|
DALAT
Nov 23, 2006 10:43:31 GMT 9
Post by Huu Le on Nov 23, 2006 10:43:31 GMT 9
Đà Lạt Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm Hồ Xuân Hương nhìn từ Công viên YersinĐà Lạt là một thành phố trực thuộc tỉnh và tỉnh lị tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên Lâm Viên, ở độ cao 1500 m so với mặt nước biển. Với nhiều cảnh quan đẹp, Đà Lạt là một trong những thành phố du lịch nổi tiếng nhất của Việt Nam. Dân số 188.467 người (2004). Mục lục 1 Địa lý 1.1 Vị trí 1.2 Các đơn vị hành chính 1.3 Địa hình 1.4 Khí hậu 2 Lịch sử 3 Dân cư 3.1 Phát triển dân số 3.2 Kết cấu dân số 3.3 Thành phần dân tộc 4 Kinh tế 5 Kiến trúc 5.1 Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt 5.2 Chợ Đà Lạt 5.3 Ga Đà Lạt 5.4 Thiền viện và chùa 5.5 Nhà thờ 5.6 Dinh thự 6 Phong cảnh, địa điểm du lịch 6.1 Đồi Cù 6.2 Hồ Xuân Hương 6.3 Công viên hoa Đà Lạt 6.4 Các điểm tham quan du lịch khác 7 Con người 8 Xem thêm 9 Liên kết ngoài Địa lý Vị trí Thành phố Đà Lạt nằm trong cao nguyên Lang Biang, phía Bắc tỉnh Lâm Đồng, giáp ranh với huyện Đức Trọng và Đơn Dương Lạc Dương, Lâm Hà Hàng trăm năm trước đây, Đà Lạt là địa bàn cư trú của người Lạch, được hiểu như toàn bộ cao nguyên Lang Biang, diện tích hơn 400 km², bao bọc bởi các đỉnh núi cao và dãy núi liên tiếp: Phía Bắc và Tây Bắc giới hạn bởi dãy Chorơmui, Yộ Đa Myut (1.816 m), Tây Bắc dựa vào chân dãy núi Chư Yang Kae (1.921 m), thuộc quần sơn Lang Biang mà đỉnh cao nhất là Chư Yang Sinh (1.408 m). Phía Đông là chân dãy núi Bi Doup (2.278 m) dốc xuống cao nguyên Dran. Phía Đông Nam chắn bởi dãy Cho Proline (1.629 m). Phía Nam và Tây Nam có dãy núi Voi (1.754 m) và Yàng Sơreng bao bọc. Trải qua nhiều thời kỳ thay đổi, hiện nay tọa độ thành phố Đà Lạt được xác định như sau: Điểm cực Bắc: 12°04' Bắc. Điểm cực Nam: 11°52' Bắc. Điểm cực Tây: 108°20' Đông. Điểm cực Đông: 108°35' Đông. Về phía Bắc, Đà Lạt giáp với huyện Lạc Dương, về phía Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương, về phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng. Diện tích tự nhiên: 424 km². Nguồn: Đà Lạt thành phố cao nguyên, Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Lạt, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1993 [sửa] Các đơn vị hành chính Thành phố Đà Lạt có 12 phường (được đánh số từ 1 đến 12) và 3 xã: Tà Nung, Xuân Trường, Xuân Thọ. [sửa] Địa hình Cao trung bình so với mặt biển là 1.500 m. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Nhà Bảo Tàng (1.532 m), nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương (1.398,2 m). Bên trong cao nguyên, địa hình Đà Lạt phân thành hai bậc rõ rệt: Bậc địa hình thấp là vùng trung tâm có dạng như một lòng chảo bao gồm các dãy đồi đỉnh tròn, dốc thoải có độ cao tương đối 25-100 m, lượn sóng nhấp nhô, độ phân cắt yếu, độ cao trung bình khoảng 1.500 m. Bao quanh khu vực lòng chảo này là các đỉnh núi với độ cao khoảng 1.700 m tạo thành vành đai che chắn gió cho vùng trung tâm. Phía Đông Bắc có hai núi thấp: hòn Ông (Láp Bê Bắc 1.738 m) và hòn Bộ (Láp Bê Nam 1.709 m). Ở phía Bắc, ngự trị cao nguyên Lang Biang là dãy núi Bà (Lang Biang) hùng vĩ, cao 2.165 m, kéo dài theo trục Đông Bắc - Tây Nam từ suối Đa Sar (đổ vào Đa Nhim) đến Đa Me (đổ vào Đạ Đờng). Phía Đông án ngữ bởi dãy núi đỉnh Gió Hú (1.644 m). Về phía Tây Nam, các dãy núi hướng vào Tà Nung giữa dãy Yàng Sơreng mà các đỉnh cao tiêu biểu là Pin Hatt (1.691 m) và You Lou Rouet (1.632 m). Bên ngoài cao nguyên là các dốc núi từ hơn 1.700 m đột ngột đổ xuống các cao nguyên bên dưới có độ cao từ 700 m đến 900 m. Từ đặc điểm địa hình, các cảnh quan của Đà Lạt được tạo lập hết sức kỳ thú. Trên mọi ngả đường ra vào Đà Lạt, cảnh quan đèo dốc khiến lữ khách tưởng như đang đứng trước một bức tranh với hình ảnh, màu sắc, đường nét thay đổi không dừng. Bao bọc đèo dốc là cảnh quan rừng thông thuần loại quanh năm xanh mượt. Rừng tiếp rừng trên những gân núi sườn đồi, cạnh những dinh thự và cả các khu nhà dân dã. Khi mùa mưa tới, hoa huệ báo vũ màu hồng, hoa mua màu tím nhạt điểm tô cho cảnh quan đồi cỏ, rừng thưa. Sang đông, từng đám hoa quỳ vàng rực báo mùa nắng tới, khiến cho cảnh quan núi cao dường như thêm phần xanh thẳm. Giữa các đồi núi là cảnh quan thung lũng, nơi bốn mùa đều có sương giăng buổi sớm. Đôi khi giữa biển sương mù nổi lên các ngọn đồi núi cao như các hòn đảo giữa khơi xa. Đến Đà Lạt, du khách không thể quên được vẻ hùng vĩ của cảnh quan ghềnh thác. Do sự phân cắt mạnh mẽ của địa hình, những dòng chảy trên cao nguyên Lang Biang trước khi đổ xuống cao nguyên bên dưới đã chảy trên vô số ghềnh thác lớn nhỏ. Ngoài các thác đã nổi tiếng từ lâu: thác Datanla, thác Prenn, thác Cam Ly, thác Ankroët... du khách thích mạo hiểm có thể khám phá ra nhiều thác khác cũng không kém xinh đẹp và hùng vĩ quanh Đà Lạt như thác Sơrailen, thác Huỳnh Chước, thác Hang Cọp, thác Bảy Tầng, thác Uyên Ương... xa hơn, về phía Nam Ban còn có thác Voi (Liêng Chơmiêng). [sửa] Khí hậu Do ảnh hưởng của độ cao và rừng thông bao bọc, Đà Lạt mang nhiều đặc tính của miền ôn đới. Nhiệt độ trung bình 18–21°C, nhiệt độ cao nhất chưa bao giờ quá 32°C và thấp nhất không dưới 5°C. Đà Lạt có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4. Mùa hè thường có mưa vào buổi chiều, đôi khi có mưa đá. Lượng mưa trung bình năm là 1562 mm và độ ẩm 82%. Đà Lạt không bao giờ có bão, chỉ có gió lớn do ảnh hưởng bão từ biển thổi vào vì sườn đông không có núi che chắn. [sửa] Lịch sử Cao nguyên Lang Biang trước năm 1893 là địa bàn cư trú của các tộc người Thượng. Người Việt đầu tiên có ý định khám phá vùng rừng núi Nam Trung Bộ là Nguyễn Thông, nhưng do nhiều lí do nên cho tới cuối đời ông vẫn không thực hiện được ý định của mình. Vào hai năm 1880 và 1881, bác sĩ hải quân Paul Néis và trung úy Albert Septans có những chuyến thám hiểm đầu tiên vào vùng người Thượng ở Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ, và họ được coi là hai nhà thám hiểm đầu tiên đã tìm ra cao nguyên Lang Biang. Hành trình của Paul Néis và Albert Septans mở đường cho nhiều chuyến đi khác như A. Gautier (năm 1882), L. Nouet (1882), thiếu tá Humann (1884). Ngày 3 tháng 8 năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ý định tìm đường núi từ Nha Trang vào Sài Gòn, nhưng chuyến đi này bất thành. Từ 28 tháng 3 đến 9 tháng 6 năm 1892, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha Trang, băng qua vùng cao nguyên Đắk Lắk để đến Stung Treng, nằm bên bờ sông Mê Công (thuộc địa phận Campuchia). Tháng 1 1893, Yersin nhận nhiệm vụ từ toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan, khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên sâu vào vùng người Thượng và kết thúc ở một địa điểm thuận lợi trên bờ biển Trung Kỳ. Yersin còn phải tìm hiểu về tài nguyên trong vùng: lâm sản, khoáng sản, khả năng chăn nuôi... Từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 26 tháng 6 năm 1893, Yersin đã thực hiện ba chuyến đi quan trọng. Và 15h30 ngày 21 tháng 6, Yersin đã phát hiện ra cao nguyên Lang Biang, trong nhật ký hành trình, ông ghi vắn tắt "3h30: grand plateau dénudé mamelonné" (3h30: cao nguyên lớn trơ trụi, gò đồi nhấp nhô). Với nhu cầu tìm một vùng đất có khí hậu ôn hòa, gần giống với châu Âu để xây dựng khu nghỉ mát, trạm điều dưỡng, toàn quyền Paul Doumer viết một bức thư hỏi ý kiến của Yersin, và Yersin đã trả lời là cao nguyên Lang Biang. Tháng 3 năm 1899, Yersin cùng toàn quyền Doumer thực hiện một chuyến đi lên cao nguyên Lang Biang và chuyến đi này có ý nghĩa quyết định về việc thành lập một trạm điều dưỡng ở đây. Ngày 1 tháng 11 năm 1899, Doumer ký nghị định thành lập ở Trung Kỳ tỉnh Đồng Nai Thượng (Haut-Donnai) và hai trạm hành chính được thiết lập tại Tánh Linh và trên cao nguyên Lang Biang. Đó có thể được xem là văn kiện chính thức thành lập trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang Biang – tiền thân của thành phố Đà Lạt sau này. Ngày 20 tháng 4 năm 1916, vua Duy Tân đã ra đạo dụ thành lập thị tứ, tức thị xã (centre urbain) Đà Lạt, tỉnh lị tỉnh Lâm Viên. Đạo dụ này được Khâm sứ J.E. Charles chuẩn y ngày 30 tháng 5 năm 1916. Trong hai thập niên 1900 và 1910, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường từ Sài Gòn và từ Phan Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt phát triển nhanh chóng. Vào năm 1893, vùng Đà Lạt ngày nay hầu như hoang vắng. Đến đầu năm 1916, Đà Lạt vẫn còn là một khu thị tứ nhỏ với độ 8 căn nhà gỗ tập trung hai bên bờ dòng Cam Ly, chỉ có 9 phòng khách sạn phục vụ du khách, đến cuối năm này mới nâng lên được 26 phòng. Cuối năm 1923, đồ án thiết kế đầu tiên hoàn thành, Đà Lạt đã có 1.500 dân. Ngày 31 tháng 10 năm 1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ ngày 11 tháng 10 cùng năm của vua Khải Định về việc thành lập thành phố (commune- thành phố loại 2) Đà Lạt cùng với việc tỉnh Đồng Nai Thượng được tái lập. Nhằm biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát ở Đông Dương, Nha giám đốc các sở nghỉ mát Lâm Viên và du lịch Nam Trung Kỳ được thành lập. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý, đại diện của Toàn quyền Đông Dương. Năm 1928 chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà Lạt. Năm 1936 một Hội đồng thành phố được bầu ra. Năm 1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Viên (Lang Bian) mới tái lập. Thị trưởng Ðà Lạt kiêm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên. Trong thời gian Thế chiến thứ hai, những người Pháp không thể về chính quốc nên họ tập trung lên nghỉ ở Đà Lạt. Nhiều nhu cầu rau ăn, hoa quả của người Pháp cũng được Đà Lạt cung cấp. Ngày 10 tháng 11 năm 1950, Bảo Ðại ký Dụ số 4-QT/TD ấn định địa giới thị xã Ðà Lạt. Theo Ðịa phương chí Ðà Lạt (Monographie de Dalat), năm 1953, thị xã Ðà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km², dân số: 25.041 người. Sau Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư từ Bắc vào Nam. Dưới chính quyền miền Nam, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo dục và khoa học. Năm 1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Tuyên Đức. Thị xã Ðà Lạt có 10 khu phố. Nhiều trường học và trung tâm nghiện cứu được thành lập: Viện Đại học Đà Lạt (1957), Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (1959), Thư viện Đà Lạt (1960), trường Đại học Chiến tranh Chính trị (1966), trường Chỉ huy và Tham mưu (1967)... Các công trình phục vụ du lịch được tiếp tục xây dựng và sửa chữa, hàng loạt biệt thự do các quan chức Sài Gòn, nhiều chùa chiền, nhà thờ, tu viện được xây dựng... Đà Lạt cũng là một điểm hấp dẫn với giới văn nghệ sĩ. Sau 1975, với sự rút đi của quân đội và bộ máy chính quyền miền Nam, nhưng được bổ sung bởi lượng cán bộ và quận đội miền Bắc, dân số Đà Lạt ổn định ở con số khoảng 86 ngàn người. Du lịch Đà Lạt hầu như bị lãng quên. Những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, hàng loạt khách sạn, nhà hàng được sửa chữa, nhiều biệt thự được đưa vào phục vụ du lịch... Đà Lạt trở thành một thành phố du lịch quan trọng của Việt Nam với nhiều lễ hội được tổ chức. Cuối năm 1975 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định Đà Lạt sẽ trở thành 1 trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng ngay sau đó đã điều chỉnh lại. Tháng 2 năm 1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định hợp nhất tỉnh Tuyên Ðức và thành phố Ðà Lạt thành tỉnh Lâm Ðồng. Ðà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Ðồng. [sửa] Dân cư [sửa] Phát triển dân số Trước Thế chiến thứ hai, dân số Đà Lạt rất ít, ngoài dân cư bản địa chỉ có một số ít người châu Âu làm công tác. Số người Kinh định cư đầu tiên ở Đà Lạt là những tù nhân, thay vì phải lưu đày ở Côn Đảo thì bị đưa lên Đà Lạt để khai phá đất hoang, xây dựng nhà cửa. Trong khoảng thời gian từ năm 1933 đến 1938 nhiều công trình giao thông được hoàn thành. Bắt đầu từ thời gian này dân số Đà Lạt bắt đầu tăng nhanh từ 1.500 người (1923) lên đến 9.000 người năm 1928 rồi 11.500 người vào năm 1936. Và đến cuối năm 1942, Đà Lạt đã đạt con số hai vạn dân. Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, các viên chức Pháp không có khả năng trở về quê hương nên đổ xô lên Đà Lạt nghỉ mát. Dân số tăng nhanh trong thời kỳ này: 13.000 người năm 1940, 20.000 người (1942) và lên đến 25.000 người năm 1944. Trong thời gian kháng chiến 9 năm (1945-1954) dân số Đà Lạt chựng lại ở vào khoảng 25.000 người. Vào cuối năm 1954 dân số tăng lên đến 52.000 người và giữa năm 1955 là 53.390 người do người dân miền Bắc di cư vào Nam. Từ đấy dân số Đà Lạt tăng 73.290 người vào năm 1965, 89.656 người (1970) và đến năm 1982 dân số Đà Lạt đã vượt qua con số 100.000 người. Năm 1999, dân số Đà Lạt là 129.400 người. Đến năm 2004 thành phố Đà Lạt có dân số là 188.467 người với mật độ dân số là 469 người/km² (số liệu năm 2004, nguồn: [1]) Tỷ lệ sinh, chết và tăng dân số tự nhiên của Đà Lạt: Năm Tổng số sinh Tỷ lệ sinh Tỷ lệ chết Tăng tự nhiên 1990 2.371 2,26% 0,40% 1,86% 1991 2.949 2,31% 0,47% 1,84% 1992 2.884 2,25% 0,46% 1,79% [sửa] Kết cấu dân số Dân số dưới 15 tuổi chiếm vào khoảng 33,5%, là một tỷ lệ khá lớn. Đây cũng là một đặc trưng chung cho dân số cả nước. Số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ 61,8%, trong đó tỷ lệ lao động trẻ (16 đến 25 tuổi) chiếm đa số. [sửa] Thành phần dân tộc STT Dân số Số người 01 Kinh 112.476 02 Tày 91 03 Thái 102 04 Hoa 1.779 05 Khmer 14 06 Mường 6 07 Nùng 88 08 Gia-Rai 1 09 Ê-Đê 4 10 Kơ Ho 1.407 11 Chàm 7 12 Hrê 1 13 M'Nông 20 14 Thổ 5 15 Mạ 12 16 Châu-ro 7 17 Chu-ru 8 18 Người nước ngoài 4 Dân số toàn thành phố 116.052 (Theo tài liệu Tổng điều tra dân số lần thứ II ngày 1 tháng 4 năm 1989 của Ban chỉ đạo điều tra dân số TP. Đà Lạt)
|
|
|
DALAT
Nov 23, 2006 10:59:23 GMT 9
Post by Huu Le on Nov 23, 2006 10:59:23 GMT 9
Kinh tế Kinh tế Đà Lạt có thế mạnh về du lịch, trồng hoa và rau. Phần lớn diện tích trồng hoa chuyên nghiệp của tỉnh Lâm Đồng tập trung tại Đà Lạt. Tổng cộng diện tích canh tác nông nghiệp của Đà Lạt vào khoảng 9.978 ha. Sản lượng rau hằng năm vào khoảng 170.000 tấn, trong đó có 35.000 tấn được xuất khẩu sang các nước Đông Bắc châu Á và ASEAN. Sản lượng hoa Đà Lạt hằng năm vào khoảng 540 triệu cành, trong đó xuất khẩu vào khoảng 33,3 triệu cành hoa. (Nguồn: [2]). [sửa] Kiến trúc "Tòa nhà" đầu tiên ở Đà Lạt là một đồn binh lợp lá vào năm 1898, tiếp theo đó là nhà bằng gỗ lợp tôn của viên công sứ Pháp năm 1900. Hotel du Lac mở cửa vào năm 1907. Năm 1916 người Pháp cho xây dựng thêm Hotel du Langbian Palace. ([3]). Đà Lạt thật sự trở thành thành phố khi người Pháp xây dựng thành phố theo đồ án thiết kế tổng thể của kiến trúc sư Ernest Hébrard. Năm 1933 kiến trúc sư Pineau trình bày một công trình nghiên cứu chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt. Đến năm 1940 kiến trúc sư Mondet thiết lập một đồ án mới, quay về với ý tưởng của Hébrard là bố trí các khu vực hành chánh và dân cư quanh hồ. Thế nhưng dự án này không được duyệt. Đà Lạt có nhiều công trình xây dựng đặc sắc, phần nhiều mang đặc trưng của kiến trúc kiểu Pháp. Trong thời gian vừa qua toàn cảnh kiến trúc đô thị của thành phố Đà Lạt đã bị phá vỡ vì xây dựng thiếu quy hoạch đồng bộ, lấn chiếm làm nhà ở và cơi nới, xây cất vô lối ngay trong biệt thự. Nếu so với nhiều thành phố khác trong cả nước, Đà Lạt vẫn là một thành phố trẻ, nhưng đó lại là một thành phố có đồ án thiết kế theo kiểu cách phương Tây. Đà Lạt trước kia là một thành phố do người Pháp xây dựng cho người Pháp, và các đồ án thiết kế đều phải do Phủ toàn quyền quyết định, các kỹ sư, kiến trúc sư, các đoàn lên Đà Lạt nghiên cứu về việc chỉnh trang, xây dựng đều được tuyển chọn kỹ lưỡng và nhất thiết phải có trình độ chuyên môn giỏi. Bài này hoặc đoạn này cần được wiki hóa. Xin hãy trình bày bài viết theo các hướng dẫn đề cập trong phần Wikipedia:Cẩm nang về văn phong, rồi bỏ chú thích này đi. Mặc dù là một thành phố có thiết kế theo kiểu Tây phưng, nhưng phong cách kiến trúc của Đà Lạt thì thật đa dạng và phong phú. Những biệt thự giữa ngàn thông xanh biếc xen những hàng mimosa hoa vàng và hàng liễu rũ thướt tha với những chuỗi hoa đỏ như những dải lụa. Các mái nhà thờ xuôi thẳng với tháp chuông vươn cao trên những ngọn thông như càng làm tăng thêm vẻ mơ màng, thanh thoát cho từng khối kiến trúc tạo cho ta có cảm tưởng như đang ở một xứ sở nào đó của trời Âu. Thế nhưng, giữa cảnh sắc ấy lại xuất hiện những mái chùa hiền hòa mà mái ngói đã phủ đầy rêu sẫm màu theo năm tháng và hoa sứ trắng ngát hương, cùng những căn nhà gỗ đơn sơ, soi mình trên dòng suối hay tựa hẳn vào sườn đồi xanh rờn cây lá. Đó cũng chính là vẻ độc đáo của Đà Lạt, mà thoạt nhìn, tưởng như đối nghịch nhau. Thực ra, hai dáng vẻ ấy lại bổ túc cho nhau, làm phong phú thêm cảnh quan cũng như phong cách kiến trúc khá đặc biệt của Đà Lạt - thành phố cao nguyên. Khi nghiên cứu về kiến trúc Đà Lạt, nhiều nhà khoa học đã có cùng một quan điểm về sự nhã hưởng của phong cách kiến trúc Pháp trong việc thiết kế xây dựng kiến trúc của Đà Lạt. Nói cách khác, kiến trúc Đà Lạt đã chịu sự chi phối của phong cách kiến trúc Pháp, cụ thể như sau : Kiến trúc vùng Bretagne (phía Tây nước Pháp) - Mái lợp bản thạch (ardoise). - Tường xây đá chẻ. - Tường hồi có nền xây cao hơn mái. Kiến trúc vùng Basque (Tây Nam nước Pháp) - Mái vươn rộng ra khỏi tường, độ dốc mái giảm ở mức trung bình. - Phần đưa ra xa của mái hắt có con sơn gỗ đầu tường với nhiều loại hình nhan, giàu tính sáng tạo. - Tường hồi quay ra mặt tiền. - Khung sườn nổi. - Bố cục mặt đứng tự do, không đối xứng. - Các chi tiết cửa, ban công được trình bày tinh tế. - Mái nhô tròn. Kiến trúc vùng Savoie (Đông Nam nước Pháp) Kiến trúc vùng này, nhìn chung cũng tưng tự như kiến trúc vùng Basque, nhưng có thêm một số đặc điểm sau : - Tầng dưới xây, tầng trên được đóng bằng gỗ. - Ban công rộng. Kiến trúc vùng Normandie (phía Tây Bắc nước Pháp) - Hệ thống mái ngói lớn, đa dạng, phần đôi mái được bẻ góc. - Mái nhô tròn, có tường xây đá chẻ đến sát cửa sổ về phía dưới, phía trên để lộ khung sườn gỗ b"ng gỗ tốt, xây chèn gạch. - Conxon bằng gỗ đục mộng chắc chắn. Sàn ghép bằng một hai lớp gỗ. Trần gỗ. Kiến trúc vùng Đông Bắc nước Pháp - Có độ dốc mái khá lớn. - Hình khối kiến trúc đơn giản, thường phân vị theo chiều đứng. Tổng thể kiến trúc bao gồm các khối tách biệt thường được báo hiệu sự thay đổi tầng mái. - Mái nhô tròn. Kiến trúc miền Nam nước Pháp - Bố cục nhà không đối xứng và nó được phân định theo chiều ngang. - Mái có độ dốc thấp, lại nhọn, nhô cao và có cửa kính lớn. Diện tích sàn và hiên rộng rãi. - Snh nh" ra khỏi công trình. Vật liệu ốp phía ngoài thường để trần. - Hệ thống cửa chiếm phần lớn mặt đứng công trình. Đáng lưu ý là hệ thống cửa vòm chịu nh hưởng của kiến trúc Tây Ban Nha. Tuy nhiên, do thời tiết ở miền Nam nước Pháp thường nóng và ít mưa, cho nên kiến trúc nguyên bản không phù hợp với môi trường Đà Lạt. Kiến trúc loại này chỉ xuất hiện rất hạn hữu ở Đà Lạt, sau khi chủ nhân của nó đã có cải tạo đi một số chi tiết cho phù hợp với khí hậu Đà Lạt. Phong cách kiến trúc kết hợp Bên cạnh những phong cách kiến trúc địa phương nước Pháp, ở Đà Lạt còn xuất hiện phong cách kiến trúc kết hợp với hai thể loại sau : - Thể loại thứ nhất : Loại này khá phổ biến, đó là phong cách kiến trúc địa phương nước Pháp được vận dụng để phù hợp với địa hình cũng như khí hậu thiên nhiên ở Đà Lạt. - Thể loại thứ hai : Là phong cách kết hợp giữa hai phong cách kiến trúc Pháp và Việt để tạo nên một thể loại kiến trúc mới, nhằm phù hợp với môi trường và thích nghi với điều kiện thời tiết, khí hậu của Đà Lạt. ([4]). [sửa] Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt Trường Cao đẳng Sư phạm Đà LạtTrường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt (trước kia là trường Grand Lycée Yersin) là kiến trúc được Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) công nhận là một trong số 1.000 công trình xây dựng độc đáo của thế giới trong thế kỷ 20. Trường được người Pháp thành lập năm 1927, do kiến trúc sư Moncet thiết kế và chỉ đạo xây dựng, dành cho con em người Pháp và một số gia đình người Việt giàu có. Năm 1932 trường Petit Lycée Dalat được đổi tên thành Grand Lycée de Dalat và đến năm 1935 trường có tên là Lycée Yersin để tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin. Dãy lớp học được xây hình vòng cung, gạch xây trường là gạch trần đỏ được chở từ châu Âu sang, mái được lợp bằng ngói làm từ nước Pháp. Hiện nay các tấm ngói lợp đã được thay thế do các tấm ngói cũ đã không còn sử dụng được nữa. Điểm nhấn của dãy nhà hình vòng cung là tháp chuông. Phía bên ngoài tháp chuông trước đây có 1 đồng hồ nhưng có lẽ đã bị tháo dỡ, du khách chỉ có thể thấy vết tích của chiếc đồng hồ lớn còn in lại trên nền gạch. Bên trên tháp chuông cũng không còn chuông do có lẽ đã bị tháo dỡ trong thời chế độ cũ. [sửa] Chợ Đà Lạt Ngôi chợ đầu tiên của Đà Lạt được vào năm 1929. Chợ được xây bằng cây, lợp mái tôn, vì thế mà còn được gọi là "Chợ Cây". Năm 1931 "Chợ Cây" bị cháy rụi, đến năm 1937 Công ty SIDEC xây dựng một ngôi chợ mới thay thế "Chợ Cây" (nay là rạp 3/4. Ngoài bưu điện Đà Lạt, rạp 3/4 cũng được xem là 1 tâm điểm của thành phố). Chợ Đà Lạt ngày nay (trước đây gọi là chợ mới) được khởi công xây dựng vào năm 1958 trên 1 thung lũng sình lầy ngay dưới chân đồi của chợ cũ, do kiến trúc sư Nguyễn Duy Đức thiết kế. Sau khi ở nước ngoài về, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ có tham gia chỉnh trang về quy hoạch và kiến trúc. Chợ được hoàn thành vào năm 1960, là một trong những ngôi chợ lầu đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1993, nhân dịp kỷ niệm 100 ngày tìm ra Đà Lạt, chợ đã được khởi công cải tạo nâng cấp. [sửa] Ga Đà Lạt Nhà ga xe hỏa Đà LạtGa Đà Lạt cho đến nay là ga duy nhất của Việt Nam được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nhà ga được kiến trúc sư người Pháp Moncet cùng với đồng nghiệp là Revenron thiết kế và lãnh đạo thi công. Công trình khởi công năm 1932 đến năm 1936 thì hoàn thành. Các kiến trúc sư đã thể hiện hình tượng dãy núi Langbian qua 3 vòm mái của nhà ga. Tuyến đường sắt từ Đà Lạt đi Tháp Chàm (Phan Rang) đã là tuyến đường sắt răng cưa duy nhất của Việt Nam từ trước đến nay. Rất tiếc là hệ thống răng cưa này đã bị tháo dỡ bán sắt vụn gần hết sau năm 1975. Cây cầu sắt dành cho tuyến tàu hỏa bắt qua sông Đa Nhim tại địa phận thị xã Dran cũng đã được chính quyền địa phương quyết định tháo dỡ vào năm 2004. Ga Đà Lạt hiện nay chỉ còn một chiếc đầu máy xe hỏa hơi nước chạy bằng than củi, 2 chiếc khác đã được Bảo tàng Xe hỏa Thụy Sĩ, bảo tàng chuyên về xe hỏa duy nhất trên thế giới, mua lại. Ga Đà Lạt hiện nay là điểm tham quan du lịch, hằng ngày có các chuyến tàu chở du khách đi từ ga đến Trại Mát. Đây cũng là một điểm tham quan thú vị. [sửa] Thiền viện và chùa Chùa Thiên Vương Cổ SátThiền viện Trúc Lâm là thiền viện lớn nhất Việt Nam, khánh thành năm 1994, là một trong những công trình xây dựng Phật giáo lớn nhất sau năm 1975. Chùa tọa lạc bên cạnh hồ Tuyền Lâm trên một khu đất rộng 25 ha. Thiền viện Trúc Lâm hiện nay được nối với Trung tâm thành phố Đà Lạt (đồi Robin) bằng hệ thống cáp treo, chuyên chở khách đến Thiền viện và quay về.Hồ Tuyền Lâm năm 2005 được chính quyền tỉnh Lâm Đồng xây dựng thành một khu du lịch lớn, thu hút khoảng khoảng 30 nhà đầu tư. Chùa Linh Phước còn được gọi là Chùa Ve Chai vì trong sân có con rồng dài 49 m được làm bằng 12.000 vỏ chai, sành sứ. Chùa là một kiến trúc khảm sành độc đáo của Đà Lạt. Chùa tọa lạc tại Trại Mát, cách trung tâm thành phố 10 km về phía Đông. Chùa Linh Sơn được xây dựng từ năm 1938 đến năm 1940 do sự đóng góp của các Phật tử, nhất là ông Nguyễn Văn Tiến và Võ Đình Dung, người đã nhận thầu hầu hết các công trình kiến trúc thời bấy giờ. Chùa Thiên Vương Cổ Sát được khởi xây năm 1958, cách trung tâm Đà Lạt vào khoảng 5 km, nằm trên một đồi thông. Chính điện chùa có 3 tượng Phật cao 4 m thỉnh từ Hồng Kông, phía sau chùa, trên đồi thông là tượng Thích Ca Phật Đài cao 20 m. Chùa còn được gọi là Chùa Tàu, theo hệ phái Phật giáo Huê Nghiêm của Trung Quốc. Chùa Linh Phong tọa lạc tại đường Hoàng Hoa Thám, được xây dựng năm 1944. Trong chùa chỉ có sư nữ tu nên chùa còn được gọi là Chùa Sư Nữ. Chùa Linh Quang, ngôi tổ đình đầu tiên của Đà Lạt, tọa lạc trên đường Hai Bà Trưng do hòa thượng Thích Nhân Thứ tạo lập năm 1931. [sửa] Nhà thờ Khuôn viên bên trong của nhà thờ Domain de MarieNhà thờ Chánh tòa thường được gọi là Nhà thờ Con gà vì có hình con gà trên nóc, biểu tượng cho thánh Phê-rô. Nhà thờ được khởi công xây dựng từ năm 1931, đến năm 1942 thì hoàn thành. Nhà thờ là một trong những kiến trúc tiêu biểu và cổ xưa của Đà Lạt. Ngoài ra Đà Lạt còn có nhiều nhà thờ khác như Nhà thờ Domaine de Marie với kiến trúc kiểu Pháp rất đẹp, nhà thờ Du Sinh có kiến trúc cổ truyền Việt Nam với mái cong và rồng. Nhà thờ Cam Ly được xây dựng từ năm 1960 đến 1968 theo kiểu nhà rông Tây Nguyên. [sửa] Dinh thự Đà Lạt có nhiều dinh thự và biệt thự đẹp như: Dinh I: đã từng là văn phòng quốc trưởng của Bảo Đại, nay được Công ty K'Gim - Hàn Quốc đầu tư thành khu khách sạn,giải trí cao cấp. Dinh II: từng là biệt thự nghỉ mát của toàn quyền Decoux, rồi sau đó là của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Cao Kỳ. Sau năm 1975 là nhà khách UBND tỉnh Lâm Đồng. Dinh III: còn gọi là dinh Bảo Đại, xây dựng từ năm 1933, nằm ở đường Triệu Việt Vương, gần Viện vacxin và các chế phẩm sinh học Đà Lạt. Từ năm 1949, Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều cương thổ, vua Bảo Đại sống với gia đình và làm việc tại đây. Hiện nay còn lưu giữ lại nguyên trạng 25 phòng và một số hiện vật của ông vua cuối cùng triều Nguyễn, hoàng hậu Nam Phương, các hoàng tử và công chúa. Vườn hoa trước biệt điện được chăm sóc công phu. Biệt thự Long Mỹ Quận Công Nguyễn Hữu Hào (cha của Nam Phương Hoàng Hậu Nguyễn Hữu Thị Lan - vợ vua Bảo Đại). Biệt thự Thống đốc Nam kỳ, nay là trụ sở UBND tỉnh Lâm Đồng. Biệt thự Hằng Nga. [
|
|
|
DALAT
Nov 23, 2006 10:59:48 GMT 9
Post by Huu Le on Nov 23, 2006 10:59:48 GMT 9
sửa] Phong cảnh, địa điểm du lịch Được ví như một Tiểu Paris (Little Paris), Đà Lạt từng mộng mơ và nên thơ nhờ cái lạnh cao nguyên ban đêm, sương mù buổi sớm và những dải rừng thông bao quanh thành phố. Không gian này tuy vậy đã phần nào bị mất đi cái chất Pháp trong các kiến trúc biệt thự thiếu chăm sóc hay bị sửa đổi không phù hợp. Du lịch tuy là một thế mạnh song cũng là yếu tố làm thay đổi Đà Lạt theo hướng đô thị hóa. [sửa] Đồi Cù Đồi Cù nằm giữa trung tâm thành phố Đà Lạt nằm kế bên là Hồ Xuân Hương do vậy thường được nhắc đến như một địa danh dính liền nhau - nhiều người cho rằng Đà Lạt sẽ kém phần mỹ lệ nếu thiếu Đồi Cù và hồ Xuân Hương. Năm 1942, khi thiết kế đồ án quy hoạch thành phố Đà Lạt, kiến trúc sư Lagisquet đã khoanh vùng Đồi Cù như một khu vực bất khả xâm phạm nhằm tạo một tầm nhìn thoáng đãng cho Đà Lạt. Về sau, một kiến trúc sư người Anh đã thiết kế biến Đồi Cù thành sân golf 9 lỗ khá nổi tiếng của vùng Đông Nam Á và Hiện nay Đồi Cù đã được nâng cấp thành sân golf 18 lỗ. Tên Đồi Cù không rõ có từ bao giờ, và vì sao gọi là “Đồi Cù” lại có hai hướng lý giải, có người cho rằng những quả đồi thoai thoải nơi đây khi nhìn từ xa giống như tấm lưng trần của những con cù khổng lồ nên đã ví von gọi là “Đồi Cù”; cũng có người giải thích sở dĩ có tên “Đồi Cù” vì nơi đây là một địa điểm chơi golf hay còn gọi là đánh cù. [sửa] Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương nằm ngay trung tâm thành phố Đà Lạt và bên cạnh Đồi Cù. Hồ thực chất là hồ nhân tạo được xây dựng vào năm 1919 do sáng kiến của Cunhac. Để tạo thành hồ, người ta đắp một cái đập chắn dòng suối chảy qua thung lũng, hồ có diện tích mặt nước rộng 25 ha, chu vi dài 5,1 km. Xung quanh hồ nhiều kiến trúc độc đáo có giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ cao được xây dựng như khách sạn Palace, thao trường Lâm Viên, nhà nghỉ Công Đoàn, Nhà hàng Thanh Thủy, Thủy Tạ... Trước kia hồ có tên gọi Grand Lac (hồ lớn). [sửa] Công viên hoa Đà Lạt Công viên hoa Đà Lạt nằm quanh trên bờ phía Bắc của hồ Xuân Hương, trên thung lũng của Đồi Cù. Trước đây công viên hoa Đà Lạt có tên là Bích Câu, hiện nay diện tích của công viên hoa được mở rộng tới 7000 m², với cách bố trí thoáng đãng, tạo ấn tượng cho người chợt ghé. Các loại hoa và cây cảnh nổi tiếng của Đà Lạt được trồng tỉa chăm sóc chu đáo, cảnh sắc tươi mát, phong phú bốn mùa. Hàng năm thường tổ chức lễ hội hoa và là thông điệp nhằm mời gọi, thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài phát triển Đà Lạt và các vùng phụ cận trở thành trung tâm sản xuất, xuất khẩu hoa của cả nước và khu vực Đông Nam Á. [sửa] Các điểm tham quan du lịch khác Thác PongourĐỉnh Lang Biang Hồ Than Thở Thác Cam Ly Thác Datanla Thác Hang Cọp Thác Prenn Thác Pongour Thung lũng Tình Yêu Đồi Mộng Mơ. Thung Lũng Vàng (gần Hồ Dan Kia). Hồ Tuyền Lâm Bàn xoay - Nhà hàng Phong Lan gần Chùa tàu [sửa] Con người Con người Đà Lạt thân thiện. Bạn có thể hỏi đường bất cứ một người nào mà bạn bắt gặp trên đường. Họ luôn tươi cười, đặc biệt là ngưỡi cô gái trẻ với đôi má đỏ hây hây vì tiết trời luôn se lạnh Về nguồn gốc địa danh Đà LạtThân Trọng Sơn Khi tìm hiểu về nguồn gốc địa danh Đà Lạt, có ý kiến cho rằng tên thành phố này xuất phát từ việc lấy những chữ cái của câu tiếng la tinh " Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem " mà ghép thành. Từ việc hình thành thành phố cao nguyên có khí hậu trong lành mát mẻ với vai trò của người Pháp, đặc biệt là bác sĩ, nhà thám hiểm Alexandre Yersin, ý nghĩa của câu trên ( Cho những người này niềm vui, những người khác sự mát lành ) với vỏ bề ngoài có vẻ văn chương, " bác học ", dễ thuyết phục nhiều người nếu chưa tìm hiểu cặn kẽ, chu đáo. Trước hết, tại sao từ Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem lại thành ra Đà Lạt, hay rõ hơn là Dalat ? Đây là một hiện tượng ngôn ngữ có nhiều trong tiếng Pháp ( hoặc tiếng Anh ), gọi là acronyme / acronym , tức là một từ được cấu tạo bởi những chữ cái đầu những từ khác. Những từ như radar hay laser là ví dụ rõ nhất của acronyme. Radar xuất phát từ " RAdio Detecting And Ranging " và laser là " Light amplification by the stimulated emission of radiation" . Một loạt tên gọi các tổ chức đều dùng theo kiểu này: ONU ( Organisation des Nations Unies - Tổ chức Liên Hiệp Quốc ), OTAN ( Organisation du Traité de l'Atlantique Nord - Tổ chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương ) ... Các tổ chức viết theo tiếng Anh cũng tương tự như thế : UNESCO ( United Nations Educational, Scientific, Cultural Organization, Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hoá Liên Hiệp Quốc,) UNICEF (United Nations Children's Fund, Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc). Acronyme gần giống ( chứ không phải là ) chữ viết tắt ( abréviation ). Điểm khác biệt là acronyme đọc lên như một từ, còn abréviation, chữ viết tắt, thì đọc từng chữ cái một. Căn bệnh SIDA ( tiếng Anh là AIDS ) được đọc như một từ, và ít ai để ý tới những từ tạo thành vì là thuật ngữ khoa học, khó hiểu, khó nhớ. Còn các từ sau đây là từ viết tắt, được đọc từng chữ cái một: TGV ( train à grande vitesse, tàu cao tốc ) , BBC (British Broadcasting Corporation) CNN (Cable News Network). Khi đọc giờ theo tiếng Anh ta quen dùng những từ viết tắt AM và PM do các từ la tinh ante meridiem và post meridiem, có nghĩa là trước ( ante ) hay sau ( post ) buổi trưa. Như vậy, acronyme là từ mới, thành lập bằng cách lấy chữ cái đầu những từ khác. Còn một hiện tượng thú vị khác có liên quan là: từ những từ có sẵn, người ta lấy những chữ cái đầu để sáng tạo ra những từ khác, tức là làm theo quy trình ngược lại, tiếng Pháp gọi là rétroacronyme, tiếng Anh backronym. Kiểu cấu tạo từ này chỉ để khôi hài, châm biếm, nhiều khi là một biện pháp chơi chữ: Thương hiệu các dụng cụ thể thao nổi tiếng Adidas ( do tên người sáng lập Adi Dassler) được diễn dịch là All Day I Dream About Sports ( Suốt ngày tôi mơ tới thể thao ) hoặc Argent Dépensé Inutilement Dans Achat Sportif (Tiền xài phí để mua đồ thể thao ). Tiếng Pháp có từ SDF chỉ những người vô gia cư ( Sans domicile fixe ) được chế thành Solitaire Dans la Foule ( cô đơn trong đám đông ). Người sành rượu cognac đều biết mấy chữ VSOP chỉ loại rượu được ủ lâu năm (từ 7 đến 10 năm ), do các từ Very Special Old Pale , được giải thích khôi hài là Verser Sans Oublier Personne ( Rót không quên ai )! Chẳng riêng gì tiếng Anh tiếng Pháp, trong tiếng Việt ta cũng có nhiều cách chơi chữ như thế này. Nhà văn Đái Đức Tuấn (1908 - 1968 ) lấy bút hiệu TchyA, khiến mọi người đoán : "Tôi chỉ yêu Adèle" hoặc " Tôi chẳng yêu ai / Tôi chưa hề yêu ai ". Thành phố Ban Mê Thuột / Buôn Ma Thuột, viết tắt BMT, có người đọc là Buồn Muôn Thuở hay là Bụi Mù Trời. Và từ lâu lắm, những tên gọi thuốc lá đều được đọc bằng nhiều cách rất tếu: SALEM: Sao Anh Làm Em Mệt và đọc ngược Mà Em Làm Anh Sướng CAPSTAN : ( một câu đọc xuôi, một câu ngược ): Chiếc áo phong sương tình anh nặng Nợ ân tình sao phụ anh chi Cho anh phát súng tim anh nát Nhưng anh tin số phận anh còn PALL MALL : Phòng ai lạnh lẽo, mình anh lạnh lùng Hay : Phải anh là lính, mời anh lên lầu. Rồi tới nhãn hiệu bia: CARLSBERG : Các Anh Ráng Lấy Sức Bế Em Ra Giường HEINEKEN : Hôn Em Ít Nên Em Khều Em Nhéo. Nếu Em Khoái Em Nằm Im Em Hưởng. HALIDA : Hãy Liều Đi Anh HUDA : Hãy Uống Đi Anh ( xuôi ) Anh Đã Uống Hết (ngược). Lan man dông dài nãy giờ không phải là lạc đề mà để có dẫn chứng để đi đến nhận định: từ cái tên Đà Lạt có sẵn, ai đó mới sáng tạo ra câu tiếng la tinh kia, chứ không phải ngược lại. Cũng cần nói cho rõ, thực ra là từ cái tên Dalat, tức là tên viết theo tiếng Pháp. Thời Pháp thuộc, nhiều địa danh Việt Nam đều được sách báo, bản đồ người Pháp ghi theo cách đọc tiếng Pháp. Buôn Ma Thuột trở thành Banméthuot. Sài Gòn ghi là Saïgon, Hà Nội biến thành Hanoï ( viết dính vào thành một chữ, với ï, i có hai chấm, i tréma , để giữ âm " ôi ", nếu không người Pháp sẽ đọc là " oa " ). Tên gọi đúng của thành phố này trước sau vẫn là Đà Lạt, không phải Dalat. Vậy thì nguồn gốc địa danh Đà Lạt là gì? Có ý kiến cho là Đà Lạt là cách đọc trại ( hay viết sai chính tả ? ) của Đa Lạc, nhiều niềm vui, viện dẫn địa danh của nhiều thôn xóm, khu phố của thành phố này như Đa Lợi, Đa Lộc, Đa Thành, Đa Lợi, Đa Thiện... Xem ra đây chỉ là một lý giải dễ dãi, hời hợt, thiếu chứng cứ, ít thuyết phục. Cách giải thích được chính thức công nhận cho rằng: Địa danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ Đạ Lạch, tên gọi của con suối Cam Ly. Khởi nguồn từ huyện Lạc Dương, dòng suối Cam Ly chảy qua khu vực Đà Lạt theo hướng bắc – nam, trong đó đoạn từ khoảng hồ Than Thở tới thác Cam Ly ngày nay được gọi là Đạ Lạch. Theo ngôn ngữ của người Thượng, Đạ hay Dak có nghĩa là nước, người Lạch (hay còn viết Làc, Lat, M'Lates) là tên gọi của một nhóm cư dân nhỏ người Kơ ho, sống lâu đời trên cao nguyên Lang Bian. "Lạch", theo tiếng địa phương, có nghĩa là "rừng thưa" dùng để chỉ vùng rừng thông, đồi trọc từ dãy Lang Bian trải dài xuống Tây Nam, bao gồm cả thành phố Đà Lạt ngày nay. Tên gọi Đà Lạt (Đạ Lạch) có nghĩa nước hay suối của người Lạch (Lát) . Ngay ông Cunhac, viên Công sứ đầu tiên của thành phố Đà Lạt cũng hiểu Đà Lạt như vậy. "À la place du lac coulait le petit ruisseau de la tribu des Lat et qu'on appelait "Dalat" (Da au Dak: eau en moi)". ( Ở chỗ hồ nước có dòng suối nhỏ của bộ tộc Lat chảy qua mà người ta gọi là Dalat - Da hay Dak nghĩa là nước theo tiếng Thượng ). Và Stanley Karnow, một sử gia nổi tiếng của Mỹ, trong bài Return to Dalat đăng trong "Smithsonian Magazine", một tạp chí Nhân Văn Khảo Cổ uy tín, cũng có ý kiến tương tự: Nằm ở độ cao khoảng 5000 feet ( 1500m ) so với mặt nước biển, cao nguyên có số dân thưa thớt gồm các sắc tộc miền thượng; năm 1893, Alexandre Yersin, một nhà khoa học gốc người Thuỵ Sĩ, với sở thích mạo hiểm, đã đi bộ lên vùng này. ( Yersin , người điều hành việc nghiên cứu tại Viện Pasteur Paris, sau này sang Trung Quốc, và phát hiện trực khuẩn gây bệnh dịch hạch lúc đó đang hoành hành ở châu Á và đe doạ phương Tây. ) Vẻ đẹp hoang sơ và khí hậu trong lành đã gây cho Yersin ấn tượng mạnh nên ông ra sức thuyết phục giới cầm quyền thực dân Pháp phát triển nơi này thành một trung tâm nghỉ dưỡng. Theo một vài nguồn tin, một quan chức không rõ tên đã đặt tên vùng đất này là Đà Lạt, có nghĩa là " con suối của dân tộc Lat ". Sau đó, một nhân vật có hiểu biết kinh điển đã tạo ra một châm ngôn quảng bá, một acronym ghép từ những chữ cái đầu tiên của câu tiếng la tinh " dat aliis laetitiam aliis temperiem - cho những người này niềm vui, những người khác khí hậu dễ chịu." Nói tóm lại, nguồn gốc địa danh Đà Lạt không phải xuất phát từ câu " Dat aliis laetitiam, aliis temperiem ". Hiện nay thành phố cao nguyên này còn được nhắc đến với những tên gọi khác : " Thành phố Mộng Mơ ", " Thành phố buồn ", "Thành phố sương mù " "Thành phố ngàn thông", "Thành phố ngàn hoa", "Xứ hoa Anh Đào" hay "Tiểu Paris". THÂN TRỌNG SƠN
|
|
|
DALAT
Apr 6, 2019 2:20:22 GMT 9
Post by Can Tho on Apr 6, 2019 2:20:22 GMT 9
ĐÀ LẠT – THỦ PHỦ ‘HOÀNG TRIỀU CƯƠNG THỔ’ Dansaigon Đà Lạt dù là vùng đất được phát hiện muộn (năm 1893) nhờ công của bác sĩ Yersin nhưng thành phố nhỏ này luôn được đặt ở một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia cho dù thời thế đã vần chuyển bao lần. Chính quyền thời Pháp thuộc từng xác định mảnh đất cao nguyên nhỏ bé này là thủ phủ Đông Dương và ra sức quy hoạch, xây dựng. Cựu hoàng Bảo Đại có một thời gian ngắn “làm chủ” vùng đất này và biến nó thành “đất của vua”. Ai muốn đặt chân đến lãnh thổ này (Đà Lạt) phải xin phép Nha công an Hoàng triều cương thổ thuộc Văn phòng Quốc trưởng ở Hà Nội và Sài Gòn “Đất của vua” Cựu hoàng Bảo Đại được Pháp đưa về nước năm 1949, cho lập chính phủ mới và làm quốc trưởng “Quốc gia Việt Nam”. Một năm sau, ông ra dụ số 6/QT/TG, lập Hoàng triều cương thổ đặt dưới quyền quản trị của khâm mạng (Nguyễn Đệ nhận chức vụ ấy) nhưng mọi quyết định đều do Khâm sứ Trung kỳ chuẩn phê. Dụ này cũng xác định Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều cương thổ và cao nguyên miền Nam. Mấy tháng sau, Bảo Đại bổ nhiệm đại tá Didelot làm đại diện cho quốc trưởng tại các tỉnh sơn cước Tây Nguyên: Đà Lạt, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk, Kon Tum, Pleiku, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng và gọi là “Hoàng triều cương thổ”, tức đất của nhà vua. Như vậy, Hoàng triều cương thổ trải dài trên khắp các tỉnh Tây Nguyên. Ngày 24/3/1955, đại diện quốc trưởng Bảo Đại đã đọc tuyên bố chấm dứt chế độ “Hoàng triều cương thổ” tại buổi lễ tổ chức trước Tòa hành chánh Kon Tum, với sự hiện diện của hàng ngàn đồng bào Thượng (dân tộc thiểu số). Như vậy, Hoàng triều cương thổ vỏn vẹn chỉ tồn tại có 4 năm 11 tháng. Đọc thêm Loạt ảnh Hà Nội năm 1977 của phi công Đông Đức Đến Đà Lạt phải có “visa” Chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Hữu Tranh, nguyên cán bộ Sở Khoa học kỹ thuật Lâm Đồng. Ông Tranh là người đã sống qua thời “Hoàng triều cương thổ” và có hơn 30 năm tổng hợp tư liệu và nghiên cứu về Đà Lạt. Khi hỏi đến thời kỳ Hoàng triều cương thổ, ông hào hứng kể : “Năm 1952, lúc ấy tôi mới 13 tuổi đã lên Đà Lạt đi học. Thời đó học sinh giỏi sẽ được nhà trường giới thiệu đưa lên Dinh Bảo Đại dự lễ vạn thọ của cựu hoàng và nhận quà do Bảo Đại tận tay trao”. Theo ông, cuộc sống ngày đó ở Đà Lạt rất bình yên. Ai muốn đặt chân đến lãnh thổ này phải xin phép Nha công an Hoàng triều cương thổ thuộc Văn phòng Quốc trưởng ở Hà Nội và Sài Gòn. Thời Pháp thuộc thì phải có giấy khám sức khỏe, phải có bảo lãnh. Thời Hoàng triều cương thổ không cần giấy khám sức khỏe, nhưng bắt buộc phải có người ở Đà Lạt bảo lãnh và phải có công ăn việc làm mới cho nhập cư. Nếu người được bảo lãnh mà phạm pháp thì chính quyền bắt ngay người bảo lãnh. “Luật pháp nước Nam thời đó có nhiều thứ để bàn nhưng luật lệ ở Đà Lạt có nhiều điểm riêng biệt và nghiêm lắm nên tệ nạn trộm cắp, cướp giật rất khó xảy ra. Ngoài đường người ăn xin, giang hồ đầu trộm đuôi cướp không có. Cờ bạc, rượu chè say xỉn công khai không xảy ra. Đường sá thì sạch sẽ. Chẳng hạn như chợ Đà Lạt (nay là khu Hòa Bình) thì khoảng 4 giờ chiều mọi người buôn bán đã xịt nước xung quanh rửa chợ sạch bong” – ông Tranh kể. Đọc thêm Câu chuyện qua ảnh cảm động về mối tình lính Úc và nàng điếm Vũng Tàu 1970 Nhà lề cửa lối Chúng tôi hỏi ông Tranh : “Chuyện xây nhà, lấn đất ra sao ?”, ông cười bảo: “Nhà cửa phải lề lối nghiêm túc, mà muốn xây nhà khó lắm. Thông thường những năm đó chỉ có thầu khoán đứng ra xin phép, xây dựng nhà cửa rồi bán lại. Thời thuộc Pháp, nhà cửa phải theo mẫu kiến trúc. Thời Hoàng triều cương thổ của quốc trưởng Bảo Đại, các thầu khoán xây nhà theo mẫu quy định, giống nhau trên từng con đường đã được xem xét. Chẳng hạn đường Duy Tân (nay là 3/2) chỉ có nhà 3 tầng liền nhau, đường Phan Đình Phùng chỉ có 2 tầng, đường Võ Tánh (nay là Bùi Thị Xuân) hai bên là nhà gỗ. Dọc theo đường Hai Bà Trưng là khu cư xá của các công sở ở Đà Lạt. Tất cả nhà dân thường làm một kiểu giống nhau, chỉ có một số con đường như Trần Hưng Đạo, Yersin, Trần Bình Trọng, Lê Hồng Phong bấy giờ… là mỗi nhà mỗi kiểu. Nhà dân cũng phải làm theo mẫu của ban kiến thiết lập ra. Ngay cả làm hàng rào, màu sơn hàng rào cũng phải được chính quyền cho phép”. Ông Nguyễn Văn Kỳ (91 tuổi, ở đường Lê Hồng Phong, TP Đà Lạt) là công chức làm việc cho quốc trưởng Bảo Đại trong việc đánh morse (truyền điện tín). Ông kể thời kỳ này, người Việt từ miền xuôi lên đây lập nghiệp rất khó khăn vì Hoàng triều cương thổ chú trọng đến việc phát triển đồng bào dân tộc và cư dân người Kinh hiện hữu. Đọc thêm Ảnh độc về Sài Gòn năm 1970 của Mark Cũng như thời kỳ Pháp thuộc, ở Đà Lạt và các vùng trong Hoàng triều cương thổ khi đốn cây, xây dựng nhà đều phải được chính quyền cấp phép, không ai được tự tiện chặt phá rừng, kể cả cây hoa trồng ven đường. Sau khi giải tán Hoàng triều cương thổ, chế độ Ngô Đình Diệm cho phép người Kinh lên Tây Nguyên sinh sống làm ăn tự do và bãi bỏ nhiều quy định có tính đặc thù khiến trật tự được xây dựng từ thời Pháp thuộc cho đến Hoàng triều cương thổ bị phá bỏ mau chóng. Giữ những gì còn lại Giữa năm 2014, Thủ tướng đã phê duyệt “Điều chỉnh quy hoạch chung TP Đà Lạt đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050”. Theo đó, Đà Lạt tương lai sẽ có diện tích gấp 10 lần hiện tại. Quy hoạch này xác định những vùng đất tương đồng với Đà Lạt về mặt thổ nhưỡng, khí hậu, điều kiện phát triển kinh tế để mở rộng môi trường đầu tư cho Đà Lạt và vùng phụ cận; đồng thời tạo nên những đô thị vệ tinh hỗ trợ cho sự phát triển của Đà Lạt, bảo vệ Đà Lạt hiện hữu theo hướng thành phố di sản, thành phố du lịch xanh. Đồ án do ThS.KTS Thierry Huau và nhóm chuyên gia quy hoạch tại Pháp thực hiện với sự phản biện của các cơ quan chuyên môn quy hoạch trong nước. Trong lần trao đổi với chúng tôi, ông Thierry Huau cũng nhấn mạnh về việc hình thành trục di sản tại Đà Lạt hiện hữu và tương lai để giữ được Đà Lạt – những gì còn lại. Lan Hương *********************************************** ngayxua.net/lich-su-hinh-thanh-va-phat-trien-da-lat-tinh-tuyen-duc-ngay-xua-va-nhung-buc-anh-mau-dep-nhat-truoc-1975-2.htmlLịch sử hình thành và phát triển Đà Lạt – Tỉnh Tuyên Đức ngày xưa và những bức ảnh màu đẹp nhất trước 1975Lịch sử hình thành và phát triển Đà Lạt – Tỉnh Tuyên Đức ngày xưa và những bức ảnh màu đẹp nhất trước 1975 LỊCH SỬ TỈNH TUYÊN ĐỨC (LÂM ĐỒNG NGÀY NAY)Tỉnh Tuyên Đức được thành lập theo Sắc lệnh số 261-NV ngày 19/5/1958 của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, trên cơ sở địa phận đô thị Đà Lạt và quận Dran của tỉnh Lâm Đồng. Tỉnh Tuyên Đức gồm 3 quận, 11 tổng, 28 xã (theo Nghị định số 592-BNV/NC7/NĐ ngày 30/10/1958 của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa): Quận Đơn Dương (Dran cũ) có 4 tổng: Lạc Mỹ, Linh Nhân, Tu Trang, Xuân Lạc. Quận Đức Trọng có 4 tổng: Dinh Tân, Mỹ Lệ, Ninh Thanh, Sơn Binh. Quận Lạc Dương có 3 tổng: Đa Tân, Nhân Lạc, Phước Thọ. Ngày 7/9/1967, tỉnh lỵ tỉnh Tuyên Đức được dời khỏi thị xã Đà Lạt đến xã Tùng Nghĩa, quận Đức Trọng. Từ năm 1976, tỉnh Tuyên Đức được sáp nhập vào tỉnh Lâm Đồng. Đà Lạt Hoàng Hôn năm 1967 – Hồ Xuân Hương Địa bàn tỉnh Tuyên Đức cũ hiện nay tương ứng với thành phố Đà Lạt và các huyện Đức Trọng (trừ xã Ninh Gia), Đơn Dương, Lạc Dương, Đam Rông và một phần huyện Lâm Hà cùng thuộc tỉnh Lâm Đồng ngày nay. Đà Lạt Hoàng Hôn năm 1967 – Phía trước là Hồ Xuân Hương LỊCH SỬ TÊN GỌI ĐÀ LẠTĐịa danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ Đạ Lạch, tên gọi của con suối Cam Ly. Khởi nguồn từ huyện Lạc Dương, dòng suối Cam Ly chảy qua khu vực Đà Lạt theo hướng Bắc – Nam, trong đó đoạn từ khoảng Hồ Than Thở tới thác Cam Ly ngày nay được gọi là Đạ Lạch.Theo ngôn ngữ của người Thượng, Da hay Dak có nghĩa là nước, tên gọi Đà Lạt có nghĩa nước của người Lát, hay suối của người Lát (người Cơ Ho). Trong một bài phỏng vấn đăиg trên tạp chí Revue Indochine tháng 4 năm 1944, côɴԍ sứ Cunhac, một trong những người tham gia xây dựng thành phố từ ngày đầu, đã nói: “Cho mãi tới những năm sau này, khung cảnh ban sơ νẫи không có gì thay đổi. Ở tại chỗ của cái hồ nước trước đó, con suối nhỏ của bộ lạc người Lát đã chảy qua và người ta đã gọi suối này là Đà Lạt”. Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Vào thời kỳ đầu, các bản đồ cũng như sách báo thường chỉ nhắc đến địa danh Dankia hay Lang Biang. Nhưng sau khi Đà Lạt được chọn làm nơi nghỉ dưỡng thay vì Dankia, và đặc biệt từ khi nơi đây trở thành một thành phố, địa danh Đà Lạt mới xuất hiện thường xuyên. Những người có côɴԍ kiến thiết thành phố còn sáng tạo một câu cách ngôn khéo léo bằng tiếng La Tinh: Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem, có nghĩa Cho người này nguồn vui, cho kẻ khác sức khỏe. Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Tác giả André Morval đã viết câu cách ngôn chiết тự này ở đầu một bài báo nhan đề Dalat: Cité de la Jeunesse với nội dung: “Những người khai sinh ra nơi nghỉ mát trên miền núi danh tiếng của chúng ta đã xác định một cách rất hợp lý những nét hấp dẫn và những đặc tính tốt bằng một câu cách ngôn ghép chữ đầu rất khéo léo để liền theo huy hiệu thành phố”. Năm 1937, khi xây dựng chợ Đà Lạt mới thay cho ngôi chợ cũ bằng gỗ bị cháy, người ta đã đề dòng chữ Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem trên tường đầu hồi của côɴԍ trình, phía trên là huy hiệu thành phố hình tròn, tạc hình một đôi thanh niên nam nữ người dân tộc. Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Với khí hậu ôn hòa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và những di sản kiến trúc Pháp phong phú, Đà Lạt còn được gọi bằng nhiều cái tên khác như “Thành phố mù sương”, “Thành phố ngàn thông”, “Thành phố ngàn hoa”, “Xứ hoa Anh Đào” hay “Tiểu Paris”. ĐÀ LẠT THỜI SƠ KHAIVùng cao nguyên Lâm Viên từ xa xưa là địa bàn cư trú của người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Cuối thế kỷ 19, nhiều nhà thám hiểm người Pháp đã thực hiện những chuyến đi xuyên sâu vào vùng đất này. Tiên phong trong số họ là bác sĩ Paul Néis và trung úy Albert Septans với chuyến thám hiểm thực hiện đầu năm 1881. Năm 1893, nhận nhiệm vụ từ Toàn quyền Jean-Marie de Lanessan, bác sĩ Alexandre Yersin đã tiến hành khảo ѕáт một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên qua vùng đất của người Thượng và kết thúc ở một địa điểm trên bờ biển Trung Kỳ. Ngày 21 tháng 6 năm 1893, trên hành trình thám hiểm, Alexandre Yersin đã tới cao nguyên Lâm Viên. Năm 1897, trong khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng (station balnéaire d’altitude) cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer gửi thư hỏi ý kiến Alexandre Yersin. Khi nhận được thư của Paul Doumer, Alexandre Yersin gợi ý chọn cao nguyên Lâm Viên, một vùng đất lý tưởng thỏa mãn đầy đủ các điều kiện: độ cao thích hợp, diện tích đủ rộng, nguồn nước bảo đảm, khí hậu ôn hòa và có thể thiết lập đường giao thông. Cuối tháng 3 năm 1899, Paul Doumer cùng với Alexandre Yersin đích thân đến khảo ѕáт thực tế tại cao nguyên Lâm Viên. Dự án xây dựng Đà Lạt bị gián đoạn khi Toàn quyền Paul Doumer trở về Pháp vào năm 1902 và Toàn quyền Paul Beau, người kế vị, thì không sốt sắng gì về việc xây dựng thị trấn miền núi. Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian tiếp theo, nhiều đoàn khảo ѕáт νẫи được gửi đến cao nguyên Lâm Viên để nghiên cứu và các tuyến đường giao thông tới Đà Lạt cũng dần hình thành. Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Giữa thập niên 1910, Chiến тʀᴀɴн thế giới thứ nhất bùng иổ khiến nhiều người Pháp không thể về quê hương trong những kỳ nghỉ, Đà Lạt dần trở thành nơi họ tìm đến để tìm chút gì của nước Pháp miền ôn đới. Ngày 20 tháng 4 năm 1916, Hội Đồng Phụ Chính của vua Duy Tân thông báo Dụ thành lập thị tứ Đà Lạt. Toàn quyền Maurice Long đi thêm bước nữa khi bổ nhiệm Ernest Hébrard làm chủ sự quy hoạch thị trấn Đà Lạt. Hébrard là người chủ trương dùng mẫu kiến trúc cổ điển Âu châu nhưng thêm vào đó một số trang trí thuộc mỹ thuật Việt Nam để tạo ra phong cách riêng mà ông gọi là une architecture indochinoise. Hébrard đã thực hiện lối kiến trúc này trong những côɴԍ trình khác như tòa nhà của Viện Viễn Đông Bác cổ, Hà Nội. Nay lối kiến trúc này được áp dụng quy mô hơn ở Đà Lạt. Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Đặc biệt là Hébrard vẽ đồ án có vườn hoa, trường sở, sân vận động, biệt thự nhưng hoàn toàn không có côɴԍ xưởng sản xuất để giữ y nguyên không gian trong lành và yên tĩnh của thị trấn này. Trong vòng ba mươi năm, từ một địa điểm hoang vu, một thành phố đã hình thành với đầy đủ hệ thống cơ sở hạ tầng, các trường học, вệин viện, khách sạn, côɴԍ sở và dinh thự.Trên diện tích tổng cộng là 1760 ha, thì 500 ha được cнíɴн quyền quy hoạch cho các cơ sở côɴԍ chánh, 185 ha thuộc nhà binh, 173 ha cho côɴԍ chức và 206 cho dân bản xứ. Phần còn lại còn lại (non 700 ha) thì bán cho người Pháp. Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Tới thập niên 1940, Đà Lạt bước vào giai đoạn cực thịnh của thời kỳ Pháp thuộc, “thủ đô mùa hè” của toàn Liên bang Đông Dương. Trong những năm cнιếɴ тʀᴀɴн, thành phố νẫи giữ vai trò một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và khoa học giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhiều trường học, trung tâm văи hóa và các côɴԍ trình kiến trúc tiếp tục ra đời. Đà Lạt cũng là nơi định cư của nhiều người ᴅι cư từ miền Bắc. Nhưng kể từ năm 1964, khi cuộc cнιếɴ тʀᴀɴн Việt Nam bước vào giai đoạn khốc liệt, việc phát triển đô thị ít được coi trọng, thay vào đó là sự xuất hiện của những côɴԍ trình phục vụ cho mục đích quân sự. Đà Lạt 1970-71 – Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến. Photo by John Aires Sau cнιếɴ тʀᴀɴн, Đà Lạt tiếp tục bước vào một thời kỳ khó khăи khi phải đối mặt với vấn đề lương thực và thực phẩm, việc xây dựng phát triển thành phố vì thế không còn được chú trọng.Diện tích canh tác nông nghiệp mở rộng đã ảnh hưởng nhiều tới cảnh quan thiên nhiên và môi sinh của thành phố.Du lịch Đà Lạt giai đoạn này cũng trầm lắng bởi sự khó khăи chung của nền kinh tế Việt Nam.Từ cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, thành phố dần phát triển trở lại với làn sóng khách du lịch tìm tới ngày một đông và hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp tục được xây dựng. Đà Lạt 1970-71 – Hồ Xuân Hương Photo by John Aires Sau năm 1975, thành phố Đà Lạt có 6 phường (đánh số thứ тự từ 1 đến 6) và 3 xã: Tà Nung, Xuân Thọ, Xuân Trường. Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Đà Lạt 1970-71 – Tiệm vàng là nhà nhạc mẫu của Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ. Photo by John Aires Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Đà Lạt 1970-71 Photo by John Aires Phi Trường Liên Khương Đồn Cam Ly Rạp Hòa Bình – Ảnh năm 1967 Nhà Thờ Đà Lạt Dalat 1969 Photo by Ron Sanders Không ảnh trung tâm Đà Lạt Đà Lạt 1961 – Bên trong chợ Đà Lạt mới xây dựng xong. by John Dominis Đà Lạt 1961 – Bên trong chợ Đà Lạt mới xây dựng xong. by John Dominis Đà Lạt 1961 – Bên trong chợ Đà Lạt mới xây dựng xong. by John Dominis
|
|
|
DALAT
Feb 22, 2023 17:15:11 GMT 9
Post by Can Tho on Feb 22, 2023 17:15:11 GMT 9
Sự hình thành hồ Xuân Hương ĐàlạtĐọc tài liệu của tây thì được biết hồ Xuân Hương, thời tây được gọi là Grand Lac, được thành lập khi người tây cho làm cái đập Chận nước con suối từ Chi Lăng (St benôit) chảy về, trên đạp có con đường băng từ bùng binh Thuỷ Tạ, nối liền với chỗ bùng binh sau này có nhà máy nước, lữ quán hướng đạo và đường Đinh Tiên Hoàng. Ngoài ra, có một cái hồ nhỏ (petit lac) ở ngay khu ấp ánh sáng sau này. Cuối cùng người tây xáp nhập hai cái hồ lại thành một nên phá cái đập chạy từ bùng binh Thuỷ Tạ, (xem hình) và làm một cái đập mới mà người Đàlạt hay gọi cầu Ông Đạo vì do một quản đạo của triều Nguyễn xây dựng. Người pháp đã xây nhà Thuỷ Tạ rất đẹp, phỏng theo La grenouillère , một nhà hàng nổi tiếng bên pháp thời La Belle Époque. Xem tấm ảnh mình đoán hai ông tây, có thể hai ông kiến trúc sư, đứng ngay địa điểm, sau này là bãi đậu máy bay trực thăng, trước cổng của thao trường Đàlạt. Hình chụp về phía đường Nguyễn Thái Hoc sau này. có thể cái đồi sau này được làm đồi cù để thị dân có thể lên đấy chơi. Nay thì cấm chỉ có dân giàu có đánh cù mới được vào đây. Nhưng nếu nhìn tấm ảnh dưới thấy đề 1948 thì thấy cái cầu nhỏ, qua cái ống cống. Trên là con đường chạy từ bùng binh nơi khách sạn Palace, Thuỷ Tạ (chưa xây). Phía bên tay trái có một dãy nhà, sau này là nhà lao nhốt tù. Nếu vậy thì khi hồ Xuân Hương được đào rộng ra thì cái cầu này bị dẹp và được thay vào đó cái đập, phía bên tay phải của tấm ảnh, chỗ mấy căn nhà. Để mình giải thích: Tấm ảnh này cho thấy khách sạn La Palace (1) trên đồi cao, được xây năm 1922. Thấy cái bùng binh chỗ bãi đất mà sau này họ xây nhà hàng Thuỷ Tạ. Ngay bồn binh này, nơi sau này họ xây cây xăng Esso, có một con đường, (3) như cái đập nhỏ chấn lại cái hồ, chạy băng qua hồ Xuân Hương, có cái cầu nhỏ. (2) .Mình đoán căn nhà phía tay trái, trước mặt là dinh của ông quản đạo. Đàlạt khi xưa có đến 4 ông quản đạo do triều đình Huế gửi đến, sẽ kể sau. Đây mình đang tìm cách định vị hai tấm ảnh vì mình nghe nói hồ Xuân Hương sau này được nới rộng ra ( gạch màu xanh 5), khi họ xây cái đập ngay ấp Ánh Sáng, xe cộ có thể đi ngang qua mà dân cư Đàlạt hay gọi “cầu Ông Đạo”. (4) Ngay bùng binh chỗ khách sạn Palace, mình có thể hình dung được chỗ thuỷ tạ và cercle sportif, chỗ sau này họ xây mấy sân quần vợt với nhà hàng Đào Nguyên. Thấy đường Trần Quốc Tuấn, chưa thấy nhà thờ con gà phía đường Hùng Vương, chỉ thấy tu viện Nazareth đã được xây cất. Trong rừng thông trước khách sạn Palace có một căn nhà, mình đoán là căn nhà trong rừng thông mà sau này có dạo họ làm một quán nước, trai gái Đàlạt vào đây uống nước, ngoài trời nơi mấy cây thông, nhìn xuống hồ, nơi con đường Trần Quốc Tuấn. Mình chưa bao giờ vô đây. Đi tới một chút là đoạn họ làm cái đập cầu ông Đạo. (1) là khách sạn Palace đã được xây xong phía bên kia hồ. Số (2) là cái ống thoát nước khi nước hồ dâng cao thì chảy qua con suối về hồ nhỏ rồi chảy về Cảm Ly, thấy từ phía bên này khác với hình chụp 2 ông Tây như hình trên. Số (3) là con đường từ bồn binh chỗ cây xăng Kim Cúc, Thuỷ Tạ sau này chạy qua bên kia hồ, ngay chỗ bồn binh, khúc Đinh Tiên Hoàng, chạy lên giáo hoàng học viện sau này. Sau này Tây nới rộng ra thì mới dời cái đập về phía hình màu vàng gạch số (5). Các nhà cửa chỗ này bị dẹp hết. Địa điểm rõ thì mình không chắc lắm nhưng để hình dung mình kẻ gạch vàng đây vì phải định vị cái bồn binh chỗ đi vào chợ. Số (4) là phần đất được nới rộng ra và lấp hết khu vực này (gạch xanh). Phía bên phải của cầu ông đạo, phần gạch là khu ấp Ánh Sáng. Nhìn tấm ảnh này làm mình nhớ thầy Hứa Hoành, dạy Địa Lý năm 11B, nói dân cư Đàlạt gọi cầu Ông Đạo vì được xây cất dưới thời ông “quản đạo” Tôn Thất Hối vào năm 1935. Năm 1919 là một cái cống nhỏ chảy về thác Cam Ly. Thầy có kể là có người cháu của ông Tôn Thất Hối nói như vậy còn lại có một giả thuyết khác: cây cầu nằm ngay dinh ông quản đạo nên người ta gọi là cầu Ông Đạo. Cho nên thầy không dám quả quyết. Hình chụp trên đồi khách sạn Palace Tấm ảnh này theo mình được chụp từ đồi khách sạn Palace, nhìn xuống hồ Xuân Hương. Thấy đường Thống Nhất. Có đồi thông phía xa, sau này họ xây trường Grand lycee yersin (5), sau đồi của nhà ông bác sĩ Sohier (4). (3) địa điểm của thao tường và sân vận động, (2) là cercle sportif sau này còn (1) là con đường này sau này được xoá bỏ, để làm vườn, chỗ mấy thang cấp đi xuống từ khách sạn Palace xuống hồ. Có con đường khác từ bồn binh Thuỷ Tạ, chạy lên đường Nguyễn Tri Phương, lâu quá không nhớ tên đường này, có mấy ty công sở. Ngay tam giác của hai đường, sau này được xây cercle sportif (5) có mấy sân quần vợt. Hình như Cercle sau này là nhà hàng Đào Nguyên, nghe một cô bạn kể là con gái của tiệm này, học Văn Học, hiện đang ở Nam Cali, tên Lan. Mấy nhà nghỉ này (6) sau này được dẹp bỏ khi họ xây xong khách sạn Palace vào năm 1922. Thấy mỗi nhà nghỉ, phía sau có cái ga ra. Số 3 là địa điểm Thao Trường sau này, số 4 là sân vận động. Ảnh chụp từ khách sạn Palace Tấm ảnh trên được chụp trên phòng của khách sạn Palace, nhìn về phía Ấp Ánh Sáng được thành lập sau này. Hình thấy mấy nhà to đùng. Có con đường phía trước. Mình đoán đây là con đường, trở thành cầu Ông Đạo sau này, khi họ cho xây cái đập để chận nước hồ lại, cho phá vỡ mấy cái nhà phía sau và bên phải, tương tự như cái đập Đa Thiện, chận nước hồ trong Thung Lũng Tình Yêu sau này. (A) là con đường (đập đầu tiên), (B) là nhà ông Quản Đạo, số (2) là hồ nhỏ mà người Tây gọi “Petit Lac”, đối diện sau này là Ấp Ánh Sáng, (d) sau này là địa điểm của ấp Ánh Sáng, đa số là người đi cư từ Huế vào nhất là làng Kế Môn. Nhìn lên đồi, thấy cái dinh Ông Quản Đạo với con đường đi lên, có một con đường đi chéo lên, mình đoán là con đường sau này được nới rộng làm thành đường Lê Đại Hành. Theo thầy Hứa Hoành: “ Trong số các quản đạo do triều đình Huế bổ nhiệm cai trị cao nguyên, người ta còn nhớ các ông:Tôn Thất Hối, Tôn Thất Toại, Phạm Khắc Hòe, Trần Văn Lý.... Toại và Hối là con của Tôn Thất Hân, phụ chính đại thần của nhiều triều vua hồi đầu thế kỷ nầy. Tôn Thất Toại làm quản đạo ở Kontoum nhiều năm. Còn Tôn Thất Hối đầu tiên giữ chức quản đạo Djiring, rồi sau đổi lên làm quản đạo Darlac. Có thời gian Hối làm quản đạo tại Đà Lạt. Kế nhiệm cho Hối ở Đà Lạt là Phạm Khắc Hòe, cai trị từ năm 1940 - 1944. Tôn Thất Hối sinh trong một gia đình thế gia vọng tộc. Thân phụ là Tôn Thất Hân, quê quán tại Lạc Thú, Thừa Thiên (1854), thuở nhỏ theo học Quốc Tử Giám. Bắt đầu cuộc đời làm quan bằng chức tri huyện thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Hân bò lần trên nấc thang danh vọng đến Thượng thư bộ Hình (1906). Năm 1917, Hân làm phụ chính đại thần, kiêm Cơ mật viện trưởng dưới triều Khải Định. Chính Tôn Thất Hân đề nghị với Pháp lưu đày hai cha con Thành Thái và Duy Tân. Tháng 4 - 1943, Tôn Thất Hân ăn lễ thượng thọ (90), có đến 200 cháu tham dự. Năm sau (1944), Hân từ trần. Hối còn làm quản đạo ở Ban Mê Thuột, Tôn Thất Hối có nhiệm vụ trông coi khám đường tức nhà tù, giam giữ chính trị phạm do Pháp lập ra. Từ năm 1944 khám nầy có hơn 1000 tù, gồm nhiều người yêu nước, chống Pháp đủ mọi thành phần, đảng phái. Thời gian ấy, điều kiện sinh sống trong tù rất tồi tệ. Nhiều lần tù nhân biểu tình, tuyệt thực để phản đối. Tôi được một người cháu gọi Tôn Thất Hối bằng ông chú, là chị Tôn Nữ M. L. cho biết: “Năm 1935 hồ Xuân Hương bị ngăn lại và làm một cây cầu bắc ngang qua để vào chợ Hòa Bình. Cây cầu nầy hồi năm 1919 chỉ là một cái cống nhỏ. Dòng nước ở dưới cầu chảy qua ấp Ánh Sáng, để đổ vào thác Cam Ly. Vì cây cầu nầy được xây dựng dưới thời Tôn Thất Hối làm quản đạo, nên dân chúng quen gọi “Cầu Ông Đạo”. Tôi còn nghe một nguồn tin khác cho biết vì cây cầu nầy nằm gần dinh quản Đạo, (chỗ khám đường trước năm 1975), nên dân chúng Đà Lạt quen gọi là “Cầu ông Đạo”. Tôi không dám quả quyết thuyết nào đúng hơn. Trong buổi lễ chấm dứt chế độ Hoàng Triều Cương thổ ngày 24/3/1955, tổ chức tại trước tòa hành chánh Kontum, với sự hiện diện của hàng ngàn đồng bào Thượng, Tôn Thất Hối đại diện quốc trưởng Bảo Đại đọc lời tuyên bố: “Tôi đại diện cho đức quốc trưởng Bảo Đại, long trọng tuyên bố kể từ khi Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn lập quốc đến nay.....tới đây là chấm dứt chế độ hoàng triều cương thổ. Thay mặt hoàng tộc nhà Nguyễn, thay mặt quốc trưởng Bảo Đại, tôi xin từ giã đồng bào...” Một quản đạo Đà Lạt khác được nhắc tới khá nhiều là Phạm Khắc Hòe. Ông Hòe quê ở Nghệ Tỉnh, học trường Hành chánh Hà Nội, có vợ là một công chúa, được sự tin cậy của triều đình. Do bà vợ năn nỉ với Hoàng hậu Nam Phương, nên Hòe được tiến cử làm quản đạo Đà Lạt. Thật sự Đà Lạt là nơi đất rộng, phì nhiêu, dân cư thưa thớt (vì sự hạn chế người Kinh lên lập nghiệp), nên vào năm 1942, Hòe có xin với Pháp chiếu cố một số gia đình nghèo khổ từ quê quán ông thuộc hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh lên đó lập nghiệp. Những người nầy đến đây chuyên canh rau cải, sống tập trung gọi là ấp Nghệ Tĩnh. Riêng ấp Hà Đông do tổng đốc Hoàng Trọng Phu, mộ dân miền Bắc lập ra năm 1938, theo lời yêu cầu của Pháp. Hoàng Trọng Phu (1872 - 1945) là con trai thứ của tổng đốc Hoàng Cao Khải, học trường thuộc địa Pháp. Lúc mới về nước, vì có cha đang làm quan, nên Phu chỉ làm thông ngôn cho vua Thành Thái ít tháng, rồi ra làm Án Sát tại một tỉnh Bắc Kỳ năm 1897. Lúc kế vị cha làm tổng đốc Hà Đông, Phu mộ dân các làng Quảng Hoa, Ngọc Hồi, Nghi Tăm......là nơi chuyên trồng hoa để lên Đà Lạt canh tác theo lời yêu cầu của viên công sứ Đà Lạt. Từ năm 1938, chỉ có 7 gia đình lên lập nghiệp. Hồi khởi sự lập vườn hoa, Pháp có giúp đỡ bằng cách cho vay tiền của Quỷ tương trợ hỗ tương. Sau một năm, phân nửa bỏ Đà Lạt trở về quê quán vì trồng hoa không kết quả như ý muốn. Số còn lại tiếp tục trồng hành tây, củ cải, măng tây, artichaut, củ hành, cải bắp và đậu.....Từ năm 1941, ấp Hà Đông bắt đầu làm ăn phát đạt nhờ nghề trồng hoa và rau cải nầy. Cuối năm 1941, có tất cả 28 gia đình ở ấp Hà Đông, tổng số 100 nhân khẩu. Ông Trần Văn Lý (1901 - ?) là một nhân vật có tiếng tăm ở miền Trung, quê ở Quảng Trị, tốt nghiệp cao đẳng hành chánh Hà Nội. Ra trường, ông Lý làm quan trong ngạch quan lại của Pháp, với chức tham tá tại Qui Nhơn. Sau đó, cũng như Phạm Khắc Hòe, do sự giới thiệu và giúp đỡ của Khâm sử Trung Kỳ, ông Lý trở lại ngạch quan lại Nam triều với chức Thương tá Trung Phước (Bình Định). Ông Lý giữ chức quản đạo Đà Lạt từ năm 1926 - 1935. Khi chức vụ này được Phạm Khắc Hòe thay thế, ông Lý làm Ngự Tiền văn phòng cho Hoàng đế Bảo Đại.” (hết trích) Theo mình thì cầu được xây dựng do ông quản đạo nên dân địa phương gọi là cầu Ông Đạo đúng hơn vì cuối ấp Ánh Sáng có cầu Bá Hộ Chúc nối đường Cường Để và Phạm Ngũ Lão, trên đường Bà Triệu thì do ông bá hộ tên Chúc xây nên người ta gọi Cầu Bá Hộ chúc. Nếu không thì người ta đã gọi cầu Ông Đạo Tôn Thất Hối. Vì để chấn nước hồ thì không thể nào làm cây cầu bằng gỗ được, phải làm cái đập bằng xi măng rồi cho xe chạy trên đó. Cầu Bá Hộ chúc thì mình nhớ bằng gỗ, như cái hình trên chạy qua cái ống cống mà thầy Hứa Hoành nói đến vì nhà mình ơi ấp Ánh Sáng đi học trường Ấu Việt nên đi bộ sang hàng ngày, xe tải không được chạy qua, sau này thì họ làm bằng xi măng. Petit lac (hồ nhỏ) xem hình này mình đoán chụp đâu ngay khách sạn Palace, thấy con đường chạy ngang sau này là cái đập chính được làm bằng xi măng bê tông cốt sắt. Thấy có cái hồ nhỏ mà sau này được nhập với hồ lớn bên kia (cái đập kia được phá vở. Không ảnh thấy nhà thờ con gà Không ảnh này cho thấy (1) là cầu Ông Đạo, (2) là ấp Ánh Sáng, (3) nhà thờ Con Gà, (4) chợ Đàlạt, (5) là rạp xi nê Ngọc Lan, phía trước bên tay trái, có trường bà sơ Nazareth, ngay đường Hùng Vương, thấy ngã ba trước nhà thờ con gà. Mình học thầy Hứa Hoành có một năm Địa Lý, sau này có ghé viếng thầy ở San Antonio trước khi thầy qua đời. Mình không hiểu sao thầy nhớ kinh khủng, từng gây từng tí vì mình có hỏi thầy có đem theo tài liệu khi vượt biển thì nói không. Đọc trên mạng Nam Kỳ Lục Tỉnh những bài viết của thầy đầy đủ chi tiết. Có người nhắc mình có cái hồ nhỏ bên cạnh hồ Xuân Hương, gần vườn Bích Câu, làm mình nhớ có ra hồ này để câu cá với ông dượng, có tiệm hớt tóc ở ngay ngã 3 chùa, cạnh hãng cưa Xu Huệ. Hồ này được thành lập theo mình để giảm áp lực vào cái đập cầu Ông Đạo khi mưa nhiều thì hồ này sẽ chứa nước dâng cao. Mình nhớ có cái ống nước từ hồ Xuân Hương chảy vào đây khi trời mưa. Ngoài ra ngay góc đường Nguyễn Thái Học và Đinh Tiên Hoàng, có một cái hồ khác, bên cạnh là nhà máy nước lọc, cung cấp nước cho thị dân Đàlạt. Ông cụ mình trước 75, làm ở ty công quản nước Đàlạt, tại đây. Mình về Đàlạt thì nghe nói Hà Nội sẽ xây một hồ bơi ở đây. Mình đang tìm thêm dữ liệu để bổ túc thêm vào bài này nên chưa phổ biến rộng. Ai có đọc thì có tin tức gì thêm thì cho mình hay. cảm ơn Cái viết Apple của mình mất tiêu nên phải quẹt bằng tay. Chán Mớ Đời Nhs
|
|
|
DALAT
Aug 10, 2023 17:08:34 GMT 9
Post by Can Tho on Aug 10, 2023 17:08:34 GMT 9
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ XÂY DỰNG ĐÀ LẠT QUA BÀI BÁO NĂM 1941
Ngày nay, Đà Lạt là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều người, đặc biệt là những người yêu mến cảnh sắc, không khí của Đà Lạt. Lịch sử hình thành của Đà Lạt có nhiều điều thú vị, điều gì đã hình thành nên một thành phố du lịch Đà Lạt nổi tiếng từ gần 100 năm trước? Bài báo được viết hơn 80 năm trước sau đây sẽ phần nào trả lời cho câu hỏi đó. Ngay từ năm 1941, tác giả bài viết này đã viết như sau: Liệu Đà Lạt có thể trở thành một trung tâm hành chính hay không? Điều này chỉ có Chúa mới biết! Nhưng nếu điều đó trở thành sự thật thì quả là tai hại. Tương tự như câu chuyện đã xảy ra với Hà Nội. Hà Nội đã mất rất nhiều và Đà Lạt cũng không ngoại lệ, sẽ chật ních người, sẽ ngổn ngang công trường xây dựng và tấp nập xe hơi. Đà Lạt sẽ mang dáng dấp của những thành phố khác, sẽ mất đi thế mạnh độc đáo, mất đi chức năng ban đầu của mình là một thành phố nghỉ dưỡng Bên phải tôi là bình lay-ơn lộng lẫy, bên trái là những bông cẩm chướng tuyệt đẹp và ngát hương hệt như loài cẩm chướng ở Pháp. Bên trong chiếc bình cổ là nhánh lan đất màu vàng mà tôi kiếm được từ trong rừng. Trước mặt tôi, sáu nhánh hoa mimosa nhỏ tỏa hương thơm ngát theo làn gió len vào qua khung cửa. Ba bông hồng lớn màu xanh dịu đặt trước lò sưởi chờ được cắm vào bình pha lê. Đó là Đà Lạt! Đà Lạt trước hết là xứ sở các loài hoa. Ở xứ này, ngay cả những loài hoa bình dị, thường gặp nhất cũng trở nên sặc sỡ lạ kỳ. Hoa Xôn (Salvia farinacea) ở đây đậm sắc hơn hoa Xôn Hà Nội, ngay cả với giống tía tô, ở Đà Lạt cũng xanh tốt hơn nơi khác. Không có ngôi nhà nào là không trồng đầy hoa xung quanh. Người ta làm hàng rào bằng hoa hồng, trong sân thì đầy hoa chân bê và hoa huệ. Còn hoa giấy và các loài dây leo màu cá vàng thì leo lên tận ban công. Ngay cả những túp lều của người dân tộc thiểu số cũng vui mắt với những bụi hoa chuối và hoa dong riềng. Trong các vườn rau, những bông hoa trắng của cây cơm cháy nhẹ nhàng đung đưa trong gió. Đà Lạt dường như không thiếu loại hoa nào, hằng năm có tới 90 tấn hoa được chuyển về Sài Gòn. Đà Lạt cũng được mệnh danh là xứ sở của ngàn thông. Đi dạo dưới những cánh rừng thông là một trải nghiệm khoan khoái tuyệt vời, không khí trong lành thoảng mùi nhựa thông căng tràn trong lồng ngực. Không một bụi rậm, không dây leo rối rắm, cũng chẳng có những túp lều lụp xụp. Cỏ cao lấp xấp vừa tầm, xen lẫn những đóa hoa nhỏ đủ màu sắc vàng, xanh, tím hoa cà,… vươn lên khoe dáng, chẳng bận làm vướng chân người thưởng ngoạn hay che khuất tầm nhìn của ai. Những thân cây cao vút cũng khiến ta hứng thú. Phóng tầm mắt xuyên qua những hàng cây là những cánh rừng thông bạt ngàn, xa tít tắp, chỉ còn thấy những mảng màu xanh dương và xanh lục trải rộng tới tận chân trời. Nhìn từ trên cao, Đà Lạt hoàn toàn không phải là một thành phố mà là một thảo nguyên nhỏ uốn lượn trùng điệp, với thứ cỏ khổng lồ mang tên thông trải rộng khắp chốn, và còn có một thứ hoa đỏ như son điểm xuyết cho thảo nguyên là những mái nhà ngói đỏ mới xây. Các nhà khoa học, những người không biết mình đã nực cười như thế nào khi nói rằng giống thông Langbian đẹp đẽ và phong phú chính là cô gái đẹp mang đến thảm họa và nghèo đói. Nói một cách chính xác, cao nguyên đã bị đốt cháy đến độ đất đai trở nên khô cằn, chỉ những giống cây như thông mới thích nghi và phát triển được. Trong khi nhiều loài cây khác phải chờ đến khi đất đai tốt hơn mới mọc lên được thì thông lại chính là loài cây giúp hồi sinh đất. Cho đến khi đất đai màu mỡ trở lại, những giống cây vốn háu ăn, mau lớn, thường lấn át loài thông vốn phát triển chậm chạp, thì lúc đó thông đã đủ vững chãi để tự bảo vệ mình. Một câu chuyện thú vị khác về một nhà bác học nổi tiếng và khá uy tín hiện nay là bác sĩ Yersin, người đã phát hiện ra Đà Lạt và giới thiệu nó với mọi người. Khoảng năm 1890, Yersin trong vai trò một nhà thám hiểm khám phá cao nguyên và là một “nhân viên trắc địa… bất đắc dĩ” đã bị người bản xứ đuổi bắn. Năm 1893, Yersin tiếp tục đội mưa xuyên rừng nhằm chinh phục đỉnh Lang Bian, khi trở về, ông bị một tên cướp theo dõi và bị bắn trọng thương ở chân. Chuyến thám hiểm này đã được chính Yersin kể lại, cả việc ông đã chăm sóc một con voi hoang dã. Câu chuyện về chuyến thám hiểm Đà Lạt của bác sĩ Yersin được chú ý đến ngay lập tức. Ý tưởng về việc thiết lập một khu điều dưỡng trên cao nguyên LangBian đã được vạch ra và tiến hành một cách chậm chạp nhưng kiên trì. Năm 1897, chính quyền phái hai đoàn khảo sát nhằm mở đường lên LangBian, xuất phát từ Phan Rang, một đoàn có nhiệm vụ nghiên cứu phương án xây dựng tuyến đường sắt (đoàn Thouard), đoàn còn lại nghiên cứu phương án mở tuyến đường bộ (đoàn Garnier). Năm 1899, đích thân toàn quyền Paul Doumer cưỡi ngựa lên Lang Bian để khảo sát. Hai năm sau đó, đoàn quân của chỉ huy Guynet đã bắt tay vào xây dựng những ngôi nhà gỗ đầu tiên ở Đà Lạt. Tiếc rằng, việc toàn quyền Doumer hết nhiệm kỳ và trở về Pháp vào năm 1902 đã làm trì hoãn mọi kế hoạch trước đó. LangBian tiếp tục rơi vào quên lãng trong suốt 10 năm tiếp theo. Mãi đến tận năm 1912, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut mới phê duyệt ngân sách để làm đường và xây một vài ngôi nhà cho Đà Lạt. Con đường xe ô tô chạy được từ Sông Pha [Krongpha] tới Đà Lạt qua Đèo Ngoạn Mục [Bellevue], thung lũng Đa Nhim [Danhim] và thung lũng Phi Nôn [Fimnon] đã thành hình. Đoạn cuối của con đường này (phía Đà Lạt) ngày nay (1941) đã không còn được dùng nữa vì nó đã nối vào đường từ Sài Gòn lên Đà Lạt. Năm 1915, dòng người Châu Âu đầu tiên tới Đà Lạt. Năm 1917, toàn quyền Roume khánh thành Langbian Palace [nay là Đà Lạt Palace], sự kiện này được coi như dấu mốc khánh thành khu nghỉ mát Đà Lạt. Trước đó, từ năm 1897 – 1898, người ta đã xây dựng trạm thử nghiệm nông nghiệp Dangkia (Suối Vàng), nhưng dự án này thất bại và trạm bị bán rẻ lại sau 10 năm vào năm 1907. Giai đoạn từ năm 1898 – 1900, các đoàn khảo sát Odhéra, Garnier, Bernard đã lên Đà Lạt để nghiên cứu làm đường bộ Sài Gòn – Đà Lạt. Từ 1903-1909, đường sắt Phan Rang – Xomgon (Xóm Gòn) được xây dựng hoàn thành, đoạn này dài 38km nằm hoàn toàn trên vùng đồng bằng. Ngoài ra, còn một số đoàn khảo sát khác có thể kể đến như đoàn quân sự của de Beylié, Pennequin, Bizar; các đoàn dân sự của Ducla (bên công chánh) và đoàn của bác sĩ Vassal (viện Pasteur). Tuy nhiên, Đà Lạt chỉ thực sự trở thành một đô thị từ năm 1922, khi người ta bắt đầu thực hiện đồ án quy hoạch của kiến trúc sư Ernest Hébrard. Đây là một nhà quy hoạch đô thị có tầm nhìn phóng khoáng và đã thiết kế cho Đà Lạt một thành phố 300 ngàn dân (có thể mở rộng thêm). Nhờ quy hoạch từ đầu khi dân cư vẫn còn thưa thớt nên việc xây dựng Đà Lạt được làm bài bản, không có các khu nhà chen chúc. Những căn biệt thự rộng rãi nằm giữa các khuôn viên đầy hoa cảnh, cây trái rải rác khắp nơi. Dẫu vậy, vẫn có một sự bất tiện với cư dân Đà lạt, đó là khoảng cách giữa các địa điểm trong thị tứ này. Nếu không có xe hơi thì nhất định phải có đôi chân thật khỏe mạnh. Những ngôi nhà nằm cách xa nhà ga hay trường Grand Lycée từ 3km đến 4km là chuyện phổ biến. Đi chợ hay đi xem phim đích thực là một chuyến đi dạo rất tốt cho sức khỏe. Và ý tưởng tuyệt vời nhất cho nơi này chính là tạo ra một cái hồ nhân tạo tuyệt đẹp ở khu vực trung tâm bằng cách xây đập trên suối Cam Ly. [Hồ Lớn, sau đổi tên thành Hồ Xuân Hương]. Nếu hỏi rằng quy hoạch của Hébrard có phải là phương án quy hoạch tối ưu nhất, thì câu trả lời chắc chắn là tối ưu nhất trên mọi phương diện. Nhưng tại sao lại làm những con đường dốc thẳng tắp lên xuống ở một nơi có nhiều sườn đồi như Đà Lạt? Khi làm những con đường như vậy, người ta cũng đã lường trước những bất tiện và nguy hiểm, cách làm này cũng đã bị bãi bỏ hoàn toàn ở Châu Âu từ mười lăm năm nay. Về phần những ngôi nhà, đúng hơn là những ngôi biệt thự, có thể nói rằng dù được tự do hoàn toàn, các kiến trúc sư đã không gây ra tình trạng lộn xộn, tai hại. Chắc chắn vẫn sẽ có những ngôi nhà không đẹp nhưng nhìn chung về tổng thể chúng ta vẫn thấy sự độc đáo, duyên dáng và hài hòa, tuân theo những quy tắc thẩm mỹ bắt buộc, những quy tắc đáng lẽ đã không ra đời nếu không có những nghệ sĩ tồi, tác giả của một số ngôi nhà. Dù dễ dãi đến mấy cũng không thể cho phép những thứ quá tệ, chẳng hạn như những mái nhà tôn lượn sóng, lại còn hoen gỉ, dù có phủ quanh đầy những cây hoa trông vẫn rất bôi bác không gian. Quả là một sự cưỡng bức đáng giá! Dọc theo các con phố, người ta cho trồng những hàng cây anh đào dại. Thực tình, chúng trông không được đẹp nhưng tới mùa ra hoa thì trông cũng vui mắt. Như tôi đã nói, Đà Lạt được mệnh danh là xứ sở của hoa và thông. Dân dã hơn, Đà Lạt còn là xứ sở của rau. Ta có thể ăn rau thỏa thích bằng nhiều cách như bằng mắt, bằng tai, bằng mũi và những giác quan này kích thích người ta ăn rau thỏa thích bằng miệng. Đà Lạt cũng có nhiều loài cây trái thơm ngon khác. Đà Lạt sản xuất ra bao nhiêu rau thì xuất đi bấy nhiêu, con số đáng nhớ là 1.200 tấn rau mỗi năm. Tiện đang nói về nông nghiệp, xin phép được kể thêm về những đồn điền chè tuyệt đẹp ở Entre Rays [Cầu Đất] với sản lượng 160 tấn/năm và những đồn điền cà phê ở Phimnon cho thu hoạch 50 tấn/năm. Lân cận quanh Đà Lạt còn có hai nông trại lâu đời và phát đạt. Cái đầu tiên là ở Dangkia, gần các thác nước ở Ankroet. Nông trại này hiện được quản lý và điều hành bởi một người nhập cư, cung cấp sữa, bơ và phô mát trắng theo yêu cầu của khách hàng. Ban đầu nơi đây là một trại thử nghiệm nông nghiệp của chính quyền, nhưng đã bị dẹp bỏ và bán rẻ lại cho tư nhân từ năm 1907. Nông trại có đàn gia súc khỏe mạnh, nhưng khả năng chăn nuôi của họ còn khá hạn chế. Cái còn lại gần trung tâm Đà Lạt hơn, trong khu vực Cam Ly. Trại này cũng sản xuất và cung cấp sữa, bơ, phô mai. Bà O’Neil là người đứng tên chủ sở hữu, Cha của bà – ông Ancel là người quản lý chính ở đây. Người đàn ông này đã gầy dựng lên ở đây một đồn điền cà phê nhỏ với vỏn vẹn chỉ khoảng 20.000 gốc cà phê Arabicas, nhưng chất lượng cà phê ở đây lại hơn hẳn những nơi khác, loại hạt cà phê thu hoạch được là loại nhất và không bị sâu bệnh. Khu vực trồng rau, chanh thơm, bạch đàn và những cây Nhai Bách [tuyas] xinh đẹp lộng lẫy được dành riêng cho khách tham quan. Bò Ayrshire thuần chủng của Úc là giống gia súc duy nhất được nuôi ở đây. Với sự đầu tư của bà O’Neil, trại Cam Ly trở thành một trang trại hình mẫu về cơ khí hóa trong tất cả các khâu từ xử lý, khử trùng, làm lạnh, đóng chai, cọ rửa,… Tất cả điện sản xuất được lấy từ một trạm thủy điện với hai tua bin, công suất 155 mã lực và công suất 260 mã lực. Các tuabin điện cung cấp điện chiếu sáng, điện động lực và bơm nước lên cao. Mỗi bơm nước có thể đưa nước lên độ cao 77m với lưu lượng 200lít/giây. Dù được bảo trì rất tốt, các thiết bị trên hiện đều không dùng được nữa. Nguyên nhân là do trước đó, bà O’Neil cho người xây dựng ở Cam Ly một chiếc đập nước cao 14m, đáy dài 54,65m. Năm 1932, hồ Lớn [Hồ Xuân Hương] không thể chịu nổi lưu lượng nước quá lớn đổ xuống trong một cơn bão khiến cho đập chắn hồ bị vỡ. Chỉ trong tích tắc, lượng nước khổng lồ từ hồ đổ ập vào thung lũng Cam Ly nhỏ bé, cuốn phăng nhà cửa và cây cối. Nước lũ cuồn cuộn kéo theo những cái cây lớn liên tục xô vào chiếc đập của trang trại Cam Ly, nuốt sạch cả bờ đập cao to. Toàn bộ trang trại chìm trong con nước dữ. Sau khi nước rút, nhà xưởng sản xuất bị phủ một lớp bùn dày đến hơn 2m, những cây gỗ lớn còn nguyên vẹn nằm ngổn ngang trên bùn đất nhưng những bức tường thì chẳng còn gì đáng kể. Chiếc đập, công trình quan trọng không thể thiếu cho công việc sản xuất của nông trại bị phá hủy hoàn toàn, không còn được xây dựng lại nữa. Về thể thao, người ta đã từng tính tới những môn thể thao mùa đông như đua thuyền, quần vợt, gôn chín lỗ,… Nhưng thực tình, tôi không thấy nhà thể thao nào ngoài các tay quần vợt. Mùa thể thao, nói một cách chính xác là thời gian thuận tiện cho các hoạt động thể thao bắt đầu từ tháng giêng. Hoạt động vệ sinh môi trường và chăm sóc sức khỏe ở đây khá đầy đủ. Một bệnh viện nằm ở vị trí đắc địa, thuận tiện cho việc khám chữa bệnh. Viện Pasteur với trang thiết bị khá tốt có thể sản xuất ra nhiều loại vắc xin trong điều kiện nhiệt độ thuận lợi. Nguồn nước của thành phố được khử trùng cẩn thận, còn đèn điện thì thắp sáng khắp cả. Thành phố có một chiếc còi hụ báo giờ vào mười một giờ trưa mỗi ngày. Có thể nói, tiện nghi ở đây không thiếu thứ gì, thậm chí còn có cả đèn trang trí. Trẻ em nơi đây cũng được quan tâm sâu sắc. Thời tiết vô cùng mát mẻ thuận tiện cho các hoạt động trí óc, trẻ em cả trai lẫn gái đều có thể theo học tới bậc tú tài. Đà Lạt có hai trường trung học cùng tên Lycée Yersin là trường Petit Lycée và Grand Lycée. Trường Petit Lycée được xây dựng vào năm 1927, trong khi trường Grand Lycée được xây dựng sau đó vào năm 1932. Trường Petit lyceé, sau này là trường tiểu học Yersin Hai trường được đặt ở hai đầu thành phố. Việc tách ra thành 2 trường riêng biệt như vậy nhằm tránh các em học sinh lớn (trường Grand Lycée) đánh các em nhỏ hơn (Petit Lycée), tuy nhiên có một điều khá lạ là hai cơ sở giáo dục chính thức của thành phố lại được đặt ở cách nhau rất xa. Trường Grand Lycée Trường Grand Lycée có tầm nhìn rất đẹp do được xây dựng trên một ngọn đồi cao và có thể được nhìn thấy từ xa. Trường hiện đang được mở rộng vì học sinh tăng lên đều đặn mỗi năm. Thật không may, việc mở rộng trường đang bị trì hoãn vì lý do chiến tranh, dù đây là nhu cầu vô cùng cấp thiết trong hoàn cảnh hiện nay. Các em học sinh thì không biết bao giờ mới có thể đến Pháp học và các bậc phụ huynh thì muốn con em mình được học hành ở nơi có điều kiện thời tiết tốt hơn Sài Gòn và Hà Nội. Khoảng cách xa giữa trường Petit Lycée và Grand Lycée không phải là sự bất tiện chỉ duy nhất có ở đây. Trường học ở các thành phố của Pháp và Bắc Phi cũng được bố trí tương tự như vậy. Các chuyến xe buýt đảm nhiệm việc đưa rước học sinh nội trú hàng ngày ở trường Petit Lycée luôn phải theo lịch của các lớp cao hơn ở trường Grand Lycée. Có lúc, người ta đã nghĩ tới việc xây thêm các tòa nhà ở Grand Lycée để làm chỗ ở nội trú cho các em học sinh, cả trai lẫn gái. Tuy nhiên, giải pháp này chắc chắn không thể thực hiện vì nhiều lý do và trong tương lai, hẳn sẽ có đầy đủ cả hai trường trung học riêng cho nam và nữ. Xin nói thêm về hoạt động giảng dạy ở Lycée Yersin, công việc này được trao cho các giáo viên uy tín và nhờ khí hậu tốt, việc đào tạo giáo dục thế hệ trẻ hoàn toàn thuận lợi. Ở nơi có khí hậu ôn hòa như Đà Lạt, các cơ sở giáo dục tự do ngoài công lập cũng khá thu hút. Trường Nazareth do các sơ của tu viện Saint Paul thành lập, nhận các em bé nhỏ tuổi và giảng dạy từ rất nhiều năm nay. Trường trung học Couvent des Oiseaux Tiếp đến là trường trung học Couvent des Oiseaux (cấp II) thành lập năm 1935, xây ở vị trí thuận tiện, cơ sở vật chất hiện đại và cảnh quan tuyệt vời. Trường hiện đang giảng dạy cho hơn 200 học sinh, trong đó 160 em ở nội trú. Không khí trong lành, phòng học rộng rãi sáng sủa, chương trình học tuyệt vời do chính các sơ của Tu viện Saint – Augustin thuộc Dòng Đức Bà (Congrégation de Notre Dame) biên soạn tới tận ban tú tài. Chúng tôi biết rằng, các quý bà sẽ cảm thấy không thể sống ở Đà Lạt được nếu thiếu thốn các dịch vụ chăm sóc sắc đẹp. Thấu hiểu điều này, bà Ancel ở khu vực Cam Ly đã chế tạo ra son phấn và kem dưỡng da để trang điểm và làm trẻ hóa da mặt. Phải tận tai nghe bà nói về kỹ thuật chế biến, tận mắt thấy bà lắc và giới thiệu những chai, lọ trong phòng thí nghiệm của bà mới hiểu bà đã bị cuốn hút vào công việc này nhưng đã gặt hái được những thành quả nhất định. Thừa nhận một số loại mỹ phẩm của Pháp không thể chế tạo được ở đây, bà Ancel tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu tại chỗ để chế biến. Không thể chưng cất (làm sao có lợi nhuận khi chưng cất, bởi giá một lít tinh dầu hoa Cam neroli tự nhiên có giá 25.000 francs, trong khi một lít tinh dầu neroli tổng hợp chỉ có 50 francs), bà bèn sử dụng cách thức ngâm tẩm hoa truyền thống từ thời Grasse. Bằng cách ngâm các loại hoa, quả, cây lá với nhau (như dưa gang tây, chuối, dâu tây, lê, lá hương bài, hoa kim hoa, huệ tây củ,…) và xử lý vài gợn váng trong, bà thu được nhiều loại cồn thơm khác nhau. Và các quý bà xin hãy lưu ý rằng, bột phấn trang điểm của bà Ancel được chế tạo từ bột gạo, bột hạnh nhân mịn và hàn the, hoàn toàn không có cacbonat canxi với những tinh thể vô cùng nhỏ nhưng rắn chắc có thể làm xước da. Và son của bà Ancel thì hoàn toàn không có chứa Eosin độc hại. Chúng tôi có lẽ cũng cần lưu ý thêm rằng có rất nhiều sách ở Hiệp Hội Sáng Kiến, có thể thuê những con ngựa chỉ to bằng con dê nhưng lành tính với giá một xu để đi dạo, một vài đoạn suối Cam Ly với kha khá những loài cá nhỏ có thể là địa điểm yêu thích của những người câu cá nghiệp dư. Ngoài ra, còn có nhiều trò giải trí khác cho thị dân như xem chiếu bóng, chơi bài, tán gẫu,.. Tất cả những điều trên đây được cho phép ở Đà Lạt. Trên tất cả, Đà Lạt là một trung tâm dã ngoại lý tưởng. Cảnh quan khắp cao nguyên đều tuyệt đẹp với những con đường xe hơi và đường mòn trải rộng khắp nơi. Quanh Đà Lạt có thể tìm thấy nhiều điểm cao để ngắm cảnh như đỉnh Robinson, đỉnh Ba Cây Thông (les trois pins) và nhiều điểm du ngoạn đẹp như lac des soupirs [sau có tên tiếng Việt là Hồ Than Thở], la bois d’amour [rừng Ái Ân],… Hồ Than Thờ Rừng Ái Ân năm 1953. Đây là một rừng thông nằm gần Dinh III (Dinh Bảo Đại), phía đường Triệu Việt Vương, một khu rừng thơ mộng nhất của Đà Lạt khi xưa với cái tên mang đậm tính chất trữ tình: Rừng Ái Ân (Bois d’Amour). Bây giờ khu rừng này đã không còn nữa Các con thác ở Cam Ly nằm gần Đà Lạt, xa hơn là các thác ở Ankroet nhưng cũng chỉ cách vài kilomet. Tuy nhiên, đó chỉ là những con thác nhỏ, thực chất là những ghềnh nước. Nếu đi xe hơi riêng, trên đường về Sài Gòn, có thể ghé thăm các con thác lớn ở Liên – Khang [Liên Khương], dừng chân ở thác Gougah xinh đẹp hoặc tham quan hệ thống các thác nước hùng vĩ ở Pongour giữa khung cảnh núi rừng nguyên sơ và thơ mộng. Hẳn sẽ có người hỏi vặn tôi: Vậy những trận mưa tệ hại thì sao? Đúng vậy, ở Đà Lạt thường có mưa nhiều, trừ khoảng thời gian từ tháng một tới tháng ba, nhưng nhìn chung không quá nhiều như lời đồn thổi. Ở đây, mỗi năm chỉ có 150 ngày mưa, tương tự như tần suất mưa ở Paris, chắc chắn là ít hơn ở Brest hay Bordeaux. Lượng mưa trung bình hàng năm của Đà Lạt là 1.692mm là một điều hết sức bình thường ở xứ nhiệt đới, vẫn còn ít hơn lượng mưa của khu nghỉ mát trên cao nổi tiếng Simla (1.780mm) ở Ấn Độ. Đà Lạt chiếm giữ một vị trí địa lý tuyệt đẹp, khí hậu trong lành và ôn hòa, lưu thông thuận tiện với hệ thống đường sắt và đường bộ. Liệu Đà Lạt có thể trở thành một trung tâm hành chính hay không? Điều này chỉ có Chúa mới biết! Nhưng nếu điều đó trở thành sự thật thì quả là tai hại. Tương tự như câu chuyện đã xảy ra với Hà Nội. Hà Nội đã mất rất nhiều và Đà Lạt cũng không ngoại lệ, sẽ chật ních người, sẽ ngổn ngang công trường xây dựng và tấp nập xe hơi. Đà Lạt sẽ mang dáng dấp của những thành phố khác, sẽ mất đi thế mạnh độc đáo, mất đi chức năng ban đầu của mình là một thành phố nghỉ dưỡng. Khi bác sĩ Yersin tìm ra Đà Lạt vào cuối thế kỷ XIX, khi những đoàn khảo sát tiên phong đến Đà Lạt xây dựng những ngôi nhà gỗ đầu tiên, tất cả đều cùng chung một ý tưởng chính xác và hợp lý là chọn một nơi tốt nhất để xây dựng khu điều dưỡng. Nhưng ngày nay khi mọi thứ đang diễn tiến xa dần với mục tiêu ban đầu, tôi chợt nghĩ, hẳn là người ta đã bị lạc đường. Tác giả: P. Munier, tuần san Indochine số 28 ra ngày 13/3/1941 Dịch: Đông Kha (chuyenxua.net)
|
|
|
DALAT
Dec 31, 2023 19:36:08 GMT 9
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 19:36:08 GMT 9
THÀNH PHỐ ĐÀ-LẠT (Hứa Hoành) Posted on June 9, 2014 by Lê Thy baovecovang2012.wordpress.com/2014/06/09/bien-khao-thanh-pho-da-lat-hua-hoanh/SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ ÐÀ LẠT Lập trên cao nguyên Lâm Viên đồi núi chập chùng, Đà Lạt là một đô thị nghỉ mát xinh đẹp nằm giữa những khu rừng thông, thác nước thơ mộng: Đà Lạt là thành phố của tuổi trẻ, tình yêu và kỷ niệm. Ai đã đến đó một lần, chắc chắn sẽ giữ lại trong lòng những hình ảnh và kỷ niệm thân thương. Tài liệu viết bài này ngoài quyển sách “Những Ðứa Con của Rừng Núi” (The Sons of Mountains) của Gerald Cannon Hickey, còn nhiều tài liệu khác mà chúng tôi sưu tầm rải rác trong sách báo cũ. Trong chương viết về Đà Lạt, tác giả G. Hickey có nhắc đến tác phẩm, bài báo kê cứu hiếm như: – Báo Indochine năm 1943-1944 – Monographie de la province Dalat do trường Viễn Ðông bác cổ Hà nội in năm 1931. – Tạp chí Bulletin des Amis du vieux Hué năm 1938… Trong các Toàn quyền Ðông Dương chỉ có P. Doumer, Pasquier và Decoux để lại nhiều kỷ niệm trên đất nước ta hơn hết. Mặc dù khi tạo lập đường xá, cầu cống, tiện nghi công cộng, người Pháp không nghĩ đến phúc lợi cho người bản xứ, nhưng dầu sao đi nữa các cơ sở hạ tầng ở các thuộc địa cũng đem lại lợi ích lâu dài. Chúng tôi còn nhớ ngày 10 tháng 12 năm 1896, Toàn quyền Rousseau lâm trọng bện và từ trần ở bịnh viện Hà nội thì P. Doumer được lịnh qua Ðông Dương kế vị. Vừa đến Việt nam, P. Doumer liền nghĩ đến một chương trình kiến thiết đầy tham vọng. Mục đích nhằm khai thác kinh tế Việt nam. Hai dự án lớn lao nhất của P. Doumer là: – Tìm các địa điểm lập các đô thị nghỉ mát ở miền núi Trung kỳ. – Lập lại đường xe lửa xuyên Việt. Năm 1879, P. Doumer gặp bác sĩ Yersin là người đã hướng dẫn nhiều cuộc thám hiểm sâu vào vùng rừng núi Tây nguyên để thảo luận việc tìm kiếm những địa điểm thuận tiện có thể lập khu nghỉ dưỡng. Nơi đó phải có khí hậu mát mẻ để các kiều dân Pháp và các viên chức Pháp ở Ðông dương đến nghỉ hè thay vì mỗi năm phải về Pháp. Bác sĩ Yersin khuyến cáo nên chọn đỉnh Lâm Viên(Langbian). Sau đó P. Doumer ra lệnh cho một đoàn thám hiểm quân sự tìm kiếm một con đường từ miền duyên hải lên Lâm viên. Năm 1898, Pháp lập ra tỉnh Đồng Nai thượng, cơ sở hành chánh đặt tại Đà Lạt. Ngoài ra, còn có một tỉnh nhỏ mới thành lập ở Tánh Linh, nằm trên đường mòn trao đổi hàng hóa giữa cao nguyên và đồng bằng. Một đoàn thám hiểm khác khởi hành vào năm 1908 để phát quang dọn dẹp con đường mòn từ đồng bằng lên cao nguyên. Công việc này hoàn tất năm 1899. Với sắc lệnh 1-11-1899, người Pháp lập ra tỉnh Đồng Nai thượng với trung tâm hành chính đật tại Đà Lạt. Một tỉnh nhỏ hơn là Tánh linh với cơ sở hành chánh tại Djirinh (Di linh). Một ngôi nhà bằng thiếc đầu tiên được thiết lập coi như ngôi nhà nghỉ mát đầu tiên tại đây. Mấy năm sau, nhận thấy rằng vùng rừng núi này có nhiều vách đá dốc đứng, cheo leo, khó thiết lập đường xe lửa, nên họ chọn cách làm đường lộ cho xe hơi chạy. Từ đó, Pháp bỏ tỉnh Đồng Nai thượng, còn đại lý hành chánh Djirinh sát nhập vào tỉnh Phan Thiết và Đà Lạt nhập vào Phan Rang. Công việc đang tiến hành thì năm 1902, Toàn quyền P. Doumer đột ngột về Pháp, khiến nhiều chương trình kiến thiết bị đình trệ. Tuy là một thành phố sinh non, nhưng nhiều người Pháp có đầu óc làm giàu chú ý ngay đến Đà Lạt. Lợi dụng sắc luật nhượng đất đai của chính phủ, vào ngày 1-4-1900, một người Pháp tên Gresieu được cấp cho không 885 mẫu đất thuộc Đồng Nai thượng. Ngày 18-10-1901, một người Pháp khác tên Armavon được cấp 300 mẫu ở gần Đà Lạt… Ngày nay du khách đi chơi Đà Lạt thường theo quốc lộ 20, từ ngả ba Dầu Giây lên Ðịnh Quán, Bảo Lộc, rồi Di Linh tới Đà Lạt, hay dùng quốc lộ 21 từ Phan Rang đi lên, chớ ít ai ngờ rằng con đường lộ đầu tiên nối liền giữa Sài gòn và Đà Lạt đi qua ngả Phan Thiết. Ðường ấy bắt đầu từ Ma lâm, qua đèo Datrum đến Di linh, rồi từ đó mới đi tiếp lên Đà Lạt. từ năm 1914-1915, Phan Thiết là trạm dừng chân của lữ khách đi Đà Lạt. Từ năm 1908, Đà Lạt mới có ngôi nhà gạch đầu tiên là toà Công sứ Pháp. Năm 1912 Toàn quyền Albert Sarraut kế tục chương trình dang dở của P. Doumer, phát triển Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ dưỡng. Ban đầu người Pháp khởi công làm con đường từ Phan Rang lên Đà Lạt qua Ða Nhim và đèo Ngoạn Mục (Bellevue). Con đường ấy sau này mở rộng thành quốc lộ 21. Từ năm 1914, hãng xe hơi chở khách “Société des Correspondances Automobiles du Langbian” cho chạy những chiếc xe hiệu Lorraine-Dietrich trên lộ trình Sài gòn – Phan Thiết – Di Linh tới Đà Lạt. Người cố cựu cho biết rằng hồi đó người ta gọi tắt hãng xe đò này bằng chữ “SCAL”. Năm sau, tỉnh Langbian thành hình vẫn lấy Đà Lạt làm tỉnh lỵ. Đà Lạt bắt đầu thu hút du khách đến nghỉ mát và săn bắn vào mùa hè. Năm 1916, Langbian Palace Hotel là khách sạn đầu tiên được xây dựng theo kiểu nhà sàn, nhưng có hành lang rộng và mái che. Cũng năm đó, Đà Lạt có trạm Bưu chính, sở Công chánh và trắc địa, toà Công sứ, Cảnh binh. Còn người Việt Nam (kinh) đầu tiên đến cư ngụ Đà Lạt là những người phu khuân vác trắc địa hay những người buôn bán. Năm 1920, Pháp tái lập tỉnh Đồng Nai thượng, tỉnh lỵ đật tại Di linh, trong khi Đà Lạt trở thành một khu vực tự trị về hành chánh, do một Tổng ủy viên cai trị. Năm 1922, Đà Lạt bước qua một giai đoạn phát triển mới, kiến trúc sư được chỉ định vẽ đồ án nới rộng Đà Lạt, mở rộng thành phố thành một đô thị tân tiến. Ðặc biệt theo đồ án này không được xây cất gì che khuất đỉnh Lâm Viên để giữ vẻ đẹp cho thành phố thơ mộng. Pháp muốn thành phố Đà Lạt sẽ là một góc của nước Pháp ở miền núi Alpes của A¨ châu. Do đó Đà Lạt phải có: – Hồ nhơn tạo – Hàng trăm biệt thự rải rác trên các sườn đồi – Xây dựng ngôi chợ trung ương hình khối chữ nhật với tháp chuông vươn cao. Ðó là vị trí rạp hát Hòa bình hiện nay. Kể từ năm 1930 trở đi, Đà Lạt phát triển thành một đô thị có vườn hoa xinh đẹp, nhiều công viên cây xanh, ngàn hoa khoe sắc thắm vào mùa xuân. Người Mỹ đầu tiên có mặt tại Đà Lạt là vợ chồng nhà truyền giáo Tin Lành Hebert Jackson. Ông này đến Đà Lạt năm 1930, lập nhà truyền giáo đầu tiên cho đồng bào Thượng, có một mục sư Việt Nam làm thông ngôn. Năm 1925, Đà Lạt có chương trình gắn điện các đường phố chính bằng cách xây đập thủy điện Ankroet. Dự án này không thực hiện được vì thiếu ngân sách. Năm 1929 một nhà trồng tỉa Pháp làm một máy phát điện nhỏ sử dụng thác nước Cam Ly để cung cấp điện lực cho Đà Lạt. Tháng 7 năm 1932, con đường quốc lộ 20 từ Sài gòn lên Bảo Lộc đi Đà Lạt hoàn thành. ÐÀ LẠT, MỘT TRUNG TÂM GIÁO DỤC Trường Yersin Đà Lạt Trường Yersin Đà Lạt Các nhà khoa học đều nhận định rằng môi trường, khí hậu trong lành, mát mẻ rất thích hợp cho các hoạt động trí tuệ. Từ đó, Đà Lạt sớm phát triển thành một trung tâm giáo dục quan trọng nhất nước. Năm 1927, nhằm phục vụ cho con em người Pháp và số gia đình người Việt giàu có, Pháp cho lập ra Petit Lycée de Dalat. Ngôi trường Việt Nam đầu tiên do cụ Bùi Thúc Bàng mở ra năm 1927, gần rạp Ngọc Lan. Cùng năm đó, dòng nữ tu Soeur St. Paul mở trường Crèche de Nazareth, dành riêng cho trẻ em. Trước năm 1932, trường Petit Lycée de Dalat đổi thành Grand Lycée de Dalat và chương trình học dạy tới bực Tú tài Pháp. Năm 1935, trường này lấy tên Lycée Yersin cho tới nay, để kỷ niệm bác sĩ Yersin, ân nhân của Việt Nam và cả nhân loại nữa. Cuối năm 1932, người Pháp xây dựng cơ sở giáo dục cho nhà dòng sư huynh (trường Christian Brothers) và trường Collège d’Adran cho các chủng sinh. Năm 1935, nhà dòng Notre Dames mở rộng thêm bằng cách thiết lập chương trình giáo dục đệ nhị cấp, còn gọi là “Notre Dames de Langbian” và sau này chúng ta quen gọi trường ấy là Couvent des Oiseaux. Trường nữ này dành riêng cho các thiếu nữ con các gia đình Pháp, Việt giàu có cùng các gia đình quan lại. Trường này thu nhận các nữ sinh từ Miên, Lào theo học nữa. Ðến ngày 27-6-1939, Đà Lạt có thêm trường Thiếu Sinh quân đầu tiên dành cho các thiếu nhi và thiếu niên các gia đình quân nhân Pháp Việt. Năm 1936 bác sĩ Yersin lập ra viện Pasteur ở Đà Lạt, sau này trở thành nha Ðịa dư, nằm trên ngọn đồi gần trường Yersin và ga xe lửa Đà Lạt. Ngày 1-1-1953, trường Quốc gia Hành chánh thành lập tại Đà Lạt để đào tạo công chức cao cấp cho chính phủ. Nhiều người Việt Nam tốt nghiệp khoa này, về sau đều làm tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và giám đốc các công sở. Trường trung học Trần Hưng Ðạo khởi thủy lập gần chợ Hoà bình, có hoàng tử Bảo Long theo học , nên sau lấy tên là trường Bảo Long. Còn trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, lúc mới lập lấy tên công chúa Phương Mai, sau đổi thành trường Quang Trung. Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam nguyên thủy là trường Sĩ quan Huế, thành lập năm 1948 bên cạnh sông Hương. Năm 1950, trường này di chuyển về Đà Lạt, lấy cơ sở trường Chỉ huy Tham mưu sau này làm địa điểm. Dưới thời Tổng thống Ngô Ðình Diệm, trường này lấy tên trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Ðến năm 1960, trường này đổi tên thành Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam trên ngọn đồi 1515. đến năm 1967, trường này có cơ sở hiện đại nhất so với các trường võ bị Ðông Nam A¨. A¨p dụng chương trình huấn luyện quân sự và phần lớn chương trình văn hóa của trường Võ bị West Point (Hoa kỳ), trường Võ bị Quốc gia Việt Nam dạy văn hóa bậc đại học 4 năm, đào tạo các sĩ quan hiện dịch đủ trình độ kiến thức chỉ huy và kiến thiết sau này. Khi tốt nghiệp, ngoài bằng cấp tốt nghiệp do trường Võ bị cấp phát, mỗi sinh viên còn được cấp bằng Cử Nhân Khoa Học Ư¨ng Dụng. Cho tới ngày Cộng sản chiếm miền Nam, trường Võ bị đã đào tạo được 29 khóa sĩ quan hiện dịch (khóa 30 và 31 đang trong thời kỳ huấn luyện) làm nòng cốt cho Quân đội VNCH. Viện Ðại học Đà Lạt thành lập năm 1957. Tiền thân của viện Ðại học này là trường Sư huynh công giáo ở Huế do giám mục Ngô Ðình Thục thành lập với sự giúp đỡ của Hồng y Spellman ở New York. viện Ðại học Đà Lạt xây cất trên khu đất rộng 38 mẫu tây, có khoảng 1500 sinh viên theo học các phân khoa Chính trị Kinh doanh, Sư phạm, Khoa học… nằm tại số 1 đường Phù đổng Thiên vương. Thật là một sự ngạc nhiên lạ lùng, Đà Lạt trước năm 1975 có độ 80,000 dân mà có đến 4 cơ sở giáo dục đại học: Viện Ðại học, trường Ðại học Chiến tranh Chính trị, trường Võ bị Quốc gia Việt nam. Phía Giáo hội còn có trường Giáo hoàng Pio X Ngoài ra còn có 15 trường trung học đệ nhị cấp và 56 trường tiểu học! VÀI NHÂN SĨ THƯỢNG Ở ÐÀ LẠT Đà Lạt nguyên thủy là quê hương của người Thượng. Khi nói đến Đà Lạt mà không nhắc qua vài tên tuổi lớn người Thượng thì thất là thiếu sót. Từ cuối năm 1920, Đà Lạt phát triển bề rộng lẫn chiều sâu, mà vài người Thượng đã đóng vai trò quan trọng. Tại thung lũng Ða nhim, có bộ tộc Churu (Chru) tuy dân số ít (độ 1500 người) nhưng được coi là bộ lạc tiến bộ nhất cao nguyên Lâm viên, vì lịch sử của họ có liên hệ với lịch sử người Chiêm thành. Là thị dân Đà Lạt, tôi chắc nhiều đồng hương còn nhớ con đường Ya Gut, nằm giữa đường Trần Bình Trọng và Hoàng Diệu, gần Trung tâm Y tế toàn khoa? Theo Touneh Han Tho thì Banahria Ya Gut được coi như lãnh tụ người Churu nhiều thập niên đầu thế kỷ 20. Sinh năm 1870 tại một buôn làng thuộc vùng Ðơn dương ngày nay, Ya Gut kết hôn với một người chị bà con của thân phụ Han Tho; Ya Gut có một đứa con gái tên Ame Mabo, cho đến năm1975 vẫn còn sống tại làng Diom là quê hương của ông ta. Ông Ya Gut là một người có tâm hồn nghệ sĩ, môt Nguyễn Du của người Churu, từng sáng tác nhiều thên anh hùng ca cho dân tộc Churu. Tài năng ấy Ya Gut thừa hưởng của tổ tiên. Năm 1909, Pháp lập một đồn hành chánh tại Dran (Ðơn dương) và phong cho Ya Gut làm tri huyện cai trị vùng này, giống như trường hợp tù trưởng có thế lực Khunjenob cai trị tại Ban Mê Thuột. Hồi đó Ya Gut đóng vai trò trung gian giao thiệp giữa Pháp và dân chúng. Ngoài chức vụ hành chánh, Ya Gut còn đóng vai thẩm phán hoà giải các vụ xung đột, làm trọng tài giải quyết các cuộc tranh chấp của đồng bào ông ta. Theo Touneh Han Din, một người bà con với Han Tho, thì trong thời gian làm tri huyện ở Dran, nhiệm vụ căn bản của Ya Gut là chiêu mộ dân Thượng làm phu đắp đường giao thông. Dân Thượng cũng bị bắt buộc phải khiêng cáng cho các viên chức Pháp Việt và vợ con của họ. Ðối với các bà vợ công chức Việt nam, những người Thượng này gọi đùa rằng đó là các “bà đầm mũi tẹt”. Một lãnh tụ khác là Touneh Han Dang, sinh năm 1880 tại Diom, trong một gia đình có 7 anh em. Ba mẹ là người thuộc chi tộc Banahria. Cũng như cha, thuở nhỏ Han Dang theo cha làm rẫy. Thời gian nhàn rỗi cậu thường đi săn bắn thú rừng. Ðến tuổi 15, Han Dang tháp tùng theo các thường nhân người Churu buôn chuyến từ Phan Rang lên Dran. Chuyến xuống họ mang mật ong, thịt rừng phơi khô, vài loại măng… xuống Phan Rang đổi lấy muối, nước mắm, vải vóc. Là một thanh niên cường tráng, có chí tự lập, chỉ mấy năm sau, Han Dang tự mình tổ chức các chuyến hàng riêng biệt. Tại Phan Rang có làng An phước là nơi nổi tiếng văn vật của người Chàm, có trường tiểu học. Nhờ vậy Han Dang được theo học các môn Pháp Việt và Chàm ngữ. Thấy việc học thích thú và có lợi, Han Dang rất tích cực trau dồi. Nhưng có một điều làm cho Han Dang lo lắng đó là cha mẹ cậu sợ cậu ở mãi dưới An phước sẽ lưu lạc rồi bỏ rơi ông bà. Vì thế ông bà thu xếp cho hai người anh lớn đang làm giáo viên, dạy kèm tiếng Việt và Chàm cho Han Dang tại nhà ở Diom. Hàng ngày, sau khi tập ca hát cùng các ban hợp ca trong hai giờ, Han Dang học kèm với anh, và sau đó, học võ với một võ sư người Việt. Năm 1905, Pháp bắt đầu làm con đường từ Phan Rang lên Đà Lạt. Han Dang và cha đều bị bắt đi làm sưu. thấy cha già yếu, Han Dang tình nguyện làm việc cho cả hai người, nhưng lại từ chối khiêng cáng cho các “bà đầm mũi tẹt”. Con đường từ Krong Pha lên Đà Lạt có nhiều dốc cao, mỗi ngày Han Dang chỉ mang vác vượt 15 cây số thôi. Hàng hóa thường là những két rượu vang dành cho các công chức Pháp ở Đà Lạt. Trong thời gian ấy Han Dang dành dụm được một số tiền, bắt đầu mua ngà voi, mật ong ở Roglai đem xuống Phan Rang bán. Năm 1907, Han Dang có ý nghĩ sẽ cải tiến đời sống người Churu. Ðầu tiên, Han Dang yêu cầu một người đàn bà Chàm đến Ða nhim dậy bộ lạc Churu dệt vải. Kế tiếp, Han Dang gởi cô em họ là Ba Cam xuống Phan Rang học kỹ thuật làm nồi đất nung. Khi trở về, Ba Cam bắt đầu làm toàn bộ nồi đất mới cho cả làng. Han Dang còn học được kỹ thuật cày ruộng: cày sâu và hiệu quả hơn. Có một điều không thành công lắm là bắt đàn bà Churu mặc quần thay vì mặc váy. Năm 1910, Han Dang được bổ làm lý trưởng Diom. Năm sau Pháp lập huyện Tân khai, sau này gọi là Di linh và Han Dang trở thành thông ngôn cho Ya Gut. Ðến năm 1919, tri huyện Ya Gut hưu trí và Han Dang được cử thay thế chức tri huyện của Ya Gut. Mãi đến ngày 22-2-1922, triều đình Huế (Khải Ðịnh) mới bổ Han Dang làm “Thổ Huyện Tân khai” và gọi là “tri huyện Mọi”. Trong thời gian này, Han Dang đề nghị mở trường ở Ða nhim bị công sứ Cunhac và quản đạo Trần Văn Lý phản đối với lý do “người Mọi không cần giáo dục, vì họ chỉ làm những việc nặng nhọc, không cần đến sự khéo léo”. Dù thất bại, Han Dang không nản, tiếp tục tranh đấu để cải tiến mức sống của đồng bào ông. Năm 1922, người Pháp làm đường Sài gòn đi Đà Lạt qua ngả Bảo lộc, cần nhiều phu người Thượng. Với tư cách tri huyện Mọi, Han Dang có bổn phận cung ứng dân phu, nhưng đồng thời cũng nhắc lại yêu sách mở trường học. Lần này có kết quả. Tại các buôn người Lat, người Chil, người Churu, bắt đầu có trường sơ cấp, nhưng mỗi trường chỉ có độ 10 học sinh. Cho đến năm 1927, quản đạo Trần Văn Lý liên tục bất đồng ý kiến với Han Dang, và bỏ qua các đề nghị của Han Dang về những cải cách nâng cao mức sống của đồng bào Thượng. Khi quản đạo Trần Văn Lý đi rồi, tình hình người Thượng được cải thiện hơn: Han Dang tranh đấu để tỉnh cấp tiền bạc cho học sinh, tăng chương trình học lên 4 năm, và lúc ấy có 40 học sinh theo học. Những học trò giỏi được gửi lên Đà Lạt sẽ ở trọ nhà Han Dang đi học. Những học sinh ưu tú, sau khi tốt nghiệp sẽ được gửi đi Qui Nhơn học tiếp “Collège de Quinhon”. Ngày 2-9-1925, toàn quyền Ðông dương ban tặng cho Han Dang huy chương Bắc Ðẩu bội tinh. Theo Touneh Han Tho, trong khi khánh thành đường xe lửa từ Krong Pha lên đèo Ngoạn mục, công sứ Đồng Nai thượng có ban cho Han Dang huy chương “Kim Tiền hạng 3”. Sau đó, Han Dang còn liên tiếp nhận được các huy chương Bắc Ðẩu bội tinh (1929), mề đay Kim Khánh hạng 3 (1933). Theo Touneh Han Tho, Han Dang tiếp tục tranh đấu để cải thiện mức sống của đồng bào Thượng quanh vùng Đà Lạt. Ông tranh đấu cho dân làm đường được lãnh lương cao hơn. Mội khi có những thắc mắc ông khiếu nại với các viên chức cao cấp Pháp tại Đà Lạt, nếu như không được giải quyết, không nản, ông làm đơn gởi lên hoàng đế Bảo Ðại, thủ tướng Pháp Léon Blum và cả tổng thống Pháp. Năm 1937, để phản đối viên công sứ Pháp lạm quyền, Han Dang từ quan, về làng làm lãnh tụ cho bộ lạc của ông đến ngày mãn phần. ÐÀ LẠT, MỘT TRUNG TÂM GIÁO DỤC Các nhà khoa học đều nhận định rằng môi trường, khí hậu trong lành, mát mẻ rất thích hợp cho các hoạt động trí tuệ. Từ đó, Đà Lạt sớm phát triển thành một trung tâm giáo dục quan trọng nhất nước. Năm 1927, nhằm phục vụ cho con em người Pháp và số gia đình người Việt giàu có, Pháp cho lập ra Petit Lycée de Dalat. Ngôi trường Việt Nam đầu tiên do cụ Bùi Thúc Bàng mở ra năm 1927, gần rạp Ngọc Lan. Cùng năm đó, dòng nữ tu Soeur St. Paul mở trường Crèche de Nazareth, dành riêng cho trẻ em. Trước năm 1932, trường Petit Lycée de Dalat đổi thành Grand Lycée de Dalat và chương trình học dạy tới bực Tú tài Pháp. Năm 1935, trường này lấy tên Lycée Yersin cho tới nay, để kỷ niệm bác sĩ Yersin, ân nhân của Việt Nam và cả nhân loại nữa. Cuối năm 1932, người Pháp xây dựng cơ sở giáo dục cho nhà dòng sư huynh (trường Christian Brothers) và trường Collège d’Adran cho các chủng sinh. Năm 1935, nhà dòng Notre Dames mở rộng thêm bằng cách thiết lập chương trình giáo dục đệ nhị cấp, còn gọi là “Notre Dames de Langbian” và sau này chúng ta quen gọi trường ấy là Couvent des Oiseaux. Trường nữ này dành riêng cho các thiếu nữ con các gia đình Pháp, Việt giàu có cùng các gia đình quan lại. Trường này thu nhận các nữ sinh từ Miên, Lào theo học nữa. Ðến ngày 27-6-1939, Đà Lạt có thêm trường Thiếu Sinh quân đầu tiên dành cho các thiếu nhi và thiếu niên các gia đình quân nhân Pháp Việt. Năm 1936 bác sĩ Yersin lập ra viện Pasteur ở Đà Lạt, sau này trở thành nha Ðịa dư, nằm trên ngọn đồi gần trường Yersin và ga xe lửa Đà Lạt. Ngày 1-1-1953, trường Quốc gia Hành chánh thành lập tại Đà Lạt để đào tạo công chức cao cấp cho chính phủ. Nhiều người Việt Nam tốt nghiệp khoa này, về sau đều làm tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và giám đốc các công sở. Trường trung học Trần Hưng Ðạo khởi thủy lập gần chợ Hoà bình, có hoàng tử Bảo Long theo học , nên sau lấy tên là trường Bảo Long. Còn trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, lúc mới lập lấy tên công chúa Phương Mai, sau đổi thành trường Quang Trung. Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam nguyên thủy là trường Sĩ quan Huế, thành lập năm 1948 bên cạnh sông Hương. Năm 1950, trường này di chuyển về Đà Lạt, lấy cơ sở trường Chỉ huy Tham mưu sau này làm địa điểm. Dưới thời Tổng thống Ngô Ðình Diệm, trường này lấy tên trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Ðến năm 1960, trường này đổi tên thành Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam trên ngọn đồi 1515. đến năm 1967, trường này có cơ sở hiện đại nhất so với các trường võ bị Ðông Nam A¨. A¨p dụng chương trình huấn luyện quân sự và phần lớn chương trình văn hóa của trường Võ bị West Point (Hoa kỳ), trường Võ bị Quốc gia Việt Nam dạy văn hóa bậc đại học 4 năm, đào tạo các sĩ quan hiện dịch đủ trình độ kiến thức chỉ huy và kiến thiết sau này. Khi tốt nghiệp, ngoài bằng cấp tốt nghiệp do trường Võ bị cấp phát, mỗi sinh viên còn được cấp bằng Cử Nhân Khoa Học Ư¨ng Dụng. Cho tới ngày Cộng sản chiếm miền Nam, trường Võ bị đã đào tạo được 29 khóa sĩ quan hiện dịch (khóa 30 và 31 đang trong thời kỳ huấn luyện) làm nòng cốt cho Quân đội VNCH. Viện Ðại học Đà Lạt thành lập năm 1957. Tiền thân của viện Ðại học này là trường Sư huynh công giáo ở Huế do giám mục Ngô Ðình Thục thành lập với sự giúp đỡ của Hồng y Spellman ở New York. viện Ðại học Đà Lạt xây cất trên khu đất rộng 38 mẫu tây, có khoảng 1500 sinh viên theo học các phân khoa Chính trị Kinh doanh, Sư phạm, Khoa học… nằm tại số 1 đường Phù đổng Thiên vương. Thật là một sự ngạc nhiên lạ lùng, Đà Lạt trước năm 1975 có độ 80,000 dân mà có đến 4 cơ sở giáo dục đại học: Viện Ðại học, trường Ðại học Chiến tranh Chính trị, trường Võ bị Quốc gia Việt nam. Phía Giáo hội còn có trường Giáo hoàng Pio X Ngoài ra còn có 15 trường trung học đệ nhị cấp và 56 trường tiểu học! VÀI NHÂN SĨ THƯỢNG Ở ÐÀ LẠT Đà Lạt nguyên thủy là quê hương của người Thượng. Khi nói đến Đà Lạt mà không nhắc qua vài tên tuổi lớn người Thượng thì thất là thiếu sót. Từ cuối năm 1920, Đà Lạt phát triển bề rộng lẫn chiều sâu, mà vài người Thượng đã đóng vai trò quan trọng. Tại thung lũng Ða nhim, có bộ tộc Churu (Chru) tuy dân số ít (độ 1500 người) nhưng được coi là bộ lạc tiến bộ nhất cao nguyên Lâm viên, vì lịch sử của họ có liên hệ với lịch sử người Chiêm thành. Là thị dân Đà Lạt, tôi chắc nhiều đồng hương còn nhớ con đường Ya Gut, nằm giữa đường Trần Bình Trọng và Hoàng Diệu, gần Trung tâm Y tế toàn khoa? Theo Touneh Han Tho thì Banahria Ya Gut được coi như lãnh tụ người Churu nhiều thập niên đầu thế kỷ 20. Sinh năm 1870 tại một buôn làng thuộc vùng Ðơn dương ngày nay, Ya Gut kết hôn với một người chị bà con của thân phụ Han Tho; Ya Gut có một đứa con gái tên Ame Mabo, cho đến năm1975 vẫn còn sống tại làng Diom là quê hương của ông ta. Ông Ya Gut là một người có tâm hồn nghệ sĩ, môt Nguyễn Du của người Churu, từng sáng tác nhiều thên anh hùng ca cho dân tộc Churu. Tài năng ấy Ya Gut thừa hưởng của tổ tiên. Năm 1909, Pháp lập một đồn hành chánh tại Dran (Ðơn dương) và phong cho Ya Gut làm tri huyện cai trị vùng này, giống như trường hợp tù trưởng có thế lực Khunjenob cai trị tại Ban Mê Thuột. Hồi đó Ya Gut đóng vai trò trung gian giao thiệp giữa Pháp và dân chúng. Ngoài chức vụ hành chánh, Ya Gut còn đóng vai thẩm phán hoà giải các vụ xung đột, làm trọng tài giải quyết các cuộc tranh chấp của đồng bào ông ta. Theo Touneh Han Din, một người bà con với Han Tho, thì trong thời gian làm tri huyện ở Dran, nhiệm vụ căn bản của Ya Gut là chiêu mộ dân Thượng làm phu đắp đường giao thông. Dân Thượng cũng bị bắt buộc phải khiêng cáng cho các viên chức Pháp Việt và vợ con của họ. Ðối với các bà vợ công chức Việt nam, những người Thượng này gọi đùa rằng đó là các “bà đầm mũi tẹt”. Một lãnh tụ khác là Touneh Han Dang, sinh năm 1880 tại Diom, trong một gia đình có 7 anh em. Ba mẹ là người thuộc chi tộc Banahria. Cũng như cha, thuở nhỏ Han Dang theo cha làm rẫy. Thời gian nhàn rỗi cậu thường đi săn bắn thú rừng. Ðến tuổi 15, Han Dang tháp tùng theo các thường nhân người Churu buôn chuyến từ Phan Rang lên Dran. Chuyến xuống họ mang mật ong, thịt rừng phơi khô, vài loại măng… xuống Phan Rang đổi lấy muối, nước mắm, vải vóc. Là một thanh niên cường tráng, có chí tự lập, chỉ mấy năm sau, Han Dang tự mình tổ chức các chuyến hàng riêng biệt. Tại Phan Rang có làng An phước là nơi nổi tiếng văn vật của người Chàm, có trường tiểu học. Nhờ vậy Han Dang được theo học các môn Pháp Việt và Chàm ngữ. Thấy việc học thích thú và có lợi, Han Dang rất tích cực trau dồi. Nhưng có một điều làm cho Han Dang lo lắng đó là cha mẹ cậu sợ cậu ở mãi dưới An phước sẽ lưu lạc rồi bỏ rơi ông bà. Vì thế ông bà thu xếp cho hai người anh lớn đang làm giáo viên, dạy kèm tiếng Việt và Chàm cho Han Dang tại nhà ở Diom. Hàng ngày, sau khi tập ca hát cùng các ban hợp ca trong hai giờ, Han Dang học kèm với anh, và sau đó, học võ với một võ sư người Việt. Năm 1905, Pháp bắt đầu làm con đường từ Phan Rang lên Đà Lạt. Han Dang và cha đều bị bắt đi làm sưu. thấy cha già yếu, Han Dang tình nguyện làm việc cho cả hai người, nhưng lại từ chối khiêng cáng cho các “bà đầm mũi tẹt”. Con đường từ Krong Pha lên Đà Lạt có nhiều dốc cao, mỗi ngày Han Dang chỉ mang vác vượt 15 cây số thôi. Hàng hóa thường là những két rượu vang dành cho các công chức Pháp ở Đà Lạt. Trong thời gian ấy Han Dang dành dụm được một số tiền, bắt đầu mua ngà voi, mật ong ở Roglai đem xuống Phan Rang bán. Năm 1907, Han Dang có ý nghĩ sẽ cải tiến đời sống người Churu. Ðầu tiên, Han Dang yêu cầu một người đàn bà Chàm đến Ða nhim dậy bộ lạc Churu dệt vải. Kế tiếp, Han Dang gởi cô em họ là Ba Cam xuống Phan Rang học kỹ thuật làm nồi đất nung. Khi trở về, Ba Cam bắt đầu làm toàn bộ nồi đất mới cho cả làng. Han Dang còn học được kỹ thuật cày ruộng: cày sâu và hiệu quả hơn. Có một điều không thành công lắm là bắt đàn bà Churu mặc quần thay vì mặc váy. Năm 1910, Han Dang được bổ làm lý trưởng Diom. Năm sau Pháp lập huyện Tân khai, sau này gọi là Di linh và Han Dang trở thành thông ngôn cho Ya Gut. Ðến năm 1919, tri huyện Ya Gut hưu trí và Han Dang được cử thay thế chức tri huyện của Ya Gut. Mãi đến ngày 22-2-1922, triều đình Huế (Khải Ðịnh) mới bổ Han Dang làm “Thổ Huyện Tân khai” và gọi là “tri huyện Mọi”. Trong thời gian này, Han Dang đề nghị mở trường ở Ða nhim bị công sứ Cunhac và quản đạo Trần Văn Lý phản đối với lý do “người Mọi không cần giáo dục, vì họ chỉ làm những việc nặng nhọc, không cần đến sự khéo léo”. Dù thất bại, Han Dang không nản, tiếp tục tranh đấu để cải tiến mức sống của đồng bào ông. Năm 1922, người Pháp làm đường Sài gòn đi Đà Lạt qua ngả Bảo lộc, cần nhiều phu người Thượng. Với tư cách tri huyện Mọi, Han Dang có bổn phận cung ứng dân phu, nhưng đồng thời cũng nhắc lại yêu sách mở trường học. Lần này có kết quả. Tại các buôn người Lat, người Chil, người Churu, bắt đầu có trường sơ cấp, nhưng mỗi trường chỉ có độ 10 học sinh. Cho đến năm 1927, quản đạo Trần Văn Lý liên tục bất đồng ý kiến với Han Dang, và bỏ qua các đề nghị của Han Dang về những cải cách nâng cao mức sống của đồng bào Thượng. Khi quản đạo Trần Văn Lý đi rồi, tình hình người Thượng được cải thiện hơn: Han Dang tranh đấu để tỉnh cấp tiền bạc cho học sinh, tăng chương trình học lên 4 năm, và lúc ấy có 40 học sinh theo học. Những học trò giỏi được gửi lên Đà Lạt sẽ ở trọ nhà Han Dang đi học. Những học sinh ưu tú, sau khi tốt nghiệp sẽ được gửi đi Qui Nhơn học tiếp “Collège de Quinhon”. Ngày 2-9-1925, toàn quyền Ðông dương ban tặng cho Han Dang huy chương Bắc Ðẩu bội tinh. Theo Touneh Han Tho, trong khi khánh thành đường xe lửa từ Krong Pha lên đèo Ngoạn mục, công sứ Đồng Nai thượng có ban cho Han Dang huy chương “Kim Tiền hạng 3”. Sau đó, Han Dang còn liên tiếp nhận được các huy chương Bắc Ðẩu bội tinh (1929), mề đay Kim Khánh hạng 3 (1933). Theo Touneh Han Tho, Han Dang tiếp tục tranh đấu để cải thiện mức sống của đồng bào Thượng quanh vùng Đà Lạt. Ông tranh đấu cho dân làm đường được lãnh lương cao hơn. Mội khi có những thắc mắc ông khiếu nại với các viên chức cao cấp Pháp tại Đà Lạt, nếu như không được giải quyết, không nản, ông làm đơn gởi lên hoàng đế Bảo Ðại, thủ tướng Pháp Léon Blum và cả tổng thống Pháp. Năm 1937, để phản đối viên công sứ Pháp lạm quyền, Han Dang từ quan, về làng làm lãnh tụ cho bộ lạc của ông đến ngày mãn phần. HỨA HOÀNH Ðặc san ÐA HIỆU số 40 tháng 10-1995
|
|