|
Y Dược
Nov 18, 2006 15:06:05 GMT 9
Post by Huu Le on Nov 18, 2006 15:06:05 GMT 9
Y DƯỢC TRUNG QUỐC Lê Anh Minh DÀN BÀI 1. NGUỒN GỐC TRUNG Y 2. Y SƯ VÀ Y THUẬT 3. KHÍ VÀ SINH LÝ HỌC CON NGƯỜI 4. CẤU TRÚC CƠ THỂ CON NGƯỜI 5. CHÂM CỨU 6. DƯỠNG SINH 7. DƯỢC PHẨM VÀ THỨC ĂN TRỊ LIỆU 1. NGUỒN GỐC TRUNG Y Xưa nay biết bao học giả đã gắng công chú giải kinh điển Trung y. Những chứng cứ khảo cổ mới được phát hiện gần đây và các công trình nghiên cứu về những ký lục của các y sư riêng biệt về các y án đã tiết lộ cho thấy một xu hướng canh tân và đa dạng trong việc thực hành Trung y. Những dị biệt theo khu vực địa lý cũng như những yếu tố xã hội và chính trị đã ảnh hưởng rõ rệt cách thức mà cá nhân hay tập thể đã xây dựng và thuyết giải nền y học cổ điển. Trong khi hầu hết các nguồn tư liệu viết bằng chữ Hán mô tả một cách giới hạn về một nền y thuật kiệt xuất và do nam giới đảm nhiệm, thì một số văn bản tiết lộ về một lịch sử y học của phụ nữ. Hoàng Đế Những gì chúng ta biết được về sự thực hành Trung y suốt đời Chiến Quốc và đời Hán là chủ yếu góp nhặt từ các chuyên luận của các tác giả vô danh về triết lý và y thuật. Các tác giả Trung Quốc ngày xưa có xu hướng gán tác phẩm của mình cho tam hoàng ngũ đế, các y sư truyền thuyết, hay các bậc thầy của họ. Khi nghiên cứu y thuật, các y sư ngày xưa thường sao chép các đoạn bản thảo và sắp xếp chúng theo một thứ tự nhằm phản ánh sự kế tục của các y sư bậc thầy thuộc nhiều trường phái khác nhau. Điều này giải thích sự hiện diện của bốn sưu tập lớn về các y luận châm cứu, được biết chung dưới tên Hoàng Đế Nội Kinh. Hoàng Đế là một vị vua truyền thuyết, tương truyền sống khoảng 2697-2597 tcn, và được xem là cha đẻ của Trung y. Đa phần lý thuyết trong Hoàng Đế Nội Kinh (biên soạn khoảng đầu công nguyên) được trình bày qua lời vấn đáp giữa Hoàng Đế và Kỳ Bá, một vị quan cũng là chuyên gia về châm cứu và các vấn đề huyền bí. Giá trị mà những bậc học thức nhìn nhận đối với các y luận này có thể giải thích sự hiện diện của những sưu tập đầu tiên về các tư liệu tương tự trong các ngôi mộ đời Hán, thí dụ như 3 ngôi Hán mộ được phát hiện tại Mã Vương Đôi, thuộc Trường Sa, tỉnh Hồ Nam hiện nay. Trong số các văn bản khai quật ở ngôi Hán mộ số 3 thì có 7 văn bản đề cập lý thuyết âm dương, lời chú cúng tế, phòng trung thuật, tĩnh tọa, và các phương thuốc bào chế từ thảo dược, động vật, và các chất liệu gia dụng. Sự phát triển mau chóng của thương mại nói chung và của kỹ thuật ấn loát nói riêng vào đời Minh đã giúp phổ biến kiến thức y học. Sự giao tiếp trực tiếp giữa y sư và đệ tử không quan trọng bằng việc các y điển quan yếu được phổ biến rộng rãi hơn trước. Trong các gia đình theo nghiệp y, các thế hệ con cháu đã xuất bản và đề cao tác phẩm y học của gia tiên. Rõ ràng việc tường thuật các ca chẩn trị thành công này đã chứng minh các quan điểm lý thuyết và thể hiện những kỹ thuật mới. Những y án cũng trở nên phổ biến hơn, giúp người ta thấy được lý thuyết Trung y được vận dụng trong thực tế ra sao. Sau cùng, văn chương, nhất là các tiểu thuyết từ đời Minh và đời Thanh đã tạo một ấn tượng muôn màu về sự phức tạp và tinh tế của thế giới Trung y. 2. Y SƯ VÀ Y THUẬT Hoa Đà Những nghiên cứu về lịch sử Trung y cho thấy các y sư Trung Quốc thuở xưa thực là đa dạng. Họ đồng thời cũng có thể là nho sĩ, tăng nhân, đạo sĩ, hay phụ nữ. Tuy nhiên những chuyên luận do các y sư trứ tác đôi khi đã ảnh hưởng đến sự phát triển của Trung y, thí dụ như tác phẩm Thương Hàn Luận của Trương Trọng Cảnh (142-220). Tác phẩm được người đời sau trích dẫn rất nhiều này đã chào đời sau một nạn bệnh dịch xảy ra và tàn phá thị trấn ông cư ngụ. Y luận của ông được kế tục vào đời Tống, Kim, Nguyên do một số y sư có tư tưởng canh tân và lập nên trường phái riêng, chẳng hạn như Tôn Tư Mạc (khoảng 581-682, về sau được sùng bái như một vị thần y dược). Suốt đời Thương, chiêm bốc hẳn rất cần thiết để xoa dịu cơn thịnh nộ của tổ tiên; nhưng những khi khác thì chiêm bốc và lịch pháp được dùng để xác định quá trình và hậu quả của bệnh tật. Giới vu hịch (đồng cốt), nhất là nữ vu (bà đồng) cũng thực hành y thuật, một công việc liên quan đến chức năng tôn giáo của họ. Họ chuyên về chiêm bốc, mà việc này dùng để chẩn bệnh. Họ có thể niệm danh các chư thần, triệu vời ma quỉ và chiêu hồn tổ tiên về trợ giúp việc trị bệnh, hoặc chế tác các hình nộm của bệnh nhân để thư ếm hay trị bệnh. Các phương pháp chẩn bệnh cổ truyền gọi là tứ chẩn: vọng (quan sát), văn (nghe), vấn (hỏi han), và thiết (bắt mạch). Tư Mã Thiên chép truyện Biển Thước và Thương Công trong Sử Ký, đã kể rằng thần y Biển Thước thời Chiến Quốc đã biết «thiết mạch, vọng chẩn, thính thanh, vấn chẩn» rồi. Tôn Tư Mạc Các tác phẩm y học đã chứng minh rằng cả y thuật mang tính tôn giáo lẫn ma thuật có lúc đã là thành phần chủ lực trong truyền thống y thuật bác học. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ II tcn, những y sư thực hành y thuật theo triết lý tự nhiên hẳn đã tự xem mình là những người bảo vệ cho một truyền thống y học dựa trên kinh điển. Trong khi sự phát triển dược học là một phần chủ lực của thuật luyện đan Đạo giáo, thì các nhà sư từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc sau thế kỷ I cn đã bắt đầu bào chế thuốc cũng như đặt ra cách ăn chay, tham thiền, và các bài tập điều tức. Bùa chú và pháp nội quán dùng để trị các bệnh do tà quái gây ra. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cách thực hành y thuật mang tính chất mê tín đã bị hạn chế. Tuy nhiên, Trung y vẫn tiếp tục phát triển ở tầm mức địa phương và địa vị của Trung y đã được khôi phục phần nào sau khi Cộng sản nắm quyền. 3. KHÍ VÀ SINH LÝ HỌC CON NGƯỜI Những yếu tố quan trọng nhất trong cơ thể con người là tinh, khí thần. Những tư liệu cổ xưa nhất như văn tự khắc trên đồ đồng đời Thương và đời Chu đã có chữ khí 氣 và chữ khí liên quan đến thực phẩm dinh dưỡng (trong chữ khí 氣 có chữ mễ 米 là gạo). Các tư liệu khoảng giữa đời Chiến Quốc cho thấy xu hướng dùng chữ khí để mô tả tình trạng không khí và môi trường, nhất là hơi ẩm ướt, vân vụ, và sương mù, rồi bằng sự suy luận tương tự, người ta dùng chữ khí để mô tả những đặc tính vô hình và tập trung thí dụ khói hay ma quỷ. Thái Cực và Âm Dương Giữa thế kỷ IV cn, chữ khí được dùng để mô tả một chất liệu cơ bản trong cõi tự nhiên giúp tăng cường sự sống trong thế giới biến thiên. Nó cũng được dùng để mô tả sự cường điệu về các cảm giác được trải nghiệm với thân thể như nóng bức, đau đớn, khoái lạc, và đam mê. Như vậy đã có một sự chuyển biến quan trọng của quan niệm về khí: từ quan niệm khí là những đặc tính môi trường mà ta có thể quan sát cho đến quan niệm khí là cái mà thân thể tuân theo như bốn mùa, rồi đến quan niệm khí là một yếu tố của cơ thể mà mỗi cá nhân đều có thể khống chế nó. Chữ Khí được viết với một nét bút duy nhất (tượng trưng tính liên tục của nó) Nói chung, khí trong cơ thể là yếu tố vô hình mà mỗi cá nhân chỉ có thể cảm nhận hay một y sư có thể nhận biết qua sắc mặt và cử chỉ của bệnh nhân hoặc qua việc bắt mạch. Trong chẩn bệnh, khí có thể xem là hữu hình, qua thuật ngữ «xích khí» 赤 氣 (khí đỏ), ám chỉ các vết đỏ hiện ra trên da do nóng sốt. Vào thời xưa, người ta quan niệm khí đi theo hướng từ trên xuống dưới. Khí đi lên thí dụ như nhiệt thì được xem là triệu chứng bệnh tật, liên quan đến sự khó thở. Những cảm giác bình thường hay bệnh tật đều được xem là «có đầy khí» nhất là khi các cảm giác đó liên quan đến vũ dũng, phẫn nộ, và hiếu chiến. Kẻ hiếu chiến thường bị xem là «hiếu khí» 好氣 và trong Hán ngữ hiện nay «sinh khí» 生 氣 nghĩa là nổi giận. Vào những thế kỷ đầu sau khi Tần Thủy Hoàng Đế thống nhất Trung Quốc, trong lý thuyết Trung y vốn phân biệt có nhiều mức độ về khí thì khí trở thành nguyên lý thống nhất cơ bản. Khí bình thường có thể bị ô nhiễm do tà nhập. Trong ngũ tạng, khí có đặc tính khác nhau. Thí dụ khí của gan (can khí) có xu hướng thăng lên và gây bệnh, nhiệt, đau, hay tính tình nóng nảy.
|
|
|
Y Dược
Nov 18, 2006 15:12:44 GMT 9
Post by Huu Le on Nov 18, 2006 15:12:44 GMT 9
4. CẤU TRÚC CƠ THỂ CON NGƯỜI Những quan niệm của người Trung Quốc về các cấu trúc và chức năng khác nhau của cơ thể đã phản ánh thực tế chính trị, tôn giáo, và triết lý của Trung Quốc, và chúng phục chế từng phương diện của thế giới con người và thiên nhiên trong giải phẫu học cũng như sinh lý học. Các y điển đã mô tả cơ thể con người giống như một tiểu vũ trụ, mà mỗi bộ phận cơ thể tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, tinh tú, núi non, sông ngòi, động vật, thảo mộc, v.v... Các huyệt để châm cứu Người ta cho rằng trong thân thể có chư thần và hồn phách. Thí dụ thần ngụ ở tim (tâm thần) giúp ta thông minh mẫn tiệp. Các y điển đời Hán đã mô tả về hồn và phách có thể gây ra bệnh tâm lý và chứng chiêm bao mộng mị. Người ta cho rằng khi một người chết thì hồn và phách của kẻ ấy vẫn còn quanh quẩn nơi mộ phần, và nếu không được cúng bái thì vong hồn đó sẽ quấy phá người sống. Suốt đời Chiến Quốc, thuyết âm dương đã mô tả tính chất lưỡng diện (nhị nguyên) trong cơ thể: trong-ngoài, trên-dưới, nóng-lạnh, v.v... Các triết gia về chính trị thuở ban đầu đã tiếp thu và phát huy thuyết âm dương bằng cách bổ sung sự tương tác của ngũ hành. Khi được vận dụng để trị bệnh, ngũ hành phải tương thích với các yếu tố như tứ thời, mầu sắc, tình cảm, ngũ tạng, các chức năng sinh lý, cũng như là các kinh lạc châm cứu. Sức khoẻ của mỗi cá nhân có thể được xét qua các triệu chứng cụ thể và sự tương khắc hay tương sinh của ngũ hành. Bằng cách kích thích những huyệt vị tức là châm cứu trên cơ thể bệnh nhân, y sư có thể điều chỉnh tình trạng sức khoẻ của người đó. Đốt ngải cứu (moxa) Sau cuộc thống nhất Trung Quốc của Tần Thuỷ Hoàng Đế, kinh điển Trung y cũng phản ánh sự thống nhất trong một quan niệm mới mẻ về cơ thể. Tất cả các phương diện sinh lý của con người đều chịu ảnh hưởng của một nguyên lý thống nhất, đó là khí. Cơ thể cũng được xem là một vương quốc, và mỗi bộ phận chính là một cơ quan hành chính. Tư liệu xưa nhất về các huyệt vị châm cứu là các văn bản được khai quật tại một ngôi mộ ở Vũ Uy (niên đại được giám định là thế kỷ I tcn). Các huyệt vị được đặt tên theo thiên nhiên, bầu trời, tinh tú, hoàng cung. Thí dụ như thiên khu, nhật nguyệt, và thượng tinh phản ánh trật tự vũ trụ; thần đình, thân trụ, và nội cung phản ánh kiến trúc hoàng cung trong cơ thể; núi Côn Lôn, chiếu hải cùng với các tên sông ngòi, ao đầm đã vẽ nên bản đồ cơ thể như là hình ảnh của hệ thống sông ngòi trong thiên nhiên. 5. CHÂM CỨU Theo truyền thuyết, Hoàng Đế là cha đẻ của châm cứu. Trong Hoàng Đế Nội Kinh, thân thể gồm 12 kinh mạch và nguồn sinh lực là khí lưu thông qua chúng. Nội Kinh còn mô tả 10 kinh mạch nối liền lục phủ ngũ tạng đến da. Trên da có các huyệt vị mà ta có thể dùng kim châm (gọi là châm huyệt) hay đốt ngải cứu. Dụng cụ ban đầu để châm chưa phải bằng kim loại, mà bằng đá, gọi là biếm. Hứa Thận đã giải thích trong Thuyết Văn Giải Tự rằng: «Biếm là dùng đá, châm để trị bệnh.» Nghĩa là ban đầu người ta dùng mảnh đá sắc bén để rạch vỡ những chỗ tụ máu hoặc có mủ. Biếm để trị bệnh Về sau người ta dùng que bằng xương hoặc tre để châm. Kim châm bằng kim loại chỉ phát triển khi người ta nắm vững kỹ thuật dã kim. Người ta cho rằng kim châm bằng kim loại tốt sẽ có hiệu quả tinh tế tác động tốt đến dòng khí và tinh trong thân thể. Phát hiện khảo cổ sớm nhất về kim châm là ở ngôi mộ Tây Hán, khai quật năm 1968 ở Hà Bắc. Trong đó có bốn chiếc kim bằng vàng còn nguyên vẹn và năm chiếc kim bạc bị gẫy. Kim châm được dùng kết hợp với ngải cứu đầu tiên vào đời Hán mặc dù thao tác không hoàn toàn giống như ngày nay. Truyện của thần y Biển Thước cho ta thấy ông đã dùng kim (châm) và đá quý (ngọc thạch) để trị bệnh về máu huyết. Hoàng Đế Nội Kinh, nhất là phần Linh Khu, là y điển bàn nhiều về châm cứu, do Linh Khu ngày xưa cũng có tên là Châm Kinh. Châm và cứu khởi phát từ sự tổng hợp các y thuật ban sơ với những ý tưởng mới mẻ về sinh lý học, mà điều này về sau hưng thịnh thành bộ môn dưỡng sinh. Thần y Biển Thước (Tần Việt Nhân) Nguồn gốc của cứu có thể là do kinh nghiệm của người cổ đại thấy rằng khi ngồi bên bếp lửa, hơi nóng của lửa có thể tiêu trừ một số bệnh. Cũng có thể trong sinh hoạt hàng ngày họ bị phỏng lửa, nhưng bù lại họ tình cờ được khỏi một thứ bệnh nào đó. Có lẽ vì thế mà cách trị bằng hơi nóng đã xuất hiện. Trong ngôi Hán mộ số 3 khai quật ở Mã Vương Đôi (Trường Sa) năm 1974, có bốn văn bản ghi chép về kinh mạch và phương pháp cứu. Chất liệu ban đầu được dùng để cứu vị tất đã là ngải. Người ta đã thử nhiều chất liệu và cây cỏ khác nhau, và cuối cùng nhận thấy ngải cứu có ưu điểm hơn cả. Ngải cất trữ lâu năm lại tốt hơn ngải còn tươi. Những phát hiện khảo cổ gần đây về đời Tây Hán giúp ta khám phá sự thực hành châm cứu với kinh mạch. Hai văn bản chép tay mô tả rằng thân thể có 11 mạch mà tên của các mạch này cũng tương tự như tên các mạch trong lý thuyết cổ điển. Một hình nhân nhỏ bằng gỗ sơn mài màu đen (được chôn trễ lắm là khoảng năm 118 tcn) bên trên có vẽ các mạch màu đỏ. Hình nhân được tạo tác một cách tượng trưng về cấu trúc xương, cơ bắp, và hệ động-tĩnh mạch, nhưng không cho thấy các huyệt châm cứu. Hai văn bản và hình nhân này là những nỗ lực chính thức hoá các ý tưởng về kinh nghiệm và việc làm giảm đau đớn. Trước khi phát hiện được hình nhân gỗ này, người ta đã phát hiện được các hình nhân bằng đồng và giám định niên đại là có từ đời Bắc Tống. Những hình nhân đồng rỗng ruột này thể hiện hệ thống kinh mạch và các huyệt vị, và dùng để dạy y thuật. Hình nhân được phủ một lớp sáp màu vàng, bên trong được đổ nước. Khi học sinh châm kim xuyên qua lớp sáp và xoi đúng vào một huyệt thì nước chảy ra ngoài. Châm cứu hình thành một bộ phận Trung y «cao cấp» cho giới thượng lưu. Châm cứu rất phổ biến trong triều đình đời Đường và là môn học chính thức trong Thái Y Viện đời Tống. Tuy nhiên có lúc các y sư phỉ báng châm cứu là nguy hiểm, là công việc của phụ nữ hay của thầy lang không chuyên. Năm 1822 (niên hiệu Đạo Quang đời Thanh), châm cứu bị cấm dạy trong Thái Y Viện. Và với sự lấn át ngày càng mạnh của Tây y vào đầu thế kỷ XX, sự thực hành châm cứu càng ít đi tuy rằng nó không bao giờ bị triệt tiêu. Suốt chiến dịch đề cao di sản dân tộc vào cuối thập niên 1950 của Mao Trạch Đông, châm cứu được hồi sinh với việc thành lập các cơ sở trị liệu, dưỡng đường, và các trung tâm dạy châm cứu. 6. DƯỠNG SINH Tại Trung Quốc, dưỡng sinh bao gồm các sự thực hành để thân thể khang kiện và tinh thần minh mẫn. Dưỡng sinh cũng liên quan đến Đạo dẫn, vốn là sự luyện tập trị liệu ở mức độ cao hơn. Trong các kinh điển đời Chiến Quốc, thuật ngữ «dưỡng sinh» thường xuất hiện trong các lý luận về nhân tính. Mạnh Tử (372-289 tcn) tin tưởng vào việc nuôi dưỡng mầm thiện trong tâm mỗi người. Đối với ông, trau dồi đức dũng và nhân tức là dưỡng khí với các kỹ thuật hô hấp đúng đắn. Trên những miếng ngọc đời Chiến Quốc đã ghi khắc những mô tả sớm nhất về các phép thực hành tăng cường khí để cho ảnh hưởng của thiên nhiên tác động vào thân thể. Toạ thiền Trong những thế kỷ sau đó, một số thế gia sĩ tộc đã sưu tập các y điển và thể nghiệm những bí pháp nhằm kiện khang cũng như tăng cường tinh và khí. Khi xu hướng này được đề cao cực độ, nó dẫn đến quan niệm thể xác bất tử. Quan niệm thông thường đối với các phép dưỡng sinh (và cũng có lẽ là kế thừa các tín ngưỡng cổ xưa) cho rằng thân thể là một lò luyện đan, chuyển hoá tinh và thần. Một tư liệu xưa nhất nhấn mạnh lợi ích của dưỡng khí một cách hệ thống đó là chương Nội Nghiệp trong tác phẩm Quản Tử. Tuy tác phẩm này được gán cho nhà tư tưởng và chính trị Quản Trọng (mất năm 645 tcn) nhưng có lẽ nó đã được viết khoảng giữa thế kỷ V và thế kỷ I tcn. Quản Tử chủ trương sự định tâm và tĩnh khí để định tam bảo tinh-khí-thần nhằm đạt được cảnh giới thần minh. Khi đạt được cảnh giới thần minh thì thân thể khang kiện, tứ chi kiên cố, nhĩ mục thông minh, da dẻ sáng láng. Một bài học quan trọng mà y học đã tiếp thu từ dưỡng sinh là hầu hết các y sư minh triết đều biết bảo dưỡng thân thể trước khi khi bệnh tật phát sinh. Họ biết thận trọng trong việc ẩm thực, phòng trung, và các sinh hoạt thường ngày. Cũng từ dưỡng sinh người ta biết cách dẫn khí lưu thông trong thân thể. Việc tập trung tư tưởng vào đan điền (tức là những trung tâm chuyển hoá) rất là bình thường trong phép quán sổ tức (đếm hơi thở). Rốt cuộc châm cứu đã tiếp thu phép tập trung tư tưởng này để điều khiển khí của bệnh nhân qua cách thao tác kim châm có chủ ý. Các y điển thường hướng các quy tắc dưỡng sinh theo mục đích của y thuật. Trong khi tĩnh tọa nhấn mạnh nhiều vào dưỡng khí thì y thuật nhấn mạnh việc quân bình tinh-khí-thần. Điều này được thấy qua kỹ thuật đạo dẫn, một phương pháp rất phổ biến trong lịch sử Trung Quốc và được lưu truyền hiện nay qua các bài tập khí công và uốn dẻo đa dạng.
|
|
|
Y Dược
Nov 18, 2006 15:15:22 GMT 9
Post by Huu Le on Nov 18, 2006 15:15:22 GMT 9
7. DƯỢC PHẨM VÀ THỨC ĂN TRỊ LIỆU Các dược điển xưa nhất hiện tồn đã được khai quật tại Mã Vương Đôi. Chúng chứng minh việc sử dụng rộng rãi các chất liệu làm dược phẩm trong đời Chiến Quốc và đời Tần–Hán. Mọi thứ từ thực phẩm và cây cỏ thông thường cho đến côn trùng và các chất bài tiết của người hay súc vật đã được phối hợp và điều chế thành vô số các dược phương dưới các hình thức cao-đơn-hoàn-tán để trị bệnh cho con người. Một số chất ở dạng tươi hoặc khô, giã hay bằm. Một số ở dạng tễ và bào chế với rượu hay giấm, một số khác được sắc trong siêu. Mặc dù khoảng 156 trong số chừng 224 dược chất được đề cập trong bộ sưu tập tư liệu phong phú nhất khai quật trong ba ngôi Hán mộ ở Mã Vương Đôi đã được đối chiếu với các dược chất sử dụng trong Trung y về sau này, nhưng các tư liệu này hầu như không cho thấy các quy tắc của Trung y cổ xưa. Các dược phương liên hệ trực tiếp đến bệnh chứng chứ không nhắc đến sự tương ứng của âm dương và ngũ hành. Nhiều liệu pháp còn vận dụng vu thuật. Trương Trọng Cảnh (142-220) Việc tùy táng các tư liệu y dược này trong ba ngôi Hán mộ ở Mã Vương Đôi (Trường Sa, Hồ Nam) xảy ra năm 168 tcn. Gần 700 năm sau đó, Đào Hoằng Cảnh (452-536) mới biên soạn Thần Nông Bản Thảo Kinh. Đây là dược diển cổ nhất của Trung Quốc hiện tồn, luận bàn 365 loại dược vật, 252 loại thực vật, 67 loại động vật, và 46 loại khoáng vật. Trong Thần Nông Bản Thảo Kinh Đào Hoằng Cảnh liệt kê các dược tính của dược liệu tương tự theo hệ thống hành chính trong vương quốc. Dược liệu phân làm ba hạng: thượng, trung, hạ; mỗi hạng có chức năng vương 王 (vua) hay thần 臣 (bầy tôi). Thuốc nào làm khang kiện thân thể và ích thọ diên niên thì xếp vào loại «thuốc vua» (vương dược 王 藥); thuốc nào chỉ có tác dụng trị bệnh mà thôi thì xếp vào loại «thuốc bầy tôi» (thần dược 臣 藥). Năm 659, triều đình đời Đường bảo trợ một tập thể do Tô Kính chủ biên, biên soạn quyển dược điển tên là Tân tu Bản Thảo. Dược điển này gồm 844 vị thuốc kèm hình vẽ minh họa. Căn cứ nguồn gốc tự nhiên của các vị thuốc, sách phân chúng làm 9 loại: ngọc thạch, cỏ, gỗ, cầm, thú, côn trùng, cá, quả, rau. Triều đình đời Đường đã qui định dược điển này làm tư liệu giảng dạy chính thức cho các y sinh. Ảnh hưởng của dược điển này rất lớn và được truyền sang Nhật Bản. Thương Hàn Luận của Trương Trọng Cảnh (142-220) là y điển xưa nhất hiện tồn luận bàn căn nguyên của bệnh dựa trên cơ sở âm dương và đề ra các dược phương tương ứng. Y điển này có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà lý luận y dược về sau, nhất là ảnh hưởng đến truyền thống y dược của Nhật Bản. Lý Thời Trân (1518-1593) Khai triển từ tác phẩm Đào Hoằng Cảnh theo các phương diện khác biệt, những trường phái lý luận Trung y cạnh tranh nhau đã nở rộ một ngàn năm sau đó, tức là suốt các đời Tống, Kim, và Nguyên. Mỗi y sư của các trường phái này tập trung vào việc đơn giản hoá các mô tả căn nguyên của bệnh, chẳng hạn quy vào hàn và nhiệt; hoặc xác định nguyên nhân nội tại hay ngoại tại, và sau cùng là thành lập một nền dược học dựa trên lý thuyết Trung y cổ truyền. Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân (1518-1593) đời Minh là một bách khoa thư, sưu tập và tăng bổ 952 nguồn tư liệu xa xưa về lĩnh vực y, dược, khoáng vật, dã kim, thực vật, và động vật. Trong từng tập bản thảo, Lý Thời Trân mô tả cách trị liệu cổ truyền của các dược thảo, động vật, khoáng vật. Ông mô tả ngoại hình của chúng, cách nuôi trồng, cách bào chế, các dược tính của chúng cũng như sự tương cận của chúng với các dược liệu khác, âm tính hay dương tính của chúng, và mức độ hiệu quả khi sử dụng chúng. Công trình đồ sộ này luôn được trân trọng trong giới y sư Trung y cũng như ở các trường y dược. Sau khi được khắc in ở Nam Kinh năm 1596, bộ y điển này được tái bản liên tục, lan truyền nhanh sang Nhật Bản và Triều Tiên. Hiện đã được dịch một phần hoặc toàn phần ra các ngôn ngữ Nhật, Triều Tiên, Latin, Anh, Pháp, Đức. Tuy nhiên, vào thế kỷ VII Tôn Tư Mạc chủ trương việc dùng thực phẩm để phòng bệnh và trị bệnh. Theo ông, một y sư sau khi khám bệnh và xác định được căn nguyên bệnh thì trước tiên phải dùng thức ăn để trị bệnh (ẩm thực liệu pháp), khi nào liệu pháp này thất bại thì mới dùng đến thuốc. Một trang của Bản Thảo Cương Mục Tịch cốc (hạn chế hoặc không dùng ngũ cốc) cũng là cách diên niên ích thọ. Tuy nhiên có người phản bác rằng: trong chữ khí 氣 có chữ mễ 米 (gạo) tức là một loại ngũ cốc. Gạo (hay ngũ cốc) tạo ra khí, vậy tịch cốc lẽ nào có thể làm cho khí hưng vượng để khiến con người được diên niên ích thọ? Cũng như phật gia và đạo gia, người ta đồng thời cũng nên kiêng các thứ như rượu, thịt, và thức ăn có nhiều gia vị gây kích thích. Trong các chế độ dinh dưỡng cổ truyền, người ta quan niệm ăn gì bổ đó, như ăn dương vật của chó, nai, dê, lừa sẽ làm tăng cường khả năng tính dục. Người ta cũng tin rằng ăn quả hồ đào (hình dáng giống quả thận) sẽ tráng thận. Các thực phẩm nhiều prô-tê-in (protein: đản bạch chất) như thịt thú rừng cũng được xem là giúp tăng cường sinh lực. Thực phẩm nào càng quý hiếm khó tìm thì giá càng cao. Mỗi thứ thực phẩm đều được quy vào hệ thống âm dương ngũ hành, mặc dù âm dương không quan trọng bằng tính hàn hay nhiệt của thức ăn. Thực phẩm có năm mức nhiệt độ: nóng, ấm, vừa, nguội, lạnh. Chúng có tác dụng đối với nhiệt độ cơ thể, thí dụ ăn ớt ăn gừng thì nóng. Thực phẩm cũng được phân loại theo ngũ vị: cay, đắng, chua, mặn, ngọt. Chúng có chức năng trị liệu, thí dụ thức ăn đắng có nhiều âm tính nhất, nên đối trị với bệnh nhiệt, giúp hạ sốt, thanh nhiệt, an thần. Thức ăn cay có nhiều dương tính nhất, giúp kích thích khí huyết, gia tăng thân nhiệt, và khử đàm. Nói chung, y dược đòi hỏi sự quân bình và tiết độ. Ăn quá nhiều thịt thà, gia vị, dầu mỡ sẽ phát nhiệt; còn ăn rau sống và thức ăn nguội lạnh và nước lạnh sẽ khó tiêu hoá và đau bao tử.● LÊ ANH MINH TƯ LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1. E.L. Shaughnessy, China, Oxford, 2000. 2. Wolfram Eberhard, A History of China, University of California Press, 1977. 3. Jacques Gernet, A History of Chinese Civilisation, Cambridge University Press, 1987. (Bản dịch tiếng Anh của J.R. Foster). 4. Một số trang Web của Trung Quốc về đề tài này. Các hình ảnh vay mượn từ các trang web này.
|
|
|
Y Dược
Jun 15, 2010 4:40:40 GMT 9
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:40:40 GMT 9
ASPIRIN, Viên thuốc đa dụng Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
Con người có nguy cơ mang những cơn đau do bệnh hoạn kinh niên hoặc do thương tích, giải phẫu. Cơn đau sau có thể làm giảm đi bằng thuốc gây tê mê. Cơn đau trước như nhức đầu, đau xương khớp cần sự trị liệu bằng các thuốc giải đau, để người bệnh có thể tiếp tục sinh hoạt, sản xuất. Aspirin là một trong các thuốc giải đau lâu đời đó.
Tự điển Webster's Dictionary đã định nghĩa Aspirin như sau: "Một hợp chất kết tinh từ salicylic acid, có mầu trắng và có công dụng bớt đau nhức và hạ nhiệt độ"ä Nhưng trong tương lai, định nghĩa trên chắc phải kèm thêm một số chữ nữa, chẳng hạn: " và có công dụng giúp phòng ngừa các chứng đột tim". Thực vậy, tin tức y học quan trọng này đã được công bố trên tạp san Y Học uy tín New England Journal of Medecine, số ngày 28 tháng Giêng năm 1988.
Và Aspirin sẽ được dùng để phòng ngừa bệnh chứ không chỉ làm giảm đau nhức như từ khi nó được khám phá ra.
Lịch sử viên thuốc
Từ những năm 400 BC, thời mà danh y Hippocrates bắt đầu xây dựng nền móng cho y học Tây Phương, vỏ và lá của loại cây liễu đã được dùng để trị chứng đau nhức và cơn nóng sốt của bệnh nhân.
Rồi vào một ngày hè năm 1785, vị thầy tu cao tuổi Edward Stone ở một vùng quê hẻo lánh bên Anh, bị một cơn đau trầm trọng ở các xương khớp và lên cơn sốt rất cao. Do một sự tình cờ, ông ta ngậm nhai chiếc lá của cây liễu trắng mọc trong vườn. Lá liễu đắng làm ông ta nhăn mặt, nhưng ít giờ sau, cơn sốt và đau giảm thiểu. Nhà tu hành bèn truyền bá môn thuốc thiên nhiên này cho nhiều người và ai cũng thấy sự công hiệu của nó. Ông ta báo cáo khám phá này cho các viên chức Hoàng Gia hay, nhưng chẳng ai thèm để ý.
Năm 1820, một dược sư người Thụy sĩ, Johann S. F. Pagenstecher triết từ lá cây Spirea ulmaria một chất acid mà về sau này được gọi là salicylic acid, có công dụng chống đau nhưng cũng gây cồn cào bao tử. Năm 1829, một nghiên cứu gia khác khám phá ra hóa chất chống đau trong liễu là Salicin. Salicin cũng thấy có trong cây meadow sweet.
Năm 1832, một chuyên gia hóa học người Đức chuyển salicin ra salicylic acid nhưng hợp chất này quá thô sơ và không dùng để trị bệnh được.
Năm 1853, giáo sư hóa học Karl Friedrick Gerhardt đã tìm ra cấu trúc phân tử của acid này và cũng cố gắng làm giảm tính kích thích bao tử của nó, nhưng không đi đến kết quả như ý muốn.
Năm 1897, hóa học gia Felix Hoffman của công ty Bayer đi tìm một hợp chất để chữa đau nhức của thân sinh. Ông ta đã tổng hợp và chuyển salicylic acid ra acetylsalicylic acid dưới dạng ít kích thích hơn. Khám phá này được ca tụng là thuốc chống đau nhức và giảm nóng sốt rất thần hiệu.
Năm 1899, công ty dược phẩm Bayer của Đức tung ra thị trường một loại acetylsalicylic acid dưới tên A-S-Pirin : "A" cho acetyl, "S" cho salicylic "Spir" cho cây Spirea, một loại cây giống như cây liễu và cũng cho salicin; tiếp vĩ ngữ "In" chỉ dược phẩm. Hãng bào chế Bayer được tưởng thưởng nhờ khám phá này và độc quyền sản xuất Aspirin trong 17 năm kế tiếp
Trước thế chiến thứ nhất, chính phủ Anh sợ nước Đức sẽ ngưng cung cấp Aspirin cho các quốc gia khác, đã đặt một phần thưởng rất lớn cho ai có thể làm ra thuốc này. Hóa học gia George Nicholas đã bào chế chất Aspirin và lãnh giải thưởng. Ông ta đã bị hư một mắt vì nổ ống nghiệm ether trong khi làm việc.
Sau khi đánh bại nước Đức, Anh quốc chiếm hữu biệt danh Aspirin, công ty Bayer mất quyền sở hữu về tên cũng như độc quyền sản xuất dược phẩm này. Các viện bào chế khác trên thế giới tự do sản xuất Aspirin. Aspirin không được viết chữ hoa như trước. Ngày nay Aspin được tổng hợp từ hóa chất phenol. Công dụng trị liệu
Suốt một thời gian dài, chất liệu của Aspirin được dùng để chống đau nhức và hạ sốt, nhưng chưa có ai chứng minh được nguyên lý tác dụng của thuốc này. Người ta dùng do kinh nghiệm lưu truyền, do thấy người khác dùng có hiệu quả thì ta cũng dùng. Mãi t ới năm 1971, bác sĩ giải phẫu John Vane bên Anh chứng minh rằng Aspirin có một tác dụng quan trọng trong cơ thể: đó là ảnh hưởng tới sự tổng hợp chất Prostaglandins. Chất này đóng vai trò quan trọng trong việc cơ thể phản ứng lại với thương tích và nhiễm độc. Prostaglandin tác dụng trên hệ thần kinh để truyền tín hiệu về cảm giác đau; nó thúc đẩy các tiểu huyết cầu tụ lại thành máu cục, nó gây ra dấu hiệu viêm của mô tế bào. Trước đó, năm 1960, một số khoa học gia ở Âu châu chứng minh rằng Aspirin có công dụng chống lại sự đông đặc của máu. Máu đóng cục là một trong nhiều nguyên nhân của tai nạn thiếu máu ở tim, ở não bộ. Ngày nay, có nhiều dữ kiện cho rằng viêm tế bào là một trong nhiều nguy cơ đưa tới vữa xơ động mạch, bệnh Alzheimer, các bệnh ung thư. Một số Prostaglandins là thủ phạm gây ra nóng sốt, đau nhức và xưng xương khớp. Chặn sự sản xuất Protaglandins là ngăn được chứng bệnh do hậu quả của hóa chất này.
Rồi sau đó, nhiều nghiên cứu khác xác định giá trị phòng ngừa bệnh tim của Aspirin và còn gợi ý là dược phẩm này có thể phòng ngừa các bệnh ung thư ruột già, phổi, tụy tạng, noãn sào, bệnh sa sút trí tuệ và một số bệnh khác của con người như là tiêu diệt siêu vi khuẩn trong mạch máu Do khám phá này, Vane được giải Nobel năm 1982.
Nhờ nghiên cứu của Vane mà nhiều người nhớ tới báo cáo của Craven vào năm 1956. Số là vào năm 1950, bác sĩ Lawrence L. Craven thông báo cho một tạp san y tế nhỏ tại địa phương là, ông ta đã cho khoảng 400 người mập béo, không vận động cơ thể, mỗi ngày uống hai viên Aspirin và không một người nào bị quỵ tim (heart attack). Sau đó ông ta tăng số bệnh nhân lên tới 8000 người và năm 1956 cho hay là không ai bị tai biến động mạch não, máu đóng cục hoặc bệnh động mạch vành. Nhưng công bố của ông ta không được ai để ý tới, cho tới khi Vance công bố kết quả nghiên cứu của mình. Có thời kỳ bác sĩ không dám cho cho bệnh nhân uống Aspirin trước khi giải phẫu ghép nối động mạch tim vì sợ băng huyết. Nhưng kết quả mới được công bố tháng 10 năm 2002 trên tạp san The New England Journal of Medicine cho hay, dùng Aspirin trước khi giải phẫu lại làm giảm nguy cơ các biến chứng của giải phẫu.Trước đó, năm 1977, giải phẫu gia Edwin W. Salzman cho hay 75% bệnh nhân của ông ta được thay thế xương hông đều không bị băng huyết sau khi uống Aspirin. Năm 1987 bác sĩ chuyên khoa tim Judith Hsia của Đại học George Washington tuyên bố rằng Aspirin có khả năng làm tăng tính miễn dịch của cơ thể bằng cách thúc đẩy bạch huyết cầu tăng gia sản xuất chất interleukin-2 và gamma interferon. Vị bác sĩ này cũng nghiên cứu để coi xem Aspirin có khả năng ngăn ngừa các bệnh hô hấp do siêu vi khuẩn gây ra, nhất là ở người cao tuổi mà hệ thống miễn dịch đều suy yếu
Trong bản tin Drug Bulletin tháng 2 năm 1988, cơ quan FDA Hoa Kỳ thông báo: Có nhiều bằng chứng rằng Aspirin an toàn và công hiệu trong việc giảm nguy cơ cơn thiếu máu nhất thời của não bộ (cerebral transient ischemic attacks TIA) hoặc tai biến mạch máu não. TIA có thể chỉ kéo dài trong vài giây hoặc vài giờ với các triệu chứng như chóng mặt, mất định hướng, giọng nói ngọng nghịu, mất trí nhớ, mắt mờ. Các cơn thiếu máu này có thể xẩy ra nhiều lần trong ngày hoặc vài tuần một lần mà hậu quả là nhiều người có thể rơi vào tình trạng tai biến mavh máu não trong vòng một năm.
Nghiên cứu công bố trong New England Journal of Medicine tháng 3 năm 1990 cho hay bệnh nhân bị rung tâm nhĩ (atrial fibrillation) mà uống một viên Aspirin mỗi ngày đều giảm nguy cơ bị stroke tới một nửa. Rung tâm nhĩ là chứng bệnh về tim khá phổ thông và nhiều khi không được chẩn đoán trừ khi phát hiện bằng tâm điện đồ. Nhiều bác sĩ cho la øAspirin có thể thay thế cho thuốc chống đông máu Warfarin khi người bệnh không uống được thuốc chống đông máu này.
Trong hội thảo tại Chicago vào tháng 11 năm 2002, các nghiên cứu gia đã cố gắng thuyết phục cơ quan FDA chấp thuận dùng Aspirin để ngừa bệnh tim ở người lành mạnh ( phòng ngừa cấp một, không cho bệnh xuất hiện). Đây là việc làm mà cơ quan này còn dè đặt. Việc dùng Aspirin 75 tới 325 mg một ngày để ngừa tái phát bệnh tim đã được công nhận từ lâu.
Bác sĩ Charles Hennekens là người đã thực hiện cả trăm cuộc nghiên cứu qua theo dõi, quan sát về công dụng ngừa bệnh của Aspirin. Năm 1988, ông ta công bố là những ai uống Aspirin có thể giảm nguy cơ heart attack tới 44% so với người không uống. Ông ta cũng kết luận là Aspirin có tác dụng tốt với một số bệnh kinh niên.
Về tác dụng của Aspirin với ung thư và bệnh Alzheimer, theo bác sĩ Hennekens, cũng có một vài hứa hẹn, nhưng cần được nghiên cứu thêm. Theo một số chuyên gia, có thể là do khả năng chống đóng cục máu mà Aspirin làm tăng lượng máu lưu hành lên não bộ, hoặc tác dụng chống viêm đã làm chật đường rầy một số diễn biến sớm của bệnh này.
Một số nghiên cứu cho hay, nam giới trên 60 tuổi uống Aspirin đều đặn có thể giảm nguy cơ ung thư nhiếp tuyến tới 60%.
Bác sĩ John Baron thuộc Đại Học Y Khoa Darmouth cho thấy uống một lượng nhỏ Aspirin có thể làm giảm tới 19% nguy cơ ung thư ruột già và trực tràng.
Một nghiên cứu trong 6 năm do bác sĩ Michael Thun, American Cancer Society, cho hay Aspirin ngăn sự tăng trưởng của các u bướu nhỏ của ruột, nhưng ông ta không giải thích được tại sao
Kết quả một nghiên cứu của American Association for Cancer Resaearch, được công bố vào tháng Tư năm 2002, cho hay: nhóm bệnh nhân sau ba năm uống 80 mg Aspirin một ngày, chỉ có 38% có polyps trong ruột so với 47% ở nhóm không uống.
Kết quả nghiên cứu tại Đại Học Minesota cho hay Aspirin có thể bảo vệ với ung thư tụy tạng. Theo báo cáo này, phụ nữ uống Aspirin mỗi tuần sẽ giảm nguy cơ ung thư tụy tạng tới 43% so với phụ nữ không bao giờ uống.
Tại sao Aspirin có thể ngăn ngừa ung thư? Chưa có trả lời thỏa đáng, nhưng theo Kristin Anderson, có thể là do tác dụng chống viêm của Aspirin
Với chứng migraine headache thì các nghiên cứu tại Đại Học Harvard cho hay, trước khi bị chứng đau đầu này mà uống một viên Aspin thì cơn đau giảm đi rất nhiều.. Lý do là Aspirin làm giảm sự kết cục của tiểu huyết bào trước mỗi cơn migraine.
Một nghiên cứu vào năm 1999 cho hay phụ nữ uống Aspirin trong khi điều trị để có thể sinh đẻ sẽ có hy vọng mang thai nhiều gấp đôi người không uống. Uống phân lượng nhỏAspirin trong thời kỳ đầu của thai nghén cũng làm giảm nguy cơ cao huyết áp trong khi có thai.
Dân ghiền thuốc lá thường hay bị bệnh viêm nớu răng Nếu họ uống phân lượng nhỏ Aspirin thì bệnh này giảm đi.
Bệnh nhân tiểu đường thường hay bị hư võng mạc retina. Aspirin có thể giảm thiểu biến chứng này nhờ Aspirin chống lại sự đóng cục của máu, máu lưu thông nhiều tới võng mạc hơn.
Năm 1972, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Fields ở Houston, mười trung tâm y khoa tại Hoa kỳ nghiên cứu với 303 bệnh nhân đã bị TIA. 153 bệnh nhân uống 4 viên aspirin mỗi ngày, số còn lại được cho uống thuốc vờ. Sau 6 tháng, nhóm thứ nhất có tỷ lệ thấp bị TIA, tai biến mạch máu não hơn là nhóm thứ hai.
American Heart Association khuyên nên uống phân lượng nhỏ Aspirin đề phòng ngừa heart attack ở những ai có 10% nguy cơ bị cơn đột tim này trong vòng 10 năm sắp tới.
Đầu năm 2002, nhóm nghiên cứu của Berg đã cân nhắc rủi ro và lợi điểm của Aspirin đối với phòng ngừa bệnh tim, khuyến cáo là thuốc này chỉ nên dùng khi có ít nhất 35 % nguy cơ đột tim trong vòng năm năm tới. Tuổi tác, huyết áp tâm thu, tỷ lệ total cholesterol/HDL và yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, tiểu đường. Một người 48 tuổi, huyết áp bình thường, cholesterol 202, HDL 54 có 2% nguy cơ đột tim trong vòng 5 năm, không hội đủ điều kiện và không cần uống Aspirin.
Tai biến mạch máu não vẫn là nguyên nhân tàn tật hàng đầu tại nhiều quốc gia. Riêng nước Mỹ mỗi năm có trên 700.000 trường hợp, mà 30% nạn nhân sống sót đều bị stroke trở lại trong vòng năm năm mà tỷ lệ tử vong lên đến 18%.
Công hiệu của Aspirin trong việc phòng ngừa cấp một đối với thiếu máu cơ tim đã được xác nhận, nhưng với phòng ngừa cấp một của tai biến động mạch não vì thiếu máu và TIA thì còn bàn cãi.
Càng nghiên cứu về Aspirin, người ta thấy Aspirin càng có nhiều công dụng. Bình thường thì một dược phẩm chỉ có một mục tiêu để hành động. Aspirin lại có nhiều mục tiêu cùng một lúc. Do đó, nào năm 1999, Aspirin đã có vinh dự được đưa vào National Museum of American History của viện Smithsonian Tác dụng phụ không muốn của Aspirin
Không phải ai cũng uống Aspirin được vì cứ 100 người dùng lâu ngày có thể bị xuất huyết bao tử, đôi khi từ trầm trọng đến tử vong. Ấy là chưa kể các phản ứng dị ứng khác Theo bác sĩ Daniel Deyken, Đại Học Y khoa Boston, Aspirin là nguyên nhân khá quan trọng gây ra xuất huyết ở nước Mỹ. Uống một viên có thể làm chẩy ra một muỗng canh máu ở bao tử đã bị loét.
Một số điều kiện không dùng Aspirin được là: có tiền sử mắc bệnh loét bao tử, dị ứng với Aspirin, huyết áp cao không kiểm soát được, bệnh gan và thận trầm trọng hoặc bệnh xuất huyết. Trẻ em phông nên uống Aspirin vì nhiều quan sát cho thấy thuốc này có thẩy gây một bệnh hiếm cho não bộ, đó là hội chứng Reye. Ờ người bệnh đã có rối loạn về đóng cục máu hoặc dễ bị bầm da đều phải cẩn thận trước khi dùng thuốc Aspirin vì xuất huyết sẽ trầm trọng hơn.
Thường thường, đa số chúng ta có thể uống một lượng nhỏ aspirin mỗi ngày mà không ngại rối loạn cho bao tử. Tuy nhiên nếu ở người mà bao tử nhậy cảm thì nên uống sau khi ăn hoặc dùng loại Aspirin có bọc đường, vì bọc này ngăn Aspirin khỏi hòa tan trong bao tử trước khi xuống ruột.
Hiện nay có cả nhiều chục triêu người uống Aspirin để ngừa bệnh tim.
Các nhà bào chế vội vã tung ra nhiều loại Aspirin viên với phân lượng nhỏ: 81 mg. Công ty McNeil Pharmaceuticals sản xuất St Joseph Aspirin. mà một thời được gọi là Baby Aspirin. Hãng Bayer tung ra loại Bayer Women's Aspirin Plus Calcium vừa để tăng cường xương cốt vừa bảo vệ trái tim của phái nữ.
Kết luận
Việc sử dụng Aspirin đề phòng ngừa bệnh tim mạch là vấn đề khá tế nhị, cần được sự hướng dẫn của chuyên viên y học.
Nhóm Đặc Nhiệm Phòng bệnh Hoa Kỳ đã có những gợi ý nên theo sau đây về việc sử dụng Aspirin để phòng ngừa không xẩy ra (primary prevention) bệnh tim mạch với các dẫn chứng hỗ trợ khoa học:
Nhóm đặc nhiệm thành khẩn gợi ý rằng các thầy thuốc nên thảo luận về khả năng ích lợi và bất lợi của Aspirin với người lớn có nhiều nguy cơ mắc bệnh động mạch vành ( Coronary Heart Disease). Nhóm đã thu thập được nhiều bằng chứng rằng Aspirin làm giảm tỷ lệ bệnh động mạch vành mới phát (incidence) ở người lớn có nhiều nguy cơ bị bệnh tim. Nhóm cũng có nhiều bằng chứng là Aspirin làm tăng tỷ lệ xuất huyết bao tử và cũng làm tăng phần nào tỷ lệ tai biến mạch máu não vì xuất huyết.
Trước khi dùng Aspirin cho mục đích này, cần uớc lượng các nguy cơ bệnh tim như tuổi tác, nam hay nữ, bệnh tiểu đường, cao tổng số cholesterol, thấp cholesterol HDL, cao huyết áp, bệnh sử thân nhân, và có hút thuốc lá hay không.
Đàn ông trên 40 tuổi, phụ nữ ở tuổi mãn kinh, giới trẻ mà có yếu tố nguy cơ bệnh động mạch vành đều dễ mắc bệnh tim thì nên dùng Aspirin.
Phân lượng Aspirin để phòng ngừa hữu hiệu có thể là 75 mg/ngày, 100 mg/ngày, hoặc 325 mg/mỗi hai ngày. Phân lượng cao hơn không mang tới ích lợi tốt hơn mà lại tạo ra nhiều tác dụng phụ không muốn.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
|
|
|
Y Dược
Jun 15, 2010 4:54:11 GMT 9
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:54:11 GMT 9
GỐC TỰ DO và CHẤT CHỐNG OXY-HOÁ.
Trong cơ thể con người, thường xuyên diễn ra nhiều sinh hoạt hoặc xây dựng hoặc huỷ hoại. Có những chất tưởng như là thực phẩm chính của tế bào nhưng đồng thời cũng lại làm hại tế bào. Có những phân tử gây ra tổn thương thì cũng có những chất đề kháng lại hành động phá phách này. Gốc tự do, oxygen và chất chống oxy hóa là một thí dụ. Những phân tử này có liên hệ với nhau và ảnh hưởng tới cơ thể con người rất nhiều, nhất là ở giai đoạn cuối của cuộc đời.
Ngoài ra, một trong nhiều lý thuyết cố gắng giải thích nguyên nhân sự lão hóa, lão suy là tác dụng của những gốc tự do vào các phân tử trong cơ thể. Và để trì hoãn tiến trình này, các chất chống oxy hóa đã được nhiệt liệt giới thiệu và rất nhiều người cao tuổi hiện nay đang dùng.
Xin cùng quý vị tìm hiểu thêm về những dữ kiện này.
Gốc Tự Do
Theo định nghĩa, Gốc Tự Do ( Free radical ).là bất cứ phân tử hóa chất nào chỉ có một điện tử duy nhất (electron mang điện âm) hay một số lẻ điện tử.
Xin nhắc lại, về khía cạnh hóa học, phần nhỏ nhất của vật thể gọi là nguyên tử. Mỗi nguyên tử có một nhân với một số chẵn điện tử xoay chung quanh, giống như các hành tinh quay chung quanh mặt trời. Phân tử gồm một số nguyên tử dính với nhau do tác dụng của các đôi điện tử.
Một vài khi, trong diễn tiến hóa học, một điện tử bị tách rời khỏi nhóm và phân tử đó trở thành một gốc tự do, với số lẻ điện tử. Do đó, nó không cân bằng, đầy đủ nên rất bất ổn, dễ tạo ra phản ứng. Nó luôn luôn tìm cách chiếm đoạt điện tử mà nó thiếu từ các phân tử khác, và lần lượt tạo ra một chuỗi những gốc tự do mới, gây rối loạn cho sinh hoạt bình thường của tế bào. Các khoa học gia ví chúng như những tên sở khanh chuyên đi ve vãn, phá hoại hạnh phúc của các cuộc hôn nhân đang êm đẹp. Trong cuộc đời của một người sống tới 70 tuổi, thì có chừng 17 tấn gốc tự do được tạo ra như vậy.
Năm 1954, bác sĩ Denham Harman thuộc Đại học Berkeley, California, là khoa học gia đầu tiên nhận ra sự hiện hữu của gốc tự do trong cơ thể với nguy cơ gây ra những tổn thương cho tế bào.Trước đó, người ta cho là gốc này chỉ có ở ngoài cơ thể.
Gốc tự do có tác dụng không tốt cho cơ thể liên tục ngay từ lúc con người mới sanh ra và mỗi tế bào chịu sự tấn công của cả chục ngàn gốc tự do mỗi ngày. Ở tuổi trung niên, cơ thể mạnh, trấn áp được chúng, nhưng tới tuổi cao, sức yếu, gốc tự do lấn át, gây thiệt hại nhiều gấp mười lần ở người trẻ. Nếu không bị kiểm soát, kiềm chế, gốc tự do gây ra các bệnh thoái hóa như ung thư, xơ cứng động mạch, làm suy yếu hệ thống miễn dịch gây dễ bị nhiễm trùng, làm giảm trí tuệ, teo cơ quan bộ phận người cao niên.
Nó phá rách màng tế bào khiến chất dinh dường thất thoát, tế bào không tăng trưởng, tu bổ, rồi chết. Nó tạo ra chất lipofuscin tích tụ dưới da khiến ta có những vết đồi mồi trên mặt, trên mu bàn tay. Nó tiêu hủy hoặc ngăn cản sự tổng hợp các phân tử chất đạm, đường bột, mỡ, enzyme trong tế bào. Nó gây đột biến ở gene, ở nhiễm thể, ở DNA, RNA. Nó làm chất collagen, elastin mất đàn tính, dẻo dai khiến da nhăn nheo, cơ khớp cứng nhắc.
Theo các nhà nghiên cứu, gốc tự do hủy hoại tế bào theo diễn tiến sau đây: Trước hết, gốc tự do oxy hóa màng tế bào, gây trở ngại trong việc thải chất bã và tiếp nhận thực phẩm, dưỡng khí; rồi gốc tự do tấn công các ty lập thể, phá vỡ nguồn cung cấp năng lượng. Sau cùng, bằng cách oxy hóa, gốc tự do làm suy yếu kích thích tố, enzym khiến cơ thể không tăng trưởng được.
Trong tiến trình hóa già, gốc tự do cũng dự phần và có thể là nguy cơ gây tử vong. Hóa già được coi như một tích tụ những đổi thay trong mô và tế bào.
Theo bác sĩ Denham Harman, các gốc tự do là một trong nhiều nguyên nhân gây ra sự hoá già và sự chết cuả các sinh vật. Ông ta cho là gốc tự do phản ứng lên ty lạp thể, gây tổn thương các phân tử bằng cách làm thay đổi hình dạng, cấu trúc, khiến chúng trở nên bất khiển dụng, mất khả năng sản xuất năng lượng.
Do quan sát, người ta thấy gốc tự do có ít ở các sinh vật chết non, có nhiều hơn ở sinh vật sống lâu. Người cao tuổi có nhiều gốc tự hơn là khi người đó còn trẻ.
Theo các nhà khoa học thì gốc tự do có thể là thủ phạm gây ra tới trên 60 bệnh, đáng kể nhất gồm có: bệnh vữa xơ động mạch, ung thư, Alzheimer, Parkinson, đục thuỷ tinh thể, bệnh tiểu đường, cao huyết áp không nguyên nhân, xơ gan.
Tuy nhiên, không phải là gốc tự do nào cũng phá hoại. Đôi khi chúng cũng có một vài hành động hữu ích. Nếu được kiềm chế, nó là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể; tạo ra chất mầu melanine cần cho thị giác; góp phần sản xuất prostaglandins có công dụng ngừa nhiễm trùng; tăng cường tính miễn dịch; làm dễ dàng cho sự truyền đạt tín hiệu thần kinh, co bóp cơ thịt.
Trong cơ thể có rất nhiều loại gốc tự do, mà các gốc nguy hiểm hơn cả là superoxide, ozone, hydrogen peroxide, lipid peroxy nhất là hydroxyl radical, một gốc rất phản ứng và gây ra nhiều tổn thương.
Gốc tự do được tạo ra bằng nhiều cách. Nó có thể là sản phẩm của những căng thẳng tâm thần, bệnh hoạn thể xác, mệt mỏi, ô nhiễm môi trường, thuốc lá, dược phẩm, tia phóng xạ mặt trời, thực phẩm có chất mầu tổng hợp, nước có nhiều chlorine và ngay cả oxygen.
Oxygen- Sự oxy hoá- Chất chống oxy hoá.
Oxygen là dưỡng khí thiết yếu cho mọi động vật, thảo mộc, ngoại trừ một số nhỏ sinh vật kỵ khí.
Đối với loài người, ở một mức độ trung bình, oxygen tham dự vào sự biến hóa căn bản trong cơ thể để tạo ra năng lượng cung ứng cho nhu cầu sinh hoạt cuả toàn bộ tế bào. Không khí ta thở có 20% dưỡng khí, vừa đủ cho nhu cầu của cơ thể và sức chịu đựng của phổi. Khi thở oxy nguyên chất khoảng 6 giờ, ta thấy nặng ngực và nếu tiếp tục thở lâu hơn nữa, các phế nang sẽ bị tổn thương.
Oxygen phản ứng trên vật chất và gây nhiều thay đổi cho các phân tử này. Một miếng thịt để ra ngoài lâu sẽ thâm, miếng táo cắt đôi trở mầu nâu, cây đinh sắt sét rỉ, cục bơ thơm trở mùi ôi khét. Chúng đã bị oxy hóa và trở thành vô dụng, đôi khi nguy hiểm. Trong cơ thể, phản ứng oxy hóa tạo ra những gốc tự do. Nhưng may mắn là cơ thể ta tạo ra được mấy loại enzym có khả năng trung hòa gốc tự do và mỗi phân tử enzym có thể vô hiệu hóa nhiều ngàn gốc. Các enzym đó túc trực trong cơ thể trước khi có phản ứng tạo ra gốc tự do nên nó kịp thời đối phó với những chàng sở khanh hoá chất hoang đàng này. Các enzym chính là superoxide dismutase (SOD ), catalase và glutathione. Mỗi enzym liên hệ vào từng phản ứng hóa học riêng biệt
Ngoài ra ta có thể trung hòa gốc tự do bằng cách dùng chất chống oxy hóa (antioxidant ). Các chất này chỉ mới được nhắc nhở nhiều trong dân chúng cũng như y giới khoảng mươi năm gần đây. Đã có nhiều khoa học gia để tâm nghiên cứu về công dụng của chất chống oxy hóa và tây y học cũng đã có thái độ thiện cảm hơn với các chất này.
Trong một cuộc hội thảo của các bác sĩ chuyên môn về tim năm 1995, 90 % tham dự viên nhận là mình có uống chất chống oxy hoá nhưng chỉ có 75 % biên toa cho bệnh nhân. Lý do là nhiều người vẫn cho là không có đủ dữ kiện xác đáng để khuyến khích bệnh nhân dùng thêm các chất này. Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ đã khuyến cáo: Một chỉ dẫn thận trọng và khoa học nhất về vấn đề này là dân chúng nên ăn thực phẩm có nhiều chất chống oxy hóa trong rau, trái cây và các loại hạt, thay vì uống thêm chất antioxidant.
Nhưng dân chúng " có bệnh thì vái tứ phương", nên nhiều khi cũng quên các lời khuyên này. Và họ vẫn dùng.
Chất này có khả năng làm mất hoạt tính của gốc tự do tích tụ trong cơ thể, biến chúng thành những phân tử vô hại, đồng thời cũng có khả năng duy trì cấu trúc và chức năng của tế bào.
Antioxidant chính yếu, phổ thông nhất là sinh tố C, beta-carotene và sinh tố E. Sau đây là đặc điểm, công dụng của các chất trên trong phạm vi chống gốc tự do:
a-Sinh tố C.
Đây là chất chống oxy hóa căn bản ở trong huyết tương, nó tiêu hóa gốc tự do và ngăn không cho gốc này xâm nhập các phân tử cholesterol LDH. Nó tăng cường sự bền bỉ của mao mạch, ngăn không cho gốc tự do xâm nhập qua màng tế bào, đẩy mạnh mau lành vết thương, kích thích sản xuất kích thích tố, kháng thể, acétylcholine, ngăn chặn tác dụng có hại của oxygen.
Sinh tố C có nhiều trong trái cam, chanh, quít, dâu, cà chua, lá rau xanh, ớt xanh, dưa canteloupe, broccoli. Khi nấu chín, sinh tố ở các thực phẩm kể trên bị tiêu huỷ, nên nếu ăn sống được thì tốt hơn.
Sinh tố C hoà tan trong nước, và bài tiết khỏi cơ thể dễ dàng qua thận do đó ta không bị ngộ độc khi uống phân lượng cao. Phân lượng trung bình mồi ngày là 60mg, tối đa từ 500 tới 1500mg.
Trong phạm vi chống gốc tự do, nhiều người cho là phải dùng phân lượng cao hơn. Theo Tiến sĩ Linus Pauling, hai lần chiếm giải Nobel về khoa học, thì ta có thể dùng từ 3000 mg tới 12,000 mg mỗi ngày. Cá nhân ông ta uống 18 gr một ngày và sống tới tuổi 93. Uống trên 2000 mg một ngày, có thể gây tiêu chẩy nhẹ.
b- Beta- carotene.-
Được khám phá ra cách đây hơn 150 năm từ lớp mầu cam ở củ cà rốt, beta-carotene hiện giờ là loại chống oxy hóa được tiêu thụ rất nhiều trên thị trường. Chất này cần cho sự tăng trưởng và cho chức năng của các mô, của xương; tăng cường tính miễn dịch, giảm nguy cơ gây ung thư, giúp thị lực tốt hơn. Nó có thể biến đổi thành sinh tố A.
Beta-carotene có trong củ cà rốt, khoai lang đỏ, bí ngô, đu đủ, cam, ớt.
Phân lượng thông thường là 50 IU mỗi ngày, tối đa có thể lên đến 10,000 IU/ ngày .
Beta-carotene không có tác dụng phụ nguy hại như sinh tố A.
c-Sinh tố E .-
Kết quả nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy sinh tố E chặn phản ứng của gốc tự do, ngăn sự oxy hóa cholesterol LDL và các chất mỡ khác, nâng cao tính miễn dịch. Vì chặn sự oxy hóa cholesterol, sinh tố E làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.
Sinh tố E là chất chống oxy hóa hòa tan căn bản trong mỡ của cơ thể, vì nó ngăn chặn sự oxy hóa chất béo trong thực phẩm chiên rán ta dùng hàng ngày.
Sinh tố E có nhiều trong rau, hột giống có dầu, gan, trứng, bơ, mầm lúa mì.
Phân lượng trung bình mỗi ngày là 30 IU, tối đa 100-400 IU.
Với phân lượng cao hơn, ta có thể bị mệt mỏi, nhức đầu, đau bụng, ói mửa, đi tiêu chẩy.
Các chất chống oxy hóa khác gồm có: selenium, bioflavonoids, lutein, lycopene, coenzyme Q 10, alpha-lipoic acid và ubiquinone cũng được quảng cáo chống lão hóa, nhưng không phổ thông như sinh tố C, E và Beta Caroten.
Điểm cần nhớ là các antioxidant cộng tác với nhau để loại trừ gốc tự do. Mỗi antioxidant có tác dụng riêng với từng loại gốc tự do ở mỗi tế bào. Cho nên các chất chống oxy hóa đều có giá trị như nhau.
|
|