Post by kienphong on Nov 21, 2006 13:17:18 GMT 9
Cái trống
Trần Vãn Khê 08/12/2005
Thùng thùng trống ðánh ngũ liên
Trống Ấn Ðộ
Trống Phi Châu
Trống là một nhạc khí dùng chia thời gian thành những quãng ðều nhau hay không ðều ðể tạo ra nhịp ðiệu, tiết tấu. Trên thế giới ngýời ta chia trống thành hai loại: một mặt da và hai mặt da. Bộ phận quan trọng nhất là thùng trống có nhiều hình thức khác nhau (ống dài, tròn dẹp, lýng ong, thùng rýợu ) với cách ðánh khác nhau (ðánh bằng dùi hay vỗ bằng tay). Kỹ thuật chế tạo trống: dán mặt da, ðóng ðinh, ðóng cút, cãng dây,và phong cách biểu diễn ở phần lớn các nýớc ðều týõng tợ nhau, chỉ khác nhiều về chức nãng của trống.
Ðặc sắc nhất có thể nói là Ấn Ðộ với những cách ðánh từng loại trống rất tinh vi về nghệ thuật.Trống ở châu Phi thể hiện nhý ngôn ngữ trò chuyện, thậm chí ðối thoại với nhau từ hai bên bờ sông.
Riêng trống của Việt Nam có một số ðiểm ðặc biệt hõn ở các nýớc khác, với sự ða dạng về hình thức, ðộc ðáo về màu âm và phong phú về chức nãng mà trên thế giới ít nõi nào sánh bằng.
Hình thức ða dạng
Một trong những loại trống ðộc ðáo của chúng ta là cái bồng, một nhạc cụ có vị trí rất ðặc biệt trong Ðại nhạc của Nhạc cung ðình và Nhạc lễ ở miền Nam
Bồng là loại trống một mặt, thân trống bằng gỗ hay ðất nung hình dáng nhý cái bình, phía dýới bịt kín, phía trên miệng xoè có bịt miếng da trãn. Chung quanh vành da trãn xoi hõn 20 lỗ ðể lòn dây mây qua cãng thẳng mặt trống và thắt chặt ở bên dýới. Một sợi dây mây khác cột miết các sợi dây chằng, khi siết mạnh mặt trống ðýợc cãng ra và tiếng bồng cao hõn, khi buông thả ra thì tiếng trống trầm. Ngýời sử dụng hoặc ngồi trên ghế kẹp bồng giữa hai ðùi, hoặc ngồi xếp bằng ðể chiếc bồng thắt ðáy lýng ong giữa hai chân, hai tay vỗ bồng
Trống hai mặt thì Việt Nam có rất nhiều, thông thýờng chia ra hai loại tiểu cổ (trống nhỏ) và ðại cổ (trống lớn).
Tiểu cổ tuy gọi là trống nhỏ nhýng bao gồm nhiều loại từ nhỏ cho ðến vừa và hõi lớn.
Trống chầu trong Ca trù thuộc loại tiểu cổ, không có kích thýớc cố ðịnh mà chiều cao và ðýờng kính khoảng chừng 20 phân, sử dụng một roi chầu dài ðể ðánh theo phong cách rất riêng, roi trống song song với mặt trống và một tay vịn một tay ðánh.
Trống ðế trong Chèo cũng là tiểu cổ có hai mặt với ðýờng kính từ 17 ðến 20 phân, cao từ 22 ðến 24 phân, sử dụng hai dùi và ðánh cả trên bề mặt, ở mé trống và cả tang trống.
Nhỉnh hõn một chút có loại dùng trong Rỗi bóng là cái trống dẹp với phong cách ðánh ðặc thù ðýợc bà bóng sử dụng vừa ðánh trống vừa hát trong các buổi lên ðồng.
Lớn hõn nữa có trống chiến trong Hát bội (Hát tuồng), một tiểu cổ hình ống hai da, cao 45 phân, mặt trống có ðýờng kính khoảng 50 phân và ðánh bằng hai dùi.
Một loại trống ðặc biệt không phải tiểu cổ cũng chẳng phải ðại cổ là trống võ có mặt trong dàn ðại nhạc của Nhạc cung ðình hay Nhạc lễ ở miền Nam, ðýờng kính từ 40 ðến 45 phân, cao chýa ðến 20 phân, ðặt trên giá ba chân bằng gỗ.
Thông thýờng trống trong dàn Ðại nhạc hõi cao hõn trống của Nhạc lễ, nhýng ðýờng kính bề mặt lại nhỏ hõn ðôi chút. Dàn Nhạc lễ trong ðám tang có một cặp trống nhạc gọi là trống vãn và trống võ (hay trống ðực và trống cái) bề cao 15 phân, ðýờng kính 40 phân làm bằng da trâu, chính giữa mặt trống có vẽ vòng tròn âm dýõng, ðặt trên một cái giá ba chân. Ngýời ðánh trống là nhạc công chánh nên lúc nào cũng phải mặc áo dài ðen, quần trắng và sử dụng một cặp dùi ðầu nhọn.
Ðại cổ là trống chầu, có trong Hát chèo, Hát bội, Nhạc cung ðình và trong tất cả các ðền thờ miếu mạo ở miền Nam.
Ngoài ra có một loại trống khác mà ít ngýời ðể ý là trống cõm, nguồn gốc từ miền Nam Ấn Ðộ gọi là trống Mridangam, trên mặt trống có một ít cõm nghiền hoặc miếng bột mì trộn nhuyễn nhý miếng bánh,dán lên làm cho tiếng trống êm ái hõn. Trống cõm là nhạc cụ quan trọng trong Nhạc lễ và Hát bội. Còn trong Hát chèo thì trống cõm chỉ ðóng vai trò ðánh luồn vào ðàn chớ không có bài bản riêng.
Trong âm nhạc truyền thống, trống hiện diện nhiều nhứt là trong dàn ðại nhạc của Nhạc cung ðình với ðủ các loại từ ðại cổ, tiểu cổ, cặp trống võ (trống lễ), ðến bồng và trống cõm.
Ðộc ðáo màu âm
Trống trong truyền thống Việt Nam có màu âm hết sức ða dạng, sự phối hợp cũng ðộc ðáo với nhiều chức nãng phong phú mà ít ai ngờ.
Trong Hát bội cũng nhý trong Nhạc lễ, màu âm của tiếng trống ðýợc sử dụng hết sức tinh vi, màu âm khác nhau thì mang ý nghĩa khác nhau.
Tong, thờn, tùng, thùng khi ðánh vào giữa mặt da dùng ðể ðánh nhịp hay ðể chấm câu. Tang, táng, tỏng khi ðánh vào vành da, ðây là cách ðánh sáng. Khi ðánh âm táng hay tong liên hồi diễn tả sự sôi ðộng của tâm hồn hoặc tâm trọng giận dữ, hốt hoảng. Tịch là một dùi chặn, một dùi ðánh vào giữa mặt da, cũng gọi là cách ðánh tối, khi nhân vật biểu lộ sự ngạc nhiên, suy nghĩ hay do dự, có khi nghẹn ngào, uất ức. Cắc là ðánh vào tang trống hay vào dãm gỗ khiến màu sắc của tiếng trống týõi tắn hõn, linh ðộng hõn. Rù là hai dùi ðánh mau và không mạnh lắm vào mặt trống. Khi ðánh mau trong một chỗ gọi là tà roong, tà rờn, tà rùng, tà ráng …
Về kỹ thuật biểu diễn, trong các tiếng trống luôn luôn có tiếng âm và dýõng trộn lẫn với nhau chớ không ðõn thuần một tiếng trống âm hay dýõng mà thôi. Phong cách này phù hợp với triết lý của dân gian quan niệm rằng vũ trụ có ðýợc do sự phối hợp của hai yếu tố âm và dýõng, tuy khác nhau nhýng không ðối chọi mà bổ sung cho nhau.
Trong Hát bội và Nhạc lễ có các bài bản dành riêng cho trống với ðầy ðủ công thức nhý câu thủ (mở ðầu), câu vĩ (kết thúc). Ngoài những nhịp ðiệu cõ bản, trống Việt Nam còn có những biến tấu, một khi nắm vững công thức ðánh mở ðầu và kết thúc thì ðoạn giữa có thể ứng tác ứng tấu ðýợc. Vì vậy khi học ðánh trống thì phải học chân phýõng, nhýng khi biểu diễn phải có thêm hoa thêm lá, thêm nhýn thêm nhuỵ cho ðẹp hõn. Trong yếu tố về mỹ học cho phép ngýời biểu diễn không cần giữ những công thức cố ðịnh mà có thể thay ðổi cho sinh ðộng.
Cách ðánh này chỉ có trong truyền thống Ấn Ðộ và Việt Nam, còn các nýớc khác hầu hết ðều phải cố ðịnh.
Chức nãng ða dạng
Ở các nýớc, ða phần tiếng trống chỉ ðể phụ hoạ theo nét nhạc, làm thành tiết tấu của bản nhạc mà không có nhiều chức nãng nhý trong truyền thống Việt Nam.
Trýớc ðây, trống ðại cổ không chỉ dùng trong các dịp lễ tế thần mà còn sử dụng trong ðời sống hàng ngày nhý trống ðiểm canh ðể báo hiệu từng canh giờ trong ðêm; hay dùng ở trýờng học những lúc khai trýờng, nhập học và tan lớp.
Ngoài ra, chiều về hễ nghe tiếng trống thùng thùng diễu qua các con ðýờng làng thì mọi ngýời ðều nôn nao:
Ãn no rồi lại nằm khoèo
Nghe tiếng trống chèo vác bụng ði xem
Mặt khác, mỗi khi có tiếng trống vang lên hồi một chính là ðể báo ðộng các tai biến xảy ra trong làng xóm (cháy nhà, tai nạn, chết ngýời …).
Thời chinh chiến, "thùng thùng trống ðánh ngũ liên" ban hiệu lệnh xuất quân thúc giục ngýời chiến sĩ lên ðýờng ra trận giữ yên bờ cõi.
Ðiểm ðặc sắc nhứt là vai trò quan trọng của trống trong các bộ môn nghệ thuật truyền thống nhý Ca trù, Hát bội, Chèo.
Chèo
Trống ðóng vai trò không thể thiếu trong bộ môn nghệ thuật chèo, gồm một trống ðại cổ gọi là trống cái (trống chầu) và cái trống ðế.
Trống chèo có những chức nãng khác nhý khi khai tràng (mở ðầu) có tiếng trống chầu, trống ðế (chèo). Ðánh những bài ðầu thì tiếng trống nổi lên hợp với tiếng mõ và tiếng la tạo ra một không khí sôi ðộng ðể cho mọi ngýời chú ý ðể mở màn.
Trống ðế dùng hai dùi, khi ðánh mau vào hai bên tang trống là róc tang; ðánh vào giữa mặt trống là lên mặt; tay trái ðè mặt trống, tay phải gõ dùi lên mặt trống la bịt mặt; hai dùi ðánh mau trên mặt trống là ðổ trống. Ðánh theo nhịp gọi là ðánh khổ trống với nhiều cách ðánh từ ðổ 2 nhịp, 4 nhịp, 6 nhịp ðến 8 nhịp. Không phải chỉ ðánh chân phýõng mà thýờng ðánh hoa lá, thay ðổi theo tình tiết của vở diễn, không khí trầm lắng hay rộn rịp của lớp trò và diễn tả ðýợc tâm trọng vui buồn của nhân vật.
Do trống ðế là nhạc khí chủ ðạo nên ngýời ðánh trống ðế gần nhý là chỉ huy dàn nhạc. Ngýời ðánh trống càng tinh tế tài hoa thì diễn viên và dàn nhạc càng hứng thú và hiệu quả buổi diễn sẽ càng cao.
Hát bội
Trống chầu
Trong Hát bội nhạc khí ðặc biệt nhứt là trống chầu, một chiếc ðại cổ ðặt bên cạnh sân khấu kế bên dàn nhạc. Ngýời ðánh trống chầu không thuộc thành phần nhạc công trong dàn nhạc mà là ngýời am hiểu nghệ thuật Hát bội ðể vừa ðại diện khán giả, vừa hýớng dẫn ngýời xem trong việc phê phán, khen chê một cách chính xác.
Ngýời ðánh trống chầu giỏi cũng phải am hiểu vãn chýõng của tuồng ðể ðiểm trống cho ðúng vì tiếng trống chầu cũng tựa nhý dấu chấm, dấu phết trong một câu vãn. Ðánh ðúng cách, nói theo giọng nhà nghề là không "ðánh lọt vào trong họng" của diễn viên, mà ðôi khi còn "ðỡ giọng" giúp cho ðào kép bằng cách dùng tiếng trống phụ với dàn nhạc gây không khí sôi ðộng cho sân khấu. Ðánh một tiếng là ðiểm câu, hai tiếng là khen vừa, ba tiếng là khen nhiều.
Chính vì vậy ngày xýa trong làng hễ ðêm nào nghe tiếng trồng chầu nhiều mọi ngýời bảo nhau: "Chà, hôm nay tiếng trống chầu ðánh nhiều, chắc là ðoàn này diễn hay lắm, mai phải ði xem mới ðýợc".
Ca Trù
Trong Ca trù, ngoài ðào nýõng ca, kép ðờn ðáy phụ hoạ còn có ngýời ðánh trống chầu, không chỉ thuần tuý ðánh nhịp mà còn nhằm nhận xét, khen chê. Ngýời ðánh trống chầu phải là ngýời thật am hiểu Ca trù và thông thạo lề lối ðánh trống, hễ ðoạn nào ả ðào (diễn viên) hát hay sẽ ngợi khen bằng cách gõ một bên tang trống gọi là chát, hoặc ðánh giữa mặt trống gọi là tom (vì thế dân gian còn gọi việc ði nghe hát Ca trù là thú tom chát). Có nhiều khổ trống dùng ðể khen giọng hát hát, tiếng ðàn mang tên ðầy thi vị nhý song châu, liên châu, xuyên tâm, phi nhạn …
Tóm lại, trên thế giới không có nõi nào có tiếng trống có nhiều cách ðánh ðể bày tỏ sự khen ngợi nhý vậy, với nhiều công thức khác nhau nhý khen trýớc khi dứt câu khác với sau khi dứt câu, cách khen tiếng ðàn cũng khác với khen giọng hát ...
* * *
Có thể nói, xýa nay ngýời Việt Nam khi thýởng thức âm nhạc ít lýu tâm ðến tiếng trống, không cảm nhận ðýợc tầm quan trọng của trống trong âm nhạc truyền thống. Rõ ràng nhìn vào bề sâu mới thấy trống có vai trò chủ ðạo, dẫn dắt trong sự biểu diễn của một số bộ môn chớ không chỉ ðõn thuần ði theo, phụ họa.
Ðáng tiếc là một số thanh niên chúng ta ngày nay chỉ mê trống Jazz mà chýa hiểu hết những nét ða dạng, phong phú, sinh ðộng của tiếng trống Việt Nam. Một khi ðã biết rồi chắc chắn chúng ta sẽ phải xem ðó là một niềm hãnh diện, bởi tiếng trống và cách sử dụng tiết tấu là một trong những ýu thế của âm nhạc truyền thống VN.
Trần Vãn Khê 08/12/2005
Thùng thùng trống ðánh ngũ liên
Trống Ấn Ðộ
Trống Phi Châu
Trống là một nhạc khí dùng chia thời gian thành những quãng ðều nhau hay không ðều ðể tạo ra nhịp ðiệu, tiết tấu. Trên thế giới ngýời ta chia trống thành hai loại: một mặt da và hai mặt da. Bộ phận quan trọng nhất là thùng trống có nhiều hình thức khác nhau (ống dài, tròn dẹp, lýng ong, thùng rýợu ) với cách ðánh khác nhau (ðánh bằng dùi hay vỗ bằng tay). Kỹ thuật chế tạo trống: dán mặt da, ðóng ðinh, ðóng cút, cãng dây,và phong cách biểu diễn ở phần lớn các nýớc ðều týõng tợ nhau, chỉ khác nhiều về chức nãng của trống.
Ðặc sắc nhất có thể nói là Ấn Ðộ với những cách ðánh từng loại trống rất tinh vi về nghệ thuật.Trống ở châu Phi thể hiện nhý ngôn ngữ trò chuyện, thậm chí ðối thoại với nhau từ hai bên bờ sông.
Riêng trống của Việt Nam có một số ðiểm ðặc biệt hõn ở các nýớc khác, với sự ða dạng về hình thức, ðộc ðáo về màu âm và phong phú về chức nãng mà trên thế giới ít nõi nào sánh bằng.
Hình thức ða dạng
Một trong những loại trống ðộc ðáo của chúng ta là cái bồng, một nhạc cụ có vị trí rất ðặc biệt trong Ðại nhạc của Nhạc cung ðình và Nhạc lễ ở miền Nam
Bồng là loại trống một mặt, thân trống bằng gỗ hay ðất nung hình dáng nhý cái bình, phía dýới bịt kín, phía trên miệng xoè có bịt miếng da trãn. Chung quanh vành da trãn xoi hõn 20 lỗ ðể lòn dây mây qua cãng thẳng mặt trống và thắt chặt ở bên dýới. Một sợi dây mây khác cột miết các sợi dây chằng, khi siết mạnh mặt trống ðýợc cãng ra và tiếng bồng cao hõn, khi buông thả ra thì tiếng trống trầm. Ngýời sử dụng hoặc ngồi trên ghế kẹp bồng giữa hai ðùi, hoặc ngồi xếp bằng ðể chiếc bồng thắt ðáy lýng ong giữa hai chân, hai tay vỗ bồng
Trống hai mặt thì Việt Nam có rất nhiều, thông thýờng chia ra hai loại tiểu cổ (trống nhỏ) và ðại cổ (trống lớn).
Tiểu cổ tuy gọi là trống nhỏ nhýng bao gồm nhiều loại từ nhỏ cho ðến vừa và hõi lớn.
Trống chầu trong Ca trù thuộc loại tiểu cổ, không có kích thýớc cố ðịnh mà chiều cao và ðýờng kính khoảng chừng 20 phân, sử dụng một roi chầu dài ðể ðánh theo phong cách rất riêng, roi trống song song với mặt trống và một tay vịn một tay ðánh.
Trống ðế trong Chèo cũng là tiểu cổ có hai mặt với ðýờng kính từ 17 ðến 20 phân, cao từ 22 ðến 24 phân, sử dụng hai dùi và ðánh cả trên bề mặt, ở mé trống và cả tang trống.
Nhỉnh hõn một chút có loại dùng trong Rỗi bóng là cái trống dẹp với phong cách ðánh ðặc thù ðýợc bà bóng sử dụng vừa ðánh trống vừa hát trong các buổi lên ðồng.
Lớn hõn nữa có trống chiến trong Hát bội (Hát tuồng), một tiểu cổ hình ống hai da, cao 45 phân, mặt trống có ðýờng kính khoảng 50 phân và ðánh bằng hai dùi.
Một loại trống ðặc biệt không phải tiểu cổ cũng chẳng phải ðại cổ là trống võ có mặt trong dàn ðại nhạc của Nhạc cung ðình hay Nhạc lễ ở miền Nam, ðýờng kính từ 40 ðến 45 phân, cao chýa ðến 20 phân, ðặt trên giá ba chân bằng gỗ.
Thông thýờng trống trong dàn Ðại nhạc hõi cao hõn trống của Nhạc lễ, nhýng ðýờng kính bề mặt lại nhỏ hõn ðôi chút. Dàn Nhạc lễ trong ðám tang có một cặp trống nhạc gọi là trống vãn và trống võ (hay trống ðực và trống cái) bề cao 15 phân, ðýờng kính 40 phân làm bằng da trâu, chính giữa mặt trống có vẽ vòng tròn âm dýõng, ðặt trên một cái giá ba chân. Ngýời ðánh trống là nhạc công chánh nên lúc nào cũng phải mặc áo dài ðen, quần trắng và sử dụng một cặp dùi ðầu nhọn.
Ðại cổ là trống chầu, có trong Hát chèo, Hát bội, Nhạc cung ðình và trong tất cả các ðền thờ miếu mạo ở miền Nam.
Ngoài ra có một loại trống khác mà ít ngýời ðể ý là trống cõm, nguồn gốc từ miền Nam Ấn Ðộ gọi là trống Mridangam, trên mặt trống có một ít cõm nghiền hoặc miếng bột mì trộn nhuyễn nhý miếng bánh,dán lên làm cho tiếng trống êm ái hõn. Trống cõm là nhạc cụ quan trọng trong Nhạc lễ và Hát bội. Còn trong Hát chèo thì trống cõm chỉ ðóng vai trò ðánh luồn vào ðàn chớ không có bài bản riêng.
Trong âm nhạc truyền thống, trống hiện diện nhiều nhứt là trong dàn ðại nhạc của Nhạc cung ðình với ðủ các loại từ ðại cổ, tiểu cổ, cặp trống võ (trống lễ), ðến bồng và trống cõm.
Ðộc ðáo màu âm
Trống trong truyền thống Việt Nam có màu âm hết sức ða dạng, sự phối hợp cũng ðộc ðáo với nhiều chức nãng phong phú mà ít ai ngờ.
Trong Hát bội cũng nhý trong Nhạc lễ, màu âm của tiếng trống ðýợc sử dụng hết sức tinh vi, màu âm khác nhau thì mang ý nghĩa khác nhau.
Tong, thờn, tùng, thùng khi ðánh vào giữa mặt da dùng ðể ðánh nhịp hay ðể chấm câu. Tang, táng, tỏng khi ðánh vào vành da, ðây là cách ðánh sáng. Khi ðánh âm táng hay tong liên hồi diễn tả sự sôi ðộng của tâm hồn hoặc tâm trọng giận dữ, hốt hoảng. Tịch là một dùi chặn, một dùi ðánh vào giữa mặt da, cũng gọi là cách ðánh tối, khi nhân vật biểu lộ sự ngạc nhiên, suy nghĩ hay do dự, có khi nghẹn ngào, uất ức. Cắc là ðánh vào tang trống hay vào dãm gỗ khiến màu sắc của tiếng trống týõi tắn hõn, linh ðộng hõn. Rù là hai dùi ðánh mau và không mạnh lắm vào mặt trống. Khi ðánh mau trong một chỗ gọi là tà roong, tà rờn, tà rùng, tà ráng …
Về kỹ thuật biểu diễn, trong các tiếng trống luôn luôn có tiếng âm và dýõng trộn lẫn với nhau chớ không ðõn thuần một tiếng trống âm hay dýõng mà thôi. Phong cách này phù hợp với triết lý của dân gian quan niệm rằng vũ trụ có ðýợc do sự phối hợp của hai yếu tố âm và dýõng, tuy khác nhau nhýng không ðối chọi mà bổ sung cho nhau.
Trong Hát bội và Nhạc lễ có các bài bản dành riêng cho trống với ðầy ðủ công thức nhý câu thủ (mở ðầu), câu vĩ (kết thúc). Ngoài những nhịp ðiệu cõ bản, trống Việt Nam còn có những biến tấu, một khi nắm vững công thức ðánh mở ðầu và kết thúc thì ðoạn giữa có thể ứng tác ứng tấu ðýợc. Vì vậy khi học ðánh trống thì phải học chân phýõng, nhýng khi biểu diễn phải có thêm hoa thêm lá, thêm nhýn thêm nhuỵ cho ðẹp hõn. Trong yếu tố về mỹ học cho phép ngýời biểu diễn không cần giữ những công thức cố ðịnh mà có thể thay ðổi cho sinh ðộng.
Cách ðánh này chỉ có trong truyền thống Ấn Ðộ và Việt Nam, còn các nýớc khác hầu hết ðều phải cố ðịnh.
Chức nãng ða dạng
Ở các nýớc, ða phần tiếng trống chỉ ðể phụ hoạ theo nét nhạc, làm thành tiết tấu của bản nhạc mà không có nhiều chức nãng nhý trong truyền thống Việt Nam.
Trýớc ðây, trống ðại cổ không chỉ dùng trong các dịp lễ tế thần mà còn sử dụng trong ðời sống hàng ngày nhý trống ðiểm canh ðể báo hiệu từng canh giờ trong ðêm; hay dùng ở trýờng học những lúc khai trýờng, nhập học và tan lớp.
Ngoài ra, chiều về hễ nghe tiếng trống thùng thùng diễu qua các con ðýờng làng thì mọi ngýời ðều nôn nao:
Ãn no rồi lại nằm khoèo
Nghe tiếng trống chèo vác bụng ði xem
Mặt khác, mỗi khi có tiếng trống vang lên hồi một chính là ðể báo ðộng các tai biến xảy ra trong làng xóm (cháy nhà, tai nạn, chết ngýời …).
Thời chinh chiến, "thùng thùng trống ðánh ngũ liên" ban hiệu lệnh xuất quân thúc giục ngýời chiến sĩ lên ðýờng ra trận giữ yên bờ cõi.
Ðiểm ðặc sắc nhứt là vai trò quan trọng của trống trong các bộ môn nghệ thuật truyền thống nhý Ca trù, Hát bội, Chèo.
Chèo
Trống ðóng vai trò không thể thiếu trong bộ môn nghệ thuật chèo, gồm một trống ðại cổ gọi là trống cái (trống chầu) và cái trống ðế.
Trống chèo có những chức nãng khác nhý khi khai tràng (mở ðầu) có tiếng trống chầu, trống ðế (chèo). Ðánh những bài ðầu thì tiếng trống nổi lên hợp với tiếng mõ và tiếng la tạo ra một không khí sôi ðộng ðể cho mọi ngýời chú ý ðể mở màn.
Trống ðế dùng hai dùi, khi ðánh mau vào hai bên tang trống là róc tang; ðánh vào giữa mặt trống là lên mặt; tay trái ðè mặt trống, tay phải gõ dùi lên mặt trống la bịt mặt; hai dùi ðánh mau trên mặt trống là ðổ trống. Ðánh theo nhịp gọi là ðánh khổ trống với nhiều cách ðánh từ ðổ 2 nhịp, 4 nhịp, 6 nhịp ðến 8 nhịp. Không phải chỉ ðánh chân phýõng mà thýờng ðánh hoa lá, thay ðổi theo tình tiết của vở diễn, không khí trầm lắng hay rộn rịp của lớp trò và diễn tả ðýợc tâm trọng vui buồn của nhân vật.
Do trống ðế là nhạc khí chủ ðạo nên ngýời ðánh trống ðế gần nhý là chỉ huy dàn nhạc. Ngýời ðánh trống càng tinh tế tài hoa thì diễn viên và dàn nhạc càng hứng thú và hiệu quả buổi diễn sẽ càng cao.
Hát bội
Trống chầu
Trong Hát bội nhạc khí ðặc biệt nhứt là trống chầu, một chiếc ðại cổ ðặt bên cạnh sân khấu kế bên dàn nhạc. Ngýời ðánh trống chầu không thuộc thành phần nhạc công trong dàn nhạc mà là ngýời am hiểu nghệ thuật Hát bội ðể vừa ðại diện khán giả, vừa hýớng dẫn ngýời xem trong việc phê phán, khen chê một cách chính xác.
Ngýời ðánh trống chầu giỏi cũng phải am hiểu vãn chýõng của tuồng ðể ðiểm trống cho ðúng vì tiếng trống chầu cũng tựa nhý dấu chấm, dấu phết trong một câu vãn. Ðánh ðúng cách, nói theo giọng nhà nghề là không "ðánh lọt vào trong họng" của diễn viên, mà ðôi khi còn "ðỡ giọng" giúp cho ðào kép bằng cách dùng tiếng trống phụ với dàn nhạc gây không khí sôi ðộng cho sân khấu. Ðánh một tiếng là ðiểm câu, hai tiếng là khen vừa, ba tiếng là khen nhiều.
Chính vì vậy ngày xýa trong làng hễ ðêm nào nghe tiếng trồng chầu nhiều mọi ngýời bảo nhau: "Chà, hôm nay tiếng trống chầu ðánh nhiều, chắc là ðoàn này diễn hay lắm, mai phải ði xem mới ðýợc".
Ca Trù
Trong Ca trù, ngoài ðào nýõng ca, kép ðờn ðáy phụ hoạ còn có ngýời ðánh trống chầu, không chỉ thuần tuý ðánh nhịp mà còn nhằm nhận xét, khen chê. Ngýời ðánh trống chầu phải là ngýời thật am hiểu Ca trù và thông thạo lề lối ðánh trống, hễ ðoạn nào ả ðào (diễn viên) hát hay sẽ ngợi khen bằng cách gõ một bên tang trống gọi là chát, hoặc ðánh giữa mặt trống gọi là tom (vì thế dân gian còn gọi việc ði nghe hát Ca trù là thú tom chát). Có nhiều khổ trống dùng ðể khen giọng hát hát, tiếng ðàn mang tên ðầy thi vị nhý song châu, liên châu, xuyên tâm, phi nhạn …
Tóm lại, trên thế giới không có nõi nào có tiếng trống có nhiều cách ðánh ðể bày tỏ sự khen ngợi nhý vậy, với nhiều công thức khác nhau nhý khen trýớc khi dứt câu khác với sau khi dứt câu, cách khen tiếng ðàn cũng khác với khen giọng hát ...
* * *
Có thể nói, xýa nay ngýời Việt Nam khi thýởng thức âm nhạc ít lýu tâm ðến tiếng trống, không cảm nhận ðýợc tầm quan trọng của trống trong âm nhạc truyền thống. Rõ ràng nhìn vào bề sâu mới thấy trống có vai trò chủ ðạo, dẫn dắt trong sự biểu diễn của một số bộ môn chớ không chỉ ðõn thuần ði theo, phụ họa.
Ðáng tiếc là một số thanh niên chúng ta ngày nay chỉ mê trống Jazz mà chýa hiểu hết những nét ða dạng, phong phú, sinh ðộng của tiếng trống Việt Nam. Một khi ðã biết rồi chắc chắn chúng ta sẽ phải xem ðó là một niềm hãnh diện, bởi tiếng trống và cách sử dụng tiết tấu là một trong những ýu thế của âm nhạc truyền thống VN.