|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:21:37 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (chương 0) LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ
Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ ba mươi tư * của tủ sách SOS2, cuốn Precariat – giai cấp mới nguy hiểm (The Precariat – the new dangerous class) của Guy Standing (Blumsbery Academic, 2011).
Giáo sư Guy Standing là chuyên gia về lao động, ông đã từng nhiều năm làm tại Tổ chức Lao động Quốc tế, ILO, ông tự nhận là người cánh tả. Precariat là một khái niệm được ông phát triển trong cuốn sách này. Từ precariat có thể gợi nhớ đến từ precarious (không chắc chắn, bấp bênh) và proletariat (giai cấp vô sản), tuy nhiên đây là một khái niệm mà cả cuốn sách này muốn làm rõ. Nó là một giai cấp xã hội mới. Cuốn sách bàn về sự hình thành, các nguồn gốc, các đặc điểm của giai cấp mới này. Nó có thể bị các lực lượng dân túy và phát xít mới tận dụng ra sao và ông cũng gợi ý nó nên tự tổ chức thế nào để đóng vai trò xứng đáng của nó trong sự Biến đổi Toàn cầu (đặc biệt trong cuốn A Precariat Charter: From Denizens to Citizens, Một Hiến chương Precariat: Từ Những người Ngụ cư sang Các Công dân, Blumsbery Academic, 2014). Ngoài hai cuốn vừa nhắc đến bộ ba sách của ông gồm cả cuốn The Corruption of Capitalism – Why rentiers thrive and work does not pay: Sự Tham nhũng của Chủ nghĩa Tư bản – Vì sao những kẻ thu tô phát đạt và công việc không sinh lợi, phân tích giai cấp elite chỉ chiếm 1% (hay 0,01%) dân số nhưng sở hữu đến gần 40% của cải (trong khi 80% người từ dưới lên chỉ có 7% của cải) và đề xuất những cải cách để làm cho chủ nghĩa tư bản hoạt động cho nhiều người chứ không chỉ cho số rất ít.
Đáng lưu ý là, với tư cách chuyên gia về lao động, ông phân biệt rất rõ khái niệm công việc (work) và lao động (labour). Công việc được đặc trưng bằng giá trị sử dụng, còn lao động bằng giá trị trao đổi của nó. Nói cách khác lao động là một loại công việc được trả công, có thể được tính bằng tiền và được các lý thuyết kinh tế coi như cốt lõi của sự phát triển kinh tế; còn công việc là khái niệm rộng hơn; có thể có công việc không là lao động nhưng hết sức cần thiết và hữu ích cho cuộc sống.
Bộ ba sách này có thể giúp chúng ta hiểu kỹ hơn tình hình thế giới trong những năm qua (mà được thể hiện rõ rệt trong sự suy thoái dân chủ, sự nổi lên nhanh của chủ nghĩa dân túy nhất là qua nhiều cuộc bầu cử hay trưng cầu dân ý ở châu Âu, như tại Hungary, Áo, Ba Lan, Vương Quốc Anh và nhiều nước khác, hoặc ở Phillipines và Mỹ gần đây) và quan trọng hơn nó có thể giúp để vạch ra những chính sách phù hợp hơn, cũng như thúc đẩy sự cải cách chính trị cấp bách mà các lực lượng chính trị phải tiến hành, kể cả sự vất bỏ những mô hình đảng chính trị đã lỗi thời (mà có lẽ đang diễn ra ở nhiều nơi, nhất là ở Pháp gần đây).
Theo Guy Standing cấu trúc giai cấp của xã hội toàn cầu hóa nhìn giống một hình nón, trên đỉnh là elite, những người cực gàu và rất có quyền thế, là 1% hay 0,01% được nhắc tới ở trên. Bên dưới elire là giai cấp salariat (những người hưởng lương), giai cấp đang giảm dần của những người có việc làm ổn định với bảo hiểm xã hội và nhiều phúc lợi khác nhưng đang lo cho tương lai của con cái họ sẽ không được thế. Bên cạnh salariat là các profician (chuyên viên), các nhà tư vấn, những người tự làm việc độc lập. Dưới các profician là giai cấp vô sản, giai cấp lao động cũ của thế kỷ thứ hai mươi, đang teo dần ở mọi nơi. Dưới giai cấp này là precariat, và dưới cùng là giai cấp “hạ cấp-underclass”.
Precariat có thể được coi như gồm những người thiếu 7 hình thức an toàn liên quan đến lao động: 1) an toàn thị trường lao động (Labour market security); 2) an toàn công ăn việc làm (Employment security); 3) an toàn việc làm (Job security); 4) an toàn công việc (Work security); 5) an toàn tái tạo kỹ năng (Skill reproduction security); 6) an toàn thu nhập (Income security) và 7) an toàn đại diện (Representation security).
Nhìn một cách khác, đại thể precariat là một giai cấp gồm những người có ba nhóm đặc điểm chính
quen với cuộc sống lao động không ổn định, với sự tồn tại bấp bênh, bất an; họ không có một câu chuyện nghề nghiệp cho đời họ, về tôi là gì hay muốn trở thành gì, ngoài ra họ luôn phải làm nhiều công-việc-cho-lao-động, những công việc không được trả công, không được công nhận nhưng vẫn phải làm để thực hiện lao động được trả công vì nếu không làm họ sẽ phải chịu hậu quả; họ có mức giáo dục cao hơn mức lao động mà họ có thể nhận được khiến họ chịu tác động dẫn đến không kiểm soát được thời gian của mình, luôn đối mặt với sự bất trắc; họ phải dựa vào tiền công kiếm được để trang trải mọi thứ, chứ không có các trợ cấp khác như ngày nghỉ lễ có lương, lương hưu, bảo hiểm ý tế, vân vân; họ phải tự chịu rủi ro và hệ quả là họ không chỉ đối mặt với cuộc sống bấp bênh về kinh tế mà luôn bên bờ vực nợ nần, chỉ một sai lầm, một tai nạn, một quyết định sai họ có thể bị đẩy ra ngoài đường; họ ngày càng mất một cách có hệ thống các quyền quan trọng, các quyền dân sự, các quyền văn hóa, các quyền xã hội, các quyền chính trị không thấy các đảng chính trị hay các chính trị gia đại diện cho các lợi ích hay khát vọng của họ; họ mất các quyền kinh tế bởi vì họ không thể thực hành hay làm những việc mà họ có đủ tư cách và khả năng để làm; đó là thực tế của precariat. Và thực tế ấy không phải là một sự tình cờ, mà là hậu quả của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, của các chính sách tân-tự do và sẽ không biến mất. Bi kịch hiện thời là precariat bị chia rẽ thành ba phái:
phái được Guy Standing gọi là phái atavist (lại giống) là những người nhìn lại quá khứ, ông cha họ đã từng có sự tự hào nghề nghiệp của họ, dù là thợ khai mỏ, thợ tiện hay thợ điện, còn họ thì không có; họ cảm thấy mất cái quá khứ của tổ tiên và thường là những người ít học và dễ nghe sự dụ dỗ của những kẻ dân túy và phát xít mới; họ thực sự nguy hiểm và rất dễ lao vào nền chính trị mà tác giả gọi là nền chính trị địa ngục mà khiến ngày càng nhiều người cả thuộc các giai cấp trên hoảng sợ; phái thứ hai gồm những người nhập cư, người thiểu số, những người tỵ nạn, những người luyến tiếc vì họ cảm thấy không có quê hương cả ở đó và ở đây, họ thường cúi đầu cam chịu vì họ phải sống, nhưng ở mọi nơi áp lực đã đến mức mức bùng nổ và chúng ta không thể trách họ; phái thứ ba, phái tiến bộ, gồm những người đã học cao đẳng, đại học và cha mẹ họ bảo họ sẽ có tương lai tươi đẹp, nhưng khi ra trường họ đối mặt với sự phũ phàng của cuộc sống, không kiếm được việc làm ổn định và vẫn bị nợ nần, phải lang thang kiếm sống bằng những việc làm tạm thời hay bằng cách nào đó; họ có thể lo âu, thất vọng, xa lánh (anomic), họ đầy tức giận, nhưng họ không nghe theo sự dụ dỗ của những kẻ dân túy, dân tộc cực đoan hay phát xít mới mà họ muốn một nền chính trị tiến bộ, nền chính trị thiên đường. Sau khi làm rõ khái niệm, phân tích cấu thành của giai cấp mới và các đặc điểm của nó, cuốn Precariat dành chương áp chót, nền chính trị địa ngục, để vẽ ra một bức tranh rất đáng lo ngại nếu giai cấp mới này không tự tổ chức và bị các thế lực dân túy, thậm chí phát xít mới lợi dụng. Rất đáng tiếc các sự kiện trong 5-6 năm qua cho thấy điềm gở được tác giả cảnh báo đã đến nhanh qua những diễn biến chính trị và xã hội ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở các nôi của dân chủ như cuộc trưng cầu dân ý brexit ở Vương Quốc Anh hay bầu cử Tổng thống Mỹ vừa qua.
Tuy vậy, chương cuối, nền chính trị thiên đường, gợi ra các hướng (mà được bàn kỹ hơn trong cuốn Hiến Chương) có thể gây hứng khởi cho nhiều người.
Đây là một cuốn sách có thể gây tranh cãi, và việc tranh cãi là rất cần để thúc đẩy sự tiến triển của xã hội, hy vọng theo hướng tốt.
Đây không phải là một sách chuyên khảo về kinh tế học hay xã hội học, có nhiều khái niệm mới được giải thích kỹ trong văn bản, rất nhiều ý tưởng có vẻ ngược với tư duy thịnh hành. Tuy nhiên khi ngẫm nghĩ kỹ chúng ta sẽ thấy lập luận của tác giả rất thuyết phục.
Thí dụ, ý tưởng về một thu nhập cơ bản phổ quát (cấp tiền mặt một cách vô điều kiện hàng tháng cho tất cả những người cư trú hợp pháp trong một lãnh thổ). Tác giả là một trong những người sáng lập ra BIEN (Mạng lưới Thu nhập Cơ bản Châu Âu/Trái đất) từ 1986 và đổi tên từ Âu châu sang Trái đất (chữ E trong viết tắt trên) vào năm 2004. BIEN ngày càng thu hút nhiều người tam gia trên khắp thế giới, dù ý tưởng về thu nhập cơ bản đã được nhiều nhà tư tưởng nhắc đến từ đầu thế kỷ thứ mười sáu, như Thomas More (1516) và Johannes Ludovicus Vives (1526), Marquis de Condorcet (1794) và Thomas Paine (1796), đến Charles Fourier và John Stuart Mill (1948-1849), cho đến Bertrand Russell, George D.H. Cole, James Meade, James Tobin, John Kenneth Galbraith trong thế kỷ thứ hai mươi và nhất là từ các năm 1980 đến nay. Những nghiên cứu gần đây, nhất là những thí nghiệm được tiến hành ở nhiều nơi trên thế giới cho thấy một thu nhập cơ bản phổ quát:
là có thể chi trả được; và nhiều phê phán đối với nó đã bị bác bỏ, chẳng hạn như có thu nhập cơ bản người dân không trở nên lười biếng hơn mà ngược lại làm việc hăng say hơn, hiệu quả hơn; cổ vũ các đức hạnh của con người tử tế phát triển, khiến người dân vị tha hơn, khoan dung hơn; Ý tưởng về thu nhập cơ bản nhằm phân phối lại sự an toàn kinh tế (số 6 trong 7 loại an toàn mà precariat thiếu), là một phần quan trọng của ý tưởng chung về phân phối lại cả 7 loại an toàn, hay an ninh nói chung chứ không chỉ sự an toàn kinh tế, cho tất cả mọi người. Nói cách khác, giai cấp precariat đang hình thành có mục tiêu rõ ràng để tiêu diệt chính nó, tức là để xây dựng một xã hội thực sự nhân văn.
Ngoài ý tưởng về thu nhập cơ bản phổ quát, còn nhiều ý tưởng khác, như việc sử dụng thời gian, làm chậm cuộc sống để chúng ta có thể làm nhiều công việc hữu ích như chăm sóc, suy ngẫm,… hơn chỉ là lao động, hoặc để tâm đến việc phát triển sự thấu cảm, suy nghĩ giả như mình trong hoàn cảnh của người khác, để phát triển cuộc sống xứng đáng, cũng được bàn đến trong cuốn sách và đáng khích lệ là ngày càng có nhiều bằng chứng thực tế ủng hộ các ý tưởng như vậy. Một bằng chứng là cuốn sách này của ông đã được dịch ra gần hai mươi thứ tiếng.
Theo tôi, đây là một cuốn sách nền tảng hết sức quan trọng. Các nhà nghiên cứu chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, các chính trị gia, các nhà hoạch định chính sách, các nhà báo và các sinh viên cũng như tất cả những ai quan tâm đến việc hiểu kỹ hơn về tình hình thế giới và trong nước, đến việc xây dựng một xã hội mới, đến cải thiện dân chủ nhất thiết nên đọc cuốn sách này.
Người dịch đã cố gắng hết sức, nhưng chắc chắn bản tiếng Việt còn nhiều hạn chế mong được sự góp ý của quý bạn đọc.
Hà Nội, 22/5/2017 Nguyễn Quang A– – – – – LỜI NÓI ĐẦU CỦA TÁC GIẢ Cuốn sách này là về một nhóm mới trên thế giới, một giai cấp đang hình thành. Cuốn sách dự định để trả lời năm câu hỏi: Precariat là gì? Vì sao chúng ta phải quan tâm đến sự tăng lên của nó? Vì sao nó phát triển? Ai gia nhập nó? Và precariat đưa chúng ta tới đâu? Câu hỏi cuối cùng là cốt yếu. Có một nguy cơ là, trừ phi precariat được hiểu, sự nổi lên của nó có thể dẫn xã hội đến một nền chính trị địa ngục. Đây không phải là một dự đoán. Nó là một khả năng gây lo lắng. Nó sẽ chỉ được tránh nếu precariat có thể trở thành một giai cấp cho chính nó, với năng lực hoạt động hữu hiệu, và một lực lượng cho việc rèn đúc một ‘nền chính trị thiên đường’ mới, một chương trình nghị sự và chiến lược hơi không tưởng cho các chính trị gia và cho cái được gọi một cách hoa mỹ là ‘xã hội dân sự’, gồm vô số các tổ chức phi chính phủ mà cũng thường ve vãn trở thành các tổ chức tựa-chính phủ. Chúng ta cần nhận ra precariat toàn cầu một cách khẩn cấp. Có nhiều sự tức giận ở đó và nhiều lo lắng. Nhưng dù cuốn sách này nêu bật phía nạn nhân của precariat nhiều hơn phía giải phóng, đáng tuyên bố ngay từ đầu rằng là sai để thấy precariat về mặt đau khổ thuần túy. Nhiều người bị kéo vào nó đang tìm cái gì đó tốt hơn cái được chào trong xã hội công nghiệp và bởi chủ nghĩa lao động thế kỷ thứ hai mươi. Họ có thể không còn xứng đáng với tên Anh hùng hơn là Nạn nhân. Nhưng họ bắt đầu cho thấy vì sao precariat có thể là một điềm báo trước về Xã hội Tốt lành của thế kỷ thứ hai mươi mốt. Bối cảnh là, trong khi precariat đã tăng lên, thực tế bị che dấu của toàn cầu hóa đã nổi lên bề mặt với cú sốc tài chính 2008. Bị trì hoãn quá lâu, sự điều chỉnh toàn cầu đang đẩy các nước thu nhập cao xuống khi nó kéo các nước thu nhập thấp lên. Trừ phi những bất bình đẳng bị cố ý bỏ qua bởi hầu hết các chính phủ trong hai thập niên qua được sửa lại một cách triệt để, sự đau khổ và các hậu quả có thể trở nên bùng nổ. Nền kinh tế thị trường toàn cầu có thể rốt cuộc làm tăng tiêu chuẩn sống ở mọi nơi – ngay cả những người phê phán nó cũng muốn điều đó – nhưng chắc chắn chỉ các nhà tư tưởng là có thể phủ nhận rằng nó đã gây ra sự bấp bênh kinh tế cho nhiều, nhiều triệu người. Precariat ở các hàng trước, nhưng nó vẫn cần tìm Tiếng nói để đưa chương trình nghị sự của nó ra đằng trước. Nó không phải là ‘tầng lớp trung lưu bị ép’ hay một ‘hạ cấp-underclass’ hay ‘giai cấp lao động thấp hơn’. Nó có một bó khu biệt của các sự bấp bênh (bất an) và sẽ có một tập khu biệt ngang thế của các đòi hỏi. Trong các giai đoạn sớm của việc viết cuốn sách này, một bài trình bày về các chủ đề này đã được tiến hành cho cái hóa ra là một nhóm phần lớn đang già đi của các học giả theo phái dân chủ xã hội. Hầu hết đã chào đón các ý tưởng với sự khinh bỉ và nói đã chẳng có gì mới. Đối với họ, câu trả lời hôm nay cứ như nó đã là khi họ còn trẻ. Cần nhiều việc làm hơn, và các việc làm tử tế. Tất cả cái tôi sẽ nói cho các nhân vật đáng kính đó là, tôi nghĩ precariat sẽ không xúc động. Có quá nhiều người để tri ân tất cả họ từng người một vì sự giúp đỡ trong tư duy ở sau cuốn sách này. Tuy vậy, tôi muốn cảm ơn nhiều nhóm sinh viên và nhà hoạt động những người đã nghe các bài trình bày về các đề tài này trong mười sáu nước được viếng thăm trong thời gian chuẩn bị cuốn sách. Hy vọng các sự thấu hiểu và câu hỏi của họ đã thấm vào văn bản cuối cùng. Là đủ để thêm rằng tác giả của một cuốn sách giống cuốn này chủ yếu là một người chuyển tải các tư tưởng của những người khác. Tháng Mười Một 2010 Guy Standing – – – – – CÁC CHỮ VIẾT TẮT AARP American Association of Retired Persons (Hội Hưu trí Mỹ) AFL-CIO American Federation of Labor/Congress of Industrial Organizations (Liên đoàn Lao động/Hội nghị các Tổ chức Công nghiệp Mỹ) BBVA Banco Bilbao Vizcaya Argentaria (Ngân hàng BVA) BIEN Basic Income Earth Network (Mạng lưới Thu Nhập Cơ bản Trái đất) CBT Cognitive behavioural therapy (Trị liệu hành vi nhận thức) CCT Conditional cash transfer (Chuyển giao tiền có điều kiện) CIA Central Intelligence Agency (Cơ quan tình báo trung ương) CRI Crime Reduction Initiatives (Các sáng kiến giảm tội phạm) EHRC Equality and Human Rights Commission (UK) (Ủy ban Bình đẳng và Nhân quyền Anh) EU European Union (Liên minh châu Âu) GCSE General Certificate of Secondary Education (Bằng Chung về Giáo dục Cấp hai) IMF International Monetary Fund (Quỹ Tiền tệ Quốc tế) LIFO Last-in, first-out (Nhập sau, xuất trước) NGO Non-governmental organisation (Tổ chức Phi Chính phủ) NIC Newly industrialising country (Nước mới công nghiệp hóa) OECD Organisation for Economic Co-operation and Development (Tổ chức Phát triển và Hợp tác Kinh tế) RMI Revenu minimum d’insertion (Thu nhập tối thiểu) SEWA Self-Employed Women’s Association of India (Hội Phụ nữ Tự Kinh doanh Ấn Độ) UKBA UK Border Agency (Cơ quan Biên giới Anh) UMP Union pour un Mouvement Populaire (Đảng Liên minh vì phong trào Nhân dân [Pháp]) – – – – – * Ghi chú: Các quyển trước gồm: J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002; Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do (NXB Tri thức. 2007) J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002 J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002 G. Soros: Giả kim thuật tài chính H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, NXB Chính trị Quốc gia, 2006 [Sự bí ẩn của Vốn] J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu? F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô G. Soros: Xã hội Mở K. Popper: Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, I, Plato K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, II, Hegel và Marx Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học Thomas L. Friedman: Thế giới phẳng, Nhà xuất bản Trẻ, 2006 Một năm Hội nghị Diên Hồng Hungary do Nguyễn Quang A tuyển, dịch, biên soạn Kornai János: Bằng Sức mạnh Tư duy, tiểu sử tự thuật đặc biệt, NXB Thanh Hóa, 2008 Kornai János: Lịch sử và những bài học,NXB Tri thức, 2007 Peter Drucker: Xã hội tri thức, Quản lý, Kinh doanh, Xã hội và Nhà nước, tập tiểu luận Murray Rothabrd: Luân lý của tự do Amartya Sen: Tư tưởng về công bằng Kornai János: Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, dân chủ và thay đổi hệ thống Kornai János: Các ý tưởng về chủ nghĩa tư bản, NXB Thời Đại, 2012. Robert Kagan: Thế giới mà Mỹ tạo ra, 2012 Daron Acemoglu, James A. Robinson: Vì sao các Quốc gia Thất bại, 2012 (NXB Trẻ có bản dịch khác được xuất bản năm 2013) Kỷ yếu hội thảo Đại học Michigan: Bàn tròn Ba Lan-Những bài học, 2013 Thương lượng những thay đổi cơ bản: Hiểu và mở rộng các bài học của các cuộc đàm phán Tròn Ba Lan, 2013 Adam Michnik: Những lá Thư từ Nhà tù và các Tiểu luận khác, 2013 Elzbieta Matynia: Dân chủ ngôn hành, 2014 Josep M. Colomer: Lý thuyết Trò chơi và Chuyển đổi sang Nền dân chủ – Mô hình Tây Ban Nha, 2014 Lisa Anderson: Chuyển đổi sang Dân chủ, 2015 Paul J. Carnegie: Con Đường từ Chủ nghĩa Độc đoán đến Dân chủ hóa ở Indonesia, 2015 Hsin-HuangMichael Hsiao (ed.): Các nền Dân chủ Á châu Mới: So sánh Phillipines, Hàn Quốc và Đài Loan, 2015 Larry Diamond và Marc Plattner (biên tập) Dân chủ có Suy thoái?, 2016 Chistian Welzel, Tự do đang lên – Trao quyền cho con người và truy tìm sự giải phóng, 2016 – – – – – MỤC LỤC Chương mở đầu: Lời giới thiệu – Lời nói đầu – Danh mục chữ viết tắt Chương 1. Precariat Chương 2. Vì sao Precariat đang Tăng? Chương 3. Ai gia nhập Precariat? Chương 4. Những người Di cư: Các nạn nhân, kẻ xấu hay người hùng? Chương 5. Lao động, Công việc và sự Thúc ép Thời gian Chương 6. Một nền Chính trị Địa ngục Chương 7. Một nền Chính trị Thiên đường Phụ chương a: Tài liệu tham khảo Phụ chương b: Index
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:24:20 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (chương 1)
PRECARIAT
Trong các năm 1970, một nhóm các kinh tế gia được hứng khởi về ý thức hệ đã thu hút được tai và óc của các chính trị gia. Mục trung tâm của mô hình ‘tân-tự do’ của họ đã là, sự tăng trưởng và phát triển phụ thuộc vào tính cạnh tranh thị trường; mọi thứ phải được làm để tối đa hóa sự cạnh tranh và tính cạnh tranh, và để cho các nguyên tắc thị trường thâm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc sống.
Một chủ đề đã là, các nước phải tăng tính linh hoạt của thị trường lao động, mà có nghĩa là một chương trình nghị sự cho sự chuyển các rủi ro và sự bất an toàn lên những người lao động và gia đình của họ. Kết quả đã là sự tạo ra một ‘precariat’ toàn cầu, gồm nhiều triệu người khắp thế giới không có cái neo ổn định. Họ đang trở thành một giai cấp mới nguy hiểm. Họ dễ nghe các tiếng nói xấu xa, và sử dụng lá phiếu và tiền của họ để cho các tiếng nói đó một cương lĩnh chính trị ngày cảng có ảnh hưởng. Chính thành công của chương trình nghị sự ‘tân-tự do,’ được các chính phủ thuộc mọi màu sắc ủng hộ ở mức độ ít hay nhiều, đã tạo ra một quái vật chính trị đang phôi thai. Cần hành động trước khi quái vật đó ra đời.
Precariat cựa quậy
Ngày 1-5-2001, 5.000 người, chủ yếu là các sinh viên và các nhà hoạt động xã hội trẻ, đã tụ tập ở trung tâm thành phố Milan cho cái được dự kiến là một cuộc tuần hành 1-5 phản kháng thay thế (alternative). Vào 1-5-2005, hàng ngũ của họ đã phình lên hơn 50.000 nhiều – trên 100.000, theo một số ước lượng – và ‘Euro 1-5’ đã trở thành Liên-Âu, với hàng trăm ngàn người, chủ yếu người trẻ, đổ xuống đường phố khắp châu Âu lục địa. Các cuộc biểu tình đã đánh dấu các sự khuấy động đầu tiên của precariat toàn cầu.
Các nhà hoạt động công đoàn đang già đi, những người thường tổ chức các sự kiện 1-5, đã chỉ có thể bị sửng sốt bởi đám đông diễu hành mới này, mà các yêu sách của họ cho di cư tự do và thu nhập cơ bản phổ quát đã ít liên quan với chủ nghĩa nghiệp đoàn truyền thống. Các nghiệp đoàn đã thấy câu trả lời cho lao động bấp bênh trong một sự quay lại với mô hình ‘lao động chủ nghĩa-labourist’ mà họ đã thấy hết sức cốt yếu trong sự gắn kết trong giữa thế kỷ thứ hai mươi – nhiều việc làm ổn định hơn với sự an toàn việc làm dài hạn và các thứ lợi ích đi kèm với chúng. Nhưng nhiều người biểu tình trẻ đã thấy thế hệ cha mẹ họ tuân theo hình mẫu Fordist của các việc làm toàn thời buồn tẻ và lệ thuộc vào sự quản lý công nghiệp và các mệnh lệnh của tư bản. Dẫu thiếu một chương trình nghị sự cố kết thay thế, họ đã cho thấy không sự mong muốn nào để làm sống lại chủ nghĩa lao động.
Sự khuấy động đầu tiên ở Tây Âu, Euro 1-5 nhanh chóng lấy một đặc trưng toàn cầu, với Nhật Bản đang trở thành một trung tâm sinh lực đáng chú ý. Nó đã bắt đầu như một phong trào trẻ, với những người Âu châu có học bất bình bị làm cho xa lánh bởi cách tiếp cận thị trường cạnh tranh (hay tân-tự do) của dự án EU mà thúc giục họ theo đời sống của việc làm, tính linh hoạt và sự tăng trưởng kinh tế nhanh hơn. Nhưng các nguồn gốc lấy châu Âu làm trung tâm của họ đã nhanh chóng nhường đường cho chủ nghĩa quốc tế, như họ đã thấy tình trạng khó chịu của họ do nhiều sự bấp bênh gắn với cái xảy ra với những người khác khắp thế giới. Dân di cư đã trở thành phần đáng kể của các cuộc biểu tình precariat.
Phong trào lan sang những người với lối sống không-theo tục lệ. Và luôn đã có sự căng thẳng sáng tạo giữa precariat như các nạn nhân, bị các chính sách và định chế dòng chủ lưu trừng phạt và biến thành quỷ, và precariat như các anh hùng, bác bỏ các định chế đó trong một hành động được phối hợp của sự bất tuân trí tuệ và xúc cảm. Vào 2008, các cuộc biểu tình Euro 1-5 đã làm cho các cuộc diễu hành nghiệp đoàn còi cọc trong cùng ngày. Điều này đã diễn ra phần lớn không được công chúng rộng hơn và các chính trị gia để ý tới, nhưng nó đã là một sự tiến triển quan trọng.
Đồng thời, bản sắc kép với tư cách nạn nhân/anh hùng đã góp phần vào một sự thiếu cố kết. Một vấn đề nữa đã là sự không tập trung vào sự đấu tranh. Ai hay cái gì là kẻ thù? Tất cả các phong trào vĩ đại suốt lịch sử đã dựa trên giai cấp, dù tốt hơn hay tồi hơn. Một (hay vài ) nhóm lợi ích đã đấu tranh chống lại nhau, nhóm sau đã bóc lột và áp bức nhóm trước. Thường thường, cuộc đấu tranh đã là về việc sử dụng và kiểm soát các tài sản then chốt của sản xuất và hệ thống phân phối của thời đó. Precariat, dẫu sự kết hợp của nó có phong phú đến đâu, đã có vẻ thiếu một ý tưởng rõ ràng về các tài sản đó là những gì. Các người hùng trí tuệ của họ đã gồm Pierre Bourdieu (1998), người đã nói rõ sự bấp bênh, Michel Foucault, Jürgen Habermas, và Michael Hardt và Tony Negri (2000), mà cuốn Empire (Đế chế) của họ đã là một văn bản hạt giống, với Hannah Arendt (1958) ở phía sau. Cũng đã có những bóng của các biến động năm 1968, gắn precariat với Trường phái Frankfurt của One Dimensional Man (Con người Một Chiều) của Herbert Marcuse (1964).
Nó đã là sự giải phóng trí óc, một sự hiểu biết về ý nghĩa thông thường của sự bất an toàn. Song không ‘cách mạng’ nào đến từ sự hiểu đơn giản. Đã chưa có sự giận dữ hữu hiệu. Tình hình thế này bởi vì đã không có chương trình nghị sự hay chiến lược chính trị nào được rèn đúc. Sự thiếu một sự đáp ứng cương lĩnh đã được tiết lộ bởi sự tìm kiếm các biểu tượng, đặc trưng biện chứng của các cuộc tranh luận nội bộ, và các căng thẳng bên trong precariat mà vẫn còn đó và sẽ không biến đi.
Các lãnh đạo của các cuộc phản kháng Euro 1-5 đã làm điều tốt nhất của họ để gián gấy trên các vết nứt, theo nghĩa đen như các hình ảnh thị giác và poster của họ. Một số đã nhấn mạnh sự thống nhất lợi ích giữa người di cư và những người khác (migranti e precarie đã là một thông điệp được trương lên trên một poster Euro 1-5 ở Milan năm 2008) và giữa người trẻ và người già, như được đặt cạnh nhau một cách đồng cảm trên poster Euro 1-5 ở Berlin năm 2006 (Doerr, 2006).
Nhưng như một phong trào tự do chủ nghĩa (libertarian) cánh tả, nó còn phải kích động sự sợ hãi, hay thậm chí sự quan tâm, từ những người bên ngoài. Ngay cả những người tán thành nhiệt tình nhất của nó thú nhận rằng các cuộc biểu tình đã là diễn kịch hơn là sự đe dọa, nhiều hơn về sự khẳng định tính cá nhân và bản sắc bên trong một kinh nghiệm tập thể về tính bấp bênh. Theo ngôn ngữ xã hội học, các trình diễn công chúng đã là về niềm kiêu hãnh trong tính chủ quan bấp bênh. Một poster Euro 1-5, cho một diễu hành ở Hamburg, đã trộn bốn nhân vật trong tư thế bất tuân thành một – một người quét dọn, một người chăm sóc, một người tị nạn hay di cư và một người được gọi là lao động ‘sáng tạo’ (được cho là giống người thiết kế poster). Một vị trí nổi bật được trao cho một túi xách, được dựng lên như một biểu tượng về đời sống du cư đương đại trong thế giới toàn cầu hóa.
Các biểu tượng là quan trọng. Chúng giúp thống nhất các nhóm thành cái gì đó nhiều hơn vô số người lạ. Chúng giúp việc rèn một giai cấp và xây dựng bản sắc, nuôi dưỡng một nhận thức về sự tương đồng và một cơ sở cho sự đoàn kết hay fraternité (tình anh em). Chuyển từ các biểu tượng sang một cương lĩnh chính trị là cái cuốn sách này bàn về. Sự tiến hóa của precariat như năng lực hành động của một nền chính trị thiên đường vẫn phải chuyển từ kịch nghệ và các ý tưởng thị giác thành một tập các yêu sách lôi kéo nhà nước hơn là chỉ đánh đố hay chọc tức nó.
Một đặc điểm của các cuộc biểu tình Euro 1-5 đã là không khí carnival (lễ hội) của chúng, với nhạc salsa và các poster và các bài phát biểu được xây dựng quanh sự nhạo báng và hài hước. Nhiều hoạt động gắn với mạng lưới lỏng lẻo đằng sau chúng đã là sự hỗn loạn và táo bạo hơn là chiến lược hay đe dọa về mặt xã hội. Ở Hamburg, những người tham gia đã được tư vấn về làm sao để tránh trả tiền vé xe bus hay vé xem phim. Tại một cuộc phô trương trong 2006, mà đã đi vào folklore của phong trào, một nhóm gồm khoảng 20 thanh niên đeo mặt nạ carnival và tự gọi mình với các tên như Mẹ Nhện, Multiflex, Operaistorix và Santa Guevara đã đột kích một siêu thị đồ ăn uống sành điệu vào giữa buổi sáng. Họ chất đồ ăn uống xa xỉ đầy xe chở hàng, làm dáng để chụp ảnh và rồi bỏ đi, sau khi đưa cho người phụ nữ tính tiền một bông hoa với một ghi chú giải thích rằng họ đã tạo ra của cải nhưng đã không được hưởng gì. Tình tiết đã là nghệ thuật bắt chước đời sống, dựa trên phim The Edukators. Nhóm được biết như bọn Robin Hood đã chẳng bao giờ bị bắt. Họ đăng một ghi chú trên internet công bố rằng họ đã phân phát thức ăn cho các thực tập sinh, mà họ đã lựa ra từ những người lao động bấp bênh nhất trong thành phố.
Chắc là không có ý định thu được bạn bè hay ảnh hưởng tới xã hội dòng chính, các trò cười giống thế này gợi lại các tương tự lịch sử. Chúng ta có thể ở một giai đoạn trong sự tiến hóa của precariat khi những kẻ chống lại các nét đặc điểm chính của nó – sự bấp bênh về chỗ ở, về lao động và công việc và an sinh xã hội – là na ná như ‘các kẻ nổi loạn thô sơ’ mà đã nổi lên trong tất cả các biến đổi xã hội vĩ đại, khi các quyền hưởng cũ đã bị tước hết và các khế ước xã hội bị hất sang một bên. Đã luôn luôn có các Robin Hood, như Eric Hobsbawm (1959) đã tán dương một cách nổi tiếng. Họ đã thường phát đạt trong một giai đoạn trước khi một chiến lược chính trị cố kết để thúc đẩy lợi ích của giai cấp mới được hình thành.
Những người tham gia các cuộc diễu hành Euro 1-5 và các sự kiện đi kèm ở nơi khác trên thế giới chỉ là cái đỉnh của precariat. Có một số lớn hơn nhiều sống trong sự sợ hãi và bấp bênh. Hầu hết không đồng nhất với các cuộc biểu tình Euro 1-5. Song điều đó không khiến họ là phần kém tí nào của precariat. Họ trôi nổi, không có bánh lái và dễ giận dữ, có khả năng đổi hướng sang cực hữu hay cực tả về chính trị và ủng hộ chính sách mị dân dân túy lợi dụng sự sợ hãi hay ám ảnh sợ hãi của họ.
Precariat đã cựa quậy
Trong 1989, thành phố Prato, không xa Florence, đã hầu như hoàn toàn là Ý. Hàng thế kỷ, nó đã là một trung tâm dệt may lớn. Nhiều trong số 180.000 dân cư của nó đã gắn với các ngành đó, thế hệ này sau thế hệ kia. Phản ánh các giá trị cũ, thành phố Tuscan này đã thuộc phe tả một cách vững chắc trong hoạt động chính trị. Nó đã có vẻ là hiện thân của sự đoàn kết xã hội và sự điều độ.
Năm đó, một nhóm ba mươi tám công nhân Trung Quốc đã đến. Một giống mới của các hãng may đã bắt đầu nổi lên – được sở hữu bởi người nhập cư Trung Quốc và vài người Ý gắn với họ. Họ đã nhập khẩu ngày càng nhiều lao động Trung Quốc, nhiều người đến mà không có visa làm việc. Trong khi được nhận biết, người ta chịu đựng họ; họ đã góp vào nền kinh tế phát đạt và đã không đòi hỏi tài chính công vì họ đã không nhận được bất kể trợ cấp nhà nước nào. Họ đã gắn bó với nhau, bị nhốt trong một khu biệt lập nơi có các nhà máy Trung Quốc. Hầu hết đã đến từ một thành phố, thành phố duyên hải Wenzhou (Ôn Châu) tỉnh Zhejiang (Chiết Giang), một vùng với lịch sử dài về di cư kinh doanh. Hầu hết đến qua Frankfurt với visa du lịch ba tháng và đã tiếp tục bí mật làm việc sau khi visa hết hạn, tự đặt mình vào vị thế dễ bị tổn thương và bị bóc lột.
Trong 2008, đã có 4.200 hãng Trung Quốc được đăng ký ở thành phố và 45.000 công nhân Trung Quốc, chiếm một phần năm dân số thành phố (Dinmore, 2010a, b). Họ sản xuất 1 triệu áo quần mỗi ngày, trong 20 năm đủ mặc cho dân cư toàn thế giới, theo tính toán của các quan chức thành phố. Trong lúc đó, bị cắt bớt bởi người Trung Quốc và bị vùi dập bởi cạnh tranh từ Bangladesh và Ấn Độ, các hãng Ý địa phương bỏ rơi hàng đàn công nhân. Vào 2010, họ đã chỉ thuê 20.000 công nhân, 11.000 ít hơn năm 2000. Khi co lại, chúng đã chuyển nhiều công nhân hơn từ việc làm thường xuyên sang việc làm bấp bênh.
Rồi cú sốc tài chính đến, làm hại Prato theo cùng cách nó làm hại rất nhiều vùng công nghiệp cũ của châu Âu và Bắc Mỹ. Các vụ phá sản tăng nhiều lần, thất nghiệp tăng lên, sự oán giận trở nên kinh tởm. Trong mấy tháng, phe tả chính trị bị Liên đoàn miền Bắc bài ngoại quét khỏi quyền lực. Nó nhanh chóng tiến hành đàn áp người Trung Quốc, mở các cuộc truy quét ban đêm vào các nhà máy và các ‘xưởng bóc lột’ của họ, vây bắt các công nhân và biến họ thành quỷ sứ, đúng như đồng minh của Liên đoàn, Thủ tướng Silvio Berlusconi, đã nói về quyết tâm của ông để đánh bại ‘đội quân tội lỗi’, như ông đã mô tả những người nhập cư bất hợp pháp. Đại sứ Trung Quốc bàng hoàng đã vội đến từ Rome và nói rằng cái đang xảy ra làm ông nhớ loại bọn Nazi trong các năm 1930. Kỳ lạ, chính phủ Trung Quốc đã có vẻ không sẵn lòng nhận lại những người nhập cư về.
Các vấn đề đã không chỉ do những người địa phương bất khoan dung gây ra. Bản tính của khu biệt lập đã góp phần. Trong khi các nhà máy cổ của Prato đã vật vã để cạnh tranh, để lại các công nhân Ý phải tìm kiếm các nguồn thu nhập thay thế, những người Trung Quốc đã xây dựng một cộng đồng bên trong một cộng đồng. Các băng nhóm Tàu được cho là đã tổ chức cuộc di cư từ Trung Quốc và vận hành khu biệt lập, dù ganh đua với các băng nhóm từ Nga, Albania, Nigeria và Romania, cũng như với Mafia, vì sự kiểm soát. Và chúng đã không tự hạn chế mình ở Prato. Các băng nhóm Tàu đã kết nối với các công ty Trung Quốc trong đầu tư vào các dự án hạ tầng cơ sở Ý, kể cả một Euro ‘terminal Trung Quốc’ tốn nhiều triệu gần cảng Civitavecchia.
Prato đã trở thành một biểu tượng của toàn cầu hóa và các thế lưỡng nan do sự tăng lên của precariat nôn ra. Khi các xưởng Tàu bòn rút mồ hôi đó lan ra, những người Ý đã đánh mất vai trò vô sản của họ và bị bỏ lại để tranh cướp một việc làm precariat hay chẳng việc làm nào cả. Rồi phần di cư của precariat đã bị phơi ra cho chính quyền trừng phạt, trong khi bị lệ thuộc vào các mạng lưới đáng ngờ bên trong cộng đồng biệt lập của họ. Chẳng hề đơn nhất, Prato phản ánh một dòng chảy ngầm cuốn xa bờ nguy hiểm của toàn cầu hóa.
Con của Toàn cầu hóa
Vào cuối các năm 1970, một nhóm táo bạo của các nhà tư tưởng xã hội và kinh tế, sau đó được gọi là ‘các nhà tân-tự do’ và ‘libertarian-tự do chủ nghĩa’ (tuy các từ này không đồng nghĩa), nhận ra rằng quan điểm của họ đã được lắng nghe sau hàng thập niên bị bỏ qua. Hầu hết đã đủ trẻ để không bị Đại Suy Thoái để lại vết sẹo hay bị gả cho chương trình nghị sự xã hội dân chủ chi phối dòng chủ lưu sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai.
Họ đã không thích nhà nước, được họ đánh đồng với chính phủ tập trung, với bộ máy lập kế hoạch và điều tiết của nó. Họ đã xem thế giới như một nơi ngày càng mở, nơi đầu tư, việc làm và thu nhập sẽ chảy tới nơi có các điều kiện thuận lợi nhất. Họ đã cho rằng trừ phi các nước, đặc biệt các nước Âu châu, gỡ bỏ các đảm bảo đã được xây dựng từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai cho giai cấp lao động công nghiệp và khu vực hành chính công, và trừ phi các nghiệp đoàn được ‘thuần hóa’, thì sự giải-công nghiệp hóa (một khái niệm vào thời đó) sẽ tăng tốc, thất nghiệp sẽ tăng, sự tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại, đầu tư sẽ chảy ra ngoài và sự nghèo sẽ leo thang. Nó đã là một đánh giá tỉnh táo. Họ đã muốn các biện pháp quyết liệt, và trong các chính trị gia như Margaret Thatcher và Ronald Reagan họ đã thấy loại nhà lãnh đạo sẵn sàng đồng ý với phân tích của họ.
Thảm kịch đã là, trong khi chuẩn đoán của họ có một phần ý nghĩa, tiên lượng của họ đã nhẫn tâm. Trong 30 năm tiếp, thảm kịch đã bị trầm trọng thêm bởi sự thực rằng các đảng chính trị dân chủ xã hội mà đã xây dựng hệ thống bị các nhà tân tự do muốn tháo dỡ, sau tranh cãi ngắn với chuẩn đoán của các nhà tân tự do, rồi lại đã chấp nhận một cách khập khiễng cả chuẩn đoán lẫn tiên lượng của họ.
Một yêu sách tân-tự do mà đã kết tinh trong các năm 1980 đã là, các nước cần theo đuổi ‘sự linh hoạt thị trường lao động’. Trừ phi các thị trường lao động được làm cho linh hoạt hơn, các chi phí lao động sẽ tăng lên và các công ty sẽ chuyển sản xuất và đầu tư sang các nơi chi phí thấp hơn; vốn tài chính sẽ được đầu tư ở các nước đó, hơn là ‘ở trong nước’. Tính linh hoạt có nhiều chiều: tính linh hoạt tiền công có ý là sự tăng tốc các điều chỉnh về cầu, đặc biệt theo chiều xuống; tính linh hoạt công ăn việc làm (employment) có nghĩa là khả năng dễ và không tốn kém của các hãng để thay đổi các mức việc làm, đặc biệt theo chiều xuống, ngụ ý một sự cắt giảm về sự an toàn và sự bảo vệ việc làm; tính linh hoạt việc làm (job) có nghĩa là có khả năng chuyển nhân viên quanh bên trong hãng và để thay đổi các cấu trúc việc làm với sự chống đối hay chi phí tối thiểu; tính linh hoạt kỹ năng có nghĩa là có thể điều chỉnh các kỹ năng của người làm việc một cách dễ dàng.
Về thực chất, tính linh hoạt được các nhà kinh tế học tân-cổ điển hỗn xược ủng hộ có nghĩa là một cách có hệ thống làm cho người làm công bất an toàn hơn, được cho là một cái giá cần thiết cho việc giữ đầu tư và việc làm. Mỗi sự thoái lui kinh tế đã được quy một phần, dẫu công bằng hay không, cho một sự thiếu tính linh hoạt và cho sự thiếu ‘cải cách cơ cấu’ của các thị trường lao động.
Khi sự toàn cầu hóa tiến triển, và khi các chính phủ và các công ty săn đuổi nhau để làm cho các quan hệ lao động của họ linh hoạt hơn, thì số người trong các hình thức lao động không an toàn tăng lên nhiều lần. Đấy không phải là tất định về mặt công nghệ. Khi lao động linh hoạt lan ra, các bất bình đẳng tăng lên, và cấu trúc giai cấp, mà đã củng cố xã hội công nghiệp, đã nhường đường cho cái gì đó phức tạp hơn nhưng chắc chắn không ít dựa vào giai cấp hơn. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này. Nhưng các thay đổi chính sách và các phản ứng của các công ty đối với mệnh lệnh của nền kinh tế thị trường đang toàn cầu hóa đã tạo ra một xu hướng quanh thế giới mà đã chẳng bao giờ được tiên đoán bởi các nhà tân tự do hay các lãnh đạo chính trị những người thi hành các chính sách của họ.
Hàng triệu người đã gia nhập precariat tại các nền kinh tế giàu có và đang nổi lên, một hiện tượng mới dù nó đã có các bóng của quá khứ. Precariat không là một phần của ‘giai cấp lao động’ hay ‘giai cấp vô sản’. Các thuật ngữ sau gợi ý một xã hội gồm hầu hết các công nhân có các việc làm dài hạn, ổn định với các con đường tiến thân xác lập, tùy thuộc vào sự nghiệp đoàn hóa và các thỏa ước tập thể, với các chức danh công việc bố mẹ họ có thể hiểu, đối diện với các chủ sử dụng lao động mà tên và các đặc điểm của chúng là quen thuộc đối với họ.
Nhiều người gia nhập precariat không biết chủ sử dụng lao động của họ hay không biết họ có, hay có lẽ có trong tương lai, bao nhiêu bạn nhân viên. Họ cũng chẳng thuộc ‘tầng lớp trung lưu,’ vì họ không có lương ổn định hay có thể tiên đoán được hay địa vị và các lợi ích mà người thuộc tầng lớp trung lưu được cho là có.
Khi các năm 1990 tiếp diễn, ngày càng nhiều người, không chỉ ở các nước đang phát triển, thấy mình trong một địa vị mà các nhà kinh tế học phát triển và các nhà nhân học gọi là ‘phi chính thức’. Có lẽ họ đã không thấy cách này là một cách hữu ích để mô tả chính họ, nói chi đến cách khiến họ thấy trong những người khác một cách sống và làm việc chung. Cho nên họ không là giai cấp lao động, không là tầng lớp trung lưu, không là ‘phi chính thức’. Họ là ai? Một cảm nhận thoáng qua xảy ra trong việc được định nghĩa như có một cuộc sống bấp bênh. Các bạn, họ hàng và các đồng nghiệp cũng có thể trong một địa vị tạm thời lại nào đó, mà không có sự đảm bảo rằng đấy là cái họ làm trong vài năm, hay thậm chí vài tháng hay tuần từ đó. Thường họ thậm chí đã không muốn hay thử làm như vậy.
Định nghĩa precariat
Có hai cách định nghĩa precariat. Một là nói nó là một nhóm xã hội-kinh tế đặc biệt, sao cho theo định nghĩa một cá nhân thuộc về nó hay không thuộc về nó. Định nghĩa này là hữu ích về mặt hình ảnh và phân tích, và nó cho phép chúng ta sử dụng cái Max Weber gọi là một ‘type lý tưởng’. Theo tinh thần này, precariat có thể được mô tả như một từ mới kết hợp một tính từ ‘precarious-bấp bênh-nhất thời’ và một danh từ liên quan ‘proletariat-giai cấp vô sản’. Trong cuốn sách này, từ ấy thường được dùng theo nghĩa này, tuy nó có các hạn chế. Chúng ta có thể cho rằng precariat là một giai cấp đang hình thành, nếu chưa phải là một giai cấp cho chính nó, theo nghĩa Marxian của thuật ngữ đó.
Nghĩ về mặt các nhóm xã hội, để các xã hội nông nghiệp sang bên, chúng ta có thể nói rằng thời đại toàn cầu hóa đã dẫn đến một sự phân mảnh các cấu trúc giai cấp dân tộc. Khi bất bình đẳng tăng lên, và khi thế giới chuyển theo hướng thị trường lao động mở linh hoạt, giai cấp không biến mất. Đúng hơn, một cấu trúc giai cấp bị phân mảnh đã nổi lên.
‘Giai cấp lao động’, ‘công nhân’ và ‘giai cấp vô sản’ đã là các từ được gắn vào văn hóa của chúng ta trong vài thế kỷ. Người dân đã có thể mô tả mình về mặt giai cấp, và những người khác đã nhận ra họ về các mặt đó, theo cách họ mặc, nói và cư xử. Ngày nay chúng là nhiều hơn các nhãn liên tưởng một chút. André Gorz (1982) đã viết về ‘sự kết thúc của giai cấp lao động’ từ lâu. Những người khác đã tiếp tục khắc khoải lo âu về ý nghĩa của thuật ngữ đó và về các tiêu chuẩn cho sự phân loại. Có lẽ thực tế là chúng ta cần một từ vựng mới, phản ánh các mối quan hệ giai cấp trong hệ thống thị trường toàn cầu của thế kỷ thứ 21.
Nói đại thể, trong khi các giai cấp cũ vẫn còn ở các phần của thế giới, chúng ta có thể nhận diện bảy nhóm. Trên đỉnh là một ‘elite’, gồm một số rất nhỏ công dân toàn cầu giàu đến lố bịch khống chế vạn vật, với hàng tỷ dollar của họ, được liệt kê trong Forbes như giữa những người vĩ đại và tốt, có thể ảnh hưởng lên các chính phủ ở mọi nơi và ham mê trong các điệu bộ từ thiện hào phóng. Bên dưới elite đó là ‘salariat-giai cấp hưởng lương’, vẫn có việc làm toàn thời ổn định, một vài hy vọng chuyển thành elite, đa số chỉ hưởng sự hào nhoáng bề ngoài loại của họ, với lương hưu, ngày nghỉ được trả lương và các trợ cấp công ty, thường được nhà nước bao cấp, của họ. Giai cấp ăn lương được tập trung trong các công ty lớn, các cơ quan chính phủ và hành chính công, kể cả ngành dân chính.
Kế bên giai cấp ăn lương, theo nhiều nghĩa hơn một, là một nhóm (cho đến nay) ‘các profician-chuyên viên’ nhỏ hơn. Từ này kết hợp các ý tưởng truyền thống về ‘professional-nhà nghề’ và ‘technician-kỹ thuật viên’ nhưng gồm những người với các bó kỹ năng mà họ có thể tiếp thị, kiếm thu nhập cao theo hợp đồng, như các nhà tư vấn hay người tự làm việc độc lập (independent own-account worker).
Các profician là tương đương với các tiểu điền chủ, hiệp sĩ và điền chủ của Thời Trung Cổ. Họ sống với kỳ vọng và mong muốn để di chuyển, mà không có một sự thôi thúc cho việc làm toàn thời dài hạn trong một doanh nghiệp duy nhất nào. ‘Quan hệ việc làm tiêu chuẩn’ không phải cho họ.
Bên dưới các profician, về mặt thu nhập, là một ‘lõi’ đang co lại của các nhân viên thủ công, thực chất của ‘giai cấp lao động’ cũ. Các nhà nước phúc lợi đã được xây dựng để chăm sóc họ, như các hệ thống điều tiết lao động. Nhưng các đạo quân lao động công nghiệp mà đã tạo thành phong trào lao động đã teo lại và mất ý thức của chúng về đoàn kết xã hội.
Bên dưới bốn nhóm đó, là ‘precariat’ đang lớn lên, với một đội quân thất nghiệp và một nhóm bị tách rời của những người không hòa nhập về mặt xã hội sống nhờ các thứ bỏ đi của xã hội. Đặc trưng của cấu trúc giai cấp bị phân mảnh này được thảo luận ở nơi khác (Standing, 2009). Nó là precariat mà chúng ta muốn nhận diện ở đây.
Các nhà xã hội học thường nghĩ dưới dạng các hình thức phân tầng của Max Weber – giai cấp và địa vị – nơi giai cấp nói đến các mối quan hệ xã hội của sự sản xuất sản xuất và vị trí của một cá nhân trong quá trình lao động (Weber, [1922] 1968). Bên trong các thị trường lao động, ngoài các chủ sử dụng lao động và người tự-làm chủ, sự phân biệt chính đã là giữa những người làm công (wage worker) và các nhân viên hưởng lương (salaried employee), những người trước gồm những người lao động làm khoán sản phẩm và công nhật, với hình ảnh của tiền-cho-sự cố gắng, và những người hưởng lương được tưởng thưởng bởi sự tin cậy và sự-đền-bù-cho-sự-phục-vụ (Goldthorpe, 2007, Vol. 2, Ch. 5; McGovern, Hill and Mills, 2008, Ch. 3). Giai cấp salariat đã luôn được kỳ vọng ở gần các nhà quản lý, thủ trưởng và chủ sở hữu hơn, trong khi những người làm công bị xa cách một cách cố hữu, đòi hỏi kỷ luật, sự phục tùng và một hỗn hợp của các khuyến khích và phạt.
Ngược với giai cấp, ý tưởng về địa vị được liên kết với nghề của một người, với các nghề có địa vị cao hơn là các nghề gần với các dịch vụ chuyên môn, quản lý và hành chính (Goldthorpe, 2009). Một khó khăn là, bên trong hầu hết nghề có các sự phân chia và các thứ bậc mà dính dáng đến chính các địa vị khác nhau.
Trong mọi trường hợp, sự phân chia thành lao động làm công và nhân viên ăn lương, và các ý tưởng về nghề, bị phá vỡ khi xem xét precariat. Precariat có các đặc trưng giai cấp. Nó gồm những người có các mối quan hệ tin cậy tối thiểu với tư bản hay với nhà nước, khiến cho nó không giống salariat. Và nó chẳng có các mối quan hệ khế ước xã hội nào của giai cấp vô sản, mà nhờ đó các sự an toàn lao động được cung cấp đổi lại sự lệ thuộc và sự trung thành tùy thuộc, giao dịch bất thành văn trụ đỡ các nhà nước phúc lợi. Không có một sự mặc cả về sự tin cậy hay sự an toàn đổi lại sự lệ thuộc, precariat là đặc biệt về mặt giai cấp. Nó cũng có một vị trí địa vị riêng biệt, không xếp ngăn nắp vào các nghề chuyên môn có địa vị cao hay nghề thủ công có địa vị trung. Một cách để diễn đạt là, precariat có ‘địa vị bị cắt xén’. Và, như chúng ta sẽ thấy, cấu trúc của nó về ‘thu nhập xã hội’ không xếp ngăn nắp vào các quan niệm cũ về giai cấp hay nghề.
Nhật bản minh họa các vấn đề đối mặt các nhà nghiên cứu về precariat. Nó đã có một mức tương đối thấp về bất bình đẳng thu nhập (khiến nó là một ‘nước tốt,’ theo Wilkinson and Pickett (2009)). Nhưng bất bình đẳng hằn sâu về mặt thứ bậc địa vị và đã được tăng cường bởi precariat tăng nhanh, mà hoàn cảnh kinh tế của nó được đánh giá thấp bởi các số đo quy ước về sự bất bình đẳng thu nhập. Các vị trí có địa vị cao hơn trong xã hội Nhật kéo theo một tập các phần thưởng cung cấp sự an toàn kinh tế-xã hội mà đáng giá hơn mức có thể được đo bởi riêng thu nhập tiền bạc rất nhiều (Kerbo, 2003: 509–12). Precariat thiếu tất cả các phần thưởng đó, mà là vì sao bất bình đẳng thu nhập bị nói bớt một cách nghiêm trọng đến vậy.
Thuật ngữ mô tả ‘precariat’ đã được các nhà xã hội học Pháp dùng đầu tiên trong các năm 1980, để mô tả các công nhân mùa vụ hay tạm thời. Cuốn sách này sẽ dùng một khái niệm khác, nhưng địa vị lao động tạm thời bao gồm một khía cạnh trung tâm của precariat. Chúng ta phải nhớ rằng các hợp đồng việc làm tạm thời không nhất thiết giống như làm lao động tạm thời.
Vài người thử cho precariat một hình ảnh tích cực, làm mẫu cho một tinh thần tự do lãng mạn bác bỏ các tiêu chuẩn của giai cấp lao động cũ mê mải trong công việc ổn định, cũng như chủ nghĩa duy vật tư sản của những người hưởng lương việc làm ‘cổ-trắng’. Không được quên sự bất chấp và sự không theo lề thói phóng khoáng này, vì nó có xuất hiện trong precariat. Chẳng có gì mới trong các cuộc đấu tranh trẻ tuổi và không trẻ tuổi lắm chống lại mệnh lệnh của lao động lệ thuộc. Cái mới hơn là một sự tiếp đón lao động và phong cách làm việc bấp bênh bởi ‘những người thời cổ’, chọn lựa một cuộc sống như vậy sau một thời kỳ dài lao động ổn định. Chúng ta xét đến họ muộn hơn.
Ý nghĩa của thuật ngữ đã thay đổi khi nó trở thành cách nói bình dân. Ở Italy, precariato được cho là có ý nói nhiều hơn những người làm lao động thất thường và với thu nhập thấp, ngụ ý một cuộc sống bấp bênh như một trạng thái bình thường của sự sống (Grimm and Ronneberger, 2007). Ở Đức, thuật ngữ được dùng để mô tả không chỉ người lao động tạm thời mà cả người không có việc làm và không có hy vọng nào về sự hội nhập xã hội. Điều này gần với ý tưởng Marxian về một giai cấp vô sản lưu manh và không là ý sẽ được hiểu trong cuốn sách này.
Ở Nhật Bản, thuật ngữ được dùng như từ đồng nghĩa với ‘người lao động nghèo’, dù nó đã tiến hóa như một từ riêng biệt vì nó được liên kết với phong trào 1-5 Nhật và cái được gọi là ‘các nghiệp đoàn freeter’,* gồm các nhà hoạt động trẻ đòi các điều kiện làm việc và sống tốt hơn (Ueno, 2007; Obinger, 2009). Nhật Bản đã tạo ra một nhóm người lao động trẻ được biết đến như ‘các freeter’ – một cái tên kết hợp một cách lạ kỳ ‘tự do-free’ và Arbeiter, từ Đức cho công nhân – người bị đẩy thành một kiểu làm việc của lao động thất thường.
Là không đúng để đánh đồng precariat với người lao động nghèo hay với chỉ việc làm bấp bênh, dù các chiều này tương quan với nó. Tính bấp bênh cũng ngụ ý một sự thiếu một bản sắc dựa trên công việc chắc chắn, còn người lao động trong một số việc làm thu nhập thấp có thể xây dựng một nghề nghiệp. Một số nhà bình luận đã gắn ý tưởng với sự thiếu kiểm soát đối với lao động của họ. Điều này là phức tạp, vì có nhiều khía cạnh của công việc và lao động mà trên đó một cá nhân có thể có sự kiểm soát – sự phát triển và sử dụng kỹ năng, lượng thời gian cần cho lao động, định thời gian của công việc và lao động, cường độ lao động, thiết bị, nguyên liệu thô và vân vân… Và có nhiều loại của sự kiểm soát và người kiểm soát, không chỉ là người giám sát hay nhà quản lý tiêu chuẩn đứng trên công nhân.
Để khẳng định rằng precariat gồm những người không có sự kiểm soát nào đối với lao động hay công việc của họ sẽ là quá hạn chế, vì luôn luôn có tính nước đôi và sự mặc cả ngầm đối với sự cố gắng, sự hợp tác và việc áp dụng các kỹ năng, cũng như phạm vi cho các hành động phá hoại, ăn cắp vặt và vô ích. Nhưng các khía cạnh kiểm soát là xác đáng cho một sự đánh giá về tình trạng gay go của họ.
Có lẽ một cách mô tả lý thú ngang thế liên kết với cái có thể được gọi là ‘sự bất hòa địa vị’. Những người với mức giáo dục tương đối cao, nhưng phải chấp nhận các việc làm có một địa vị hay thu nhập dưới mức họ tin là phù hợp với trình độ của họ, chắc là bị vỡ mộng địa vị. Cảm nghĩ này đã là phổ biến trong precariat trẻ ở Nhật Bản (Kosugi, 2008).
Cho các mục đích của chúng ta, precariat gồm những người thiếu bảy hình thức an toàn liên quan đến lao động, được tóm tắt trong Box, mà các nhà dân chủ xã hội, các đảng lao động và các nghiệp đoàn đã theo đuổi như chương trình nghị sự ‘tư cách công dân công nghiệp’ của họ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, cho giai cấp lao động hay giai cấp vô sản công nghiệp. Không phải tất cả những người trong precariat coi trọng tất cả bảy hình thức an toàn, nhưng tình hình của họ thật tồi tệ trong mọi khía cạnh.
Trong các thảo luận về sự bất an lao động hiện đại, hầu hết sự chú ý là về sự bất an công ăn việc làm (employment) – sự thiếu các hợp đồng dài hạn và sự thiếu bảo vệ chống lại sự mất công ăn việc làm. Điều đó là có thể hiểu được. Tuy vậy, sự bất an việc làm (job) cũng là một đặc điểm định rõ.
Sự khác biệt giữa an toàn công ăn việc làm và an toàn việc làm là quan trọng. Hãy xét một thí dụ. Giữa 2008 và 2010, ba mươi nhân viên của France Telecom đã tự tử, dẫn đến sự bổ nhiệm một người ngoài làm thủ trưởng mới. Hai phần ba của 66.000 nhân viên có biên chế, với sự an toàn công ăn việc làm được bảo đảm. Nhưng ban quản lý đã bắt họ chịu sự bất an việc làm một cách có hệ thống, với một hệ thống được gọi là ‘Đến lúc Di chuyển’ mà buộc họ phải thay đổi nhiệm sở và việc làm một cách đột ngột mỗi vài năm. Stress sinh ra đã được thấy là nguyên nhân chính của các vụ tự tử này. An toàn việc làm là quan trọng.
Nó cũng quan trọng trong ngành dân chính. Các nhân viên ký các hợp đồng cho họ sự an toàn công ăn việc làm được nhiều người thèm muốn. Nhưng họ cũng đồng ý để bị phân bổ vào các vị trí mà các nhà quản lý tùy ý quyết định. Trong một thế giới của ‘sự quản lý nguồn lực con người’ nghiêm ngặt và tính linh hoạt chức năng, thì sự luân chuyển có khả năng gây hỗn loạn về mặt cá nhân.
Một đặc tính khác của precariat là thu nhập bấp bênh và một hình mẫu thu nhập mà khác với hình mẫu của mọi nhóm khác. Điều này có thể được minh họa bằng sử dụng khái niệm ‘thu nhập xã hội’. Người dân ở mọi nơi hiển nhiên phải tiếp tục sống bằng thu nhập họ nhận được. Đó có thể là một dòng tiền hay thu nhập bằng hiện vật, dưới dạng của các thứ họ hay gia đình họ tạo ra. Nó có thể được đo bằng các thứ họ có thể dự kiến nhận được nếu họ cần. Hầu hết người dân trong hầu hết xã hội có vài ba nguồn thu nhập, mặc dù một số có thể dựa chỉ vào một nguồn.
Thành phần của thu nhập xã hội có thể được phân thành sáu yếu tố. Thứ nhất là tự-sản xuất, thực phẩm, các hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trực tiếp, bất luận được tiêu dùng, trao đổi hay bán, kể cả các thứ ta có thể trồng trong vườn hay mảnh đất hộ gia đình. Thứ hai, có tiền công hay tiền thu nhập nhận được từ lao động. Thứ ba, có giá trị của sự hỗ trợ được cung cấp bởi gia đình hay cộng đồng địa phương, thường theo cách của các yêu cầu bồi thường bảo hiểm lẫn nhau phi chính thức. Thứ tư, có các trợ cấp doanh nghiệp được cung cấp cho nhiều nhóm nhân viên. Thứ năm, có các trợ cấp nhà nước, kể cả các phúc lợi bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội, các khoản chuyển giao tùy nghi, các trợ cấp chi trực tiếp hay thông qua các chủ sử dụng lao động, và các dịch vụ xã hội được bao cấp. Cuối cùng, có các trợ cấp tư có xuất xứ từ các khoản tiết kiệm và đầu tư.
Mỗi trong sáu thứ này có thể được chia nhỏ thành các phần an toàn nhiều hơn hay ít hơn hay được bảo đảm, và mà xác định giá trị đầy đủ của chúng. Thí dụ, tiền công có thể được chia thành dạng cố định trên cơ sở hợp đồng dài hạn và các phần biến đổi hay linh hoạt. Nếu có người nhận một khoản lương cung cấp cùng thu nhập mỗi tháng cho năm tiếp theo, thu nhập nhận được tháng này đáng giá hơn cùng tiền thu nhập nhận được từ tiền công mà phụ thuộc vào tính bất thường của thời tiết và lịch trình sản xuất chưa được xác định của chủ sử dụng lao động. Tương tự, các trợ cấp nhà nước có thể được chia thành các quyền ‘công dân’ phổ quát, cùng các lợi ích bảo hiểm, mà phụ thuộc vào các khoản đóng góp quá khứ và như thế, theo nguyên tắc, ‘được bảo đảm,’ và các khoản chuyển giao tùy nghi hơn mà có thể hay có thể không sẵn có tuy thuộc vào hoàn cảnh không lường trước được. Các trợ cấp doanh nghiệp có thể được chia nhỏ thành các yếu tố mà mọi người trong hãng nhận được, các yếu tố phụ thuộc vào địa vị hay sự phục vụ quá khứ và các yếu tố được trao một cách tùy nghi. Cũng đúng thế với các trợ cấp cộng đồng, mà có thể được chia nhỏ thành các trái quyền gia đình hay họ hàng và các trái quyền có thể được đưa ra với cộng đồng rộng hơn cho sự hỗ trợ trong lúc hoạn nạn.
Precariat có thể được nhận diện bằng một cơ cấu khu biệt của thu nhập xã hội, mà tạo một tính dễ bị tổn thương riêng biệt vượt xa hơn nhiều cái có thể được truyền đạt bởi tiền thu nhập nhận được vào một lúc cá biệt. Thí dụ, trong một thời kỳ thương mại hóa nhanh của nền kinh tế của một nước đang phát triển, các nhóm mới, nhiều góp thêm vào precariat, thấy rằng họ mất các lợi ích cộng đồng truyền thống và không có được các trợ cấp doanh nghiệp hay nhà nước. Họ dễ bị tổn thương hơn nhiều người với thu nhập thấp hơn những người giữ các hình thức truyền thống của sự hỗ trợ cộng đồng và dễ bị tổn thương hơn các nhân viên hưởng lương những người có tiền thu nhập tương tự nhưng có sự tiếp cận đến một loạt các trợ cấp doanh nghiệp và nhà nước. Một đặc điểm của precariat không phải là mức tiền công hay thu nhập kiếm được tại bất cứ thời điểm cá biệt nào mà là sự thiếu sự hỗ trợ cộng đồng trong lúc hoạn nạn, sự thiếu các trợ cấp doanh nghiệp hay nhà nước được bảo đảm, và sự thiếu các trợ cấp tư để bổ sung cho tiền kiếm được. Chúng ta sẽ xem xét các tác động này trong Chương 2.
Bên cạnh sự bất an toàn lao động và thu nhập xã hội bấp bênh, người thuộc precariat thiếu một bản sắc dựa vào-công việc. Khi được thuê, họ trong các việc làm không có sự nghiệp, không có các truyền thống của ký ức xã hội, một cảm giác họ thuộc về một cộng đồng nghề nghiệp mải mê trong các thực hành, quy tắc đạo đức và chuẩn mực ổn định về ứng xử, sự có đi có lại và tình anh em.
Precariat không cảm thấy là một phần của một cộng đồng lao động đoàn kết. Điều này tăng cường một cảm giác xa lánh và tính công cụ trong các thứ họ phải làm. Các hoạt động và thái độ, bắt nguồn từ sự bấp bênh, trôi về phía chủ nghĩa cơ hội. Không có ‘chút tương lai nào’ lơ lửng trên các hoạt động của họ, để cho họ một ý thức rằng cái họ nói, làm hay cảm thấy hôm nay sẽ có một tác động mạnh hay ràng buộc lên các mối quan hệ dài hạn của họ. Precariat biết không có chút tương lai nào, vì không có tương lai nào trong những gì họ đang làm. Bị ‘ra ngoài’ ngày mai sẽ không có gì ngạc nhiên, và để bỏ đi có thể là không tồi, nếu công việc khác hay sự bùng nổ hoạt động có vẻ quyến rũ.
Precariat thiếu bản sắc nghề nghiệp, cho dù một số có trình độ nghề nghiệp và cho dù nhiều người có các việc làm với các danh hiệu lạ lùng. Đối với một số, có một sự tự do trong không có cam kết đạo đức hay ứng xử nào mà sẽ xác định một bản sắc nghề nghiệp. Chúng ta sẽ xem xét hình ảnh về ‘dân du cư đô thị’ muộn hơn, và hình ảnh liên quan về ‘denizen-dân ngụ cư’, người không là một công dân đầy đủ. Đúng như ai đó thích là những người du hành du cư, không phải định cư, cho nên không phải tất cả những người trong precariat phải được coi là các nạn nhân. Tuy nhiên, hầu hết sẽ không thoải mái trong sự bấp bênh của họ, mà không có một triển vọng hợp lý để thoát khỏi.
Lao động, công việc, vui chơi và rảnh rỗi
Tiền đề lịch sử của precariat đã là banausoi của Hy Lạp cổ, những người được yêu cầu làm lao động sản xuất trong xã hội (không giống các nô lệ, chỉ lao động cho chủ nô của họ). Banausoi, được các thượng cấp của họ coi như ‘tù túng trong thân thể’ và ‘thô tục trong tâm trí’, đã không có cơ hội nào để leo lên bậc thang xã hội. Họ đã làm việc cùng các metic (người lạ cư trú), các thợ thủ công được nhận với các quyền hạn chế. Với các nô lệ, hai nhóm này đã làm mọi lao động, mà không có kỳ vọng rằng họ có bao giờ có thể tham gia vào đời sống của polis (thành bang).
Người Hy Lạp cổ đã hiểu kỹ hơn các nhà hoạch định chính sách hiện đại của chúng ta về sự phân biệt giữa công việc (work) và lao động (labour) và giữa chơi (play) và rảnh rỗi (leisure), hay cái họ đã gọi là schole. Những người làm lao động đã là các không-công dân. Các công dân đã không làm lao động; họ đã ham mê praxis, làm việc trong và quanh nhà, với gia đình và bạn bè. Nó đã là hoạt động ‘sinh sản’, công việc được làm vì chính nó, để tăng cường các mối quan hệ cá nhân, để được kết hợp với sự tham gia chung vào đời sống cộng đồng. Xã hội của họ đã không công bằng theo các tiêu chuẩn của chúng ta, đặc biệt trong sự đối xử với phụ nữ. Nhưng họ đã hiểu vì sao là nực cười để đo mọi thứ dưới dạng lao động.
Một luận điểm trong cuốn sách này là, mục tiêu chủ yếu trong khắc phục ‘bất lợi’ của precariat khi thế kỷ thứ hai mươi mốt tiến tới phải là để cứu công việc (work) mà không là lao động (labour) và sự rảnh rỗi (leisure) mà không là sự vui chơi (play). Suốt thế kỷ thứ hai mươi, sự nhấn mạnh đã là tối đa hóa số người làm lao động, trong khi phỉ báng hay bỏ qua công việc mà không là lao động. Precariat được kỳ vọng để làm lao động, khi được yêu cầu, trong các điều kiện đa phần không do nó tự chọn. Và nó được kỳ vọng để ham mê nhiều sự vui chơi. Như được tranh luận trong Chương 5, nó dũng được kỳ vọng làm nhiều công-việc-cho-lao-động không được trả công. Nhưng sự rảnh rỗi được coi như tình cờ.
Các sự đa đạng của precariat
Dù người ta định nghĩa nó thế nào, precariat còn xa mới là thuần nhất. Thiếu niên người vụt vào và ra café internet trong khi sống nhờ các việc làm phù du không giống hệt như người nhập cư sử dụng mưu kế của mình để sống sót, bồn chồn kết nối mạng trong khi lo về cảnh sát. Cả hai đều không giống bà mẹ đơn thân bứt rứt tiền đến từ đâu cho hóa đơn thực phẩm của tuần tới hay người đàn ông ở tuổi 60 người nhận các việc làm thất thường để giúp chi trả các hóa đơn y tế. Nhưng tất cả họ chia sẻ một cảm giác rằng lao động của họ là phương tiện (để sống), cơ hội chủ nghĩa (nắm lấy cái xảy ra) và bấp bênh (không an toàn).
Một cách để mô tả precariat là như các ‘denizen-dân ngụ cư’. Một denizen là ai đó, vì lý do này hay khác, có một dải hạn chế hơn của các quyền so với các công dân. Ý tưởng về denizen, mà có thể truy nguyên về tận thời Roman, thường thường đã được áp dụng cho những người nước ngoài được trao các quyền cư trú và các quyền để chăm chỉ buôn bán, nhưng không có các quyền công dân đầy đủ.
Ý tưởng có thể được mở rộng bằng nghĩ về dải các quyền mà người dân được hưởng – [các quyền]dân sự (bình đẳng trước luật và quyền cho sự bảo vệ chống lại tội phạm và sự xâm hại thân thể), văn hóa (sự tiếp cận bình đẳng đến sự được hưởng văn hóa và quyền để tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng), xã hội (sự tiếp cận bình đẳng đến các hình thức an sinh xã hội, kể cả hưu bổng và chăm sóc sức khỏe), kinh tế (quyền hưởng ngang nhau để tiến hành hoạt động kiếm thu nhập) và chính trị (quyền ngang nhau để bỏ phiếu, ra ứng cử các cuộc bầu cử và tham gia vào đời sống chính trị của cộng đồng). Một số gia tăng của người dân quanh thế giới thiếu ít nhất một trong số các quyền này, và như vậy thuộc về ‘toàn thể dân ngụ cư’ hơn là toàn thể công dân, dù họ đang sống ở đâu.
Khái niệm cũng có thể được mở rộng sang đời sống công ty, với các công dân và denizen công ty thuộc các loại khác nhau. Salariat (những người hưởng lương) có thể được coi như các công dân với chí ít các quyền bỏ phiếu ngầm trong hãng, phủ một dải các quyết định và thực hành mà các nhóm công dân khác, các cổ đông và các chủ sở hữu, chấp nhận một cách ngầm định trong khi có các quyền bỏ phiếu tường minh của họ về các quyết định chiến lược trong hãng. Phần còn lại của những người có quan hệ với công ty – những người lao động thời vụ, nhất thời, các nhà thầu độc lập và vân vân – là các denizen, với ít quyền hưởng hay quyền.
Trong thế giới rộng hơn, hầu hết denizen là những người di cư thuộc loại này hay khác, và họ sẽ được xem xét muộn hơn. Tuy vậy, một loại khác nổi bật lên – một lớp lớn của những người bị biến thành tội phạm, bị kết án. Thời đại toàn cầu hóa đã thấy một sự tăng về số các hành động bị hình sự hóa. Nhiều người bị bắt hơn và nhiều bị bỏ tù hơn bao giờ hết, dẫn đến nhiều người bị biến thành tội phạm hơn bao giờ hết. Phần của sự mở rộng hình sự hóa là do tội lặt vặt, kể cả các phản ứng thái độ với các sơ đồ hỗ trợ xã hội tạo ra các rủi ro trái đạo đức, các tình huống mà trong đó những người bị tước đoạt gặp rủi ro tự trừng phạt mình nếu họ nói sự thật và như thế đụng phải quy tắc quan liêu nào đó.
Những người lao động tạm thời không-nghề nghiệp, các denizen di cư, những người đấu tranh bị hình sự hóa, những người đòi trợ cấp … các con số tăng lên. Đáng tiếc, các thống kê lao động và kinh tế không được trình bày theo cách mà có thể cho phép chúng ta ước lượng tổng số người trong precariat, nói chi đến số người trong các loại khác nhau tạo thành hàng ngũ của nó. Chúng ta phải xây dựng một bức tranh trên cơ sở các biến proxy (đại diện). Hãy xét các nhóm chính tạo thành precariat, nhớ rằng không phải tất cả chúng ăn khớp gọn gẽ; đặc trưng nhận diện không nhất thiết đủ để cho biết rằng một cá nhân thuộc precariat.
Đầu tiên, hầu hết người thấy mình trong các việc làm tạm thời là gần ở trong precariat bởi vì họ có các quan hệ sản xuất mong manh, các thu nhập thấp so với những người khác làm công việc tương tự và cơ hội thấp về mặt nghề nghiệp. Số người với cái thẻ tạm thời cho việc làm của họ đã hết sức tăng trong thời đại thị trường lao động linh hoạt. Trong vài nước, như Vương quốc Anh, các định nghĩa hạn chế về cái gì tạo thành công việc tạm thời làm cho khó để nhận diện số người có việc làm mà không có sự bảo vệ công ăn việc làm. Nhưng trong hầu hết các nước, các số thống kê cho thấy rằng số và phần của lực lượng lao động quốc gia trong trạng thái tạm thời đã tăng mạnh trong ba thập niên vừa qua. Chúng đã tăng nhanh ở Nhật Bản, nơi vào 2010 hơn một phần ba lực lượng lao động đã trong việc làm tạm thời, nhưng tỷ lệ có thể cao nhất ở Nam Hàn, nơi theo các định nghĩa có lý hơn một nửa của toàn bộ người lao động là trong các việc làm tạm thời ‘không-đều đặn.’
Trong khi là người có việc làm tạm thời là một chỉ báo về một người có một việc làm không-nghề nghiệp, điều đó không luôn đúng. Quả thực, những người được gọi là profician hoan hỉ trong sự tồn tại định-hướng-dự-án mà trong đó họ chuyển từ một dự án ngắn hạn sang dự án khác. Và các việc làm dài hạn mà trong đó người ta phải làm cùng vài việc lặp đi lặp lại là hầu như không đáng khát vọng. Có một việc làm tạm thời là tốt nếu bối cảnh xã hội là vừa ý. Nhưng nếu hệ thống kinh tế toàn cầu đòi hỏi nhiều người có các việc làm tạm thời, thì các nhà hoạch định chính sách phải đề cập cái gì khiến chúng bấp bênh.
Hiện thời, có một việc làm tạm thời là một chỉ báo mạnh về một loại của sự bấp bênh. Đối với một số người nó có thể là một hòn đá kê bước tới việc xây dựng một sự nghiệp. Nhưng đối với nhiều người nó có thể là một hòn đá kê bước xuống một trạng thái thu nhập thấp hơn. Nhận một việc làm tạm thời sau một đợt thất nghiệp, như được nhiều nhà hoạch định chính sách thúc giục, có thể dẫn đến các khoản thu nhập thấp hơn cho các năm trước mặt (Autor and Houseman, 2010). Một khi một người bước vào một việc làm bậc thấp hơn, xác suất của tính di động xã hội hướng lên hay của việc có được một thu nhập ‘tử tế’ bị giảm vĩnh viễn. Nhận một việc làm tạm thời có thể là một sự cần thiết cho nhiều người, nhưng nó không chắc thúc đẩy tính di động xã hội.
Một con đường khác tới precariat là công ăn việc làm một phần thời gian (part-time), một lối nói trại gian xảo mà đã trở thành một nét đặc điểm của nền kinh tế tertiary của chúng ta, không giống các xã hội công nghiệp. Trong hầu hết các nước, làm việc một phần thời gian được định nghĩa là có công ăn việc làm hay được trả công ít hơn 30 giờ một tuần. Chính xác hơn để nói đến cái gọi là các part-timer, vì nhiều người chọn hay buộc phải nhận một việc làm part-time thấy rằng họ phải làm nhiều hơn dự định và nhiều thời gian hơn họ được trả công. Các part-timer, thường là phụ nữ, những người bước xuống thang sự nghiệp, có thể rốt cuộc bị bóc lột hơn, do phải làm nhiều công-việc-cho-lao-động không được trả công bên ngoài thời gian được trả công của họ, và bị tự-bóc lột nhiều hơn, do phải làm công việc thêm nhằm giữ một vị thế thích hợp (niche) loại nào đó.
Sự tăng trưởng về việc làm part-time đã giúp che giấu mức thất nghiệp và thiếu công ăn việc làm. Như thế, ở Đức, chuyển nhiều người vào ‘các việc làm-mini’ đã duy trì ảo tưởng về công ăn việc làm cao và đã dẫn vài kinh tế gia đưa ra luận điệu ngu xuẩn về một phép màu công ăn việc làm Đức sau đổ vỡ tài chính.
Các loại khác chồng gối với precariat là ‘các nhà thầu độc lập’ và ‘các nhà thầu phụ thuộc’. Không có sự tương đương nào với precariat ở đây, vì nhiều nhà thầu là an toàn trong một số khía cạnh và có một bản sắc nghề nghiệp mạnh. Người ta nghĩ về bác sĩ răng hay nhà kế toán tự-hành nghề. Nhưng phân biệt nhà thầu phụ thuộc khỏi nhà thầu độc lập đã gây ra đau đầu cho các luật sư lao động ở mọi nơi. Đã có các tranh luận vô tận về làm sao để phân biệt giữa những người cung cấp dịch vụ và những người cung cấp lao động dịch vụ, và giữa những người phụ thuộc vào trung gian nào đó và những người là những người làm công bị che giấu. Rốt cuộc, các sự phân biệt là tùy tiện, xoay quanh các quan niệm về kiểm soát, sự lệ thuộc và sự phụ thuộc vào ‘các bên’ khác. Tuy nhiên, những người phụ thuộc vào những người khác cho việc phân bổ họ vào các công việc mà họ có ít sự kiểm soát là những người chịu rủi ro lớn hơn về rơi vào precariat.
Một nhóm khác gắn với precariat là đội quân tăng lên trong các call centre (trung tâm chăm sóc khách hàng qua điện thoại). Nhóm này ở đâu cũng có, một biểu tượng ác của toàn cầu hóa, đời sống điện tử và lao động bị xa lánh. Trong 2008, Kênh 4 của Vương Quốc Anh đã giới thiệu một phim tài liệu truyền hình được gọi là ‘Phone Rage-Cơn Thịnh nộ Điện thoại’, nêu bật sự hiểu lầm lẫn nhau giữa nhân viên call-centre trẻ và các khách hàng giận dữ. Theo chương trình, tính trung bình người dân ở Vương Quốc Anh đã dùng (tổng thời gian) trọn một ngày mỗi năm nói chuyện với các call centre, và lượng thời gian tăng lên.
Rồi có các thực tập sinh, một hiện tượng hiện đại lạ kỳ qua đó những người vừa tốt nghiệp, các sinh viên hiện thời hay thậm chí sắp là sinh viên làm việc một lúc vì một ít hay không tiền công nào, làm các việc văn phòng lặt vặt. Một số nhà bình luận Pháp đã đánh đồng precariat với các thực tập sinh, nhưng là không chính xác nhưng biểu lộ sự áy náy mà với nó hiện tượng được xem xét.
Các đợt thực tập có tiềm năng là một phương tiện cho việc chuyển thanh niên vào precariat. Một số chính phủ thậm chí đã khởi động các chương trình thực tập như một dạng của chính sách thị trường lao động ‘tích cực’ được thiết kế để che giấu thất nghiệp. Trong thực tế, các cố gắng để thúc đẩy các đợt thực tập thường không nhiều hơn các sơ đồ bao cấp tốn kém, phi hiệu quả. Chúng có chi phí hành chính cao và dùng người để làm ra ít giá trị lâu dài, hoặc cho các tổ chức hay cho bản thân các thực tập sinh, bất chấp lối nói hoa mỹ về làm cho họ thích nghi với đời sống tổ chức và học khi hành. Chúng ta sẽ xem xét các thực tập viên muộn hơn.
Tóm lại, một cách để nhìn vào precariat là xem bằng cách nào người dân trở thành người làm các hình thức bấp bênh của lao động mà không chắc giúp họ xây dựng một bản sắc hay một sự nghiệp đáng mong muốn.
Precariat hóa
Một cách khác để nhìn vào precariat là về mặt quá trình, cách mà theo đó người dân ‘bị precariat hóa’. Từ vô duyên này là tương tự với ‘bị vô sản hóa’, mô tả các lực dẫn đến sự vô sản hóa các công nhân trong thế kỷ thứ mười chín. Để bị precariat hóa là phải chịu các áp lực và kinh nghiệm dẫn đến một cuộc sống precariat, về sự sống trong hiện tại, mà không có một bản sắc chắc chắn hay ý thức về sự phát triển đạt được thông qua công việc và phong cách sống.
Theo nghĩa này, một phần của salariat đang trôi vào precariat. Trường hợp ‘người ăn lương’ huyền thoại của Nhật Bản có tính minh họa. Công nhân thế kỷ-thứ hai mươi này, với việc làm suốt đời trong một doanh nghiệp, đã nổi lên qua một hình mẫu hết sức gia trưởng của chủ nghĩa lao động mà đã thịnh hành cho đến đầu các năm 1980. Ở Nhật Bản (và nơi khác), cái lồng hào nhoáng có thể dễ dàng trở thành một cái cũi xám xịt, với nhiều an toàn công ăn việc làm đến mức bên ngoài trở thành một vùng kinh sợ. Đấy là cái đã xảy ra ở Nhật Bản và ở các nước Đông Á khác mà đã theo một mô hình tương tự. Bị rơi khỏi công ty hay tổ chức trở thành một dấu hiệu rõ rệt của sự thất bại, một sự mất mặt. Trong hoàn cảnh như vậy, việc theo đuổi sự phát triển cá nhân dễ nhường đường cho một sự vận động nhỏ nhen lễ phép với những người cao hơn trong thứ bậc nội bộ và của mưu đồ cơ hội.
Điều này được đưa đến giới hạn của nó ở Nhật Bản. Công ty đã trở thành một gia đình hư cấu để cho quan hệ công ăn việc làm trở thành ‘kintractship’, mà trong đó chủ sử dụng lao động ‘đã nhận’ nhân viên [làm con nuôi] và đổi lại kỳ vọng cái gì đó gần với quan hệ quà tặng của sự phục tùng, nghĩa vụ làm con và hàng thập kỷ lao động tăng cường. Kết quả đã là một văn hóa phục vụ quá thời gian và sự hy sinh cuối cùng của karoshi, chết do làm việc quá sức (Mouer và Kawanishi, 2005). Nhưng từ đầu các năm 1980, tỷ lệ lực lượng lao động Nhật trong salariat đã co lại đầy kịch tính. Những người vẫn bám chặt bị áp lực, nhiều người bị thay thế bởi công nhân trẻ và bởi phụ nữ và chẳng ai trong số họ có an toàn công ăn việc làm. Precariat đang thay thế người hưởng lương, mà nỗi đau của họ được tiết lộ bởi sự tăng lên đáng báo động của các vụ tự tử và bệnh hoạn xã hội.
Sự biến đổi của người Nhật ăn lương có thể là một trường hợp cực đoan. Nhưng người ta có thể thấy ai đó bị mắc bẫy về mặt tâm lý trong công ăn việc làm dài hạn mất sự kiểm soát ra sao và trôi gần hơn thế nào đến một dạng của sự phụ thuộc bấp bênh. Nếu ‘cha mẹ’ trở nên bực mình, hay không có khả năng hay không sẵn sàng để tiếp tục vai trò bố mẹ hư cấu đó, thì ‘người con’ sẽ lao vào precariat, mà không có các kỹ năng tự trị và năng lực phát triển. Công ăn việc làm dài hạn có thể giải kỹ năng (deskill). Như được bàn kỹ ở nơi khác (Standing, 2009), đây đã là một trong những khía cạnh tồi tệ nhất của thời đại chủ nghĩa lao động.
Mặc dù ta phải đề phòng trải định nghĩa ra quá xa, một đặc điểm nữa của precariat hóa là cái nên được gọi là tính di động nghề nghiệp giả, được tóm tắt bởi hiện tượng hậu hiện đại về ‘vống tước hiệu-uptitling’, bị The Economist (2010a) châm biếm một cách tao nhã. Ai đó trong một việc làm tĩnh, chẳng đâu ra đâu được trao một tên gọi khoa trương để che giấu các xu hướng precariat. Người ta được biến thành ‘sếp-chief’ hay ‘nhà điều hành-executive’ hay ‘quan chức-officer’ mà không có một đội quân để lãnh đạo hay một nhóm để dẫn dắt. Cơ quan nghề Hoa Kỳ, tự trao cho mình danh hiệu được thổi phồng một cách đặc trưng Hiệp hội Quốc tế của các Nhà chuyên nghiệp Hành chính-International Association of Administrative Professionals (đã là National Secretaries Association-Hội Thư ký Quốc gia khiêm tốn hơn), đã báo cáo rằng nó có hơn 500 chức danh công việc trong mạng lưới của nó, kể cả ‘điều phối viên phòng giao dịch-front-office coordinator’, ‘chuyên gia tư liệu điện tử-electronic document specialist’, ‘viên chức phân phối media distribution officer’ (trẻ bán báo), ‘viên chức tái chế-recycling officer’ (người đổ rác) và ‘nhà tư vấn vệ sinh-sanitation consultant’ (người lau chùi nhà xí). Hoa Kỳ không có một độc quyền về tài vống chức danh; nó xảy ra ở mọi nơi. Người Pháp bây giờ hay gọi các cô quét dọn là techniciennes de surface (kỹ thuật viên bề mặt) nghe danh giá hơn.
The Economist đã quy sự lạm phát các chức danh công việc cho suy thoái sau-2008, dẫn đến một sự thay thế các tước hiệu lạ kỳ cho việc tăng tiền công, và cho độ phức tạp bên trong tăng lên của các công ty đa quốc gia. Nhưng điều này không chỉ là cơn cường điệu mới đây. Nó phản ánh sự tăng trưởng của precariat, mà trong đó các biểu tượng giả của tính di động nghề nghiệp và sự phát triển cá nhân đã phải che đậy tính cằn cỗi của công việc. Các cấu trúc việc làm bị phẳng ra được tiết lộ bởi sự lạm phát chức danh. The Economist diễn đạt thật khéo:
Sự sùng bái tính linh hoạt cũng bị lạm phát. Mốt cho các thứ bậc đang phẳng ra đã có tác động nghịch lý của sự sinh sôi nảy nở các chức danh việc làm vô nghĩa. Các công nhân ao ước các chức danh nghe quan trọng, nhiều như các chính trị gia cổ lỗ được biến thành Đại Pháp quan của Tước công Lancaster hay Ngài Chủ tịch Hội đồng. Mọi người, từ phòng tổng điều hành trở xuống, đều muốn thổi phồng lý lịch của họ như một hàng rào chống lại việc bị sa thải.
Điều này chỉ ra một nỗi khó chịu sâu hơn. The Economist kết thúc bài phê bình cảm thụ được bằng ghi chú, ‘Các ích lợi của việc trao cho người dân một chức danh mới lạ kỳ thường ngắn. Tác hại là bền lâu’. Thấy rằng thói quen này đã gây ra sự giễu cợt và các tước hiệu lạ kỳ có thể khiến những người sở hữu nó có thể được dùng hơn một lần. Chắc chắn ngược lại cũng thế. Bởi vì người dân trong các vị trí có thể được dùng một lần mà các chức danh họ được trao cũng có thể bày tỏ.
Tâm trí bị precariat hóa
Người ta chẳng cần là một nhà tất định công nghệ để đánh giá đúng rằng phong cảnh công nghệ định hình cách chúng ta nghĩ và ứng xử. Precariat cho thấy mình như chưa phải một giai cấp-cho-chính nó một phần bởi vì những người thuộc về nó không có khả năng kiểm soát các lực công nghệ họ đối mặt. Có bằng chứng ngày càng tăng rằng các đồ điện tử thấm vào mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta có một tác động sâu sắc lên óc con người, lên cách chúng ta nghĩ và, còn đáng báo động hơn, lên khả năng của chúng ta để nghĩ. Nó đang làm vậy theo những cách phù hợp với ý tưởng về precariat.
Precariat được xác định bởi chủ nghĩa ngắn hạn, mà có thể tiến hóa thành một sự bất lực số đông để nghĩ dài hạn, được gây ra bởi xác suất thấp của sự tiến bộ cá nhân hay sự xây dựng sự nghiệp. Các nhóm ngang hàng có thể nêu bật điều này bằng đe dọa để tẩy chay những người không tuân thủ các chuẩn mực ứng xử. Các quy tắc bất thành văn về cái gì đã được làm và cái gì đã không được làm áp đặt các chi phí nặng nề lên người không tuân thủ.
Internet, thói quen lướt mạng, nhắn tin, Facebook, Twitter và truyền thông xã hội khác tất cả đang hoạt động để mắc lại dây bộ óc (Carr, 2010). Sự sống số này đang làm hỏng quá trình củng cố ký ước dài hạn mà là cơ sở cho cái các thế hệ con người đã đi đến để coi như trí thông minh, năng lực để suy luận qua các quá trình phức tạp và để tạo ra các ý tưởng mới và các cách tưởng tượng.
Thế giới số không có sự tôn trọng nào cho sự trầm ngâm hay suy ngẫm; nó phân phát sự khuyến khích và ban thưởng tức thì, buộc bộ óc chú ý nhất đến các quyết định và phản ứng ngắn hạn. Mặc dù việc này có các thế lợi nào đó, một tai nạn là ‘tâm trí có học-literate mind’ và ý tưởng về tính cá nhân. Có một sự di chuyển khỏi một xã hội bao gồm các cá nhân với các sự kết hợp đặc biệt của tri thức, kinh nghiệm và sự học sang một xã hội mà trong đó hầu hết người dân có các ý kiến được xã hội dựng lên, thu được nhanh chóng mà là nông cạn và thay đổi theo hướng được nhóm chấp thuận hơn là độc đáo và sáng tạo. Đầy rẫy các thuật ngữ lạ kỳ, như ‘sự chú ý một phần liên tục’ và ‘sự thiếu hụt nhận thức’.
Điều này có thể có vẻ bị phóng đại. Nhưng trở nên khó hơn để phủ nhận rằng các thay đổi tâm thần, cảm xúc và ứng xử đang xảy ra và rằng điều này là phù hợp với sự phổ biến của precariat hóa. Tâm trí có học – với sự tôn trọng của nó đối với tiềm năng thảo luận về ‘nỗi buồn chán’, về thời gian ngưng trệ, đối với sự trầm ngâm suy ngẫm và một sự kết nối có hệ thống của quá khứ, hiện tại và một tương lai được tưởng tượng – đang ở dưới sự đe dọa từ sự dội bom liên tục của các cơn adrenalin rush (kích thích thần kinh) được xúi giục về điện tử.
Khả năng để tập trung phải được học và ngang thế có thể bị mất hay bị bóp méo. Một số nhà sinh học tiến hóa cho rằng các công cụ điện tử đang chuyển con người quay lại trạng thái thô sơ của nó, (óc) bị nối dây để phản ứng một cách bản năng và nhanh đối với các tín hiệu của sự nguy hiểm và cơ hội, trong khi tâm trí uyên thâm đã thực ra là sự sai lệch lịch sử. Diễn giải này về một sự thoái hóa sinh học chắc chắn gây phiền muộn, với các hệ lụy tiến hóa khổng lồ.
Môi trường điện tử cho phép và cổ vũ sự đa nhiệm (multitasking), một đặc tính của xã hội tertiary mà sẽ được xem xét muộn hơn. Nghiên cứu đã cho thấy rằng những người, từ thói quen, thiên hướng hay sự bắt buộc, ham mê đa nhiệm tiêu tán năng lượng và ít hiệu quả trên bất kỳ nhiệm vụ cụ thể nào hơn những người ít ham mê hơn. Những người đa nhiệm là các ứng viên hàng đầu cho precariat, vì họ có nhiều trục trặc hơn trong tập trung và khó hơn trong việc loại thông tin không liên quan hay gây xao lãng (Richtel, 2010). Không có khả năng kiểm soát thời gian của họ, họ chịu stress, mà làm xói mòn khả năng để duy trì tâm trí phát triển, ý nghĩa đó của sự học suy ngẫm với một viễn cảnh dài hạn.
Tóm lại, precariat chịu quá tải thông tin mà không có một phong cách sống có thể cho họ sự kiểm soát và năng lực để sàng lấy cái hữu ích khỏi cái vô ích. Chúng ta sẽ thấy nhà nước tân-tự do giải quyết điều sau này thế nào.
Sự tức giận, anomie (thiếu chuẩn mực), lo âu và xa lánh
Precariat trải nghiệm bốn A – anger (tức giận), anomie, anxiety (lo âu) và alienation (xa lánh). Sự tức giận xuất phát từ sự thất vọng với các con đường có vẻ bị chặn cho việc thúc đẩy một cuộc sống có ý nghĩa và từ một cảm giác bị tước đoạt tương đối. Một số người sẽ gọi đó là sự ghen tị, nhưng bị vây quanh và liên tục bị dội bom với sự hào nhoáng bề ngoài của thành công vật chất và văn hóa nổi danh nhất thiết gây ra sự oán giận sôi sục. Precariat cảm thấy nản chí không chỉ bởi vì một cuộc đời của những việc làm linh hoạt có vẻ hấp dẫn, với tất cả các sự bấp bênh đi cùng với chúng, mà cũng bởi vì các việc làm đó không kéo theo sự xây dựng nào của các mối quan hệ tin cậy được lắp ghép trong các cấu trúc hay các mạng có ý nghĩa. Precariat cũng không có các thang nào của tính di động để trèo lên, để người dân lơ lửng giữa sự tự-bóc lột sâu hơn và sự tháo rời ra.
Một thí dụ, được trích dẫn trong tờ The Observer (Reeves, 2010), là một phụ nữ làm công tác xã hội 24-tuổi, kiếm được £28,000 một năm và làm việc 37,5-giờ một tuần, theo lý thuyết. Cô đã làm ‘khá nhiều đêm khuya’ bởi vì không thể thăm một số gia đình vào ban ngày, tự cô tốn nhiều thời gian làm việc hơn và làm nhiều việc hơn từ nhà. Cô nói với tờ báo:
Sự thất vọng lớn nhất của tôi là, người ta bảo tôi từ lâu rằng tôi đủ giỏi để tiến lên mức tiếp theo, và tôi đã làm những việc vượt quá vai trò việc làm của tôi, nhưng không có sự công nhận nào về việc đó. Tôi đành phải đợi cho đến khi một vị trí trở nên sẵn có. Tôi nghĩ điều đó xảy ra với khá nhiều người. Từ nhóm tôi đã bắt đầu với, tôi là người làm công tác xã hội duy nhất còn lại. Và nhiều trong số họ đã bỏ đi do các vấn đề hỗ trợ sự nghiệp và thăng tiến. Chúng tôi làm việc dẻo dai, có trách nhiệm và nếu điều đó được công nhận thì nó đã có thể giữ chúng tôi trong việc làm dài hơn.
Phụ nữ này đã gắn với precariat bởi sự thiếu thăng tiến và cô đánh giá cao việc ấy. Cô đã tự-bóc lột khi hy vọng về tính di động, làm nhiều công-việc-cho-lao-động. Các đồng nghiệp bỏ chạy của cô đã nhận ra rằng ảo vọng đề bạt đã chỉ đến thế.
Chí ít suốt từ công trình của Emile Durkheim, chúng ta đã hiểu rằng anomie là một cảm giác về tính thụ động sinh ra từ nỗi thất vọng. Điều này chắc chắn được tăng cường bởi triển vọng về các việc làm vụng, không-sự nghiệp. Anomie đến từ sự bơ phờ gắn với sự thất bại kéo dài, bị trầm trọng thêm vì nhiều người trong precariat bị chê bai bởi các chính trị gia và các nhà bình luận tầng lớp trung lưu khiển trách họ là lười biếng, phiêu bạt, không xứng đáng, vô trách nhiệm xã hội hay tồi hơn. Bảo người đòi trợ cấp rằng ‘các phép điều trị trò chuyện’ là con đường tiến lên là kẻ cả và dễ thấy như vậy bởi những người được cổ vũ để chọn cho họ.
Precariat sống với sự lo âu – sự bấp bênh kinh niên gắn không chỉ với sự bập bênh bên lề, biết rằng một sai lầm hay một sự không may có thể lật bàn cân giữa phẩm giá khiêm tốn và trở thành kẻ vất vưởng, nhưng cũng với một nỗi sợ hãi mất cái họ có trong khi cảm thấy bị lừa bởi không có nhiều hơn. Người dân bất an trong tâm trí và bị stress, đồng thời bị ‘thiếu việc làm’ lẫn bị ‘làm quá sức’. Họ bị xa lánh khỏi lao động và công việc của họ, và là anomic, không chắc chắn và tuyệt vọng trong ứng xử của họ. Những người sợ mất cái họ có là những người bị thất vọng liên tục. Họ sẽ tức giận nhưng thường như vậy một cách thụ động. Tâm trí bị precariat hóa được nuôi bởi sự sợ hãi và được thúc đẩy bởi sự sợ hãi.
Sự xa lánh nổi lên từ sự biết rằng cái ta đang làm không phải vì mục đích riêng của ta hay cho cái ta có thể tôn trọng hay đánh giá cao; nó đơn giản được làm cho những người khác, theo chỉ thị của họ. Điều này đã được coi như một đặc tính xác định của giai cấp vô sản. Nhưng những người trong precariat trải nghiệm vài mũi tiêm đặc biệt, kể cả một cảm giác bị lừa gạt – được bảo họ phải biết ơn và ‘hạnh phúc’ rằng họ có việc làm và nên ‘tích cực’. Họ được bảo hãy hạnh phúc và không thể hiểu rõ vì sao. Họ trải nghiệm cái Bryceson (2010) gọi là ‘tính nghề nghiệp bị thất bại-failed occupationality’, mà có thể chỉ có một tác động tâm lý có hại. Người dân trong hoàn cảnh như vậy chắc trải nghiệm sự phản đối xã hội và một sự thiếu trầm trọng mục đích. Và sự thiếu nghề nghiệp tạo ra một chân không đạo đức.
Precariat không bị lừa gạt. Họ đối mặt một con đập của các lời cổ vũ. Nhưng tâm trí thông minh có thua dễ đến vậy? Trong cuốn Smile or Die (Cười hay Chết), Barbara Ehrenreich (2009) đã tấn công sự sùng bái hiện đại của tư duy tích cực. Bà đã gợi lại làm thế nào ở Hoa Kỳ trong các năm 1860 hai lang băm (Phineas Quimby và Mary Eddy) dựng lên Phong trào Tư duy Mới, dựa vào thuyết Calvin và quan điểm rằng lòng tin vào Chúa và tư duy tích cực sẽ dẫn đến các kết cục tích cực trong đời. Ehrenreich đã truy nguyên điều này qua đến tận kinh doanh và tài chính hiện đại. Bà đã mô tả làm thế nào các hội nghị thúc đẩy đã có các thuyết trình viên bảo các công nhân có hợp đồng ngắn hạn những người đã bị biến thành thừa để là những người làm việc nhóm giỏi (good team player), được định nghĩa như ‘một người tích cực’ người ‘thường xuyên cười, không kêu ca và chịu phục tùng một cách biết ơn bất cứ thứ gì thủ trưởng đòi hỏi’. Ta có thể đi tiếp và muốn biết nếu ai đó không làm theo châm ngôn cổ Trung Hoa: ‘Cúi thấp sao cho Hoàng đế không nhìn thấy nhà ngươi cười’. Nhưng nghiến răng kèn kẹt có khả năng hơn là phản ứng với chuyện nhảm nhí gây xa lánh mà precariat phải chịu đựng.
Có các phản ứng khác ngoài cơn thịnh nộ bị nén lại. Thí dụ, precariat có thể rơi vào một vùng ăn mòn của sự lừa dối và ảo tưởng, được minh họa bởi một người Nam Hàn được International Herald Tribune phỏng vấn (Fackler, 2009). Phóng viên đã ghi,
Với chiếc áo nỉ sweatshirt đại học sạch, màu trắng và chiếc điện thoại di động bóng loáng, Lee Changshik giống một nhà quản lý tại một công ty phát triển nhà chung cư, công việc mà đông đã giữ cho đến cuộc hoảng loạn tài chính năm vừa qua – và công việc mà ông bảo bạn bè và gia đình rằng ông vẫn giữ.
Cẩn thận không nói cho bất kỳ ai, ông đã đi lao động trên một thuyền đánh cua. ‘Tôi nhất quyết không đưa ngư dân đánh cua vào sơ yếu lý lịch của mình’, ông Lee nói. ‘Công việc này làm tổn thương sự hãnh diện của tôi’. Ông nói thêm rằng trong các cuộc nói chuyện điện thoại ông tránh nói về việc làm của mình và tránh gặp bẹn bè hay họ hàng trong trường hợp điều này được nêu ra. Một người khác làm việc trên các thuyền đánh cua đã nói ông ta không nói cho vợ ông; một người khác đã bảo vợ mình rằng ông ở Nhật Bản hơn là thú nhận việc ông đang làm. Những câu câu chuyện như vậy về địa vị sa sút là đủ quen thuộc. Có cảm giác rằng chúng đầy rẫy, một đặc điểm cấu trúc của thị trường lao động hiện đại, điều đó phải gây ra sự hoảng sợ.
Những người trong precariat thiếu lòng tự trọng và tính hữu ích xã hội trong công việc của họ; họ phải tìm kiếm sự quý trọng đó ở nơi khác, một cách thành công hay khác đi. Nếu họ thành công, sự phản hiệu dụng của lao động họ được yêu cầu làm trong các việc làm phù du khó chịu của họ có thể được bớt đi, vì sự thất vọng địa vị sẽ bớt đi. Nhưng khả năng để tìm lòng tự trọng bền vững trong precariat chắc chắn bị xẹp. Có một sự nguy hiểm về sự cảm thấy một cảm giác tham dự liên miên nhưng bị cô lập giữa một đám đông bơ vơ.
Một phần của vấn đề là, precariat trải nghiệm ít quan hệ tin cậy, đặc biệt qua công việc. Suốt lịch sử, sự tin cậy đã tiến hóa trong các cộng đồng dài hạn mà đã xây dựng các khung khổ thể chế của tình anh em. Nếu ta trải qua sự lẫn lộn do không biết địa vị của mình trong đời sống, sự tin cậy trở nên tình cờ và mỏng manh (Kohn, 2008). Nếu con người có một thiên hướng tới sự tin cậy và hợp tác, như các nhà tâm lý học giả định, thì một môi trường của tính linh hoạt vô tận và bất an toàn phải hủy hoại bất cứ ý thức hợp tác hay sự đồng thuận đạo đức nào (Haidt, 2006; Hauser, 2006). Chúng ta làm cái chúng ta có thể thoát được sự trừng phạt, hành động một cách cơ hội, luôn luôn bối rối về trở nên phi luân lý. Điều này là dễ hơn để duy lý hóa khi mỗi ngày chúng ta nghe về elite và những người nổi danh vi phạm các quy tắc đạo đức mà không bị trừng phạt và khi không có cái bóng nào của tương lai trong các giao dịch của chúng ta.
Trong một thị trường lao động linh hoạt, các cá nhân sợ đưa ra hay bị nhốt vào các cam kết ứng xử dài hạn, vì chúng có thể kéo theo các chi phí và các hành động mà có thể không phải chịu các sự có đi có lại đáng mong muốn. Người trẻ sẽ không muốn bị các cam kết kinh tế cột vào cha mẹ nếu họ sợ việc có thể phải hỗ trợ cha mẹ dài khi già, với một nhà nước co lại và tuổi thọ tăng lên làm tăng các chi phí sắp tới để làm như vậy. Sự héo của sự mặc cả giữa thế hệ đã hợp với các mối quan hệ tình dục và bạn bè tình cờ hơn.
Nếu mọi thứ bị hàng hóa hóa – được đánh giá về mặt chi phí và phần thưởng tài chính – thì các sự có đi có lại đạo đức trở nên dễ vỡ. Nếu nhà nước loại bỏ các hình thức bảo hiểm xã hội do công đảng đưa vào mà đã tạo ra một hệ thống đoàn kết xã hội thực chất, dù không công bằng, mà không đưa bất cứ thứ gì so sánh được thế chỗ nó, thì không có cơ chế nào để tạo ra các hình thức thay thế của sự đoàn kết. Để xây dựng một cơ chế, phải có một cảm giác về tính ổn định và tính có thể tiên đoán được. Precariat thiếu cả hai. Nó phải chịu sự bất trắc kinh niên. Bảo hiểm xã hội phát đạt khi có một xác suất đại thể ngang nhau của tính di động lên và xuống, của sự kiếm được lợi và sự thua lỗ. Trong một xã hội mà trong đó precariat tăng lên, và tính di động xã hội hạn chế và giảm, thì bảo hiểm xã hội không thể hưng thịnh.
Điều này nêu bật một đặc điểm của precariat lúc này. Nó còn phải củng cố như một giai cấp-cho-chính nó. Ta có thể mô tả một quá trình ‘rơi’ vào precariat hay bị kéo vào một cuộc sống bị precariat hóa. Người dân không được sinh ra trong nó và không chắc để nhận diện mình như các thành viên với một sự tự hào nồng nhiệt. Sự sợ hãi, đúng; sự tức giận, có thể; sự hài hước mỉa mai, có lẽ; nhưng tự hào thì không. Điều này là một sự tương phản với giai cấp lao động công nghiệp truyền thống. Nó cần thời gian để trở thành một giai cấp-cho-chính nó nhưng, khi nó trở thành, nó đem lại một niềm tự hào vững chãi và chân giá trị mà giúp biến nó thành một lực lượng chính trị với một chương trình nghị sự giai cấp. Precariat vẫn chưa ở giai đoạn đó, cho dù một số ít trong hàng ngũ của nó bày tỏ một sự kiêu hãnh bướng bỉnh, trong các cuộc diễu hành, các blog và các tương tác tình đồng chí của họ.
Một xã hội tốt cần những người có sự thấu cảm, một năng lực để phóng chiếu bản thân mình vào tình thế của người khác. Các cảm giác thấu cảm và cạnh tranh ở trong sự căng thẳng liên miên. Những người trong sự cạnh tranh chớm nở giấu người khác tri thức, thông tin, các mối quan hệ và các nguồn lực, trong trường hợp tiết lộ chúng sẽ làm mất lợi thế cạnh tranh. Sợ thất bại, hay sợ chỉ có thể đạt một địa vị hạn chế, dễ dẫn tới chối bỏ sự thấu cảm.
Cái gì đem lại sự thấu cảm? Nó có thể nảy sinh từ một cảm giác được chia sẻ về sự xa lánh hay bất an toàn, hay thậm chí sự nghèo chung. Các nhà sinh học tiến hóa nói chung thống nhất rằng sự thấu cảm là có khả năng hơn bên trong các cộng đồng nhỏ ổn định, trong đó người dân biết lẫn nhau và tham gia cùng nhau trên một cơ sở đều đặn (xem, thí dụ, De Waal, 2005). Trong nhiều thế kỷ, các cộng đồng nghề nghiệp đã nuôi dưỡng sự thấu cảm, với sự học nghề như cơ chế chủ yếu cho việc xây dựng một sự đánh giá cao tính có đi có lại, được ủng hộ bởi các quy tắc tự quản phường hội. Ở mọi nơi mô hình đó bị toàn cầu hóa làm xói mòn, ngay cả ở châu Phi (Bryceson, 2010). Precariat có một cảm giác ở trong một cộng đồng quốc tế tản mạn, không ổn định của những người đấu tranh, thường vô vọng, để cho cuộc sống làm việc của họ một bản sắc nghề nghiệp.
Một khi các việc làm trở nên linh hoạt và mang tính công cụ, với tiền công không đủ cho một cuộc sống đáng trọng về mặt xã hội và một lối sống xứng đáng, thì không có ‘tính cách nhà nghề’ nào thuộc về một cộng đồng với các tiêu chuẩn, quy tắc đạo đức và sự tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên dựa trên năng lực và sự tôn trọng các chuẩn mực ứng xử lâu đời. Những người trong precariat không thể trở thành nhà nghề bởi vì họ không thể chuyên môn hóa và họ không thể tạo ra một sự cải thiện đều đặn về độ sâu của năng lực hay kinh nghiệm. Họ đối diện sự không chắc chắn của thu nhập với bất kể hình thức cụ thể nào của công việc và có ít triển vọng của tính di động xã hội ‘hướng lên’.
Precariat có một cảm nhận bị yếu đi về ‘ký ức xã hội’. Chính là phần của nhân loại để xác định bản thân chúng ta bởi cái chúng ta làm và làm cái gì chúng ta là. Ký ức xã hội nảy sinh từ sự thuộc về một cộng đồng được tái sinh qua các thế hệ. Giỏi nhất nó cung cấp một quy tắc đạo đức và một cảm nhận về ý nghĩa và tính ổn định xúc cảm và xã hội. Có các chiều giai cấp và nghề nghiệp sâu xa của điều này. Nó mở rộng tới cái chúng ta mong mỏi để là. Có các rào cản được dựng lên về mặt xã hội đối với sự mong mỏi. Thí dụ, trong hầu hết xã hội một đứa trẻ thuộc giai cấp-lao động sẽ bị cười vì mong mỏi để trở thành một chủ ngân hàng hay một luật sư; một đứa trẻ giai cấp-trung lưu sẽ không bằng lòng để mong là một thợ ống nước hay thợ cắt tóc. Bạn không làm cái bạn không là. Tất cả chúng ta đều xác định mình bởi cái chúng ta không là, cũng nhiều như bởi cái chúng ta có thể là. Precariat không tồn tại tự nó. Nó cũng được xác định bởi cái nó không là.
Các chính sách thúc đẩy tính linh hoạt lao động làm xói mòn các quá trình tương tác quan hệ và nhóm-ngang hàng mà là cốt yếu cho sự tái tạo các kỹ năng và các thái độ xây dựng cho công việc. Nếu bạn kỳ vọng thay đổi cái bạn đang làm vào hầu như bất cứ lúc nào, để thay ‘chủ sử dụng lao động’ với thông báo ngắn, để thay các đồng nghiệp, và trên hết để thay đổi cái bạn gọi là bản thân mình, thì đạo đức công việc trở nên có thể bàn cãi và mang tính cơ hội liên miên.
Các nhà quan sát như Haidt (2006) cho là đạo đức công việc có thể chỉ được áp đặt và thực thi từ bên trong xã hội. Điều này kỳ vọng quá nhiều. Đạo đức xuất phát từ các cộng đồng nhỏ hơn, dễ nhận diện hơn, như một nhóm nghề nghiệp, nhóm họ hàng hay giai cấp xã hội. Chế độ linh hoạt ngầm định bác bỏ đạo đức công việc do các cộng đồng nghề nghiệp mạnh kiên trì tạo ra.
Một điều tra Gallup ở Đức trong năm 2009 đã thấy rằng chỉ 13 phần trăm của tất cả những người làm thuê đã cảm thấy cam kết với việc làm của họ, với 20 phần trăm nhân viên kiên quyết buông thả (Nink, 2009). Căn cứ vào tất cả các lời cổ vũ đó để là linh hoạt và di động, chọn các việc làm như nguồn hạnh phúc, chắc chắn là lành mạnh để được buông thả, đặc biệt trong thời bất trắc. Nhưng căn cứ vào tầm quan trọng của công việc trong đời chúng ta, điều đó chắc chắn là không đủ tốt.
Tóm lại, sự hòa trộn của sự tức giận, anomie, sự lo âu và sự xa lánh là mặt kia không thể tránh được của một xã hội mà đã biến ‘tính linh hoạt’ và tính không an toàn thành các hòn đá tảng của hệ thống kinh tế.
Các nhận xét kết thúc
Mặc dù chúng ta không thể đưa ra số liệu chính xác, chúng ta có thể đoán rằng hiện tại, ở nhiều nước, ít nhất một phần tư dân cư trưởng thành ở trong precariat. Điều này không chỉ là vấn đề có việc làm bấp bênh, ở trong việc làm có độ dài hạn chế và với sự bảo vệ lao động tối thiểu, tuy tất cả điều này là phổ biến. Chính việc ở trong một địa vị mà không cho cảm giác nào về sự nghiệp, không cảm giác nào về bản sắc nghề nghiệp chắc chắn và ít, nếu có, quyền hưởng đối với các trợ cấp nhà nước và doanh nghiệp mà nhiều thế hệ của những người đã thấy mình như thuộc về giai cấp vô sản công nghiệp hay salariat (giai cấp hưởng lương) đã đi đến kỳ vọng như quyền được hưởng của họ.
Đây là thực tế của một hệ thống mà đánh bóng bài thơ trữ tình về, và nuôi dưỡng một cách sống dựa trên, tính cạnh tranh, chế độ nhân tài và tính linh hoạt. Trong hàng thế kỷ xã hội con người đã không được xây dựng trên sự thay đổi không ngừng thường xuyên; nó đã dựa trên sự xây dựng chậm các bản sắc ổn định, hơn là các lĩnh vực hoạt động ‘cứng nhắc’ của sự an ninh. Cẩm nang của tính linh hoạt bảo người dân rằng kẻ thù của tính linh hoạt là tính cứng nhắc. Một bài học của Khai Sáng là, con người phải kiểm soát được số phận của mình, không phải Chúa hay các lực tự nhiên. Precariat được bảo rằng nó phải trả lời cho các lực thị trường và phải có thể thích nghi vô hạn định.
Kết cục là một đám đông đang lớn lên – có thể là tất cả chúng ta bên ngoài giới elite, bám chặt lấy của cải của họ và tách ra khỏi xã hội – trong các tình huống mà chỉ có thể được mô tả như bị xa lánh, anomic, lo âu và dễ tức giận. Dấu hiệu cảnh cáo là sự không can dự chính trị.
Vì sao những người không nghĩ mình là phần của nó lại phải quan tâm về sự tăng trưởng của precariat? Có lý do vị tha, mà là chúng ta không muốn bản thân mình ở đó và vì thế muốn cái tốt hơn cho những người đối mặt với một cuộc sống như vậy. Nhưng cũng có các lý do khác nữa. Nhiều người trong chúng ta sợ bị rơi vào precariat hay sợ rằng gia đình và bạn bè chúng ta sẽ rơi vào. Giới elite và các phần thiển cận nhưng tự mãn hơn của salariat và profician có thể nghĩ rằng, trong một thế giới của tính di động xã hội bị giảm đi, bản thân họ sẽ vẫn thoải mái và được miễn trừ. Nhưng họ có thể bị lo lắng bởi ý nghĩ rằng precariat là một giai cấp nguy hiểm đang nổi lên. Một nhóm mà không thấy tương lai nào của sự an ninh hay bản sắc sẽ cảm thấy sợ và thất vọng mà có thể dẫn nó đến đá bất ngờ vì các nguyên nhân có thể nhận diện được hay được tưởng tượng về số phận của nó. Và sự tách ra khỏi dòng chính của sự sung túc kinh tế và tiến bộ là dễ dẫn đến sự bất khoan dung.
Precariat chưa là một giai cấp-cho-bản thân nó, một phần bởi vì nó giao tranh với chính mình. Một nhóm trong nó có thể đổ lỗi cho nhóm khác vì sự dễ tổn thương và nỗi sỉ nhục của nó. Một công nhân tạm thời lương thấp có thể bị xui khiến để cho là ‘những kẻ nẫng trợ cấp’ nhận được nhiều hơn, một cách bất công và gây thiệt cho mình. Một người định cư dài hạn của vùng đô thị thu nhập thấp sẽ dễ bị dẫn đến để cho là những người nhập cư đang đến lấy mất các việc làm tốt hơn và nhảy lên đầu hàng đợi để lấy trợ cấp. Các căng thẳng bên trong precariat đặt người dân chống lại nhau, cản trở họ khỏi việc nhận ra rằng cấu trúc xã hội và kinh tế đang tạo ra tập hợp chung của họ về các tính dễ bị tổn thương. Nhiều người sẽ bị thu hút bởi các chính trị gia dân túy và các thông điệp phát xít mới, một diễn tiến có thể thấy rõ rồi khắp châu Âu, Hoa Kỳ và ở nơi khác. Đấy là vì sao precariat là giai cấp nguy hiểm và vì sao một ‘nền chính trị thiên đường’ là cần đến để đáp lại các nỗi sợ, các sự bấp bênh và các khát vọng của nó.
– – – – –
MỤC LỤC
Chương mở đầu: Lời giới thiệu – Lời nói đầu – Danh mục chữ viết tắt
Chương 1. Precariat
Chương 2. Vì sao Precariat đang Tăng?
Chương 3. Ai gia nhập Precariat?
Chương 4. Những người Di cư: Các nạn nhân, kẻ xấu hay người hùng?
Chương 5. Lao động, Công việc và sự Thúc ép Thời gian
Chương 6. Một nền Chính trị Địa ngục
Chương 7. Một nền Chính trị Thiên đường
Phụ chương a: Tài liệu tham khảo
Phụ chương b: Index
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:26:00 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (chương 2)
VÌ SAO PRECARIAT TĂNG LÊN?
Để hiểu vì sao precariat đang tăng lên ta phải đánh giá đúng bản chất của Biến đổi Toàn cầu. Thời đại toàn cầu hóa (1975–2008) đã là một thời kỳ khi nền kinh tế đã ‘bị nhổ ra – disemeded’ khỏi xã hội như các nhà tài chính và các kinh tế gia tân-tự do đã tìm cách tạo ra một nền kinh tế thị trường toàn cầu dựa trên tính cạnh tranh và chủ nghĩa cá nhân.
Precariat đã tăng bởi vì các chính sách và các thay đổi thể chế trong thời kỳ đó. Ngay từ đầu, sự cam kết cho một nền kinh tế thị trường mở đã dẫn đến các áp lực cạnh tranh lên các nước đã công nghiệp hóa từ các nước đang công nghiệp hóa mới (NIC) và ‘Chindia – Trung Quốc Ấn Độ’ với một cung lao động giá rẻ không hạn chế. Sự cam kết với các nguyên tắc thị trường đã dẫn một cách không lay chuyển tới một hệ thống sản xuất toàn cầu của các mạng doanh nghiệp và các thực tiễn lao động linh hoạt.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế – làm cho tất cả chúng ta giàu hơn, người ta nói thế – đã được dùng để biện minh cho sự quay lui chính sách tài khóa như một công cụ của tái phân phối lũy tiến. Các khoản thuế trực tiếp cao, được dùng từ lâu để giảm bất bình đẳng và để cung cấp an ninh kinh tế cho những người thu nhập thấp, đã được trình bày như các phản khuyến khích đối với lao động, tiết kiệm và đầu tư, và như việc lùa đầu tư và việc làm ra nước ngoài. Và một sự định hướng lại an sinh xã hội khỏi sự đoàn kết xã hội để giải quyết sự nghèo và những người bị cho là thất bại xã hội đã dẫn đến một xu hướng tới trợ giúp xã hội dựa trên đánh giá gia cảnh (means-tested) và từ đó tới ‘workfare (công việc công ích)’.
Một khía cạnh trung tâm của sự toàn cầu hóa có thể được tóm tắt trong một từ hăm dọa, ‘hàng hóa hóa-commodification’. Việc này gồm sự coi mọi thứ như một hàng hóa, để mua và bán, lệ thuộc vào các lực thị trường, với giá được định bởi cầu và cung, mà không có ‘năng lực hành động’ (một năng lực để kháng cự). Sự hàng hóa hóa đã được mở rộng tới mọi khía cạnh của cuộc sống – gia đình, hệ thống giáo dục, hãng, các định chế lao động, chính sách an sinhợ xã hội, thất nghiệp, khuyết tật, các cộng đồng nghề nghiệp và chính trị.
Trong nỗ lực cho tính hiệu quả thị trường, các rào cản đối với sự hàng hóa hóa bị tháo dỡ. Một nguyên tắc tân-tự do đã là, các quy định được đòi hỏi để ngăn chặn các lợi ích tập thể khỏi hoạt động như các rào cản của cạnh tranh. Thời đại toàn cầu hóa đã không phải là thời đại giải-điều tiết (de-regulation) mà là thời đại tái-điều tiết (re-regulation), mà trong đó các quy định đã được đưa vào nhiều hơn trong bất kể thời kỳ so sánh được nào của lịch sử. Trong các thị trường lao động của thế giới, hầu hết các quy định mới đã là chỉ thị, bảo người dân cái họ có thể và không thể làm, và những gì họ phải làm để là những người hưởng của chính sách nhà nước.
Sự tấn công lên các định chế tập thể bao gồm các hãng như các định chế xã hội, các nghiệp đoàn như các đại diện của các nhân viên, các cộng đồng nghề nghiệp như các phường hội của các nghề thủ công và các nghề, giáo dục như một lực giải phóng khỏi tư lợi và óc buôn bán, gia đình như định chế của tái sản xuất xã hội và tính tương hỗ, và ngành dân chính như được đạo đức phục vụ công cộng hướng dẫn.
Sự pha chế này đã làm vỡ các dàn xếp lao động ra từng mảnh và đã tạo ra một sự phân mảnh giai cấp, làm cho càng nổi bật hơn bởi ‘tertiary hóa’ của công việc và lao động gắn với một sự giảm của chế tác và một sự chuyển sang các dịch vụ (khu vực tertiary-thứ ba). Chương này thêm thực chất cho bức tranh này, không toàn diện nhưng đủ chi tiết để đánh giá đúng vì sao precariat đã trở thành một giai cấp toàn cầu.
Biến đổi toàn cầu
Từ các năm 1970, nền kinh tế thế giới đã trở nên tích hợp, đến mức rằng các sự phát triển ở một phần của thế giới hầu như lập tức tác động đến cái xảy ra ở nơi khác. Trong các năm 1970, các chuyển động trên một sở giao dịch chứng khoán đã hợp với các chuyển động tương tự ở các sở giao dịch khác chỉ trong một thiểu số trường hợp; ngày nay, chúng chuyển động cùng nhau. Trong các năm 1970, thương mại đã là một phần nhỏ của thu nhập quốc dân trong nhiều nước và đã xảy ra chủ yếu trong các hàng hóa bổ sung; ngày nay nó gồm các hàng hóa và dịch vụ chảy theo mọi hướng với một phần ngày càng tăng gồm các phần của các hàng hóa và dịch vụ, phần lớn bên trong các mạng lưới riêng của các công ty đa quốc gia. Chi phí lao động tương đối đã trở thành phần lớn hơn nhiều của quá trình thương mại.
Vốn và việc làm liên đới đang chảy từ các nước Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) sang các nền kinh tế thị trường mới nổi. Việc này sẽ tiếp tục. Vốn trên đầu người ở Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Thái Lan là ba phần trăm của vốn trên đầu người ở Hoa Kỳ. Năng suất ở các nước này sẽ tăng trong nhiều năm đơn giản bởi việc xây dựng nhiều máy móc và hạ tầng cơ sở. Trong khi các nước đã công nghiệp hóa sẽ trở thành các nền kinh tế rentier (thu tô), trong đó tiền công thực tế trung bình sẽ không tăng hay không là một công cụ giảm bất bình đẳng.
Các nền kinh tế đang nổi lên sẽ tiếp tục là một nhân tố chính trong tăng trưởng của precariat. Sẽ không có sự đảo ngược nào của khía cạnh này của toàn cầu hóa. Thật điên rồ cho những người lo về bất bình đẳng và sự bấp bênh kinh tế ở các nước giàu ngày nay để tưởng tượng rằng một phản ứng lại hữu hiệu với cú sốc tài chính của 2008 và khủng hoảng kinh tế sau đó sẽ là để rút lui vào chủ nghĩa bảo hộ. Đáng tiếc, tuy vậy, như chúng ta sẽ thấy, các chính phủ đã phản ứng theo các cách mà đã chỉ tăng cường các sự bấp bênh và bất bình đẳng tạo nền cho khủng hoảng.
Sự nổi lên của Chindia
Toàn cầu hóa đã đánh dấu sự nổi lên của cái chúng ta có thể gọi là ‘Chindia’, mà đã làm thay đổi sâu sắc đời sống xã hội và kinh tế ở mọi nơi. Sự kết hợp của China (Trung Quốc) và India (Ấn Độ) là không hoàn toàn đúng; chúng là các nước với các nền văn hóa và các cấu trúc khác nhau. Tuy vậy, cho mục đích của chúng ta, Chindia tạo thành một ẩn dụ rút gọn tiện lợi.
Trước toàn cầu hóa, các thị trường lao động của các nền kinh tế mở cho thương mại và đầu tư đã có khoảng 1 tỷ người làm và người tìm việc làm (Freeman, 2005). Vào 2000, lực lượng lao động của các nước đó đã tăng lên 1,5 tỷ. Trong khi, Trung Quốc, Ấn Độ và và khối cựu-Soviet đã tham gia nền kinh tế toàn cầu, thêm 1,5 tỷ. Như thế cung lao động trong các nền kinh tế đang toàn cầu hóa đã tăng gấp ba. Các nước mới đã đến với ít vốn và với tiền công rất thấp, làm thay đổi tỷ lệ vốn-lao động và đã làm yếu vị thế mặc cả của công nhân ngoài Chindia. Từ 2000, các nước thị trường mới nổi khác đã thêm vào cung, gồm Việt Nam, Indonesia, Cambodia và Thái Lan, với Bangladesh và các nước khác tham gia bức tranh. Một thuật ngữ mới đã trở nên phổ biến, ‘Trung Quốc Cộng Một’, ngụ ý rằng các công ty đa quốc gia sẽ tự bảo hiểm chiến lược của họ bằng có các nhà máy ở ít nhất một nước khác cũng như Trung Quốc. Việt Nam, với 86 triệu dân, là một ứng viên hàng đầu, với tiền công thực tế đã dừng lại không đổi trong hai thập niên. Trong 2010, một công nhân dệt đã kiếm được US$100 một tháng, một phần bé tí của tiền công ở Hoa Kỳ hay Đức, chẳng hạn.
Tượng trưng cho tốc độ thay đổi, trong 40 năm Nhật Bản đã là nền kinh tế lớn thứ hai của thế giới sau Hoa Kỳ, và trong 2005, tính bằng dollar, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc đã vẫn là chỉ lớn bằng nửa của Nhật Bản. Trong 2010, Trung Quốc đã tiếp quản Nhật Bản và đã sát gần Hoa Kỳ. Ấn Độ đang chạy nhanh phía sau, tăng trưởng phi thường năm này qua năm khác.
Tăng trưởng của Trung Quốc đã được dẫn dắt bởi đầu tư nhà nước, đáng chú ý trong hạ tầng cơ sở, và bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các công ty đa quốc gia đã lao vào, sử dụng các đại diện từ khắp Trung Quốc. Chúng đã dồn hàng trăm ngàn công nhân vào các khu công nghiệp được xây dựng vội vàng, cho họ ở trong các khu tập thể, buộc họ làm việc cật lực đến mức hầu hết bỏ đi trong vòng ba năm. Họ có thể hợp với hình ảnh của một giai cấp vô sản công nghiệp, nhưng họ đã bị đối xử như một lực lượng lao động lưu động sẵn có để dùng. Áp lực để tăng tiền công đã tăng lên. Nhưng tiền công đã thấp đến mức trong thời gian dài vẫn sẽ là một tỷ lệ nhỏ của tiền công ở các nước giàu đã công nghiệp hóa, như các chi phí đơn vị lao động sẽ vẫn thế, đặc biệt khi năng suất đang tăng mạnh.
Trung Quốc đã đóng góp vào bất bình đẳng thu nhập toàn cầu theo nhiều cách. Tiền công thấp của nó đã gây áp lực hướng xuống đối với tiền công ở phần còn lại của thế giới và đã nới rộng các chênh lệch tiền công. Nó đã giữ tiền công của nó thấp khác thường. Khi tăng trưởng tăng tốc, phần của tiền công trong thu nhập quốc gia đã rớt trong 22 năm liên tiếp, rơi từ mức thấp 57 phần trăm của GDP trong 1983 xuống chỉ 37 phần trăm trong 2005. Việc này đã làm cho Trung Quốc là nền kinh tế lớn ‘tư bản chủ nghĩa’ nhất trong lịch sử.
Foxconn, nhà chế tác hợp đồng lớn nhất thế giới, là hình ảnh cô lại của sự đồng lõa của các công ty đa quốc gia trong việc lạm dụng ở các khu công nghiệp mọc lên như nấm ở Trung Quốc. Một công ty con của Công ty Hon Hai Precision Industry của Đài Loan, nó sử dụng 900.000 người ở Trung Quốc. Một nửa ở ‘Foxconn City’ tại Thẩm Quyến, với các tòa nhà chế tác cao mười lăm tầng, mỗi tòa được dành riêng cho một khách hàng, như Apple, Dell, HP, Nintendo và Sony. Foxconn City đã mở rộng bằng dùng một chiến lược thuê những người di cư nông thôn-đô thị với tiền công thấp đáng thương, chờ đợi sự luân chuyển lao động 30–40 phần trăm một năm khi các lứa tuổi kế tiếp đốt sạch mình.
Những sự dàn xếp lao động của nó đã giúp làm tăng precariat toàn cầu. Tiền công thấp và cường độ lao động (kể cả 36 giờ làm thêm một tháng), đã dẫn đến sự chú ý của thế giới một cách muộn màng bởi nhiều vụ tự tử và và mưu toan tự tử trong 2009 và 2010, đã buộc các hãng ở nơi khác thử để cạnh tranh bằng cắt tiền công và chọn lao động linh hoạt.
Các vụ tự tử đó đã có một tác động. Tiếp theo sự công khai bất lợi và các cuộc đình công không chính thức, Foxconn đã tăng tiền công. Nhưng một kết cục là các khoản cắt bớt về chỗ trọ miễn phí và thức ăn cũng như các phương tiện giải trí rộng rãi. Phản ứng tức thời của Foxconn với các vụ tự tử đã mang tính gia trưởng. Nó đã bao quanh các tòa nhà của nó với lưới để tóm những người nhảy xuống, đã thuê các cố vấn cho các công nhân bị stress, đã đưa các sư đến để làm dịu họ đi và đã xem xét việc yêu cầu các nhân viên ký các bản cam kết ‘không tự tử’. Các nhân vật có danh tiếng tại Thung lũng Silicon ở California đã bày tỏ sự lo ngại. Nhưng họ đã chẳng có lý do nào cho sự ngạc nhiên. Họ đã kiếm hàng tỷ dollar từ các sản phẩm chi phí thấp một cách nực cười.
Foxconn là một ẩn dụ cho toàn cầu hóa. Nó sẽ thay đổi mô hình của nó, tăng tiền công trong các vùng chính của nó, cắt các trợ cấp doanh nghiệp, chuyển nhiều sản xuất hơn sang các vùng có chi phí thấp hơn và chuyển sang các nhân viên bấp bênh hơn. Đầu máy lớn của việc thuê ngoài (outsourcing) sẽ outsource chính nó. Tuy vậy, Foxconn và mô hình phát triển Trung Quốc đã tăng tốc các thay đổi ở phần còn lại của thế giới tới một cấu trúc mà trong đó precariat sẽ trở thành trung tâm của sự chú ý.
Biến hãng thành hàng hóa
Một khía cạnh của toàn cầu hóa mà đã thu hút ít sự chú ý nhưng đã đóng góp cho sự tăng trưởng của precariat là cách bản thân các công ty đã trở thành các hàng hóa, để được mua và bán thông qua các vụ sáp nhập và thâu tóm. Mặc dù là phần lâu của chủ nghĩa tư bản, các việc này đã thường khá hiếm. Sự điên cuồng của việc các hãng bây giờ được buôn bán, được tách ra và đóng gói lại là một đặc điểm của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Và các công ty ngày càng được sở hữu bởi các cổ đông nước ngoài, dẫn đầu bởi các quỹ hưu và các quỹ cổ phần tư nhân.
Việc biến các công ty thành hàng hóa có nghĩa là, các cam kết đưa ra bởi các chủ sở hữu hôm nay không có giá trị nhiều như chúng đã thường là. Các sở hữu chủ có thể bị tống ra ngày mai, cùng với nhóm quản lý của họ và những cái gật đầu-và bắt tay tạo thành các mặc cả phi chính thức về lao động được giải quyết ra sao, việc trả lương nên được tôn trọng thế nào và con người được xử lý ra sao trong lúc cần.
Năm 1937, Ronald Coase đã đưa ra một lý thuyết mà đã mang lại cho ông một Giải Nobel về Kinh tế học. Ông đã cho rằng các hãng, với các hệ thống thứ bậc của chúng, ưu việt hơn các thị trường bị nguyên tử hóa gồm chỉ các cá nhân; chúng giảm các chi phí giao dịch của việc kinh doanh, một lý do là chúng đã nuôi dưỡng các mối quan hệ dài hạn dựa trên sự tin cậy. Lập luận này đã sụp đổ. Bây giờ các người mua cơ hội chủ nghĩa đó có thể tích lũy tiền của khổng lồ và tiếp quản ngay cả các công ty được vận hành tốt, có ít khuyến khích để hình thành các mối quan hệ tin cậy bên trong các hãng. Mọi thứ trở nên tình cờ và mở cho đàm phán lại.
Nhiều năm trời các tạp chí học thuật đã đầy các bài về ‘các sự đa dạng của chủ nghĩa tư bản’ quốc gia. Các thứ này đang hợp nhất lại thành một thứ lai toàn cầu, gần với mô hình cổ đông Anglo-Saxon hơn mô hình cổ đông Đức, như thí dụ của Nhật Bản minh họa. ‘Phép màu Nhật Bản’ ở các năm 1960 và 1970 đã dựa trên hãng như một định chế xã hội, với các thứ bậc cứng nhắc, công ăn việc làm suốt đời, tiền công dựa trên thâm niên và các công đoàn công ty. Điều này đã hợp với một nước bước vào nền kinh tế thế giới từ một cơ sở thu nhập thấp. Nhưng các sự cứng nhắc của mô hình đã cản trở sự thích nghi của nó trong thời đại toàn cầu hóa.
Cuối cùng, chính phủ đã soạn lại luật công ty theo hướng mô hình Mỹ, cho phép các hãng đưa ra tiền công gắn với thành tích, lựa chọn cổ phiếu, thành viên hội đồng quản trị bên ngoài, sự cất nhắc dựa trên năng lực hơn là tuổi, theo đuổi giá trị cổ đông và thuê các nhân viên hưởng lương ở giữa-sự nghiệp. Hãng được hàng hóa hóa, được sắp đặt bởi vốn tài chính và các chủ sở hữu – các cổ đông không phải các nhà quản lý. Nó đã không được Mỹ hóa hoàn toàn, nhưng xu hướng đã rõ.
Tỷ lệ cổ phiếu do người nước ngoài nắm giữ đã tăng gần sáu lần giữa 1990 và 2007. Phát hành cổ phiếu trở nên bình thường, để ngỏ các hãng cho sự tiếp quản. Đến cuối các năm 1990, đã có ít hơn 500 cuộc sáp nhập và thâu tóm một năm; trong 2006, đã có gần 3.000. Sự thay đổi đã là do một cải cách cho phép các công ty dùng cổ phiếu để mua các hãng khác, trong khi các cải cách kế toán đã buộc các hãng phải minh bạch hơn. Trong 2007, một luật cho phép ‘sự sáp nhập tay ba’, cho phép các công ty nước ngoài dùng cổ phiếu để mua các hãng Nhật qua các công ty con.
Mối đe dọa bị tiếp quản đã dẫn các công ty hạn chế việc làm suốt đời, chủ yếu qua sự tiêu hao nhân viên mà không có sự thay thế bởi các nhân viên trong biên chế. Tỷ lệ các hãng tự mô tả như ‘chú tâm đến cổ đông’ đã tăng lên 40 phần trăm trong 2007, còn tỷ lệ nói họ ‘chú tâm đến công nhân’ đã rớt xuống 13 phần trăm.
Các nước khác đã biến hãng thành hàng hóa theo các cách tương tự, do đó làm cho đời sống bấp bênh hơn cho các nhân viên. Ngay cả số người thuộc salariat có thể thấy bây giờ rằng qua một đêm họ đã mất việc làm và các hình thức an ninh khác bởi vì hãng của họ đã bị tiếp quản hay tuyên bố phá sản trước việc tái cấu trúc. Về phần họ, như sự phòng thủ một phần, các công ty đã muốn nhiều lực lượng lao động linh hoạt hơn sao cho chúng có thể đáp ứng nhanh với các đe dọa bên ngoài.
Hàng hóa hóa cũng đã làm cho sự phân công lao động bên trong các doanh nghiệp lỏng hơn. Nếu các hoạt động có thể được làm rẻ hơn ở một địa điểm, chúng ‘bị đưa ra hải ngoại-offshored’ (bên trong các hãng) hay ‘được thuê ngoài-outsourced’ (cho các hãng đối tác hay hãng khác). Việc này phân khúc quá trình lao động; các cấu trúc việc làm bên trong và ‘các sự nghiệp’ quan liêu bị phá vỡ, do sự không chắc chắn về liệu các công việc người ta kỳ vọng để làm sẽ có bị offshore hoặc outsource hay không.
Sự phá vỡ nuôi cách các kỹ năng được phát triển. Khuyến khích để đầu tư vào các kỹ năng được xác định bởi chi phí đạt được chúng, chi phí cơ hội của việc làm thế và triển vọng thu nhập thêm. Nếu rủi ro tăng lên về không có một cơ hội để thực hành các kỹ năng, thì đầu tư vào chúng, như cam kết tâm lý với công ty, sẽ giảm. Tóm lại, nếu các hãng trở nên lỏng hơn, các công nhân sẽ bị ngăn cản việc thử xây dựng sự nghiệp bên trong chúng. Việc này đưa họ đến gần precariat.
Hãng trở nên dễ di chuyển hơn các nhân viên, về mặt khả năng của nó để chuyển các hoạt động. Nhiều nhân viên không thể định vị lại một cách dễ dàng. Họ có thể có vợ hay chồng kiếm được thu nhập, có các con bị khóa vào một quỹ đạo trường học, người thân già nua phải chăm sóc. Việc này gây rủi ro phá vỡ sự nghiệp nghề nghiệp, có khuynh hướng đẩy nhiều người hơn vào một cuộc sống precariat.
Đối với một số ngày càng đông công nhân trong thế kỷ thứ hai mươi mốt, sẽ là điên rồ để coi một hãng như một chỗ cho việc xây dựng một sự nghiệp và có được sự an ninh thu nhập. Chẳng có gì sai với điều đó, nếu giả như chính sách xã hội được sửa sao cho tất cả những người làm việc cho các công ty có khả năng có sự an ninh cơ bản. Hiện tại, còn xa mới đúng thế.
Các nàng siren quyến rũ của tính linh hoạt lao động:
tái hàng hóa hóa lao động
Sự theo đuổi các mối quan hệ lao động linh hoạt đã là một nguyên nhân trực tiếp chủ yếu của sự tăng trưởng của precariat toàn cầu. Tính linh hoạt đã tăng thế nào trên toàn cầu đã được xem xét ở nơi khác (Standing, 1999b). Ở đây chúng ta chỉ nêu bật các khía cạnh làm tăng tốc sự tăng trưởng của precariat bằng nghĩ về các hình thức chính – bằng số, chức năng và tiền công – của tính linh hoạt.
Nỗ lực tính linh hoạt là công việc chưa xong, như tỏ rõ mỗi lần có suy giảm kinh tế, khi các nhà bình luận đưa ra cùng lời kêu gọi để được nhiều hơn. Nó là một quá trình tái-hàng hóa hóa lao động, làm cho mối quan hệ lao động dễ đáp ứng hơn với cầu và cung, như được đo bằng giá của nó, tiền công. Điều này đã có nghĩa là sự làm xói mòn tất cả bảy hình thức an sinh lao động được nhận diện ở Chương 1. Quá nhiều nhà bình luận tập trung vào một khía cạnh, sự giảm an ninh công ăn việc làm bằng làm cho việc sa thải nhân viên dễ hơn, giảm các chi phí sa thải và tạo thuận lợi cho việc sử dụng các nhân viên thất thường và tạm thời. Mặc dù phần này của quá trình, giảm bớt sự an toàn công ăn việc làm được dùng để tăng các hình thức khác của tính linh hoạt.
Các nhân viên ổn định có thiên hướng hơn để tổ chức tập thể, vì họ an toàn và tự tin hơn trong thách đấu các chủ sử dụng lao động của họ. An toàn công ăn việc làm đi cùng với sự an toàn đại diện. Tương tự, là một công nhân công dân có nghĩa là sự cảm thấy về sự kiểm soát sự phát triển nghề nghiệp của mình. Không có các hình thức khác của sự an toàn, thì các nhân viên không có sự an toàn kỹ năng nào, vì họ sợ bị chuyển quanh, bị sai khiến làm các nhiệm vụ ngoài các kế hoạch hay nguyện vọng cá nhân của họ.
Điểm then chốt là, các quan hệ lao động linh hoạt là một mệnh lệnh trong quá trình lao động toàn cầu. Chúng ta phải hiểu cái gì được gây ra, không với một mong muốn lại giống để đảo ngược các thay đổi mà để nhận diện cái gì cần đến để làm cho chúng có thể chịu đựng được.
Tính linh hoạt bằng số
Trong ba thập niên, làm cho dễ hơn để sa thải công nhân đã được biện hộ như một cách để tăng việc làm. Việc này, người ta lý lẽ, sẽ làm cho các chủ sử dụng lao động tiềm năng có thiên hướng thuê công nhân vì sẽ ít tốn kém hơn để được giải thoát khỏi họ. Sự an toàn công ăn việc làm yếu đã được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới và các cơ quan có ảnh hưởng khác mô tả như là cần thiết để thu hút và duy trì vốn nước ngoài. Cho nên các chính phủ đã cạnh tranh với nhau trong việc làm yếu sự bảo vệ công ăn việc làm và đã làm cho việc sử dụng công nhân mà không có sự bảo vệ như vậy được dễ hơn.
Hình ảnh trội của precariat xuất phát từ tính linh hoạt số lượng, qua cái đã được gọi từ lâu là các hệ thống lao động ‘không điển hình’ hay ‘không-chuẩn’. Các công ty dòng chính đang rút nhiều lao động của chúng (khỏi sơ đồ hưu trí nhà nước và tuyển mộ vào sơ đồ hưu trí nghề nghiệp), trong khi duy trì một salariat nhỏ (các công dân công ty) mà chúng coi trọng sự trung thành của họ và chia sẻ cho họ một tài sản then chốt – tri thức, năng lực tìm kiếm-tô (rent-seeking) của các hãng khu vực ba. Nếu tri thức được chia sẻ quá rộng, các công ty mất sự kiểm soát tài sản. Giai cấp salariat là các công dân [công ty] với các quyền bỏ phiếu trong các hãng của họ, được tham vấn hay được tính đến trong một loạt quyết định. Các quyền này được ngầm chấp nhận bởi các chủ hay cổ đông chính, những người có các quyền bỏ phiếu về các quyết định chiến lược của danh nghiệp hay tổ chức.
Một đặc điểm của tính linh hoạt là việc sử dụng lao động tạm thời tăng, mà cho phép các hãng thay đổi việc làm nhanh chóng, sao cho chúng có thể thích nghi và thay đổi sự phân công lao động của chúng. Lao động tạm thời có các lợi thế chi phí: tiền công thấp hơn, lương gắn với kinh nghiệm được loại bỏ, quyền hưởng các trợ cấp doanh nghiệp là ít hơn và vân vân. Và có ít rủi ro hơn; tạm thời nhận ai đó có nghĩa là không đưa ra một cam kết mà có thể bị hối tiếc, vì bất cứ lý do gì.
Nơi các dịch vụ chiếm ưu thế, lao động có khuynh hướng là định hướng dự án hơn là liên tục. Điều này gây ra sự biến động hơn trong cầu lao động, làm cho việc sử dụng lao động tạm thời hầu như tất yếu. Cũng có ít nhân tố hữu hình thúc đẩy sự tăng trưởng của nó. Những người trên hợp đồng tạm thời có thể bị thuyết phục làm công việc nặng hơn, đặc biệt nếu các việc làm là căng thẳng hơn những người trong biên chế đã làm. Những người trong biên chế có thể ghét thay đổi. Những người có hợp đồng tạm thời cũng có thể bị đặt vào các hình thức thiếu công ăn việc làm dễ dàng hơn, được trả ít hơn cho ít giờ làm hơn trong các giai đoạn sa sút, chẳng hạn. Họ có thể bị kiểm soát thông qua sự sợ hãi dễ dàng hơn. Nếu họ không chịu đựng được các đòi hỏi đặt lên họ, họ có thể được bảo hãy ra đi, với sự om sòm và chi phí tối thiểu.
Những người làm tạm thời được dùng để moi các sự nhượng bộ từ những người khác, mà đã được cảnh báo rằng họ sẽ bị thay thế nếu họ không thích nghi. Thí dụ, các cô dọn phòng làm việc cho các Hyatt Hotel ở Hoa Kỳ, với các hợp đồng quy định tám giờ một ngày và các việc thường ngày đều đặn, đột nhiên thấy họ làm việc cùng những người đại lý tạm thời bị ép làm việc 12-giờ một ngày và dọn nhiều phòng hơn (30 phòng một ca). Những người trong biên chế đã bị thay thế.
Thí dụ nổi bật nhất là sự teo đi của mô hình người hưởng lương Nhật Bản. Các công ty đã đóng băng việc thuê người trẻ vào các vị trí suốt đời và đã quay sang các hợp đồng tạm thời. Được trả ít hơn nhiều, những người tạm thời bị từ chối các cơ hội đào tạo và trợ cấp. Một số nhà máy còn buộc các nhân viên mặc áo liền quần có màu khác nhau phù hợp với địa vị việc làm của họ, một cảnh ngộ về cuộc sống bắt chước sự hư cấu, gợi nhớ đến các alpha và epsilon của tiểu thuyết Brave New World của Aldous Huxley.
Một lý do đơn giản cho sử dụng nhiều người làm tạm thời là các hãng khác làm vậy, viện dẫn một lợi thế chi phí. Tính cạnh tranh qua sử dụng lao động tạm thời là ngày càng quan trọng trong hệ thống toàn cầu khi các công ty tìm cách bắt chước cái đã được làm ở các nước khác và bởi các nhà dẫn đầu thị trường trong khu vực của họ – một hình mẫu được biết như ‘tác động thế thống trị’. Các công ty đa quốc gia thử thiết lập mô hình việc làm của chúng ở những nơi chúng dựng lên các công ty phụ thuộc, thường đánh bại các thực hành địa phương. Như thế mô hình ‘thực hành tốt nhất’ của McDonald gồm giảm kỹ năng, loại bỏ các nhân viên phụ vụ lâu đời, cản nghiệp đoàn, và hạ tiền công và các trợ cấp doanh nghiệp. Các công ty khác noi theo. Các nhà quan sát đã làm nổi bật các vốn tiết mục của các thực hành lao động mà các nhà quản lý có thể dựa vào (Amoore, 2000; Sklair, 2002; Elger and Smith, 2006; Royle and Ortiz, 2009). Một số sử dụng ‘các công đoàn vàng’ – được dựng lên và vận hành bởi các nhà sử dụng lao động – để đánh bại các công đoàn độc lập. Một mô hình toàn cầu đang nổi lên mà trong đó công ty, các nhân tố công nghệ và chính trị ảnh hưởng đến sự lựa chọn các chiến thuật. Đi hình dung sự kháng cự hữu hiệu kéo dài là kỳ cục.
Một thí dụ khác là Walmart, nhà bán lẻ lớn nhất và định tiêu chuẩn của Hoa Kỳ và nguồn của cải của bốn trong mười người giàu nhất nước Mỹ. Nó phát đạt nhờ một quy trình just-in-time tinh vi kiểm soát các chi phí lao động qua tính linh hoạt lao động cực độ đã khiến cho nó là một trong các mô hình ghê tởm nhất thế giới. Lao động tạm thời là bản chất của hệ thống. Phản đối cái xảy ra là bị đuổi.
Việc chuyển sang lao động tạm thời là phần của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Nó đã đi kèm với một sự tăng trưởng của các đại lý việc làm và các nhà môi giới lao động, mà đã giúp các hãng chuyển nhanh hơn sang các lao động tạm thời và sang việc khoán ngoài phần lớn lao động của họ. Các đại lý tạm thời là các gã khổng lồ định hình quá trình lao động toàn cầu. Adecco có trụ sở ở Thụy Sĩ, với 700.000 người trên sổ của nó, đã trở thành một trong các chủ (sử dụng lao động) tư lớn nhất thế giới. Pasona, một đại lý Nhật cung cấp nhân viên được dựng lên trong các năm 1970, gửi một phần tư triệu người lao động mỗi ngày trên các hợp đồng ngắn hạn. Người sáng lập Pasona nói tính linh hoạt là có lợi cho các hãng và người lao động, và gạt bỏ tiêu chuẩn cũ về việc làm dài hạn như đa cảm. ‘Là một lao động thường xuyên – và bị bóc lột suốt phần còn lại của đời bạn’, ông bảo The Economist (2007). Giống các đại lý Âu châu và Mỹ, Pasona đã lập ra hàng tá công ty phụ giải quyết các dự án thuê ngoài (outsource) và sản xuất ở các nước Á châu và ở Hoa Kỳ.
Về truyền thống, các đại lý tạm thời đã tập trung vào nhân viên văn phòng và các việc làm người ở, như quét dọn và phụ tá bệnh viện. Rồi thì một số vớ được khu vực béo bở của ‘những người đòi phúc lợi’. Bây giờ chúng ngày càng đi vào lĩnh vực chuyên nghiệp, được coi như việc kinh doanh có suất lợi nhuận cao hơn. Thí dụ, Adecco đang chuyển từ 20 phần trăm chuyên nghiệp, và 80 phần trăm lao động văn phòng và cổ xanh, sang một phần ba chuyên nghiệp.
Sự tăng trưởng của lao động tạm thời, các đại lý việc làm đa quốc gia và các môi giới việc làm tai tiếng mà có vai vế ở các nước như Nam Phi đã được tạo thuận tiện bởi các thay đổi lập pháp và đã được hợp pháp hóa bởi các cơ quan như Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), mà đã đảo ngược sự phản đối của nó đối với các đại lý việc làm tư nhân trong các năm 1990. ỞNhật Bản, một luật năm 1999 đã lật đổ sự cấm các hợp đồng tạm thời và đã cho phép các đại lý việc làm tư nhân trong nhiều lĩnh vực hơn; sau 2004, chúng được cho phép trong chế tác. Những cải cách này không nghi ngờ gì đã đóng góp cho sự tăng trưởng của precariat Nhật Bản. Ở Italy, precariat đã được mở rộng bởi luật Treu năm 1997, mà đã đưa các hợp đồng tạm thời vào, và bởi luật Biagi năm 2003, mà đã cho phép các đại lý tuyển mộ tư nhân. Nước này sau nước kia đã thừa nhận áp lực của toàn cầu hóa trong mở rộng lao động tạm thời.
Nó đã đi cùng cái mà được gọi tên vụng về là ‘tam giác hóa-triangulation’. Luật lao động và mặc cả tập thể đã được xây dựng trên cơ sở của các mối quan hệ trực tiếp giữa các chủ và các nhân viên. Nhưng ai chịu trách nhiệm khi một bên thứ ba trở thành một trung gian? Ai kiểm soát, chủ cuối cùng hay trung gian? Các ranh giới mờ đi của việc ra quyết định và trách nhiệm làm tăng thêm tính bấp bênh. Có các án lệ rộng rãi để làm vui thích trí óc của các luật sư. Nhưng bản thân những người lao động tạm thời chỉ biết rằng họ báo cáo cho hai ông chủ.
Tình hình thường u ám. Ở Ontario, Canada, chẳng hạn, dưới một luật điều chỉnh các đại lý trợ giúp tạm thời, khi những người lao động tạm thời đăng ký họ từ bỏ các quyền của mình để chọn nơi làm việc và loại công việc, từ bỏ sự kiểm soát đối với ‘năng lực lao động’ của họ và hàng hóa hóa bản thân họ, đến mức trả cho đại lý một khoản phí đăng ký với nó. Đây là con đường tới một tư cách công dân hạng-hai với các quyền bị cắt xén. Một cuộc sống trong sự xúi giục là một sự cắt xén kiểm soát thời gian, khi người lao động tạm thời phải có mặt khi bị yêu cầu; thời gian mà ai đó phải đặt sang một bên vì lao động vượt quá thời gian lao động.
Như thế xu hướng tới lao động tạm thời là mạnh. Trong một số nước, đặc biệt ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, rất ít việc làm được phân loại như tạm thời bởi vì các nhân viên ngắn hạn không được tính, cho dù họ không có an toàn công ăn việc làm nào và là tạm thời về mọi mặt trừ cái tên. Các chính phủ Anh kế tiếp đã mở rộng thời kỳ mà trong đó các nhân viên không có sự an toàn và đã giảm chi phí của chủ về chấm dứt hợp đồng. Nó đã là sự thất thường hóa lén lút. Ở nơi khác, trong các cố gắng để bảo vệ ‘mối quan hệ việc làm chuẩn’, các công đoàn, chính phủ và các cơ quan giới chủ đã cho phép những người lao động tạm thời sát cạnh các nhân viên thường xuyên, tạo ra các lực lượng lao động nhị nguyên.
Phần lao động tạm thời không cho thấy dấu hiệu giảm nào. Ngược lại, cú sốc tài chính 2008 và suy thoái theo sau đã cho các hãng một cái cớ để giải thoát khỏi các nhân viên ‘thường xuyên; và để chào đón nhiều lao động tạm thời hơn. Vào 2010, các lao động tạm thời ở Nhật Bản đã tạo thành một phần ba lực lượng lao động và hơn một phần tư người làm ở tuổi rực rỡ nhất. Trong tháng 1-2009, 500 người vừa bị sa thải vô gia cư đã dựng một làng lều ở trung tâm Tokyo. Khi các chính trị gia và đội TV tụ hợp ở đó, chính quyền thành phố đã phản ứng bằng tìm cho họ chỗ trọ trong các tòa nhà công không sử dụng. Mặc dù hành động đã kéo dài chỉ một tuần, nó đã nâng cao nhận thức về precariat, nhấn mạnh sự thiếu lan rộng của an sinh xã hội. Hình ảnh vẫn đọng lại là, các gia đình và các công ty đã chăm sóc họ, nghĩa là nhà nước đã không cần làm vậy. Điều sỉ nhục đã vẫn còn, cho nên một người thất nghiệp đã không dễ yêu cầu sự hỗ trợ. Sự cố đã báo trước một sự thay đổi nhận thức xã hội. Precariat đột nhiên đã là thực.
Ở Hoa Kỳ, tiếp sau cú sốc, các hãng đã phải viện đến một chiến thuật mà đã được tính toán sau sự sụp đổ năm 1991 của hệ thống Soviet, đưa các nhân viên thường xuyên vào ‘quan hệ hợp đồng’ để tránh các chi phí cố định. Trong trường hợp Soviet, hàng triệu công nhân đã được cho ‘nghỉ không lương’, trong khi các hãng tiếp tục dùng các sổ lịch sử làm việc của chúng. Việc này đã tạo ấn tượng rằng việc làm vẫn được duy trì, nhưng nó đã bần cùng các công nhân, nhiều trong số họ đã chết. Tại Hoa Kỳ, việc chuyển các nhân viên sang các hợp đồng tạm thời đã làm cho họ không đủ tư cách cho bảo hiểm sức khỏe, các ngày nghỉ có lương và vân vân. Là cường điệu để nói Hoa Kỳ đã đi xuống theo đường Soviet, nhưng các chiến thuật đã đẩy các công nhân vào precariat, dẫn đến nhiều đau khổ cá nhân.
Châu Âu cũng nuôi dưỡng việc làm tạm thời. Ở Đức, hàng triệu công nhân đã được thêm vào hạng tạm thời (Zeiterbeit). Ở Vương Quốc Anh, chính phủ Lao động đã phản đối và sau đó đã trì hoãn việc thi hành Chỉ thị EU cho các công nhân, được thuê qua các đại lý tạm thời, các quyền ngang với những người thuộc nhân viên thường xuyên, với cùng lương, ngày nghỉ và các điều kiện cơ bản. Nó đã muốn giữ Vương Quốc Anh là một nơi hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, nó đã xác nhận trạng thái bấp bênh của tất cả những người với các hợp đồng tạm thời.
Trong khi Tây Ban Nha đã trở thành hình ảnh thu nhỏ của một thị trường lao động nhiều tầng, với nửa lực lượng lao động của nó trên các hợp đồng tạm thời. Trong 2010, OECD đã ước lượng rằng 85 phần trăm việc làm bị mất ở Tây Ban Nha tiếp sau đổ vỡ tài chính đã là tạm thời. Nó đã nhận là các nhân viên thường xuyên đã được giữ trong việc làm bởi vì đã tốn kém để sa thải họ. Nhưng chi phí cao của các nhân viên hưởng lương đã gây ra rồi sự chuyển sang lao động tạm thời cũng như sang thuê ngoài và việc làm của dân di cư. Chính phủ và các nghiệp đoàn đã phản ứng với áp lực sớm hơn cho tính linh hoạt bằng duy trì sự an toàn cho các công nhân thường xuyên và tạo ra một tầng đệm của lao động tạm thời. Việc này không chỉ đã dẫn đến một lực lượng lao động nhiều tầng mà đến sự oán giận của precariat đối với các nghiệp đoàn mà đã chăm lo cho các thành viên riêng của chúng với sự tổn hại của precariat.
Một mặt khác của tính linh hoạt số lượng là sự tăng các việc làm một phần-thời gian. Các lý do gồm sự thay đổi vị trí của phụ nữ và sự chuyển sang dịch vụ. Nó một phần cũng là không cố ý. Ở Hoa Kỳ, Cục Thống kê Lao động đã ước lượng vào giữa 2009 rằng hơn 30 triệu người có việc làm một phần-thời gian ‘do cần thiết’, hơn hai lần số người được tính là thất nghiệp, mà đã góp phần vào một tỷ lệ thất nghiệp được điều chỉnh là 18,7 phần trăm. Một tỷ lệ rất lớn của các việc làm đó sẽ vẫn là một phần thời gian và được trả tiền thấp cho dù nền kinh tế bình phục.
Thuật ngữ part-time (phần thời gian) có thể gây lầm lạc, vì nhiều của cái được tính như part-time là chẳng hề là thế. Như chúng ta sẽ thảo luận trong Chương 5, có nhiều cách mà các hãng trả tiền người làm như các part-timer nhưng kỳ vọng họ làm nhiều giờ hơn họ được trả công. Như một phụ nữ bảo Wall Street Journal (Maher, 2008), ‘tôi có địa vị part-time với các giờ làm toàn thời’. Nhiều người lấy hai việc làm part-time để trả các hóa đơn hay như sự bảo hiểm chống lại việc mất một trong hai việc làm đó.
Tính linh hoạt số lượng cũng đã gắn với thuê ngoài và đưa ra hải ngoại. Cú sốc tài chính đã tăng tốc chiều hướng toàn cầu sang giao thầu lao động cho bên ngoài, ngay khi sản xuất và việc làm co lại. Các ban quản lý liều lĩnh tìm các cách để giảm chi phí. Một cách đã là chuyển các giao hàng ít khẩn cấp cho đội tàu, mà cho phép việc đưa ra hải ngoại (offshoring) nhiều hơn, trước kia bị hạn chế bởi sự cần thiết cho chuyên chở đường không đắt đỏ. Các công ty cũng tiến hành nhiều ‘thuê ngoài-gần near-sourcing’ và ‘đưa ra nước ngoài gần near-shoring’ hơn. An toàn công ăn việc làm trong tất cả việc này là một ảo vọng.
Cuối cùng, có các mưu kế như ‘các hợp đồng zero-giờ’, mà theo đó ai đó được trao một hợp đồng nhưng để không xác định bao nhiêu giờ, nếu có, họ sẽ được yêu cầu đi làm hay họ sẽ được trả bao nhiêu nếu có trả chút nào. Một mưu khác là ‘nghỉ phép không lương’, một lối nói trại cho sa thải, đôi khi cả hàng tháng tách biệt, đôi khi thường xuyên một ngày một tuần, nghỉ không lương. Một kế khác là việc sử dụng các thực tập sinh. Số người trong trạng thái mới này đã mở rộng kể từ cú sốc. Các chính phủ đã cho các khoản bao cấp và sự cổ vũ. Giống nghỉ phép, chúng làm các việc tốt cho tính toán việc làm và thất nghiệp; phần lớn chi phí do các thực tập sinh và gia đình họ phải chịu.
Khi xem xét tất cả các điều rắc rối của tính linh hoạt số lượng, kết cục là cuộc sống làm việc bấp bênh cho số người gần precariat tăng lên. Mỗi năm, khoảng một phần ba nhân viên ở các nước OECD bỏ chủ của họ vì lý do này hay lý do khác. Ở Hoa Kỳ, khoảng 45 phần trăm bỏ việc làm của họ mỗi năm. Hình ảnh về việc làm dài hạn là lừa dối, cho dù một thiểu số vẫn có. Một phần ba luân chuyển việc làm được giải thích bởi sự tạo ra và chấm dứt của các hãng.
Vào các năm 1960, một công nhân điển hình tham gia thị trường lao động của một nước đã công nghiệp hóa có thể dự kiến có bốn chủ cho đến lúc về hưu. Trong các hoàn cảnh đó, là có nghĩa để đồng nhất với hãng nơi mình làm việc. Ngày nay một công nhân sẽ là ngu xuẩn để làm vậy. Bây giờ, một công nhân điển hình – có khả năng hơn là một phụ nữ – có thể dự kiến có chín chủ trước khi đạt tuổi 30. Đó là mức độ thay đổi được đại diện bởi tính linh hoạt số lượng.
Tính linh hoạt chức năng và sự bất an toàn việc làm
Thực chất của tính linh hoạt chức năng là để làm cho có thể đối với các hãng để thay đổi sự phân công lao động nhanh mà không tốn chi phí và để chuyển các công nhân giữa các nhiệm vụ, vị trí và nơi làm việc. Với cạnh tranh toàn cầu, và một cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra, là có thể hiểu được vì sao các công ty đã muốn điều này và vì sao các chính phủ đã muốn giúp đỡ. Tuy vậy, nó đã mang lại những thay đổi đau đớn mà đã mở rộng precariat. Trong khi tính linh hoạt số lượng tạo ra sự bất an toàn việc làm, còn tính linh hoạt chức năng tăng cường sự bất an toàn việc làm.
Một sự thay đổi tạo thuận tiện đã đến với sự củng cố đặc quyền quản lý đối với các dàn xếp công việc, chủ đề đấu tranh trong các năm 1970 và 1980, khi các chủ đã giật mạnh sự kiểm soát từ các công đoàn và các cơ quan chuyên nghiệp. Trong việc bắt các nhân viên phục tùng nhiều hơn, nó đã đánh dấu một sự tiến tới của ‘sự vô sản hóa’ (Standing, 2009), nhưng một cách nghịch lý nó đã là cần cho ‘precariat hóa’. Thiết lập sự kiểm soát hành chính đối với sự phân công lao động đã cho phép các ban quản lý tạo ra các dàn xếp linh hoạt mà bao gồm các con đường yếu hơn của sự thăng tiến nghề nghiệp.
Khi nhiều doanh nghiệp trở thành công ty đa quốc gia, các ban quản lý có thể chuyển các việc làm và các chức năng giữa các nhà máy bên trong mạng lưới và các chuỗi cung của họ. Các thuật ngữ mới đi vào từ điển quản lý và phân tích lao động. Outsourcing (thuê ngoài) đã trở thành một từ tóm lấy-hết (catch-all) cho các quá trình chồng gối nhau. Có sự kiểm sát về phân công lao động là cho dễ dàng hơn để offshore (chuyển các nhân viên hay các nhiệm vụ sang một nhà máy ở nước khác) và inshore (chuyển giữa các nhà máy bên trong một nước), và chuyển giữa outsourcing và insourcing (thuê trong, tự làm) mỗi khi có lợi.
Một nhà quản lý tối đa hóa lợi nhuận hay một kỹ sư có thể xem tính khả chuyển này là đáng mong muốn. Nhưng hãy xét các hệ lụy đối với các công nhân phải chịu nó. Hầu hết đã chẳng có sự kiểm soát đối với sự xây dựng một sự nghiệp, như thế không nên lãng mạn hóa thời vàng son nào đó (Sennett, 1998; Uchitelle, 2006). Nhưng bây giờ, còn nhiều người hơn chẳng hề có chút kiểm soát nào. Sự củng cố đặc quyền quản lý có nghĩa là sự bất an toàn việc làm bây giờ là tiêu chuẩn mới. Làm sao người ta có thể xây dựng một sự nghiệp và một tiểu sử nghề nghiệp khi họ có thể bị di chuyển với thông báo ngắn hay khi các thanh trên một chiếc thang nghề nghiệp đột nhiên được thuê ngoài?
Một xu hướng liên quan là sự lan rộng của các hợp đồng cá nhân, như phần của ‘sự hợp đồng hóa’ cuộc sống. Trong xã hội công nghiệp, tiêu chuẩn đã là một hợp đồng tập thể, được lập ra bởi sự mặc cả tập thể, có lẽ được mở rộng ra các hãng khác trong một khu vực. Nhưng khi các nghiệp đoàn và sự mặc cả tập thể co lại, các hợp đồng cá nhân đã tăng lên. Trong một thời gian ngắn, ít công nhân hơn đã được bao phủ bởi bất cứ hợp đồng nào, nhưng xu hướng tới các hợp đồng cá nhân đang được củng cố. Chúng cho phép các hãng đưa ra các cách đối xử khác nhau, các mức độ của sự an toàn và tình trạng, sao cho để chuyển một số công nhân vào salariat, một số vào việc làm ổn định, một số vào tình trạng precariat, làm tăng các sự phân chia và các thứ bậc. Các hợp đồng được cá nhân hóa cho phép các chủ siết chặt các điều kiện để tối thiểu hóa sự bất trắc của hãng, được thực thi thông qua sự đe dọa phạt vì phá vỡ hợp đồng.
Các hợp đồng cá nhân đã trở thành hơn một xu hướng toàn cầu từ khi Trung Quốc ban hành Luật Lao động năm 1994 và Luật Hợp đồng Lao động năm 2008 của nó, mà đã bảo vệ các hợp đồng thời hạn cố định và thời hạn mở. Các luật này sẽ làm tăng outsourcing và triangulation khi các hãng học để tối thiểu hóa các chi phí đi cùng với các hợp đồng. Vì Trung Quốc là thị trường lao động năng động nhất và lớn nhất, các tiến triển này đánh dấu một sự di chuyển sang một lực lượng lao động toàn cầu nhiều tầng mà trong đó các salariat có đặc ân sẽ làm việc kế bên một precariat tăng lên.
Các hợp đồng cá nhân, sự thất thường hóa và các hình thức khác của tính linh hoạt ngoài đến cùng một thuật ngữ vụng về khác, ‘tertiarisation’. Từ này là nhiều hơn việc chuyển tải ‘khu vực ba-tertiary’, ngụ ý một sự chuyển sang dịch vụ. Trong hàng thập kỷ sản xuất và việc làm của thế giới đã chuyển sang dịch vụ. Từ thông dụng ‘giải-công nghiệp hóa’ gây lầm lạc, vì nó ngụ ý một sự ăn mòn và mất năng lực, trong khi nhiều thay đổi đã phù hợp với sự tiến bộ công nghệ và sự thay đổi bản chất của sản xuất. Ngay cả ở Đức, một cường quốc xuất khẩu, phần của chế tác trong đầu ra và việc làm đã co lại dưới 20 phần trăm. Ở Pháp, Vương Quốc Anh và Hoa Kỳ, nó còn thấp hơn nhiều.
Tertiarisation tóm tắt một sự kết hợp của các hình thức của tính linh hoạt, mà trong đó sự phân công lao động là lỏng, các chỗ làm việc pha trộn thành ở nhà và các nơi công cộng, giờ lao động giao động và người dân có thể kết hợp nhiều địa vị công việc và có nhiều hợp đồng cùng lúc. Nó là sự báo hiệu một hệ thống kiểm soát mới, tập trung vào việc sử dụng thời gian của người dân. Một cách có ảnh hưởng để nhìn vào nó đã là trường phái Ý, dựa vào chủ nghĩa Marx và Foucault (1977), mà mô tả quá trình như sự tạo ra một ‘nhà máy xã hội’, với xã hội là một sự mở rộng của nơi làm việc (Hardt and Negri, 2000).
Hình ảnh đó không hoàn toàn đúng. Nhà máy là biểu tượng của xã hội công nghiệp, mà trong đó lao động đã được xác định trong các block thời gian, với sản xuất hàng loạt và các cơ chế kiểm soát trực tiếp trong các nơi làm việc cố định. Hình ảnh này không giống hệ thống tertiary (khu vực ba) ngày nay. Tính linh hoạt kéo theo nhiều công-việc-cho-lao-động; một sự làm mờ các nơi làm việc, chỗ ở nhà và các nơi công cộng; và một sự dịch chuyển từ sự kiểm soát trực tiếp sang các hình thức khác nhau của sự kiểm soát gián tiếp, mà trong đó các cơ chế công nghệ ngày càng tinh vi được triển khai.
Một phần của tính linh hoạt chức năng và tertiarisation đã là một sự tăng của làm việc từ xa, mà phá vỡ các nhóm nhân viên và có khuynh hướng cô lập họ. Tất nhiên, nhiều người làm việc hoan nghênh cơ hội để làm việc từ nhà. Tại IBM, một nhà tiên phong trong làm việc từ xa, 45 phần trăm nhân viên không đến văn phòng thường xuyên, tiết kiệm cho công ty US$100 tỷ mỗi năm (Nairn, 2009). Các nhân viên ngày càng có ‘các tiểu sử lang thang’, cho phép họ chuyển các sự cài đặt và các file đến máy tính trạm làm việc nào họ đang dùng, kể cả các máy xách tay. Các nơi làm việc ảo đã tăng nhanh, với các nhân viên làm việc ‘ở nhà’ hay ở đâu họ muốn. Các dàn xếp như vậy tiết kiệm tiền văn phòng, cho một công ty sự tiếp cận đến một lượng nhân tài rộng hơn (và giữ phụ nữ sau khi nuôi con), cho phép nó hoạt động kéo dài ngày, làm giảm các chiêu trò ở văn phòng (office politics) và các sự gián đoạn do đồng nghiệp, và thân thiện với môi trường hơn. Các hạn chế gồm thiếu chia sẻ thông tin phi hình thức và ít esprit de corps-tinh thần đồng đội.
Những người làm việc từ xa cũng dễ bị tổn thương với việc bị đẩy khỏi bảng lương nhân viên, cho các mục đích thuế và đóng góp xã hội. Hoặc một phần của lao động của họ có thể không xuất hiện trong hồ sơ, có lẽ để che giấu mức công việc hay thu nhập, hay để tăng sự bóc lột người cung cấp dịch vụ. Lao động ngầm này là không thể tránh được trong một nền kinh tế thị trường tertiary.
Sự tháo dỡ nghề nghiệp
Thêm vào tính linh hoạt chức năng và làm việc từ xa, những thay đổi về cấu trúc nghề nghiệp đã phá vỡ năng lực của người dân để kiểm soát và phát triển tiềm năng nghề nghiệp của họ. Trong thời đại toàn cầu hóa, các chính phủ đã lặng lẽ tháo dỡ các định chế ‘tự-quản’ của các nghề và các nghề thủ công, và thế chỗ chúng đã dựng lên các hệ thống điều tiết nhà nước phức tạp. Các việc này đã loại bỏ năng lực của các tổ chức nghề nghiệp để đưa ra các tiêu chuẩn riêng của chúng, để kiểm soát sự gia nhập vào nghề của chúng, để thiết lập và tái tạo đạo đức của chúng và những cách làm các thứ, để định các mức thù lao và các quyền hưởng, để thiết lập các cách kỷ luật và chế tài các thành viên, để đưa ra các thủ tục cho việc đề bạt và cho những hình thức khác của sự thăng tiến nghề nghiệp, và nhiều thứ khác.
Việc công kích dữ dội sự tự quản nghề nghiệp đã là phần của chương trình nghị sự tân-tự do. Milton Friedman – kiến trúc sư của chủ nghĩa trọng tiền và, sau Friedrich Hayek, kinh tế gia ảnh hưởng nhất hướng dẫn Thatcher, Reagan và Pinochet của Chile – đã có kinh nghiệm trí tuệ đầu tiên của mình trong năm 1945 với một cuốn sách tấn công nghề y (Friedman and Kuznets, 1945). Các nhà tân tự do đã muốn các quy định để ngăn bất cứ tiếng nói tập thể nào. Các tổ chức nghề nghiệp đã ở cao trên danh sách đánh.
Quy định nhà nước đã được tăng cường qua cấp phép nghề và một sự chuyển sự cấp phép cho các thực thể nhà nước khăng khăng đòi sự tôn trọng triệt để sự cạnh tranh và các thực hành dựa vào thị trường. Các tổ chức nghề nghiệp đã trở thành đối tượng của các quy tắc chống-trust. Các nghề mà đã thiết lập các quy tắc riêng của mình đã bị xem như làm méo mó thị trường, bằng hành động một cách độc quyền. Cho nên nhiều người đã phải chịu sự cấp phép nghề nghiệp và đã buộc phải tuân thủ các thực hành thị trường.
Những thay đổi đã đầy kịch tính. Ở Hoa Kỳ ngày nay, hơn 1.000 nghề phải chịu sự cấp phép, phủ nhiều hơn 20 phần trăm lực lượng lao động. Sự lan ra của việc cấp phép ở nơi khác đã cũng rộng. Và trong khi ta đã có thể cho rằng các bộ lao động hay các cơ quan tương đương của chúng phải chịu trách nhiệm về quy định hành nghề, xu hướng đã là để chuyển trách nhiệm cho các bộ tài chính. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ và Ủy ban Thương mại Liên bang đã định xu hướng trong các năm 1970, xóa bỏ sự miễn trừ của các nghề khỏi các quy tắc chống-trust. Dần dần, sự cạnh tranh và các định chế tài chính đã điều khiển những gì các nghề có thể và không thể làm. Ở Australia, tất cả các nghề đều rơi vào Ủy ban Cạnh tranh và Người tiêu dùng; ở Bỉ và Hà Lan, các nghề bị điều tiết bởi các nhà chức trách cạnh tranh của họ. Ở Vương Quốc Anh, các hội đồng do chính phủ chi phối đã biến các lợi ích cạnh tranh và người tiêu dùng thành các nguyên lý cai trị.
Quy định thị trường đã đi cùng sự tự do hóa các nghề, được điều phối ở mức độ nào đó bởi các công cụ điều tiết quốc tế như Hiệp định Chung về Thương mại và Dịch vụ của Tổ chức Thương mại Thế giới và Chỉ thị Dịch vụ của EU. Các thị trường quốc gia được mở cho sự cạnh tranh nước ngoài trong ‘các dịch vụ’ nghề trong các nước mà trước kia đã có các quyền tài phán quốc gia về ai có thể hành nghề luật sư, kế toán, kiến trúc sư, thợ ống nước hay bất cứ thứ gì.
Ngay cả các nghề mà đã là các thành lũy của các giai cấp salariat và profician che đậy các xu hướng precariat, thông qua ‘các sự nghiệp’ bị cắt xén. Trong khu vực tài chính, hầu hết người dân trong việc làm ngắn hạn. Một phòng giao dịch với 1.000 người có thể có năm mươi người trên 40 tuổi và chỉ mười người trên 50 tuổi.
Một sự nghiệp có thể lên đỉnh sau chỉ năm năm. Một số ít trở thành kẻ thắng, đắm mình trong tiền. Một số đi vào salariat trong các việc làm hành chính. Một số xì hơi, trôi vào precariat. Không ngạc nhiên rằng cảnh tượng sau-2008 ở Hoa Kỳ đã tạo ra các nhà tài chính-mini một phần thời gian tiến hành các giao dịch từ phòng ngủ hay bếp của họ cho vài khách hàng được tưởng tượng cũng như thực. Sự phân tầng đang đi sâu vào mọi loại nghề.
Với sự bất an việc làm mặt trái của tính linh hoạt chức năng và gắn với sự quy định-lại các nghề, các doanh nghiệp có thể phân tầng nhân viên hầu như theo các tuyến giai cấp, chuyển những người ít hiệu quả vào đường cùng hay giải-kỹ năng các việc làm trong khi giữ các vị trí hưởng lương mà duy trì các chứng thư nghề nghiệp cho những người được ưa thích. Mặc dù các quyết định phân tầng có thể dựa vào các đánh giá năng lực, sự kiểm soát các cấu trúc nghề nghiệp bởi các nhà quản lý và các quy tắc hành chính làm tăng quy mô của việc khiến nhiều người trệch hướng khỏi vị thế nghề nghiệp thích hợp vào một kênh precariat. Việc này có thể phản hồi vào các quyết định học tập. Vì sao lại đầu tư vào một kỹ năng nghề nghiệp nếu tôi không có sự kiểm soát nào về việc tôi có thể sử dụng và phát triển nó ra sao?
Các quy định khiến các nghề vỡ ra từng mảnh, gây ra các tựa-nghề hướng tới precariat. Theo (báo cáo) Kiểm toán Kỹ năng Chiến lược Quốc gia lần thứ nhất được đưa ra năm 2010, các việc làm tăng nhanh nhất của Anh trong thập niên vừa qua đã gồm vài nghề hiện đại và nghề thủ công – các viên chức bảo tồn, các nhà quy hoạch đô thị, các nhà tâm lý học và các thợ cắt tóc – nhưng chủ yếu gồm các việc làm nửa-chuyên nghiệp, như những người giúp việc y tế, phụ tá pháp lý và các trợ lý của giáo viên. Điều này phản ánh sự yếu đi của các cộng đồng nghề nghiệp và sự phân chia của chúng thành các elite và các precariat, những người sau không có khả năng leo lên hạng cao hơn. Quá trình đã bị đóng gói bởi Đạo luật Dịch vụ Pháp lý năm 2007 của Vương Quốc Anh, được gán cho cái tên ‘luật Tesco’, mà cho phép tiêu chuẩn hóa các dịch vụ pháp lý để được chào mời, kể cả qua các siêu thị, bởi các trợ lý pháp lý với sự đào tạo tối thiểu và không có cơ hội nào để trở thành các luật sự thực thụ.
Cuối cùng, có một khu vực đang nổi lên của sự tái cấu trúc nghề mà phản ánh sự biến các hãng thành hàng hóa, mà sẽ tăng tốc các xu hướng precariat. Đây là sự hàng hóa hóa quản lý, được cô đọng bởi sự tăng của các nhà quản lý tạm được cho thuê qua các đại lý hay bởi chính họ cho các sự giao việc ngắn hạn. Nếu các giám đốc trường quản lý bền bỉ trong tư duy rằng sự quản lý phải không là một nghề, họ sẽ không được ngạc nhiên nếu nhiều nhà quản lý tạm quyền trôi từ việc là các profician có địa vị cao xuống thành các thành viên tùy dụng của precariat.
Tính linh hoạt hệ thống tiền công: tái cấu trúc thu nhập xã hội
Một mệnh lệnh của toàn cầu hóa là tính linh hoạt tiền công. Từ này che đậy một đống các thay đổi mà đã đẩy sự tăng lên của precariat. Về thực chất, không chỉ mức thu nhập nhận được bởi hầu hết công nhân đã tụt xuống mà sự bất an toàn thu nhập của họ đã tăng lên. Điều này có thể thấy qua lăng kính thu nhập xã hội, như được trình bày trong Chương 1.
Thu nhập xã hội đang được tái cấu trúc. Thứ nhất, tiền công ở các nước đã công nghiệp hóa đã đình trệ, ở nhiều nước trong nhiều thập niên. Các sự chênh lệch tiền công đã nới rộng khủng khiếp, kể cả các sự chênh lệch giữa các nhân viên thường xuyên và các nhân viên gần precariat. Thí dụ, trong ngành chế tác Đức, tiền công của các công nhân thường xuyên đã tăng lên, trong khi tiền công của những người với các hợp đồng ‘không điển hình’ đã sa sút. Ở Nhật Bản, các nhân viên tạm thời nhận được tiền công bằng 40 phần trăm của tiền công cho người hưởng lương làm các việc tương tự, và họ bị từ chối các phần thưởng hai năm một lần có giá trị khoảng 20 phần trăm toàn bộ tiền lương. Những người tạm thời thậm chí phải trả nhiều hơn cho bữa ăn ở canteen công ty. Khi tiền công đã phục hồi sau suy thoái 2008–10, tiền công của giai cấp đang co lại, giai cấp salariat, đã tăng lên trong khi của những người tạm thời đã rớt thậm chí thêm nữa.
Không giống những người khác, precariat dựa phần lớn vào sự trả công bằng tiền. Trong thế kỷ thứ hai mươi, salariat và giai cấp vô sản đã đi đến dựa phần lớn vào các hình thức khác của thù lao. Đã có một sự chuyển từ tiền công sang các trợ cấp doanh nghiệp và nhà nước, chủ yếu cho các nhân viên toàn thời gian. Sự thay đổi này đã là lớn nhất ở Liên Xô và Trung Quốc, nơi hệ thống danwei (đơn vị ‘bát sắt đựng cơm’) đã cho các nhân viên của các doanh nghiệp quốc doanh các trợ cấp và dịch vụ ‘từ-nôi-đến-mộ’, với điều kiện họ phục tùng. Sự chuyển từ tiền công cũng đã xảy ra ở các nhà nước phúc lợi, với nhiều trợ cấp nhà nước hơn ở Tây Âu và nhiều trợ cấp doanh nghiệp hơn ở Hoa Kỳ và Nhật Bản. Nó cũng đã xảy ra ở các nước đang phát triển nơi ‘khu vực hiện đại’ đã sao chép cái đã xảy ra ở nơi khác.
Một vài người, như Esping-Andersen (1990), đã gọi sự chuyển dịch khỏi tiền công là ‘sự giải hàng hóa hóa lao động’, ngụ ý rằng các công nhân đã ít dựa hơn vào thị trường cho thu nhập. Đây là sự lầm lạc vì quyền hưởng đối với hầu hết trợ cấp đã phụ thuộc vào sự tham gia thường xuyên vào thị trường lao động hay vào việc có một ‘người kiếm cơm’ trong một việc làm ổn định. Một mô tả chính xác hơn là ‘sự giải hàng hóa hóa giả’. Các công nhân đã phải tuân theo các mệnh lệnh thị trường để nhận được các hình thức đó của thu nhập xã hội, mà không là cùng thứ như nói thu nhập đã được giải phóng khỏi thị trường.
Trong mọi trường hợp, toàn cầu hóa đã đảo ngược xu hướng từ tiền công sang các trợ cấp. Trong khi salariat đã vẫn duy trì, và đã tiếp tục được lợi, một loạt trợ cấp doanh nghiệp và đặc ân, với các phần thưởng, nghỉ bệnh có lương, bảo hiểm y tế, ngày nghỉ có lương, nhà trẻ, giao thông được trợ cấp, nhà ở được trợ cấp và nhiều thứ khác, ‘cái lõi’ đang co lại đã mất chúng từng tí một. Precariat đã hoàn toàn bị tước mất chúng.
Đấy là tính linh hoạt tiền công đã định hình precariat thế nào. Các đóng góp của chủ và sự dự phòng phúc lợi và các dịch vụ đã tạo thành một phần lớn các chi phí lao động, đặc biệt ở các nước đã công nghiệp hóa. Đối mặt với cạnh tranh từ Chindia, các hãng đã dỡ tải các chi phí đó, bằng thuê ngoài (outsourcing) và làm ở hải ngoại (offshoring) và bằng chuyển nhiều lực lượng lao động hơn vào precariat, đặc biệt bằng dùng lao động tạm bị từ chối quyền hưởng trợ cấp.
Đây là sự tái-hàng hóa hóa lao động, vì sự trả công được tập trung vào tiền công. Nó đi với bản chất tình cờ hơn của việc làm và sự theo đuổi tính cạnh tranh. Trong khi ta có thể đưa ra vô số thí dụ, những gì xảy ra ở Hoa Kỳ thâu tóm được câu chuyện. Trong khi salariat đã giữ trợ cấp doanh nghiệp, các công nhân lõi đã bị lật nghiêng tới precariat. Phần của các hãng có trụ sở ở Mỹ cung cấp trợ cấp sức khỏe đã rớt từ 69 phần trăm trong 2000 xuống 60 phần trăm trong 2009. Trong 2001, các chủ đã trả 74 phần trăm các chi phí sức khỏe của nhân viên của họ; vào 2010, họ đã trả 64 phần trăm. Trong 1980, các chủ Mỹ đã trả 89 phần trăm đóng góp cho trợ cấp hưu trí; vào 2006, khoản đó rớt xuống 52 phần trăm (Dvorak and Thurm, 2009). Vào 2009, chỉ một phần năm nhân viên Mỹ có trợ cấp công ty.
Lý do chính đã là các hãng Mỹ đã thử cắt chi phí để điều chỉnh với khủng hoảng toàn cầu hóa. Trong 2009, các chủ Mỹ vẫn cung cấp bảo hiểm sức khỏe dã chi trả trung bình US$6.700 cho một nhân viên một năm, gấp đôi mức 2001. Một sự phản ứng đã là chào cho các nhân viên lõi ‘các sơ đồ chăm sóc sức khỏe có thể khấu trừ cao’, nơi họ phải trả khoản đầu tiên của các chi phí y tế đến một mức quy định. Ford đã bỏ sơ đồ ‘không khấu trừ’ của nó năm 2008, yêu cầu các nhân viên và các thành viên gia đình trả khoản US$400 đầu tiên trước khi sự bù bảo hiểm bắt đầu và phải trả 20 phần trăm của hầu hết hóa đơn y tế. Việc này đã tháo dỡ một phần thu nhập của họ.
Trong khi, lời hứa về một trợ cấp công ty được lấy đi từ những người bị đẩy vào precariat. Các công ty hấp tấp cắt các nghĩa vụ hưu trí và ‘các chi phí di sản’ khác, các cam kết tài chính cho các cựu nhân viên sống qua các năm hưu của họ. Các sơ đồ hưu 401(k) được dùng rộng rãi đã thường cho phép các chủ góp các khoản đóng góp thay đổi. Năm 2009, hơn một phần ba các hãng Mỹ đã cắt bớt hay đã loại bỏ các khoản chi trả bù tương xứng cho các sơ đồ đó. Ngay cả Hội Những người Hưu Mỹ (AARP), nhóm phi vụ lợi vận động cho những người trên 50, đã làm điều đó với các nhân viên của nó. Một số hãng, như công ty máy tính Unisys, đã tăng sự đóng góp của chúng khi đóng hay đóng băng các sơ đồ hưu kiểu cũ để tháo ngòi nổ phẫn uất, chỉ đình chỉ chúng muộn hơn. Trợ cấp doanh nghiệp rơi tự do.
Việc này đã làm xói mòn sự cam kết chung của chủ và nhân viên. Ford, trong hàng thế hệ đã là hình ảnh thu nhỏ của chủ nghĩa tư bản Mỹ, đã thường xuyên treo các khoản đóng góp; giữa 2001 và 2009 nó đã đóng góp cho chỉ hai năm rưỡi. Các nhân viên hưởng lương được thuê sau 2003 đã không hề có hưu bổng công ty. Ford đã cho là nó đã chuyển sang tài khoản hưu tự-quản để cho các công nhân có tính dễ mang theo, cho rằng các công nhân trẻ hơn ‘không còn nghĩ về một sự nghiệp với một công ty nữa’. Trong thực tế, hãng đã cắt các chi phí lao động và chuyển rủi ro và chi phí cho các công nhân. Cuộc sống của họ bị làm cho bấp bênh hơn.
Trong các vùng sản xuất ô tô chính của Michigan, sự bỏ trợ cấp doanh nghiệp đã chậm lại bởi các khoản bao cấp chính phủ và bởi sự tăng cường lao động, trái tim của sự sản xuất tinh gọn. Nhưng khi trợ cấp bị bào mòn, đội ngũ của precariat đã phình ra bởi cái một thời đã được coi là nguồn không chắc nhất. Khi việc làm trong các hãng ô tô sụt thình lình, rớt ba phần tư giữa 2000 và 2009, một nhóm nổi lên được gọi là ‘dân gypsy GM’, các công nhân ô tô những người đã đi quanh đất nước khi một nhà máy đóng cửa sau nhà máy khác.
Nếu lương hưu công ty, mà trên đó khế ước xã hội của chủ nghĩa tư bản thế kỷ thứ hai mươi đã được xây dựng, bị cắt xén dần, lương hưu nhà nước cũng thế, dẫn đầu bởi Vương Quốc Anh. Lương hưu nhà nước Anh ngày nay đáng giá 15 phần trăm của thu nhập trung bình và đang giảm, và tuổi được hưởng đã tăng từ 65 lên 68. Người ta dự đoán tuổi được hưởng sẽ lùi xa đến 70 hay hơn. Báo cáo Turner của Ủy ban Hưu trí, được các đảng Lao động và Bảo thủ chấp nhận, đã kiến nghi một cách giải quyết ba phần – ở lại trong việc làm lâu hơn, tiết kiệm nhiều hơn và rồi có một lương hưu nhà nước rất khiêm tốn để giúp đỡ. Việc này đã có ý định để dừng sự tăng về đánh giá gia cảnh. Nhưng trừ phi lương hưu cơ bản tăng, và sự đánh giá gia cảnh được giảm, khuyến khích để tiết kiệm sẽ bị yếu đi. Không có khuyến khích nào cho những người có thu nhập thấp để tiết kiệm, vì nếu họ tiết kiệm họ sẽ mất quyền hưởng hưu của họ.
Một khía cạnh khác của tái cấu trúc thu nhập xã hội là sự chuyển từ lương cố định sang lương linh hoạt. Lần nữa ở đây, tính linh hoạt có nghĩa là một lợi thế cho các chủ và rủi ro và sự bất an toàn gia tăng cho những người hưởng lương. Một đòi hỏi của các phong trào lao động thế kỷ thứ hai mươi đã là tiền công ổn định có thể dự đoán được. Nhưng chủ nghĩa tư bản toàn cầu muốn hiệu chỉnh tiền công nhanh. Nếu nó không thể làm vậy, nó sẽ đi đến nơi nó nghĩ nó có thể làm. Trong 2009, các hãng Mỹ trung bình đã để sang bên hầu như gấp đôi phần của bảng lương của chúng cho lương thay đổi, như các phần thưởng thành tích, như chúng đã làm trong 1994 (Dvorak and Thurm, 2009).
Trong suy thoái của đầu các năm 1980, các cuộc mặc cả nhượng bộ đã tăng nhanh khi các nghiệp đoàn và nhân viên từ bỏ quyền hưởng trợ cấp để đổi lấy sự tăng lương. Bây giờ, các cuộc mặc cả nhượng bộ là một phía nhiều hơn. Trợ cấp bị lấy đi từ các hàng ngũ thấp của các công nhân sao cho sự tăng lương như là một phần của thu nhập, nhưng tiền công đình trệ. Trong 2009, các công nhân của Ford đã từ bỏ các trợ cấp chi phí sinh hoạt và đã mất ngày nghỉ có lương và học bổng đại học cho con họ cũng như hỗ trợ học phí. Cũng tiền công đó đã duy trì một cuộc sống bấp bênh hơn nhiều. Và đã có một sự đẩy thêm để tăng mọi hình thức của tính linh hoạt, kể cả sự tháo dỡ nghề nghiệp. Như thế, Ford đã đạt một thỏa thuận tập thể với Liên hiệp Công nhân Ô tô mà đóng băng tiền công mức gia nhập, có một điều khoản không-đình công và trả các công nhân hiện hành một tiền thưởng cho việc đồng ý các nhượng bộ. Các giao dịch tương tự đã tiếp theo việc này ở GM và Chrysler, mà cũng đã giảm số phân loại việc làm, trong trường hợp của GM xuống chỉ còn ba phân loại thương mại có kỹ năng.
Những diễn biến như vậy là phần của một quá trình điều chỉnh quanh thế giới. Vòng tròn đang đóng lại. Khi các công nhân ở Trung Quốc được kích động đòi tiền công cao hơn và các điều kiện tốt hơn, các công ty đa quốc gia đã đàng hoàng nhận tăng tiền công lớn nhưng lại bỏ trợ cấp doanh nghiệp đi. Các công nhân bị nhốt của Foxconn ở Thẩm Quyến đã nhận được thức ăn, quần áo và nơi trọ được bao cấp. Trong tháng Sáu 2010, vào ngày ông tuyên bố sự tăng lương lớn lần thứ hai, người đứng đầu Foxconn đã nói, ‘hôm nay chúng ta sẽ trả các chức năng xã hội này cho chính phủ’. Công ty đã chuyển tiền công, tạo ra ấn tượng rằng các công nhân đã được nhiều (một sự tăng lương 96 phần trăm), nhưng sự thay đổi hình thức của thù lao và đặc trưng của mối quan hệ lao động. Mô hình toàn cầu đã đến Trung Quốc.
Precariat trải nghiệm đầy đủ sức mạnh của tính linh hoạt tiền công. Tiền công của nó thấp hơn, biến đổi hơn và không thể tiên đoán được hơn. Tính biến đổi không chắc tương quan dương với các nhu cầu cá nhân. Khi những người trong precariat có các nhu cầu tài chính trên bình thường, như khi họ bị bệnh hay khó khăn gia đình, họ chắc cũng nhận được thu nhập dưới trung bình. Và sự bất trắc kinh tế của họ bị tăng cao bởi cách các thị trường tín dụng hoạt động. Không chỉ chi phí để có được các khoản vay là cao hơn, phản ánh sự thiếu uy tín trả nợ, mà cả nhu cầu đối với chúng là cao hơn, khiến nhiều người trong tuyệt vọng phải vay bọn cho vay nặng lãi với lãi suất cao không thể chịu được và với các lịch trả không thực tế.
Có nhiều nghiên cứu, và khá nhiều tiểu thuyết, cho thấy trong các cộng đồng nghèo một dạng của sự bất an ninh thu nhập nêu bật các dạng khác thế nào. Những người có thu nhập bấp bênh, đặc biệt nếu chuyển vào và ra các việc làm ngắn hạn lương thấp và đối phó với các sự phức tạp không thân thiện của hệ thống trợ cấp, dễ bị cuốn vào nợ nần kinh niên.
Trong nhiều năm, tác động của sự tái cấu trúc thu nhập xã hội và tiền công đình trệ đã được bao cấp nhà nước làm nhẹ bớt. Chúng ta xem xét các việc đó muộn hơn. Nhưng thu nhập trì trệ và sự bấp bênh kinh tế của những người bị nghiêng về precariat đã cũng bị che giấu bởi tín dụng rẻ, được trợ cấp bởi các chính phủ trong hầu hết các nước OECD. Các gia đình tầng lớp trung lưu đã có khả năng tiêu thụ nhiều hơn mức họ kiếm được, che giấu sự thực rằng các thu nhập kiếm được đã sụt giảm. Họ đã có một thu nhập phụ cấp tư nhân giả. Sự đổ vỡ đã làm tiêu tan ảo vọng rằng tất cả đã có được từ một Thời Đại Vàng thứ hai của sự tăng trưởng hùng hổ. Đột nhiên, hàng triệu người Mỹ và Âu châu đã cảm thấy gần hơn với precariat.
Nói ngắn gọn, thu nhập xã hội dưới chủ nghĩa tư bản toàn cầu ngày càng bấp bênh. Trong khi các công ty ‘đi gọn nhẹ’, việc này biến thành sự bấp bênh thu nhập nhiều tầng cho precariat. Và tái cấu trúc thu nhập có nghĩa rằng các chi phí sinh hoạt đang tăng đối với những người bấp bênh về kinh tế. Một xã hội thị trường được đặc trưng bởi tính bất trắc và tính dễ biến động khiến nên mua bảo hiểm, tưởng thưởng những người làm vậy và trừng phạt những người không thể làm. Những người với các hợp đồng tạm thời không chỉ có một xác suất cao hơn của nhu cầu tài chính mà cũng thấy khó hơn và tốn kém hơn để mua bảo hiểm.
Một khía cạnh cuối cùng của sự tái cấu trúc thu nhập xã hội sau-toàn cầu hóa là, trong khi trước nhà nước phúc lợi, các cá nhân và gia đình đã dựa nhiều vào các cơ chế phi chính thức của sự trợ giúp cộng đồng, các cơ chế này không còn nữa. Chúng đã bị làm yếu bởi sự tăng lên của trợ cấp nhà nước và doanh nghiệp. Trong nhiều thế hệ, người dân đã nghĩ không cần đến chúng nữa, cho nên chúng tàn đi. Nhưng khi các hãng đã dỡ tải trợ cấp doanh nghiệp và khi nhà nước đã chọn các trợ cấp theo đánh giá gia cảnh, đã không có sự ủng hộ cộng đồng nào để nhờ đến chúng. Hệ thống gia đình có đi có lại đã tan vỡ.
Tóm lại, precariat đối mặt với một sự kết hợp độc nhất của hoàn cảnh. Không giống giai cấp vô sản cũ và salariat, nó không có trợ cấp doanh nghiệp nào để tạo sự an toàn thu nhập và không an sinh xã hội dựa trên đóng góp nào. Và trong khi nó phải dựa vào các khoản tiền công, các khoản này là thấp hơn, biến đổi và không thể tiên đoán được hơn các khoản của các nhóm khác. Các bất bình đẳng thu nhập và trợ cấp đang tăng lên, với precariat bị bỏ lại sau xa hơn nữa và phụ thuộc vào một hệ thống cộng đồng bị yếu đi của sự trợ giúp xã hội.
Sự thất nghiệp bấp bênh
Thất nghiệp là phần của cuộc sống trong precariat. Nhưng đã có một sự xét lại các thái độ mà làm cho nó khó hơn để xử lý. Trong thời đại trước toàn cầu hóa, thất nghiệp đã được xem như do các nhân tố kinh tế và cấu trúc. Người thất nghiệp đã không may, không đúng nơi không đúng lúc. Hệ thống trợ cấp thất nghiệp đã được xây dựng trên nguyên lý bảo hiểm xã hội; mọi người đóng góp, sao cho những người với xác suất thấp về bị nên thất nghiệp trợ cấp cho những người với xác suất cao hơn.
Mô hình đó đã sụp đổ, cho dù điều hư cấu tiếp tục ở một số nước. Ít công nhân hơn ở vị thế để đóng góp hay bảo họ đóng góp nhân danh họ, và ít người hơn có đủ tư cách dưới các quy tắc đóng góp. Nhưng trong mọi trường hợp các thái độ chính thống đối với thất nghiệp đã thay đổi triệt để. Trong khung khổ tân-tự do, thất nghiệp đã trở thành một vấn đề về trách nhiệm cá nhân, khiến nó hầu như là ‘tự nguyện’. Người dân ít nhiều được coi như ‘có thể dùng được’ và câu trả lời đã là làm cho họ có thể dùng được hơn, nâng cấp ‘các kỹ năng’ của họ hay sửa đổi ‘các thói quen’ và ‘các thái độ’ của họ. Việc này làm cho dễ để đi sang giai đoạn tiếp theo của sự quở trách và sự biến người thất nghiệp thành quỷ dữ như là kẻ lười biếng và kẻ cắp. Chúng ta sẽ xem xét điều đó đã dẫn tới đâu trong Chương 6. Ở đây chúng ta chỉ muốn thâu tóm thất nghiệp đã tác động thế nào đến precariat.
Cuộc suy thoái đầu tiên của thời đại toàn cầu hóa trong đầu các năm 1980 đã dẫn đến một sự thay đổi về thái độ chính thống tới phạm vi thấp hơn của thị trường lao động nơi precariat đang nổi lên và một sự thay đổi thái độ giữa những người mất việc làm. Tại Vương Quốc Anh, tiền công linh hoạt và các việc làm bấp bênh kết hợp với thất nghiệp cao đã dẫn, đặc biệt, những người trẻ thuộc giai cấp lao động để đón nhận ‘trợ cấp thất nghiệp’ như sự xác nhận việc họ khinh các việc làm tệ hại được chào, một sự bác bỏ được chớp lấy bởi các ban nhạc pop như UB40, mà tên của nó (biểu trợ cấp thất nghiệp số 40) và các thành viên của ban nhạc được thu hút từ các hàng chờ trợ cấp thất nghiệp. Điều này có thể đã tác động đến chỉ một thiểu số người trẻ lớn lên trong các vùng giai cấp lao động giảm sút, nhưng nó đã giúp làm thay đổi thái độ chính thức, cung cấp một cái cớ để làm sống lại một hình ảnh về người nghèo lười nhác vô trách nhiệm.
Vấn đề thực đã là thị trường lao động linh hoạt. Nếu tiền công bị kéo xuống và nhiều việc làm hơn trở nên bấp bênh, thì trợ cấp thất nghiệp trở nên tương đối hấp dẫn hơn. Để ghi nhận, các chính phủ ở các nước đã công nghiệp hóa đã hạ các trợ cấp, làm cho chúng khó hơn để được và khó hơn để giữ. Việc đó đã loại bỏ đặc trưng bảo hiểm và ý định được công khai thừa nhận về cung cấp một thu nhập thỏa đáng để bù cho ‘sự gián đoạn khả năng kiếm tiền’ tạm thời, như William Beveridge (1942: 7) đã diễn đạt. Nhưng ‘các bẫy thất nghiệp’ trở nên phổ biến hơn, vì sự mất trợ cấp đã dẫn đến việc nhận một việc làm có lương thấp đã đẩy ‘thuế’ suất thật sự đến gần hay thậm chí trên 100 phần trăm.
Một vòng luẩn quẩn đã dẫn các chính phủ theo các hướng xấu. Khi tiền công rớt, và khi các việc làm tạm thời lương thấp trở thành chuẩn cho đoạn cuối thấp hơn của các thị trường lao động, tỷ lệ thay thế thu nhập của trợ cấp tăng lên. Các nhà bình luận tầng lớp trung lưu đã xót xa ‘tính hào phóng quá đáng’ của trợ cấp và đã cho rằng, vì ‘công việc đã không sinh lợi’, trợ cấp phải bị cắt. Để giúp làm cho công việc ‘sinh lợi’, các chính phủ đã đưa ra các trợ cấp trong-công-việc (in-work benefits: trợ cấp chỉ cho người có việc làm) và các khoản miễn thuế thu nhập kiếm được, một đơn thuốc cho các sự méo mó và phi hiệu quả. Nhưng bẫy thất nghiệp vẫn còn, dẫn các nhà hoạch định chính sách đưa ra các bước theo hướng buộc người thất nghiệp nhận việc làm, dẫu khó chịu và được trả tồi.
Cải cách toàn cầu về trợ cấp thất nghiệp đã có tác động như một bãi sinh đẻ cho precariat. Trong khi không y hệt nhau trong mọi nước, xu hướng đã giống nhau. Sự thay đổi lớn nhất đã là trong hình ảnh về thất nghiệp. Bây giờ nó được mô tả như phản ánh một sự thiếu khả năng để được thuê (employability), sự thất bại cá nhân và tiền công hay các kỳ vọng việc làm quá đáng. Chế độ trợ cấp dựa trên sự xác minh liệu một người có xứng đáng để nhận bất cứ thứ gì hay không, và việc này đã trở thành một chương trình nghị sự cho việc đòi hỏi một người ứng xử theo các cách nhất định nhằm để xứng đáng sự giúp đỡ.
Trong khi bảo hiểm thất nghiệp vẫn thống trị ở vài nước, các điều kiện hưởng đã được thắt chặt ở mọi nơi; các thời kỳ cho quyền hưởng đã bị cắt ngắn và trợ cấp đã bị cắt. Trong đa số nước, chỉ một thiểu số của những người thất nhiệp nhận được trợ cấp và thiểu số này đang co lại. Và các trợ cấp theo đánh giá gia cảnh đã mở rộng, với mọi loại điều kiện ứng xử gắn với chúng.
Ở Hoa Kỳ, để có quyền hưởng trợ cấp thất nghiệp, thường một người phải đã làm toàn thời gian ít nhất một năm trong việc làm cuối cùng của mình. Hơn một nửa những người thất nghiệp (57 phần trăm trong 2010) không đủ tư cách. Tình hình còn tồi hơn, vì nhiều người không đủ tư cách bị bỏ khỏi lực lượng lao động hoàn toàn. Hai phần ba những người nhận tiền nói họ sợ trợ cấp của họ sẽ hết hạn trước khi họ có thể nhận được một việc làm. Vào 2010, sự nghèo giữa những người thất nghiệp và thiếu việc làm đã tồi hơn bất kể lúc nào kể từ các năm 1930, với một trong chín người Mỹ sống bằng phiếu thực phẩm. Đã có sáu người tìm việc cho mỗi việc làm trống, tăng từ 1,7 trước khủng hoảng, và thất nghiệp dài hạn chiếm 40 phần trăm của toàn bộ, nhiều hơn trong các suy thoái trước rất nhiều. Nó đã là suy thoái duy nhất kể từ Đại Suy thoái của các năm 1930 đã quét sạch tất cả sự tăng trưởng việc làm từ sự tăng cao trước theo chu kỳ.
Bộ máy tạo-việc làm của thế giới giàu có đang kiệt sức. Điều này xảy ra trước cú sốc 2008. Ở Hoa Kỳ, tăng trưởng GDP đã chậm lại giữa các năm 1940 và các năm 2000 nhưng sự tăng trưởng việc làm đã chậm hơn nhiều. Trong các năm 1940, việc làm phi nông nghiệp đã tăng gần 40 phần trăm; sự tăng đã ít hơn trong các năm 1950, đã tăng tốc nhẹ trong các năm 1960, đã rớt xuống 28 phần trăm trong những năm 1970 và 20 phần trăm trong các năm 1980 và các năm 1990. Nhưng trong các năm 2000, việc làm thực sự đã rớt 0,8 phần trăm. Công việc đã không ‘biến mất’ nhưng thị trường toàn cầu đã để các công nhân Mỹ lại đằng sau.
Trong thị trường lao động đang toàn cầu hóa, các cuộc suy thoái làm cho precariat tăng nhanh. Bây giờ có nhiều lao động tạm thời và công nhân không được bảo vệ khác hơn, có quy mô nhiều hơn cho sự loại bỏ lao động nhanh trong pha đầu tiên của một suy thoái. Những ngày khi mà số đông công nhân bị thải, giữ việc làm của họ cho đến khi cầu phục hồi, đã qua rồi. Đầu tiên những người ở bên lề đã mất việc làm của họ. Tuy vậy, họ có thể đã không xuất hiện trong thống kê việc làm trước suy thoái hay trong thống kê thất nghiệp sau đó. Điều này giúp giải thích vì sao một số nước Âu châu với công ăn việc làm bí mật và di cư cao đã trải nghiệm chỉ những sự tăng lên nhỏ trong thất nghiệp được đăng ký và những sự giảm khiêm tốn trong việc làm sau 2008.
Các hãng đã sử dụng suy thoái để chuyển nhiều lao động vào vùng của precariat và để tái cơ cấu theo những cách khác, kể cả việc dùng offshoring và outsourcing nhiều hơn. Các suy thoái liên tiếp ở Hoa Kỳ đã tiếp theo bởi sự phục hồi thị trường lao động thiếu máu hơn, cùng với một sự tăng khổng lồ về thất nghiệp dài hạn. Khi tăng trưởng kinh tế đã phục hồi sau các suy thoái của các năm 1970 và đầu các năm 1980, việc làm đã mở rộng lập tức và đã thực chất. Khi nó lại bắt đầu sau suy thoái của 2008–9, đã không hề có sự mở rộng việc làm nào trong hơn một năm. Quả thực, các bang ‘sunbelt-vành đai mặt trời ở Nam Hoa Kỳ’ đã tiếp tục để rơi việc làm, gợi các nỗi sợ về một ‘sự phục hồi mất-việc làm’.
Ở Đức, một số người thất nghiệp đơn giản đã biến mất; nhiều người Đông Âu đã bỏ đi vì họ đã có thể nhận được sự hỗ trợ cộng đồng ở quê hương họ và bởi vì, đến từ các nước thành viên EU, họ đã có thể quay lại khi việc làm hồi phục. Ngược lại, những người di cư mất các việc làm bấp bênh ở Hoa Kỳ không dám về quê, vì sợ bị cản việc quay lại. Thật éo le, nó đã có thể giúp tỷ lệ thất nghiệp Mỹ nếu giả như đã dễ hơn cho những người nhập cư để bỏ đi và để quay lại.
Nhìn chung, các cuộc suy thoái đã đẩy nhiều người vào precariat, một phần bởi vì những người bị mất việc làm trượt vào một dòng kiếm được thu nhập thấp hơn khi làm việc lại. Các nghiên cứu Hoa Kỳ (như Autor and Houseman, 2010) đã thấy rằng việc nhận các việc làm tạm thời sau thất nghiệp có khuynh hướng hạ thấp thu nhập hàng năm và tiền kiếm được dài hạn. Đấy là lý do cho người thất nghiệp kháng cự áp lực để nhận việc làm đầu tiên được chào cho họ. Không phải là tính lười biếng hay ăn xin mà chỉ là lẽ thường tình.
Trong lúc, người thất nghiệp đã trở thành một hạng điều trị. Xu hướng để làm cho mọi thứ lệ thuộc vào hợp đồng đã được mở rộng ra cho họ. Trong vài nước, những người thất nghiệp được đổi tên là ‘các khách hàng’ và phải ký các hợp đồng, chấp nhận các nghĩa vụ nhất định và các sự trừng phạt vì không tuân thủ. Hầu như theo định nghĩa, họ ở dưới sự cưỡng ép khi họ ký. Các hợp đồng được ký trong hoàn cảnh như vậy sẽ bình thường là có thể tranh luận theo thông luật. Nhưng chúng ta sẽ xem xét điều đó đã dẫn tới đâu muộn hơn.
Những người thất nghiệp cũng trải nghiệm một dạng của tertiarisation (chuyển từ các khu vực một và hai sang khu vực ba). Họ có nhiều ‘nơi làm việc’ – các sở giao dịch việc làm, các văn phòng trợ cấp, các văn phòng tìm-việc làm đào tạo – và phải dính đến nhiều công-việc-cho-lao-động – điền các mẫu biểu, xếp hàng, đi lại đến các sở giao dịch việc làm, đi lại để tìm việc làm, đi lại đến nơi đào tạo việc làm và vân vân. Nó có thể là một việc làm toàn thời gian để là người thất nghiệp, và nó dính đến tính linh hoạt, vì người ta phải hầu như luôn luôn sẵn sàng khi được gọi. Cái mà các chính trị gia gọi là sự biếng nhác có thể không nhiều hơn là ở đầu dây điện thoại, nhai (cắn) móng tay bồn chồn hy vọng một cuộc gọi.
Bẫy precarity (tồn tại bấp bênh)
Một thị trường lao động dựa trên lao động bấp bênh tạo ra các chi phí giao dịch cao cho những người ở bên lề. Các chi phí này gồm thời gian cần để xin trợ cấp nếu họ trở thành người thất nghiệp, sự thiếu thu nhập trong thời kỳ đó, thời gian và các chi phí gắn với tìm kiếm việc làm, thời gian và chi phí trong việc học các thủ tục lao động mới, và thời gian và chi phí dính líu trong các hoạt động điều chỉnh bên ngoài việc làm để thích nghi với các đòi hỏi của việc làm tạm thời mới. Tổng (chi phí) có thể là lớn bằng thu nhập được kỳ vọng. Việc này tạo ra cái có thể được gọi là một ‘cái bẫy precarity’.
Một nghiên cứu ở Anh trong 2010 bởi Reed in Partnership, một hãng giúp những người thất nghiệp tìm việc làm, đã thấy rằng chi phí trung bình của nhận được một việc làm, với quần áo, đi lại, chăm sóc trẻ, đào tạo và vân vân, lên đến £146, một khoản đáng kể đối với những người có thể đã thất nghiệp trong một thời gian dài hay đã qua một loạt các việc làm tạm thời lương thấp. Trong tháng đầu tiên của một việc làm chi phí đã là một khoản thêm £128. Nếu có triển vọng về chỉ một việc làm lương thấp tạm thời, phản khuyến khích được ngụ ý bởi bẫy precarity là lớn hơn rất nhiều so với bẫy nghèo mà đã rất được chú ý. Giám đốc điều hành của Reed in Partnership đã bình luận, ‘Một phần lớn những người mà chúng tôi làm việc với không thể có đủ khả năng chi trả ngay cả các chi phí đi lại để có được một cuộc phỏng vấn’.
Một người sống trên một dòng các việc làm tạm thời có một cuộc sống đầy rủi ro. Hãy xét một phụ nữ có một việc làm tạm thời và điều chỉnh chi phí sinh hoạt của mình cho bằng tiền công kiếm được. Rồi việc làm chấm dứt. Cô có các khoản tiết kiệm tối thiểu. Cô phải đợi vài tuần – có thể dài hơn nhiều – trước khi cô có thể nhận được bất cứ trợ cấp nhà nước nào. Trong lúc đó, cô điều chỉnh tiêu chuẩn sống xuống, nhưng cô có thể phải vay hay lâm vào nợ nần bằng trì hoãn trả tiền thuê và vân vân. Có thể có một nhân tố thêm. Những người làm việc làm tạm thời thường không vội xin trợ cấp. Nó thường được làm một cách miễn cưỡng, sau khi sự gian khổ đã bắt đầu. Như thế, các món nợ và các nghĩa vụ với họ hàng, bạn bè và hàng xóm tăng lên, và những kẻ cho vay nặng lãi ẩn nấp. Bẫy precariat trở nên kinh khủng hơn.
Nếu người phụ nữ của chúng ta may mắn, cô có thể nhận trợ cấp nhà nước để trả một số nợ và có được sự nhẹ bớt tài chính nào đó. Nhưng rồi giả sử cô được chào mời một việc làm tạm thời lương thấp khác. Cô lưỡng lự. Một số trợ cấp có thể tiếp tục trong một thời gian, dưới các quy tắc để giúp ‘làm cho công việc sinh lợi’ và giảm ‘bẫy nghèo’ tiêu chuẩn. Nhưng cô biết rằng khi việc làm chấm dứt cô sẽ lại lần nữa đối mặt các chi phí giao dịch gây nản lòng. Thực tế là cô không thể có đủ khả năng để nhận việc làm bởi vì, ngoài chi phí do mất trợ cấp khi có việc làm, sẽ có chi phí về việc nhận lại trợ cấp. Đó là bẫy precarity.
Bẫy precarity được tăng cường bởi sự xói mòn của sự hỗ trợ cộng đồng. Trong khi ở trong và ra ngoài các việc làm tạm thời lương thấp không tích lại quyền hưởng trợ cấp nhà nước hay doanh nghiệp, con người vét cạn khả năng để nhờ đến trợ cấp do gia đình và bạn bè cung cấp trong lúc khó khăn. Việc này bị làm cho trầm trọng thêm bởi nợ nần và các quãng giữa của tệ nạn xã hội mà có thể gồm sử dụng ma túy và phạm tội vặt, như ăn cắp đồ ở cửa hàng. Còn bị tồi tệ hơn do căng thẳng về bất an toàn và sự sỉ nhục của việc liên tục phải thử bán mình cho các cơ quan và các chủ sử dụng lao động tiềm năng. Không có một nền móng an toàn kinh tế, thị trường lao động linh hoạt nhất thiết tạo ra các kết cục đó.
Cú sốc tài chính
Trên đỉnh của những thay đổi dài hạn đối với những người thất nghiệp, đổ bể tài chính 2008–9 đã làm nhanh thêm sự tăng lên của precariat toàn cầu bằng đặt nhiều áp lực hơn lên các hãng để cắt các chi phí lao động thông qua các biện pháp linh hoạt và thúc đẩy các chính sách được chính phủ cổ vũ.
Có thể đoán được, ban đầu precariat đã chịu gánh nặng chủ yếu của cú sốc. Đã là dễ nhất để biến các nhân viên tạm thời thành thừa, đơn giản bằng không tái tục hợp đồng. Randstad, công ty cung cấp nhân viên lớn thứ hai thế giới, đã báo cáo các sự sụt giảm mạnh khắp châu Âu trong 2008, nhận xét rằng các hãng đã thiên về cắt việc làm hơn trong các suy thoái trước. Nhưng khi suy thoái diễn tiến, đã trở nên rõ nó đã là một cái đòn bẩy cho precariat đang mở rộng. Adecco, công ty lo việc làm tạm thời lớn nhất thế giới, đã báo cáo rằng sự tăng trưởng lại của việc làm đã tập trung vào lao động tạm thời (Simonian, 2010).
Tại Vương Quốc Anh, tác động của khủng hoảng đã là đáng chú ý vì sự giảm sút số nhân viên, trong khi số những người tự kinh doanh đã hầu như không giảm. Trong năm suy thoái đầu tiên, việc làm toàn thời gian đã sụt hơn 650.000 trong khi việc làm một phần thời gian đã tăng 80.000, với 280.000 người làm một phần thời gian nói họ đã không thể có được một việc làm toàn thời gian. Thất nghiệp đã tăng nhiều hơn sự giảm việc làm, chủ yếu dòng chảy vào của người mới vào lực lượng lao động trẻ và một sự tăng lên của tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của những người cao tuổi đối mặt với hưu bổng và tiết kiệm giảm sút.
Tại Hoa Kỳ, các hãng đã phản ứng lại với khủng hoảng bằng việc cắt các nhân viên dài hạn và thay thế những người khác bằng thay đổi công nghệ hay bằng thuê ngoài, một phần để tránh một sự lặp lại của các chi phí biến con người thành thừa. Một điều tra trong 2010 đã kết luận rằng ít nhất một phần tư của 8,4 việc làm bị loại bỏ ở Hoa Kỳ kể từ suy thoái bắt đầu sẽ không quay lại (Izzo, 2010).
Sau sự cắt việc làm, năng suất lao động đo được đã vút lên cao, mà được diễn giải như một sự phản ánh của các chủ ép các nhân viên lao động nhiều hơn, hạn chế tạo việc làm. Đấy có thể chỉ là một phần của câu chuyện, vì cú sốc có thể đã đẩy nhanh việc thuê ngoài và phải dùng đến nhiều lao động ngầm. Thí dụ, đã có một sự phất lên về thuê ngoài xử lý pháp lý. Pangea3, một hãng có trụ sở ở Ấn Độ dẫn đầu trong thị trường mới nổi này, doanh số của nó đã tăng gấp đôi trong một năm. Trong khi các hãng luật Anh và Mỹ đã vật lộn, cắt sự tuyển người và làm cho các luật sư thành thừa hay cho họ nghỉ phép, suy thoái đã là một sự phất lên cho các luật sư ở Ấn Độ.
Theo truyền thống, các suy thoái lớn dẫn đến các sự giảm về bất bình đẳng, nhưng lần này các sự chênh lệch thu nhập đã tiếp tục rộng ta, nói chung và bên trong các khu vực cá biệt. Như thế, khủng hoảng đã dẫn đến bất bình đẳng gia tăng giữa của cải của các hãng luật đỉnh cao và của cải của các hãng khác. Elite đã bảo vệ các khoản thu nhập và địa vị bằng sa thải một số của salariat và hạn chế các cơ hội sự nghiệp của những người khác, trong khi mở rộng số của các phụ tá pháp lý với mọi sự bấp bênh của precariat. Các công ty dịch vụ tài chính và kinh tế dẫn đầu cũng được lợi từ sự phân biệt giai cấp, vì sự chọn danh tiếng và sự to lớn là một chiến lược không ưa rủi ro vào thời bất an. Trong khi nghề pháp lý đang trải qua sự tái cơ cấu sâu sắc nhất, tất cả các nghề đều bị đẩy theo cùng hướng, có ít người bên trong được bảo vệ hơn cùng với số các vị trí bấp bênh, không có sự nghiệp ngày càng tăng.
Cho các nhân viên nghỉ phép không lương đã tăng ở Hoa Kỳ đồng thời như sự làm thêm giờ không được trả công. Trong 2010, hai mươi bang Hoa Kỳ đã yêu cầu các nhân viên nghỉ không lương và hơn 200.000 nhân viên khu vực công đã ‘nghỉ phép’ mỗi tuần, thường được bảo nghỉ Thứ Sáu, không có lương. Đối với nhiều người nó đã là sự giải phóng, bất chấp mất thu nhập, cho phép họ dùng nhiều thời gian hơn với gia đình; ‘Nghỉ phép Thứ Sáu’ đã trở thành một phần chính của đời sống khắp nước. Nhưng nó đã là một bước đẩy các nhân viên ra khỏi vùng thoải mái của salariat.
Nghỉ phép không lương cũng đã lan sang châu Âu nữa. Một hãng lớn ở Anh đã yêu cầu các nhân viên nghỉ phép không lương hai tuần và đã có 95 phần trăm nhận. Các hãng khác chào hai tháng hưởng 50 phần trăm lương. British Airways đã cho toàn bộ nhân viên cơ hội để làm việc một phần thời gian; nhiều người đã nói họ muốn làm thế và làm việc từ thiện trong thời gian được biến thành rỗi. Cũng đã có một sự phồn vinh cho nghề mới về ‘đào tạo sống-life coach’, hăm hở tư vấn cho người dân tổ chức lại cuộc sống của họ thế nào.
Trong 2009, một ngân hàng Tây Ban Nha, BBVA, đã chào để nhân viên nghỉ dài đến năm năm với 30 phần trăm lương. Việc này đã cho nhân viên trung bình ít nhất £12,000, với chăm sóc sức khỏe thêm vào. Ngân hàng đã làm việc đó hơn là chi trả sáu tuần bồi thường thôi việc cho mỗi năm đã làm. Nó đã thừa nhận rằng nhiều nhân viên có thể gặp khó khăn điều chỉnh khi họ quay lại, nhưng vấn đề đó có vẻ còn xa.
Một ngân hàng khác ở nước khác đã nêu bật sự đối xử nhị nguyên của salariat và precariat sau-2008. Trong phản ứng với khủng hoảng ngân hàng, mà đã được chính phủ Anh bao cấp nặng, Lloyds Banking Group dã cắt hơn 20.000 việc làm. Trong tháng Mười 2010, nó đã tuyên bố rằng nó đã ‘giảm nhẹ tác động lên các nhân viên thường xuyên với một sự sa thải đáng kể các nhân viên tạm thời và hợp đồng’. Lần tới, không nghi ngờ gì, ngân hàng này sẽ có nhiều nhân viên tạm thời hơn và các nhân viên khác những người có thể dễ dàng bị sa thải.
Tháo dỡ khu vực công
Biên giới cuối cùng cho precariat là khu vực công, người tiên phong lâu đời cho các tiêu chuẩn lao động và việc làm ổn định. Nó đã cung cấp một thu nhập xã hội cao, với các trợ cấp tạo thành một phần lớn của tiền đền bù, gắn với các quy tắc quan liêu và đạo đức phục vụ.
Trong hàng thế hệ, sự đối đãi ngành dân chính đã như thế, trong khi thu nhập đã chẳng bao giờ đạt mức cao chóng mặt của các khu vực thương mại tư nhân, các công chức đã có sự an toàn công ăn việc làm nếu không phải sự an toàn việc làm, cũng như hưu bổng định tiêu chuẩn, trợ cấp chăm sóc sức khỏe và vân vân. Nhưng các công chức thực hiện các lệnh của các chủ nhân chính trị của họ để linh hoạt hóa các thị trường lao động tư nhân, lỗ hổng giữa sự an toàn đặc ân của họ và phần còn lại của xã hội đã trở nên rành rành. Đã chỉ là vấn đề thời gian trước khi bản thân khu vực công trở thành một mục tiêu đầu tiên cho linh hoạt hóa. Thời gian đó đã đến với cú sốc 2008, cho dù sự xói mòn đã bắt đầu trước từ lâu.
Sự tấn công đã bắt đầu với các bước để thương mại hóa, tư nhân hóa và giao thầu các dịch vụ. Các hợp đồng tạm thời và việc làm một phần thời gian với tiền công và trợ cấp thấp đã lẻn vào. Rồi các chính phủ đã hành động chống lại toàn bộ khu vực. Hưu bổng đã được tuyên bố là ‘không thể chi trả được’ và ‘bất công’; các chính phủ đã so sánh với nền kinh tế tư nhân để biện minh cho việc cắt tiền lương khu vực công. Trầm trọng thêm là các gói kích thích tài khóa, sự nới lỏng định lượng (QE) và các trợ cấp đã tạo ra nợ công phình lên. Đó đã không phải là lỗi của khu vực công, mà nó đã trở thành một mục tiêu dễ cho các khoản cắt ngân sách. Các khu vực tư nhân bấp bênh được xem như không có sự đoàn kết. Các thị trường tài chính cũng đã khăng khăng về việc cắt chi tiêu công như bằng chứng rằng các chính phủ đã ‘đi đúng đường’. Việc này làm xói mòn salariat khu vực công.
Về toàn cầu, khu vực công đang biến thành một vùng của precariat. Không ở đâu điều này lại thế hơn ở Hoa Kỳ, nơi sự cuồng tín kinh tế tân-tự do đã tạo ra một cơn bão tài khóa hoàn hảo. Các thành phố đã bị đẩy vào nợ nần kinh niên bởi sự gò bó của các quy tắc tài khóa đòi hỏi một chế độ ‘ngân sách cân bằng’ thuế thấp. Trong nhiều năm, các công chức đã bảo vệ tiền lương của họ qua các nghiệp đoàn của họ và các thỏa thuận tập thể, còn khu vực tư nhân đã chịu tiền lương giảm và các trợ cấp co lại. Các nghiệp đoàn của họ vẫn mạnh. Năm 2008, 37 phần trăm công chức tham gia công đoàn, gần như trong năm 1980, trong khi tỷ lệ tham gia công đoàn ở khu vực tư đã giảm từ 20 xuống 7 phần trăm. Vào 2009, lần đầu tiên, người làm trong khu vực công đã chiếm hơn nửa số thành viên của tất cả các nghiệp đoàn ở Mỹ. Chúng đã bảo vệ tốt các thành viên của mình, nhưng bất bình đẳng rộng ra giữa khu vực công và khu vực tư đã khiến sự oán giận tăng lên.
Khủng hoảng đã được dùng để cắt sự an toàn việc làm khu vực công, thông qua sự tăng cường tính linh hoạt chức năng. Các nhà quản lý đã bắt đầu khăng khăng rằng các công chức phải thực hiện các nhiệm vụ khác với các nhiệm vụ họ đã được tuyển để làm. Một nhà quản lý thành phố ở Arkansas đã nói, với sự hãnh diện rõ rệt, ‘tôi trả nhiều tiền hơn cho ít người hơn và tối đa hóa việc sử dụng họ với nhiều việc hơn’ (Bullock, 2009). Thư ký tòa án bây giờ (cũng) làm tiếp thị và cai quản website, lính cứu hỏa đóng cả vai lái xe cứu thương, và các công nhân xử lý nước được trả thêm để thay cho lái xe tải. Một khảo sát về các thành phố và các hạt đã thấy rằng nhiều đã lợi dụng khủng hoảng để sắp xếp lại công việc theo những cách tương tự.
Ở mọi nơi, cánh hữu chính trị đã dùng suy thoái để tăng cường một chiến dịch để cắt tiền lương, trợ cấp và an toàn công ăn việc làm khu vực công. Một cách đặc trưng, trong bình luận về Hoa Kỳ, The Economist (2009) đã cho rằng ‘người làm khu vực công bị hư hỏng thối nát’, trên cơ sở rằng trung bình họ kiếm được 21 phần trăm nhiều hơn những người trong khu vực tư nhân và 24 phần trăm có khả năng hơn để có sự tiếp cận đến chăm sóc sức khỏe. Khoảng 84 phần trăm của những người làm cho chính quyền bang và địa phương vẫn đã có một sơ đồ hưu trí xác định mức hưởng, bảo đảm thu nhập hưu dựa trên số năm ‘phục vụ’ và tiền lương cuối cùng, so với chỉ 21 phần trăm của lao động khu vực tư. Các con số đã có thể được diễn giải như cho thấy các hãng tư nhân đã trở nên khốn khổ thế nào. Hoặc sự so sánh đã có thể được đưa ra với những gì elite và salariat tư nhân nhận được.
Các công chức bây giờ đối mặt một sự tấn công dữ dội vào hưu bổng của họ, mà sẽ làm xấu đi triển vọng thu nhập của con cái precariat của họ. Lần nữa tình hình Mỹ là đáng báo động nhất. Hội Quốc gia của Các Quan chức Ngân sách Bang đã cảnh báo rằng các bang Hoa Kỳ sẽ đối mặt các khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ do các nghĩa vụ hưu trí. Các nhà phê phán chống khu vực công đã được giúp đỡ bởi các câu chuyện media về vài cựu công chức cấp cao đang sống giàu có trên lương hưu của họ.
Hoa Kỳ chỉ là người báo hiệu. Sự tấn công lên khu vực công là một phần của sự hiệu chỉnh sau-2008 khắp các nước đã công nghiệp hóa. Ở Hy Lạp, dưới một chính phủ trung hữu, 75.000 công chức đã được thêm vào khu vực công khổng lồ rồi giữa 2004 và 2009. Một khi tình hình nguy ngập đến trong 2010, salariat công đã bị cắt, làm tăng precariat Hy Lạp. Chính phủ cũng đã tuyên bố nó sẽ bỏ các rào cản tham gia vào một số nghề, hạ tiền lương của chúng để giảm chi tiêu công. Tại Ý, áp lực lên ngành dân chính cũng đã tăng lên. Trong tháng Mười 2009, 40.000 sĩ quan cảnh sát đã diễu hành qua Rome để đòi lương tốt hơn và các xe cảnh sát mới. Bởi vì một sự đóng băng tuyển mộ, tuổi trung bình của cảnh sát Ý đã tăng lên 45. Họ đã không đơn độc; hàng triệu viên chức đã mất sự an toàn công ăn việc làm. Ở Bồ Đào Nha, 50.000 công chức đã biểu tình trong tháng Hai 2010 chống lại một sự đóng băng lương, nhưng chính phủ đã đi trước với một sự giảm dần các dịch vụ công. Tại Ireland, bị buộc phải chấp nhận sự cứu giúp của khu vực Euro cuối 2010, những trợ cấp kiếm được một cách khó khăn của khu vực công (và các lợi lộc thêm đôi khi lỗi thời của nó) đã bị bỏ trong một vài tháng.
Tại Vương Quốc Anh, như ở Hoa Kỳ, hai phần ba của tất cả việc làm mới trong thập niên trước 2008 đã là trong khu vực công. Cắt nó sẽ mở rộng precariat đơn giản bằng làm thay đổi phần công-tư của việc làm. Nhưng ý định là để biến nhiều hơn từ khu vực công vào vùng precariat thông qua tư nhân hóa, thuê ngoài và tạm thời hóa (với hợp đồng ngắn hạn).
Một khía cạnh của sự tấn công là cố gắng để chuyển nhiều dịch vụ hơn cho xã hội dân sự hay các tổ chức phi chính phủ (NGO). Tại Vương Quốc Anh, việc này được trình bày như một cách để giảm Nhà nước Lớn và tạo ra Xã hội Lớn. Nhưng nó là một cách để nhận các dịch vụ dựa vào các hoạt động rẻ, di chuyển được tiến hành bởi các nhân viên chuyên nghiệp sang các dịch vụ dựa trên các hợp đồng bấp bênh và ‘những người tình nguyện’. Các thực thể được đăng ký như các hội từ thiện đã trở thành các chủ sử dụng lao động chính, với 464.000 nhân viên toàn thời gian trong 2009. Hơn nửa thu nhập của chúng đến từ các hợp đồng chính quyền để cung cấp các dịch vụ công. Nhưng các nhân viên hội từ thiện không được trả tốt và có các hợp đồng bấp bênh. Được trợ cấp bởi các quà tặng từ các nhà tài trợ tư nhân, chúng làm cho các dịch vụ công rẻ hơn, bỏ thầu rẻ hơn các tổ chức công tương đương và hợp pháp hóa các nối quan hệ hợp đồng tồi cho ‘những người tình nguyện’. Việc này làm cho khu vực đặc biệt dễ bị tổn thương trong một suy thoái. Khi các món biếu tặng cạn kiệt, các nhân viên tựa-công này có thể cảm thấy bản thân họ gần ở trong precariat. Đã không ngạc nhiên rằng khi suy thoái sâu thêm, nhiều trong số họ đã bỏ để làm việc trong các siêu thị. Thực tế, cho thầu lại các dịch vụ là mở rộng precariat trong khi làm xói mòn các hội từ thiện nhỏ.
Các chính phủ cũng đang hành động giống các hãng thương mại hơn trong cách đối xử của chúng với công chức, theo đuổi tính linh hoạt chức năng và việc làm. Thí dụ, chúng đang tiết kiệm về không gian văn phòng bằng phân tán hóa và linh hoạt hóa lao động của các nhân viên của chúng. Tại Hoa Kỳ, một luật được thông qua trong 2000 đã buộc chính phủ liên bang và các cơ quan của nó thiết lập các chính sách kết nối mạng. Vào 2006, 140.000 nhân viên liên bang, 19 phần trăm, đã làm việc từ các nơi làm việc thay thế. Đây là sự precariat hóa, cô lập các nhân viên và hạn chế không gian và cơ hội của họ cho hành động tập thể.
Trong 2009, 24.000 công chức Tây Ban Nha – 10 phần trăm của toàn bộ – đã lao động một phần từ nhà, với điều kiện rằng họ phải đến cơ quan trong 50 phần trăm của thời gian lao động của họ. Làm việc từ xa cũng được đưa vào ở Ý, nơi khu vực công là khét tiếng vì sự hay vắng mặt. Một nhà đổi mới ở Vương Quốc Anh đã là hội đồng thành phố Winchester, đã hợp nhất bốn văn phòng của nó thành hai và đã lắp đặt một hệ thống đặt chỗ trên cơ sở-web để cho phép các nhân viên đặt bàn làm việc hay phòng họp như họ thấy tích hợp. ‘Sắp xếp bàn nóng’ này phi cá nhân hóa văn phòng, vì nó không còn là ‘văn phòng của tôi’ nữa. Tác động tâm lý là đáng quan tâm, vì tính phương tiện tăng lên của nơi làm việc sẽ làm giảm ý thức gắn bó cả với hãng hay tổ chức và với số nhân viên như một thực thể cần được bảo vệ.
Tóm lại, khu vực công, pháo đài lâu đời của salariat và người định tiêu chuẩn cho lao động tử tế, đang chuyển nhanh vào một vùng của tính linh hoạt mà trong đó precariat có thể tăng lên.
Nhà nước bao cấp: thuốc độc của precariat
Một khía cạnh hầu như không được chú ý của toàn cầu hóa đã là sự mở rộng của các khoản trợ cấp. Đây có thể là một trong ‘các trò bội tín’ lớn của lịch sử kinh tế, vì phần nhiều đã được trao cho vốn và cho những người kiếm được thu nhập cao dưới dạng ‘thu nhập được miễn thuế’, ‘thời gian ưu đãi thuế’ và ‘khấu trừ thuế’. Nếu những người cao tuổi ở Vương Quốc Anh, chẳng hạn, muốn tránh thuế của phần thu nhập của họ, họ cần làm không nhiều hơn đưa nó vào một sơ đồ hưu trí cá nhân, trì hoãn thu nhập trong khi tiết kiệm 40 phần trăm của nó. Ai đó trong precariat hầu như không có cùng cơ hội.
Hãy xem xét cái đã xảy ra sau đổ vỡ 2008. Các sự can thiệp để chống đỡ các ngân hàng trên toàn cầu trong 2008–9 đã lên đến US$14.000 tỷ, theo Ngân hàng Anh Quốc. Đây có lẽ là một sự đánh giá thấp. Trong khi ấy, giữa sự vận động hành lang gây sốt của các công ty, các chính phủ Tây phương đã đưa ra một loạt các sơ đồ trợ cấp, trong cái phải được gọi là chủ nghĩa bảo hộ trợ cấp. Không chịu khất phục bởi thành tích thảm khốc dẫn đến đổ vỡ, khi nó đã ham mê đầu cơ tài chính, công ty motor Hoa Kỳ GM đã nói nó sẽ đi ‘mua trợ cấp’ và chuyển sản xuất và việc làm tới nơi các chính quyền chào các khoản trợ cấp lớn nhất.
Các trợ cấp là phần cấu thành của chính sách công nghiệp, thường được trình bày như sự giúp đỡ ‘những kẻ thắng’. Trong thực tế, các trợ cấp như vậy đã được dùng để làm chỗ dựa cho các hãng lớn hay các khu vực dưới áp lực, duy trì các cấu trúc bao gồm các khu vực bầu cử chính trị quan trọng. Nhưng các khoản trợ cấp sẽ không chặn lại sự phân công lại lao động quốc tế khi việc làm được chuyển từ các nước có chi phí cao sang các vùng chi phí thấp, năng suất cao. Trong khi chúng có thể kéo dài một số việc làm kiểu cũ, chúng làm thế với cái giá của sự tự chối ủng hộ cho các việc làm khác. Chúng hiếm khi làm lợi cho các nhóm bấp bênh nhất trong xã hội.
Các trợ cấp được đưa ra trong khủng hoảng 2008–9 để kích thích bán ô tô đã làm lợi cho những người mua xe so với những người khác và những người lao động ô tô so với các công nhân khác. Họ chắc chắn không là những người nghèo nhất hay bấp bênh nhất. Về mặt sinh thái, các trợ cấp như vậy ưu ái sử dụng tài nguyên làm tổn hại đến bảo tồn tài nguyên. Rồi có các bao cấp cho trợ cấp doanh nghiệp; các bao cấp này hạ thấp cầu đối với các công nhân làm các dịch vụ năng suất thấp. Và, như sẽ được cho thấy, trợ cấp doanh nghiệp là gánh nặng lên người trẻ vì những người cao tuổi và người di cư được chuẩn bị hơn để làm việc mà không có chúng.
Các trợ cấp lao động, kể cả các khoản khấu trừ thuế thu nhập kiếm được và các trợ cấp việc làm biên (marginal employment subsidies), trong thực tế cũng là các trợ cấp cho vốn, cho phép các công ty có được nhiều lợi nhuận hơn và trả lương thấp hơn. Chúng không có sự biện hộ công bằng kinh tế hay xã hội nào. Lý do căn bản cho trợ cấp lao động chính, sự khấu trừ thuế, là khi người nghèo và ít giáo dục ở các nước giàu đối mặt cạnh tranh khắc nghiệt nhất từ lao động giá rẻ trong các nước đang phát triển, các chính phủ cần trợ cấp tiền lương thấp để cung cấp thu nhập thỏa đáng. Nhưng trong khi có ý định để bù bất bình đẳng tiền lương, các trợ cấp này cổ vũ sự tăng trưởng hay duy trì các việc làm precariat lương thấp. Bằng việc thêm tiền lương cho đến mức đủ sống, các khoản khấu trừ thuế làm bớt áp lực với các chủ sử dụng lao động, cho họ một khuyến khích để tiếp tục trả tiền lương thấp. Lao động rẻ có nghĩa các hãng cũng dưới ít áp lực để là hiệu quả. Khấu trừ thuế và các trợ cấp lao động khác là cái tương đương thế kỷ thứ hai mươi mốt của hệ thống Speenhamland, một trợ cấp do địa chủ-xúi giục được đưa ra ở Berkshire trong 1795 mà đã trở nên khét tiếng vì nó đã gây ra sự bần cùng hóa nông thôn khắp nước Anh.
Sự điên rồ còn phải được hiểu rõ. Các chính phủ đi xuống con đường khấu trừ thuế sẽ phải chạy nhanh hơn chỉ để đứng yên, vì áp lực hạ tiền lương tăng lên khi các thị trường mới nổi khác đi theo Chindia. Như một bài xã luận Financial Times (2010a) đã phát biểu, mà không rút ra kết luận logic này,
Nếu Vương Quốc Anh tiếp tục đưa ra một mạng trợ cấp hào phóng trong khi tiền lương ở đáy là đình trệ, các công nhân có thu nhập thấp có thể mau chóng thấy rằng sống nhờ trợ cấp là chỉ hơi ít sinh lời hơn làm việc một chút. Để chắc chắn rằng sự làm việc vẫn sinh lợi, chính phủ sẽ phải tăng trợ cấp của nó trên tiền lương của họ qua hệ thống khấu trừ thuế.
Nó thêm rằng, để hạn chế các chi phí tăng lên, chính phủ phải thắt chặt các quy tắc về ai ‘đáng được hỗ trợ’. Việc này nó đã làm ngay.
Trong vòng một năm của sự đổ vỡ, mười sáu nước OECD đã đưa ra các trợ cấp lương, các phần thưởng tuyển dụng hay các việc làm công trình công ích để ngăn cản sự gia tăng thất nghiệp. Trong khi Tây Ban Nha đã có một chương trình công trình công ích to lớn, Vương Quốc Anh đã chọn gói ‘golden hallo’, trợ cấp cho các hãng đến £2,500 khi tuyển dụng bất cứ ai đã bị thất nghiệp hơn sáu tháng, £1,000 khi tuyển mỗi công nhân và thêm £1,500 cho đào tạo. Việc này đã chắc chắn làm phình to precariat, bằng mở rộng số được đưa vào việc làm tạm thời và xúi giục các chủ để thải các công nhân hiện tồn và thuê những người thay thế. Nam Hàn cũng đã đưa ra một trợ cấp thuê nhân công dưới một chính sách đòi hỏi các nhân viên chấp nhận một sự đóng băng tiền lương, loại bỏ các quyền mặc cả và trả những người mới được tuyển dụng hai phần ba tiền lương của các nhân viên hiện tồn – trải rộng một lực lượng lao động nhiều tầng. Tại Hoa Kỳ, chính quyền Obama đã xoay xở để ban hành một sơ đồ US$13 tỷ trong 2010 cho các công ty một sự khấu trừ thuế nếu họ thuê những người thất nghiệp tìm việc làm. Các chủ cơ hội chủ nghĩa mau chóng tính toán làm sao để tiến hành các sự thay thế có lợi.
Các nước khác đã ủng hộ các sơ đồ bù ngắn hạn, hầu hết hướng tới chế tác, mà theo đó các chủ có thể xin sự hỗ trợ tạm thời để bổ sung tiền lương của các nhân viên thường xuyên. Vào 2010, hai mươi mốt nước EU đã có các sơ đồ việc làm ngắn hạn bao phủ hơn 2,4 triệu công nhân; riêng sơ đồ Kurzarbeit của Đức đã cung cấp cho 1,5 triệu công nhân, gồm một trợ cấp tiền lương mà trải ra hai năm. Trợ cấp bù 60 phần trăm của thiệt hại thu nhập do làm tạm thời, một công thức được sao chép bởi các nước khác, như Hà Lan. Tại Hoa Kỳ, mười bảy bang, kể cả California, đã đưa ra một sự cắt giảm thuế lương và dự phòng trợ cấp thất nghiệp cho những người buộc phải làm việc một phần thời gian.
Trợ cấp thời gian ngắn hoạt động hệt như bất kể trợ cấp lao động nào. Nó dính đến rủi ro đạo đức và trái đạo đức, tiền thưởng không hiệu quả và thành tích tồi. Và nó làm méo mó các thị trường, cản trở sự chuyển việc làm lên các khu vực có năng suất cao hơn. Trong khi các trợ cấp được bảo vệ như ‘giữ người dân trong việc làm, như thế duy trì các kỹ năng’, và làm giảm các chi phí xã hội của suy thoái (Atkins, 2009), chúng ngăn ngừa người dân tiến lên và kiếm được các kỹ năng mới hay sử dụng tốt hơn các kỹ năng họ có.
Việc ghép lao động ngắn hạn với trợ cấp chính phủ đã là một con đường biến các nhân viên toàn thời gian thành các thành viên được trợ cấp một phần thời gian của precariat. Và vì thời gian tồn tại của trợ cấp ngắn hạn là hạn chế nhiều người sẽ có chỉ một thời gian nhẹ bớt trước khi mất việc làm hoàn toàn.
Một sự mỉa mai cuối cùng của các trợ cấp là chúng không lừa gạt người dân trong thời gian dài. Trong khi đỡ các việc làm cũ và thúc đẩy lao động tạm thời, làm phình precariat theo những cách không bền vững, chúng để lại một vị kinh tởm. Một người Nam Hàn bị vỡ mộng có vẻ là một lính mới của precariat đã được trích nói rằng, ‘Cho dù tôi kiếm được một việc làm theo cách này, tôi sẽ chỉ làm việc vài tháng, và trong thời gian đó tôi sẽ luôn cảm thấy giống một người phụ đáng khinh sống nhờ sự hào phóng của các công nhân khác’ (Choe, 2009).
Nền kinh tế ngầm
Một nhân tố khác đã đóng một vai trò trong sự mở rộng precariat. Nhân tố này được biết đến một cách khác nhau như nền kinh tế ngầm, xám hay đen. Có nhiều lý do cho việc tin nó đã lớn lên và được đánh giá thấp đi bởi các số liệu thống kê sẵn có. Giải-công nghiệp hóa đã đóng góp một phần, như sự tăng lên của tính linh hoạt số lượng đã đóng góp, vì sự chuyển từ các nhà máy quy mô lớn và các khối văn phòng tập trung việc làm khiến cho cái bắt tay lao động dễ dàng hơn và khó phát hiện hơn. Đặc trưng thay đổi của các nhà nước phúc lợi cũng đã liên quan, làm xói mòn sự đoàn kết xã hội và các nguyên lý cơ bản của thuế lũy tiến trực tiếp và bảo hiểm xã hội.
Dù các lý do là gì đi nữa, nền kinh tế ngầm là nơi phần lớn precariat sống sót, đối mặt sự bóc lột và áp bức. Một nghiên cứu của Friedrich Schneider thuộc Đại học Linz (The Economist, 2010b) đã ước lượng rằng nền kinh tế phi chính thức chiếm hơn một phần tư GDP của Hy Lạp, hơn 20 phần trăm GDP của Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, và hơn 10 phần trăm GDP của Đức, Pháp và Vương Quốc Anh. Ông đã quy phần lớn của sự tránh thuế cho ‘sự nổi loạn thuế’, lý lẽ rằng người dân miễn cưỡng hơn để đóng thuế nếu họ không nghĩ họ nhận được giá trị từ các dịch vụ do nhà nước đưa ra. Nếu thế, những khoản cắt dịch vụ công để giảm thâm hụt ngân sách có thể khuyến khích nhiều sự nổi loạn thuế hơn, phủ nhận tác động của cắt giảm chi tiêu lên thâm hụt ngân sách.
Căn cứ vào quy mô của nền kinh tế ngầm và sự tồn tại của đệm lao động ngầm, trong thời phất lên tương đối, như trước sự đổ vỡ 2008, một lượng đáng kể lao động không được ghi chép. Các thành tích tăng trưởng việc làm tồi có thể gây lầm lạc. Theo cùng cách, một suy thoái có thể bắt đầu với sự sụt giảm lao động ngầm, tạo ấn tượng là việc làm không sụt nhiều và thất nghiệp không tăng nhiều, đặc biệt vì những người lao động ngầm không đủ tư cách cho trợ cấp nhà nước.
Điều này là phù hợp với dữ liệu sẵn có. Trong hai năm đầu của suy thoái, sự giảm việc làm khắp châu Âu đã chỉ lớn bằng một phần ba sự co lại tính bằng phần trăm của nền kinh tế. Ở Tây Ban Nha, vào 2010 thất nghiệp được đăng ký đã tăng hơn 4,5 triệu, vượt xa mức mà các nhà hoạt động công đoàn và những người khác đã dự đoán sẽ dẫn đến các cuộc nổi loạn. Đã không có nổi loạn nào. Một số nhà quan sát đã quy cho sự chịu đựng truyền thống về thất nghiệp và các mạng lưới gia đình mà đã có thể cung cấp các trợ cấp cộng đồng. Những người khác đã nghĩ nó đã liên quan nhiều hơn đến nền kinh tế ngầm phát đạt. Liên minh của các thanh tra thuế, Gestha, đã ước lượng rằng nền kinh tế ngầm đã chiếm hơn 23 phần trăm GDP và rằng nó đã mở rộng trong khi GDP được ghi chép đang co lại đáng kể.
Một nền kinh tế thị trường mở đang toàn cầu hóa được đặc trưng bởi các hợp đồng phi chính thức, việc làm một phần thời gian và tạm thời, sự định hướng dự án và vô số dịch vụ cá nhân chắc chắn dẫn đến lao động ngầm. Nó không phải là một sự lầm lạc; nó là một phần của hệ thống thị trường toàn cầu.
Sự suy sụp của tính lưu dộng xã hội
Cuối cùng, và có tính tiết lộ nhiều nhất, đặc trưng phân tầng của quá trình lao động toàn cầu hóa đã tạo ra một sự suy sụp trong tính lưu động xã hội hướng lên, mà là một nét đặc điểm của precariat. Như Daniel Cohen (2009: 19) đã nói về các công nhân Pháp (và Âu châu), ngày nay rất ít người lên cấp quản lý cấp trung, và ‘bây giờ có một xác suất lớn hơn của việc suốt đời ở lại dưới đáy của thang lương’. Tại Vương Quốc Anh, tính lưu động xã hội đã sụt, mà đã gắn với sự tăng lên của bất bình đẳng. Vào 2010, như Ban Bình Đẳng Quốc gia của chính phủ Lao động cho thấy (xem cả Wilkinson and Pickett, 2009), đã là khó cho một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khó để leo lên cái thang xã hội hơn bất cứ lúc nào kể từ các năm 1950. Những người sinh ra trong 1970 đã ít có khả năng để tiến lên về địa vị xã hội hơn những người sinh trong 1958. Nó chỉ là một dấu hiệu rằng giai cấp vẫn quan trọng.
Nổi bật nhất, căn cứ vào hình ảnh tự thân của nó về cơ hội vô địch cho tính lưu động hướng lên, Hoa Kỳ từ lâu đã có tính lưu động xã hội suy sụp. Tính lưu động giữa thế hệ là thấp theo các tiêu chuẩn quốc tế (Sawhill and Haskins, 2009). Trẻ em sinh ra trong các quintile (phân vị 5) thấp nhất và cao nhất thậm chí có nhiều khả năng để ở đó hơn tại Vương Quốc Anh và nhiều khả năng hơn nhiều để làm như thế so với ở Thụy Điển hay Đan Mạch. Với bất bình đẳng tăng lên các mức kỷ lục và tính lưu động xã hội suy sụp, mô hình kinh tế và xã hội tân-tự do chắc chắn đã thất bại trong yêu sách của nó để tạo ra tính lưu động xã hội dựa trên công trạng.
Một lý do cho sự chậm lại về tính lưu động xã hội là các việc làm thu nhập-trung bình đã teo đi. Thí dụ, ở Vương Quốc Anh, số việc làm trong decile (phân vị 10) tiền lương trên đỉnh đã tăng gần 80 phần trăm giữa 1979 và 1999. Decile thứ hai đã tăng 25 phần trăm, và hai decile dưới cùng cũng đã mở rộng (Goos and Manning, 2007). Nhưng các việc làm trong sáu decile ở giữa đã co lại. Xu hướng này có nghĩa gì, và nó được lặp lại ở nhiều nước, có nghĩa rằng ‘giai cấp trung’ đang đau khổ vì sự bất an toàn thu nhập và stress, bị đẩy vào precariat.
Kết luận
Đã có một khế ước xã hội thô bạo trong thời đại toàn cầu hóa – các công nhân bị đòi hỏi chấp nhận lao động linh hoạt đổi lại các biện pháp để duy trì việc làm sao cho đa số trải nghiệm các tiêu chuẩn sống tăng lên. Nó đã là một sự mặc cả bán cả linh hồn cho quỷ (mặc cả Faustian). Các tiêu chuẩn sống được duy trì bằng việc cho phép tiêu thụ vượt các khoản thu nhập và thu nhập vượt cái việc làm đáng giá. Trong khi cái sau đã nuôi dưỡng tính phi hiệu quả và các sự làm méo thị trường, cái trước đặt các mảnh lớn của dân cư vào nợ nần gây bối rối. Sớm hay muộn, con quỷ phải trả nợ, một thời điểm mà đối với nhiều người đã đến với sự đổ vỡ 2008, khi các khoản thu nhập bị giảm đi của họ rớt xuống dưới mức cần để trả các khoản nợ họ đã được cổ vũ để vay. Một tầng mới đã sắp gia nhập precariat.
Vào cuối thời đại toàn cầu hóa, khế ước đã bị vỡ tan. Về phía các chủ, nhiều người hơn đã muốn ‘du hành gọn nhẹ’. Về phía người lao động, đã có nhiều stress, sự bấp bênh và sự thờ ơ tâm lý. Các vụ tự tử liên quan đến công việc đã tăng ở nhiều nước, kể cả Pháp, Nhật Bản và khắp Scandinavia, Mecca của dân chủ xã hội. Tại Hoa Kỳ, chúng đã tăng 28 phần trăm trong một năm. Trong lúc đó, theo Trung tâm Chính sách Công việc-Đời sống (Center for Work-Life Policy), một công ty tư vấn Hoa Kỳ, tỷ lệ của các nhân viên bày tỏ lòng trung thành với chủ của họ đã rớt từ 95 xuống 39 phần trăm, và tỷ lệ bày tỏ sự tin cậy vào chúng đã rớt từ 79 xuống 22 phần trăm. Trong thời đại precariat, lòng trung thành và sự tin cậy là tùy thuộc và mỏng manh.
Ta có thể thấy vì sao precariat đang tăng lên. Nhưng quy mô càng lớn, các khía cạnh loạn chức năng càng sẽ tăng lên đáng ngại. Các sự bất an toàn sinh ra tệ nạn xã hội, thói nghiện ngập và cảm giác lo âu day dứt. Các nhà tù đầy tràn. Các băng Robin Hood mất cảm giác hài hước của chúng. Và các thế lực đen lan vào vũ đài chính trị. Chúng ta sẽ đến các vấn đề đó sau khi xem xét ai gia nhập precariat và cái gì đang xảy ra với các tài sản then chốt của xã hội thị trường toàn cầu.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:27:21 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (chương 3)
AI GIA NHẬP PRECARIAT?
Một câu trả lời là ‘tất cả mọi người, quả thực’. Việc rơi vào precariat có thể xảy ra với hầu hết chúng ta, nếu tai nạn xảy ra hay một cú sốc quét sạch đồ lề an sinh mà nhiều người phải dựa vào. Nói thế, chúng ta phải nhớ rằng precariat không chỉ bao gồm các nạn nhân; một số gia nhập precariat bởi vì họ không muốn các thay thế sẵn có, một số bởi vì nó hợp với hoàn cảnh cá biệt của họ vào lúc đó. Tóm lại, có nhiều thứ precariat.
Một số gia nhập precariat do không may hay thất bại, một số bị dồn vào, một số gia nhập hy vọng nó sẽ là một bàn đạp cho cái gì đó khác, cho dù nó không chào mời một con đường trực tiếp, một số chọn nó làm phương tiện – kể cả những người cao tuổi và các sinh viên đơn giản muốn có được một chút tiền hay kinh nghiệm – và một số kết hợp một hoạt động precariat với cái gì đó khác, như ngày càng thông thường ở Nhật Bản. Những người khác thấy rằng cái họ đã làm hàng năm, hay cái họ được đào tạo để làm, trở thành một phần của một cuộc sống precariat bấp bênh.
Chương này về nhân khẩu học, và Chương 4 về những người di cư, nhìn vào các nhóm mà có một xác suất tương đối cao để ở trong precariat. Nhân khẩu học có thể được tóm tắt về mặt phụ nữ so với đàn ông và người trẻ so với người già. Trong mỗi nhóm, có ‘những kẻ cười hở răng’, những người chào đón việc làm precariat, và ‘những kẻ lầm bầm’, buộc phải việc làm việc đó do thiếu các việc thay thế. Giữa những người trẻ, ‘những kẻ cười hở răng’ là các sinh viên và các du khách đeo ba lô, vui vẻ nhận các việc làm tình cờ với không tương lai dài hạn nào; ‘những kẻ lầm bầm’ là những người không có khả năng gia nhập thị trường lao động thông qua sự học nghề hay sự tương đương, hay cạnh tranh với những người cao tuổi ‘rẻ hơn’ không có nhu cầu trợ cấp doanh nghiệp.
Giữa những người cao tuổi, ‘những kẻ cười hở răng’ là những người với hưu trí và bảo hiểm sức khỏe thỏa đáng, những người có thể làm các việc kỳ cục cho niềm vui thú hoạt động hay để kiếm tiền thêm; ‘những kẻ lầm bầm’ là những người, không có hưu bổng phải chăng, đối mặt với sự cạnh tranh từ những người trẻ năng nổ hơn và những người cao tuổi ít nghèo túng hơn. Giữa các phụ nữ, ‘những kẻ cười hở răng’ bao gồm những người với chồng trong salariat, những người có thể coi một việc làm như một việc phụ; ‘những kẻ lầm bầm’ gồm những người kiếm cơm đơn thân và những người đối mặt gánh nặng gấp ba của việc phải chăm sóc con cái và những người thân già nua, trong khi cần một việc làm có lương. Giữa đàn ông, ‘những kẻ cười hở răng’ bao gồm những người có vợ kiếm được thu nhập phải chăng; những kẻ lầm bầm gồm những người kiếm tiền đơn thân có khả năng nhận được chỉ một việc làm precariat.
Phụ nữ: nữ hóa cuộc sống?
Ban đầu trong thời đại toàn cầu hóa, đã trở nên hiển nhiên rằng phụ nữ chiếm một tỷ lệ tăng lên của mọi việc làm, trong một xu hướng toàn cầu tới nữ hóa lao động (Standing, 1989, 1999a). Đây đã là sự nữ hóa theo một nghĩa kép về phụ nữ trong các việc làm và nhiều việc làm hơn thuộc loại linh hoạt thường do phụ nữ làm. Xu hướng đã phản ánh sự phi chính thức hóa lao động, sự tăng lên của các dịch vụ và việc sử dụng phụ nữ trẻ trong các khu chế xuất. Nó đã không có nghĩa rằng phụ nữ ở mọi nơi đã cải thiện thu nhập hay các điều kiện làm việc của họ. Quả thực, các chênh lệch tiền lương theo giới và thu nhập xã hội đã vẫn không công bằng, nếu có đang cải thiện khiêm tốn ở một số phần của thế giới.
Các việc làm lan ra mà đã dẫn đến cầu tăng lên cho phụ nữ cũng như một sự chuyển đàn ông vào các việc làm bấp bênh lương thấp từ lâu đã được coi như tiêu chuẩn cho phụ nữ. Nếu lao động linh hoạt có nghĩa là nhiều việc làm ngắn hạn hơn, thì có ít phần thưởng đặt lên việc làm của đàn ông được cảm thấy – đúng hay không – để đưa ra cam kết dài hạn. Sợ rằng phụ nữ có thể kéo các chủ vào các chi phí cao phi-lương, bởi vì họ có thể có mang thai hay rút lui để chăm sóc trẻ em, là ít xác đáng nếu việc làm được định chỉ kéo dài vài tháng, nếu sự dàn xếp là không bị ràng buộc hay tùy thuộc vào cầu biến động, hay nếu không có chi phí cho lao động gián đoạn.
Trong thời đại toàn cầu hóa, công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu ở các nước đang phát triển đã dựa một cách hoàn toàn không biết hổ thẹn vào sự tổ chức phụ nữ trẻ như một precariat, được huy động để lao động vì một số tiền thù lao còm và không được kỳ vọng ở lâu trong việc làm. Nhiều nhân tố cũng đã đóng góp cho sự nữ hóa lao động, theo nghĩa kép. Một nghĩa đã là sự tan rã của ‘lương gia đình’, một đặc điểm của thời đại công nghiệp và khế ước giữa tư bản và giai cấp lao động. Giai cấp vô sản công nghiệp đã phát triển một kỳ vọng rằng công nhân nam nhận được một khoản lương đủ để duy trì một gia đình lõi, không chỉ bản thân công nhân. Quy tắc kinh nghiệm này đã mất. Tiền lương ‘được cá nhân hóa’ đã tạo thuận lợi cho việc làm của phụ nữ; còn lương thấp hơn đã gây ra một ‘cố gắng mặc cả’ thấp hơn từ đàn ông, phụ nữ đã chẳng bao giờ kỳ vọng một lương gia đình.
Ngoài ra, nhiều lao động hơn đã ở trong các dịch vụ, nơi đã không đòi hỏi sức mạnh chân tay và sự học việc dài hạn đã không phải là một tiêu chuẩn. Các nhân tố chính trị cũng đã góp phần. Đã là một nét đặc điểm của sự mất đà của chương trình nghị sự dân chủ xã hội trong các năm 1980 mà sự nhấn mạnh đã chuyển sang tính công bằng xã hội hơn là sự bình đẳng. Giảm sự phân biệt đối xử và sự chênh lệch lương dựa trên giới đã trở thành các mục tiêu hàng đầu, trong khi giảm các bất bình đẳng cấu trúc đã bị cho ra ngoài lề. Một số biện pháp có ý định cải thiện tính công bằng xã hội thậm chí đã làm nổi bật sự bất bình đẳng. Sự thiếu một chương trình nghị sự bình quân chủ nghĩa đã có nghĩa rằng những người hưởng lợi của các luật chống phân biệt đã chủ yếu là các phụ nữ với các lợi thế vị trí, không phải phụ nữ trong các mảng bị thiệt thòi của xã hội.
Dù là nguyên nhân hay hậu quả, vai trò thị trường lao động tăng lên của phụ nữ đã trùng với sự tăng lên của precariat. Phụ nữ đã chiếm một phần thiếu cân xứng của các việc làm bấp bênh, có khả năng hơn nhiều để có các hợp đồng ngắn hạn hay chẳng hề có hợp đồng nào. Điều này không chỉ ở châu Âu và Bắc Mỹ. Ở Nhật Bản, sự chuyển sang lao động không thường xuyên đã trùng với một phần tăng lên của phụ nữ trong lực lượng lao động. Trong 2008, hơn một nửa phụ nữ Nhật đã trong các việc làm bấp bênh, so với ít hơn một trong năm đàn ông. Tại Nam Hàn, 57 phần trăm phụ nữ trong các việc làm như vậy, so với 35 phần trăm đàn ông.
Nhật Bản là một trường hợp cực độ. Bất bình đẳng giới là một di sản văn hóa mà đã nhồi vào một precariat có giới tính, mà trong đó phụ nữ bị tập trung vào các việc làm tạm thời, năng suất thấp, dẫn đến một trong những chênh lệch lương nam-nữ cao nhất trong thế giới đã công nghiệp hóa. Trong 2010, 44 phần trăm nữ công nhân ở Nhật Bản nhận được ít hơn lương tối thiểu. Sự tăng lên của lao động tạm thời cũng đã góp phần. Lương của phụ nữ trong các việc làm thường xuyên là 68 phần trăm của lương đàn ông, nhưng trong việc làm tạm thời chúng là ít hơn một nửa lương trả cho đàn ông. Như thế xu hướng có một tác động có hại gấp đôi. Để thêm vào sự không công bằng, nhiều phụ nữ Nhật bị hướng vào các việc làm chăm sóc người già, nơi lương là thấp một cách đáng thương hại.
Điều này làm nổi bật một thách thức thế kỷ thứ hai mươi mốt. Khi sự nữ hóa toàn cầu tiến triển, nhiều phụ nữ hơn đã trải nghiệm một ‘gánh nặng gấp ba’. Họ được kỳ vọng để làm hầu hết việc chăm sóc trẻ em và ‘gia đình’, họ được kỳ vọng để lao động trong thị trường để chu cấp ‘gia đình’, và họ được kỳ vọng để chăm sóc số gia tăng của người thân già cả.
Bởi vì phụ nữ đã luôn luôn làm hầu hết công việc chăm sóc mà đã bị bỏ qua trong thống kê kinh tế và chính sách xã hội. Điều này đã dẫn đến sự phi lý tồi tệ nhất của nó trong thế kỷ thứ hai mươi, khi việc làm công việc chăm sóc đã không hề được tính như công việc chút nào. Một nhãn của thuật hùng biện tự do đã không giúp đỡ. Công việc chăm sóc, hầu hết hạn chế ở gia đình, đã được mô tả như trong lĩnh vực hoạt động tư, còn lao động đã ở trong lĩnh vực hoạt động công cộng. Vì lĩnh vực hoạt động công cộng đã được xem như giải phóng, suy ra rằng đưa nhiều phụ nữ vào việc làm, bất cứ việc làm gì, sẽ là giải phóng. Như thế tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động đã trở thành một số đo của sự giải phóng (Sen, 1999).
Điều này tốt cho giai cấp trung lưu, phụ nữ có giáo dục cao những người có thể lường trước việc làm định hướng sự nghiệp hưởng lương. Nhưng cho hầu hết phụ nữ, làm lao công lặp đi lặp lại trên một dây chuyền lắp ráp, hay may hối hả trong một nhà máy may lén lút không đủ ánh sáng, hay ngồi ở quầy tính tiền trong ca dài, các việc làm chắc chắn là không giải phóng. Chúng có thể là một phần của gánh nặng gấp ba, mà trong đó phụ nữ cũng phải chăm sóc trẻ con và những người thân già nua ‘trong thời gian rỗi của họ’.
Thu nhập kiếm được trong tiếp cận đến việc làm là thực. Nhưng chúng đã được mua với một cái giá, chủ yếu do phụ nữ trả nhưng cũng do đàn ông trả ở mức độ nào đó. Hầu hết là các việc làm một phần thời gian, tạm thời hay đường cùng, với không triển vọng nào về sự phát triển nghề nghiệp. Thế mà các chính phủ đang đẩy phụ nữ nhận chúng.
Ở Vương Quốc Anh, hơn 40 phần trăm phụ nữ được thuê là trong các việc làm một phần thời gian, được trả theo giờ ít hơn các việc làm toàn thời rất nhiều. Trong 2009, chính phủ đã đề xuất giúp phụ nữ trong việc làm toàn thời để chuyển sang các việc làm một phần thời gian, qua các trợ cấp, với một sự nhấn mạnh về sự làm việc linh hoạt. Họ cũng đã khai trương một cơ sở dữ liệu quốc gia về các việc làm một phần thời gian, nhắm vào cái gọi là các bà mẹ ‘ở nhà’ tìm cách ‘quay lại làm việc’, và đã công bố các kế hoạch để khiến các bà mẹ bơ vơ có con nhỏ tìm ‘công việc’.
Ở Đức, như ở Pháp, phụ nữ đã tạo thành 80 phần trăm của tất cả các nhân viên một phần thời gian, và họ kiếm được một phần tư ít hơn đàn ông kiếm được. Giờ đến trường và mua hàng, và sự thiếu nhà trẻ, làm cho khó khăn đối với phụ nữ có con để làm việc toàn thời gian. Chính phủ Merkel đã đưa ra ‘lương của cha mẹ’, một trợ cấp liên quan đến thu nhập cho phép bố hay mẹ nghỉ đến 12 tháng. Nhưng các nhà bảo thủ trong chính phủ khăng khăng rằng một quyết định để mở rộng trông trẻ đi cùng với một trợ cấp mới, Betreuungsgeld, cho các bà mẹ chỉ nếu họ ở nhà với con mình. Điều này là bất công, áp dụng một điều kiện tính ứng xử mà trừng phạt phụ nữ người muốn hay phải nhận việc làm cũng như trông con của họ.
Trong khi phụ nữ làm phình precariat lên, còn thực hiện vai trò truyền thống của người chăm sóc con và vai trò mới hơn về chăm sóc những người thân già cả, nhiều phụ nữ hơn đang trở thành ‘những người kiếm cơm’ chính. Điều này không chỉ bởi vì nhiều phụ nữ hơn là các bà mẹ đơn thân hay sống một mình. Các vai trò giới cũng đang đảo ngược. Tại Hoa Kỳ, giáo dục của phụ nữ đã tăng lên tương đối với giáo cục của nam giới, và trong nhóm tuổi 30–44 có nhiều phụ nữ tốt nghiệp đại học hơn nam giới. Trong khi năm 1970 chỉ có 4 phần trăm phụ nữ có chồng kiếm được nhiều hơn chồng, bây giờ là hơn 20 phần trăm. Khi nhiều người hơn lấy nhau bên trong hạng giáo dục của họ, những người đàn ông thu nhập cao có nhiều khả năng hơn lấy phụ nữ có thu nhập cao làm vợ, làm tăng sự bất bình đẳng giữa các hộ gia đình. Tuy vậy, bất chấp sự quảng bá công khai cho các phụ nữ thành đạt, các phụ nữ mà kiếm được nhiều hơn người phối ngẫu của mình có khả năng nhất để thấy trong các hộ gia đình thu nhập thấp, trong precariat.
Tại Vương Quốc Anh, sự tăng của phụ nữ ‘kiếm cơm’ đã gắn với một sự tăng lên về số đàn ông bước ra khỏi con đường sự nghiệp, hay từ bỏ một sự theo đuổi không có kết quả cho một sự nghiệp, để trở thành những người trông nhà. Trong các năm 1960, chỉ 4 phần trăm phụ nữ có tuổi 16–60 đã kiếm được nhiều hơn chồng họ. Vào 2009, như ở Hoa Kỳ, 20 phần trăm – hay 2.7 triệu – đã là ‘vợ kiếm cơm nuôi gia đình’ (National Equality Panel, 2010). Khoảng 214.000 đàn ông đã báo rằng họ đã không ở trong thị trường lao động bởi vì họ trông gia đình hay trông nhà, một sự tăng 80 phần trăm trong 15 năm. Trong lúc đó, số phụ nữ nói vậy đã giảm từ 2,7 triệu xuống 2 triệu, một sự giảm một phần tư. Rob Williams, tổng điều hành của Fatherhood Institute, một nhóm áp lực, đã bình luận ‘Ý tưởng rằng những người đàn ông coi mình như những người kiếm cơm nuôi gia đình đang sụp đổ. Từ các năm 1970, đàn ông đã trở nên bình quân chủ nghĩa hơn nhiều, và số những người muốn rời khỏi thang sự nghiệp và dành nhiều thời gian hơn với con cái họ đã tăng lên’ (Barrow, 2010).
Sự đảo ngược vai trò không cố ý là thường xuyên hơn, tuy vậy. Trong mỗi suy thoái kế tiếp, đàn ông thất nghiệp đã tăng lên nhiều hơn phụ nữ thất nghiệp và phần của phụ nữ có việc làm đã tăng lên. Quả thực, sự đổ vỡ sau-2008 đã dẫn đến thời khắc lịch sử duy nhất. Trong 2010, lần đầu tiên, phụ nữ ở Hoa Kỳ đã giữ một nửa của tất cả các việc làm.
Đại Recession (Suy thoái) đã được gán cho cái tên (chơi chữ) ‘mancession-nhượng đàn ông’. Đàn ông đã chịu tuyệt đại đa số của việc mất việc làm, vì các việc làm cốt lõi (việc làm giai cấp lao động công nghiệp) đã biến mất. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ đàn ông trong việc làm đã sụt xuống dưới 70 phần trăm trong 2009, thấp nhất kể từ khi bất đầu ghi chép trong 1948. Vào 2010, một trong năm đàn ông Mỹ có tuổi giữa 25 và 55 đã thất nghiệp. Trong các năm 1960, 95 phần trăm của nhóm tuổi đó đã trong việc làm. Tại EU, ba phần tư số việc làm được tạo ra từ 2000 đã do phụ nữ chiếm.
Mỉa mai thay, sự can dự ‘công cộng’ tăng lên của phụ nữ vào nền kinh tế đã đi cùng với một nỗi sợ hãi tăng lên về thất bại do nhiều hình thức của sự bấp bênh. Điều này đã được biết đến dưới cái tên gây ớn lạnh – ‘triệu chứng bà lang thang-bag lady’ – một nỗi sợ bị đẩy ra người đường do thất bại việc làm. Trong 2006, một điều tra bảo hiểm nhân thọ đã thấy rằng 90 phần trăm phụ nữ Mỹ đã cảm thấy bấp bênh về tài chính và gần một nửa đã nói họ ‘sợ kinh khủng về trở thành một bag lady’. Điều này thậm chí thịnh hành giữa các phụ nữ kiếm được hơn US$100.000 một năm. Nhiều phụ nữ hơn đã báo cảm thấy bị stress về tiền. Như một phụ nữ diễn đạt, ‘Bag lady trong thâm tâm, mặt nhăn nheo và lôi thôi lếch thếch, không phải là chuyện đùa. Bà ta là tình huống tương lai xấu nhất’. Việc này đã xảy ra trong nền kinh tế dẫn đầu thế giới. Và nó đã trở nên tồi hơn kể từ sự đổ vỡ.
Hầu hết phân tích dòng chủ lưu cũng bỏ quên phần của precariat mà đã phần lớn là lĩnh vực riêng biệt của phụ nữ – các dịch vụ tình dục. Hàng triệu phụ nữ khắp thế giới dính líu vào, nhiều người bị bắt buộc, nhiều người bị đẩy vào bởi cảnh túng quẫn tài chính, một số chọn làm vì lý do này hay lý do khác. Các dịch vụ tình dục đầy rẫy sự phân biệt giai cấp và các phụ nữ ở dưới đáy là hình ảnh thu nhỏ của sự tồn tại precariat, cho thuê thân thể họ mà không có bất cứ sự kiểm soát nào. Hình sự hóa họ và từ chối cho họ các quyền chỉ làm nổi bật cảnh ngộ của họ.
Còn đàn ông chuyển vào precariat thì sao? Các thách thức là không hệt như nhau. Cái lớn nhất có thể là chuyện điều chỉnh xuống. Sự bất an toàn gắn với sự sợ mất cái ta đã có. Nhiều đàn ông hơn ở trong tình thế đó, bằng so sánh với quá khứ riêng của mình, với các thế hệ đàn ông trước, và các kỳ vọng và khát vọng đã thấm vào họ bởi gia đình họ và văn hóa. Khi precariat tăng lên và các việc làm sự nghiệp bốc hơi, sự mất thể diện trộn lẫn sự mất thu nhập và các đồ trang trí địa vị đi cùng với nó. Với thế giới gây ra lao động bấp bênh, đàn ông được làm cho hòa hợp với một hình ảnh tự thân về tính ổn định và sự thăng tiến sự nghiệp lâm vào cảnh hiểm nguy về bị tổn thương. Hơn nữa, sự tháo dỡ các cộng đồng nghề nghiệp và sự phá vỡ các quan niệm cũ về các sự nghiệp nghề nghiệp tạo ra các tác động vỡ mộng địa vị khi đàn ông đối mặt với thực tế rằng sự nghiệp của họ bị cắt xén.
Một thách thức ‘tính đàn ông’?
Trong khi phụ nữ và đàn ông đối mặt các thách thức khác nhau quanh precariat, phong trào precarity bắt đầu nảy nở thu hút sự ủng hộ từ các nhóm giới tính đa dạng. Có các lý do chính đáng. Những người đồng tính cảm thấy không an toàn trong một xã hội được làm cho thích ứng với tập tục tình dục khác giới và các gia đình hạt nhân tiêu chuẩn. Nhưng cũng có những căng thẳng khác nữa, gắn kết với những sự mở rộng lao động. Sự nữ hóa của lao động chạm đến các ý tưởng truyền thống về tính đàn ông và tính chất đàn bà. Một chủ đề mà đã làm bận tâm các nhà xã hội học từ lâu là sự cho rằng đàn ông trẻ đang trở nên xa lánh và anomic hơn.
Về lịch sử, đàn ông trẻ đã có các hình mẫu giúp họ thành đàn ông. Họ được giới thiệu với một ý tưởng gây nam hóa. Họ sẽ chăm sóc cha mẹ mình, kiếm đủ tiền để có khả năng nuôi một vợ và các con, và kết thúc các năm của mình như những người cao tuổi được kính trọng. Nó đã mang thành kiến giới và gia trưởng, không phải là một cấu trúc để vỗ tay tán thưởng, nhưng nó đã thấm vào qua các thế hệ. Bây giờ có ít hình mẫu hiện thực cho người trẻ giai cấp lao động noi theo mà sẽ mang lại cho họ sự tự trọng, và các triển vọng của họ để là ‘kẻ kiếm cơm’ cho gia đình là lờ mờ.
Sự thiếu các hình mẫu nhiều khát vọng đã có thể là một kết cục thế hệ thứ hai của tính linh hoạt của các năm 1980 và 1990. Kết quả là một sự kéo dài của thời thanh niên, với đàn ông trẻ không có khả năng thúc đẩy mình. Như Lucie Russell, giám đốc của quỹ từ thiện Anh Young Minds, diễn đạt, ‘Làm sao con trai trở thành đàn ông được khi thiếu một vai trò hay một việc làm?’
Bắt đầu trong trường học nơi con gái ngày càng làm tốt hơn con trai. Ở Anh và Wales, 64 phần trăm con gái đạt được năm Chứng chỉ Chung về Giáo dục Cấp hai (GCSE) (thi đỗ các kỳ thi vào tuổi 15 hay 16), so với 54 phần trăm con trai. Con trai không chỉ thiếu các hình mẫu đàn ông ở nhà mà chủ yếu cũng được các cô giáo dạy. Khoảng 5.000 trường học chẳng hề có thấy giáo (nam giáo viên) nào. Thế bất lợi giới tính đi lên cái thang giáo dục; một nửa phụ nữ trẻ tham gia giáo dục bậc cao, tương phản với 37 phần trăm đàn ông trẻ. Các hình mẫu tương tự được thấy trong các nước khác. Toàn bộ, ở các đại học Mỹ và Âu châu, phụ nữ đông hơn đàn ông một phần ba. Và sau đại học, giữa những người tốt nghiệp ở Anh, đàn ông là 50 phần trăm có nhiều khả năng hơn (phụ nữ) để trở thành thất nghiệp.
Như một hệ quả của sự bấp bênh của họ, nhiều đàn ông trẻ tiếp tục sống với hay gần bố mẹ trong trường hợp cần đến. Ở Ý, là một hiện tượng thông thường; đàn ông trẻ (và không thật trẻ) sống với gia định họ, đôi khi đến các tuổi 40, được gọi là mammoni. Tại Vương Quốc Anh, hơn một phần tư đàn ông ở tuổi 25–29 sống với bố mẹ họ, gấp đôi tỷ lệ phụ nữ cùng lứa tuổi. Một trong mười đàn ông ở tuổi 35 vẫn ở trong nhà bố mẹ. Hình ảnh là về ‘con trai boomerang’, quay về nhà sau giáo dục và trôi vào tính thờ ơ, việc làm một phần thời gian, nợ nần, ma túy và các tham vọng mơ hồ ‘để du hành’.
Tính bấp bênh ngăn cản sự kết hôn và dẫn đến việc sinh đẻ muộn hơn. Trong 2008, chỉ 232.990 cặp đã kết hôn ở Anh và Wales, số thấp nhất kể từ 1895. Tỷ lệ kết hôn, được tính như số kết hôn trên đầu người, đã sụt xuống mức thấp nhất kể từ khi ghi chép bắt đầu trong 1862. Các tỷ lệ kết hôn đã sụt một cách tương tự trong pha tháo sự bị gắn vào (disembedded) của Biến đổi Vĩ đại vào cuối thế kỷ thứ mười chín, vào lúc sự bất an toàn lan rộng. Xu hướng đi xuống đã là tương tự khắp châu Âu, với một sự tăng lên về sự sống chung. Được ước lượng rằng vào 2015 một đa số trẻ so sinh ở Anh và Wales sẽ được sinh ra với bố mẹ không kết hôn.
Đàn ông và đàn bà cũng kết hôn muộn hơn. Giữa 1998 và 2008, tuổi trung bình của sự kết hôn đầu tiên ở Anh và Wales đã tăng ba năm cho cả đàn ông và đàn bà. Tuổi trung bình ước định vào lúc kết hôn cho đàn ông kết hôn lần đầu đã là 32,1 năm và cho phụ nữ là 29,9. Tuổi tăng lên đã có thể phản ánh các chi phí tăng lên – cả các chi phí thực sự và chi phí rủi ro của sự thất bại. Nhưng nó chắc chắn chứng tỏ một cảm giác về tính bấp bênh tác động đến cả đàn ông và đàn bà, dù theo những cách khác nhau.
Xu hướng đã đóng góp cho một số ngày càng tăng của các hộ gia đình một người ở các nước đã công nghiệp hóa. Nhưng, như chúng ta đã thấy, những người trẻ đã cũng quay dần dần về nhà bố mẹ, tính bấp bênh riêng của họ thường thêm vào tính bấp bênh của cha mẹ họ. Giữa các từ mới được đặt ra cho nhóm này là ‘Kippers’ (kids in parents’ pockets eroding retirement savings-trẻ con trong túi bố mẹ ăn mòn tiết kiệm hưu trí) và ‘Ipods’ (insecure, pressurised, overtaxed, debt-ridden and saving-bấp bênh, bị áp lực, bị đánh thuế quá nặng, nợ nần và tiết kiệm).
Trong một cuốn sách bút chiến được cho là mô tả những gì mà các đàn ông trẻ như bản thân họ bây giờ đối mặt (mặc dù Tiểu sử (CV) của họ đã làm lộ bí mật), Ed Howker and Shiv Malik (2010) đã tóm tắt sự tồn tai ‘của họ’:
“Chúng tôi làm việc trong các việc làm và sống trong các nhà tìm được trên các hợp đồng ngắn hạn; các bước đi của đời chúng tôi luôn luôn lang thang; đối với nhiều người trong chúng tôi nhà thời thơ ấu là điểm cố định duy nhất của chúng tôi. . . Thế hệ mà sẽ cứu Vương Quốc Anh không thể khởi động; trong lúc đó các khoản nợ trở nên lớn hơn, các việc làm hiếm hơn, cuộc sống gay go hơn.”
Thanh niên: dân du cư đô thị
Thanh niên thế giới, hơn 1 tỷ người tuổi giữa 15 và 25, tạo thành lứa tuổi trẻ lớn nhất trong lịch sử, một đa số trong các nước đang phát triển. Thế giới có thể đang già đi nhưng có một số rất lớn những người trẻ đó đây, với nhiều người bị thất vọng. Mặc dù nhiều nhóm khác tạo thành precariat, hình ảnh phổ biến nhất là về những người trẻ nổi lên từ trường học và đại học bước vào sự tồn tại bấp bênh kéo dài hàng năm, thường làm cho càng thất vọng hơn bởi vì thế hệ của cha mẹ họ đã có vẻ có các việc làm ổn định.
Những người trẻ đã luôn luôn gia nhập lực lượng lao động trong các vị trí bấp bênh, kỳ vọng để phải chứng minh bản thân họ và học. Nhưng thanh niên ngày nay không được trao cho một sự mặc cả hợp lý. Nhiều người gia nhập việc làm tạm thời mà trải ra quá xa cái có thể được đòi hỏi để xác lập ‘tính có thể thuê được’. Một mưu của tính linh hoạt đã là để kéo dài các giai đoạn thử việc, mà trong đó các hãng có thể trả tiền công thấp hơn một cách hợp pháp và cung cấp ít phúc lợi hơn.
Xác suất giảm của việc chuyển sang một hợp đồng dài hạn tích tụ sự oán giận. Ở Pháp, chẳng hạn, 75 phần trăm của tất cả các nhân viên trẻ bắt đầu với các hợp đồng tạm thời và hầu hết vẫn trong chúng; chỉ những người có bằng cấp có thể kỳ vọng để chuyển vào một vị trí ‘lâu dài’. Về mặt truyền thống, những người trẻ đã có thể chịu một giai đoạn đầu là một người ngoài vì họ đã có thể trông mong rốt cuộc trở thành một người bên trong. Trong lúc đó, họ đã sống nhờ cha mẹ. Sự đoàn kết gia đình đã làm nhẹ bớt sự bấp bênh ban đầu. Nhưng ngày nay, sự bấp bênh đã rộng ra còn sự đoàn kết gia đình đã yếu hơn; gia đình là mỏng manh hơn và thế hệ già hơn không thể biết trước một sự có đi có lại cân bằng liên thế hệ.
Một đặc điểm của tái cơ cấu thu nhập xã hội và tính linh hoạt tiền công đã là sự giảm sút tiền công và thu nhập của những người trẻ so với những người nhiều tuổi hơn của họ. Không chỉ có nhiều người trẻ hơn trong các việc làm bấp bênh, nơi tiền công thấp hơn dù sao đi nữa, nhưng vị thế mặc cả của họ bị yếu đi trong tiếp cận đến mọi việc làm, trong khi sự thiếu trợ cấp doanh nghiệp và nhà nước làm tăng tính dễ bị tổn thương của họ đối với sự nghèo.
Một thí dụ là Nhật Bản, nơi tiền kiếm được hàng năm của công nhân trong các tuổi 20 của họ đã giảm 14 phần trăm giữa 1997 và 2008. Một báo cáo của Bộ Sức khỏe, Lao động và Phúc lợi trong 2010 đã thấy rằng 56 phần trăm của các công nhân từ 16 đến 34 tuổi được thuê đã cần một nguồn thu nhập thứ hai để giúp họ trả các sinh hoạt phí cơ bản.
Những người trẻ bực bội sự bấp bênh và hầu hết muốn theo đuổi loại nghề nào đó. Thế nhưng nhiều người với một mong muốn một cuộc sống trọn vẹn không bị ấn tượng bởi các câu chuyện về việc làm cực nhọc và căng thẳng của các thế hệ già hơn. Họ bác bỏ chủ nghĩa lao động của các việc làm toàn thời ổn định vươn vào nơi xa. Trong các cuộc khảo sát quốc tế, gần hai phần ba những người trẻ nói họ thích ‘tự làm chủ’, để làm việc cho riêng họ hơn là trong một việc làm. Nhưng các thị trường lao động linh hoạt được rèn bởi thế hệ cũ của các chính trị gia và các lợi ích thương mại ép buộc hầu hết người trẻ sống hàng năm trong precariat.
Thanh niên tạo thành lõi của precariat và sẽ phải giữ vai trò lãnh đạo trong việc tạo ra một tương lai khả thi cho nó. Thanh niên đã luôn luôn là chỗ chứa sự tức giận về hiện tại và người báo hiệu về một ngày mai tốt đẹp hơn. Một số nhà bình luận, như Daniel Cohen (2009: 28), thấy tháng Năm 1968 như thời điểm mà thanh niên đã nổi lên như một ‘lực lượng xã hội tự trị’. Chắc chắn ‘nhóm sinh ồ ạt [sau chiến tranh thế giới II, từ 1946-64] (baby boomers)’ đã bẻ gãy các dàn xếp được tạo ra bởi thế hệ cha mẹ họ. Nhưng thanh niên đã là tác nhân thay đổi suốt lịch sử. Đúng hơn, 1968 đã đánh dấu sự bắt đầu của precariat, với việc nó bác bỏ xã hội công nghiệp và chủ nghĩa lao động buồn tẻ của nó. Rồi sau đó, sau khi đã xỉ vả chống lại chủ nghĩa tư bản, nhóm sinh ồ ạt đã hưởng hưu bổng và các trợ cấp khác, kể cả các hàng hóa rẻ từ các nền kinh tế đang nổi lên, và rồi đã báo hiệu tính linh hoạt và sự bất an toàn cho những người nối nghiệp họ. Một người tốt nghiệp đại học thất nghiệp cay đắng (Hankinson, 2010) đã viết, ‘Nhóm sinh ồ ạt đã có giáo dục miễn phí, nhà giá phải chăng, hưu bổng béo bở, về hưu sớm và nhà thứ hai. Chúng tôi đã bị bỏ lại với sự giáo dục trên [nợ sinh viên] chẳng bao giờ [trả được] và một cái thang tài sản với các thanh thang mục. Và hệ thống tài chính, mà đã làm cho bố mẹ chúng tôi giàu có, đã bỏ chúng tôi lại để chọn giữa việc làm cứt đái hay không việc làm nào cả’.
Tất nhiên, tràng chửi rủa chống thế hệ trước trình bày một một bức tranh sai; nó bỏ qua giai cấp. Chỉ một thiểu số của nhóm sinh ồ ạt ở Anh đã vào đại học, còn ngày nay một nửa số rời trường phổ thông tiếp tục hình thức nào đó của giáo dục bậc ba. Nhiều người thuộc thế hệ già hơn đã chịu cảnh tàn phá của sự giải-công nghiệp hóa, như các thợ mỏ, công nhân ngành thép, công nhân bến cảng, các thợ in và vân vân đã bị xếp vào lịch sử. Và hầu hết phụ nữ đã có thêm gánh nặng của sự yếu thế kinh tế. Sự diễn giải liên thế hệ đã có thể hầu như là một chiến thuật nghi binh, vì nó phù hợp với một quan điểm bảo thủ mà cẩn thận bỏ vai trò của toàn cầu hóa ra (Willetts, 2010). Thanh niên ngày nay không bị tồi hơn các thế hệ trước. Tình trạng gay go chỉ là khác và thay đổi theo giai cấp. Các cộng đồng giai cấp lao động trước kia đã có một đặc tính đoàn kết xã hội được tạo ra từ thế hệ này đến thế hệ khác. Chúng bây giờ như nhiều vùng precariat là các khu và các cộng đồng của cái những người Ý gọi là alternativi.
Sự teo đi của chúng đã gây ra ba thách thức cho thanh niên ngày nay. Họ đã thấy cha mẹ họ mất địa vị, thu nhập, sự kiêu hãnh và sự ổn định; họ không có hình mẫu nào để noi theo; và họ trôi vào bẫy precarity, với các việc làm lương thấp bị rắc với các bùa mê thất nghiệp và sự ăn không ngồi rồi bị ép buộc. Bên trong các vùng lân cận thu nhập thấp ‘đạo đức làm việc’ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác (Shildrick, MacDonald, Webster and Garthwaite, 2010). Nhưng kinh nghiệm về một cuộc sống bị precariat hóa bởi một thế hệ cũng truyền các thái độ và chuẩn mực ứng xử cho thế hệ tiếp. Thế hệ đầu tiên phải chịu tính linh hoạt mang tính hệ thống đã đến tuổi thành niên trong các năm 1980. Chính các con họ là những người tham gia thị trường lao động vào đầu thế kỷ thứ hai mốt. Chẳng thể tránh được rằng nhiều người trông chờ kiếm được ít và có sự nghiệp yếu hơn cha mẹ họ. Đáng chú ý, nhiều thanh niên Anh nói họ thuộc về giai cấp lao động hơn là nghĩ cha mẹ họ thuộc về giai cấp ấy. Có một cảm giác về sự đi xuống, khớp với cái họ thấy trước họ.
Hàng hóa hóa giáo dục
Sự hàng hóa hóa giáo dục cũng góp phần vào sự thất vọng và sự tức giận. Sự nỗ lực của hệ thống giáo dục để cải thiện ‘vốn con người’ đã không tạo ra các triển vọng việc làm tốt hơn. Một sự giáo dục được bán như một tài sản đầu tư mà không có lợi tức kinh tế nào cho hầu hết người mua, khá đơn giản, là một sự gian lận. Để cho một thí dụ, 40 phần trăm sinh viên đại học Tây Ban Nha một năm sau khi tốt nghiệp thấy mình trong các việc làm kỹ năng thấp mà không đòi hỏi trình độ chuyên môn của họ. Việc này chỉ tạo ra một dịch lớn về tâm trạng vỡ mộng địa vị.
Hiện nay, lợi lộc tiền bạc trung bình suốt đời từ việc đi học cao đẳng hay đại học là lớn – £200.000 cho đàn ông ở Vương Quốc Anh (Browne, 2010). Việc áp đặt học phí cao, như thế là có vẻ hợp lý. Nhưng học phí có thể chịu rủi ro đẩy các môn học không đem lại lợi tức tài chính sang bên lề và bỏ qua sự thực rằng lợi tức là trung bình trung vị. Trong một xã hội thị trường, các thị trường kẻ-thắng-lấy-hết tăng nhanh, mà là vì sao các chênh lệch thu nhập đã tăng vượt quá xa mức có thể được biện minh trên cơ sở năng suất. Một số đang co lại của các sinh viên kiếm được lợi tức thu nhập cao tạo ra trung bình trung vị (cao đó). Nhiều người hơn sẽ kiếm được các việc làm có thu nhập thấp hơn số trung vị đó rất nhiều.
Bây giờ hãy tính đến cái gì xảy ra trong thị trường lao động. Các nền kinh tế luôn luôn tạo ra các loại việc làm mới, nhưng chúng ta biết hướng của chúng. Thí dụ, trong thập niên tới, ít hơn một nửa việc làm mới ở Hoa Kỳ sẽ là cho những người với bằng cấp hay tương đương (Florida, 2010). Trong số đó, dựa vào kinh nghiệm vừa qua, 40 phần trăm việc làm có thể được lấp đầy bởi những người không có trình độ cao đẳng đại học. Rốt cuộc, Bill Gates đã là một người bỏ học. Như thế, chỉ một phần ba của tất cả các việc làm mới sẽ là sẵn có cho những người trẻ đã hoàn tất giáo dục bậc ba (tertiary).
Một đa số sẽ bị đẩy xuống vào các việc làm không cần trình độ cao. Khoét sâu thêm vào vết thương. Họ sẽ được bảo họ nên tận tụy, vui sướng, và trung thành trong việc làm dưới trình độ của họ và phải trả các món nợ bị mắc vì lời hứa rằng bằng cấp của họ sẽ kiếm cho họ các việc làm thu nhập cao.
Nhà nước tân-tự do đã biến đổi hệ thống trường học để khiến chúng thành một phần nhất quán của xã hội thị trường, đẩy giáo dục theo hướng hình thành ‘vốn con người’ và chuẩn bị việc làm. Nó đã là một trong những khía cạnh xấu xa nhất của toàn cầu hóa.
Bao đời nay giáo dục đã được xem như một quá trình giải phóng, truy vấn, phá vỡ mà qua đó giúp tâm trí phát triển các năng lực mới sinh. Bản chất của Khai Sáng đã là con người có thể định hình thế giới và tinh luyện mình thông qua sự học và thảo luận kỹ. Trong một xã hội thị trường, vai trò đó bị đẩy ra bên lề.
Hệ thống giáo dục được toàn cầu hóa. Nó được mô tả xấc xược như một ngành công nghiệp, như một nguồn lợi nhuận và thu nhập xuất khẩu, một vùng của tính cạnh tranh, với các nước, các đại học và các trường được xếp hạng theo các chỉ số thành tích. Là khó để nhại lại cái đang xảy ra. Các nhà quản lý đã tiếp quản các trường và các đại học, áp đặt một ‘mô hình kinh doanh’ được điều chỉnh khớp với thị trường. Mặc dù các tiêu chuẩn của nó đã lao xuống thậm tệ, nước dẫn đầu ‘ngành công nghiệp’ toàn cầu này là Hoa Kỳ. Ý tưởng là để chế biến các hàng hóa, được gọi là ‘các văn bằng’ và ‘những người tốt nghiệp’. Các đại học có khuynh hướng cạnh tranh không phải bằng việc dạy tốt hơn mà bằng chào một ‘mô hình xa xỉ’ – ký túc xá đẹp, các trò thể thao lạ lùng và các phương tiện nhảy nhót, và sức lôi cuốn của các học giả danh tiếng, nổi tiếng vì các thành tích phi-dạy học.
Tiêu biểu cho sự mất các giá trị Khai Sáng, ở Vương Quốc Anh trong 2009, trách nhiệm về các đại học đã được chuyển từ bộ giáo dục sang bộ kinh doanh. Bộ trưởng bộ kinh doanh khi đó, Lord Mandelson, đã biện minh cho sự chuyển như sau: ‘Tôi muốn các đại học chú tâm nhiều hơn vào việc thương mại hóa các thành quả của sự nỗ lực của chúng. . . kinh doanh phải là trung tâm’.
Việc thương mại hóa sự dạy ở trường ở mọi cấp độ là toàn cầu. Một công ty thương mại Thụy Điển thành công đang xuất khẩu một hệ thống vận hành trường được chuẩn hóa mà tối thiểu hóa tiếp xúc trực tiếp giữa các giáo viên và học sinh và giám sát cả hai bằng điện tử. Trong giáo dục bậc cao, việc dạy không có giáo viên và ‘các phòng học không có giáo viên’ đang tăng nhanh (Giridharadas, 2009). Massachusetts Institute of Technology đã tung ra một Consortium Học liệu Mở, tuyển các đại học khắp thế giới để đưa các cua trực tuyến miễn phí, kể cả ghi chú của các giáo sư, các video và các bài thi. Cổng điện tử iTunes chào các bài giảng từ Berkeley, Oxford và nơi khác. Đại học Nhân dân, được một doanh nhân Israel thành lập, cung cấp các văn bằng cử nhân miễn học phí, thông qua cái nó gọi là ‘dạy peer-to-peer’ – các sinh viên học không từ các giáo viên mà từ các bạn sinh viên, trao đổi các câu hỏi và câu trả lời online.
Các nhà thương mại hóa cho rằng nó là về ‘bắt những người tiêu dùng phụ trách’. Scott McNealy, chủ tịch của Sun Microsystems và một nhà đầu tư vào Đại học Western Governors, mà cung cấp bằng cấp online, đã cho rằng các giáo viên phải định vị lại mình như ‘các đào tạo viên, không phải những người tạo nội dung’, tùy biến học liệu cho các học sinh trong khi ngó tới sự dạy giỏi của những người khác. Sự hàng hóa hóa và chuẩn hóa này là sự hạ giá giáo dục, tước đoạt tính toàn vẹn của nó và làm xói mòn sự truyền kiến thức phi chính thức. Nó là sự củng cố các thị trường thắng ăn cả và sự đẩy nhanh việc tháo dỡ một cộng đồng nghề nghiệp. Một thị trường về vốn con người sẽ làm tăng sự nhấn mạnh đến các giáo viên và đại học thành danh, và thiên vị các chuẩn mực và sự hiểu biết quy ước. Các Philistine (những kẻ thù địch và thờ ơ với văn hóa và nghệ thuật) không phải ở ngoài cổng các trường; họ đang ở bên trong chúng.
Các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới đòi hỏi rằng ‘các chương trình giảng dạy không thích hợp’ không liên quan đến nền kinh tế phải bị loại bỏ. Một báo cáo được ủy thác bởi Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã cho rằng việc dạy ở trường phải tập trung vào khả năng được tuyển dụng và rằng kinh tế học phải được dạy trong mọi trường tiểu học. Chính phủ công đảng của Vương Quốc Anh đã thúc Cục Dịch vụ Tài chính (FSA) để cho lời khuyên về làm thế nào ‘để gắn một văn hóa doanh nhân’ vào các trường. Tại Ý, Thủ tướng Silvio Berlusconi đã cho rằng tất cả cái mà các sinh viên cần học là ‘ba i’ – inglese, internet, impresa (tiếng Anh, internet, doanh nghiệp). Thay cho học văn hóa và lịch sử, trẻ con phải được dạy làm sao để là người tiêu dùng và người giữ việc làm hiệu quả.
Trong một sơ đồ thí nghiệm tại bốn thành phố Mỹ, học sinh được trả tiền vì việc học tập. Tại Dallas, học sinh lớp hai được trả US$2 cho mỗi cuốn sách chúng đọc; ở Chicago, học sinh trung học phổ thông được trả tiền nếu chúng đạt điểm tốt; tại Washington, DC, học sinh trung học cơ sở được trả tiền vì ứng xử tốt và sự có mặt. Một số phụ huynh đã than phiền rằng xu hướng này đang làm xói mòn động lực nội tại cho việc học (Turque, 2010). Nhưng thị trường tiếp tục tiến.
Trong lúc đó, có các báo cáo về một sự mất năng lực đọc, đi cùng với một hội chứng thiếu sự chú ý tập thể. Phim tài liệu Waiting for Superman (Đợi Siêu nhân) đã tường thuật rằng đây là thế hệ người Mỹ đầu tiên ít biết đọc biết viết hơn thế hệ trước đó (Harris, 2010). Như giáo sư Anh ngữ Mark Bauerlein đã nói với New York Times (Bernstein, 2009), ‘Chúng ta có các sự sắp hạng (học sinh) thấp cùng cực về tri thức công dân và hiểu biết lịch sử’. Người ta nghi ngờ liên quan đến các nhà thương mại hóa. Tri thức công dân không mua cho bạn một việc làm. Nó thậm chí không làm cho bạn ‘vui vẻ’.
Việc học gạo và các cua được chuẩn hóa tiếp tục lên hệ thống trên. Kinh tế gia Pháp Daniel Cohen đã tuyên bố tán thành, ‘Đại học đối với thế kỷ mới là cái mà hãng theo kiểu Ford đã là đối với thế kỷ trước’ (Cohen, 2009: 81). Nhưng giáo dục tại trường đang tạo ra cái gì đó chưa từng có trong lịch sử. Người ta đang bán ngày càng nhiều ‘giấy chứng nhận’ hơn mà đáng giá ngày càng ít hơn. Những người bán bị thúc tạo ra nhiều hơn, những người mua được thúc mua nhiều hơn, và nếu họ mắc nợ nần như một kết quả của việc mua vòng cuối của ‘văn bằng’, họ cần vay tiếp để mua vòng tiêp theo, mà chỉ có thể đủ để bảo đảm một việc làm mà làm cho tổng đầu tư đáng giá. Sự điên rồ này có nghĩa là gì cho precariat?
Ngẫm nghĩ về tác động lên các năng lực. Trong cốn sách bán chạy nhất Shop Class as Soulcraft (Lớp học Phân xưởng như Nghề thủ công Tâm hồn) (2009), Matthew Crawford tấn công Mỹ vì sự hạ giá trị lao động có kỹ năng. Ông cho rằng, trong khi các học trò môt thời được dạy các kỹ năng nghề nghiệp mà chúng quan tâm (trong ‘lớp học phân xưởng’), bây giờ chúng phải học các cua để khiến chúng trở thành các ứng viên đại học có tính cạnh tranh. Các kỹ năng thực tế bị hy sinh cho nỗ lực để kiếm được nhiều chứng chỉ hơn.
Một phần của quá trình tạo ra precariat đến từ sự đần độn hóa hệ thống giáo dục. Trò chơi là để tối đa hóa lợi nhuận, bằng tối đa hóa ‘công suất’. Tại Vương Quốc Anh, hàng trăm cua (course) đại học được nhà nước tài trợ cung cấp các văn bằng học thuật thậm chí qua các môn phi-học thuật. Liên minh Người đóng thuế trong năm 2007 đã nhận diện 401 ‘non-course’ như vậy, kể cả nột Bằng Cử nhân Danh dự về ‘phiêu lưu ngoài trời với triết học’, được chào tại University College Plymouth St Mark and St John, và một về ‘quản lý phong cách sống’ tại Leeds Metropolitan University.
Y khoa thay thế (alternative medicine) cũng làm ăn khá. Richard Tomkins (2009) đã trích bốn mươi hai đại học đưa ra tám mươi tư cua trong các môn như phản xạ học, liệu pháp mùi hương, châm cứu, và thảo dược, kể cả năm mươi mốt cua lấy bằng cử nhân khoa học. Chúng phản ánh một ‘Khai Tối’, một sự trôi từ tư duy Khai Sáng theo chủ nghĩa duy lý sang một cách tư duy xúc cảm gắn với tôn giáo và mê tín. Khi thiếu bằng chứng, những người chủ trương y tế lựa chọn thay thế dẫn chứng thực của bệnh nhân. Và có một tác động placebo (thuốc giả trấn yên) từ sự trị liệu mà trong đó có niềm tin.
Sự hàng hóa hóa giáo dục bậc cao hợp pháp hóa tính phi lý. Bất cứ cua nào đều có thể được chấp nhận nếu có cầu đối với nó, nếu nó có thể được bán cho những người tiêu dùng sẵn sàng trả giá. Bất kể ai có thể dự một cua-giả trao một học vị theo chứng chỉ ‘bởi vì bạn xứng đáng’, mà có nghĩa là bởi vì bạn hay cha mẹ bạn có thể trả tiền và bởi vì chúng tôi ở đây để cho bạn cái bạn muốn, không phải cái chúng tôi tin là khoa học hay hợp lệ dựa trên những sự sinh ra tri thức. Các cua và các bài thi được làm cho dễ hơn, để tối đa hóa tỷ lệ đỗ và tránh việc ngăn cản tuyển mộ sinh viên và trả học phí béo bở hơn bao giờ hết.
Chi phí đi học đại học đã tăng nhanh hơn sự tăng thu nhập, đặc biệt ở Hoa Kỳ. Giữa 1970 và 2010, trong khi thu nhập trung vị hộ gia đình đã tăng 6,5 lần, chi phí dự học một đại học tư đã tăng 13 lần, và chi phí của một đại học bang đã tăng 15 lần cho các sinh viên trong bang và 24 lần cho các sinh viên ngoài bang. Giá trị cho đồng tiền đã sụp đổ. Trong 1961, các sinh viên toàn thời gian trong các đại học bốn năm đã học trung bình 24 giờ một tuần; trong năm 2010, đã chỉ là 14 giờ. Tỷ lệ bỏ học và hoãn học là cao; chỉ 40 phần trăm tốt nghiệp trong bốn năm. Cả các giảng viên lẫn sinh viên kiếm được lợi lộc ngắn hạn. Tải giảng dạy thấp cho phép các giảng viên bán mình như các nhà nghiên cứu trong nhiều thời gian hơn, còn các điểm được thổi phồng làm cho sinh viên dễ nhận được hàng hóa bằng cấp hơn. Sự vắng mặt sinh lợi. Các giảng viên cấp cao trong các đại học Ivy League, những người chắc chắn không giảng dạy gì khi họ ở trường, bây giờ có các đợt nghỉ phép có lương dài (sabbatical) mỗi ba năm; đã thường là mỗi bảy năm. Họ giống các giáo viên vắng mặt hơn, đánh dấu √ vào các ô.
Đừng trách họ. Họ hành động phù hợp với xã hội thị trường. Hệ thống đang ăn dần ăn mòn đạo đức nghề nghiệp của giáo dục. Một thị trường dựa trên chủ nghĩa cơ hội. Tư lợi là cái Adam Smith đã tán dương và là cái các kinh tế gia tân-tự do rao giảng. Nhưng nhiều giảng viên và giáo viên trong không gian hàng hóa hóa này không là vô liêm sỉ hay bất lương. Nhiều người bị thất vọng và căng thẳng khi họ thử điều chỉnh. Nhà nước tân-tự do mà nuôi dưỡng cách cư xử thương mại phản ứng lại với sự miễn cưỡng của các giáo viên đối với việc giảng dạy tiêu chuẩn bằng việc đưa ra thành tích nhân tạo và các kiểm định kiểm toán và các chỉ số, được ủng hộ bằng các khuyến khích và trừng phạt. Những người trẻ và giáo viên chia nhau sự tổn thất.
Trong lúc đó, phản ứng quốc tế với sự tan chảy tài chính năm 2008 đã gồm các khoản cắt đối với giáo dục nhà nước và một sự chuyển nữa các chi phí sang cho các sinh viên và gia đình họ. Cựu Thống đốc bang California Arnold Schwarzenegger đã cắt US$1 tỷ khỏi ngân sách của Đại học California. Học phí đã tăng 20 phần trăm; nhân viên hỗ trợ bị sa thải; các giảng viên phải nghỉ phép không lương. Hành động của ông được vang lại khắp Hoa Kỳ. Và ở Vương Quốc Anh, trong 2009 chính phủ đã nói rằng nó đã lên kế hoạch để cắt chi tiêu về giáo dục bậc cao. Nghiệp đoàn giáo viên đại học đã cho rằng ba mươi đại học có thể bị đóng cửa, mất 14.000 việc làm. Chính phủ mới đã tăng kế hoạch cắt giảm và đã làm rõ rằng giáo dục bậc cao phải trở nên có chức năng kinh tế hơn nữa. Các môn nghệ thuật và khoa học xã hội có thể bỏ qua được.
Về mặt toàn cầu, sự siết chi tiêu nhà nước đang tạo thuận lợi cho sự tăng thương mại hóa giáo dục ở trường. Đại học tư Phoenix, ‘nhà cung cấp dịch vụ giáo dục’ lớn nhất của Mỹ, đã tăng sự tuyển sinh toàn cầu của nó trong 2009 từ 384.000 lên 455.000. Tại Anh, các doanh nhân và các công ty đang tài trợ ‘các học viện’, mà cho họ sự ảnh hưởng tới chương trình giảng dạy và ngành chuyên môn. Sơ đồ, được khởi động bởi chính phủ Công đảng, và được Liên minh Bảo thủ/Dân chủ Tự do mở rộng. Tập đoàn báo chí của Rupert Murdoch có kế hoạch tài trợ một trường ở London, như nó làm rồi ở New York, không nghi ngờ gì dùng ảnh hưởng của các đồ trang sức ý thức hệ cánh hữu của nó. Một trường khác ở London được tài trợ bởi Lehman Brothers có số phận hẩm hưu trước sự phá sản ngoạn mục của ngân hàng trong năm 2008.
Sự hàng hóa hóa giáo dục này là một căn bệnh xã hội. Có cái giá phải trả. Nếu giáo dục được bán như một tài sản đầu tư, nếu có một cung văn bằng vô tận và nếu các thứ này không mang lại lợi tức được hứa hẹn, về mặt tiếp cận đến các việc làm tốt và thu nhập cao mà với nó để trả các khoản nợ phát sinh bởi vì chúng đã được thúc để mua nhiều hàng hóa hơn, nhiều người gia nhập precariat hơn sẽ tức giận và cay đắng. Gợi nhớ đến thị trường chanh (đồ cũ). Như một tiếu lâm Soviet cũ, mà trong đó các công nhân đã nói, ‘Họ giả vờ trả lương chúng tôi, chúng tôi giả vờ làm việc’. Phiên bản giáo dục sẽ như sau: ‘Họ giả vờ giáo dục chúng tôi, chúng tôi giả vờ học’. Ấu trĩ hóa trí óc là một phần của quá trình, không phải cho elite mà cho đa số. Các cua được làm cho dễ hơn, sao cho tỷ lệ đỗ có thể được cực đại hóa. Các giáo viên đại học phải tuân theo.
Tuôn sự học ở trường (streaming schooling) cho precariat
Có các dấu hiệu rằng các hệ thống giáo dục bị hàng hóa hóa được tái cấu trúc để tuôn thanh niên vào hệ thống lao động linh hoạt, dựa trên một elite có đặc ân, một giai cấp lao động kỹ thuật nhỏ và một precariat đang tăng lên. Nếu ngành công nghiệp giáo dục đang bán các mặt hàng, và nhiều sinh viên không được kỳ vọng để vào một sự nghiệp chuyên nghiệp, có nhiều cơ hội hơn cho việc cung cấp các mặt hàng ‘tầm thường’. Một vị thành niên thích lướt sóng đã nói nó đã đến Đại học Plymouth ‘để học khoa học lướt sóng và công nghệ’; cua học đòi hỏi nó phải ‘lướt sóng hai lần một tuần và điều đó là bắt buộc’. Các bằng cấp bị đần độn cho những người lao động bị đần độn (dumbed-down).
Tại Đức, hệ thống học nghề nổi tiếng đang co lại, còn nhiều thanh niên hơn bị đẩy vào một ‘hệ thống quá độ’, các trường sửa chữa mà hiếm khi tạo ra các kỹ năng bền vững. Đào tạo học nghề được chuyên môn hóa cao và chỉ có thể được cung cấp bởi các trường được chấp thuận. Nướng bánh mì và làm bánh ngọt là các môn học tách biệt; nếu ai đó muốn quản lý một quán McDonald’s họ phải học Systemgastronomie. Sự chuyên khoa hẹp này làm cho khó để có được một việc làm. Trong 2005, hơn một phần ba số tốt nghiệp vẫn thất nghiệp một năm sau khi hoàn thành đào tạo. Hệ thống, đã phù hợp với thời đại công nghiệp, hoạt động không bình thường, tính cứng nhắc của nó nhất thiết tạo ra những sự không thích hợp trong một nền kinh tế linh hoạt.
Có áp lực đối với sự đào tạo chung mà làm cho việc chuyển nghề dễ hơn và trao các quyền đào tạo cho một dải rộng hơn của các trường. Tuy vậy, hệ thống Đức đang chuyển biến để đẩy nhiều thanh niên hơn vào precariat. Trẻ em mười tuổi được hướng vào ba loại trường trung học. Bậc thấp nhất, Hauptschulen, mà về truyền thống tuyển sinh học nghề, đã trở thành một chỗ chứa các trẻ em thi trượt; nhiều đứa qua nó bây giờ gia nhập hệ thống quá độ. Hệ thống học nghề bây giờ tuyển sinh từ các trường trung cấp, Realschulen, mà đã thường cung cấp các công nhân cổ trắng. Ngay cả các trường phổ thông đỉnh cao, Gymnasien, tuyển sinh học nghề, mặc dù chúng được cho là hướng học sinh vào đại học. Hệ thống giáo dục đang thích nghi để định hình thanh niên của nó.
Sự tuồn tiếp tục vào thị trường lao động. Như thế bộ máy quan liêu nhà nước có bốn con đường sự nghiệp; những người đã chọn một con đường có ít cơ hội để chuyển sang con đường khác. Một được dành cho những người với một bằng Meisterbrief, bằng nghề cao nhất. Với một hệ thống cứng nhắc, những người không vào được một con đường có đặc quyền trong đầu cuộc đời phải cảm thấy vô vọng.
Hệ thống Đức đánh hỏng thanh niên của nó; các số thống kê được thu thập bởi OECD trong 2001 cho thấy trẻ em 15-tuổi kém hơn hầu hết các nước đã công nghiệp hóa khác. Hơn một phần năm đã không để đọc hay tính đúng, và nhiều vị thành niên đã bỏ học. Đã có cải cách ở một số phần đất nước, làm xói mòn hệ thống đẳng cấp giữa đào tạo nghề và đại học. Nhưng sự tiến bộ là chậm. Thay vào đó, Đức đang chuyển theo hướng ba cách tuôn, mà trong đó một phần tăng lên của hệ thống đang chuẩn bị thanh niên cho cuộc sống trong precariat.
Sự tuôn cũng tăng lên ở Hoa Kỳ. Ở đó, đào tạo nghề từ lâu đã bị coi khinh như sự làm cùn cơ hội vào tuổi ban đầu. Các đại học đã được coi như con đường tới lương cao và năng lực toàn cầu tuyệt vời. Vào 2005, chỉ một phần năm học sinh trung học học các môn học nghề, so với một phần ba trong 1982. Thế nhưng cầu lao động đã thay đổi chống lại những người mua bằng cấp. Có vẻ nhận ra điều này, Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Obama đã đề xuất nhiều bằng cao đẳng hai năm hơn; một số bang đang thử hồi sinh sự học nghề và ‘các học viện nghề’ đang lan ra, kết hợp chương trình giảng dạy học thuật và kỹ thuật với kinh nghiệm lao động. Tổng thống Obama đã thúc mỗi người Mỹ hãy cam kết ít nhất một năm đào tạo. Các trường cao đẳng cộng đồng là hy vọng lớn mới. Một quá trình tuôn trực tiếp đang hình thành, chuẩn bị thanh niên cho cuộc sống làm việc mức thấp hơn.
Ở phía kia của thế giới, hàng triệu người đang nổi lên từ các đại học mức hai (second-rung) để gia nhập precariat Trung Quốc. Lượng tuyển vào đại học đã tăng từ một triệu trong 2000 lên 7 triệu trong 2010. Hệ thống đã tạo ra một con đường quen thuộc của tính bất động xã hội (Chan, 2010). Những người đi học các trường tiểu học tốt vào các trường trung học tốt; và các đại học đỉnh cao lấy sinh viên từ đó. Nhưng hầu hết được sinh ra trong các gia đình nghèo, sống ở các vùng nghèo, đi học ở các trường tiểu học nghèo và kết thúc trong các trường trung học nghèo mà từ đó các đại học đỉnh cao không lấy sinh viên.
Từ 2006, hơn một triệu người tốt nghiệp mỗi năm đã trở nên thất nghiệp khi rời đại học. Họ được gọi là Lũ Kiến (Si, 2009), hay Lũ Lang thang, bởi vì họ vội vã lao vào các mạng lưới của họ hay lang thang quanh khu trường đại học cũ của họ trong nỗ lực tuyệt vọng để duy trì một mạng lưới hỗ trợ và động viên. Các nhóm người tốt nghiệp sống cùng nhau ở ngoại ô trong các nhà ở bé tẹo. Ba phần tư là từ các vùng nông thôn, thiếu giấy tờ hộ khẩu. Gần như tất cả là độc thân, sống nhờ các việc làm tạm thời trả tiền công thấp, mà họ chia sẻ. Với tiền công đó, họ sẽ phải làm việc một năm để mua một phần bé tẹo của nhà ở tù túng của họ.
Các bẫy precarity tuổi trẻ
Có hai bẫy precarity cho các thanh niên nổi lên từ sự học bậc ba. Một là bẫy nợ nần. Giả sử họ muốn xây dựng các bản sắc nghề nghiệp và các sự nghiệp, mà đòi hỏi một chiến lược dài hạn. Họ nổi lên từ đại học với những văn bằng và nợ nần của họ, với các nhân viên chấp hành được nhà nước chấp thuận đang chờ một cách đáng ngại để thu nợ một khi họ kiếm được tiền (hay không kiếm được). Nhiều người thấy các việc làm họ nhận được là tạm thời và tiền công quá thấp để thanh toán các món nợ đó. Việc làm là không phù hợp với trình độ và khát vọng của họ. Họ thấy và nghe rằng hàng triệu người ngang hàng của họ bị kẹt vào các việc làm mà các kỹ năng của họ là không hợp. Họ đã phải chộp lấy việc làm họ có thể, không phải việc làm cho phép họ xây dựng bản sắc nghề nghiệp quý giá đó. Bẫy precarity trở nên tồi tệ hơn bởi vì các chủ tiềm năng có thể biết sự nợ nần của họ và lo về độ tin cậy của họ.
Ở Tokyo, các sinh viên bị đưa vào sổ đen nếu họ không trả lại các khoản vay, sự tiếp cận bị hạn chế của họ đến việc làm bị làm yếu thêm bởi có các hồ sơ tín dụng đáng ngờ. Việc đó được thu thập bởi các hãng tuyển mộ tiến hành kiểm tra. Một thứ dẫn đến thứ khác. Nói chung, những người trẻ bị giằng xé giữa các khát vọng của họ, được ủng hộ bởi các văn bằng của họ và hàng năm trời học hành, và nhu cầu của họ đối với thu nhập. Đấy là cái bẫy precarity thứ hai. Họ có thể nhận một việc làm tạm thời bởi vì họ cần thu nhập để sống và hoàn trả nợ. Họ có thể không bởi vì nó có thể làm nản chí các triển vọng của họ về một lựa chọn xây dựng sự nghiệp khác. Nếu họ gạt bỏ việc làm ngõ cụt tạm thời, họ có thể bị quy cho là lười biếng và là một kẻ ăn xin. Nếu họ nhận việc làm đó, họ có thể ở trên đường thất bại.
Đã có nhiều thảo luận về liệu những người trẻ hôm nay có một thái độ khác đối với công việc so với những người đi trước của họ hay không. Họ được bảo là muốn nhiều hơn cái các chính trị gia gọi là ‘sự cân bằng công việc–cuộc sống’, một lời nói vô vị gần như một phép lặp thừa (tautology), trong đó người ta không thể tưởng tượng sự mong muốn một sự bất cân bằng công việc-đời sống. Những người trong cái được gọi một cách khác nhau là Thế hệ Y, Những người Thiên niên kỷ (Millennial) hay ‘thế hệ iPod’ (nói đại thể, sinh từ giữa các năm 1970) được cho là ít tham vọng vật chất hơn và ít tận tụy với việc làm hơn nhóm sinh ồ ạt (sinh từ 1946–60) hay Thế hệ X (sinh ở giữa). Điều này có thể chỉ phản ánh bản chất của các việc làm sẵn có cho thế hệ trẻ hơn và sự phổ biến của bẫy precarity. Vì các lý do tâm lý học và kinh tế, nhiều người không thể có đủ khả năng để là tận tụy với các việc làm mà có thể bốc hơi với sự báo trước ngắn.
Một số nghiên cứu ở Mỹ thấy rằng hầu hết nhân viên trẻ nói họ trung thành với chủ sử dụng lao động của họ (Hewlett et al., 2009). Nhưng một điều tra về các nhân viên có giáo dục cao đẳng đại học ở hai công ty đã thấy rằng 89 phần trăm Thế hệ Y và 87 phần trăm nhóm sinh ồ ạt cũng đã coi công việc linh hoạt là quan trọng, và hơn hai phần ba muốn làm việc từ xa một phần thời gian. Chỉ một thiểu số nhỏ bé của mỗi thế hệ đã mô tả mình như ‘lấy công việc làm trung tâm’ và hầu hết đã không xem việc làm như con đường của họ tới hạnh phúc. Thái độ của hai thế hệ là giống nhau; sự khác biệt là trong thực tế đối chất với họ. Các nghiên cứu này đã tập trung vào những người tìm cách để gia nhập việc làm hưởng lương, những người được kỳ vọng cho thấy nhiều sự cam kết việc làm hơn những người khác.
Một nghiên cứu ở Anh (Centre for Women in Business, 2009) cũng đã thấy các nhà chuyên nghiệp trẻ bày tỏ sự trung thành với hãng của họ, nhưng nó đã là một sự trung thành tùy thuộc bởi vì hầu hết đã sẵn sàng đi tiếp nếu không được thăng cấp. Họ cảm thấy sự tin cậy của cha mẹ họ vào một ‘tổ chức’ đã bị phản bội và đã không muốn để mình có thể bị thất vọng như vậy. Trong khi vài người đã cho rằng Đại Suy thoái đã hoạt động như một ‘sự kiểm tra thực tế’ cần thiết lên ‘bầu không khí trao quyền’ của Thế hệ Y (Tulgan, 2009), có lẽ nó sẽ củng cố cảm giác của những người trẻ rằng ‘hệ thống’ chống lại họ.
Cuối cùng, các bẫy precarity phản ánh một sự bất hòa giữa các khát vọng của những người trẻ và hệ thống chuẩn bị ‘vốn con người’ mà bán giấy chứng nhận sính bằng cấp trên một tờ quảng cáo giả dối. Hầu hết việc làm được chào không đòi hỏi tất cả các năm đi học đó, và giới thiệu việc học ở trường như sự chuẩn bị người cho việc làm là gây ra căng thẳng và thất vọng mà sẽ dẫn đến sự vỡ mộng.
Chứng cuồng thực tập sinh (The intern craze)
Trong lúc đó, một hình thức mới của công việc precariat được dự định đặc biệt cho thanh niên đang lan ra. Việc làm thử kiểu cổ đã dẫn đến các việc làm ổn định theo nguyên tắc, như sự học nghề đã dẫn. Sự thực tập (internship) thì không. Thực tập được giới thiệu như một cách để có được kinh nghiệm hữu ích có ý định cung cấp, trực tiếp hay gián tiếp, một cửa ngõ tiềm năng đến một việc làm thường xuyên. Trong thực tiễn, chúng được nhiều chủ dùng như một cách để có được lao động rẻ có thể bỏ đi. Thế mà thanh niên đang cạnh tranh dữ dội vì các đợt thực tập không công hay được trả rất thấp này, hy vọng có việc bận, kiếm được kỹ năng và kinh nghiệm, mở rộng mạng lưới và, chỉ có lẽ, có được việc làm khó đạt đó.
Các đợt thực tập đang trở thành một rite de passage (nghi thức chuyển tiếp) cho thanh niên giai cấp trung lưu ở một số nước. Hoa Kỳ thậm chí có ‘thực tập sinh ảo’, những người làm việc từ xa cho một hay nhiều công ty, làm nghiên cứu, thuyết trình bán hàng, tiếp thị, thiết kế đồ họa hay phát triển truyền thông xã hội. Trong khi các sinh viên tiếp xúc với các lĩnh vực tiềm tàng của công việc tương lai và có thể làm việc khi thích hợp, các nhược điểm tiềm tàng gồm sự cô lập và sự thiếu tiếp xúc.
Tại Hoa Kỳ, các thực tập sinh có thể lấy trợ cấp thất nghiệp khoảng US$400 một tháng, chừng nào họ có thể cho là đang kiếm việc làm. Việc là một thực tập sinh che giấu sự thất nghiệp, cho việc làm nhân tạo và cải thiện tiểu sử. Luật liên bang cấm việc sử dụng thực tập sinh để thay thế các nhân viên thường xuyên. Nhưng là khó để kiểm tra. Để tránh các hệ lụy pháp lý, một số hãng hạn chế việc thực tập cho các sinh viên nhận được tín chỉ của trường. Cho nên một số người lao động trẻ ghi danh vào các trường chỉ để cho phép bản thân họ làm thực tập. Các thanh niên thất nghiệp cũng tham gia thị trường thực tập. Các ứng viên thực tập sinh này được tư vấn để nói họ đang tìm một sự thay đổi sự nghiệp hay để học cái gì đó, và đừng nói rằng họ đã mất việc làm và họ chẳng có việc gì để làm (Needleman, 2009). Thật buồn và tuyệt vọng.
Việc thực tập đã trườn vào chính sách thị trường lao động. Sơ đồ Thực tập Hành chính ở Nam Hàn, được lập ra trong 2008, đề xuất lao động tạm thời cho những người tốt nghiệp, những người được sắp xếp như các thực tập sinh trong các bộ hay các cơ quan công quyền tối đa 11 tháng. Các thực tập viên không được công nhận như các viên chức, không được Bộ Luật Tiêu chuẩn Lao động hay Bộ Luật Viên chức Chính phủ bảo vệ, bị cấm được sử dụng như công chức sau khi ở trong chương trình thực tập, không thể được biến thành nhân viên toàn thời gian và được trả dưới tiền công tối thiểu. Họ có thể nhận sự đào tạo nhân viên, nhất là đào tạo từ xa, nhưng hầu hết tham gia các đợt thực tập kéo dài năm tháng, không phải 11 được quy định như giới hạn tối đa. Trong một điều tra, chỉ 8 phần trăm đã nói việc thực tập cho họ bất cứ cơ hội nào để phát triển các kỹ năng nghề nghiệp.
Tại Vương Quốc Anh, các thực tập sinh đến chủ yếu từ các gia đình giai cấp trung lưu, mà có thể có khả năng để hỗ trợ con cái họ trong việc kiếm một chút thêm cho tiểu sử (CV) của chúng và một con đường tới một việc làm thật. Đã có các cuộc đấu giá cho việc thực tập trong media và các khu vực có đặc quyền khác, vì ‘kinh nghiệm làm việc’ không được hay được trả công ngày càng được đòi hỏi cho việc tiếp cận đến ‘các việc làm tử tế’. Tuy là trái luật để sử dụng ai đó mà không trả họ bất cứ thứ gì, điều này là cái xảy ra với các thực tập sinh. Một vụ án trong 2009 (Nicola Vetta vs London Dreams) đã xác lập rằng một thực tập sinh có quyền đối với tiền công tối thiểu, cho dù cô đã đồng ý làm việc cho hãng film trên cơ sở ‘chỉ có phụ phí’. Điểm pháp lý đã là, không ai đã có thể ‘đồng ý’ với một sự dàn xếp phi pháp. Nhưng nó luôn luôn xảy ra.
Sự thực tập là một mối đe dọa cho thanh niên trong và quanh precariat. Cho dù có được trả tiền, các thực tập sinh đang làm lao động rẻ ngõ cụt, gây áp lực xuống đối với tiền công và cơ hội của những người khác mà có thể được thuê nếu khác đi. Một đợt thực tập có thể cho lợi thế vị trí cho một ít người trẻ, nhưng việc đó chắc có khả năng hơn là việc mua một vé xổ số, trong trường hợp này dính líu đến một sự bao cấp tư nhân, thường được trả bởi gia đình thực tập sinh.
Cuối cùng, sẽ là một sai lầm để nghĩ các thực tập sinh chỉ là một đặc điểm của các nước giàu và thanh niên giai cấp trung lưu. Ngoài Nam Hàn, họ cũng phổ biến ở Trung Quốc. Một cuộc đình công tại một nhà máy truyền động lớn của Honda ở Phật Sơn đã tiết lộ rằng các thực tập sinh đã chiếm một phần ba của tất cả nhân viên, phản ánh việc sử dụng phổ biến các sinh viên và những người làm việc tạm thời trong ngành chế tác Trung Quốc (Mitchell, 2010). Giống như mọi nơi khác, các thực tập sinh là một sự thay thế precariat cho lao động thường xuyên.
Căng thẳng thế hệ
Thanh niên trong các nước đã công nghiệp hóa gia nhập một thị trường lao động mà trong đó họ sẽ phải đóng góp ngày càng nhiều từ tiền công thấp của họ để cấp tài chính cho thu nhập hưu của số ngày càng tăng những người nghỉ hưu. Các số liệu nhân khẩu học gây chán nản. Ở Nhật Bản, nơi xu hướng già đi là cao nhất, số công nhân để hỗ trợ mỗi người nghỉ hưu đã sụt từ mười trong 1950 xuống bốn trong 2000 và kỳ vọng sụt xuống hai vào 2025. Không ít hơn 70 phần trăm của bảo hiểm xã hội của Nhật là cho những người cao tuổi và chỉ 4 phần trăm cho chăm sóc trẻ con (Kingston, 2010). Chúng ta sẽ xem xét cái gì đang xảy ra với những người cao tuổi muộn hơn. Ở đây chúng ta quan tâm đến nó tác động ra sao đến thanh niên.
Thanh niên của thế kỷ thứ hai mươi mốt không chỉ phải theo đuổi nhiều bằng cấp hơn bao giờ, với chi phí cao, để có được một xác suất thấp về việc đạt tới một điểm gia nhập sự nghiệp – một ảo vọng lùi xa dần đối với nhiều người – nhưng cho dù họ có thành công, họ sẽ trả các khoản đóng góp, như những người làm việc hôm nay, cho các khoản hưu bổng của các nhân viên của ngày hôm qua. Vì chi phí của sự làm việc đó đang tăng lên, chủ yếu bởi vì sự lão hóa, nhà nước đang tăng các khoản đóng góp mà các nhân viên của hôm nay phải trả và đang nâng tuổi mà các nhân viên của hôm nay có thể nhận được lương hưu. Để làm cho thương vụ còn ít hấp dẫn hơn đối với các nhân viên của hôm nay, nhà nước đang cắt giá trị thực tế của lương hưu nhà nước của ngày mai. Và các công nhân của hôm nay được bảo rằng họ phải chịu nhiều rủi ro hơn, bằng nhiều khoản đóng góp của họ được đưa vào các sơ đồ được xác định theo mức đóng (tức là, thay cho có mức hưu được bảo đảm, các khoản đóng góp được đưa vào các quỹ đầu tư mà có thể lên xay xuống về giá trị). Các công nhân thường được yêu cầu đưa các khoản đóng góp vào các quỹ hưu mà đi đầu tư nhân danh họ, bất luận các quỹ đó có đủ trình độ để làm thế hay không.
Thiếu Tiếng nói và suy thoái sau-2008
Thanh niên đang gia nhập các thị trường lao động trong sự lộn xộn nào đó, nhiều người trải qua sự vỡ mộng địa vị, cảm thấy không an toàn về kinh tế và không có khả năng xem làm sao để xây dựng một sự nghiệp. Trong nhiều nước tình trạng gay go của họ bị trầm trọng thêm bởi thất nghiệp. Sự tan chảy tài chính đã giáng mạnh xuống thanh niên. Hàng triệu người mất việc làm, hàng triệu người thêm đã không thể gia nhập thị trường lao động, và họ đã thấy tiền lương thấp hơn các tiền bối của họ. Vào 2010, thanh niên thất nghiệp (tuổi 16–24) ở Tây Ban Nha đã hơn 40 phần trăm, ở Ireland 28 phần trăm, ở Ý 27 phần trăm, ở Hy Lạp 25 phần trăm. Tỷ lệ thất nghiệp giữa các teenager Mỹ đã là 52 phần trăm gây choáng váng. Khắp thế giới, thanh niên rời lực lượng lao động với ba lần tốc độ của người lớn. Nhiều đã quay lại hay đã thử quay lại giáo dục thêm, làm tồi tệ thêm vòng xoáy trôn ốc của ‘các bằng cấp’ vượt qua các đòi hỏi của các việc làm sẵn có.
Tại Nhật Bản, khủng hoảng đã tăng tốc sự chuyển thanh niên vào precariat khi các công ty đóng băng sự gia nhập ban đầu vào các vị trí hưởng lương theo con đường điều hành. Theo truyền thống, những người tốt nghiệp đại học vào tháng Ba mỗi năm để bắt đầu một việc làm hưởng lương mà sẽ đặt họ lên cho việc làm suốt đời. Đã có một sự đóng băng một phần trong đình trệ vào đầu các năm 1990 nhưng sau 2008 sự đóng băng lan rộng. Trong 2010, hơn một trong năm người tốt nghiệp đã không có bất cứ lời mời làm việc nào. Mô hình người hưởng lương đã sụp đổ. Gần một nửa của tất cả các công ty lớn và quy mô vừa đã nói chúng không có ý định thuê bất cứ nhân viên thường xuyên nào. Những người tốt nghiệp phải hiệu chỉnh với các triển vọng suốt đời mới, khi các chủ trở nên thoải mái hơn với việc bỏ các tiêu chuẩn người ăn lương suốt đời.
Sự lộn xộn của thanh niên trong thị trường lao động đã bị trầm trọng thêm bởi sự xa lánh của nó khỏi cơ chế chính cho việc xả sự thất vọng và cho việc lên Tiếng trong sự mặc cả cho một tương lai ít bị precariat hóa hơn. Sự củng cố các quyền hưởng cho các nhân viên thường xuyên, một thành tựu thế kỷ thứ hai mươi của các công đoàn và các phong trào dân chủ xã hội, đã dẫn precariat trẻ thù địch với các công đoàn. Họ thấy công đoàn như đang bảo vệ các đặc ân của các nhân viên cũ, các đặc ân họ không thể đoán trước cho chính họ. Trong các pháo đài xưa của chủ nghĩa công đoàn, như Tây Ban Nha và Ý, thanh niên quyết liệt bác bỏ các công đoàn. Để công bằng, các công đoàn đã muốn mở rộng trợ cấp cho các nhân viên tạm thời. Nhưng họ đã không đạt được điều đó. Họ thấy tiền công giảm và việc làm đi nơi khác, làm xói mòn thêm tính chính đáng của họ – đến mức các chính trị gia dân chủ xã hội thấy có lợi để đứng xa chúng. Ngay cả các thủ lĩnh công đoàn bị bối rối. Richard Trumka, khi được bầu làm thủ lĩnh của AFL-CIO trong 2010, đã thú nhận rằng khi những người trẻ ‘nhìn vào các công đoàn, quá thường xuyên cái họ thấy là một tàn dư của nền kinh tế của cha mẹ họ’.
Thanh niên ngày nay thấy khó để hình thành các hội tập thể trong quá trình sản xuất, một phần bởi vì họ là một phần của lực lượng lao động linh hoạt, trong việc làm tạm thời, làm việc từ xa và vân vân. Thanh niên chiếm phần lớn của những người du mục đô thị của thế giới, vội vã từ một nơi công cộng sang nơi khác, từ các quán café internet sang bất cứ nơi khác nào hoạt động gấp đôi như chỗ làm việc và chỗ chơi. Như thế Alessandro Delfanti, của San Precario Connection, đã nói, ‘Thế hệ chúng tôi đã mất quyền để sử dụng xung đột bên trong lĩnh vực sản xuất’ (Johal, 2010). Điều này đúng, song thanh niên cần tiếng nói tập thể loại nào đó.
Các triển vọng ảm đạm
Thanh niên có một sự kết hợp của các thách thức. Đối với nhiều người, một bẫy precarity vẫy gọi. Đối với nhiều người, việc phơi ra cho một hệ thống giáo dục hàng hóa hóa dẫn đến một thời kỳ vỡ mộng địa vị. Trong khi đối với vài người, một giai đoạn ngắn chơi trong precariat có thể là một đoạn giải lao giữa giáo dục và việc gia nhập salariat giàu có hay thậm chí elite, đối với đa số, tương lai hứa hẹn một dòng việc làm tạm thời với không triển vọng nào về phát triển một sự nghiệp nghề nghiệp. Đối với một số ngày càng tăng, nó là về được đào tạo về ‘tính có thể được thuê’, để biến thành tươm tất và linh hoạt theo nhiều cách, chẳng cách nào phù hợp với cái họ thực sự muốn.
Đối với một số người thật là quá nhiều. Một phản ứng với sự va chạm giữa giáo dục và triển vọng của các việc làm precariat đã là để rời bỏ sự theo đuổi việc làm hoàn toàn, trở thành cái mà các nhà quan sát Ý đã gán cho cái tên alternativi hay ‘cognitariat’, những người sống một cuộc sống bohemian (phóng túng) mà đổi sự an toàn lấy một cuộc sống sáng tạo và tự trị (Florida, 2003: 35). Điều này chỉ khả thi cho một ít người và là một sự mặc cả Faustian, mà trong đó tự do và sự kích động được trả muộn hơn, trong sự thiếu lương hưu hay tiện nghi vật chất khác. Nhưng nó gây nhức nhối tình cảm của nhiều người hơn.
Warren Buffett đã có một lý thuyết quả bóng tuyết. Ai đó có thể xác định các kỹ năng và tham vọng của mình càng sớm, họ để cho chúng lăn càng lâu, tích tụ độ lớn và sức mạnh. Nếu các năm đầu quý giá được dùng mò mẫm quanh các việc làm bấp bênh, năng lực để phát triển sẽ vĩnh viễn bị làm hư hỏng. Chính điều này có thể làm cho những người trẻ tức giận nhất. Triển vọng về sự bất an toàn triền miên hợp không thoải mái với một cảm giác rằng nó bị xếp đặt, không phải tất yếu.
Đây là tóm tắt về nó. Phần trẻ của precariat đang xỉ vả chống lại sự làm mờ ánh sáng giáo dục và chống lại sự hàng hóa hóa đời sống, mà trong đó có sự va chạm giữa một quá trình giáo dục thương mại và các việc làm gây xa lánh mà tỏ ra thấp hơn trình độ được cho là họ có. Họ chia sẻ một tầm nhìn về cuộc sống như một vở kịch đang diễn ra về sự vỡ mộng địa vị, thế nhưng bác bỏ sự buồn tẻ của chủ nghĩa lao động mà đã là số phận của thế hệ của cha mẹ họ. Cần sự suy nghĩ lại nào đó.
Người già: kẻ cười người khóc
Thế giới đang ‘già đi’, một ý tưởng tỉnh táo mà đã trở thành một phần của từ vựng của chúng ta. Ta có thể mô tả cùng quá trình như ‘trẻ ra’, vì tuy người dân sống lâu hơn và phần của dân cư trong các nhóm già hơn đang tăng lên, nhiều ‘người già’ vẫn tích cực và năng động trong thời gian dài hơn. Thường nghe rằng người 70 mươi tuổi ngày nay là người 50 tuổi của ngày hôm qua. Đấy có thể là tư duy tự ru ngủ (wishful thinking) với vài người, nhưng nó đại thể đúng.
Trong khi những người trẻ gặp rắc rối khi bắt đầu cuộc đời có thể sống được, những người cao tuổi bị lẫn lộn, một số theo cách dễ chịu, một số theo cách thảm hại. Sau hàng thập kỷ được bảo rằng không cần đến họ nữa, việc về hưu non được làm cho dễ dàng trong các suy thoái, bây giờ họ được bảo phải làm việc dài hơn.
Trong suy thoái đầu tiên của thời đại tân-tự do, trong đầu các năm 1980, các chính phủ nước giàu đã đẩy những người cao tuổi vào bóng tối kinh tế, làm dễ cho họ để hưởng trợ cấp mất sức, cho dù nhiều người đã không mất sức, hay hưởng trợ cấp thất nghiệp đặc biệt hay về hưu non. Mục tiêu đã là giải phóng việc làm cho thanh niên. Nhưng tuy nó đã có vẻ thông minh đối với các chính trị gia lúc đó, chính sách đã là một thất bại tốn kém. Kết quả chính đã là, tuổi về hưu thật sự đã lao xuống dưới tuổi chính thức. Vào 2004, trong các nước OECD, chỉ 60 phần trăm của những người có tuổi 50–64 đã ở trong việc làm, so với 76 phần trăm của những người ở tuổi 24–49.
Trong lúc đó, ở các nước giàu, phụ nữ trẻ đã ngừng có con; tỷ lệ sinh nở đã sụt xuống dưới tỷ lệ tái sinh sản. Đột nhiên, các chính phủ trở nên lo lắng về ‘bom hưu nổ chậm’, khi số người tới tuổi về hưu vượt quá số người lao động trẻ tham gia lực lượng lao động những người có thể đóng góp cho các sơ đồ hưu trí. Một cuộc khủng hoảng được tích tụ dần.
Cái chết chậm của trợ cấp hưu trí
Thời của trợ cấp và hưu trí đã là một kỳ quan của thế giới hiện đại, cho dù nó đã chỉ kéo dài trong một phần bé tẹo của lịch sử. Nó đã là một phần của ảo tưởng toàn cầu hóa. Trong vài năm ở các nước đã công nghiệp hóa, số thuần của thuế và các khoản đóng góp an sinh xã hội, các khoản trợ cấp hưu trí bắt buộc đã đạt trung bình 70 phần trăm của thu nhập thuần trước và hơn 80 phần trăm cho những người được trả lương thấp. Ở Hà Lan trong 2005, lương hưu thuần trung bình đã vượt thu nhập trung vị thuần; ở Tây Ban Nha, nó đã hơn 80 phần trăm; ở Ý, Thụy Điển, Canada và Pháp, trên 60 phần trăm; tại Đức và Hoa Kỳ, gần 60 phần trăm. Chỉ ở Vương Quốc Anh và Nhật Bản, giữa các nước OECD lớn, nó đã vẫn dưới 50 phần trăm. Hưu trí nhà nước ở Anh đã sụt xuống thấp đến mức sự liên kết với thu nhập đã bị chính phủ Thatcher cắt đứt và được phục hồi kể từ 2012.
Cái làm các chính trị gia và các nhà phân tích quỹ hưu sợ hãi là số học đơn giản. Phần của dân cư thế giới có tuổi 65 hay cao hơn sẽ gấp đôi giữa 2010 và 2040, lên 14 phần trăm. Ở Tây Âu, trừ phi các cổng nhập cư được mở, tỷ lệ sẽ tăng từ 18 phần trăm lên hơn 28 phần trăm. Vào 2050, một phần năm của 9 tỷ dân của thế giới sẽ trên 60 tuổi, và ở các nước giàu ngày nay sẽ là một phần ba. Gần một trong mười người sẽ trên 80 ruổi. Các nước đang phát triển có rồi 490 triệu người trên 60 tuổi; số đó sẽ tăng lên 1.500 triệu vào 2050. Liên Hợp Quốc ước lượng rằng ước tính tuổi thọ vào lúc sinh sẽ tăng từ 68 trong 2010 lên 76 vào 2050 và ở các nước giàu từ 77 lên 83. Và sẽ có rất nhiều phụ nữ già, vì tính trung bình họ sống dai hơn đàn ông 5 năm.
Những người khác thậm chí lạc quan hơn về sự trường thọ. Họ ước lượng rằng xu hướng dài hạn hướng lên đã là khoảng ba tháng một năm, như thế vào 2050 ước tính tuổi thọ ở các nước trường thọ sẽ vượt xa 90. Điều đó đến với năng lực tăng lên để là lanh lợi. Sự ốm yếu tàn tật giữa những người trên 65 tuổi đã giảm, và đã có một sự cô đọng tỷ suất bệnh vào năm cuối cuộc đời. Như thế sẽ có nhiều người già linh lợi ở xung quanh.
Rắc rối là, (hệ thống) hưu đã không được thiết kế cho cái đang diễn ra trong thế kỷ thứ hai mươi mốt. Khi Hoa Kỳ đưa ra sơ đồ An sinh Xã hội (hưu trí nhà nước) của nó trong 1935 để ngăn chặn sự nghèo tuổi già, tuổi về hưu đã là 65 trong lúc ước tính tuổi thọ là 62. Kể từ đó, ước tính tuổi thọ đã tăng lên 78. Trong 1983, Hoa Kỳ đã ra luật để tăng tuổi về hưu lên 67, trong các bước nhỏ, vào 2027. Nhưng điều này có nghĩa là lời hứa hưu trí sẽ tiếp tục phủ nhiều năm hưu hơn trong các năm 1930, trừ phi có những thay đổi thêm. Sẽ có. Những diễn tiến tương tự sẽ xảy ra ở tất cả các nước giàu.
Sự thực chính cho phân tích của chúng ta là, về trung bình người ta có thể dùng thời gian rất dài trong sự về hưu danh nghĩa. OECD đã ước lượng trong 2007 rằng, trong các nước thành viên của nó, đàn ông có thể dự tính giữa 14 và 24 năm trong hưu trí, phụ nữ giữa 21 và 28. Số này đã là 50 phần trăm cao hơn trong 1970 và đã là một ước lượng thấp khi sử dụng ước tính tuổi thọ trong 2007 hơn là trong tương lai. Tình hình là không thể duy trì được về mặt tài khóa.
Theo IMF, giá phải trả của cú sốc tài chính sẽ chẳng đáng là bao so với cái giá của ‘khủng hoảng lão hóa’. Tính toán của nó dựa trên các áp lực quỹ hưu hiện thời, một sự tiếp tục của hình mẫu hiện thời về sự tham gia lực lượng lao động và một tỷ lệ ‘sự phụ thuộc tuổi già’ – số người có tuổi 15–64 chia cho số người có tuổi 65 và già hơn. Ở EU, tỷ lệ này sẽ sụt từ bốn xuống hai trong 2040. Như thế, trong lúc ngày nay cần sự đóng góp của bốn người làm để hỗ trợ một người nghỉ hưu, số đó sẽ sụt xuống chỉ hai. Thách thức còn lớn hơn, vì không phải mọi người ở tuổi 15–64 là trong lực lượng lao động. Tính đến điều này, tỷ lệ phụ thuộc tuổi già sẽ giảm từ vừa đúng dưới 3 xuống vừa đúng dưới 1,5. Nói đại thể, mỗi ba người trong lực lượng lao động sẽ được kỳ vọng để hỗ trợ hai người trên tuổi 65, nếu tất cả họ có lương hưu.
Điều đó sẽ không xảy ra. Chính ý tưởng về hưu trí sẽ tàn đi, cùng với lương hưu, mà đã phù hợp với thời đại công nghiệp. Phản ứng lại với khủng hoảng tài khóa đã là đẩy lùi các sơ đồ về hưu sớm và các trợ cấp khuyết tật liên quan đến tuổi, hạ lương hưu nhà nước, nâng tuổi mà tại đó người dân có thể đòi lương hưu nhà nước và nâng tuổi mà tại đó họ có thể đòi một lương hưu nhà nước đầy đủ. Các tỷ lệ đóng góp đã leo lên và tuổi mà tại đó người dân có thể nhận lương hưu đã tăng lên, nhiều cho phụ nữ hơn cho đàn ông để đạt sự bình đẳng. Số năm đóng góp để có được quyền hưởng lương hưu nhà nước đã tăng lên, với số năm đòi hỏi để nhận được lương hưu đầy đủ tăng lên thậm chí nhiều hơn. Trong một số nước, nhất là ở Scandinavia, tuổi về hưu hợp pháp có đủ tư cách cho lương hưu nhà nước bây giờ được neo vào ước tính tuổi thọ, sao cho sự tiếp cận đến lương hưu sẽ lùi xa dần khi người dân về trung bình sống lâu hơn và sẽ lùi xa dần với mỗi đột phá y tế.
Điều này rốt cuộc là sự xé nát khế ước xã hội cũ. Nhưng bức tranh còn phức tạp hơn, vì trong khi các chính phủ được thuyết phục là chúng ở trong một lỗ thủng tài khóa với lương hưu, chúng lo lắng về tác động của lão hóa lên cung lao động. Dẫu có vẻ kỳ quái ở giữa cuộc suy thoái, các chính phủ đang tìm cách giữ những người lao động già hơn trong lực lượng lao động hơn là dựa vào một khoản lương hưu bởi vì chúng nghĩ sẽ thiếu người làm việc. Có cách nào tốt để khắc phục tình trạng này hơn là để làm dễ hơn cho những người cao tuổi ở trong precariat?
Từ hưu non đến lao động hưu
Ở đây các nhà hoạch định chính sách có một cửa mở. Bởi vì nhiều việc làm hơn có đặc trưng precariat, những người cao tuổi được đánh giá tốt hơn để nhận chúng, và bởi vì có nhiều người già hơn ở xung quanh, nhiều việc làm hơn được đưa vào precariat. Việc này đang đảo ngược một xu hướng dài.
Vương Quốc Anh là một thí dụ tốt. Les Mayhew (2009) đã quan sát rằng phần của người dân trong lực lượng lao động sụt mạnh sau tuổi 50 – đại thể khi sự đủ tư cách hưu tư nhân bắt đầu. Vào tuổi 64 ít hơn một nửa đàn ông và ít hơn một phần ba phụ nữ tiến hành hoạt động lao động. Hầu hết là khỏe mạnh và sức khỏe của người dân tuổi 50–70 luôn đang tăng lên. Một người tuổi cao càng khỏe mạnh và càng có học, thì càng có khả năng hơn là tích cực về mặt kinh tế. Mayhew đã ước lượng rằng, xét trung bình, người dân đủ khỏe mạnh để tiếp tục làm việc trong 11 năm vượt quá tuổi về hưu hiện hành do nhà nước quy định là 65. Số những người cao tuổi có khả năng làm việc là khổng lồ.
Nhiều người đang làm thế rồi, thường không được ghi chép. Nhiều người vững chắc ở bên trong precariat. Quả thực, những người cao tuổi đã trở thành một động lực trong sự tăng trưởng của nó. Những người cao tuổi đã trở thành một nguồn lao động rẻ, được trả công thấp, được trao ít trợ cấp, bị sa thải dễ dàng. Trong một vài khía cạnh, họ đóng các vai trò giống như những người di cư, mà được xem xét muộn hơn. Trong một khía cạnh, họ không giống, mà là nhiều người chào đón một cách tích cực một cuộc sống precariat, theo nghĩa hẹp của từ. Họ thường biết ơn chỉ để được yêu cầu. Họ làm việc rồi với số lượng khổng lồ như những người tình nguyện. Tổ chức nhà hoạt động cho người già, Age Concern, đã ước lượng rằng trong sự hóa trang này họ đóng góp £30 tỷ một năm cho nền kinh tế Anh, mà không tính đến công việc làm ông làm bà (và, trong số trường hợp tăng lên, của công việc làm bố mẹ) của họ.
Những người cao tuổi bị lôi cuốn vào các hoạt động một phần thời gian, tạm thời và tự-làm chủ. Các thăm dò dư luận ở Hoa Kỳ và châu Âu đã thấy rằng, trừ ở Pháp và Đức, trong khi hầu hết nhóm tuổi sinh ồ ạt ủng hộ làm việc dài hơn vì một lương hưu lớn hơn, hầu hết muốn các việc làm một phần thời gian. Và một điều tra của Eurobarometer năm 2007 đã thấy rằng 61 phần trăm người Mỹ thích tự-làm chủ hơn là trong một việc làm. Tuy những người Âu châu dưới tuổi 24 đã hầu như nhiệt tình vì quyền tự do tương đối này và sự chấp nhận rủi ro, những người Âu châu già hơn đã thiên hơn một chút về ưa thích việc làm. Tuy vậy, các khác biệt tuổi tác đã nổi bật hơn các sự khác biệt quốc gia. Khoảng 57 phần trăm người Bồ Đào Nha thích tự-làm chủ, so với 30 phần trăm người Bỉ.
Có sự ủng hộ tăng lên cho các chính sách làm dễ hơn cho những người cao tuổi ở trong thị trường lao động sau tuổi hưu. Cả những người trẻ lẫn người già xem việc này một cách tích cực, mặc dù thái độ thay đổi theo từng nước. Hầu như chín trong mười người ở Vương Quốc Anh, Đan Mạch, Phần Lan và Hà lan đã bảo Eurobarometer rằng những người già hơn phải được giúp đỡ để tìm việc nếu họ muốn. Ngược lại, 55 phần trăm những người Hy Lạp đã phản đối, và ở Hy Lạp, Cyprus, Hungary, Ý và Bồ Đào Nha, một đa số đã cảm thấy rằng những người cao tuổi sẽ lấy việc làm khỏi những người trẻ.
Trong suy thoái sau-2008, các chính phủ đã làm ngược cái chúng đã làm trong các năm 1980, khuyến khích những người cao tuổi ở lại trong thị trường lao động bằng hạn chế trợ cấp khuyết tật và làm cho khó hơn để về hưu non. Nhiều người cao tuổi đã hoãn các ý nghĩ về hưu bởi vì các khoản tiết kiệm hưu của họ bị sự tan chảy tài chính đánh trúng.
Để lộ ra, việc làm người cao tuổi đã không giảm trong suy thoái sau-2008 nhiều như việc làm người trẻ. Tại Hoa Kỳ, một phần do sự ăn mòn của tiết kiệm hưu, cung lao động già đã tăng lên. Một điều tra đã thấy rằng 44 phần trăm những người trả lời có tuổi trên 50 đã có kế hoạch hoãn về hưu, nửa trong số đó dự định ở lại trong lực lượng lao động ba năm dài hơn dự kiến trước. Hơn một phần tư lực lượng lao động Mỹ có tuổi trên 55, như thế ngụ ý một sự tăng đáng kể trong lực lượng lao động người cao tuổi. Theo các điều tra hàng năm của Employment Benefit Research Institute, sự thay đổi đã là đầy kịch tính. Trong 2007, 17 phần trăm đã có kế hoạch nghỉ hưu trước tuổi 60; trong 2009, chỉ 9 phần trăm đã làm vậy. Những người dự định về hưu giữa 60 và 65 tuổi cũng sụt giảm. Những người lên kế hoạch về hưu sau 65 tuổi đã tăng từ 24 lên 31 phần trăm, và những người kỳ vọng không hề về hưu đã nhảy từ 11 lên 20 phần trăm. Điều này tiêu biểu cho một sự thay đổi đến thế nào trong viễn cảnh tinh thần! Nó không phải là hiệu ứng cổ điển ‘người lao động phụ’, như đã là chuẩn của mọi suy thoái trong thế kỷ thứ hai mươi. Nó là cái gì đó mới.
Lão hóa đang tạo ra các thách thức rắc rối cho các mối quan hệ giữa-thế hệ. Trong xã hội công nghiệp, thanh niên và những người lớn ở tuổi tốt nhất đã chịu trách nhiệm về các nhu cầu của con cái họ và đã không phải lo về cha mẹ bởi vì họ đã chết hay đã không được kỳ vọng ở quanh trong thời gian rất dài hay đã không đưa ra nhiều đòi hỏi nếu họ còn. Ngày nay, nhiều thanh niên, thấy một cuộc sống trong precariat, không thể dự định hỗ trợ cha mẹ, đặc biệt vì việc này có thể cần để tiếp tục trong nhiều năm. Và, bởi vì việc sinh con muộn hơn, triển vọng bị làm cho nản lòng hơn bởi ý nghĩ rằng họ sẽ đồng thời hỗ trợ con cái và cha mẹ già.
Như thế những người cao tuổi đang mất triển vọng được hỗ trợ từ con cái họ. Điều đó đẩy nhiều người hơn vào nguồn cung ứng lao động, để là một phần tự nguyện của precariat. Nhưng nhà nước không trung lập. Một thế hệ già hơn bị cắt khỏi sự hỗ trợ gia đình có thể trở thành một gánh nặng tài khóa. Một số chính phủ từ chối chịu đựng viễn cảnh này. Chindia đang dẫn đầu. Ở Trung Quốc, như ở Ấn Độ, một luật được thông qua trong 1996, biến nó thành một nghĩa vụ pháp lý đối với những người lớn để chăm sóc cho cha mẹ họ. Trong hình thức hóa một truyền thống Khổng giáo, nhà nước đã khám phá ra truyền thống đã bị căng thẳng. Nỗi sợ là quy tắc ‘4–2–1’ sẽ lan ra, với một con có trách nhiệm hỗ trợ hai bố mẹ và bốn ông bà. Và người dân thấy khó hơn để sống trong một đơn vị tam đại đồng đường (ba thế hệ) bởi vì tính di động địa lý.
Ở các nước khác, nhà nước đặt nhiều hy vọng hơn vào những người cao tuổi ‘có thể làm việc được’ đang chăm sóc người già yếu đuối và vào nhiều phụ nữ hơn chấp nhận gánh nặng gấp ba của chăn sóc con cái, chăm lo người già và việc làm có trả công, với những người làm công tác xã hội và chăm lo nhà cửa đẩy sự đình đốn lên.
Thế hệ được bao cấp
Precariat được tăng cường bởi những người cao tuổi không quan tâm đến sự xây dựng sự nghiệp hay sự an toàn công ăn việc làm dài hạn. Việc này khiến họ là một sự đe dọa đối với thanh niên và những người khác trong precariat, vì họ có thể nông nổi nhận các việc làm ngõ cụt lương thấp. Họ không bị thất vọng bởi sự không có sự nghiệp, theo cách những người trẻ có thể là. Nhưng những người cao tuổi cũng có thể là những kẻ khóc hay những người cười.
Những người cười chỉ muốn cái gì đó để làm. Họ có lương hưu để dùng, các khoản thế chấp mua nhà của họ đã trả xong, họ có bảo hiểm sức khỏe và con cái họ ở ngoài vòng tay của họ, có lẽ còn sẵn để giúp đỡ hay cho họ sự hỗ trợ tài chính, hay đó là cái họ hy vọng. Nhiều người tìm và thấy ‘sự cân bằng công việc–đời sống’ khó đạt đó.
Sự cân bằng thường được xem như cái gì đó đáng lo đối với cặp trẻ với con cái. Nhưng các nhân tố khác giữa những người cao tuổi cũng mạnh mẽ. Lucy Kellaway (2009) đã bị bối rối khi một cựu giám đốc tiếp thị 56-tuổi bảo bà là ông đã trở thành một người đưa thư:
“Nhưng rồi ông đã nói cái gì đó hợp lý hơn. Việc làm mới của ông đã cho phép ông phục hồi tâm trí mình. Khi ông về nhà lúc 1 giờ chiều mỗi ngày ông không phải cho công việc một ý nghĩ khác cho đến tận 7,30 sáng hôm sau. Trong việc làm cũ của ông, các mối lo từ văn phòng đã liên tục ở trong đầu ông, làm cho các khớp thần kinh của ông quá rệu rã để cho phép ông chú tâm đúng mức vào bất cứ thứ gì khác. Và rồi tôi đã bắt đầu nhận ra vì sao ông đã thích việc làm của mình đến vậy. Nó chẳng liên quan gì đến việc là một người đưa thư thú vị ra sao theo nghĩa tuyệt đối nhưng lý thú ra sao so với là một nhà quản lý cấp cao. Ông thích thú lôi cái túi lớn của mình bởi vì ông biết lựa chọn thay thế khác là gì. Ông biết khốn khổ thế nào để tốn cả đời làm việc của mình đi thử bắt mọi người làm những thứ họ không muốn làm và chịu trách nhiệm về những thứ bạn không thể thay đổi.”
Nhiều người cao tuổi đã có thể liên quan đến điều đó, thậm chí đến cảm thấy thỏa mãn để làm cái gì đó không có sự nghiệp nào. Họ nhận việc làm tạm thời mà trong đó họ cố ý không tận dụng các năng lực kỹ thuật và kinh nghiệm của họ. Với tư cách như vậy, họ có thể là các đối thủ cạnh tranh chưa từng có đối với những người lao động trẻ thử leo lên một chiếc thang nghề nghiệp.
Trong lúc đó, những kẻ khóc không có lương hưu, có một khoản thế chấp mua nhà chưa trả hết hay chẳng có nhà cửa nào. Họ cần tiền; họ sợ bị đẩy ra ngoài đường, như một ‘mụ vô gia cư kéo túi-bag lady’ hay ‘ông kéo túi-bag man’. Sự tuyệt vọng của họ khiến họ là một sự đe dọa đối với những người khác trong precariat, vì họ sẽ nhận bất cứ việc gì. Và, dù là những kẻ khóc hay những người cười, những người cao tuổi được giúp để cạnh tranh với thanh niên trong precariat, khi các chính phủ phản ứng lại với sự kết hợp của khủng hoảng hưu trí và sự nhận thức rằng trong dài hạn sẽ có một sự thiếu hụt lao động.
Thứ nhất, các chính phủ đang đưa ra các trợ cấp cho các khoản đầu tư hưu trí tư nhân (và vài khoản đầu tư công). Sợ các chi phí hưu tăng lên, các chính phủ đã đưa ra các khuyến khích thuế cho các khoản tiết kiệm hưu trí. Các khuyến khích này là không bình quân, như hầu hết các trợ cấp. Chúng là một khoản đút lót cho những người có thể có đủ sức để làm cái là lợi ích dài hạn của họ. Từ một quan điểm công bằng, chúng khó được biện minh. Trợ cấp cho phép những người cao tuổi cạnh tranh hiệu quả hơn với những người lao động trẻ. Những người ở tuổi 50 và 60 có được thu nhập hưu từ các sơ đồ được trợ cấp cua họ và như thế có thể nhận các việc làm với tiền công thấp hơn, mà không có các đóng góp hưu từ các chủ sử dụng lao động. Và họ sẽ có ý thiên hơn để làm việc ‘ngoài sổ sách’.
Thứ hai, các chính phủ đang cổ vũ các hãng để giữ các nhân viên già hơn và thậm chí để tuyển mộ họ. Một số chính phủ đưa ra các trợ cấp ở đây nữa. Ở Nhật Bản, làm việc vì thu nhập vượt quá xa tuổi hưu đang trở thành chuẩn. Nhưng các hãng như Hitachi đang tuyển lại nhiều người đạt tuổi 60 với tiền lương thấp hơn (trong trường hợp của Hitachi, 80 phần trăm của lương chính quy), với địa vị thấp và không có thâm niên, được hỗ trợ bởi một trợ cấp nhà nước.
Thứ ba, những người cao tuổi là một trong các đường biên giới cuối cùng cho quy định bảo hộ. Bởi vì các hình ảnh được hình thành trong xã hội công nghiệp, sự phân biệt tuổi tác vẫn tràn lan. Các nhà hoạch định chính sách đang chiến đấu với việc này. Nó đã bắt đầu với Bộ luật Phân biệt Tuổi tác trong Việc làm năm 1967, mà đã được thiết kế để tạo các cơ hội bình đẳng cho những người trên 40. Nó được sửa muộn hơn sao cho các hãng có thể đề ra các tuổi về hưu bắt buộc cho hầu hết việc làm. Ở Pháp, chính phủ áp đặt một loại thuế – đóng góp Delalande, tối đa một năm lương – lên bất cứ hãng nào đuổi việc những người lao động già hơn (50 tuổi). (Thế nhưng) loại thuế này đã hoạt động như một sự cản trở việc thuê những người cao tuổi và năm 2010 đã ở trong quá trình bỏ đi. Nhưng trong nhiều nước, được hướng dẫn bởi một chỉ thị EU, có một mệnh lệnh cấm sự phân biệt tuổi tác.
Nếu người ta chấp nhận rằng năng suất giảm với tuổi, thì các luật chống phân biệt tuổi có thể dẫn các chủ đến sử dụng các chiến thuật khác để giải thoát mình khỏi những người có năng suất thấp hơn. Nếu các chính phủ thủ bù cho cảm nhận về năng suất thấp hơn bằng việc cung cấp các trợ cấp cho những người cao tuổi, chúng có thể làm ngang bằng các cơ hội. Nhưng, trong một hệ thống dịch vụ, các sự khác biệt năng suất có thể không lớn; các chính sách dự định làm ngang các cơ hội có thể thực sự lại củng cố các lợi thế của những người cao tuổi. Vegard Skirbekk của International Institute for Applied Systems Analysis đã cho thấy là, trong nhiều việc làm quả thực năng suất có giảm trong tuổi trung niên. Trong khi các việc làm 3D (dirty-bẩn, dangerous-nguy hiểm và demanding-đòi hỏi khắt khe) có thể đã co lại, nhiều việc làm hơn đòi hỏi các kỹ năng nhận thức, mà giảm sút giữa những người ở tuổi 50 của họ. ‘Sự hiểu biết dễ thay đổi’ giảm, kể cả các kỹ năng chữ số và khả năng để hiệu chỉnh với cái mới. Nhưng, may cho những người cao tuổi, ‘sự hiểu biết được kết tinh’ – kiến thức chung, kinh nghiệm và khả năng lời nói – không giảm cho đến khi già. Cũng có thể là, những người với kinh nghiệm có định hướng sự nghiệp hơn kiếm được các năng lực mà những người bị phơi ra lâu với một cuộc sống precariat không có, cho họ một lợi thế ở nhiều việc làm dịch vụ.
Quyết định hơn, những người cao tuổi được bao cấp bởi không cần các trợ cấp doanh nghiệp khác nhau mà các công nhân trẻ hơn muốn có. Họ không cần sự hứa hẹn về nghỉ thai sản, nhà trẻ, bảo hiểm y tế, trợ cấp chỗ ở, tư cách thành viên các câu lạc bộ thể thao và vân vân. Như thế, bởi vì họ có chi phí ít hơn, những người cao tuổi đang làm xói mòn vị thế mặc cả của những người trẻ.
Tại Hoa Kỳ, các công ty đang với tới nhóm sinh ồ ạt sắp-nghỉ hưu, đưa ra các khuyến khích để đem lại nhiều việc hơn từ họ hay tận dụng ưu thế về các khoản giảm thuế. Thí dụ, Cisco Systems, nhà sản xuất thiết bị truyền thông, đã kết nối ‘mạng các lãnh đạo di sản’ (các nhân viên sắp nghỉ hưu) được gọi tên tao nhã với ‘mạng thuê mới’ (một uyển ngữ ít ấn tượng hơn) của nó để khuyến khích chuyển giao tri thức. Điều này tạo ra nhiều công-việc-cho-lao-động hơn bởi những người cao tuổi và tăng cường đầu vào lao động. Tên lạ kỳ là ‘mentoring-cố vấn cho’; tên không-lạ là đào tạo chi phí thấp.
Khi những người hưu trở nên đông hơn, sự bực bội của các công nhân ngày nay với việc trả tiền cho các công nhân hôm qua sẽ tăng lên, đặc biệt khi họ không được hứa cùng sự đối xử. Các hệ thống hưu nhiều trụ cột có một kết cục, với các sơ đồ tư nhân trở thành phần thêm được trợ cấp cho các sơ đồ công đang co lại. Chúng mở ra các bước tới các sơ đồ tiết kiệm suốt đời, mà về lý thuyết sẽ hợp với precariat và các profician, thêm một nguồn an toàn thu nhập qua các trợ cấp có thể tiếp cận được trong lúc cần thiết. Về thực tiễn, các thay đổi có thể khiến nhiều người bấp bênh bởi vì họ không thể đóng góp đều đặn hay đủ. Người dân không có khả năng để tiết kiệm đủ để bảo hiểm các rủi ro hưu, và có sự trợ cấp-chéo hạn chế loại tồi được thấy trong các sơ đồ bảo hiểm xã hội.
Các rủi ro hưu trí bị trầm trọng thêm bởi khả năng của các quỹ hưu trí phá sản hay tiến hành các khoản đầu tư tồi, như đã xảy ra sau sự sụp đổ tài chính. Chính người cao tuổi là những người chịu các rủi ro này, mà là một lý do vì sao trong mỗi cuộc suy thoái họ sẽ mở rộng nguồn cung ứng lao động, đẩy thất nghiệp lên và hạ tiền công xuống.
Khuyến khích những người cao tuổi lao động có thể có các chi phí khác cho nhà nước. Nhiều lao động hơn có thể có nghĩa là những người cao tuổi làm ít công việc không được trả công hơn. Nhiều người về hưu đảm nhận công việc tự nguyện và chăm sóc, trôn nom cháu, cha mẹ già nua và vân vân. Đẩy nhiều người hơn vào precariat cũng sẽ có các chi phí ở đó nữa. Nhưng vấn đề lớn nhất sẽ là, những người cao tuổi được bao cấp so với các công nhân trẻ và tương đối dễ bảo để chấp nhận một địa vị precariat. Giải quyết các căng thẳng sẽ đòi hỏi các cải cách thêm, theo đường lối được đề xuất trong Chương 7.
Các thiểu số sắc tộc
Không rõ là các thiểu số sắc tộc sẽ luôn có một thiên hướng để gia nhập precariat. Chúng ta nhắc tới họ ở đây bởi vì họ đối mặt với các rào cản thị trường lao động cao. Nhưng có bằng chứng rằng các thiểu số sắc tộc thử tái tạo các vị thế nghề nghiệp thích hợp (niche) của họ qua các thế hệ, thường làm vậy qua các doanh nghiệp gia đình và các liên hệ và mạng lưới sắc tộc.
Điều này hẳn không đúng cho tất cả các thiểu số. Như thế, trong khi suy thoái Mỹ sau-2008 đã là một ‘mancession’, đàn ông da đen đã bị giáng nặng nhất. Một nửa của tất cả đàn ông da đen trẻ đã thất nghiệp vào cuối 2009, và số thống kê gây sửng sốt này đã dựa trên một con số lực lượng lao động mà loại trừ tất cả những người trong tù, vào lúc khi những người da đen sau song sắt đã nhiều gần năm lần những người da trắng.
Những người đàn ông da đen Mỹ chịu một sự kết hợp tàn nhẫn của các hoàn cảnh – hồ sơ nhà tù, sự tập trung trong các vùng thất nghiệp cao và thiếu các tiếp xúc trong các doanh nghiệp nhỏ, cũng như sự học ở trường dưới trung bình. Vào 2010, chỉ khoảng nửa của tất cả những người lớn da đen trong việc làm, tỷ lệ đã là gần 40 phần trăm giữa các đàn ông da đen trẻ. Đối với người lớn da trắng nó đã là 59 phần trăm. Những người da đen thất nghiệp đã thất ngiệp trung bình năm tuần dài hơn những người khác, làm nổi bật sự mất các kỹ năng, thái độ tích cực, các mối tiếp xúc và vân vân. Các cơ hội về xây dựng một sự nghiệp và tránh một cuộc sống trong precariat đã mỏng manh.
‘Những người khuyết tật’: một khái niệm đang được xây dựng lại?
Khái niệm về ‘những người khuyết tật’ là không may. Tất cả chúng ta đều có sự hư hại hay khuyết tật loại nào đó. Hầu hết chúng ta trải qua cuộc sống mà không có nhiều người biết hay quan tâm về các sự hư hại – thân thể, tinh thần, tâm lý hay bất cứ gì – của chúng ta. Nhưng nhiều người đau khổ bởi vì sự hư hại cá biệt của họ được chú ý và được tính đến trong việc họ được đối xử thế nào.
Trong thế giới bị nhồi nhét về mặt điện tử của sự chẩn đoán và truyền thông tức thời ngày nay, là dễ hơn để nhận diện và phân loại sự hư hại của một cá nhân và để tag (gắn thẻ) cá nhân đó vĩnh viễn. Điều này có nghĩa là rất nhiều người hơn bị đánh giá cho sự phân loại, sự đối xử hay sự bỏ mặc. Trong số đó là một bức tường lù lù của sự phân biệt đối xử.
Đấy là cách mà sự khuyết tật và precariat đến cùng nhau. Những người được nhận diện như khác nhau không chỉ có khả năng hơn để thấy các cơ hội cuộc sống bị hạn chế ở các lựa chọn bấp bênh mà họ cũng có khả năng hơn bị đẩy theo cách đó. Và một khía cạnh của các xã hội lão hóa là, nhiều người hơn đang chuyển vào tuổi già được đánh dấu bởi các khuyết tật, và cuộc sống dài hơn của họ cho nhiều người hơn để ý lâu hơn đến họ.
Nhà nước đã phản ứng lại sự nhận ra ngày càng tăng về sự khuyết tật bằng xây dựng một kho chính sách. Về mặt thị trường lao động, chúng có các hệ thống quota được thể chế hóa, các nơi làm việc chuyên biệt, các luật chống-phân biệt, các sự sửa đổi cơ hội nơi làm việc ngang nhau và vân vân. Và chúng đã ngày càng thử để lọc người nghèo xứng đáng ra. Trong các năm 1980, nhiều nước đã dùng đến các trợ cấp bất lực, thường làm vậy trên một cơ sở lỏng lẻo, để chuyển những người thất nghiệp ra khỏi lực lượng lao động hoàn toàn. Vào đầu thế kỷ thứ hai mươi mốt, các chính phủ đã ngó tới các hóa đơn trợ cấp tăng cao với con mắt tài khóa ngờ vực và đã bắt đầu giảm chúng bằng việc xử lý lại sự khuyết tật về mặt y tế, bằng tìm cách để làm cho nhiều người khuyết tật hơn trở thành ‘có thể thuê được’ và bằng đẩy họ vào việc làm. Nhiều người đã gia nhập precariat qua cửa bên.
Suy ngẫm về một khía cạnh ít được thảo luận trong các tranh luận công khai, ‘sự khuyết tật từng đoạn-episodic disability’. Việc này gây ra một mối liên hệ tăng lên giữa sự khuyết tật và precariat. Hàng triệu người bị các bệnh mắc phải thi thoảng, trải từ chứng đau nửa đầu và trầm cảm đến bệnh đái đường và động kinh. Họ có khả năng là các lao động tạm thời của các thị trường lao động linh hoạt của thế giới, với các chủ miễn cưỡng để tuyển mộ và hăm hở để không dùng đến ‘thành tích sút kém’. Nhiều người sẽ bị trôi vào các việc làm bấp bênh và một chu kỳ bấp bênh của sự bất lợi và bất an toàn. Việc đó có thể làm tăng các khó khăn y tế của họ và gây ra những khó khăn khác. Những người với các khuyết tật từng đoạn có thể đối mặt với các rào cản trong hệ thống phúc lợi nữa. Họ có thể được bảo họ có khả năng lao động, mà đúng vậy, và bị từ chối các trợ cấp. Có lẽ đa số sẽ muốn việc làm có lương. Nhưng ai sẽ sử dụng họ khi những người khác được xem là ‘có thể tin cậy’ hơn?
Những người bị hình sự hóa: precariat từ sau song sắt
Precariat được nuôi bởi một số đông lạ thường của những người đã bị hình sự hóa theo cách này hay cách khác. Số họ đông hơn bao giờ hết. Một đặc điểm của toàn cầu hóa đã là sự tăng lên của sự bỏ tù. Số người bị bắt, bị kết án và bỏ tù ngày càng tăng, đang trở thành những người ngụ cư (denizen), mà không có các quyền quan trọng, hầu hết bị hạn chế ở một cuộc sống precariat. Điều này liên quan nhiều đến sự hồi sinh của thuyết vị lợi và một sự hăng hái cho việc trừng phạt những người phạm lỗi, kết đôi với năng lực kỹ thuật của nhà nước giám sát và sự tư nhân hóa các dịch vụ an ninh, nhà tù và các hoạt động liên quan.
Ngược với tiên đoán trong các năm 1970 của Michel Foucault, David Rothman và Michael Ignatieff, những người đã nghĩ rằng nhà tù đã trong sự sụt giảm tận cùng, nhà tù đã trở thành một định chế rộng và công cụ chính sách. Kể từ các năm 1970 số nhà tù đã tăng gấp đôi ở Bỉ, Pháp và Vương Quốc Anh; đã tăng gấp ba ở Hy Lạp, Hà Lan và Tây Ban Nha; và đã tăng gấp bốn ở Hoa Kỳ (Wacquant, 2008). Mỗi ngày thêm 700 người vào dân số nhà tù của Ý. Nhà tù là vườn ươm của precariat, một phòng thí nghiệm cho sinh hoạt precariat.
Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga đã trở thành những kẻ hình sự hóa lớn nhất, mỗi nước bỏ tù hàng triệu công dân của chính họ và nhiều người nước ngoài. Hơn một trong mỗi năm mươi người Mỹ có một hồ sơ tội phạm, làm giảm các quyền của họ trong xã hội. Các nước như Vương Quốc Anh và Pháp, sau khi đã tăng các tỷ lệ hình sự hóa của họ, đang bảo quản người dân như các denizen bị hình sự hóa. Khoảng 40 phần trăm của tất cả các tù nhân trong các nhà tù Anh đã một thời trong ‘hệ thống chăm sóc’. Họ giữ sự tái phạm bởi vì họ không có ‘việc làm’ nào và không thể có một việc làm bởi vì họ đã ở trong tù.
Việc hình sự hóa kết án người dân vào một cuộc sống precariat của các việc làm bấp bênh và không có sự nghiệp, và một khả năng bị hạ cấp để theo đuổi một tiến trình dài hạn của sinh hoạt ổn định. Có nguy cơ gấp đôi tại hầu như mọi lúc, vì ngoài bị trừng phạt vì bất cứ tội gì họ đã phạm, họ sẽ thấy sự trừng phạt đó bị nêu bật bởi các rào cản tới sự tham dự bình thường của họ vào xã hội.
Tuy vậy, cũng có sự tăng trưởng của một precariat bên trong các nhà tù. Chúng ta xem xét Trung Quốc đã nhờ đến lao động tù như thế nào trong Chương 4. Nhưng các nước không giống nhau như Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh và Ấn Độ đang chuyển theo các hướng giống nhau. Tổ hợp nhà tù lớn nhất của Ấn Độ ở bên ngoài Delhi, đã được tư nhân hóa, tất nhiên, đang sử dụng các tù nhân để sản xuất một dải rộng các sản phẩm, nhiều được bán online, với lao động rẻ nhất được thấy, làm việc với các ca tám giờ trong sáu ngày một tuần. Các tù nhân có bằng cấp được khoảng US$1 một ngày, các tù nhân khác ít hơn một chút. Trong 2010 bộ trưởng tư pháp Anh mới đã tuyên bố rằng lao động nhà tù sẽ được kéo dài, nói ông muốn các tù nhân làm việc 40 giờ một tuần. Việc làm nhà tù vì một số tiền thù lao còm đã là phổ biến từ lâu ở Hoa Kỳ. Precariat ở bên ngoài không nghi ngờ gì sẽ chào đón sự cạnh tranh.
Các điểm kết luận
Precariat không gồm những người với xuất thân y hệt nhau và không dược tạo thành chỉ từ các nhóm chúng ta đã nêu bật. Có lý để nghĩ là có các thứ đa dạng của precariat, với các mức độ khác nhau của sự bấp bênh và thái độ đối với việc có một cuộc sống precariat.
Sự tăng trưởng của precariat toàn cầu đã trùng với bốn sự thay đổi đáng chú ý. Phụ nữ đã chiếm chỗ đàn ông, đến điểm nơi có lời nói về ‘mancession-nhượng lại đàn ông’ và nữ hóa các thị trường lao động. Đàn ông đã bị kéo lê vào precariat, trong phi phụ nữ đã phải đương đầu với gánh nặng gấp ba. Đáng chú ý hơn, những người cao tuổi đã hành quân quay lại vào các thị trường lao động, được bao cấp trong nhận các việc làm precariat và đẩy tiền công và các cơ hội cho thanh niên xuống. Về phần mình, thanh niên đối mặt với sự thất vọng địa vị, các triển vọng không có sự nghiệp và sự cạnh tranh được bao cấp từ trong nước và nước ngoài. Nếu họ không nhượng bộ vì cái tốt hơn, họ chịu rủi ro bị chê bai là lười biếng, như chúng ta sẽ thấy. Đó là một thế bế tắc.
Cũng đáng chú ý, theo tỷ lệ nhiều người lớn hơn có vẻ bị khuyết tật nào đó được công nhận về mặt xã hội, làm cho họ càng có khả năng hơn để bị hạ xuống lao động bấp bênh không có nghề nghiệp, có lẽ được nhà nước trợ cấp. Và cuối cùng, vì mọi loại lý do, nhiều đồng bào của chúng ta bị hình sự hóa và để lại ít lựa chọn goại trừ các thanh thang thấp của precariat. Vẫn phải xem xét những người có lẽ được mô tả hay nhất như bộ binh nhẹ của toàn bộ quá trình, những người di cư.
– – –
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:28:55 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (chương 4)
DÂN DI CƯ: NẠN NHÂN, CÔN ĐỒ HAY ANH HÙNG?
Những người di cư tạo thành một phần lớn của precariat thế giới. Họ là một nguyên nhân của sự tăng trưởng của nó và trong mối nguy về trở thành các nạn nhân đầu tiên của nó, bị biến thành ma quỷ và biến thành dê tế thần của các vấn đề không do họ gây ra. Tuy nhiên, với ít ngoại lệ, tất cả cái họ đang làm là thử cải thiện cuộc sống của họ.
Thuật ngữ ‘người di cư’ đến với hành lý lịch sử và phủ vô số loại kinh nghiệm và ứng xử. Một số giống dân du cư, di chuyển quanh không có nhà cửa cố định, bị xua đến hay đã thích nghi với sự lang thang, luôn luôn chờ đợi để định cư ‘một ngày nào đó’. Dân du cư đích thực đã biết mình đi đâu và vì sao. Dân du cư hiện đại cơ hội chủ nghĩa hơn. Rồi có ‘những kẻ luân hoàn-circulant’, bỏ nhà ra đi để kiếm thu nhập hay kinh nghiệm nhưng có kế hoạch trở về sớm hơn, hơn là muộn hơn. Và có dân di cư định cư, những người đó di chuyển với ý định ở lại nếu có thể, cũng như những người tị nạn và xin tị nạn chính trị.
Sau khi đã xuống thấp trong giữa thế kỷ thứ hai mươi, khi các nền kinh tế đã đóng hơn, tính di động của người dân quanh thế giới đã vút lên với toàn cầu hóa. Một tỷ người vượt biên giới quốc gia mỗi năm, và con số đang tăng. Theo Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), đã có 214 triệu người di cư quốc tế trên thế giới trong 2010, ba phần trăm của dân cư toàn cầu. Con số đó có lẽ là một ước lượng thấp, vì những người di cư không có giấy tờ hiển nhiên là khó để đếm. Ngoài ra, có lẽ 740 triệu là những người di cư ‘nội bộ’, kể cả 200 triệu người nông thôn di cư tới các thành phố công nghiệp của Trung Quốc những người chia sẻ nhiều đặc trưng của những người di cư quốc tế (House, 2009).
Mặc dù việc di cư vào các nước đã công nghiệp hóa đã chậm lại sau khủng hoảng tài chính 2008, cho đến lúc đó nó đã tăng 11 phần trăm một năm (OECD, 2010a). Một trong bốn người lao động Úc là người nhập cư, như một trong năm công nhân Irish. Ở châu Âu, 12 triệu công dân Âu châu sống trong một nước EU khác với nước của chính họ.
Hoa Kỳ vẫn là nước nhận người nhập cư chủ yếu. Trong thập niên đầu của thế kỷ thứ hai mươi mốt, hơn một triệu người nhập cư ‘hợp pháp’ và có lẽ thêm một nửa triệu người nhập cư ‘bất hợp pháp’ đã vào mỗi năm. Ngày nay, một trong tám người là một người nhập cư, và gần một trong sáu người lao động là người sinh ở nước ngoài, tỷ lệ cao nhất kể từ các năm 1920. Các hàng rào được dựng lên cẩn trọng đã thấy phần người nhập cư của lực lượng lao động Hoa Kỳ sụt từ một mức cao 21 phần trăm trong 1910 xuống 5 phần trăm trong 1970. Nhưng, vào 2010, nó đã quay lại 16 phần trăm. Tại California, người nhập cư chiếm hơn một trong ba người lao động, và ở New York, New Jersey và Nevada, hơn một trong bốn. Mặc dù các người nhập cư chủ yếu trong nông nghiệp, xây dựng, cung ứng lương thực thực phẩm, giao thông và chăm sóc sức khỏe, một phần tư những người lao động có giáo dục cao với bằng tiến sĩ đã sinh ở nước ngoài.
Các nước khác cũng đã trở thành các nước tiếp nhận lớn. Vào 2000, người nhập cư đã chiếm hơn 10 phần trăm dân cư trong 70 nước, so với chỉ 48 nước trong 1970. Ở Đức, 16 triệu trong dân số 82 triệu của nước này có gốc nhập cư. Trong một số thành phố, hơn một phần ba người thường trú là người nhập cư và hơn một nửa số đó là trẻ con. Trong các nước Âu châu khác nữa, người nhập cư cũng tạo thành một phần tăng lên của dân cư, một phần bởi vì tỷ lệ sinh thấp của dân không nhập cư. Ở Vương Quốc Anh, một trong mỗi mười người là một người nhập cư và thập niên đầu tiên của thế kỷ thứ hai mươi mốt đã thấy sự nhập cư lớn nhất đã từng trải qua. Theo xu hướng hiện thời, người Anh ‘da trắng’ có thể là thiểu số trong nửa thứ hai của thế kỷ này (Coleman, 2010).
Sự di cư hiện đại không chỉ là về chuyển từ nước nghèo sang nước giàu. Khoảng một phần ba của những người di cư của thế giới đã chuyển từ một nước nghèo sang một nước giàu, một phần ba đã chuyển từ một nước giàu sang nước giàu khác và một phần ba đã chuyển từ một nước nghèo sang nước nghèo khác. Nhiều nước, như Nam Phi, đồng thời trải qua các dòng lớn của sự di cư ra và di cư vào. Hơn nữa, trong khi hình ảnh về sự di cư vẫn là hình ảnh về định cư, sự di cư ngày nay có bảy đặc điểm mà vạch ranh giới sự Biến đổi Toàn cầu và sự kích động tăng trưởng của precariat.
Thứ nhất, một phần cao về mặt lịch sử là không có giấy tờ. Nhiều chính phủ đã lờ việc này đi, cho là đang hạn chế nhập cư trong khi lại tạo thuận lợi cho sự tăng lên của một cung lao động lương thấp có thể dùng được. Hoa Kỳ có nhiều người nhập cư không có giấy tờ nhất, với một ước lượng 12 triệu trong 2008, tăng 42 phần trăm kể từ 2000; hơn một nửa đến từ Mexico. Sự đáp lại chính trị đã không nhất quán. Trong 2006, Hạ Viện đã thông qua một dự luật biến ‘sự nhập cư bất hợp pháp’ thành một tội ác, nhưng đã không được thông qua ở Thượng Viện, mà đã thử không thành công để thông qua một dự luật tương tự trong 2007. Trong 2009, hai nghiệp đoàn đã lập ra một kế hoạch để chính quy hóa tình hình và đã khởi động một cuộc vận động hợp pháp hóa. Việc này cũng đã thất bại. Những người chủ trương cải cách cho rằng việc đưa nền kinh tế ngầm của những người nhập cư thành nền kinh tế mở sẽ làm tăng thu nhập thuế, chấm dứt sự lạm dụng những người nhập cư bất hợp pháp, tăng lương toàn diện và nâng tăng trưởng lên. Nhưng ý chí chính trị để hợp pháp hóa đã vẫn yếu. Quá nhiều nhóm lợi ích hưởng lợi từ một đội quân của những người nhập cư bất hợp pháp, và quá nhiều nhà dân túy miêu tả các nỗ lực hợp pháp hóa như sự làm xói mòn an ninh của toàn thể công dân.
Sự di cư không có giấy tờ đã tăng lên cả ở những nơi khác nữa, với tình thế tương tự và các xung đột lợi ích. Những người lao động không có giấy tờ cung cấp lao động rẻ và có thể bị sa thải và trục xuất nếu cần hay nếu họ tỏ ra ngoan cố. Họn không xuất hiện trên sổ lương của các hãng và các hộ gia đình, và biến dần vào các xó xỉnh và góc tối tăm của xã hội khi suy thoái giáng xuống. Năng suất có vẻ tăng thần kỳ trong một đợt phất, khi nhiều người hơn được tuyển dụng mà không xuất hiện trong thống kê, và công ăn việc làm giảm một cách bí ẩn ít hơn sự giảm sản lượng và cầu trong các suy thoái. Họ đúng là một đội quân dự bị ngầm.
Thứ hai, một phần tăng lên của sự di cư gồm ‘sự luân hoàn’, ngược với đỉnh điểm di cư lần cuối trong thế kỷ thứ hai mươi khi hầu hết người nhập cư đã là những người định cư. Người huân hoàn hiện đại xem mình như người lưu động, di chuyển để nhận việc làm tạm thời, thường với hy vọng chuyển tiền về cho người thân.
Một đặc điểm khu biệt thứ ba là sự nữ hóa di cư (OECD, 2010b). Phụ nữ, thường đi một mình, tạo thành một phần lớn hơn của những người di cư quốc tế so với bất cứ thời nào trong lịch sử. Họ đã tạo thành một phần lớn, trong một số nước một đa số, của những người di cư nội bộ. Có các xu hướng độc ác được tư liệu hóa tốt, với sự buôn người và mãi dâm là dễ thấy nhất, và có sự buồn bã về ‘các chuỗi chăm sóc hộ gia đình’, nơi phụ nữ đi từ nông thôn ra thành phố ra nước ngoài, để các con cho người khác chăm sóc. Thường trong các hợp đồng trói buộc, trong nợ nần, họ dễ bị tổn thương, bị lạm dụng, không được sự bảo vệ nào và thường sống một cuộc sống lờ mờ. Cũng đã có một dòng chảy bỉ ổi của các sự chuyển giao hôn nhân đáng ngờ, với các phụ nữ trẻ không được trao sự lựa chọn nào bởi gia đình hay văn hóa của họ. Tuy vậy, nhiều sự di cư đã giống sự di cư của đàn ông, để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Một đặc điểm thứ tư của sự di cư do toàn cầu hóa gây ra là sự di động sinh viên. Trong khi không mới, dân cư sinh viên di động đã tăng đầy kịch tính và, một phần do các biện pháp chống khủng bố, một phần lớn hơn bây giờ đi sang các nước khác Hoa Kỳ. Giữa 2001 và 2008, phần Hoa Kỳ của các sinh viên nước ngoài đã giảm từ 28 xuống 21 phần trăm, trong khi số sinh viên di động toàn cầu đã tăng 50 phần trăm.
Một đặc điểm thứ năm là sự di chuyển bên trong các công ty đa quốc gia. Việc này đã được thực hành suốt các thời đại; nó đã là một đặc điểm của các ngân hàng thương mại lớn của Thời Trung Cổ, chẳng hạn. Nhưng ngày nay nó có tính hệ thống. Nó dính đến hầu hết các mức, từ các nhà điều hành đến nhân viên ít tuổi hơn. Nó tạo ra các sự nghiệp bị phân mảnh và một hỗn hợp kinh nghiệm sôi nổi.
Đặc điểm thứ sáu là điềm xấu hơn. Đã chưa bao giờ có bất cứ thứ gì giống nhiều người tị nạn và người xin tị nạn chính trị như ngày nay. Sự xử lý pháp lý hiện đại xuất phát sự phản ứng lại với sự dời chỗ hàng loạt trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, mà đã dẫn đến Công ước Liên quan đến Địa vị của Những người Tị nạn năm 1951 của Liên Hiệp quốc. Vấn đề đã được xem như một vấn đề điều chỉnh ngắn hạn khi người dân được giúp đỡ quay lại nước họ hoặc tái định cư ở nơi khác. Bây giờ, số ngày càng đông người tìm cách thoát khỏi sự xuống cấp, sự đàn áp và xung đột đang đối mặt với các hàng rào nhập cư tăng lên. Nhiều người rơi vào sự bấp bênh xã hội và kinh tế kinh niên.
Theo cơ quan người tị nạn Liên Hiệp Quốc, trong 2009 đã có hơn 15 triệu người tị nạn, một đa số ở châu Á và châu Phi, với một triệu người xin tị nạn chính trị nữa đang chờ quyết định. Và khoảng 27 triệu người đã dời chỗ bên trong nước họ như kết quả của xung đột (Internal Displacement Monitoring Centre, 2010). Về mặt toàn cầu, một tấn thảm kịch đã lộ ra. Hàng triệu người đang tốn hàng năm trời trong các nhà tập thể dơ dáy, các trung tâm giam giữ, các trại hay các miếng đất hoang đang đánh mất nhân phẩm, kỹ năng và nhân tính của họ.
Nguyên tắc cao thượng về non-refoulement (không gửi trả) – rằng không nước nào có thể đưa một người quay lại tổ quốc họ nếu họ đối mặt với nguy hiểm – ngày càng bị lạm dụng. Ở vài nước, thời gian trung bình để xử lý các đơn xin đã tăng lên trên 15 năm. Cảnh tuyệt vọng của những người bị kẹt trong các nước quá cảnh, hi vọng để tới nơi nào đó khác với nơi các cánh cửa bị đóng, đã tồi đi. Trong nhiều nước, nơi một đa số công dân ủng hộ các hạn chế chặt chẽ hơn với sự nhập cư, sự thù địch với những người tị nạn và những người xin tị nạn là lớn hơn đối với những người nhập cư kinh tế được xếp hạng thuận lợi hơn.
Cuối cùng, có một nhóm di cư mới – ‘những người tị nạn môi trường’. Sự xuống cấp môi trường, kể cả mực nước biển dâng lên và các biểu lộ khác của sự thay đổi thí hậu, có thể lùa 200 triệu người khỏi nhà của họ vào 2050 (Environmental Justice Foundation, 2009). Trận bão Katrina trong 2005 đã gây ra sự di chuyển lớn nhất của người dân trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong hai tuần, 1,5 triệu người đã bỏ chạy khỏi vùng Gulf coast, nhiều gấp ba lần đã chuyển trong đợt di cư Dust Bowl của các năm 1930. Nửa dân số của New Orleans đã không quay về sau năm năm. Nó có thể là một sự báo trước của nhiều sự cố như vậy.
Tóm lại, di cư là đặc trưng tăng lên và thay đổi theo những cách mà tăng cường các sự bấp bênh và đặt nhiều người hơn vào hoàn cảnh bấp bênh. Cứ như điều đó còn chưa đủ, cũng có một ‘sự giải-lãnh thổ hóa (de-territorialisation)’ của sự di cư. Đây là một từ vụng về cho một xu hướng vô duyên. Ngày càng nhiều người, mà ‘trông giống người di cư’, là đối tượng của sự soi xét xâm phạm bên trong các đường biên giới quốc gia, bị cảnh sát và các nhóm dân phòng bắt dừng lại yêu cầu chứng minh căn cước và tính hợp pháp của họ.
Luật SB1070 năm 2010 của bang Arizona, Hoa Kỳ, đã ủy thác ‘sự giải-lãnh thổ hóa’; những người bị bắt dừng lại vì nghi làm cái gì đó bất hợp pháp được yêu cầu phải chứng minh tính hợp pháp của địa vị di cư của họ. Những người bảo vệ SB1070 cho rằng đây không phải là ‘racial profiling-sự nghi ngờ dựa trên sắc tộc’, mà nó chắc chắn cho phép cảnh sát ngắm những người trông giống người nhập cư. Cái xảy ra ở Arizona đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Các denizen mới
Xem xét sự đa dạng của người di cư – du cư, hoàn lưu, bất hợp pháp, tị nạn, định cư và vân vân – dẫn đến một khái niệm bị quên lãng với gốc rễ lịch sử sâu. Đấy là denizen (dân ngụ cư), như sự phân biệt với citizen (công dân). Trong Thời Trung Cổ, ở Anh và các nước Âu châu khác, một denizen đã là một người xa lạ được quân vương hay nhà cai trị tự ý ban cho một số – nhưng không phải tất cả – quyền mà được ban một cách tự động cho những người địa phương hay các công dân. Như thế, để đáp lại sự trả tiền, một người lạ có thể được trao ‘giấy chứng nhận đặc quyền’, cho phép người đó mua đất hay hành nghề nào đó.
Theo thông luật, một denizen đã không là một công dân đầy đủ nhưng đã có một địa vị giống như địa vị của một ‘người lạ thường trú’ ngày nay; luật đã theo ý tưởng La Mã cổ về trao cho ai đó một quyền để sống ở một chỗ nhưng không được tham gia vào đời sống chính trị của nó. Muộn hơn, từ đã lấy ý nghĩa khác, như cho biết ai đó hay lui tới một loại chỗ, như với ‘các denizen hộp đêm’; nó cũng đã được dùng để nhắc tới người da đen không-nô lệ ở Mỹ trước khi bãi bỏ chế độ nô lệ.
Tất cả các di dân quốc tế là các denizen, với các nhóm khác nhau có một số quyền – dân sự, xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa – nhưng không có các quyền khác. Việc xây dựng đang diễn ra của một cấu trúc các quyền quốc tế có nghĩa là có các loại denizen khác nhau. Bắt đầu với những người ít an toàn nhất, những người xin tị nạn và người nhập cư không có giấy tờ có các quyền dân sự (như sự bảo vệ chống lại sự tấn công) – thường dựa trên nguyên tắc lãnh thổ, phủ tất cả mọi người khi họ ở trong lãnh thổ của một nước – nhưng không có các quyền kinh tế hay chính trị. An toàn hơn một chút là dân thường trú tạm thời được hợp pháp hóa, nhưng cả họ nữa cũng không có các quyền kinh tế hay chính trị đầy đủ. An toàn nhất là những người đã kiếm được các quyền công dân đầy đủ theo pháp trình chính đáng. Hệ thống phân tầng này đã nổi lên theo một cách ad hoc (tùy ứng) và thay đổi ngay cả bên trong một khối vùng như Liên minh Âu châu.
Tư cách denizen bị phức tạp hóa bởi tư cách công dân kép và nhiều địa vị. Những người nhập cư có thể lưỡng lự để chọn tư cách công dân của nước nơi họ cư trú hay làm việc vì sợ mất tư cách công dân của nước xuất xứ. Một người có thể có quyền để sống trong một nước nhưng không để nhận một việc làm ở đó, trong khi có một quyền để làm việc vì tiền công trong một nước khác mà không có một quyền để có nhà ở nếu không được thuê làm việc. Một số luật gia nhắc đến điều này như ‘tư cách denizen thế giới chủ nghĩa’ (Zolberg, 1995).
Tuy vậy, khái niệm denizen là hữu ích trong vạch ra cái gì người dân có thể và không thể làm trong xã hội. Phổ bắt đầu với những người xin tị nạn, mà thực tế không có quyền gì cả. Khi số họ tăng lên, các chính phủ làm cho cuộc sống của họ khó hơn. Thường, họ bị làm nhục và bị đối xử cứ như họ là các tội phạm. Những người mà có khả năng có thể thử để sống sót bằng sống một cuộc sống precariat. Nhiều người đơn giản tiều tụy, thấy đời họ tàn héo đi.
Tiếp theo là người nhập cư không có giấy tờ, có các quyền dân sự như những con người nhưng thiếu các quyền kinh tế, xã hội hay chính trị. Họ thường không có lựa chọn khác để thêm vào cuộc sống precariat, với nhiều người trong nền kinh tế ngầm. Tại Hoa Kỳ, hàng triệu người nhập cư không có giấy tờ không có quyền để làm việc có lương nhưng được thuê dù sao đi nữa. Họ sống với sự đe dọa trục xuất và không có các quyền đối với an sinh xã hội, như trợ cấp thất nghiệp. Ở Tây Ban Nha, hàng triệu người nhập cư không có giấy tờ được cho là giải thích cho nền kinh tế ngầm khổng lồ của nước này. Câu chuyện có lẽ là giống nhau trong hầu hết các nước.
Rồi có những người được ban sự cư trú tạm thời nhưng bị hạn chế bởi trạng thái visa của họ về những gì họ có thể làm một cách hợp pháp. Họ có thể có một số quyền xã hội, như quyền hưởng trợ cấp doanh nghiệp và nhà nước, và có lẽ quyền được thuộc về các tổ chức kinh tế như các nghiệp đoàn hay các hiệp hội kinh doanh. Nhưng họ có quyền hạn chế hay không có quyền nào đối với tính di động xã hội-kinh tế và không quyền chính trị nào, cho họ ít cơ hội để hội nhập vào xã hội địa phương. Họ là các denizen cổ điển.
Xa hơn nữa dọc theo phổ là các denizen được ban sự cư trú dài hạn và về hình thức được phép theo đuổi các việc làm do họ chọn. Họ có thể là tương đối an toàn nhưng đối mặt các hạn chế cấu trúc về các quyền kinh tế và xã hội, chẳng hạn, nếu họ có các bằng cấp không được công nhận ở nước này. Như thế, một kỹ sư, một kiến trúc sư hay một nha sĩ người có đủ trình độ trong một nước có thể không được phép hành nghề ở nước khác, đơn giản bởi vì không có sự công nhận lẫn nhau về các tiêu chuẩn. Bằng cách như vậy, hàng triệu người nhập cư có đủ trình độ bị chặn khỏi nghề của họ và buộc phải tranh giành các việc làm ‘lãng phí-trí não’ mức thấp hơn trong precariat.
Điều này chủ yếu là do cách cấp phép nghề nghiệp đã phát triển (Standing, 2009). Riêng ở Đức hơn nửa triệu người nhập cư không có khả năng làm các việc làm mà họ có đủ trình độ bởi vì nhà nước không công nhận bằng cấp của họ. Nhưng hiện tượng là toàn cầu. Việc cấp giấy phép nghề đã là một cách hạn chế và định hình sự di cư. Bất kể ai đi New York sẽ thấy các luật sư và các tiến sĩ nhập cư lái taxi. Trong các nước liên bang, như Hoa Kỳ, Australia và Canada, ngay cả những người chuyển từ một bang hay tỉnh sang bang hay tỉnh khác có thể thấy mình như các denizen, bị từ chối quyền để hành nghề của họ. Nhưng sự từ chối ngang các biên giới quốc gia là có tính hệ thống hơn nhiều. Việc cấp giấy phép đã là một phần của quá trình lao động toàn cầu, và cho đến bây giờ nó đã là cách mạnh mẽ để từ chối các quyền kinh tế cho một số gia tăng của những người quanh thế giới.
Thường thường, cùng các denizen này cũng bị loại theo đúng luật khỏi ngành dân chính và chức vụ chính trị, và có khả năng hơn để có sự tiếp cận pháp lý đến tự-kinh doanh hơn đến các việc làm. Họ dễ bị trục xuất vì các lý do an ninh công cộng, nếu họ không cư xử như ‘các công dân tốt’. Việc này hạn chế sự hội nhập, củng cố vị thế của họ như ‘người ở bên ngoài’. Ở Pháp và Đức, có một hệ thống ba tầng, với các quyền chính trị đầy đủ cho các công dân, các quyền chính trị một phần cho các công dân của các nước EU khác và không quyền chính trị nào cho các kiều dân của các nước thứ ba (non-EU). Tại Vương Quốc Anh, một số kiều dân nước thứ ba – từ Khối Thịnh vượng Chung và Ireland – được gồm trong nhóm đầu hay nhóm thứ hai.
Các chính phủ đã tăng số điều kiện cần để là một người nhập cư hợp pháp, trong quá trình đưa nhiều người vào các địa vị denizen bấp bênh hơn. Và các denizen có thể có các quyền de jure (về pháp lý) nhưng bị loại khỏi các quyền de facto (thực tế). Một số trường hợp quá xá nhất xảy ra ở các nước đang phát triển.
Tại Ấn Độ, mặc dù mọi người Ấn Độ được cho là có các quyền ngang nhau, điều này không đúng trong luật, chính sách hay thực tiễn. Thí dụ, các dân cư khu ổ chuột thành phố sau nhiều năm có thể nhận được một thẻ căn cước cử tri và tem phiếu phân phối (hàng) nhưng có thể không nhận được quyền để gắn vào hệ thống nước và nước thải của thành phố. Cũng không có quy tắc nào về ai đó phải đợi lâu bao nhiêu để nhận được các quyền gắn với nơi lưu trú địa phương. Những người di cư trong nước có quyền để lao động và sống ở nơi khác tại Ấn Độ nhưng có thể không có khả năng gửi các con họ đến trường học hay nhận được tem phiếu, vì các bang có các quy tắc khác nhau về tính đủ tư cách. Tư cách denizen cũng được sắp xếp với những người lao động phi chính thức. Thí dụ, một người lao động tại gia trong một khu ổ chuột đô thị không có quyền tiếp cận đến điện. Một người bán hàng rong được coi như một tội phạm. Và ‘các phi-công dân’, như những người giúp việc nhà người Bangladeshi hay Nepali, không hề có quyền gì.
Tư cách denizen đã tăng nhiều nhất ở Trung Quốc, nơi 200 triệu người nông thôn di cư đã mất các quyền khi chuyển vào các thành phố và các xưởng công nghiệp phục vụ thế giới. Họ bị từ chối hộ khẩu, sổ cư trú mà cho họ các quyền cư trú và quyền để nhận trợ cấp và để được thuê một cách hợp pháp trong chính nước họ.
Không giống trong đầu thế kỷ thứ hai mươi, phần lớn sự di cư hôm nay không phải là sự đồng hóa đến tư cách công dân mới mà nhiều hơn là về một quá trình giải-tư cách công dân (de-citizenship). Thay cho việc trở thành những người định cư, nhiều người di cư đã từ chối nhiều hình thức của tư cách công dân – các quyền được nắm giữ bởi những người địa phương, các quyền của tư cách công dân từ nơi họ đến và các quyền mà đến với địa vị pháp lý. Nhiều người cũng thiếu tư cách công dân nghề nghiệp, với quyền hành nghề của họ bị từ chối. Họ cũng không trên một quỹ đạo để có được các quyền ban đầu bị từ chối đối với họ làm cho họ có thể bị bóc lột cùng cực (super-exploitable). Và họ không trở thành một phần của một giai cấp vô sản, một giai cấp lao động của các lao công được ổn định hóa. Họ là có thể bỏ đi, với không sự tiếp cận nào đến trợ cấp nhà nước hay doanh nghiệp, và có thể bị vứt bỏ với sự miễn trừng phạt, vì nếu họ phản đối cảnh sát sẽ được huy động để trừng trị, hình sự hóa và trục xuất họ.
Việc này làm nổi bật quá trình lao động bị phân mảnh mà trong đó các loại khác nhau của precariat có các quyền hưởng khác nhau và một cấu trúc khác của thu nhập xã hội. Nó góp phần vào vấn đề bản sắc. Những người địa phương có thể biểu lộ nhiều bản sắc, những người di cư hợp pháp có thể chú tâm vào bản sắc mà cho họ sự an toàn nhất và những người bất hợp pháp không được bày tỏ bất cứ bản sắc nào, vì sợ bị vạch trần.
Ghi nhớ ý tưởng về các denizen, chúng ta xét các nhóm người di cư khác biệt bị đối xử thế nào và họ hình dung ra sao về sự tăng lên của precariat toàn cầu.
Những người tị nạn và những người xin tị nạn
Chúng ta hãy bắt đầu với những người tị nạn và những người xin tị nạn. Một thí dụ có thể làm rõ sự khốn cùng của họ. Theo một báo cáo của Parliamentary and Health Service Ombudsman (2010), Cơ quan Biên phòng Anh Quốc (UKBA), chịu trách nhiệm về những người tị nạn, đã có một sự tồn đọng hai trăn năm mươi ngàn trường hợp xin tị nạn. Các trường hợp vẫn chưa được giải quyết hàng năm trời liên tục; một người Somali được nghỉ phép vô thời hạn để ở lại trong 2000 đã không nhận được giấy tờ của mình cho đến 2008. Những người như vậy sống trong bóng tối kinh tế, cuộc sống của họ bị ngưng. Trong lúc tiều tụy trong địa vị denizen này, họ được cấp cho một khoản bủn xỉn £42 một tuần và không được phép nhận việc làm, thiếp theo các biện pháp của chính phủ Công đảng để hạn chế sự giúp đỡ những người xin tị nạn. Nó là một đơn thuốc cho một nền kinh tế ngầm precariat.
Những người di cư không có giấy tờ và bất hợp pháp
Biến ‘những người di cư bất hợp pháp’ thành quỷ đã trở thành một phần của sự phản ứng dân túy với các sự bất an toàn giáng xuống precariat nói chung. Họ, hơn là các chính sách lao động linh hoạt và sự trợ giúp xã hội đang teo đi, bị đổ lỗi cho nỗi đau khổ của những người lao động địa phương. Khi được bầu lại làm thủ tướng Ý trong 2008, tuyên bố đầu tiên của Silvio Berlusconi đã là một lời hứa đánh bại ‘đội quân tội lỗi’, từ của ông cho người nhập cư không có giấy tờ. Ông đã ban hành ngay một sắc lệnh cho phép các nhóm dân phòng tư nhân, mà đã không giả bộ gì về các mục tiêu đã được nhắm tới của họ. Và ông đã đuổi những người Roma (gypsy) khỏi các trại của họ khắp nước Ý.
Sau những người di cư châu Phi ở Calabria, tại mũi chân nước Ý, cơn giận dữ đã tiếp tục trong tháng Giêng 2010 để phản đối việc chưa trả tiền công, các trại được dựng tạm của họ đã bị xe ủi ủi tan và nhiều người đã bị trục xuất. Họ đã được tuyển mộ như lao động rẻ trên các khu đất nông nghiệp, được kiểm soát bởi mafia địa phương, mà đã đơn giản ngừng trả tiền công sau khủng hoảng tài chính. Khi những người Phi châu phản đối, có lẽ bị xúi bẩy bởi chính mafia trong sự dự tính về cái gì sẽ tiếp theo, họ đã bị các dân phòng bắn và đánh, với sự vỗ tay của cư dân địa phương. Các cuộc náo loạn đã xảy ra sau việc thanh niên địa phương đã quấy rối và tấn công nhiều năm trời. Thế nhưng Roberto Maroni, bộ trưởng nội vụ Ý, đã nói trong một phỏng vấn rằng chúng là kết quả của ‘quá nhiều khoan dung’. Các cuộc tấn công tương tự lên những người nhập cư đã xảy ra khắp nước Ý.
Tại Pháp, Tổng thống Nicolas Sarkozy, thật mỉa mai bản thân có gốc dân nhập cư, đã đưa lên câu thần chú dân túy, ra lệnh phá hủy các trại ‘bất hợp pháp’ của người Roma và đuổi cư dân của chúng. Họ đã bị tống đúng lúc về Bulgaria và Rumania, nhiều người thề sẽ quay trở lại vì họ đã có một quyền hợp pháp để đi quanh EU. Một bản ghi nhớ được lọt ra từ bộ nội vụ đã làm rõ rằng người Roma là một mục tiêu ưu tiên, trong sự vi phạm có thể của hiến pháp Pháp (Willsher, 2010). Bộ trưởng nhập cư, Eric Bosson, đã nói tại một buổi họp báo, ‘Sự đi lại tự do trong vùng Âu châu không có nghĩa là sự định cư tự do’. Rõ ràng, những người di cư phải bị giữ trong quá trình di chuyển. Đấy là loại xã hội gì vậy?
Trong lúc đó, ở bên kia Đại tây Dương, các nhóm hăng hái với các hình xăm tôn giáo và T-shirt đã tự vũ trang và bảo vệ biên giới Arizona-Mexico, chăm chú nhìn qua ống nhòm để nhận diện các desperado (kẻ tuyệt vọng) ăn mặc sơ sài chạy lon ton, hầu hết chỉ tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một số người di cư có mang ma túy, thường bị bọn buôn người buộc làm vậy. Một số là ‘các tội phạm’; mọi nhóm dân cư có phần của nó. Nhưng sự biến (họ) thành quỷ là tràn lan. Sự tăng lên của precariat nhập cư ở Hoa Kỳ được đối chọi với các cuộc bố ráp chính thức kiểu biệt kích vào các nhà máy bị nghi sử dụng ‘người bất hợp pháp.’ Mặc dù Tổng thống Obama đã ra lệnh chấm dứt các cuộc bố ráp như vậy, chúng có thể dễ dàng quay lại.
Luật Arizona năm 2010, mà đã biến sự nhập cư bất hợp pháp thành một tội nhẹ cấp bang cũng như một vi phạm dân sự cấp liên bang, đã làm tăng sự căng thẳng giữa những người nhập cư và ‘các công dân bản địa’ sợ việc gia nhập precariat. Nó yêu cầu cảnh sát địa phương, sau khi tiến hành ‘tiếp xúc hợp pháp’, để kiểm tra trạng thái nhập cư của những người gây ra ‘sự nghi ngờ hợp lý’ và để bắt họ nếu họ thiếu giấy tờ, mở cửa cho việc dừng ngẫu nhiên các lái xe có dáng Hispanic với các cớ nhỏ. Luật đã dẫn đến các cuộc phản đối toàn quốc của những người Hispanic và các cảm tình viên. Nhưng nó đã lợi dụng trạng thái thần kinh kích động dân túy, gắn với cái một số người đã gọi là một ‘lỗ hổng thế hệ văn hóa’, mà là chủ nghĩa phân biệt chủng tộc được che đậy mỏng. Ở Arizona, 83 phần trăm người già là người da trắng, nhưng chỉ 43 phần trăm trẻ em là da trắng. Những người già da trắng tin họ đang đóng thuế cho trẻ con mà họ không công nhận là của họ. Điều này đã nuôi chủ nghĩa dân túy chống-thuế của Tea Party, mà trong đó đàn ông trong nhóm sinh ồ ạt có vai vế nổi bật. Cái gì đó tương tự đang xảy ra ở Đức, nơi trong nhiều thành phố trẻ em của những người nhập cư chiếm đa số trẻ em rồi.
Hầu hết người Mỹ có vẻ ủng hộ luật Arizona. Một điều tra dư luận toàn quốc đã đưa ra các kết quả sau đây, cho thấy phần trăm ủng hộ mỗi đề xuất:
● tăng tiền phạt các chủ sử dụng người nhập cư bất hợp pháp 80% ● hình sự hóa việc làm của người nhập cư bất hợp pháp 75% ● đòi cảnh sát báo người bất hợp pháp lên chính phủ liên bang 70% ● Cảnh vệ Quốc gia tuần tra biên giới Mexico 68% ● xây dựng nhiều hàng rào biên giới hơn 60% ● cho phép cảnh sát đòi bằng chứng về trạng thái di cư 50% ● loại trẻ con nhập cư bất hợp pháp khỏi trường học 42% ● đòi các nhà thờ tố giác những người nhập cư bất hợp pháp 37%
Ở Nam Phi, một diễn tiến còn xấu hơn là điển hình của cái xảy ra ở nhiều phần của thế giới. Hàng triệu người nhập cư lẻn qua biên giới và đến các khu da đen, đặc biệt quanh Johannesburg. Họ đến từ Zimbabwe, Mozambique, Malawi, và những nơi khác trên lục địa Phi châu, cũng như từ Pakistan và các phần khác của châu Á. Có thể có hơn 4 triệu người như thế. Hầu hết không có visa làm việc nhưng phải làm việc. Chính phủ làm khó cho họ để nhận được visa, và hàng ngàn người đi các quãng đường dài hàng ngày để xếp hàng với hy vọng có được một visa.
Nhiều người Nam Phi trẻ không thể có được việc làm hợp pháp trả tiền công hợp pháp bởi vì những người nhập cư tuyệt vọng buộc phải nhận việc làm bất hợp pháp trả tiền công bất hợp pháp mà không có trợ cấp. Sự hiện diện của họ hạ thấp vị thế mặc cả của người lao động nói chung, làm phồng precariat, và cho phép các chính trị gia và các kinh tế gia cho rằng có thất nghiệp hàng loạt và rằng tiền công thực tế và sự bảo vệ lao động phải được hạ xuống. Trong thực tế, phần lớn việc làm đơn giản không được đo. Các khẳng định rằng tỷ lệ thất nghiệp ở Nam Phi lên đến 40 phần trăm là vô nghĩa. Tuy vậy, trong tháng Năm 2008, căng thẳng đã trở nên bùng nổ và những người nhập cư trong các khu da đen đã bị tấn công man rợ. Nhiều người bị giết và hàng ngàn người đã chạy trốn. Họ là nạn nhân trong một xã hội mà đã trở nên thậm chí bất bình đẳng hơn kể từ khi chấm dứt apartheid.
Những người di cư tạm thời và thời vụ
Nhiều người di cư khác, bất chấp là hợp pháp, bị bỏ mặc dễ bị tổn thương đến mức bất cứ nhà quan sát vô tư nào đều phải tự hỏi liệu có là cố ý không, để làm vừa lòng các nhóm lợi ích địa phương nào đó, để xoa dịu những người lao động địa phương hay bởi vì họ không có quyền chính trị nào và không thể bỏ phiếu. Vài thí dụ gần đây mang tính gợi ý.
Sau một số sự cố, nhất là cái chết của 23 người Trung Quốc lượm sò bị triều cuốn tại Vịnh Morecambe tháng Hai 2004, chính phủ Anh đã lập ra một Cơ quan Cấp phép Đội trưởng (Gangmasters Licensing Authority) để điều tiết lao động đại lý (agency labour). Nhưng một điều tra của Ủy ban Bình đẳng và Nhân quyền (EHRC, 2010) về các nhà máy chế biến thịt và gia cầm, mà sử dụng 90.000 người, thấy rằng cơ quan được cấp tài chính quá ít để làm việc của nó.
Trong cái mà theo mức độ nào đó là khu vực chế tác lớn nhất còn lại ở Vương Quốc Anh, điều tra đã thấy các điều kiện làm việc kinh khủng, với các công nhân buộc phải đứng hàng giờ trên dây chuyền sản xuất hoạt động nhanh, không có khả năng đi vệ sinh và bị lạm dụng. Các phụ nữ mang thai đã bị tác động cực kỳ; một số người đã bị sẩy thai và nhiều người đã đối mặt với sự phân biệt đối xử công khai. Các công nhân đã bị xếp vào các ca 16 đến 17 giờ, với chỉ vài giờ ngủ giữa chừng. Trong một số trường hợp, các đại lý đã vào nhà họ để đánh thức họ dậy sớm vào buổi sáng bởi vì các siêu thị vận hành sự thực hành đặt hàng just-in-time (đúng lúc) đã để các đặt hàng đến phút chót, gây áp lực lên các nhà máy để có các nhân viên dự phòng trực sẵn.
Một phần ba lực lượng lao động đã gồm các nhân viên đại lý; 70 phần trăm đã là dân nhập cư từ Đông Âu, với một ít người từ Bồ Đào Nha. Hầu hết đã nói các chủ đối xử với các công nhân đại lý tồi hơn, còn công nhân Anh đã miễn cưỡng để làm việc trong khu vực, bị ngăn cản bởi lương thấp và điều kiện làm việc tồi. Một số công nhân Anh đã nói với EHRC rằng các đại lý chỉ thuê những người nhập cư, một thực hành trái pháp luật chiểu theo Bộ luật các Quan hệ Chủng tộc. Sự lạm dụng các công nhân đại lý đã liên đới với sự thanh tra lỏng lẻo môt cách cố ý.
Thật chán ngán, EHRC đã khuyến nghị rằng ngành nên cải thiện các Thực hành của mình một cách tự nguyện, một chút tư duy tự ru ngủ; nó đã không có ý định kiện. Nói cách khác, precariat đã bị bỏ mặc cho sự lạm dụng. Và Bộ luật (Cấp phép) Đội trưởng 2004 không phủ các khu vực chăm sóc và dịch vụ nhà hàng khách sạn, nơi những người nhập cư được tập trung với số lượng lớn nhất.
Ngoài ra ở Vương Quốc Anh, trong mùa đông khắc nghiệt 2009–10, khi nhiều người nhập cư Đông Âu đã không có việc làm và bị biến thành vô gia cư bởi nợ nần, các nhà chức trách địa phương đã bắt đầu tống họ về nước. Tại Boston ở Lincolnshire, các lao công nông nghiệp nhập cư tạo thành một phần tư dân cư trong 2008. Khi các việc làm trang trại cạn kiệt, nhiều người đã trở về nước họ nhưng những người khác đã ở lại, hy vọng tìm được việc làm mới. Họ đã không đủ tiêu chuẩn cho trợ cấp nhà nước, nhất là Trợ cấp Tìm việc (trợ cấp thất nghiệp), mà đòi hỏi một người phải được thuê liên tục ít nhất một năm. Vào giữa mùa đông, một số người vô gia cư và không tiền đã phải sống trong các lều dụng tạm. Xem họ như một nỗi đau xã hội, với tình trạng bệnh tạt gia tăng và tội vặt, chính phủ đã chọn để giải thoát cộng đồng địa phương khỏi lực lượng lao động du cư. Các nhà chức trách Boston đã thuê một Pied Piper , dưới dạng của các Sáng kiến Giảm Tội phạm (Crime Reduction Initiatives, CRI), một tổ chức được tài trợ bởi chính phủ và các hội đồng địa phương để giải quyết các nguyên nhân mất trật tự trong các cộng đồng.
Mô tả công việc cho hợp đồng CRI đã đủ tốt – để xác định nếu người vô gia cư đủ tư cách hưởng trợ cấp và, nếu không, cho họ một vé một chiều về nước. Ta có thể hỏi vì sao chính phủ lại dùng một hãng với một tên chiến đấu với tội phạm để làm một việc như vậy. Nó trông giống một bước đến hoạt động cảnh sát được tư nhân hóa. John Rossington của CRI đã nói với báo chí, ‘Boston có một vấn đề với những người ngủ hung dữ, hầu hết họ là từ Đông Âu. Hầu như tất cả những người này không có khả năng nhận trợ cấp hoặc bởi vì họ không có quyền hưởng hoặc họ đã mất giấy tờ của họ và không thể xác minh việc này. Chúng tôi khuyến khích họ trình diện như thế chúng tôi có thể xác minh tình hình của họ’ (Barber, 2010). CRI đưa ra mục tiêu thương mại rõ ràng, nói việc hồi hương sẽ tiết kiệm tiền. ‘Những người này không có tiền và dễ bị tổn thương cực kỳ, đặc biệt nếu họ sống ở ngoài trong thời tiết lạnh. Nếu rút cục họ phạm tội hay bị ốm, họ có nhiều khả năng tốn nhiều chi phí của người đóng thuế hơn một vé máy bay một chiều về Đông Âu’.
Những người di cư dài hạn
Ở nhiều nước, những người nhập cư hợp pháp đã bị biến thành quỷ vì các lý do văn hóa. Việc này dễ dẫn đến chính sách phân biệt đối xử và bạo lực bài ngoại. Chúng ta sẽ thỏa mãn mình với hai thí dụ chua xót, dù biểu thị các xu hướng rộng hơn.
Trong các năm 1950 và 1960, Đức đã hoan nghênh hàng trăm ngàn công nhân khách từ Thổ Nhĩ Kỳ và các phần khác của Châu Âu, cần thiết để cung cấp lao động rẻ trong việc xây dựng sự thần kỳ Đức, như sự cải tạo đất nước đã được gán cho cái tên ấy. Đã được cho là họ sẽ về nước khi các hợp đồng của họ hết hạn. Như thế nhà nước đã đảm bảo rằng họ không hội nhập về mặt xã hội, chính trị hay kinh tế. Họ đã được trao một địa vị đặc biệt bên ngoài xã hội. Nhưng họ đã ở lại. Việc này đã tạo ra một cơ sở cho sự thù địch; vì dân số Đức đã bắt đầu co lại do tỷ lệ sinh thấp của nó, các nhà dân túy đã có khả năng vẽ ra một tương lai về ưu thế của dân cư nước ngoài, với các hình ảnh về một tầng lớp dưới cùng Islamic từ chối hội nhập vào xã hội Đức. Đầu tiên, nhà nước đã ngăn cản những người nhập cư hội nhập; rồi nó đổ lỗi cho họ đã không hội nhập.
Trong 2000, con cái họ đã được trao lựa chọn lấy quốc tịch Đức, chừng nào chúng làm vậy trước khi chúng đến tuổi 23. Việc này đã phản ánh tình hình tư cách công dân-denizen, vì luật quốc tịch Đức về truyền thống đã dựa trên huyết thống của một người, chứ không phải nơi sinh. Nhưng hệ thống công nhân-khách đã gieo các hạt giống cho sự căng thẳng.
Tình trạng khó khăn sẽ là tình trạng đối mặt với các quốc gia Âu châu khác. Dân số Đức bản địa đang co lại, tổng số đang co lại, người ta sợ một sự thiếu hụt lao động. Nhưng chỉ một thiểu số cử tri Đức muốn xem ‘sự nhập cư được quản lý’ như một giải pháp một phần cho vấn đề (Peel, 2010). Một nỗ lực của các nhà Dân chủ Tự do thân-doanh nghiệp để đưa ra một hệ thống điểm cho việc đưa vào dân di cư có kỹ năng đã bị chặn đứng bởi các nhà Dân chủ Thiên chúa giáo, những người cho rằng nó đã là một mưu toan đưa lao động rẻ vào hơn là đào tạo các công nhân địa phương. Tuy nhiên, trong 2011, biên giới Đức lần đầu tiên được mở tự do cho các công nhân từ Đông Âu. Đức đã có rồi 2,5 triệu người di cư EU, hơn bất cứ nước EU nào khác.
Một ‘kế hoạch hội nhập quốc gia’ đã mở rộng việc đào tạo ngôn ngữ và việc dạy Islam bây giờ là có thể trong các trường nhà nước. Nhưng chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là tràn lan. Trong 2010, Thilo Sarrazin, một chính trị gia Dân chủ Xã hội xuất chúng, đã nói rằng những người Thổ và Arab ở Berlin đã ‘chẳng muốn hội nhập cũng không có khả năng hội nhập’. Các điều tra dư luận đã thấy rằng một đa số những người Đức đã đồng ý. Bị cách chức như một thành viên của hội đồng Ngân hàng quốc gia (Bundesbank), Sarrazin đã xuất bản một cuốn sách ngay lập tức trở thành sách bán chạy nhất (bestseller) cho là ông không muốn các cháu mình sống trong một xã hội bị tàn phá bởi một văn hóa xa lạ. Để nói về các bóng tối của quá khứ không là một sự thổi phồng.
Bây giờ hãy xét cái gì đã xảy ra ở Pháp. Trong hàng thập niên sau Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai, sự nhập cư lao động đã được phó mặc cho các hãng tư nhân, mà đã tuyển công nhân từ nước ngoài để bịt sự thiếu hụt trong nước. Thời kỳ đã trùng với sự phi thực dân hóa các thuộc địa Bắc Phi của Pháp, và những người vùng Maghreb từ Morocco, Tunisia và Algeria đã chiếm một phần gia tăng của những người di cư, đạt 30 phần trăm vào năm 2005 (Tavan, 2005). Trong hàng thập niên, những căng thẳng giữa các công dân Pháp và những người nhập cư Bắc Phi đã bị chặn tiếng. Vì hầu hết những người nhập cư đã trẻ và có việc làm, họ đã là những người đóng góp thuần cho hệ thống an sinh xã hội, còn các công dân Pháp đã là những người hưởng lợi thuần. Nhưng nhà nước đã lập nên một precariat. Tiền công của những người nhập cư đã thấp hơn tiền công của các công nhân Pháp và họ dễ bị tổn thương hơn với thất nghiệp, một phần bởi vì họ ở trong các việc làm kỹ năng thấp, như xây dựng, và bị tác động nhiều hơn bởi các thăng giáng kinh tế, một phần bởi vì sự phân biệt đối xử. Những người Maghreb thất nghiệp thường không có hồ sơ đóng góp cần để đòi trợ cấp thất nghiệp và đã buộc phải dựa vào RMI (Revenu minimum d’insertion-thu nhập tối thiểu) dựa trên đánh giá gia cảnh. Tuy vậy, để đủ tư cách cho RMI, trợ cấp chỗ ở và bảo vệ sức khỏe, các kiều dân phải có giấy phép cư trú và phải sống ở Pháp trong năm năm. Nhiều người Maghreb đơn giản đã bị khóa không cho vào.
Nhà nước đã cho phép sự di cư không có giấy tờ tích tụ lại nhưng sau 1996 đã đặt nhiều người nhập cư từ vùng Maghreb và châu Phi hạ-Sahara vào địa vị rắc rối mà họ gọi mình là, sans-papiers (không có giấy tờ). Cho dù họ đã làm việc hàng năm ở Pháp, đột nhiên địa vị của họ bị biến thành bấp bênh nếu không bất hợp pháp. Những người sans-papier đã tổ chức lại để tranh cãi địa vị người ngoài của họ, đòi để đổi hợp đồng lao động tạm thời của họ thành hợp đồng chính quy. Nhưng vào lúc này nhà nước đã thù nghịch. Trong lúc một số người đã ‘chính quy hóa được’ tình hình của mình, hàng ngàn người đã bị tống về nước – 29.000 trong 2009. Trong tháng Tư 2010, bộ trưởng nhập cư đã tuyên bố rằng những người sans-papier mà đã yêu cầu chính quy hóa vẫn bị đuổi.
Ngay cả khi họ là các công dân Pháp, những người Maghreb là các denizen, có các quyền ngang nhau trong luật nhưng không trong thực tiễn. Thí dụ, Bộ Luật Lao động khẳng định nguyên tắc đối xử bình đẳng trong việc làm nhưng không bảo vệ sự phân biệt đối xử trong tuyển dụng. Một nghiên cứu cho Ủy ban các Cơ hội Bình đẳng và Chống-Phân biệt đối xử đã báo cáo rằng ở Paris những người với các tên Maghreb năm lần ít có khả năng hơn để được gọi cho một cuộc phỏng vấn việc làm, và các sinh viên Maghreb tốt nghiệp đại học ba lần ít có khả năng hơn để được phỏng vấn so với những người Pháp cùng trình độ (Fauroux, 2005). Đã không ngạc nhiên rằng các cuộc náo loạn trong banlieues (các khu nhà ở cao tầng vùng ngoại ô) trong cuối 2005 đã được dẫn đầu bởi những người Maghreb thế hệ thứ hai bị bỏ rơi bởi một hệ thống mà tuyên bố sự bình đẳng của họ nhưng đã gây ra sự bấp bênh của họ.
Các thí dụ này – cả hai dính đến những người Muslim, ở tâm của Châu Âu – cho thấy những người nhập cư một thời được hoan nghênh có thể trở thành những người kẻ đứng ngoài bị coi như quỷ ngay cả sau khi họ đã bén rễ sâu. Họ lại bị vất sang bên lề.
Precariat như một đội quân dự bị trôi nổi
Đại Suy thoái tiếp sau cú sốc 2008 đã có thể được kỳ vọng để làm thay đổi các dòng di cư, nhưng trong một nền kinh tế toàn cầu điều gì xảy ra là không dễ tiên đoán. Thí dụ, sự di cư quay về từ Vương Quốc Anh đã là đáng kể trong 2009; số các công nhân có đăng ký từ các quốc gia thành viên mới của EU ở Đông Âu đã giảm hơn 50 phần trăm. Đã có dự đoán rằng 200.000 người lao động có kỹ năng từ các nước đã công nghiệp hóa sẽ quay về Ấn Độ và Trung Quốc trong năm năm tới. Nhưng đồng thời một sự luân phiên rõ rệt đã đang xảy ra.
Khi suy thoái sâu thêm, phần của tổng việc làm do những người di cư nhận đã tăng đột ngột. Các doanh nghiệp đã tiếp tục tuyển những người nước ngoài cho dù thất nghiệp tăng. Số người trong việc làm sinh tại Vương Quốc Anh đã giảm 654.000 giữa cuối 2008 và cuối 2010 trong khi số những người di cư trong việc làm đã tăng 139.000. Việc này có thể một phần đã phản ánh bản chất khu vực của sự cắt việc làm, vì các ngành cũ nơi giai cấp lao động địa phương và salariat địa phương tập trung đã bị đòn nặng nề. Nó cũng đã phản ánh một xu hướng cho các hãng để tận dụng suy thoái để giải thoát mình khỏi các nhân viên dài hạn già hơn và tốn phí hơn. Và nó đã phản ánh một sự tăng lên về sự cuộn xoáy lao động và sự dễ dàng lớn hơn về chuyển sang những người lao động tạm thời giá thấp hơn và những người được trả ‘ngoài sổ sách’. Với một quá trình lao động linh hoạt toàn cầu, các cơ chế xếp hàng cũ và hệ thống LIFO (‘vào sau, ra trước’) đã sụp đổ. Các suy thoái bây giờ làm tăng tốc xu hướng tới lao động precariat, chiếu cố việc làm của những người cam chịu nhất để chấp nhận lương thấp và trợ cấp ít hơn.
Sự thay thế của những người di cư đã xảy ra mặc dù nhiều người đã bị đuổi hay bị chở về nước, thường với chi phí do các chính phủ chịu. Tây Ban Nha và Nhật Bản đã đưa ra các khuyến khích tiền mặt cho những người nhập cư ra về. Vương Quốc Anh đã trả tiền vé một chiều về nước. Nhưng các chính phủ đang thử hạn chế sự di cư đã vấp phải sự kháng cự từ các nhóm lợi ích kinh doanh.
Trong lúc các chính trị gia có thể làm ra vẻ như ủng hộ các hạn chế lên sự di cư và gửi những người nhập cư ‘trở về’, giới kinh doanh muốn họ vì lao động rẻ của họ. Tại Australia, một điều tra đã thấy rằng các công ty đã từ chối giảm những người nhập cư có kỹ năng có visa hơn là những người lao động địa phương. Họ đã trả những người nhập cư ít hơn một nửa số họ trả, hay sẽ phải trả, cho những người lao động địa phương. Cuối cùng, chính phủ Công đảng đã ủng hộ giới kinh doanh trong việc chấp nhận rằng các hãng không còn phải ưu tiên cho những người lao động Australia nữa (Knox, 2010).
Tại các nước Âu châu như Pháp và Ý, với tỷ lệ sinh thấp và dân cư lão hóa của chúng, các tổ chức kinh doanh đã cũng phản đối các hạn chế nhập cư, đặc biệt lao động có kỹ năng. Tại Vương Quốc Anh, các công ty đa quốc gia đã vận động hành lang chính phủ Liên hiệp để rút lại kế hoạch của nó để đặt giới hạn số người nhập cư có kỹ năng từ bên ngoài EU đến nước này. Các ý tưởng bỉ ổi về đấu giá các giấy phép lao động hạn chế đã được nêu ra để bàn.
Tại Nhật Bản, trong lúc một số chính trị gia đã trở nên chống-người di cư và dân tộc chủ nghĩa một cách lanh lảnh, các doanh nghiệp đã hoan nghênh những người Nam Hàn, Brazil có gốc Nhật Bản và các lao công Trung Quốc bị trói buộc. Ở Hoa Kỳ, nơi, trong 2005, người nhập cư không có giấy tờ đã được ước lượng chiếm nửa của tất cả các lao công trang trại, một phần tư công nhân trong ngành thịt và gia cầm và một phần tư của những người rửa bát đĩa, giới kinh doanh đã ủng hộ việc hợp pháp hóa và đã phản đối sự trục xuất (Bloomberg Businessweek, 2005).
Tư bản hoan nghênh sự di cư bởi vì nó mang lại lao động rẻ dễ bảo. Các nhóm phản đối dữ dội nhất sự nhập cư là giai cấp lao động (da trắng) cũ và tầng lớp trung lưu thấp hơn, bị ép bởi toàn cầu hóa và đang rơi vào precariat.
Từ xếp hàng đến các chướng ngại?
Về truyền thống, những người di cư được xem như bước vào một hàng đợi các việc làm bỏ trống. Đó đã là một hình ảnh chính xác vừa phải trước thời đại toàn cầu hóa. Nhưng việc xếp hàng không còn hoạt động nữa, chủ yếu do các cải cách thị trường lao động và an sinh xã hội.
Trong các thị trường lao động linh hoạt với các đường biên giới rỗ, tiền công bị đẩy xuống các mức chỉ những người di cư sẽ sẵn sàng chấp nhận, dưới mức mà dân cư quen với một tiêu chuẩn sống cao hơn có thể chịu đựng. Ở Vương Quốc Anh, tiền lương sụt giảm và các điều kiện tồi đi trong các khu vực chăm sóc, dịch vụ ăn uống khách sạn và nông nghiệp nơi những người nhập cư tập trung đã làm tăng áp lực kéo lương xuống trong các khu vực khác. Lối nói khoa trương sô vanh hiếu chiến của Thủ tướng Gordon Brown trong 2007 – ‘các việc làm Anh cho những người lao động Anh’ – đã chẳng thay đổi được gì; quả thực, sự nhập cư đã tăng. Một xã hội bất bình quân chủ nghĩa hơn, kết hợp với một chế độ lao động nhập cư rẻ, đã cho phép người giàu có được lợi từ các vú em, người quét dọn và thợ ống nước giá rẻ. Và sự tiếp cận đến những người nhập cư có kỹ năng làm giảm áp lực lên các hãng để đào tạo những người thất nghiệp trong các kỹ năng tay chân, để dân địa phương vào một thế bất lợi thêm.
Một lý do khác cho sự đổ vỡ của sự xếp hàng đã là sự tháo dỡ hệ thống an sinh xã hội công đoàn chủ nghĩa. Khi các chính phủ lao vào thay thế bảo hiểm xã hội bằng trợ giúp xã hội, các công dân dài hạn thấy mình bất lợi trong việc tiếp cận đến trợ cấp và các dịch vụ xã hội. Việc này có lẽ đã làm nhiều hơn bất cứ thứ gì khác để xúi giục sự phẫn uất của những người nhập cư và các thiểu số sắc tộc, đặc biệt trong các vùng đô thị đang suy tàn mà đã là dinh lũy của giai cấp lao động. Trong lúc một vài thành viên của chính nó đã đổ lỗi sự thua của Công Đảng trong Tổng Tuyển cử 2010 ở Vương Quốc Anh cho sự thất bại của nó để với tới giai cấp lao động da trắng hơn sự nhập cư, họ đã không thấy, hay đã không muốn thừa nhận, rằng hệ thống đánh giá gia cảnh mà bản thân họ dựng lên đã là vấn đề chính.
Sự đánh giá gia cảnh đã phá hủy một trụ cột của nhà nước phúc lợi. Một hệ thống kiểu bảo hiểm xã hội dựa trên các quyền hưởng nhận được qua các đóng góp dựa vào lao động thưởng cho những người đã ở trong hệ thống trong thời gian dài. Nếu trợ cấp và sự tiếp cận đến các dịch vụ xã hội được xác định bởi chứng cớ về sự cần thiết tài chính, thì người đã đóng góp sẽ thua những người, như dân nhập cư, mà rõ ràng là tồi hơn. Đối với ‘giai cấp lao động’ đang teo đi, việc này được cảm nhận như bất công. Như thế là mỉa mai rằng ở Vương Quốc Anh và nơi khác các chính phủ dân chủ xã hội đã là các chính phủ đẩy chính sách theo hướng đó.
Tại Vương Quốc Anh, sự chuyển sang đánh giá gia cảnh đã giúp làm tăng tốc sự phá vỡ các gia đình mở rộng thuộc giai cấp lao động, như nghiên cứu tiên phong của Dench, Gavron and Young (2006) về East End (khu phía đông) của London đã chứng tỏ. Dân di cư Bangladesh vừa đến, do là nghèo nhất, đã lên đầu hàng chờ xin nhà ở hội đồng, trong khi các gia đình giai cấp lao động bị đẩy xuống trong danh sách và đã buộc phải dọn đi xa để tìm thấy nhà ở rẻ hơn.
Người di cư cũng vô tình góp phần vào các vấn đề xã hội khác. Họ bị ghi thiếu trong các cuộc điều tra dân số, mà dẫn đến một số dân đáng kể bị tính thiếu trong các vùng mà họ tập trung, dẫn đến cấp tài chính thiếu từ chính phủ trung ương cho trường học, nhà ở và vân vân. Trong 2010, theo một số ước lượng, có thể đã có hơn 1 triệu người sống ‘bất hợp pháp’ ở Vương Quốc Anh.
Vì các cơ chế xếp hàng đã ngừng hoạt động, các nước đang tìm kiếm cách khác để quản lý di cư. Một số nước vận hành các sơ đồ phức tạp để chọn các nghề được cho là thiếu hụt. Cho đến 2010, Australia đã có 106 ‘nghề có nhu cầu’. Việc này đã thay đổi sang một danh sách ‘được định mục tiêu hơn’, được thiết kế để chú tâm vào chăm sóc sức khỏe, kỹ nghệ và khai mỏ. Các biện pháp như vậy không hoạt động tốt. Tại Vương Quốc Anh, visa Tier 1 được ban cho những người di cư được cho là có ‘các kỹ năng cao’ bị thiếu. Thế nhưng, trong 2010, chí ít 29 phần trăm của những người có visa Tier 1 đã được nhận diện như đang làm các việc làm không có kỹ năng (UKBA, 2010), một phần của quá trình ‘lãng phí-chất xám’.
Cũng đã khó hơn để có được tư cách công dân Anh. Trong 2009, làm theo một sơ đồ Australia, Vương Quốc Anh đã vạch ra các kế hoạch để làm cho những người di cư ‘có được’ một hộ chiếu bằng tích tụ các điểm, qua công việc tình nguyện, nói tiếng Anh, đóng thuế, có các kỹ năng hữu ích và sẵn sàng để sống ở các phần của đất nước nơi có một sự thiếu hụt được cảm nhận về các kỹ năng. Chuyển sang một hệ thống dựa trên các điểm, hơn là trao một quyền tự động về tư cách công dân cho bất cứ ai đã sống trong nước năm năm mà không có hồ sơ tội phạm, đã có nghĩa chính phủ có thể thay đổi các chướng ngại tùy ý. Một nguồn Bộ Nội Vụ (Home Office) đã nói, ‘Chúng tôi sẽ cứng rắn hơn về người nhập cư trở thành công dân. Sẽ không còn quyền tự động nữa, và mối liên kết giữa công việc và tư cách công dân thực sự đã bị vỡ’ (Hinsliff, 2009).
Việc này đang biến những người nhập cư thành các denizen vĩnh viễn, chuẩn bị sẵn sàng hơn cho precariat. Chính phủ Công đảng Anh cũng đang vạch ra một hệ thống dựa vào điểm cho những người di cư tạm thời, hạn chế các giấy phép lao động cho những người ngoài EU và làm một số nghề từ danh sách của các nghề được cho là có sự thiếu hụt. Trong 2010, chính phủ Liên hiệp mới đã thắt chặt quá trình thậm chí hơn nữa.
Tóm lại, bởi vì hệ thống xếp hàng cũ đã bị hủy bỏ, và bởi vì các chính phủ không thể hay không muốn đảo ngược các cải cách thị trường lao động họ đã lập ra, họ ngày càng tìm cách nâng các rào cản tiếp nhận, làm cho địa vị denizen của những người nhập cư bấp bênh hơn và cổ vũ hay bắt buộc họ rời đi khi không còn cần nữa. Việc này mở ra một số khả năng đáng sợ.
Người di cư như lao động rẻ trong các nước đang phát triển
“Lao động của bạn là vinh quang và đáng được coi trọng từ mọi xã hội.” (Ôn Gia Bảo, Thủ tướng Trung Quốc, tháng Sáu 2010)
“Chết là cách duy nhất để xác nhận rằng chúng tôi đã từng sống. Có lẽ đối với các nhân viên Foxconn và các nhân viên như chúng tôi – chúng tôi những người được gọi là nongmingong (nông dân công), công nhân di cư nông thôn, ở Trung Quốc – việc dùng cái chết đơn giản là để chứng tỏ rằng chúng tôi đã từng sống chút nào, và rằng trong lúc chúng tôi đã sống, chúng tôi đã chỉ có nỗi thất vọng.” (Blog công nhân Trung Quốc, sau vụ nhảy tự tử thứ mười hai ở Foxconn)
Chủ nghĩa tư bản dân tộc đã được xây dựng trên sự di cư nông thôn-đô thị, dẫn đầu bởi sự rời đi hàng loạt từ nông thôn Anh vào các xưởng và các nhà máy nhưng đã được lặp lại khắp thế giới theo các hình thức hơi khác. Trong các nền kinh tế đang công nghiệp hóa ngày nay, các chính phủ đã tạo thuận lợi cho sự di chuyển bằng việc dựng lên các khu chế xuất mà trong đó các quy định lao động được nới lỏng, sự mặc cả công đoàn bị hạn chế, các hợp đồng tạm thời là chuẩn và các khoản bao cấp được quăng cho các hãng. Câu chuyện đó được nhiều người biết. Cái ít được đánh giá đúng là sự di cư lớn nhất trong lịch sử được tổ chức thế nào để tăng tốc và tái cấu trúc chủ nghĩa tư bản toàn cầu.
Chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã được xây dựng trên lao động di cư, đầu tiên ở cái được gọi là NIC (các nước đang công nghiệp hóa mới). Trong các năm 1980, tôi nhớ lại nhiều cuộc viếng thăm tới các khu chế xuất của Malaysia đến các nhà máy được vận hành bởi vài tên tuổi lớn của tư bản toàn cầu, như Motorola, Honda và Hewlett Packard. Đã không phải là một giai cấp vô sản được hình thành mà là một lực lượng lao động bấp bênh tạm thời. Hàng ngàn phụ nữ trẻ từ kampongs (các làng) đã được cho trọ trong các chung cư tiều tụy, làm việc trong các tuần dài lạ thường và rồi được kỳ vọng để rời đi sau vài năm, một khi sức khỏe và năng lực của họ đã giảm đi. Nhiều người đã rời đi với sức nhìn kém và đau lưng kinh niên. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã được xây dựng trên lưng họ.
Hệ thống đó vẫn hoạt động trong đợt gần đây nhất của các nền kinh tế thị trường mới nổi, như Bangladesh, Cambodia và Thái Lan. Nó bao gồm cả những người di cư quốc tế nữa. Như thế, ở Thái Lan, trong 2010, đã có 3 triệu người di cư, hầu hết không có giấy tờ, nhiều từ Myanmar (Burma). Tiếp sau những căng thẳng, chính phủ đã khởi động một sơ đồ đăng ký, lệnh cho những người di cư xin nước gốc của họ cấp cho họ hộ chiếu đặc biệt sao cho họ có thể lao động một cách hợp pháp và, về nguyên tắc, có sự tiếp cận đến trợ cấp và các dịch vụ nhà nước. Những người từ Myanmar đã không muốn quay lại đó, sợ rằng họ có thể không có khả năng rời đi lần nữa. Như thế hầu hết những người đã đăng ký đã từ Lào và Cambodia. Không đăng ký vào hạn chót đã có nghĩa là bắt giữ và trục xuất. Trong thực tiễn, việc này không mang tính hệ thống vì các công ty Thái đã phụ thuộc vào lao động di cư để làm các việc làm lương thấp và đã không muốn hàng triệu bị tống cổ đi. Nhưng, theo Human Rights Watch (2010), ngay cả các dân di cư hợp pháp chịu đựng những sự lạm dụng khủng khiếp, bị phó mặc cho các chủ, không được phép lập hay tham gia công đoàn, không được phép đi lại tự do, thường không được trả lương, dễ bị sa thái ngay và bị lạm dụng bởi các quan chức được cho là bảo vệ họ.
Đấy là những thực tế thị trường lao động trong các nền kinh tế thị trường mới nổi. Mặc dù các cuộc vận động và các cơ quan quốc tế đã có thể làm nhiều hơn để sửa lại chúng cho đúng, chúng sẽ tiếp tục. Tuy vậy, xác đáng nhất cho việc hiểu sự thành hình của precariat toàn cầu là các diễn tiến trong nền kinh tế mà nhanh chóng trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Nhà nước Trung Quốc đã tạo hình một lực lượng lao động denizen không giống bất cứ gì đã từng được tạo ra. Nó có một dân cư ở tuổi lao động là 977 triệu, mà sẽ tăng lên 993 triệu vào 2015. Khoảng 200 triệu là những người di cư nông thôn được nhử vào các xưởng công nghiệp mới nơi các nhà thầu Trung Quốc và nước ngoài hoạt động như các trung gian của các công ty đa quốc gia từ khắp thế giới. Những người di cư này là động cơ của precariat toàn cầu, là các denizen trong chính nước họ. Bởi vì họ không có khả năng nhận được hộ khẩu giấy phép lưu trú, họ buộc phải sống và làm việc một cách bấp bênh, bị từ chối các quyền của dân đô thị bẩm sinh. Nhà nước cưỡi trên lưng cọp. Trong hai thập niên nó đã tạo thành lực lượng lao động linh hoạt này của những người di cư trẻ, đối xử với họ như có thể bỏ đi, được trợ cấp bởi các gia đình nông thôn của họ và được kỳ vọng để lượn về sau khi các năm hiệu quả nhất của họ đã qua đi. Đã có những sự tương tự lịch sử, nhưng chúng là nhỏ so với tính bao la của cái đã được làm ở Trung Quốc.
Sau cú sốc 2008, mà đã giáng xuống hàng xuất khẩu Trung Quốc, 25 triệu người di cư đã bị cắt bớt, tuy họ đã không xuất hiện trong thống kê thất nghiệp bởi vì, là ‘bất hợp pháp’ trong chính nước họ, họ đã không có sự tiếp cận nào đến trợ cấp thất nghiệp. Nhiều người đã trở về hàng của họ. Những người khác đã chấp nhận giảm lương và mất các trợ cấp nhà máy. Sự oán giận đã tích tụ; hàng ngàn cuộc biểu tình và đình công trong nước – hơn 120.000 trong một năm – được giữ không cho công chúng biết; sự căng thẳng đã sâu thêm.
Khi nền kinh tế đã phục hồi, nhà nước đã thử để cho một chút áp lực xì ra. Nó được ủng hộ trong khi một số cuộc đình công công khai đã xảy ra trong các nhà máy sở hữu nước ngoài, một sự thay đổi lập trường được nhiều nhà quan sát nước ngoài diễn giải như một điểm bước ngoặt. Đấy có thể là tư duy tự ru ngủ. Các vùng nông thôn vẫn chiếm 40 phần trăm lực lượng lao động Trung Quốc – 400 triệu người tiều tụy trong các điều kiện ảm đạm, nhiều người đợi để bị kéo vào precariat. Cho dù đã không có sự tăng nhanh nào về năng suất trong các xưởng công nghiệp đó, mà là không chắc có nhất, một cung lao động sẽ vẫn có đó trong nhiều năm. Vào thời gian sự dư thừa cạn đi và tiền lương tăng lên ở Trung Quốc và ở các nền kinh tế thị trường mới nổi khác ở châu Á, các tác động kéo xuống đối với tiền lương và các điều kiện lao động ở các xã hội tertiary (dịch vụ) giàu của ngày hôm nay, chủ yếu ở châu Âu và Bắc Mỹ, sẽ phải hoàn tất.
Một số nhà bình luận tin rằng cái chúng ta có thể gọi là ‘pha precariat’ của sự phát triển Trung Quốc đang đến một sự kết thúc bởi vì số người lao động trẻ, nhóm chính của các denizen tạm thời, đang giảm. Để đặt những sự khẳng định như vậy vào viễn cảnh, sẽ vẫn có hơn 200 triệu người Trung Quốc có tuổi từ 15 đến 29 trong 2020, và năm trong mỗi sáu người lao động nông thôn dưới tuổi 40 vẫn nói họ sẵn sàng để di cư vì các việc làm tạm thời đó.
Các điều kiện lao động di cư của Trung Quốc không phải là tình cờ. Các thương hiệu quốc tế đã chọn các sự thực hành mua hàng trái luân thường đạo lý, dẫn đến các điều kiện dưới chuẩn trong chuỗi cung của chúng. Walmart, nhà bán lẻ lớn nhất thế giới, nhận US$30 tỷ hàng hóa rẻ từ các chuỗi cung này hàng năm, mà đã giúp những người Mỹ sống vượt quá khả năng của họ. Các công ty khác đã có khả năng làm tràn ngập thị trường thế giới với các đồ dùng rẻ một cách nhân tạo của chúng. Các nhà thầu địa phương đã sử dụng các phương pháp lạm dụng bất hợp pháp để làm tăng sự hiệu quả ngắn hạn, gây ra những mối bất bình và phản kháng nơi làm việc. Các quan chức địa phương Trung Quốc, trong sự đồng lõa với ban quản lý doanh nghiệp, đã bỏ qua một cách có hệ thống các quyền của người lao động, dẫn đến cảnh khổ cực và những sự bất bình đẳng sâu hơn.
Bất chấp những căng thẳng tăng lên, hệ thống đăng ký hộ khẩu vẫn được duy trì. Hàng triệu cư dân đô thị vẫn là các denizen, thiếu quyền hưởng đối với trường học, chăm sóc sức khỏe, nhà ở và trợ cấp nhà nước. Mặc dù chín năm đầu của việc học ở trường được cho là miễn phí cho tất cả, những người di cư bị buộc gửi con của họ vào các trường tư hay gửi chúng về quê. Bởi vì các khoản chi trả trường học hàng năm có thể tương đương với tiền công nhiều tuần, hàng triệu trẻ con của những người di cư ở lại nông thôn, hiếm khi thấy cha mẹ chúng.
Cải cách các quy tắc hộ khẩu đến chậm chạp. Trong 2009, thành phố Thượng hải đã tuyên bố rằng từ nay trở đi bảy năm làm việc trong thành phố sẽ trao quyền cho ai đó có một hộ khẩu, chừng nào họ đã đóng thuế và các khoản đóng góp an sinh xã hội. Tuy vậy, những người di cư thiếu hộ khẩu hầu hết có các hợp đồng không thỏa đáng và không đóng thuế hay đóng cho quỹ phúc lợi. Chỉ 3.000 trong số hàng triệu người nhập cư của Thượng hải đã kỳ vọng đủ tiêu chuẩn cho một hộ khẩu theo quy tắc mới.
Trong lúc đó, những người di cư duy trì một liên kết với miền quê bởi vì nó cung cấp sự an toàn nào đó, kể cả các quyền cho một nhà cửa vườn tược và để canh tác một mảnh đất nhỏ. Đấy là vì sao hàng triệu người lũ lượt ra khỏi các thành phố quanh Tết nguyên đán, quay về làng của họ để quây quần với người thân, để làm mới lại các mối quan hệ và để giữ gìn đất. Sự căng thẳng do là một công nhân trôi nổi đã được tóm tắt bởi một điều tra của Đại học Nhân dân (Trung Quốc) trong 2009, mà đã cho thấy rằng một phần ba của những người di cư trẻ đã mong muốn để xây dựng một căn nhà trong làng mình hơn là mua một căn trong một thành phố. Chỉ 7 phần trăm đã nhận diện mình như dân thành phố.
Địa vị denizen của những người di cư được củng cố bởi sự thực rằng họ không thể bán đất hay nhà của họ. Nơi nương tựa nông thôn của họ gây trở ngại cho họ để bén rễ trong các vùng đô thị và ngăn cản sự tăng năng suất và thu nhập nông thôn thông qua tập trung đất đai. Những người vùng nông thôn cung cấp một sự bao cấp cho lao động công nghiệp, làm cho có thể để giữ tiền công thấp dưới mức tồn tại, như thế làm cho các mặt hàng lạ lùng đó còn rẻ hơn cho những người tiêu dùng của thế giới. Cải cách đất đai đã dưới sự xem xét. Nhưng Đảng Cộng sản đã sợ các hậu quả. Rốt cuộc, khi khủng hoảng toàn cầu giáng xuống, hệ thống nông thôn đã hoạt động như một van an toàn, với hàng triệu người trở về quê.
Precariat Trung Quốc dễ là nhóm lớn nhất như vậy trên thế giới. Các thế hệ trước của các nhà khoa học xã hội đã có thể gọi họ là nửa-vô sản. Nhưng không có lý do nào để nghĩ họ đang trở thành những người vô sản. Thứ nhất, các việc làm ổn định phải đến và ở lại. Điều đó không chắc xảy ra và chắc chắn sẽ không đến trước khi những căng thẳng xã hội trở nên đáng sợ.
Trong khi các nhà chức trách đang tổ chức sự di cư hàng loạt, lực lượng lao động trôi nổi đã gây ra một mối đe dọa cho dân địa phương, tạo ra những căng thẳng sắc tộc rồi. Một thí dụ đã là việc chính phủ tổ chức chuyên chở những người Uighur Muslim, nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ qua 3.000 dặm để lao động trong nhà máy đồ chơi Xuri ở Quảng Đông. Những người Uighur, đã trọ ở gần đa số người Hán, được trả thấp hơn những người Hán bị họ thay thế rất nhiều. Trong tháng Sáu 2009, trong các vụ náo loạn về sự được cho là hãm hiếp một phụ nữ địa phương, một đám đông người Hán đã giết hai người Uighur. Khi tin được chuyển đến tỉnh Tân Cương ở Tây-Bắc, quê hương của những người Uighur, các cuộc biểu tình đường phố đã nổ ra ở Urumqi, thủ phủ của tỉnh, dẫn đến nhiều người chết.
Sự cố nhà máy đồ chơi đã là một tia lửa. Hàng năm trời, chính phủ đã chuyển người từ các vùng thu nhập thấp đến các tỉnh phía đông giàu có được thả phao bởi sự tăng trưởng do xuất khẩu dẫn dắt. Hơn 200.000 người từ Tân Cương đã di chuyển trong chỉ một năm, ký các hợp đồng một đến ba năm trước khi du hành để sống trong các khu chung cư ẩm ướt tù túng của nhà máy. Họ đã đang tham gia vào một quá trình nhanh khác thường. Các bất động sản công nghiệp đã mọc lên hầu như một sớm một chiều. Nhà máy đồ chơi đó đã là một vườn cây ăn quả mới chỉ ba năm trước. Những người di cư đã là một cộng đồng lập tức. Một cách tượng trưng, một màn hình TV khổng lồ do Pepsi tài trợ được đặt trên nền của một cột tháp điện cao thế bên ngoài cổng nhà máy, nơi hàng trăm người đã tụ tập mỗi đêm để xem các phim kung fu sau ca của họ.
Xoa dịu một lực lượng lao động lưu động là khá khó. Nhưng quy mô của sự di chuyển đã nhất định gây nên căng thẳng. Như một công nhân người Hán đã nói với một nhà báo, ‘Họ càng nhiều, thì các mối quan hệ càng trở nên xấu’. Trong các cuộc náo loạn đó, những người Uighur đã cho rằng số người chết của họ đã bị ước lượng thấp và rằng cảnh sát đã không bảo vệ họ. Dẫu sự thật là gì, bạo lực đã là một kết cục hầu như không thể tránh được của sự di cư hàng loạt của những người lao động tạm thời ngang qua các nền văn hóa xa lạ.
Di cư nội bộ ở Trung Quốc là quá trình di cư lớn nhất mà thế giới đã từng biết. Nó là một phần của sự phát triển của một hệ thống thị trường lao động. Những người di cư đó đang có một tác động lên việc lao động được tổ chức và được đền bù thế nào trong mọi phần của thế giới.
Các chế độ xuất khẩu lao động đang nổi lên
Một nét đặc điểm ban đầu của toàn cầu hóa đã là vài nền kinh tế thị trường mới nổi, nhất là ở Trung Đông, đã trở thành các nam châm cho sự di cư từ các phần khác của thế giới. Trong 2010, 90 phần trăm của lực lượng lao động của các Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất (UAE) đã là người nước ngoài; ở Qatar và Kuwait, hơn 80 phần trăm; và ở Saudi Arabia, 50 phần trăm. Trong suy thoái, các nhà chức trách chỉ thị các hãng sa thải những người nước ngoài đầu tiên. Tại Bahrain, nơi những người nước ngoài giữ 80 phần trăm của các việc làm khu vực tư nhân, chính phủ đòi trả 200 dinar Bahraini (US$530) cho mỗi visa làm việc và 10 dinar một tháng cho mỗi nhân viên nước ngoài. Kể từ 2009, nó đã cho phép người nước ngoài bỏ chủ bảo trợ của họ, cho họ bốn tuần để tìm việc làm mới trước khi họ phải rời Bahrain.
Hình thức này của di cư đã lan rộng, như thế các nhóm từ các nước nghèo nhất có thể được tìm thấy đang lao động trong sự bất tiện và áp bức ở các nước trên cao hơn của phổ thu nhập. Trong quá trình, hàng triệu người di cư lao động như bất cứ gì, từ các vú nuôi và những người rửa bát đĩa đến công nhân bốc vác ở cảng, đang gửi tiền về các nước thu nhập thấp nhiều hơn viện trợ chính thức. Ngân hàng Thế giới đã ước lượng rằng các công nhân nước ngoài đã gửi US$328 tỷ từ các nước giàu hơn về các nước nghèo hơn trong 2008, gấp ba lần toàn bộ viện trợ của các nước OECD. Riêng Ấn Độ đã nhận US$52 tỷ từ kiều dân của nó.
Tuy vậy, một hiện tượng mới đã nổi lên, dưới hình thức của sự chuyển được tổ chức hàng loạt người lao động từ Trung Quốc, Ấn Độ và các nền kinh tế thị trường Á châu khác. Về mặt lịch sử, loại thực hành này đã là một sự chảy nhỏ giọt, với các chính phủ và các công ty gửi vài người đi làm việc ở nước ngoài trong một thời gian ngắn. Trong đầu thời đại toàn cầu hóa, phần lớn đã là xuất khẩu có tổ chức của các hầu gái Filipina và những người lao động liên quan, thường với trói buộc cá nhân để đảm bảo sự trở về của họ. Ngày nay, 9 triệu Filipino làm việc ở nước ngoài, khoảng một phần mười dân số Philippines; kiều hối của họ chiếm 10 phần trăm của tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Các nước khác đã ghi chép.
Dẫn đầu bởi Trung Quốc, các chính phủ và các doanh nghiệp lớn của chúng đang tổ chức xuất khẩu một cách có hệ thống hàng trăm ngàn người lao động tạm thời của chúng. ‘Chế độ xuất khẩu lao động’ này đang giúp làm biến đổi thị trường lao động toàn cầu. Ấn Độ làm việc đó theo những cách khác. Kết quả là các đoàn quân lao công được huy động và chuyển quanh thế giới.
Trung Quốc đã tận dụng lợi thế của sự kết hợp của các công ty nhà nước lớn của nó với sự tiếp cận đến vốn tài chính và một cung lao động khổng lồ cam chịu làm việc vì một thù lao rẻ mạt. Tại châu Phi, Trung Quốc đang vận hành một biến thể của Kế hoạch Marshall, được Hoa Kỳ chấp nhận để giúp Tây Âu phục hồi từ sự tàn phá của Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Bắc Kinh cung cấp các khoản vay chi phí thấp cho các chính phủ Phi châu để xây dựng cơ sở hạ tầng cần cho các nhà máy Trung Quốc. Rồi nó nhập khẩu các công nhân Trung Quốc để làm phần lớn công việc.
Trung Quốc đang thắng các hợp đồng ở nơi khác nữa, sử dụng công nhân riêng của nó để tiến hành các công việc xây dựng các nhà máy điện, các nhà máy, đường sắt, đường bộ, các tuyến metro, các trung tâm hội nghị và các sân vận động. Vào cuối 2008, theo Bộ Thương mại Trung Quốc, 740.000 người Trung Quốc đã được thuê làm việc ở nước ngoài một cách chính thức, trong các nước đa dạng như Angola, Indonesia, Iran và Uzbekistan. Con số đang tăng. Các nhà quản lý dự án Trung Quốc báo cáo họ thích các công nhân Trung Quốc bởi vì quản lý họ dễ hơn, theo Diao Chunhe, giám đốc Hội Nhà thầu Quốc tế Trung Quốc. Có lẽ làm hoảng sợ là một từ hay hơn từ quản lý.
Các nhà môi giới lao động Trung Quốc cũng đang phát đạt. Tiếp theo một thỏa thuận năm 2007 giữa chính phủ Trung Quốc và Nhật Bản, số đông các lao động trẻ Trung Quốc đã bị xui khiến để trả cho các nhà môi giới các khoản phí lớn và, một khi đã được chở sang Nhật Bản, buộc phải bảo đảm các khoản trả thêm khi họ bắt đầu có thu nhập. Bị nhử bởi lời hứa về ‘học’ các kỹ năng về một sơ đồ đã được chính phủ họ thông qua, những người di cư bị trói buộc đang lao công trong tình trạng nô lệ thực sự trong chế biến thực phẩm, xây dựng, và các hãng sản xuất quần áo và điện mà trong đó họ được tập trung (Tabuchi, 2010). Họ buộc phải làm việc tuần làm việc dài vì đồng lương dưới tối thiểu trong một nước nơi sự hiện diện của họ bị oán giận và nơi họ không thể mong chờ sự ủng hộ chế định nào khi đối mặt với sự coi thường các quy định.
Nhiều người bị cô lập, ở các vùng xa xôi, sống trong các chung cư công ty, bị cấm đi xa nơi làm việc của họ, không có khả năng nói tiếng Nhật. Cái bẫy lao động trói buộc có nghĩa là họ sợ bị tống về nước trước khi họ kiếm đủ tiền để trả nợ của họ cho các nhà môi giới, tương đương với hơn một năm lương. Trừ phi họ có thể trả, họ bị rủi ro mất một sở hữu của họ, nhà của họ ở Trung Quốc, thường được thế chấp trước khi họ cắn mồi. Mặc dù một số người có thể có được các kỹ năng, hầu hết là trong precariat toàn cầu, một nguồn lao động bấp bênh mà hoạt động như một cái đòn bẩy để hạ các tiêu chuẩn cho những người khác.
Nhật Bản không phải là trường hợp cô độc. Trong tất cả các nơi, do địa vị mẫu mực của nó cho các nhà dân chủ xã hội, Thụy Điển đã thấy mình là trung tâm của sự chú ý phê phán vào giữa-2010 khi được tiết lộ rằng hàng ngàn người nhập cư Trung Quốc, Việt Nam và Bangladesh đã được đưa vào, nhiều người với visa du lịch, để lao động trong các rừng miền bắc Thụy Điển hái các quả dại như dâu mâm xôi, việt quất và dâu lingon cho việc sử dụng trong mỹ phẩm, các loại syrup dược và các thực phẩm bổ sung. Tiền công và các điều kiện làm việc cho những người hái là khét tiếng xấu, và các hãng đã sử dụng các nhà thầu để đưa en masse (hàng loạt) những người Á châu vào. Đã lộ ra rằng họ đã bị nhồi nhét vào các chỗ ở bẩn thỉu thiếu vệ sinh cơ bản, không có quần áo ấm hay chăn cho các điều kiện đêm giá lạnh. Khi một số thậm chí đã không được trả tiền công, họ đã phải viện đến việc khóa các sếp lại, kéo sự chú ý đến cảnh ngộ của họ.
Bộ Di trú Thụy Điển đã thú nhận rằng nó đã cấp giấy phép lao động cho 4.000 người Á châu nhưng đã nói nó không thể theo dõi sự lạm dụng bởi vì nó không có thẩm quyền làm vậy. Nghiệp đoàn Công nhân Thành phố, Kommunal, đã được trao quyền để tổ chức những người hái nhưng đã thú nhận rằng nó đã không thể đạt thỏa thuận với các công ty bởi vì các đại lý tuyển nhân viên đã ở châu Á. Chính phủ đã có quan điểm tương tự (Saltmarsh, 2010). Một người phát ngôn cho bộ di trú đã xác nhận, ‘Là khó cho chính phủ để hành động đối với các hợp đồng được ký ở nước ngoài’. Hay đã có phải là trường hợp về những người Thụy Điển trung lưu muốn các quả dâu của họ?
Đấy là các cuộc cãi cọ nhỏ trong một bức tranh lớn hơn. Chế độ xuất khẩu lao động đã có thể là một sự báo hiệu về hệ thống lao động toàn cầu sẽ đến. Nó dẫn đến các cuộc biểu tình và bạo lực chống lại các công nhân Trung Quốc và các nỗ lực của các nước như Việt nam và Ấn Độ nhằm cải cách các luật lao động để hạn chế số công nhân Trung Quốc và là khó để phủ nhận rằng những người Trung Quốc đang lấy các việc làm từ những người địa phương, ở lại sau thời kỳ hợp đồng và cô lập mình trong các khu biệt lập, giống như các cộng đồng lính Mỹ quanh thế giới.
Mặc dù Việt nam cấm nhập khẩu các công nhân không có kỹ năng và đòi hỏi các nhà thầu nước ngoài thuê người Việt Nam cho các dự án xây lắp công trình, 35.000 công nhân Trung Quốc đang ở trong nước. Nhiều người đã bị nhồi vào các khu chung cư bẩn thỉu giống như tu viện nơi các hãng Trung Quốc trúng các hợp đồng chính phủ (Wong, 2009), bỏ qua các quy định bằng đưa hối lộ. Có toàn bộ các làng được chiếm bởi những người nhập cư Trung Quốc. Trong một công trường ở cảng Hải Phòng, một phố Tàu đã mọc lên, với các khu nhà ở, các tiệm ăn, các hiệu xoa bóp và vân vân. Một nhà quản lý lắp đặt đã tổng kết, ‘tôi đã được cử đến đây, và tôi đang thực hiện nghĩa vụ yêu nước của mình’. Các công nhân Trung Quốc bị tách riêng theo các nhóm nghề nghiệp, như các thợ hàn, các thợ điện và những người điều khiển cần cẩu. Một câu thơ trên cửa của một khu cung cư ghi, ‘Chúng ta tất cả là những người trôi nổi quanh thế giới. Chúng ta gặp nhau, nhưng chẳng bao giờ thực sự biết nhau’. Người ta chắc chắn không thể hình dung nổi một thông điệp chua cay hơn từ precariat toàn cầu.
Sự giận dữ đã trào lên trong 2009 khi chính phủ Việt Nam trao một hợp đồng cho Công ty Nhôm Trung Quốc để khai mỏ bauxite, sử dụng công nhân Trung Quốc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thần tượng của Chiến tranh Việt Nam ở tuổi 98, đã gửi ba thư ngỏ cho các lãnh đạo đảng để phản đối sự hiện diện tăng lên của người Trung Quốc. Đáp lại tình trạng náo động, chính phủ đã bắt giam các nhà bất đồng chính kiến, đóng cửa các blog phê phán và đã lệnh cho các báo ngừng tường thuật về việc sử dụng lao động Trung Quốc. Nó cũng đã làm một trò diễn về thiết chặt visa và các đòi hỏi giấy phép làm việc và một cử chỉ dân túy, trục xuất 182 công nhân khỏi một nhà máy xi măng. Tuy vậy, nó đã không thể quá to tiếng, vì nó cũng đã xây dựng một chế độ xuất khẩu lao động. Với 86 triệu dân, khả năng của nó để làm vậy là lớn. Có rồi một nửa triệu người Việt nam đang làm việc ở nước ngoài trong mười bốn nước, theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Khi Lào thắng thầu để làm chủ nhà SEA Games, Trung Quốc đã đề nghị xây dựng một ‘khu nhà bể bơi’ bên ngoài thủ đô Vientiane để đổi lấy việc thuê 50 năm trên 1.600 hectar đất loại một, nơi Công ty Đầu tư Hải ngoại Khu Công nghiệp Suzhou của Trung Quốc đã muốn xây dựng các nhà máy. Các cuộc biểu tình đã nổ ra khi được biết rằng công ty mang vào 3.000 lao công Trung Quốc để làm công việc xây dựng. Đất thuê sau đó đã bị cắt xuống còn 200 hectar. Nhưng cái nêm đã được chêm vào.
Có một yếu tố nham hiểm hơn trong chế độ xuất khẩu lao động này. Trung Quốc có số tù nhân lớn nhất thế giới, được ước lượng quanh 1,6 triệu trong 2009. Chính phủ cho phép các hãng sử dụng tù nhân như lao động trên các dự án hạ tầng cơ sở khắp châu Phi và châu Á, như được minh họa bằng thí dụ bởi việc sử dụng hàng ngàn người bị kết án tù ở Sri Lanka (Chellaney, 2010). Trung Quốc đã tự xác lập mình như nhà xây dựng đập hàng đầu thế giới, và lực lượng lao động precariat đặc biệt của nó đã là một phần của nỗ lực đó. Những người bị kết án tù được thả vì đã hứa cho các dự án như vậy và được dùng như các lao công ngắn hạn, mà không có bất cứ triển vọng ‘sự nghiệp’ nào. Trong lúc họ làm giảm các cơ hội việc làm của dân địa phương, không nghi ngờ gì họ ‘dễ quản lý hơn’.
Trung Quốc đang chuyển chế độ xuất khẩu lao động của nó vào Châu Âu. Do hậu quả của khủng hoảng tài chính, nó đã tận dụng các khoản dự trữ ngoại hối khổng lồ của nó để mua các tài sản có giá bị ấn xuống ở ven rìa Châu Âu, tập trung vào các cảng ở Hy Lạp, Ý và nơi khác, và cung cấp hàng tỷ dollar cho các dự án hạ tầng cơ sở công cộng sử dụng các hãng và các công nhân Trung Quốc. Trong 2009, Trung Quốc đã đánh bại các hãng Âu châu khi thắng thầu để xây dựng một đường cao tốc ở Ba Lan sử dụng công nhân Trung Quốc và trợ cấp Âu châu.
Ấn Độ cũng đang di chuyển vào hội. Hơn 5 triệu người Ấn Độn đang làm việc ở nước ngoài, 90 phần trăm số họ ở vùng Vịnh Persia. Năm 2010, chính phủ Ấn Độ đã công bố các kế hoạch cho một ‘quỹ trở về và tái định cư’ dựa trên đóng góp cho những người lao động ở nước ngoài mà sẽ cung cấp trợ cấp khi họ về nước. Nó cũng đã lập một Quỹ Phúc Lợi Cộng đồng Ấn Độ để cung cấp sự trợ giúp khẩn cấp cho những người lao động ‘bị đau khổ’ trong mười bảy nước. Đây là một hệ thống an sinh xã hội song song, một tiền lệ nguy hiểm. Quỹ hỗ trợ các đối sách phúc lợi, kể cả thực phẩm, chỗ ở, sự trợ giúp hồi hương và sự trợ cấp. Các công nhân này không phải giữa những người nhèo nhất của Ấn Độ, cho dù họ bị bóc lột và áp bức. Sơ đồ là một sự bao cấp cho những người lao động dám mạo hiểm và cho các nước thuê họ. Nó làm giảm các áp lực lên các chính phủ để cung cấp cho những người di cư an sinh xã hội trong khi làm cho rẻ hơn cho các hãng để sử dụng lao động Ấn Độ. Các hậu quá sẽ là gì nếu nhiều nước noi gương Ấn Độ?
Ấn Độ đã đàm phán các thỏa thuận an sinh xã hội với Thụy Sĩ, Luxembourg và Hà lan, và trong các cuộc thương thuyết với các quốc gia khác có lực lượng lao động Ấn Độ nhập cư lớn. Các thỏa thuận phủ các thực hành tuyển dụng, các điều kiện về việc làm và phúc lợi đã đạt được với Malaysia, Bahrain và Qatar. Đây là một phần của quá trình lao động toàn cầu. Nó có vẻ đầy rủi ro đạo đức và trái đạo đức.
Hàng triệu người di cư bị kéo vào các chế độ xuất khẩu lao động là một phần của chính sách đối ngoại và thương mại. Họ hạ thấp các chi phí sản xuất và tạo thuận lợi cho dòng vốn vào các nước gửi, dưới dạng kiều hối. Họ là một nguồn lao động cực kỳ rẻ, mà hoạt động giống một precariat khổng lồ và dồn các thị trường lao động của nước chủ nhà theo các hướng tương tự. Nếu nó đã thấy ở Việt Nam, Uganda, Lào, Thụy Điển và nơi khác, chúng ta phải nhận ra chúng ta đang thấy một hiện tượng toàn cầu mà quả thực tăng rất nhanh. Các chế độ xuất khẩu lao động đang tận dụng tối đa các điều kiện lao động ở các nước tiếp nhận. Những người di cư được dùng để nêu bật sự tăng trưởng của precariat toàn cầu.
Các suy ngẫm kết luận
Những người di cư là bộ binh nhẹ của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Số lượng to lớn ganh đua với nhau vì việc làm. Hầu hết phải chịu đựng các hợp đồng ngắn hạn, với tiền công thấp và ít trợ cấp. Quá trình có hệ thống, chứ không phải tình cờ. Thế giới đang trở nên đầy denizen.
Sự phổ biến của nhà nước quốc gia đã làm cho ‘sự thuộc về một cộng đồng mà trong đó người ta sinh ra không còn là một việc tất nhiên và sự không thuộc về không còn là một vấn đề lựa chọn’ (Arendt, [1951] 1986: 286). Những người di cư hôm nay hiếm khi là vô quốc gia theo một nghĩa de jure (về pháp lý); họ không bị đuổi khỏi nhân loại. Nhưng họ thiếu an ninh và cơ hội cho tư cách thành viên của các nước nơi họ chuyển tới. Họ ‘bị tước tư cách công dân (de-citizenised)’, là các denizen de facto (về thực tế), ngay cả trong chính nước họ, như ở Trung Quốc.
Nhiều người di cư là ‘các vị khách hầu như không được tha thứ’ (Gibney, 2009: 3). Một số nhà quan sát (như Soysal, 1994) tin rằng các khác biệt của các công dân và không-công dân đã tàn đi, do các chuẩn quyền con người hậu-quốc gia. Nhưng nhiều người hơn thấy một lỗ hổng tăng lên giữa các quyền hưởng hợp pháp hình thức và các thực hành xã hội (thí dụ, Zolberg, 1995). Cái chúng ta có thể nói là, trong một hệ thống mở linh hoạt, cần đến hai meta-an-ninh cho việc thực hiện các quyền – an ninh thu nhập cơ bản và an ninh Lên tiếng. Các denizen thiếu sự Lên tiếng. Trừ khi tuyệt vọng, họ cúi đầu, hy vọng không bị để ý khi họ tiếp cục công việc mưu sinh hàng ngày của họ. Các công dân có sự an ninh vô giá về không bị trục xuất hay lưu đày, mặc dù đã có những sơ xuất đáng lo thậm chí ở đó. Họ có thể vào và ra khỏi nước họ; các denizen chẳng bao giờ chắc chắn.
Sự kết hợp của một precariat gồm những người di cư, một hệ thống trợ giúp xã hội dựa trên thuế và một hệ thống thuế, thu chủ yếu từ những người quanh thu nhập trung vị, làm nổi bật sự thù địch đối với những người di cư và ‘những người nước ngoài’. Cấu trúc mà để những người đóng thuế cảm thấy họ đang chi trả các hóa đơn cho những người di cư nghèo có nghĩa các sự căng thẳng không thể bị gạt bỏ như định kiến chủng tộc. Chúng phản ánh sự từ bỏ chủ nghĩa phổ quát và sự đoàn kết xã hội.
Những căng thẳng đang tăng. Theo một thăm dò dư luận 2009 ở sáu nước Âu châu và Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh đã thù địch nhất đối với những người di cư, với gần 60 phần trăm tin họ đã lấy việc làm khỏi dân bẩm sinh. Con số này được so sánh với 42 phần trăm những người Mỹ, 38 phần trăm những người Tây ban nha, 23 phần trăm những Ý và 18 phần trăm những người Pháp. Tại Hà Lan một đa số tin những người di cư đã làm tăng tội phạm. Vương Quốc Anh đã có phần cao nhất (44 phần trăm) của người dân nói rằng dân di cư hợp pháp phải không có một quyền ngang nhau đến trợ cấp, tiếp theo là Đức, Hoa Kỳ, Canada, Hà Lan và Pháp. Các thăm dò trong 2010 đã cho thấy một tập tồi đi của các thái độ ở mọi nơi.
Trong các nước OECD giàu có, sự di cư dính đến một bẫy precarity đặc biệt. Tiền lương thực tế và các việc làm với tiềm năng sự nghiệp đang giảm sút, gây ra một hiệu ứng thất vọng địa vị. Những người trở thành thất nghiệp đối mặt triển vọng về các việc làm tiền lương thấp hơn và ít nội dung nghề nghiệp hơn. Là không công bằng để phê phán họ vì sự oán giận điều này hay miễn cưỡng để mất hy vọng vào các kỹ năng kiếm được lâu và các mong đợi. Trong lúc đó, những người di cư đến từ các nơi họ đã có thu nhập và mong đợi thấp hơn, khiến họ sẵn sàng hơn để chấp nhận các việc làm một phần thời gian, ngắn hạn và hạn chế về nghề nghiệp. Các chính trị gia chơi lá bài dân túy, đổ lỗi kết cục cho sự lười biếng của những người địa phương, bằng cách ấy biện minh cả cho sự kiểm soát nhập cư chặt chẽ hơn và cho sự cắt trợ cấp lớn hơn đối với những người thất nghiệp. Việc này biến hai nhóm thành quỷ, đó là việc sẽ làm vừa lòng giai cấp trung lưu, phô bày các nhà vị lợi hiện đại vào lúc cơ hội chủ nghĩa nhất của họ. Không phải ‘sự lười biếng’ hay sự di cư là sai lầm; nó là bản chất của thị trường lao động linh hoạt.
Thay vào đó, trong đàm luận công khai những người di cư ngày càng được phô bày như ‘bẩn thỉu, nguy hiểm và ghê tởm’. Họ ‘mang vào’ bệnh tật và các thói quen xa lạ, là một mối đe dọa đối với ‘việc làm và cách sống của chúng ta’, là ‘các nạn nhân bị suy đồi’, các gái điếm hay các cảnh tượng buồn của nhân loại được buôn lậu vào. Kết cục của những thái độ thô lỗ này là nhiều cảnh binh bảo vệ biên giới hơn và các điều kiện khó khăn hơn cho sự đi vào. Chúng ta thấy cái sau trong các hệ thống điểm và các bài kiểm tra tư cách công dân có tính trẻ con được chấp nhận trong một số nước. Các nét dị thường của vài người được phô bày như các xu hướng bình thường mà để chống lại chúng nhà nước phải hết sức phòng ngừa. Những người di cư ngày càng bị cho là có tội cho đến khi họ có thể chứng minh mình là vô tội.
Ở phía sau, cái đã xảy ra là một sự làm trầm trọng thêm của tính thù nghịch được thổi bùng lên bởi các chính trị gia dân túy và các nỗi sợ rằng Đại Suy thoái đang trở thành sự suy sụt dài hạn. Chúng ta sẽ quay lại điều đó một khi chúng ta xem xét một khía cạnh khác của precariat, việc nó mất sự kiểm soát thời gian.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:30:14 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (chương 5)
LA0 ĐỘNG, CÔNG VIỆC VÀ SỰ SIẾT THỜI GIAN
Chúng ta không thể hiểu thấu khủng hoảng Biến đổi Toàn cầu, và áp lực tích tụ lên precariat, mà không đánh giá đúng xã hội thị trường toàn cầu đang làm gì cho cảm nhận của chúng ta về thời gian.
Về lịch sử, mỗi hệ thống sản xuất đã hoạt động với một quan niệm cá biệt về thời gian như cấu trúc chỉ dẫn của nó. Trong xã hội nông nghiệp, lao động và công việc đã được thích nghi theo nhịp điệu của các mùa và các điều kiện thời tiết. Bất kể ý tưởng nào về một ngày làm việc đều đặn 10 hay 8-giờ đã là phi lý. Đã chẳng có ích gì trong việc cố đi cày hay thu hoạch trong mưa tầm tã. Thời gian có thể đã không đợi ai cả, nhưng con người đã tôn trọng các nhịp điệu và những biến đổi đột biến của nó. Điều đó vẫn thế trong nhiều phần của thế giới.
Tuy vậy, với công nghiệp hóa sự tổ chức thời gian đã đến. Giai cấp vô sản mới sinh được đồng hồ khép vào kỷ luật, như sử gia E. P. Thompson (1967) đã ghi tao nhã đến vậy vào biên niên sử. Một xã hội thị trường công nghiệp quốc gia đã nổi lên, dựa vào sự tôn trọng bị ép buộc đối với thời gian, lịch và đồng hồ. Trong văn học, điều kỳ diệu của nó đã được cuốn Vòng quanh Thế giới trong 80 ngày của Jules Verne tóm lấy. Sự định thời gian của cuốn sách đó, và sự hấp dẫn nó đã khuấy động giữa những người thời Victoria trong các năm 1870, đã không phải là sự trùng khớp ngẫu nhiên. Năm mươi năm sớm hơn, nó đã có vẻ là phi lý; 50 năm muộn hơn, nó đã có thể là không đủ kỳ lạ để kích thích sự tưởng tượng.
Với sự quá độ từ các xã hội nông thôn sang các thị trường quốc gia dựa vào công nghiệp, và từ đó sang một hệ thống thị trường toàn cầu được điều chỉnh cho hợp với các dịch vụ, hai sự thay đổi về thời gian đã xảy ra. Thứ nhất đã là sự không tôn trọng gia tăng đối với đồng hồ sinh học 24 giờ. Trong thế kỷ thứ mười bốn, chẳng hạn các phần khác nhau của nước Anh đã hoạt động với các biến thể địa phương của thời gian, được thích nghi với các ý tưởng truyền thống của nông nghiệp địa phương. Đã cần nhiều thế hệ trước khi nhà nước đã có thể áp đặt một tiêu chuẩn quốc gia. Thiếu sự tiêu chuẩn hóa vẫn còn đây với chúng ta, trong việc chúng ta có một xã hội và nền kinh tế toàn cầu nhưng nhiều múi giờ. Mao đã ép buộc toàn bộ Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh, như một hình thức xây dựng quốc gia. Những người khác đang chuyển theo cùng hướng nhân danh tính hiệu quả kinh doanh. Tại Nga, chính phủ đang lập kế hoạch giảm số vùng thời gian từ mười một xuống năm.
Các vùng thời gian hoạt động bởi vì chúng ta đã quen một cách tự nhiên với ánh sáng ban ngày và đã quen về mặt xã hội với khái niệm về ngày làm việc. Nhịp điệu của thân thể hòa hợp với ánh sáng ban ngày và bóng tối, khi con người ngủ và nghỉ ngơi, phục hồi lại từ các sự ráng sức của ban ngày. Nhưng nền kinh tế toàn cầu không có sự tôn trọng nào đối với sinh lý học con người. Thị trường toàn cầu là một cỗ máy 24/7; nó chẳng bao giờ ngủ hay nghỉ ngơi; nó không có sự tôn trọng nào đối với ánh sáng ban ngày và bóng tối của bạn, đêm và ngày của bạn. Các truyền thống về thời gian là cái gây khó chịu, sự cứng nhắc, các rào cản đối với thương mại và đối với vật tổ (totem) của thời đại, tính cạnh tranh, và ngược với mệnh lệnh của tính linh hoạt. Nếu một nước, hãng hay cá nhân không thích nghi với văn hóa thời gian 24/7, sẽ có một cái giá phải trả. Không còn đúng về ‘con chim dậy sớm bắt được sâu’; chính con chim không ngủ mới là con chim làm vậy.
Sự thay đổi thứ hai liên quan đến chúng ta xử lý bản thân thời gian thế nào. Xã hội công nghiệp đã mở ra một thời kỳ độc nhất trong lịch sử con người, mà đã kéo dài không hơn một trăm năm, của cuộc sống được sắp theo các khối thời gian (time bloc). Các tiêu chuẩn đã được chấp nhận như chính đáng bởi đa số sống trong các xã hội công nghiệp hóa và được xuất khẩu ra khắp thế giới. Chúng đã là một dấu hiệu của nền văn minh.
Xã hội và sự sản xuất hoạt động quanh các khối thời gian, các ý tưởng đồng thời về các chỗ làm việc và chỗ ở cố định. Trong đời, người dân đi đến trường trong một thời gian ngắn, rồi dùng phần lớn đời họ trong lao động hay công việc và sau đó, nếu may, có một giai đoạn ngắn của hưu trí. Trong ‘các năm làm việc’ của họ, họ dậy vào buổi sáng, đi đến nơi làm việc của họ trong 10 hay 12 giờ, hoặc bất cứ gì được quy định trong các hợp đồng được xác định lỏng lẻo của họ, và sau đó về ‘nhà’. Đã có ‘những ngày nghỉ’, nhưng các ngày nghỉ này đã co lại trong công nghiệp hóa, để được thay thế một cách từ từ bằng các khối ngắn của các kỳ nghỉ lễ. Mặc dù hình mẫu đã thay đổi theo giai cấp và giới, điểm chính là thời gian bị chia thành các khối. Đối với hầu hết người dân, có lý để nghĩ họ ở nhà, thí dụ, 10 giờ một ngày, ‘ở nơi làm việc’ trong 10 giờ, thời gian còn lại là cho hòa nhập xã hội. Sự tách biệt ‘nơi làm việc’ và ‘nơi ở’ là hợp lý.
Làm việc, lao động và vui chơi đã là các hoạt động khác nhau, về mặt khi nào chúng được tiến hành và đâu là ranh giới của mỗi thứ bắt đầu và kết thúc. Khi một người đàn ông – và đã điển hình là một người đàn ông – rời nơi làm việc của mình, nơi anh ta đã thường bị kiểm soát trực tiếp, anh ta cảm thấy mình chính là ông chủ của mình, cho dù anh ta đã quá kiệt sức để tận dụng nó, ngoài việc áp đặt các đòi hỏi độc đoán lên gia đình của anh ta ra.
Kinh tế học, thống kê học và chính sách xã hội đã thành hình dựa vào cái phông của xã hội công nghiệp và cách tư duy nó đã gây ra. Chúng ta đã có nhiều tiến bộ kể từ đó, nhưng chúng ta vẫn phải điều chỉnh các chính sách và các định chế. Cái đã nổi lên trong thời đại toàn cầu hóa là một tập các tiêu chuẩn phi chính thức mà gây căng thẳng với các tiêu chuẩn thời công nghiệp mà vẫn thấm vào sự phân tích xã hội, lập pháp và hoạch định chính sách. Thí dụ, thống kê học lao động chuẩn tạo ra các số liệu ấn tượng ngăn nắp cho biết rằng người lớn trung bình ‘làm việc 8,2 giờ một ngày’ (hay có thể là bất kỳ con số nào) trong năm ngày một tuần, hoặc rằng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 75 phần trăm, ngụ ý rằng ba phần tư của dân cư trưởng thành đang làm việc trung bình tám giờ một ngày.
Trong xem xét precariat – và những người khác – phân bổ thời gian thế nào, các con số như vậy là vô ích và gây lầm lạc. Làm cơ sở cho những gì kế tiếp là một lời biện hộ: Chúng ta phải phát triển một khái niệm về ‘thời gian tertiary (khu vực ba)’, một cách để xem chúng ta phân bổ thời gian thế nào cho phù hợp với một xã hội tertiary (dịch vụ), không phải một xã hội công nghiệp hay nông nghiệp.
Công việc là gì?
Mỗi thời đại đã có các tính đặc biệt của nó về cái gì là và cái gì không là công việc (work). Thế kỷ thứ hai mươi đã cũng ngớ ngẩn như bất cứ thế kỷ nào trước nó. Đối với những người Hy Lạp cổ, lao động (labour) được làm bởi các nô lệ và banausoi, những người ngoài, không phải bởi các công dân. Những người mà đã lao động đã có ‘an toàn công ăn việc làm’ nhưng, như Hannah Arendt (1958) đã hiểu, theo cách nhìn Hy Lạp điều đó đã là đáng thương vì chỉ người đàn ông không an toàn mới tự do, một cảm nghĩ được precariat hiện đại hiểu.
Để gợi lại các điểm được đưa ra trong Chương 1, tại Hy Lạp cổ, công việc, như praxis (thực hành; tục lệ), đã được làm vì giá trị sử dụng của nó, với những người thân và bạn bè quanh nhà, trong việc chăm sóc những người khác – tái sinh họ như những người có khả năng tự trở thành các công dân. Công việc đã là về xây dựng tình bạn công dân (philia). Vui chơi đã cần thiết cho sự nghỉ ngơi nhưng, được phân biệt với điều đó, những người Hy Lạp đã có một khái niệm về schole, mà có một nghĩa kép, biểu thị thời gian rảnh rỗi và sự học, được xây dựng quanh sự tham gia vào đời sống của thành phố (polis). Tri thức đến từ sự khoan thai, từ sự yên tĩnh cũng như sự can dự. Aristotle đã tin sự lười biếng (aergia) nào đó là cần thiết cho việc vui hưởng thời gian rỗi đúng đắn.
Các denizen, các banausoi và metic, đã bị từ chối tư cách công dân bởi vì họ đã được cho là không có thời gian để tham gia vào cuộc sống của polis. Ta không muốn bảo vệ một mô hình xã hội có chỗ hỏng – như sự đối xử của họ đối với các nô lệ và phụ nữ và sự phân biệt các loại công việc phù hợp cho các công dân – nhưng sự phân chia thời gian của họ thành (thời gian cho) lao động, công việc, vui chơi và thời gian rỗi là một sự phân chia có ích.
Sau những người Hy Lạp, những người theo chủ nghĩa trọng thương và các nhà chính trị kinh tế học cổ điển như Adam Smith đã gây ra một tình trạng lộn xộn của việc quyết định cái gì là lao động sản xuất, như được thảo luận ở nơi khác (Standing, 2009). Nhưng tính ngu xuẩn của việc quyết định cái gì là công việc và cái gì không là đã đến tới một người vào đầu thế kỷ thứ hai mươi, khi công việc chăm sóc đã bị bỏ xó như chẳng dính dáng gì đến kinh tế. Arthur Pigou, nhà kinh tế học Cambridge ([1952] 2002: 33), đã thừa nhận tính phi lý khi ông châm biếm, ‘Như thế, nếu một người đàn ông lấy cô dọn nhà hay cô nấu ăn của mình làm vợ, thì lợi tức quốc gia bị giảm đi’. Nói cách khác, cái đã là lao động phụ thuộc không phải vào cái gì được làm mà vào nó được làm cho ai. Nó đã là một chiến thắng cho xã hội thị trường đối với lẽ thường tình.
Suốt thế kỷ thứ hai mươi, lao động – công việc có giá trị trao đổi – đã được đặt lên một cái bệ, còn tất cả công việc mà không là lao động đã không được đếm xỉa đến. Như thế công việc được làm vì tính hữu ích vốn có của nó không xuất hiện trong các số thống kê lao động hay trong lối nói hoa mỹ chính trị. Ngoài sự thành kiến giới của nó, điều này là không thể bảo vệ được vì các lý do khác nữa. Nó hạ cấp và hạ giá trị của một số hoạt động cần thiết và có giá trị nhất – sự tái tạo các năng lực của chính chúng ta cũng như các năng lực của thế hệ tương lai và các hoạt động duy trì sự tồn tại xã hội của chúng ta. Chúng ta cần thoát khỏi cái bẫy lao động chủ nghĩa. Không nhóm nào cần việc đó xảy ra nhiều hơn precariat.
Nơi làm việc tertiary (khu vực ba)
Trước khi đi thêm vào công việc (work), chúng ta có thể nêu bật một sự thay đổi lịch sử liên quan. Sự phân biệt cổ điển giữa nơi làm việc và nhà ở đã được hình thành trong thời đại công nghiệp. Trong xã hội công nghiệp, khi các quy định thị trường lao động, luật lao động và hệ thống an sinh xã hội của ngày hôm nay đã được xây dựng, chuẩn đã là một nơi làm việc cố định. Đó đã là nơi mà giai cấp vô sản đã đi tới mỗi buổi sáng sớm hay theo ca – các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền và các xưởng đóng tàu – và nơi salariat (giai cấp hưởng lương) đã đi tới, muộn hơn một chút vào ban ngày. Mô hình đó đã sụp đổ.
Như đã lưu ý trong Chương 2, một số nhà quan sát đã nhắc đến hệ thống sản xuất ngày nay như một ‘nhà máy xã hội’, để ngụ ý rằng lao động được làm ở mọi nơi và rằng kỷ luật hay sự kiểm soát đối với lao động được thực hiện ở mọi nơi. Nhưng các chính sách vẫn dựa vào giả định rằng có lý để vạch ra những sự phân biệt sắc nét giữa nơi làm việc và nhà ở, và giữa nơi làm việc và nơi công cộng. Trong một xã hội thị trường tertiary, điều đó không có ý nghĩa gì.
Những thảo luận về ‘sự cân bằng công việc–cuộc sống’ là nhân tạo một cách tương tự. Nhà (ở) thậm chí không còn là nơi người yêu ở nữa, xét đến ngày càng nhiều người, đặc biệt là những người trong precariat, đang sống một mình, sống với cha mẹ hay với một loạt bạn chia phòng hay đối tác ngắn hạn. Một phần gia tăng của thế giới coi nhà của họ như phần của nơi làm việc của họ. Mặc dù ít được chú ý hơn, nhiều thứ một thời đã là việc riêng của nhà được làm trong hay quanh nơi làm việc.
Trong nhiều văn phòng hiện đại, các nhân viên đến sớm vào buổi sáng trong quần áo thường hay thể thao, tắm và ăn mặc chỉnh tề chải chuốt mình trong giờ ‘làm việc’ đầu tiên. Nó là một bổng lộc được che giấu của salariat. Họ để quần áo ở văn phòng, có các vật kỷ niệm từ cuộc sống gia đình rải rác xung quanh và trong vài trường hợp cho phép con trẻ chơi, ‘chừng nào chúng không quấy rầy bố hay mẹ’, mà, tất nhiên, chúng quấy. Vào buổi chiều, sau bữa trưa, salariat có thể đánh một ‘giấc ngủ trưa’, từ lâu đã được coi như một hoạt động ở nhà. Nghe nhạc trên iPod không phải là lạ trong giờ làm việc.
Trong lúc đó, nhiều công việc hay lao động được làm bên ngoài chỗ làm việc danh nghĩa, ở các quán café, trong xe và ở nhà. Đồng thời các kỹ thuật quản lý cũng đã tiến hóa, thu hẹp phạm vi riêng tư, thay đổi các hệ thống tiền công và vân vân. Mô hình cũ về sức khỏe nghề nghiệp và quy định an toàn khớp một cách kỳ cục vào nơi làm việc tertiary bị mờ đi này. Salariat có đặc ân và các profician, với các đồ dùng và hiểu biết chuyên gia của họ mà với chúng họ có thể che giấu họ làm bao nhiêu ‘công việc’, có khả năng để lợi dụng sự mờ đi này.
Những người gần hơn với precariat bị xui khiến để tăng cường nỗ lực của họ và số giờ họ dùng trong lao động của họ, vì sợ không đạt các dự tính. Thực tế, nơi làm việc tertiary tăng cường một hình thức bất bình đẳng, dẫn đến nhiều sự bóc lột precariat hơn và một sự làm dễ chịu nhẹ nhàng các thời hạn của những người có đặc ân, khi họ ăn các bữa trưa dài của họ và các đợt giải lao uống cà phê hay tác động qua lại trong các phiên họp liên kết trong các khách sạn được xây dựng cho mục đích đó. Các chỗ làm việc và chỗ chơi mờ đi trong hơi mờ của rượu và cà phê nồng.
Thời gian tertiary
Trong một xã hội tertiary mở, mô hình công nghiệp về thời gian, gắn cặp với sự quản lý thời gian quan liêu trong các nhà máy lớn và các tòa nhà văn phòng, sụp đổ. Ta không nên than vãn sự qua đi của chúng nhưng phải hiểu rằng sự sụp đổ đã bỏ chúng ta lại mà không có một cấu trúc thời gian ổn định. Với các dịch vụ cá nhân được hàng hóa hóa, bao gồm hầu hết các hình thức chăm sóc, chúng ta đang mất cảm giác về sự phân biệt giữa các hoạt động khác nhau mà hầu hết người dân làm.
Trong việc này, precariat bị rủi ro ở trong một sự xoay tròn thường xuyên, bị ép để tung hứng các đòi hỏi về thời gian hạn chế. Nó không đơn độc. Nhưng khó khăn của nó là đặc biệt căng thẳng. Có thể được tóm tắt như một sự mất kiểm soát đối với tri thức, đạo đức và thời gian.
Cho đến đây, chúng ta đã chưa tìm được cách để kết tinh một ý tưởng về ‘thời gian tertiary’. Nhưng nó đang đến. Một khía cạnh là tính không thể chia được của sự sử dụng thời gian. Ý tưởng về làm một hoạt động nhất định trong một khoảng thời gian có thể xác định được nhất định ngày càng ít có thể áp dụng được. Việc này được làm cho tương xứng bởi sự xói mòn của chỗ làm việc cố định và sự chia các hoạt động theo nơi chúng được làm. Nhiều thứ được coi như hoạt động ở nhà được làm bởi một số người ở văn phòng và ngược lại.
Xem xét thời gian từ viễn cảnh của các đòi hỏi được đặt trên nó. Cách trình bày chuẩn trong các sách giáo khoa kinh tế học, các báo cáo chính phủ, truyền thông đại chúng và pháp luật là nhị nguyên, chia thời gian giữa ‘công việc’ và ‘rảnh rỗi’. Khi họ nói công việc họ muốn nói là lao động, phần của công việc mà được ký hợp đồng hay được trả tiền công trực tiếp. Việc này là sự sai lầm như một cách đo lường thời gian dành cho công việc, ngay cả công việc cần để có được thu nhập, nói chi đến các dạng mà không có quan hệ trực tiếp nào đến lao động. Mặt kia của chủ nghĩa nhị nguyên, thời gian rỗi, cũng gây lầm lạc ngang thế. Các tổ tiên Hy Lạp của chúng ta chắc đã chế giễu.
Sự tăng cường lao động
Một đặc điểm của xã hội tertiary và sự tồn tại precariat là áp lực quá đáng lên lao động. Precariat có thể nhận vài việc làm đồng thời, một phần bởi vì tiền lương sụt giảm, một phần vì bảo hiểm hay quản lý rủi ro.
Phụ nữ, đối mặt với gánh nặng gấp ba, bị kéo vào gánh nặng gấp bốn, về phải chăm sóc con cái, chăm sóc người thân già nua và làm có lẽ không phải một mà hai việc làm. Hãy nhớ lại có thêm bao nhiêu phụ nữ ở Hoa Kỳ đang làm nhiều hơn một việc làm một phần thời gian. ỞNhật Bản nữa, phụ nữ cũng như đàn ông ngày càng mải mê vào việc nhận nhiều việc làm, kết hợp cái có vẻ là việc làm toàn thời gian với các việc làm-phụ phi chính thức mà có thể được làm ngoài giờ làm việc hay ở nhà. Các việc này có thể thêm tám hay mười giờ một ngày trên đỉnh của một ngày tám tiếng. Một phụ nữ trong thế đó đã nói với New York Times nó đã là một chính sách bảo hiểm nhiều như bất cứ thứ gì khác (Reidy, 2010): ‘Không phải là tôi ghét việc làm chính của mình. Nhưng tôi muốn có một thu nhập ổn định mà không bị phụ thuộc hoàn toàn vào công ty’.
Một điều tra Nhật Bản năm 2010 đã thấy rằng 17 phần trăm những người ở tuổi 20–50 có việc làm đã có hình thức nào đó của việc làm-phụ, và một điều tra khác đã thấy rằng gần nửa những người có việc làm đã nói họ quan tâm đến việc có một việc làm-phụ. Các lý do chính đã là một mong muốn để giải quyết thu nhập và để làm giảm nhẹ các rủi ro – giữ việc làm cho quản lý rủi ro hơn là cho xây dựng sự nghiệp, khi thiếu trợ cấp nhà nước. Người ta lao động nhiều hơn bởi vì tiền thu về của bất cứ một việc làm nào là thấp và đầy rủi ro.
Lao động quá mức là xấu cho sức khỏe. Một nghiên cứu dài hạn về 10.000 công chức Anh đã ước lượng rằng những người đã làm việc thêm ba giờ hay nhiều hơn một ngày đã có khả năng bị rắc rối tim mạch 60 phần trăm nhiều hơn những người đã làm việc bảy giờ một ngày (Virtanen et al., 2010). Giờ làm việc dài cũng làm tăng rủi ro về stress, trầm cảm và tiểu đường; stress dẫn đến sự cô lập xã hội, các vấn đề hôn nhân và tình dục, và một chu kỳ thất vọng.
Một nghiên cứu khác đã nhắc đến ‘say làm việc-binge working’ (Working Families, 2005). Hướng dẫn Thời gian Làm việc Âu châu quy định một tuần làm việc tối đa 48 giờ. Nhưng ở Vương Quốc Anh, ngoài những người thi thoảng làm vậy ra, hơn một triệu người thường xuyên làm việc trong việc làm của họ hơn 48 giờ, với 600.000 làm thế trong hơn 60 giờ, theo Cơ quan Thống kê Quốc gia. Một 15 phần trăm khác làm việc với số giờ ‘phản xã hội’.
Sự tăng cường lao động qua tình trạng bấp bênh có thể đã không được các chủ sử dụng lao động yêu cầu, chỉ được họ cổ vũ. Chắc có khả năng hơn, nó là do những sự không an toàn và áp lực vốn có trong một xã hội tertiary linh hoạt. Phải hỏi các nhà hoạch định chính sách liệu sự tăng cường lao động này có lành mạnh về mặt xã hội, có cần thiết hay không thể tránh được. Đó không phải là một lời kêu gọi cho các quy định; nó là để xem xét các khuyến khích để có được sự kiểm soát lớn hơn đối với thời gian.
Công-việc-cho-lao-động
Không phải cứ như lao động (labour) là tất cả công việc (work) mà người dân làm. Để hoạt động tốt trong một xã hội tertiary lao động-linh hoạt, nhiều thời gian phải được sử dụng trong ‘công-việc-cho-lao-động’, công việc mà không có giá trị trao đổi nhưng là cần thiết hay nên làm.
Một dạng công-việc-cho-lao-động được làm bởi precariat ở một mức độ lớn hơn những người khác là trong thị trường lao động. Ai đó tồn tại qua việc làm tạm thời phải tốn nhiều thời gian tìm kiếm việc làm và đương đầu với bộ máy nhà nước quan liêu hoặc ngày càng với các tổ chức thương mại tư nhân thay thế nó. Vì các hệ thống phúc lợi được tái cơ cấu theo những cách mà buộc những người đòi phải đi qua các thủ tục ngày càng phức tạp để có được và giữ được quyền hưởng các trợ cấp khiêm tốn, những đòi hỏi về thời gian của precariat là lớn và đầy căng thẳng. Xếp hàng, di chuyển đến hàng đợi, điền form, trả lời các câu hỏi, trả lời nhiều câu hỏi hơn, nhận các chứng chỉ để chứng minh cái gì đó hay cái khác, tất cả các việc này là rất tốn thời gian thế nhưng thường bị bỏ qua. Một thị trường lao động linh hoạt mà biến sự di động lao động thành cách chính của cuộc sống, và việc đó tạo ra một mạng lưới của các rủi ro đạo đức và trái đạo đức trong sự bối rối của các quy tắc để xác định quyền hưởng trợ cấp, buộc precariat vào việc dùng thời gian theo những cách nhất thiết để người dân bị suy yếu và ít có khả năng để tiến hành các hoạt động khác.
Vài công-việc-cho-lao-động khác là sự bổ sung cho lao động một người làm trong một việc làm, như việc móc nối bên ngoài giờ làm việc, đi lại hay đọc các báo cáo công ty hay tổ chức ‘ở nhà’, ‘vào buổi tối’ hay ‘vào cuối tuần’. Việc này là hết sức quen thuộc; thế nhưng chúng ta không có ý tưởng nào về quy mô của nó qua các số thống kê quốc gia hay các chỉ số về ‘công việc’ hay ‘lao động’ được nôn ra trong báo chí. Nhưng nhiều hơn là liên quan đến việc thử hoạt động trong một xã hội thị trường. Thí dụ, một số công-việc-cho-lao-động là ‘công-việc-cho-bảo-hiểm’, mà sẽ tăng lên với sự phổ biến của sự bất an toàn (bấp bênh) xã hội, kinh tế và nghề nghiệp. Một số được bao gồm bởi ý tưởng về ‘cứ để ngỏ các lựa chọn’. Một số có tính chiến lược, nôi dưỡng thiện chí và thử chặn trước ý định xấu.
Một số là cái có thể gọi là ‘đào-tạo-cho-lao-động’. Một nhà tư vấn quản lý đã nói với Financial Times (Rigby, 2010) rằng, bởi vì các kỹ năng có một tuổi thọ ngắn hơn và ngắn hơn, mỗi năm người dân phải dành 15 phần trăm thời gian của họ cho đào tạo. Có thể số lượng sẽ phụ thuộc vào tuổi, kinh nghiệm và vị thế thị trường lao động của một người. Ai đó trong precariat, đặc biệt nếu trẻ, sẽ được khuyên dùng nhiều thời gian hơn trong sự đào tạo như vậy, nếu chỉ để mở rộng hay giữ các sự chọn lựa.
Kỹ năng tertiary
Trong các xã hội nơi hầu hết hoạt động kinh tế gồm sự thao tác các ý tưởng, các ký hiệu và các dịch vụ được làm cho người dân, các quy trình và các nhiệm vụ máy móc chỉ có ý nghĩa thứ yếu. Việc này làm xáo trộn các quan niệm về ‘kỹ năng’. Trong một xã hội tertiary, kỹ năng là nhiều về ‘ngôn ngữ thân thể’ và ‘lao động cảm xúc’ như về các kỹ năng hình thức được học qua các năm ở trường, các bằng cấp hình thức hay các sơ đồ học nghề.
Điển hình, precariat có một lợi tức kỳ vọng thấp hơn của đầu tư trong bất cứ lĩnh vực đào tạo cụ thể nào, còn chi phí để có được nó là một phần cao hơn của thu nhập hay tiết kiệm thực hay tiềm năng. Ai đó trong salariat hay một profician sẽ có một quỹ đạo rõ hơn về một sự nghiệp – và như thế có thể kỳ vọng một lợi tức kinh tế của sự đào tạo như vậy – và một sự đánh giá cao hơn về cái gì không làm phiền. Một kết cục tai ác của lao động trở thành linh hoạt và bấp bênh hơn là để hạ thấp lợi tức trung bình của sự đào tạo được tự-quyết định.
Một dạng gia tăng của đào-tạo-cho-lao-động là đào tạo đạo đức. Các bác sĩ, các kiến trúc sư, các kế toán viên và vài nghề khác phải dành thời gian để học cái được coi như ứng xử đạo đức đúng đắn trong giới nghề nghiệp của họ. Việc này sẽ lan sang các nghề khác và có thể thậm chí trở thành bắt buộc, hay một phần của một hệ thống công nhận toàn cầu, mà là một sự phát triển đáng mong muốn.
Thích hợp hơn cho precariat là nhu cầu tăng lên cho các hình thức đào-tạo-cho-lao-động (hơn là đào-tạo-trong-lao-động), như sự tế nhị cá nhân, tính có thể được sử dụng, móc nối và kỹ năng thu thập thông tin để duy trì sự quen thuộc với tư duy hiện thời về một dải các chủ đề. Nhà tư vấn quản lý mà đã khuyên, ‘Dùng đến 15 phần trăm thời gian của bạn để học về các lĩnh vực gần lĩnh vực của bạn’, cũng đã nói thêm, ‘Viết lại CV (tiểu sử) của bạn mỗi năm’. Việc sửa các CV được chế tạo đó, trong nỗ lực làm nản lòng để gây ấn tượng, để bán mình và để bao gồm càng nhiều cơ sở càng tốt, tốn lượng thời gian khổng lồ. Nó là sự làm mất tính người, thử chứng tỏ tính cá nhân trong khi tuân theo một thử tục (routine) và cách ứng xử được tiêu chuẩn hóa. Khi nào precariat sẽ phản kháng?
Sự xói mòn của nơi làm việc thời đại công nghiệp như địa điểm của ‘mối quan hệ công ăn việc làm tiêu chuẩn’ mở ra các câu hỏi nhạy cảm về kỷ luật, sự kiểm soát, tính riêng tư, bảo hiểm sức khỏe và an toàn, và sự thích đáng của các định chế mặc cả. Nhưng một điểm then chốt về sự hủy bỏ mô hình công nghiệp là tính mờ đã tăng lên của quan niệm về ‘kỹ năng’. Nhiều nhà bình luận sử dụng thuật ngữ với sự buông thả, thường nói có một ‘sự thiếu hụt kỹ năng’. Trong một xã hội tertiary các tuyên bố như vậy là vô ích. Luôn luôn có một sự thiếu hụt, trong chừng mực mà ta không thể thấy một giới hạn cho các năng lực con người tiềm tàng. Tuy vậy, không nước nào trên thế giới có một số đo về khối năng lực của dân cư của nó, và các chỉ số tiêu chuẩn như số năm học ở trường phải được coi như không thỏa đáng ghê gớm. Một người làm vườn hay thợ ống nước có thiếu kỹ năng bởi vì người đó không học bậc hai hay bậc ba ở trường? Các kỹ năng cần đến để sống sót trong một thế giới precariat không được thâu tóm bởi số năm của việc học ở trường chính thức.
Đúng hơn ta có thể xác nhận điều ngược lại – rằng xã hội thị trường hiện đại có một ‘sự dư thừa kỹ năng’, bởi vì hàng triệu người có hàng mớ kỹ năng mà họ không có cơ hội nào để sử dụng hay trau chuốt. Một điều tra Anh đã thấy rằng gần 2 triệu người lao động đã ‘không tương ứng’, có các kỹ năng mà không khớp với việc làm của họ. Nhưng đó phải là chóp đỉnh của núi băng trôi; các con số khổng lồ của những người có trình độ chuyên môn và bằng cấp mà họ không sử dụng và bị hoen gỉ trong các tủ trí tuệ của họ.
Trong nhiều năm đã có một tranh luận trong kinh tế học và các tạp chí phát triển về ‘thất nghiệp tự nguyện’. Nhiều sự thất nghiệp đã được nói là tự nguyện bởi vì nhiều người trong số những người thất nghiệp đã có nhiều sự học ở trường hơn những người trong việc làm. Việc học ở trường đã được cho là để tạo ra vốn con người, mà được cho là để làm cho người dân có thể được sử dụng hơn. Nếu những người có vốn con người bị thất nghiệp, nó hẳn đã thế bởi vì họ đã chọn để là thất nghiệp, đợi một việc làm mức cao. Mặc dù vài người có thể đã phù hợp với mẫu sẵn (stereotype) này, sự đơn giản hóa đã sai lầm. Quả thực, sự học ở trường có thể hành động để ngăn sự phát triển các kỹ năng cần đến để sống sót trong một hệ thống kinh tế bấp bênh. Một kỹ năng để là ‘streetwise-khôn ngoan đường phố’, như năng lực để móc nối, khả năng để kiếm được sự tin cậy và tích lại những sự chiếu cố, và vân vân. Đấy là các kỹ năng precariat.
Các kỹ năng cần đến trong một xã hội tertiary cũng bao gồm khả năng để hạn chế sự tự-bóc-lột đến một mức tối ưu và giữ vững được. Thí dụ, việc thu nhặt online và phân tích thông tin (dù cho mục đích nào), như việc tìm kiếm, tải xuống, so sánh và chuyển thư điện tử, có thể tốn thời gian vô cùng. Quá trình là gây nghiện nhưng gây ra sự mệt mỏi và kiệt sức. Kỹ năng nảy sinh trong tự-kỷ-luật, khả năng để giới hạn sự cần cù đối với sự can dự bền vững. Tập trung vào màn hình hàng giờ liền là một công thức cho sự thiếu chú ý, một sự bất lực để tập trung và vật lộn với các vấn đề và nhiệm vụ phức tạp.
Một dải khác của các kỹ năng trong một xã hội tertiary là các kỹ năng cư xử cá nhân, được bao gồm bởi cái mà một số nhà xã hội học gọi là ‘lao động xúc cảm’. Khả năng trông dễ coi, tạo ra một nụ cười quyến rũ, một lời nói dí dỏm thật đúng lúc, một lời chào ‘ngày tốt’ vui vẻ, tất cả trở thành các kỹ năng trong một hệ thống của các dịch vụ cá nhân. Có thể có tương quan giữa chúng, sự học ở trường và thu nhập, bởi vì những người từ các gia đình giàu có thường có khuynh hướng để phát triển các kỹ năng dễ coi tinh tế hơn và cũng nhận được nhiều sự học ở trường hơn. Nhưng không phải là việc học ở trường cung cấp các kỹ năng. Trong nhiều nước, tiền kiếm được tương đối của phụ nữ đã tăng lên, mà thường được quy cho sự học ở trường được cải thiện của họ, các biện pháp chống-phân biệt đối xử và những thay đổi về loại việc làm họ làm. Nhưng thành kiến giới ngược chắc chắn đã đóng góp một phần. Các khách hàng thích các bộ mặt xinh đẹp; các sếp yêu họ. Ta có thể thương hại nó, nhưng là khó để phủ nhận. Và những người trẻ dễ nhìn sẽ có một lợi thế đối với những người tuổi trung niên ít hấp dẫn hơn.
Không ngạc nhiên rằng điều trị ‘làm đẹp’ đang phất. Những người trong precariat, hay sợ ở trong đó, được biết rằng ‘chỉnh hình mũi’, nâng và nở ngực, Botox hay hút mỡ là một khoản đầu tư kiếm được thu nhập tiềm tàng cũng như nâng cao lối sống. Đường ranh giới giữa ‘tiêu dùng’ cá nhân và ‘đầu tư’ bị mờ đi. Tính trẻ và sắc đẹp là kiếm được hay kiếm lại được một phần. Ta không được gạt bỏ việc này như chứng ái kỷ thuần khiết hay sự phù phiếm. Nếu các lợi ích hàng hóa hóa thiên vị một bầu không khí ‘cạnh tranh’, thì sự thích nghi ứng xử và thẩm mĩ là có lý. Thế nhưng ‘kỹ năng’ như vậy là không an toàn. Vẻ đẹp phai dần và là khó hơn để tạo lại. Phong cách riêng hấp dẫn có thể trở nên chán và nhạt nhẽo.
Nếu một người trẻ đã học một nghề trong thời đại công nghiệp, người đó đã có thể tự tin phải chăng rằng các kỹ năng mang lại một lợi tức trong hàng thập kỷ, có lẽ cho toàn bộ một cuộc sống kiếm được thu nhập. Khi thiếu sự ổn định như vậy, đưa ra các quyết định về việc sử dụng thời gian bên ngoài một việc làm kéo theo một tập rủi ro hơn nhiều của các quyết định. Đối với precariat, nó giống một xổ số hơn mà tạo ra những người thua và vài kẻ thắng. Ai đó tham gia một cua huấn luyện hay một học vị đại học không biết khi nào nó sẽ mang lại bất cứ thứ gì, không giống ai đó trong salariat rồi người tham gia một khóa như một phần của một sự nghiệp được vạch ra rõ. Vấn đề bị trầm trọng bởi sự tăng có thể về tác động thất vọng địa vị, do có nhiều kỹ năng mà không có cơ hội để sử dụng chúng.
Tôi có nên phân bổ thời gian để học về việc này? Nó có hữu ích? Vì tôi đã dùng nhiều thời gian và tiền về làm việc đó năm ngoái, và chẳng có kết quả gì, tôi có nên làm lại lần nữa? Vì những gì tôi học năm ngoái bây giờ đã lạc hậu, có đáng lặp lại cùng chi phí và kinh nghiệm đầy căng thẳng về học một khóa khác? Những câu hỏi như vậy là phần của xã hội tertiary giữ việc làm.
Sự bất an toàn, sự bấp bênh là lớn hơn với những kỹ năng nghề nghiệp nhất định. Ta có thể tốn hàng năm để có được các bằng cấp và rồi thấy chúng trở nên lỗi thời hay không đủ. Một sự tăng tốc của sự trở nên lỗi thời nghề nghiệp tác động đến nhiều người trong precariat. Có một nghịch lý. Công việc càng lành nghề, sự nâng cao càng có khả năng sẽ xảy ra, cần đến ‘sự đào tạo lại’. Một cách diễn đạt khác là như sau: bạn càng được đào tạo, bạn càng có thể trở nên không thạo trong phạm vi năng lực của bạn. Có lẽ kỹ năng bị làm cho lỗi thời (deskilled) là một cách để mô tả cái xảy ra. Việc này trao một chiều thời gian kỳ lạ cho ý tưởng về kỹ năng. Không chỉ là giỏi như bạn đã là hôm qua mà bạn cũng phải giỏi thế ngày mai. Sự phản ứng cách cư xử đối với sự bất an toàn kỹ năng có thể là một sự điên cuồng về đầu tư dùng thời gian vào sự nâng cấp hay nó có thể là một tình trạng tê liệt ý chí, trạng thái không hoạt động do một sự tin tưởng rằng bất cứ khóa học nào sẽ có lợi tức rất không chắc chắn. Các nhà bình luận mà không ngừng kêu gọi đào tạo nhiều hơn và than phiền về một sự thiếu kỹ năng chỉ góp phần vào một cuộc khủng hoảng sinh tồn. Đấy không phải là một bầu không khí có lợi cho sự phát triển năng lực; nó là bầu không khí liên tục bất mãn và căng thẳng.
Công-việc-cho-tái-sản-xuất
Có nhiều hình thức khác của công-việc-cho-lao-động, một số bổ sung cho lao động được ký hợp đồng, một số là bắt buộc như phần của quan hệ lao động. Cũng có sự tăng trưởng về ‘công-việc-cho-tái-sản-xuất’. Ý tưởng có một ý nghĩa kép. Ý nghĩa chính là một dải được xác định lỏng lẻo của các hoạt động mà người dân phải tiến hành, hay cảm thấy họ nên, nhằm duy trì các năng lực của họ để hoạt động và sống tốt nhất như họ có thể, dựa vào hoàn cảnh của họ. Những việc này phải được tách ra khỏi ‘công-việc-cho-lao-động’. Trong số thách thức hơn là công việc quản lý tài chính. Những người hưởng lương (salariat) và các profician có thể có đủ sức (để có) các kế toán viên và dựa vào các dịch vụ ngân hàng cho lời khuyên và sự giúp đỡ. Nếu có một chi phí, nó sẽ là khiêm tốn so với tiền lương của họ và lợi ích có được từ sự giúp đỡ chuyên nghiệp.
Thu nhập giao động của precariat có thể tạo ra những khó khăn nghiêm trọng hơn; còn tính sẵn có của lời khuyên tài chính là hạn chế hơn và tốn nhiều hơn của tiền lương của họ. Nhiều người sẽ tự xoay xở, không có khả năng hay không sẵn lòng mua các dịch vụ họ cần. Một số sẽ buộc phải dùng nhiều thời gian hơn lo về và đối phó với sự quản lý thu nhập và các công việc tài chính của họ. Những người khác sẽ đáp lại bằng tránh hoàn toàn công việc. Một điều tra Anh đã gợi ý rằng 9 triệu người lớn đã ‘sợ tài chính’, bị làm sợ bởi sự phức tạp được cảm nhận của việc đưa ra các quyết định duy lý về quản lý tiền. Trong một xã hội tertiary, chứng sợ tài chính có thể tạo ra sự khác biệt giữa sự sung túc vừa phải và sự khổ sở, đặc biệt trong các lúc căng thẳng tài chính. Chi phí không phải chịu một cách ngẫu nhiên bởi tất cả các mảng dân cư. Nó là một dạng bị che giấu của bất bình đẳng, dạng được precariat cảm thấy có hại.
Precariat cũng bị thiệt thòi trong lĩnh vực ngày càng quan trọng của hiểu biết pháp lý. Một xã hội của những người xa lạ dựa vào các hợp đồng; các quy định bắt buộc lén vào mọi kẽ hở của đời sống. Để hoạt động như một công dân trong một xã hội bị chi phối bởi các luật và các quy định phức tạp, chúng ta cần biết các luật và có thể tiếp cận các nguồn tin cậy của tri thức và lời khuyên. Trong khi những ngày này ít người có thể biết mọi khía cạnh của luật mà có thể áp dụng với họ, precariat là đặc biệt thiệt thòi về khía cạnh này. Salariat và các profician có các lợi thế vị trí mà chuyển thành các lợi thế kinh tế. Precariat không chỉ chắc là không biết hơn mà cũng chắc là bị bối rối hơn bởi sự không biết, thí dụ, lập một doanh nghiệp nhỏ.
Một dạng khác của công-việc-cho-tái-sản-xuất gắn với tiêu thụ. Tự-phục vụ đang phất lên. Các việc làm được thuê ngoài cho các khách hàng, với người dân bị thúc để dùng các website hơn là các đường dây nóng và quầy thanh toán tự động hơn là quầy có người thu. Các hãng bán lẻ, nhà hàng khách sạn và chăm sóc sức khỏe đã tiêu hàng tỷ dollar về công nghệ tự-phục vụ và đầu tư đang tăng 15 phần trăm một năm. Các hãng cho rằng việc này là về ‘niềm vui về sự trao quyền cho khách hàng’. Trong thực tế, nó là một sự chuyển lao động thành công việc. Pigou đã có thể thấy sự mỉa mai: Thu nhập quốc gia và và việc làm giảm sút, công việc tăng lên!
Thời gian cho công-việc-cho-tái-sản-xuất, hay sự chăm sóc, là khó để đo bởi vì nó gồm rất nhiều hoạt động và có khuynh hướng mở rộng để lấp đầy thời gian sẵn có. Nó là một lĩnh vực sử dụng thời gian phải chịu các áp lực mâu thuẫn. Trong nhiều xã hội, chăm sóc trẻ đã trở thành tốn thời gian hơn và được thương mại hóa hơn qua sự chăm sóc có trả tiền. Theo một điều tra năm 2009 của National Children’s Bureau của Anh, hơn một nửa tất cả cha mẹ đã thấy nhịp cuộc sống quá cuồng nhiệt để dành đủ thời gian chơi với các con họ (Asthana and Slater, 2010). Giờ làm việc dài, đi về tốn thời gian dài và ‘các cam kết không thể tránh được’, cùng với công việc ở nhà quá mức, đã để hàng triệu người thất vọng. Một điều tra Mỹ đã tiết lộ rằng ba phần tư cha mẹ Mỹ đã cảm thấy họ không có đủ thời gian để dùng với con cái họ. Điều này có thể phản ánh áp lực xã hội lên người dân để cảm thấy họ luôn luôn phải làm nhiều hơn. Nhưng nếu con cái bị tước mất sự chăm sóc do các đòi hỏi của lao động và công việc khác, thì các chi phí dài hạn có thể bao gồm việc con cái lớn lên bị tước mất các giá trị hòa nhập xã hội mà đến từ sự chuyển giữa thế hệ về tri thức, kinh nghiệm và sự gần gũi đơn giản.
Tại đầu kia của phổ tuổi tác, với nhiều người hơn sống trong các lứa tuổi 70, 80 và 90 của họ, chăm sóc người già đã trở thành một việc sử dụng thời gian chính. Trong mức độ nào đó nó bị hàng hóa hóa thông qua các dịch vụ được thương mại hóa, các nhà chăm sóc (dưỡng lão) và vân vân, cùng một sự yếu đi của sự có đi có lại và trách nhiệm giữa thế hệ. Tuy nhiên, nhiều người phải dành thời gian đáng kể để chăm sóc những người khác trong đời của họ. Nhiều người muốn làm nhiều hơn họ có thể có đủ sức bởi vì những đòi hỏi khác tốn thời gian của họ.
Trong khi phụ nữ tiếp tục chịu hầu hết gánh nặng, thường bị áp lực để là sẵn sàng với sự báo trước ngắn, đàn ông cũng bị kéo vào làm nhiều việc chăm sóc hơn. Mặc dù một số nhà bình luận sẽ phủ nhận việc này là công việc, đối với hầu hết người dân nó là một nghĩa vụ với giá trị kinh tế xét về mặt chi phí cơ hội, về mặt tái sản xuất các năng lực của người nhận và về mặt hạ thấp chi phí cho nền kinh tế mà sẽ tăng nếu trách nhiệm rơi hoàn toàn lên nhà nước hay nếu sự sao nhãng dẫn tới các chi phí chăm sóc sức khỏe dài hạn.
Các thành viên của precariat có thể bị áp lực để làm nhiều công việc chăm sóc hơn họ muốn, bởi vì một sự nhận thức rằng họ có nhiều ‘thời gian hơn trong tay’ và bởi vì họ có thể cần giữ thiện ý của những người xung quanh họ trong trường hợp họ cần sự giúp đỡ tài chính hay sự giúp đỡ khác. Một lần nữa, họ không có sự kiểm soát thời gian của họ. Họ phải thích nghi trong một bầu không khí của sự bất an toàn bị cá nhân hóa.
Có một lĩnh vực khác của công-việc-cho-tái-sản-xuất, mà đã mở rộng cuối thế kỷ thứ mười chín vào thời gian của cuộc khủng hoảng biến đổi và lần nữa trong thời đại toàn cầu hóa. Người dân được cổ vũ tìm lời khuyên để chiến đấu với các mối lo âu và phiền não của họ, và để nhờ đến trị liệu, đặc biệt trị liệu nhận thức cư xử, để giải quyết stress và sự căng thẳng của cuộc sống bấp bênh của họ.
Những người trong precariat đối mặt với một thế khó xử. Nếu họ không chắc chắn về cái họ nên làm, họ mau chóng thấy mình dưới áp lực để nhận lời khuyên, kể cả ‘huấn luyện tính có thể được sử dụng’. Họ có thể được mô tả như không bình thường trong việc không biết làm gì hay không có khả năng để ‘định cư’ trong một việc làm vững chắc, hoặc họ có thể bị dán nhãn ‘thực sự không thể sử dụng được’. Các tính ngữ này là quá quen thuộc, được sản xuất hàng loạt bởi báo chí, các vở kịch nhiều kỳ sướt mướt trên TV và bởi các chính trị gia. Chúng là nhất quán với một mô hình mà trong đó sự nhấn mạnh được đặt lên việc làm thay đổi nhân cách và ứng xử của người dân hơn là tạo thuận lợi cho sự đa dạng về phong cách sống.
Tất cả những đòi hỏi này về thời gian – lao động, công-việc-cho-lao-động, công-việc-cho-tái-sản-xuất – là đầy căng thẳng trong bản thân chúng. Chúng đòi hỏi sự siêng năng và sự cố gắng mà không có một mục đích cá biệt trong tầm ngắm. Phần lớn của lao động và công việc này được làm trong hoàn cảnh bấp bênh, với một lợi tức kinh tế không chắc chắn và một chi phí cơ hội được cảm nhận cao, đơn giản bởi vì nhu cầu về tiền là lớn.
Trong số các phản ứng có thể là một sự điên rồ của các hoạt động mà chiếm hết các giờ sẵn có hầu như mỗi ngày, có thể dẫn đến kiệt sức và sự lo âu cũng như tính nông cạn. Hoặc các sự không chắc chắn có thể tỏ ra là tràn ngập, gây ra sự tê liệt thần kinh và sự sững sờ tự-hủy diệt. Có lẽ, kết cục điển hình nhất là một cảm giác về ở dưới áp lực và sự dành nhiều thời gian hơn cho công việc dưới nhiều hình thức của nó hơn là dạng ta muốn.
Một kết quả là sự chèn lấn các hoạt động mà có giá trị xã hội hay cá nhân, như dùng thời gian với gia đình. Chẳng có gì mới trong nhiều sự sử dụng thời gian này. Cái mới là nó đã trở thành chuẩn. Nó là một sự phản ánh về sự phát triển công nghệ, sự sung túc, sự thương mại hóa cuộc sống và sự sụp đổ của một cuộc sống trong các không gian cố định cho các chức năng đặc thù.
Người ta nói nhiều về ‘đa nhiệm-multitasking’, khả năng để làm nhiều hoạt động trong cùng thời kỳ. Theo sự khôn ngoan dân gian, phụ nữ là giỏi hơn đàn ông trong đa nhiệm, mặc dù điều này được nói đùa nhiều hơn, bởi vì phụ nữ buộc phải làm nhiều hoạt động công việc và lao động cùng lúc và như thế có thể đã biết được giỏi hơn làm sao để ‘loay hoay’ hoặc đưa ra các quyết định ‘hài lòng’ (khá tốt) dễ dàng hơn. Từ mới gần đây nhất là ‘đa-đa nhiệm’. Thành ngữ dự phòng là như sau:
Làm thế nào để làm nhiều hơn với ít hơn! Nghiên cứu cho thấy rằng những người đa nhiệm nặng có khó khăn hơn trong sự tập trung và sự loại bỏ thông tin gây rối trí. Hơn nữa, khi người dân bị buộc phải nghĩ thật kỹ về cái gì đó, họ nhớ nó tốt hơn. Với đa nhiệm là không thể để suy nghĩ rất kỹ về bất cứ thứ gì. Precariat có một vấn đề nữa: Họ không kiểm soát được thời gian của mình và họ biết điều đó.
Tuổi trẻ và ‘tính kết nối’
Đối với một số nhà hoạt động, ‘tính kết nối’ của internet và truyền thông xã hội là một đặc điểm định nghĩa của precariat. Tuổi trẻ ngày nay được nối dây (wired) theo những cách mà các thế hệ trước đã không thể tưởng tượng được và nó có một phong cách sống để làm cho hợp. Được nối lên (wired up), được nối vào (wired in), luôn luôn được kết nối, đặc biệt thanh niên, nhưng cả phần còn lại của chúng ta nữa, đang tận dụng nhiều và nhiều thời gian hơn trong kết nối và duy trì nhiều mối kết nối hơn. Sự yên tĩnh và sự yên lặng bị nguy hiểm. Tính kết nối lấp đầy mọi khoảng thời gian.
Ngay trong 2010, đã có một tỷ rưỡi người dùng Facebook. Hơn một nửa đã đăng nhập mỗi ngày; 700 tỷ phút một tháng đã được dùng trên Facebook xét toàn cầu. Twitter đã có 175 triệu người dùng có đăng ký, với 95 triệu tweet mỗi ngày. Đã có hơn 5 tỷ thuê bao điện thoại di động trên toàn cầu, trong một số nước vượt quá 100 phần trăm dân số. Ở Hoa Kỳ, khoảng một phần ba những người tuổi teen gửi hơn 100 tin nhắn mỗi ngày.
Cuộc tranh luận về sự cân bằng của các hệ quả tốt và xấu sẽ diễn ra ác liệt trong nhiều năm, có lẽ, không mang lại kết quả cuối cùng. Tuy vậy, đáng lưu ý nhiều sự lo ngại. Được thảo luận nhiều nhất là một ‘hội chứng thiếu chú ý tập thể’. Sự kết nối liên tục củng cố các liên kết yếu và làm yếu các liên kết mạnh. Một tín hiệu từ một cuộc gọi tới hay tin nhắn làm gián đoạn các cuộc trò chuyện cá nhân hay các hoạt động khác. Kiểm tra và trả lời các email cắt ngang các giai đoạn tập trung. Facebook và truyền thông xã hội khác kết nối người dân với ‘các bạn’ mà họ đã chưa bao giờ gặp là một sự đột nhập vào cuộc sống thực. Sự bồn chồn được nuôi dưỡng, còn các nét kiên nhẫn và quyết tâm bị xói mòn.
Tiêu tốn lượng thời gian khổng lồ online đã trở thành một phần của cuộc sống precariat, và nghiên cứu cho thấy nó có thể có một tác động gây phiền muộn, vì sự kết nối mạng xã hội đang thay thế sự tương tác thực với người dân. Số người ở Vương Quốc Anh bị nghiện internet là gấp đôi số nghiện các hình thức cờ bạc quy ước. Thanh niên là dễ bị tổn thương nhất, tuổi trung bình của sự nghiện là 21, theo một điều tra của Catriona Morrison (2010). Như bà đã kết luận, ‘Internet giống một ma túy đối với một số người: nó xoa dịu họ, nó làm họ bình tĩnh. Nếu người dân bị nghiện nó có thể tác động đến khả năng của một người để làm việc hay họ có thể thất bại để làm các việc vặt, như thế họ có thể lên mạng’.
Sự kết nối liên tục có thể không chỉ tạo ra tâm trí bị precariat hóa mà, bởi vì precariat không có sự kiểm soát nào về thời gian hay một biểu thời gian quy củ, nó dễ bị tổn thương hơn với những sự gây sao lãng và nghiện của thế giới online. Chẳng có gì sai với sự kết nối; chính khung cảnh là cái quan trọng.
Sự siết thì giờ rỗi
Sự tăng lên của lao động, công-việc-cho-lao-động và công-việc-cho-tái-sản-xuất cũng ăn vào ‘thì giờ rỗi’. Việc mất sự tôn trọng cho thì giờ rỗi, và cho ‘sự biếng nhác’ tái sản xuất và sản xuất, là một trong những kết cục xấu nhất của sự hàng hóa hóa xã hội thị trường. Những người mà trải nghiệm công việc và lao động cao độ thấy trí óc và tân thể họ ‘đã bị dùng’ và có ít năng lượng hay thiên hướng để làm bất cứ thứ gì khác hơn là để say mê trong ‘vui chơi’ thụ động. Những người mà đã bị dùng muốn nghỉ ngơi trong ‘vui chơi’, thường bằng xem một màn hình hay tiến hành một đối thoại với một loạt màn hình. Tất nhiên, tất cả chúng ta cần ‘vui chơi’ theo hình thức nào đó. Nhưng nếu lao động và công việc có cường độ cao như vậy, chúng ta có thể không có năng lượng hay thiên hướng nào để tham gia các hoạt động nhàn rỗi tích cực hơn.
Mark Aguiar and Erik Hurst (2009) đã ước lượng rằng, bất chấp sự tăng lên của việc phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động, người Mỹ có bốn giờ rỗi một tuần nhiều hơn trong 1965, đàn ông có sáu giờ nhiều hơn. Nhưng thời gian rỗi không hệt như thời gian không tham gia lao động được trả công. Mặc dù các nhóm xã hội khác đối diện áp lực, precariat phải làm nhiều công-việc-cho-lao-động và công việc khác để sống sót hay hoạt động trong các bậc thấp hơn của thị trường.
Thời gian rỗi thực tế đối diện một sự siết gấp ba. Một dạng rảnh rỗi là sự tham gia vào hoạt động văn hóa và nghệ thuật có đòi hỏi khắt khe. Để đánh giá đúng nhạc hay, nhà hát, nghệ thuật và văn học tuyệt hay, và để biết về lịch sử của chúng ta và lịch sử của cộng đồng mà trong đó chúng ta đang sống, tất cả cần cái trong cách nói bình dân gọi là ‘thời gian chất lượng’, tức là, thời gian mà trong đó chúng ta không bị quẫn trí, bực dọc vì sự bất an toàn hay thời gian được dùng bởi lao động và công việc, hoặc bởi sự khó ngủ do nó gây ra. Một kết quả là sự thiếu hụt thì giờ rảnh rỗi. Thời gian được cảm nhận như không sẵn có. Hoặc những người trong precariat cảm thấy có lỗi về dành thời gian cho các hoạt động như vậy, nghĩ họ phải dùng thời gian của mình trong kết nối mạng hay trong việc nâng cấp liên tục ‘vốn con người’ của họ, như tất cả các nhà bình luận đó đang thúc.
Các khuyến khích để phân bổ thời gian cho sự rảnh rỗi ở đâu? Thông điệp thậm chí đi sâu vào các đại học. Khi các chính phủ làm cho các đại học và các cao đẳng ‘giống-doanh nghiệp’ hơn và đòi chúng làm ra lợi nhuận, một cách điển hình chúng xem xét các vùng văn hóa nơi không có triển vọng nào cho lợi nhuận. Trong 2010, Đại học Middlesex của Vương Quốc Anh đã tuyên bố nó sẽ đóng cửa bộ môn triết học của nó. Một đại học mà không có một bộ môn triết học sẽ làm cho tất cả các nhà giáo dục học lớn phải chú ý như một sự mâu thuẫn về lời lẽ.
Thậm chí còn làm mất nhuệ khí hơn là sự chèn ép cái mà những người Hy Lạp cổ đã coi là thời gian rỗi thật, schole, sự tham gia vào đời sống công, lĩnh vực của công dân. Những người trong precariat – và họ không lẻ loi – bị tách ra khỏi đời sống chính trị. Họ có thể đôi khi hóa ra có gia nhập một cuộc trình diễn hay bỏ phiếu cho một ứng viên có sức lôi cuốn đặc biệt, nhưng đó là khác với sự tham gia theo một cách giữ vững được. Hình thức sống còn này của thời gian rỗi bị siết bởi sự thực dân hóa lao-động-công-việc-vui-chơi của thời gian. Quá nhiều người cảm thấy họ không có đủ thời gian chất lượng để đương đầu với cái họ được bảo là các chủ đề phức tạp ‘tốt nhất để cho các chuyên gia’. Việc này dễ được biến đổi thành một sự duy lý hóa cho sự tách ra và có thể dẫn đến giáo dục dựa vào cảm xúc và định kiến. Cứ cho là như thế. Precariat bị xui khiến để dành ít thời gian cho các hoạt động con người nhất đó, nhàn hạ chính trị. Đâu là các khuyến khích để làm khác đi?
Một khía cạnh khác của sự siết thời gian là một bất bình đẳng sâu sắc trong kiểm soát thời gian. Nó là một phần của bất bình đẳng tổng thể trong một xã hội thị trường tertiary, một phần bởi vì thời gian là một tài sản có ích. Precariat phải ngoan ngoãn phục tùng những người sử dụng tiềm tàng của lao động của họ. Những người trôi nổi quanh các quán internet café hay phiêu bạt quanh nhà, trong các quán hay ở góc đường có thể có vẻ có ‘thời gian trong tay họ’. Tuy vậy, họ thường không có khả năng để phát triển hay để duy trì một chiến lược về làm thế nào để phân bổ thời gian một cách khác đi. Họ không có một câu chuyện rõ ràng để kể, và như một kết quả, thời gian của họ bị tiêu tán khi họ không trong việc làm. Việc sử dụng thời gian trong sự lười nhác bề ngoài là một sự phản ánh của thị trường việc làm linh hoạt. Nó muốn precariat ở tư thế sẵn sàng. Sự xếp đặt thời gian bị lấy ra khỏi họ.
Sự hạ giá của thời gian rỗi, đặc biệt thời gian rỗi giai cấp lao động, là giữa các di sản xấu nhất của chủ nghĩa lao động. Sự xói mòn của nền giáo dục tạo ra giá trị dẫn đến sự xa rời của tuổi trẻ khỏi nền văn hóa của họ và một sự mất ký ức xã hội của các cộng đồng của họ. Quan niệm về ‘xã hội góc đường phố’ đã trở thành một trong những hình ảnh đô thị lớn. ‘Đi lang thang’ trở thành một hình thức chi phối của sử dụng thời gian; sự lấp đầy thời gian trở thành một thách thức. Ai đó gọi điều này là ‘sự nghèo nhàn rỗi’. Sự nghèo vật chất hạn chế đời sống nhàn rỗi của precariat trẻ, chẳng có tiền không có cộng đồng nghề nghiệp cũng chẳng có ý thức về sự ổn định để tạo ra sự kiểm soát thời gian cần đến. Việc này góp phần vào một thái độ anomic đối với mọi hoạt động, kể cả công việc và lao động. Đây là một bẫy precarity. Chỉ để sống sót cần phải có một tập thỏa đáng của các không gian công cộng, và ngay cả những không gian bị xói mòn bởi các biện pháp khắc khổ. Rốt cuộc, tâm tính tân-tự do xem chúng như một ‘sự xa xỉ’, bởi vì chúng không đóng góp trực tiếp cho đầu ra hay tăng trưởng kinh tế. Chỉ khi precariat trở thành một mối đe dọa cho tính ổn định thì sự tính đó được đánh giá lại.
Khi các không gian công cộng có chất lượng co lại đối với precariat, cách ứng xử gây gổ sẽ được cổ vũ. Sự toàn cầu hóa và công nghệ điện tử có thể thay đổi bản sắc khỏi các hình thức địa phương thuần túy (Forrest and Kearns, 2001). Nhưng điều này không thể thay thế nhu cầu đối với không gian vật lý mà trong đó để di chuyển và tương tác. Một ý thức về lãnh thổ là một nét con người mà là một phần của các gene của chúng ta. Cản trở nó và đổ ý nghĩa phát triển của nó đi, và kết quả sẽ là đáng sợ.
‘Sự nghiệp nhàn hạ’ giai cấp lao động đã bị mất (MacDonald and Shildrick, 2007), không đơn thuần do thiếu tiền mà do một sự xói mòn của các định chế xã hội. Tại Vương Quốc Anh, các định chế này đã gồm các câu lạc bộ đàn ông làm việc và các không gian công cộng, mà trở thành nạn nhân của thuyết cấp tiến tân-tự do của chủ nghĩa Thatcher. Ở Pháp, các bistro (quán rượu nhỏ), mà Honoré de Balzac đã mô tả như ‘quốc hội của nhân dân’, đang biến mất.
Giáo dục và sự nghiệp nhàn hạ của giai cấp-lao động bị suy kiệt tạo ra một môi trường cho tội phạm và sử dụng ma túy, để lấp đầy thời gian và đạt được địa vị theo dạng nào đó. Tội vặt có thể cung cấp một sự hồi hộp mà cảm thấy hay hơn sự lang thang đơn thuần. Câu thần chú tân-tự do rằng thành công được đo bằng sự tiêu thụ dẫn đến sự ăn cắp đồ ở cửa hàng và sự trộm cắp, một sự dấy lên bé tý của thành tựu trong một đợt dài của sự tước đoạt, của sự thất bại. Đây là một phần của bẫy precarity rộng hơn cho các đàn ông trẻ. Đối mặt với những sự bấp bênh của việc-là-đàn-ông, họ có thể kiếm được ‘sự tôn trọng’ mức thấp chốc lát theo cách đó (Collison, 1996). Nhưng, tất nhiên, có các hậu quả dài hạn.
Một phần của giai cấp là ‘thói quen’ của một người, vùng và cách sống mà xác định ‘những thứ để làm và không làm’ (Bourdieu, 1990: 53), những gì người ta khao khát để làm và những gì để không làm. Phong cách sống precariat khớp với phong cách làm việc của nó trong sự là phù du và linh hoạt, cơ hội chủ nghĩa hơn là được xây dựng tăng dần từng bước. Người dân có thể co vào một không gian chật hơn vì sợ và sự lo âu sinh ra từ sự không an toàn, nhưng nó sẽ chắc chắn là một sự co lại anomic. Trong một xã hội dựa trên tính linh hoạt và sự không an toàn, người dân tiêu tán thời gian nhiều hơn việc sử dụng nó để xây dựng một mô hình phát triển ứng xử.
Việc này dẫn chúng ta quay lại sự sụp đổ của khái niệm chỗ làm việc, mà phá vỡ các cơ hội cuộc sống của precariat. Tiêu chuẩn cho precariat gồm một chỗ làm việc trong mọi chỗ, vào bất cứ lúc nào, hầu như luôn luôn. Làm việc và lao động bên ngoài một chỗ làm việc là không biểu lộ về tính tự trị hay về sự tự kiểm soát được mình. Và số liệu thống kê nói dối. ‘Số giờ đang làm việc-hours at work’ là không hệt như ‘số giờ làm việc-hours of work’. Là sai lầm để nghĩ rằng, bởi vì sự mờ của chỗ và thời gian, nên có lao động tự do. Hệt như các chủ có thể xui khiến những người lao động để làm công-việc-cho-lao-động không được trả công, cũng vậy họ có thể xui khiến nhiều người hơn để lao động và làm việc ngoài chỗ làm việc chính thức.
Có một mối quan hệ quyền lực. Nó là lao động tự do bởi vì nó không được trả công; nó là không tự do bởi vì nó không được làm một cách tự trị. Một phân tích có ảnh hưởng của Hardt and Negri (2000) cho rằng lao động dịch vụ là tự do, ‘phi vật chất’ và ‘bên ngoài sự đo lường’. Tuy vậy, lượng thời gian có thể đo được và ranh giới của lao động được đo có thể bị tác động bởi các khả năng mặc cả của những người dính líu đến việc thương lượng các mối quan hệ lao động. Precariat hiện nay đang yếu, do sự bất an toàn của nó và văn hóa lao động linh hoạt. Hầu hết lợi ích của công-việc-cho-lao-động thuộc về chủ thuê lao động. Chúng ta ở trong lãnh thổ chưa được vẽ bản đồ. Nhưng có một sự khác biệt giữa nói rằng công việc dịch vụ là ‘bên ngoài sự đo lường’ và nói rằng công-việc-cho-lao-động là khó đo.
Các điểm kết luận
Precariat ở dưới sự căng thẳng thời gian. Nó phải dành một lượng thời gian tăng lên cho công-việc-cho-lao-động, mà nó không đưa ra một con đường đáng tin cậy tới sự an toàn kinh tế hay một sự nghiệp nghề nghiệp xứng đáng tên gọi. Sự tăng cường lao động và các đòi hỏi gia tăng lên thời gian đặt precariat vào rủi ro liên miên về được dùng hay, như một phụ nữ diễn đạt, trong một trạng thái tâm thần bị mơ hồ và mờ.
Phong cách sống tertiary gồm đa nhiệm mà không có sự kiểm soát đối với một câu chuyện về sử dụng thời gian, về sự trông thấy tương lai và sự xây dựng trên quá khứ. Để bị precariat hóa là bị nối dây (wired) vào các phong cách sống thực hiện-việc làm mà không có một ý thức về phát triển nghề nghiệp. Chúng ta phản ứng lại các tín hiệu, mà định hướng lại sự chú ý hướng này và hướng kia. Sự đa nhiệm làm giảm năng suất trong mỗi và mọi hoạt động. Tư duy đứt đoạn trở thành thường lệ. Nó làm cho khó hơn để làm công việc sáng tạo hay để Theo đuổi thời gian rỗi đòi hỏi sự tập trung, sự thận trọng và nỗ lực được giữ vững. Nó chèn ép thời gian nhàn rỗi, để người dân được an ủi chỉ để vui chơi, một cách thụ động theo nghĩa tinh thần. Sự tương tác không ngừng là thuốc phiện của precariat, hệt như việc uống bia và rượu gin đã là cho thế hệ thứ nhất của giai cấp vô sản công nghiệp.
Chỗ làm việc là mọi nơi, tản mạn, xa lạ, một vùng bất an toàn. Và nếu precariat có các kỹ năng nghề nghiệp, các kỹ năng đó có thể biến mất hay không còn là một tấm vé đáng tin cậy cho một bản sắc an toàn hay cuộc sống bền vững dài hạn có phẩm giá. Đấy là một sự kết hợp không lành mạnh mà dẫn đến chủ nghĩa cơ hội và sự vô liêm sỉ. Nó tạo ra một xã hội vé xổ số, với các rủi ro bất lợi mà precariat phải chịu một cách không cân xứng.
Trong lúc đó, sự siết thời gian biến thời giờ nhàn rỗi thành một phần bị gây nguy hiểm của cuộc sống và dẫn đến ‘nền dân chủ mỏng’, mà trong đó người dân bị làm rời ra khỏi hoạt động chính trị trừ khi được thúc đẩy trong một lát, bị mê mẩn bởi một khuôn mặt mới có sức lôi cuốn đặc biệt hay được tiếp sinh lực bởi một sự kiện gây sốc. Đấy là chủ đề mà bây giờ chúng ta sẽ quay sang.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:31:21 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (chương 6)
MỘT NỀN CHÍNH TRỊ ĐỊA NGỤC
Nhà nước tân-tự do là tân-Darwin chủ nghĩa, bởi vì nó tôn sùng tính cạnh tranh và ca tụng trách nhiệm cá nhân không bị kiềm chế, với một sự ác cảm đối với bất cứ thứ gì tập thể mà đã có thể cản trở các lực lượng thị trường. Vai trò của nhà nước được xem chủ yếu như lập và củng cố luật trị (rule of law). Nhưng luật trị đã chẳng bao giờ là tối thiểu chủ nghĩa, như vài nhà tân-tự do mô tả nó. Nó là xâm phạm và được định hướng để kiềm chế sự không tuân thủ và hoạt động tập thể. Việc này mở rộng ra cái Wacquant (2008: 14) đã gọi là ‘sự rút phép thông công công khai của các loại người xử sự sai lệch’, nhất là ‘các tên côn đồ đường phố’, ‘những người thất nghiệp’, ‘những kẻ hay xoáy trộm’, những người thất bại, những người thua cuộc với những sai lầm tính cách và những thiếu sót ứng xử.
Thị trường là hiện thân của phép ẩn dụ Darwinian, ‘sự sống sót của kẻ thích hợp nhất’. Nhưng nó có một khuynh hướng gây lo lắng để biến những người đấu tranh thành những kẻ không thích hợp và bất lương, để bị trừng phạt, bị giam giữ hay bị cấm vào. Các chính sách và các định chế được xây dựng mà coi mọi người như người không thích hợp hay bất lương tiềm tàng. Thí dụ, những người ‘nghèo’ phải chứng minh họ không ‘lười’ hay rằng họ gửi con của họ đến trường đều đặn để nhận được quyền hưởng trợ cấp nhà nước.
Precariat lởn vởn gần đường ranh giới, bị phơi ra cho hoàn cảnh mà có thể biến họ từ những người tranh đấu thành những kẻ hư hỏng và những kẻ thất thường dễ nghe theo các chính trị gia dân túy và những kẻ mị dân. Đây là vấn đề chính ở dưới chương này.
Xã hội panopticon (nhà tù lý tưởng)
Trong lúc ‘nhà máy xã hội’ là một hình ảnh không đúng về cuộc sống cho precariat được xây dựng thế nào, một hình ảnh tốt hơn là một ‘xã hội panopticon’, mà trong đó mọi lĩnh vực xã hội được thành hình theo hình dung của các bài báo panopticon của Jeremy Bentham năm 1787 (Bentham, 1995). Nó không chỉ là những gì được chính phủ làm mà là những gì được nhà nước cho phép trong một xã hội có vẻ ‘thị trường tự do’.
Chúng ta hãy nhớ lại tầm nhìn của Bentham. Ông được biết đến như cha đẻ của thuyết vị lợi, quan điểm rằng chính phủ phải đẩy mạnh ‘sự hạnh phúc lớn nhất của số người đông nhất’. Việc này cho phép một cách thuận tiện cho một số người để duy lý hóa làm cho thiểu số hết sức khốn khổ, vì lợi ích của sự duy trì hạnh phúc của đa số. Bentham đã đưa việc này theo một chiều gây khiếp sợ, trong một thiết kế cho một nhà tù lý tưởng. Một lính gác nhìn thấy tất cả ở trong một chòi canh cao quan sát các tù nhân ở các xà lim của họ trong một tòa nhà vòng tròn. Lính gác có thể thấy họ, nhưng họ không thể thấy anh ta. Quyền lực của lính canh nằm ở sự thực rằng các tù nhân không biết liệu anh ta có theo dõi hay không, và như thế, vì sợ, hành động cứ như anh ta đang rình. Bentham đã sử dụng cụm từ ‘một kiến trúc được chọn’, mà bằng cách đó ông đã muốn nói rằng các nhà chức trách có thể xui khiến các tù nhân cư xử theo những cách mong muốn.
Điểm chính đối với Bentham đã là tù nhân được trao một sự lựa chọn bề ngoài. Nhưng, nếu anh ta đã không đưa ra lựa chọn đúng, mà là lao động cần cù, thì anh ta bị để cho ‘tiều tụy dựa vào bánh mì tồi và uống nước, mà không có ai để nói với’. Và các tù nhân phải bị cô lập, để ngăn họ tạo thành ‘một sự phối hợp trí óc’. Ông đã nhận ra, hệt như các nhà tân-tự do nhận ra, rằng năng lực hành động tập thể sẽ gây nguy hại cho dự án panopticon.
Nó là một ý tưởng Michel Foucault đã bàn đến trong các năm 1970 như một phép ẩn dụ cho việc tạo ra ‘những người dễ bảo’. Bentham đã tin thiết kế panopticon của ông có thể được sử dụng cho các bệnh viện, các bệnh viện tâm thần, các trường học, các nhà máy, nhà tế bần và tất cả các định chế xã hội. Quanh thế giới thiết kế của ông đã được làm theo và đã được mở rộng một cách cẩu thả bởi các thành phố công ty thế kỷ thứ hai mươi mốt. Trường hợp tồi nhất cho đến nay là Thẩm Quyến, nơi 6 triệu công nhân bị theo dõi bởi các camera truyền hình mạch kín (CCTV) ở mọi nơi họ đi và nơi một cơ sở dữ liệu toàn diện theo dõi cách cư xử và tính cách và, được mô hình hóa trên công nghệ được quân đội Mỹ phát triển. Ta có thể nói về ‘chủ nghĩa Thẩm Quyến-Shenzhenism’ theo cách mà các nhà khoa học xã hội nói về ‘Fordism’ và ‘Toyotism’ như các hệ thống kiểm soát sản xuất và việc làm. ‘Shenzhenism’ kết hợp sự giám sát thị giác với ‘dataveillance-theo dõi dữ liệu’ và các khuyến khích và trừng phạt ứng xử để sàng lọc những người không mong muốn ra, nhận diện các công nhân tuân thủ phù hợp và xui khiến các công nhân nghĩ và cư xử theo cách các nhà chức trách muốn.
Xâm phạm sự riêng tư
Các kỹ thuật panopticon đang hành quân. Chúng ta hãy bắt đầu với một khía cạnh quan trọng của cuộc sống, sự riêng tư hay không gian cho sự riêng tư, nơi chúng ta sống với các bí mật và các xúc cảm và không gian quý giá nhất của mình. Nó là một loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Những gì được chính thống hóa như sự riêng tư lệ thuộc vào diễn giải pháp lý, và các quyết định pháp lý đã có khuynh hướng làm co nó lại. Nhưng xu hướng panopticon là tàn nhẫn. CCTV ở đâu cũng có, được không chỉ cảnh sát dùng mà cả các công ty an ninh tư nhân, các doanh nghiệp và các cá nhân nữa. Cảnh cũng chẳng đơn thuần cho việc sử dụng riêng. Hãy xét một thí dụ nhỏ. Một cư dân trong một khu hung bạo của San Francisco, lo về an toàn đường phố, đã lập Adam’s Block như một website truyền video được lấy từ một ngã tư. Site đã bắt buộc phải đóng lại sau các đe dọa và các lời phàn nàn với người chủ webcam rằng sự riêng tư đã bị lạm dụng. Nhưng những người khác đã bí mật lắp các camera trong cùng vùng, phát trực tiếp dưới một tên mới, cho là để ‘trao quyền cho công dân để chống tội phạm và cứu mạng người’. Nghe nói có nhiều webcam khu lân cận tương tự khắp Hoa Kỳ.
Google Street View, được khởi động trong 2007, đã thu hút rồi sự chú ý của các nhà điều tiết bảo vệ dữ liệu ở Bắc Mỹ và Châu Âu vì nhận được một cách bất hợp pháp (rõ ràng không cố ý) thông tin cá nhân từ các mạng không dây không an toàn dọc theo các con đường mà các camera của Google đã đi. Street View để lộ các nhà, ô tô và các hoạt động của người dân cho cả thế giới xem, và không có cách nào để phản đối ngoài việc yêu cầu một cách lịch sự rằng các ảnh được làm mờ đi. Đấy là cái gì đó ít người sẽ biết làm sao để làm, giả sử họ đã kiểm tra những gì Street View đã thu được lần thứ nhất.
Truyền thông xã hội, như Facebook, cũng làm co vùng riêng tư lại, vì người sử dụng, hầu hết là những người trẻ, tiết lộ, tự giác hay không tự giác, các chi tiết riêng tư nhất của mình cho ‘các bạn’ và nhiều người khác nữa. Các dịch vụ dựa trên sự định vị đưa việc này thêm một bước nữa, để những người sử dụng báo cho ‘các bạn’ vị trí của họ (và cho phép các doanh nghiệp, cảnh sát, bọn tội phạm và những người khác cũng biết). Mark Zuckerberg, người sáng lập và tổng giám đốc Facebook, đã nói với các doanh nhân Silicon Valley: ‘Người dân đã thực sự trở nên thoải mái không chỉ chia sẻ nhiều thông tin hơn và các loại khác nhau, mà cũng mở hơn và với nhiều người hơn . . . Chuẩn xã hội đó đúng là cái gì đó mà đã tiến triển’.
Sự giám sát nhắc các hình ảnh về một ‘nhà nước cảnh sát’, và chắc chắn nó bắt đầu với cảnh sát, tăng cường một sự phân chia giữa cảnh sát và người bị theo dõi. Sự giám sát cũng xui ‘giám sát ngược’, theo dõi các kẻ theo dõi. Tại các cuộc biểu tình chống một cuộc họp G20 ở London năm 2009, một video nghiệp dư được ghi trên một điện thoại di động đã cho thấy một cảnh sát đang đánh một người đi dạo vô tội trên phố; người đàn ông đã chết. Nó đã là một lời nhắc nhở rằng các lính gác không nhất thiết là những người bảo vệ. Và khi giám sát ngược tăng lên, sự giám sát của cảnh sát sẽ trở nên ngừa trước hơn. Những người theo dõi cảnh sát sẽ biến thành các loại bị xử lý bởi vì họ là một mối đe dọa đối với cảnh sát
Sự xâm phạm riêng tư và khả năng công nghệ để nhòm sâu vào đời sống chúng ta là một cơ sở cho sự mở rộng panopticon và các mục tiêu của nó vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Thậm chí có sự giám sát từ bên trong thân thể. Các viên thuốc mới được các công ty dược Mỹ sản xuất sẽ cung cấp cho các bác sĩ dữ liệu từ bên trong cơ thể. Một số người có thể coi việc này như có ích và là một vấn đề về lựa chọn tự do. Nhưng tình hình có thể nảy sinh ở nơi, nếu chúng ta không đồng ý với sự giám sát bên trong, phí bảo hiểm sức khỏe (hay khác) có thể bị tăng hay chúng ta có thể bị từ chối bảo hiểm. Công nghệ như vậy có thể trở thành bắt buộc hay được thực thi bởi các hãng bảo hiểm.
Trên internet, sự giám sát là việc kinh doanh. Thông tin từ các tìm kiếm web của người dân, các trang truyền thông xã hội và các hoạt động internet khác theo thường lệ được cấp cho các công ty thương mại. Kết nối mạng xã hội có thể đã bắt đầu như ‘những cuộc gặp gỡ thân mật loại thị dâm’. Nhưng nó đang trở thành ‘sự giám sát đồng lõa’, được chấp nhận cho các động cơ thương mại hay hay nham hiểm hơn. Một xã hội theo dõi-mạng đang được xây dựng.
Như Kế hoạch Băng thông rộng Quốc gia Hoa Kỳ (Federal Communications Commission, 2010) chỉ ra, bây giờ là có thể cho một hãng duy nhất để xây dựng các tiểu sử ‘căn cước số’ cá nhân, ‘bao gồm các tìm kiếm web, các site đã thăm, dòng click, các tiếp xúc email và nội dung, các tìm kiếm bản đồ, vị trí địa lý và các sự di chuyển, các cuộc hẹn theo lịch, danh bạ điện thoại di động, các hồ sơ sức khỏe, các hồ sơ giáo dục, việc sử dụng năng lượng, các ảnh và video, và các mạng xã hội, các vị trí đã ghé, các sở thích ăn, đọc, giải trí, và lịch sử mua hàng’. Hầu hết người dân không biết thông tin nào được thu thập về họ và ai có sự tiếp cận đến nó.
Khi Facebook khai trương Facebook Beacon trong 2007, tự động gửi ‘các bạn’ các chi tiết mua hàng online của các thành viên, một chiến dịch giám sát ngược của MoveOn.org đã buộc nó chuyển ứng dụng sang một chương trình ‘tùy-chọn (opt-in)’. Trong 2009 Beacon đã bị đóng lại tiếp sau một vụ kiện tập thể về riêng tư. Nhưng Facebook vẫn đang thu thập thông tin về các thành viên từ các nguồn khác, như các báo, các dịch vụ tin nhắn và các blog, ‘để cung cấp cho bạn nhiều thông tin bổ ích và một trải nghiệm được cá nhân hóa hơn’. Hầu hết người dùng, do quán tính hay sự không biết, chấp nhận các cài đặt riêng tư mặc định của Facebook, mà chia sẻ thông tin rộng rãi. Theo một điều tra Mỹ, 45 phần trăm các chủ sử dụng lao động đã kiểm tra các tiểu sử mạng xã hội của các nhân viên triển vọng. Những người dùng không-Mỹ cũng đồng ý, mà không coswj nhận ra nó, để dữ liệu cá nhân được chuyển sang và xử lý ở Hoa Kỳ. Những người dùng không được báo dữ liệu được dùng khi nào và như thế nào.
Những sự kiểm soát riêng tư website đã không hoạt động tốt. Các hệ thống điện tử đã làm xói mòn sự riêng tư và trao cho nhà nước các công cụ hùng mạnh để xây dựng một hệ thống panopticon với chúng. Những người trong precariat là dễ bị tổn thương nhất bởi vì họ ham mê các hoạt động mà mở cho sự giám sát và các phán quyết chủ quan bởi vì họ bị phơi ra nhiều hơn với các hậu quả.
Sự nghe trộm không có lệnh của tòa cũng đang lan ra, giám sát tất cả chúng ta. ‘Chiến tranh chống khủng bố’ đã đưa xã hội panopticon đến gần hơn. Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) Hoa Kỳ đã đề xuất nhận diện số và các kỹ thuật giám sát như một hệ thống toàn cầu (Bamford, 2009). Bây giờ nó có thể cho phép tiếp tục sự tiếp cận không-được hợp pháp hóa đến mọi thứ chúng ta làm về mặt điện tử hay qua đường điện thoại. Tổ hợp công nghiệp-giám sát là toàn cầu. Người Trung Quốc đang địch được Hoa Kỳ. Khi Đại hội Quốc Dân họp ở Bắc Kinh năm 2010, 700.000 nhân viên an ninh đã được triển khai khắp thành phố. Bên trong Đại Lễ Đường Nhân dân, báo chí thuật lại rằng các kiến nghị được các đại biểu đưa ra đã gồm những lời kêu gọi chính phủ tiếp quản tất cả các quán internet café và mọi điện thoại di động phải được trang bị camera giám sát. Chẳng bao lâu nữa sẽ là không thể để kể.
Sự học panopticon
Nó bắt đầu sớm. Các trường và các đại học sử dụng các phương pháp điện tử để dạy, giám sát, kỷ luật và tiếp cận. Một nhà kinh doanh Thụy Điển đã tạo ra một mô hình dạy ở trường tự động phần lớn, được sử dụng cho hàng ngàn học sinh Thụy Điển, mà được xuất khẩu với thành công thương mại. Trẻ em được giám sát chặt chẽ, nhưng chúng gặp các giáo viên của chúng chỉ 15 phút một tuần. Cựu Thủ tướng Anh Tony Blair đã bị lôi cuốn bởi hệ thống cho các trường công ở London.
Một số trường ở Hoa Kỳ đã cung cấp cho học sinh máy xách tay có phần mềm an ninh cho phép kích hoạt từ xa webcam của máy tính, cho phép họ quan sát học sinh vào bất cứ thời gian nào mà chúng không biết. Một vụ kiện tập thể do các học sinh đưa ra trong tháng Hai 2010 chống lại một học khu ở ngoại ô Philadelphia sau khi một trường đã kết tội một học sinh về ham mê ‘cư xử không đúng đắn ở nhà nó’. Việc này đã chắc chắn là một sự vi phạm các quyền dân sự của nó. Và ngoài việc mở ra các khả năng hăm dọa tống tiền, công nghệ như vậy cũng cung cấp năng lực panopticon để tạo ra các đầu óc và thân thể dễ bảo. Một trường cấp hai ở South Bronx, New York, đã lắp đặt phần mềm vào các laptop sao cho các viên chức có thể xem bất cứ thứ gì được hiển thị trên màn hình. Trợ lý hiệu trưởng của trường đã dùng một phần của mỗi ngày để kiểm tra những gì các hoạc sinh làm, thường quan sát thấy chúng dùng Photo Booth, một chương trình sử dụng webcam để biến màn hình thành một chiếc gương ảo. ‘Tôi luôn thích quấy rầy chúng và chụp ảnh chúng’, ông nói với một chương trình thời sự.
Hầu hết chúng ta không biết nếu chúng ta có phải chịu các thực hành như vậy. Các trẻ em Philadelphia đó chắc chắn đã không biết. Sự thực rằng có các kỹ thuật để theo dõi sự cư xử, và dữ liệu có thể được truy cập và được sử dụng khi người dân chuyển vào cuộc sống trưởng thành của họ. Đó là cái đang diễn ra.
Thuê, sa thải và kỷ luật nơi làm việc
Sự xâm lấn của bộ máy panopticon vào các chiến lược thuê, kỷ luật, cất nhắc và sa thải của các công ty và các tổ chức về cơ bản đã không được kiểm tra. Nó đặc biệt gây nguy hiểm cho các cơ hội cuộc sống của precariat, theo những cách tinh vi và đa dạng.
Nhà nước tân-tự do tự cho là ủng hộ các thực hành không phân biệt đối xử lao động, loan báo cơ hội bình đẳng như thực chất của ‘meritocracy-chế độ trọng dụng nhân tài’. Nhưng trên quy mô lớn nó đã nhắm mắt với các kỹ thuật và thực hành phân biệt đối xử dựa trên sự giám sát điện tử, các thị trường bảo hiểm và nghiên cứu được bao cấp về tâm lý học ứng xử. Sự phân biệt đối xử kết quả là tế nhị hơn nhưng hoạt động theo cùng cách như các hình thức thô thiển dựa trên giới, chủng tộc, tuổi tác hay học hành. Sự bóp méo mới đây nhất là tiểu sử sơ lược genetic. Là thích đáng rằng nghiên cứu quyết định đã được tiến hành ở Singapore độc đoán. Một nghiên cứu ở đó đã cho thấy những người với một biến thể cá biệt của một gene (được gọi là HTR2A) là ít buồn rầu thế nào và có khả năng hơn để trở thành các công nhân dễ bảo. Thông điệp là gì về nghiên cứu mở đường này? Cho các công nhân tạm thời biến thể HTR2A nào đó hay loại bỏ những người mà không có nó?
Các hormone cũng đóng vai trò của chúng. Nghiên cứu ở Nhật Bản gợi ý rằng những người với các mức thấp của hormone căng thẳng cortisol đã chuẩn bị sẵn sàng hơn những người với các mức cao hơn để chấp nhận thu nhập thấp hiện thời trong hy vọng nhận được nhiều hơn muộn hơn. Nếu giả như bạn thuê ai đó cho một việc làm tạm thời, bạn sẽ tuyển người nào nếu bạn biết các mức hormone của họ? Rồi có testosterone nữa. Các mức cao đi với một khát vọng để thống trị và làm liều. Đối với hầu hết việc làm, đặc biệt các việc làm bấp bênh, các chủ không muốn các công nhân bị thất vọng bởi địa vị thấp và sự kiểm soát cao. Nghiên cứu Singapore cho biết rằng testosterone cao hạ bớt khả năng của một người để là một thành viên nhóm tuân theo. Không khó để nhận diện mức testosterone của ai đó – một que tăm bông miệng sẽ làm. Hoặc các hãng có thể nghĩ ra ‘các xét nghiệm năng lực’ mà người xin việc phải hoàn thành.
Precariat nên cẩn trọng, vì cách ta sống tác động đến mức testosterone. Nếu bạn sống một cuộc sống hứng thú, nó tăng; nếu bạn sống một cuộc sống dễ bảo, nó xuống. Sự tiếp cận việc làm có thể phụ thuộc vào việc giữ nó thấp! Một số người sẽ gạt bỏ các kịch bản như vậy như sự phao tin đồn gây hốt hoảng. Nhưng mục đích của nghiên cứu genetic này là gì? Trừ phi có những kiểm soát về việc sử dụng nó, sự sàng lọc ứng xử sẽ chỉ tăng mạnh hơn. The Economist (2010c) đã tỏ ra hăng hái rằng nó sẽ làm cho ‘khoa học quản lý thành một khoa học thật’. Ngược lại, chắc có nhiều khả năng hơn nó dẫn đến social engineering (kỹ xảo xã hội).
Ngoài những diễn tiến này, một số gia tăng các hãng Mỹ loại bỏ những người xin việc có hồ sơ tín dụng xấu, tin họ sẽ trở thành các nhân viên mạo hiểm. Như thế cách cư xử quá khứ bên ngoài công việc của bạn được dùng chống lại bạn. Các công ty đang làm việc này một cách có hệ thống, cũng dựa trên các site kết nối mạng xã hội để đánh giá các nét tính cách cũng như hạnh kiểm xấu quá khứ, các mối quan hệ và vân vân. Nhưng đấy là sự phân biệt đối xử không công bằng. Có nhiều nguyên nhân cho một bùa mê về ‘tín dụng xấu’, kể cả bệnh tật hay một tai họa gia đình. Sự sàng lọc bí mật bằng các proxy (đại diện) thô thiển cho ứng xử có thể xảy ra là không công bằng.
Chúng ta đã nhắc tới sớm hơn, các hãng đang đòi hỏi ra sao rằng những người xin việc viết ra các CV tốn thời gian và rằng ở giai đoạn nào đó sẽ có sự phản kháng. Sự phản kháng anomic đó sẽ, qua những sự từ chối buồn bã để tuân theo? Hay nó sẽ là một hành động ‘nổi loạn thô sơ’, như tấn công ồ ạt với các đơn xin việc giả? Hay nó sẽ là một sự phản kháng chính trị, qua sự kháng cự có tổ chức, bằng một chiến dịch vận động để hạn chế các ranh giới của sự sàng lọc nhân cách, bằng đặt ra các quy tắc cho những gì các công ty phải và không được làm? Cách phản kháng cuối có thể trở thành một biểu hiện danh dự, được tôn trọng bởi những người có sự thấu cảm cho hoàn cảnh của precariat, như một sự khẳng định quyền riêng tư, một sự bác bỏ sự xâm phạm.
Ngoài sự tuyển dụng, panopticon ở trong yếu tố của nó tại các chỗ làm việc tertiary. Chủ nghĩa tư bản công nghiệp quốc gia đã đẻ ra nhiều thành phố công ty. Đã có hơn 2.500 ở Hoa Kỳ (Green, 2010). Trong các hình thức được sửa đổi, khái niệm gia trưởng này đã vẫn còn, một số đang tiến hóa thành các tác phẩm công ty to lớn. Như IBM và PepsiCo có các khu quy mô-thành phố giữa đồng không mông quạnh. Người Trung Quốc đã đi xa hơn với Thẩm Quyến; Foxconn là kẻ dẫn đầu toàn cầu. Nhưng tất cả chúng đều phô bày một panopticon xã hội thị trường.
Trong đầu 2010, đã được tiết lộ rằng các hãng Wall Street đã tuyển dụng các đặc vụ CIA tại ngũ ‘làm thêm’ để đào tạo các nhà quản lý về những kỹ thuật ‘đánh giá ứng xử chiến thuật’. Đấy là những cách kiểm tra về tính trung thực của nhân viên bằng cách hiểu các manh mối lời nói và ứng xử, như sự bồn chồn hay việc sử dụng các phát biểu định phẩm chất như ‘chân thật’ và ‘thẳng thắn’.
Sự riêng tư trong các việc làm đang bốc hơi. Hầu hết các hãng Mỹ bây giờ đòi hỏi nhân viên mới ký các chính sách truyền thông điện tử nói rõ họ không có quyền riêng tư nào hay quyền sở hữu nào đối với bất cứ nội dung nào trên các máy tính của công ty. Bất cứ gì đặt trên một máy tính đều thuộc về công ty. Tất cả các ghi chép, ảnh và bản nháp đều bị chuyển nhượng. Hơn nữa, bây giờ các hãng thích loại bỏ một nhân viên ngay lập tức hơn là để họ phục vụ một giai đoạn thông báo, mà trong đó họ có thể tải xuống thông tin, danh sách tiếp xúc và vân vân.
Hai phần ba các chủ Mỹ giám sát bằng điện tử việc sử dụng internet của các nhân viên, theo một điều tra năm 2010 của American Management Association và ePolicy Institute. Nó là sự kiểm soát từ xa, vì các nhân viên không biết nếu họ đang bị theo dõi. Họ bị giám sát về quấy rối tình dục, chê bai lãnh đạo, tiết lộ bí mật thương mại và vân vân.
Ban quản lý bây giờ có thể xem các màn hình máy tính, chộp được các sự gõ phím máy tính, nhận diện các website hay được lui tới và theo dõi nơi đang có mặt của các nhân viên qua các điện thoại di động có khả năng định vị GPS, các webcam và các video camera bé tẹo. Lewis Maltby, tác giả của Họ Có thể Làm Điều đó-Can They Do That? (2009), đã quy sự giám sát gia tăng cho áp lực tài chính, mà đã khiến các hãng muốn thiết chặt sự kiểm soát và hạ các chi phí, và cho sự dễ dàng tăng lên để làm việc đó. Các công ty có thể mua phần mềm máy-giám sát và các camera theo dõi công nhân ở một cửa hàng địa phương hay qua các nhà bán lẻ trên internet. Dễ thế đấy.
Smarsh, một trong nhiều hãng cung cấp các hệ thống giám sát, phục vụ hơn 10.000 công ty Mỹ. Tổng giám đốc (CEO) của nó đã khoe khoang, ‘Các nhân viên phải cho rằng họ sẽ bị theo dõi’. Một điều tra toàn quốc đã thấy rằng một trong hai nhân viên đã biết ai đó bị đuổi vì sự dùng sai email hay internet; nhiều người cũng đã nói họ biết ai đó bị sa thải vì việc sử dụng điện thoại di động không đúng, việc sử dụng sai nhắn tin ngay hay nhắn tin văn bản không thích hợp. Giám sát cho sa thải đã tăng nhiều như cho tuyển dụng và cho kỷ luật bình thường. Sự giám sát là trực tiếp, cá nhân và xâm phạm. Nó sẽ trở nên như thế nhiều hơn.
Một hình thức giám sát nhân viên được chính phủ Công Đảng của Vương Quốc Anh ủng hộ đã là phân loại online các nhà cung cấp dịch vụ bởi ‘các khách hàng’. Việc này giống sự điểm mặt vạch tên, một cách đê tiện để tìm cách kiểm soát bằng sự bôi nhọ. Bộ trưởng y tế đã đưa ra một sơ đồ mà qua đó các bệnh nhân đã có thể đánh các bác sĩ. Một xã hội đòi hỏi phản hồi liên miên không tin cậy các nhà chuyên nghiệp của nó là các nhà chuyên nghiệp. Website đánh giá bác sĩ đã tiếp theo việc giám sát tương tự các giáo viên. Họ có phải bị săn đuổi bởi những đứa trẻ mà khoái trá nhẫn tâm trong việc bôi nhọ họ, mà không có bất cứ ý thức nào về trách nhiệm giải trình? Nó bị rủi ro để biến các nhà chuyên nghiệp thành những người bị thương còn đi được và đẩy họ theo hướng precariat. Vì sao phải chịu rủi ro bị hạ nhục online do là nghiêm khắc? Hãy cho chúng cái chúng muốn! Đây là một ảo tưởng về sự trao quyền mà làm giảm trách nhiệm và tính chuyên nghiệp. Chẳng bao lâu nữa, mọi người sẽ đánh giá mọi người khác.
Nhà nước như kẻ gia trưởng tự do chủ nghĩa (libertarian)
Một triển vọng mới về chính sách xã hội và kinh tế là kinh tế học hành vi, mà đã tạo ra chủ nghĩa gia trưởng tự do chủ nghĩa. Nudge (Hích), một cuốn sách có ảnh hưởng của Cass Sunstein và Richard Thaler (2008), hai cố vấn có cơ sở Chicago và bạn của Barack Obama, đã lấy làm tiền đề ý tưởng rằng người dân có quá nhiều thông tin và như thế đưa ra các quyết định phi duy lý. Người dân phải được hướng dẫn, hay được hích nhẹ, để đưa ra những quyết định vì lợi ích tốt nhất của họ. Các tác giả đã không quy ý tưởng cho Bentham nhưng nói nhà nước phải tạo ra ‘một kiến trúc được chọn’.
Khi trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, Obama đã chỉ định Sunstein đứng đầu Cơ quan Thông tin và các Vấn đề Điều tiết, đóng trong Nhà Trắng. Trong lúc đó, ở Vương Quốc Anh, lãnh tụ đảng Bảo thủ David Cameron đã bảo các thành viên quốc hội đọc cuốn sách; khi trở thành Thủ tướng trong 2010 ông đã lập ra Nhóm Hiểu thấu Ứng xử-Behavioural Insight Team, nhanh chóng được gán cho cái tên ‘Nudge Unit-Đơn vị Hích’, ở Downing Street, do Thaler tư vấn. Nhiệm vụ đã là khiến người dân đưa ra các quyết định ‘tốt hơn’, vì lợi ích của ‘xã hội’.
Lái người dân luôn luôn là đáng ngờ. Làm sao chúng ta biết rằng kẻ hích biết cái gì là tốt nhất cho bất kể cá nhân nào? Kiến thức quy ước hôm nay trở thành sự sai lầm hôm qua. Hết lần này đến lần khác, các chính sách hoặc thực hành có vẻ dại dột muộn hơn lại trở thành tiêu chuẩn và ngược lại. Ai chịu trách nhiệm pháp lý nếu quyết định được hướng dẫn tỏ ra sai hay nếu nó dẫn đến một tai nạn?
Như một thí dụ về việc hích tiếp diễn ra sao, trong 2010 Cục Chăm sóc Sức khỏe Anh (UK NHS) đã gửi một thư chào cho người dân một ‘hồ sơ chăm sóc tóm tắt’, trao lịch sử y tế của họ, mà được làm cho sẵn có cho bất kể người chăm sóc sức khỏe nào. Những người nhận được lá thư đã đối mặt với một ‘môi trường lựa chọn’ được thiết kế có chủ ý, đòi hỏi một quyết định để chọn không tham gia hoặc được bao gồm một cách tự động. Nhưng đã không có biểu chọn-ra nào đính kèm, như thế người dân muốn làm vậy đã phải đi sang một website, tìm một biểu mẫu để tải về, in ra, ký vào, gửi như một lá thư cho bác sĩ đa khoa (GP) của mình và hy vọng nó sẽ được làm theo. Các chướng ngại quan liêu đã được cố ý dựng lên, làm tăng chi phí của việc không tham gia và trao một thiên kiến cho ‘sự đồng ý được giả định’.
Những người ít khả năng nhất để không tham gia là những người vô học, nghèo và ‘bị loại trừ về mặt số,’ hầu hết là người già không có truy cập đến các tiện ích trực tuyến. Vào 2010, 63 phần trăm của tất cả những người trên tuổi 65 ở Vương Quốc Anh đã sống trong hộ gia đình mà không có truy cập internet. Có áp lực chính phủ, được dẫn dắt bởi [nhóm công tác] ‘quán quân cho sự bao gồm số’ của nó, cho nhiều người hơn để có truy cập. Và chi phí không có nó được nâng lên. Trên thực tế, người dân bị trừng phạt vì không có truy cập.
Chủ nghĩa gia trưởng nhà nước kiểu cũ là phổ biến với các chính phủ. Nó có thể biến công dân thành trẻ con và biến các phần của precariat thành quỷ dữ. Trong 2009, Bộ Kinh doanh, Đổi mới và Kỹ năng (BIS) của Vương Quốc Anh đã phát hành một hướng dẫn gọi là Cha mẹ Những người Thúc đẩy-Parent Motivators gửi cha mẹ của những người tốt nghiệp đại học thất nghiệp còn phụ thuộc. Nó đã là hạ cố, giả định rõ ràng là những người tốt nghiệp đã không thể vạch ra các quyết định cơ bản cho bản thân họ. Một nhà bình luận kết luận đã là lần đầu tiên những người trưởng thành có giáo dục trong độ tuổi 20 của họ đã ‘bị trẻ con hóa một cách chính thức, một nước đi mà không chắc, tuy vậy, xua tan sự nghi ngờ gia tăng về giá trị của nhiều học vị hiện đại’ (Bennett, 2010). Các hướng dẫn khác thuộc cùng loại đã gồm Chuẩn bị cho Tình trạng khẩn cấp, Thoát hiểm về làm thế nào để tránh những kẻ ấu dâm, Sóng Nhiệt, Thẻ của Bố về làm thế nào để là một người cha tốt, và một bộ công cụ Breakfast4Life.
Parent Motivators, được viết bởi các nhà tâm lý học tư vấn với chi phí công, đã gợi ý cha mẹ có lỗi một phần về sự thất nghiệp của con cái họ và đã thúc họ cho thấy ‘sự yêu thương cứng rắn’. Một trong các tác giả đã nói, ‘Nếu bạn làm cho cuộc sống quá thoải mái ở nhà, vì sao chúng có một việc làm?’ Chí ít điều đó thừa nhận rằng bản thân các việc làm là không hấp dẫn. Nhưng ở đây đã là nhà nước say mê trong việc lái gia trưởng chủ nghĩa trong khi góp phần vào sự quỷ hóa một phần precariat. Bản thân họ không thể vạch ra làm thế nào để cư xử!
Ta có thể cho nhiều thí dụ về việc dùng kinh tế học hành vi và chủ nghĩa gia trưởng tự do chủ nghĩa để ảnh hưởng tới đời sống của precariat, nhất là qua việc sử dụng thông minh của các quy tắc ‘opt out: chọn không tham gia’, làm khó việc đó và hầu như bắt buộc để ‘opt in-tham gia’. Từ học đòi (buzz word) là ‘điều kiện tính’. Đã có một sự tăng ngoạn mục của các sơ đồ chuyển tiền mặt có điều kiện hay CCT. Các thí dụ hàng đầu đã là ở Mỹ Latin, dẫn đầu bởi sơ đồ Progresa (nay là Oportunidades) ở Mexico và Bolsa Familia của Brazil, mà vào 2010 đã đạt hơn 50 triệu người. Mười bảy nước Mỹ Latin có các sơ đồ CCT. Thực chất của các sơ đồ này là người dân được nhà nước trợ cấp nhỏ, dưới dạng tiền mặt, chỉ nếu họ cư xử theo những cách được xác định trước.
Điều kiện tính đã được nhập vào các nước giàu, kể cả Hoa Kỳ, và CCT đã được dùng rộng rãi ở Trung và Đông Âu. Một trong những sơ đồ chi tiết nhất đã là Opportunity New York – Family Rewards, một sơ đồ thí nghiệm với các khuyến khích và trừng phạt tài chính rắc rối lạ thường cho việc làm và không làm các thứ nhất định. Tiền đề của mọi CCT là người dân cần được thuyết phục để cư xử theo những cách tốt nhất cho họ và cho ‘xã hội’. Như thế Ngân hàng Thế giới (Fiszbein and Schady, 2009) tin họ có thể khắc phục ‘sự bị hướng dẫn sai dai dẳng’; nó quy sự nghèo cho sự tái sản xuất giữa thế hệ của sự tước đoạt, như thế CTT sẽ làm vỡ chu kỳ bằng thuyết phục người dân cư xử có trách nhiệm.
Đạo đức của cách tiếp cận này là đáng ngờ. Nó tóm tắt dự án Bentham về tạo ra một ‘kiến trúc được chọn’, loại bỏ không chỉ quyền tự do mà cả trách nhiệm cá nhân. Sự xác đáng cho precariat là, có nghe nói về ‘các CTT thế hệ-hai’ để nhắm tới những người lớn trẻ. Có rồi các điều kiện tính trong nhiều sơ đồ trợ cấp và các sơ đồ này đang được siết chặt. Như thế ở Vương Quốc Anh, các bác sĩ bây giờ được yêu cầu báo cáo về mức độ có thể làm việc của các bệnh nhân của họ nếu họ nhận được trợ cấp khuyết tật, biến một quan hệ riêng bác sĩ-bệnh nhân thành làm cảnh sát xã hội. Người ta phải lo các xu hướng này có thể dẫn tới đâu. Tại Ấn Độ, đi theo các nhà gia trưởng tự do chủ nghĩa, một sơ đồ chuyển tiền mặt nhắm tới các phụ nữ bất an toàn kinh tế hứa tiền mặt cho họ khi con đầu lòng của họ đạt tuổi trưởng thành, với điều kiện rằng họ được triệt sản sau khi sinh đứa con thứ hai.Việc này cũng tạo ra một ‘kiến trúc được chọn’.
Làm cho precariat ‘hạnh phúc’
Trong lúc, các nhà gia trưởng chủ nghĩa mà đã chi phối chính sách xã hội từ các năm 1990 đã làm tinh tế một tâm tính vị lợi quanh mong muốn để làm cho người dân ‘hạnh phúc’, đến mức mà điều khoản về sự hạnh phúc đã trở thành tựa-tôn giáo và được đề cao bởi cái được gọi là ‘khoa học hạnh phúc’. Trong một số nước, kể cả Pháp và Vương Quốc Anh, các số liệu thống kê chính thức được thu thập để đo sự hạnh phúc của người dân.
Hãy giả sử chúng ta có một xã hội mà trong đó các chính trị gia và các cố vấn của họ muốn làm cho nhân dân ‘hạnh phúc’. Sự hợp lý hóa vị lợi cho sự xui khiến lao động đã tăng về sự tinh vi. Calvin đã phong thánh chủ nghĩa tư bản bằng nói rằng sự cứu rỗi đến với những người mà đã làm những công việc tốt. Nhưng xã hội chúng ta là xã hội đầu tiên nơi các nhà hoạch định chính sách và các nhà bình luận có ý tin rằng việc làm khiến chúng ta hạnh phúc.
Bằng nói rằng việc làm phải làm chúng ta hạnh phúc và rằng các việc làm xác định chúng ta và cho chúng ta sự thỏa mãn, chúng ta đang dựng lên một nguồn căng thẳng bởi vì các việc làm hầu hết chúng ta phải thực hiện sẽ không đạt được các kỳ vọng đó. Precariat sẽ chịu căng thẳng. Chúng ta phải hạnh phúc; vì sao chúng ta không hạnh phúc? Câu trả lời đúng mực phải là các việc làm không phải ở đó để làm chúng ta hạnh phúc, và như thế chúng ta phải xem chúng như chủ yếu mang tính công cụ, để có được một thu nhập. Hạnh phúc của chúng ta đến trước hết từ công việc, sự nhàn hạ và sự vui chơi chúng ta tiến hành bên ngoài lao động, và từ sự an toàn thu nhập nhận được từ việc làm, chứ không phải từ bản thân việc làm.
Nếu điều này được chấp nhận như tiền đề cho chính sách xã hội, chúng ta có thể theo đuổi một sự cân bằng giữa làm sao chúng ta sử dụng thời gian của chúng ta. Về trực giác, nhiều người trong precariat có thể hiểu điều đó. Họ không thể di chuyển đến một cách sống ổn định và thỏa mãn bởi vì các chính sách xã hội và kinh tế không cung cấp sự an toàn cơ bản và cảm giác về có thể kiểm soát được thời gian mà là rất cần thiết.
Sự hạnh phúc khoái lạc dựa trên việc làm và vui chơi là nguy hiểm. Vui chơi vô tận sẽ là buồn tẻ. Sự khoái trá là thoáng qua và tự-giới hạn. Chúng ta ngừng khi chúng ta nghĩ chúng ta đã có đủ. Vì sự thích thú từ vui chơi là chóng tàn, những người mà phụ thuộc vào nó tất phải thất bại. Chủ nghĩa khoái lạc là tự chuốc lấy thất bại – việc khoái lạc buồn tẻ hàng ngày. Các nhà khoái lạc chủ nghĩa sợ sự buồn chán. Nhà triết học lớn Bertrand Russell đã hiểu nhu cầu cho sự nhàm chán, được diễn đạt hay nhất trong tiểu luận tuyệt vời của ông In Praise of Idleness (Để Ca ngợi sự Lười nhác). Sự hạnh phúc khoái lạc thông qua vui chơi và ‘sự khoái trá’ cuối cùng gây ra sự nghiện và không khoan dung bất cứ thứ gì khác với sự vui thích, một điểm được làm nổi bật bởi nhà sinh học hành vi Paul Martin trong cuốn Sex, Drugs and Chocolate: The Science of Pleasure (2009) của ông.
Thỏa mãn là sự bằng lòng với cuộc sống nói chúng và với các mối quan hệ của mình. Tuy vậy, quá tôn sùng hạnh phúc không phải là một đơn thuốc cho xã hội văn minh. Precariat phải cẩn thận về sự tương đương hiện đại của một cuộc sống bánh-mì-và-trò-chơi ồn ào được chào bởi nhà nước thông qua giả-khoa học và sự hích.
Nhà nước điều trị
Trong lúc họ bắt đầu quyết tâm làm cho nhân dân hạnh phúc, chủ nghĩa gia trưởng tự do chủ nghĩa và thuyết vị lợi làm cơ sở cho nó đã thả ra một sự sùng bái điều trị, phản chiếu cái đã xảy ra trong thời kỳ bấp bênh hàng loạt vào cuối thế kỷ thứ mười chín (Standing, 2009: 235–8). Công cụ bá quyền trong tương đương của ngày hôm nay là liệu pháp hành vi nhận thức (cognitive behavioural therapy-CBT), mà đã có xuất xứ ở Hoa Kỳ nhưng đang toàn cầu hóa với tốc độ thương mại thô bỉ.
Tại Vương Quốc Anh, sau cú sốc 2008, thay cho xử lý các nguyên nhân cấu trúc của sự căng thẳng và suy thoái, chính phủ đã huy động CBT để điều trị các kết cục. Nó đã cho rằng hàng triệu người bị lo âu hay trầm cảm, cứ như chúng là hệt như nhau. Các nhà điều trị hành vi nhận thức đã kỳ vọng để dạy người dân sống như thế nào, phản ứng ra sao và thay đổi cư xử của họ như thế nào. Chính phủ đã mở chương trình Cải thiện Tiếp cận đến các Liệu pháp Tâm lý, mà theo đó bất cứ ai có thể được bác sĩ của mình chuyển đến Cục Sức khỏe Quốc gia NHS làm CBT. Việc này đã được ủng hộ bởi một chương trình ‘điều trị chuyện trò’, mà trong đó các nhà điều phối sức khỏe tâm thần được đặt vào các Jobcentre (Trung tâm việc làm). Lời khẳng định đã là CBT sẽ làm tăng việc làm, như một kết quả của các Jobcentre gửi những người thất nghiệp đến các trung tâm trị liệu khắp nước. Sự cần đến giấy giới thiệu của một bác sĩ đã bị bỏ qua. Vì sao phải buồn bực vì sự chẩn đoán khi cách điều trị đã được nhận ra?
Chính phủ đã để riêng tiền để trả cho tám phiên điều trị ban đầu, dự định trong vòng 5 năm bất cứ ai sẽ được phép để ‘chuyển bản thân mình’ cho sự điều trị. Làm sao tám phiên CBT sẽ ‘khiến Vương Quốc Anh làm việc’, như được khẳng định, đã không rõ. Thay cho việc nhìn nhận các nguyên nhân của các khó khăn, ý định đã là để điều trị các nạn nhân của sự quản lý kinh tế sai và cổ vũ họ nghĩ họ cần điều trị.
Là bình thường để ấy náy nếu bạn đang sống một cuộc sống precariat, trong và ngoài sự thất nghiệp, lo về có đủ tiền để mua thực phẩm hay về nơi bạn sẽ ngủ tháng tới. Vì sao sự lo âu bình thường này là lý do để chuyển ai đó đến trị liệu đắt đỏ? Nó có thể biến sự lo âu thành trầm cảm, một sự đau ốm tồi hơn nhiều. Sự kiểm tra thật phải là đối với sự áp dụng nguyên lý lựa chọn của các nhà gia trưởng tự do chủ nghĩa. Hãy để những người thất nghiệp được phép chọn giữa tám phiên CBT hay số tiền tương đương. Có ai đánh cược hầu hết sẽ chọn cái nào? Điều phiền hà là ‘kiến trúc được chọn’ không được thiết kế theo cách đó.
Chính phủ Công đảng đã xem xét liệu một số người khiếu nại thương tật phải có CBT trước khi bắt đầu nhận ‘trợ cấp hỗ trợ việc làm’, mà một viên chức đã mô tả như ‘một giai đoạn tám tuần mà ngăn ngừa người dân trở thành tàn tật dài hạn’. Ai sẽ xác định người nào ‘cần’ CBT? Chẳng bao lâu, các nhà chức trách sẽ nói rằng, trừ phi người dân tham gia một đợt CBT, họ sẽ mất quyền hưởng trợ cấp. Và việc tham gia một đợt CBT sẽ được coi như bí mật? Hay sẽ là sự thực rằng, như kết quả của ‘sự yếu kém’ của họ, việc họ đã tham gia một đợt như vậy được chuyển tiếp cho các chủ sử dụng lao động tiềm tàng?
Chẳng có gì sai với điều trị per se (thực chất). Cái đáng ngờ là việc nhà nước sử dụng nó như một phần không thể tách rời của chính sách xã hội. Nó là phần của nhà nước panopticon, được dùng để tạo ra ‘các đầu óc dễ bảo’ và để cản trở các tư tưởng có tính lật đổ, như ý tưởng rằng các việc làm hầu hạ, có địa vị thấp, bấp bênh, bị đẩy theo hướng của người thất nghiệp phải bị loại bỏ. Chỉ nếu nhân dân được phép khước từ chúng, thì những người tạo ra các việc làm như vậy mới bị áp lực để cải thiện chúng hoặc làm mà không có chúng bởi vì chúng không xứng đáng với nỗ lực con người.
Công việc công ích và điều kiện tính
Phần của chương trình nghị sự gia trưởng tự do chủ nghĩa là để đưa ra chính sách xã hội ‘có điều kiện’ hơn, cấp trợ cấp nhà nước chừng nào người nhận cư xử theo cách do nhà nước đưa ra, làm ra vẻ là vì lợi ích tốt nhất của họ. Việc này gồm các chương trình yêu cầu người dân chấp nhận các việc làm hay sự đào tạo sau một thời kỳ ngắn có quyền hưởng trợ cấp hoặc mất trợ cấp và có nguy cơ để một vết nhơ vĩnh cửu trên hồ sơ của họ, được gữ ở đâu đó trong một cơ sở dữ liệu online.
Precariat được giới thiệu nhiều biến thể của ‘lao động công ích’, công việc công ích bị gọi tên sai (về một phê phán dự đoán, xem Standing, 1990). Một hình thức là để làm cho trợ cấp không hấp dẫn đến mức người dân sẽ không muốn lấy chúng và thay vào đó sẽ nhận hầu như bất kể việc làm nào. Đấy là quan điểm của Lawrence Mead, một nhà tự do chủ nghĩa Mỹ được Downing Street mời để khuyên chính phủ Anh ngay sau khi được bầu trong 2010. Quan điểm của ông về những người đòi là ‘chính phủ phải thuyết phục họ để trách bản thân họ’ (Mead, 1986: 10, nhấn mạnh của bản gốc). Trong một dạng khác ý tưởng là bất cứ ai mà trở thành thất nghiệp, hay đã thất nghiệp trong vài tháng, sẽ được giới thiệu một việc làm, mà họ phải chấp nhận hay mất trợ cấp của họ. Các ý tưởng này đã quanh quẩn trong một thời gian rất dài, quay trở lại đến hệ thống Speenhamland (1795), Luật người Nghèo và nhà tế bần.
Ngôn ngữ được dùng để định hình nhận thức. Chính phủ Liên minh Anh đã cho rằng các kế hoạch ‘công việc công ích’ của nó có ý định ‘để phá vỡ thói quen không làm việc’. Không ai đã chứng minh rằng những người thất nghiệp, hay những người khác gặp khó khăn, có một ‘thói quen’ như vậy. Có chứng cứ đáng kể rằng các lý do nhiều người bị thất nghiệp hay ở bên lề thị trường lao động chẳng liên quan gì đến bất cứ thói quen nào như vậy. Nhiều người có quá nhiều ‘việc’ phải làm mà các nhà lao động chủ nghĩa không công nhận như công việc, như chăm sóc người thân yếu đuối hay con trẻ. Nhiều người bị tàn tật từng hồi.
Để đạp vỡ thói quen được viện ra, nó đã công bố rằng những người tìm việc làm sẽ được yêu cầu nhận các việc làm 30-giờ-một-tuần trong bốn tuần, một công việc bắt buộc. Nếu họ từ chối nhận hay không hoàn thành việc sắp xếp việc làm, trợ cấp sẽ ngừng trong ba tháng. Ý định là để biến thất nghiệp thành một sự dàn xếp hợp đồng – làm việc vì trợ cấp với một hợp đồng với nhà nước. Động cơ căn bản đã bị phơi ra khi các việc làm mà những người thất nghiệp được yêu cầu làm được tiết lộ – dọn rác và xóa các bức vẽ graffiti khỏi các tường.
Sách Trắng Phúc lợi tháng Mười Một 2010 đã khẳng định rằng đã có một ‘khủng hoảng toàn quốc’ về sự phụ thuộc trợ cấp, được cho là được bày tỏ bởi sự thực rằng 4,5 triệu người đã nhận trợ cấp ‘ngoài công việc’. Iain Duncan Smith, Bộ trưởng Công việc Hưu trí, đã cho rằng gần 3 triệu việc làm đã thuộc về những người nhập cư trong thập niên qua, một phần bởi vì nhiều người Anh ‘đã nghiện’ trợ cấp an sinh xã hội. Việc này đã cô hai khẳng định thành một suy luận. Những người nhập cư đã có thể lấy các việc làm bởi vì họ đã có các kỹ năng cá biệt hay đã sẵn sàng làm việc vì tiền công thấp hơn hay bởi vì, trong một thị trường lao động mở linh hoạt, họ đã ngẫu nhiên ở đúng chỗ vào đúng lúc. Một số thậm chí có thể kiếm được việc làm chính xác bởi vì họ đã không là công dân và đã có thể bị đuổi hay bị lạm dụng mà không bị trừng phạt. Một số đã có thể đến với kinh nghiệm rằng các công nhân Anh trẻ đã không có một cơ hội để kiếm được bởi vì họ đã trẻ. Một số đã có thể thay thế các công nhân già hơn bị các chủ cho là kém hiệu quả. Tất cả các giả thuyết này đều có thể, Để tạo một liên kết trực tiếp từ sự tồn tại của trợ cấp xã hội đến những người nhập cư ‘lấy mất các việc làm Anh’ đơn thuần là định kiến.
Khẳng định khác, rằng hàng triệu người Anh ‘nghiện’ trợ cấp nhà nước, đã là một tuyên bố định kiến khác. Hàng triệu người nhận trợ cấp do thất nghiệp cao, thu nhập thấp bởi nhiều người trong các việc làm tạm thời và một phần-thời gian – precariat – hay khuyết tật, bệnh tật, đau yếu và vân vân. Chính phủ đã phải giải quyết sự nghèo khổ, thất nghiệp và các bẫy precarity mà nhiều người đối mặt, chẳng cái nào trong số đó là lỗi của những người được mô tả như nghiện trợ cấp.
‘Bẫy nghèo’ nổi tiếng sẽ vẫn còn chừng nào sự đánh giá gia cảnh vẫn còn, cho dù sự giảm do mất trợ cấp được làm cho bớt dốc hơn với thu nhập tăng thêm. ‘Bẫy thất nghiệp ’ cũng sẽ vãn còn. Tiền công sụt càng nhiều ở đầu thấp hơn của thị trường lao động, tỷ lệ thay thế thu nhập sẽ càng cao nếu trợ cấp thất nghiệp vẫn là đủ cho sự sống sót. Trong lúc, ‘bẫy precarity’ đang xấu đi. Nếu các việc làm được tạo ra ở một chỗ trong khi những người thất nghiệp đang sống trong một vùng bị thiệt thòi ở đâu đó khác, và nếu các việc làm đó được trả lương thấp hay là một phần-thời gian, những người nhận trợ cấp bị rủi ro lớn khi nhận chúng. Họ phải đi lại, mà là đắt đỏ, họ chịu rủi ro làm hại mạng lưới gia đình, bạn bè và nơi chốn mà cho cuộc sống ý nghĩa và bản sắc, và họ phải từ bỏ trợ cấp mà đã có thể tốn hàng tháng để có được trước hết. Và họ được kỳ vọng để làm tất cả việc này khi các việc làm đó có thể kéo dài không nhiều hơn vài tuần.
Một phần của bẫy precarity là, các việc làm mà một số người bị buộc phải nhận sẽ gây ra sự thù nghịch với các việc làm nói chung. Là một định kiến giai cấp trung lưu để nghĩ các việc làm mà những người thất nghiệp bị dồn vào thế phải nhận là có lợi cho các thói quen làm việc tốt và sự cam kết lao động.
Công việc công ích ở Vương Quốc Anh sẽ mở rộng precariat. Nó sẽ đưa hàng trăm ngàn người vào việc làm tạm thời bị biến thành ít hấp dẫn một cách cố ý để bảo đảm người dân sẽ không muốn ở lại các việc làm đó. Nếu các sự thay thế là các việc làm thực, trả một thù lao rẻ mạt sẽ cũng làm cho khó hơn đối với những người đang làm các việc làm tương tự để mặc cả đòi tiền công tử tế. Nhưng, như với tất cả các sơ đồ công việc công ích, phải không có giả định nào rằng các sự thay thế sẽ là ‘các việc làm thực’. Cũng không rõ làm sao một việc làm bắt buộc bốn tuần sẽ ‘phá vỡ’ một tập quán không làm việc. Nó có thể làm điều ngược lại, làm cho nhiều người buồn rầu và bực bội. Và làm một việc làm bắt buộc toàn-thời gian sẽ ngăn cản người dân tìm kiếm một việc làm thật.
Các sơ đồ công việc công ích cũng chẳng cắt chi tiêu công. Chúng là đắt đỏ, kéo theo các chi phí hành chính cao và ‘các việc làm’ năng suất thấp. Ý định chính của chúng đúng hơn là để xoa bóp mức thất nghiệp xuống, không phải bằng tạo ra các việc làm mà bằng làm nản chí những người thất nghiệp khỏi đòi trợ cấp. Nghiên cứu ở Hoa Kỳ đã thấy rằng sự giảm sút về danh sách những người hưởng phúc lợi sau khi đưa ra các sơ đồ tương tự trong các năm 1990 đã chủ yếu là do người dân rút khỏi lực lượng lao động, mà không có việc làm. Chính sách đã gây nghèo.
Những người chủ trương công việc công ích bỏ qua kinh tế học cơ bản. Một nền kinh tế thị trường cần sự thất nghiệp nào đó, vì các lý do hiệu quả và chống-lạm phát. Không chỉ bản thân những người thất nghiệp hiệu chỉnh các kỳ vọng và khát vọng khi họ tìm kiếm mà những người khác (cũng) hiệu chỉnh sự cư xử của mình đối với sự tồn tại của những người thất nghiệp đang cạnh tranh hay đang xem xét các con đường để cải thiện đời sống của họ.
Trong khi các nhà dân chủ xã hội và lao động chủ nghĩa đã đặt nền cho công việc công ích, họ đã tìm ra một biến thể mà, nếu hiểu theo nghĩa đen, sẽ là thảm họa. Họ đã cho rằng tất cả người thất nghiệp phải ‘được bảo đảm’ một việc làm và rằng việc này ngay lập tức sẽ trao nội dung cho ‘quyền đối với công việc’. Thực tế, họ muốn tối đa hóa lao động và việc làm, mà họ xem như việc ban các quyền và công cụ để đạt hạnh phúc và hội nhập xã hội. Diễn giải này ngược với sự hiển nhiên rằng nhiều người nhận được ít sự thích thú từ các việc làm của họ. Họ buộc phải làm các việc lặp lại, ngớ ngẩn hay bẩn thỉu và nặng nề mà họ làm vì một lý do, nhằm kiếm tiền để sống và giúp những người phụ thuộc của họ sống.
Đáp lại các đề xuất công việc công ích của chính phủ Anh, Douglas Alexander, Bộ trưởng Bóng tối về Công việc và Hưu trí của Công Đảng, đã tuyên bố ủng hộ sự kiểm tra trợ cấp bất lực nghiêm ngặt hơn và mô hình Đan mạch về bảo đảm việc làm và buộc người dân nhận chúng hoặc mất trợ cấp. ‘Đây là một hình thức của phúc lợi có điều kiện’, ông nói, ‘Các bảo đảm thực của công việc, nhưng các trừng phạt thực nếu không nhận lời chào mời’. Alexander đã cho là sự khác biệt giữa lập trường của ông và của chính phủ đã là chính phủ đã chấp nhận mô hình Mỹ về cắt trợ cấp mà không có sự đảm bảo có sẵn một việc làm. Ông đã phản ứng lại sự phê phán từ một cựu tổng thư ký của Đảng Lao động rằng đảng đã có vẻ ủng hộ ‘những người nghèo vô tích sự’ chống lại ‘tầng lớp trung lưu làm việc siêng năng bị siết’. Nhưng đã có thể là chính kiến có nguyên tắc hơn để xem xét toàn diện chính sách về mặt nó có nghĩa gì đối với precariat.
Những người chủ trương công việc công ích đặt lao động lên trên công việc. Đẩy mọi người vào việc làm dẫn đến bẫy Soviet: Cuối cùng những người thất nghiệp bị gán cho cái tên ăn bám còn các công nhân bực bội giảm bớt sự cố gắng của họ, mà đã dẫn đến câu nói đùa gượng gạo, ‘Họ giả bộ trả lương chúng tôi, chúng tôi giả bộ làm việc’. Lâu trước đó, Alexis de Tocqueville trong 1835 đã diễn đạt vấn đề một cách súc tích khi nói rằng bảo đảm cho mỗi người một việc làm sẽ dẫn hoặc đến chính phủ tiếp quản hầu như toàn bộ nền kinh tế hoặc đến sự áp bức. Ông sẽ chẳng có khó khăn gì trong việc nhìn thấy nó đang đi theo con đường nào.
Biến precariat thành quỷ
Kể từ khi Đại Suy thoái bắt đầu, các chính phủ đã đẩy mạnh việc quỷ hóa của họ đối với các nạn nhân của nền kinh tế thị trường toàn cầu. Bốn nhóm đã được nhắm tới – ‘dân di cư’, ‘dân đòi phúc lợi’, ‘các tội phạm’ và ‘những người tàn tật’.
Xu hướng để quỷ hóa người di cư là xu hướng toàn cầu, cứ như họ là dạng nào đó của loài xa lạ. Một kịch bản xấu nhất sẽ là sự nổ ra trục xuất hàng loạt, với các chính trị gia dân túy thổi bùng sự sợ hãi của precariat trong nước. Ta hy vọng có đủ ý thức để ngăn chặn bất cứ thứ gì giống thế. May mắn thay, cũng có các chi phí lớn để chặn những kẻ cuồng tín. Một nghiên cứu (Hinojosa-Ojeda, 2010) đã ước lượng rằng sự trục xuất hàng loạt những người nhập cư ‘bất hợp pháp’ khỏi Hoa Kỳ sẽ tốn hơn các cuộc chiến tranh Iraqi và Afghan kết hợp lại. Nhưng sợ bị trục xuất khiến người nhập cư không có giấy tờ chấp nhận tiền công thấp hơn và các điều kiện lao động tồi hơn.
Tại Vương Quốc Anh, như ở nhiều nước, các báo toàn quốc đã thổi bùng các cảm giác chống-dân di cư. Vì chúng được đọc nhiều hơn các báo địa phương, người dân đọc về các vấn đề di cư, cho dù vùng họ có thể không hề có. Trong lúc chỉ 10 phần trăm dân ở Vương Quốc Anh là những người nhập cư, người Briton trung bình tin con số là 27 phần trăm. Media toàn quốc định vị chính xác sự kiện đặc biệt. Cũng đúng thế về ‘những kẻ xoáy trợ cấp’. Một trường hợp duy nhất được nhặt ra và tất cả mọi người trong nước đọc về nó, tưởng tượng nó có thể ngay dưới đường. Nếu chúng ta đọc báo địa phương, hầu hết dân không nghe về trường hợp đó hay khái quát hóa từ nó. Toàn cầu hóa và hàng hóa hóa truyền thông trao sức mạnh cho những người muốn quỷ hóa. Như thế một chính phủ có thể dẫn ra hai thí dụ để gợi ý rằng hầu hết người thất nghiệp có ‘một thói quen không làm việc’, và các bạn đọc có thể bị làm cho để tin rằng hai trường hợp này đại diện hàng triệu.
Một nhóm khác bị quỷ hóa là ‘các tội phạm’. Chúng ta đã thấy sớm hơn nhà nước đang hình sự hóa ra sao ngày càng nhiều người. Nhiều người chỉ là những người không thể hoạt động tốt trong một xã hội thị trường. Những người khác bị hình sự hóa do ngẫu nhiên. Các sở việc làm công (public employment service) đã trở thành các đặc vụ cho sự tuân thủ và kỷ luật xã hội mà có thể đẩy một số người thất nghiệp đến vi phạm các quy tắc. Các bác sĩ đang được biến thành các đặc vụ kỷ luật lao động, được yêu cầu báo cáo về liệu các bệnh nhân có được thuê hay có thể được thuê. Việc này có thể dẫn đến ‘sự kết tội’, vì sự lười nhác hay sự gian trá. Precariat bị phơi ra cho lao động khó chịu, tiền công bấp bênh, mà sẽ là có thể hiểu được để muốn thoát khỏi hay nổi loạn chống lại lao động đó. Hệ thống hình phạt hạn chế xu hướng đó và nâng chi phí để làm vậy lên. Cùng với sự giám sát tinh vi hơn, nhiều người hơn có thể bị tóm và bị làm nhục về mặt xã hội.
Trong một số nước, các tù nhân bị cấm bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử. Chính phủ Công đảng của Vương Quốc Anh đã lặp đi lặp lại trì hoãn việc bãi bỏ sự cấm, vi phạm luật EU, và một đề xuất để làm thế của chính phủ Liên minh đã bị đánh bại nặng nề trong một cuộc bỏ phiếu quốc hội. Vài nước khác cũng cấm tù nhân bỏ phiếu, và nhiều bang ở Mỹ cũng cấm các cựu tù nhân nữa, một dạng án chung thân mà cổ vũ một cách tích cực sự không can dự công dân.
Nói chung, sự quỷ hóa là dễ hơn trong các xã hội được đặc trưng bởi sự bấp bênh kinh tế có hệ thống và sự lo âu. Sự bấp bênh làm cho dễ hơn để lợi dụng sự sợ hãi, ‘unknown unknowns-không biết những thứ không biết’ và các hình ảnh được tạo ra và được thao tác bởi các nghệ sĩ thị giác và ngôn ngữ được thuê để làm chính xác điều đó. Việc này dẫn đến cái phải là sự sợ hãi lớn nhất của tất cả.
Nền dân chủ mỏng dần và chủ nghĩa phát xít mới
Cái gây lo ngại cho tất cả những người tin vào các giá trị dân chủ và tự do là, với sự hàng hóa hóa chính trị, có một ‘sự mỏng dần-thinning’ của dân chủ, với ít người hơn thuộc về các đảng chính trị dòng chính và sự tham gia thấp trong hầu hết các cuộc bầu cử. Sự mỏng dần này giáng xuống các đảng tiến bộ đặc biệt nặng.
Tại Vương Quốc Anh, một kiểm toán về sự can dự chính trị đã cho thấy rằng trong đầu năm 2010 chỉ một trong mười người bỏ phiếu tiềm tàng ‘đã cam kết về mặt chính trị’, còn một trong mười đã ‘bị xa lánh và thù nghịch’ (Hansard Society, 2010). Nhóm lớn nhất, một trong bốn, đã gồm những người ‘disengaged-không can dự, không tin cậy’. Chỉ 13 phần trăm có thể kể tên thành viên quốc hội của họ. Những người không can dự đã chủ yếu là trẻ (dưới 35) và giai cấp lao động – precariat. Báo cáo đã nói nhóm bị xa lạ/thù nghịch đã ‘cực kỳ khó để hẹn và sẽ là không thực tiễn để hy vọng rằng họ có thể được cải biến thành những người bỏ phiếu’. Nhóm chán nản/thờ ơ sẽ cũng khó để thúc đẩy đi bỏ phiếu. Nhiều người không can dự đã thiên về bầu cho Công đảng hơn là Bảo thủ nhưng đã rẽ hướng do những gì trên lời đề nghị.
Dân chủ mỏng, sự bỏ phiếu rời rạc của thanh niên và sự trôi dạt sang phía hữu đi cùng với nhau. Trong các cuộc bầu cử EU năm, tỷ lệ đi bầu trung bình đã là 43 phần trăm, thấp nhất kể từ 1979. Các đảng trung-tả đã làm tồi ở hầu như mọi nơi. Công Đảng đã được 16 phần trăm phiếu ở Vương Quốc Anh. Các đảng cánh hữu đã làm tốt ở mọi nơi. Các nhà xã hội chủ nghĩa đã bị nghiền nát ở Hungary, còn cánh cực hữu Jobbik đã được gần như cùng số ghế. Tại Ba Lan, Diễn đàn Công dân trung hữu cầm quyền đã thắng. Ở Ý, trung-tả đã được 26 phần trăm số phiếu ít hơn bảy điểm phần trăm so với trong tổng tuyển cử 2008 trước khủng hoảng, đối lại 35 phần trăm cho Đảng Nhân dân Tự do của Berlusconi. Trong các cuộc bầu cử Đức năm 2009, đã có tỷ lệ tham gia thấp kỷ lục 71 phần trăm; cánh hữu đã làm tốt. Ở mọi nơi, các nhà dân chủ xã hội đã trong thế rút lui.
Một vấn đề là, các chính trị gia bây giờ được bán như các thương hiệu, còn chính trị dựa vào giai cấp đã bị mất phẩm cách, một phần bởi vì dự án dân chủ xã hội đã không thể sống qua toàn cầu hóa. Một kết quả là hoạt động chính trị mẩu-âm thanh và dựa vào hình ảnh, dựa vào một sự chấp nhận chung của khung khổ kinh tế tân-tự do. Việc này nhất thiết làm xói mòn sự ủng hộ cho dân chủ xã hội.
Đã có vẻ có một ngoại lệ, Hoa Kỳ trong 2008, nơi Barack Obama đã tìm được cách để huy động những người Mỹ trẻ hy vọng một chương trình nghị sự tiến bộ. Đáng tiếc, ông đã được đóng gói và bán quá. Cố vấn kết nối mạng xã hội của ông đã đến từ Facebook; một cố vấn khác đã tạo ra một ‘thương hiệu Obama’ thông qua các công cụ marketing tài tình, với một logo (mặt trời mọc trên sao và vạch), chuyên gia marketing viral (nhạc chuông Obama), quảng bá thương hiệu qua product placement (quảng cáo Obama trên các trò chơi video thể thao), một chương trình quảng cáo 30-phút và một lựa chọn liên minh thương hiệu chiến lược (Oprah cho tầm với cực đại, gia đình Kennedy cho sự trang trọng, các ngôi sao hip-hop cho sự tín nhiệm đường phố). Về sau, Obama đã được trao Giải Marketer của Năm của Hội Quảng cáo Quốc gia. Các quảng cáo công ty đã sao chép ông: ‘Chose Change’ của Pepsi, ‘Embrace Change’ của IKEA và vân vân.
Đây là chính trị bị hàng hóa hóa, mua và bán các hình ảnh lướt nhanh và các từ bóng bẩy, các biểu tượng ưa thích hơn là thực chất. Có sự ghẻ lạnh sâu sắc trong việc có các mối quan hệ công chúng tốn kém và việc quảng cáo thuyết phục một cuộc vận động huyền ảo dính đến một người như một thương hiệu được bao quanh bởi các hình ảnh về tự do và thay đổi mà không có thực chất.
Obama đã thắng đối mặt với đối lập Cộng hòa yếu, ở giữa một cuộc chiến tranh tai hại và một nền kinh tế trên bờ vực của sự tan chảy. Ông đã có thể liều tấn công dự án tân-tự do. Thay vào đó ông đã ủng hộ Quỹ Tiền tệ Quốc tế, mà đã là một thủ phạm chính trong sự ngạo mạn của nó, đã giải cứu các ngân hàng và chỉ định Larry Summers làm cố vấn kinh tế chính của ông, người mà đã nghĩ ra chính sách chịu trách nhiệm về khủng hoảng nhà đất dưới chuẩn. Obama đã chẳng bao giờ thử với tới precariat, cho dù nhiều người ở trong nó đã hy vọng ông sẽ làm vậy. Sức tưởng tượng dân chủ xã hội đã không thể thấu cảm với tình trạng gay go thực.
Tại Hoa Kỳ và ở nơi khác, sự tức giận đã tăng theo một số mặt thối nát của thời đại toàn cầu hóa. Hãy nhớ lại việc sử dụng có hệ thống các khoản trợ cấp. Naomi Klein giữa những người khác đã gọi thời đại toàn cầu hóa là ‘chủ nghĩa tư bản cánh hẩu’, tự tiết lộ mình không như một ‘thị trường tự do’ khổng lồ mà như một hệ thống trong đó các chính trị gia trao của cải công cho những người chơi tư nhân để đổi lấy sự ủng hộ chính trị. Mỉa mai thay, các nhóm cực-hữu đã thu hút được phản ứng dữ dội anti-corporatist (chống cách tổ chức nhà nước như công ty). Nếu nhà nước đã bị chủ nghĩa cánh hẩu chiếm đoạt, vì sao phải ủng hộ một ‘nhà nước mạnh’? Các nhà dân chủ xã hội kiểu cổ không có khả năng để đáp ứng bằng sự tin chắc bởi vì họ đã chấp nhận sự giải thích tân-tự do và đã chẳng làm gì để hỗ trợ precariat mà đã lớn lên trong cái bóng của nó. Sự thực là các khoản trợ cấp cho tư bản (capital) đã được dùng cho các mục đích chính trị và kinh tế. Lập luận thô thiển đã là nếu một chính trị gia hay đảng không trao các khoản trợ cấp cho các nhóm lợi ích hùng mạnh, như ‘các ông trùm media’, những người khác sẽ làm. Nếu các khoản trợ cấp đã không được trao cho các nhà đầu tư tài chính và ‘các non-dom-những người không cư trú’ (các cá nhân giàu cho là cư trú ở nơi khác vì các mục đích thuế), thì các nước khác sẽ cám dỗ họ ngay. Một thế hệ các nhà dân chủ xã hội đã đồng ý với chủ nghĩa cơ hội thô thiển đó, đánh mất mọi sự tín nhiệm trong quá trình.
Có các xu hướng đáng lo ngại hơn một dự án dân chủ xã hội sắp chết. Người dân bấp bênh trở thành người dân tức giận, và người dân tức giận là những người hay thay đổi, dễ ngả về ủng hộ một chính kiến hận thù và gay gắt. Tại Châu Âu, các đảng trung-tả đã bị trừng trị bởi cử tri vì việc để cho bất bình đẳng và bất an toàn tăng lên trong khi đi theo hướng một nhà nước công việc công ích (workfare state). Các đảng cực hữu đã lớn lên, công khai lôi cuốn sự sợ hãi của những người đã trở thành bấp bênh nhất.
Ý đã dẫn đầu. Liên minh được Berlusconi rèn đã nhắm tới precariat – phần Ý của nó. Đặc tính chính trị đáng được gọi là ‘chủ nghĩa phát xít mới’. Làm cơ sở cho nó là một liên minh giữa một elite ở bên ngoài dòng chính của xã hội – được cô lại bởi bản thân Berlusconi, người giàu nhất Ý sở hữu các đài TV thương mại hàng đầu của Ý – và tầng lớp trung lưu thấp và những người sợ rơi vào precariat. Một ngày sau ngày được bầu lại trong năm 2008, Berlusconi đã công bố ý định của ông để ‘đánh bại đội quân xấu’, mà theo đó ông đã muốn giải thoát đất nước khỏi ‘những người di cư bất hợp pháp’. Lợi dụng sự sợ hãi của người dân xung quanh luật và trật tự, ông đã là chủ mưu của một loạt các biện pháp độc đoán. Các trại của người Roma bị đánh sập và lấy vân tay của những người Roma; quốc hội đã hợp pháp hóa các cuộc tuần tra dân phòng; giai đoạn mà trong đó những người xin tị nạn đã có thể bị giữ trong ‘các trung tâm nhận diện và trục xuất’ đã được kéo dài ra sáu tháng; một chính sách được đưa ra để đẩy những người di cư quay về trên biển Địa Trung Hải trước khi họ có thể lên bờ, gửi họ đến các trung tâm giam giữ ở Libya. Berlusconi và các đồng sự của ông đã gọi tư pháp là ‘một bệnh ung thư’ và đã gạt bỏ quốc hội như ‘một thực thể vô dụng’. Không ngạc nhiên Ý được gọi là một nền dân chủ không tự do.
Các cuộc tấn công phân biệt chủng tộc ở Rome lan rộng, được hợp pháp hóa bởi sự tái đắc cử như thị trưởng trong 2010 của Gianni Alemanno, một nhà hoạt động phát xít-mới trước kia. Nhiều nhà khoa học xã hội đã lưu ý rằng các côn đồ trẻ gây ra các cuộc tấn công phân biệt chủng tộc đã ít mang tính tư tưởng hơn các tiền bối của chúng của các năm 1930 và quan tâm hơn đến bản sắc cá nhân, phản đối bất cứ ai được cảm nhận là khác. Một thay đổi khác đã là một sự nhấn mạnh đến rượu, gắn kết với một sự chuyển từ nỗi ám ảnh với một bella figura (hình dáng đẹp) sang một sự tự hào kỳ dị về sự mất kiểm soát. Claudio Cerasa, tác giả The Taking of Rome, một cuốn sách về sự lên của phe hữu chính trị, đã mô tả Alemanno như một sản phẩm của chủ nghĩa phát xít mới, không phải một nguyên nhân. Năm 2007, một năm trước khi ông được bầu lần đầu, một phần tư trẻ em học sinh của Rome đã bầu cho Blocco Studentesco, một nhánh của CasaPound cực hữu. Đã là tính khí của thời đại.
Cái đang xảy ra ở Ý cũng đang bắt đầu ở nơi khác nữa. Tại Pháp, Tổng thống Nicolas Sarkozy, một người cánh hữu mà đã theo đường lối cứng rắn rồi về di cư như bộ trưởng nội vụ, nhất là sau các cuộc náo loạn 2005 ở banlieues (ngoại ô) Paris và các thành phố Pháp khác, đã không phí thời gian để copy Berlusconi. Trong 2009, hàng ngàn người di cư đã bị trục xuất ngay lập tức, và trong 2010 số đông người Roma đã bị đuổi về Rumania và Bulgaria. Tổng thống Sarkozy đã đang chơi cho các cử tri cốt lõi của ông. Một phần precariat đã quay sang cực hữu. Giai cấp lao động da trắng và các thành viên già hơn của precariat đã bỏ phiếu cho Mặt trận Dân tộc trong các cuộc bầu cử địa phương tháng Ba 2010, Mặt trận được 17,5 phần trăm ở mười hai khu vực nơi nó đã có các ứng viên trong vòng hai. Sau khi đảng UMP (Union pour un Mouvement Populaire Liên hiệp cho Phong trào Nhân dân) của Sarkozy bị một liên minh trung tả mất phương hướng đánh bại ra trò, ông đã chuyển sang hữu thêm nữa. Trong một thăm dò 2010, một phần ba cử tri UMP đã nói họ sẽ ủng hộ các hiệp ước bầu cử chung với Mặt trận Dân tộc.
Cực hữu đã đột nhập trong nhiều nước Âu châu. Cú sốc lớn nhất đối với dòng chính chính trị đã là bầu cử Thụy Điển cuối 2010, khi các nhà Dân chủ Thụy Điển cực hữu đã có được những sự tăng thêm lớn còn các nhà Dân chủ Xã hội mang tính biểu tượng đã có kết quả tồi nhất của họ hàng thập kỷ. Nó tượng trưng cho sự kết thúc của ‘mô hình Thụy Điển’ lừng danh. Ở nơi khác nữa, các nhóm cực hữu với các thông điệp bài ngoại đã có tiến triển. Đảng Jobbik xấu xa, với đồng phục đen và giày ống của nó, đã xâm nhập ở Hungary. Tại Hà Lan, Đảng Tự do đã tiến tới trong bầu cử tháng Sáu 2010, đòi hỏi các giới hạn về nhập cư, một sự giảm quan liêu cho các doanh nghiệp nhỏ, thuế thấp hơn và chăm sóc người già nhiều hơn. Ở đó, và ở Đan mạch, nơi Đảng Nhân dân Đan Mạch dân túy đã đạt một sự siết chặt thêm của các luật nhập cư hà khắc nhất Âu châu, một chính phủ do đảng Tự do dẫn dắt phụ thuộc vào các đảng chống nhập cư vì sự sống sót. Tại Áo, Đảng Tự do cực hữu đã được hơn một phần tư số phiếu trong các cuộc bầu cử tỉnh ở Vienna trong tháng Mười 2010, tăng gần gấp đôi sự ủng hộ của nó từ 2005.
Tại Vương Quốc Anh, Đảng Quốc gia BNP đã đột nhiên gây ra một sự sợ hãi, lan nhanh để thắng trong các cuộc bầu cử EU trong 2009, chỉ để nổ tung do sự thô bỉ của lãnh tụ của nó. Là quá lạc quan để nghĩ các trào lưu ngầm mà đã dẫn đến sự dấy lên về tính đại chúng của nó sẽ bị cuốn đi. Các nhóm khác đáng ghét ngang thế như Liên minh Phòng thủ Anh (English Defence League) đã kiếm được chỗ, còn một số nhân vật trung dung đã không chống lại việc kích động tình cảm chống-dân nhập cư.
Các chính sách được hầu hết các chính phủ Âu châu theo đuổi đã tạo ra một môi trường có lợi cho chủ nghĩa dân túy. Vương Quốc Anh không phải là ngoại lệ. Bằng việc ủng hộ các thị trường lao động linh hoạt, nó đã để cho precariat lớn lên mà không đáp lại các sự bất an toàn hay sợ hãi của nó. Nó đã chuyển an sinh xã hội dứt khoát theo hướng đánh giá gia cảnh, mà trao sự ưu tiên cho những người cần nhất trong khi đẩy ‘các công dân’ đứng (đợi)-lâu, những người đã có thể cận nghèo, quay lại cuối hàng đợi trợ cấp, kể cả nhà ở.
Thu nhập-thấp đã tước đoạt các cộng đồng bị tàn rụi bởi giải-công nghiệp hóa gây ra thái độ chống xã hội; dân cư của chúng bị bao quanh bởi sự dơ dáy và đau khổ vì sự tước đoạt tương đối. Vì các vùng như vậy thu hút một số không cân xứng những người nhập cư và các sắc tộc thiểu số thu nhập-thấp, nên dân cư ‘da trắng’ hay ‘các công dân’ trải nghiệm nhiều sự sợ hãi, chủ yếu do mất cái ít ỏi họ có. Việc chỉ trích họ vì các phản ứng và thái độ của họ, khi các thị trường lao động linh hoạt và sự đánh giá gia cảnh (mới là cái) tạo ra các điều kiện đó, là một đạo đức giả. Trách nhiệm thuộc về các nhà hoạch định chính sách, mà các chính sách của họ đã nuôi dưỡng những sự căng thẳng và đã sinh ra chủ nghĩa cực đoan.
Chính phủ Công đảng đã đáp lại với các biện pháp dân túy, khởi động các sơ đồ pilot để trả tiền cho những người nhập cư thất nghiệp về nước với các vé máy bay một chiều, sử dụng các công ty dịch vụ tội phạm thương mại tư nhân và công bố một kế hoạch để giúp đỡ ‘các cộng đồng truyền thống’, một uyển ngữ cho việc giúp đỡ các khu dân cư da trắng thu nhập thấp. Các chính phủ ở nơi khác cũng đã quay sang các cách tiếp cận dân túy.
Tại Hoa Kỳ, phong trào Tea Party đã bắt đầu trong 2009 sau khi nhà bình luận TV Rick Santelli đã kêu gọi bày tỏ sự phẫn uất cao độ chống lại các kế hoạch tài chính của Tổng thống Obama. Những người gia nhập Tea Party đã là những người chống-chính phủ, đòi thuế thấp và các thị trường tự do. Mục tiêu ban đầu đã là các đảng viên Dân chủ, nhưng các đảng viên Cộng hòa được cho là cam kết không đủ cho các khoản cắt giảm thuế và chính phủ nhỏ hơn cũng bị đe dọa. Ủy ban Quốc gia Cộng hòa trong 2010 đã bị ép buộc để chấp nhận một điều lệ thúc các lãnh đạo đảng ủng hộ các ứng viên mà đã có thể chứng minh các bằng chứng cánh-hữu bằng việc thông qua mười tiêu chuẩn do Tea Party đặt ra.
Giới elite đã ve vãn Tea Party. Nó đã thu hút sự ủng hộ của các nhóm gắn với các công ty dầu mỏ và Wall Street (Fifield, 2010). Các yếu tố của giới elite đang hợp lại với các yếu tố trong giai cấp lao động đang teo đi và precariat, một bên cấp kinh phí và đảm bảo báo chí đưa tin tức, bên kia cung cấp lính bộ và những người bỏ phiếu. Trừ phi các đảng dòng chính chào mời cho precariat một chương trình nghị sự về sự an toàn kinh tế và tính lưu động xã hội, một phần quan trọng sẽ tiếp tục trôi về thái cực nguy hiểm.
Hội nghị toàn quốc đầu tiên của Tea Party đã chứa nhiều thảo luận về nhập cư bất hợp pháp và sự phản đối ‘sùng bái chủ nghĩa đa văn hóa’ và ‘Islam hóa’. Các áo T-shirt đã có các khẩu hiệu như ‘Tôi sẽ giữ sự tự do của tôi, súng của tôi và tiền của tôi’. Các Birther (Sinh-gia: lý thuyết gia ngoài luồng nói Obama không sinh tại Hoa Kỳ) đã ở đó, cho rằng Obama đã là một người nước ngoài mạo danh. Giống đảng Quốc gia BNP ở Anh Quốc, Tea Party đã buộc tội những người nhập cư làm tràn ngập các giá trị Do thái-Thiên chứa giáo của Mỹ. ‘Đây là nước chúng ta’, một đại biểu đã nói với những tiếng reo hò man dại, ‘Hãy lấy lại nó!’ Đã chẳng có ai ở gần để nói nó đã không hề bị lấy đi.
Tea Party là phát xít mới, muốn một nhà nước xã hội nhỏ và chính phủ độc đoán. Nó gồm chủ yếu ‘những người đàn ông và đàn bà da trắng giận dữ’ bị tác động bởi sự mất việc làm và các tiêu chuẩn sống giảm dần. Hai phần ba các việc làm mà đã chấm dứt trong hai năm sau 2008 đã là các việc làm ‘cổ xanh’ của đàn ông. Những người da trắng giận dữ chỉ trích ‘việc cho tiền’ cho người dân, và thăm dò dư luận cho thấy rằng người da trắng đã trở nên bảo thủ hơn. Sự ủng hộ ‘các quyền về súng’ đã tăng từ 51 phần trăm trong 2008 lên 64 phần trăm trong 2010.
Glen Beck, một người dẫn chương trình của Fox News được phe hữu Mỹ hoan nghênh, là một người tự thú nhận đã từng nghiện cocaine và nghiện rượu mà gọi mình là một ‘người giáp ranh tâm thần phân liệt’. Ông tấn công dữ dội những người với ít giáo dục hay hiểu biết chính trị. Trong cuốn Glen Beck’s Common Sense bán chạy nhất của mình ông đã viết cho bạn đọc như sau:
Tôi nghĩ tôi biết bạn là ai. bạn là một người có ‘các niềm tin mạnh mẽ’, với một ‘trái tim nồng ấm’. Bạn làm việc cật lực, bạn không liều lĩnh với tiền, bạn lo về nền kinh tế có nghĩa gì cho gia đình bạn. bạn không là một kẻ cuồng tín, nhưng bạn đã ngừng bày tỏ ý kiến về các vấn đề nhạy cảm từ lâu rồi bởi vì bạn không muốn bị gọi là một kẻ phân biệt chủng tộc hay một kẻ kỳ thị người đồng tính nếu bạn đứng lên bảo vệ các giá trị và các nguyên tắc của mình. Bạn không hiểu làm thế nào chính phủ có thể yêu cầu bạn hy sinh nhiều hơn chỉ để cho các chủ ngân hàng và các chính trị gia có thể thu lợi. Bạn đọc thân mến, Glen Beck có thể giúp bạn. Ông ta sẽ đứng lên với bạn và nói, ‘Đừng giẫm lên ta.’
Beck đã trở thành một người nổi danh có hàng triệu dollar. Ngoài luồng đã trở thành dòng chính. Dòng chính chính trị cũ đã không có một câu chuyện thay thế để chào mời, ngoài hy vọng cho tăng trưởng kinh tế và việc làm. Nó đã không có câu trả lời nào cho sự bấp bênh và bất bình đẳng tăng lên; không bị ấn tượng, phần tiến bộ của precariat đã tránh xa các điểm bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử giữa kỳ 2010.
Tại Nhật Bản, precariat cũng chia rẽ; số đông những người giận dữ, hầu hết là đàn ông trẻ, gia nhập các nhóm bị media gán cho cái tên như Cực hữu Net bởi vì các thành viên được tổ chức qua internet và tập hợp chỉ cho các cuộc biểu tình. Hầu hết có các việc làm hợp đồng lương thấp, một phần-thời gian hay ngắn hạn. Theo giáo sư xã hội học Kensuke Suzuki, ‘Đấy là những người đàn ông cảm thấy bị tước quyền công dân trong chính xã hội của họ. Họ đang tìm ai đó để đổ lỗi, và những người nước ngoài là mục tiêu hiển nhiên nhất’ (Fackler, 2010). Nhóm lớn nhất, với hơn 9.000 thành viên trong 2010, được gọi là Zaitokukai, một sự viết tắt của cái tên đầy đủ cồng kềnh của nó – Các công dân Những người Sẽ Không Tha thứ các Đặc ân Đặc biệt cho những người Hàn quốc ở Nhật Bản. Các nhóm như vậy đã đẩy mạnh các cuộc biểu tình thù nghịch chống lại những người nhập cư và nói họ noi gương Tea Party ở Hoa Kỳ.
Trừ phi sự hàng hóa hóa của chính trị được kiểm soát, chúng ta sẽ thấy sự mỏng đi thêm của sự can dự dân chủ, đặc biệt về phần tiến bộ của precariat. Chính trị bây giờ bị chi phối bởi các nhà hành nghề thị trường. Một thí dụ đã là bầu cử tổng thống Ukrain 2010, với sự đắc cử của Victor Yanukovich, một người gắn với các đại gia đầu sỏ và với các sự kết tội hình sự vì sự trộm cắp và tấn công. Các đầu sỏ đã dựng lên các quỹ để thuê một hãng bán ông ta cho các cử tri. Được dẫn đầu bởi một chiến lược gia Đảng Cộng hòa Mỹ, Paul Manafort, mà hãng của ông đã được sử dụng như cố vấn cho vài tổng thống Mỹ. Trước khi họ bắt đầu làm việc, Yanukovich đã tiều tụy trong các cuộc tham dò, đã bị bác bỏ trong 2004. Họ đã đóng gói lại ông ta. Trong lúc đó, hãng tư vấn được thành lập bởi David Axelrod, cố vấn chính trị của Obama đã giúp ứng viên chủ chốt khác, như John Anzalone, mà cũng đã làm việc cho chiến dịch Obama, đã giúp.
Ba thứ là đáng chú ý về cuộc bầu cử kỳ quái trong một nước Âu châu 50 triệu dân. Nó đã minh họa sự hàng hóa hóa chính trị; nó đã là sự hàng hóa hóa nước ngoài phù hợp với một dạng đột biến của toàn cầu hóa; và nó đã dính dáng đến một elite tội phạm, cấp vốn cho lợi ích của nó dưới dạng của một ứng viên. Trong khi đó, con số khổng lồ của những người Ukrain đã quảng cáo bán lá phiếu của mình trên internet. Công ty Cộng hòa Mỹ đã thuê ngoài công ty Dân chủ Mỹ.
Sự hàng hóa hóa toàn cầu của chính trị phải đặc biệt làm phiền precariat. Có lẽ diễn tiến thoái bộ nhất ở Hoa Kỳ, và bởi sự liên can ở nơi khác căn cứ vào các phán quyết pháp lý của nó trở thành các tiền lệ toàn cầu như thế nào, đã là phán quyết của Tòa án Tối cao Mỹ năm 2010 trong vụ Citizens United vs Ủy ban Bầu cử Liên bang. Tòa đã quyết định rằng bất kể công ty, nghiệp đoàn hay hội thương mại nào đều có thể góp các khoản đóng góp không hạn chế cho các cuộc vận động chính trị, vì lý do khác thường rằng chúng có cùng các quyền như các cá nhân để tham gia vào các cuộc bầu cử. Đã không ngạc nhiên rằng các cuộc bầu cử Hạ viện giữa nhiệm kỳ tiếp sau đã bị chi phối bởi ‘các quảng cáo tấn công’ tàn bạo, được tài trợ bởi các tổ chức được dựng lên để che giấu tiền đến từ đâu. Các quỹ cho các ứng viên cánh hữu đã tăng lên sáu lần, hầu hết cho các ứng viên vận động để ủng hộ các khoản cắt giảm thuế, nhiều trợ cấp hơn cho các công ty, bảo vệ môi trường ít hơn, đảo ngược cải cách chăm sóc sức khỏe và một thái độ cứng rắn hơn đối với sự di cư và những người nhập cư.
Ngay một lúc, phán quyết đã làm xói mòn nguyên tắc dân chủ, rằng mỗi công dân có một quyền ngang nhau để bỏ phiếu và một trọng lượng ngang nhau trong quá trình. Kẻ thua nhiều nhất là precariat. Vì trong khi mà các công ty sẽ đưa tiền vào các cuộc vận động cho giới elite và salariat, còn các nghiệp đoàn bị yếu đi sẽ ủng hộ các nhân viên cốt lõi của chúng, không có giới lợi ích hùng mạnh nào để đại diện cho precariat. Vẫn chưa.
Tóm lại, precariat phải lo lắng bởi sự dấy lên của chủ nghĩa phát xít mới và áp lực cho một nhà nước xã hội nhỏ hơn. Hiện tại, nó không thể kháng cự. Một số người, mà tình hình xã hội và kinh tế của họ đặt họ vào precariat, đã bị trẻ con hóa về mặt chính trị. Họ lo âu và bất an đến mức họ dễ bị cám dỗ để ủng hộ các hoạt động dân túy và độc đoán đối với những người được miêu tả như một sự đe dọa. Nhiều người trong precariat đã mất (hay sợ mất) những thứ ít ỏi mà họ đã có và đang mắng nhiếc bởi vì họ không có nền chính trị thiên đường nào để kéo họ theo các hướng tốt hơn.
Các kết luận
Precariat được miêu tả như cần giám sát, điều trị và ép buộc để nhận việc làm. Nhưng giải pháp gia trưởng tự do chủ nghĩa của công việc công ích là một phương tiện phá vỡ bất kể sự cố gắng nào để xây dựng các sự nghiệp nghè nghiệp, như trị liệu khi được dùng như chính sách xã hội. Chẩn đoán về sự bất lực tâm thần và dự đoán về trị liệu kết hợp để nhấn mạnh các cảm giác về sự bấp bênh. Đấy không phải là các chính sách để lôi cuốn sự bứt rứt và giận dữ trong precariat. Điều ngược lại chắc có khả năng hơn.
Sự giám sát (từ trên, surveillance) đang thấm vào mọi định chế của xã hội. Tại mỗi điểm nó sẽ sinh ra sự giám sát từ dưới (sousveillance) hay một phản văn hóa, và việc này đến lượt sẽ có một tác động phản hồi gây ra sự giám sát chặt chẽ hơn. Sự giám sát không thể ngừng lại một khi đã được hợp pháp hóa. Nó chỉ có thể bị dừng bởi sự phản kháng tích cực, bằng hoạt động trên cơ sở giai cấp.
Sự giám sát nuôi dưỡng sự gây hấn và sự nghi ngờ các động cơ. Nếu một người đàn ông bị bắt gặp trên CCTV vỗ nhẹ má một cô gái trẻ, đó là một dấu hiệu của sự âu yếm hay ý định săn mồi tình dục? Nếu có sự nghi ngờ, nó sẽ biện minh cho các sự kiểm tra, như một sự đề phòng. Bạn chẳng bao giờ quá an toàn. Một người bảo vệ chẳng bao giờ xa để trở thành một người kiểm soát. Một hệ quả sẽ là sự rút khỏi các hành động bình thường của tình bạn. Cùng tính nước đôi và xu hướng xa cách có ảnh hưởng lên các doanh nghiệp. Việc áp dụng sự quản lý thời gian, sự có mặt nơi làm việc và các kiểm toán tính hiệu quả là các công cụ cho việc trừng phạt những người không tuân thủ, những người có thể là các đầu óc đổi mới và sáng tạo nhất. Trên hết, sự giám sát bào mòn tình bạn công dân và sự tin cậy, khiến cho người dân sợ hãi hơn và lo lắng hơn. Nhóm với nhiều lý do nhất cho sự sợ hãi và lo âu đó là precariat.
Thuyết vị lợi mà làm nền cho nhà nước tân-tự do tóm tắt lại là một tín điều về làm cho đa số hạnh phúc trong khi làm cho thiểu số tuân theo các tiêu chuẩn của đa số, thông qua các chế tài thưởng phạt, các cú hích nhẹ gợi ý và sự giám sát. Nó là sự chuyên chế của đa số được đưa lên một mức cường độ mới. Các nhà vị lợi đã có thể tránh được các kết quả xấu chừng nào họ đối phó với một tầng lớp dưới cùng (hạ cấp, underclass) nhỏ và chừng nào thu nhập, tồi nhất, đã đình trệ trong đầu thấp hơn của xã hội. Một khi precariat đã lớn lên và thu nhập đã bắt đầu sụt mạnh, sự giận dữ với chương trình nghị sự vị lợi và hàng loạt sự bất bình đẳng đã nhất thiết trở nên bùng nổ.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:32:39 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (chương 7)
MỘT NỀN CHÍNH TRỊ THIÊN ĐƯỜNG
Đã đến lúc để xem xét lại bộ ba vĩ đại – tự do, bình đẳng và tình anh em – trong việc trình bày một chương trình nghị sự tiến bộ từ viễn cảnh của precariat. Một sự xuất phát tốt sẽ là một sự phực hưng của tự do cộng hòa (republican freedom), khả năng để hành động trong sự phối hợp. Tự do là cái gì đó mà được bộc lộ trong hoạt động tập thể.
Precariat muốn tự do và sự an toàn cơ bản. Như nhà thần học Kierkegaard diễn đạt, sự lo âu là một phần của tự do. Nó là cái giá chúng ta trả cho tự do và có thể là một dấu hiệu rằng chúng ta có nó. Tuy vậy, trừ phi sự lo âu được tiết chế, được neo trong sự an toàn, sự ổn định và sự kiểm soát, nó có cơ phải chịu tủi ro đổi chiều vào sự sợ hãi phi lý và sự bất lực để hoạt động một cách duy lý hay để trình bày một câu chuyện nhất quán cho việc sống và làm việc. Đấy là tình hình của precariat hôm nay, muốn kiểm soát cuộc sống, một sự sống lại của tình đoàn kết xã hội và một sự tự trị bền vững, trong khi bác bỏ các hình thức lao động chủ nghĩa cũ của sự an toàn và chủ nghĩa gia trưởng nhà nước. Nó cũng muốn thấy tương lai được đảm bảo theo con đường sinh thái, với không khí trong lành, ô nhiễm rút lui và các loài hồi sinh; precariat có nhiều nhất để mất từ sự suy thoái môi trường. Và nó đang sôi nổi trong sự mong muốn để làm sống lại tự do cộng hòa, hơn là tự do cá nhân xa lánh của những người bị hàng hóa hóa.
Mặc dù precariat vẫn chưa là một giai cấp-cho-chính nó, nó là một giai cấp-đang-hình thành, ngày càng có khả năng nhận diện cái nó muốn chiến đấu và những gì nó muốn xây dựng. Cần làm sống lại một đặc tính của sự đoàn kết xã hội và tính phổ quát, các giá trị bị các nhà vị lợi bác bỏ. Tính tự phụ của họ đã được thâu tóm bởi một lãnh tụ trong tờ báo có ảnh hưởng Financial Times (2010b), mà đã nói toẹt ra, ‘Tính phổ quát là một nguyên lý lãng phí’. Ngược lại, nó là quan trọng hơn bao giờ hết. Nó là nguyên lý duy nhất mà có thể đảo ngược các sự bất bình đẳng gia tăng và sự bấp bênh kinh tế. Nó là nguyên lý duy nhất mà có thể ngăn chặn sự lan rộng của sự đánh giá gia cảnh, tính điều kiện và sự hích nhẹ gia trưởng chủ nghĩa. Nó là nguyên lý duy nhất mà có thể được dùng để duy trì sự ổn định chính trị khi thế giới hiệu chỉnh với khủng hoảng toàn cầu hóa mà đang dẫn đến một sự sụt giảm về các tiêu chuẩn sống cho đa số trong thế giới đã công nghiệp hóa.
Đối với precariat, chủ nghĩa lao động thế kỷ thứ hai mươi là không hấp dẫn. Vào thời của nó, dự án dân chủ xã hội đã là tiến bộ, nhưng nó đã đến một ngõ cụt với Chủ nghĩa Con đường Thứ ba khắc khổ. Các chính trị gia dân chủ xã hội đã sợ nhắc đến bất bình đẳng, nói chi đến giải quyết nó, đã ủng hộ lao động bấp bênh linh hoạt và đã coi thường tự do, thúc đẩy nhà nước panopticon. Họ đã mất uy tín với precariat khi họ miêu tả mình như ‘giai cấp trung lưu’ và đã làm cho cuộc sống của những người bất tuân thủ gay go hơn và bấp bênh hơn. Đã đến lúc đi tiếp.
Có một nhu cầu cho một nền chính trị thiên đường mới mà hơi không tưởng và hãnh diện là thế. Sự định thời gian là đúng, vì một tầm nhìn tiến bộ mới dường như nổi lên trong các năm đầu của mỗi thế kỷ. Đã có những sự lãng mạn cấp tiến của đầu thế kỷ thứ mười chín, đòi các quyền tự do mới, và đã có một sự xông lên của tư duy tiến bộ trong đầu thế kỷ thứ hai mươi, đòi tự do cho giai cấp vô sản công nghiệp. Đã muộn rồi, nhưng sự làm mất tín nhiệm của chủ nghĩa lao động cùng sự phá sản đạo đức của mô hình tân-tự do về toàn cầu hóa là một thời khắc của hy vọng cho một chủ nghĩa quân bình giải phóng hợp với precariat.
Khi suy nghĩ điều đó giống cái gì, là tốt để ngẫm nghĩ rằng cái gì có vẻ là không thể làm được hôm nay thường trở thành không chỉ có thể mà còn thực hiện được. Trong lời nói đầu cho lần xuất bản 1982 của cuốn Chủ nghĩa tư bản và Tự do, được viết ban đầu trong 1962 khi chủ nghĩa trọng tiền và chủ nghĩa tân-tự do đã vẫn bị chế nhạo, nhà trọng tiền chủ chốt Milton Friedman đã bình luận, ‘Chức năng cơ bản của chúng tôi là để trình bày các lựa chọn thay thế cho các chính sách hiện tồn, để giữ chúng sống và sẵn có để dùng cho đến khi cái không thể làm được về mặt chính trị trở thành không thể tránh được về mặt chính trị’ (Friedman, 1982: ix). Đây là nơi tư duy tiến bộ đang ở hôm nay.
Nhiệm vụ đầu tiên là để khẳng định những gì đã bị các nhà lao động chủ nghĩa và các nhà tân-tự do phủ nhận. Người dân phải được tin cậy để nghĩ và hành động theo lợi ích tốt nhất của họ, và phải được tin cậy để tôn trọng những người khác. Họ phải không bị đối xử như người lười biếng, tội phạm tiềm tàng, kẻ vi phạm luật hay ích kỷ một cách vốn có. Các nhà gia trưởng tự do chủ nghĩa thích hích nhẹ phải được bảo để nhớ công việc riêng của họ và các kiến trúc lựa chọn của họ, panopticon phải bị đẩy lùi. Giáo dục đúng đắn và ‘chất lượng thời gian’ là cách để giúp người dân đưa ra các quyết định riêng của họ. Ngược với điều các nhà gia trưởng tự do chủ nghĩa nói, hầu hết người dân không đưa ra các quyết định dưới-tối ưu bởi vì họ bị tràn ngập thông tin; họ đưa ra chúng bởi vì họ không có thời gian hay sinh lực để sàng lọc thông tin xác đáng, không có sự tiếp cận đến lời khuyên chuyên gia có chi phí phải chăng và không có Tiếng nói để thực hiện các lựa chọn của họ.
Có thể nói cùng thứ về việc làm. Sự thực rằng có một sự ác cảm với việc làm được giới thiệu không có nghĩa rằng số đông người dân không muốn làm việc. Có bằng chứng áp đảo rằng hầu như mọi người muốn làm việc. Nó là phần của thân phận con người. Nhưng không suy ra rằng tất cả mọi người phải trong việc làm hay bị đối xử như nhiễm một ‘thói quen không làm việc’ nếu họ không trong việc làm.
Precariat đối mặt với sự bất an có hệ thống. Là quá giản lược để chia nó thành một precariat ‘tốt’và một precariat ‘xấu’. Tuy vậy, có một phần mà muốn đối chiếu các sự bất an với các chính sách và các định chế để tái phân phối sự an toàn và cung cấp các cơ hội cho tất cả để phát triển tài năng của họ. Phần này, có lẽ thanh niên là áp đảo, không ngoái cổ lại nhìn sự an toàn công ăn việc làm lao động chủ nghĩa của thời đại trước toàn cầu hóa một cách trìu mến.
Precariat ‘xấu’, ngược lại, bị thúc đẩy bởi nỗi luyến tiếc một thời vàng son được tưởng tượng. Nó giận dữ và cay đắng, nhìn các chính phủ giải cứu các ngân hàng và các chủ nhà bank, trao trợ cấp cho các elite được ưu ái và salariat, và để cho bất bình đẳng tăng lên, với phí tổn của họ. Nó bị lôi kéo đến chủ nghĩa phát xít mới dân túy, chỉ trích các chính phủ và coi những người mà có vẻ được chúng ưu ái như quỷ dữ. Trừ phi các khát vọng của precariat ‘tốt’ được giải quyết, nhiều người hơn sẽ bị kéo vào các giới của precariat ‘xấu’. Nếu điều đó xảy ra, xã hội sẽ bị đe dọa. Nó đang xảy ra.
Nhu cầu trước nhất của precariat là sự an toàn kinh tế, để cho sự kiểm soát nào đó đối với các triển vọng của cuộc sống và một cảm giác rằng các cú sốc và hiểm họa có thể được chế ngự. Việc này có thể đạt được chỉ nếu sự an toàn thu nhập được bảo đảm. Tuy vậy, các nhóm dễ bị tổn thương cũng cần ‘năng lực hành động’, năng lực tập thể và cá nhân để đại diện cho các lợi ích của họ. Precariat phải rèn một chiến lược mà tính đến mệnh lệnh kép này.
Làm cho tư cách denizen công bằng
Precariat gồm nhiều loại denizen (dân ngụ cư), với các bó khác nhau nhưng bị hạn chế của các quyền. Nó sẽ có thêm nếu các sự chênh lệch giảm đi và nếu các quyền được bảo vệ một cách đúng đắn. Mỗi phần của precariat có một lợi ích trong việc nâng cao các quyền của các denizen khác, cho dù một số nhóm chính trị thử xoay một nhóm chống lại nhóm khác. ‘Denizen liên hiệp lại!’ sẽ không phải là một khẩu hiệu tồi. Và là quan trọng để nhớ rằng không chỉ những người di cư mới có địa vị denizen. Nhà nước đang cải biến ngày càng nhiều công dân thành các denizen.
Quá xá nhất, nó lấy đi các quyền khỏi ‘những người bị hình sự hóa’. Đây là một dạng của cảnh nguy hiểm kép. Trừ phi một tội phạm là chính trị công khai, hay nếu một quy trình pháp lý đã phán quyết rằng ai đó phải không có quyền bỏ phiếu, không có sự biện minh nào cho việc lấy di các quyền chính trị hay các quyền xã hội. Căn cứ vào xu hướng của nhà nước để bỏ tù và hình sự hóa nghiều người hơn, vấn đề này đáng được sự tranh luận công khai lớn hơn.
Những người di cư là các denizen chính. Đã có những đề xuất khác nhau để tạo ra một quy trình mà theo đó họ có thể nhận được tư cách công dân với một dải đầy đủ của các quyền, kể cả ‘sự công dân hóa’, tách địa vị công dân khỏi quốc tịch. Một khái niệm về ‘tư cách cư dân’ sẽ hội nhập những người di cư tốt hơn, vì họ sẽ tự động trở thành công dân sau một giai đoạn nhất định, hơn là được ‘nhập tịch’. Việc này trái ngược hẳn với ý tưởng về ‘các giấy phép vĩnh cửu’; trong khi bảo vệ chống lại sự trục xuất tùy tiện, các việc này sẽ chỉ xác nhận các denizen như những người ngoài. Tính phổ quát là về khắc phục những sự phân biệt như vậy trong một thế giới đang toàn cầu hóa. Trong hoàn cảnh hiện thời, các chính phủ đã tăng các điều kiện cần thiết để hưởng ngay cả địa vị denizen. Tại các nước mà đã chấp nhận ‘các test tư cách công dân’ cho những người muốn định cư, precariat phải đòi hỏi rằng bất cứ ai muốn có chức vụ chính trị cũng phải vượt qua chúng. Còn tốt hơn sẽ là để bãi bỏ chúng như có ý gian lận, vì mục tiêu chính của chúng là để nâng các rào cản đi vào.
Giữa các cải cách cần nhất tác động đến các denizen là những cải cách liên quan đến quyền để hành nghề, quyền để làm việc trong lĩnh vực của năng lực và ‘nghề nghiệp’ của mình. Hàng triệu người bị từ chối quyền đó, thông qua sự cấp phép và các công cụ khác. Tự do hóa các nghề sẽ mở chúng cho những người di cư mặt khác bị hạ tầng xuống precariat. Đức tình cờ có thể dẫn đầu ở đây. Trong tháng Mười 2010, bộ trưởng lao động đã nói rằng để thu hút nhiều người di cư có kỹ năng hơn Đức sẽ đưa ra một luật công nhận các bằng cấp nước ngoài. Đây là một phản ứng ad hoc với một thách thức toàn cầu. Những gì cần là một hệ thống chứng nhận quốc tế, nhờ đó các chính phủ và các tổ chức nghề nghiệp xác lập các tiêu chuẩn trình độ chuyên môn và sự công nhận lẫn nhau, sao cho những người có đủ tiêu chuẩn về các kỹ năng trong một nước có thể hành nghề chúng dễ hơn ở các nước khác. Trong hầu hết các nghề, không có sự cần thiết nào cho việc cấp phép. Một hệ thống chứng nhận có thể yêu cầu người hành nghề cho những người mua tiềm tàng các dịch vụ của mình thấy sự chứng minh về trình độ, mà sẽ cho phép áp dụng nguyên tắc caveat emptor (người mua hãy cẩn trọng) một cách công bằng.
Những người di cư, gần như tất cả những người xin tị nạn, thiếu các cơ chế để đại diện lợi ích của họ. Một chiến lược quân bình chủ nghĩa sẽ đòi hỏi rằng các cơ quan đại diện được cho chỗ để hoạt động và được hỗ trợ tài chính. Trong 2010, một cuộc vận động tại Anh được gọi là Những người lạ thành các Công dân đã vận động hành lang cho một ‘ân xá đạt được’ cho những người không giấy tờ sau năm năm. Nếu hai năm sau sự đăng ký mà họ có việc làm và nói tiếng Anh. thì họ sẽ tư động nhận được tư cách công dân. Người ta có thể chơi chữ với việc này, nhưng cần các cơ quan được nhà nước hợp pháp hóa để đại diện cho tất cả các nhóm denizen khi họ đấu trah để nhận được các quyền de jure và de facto.
Nhiều người khác mất các quyền kinh tế hay xã hội vì một cách cư xử quá khứ hay hành động nào đó dẫn đến một hồ sơ bị che giấu đã gây vết nhơ cho đặc tính của họ, mà họ không biết hay không ở vị thế để bác bỏ nó. Tony Blair một lần đã nói không ai, mà đã không làm bất cứ thứ gì sai, phải bận tâm với sự tiến triển của sự giám sát. Đây là một triển vọng xấu. Một lý do là chúng ta không biết những gì đang được thu thập về bất cứ ai trong chúng ta hay liệu nó có đúng hay sai. Precariat cần sự bảo vệ nhất và phải đòi rằng tư cách denizen de facto được rút lại.
Lấy lại các bản sắc
Precariat ở trung tâm của sự náo động quanh chủ nghĩa đa văn hóa và các bản sắc cá nhân. Một đặc điểm xác định của tất cả các denizen là sự thiếu các quyền. Tư cách công dân là về quyền để có một bản sắc, một ý thức về việc biết ta là ai và với những ai ta có các giá trị và các khát vọng chung. Precariat không có bản sắc chắc chắn nào. Nhưng trong một thế giới đang toàn cầu hóa, chúng ta không thể chạy trốn khỏi chủ nghĩa đa văn hóa và nhiều bản sắc.
Các nhà nước phải tính đến nhiều bản sắc; mỗi người là một denizen loại nào đó về có các quyền bên trong một số bản sắc tự-điều chỉnh và không có trong số khác. Mỗi bản sắc mang lại các bó đặc biệt của ‘các quyền’. Như thế một người có một bản sắc như một môn đồ của một tín ngưỡng hay một người vô thần, mà trao các quyền bên trong một cộng đồng mà cộng đồng khác không có (các quyền đối với những ngày nghỉ lễ nhất định, một quyền để cầu nguyện hay không cầu nguyện vân vân). Các test cốt yếu đi cùng các cơ chế của hệ thống thứ bậc, sự áp bức, sự rút phép thông công, và cùng việc đảm bảo rằng sự tồn tại của bất cứ quyền cộng đồng nào không vi phạm các quyền hay bản sắc của cộng đồng khác.
Còn cốt yếu hơn nữa cho precariat là các quyền đến từ một bản sắc nghề nghiệp cá biệt. Nếu một người là một thợ ống nước hay một y tá, họ phải có các quyền dành cho mọi thành viên của nghề của họ, kể cả quyền để tuyên bố rằng họ có trình độ và được xác nhận bởi các bạn ngang hàng của họ. Tuy vậy, là một vấn đề khác để nói rằng ai đó không được các bạn ngang hàng chấp nhận phải không có quyền hành nghề, mà là cách mà nhiều người bị đẩy vào precariat. Đấy là vì sao bản sắc nghề phải dựa trên một hệ thống chứng nhận, không phải sự cấp phép được chỉnh khớp với tính cạnh tranh, và vì sao nó phải dựa vào các cấu trúc cai quản dân chủ bên trong các cơ quan nghề nghiệp mà trong đó mọi lợi ích đều có thể tham gia (về như thế nào, xem Standing, 2009). Dân chủ nghề nghiệp là trung tâm của quyền tự do thế kỷ thứ hai mươi mốt.
Quay sang mặt chính trị của bản sắc, chủ nghĩa phát xít mới hiện đại kịch liệt chống lại sự cấp nhận bản sắc và văn hóa khác. Các nhà tân-tự do cũng phản đối ý tưởng về bản sắc vì lý do rằng các cá nhân trong một xã hội thị trường không có bản sắc chung nào. Họ giả định một tính cách chung, một nồi đúc dân (melting pot), như ngầm định trong hiến pháp Mỹ và Pháp. Cả hai tư thế đều vô bổ, để diễn đạt nhẹ đi. Tốt hơn là để khẳng định chúng ta có thể và có nhiều bản sắc, và chúng ta cần xây dựng các định chế và các chính sách để bảo vệ và nâng cao chúng.
Precariat bị phơi ra nhất cho một khủng hoảng bản sắc. Nó không được ruồng bỏ chủ nghĩa đa văn hóa hay sự chính thống hóa nhiều bản sắc. Tuy vậy, nó phải làm nhiều hơn, bởi vì nó phải có các lợi ích của mình được đại diện trong mọi cấu trúc và định chế bản sắc. Đây không phải là một cớ cho một dạng mới của chủ nghĩa nghiệp đoàn. Nó là một lời kêu gọi precariat để trở thành một giai cấp-cho-chính nó.
Cứu giáo dục
Sự hàng hóa hóa giáo dục phải bị những người sắp gia nhập precariat chống lại. Bóng ma của các đại học không giáo viên được các kỹ thuật panopticon ủng hộ phải bị xua đuổi bởi sự điều tiết dân chủ và minh bạch, gồm các hiệp hội chuyên nghiệp và các luật quy định rằng sự học bậc ba, cũng như các bậc khác, không được là ‘không có giáo viên.’
Việc xác định nội dung phải được khôi phục cho các nhà chuyên nghiệp – các giáo viên và các giảng viên đại học – còn ‘các khách hàng’, các học sinh, phải có một tiếng nói trong hình thành cấu trúc và các mục tiêu của giáo dục. Và precariat phải được quyền để có một sự giáo dục giải phóng trên một cơ sở liên tục, không đơn thuần là một đối tượng cho sự chuẩn bị vốn con người. Đây không phải là lý tưởng chủ nghĩa hay ngây thơ. Tất nhiên, học sinh không biết cái gì là tốt nhất cho họ. Chẳng ai trong chúng ta biết. Cái cần là một hệ thống cai quản mà cân bằng các lực nhào nặn quá trình. Hiện tại, các nhà hàng hóa hóa kiểm soát hoàn toàn. Điều này gây kinh hãi.
Cần lật ngược sự đơn giản hóa cho dân thường dễ hiểu dính đến sự dạy ‘vốn con người’ ở trường. Tại Hoa Kỳ, các chuyên gia nhắc đến một sự mất năng lực để đọc và một hội chứng thiếu chú ý ‘bị đại chúng hóa-massified’. Hoa Kỳ không phải là duy nhất. Giáo dục khai phóng vì chính nó phải được trả lại vị trí hàng đầu và phải chống lại các nhà hàng hóa hóa. Chúng ta không thể loại bỏ chúng hoàn toàn nhưng một sự cân bằng ủng hộ giáo dục khai phóng phải đạt được về thể chế.
Những người mà muốn các đại học phục vụ chủ nghĩa kinh doanh và doanh nghiệp và để cổ vũ một triển vọng thị trường phải lưu ý các trí thức lớn của quá khứ. Như Alfred North Whitehead, nhà triết học, diễn đạt, ‘Sự biện minh cho một đại học là nó duy trì mối quan hệ giữa tri thức và điều thú vị của cuộc sống, bằng việc liên kết người trẻ và người già trong sự cân nhắc sáng tạo về sự học’.
Sớm hơn, John Stuart Mill, nhân dịp nhậm chức Hiệu trưởng Đại học St Andrew trong 1867, đã nói, ‘Các đại học không có ý định để dạy kiến thức cần phải có để làm cho con người hợp với phương thức đặc biệt nào đó để kiếm được sinh kế của họ. Mục tiêu của chúng không phải là tạo ra các luật sự giỏi, hay các bác sĩ hay các kỹ sư, mà là tạo ra những con người có khả năng và có học thức’. Sự bác bỏ có tính thương mại của nguyên lý này là cái gì đó mà precariat phải đẩy lui. Các philistine phải bị ngăn chặn.
Có một vấn đề thực dụng khác. Một câu trả lời một phần cho sự vỡ mộng địa vị từ những người trẻ được giáo dục chính thức quá so với các việc làm sẵn có sẽ là để biến các học vị thành ‘tài sản rỗi rãi-leisure goods’ (hơn là tài sản đầu tư). Người dân có thể được cổ vũ để có được các học vị trong một thời gian giài hơn, bằng tạo thuận tiện để nhiều người được nghỉ phép (sabbatical) trong tiến trình của tuổi trưởng thành của họ và không nhấn mạnh nhiều đến việc đi thẳng từ trung học vào đại học.
Precariat có thể mơ ước về một loại ‘đại học hóa’ nào đó của cuộc đời, một thế giới mà trong đó để học một cách chọn lọc và rộng vào mọi lúc. Cho việc đó, nó phải có một cảm giác về sự kiểm soát lớn hơn đối với thời gian và sự tiếp cận đến một lĩnh vực công mà nâng cao giáo dục như một quá trình thảo luận chậm.
Công việc, không chỉ lao động
“Đã trở thành một tín điều đạo đức hiện đại rằng mọi lao động là tốt tự nó – một lòng tin tiện lợi cho những người sống trên lao động của những người khác.” William Morris (1885), Useful Work Versus Useless Toil
Công việc (work) phải được cứu khỏi các việc làm (job) và lao động (labour). Mọi hình thức công việc phải được đối xử với sự tôn trọng ngang nhau, và không được có sự giả định nào rằng ai đó không trong một việc làm là không làm việc hoặc rằng ai đó không làm việc hôm nay là một kẻ ăn xin ngồi rồi. Không phải sự ăn không ngồi rồi là cái làm hại xã hội. Thực sự những người lười nhác có thể làm hại chính họ, nếu họ tiêu tán đời họ. Nhưng tốn cho xã hội nhiều hơn nhiều để khống chế và trừng phạt thiểu số bé tẹo so với cái được thêm bằng cách buộc họ làm việc làm năng suất thâp nào đó. Hơn nữa, một sự biếng nhác một chút không là xấu. Làm sao mà chúng ta biết được sự ngồi rồi của một người lại không phải là lúc nghỉ ngơi hay sự trầm ngâm của người đó? Vì sao chúng ta cảm thấy cần thiết để giả định và quy kết? Một số đầu óc lớn nhất trong lịch sử đã say mê sự lười nhác, và bất kể ai mà đã đọc tiểu luận của Bertrand Russell In Praise of Idleness (Ngợi ca sự Biếng nhác) hẳn phải xấu hổ để đòi lao động điên cuồng từ những người khác.
Ta không được mất cảm giác về sự cân đối. Lao động là cần thiết; các việc làm là cần thiết. Chỉ là chúng không phải là điều quan trọng nhất, trước nhất của cuộc đời. Các hình thức khác của công việc và sự sử dụng thời gian cũng quan trọng.
John Maynard Keynes, nhà kinh tế học vĩ đại nhất thế kỷ thứ hai mươi, tiên đoán rằng vào bây giờ người dân trong các xã hội giàu có sẽ làm không nhiều hơn 15 giờ một tuần trong việc làm. Trước ông, Karl Marx đã dự đoán rằng, một khi mức năng suất đã cho phép xã hội phục vụ các nhu cầu vật chất của nó, chúng ta sẽ dành thời gian của chúng ta để phát triển các năng lực con người của chúng ta. Trong cuối thế kỷ thứ mười chín, William Morris, trong cuốn News from Nowhere (Tin tức từ Không đâu) nhìn xa trông rộng của ông, đã thấy một tương lai mà trong đó nhân dân sẽ không bị căng thẳng, làm việc với sự nhiệt tình của họ và được gây hứng khởi để tái tạo thiên nhiên, phát đạt trong sự kết hợp với các láng giềng của họ. Chẳng ai trong số họ đã thấy trước xu thế tham lam vô độ cho tiêu dùng và sự tăng trưởng liên tục do một hệ thống thị trường hàng hóa hóa tạo ra.
Bây giờ là lúc để khẳng định rằng việc đẩy mọi người vào việc làm là câu trả lời cho câu hỏi sai. Chúng ta phải tìm những cách để cho phép tất cả chúng ta có nhiều thời gian hơn cho công việc mà không là lao động và cho sự nhàn rỗi mà không là sự vui chơi. Trừ phi chúng ta nhấn mạnh một quan niệm phong phú hơn về công việc, chúng ta sẽ tiếp tục bị dẫn dắt bởi sự điên rồ về đo giá trị của một người bằng việc làm họ đang làm và bởi sự điên rồ rằng sự tạo việc làm là mục tiêu của một nền kinh tế thành công.
Precariat có nhiều nhất để được. Nó làm một lượng không cân đối công việc mà không là lao động và buộc phải làm nhiều công việc mà chẳng có ích cũng không thú vị. Chúng ta hãy có các số thống kê tốt hơn mà tiết lộ bao nhiêu công việc được làm. Khi đó chúng ta có thể chế nhạo những người mà cho hay ngụ ý rằng bất kể ai không trong một ‘việc làm’ có thể nhận diện được là lười biếng hoặc là một kẻ ăn xin phúc lợi. Chúng ta hãy bắt đầu với các số thống kê về precariat dùng bao nhiêu thời gian trong việc đối phó với các nhà quan liêu nhà nước và các trung gian khác.
Sự hàng hóa hóa trọn vẹn lao động
Ngược với tuyên bố lao động chủ nghĩa rằng ‘Lao động không là một hàng hóa’, phải có một sự hàng hóa hóa trọn vẹn lao động. Thay cho việc buộc người dân vào các việc làm, việc hạ tiền công của họ và tiền công của những người khác bị tác động bởi áp lực xuống do chúng tạo ra, người dân phải bị hấp dẫn bởi các khuyến khích thích hợp. Nếu có các việc làm, như được cho là, và nếu không ai xung phong để lấp đầy các việc làm đó, thì để cho giá tăng cho đến khi hoặc người chào mời các việc làm nghĩ họ không đáng giá (tiền lương) người đó sẵn sàng trả hoặc người dân được hấp dẫn đủ để lấp đầy chúng. Hãy để các chính phủ áp dụng cùng các quy tắc cho thị trường lao động như họ nhận để làm cho các thị trường khác. Đối với sự hàng hóa hóa đúng, giá phải là rõ ràng và được tiền tệ hóa hoàn toàn. Việc này có nghĩa là rút dần các trợ cấp doanh nghiệp lạ kỳ đó và biến đổi chúng thành các trợ cấp mà có thể được mua bằng sự lựa chọn thị trường. Sự tôn trọng các nguyên lý đoàn kết xã hội có thể được bàn một cách tách biệt. Các trợ cấp không-bằng-tiền là một nguồn chính của bất bình đẳng và ngược với các thị trường lao động hiệu quả. Precariat không có triển vọng nào để nhận được chúng. Chúng thuộc về salariat và một thiếu số có đặc ân đang teo đi của các công nhân cốt lõi. Để cổ vũ sự thị trường hóa, chúng phải bị đánh thuế với thuế suất cao hơn thu nhập bằng tiền; hiện nay chúng thường là một công cụ để tránh thuế. Và các hệ thống trả tiền phải là minh bạch trong việc được gắn kết với sự áp dụng kỹ năng, cố gắng và thời gian. Có liên quan rằng nghiên cứu cho thấy các công nhân mãn nguyện hơn nếu được trả tiền công theo giờ, mà là phương pháp minh bạch nhất.
Sự hàng hóa hóa đúng là một biện pháp lũy tiến. Hãy xem xét sự thực hành cổ điển của nghỉ đẻ, từ viễn cảnh công bằng xã hội và lập trường của precariat. Nếu một phụ nữ là một nhân viên hưởng lương, cô ta có thể nhận lương và sự nghỉ phép từ chủ, với hầu hết tiền lương được chính phủ trả. Tại Vương Quốc Anh, phụ nữ nhận được lương thai sản theo luật định cho đến 39 tuần và nghỉ phép đến một năm. Cũng có nghỉ phép 2 tuần cho bố khi sinh con, và bố hay mẹ có thể nghỉ không lương cho đến khi con năm tuổi. Ghi nhớ rằng các chủ được chính phủ bù cho hầu hết chi phí của lương thai sản của mẹ và lương nghỉ của bố khi sinh con, nó là một trợ cấp lũy thoái, ưu ái salariat với sự thiệt hại của precariat. Trong khi là hấp dẫn cho một người theo chủ nghĩa lao động, bao nhiêu người có thu nhập thấp ở trong vị thế để nhận nó? Chỉ trong 2009 Ủy ban Bình đẳng và Nhân quyền Vương quốc Anh mới đề xuất giảm thời kỳ làm việc đủ tiêu chuẩn hưởng. Nhưng nhiều phụ nữ trong precariat sẽ ở ngoài việc làm vào lúc nào đó trong thời gian mang thai. Họ sau đó sẽ không chắc có được một việc làm mới và như thế sẽ không tiếp cận được đến trợ cấp nghỉ thai sản. Precariat phải có cùng các quyền hưởng như mọi người khác. Tính phổ quát là quan trọng.
Việc này dẫn đến đòi hỏi tiếp sau: các Việc làm phải được coi như mang tính công cụ, một giao dịch thương mại đúng đắn. Những người, mà cho rằng chúng là một nguồn chính của sự hạnh phúc, và rằng những người không sẵn lòng cùng hưởng các niềm khoái cảm của các việc làm phải bị ép buộc để làm vậy vì sự hạnh phúc dài hạn của họ, phải được bảo để chú tâm vào công việc riêng của họ. Đối với hầu hết người trong precariat, các việc làm không phải là con đường đến niết bàn. Để được bảo chúng là nguồn của sự hạnh phúc là làm cho họ thành cái gì đó họ đã chẳng bao giờ muốn trở thành. Các việc làm được tạo ra bởi vì ai đó muốn cái gì đó được làm. Hay chí ít đó là những gì chúng phải được tạo ra. Hãy để chúng được hàng hóa hóa một cách đúng đắn. Nếu đây là quy tắc của một nền kinh tế thị trường tự do, thì hãy để nó áp dụng cho tất cả các hàng hóa.
Quyền tự do nghề nghiệp
Precariat muốn phát triển một ý thức nghề nghiệp, các hình thức nổi lên của công việc và lao động theo những cách tạo thuận lợi cho sự phát triển và sự thỏa mãn cá nhân. Cầu về lao động và việc làm đang gia tăng, và đúng khi nhiều hình thức có giá trị của công việc được làm trong hoàn cảnh căng thẳng dưới tối ưu, như thế sự vui chơi giúp để vắt thời gian rỗi ra. Một trong những tài sản lớn của xã hội tertiary là thời gian.
Thay cho việc coi các việc làm như công cụ, chúng ta được bảo để coi chúng như khía cạnh quan trọng nhất của cuộc sống. Có nhiều hình thức công việc bên ngoài việc làm mà có thể làm vừa ý hơn và có giá trị về mặt xã hội. Nếu chúng ta nói có một việc làm là cần thiết và xác định bản sắc của chúng ta, thì những người có việc làm sẽ cảm thấy bị căng thẳng nếu họ sợ mất không chỉ một việc làm mà cả giá trị xã hội được cảm nhận, địa vị và tiêu chuẩn sống của họ.
Trong cuối 2009, Wall Street Journal đã đăng một bình luận của Alan Blinder, cựu phó chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, mà trong đó ông đã viết rằng những người Mỹ đã có ‘chỉ ba thứ trong đầu óc họ ngay bây giờ: ‘việc làm, việc làm và việc làm’. Ông đã không đưa ra bằng chứng nào để ủng hộ sự thấu hiểu này. Nhưng nếu một đa số có thể chỉ đạt tới cái gì đó gần với sự an toàn bằng sự giữ chặt các việc làm, thì hiển nhiên các việc làm sẽ có tầm quan trọng nhất và căng thẳng. Không phải là không tưởng để nói điều này là không lành mạnh và không cần thiết. Chúng ta phải dừng sự quá tôn sùng việc làm.
Thậm chí không rõ là tăng trưởng kinh tế ở các nước giàu cần phải có nhiều việc làm hơn, như được cho thấy bởi bằng chứng về ‘sự tăng trưởng không có-việc làm’ và thậm chí ‘sự tăng trưởng mất-việc làm’. Và sự thử nâng sự tăng trưởng thông qua sự tạo việc làm nhân tạo có thể hủy diệt sinh thái. Rốt cuộc, các việc làm và lao động có khuynh hướng đi cùng việc sử dụng và làm kiệt tài nguyên, còn các hình thức khác của công việc có khuynh hướng sinh sản và bảo tồn tài nguyên.
Để làm đổi hướng việc làm, quyền đối với công việc phải được củng cố; cách để làm điều này là làm cho dễ hơn để cho phép người dân làm công việc không là lao động và làm ngang cơ hội để làm vậy. Trong lúc nhu cầu cho công việc như vậy tăng lên, những người có vị trí tốt nhất để làm thế là người giàu có bởi vì họ có thời gian hay có thể mua nó. Đây là một hình thức bị che giấu của bất bình đẳng bởi vì những người với các lợi thế có vị trí tốt nhất để tích tụ thêm lợi thế.
Tại Hoa Kỳ, suy thoái sau-2008 đã thúc đẩy một sự tăng trưởng về công việc mà không phải là lao động. Sự mỉa mai đã diễn ra mà không ai để ý. Thí dụ, hàng triệu người đã đăng nhập vào Volunteernyc.org, một mạng bù trừ công việc tình nguyện. Một phần, đấy đã là phản ứng với lời kêu gọi của Tổng thống Obama về nhiều dịch vụ công hơn; sự làm sống lại tinh thần cộng đồng đã được ủng hộ trở lại. Chúng ta có thể mong điều đó là như vậy. Thế nhưng không đảng chính trị nào đã có một chiến lược cho việc tạo ra các khuyến khích hay các cơ hội cho công việc như vậy. Sự đổ xô vào làm việc đó chứng tỏ một khát vọng để thực hiện các hoạt động đáng làm về mặt xã hội. Mất việc làm có thể là sự giải phóng. Về việc này, ở trong precariat là một trải nghiệm hai mặt. Bị gắn vào một việc làm là địa ngục của xã hội giữ chắc việc làm, như Hannah Arendt (1958) đã lo sợ. Sự thuộc về hữu cơ trở thành sự xơ cứng, sự làm mất hiệu lực. Nhưng trở nên bấp bênh về kinh tế không tốt hơn, để mặc precariat không có khả để nhận công việc tình nguyện hay công việc xã hội khác. Các khoản nợ và sự bấp bênh của họ ngăn cản nó.
Sự đổ xô làm tình nguyện chứng tỏ một sự khát khao làm các hành động mà sẽ được coi như công việc nếu giả như chúng ta đã không bị nhồi sọ hàng thập niên rằng công việc bằng các việc làm. Cả Polanyi ([1944] 2001) lẫn Arendt đã hiểu điều này, nhưng chẳng ai đã có thể đưa sự thừa nhận vào lĩnh vực chính sách.
Polanyi đã than vãn sự hàng hóa hóa, Arendt đã than vãn chủ nghĩa giữ chắc việc làm, nhưng chẳng ai đã có một tầm nhìn về làm sao để đạt một xã hội công-việc-và-nhàn-rỗi. Liền ngay sau khủng hoảng toàn cầu hóa, có một cơ hội để tiến lên.
Một số tên của các NGO đang nổi lên là đáng khích lệ – Chăm sóc New York, ‘Các Anh Lớn, các Chị Lớn’, Quỹ Rễ cái và vân vân. Các nhà chuyên nghiệp, bị mất việc làm mà đã sử dụng chỉ một dải hạn chế của tài năng và khát vọng của họ, đã tìm thấy các lối ra để đưa tài năng và sự quan tâm đang ngủ của họ vào hoạt động. Cũng hãy nghĩ về NGO ở New York được gọi là Financial Clinic, mà dàn xếp cho các chuyên gia để khuyên các công nhân có lương thấp về quản lý tài chính. Đấy là các profician mà khác đi đã có thể rơi vào precariat.
Chính phủ đã góp phần của nó. Giữa các tổ chức đang lớn lên có AmeriCorps, mà nhận các tình nguyện viên cho một năm, Teach for America, mà gửi những người tốt nghiệp đại học đi dạy trong các trường thuộc vùng thu nhập thấp, và Volunteernyc.org, một site dịch vụ công của New York. Vào giữa 2009, các tổ chức phi-vụ lợi Hoa Kỳ đã có 9,4 triệu nhân viên và 4,7 triệu tình nguyện viên toàn-thời gian. Và các hãng đã cho các nhân viên chính quy thời gian nghỉ cho sự phục vụ công cộng. Điều này có thể báo trước một hình mẫu xã hội mới nhưng phải có các tác động sa thải. Thí dụ, 10.000 luật sự đã bị sa thải ở Hoa Kỳ trong quý đầu của 2009, và nhiều người đã được xui khiến để làm công việc pro bono (vì lợi ích công) cho các nhóm lợi ích công cộng, với phí danh nghĩa. Trong tháng Ba 2009, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua Serve America Act (Bộ luật Phục vụ Mỹ) mang tên Edward Kennedy, một cải cách bao quát về chương trình phục vụ quốc gia được khởi động trong 1993. Việc này thực sự đã tăng quy mô của AmeriCorps lên gấp ba, mà đã chuyển 7 triệu người thành những người tình nguyện cộng đồng trong năm tiếp theo. Bộ luật đã huy động đặc biệt những người Mỹ già hơn qua ‘sự tham gia học nữa’, cho họ ‘nghề thứ hai’ trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe và quản lý phi-vụ lợi. Một điều tra trong tháng Giêng 2009 của Hội Người Hưu Mỹ- AARP, mà đại diện những người Mỹ tuổi trên 50, đã thấy rằng gần ba phần tư những người cao tuổi đã muốn góp thời gian cho công việc xã hội hơn là tiền.
Ngoài sự tự nguyện, có nhiều hình thức của các sáng kiến hàng xóm và công việc chăm sóc. Hầu hết người dân trong xã hội hiện đại cảm thấy rằng họ có thể dành quá ít thời gian để chăn sóc, cho những người thân, bạn bè và cộng đồng của họ, và nhận được quá ít từ những người khác khi cần đến. Chúng ta hãy gọi nó là công việc và gắn nó vào ý thức của chúng ta về nghề nghiệp.
Tóm lại, quyền tự do nghề nghiệp đòi hỏi một cơ hội bình đẳng cho precariat và những người khác để nhận làm một dải rộng công việc và lao động trong việc xây dựng ý thức riêng của họ về sự nghiệp nghề nghiệp, mà không có nhà nước biến một hình thức cá biệt của lao động bằng cách nào đó thành cao hơn các hình thức khác về mặt đạo đức và kinh tế.
Các quyền công việc
Precariat phải đòi rằng các công cụ của cái gọi là ‘các quyền lao động’ được cải biến thành các công cụ thúc đẩy và bảo vệ các quyền công việc. Ngày càng nhiều người làm việc không là các nhân viên, và là nhân tạo để xác định các nhân viên theo các cách phức tạp chỉ để làm cho họ có các quyền hưởng trên cơ sở lao động. Các quyền công việc phải gồm các quy tắc về thực hành có thể chấp nhận được giữa những người làm việc và bên trong các cộng đồng nghề nhiệp cũng như giữa ‘lao động’ và ‘vốn’. Precariat ở thế bất lợi về các khía cạnh này; một chế độ ‘mặc cả tập thể’ để cho nó Tiếng nói là cần phải có để bổ sung cho các chế độ mặc cả tập thể giữa các đại diện của các chủ và các nhân viên, một vấn đề mà chúng ta sẽ quay lại.
Precariat cũng phải đòi xây dựng một chế độ các quyền công việc, bắt đầu với việc kiểm tra kỹ lưỡng tổ chức Lao động Quốc tế, một pháo đài của chủ nghĩa lao động. Việc này có thể được làm ra sao được giải quyết ở nơi khác (Standing, 2010). Không có một cơ quan toàn cầu thích hợp, Tiếng nói của precariat sẽ bị chặn hay bị bỏ qua.
Tất cả công việc không là lao động cần được làm thành một phần của các quyền công việc. Thí dụ, nếu người dân được kỳ vọng để giải quyết việc quản lý tài chính và đưa ra các quyết định về họ tiêu tiền ra sao, thì họ phải có sự tiếp cận đến thông tin và lời khuyên chuyên nghiệp có giá phải chăng, và có đủ thời gian có chất lượng để giải quyết chúng, hơn là chịu sự hích nhẹ gợi ý có tính gia trưởng của nhà nước.
Công việc chăm sóc vẫn chưa là một lĩnh vực các quyền được pháp luật ủng hộ và chưa là công cụ của an sinh xã hội. Việc này là hết sức quan trọng đối với phụ nữ trong precariat, đặc biệt khi gánh nặng gấp ba tăng lên. Nhưng nó cũng quan trọng cho đàn ông, khi nhiều người nhận ra khả năng tham gia vào sự chăm sóc và các hình thức khác của công việc mà không là lao động. Một chương trình nghị sự các quyền-công việc sẽ dính đến sự suy nghĩ về nhà cung cấp chăm sóc, người nhận chăm sóc và các trung gian, tất cả họ có thể dễ bị bóc lột, áp bức và tự-bóc lột.
Công việc như hoạt động xã hội phải cũng trở thành một vùng các quyền. Chúng ta đã thấy việc tình nguyện và công việc xã hội đã mở rộng thế nào, đặc biệt kể từ 2008. Rủi ro là, nó có thể trở thành một hoạt động đặc ân cho một thiểu số và một công cụ của công việc công ích cho những người khác. Hơn nữa, những người hưu trí và các nhân viên không đủ việc làm thực ra được trợ cấp nếu họ tham gia một thị trường cho các dịch vụ mà cũng được cung cấp bởi các các công nhân phụ thuộc vào thu nhập từ sự làm công việc đó như lao động. Trong hoàn cảnh đó, sự hiện diện của những người tình nguyện làm giảm các cơ hội kinh tế của precariat.
Cuối cùng, các quyền công việc bao gồm các quy tắc đạo đức. Mọi cộng đồng nghề phải có các quy tắc như vậy, và hầu hết sẽ muốn áp đặt chúng lên các thành viên của chúng. Đáng tiếc, một số nghề mạnh, như các kế toán viên, đã thiếu chúng từ lâu, cho phép các elite tham lam của chúng để cào các khoản thu nhập lớn vào bằng đặt các cân nhắc đạo đức sang một bên và làm mất giá trị hàng ngũ thấp hơn trong các cộng đồng làm việc rộng hơn của họ. Các nghề mà thiếu một truyền thống về đạo đức tập thể, như các banker, đã góp phần rõ ràng cho khủng hoảng tài chính. Precariat phải nhất quết đòi các quy tắc đạo đức trở thành một phần của mọi cộng đồng nghề nghiệp và hoạt động kinh tế.
Chiến đấu với công việc công ích và điều kiện tính
Trừ phi precariat liên tục gây khó chịu, các sự lo ngại của nó sẽ bị các nền dân chủ vị lợi bỏ qua. Một sự chuyên chế của đa số có thể xảy ra đơn giản bởi vì precariat không được tổ chức hoặc bị bỏ qua bởi vì sự bị tháo rời của nó và thiếu Tiếng nói trong quá trình chính trị. Đấy là tình hình hiện tại. Như một kết quả, các chính sách mà làm vừa lòng cử tri trung vị và những người tài trợ cho chính trị thường thịnh hành. Để chiến đấu với điều này, precariat phải được đại diện về mặt thể chế và đòi các chính sách phải thỏa mãn các nguyên tắc đạo đức. Hiện tại có một chân không thể chế, mà vài NGO can đảm thử lấp đầy, giỏi nhất một cách lác đác.
Hãy xét công việc công ích, như được đưa vào ở Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh, Thụy Điển, Australia, Đức và nơi khác. Về thực chất, những người thất nghiệp phải chấp nhận các việc làm được chỉ định hay các trợ cấp bị thiệt, có lẽ được đánh dấu suốt đời như một ‘kẻ ăn xin’ trên hệ thống dữ liệu giám sát nào đó. Đa số có công ăn việc làm có thể nghĩ điều này là công bằng, tuy họ sẽ không chấp nhận nếu nó được áp dụng cho bản thân họ (hay con cái họ). Đáng tiếc trong một tình hình vị lợi, tính công bằng bị bỏ qua hay bị gạt bỏ. Đa số sẽ hạnh phúc.
Nhà nước đang ủy thác các hoạt động đặt việc làm cho các nhà cung cấp thương mại, trả chúng theo số người thất nghiệp được đặt vào việc làm hay theo sự giảm đo được về số người đòi (trợ cấp). Sự thương mại hóa này của cái một thời đã là một dịch vụ công đưa ra nhiều rủi ro đạo đức. Nó phi cá nhân hóa đến điểm làm cho nó không còn là một dịch vụ cũng chẳng là công cộng mà chỉ là một giao dịch hàng hóa hóa. Trung gian là một hãng, và trong một nền kinh tế thị trường một hãng tồn tại với một sự ủy nhiệm quan trọng nhất, để kiếm lợi nhuận.
Hãy tưởng tượng kịch bản. Một đại lý muốn nhanh chóng đặt một người vào một việc làm, để tăng thu nhập của chính đại lý. Có một việc làm trả lương tối thiểu tại đầu kia của thành phố; xấu nhưng nó là một việc làm. Người đó bảo ông ta không thể chấp nhận nó bởi vì các chi phí đi lại và chi phí khác, bởi vì giờ làm việc và đi lại dài sẽ làm ông ta khó để dùng thời gian với gia đình ông hoặc bởi vì nó không hợp với các kỹ năng ông đã dùng cả đời trưởng thành của mình để phát triển. Ông sẽ bị ghi lại ngay lập tức như đã từ chối việc làm. Theo các quy tắc mới ở Vương Quốc Anh, mà sao chép các sơ đồ Hoa Kỳ, nếu ông ta từ chối ba việc làm như vậy, ông ta sẽ mất quyền hưởng trợ cấp trong ba năm. Việc này sẽ không dựa vào thủ tục hợp pháp hay một sự điều trần công bằng mà chỉ vào quyết định của đại lý thương mại, người đồng thời là người buộc tội, người phán xử và ban bồi thẩm. Nhà nước vui bởi vì danh sách phúc lợi được cắt. Người đó không có quyền thật sự nào để khiếu nại sự trừng phạt được áp đặt lên ông ta, mà có thể đe dọa đời ông với tư cách một công dân hoạt động và làm nhơ hồ sơ của ông, đưa ông vào một bẫy precarity.
Không ai thạo các nguyên tắc công lý cơ bản lại chấp nhận một thủ tục như vậy cho bản thân mình hay cho người thân của mình. Nhưng chừng nào nó không phải là vấn đề của họ, hoặc chừng nào các quy tắc như vậy không gây ra sự chú ý của họ để họ buộc phải suy ngẫm về loại bất công bằng này, thì sự trôi dạt sẽ tiếp tục.
Tương tự, chính phủ Anh đã để một hãng gọi là Atos Origin thầu việc khám y tế cho trợ cấp bất lực; hãng đã nhanh chóng tuyên bố rằng ba phần tư những người đòi là thích hợp với việc làm và như thế trợ cấp của họ bị giảm một phần ba. Trong khi hầu hết người đòi có lẽ đã bị đe dọa quá mức để tự mình chống đối, vài vùng đã có các nhóm đại diện cho người đòi; trong vòng mấy tháng đã có rất nhiều khiếu nại, 40 phần trăm số đó đã thành công. Các bác sĩ đã nói với BBC (British Broadcasting Corporation) họ đã làm các kiểm tra rẻ dưới áp lực và tuyên bố bệnh nhân là thích hợp.
Islington, một khu thu nhập thấp của London, có một Islington Law Centre (Trung tâm Luật) đã báo cáo tỷ lệ khiếu nại thành công 80 phần trăm (Cohen, 2010). Các cơ quan như vậy phải là một phần không tách rời của chính sách công, được tài trợ bởi chính quyền, Và những người đòi phải được đại diện bên trong các cơ quan, sao cho cơ hội lạm dụng những người dễ bị tổn thương được giảm đi. Rốt cuộc, đi khiếu nại là đầy rủi ro, tốn kém và tốn thời gian. Không phải mọi nơi giống Islington, với cộng đồng luật sư và nhà báo nhà hoạt động của nó.
Precariat phải đòi rằng các nguyên tắc dân chủ minh bạch phải được áp dụng ở mỗi giai đoạn phát triển và thực thi chính sách. Tính điều kiện và sự kiểm soát xã hội bị thương mại hóa phải bị đẩy lùi như là xa lạ với tự do, chủ nghĩa phổ quát và sự tôn trọng sự không theo lề thói. Nếu các việc làm là tuyệt vời đến vậy, thì chúng sẽ lôi cuốn người dân, chứ không phải dân bị lùa vào chúng. Và nếu các dịch vụ là quan trọng đến vậy, thì hãy để giáo dục và sự tiếp cận có giá phải chăng là các công cụ mà qua đó mọi người có thể nhận được chúng.
Quyền tự do hiệp hội: năng lực hành động của precariat
Việc này dẫn quay lại bản chất của quyền tự do. Nó không phải là khả năng để làm cái chúng ta muốn, ngay cả chú ý đến sự báo trước rằng nó không được làm hại đến những người khác. Quyền tự do đến từ việc là một phần của một cộng đồng mà trong đó để hiểu rõ quyền tự do trong việc thực hiện nó. Nó được bộc lộ thông qua các hoạt động, không phải là cái gì đó được ban từ trên cao hoặc được đoán trong các bia đá. Precariat là tự do theo nghĩa tân-tự do, tự do để cạnh tranh với nhau, để tiêu thụ và để lao động. Nó không tự do bởi vì không có cấu trúc hiệp hội nào mà trong đó các nhà gia trưởng chủ nghĩa có thể bị khước từ hay nỗ lực cạnh tranh áp bức bị chặn đứng.
Precariat cần Tiếng nói tập thể. Phong trào 1-(tháng)5 Euro chỉ là một điềm báo trước, các hoạt động của những kẻ nổi loạn thô sơ đi trước sự nổi lên của hoạt động tập thể. Bây giờ là lúc cho các nhóm mà đại diện cho precariat trên một cơ sở tiếp tục để mặc cả với các chủ, với các trung gian như các nhà môi giới và nhất là với các cơ quan chính phủ.
Như một nhiệm vụ đầu tiên, việc lấy lại sự kiểm soát đối với sự riêng tư là một mệnh lệnh. Precariat sống trong các không gian công cộng nhưng dễ bị tổn thương với sự giám sát và sự hích gợi ý phi dân chủ. Nó phải đòi các quy định để cho các cá nhân quyền để xem và sửa thông tin mà bất cứ tổ chức nào giữ về họ, để yêu cầu các hãng thông báo cho các nhân viên, kể cả những người làm bên ngoài, nếu có bất cứ sự vi phạm an ninh nào xảy ra mà tác động đến họ, để yêu cầu các tổ chức bị một bên thứ ba được chính thức công nhận kiểm toán an toàn-thông tin hàng năm, để đặt ngày tháng hết hạn lên thông tin và để hạn chế việc dùng data profiling (lập tiểu sử dữ liệu) trên cơ sở xác suất của cách cư xử. Các luật bảo vệ dữ liệu và quyền tự do-thông tin đã là một bước theo hướng đúng nhưng không đi đủ xa. Cần đến Tiếng nói Tích cực. Precariat phải huy động quanh một chương trình nghị sự để lấy lại và củng cố sự riêng tư và quyền để sửa thông tin sai.
Precariat sẽ dần trở nên tức giận hơn về sự hủy hoại sinh thái xảy ra quanh nó. Những người phủ nhận sự thay đổi khí hậu do con người gây ra đã huy động phe cực hữu và chủ nghĩa dân túy để miêu tả các nỗ lực chính phủ để hạn chế ô nhiễm như một âm mưu mở rộng quyền lực nhà nước. Precariat phải khôn ngoan với điều đó. Nhưng nó bị làm hoảng sợ bởi triển vọng ít việc làm hơn, mà đã được trình bày như nguồn của an toàn thu nhập, và sự tăng trưởng chậm hơn, mà được miêu tả như bằng cách nào đó đang nhỏ giọt xuống họ. Trong các nước giàu, precariat được bảo rằng nâng các chi phí sản xuất sẽ đẩy nhanh sự chuyển việc làm sang các quốc gia nghèo hơn. Trong các nước đang phát triển, nó được bảo rằng các biện pháp để làm giảm việc sử dụng năng lượng sẽ làm chậm việc tạo việc làm. Ở mọi nơi precariat được bảo rằng nó phải chấp nhận status quo (hiện trạng). Nó cần phải nhận ra rằng vấn đề là vị trí đứng đầu được trao cho các việc làm hơn là cho môi trường. Để đảo ngược điều đó, chúng ta cần ít phụ thuộc hơn vào sự tạo việc làm.
Tiếng nói Precariat trong lĩnh vực công việc và lao động là yếu. Về nguyên tắc, các công đoàn có thể được cải cách để đại diện cho các lợi ích precariat. Nhưng có nhiều lý do cho suy nghĩ điều này chắc là không có khả năng. Các công đoàn vận động hành lang và đấu tranh cho nhiều việc làm hơn và một phần lớn hơn của đầu ra; chúng muốn chiếc bánh kinh tế lớn hơn. Chúng nhất thiết mang tính đối kháng và kinh tế chủ nghĩa (economistic). Chúng làm các điệu bộ với những người thất nghiệp, với những người làm việc chăm sóc và với các vấn đề ‘xanh’. Nhưng bất cứ khi nào có một sự đụng độ giữa các lợi ích tài chính của các thành viên của chúng và các vấn đề xã hội hay sinh thái, chúng sẽ chọn cái trước. Những người tiến bộ phải ngừng kỳ vọng các công đoàn trở thành cái gì đó ngược với các chức năng của chúng.
Một loại mới của hội tập thể sẽ phải nhận sự thách thức của ‘mặc cả tập thể’ (Standing, 2009). Các hội như vậy sẽ cần xem xét toàn bộ dải của các hoạt động công việc và việc làm mà precariat phải làm và các khát vọng xã hội của nó. Chúng phải phát triển một năng lực mặc cả vis-à-vis (đối với) các chủ, các môi giới lao động, các đại lý tạm thời và một loạt các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan có quan hệ với các dịch vụ xã hội và các hoạt động giám sát. Chúng cũng phải có khả năng đại diện cho precariat trong giao tiếp với các nhóm người lao động khác, bởi vì các lợi ích của nó là không cùng như các lợi ích của salariat hay các nhân viên cốt lõi, những người có thể có các công đoàn để nói cho họ. Và chúng phải là các hiệp hội tạo thuận lợi cho tính lưu động xã hội, cung cấp các cộng đồng có cấu trúc mà trong đó tính lưu động có thể ngăn nắp hơn và khả thi hơn hiện tại.
Một vấn đề là sự trốn thoát khỏi bẫy tân-tự do, dựa trên yêu sách rằng bất kể nhóm tập thể nào của các nhà cung cấp dịch vụ đều làm méo mó thị trường và phải bị ngăn chặn vì các lý do chống trust. May thay, có các mô hình hứa hẹn đang nổi lên ở nhiều nước. Một là các hợp tác xã công nhân, được hiện đại hóa để cho phép sự tham gia linh hoạt hơn.
Một thông điệp Polanyian là các hiệp hội nổi lên để giúp ‘tái-nhúng’ nền kinh tế vào xã hội sau khủng hoảng toàn cầu hóa phải cho phép sự không theo lề thói, để chứa được precariat trong khi nâng cao chủ nghĩa quân bình. Các nguyên tắc của chủ nghĩa hợp tác xã có cái gì đó để đưa ra mời trong khía cạnh này. Thật hấp dẫn, trước khi được bầu làm Thủ tướng Vương Quốc Anh, David Cameron đã công bố một ý định cho phép các nhân viên khu vực công, trừ cảnh sát, các tòa án và các cục trại giam, để vận hành các tổ chức của họ như các hợp tác xã người làm việc, thương lượng các hợp đồng với cơ quan chính phủ liên quan. Việc này di chuyển theo hướng một hình thức hiện đại của chủ nghĩa xã hội phường hội và chuyển giao sự quản lý nghề nghiệp cho các hiệp hội nghề nghiệp. Các thách thức phải vượt qua gồm sự minh bạch, bỏ thầu-quá cao, trách nhiệm giải trình một khi các hợp đồng đã được thương lượng, và cai quản các quy tắc về phân phối thu nhập, các cơ hội lao động và cất nhắc nội bộ. Các vấn đề cũng sẽ nảy sinh trong quyền tài phán và các quan hệ với các ban ngành khác. Một thỏa thuận dịch vụ với sự thay đổi kỹ thuật tiết kiệm lao động sẽ thế nào?
Vào khi đưa ra ý tưởng trong tháng Hai 2010, Cameron đã dẫn các thí dụ như các call centre, các nhóm công việc xã hội, sức khỏe cộng đồng và săn sóc, các phòng bệnh học bệnh viện, và các dịch vụ phục hồi và giáo dục trong các nhà tù. Danh sách này gợi ý vài câu hỏi. Nhóm lớn đến thế nào để được gọi là một ‘hợp tác xã người làm việc’? Nếu tất cả các bệnh viện thuộc Cục Sức khỏe Quốc gia (Bộ Y tế) trong một vùng địa phương được chọn như một nhóm, các vấn đề sẽ nảy sinh trong xác định phần nào của thu nhập sẽ trao cho các nhóm với thu nhập và các kỹ năng kỹ thuật rất khác nhau. Phần sẽ được trả dựa trên cơ sở pro rata (theo tỷ lệ), phụ thuộc vào những thu nhập tương đối lúc bắt đầu? Hay quy tắc sẽ là các phần bằng nhau, bất chấp kỹ năng hay lượng thời gian được dùng để làm việc? Nếu đơn vị hợp tác xã nhỏ hơn, được hạn chế chỉ ở các bác sĩ, các y tá hay các phòng bệnh học, thì các quy tắc nội bộ có thể đơn giản hơn, nhưng bất cứ sự thay đổi nội bộ nào có thể có các hệ lụy cho các cá nhân trong nhóm. Vì lý do đó, các thay đổi hứa hẹn một dịch vụ tốt hơn hay ít tốn kém hơn rất có thể bị chống lại hay đơn giản không được xem xét.
Khó khăn với các dịch vụ xã hội được tích hợp là việc xác định giá trị bằng tiền của các phần cá biệt của nó. Các bác sĩ có đáng 70 phần trăm giá trị của dịch vụ y tế và các y tá 30 phần trăm còn lại? Hay nó phải là 60–40 hoặc 80–20? Ta có thể nói, các phần phải được xác định một cách dân chủ, bởi vì các cơ quan chính phủ sẽ mặc cả với các hợp tác xã. Nhưng chỉ sự tuyên bố điều đó phải gợi ý chúng ta để nghĩ về các lĩnh vực tiềm tàng của sự thương thuyết, kể cả các chi phí giao dịch. Sẽ có những căng thẳng có lý giữa các nhóm nghề nghiệp liên quan. Thử nghĩ những người trợ giúp chăm sóc sẽ phản ứng thế nào nếu sự phân bổ cho dịch vụ chăm sóc được chia 70–30 có lợi cho các y tá có đăng ký. Dù sao đi nữa, đề xuất là một bước tới sự mặc cả cộng tác. Nó thừa nhận rằng, trong một xã hội tertiary, chúng ta tồn tại không chỉ như các cá nhân mà như các thành viên sẵn sàng của các nhóm, với một ý thức về bản sắc. Nó quay trở lại các hội ái hữu và các ‘hội tương tế’ thế kỷ thứ mười chín, và các phường hội nghề.
Để hoạt động tốt sẽ phải có một nền mạnh của các quyền, nhằm tạo thuận lợi cho tính linh hoạt và trao sự an toàn thu nhập đủ để xui khiến nhân dân chịu trách nhiệm đối với những thay đổi trong tổ chức và tiểu sử cá nhân riêng của họ. Một mặt hạn chế được đánh giá chưa đủ của mô hình an toàn công ăn việc làm cũ đã là, bởi vì trợ cấp và thu nhập tăng với thời gian (thâm niên) trong phục vụ, trong hãng hay tổ chức, (nên) người dân đã bám vào việc làm khi việc họ chuyển đi là có lợi về mặt cá nhân và tổ chức. Lồng son cũng thường trở thành lồng sắt. Nguyên lý hợp tác xã là đáng ca ngợi nhưng nó không được trở thành một công cụ khác của sự bóp nghẹt tính di động nghề nghiệp.
Ngoài các hợp tác xã ra, một hình thức trung gian khác mà có thể phục vụ precariat là một hội của những người làm việc tạm thời. Có vài biến thể. Liên hiệp Những người làm việc Tự do (Freelancers’ Union), được thành lập cho ‘các permalancer’ (freelancer thường xuyên hay tạm thời) ở New York, cung cấp một dải rộng các dịch vụ cho các thành viên cá nhân. Một biến thể khác, mà dựa vào sự trợ giúp pháp lý, là hội các biên tập viên tự do ở Canada (Standing, 2009: 271–3). Một mô hình thứ ba đã có thể là cái gì đó giống SEWA (Hội Phụ nữ Tự làm Chủ của Ấn Độ). Các hình thức khác đang nổi lên và phải được chính trị tiến bộ ủng hộ. Chúng sẽ trao ý nghĩa mới cho quyền tự do liên hiệp.
Trên hết, các thị trường lao động linh hoạt và nhà nước áp bức có nghĩa là precariat cần Tiếng nói bên trong các cơ quan chính sách. Salariat biết làm thế nào để bảo vệ mình chống lại các nhà quan liêu và các thủ tục hành chính phức tạp. Nó có thể cất tiếng nói của mình. Nhưng precariat bị bất lợi. Trong khi nhiều người trong nó đúng là bấp bênh, những người khác có những bất lợi thêm. Thí dụ, ở Vương Quốc Anh, hai trong mỗi năm người hưởng trợ cấp bất lực được nói là mắc bệnh tâm thần. Thêm vào những người ít học và những người di cư với sự thành thạo ngôn ngữ hạn chế, và nhu cầu của họ đối với các nhóm vận động và áp lực bên trong các cấu trúc hoạch định chính sách có thể được đánh giá cao. Chúng cần có khả năng để tranh cãi các việc sa thải không công bằng, các trợ cấp không được trả hay trả không đủ, đối phó với nợ và giải quyết các vấn đề trong khi thương lượng cách của chúng xung quanh các thủ tục ngày càng phức tạp dường như được thiết kế để làm cho ngày càng khó để có đủ tư cách và nhận được trợ cấp.
Phục hồi sự bình đẳng
Trong thế kỷ thứ hai mươi, bất bình đẳng đã được xem xét về mặt lợi nhuận và tiền lương. Đối với các nhà dân chủ xã hội và những người khác, sự tái phân phối đã phải đạt được bằng sự kiểm soát các tư liệu sản xuất, thông qua quốc hữu hóa, và nhận được một phần lớn hơn của lợi nhuận qua việc đánh thuế, mà rồi được phân phối lại bằng trợ cấp nhà nước và các dịch vụ công.
Mô hình đó đã bị tiếng xấu và các nhà xã hội chủ nghĩa tuyệt vọng. Trong một sưu tập các tiểu luận về Hình dung lại Chủ nghĩa xã hội-Reimagining Socialism bởi các nhà xã hội chủ nghĩa Mỹ mà đã thấy các tư liệu sản xuất chuyển sang Trung Quốc, Barbara Ehrenreich và Bill Fletcher (2009) đã viết:
‘Chúng ta có một kế hoạch không, nhân dân? Chúng ta có thấy con đường ra khỏi đây và tới một tương lai công bằng, dân chủ, bền vững (hãy thêm các tính từ ưa thích của riêng bạn)? Hãy đặt nó lên bàn: Chúng ta không có’.
Họ phải hăng hái lên. Đặc điểm quân bình chủ nghĩa đã tiến lên. Gậy chỉ huy được nhặt lên bởi precariat, giai cấp đang lên trong một xã hội tertiary nơi các tư liệu sản xuất là âm u và phân tán, và thường được sở hữu dẫu sao chăng nữa bởi những người lao động. Mỗi Biến đổi đã được đánh dấu bằng một cuộc đấu tranh vì các tài sản chủ chốt của thời đại ấy. Trong các xã hội phong kiến, các nông dân và nông nô đã đấu tranh để giành sự kiểm soát đất đai và nước. Trong chủ nghĩa tư bản công nghiệp, cuộc đấu tranh đã là vì các tư liệu sản xuất, các nhà máy, ruộng đất và hầm mỏ. Các công nhân đã muốn lao động tử tế và một phần lợi nhuận đổi lại cho việc nhượng sự kiểm soát lao động cho các nhà quản lý. Nhưng trong xã hội tertiary ngày nay, cuộc chiến đấu tiến bộ sẽ xảy ra xung quanh sự tiếp cận không bình đẳng đến, và sự kiểm soát của, năm tài sản căn bản.
Chúng có thể được tóm tắt như sự an toàn kinh tế, thời gian, không gian chất lượng, tri thức và vốn tài chính. Cuộc chiến đấu tiến bộ sẽ là về cả năm tài sản đó. Chúng ta biết elite và salariat có hầu hết vốn tài chính và rằng họ đã kiếm được nhiều thu nhập khủng khiếp mà không có bằng chứng nào rằng họ là tinh khôn hơn hoặc làm việc siêng năng hơn cha ông họ. Sự giàu có của họ giễu cợt các lời khẳng định của chế độ nhân tài (meritocracy). Sự kiểm soát thu nhập từ vốn tài chính có nghĩa là họ có thể mua nhiều không gian chất lượng được tư nhân hóa, siết các common (công thổ) mà precariat và những người khác dựa vào, và họ có thể có sự kiểm soát về thời gian riêng của họ mà những người khác chỉ có thể mơ đến.
Không có thuốc tiên nào cho sự phân phối lại tất cả năm tài sản. Trong mỗi trường hợp sẽ cần đến các thay đổi thể chế, các quy định và sự mặc cả. Tuy vậy, một chính sách mà đã được thảo luận trong nhiều năm sẽ giúp trong mọi khía cạnh. Trước khi xem xét làm thế nào precariat có thể nhận được một phần lớn hơn của năm tài sản then chốt, chúng ta hãy xác định ý tưởng then chốt và cho nó lý do căn bản mang tính đạo đức.
Một thu nhập cơ bản
Đề xuất đã là một chủ đề rồi về các sự thể hiện precariat và có một lịch sử dài với nhiều người ưu tú ủng hộ. Nó đã được biết dưới nhiều tên: Tên phổ biến nhất là một ‘thu nhập cơ bản-basic income’ nhưng các tên khác gồm ‘citizen’s grant-trợ cấp của công dân’, ‘social dividend-cổ tức xã hội’, ‘solidarity grant-trợ cấp đoàn kết’ và ‘demogrant-trợ cấp dựa vào nhân khẩu học’. Trong khi chúng ta sẽ dùng tên phổ biến nhất, một biến thể được đề xuất ở đây mà tính đến hai mục tiêu đáng mong muốn mà đã không là phần của sự tranh luận cho đến nay.
Lõi của đề xuất là, mọi cư dân hợp pháp của một nước hay cộng đồng, trẻ con cũng như người lớn, phải được cung cấp một số tiền khiêm tốn hàng tháng. Mỗi cá nhân sẽ có một thẻ tiền mặt cho quyền họ được rút một khoản tiền hàng tháng cho nhu cầu cơ bản, để tiêu như họ thấy thích hợp, với các khoản thêm cho các nhu cầu đặc biệt, như sự tàn tật. Trong hầu hết các nước giàu, nó sẽ là ít cấp tiến hơn như có thể có vẻ, vì nó có nghĩa là sự hợp nhất nhiều sơ đồ chuyển giao hiện tồn và thay thế các sơ đồ khác mà bị đánh đố bằng sự phức tạp và điều kiện tính độc đoán và tùy ý.
Một thu nhập cơ bản như vậy sẽ được trả cho mỗi cá nhân, không phải cho một nhóm lớn hơn có thể tranh cãi, như ‘gia đình’ hay ‘hộ gia đình’. Nó sẽ là phổ quát do được trả cho tất cả cư dân hợp pháp, với một giai đoạn chờ đợi cho những người di cư, vì các lý do thực dụng. Nó sẽ ở dạng tiền mặt, cho phép người nhận quyết định dùng nó như thế nào, không trong một dạng gia trưởng chủ nghĩa, như một phiếu lĩnh thực phẩm hay các khoản định trước khác. Nó phải thúc đẩy ‘lựa chọn tự do’, không phải là một công cụ của sự hích nhẹ gợi ý. Nó phải là không thể vi phạm, bởi vì nhà nước phải không có khả năng lấy nó đi trừ phi một người ngừng là một cư dân hợp pháp hay phạm một tội mà sự khước từ là một sự trừng phạt được quy định rõ cho tội đó. Và nó phải được trả như một số tiền khiêm tốn đều đặn, không như một số tiền trọn gói tương tự như ‘trái phiếu bé con-baby bond’ hay ‘trợ cấp cổ đông’ có ý định dưới Quỹ Tín thác Trẻ em của Vương Quốc Anh, mà gây ra ‘sự yếu ý chí’ và các vấn đề khác (Wright, 2006).
Trợ cấp sẽ là vô điều kiện về mặt cách cư xử. Có các luật, các tòa án và trình tự hợp pháp (due process) để giải quyết cách cư xử đáng ngờ. Chúng không được trộn lẫn với một chính sách để cung cấp sự an toàn cơ bản. Nếu chúng trộn lẫn, thì sẽ không có sự an toàn cũng chẳng có công lý được cung cấp. Về nguyên tắc, các khoản chuyển tiền mặt giải phóng; chúng trao sự an toàn kinh tế mà với nó để đưa ra các sự lựa chọn về làm thế nào để sống và phát triển các năng lực của mình. Nghèo là về không tự do (unfreedom) cũng như về không có đủ để ăn, không có đủ quần áo và một chỗ không thích đáng để sống. Việc áp đặt các điều kiện, dù về cách cư xử hay về mặt người nhận được phép mua những gì, là một hành động của sự không tự do. Một khi nó được chấp nhận, cái gì chặn các nhà hoạch định chính sách đi sang bước tiếp theo? Họ có thể dễ dàng nghĩ họ biết cái gì là tốt nhất cho ai đó mà là người nghèo thu nhập và ít được giáo dục. Những người theo chủ nghĩa điều kiện sẽ có khuynh hướng mở rộng các điều kiện và thắt chặt cách chúng hoạt động cho đến khi chúng trở thành ép buộc và trừng phạt. Một thu nhập cơ bản sẽ đi theo hướng khác.
Thu nhập cơ bản sẽ không giống thuế thu nhập âm, mà nó thường được so sánh với. Nó sẽ không tạo ra một bẫy nghèo, mà trong đó khi thu nhập tăng thì trợ cấp mất, hoạt động như một phản khuyến khích đối với lao động. Người đó sẽ giữ thu nhập cơ bản bất chấp việc kiếm được bao nhiêu từ lao động, hệt như nó sẽ được trả bất chấp tình trạng hôn nhân hay gia đình. Tất cả thu nhập kiếm được sẽ bị đánh thuế với thuế suất tiêu chuẩn. Nếu nhà nước muốn hạn chế số lượng trao cho những người giàu, nó có thể vồ lại thông qua thuế cao hơn trên thu nhập cao hơn.
Các lý do phản đối một thu nhập cơ bản đã được xem xét lại một cách bao quát, nhất là trong một mạng lưới quốc tế được hình thành trong 1986 để thúc đẩy tranh luận. Ban đầu nó được gọi là BIEN (Basic Income European Network), nó đã đổi tên tại Đại hội Barcelona của nó trong 2004 thành BIEN (Basic Income Earth Network) để phản ánh sự thực rằng một số gia tăng của các thành viên của nó đã từ các nước đang phát triển và các nước khác ngoài Châu Âu. Vào 2010, nó đã phát triển các mạng lưới quốc gia trong nhiều nước, gồm Brazil, Canada, Nhật Bản, Mexico, Nam Hàn và Hoa Kỳ cũng như ở Châu Âu.
Các luận điệu chính được đưa ra chống lại một thu nhập cơ bản vô điều kiện là, nó sẽ hạ thấp cung lao động, có thể gây lạm phát, không thể chi trả được, bị các chính trị gia dân túy lợi dụng và sẽ là một ‘của bố thí’, một phần thưởng cho sự lười biếng và loại thuế lên những người lao động. Tất cả các điều này đã được trả lời trong văn liệu BIEN và bởi các công trình học thuật khác. Tuy vậy, trong suy nghĩ về các lợi thế của thu nhập cơ bản cho precariat về mặt các tài sản then chốt (và trả giá thế nào vì nó), chúng ta sẽ trả lời cho vài phê phán đó ở đây.
Về mặt triết học, một thu nhập cơ bản có thể được nghĩ như một ‘cổ tức xã hội’, một lợi tức trên đầu tư quá khứ. Những người tấn công nó như sự cho không cái gì đó (không lấy lại gì cả) thường hay là những người mà đã được cho không rất nhiều, thường sau khi đã được thừa kế của cải, nhỏ hay vô cùng lớn. Việc này dẫn đến điểm được Thomas Paine (2005) đưa ra trong cuốn sách mỏng Agrarian Justice (Công lý Nông nghiệp) năm 1795 của ông. Mọi người giàu trong mọi xã hội có được của cải lớn của họ chủ yếu nhờ các sự cố gắng của các tổ tiên của họ và các cố gắng của các tổ tiên của những người ít giàu có hơn. Nếu mọi người được cấp một thu nhập cơ bản để phát triển các năng lực của họ với nó, thì rốt cuộc là một cổ tức (phần lời được chia) từ các nỗ lực và vận may của những người mà đã đến trước. Precariat có quyền đối với một cổ tức như vậy như bất cứ ai khác.
Một bước đáng mong muốn tới một thu nhập cơ bản là sự tích hợp các hệ thống thuế và trợ cấp. Trong 2010, một sự tiến triển chuyển Vương Quốc Anh hướng tới một thu nhập cơ bản đã đến từ cái nhiều người đã nghĩ là một hướng không chắc đúng. Các kế hoạch của chính phủ Liên minh cho cải cách triệt để hệ thống thuế-trợ cấp đã nhận ra rằng hệ thống của năm mươi mốt trợ cấp mà các chính phủ trước đã dựng dần lên, nhiều trợ cấp với các tiêu chuẩn đủ tư cách khác nhau, đã gây đần độn và đầy rẫy rủi ro đạo đức gắn với bẫy nghèo và bẫy thất nghiệp. Trong sự hợp nhất trợ cấp nhà nước thành hai – một Tín dụng Làm việc Phổ quát và một Tín dụng Đời sống Phổ quát – nó đã có thể để thúc đẩy sự tích hợp thuế-trợ cấp và tạo thuận lợi cho việc hủy bỏ các trợ cấp được suôn sẻ và có trật tự hơn khi thu nhập kiếm được tăng lên. Sự tích hợp đã có thể tạo ra các hoàn cảnh cho một thu nhập cơ bản nổi lên. Đáng tiếc bộ trưởng công việc và hưu trí, một người Công giáo, đã được thuyết phục để buộc những người nhận trợ cấp đi lao động, mở ra công việc công ích và cho phép các đại lý thương mại có sự kiểm soát. Nhưng sự tích hợp sẽ là một bước hướng tới xây dựng lại một hệ thống an sinh xã hội với một cơ sở phổ quát.
Phân phối lại sự an toàn
Tài sản an ninh có nhiều yếu tố – xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị và vân vân. Chúng ta quan tâm ở đây đến chiều kinh tế. Sự bất an toàn (sự bấp bênh) kinh niên là xấu tự nó và xấu về mặt phương tiện, tác động đến sự phát triển các năng lực và nhân cách. Nếu điều này được chấp nhận, thì phải có một chiến lược để cung cấp sự an ninh cơ bản. Precariat đang kích động chính xác bởi vì nó chịu sự bất an toàn có hệ thống.
Người ta có thể có quá nhiều hoặc quá ít sự an toàn. Nếu có quá ít, sự phi lý thịnh hành; nếu có quá nhiều. một sự thiếu chăm sóc và trách nhiệm thịnh hành. Một sự nhấn mạnh đến sự an toàn có thể trở thành phản động, chống lại sự thay đổi và biện minh cho các sự kiểm soát thoái bộ. Tuy vậy, sự an toàn kinh tế cơ bản sẽ vẫn để lại sự bất an sinh tồn (chúng ta lo về người chúng ta yêu quý, sự an toàn và sức khỏe của mình, vân vân) và sự bất an phát triển (chúng ta muốn phát triển các năng lực của mình và sống một cuộc sống tiện nghi hơn, nhưng phải chấp nhận rủi ro để làm vậy). Và một cảm giác về sự ổn định là cần đến nhằm để là duy lý, khoan dung và có lòng trắc ẩn. Sự an toàn cơ bản phải được đảm bảo, không phải là cái gì đó có thể bị lấy đi theo sự tùy ý của ai đó mà không có lý do thích đáng và được chứng minh.
Các nhà vị lợi và các nhà tân-tự do bỏ qua nhu cầu đối với sự an toàn kinh tế phổ quát như một công cụ cho phép tiếp thu cách cư xử có nguyên tắc. Họ thường hay nhìn những người mà là những người thất bại của một xã hội thị trường như một tập thể ‘khác’. Ý nghĩ về việc nhắm vào một nhóm người được gọi là ‘những người nghèo’ là đi thương hại và lên án theo mức độ đại thể ngang nhau. ‘Họ’ đáng, không xứng đáng hoặc phạm tội, để được giúp đỡ một cách nhân từ, được định hình lại hoặc bị trừng phạt, theo cách chúng ta những người tốt phán xét họ. Để nói về ‘những người nghèo’ là nói về lòng thương hại, mà là hơi giống sự coi khinh, như David Hume đã dạy chúng ta. ‘Họ’ không giống ‘chúng ta’. Lời vặn lại của Precariat là, họ là chúng ta hoặc có thể là vào bất cứ lúc nào.
Ý nghĩ về sự an toàn cơ bản phổ quát là để thay đổi não trạng từ sự thương hại sang sự đoàn kết xã hội và lòng trắc ẩn. Bảo hiểm xã hội đã là về tạo ra sự an toàn trong một xã hội công nghiệp. Nó không thể hoạt động bây giờ và đã không hoạt động tốt khi đó. Nhưng nguyên lý về sự an toàn đoàn kết chủ nghĩa đã đáng ca ngợi. Nó đã bị mất trong trạng thái quá dư thừa của các sơ đồ có mục tiêu tìm cách để loại bỏ ‘những người không xứng đáng’. Có quan trọng không nếu 0,5 phần trăm người dân là lười biếng? Các chính sách phải được thiết kế với 0,5 phần trăm đó trong đầu hay để trao sự an toàn và tự do cho 99,5 phần trăm, sao cho xã hội có một đời sống thư giãn hơn, ít lo âu hơn? Nhiều chính sách kiểm soát mà các chính trị gia, các cố vấn của họ và các quan chức nghĩ ra có thể hấp dẫn đối với các đầu óc có định kiến và nhận được phiếu bàu, nhưng chúng tốn kém và phần lớn phản tác dụng. Nó khiến người đóng thuế tốn nhiều hơn nhiều để buộc một ít người không hiệu quả vào các việc làm không hiệu quả hơn là cứ để họ trôi nổi, nếu đó thực sự là cái họ muốn. Sẽ tốt hơn để đưa ra lời khuyên vô tư, như một dịch vụ, chứ không như một chế tài được hóa trang lơ thơ.
Tuyệt đại đa số sẽ không thỏa mãn để sống nhờ chỉ một thu nhập cơ bản. Họ muốn làm việc và được kích thích bởi khả năng cải thiện cuộc sống vật chất và xã hội của họ. Đi săn đuổi một thiểu số bé tẹo vì ‘sự lười biếng’ của họ là một dấu hiệu của sự yếu kém của chúng ta, không phải công trạng của chúng ta. Trong khía cạnh đó, một thử nghiệm nhỏ được tiến hành ở các đường hẻm của London trong 2010 đã có các bài học ấm lòng. Một số người lang thang vô gia cư đã được hỏi từng người họ muốn nhất cái gì; các giấc mơ của họ đã khiêm tốn, như hợp với tình trạng của họ. Tiền để thực hiện các mơ ước đó được cấp mà không có điều kiện; vài tuần sau, hầu như tất cả họ đã không còn là một người vô gia cư và một gánh nặng cho các nhà chức trách địa phương nữa. Tiền tiết kiệm cho những người đóng thuế do việc trao số tiền đó mang lại đã bằng năm mươi lần chi phí để trao nó.
An toàn cơ bản, thứ nhất, là có sự không chắc chắn vừa phải, không cực đoan; thứ hai, biết rằng nếu cái gì đó hỏng thì sẽ có những cách có thể chi trả được và có thể chấp nhận được về mặt cư xử để đối phó; và thứ ba, có các cách có thể chi trả được và có thể chịu được về mặt cư xử để bình phục từ một cú sốc hay hiểm họa.
Trong một xã hội thị trường với các sơ đồ phúc lợi có điều kiện, các lựa chọn tư nhân đắt đỏ và ít tính lưu động xã hội, các điều kiện đó không tồn tại và phải được tạo ra. Điểm xuất phát cho precariat là việc đối phó với sự không chắc chắn, vì họ đối mặt với sự ‘không biết các thứ không biết’ không thể bảo hiểm được.
Sự cần an ninh ex ante (từ trước) nhiều tầng (ngược với an ninh ex post-từ sau được bảo hiểm xã hội đề nghị, mà đối phó với các rủi ro ngẫu nhiên cụ thể) như thế là một lý do cho sự mong muốn xã hội tốt đẹp tương lai để bao gồm một thu nhập cơ bản vô điều kiện. Các chính trị gia giàu có đó đủ may để sống nhờ phúc lợi tư nhân suốt đời họ phải được bảo rằng việc có ‘phúc lợi suốt đời’ là cái mọi người đều xứng đáng, không chỉ họ. Tất cả chúng ta đều ‘phụ thuộc’ vào những người khác, hoặc để là chính xác ‘phụ thuộc lẫn nhau’. Nó là phần của thân phận con người bình thường, không phải sự nghiện ngập hay bệnh tật nào đó. Và việc cung cấp sự an ninh cơ bản cho đồng bào phải không được biến thành có điều kiện về cách cư xử được xác định về mặt đạo đức nào đó. Nếu các cư xử nào đó là không thể chấp nhận được, nó phải được biến thành vấn đề của luật, phải chịu thủ tục hợp pháp. Gắn an sinh xã hội với tính điều kiện là phớt lờ luật, mà được cho là như nhau cho tất cả mọi người.
Anh ninh cơ bản là một nhu cầu con người hầu như phổ quát và là một mục tiêu xứng đáng cho chính sách nhà nước. Thử làm cho nhân dân ‘hạnh phúc’ là một mưu mẹo thao túng, còn việc cung cấp một nền tảng an ninh sẽ tạo ra điều kiện cần thiết cho người dân để có khả năng theo đuổi quan niệm riêng của họ về hạnh phúc. An ninh kinh tế cơ bản cũng là có lợi về mặt công cụ. Sự bất an tạo ra căng thẳng, mà làm giảm khả năng để tập trung và học, đặc biệt tác động đến các phần của não mà liên đới nhất với trí nhớ công tác (Evans and Schamberg, 2009). Như thế, để thúc đẩy cơ hội bình đẳng, chúng ta phải nhắm tới để giảm các khác biệt về bất an toàn. Cơ bản hơn, các nhà tâm lý học đã cho thấy rằng những người an toàn cơ bản có khả năng nhiều hơn để là khoan dung và vị tha. Chính sự bấp bênh xã hội-kinh tế đang thổi bùng chủ nghĩa phát xít mới ở các nước giàu khi chúng đương đầu với sự điều chỉnh xuống bị trì hoãn của tiêu chuẩn sống do toàn cầu hóa gây ra.
Việc này dẫn đến sự sửa đổi khả dĩ thứ nhất của đề xuất thu nhập cơ bản (xem cả Standing, 2011). Chúng ta biết rằng nền kinh tế được toàn cầu hóa tạo ra nhiều sự bấp bênh kinh tế hơn và dễ bị hay thay đổi, và rằng precariat trải nghiệm những thăng giáng không thể bảo hiểm được về sự bấp bênh kinh tế. Việc này tạo ra một nhu cầu cho sự ổn định thu nhập và cho các nhân tố ổn định kinh tế tự động. Vai trò sau đã thường được đóng bởi bảo hiểm thất nghiệp và các trợ cấp bảo hiểm xã hội khác, nhưng các thứ này đã teo lại. Nếu một thu nhập cơ bản được xem như một ‘trợ cấp ổn định kinh tế’, nó sẽ là một cách quân bình chủ nghĩa để giảm tính dễ thay đổi (volatility) kinh tế. Nó sẽ hiệu quả hơn và công bằng hơn chính sách tiền tệ và tài khóa quy ước cũng như tất cả các trợ cấp tồi đó mà nuôi dưỡng sự phi hiệu quả và một loạt hiệu ứng trọng tải bì và sự thay thế.
Giá trị của thẻ thu nhập cơ bản có thể thay đổi nghịch-chu kỳ. Khi các cơ hội cho thu nhập là cao, giá trị của nó có thể thấp hơn, và khi các điều kiện suy thoái lan rộng nó có thể được nâng lên. Để tránh sự lạm dụng chính trị, mức của thu nhập cơ bản có thể được định bởi một cơ quan độc lập, bao gồm các đại diện của precariat cũng như của các nhóm lợi ích khác. Việc này sẽ tương đương với các cơ quan tiền tệ hầu như-độc lập được thành lập trong các năm gần đây. Sự ủy thác của nó sẽ để điều chỉnh giá trị lõi của trợ cấp thu nhập cơ bản theo sự tăng trưởng kinh tế và giá trị bổ sung của nó theo điều kiện chu kỳ của nền kinh tế. Điểm cốt yếu là để tái phân phối sự an ninh cơ bản từ những người với ‘quá nhiều’ sang những người với quá ít hay chẳng có sự an toàn nào cả.
Tái phân phối vốn tài chính
Có nhiều cách trả thu nhập cơ bản hay trợ cấp ổn định hóa. Điểm ngữ cảnh là các sự bất bình đẳng là lớn hơn trong một thời gian dài, ở nhiều nước lớn hơn bất cứ lúc nào. Không có bằng chứng nào rằng sự bất bình đẳng như vậy là cần thiết. Nhưng nhiều hơn là do lợi tức cao của vốn tài chính. Precariat phải nhận được một phần.
Các chính phủ nước giàu có đã bỏ lỡ cơ hội để giảm bất bình đẳng tiếp sau cú sốc đối với hệ thống ngân hàng. Khi chúng cứu các ngân hàng với tiền của các công dân, chúng đã có thể tính đến một phần lợi ích vĩnh cửu của vốn góp của các công dân, đòi hỏi một đại diện lợi ích công trong hội đồng quản trị của tất cả các ngân hàng, hoặc tất cả các nhân hàng nhận sự trợ giúp công. Khi các ngân hàng bắt đầu lại có lời, một số sẽ phải chảy quay lại công chúng mà thực tế đã đầu tư vào các ngân hàng. Là không quá muộn để làm cái gì đó giống việc này.
Hai cải cách sẽ giúp ích. Thứ nhất, các trợ cấp cho vốn và cho lao động phải được hủy bỏ dần. Chúng không làm lợi cho precariat và là bất quân bình. Giả như nửa số tiền dùng để cứu các ngân hàng đã được phân bổ cho các trợ cấp ổn định hóa kinh tế, một khoản trợ cấp tử tế đã có thể được cung cấp cho mỗi công dân trong hàng năm (Standing, 2011). Các trợ cấp khác gây méo mó và góp phần cho sự phi hiệu quả.
Thứ hai, phải tìm thấy các cách để tái phân phối một phần tiền lời cao của vốn tài chính, tiền lời mà không có quan hệ nào với lao động của những người bây giờ đang có lợi từ vị trí chiến lược của nó trong nền kinh tế toàn cầu. Vì sao những người với các kỹ năng cá biệt – luôn luôn chấp nhận chúng là các kỹ năng – sống một cuộc sống kinh tế khá hơn vô cùng so với những người khác có các kỹ năng khác?
Các nước giàu phải chấp nhận là các nền kinh tế rentier (thu tô). Chẳng có gì sai với việc đầu tư vốn vào các nền kinh tế thị trường mới nổi và với việc nhận cổ tức công bằng từ đầu tư. Mặt này của toàn cầu hóa phải gây ra một tình thế win-win (các bên đều thắng) nhưng chỉ nếu một số cổ tức được phân phối lại cho các công dân và các denizen của nước đầu tư.
Các quỹ đầu tư quốc gia (Sovereign wealth fund), mà tồn tại rồi trong bốn mươi nước, là một cách hứa hẹn để làm việc đó. Nếu thu nhập phát sinh của các quỹ như vậy có thể được chia, precariat sẽ có được một công cụ để kiểm soát cuộc sống của họ. Là hoàn hợp lý cho các nhà kinh tế để cho rằng các việc làm sẽ đến trong các khu vực không tham gia thương mại (non-tradable). Những gì chúng ta đang học là, hầu hết các hoạt động là có thể tham gia thương mại (tradable). Kỳ vọng các việc làm là công cụ mà với nó bất bình đẳng được giảm là huýt sáo trong gió. Các việc làm sẽ không biến mất. Để nghĩ khác đi là đi chấp nhận ‘ngụy biện lao động cố định-lump of labour fallacy’. Nhưng nhiều nếu không phải hầu hết sẽ là việc làm lương thấp và bấp bênh.
Các quỹ quốc gia có thể được sử dụng để tích lũy tiền lời để giúp trả thu nhập cơ bản. Có các tiền lệ. Quỹ Thường xuyên Alaska (Permanent Fund), được lập năm 1976, đã được dựng lên để phân phối một phần lợi nhuận từ sản xuất dầu cho mỗi cư dân hợp pháp của bang Alaska. Nó tiếp tục làm thế. Nó không phải là mô hình hoàn hảo, vì sự cai quản của nó có thể dẫn đến sự bỏ mặc tương đối precariat hay những người Alaska ngày mai so với những người hôm nay. Nhưng, giống Quỹ Na Uy, nó cung cấp các hạt nhân của một cơ chế quỹ vốn mà có thể được dùng để tài trợ một thu nhập cơ bản khiêm tốn, dẫu nó có thể được gọi là gì đi nữa.
Precariat sẽ cũng được lợi từ cái gọi là ‘các thuế Tobin’, được thu trên các giao dịch đầu cơ vốn. Có các lập luận cho sự tin rằng việc giảm các luồng vốn ngắn hạn sẽ là có lợi trong mọi trường hợp. Và rồi có các loại thuế sinh thái, được thiết kế để bù cho các ngoại sinh gây ra bởi sự ô nhiễm và để làm chậm hay đảo ngược sự làm cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên. Nói tóm lại, không có lý do nào để nghĩ một thu nhập cơ bản phổ quát là không có khả năng chi trả.
Về mặt quốc tế, sự hợp pháp hóa gần đây của chuyển giao tiền mặt như một công cụ viện trợ phát triển là hứa hẹn. Chúng được chấp nhận lần đầu tiên như các sơ đồ ngắn hạn cho các tình huống sau cú sốc, như sau các vụ động đất và lụt. Muộn hơn, như được nhắc tới sớm hơn, các sơ đồ chuyển giao tiền mặt có điều kiện đã trải ra Mỹ Latin. Các nhà tài trợ và các cơ quan viện trợ đã đổi ý kiến về chúng. Các chuyển giao tiền mặt, lột bỏ tính điều kiện giả của chúng đi, phải trở thành hình thức chính của viện trợ, để đảm bảo viện trợ nâng cao các mức sống và không phải được dùng cho các mục đích thoái bộ hay thối nát.
Chúng ta nên nghĩ lại lần nữa về sự tái phân phối toàn cầu về thu nhập. Một cuốn sách của luật gia Ayelet Schachar (2009), The Birthright Lottery (Xổ số Quyền con Trưởng), đã lập luận cho một loại thuế công dân ở các nước giàu để phân phối lại cho nhân dân ở các nước nghèo, coi các lợi ích vật chất của tư cách công dân như một tài sản, một của thừa kế. Việc này na ná như lập luận của Paine. Có thể là quá không tưởng cho sự thực hiện ngay. Nhưng nó dựa trên sự thấu hiểu rằng tư cách công dân không phải là một quyền tự nhiên, vì các đường biên giới là tùy tiện. Nó gợi lên một liên kết giữa các thuế được đánh dấu và sự tái phân phối qua các chuyển giao cơ bản cho những người ‘đủ không may’ để được sinh ra trong các phần thu nhập thấp của thế giới. Lý do duy nhất cho ý nghĩ nó không tưởng hôm nay là, trong một xã hội thị trường đang toàn cầu hóa tất cả chúng ta đều được kỳ vọng là ích kỷ, không phải các công dân toàn cầu.
Như thế, sẽ không có nỗi day dứt nào trong nói rằng có những cách tài trợ tiến theo hướng một thu nhập cơ bản trong các nước cả giàu lẫn đang phát triển. Thách thức là mang tính chính trị; chỉ nếu precariat có thể sử dụng đủ áp lực lên quá trình chính trị thì cái là có thể mới trở thành thực tế. May thay, khi nó sử dụng áp lực đó, bằng chứng đang tích tụ về các tác động có lợi của các khoản chuyển giao tiền mặt cơ bản ở các nước mà chỉ vài năm trước đã được coi như các địa điểm nơi một thu nhập cơ bản là không thể thực hiện được.
Giành được sự kiểm soát thời gian
Một thu nhập cơ bản sẽ cũng cho người dân nhiều sự kiểm soát hơn đối với thời gian của họ. Và nó sẽ là một câu trả lời cho các nhà gia trưởng tự do chủ nghĩa. Họ tin rằng người dân không thể đưa ra các quyết định duy lý bởi vì người dân đối mặt với quá nhiều thông tin. Trong trường hợp đó họ sẽ củng hộ các chính sách mà sẽ cung cấp cho người dân nhiều thời gian gian hơn để đưa ra các quyết định duy lý. Người dân cũng cần thời gian để làm công-việc-cho-lao-động và các hình thức khác của công việc mà không là lao động. Chúng ta hãy chậm lại. Chúng ta cần một Phong trào Thời gian Chậm, như Phong trào Thực phẩm Chậm; cả hai là phần không thể tách rời của chủ nghĩa địa phương.
Có vài đòn bẩy để cho phép người dân chậm lại. Thay vào đó, chính sách tài khóa và xã hội ‘tưởng thưởng’ lao động và trừng phạt những người chọn ít lao động hơn. Những người muốn lao động ít hơn bị trừng phạt gấp đôi, không chỉ trong nhận được thu nhập thấp hơn mà cả trong việc mất quyền hưởng đối với cái gọi là ‘các quyền xã hội’, như hưu trí.
Một thu nhập cơ bản, được gỡ bỏ liên kết với lao động, sẽ là sự giải-hàng hóa hóa bởi vì nó sẽ cho người dân một năng lực lớn hơn để sống bên ngoài thị trường và dưới áp lực ít hơn với lao động. Nhưng nó có thể làm tăng lượng lao động bằng cho phép người dân chuyển vào và ra khỏi thị trường lao động dễ hơn. Nói cách khác, nó có thể đem lại nhiều lao động hơn nhưng sẽ làm thế trong các điều kiện an toàn lớn hơn và độc lập với các áp lực thị trường. Một thu nhập cơ bản sẽ cũng cho phép các công dân chấp nhận tiền lương thấp hơn và để mặc cả mạnh mẽ hơn. Nếu họ đánh giá rằng một lượng nào đó đã là tất cả cái một chủ tiềm năng có thể có đủ sức (trả), họ có thể nhận việc làm chừng nào họ đã có đủ để sống.
Sự cần thiết để giành được sự kiểm soát thời gian là quan trọng đến vậy. Chúng ta cần nó để đưa ra các quyết định về quản lý rủi ro. Một số nhà gia trưởng tự do chủ nghĩa cho rằng giáo dục thất bại để cải thiện khả năng của người dân để đưa ra các quyết định tốt, biện minh cho sự hích gợi ý của họ và sử dụng các cây gậy mà trông giống các củ cà rốt. Tuy vậy, một điều tra ở Vương Quốc Anh đã thấy rằng các nhà đầu tư đã nhận diện sự thiếu thời gian như rào cản chủ yếu cho việc quản lý rủi ro (Grene, 2009). Các rủi ro có thể dược giải thích sao cho người dân có thể đưa ra các lựa chọn duy lý. Các bác sĩ có thể thông báo rủi ro cho bệnh nhân như một phần của sự cung cấp ‘lựa chọn có hiểu biết’. Các phát hiện thống kê có thể làm cho người dân chú ý. Các nhà chuyên nghiệp dịch vụ tài chính có thể bị buộc chấp nhận một định nghĩa rộng hơn về rủi ro và để gắn bó với các khách hàng nhằm cho phép họ đưa ra các quyết định duy lý hơn, qua một ‘sự thông báo rủi ro và công cụ nhận biết’. Điểm quan trọng là, người dân cần thời gian để cân nhắc các rủi ro, chừng nào các chính sách đảm bảo thông tin thích hợp là sẵn có.
Việc này gợi lại một trong các bẫy precarity xấu nhất. Precariat đối diện với một sự siết thời gian từ tiền công giảm sút của lao động và từ áp lực để làm nhiều công-việc-cho-lao-động và công-việc-cho-tái-sản-xuất hơn, một phần vì họ không đủ sức cho các việc thay thế. Sự lo âu và sự bấp bênh, đến mức ‘bị dùng’, họ phải làm một lượng quá mức của công-việc-cho-lao-động và không có khả năng tiêu hóa và sử dụng thông tin đến với họ. Một thu nhập cơ bản sẽ cho họ sự kiểm soát lớn hơn thời gian của họ và như thế giúp họ đưa ra các quyết định hợp lý hơn.
Giành lại các common
Cuối cùng, có sự phân phối sai không gian chung có chất lượng. Việc này có hai chiều liên quan. Những người am hiểu nhất nhận ra mối đe dọa sinh thái đáng sợ do sự nóng lên toàn cầu, sự ô nhiễm và sự biến mất của các loài gây ra. Thế mà phần lớn elite và các phần trên của salariat không thực sự quan tâm. Sự giàu có và các mối quan hệ của họ có thể đảm bảo họ không bị đụng đến. Họ có thể lui về các hòn đảo của họ giữa biển xanh trong và các nhà nghỉ dưỡng trên núi của họ. Họ muốn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao để làm tăng thu nhập và của cải của họ, chẳng lưu tâm đến sự hủy hoại sinh thái do sự cạn kiệt tài nguyên gây ra. Chính precariat là giai cấp xanh một cách tự nhiên đang lấy lý lẽ để bảo vệ một xã hội quân bình hơn mà trong đó sự chia sẻ và các hoạt động tái sản xuất, bảo tồn tài nguyên được ưu tiên. Tăng trưởng nhanh chỉ cần nhằm duy trì các bất bình đẳng lố bịch mà toàn cầu hóa đã tạo ra. Hệt như chúng ta cần chậm lại nhằm giảm sự căng thẳng của lao động và tiêu thụ điên cuồng, chúng ta cũng cần làm vậy để tái tạo thiên nhiên.
Precariat cũng phải đấu tranh cho các common có thể sống và phát triển được; nó cần một không gian công cộng phong phú. Có lẽ các hành động tiết lộ nhất của cựu Thủ tướng Vương Quốc Anh Margaret Thatcher – kiến trúc sư đó của chủ nghĩa tân-tự do được sùng kính đến vậy bởi những người kế vị Tony Blair và David Cameron – đã là việc bán hàng loạt nhà ở hội đồng (do hội đồng thành phố xây và vận hành) và các sân chơi và các phương tiện khác gấn với các trường công. Việc đó dã cắt mất không gian công cộng cho các công dân thu nhập thấp và các denizen.
Ba thập niên sau chính sách đã lên đỉnh trong các biện pháp khắc khổ của 2010. Hàng trăm thư viện công bị đóng cửa, hệt như chúng đã bị khắp Hoa Kỳ. Đấy là các nơi công cộng quý giá cho precariat. Tài trợ thể thao cho các trường công bị nhắm với các sự cắt giảm khổng lồ, với các câu lạc bộ sau-giờ học đối mặt sự tàn phá. Các phương tiện công khác bị cắt hay sẽ bị định giá cắt cổ. Và sự phân vùng (zoning) đô thị cư trú sẽ trở nên hệ thống hơn. Việc bán nhà ở hội đồng đã tạo ra sự thiếu hụt chỗ thuê trọ có giá phải chăng cho những người thu nhập thấp trong các thị xã và thành phố. Tiền thuê nhà tư đã tăng lên, làm tăng tổng số tiền chi trả về trợ cấp nhà ở cho những người có thu nhập thấp. Khi chính phủ tìm kiếm các khoản tiết kiệm tài khóa, trợ cấp nhà ở đã là một mục tiêu dễ. Nó có kế hoạch để hạn chế các mức trợ cấp xuống 30 phần trăm của các nhà rẻ nhất trong một vùng và định mức cao nhất mà một gia đình có thể nhận được. Các cải cách nhất thiết đẩy những người có thu nhập thấp khỏi các vùng có chi phí cao, có tiêu chuẩn sống cao, trong cái mà Thị trưởng London, một đảng viên Bảo thủ, đã gọi là ‘thanh lọc xã hội’ và Tổng giám mục xứ Canterbury đã gọi là ‘phân vùng xã hội’.
Thật tai ác, nước đi này sẽ làm cho thị trường lao động hỗn loạn hơn. Khi những người có thu nhập thấp và tương đối ít học tập trung trong các vùng thu nhập thấp, các cơ hội việc làm sẽ tập trung trong các vùng thu nhập cao hơn. Các túi nghèo và thất nghiệp sẽ trở thành các vùng hay thậm chí các ghetto, hệt như các banlieue (ngoại ô) của Paris là các trung tâm của sự tước đoạt, bất an, thất nghiệp và tàn dư tội phạm, và hệt như các thành phố Nam Phi, bị phân vùng dưới apartheid, vẫn bị phân mảnh thành các vùng có cổng được canh gác kỹ và sự tức giận sục sôi của các khu da đen.
Cũng có nhu cầu cho các không gian công cộng an toàn hơn mà trong đó precariat có thể tụ hợp và phát triển tình bạn công dân công cộng. Lĩnh vực công cần được làm sống lại. Nhà xã hội học và triết học Jürgen Habermas, than vãn sự phân mảnh của lĩnh vực công, đã nhớ lại thế kỷ thứ mời tám của các quán cà phê của London, các salon của Paris và ‘các cuộc mạn đàm quanh bàn’ của Đức. Quan điểm của ông, tràn đầy nỗi luyến tiếc, là lĩnh vực công đã bị giết bởi nhà nước phúc lợi, truyền thông đại chúng, các quan hệ công chúng và sự xói mòn của hoạt động chính trị nghị trường bởi các đảng chính trị. Ngầm định là một lòng tin rằng giá mà chúng ta có các denizen am hiểu ở các quán cà phê, thì dân chủ sẽ hồi sinh.
Có cái gì đó trong điều này, bởi vì trong khi precariat là một giai cấp nổi lên ở các quán cà phê hiện đại, các quán rượu, các quán cà phê internet và các mạng xã hội, có một sự thiếu hụt thảo luận. Habermas đã miêu tả internet như tạo ra một làn sóng vô chính phủ của các mạch truyền thông bị phân mảnh mà đã không thể tạo ra một khu vực công. Khá thẳng thắn. Nhưng ông quá bi quan. Precariat có thể được chào mời một khu vực công bị phân mảnh, nhưng nó có thể đấu tranh cho một khu vực công nơi dân chủ thảo luận có thể được hồi sinh. Và một thu nhập cơ bản có thể giúp ngay cả ở đây nữa.
Trợ cấp thời gian rỗi
Một khía cạnh đáng lo ngại của xã hội giữ chắc việc làm là sự mất sự tôn trọng đối với thời gian rỗi theo nghĩa Hy Lạp của schole. Sự mất tôn trọng đó đi cùng chủ nghĩa tư nhân (privatism) công dân và chủ nghĩa cá nhân dựa trên chủ nghĩa duy vật thô thiển. Vì sức khỏe của xã hội và của chính chúng ta, chúng ta cần các cơ chế để đảo ngược xu hướng.
Nền dân chủ mỏng, sự hàng hóa hóa của chính trị, và sức mạnh của các quan hệ công chúng và tiền bạc elite có nguy cơ củng cố một sự chuyên chế của đa số và một sự bôi nhọ bệnh hoạn về sự không theo lề thói. Như một phong trào-đối lập, precariat cần các cơ chế để tạo ra nền dân chủ thảo luận (deliberative). Việc này thúc đẩy các giá trị của chủ nghĩa phổ quát và chủ nghĩa vị tha, vì nó cổ vũ người dân nghĩ phù hợp với ‘bức màn vô minh-veil of ignorance’ và rời khỏi lập trường đã bị ảnh hưởng bởi vị trí của họ dọc theo phổ xã hội và kinh tế. Tuy vậy, dân chủ thảo luận đòi hỏi sự tham gia tích cực, mà không thể được làm bởi những người quẫn trí được nhồi một đồ ăn toàn mẩu âm thanh và lời nói vô vị. Nó đòi hỏi sự tranh luận, giao tiếp bằng mắt, ngôn ngữ cơ thể, sự lắng nghe và suy ngẫm.
Tại Athens cổ, một công cụ bằng đá được gọi là một kleroterion được dùng để chọn ngẫu nhiên 500 người để hoạch định chính sách, từ 50.000 công dân. Nó đã không dân chủ, bởi vì phụ nữ và các nô lệ đã bị loại trừ. Nhưng nó giống dân chủ thảo luận. Nghiên cứu của James Fishkin, Bruce Ackerman và những người khác cho biết rằng các cuộc thảo luận công khai thường thoát khỏi các quan điểm dân túy. Một thí nghiệm ở Michigan bị ảnh hưởng nặng của suy thoái đã dẫn đến một sự tăng ủng hộ cho các thuế cao hơn, trong trường hợp thuế thu nhập từ 27 lên 45 phần trăm. Trong các thí nghiệm như vậy, những thay đổi lớn nhất về ý kiến đến từ những người kiếm được thêm nhiều tri thức nhất. Nó không có nghĩa các sự thay đổi luôn luôn là đáng mong muốn. Nhưng nó có cho thấy rằng sự thảo luận tạo ra một sự khác biệt. Các thí nghiệm tâm lý học sớm hơn đã thấy rằng những người với sự an toàn kinh tế cơ bản là vị tha, khoan dung và quân bình hơn những người bấp bênh về kinh tế, và rằng sự thảo luận nhóm quanh các đề xuất liên quan đã dẫn thậm chí đến sự ủng hộ nhiều hơn cho việc cung cấp cho người dân một mức được đảm bảo của sự an toàn (Frohlich and Oppenheimer, 1992).
Một số người chủ trương dùng internet để tiến hành dân chủ thảo luận, thông qua các cuộc thăm dò ý kiến. Nó đã được dùng ở Hy Lạp và Trung Quốc cho vài dự án, như để xác định một quỹ hạ tầng cơ sở phải được phân bổ ra sao ở Trạch Quốc (Zeguo), Trung Quốc. Nó được xem như một van an toàn cho các áp lực xã hội. Tuy vậy, trong khi việc sử dụng internet là hấp dẫn, nó không thể thay thế sự tập trung thu hút tâm trí trong sự đích thân tham gia công khai.
Như thế là đáng xem xét một biến thể quá độ của trợ cấp thu nhập cơ bản, mà có thể giúp precariat lánh xa chủ nghĩa dân túy. Đấy là việc yêu cầu mọi người có quyền hưởng trợ cấp thu nhập cơ bản, khi họ đăng ký sự đủ tư cách, có một cam kết đạo đức để bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử quốc gia và địa phương, và để tham gia ít nhất một cuộc họp địa phương trong một năm để thảo luận các vấn đề thời sự chính trị. Một cam kết như vậy sẽ không là ràng buộc pháp lý, với các chế tài; nó chỉ là một sự nhận ra trách nhiệm công dân, như hợp với đặc điểm của chủ nghĩa quân bình giải phóng.
Ngay cả không có sự cam kết đạo đức, một thu nhập cơ bản sẽ là một công cụ cho việc cổ vũ dân chủ thảo luận. Nền dân chủ mỏng có khả năng bị chiếm bởi các elite hay các chương trình nghị sự dân túy. Nếu các nền dân chủ là ít tham nhũng hơn các chế độ phi dân chủ, như Minh bạch Quốc tế (Transparency International) ước lượng, thì các biện pháp ủng hộ-tham gia sẽ củng cố dân chủ. Và, giả định một mối quan hệ tuyến tính giữa dân chủ và tham nhũng, việc này sẽ làm giảm tham nhũng. Với tỷ lệ đi bầu thấp, có nhiều khả năng hơn rằng các ứng viên cố thủ sẽ thắng. Precariat và các profician, do cách sống du cư hơn của họ, chắc có nhiều khả năng hơn để quay sang các chính trị gia được coi như đáng tin cậy. Nhiều cuộc bầu cử được quyết định bởi những người không bỏ phiếu. Đấy không thể là một kết cục tốt.
Trợ cấp công-việc-và-thời-gian-rỗi có thể liên quan đến sự nhiệt tình mới cho ‘chủ nghĩa địa phương’. Mong muốn cho sự thoái hóa dưới đề mục của một ‘thời đại hậu-quan liêu’ là quyến rũ, được ủng hộ bởi cả các nhà dân chủ xã hội lẫn bảo thủ. Tại Vương Quốc Anh, những người Bảo thủ đã khéo nghĩ ra từ Xã hội Lớn, một uyển ngữ mơ hồ mà có vẻ bao gồm chủ nghĩa địa phương và một vai trò lớn hơn cho xã hội công dân và công việc tình nguyện. Think-tank Demos cũng đã nhấn mạnh chính sách địa phương trong cuốn sách mỏng của nó The Liberal Republic-Cộng hòa Tự do (Reeves and Collins, 2009), mà đã liên kết nó với ‘một cuộc sống tự-tạo ra’ mà trong đó sự tự trị cá nhân là tối cao trong sự hình thành phiên bản Cuộc sống Tốt của mình.
Có những rắc rối ở phía trước. Chủ nghĩa địa phương có thể đi cùng sự phân vùng (zoning) xã hội, với các vùng giàu có kiếm được với sự thiệt hại của những người khác. Nó bỏ qua nhu cầu đối với quyền tự do hiệp hội hơn là chỉ sự tự trị cá nhân, mà sẽ để precariat lại với một bất lợi. Xã hội công dân có thể bị chi phối bởi những người giàu có và được kết nối tốt. Và chủ nghĩa địa phương có thể báo hiệu nhiều chủ nghĩa gia trưởng hơn. Nó đã liên kết rồi với các biện pháp để thúc đẩy ‘cách cư xử thân-xã hội’. Một ý tưởng để các công dân bỏ phiếu về tiền phải được tiêu thế nào trong khu dân cư của họ đổi lấy việc làm công việc tình nguyện hay tham gia các cuộc họp công cộng. Hình thức này của tính điều kiện đe dọa các nguyên tắc của nền dân chủ. Bỏ phiếu là một quyền phổ quát và mục tiêu phải là để tăng dân chủ thảo luận, không phải để tạo ra những người bên trong và những người bên ngoài. Hơn nữa, chủ nghĩa địa phương chỉ có thể thành công nếu người dân tham gia theo cách công dân, và việc liên kết quyền hưởng trợ cấp với một cam kết đạo đức để tham gia các hoạt động dân chủ sẽ là con đường tiến lên tốt hơn.
Một ý định mà phải kêu gọi cho những người tiến bộ là để nâng mức bỏ phiếu lên, nhớ rằng ở nơi điều đó xảy ra thì thiên hướng ủng hộ các giá trị tự do hay tiến bộ tăng lên. Brazil có sự bỏ phiếu bắt buộc, mà có thể là vì sao ở đó đã có ít sự ủng hộ cho chủ nghĩa tân-tự do. Một số đông người nghèo, những người đóng ít thuế nhưng thu được từ trợ cấp nhà nước, đẩy các chính trị gia sang tả trong chính sách xã hội. Như thế những người tiến bộ phải muốn tăng tỷ lệ cử tri đi bầu, một lý do cho họ để ủng hộ các trợ cấp thời gian rỗi có điều kiện. Sự bỏ phiếu bắt buộc đã có thể là vì sao Brazil có thể đưa ra một thu nhập cơ bản trước các nước khác và vì sao một cam kết dể làm vậy đã được thông qua thành luật trong 2004.
Có một tiền lệ cho việc liên kết sự tham gia chính trị với trợ cấp thu nhập cơ bản. Trong năm 403 trước công nguyên ở Athens, các công dân đã được trao một phần thưởng nhỏ như một kỷ vật cho sự tham gia của họ vào đời sống của polis. Để nhận nó đã là một phù hiệu danh dự và một sự xui khiến để giữa trách nhiệm trong việc điều khiển công việc chung.
Các kết luận
Precariat có thể chẳng bao lâu thấy nó có nhiều bạn bè hơn. Đáng nhớ lại lời cảnh cáo nổi tiếng được cho là của Mục sư Martin Niemöller nói về sự lên của bọn Nazi ở nước Đức trong các năm 1930.
“Đầu tiên chúng đến bắt những người Cộng sản, và tôi đã không lên tiếng bởi vì tôi đã không là một người Cộng sản. Rồi chúng đến bắt các đoàn viên công đoàn, và tôi đã không lên tiếng bởi vì tôi đã không là một đoàn viên công đoàn. Rồi chúng đến bắt những người Do Thái, và tôi đã không lên tiếng bởi vì tôi đã không là một người Do Thái. Rồi chúng đến bắt tôi và đến lúc đó đã chẳng còn ai để lên tiếng.”
Lời cảnh cáo là thích đáng bởi vì giai cấp nguy hiểm đang bị dẫn lạc lối bởi những kẻ mị dân như Berlusconi, những người không chính thống như Sarah Palin và các nhà phát xít mới ở nơi khác. Trong khi phe trung hữu đang bị lôi kéo thêm nữa sang hữu để giữ các cử tri của mình, phe trung tả đang thoái lui và bị xuất huyết phiếu bàu. Nó đang lâm vào cảnh nguy hiểm mất một thế hệ tín nhiệm. Trong thời gian quá lâu, nó đã đại diện cho lợi ích của ‘lao động’ và đã bênh vực cho một lối sống đang chết và một lối lao động đang chết. Giai cấp mới là precariat; trừ phi những người tiến bộ của thế giới đưa ra một nền chính trị thiên đường, giai cấp đó sẽ hoàn toàn quá thiên về nghe theo các nàng siren quyến rũ nhử con thuyền xã hội lao vào bãi đá. Những người trung dung sẽ gia nhập trong việc ủng hộ một sự đồng thuận tiến bộ mới bởi vì họ chẳng có nơi nào để đi. Họ gia nhập càng sớm càng tốt. Precariat không phải là nạn nhân, côn đồ hay anh hùng – nó chỉ là rất nhiều trong số chúng ta.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:33:52 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (phụ chương a)TÀI LIỆU THAM KHẢO Aguiar, M. and Hurst, E. (2009), The Increase in Leisure Inequality, 1965–2005, Washington, DC: AEI Press. Amoore, L. (2000), ‘International Political Economy and the Contested Firm’, New Political Economy, 5(2): 183–204. Arendt, H. (1958), The Human Condition, Chicago, IL: University of Chicago Press. Arendt, H. ([1951] 1986), The Origins of Totalitarianism, London: André Deutsch. Asthana, A. and Slater, C. (2009), ‘Most Parents Can’t Find Enough Time to Play with Their Children’, Observer, 2 August, p. 17. Atkins, R. (2009), ‘Europe Reaps the Rewards of State-Sponsored Short-Time Jobs’, Financial Times, 29 October, p. 6. Autor, D. and Houseman, S. (2010), ‘Do Temporary-Help Jobs Improve Labor Market Outcomes for Low-Skilled Workers: Evidence from “Work First”’, American Economic Journal: Applied Economics, 3(2): 96–128. Bamford, J. (2009), The Shadow Factory: The Ultra-Secret NSA from 9/11 to the Eavesdropping on America, New York: Doubleday. Bennett, C. (2010), ‘Do We Really Need Advice on How to Deal with Boomerang Kids?’ Observer, 3 January, p. 25. Bentham, J. ([1787] 1995), Panopticon; or The Inspection-House, reprinted in M. Bozovich (ed.), The Panopticon Writings, London: Verso, pp. 29–95. Bernstein, R. (2009), ‘Don’t Trust Anyone Under 30?’, New York Times, 14 January. Beveridge, W. (1942), Social Insurance and Allied Services, London: HMSO. Blinder, A. (2009), ‘How Washington Can Create Jobs’, Wall Street Journal, 17 November, p. 16. Bloomberg BusinessWeek (2005), ‘Embracing Illegals’, Bloomberg BusinessWeek, 18 July. Bourdieu, P. (1990), The Logic of Practice, Cambridge, UK: Polity Press. Bourdieu, P. (1998), ‘La précarité est aujourd’hui partout’ [‘Precariousness is Everywhere Nowadays’], in Contre-feux, Paris: Raisons d’agir, pp. 96–102. Browne, J. (2010), Securing a Sustainable Future for Higher Education, London: The Stationery Office. Bryceson, D. B. (ed.) (2010), How Africa Works: Occupational Change, Identity and Morality, Rugby: Practical Action Publishing. Bullock, N. (2009), ‘Town Halls Find Fresh Angles to Meet Recession’, Financial Times, 23 December, p. 2. Carr, N. (2010), The Shallows: What internet Is Doing to Our Brains, New York: Norton. Centre for Women in Business (2009), The Reflexive Generation: Young Professionals’ Perspectives on Work, Career and Gender, London: London Business School. Chan, W. (2010), ‘The Path of the Ant Tribe: A Study of Education System That Reproduces Social Inequality in China’, paper presented at the Seventh East Asia Social Policy Conference, Seoul, 19–21 August. Chellaney, B. (2010), ‘China Now Exports Its Convicts’, Japan Times Online, 5 July. Available at search.Nhật Bảnthời gians.co.jp/print/eo20100705bc.html [accessed 2 December 2010]. Choe, S.-H. (2009), ‘South Korea Fights Slump through Hiring, Not Firing’, International Herald Tribune, 2 April, pp. 1, 4. Coase, R. H. (1937), ‘The Nature of the Firm’, Economica, 4(16): 386–405. Cohen, D. (2009), Three Lectures on Post-Industrial Society, Cambridge, MA: Massachusetts Institute of Technology Press. Cohen, N. (2010), ‘Now, More than Ever, the Poor Need a Voice’, Observer, 7 October, p. 33. Coleman, D. (2010), ‘When Britain Becomes “Majority Minority”,’ Prospect, 17 November. Collison, M. (1996), ‘In Search of the High Life’, British Journal of Criminology, 36(3): 428–43. Crawford, M. (2009), Shop Class as Soulcraft: An Enquiry into the Value of Work, New York: Penguin. Dench, G., Gavron, K. and Young, M. (2006), The New East End: Kinship, Race and Conflict, London: Profile Books. De Waal, F. (2005), Our Inner Ape, London: Granta Books. Dinmore, G. (2010a), ‘Tuscan Town Turns Against Chinese Immigrants’, Financial Times, 9 February, p. 2. Dinmore, G. (2010b), ‘Chinese Gangs Exploit Niche Left by Mafia’, Financial Times, 29 June, p. 5. Doerr, N. (2006), ‘Towards a European Public Sphere “from Below”? The Case of Multilingualism within the European Social Forums’, in C. Barker and M. Tyldesley (eds), Conference Papers of the Eleventh International Conference on ‘Alternative Futures and Popular Protest’, vol. II, Manchester: Manchester Metropolitan University. Dvorak, P. and Thurm, S. (2009), ‘Slump Prods US Firms to Seek a New Compact with Workers’, Wall Street Journal, 20 October, pp. 14–15. The Economist (2007), ‘Changing How Japan Works’, The Economist, 29 September, p. 70. The Economist (2009), ‘Public Sector Unions: Welcome to the Real World’, The Economist, 12 December, p. 46. The Economist (2010a), ‘Too Many Chiefs’, The Economist, 26 June, p. 72. The Economist (2010b), ‘Dues and Don’ts’, The Economist, 14 August, p. 62. The Economist (2010c), ‘The Biology of Business: Homo Administrans’, The Economist, 23 September. Ehrenreich, B. (2009), Smile or Die: How Positive Thinking Fooled America and the World, London: Granta. Ehrenreich, B. and Fletcher, B. (2009), ‘Reimagining Socialism’, The Nation, 23 March. Elger, T. and Smith, C. (2006), ‘Theorizing the Role of international Subsidiary: Transplants, Hybrids and Branch Plants Revisited’, in A. Ferner, J. Quintanilla and C. Sánchez-Runde (eds), Multinationals, Institutions and the Construction of Transnational Practices: Convergence and Diversity in Global Economy, Basingstoke: Palgrave Macmillan, pp. 53–85. Environmental Justice Foundation (2009), No Place Like Home: Where Next for Climate Refugees? London: Environmental Justice Foundation. Equality and Human Rights Commission (2010), Inquiry into the Meat and Poultry Processing Sectors: Report of the Findings and Recommendations, London: EHRC. Esping-Andersen, G. (1990), The Three Worlds of Welfare State Capitalism, Cambridge, UK: Cambridge University Press. Evans, G. W. and Schamberg, M. A. (2009), ‘Childhood Poverty, Chronic Stress, and Adult Working Memory’, Proceedings of the National Academy of Sciences, 106(16): 6545–9. Fackler, M. (2009), ‘Crisis-Hit South Koreans Living Secret Lives with Blue-Collar Jobs’, International Herald Tribune, 8 July, p. 1. Fackler, M. (2010), ‘New Dissent in Japan Is Loudly Anti-Foreign’, New York Times, 29 August, p. A6. Fauroux, R. (2005), La lutte contre les discriminations ethniques dans le domaine de l’emploi [Combating Ethnic Discrimination in Employment], Paris: HALDE. Federal Communications Commission (2010), National Broadband Plan: Connecting America, Washington, DC: Federal Communications Commission. Fifield, A. (2010), ‘Tea Party Brews Trouble for Both Sides as Protest Recoils on Right’, Financial Times, 28 January, p. 5. Financial Times (2010a), ‘Britain’s Growing Bất bình đẳng Problem’, Financial Times, 28 January, p. 14. Financial Times (2010b), ‘Osborne Preaches One Nation Austerity’, Financial Times, 5 October, p. 16. Fiszbein, A. and Schady, N. (2009), Conditional Cash Transfers: Reducing Present and Future Poverty, Washington, DC: World Bank. Florida, R. (2003), The Rise of the Creative Class, and How It’s Transforming Work, Leisure, Community and Everyday Life, London: Basic Books. Florida, R. (2010), ‘America Needs to Make Its Bad Jobs Better’, Financial Times, 6 July, p. 11. Forrest, R. and Kearns, A. (2001), ‘Social Cohesion, Social Capital and the Neighbourhood’, Urban Studies, 38(12): 2125–43. Foucault, M. (1977), Discipline and Punish: The Birth of the Prison, London: Penguin. Freeman, R. (2005), ‘What Really Ails Europe (and America): The Doubling of the Global Workforce’, The Globalist, 3 June. Available at www.theglobalist. com/storyid.aspx?StoryId=4542 [accessed 6 December 2010]. Friedman, M. (1982), Capitalism and Freedom, Chicago, IL: University of Chicago Press. Friedman, M. and Kuznets, S. (1945), Incomr from Independent Professional Practice, New York: National Bureau of Economic Research. Frohlich, N. and Oppenheimer, J. A. (1992), Choosing Justice: An Experimental Approach to Ethical Theory, Berkeley, CA, and Los Angeles, CA: University of California Press. Gibney, M. J. (2009), Precarious Residents: Migration Control, Membership and the Rights of Non-Citizens, New York: Human Development Reports Research Paper 2009/10, United Nations Development Programme. Giridharadas, A. (2009), ‘Putting the Students in Control’, International Herald Tribune, 7–8 November, p. 2. Goldthorpe, J. H. (2007), On Sociology, second edition, Stanford: Stanford University Press. Goldthorpe, J. H. (2009), ‘Analysing Social Bất bình đẳng: A Critique of Two Recent Contributions from Economics and Epidemiology’, Âu châu Sociological Review, 22 October. Available at esr.oxfordjournals.org/content/early/2009/10/22/esr. jcp046.abstract [accessed 2 December 2010]. Goos, M. and Manning, A. (2007), ‘Lousy and Lovely Jobs: The Rising Polarisation of Work in Britain’, Review of Economics and Statistics, 89(1): 118–33. Gorz, A. (1982), Farewell to the Working Class: An Essay on Post-Industrial Socialism, London: Pluto Press. [Original published as Adieux au proletariat, Paris: Galilée, 1980.] Green, H. (2010), The Company Town: The Industrial Edens and Satanic Mills That Shaped the American Economy, New York: Basic Books. Grene, S. (2009), ‘Pension Investors Fail to Get the Message’, FT Report – Fund Management, 27 July, p. 3. Grimm, S. and Ronneberger, K. (2007), An Invisible History of Work: Interview with Sergio Bologna. Available at www.springerin.at/dyn/heft_text. php?textid=1904&lang=en [accessed 2 December 2010]. Haidt, J. (2006), The Happiness Hypothesis, London: Arrow Books. Hankinson, A. (2010), ‘How Graduates Are Picking Up the Tab for Their Parents’ Lives’, The Observer, 31 January. Hansard Society (2010), Audit of Political Engagement 7: The 2010 Report, London: Hansard Society. Hardt, M. and Negri, A. (2000), Empire, Cambridge, MA: Harvard University Press. Harris, P. (2010), ‘Can Geoffrey Canada Rescue America’s Ailing Schools? Barack Obama Hopes So’, The Observer, 10 October. Hauser, M. D. (2006), Moral Minds: How Nature Designed Our Universal Sense of Right and Wrong, New York: Harper Collins. Hewlett, S. A., Jackson, M., Sherbin, L., Shiller, P., Sosnovich, E. and Sumberg, K. (2009), Bookend Generations: Leveraging Talent and Finding Common Ground, New York: Center for Work-Life Policy. Hinojosa-Ojeda, R. (2010), Raising the Floor for American Workers: The Economic Benefits of Comprehensive Immigration Reform, Washington, DC: Center for American Progress, Immigration Policy Center. Hinsliff, G. (2009), ‘Home Office to Unveil Points System for Immigrants Seeking British Citizenship’, Observer, 2 August, p. 4. Hobsbawm, E. J. (1959), Primitive Rebels: Studies in Archaic Forms of Social Movement in the 19th and 20th Centuries, Manchester: Manchester University Press. House, F. (2009), The Business of Migration: Migrant Worker Rights in a Time of Financial Crisis, London: Institute for Human Rights and Business. Howker, E. and Malik, S. (2010), Jilted Generation: How Britain Has Bankrupted Its Youth, London: Icon Books. Human Rights Watch (2010), From the Tiger to the Crocodile: Abuse of Migrant Workers in Thailand, New York: Human Rights Watch. Internal Displacement Monitoring Centre (2010), Available at www.internal- displacement.org [accessed 2 December 2010]. Izzo, P. (2010), ‘Economists Believe Many Jobs Won’t Return’, Wall Street Journal Europe, 12–14 February, p. 7. Johal, A. (2010), ‘Precarious Labour: Interview with San Precario Connection Organizer Alessandro Delfanti’, 11 September. Available at www.rabble. ca/blogs/bloggers/amjohal/2010/09/precarious-labour-interview-san-precario-connection-organizer-alessan [accessed 3 December 2010]. Kellaway, L. (2009), ‘Why My Friend’s Job Delivers without Paying a Packet’, Financial Times, 13 July, p. 10. Kerbo, H. R. (2003), Social Stratification and Inequality, fifth edition, New York: McGraw Hill. Kingston, J. (2010), Contemporary Japan: History, Politics and Social Change since the 1980s, Hoboken, NJ: Wiley-Blackwell. Knox, M. (2010), ‘Union Takes on Labor Over “Cheap” Foreign Workers’, Sydney Morning Herald, 12 February, p. 1. Kohn, M. (2008), Trust: Self-Interest and the Common Good, Oxford: Oxford University Press. Kosugi, R. (2008), Escape from Work: Freelancing Youth and the Challenge to Corporate Japan, Melbourne: Trans Pacific Press. MacDonald, R. and Shildrick, T. (2007), ‘Street-Corner Society: Leisure Careers, Youth (Sub)Culture and Social Exclusion’, Leisure Studies, 26(3): 339–55. Maher, K. (2008), ‘More in US Are Working Part-Thời gian Out of Necessity’, Wall Street Journal Europe, 10 March, p. 10. Mallet, V. (2009), ‘Soup Kitchen Queues Lengthen as Families Ignore Plight of Jobless’, Financial Times, 14 May, p. 4. Maltby, L. (2009), Can They Do That? Retaking Our Fundamental Rights in the Workplace, New York: Portfolio. Marcuse, H. (1964), One Dimensional Man: The Ideology of Industrial Society, London: Sphere Books. Martin, P. (2009), Sex, Drugs and Chocolate: The Science of Pleasure, London: Fourth Estate. Mayhew, L. (2009), Increasing Longevity and the Economic Value of Healthy Ageing and Working Longer, London: Cass Business School, City University. McGovern, P., Hill, S. and Mills, C. (2008), Market, Class, and Employment, Oxford: Oxford University Press. Mead, L. (1986), Beyond Entitlement: The Social Obligations of Citizenship, New York: Free Press. Mitchell, T. (2010), ‘Honda Presses Staff not to Strike’, Financial Times, 31 May, p. 1. Morrison, C. (2010), ‘The Relationship between Excessive Internet Use and Depression: A Questionnaire-Based Study of 1,319 Young People and Adults’, Psychopathology, 43(2): 121–6. Mouer, R. and Kawanishi, H. (2005), A Sociology of Work in Nhật Bản, Cambridge, UK: Cambridge University Press. Nairn, G. (2009), ‘Telework Cuts Office Costs’, FT Report – Digital Business, 12 March, p. 4. National Equality Panel (2010), An Anatomy of Economic Inequality in the UK: Report of the National Equality Panel, London: Centre for Analysis of Social Exclusion and Government Equalities Office. Needleman, S. (2009), ‘Starting Fresh with an Unpaid Internship’, Wall Street Journal, 16 July, p. D1. Nink, M. (2009), ‘It’s Always about the Boss’, Gallup Management Journal, 25 November. Obinger, J. (2009), ‘Working on the Margins: Japan’s Precariat and Working Poor’, Electronic Journal of Contemporary Japanese Studies, 25 February. OECD (2010a), International Migration Outlook 2010, Paris: OECD. OECD (2010b), A Profile of Immigrant Populations in the 21st Century: Data from OECD Countries, Paris: OECD. Paine, T. ([1795] 2005), Common Sense and Other Writings, New York: Barnes & Noble, pp. 321–45. Parliamentary and Health Service Ombudsman (2010), Fast and Fair? A Report by the Parliamentary Ombudsman on the UK Border Agency (fourth report), London: The Stationery Office. Peel, Q. (2010), ‘German Popular Perception Fuels Furious Debate on Immigration’, Financial Times, 2 September, p. 4. Pigou, A. C. ([1952] 2002), The Economics of Welfare, New Brunswick, NJ: Transaction Publishers. Polanyi, K. ([1944] 2001), The Great Transformation: The Political and Economic Origins of Our Time, Boston, MA: Beacon Press. Reeves, R. (2010), ‘Why Money Doesn’t Buy Happiness’, Observer Magazine, 25 April, p. 48. Reeves, R. and Collins, P. (2009), The Liberal Republic, London: Demos. Reidy, G. (2010), ‘Young, Single and Labouring Round the Clock’, NYT Business, 7 September, p. 13. Richtel, M. (2010), ‘Hooked on Gadgets, and Paying a Mental Price’, New York Times, 7 June, p. 1. Rigby, R. (2010), ‘The Careerist: What You Know Has a Shorter and Shorter Lifespan’, Financial Times, 22 February, p. 12. Royle, T. and Ortiz, L. (2009), ‘Dominance Effects from Local Competitors: Setting Institutional Parameters for Employment Relations in Multinational Subsidiaries: A Case from the Spanish Supermarket Sector’, British Journal of Industrial Relations, 47(4): 653–75. Saltmarsh, M. (2010), ‘Far from Home and Miserable in Sweden’, International Herald Tribune, 8 September, p. 3. Sawhill, I. and Haskins, R. (2009), Creating an Opportunity Society, Washington, DC: Brookings Institution. Schachar, A. (2009), The Birthright Lottery. Harvard, MA: Harvard University Press. Sen, A. (1999), Development as Freedom, Oxford: Oxford University Press. Sennett, R. (1998), The Corrosion of Character: The Personal Consequences of Work in the New Capitalism, New York: Norton. Shildrick, T., MacDonald, R., Webster, C. and Garthwaite, K. (2010), The Low-Pay, No-Pay Cycle: Understanding Recurrent Poverty, York: Joseph Rowntree Foundation. Si, L. (2009), The Ant Tribe: An Account of the Agglomerate Settlements of University Graduates, Guilin: Guangxi Normal University Press. Simonian, H. (2010), ‘Adecco Rejects Slowdown Fears’, Financial Times, 12 August, p. 11. Sklair, L. (2002), Globalization: Chủ nghĩa tư bản and Its Alternatives, Oxford: Oxford University Press. Soysal, Y. (1994), The Limits of Citizenship, Chicago, IL: University of Chicago Press. Standing, G. (1989), ‘Global Feminization through Flexible Labor’, World Development, 17(7): 1077–95. Standing, G. (1990), ‘The Road to Workfare: Alternative to Welfare or Threat to Occupation?’, International Labour Review, 129(6): 677–91. Standing, G. (1999a), ‘Global Feminization through Flexible Labor: A Theme Revisited’, World Development, 27(3): 583–602. Standing, G. (1999b), Global Labour Flexibility: Seeking Distributive Justice, Basingstoke: Macmillan. Standing, G. (2009), Work after Globalisation: Building Occupational Citizenship, Cheltenham, UK, and Northampton, MA: Edward Elgar. Standing, G. (2010), ‘Global Monitor: International Labour Organization’, New Political Economy, 15(2): 307–18. Standing, G. (2011), ‘Responding to khủng hoảng: Economic Stabilisation Grants’, Policy & Politics, 39(1): 9–25. Tabuchi, H. (2010), ‘Japan Accused of Violating Migrant Workers’ Human Rights’, New York Times, 21 July, p. B1. Tavan, C. (2005), Les immigrés en France: une situation qui évolue [Immigrants in France: An Evolving Situation], INSEE Première, No. 1042, September. Thaler, R. and Sunstein, C. (2008), Nudge: Improving Decisions About Health, Wealth, and Happiness, New Haven and London: Yale University Press. Thompson, E. P. (1967), ‘Time, Work-Discipline and Industrial Capitalism’, Past and Present, 38(1): 58–97. Tomkins, R. (2009), ‘The Retreat of Reason’, FT Weekend, 23–24 May, pp. 24–29. Tulgan, B. (2009), Not Everyone Gets a Trophy: How to Manage Generation Y, San Francisco, CA: Jossey-Bass. Turque, W. (2010), ‘D. C. Students Respond to Cash Awards, Harvard Study Shows’, Washington Post, 10 April, p. B1. Uchitelle, L. (2006), The Disposable American: Layoffs and Their Consequences. New York: Alfred Knopf. Ueno, T. (2007), ‘“Precariat” Workers Are Starting to Fight for a Little Stability’, Japan Times Online, 21 June. UKBA (2010), Points Based System Tier 1: An Operational Assessment, London: The Stationery Office. Virtanen, M., Ferrie, J. E., Singh-Manoux, A., Shipley, M. J., Vahtera, J., Marmot, M. G. and Kivimäki, M. (2010), ‘Overtime Work and Incident Coronary Heart Disease: The Whitehall II Prospective Cohort Study’, European Heart Journal, 31: 1737–44. Wacquant, L. (2008), ‘Ordering Insecurity: Social Polarization and the Punitive Upsurge’, Radical Philosophy Review, 11(1): 9–27. Weber, M. ([1922] 1968), Economy and Society, Berkeley, CA, and Los Angeles, CA: University of California Press. Wilkinson, R. and Pickett, K. E. (2009), The Spirit Level: Why More Equal Societies Almost Always Do Better, London: Allen Lane. Willetts, D. (2010), The Pinch: How the Baby Boomers Took Their Children’s Future – and Why They Should Give It Back, London: Atlantic. Willsher, K. (2010), ‘Leaked Memo Shows France’s Expulsion of Roma Illegal, Say Critics’, Guardian, 14 September, p. 20. Wong, E. (2009), ‘China Confronts Backlash from Its Mass Exports of Labor’, International Herald Tribune, 21 December, p. 16. Working Families (2005), Time, Health and the Family, London: Working Families. Wright, E. O. (ed.) (2006), Redesigning Distribution: Thu nhập cơ bản and Stakeholder Grants as Cornerstones for an Egalitarian Capitalism, London: Verso. Zolberg, A. (1995), ‘Review of Y. Soysal, Limits of Citizenship’, Contemporary Sociology, 24(4): 326–9.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:35:03 GMT 9
Precariat – Giai cấp mới nguy hiểm (phụ chương b)
INDEX
(Ghi chú của Tiếng Dân: Trong bảng tra từ mục này, các con số kèm theo là số của trang sách in. Chúng tôi sẽ sớm bổ sung vị trí của mỗi mục từ trên trang online này để độc giả tiện tìm kiếm)
(Số trang với ‘b’ cho thấy thông tin được tìm thấy trong một box).
A
Ackerman, Bruce 180
Adecco 33, 49
agency, năng lực hành động 167–70
Agrarian Justice (Paine) 173
Aguiar, Mark 128
Alemanno, Gianni 149
Alexander, Douglas 145
an ninh kinh tế, xem an toàn kinh tế
an toàn công ăn việc làm, employment security 10b, 11, 17, 36, 51, 117
an toàn đại diện, representation security 10b, 31
an toàn kinh tế, economic security 157, 171, 173–6
an toàn kinh tế, sự, economic security 157, 171, 173–6
an toàn tái tạo kỹ năng, skill resproduction security 10b
an toàn thu nhập, income security 10b, 30, 40, 44
an toàn việc làm, job security 10b, 11, 36–8
anomie, thiếu chuẩn mực 19–24, 64
Anzalone, John 152
Áo, Austria 150
Arendt, Hannah 117, 163–4
Arizona, luật, law SB1070 93, 97–8
Atos Origin 166–7
Australia, Úc 39, 90, 103
Austria, Áo 150
Axelrod, David 152
Ấn Độ, India 50, 83, 112, 140 xem cả Chindia
B
baby boomers, những người thuộc nhóm sinh ồ ạt (từ 1946-64), 66–7, 74
bác ái, xem tình anh em
bag lady, bà lang thang 63, 84
bàn nóng, sắp xếp, hot desking 53
bản sắc, identity 9: dựa vào công việc, work-based 12, 15–16, 23, 158–9, 163; số, digital 134–5
banausoi 13, 117
bằng cấp, qualifications 95
bao cấp, trợ cấp, subsidies 44, 54–6, 83–6, 176
bảo hiểm xã hội, social insurance 22, 104
bất hòa địa vị, status discord 10
Bauerlein, Mark 69
bẫy precarity trap 48–9, 73–5, 114, 129, 144, 178
BBVA 50
Beck, Glen 151
Bentham, Jeremy 132–3
Berlusconi, Silvio 69, 183: về người nhập cư, on immigrants 4, 97, 148–9
Bỉ, Belgium 39
BIEN (Basic Income European Network/ Basic Income Earth Network), Mạng lưới Thu nhập Cơ bản Âu châu/Trái đất 172
Biến đổi Toàn cầu, Global Transformation 26, 27–31, 91, 115
biểu tượng, symbols 3
Birthright Lottery, The (Schachar) 177
Blair, Tony 135, 158, 179
Blinder, Alan 163
Bồ Đào Nha, Portugal 52, 56
Bộ luật Dịch vụ Pháp lý, Legal Services Act 2007 (UK) (Luật Tesco) 40
bỏ phiếu, voting 146, 147, 181
Bosson, Eric 97
Brazil 182
British Airways 50
Brown, Gordon 103
Bryceson, D.B. 21
Buffett, Warren 78
buồn chán, nỗi, boredom 19, 141
C
call centres, các trung tâm dịch vụ khách hàng qua điện thoại 16, 169
Cameron, David 139, 169, 179
cân bằng công việc-đời sống, work–life balance 118
can dự/không can dự chính trị, political engagement/disengagement 24, 147
Can They do That? (Maltby) 138
Canada 79, 114
cang thẳng xem stress
cao tuổi, những người, old agers 59, 79– 86, 89
Capitalism and Freedom (Friedman) 156
CCT (conditional cash transfer scheme, sơ đồ chuyển giao tiền mặt có điều kiện) 140
Cerasa, Claudio 149
chức danh việc làm, titles of jobs 17–18
chăm sóc trẻ em, xem trẻ em
Chindia, Trung Ấn 26, 27–9, 83 xem cả Trung Quốc
chỗ làm việc, workplace 116, 122, 130, 131; kỷ luật ~ 136–8; ~ tertiary 116
chỗ làm việc tertiary, 116
Chrysler Group LLC 43
chủ nghĩa bảo hộ, protectionism 27, 54
chủ nghĩa địa phương, localism 181–2
chủ nghĩa gia trưởng, paternalism 17, 29, 137, 153, 178, 182; hích nhẹ, nudging 138–40, 155–6, 165, 167, 172, 178, 182
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, racism 97–8, 101, 114, 149
chủ nghĩa phát xít mới, neo-fascism 25, 147–53, 159, 175, 183
chủ nghĩa phổ quát, universalism 155, 157, 162, 180
chuyển giao tiền mặt, cash transfers 177 xem cả chuyển giao tiền mặt có điều kiện (CCT)
Citizens United vs Federal Election Commission (US), vụ kiện của tổ chức Citizens United đối với (vs) Ủy ban Bầu cử Liên bang 152–3
cô lập, sự, công nhân, isolation of workers 38
Coase, Ronald 29
Cohen, Daniel 57, 66, 69
công ăn việc làm một phần-thời gian, part-time employment 15, 35–6, 51, 61, 82
công ăn việc làm tạm thời temporary employment 14–15, 49; các hiệp hội cho ~ 170; ~ và khu vực công 51; ~ Nhật Bản 9; ~ và những người cao tuổi 82; ~ và tính linh hoạt số lượng 32–6; ~ và tuổi trẻ 65
công đoàn vàng, yellow unions 33
công đoàn, unions: ~ freeter 9; ~ vàng, yellow 33; xem cả nghiệp đoàn, trade unions
công đoàn, xem nghiệp đoàn
công nghệ, technology: ~ và bộ óc 18; ~ internet 180, 181; ~ và sự giám sát 132–6
công ty đa quốc gia, multinational corporations 28, 92
công việc chăm sóc, care work 61, 86, 125–6
công việc công ích, workfare 143–5, 166–7
công việc tình nguyện, volunteer work 86, 163–4
công việc, work 115, 117, 160–1; ~ và bản sắc, identity 158–9; ~ và lao động 13; quyền đối với ~, right to 145, 163, 164–5; sự an toàn ~ 10b
công-việc-cho-lao-động, work-for-labour 120–1, 178
công-việc-cho-tái-sản-xuất, work-for-reproduction 124–7
Crawford, Matthew 70
cú sốc tài chính 2008-9, financial shock 2008-9 xem Đại Suy thoái
D
dân chủ thảo luận, deliberative democracy 180–1, 182
dân di cư dài hạn, long-term migrants 100–2
de Tocqueville, Alexis 145
Delfanti, Alessandro 78
denizen, dân ngụ cư 14, 93–102, 105, 113, 117, 157–8
di cư bất hợp pháp, những người, illegal migrants 96–8
di cư mùa vụ, những người, seasonal migrants 98–100
di cư, dân, những người, migrants 2, 13–14, 25, 90–3, 145–6; ~ do chính phủ tổ chức 109–13; ~ và các hệ thống xếp hàng 103–5; ~ như denizen 93–102, 157–8; ~ nội bộ 105–9; ~ và suy thoái 102–3; ~ và thu nhập cơ bản 172; ~ và tính có điều kiện 144
dịch vụ tình dục, sex services 63
dịch vụ, các, services 37–8, 63
Duncan Smith, Iain 143
Durkeim, Emile 20
Đ
đa nhiệm, multitasking 19, 126–7
Đại học Nhân dân, University of the People 69
Đại học Nhân dân (Trung Quốc), Renmin University, 108
Đại học Phoenix 71
đại lý tạm thời, các, temporary agencies 33–4, 49, 110, 111, 167, 168
đại lý tuyển nhân viên, staffing agencies 33–4, 49, 110, 111, 167, 168
đại lý việc làm, các employment agencies 33
Đại Suy thoái, Great Recession 4, 49–51, 63, 176; ~ và giáo dục 71; ~ và người di cư 102; ~ và những người cao tuổi 82; ~ và lương hưu 80; ~ và tuổi trẻ 77–8
Đan Mạch 150
đàn ông, suy thoái (chuyển nhượng) xem mancession
đạo đức, ethics 23–4, 121–2, 165
đào tạo, training 121–4
địa vị hợp đồng, contract status 35, 36, 37, 44, 51, 61
địa vị phi chính thức, informal status 6–7, 57, 60, 96, 119
địa vị, bất hòa, status discord 10
địa vị, status 8, 21, 32–3, 94
địa vị, thất vọng, status frustration 10, 21, 63, 67, 77, 78, 79, 89, 114, 123, 160
điều kiện tính, xem tính có điều kiện
điều tiết, regulation 23, 26, 39–40, 84, 171; giải-~, 26, tái-~ 26
đồng phục, để phân biệt địa vị việc làm, uniforms, to distinguish employment status 32–3
đồng tính nam, người, gays 63–4
đồng tính nữ, những người, lesbians 63–4
Đức, Germany 9; dân di cư và ~ 91, 95, 100–1, 114; giải-công nghiệp hóa ở ~ 38; lương hưu ở ~ 79; nền kinh tế ngầm ở 56; ~ và phụ nữ 62; thoát khỏi ràng buộc với việc làm, disengagement with jobs ở ~ 24; tiền công ở ~ 40; tuổi trẻ và sự học nghề ở ~ 72–3; việc làm tạm thời ở 15, 35
E
Ehrenreich, Barbara 21, 170–1
elite, các 7, 22, 24, 40, 50; ~ phạm tội, criminality 152; ~ và dân chủ 181; đạo đức ~ 165; ~ Ý 148; ~ và Tea Party (US) 151
Esping-Andersen, G. 41
Euro 1-5 xem EuroMayDay
EuroMayDay, Ngày 1-5 ở châu Âu 1, 2, 3, 167
F
Facebook 127, 134, 135
Financial Times 44, 55, 121, 155
Fishkin, James 180
Fletcher, Bill 170–1
Ford Motor Company 42, 43
Foucault, Michel 88, 133
Foxconn 28–9, 43, 105, 137 xem cả Thẩm Quyến
freelance xem temporary employment việc làm tạm thời
freeter, nghiệp đoàn, unions 9
Friedman, Milton 39, 156
G
General Motors (GM) 42, 43, 54
genetic profiling, lập tiểu sử genetic 136
gia đình, family 27, 44, 60, 65, 126
giá trị của sự ủng hộ, value of support 11
giá trị xã hội, social worth 21
giai cấp lao động, working class 7, 8
giai cấp vô sản, proletariat 7
giai cấp xã hội, social class 6–8, 66–7
giải hàng hóa hóa, sự, giả, fictitious decommodification 41
giải kỹ năng, deskilling 17, 33, 40, 124
giải-công nghiệp hóa, de-industrialisation 5, 37–8
giải-điều tiết, de-regulation 26
giám sát, surveillance 132–6, 153, 167 xem cả giám sát từ đưới
giám sát dưới lên, sousveillance 134, 135
giáo dục, education 10, 67–73, 135–6, 159–60
Glen Beck’s Common Sense (Beck) 151
Google Street View 134
Gorz, Andre 7
H
Hà Lan, Netherlands 39, 79, 114, 149–50
Habermas, Jürgen 179
Haidt, J. 23
Hamburg (Đức) 3
hàng hóa hóa, commodification: ~ chính trị 148–53; ~ các công ty 29–31; ~ giáo dục 67–72; ~ lao động 161–2; ~ quản lý 40; tái- ~ 41–2; ~ và toàn cầu hóa 26
hạnh phúc, sự, happiness 140–1, 162
Hardt, M. 130
Hayek, Friedrich 39
hệ thống xếp hàng, queuing systems 103–5
hích nhẹ để gợi ý, nudging 138–40, 155–6, 165, 167, 172, 178, 182
hiệp hội, nghề nghiệp, associations, occupational 169–70
hiểu biết được kết tinh, crystallised intelligence 85
hình mẫu cho tuổi trẻ, role models for youth 63–5
hình sự hóa, criminalisation 14, 145, 146
Hitachi 84
Hoa Kỳ (US): bao cấp, subsidies ở ~55, 56; chăm sóc trẻ em ở ~ 125; các sắc tộc thiểu số ~ 86; chủ nghĩa phát xít mới ở ~ 150–1, 152–3; công việc tình nguyện, volunteer work ở~163; dân di cư ở ~ 90–1, 93, 94, 97, 103, 114; giáo dục ở 69, 70–1, 73, 135–6; hình sự hóa ở ~ 88; khu vực công ở ~ 52; lương và trợ cấp ở ~ 42; lương hưu ở ~ 42, 52, 80; người cao tuổi ở ~ 82–3, 85; phụ nữ ~ 62, 63; quy chế về các cơ quan nghề nghiệp ở ~ 39; sốc tài chính (2008-9) ở ~ 49–50; tính lưu động xã hội ở ~ 57–8; thuế ở ~ 180–1; tuổi trẻ ~ 75, 77; việc làm tạm thời ở ~ 34, 35
Hobsbawm, Eric 3
học nghề, sự, apprenticeships 10b, 23, 60, 70, 72–3, 131
hội chứng bà lang thang, bag lady syndrome 63, 84
hội chứng thiếu chú ý tập thể, collective attention deficit syndrome 127
hôn nhân, marriage 64–5, 92
hợp đồng hóa, contractualisation 37
hợp tác xã người lao động, worker cooperatives 168–70
hormones 136
Howker, Ed 65
Human Rights Watch 106
Hungary 149
Hurst, Erik 128
hưu trí, xem lương hưu
Hy Lạp, Greece 52, 56, 117, 181
Hyatt Hotels 32
I
IBM 38, 137
Ignatieff, Michael 88
In Praise of Idleness (Russell) 141, 161
International Herald Tribune 21
internet 18, 127, 139, 180, 181; sự giám sát ~ 134–5, 138
Ireland 52–3, 77
Italy: giáo dục ~ 69; chủ nghĩa phát xít mới ở ~ 148–9; lương hưu ~ 79; Prato ở ~ 4–5; ~ và khu vực công 52, 53; nền kinh tế ngầm của ~ 56; ~ và việc làm tạm thời 34; tuổi trẻ ~ 64
K
kẻ cười hở răng/kẻ lầm bầm xem người cười/kẻ khóc
kẻ khóc/người cười xem người cười/kẻ khóc
Kellaway, Lucy 83–4
Kênh 4, Channel 4, chưng trình call centre (Vương Quốc Anh) 16
Keynes, John Maynard 161
Khai Minh, Enlightenment 24, 70
Khai Tối, Endarkenment 70
không can dự chính trị, disengagement, political 24
không gian công cộng, public space 171, 179–80
khu chế xuất, export processing zones 105–6
khu vực công, public sector 51–4
khu vực tài chính, việc làm, financial sector jobs 39–40
kiến trúc được chọn, architecture of choice 133, 139, 140, 142
Kierkegaard, Søren 155
Klein, Naomi 148
kỹ năng cư xử cá nhân, personal deportment skills 123
kỹ năng, skills 157, 176: phát triển ~ 30, 31, 40; ~ phát triển cá nhân 123; ~ tertiary 121–4
kỹ năng tertiary, tertiary skill 121–4
ký ức xã hội, social memory 12, 23, 129
L
làm việc từ xa, distance woking 38, 53
làm việc từ xa, remote working 38, 53
làm việc từ xa, teleworking 38
Lào 112
lao động inshored/offshored 30, 36, 37
lao động không điển hình, atypical labour 32, 41
lao động, labour 13, 115, 161–2
lao động, tính linh hoạt labour flexibility 23–4, 31–45: ~ sự an toàn lao động, labour security 10–11, 10b, 31; ~ và sự tăng cường lao động 119–20; ~ và tính linh hoạt thị trường lao động 6
Lee Changshik 21
lesbians xem đồng tính nữ
Liberal Republic, The 181
Liên hiệp Âu châu Union (EU) 2, 39, 146, 147; ~ và dân di cư 97, 103, 105; ~ và lương hưu 80
Lloyds Banking Group 50–1
lo âu, anxiety 19–24, 155, 178
lời khuyên cho sự căng thẳng, counselling for stress 126
Lũ Kiến, Ant Tribe 73
Lũ Lang Thang, Wandering Tribe 73
luân hoàn, những người, circulants 90, 92
lương hưu, pensions 42, 51, 52, 76–7, 79–81, 84–6
M
mặc cả cộng tác, collaborative bargaining 168
mặc cả tập thể, collective bargaining 168
Malik, Shiv 65
Maltby, Lewis 138
Manafort, Paul 152
Mandelson, Peter, Baron 68
mạng xã hội, các site, social networking sites 137 xem cả Facebook
mancession, suy thoái đàn ông 63, 86, 89
Maroni, Roberto 97
Martin, Paul 141
Marx, Karl 161
Massachusetts Institute of Technology 68–9
Mayhew, Les 81
McDonald’s 33
McNealy, Scott 69
Mead, Lawrence 143
Mexico 91
Mill, John Stuart 160
môi giới lao động, các nhà, labour brokers 33–4, 49, 110, 111, 167, 168
môi giới việc làm xem đại lý việc làm
môi trường, các vấn đề, environmental issues 167
Morris, William 160, 161
Morrison, Catriona 127
N
Nam Hàn, South Korea 15, 55, 61, 75
Nam Phi, South Africa, và những người di cư 91, 98
nam tính, masculinity, các hình mẫu cho tuổi trẻ role models for youth 63–5
năng lực hành động, agency 167–70
năng suất, productivity, ~ và tuổi già, 85
National Broadband Plan 134
near-sourcing/shoring, thuê ở gần 36
Negri, A. 130
nền kinh tế ngầm, (xám, đen) shadow economy 56–7, 91
New York Times 69, 119
News from Nowhere (Morris) 161
Nga, Russia 88, 115
ngầm, nền kinh tế, shadow economy 56–7, 91
nghe lén, wiretapping 135
nghề nghiệp, occupations: các hội ~ 169–70; tháo dỡ ~, dismantling of 38–40; quyền tự do về ~ 162–4; sự lỗi thời của ~ 124
nghỉ không lương, unpaid leave 50
nghỉ phép không lương, unpaid furloughs 36
nghiệp đoàn, trade unions 1, 2, 5, 10b, 26, 31, 168: ~ và sự di cư 91; ~ khu vực công 51; ~ và tuổi trẻ 77–8; xem cả công đoàn vàng
người cười/kẻ khóc, grinners/groaners 59, 83–4
người di cư không có giấy tờ, undocumented migrants 96–8
người kiếm cơm, breadwinners 41, 59, 62, 64
nguồn gốc của precariat, origins of precariat 1–5
nhà máy đồ chơi, sự cố, toy-factory incident 108–9
nhà máy xã hội, social factory 38, 118, 132
nhà nước điều trị, therapy state 141–3, 153
nhà thầu độc lập/phụ thuộc, independent/dependent contractors 15–16
nhà thầu độc lập/phụ thuộc, contractors, independent/dependent 15–16
Nhật Bản 2, 30: chủ nghĩa phát xít mới ở ~152; ~ và dân di cư 102, 103; ~ và dân di cư Trung Quốc 110; giữ nhiều việc làm ở ~ 119–20; hàng hóa hóa các công ty ~ 30; lương hưu ở 80; salariat ~ 17; trợ cấp ở ~ 84; ~ và tuổi trẻ 66, 74, 76, 77; ~ và việc làm tạm thời 15, 32–3, 34–5, 41
nhóm người sinh ồ ạt, baby boomers, 66–7, 74
Niemöller, Martin 182
nợ, và tuổi trẻ, debt, and youth 73–4
non-refoulement, không gửi trả 93
Nudge (cuốn Hích nhẹ của Sunstein/Thaler) 138–9
nữ hóa, feminisation 60; ~ cuộc sống 60; ~ di cư 92; ~ lao động 60,61, 64, 89; ~ toàn cầu 61
nước đang phát triển, các, developing countries 12, 27, 60, 65, 105–9
O
Obama, Barack 73, 138–9, 147, 148
Observer, The 20
óc, brain 18, 85
offshored/inshored labour, lao động ở ngoài nước/trong nước (của một hãng) 30, 36, 37
Organisation for Economic Co-operation and Development, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) 27
outsourcing, thuê ngoài, 29, 30, 33, 36, 37, 49
Ôn Gia Bảo, Wen Jiabao 105
P
Paine, Thomas 173
panopticon, xã hội, nhà tù lý tưởng 132–40, 142–3
Parent Motivators (UK) 139–40
Pasona 33
PepsiCo 137
pháp lý, hiểu biết, legal knowledge 124–5
pháp lý, xử lý, legal processing 50
Pháp, France: chủ nghĩa phát xít mới ở ~ 149; dân di cư ở ~ 95, 97, 101–2, 114; giải-công nghiệp hóa ở ~ 38; giáo dục ~ 69; hình sự hóa ở ~ 88; lương hưu ở ~ 79; nền kinh tế ngầm ở ~ 56; ~ và những người cao tuổi 85; ~ Telecom 11; thời gian rỗi ở ~ 129; tuổi trẻ ở ~ 65–6
phân biệt đối xử, discrimination: ~ giới, gender 60, 123; ~ khuyết tật, disability 81; ~ và những người di cư, and migrants 99, 101–2; ~ qua tiểu sử gen, genetic profiling 136–7; ~ tuổi, age 84–5
phép nghỉ, furloughs 36, 50
Philippines 109
Phoenix, Đại học 71
Phong trào Tư tưởng Mới, New Thought Movement 21
phụ nữ, women 60–5: ~ và công việc chăm sóc, care work 125–6; ~ và CCT (các sơ đồ chuyển giao tiền mặt có điều kiện) 140; ~ và di cư 92; ~ giữ chắc nhiều việc làm, multiple jobholding 119–20; ~ và hàng hóa hóa lao động, labour commodification 161; ~ và thành kiến giới đảo ngược, reverse sexism 123
phúc lợi, các hệ thống, welfare systems 44
phúc lợi, những người đòi, welfare claimants 245
Pigou, Arthur 117, 125
Polanyi, K. 163, 169
Prato (Italy) 4–5
precariat (định nghĩa) 6, 7–13
precariat hóa 16–18
precariato 9
profician 7–8, 15, 164
Q
quản lý rủi ro, risk management 178
quản lý, sự hàng hóa hóa của, commodification of management 40
quy định, regulation 23, 26, 39–40, 84, 171
Quỹ vốn, quỹ quốc gia, capital funds 176–7
Quỹ Quốc gia (Chủ quyền), Sovereign Welth Funds (SWF), 176–7
quyền dân sự, các, civil rights 14, 94
quyền tự do liên kết (lập hội), associational freedom 167–70
quyền tự do, freedom 155, 167–70, 172
quyền, các, rights 14, 94, 145, 163, 164–5, 169 xem cả denizen
quyền văn hóa, các, cultural rights 14
quyền xã hội, các, social rights 14
R
Randstad 49
Reimagining Socialism (Ehrenreich/ Fletcher) 170–1
riêng tư, sự xâm phạm, invasion of privacy 133–5, 167
Robin Hood, bọn, gang 3
Roma, người 97, 149
Rossington, John 100
Rothman, David 88
rủi ro, quản lý xem quản lý rủi ro
Russell, Bertrand 141, 161
Russell, Lucie 64
S
sa thải công nhân, firing workers 31–2
sa thải, lay-offs xem furloughs phép nghỉ
sắc tộc thiểu số, xem thiểu số sắc tộc
salariat, giai cấp hưởng lương 7, 8, 14, 17, 32
Santelli, Rick 150
sáp nhập tay ba, triangular mergers 30
Sarkozy, Nicolas 69, 97, 149
Sarrazin, Thilo 101
Schachar, Ayelet 177
Schneider, Friedrich 56
Schwarzenegger, Arnold 71
Sex, Drugs and Chocolate: The Science of Pleasure (Martin) 141
Shop Class as Soulcraft (Crawford) 70
siren, tiên chim với giọng hát quyến rũ chết người (thần thoại Hy Lạp) 31, 183
Skirbekk, Vegard 85
Smarsh 138
Smile or Die (Ehrenreich) 21
Smith, Adam 71
sơ đồ đền bù thời gian ngắn, short-time compensation schemes 55–6
sợ hãi, được dùng để kiểm soát, fear, used for control 32
Speenhamland, hệ thống 55, 143
stress, căng thẳng 19, 126, 141, 141–3
sự nghiệp nhàn hạ, leisure careers 129
sức khỏe, health 51, 70, 120, 126
Summers, Larry 148
Sun Microsystems 69
Sunstein, Cass 138–9
suy thoái, recession xem Đại Suy thoái, Great Recession
Suzuki, Kensuke 152
T
tái-điều tiết, re-regulation 26
tái-hàng hóa hóa, re-commodification 41–2
Taking of Rome, The (Cerasa) 149
tam giác hóa, tay ba hóa, triangulation 34
tàn tật, những người, disabled people 86–7, 89, 170
Tây Ban Nha, Spain: BBVA 50; dân di cư ở ~ 94; ~ và dân di cư 102; lương hưu ~ 79; ~ và khu vực công 53; nền kinh tế ngầm ~ 55–6; việc làm tạm thời ~ 35
Tea Party, phong trào 150–1
tiertiary, thuộc khu vực ba, khu vực dịch vụ
tertiary hóa, tertiaríation 27, 37–8
tertiary, chỗ làm việc 116
tertiary, kỹ năng 121–4
tertiary, thời gian 116, 119
Tesco, Luật (UK) 40
Thái Lan, dân di cư 106
Thaler, Richard 138–9
Thẩm Quyến, Shenzhen (Trung Quốc) 133, 137 xem cả Foxconn
thành kiến giới đảo ngược, reverse sexism 123
thanh niên, youth 59, 65–7, 89, 156: ~ và các bẫy precarity 73–5; căng thẳng thế hệ, generational tension 76–7; ~ và hàng hóa hóa giáo dục, commodification of education 67–72; ~ và các hình mẫu, role models 63–5; ~ và những người cao tuổi 85; tính kết nối của ~, connectivity 127; ~ và tính tội phạm, criminality 129–30; triển vọng cho tương lai của ~ 78–9; tuôn giáo dục cho ~, streaming education 72–3
thất nghiệp, unemployment 145: bảo hiểm ~ 175; trợ cấp ~, benefits 45–8, 99, 104; ~ tự nguyện, voluntary 122; ~ tuổi trẻ sau suy thoái 77
thất vọng địa vị xem địa vị, thất vọng
thấu cảm, sự, empathy 22–3, 137
The Economist 17–18, 33, 52, 137
thị trấn, công ty, towns, company 137
thiếu chú ý tập thể, xem hội chứng thiếu chú ý tập thể
thiểu số sắc tộc, ethnic minorities 86
thời gian, time 115–16, 163, 171, 178: ~ cho công việc-cho-lao động 120–1; dùng ~ 38; ~ và sự tăng cường lao động 119–20; ~ tertiary 116, 119;
thời gian rỗi, leisure 13, 128–30 xem cả vui chơi, play
thời gian rỗi, trợ cấp, leisure grants 180-2
thời gian tertiary, tertiary time 116, 119
Thompson, E.P. 115
thu nhập cơ bản, basic income 171–8, 181
thu nhập xã hội, social income 11–12, 40–5, 51, 66
thu tô, các nền kinh tế, rentier economies 27, 176
thực tập sinh (các), interns 16, 36, 75–6
thuê ngoài, xem outsourcing
thuế, taxes 26: và tư cách công dân 177 Pháp 85 và trợ cấp 54–5 Tobin 177 Hoa Kỳ (US) 180–1
Thụy Điển, Sweden 68, 110–11, 135, 149
thuyết bóng tuyết, snowball theory 78
tị nạn môi trường, những người, environmental refugees 93
tị nạn, những người xin, asylum seekers 92–3, 94, 96, 149, 158
tị nạn, những người, refugees 92, 93, 96
tiên chim, xem siren
tiền lương, wages 8, 11: và trợ cấp, and benefits 41–2 gia đình 60 tính linh hoạt 40–5, 66 được cá nhân hóa 60 và dân di cư 103 và những người làm việc tạm thời 32, 33 Việt Nam 28 xem cả thu nhập cơ bản
tin cậy, các mối quan hệ, trust relationships 8–9, 22
tín dụng, credit 44
tình anh em, fraternity 12, 22, 155
tính cá nhân, individuality 3, 19, 122
tính có điều kiện, conditionality 140, 175: và thu nhập cơ bản 172–3 và công việc công ích 143–5, 166–7
tính kết nối, và tuổi trẻ, connectivity, and youth 127
tính linh hoạt chức năng, functional flexibility 36–8, 52
tính linh hoạt số lượng, numerical flexibility 31–6
tính linh hoạt, flexibility 18: lao động, labour 23–4, 31–6, 53, 60, 61, 65 thị trường lao động, labour market 6, 120–1, 170
tính lưu động xã hội, social mobility 23, 57–8, 175
tính nghề nghiệp bị thất bại, failed occupationality 21
toàn cầu hóa, golalisation 5–7, 27–31, 116, 148 và hàng hóa hóa 26 và hình sự hóa 87–8 và việc làm tạm thời 34
Tobin, thuế 177
tội phạm hóa hóa, criminalisation 14, 145, 146
tội phạm, crime 5, 129–30
Tomkins, Richard 70
trẻ em, chăm sóc, care for children 125
tri thức, knowledge 32, 117, 124–5, 171
trợ cấp doanh nghiệp, enterprise benefits 11, 12
trợ cấp, benefits 11–12, 33, 174: ~ chăm sóc sức khỏe, health care 51; ~ và người khuyết tật, the disabled 87; phụ nữ và ~, women 62; ~ thất nghiệp, unemployment 45–8, 99, 104; ~ và tiền lương, wages 41–2
trợ cấp nhà nước, state benefits 11, 12
trợ cấp thất nghiệp, dole (UK) 45
trợ cấp, thời gian rỗi grants, leisure 180–2
trợ cấp tư nhân, private benefits 11
Trumka, Richard 78
Trung Đông, Middle East 109
Trung Quốc Cộng Một, China Plus One 28
Trung Quốc, China 28: dân di cư ~, migrants 96, 106–9, 109–10; dân chủ thảo luận ở ~, deliberative democracy 181; giáo dục ~, education 73; hình sự hóa ở ~ criminalisation 88; ~ và hợp đồng hóa, contractualisation 37; người nhập cư ~ vào Ý, immigrants to Italy 4–5; những người cao tuổi ~, old agers 83; Thẩm Quyến ~, Shenzhen 133, 137; ~ và thời gian, and time 115; tiền lương ~, wages 43; tuổi trẻ ~, youth 76; ~ xâm phạm sự riêng tư, invasion of privacy 135; xem cả Chindia
trung thành, sự, loyalty 53, 58, 74–5
tù nhân, prisoners 112, 146
tuổi trẻ xem thanh niên
tư duy tích cực, positive thinking 21, 86
từ thiện, các tổ chức, charities 53
tự hào. pride 22
tự nguyện, thất nghiệp, voluntary unemployment 122
tự tử, liên quan đến công việc, suicide, work-related 11, 29, 58, 105
tự-bóc lột, self-exploitation 20, 122–3
tự-điều chỉnh, self-regulation 23, 39
tự-kinh doanh, self-employment 15–16, 66, 82
tự-phục vụ, self-service 125
tự-sản xuất, self-production 11
tự-trọng, lòng, self-esteem 21
tức giận, anger 19–24, 168
Twitter 127
tỷ lệ phụ thuộc tuổi già, old-age dependency ratio 80–1
U
Úc, Australia, 39, 90, 103
Ukraine 152
V
văn hóa, các quyền, cultural rights 14
về hưu, retirement 42, 80–3
vị lợi, thuyết, utilitarianism 88, 132, 141, 154
vị tha, chủ nghĩa, altruism 181
việc làm phụ, side-jobs 119–20
Việt Nam 28, 111–12
vốn tài chính, financial capital 171, 176–7
vống tước hiệu, uptitling 17–18
vui chơi, play 13, 115, 117, 128, 141
vui thú, pleasure 141
Vương Quốc Anh (UK) 102–3: Bộ luật Dịch vụ Pháp lý (2007) (Luật Tesco) của ~ 40; chủ nghĩa gia trưởng ở ~ 139–40; chủ nghĩa phát xít mới ở ~ 150; ~ và giáo dục 67, 70, 71; giải-công nghiệp hóa ở ~ 38; hệ thống trợ cấp của ~, benefit system 173; hình sự hóa ở ~ 88; Kênh 4, Channel 4 call centre programme 16; không gian công cộng ở ~ 179; ~ và khu vực công 53; lương hưu ở ~ 43, 80; nền kinh tế ngầm ở ~ 56; kỷ luật chỗ làm việc tại ~ 138; người di cư ở ~ 91, 95, 99, 103–5, 114, 146; người khuyết tật ở ~ 170; ~ như một nhà nước điều trị 142; phụ nữ ~ 61–2, 162; ~ và quy chế về các cơ quan nghề nghiệp 39; sốc tài chính (2008-9) với ~ 49–51, 71; tăng cường lao động ở ~ 119; thời gian rỗi ở ~ 129; tính điều kiện ở ~ 143–5, 166–7; ~ và tính lưu động xã hội 56–8; ~ và trợ cấp 55; trung thành công ty ở ~ 74–5; tuổi trẻ ở ~ 64, 76; việc làm tạm thời ở ~ 15, 34, 35
W
Wacquant, L. 132
Waiting for Superman (phim tài liệu) 69
Wall Street Journal 35, 163
Walmart 33, 107
Weber, Max 7
Whitehead, Alfred North 160
Williams, Rob 62
X
xã hội panopticon 132–40, 142–3
xa lánh, sự, alienation 19–24
xâm phạm sự riêng tư, invasion of privacy 133–5, 167
Y
y khoa thay thế, alternative medicine 70
Ý, xem Italy
Yanukovich, Victor 152
Z
zero-giờ, các hợp đồng zero-hour contracts 36
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:43:53 GMT 9
Chuẩn mực của quản trị quốc gia hiện đạitác giả Nguyễn Sĩ Dũng Bìa cuốn sách Quân Vương. Quản trị quốc gia là thuật ngữ được dùng để chỉ việc các thiết công (Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương…) triển khai các việc công và quản lý các nguồn lực công như thế nào. Quản trị ở đây chính là quy trình ban hành quyết định và thực hiện các quyết định đã được ban hành. Chất lượng và hiệu quả của một nền quản trị quốc gia phụ thuộc không chỉ vào tài năng của ban lãnh đạo, mà còn vào những chuẩn mực mà nền quản trị đó tuân thủ. Dưới đây là bảy chuẩn mực mà các nước phát triển trên thế giới và nhiều tổ chức quốc tế đã đúc kết lại: Chuẩn mực đầu tiên là pháp quyền. Ban hành, cũng như thực thi các quyết định thì phải tuân thủ pháp luật. Các cơ quan quyền lực công không thể ban hành các quyết định vượt phạm vi thẩm quyền của mình. Bất cứ lúc nào ban hành quyết định, các cơ quan này đều phải dẫn chiếu điều luật cho phép làm như vậy. Các cơ quan này cũng không thể ban hành các quyết sai quy trình và thủ tục mà pháp luật quy định. Ví dụ, ban hành một chính sách thì không thể thiếu quy trình thẩm định, không thể thiếu quy trình tham vấn công chúng. Ngoài ra, pháp quyền còn đòi hỏi các quyền của người dân phải luôn luôn được tôn trọng và bảo đảm, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh, quyền tự do tài sản, quyền tự do kết ước và các quyền tự do-dân chủ khác. Chuẩn mực thứ hai là trách nhiệm giải trình. Trách nhiệm giải trình là thuật ngữ được dịch ra tiếng Việt từ khái niệm “accountability” trong tiếng Anh. Tuy nhiên, thuật ngữ trách nhiệm giải trình trong tiếng Việt không phản ánh hết ngữ nghĩa của “accountability” trong tiếng Anh. Vì vậy, cần bổ sung nội hàm cho khái niệm trách nhiệm giải trình ở đây. Trách nhiệm giải trình gồm ba phần cấu thành: Phần thứ nhất là ban hành quyết định thì phải báo cáo công khai và phải giải trình được mục đích, cũng như các căn cứ để quyết định của mình. Phần thứ hai là không giải trình được thì phải chịu trách nhiệm. Chịu trách nhiệm ở đây có nghĩa là phải bị bãi nhiệm. Thông thường các quan chức chính trị sẽ phải giải trình trước các vị dân biểu. Không giải trình được thì sẽ bị bỏ phiếu bất tín nhiệm và bị mất chức. Nói đến trách nhiệm giải trình không thể không nói tới cơ chế để áp đặt trách nhiệm khi không giải trình được. Một quan chức tuyên bố chịu trách nhiệm về một sai lầm nào đó trước Quốc hội, thì điều đó được hiểu là quan chức này sẽ từ chức để nhận trách nhiệm. Tuyên bố “Tôi xin nhận trách nhiệm” của một quan chức sẽ chẳng có ý nghĩa gì, khi tuyên bố xong thì quan chức đó vẫn ung dung tại nhiệm. Phần thứ ba là ban hành quyết định thì phải chịu trách nhiệu về hậu quả của quyết định đó. Một chính sách được ban hành mà để lại rất nhiều hệ quả tiêu cức, thì phải có người chịu trách nhiệm về việc ban hành chính sách đó. Phải chịu trách nhiệm có thể là người đứng đầu Chính phủ hoặc cả Chính phủ. Những người này hoặc phải từ chức hoặc bị bỏ phiếu bất tín nhiệm và mất chức. Chuẩn mực thứ ba là minh bạch. Người dân phải có điều kiện để theo dõi và hiểu biết về quy trình ban hành quyết định. Nghĩa là họ phải có điều kiện nhìn thấy rõ ràng quyết định được đưa ra như thế nào, tại sao quyết định lại được đưa ra như vậy, kể cả việc chính quyền đã thu thập thông tin như thế nào, đã tham vấn với ai và đã tuân thủ các đòi hỏi của pháp luật về quy trình ban hành quyết định như thế nào. Chuẩn mực thứ tư là sự tham gia của người dân. Mỗi người dân bị ảnh hưởng hoặc có sự quan tâm đều phải được lôi cuốn vào quy trình ban hành quyết định. Điều này có thể thực hiện bằng cách: người dân có thể được cung cấp thông tin và được tham vấn ý kiến hoặc được tạo điều kiện để đưa ra khuyến nghị của mình và trong một số trường hợp, được trực tiếp tham gia vào quy trình ban hành quyết định. Việc làm này nhằm bảo đảm cho chính sách được thiết kế phù hợp với cuộc sống, đáp ứng mong mỏi của nhân dân. Việc làm này cũng đồng thời nâng cao tính tích cực chính trị của người dân, biến họ trở thành những chủ nhân thật sự của đất nước. Chỉ khi người dân thật sự được tham gia vào quá trình quản trị họ mới tích cực ủng hộ và thực hiện những chủ trương chính sách được đề ra. Chuẩn mực thứ năm là phản ứng tương thích và kịp thời. Vấn đề phát sinh như thế nào thì phản ứng tương thích như thế ấy. Không thể dồn hết nguồn lực để xử lý một vấn đề bé cỏn con và bỏ qua nhưng vấn đề lớn ảnh hưởng đến sinh mệnh của hàng triệu người dân. Đồng thời, ngoài việc phản ứng tương thích, chính quyền còn phải phản ứng kịp thời. Ung thư không chạy chữa sớm sẽ bị di căn, các vấn đề của đất nước cũng vậy- không xử lý sớm chỉ ngày càng thêm trầm trọng và nan giải. Như vậy, đòi hỏi đối với một nền quản trị tốt là chính quyền phải phát hiện các vấn đề sớm nhất có thể và phải phản ứng kịp thời để xử lý chúng. Chuẩn mực thứ sáu là công bằng và không loại trừ. Lợi ích của mọi người dân, của mọi nhóm xã hội đều phải được cân nhắc và coi trọng như nhau trong quá trình ban hành quyết định và thực thi chính sách. Tất cả mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt là những thành phần yếu thế đều phải có cơ hội tham gia vào quá trình quản trị. Chuẩn mực thứ bảy là hiệu lực và hiệu quả. Công quyền phải thực thi cho được các quyết định đã ban hành, đồng thời phải tuân thủ các quy trình vào đảm việc sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực đang có về con người, về thời gian và tiền của. Trong quá trình hội nhập, nhiều chuẩn mực nói trên đã được Việt Nam chấp nhận và, thực tế, đã được áp dụng ở một số bộ, ngành và địa phương. Vấn đề là để xây dựng một nền quản trị quốc gia hiện đại, chúng ta cần nhận thức tốt hơn và áp dụng đầy đủ hơn các chuẩn mực đã được thế giới công nhận nói trên. Bài này của tác giả Nguyễn Sĩ Dũng cũng đã được đăng trên báo Tia Sáng.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 4, 2018 0:44:36 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 8:06:42 GMT 9
|
|