Đảng là mẹ, có độ chừng 2,3 triệu đảng viên trong số 18,5 triệu dân (số liệu 1982)”. So tỉ lệ dân số, thì “Bắc Hàn là nước có nhiều đảng viên cộng sản hơn tất cả các nước cộng sản khác” (Trần Quang Thuận - Phật giáo Đại Hàn, NXB Tôn Giáo – Hà Nội -2008, tr. 221, 255 và 256). Giới trí thức gồm các bác sĩ, giáo sư, nhà văn, nghệ sĩ đều phải “tham gia các tổ chức chuyên nghiệp do cán bộ cộng sản kiểm soát” (sđd, tr. 256)… Những gì Ceauşescu tận mắt “chiêm ngưỡng” ở Bắc Hàn (và Bắc Việt) trong chuyến đi nghiệt ngã năm 1971 ấy đã tạo “mặt bằng tâm lý” để Ceauşescu dễ tiếp nhận những bài học về “cách mạng văn hóa vô sản” do phía Mao thuyết giảng ảnh hưởng mạnh tư tưởng Ceauşescu những ngày tiếp sau. Quả vậy, khi về nước Ceauşescu quyết định xóa bỏ những đường nét dân chủ do ông tạo lập trong những năm cầm quyền trước đó, khởi xướng luận cương tháng bảy (7.1971) gần như rập khuôn theo Mao và Kim Nhật Thành, báo trước cuộc “cách mạng văn hóa kiểu Mao” (với quy mô nhỏ hơn) sẽ tái hiện tại Rumania, qua 17 điểm, với vài nội dung thiết yếu thường nghe nói đến, đại khái: · Tăng cường sự lãnh đạo của đảng. · Đưa chương trình giáo dục ý thức hệ cộng sản vào trường học các cấp (kể cả đại học) và các đoàn thể xã hội (kể cả thiếu nhi). · Định hướng các nội dung tôn vinh đảng và tuyên truyền chủ trương của nhà nước trên tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng. · Chỉ đạo hoạt động văn học nghệ thuật theo hướng phục vụ nhiệm vụ chính trị, ca ngợi điển hình cách mạng; công bố danh sách các tác phẩm bị cấm lưu hành và lên án các tác giả thuộc “dòng nước ngược”… · Theo dõi và kiểm soát triệt để đời sống tôn giáo, hoạt động thương mại xã hội và giao lưu nhân quyền. Đáng sợ, Ceauşescu phác họa kế hoạch san bằng các làng quê, đẩy nông dân khỏi ruộng vườn thân thuộc của họ, để phải vào sống trong những khu “nhà hộp” xa lạ xây sẵn, bất chấp sở thích về môi trường truyền thống của miền quê Rumania. Để thực hiện, ông cho triệt phá một số di sản kiến trúc mỹ thuật ở thành thị, kể cả tại vùng trung tâm thủ đô Bucharest, không loại trừ việc biến các nhà thờ với các gác chuông cổ kính thành đống gạch vụn…. * CEAUŞESCU TRONG “NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG” Trên lộ trình khắc nghiệt đó, Ceauşescu tin dùng cán bộ tuyên giáo thay cho hàng ngũ các chuyên gia lành nghề, gây lũng đoạn và làm kiệt quệ nền kinh tế đất nước, đưa số nợ vay nước ngoài lên đến hơn 13 tỷ USD. Những mặt hàng thiết yếu cho đời sống dân chúng như bột mì, bơ sữa, gas và nhiên liệu sưởi ấm thiếu hụt trầm trọng. Đối phó với những chỉ trích nội bộ bùng phát, Ceauşescu dập tắt bằng biện pháp thanh trừng kín đáo bên trong. Ông dùng quân đội và lực lượng cảnh sát, mật vụ (securitate) để thanh toán đối lập, nhốt tù và thủ tiêu các chính khách thuộc phe dân chủ, đàn áp mọi đối kháng của dân chúng bên ngoài. Dần dà những năm cuối thập niên 1980, Ceauşescu sa vào tệ “sùng bái cá nhân” – xem mình là “lãnh tụ vĩ đại (Conducător)”, hoặc “thiên tài Carpathian (Geniul Din Carpati)”, thỏa mãn trước sáng tác của các “nghệ sĩ vô sản” tôn ông lên mây xanh. Những bài báo, bài thơ, bức họa ca ngợi Ceauşescu xem ra cũng không khác bao nhiêu với Bắc Hàn – nơi ông đến gặp và tham khảo “triết lý Juche” với lãnh đạo Kim Nhật Thành, thấy rõ: Nơi tổ phụ và song thân của Kim Nhật Thành từng sinh sống được “trùng tu thành những ngôi đền để dân chúng khắp nơi đến chiêm bái, thưởng ngoạn – hình tượng Kim Nhật Thành, bà con thân quyến và vợ qua đời (của ông) được dựng lên khắp nơi (…) Những bài ca, vở kịch, phim ảnh là để vinh danh thành quả cách mạng của Đảng, đặc biệt là thành quả của Kim Nhật Thành, như: Thống soái Kim Nhật Thành là mặt trời của chúng ta, Bài ca thống soái Kim Nhật Thành. v.v…. Những bài hát được trẻ con hát nhiều nhất là: Chúng ta là những thiếu nhi sung sướng nhất thế gian, Chúng ta có tất cả không còn mong ước gì hơn trên thế giới này, Chúng con đội ơn đại lãnh đạo Kim Nhật Thành với sự chăm sóc và tình thương của Người….” (Trần Quang Thuận – sđd, tr. 255). Đó là những lãnh tụ ca “Đông phương hồng nho nhỏ”. Ở Rumania cũng có. Nếu chúng hâm nóng lòng tự mãn cho nhà độc tài Ceauşescu và ru ngủ ông trong hoang tưởng về sự “vĩ đại” của mình, thì ngược lại đã gây phản cảm trong tầng lớp trí thức văn nghệ sĩ và dân chúng yêu tự do. Họ bày tỏ bất bình, phản đối việc trục xuất mục sư Laszlo Tokes khỏi nhà thờ và kéo xuống đường biểu tình tại Timisoara. Cuộc đối kháng ban đầu với những khẩu hiệu mang màu sắc tôn giáo bỗng nhanh chóng biến thành cuộc nổi dậy chống chế độ độc tài toàn trị của Ceauşescu và đảng cộng sản Rumania, lan rộng sang nhiều thành phố trong nước và đỉnh điểm là làn sóng người từ khắp nơi kéo về bao vây trụ sở trung ương Đảng cộng sản Rumania giữa thủ đô Bucharest. Dầu quân đội của Ceauşescu nổ súng bắn thẳng vào biển người chống đối, làm hàng ngàn người chết trên đường phố (giống sự kiện Thiên An Môn đẫm máu ở Trung Quốc), song vẫn không giải vây nổi cho ông. Để cuối cùng ông phải liên lạc cấp báo với đội đặc nhiệm vũ trang và mật vụ đưa “lực lượng phản ứng nhanh” đến cứu. Họ nhổ bỏ những cây ăng-ten làm vướng bãi đáp trên nóc tòa nhà trung ương, giúp chiếc trực thăng mở đường máu cứu nguy hạ cánh khẩn cấp chở vợ chồng Ceauşescu thoát lên không, hướng về phía biên giới. Nhưng một mật lệnh từ mặt đất đã khống chế đường bay, buộc phi công phải đưa Ceauşescu đáp xuống, bắt và đem ông (cùng vợ là bà Elena) ra xử tại phiên tòa dã chiến mở cách thủ đô Bucharest khoảng 100 cây số. Ngay sau đó, lệnh tử hình tại chỗ được ban hành và thực hiện lập tức bởi đội hành quyết thuộc Trung đoàn dù tinh nhuệ Ionel Boeru. Ceauşescu gục chết ở tuổi 71 sau gần một phần tư thế kỷ cầm quyền, bỏ lại “thiên đường nhiễm độc” theo kiểu Mao trên đất Đông Âu. Thay vào đó, một chế độ dân chủ tuyên bố ra đời ở Rumania trước giờ Liên Xô tan rã ! (còn nữa) THAM KHẢO THÊM TÀI LIỆU CỦA VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM (BỘ QUỐC PHÒNG) VỀ CÁI CHẾT CỦA CHỦ TỊCH CEAUŞESCU: Cuốn “Thế giới thế kỷ XX – những sự kiện quân sự” do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức biên soạn (NXB Quân đội nhân dân, 475 trang – Hà Nội 2003, tr. 369), đề cập đến những ngày cuối cùng của chủ tịch Ceauşescu và gọi diễn biến làm sụp đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa Rumania là một “cuộc chính biến” - nguyên văn: “Từ cuối năm 1989, lực lượng đối lập liên tiếp tổ chức các cuộc bạo động lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Rumania do Ceauşescu đứng đầu. Mở đầu là cuộc biểu tình của nhân dân thị trấn Timisoara ngày 16.12.1989 phản đối chính phủ Ceauşescu bắt mục sư Tin lành Laszlo Toekes, người bảo vệ quyền lợi của dân tộc thiểu số người Rumania gốc Hungaria. Làn sóng đấu tranh lan nhanh trong các thành phố khác, đặc biệt là ở thủ đô Bucharest. Chính quyền Rumania ra lệnh đóng cửa biên giới với Hungaria và Nam Tư. “Ngày 22.12.1989, thủ tướng và toàn bộ chính phủ Rumania buộc phải từ chức. Lực lượng đối lập thành lập Mặt trận cứu nước Rumania, tuyên bố giải thể bộ máy quyền lực cũ. Ngày 25.12.1989, chủ tịch nước N. Ceauşescu bị xử tử hình. Các thành viên chính phủ lần lượt bị bắt. Toàn bộ hệ thống Đảng, chính quyền sụp đổ. Ngày 26.12.1989, chính phủ lâm thời được thành lập do Ion Iliescu làm chủ tịch nước (đến năm sau - 1990 - được bầu làm tổng thống) và Roman làm thủ tướng. Ngày 29.12.1989, Hội đồng Mặt trận cứu nước Rumania công bố quyết định đổi tên nước là Cộng hòa Rumania” (thay vì Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumania bỗng chốc phải lùi vào quá khứ). Giao Hưởng Việt Nam - Rumania và hoàng thân Shihanouk trước "bóng ma Maoism" Vợ chồng nhà độc tài Ceauşescu Những “lừa dối hào nhoáng” của Mao Trạch Đông Chu Ân Lai trăn trối những gì với ... Khmer Đỏ? Mao Trạch Đông (trái) - Sihanouk và Chu Ân Lai Rời Bắc Kinh (1956), Sihanouk nhận được từ Mao Trạch Đông những “gói viện trợ” để Campuchia dần dần tách ra khỏi ảnh hưởng của Mỹ… Mao giúp Campuchia chuẩn bị bước vào công nghiệp hóa như: xây dựng 6 nhà máy lớn, trường kỹ thuật ở Kongpong Cham, sân bay quốc tế gần Angkor và cử sang Phnom Penh các chuyên viên kỹ thuật tay nghề cao, cùng đội ngũ giáo viên người Hoa giúp Sihanouk thiết lập “nền tảng giáo dục” mới. Thuận chiều “giao lưu”, Mao mở cửa đón nhiều thanh niên, sinh viên Campuchia sang du học tại Trung Quốc từ 1956 đến 1969. Sang năm kế đó (1970) một sự kiện chính trị nổ ra ở Campuchia làm đảo lộn tất cả: Đứng đầu chính biến là tướng Lon Nol (người Hoa - Khmer) nguyên Bộ trưởng Bộ quốc phòng, Tư lệnh lực lượng nhảy dù phản đảo chánh, từng được Sihanouk giao trọng trách đánh dẹp cuộc lật đổ do tình báo dinh Độc Lập (Sài Gòn) chủ mưu (năm 1959) để bảo vệ chính phủ Sihanouk. Thì giờ đây (1970) cũng chính Lon Nol cùng hoàng thân Sereak Matak, đã đứng lên đánh đổ Sihanouk khi Sihanouk đang trên đường công du qua Pháp, Liên Xô, Trung Quốc... Lon Nol chỉ huy liên đội thiết giáp và bộ binh cơ động bao vây tòa nhà Quốc hội Campuchia buộc Quốc hội phải ra quyết định truất phế Sihanouk (18.3.1970). Sihanouk bắt đầu cuộc sống lưu vong, đáp xuống thủ đô Bắc Kinh và được Chu Ân Lai đón tiếp nồng nhiệt tại phi trường (sáng 19.3.1970), đưa về sống trong khu dinh thự (nguyên trước kia là nơi ở của thống sứ Pháp) tọa lạc ngay trung tâm Bắc Kinh, rất gần Quảng trường Thiên An Môn và Đại lễ đường Nhân dân. Bộ máy hành chính của Chính phủ vương quốc đoàn kết dân tộc Campuchia (GRUNK) do Sihanouk lãnh đạo đóng trụ sở lưu vong ở đó. Tân Tử Lăng nhận định: “Tháng 3.1970, tập đoàn Lon Nol thân Mỹ đảo chính lật đổ Chính phủ vương quốc Campuchia, Sihanouk trở thành con át chủ bài trong tay Mao. Quân đội cộng sản Campuchia được Trung Quốc và Việt Nam nâng đỡ đối đầu với quân đội Lon Nol do Mỹ ủng hộ, chiến tranh kéo dài 4 năm, đến 17.4.1975 giải phóng Phnom Pênh. Tháng 6 năm đó, Pol Pot sang triều kiến Mao Trạch Đông. Sau khi về nước, thực hiện chỉ thị của “lãnh tụ vĩ đại” (Mao), Pol Pot tuyên bố xóa bỏ tiền tệ, đóng cửa thị trường, thực hiện chế độ cung cấp trong cả nước, đuổi 3 triệu dân thành thị kể cả sư sãi và giáo sư đại học về nông thôn làm ruộng. Mọi hành động của Đảng Cộng sản Campuchia sau khi giành được chính quyền đều mang dấu ấn “tả khuynh” của Mao. Bi kịch “Đại tiến vọt” ở Trung Quốc cuối thập kỷ 50 đã tái diễn ở Campuchia”. Pol Pot thủ tiêu, bắt giam, hoặc cô lập hầu hết những người trong phe đối lập, kể cả những phần tử thân Sihanouk xong, đã phái Khieu Samphan (nhân vật quyền lực thứ 5 của Khmer Đỏ - Chủ tịch Hội đồng nhà nước Campuchia dân chủ) và vợ của Ieng Sary (Ieng Sary là nhân vật quyền lực thứ 3 của Khmer Đỏ - Phó thủ tướng kiêm Ngoại trưởng dưới thời Khmer Đỏ) đến Bắc Kinh để mời Sihanouk về lại Campuchia. Trước ngày lên đường, Sihanouk đến chào từ biệt thủ tướng Chu Ân Lai. Chính ở buổi chia tay đó, lần đầu tiên Chu Ân Lai đã công khai bộc lộ những đánh giá thầm kín của mình về thảm họa ập xuống đất nước Trung Quốc trong thời kỳ Đại tiến vọt và Cách mạng văn hóa do Mao lãnh đạo. Những phát biểu “sấm sét” ấy được Sihanouk đưa vào hồi ký của mình. Và có lẽ đó là những đoạn văn duy nhất của một hoàng thân, quốc trưởng (Sihanouk) ghi rõ lời lẽ phê phán gay gắt của thủ tướng Chu Ân Lai đối với chủ tịch Mao - trích dưới đây (Hồi ký Sihanouk - sđd kỳ 31. tr. 139-141): “Tôi đến chào Chu Ân Lai, khi đó đã rất yếu và đang nằm viện vì ốm nặng, để từ biệt ông. Cùng đi với tôi có vợ tôi, người bạn và là một cố vấn lâu năm của tôi, Penn Nouth, ông Khieu Samphan và bà Ieng Sary. Chu Ân Lai, đang mặc đồ ngủ, ngoài khoác một chiếc áo choàng, đã tiếp chúng tôi trong phòng bệnh của ông, vẫn nhân từ như mọi ngày, trong khi một y tá phục vụ ông rất tận tâm. “Hoàn toàn minh mẫn, vị thủ tướng nổi tiếng của Trung Quốc đưa ra những lời khuyên cuối cùng – giống như di chúc – đối với các thủ lĩnh đáng ngại của Khmer Đỏ. Trước mặt tôi, Chu rao giảng cho Khieu Samphan và bà Ieng Sary: “Chúng tôi, những người cộng sản Trung Quốc, phải gánh chịu những hậu quả đau đớn của chính những sai lầm của chúng tôi. Chúng tôi xin mạn phép khuyên các vị đừng cố tìm cách đạt tới giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản bằng một bước đại nhảy vọt. Các vị phải hành động một cách thận trọng và tiến bước một cách chậm rãi và khôn ngoan trên đường đi lên chủ nghĩa cộng sản. Các vị không nên đặt mục tiêu tiến ngay tới chủ nghĩa cộng sản mà nên tiến từng bước thận trọng tới chủ nghĩa xã hội. Nếu các vị không thận trọng và khôn ngoan như thế, các vị sẽ chỉ gây đau khổ cho nhân dân của mình. Phải hiểu rằng chủ nghĩa cộng sản là đem lại hạnh phúc, phồn vinh, phẩm giá và tự do cho nhân dân. Nếu người ta cố tìm cách đạt được chủ nghĩa cộng sản trọn vẹn bằng một bước nhảy ngắn – với cái giá phải trả là phớt lờ trí lực của nhân dân mình và những thực tế của đất nước mình, thì có nguy cơ người ta sẽ đẩy nhân dân mình và đất nước mình vào thảm họa. Tôi khẩn thiết kêu gọi các vị đừng phạm những sai lầm mà chúng tôi đã phạm phải ở Trung Quốc”. Những lời trên của Chu Ân Lai đã vạch trần thất bại nặng nề của Mao. Và Mao, với tai mắt sẵn có, hẳn nhiên không thể không biết là Chu tố giác sai lầm và tội ác của mình như thế nào trước mặt các lãnh tụ Khmer Đỏ. Điều ấy đẩy Chu đến cái chết nhanh hơn ? Vấn nạn này sẽ trình bày sau. Còn Khmer Đỏ, sau đó vẫn đi theo vết xe đổ của Mao (gạt qua một bên lời cảnh cáo của Chu) gây nên cái chết của khoảng 1,7 triệu đến 2,5 triệu người Campuchia - trên tổng số chưa đầy 9 triệu dân thời ấy. Một tội ác điển hình dưới búa rìu của Khmer Đỏ là đã quật chết đứa con đầu lòng của thủ tướng Hun Sen ngay khi cháu bé vừa mới lọt lòng mẹ chưa lâu (còn nữa). Shihanouk (giữa) và Mao Trạch Đông (bìa trái) Mao Trạch Đông đưa Sihanouk bước lên lễ đài Thiên An Môn trong tiếng hô cuồng nhiệt: “đả đảo đế quốc Mỹ” của ngót một triệu người – nhưng cùng lúc đó (5.1970) Mao đã bí mật tìm cách bắt tay Mỹ sau lưng Sihanouk ! Hun Sen với “cuộc tình đã chết một đêm nao“! Hun SenThủ tướng Hun Sen và vợ Bun Rany Nỗi đau lớn nhất trong đời sống tình cảm của Hun Sen (thủ tướng Campuchia đương nhiệm - 2015) là cái chết của đứa con đầu lòng dưới thời diệt chủng của Khmer Đỏ vào gần 40 năm trước (1976)…Cháu bé mới ra đời chưa kịp rõ mặt đặt tên, nữ hộ sinh của Khmer Đỏ bồng lên, đánh rơi cháu xuống cạnh giường đến gãy xương sống “chỉ khóc thét lên một tiếng” rồi im hẳn. Hun Sen lúc đó 24 tuổi, được phép tới bệnh viện phụ sản để chỉ còn thấy cháu bé miệng ứa máu. Vợ Hun Sen là Bun Rany, 22 tuổi, ngất xỉu trên giường sinh: “Trong nhiều năm rồi tôi chưa kể với ai sự việc này (…) bây giờ tôi có thể hiểu rõ như thể nó đã được phơi bày. Tôi thực sự không biết làm sao điều đó có thể xảy ra vì cô đỡ được đào tạo cùng với tôi. Cô ta đã để rơi đứa con trai nhỏ bé đó và đầu nó đập vào cạnh giường. Đứa bé máu chảy ra đầm đìa rồi chết”. Bun Rany khóc khi kể lại như thế trước các tác giả nước ngoài (Harish C. Mehta và Julie B. Mehta: Hun Sen- Strongman of Cambodia, Lê Minh Cẩn dịch với tựa: Hun Sen, nhân vật xuất chúng của Campuchia, NXB Văn học - Hà Nội 2008, tr. 95) và cho biết thêm, sau đó Khmer Đỏ chỉ đạo phải ghi vào bệnh án rằng: cháu bé trai (con của Hun Sen và Bun Rany) đã chết trong bụng mẹ ! Lại không cho phép Hun Sen chôn cất đứa con ấy. Và gần như ngay lập tức đẩy Hun Sen đến mặt trận xa hơn để ông không thể gần gũi an ủi, chăm sóc vợ (Bun Rany) trong thời hậu sản được. Bấy giờ Hun Sen là chỉ huy trưởng một đơn vị đặc công của Khmer Đỏ đóng quân cách bệnh viện phụ sản Memot nơi người vợ trẻ của ông đang nằm khoảng 30km, nói: “Cho tới nay tôi vẫn chưa biết đứa con của tôi được chôn ở đâu”. Vì sao Khmer Đỏ lại đối xử tàn tệ với Hun Sen? Vì rằng, Hun Sen cộng tác với Khmer Đỏ 7 năm, từ 14.4.1970 (theo lời kêu gọi phát đi từ Bắc Kinh của hoàng thân Sihanouk nhằm chống lại chế độ cộng hòa của Lon Nol) đến 20.6.1977. Những năm đầu, ông chiếm nhiều thiện cảm ưu ái của cấp chỉ huy Khmer Đỏ qua các đợt tham gia tấn công quân sự “lấy nông thôn bao vây thành thị” khắp Campuchia theo “binh pháp Mao Trạch Đông”. Song, từ khi Hun Sen bày tỏ tình yêu với nữ giám đốc một bệnh viện của Khmer Đỏ mới 20 tuổi là Bun Rany (và Bun Rany cũng rung động đáp lại không kém) thì sự việc khác đi, bởi: “Khmer Đỏ không tán thành chuyện theo đuổi tình cảm lãng mạn - những người du kích trẻ bị cấm nẩy nở quan hệ tình cảm với người khác phái”(sđd tr. 81). Họ hết sức phật lòng khi Hun Sen làm đơn xin cưới Bun Rany cuối năm 1974 lúc ông 22 tuổi. Vì theo họ, như thế Hun Sen đã công nhiên vi phạm “luật rừng” về hôn nhân do Khmer Đỏ ban bố: chỉ cho phép sĩ quan binh lính cộng sản Campuchia lấy vợ lúc 30 tuổi ! Chiếu theo “luật” trên, Hun Sen xin cưới sớm hơn tuổi quy định tới… 8 năm (phạm luật)! Ông vẫn hy vọng với các chiến công của mình và độ tin cậy đang có của cấp chỉ huy Khmer Đỏ với ông, ông sẽ giành được “một ngoại lệ”. Thật không tưởng, bởi Khmer Đỏ dùng “bàn tay sắt” đẩy hai người ra. Họ không bác đơn ngay, mà hứa xa xôi là sẽ cho phép ông tổ chức đám cưới với Bun Rany khi nào Phnom Pênh hoàn toàn giải phóng ! Hun Sen nói: - “Tôi biết như vậy là một cách từ chối. Thanh niên chỉ được cho phép cưới vợ lúc 30 tuổi, trừ trường hợp bị tàn tật mới có thể cưới vợ trước tuổi đó. Nhưng tôi chưa bị thương tật” (!) Trớ trêu là, không lâu sau đó định mệnh xui khiến Hun Sen thành “người thương tật” trong một trận đánh vào căn cứ Kompong Cham (ngày 16.4.1975 - một ngày trước thời điểm Khmer Đỏ chiếm thủ đô Phnom Pênh) và bị mù mắt trái, phải gắn mắt giả thay vào. Bù lại mất mát kia, Hun Sen được quyền chính thức xin phép Khmer Đỏ kết hôn với Bun Rany. Cấp chỉ huy của cô ấy đã trắng trợn ngăn cản, bằng cách sắp đặt cho cô dâu Rany một “chàng rể tương lai” lạ hoắc (là một giám đốc nhà in có quyền lực) và thông báo với cô ta là chính ủy đơn vị sẽ đứng ra làm chủ lễ “trong vòng 3 ngày tới” ! Hay tin, Hun Sen đã chua xót, lẳng lặng cầm súng ra ngoài suối, chỉa lên trời bắn loạn xạ mấy loạt thay lời gào thét phản kháng Khmer Đỏ. Về phần Rany, cô thu hết can đảm, với tình yêu say đắm dành cho Hun Sen, đã thẳng tới gặp chính ủy và run giọng khẳng định rằng cô không thể lấy “chàng rể tương lai” kia ! Cán bộ Khmer Đỏ giận run người, tìm mọi cách “ép Bun Rany lấy một người đàn ông khác công tác ở huyện Kroch Chmar, song cô đã từ chối (lần thứ hai)”. Chưa nản, các chính ủy Khmer Đỏ quay sang phía Hun Sen “yêu cầu ông lấy một phụ nữ khác làm vợ - một phụ nữ lớn hơn ông 12 tuổi”. Hun Sen kể: “Phụ nữ đó là một giáo sư, bà được bảo phải cưới một người đàn ông có cấp bậc chỉ huy. Sau này bà đã trở thành một thành viên của quốc hội trong chế độ Pol Pốt và thường phát biểu trên đài phát thanh của Khmer Đỏ. Từ chối đề xuất ấy rất nguy hiểm cho tôi, khi tôi tỏ ra không tuân theo cán bộ Angkar. Nhưng tôi đã từ chối” (sđd, tr. 89). Lại thêm, cấp chỉ huy của Hun Sen là Soeurng muốn gả con gái của ông ta cho Hun Sen. Hun Sen lại phải “động não” để tìm lời khôn khéo hẹn sang “kiếp nào có yêu nhau” thì hãy hay. Sau những vận động bất thành, cuối cùng Khmer Đỏ đồng ý tổ chức đám cưới tập thể, mà Hun Sen - Bun Rany là “cặp thứ 13”. Vừa hạnh phúc vừa chua chát Bun Rany hồi tưởng: - “Đó là lần đầu tiên Angkar cho phép một đám cưới như vậy. Khá trớ trêu là chỉ những người tàn tật (như Hun Sen bị mất mắt) mới có thể có đặc ân này”. Trong tuần trăng mật, nhiều đêm họ không được ngủ chung với nhau. Ban ngày Khmer Đỏ buộc Bun Rany phải đi san bằng các thửa ruộng đến mệt lả. Ban đêm, Hun Sen phải xem xét từng đường đi nước bước trên bản đồ quân sự tại sở chỉ huy mới. Dầu vậy, họ vẫn tìm cách gặp nhau trong vòng kiềm tỏa của Khmer Đỏ, để hạnh phúc tràn về khi Rany mang thai đứa con đầu lòng (và bất hạnh xảy ra như đã biết). Sau ngày Phnom Pênh thất thủ (17.4.1975), cả Hun Sen lẫn Bun Rany đều tận mắt chứng kiến cảnh Khmer Đỏ “phá hủy nền kinh tế, đóng cửa các doanh nghiệp và các nhà máy, đã tàn sát có hệ thống những người trí thức Campuchia được phương Tây đào tạo, gồm các bác sĩ, các giáo viên và các nhà khoa học. Bằng nhiệt huyết điên rồ (của mình), Khmer Đỏ (hoang tưởng rằng) sẽ xây dựng một nước Campuchia mới thành một quốc gia không có bất cứ ảnh hưởng nào của phương Tây - và họ đã nhiễm đầy các tư tưởng Mao Trạch Đông về một xã hội dựa vào nền nông nghiệp. Họ ghét tiền một cách cực đoan đến độ thậm chí đánh sập tòa nhà Ngân hàng Trung ương tại đại lộ Tou Samout - ở Phom Pênh (vì họ cho rằng Ngân hàng đó là biểu tượng của chủ nghĩa tư bản)” ! (sđd. tr. 233). Trong tan nát đó, Bun Rany mang thai cháu thứ hai lúc Hun Sen đóng quân vùng phía đông sông Mekông - tiếp giáp với nơi gia đình ông đang ở - gần biên giới Việt Nam. Ngay ở đó, ông hay tin cha mình cùng bà con nội ngoại của ông đang bị Khmer Đỏ ghép vào thành phần nguy hiểm theo cách phân loại “chết người” do Mao Trạch Đông bày vẽ - nói trắng ra là họ bị kết tội mang “xu hướng chính trị tồn tại từ chế độ phong kiến, đang có thiện cảm và đang ủng hộ bọn tư sản hiện đại, cũng như vẫn còn mang lề thói của lối sống giàu có” cách biệt với “quần chúng vô sản”, nên: cần bị trừng trị !!! Không chỉ những lời quy kết bằng miệng, Khmer Đỏ đã đem ra xét xử giữa trời và bắn chết hơn 10 bà con ruột thịt của Hun Sen trên các bãi bắn tùy tiện, trước công chúng. Thêm nữa, Khmer Đỏ hành quyết nhiều cán bộ cấp cao vốn là những chỉ huy trực tiếp của Hun Sen, như: Chen Sot (Bí thư Đảng khu ủy 21), hoặc Kun Deth (Trưởng ban tham mưu khu ủy 21). Tới nước đó, Hun Sen quyết định khai tử “cuộc tình” giữa mình với Khmer Đỏ để một sớm một chiều Hun Sen nhanh chóng trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của Khmer Đỏ ra sao ? Quá trình lừa dối diễn ra nhanh chóng sau “loạt đạn ngoại giao” của tổng thống Mỹ Nixon trong chuyến thăm hữu nghị Pakistan và Romania năm 1969. Ở cả hai nơi trên, Nixon đều ngỏ lời muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Và dĩ nhiên, tổng thống Yahia Khan (của Pakistan) cùng chủ tịch Ceaucescu (của Roumania) – là hai nhà lãnh đạo thân Bắc Kinh – đã phải lập tức chuyển đến Mao những lời “thu quyến rũ” của Nixon ngay tháng 7 năm ấy. Để sang năm sau, khi mùa thu tới, khoảng giữa tháng 9 âm lịch Canh Tuất - vào tiết hàn lộ của Trung Quốc (10.1970), Nixon một lần nữa đơn phương lên tiếng. Lần này cũng qua trung gian Ceaucescu nhưng có sức đánh động trái tim Mao hơn hẳn lần trước - như Nixon kể (qua cuốn The memoirs of Richard Nixon): “Trong buổi tiệc chiêu đãi ông ta (Ceaucescu), tôi (Nixon) lợi dụng lúc nâng cốc chúc mừng (để nhắc đến) và gọi “nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” thay vì nói “Trung Quốc cộng sản” như trước kia. Đây là lần đầu tiên một tổng thống Mỹ nói như vậy (…) và đây cũng là một lời kêu gọi ngoại giao có ý nghĩa” nhắn về Mao (Hồi ký Richard Nixon - nhiều người dịch, 1370 trang – NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2004, tr. 661) Từ nửa bên kia của múi giờ quốc tế, Mao Trạch Đông nhận được tín hiệu “nhành ô-liu” của Nixon trước khi trời sáng và chỉ thị Chu Ân Lai hãy liên lạc “móc nối Romania” để chuyển đến Kissinger (Cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Nixon) một thông điệp (sau khoảng “thời gian im lặng” cần thiết) vào đầu năm 1971; nêu rõ: “Giữa hai bên (Trung – Mỹ) chỉ có một khác biệt chưa được giải quyết là: sự chiếm đóng của quân đội Mỹ ở Đài Loan. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã cố gắng thương lượng với đầy đủ thiện ý về sự khác nhau ấy từ 25 năm nay. Nếu Hoa Kỳ muốn giải quyết và đề ra một giải pháp (nào đó) thì Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sẽ sẵn sàng tiếp đón ở Bắc Kinh một đại diện đặc biệt của Hoa Kỳ. Bản thông điệp này đã được chủ tịch Mao Trạch Đông và Lâm Bưu thông qua” (Richard Nixon - sđd tr. 663). Kissinger nhận xét “bản thông điệp không có một lời thóa mạ nào” như thường đọc thấy qua các văn bản ngoại giao phát đi từ Trung Hoa đỏ. Nó cũng không nhắc gì đến sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Việt Nam vẫn đang là một chủ đề nhạy cảm giữa đôi bên thời đó. Điều ấy phải được hiểu là Mao đang muốn ném “cây sào” dài 16.000 dặm (nối từ Washington đến Bắc Kinh) để sứ giả Nhà Trắng thực hiện các chuyến “đi đêm” đến Trung Nam Hải trong một tương lai gần. Đáp lại, Nixon bắt tay giải quyết một phần “vấn đề Đài Loan” để Mao vui lòng, bằng cách bàn với Kissinger điều động bộ tham mưu của ông ta mở cuộc vận động “một cách bí mật và không có sự tham gia của người ngoài (…) để tránh bị lộ tin tức việc đưa Trung Hoa đỏ vào Liên Hiệp Quốc” (loại Đài Loan ra ngoài) ! Kết quả như đã thấy, sau đợt vận động trên, Liên Hiệp Quốc khóa 26 (25.10.1971) đã biểu quyết với 76 phiếu thuận, 35 phiếu chống và 17 phiếu trắng khai trừ Đài Loan của Tưởng Giới Thạch và kết nạp Cộng hòa nhân dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông là chính phủ duy nhất đại diện cho Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Cùng thời điểm trên, Bắc Kinh mở sẵn cửa chào đón Kissinger. Nixon viết, trước diễn biến bất ngờ đó “các bạn Đài Loan của chúng ta thì xỉu đi (…) – người Nhật bất mãn vì không được thông tin trước”. Còn Sài Gòn thì sao ? Chính là thời kỳ tổng thống Thiệu và Nixon đang lục đục “khó ở” với nhau nhất. TS. Nguyễn Tiến Hưng, cố vấn tổng thống Thiệu, cùng Jerrold L. Schecter - qua cuốn The Palace File (Hồ sơ tối mật: từ tòa Bạch Ốc đến dinh Độc Lập, Võ Văn Sen, Nguyễn Hoàng Dũng, Vũ Bảo Quốc dịch, 514 trang, NXB Trẻ - TP. HCM 1990) đã ví tổng thống Thiệu như một người tình bị bỏ rơi – ngẩn ngơ nhớ “Thuở ban đầu”(1): “Mỹ đang tìm kiếm một người tình tốt hơn và bây giờ Nixon đã tìm được Trung Quốc. Ông ta (Nixon) không muốn cho người tình cũ (Sài Gòn) nhởn nhơ nữa. Việt Nam đã trở nên già cỗi xấu xí” ! (tr. 17). Và Sihanouk ? Cũng chẳng vui gì khi biết đời “lưu vong vàng son” của mình đang bị phai màu sau những “lừa dối hào nhoáng” của Mao, nên ông đã lánh mặt Mao để bỏ Bắc Kinh sang Hà Nội. Ở đó, Sihanouk cũng gặp nỗi niềm tương tự của người Hà Nội. Nhưng khác ở chỗ Hà Nội có thái độ quyết liệt hẳn, tổng bí thư Lê Duẩn nói với Chu Ân Lai: “Năm đó (1954 - tại hội nghị Genève) người Trung Quốc các anh đã bán đứng chúng tôi trên bàn đàm phán”. Nay đến 1972: “Việt Nam là của chúng tôi; các đồng chí không được bàn với Mỹ về vấn đề Việt Nam. Các đồng chí đã nhận sai lầm năm 1954 rồi, bây giờ không nên sai lầm một lần nữa !” (Xem Cố TBT Lê Duẩn: “Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc!” – Báo điện tử Một thế giới 8.7.2014). Nhưng Mao Trạch Đông và Nixon với “những con bài đã ném xuống” vẫn tiếp tục cuộc mặc cả trên sòng bạc của họ: * Mao thì tìm cách áp lực để Hà Nội chấp nhận các điều kiện do Mao thỏa hiệp ngầm với Mỹ theo hướng duy trì sự chia cắt lâu dài hai miền Nam – Bắc Việt Nam. * Nixon ép Sài Gòn phải đến hội đàm Paris “bốn bên” và chấp nhận một số điều khoản trong dự thảo hiệp định không được phía Mỹ bàn trước với VNCH. Rồi ra, cả Hà Nội và Sài Gòn trước sau đều bị phía Mao lẫn Nixon tính sổ nợ nần trong cuộc chiến. TS. Nguyễn Tiến Hưng giải thích với tổng thống Thiệu: “Từ trước tới nay Việt Nam vẫn được coi như một tài sản. (Giờ đây) bằng một động tác mau lẹ, ông ta (Nixon) đổi Việt Nam từ cột tài sản sang cột nợ nần…” (sđd - tr. 18) Trung Quốc cũng vậy đối với Bắc Việt Nam. Tổng thống Thiệu đã gật đầu và cười cay đắng (còn nữa). Giao Hưởng Chú thích: (1) Thuở ban đầu: tên một nhạc phẩm của Phạm Đình Chương (sinh Hà Nội 1929- mất Cali 1991?) phổ biến trong giới yêu âm nhạc bốn phương qua giọng ca Duy Trác. Ca sĩ Duy Trác (tên thật Khuất Duy Trác): quê Sơn Tây, làm luật sư - thẩm phán (trước 1975), học tập cải tạo (sau 1975-1988), qua Mỹ (1992), cộng tác với Đài phát thanh VOVN tại Houston, được yêu mến bởi giọng hát quý phái tự nhiên qua các ca khúc đỉnh cao: Ngày đó chúng mình (Phạm Duy), Trương Chi (Văn Cao) Đường về miền Bắc (Đoàn Chuẩn), Dạ khúc (Nguyễn Mỹ Ca), Tơ sầu (Lâm Tuyền), Tiếng chuông chiều thu và Tạ từ (Tô Vũ), Hướng về Hà Nội (Hoàng Dương), Chiều tưởng nhớ (Thẩm Oánh), Hương xưa (Cung Tiến), Áo lụa Hà Đông (Ngô Thụy Miên - thơ Nguyên Sa)… Sau 30.4.1975, Việt Nam và Rumania tiếp tục quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước vốn được thiết lập từ 25 năm trước đó…. Sau ngày chủ tịch Ceauşescu của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumania bị xử tử hình (1989 - xem Kỳ 35) và nước Cộng hòa Rumania ra đời, Hội người Việt tại Rumania được thành lập và ra mắt tại Đại sứ quán Việt Nam số 15 Austrului, quận 3, thủ đô Bucharest (1993) với tuyên ngôn: “Cộng đồng Việt Nam tại Rumania là cộng đồng thuần chất, không có đối kháng về chính trị, yêu nước và tôn trọng sự quản lý của nhà nước Việt Nam (Hà Nội) và tuân thủ pháp luật của nước sở tại (Rumania)”. Tính đến nay, Việt Nam - Ru có ngót 65 năm hữu nghị (1950-2015). Trong quá khứ, Rumania đã cùng Tiệp Khắc, Đông Đức (Cộng hòa dân chủ Đức), Bulgaria, Hungaria, Albania và Ba Lan đồng lúc lên tiếng công nhận chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (Hà Nội) vào tháng 2.1950 (chỉ sau Trung Quốc, Liên Xô và Bắc Triều Tiên một hai tuần - 1.1950). Đến những năm chiến tranh Việt – Mỹ nổ lớn (cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970), Rumania với sự lãnh đạo của chủ tịch nước Ceauşescu đã tận tình ủng hộ Hà Nội. Tài liệu của đại sứ quán Việt Nam tại Rumania và của các tác giả: Trần Đình Trúc, Phạm Minh Dũng, Nguyễn Huy Chính, Trịnh Đăng Ngọc thông tin: “năm 1970 số lượng lưu học sinh Việt Nam được nhà nước Rumania cấp học bổng, chăm lo ăn học đã lên tới hơn ngàn người. Tính bình quân trên dân số (của Rumania) thì đó là tỉ lệ cao nhất so với tất cả các nước XHCN thời bấy giờ. Hầu hết các trường đại học ở thủ đô và các thành phố lớn Rumania đều có lưu học sinh Việt Nam (…) Người Ru, từ các cấp lãnh đạo Bộ giáo dục, các trường đại học đến người dân thường đều coi lưu học sinh Việt Nam như con cháu của họ”. Cũng năm đó (1970) và các năm kế tiếp (1971-1973), độc tố của chủ nghĩa Mao Trạch Đông chưa kịp ăn sâu vào xã hội Rumania (dầu luận cương chính trị mang màu sắc Maoism được chủ tịch Ceauşescu công bố tháng 7.1971), nên khi hoàng thân Norodom Sihanouk đến thăm Rumania (1972) thấy vẻ đẹp của nền dân chủ đầy gợi cảm này còn hiện diện ở đó. Năm ấy, Ceauşescu ở tuổi 54 (sinh 1918) và Sihanouk 50 tuổi (sinh 1922), cùng bà Elena (vợ chủ tịch Ceauşescu) và bà Monique (vợ Sihanouk) đến thăm nhiều tỉnh và thành phố của Rumania. Ở đâu bốn người của họ cũng được dân chúng đón tiếp thân tình mà sau này Sihanouk thuật lại qua hồi ký “Những lãnh tụ thế giới mà tôi từng biết” (sđd Kỳ 31 - Trần Chí Hùng dịch), có đoạn: “Bốn chúng tôi – Ceauşescu, tôi, Elena và Monique - cùng đi đến các vùng nông thôn mà ở đó nông dân có vẻ sung sướng và sung túc. Hầu hết mọi người sống trong những kiểu nhà nhỏ chỉ có ở Rumania cùng với những mảnh vườn trồng rau. Sự thừa thãi các loại hoa tuyệt vời chắc chắn không phải là do cố ý bày ra cho tôi xem, vì rõ ràng những loại hoa này và dây thường xuân đã có ở đó từ lâu. Ở thành thị cũng như ở nông thôn, tôi thấy người dân Rumania cởi mở tự nhiên, vui vẻ và hoạt bát. Rõ ràng là họ thích lãnh tụ của họ: Nicolae Ceauşescu - và hoàn toàn tự nhiên, họ chào ông bạn tôi với những vòng tay rộng mở ở bất cứ nơi nào ông tới. “Tôi cảm thấy nhân dân Rumania có sức hút mãnh liệt đối với tôi và (tới nay) vẫn còn rất thiện cảm đối với họ. Thật lạ, họ được trời phú cho những tính cách na ná với tính cách của nhân dân Campuchia, mặc dù họ thuộc về những nền văn hóa và văn minh rất khác. Nay tôi cảm thấy rất buồn cho những con người bất hạnh này, những người bị vợ chồng Ceauşescu đẩy vào cảnh bần cùng và ô nhục trong những năm cuối cùng” dưới chế độ Ceauşescu ở Rumania. Cảnh “bần cùng và ô nhục” như thế nào được Sihanouk phác họa vài nét chính sau ngày ông đến thăm lại Rumania các năm 1982 và 1987. Ông viết đại ý, dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Ceauşescu (kiêm Tổng bí thư Đảng cộng sản Rumania) sau ngày ứng dụng chủ nghĩa Mao, đã đưa Rumania đến nền kinh tế kiệt quệ, nghèo khó. Sihanouk hết sức ngạc nhiên khi tận mắt chứng kiến “một nước Rumania đã bị bần cùng hóa và đổ nát so với một thập kỷ trước đó”. Nếu hơn 10 năm trước (1972) dân chúng thủ đô Bucharest - thành phố xinh đẹp, sạch sẽ và thanh lịch được ví là “một Paris thu nhỏ” - hồ hỡi vui mừng vẫy tay đón chào Ceauşescu và Sihanouk đi ngang qua, thì giờ đây (1982), buồn thay “người Rumania đang đi trên hè phố rõ ràng là không muốn nhìn đoàn xe của chúng tôi và nhiều người đã dám công nhiên quay lưng lại với Ceauşescu thay vì hoan hô ông như trước đây”. Sao vậy? Sihanouk phân tích: Vì Ceauşescu làm dân chúng thất vọng (và đi tới phẫn nộ) khi ông đẩy mạnh cuộc “cách mạng xã hội chủ nghĩa” theo kiểu Mao Trạch Đông, gạt phăng những dự án sử dụng tiềm năng dầu mỏ vốn có của Rumania do giới chuyên môn đề đạt, để lao vào “các dự án gây thanh thế” hoang tưởng (cho Đảng cộng sản và cá nhân ông) mà kết quả duy nhất đạt được trong công nghiệp nặng, theo Sihanouk, là: “Rumania phải nhập khẩu dầu !” - khách sạn cùng các tư gia thiếu hẳn chất đốt, không đủ sưởi ấm qua mùa đông… Về nông nghiệp, Sihanouk nghĩ rằng ruộng đất Rumania vốn phì nhiêu và màu mỡ có nhiều khả năng chuyển mình để trở thành một vựa lúa lớn của Đông Âu, nhưng “thật không thể nào giải thích được, Ceauşescu lại ưu tiên biến nó thành một nền nông nghiệp lạc hậu (…) Quyết định của ông thật khó hiểu đối với tôi – nhưng tình bạn của tôi đối với ông không cho phép tôi coi ông là người… mất trí”. Về mặt gia thế của “ông bạn Ceauşescu”, Sihanouk nhận xét: những nỗi bất hạnh nhân dân Rumania phải gánh chịu không chỉ bắt nguồn từ nhà độc tài Ceauşescu của họ, mà còn từ bà vợ Elena của Ceauşescu. Bà đã chi phối quá mạnh quá trình lãnh đạo của chồng mình: “Bị bùa mê của bà, nền chuyên chế của ông (Ceauşescu) ngày càng bạo ngược. Sức mạnh nào đã giúp người đàn bà này khuất phục được ông? Than ôi, thật là một thứ quyền uy tai hại khi Elena có năng khiếu thực thi một chế độ chuyên chế, độc tài, cố chấp, một thứ chủ nghĩa cộng sản vô nhân đạo và sùng bái cá nhân” kiểu Mao !. Không chỉ là “nhà quan sát” thảm kịch của riêng Rumania, mà hoàng thân Norodom Sihanouk do những tình cờ lịch sử, đã trở thành nhân chứng của các xung đột đổ máu ở một số nước “cộng sản” lẫn “quốc gia” trên đường lưu vong của mình, gặp gỡ và kết thân với các lãnh tụ thế giới lẫy lừng như Charles de Gaulle, Jawaharlal Nehru, Nikita Khruschchev, Achmed Sukarno, Gama Abdel Nasser, Josip Brozs Tito, Haile Selassie, Enver Hoja, Houari Boumédienne, Sékou Touré… Đáng nhớ, Sihanouk chứng kiến mâu thuẫn trong nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc rồi ghi lại qua hồi ức của mình, đặc biệt liên quan đến sự thật về cái chết của thủ tướng Chu Ân Lai với những trang tài liệu độc đáo và duy nhất sẽ đề cập đến kỳ sau (còn nữa).
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Feb 27, 2016 9:47:08 GMT 9
Ông Dũng thực chỉ là sắt rỉ Hội nghị thượng đỉnh Mỹ ASEAN được chuẩn bị từ rất sớm, Quốc hội và Thượng viện Mỹ đều ủng hộ, cùng với chuyến đi thăm Lào, Cămpuchia và Trung Quốc của bộ trưởng ngoại giao Jhon Kerry trước đó một tháng, cho thấy quyết tâm của Mỹ trong việc thiết lập một trật tự nhằm chống lại sự bành trướng cũng như những hành động bất chấp pháp luật quốc tế của Trung Quốc tại khu vực Biển Đông. Đứng trước một thực tế chia rẽ khá rõ trong nội bộ ASEAN, đặc biệt trên vấn đề biển Đông, ngoài tổng thống Philippine, ông OBAMA đặt hy vọng nhiều vào ông Dũng. Nhưng, sau hai ngày họp, tuyên bố chung đã không nhắc tới Biển Đông. Đây trước hết là thất bại của Mỹ, thất bại của chính ông OBAMA. Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long phát biểu trong hội nghị có nói ý rằng, ông OBAMA muốn đặt những viên đá lát đường, để cho chính quyền tiếp theo, dù tổng thống kế nhiệm là ai, thuộc đảng nào, cũng sẽ dẫm lên những viên đá đó để bước tiếp. Việc tuyên bố chung không nhắc tới biển Đông, và không có từ nào động đến Trung Quốc, một mặt phản ánh tình trạng chia rẽ trong khối ASEAN là rất lớn, mặt khác chứng tỏ thủ đoạn vận động hành lang của Trung Quốc là rất thâm độc. Nhưng điều chúng ta, những người dõi theo từng bước đi thành bại cuả ông Dũng, có thể nói rằng đây một lần nữa là thất bại của ông Dũng. Một lần nữa chứng minh bản lĩnh của ông Dũng, không phải như nhiều người vẫn tưởng. Có thể nói có phần hơi tệ rằng “ông thực chỉ là sắt rỉ”. Ai cũng biết rằng, dù ở đâu, ở chỗ nào, dù ông là Thủ tướng, ông cũng chỉ được phép phát ngôn những gì mà Bộ chính trị hoặc chính đích thân ông Trọng, nhân danh tập thể bộ Chính trị cho phép. Đáng lẽ ông không được phép có mặt tại Hội nghị thượng đỉnh này, vì ông không còn tư cách đại diện chính trị nữa. Theo truyền thống, ông thừa biết, thực chất từ sau Đại hội 12, ông đã bị loại khỏi cuộc chơi, ông không vai trò gì. Người tháp tùng ông, Phạm Bình Minh, uỷ viên bộ chính trị, dù vẫn là phó thủ tướng, nhưng theo cơ chế đảng lãnh đạo, đã trở thành cấp trên trực tiếp của ông. Nếu mới đây ông Minh còn là người giúp việc cho ông, thì bây giờ ông Minh là người giám sát ông và ra chỉ thị trực tiếp cho ông. Và bổn phận của ông là chấp hành. Đây chính là cái trớ trêu luôn có vị đắng trong trò chơi chính trị. Trước một hội nghị thượng đỉnh có ý nghĩa quan trọng đặc biệt với Việt Nam, lại bao gồm tất cả các nguyên thủ cuả ASEAN với Tổng thống Mỹ, mà cho đến tận hai ngày trước ngày khai mạc, vẫn “không biết Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng sẽ có mặt hay không”, trong khi BBC ngày12/02 đưa tin “Người phát ngôn của Miến Điện nói Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng không dự hội nghị ở California”. Rõ ràng là trong bộ chính trị người ta đang cãi nhau, và ông Phạm Bình Minh đã được chỉ định thay thế. Người ta vẫn theo cách truyền thống là không để người hết vai trò, nhất là do bị loại, được phép xuất hiện trong các sự kiện. Trên bàn cân lợi ích quốc gia dân tộc và lợi ích của đảng, lại một lần nữa khẳng định lợi ích của đảng có sức nặng hơn, coi trọng hơn. Bộ chính trị có thể chỉ tỉnh ngộ khi chính Mỹ, chính ông OBAMA là người thúc giục để ông Dũng tham dự. BBC đưa tin, “một nhân vật cao cấp trong bộ ngọai giao Mỹ điện đàm với bộ trưởng Phạm Binh Minh ngày12/02 và trước đó, đích thân Đại sứ Mỹ xin gặp phía Việt Nam để thuyết phục”. “Đến cuối giờ chiều ngày thứ Sáu 12/2, Việt Nam xác nhận với Mỹ sẽ có thay đổi, để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đoàn,” Mỹ ý thức được ý nghĩa của Hội nghị đối với vấn đề chủ quyền biển của Việt Nam, và biết được giá trị của cá nhân ông Dũng. Bộ chính trị đảng cộng sản, cuối cùng có vẻ cũng ý thức được điều đó. Rất tiếc, người duy nhất không cảm nhận được, lại là chính ông Dũng. Ông đã không hiểu thông điệp mà chính phủ Mỹ, có thể của chính tổng thống OBAMA gửi gắm ông. Và nhất là ông không biết rằng, trên sân khấu chính trị Việt Nam, ông thực ra chỉ còn là cái xác. Ông sẽ vĩnh viễn biến mất. Sẽ không có ai để ý tới những gì ông làm, những điều ông nói nữa. Vì vậy, đây là cơ hội duy nhất còn lại, lần cuối cùng hiếm hoi cờ lọt tay ông. Đáng lẽ ông phải tuyên bố rằng Việt Nam hoàn toàn đứng về phía Mỹ để thiết lập lại trật tự trên biển Đông, kiên quyết đập tan mọi ý đồ quân sự hóa biển Đông và đe dọa chiếm đoạt biển Đông bằng sức mạnh quân sự. Việt Nam dứt khóa từ bỏ lập trường ba không, (không liên minh, liên kết, không đa phương hóa, quốc tế hóa biển Đông, không sử dụng vũ trang trong các tranh chấp chủ quyền), thực chất là lập trường “ba tự cô lập”, đúng với ý muốn của Trung Quốc, tự trói mình ngồi nhìn Trung Quốc tự tung tự tác, tự tạo ra sức mạnh cho phép chế ngự và chiếm đoạt vĩnh viễn. Đáng lẽ ông phải nói “Bạn xa tốt hơn láng giềng xấu”. Làm bạn với tất cả, nhưng phải trừ những kẻ xấu, bởi vì kẻ xấu làm mất giá trị của người tốt. Xếp tất cả vào một giỏ là xúc phạm quy tắc giá trị. Sẽ không có ai là bạn thật trong cái giỏ hổ lốn đó. Trong nguy nan, anh sẽ đứng một mình. Lúc cháy nhà tất cả sẽ chỉ đứng nhìn. Ông phải đặt những viên đá lát, để những người đến sau ông, không có chỗ nào khác để đặt chân. Ông phải là người bẻ ghi, để con tàu Việt Nam không thể đi ngược lại. Và đó là ông làm lịch sử. Thật tiếc, ông đã chỉ nói những gì đảng của ông vẫn nói. Ông vẫn chỉ làm cái việc của một con vẹt. “Những diễn biến phức tạp gần đây trên một số vùng biển ở châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông, đang gây lo ngại sâu sắc cho cộng đồng quốc tế, bị đánh giá thuộc mức rủi ro cao nhất liên quan đến xung đột và có thể ảnh hưởng tiêu cực cho hòa bình và phát triển ở khu vực và toàn cầu”, Ông mờ nhạt, trùng lặp và tẻ nhạt, có thể đã làm cho vấn đề biển đông trở thành nhạt nhẽo, khi chính ông đại diện nhà nước bị ảnh hưởng nhiều nhất, bị mất nhiều nhất. Và một trong những mục tiêu quan trọng của Hội nghị đã không đạt được. Vấn đề biển Đông đã “không được nhắc tới” trong tuyên bố chung. Còn ông, sau cơ hội cuối cùng này, chắc sẽ chẳng còn ai nhắc đến nữa. Có thể nói lời vĩnh biệt. Từ Paris 18/02/2016 Bùi Quang Vơm
2016: Một năm sẽ không yên ổn Tu truNăm 2016 khởi đầu với những sự kiện rất đặc biệt. Đại hội XII của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) kết thúc sau những pha tranh giành quyền lực cực kỳ quyết liệt. Sau đại hội rất khó đoán tình hình sẽ ra sao. Vì người đại diện phe thắng cử không hề trình bày trước đại hội chương trình hành động trong 5 năm mới của mình, trừ những khẩu hiệu vô hồn lặp đi lại hàng mấy chục năm. Đó là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội ổn định, phồn vinh. Ở các nước khác, chương trình hành động bao giờ cũng là những việc làm cụ thể có con số định lượng có thể đo đếm được. Chỉ có một mình ông Bùi Quang Vinh nói lên yêu cầu đổi mới chính trị mạnh mẽ đi cùng đổi mới kinh tế, nhưng cũng chẳng rõ đổi mới chính trị ra sao, theo mô hình nào. Có bao nhiều việc làm rất cụ thể bị bỏ lỏng, không có giải pháp, như làm thế nào để các cơ sở quốc doanh làm ăn nghiêm chỉnh, có lãi và lãi được nộp đủ vào ngân sách. Cuộc cải cách giáo dục sẽ tiến hành cụ thể ra sao, cho các bậc từ mẫu giáo, trung học đến đại học, dạy nghề. Cải cách cụ thể ngành y tế ra sao để phục vụ xã hội, chữa bệnh tốt hơn. Giảm nhập hàng Trung Quốc , từ máy móc, rau quả, vải sợi, da giày xuống bao nhiêu, giảm số người Hoa nhập cư quá lớn chừng bao nhiêu trong từng năm, để có thể gia nhập TPP thuận lợi. Giảm biên chế cụ thể bao nhiêu khi viên chức có đến 2/3 làm việc qua loa; số tướng lãnh trong quân đội và công an tăng hàng chục lần so với thời chiến tranh, về tỷ lệ so với quân số vượt xa Ấn Độ và Pháp, vượt rất xa cả Trung Quốc và Nga. Các chương trình tranh cử của mỗi đại biểu là linh hồn các cuộc bầu cử hấp dẫn và sôi nổi. Ở VN, tuyệt đối không có tranh cử, không ai có chương trình hoạt động của riêng mình, không có nền văn hóa dân chủ ăn sâu vào máu thịt của cử tri, của toàn xã hội. Cho nên đại hội diễn ra một cách xuôi chiều nhạt nhẽo, như suốt 9 ngày họp đại hội chỉ có chừng 10 bản tham luận đầy chữ nghĩa sáo rỗng, còn 1500 người chỉ ngồi vỗ tay, miệng không hề mở, nên nhiều vị lim dim ngủ gật. Chuyện nực cười là đến ngày Chủ nhật 22/5/2016 mới bầu cử Quốc hội mới khóa 14, vậy mà nay đảng đã cử chủ tịch Quốc hội là bà Nguyễn Thị Kim Ngân; sau đó Quốc hội mới bầu ra chủ tịch nước và thủ tướng, vậy mà nay đảng đã ngang xương tuyên bố chủ tịch nước là Đại tướng Trần Đại Quang và thủ tướng sẽ là ông Nguyễn Xuân Phúc. Như thế nếu chẳng phải đảng đã cướp quyền của Quốc hội thì là gì? Chính vì vậy mà năm 2016 sẽ là năm rối và loạn. Không phải rối và loạn ngoài xã hội, mà sẽ rối to và loạn to ngay trong nội bộ cơ cấu Nhà nước. Lý do là cả năm 2016 sẽ có 2 hệ thống cầm quyền song song và đối chọi nhau. Quốc hội có hai cái đầu, một ông cũ và một bà mới, vì cho đến cuối tháng 5 bà chủ tịch mới nhậm chức. Ai có quyền hơn ai? Cuộc đấu đá hậu đại hội có khả năng sẽ không kém gay go so với tiền đại hội. Lôi thôi phức tạp hơn cả là về phía chính phủ, có ông thủ tướng cũ và ông thủ tướng sẽ nhậm chức vào cuối năm. Trong cả năm, ông thủ tướng cũ vẫn có toàn quyền quyết định mọi việc, có quyền coi ông thủ tướng tương lai vẫn còn là ‘’phó thủ tướng của tôi’’, ‘’dưới quyền tôi‘’, “phải phục tùng tôi”. Ông có thể vỗ vai ông Phúc mà nói rằng: “Chú mày cứ ngồi ở tầng dưới, chớ có vội làm gì. Cuối năm, sau khi bàn giao sẽ lên đây ngồi mới có chính danh”. Ông Dũng cũng có thể nói với các bộ trưởng cũ và mới rằng các bộ trưởng cũ sẽ ra đi nhưng phải làm việc nghiêm chỉnh đầy đủ trách nhiệm cùng với ông cho đến cuối năm, các bộ trưởng mới cứ ngồi tại chỗ cũ và làm việc bình thường như trước đây, sau khi nhận bàn giao hãy hay. Trường hợp với Đại tướng Trần Đại Quang cũng vậy, ông tuy được Bộ Chính trị giới thiệu sẽ giữ chức chủ tịch nước, ông Dũng có thể sẽ bảo Tướng Quang rằng: ‘Anh còn phải ráng chờ Quốc hội mới họp vào cuối năm mới có thể chính thức vào dinh chủ tịch nước. Trong năm nay, anh vẫn còn là bộ trưởng trong chính phủ của tôi, rõ chưa?’. Giữa chủ tịch nước cũ Trương Tấn Sang và chủ tịch nước mới Trần Đại Quang cũng vậy. Ông Quang còn phải sốt ruột chờ gần một năm nữa để sau khi ông Sang về hưu mới được ngồi vào chiếc ghế mới. Cũng như ở mọi nơi, trong tình thế giao thời làm việc giữa người cũ và người mới, sẽ có xung đột rất phức tạp giữa kẻ ở và người đi, giữa tay chân bộ hạ của phe này với cánh kia, người ra đi sẽ cố ban bổng lộc hậu hĩ cho phe cánh mình, tranh thủ nâng cấp, nâng bậc lương cho cánh hẩu của mình, trong khi người mới sẽ chuẩn bị nhân sự của mình, chân rết khác của minh – tân quan tân chính sách. Nhưng phức tạp hơn cả là những chủ trương quan trọng: Dự án làm sân bay lớn mới sẽ ra sao? Các công trình trọng điểm bị treo lơ lửng, ví dụ như việc xây dựng xe điện tốc độ cao ở Hà Nội và Sài Gòn sẽ được giải quyết như thế nào? Sẽ xúc tiến khẩn trương nhiều biện pháp mạnh để còn kịp vào TPP? Khủng hoảng nợ nghiêm trọng phải giải quyết ra sao? Có chấn chỉnh ngân sách, vì hiện nay chi cho an ninh vượt xa chi cho quốc phòng? Đối ngoại sẽ chuyển theo hướng nào, thân Trung Quốc và phụ thuộc Bắc Kinh hơn hay theo hướng từng bước Thoát Trung, hay theo hướng kết thân dần với phương Tây, hay dè dặt hơn? Mọi chủ trương có vẻ như của người ra đi có tính toán khác ít nhiều với người ở lại, phải điều hòa nhân nhượng ra sao? Rồi vấn đề nông thôn, nông nghiệp và dân oan? Lại còn khủng hoảng xã hội, trộm cắp, cướp của giết người, xung đột, đánh giết nhau cao vọt lên? Rồi sách lược với các tổ chức xã hội dân sự, và trào lưu dân chủ nhân quyền, đàn áp mạnh hơn hay nới lỏng đôi chút để mỵ dân? Thái độ với tù chính trị khi sức ép quốc tế có chiều tăng, sẽ ân xá cho ai vào dịp Tết Bính Thân này? Trong buổi giao thời, một điều nguy hiểm tệ hại là cán bộ và nhân viên các cơ quan Nhà nước chờ đợi, tán chuyện, đấu láo hơn là làm việc. Họ tha hồ bàn tán, phán đoán trong thời kỳ quá độ giữa lãnh đạo cũ và mới, các quan chức đầu ngành cũ và mới, trình độ, tâm tính mới cũ ra sao, họ phải uốn mình ra sao? Họ nín thở, gần như bãi công để chờ đợi. Chỉ khổ cho người dân khi bộ máy công quyền hầu như tê liệt. Có đến 16 bộ thay bộ trưởng, hàng mấy chục thứ trưởng về hưu, gay nhất có lẽ là các bộ lớn như Kế hoạch và Đầu tư, Giáo dục, Y tế, Quốc phòng, Giao thông vận tải… Sự xáo trộn, bất ổn là khó tránh khỏi. Phải chờ đến năm 2017 tình hình mới có thể ổn định, công việc công sở mới có thể bình thường trở lại, sau những xáo trộn giằng co trong năm 2016. Có thể nói trong năm 2016 cuộc đấu tranh phe phái quyết liệt trong Đại hội XII sẽ có thể dai dẳng, phức tạp hơn, theo kiểu cách kín đáo, ngấm ngầm, để lại những di căn cho năm 2017 và cả những năm sau. Bùi Tín
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 14, 2024 18:35:09 GMT 9
HỒ SƠ CHÍNH XÁC VỀ ĐIỆP VIÊN BÍ ẨN - ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN , NHÀ TÌNH BÁO CHIẾN LƯỢC TÀI BA PHẠM NGỌC THẢO
Cuộc đời hoạt động tình báo trong lòng địch như “giữa biển giáo, rừng gươm” của Phạm Ngọc Thảo đến nay vẫn còn nhiều bí mật, trong khi bộ phim “Ván bài lật ngửa” đã quá nổi tiếng nên phân biệt, làm rõ đâu là những câu chuyện đời thực của Phạm Ngọc Thảo, đâu là những “hư cấu” thêm của nhà văn là điều mà chúng tôi quan tâm... Hồ sơ chính xác về điệp viên bí ẩn Quá trình tìm tòi tài liệu có độ chính xác cao về Anh hùng Phạm Ngọc Thảo của chúng tôi gặp nhiều khó khăn. Hồ sơ, tài liệu về Phạm Ngọc Thảo vốn dĩ rất ít ỏi, mà đơn vị cũ của ông thì luôn kín như bưng. Phạm Ngọc Thảo có một thời kỳ là học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1), với tư cách là một học viên từ năm 1946, nhưng tư liệu về ông ở ngôi trường bề dày truyền thống bậc nhất Quân đội nhân dân Việt Nam cũng rất mờ nhạt. Có lúc, chúng tôi đã nản thì may quá, nhờ người mách nước, chúng tôi đến Bảo tàng Tổng cục II và lần đầu tiên được đọc những dòng hồ sơ chính thống đã được công khai về Phạm Ngọc Thảo. Trong cuốn sách “Những chiến công thầm lặng” trưng bày tại Bảo tàng Tổng cục II, hồ sơ về Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân, Đại tá Phạm Ngọc Thảo được đánh số 15 với những thông tin ngắn gọn nhưng đủ sức góp phần trả lời cho những ai tò mò về cuộc đời và sự nghiệp của ông: “Đồng chí Phạm Ngọc Thảo (tức Phạm Thao), sinh năm 1922, tại tỉnh Long Xuyên, dân tộc Kinh. Tham gia cách mạng năm 1945, nhập ngũ năm 1946. Lúc hy sinh, đồng chí là Đại tá, cán bộ Cục Nghiên cứu, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 8 năm 1945, đồng chí tham gia giành chính quyền ở Sài Gòn. Đầu năm 1946, đồng chí được tổ chức cử ra miền Bắc học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1). Ra trường, đồng chí trở lại miền Nam hoạt động ở địa bàn khu (Khu 8, Khu 9). Cuối năm 1947, được trên giao làm Trưởng phòng Mật vụ Nam Bộ (cơ quan tình báo của ta). Với tinh thần trách nhiệm, trong một thời gian ngắn, đồng chí đã thống nhất được các lực lượng tình báo toàn Nam Bộ. Năm 1949, được trên điều sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 chủ lực Khu 9, tiểu đoàn đã chiến đấu nhiều trận thắng lợi lớn, góp phần mở rộng vùng giải phóng. Sau Hiệp định Geneva 1954, nhận chỉ thị của tổ chức, đồng chí ở lại miền Nam, dựa vào thế lực là một gia đình trí thức, theo Thiên Chúa giáo, thân cận với gia đình họ Ngô, đồng chí đã thâm nhập đi sâu, leo cao vào chế độ ngụy quyền miền Nam, phục vụ yêu cầu tình báo chiến lược. Thời gian làm việc trong chế độ ngụy, Phạm Ngọc Thảo lần lượt là: - Năm 1956, được phong đại úy, tỉnh trưởng bảo an Vĩnh Long. - Năm 1957, được đề bạt thiếu tá, thuộc sở nghiên cứu chính trị-xã hội của phủ tổng thống (cơ quan mật vụ của ngụy do bác sĩ Trần Kim Tuyến phụ trách). - Năm 1958, được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre). - Cuối năm 1961, do bị nghi ngờ là nội tuyến của Việt Cộng nên địch điều đồng chí đi học nước ngoài, đến giữa năm 1962 về đảm nhiệm chức tham vụ chuyên môn phủ tổng thống. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định quan điểm đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, với ý thức kỷ luật cao, đồng chí luôn thể hiện là một cán bộ tình báo mưu trí, sáng tạo, giành thế chủ động tấn công địch. Những năm làm tỉnh trưởng, với bình phong bất lợi nhưng đồng chí đã cung cấp được nhiều tin tức, tài liệu liên quan đến các cuộc hành quân của địch trong tỉnh và quân khu nên đã ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do các cuộc hành quân quy mô lớn của địch gây ra. Lợi dụng chức vụ tỉnh trưởng, đồng chí đã đẩy được một trung đoàn của sư đoàn bộ binh 3 của ngụy, 5 tiểu đoàn biệt động do địch đưa về đàn áp phong trào du kích Bến Tre ra khỏi tỉnh. Hoặc khi địch mở cuộc hành quân ở khu vực nào đó, đồng chí đã bí mật báo cho lực lượng ta biết để đối phó… Năm 1965, không may sa vào tay địch, chúng tra tấn đồng chí rất dã man, song không hề lay chuyển được ý chí sắt đá của đồng chí. Cay cú trước khí phách hiên ngang của người cộng sản, địch đã giết hại đồng chí. Đồng chí Phạm Ngọc Thảo là một cán bộ tình báo chiến lược, được Trung ương trực tiếp chỉ đạo đi sâu, leo cao vào những vị trí trọng yếu của địch. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng của Đảng, đồng chí đã lập được nhiều chiến công đặc biệt xuất sắc. Đồng chí đã được truy phong quân hàm Đại tá và được công nhận là liệt sĩ. Đồng chí đã được truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì; Huân chương Chiến thắng hạng hai; Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba. Xét thành tích đặc biệt xuất sắc của đồng chí trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 30-8-1995, đồng chí được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân”. Giải mã một vài “khúc quanh” Phần thông tin chính thức về thành tích hoạt động của Anh hùng Phạm Ngọc Thảo đã trả lời một câu hỏi về “nhiệm vụ đặc biệt” của ông. Lịch sử tình báo thế giới đã lưu danh rất nhiều điệp viên huyền thoại nhưng nhiệm vụ mà nhà tình báo cách mạng Phạm Ngọc Thảo đã làm đến nay vẫn được coi là “có một không hai”. Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhận định: “Anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta”. Trong cuốn sách “Điệp viên hoàn hảo”, nhà sử học người Mỹ Larry Berman đã dẫn lời điệp viên Phạm Xuân Ẩn: “Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi. Ông ấy có nhiệm vụ làm mất ổn định của chế độ Diệm và vạch âm mưu đảo chính, còn tôi là một nhà tình báo chiến lược. Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều”. Chính từ những nhận định của các nhân chứng nói trên, đã có những bài báo cho rằng, vì là “nhiệm vụ đặc biệt” nên Phạm Ngọc Thảo không phải khai thác tin tức và thông báo cho ta như những điệp viên khác. Nhưng qua thành tích của ông, như: “Đồng chí đã cung cấp được nhiều tin tức, tài liệu liên quan đến các cuộc hành quân của địch trong tỉnh và quân khu nên đã ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do các cuộc hành quân quy mô lớn của địch gây ra”, có thể khẳng định, bên cạnh nhiệm vụ đơn tuyến quấy rối hàng ngũ địch, Phạm Ngọc Thảo vẫn làm nhiệm vụ của một nhà tình báo chiến lược là khai thác tin tức tình báo để cung cấp cho ta, giữ vững mối liên hệ với tổ chức dù hoạt động trong lòng địch. Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Phạm Ngọc Thảo là tấm gương thầm lặng hy sinh, trung thành với lý tưởng cách mạng đến phút giây cuối cùng. Đối với kẻ thù, khi tra tấn Phạm Ngọc Thảo đến chết, chúng vẫn không hay biết ông là điệp viên cộng sản. Sau ngày 30-4-1975, ông được đồng bào, chiến sĩ cả nước biết đến nhiều hơn sau khi nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý (Trần Bạch Đằng) viết tác phẩm “Ván bài lật ngửa” mà Phạm Ngọc Thảo là nguyên mẫu nhân vật chính. Ở trang đầu của tiểu thuyết, nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý viết: “Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng”. Bằng tài năng văn học, nhà văn đã xây dựng nên nhân vật Nguyễn Thành Luân đầy sắc màu huyền thoại, trở thành tác phẩm văn học, điện ảnh có sức sống bền bỉ trong lòng công chúng. Tuy nhiên, theo nhà giáo Chu Tuấn (Học viện Khoa học Quân sự) thì: “Khi xem “Ván bài lật ngửa”, ai cũng thán phục nhân vật Nguyễn Thành Luân; nhưng khi tôi tìm hiểu về cuộc đời Phạm Ngọc Thảo, tôi hiểu rằng, phim ảnh dù có hay đến mấy cũng chỉ mô tả được một phần sự hy sinh thầm lặng mà vô cùng oanh liệt của những chiến sĩ tình báo hoạt động trong lòng địch”. Cũng theo nhà giáo Chu Tuấn, năm 1996, ông được giao nhiệm vụ phục hồi, phóng to tấm ảnh Phạm Ngọc Thảo từ một tờ báo của ngụy quyền Sài Gòn đã ố vàng. Tờ báo đó đăng bức ảnh nhỏ một người đàn ông đội mũ lưỡi trai dài (kiểu mũ của lính ngụy Sài Gòn), dưới bức ảnh có dòng chú thích: “Phạm Ngọc Thảo-Cố vấn tôn giáo của Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1963”. Hồi đó, chưa có máy tính, chưa có phần mềm sửa ảnh photoshop nên việc phục hồi ảnh của Chu Tuấn phải làm bằng phương pháp thủ công. Nhưng bằng tấm lòng mến mộ người điệp viên tài ba Phạm Ngọc Thảo, Chu Tuấn đã hoàn thành việc phục chế bức ảnh. Và đó cũng chính là bức ảnh về Anh hùng Phạm Ngọc Thảo được treo trong Bảo tàng Tổng cục II hiện nay. Nguồn Tổng hợp
|
|