|
Post by Can Tho on Dec 27, 2015 13:27:15 GMT 9
Từ chính sử đến dã sử...
Nguyễn Đức Cung
Cicero (106-43 trước Công-Nguyên), một nhà hùng biện kiêm chính trị gia lừng danh thời cổ La mã đã có nói: “Lịch sử là thầy dạy của cuộc đời” (Historia, magistra vitae). Câu nói này vốn để lại nhiều suy gẫm về ý nghĩa cho biết bao thế hệ từ đó cho đến ngày hôm nay. Bài học lịch sử là bài học kinh nghiệm đúc kết qua thời gian, kinh qua bản thân mình hay tha nhân, bạn cũng như thù, người xưa cũng như người nay. Bài học đó được viết đi viết lại dưới nhiều hình thức của văn chương, qua nhiều nhãn quan và cảm hứng tùy theo trình độ của người viết, môi trường họ được nuôi dưỡng và huấn luyện, dạy dỗ và lớn lên, trưởng thành để thâu thái kinh nghiệm. Bài học lịch sử không vì ảnh hưởng của giới tính, tuổi tác, chủng tộc hay tôn giáo của tác giả mà mất đi giá trị nội tại của nó nhưng trái lại nó đã hiện diện như một thực thể không cần chứng minh cũng tựa như bầu khí ta đang thở không thấy mà vẫn có, và vẫn trường tồn bất diệt mà mọi người đều có thể tự do sử dụng, tha hồ học hỏi, giống như lời thi hào Tô Đông Pha nói trong bài phú Tiền Xích Bích của văn học cổ Trung Hoa: “thủ chi vô cấm, dụng chi bất kiệt” (lấy mà không cấm, dùng mà không hết). 1
Đối với dân tộc Việt nam, các biến cố lịch sử đã được ghi nhận qua từng triều đại dưới các ngòi bút thuộc nhiều quan điểm khác nhau hay thuộc nhiều trường phái khác biệt đôi khi chống phá lẫn nhau 2 cho nên việc tìm hiểu giá trị của các khuynh hướng sử học xuyên qua cung cách, bút pháp, quan điểm ghi lại các biến cố thời đại luôn luôn vẫn là điều cần thiết. Sử học là một khoa học nhân văn so trong chương trình giáo dục của Việt Nam trước đây vẫn còn khá mới mẻ, bởi vì cách đây hơn một nửa thế kỷ, chúng ta vẫn còn phải học câu “Nos ancêtres sont des Gaulois” (tổ tiên của chúng ta thuộc giống Gôloa) 3. Có nhiều khuynh hướng viết lịch sử, theo nhiều thể loại, với các dụng tâm khác nhau cho nên việc góp ý về một vài vấn đề lịch sử vốn đã từng bị hiểu lệch lạc, sai lầm xét ra cũng có tác dụng làm phong phú thêm kho tàng tư liệu sử học. Ngày nay, việc viết lại lịch sử, hay đóng góp một số nhận định, phân tích về các đề tài lịch sử luôn luôn là vấn đề cần thiết nhất là góp ý vạch trần chính sách lợi dụng bộ môn sử học để tuyên truyền ru ngủ quần chúng đặc biệt những giới bình dân ít học, hoặc lợi dụng lịch sử để xây dựng những biểu tượng dối trá, đánh bóng lãnh tụ, tôn sùng thần thánh hóa cá nhân 4 mà mục đích chỉ nhằm dối gạt quần chúng, đánh lừa dư luận hòng tiếp tục ngồi trên ghế cai trị của một tập đoàn bất nhân như chế độ Cộng sản tại Việt Nam hiện nay, thiết tưởng cũng cần được lưu tâm cảnh giác không chỉ trong giới nghiên cứu sử học hoặc trong giới hoạt động chính trị mà còn ở ngoài quần chúng nữa. Đối với những người Việt nam tuổi đời từ 40, 50 trở lên tương đối có ít nhiều hiểu biết và đóng góp vào lịch sử Việt nam kinh qua cuộc chiến tranh quốc-cộng, có thể họ không bị sách vở và hệ thống tuyên truyền của chế độ Cộng sản đánh lừa, nhưng đối với các thế hệ trẻ người Việt lớn lên tại hải ngoại chắc chắn lớp người đi sau sẽ không tránh khỏi bị đầu độc, tiêm nhiễm các luận điệu sai lầm khi đọc lịch sử đất nước thông qua các tài liệu do chế độ Cộng Sản cung cấp trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, do ý thức bén nhậy và nỗ lực tìm hiểu sự thật của các tầng lớp trí thức trẻ tuổi, chắc chắn họ sẽ tiếp cận được với chân lý của lịch sử bao lâu họ có quyết tâm tìm về các nguồn sử học chân chính, tìm hiểu thực chất của các khuynh hướng biên soạn lịch sử nước nhà, phân tích được giá trị của các nguồn tư liệu, sử phẩm có trong thư viện hay được dùng trong chương trình giáo dục của nhà trường với tinh thần vô tư, khoa học.
Dưới nhiều hình thức của các bộ môn văn chương, lịch sử Việt nam đã được ghi lại rất sớm, có người cho rằng từ thời nhà Ngô, Đinh rồi Tiền Lê đã có những hoạt động ghi lại các biến cố lịch sử 5 tuy nhiên dư luận chung vẫn cho rằng Lê Văn Hưu (1230- 1322) với bộ Đại Việt Sử Ký là người khởi đầu cho một quá trình biên soạn lịch sử của một đất nước đã có kỷ cương nền nếp. Có nhiều khuynh hướng biên soạn lịch sử được tạm thời tổng quát hóa theo các quan điểm sau đây: chính sử, dã sử, sử học do người ngoại quốc viết, sử quan duy vật mác xít, sử học quốc gia.
Từ quan điểm lịch sử cung đình...
Gọi tên “lịch sử cung đình” là lối gọi có tính cách thời thượng, hiện đại thật ra đó là một lối viết được gán cho khuynh hướng ghi chép các biến cố lịch sử của “chính sử” hay “sử học chính thống” nếu nói theo danh từ của môn Phương pháp sử học nhằm phân biệt với “dã sử”. Chính sử là sử sách do cơ quan chính thức của triều đình quân chủ biên soạn thường gọi là Quốc sử quán do các viên chức khoa bảng của triều đình được chỉ dịnh đứng ra sưu tập tài liệu và biên soạn lịch sử các triều đại hay các biến cố của quốc gia. Dã sử (dã là đồng nội, chốn dân gian – theo Đào Duy Anh) là sử sách do dân chúng ngoài xã hội viết về các biến cố quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế v.v... Sử gia Nguyễn Phương đã gọi một cách tổng quát hai nguồn sử liệu chính sử và dã sử là sử liệu công và sử liệu tư 6.
Sử học truyền thống Việt Nam vốn chịu nhiều ảnh hưởng của nền sử học truyền thống Trung Hoa cho nên các sử gia chính thống nước ta trước đây đã sử dụng các lối chép sử của Bắc phương trong khi biên soạn tác phẩm của mình đó là lối kỷ truyện, biên niên và cương mục.
Trước hết, lối kỷ truyện bắt chước theo phương pháp của sử gia Tư Mã Thiên (145-86 ? tr. C.N.) khi ông này viết bộ Sử Ký tức là lối viết lịch sử dưới hình thức tiểu sử các nhân vật “lấy nhân vật làm trung tâm, đã kể lại có hệ thống lịch sử hoạt động các loại nhân vật trong ba nghìn năm của Trung quốc cổ đại, phơi bày hình tượng lịch sử rực rỡ đẹp mắt trong một quyển sách dài, các bài truyện ký đều có tình tiết câu chuyện rất sinh động, miêu tả các cảnh hoạt động và chi tiết một cách sống động như thật, khẩu ngữ hóa ngôn ngữ một cách linh động hoạt bát...” 7. Một lối viết có tên liệt truyện cũng được các nhà biên soạn sử học Việt Nam dưới các triều đại quân chủ trước đây sử dụng với các bộ sử có tên như Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện v.v... mà hình thức cũng không khác lối kỷ truyện bao nhiêu.
Thứ đến là lối biên niên đã được Khổng Tử sáng tạo đầu tiên để cắt bỏ và sửa chữa sử nước Lỗ mà biên soạn thành sách Xuân Thu, một tác phẩm có lẽø ngài đã gửi gắm sở nguyện rất nhiều trong đó khi nói rằng “biết ta cũng là nhờ sách Xuân Thu, buộc tội ta cũng là vì sách Xuân Thu” (tri ngã dã kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã dã kỳ duy Xuân Thu hồ!). Sách này chứa đựng cả một triết lý về chính trị: vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con, mọi người đều phải cư xử theo đúng danh phận của mình. Đây là lối viết của tất cả các bộ chính sử, kể lại sự kiện theo thứ tự thời gian, thí dụ muốn chép một sự việc nào, trước hết người ta ghi niên hiệu của hoàng đế, rồi đến tháng, mùa, có khi ngày, và nếu có hiện tượng thiên văn gì cũng ghi nhận luôn. Lối viết này cũng gây trở ngại cho người đọc là khó nắm bắt được các sự kiện vốn phải liên lạc mật thiết với nhau nhưng lại bị dàn trải rải rác trong thời gian.
Nhận định về sử biên niên, giáo sư Nguyễn Phương cho rằng “Trong loại nầy, sử gia lấy thời gian làm bố cuộc, thuật hết chuyện ngày nầy mới qua chuyện ngày khác, hết tháng nầy rồi mới qua tháng khác, v.v... Lấy thời gian làm đơn vị căn bản như thế, một chuyện xảy ra bên tây có thể nằm bên cạnh một chuyện xảy ra bên đông, nếu cả hai xảy ra trong cùng một ngày. Vì thế đặc điểm của loại sử biên niên là thiếu tính cách tổng hợp. Ngoài ra, những sử gia chép loại sử biên niên, như các tác giả của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thường ít có óc khảo chứng nên sự kiện có nhiều chỗ phi phỏng.” 8
Sau hết, lối cương mục tức là thể loại phỏng theo phương pháp của bộ Cương mục của Chu Hy (1130-1200), nhà tư tưởng và nhà giáo dục trứ danh thời Nam Tống. Trình bày ý nghĩa và phân tích sự lợi hại của lối chép sử này, giáo sư Nguyễn Thế Anh đã viết: “Các việc đều chép theo thứ tự thời gian đã đành (phép chép biên niên), nhưng ngoài ra còn tóm đại ý việc định chép trong một đoạn hoặc một câu ngắn để nêu lên như một tiểu đề, rồi ở dưới mới chép tự sự rõ ràng các công việc đã xảy ra (cương là giềng, tức là dây cái của lưới; mục là mắt lưới). Nhưng vì chú ý nêu việc lớn làm cương để ghi việc nhỏ làm mục ở sau, đã phải bỏ đi rất nhiều việc khó gắn vào làm mục cho cương đã nêu ra.” 9 Tuy nhiên theo nhận định của giới nghiên cứu sử học gần đây lối cương mục cũng là một hình thức ghi chép lịch sử có tính tổng hợp cao hơn phép biên niên. 10
Nói chung, các nguồn sử liệu này có những giá trị nằm trong các phạm trù riêng biệt mà khi sử dụng người ta cần phải cẩn án theo phương pháp sử để tìm ra sự thật lịch sử. Có người cho rằng “sử quan thường là quan lại của triều đình hoặc là những sĩ phu thấm nhuần tư tưởng nho giáo. Họ ghi chép đúng ý của triều đình và theo quan điểm nho giáo. Lịch sử được phản ảnh trong điều kiện đó cho nên không hẳn hoàn toàn trung thực. Lịch sử cung đình được soạn thảo chính thức để lưu truyền công khai. Thậm chí dân chúng còn bị bắt buộc phải chấp nhận quan điểm lịch sử cung đình. Nó được giảng dạy ở nhà trường, được lưu trữ ở các thư quán, văn khố. Đó là cách ghi chép sử và truyền bá dưới chế độ phong kiến chuyên chế. Ai nói khác sẽ mắc tội phản quốc hoặc khi quân phạm thượng bay đầu như chơi...” 11
Thật ra phong cách viết sử của các sử gia chính thống dưới các chế độ quân chủ nhiều khi tỏ ra rất phóng khoáng, tự do, chứ không quá khắt khe, cứng ngắc, xưng tụng một chiều quá đáng dòng họ thống trị. Các sử gia chính thống cũng đã biết phối hợp các nguồn tài liệu để đạt tới chân lý lịch sử, khen chê những chỗ hợp tình, hợp lý, sử dụng bút pháp một cách cẩn trọng, không đến nỗi quá phiến diện, thiên chấp. Đọc đoạn văn sau đây sẽ thấy chỗ dụng công của các nhà viết sử chính thống: “Người ta hay chê chính sử có nhiều thiên lệch như trường hợp sử quan nhà Nguyễn gọi Tây sơn là ngụy Tây, Tây tặc, gọi các cuộc chiến đấu của anh em họ là “nhập khấu” (vào ăn cướp)... Sử quan chỉ chép những sự việc của Tây sơn, Trịnh Lê khi chúng có liên quan tới Chúa của họ thôi. Dã sử sẽ bổ khuyết vào sự thiếu sót đó... Chính sử quan nhà Nguyễn cũng biết bổ khuyết tài liệu mình có được bằng cách tham bác dã sử khi viết về tổ chức quân chính triều Tây sơn chẳng hạn. Họ cũng đã dùng những chữ rất kêu để khen tài Nguyễn Huệ, cũng không giấu tật xấu say sưa của Nguyễn Văn Thành, tật ham chơi trong tình trạng chiến tranh của Thành, Duyệt, Huỳnh Đức... Cho đến cả việc quan quân Gia Định có người đi cướp của dân, sách nhiễu dân chúng, họ cũng ghi rõ”.12 Đó là nhận định của một nhà nghiên cứu sử học miền nam trước năm 1975 khi ngòi bút của giới sử học ở đây không bị câu thúc, không bị lãnh đạo bởi một ý thức hệ chính trị nào.
Ngược dòng quá khứ, ngay chính vua Tự Đức khi ban bút phê về việc biên soạn pho Khâm định Việt sử Thông Giám Cương mục, cũng đã có những ý kiến khoa học, mới mẻ về phương cách chép sử, đã tỏ dấu nghi ngờ về hai niên kỷ Kinh Dương vương và Lạc Long quân, cũng như về phạm vi quá rộng rãi của nước Văn Lang ngày xưa mà cho rằng “chẳng qua là sử cũ chép quá phô trương đó thôi.” 13
Để tìm hiểu quan điểm của giới nghiên cứu sử học miền bắc đối với các nguồn sử liệu chính thống hay trường phái “lịch sử cung đình”, chúng ta thử đọc vào đoạn văn sau đây: “Nói chung nguồn sử liệu chính thống phản ánh tư tưởng, mong muốn và ý đồ chính thức của giai cấp thống trị. Mặt khác, nó cũng mang những thông tin – ở những mức độ chính xác khác nhau – về tình hình chung của cả nước hoặc ở từng đơn vị hành chính. Nguồn sử liệu chính thống bao gồm nhiều mặt khác nhau: chính trị, pháp luật, tài chính, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao v.v... Trong hoàn cảnh nước ta trước đây, khi mà những điều kiện ghi chép sự việc chưa phát triển, nhất là trong các tổ chức tư nhân, nguồn sử liệu chính thống hết sức quý giá. Chẳng hạn, các bộ sử biên niên chính thống của nước ta trước đây (như bộ Đại Việt sử ký toàn thư chẳng hạn) có thể coi là nguồn sử liệu lớn nhất và đáng tin nhất về các thời đại được ghi chép. Một bộ luật còn lại như luật Hồng Đức không chỉ giúp chúng ta hiểu được tư tưởng của giai cấp thống trị ở thế kỉ XV mà còn để lại cho chúng ta một số thông tin đáng quý về tình hình xã hội”14. Tình hình xã hội là gì, dưới con mắt những người viết sử thuộc giai cấp vô sản, nếu không phải là thực trạng của cuộc sống mọi tầng lớp dân chúng. Khối tài liệu lịch sử viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm (chính sử) còn giữ lại được trong các văn khố quốc gia hay tại các thư viện tư nhân chính là bằng chứng hùng hồn về sức sống mãnh liệt và sinh động của dân tộc Việt Nam.
Về phương diện đánh giá một sử phẩm, mà ở đây lại là một sử phẩm có liên hệ với “lịch sử cung đình”, sử gia Nguyễn Phương đã viết: “Các sử phẩm tồn tại được để thách thức với thời gian thường nhờ hai tính cách: tính cách độc nhất của nó, hay là tính cách đúng đắn hợp với sự trình bày tuyệt diệu của nó. Về phương diện độc nhất, một sử phẩm dầu không hay ho gì, cũng vẫn được mọi người quý mến vì những chứng tích chứa đựng trong nó, mà người ta không thể gặp được ở bất cứ một nơi nào khác. Bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, chẳng hạn, về mặt văn chương, chẳng có gì hấp dẫn bao nhiêu, nhưng nó đã sống được mấy thế kỷ và thiết tưởng bao lâu còn nước Việt Nam nó còn sống mãi như vậy.” 15
Trong giới sử học Việt Nam, nhất là tại miền nam trước năm 1975, đã có những nỗ lực để đánh giá lại các công trình biên khảo sử học của trường phái “lịch sử cung đình” chẳng hạn như các công trình biên khảo của sử gia Nguyễn Phương đăng tải trên tạp chí Bách Khoa ở Sài gòn, tạp chí Đại Học ở Huế trong hai thập niên 60 và 70 với mục đích thử giải quyết một số vấn đề sử học như nguồn gốc dân tộc Việt Nam, phương pháp sử học, vấn đề Tây Sơn (dẫn đến cuộc bút chiến với Văn Tân, viện trưởng viện Sử học Hà Nội, năm 1963, về chủ đề “Ai đã thống nhất Việt Nam, Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh ?”) qua đó thẩm định giá trị các nguồn sử liệu chính thống như Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, phân tích giá trị quyển Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Thời Chí. Cũng thông qua các công trình biên khảo sử học quý giá như Việt Nam, Thời Khai Sinh (1965), Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn (1967), Việt Nam Thời Bành Trướng: Trịnh Nguyễn (chưa xuất bản) nhất là qua tác phẩm Cổ Sử Việt Nam Trong Ngoại Kỷ Toàn Thư (chưa xuất bản), sử gia Nguyễn Phương đã mạnh dạn đánh giá lại các tác phẩm sử học kinh điển của tiền nhân với tinh thần khách quan, khoa học chắc chắn sẽ giúp cho chúng ta có thêm nhiều tư liệu để thẩm định giá trị các sử phẩm ngày xưa một cách công bình, sáng suốt hơn.16
Dưới thời các vua nhà Nguyễn, ngành biên soạn sử học đã đi vào nền nếp với những công trình đại qui mô nói lên tầm vóc của nhà nước quân chủ phong kiến như các bộ Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục, Thực Lục, Liệt Truyện Chính Biên, Liệt Truyện Tiền Biên, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Đại Nam Nhất Thống Chí, Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu... được tiếp tục bổ sung, biên soạn qua nhiều thế hệ của triều đại nhà Nguyễn. Nhận định về các công trình biên soạn đó, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường cho rằng “tổ chức ghi chép sử có hệ thống và công trình lưu lại đồ sộ nhất là của triều Nguyễn thế kỷ XIX. Nhà Nguyễn cũng thực hiện một lối viết sử mới có tính chất tổng hợp hơn so với phép biên niên trước, đó là phép cương mục tóm thâu sự việc vào một đề tài và đưa chi tiết vào sau đó. Thật ra phép cương mục cũng dựa vào lề lối của một bộ sử đồ sộ đời Tống, và Hồ Tông Thốc ở thế kỷ XIV từng viết một bộ Việt sử cương mục đã thất truyền, nhưng bộ Khâm định Việt sử cương mục của Quốc sử quán Nguyễn quả là lớn nhất theo lối này ở Việt Nam.” 17
Sau này cũng đã có nhiều nỗ lực để phiên dịch và ấn hành các công trình nghiên cứu, biên soạn sử học của các triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam của nhà cầm quyền trước đây ở miền nam do cố gắng của một số cơ quan như Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu, Phòng Nghiên Cứu Sử thuộc Viện Đại học Huế, Viện Khảo Cổ, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa, và một số cơ sở tư nhân ở Sài Gòn. Trong tinh thần tự do, dân chủ, ngành sử học của miền nam đã có những bước phát triển trong quan điểm nghiên cứu, sáng tác.
...Đến khuynh hướng lịch sử dân gian.
Lịch sử dân gian hay dã sử cũng chỉ là một tức là do dân chúng ngoài dân gian viết ra, như đã nhắc đến khi phân tích về quan điểm lịch sử cung đình. Giáo sư Nguyễn Thế Anh đã cho rằng: “Bên cạnh các bộ chính sử, còn có những bộ dã sử (nhất là từ khoảng thế kỷ XI trở đi); đấy là những quyển sách do tư nhân soạn, do những văn gia đã muốn chép lại những sự việc có liên quan đến lịch sử. Các quyển dã sử này cho phép bổ túc hay đính chính những điều sai lầm hay thiên lệch của những bộ sử do các sử quan thực hiện. Tuy nhiên, dù là chính sử hay dã sử, việc chép sử vẫn chỉ là độc quyền của một giai cấp xã hội hạn chế, giai cấp sĩ phu. Giới này, dù viết sử tại sử quán theo lệnh của nhà vua, hay chép sử tự ý mình, cũng chỉ nhìn thấy có một khía cạnh của sự việc mà thôi, và các tác phẩm của họ chỉ phản ảnh các chuyên tâm của giai cấp sĩ phu; họ nhìn các giai cấp xã hội khác theo cái nhìn riêng của giới sĩ phu: các hoạn quan là địch thủ của họ tại triều đình, thường được trình bày như là những loạn đảng; giới thương gia của các đô thị ít khi được đề cập đến; nông dân chỉ được nhắc đến khi mà họ nổi loạn và đe dọa trật tự xã hội”. 18
Những người viết dã sử hay sử liệu tư nhân đa số đều không muốn để tên họ rõ ràng trên tác phẩm của mình, có lẽ là do họ ưu tư về những di lụy, vướng víu với những hệ quả do ảnh hưởng của tác phẩm gây ra cho họ và cho con cháu về sau, là những tư nhân hay văn gia có ý muốn biên soạn lại những biến cố hay sự kiện có liên quan đến lịch sử do ý thích của mình hay do những quan hệ nào khác khiến cho họ cảm thấy thôi thúc cần viết lại. Vấn đề tư nhân viết sử, xuất phát do việc Khổng Tử viết sách Xuân Thu, đã làm tăng thêm tính sáng tạo trong nền sử học Việt Nam vốn chịu rất nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung quốc 19.
Thật ra, dã sử cũng đã đóng góp rất nhiều trong việc bổ khuyết cho chính sử, đã giúp cho người viết sử giải quyết được rất nhiều vấn nạn trong khi nguồn sử học chính thống không đủ tư liệu để cung cấp lời giải đáp do vấn đề liên quan đặt ra. Lấy một thí dụ về cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn, bên cạnh những tài liệu về chính sử như Thực Lục, Liệt Truyện, Cương Mục, giới nghiên cứu sử học cũng đã sử dụng rất nhiều tài liệu dã sử như Tây Sơn sử truyện, Vãn Lê di sử, Tây Sơn thuật lược, Lê kỷ dã sử, Việt sử bổ di... để xây dựng lại quá khứ của một thời kỳ nhiễu nhương đen tối trong lịch sử Việt Nam. Những giai thoại lịch sử, những lời đồn, những câu ca dao, đồng dao, những lời nói ví von, ẩn dụ mà căn bản là của những câu chuyện dã sử đã cung cấp cho sử gia rất nhiều chất liệu để xây dựng lại cả một giai đoạn lịch sử kéo dài từ năm 1775 đến năm 1802. Câu chuyện tấm biển đồng đề các chữ “Tây sơn Nguyễn Nhạc vi vương” đặt trên núi cao đêm đêm có lửa rọi vào cũng nằm trong âm mưu thần thánh hóa lãnh tụ do chính Nguyễn Nhạc tạo dựng nên đã được dã sử ghi lại. Chuyện kể rằng: “Nhạc là người cơ trí, bèn làm một biển đồng khắc sáu chư “Tây sơn Nguyễn Nhạc vi vương”. Ban đêm ông sai người đem lên dựng tận trên đỉnh núi, rồi cứ canh hai cho đốt lửa chiếu vào. Người ta ai cũng lấy làm lạ. Nhân có ngày giỗ, Nhạc mời người khắp nơi đến dự. Tối đó, khi ăn uống no say rồi, bọn hương hào bảo nhau: “Đã hai tháng nay, ở trên núi ban đêm có lửa, không hiểu chuyện gì?” Tất cả hùa nhau đi xem, Nhạc cũng xin đi theo. Khi họ đến lưng chứng núi, ở trên bỗng có tiếng hô to xuống rằng: “Chúng bay lên núi làm gì? Có ai là Nhạc đó không?” Họ khiếp sợ, Nhạc cũng thất kinh. Họ thưa lại rằng: “Tên thần hỏi Nhạc làm gì?” Người trên núi nói: “Chúng bay dừng lại đó, chỉ Nhạc được lên nhận mật thư thôi”. Nhạc run sợ, kêu nài mọi người xin cho khỏi phải lên, nhưng không sao được. Rồi Nhạc lên núi nhận xuống một tấm biển mang về nhà. Khi thấy tên học được ghi rành rành, ai nấy đều kinh khủng. Hôm sau, ông giết trâu bò cùng dân chúng thề ước chiêu quân. Mọi người đều cho là điềm tốt. Nhiều kẻ tin theo Nhạc.” 20. Câu chuyện được vận dụng trong một thời điểm mà sự mê tín vốn là hiện tượng rất phổ thông trong tâm thức quần chúng Việt Nam, chắc chắn không phải là không có tác dụng tranh đoạt được sự ủng hộ của dân chúng nhất là những kẻ ít học.
Với câu nói ngắn ngủi như “binh triều binh Quốc phó, binh ó binh Hoàng tôn” tuy là của một tài liệu chính sử 21 nhưng tính chất tuyên truyền mang đậm ý nghĩa đả phá và tôn phù do Tây sơn đưa ra trong buổi đầu của cuộc khởi nghĩa, lại dường như mang dáng dấp của một lời đồn chính trị rõ ràng nói lên ý thức đối kháng giữa hai lực lượng một bên là quân đội của Quốc phó Trương Phúc Loan (tham nhũng, thối nát)) và một bên là lực lượng của Tây sơn là lực lượng của đông đảo nhân dân (khi xung trận thì la ó vang trời để trợ lực cho thanh thế) lúc bấy giờ đang ủng hộ hoàng tôn Dương, cho thấy “cả một mánh lới tuyên truyền đầy ý nghĩa và hiệu lực” 22.
Về dáng dấp, khuôn mặt của một nhân vật lừng danh như Nguyễn Huệ, tài liệu của sử quan triều Nguyễn mô tả ông là người có tiếng nói sang sảng như chuông, tướng đi như hổ, cử chỉ nhanh nhẹn như điện chớp và người đời lúc bấy giờ sợ quân Tây sơn như sợ cọp. Một tài liệu dã sử khác được cho là tả đúng khuôn mặt của Nguyễn Huệ một cách thực hơn: “Tóc Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu...” 23 hầu như đem lại cả một phong vị thích thú cho người đọc sử về sau hơn là khi đọc thấy nhưng lời mô tả chân dung mang tính ước lệ của văn phong kinh điển của ngòi bút sử quan ngày trước.
Thêm vào đó những câu ca dao lịch sử trước sau thuộc vào giai đoạn tao loạn đó cũng có ít nhiều đóng góp sử sự cho các nhà biên soạn lịch sử về sau như:
Trăm quan có mắt như mờ,
Để cho Huy-quận vào rờ Chính-cung.
nói về việc thông gian giữa quận Huy Hoàng Đình Bảo với Đặng Thị Huệ, mẹ của Trịnh Cán dẫn đến sự sụp đổ của họ Trịnh.
Hay câu:
Đầu cha lấy làm chân con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
là một lối chơi chữ chiết tự như sau: chữ quang (tên Quang Trung) có chữ tiểu ở trên đem xuống để vào phần dưới của chữ cảnh (tên Cảnh Thịnh, con Quang Trung).
Hoặc câu ca dao được truyền tụng một thời:
Lạy trời cho chóng gió nồm,
Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra...
nói lên phần nào lòng dân chúng lúc bấy giờ đối với thời thế có vẻ nghiêng chìu về phía ủng hộ chúa Nguyễn Ánh.
Dĩ nhiên lợi điểm thứ nhất của dã sử là không bị ràng buộc vào khuôn phép khắt khe của triều đình, vào dư luận một chiều hay bầu không khí hoặc mô thức được đóng khung sẵn của xã hội đương đại. Tuy vậy, sự phổ cập nội dung một tài liệu dã sử cũng khó thực hiện nếu nó mang nhiều tính cách chống đối chính quyền hoặc đi ngược lại với dư luận chung trong xã hội. Tư liệu lịch sử do đó sẽ chỉ được lưu truyền trong dòng tộc, bà con mang tính cách của một thứ gia bảo, hay gia phả không tiện phổ biến ra bên ngoài.
Do những hạn chế trong việc bảo lưu tài liệu dã sử trong gia đình nên loại tài liệu này đã bị thất truyền, tam sao thất bản qua thời gian khiến cho việc biên soạn lại lịch sử đất nước gặp nhiều khó khăn mà chính Ngô Sĩ Liên, tác giả Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng đã phải thốt lên rằng: “Nước ta thiếu sử sách biên chép, mà sự thực đều do truyền văn, lời ghi có phần quái đản, công việc hoặc có sót quên, cho đến sao viết không đúng, biên chép phiền tạp, chỉ làm loạn mắt...” Dĩ nhiên việc sử dụng tài liệu dã sử đòi hỏi sử gia óc phê phán, phân tích và tổng hợp theo tinh thần khoa học, biết cân nhắc các tư liệu khi đến tay, đánh giá sử liệu với đầu óc nhạy bén, sâu sắc. Việc sử dụng nhuần nhuyễn tài liệu dã sử đòi hỏi nhiều công phu về cẩn án vì phải truy nguyên nhiều thứ có liên quan tới tài liệu ví dụ tác giả, nguồn gốc xuất phát tư liệu, thời điểm, địa điểm, môi trường gia đình, xã hội, thể loại sáng tác (cũng có liên quan phần nào đến địa phương và thời điểm lưu hành tác phẩm).
Một điểm cần lưu ý là sử liệu tư nhân đa số đều là những nguồn sử liệu tiên nguyên, sử liệu trực tiếp hay là sử liệu đầu tay nghĩa là “tác giả trực tiếp biết sự kiện hoặc là nhờ chính mắt thấy, hoặc nhờ chính tai nghe, hay là chính tác giả là người đã đóng một vai trong các việc xảy ra”.24 Trường hợp này có thể dẫn chứng với tác phẩm Vũ Man Tạp Lục Thư của Nguyễn Tấn (1821-1871) 25. Tác giả là một viên Tiểu phủ sứ thuộc sơn phòng Quảng Ngãi, đã tình nguyện đảm nhiệm công cuộc bình định nhóm man Đá Vách từng gây nhiều khốn đốn cho triều đình nhà Nguyễn từ năm 1770 cho đến gần một trăm năm sau. Năm 1863, ông lãnh trách nhiệm ra quân dẹp giặc mọi ở miền núi hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Sau chưa đầy ba năm, ông dẹp xong và thu thập tất cả mọi hiểu biết của ông về núi rừng địa phương cùng phong tục tập quán của các sắc dân thiểu số ở đó, lịch sử kiến trí duyên cách miền thượng du để viết nên tác phẩm độc đáo Vũ Man Tạp Lục Thư mà chính cụ Cao Xuân Dục đã đánh giá là “Tập sách này cũng dùng để bổ túc cho các sách sử trước đây chưa đầy đủ, soi rõ thêm các điều chưa tường tận” và Henri Maitre, một nhà nhân chủng học nổi tiếng ở Đông Dương trước đây nhận xét đó là một tập hồi ký cung cấp những ghi nhận rất chính xác, rất quý giá về các sắc dân thiểu số ở Quảng Ngãi, thêm vào một trang sử rất kỳ thú về lịch sử xứ ta.26 Vũ Man Tạp Lục Thư đã là một nguồn tài liệu đầu tay và tiên khởi viết về lịch sử vùng thượng du Quảng Ngãi, Bình Định do viên Tiểu phủ sứ đầu tiên viết ra và truyền lại cho con cháu trong dòng tộc ông ở Quảng Ngãi làm kim chỉ nam cho việc bình định các sắc tộc thiểu số ở đây. Các sách vở, trước tác, biên khảo của người Pháp viết về vùng cao Nghĩa Định, rồi phần lớn các sử liệu của triều Nguyễn hoặc sách vở của các tác giả Việt Nam về sau, khi muốn truy cứu về các sắc dân thiểu số ở hai tỉnh này đều dựa trên tác phẩm Vũ Man Tạp Lục Thư. Chính một người trong dòng tộc Nguyễn Tấn cũng đã nối tiếp sự nghiệp của cha ông từ chốn rừng cao núi cả của Nghĩa Định sơn phòng, ổn định cuộc sống người dân thượng du ở đó, phát triển các phương lược chiến đấu và củng cố tư thế vững mạnh cho cơ sở quốc phòng và phát triển ở núi rừng miền tây Trung kỳ, nhờ vào kinh nghiệm tích lũy từ cuốn sách Vũ Man Tạp Lục Thư này.
Đối với những người viết sử theo khuynh hướng vô sản mác xít, việc thừa nhận các thành quả của nền sử học tư sản quả thật là khó khăn. Tuy vậy, trước những kết quả khó lòng phủ nhận được giá trị của nguồn tư liệu chúng ta đã thử lược qua ở hai phần tham khảo và nhận định nói trên, chính họ cũng phải xác nhận rằng “sử liệu tư nhân thực sự là nguồn sử liệu có giá trị và phong phú nhất về sinh hoạt xã hội và kinh tế, văn hóa hiện đại cũng như thời xưa. Nghiên cứu các vấn đề lịch sử kinh tế, xã hội thời xưa mà thiếu nguồn sử liệu tư nhân tức là thiếu về cơ bản tình hình thực tế của các vấn đề đó.” 27
Từ khi việc biên soạn lịch sử do độc quyền của các viên chức nhà nước dưới các chế độ quân chủ phong kiến hình thành có qui củ đến ý thức tự viết lấy lịch sử và do đó tạo nên khuynh hướng dã sử ở ngoài khuôn khổ của triều đình, thật ra nền sử học Việt Nam nói chung cũng chỉ nhắm nhiều vào mục đích nêu gương tốt, bài trừ việc xấu, răn dạy hậu thế với những sử sự điển hình, chung chung. Đến khi người Pháp có mặt ở Đông Dương, khuynh hướng viết sử mang một chiều hướng mới, và về sau sử học lại đi tới nhiều bước phát triển quan trọng chứa đựng các sắc thái cá biệt, xung khắc lẫn nhau trong khuôn khổ của các cuộc chạm trán ý thức hệ chính trị mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong một bài nghiên cứu sau.
Nguyễn Đức Cung
New Jersey 10-8-2003
1 Một bài phú nổi danh của Tô Thức tức Tô Đông Pha thời Đường.
2 Nói về những cuộc luận chiến giữa các quan điểm sử học mác-xít và sử học quốc gia trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam trước đây khởi đi từ việc bút chiến giữa Văn Tân của Viện sử học Hà Nội với giáo sư Nguyễn Phương ở Sài gòn trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1959) và tạp chí Bách Khoa & tạp chí Đại Học (1963, 1964) ở Sài Gòn và Huế về chủ đề “Ai đã thống nhất Việt Nam, Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh” đến việc các sách vở Cộng Sản viết sau năm 1975 lên án một số các sử gia miền nam như Nguyễn Phương, Tạ Chí Đại Trường về các vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam, phương pháp luận sử học, vấn đề Tây sơn v.v... và trong các trại học tập cải tạo của nhân viên và quân đội chế độ VNCH sau ngày 30-4-1975.
3 Trương Như Tảng, A Viet Cong Memoir, Nhà xuất bản Vintage Books, New York, 1985, tr.5.
4 Trần Gia Phụng, Án tích Cộng Sản Việt Nam, Nxb. Non Nước, Tỏronto, Canada, 2001, xem Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh, tr. 335
5 Tạ Chí Đại Trường, Những bài văn sử, Nxb. Thanh Văn, California, tr. 137.
6 Nguyễn Phương, Phương pháp sử học, Phòng Nghiên Cứu Sử, Viện Đại Học Huế xb.,1964, tr. 71.
7 Vương Tuệ Mẫn (chủ biên), 100 Danh Nhân Có Ảnh Hưởng Đến Lịch Sử Trung Quốc, bài Tư Mã Thiên, sử gia thông hiểu những thay đổi xưa nay tự trở thành trường phái riêng, tác giả Trương Đại Khả, Nxb. Thông Tin Văn Hóa, 2002, tr. 280.
8 Nguyễn Phương, Sách đã dẫn, tr. 133.
9 Nguyễn Thế Anh, Nhập Môn Phương Pháp Sử Học, Sài Gòn, 1974, tr. 10.
10 Tạ Chí Đại Trường, Những bài văn sử, Nxb. Thanh Văn, Cali., 2000, tr. 137.
11 Đại Dương, Thư gởi người mới quen, Diễn Đàn Tự Do số 3, 30-9-1995.
12 Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Nxb. Văn Sử Học, Sài Gòn, 1973, tr. 16.
13 Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Khai Sinh, Phòng Nghiên Cứu Sử, Viện Đại Học Huế xb, 1965, tr. 155.
14 Lê Văn Sáu, Trương Hữu Quýnh, Phan Ngọc Liên, Nhập Môn Sử Học, Nxb. Giáo Dục, 1987, tr.101.
15 Nguyễn Phương, Phương Pháp Sử Học, Sđd, tr. 59-60.
16 Nguyễn Đức Cung, Viết về một sử gia Việt Nam đã ra đi, Linh mục Trúc Long Nguyễn Phương (1921-1993), Tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong, số 435-436, tháng 1 và 2 năm 1994, xb. tại Virginia, Hoa Kỳ. Nguyễn Đức Cung, Tưởng niệm sử gia Nguyễn Phương, nguyệt san Đất Mẹ, Houston, số 49 , tháng 2 – 1994. Trần Gia Phụng, Sử gia Nguyễn Phương, người đặt vấn đề, trong Những câu chuyện Việt sử, tập 2, Nxb, Non Nước, Toronto, 1999, tr. 393.
17 Tạ Chí Đại Trường, Những bài văn sử, Sđd. tr. 137.
18 Nguyễn Thế Anh, Sđd, tr. 5.
19 Vương Tuệ Mẫn, Sđd, bài Khổng Tử, gương sáng muôn đời sánh ngang quân thân (vua và cha mẹ) Trời Đất, của Trương Kỳ Hồng, tr. 41.
20 Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1967, tr. 31.
21 Chính biên liệt truyện, q.30, 2b.
22 Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn, Sđd, tr. 41.
23 Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến... Sđd, tr . 271.
24 Nguyễn Phương, Phương Pháp Sử Học, Sđd, tr. 69.
25 Nguyễn Đức Cung, Lịch Sử Vùng Cao Qua Vũ Man Tạp Lục Thư, Nxb. Nhật Lệ, Philadelphia, Hoa Kỳ 1998.
26 Nguyễn Đức Cung, Sđd, tr. 84.
27 Lê Văn Sáu, Trương Hữu Quýnh, Phan Ngọc Liên, Sđd, tr. 102
Thánh Gióng có từng đánh giặc Ân?
Cho dù có một nhân vật chống ngoại xâm nào đó để tổ tiên người Việt xây dựng thành nhân vật Thánh Gióng hay vị thần ở Sóc Sơn, nhiều chi tiết về sự tích về Thánh Gióng không thể là chuyện lịch sử.
Ta hãy xem qua một số chi tiết.
Về địa lý, chuyện Thánh Gióng đánh giặc Ân, một quốc gia bộ lạc ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, là điều khó xảy ra.
Người Ân không thể và chẳng có lý do chính trị, kinh tế gì để điều quân từ khu vực nay là tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ‘bay qua đầu’ rất nhiều bộ lạc khác xuống tận làng Phù Đổng nằm ở vùng đầm lầy cửa sông Hồng cách xa 2000 km.
Về mặt niên đại, một số bài báo ở Việt Nam nay đã bác bỏ điều phi lý rằng 18 đời vua Hùng kéo dài 2.622 năm (một vua trị vì 145 năm) và đồng ý rằng thời đại này tương ứng với văn hóa đồ đồng Đông Sơn, kéo dài khoảng 400 năm và kết thúc năm 258 trước Công nguyên.
Như thế, sự tích Thánh Gióng, cứ cho là dựa trên chuyện một vị anh hùng có thật thời Hùng Vương thứ 6, hoàn toàn không cùng thời nhà Thương Ân.
Đơn giản là triều đại này đã bị nhà Chu xóa sổ năm 1046 hoặc 1122 trước Công nguyên, vài trăm năm trước khi vua Hùng đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam thời vua Chu Trang Vương (696 - 682 trước Công nguyên).
Nhưng vì sao câu chuyện này cứ kéo dài trong văn hóa và cả giáo dục Việt Nam?
Rất có thể một quan niệm vừa cả tin, vừa cố chấp khiến không ít người muốn áp đặt những chuyện cổ dân gian trở thành ‘khoa học lịch sử’.
Ngoài ra, nhu cầu chính trị khiến người ta muốn tạo dựng ra tính chính danh cho quốc gia bằng cách cố chứng minh một ‘lịch sử dân tộc’từ thời tối cổ kéo dài xuyên suốt và thuần khiết suốt hàng nghìn năm tới nay.
Ví dụ Ấn Độ tự hào có tới 7000 năm lịch sử, Trung Quốc có 5000 năm lịch sử, Việt Nam cũng phải có ít nhất 4000 năm.
Trong khi đó, tại Anh có di tích còn sừng sững từ thời kỳ đồ đá như Stonehenge (5000 tuổi) nhưng không ai nhận rằng lịch sử Anh có từ khi đó.
Thậm chí, trong bài trên ancient-origins.net gần đây, giới khảo cổ tìm ra bằng chứng người tại đảo Isle of Wright đã từng buôn bán lúa mạch với châu Âu và đem phương thức trồng cấy vào Nam đảo Anh cách đây 8000 năm, sớm hơn 2000 năm so với các suy đoán trước đó.
Nhưng cũng không vì vậy mà Anh Quốc đột nhiên tuyên bố họ có lịch sử 8000 năm.
Lịch sử có niên đại tại Anh là 1500 năm trở lại đây, và chủ yếu tính từ cuộc xâm lăng của La Mã sau đó tới các dòng di dân Viking, Anglo-Saxon kéo đến, hòa huyết với người Celt, rồi tới các dòng họ như Lancaster và York tranh giành quyền bính vào thế kỷ 13-14. Người ta cũng phân biệt lịch sử của các nền văn minh với lịch sử các quốc gia vốn chỉ hình thành về sau này.
Nếu gộp cả các di chỉ đồ đá vào thì tuổi của văn minh Ấn Độ có thể đạt 9000 năm (Indian civilisation '9,000 years old', BBC News 16/02/2002) nhưng các bộ tộc khi đó sống ra sao, tin vào cái gì là chuyện đã quá cách xa xã hội Ấn Độ ngày nay.
Cũng mới đây, người ta phát hiện ra tranh hang động ở vùng quê Sulawesi có tới 40 nghìn năm, cho thấy loài người có khả năng sáng tạo nghệ thuật rất sớm chứ không phải là hội họa Indonesia có tuổi lâu như thế.
Thời xưa rộng lớn hơn ta tưởng
Trên khắp thế giới, các bộ tộc thời cổ đại giao lưu, giao chiến, sáng tạo và di chuyển trên những không gian rộng hơn biên giới quốc gia thời nay và xuyên qua hàng nghìn năm nên phải có các phương tiện đa ngành, từ khảo cổ đến ảnh vệ tinh, nghiên cứu di truyền...rất công phu mới có thể đưa ra một vài kết luận hạn chế nào đó.
Chỉ dựa vào một số huyền thoại hẳn không đủ mà còn dễ ngộ nhận và bị nhãn quan văn hóa thời nay hay chủ nghĩa dân tộc làm sai lệch.
Nhưng thế giới ngày nay cần làm gì với các huyền thoại như Thánh Gióng?
Bỏ đi tư duy chứng thực thô sơ, ta sẽ cảm nhận sâu sắc hơn ý nghĩa của câu chuyện cổ tích này.
Tổ tiên nhóm nay là Việt có va chạm với bộ lạc Ân hay không thực ra không quan trọng nếu ta hiểu đây là biểu tượng của các cuộc chiến người vùng phía Nam Dương Tử chống lại các nhóm du mục từ phía Bắc tràn xuống vốn xảy ra liên tiếp trong lịch sử Đông Á.
Bên Nam Á cũng thế, các bộ tộc thiện chiến hơn từ vùng nay là Trung Á đã kéo xuống chinh phục bình nguyên sông Hằng, tạo ra các sử thi như Mahabharata.
Chuyện Thánh Gióng gắn liền với giai đoạn chuyển từ văn minh thạch khí sang kim khí nên huyền thoại dùng lửa (tre ngà), dùng vũ khí có được khi đã biết rèn sắt (gậy và ngựa sắt) để chống giặc lại rất dễ hiểu và hoàn toàn có logic.
Nhân loại thời xưa có nhiều điều chung hơn ta tưởng, các mô típ về lũ lụt hay đại hồng thủy, các vị thần núi thắng quái vật biển, các cột chống trời, cây thần, ngọn tháp nối đất trời đều có từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia...sang cả Trung Đông, châu Âu và châu Phi.
Nên lấy làm thú vị về những chuyện cổ tích từ thời rất xa xăm nhưng kết nối chúng ta trong cộng đồng nhân loại. Đó là cách để các huyền thoại sống mãi theo dòng riêng của nó.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 27, 2016 7:15:15 GMT 9
tachidaitruong.blogspot.com/Chính BiênQuyển thứ 30 Tứ Quý Tỵ, năm Quang Hưng thứ 16 (1593 ) đến Kỷ Hợi, năm Quang Hưng thứ 22 (1599) đời Lê Thế Tông, gồm bảy năm. Quý Ty, năm [Quang Hưng ] thứ 6 (1593). (Minh, năm Vạn Lịch thứ 24 - Năm này nhà Mạc bị diệt). Tháng giêng, mùa xuân. Trịnh Tùng tiến quân ra huyện Thanh Lâm, bắt được Mạc Kính Chỉ và họ hàng của Kính Chỉ, đều bị giết chết cả. Trước kia, Kính Chỉ lẩn lút ở vùng Đông Triều, hay tin Mậu Hợp đã bị bắt làm tù binh, đóng giữ huyện Thanh Lâm, tiếm lên ngôi ngụy ở xã Nam Giản huyện Chí Linh, đổi niên hiệu là Bảo Định, rồi lại đổi là Khang Hựu. Bọn Kính Phu, Kính Thành và Kính Thận vài trăm người là chỗ họ thân với chúa Mạc cùng các bầy tôi văn võ cũ đều đem nhau về với Kính Chỉ. Nhà Mạc yết bản chiêu mộ, trong khoảng chốc lát, các huyện hưởng ứng được đến 6, 7 vạn quân. Bấy giờ Mạc Toàn, con Mậu Hợp, thấy lòng người không phục mình, cũng theo về với Kính Chỉ. Về sau, Mạc Toàn lại trốn đi, bị quan quân bắt được. Trịnh Tùng, nhân đó, sai bọn Nguyễn Thất Lý, Bùi Văn Khuê và Ngô Đình Nga tiến đến huyện Thanh Lâm. Kính Chỉ tung quân đánh úp: Thất Lý chết trận, Đình Nga bị thương nặng, Văn Khuê và Bách Niên phải chạy, còn quân thì tan vỡ. Quân lương và khí giới của quan quân đều mất về tay giặc. Bấy giờ Hải Dương và Kinh Bắc nhiều phần quy phụ về với Mạc. Trịnh Tùng lại sai thái úy Hoàng Đình Ái đốc suất các quân doanh thủy và bộ tiến đến Cẩm Giàng, Kính Chỉ dốc hết quân ra giữ Thanh Lâm, lấy một dãy Hàm Giang làm chỗ phân chia Nam, Bắc. Hai bên luôn luôn huy động quân đội để chống và giữ. Ban ngày, cờ xí tung bay, ban đêm, hỏa pháo ran nổ, trong khoảng hàng tuần, hàng tháng, quân hai bên cầm cự nhau, không lúc nào dám cỡi bỏ áo giáp. Ở Thanh Lâm, Kính Chỉ lại đắp thêm hào lũy theo dọc ven sông để cho sự phòng thủ được bền vững. Đến đây, Trịnh Tùng thân hành quản đốc đại quân qua sông Nhị, đêm ngày đi gấp đường, đến Cẩm Giàng, đại hội với các tướng, cả thủy lẫn bộ cùng tiến: Hoàng Đình Ái thống lãnh tướng sĩ các dinh, tiến đến Thanh Lâm để đánh vào phía hạ lưu; Trịnh Tùng thân đốc đại binh để đánh phía thượng lưu; Nguyễn Hữu Liêu thống suất quân thủy để bao vây và đón chặn đường đi cửa của quân Mạc. Quan quân bốn mặt đánh khép lại: quân Mạc đổ vỡ tan tành. Kính Chỉ và thân thuộc của hắn đều lẫn trốn vào rừng núi. Quan quân đuổi đến Đông Triều, bắt được bọn An Sơn vương Mạc kính Thành và Hoàng Lượng công Mạc Lý Hựu, đều đem chém cả. Số giặc bị bắt làm tù binh và những thuyền bè khí giới của Mạc bị tước không sao xiết kể. Khi đến Chí Linh, quan quân lại chia nhau đi càn quét, bắt được Kính Chỉ ở thôn Tân Manh luôn với bọn Kính Phu, Kính Thận, Kính Giản, Kính Tuân và quan liêu văn võ của Mạc đến hơn 60 người. Trịnh Tùng bèn quân về Thăng Long. Các tướng đưa đến những người trong họ hàng bè lũ nhà Mạc bị bắt làm tù binh, đều chém cả ở bến Cỏ. Riêng lấy đầu Kính Chỉ đem vào bêu ở Thanh Hoa. Họ Mạc bị diệt. Lời phê - Dựa vào công lao trước của cha. Trịnh Tùng có công rất to, mà mang tội cũng nặng lắm. Không làm như vậy thì không đủ để diệt nhà Mạc mà phù Lê được. Mạc tuy bị diệt rồi, nhưng Trịnh lại lù lù ở đó thì cũng lại là một Mạc (thứ hai ) nữa thôi! Lời chua - Mạc Kính Chỉ: Con Mạc Kính Điển. Kính Phu, Kính Thận, Kính Giản, Kính Tuân: Đều là em Kính Chỉ. Nam Giản: Tên xã, thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đông Triều: Xem Trần Đế Ngỗi, năm Hưng Khánh thứ 1 (Chb. XII, 25 ). Chí Linh: Xem Trần Nhân Tông, năm Thiệu Bảo thứ 4 (Chb. VII, 28 ). Thanh Lâm, Cẩm Giàng: Đều là tên huyện, thuộc tỉnh Hải Dương. Tân Manh: Tên thôn, thuộc huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên. Hàm Giang (sông ): Ở địa phận xã Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng. Tháng 4, mùa hạ. Xa giá vua Lê trẩy ra Thăng Long, ngự ở tòa chính điện, nhận lễ triều hạ, đại xá cho cả nước. Trịnh Tùng đã diệt nhà Mạc rồi, tu tạo cung điện [ở Thăng Long ], một tháng hoàn thành, bèn sai các đại thần văn võ sắm sữa nghi trượng đi đón xa giá. Tháng 3, nhà vua khởi hành từ dinh Vạn Lại; đến tháng 4 này, trẩy tới kinh đô. Ngày Canh Tý, nhà vua ngự ở toà chính điện, nhận lễ bách quan chầu mừng, đại xá cả nước. Bản xét công lao các bầy tôi trong cuộc trung hưng. Ban thưởng tước phong cho họ các tầng bậc khác nhau. Gia phong: Hoàng Đình Ái làm hữu tướng thái úy, Vinh quốc công; Nguyễn Hữu Liêu làm thái úy, Dương quốc công; Quận công Trịnh Đỗ làm thái phó; Trịnh Đồng và Trịnh Nành làm thái bảo; Lê Bách và Hà Thọ Lộc làm thiếu úy; Ngô Cảnh Hựu và Trịnh Văn Hải làm thiếu bảo; Lại bộ thượng thư Nguyễn Mậu Tuyên làm thiếu phó tước Quỳnh quận công. Còn mọi người khác cũng đều được ban thưởng thêm tước trật có cao thấp khác nhau. Lời chua - Thái úy, thái phó, thái bảo: Đều chánh nhất phẩm. Thiếu úy, thiếu phó, thiếu bảo: Đều chánh nhị phẩm. Cả hai đều xem Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 2 (Chb. XXII, 15 - 16 ). Nguyễn Mậu Tuyên: Người Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương2719 . Tháng 5. Thái tổ Gia Dụ hoàng đế ta từ Thuận Hóa vào chầu được tấn phong thái úy Đoan Quốc Công, cầm quân đi đánh giặc. Trước kia, Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta ở Thuận Hóa hơn 20 mươi năm, từ nhân dân đến các man di thảy đều mến phục. Bờ cõi và biên giới đều phẳng lặng yên ổn. Đến đây ngài đem tướng sĩ và binh thuyền vào chầu, dâng nộp sổ sách về quân, dân và kho tàng ở hai xứ Thuận, Quảng. Nhà vua xuống chiếu gia phong cho Gia Dụ làm tả đô đốc ở Trung quân đô đốc phủ, giữ công việc trong phủ, hàm thái úy, tước Đoan quốc công, tổng đốc tướng sĩ bản doanh, thống lãnh quân thủy ở các xứ Nam đạo2720 và 300 chiếc thuyền cả lớn lẫn nhỏ, đi đánh bọn giặc ở vùng đông nam. -- 2719 Đất huyện Lôi Dương cũ, nay thuộc hai huyện Thọ Xuân và Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. 2720 Nay gồm các huyện Châu Giang, Kim Động, Ân Thi, Phù Tiên (Hưng Yên ), Kim Bảng, Duy Tiên, Bình Lục, Lý Nhân (Hà Nam ), Hưng Hà, Tiên Hưng cũ (Thái Bình ).
|
|
|
Post by Can Tho on May 27, 2018 2:13:02 GMT 9
Vị nữ tướng nước Nam “một tay nhổ núi Nga Mi, một tay nhổ núi Thái Sơn”Trần Hưng Sử Trung Hoa có ghi nhận về một vị nữ tướng nước Nam là: “Phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường Giang, hồ Ðộng Đình, oán khí bốc lên tới trời”. Vị nữ tướng này là ai? Cuốn ngọc phả “Trưng nữ vương triều công thần nhất vi âm phù, nhất vi đại vương Ngọc phả cổ lục” còn được lưu giữ ở làng Vũ Ẻn, Thanh Ba, Phú Thọ có ghi chép về thân thế và sự nghiệp của vị nữ tướng này. Ở làng Vũ Ẻn, Thanh Ba, Phú Thọ có hai vợ chồng ông Đinh Bôn và bà Phí Vang hành nghề bốc thuốc gia truyền. Năm 23 sau Công Nguyên, hai vợ chồng sinh được người con gái đặt tên là Đinh Phật Nguyệt, tên lót được ghép từ chữ đầu họ Đinh (仃) của cha với chữ sau họ Phí (沸) của mẹ mà thành chữ Phật (佛). Thuở nhỏ Phật Nguyệt được học chữ nghĩa, sống bằng nghề chài lưới và đam mê cung kiếm. Lớn lên trong cảnh dân tộc bị áp bức bởi nhà Hán, Phật Nguyệt cùng các trai tráng mộ quân ở các vùng lân cận, thành lập được một đội thủy quân đánh thắng quân Hán nhiều trận lớn. Phật Nguyệt. (Tranh minh họa) Lúc này khắp các châu quận đều có các cuộc khởi nghĩa. Để tập hợp các cuộc khởi nghĩa lại thành một nhằm có được sức mạnh to lớn, cuối năm 39 SCN, Hai Bà Trưng hiệu triệu thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa. Thủ lĩnh khắp nơi nô nức quy tụ về. Năm 40 SCN, Phật Nguyệt đưa 2.000 quân về với Hai Bà Trưng và được phong là Tả tướng thủy quân. Đánh đuổi quân Hán đến tận biên giới hồ Động ĐìnhHai Bà Trưng tổ chức đại hội quân sĩ ở Hát môn, rồi chia quân tiến đánh các nơi. Phật Nguyệt được giao trấn giữ vùng sông Thao, ngăn không cho quân Hán tiến về xuôi. Nữ tướng cho một nửa số quân đóng ở phủ Lâm Thao, một nửa trấn giữ phía Tây sông Thao, hai cánh quân có thể hiệp trợ lẫn nhau. (Xem bài: Lừng danh sử Việt: Đội quân duy nhất thế giới từ vua đến tướng đều là phụ nữ). Nhiều cuộc chiến đã diễn ra nơi sông Thao, quân của Phật Nguyệt thắng lớn, quân Hán phải tháo chạy. Sau đó Phật Nguyệt cho quân tiến đánh các nơi, cùng với các thủ lĩnh khác chiếm lại 65 thành trì của tất cả các châu quận. Bản đồ nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng, phía Bắc đến Động Đình Hồ, phía Tây đến Bồ Lăng (Ba Thục). (Ảnh: Wikipedia) Quân Hán của Thái tú Tô Định phải bỏ chạy thẳng về nước. Nữ tướng Phật Nguyệt nhận lệnh truy kích quân của Tô Định đến tận vùng biên giới là hồ Động Đình. Vậy nên biên giới phía Bắc thời Hai Bà Trưng lên đến tận hồ Động Đình. Hồ này ở giữa hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc của Trung Quốc. Lãnh thổ Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng gồm rất nhiều các tỉnh của Trung Quốc ngày nay như Quảng Đông, Quảng Tây, Chiết Giang, Qúy Châu, Phúc Kiến, Giang Tây, Vân Nam, Hồ Nam v.v… (Xem bài: Diện tích nước Việt cổ lớn gấp 10 lần ngày nay) Hồ Động Đình ngày nay. (Ảnh wikipedia.org) Trưng Trắc lên ngôi Vua, đặt tên nước là Lĩnh Nam (tức phía Nam núi Ngũ Lĩnh), Phật Nguyệt được phong làm trấn thủ vùng Động Đình, ngăn không cho quân Hán xâm phạm nơi biên giới phía Bắc. “Một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn” khiến quân Hán kinh hồn bạt vía Năm 42 SCN, vua Hán cho viên tướng kinh nghiệm và tài giỏi bậc nhất của mình là Phục Ba tướng quân Mã Viện tiến đánh Lĩnh Nam. Mã Viện đưa quân tinh nhuệ cùng phó tướng Lưu Long tiến đánh Lĩnh Nam. Đến biên giới, Mã Viện đụng phải nữ tướng Phật Nguyệt, quân Hán bị thảm bại. Những trận đánh ở hồ Động Đình khiến quân Hán thây chất ngổn ngang khắp nơi. Không chỉ Mã Viện bị thất bại mà viện binh 28 viên tướng của nhà Hán (gọi là nhị thập bát tú) cũng không qua được Động Đình hồ. Năm 1979, giáo sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận đánh Động Đình Hồ như sau: Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng Đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga Mi, một tay nhổ núi Thái Sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường Giang, hồ Ðộng Đình, oán khí bốc lên tới trời. Cuộc chiến bảo vệ Giang SơnKhông sao tiến quân được, quân Hán phải chờ thêm viện binh. Viện binh tới, quân Hán chia thêm chiều ngả tấn công. Trước sức mạnh của quân Hán, Phật Nguyệt phải cho quân vừa đánh vừa lùi để bảo toàn lực lượng, cuối cùng cho quân rút về sông Thao. Một cánh quân khác của quân Hán tiến xuống Hợp Phố, rồi chia làm hai đường thủy bộ tiến đến Lãng Bạc khiến quân Lĩnh Nam phải chia ra đối phó với các cuộc tấn công của quân Hán. Nhiều trận đánh ác lệt diễn ra nơi Bạch Hạc, Phú Thọ giữa quân của Phật Nguyệt với quân Hán. Mồng 10 tháng 2 năm 43, phó tướng Lưu Long huy động thêm quân đánh úp vào doanh trại của Phật Nguyệt. Một trận đánh sống còn diễn ra, nữ tướng Phật Nguyệt tả xung hữu đột giữa trùng trùng quân Hán vây quanh rồi thoát được khỏi vòng vây, ra đến bờ sao Thao. Nhưng khi bà nhìn lại thì không còn thấy bóng dáng quân sĩ nào theo mình cả, tất cả đều đã nằm lại, trong khi quân Hán đã bắt đầu áp tới. Để giữ tròn khí tiết, nữ tướng liền gieo mình xuống dòng sông Thao nơi quê nhà. Sau khi nữ tướng Phật Nguyệt mất, nhiều làng ven sông Thao lập đền thờ để tưởng nhớ. Ngày nay ở đình làng Phượng Lĩnh có đôi câu đối ca ngợi nữ tướng như sau: Tích trù Động Đình uy trấn Hán, Danh lưu thanh sử lực phù Trưng. Nghĩa là: Một trận Động Đình, oai trấn quân Hán, Tên còn trong sử, phò tá Trưng Vương. Trần Hưng
|
|
|
Post by Can Tho on May 27, 2018 2:20:42 GMT 9
Lừng danh sử Việt: Đội quân duy nhất thế giới từ vua đến tướng đều là phụ nữTrần Hưng Trong thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, người Bách Việt chỉ giành được độc lập ngắn khi có các cuộc khởi nghĩa nổ ra. Điều kỳ lạ là cuộc khởi nghĩa đầu tiên nhằm thoát khỏi ách đô hộ của nhà Hán lại được lãnh đạo bởi toàn bậc nhi nữ. Đây là điều mà người Hán có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra được. Lừng danh sử Việt: Đội quân duy nhất thế giới từ vua đến tướng đều là phụ nữ Cộc khởi nghĩa đầu tiên nhằm thoát khỏi ách đô hộ của nhà Hán được lãnh đạo bởi toàn bậc nhi nữ. Hình ảnh các nữ nhi người Việt tiên phong xông pha trận mạc đã trở thành nỗi kinh hoàng ám ảnh quân Hán lúc đó: •Vùng Mê Linh có chị em Trưng Trắc, Trưng nhị. •Vùng Yên Dũng, Bắc Giang có nữ tướng Thánh Thiên. •An Biên, Hải Phòng có căn cứ của Lê Chân. •Tiên La (Thái Bình) có Bát Nạn tướng quân. •Bạch hạc (Vĩnh Phú) có nàng Hội. •Nga Sơn, Thanh Hóa có Lê Thị Hoa. •Động Lão Mai ở Thái Nguyên có Hồ Đề. •Tam Nông, Vĩnh Phú có Xuân Nương. •Châu Đại Man (Tuyên Quang) có Nàng Quỳnh, Nàng Quế. •Thanh Sơn, Vĩnh Phú có Đàm Ngọc Nga. •Tam Thanh (Vĩnh Phú) có Thiều Hoa. •Bạch Hạc (Vĩnh Phú) có Quách A. •Tiên Nga (Vĩnh Phú) có Vĩnh Hoa. •Vĩnh Tường, Vĩnh Phú có Lê Ngọc Trinh. •Đường Lâm – Sơn Tây có Lê Thị Lan. •Thanh Ba (Vĩnh Phú) có Phật Nguyệt. •Lang Tài (Bắc Ninh) có Phương Dung. •Thương Hồng (Hải Dương) có Trần Nang. •Gia Lâm, Hà Nội có Đường Quốc. •Bình Xuyên (Vĩnh Phú) có ba chị em Đạm Nương, Hồng Nương, Thanh Nương. •Chí Linh, Hải Dương có Quý Lan. Các nhà sử học xem đây là một chuyện kỳ lạ có một không hai trên thế giới, một dân tộc sau 2 thế kỷ bị đô hộ đã có một cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi, mà thủ lĩnh lại toàn là phụ nữ. Trong các thủ lĩnh này, ngoài hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị rất quen thuộc với người Việt, nổi lên hai vị nữ tướng là Thánh Thiên và Lê Chân. Nữ nhi làm thủ lĩnhTheo dân gian lưu truyền, thời ấy tại làng Bích Uyển thuộc phủ Kinh Môn, quận Hải Dương một vị quan là Nguyễn Huyến cùng vợ về quê ở ẩn, trước ngày sinh phu nhân nằm mộng thấy một người con gái tự xưng là “Tự nơi dương đình khâm thụ mệnh Trời, xuống đầu nhập thai sinh”. Phu nhân thụ thai đúng 13 tháng, giữa ngày 12 tháng 2 năm Ngọ sinh một gái mày ngài, mắt phượng, tướng mạo oai nghiêm, vợ chồng rất yêu quý con mà đặt mệnh danh cho là Thánh Thiên công chúa. Thánh Thiên thông minh đĩnh ngộ, học một biết mười, năm lên 9 tuổi tam phần, ngũ điển, lục thao, tam lược đều quán thông. Năm 12 tuổi đã có tài văn chương, thông thạo võ thuật Ông Nguyễn Huyến thường ngày vẫn đem tâm sự gửi gắm trong mấy câu thơ ngâm nga: Từ khi thất quốc, vong gia Vợ chồng, con cái đến nhờ thuyền môn Lòng riêng báo quốc không chồn Bình lương chứa chất luôn luôn đã nhiều Ai tài chửa thấy ai theo Một mình công việc trăm chiều khó đương Sau khi cha mẹ qua đời, Thánh Thiên chiêu mộ quân sĩ, luyện chiến thuật, nổi danh một phương. Nghe tin cậu mình từ quan chiêu mộ trai làng, Thánh Thiên đưa quân đến phối hợp cùng cậu mình, giành được nhiều thắng lợi ở vùng Yên Dũng, Bắc Giang. Người Hán liên tục đưa quân tiến đánh nhưng lần nào cũng bị bại trận phải rút về. Thánh Thiên công chúa (Ảnh minh họa) Một nữ tướng khác là Lê Chân sinh ra ở làng An Biên (tên cổ là làng Vẻn, nay thuộc thôn An Biên, xã Thủy An, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), con ông Lê Đạo và bà Trần Thị Châu. Gia đình họ Lê chuyên dạy học, làm thuốc, làm nhiều việc thiện cho dân quanh vùng. Theo dân gian truyền lại thì ông bà Lê Đạo tuổi cao, muộn con nên rất lo lắng. Một hôm, hai vợ chồng lên chùa Yên Tử làm lễ cầu tự. Đêm ấy, ông Lê Đạo nằm mơ thấy hai vị thiên sứ một vị mặc áo xanh tay cầm kim mâu, một vị mặc áo tía tay cầm bảo kiếm dẫn ông lên thiên cung. Ông bàng hoàng kinh sợ vội sụp lạy trước một vị đại quan ngồi trong điện, đầu đội mũ bách tinh, mình mặc áo bào vàng; bên trái bên phải mỗi bên có một vị quan tay cầm giấy bút. Ông Lê Đạo văng vẳng nghe thấy lời truyền bảo: “Nhà ngươi có phúc lớn, tiếng đến thiên đình. Nay nhân có một tiên nữ phạm lỗi, đày xuống trần 40 năm, cho đầu thai làm con nhà ngươi, sau sẽ làm rạng rỡ gia đình, con trai cũng không sánh kịp”. Bỗng chuông trống chói tai làm ông chợt tỉnh, biết là nằm mơ. Vợ chồng ra về, một buổi sáng sớm, bà đi ra ngoài ấp thấy một vết chân lớn, đưa chân ướm thử, thấy người xúc động rồi có thai. Sau 12 tháng, sinh được một gái (hôm ấy là ngày 08 tháng 02) mày ngài mắt phượng, sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Nhân cớ ướm chân nên đặt tên là Chân. Năm Lê Chân 18 tuổi, sắc đẹp và đức hạnh nổi tiếng khắp vùng. Không chỉ có tài thơ ca mà giỏi cả võ nghệ. Lê Chân (Ảnh minh họa) Thái thú Tô Định muốn ép Lê Chân về làm tì thiếp, nhưng Lê Chân đã dứt khoát từ chối vì thế mà Tô Định đã sát hại cả bố mẹ nàng. Lê Chân trốn thoát được liền tìm thầy học binh thư, võ nghệ, kết giao với những người cùng chí hướng. Khi đã tinh thông võ nghệ, Lê Chân cùng các bạn bè tâm phúc theo đường sông xuôi về phía nam. Đến đất An Dương, của sông Cấm (Hải Phòng ngày nay), thì thấy nơi đây đất đai màu mỡ liền dừng chân lập trại khai phá, chiêu thêm dân đến, lập xóm ấp, trồng dâu, nuôi tằm, khai thác thủy hải sản, đồng thời chiêu lập binh mã. Nhớ cội nguồn, Lê Chân đặt tên cho nơi đây là An Biên trang. Binh sĩ chiêu mộ được tập luyện rất chu đáo và có sở trường thủy trận. Cuộc khởi nghĩa của các nữ tướngMặc dù thời bấy giờ, các cuộc khỏi nghĩa có rất nhiều, nhưng lại không có sự liên kết giữa các nơi. Chính vì vậy, cuối năm 39 sau Công Nguyên, Hai Bà Trưng khởi nghĩa, hiệu triệu tất cả các thủ lĩnh cùng quy tụ về. Thánh Thiên, Lê Chân cùng hàng chục các nữ thủ lĩnh khác cùng về theo Hai Bà Trưng. Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Năm 40 sau Công Nguyên, Hai Bà Trưng xuất quân. Đại hội quân sĩ được tổ chức tại Hát Môn, Trưng Trắc lập đàn tráng, cáo lễ với trời đất, tự xưng là Trưng Nữ Vương, rồi chia quân tiến đánh các nơi. Thánh Thiên Công Chúa cưỡi ngựa xông trận, quân Hán chặn lại. Ngày xưa mỗi khi ra trận các tướng thường khiêu chiến và đánh trước. Tướng quân Hán thấy tướng quân Nam chỉ là một nữ tướng thì cả cười, không ngờ chỉ mấy đường kiếm Thánh Thiên đã chém bay đầu tướng Hán, thêm một tướng Hán nữa xông trận lại bị Thánh Thiên chém chết. Không chịu nổi nỗi nhục khi quân Bách Việt chỉ có nữ tướng mà hạ liền hai tướng của mình, quân Hán đưa thêm tướng vào trận, thế nhưng chỉ thấy vài đường kiếm đã bị Thánh Thiên chém bay đầu. Mới chỉ thoáng chốc quân Hán mất liền 3 tướng, cả quân tướng Hán đều thất kinh. Quân Nam hò reo dậy đất, sĩ khí ngùn ngụt xông lên, quân Hán hoảng sợ tháo chạy. Quân Hai Bà Trưng tiến thẳng đến Luy Lâu. Thái thú Tô Định, phải cạo râu, cạo tóc, vứt bỏ cả ấn tín, trà trộn vào đám loạn quân của mình rồi chạy trối chết về nước. Đường tiến quân của Hai Bà Trưng năm 40 SCN. Tất cả các châu quận đều được quân Hai Bà Trưng chiếm lại, gồm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Nam Hải v.v… tức bao gồm cả tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông Trung Quốc ngày nay. Bản đồ Lĩnh Nam thời Trưng Vương. Sách sử nhà Hán có ghi chép lại rằng: “Năm Kiến Vũ thứ 16 (tức năm 40 sau Công Nguyên), người con gái ở Giao Chỉ là Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị làm phản, đánh phá quận. Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, là vợ Thi Sách người Chu Diên, rất hùng dũng. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định dùng pháp luật trói buộc, Trưng Trắc phẫn nộ, vì thế mà làm phản. Do vậy, những người Man, người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Gồm chiếm được 65 thành tự lập làm vua. Thứ sử Giao Chỉ và các thái thú chỉ giữ được thân mình mà thôi.” Năm 40 sau Công Nguyên, dân tộc Bách Việt làm chủ chính mình, quét sạch quân Hán ra khởi bờ cõi. Đây cũng là lần duy nhất trong lịch sử thế giới, một đội quân mà người cầm quân hầu hết là phụ nữ trẻ tuổi, nhưng không chỉ giành chiến thắng mà còn lập ra một vương triều mới, lịch sử ghi nhận chỉ diễn ra duy nhất một lần ở Việt Nam. Các lễ hội mừng thắng trận diễn ra, người dân đều suy tôn Trưng Trắc lên làm vua. Sau khi lên ngôi vua, Trưng Trắc cho đóng đô ở Mê Linh, củng cố thành lũy sẵn sàng chống giặc. Lê Chân năm ấy mới 24 tuổi được phong là Thánh Chân công chúa, giữ chức chưởng quản binh quyền nội bộ, đứng ra tổ chức, luyện tập quân sĩ. Lê Chân huấn luyện quân sĩ liên kết nhằm tạo sức mạnh tập thể. Cuộc chiến bảo vệ giang sơnThái thú Tô Định khi chạy trốn về nước, Mã Viện dâng sớ lên Hán Quang Vũ Đế hạch tội: “thấy tiền thì giương mắt lên, thấy giặc thì cụp mắt xuống”. Năm 42 sau Công Nguyên, Hán Quang Vũ Đế phong Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm phó tướng cùng với Đoàn Chí đem ba vạn quân sang đánh chiếm Bách Việt. Thế nhưng quân của Mã Viện khi từ Hợp Phố tiến sang gặp ngay phải đội quân của Thánh Thiên. Hai bên giao chiến ba, bốn trận, quân Hán bị bại trận, thây chết ngổn ngang, không tiến được phải lùi về vùng Mã Giang. Uy danh của dũng tướng Thánh Thiên khiến quân tướng nhà Hán đều kinh hoàng. Mã Viện phải dâng biểu về triều đình xin thêm tướng giỏi và quân tinh nhuệ giúp sức: “Nam bang có nữ tướng Thánh Thiên dụng binh như thần, trí dũng thiên phương, không sao phục được. Xin bệ hạ phái thêm các tướng giỏi và tiếp thêm quân sĩ sang giúp sức”. Vua Hán lập tức cho thêm quân tướng tinh nhuệ sang giúp Mã Viện cùng mật truyền: “Nên dùng mưu mà đánh”. Mã Viện là một viên tướng giàu kinh nghiệm, qua quan sát lối đánh của quân Bách Việt, viên tướng này nhận thấy sức mạnh của quân Việt chính là sự đoàn kết. Một người lính Việt có thể đánh thua một người lính Hán, nhưng nhiều quân Việt thì lại đánh thắng nhiều quân Hán. Từ đó Mã Viện đã tìm được cách phá vỡ thế trận quân Nam, nhất là khi đã có thêm viện binh đến. Bị quân của Thánh Thiên chặn đường bộ, Mã Viện cho quân đến Hợp Phố rồi đi theo đường biển tiến đánh xuống phía nam. Đội quân phòng thủ vùng biển Đông Bắc do Lê Chân chỉ huy, quân Nam chặn chiến thuyền quân Hán ngay tại cửa sông Bạch Đằng. Tướng quân Bát Nạn cũng đưa quân đến chặn quân trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối hợp cùng cánh quân của Lê Chân. Lê Chân cho dựng các chướng ngại trên sông, dùng thuyền nhỏ nhẹ nhưng cơ động của mình đánh vào mạn thuyền to lớn của quân Hán khiến quân Hán thiệt hại nặng nề. Suốt dọc cửa sông Bạch Đằng, trên bờ và dưới nước, quân Việt do Bát Nạn cùng Lê Chân chỉ huy giao chiến ác liệt cùng quân Hán. Song quân Hán lực lượng đông hơn, được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau đã đánh lui quân Nam, hai nữ tướng đành phải lui quân. Các thuyền của Lê Chân nhỏ nhẹ nên di chuyển rất nhanh, chẳng mấy chốc đã bỏ xa quân Hán. Về kinh đô Mê Linh hội với quân Hai Bà Trưng tại đây. Mã Viện chọn vùng Lãng Bạc (Tiên Du ngày nay) để hội quân, nơi đây địa thế thuận lợi để quân Hán có thể phòng thủ, quân thủy bộ dễ dàng hỗ trợ cho nhau. Trung VuongTrưng Trắc chờ mãi không thấy quân Hán có động tĩnh gì liền chủ động đưa quân đến đánh thẳng vào Lãng Bạc. Quân tiên phong do Lê Chân chỉ huy giao tranh với quân Hán nhiều ngày, quân Hán cố thủ nhưng bị quân của Lê Chân đánh mạnh khiến thiệt hại rất nhiều, cộng thêm cái nắng mùa hè khiến quân Hán mệt mỏi vì bệnh tật. Tướng Hán là Hàn Vũ cũng bị thiệt mạng do bệnh. Nhiều nhà nghiên cứu xác định trận đánh diễn ra rất ác liệt nhiều ngày ở trên đồi, chân đồi và cả khúc sông thuộc vùng Tiên Du. Quân Hán còn rất mạnh, quân số đông, có lực lượng thuỷ, bộ phối hợp, quen trận mạc, thành thạo đánh tập trung theo cách đánh trận địa. Mã Viện là một lão tướng già dặn kinh nghiệm chiến trường, từng lập nhiều chiến công trong các cuộc đàn áp các phong trào nổi dậy chống nhà Hán. Để phá thế mạnh liên kết quân Việt, Mã Viện có quân số đông đã cho quân chia cắt quân Nam ra để đánh, khiến quân Việt khó tạo ra sức mạnh liên kết. Sau thời gian dài không thắng được, Hai Bà Trưng phải rút quân về thành Cổ Loa. Quân Việt thiệt hại rất nặng. Mã Viện cho quân tiến đánh Cổ Loa, quân Nam lui về kinh đô Mê Linh, rồi đến Cấm Khê. Những nghiên cứu mới đây cho thấy Cấm Khê có thể ở thung lũng Suối Vàng, ở chân ngọn núi Vua Bà cao 525m, trong dãy Ba Vì thuộc Hà Tây. Cấm Khê là nơi thuận lợi để lập trận phòng ngự. Quân Hán cho quân đến đánh Cấm Khê, chiến trận diễn ra ác liệt từ mùa hè năm 42 đến mùa xuân năm 43 thì Cấm Khê thất thủ, Hai Bà Trưng cùng Lê Chân chia hai ngả rút ra khỏi căn cứ. Hai Bà Trưng chạy đến sông Hát thì không thể thoát được đành nhảy xuống sông tự vẫn để không sa vào tay giặc. Thánh Thiên lúc này đang ở mạn Bắc, nghe tin Cấm Khê thất thủ thì vội đưa quân đến ứng cứu nhưng không kịp, liền đưa quân đóng ở sông Nhật Đức (tức sông Thương ngày nay). Quân Hán tiến đánh với chiến thuật chia cắt đội hình, quân của Thánh Thiên không thích nghi được nên thất trận phải rút về Ngọc Lâm. Quân Hán tiến đánh Ngọc Lâm, trong trận giao tranh ác liệt, bị bao vây tứ phía, Thánh Thiên đánh đến kiệt sức rồi hy sinh tại bến Ngọc (tên chữ là Ngọc Chử, là một bến của con sông nhỏ Đa Mai) thuộc địa phận làng Ngọc Lâm ngày nay. Nữ tướng Lê Chân rút theo đường thủy đến vùng Lạt Sơn, nhận thấy nơi đây núi rừng hiểm trở có thể chặn quân Hán. Lưng có thể dựa vào dãy núi hình cánh cung; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai hào nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Lê Chân vừa xây dựng căn cứ, vừa chiêu mộ thêm quân sĩ. Căn cứ chưa xây xong thì Mã Viện đưa quân tiến đánh, nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra. Biết rõ không thể giữ căn cứ lâu dài, Lê Chân để một nữ tướng khác là nàng Tía cùng một lượng lớn quân rút về phía Nam, còn Lê Chân cùng một số ít quân tâm phúc tiếp tục ở lại tử thủ với quân Hán. Quân còn lại của Lê Chân rất ít không đủ sức đánh với quân Hán. Trận chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở Đồng Loạn, nữ tướng Lê Chân cùng mấy tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Vào chiều ngày 13 tháng 7 năm Quí Mão (tức năm 43 sau Công Nguyên) nữ tướng Lê Chân 27 tuổi, từ trên đỉnh núi nước mắt chảy dài, nhìn lại giang sơn một lần cuối cùng rồi gieo mình xuống dưới núi. Lừng danh sử Việt: Đội quân duy nhất thế giới từ vua đến tướng đều là phụ nữ Hình ảnh tưởng niệm cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Sau 3 năm ngắn ngủi giành được quyền tự chủ, dân tộc Bách Việt lại chìm vào thời kỳ Bắc thuộc. Sức mạnh của quân Việt thời đấy là sức mạnh đoàn kết, binh lính kết nối với nhau tạo ra sức mạnh đương đầu với quân Hán. Mã Viện đã nhìn ra đặc điểm này, nhờ quân đông lại thiện chiến hơn, Mã Viện đã cho quân thực hiện chiến thuật chia cắt quân Việt ra để đánh và đã thành công. Sử gia Nguyễn Nghiễm thời Lê trung hưng bình rằng: Trưng Vương là dòng dõi bậc thần minh, nhân lòng dân oán hận, nổi giận, khích lệ người cùng chung mối thù. Nghĩa binh đi đến đâu gần xa đều hưởng ứng, 65 thành ngoài miền Ngũ Lĩnh một buổi sớm đều thu phục được, người dân chịu khổ từ lâu, không khác gì đã ra khỏi vực thẳm được thấy mặt trời. Bà quả là bậc anh hùng khí khái hơn người. Tuy rằng quân mới tập hợp, bị tan rã khi đã thành công, cũng làm hả được lòng căm phẫn của thần dân một chút… Khi đất nước bị chìm đắm, thì hầu như lại được khôi phục do một nữ chúa ở Mê Linh. Lúc đó bậc con trai mày râu phải cúi đầu ngoan ngoãn tuân theo không dám làm gì, chẳng đáng thẹn lắm sao? Đó âu cũng là lời bình nhắc nhở những người đàn ông nhân ngày Quốc tế Phụ nữ. Bởi vì ngày nay phụ nữ đang phải hy sinh rất nhiều, vừa phải lo cho sự nghiệp, vừa phải chu toàn công việc gia đình. Thiết nghĩ, người đàn ông Việt cần thật sự là “nóc nhà” để người phụ nữ an tâm với thiên chức của một người vợ, người mẹ. Trần Hưng
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 9, 2019 9:44:37 GMT 9
VỆ SĨ CỦA CHÚA NGUYỄNphan ni tấn Roberto Fernández Do Pho, kỹ sư không gian Nasa về hưu đã nhiều năm, hiện sống tại New York, Hoa Kỳ. Rô, tức Roberto (cha Việt, mẹ Tây Ban Nha) sinh tại Rock Hill, South Carolina, là một người có sức học đáng nể. Từng là dược sĩ, rồi nha sĩ, cuối cùng là kỹ sư, đặc biệt Rô còn có một tâm hồn thi sĩ, sáng tác những bài thơ yêu quê cha nước Việt còn hơn cả đất mẹ. Hồi còn học ở Đại học, võ sư đệ tam đẳng huyền đai karaté Roberto, những lúc rảnh rỗi trao nhau vài đường quyền lúc nào Rô cũng hơn tôi bằng thế võ gia truyền. Nhân dịp sinh nhật thứ 75, già Rô tổ chức tại gia, thức ăn Tây-Mỹ đề huề, có khách khứa nhảy đầm, có bạn bè ca hát, có chàng ngâm thơ, nàng dâu Đại Hàn đệm piano. Trong lúc trà dư tửu hậu chỉ còn hai người đàn ông, già Rô khề khà tiết lộ tôi mới biết ông là hậu duệ đời thứ 8 của dòng họ Phó. Thoạt nghe tôi chẳng lấy gì làm lạ, dù nhà cách mạng lừng danh Phó Đức Chính là ông cố của Rô. Nhưng khi già Rô trịnh trọng đưa tôi coi bộ gia phả viết bằng chữ Nho của dòng họ Phó, tôi mới ngạc nhiên thực sự. Bộ gia phả gồm ba tập: một tập bằng chữ Nho đựng trong hộp kính màu ngọc bích khằn keo rất kỹ, một tập bằng tiếng Anh và một tập bằng chữ quốc ngữ, chuyển ngữ từ tập chữ Nho từ năm 1811. Bộ chuyển ngữ tuy giấy đã ố vàng nhưng chữ vẫn còn tương đối rõ nét, đặc biệt ở những trang viết về nội tổ của Rô từng là vệ sĩ của Chúa Nguyễn. Vừa đọc lướt qua bản tiếng Việt tôi ngỏ ý muốn chụp lại những tư liệu này để viết thành truyện nhưng Rô lắc đầu cười bí hiểm, phán cho một tràng: "Ông bạn là nhà văn, nghe đồn ông có trí nhớ phi phàm, muốn dựng truyện gì ông cứ dùng trí mà nên chớ tôi chưa từng nghe ai nói ông viết bằng… máy chụp ảnh gì sốt. Có đúng thế không nào, bạn già?". Già Rô cay cú đến thế là cùng. Về nhà tôi căn cứ theo lời kể của Roberto qua gia phả dòng họ Phó, cũng như dựa theo sử liệu nhà Nguyễn và các truyện dã sử về thời Tây Sơn tôi viết ra cốt truyện này. Truyện như sau: Chưởng cơ Phó Đô Úy là một võ quan của Chúa Định Nguyễn Phúc Thuần. Úy xuất thân từ một gia đình có truyền thống võ nghệ lâu đời. Từ nhỏ ông học võ từ cha và học môn phi tiêu từ các võ sư nổi tiếng vùng Thanh Hoa (nay là Thanh Hóa). Thiếu thời Phó Đô Úy đã tỏ ra là một người cơ trí, lanh lợi, sức khỏe hơn người, lớn lên được phép cha theo phò Chúa Định. Ngay từ khi đầu quân, Chúa biết Úy có võ nghệ nên được tuyển vào cấp Đội. Sáu tháng sau phong thưởng thành Cai đội. Từ Cai đội thăng lên Chưởng cơ. Năm 1774, thành Phú Xuân thuộc huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên - Huế rơi vào tay nhà Trịnh. Chưởng cơ Phó Đô Úy cùng các vệ sĩ chính qui hộ giá Chúa Định và gia tộc chạy vào Quảng Nam rồi vào Gia Định, trong đó có Nguyễn Phúc Ánh, lúc đó mới 12 tuổi. Nguyễn Phúc Ánh là con trai thứ ba của hoàng tử Nguyễn Phúc Luân. Khi quân Trịnh chiếm kinh thành thì Phúc Luân đã chết dưới tay quyền thần Trương Phúc Loan, để lại sáu người con trai và ba gái. Sáu người con trai đều chạy vào Nam, lần lượt bị quân Tây Sơn sát hại, chỉ còn lại Nguyễn Phúc Ánh, sau này là vua Gia Long. Hồi còn ở Phú Xuân, Chưởng cơ Phó Đô Úy thường để mắt tới vị thiếu niên này. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng thần thái Nguyễn Ánh uy nghi, oai vệ, tỏ ra là người có chí khí. Hằng ngày Chưởng cơ Úy luyện võ sau phủ, Ánh lặng lẽ đứng nhìn, không nói gì. Nhưng Úy tinh ý nhận thấy cặp mắt sắc bén của Ánh chứa chan nỗi buồn và đầy thù hận. Cuối năm 1776, bộ tướng của Chúa Nguyễn là Đỗ Thành Nhân đánh lui quân Tây Sơn do Đông Định Vương Nguyễn Lữ chỉ huy, chiếm lại Sài Gòn. Tần Chính Vương Nguyễn Phúc Dương hợp quân với Đỗ Thành Nhân, cùng sự trợ giúp của Mạc Thiên Tứ, con của Mạc Thiên Tích nên lực lượng Chúa Nguyễn ngày một thêm hùng mạnh. Nhưng năm Đinh Dậu 1877, Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ thống lĩnh đại binh áo vải cờ đào vào đánh chiếm Gia Định lần thứ tư, Chúa tôi nhà Nguyễn lại thua cùng tàn quân bỏ thành chạy vào Tam Phụ (Định Tường), qua cửa Cần Giờ, chạy dài xuống Cần Thơ, Kiên Giang, ra đảo Thổ Chu, thuộc Phú Quốc lánh nạn. Ngay từ khi chạy nạn, bộ hạ tâm phúc của Nguyễn Ánh là Phúc Điền đã thận trọng cắt cử Phó chưởng cơ và Cai đội hợp với sáu vệ sĩ thành một toán khinh binh mở đường, trực chiến khi có biến; còn Chưởng cơ Phó Đô Úy đi đoạn hậu, dùng cây rừng quét sạch dấu vết Chúa Nguyễn và đoàn tùy tùng đi qua. Nhưng trong một lần bỏ chạy, không may Tần Chính Vương Nguyễn Phúc Dương và một số quan lại bị quân Tây Sơn bắt giết. mail.google.com/mail/u/0?ui=2&ik=7ee501225f&attid=0.1&permmsgid=msg-f:1633010604662799823&th=16a99e7e2d5f3dcf&view=fimg&sz=s0-l75-ft&attbid=ANGjdJ8E6ws82MuT20Xz1kp_ITTS7H5JYs5UY3mIU9cthmwTwbA3SgGmtYFcgnrWUq62cxStqu4UYRBs4vVogW2kpMccJk0W7gmQrk-0JPopW5aSXMBUJLuNjK6BO14&disp=embRoberto . Có lần, vừa tới địa phận Kiên Giang thì trời chiều đổ mưa. Rừng ở đây dầy mịt tạo thành bức tường kiên cố che chở cho Chúa Nguyễn và đoàn tùy tùng bên trong. Khi Chúa tôi vượt qua bên kia kinh Tà Lưa an vị trong một cánh rừng thì Chưởng cơ Phó Đô Úy ở bên này bờ, đang lui cui xóa các dấu vết bất ngờ đụng phải nghĩa quân Tây Sơn rượt tới. Toán quân này không nhiều, khoảng mươi mười người, đứng đầu là một vị chỉ huy, vóc người tầm thước, chắc nịch, mặc y phục đen, mặt đen, râu quai nón tua tủa, tóc phủ ót, trên đầu quấn một miếng vải đen. Vừa thấy Phó Đô Úy, quân Tây Sơn hung hăng vung gươm lao tới, Úy bình tĩnh vội lùi lại, cùng lúc ra tay phóng ám khí hạ gục hai tên xong hươi đao lên khiến chúng khựng lại. Người chỉ huy áo đen gườm mắt quan sát thấy Úy tuy cao lớn nhưng không có đồng bọn nên tỏ ra khinh mạn. Phất tay ra hiệu cho đám thủ hạ lùi lại, một mình y cằm con dao chủy thủ khệnh khạng bước ra giữa khoảng đất trống dạng chân, hất hàm, quắc mắt nhìn Úy thách thức. Từ ngày hộ giá Chúa Nguyễn nhiều phen vào sinh ra tử chiến đấu chống nhà Tây Sơn, đây là lần đầu tiên Úy đấu tay đôi với địch thủ ngoài chiến địa. Dưới vòm cây rậm rạp Chưởng cơ Phó Đô Úy ưỡn ngực hít một hơi sâu, vừa rút dao bước ra đã nghe người áo đen cười lạnh, lao tới. Giữa khu rừng tĩnh mịch, tiếng kim khí lấp loáng giao nhau xoèn xoẹt tạo thành thứ âm thanh man rợ, rin rít, bén ngót đến rợn óc. Hai đối thủ lao vào nhau như hai con thú lạnh lùng ác chiến. Lạ một điều, họ không hề gầm gừ hay thốt lên một lời mà cả bọn lính thú cũng nín hơi theo dõi trận đấu. vua Gia Long . Thủ pháp cực kỳ mau lẹ và hiểm ác của một chiến tướng đã quen trận mạc, người chỉ huy áo đen không ngờ lần này gặp phải cao thủ khiến sự háo thắng ban đầu của y giảm xuống rất nhiều. Tuy nhiên, tính hiếu chiến, quyết tâm hạ địch thủ khiến y nảy ra một độc chiêu. Lùi lại hai bước, người áo đen đảo cặp mắt sọng máu nhìn đối thủ xong lặng lẽ như bóng quỷ nhún mình lao vút tới phi thân nắm chặt cành cây đu mình lấy đà đá thẳng vào ngực Đô Úy đồng thời đâm ngọn chủy thủ xuống huyệt Thiên linh trên đỉnh đầu địch thủ. Trước đòn sát thủ cực kỳ hiểm độc, Đô Úy vội ngửa người ra sau cùng lúc tung mình đá thốc vào hạ bộ khiến người chỉ huy hự lên một tiếng ngã lăn xuống đất. Thấy chủ tướng bị hạ, đám lính thú hộ vệ vội vàng xúm lại khiêng y và hai đồng bọn chạy biến vào rừng. Sau khi củng cố lực lượng, năm Canh Tý 1780, Nguyễn Phúc Ánh xưng vương ở Gia Định. Hai năm sau, thấy thế lực của Nguyễn Vương ngày càng vững mạnh, anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ lại kéo quân vào đánh, Sài Gòn thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên, dùng thuyền nhỏ vượt biển, phía sau quân Tây Sơn truy đuổi gắt gao, quyết bắt Nguyễn Ánh cho kỳ được. Trong trận thủy chiến ở đảo Điệp Thạch, thuyền của Nguyễn Vương bị quân Tây Sơn tấn công. Trước tình thế cấp bách, Phúc Điền khoác áo Vương cầm gươm ra đứng trước mũi thuyền giả dạng Nguyễn Vương bị quân Tây Sơn xông lên thuyền bắt sống. Phúc Điền sa vào tay giặc, chết như một anh hùng cứu chúa. Cũng may, Cai cơ Đồng Nhượng là người biết lo xa, hộ giá Nguyễn Vương lẫn trong đám thủy binh lên thuyền, nên đã thoát thân vào rừng. Cùng lúc đó, thuyền hộ vệ của Chưởng cơ Phó Đô Úy cũng hỗn chiến với quân Tây Sơn. Đây là một cuộc chiến đầy bất hạnh diễn ra giữa hai phe không cân sức. Các thuyền nhỏ của Nguyễn Vương bị những chiến thuyền của quân Tây Sơn bao vây, tiêu diệt hết phân nửa. Thủy binh trung thành của Nguyễn Vương bị chém ngã la liệt xuống nước, máu nhuộm đỏ mặt biển. Cùng chung số phận, đồng đội trên thuyền hộ vệ thảy đều hy sinh. Chưởng cơ Phó Đô Úy, thương tích đầy mình, cuối cùng bị một nhát chém mạnh đến nỗi lệch cả bả vai. Chưởng cơ Úy loạng choạng lùi về phía mũi thuyền đang bốc cháy, dùng tàn lực lia ngang một đường gươm rồi lao mình xuống biển, lặn một hơi dài. Lúc trồi lên thở, Úy đụng nhầm các tử thi và những mảnh thuyền vỡ. Úy bám vào miếng ván, ngửa mặt lên trời, thả người cho sóng giạt vào bờ, miệng vẫn còn ngậm chặt lưỡi dao găm. Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, nội bộ chia năm xẻ bảy, nhà Tây Sơn suy yếu dần. Tình hình đất nước lại rơi vào cảnh nhiễu nhương, vua còn nhỏ, quyền thần lộng hành, chia bè rẽ phái, lòng dân lại hướng về Nguyễn Vương. Nắm được thời cơ, Nguyễn Vương lo củng cố nội bộ, thu thập nhân tài, rèn binh khiển tướng, tích trữ lương thảo, mua sắm thêm vũ khí, mặt khác Nguyễn Vương cử phái đoàn ra nước ngoài cầu viện. Năm 1802, sau khi Nguyễn Ánh diệt xong nhà Tây Sơn, lấy lại thành Phú Xuân, lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long, mở đầu vương triều nhà Nguyễn, cũng là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long cũng như hầu hết vua chúa ngày xưa, khi nắm quyền bính trong tay, ông cũng không tránh khỏi việc giết hại những người cùng nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử với mình, như công thần Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường. Chưa kể vua Gia Long vẫn ôm mối thù với anh em nhà Tây Sơn đã giết hại thân bằng quyến thuộc của mình nên đã ra tay trả thù vô cùng khốc liệt. Nhận thấy mức độ thiên lệch cả công và tội của hoàng đế Gia Long, vì lo xa nên toàn bộ gia quyến Phó Đô Thống (cha của Chưởng cơ Phó Đô Úy, hy sinh ở Phú Quốc) âm thầm rời bỏ Thanh Hoa chạy về làng Đa Ngưu, tỉnh Hưng Yên ẩn cư. Từ đó, trải dài qua hàng thế kỷ, dòng họ Phó sanh ra Phó Đức Chính, sau trở thành nhà cách mạng cùng 12 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng tổng khởi nghĩa chống thực dân Pháp, nhưng bị thất bại. Toàn bộ 13 đảng viên gồm đảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng ông và 11 nghĩa sĩ khác bị Pháp xử chém. Phó Đức Chính là người thứ 12 lên đoạn đầu đài và là người duy nhất nằm ngửa để xem máy chém rơi xuống đầu ông. Hiện nay, già Rô, tức kỹ sư không gian Nasa về hưu Roberto Fernández Đô Phó, dù cuộc sống chịu ảnh hưởng văn minh Âu Mỹ, nhưng trong nhà ông ở ngoại ô Syracuse, New York vẫn lộng kính trưng trên tường những hình ảnh trắng đen và màu đã phai của dòng họ Phó, trong đó có Phó Đức Chính, chưa kể cuốn gia phả đồ sộ của dòng họ Phó nhà ông.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 10, 2019 6:57:07 GMT 9
Những sự thật ít được biết đến về Hitler Một trong những điều ít người biết về Hitler là ông ta từng sử dụng dung dịch chiết xuất từ tinh hoàn bò. Adolf Hitler thời trẻ Adolf Hitler, nhà độc tài của chế độ Đức Quốc xã, cái tên mà khi nhắc đến dễ làm người ta nghĩ ngay tới chiến tranh, chết chóc, hay sự đau khổ mà ông ta gây ra cho nhiều quốc gia và dân tộc châu Âu. Là lãnh đạo Đảng Quốc xã Đức, Hitler đã vươn lên đỉnh cao quyền lực sau nhiều năm tranh đấu. Hitler lấy tư tưởng phát xít của Ý làm hình mẫu, đồng thời ông ta cũng là một kẻ cuồng tín với lý thuyết về chủng tộc Aryan thượng đẳng. Sau đó, ông ta khiến châu Âu rơi vào lò lửa chiến tranh khi khơi mào cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Không những vậy, ông ta còn ra lệnh diệt chủng những nhóm dân tộc mà ông ta cho là “hạ đẳng”. Tính riêng ở châu Âu, số liệu người chết được tính toán ít nhất là hơn 40 triệu người. Trong đó, tính riêng trong Nạn Diệt chủng (Holocaust) của Hitler, khoảng 17 triệu người đã bị giết hại theo nhiều cách, trong đó có 6 triệu người Do Thái. Đó là những điều chúng ta hay nghe nói về Hitler. Nhưng Hitler cũng là một con người, và có những điều mà không phải ai cũng biết. Trang web WhatCulture đã tổng hợp những sự thật ít ai biết đến về Adolf Hitler. 1. Từng do thám Đảng Quốc xãPhục vụ quân đội Đức trong Thế chiến thứ nhất, Hitler quyết định ở lại quân đội sau khi chiến tranh kết thúc và trở thành một người do thám tin tình báo cho quân đội. Sau vài nhiệm vụ thành công, ông ta được giao nhiệm vụ thâm nhập điều tra một đảng mới nổi. Đó là Đảng Công nhân Đức – tiền thân của Đảng Công nhân Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa Đức (Đảng Quốc xã). Tuy nhiên, bị thuyết phục khi nhận ra lãnh đạo đảng này khi đó là Anton Drexler có tư tưởng bài Do Thái, bài chủ nghĩa Marx, và ủng hộ tư tưởng dân tộc, nên Hitler sau đó gia nhập đảng này và rời khỏi quân đội. Đọc thêm Nam Mô Di Bố Phù là gì? 2. Phải sống trong chỗ trú cho người vô gia cưThời trẻ, Hitler mơ ước làm hoạ sĩ, nhưng 2 lần liền bị từ chối vào học ở Học viện Mỹ thuật Vienna vì “thiếu khả năng hội hoạ”. Hitler cố gắng bám trụ lại ở thành phố Vienna và kiếm sống bằng nghề bán tranh dạo nhưng không kiếm đủ tiền trang trải cuộc sống. Việc này khiến Hitler, lúc này đã là một thanh niên, phải ở tạm trong các chỗ trú cho người vô gia cư. Mỗi khi việc buôn bán phát đạt hơn, thì Hitler mới có thể ở trong các khu nhà trọ rẻ tiền. 3. Được thưởng Huân chương Thập tự sắt hạng nhấtTrong Thế chiến thứ nhất, Hitler tìm thấy tình yêu dành cho dân tộc Đức. Chính tình yêu đó thúc đẩy ông ta chiến đấu, và được thưởng Huân chương Thập tự sắt hạng hai. Không những vậy, đến năm 1918, được cấp trên tiến cử, Hitler được thưởng Huân chương Thập tự sắt hạng nhất. Việc tiến cử đó do một sĩ quan người Do Thái, Trung uý Hugo Gutmann tiến hành. Việc nhận Huân chương Thập tự sắt hạng nhất là một vinh dự hết sức to lớn, và lại càng hiếm hoi với một Hạ sĩ như Hitler, vì huân chương này thường chỉ được trao cho các sĩ quan có thành tích xuất sắc trong chiến đấu. 4. Mắc hội chứng Parkinson.Hitler đã chịu nhiều thương tích lẫn bệnh tật trong đời, và một bác sĩ riêng đã chẩn đoán ông ta mắc cả hội chứng Parkinson. Hitler đã chịu bệnh trong 11 năm cuối đời, và một số sử gia cho rằng tình trạng bệnh tật của Hitler đã ảnh hưởng đến các quyết định của ông ta trong Thế chiến thứ hai. 5. Được tạp chí TIME bình chọn là người đàn ông của nămĐọc thêm Những bí mật rùng rợn về các chiến binh Samurai TIME là một tạp chí danh tiếng của Mỹ. Hàng năm, TIME tổ chức bình chọn người đàn ông của năm, và Hitler đã được chọn năm 1938. Hội nghị Munich (tháng 9 năm 1938) là cuộc họp bàn về việc chia cắt lãnh thổ của Tiệp Khắc. Nguyên thủ bốn cường quốc Anh, Pháp, Ý và Đức tham dự cuộc họp này. Kết quả, vùng Sudetenland của Tiệp Khắc bị cắt cho Đức, với hy vọng đổi lấy hoà bình. Khi đó, hội nghị này được coi là đã cứu thế giới khỏi một cuộc đại chiến toàn cầu thứ hai. Vậy là Hitler, với danh nghĩa của một người “gìn giữ hoà bình”, được TIME bầu chọn là người đàn ông của năm 1938. 6. Hitler từng mong muốn trở thành một linh mục khi còn nhỏHitler là một người chống lại Công giáo và các giáo lý cổ hủ của nó, nhưng chính Hitler khi nhỏ lại muốn trở thành một mục sư. Khi mới là một cậu bé 8 tuổi, Hitler đã là một thành viên nổi bật trong dàn thánh ca nhà thờ ở quê nhà. Nhưng khi lớn lên, niềm tin vào Công giáo của ông ta dần mất đi, và giấc mơ trở thành mục sư đương nhiên cũng không còn. 7. Chống lại các hành động tàn ác với động vậtHitler cho nai ăn. Ảnh chụp năm 1936, ở Obersalzberg Điều này nghe có vẻ tương phản hoàn toàn với hình ảnh hàng chục triệu người đã chết dưới mệnh lệnh của Hitler, nhưng đó là sự thật. Ông ta rất kiên quyết trong vấn đề này và đã đặt ra những điều luật bảo vệ động vật. Thậm chí ông ta còn dự định sau khi chiến thắng hoàn toàn sẽ tiến hành vận động cắt giảm việc ăn thịt. 8. Muốn tạo ra một bảo tàng về những dân tộc đã tuyệt chủngMặc dù muốn huỷ diệt rất nhiều dân tộc, nhưng có vẻ Hitler không muốn người ta quên đi những dân tộc đó. Ông ta đã ra lệnh rằng các tác phẩm nghệ thuật hay những món đồ quý giá thuộc sở hữu của những người Do Thái bị giết hại được giữ lại. Ý tưởng của Hitler là tạo ra một bảo tàng với cái tên “Bảo tàng về những dân tộc đã tuyệt chủng”. Đọc thêm Apple công bố 10 bức ảnh đẹp nhất chụp bằng iPhone 9. Được đề cử giải Nobel Hoà bìnhHuân chương dành cho những người đạt giải Nobel Hoà binh Đúng vậy, nhưng đó chỉ là một trò đùa mỉa mai từ người đề cử Hitler – một nghị sĩ Thuỵ Điển tên Erik G. C. Brandt. Năm đó, trong chính phủ Thuỵ Điển có nhiều người đã đề cử Chamberlain, Thủ tướng Anh, cho giải Nobel vì “thành công” trong việc đem lại hoà bình với Hội nghị Munich năm 1938. Vậy là để châm chọc, Brandt đã đề cử Hitler. Đương nhiên là đề nghị này được rút lại ngay sau đó vì áp lực công luận. Và khi Thế chiến thứ hai nổ ra thì giải Nobel Hoà bình năm 1939 cũng không trao cho ai cả. 10. Từng sử dụng dung dịch chiết xuất từ tinh hoàn của bò húcViệc Hitler sử dụng cocaine đương nhiên sẽ chẳng kỳ lạ một chút nào nếu bạn biết rằng ông ta từng tiêm cả dung dịch chiết xuất từ tinh hoàn của bò húc để cải thiện đời sống tình dục. Bác sĩ riêng của ông ta đã đưa ra đề nghị hết sức kỳ lạ này khi nghe Hitler than thở vì mất hứng thú tình dục, và đề nghị đó đã được chấp nhận. 11. Cho sản xuất búp bê tình dụcViệc này không phải để thoả mãn chính nhu cầu của ông ta mà thực tế là cho binh lính của Hitler. Nhiều người đã dính các bệnh tình dục do quan hệ với gái mại dâm, và Hitler quyết định sản xuất các búp bê tình dục cho quân đội để hạn chế bệnh liên quan đến tình dục. Thậm chí các búp bê này còn được thiết kế để có thể nhét vừa trong cặp hành quân của binh lính. Theo whatculture.com
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 10:03:25 GMT 9
Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ 2. Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán, củng cố nền độc lập [939-944]
Hồ Bạch Thảo
Ngô Quyền người xã Đường Lâm tỉnh Sơn Tây [theo An Nam Kỷ Yếu, quê tại châu Ái, Thanh Hóa], là tướng giỏi của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, nên được Tiết độ sứ gả con gái cho ; rồi cho giữ Ái Châu. Sau khi phản tướng Kiều Công Tiện giết Dương Đình Nghệ [937], Ngô Quyền mang quân từ châu Ái ra Bắc, đánh Kiểu Công Tiện ; Công Tiện không chống nỗi, bèn mang của cải đút lót cho vua Nam Hán để xin cứu viện.
Đối phó với thù trong giặc ngoài, tướng Ngô Quyền ra tay diệt tan bè lũ Kiều Công Tiện trước, rồi chuẩn bị chiến trận chống chống Nam Hán. Vua Nam Hán muốn nhân loạn chiếm nước Việt, bèn sai con là Vạn vương Hoằng Thao mang thuỷ quân sang đánh, riêng Vua Hán đóng quân tại cửa biển để làm thế yểm trợ. Hậu quả Hoằng Thao chết trận, quân tan, vua Hán khóc ròng, rút quân trở về nước, Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang chép về sự kiện này như sau :
« Tư Trị, quyển 281, Tấn Cao Tổ năm Thiên Phúc thứ 3 [938],
Tháng 10, tướng cũ của Dương Diên Nghệ [楊延藝] 1 là Ngô Quyền mang quân đánh Kiểu Công Tiện tại Giao Châu ; Công Tiện sai sứ hối lộ cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Hán muốn thừa lúc loạn đánh lấy, bèn cho con là Vạn vương Hoằng Thao làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ tiến phong Giao vương, mang quân cứu Công Tiện ; vua Hán đích thân đóng tại cửa biển để làm thế thanh viện. Vua Hán hỏi Sùng văn sứ Tiêu Ích về sách lược, Ích tâu :
« Nay trời mưa lâm râm suốt tuần, đường biển xa xôi hiểm trở, Ngô Quyền lại là tay kiệt hiệt, nên không thể khinh địch. Đại quân cần từ từ thận trọng, dùng nhiều hướng đạo dân địa phương, mới nên tiến. »
Vua không nghe, ra lệnh Hoằng Thao điều chiến thuyền theo sông Bạch Đằng tiến vào Giao Châu. Lúc này Quyền đã giết Công Tiện, chiếm toàn Giao Châu, rồi mang quân đánh ngược lại. Trước hết tại cửa biển cho chôn cọc vót nhọn có bọc sắt ; lại sai khinh binh khiêu chiến rồi giả thua rút. Hoàng Thao xua quân đuổi ; chẳng bao lâu thuỷ triều xuống, tàu vướng cọc sắt không rút lui được, quân Hán thua to, quan quân bị lật tàu chết trôi quá nửa. Hoằng Thao chết, vua Hán gào khóc, thu tàn quân trở về. Trước đó, Tả lang hầu Dung khuyên vua Hán bớt việc binh để yên dân, nay do dùng binh không phấn chấn, bèn qui lỗi cho Dung, sai phá quan tài phơi thây. »
(楊延藝故將吳權自愛州舉兵攻皎公羨於交州,公羨遣使以賂求救於漢。漢主欲乘其亂而取之,以其子萬王弘操為靜海節度使,徙封交王,將兵救公 羨,漢主自將屯於海門,為之聲援。漢主問策於崇文使蕭益,益曰:「今霖雨積旬,海道險遠,吳權桀黠,未可輕也。大軍當持重,多用鄉導,然後可進。」不聽。命弘操帥戰艦自白籐江趣交州。權已殺公羨,據交州,引兵逆戰,先於海口多植大□ (*) 弋,銳其首,冒之以鐵,遣輕舟乘潮挑戰而偽 遁,弘操逐之,須臾潮落,漢艦皆礙鐵杙不得返,漢兵大敗,士卒覆溺者太半;弘操死,漢主慟哭,收餘眾而還。先是,著作佐郎侯融勸漢主弭兵息民,至是以兵不振,追咎融,剖棺暴其屍。益,仿之孫也。)
Một bộ sử khác của Trung Quốc, Tân Ngũ Đại Sử do Âu Dương Tu soạn, cũng chép tương tự :
« Năm thứ 10 [937], Nha tướng Giao Châu Kiểu Công Tiện giết Dương Đình Nghệ lên ngôi; tướng cũ của Đình Nghệ là Ngô Quyền đánh Giao Châu; Công Tiện xin quân Nam Hán tiếp viện. Cung phong cho con, Hồng Tháo là Giao vương, ra quân đánh tại sông Bạch Đằng ; Cung đóng quân tại cửa biển. Quyền sau khi giết Công Tiện, đánh ngược ra cửa biển, cắm cọc sắt. Quân của Quyền chờ thuỷ triều lên bèn rút ; đợi thuỷ triều xuống bèn quay thuyền lại đánh, thuyền quân Nam Hán vướng phải cọc đều lật đổ ; Hồng Tháo chết, Lưu Cung thu tàn quân trở về. » [Tân Ngũ Đại Sử, Quyển 65, Nam Hán, Thế Gia quyển thứ 5]
(十年,交州牙將皎公羨殺楊廷藝自立,廷藝故將吳權攻交州,公羨來乞師。龑封洪操交王,出兵白藤以攻之。龑以兵駐海 門,權已殺公羨,逆戰海口,植鐵橛海中,權兵乘潮而進,洪操逐之,潮退舟還,轢橛者皆覆,洪操戰死,龑收余眾而還。)
Lợi dụng thủy triều để tranh thắng ; điều quan trọng là thời gian phải chính xác. Lịch sử thế giới ca tụng danh tướng MacArthur đã thành công trong cuộc đổ bộ bất ngờ nguy hiểm tại hải cảng Inchon cách thủ đô Seoul Hàn Quốc 25 dặm, vào ngày 15/10/1950 ; cắt bán đảo Triều Tiên làm 2, khiến quân Bắc Hàn trên đường tấn công tại phía nam bị đánh tan, loại ra ngoài vòng chiến. Các nhà quân sự Bắc Hàn lúc bấy giờ cho rằng cảng Inchon nước cạn không thể dùng tàu đổ bộ, nên không chú ý đề phòng ; nhưng họ không tính đến nước thủy triều lên cao trong một vài giờ, và tướng MacArthur đã dám chọn thời gian nghiệt ngã bất ngờ đó để tranh thắng. Thời MacArthur có đồng hồ chính xác từng giây, hải quân Hoa Kỳ thống kê mức thuỷ triều lên xuống từng phút ; mà vẫn bị coi là liều lĩnh. Riêng Ngô vương phải sai người cắm cọc sắt như thế nào để lúc thuỷ triều lên địch không phát hiện được, thuỷ triều rút có thể đâm thủng thuyền giặc, rồi thời gian rút lui, thời gian tấn công cần phải chính xác ; công việc tính toán về thủy triều cũng phải làm như MacArthur thực hiện khoảng 1.000 năm sau ; so sánh như vậy thấy được Ngô vương là một thiên tài về quân sự.
Cùng một dòng, 2 lần đại phá quân địch ; một việc ít khi xảy ra trong lịch sử chiến tranh thế giới. Tuy cũng là thuỷ chiến, cũng đóng cọc trên sông ; hơn 300 năm sau [1288] Hưng Đạo vương lại tiêu diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng, bắt và giết các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp ; chỉ khác một chi tiết là đánh giặc khi chúng rút lui từ trong nội địa Đại Việt ra biển. Một dòng sông khác, cách sông Bạch Đằng không xa ; đó là sông Như Nguyệt [sông Cầu], Lý Thường Kiệt từng chế ngự giặc thành công, trong cuộc chiến tranh Lý Tống năm 1076.
Đất nước Việt Nam ta núi sông hiểm trở không thiếu, tại địa danh sông Chi Lăng [thượng lưu sông Thương], vua Lê Đại Hành dụ bắt giết Hồng Nhân Bảo, chấm dứt cuộc chiến tranh vào Lý Tống năm 981 ; lại gần 500 năm sau [1427], dưới thời chống quân Minh, tướng Liễu Thăng mang đại quân sang cứu viện, bị nghĩa quân của Vua Lê Lợi đánh tan tại ải Chi Lăng.
Kỵ binh là sở trường của quân phương Bắc, đạo quân của Nùng Trí Cao dưới thời Tống từng hoành hành tại 2 tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông như chỗ không người ; chỉ trong vòng 2 tháng, đánh chiếm hàng chục châu quận trong đó có thành lớn Ung châu [Nam Ninh] ; nhưng cuối cùng bị Địch Thanh dùng kỵ binh đánh tan trong một buổi sáng, tại cánh đồng bằng phẳng Qui Nhân Phố dưới chân núi Côn Lôn. Trong cuộc chiến tranh Lý Tống Quách Quì dùng 1 vạn kỵ binh ; thời nhà Trần, quân Mông Cổ dưới quyền Trấn nam vương Thoát Hoan sử dụng ưu thế kỵ binh hầu mong nuốt chửng nước ta ; nhưng địa thế nước ta khó có thể dàn trận lớn bằng kỵ binh, lại bị quân ta đánh tiêu hao người, ngựa, bằng chiến tranh hầm hố, nên hai lần xâm lăng đều bị thất bại. Thời hiện đại gọi xe tăng thiết giáp là kỵ binh [Armoured cavalry], địa thế tại Việt Nam miền Bắc, và Trung phần lớn núi rừng, miền Nam đất mềm nhiều sinh lầy, nên thiết giáp chỉ phụ cho bộ binh ; chứ không thể dàn hàng ngang hàng trăm chiếc để làm chủ chiến trường, như quân Đồng Minh và Đức từng tung hoành tại sa mạc châu Phi thời Thế chiến thứ 2.
Trong chiến tranh Nga Nhật năm 1905, hạm đội Nga trú an toàn tại hải cảng Cam Ranh nước ta, Nhật không có cách gì tiêu diệt, cuối cùng phải dùng biện pháp ngoại giao với Pháp, đuổi tàu Nga ra khỏi lãnh hải Việt Nam để đánh. Hải trình huyết mạch quốc tế từ ngàn xưa đến nay chạy dọc theo biển Đông tức ven biển miền Trung ; Cam Ranh nước ta là vị trí chiến lược tối quan trọng, với vũ khí hiện đại có thể kiểm soát hải trình này, và chống lại các thế lực vượt trội ta ngoài biển khơi.
* Tóm lại, trong 3 yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà, tổ tiên ta đã phấn đấu hàng ngàn năm để dành phần “ địa lợi ” cho con cháu ; Ngô vương Quyền là bậc thầy muôn đời trong việc dùng địa lợi vào lãnh vực quân sự.
Sau khi dẹp xong ngoại xâm, năm Kỷ Hợi (939) Ngô Quyền tự xưng Vương, đóng đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ngày nay ; lập Dương thị làm hoàng hậu. Dương Hậu là con gái Dương Diên Nghệ ; thời Ngô vương Quyền làm nha tướng, được Diên Nghệ gả con gái cho.
Năm Giáp Thìn [944] Ngô vương Quyền mất. Lúc bệnh nguy kịch, trối trăng dặn Dương Tam Kha, em ruột Dương hậu, giúp con mình là Xương Ngập nối ngôi.
Sử thần Lê Văn Hưu đời Trần có lời bàn về Ngô vương Quyền, tuy ngắn nhưng nội dung có thể tóm tắt được sự nghiệp :
“ Lê Văn Hưu nói :
Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đến, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được.” [Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại kỷ, quyển 5]
Sau khi Ngô vương mất, Tam Kha cướp ngôi của cháu, tiếm xưng là Bình vương ; Xương Ngập sợ, chạy đến Nam Sách Giang, ẩn náu tại nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương 2. Tam Kha nuôi con thứ hai của Ngô vương Quyền là Xương Văn làm con mình. Các con vợ thứ của Ngô vương là Nam Hưng, Kiền Hưng còn nhỏ, đều theo Dương hậu.
Tam Kha sai Quan sứ Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi lùng Xương Ngập : trước sau đến ba lần đều không bắt được. Được tin Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập giấu trong động núi ; Tam Kha cho sục sạo, cuối cùng vẫn không tìm thấy. Tam Kha lại sai Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc cùng Xương Văn đem quân đi đánh hai thôn ở Thái Bình 3. Khi đi đến huyện Từ Liêm, Xương Văn bảo hai Quan sứ rằng :
“ Đức trạch của Tiên vương 4 ta thấm khắp lòng dân, tất cả các chính lệnh thi hành không ai là không vui lòng theo cả. Chẳng may Tiên vương ta mất đi. Bây giờ Bình vương là kẻ bất nghĩa, tự cướp lấy ngôi, còn tội gì hơn nữa ! Nay lại sai chúng ta đi đánh các ấp vô tội kia, may mà được, nếu họ không phục thì làm thế nào ? ”
Hai Quan sứ Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc trả lời :
“ Tướng quân bảo như thế nào chúng tôi cũng xin vâng mệnh ”.
Xương Văn bảo :
“ Ý tôi muốn đem quân quay về đánh úp Bình Vương để phục lại cơ nghiệp của tiền nhân, có nên không ? ”.
Hai Quan sứ đều cho là phải. Bấy giờ mới trở về đánh úp được Tam Kha ; mọi người muốn giết đi, nhưng Xương Văn bảo :
“ Bình vương đối với ta cũng có ơn, nỡ nào đem giết ? ”.
Rồi giáng Tam Kha xuống làm Trương Dương công, nhân chỗ ở ấy cho làm thực ấp 5 ; Tam Kha tiếm ngôi 6 năm.
Năm Tân Hợi (951], Ngô Xương Văn lên ngôi xưng là Nam Tấn vương ; rồi sai Sứ đón Xương Ngập ở tôn Trà Hương về kinh đô, cùng nhau trông coi việc nước. Sau đó Thiên Sách vương Xương Ngập chuyên quyền, nên Nam Tấn vương không tham dự chính sự nữa. Do đó hai anh em có sự xích mích ; đến năm Giáp Dần [954], Xương Ngập mất, Nam Tấn vương mới chính mình cầm chính quyền ; rồi sai Sứ sang xin mệnh chúa Nam Hán là Lưu Thạnh phong chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ kiêm An Nam đô hộ ; Tư Trị Thông Giám 6 chép :
“ Chu Thế Tông Hiển Đức năm thứ nhất [954]
Tháng giêng [2/954], trước kia Tĩnh hải tiết độ sứ Ngô Quyền mất, con là Xương Ngập lập. Xương Ngập mất, em là Xương Văn [昌文] lập. Tháng này mới bắt đầu xin mệnh Nam Hán ; Nam Hán phong Xương Văn Tĩnh hải quân tiết độ sứ kiêm chức An Nam đô hộ.”
(初,靜海節度使吳權卒,子昌岌立。昌岌卒,弟昌文立。是月,始請命於南漢,南漢以昌文為靜海節度使兼安南都護.)
Năm Ất Sửu [965], Nam Tấn vương đem quân đi đánh hai thôn ở Thái Bình. Quân đến nơi, cắm thuyền, lên bộ đánh nhau ; Nam Tấn vương bị trúng tên mai phục chết ; trị vì được 15 năm.
Nhà Ngô mất. Ngô vương Quyền khởi lên từ năm Kỷ Hợi, mất năm Giáp Thìn, được 6 năm [939-944] ; Nam Tấn Xương Văn lên ngôi từ năm Tân Hợi đến năm Ất Sửu [951-965], được 15 năm (951-965) ; cộng tất cả là 21năm.
Từ khi Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, thổ hào các nơi đua nhau nổi dậy. Xương Văn tuy lấy lại được nước, nhưng hai anh em bất hòa, không thể thống nhất được ; đến khi đi đánh Thái Bình, bị chết trận, từ đó trong nước rối loạn. Một viên tướng người họ Ngô là Ngô Xương Xí tụ tập quân giữ Bình Kiều. Nha tướng nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang. Thổ hào các nơi khác cũng nổi lên mỗi người giữ một nơi, ai cũng xưng hùng trưởng. Sau Tiên Hoàng nhà Đinh nổi lên, dẹp yên được cả, từ đấy giang sơn mới thống nhất.
Các hùng trưởng cát cứ các nơi, sử gọi là Thập Nhị Sứ Quân, xin liệt kê như sau :
1. Trần Lãm, tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải khẩu [thị xã tỉnh Thái Bình] ;
2. Kiểu Công Hãn tự xưng là Kiểu Tam Chế, giữ Phong Châu [huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú] ;
3. Nguyễn Khoan tự xưng là Nguyễn Thái Bình, giữ Nguyễn Gia Loan ở Tam Đái [huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú] ;
4. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm [Ba Vì, Hà Tây] ;
5. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại [huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc] ;
6. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, giữ Tiên Du [tỉnh Bắc Ninh] ;
7. Lữ Đường tự xưng là Lữ Tá Công, giữ Tế Giang [huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc] ;
8. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt [Thanh Trì, Hà Nội] ;
9. Kiểu Thuận tự xưng là Kiểu Lệnh Công, giữ Hồi Hồ [huyện Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú] ;
10. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu [huyện Kim Thị, tỉnh Hải Hưng] ;
11. Ngô Xương Xí chiếm giữ Bình Kiều [huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa] ;
12. Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Động [Thanh Oai, tỉnh Hà Tây] 7.
*
Ba nhân vật lịch sử phải chịu trách nhiệm về mối loạn 12 sứ quân cuối triều Ngô : trước hết phải kể đến Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu, dùng binh đánh dân vô tội ; kế đến Ngô Xương Văn vì tình riêng không có thái độ dứt khoát với Dương Tam Kha, nuôi dưỡng kẻ phản bội ; riêng Ngô Xương Ngập được em đón về lại giành chức của em. Các biến cố xảy ra khiến nhân tâm chia rẽ, chính quyền mới bắt đầu xây, điều hành lỏng lẻo, không có kỷ cương ; đó là nguyên nhân chính gây nên loạn Thập nhị sứ quân.
Hồ Bạch Thảo
(*) Đây là chữ dặc (cái cọc) [do chữ 木 mộc + chữ dặc弋]. Vì là chữ Hán cổ nên không có trong các bộ chữ điện tử. 1 Dương Đình Nghệ : vì chữ Đình [廷] và chữ Diên [延] viết giống nhau, nên có sách chép là Dương Diên Nghệ.
2 Trà Hương : thuộc huyện Kim Thành, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
3 Thôn Thái Bình : theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, nay thuộc huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình.
4 Tiên vương : Vương trước, chỉ Ngô Quyền.
5 Thực ấp : ấp được phong, có quyền thu thuế và hoa lợi.
6 Tư Trị Thông Giám, Tư Mã Quang, quyển 291.
7 Danh sách và vị trí Thập Nhị Sứ Quân, căn cứ vào Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục tiền biên quyển 5; riêng Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, bản điện tử, trang 34 ; chép Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều thuộc tỉnh Hưng Yên.
Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ 3. Những nét đặc trưng về Vua Đinh Tiên Hoàng [968-979]
Hồ Bạch Thảo
Tư chất lãnh tụ của vua Đinh Tiên Hoàng tức Đinh Bộ Lĩnh, đã sớm xuất hiện từ thuở nhi đồng. Bấy giờ cha là Đinh Công Trứ, từng làm Thứ sử châu Hoan [Nghệ An] cho Dương Diên Nghệ và Ngô Quyền, chẳng may mất sớm ; mẹ là Đàm Thị đem về động Hoa Lư [Ninh Bình] nuôi nấng ; ngài thường đi chăn trâu ngoài đồng, chơi với đám trẻ con, chúng đều chịu phục. Cương Mục 1 chép :
“ Hễ ngài đi đâu, chúng cứ phải tréo tay làm kiệu rước đi, giống như kiệu thật ; lại lấy bông lau làm cờ rước kèm hai bên làm như nghi vệ Thiên tử. Kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác : đi đến đâu, ở đấy cũng phải phục tùng. Đám thì kiếm củi, thổi cơm ; đám thì nộp lương, giúp việc. Mẹ thấy thế, mừng lắm, giết lợn nhà để khao chúng. Khi đã hơi lớn, ngài sai bảo được những người ở ấp lân cận. Phụ lão trong các sách 2 đều bảo nhau rằng :
‘Chú bé này có độ lượng khác thường, chắc rồi làm nên sự nghiệp’.
Họ liền đem con em theo ngài, lập ngài làm trùm, đóng ở sách Đào Úc, ngày ngày đi đánh những sách khác chưa chịu phục.”
Dưới thời nhà Ngô, sau khi Ngô vương Quyền mất, Dương Tam Kha, em vợ Vương cướp ngôi của cháu ; sau đó bị con thứ của Vương là Ngô Xương Văn truất phế. Năm Tân Hợi [951], Xương Văn lên ngôi vua, xưng là Nam Tấn vương, sai sứ đi đón anh là Xương Ngập về kinh sư, cùng trông coi việc nước, Xương Ngập xưng là Thiên Sách Vương. Bấy giờ Đinh Bộ Lĩnh ở động Hoa Lư cậy núi khe hiểm trở, không chịu giữ chức phận làm tôi. Hai vương muốn cất quân đi đánh ; Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào triều đình làm con tin. Liễn đến, hai Vương trách tội Bộ Lĩnh không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn đem theo quân đi đánh. Cương Mục [Chính Biên, quyển 1] chép :
“ Hơn một tháng, không đánh nổi, bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Bộ Lĩnh tức giận nói :
‘Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?’.
Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm Liễn mà bắn. Hai vương kinh sợ bảo :
‘Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì,.
Bèn không giết Liễn mà đem quân về.”
Việc làm Đinh Bộ Lĩnh được cho là vì đại nghĩa, không đoái tưởng đến vợ con gia đình riêng tư ; người xưa gọi là “ công nhi vong tư ” ; tại Trung Quốc trước Công Nguyên thời Hán Sở Tranh Hùng, Hán Cao Tổ cũng kẹt vào trường hợp tương tự ; rồi cũng giải quyết theo phương sách này.
Bấy giờ Hán Cao Tổ tức Lưu Bang cùng Hạng Võ thề làm anh em phò Sở Hoài vương chống lại nhà Tần. Khi chiếm được kinh đô Trường An diệt xong Tần, hai phe tranh tranh Bá đồ Vương, đánh nhau kịch liệt. Sau khi Lưu Bang thất bại tại Bành Thành [–205], cha và vợ đều bị quân Hạng Vũ bắt. Vào năm –203 Hạng Vũ đóng quân tại núi Quảng Vũ chống nhau với Lưu Bang ; quân Lưu dựa vào chỗ hiểm tại Vinh Dương [Xingyang, Hà Nam], khiến Hạng đánh mấy tháng không hạ được. Vì thiếu lương muốn giải quyết gấp, Hạng dọa Lưu ra hàng, nếu không tuân sẽ đem cha ra giết. Lưu Bang dứt khoát trả lời “ Nếu có giết thì [nấu ra], chia cho tôi một bát canh với ” ; sự việc được chép trong bộ sử Tư Trị Thông Giám 3 như sau :
“ Hạng Võ đóng quân tại núi Quảng Vũ, chống nhau với quân Hán ; trải qua mấy tháng không hạ được, lương thực lại thiếu ; Hạng Võ bèn đem Thái Công [cha Lưu Bang] lên thành, và bảo Lưu Bang rằng :
‘Nếu không hạ được thành gấp, ta đem Thái Công ra phanh thây.’
Hán vương [Lưu Bang] bảo :
‘Tôi và anh cùng hướng lên phương bắc nhận mệnh của Hoài vương kết làm anh em ; vậy cha tôi là cha anh ; bây giờ nếu anh muốn giết ổng, [nấu ra] nhớ chia cho tôi một bát canh với !’
Hạng Bá [chú Hạng Võ đứng bên cạnh] khuyên :
‘Việc thiên hạ trong tương lai chưa biết ra làm sao ; y vì thiên hạ không đoái đến gia đình, nếu có giết đi cũng vô ích, mà càng thêm gây họa.’
Hạng Võ đành nghe theo.”
(羽亦軍廣武,與漢相守。數月,楚軍食少。項王患之,乃為高祖,置太公其上,告漢王 曰:「今不急下,吾烹太公!」漢王曰:「吾與羽俱北面受命懷王,約為兄弟,吾翁即若翁;必欲烹而翁,幸分我一杯羹!」項王怒,欲殺之。項伯曰:「天下事未 可知。且為天下者不顧家,雖殺之,無益,只益禍耳!」項王從之.)
Vào năm Mậu Thìn [968] Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan 12 sứ quân lên ngôi, tức Vua Đinh Tiên Hoàng ; ngài đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt [大瞿越], dời kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi; bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Việc ngài dùng quốc hiệu với với chữ Nôm “Cồ” viết theo lối giả tá kèm giữa từ “Đại Việt” là một sáng kiến thoát Trung độc đáo, vượt ra ngoài lối mòn Trung Quốc ; ngoài ra chữ “cồ” trong ngôn ngữ Việt còn hàm nghĩa “ lớn, mạnh ”. Sử gia Lê Văn Hưu, sống gần với thời nhà Đinh, có lời bàn về Đinh Tiên Hoàng như sau :
“ Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh bậc thánh triết để tiếp nối quốc thống của Triệu Vương chăng ? ” 4
Về việc bang giao, vua các nước nhỏ như Việt Nam, Cao Ly lúc lên ngôi, thường sai sứ dâng biểu cầu phong Trung Quốc ; tuy đó chỉ là hình thức nhưng cũng mang dấu ấn thần phục nước lớn. Riêng Vua Đinh Tiên Hoàng khác biệt, bản thân chưa hề liên lạc trực tiếp với Trung Quốc ; chỉ cho con là Đinh Liễn tiếp xúc. Thời Ngũ Đại Thập Quốc, Đinh Liễn được nhà Nam Hán cho làm Tiết độ sứ ; Tân Ngũ Đại Sử 5 chép :
“ Nam Hán Lưu Trường niên hiệu Đại Bảo thứ 8 [965], Ngô Xương Văn tại Giao châu mất, phụ tá cho Văn là Lữ Xứ Bình tranh chấp với Thứ sử Phong châu Kiểu Công Hữu, khiến Giao Chỉ loạn lớn. Người trong châu Đinh Liễn mang quân đánh phá được, Lưu Trường giao cho Liễn làm Tiết độ sứ.” (Quyển 65, Nam Hán, Thế Gia quyển thứ 5. Tân Ngũ Đại Sử)
(八年,交州吳昌文卒,其佐呂處平與峰州刺史喬知祐爭立,交趾大亂,州丁璉舉兵擊破之,鋹授璉交州節度)
Đến thời nhà Tống nắm quyền cai trị Trung Quốc, Đinh Liễn với tư cách là Tiết độ sứ triều Nam Hán cũ, gửi chế văn sang triều cống; qua nội dung chế văn triều Tống mới biết Liễn làm theo ý Vua cha ; Tục Tư Trị Trường Biên của Lý Đào chép :
“Trường Biên, quyển 14.Tống Thái Tổ ngày Giáp Tuất tháng 5 năm Khai Bảo thứ 6 [24/6/973], Nam Hán Tĩnh hải quân tiết độ sứ Đinh Liễn nghe tin vùng Lãnh nam 6 đã bình định, bèn sai sứ triều cống; tờ biểu xưng rằng y nhận lệnh của cha là Bộ Lĩnh. Ngày Mậu Dần [28/6/973] ban cho Liễn chức Tĩnh hải tiết độ sứ. (Trong chế văn 7 ban cho Liễn chức Tiết độ sứ đại lược ghi “ Cung kính tuân theo lệnh của cha, thấy nhục phải thờ nước ngụy 8 ” ; do đó biết được biểu văn của Liễn nội dung giống như vậy.” (Quyển 14.Năm Khai Bảo thứ 6 [973])
( 南漢靜海節度使丁璉聞嶺南悉 平,遣使朝貢,表稱其父部領之命。戊寅,以璉為靜海節度使。(除璉節度使制,其略曰:「虔遵父命,恥事偽邦。」則知必璉表云爾也。))
Triều đình nhà Tống do sự kính trọng Vua Đinh Tiên Hoàng, làm một việc ngoại lệ; tuy Vua không xin, vẫn tự ý sai Sứ phong chức Giao Chỉ quận vương :
“ Triều đình cho rằng Đinh Liễn từ phương xa lo làm tròn chức cống, vốn do ý của cha, bắt đầu bàn bạc tỏ ra kính trọng. Ngày Bính Ngọ tháng 8 [4/9/975] phong Bộ Lĩnh là Giao Chỉ quận vương; sai Hồng lô thiếu khanh Cao Bảo Tự, Hữu giám môn vệ suất Vương Ngạn Phù đi sứ. Cao Bảo Tự là chú Cao Kế Xung 9.” (Tục Tư Trị Trường Biên, Quyển 16)
(朝廷以丁璉遠修職貢,本其父部領之意,始議崇寵之。丙午,封部領為交趾郡王,遣鴻臚 少卿高保緒、右監門衛率王彥符往使。保緒, 繼沖從父也。)
Trở về với việc nội trị, vua Đinh Tiên Hoàng chủ trương dùng oai lực chế trị thiên hạ, đặt vạc dầu lớn ở sân, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng :
“ Hễ kẻ nào vi phạm thì bắt bỏ vào nấu trong vạc, hay cho hổ ăn thịt ”.
Khiến ai nấy sợ hãi, không dám phạm pháp.
Năm Canh Ngọ [970], đặt niên hiệu Thái Bình năm thứ nhất ; cho lập năm Hoàng hậu gồm : 1) Đan Gia ; 2) Trinh Minh ; 3) Kiểu Quốc ; 4) Cồ Quốc ; 5) Ca Ông.
Năm Tân Mùi Thái Bình thứ 2 (971), đặt phẩm trật cho các quan văn, quan võ và lãnh đạo các tôn giáo như Phật, Lão: Nguyễn Bặc làm Định quốc công; Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư 10 ; Lê Hoàn làm Thập Đạo 11 tướng quân. Ban hiệu Khuông Việt thái sư cho Tăng thống Ngô Chân Lưu; lại cho Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ 12, Đặng Huyền Quang làm Sùng chân uy nghi 13
Tháng 2 năm Giáp Tuất Thái Bình thứ 5 (974), chia đất nước làm mười đạo ; cũng tổ chức quân đội thành 10 đạo quân, dưới quyền quan Thập đạo, mỗi đạo có mười quân, mỗi quân mười lữ, mỗi lữ mười tốt, mỗi tốt mười ngũ, mỗi ngũ mười người, đều đội mũ "Tứ phương bình đính" 14.
Tháng giêng năm Mậu Dần, Thái Bình thứ 9 (978) ; lập con nhỏ là Hạng Lang làm Thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ vương.
Mùa xuân năm Kỷ Mão, Thái Bình thứ 10 (979). Nam Việt vương Liễn giết Thái tử Hạng Lang. Liễn là con trưởng, khó nhọc mà có công to ; khi nhà vua đã được nước, Liễn được phong là Nam Việt vương lại từng nhận tước phong của Tống. Khi sinh Hạng Lang, nhà vua tư vị cưng chiều, lập làm Thái tử. Vì thế, Liễn bất bình, sai người ngầm giết Hạng Lang.
Tháng 10, viên Chi hậu nội nhân 15 Đỗ Thích 16 giết nhà vua và Nam Việt vương Liễn. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc bắt được Đỗ Thích giết đi, rước Vệ vương Toàn lên ngôi. Trước kia, Đỗ Thích làm chức Thư lại ở Đồng Quan, đêm nằm ở trên cầu, bỗng thấy sao sa vào miệng, tự phụ là điềm lạ, manh tâm chiếm ngôi cao. Đến đây, nhân dịp nhà vua đêm ăn yến, say rượu, nằm ở trong sân cung cấm, bèn giết nhà vua cùng với Nam Việt vương Liễn. Do bị lùng bắt gắt gao quá, Đỗ Thích nằm núp ở lòng máng xối trong cung, đã hơn ba ngày, khát lắm, gặp trời mưa, thò tay ra hứng nước uống. Cung nữ trông thấy, chạy báo Nguyễn Bặc. Nguyễn Bặc bắt lấy Thích, chém chết. Rồi cùng bọn Đinh Điền, Lê Hoàn rước Vệ vương Toàn lên ngôi ; truy phong nhà vua là Tiên Hoàng đế ; Vua Đinh ở ngôi 12 năm, thọ 56 tuổi.
Các Sử gia từng trách vua Đinh Tiên Hoàng 3 điều : thứ nhất bỏ con trưởng lập con thứ, dẫn đến cái chết của nhà vua và Đinh Liễn ; thứ hai lập 5 Hoàng hậu ; thứ ba, cai trị quá hà khắc.
Về điều thứ nhất, việc anh em tranh giành nhau do lỗi bởi cơ chế quân chủ chuyên chế, ngôi vua trong chế độ này có nhiều đặc quyền đặc lợi nên sinh ra sự tranh giành. Tại nước ta, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Nguyễn, đều xảy ra hiện tượng anh em tranh giành ngôi vua. Xét cho cùng mọi đặc quyền đặc lợi trên đời này, nếu không do tài năng bản thân hành xử lương thiện mà có được, đều gây nên thảm họa ; hơn nữa việc “Con Vua thì lại làm Vua”, không bảo đảm chọn được người tài ra giúp nước. Cũng vì lý do này phần lớn các nước trên thế giới đều theo chế độ dân chủ hoặc quân chủ lập hiến.
Điều thứ hai, việc Đinh Tiên Hoàng lập 5 Hoàng hậu, càng gây sự xáo trộn trong chốn cung đình, tạo ra tiền lệ xấu, đến đời Vua Lê Đại Hành cũng bắt chước lập 5 Hoàng hậu. Sử gia Lê Văn Hưu có lời bàn như sau :
“ Lê Văn Hưu nói : Trời đất cùng che chở, mặt trời mặt trăng cùng chiếu soi, mới sinh thành muôn vật, nảy nở mọi loài, cũng như hoàng hậu sánh với ngôi vua, cho nên mới có thể đứng đầu tiêu biểu cho nội cung, tác thành cho thiên hạ. Từ xưa chỉ lập hoàng hậu một người để chủ việc nội trị mà thôi, chưa từng nghe nói lập đến 5 người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà bầy tôi đương thời lại không có ai biết giúp sửa cho đúng, để đến nổi chìm đắm trong tình riêng, cùng lập 5 hoàng hậụ. Sau đến 2 triều Lê, Lý cũng phần nhiều bắt chước làm theo, ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc vậy. 17”
Điều thứ ba, vua Đinh rút kinh nghiệm từ sự lỏng lẻo yếu mềm dưới thời nhà Ngô dẫn đến loạn Thập Nhị Sứ Quân, nên chủ trương cai trị hà khắc, khiến dân sợ phải tuân theo pháp luật. Thực tế cho thấy chính sách hà khắc khiến dân căm ghét sục sôi, dễ sinh ra biến động ; nên các chính trị gia cổ kim chủ trương nghệ thuật cai trị giống như người nấu ăn giỏi, khéo điều hòa nồi canh với các gia vị (điều canh trị quốc), lấy sự khoan nhân hòa hợp với biện pháp mạnh; đó là cách cai trị hữu hiệu.
Hồ Bạch Thảo
1 Cương mục, tức Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc sử quán triều Nguyễn, bản dịch, Hà Nội: NXB Giáo Dục, 1998, Chính Biên, quyển 1.
2 Sách : một khu vực hành chính xưa tại vùng rừng núi.
3 Tư Trị Thông Giám, Tư Mã Quang, quyển 10.
4 Toàn Thư, tức Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Hà Nội: NXB Khoa Học Xã Hội, 1998, Bản Kỷ, quyển 1.
5 Tân Ngũ Đại Sử là một bộ sử trong Nhị Thập Tứ Sử do Âu Dương Tu đời Tống soạn.
6 Lãnh nam : miền nam Ngũ Lãnh, tức phía nam các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây.
7 Chế văn : văn ban mệnh lệnh của vua
8 Nước ngụy : chỉ Nam Hán, theo Tân Ngũ Đại Sử Đinh Liễn trước đó nhận sắc phong cùa Nam Hán.
9 Cao Thế Xung : là Quận chúa Nam Bình thời Ngũ Đại, sau nạp đất cho Tống Thái Tổ, mất vào năm Khai Bảo thứ 6 [973]
10 Đô hộ phủ sĩ sư : chức quan coi việc hình ngục.
11 Thập đạo : bấy giờ quân đội chia làm 10 đạo; bởi vậy Thập đạo tương đương với Tổng tư lệnh quân đội.
12 Tăng lục đạo sĩ : chức quan phong cho tăng nhân, đạo sĩ.
13 Sùng chân uy nghi : chức quan phong cho tăng nhân, đạo sĩ.
14 Lời chua về mũ "Bình đính" : Làm bằng da, bốn bề khâu giáp lại với nhau ; phía trên hẹp, dưới rộng, chóp phẳng.
15 Chi hậu nội nhân : chức quan nhỏ trong cung, dùng để sai bảo việc vặt.
16 Đỗ Thích : người đất Đại Đê, Thiên Bản, nay thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
17 Toàn Thư, Sđd Bản Kỷ, quyển 1.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 10:05:26 GMT 9
Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ
4. Lê Đại Hành vị vua anh hùng : dẹp loạn ; phạt Tống, bình Chiêm [981-1005]
Hồ Bạch Thảo
Vua họ Lê tên là Hoàn, người đất Ái Châu [Thanh Hóa] 1, làm quan nhà Đinh đến chức Thập đạo tướng quân ; khi quân Tống xâm lược nước ta, đem quân ra chống cự thắng lợi, rồi thay nhà Đinh làm vua ; ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi [941-1005]. Vua trừ nội loạn lên ngôi, đuổi giặc ngoại xâm yên dân, trong nước thanh bình.
Trước kia cha vua là Mịch, mẹ là Đặng thị khi mới có thai chiêm bao thấy trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã kết hạt, bèn lấy hạt chia cho mọi người, còn mình thì không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên do thế nào ; đến ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu [941], sinh ra vua. Bà mẹ thấy con tướng mạo khác thường, lại nhân giấc mộng suy ra, bảo với mọi người rằng :
" Thằng bé này lớn lên, ta sợ không kịp hưởng lộc của nó ".
Được vài năm thì mẹ chết, sau đó cha cũng qua đời, trơ trọi một thân, muôn vàn cô đơn đói rét. Trong thôn có viên Quan sát họ Lê trông thấy lấy làm lạ, nói :
" Tư cách đứa trẻ này, người thường không sánh được ".
Lại thấy cùng họ, nên nhận làm con nuôi, sớm chiều chăm sóc dạy dỗ, không khác gì con đẻ. Lớn lên theo giúp Nam Việt Vương Đinh Liễn, tỏ ra phóng khoáng, có chí lớn. Vua Đinh Tiên Hoàng khen là người trí dũng, chắc thế nào cũng làm được việc, bèn giao cho cai quản 1 nghìn quân sĩ, thăng dần đến chức Thập đạo tướng quân điện tiền đô chỉ huy sứ.
Tháng 10 năm Kỷ Mão [979] Vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị thích khách giết, bấy giờ vua nối dõi Đinh Toàn mới 6 tuổi ; Lê Hoàn nhiếp chính, xưng là Phó vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng nhau dấy binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về kinh đô giết Hoàn, nhưng không đánh nổi, bị giết. Trước đó khi Điền và Bặc cất quân, Thái hậu Dương thị nghe tin, lo sợ bảo Hoàn rằng :
" Bọn Bặc dấy quân khởi loạn làm kinh động nước nhà. Vua còn nhỏ yếu chưa kham nổi việc trừ nạn, các ông nên liệu tính đi chớ để tai họa về sau ".
Hoàn nói :
" Thần ở chức Phó Vương nhiếp chính, dù sống chết biến họa thế nào, đều phải đảm đương trách nhiệm ".
Rồi lo chỉnh đốn quân lữ, đánh nhau với Điền, Bặc ở Tây Đô 2. Điền, Bặc thua chạy, lại đem quân thủy ra đánh. Hoàn nhân chiều gió phóng lửa đốt thuyền chiến, chém Điền tại trận, bắt được Bặc đóng cũi đưa về kinh sư, kể tội rằng :
" Tiên đế mắc nạn, thần và người đều căm thẹn. Ngươi là bề tôi con lại nhân lúc tang tóc bối rối mà dấy quân bội nghĩa. Chức phận tôi con có đâu như thế ? ".
Bèn chém đầu đem bêu cho công chúng thấy. Điền, Bặc đã chết, quân Phạm Hạp mất hết khí thế, tan chạy về hương Cát Lợi ở Bắc Giang ; Hoàn dẫn quân đuổi theo, bắt sống được Phạm Hạp đem về Kinh sư.
Bấy giờ, Vua Tống Thái Tông Trung Quốc thấy tình trạng nước ta Vua bị giết, trong nước có loạn, muốn thừa dịp mang quân xâm lăng. Lại nhân nội bộ triều Tống, hai viên tân, cựu Tể tướng Lư Đa Tốn và Triệu Phổ hiềm khích với nhau ; Lư Đa Tốn tâu vua đày Hầu Nhân Bảo, cháu ngoại Triệu Phổ làm Tri Ung châu [Nam Ninh, Quảng Tây], không được trở về kinh đô. Nhân Bảo sợ bị chết già tại Ung châu, nên nhân loạn tại nước Đại Cồ Việt, bèn dâng sớ xin về kinh đô để tâu trình chi tiết. Không muốn cho Nhân Bảo về triều, Lư Đa Tốn xin Vua sai Hầu Nhân Bảo mang quân đi đánh An Nam gấp, như “ sấm sét không kịp bịt lỗ tai ”, để tạo thế bất ngờ; thấy có lý, Vua Tống bèn chấp nhận. Sự việc được ghi lại trong bộ sử Tục Tư Trị Trường Biên 3 như sau :
“ Trường Biên quyển 21. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 [980]
Tháng 6, Thái thường bác sĩ tri Ung Châu Hầu Nhân Bảo, nhân người cha tên Ích sống tại Lạc Dương, có nhà lớn ruộng tốt, sống nhàn du thích thản, không muốn làm quan, vợ là em gái của Triệu Phổ, Phổ là Tể tướng, Nhân Bảo làm quan tại phân ty tây kinh. Lư Đa Tốn có hiềm khích với Phổ, nên tâu vua cho Nhân Bảo làm Tri Ung Châu, trong vòng 9 năm không được trở về kinh. Nhân Bảo sợ thời gian kéo dài chết già nơi xa xôi ngoài Ngũ Lãnh, bèn dâng sớ tâu rằng :
‘Chủ soái Giao Châu bị hại, nước này có loạn, có thể mang quân lấy được ; xin ban chiếu chỉ cho về kinh, trực tiếp tâu, khiến tình trạng được rõ ràng.’
Nhận được tờ sớ vua rất mừng, mệnh cho dịch trạm gọi đến. Lúc mệnh chưa thi hành, thì Đa Tốn bèn tâu :
‘Giao Chỉ nội bộ nhiễu loạn, đây là lúc trời bắt diệt vong. Triều đình nên thừa lúc không ngờ, mang quân tập kích, như sét đánh không kịp bịt tai. Nay nếu gọi Nhân Bảo về triều, tất tiết lộ cơ mưu, bọn man biết được, dựa vào sông núi dự bị, thì không dễ gì chiếm. Chi bằng giao cho Nhân Bảo thi hành cấp tốc, ước tính công việc, tuyển tướng đều quân Kinh Hồ [Hồ Bắc, Hồ Nam] 1,2 vạn, tiến nhanh đuổi dài, thế tất vạn toàn, dễ hơn bẻ cành khô, củi mục’.
Nhà Vua cho là phải.”
(太常博士、知邕州侯仁寶,因其父益居洛陽,有大第良田,優游自適,不欲親吏事。其妻,趙普之妹也,普為宰相,仁寶得 分司西京。盧多遜與普有隙,因白上以仁寶知邕州, 凡九年不得代。仁寶恐因循死嶺外,乃上疏言:「交州主帥被害,其國亂,可以偏師取之,願乘傳詣闕面奏其 狀,庶得詳悉。」疏至,上大喜,令馳驛召,未發,多遜遽奏曰:「交阯內擾,此天亡之秋也,朝廷出其不意,用兵襲擊,所謂疾雷不及掩耳。今若先召仁寶,必泄 其謀,蠻寇知之,阻山海預為備,則未易取也。不如授仁寶以飛輓之任,因令經度其事,選將發荊湖士卒一二萬人,長驅而往,勢必萬全,易於摧枯拉朽也。」上以 為然。)
Vua Tống Thái Tông bèn ra lệnh cho các đạo quân thủy bộ từ Ung châu [Nam Ninh], Liêm châu, và kinh sư lên đường viễn chinh, dưới quyền chỉ huy của Hồng Nhân Bảo :
“ Trường Biên quyển 21. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 [980]
Ngày Đinh Vị tháng 7 mùa thu [19/8/980], dùng Nhân Bảo làm Thủy lục chuyển vận sứ Giao Châu; Đoàn luyện sứ Lan Châu Tôn Toàn Hưng, Bát tác sứ Hác Thủ Tuấn, Án bí khố sứ Trần Khâm Tộ, Tả giám môn vệ tướng quân Thôi Lượng, tổng phối trí lộ binh mã Ung Châu. Thứ sử Ninh Châu Lưu Trừng, Quân khí khố phó sứ Giả Thực, Cung phụng quan cáp môn chi hầu Vương Soạn, Tổng phối trí lộ binh mã Liêm Châu; thủy lộ cùng tiến đánh dẹp. Ngày Canh Tuất [22/8] bọn Toàn Hưng vào từ biệt; mệnh Tiến sứ Lương Huýnh tiễn tướng sĩ hành doanh tại vườn Ngọc Tân.”
(秋七月丁未,以仁寶為交州路水陸轉運使,蘭州團練使孫全興、八作使郝守濬、鞍轡庫使陳欽祚、左監門衛將軍崔亮為邕州 路兵馬都部署,寧州刺史劉澄、軍器庫副使賈湜、供奉官閤門祗候王僎為廉州路兵馬都部署,水陸並進討。庚戌,全興等入辭,命引進使梁迥餞行營將士於玉津園。)
Bấy giờ quan tại Lạng Châu [Lạng Sơn] nước Đại Cồ Việt nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn mang quân đi đánh giặc, dùng người ở Nam Sách Giang là 4 Phạm Cư Lạng làm đại tướng quân. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người rằng :
" Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho ? Chi bằng trước hãy tôn lâp ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn".
Quân sĩ nghe vậy đều hô :
" Vạn tuế ".
Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn 5 khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc, năm thứ nhất [980], giáng phong vua vua cũ Đinh Toàn làm Vệ Vương.
Tháng 10 vua sắp phát binh, trước đó sai nha hiệu là Giang Cự Vọng, Vương Thiệu Tộ đưa thư sang Tống giả làm thư của Vệ Vương Toàn thỉnh cầu nối ngôi cha, xin ban cho mệnh lệnh chính thức, ý muốn hoãn binh nhà Tống. Nhưng lúc này vua Tống đang điều quân sang đánh nước ta, nên dìm đi không trả lời ; sự việc chép trong Trường Biên như sau :
“ Trường Biên quyển 21. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 [980]
Ngày Canh Tý tháng 11 [10/12/980], Lê Hoàn sai Nha hiệu Giang Cự Sâm [Vọng], Vương Thiệu Tộ mang sản vật địa phương đến cống ; vẫn lấy tên Đinh Toàn dâng biểu, tự bảo rằng theo lời xin của tướng lại quân dân lãnh Tiết độ hành quân tư mã, tạm lãnh việc quân vụ ; xin triều đình chính thức ban mệnh. Bấy giờ quân Tôn Toàn Hưng đã khởi hành, vua xét ý Hoàn muốn hoãn binh, nên dìm không đáp.”
(十一月庚子朔,黎桓遣牙校江巨瀮、王紹祚齎方物來貢,仍為丁璿上表,自言徇將吏軍民之請【九】,已攝節度行軍司馬, 權領軍府事,乞朝廷賜以真命。時,孫全興等出師既踰時,上察其意止欲緩兵,寢而不報。)
Sử nước ta, Toàn Thư chép về cuộc chiến như sau :
“ Mùa xuân, tháng 2, Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua tự làm tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông Chi Lăng 6. Vua sai quân sĩ trá hàng để dụ Nhân Bảo, đem chém. Bọn Khâm Tộ nghe tin quân thủy thua trận, dẫn quân về. Vua đem các tướng đánh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, bắt được tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí nhân quảng Hiếu Hoàng Đế. ” (Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 1)
Phối kiểm với Trường Biên sử Trung Quốc, xác nhận thủy quân Trung Quốc chiến thắng tại cửa sông Bạch Đằng, nhưng không liên lạc được với bộ binh. Cũng tương tự với Toàn Thư, chép bị mắc mưu trá hàng, chủ tướng Tôn Toàn Hưng bị giết ; riêng tù binh như Quách Quân Biện thì Trường Biên ghi vào năm Tống Ung Hy thứ 3 [986], Sứ thần Lý Nhược Chuyết sang nước ta nhận về 7. Lại chép thêm quân Tống lúc trở về, rã ngũ cướp phá ; các tướng lãnh bị xử tử, trách phạt nặng nề. Sự kiện ghi trong 2 văn bản dưới đây :
“ Trường Biên quyển 21. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 [980]
Ngày Tân Mão tháng 12 [30/1/981], hành doanh Giao Châu báo phá hơn vạn quân giặc, chém 2.345 thủ cấp.”
(辛卯,交州行營言破賊萬餘眾,斬首二千三百四十五級。)
“ Trường Biên, quyển 22. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 6 [981]
Tháng 3, hành doanh Giao Châu báo đánh phá quân giặc vạn 5 ngàn tại cửa sông Bạch Đằng, chém hơn 1.000 thủ cấp, lấy được 200 chiến thuyền, áo giáp hàng vạn. Ngay lúc đó Hầu Nhân Bảo đốc suất tiền quân tiến trước ; bọn Tôn Toàn Hưng đóng quân tại Hoa Bộ 70 ngày để đợi Lưu Trừng, Hầu Nhân Bảo đốc thúc nhưng không đi. Khi Trừng đến, cùng theo đường thủy bộ đến thôn Đa La nhưng không gặp giặc, lại tự tiện trở về Hoa Bộ. Giặc hứa hàng để dụ Nhân Bảo ; Nhân Bảo tin nên bị hại. Có 2 quân thua trận chạy về ấp chợ, đoạt tiền dân, bị Chuyển vận sứ Chu Vị bắt chém ; những kẻ đến sau đều ra lệnh cửi áo giáp đi vào, dân mới yên. Lúc bấy giờ quân trải qua lam chướng, lại có nhiều người chết ; Chuyển vận sứ Hứa Trọng Tuyên chuyển thư tâu Nhân Bảo tử trận, lại xin ban sư ; không đợi báo, chia quân đồn trú tại các châu, mở kho ban thưởng, cấp cho thuốc men ; rồi bảo rằng :
“ Nếu chờ cho phép, thì mấy vạn người đều chất thây nơi đồng rộng ”.
Tiếp đó dâng sớ tự đàn hặc, chiếu thư khen [Trọng Tuyên] và chấp thuận ; sai sứ hặc tội bọn Trừng. Rồi Vương Soạn bị bệnh chết, Trừng và Giả Thực bị giết tại chợ Ung Châu. Bắt bọn Toàn Hưng vào ngục, xử tử Toàn Hưng ; Trần Khâm Tộ, Hác Thủ Tuấn, Thôi Lượng đều bị trách phạt, giao cho chức Đoàn luyện phó sứ, Khâm Tộ tại Khánh châu ; Thủ Tuấn tại Từ châu ; Lượng tại Lam châu. Truy tặng Nhân Bảo Thị lang bộ Công, cho 2 con ra làm quan. ”
(交州行營言破賊軍萬五千眾於白藤江口,斬首千餘級,獲戰艦二百艘,甲鎧以萬計。於是,侯仁寶率前軍先進,孫全興等頓 兵花步七十日以竢劉澄,仁寶屢促之不行。及澄至,并軍由水路抵多羅村,不遇賊,復擅還花步。賊詐降以誘仁寶,仁寶信之,遂為所害。有二敗卒先至邑市,奪民 錢,轉運使周渭捕斬之,後至者悉令解甲以入,民乃安。時諸軍冒炎瘴,又多死者,轉運使許仲宣馳奏仁寶戰沒,且乞班師,不待報,即分屯諸州,開庫賞賜,給其 醫藥,謂人曰:「若竣報,則此數萬人皆積屍於廣野矣。」乃上章自劾,詔書嘉納之,遣使就劾澄等【六】。會王僎病死,澄與賈湜並戮於邕州市。徵全興等下獄, 全興伏誅;陳欽祚、郝守濬,崔亮皆責授團練副使,欽祚慶州,守濬磁州,亮嵐州。贈仁寶工部侍郎,官其二子.
Nhân Chuyển vận sứ Điền Tích dâng sớ can gián việc gây hấn với nước ta, Vua Tống Thái Tông đưa lời biện bạch, và hứa chấm dứt chiến tranh :
“ Ngày Nhâm Dần tháng 9 [8/10/981], dùng Điền Tích làm Chuyển vận phó sứ Hà Bắc nam lộ, Tích vào triều từ biệt, nhân tiến dâng mật tấu như sau :
“…Nay Giao Chỉ chưa lấy được, chiến sĩ không lập được công, sách Xuân Thu 8 chép “ Quân mệt, phí tiền tài ” binh thư cho rằng “ quân lính yếu nhụt, nhuệ khí tổn thương ”. Thần nghe thánh nhân không ham mở rộng cương thổ, chỉ mong mở rộng đức trạch ; nếu thanh danh giáo hóa vươn ra, thì kẻ phương xa tự tìm đến. Thần đọc Hàn Thi Ngoại Truyện chép thời Chu Thành Vương, sứ Việt Thường trải qua mấy lần thông dịch đến cống. Chu Công hỏi lý do, thì bảo rằng :
‘Nước tôi 3 năm nay không thấy gió bão, mưa lụt, biển không có sóng giữ. Chắc Trung Quốc có thánh nhân, nên đến triều kiến.’
Như vậy thấy rằng không cần dùng thêm binh, tự nhiên nội phụ. Giao Châu ở nơi biển lam chướng, chiếm được như thu hoạch ruộng đá. Xin Bệ hạ nghĩ đến chinh chiến quân lính lao khổ, phải tiêu dùng nhiều, thương người, tiếc sức, không đồn trú binh khiến tiêu phí của cải ; tu sửa đức, khai phục đất hoang, không vơ vét trong nước để lo chinh chiến bên ngoài, gấp ban chiếu cho họ, khoan hồng bỏ việc đánh dẹp ; hà tất phải mệt nhọc giận dữ đối với man nhỏ bé phương nam; đó là một trong những điều đại thể…..”
Vua ban cho chiếu thư rằng :
“ Xét nội dung tấu thư đưa lên, dùng điển tích cũ để can gián việc hiện tại, có những điều phạm bề trên nhưng không che giấu, ở địa vị phải trình bày những điều nên làm, hoặc cải bỏ, can đảm dám nói, phản tỉnh suy tư, đáng khen. Nhưng việc nước, xét có những nguyên nhân. Trẫm cho rằng Giao Chỉ xưng là phiên thần, đời đời lo chức cống ; mới đây nghe tin tặc thần soán đoạt, hại cả gia đình chủ soái, bèn cử binh để cứu giúp ; không phải vì tham đất đai, nay bỏ việc can qua….”.
(壬寅,以錫為河北南路轉運副使。錫因入辭,直進封事曰….
今交州未下,戰士無功,春秋謂「老師費財」,兵書曰「鈍兵挫銳」。臣聞聖人不務廣疆土,惟務廣德業,聲教遠被,自當 來賓。臣嘗讀韓詩外傳,周成王時,越裳九譯來貢,周公問之,曰:「本國天無迅風疾雨,海不揚波三年矣。意者中國有聖人,盍往朝之。」是知不必加兵,自然內 附。交州謂之瘴海,得之如獲石田。願陛下念征戍之勞,思用度之廣,愛人惜力,無屯兵以費財,修德服荒,無略內以勤遠,亟詔執事,寬其誅鋤,又何必蕞爾蠻 陬,勞於震怒,此大體之一也…。
即賜詔書曰:「省所上書,陳古諷今,有犯無隱,居獻替之地,揚蹇諤之風,尋繹久之,深所嘉尚。然邦國之事,抑有 由焉。朕以交趾稱藩,代修職貢,昨聞賊臣篡奪,害其主帥之家,聊舉師徒,用申赴救,非貪土地,尋罷干戈。)
Về việc bất hòa với nước Chiêm Thành, kể từ khi vua Đinh Tiên Hoàng mất đến dưới thời vua Lê Đại Hành, trong vòng 4 năm xãy ra 3 vụ :
– Vụ thứ nhất vào cuối năm 979, sau khi vua Đinh Tiên Hoàng bị thích khách giết ; thủ phạm “cõng rắn cắn gà nhà ” là con rể Đinh Tiên Hoàng, Phò mã Ngô Nhật Khánh. Do Tiên Hoàng lấy mẹ Nhật Khánh làm vợ, nên y thù hận ; thừa dịp vua Đinh mất, xui người Chiêm Thành vào cướp phá Đại Cồ Việt, Toàn Thư chép như sau :
“ Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa Lư, theo hai cửa biển Đại Ác 9 và Tiểu Khang 10, qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước. Nhật Khánh là cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng là An Vương, cùng 12 sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng. Tiên Hoàng dẹp yên, lấy mẹ Khánh làm hoàng hậu, lấy em gái Khánh làm vợ Nam Việt Vương Liễn, còn lo sinh biến, lại đem công chúa gả cho Khánh, ý muốn dập hết lòng oán vọng của hắn. Nhật Khánh bề ngoài cười nói như không, nhưng trong lòng vẫn bất bình, bèn đem cả vợ chạy sang Chiêm Thành, đến cửa biển Nam Giới 11 rút đao ngắn xẻo má vợ kể tội rằng :
‘Cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ nào ta vì mày mà quên tội ác của cha mày hay sao ? Cho mày trở về, ta đi đằng khác tìm kẻ có thể cứu ta’.
Nói xong bèn đi. Đến đây nghe tin Tiên Hoàng băng, Khánh dẫn người Chiêm vào cướp.”
– Vụ thứ hai, do nước Chiêm Thành bắt giữ Sứ thần Đại Cồ Việt, vua Lê Đại Hành bèn mang quân rửa hận, đánh đến tận kinh đô nước này :
“ Nhâm Ngọ, năm thứ 3 (982).
Vua thân đi đánh Chiêm Thành, thắng được. Trước đó vua sai Từ Mục, Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị người Chiêm bắt giữ. Vua giận, sai đóng chiến thuyền sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi Thuế 12 tại trận. Chiêm Thành thua to. Bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư.” (Toàn Thư, Bản Kỷ q.1, trang 16 a)
Có lẽ muốn biểu dương lực lượng để răn đe kẻ thù phương Bắc, nên sau khi chiến thắng Vua đưa một số tù binh cho nhà Tống :
Trường Biên quyển 23. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 7 [982]
“Tháng 12 nhuần, trước đó Giao châu muốn đem 93 người Chiêm Thành bị nước này bắt, đem hiến [Trung Quốc]. Thiên tử lệnh cho Quảng châu giữ những người này lại, cấp cho y phục, lương thực trở về nước, cùng chiếu dụ Vương nước này. Đến nay nước Chiêm Thành sai sứ cửi voi đến cống sản vật địa phương; chiếu thư cho giữ voi tại Nam Hải [Quảng Đông].”
(先是,交州欲以占城俘九十三人來獻,上令廣州止其俘,給衣服資糧遣還占城,詔諭其王。於是占城國遣使乘象來貢方物, 詔留象於南海。)
– Vụ thứ ba, về lý do cuộc hành quân đánh Chiêm Thành trong vụ này, Toàn Thư chép rằng có một viên quan tên là Lưu Kế Tông trốn tại Chiêm Thành nên vua Lê Đại Hành sai con nuôi đi đánh :
“ Quý Mùi, Thiên Phúc năm thứ 4 [983], (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 8). …Trước kia vua đi đánh Chiêm Thành, Quảng Giáp Lưu Kế Tông trốn ở lại nước ấy. Đến đây, vua sai người con nuôi (không rõ tên) đi bắt được Kế Tông, đem chém.”
Nhưng trong biểu văn gửi cho vua Tống thì xưng rằng Chiêm Thành mang mấy vạn quân sang cướp phá; xét ra Chiêm Thành mới thua bại vào năm trước, chưa có khả năng làm điều này :
“ Trường Biên, quyển 24. Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 [983]
Tháng 5, Giao châu tâu nước Chiêm Thành mang mấy vạn quân thủy bộ voi ngựa đến cướp phá ; bèn điều động quân dưới quyền đánh đuổi, bắt và chém mấy ngàn tên.”
(交州言占城國水陸象馬數萬來寇,率所部兵擊走之,俘斬以數千計。)
*
Trải qua trên 1.000 năm lịch sử, có nhiều lời bàn về vua Lê Đại Hành, nhưng tựu trung chưa có ý kiến nào vượt qua nhận xét của Sử gia đời Trần, Lê văn Hưu ; vậy xin trân trọng chép vào đây :
“ Lê Văn Hưu nói: Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được.Có người hỏi : Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn ? Thưa rằng : Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư ? Đáp : Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của họ Lý dày hơn họ Lê, vì thế nên noi theo họ Lý.” 13(13)
Hồ Bạch Thảo
1 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư xin viết tắt là Toàn Thư [Bản Kỷ, q. 1] chép Lê Hoàn người đất Ái Châu, tức Thanh Hóa ngày nay. Đại Việt sử lược (q.1,18b) chép Lê Hoàn người Trường Châu, nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Đại Việt sử ký tiền biên (q.1) phần chính văn bản chép Lê Hoàn người Ái Châu, nhưng phần cước chú lại ghi Lê Hoàn người Bảo Thái, huyện Thanh Liêm nay thuộc tỉnh Nam Hà Nam.
2 Tây đô : Vì Lê Hoàn người Ái Châu [Thanh Hóa], sau lên ngôi đóng đô ở Hoa Lư, Ninh Bình ; cho nên sử gọi Ái Châu là Tây Đô.
3 Tục Tư Trị Thông Giám, Soạn giả Lý Đào đời Tống, xin viết tắt là Trường Biên.
4 Nam Sách : nay thuộc huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
5 Long cổn : áo vua mặc, thêu rồng chầu.
6 Sông Chi Lăng : theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, viết tắt Cương Mục [Chính biên q.1, tr. 18] chú sông Chi Lăng tức sông Thương, đoạn chảy qua Chi Lăng, Lạng Sơn.
7 Văn bản tại Trường Biên ngày Canh Thân tháng 10 [29/11/986] xác nhận Sứ bộ Lý Nhược Chuyết nhận tù binh Quách Quân Biện về; trong văn bản có đoạn chép : “ lại từ khước lễ vật, chỉ nhận sứ giả Quách Quân Biện trước kia bị bắt, mang trở về又卻其私覿,惟取陷蠻使臣鄧君辨以歸 ”.
8 Xuân Thu : sử nước Lỗ, tương truyền do Khổng Tử soạn ra.
9 Đại Ác : Theo Cương Mục, Đại Ác sau đổi thành Đại An, tại xã Quần Liêu, huyện Đại An, nay là cửa sông Đáy.
10 Tiểu Khang : theo Cương Mục thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình nay là cửa Càn.
11 Nam Giới : tên cửa biển ở phiá Nam, gần Chiêm Thành, còn có tên là Cửa Sót, nay thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
12 Chú thích của bản dịch Toàn Thư : Bê Mi Thuế : Đại Việt sử lược (q.1, 19b) nói là vua Chiêm, Cương mục (CB1, 19a) nói là tướng Chiêm. G.Maspéro khôi phục tên Phạn ngữ của người này là Parames'varavarman I (Le Royaume de Champa); nhưng vẫn coi là giả thuyết vì chưa có cứ liệu xác nhận.
13 Toàn Thư, Bản Kỷ, Quyển 1, trang 14 b.
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 31, 2020 2:36:04 GMT 9
TỔNG ĐỐC TRẦN BÁ LỘC(1838-1900) Các bạn có biết trong tỉnh Mỹ Tho có hai ngôi mộ chôn đứng là của ai không ? Xin thưa rằng ngôi mộ thứ nhất của một người con bất hiếu bị “trời trồng” chôn trong xã Khánh Hậu, sau này thuộc tỉnh Long An. Ngôi mộ thứ hai là của Trần Bá Lộc, đi tàu gần tới Mỹ Tho thấy ngôi mộ sừng sững ở đầu ngã ba sông. Trần Bá Lộc là một trong những người oán hận triều đình Huế chỉ vì gia đình ông có đạo, đã bị ngược đãi. Thân phụ Lộc là Trần Bá Phước, người Quảng Bình, đổ Tú Tài vào Nam lập nghiệp với tư cách một thầy đồ. Ban đầu cụ Phước dạy học tại Cái Nhum Rau Má (Vĩnh Long) sau đó đổi lên cù lao Giêng (Châu Đốc). Đây là các xứ đạo lâu đời nhờ vào vị trí khuất lấp với bên ngoài, nên các giáo sĩ vẫn lén lút truyền đạo. Trần Bá Lộc chào đời tại đây năm 1838, cuối đời vua Minh Mạng. Lớn lên nhằm lúc triều đình cho thi hành một chánh sách cấm đạo khắt khe vì sự khiêu khích của người Pháp. Nhiều cố đạo bị bắt giam, có vị bị hành quyết như Thánh Minh bị giết năm 1854 tại bến đò Đình Khao (Vĩnh Long). Nhiều tín đồ bị đánh đập tàn nhẫn buộc phải bỏ đạo. Có kẻ bị lưu đày. Thân phụ Lộc, cụ Trần Bá Phước bị bắt giam tại Châu Đốc một thời gian rồi đày đi Bình Định. Năm đó Lộc 16 tuổi. Bao nhiêu thù hận Lộc đổ trút lên đầu quan lại địa phương và triều đình Huế. Càng thương cha bao nhiêu, Lộc càng căm thù bấy nhiêu. Theo nhận xét của người Pháp lúc còn học ở trường nhà dòng, người Pháp nhìn nhận rằng Lộc tỏ ra thông minh, có chí khí, học hành tiến bộ. Trong thời gian cha bị phát lưu tại Bình Định, giáo hội tiếp tục nuôi nấng và dạy dỗ Lộc. Mối cảm tình với thực dân phát sinh từ đó. Sau khi cưới vợ, một người có đạo Công giáo, được hơn một năm Lộc bị quan lại địa phương bắt bớ, đánh đập rồi giam luôn. Nhưng sau đó Lộc trốn thoát được. Lúc đó Pháp cũng vừa làm chủ tình thế ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, cần mua chuộc người bản xứ ra hợp tác. Khai thác hận thù trong tâm của Lộc, giáo hội khuyên Lộc nên gia nhập hàng ngũ Pháp để tránh bị trả thù. Lộc âm thầm đem gia đình lên Mỹ Tho, rồi nhờ một ông cố đạo gọi là cha Marc che chở để sống trong lãnh thổ của Pháp. Cũng do sự tiến dẫn và giới thiệu của Marc, Lộc xin vào làm lính mã tà. Lộc lập nhiều thành tích nhờ dọ thám, điềm chỉ cho Pháp bắt các thân hào nhân sĩ ủng hộ nghĩa quân, nên Lộc được thăng Cai, rồi lên Đội rất nhanh. Năm sau, Lộc đã lập nghiệp vững chắc ở đây rồi, Pháp cấp cho Lộc một căn nhà lá, vợ thì nuôi heo kiếm thêm tiền. Từ đó, tiền bạc và địa vị của Lộc thăng tiến nhanh như diều gặp gió. Vốn có ác cảm với quan quân của triều đình, Lộc đàn áp các nghĩa quân không nới tay. Nhờ biểu lộ lòng trung thành với thực dân qua các vụ đánh dẹp, chém giết, lại biết chữ quốc ngữ, chữ Hán, cho nên mới 26 tuổi, Lộc được bổ làm tri huyện, tức chủ quận Cái Bè năm 1865. Lộc là người Việt Nam đầu tiên được Pháp bổ làm chủ quận Nam Kỳ. Hai năm sau, Lộc được thăng Đốc Phủ Sứ. Lúc nầy Lộc vừa đóng vai trò võ quan để bình định các cuộc khởi nghĩa cho Pháp, vừa giữ vai trò cố vấn cho Pháp về vấn đề an ninh lãnh thổ, hành chánh và chánh sách cai trị nữa. Kinh nghiệm cho biết rằng hễ kẻ có tài hay tự phụ. Lộc không thoát khỏi thông lệ đó. Khi đã thăng phủ, vẫn còn ngồi ở quận Cái Bè, Lộc lấn quyền cả người Pháp. Lộc coi như mình có quyền hành trên những người Pháp đang phục vụ tại đây. Ông ta viết đơn gởi cho Giám Đốc Nội Vụ đề nghị thăng cấp cho người Pháp trong quận, và coi đó như nhiệm vụ của mình. Ngồi quận Cái Bè trong 30 năm, công lao hãn mã đã nhiều, mà vẫn không còn tiến thân được nữa, điều đó chứng tỏ người Pháp không thích ông và dùng người có giai đoạn. Những cuộc đánh dẹp trong Đồng Tháp Mười, Vũng Liêm, Cầu Ngang, Rạch Giá, Phú Quốc...có thể nói bất cứ cuộc khởi nghĩa nào ở Nam Kỳ cũng có Lộc dẫn quân đi đàn áp dã man. Có một lần Lộc họp cùng Phủ Đức, ruồng bắt cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân ở vùng Gò Công lên đến Chợ Gạo, khiến cho cọp, chồn, nai chạy tán loạn vào các thôn xóm. Khi ngồi chủ quận Cái Bè, mỗi lần báo cáo điều gì lên Thống Đốc Nam Kỳ, Lộc luôn luôn dùng chữ “Phụng lệnh quan lớn Nguyên Soái”, nịnh bợ cấp trên hết lòng. Theo Lộc, nhà cầm quyền cần dạy dân chúng về luân lý, đạo đức của Pháp. Lộc nói người Công Giáo luôn luôn trung thành với Pháp, chỉ có các phần tử theo Nho giáo mới làm loạn. Ông Durrwell nhận xét về Trần Bá Lộc như sau:”Lộc đàn áp dã man các cuộc khởi nghĩa, và thẳng tay dùng bạo lực để dẹp các cuộc bạo động. Dưới con mắt của người Pháp, Lộc là một trong những viên chức Việt Nam ra hợp tác đáng tín nhiệm nhứt, và là một thí dụ điển hình để những người Việt khác noi gương!” Lộc chém giết các nghĩa quân dã man hơn cả người Pháp rất nhiều, nên dân chúng oán hận mà không làm gì được. Có một lần Lộc đi dự lễ khánh thành một nhà việc làng ở Mỹ Tho, bị ám sát, nhưng thoát chết. Để dẹp tan các cuộc khởi nghĩa và dụ hàng, Lộc bắt cha mẹ, vợ con các lãnh tụ phải chỉ chỗ họ ẩn núp, kêu họ ra đầu thú, nếu không đạt mục đích, Lộc sẵn sàng hạ sát họ. Đối với Lộc, phương tiện nào cũng tốt miễn đạt tới mục tiêu thì thôi. Nhìn về nông thôn, theo báo cáo của Lộc với Thống Đốc Nam Kỳ, thì đó là một bức tranh ảm đạm:”Các viên chức làng xã thường thụt két, biển thủ tiền bạc để ăn xài riêng, hút á phiện và lạm dụng quyền hành. Mỗi khi bắt dân chúng làm sưu thì họ hàng với những người ấy được miễn, không ai dám kêu ca. Tiền bạc thâu góp trong các dịp lễ lạc, họ bỏ túi xài riêng”. Lộc nói thêm:”Các món tiền trợ cấp cho dân quê đều vô túi mấy ông làng (Nên nhớ đây là tiền trợ cấp tử tuất cho gia đình những người lính đã theo Pháp bị tử trận). Khi trả lương cho họ, phải làm sổ sách hẳn hòi. Mỗi lần có lễ lạc như cúng đình là đóng góp tự nguyện, không bắt buộc. Sau cùng , làm sưu phải đồng đều”. Với báo cáo đó, Lộc tỏ ra nắm vững tình hình ở thôn quê và am hiểu luật lệ hành chánh, vì lẽ đó nên Pháp rất tin cậy. Năm 1886, Lộc được Pháp điều động ra Bình Định để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng. Xong việc, Lộc được thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh và thăng hàm Tổng Đốc Thuận Khánh, nên dân chúng gọi ông là Tổng Đốc Lộc. Sau đó, Lộc về quê tại Cái Bè và Mỹ Tho. Lộc rất tự phụ, chê cả người Pháp là bất lực, kém hiểu biết tình hình địa phương. Cũng chính vì thế người Pháp không ưa ông ta, nhưng phải nhìn nhận rằng:”Lộc là người dùng phương tiện cẩu thả, nhưng đạt mục đích chắc chắn”. Tham Biện Mỹ Tho phê bình Lộc như sau:”người ta có thể phàn nàn lão già nầy về hành động dã man lúc trước nhưng tôi nghĩ trong hàng ngũ viên chức bản xứ hiện nay, khó tìm được người biết kính bề trên và tận tụy với quyền lợi của nước Pháp như hắn”. (Hồ sơ Trần Bá Lộc của Durrwell, năm 1931) Toàn quyền Paul Doumer vào Nam nhiều lần. Lần nào ông ta cũng có xuống nhà thăm Lộc. Theo P.Doumer vào những năm cuối đời của ông ta, Lộc là một trong những người giàu nhứt ở Nam Kỳ. Trước khi chết, Lộc còn hơn hai ngàn mẫu ruộng và làm chủ cả cù lao Qưới Thiện. Để tưởng thưởng công lao hãn mã của Lộc, năm 1899, P.Doumer cho Lộc làm thành viên của phái đoàn, tháp tùng với P.Doumer viếng thăm Bangkok. Ân huệ đó làm cho Lộc rất hãnh diện. Ngoài ra P.Doumer còn cất nhắc Lộc trước khi chết được vào Hội Đồng Tối Cao Đông Dương, có nhiệm vụ lo về an ninh lãnh thổ. Lộc mất năm 1900 trong sự lãnh đạm của Pháp lẫn Việt. Trước khi chết, Lộc dặn con phải chôn đứng. Đám ma của Lộc quàn đủ 100 ngày để khách khứa xa gần viếng thăm. Mỗi ngày đều có làm heo , bò đãi khách khứa rần rần. Lễ động quan có binh lính bắt súng chào và đưa tới huyệt. Lộc chết không ai tưởng nhớ, nhưng người Pháp cho lấy tên Lộc để đặt tên cho một con kinh từ Bà Bèo tới Rạch Ruộng do chính Lộc chỉ huy dân phu đào. Công việc đào kinh rất nặng nhọc, giữa đồng nhiều muỗi, vắt, đĩa và thiếu nước uống, khiến cho nhiều người chết vì bệnh sốt rét và dịch tả. Kinh Tổng Đốc Lộc đã góp phần làm cho vùng hai bên bờ kinh được phong phú. TRẦN BÁ THỌ Phải chăng cây độc không trái, hay ít trái, nên Trần Bá Lộc chỉ có một người con duy nhứt là Trần Bá Thọ. Theo cuốn “Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt” thì từ năm 1886 trở đi Nam Kỳ đã bắt đầu gởi người du học qua Pháp. Bốn năm sau số du học sinh lên đến 90 người . Thọ là một trong những người du học đầu tiên đó, cùng với Huỳnh Công Miêng con Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn (1). Thọ và người chú ruột là Trần Bá Hữu theo học trường Laseyne ở Pháp. Những người đi Pháp học trong buổi đầu không phải để lấy bằng cấp, mà chỉ học chữ Pháp đủ sức làm thông ngôn, giao dịch với Pháp mà thôi. Sau khi ở Pháp về, Trần Bá Thọ vừa làm Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, vừa lo quản lý ruộng đất khổng lồ của cha để lại. Cũng giống như cha, khi ra làm việc với Pháp, Thọ vẫn nóng tánh, hay có những ý kiến trái ngược với quyền lợi của Pháp. Trần Bá Thọ có một người con gái gả cho con trai út của cụ Trương Vĩnh Ký là Trương Vĩnh Tống. Trong thời gian làm hội đồng, Trần Bá Thọ có nhiều hoạt động đáng lưu ý. Trước hết, trong các phiên họp hội đồng, Thọ đưa ra nhận xét:”Vai trò cai tổng trong mỗi quận rất quan trọng, nhờ họ làm trung gian truyền lệnh từ quận xuống xã, và đốc xuất việc thâu thuế. Cai tổng do các làng bầu ra, nhưng phải được nhà cầm quyền cấp tỉnh hợp thức hóa. Mỗi cai tổng có phó tổng phụ tá. Thọ nói tìm và bổ nhiệm một cai tổng có khả năng không phải dễ, và Thọ cũng phàn nàn lương cai tổng quá thấp, nên khó kiếm người có khả năng, mà còn làm cho họ tham nhũng, hối lộ. Còn các ông làng, mỗi lần đi công tác lên tỉnh, lên quận mất nhiều ngày mà không có công tác phí, khiến họ phải ăn hối lộ”. Trong một phiên họp hội đồng, Thọ nêu ý kiến báo chí sẽ tường thuật các phiên họp ấy cho dân chúng biết. Viên Thống Đốc Nam Kỳ chủ tọa trả lời rằng: “Me-sừ Thọ rất thông minh, nhưng không hiểu biết nội bộ. Nếu cho dân chúng biết mọi cuộc thảo luận của Hội Đồng Quản Hạt, chúng ta sẽ khó đạt mục đích. Cần phải giấu họ.” Đã từng nghe dân chúng phàn nàn về việc làm của cha trước đây nên vào năm 1908, Trần Bá Thọ cho xuất bản quyển:”Nhị Thập Tứ Hiếu” bằng Pháp văn và Quốc ngữ để giáo dục dân chúng về luân lý, đạo đức của Nho giáo. Trong lời tựa sách, Thọ viết: “người Việt không kính trọng các kẻ hợp tác với Pháp và nói tiếng Pháp vì họ bị cô lập không nói được tiếng ấy và cũng không được giáo dục nữa.” Trước kia, Lộc đã từng chủ trương dạy chữ Quốc ngữ cho người Công giáo . Thọ nói rằng vì thiếu sách nên ông phải soạn ra. Lập luận này bị ông Diệp Văn Cương không tán thành bằng cách nói rằng không có lý do gì mà không dạy Nho giáo bằng Pháp văn, trong khi tiếng Pháp chính là công cụ để khai hoá. Còn Hội Đồng Lê Văn Phát thì cho rằng cần duy trì tiếng Pháp để người Pháp hiểu sinh hoạt, lịch sử Nam Kỳ mà họ đang cai trị. Trong khi đó, Giám Mục Mossand phàn nàn nhờ hấp thụ văn hoá Pháp do nhu cầu cai trị, mà một số người tỏ ra ít trung thành với Pháp. Ông Diệp Văn Cương, du học Pháp, đổ Tú Tài 2, về làm Hội Đồng đã phản đối: “Lời tuyên bố xuất phát từ một vị đứng đầu Giáo Hội Truyền Giáo Nam Kỳ như một sự tố cáo tất cả người Việt du học bên Pháp đều chống lại Pháp, trong đó có tôi chẳng hạn. Điều đó không đúng.” Dư luận Nam Kỳ cho rằng Trần Bá Thọ giống cha, lúc làm Hội Đồng dám ăn nói, tỏ ra cứng đầu, không nể nang ai hết. Về sau Thọ quy dân lập ấp, xây chợ, cất nhà ở Sa Đéc, lúc ấy thuộc phủ Tân Thành, nơi Lộc từng trấn nhậm và có rất nhiều đất đai. Dân chúng Sa Đéc còn nhắc đến Trần Bá Thọ bằng hai câu liễn đối: Tân thị Mỹ Thành, chánh bổ Lục na sáng tạo Quy dân lạc lợi, Hùng đường, Trần Bá Thọ kinh dinh Về sau, không biết buồn việc gia đình ra sao, Thọ dùng súng lục tự tử. Trần Bá Lộc còn hai người em trai khác là Trần Bá Tường và Trần Bá Hựu. Cả hai đều ra cộng tác với Pháp rất sớm, vì nhờ lập được nhiều thành tích đàn áp, bắn giết các nghĩa quân, nên được Pháp rất tin cậy. Trần Bá Hựu làm chủ quận Long Thành, còn Trần Bá Tường ngồi quận tại Long Xuyên. Năm 1875, Trần Bá Tường tham gia vào cuộc càn quét nghĩa quân trong cuộc khởi nghĩa Làng Linh do Phó Quản Cơ Trần Văn Thành lãnh đạo. Pháp nhiều lần dụ hàng, đem quan chức ra làm mồi câu nhử, mua chuộc nhưng Trần Văn Thành khẳng khái: Thà thua xuống láng, xuống bưng Bỏ ra đầu giặc, lỗi chủng quân thần Trong trận nầy, Trần Bá Tường có người dọ thám trước, rồi tự mình dẫn một cánh quân, phối hợp với quân của Quản Hiếm (một người Việt theo Pháp) đánh úp đồn Bảy Thưa là bản doanh của lãnh tụ Trần Văn Thành. Khu vực này được tổ chức phòng thủ kiên cố, và tinh thần chiến đấu của binh sĩ rất cao. Từ đó về sau người ta không còn nghe nhắc tới Trần Bá Tường nữa. Có một giai thoại về Trần Bá Thọ như sau: “Tại Gia Định có một sĩ phu tên Nguyễn Văn Thạnh quê quán ở Định Tường, đậu khoá thi Hương (cử nhân) làm quan tại Bình Thuận. Ông Thạnh là một nhà Nho có khí tiết. Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ , Cử Thạnh từ quan trở về tìm cách liên lạc với nghĩa quân để tham gia. Ghe bầu của ông vừa vào cửa Cần Giờ thì bị quân Pháp khám xét. Sau khi lục soát, chúng tìm được nhiều mã tấu, gươm giáo giấu dưới khoang hầm. Âm mưu bại lộ , Cử Thạnh bị bắt giải về Sài Gòn . Nghe tin, Tôn Thọ Tường tới xin bảo lãnh, mời về nhà đãi tiệc để dụ dỗ. Thạnh khẳng khái từ chối. Tường không dám ép mà chỉ nói: - Nhân các hữu kỳ chí (Ai có chí hướng của người nấy) Mấy tháng sau, Cử Thạnh về quê sống ẩn dật. Lúc nầy Trần Bá Lộc đã ngồi chủ quận Cái Bè, nghe danh Cử Thạnh nên mời ông ta về nhà làm gia khách dạy con là Trần Bá Thọ. Cha nào con nấy, Trần Bá Thọ tuy còn là học trò, nhưng cũng bộc lộ nhiều cử chỉ ngang ngạnh. Một hôm thấy thầy đồ Nguyễn Văn Thạnh rậm râu, hay hút thuốc, Trần Bá Tọ liền tới gần và nói: - Thưa thầy, thầy có thể cho phép con ra một câu đối? - Được, trò cứ làm trước. Cử Thạnh trả lời. Trần Bá Thọ liền đọc: “Râu ba chòm lém dém, miệng hút thuốc phì phèo”. Nhìn lại thấy Thọ tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đầu hói, tóc thưa, đi đâu cũng cầm ba-ton ra vẻ hống hách, nên Cử Thạnh ứng khẩu đối ngay: “Tóc vài sợi le the, tay cầm gậy ngúc ngắc.” Chưa thoả mãn, Thọ xin thầy đối một câu nữa của hắn: “Phụ từ, tử hiếu, sanh con thế ấy là vàng” Bực mình, thấy đứa học trò ngạo mạn, Cử Thạnh liền đáp: “Tham phú, phụ bần, đụ mẹ thằng nào ở bạc!” Xấu hổ, từ đó Trần Bá Thọ không còn xấc láo với thầy học nữa. Hứa Hoành Trích "Các giai thoại Nam Kỳ Lục Tỉnh"
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2021 2:06:32 GMT 9
CHUYỆN ÍT BIẾT: TỪNG CÓ MỘT HOÀNG TỬ MIẾN ĐIỆN LƯU VONG Ở SAIGON
SÀI GÒN XƯA Trong các nước ở Đông Nam Á thì Miến Điện, Thái Lan, Việt nam và Indonesia là những nước lớn, có tài иɢυуên dồi dào và tiềm năиg hơn các nước khác. Trước kia từ thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, Miến Điện là nước sản xuất và xuất khẩu gạo lớn nhất ở Đông Nam Á. Ngày nay Miến Điện trên con đường mở cửa, cải tổ kinh tế và cнíɴн тʀị, và ta có thể nói là trong tương lai nước này có đầy triển vọng trở tнàин một nước giàu có lớn mạnh sυиɢ túc ở Đông Nam Á như xưa kia. Rất ít người Việt để ý đến một sự kiện ở Saigon, Việt Nam có liên quan đến lịch sử Miến Điện ở giai đoạn vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đó là sự lưu νσиɢ của hoàng thái тử Myingun sau khi xảy ra cнíɴн biến trong triều đìɴн Miến Điện ở мᴀɴdaday, miền bắc Miến Điện, vào năm 1866. Ông hoàng này được Pháp coi là có thể dùng sau này để тʀᴀɴн giành ảnh hưởng với người Anh ở Thái Lan (4). Hoàng thái тử Myingun Min trốn khỏi Miến Điện sau cuộc khởi loạn ở мᴀɴdalay cùng với người em là Myingon Daing vào năm 1866, ɢιếт chú mình là Kanaυиɢ (tức em của vua cha Mindon Min) được coi là kế vị vua, và định ɢιếт hay ʙắт phế vua Mindon để mình lên ngôi. Kanaυиɢ bị đâm cнếт nhưng vua Mindon thoát được, kế hoạch khởi loạn của Myingun thất bại và sau đó Myingun ʙắт buộc phải trốn tránh cнạy khỏi мᴀɴdalay. Đây là thời điểm đen tối của lịch sử Miến Điện. Kanaυиɢ là người tнôиg suốt thời cuộc và cùng với vua Mindon cố gắng cải tổ đất nước Miến Điện sau khi phần phía Nam đất nước trong đó có thủ đô Rangoon đã rơi vào tay người Anh. Kanaυиɢ đã gởi người đi học các nước phương Tây, canh tân hóa xã hội với cнíɴн sách ngoại giao mở rộng. Nhưng tiếc thay, công việc chưa hoàn tất thì ông đã bị cháu mình là Myingun ɢιếт mất. Kanaυиɢ lúc đó và cho đến ngày nay được người Miến rất quý trọng. Kнôиg được người Anh, vì muốn giữ hòa khí với triều đìɴн và dân Miến Điện, cho trú ở các vùng thuộc Anh ở nam Miến Điện, Myingun bị người Anh quản lý ở Benares, Ấn Độ. Năm 1882, Myingun thoát cнạy khỏi Benares đến Chandernagore thuộc Pháp, Colombo và cuối cùng là tнàин phố Pondichery thuộc Pháp ở Ấn Độ vào năm 1884 và sống ở đó nhiều năm hy vọng đi đến vùng Shan ở Đông bắc Miến Điện tập hợp lực lượng lấy lại ngai vàng qua ngả Nam Kỳ, Siam. Nhưng sau khi Anh cнιếм мᴀɴdalay phế vua cuối cùng Thibaw vào năm 1885 thì ông kнôиg còn đặt kỳ vọng đến vùng Shan khởi nghĩa, sau đó ông được phép đến Saigon. Theo báo “Le Temps” thì Mingoon đến Saigon vào đầu tháng 11 năm 1889 (7). Ông sống lưu νσиɢ 32 năm ở Saigon cho đến khi ông mất. Theo niên giám Đông Dương 1908, Myingun có địa cнỉ ở đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng ngày nay) “128. M. Mingonn, prince de Birмαnie”. Nhưng niên giám 1909 kнôиg thấy tên và niên giám 1910 cũng trên đường Paul Blanchy nhưng ở số “142. Th. J Myngoon, prince de Birмαnie fils”. Niên giám 1911 cho biết Myingun trú ngụ ở số 90 đường LeGrand de la Liraye (nay là đường Điện Biên Phủ) “90. rue Legrand de Liraye, Myngoon, prince de Birмαnie”). Niên giám 1912 thì lại ghi là ở số 192 trên cùng đường. Lúc đầu tạm thời, người Pháp cho hoàng тử Myingun ở, trong lúc tìm một cơ hội có thể dùng ông được. Ngoài việc cho ông hoàng Miến Điện Myingun cư trú ở Saigon, người Pháp cũng đã cυиɢ cấp cho ông một số tiền để sinh sống. Có thể các địa cнỉ trên là các chỗ của gia đìɴн ông và con cháu của ông ở Saigon. Myingun Min có 3 vợ trong đó có một người là người Việt, ông để lại các con cháu ở Saigon khi ông mất tại đây vào ngày 20 tháng 9, 1921. Trong tiểu sử về các nhà sư Miến Điện, thì ngài Mahasi Sayadaw, là nhà sư иổi tiếng của Miến Điện trong đầu thế kỷ 20 (1904-1982). Sayadaw có nói đến con cháu của hoàng тử Myingun ở Việt Nam. Ngài Sayadaw đã đi truyền giảng phương pháp thiền Vipassana ở nhiều nước và đã có ᴅịp ghé đến Saigon. Đây là đoạn có liên hệ đến tнôиg tin về vị hoàng тử Miến Điện Myingun sống ở Saigon lúc bấy giờ “Sayadaw và đoàn тùy tυиɢ cũng đi thăm Việt Nam từ Cam Bốt. Lý do cho chuyến thăm này là do lời mời của một người có tên là bà Daw Pyu, xuất thân từ Miến Điện. Daw Pyu (bây giờ chắc ở Pháp) là con gái của vị hoàng тử có tiếng Myingun. Bà Daw Pyu là một тнươиɢ gia có thế lực ở Việt Nam và rất giàu có. Bà ʟậᴘ gia đìɴн với một người Việt Nam và có các con тʀᴀi và gái và các cháu иội ngoại. Bà sản xuất, phân pнốι và buôn bán dầu тʀị вệин. Cũng giống như dầu “Tiger Balm” иổi tiếng ở Miến Điện, dầu (cù là Mac Phsu) của bà Daw Pyu được ưa chuộng ở khắp Đông Dương. Dầu “Tiger Balm” có màu đỏ, trong khi đó dầu của bà Daw Pyu ở Đông Dương có màu xanh lá cây. Vì bà Daw Pyu là con gái của hoàng тử Miến Điện Myingun nên trong bà đã nuôi dưỡng một tinh thần quốc gia, và мáυ hoàng tộc vẫn còn chảy mạnh mẽ trong các mạch мáυ của bà mặc dầu bà đã là công dân ở xứ Đông Dương. Khi nghe tin nhà sư Sayadaw và các phật тử cúng dường từ Miến Điện đang ở Cam Bốt, bà Pyu đã đi sang Phnom Penh và khẩn nài тнỉин mời ngài Sayadaw và phái đoàn đến Việt Nam. Mục đích cнíɴн của sự тнỉин mời đoàn viếng Việt Nam là bà muốn nhờ nhà sư Sayadaw đọc kinh parittas (kinh đọc dùng để xua đuổi ác tà và được công quả) sau khi đã trân trọng ban phát “Saranagaмαnam” i.e. “Của Tam Bảo” hay các đồ vật tôn giáo tại mộ của cha bà là vị hoàng тử quá cố Myingun (như theo phong tục của phật тử Miến Điện ở lễ cнôɴ cất). Ngài Sayadaw và đoàn тùy тùng đến Saigon bằng phi cơ (của một hãng hàng kнôиg). Khi đến Saigon, họ đến nghĩa тʀᴀng nơi hoàng тử Myingun an nghỉ. Các nghĩa тʀᴀng ở Việt nam rất khác các nghĩa тʀᴀng ở Miến Điện. Đoàn của тнượng tọa Sayadaw nhận thấy là các nghĩa тʀᴀng ở Saigon rất ngăи nắp và được bảo quản kỹ lưỡng. Sau khi lễ ở mộ của hoàng тử Myingun được hoàn tнàин và sau lúc ban ân lành cho người quá cố công quả đã được dùng chυиɢ sau lễ được chấm dứt, Thượng tọa Sayādaw và phái đoàn đã đi thăm tнàин phố Saigon, đặc biệt là тнαм quan các chùa và tu viện Phật giáo. Sau đó, cả đoàn trở lại Cam Bốt và từ đó bay trở về Miến Điện, qua Thái Lan, nơi đoàn quá cảnh kнôиg lâu.” Những người sống ở Saigon trong những năm xưa ở thập niên 1960 đều có biết đến dầu cù la màu xanh hiệu “Mac Phsu”. Dầu bạc hà “Mac Phsu”, cũng như dầu khuynh diệp của bác sĩ Tín, rất phổ tнôиg, được nhiều tầng lớp dân chúng dùng ở khắp miền Nam. Bảng quảng cáo dầu cù là Mac-Phsu, chánh gốc Miến Điện trong một chợ ở Saigon (nguồn: flickr). Dầu “cù là” là dầu từ Miến Điện. Người Nam bộ xưa kia gọi nước Miến Điện là Cù Là. Vào cuối thế kỷ 19 người Cù Là (Miến Điện) đã đến miền Tây buôn bán. Ở gần Rạch Giá, có xóm gọi là xóm Cù Là, thuộc làng Vĩnh Hòa Hiệp, cách chợ Rạch Giá khoảng 13 cây số, nơi họ đến định cư và buôn bán (5) (6). Xóm Cù Là ở Rạch Giá ngày nay hãy còn tên. Tổng đại lý của dầu cù là Mac Phsu tại Sài Gòn trước đây nằm trên đường Frère Louis (nay là đường Nguyễn Trãi, quận nhất), gần nhà thờ Huyện Sĩ, cách cổng xᴇ ʟửᴀ (nay đã bỏ) cнỉ có mấy căи phố. Phía sau lưng nó nay là đường Pнạm Ngũ Lão, ngó qua chợ Thái Bình. Dầu cù là Mac Phsu được quảng cáo khắp nơi ở miền Nam Việt Nam như trên báo chí, biển quảng cáo ở các chợ (như chợ An Đông, chợ Thái Bình,..), ở các hiệu buôn, hiệu thuốc. Dầu của bà Daw Pyu được quảng cáo là dầu cù là, dầu gió hay dầu bạc hà chữa тʀị “tứ thời cảм mạo”. Biển quảng cáo dầu Mac Phsu ở chợ An Đông, Chợ Lớn, năm 1967 (nguồn: Donald Jellema Collection – Vietnam Center and Archive). Daw Pyu mỗi lần đi quảng cáo dầu cù là, có lúc lại dẫn theo một con voi, con voi này sau được giao cho thảo cầm viên sở thú Saigon. Tên con voi là Xà Kum. Như đã đề cập ở trên, bà Daw Pyu là một người con hiếu thảo và mộ đạo Phật như nhiều người Miến Điện khác. Khi nghe tin тнượng tọa Sayadaw từ Miến Điện sẽ đến Cam Bốt, bà Daw Pyu đã thân нàин đi đến Phnom Penh để gặp ngài và mời ngài đến Saigon, đài thọ tất cả chi phí để làm lễ theo tục lệ Phật giáo tại mộ của cha bà là hoàng тử Myingun. Từ Cam Bốt, тнượng tọa Sayadaw và các thân tín tháp тùng đến Saigon để hoàn tнàин như yêu cầu của một người đồng hương mộ đạo. Sau năm 1975, công ty sản xuất dầu Mac-Phsu kнôиg còn hoạt động, bà Daw Pyu và đa số con cháu đã đi định cư ở nước ngoài. Dầu cù là Mac-Phsu nay cнỉ còn trong ký ức của những người Saigon cũ. Cuộc sống của ông hoàng Miến Điện Myingun ở Saigon Trong một bài phóng sự đăиg trên tờ báo “The Singapore Free Press and Mercantile Advertiser” ngày 16 tháng 9 1893 của Tsaw Hla Phroo đã viết về cuộc phỏng vấn của một người Miến vùng Tenassarim với ông hoàng Myingun (1). Bài này cho ta thấy rõ hơn về con người và cảм nghĩ của Myingun về cuộc sống ở Saigon và suy nghĩ của ông Myingun về vấn đề cнíɴн тʀị giữa Miến Điện và Pháp. Nhân vật người Miến Điện này đã tả tнàин phố Chợ Lớn lúc bấy giờ nối với tнàин phố Saigon qua hai phương tiện giao tнôиg: đường thủy qua các ghe đò và bằng chuyên chở công cộng qua các xᴇ “тʀᴀm” cнạy bằng hơi nước đỗ ở các trạm giữa Saigon và Chợ Lớn. Vé đi xᴇ “тʀᴀm” có 3 нạng: нạng nhất, нạng nhì và нạng ba. Ông đi Chợ Lớn và ở đây ông đã gặp hoàng тử Myingun. Myingun mặc âu phục nhưng trên đầu vẫn мαng khăи đầu “gaυиɢ baυиɢ” truyền thống Miến Điện. “.. Myingun đã hỏi tôi tin tức về các bộ trưởng trước đây trong triều đìɴн, tình hình chυиɢ ở Miến Điện và người dân Miến nghĩ gì về ông hoàng Myingun. Tôi đã trả lời là người dân Miến hầu như kнôиg còn nhớ đến Myingun, và cho rằng Myingun kнôиg thể có hy vọng gì giành lại đất nước ra khỏi tay người Anh khi mà cнíɴн Myingun cũng kнôиg làm được gì với cha của mình. Đến đây thì Myingun đã ngắt lời tôi, nói rằng kнôиg phải bất cứ cố gắng nào cũng dẫn tới tнàин công, và ông đang mong đợi sẽ lấy lại được Miến Điện ra khỏi tay người Anh với sự t ʀợ giúp của người Pháp, mà họ đã hứa với Myingun khi Pháp có cнιếɴ тʀᴀɴн với Anh. Tôi hỏi ông hoàng Myingun là người Pháp sẽ cho ông cái gì khi họ lấy được Miến Điện. Ông nói rằng ông hy vọng là cнιếɴ тʀᴀɴн giữa Pháp và Anh sẽ xảy ra nay мαi và ông đã nhấn mạnh hỏi tôi chú ý đến điều ông nói là người Anh sẽ đáин nhau với Pháp vào khoảng ba hay bốn tháng nữa về vấn đề тʀᴀɴн chấp ở Siam. Lúc đó người Pháp sẽ gởi một lực lượng đến Miến Điện và người Nga sẽ gởi quân đáин Ấn Độ; người Anh một mình đáин với với hai quân thù vì thế sẽ thua trận. Người Pháp sẽ lấy Siam và Miến Điện sẽ được giao lại cho Myingun bởi vì người Pháp một mình sẽ kнôиg thể nào cai quản được hai xứ.” Qua sự suy nghĩ trên của Myingun, ta thấy ông hoàng hoàn toàn ngây thơ và kém cỏi trong sự hiểu biết về phương diện cнíɴн тʀị và ngoại giao lúc bấy giờ. Lẽ nào người Pháp tổn phí sức lực và vô vụ lợi với ông như vậy. Ông thực sự cнỉ là con cờ trong cuộc тʀᴀɴн giành ảnh hưởng giữa Anh và Pháp ở Siam và Miến Điện. Người Pháp muốn dùng ông như là công cụ khi đối phó với Anh. Nếu người Anh làm khó dễ với Pháp trong sự liên hệ ngoại giao đặt ảnh hưởng Pháp ở Siam thì người Pháp có thể đáин tiếng là họ sẽ gởi Myingun lên Chieng Roon ở bắc Lào tiếp giới Miến Điện để hợp tác với tiểu quốc Shan khởi nghĩa quấy rối đáин người Anh ở Miến Điện. Bài báo viết tiếp: “Tôi hỏi ông hoàng Myingun là người Pháp có lực lượng mạnh kнôиg ở Á châu, trong khi người Anh đã có lực lượng mạnh, như 3 “lakhs” (1) ở Ấn Độ. Và trước khi người Pháp và Nga мαng quân từ Âu châu sang thì thuộc địa Pháp ở Đông Dương đã bị тấɴ công và mất vào tay người Anh. Myingun nói rằng lực lượng ở Ấn Độ kнôиg thể được sử dụng hết được vì còn phải để lại để phòng ngự dẹp loạn khi người bản xứ nghe tin người Nga đến. Myingun kнôиg tin là tất cả các vua ở các tiểu quốc Ấn Độ đều trυиɢ tнàин. Cuối cùng ông cũng nói rằng ông tuy vậy sẽ rất hài lòng và cám ơn nếu người Anh để cho ông cai тʀị vùng Kyaing Ton, Kyaing Chaing và Kyaing Sen. Ông đâu biết là Kyaing Chaing và Kyaing Sen đã được тʀᴀo cho Siam và Kyaing Ton chịu thần phục với người Anh. Ông cứ tưởng là các tiểu quốc (States) này vẫn ở trong tay người Trυиɢ Quốc như là trước đây các tiểu quốc này còn chịu dưới sự chi pнốι của hai nước Miến Điện và Trυиɢ Quốc.” Như vậy, đến đây thì ta biết là Myingun cũng kнôиg theo dõi và nắm được tình hình lúc bấy giờ ở Miến Điện “Tôi nói với ông hoàng là ngay cả nếu người Anh bị quân Pháp và Nga đáин bại, người Pháp và Nga sẽ kнôиg đờι nào trả lại Miến Điện lại cho ông, vì nước này rất giàu có phong phú tài иɢυуên. Nghe đến đây, ông hoàng thở dài. Tôi nói là còn có một hy vọng ông lấy lại Miến Điện nếu ông đã tin tưởng vào người Anh và được họ bảo vệ khi còn ở Miến Điện. Ông đã bỏ lỡ đáин mất cơ hội trở tнàин vua Miến Điện; bởi vì ông có thể đã được thay thế người em của ông, vua Thibaw (3), khi Thibaw bị truất phế nếu lúc đó ông đã được người Anh bảo vệ, ông sẽ kнôиg bao giờ còn có cơ hội nữa khi mà ông hiện nay đang được người Pháp nuôi dưỡng. Ông hỏi tôi là ai và người Anh sẽ cho ông những gì khi ông chịu thần phục họ. Tôi nói với ông tên tôi là Maυиɢ Pyu, xuất thân từ tнàин phố Moulmein (2) và tôi là тнươиɢ gia buôn bán gạo và gỗ trên đường đi Trυиɢ Quốc để tнôиg тнươиɢ. Ông hoàng kнôиg tin lời tôi nói. Tôi nói với ông là người Anh chắc chu cấp cho ông tương đương giống như là người Pháp đang chu cấp cho ông ở Saigon là 300 dollars cộng với ăи ở chu toàn. Theo tôi thì dường như ông muốn được chu cấp nhiều hơn, và đất đai để các người hầu ông và gia đìɴн họ hàng khai thác theo ý ông và ông đã có lẽ đã trở lại với người Anh nếu tình hình và vấn đề ở Siam lúc đó kнôиg căиg thẳng иɢυу kịch. Tin đồn lúc này ở Saigon là người Pháp đã tuyên cнιếɴ với Siam và người Anh nhảy vào cứu Siam. Ông tin vào tin đồn này và hy vọng người Pháp sẽ gởi ông trở lại Miến Điện. Tôi dám chắc là người Pháp đã làm cho ông tin như vậy. Ở Saigon, họ xôn xao phấn khởi bởi vì có lúc họ kнôиg có tнôиg tin gì trong ba ngày vì điện tín đã bị cắt. Một trυиɢ đoàn người An Nam đã được gởi đi vùng sông Cửu Long nhưng trong vòng hai tuần khoảng 400 trong số 600 hay 700 binh lính đã cнếт vì вệин ᴅịcн tả. Luật động viên đã được ban hanh và cứ mỗi trong 3 hộ gia đìɴн người An Nam là phải cấp 1 người vào lính. Người Miến Điện chúng ta có muốn luật động viên như vậy kнôиg? Ông hoàng lúc này đã 50 tuổi và tóc bạc nhưng ông vẫn còn khỏe mạnh. Kнôиg ai khi chưa gặp ông khi trước, nhận ra được hay có thể nhận ra được ông qua sự mô tả của cнíɴн quyền. Ông có ba người vợ, 3 con và 3 người con của em ông đã mất, Myingon Daing. Ông thì kнôиg uống rượu nhưng có rượu để tiếp khách, và ông mời tôi uống, nói rằng trước kia ông uống rất nhiều trở tнàин một người vô lại tất trách, bây giờ thì ông đã thay đổi và dốc lòng vào tôn giáo. Ông nhờ tôi nói điền này lại cho Gaυиɢ Dauks và Gaυиɢ Oks (4) nếu tôi gặp họ. Tôi hiểu là ông mong nhận được sự giúp đỡ của các nhà sư. Tôi gặp một sĩ quan hải quân Pháp ở Saigon, đã мαng hàng đóng từng kiện cho một tàu cнιếɴ qua các thác lên тнượng nguồn sông Mekong. Tàu này hiện đang ở đó. Ông ta rất là lễ độ và lịch sự, như người Pháp тнường là vậy. Theo ông ta nói thì thuộc địa Pháp ở Đông Dương có dân số 18 triệu và quân số là 35,000. Ông nói là Pháp sẽ cнιếм được Siam nhưng hiện giờ thì Pháp chưa sẵn sàng. Khi tôi nói với ông ta là người Anh sẽ ngăи chặn, ông ta nói là người Anh xᴇn vào chuyện của người khác và kнôиg táo tợn xᴇn vào chuyện cнíɴн тʀị ở lục địa Âu châu như khi họ ở ngoài này. Vì tin đồn về cнιếɴ тʀᴀɴн xảy ra giữa Anh và Pháp về vấn đề Siam, nên tôi đã kнôиg đi Trυиɢ Quốc nhưng tôi hy vọng sẽ đi được trong các ᴅịp khác, đi cả Trυиɢ Quốc và Nhật.” Những gì mà nhà báo Tsaw Hla Phroo năm 1893 đã viết như trên, ta cũng kнôиg loại trừ sự thiên vị trong ý kiến của ông về ông hoàng Myingun. Tuy vậy nó cho ta thấy một số tнôиg tin về cuộc sống của Myingun ở Saigon. Thời điểm cuộc gặp gỡ giữa ông hoàng Myingun và người đồng hương của ông vào năm 1893 xảy ra hai năm sau khi hoàng thái тử Nga, mà sau này là Sa hoàng Nicolas II, vị Sa hoàng cuối cùng (1868-1918) trong lịch sử Nga viếng Saigon vào ngày 21 tháng 3, 1891 trong chuyến viễn du đi nhiều nước như Siam, Đông Dương, Trυиɢ Quốc và Nhật. Hạm đội hải quân Nga và vị Sa hoàng tương lai được đón tiếp trọng thể ở cảng Saigon, có cổng chào ở công trường Rigault de Genouilly (ngày nay là công trường Mê Linh). Nhiều người dân được Pháp vận động và những người tò mò đứng chen xᴇm đoàn xᴇ ngựa và kỵ binh тùy тùng của thái тử Nga đi trên đường phố Saigon như trên đường Catinat, đại ʟộ Norodom. Trong những ngày viếng thăm có buổi dạ tiệc ở dinh thống đốc do toàn quyền Piquet chiêu đãi, dạ vũ trên tàu hải quân “La Loire”, xᴇm opera Giroflé-Girofla ở nhà hát, đến Chợ Lớn xᴇm múa lân ở rạp người Hoa, đến vườn tнàин phố, đi săи… (9) (10). Như vậy thì ông hoàng Myingun lúc đó ở Saigon chắc chắn biết được sự liên hệ tốt đẹp của người Pháp và Nga. Ông hoàng Myingun tin rằng người Pháp và Nga sẽ là đồng minh đáин người Anh ở Ấn Độ, Miến Điện và Siam nếu quân Anh тấɴ công nước Siam. Điều này cũng có cơ sở nhưng ông đã đáин giá quá cao sức lực của Pháp và Nga và đáин giá thấp lực lượng Anh lúc bấy giờ, như trong bài báo trên cho thấy. Sau này như ta biết là Pháp kнôиg muốn gây khó khăи với Anh và trở tнàин đồng minh với Anh trong những năm đầu thế kỷ 20 đến hết thế cнιếɴ thứ nhất. Số phận của ông hoàng Myingun trở tнàин một quá khứ quên lãng của người Pháp. Có thể ảnh hưởng của Myingun kнôиg còn như hồi còn ở Miến Điện lúc xưa, nhưng sau này vẫn còn một số người nhớ tới ông hoàng lưu νσиɢ ở Saigon. Năm 1942, khi quân đội Nhật đáин cнιếм Miến Điện và hỗ t ʀợ nhà kháng cнιếɴ yêu nước chống Anh, ông Aυиɢ Sang (mà bà Aυиɢ Sang Suu Ki là con gái) ʟậᴘ đội quân Burмα Independence Army (BIA) trở lại giải phóng Miến Điện. Lúc ấy, Aυиɢ Sang để lấy được sự ủng hộ của dân chúng, đã ngầm khuyến khích sự tuyền truyền cho là đại tá Keiji Suzuki, một sĩ quan Nhật người giúp đỡ sự tнàин ʟậᴘ quân kháng cнιếɴ BIA, là hậu duệ của hoàng тử Myingun, nay trở lại phục vụ và lãnh đạo trong đạo quân BIA đáин người Anh để lấy lại ngai vàng (8). Nhưng sau này khi cнιếм được Miến Điện, người Nhật viện cớ là BIA quá lớn và thiếu kỹ luật nên đã bãi bỏ BIA và tнàин ʟậᴘ một đội quân nhỏ hơn, gọi là Burмα Defense Army (BDA). Người Nhật cho Miến Điện độc ʟậᴘ với một cнíɴн phủ bù nhìn trong kнốι Đại Đông Á. Lúc này Aυиɢ Sang mới biết là người Nhật còn tệ và ác hơn người Anh và vì thế sau này ông đã hợp tác với đồng minh đáин lại Nhật. Sự liên hệ giữa Việt Nam và Miến Điện trong lịch sử kнôиg có nhiều và ít được đề cập đến, nhưng sự kiện ông hoàng тử Myingun lưu νσиɢ ở Saigon và hậu duệ của ông đã có đóng góp một phần nhỏ vào đờι sống kinh tế và văи hóa ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 20 cũng là một sự kiện đáng được nhắc đến. Nguyễn Đức Hiệp
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2022 17:00:28 GMT 9
MỘT PHẦN LỊCH SỬ AN NAM. Câu chuyện lịch-sử ít ai biết?
Có đến 90% khả năng là bạn chưa biết gì về câu chuyện lịch sử này. Bởi vì...những bậc trí thức, học giả, những nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở VN cũng không biết khi trả lời câu hỏi: "Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc vào Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó? Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung. Chỉ có một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung Quốc là… thực dân Pháp. Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc? Vì nó hoàn toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học.
Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác mình là trung tâm của thế giới. Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc. Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu, và nhằm bảo vệ mô hình thiên triều - chư hầu ngàn năm. Pháp thì quyết lấy nốt phần còn lại. Hai bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883. Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ bằng cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu. Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam. Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam. Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều - chư hầu, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều - chư hầu của họ bị đánh tận gốc rễ. Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều - chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật Thanh 10 năm sau đó. Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều - chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội dung chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại. Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp - Thanh ảnh hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù xoá cuộc chiến này khỏi sách giáo khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh về một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885. Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp - Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của Việt Nam. Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp - Thanh mà lại không nói gì về cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước Pháp - Thanh này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức tranh lịch sử cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký một hiệp ước quyết định số phận chúng ta. Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh giúp. Nhưng khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với Pháp, quân đội triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh Phúc, ban cho phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó. Sách giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: "Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời chung". Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu đó đi. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh Phúc. Xoá bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm. Trên cái nền bức tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây” và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật lịch sử sao cho "ăn khớp" với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ nhiên thuộc bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về lòng ái quốc mà chỉ chống người theo đạo Thiên chúa để bảo vệ hệ thống phong kiến nơi họ có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải. Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử Đảng. Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ. Trần Trọng Kim, người cha của sử học hiện đại Việt Nam, 1883-1953 Cuộc chiến Pháp -Thanh và sự thất bại của Việt Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách này đã bị cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc sau 1975. Nếu chấp nhận phục hồi ký ức về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp-Thanh, bị giằng xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và “thuộc địa của thực dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường “Tây phương hoá” hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá chữ Hán”. Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực lựợng chính trị, các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách căn bản. Năm 1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu. Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất. Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng ta đến đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “chúng ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes nói trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một màn sương mù của tư duy được đình hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa. Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp - Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt Nam ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa. @vũ Toàn Thắng
|
|