|
Post by Huu Le on Aug 9, 2007 4:49:06 GMT 9
Một số vấn đề và khía cạnh nghiên cứu chữ Nôm Nguyễn Quang Hồng Tiểu dẫn 1. Về sự hình thành chữ Nôm 2. Về đặc trưng loại hình của chữ Nôm 3. Vấn đề phân tích cấu trúc chữ Nôm 4. Về vai trò hành chức của chữ Nôm 5. Vấn đề phiên âm và chú giải chữ Nôm 6. Vấn đề tin học hoá và ứng dụng chữ Nôm Chữ Nôm là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử phát triển của nền văn hoá dân tộc ViệtNam. Đi sâu nghiên cứu về chữ Nôm là công việc quan trọng đã và đang đặt ra đối với các học giả trong nước và cả ngoài nuớc, xuất phát từ những nhu cầu của thực tiễn đời sống xã hội nướcta cũng như từ những nhu cầu của nhận thức khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Đã có nhiều học giả và nhiều công trình nghiên cứu về chữ Nôm của Việt Nam, trong đó có không ít tác giả đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho các thế hệ sau họ, như: Nguyễn Văn Huyên, Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Tài Cẩn,… ở trong nước, và ở nước ngoài như: J. L. Taberd, H. Maspéro, Hoàng Xuân Hãn, Paul Schneider, Văn Hựu, Vương Lực, Yonosuke Takeuchi, Kawamoto Kuniye, v.v. Riêng ở Việt Nam, trong vài chục năm lại đây, bên cạnh một số bộ tự điển chữ Nôm được xuất bản, đã có nhiều luận án, luận văn, bài viết lấy chữ Nôm làm đối tượng nghiên cứu, và cũng đạt tới những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi không có ý định và cũng không dám làm một bản tổng thuật về tình hình nghiên cứu chữ Nôm. Trong bài này chúng tôi muốn trình bày, theo sự thu suy nghĩ và thu hoạch của mình, đôi nét đại quan về những vấn đề hoặc những khía cạnh đáng lưu ý trong quá trình tiếp cận với chữ Nôm ở Việt Nam. 1. Về sự hình thành chữ Nôm Có một câu hỏi chúng ta thường nghe thấy, không chỉ ở các nhà nghiên cứu, mà nhiều khi ở cả những người dân thường: Chữ Nôm ra đời từ bao giờ? Để trả lời cho câu hỏi này, đã có những cách tiếp cận khác nhau. Từng có một cách nhìn khá đơn giản cho vấn đề được nêu ra: Chỉ cần phát hiện một chứng tích nào đó, như bia đá, chuông đồng chẳng hạn, có niên đại càng cổ xưa càng tốt, nếu trên đó có vài ba chữ vuông, có thể khác với chữ Hán hay vẫn là chữ Hán, dùng để ghi từ ngữ tiếng Việt, thì chúng được coi là chứng tích của sự xuất hiện chữ Nôm vào thời đó. Hai chữ Ông Hà 翁 何 trên quả chuông chùa Vân Bản, có niên đại năm Bính [Thìn] (1076) đời Lý Nhân Tông, được ngư dân ở Đồ Sơn vớt từ dưới biển lên vào năm 1958, là một trường hợp như vậy. Muộn hơn, có tấm bia Báo Ân thiền tự bi ký ở chùa Tháp Miếu (Yên Lãng, Vĩnh Phú). Theo sự khảo cứu của GS Đào Duy Anh thì tấm bia này có niên đại năm 1210 đời Lý Cao Tông. Trong văn bia Hán văn đó ở những phần nói về việc cúng ruộng, ghi ranh giới ruộng và ghi tên người thấy có những chữ Nôm xen vào: tất cả 24 chữ, gồm 18 chữ giả tá chữ Hán và 6 chữ tự tạo theo phép hình thanh. Và đây được coi là chứng tích xưa nhất của chữ Nôm còn lưu lại đến ngày nay. Căn cứ vào những chứng tích như thế, có nguời cho rằng chữ Nôm Việt đã ra đời muộn hơn chữ vuông Choang, vì từ năm Vĩnh Thuần nguyên niên (628) đời nhà Đường đã có tấm bia Đại tựng bi bằng Hán văn trên đó ghi xen kẽ một số chữ vuông Choang (tự tạo), còn ở Việt Nam thì không thấy tấm bia nào có chữ Nôm Việt với niên đại sớm đến thế. Tuy nhiên, cách nhìn nhận như vậy về sự ra đời của một thứ văn tự như chữ Nôm Việt hay chữ vuông Choang phải chăng là thoả đáng? Trước hết, sự có mặt trên các cổ vật một số chữ lẻ tẻ của người bản địa xen kẽ trong văn bản chữ Hán chỉ là những hiện tượng tạo chữ hoặc mượn chữ lâm thời, chưa đủ để thừa nhận đó là một thứ văn tự thực sự của người bản địa. Hiện tượng này về nguyên tắc cũng giống như người Hán đã dùng một số chữ Hán có sẵn hoặc lâm thời tạo ra những “tục tự” để ghi chép tên gọi các vật thể địa phương hoặc ngoại tộc mà thôi. Những cách ghi chép từ ngữ bản địa như vậy hoàn toàn có thể xuất hiện rất sớm, ngay từ khi người Hán hoặc người bản địa sử dụng chữ Hán để ghi chép, để trước tác (mà sự tiếp xúc với chữ Hán đã diễn ra ở Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên) và các văn bản như vậy hầu như đều đã mai một qua thời gian. Cho nên, phát hiện ra các cổ vật có niên đại sớm hoặc muộn còn lưu lại những chữ “tục tự” như thế, là việc có thể diễn ra lúc này hay lúc khác, và khó lòng mà nói rằng đến đâu là tận cùng, là giới hạn của niên đại sớm nhất cho những chứng tích như vậy. Một thí dụ cho tình trạng “bất định” này là sau khi biết đến những cổ vật trên chừng vài chục năm, chúng ta lại phát hiện quả chuông xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai (Hà Tây), đúc vào năm Trinh Nguyên 14 (nhà Đường), tức năm 798. Chuông khắc chữ Hán, nhưng có một số tên người tên đất có khả năng là ghi tiếng Việt thời bấy giờ. Những chứng tích như vừa kể trên có thể sẽ tiếp tục được phát hiện, chúng xác nhận những nhu cầu và những cố gắng của người xưa trong việc mượn dùng mô hình chữ Hán để ghi một số từ ngữ dân tộc, và đánh dấu cho những bước đi ban đầu trong quá trình hình thành một thứ văn tự dân tộc như chữ Nôm. Chữ Nôm, cũng như chữ Hán và các hệ thống chữ vuông khác trong khu vực, không phải thuộc loại những văn tự do sáng kiến của một ai, do một người nào chế tác ra ngay trong một sớm một chiều, mà là một hệ thống văn tự mở, được hình thành và hoàn thiện dần trong quá trình hành chức. Cho nên, muốn xác định một thời điểm được coi là đánh dấu sự “ra đời” một thứ văn tự như chữ Nôm của tiếng Việt, theo thiển nghĩ của chúng tôi, là phải căn cứ trên những cứ liệu cho thấy khả năng hành chức độc lập tối thiểu của chữ Nôm được bắt đầu từ bao giờ. Những cứ liệu như thế phải đáp ứng hai điều kiện như sau: Một là, chứng tích không phải là những chữ lẻ tẻ xuất hiện trong các văn bản ngoại văn (ở đây là Hán văn), mà phải là một văn bản hoàn chỉnh, cho dù đó là một văn bản ngắn, đủ để ghi lại và chuyển đạt một thông tin trọn vẹn. Hai là, trong văn bản đó không chỉ có chữ vay mượn (tức là loại chữ “giả tá”), mà phải có mặt những chữ tự tạo (như chữ “hội ý”, “hình thanh”, v.v.). Mặc dù chưa có một sự minh định như vậy, nhưng một số học giả tiền bối cũng đã có nhiều cố gắng chứng minh sự xuất hiện của chữ Nôm theo những cứ liệu như thế. Theo hướng này, chúng ta đã từng nghe nói đến việc Nguyễn Thuyên làm văn tế cá sấu, Nguyễn Sĩ Cố làm thơ phú quốc âm, và việc các triều quan nhà Trần làm thơ Nôm nhân sự kiện nhà vua gả công chúa Huyền Trân cho vua nước Chiêm. Những chuyện này đều có ghi chép trong bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư. Tuy nhiên, tất cả các văn bản chữ Nôm đó đến nay đều đã thất truyền. Cho nên, những chi tiết sử ký này chỉ có thể hỗ trợ phần nào cho việc xác nhận sự hình thành của chữ Nôm mà thôi. Những cứ liệu có niên đại sớm nhất có thể đáp ứng hai điều kiện nêu trên cho đến nay vẫn thường được nhắc đến là hai bài phú (Cư trần lạc đạo phú, Vịnh Hoa Yên tự phú) và một bài ca từ (Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca) của Trần Nhân Tông (1258–1308). Như vậy, có thể nói chắc là từ thời nhà Trần (thế kỷ XIII), chữ Nôm của ta đã thực sự trở thành một thứ văn tự hẳn hoi. Tuy nhiên, vẫn chừa ra khả năng có thể tìm thấy những chứng tích cổ hơn còn tiềm ẩn trong dân gian, trong nhà chùa và cả trong lòng đất. Cũng cần lưu ý đến những văn bản chữ Nôm mặc dầu chưa xác minh được niên đại, song xét về mặt ngôn ngữ được ghi chép bằng chữ Nôm trong đó, ta thấy những dấu hiệu của một tiếng Việt cổ xưa, có thể là xưa hơn cả các văn bản thời nhà Trần. Đó phải chăng là trường hợp của văn bản giải âm (trực dịch từ Hán sang Nôm) trong sách Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, trong đó ngoài những chữ Nôm tự tạo, có hàng loạt từ ngữ tiếng Việt được viết bằng hai chữ vuông Hán, phản ánh tình trạng cấu trúc ngữ âm từ theo kiểu MiS+MaS (âm tiết phụ + âm tiết chính) hoặc CCVC với tổ hợp phụ âm đầu khá đang dạng, như 破 散 “phá tán” *păsanh / psănh > rắn) 破 了 “phá liễu” *pălau / plău > sáu, “cư mãng” 車 莽* kămang / kmăng > mắng , “cá nô” 个 奴 *kăno / kno > no, v.v., là những gì đặc trưng cho tiếng Việt sơ kỳ, có thể là vào thời nhà Lý, là thời kỳ đạo Phật rất thịnh hành ở nước ta. 2. Về đặc trưng loại hình của chữ Nôm Đặc trưng loại hình của chữ Nôm lệ thuộc vào hai nhân tố quan trọng: Một là, đặc trưng loại hình của văn tự Hán ngữ, là thứ văn tự mà chữ Nôm dựa vào để tạo chữ. Hai là, đặc trưng loại hình của bản thân tiếng Việt, là thứ ngôn ngữ cũng thuộc cùng loại hình đơn lập âm tiết tính (cơ chế đơn tiết) như tiếng Hán. Trong quá trình tiếp xúc với văn hoá Hoa Hạ, nhiều dân tộc lân cận khi tạo lập văn tự cho ngôn ngữ của mình đã chịu nhiều ảnh hưởng từ thể chế (hoặc “cơ chế”) của chữ Hán. Tuy nhiên, mức độ tương đồng giữa các hệ thống văn tự “phái sinh” này với văn tự Hán ngữ có thể không hoàn toàn giống nhau, và điều này chủ yếu là tuỳ thuộc vào nhân tố loại hình ngôn ngữ. Thể chế của chữ Hán, theo phân tích của học giả Triệu Lệ Minh (Trung Quốc), có thể quy thành mấy điểm như sau: (a) Đơn vị chữ viết theo nét bút trong một ô vuông. (b) Đơn vị chữ phiên ghép theo thành tố. (c) Đơn vị chữ biểu ý theo ngữ tố. (d) Đơn vị chữ biểu âm theo âm tiết. (e) Đơn vị chữ có cấu trúc âm-ý. (f) Đơn vị chữ được viết lần lượt theo hàng dọc (theo truyền thống vốn dĩ như vậy). Trong danh sách trên đây không có yếu tố “tượng hình” như nhiều người vẫn có ấn tượng khá rõ nét về chữ Hán. Quả thực, có không ít những chữ Hán thời sơ khai được tạo ra theo nguyên tắc tượng hình, tức là vẽ lại đối tượng tự nhiên (như: hổ, ngựa, chó, trâu, dê, cá, rắn, cây, núi, lửa, nước, v.v.) thành đồ hoạ và dùng để ghi chép, thông tin sự việc. Nhưng đó chỉ là thuở ban đầu, sau rồi qua nhiều biến đổi về hình chữ và cách viết chữ, hệ thống nét bút với quy tắc ô vuông đã xoá nhoà những hình tượng ban đầu đó trên văn tự Hán. Và các hệ chữ viết phái sinh từ chữ Hán đã tiếp nhận ảnh hưởng của chữ Hán ở thời kỳ sau này, khi tính “tượng hình” đã thuộc về quá khứ, và đã hình thành đầy đủ các yếu tố thể chế nêu trên. Nếu chấp nhận các yếu tố thuộc về thể chế của chữ Hán như vừa nêu làm tiêu chí để xác định loại hình văn tự cho các thứ chữ ô vuông phái sinh từ chữ Hán, thì có thể nhận thấy tình hình chung như sau: Đáp ứng gần như đầy đủ các yếu tố trên đây là chữ Nôm tiếng Việt và các hệ thống chữ vuông của dân tộc Choang, Đồng, Miêu, Dao, Bạch, Bố Y, Hà Nhì, v.v. Đó đều là các dân tộc có ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập âm tiết tính như tiếng Việt và tiếng Hán. Chữ viết của một số dân tộc khác, vốn cũng bắt nguồn từ chữ Hán, như: Chữ Tây Hạ (nước Phiên, thế kỷ XI–XIV) theo hầu hết các yếu tố nêu trên, chỉ không chấp nhận yếu tố (e), về cơ bản đó cũng là thứ văn tự cùng loại hình với chữ Hán. Còn các thứ chữ khác như chữ Khiết Đan (nước Liêu, thế kỷ X–XII), chữ Nữ Chân (nước Kim, thế kỷ XII–XV), chữ Bát Ba Tư (Mông Cổ, nhà Nguyên, thế kỷ XII–XIV), chữ Kana của Nhật, chữ Ngạn của Triều Tiên, v.v. thì hầu như đều phỏng theo nét bút chữ Hán để tạo ra chữ ghi âm tiết mà không biểu âm biểu ý. Có thể nhận thấy rằng, các ngôn ngữ mà mấy thứ chữ này đại diện đều là thuộc loại hình chắp dính. Như vậy, chữ Nôm của tiếng Việt và các thứ chữ vuông của nhiều ngôn ngữ dân tộc khác thuộc loại hình đơn lập - âm tiết tính, cũng như tiếng Hán và chữ Hán, đều thuộc loại hình văn tự ghi âm tiết – biểu âm biểu ý. (Trên lãnh thổ Trung Quốc cũng có một số ngôn ngữ dân tộc thuộc loại hình đơn lập - âm tiết tính từ xưa đã tạo cho mình những hệ thống chữ viết biểu ý biểu âm mà hầu như không hề liên quan với chữ Hán, trong đó có cả chữ tượng hình, chỉ sự, giả tá, v.v. như chữ Đông Ba của dân tộc Na Xi, chữ Bu Ma của dân tộc Di, v.v). Theo chúng tôi, trong một phát ngôn có tính khái quát về loại hình văn tự của các thứ chữ đang xét, không nhất thiết phải gắn với những thuật ngữ quen thuộc như “văn tự ghi ngữ tố” hay “văn tự ghi từ”, bởi lẽ các thuật ngữ này có vẻ loại trừ nhau, nhưng trên thực tế hầu như là không mâu thuẫn đối với các ngôn ngữ có cơ chế đơn tiết (đơn lập – âm tiết tính).
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 9, 2007 4:51:41 GMT 9
Tiếp tục khảo sát và phân tích khả năng đáp ứng các tiêu chí về thể chế của văn tự ô vuông ghi âm tiết - biểu âm biểu ý đối với từng thứ chữ của một ngôn ngữ cụ thể (trong chữ Hán, trong chữ Nôm và chữ vuông của các dân tộc khác) sẽ có thể cho phép ta hình dung được mức độ đậm nhạt khác nhau của từng thứ chữ đối với các tiêu chí kể trên. Từ đó tiến hành so sánh, đối chiếu sẽ giúp ta xác định được những đặc điểm của các thứ chữ vốn cùng thuộc loại hình văn tự ô vuông “ghi âm tiết – biểu âm biểu ý” này. Bên cạnh đó, những cuộc khảo sát thống kê số lượng và tỉ lệ các chữ Hán, chữ Nôm trong tự điển hay trong văn bản cho thấy có sự chênh lệch giữa chữ Hán và chữ Nôm, giữa chữ thuần biểu âm và thuần biểu ý với chữ vừa biểu âm vừa biểu ý, v.v. từ thời kỳ này sang thời kỳ khác của cùng một thứ văn tự ô vuông như thế, chắc hẳn sẽ vô cùng quý giá đối với việc nhận diện sự phát triển lịch sử của bản thân thứ văn tự đang xét. Rất tiếc là cho đến nay, trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản về chữ Nôm, những công trình triển khai theo hướng này vẫn còn thiếu vắng. Quả là thực hiện một công trình loại này đối với chữ Nôm là không hề đơn giản chút nào. Nó đòi hỏi một trình độ phân tích, xử lý có nghề, đáng tin cậy và sự nhẫn nại cao độ của người nghiên cứu, khi trước mắt họ là các văn bản chữ Nôm chép tay hoặc khắc in (chứ không phải là những văn bản dễ dàng đưa vào máy tính), mà niên đại ra đời của chúng thì ít khi được chỉ báo rõ ràng. Trong khi đó thì ý nghĩa của những cuộc nghiên cứu thống kê định lượng đối với chữ Nôm từ lâu cũng đã được các học giả tiền bối nhấn mạnh (Y. Takeuchi, Nguyễn Tài Cẩn).
3. Vấn đề phân tích cấu trúc chữ Nôm
Đã có không ít các học giả để tâm nghiên cứu về cấu trúc của chữ Nôm, và kết quả thường đưa ra những sơ đồ về các loại cấu tạo chữ Nôm. Chúng tôi không có ý định kéo dài thêm danh sách các sơ đồ như thế ở đây. Chỉ xin lưu ý tới những cách tiếp cận cần thiết trong việc nhận diện và phân tích cáu trúc chữ Nôm Việt.
Có lẽ ai cũng nhận thấy rằng, các chữ Hán được mượn nguyên vẹn vào văn bản Nôm, sẽ không phải là đối tượng thực sự của việc phân tích cấu trúc chữ Nôm. Người ta có thể chú ý đến khả năng đọc một chữ Hán như thế theo đúng âm Hán Việt hay “chệch” đi ít nhiều trong khi giải đọc văn bản. Nhưng đó là công việc nằm bên ngoài cấu trúc của chữ. Nhưng nếu một chữ Hán được mượn làm chữ Nôm với một sự “gia giảm” nào đó, thì ta không có quyền làm ngơ đối với việc phân tích cấu trúc của nó. Chẳng hạn, với chữ Làm 爫 có thể được lý giải là do chữ “vi” 爲 lược bớt một phần mà thành; chữ Day 휀 (day động) là do chữ “di” 移 thêm dấu “nháy” 혈 mà thành, v.v.
Đi vào phân tích cấu trúc của các chữ Nôm tự tạo theo cơ chế phiên ghép chứ không phải là gia giảm, chúng ta sẽ đứng trước những hiện tượng dường như không có mặt trong chữ Hán, và đó có thể sẽ là những gì làm nên những điểm đặc thù của chữ Nôm so với chữ Hán. Chúng tôi muốn lưu ý tới những hiện tượng như sau.
Trước hết là những chữ Nôm gồm hai thành tố đều là biểu âm, có thể gọi là chữ Nôm hội âm. Thí dụ: Trăng/Giăng < *blăng 뛾 (ba + lăng), Trước < *klươc 엃 (lược + cư), v.v. Khi người Việt bắt đầu dùng chữ Hán để ghi từng tiếng trong ngôn ngữ của mình, lúc ấy tiếng Việt còn giữ khá nhiều các phụ âm kép ở đầu âm tiết, và một sáng kiến được nảy sinh: dùng hai chữ Hán ghép thành một chữ để phản ánh tình trạng này. Cần nhớ rằng, tiếng Hán vào thời bấy giờ đã không còn các phụ âm kép như vậy nữa, và mỗi chữ Hán chỉ đọc với một âm tiết “trơn tru” với một phụ âm mở đầu mà thôi. Đành rằng trong chữ Hán cũng có những thành tố biểu âm như 各 “các”, khi thì cho âm đọc với [k] (như 各 các, 格 cách), khi thì cho âm đọc với [l] (như 洛 lạc, 路 lộ) khiến các học giả nghĩ đến khả năng ở thời cổ xưa thành tố này có âm đầu là *[kl]. Tuy nhiên đó chỉ là chuyện của quá khứ đối với các chữ Hán này, và trong hệ thống chữ Hán hầu như không hề có mặt những chữ “hội âm” như ở chữ Nôm. Còn với tiếng Việt thì đến thế kỷ XVII, một số các phụ âm kép này vẫn còn là hiện thực (Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của A. de Rhodes ghi nhận ba phụ âm kép ml, bl, tl). Bởi vậy việc xuất hiện những chữ Nôm hội âm này trong các văn bản Nôm thời kỳ đầu là một biểu hiện sinh động cho tinh thần độc lập sáng tạo của người Việt trong khi sử dụng chữ Hán cho văn tự bản ngữ của mình. Những chữ Nôm có cấu trúc như thế, đến đời sau đôi khi vẫn còn được dùng như là một sự kế thừa vốn cũ, mặc dù thực tế phát âm không còn duy trì những phụ âm kép như vậy nữa.
Tiếp theo, xin lưu ý đến một số chữ Nôm mà bộ thủ của chúng không thể nào giải thích được sáng rõ nếu không tìm cách vượt ra khỏi bản thân một chữ vuông, mà phải liên hệ nó theo quan hệ liên kết (chiều ngang) trong văn bản hoặc quan hệ liên tưởng (chiều dọc) trong hệ thống văn tự thì mới mong “giải mã” được chúng. Đây là câu chuyện liên quan đến việc nhận diện một số bộ thủ trong cấu trúc chữ Nôm. Xin nêu một vài thí dụ như sau.
Chẳng hạn trong câu “Đàn bà sâu sắc như khay/cơi đựng trầu” (Ca dao), hai chữ Cơi/Khay 맚 và Đựng 橙 đều viết với bộ “mộc” 木. Cơi/Khay thì dĩ nhiên phải là bộ “mộc” rồi, nhưng tại sao lại dùng bộ “mộc” cho Đựng (chứ không là bộ “thủ” 扌 chẳng hạn). Rõ ràng có một sự liên kết về ngữ nghĩa giữa Khay/Cơi và Đựng trong câu, khiến chúng được viết thống nhất với nhau ở bộ thủ. Cũng có thể giải thích như vậy đối với bộ “túc” 足 ở chữ Lỡ* đi liền với chữ Bước 끺 trong câu “Tối tăm lỡ bước đến đây” (Lục Vân Tiên). Sự liên kết bộ thủ như thế là có tính lâm thời, ở vào những văn cảnh khác, các chữ Đựng chữ Lỡ hoàn toàn có thể “mang” những bộ thủ khác thích hợp hơn. Còn như sự liên kết thể hiện bằng bộ thủ trong cách viết các từ láy, như Đất đai 坦 墆 có thể coi như là sự liên kết cố định, có tác dụng gắn nối hai âm tiết trong từ láy thành một khối chặt chẽ về âm chữ, nghĩa chữ và cả hình chữ. Tuy nhiên, đây không hẳn là hiện tượng của riêng chữ Nôm Việt, mà trong chữ Hán cũng có thể bắt gặp, như: Phảng phất 仿 佛, v.v.
Lại như trường hợp chữ Gần thường được viết với bộ “bối” 貝. Thật khó lòng hình dung được tại sao ý niệm về “gần” lại phải dùng bộ “bối”. Chỉ có thể tìm được lời giải thích, nếu ta liên hệ Gần với Xa (hai tiếng trái nghĩa trong cùng một trường nghĩa): chữ Xa trong văn bản Nôm là mượn từ chữ Hán Xa 賒 (có nghĩa là “mua chịu, kéo dài thời hạn trả tiền”). Chữ Xa đã có bộ “bối” rồi, thì chữ Gần 뙮 cũng dĩ nhiên có thể mang bộ “bối” trong mối liên tưởng với Xa.
Một điều thú vị là có một số trường hợp “bộ thủ” của thành tố ý biểu âm được viết ở vị trí thông thường của bộ thủ của chữ vuông, nên chúng được nhận diện như là một bộ thủ của cả chữ Nôm. Thí dụ như thành tố biểu âm “nữ” 女 trong các chữ Nửa 姅, Nợ 嫧, v.v. Tư cách “bộ thủ” của nó dường như càng được khẳng định khi từ mối liên hệ với chữ Nợ 嫧, người ta đã viết hai chữ Nợ nần 嫧 퍶, cùng có bộ “nữ”, trong đó chữ Nần đã là thành tố biểu âm là “nan” rồi, và “nữ” ở đây không biểu âm mà cũng không biểu nghĩa, đích thị chỉ là một bộ thủ “hờ” trong cấu trúc chữ Nôm đang xét, nó chỉ đóng vai trò liên kết với chữ Nợ mà thôi.
Xin chuyển sang xem xét cấu trúc của những chữ Nôm có vẻ “bí hiểm” khác. Hãy lấy chữ Đất 坦 làm thí dụ. Chữ này trùng hình với chữ Hán “thản” 坦, và xuất hiện rất phổ biến trong các văn bản Nôm, từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi trở đi. Không mấy ai nghĩ rằng chữ Nôm này đã mượn chữ Hán “thản” để đọc “đất” và đã phân tích chữ Đất gồm bộ “thổ” 土 biểu ý và chữ “đán” 旦 biểu âm. Thực ra, trong sách Phật thuyết, các chữ Đất đều viết bằng chữ Hán “đát” 怛, theo phép giả tá biểu âm. Như vậy có nhiều khả năng về sau người ta thêm bộ “thổ” theo phép hình thanh, rồi để cho giản tiện và gọn mặt chữ hơn, người ta đã rút bỏ bớt bộ “tâm” trong thành tố “đát”, chỉ giữ lại “đán” vốn dĩ là thành tố biểu âm của chữ Hán “đát” mà thôi. Tương tự như vậy là chữ Mười/Mươi: bên cạnh những mặt chữ như 辻 hay 북, ta còn bắt gặp trong các văn bản Nôm những mặt chữ như 붂 hay 쬿, v.v. Khó có thể giải thích lý do “tồn tại” của bộ “xước” trong các chữ viết gọn (tắt) nếu như không liên hệ nó với bộ “xước” trong chữ “mại” 邁, 迈 biểu âm ở các dạng chữ đầy đủ hơn, chỉ có điều bộ phận bị lược bớt đi là phần biểu âm, còn bộ thủ thì để lại, cốt sao cho mặt chữ Nôm được gọn và dễ “trình bày” trong một khuôn khổ ô vuông. Có thể dẫn ra rất nhiều những trường hợp như vậy. Tình hình này khiến chúng tôi muốn nói đến sự phân định cấu trúc nổi và cấu trúc chìm khi phân tích chữ Nôm.
Khi gặp những chữ Nôm mà mặt chữ không lấy gì làm phức tạp, nhưng đi vào xem xét thành tố biểu âm và thành tố biểu ý của chúng, ta gặp rắc rối không phân định được, tức thì khi ấy ta phải phân tích cấu trúc của những chữ Nôm này theo cách tiếp cận cấu trúc nổi và cấu trúc chìm. Cấu trúc nổi là cấu trúc hình thức, trực tiếp phân định theo các thành tố có mặt trong hình chữ đang xét, mặc dù sự phân tích ấy không phản ánh được thực chất cấu trúc âm và nghĩa của chữ. Theo cách này, ta sẽ chấp nhận cấu trúc nổi của Đất 坦 là gồm bộ “thổ” + “đán” biểu âm, Mười/Mươi 辻 hay 북 là gồm bộ “xước” + “thập” biểu nghĩa. Sự chấp nhận cấu trúc nổi này cỏ vẻ là khiên cưỡng, song cũng cần thiết cho ứng dụng thực tế, nhất là trong việc sắp xếp những chữ Nôm như thế vào tự điển theo bộ thủ. Bên cạnh đó, người học và người đọc chữ Nôm sẽ không thể nào thoả mãn với những cấu trúc nổi như thế, họ cần biết thực sự lý do sâu xa của sự cấu tạo nên các hình chữ Nôm “kỳ lạ” đó. Khi đó chúng ta cần phải lý giải sơ đồ cấu tạo chúng theo cấu trúc chìm, từng bước “khôi phục” dạng đầy đủ của chúng dù là ở dạng tiềm ẩn hay thực sự có dạng thức đầy đủ kiểm chứng.
Còn có khá nhiều những hiện tượng, những khía cạnh liên quan với vấn đề cấu trúc chữ Nôm. Trên đậy chỉ nêu lên một số, chủ yếu là những gì làm nên đặc thù của chữ Nôm và các cách tiếp cận vào việc phân tích chúng. Từ đó có thể nhận thấy một phần nào tình trạng dường như là “bất ổn định” của mã chữ Nôm so với đơn vị ngôn ngữ mà nó đại diện, song mặt khác cũng cho thấy tính chất cơ động và linh hoạt trong cấu tạo và sử dụng chữ Nôm.
4. Về vai trò hành chức của chữ Nôm
Nếu tính từ khi thực sự hình thành cho đến nay thì chữ Nôm đã có mặt trong hành trình lịch sử của dân tộc khoảng 7 thế kỷ. Trong thời gian đó và trước đó nữa, chữ Hán cũng được sử dụng ở Việt Nam. Và từ thế kỷ XVII, bên cạnh chữ Hán, chữ Nôm, nước ta còn có chữ Quốc ngữ La tinh, thuộc một loại hình văn tự khác hẳn (ở đây tạm không kể đến tiếng Pháp và chữ Pháp trong thời Pháp thuộc). Vậy thì, xét về mặt hành chức, một vấn đề quan trọng đặt ra là trong thế “song hành' với chữ Hán (âm Hán Việt với ngữ pháp văn ngôn) và “tam hành” với chữ Hán và chữ Quốc ngữ, chữ Nôm đã được sử dụng như thế nào, đã đóng vai trò gì trong đời sống xã hội Việt Nam. Đôi khi người ta hay nói đến sự lần lượt thay thế vai trò của nhau từ chữ Hán sang chữ Nôm, và đặc biệt là từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ. Chúng tôi muốn nhấn mạnh tính “song hành” và “tam hành” của mấy thứ chữ này trong khả năng hành chức của chúng cho đến ngày nay. Phải thừa nhận rằng, trải qua các thời kỳ lịch sử, vai trò chung của các thứ văn tự này có lúc đậm có lúc nhạt, song khó có thể đặt dấu chấm hết cho một thứ chữ nào đó vào một thời điểm cụ thể được. Quả thực, từ đầu thế kỷ XX, khả năng hành chức của chữ Quốc ngữ ngày càng nổi bật, và từ sau Cách mạng Tháng Tám, chữ Quốc ngữ được coi là văn tự chính thức của nước ta. Điều này khẳng định vị thế quan trọng của chữ Quốc ngữ, và nó có thể phát huy triệt để vai trò hành chức của mình trong mọi mặt đời sống xã hội. Nhưng nếu như văn tự không chỉ là công cụ giao tiếp đại diện và phụ trợ cho ngôn ngữ, mà còn là phương tiện chuyển tải và thể hiện văn hoá, thì chữ Hán và chữ Nôm vẫn không hẳn phải từ bỏ mọi vị trí của mình trong đời sống xã hội Việt Nam ngày nay. Chứng cứ là không chỉ ở các đình chùa cổ kính, mà ngay cả các khu kỷ niệm, các điểm du lịch, các công trình văn hoá mang đậm tính truyền thống dân tộc, các cuộc sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá dân gian ngày nay, chúng ta đều nhận thấy sự góp mặt của chữ Hán và chữ Nôm. Thậm chí trên nhãn hiệu các thương phẩm, chữ Hán chữ Nôm vẫn có thể tìm được chỗ đứng của mình.
Để có thể xác định được chức năng xã hội của một thứ văn tự kể trên qua từng thời kỳ lịch sử, chúng ta cần khảo sát dung lượng và chất lượng của các văn bản được tạo thành và sử dụng trong những môi trường hành chức nhất định. Về nguyên tắc, có thể phân định các môi trường hành chức của chữ viết tương tự như phân định môi trường hành chức của ngôn ngữ. Chẳng hạn, đối với ba thứ chữ (và có thể cả chữ Pháp nữa) được sử dụng ở Việt Nam, có lẽ cần phân định thành những môi trường hành chức chủ yếu như sau:
(a) Môi trường văn hoá dân gian (dòng họ và làng xã, tín ngưỡng và tôn giáo).
(b) Môi trường sáng tạo và hưởng thụ văn học.
(c) Môi trường giáo dục, trước tác và truyền bá tri thức.
(d) Môi trường hành chính, sự nghiệp.
(e) Môi trường hoạt động kinh tế.
(f) Môi trường giao lưu quốc tế.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 9, 2007 4:52:35 GMT 9
Có thể nhận thấy rằng các công trình nghiên cứu về chữ Nôm cũng như về chữ Hán và chữ Quốc ngữ hiện nay chưa thực sự đi sâu khảo sát các cứ liệu thực tế theo các môi trường hành chức nêu trên. Thông thường có một tâm lý coi nhẹ thứ văn tự không hoặc ít được sử dụng trong môi trường hành chính sự nghiệp, chưa được xác nhận là văn tự chính thức của quốc gia. Thực ra thì trong thế “song hành” hoặc “tam hành” của ba thứ chữ được người Việt Nam sử dụng, có thể nhận ra một bức tranh với nhiều mảng đậm nhạt khác nhau dành cho ba thứ chữ tuỳ theo những môi trường hành chức khác nhau. Chẳng hạn, có thể hình dung được rằng, với chức năng sáng tạo và hưởng thụ văn học thì chữ Nôm không hề thua kém mà có phần nổi trội hơn chữ Hán (với những tác phẩm văn thơ chữ Nôm nổi tiếng từ Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đến Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, v.v.). Trong giới Công giáo Việt Nam, nhất là vào thế kỷ XVII, XVIII, bên cạnh chữ Quôc ngữ còn sử dụng cả chữ Nôm trong khá nhiều văn bản, kể cả giáo lý, kinh truyện và thư từ. Và đối với từng thứ chữ cũng sẽ có sự biến chuyển chức năng tuỳ theo từng thời kỳ phát triển của đời sống xã hội Việt Nam. Chẳng hạn, chữ Hán đã từng là văn tự hành chính và bang giao của nước ta trong thời phong kiến, sang thế kỷ XX chữ Quốc ngữ đã dần dần gánh vác vai trò này. Cũng cần lưu ý là mỗi hệ thỗng văn tự không chỉ hành chức một cách riêng rẽ, mà nhiều khi là phối xen hoặc phối hợp với nhau trong cùng một văn bản, nhằm thoả mãn những nhu cầu khác nhau của người tiếp nhận. Tiêu biểu nhất là trường hợp của những tác phẩm Hán văn được “giải âm” bằng chữ Nôm, và từ đầu thế kỷ XX thì có cả sự tham gia của chữ Quốc ngữ (và đôi khi cả chữ Pháp) nữa vào các văn bản Hán Nôm như thế. Hy vọng rằng, những cuộc khảo sát và nghiên cứu trên nhiều cứ liệu cụ thể sẽ tiếp tục làm sáng rõ thêm vai trò chức năng của chữ Nôm bên cạnh chữ Hán và chữ Quốc ngữ.
5. Vấn đề phiên âm và chú giải chữ Nôm
Công việc phiên âm chú giải các tác phẩm chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ có lẽ đã bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, đến nay có hơn 100 năm lịch sử. Những cố gắng không mệt mỏi của nhiều thế hệ các nhà phiên chú đã giúp cho đông đảo dân chúng Việt Nam có điều kiện thông qua chữ Quốc ngữ để hưởng thụ và tự hào về nền văn học chữ Nôm phong phú mà tổ tiên chúng ta đã để lại. Thực tiễn phiên âm và chú giải chữ Nôm đồng thời cũng gợi lên nhiều vấn đề khoa học cần bàn thảo. Không đi sâu vào các hiện tượng và chi tiết, ở đây chúng tôi chỉ xin trình bày vắn tắt một số khía cạnh có tính nguyên tắc của vấn đề.
Trước hết, một điều hết sức rõ ràng là phiên chuyển từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ là làm công việc chuyển mã văn tự, từ một loại hình văn tự biểu âm biểu ý sang loại hình văn tự phiên âm theo chữ cái. Trong sự phiên chuyển hình thức văn tự này, dù muốn hay không, thể nào cũng có chỗ được chỗ mất. Chẳng hạn: Trong văn bản chữ Quốc ngữ phải viết hoa tên riêng và một số danh xưng nhất định, phải chấm phảy câu văn, chia tách đoạn văn, v.v., mà văn bản Nôm thì không, đòi hỏi nhà phiên chú phải “làm việc” thêm rất nhiều. Ngược lại, những thành tố biểu ý trong chữ Nôm giúp ích không ít cho việc nắm hiểu nghĩa chữ nghĩa câu, thì trong phiên bản Quốc ngữ, giá trị “biểu ý” này hoàn toàn bị thủ tiêu, và đôi khi buộc nhà phiên chú phải chua thêm cho rõ nghĩa.
Tiếp theo, phiên chuyển văn bản chữ Nôm trong quá khứ sang văn bản chữ Quốc ngữ ngày nay, nói chung là đồng thời phiên chuyển một phần nào đó hình thức ngữ âm của từ ngữ tiếng Việt ngày xưa sang tiếng Việt ngày nay. Trong việc này lại cũng có chuyện chỗ được chỗ mất. Chẳng hạn: Trong văn bản Nôm thường chấp nhận nhiều hình chữ khác nhau cho một ngữ tố hay một từ đơn tiết, điều này đôi khi làm phân tán tâm trí người đọc, khi chuyển sang văn bản chữ Quốc ngữ, tình trạng này liền bị thủ tiêu. Ngược lại, trong khuôn khổ của chữ Quốc ngữ và cách phát âm của tiếng Việt hiện nay, sẽ là chuyện kỳ dị, nếu gặp những chữ Nôm có thành tố thể hiện phụ âm kép thời xưa, như 뛾, 엃 mà phiên là blăng, klươc… cho người thời nay đọc (để rồi phải chua là trăng, trước,…).
Xin nhớ cho rằng, chuyển chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ cho người thời nay đọc là câu chuyện khác hẳn với việc tái lập cách phát âm cổ như nó vốn được phản ánh trong văn bản gốc.
Rõ ràng là trong những trường hợp trên đây, người đọc các văn bản phiên âm chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ khó lòng có thể hình dung hết mọi sự đặc thù của văn bản Nôm trong nguyên tác. Với những “chỗ mất” như thế, khi thật sự cần thiết, nhà phiên chú có thể bù lại phần nào bằng cách ghi lời chú giải ngoài văn bản chính. Ngoài những điều có vẻ là đương nhiên như trên đây, thực tiễn phiên âm và chú giải văn bản Nôm còn đặt ra rất nhiều khía cạnh đòi hỏi phải cân nhắc xử lý sao cho thoả đáng. Chẳng hạn như sau:
(a) Trong trường hợp tác phẩm Nôm không phải là độc bản, mà có một số truyền bản, thì nhà phiên chú sang chữ Quốc ngữ sẽ phải cân nhắc lựa chọn một trong hai khả năng: Chỉ tuyệt đối trung thành với một truyền bản hay là thực hiện việc đối chiếu với các truyền bản khác để lựa chọn những gì được cho là tối ưu, tổng hợp thành văn bản mới trước khi chuyển mã sang chữ Quốc ngữ. Trong trường hợp thứ nhất, nếu có sự tham chiếu với truyền bản khác để bổ cứu những sai sót hoặc lầm lẫn hiển nhiên (trong sao chép hoặc khắc in) trong văn bản được chọn thì cũng có thể chấp nhận được với điều kiện cần phải ghi chú rõ ràng về sự bổ cứu đó. Trong trường hợp thứ hai, phần khảo cứu đối chiếu và chú giải văn bản trong bản phiên chú chữ Quốc ngữ là không thể bỏ qua, có điều mức độ chi tiết thì có phần phụ thuộc vào quy mô và mục đích phiên chú để xuất bản. Thực tiễn phiên chú các tác phẩm Nôm, như Truyện Kiều chẳng hạn, đã phản ánh sự nhất quán hay không trước sự lựa chọn có tính nguyên tắc trên đây. (b) Có lẽ cũng tuỳ thuộc vào mục đích phiên chú mà có sự lựa chọn cân nhắc trước các chữ Nôm có thể đọc theo âm cổ và cả âm hiện đại hoặc đọc theo âm địa phương và cả âm phổ thông. Khi có sự cần thiết phản ánh phong cách thời đại hoặc phong cách địa phương của tác phẩm, hẳn là nhà phiên chú sẽ bảo lưu cách phát âm cổ hoặc địa phương trong văn bản phiên chú của mình. (c) Mặc dù chúng ta chưa tìm thấy chứng cớ nào cho thấy trong quá khứ chữ Nôm đã được chuẩn hoá ở cấp độ chính sách ngôn ngữ của quốc gia. Song điều đó không có nghĩa là trong thực tế viết chữ và tạo chữ Nôm cũng đã không hề có sự cố gắng chuẩn hoá nhất định nào đó ở cá nhân các tác gia lớn và ở các tác phẩm của họ. Mặc dầu nói chung chữ Nôm có phần thiếu ổn định giữa hình chữ và âm đọc (một chữ có thể đọc nhiều âm và ngược lại), nhưng với những tác giả lớn (và cả nhà in lớn), tình trạng tuỳ tiện khi viết chữ là rất hạn chế. Nhà phiên chú hiện đại không thể không lưu ý đến những biểu hiện của xu hướng chuẩn mực hoá như thế trong tạo chữ và dùng chữ của tác giả nguyên bản.
(d) Có lẽ cần phân biệt việc chuyển mã (phiên chuyển) chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ, với việc giải mã các đơn vị chữ trong văn bản Nôm. Thuật ngữ sau chỉ nên dùng vào những trường hợp nhà nghiên cứu phải “đau đầu” trước những mã chữ không dễ gì một lúc có thể đọc được âm và giải được nghĩa của chúng. Đương nhiên là trong toàn bộ công việc phiên chú các văn bản Nôm, đôi khi chúng ta bắt gặp những trường hợp nan giải như vậy, đặc biệt là những chữ Hán được mượn để ghi từ ngữ Việt, như hai chữ 双 曰 (song viết / rông vát / ?…) chẳng hạn, đòi hỏi phải nghiên cứu giải mã riêng, và chính qua việc nghiên cứu cụ thể đó, sẽ góp phần xác định những nguyên tắc và thao tác cần thiết cho công việc phiên chú chữ Nôm.
6. Tin học hoá và ứng dụng chữ Nôm
Có lẽ đối với không ít người thì chữ Nôm là thứ văn tự của quá khứ, và ngày nay chỉ cần đào tạo một số chuyên gia để tiếp xúc với nó, với các văn bản Hán Nôm do người xưa để lại, là đủ rồi. Do đó, việc tin học hoá chữ Nôm phải chăng là cần thiết phải đặt ra? Câu hỏi này trên thực tế đã được nêu ra hơn mười năm trước đây, và đến nay, đã có được những bước đi ban đầu của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực Hán Nôm và lĩnh vực Công nghệ Thông tin theo hướng khẳng định sự cần thiết của Tin học hoá chữ Nôm nhằm đáp ứng một loạt các nhu cầu mới trong đời sống xã hội ngày nay. Thuộc loại những nhu cầu như thế có thể kể như: Cần phải có bộ chữ Nôm trên máy tính để thực hiện việc lập danh mục các tư liệu chữ Nôm hiện đang lưu trữ ở các nơi, và thực hiện việc thông tin chúng giữa các thư viện và giữa thư viện với độc giả qua máy tính. Cũng cần phải có các phần mềm chữ Nôm để thực hiện việc in ấn từng chữ riêng lẻ hay từng đoạn văn trong các sách vở nghiên cứu hoặc trong sách giáo khoa, thậm chí có thể dùng chúng để chế bản và in ấn các văn bản chữ Nôm mới (câu đối, gia phả, thơ văn, v.v.) theo nhu cầu khác nhau của công chúng. Một điều quan trọng là với sự hiện diện của chữ Nôm trên máy tính, thế hệ những người Việt Nam hôm nay và mai sau sẽ không còn “kính nhi viễn chi” đối với chữ Nôm, và như vậy, chữ Nôm - di sản văn hoá của dân tộc, sẽ không còn nguy cơ bị mai một nữa.
Có nhiều khía cạnh trong vấn đề tin học hoá và ứng dụng chữ Nôm qua công nghệ thông tin. Tại đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một vài khía cạnh có liên quan mang tính chất nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực ngữ văn Hán Nôm mà thôi.
(a) Bước đi đầu tiên trong tiến trình tin học hoá chữ Nôm là phải xác lập kho chữ Nôm và thực hiện việc mã hoá chúng. Từ hơn mười năm qua, các chuyên gia ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm cùng phối hợp với các chuyên gia tin học trong và ngoài nước, đã thực hiện công việc này trong chương trình chung của Nhóm công tác về chữ biểu ý (IRG – Ideographic Raporteur Group) thuộc tổ chức ISO quốc tế (International Standard Organization). Đến cuối năm 2000, trong bảng tổng hợp kho chữ biểu ý của nhóm IRG đã có mặt 9229 chữ của Việt Nam, với mã quốc tế Unicode. Khi xác lập các danh sách chữ Nôm để cung cấp cho IRG, các chuyên gia Việt Nam đã tuân theo hai nguyên tắc cơ bản: Một là, tôn trọng thực trạng đa dạng của chữ Nôm thể hiện qua các văn bản khác nhau, chỉ bước đầu thực hiện chuẩn hoá các nét bút và hình thể các thành tố của đơn vị chữ mà thôi.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 9, 2007 4:53:19 GMT 9
Hai là, ưu tiên cung cấp những chữ Nôm “thuần Việt”. Trong số những chữ Nôm thuần Việt, cũng có một số ngẫu nhiên trùng hình với chữ Hán và các hệ văn tự khác trong khu vực. Hiện nay còn có danh sách gồm 2.286 chữ nữa (trong đó có cả chữ Nôm Tày) đang được đăng ký để cấp mã quốc tế. Trong các tập chữ Nôm kể trên, vẫn có thể phát hiện một số ít trường hợp có sự lầm lẫn về hình chữ và không ăn khớp giữa hình chữ với ký mã của chữ, cần tiếp tục điều chỉnh khi có điều kiện.
(b) Công việc tiếp theo là thực hiện việc nghiên cứu mối tương quan giữa hình chữ và âm đọc, xác lập tương đối đầy đủ quan hệ đối ứng giữa hai bên. Trên cơ sở đó mới có thể tạo ra các phần mềm chữ Nôm được cài đặt theo khoá âm đọc (qua chữ Quốc ngữ). Hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng đang thực hiện chương trình nghiên cứu đối chiếu này.
(c) Để có thể vẽ phông chữ Nôm, cần xúc tiến việc nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm theo các thành tố trực tiếp, đồng thời thực hiện chuẩn hoá các thành tố đó theo các phong cách viết chữ khác nhau. Từ đó xác lập sự tương đồng và tương dị giữa các thành tố về hình thể, về vị trí trong thể thức ô vuông của chữ Nôm. Nhóm Nôm Na thuộc Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm (Hoa Kỳ) và một số nhóm khác ở Huế, Tp Hồ Chí Minh đã và đang thực hiện những chương trình nghiên cứu này và thu được những kết quả khả quan.
(d) Một trong những hướng ứng dụng các phần mềm chữ Nôm là làm chế bản và in lại các tác phẩm chữ Nôm của người xưa để cung cấp cho độc giả ngày nay một loại hình văn bản mới của tác phẩm cũ - văn bản chữ Nôm in ấn điện tử. Giá trị thực sự của một ấn phẩm Nôm hiện đại như vậy trước hết không phải là ở khía cạnh kỹ thuật, ở chỗ chữ Nôm in ra có đẹp không, mà ở tư cách văn bản học của ấn phẩm đã được xác định như thế nào. Đối với những tác phẩm có nhiều truyền bản, như Truyện Kiều chẳng hạn, thì đây là một vấn đề khá phức tạp. Những vấn đề văn bản học đặt ra ở đây về căn bản cũng như những gì đã nói đến ở điểm (a) mục 5 trên đây. Có thể tìm thấy một số nét tương tự và khác biệt nào đó giữa hai chặng đường làm nên các truyền bản Hán Nôm: từ các truyền bản chép tay đến các truyền bản khắc in, rồi từ các truyền bản khắc in (và có thể cả chép tay) đến các văn bản in ấn điện tử theo công nghệ thông tin hiện đại. Trong mọi trường hợp đều không tránh khỏi vấn đề có thực hiện việc chuẩn hoá văn tự trong ấn phẩm mới hay không.
***
Có thể còn nhiều vấn đề và nhiều khía cạnh của chữ Nôm chưa được đề cập đến ở đây, trong bài này. Song trước khi kết thúc bài viết, chỉ xin được nói sơ qua về một vấn đề quan trọng nữa trong việc nghiên cứu chữ Nôm. Đó là nghiên cứu về lịch sử phát triển của thứ văn tự truyền thống này. Thực ra, nội dung chủ yếu của công việc này chính là ở chỗ: Một mặt, khảo sát kỹ sự phát triển về đặc trưng loại hình và về cấu trúc của chữ Nôm, tìm hiểu sự diễn biến các cách tạo chữ và dùng chữ qua nhiều thời kỳ khác nhau. Mặt khác, cần tìm hiểu, nghiên cứu chu đáo về sự diễn biến trong các khả năng hành chức của chữ Nôm qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Tổng hợp các mặt nghiên cứu đó sẽ cho ta hình dung rõ nét về lịch sử phát triển, diễn biến của chữ Nôm trong lịch sử văn hoá nước ta. Mà những khía cạnh nghiên cứu như vậy, đều không ra ngoài những gì đã trình bày trên đây về sự hình thành chữ Nôm, về đặc trưng loại hình của chữ Nôm, và đặc biệt là về cấu trúc và vai trò hành chức của chữ Nôm.
Tài liệu tham khảo chính
Vương Lực. Hán Việt ngữ nghiên cứu. Trong tập “Hán ngữ sử luận văn tập”. Khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1958.
Đào Duy Anh. Chữ Nôm: Nguồn gốc - Cấu tạo - Diễn biến. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975.
Nguyễn Tài Cẩn. Một số vấn đề về chữ Nôm. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Hà Nội, 1985.
Yonosuke Takeuchi. Tự điển chữ Nôm. Đông Kinh Đại học thư lâm xuất bản. Tokyo, 1988.
Trương Công Cẩn (chủ biên). Dân tộc văn hiến khái lãm. Dân tộc xuất bản xã. Bắc Kinh, 1997.
Triệu Lệ Minh, Hoàng Quốc Doanh (biên tập). Hán tự đích ứng dụng dữ truyền bá. Hoa ngữ giáo học xuất bản xã. Bắc Kinh, 2000.
Nguyễn Quang Hồng, Ngô Thanh Nhàn, Ngô Trung Việt, Đỗ Bá Phước. Chữ Nôm: Văn hoá cổ truyền và thông tin hiện đại. Tạp chí “Ngôn ngữ”, Hà Nội, N.4, 1999.
Nguyễn Quang Hồng (chủ biên). Tự điển chữ Nôm Việt (bản thảo năm 2004). Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội. 8-8-2004.
Giáo sư Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Quang Hồng Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm Ngày 12-13 tháng 11 2004 Thư viện Quốc gia Việt Nam – Hà Nội
Bài đã đăng trong Thời Đại Mới số 5, tháng 7/2005
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 9, 2007 5:24:18 GMT 9
Chương Thâu Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các dẫn dụng khác nhau 1.
Trong cuốn sách Divers voyages et missions (Các cuộc hành trình và truyền giáo) của linh mục Alexandre de Rhodes do Cramoisy xuất bản tại Paris năm 1653 ở đoạn cuối chương 19 của phần thứ ba có một câu viết nguyên văn:
“J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises. Je suis soirti de Rome à ce dessein le 11e Septembre de l’année 1652 après avois baisé les pieds du Pape”.
Và câu này, được Hồng Nhuệ dịch ra Việt ngữ trong cuốn Hành trình và truyền giáo do Ủy ban Ðoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1994, ở trang 263 như sau:
“Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ đi chinh phục toàn cõi Ðông phương đưa về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Rôma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tới hôn chân Ðức Giáo hoàng.”
(Người dịch chú thích từ chiến sĩ ở đây: Nói chiến sĩ Phúc Âm tức là các nhà truyền giáo, chứ không phải binh sĩ đi chiếm xứ xâm lăng – trang 289).
Ðiều đáng chú ý là: người dịch bám rất sát “văn cảnh” và dịch tương đối thoát (có vài từ không được sát đúng nguyên nghĩa), đặc biệt cụm từ plusieurs soldats, dịch là “mấy chiến sĩ”.
2.
Thế nhưng, cũng chính câu nguyên văn này, tác giả Cao Huy Thuần trong bản Luận án tiến sĩ quốc gia – Khoa học Chính trị, Đại học Paris, tựa đề: Ðạo Thiên chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam 1857-1914, xuất bản tại Paris, năm 1968, lại đã trích không trọn câu và đã dịch ra tiếng Việt (do Hương Quê xuất bản ở Los Angeles – Mỹ, năm 1988) như sau:
“Tôi tin rằng: Pháp (ông viết: écrivait il, Cao Huy Thuần thêm hai từ này) là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ để đi chinh phục toàn thể phương Ðông, cũng như ở đó, tôi sẽ có cách để có nhiều giám mục vốn là Cha và các Thầy của chúng ta ở trong các nhà thờ. Tôi rời La Mã ngày 11 tháng 9 năm 1652 với ý định đó”.
Tác giả trích dẫn và sử dụng câu này như một luận cứ cho Luận án nhằm góp phần:
"- Trình bày những nguyên nhân và mối liên hệ giữa các nhà truyền giáo và chính quyền Pháp trong việc xâm lăng và đô hộ Việt Nam. Và
- Qua Luận án này, chúng ta sẽ có đủ bằng chứng để thấy những nguyên nhân chính yếu trong việc Pháp xâm lăng và đô hộ Việt Nam, từ đó đưa đến những tai họa mà dân tộc ta đã và đang gánh chịu trong suốt mấy thế kỷ nay” (trang 4).
Tuy vậy, Cao Huy Thuần cũng đã đi đến một “kết luận” vừa phải:
“Tìm cách phục hồi sự thật lịch sử, không hề nhằm kết tội một ai, lại càng không phải là gieo rắc bất hòa giữa người Thiên chúa và phi Thiên chúa. Trái lại, nó giúp hiểu rõ vấn đề để không phạm lại những lỗi lầm cũ. Những lỗi lầm đã gây nên nhiều tranh chấp đẫm máu giữa người Giáo và người Lương trong quá khứ và hiện giờ chúng còn ngăn cản họ cùng nhau sống hòa bình dưới một mái nhà. (Chúng ta không) né tránh vấn đề hay che đậy sự thật như người ta thường làm ở Việt Nam.”
3.
Một tác giả khác, người Anh, tên là Helen B. Lamb, trong công trình nghiên cứu, tựa đề Vietnam’s Will to Live, xuất bản năm 1972 cũng đã “dẫn dụng” câu trên của A. de Rhodes, dịch ra tiếng Anh.
“I believed that France, as the most pious of all Kingdoms would furnish me with soldiers who would undertake the conquest of the whole Orient, and that I would find the means for obtaining bishops and priests who were French men to man the new churches” (tr. 38, 39).
Ở đây, từ soldiers vẫn được hiểu là “nhiều binh lính”, cho nên tác giả đã “bình luận” thêm rằng:
“A. de Rhodes ôm mộng nước Pháp sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc chiếm Việt Nam làm thuộc địa” (“Alexandre de Rhodes held to his dream that France should play the key role in colonizing Vietnam”, p. 38).
4.
Giáo sư Hoàng Tuệ, trong cuộc Hội thảo quốc tế về “Nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam” – nhân 90 năm thành lập Trường Viễn đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam – họp tại Hà Nội những ngày 3, 4, 5 tháng 12 năm 1992, có đọc bản tham luận “Về sự sáng chế chữ Quốc ngữ”, trong đó có đề cập đến vai trò của A. de Rhodes và có “dẫn dụng” câu trên của A. de Rhodes (nhưng lại không trích trực tiếp từ tác phẩm Hành trình và truyền giáo, nguyên bản của A. de Rhodes, bản in năm 1653, mà lại trích gián tiếp qua bản của De Francis mới viết năm 1977, và cũng không trích dịch trọn câu đủ ý).
Giáo sư Hoàng Tuệ viết:
“A. de Rhodes quê ở Avignon, lãnh địa của Giáo hoàng trên đất Pháp. Ông vẫn gắn bó với nước Pháp. Ông viết trong hồi ký: ‘Tôi nghĩ là nước Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi binh lính để chinh phục toàn phương Ðông và đặt nó dưới quyền Jésus Christ’. Ông đã tiến hành một chuyến đi Pháp. Ở đây ý kiến của ông được hoan nghênh. Kết quả là sự thành lập Société des Missions Étrangères de Paris năm 1661, chỉ bao gồm các giáo sĩ Pháp... Từ đó thế lực của Giáo hội Pháp ở Việt Nam mạnh lên. Có thể nghĩ là chữ Quốc ngữ, ngoài ý nghĩa thực tiễn, còn có ý nghĩa chính trị nhất định trong phạm vi các Giáo hội khác ở Việt Nam.”
5.
Do có ý kiến tham luận như vậy, nên nhà nghiên cứu Nguyễn Ðình Ðầu tại cuộc Hội thảo này đã có ý kiến trao đổi lại với giáo sư Hoàng Tuệ như sau:
“Qua đoạn vừa trích trên đây, người đọc có cảm tưởng Giáo sư Tuệ đã ám chỉ A. de Rhodes là thân Pháp, xui Pháp đem binh lính xâm chiếm phương Ðông và chữ Quốc ngữ... còn có ý nghĩa chính trị”.
Và đến lượt, ông Nguyễn Ðình Ðầu đã dịch lại câu trên của A. de Rhodes đồng thời chú thích một số từ dùng trong câu của A. de Rhodes, cũng là nhằm đối thoại và biện minh với giới nghiên cứu khoa học xã hội – nhân văn, như sau:
“Tôi tin rằng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn phương Ðông và đặt dưới quyền trị vì của Ðức Giêsu Kitô, và đặc biệt tại Pháp, tôi sẽ tìm cách có được Giám mục, các ngài sẽ là cha và là thầy chúng tôi tại các Giáo hội này” (tức là Ðàng Ngoài và Ðàng Trong).
Ông Nguyễn Ðình Ðầu biện giải thêm: “Nếu đọc nguyên đoạn trích trên đây, ta mới hiểu chữ chiến sĩ có nghĩa bóng là thừa sai (đối với giám mục là cha và thầy họ). Còn “chinh phục toàn phương Ðông” là để cho “nước Cha trị đến”, chứ không phải để cho Pháp đến thống trị. “Chinh phục” hiểu theo nghĩa tôn giáo, chứ không phải chính trị. Vì ngộ nhận trên, người ta mới gán cho chữ Quốc ngữ “còn có ý nghĩa chính trị” vậy!
6.
Cũng vào thời gian cuối tháng 3-1993, tại một cuộc Hội thảo “Tưởng niệm A. de Rhodes, nhân 400 năm ngày sinh của ông” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức tại Hội trường Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, có nhiều nhà khoa học tham dự, đọc tham luận. Trong đó Giáo sư sử học Ðinh Xuân Lâm, một lần nữa lại đề cập “câu chữ” trên đây của A. de Rhodes và dịch lại (theo đúng văn cảnh, bối cảnh lịch sử thế kỷ 17) cụm từ plusieurs soldats là "chiến sĩ truyền giáo", vào coi như “lần cuối cùng đính chính lại sự lầm lẫn" (dịch soldat là lính chiến, là quân lính đi xâm lược) như trước đây trong một số giáo trình lịch sử Việt Nam đã dẫn dụng.
Chính trong cuộc Hội thảo đó của Hội Sử học đã đưa ra nhiều kiến nghị với các cấp có thẩm quyền (Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa v.v...) nhằm khôi phục vị trí xứng đáng cho linh mục A. de Rhodes, người đã góp phần quan trọng trong việc chế tác ra chữ Quốc ngữ cũng như một số hoạt động văn hóa (trứ tác các công trình sử học giá trị).
Cũng do vậy mà hiện nay, đã có quyết định khôi phục lại tên đường phố Ðắc Lộ ở thành phố Hồ Chí Minh, dựng lại bia 1941 [1] tại khuôn viên Thư viện Quốc gia ở Hà Nội v.v...
Vấn đề đánh giá thỏa đáng công lao của A. de Rhodes đối với nền văn hóa Việt Nam, đến nay, theo tôi được biết, đã có thể về cơ bản đáp ứng đúng đắn được tâm cảm của mọi người. Chúng ta thành kính ghi nhận tầm nhìn sáng suốt của các giới lãnh đạo của Ðảng và của Nhà nước ta đối với danh nhân văn hóa Alexandre de Rhodes. Các công trình trứ tác có giá trị của A. de Rhodes, như Từ điển Bồ La, Phép giảng tám ngày, Hành trình và truyền giáo, Lịch sử xứ Ðàng Ngoài cũng đã được in ấn, xuất bản lần lượt trong mấy năm qua và được bạn đọc đón nhận một cách trân trọng. Ðiều đó nói lên rằng, nhân dân ta biết rất rõ chân giá trị của A. de Rhodes và cũng đã dành cho ông một vị trí xứng đáng.
7.
Còn có điều đáng phiền lòng là gần đây, có một số nhà nghiên cứu (?) người Việt ở hải ngoại đã có vài việc làm, xem ra không mấy thiện chí, tỏ ra không đồng thuận với cách đánh giá A. de Rhodes của chúng ta.
Cụ thể là vào hồi tháng 10-1994, tại Hoa Kỳ (San Diego) có một nhà xuất bản (không rõ tên) đã cho in lại bản dịch cuốn Thiên Hồ! Ðế Hồ!, một tác phẩm quan trọng của Phan Bội Châu viết năm 1923 nhằm vạch trần tội ác của thực dân Pháp, lợi dụng tôn giáo (Thiên chúa giáo) và thông qua một số kẻ “đội lốt thầy tu” để xâm lược, áp bức nhân dân ta, như Bá Ða Lộc (Pigneau de Béhaine).
Họ giữ lại nguyên văn bản dịch (của Chương Thâu – Nxb Khoa học Xã hội 1978) nhưng đã thay 30 trang nghiên cứu phân tích tác phẩm của người dịch bằng một Lời giới thiệu dài 13 trang do Cửu Long Lê Trọng Văn ký tên.
Trong Lời giới thiệu này, tác giả đã dẫn lại câu chữ (đã nói ở trên) của A. de Rhodes và cũng đã cố tình hiểu chữ “soldat” ở đây là quân lính xâm lược! Tác giả đã có những câu thêm vào bình luận về cụ Phan như sau:
“Cụ Phan còn nêu đích danh kẻ đội lốt tôn giáo Pigneau de Béhaine đã mở đường dẫn lối cho Pháp đến chiếm nước ta. Sự thật thì Bá Ða Lộc đâu phải là kẻ đội lốt tôn giáo đầu tiên. Ông ta chỉ là kẻ thừa kế để tiếp tục thực hiện ý đồ của kẻ đội lốt tôn giáo Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) mà thôi!"
Như vậy là Cửu Long Lê Trọng Văn vẫn dừng lại ở nhận thức của Helen B. Lamb năm 1972 trong cuốn Vietnam’s Will to Live, Lê Trọng Văn cũng tỏ ra cực đoan hơn cả những người cực đoan nhất trong cách đánh giá A. de Rhodes. Ông ta cũng tỏ ra không biết gì về những thông tin mới nhất đối với A. de Rhodes ở “quốc nội” cả.
Và cuối cùng, nhân bài viết này, tôi muốn gửi thêm một ý nhỏ đối với tác giả Lời giới thiệu (mới) cuốn Thiên Hồ! Ðế Hồ! và với những người tái bản (chui, không xin phép tác giả, nhà xuất bản và dịch giả) cuốn sách này rằng:
Việc cấu tạo thêm một phần Phụ lục (mới) cho lần in lại nầy là với ý đồ không mấy trong sáng.
Phần Phụ lục (mới) này tại sao lại có thể đưa thêm mấy bài viết:
"Mối tình giữa một nhà cách mạng Việt Nam và một nhà học giả Trung Quốc" (PBC với Hồ Thích) của Nguyễn Hiến Lê.
"Cụ Phan Bội Châu ở Hàng Châu" – Hồi ký của Nguyễn Thượng Huyền.
"Tại sao tôi không theo đạo Kitô và tại sao tôi không theo cộng sản" của Bertrand Russell và nói là “để bổ túc cho tác phẩm Thiên Hồ! Ðế Hồ! thêm súc tích (!) và... vì nó giúp cho quan điểm của Bertrand Russell được nhất quán và minh bạch hơn (!),
thì thật là không có gì vô nghĩa lý hơn, ngoài cái nghĩa lý (cái ý đồ) chống Kitô giáo và chống cả cộng sản!
Tóm lại, trở về chủ đề của bài viết này, ý kiến cá nhân tôi, sau khi phân tích so sánh các câu dẫn dụng từ một câu dịch nguyên văn của A. de Rhodes, tôi đồng ý với cách diễn giải của Hồng Nhuệ và của Nguyễn Ðình Ðầu. Ðọc kỹ toàn văn cuốn Hành trình và truyền giáo, chúng ta dễ dàng nhận thấy tư tưởng và nguyện vọng của nhà truyền giáo A. de Rhodes ở thế kỷ XVII này.
Nhưng để tránh những suy luận chủ quan, người nghiên cứu có thái độ nghiêm túc, thận trọng... Một khi gặp phải “câu chữ” có thể có nhiều ý suy đoán như câu trên đây, chúng ta nên mở đóng ngoặc ghi nguyên văn – để tiện đối chiếu, để tránh được cái lối “dĩ hư truyền hư” và chủ quan võ đoán. Âu cũng là một kinh nghiệm đối với giới khoa học xã hội nhân văn vậy.
Hà Nội 14 tháng 12 năm 1995
-------------------------------------------------------------------------------- [1] Bia do cụ Nguyễn Văn Tố, Chủ Tịch Hội Truyền Bá Quốc Ngữ xây dặt gần đền B Kiệu – Hồ Gươm, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Công giáo và Dân tộc ngày 15.3.1996
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 19, 2010 9:06:33 GMT 9
Nỗ lực bảo tồn di sản chữ Nôm và việc ấn hành cuốn từ điển chữ Nôm đầu tiên Saturday, May 08, 2004 Văn minh và văn hiến của một dân tộc thường được biểu thị bằng văn tự của dân tộc đó. Nói cách khác, qua văn tự, người ta có thể biết được trình độ văn hóa của một giống người hay một quốc gia. Kể từ thời lập quốc cách nay non 5,000 năm, văn tự, hay ngôn ngữ viết, của Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ với ba loại chữ: chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Chữ Hán, tuy đối với người Việt Nam hiện tại gần như là một “tử ngữ” vì hầu như không người Việt Nam nào dùng nó thường xuyên trong cuộc sống, nhưng đối với dân tộc Trung Hoa thì đó là một sinh ngữ quan trọng, không những cho trên một tỷ người Trung Hoa ở quốc nội và hải ngoại mà còn cho cả những nhà ngôn ngữ học trên thế giới nữa. Còn chữ Quốc ngữ, tức tiếng Việt hiện đại, tuy mới ra đời cách nay hơn ba thế kỷ, vẫn là một sinh ngữ trong ý nghĩa tích cực nhất của nó, được dùng hằng ngày bởi trên 80 triệu người Việt Nam trong và ngoài nước, chưa kể số học giả về Việt học đang ngày một gia tăng trên khắp các lục địa. * Hiện trạng và tương lai chữ Nôm Nhưng hiện trạng và tương lai của chữ Nôm không thể được coi là sáng sủa chút nào. Sự ra đời của chữ Quốc ngữ từ thế kỷ 17 với dạng chữ là mẫu tự La Tinh làm cho chữ Nôm dần dần biến mất trong ngôn ngữ thường ngày khi khối dân chúng nói tiếng Việt Nam ngày càng nhận chân rằng chữ Quốc ngữ là ngôn ngữ viết kỳ diệu nhất của họ kể từ thời lập quốc. Ấy thế mà, ngày nay, trong tổng số trên 80 triệu người Việt Nam, chỉ có chừng 30 học giả trên toàn cầu có thể đọc và hiểu rành rẽ chữ Nôm! Lý do đưa tới nguy cơ chữ Nôm có thể mai một nằm trong chính quá trình hình thành phức tạp của thứ chữ viết này. Sau hơn 1,000 năm độc lập khỏi tay Trung Hoa, các học giả nước Ðại Việt (Việt Nam ngày xưa) - mà được nhắc nhở nhiều nhất là Hàn Thuyên, hay Nguyễn Thuyên - tạo ra chữ Nôm, một loại chữ viết mới phỏng theo tự dạng của chữ Hán có khả năng ký âm được tiếng nói của người Việt Nam bình thường. Mỗi một chữ Nôm gồm có hai phần, mỗi phần là một chữ tượng hình giống y như chữ Hán: một phần thì tiêu biểu cho ý nghĩa, còn phần kia thì để diễn tả âm thanh trong tiếng nói của người Việt. Một tỷ dụ là chữ cột trong ngôn ngữ Việt Nam, được viết theo lối chữ Nôm bằng hai chữ Hán là “mộc” và “cốt” ghép lại. Chữ “mộc” biểu thị ý nghĩa là cái cây, còn chữ “cốt” thì diễn tả âm thanh tương ứng với âm cột trong tiếng nói Việt Nam. (Hình 1: Hình chữ Cột trong brochure) Từ thế kỷ thứ 10 mãi cho tới đầu thế kỷ 20, chữ Nôm đã được dùng nhiều trong văn chương và hội thoại dân gian Việt Nam. Nói khác đi, gần 1,000 năm di sản văn hóa Việt Nam đã được ghi lại qua hệ thống chữ viết độc đáo này. Vì tính cách bác học và phức tạp của chữ Nôm – mà điều cơ bản là muốn học chữ Nôm thì trước hết người ta phải thông hiểu chữ Hán – đã khiến cho phần lớn di sản chữ Nôm nói trên không được chuyển sang Quốc ngữ là chữ viết hiện tại của dân tộc Việt Nam. Nguy cơ chữ Nôm sẽ mất đi trong một tương lai gần đã quá rõ ràng. Hồi trước năm 1975, các trường đại học tại miền Nam Việt Nam đều có môn học về chữ Hán, và các trường như Ðại học Văn Khoa Sài Gòn và Ðại học Văn Khoa Huế đều có cấp bằng cử nhân văn chương Hán - Việt. Nhưng về văn chương Hán - Nôm hay văn chương Nôm - Việt thì không thấy có gì cụ thể, có lẽ cũng vì chữ Nôm khó quá đối với các sinh viên trẻ tuổi thời bấy giờ. Vì thế, chỉ có các học giả hay các nhà ngôn ngữ học mới đặc biệt dành riêng thì giờ và tâm trí nghiên cứu loại chữ này. Khi cộng sản nắm quyền trên khắp lãnh thổ Việt Nam, họ cũng có chính sách bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam, trong đó có nỗ lực bảo tồn chữ Nôm, nhưng các nỗ lực này, vì các lý do này nọ, vẫn không đủ để cứu vãn tình trạng ngày càng mai một đi của một thứ chữ đã từng là niềm hãnh diện vô biên của một dân tộc lớn tại Ðông Nam Á mà nền văn minh và văn hóa xem ra chẳng thua kém gì Trung Hoa. * Hội Bảo tồn Di sản Chữ Nôm Thành lập tại North Carolina vào năm 1999, Hội Bảo tồn Di sản Chữ Nôm - mà tên chính thức là Hội Bảo tồn Di sản Nôm (The Vietnamese Nôm Preservation Foundation) - có trụ sở tại 229 Beachers Brook Lane, Cary, NC 27511. Tôn chỉ và mục đích của hội là chuyên tâm bảo tồn các văn bản bằng chữ Nôm và cung cấp mọi tài liệu và phương tiện nghiên cứu chữ Nôm cho các học giả Việt Nam trong hiện tại ngõ hầu mở lối vào văn hóa Việt Nam ngày xưa. Những dự án cụ thể của Hội Bảo tồn Di sản Nôm bao gồm việc thực hiện một từ điển chữ Nôm (Nom dictionary) để phát huy văn tự Nôm trên ấn bản và trên CD-ROM. Công trình xuất bản một từ điển như thế sẽ có sự đóng góp công sức của các chuyên gia tại Hoa Kỳ và từ Việt Nam. Mỗi một từ bằng chữ Nôm sẽ được đánh dấu bằng một mã số Unicode. Công trình đưa chữ Nôm vào mã hóa Unicode là một nỗ lực kéo dài từ cả chục năm nay do các chuyên gia thuộc Hội Bảo tồn Di sản Nôm ở Hoa Kỳ và Viện Hán-Nôm ở Hà Nội thực hiện. Tính đến nay, các chuyên gia này, cùng với Unicode Consortium và Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế ISO, đã thực hiện được trên 16,000 bộ chữ Nôm theo tiêu chuẩn quốc tế Unicode/ISO-0646 để đưa vào hệ thống điện toán ngôn ngữ toàn cầu. Vì mọi hệ thống điện toán hiện đại đều dùng Unicode và vì các bộ chữ Nôm nay đều được đưa vào hệ thống Unicode, các nhà nghiên cứu chữ Nôm nay có thể đọc được chữ Nôm qua máy điện toán. John Balaban, giáo sư Anh ngữ tại Ðại học North Carolina ở Raleigh, trong một cuộc phỏng vấn bằng điện thoại do báo Người Việt thực hiện ngày 8 tháng Năm năm 2004, cho hay quyển từ điển chữ Nôm này, gồm trên 20,000 bộ chữ Nôm và dày khoảng 700 trang, dự trù hoàn tất vào tháng Bảy năm nay và do Nhà xuất bản Ðà Nẵng tại Việt Nam ấn hành. Người phụ trách phần thực hiện các bộ chữ Nôm trong từ điển là linh mục Trần Văn Kiểm, người đã dành ra 30 năm trời để nghiên cứu chữ Nôm. Ngân sách dành cho việc ấn hành cuốn từ điển Nôm đầu tiên hiện do các nhà hảo tâm khắp thế giới quyên tặng. Tuy nhiên, để có thêm chi phí dành vào việc in ấn quyển sách, Hội Bảo vệ Di sản Nôm còn tổ chức thêm các bữa tiệc gây quỹ, cụ thể như Ðêm giới thiệu thơ Hồ Xuân Hương qua tuyển tập Spring Essence: The Poetry of Hồ Xuân Hương (do John Balaban chuyển dịch sang Anh ngữ) tại hội quán của Pascific Asia Museum ở Pasadena, California, vào ngày 10 tháng Tư vừa qua. Dịp này, Hội Bảo tồn Di sản Nôm cũng kêu gọi mọi người khắp nơi, nhất là người Việt hải ngoại, tiếp tục yểm trợ về tài chánh để việc xuất bản quyển từ điển Nôm đầu tiên được tiến hành như dự trù. Ngoài dự án in từ điển nói trên, The Vietnamese Nôm Preservation Foundation còn dự trù cấp các học bổng cho nghiên cứu sinh về chữ Nôm, đặc biệt là các ứng viên tiến sĩ tại Hoa kỳ mà luận án có bao gồm phần nghiên cứu chữ Nôm. Trong tương lai, hội cũng dự trù cung cấp học bổng cho các nhà nghiên cứu chữ Nôm tại Việt Nam nữa. Một hội nghị quốc tế về chữ Nôm cũng được hoạch định, dựa trên sự thể hiện nay đang có những bước tiến đáng kể trong việc bảo tồn các văn bản chữ Nôm qua việc ấn hành, trưng bày và trao đổi các tài liệu liên quan đến chữ Nôm trên mạng lưới điện toán thế giới. Các học giả chữ Nôm, các nhà toán học, và các nhà ngữ học điện toán tại Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, và Hoa Kỳ đã làm việc về đề tài này trong suốt thập niên qua và đã báo cáo nhiều tiến bộ đáng khích lệ. Nhóm người này cần thiết phải gặp nhau trong một hội nghị quốc tế về chữ Nôm để có dịp cùng nhau đánh giá, so sánh kết quả thu thập được, và tìm ra giải pháp cho các vấn đề còn chưa giải quyết xong. Ngoài ra, hội còn có dự án cho xuất bản hoặc yểm trợ xuất bản các áng văn chương mà bản gốc được viết bằng chữ Nôm. Nhiều văn bản quan trọng bằng chữ Nôm trong kho tàng văn chương cận đại Việt Nam, kể cả truyện Kiều của Nguyễn Du và hằng trăm văn bản khác về triết học và tôn giáo, cho đến nay, vẫn chưa hề được in ra trên giấy, còn nói làm gì tới chuyện đưa vào ngôn ngữ điện toán. * Tập thơ Spring Essence: The Poetry of Hồ Xuân Hương do John Balaban chuyển dịch sang Anh ngữ Ðây là văn bản đầu tiên trong kho tàng văn chương chữ Nôm của Việt Nam được xuất bản tại Hoa Kỳ với ba thứ chữ: chữ Quốc ngữ (chữ Việt), chữ Nôm và chữ Anh. Trong dịp phát hành đầu tiên của The Poetry of Hồ Xuân Hương, tờ The New York Times, số ra ngày 15 tháng Ba năm 2001, viết như sau: “Vào lúc mà Nhà xuất bản Copper Canyon Press sẵn sàng cho in “Spring Essence: The Poetry of Hồ Xuân Hương”, dự án này đã là một cái gì lớn lao hơn là xuất bản một quyển sách, bởi vì hệ quả của nó là việc bảo tồn [chữ Nôm] một lối chữ tượng hình trong ngôn ngữ viết của tiếng Việt”. Tập thơ dày khoảng 150 trang này là một công trình nghiên cứu, dịch thuật và sắp chữ thật công phu gồm gần 50 bài thơ của Hồ Xuân Hương, bài nào cũng có bản văn bằng chữ Nôm nguyên thủy và bản dịch Anh ngữ của John Balaban đi kèm với bản văn bằng Việt ngữ. Người chịu trách nhiệm thực hiện phần chữ Nôm trên máy điện toán để dùng trong tập thơ là tiến sĩ ngôn ngữ học Ngô Thanh Nhàn thuộc Viện Ðại học New York. Sách do Nhà xuất bản Copper Canyon Press in và phát hành. Ấn bản đầu tiên ra đời năm 2001. Giá mỗi quyển thơ là 15 Mỹ kim. (Hình 2: trang 48 và 49 Spring Essence) John Balaban, hiện là giáo sư Ðại học North Carolina in Raleigh, là tác giả của 11 tập thơ và văn, kể cả bốn quyển đã đoạt giải The Academy of American Poets' Lamont Prize và hai quyển được đề nghị nhận giải National Book Award. Năm 1998, tập thơ Locus at the Edge of Summer: New and Selected Poems của ông đoạt giải William Carlos Williams Award. Các sách khác về văn chương và lịch sử Việt Nam của ông là Ca dao Vietnam: A Bilingual Anthology of Vietnamese Folk Poetry, Vietnam: The Land We Never Knew, Remembering Heaven's Face, và Vietnam: A Traveler's Literacy Companion.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 21, 2011 3:24:37 GMT 9
Nguồn gốc chữ nôm đõ thành Có rất nhiều và đủ bằng chứng hiển nhiên là chữ Nôm có trước chữ Hoa và Hán-Việt. 2800 năm trước có bài hát của người Việt khi chèo ghe, là bài “Việt nhân ca” được truyền đến ngày nay, là chữ Nôm. 2500 trước có “Duy giáp lệnh” của Việt Vương Câu-Tiễn nằm trong sách Việt Chép, là chữ Nôm. Các truyền thuyết, cổ sử, cổ thư và cổ thi từ dân gian cho đến sách của Khổng Tử biên soạn, và “từ điển” thời xưa v v... đều sẽ chứng minh được là “hiển nhiên” rằng: chữ Nôm có trước! Tôi xin trình bài khảo cứu nguồn gốc chữ Nôm và Chữ Nôm có trước chữ Hoa và Hán-Việt với nhiều bằng chứng rỏ ràng được xét từ giáp cốt văn, cổ thư-cổ sử. Xin lần lượt xem qua từng bằng chứng: Sách “Thuyết-Văn” còn gọi là “Thuyết văn giải tự”do Hứa Thận thời Đông Hán biên soạn, bao gồm 2 phần là Thuyết văn và Trọng Văn. - Phần Thuyết văn gồm 9.353 chữ, chia theo 540 bộ chữ. - Phần Trọng Văn gồm 1,163 chữ, chỉ ra những chữ cùng âm cùng nghĩa nhưng mà cách viết khác nhau. Sách Thuyết Văn gồm 14 chương chính và 1 chương mục lục, tổng cộng có 133.441 chữ trong lời ghi chú để giải thích chữ nghĩa. Năm Vĩnh Nguyên thứ 12 (Công nguyên, năm 100), sách Thuyết-văn được hoàn tất nhưng mãi đến năm Kiến Quang thứ nhất (Công nguyên, năm 121 ), Hứa Thận mới giao cho con là Hứa Xung dâng lên triều đình Hán . Nguyên bản của Thuyết văn đã thất lạc, cũng là nhờ các thư tịch khác thời Hán và các đời sau đã dùng Thuyết văn để dẫn chứng nhiều, cho nên, sau nầy người ta có tài liệu biên soạn lại sách Thuyết văn. Thời Bắc Tống , rồi đến thời Mãn Thanh đều có người nghiên cứu và hiệu đính. Sách Thuyết văn dùng 2 phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra chữ, rồi giải thích nghĩa, tạo ra tiền lệ và trở thành quyển từ điển đầu tiên. Các từ điển sau nầy là phỏng theo phương cách của Thuyết văn. -“Phản” là cách nói phản-nghịch (nói lái): dùng từ phản (nói lái) để đọc ra phát âm của chữ cần tra cứu. Ví dụ: Phát âm chữ “Thiên 天” là theo cách nói lái của “Tha-Tiền 他前”, là “Thiên Tà”, thì sẽ biết “Thiên” là phát âm của chữ “Thiên 天”: 天 = 他前. -“Thiết” là nhất thiết, là tất cả: chữ đầu lại dùng luôn âm vần của chữ thứ 2 để phiên âm ra giọng đọc của chữ cần tra cứu. Ví dụ: Phát âm chữ “Thiên 天” là dùng chữ “Tha-Tiền 他前”. Với cách đánh vần chữ “Tha 他” dùng luôn âm “iên” của chữ “tiền前” thì sẽ được Tha-iên-Thiên: 天=他前. Hai phương pháp “phản” và “thiết” có cách dùng trái ngược nhau, nhưng nhập chung lại thì cách nào cũng được, và gọi chung là “phương pháp phản-thiết” để phiên âm. Nhờ cách phiên âm phản-thiết của Hứa Thận, cho nên người ta có thể căn cứ vào cách đọc của Thuyết văn để phục nguyên âm đọc Hán ngữ cổ. Cách giải tự trong Thuyết văn có nhiều đóng góp cho việc khảo cứu ngôn ngữ học. Qua đó, người ta có thể phục nguyên cách đọc của thời cổ xưa. Đời nhà Thanh có bốn học giả nổi tiếng đã nghiên cứu và hiệu đính Thuyết văn. Có hiện tượng “không bình thường” là khi dùng tiếng Hoa ngày nay để đọc “Hán ngữ” cổ thì khó khăn, không thích hợp, còn dùng tiếng Việt để đọc lại dễ dàng. Từ đó rút ra kết luận: đọc Thuyết văn theo tiếng Việt thì đúng, mà đọc theo tiếng Hoa thì nhiều khi sai vì không hoặc khó phiên âm đúng. Chính vì tiếng “Hoa” không đọc nổi “Thuyết văn giải tự”, cho nên các đời sau nầy khi biên soạn lại sách Thuyết văn, người ta thêm vào cách phiên âm “mới” hơn so với thời Cổ đại. Dù là như vậy nhưng, những âm Trung Cổ đại lại một lần nữa cũng gần với âm Việt hơn là tiếng Hoa ngày nay. Chúng ta có thể nhận ra những phần phiên âm theo cách “phản-thiết” mà người đời sau thêm vào. Khi đọc sách Thuyết văn thấy đã có hướng dẫn cách đọc chữ của Hứa Thận rồi mà lại có thêm 3 chữ “X X thiết” nữa mà lại khác với cách “hướng dẫn các đọc” của câu có trước thì đó là bản được “soạn” lại! Bản nào được biên soạn vào đời nhà Thanh thì có thêm phần “XX thiết” đọc theo tiếng quan thoại-phổ thông được hơn. Liệu có còn bản chính của Thuyết văn do Hứa Thận thời nhà Hán viết ra không? Không! bản Thuyết văn xưa nhất hiện thời, cho dù được gọi là “nguyên bản”, được chụp hình đăng lên Internet hay in thành sách để bán thì cũng là bản được biên soạn vào thời nhà Tống ! Những bản khác còn được làm muộn hơn nữa. Nhưng dù sao đi nữa, sách Thuyết văn có giá trị là nhờ nó giữ được nhiều nguyên văn cổ xưa của Hứa Thận và có nhiều điển tích trong những lời giải thích. Đồng thời sách cũng đưa ra quy tắc chữ viết cùng một bộ thì có phát âm giống nhau v v... Tôi nhận thấy, đọc Thuyết văn theo tiếng Hoa-quan thoại thì không phiên âm được chữ như chú dẫn của Hứa Thận, còn khi đọc theo các tiếng Việt thì đọc đúng! Ví dụ: - Chữ 夏, tiếng Hoa ngày nay đọc là “Xia”. Thuyết văn ghi: 夏 : 中國之人也. 從夊從頁從𦥑. 𦥑,兩手. 夊,兩足也. 胡雅切. (Hạ: Trung Quốc chi nhân dã.Tùng xuôi tùng hiệt tùng cúc. Cúc, lưỡng thủ. Xuôi, lưỡng túc dã. Hồ nhã thiết.) Giải thích chi tiết nghĩa là: Hạ夏: người Trung Quốc vậy. Viết theo 夊xuôi theo 頁hiệt theo cúc𦥑. Cúc , hai tay (cúc: khép, chấp 2 tay). Xuôi, hai chân vậy. Hồ nhã thiết. -Phiên âm theo cách phản: Hồ nhã = Hà nhỗ, âm : “Hạ” -Phiên âm theo cách thiết: Hồ-nhã=Hồ-a-ha , âm : “Hạ”. Một đoạn ngắn nêu trên khi tra chữ Hạ 夏 cho thấy thời cổ đại cho đến thời nhà Hán thì chữ 夏xia của tiếng Hoa bây giờ, ngày xưa đọc là “Hạ夏”. Như vậy, rõ ràng là dùng tiếng “Hoa” khi tra Thuyết văn là trật, là không thích hợp. “Hồ nhã” không bao giờ phiên âm ra thành “Xia”. Đọc theo tiếng Hoa-quan thoại thì “胡雅 (Hủa + Dã)” không thể nào đánh vần ra “Xia” theo cách “phản và thiết”. Cũng nhờ phần chú thích giải tự thì biết được ngày xưa khép tay, khoanh tay, hay chấp tay gọi là Cúc𦥑và hai chân xuôi thì viết là xuôi夊. *Đặc biệt: “Hồ nhã-胡雅” đọc theo Mân Việt “雅Nhã” là “Nghé”, “nghe” hay “nghè” thì “phản thiết pháp” cuả Hạ夏 trở thành âm Hè夏 theo tiếng Triều Châu và Việt Nam. Bây giờ ta thử xét một vài chữ có cách đọc khó và lạ xưa nay: shuowen.chinese99.com/image.php?num=1566&s=0譒 𢾭也。从言番聲。《商書》曰:“王譒告之.” 補過切 chữ Bôn譒 Boa- dã. Tùng ngôn bàn thanh. (Thương thư) viết: “Vương bôn cáo chi”. Bổ qua thiết, là “ Bổ-ua=bua-boa”. Bua (Bổ qua thiết) là phiên âm của đời sau. Nguyên văn của “Thuyết văn” là “ngôn-bàn thanh言番聲.”=Bôn. Bây giờ người ta đọc chữ Bôn (bua-boa)-譒là “Phiên” hay là “Phồn”. Đọc là “phồn” thì còn hợp với Thuyết văn đã ghi là “ngôn, bàn thanh”. Bôn hay Phôn hay Phồn giống nhau, chỉ là đọc giọng nặng nhẹ khác nhau theo từng miền “đông, tây, nam, bắc”. Người ta còn đọc là 譒phiên theo âm chữ ghép bên phải là “phiên番”; và cách đọc “phồn譒” là vì ghép vần 番phiên và 言ngôn. Nhưng thời xưa lại đọc chữ 番phiên là “bàn番”. Xin giải thích thêm: 譒 vết tích của âm “Boa” còn được dùng trong tiếng Triều Châu- Mân Việt ngày nay. Hiện giờ tiếng Triều Châu vẫn gọi “bàn chân” là “kha-bóa” (Kha là kẳng/cẳng, Boa là bôn/bàn…Bàn là bàn tay, bàn chân). Từ nguyên văn “tùng ngôn bàn thanh” của “Thuyết văn” thì chúng ta biết được ở thời Cổ đại đọc là “Bôn, Bồn, Bàn”, đến thời Trung Cổ người ta “biên soạn” lại Thuyết văn thì thêm vào “Bổ qua thiết = Bua = Boa” phù hợp với “kha-boa (bàn chân)”. Bên tiếng Triều Châu còn dùng cho đến ngày nay. Âm của các “Nho gia (?)” từ từ biến thành “Phiên”- như tên gọi nước “Thố phiên” hay “Phồn- tức là nước “Thổ phồn”. “Phiên” hay “Phồn” có sau và được dùng cho đến ngày nay. Người ta lại đặt tên gọi đó là “từ Hán-Việt”! Tên gọi là gì cũng được! điều rõ ràng là “Hán-Việt” của “phiên” hay “phồn” có sau, còn chữ Nom “bóa” “boa” “bàn” mới là có trước và đã được ghi trong sách “Thuyết văn” cũng như tồn tại trong dân gian Việt cho đến ngày nay. Cho nên nếu nói rằng “bàn” là “Nôm” thì rõ ràng là Nôm có trước. (Dưới đây sẽ xét đến âm chữ Bàn trong Thuyết văn...) 番: 獸足謂之番。从釆;田,象其掌。 附袁切 Phiên: Thú túc vị chi phiên. Tùng 釆thể; 田điền, tượng kỳ chưởng掌. Phù viên thiết. Phiên: Chân thú gọi là phiên, viết theo 釆thể; theo 田điền, như là chưởng (chưởng: bàn, bàn tay). Phần trên là tôi phiên dịch theo “đa số” hiện giờ! chứ thật ra thì đoạn văn trên phải phiên dịch là “ Bàn: thú túc vị chi bàn, tùng thể; điền, tượng kỳ chưởng.” Đây là vết tích của chữ Phiên番 trước và ngay thời Hán, vào lúc ông Hứa Thận còn sống thì đọc là Bàn. Cho nên còn cách giải nghĩa phần nầy như sau: { Bàn番: Thú túc gọi là Bàn. Theo (thể)釆bẻ ; (Điền)田đàn, tựa như cái chưởng. Bàn: chân thú gọi là bàn (bàn chân), viết theo bẻ釆(thể) và đàn田(điền), tựa cái bàn (tay, chân)...} Vì sao lại “diễn nôm” như vậy ? Vì thuyết văn đã viết đây là “ngôn- bàn thanh” {Chữ bẻ釆(thể) quá đặc biệt! “thể” là “hái” là “bẻ”/ví dụ: “Thể 釆Trà茶” là “hái” là “bẽ” “chè-trà”: [Chữ Bẻ釆(thể) gồm chử mể米 và 1 dấu “ngắt” hay “cắt” ở phía trên mà tiếng Triều Châu đọc Mể米 là “Bía米” và có thêm cái dấu dấu cắt phía trên thì có giọng đọc thành “bẽ釆” là rất phù hợp]. Tiếng Triều Châu còn đọc là “bboi” hay “bbé” hay “tiaé”, (tiếng Triều châu : “hái lá” là “tiáe Huêét” hay “Bbé Huêét” Huêét âm chử Hiệt頁 nhưng mang nghĩa là “Lá” ), tiếng Quảng Đông là “chsổi釆”, tiếng Bắc Kinh là “chsài釆”. Chsổi hay chsài như là đọc “thể” không chuẩn mà thành “chsể, chsề”, còn “thể” đọc không chuẩn qua vần “T” sẽ thành “tể” hay “Tiae” ; còn âm “bbé” hay “bẻ” là giống nhau}. Xin hỏi ai là chuyên gia về “Hán-Nom” thì những âm của một chữ “đặc biệt” như vậy thì là âm nào là “Hán” và âm nào là “Nôm” và chữ Hán có trước hay là Nôm có trước? Điều thú vị khi nghiên cứu Thuyết văn giải tự của Hứa Thận để phục chế cổ Hán ngữ thì thấy rõ phát âm thời Tần và Hán giống như các tiếng nói Việt Nam và Quảng Đông (Việt), Phước Kiến-Triều Châu (Mân-Việt) ngày nay; và cũng phát giác những biến âm đã khác tiếng Việt thời cổ đại mà các phương ngôn Việt Nam, Quảng Đông, Triều Châu còn giữ được. Ví dụ tiếng Việt Nam còn giữ được tiếng “bàn” tay, “bàn” chân, và Triều Châu giữ được “boa-boá” hay là “póa” Trung cổ đại mà thời Hán đã được ghi lại trong “Thuyết Văn”. Biến âm của Bàn-bồn-bôn/ tùng “ngôn” “bàn” thanh trở thành bua-boa-bóa-poá, trở thành “biên” rồi thành “phiên” và “phồn”...! Thực ra thì từ “bàn-bèn” biến thành “biên, bua, phàn, phền, phồn, phiên v v...” đó là quy luật biến âm thường tình của ngôn ngữ theo miền và theo thời đại với nhiều tiếp xúc văn hóa và phát triễn khác. Cổ âm xưa là Bàn, giáp cốt-Kim văn đã vẽ rõ chữ nầy bằng hình bàn chân thú. Ngày nay chỉ có tiếng Việt Nam còn dùng “bàn” là “bàn tay- bàn chân” thì rõ ràng là tiếng Việt Nam còn giữ được âm cổ xưa nhất, và cũng là một minh chứng giọng “Nôm” của chữ “Nôm” là có trước: có thể nói giáp cốt văn-chữ tượng hình đầu tiên là “chữ Nôm”. shuowen.chinese99.com/image.php?num=720&s=13Cổ văn vẽ chữ tượng hình: 番phiên là “bàn -番” , chữ xưa là tượng hình, vẽ “chữ phiên” là bàn chân thú có móng vuốt, ngay cả chú thích “附袁切phù viên thiết”. Ngày nay đọc như vậy thì làm sao đúng với ngày xưa? Nếu đọc là “bùa vang- 附袁” là “bàn (vua)” thì hoàn toàn đúng là “bàn” như chú thích trong Thuyết văn vậy! Bởi vì chính chữ “bùa符(Phù)” của bùa chú là đồng bộ thì đồng âm với chữ bùa附(Hay “Phù”, hay “Phụ”) đó thôi. - Xét thêm: Thảo bộ 艸部 蘻kỹ-(hệ) 狗毒也 cẩu độc dã 从艸繫聲 tùng thảo kỷ (Hệ) thanh。古詣切 Cổ chỉ thiết. Cổ chỉ (nghĩ)= kỷ, ngày nay dùng chữ nầy cho ý nghĩa “liên kết”, mà khi có 2 chữ “liên kết” lại đọc là “liên hệ蘻”. Thật ra thì xưa Trung Cổ ghi là “古詣cổ ngĩ =kỷ” và biến âm “kỷ” thành ra “kết” nhưng sau nầy thành ra “hệ” như ngày nay. (Ngày xưa đọc chữ “詣chỉ” là “Nghĩ詣”: Ngôn言 chỉ旨 = nghĩ và phiên âm là 五計 / Ngũ kế). Phân tích kỷ lưỡng lời trong Thuyết văn sẽ thấy rõ là “nọc độc của chó gọi là “Cẩu Kỷ (nọc độc)” và “Tùng thảo kỷ thanh” lại là viết theo bộ thảo艸 với là âm “Kỷ- hay kỳ”. Vì tiếng xưa không cố định thanh sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng nên âm “kỳ” gần với “kề” và hoàn toàn phù hợp với “liền kề” cũng có nghĩa tương tự như “liên hệ”. Qua khảo cứu kỷ lưỡng, sẽ có đủ lý do để phục nguyên chữ Nôm cổ đại “kề蘻” đã có trước âm “hệ” quá mới, và âm “kỷ” với “kết” cổ đại vẫn có sau âm “kề”. Vậy: “liền kì” hay “liền kề” là có trước “liên hệ” Ngôn bộ 言部 詣nghĩ(chỉ) 至也 chí dã。从言旨聲 tùng ngôn, kỷ thanh。 五計ngũ kế = ngễ(切thiết) . Từ khảo cứu nầy thấy “thánh chỉ” thời Cổ đại gọi là “thánh nghĩ”, và đến thời Trung cổ là “thánh nghễ” cho nên phiên âm là “Ngũ Kế五計” = Nghễ, ngày nay là “chỉ.” Chỉ bộ 旨部 旨kỷ 美也mỹ dã。从甘匕聲tùng cam tỉ thanh; âm cam theo tỉ thanh là “kỷ”。凡旨之屬皆从旨phàm chỉ chi thuộc giai tùng chỉ。職雉切 chức thị thiết =chỉ (biến âm thành chỉ): xưa đọc là “kỷ” vì là “cam” với “tỉ thanh”. Nay đọc là “chỉ” Tỷ Bộ 匕部 匕tỷ 相與比敘也 tương dĩ tỉ tự dã。从反人 Tùng phản nhân {cách viết như chữ nhân人 bị lộn ngược (匕)} 。亦所以用比取飯. Tỷ, diệc sở dỉ dụng tỉ thủ phạn - “tỷ”có thể dùng để đựng cơm). Tiếng Việt ngày nay còn dùng “kỷ” trà, kỷ đựng trầu cau. 一名柶 (nhất danh mứ/máng) còn gọi là “mứ” (hay là “máng” ngày nay)。Ngày nay tiếng Triều Châu vẫn dùng chữ “tỷ-đọc thànhTeaá” là cái “chảo” để chiên cơm, còn tiếng Việt Nam thì lại còn dùng “máng” là “máng” đựng thức ăn cho gia súc như cái “máng” dùng cho heo ăn. 凡匕之屬皆从匕phàm tỷ chi thuộc giai tùng tỷ. 卑履切 ty lý thiết (ty lý = âm “tí-tỉ”) => “匕tỷ” có sau, nên được giải thích rõ là còn gọi là “mứ/ máng柶”. Mộc bộ 木部 柶 Tỷ(mứ, máng) 《禮lễ》有柶hữu tỷ. 柶tỷ/tứ(mứ, máng), 匕也tỉ dã。从木四聲 (tùng “mộc” “ tứ” thanh ) âm cổ là theo mộc , với “tứ” thanh, tức là “mứ” hay “máng”, cái “máng” đựng thức ăn, cái “máng” hay cái “mứ” hay cái “tỷ”, cái “kỷ” lại là dùng để đựng thức ăn trong dịp lễ禮。息利切 tức lị thiết = tỷ (ghi chú: lị利 đọc là “lị”, chỉ đến khi có vua tên Lê Lị thì kỵ húy nên lị mới đổi đọc thành lợi).=> 从木四聲 Tùng mộc tứ thanh: mộc + tứ là “柶mứ”/ máng là “chữ Nôm” có trước, âm “tỷ” có sau và chỉ đọc “tức lị息利” bằng Hán-Việt được mà thôi, còn “xĩa lía息利”= “xĩa”/ tiếng bắc kinh và “xíc lì息利”= “xi”/ Tiếng Quảng Đông và “xech lịa息利”= “xia”/ Tiếng Triều Châu... đều “khó lòng” và “không” “phiên âm” được chữ nầy thành ra chữ nào có âm chính xác theo cách “phản” cũng như là “thiết”! Chính vì vậy mới thấy được cái âm “Mứ柶, Máng柶” là chính xác và có trước, và âm Tỷ柶 là có sau. Các “phương ngôn” khác của chữ nầy thì khỏi bàn luận... vì không dùng nỗi, dùng sai hoặc biến âm khác xa rồi, hoặc không còn dùng chữ nầy nữa. Chữ nầy cũng là một bằng chứng rằng tiếng Nôm, chữ Nôm có trước! Chữ “gần近” ở Triều Châu đọc là “gìn/ kìn近”, ở Phiên Ngung đọc là “khạnh/ cạnh近”, ở Bắc Kinh đọc là “Jín近”. Thời nhà Đường nhiều nơi lại đọc là “cận 近” ; chữ “tiệm店” ở Triều Châu đọc là “tiẹm店”, ở Quảng Châu đọc là “tiêm店”, ở Bắc Kinh đọc là “tién店”, thời nhà Đường nhiều nơi lại đọc là “điếm店”. Gần-gìn, khạnh/cạnh với “jín” cũng chính là “gìn”, cùng với “tiệm” “tiêm” “tiẹm” “tiién”... Xin nhấn mạnh là riêng ở bên “tiếng Hoa” thì đã chứng minh và công nhận rằng tiếng Quảng Đông và Triều Châu là có trước tiếng Hoa-Bắc Kinh mấy ngàn năm. Như vậy cũng có nghĩa là chữ “gần/ cạnh” có trước chữ “cận hay jín” và “tiệm/ tiêm” có trước “tién” hay “điếm” của “Hán –Việt” vậy. Ngày nay, lại có Khương Nhung bên Trung Quốc xuất bản tiểu thuyết “Tô tem Sói”, cho rằng chữ tượng hình chính là do dân du mục sáng tạo ra. Từ lý giải chữ Mỹ美 chính là con dê羊 lớn mập là đại大, thì là đẹp, đẹp lòng khi nuôi được con dê lớn thì là Mỹ美, (美=羊+大) tác giả cho rằng chữ vuông là của dân “du mục”. Vì vậy đẹp, Mỹ美 là “nuôi dê” là “du mục” và “Người Hoa-gốc bắc-du mục” sáng tạo ra chữ vuông! Khương Nhung nói về cái “đẹp” là Mỹ美 mà không dính líu với trồng tỉa và nông nghiệp! Tác giả cố tình không biết hay là thật sự không biết rằng: Chữ Lệ麗 là cũng là mỹ là đẹp, và chữ lệ còn hay hơn chữ Mỹ美 nhiều! Chữ Lệ麗 là con nai(鹿lộc) vàng ngơ ngác với trên là đôi mắt nai mở to chứ không nhắm lại! Như vậy, xét theo chữ Lệ麗 thì chữ vuông là thợ săn hay “thi sĩ” hay “họa sĩ” sáng tạo ? Xin hãy cười cho vui! Người đời hay dùng chung nói đẹp đẽ là Mỹ Lệ-美麗 hay diễm lệ-艷麗. Xin dẫn chứng tiếp: - Chữ Diễm艷 là “đẹp” diễm tuyệt, là sắc đẹp đầy tràn, bên trái của chữ Diễm艷 là chữ Phong豐, bên phải là chữ Sắc色. Chữ Phong gồm chữ Đậu豆(hạt đỗ-hạt đậu) bên dưới và hình ảnh bông lúa “丰丰”đầy đồng phía trên, “diễm” được diễn tả bằng “sắc đẹp” của bông lúa“丰丰” và đậu豆(đỗ). Khi phục nguyên chữ Nôm thì chữ “Diễm艷” nầy lúc đầu có phát âm là “Đẹp艷”. Vì sao? Vì rất nhiều địa phương không phát âm vần “Đê/đ” được! Ngày nay tiếng Bắc Kinh, Quảng Đông, Triều Châu đều không có âm “Đ”, cho nên đã đọc “Đẹp艷” là “Dep-diẹm” rồi thành-diềm艷 (tiếng Quảng đông ngày nay), diễm艷(Từ Hán-Việt), dén/yen艷 (Tiếng Bắc kinh ngày nay)” - Phục nguyên chữ Nôm “lệ麗” chính là “đẽ麗” vì “đẽ麗” nhiều nơi đọc không được, đọc trệch thành “lẽ” và “lẹ” rồi thành “lệ麗” . Nhập chung lại sẽ thấy “đẹp đẽ-艷麗” sinh ra “Diễm lệ” trở thành “diễm lệ-艷麗” - Phục nguyên chữ Nôm “Phong豐” có thể chính là “bông豐” vì chữ nầy nói về “bông” lúa và âm “đậu” hay “đỗ” hoàn toàn phù hợp ý nói “đậu bông”, “trỗ bông”. Phong phú豐富 là bông lúa豐富, có nhiều lúa (với phú富 gồm chữ Điền田 và bông lúa) là giàu! Chữ “bông豐(Hoa)” kết với chữ “sắc色(sắc đẹp)” thì đúng là “đẹp艷Diễm”. - Chữ Nhã雅 là tao nhã, là đẹp với chữ “nha 芽” tức là manh nha, nhú mầm, nẩy mầm, nhảy mầm của hạt giống mới nẩy mầm. Phục nguyên giọng đọc của “Nha芽” và “Nhã雅” chính là “Nhảy芽/雅” bị đọc trệch là “Nhã雅” Hán-Việt và “Ngạ雅” / tiếng Quảng Đông, “nghè-Nghe, nghé雅”/ Tiếng Triều Châu, và “Dã雅(ya)” / Tiếng Bắc Kinh… chính là dân nông nghiệp ca tụng cái đẹp của “nhẩy芽nẩy, nhú” mầm của hạt giống. Chữ Phước福 có Y/衣/áo, cũng có Điền田 là ruộng lúa nước. Có thể kể ra thật nhiều trường hợp nữa, nhưng tôi tạm dừng ở đây, vì muốn nói cho cùng, phải làm một công trình quy mô khảo cứu và dịch toàn bộ sách Thuyết văn. Nhưng để chứng minh chữ Nôm của người Việt có trước chữ Hán của người Hoa thì có lẽ cũng là đủ, vì còn phải dẫn chứng qua phần chi tiết khác. Thứ chữ mà tôi gọi là chữ Nôm thì nhiều người gọi là chữ Việt cổ. Không sao, chỉ là cách gọi. người Hoa Hạ đã dùng chữ Nôm của người Việt cổ phương Nam chế ra chữ Hán. Khi tìm ra cội nguồn chữ Nôm, sẽ càng hiểu mức độ văn hóa và sức sống mãnh liệt nguồn gốc và văn minh Bách Việt của tộc Việt, càng cảm thông và kính phục cha ông mất bao trí tuệ và công sức sáng tạo và bảo tồn cho chúng ta về chữ và ngữ của tổ tiên. Chử Nôm có trước từ xưa và vẫn tồn tại trong suốt qúa trình lịch sữ và cho đến ngày hôm nay; Đó là lý do vì sao tôi đã phục nguyên được “Việt nhân ca” và “Duy Giáp lệnh”. (Còn tiếp…{Với bằng chứng “kinh Hoàng” và “rỏ ràng” hơn}) Sacramento Ngày 29 tháng 03 năm 2010. Đỗ Thành/ Nhạn Nam Phi Ghi chú: Có qúa nhiều quan niệm xưa “Truyền thống” về chử Nôm. -Xin tham khảo thêm các bài và tài liệu sau đây. www.blogsach.com/product_info.php?manufacturers_id=10&products_id=804 *“Ghét đời Kiệt Trụ” . Tác giả : Nguyễn Thiếu Dũng * ”từ chử phụ đi tìm nguồn gốc chử tượng hình” . Tác giả : Nguyễn Thiếu Dũng. *nghị luận “văn tập” của tổ ngôn ngữ quốc tế hán học hội lần thứ 3 *Bách Việt Sử : Những lớp bụi mờ của lịch sử ̣( 2 ): Sở楚 LÀ VIỆT越 ...là Văn-Lang . *PHÁT HIỆN LẠI VIỆT NHÂN CA (越人歌) *PHỤC NGUYÊN DUY GIÁP LỆNH CỦA VIỆT VƯƠNG CÂU TIỄN . *Thuyết Văn online: shuowen.chinese99.com/index.php
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 21, 2011 3:57:20 GMT 9
Tiểu sử tác giả TRẦN ĐẠI SỸ Họ và tên : Trần Đại Sỹ, Bút hiệu : lấy tên làm bút hiệu. Bút hiệu khác : Yên tử cư sĩ, Hoàng Quân. Địa chỉ : 5, place Félix Eboué, 75012 Paris. Điện thoại : nơi làm việc : 33.1.43 07 51 46. Điện thoại nhà : 33.1.60 28 21 12. E-mail : Linhnam@fre.frĐịa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó Nghề nghiệp : Bác sĩ y khoa. Tiểu sử : Vài dòng về : Yên-tử cư-sĩ TRẦN ĐẠI-SỸ, Bài của Bác-sĩ Trần-thị Phương-Châu (Gynecology) Giám-đốc Nam-á sự vụ, viện Pháp-á. Đăng trong Tập san y học VN hải ngoại tháng 12-2000 Yên-tử cư-sĩ (YTCS) là bút hiệu của Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, Ông sinh trong một gia đình nho học. Ông ngoại là một đại khoa bảng của triều Nguyễn. Vì không có con trai, nên cụ theo tục lệ cổ Việt-Nam, nuôi cháu làm con. Cụ nuôi Trần Đại-Sỹ từ nhỏ. Thân phụ là một thẩm phán, học tại Pháp, nhưng rất uyên thâm nho học. YTCS là con thứ ba trong gia đình sáu trai, một gái. Trên ông còn một người chị và một người anh. Hai người em nổi tiếng trong gia đình ông là Võ-sư Trần Huy Phong, cố Chưởng-môn Việt-võ đạo, và nhà văn, kiêm Võ-sư Trần Huy-Quyền. YTCS được khai tâm học chữ Nho vào năm 5 tuổi, năm 6 tuổi gửi vào trường Pháp trong tỉnh học. Được quy y Tam-bảo học võ với ngài Nam-hải Diệu-Quang năm 7 tuổi. Bản-sư, ông ngoại cũng như phụ thân YTCS đều là những người rất uyên thâm về các khoa học huyền bí Đông-phương như : Tử-vi, Bói dịch, Nhâm-độn, Phong-thủy, Tử-bình... Ba vị nhìn thấy rất rõ thiên mệnh đã dành cho đệ tử, con-cháu mình những gì, nên cả ba đã chuẩn bị sẵn một con đường cho cả đời YTCS. Hãy nghe YTCS tâm sự : « Bấy giờ là thời gian 1950-1954, Nho-học gần như đi vào giai đoạn trót của thời kỳ suy tàn, những vị khoa bảng cổ lác đác như sao mai. Chữ quốc ngữ được quần chúng hóa. Các tiểu thuyết chương hồi của Trung-quốc được dịch sang tiếng Việt. Người Việt thi nhau đọc. Mà các tiểu thuyết của Trung-quốc, viết trong chủ đạo của họ : Vua luôn là con trời sai xuống. Các quan thì luôn là những vì sao trên trời đầu thai, các nước xung quanh Trung-quốc thì Đông là Di, Bắc là Địch, Tây là Nhung, Nam là Man. Bị ảnh hưởng của những tiểu thuyết đó, người Việt đọc rồi tin là thực, thậm chí lập tôn giáo thờ kính những nhân vật đó, tự ty mình là Nam-man ! Vì vậy sư phụ, cũng như ông-cha tôi muốn mình phải có mấy bộ tiểu thuyết thuật những huân nghiệp của tổ tiên ta trong năm nghìn năm lịch sử, để người Việt mình hiểu rõ hơn. Các người biết số Tử-vi của tôi có thể thực hiện nguyện ước của các người, vì vậy các người cố công dạy tôi ». Vì vậy YTCS phải chịu một chương trình giáo dục gia đình rất nặng nề. Ta hãy nghe ông tâm sự: « Năm tuổi bắt đầu học Ấu-học ngũ ngôn thi. Sáu tuổi học Bắc-sử, Nam-sử. Bẩy tuổi học Tứ-thư, Ngũ-kinh. Tám tuổi đã học làm câu đối, văn sách, văn tế, chế, chiếu, biểu. Dù phải học nhiều, song nhờ được luyện Thiền-tuệ nên vẫn thu thái dễ dàng. Chín tuổi phải học thuật tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Mười tuổi học 24 bộ chính sử Trung-quốc, Đại-Việt sử ký toàn thư, Việt-sử lược, Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục, Đai-Nam chính biên liệt truyện, và hằng trăm thứ sách khác. Thành ra cả thời thơ ấu, tôi sống với sách vở, với Thiền, chưa từng biết chơi bi, đánh đáo. Bất cứ ai cũng đặt câu hỏi: Làm thế nào tiền nhân tôi lại có thể nhét vào đầu tôi những thứ khô khan như vậy? Sau này lớn lên vào đại học Y-khoa tôi mới biết là nhờ Thiền-tuệ ». Năm 15 tuổi, YTCS đỗ Trung-học, rồi ông ngoại qua đời, một người trong gia đình gây ra thảm cảnh không thể tưởng tượng nổi, khiến YTCS phải rời tổ ấm. Song cơ may đưa đến, ông được nhập học một trường có truyền thống giáo dục cực kỳ chu đáo. Tuy gặp thảm họa, nhưng những gì bản sư, ông-cha đã hoạch định cho cuộc đời, YTCS vẫn cương quyết theo đuổi. Sống xa gia đình, YTCS phẫn uất dồn hết tâm tư vào việc học. Mười bẩy tuổi ông đỗ tú tài 1, mười tám tuổi đỗ tú tài toàn phần. Vào đại học. Năm 25 tuổi ra trường (1964.) Đã có chỗ đứng vững chắc về danh vọng, về tài chánh. Bấy giờ ông mới trở về với gia đình trong vinh quang. Mà...cái người gây ra đau khổ cho YTCS, than ôi, y trở thành một tên lêu bêu, vô học bất thuật, và cho đến bây giờ (2000), y đã đi vào tuổi 66, vẫn là một tên ma-cô, ma cạo. Năm 1968 ông bắt đầu viết những bộ tiểu thuyết lịch sử. Năm 1977, ông làm việc cho Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC) với chức vụ khiêm tốn là thông dịch viên. Nhờ vào vị thế này, ông học thêm, đỗ Tiến-sĩ y khoa Trung-quốc, rồi lại tốt nghiệp Trung-y học viện Bắc-kinh. Dần dần ông trở thành giảng viên, rồi tổng thư ký, và cuối cùng là trưởng đoàn từ 1995 cho đến nay (2000). Đã xuất bản Do Nam-á Paris xuất bản, tái bản nhiều lần Anh hùng Lĩnh-Nam, 4 tập, 1318 trang Động-đình hồ ngoại sử, 3 tập, 880 trang Cẩm-khê di hận, 4 tập, 1305 trang Xuân-thu Hoa-kỳ ấn-hành. Viện Pháp-á Paris (Institut Franco-Asiatique) tái bản 2001, Anh hùng Tiêu-sơn, 3 tập, 1120 trang Thuận-Thiên di sử, 3 tập, 1080 trang Anh-hùng Bắc-cương, 4 tập, 1556 trang Anh-linh thần-võ tộc Việt, 4 tập, 1708 trang Do Đại-Nam Hoa-kỳ ấn hành. Viện Pháp-á Paris (Institut Franco-Asiatique) tái bản 2001 Cốt tủy Tử-vi tuổi Tý, 1 tập, 362 trang Nam-quốc sơn-hà, 5 tập, 2230 trang Anh hùng Đông-a : Dựng cờ bình Mông, 5 tập, 2566 trang Dịch Cân Kinh (Dịch, chú giải), 1 tập, 330 trang. Do Viện Pháp-á Paris (Institut Franco-Asiatique) tái bản 2001 Thuvienvietnam.com, California, USA ấn hành Giảng huấn tình dục bằng y học Trung-quốc (Sexologie Médicale chinoise) 3 tập khổ A4, 900 trang Sẽ xuất bản Anh-hùng Đông-a, Gươm thiêng Hàm-tử Giảng huấn Tình Dục Nữ Bằng Y Học Trung Quốc, (Medical sexology for Women) (Sexologie Médicale pour les femmes) Diabète type II et Médecine chinoise, Điều trị chứng tiểu đường bằng y học Trung quốc. Rhumatologie en Médecine chinoise, Điều trị chứng phong thấp bằng y học Trung quốc. Sự nghiệp y học Nếu so sánh với sự nghiêp văn học, thì sự nghiệp y học của YTCS rất khiêm tốn. Tốt nghiệp: _ Đại-học Y-khoa Cochin Port Royal Paris (Pháp) vơí luận án Contribution à la bio-bibliographie de quelques Stomatologistes et dentistes francais.(Pháp văn) _ Đại-học Y-khoa Thượng-hải, với luận án Trung-y dương ủy biện chứng luận trị (Điều-trị chứng bất lực sinh lý bằng y học Trung-quốc, Hoa văn). _ Trung-y học viện Bắc-kinh, với luận án Cổ Trung-dược độc tố (Độc tố trong được học Trung quốc, Hoa văn.) Sự nghiệp y học của ông có 3 : Một là tìm lại được cây Phản-phì, hai là tìm ra phương pháp Điện-phân mỡ, ba là đào tạo được 1422 đệ tử. Tìm lại được cây phản phì. Năm 1982, YTCS cùng phái đoàn CMFC, đã tìm lại được cây Phản-phì, tưởng đã tuyệt chủng. Loại cây này thuộc họ trà, rút bỏ một vài độc chất, chế thành thuốc uống vào có khả năng giảm béo, hạ thấp Cholestérol, Triglycéride trong máu, mà không bị phó tác dụng như các loại thuốc hóa học. Sau đó cây này được gây giống, trồng, chế thành thuốc. Năm 1984 bắt đầu bán trên thị trường châu Âu. Trong chuyến đi này, phái đoàn được tăng cường một nữ tài tử điện ảnh Hương-cảng, và một nữ bác sĩ thuộc Côn-minh làm hướng dẫn viên. Để làm vui lòng hai người đẹp đi trong phái đoàn, thay vì đặt cho sản phẩm này mang tên mình, YTCS đã đặt tên là Hao Ling (Đọc theo Hán-Việt là Hảo Liên). Hảo là nữ bác sĩ Chu Vĩnh Hảo người Vân-Nam. Liên là tên nữ tài tử điện ảnh Hương-cảng, đi theo phái đoàn. Tìm ra phương pháp điện phân mỡ. Khởi đầu từ năm 1978, trong một dịp vô tình, YTCS cùng một số học trò, đã tìm ra phương pháp điện phân mỡ, mà tiếng Pháp gọi la Lypo-électrolyse. Sau đó mười năm, một trong các học trò của ông là Bác-sĩ Nguyễn Thị Dung (Hay Đặng Vũ Dung), đem ra phổ biến trên báo, nên người ta tưởng bà là tác giả. Hiện nay trên thế giới có khoảng 60.000 bác sĩ xử dụng. Phương pháp này có thể làm mất mỡ tại bất cứ khu vực nào trên cơ thể, mà không phải dùng thuốc, hay giải phẫu. Đào tạo học trò. Năm 1977, YTCS bắt đầu đào tạo học trò. Nhận thấy y học Tây-phương thường bó tay trước một số bệnh, mà y học Trung-quốc lại có thể điều trị dễ dàng. Trong khi đó tại Pháp cũng như châu Âu, lại ít người biết đến. Bấy giờ tại Pháp có trường vài trường, dạy cho những bác sĩ đã tốt nghiệp đại học y khoa, học thêm 3 năm về khoa Châm-cứu, chương trình rất giản lược. Ông âm thầm đào tạo 9 bác sĩ người Âu, và 5 bác sĩ người Việt, và một tu sĩ Phật-giáo về khoa Châm-cứu, Bốc-dược, Khí-công rất sâu, đúng như chương trình của đại học y khoa Thượng-hải. Chính đám đệ tử đầu tiên này, sau khi học xong, đều mở trường dạy học, gồm hai trường ỡ Pháp một trường ở Tây-ban-nha. Chương trình dạy tổng hợp y học Âu-Á bắt đầu. YTCS vừa dạy tại các trường này, vừa làm cố vấn cho các giám đốc trường. Cho đến nay (2000) ông đã đào tạo được 1422 bác sĩ, đang hành nghề khắp châu Âu. Trong đó có 136 bác sĩ Việt-Nam. Kết luận. Viện Pháp-á mời giáo sư Trần Đại-Sỹ giữ chức Giám-đốc Trung-quốc sự vụ vì các lý do sau : 1. Thứ nhất, ông rất giỏi về các khoa huyền bí Á-châu : Tử-vi, Nhâm-độn, Bói dịch, Phong-thủy, Phương-thuật. Oâng dùng lý thuyết khoa học để chứng minh các khoa trên không phải là những thứ bói toán dị đoan. Trong các khoa trên, ông nổi tiếng nhất về khoa Phong-thủy (Địa-lý). Ông nói và viết Hoa văn như Việt văn. 2. Ông cùng CFMC dùng hệ thống ADN để chứng minh rằng lãnh thổ tộc Việt bao gồm từ sông Trường-giang xuống tới vịnh Thái-lan. Với công cuộc nghiên cứu này, ông làm đảo ngược tất cả những nghiên cứu cổ cho rằng: Người Việt gốc từ người Trung-hoa trốn lạnh hay trốn bạo tàn di cư xuống; mà người Trung-quốc do người từ Đông Nam Á đi lên hợp với giống người đi từ Bắc-Á đi xuống. 3. Ông đã can đảm dành cả cuộc đời, để viết những bộ lịch sử tiểu thuyết trường giang, ca tụng huân nghiệp giữ nước của tổ tiên ông ; mà từ trước đến giờ chưa ai làm, chưa ai làm được, chưa ai có can đảm làm. Những bộ này ngoài yếu tố lịch sử, còn chứa đựng tất cả hệ thống văn hoa, tư tưởng của tộc Việt. Chúng tôi liệt tác phẩm của ông vào loại tư tưởng 4. Ông tìm lại được cây phản phì, phát minh ra phương pháp điện phân mỡ.
|
|