|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 5:39:57 GMT 9
Nghệ thuật Cải Lương ở đồng bằng Nam bộ Jun/10/01
Nguyễn Văn Hải
I. DẪN NHẬP
Cuộc sống đơn sơ, chất phác, nhưng đầy tình thương của những người dân ở vùng Đồng Bằng Nam Bộ, đã góp phần đáng kể cho nền văn minh, văn hóa Việt Nam ở nhiều khía cạnh. Trong đó, nghệ thuật cải lương là một trong những nét độc đáo, đã phần nào làm sống lại tình đoàn kết giữa con người với nhau. Mặt khác, nghệ thuật cải lương cũng phần nào bộc lộ được tính cách và bản chất của con người Việt Nam, là rất mềm giẻo và rất uyển chuyễn. Bên cạnh đó, nghệ thuật cải lương còn là một hình thức biểu diễn sống động và đầy chất nữ tính.
Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, hạt giống cải lương đã được thai nghén, được ấp ủ, nâng nui và rồi được sinh ra trên mảnh đất Nam Bộ chứa chan tình người. Giọng ca đó đã từ từ lớn lên và phát triển một cách không ngừng. Theo dòng chảy của thời gian, giọng ca đó đã hình thành những kịch bản sân khấu, đã đưa lại cho con người những niềm vui và nguồn sống mới làm vơi đi rất nhiều những căng thẳng sau những ngày làm việc vất vả. Khi cuộc sống của con người đòi hỏi có những nhu cầu giải trí, giọng ca ấy sẵn sàng đáp ứng. Từ những giây phút con người được thưởng thức một câu vọng cổ hay được nghe một đoạn âm nhạc cải lương, con người cảm thấy như mình đang bước vào một thế giới mới, thế giới của sự giải trí lành mạnh.
Để có được những giây phút thư giãn sau những ngày vất vả vì công việc, chúng ta cần để tâm lắng nghe những câu vọng cổ chứa chan niềm hoan hỉ và tràn đầy tính lạc quan. Qua đó, phần nào giúp cho thế hệ ngày nay nhận ra giá trị của nghệ thuật cải lương trong văn hóa Việt Nam nói chung, cách riêng ở Đồng Bằng Nam Bộ. Để rồi, dù thời gian có trôi qua, dù cuộc đời có mất đi, thì giọng ca cải lương vẫn được duy trì và phát triển. Vì, nghệ thuật cải lương là nét độc đáo của nến văn hóa Việt Nam, gồm hình thức và nội dung vô cùng phong phú, mang đậm tình người và đậm đà tình dân tộc.
II. LỊCH SỬ CỦA NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG
II.1 Hình Thành:
Cải lương ra đời vào những thập niên của đầu thế kỷ XX ở địa bàn miền Tây Nam Bộ. Cải lương được hình thành từ những lối ca hát tài tử, cũng có nhiều người cho rằng: cải lương là hình thức ca ra bộ và dần dần phát triển thành những kịch bản được diễn xuất trên sân khấu, nhằm đáp ứng nhu cầu của khán thính giả lúc bấy giờ. Lúc này, đã có nhiều đoàn cải lương chuyên nghiệp, hoạt động một cách rộng rãi ở nhiều tỉnh Nam Bộ, rồi lan dần ra miền Trung và ngay cả miền Bắc cũng đón nhận giọng ca cải lương này. Có thể nói rằng: cải lương là một loại hình sân khấu nghệ thuật tổng hợp, được đúc kết và diễn đạt trên phương diện của nhiều tư tưởng. Nói cách khác, đây là một loại hình sân khấu được đúc kết và có sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới. ( kim cổ giao duyên)
Có thể nói: quá trình hình thành nghệ thuật cải lượng, là một qúa trình khá phức tạp. Vì, đất nước chúng ta còn nghèo về nhiều mặt, đặc biệt là về khía cạnh của cải vật chất, muốn hình thành một đoàn cải lương trước hết phải có tài chánh, nếu không thì không tạo tinh thần cho những người đến với ngành nghệ thuật một cách bền vững.
II.1.a Kịch Bản
Về những điều kiện để hình thành nên nghệ thuật cải lương, thì kịch bản là một trong những vấn đề đóng vai trò quan trọng. Có thể nói, “ Kịch bản cải lương rất đa dạng và phong phú, được lấy từ thần thoại, cổ tích, tiểu thuyết, kịch bản trong nước, ngoài nước và có một số tự sáng tác”[1] Vì thế, kịch bản cải lương tạo một phong cách độc đáo, được thể hiện qua các vai diễn. Mỗi khi kịch bản được lấy từ những chuyện thần thoại hay những chuyện của đời thường, rất gần gũi với cuộc sống, cho dù là ở nông thôn hay thành thị, thì kịch bản cải lương vẫn thể hiện một cách linh động và đầy tính sáng tạo. Lúc bấy giờ, những vở cải lương được trích từ các truyện cổ tích, như: Lục Vân Tiên, Lưu Bình Dương Lễ… Về sau có những vở lấy từ truyện Tấm Cám, từ tiểu thuyết như truyện Kiều và tiểu thuyết hiện đại, hoặc có những sáng tác theo chủ đề lịch sử xã hội hay trích từ các kịch bản, tiểu thuyết của nước ngoài.
Âm nhạc cải lương cũng không kém phần phong phú, nào là nhạc dân ca, nhạc truyền thống và sau này có pha trộn thêm tân nhạc. Lúc này, làn điệu vọng cổ không những đóng vai trò chủ chốt mà có thể nói là linh hồn của cải lương. Bên cạnh đó, nhạc cụ cải lương cũng đóng một vai trò, một vị trí đáng kể. Mặc dù, chỉ sử dụng nhạc cụ truyền thống ( đàn cò, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tranh, trống cơm…) về sau này có thêm một số nhạc khí của Phương Tây. Như vậy, chúng ta thấy được nét phong phú, đa dạng và vô cùng sống động của âm nhạc cải lương. Qua đó, phần nào cho mỗi người Việt Nam chúng ta cảm nhận sâu xa về một nét văn hóa mang đậm đà màu sắc dân tộc.
Cho dù, cải lương được khởi xướng từ một vùng nông thôn nghèo khổ, người dân phải lam lũ với ruộng đồng, phải chống chọi với thiên nhiên… Thế nhưng, con người Việt nói chung, cách riêng là người dân Nam Bộ vẫn luôn lạc quan và yêu đời. Họ nhìn cuộc sống với một niềm tin và tràn đầy niềm hy vọng.
II.1.b Tác Giả
Từ đời sống lạc quan như vậy, đã xuất hiện nhiều văn nghệ sĩ tài năng, họ đã đúc kết được những bài học qúy báu ngay trong chính đời sống bình thường và rồi cùng với diễn viên xây dựng thành kịch bản của sân khấu.
Ngay từ lúc bắt đầu hình thành những đoàn hát cải lương, thì mỗi đoàn thường có một ông bầu và nghệ nhân cũng được đào tạo để chuyên nghiệp hóa. Từ đó, ta cũng thấy được vai trò và vị trí của tác giả cùng với diễn viên trong Cải lương quan trọng tới mức nào. Có thể nói: những người đầu tiên khám phá và hình thành nên lối hát cải lương, đó là: “ Ông Phó Mười Hai tên thật là Tống Hữu Định (1869- 1932) quê làng Long Châu, thị xã Vĩnh Long tỉnh Vĩnh Long; có người lại cho là thầy Năm Tú tên thật là Châu Văn Tú ở Mỹ Tho; người khác lại cho rằng: người bày ra lối hát cải lương đầu tiên là thầy Tư Thuận tức là André Thuận ở Sa Đéc…”[2] Bên cạnh tác giả, thì diễn viên là điều không thể thiếu trong cải lương.
Lúc bấy giờ, diễn viên cũng chính là những người nông dân, nhưng họ có năng khiếu và có ý chí tập luyện giọng ca của mình. Từ đó, họ đã trở thành những diễn viên xuất sắc khi có mặt trên sân khấu, như: “ Cô Ba Định trong vai Kiều Nguyệt Nga; Ông giáo Diệp Minh Kỳ trong vai Bùi Kiệm và Ông giáo Du trong vai Bùi ông; Thầy phó Mười Hai…”[3] Như vậy, theo thời gian, chúng ta cũng thấy được sự phát triển số lượng diễn viên rất đông, cho đến bây giờ không chỉ riêng ở miền Nam mà ở miền Trung và ngay cả miền Bắc cũng xuất hiện nhiều diễn viên cải lương xuất chúng. Có lẽ, những gì thuộc về tính chất và bản sắc văn hóa, thì nó có xu thế phát triển không biên giới và được nhiều người tiếp nhận, không phân biệt ở bất kỳ tầng lớp nào.
II.2 Bối Cảnh
Giai đoạn này, đất nước chúng ta nói chung và cách riêng ở vùng Đồng Bằng Nam Bộ đang gặp những khó khăn ngay từ những ngày đầu. Nhất là, giai đoạn: Nam Kỳ Lục Tỉnh lần lượt thành đất thuộc địa Pháp 1862 và 1867 đến 1945 mới trở về là đất Việt Nam. Đối với đất nước chúng ta, thì việc dựng nước và giữ nước gắn liền với nhau, thể hiện qua ý chí chống giặc ngoại xâm và phải trải qua nhiều bước thăng trầm. Trong quá trình này, có thời kỳ chúng ta bị đô hộ, nhưng cũng có giai đoạn chúng ta tự chủ.
Những giai đoạn thăng trầm đó, đã làm ảnh hưởng đáng kể đến qúa trình phát triển văn hóa và văn nghệ.
II.2.a Giai Đoạn Đất Nước Phát Triển
Văn hóa, lịch sử nước ta có thể phân thành các thời kỳ phát triển như sau: thời kỳ thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên; thời kỳ Việt Nam độc lập; thời kỳ Pháp thuộc; thời kỳ sau cách mạng 1945 cho đến nay. Trong khoảng thời gian từ 1945 đến nay đất nước phát triển chậm, là vì: vào đầu thiên niên kỷ thứ hai, quốc gia Việt Nam, dân tộc Việt Nam mới được xác lập và tồn tại, thì bị giặc ngoài xâm lược. Cả nước lúc này lâm vào tình trạng bị đô hộ. Thời kỳ này (1862 –1945) còn gọi là thời kỳ Bắc thuộc, tức là sự đô hộ, áp đặt văn hóa của phong kiến phương Bắc và có sự chống phong kiến phương Bắc đô hộ, để bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Từ chỗ, chúng ta chống đô hộ phong kiến phương Bắc thành công, cho nên mới tồn tại nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
Trước tiên về sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, phải nói rằng: khi chúng sang đô hộ nước ta, thì xã hội phương Bắc đã phát triển hơn xã hội Việt Nam… Thời kỳ đó phương Bắc có tổ chức xã hội chặt chẽ hơn và đã hình thành hệ tư tưởng trong xã hội. Khi sang đô hộ Việt Nam, người Hán có ý thức áp đặt mô hình tổ chức xã hội Trung Hoa phong kiến vào xã hội Việt Nam, để đô hộ lâu dài ở Việt Nam. Vì thế, đất nước Việt Nam phải chịu một áp lực nặng nề, người dân phải lầm than, cực khổ đã nghèo càng nghèo thêm. Bên cạnh đó còn có biết bao hệ lụy kèm theo, nào là thiếu thốn cái ăn, cái mặc, nào là nạn thất học… Người Việt Nam lúc này cảm thấy thất vọng, họ thất vọng về nhiều khía cạnh. Thế nhưng, người Việt Nam đã không cam chịu trước một thế lực nào, họ đã cùng nhau đồng sức, đồng lòng chống giặc ngoại xâm và rồi những đám mây đen từ từ tan dần, cuối cùng chỉ còn lại một bầu trời trong xanh tràn đầy sức sống. Trong đó, có vùng trời Nam Bộ.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 5:41:02 GMT 9
Để hiểu thêm về điạ lý cũng như về văn hóa, tôi xin đề cập đến một vài điểm qua chuyến đi thực tế. Về địa lý: Nam Bộ được chia thành hai miền, là: miền Tây và miền Đông. Miền Tây là vùng châu thổ sông Cửu Long, có đất đai bằng phẳng và rất màu mỡ. Toàn bộ châu thổ có độ phù sa khá cao, hằng năm vẫn tiếp tục được bồi đắp bằng phù sa của sông Cửu Long, nhưng vẫn không tạo ra độ cao mới là bao, bởi vì địa chất của cả một khu vực lớn đang bị lún đều. Mặt khác, đây cũng là vùng có nhiều kênh rạch, thuận tiện cho việc trồng lúa và phát triển hao màu. Miền Đông là vùng châu thổ sông Đồng Nai, vùng chân dài của cao nguyên Tây Nam Trung Bộ, có nhiều núi nhấp nhô giữa những đồng bằng và đất không mấy màu mỡ. Khí hậu ở Nam Bộ chỉ có hai mùa, nhiệt độ thay đổi không đáng kể, nhiệt độ trung bình khoảng 300c. Phải chăng, từ chỗ vị trí địa lý và địa hình như vậy, đã ươm mầm cho giọng ca Cải lương có một giá trị nghệ thuật sâu xa, một không khí hài hòa và một tinh thần chất chứa nữ tính. Sáu câu vọng cổ được khởi đi từ bài ca “ Dạ cổ hoài lang”, tức là nghe tiếng trống đêm nhớ người tình. Bản Dạ cổ hoài lang ban đầu chỉ là một bài hát có nhịp tư đến nhịp tám, nhịp mười sáu đến nhịp ba hai và cuối cùng chuyển dần đến nhịp sáu mươi tư như sau này.
“ Từ là từ phu tướng,
Bửu kiếm sắc phong lên đàng,
Vào ra luống trông tin chàng,
Đêm năm canh mơ màng,
Trông ngóng trông tin nhàn.
Gan vàng thêm đau,
Lòng dầu xa ong bướm.
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang,
Trông luống trông tin bạn,
Ngày mỏi mòn như đá phọng phu.
Vọng phu vọng luống trông tin chàng.
Năm canh mơ màng.
Chàng là chàng có hay?
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây,
Bao thuở đó đây sum vầy,
Duyên sắc cầm tình nhưng ý y.
Là nguyện cho chàng!
Đặng chữ bình an,
Mau trở lại gia đàng,
Cho thiếp cùng chàng hiệp nhau.”[4]
II.2.b Tư Duy Con Người Tiến Bộ
Song song với vấn đề phát triển của đất nước, thì tư duy con người lúc này cũng trên chiều hướng tiến triển.
Khi lịch sử được lật sang một trang mới, nhất là từ trang sử chiến tranh chuyển sang trang sử hòa bình, thì nhu cầu thưởng thức của công chúng về khía cạnh văn nghệ, nhất là về cải lương đã thay đổi một cách khá rõ nét. Thay đổi theo một xu hướng cao hơn, nhưng đồng thời cũng phức tạp hơn về các mặt, như: nhận thức, giáo dục thậm mỹ cũng như mặt giải trí và lẫn cả mặt giao tiếp. Vì thế, nhu cầu mới này từ phía thưởng thức tất yếu sẽ dội qua phía sáng tạo và buộc văn nghệ sĩ phải đáp ứng. Bên cạnh đó, tự thân người sáng tác cũng có những nhu cầu mới do hoàn cảnh lịch sử mới nẩy sinh. “ Cho nên, phương châm lấy người tốt, việc tốt, lấy cái đẹp, cái hay, cái kiên cường, dũng cảm, cái cao cả anh hùng… làm đối tượng thể hiện chính yếu; không thể là phương châm thống lĩnh trong văn hóa cũng như nghệ thuật như trong thời chiến tranh nữa.”[5] Đối tượng của nghệ thuật cải lương ngày càng cần được mở rộng và được đúc kết thành những bài học cho mọi thế hệ. Thực ra, xu hướng mở rộng về nghệ thuật cải lương đã được ấp ủ từ những năm cuối chiến tranh. Nó chớm nở và phát triển ngay sau khi đất nước mới được hòa bình thống nhất (1975) và cho đến nay, thì nó đã trở thành hiển nhiên trong hàng loạt của phương thức trình diễn khác. Đây là một bước tiến mà giới văn nghệ sĩ đánh giá cao và rất lấy làm vui mừng. Bởi vì, nó đáp ứng được một nhu cầu rất chính đáng của con người nói chung cũng như cách riêng đối với những ai yêu thích cải lương, trong bối cảnh của cuộc sống bình thường và ổn định. Nhu cầu này được nhận biết dưới một lăng kính hiện thực, đa diện và toàn cảnh.
Cải lương, không chỉ đáp ứng nhu cầu hiện thực, như: vui vẻ, lạc quan hay toàn cảnh của đất nước chiến tranh và hoà bình mà còn thể hiện ngay cả trên bình diện văn hóa. Có lẽ, đất nước chúng ta đã trải qua những thảm cảnh bi đát của chiến tranh khốc liệt, và vì thế khi một vở cải lương được dựng nên, thì thường thiên về cái hay, cái đẹp…Điều này, ở một khía cạnh nào đó thì không được phong phú và nếu đi sâu vào thì tính thuyết phục người xem rất thấp. Nếu biết khai thác tích cực các khía cạnh chết chóc, mất mát, đau thương của người dân do chiến tranh, thì có lẽ thêm phần phong phú cho vấn đề trình diễn sân khấu cải lương hơn. Sở dĩ, cải lương được quần chúng cũng như giới người dân tiếp thu một cách mau lẹ, là vì: cải lương là một trong những môn nghệ thuật thể hiện sâu xa về bản sắc văn hóa của dân tộc. Có thể nói rằng: cải lương luôn diễn tả tâm trạng cũng như bối cảnh của người Việt Nam ở từng giai đoạn.
Khi đã là nghệ thuật, thì có một nét gì đó mà khiến chúng ta phải quan tâm và tìm hiểu. Và từ từ mỗi người trong chúng ta sẽ khám phá ra chất cải lương ngay chính con người của mình. Một chất cải lương không phải vừa khóc vừa cười như một số người thường quan niệm, nhưng là bộc lộ một tấm lòng chân thành, đầy ắp những niềm vui và niềm vui đó có thể đem chia sẻ cho nhau, bằng một câu hát hay một nụ cười.
III. ĐỈNH CAO CỦA NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG
III.1 Giá Trị Văn Hóa
Trong đời sống của con người, vô cùng những khía cạnh nói về văn hóa có giá trị thực chất. Nhưng, dù sao đi nữa, bất kỳ một di sản văn hóa nào, thì cũng có những giai đoạn phát triển của nó và ở đỉnh cao hay còn gọi là điểm son. Thì, trong nghệ thuật cải lương cũng vậy, nó cũng có những giai đoạn biến chuyển, thay đổi. Vì thế, tôi xin đề cập đến đỉnh cao của nghệ thuật cải lương.
Ngay trong chính bản thân nghệ thuật cải lương, về thi pháp, sáng tạo, thì nó đã hàm chứa hai đặc điểm có vẻ trái ngược, nhưng lại rất thống nhất, đó là: sự khép kín mang tính định hình của những qui ước sân khấu truyền thống ( các bài bản ca hát, các giai điệu âm nhạc, các qui ước biểu diễn của diễn viên…) và sự mở ra của các hình thái nghệ thuật sân khấu ở khả năng thích hợp của nó. Mặt khác, nghệ thuật cải lương còn có một khuôn mặt riêng khả ái, mang đầy chất nữ tính. Cho nên, vừa đậm đà sắc thái truyền thống, lại vừa ngời ngời một ánh sáng hiện đại, làm cho con người cảm thấy cuộc sống thanh thản và sống lạc quan yêu đời hơn. Nhưng con người cũng đừng qúa lạm dụng thời gian, mà làm ánh hướng tới công việc của gia đình cũng như những công việc của xã hội.
III.1.a Con Người
Con người được sinh ra, lớn lên ở bất kỳ hoàn cảnh nào, thí con người cũng luôn vươn tới cái hay, cái đẹp và sự hạnh phúc.
Muốn đạt được điều đó, thì điều đòi hỏi đầu tiên, đó là: con người phải ra khỏi mình, để tiếp cận với những thông tin của xã hội. Nếu, con người không biết tiếp thu những giá trị văn hóa nghệ thuật của thời đại, mà chỉ biết chấp nhận một lối sống bảo thủ, thì không những cá nhân đó không có niềm vui hay sự lạc quan, mà còn làm ảnh hưởng tới những người xung quanh và ngay cả mặt xã hội cũng trở nên tẻ nhạt. Trong khi đó, phần đông con người trong xã hội chủ trương làm sao phải tạo cho nhau có niềm vui, để đất nước ngày càng phát triển về mặt tinh thần cũng như về tính tương quan giữa con người với nhau.
Vì thế những tác phẩm của những nhà soạn giả cũng phải làm sao thích ứng, làm sao để đưa con người tới một chân trời mới, chân trời của tính nghệ thuật.
III.1.b Soạn Giả
Khi nhắc đến soạn giả, thì không thể nào quên những vị tiền bối đã góp công, góp sức đáng kể cho việc hình thành nên những tác phẩm đầu tiên của nghệ thuật cải lương.
Truớc tiên đề cập tới ông Toản. Theo một số tài liệu cho biết: “ ông Toản đã sang Paris và hoạt động chính trị ở đó, ông được mệnh danh là một soạn giả hữu danh, một nhà hoạt động chính trị, ông đã xây dựng một tác phẩm để diễn tả tâm trạng của ông như ông mơ ước”[6]. “ Năm 1918 thì có André Thuận, nhưng sau đó ông truyền cho thầy Châu Văn Tú ( Mỹ Tho) Thầy Châu Văn Tú đã học hỏi những kinh nghiệm từ ông Thuận cùng với những khám phá của ông, Thầy Tú đã hoàn thành kịch bản Kim Vân Kiều”[7]. Về sau, còn có Đồng Bào Ban ( Bốn sự) Nam Đông Ban ( Hai cu). Trong đó, có những người nổi danh như: Năm Phỉ, Bảy Phùng Há, Tư Sạng, Hai Giỏi, Năm Châu… Từ những soạn giả này, mà dần dần Cải lương đã phát triển và lan tỏa khắp nơi, tới đâu cũng được khán giả mến mộ.
Từ những kịch bản được các soạn giả thai nghén và sinh ra, thì bên cạnh đó là những đoàn hát cũng ra đời.
III.1.c Đoàn Hát
Qua rất nhiều thế hệ, nghệ thuật cải lương không hề mai một, ngược lại nó còn phát triển mạnh mẽ cả về số lương lẫn chất lượng.
Cho tới lúc này đã hình thành rất nhiều đoàn hát cải lương. Trong đó, có 22 câu lạc bộ lớn, với nhiều lứa tuổi khác nhau, phần nào đã cho ta thấy sự thiết tha yêu nghề của họ, cùng với giọng ca trẻ đã làm cho những ai quan tâm đến sự hưng thịnh của giọng tài tử cải lương Nam Bộ được yên lòng khi chứng tỏ rằng họ là những lực lượng kế thừa. Để chứng tỏ điều này, với những ngón đờn điêu luyện, giọng ca mượt mà chứa đựng nhiều cảm xúc đã chứng minh phong trào giọng ca tài tử tại Thành phố và nhiều tỉnh Nam Bộ không hề suy yếu mà càng ngày lại thêm một vững vàng. Đi thâm nhập thực tế tại nhiều địa phương hiện nay, tôi nhận thấy giọng ca cải lương đã bén sâu vào tâm khảm của người dân, được đông đảo công chúng tại cơ sở quan tâm. Ở nông thôn ngoại thành, giọng ca tài tử đã nổi bật với các yếu tố của một phong trào văn hóa dân tộc có sức sống bền vững. Không kể các cơ sở đào tạo của nhà nước như tại trung tâm văn hóa Thành Phố Hồ Chí Minh, nhà văn hóa Thanh niên, các trung tâm văn hóa quận , Huyện Hóc Môn, Củ Chi…, mà ngay cả trong dân gian tự phát như ở Tân Thới Hiệp, An Nhơn Tây, qua Tân Phú Trung, Chợ Đệm, Vĩnh Lộc, rồi sang Tân Qui Đông…, đâu đâu cũng có những nhóm, những câu lạc bộ ca tài tử sinh hoạt thường xuyên, tuy âm thầm nhưng không kém phần sôi động. Người dân xem sinh hoạt tài tử ngoài giờ lao động như một chuyện tự nhiên của trời đất nắng mưa. Đa số các ca sĩ tài tử hiện nay, đã đạt đến trình độ cao trong cung cách biểu diễn cũng như lưu loát trong giọng ca. Cho nên, thu hút được khán giả ngày càng đông bằng chính giọng ca của mình, như: Trọng Ánh, Út Mót, Mỹ Ngọc Chi ( Củ Chi), đã làm cho các bậc lão làng trong miền tài tử phải gật gù khen ngợi và tin tưởng vào khả năng chuyên môn cùng tâm huyết của lớp con cháu kế thừa.
Chúng ta có thể thấy một hình ảnh tre già măng mọc qua giọng ca của những người đi trước và giọng ca của thế hệ hiện nay. Niềm vui lớn lao của những người yêu thích tài tử cải lương Nam Bộ, vốn đã bén rễ lâu đời tại mảnh đất thân yêu này, vẫn tiếp tực được giữ gìn và lưu truyền mãi mãi. Bên cạnh đó, một sự khích lệ lớn lao, là: có sự định hướng của nhà nước, nên giọng ca cải lương càng có cơ hội đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái hòa cùng nhịp sống sôi động của một nền công nghiệp hiện đại, phát triển mà vẫn vững vàng trên nền tảng văn hóa và cốt cách của dân tộc Việt Nam.
III.2 Giá Trị Nhân Bản
Cải lương đã đưa lại một giá trị tinh thần cho người Việt Nam khá sâu sắc và cụ thể. Nó khai thác thế giới tâm hồn của con người, bằng cảm nhận của tinh thần, đạo lý và tâm lý triết học phương Đông, Phật Giáo ( với 14 điều răn dạy) trong đó có sự chấp nhận, bao dung, tha thứ và đoàn viên là các tố chất chính.
Thế giới tình cảm được chắt lọc ( như chất liệu) và được thăng hoa ( qua ngôn ngữ và phương tiện nghệ thuật biểu diễn đầy sức truyền cảm của diễn viên) tác động mạnh và trực tiếp nhận thức tình cảm của người xem. Sự đồng cảm giữa con người với nhau cũng xuất hiện từ đây, thậm chí người xem còn tác động trở lại, nhằm đẩy sự khích lệ lên cao hơn nữa ở nơi diễn viên. “ Nhất là khi diễn viên ca những bài Oán, khi họ hoàn thành một cách ngọt ngào về phần lời nói lối gối sang câu và chữ “ đổ” bài vọng cổ … và được công chúng vỗ tay tán thưởng, thì người diễn viên đã biết chắc là yên tâm rồi và lúc đó càng có tinh thần diễn xuất hay hơn!”[8] Có những câu chữ nghề nghiệp mà chỉ ngành cải lương mới có, như: ca “ có ngầu”, ca “ quên sầu”, ca “ mùi mẫn” và ca lấy nước mắt khán giả…, đều thể hiện một tính chất sâu thẳm của con người Việt Nam.
Qua đó cho chúng ta thấy: cả người sáng tạc lẫn người xem đều mong muốn một kết thúc “ có hậu”, vì vậy cách đặt vấn đề của kịch bản và vở diễn lúc ban đầu có thể khác nhau, nhưng khi đi vào giải quyết và kết thúc vấn đề, thì không còn khác nhau nữa. Ví dụ: chuyện cổ thì được giải oan, chuyện kim thì sau những giải thích, thì không còn hiểu lần nữa, sau khi đã nhận ra thì “ cải tà quy chính”, còn những người đã từng bị hành hạ, đau khổ sẽ lại tha thứ, bao dung hoặc báo trước một điều kiện “ cho quay lại”.
Với những đặc trưng dễ nhận thấy đó, thì cải lương đã để lại nhiều vở diễn mang đậm “ tình cảm” được ghi nhận ở từng giai đoạn khác nhau, nhưng đều mang một đặc tính là thể hiện nhân cách con người.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:03:37 GMT 9
III.2.a Suy Nghĩ Lành Mạnh
Khi con ngýời sống giữa một xã hội duy tục, nên ở mọi nõi và mọi lúc con ngýời dễ có xu hýớng suy nghĩ lệch lạc và thiếu lành mạnh.
Có thể nói: cải lýõng là một trong những hình thức biểu diễn khá tế nhị, không thô bạo nhý một số phim của nýớc ngoại. Trýớc sự nhạy cảm của tuổi trẻ, những hình ảnh khiêu gợi ðó dễ khắc vào trí nhớ và làm cho cuộc sống của những bạn trẻ trở nên phức tạp. Vì, mỗi khi con ngýời suy nghĩ thiếu sáng suốt, thì ðýõng nhiên dẫn tới hành ðộng không tốt. Từ ðó, không những riêng cá nhân tự ðánh mất phẩm chất làm ngýời, mà còn làm ảnh hýởng tới bộ mặt xã hội. Nghệ thuật cải lýõng ðã phần nào giúp con ngýời výợt qua ðýợc những khó khãn về tinh thần và về tâm lý. Khi ta xem một vở cải lýõng, thì ta nhý ðýợc hòa nhập vào những cung cách của ngýời diễn viên, nên chúng ta không cảm thấy khao khát, thèm muốn nhý khi ta xem một bãng phim, có những cô gái ðẹp và ãn mặc thiếu tế nhị cải lýõng ðã giúp con ngýời hòa nhập vào một tý týởng lành mạnh, ðiều này cũng thể hiện ðýợc nét hòa tính trong cải lýõng.
Ðể con ngýời ngày càng nhận ra giá trị của sự lành mạnh trong cải lýõng, thì con ngýời cần có sự hiểu biết, có sự so sánh và ðặc biệt là phải có sự biện phân. Từ ðó, con ngýời sẽ biết hýớng tới cái hay, cái ðẹp và sự vui vẻ trong cuộc sống.
III.2.b Tạo Bầu Khí Vui Vẻ
Khi cải lýõng ðýợc biểu diễn trên sân khấu, thì sân khấu trở nên chỗ giao lýu giữa con ngýời với nhau, ðể rồi cùng trao cho nhau tin yêu tình loài ngýời.
Trong suốt gần một thế kỷ, sân khấu cải lýõng Nam Bộ ðã có những canh tân tích cực và khá rõ nét. Ðồng thời, cũng có những sửa ðổi ðẩy nghệ thuật cải lýõng tới một tầm mức cao hõn. Bên cạnh của sự biến chuyển về mặt nghệ thuật cải lýõng, thì con ngýời lúc này cũng có sự thay ðổi, ai cũng xem thời gian là “vàng”. Cho nên, sự gặp gỡ, quan tâm giữa con ngýời với nhau phần nào có sự mờ nhạt; ngay cả trong gia ðình, sự quan tâm giữa cha mẹ ðối với con cái cũng có sự sa sút…, thì có lẽ cải lýõng ðã phần nào hâm nóng lại tình ngýời cũng nhý tình yêu thýõng trong mọi gia ðình.
Mỗi khi con ngýời không thấy hạnh phúc nào bằng, khi biết trao cho nhau một nụ cýời, một lời hỏi thãm hay là một sự chãm sóc vỗ về. Thì, chính lúc ðó mới cảm nhận ðýợc thế nào là giá trị týõng quan giữa con ngýời với nhau, khi cùng nhau thýởng thức những vở cải lýõng trên sân khấu.
III.2.c Tính Phát Huy Sáng Tạo
Trong quá trình phát huy và sáng tạo của nghệ thuật cải lýõng, chúng ta ðều nhận thấy: mỗi vở cải lýõng ðều có một býớc tiến bộ khá rõ nét; có thể nói: sự tiến bộ ðó ðýợc coi nhý một công trình nghệ thuật tổng hợp và ðồng bộ.
Gần ðây, ở các nhà hát ðã phát ðộng ðýợc sức sáng tạo nõi các tác giả, ðạo diễn, họa sĩ, nhạc sĩ, biên ðạo múa, diễn viên và cả những ngýời làm công việc hậu ðại của nhà hát. Ở ðó, tất cả mọi thành viên không có ai có tý týởng ðố kỵ tài nãng, tranh tài cao thấp ghen ghét nghề nghiệp tầm thýờng; ngýợc lại, tất cả ðều muốn hóa thân vào các hình týợng nghệ thuật, ðều cùng khát vọng výõn tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ cho công trình nghệ thuật chung. Trong không khí thanh khiết và hội hè của cộng ðồng sáng tạo ấy, chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của những ðạo diễn, họ là những ngýời có tài trong giới cải lýõng của ðất nýớc. Vì thế, sự khích lệ về mặt sáng tạo ðối với họ vô cùng cần thiết, ðể họ có khả nãng hòa chung vào một nhịp sống của nhân loại. Mặt khác, “nghệ thuật cải lýõng phần nào ðã tiếp cận ðýợc với nhiều nền sân khấu tiên tiến trên thế giới, cùng với những tinh hoa của nền nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam, là cho mỗi tác phẩm cải lýõng ngày một výợt qua ðýợc phong cách nghiệp dý, thýờng gánh xýa kia, ðã làm thay ðổi bản chất ngýời ðẹp mắc nạn, tứ biết sinh ly, ái tình dang dỡ …”[9] Những vấn ðề này ðã có trong quá khứ với hình thức kiếm hiệp, ðấu dao gãm, nhẩy qua cửa sổ, khóc than sýớt mýớt…, sôi ðộng của một thời sân khấu kiếm sống ðể trở thành một công trình nghệ thuật sáng tạo công phu, chính quy và hiện ðại trong ngày hôm nay. Ðúng nhý vậy, khi nói tới vai trò của ðạo diễn ðối với nghệ thuật cải lýõng, thì ta có thể kết luận ðýợc rằng: nghệ thuật cải lýõng ðã ðồng nhất với sáng tạo của những ðạo diễn hiện ðại Việt Nam. Vì vậy, mỗi vở diễn là một công trình thử nghiệm và mỗi công trình ðó nhý là thýớc ðo giá trị cho býớc tiến của nghệ thuật cải lýõng. Ðó chính là những nguyên tắc mang tính thi pháp cho nghệ sĩ sáng tạo, ðể vở diễn nào cũng ðạt ðýợc ít nhất là ba yếu tố: tính hiện thực, tính nhân vãn và tính thẩm mỹ. Bên cạnh ðó, còn thể hiện nét giản dị mà hoành tráng, chân thật mà lãng mạng, ðời thýờng mà triết lý sâu xa, bi thýõng mà lạc quan hào hùng… Những ðiều này, không hiển hiện có ở trên sân khấu, mà từ chính những nổ lực của ngýời ðạo diễn, cùng với một tiếng tõ rung, một lời ca thổn thức ðến những khóe mắt, nụ cýời… của các diễn viên, ðều toát lên ðýợc sự chuẩn mực của cộng ðồng sáng tạo qua những ngýời có tâm huyết trong giới vãn nghệ sĩ.
Với thời ðại ngày hôm nay, con ngýời ðề cao tính phát huy, sáng tạo bất kỳ ở lãnh vực nào, không chỉ riêng ở ngành nghệ thuật cải lýõng. Vì thế, con ngýời không thể sống trong tý thế ù lỳ thụ ðộng, mà phải thay ðổi; thay ðổi về mặt xã hội lẫn những tý týởng của mình trong cuộc sống.
IV. NGHỆ THUẬT CẢI LÝÕNG HIỆN NAY
IV.1 Xu Thế Thời Ðại
Khi xã hội ðang trên ðà phát triển, phát triển về nhiều lĩnh vực, thì nghệ thuật cải lýõng là một trong những lĩnh vực của nền nghệ thuật Việt Nam cũng ðang tiến ðến sự hoàn hảo về cả hình thức lẫn nội dung. Nhýng, ðể ðạt ðýợc sự hoàn thiện mà mỗi ngýời mong muốn, thì không phải là một sớm, một chiều, mà phải có thời gian và có sự nổ lực của những ngýời nghệ sĩ.
Thời gian 50 nãm qua, nhà hát cải lýõng trung ýõng ðang dừng chân ðể nhìn lại chính mình, ðồng thời nhìn lại bức tranh toàn cảnh của cải lýõng Việt Nam. Ðể tìm ra hýớng ði cho cải lýõng Việt Nam trong ðời sống xã hội, khi nền kinh tế ðã vận hành theo cõ chế thị trýờng và sự biến ðộng trong nhận thức của khán thính giả. Vừa qua, tại Thành Phố Hồ Chí Minh ðã tổ chức hội diễn cho mỗi ðõn vị cải lýõng miền nam Việt Nam biểu diễn, ðýợc tổ chức khá thành công, thành công cả về hình thức lẫn nội dung. Thế nhýng, ðằng sau sự thành công ðó, vẫn còn tồn tại một số nhýợc ðiểm, không biết cho tới bao giờ nghệ thuật cải lýõng mới bắt kịp nhịp ðộ sinh hoạt của con ngýời. “Qua vở diễn trên thuyền hình cho thấy: chi tiết một việt kiều dởm ( Ngọc Tuấn ðóng) ðã nhận xét về vai diễn chàng hoạ sĩ nghèo ( Tuấn Dýõng ðóng) nhý sau: cậu này trýớc ðây chắc diễn viên cải lýõng, ca ( ở ðây là ðã nói ra những lời buồn, không hợp thời ) mùi mẫn lắm!”[10]. Phải chãng cải lýõng là vậy ( buồn và không hợp thời?!) và chỉ có tác ðộng duy cảm, thýõng vay khóc hộ. Nếu hiểu cải lýõng theo một cách khoa học, ðồng thời thoát ra khỏi cách biểu cảm, tính nông cạn, thì sẽ cảm thấy cải lýõng có một ðiều gì ðó rất là Việt Nam. Dẫu sao, thì cải lýõng cũng ðã có thời hoàng kim của mình. ( thậm chí ở thời ðó cải lýõng nhý không có ðối thủ về số lýợng ngýời xem và hiệu qủa của nội dung)
Có thể nói: nghệ thuật cải lýõng tồn tại và phát triển ðýợc nhý hôm nay, là nhờ sự cố gắng của rất nhiều tầng lớp giới vãn nghệ sĩ. Mặc dù còn nhiều giới hạn, nhýng chúng ta tin rằng trong týõng lai nghệ thuật cải lýõng sẽ là một trong những món ãn tinh thần không thể thiếu ðối với mọi ngýời.
IV.1.a Khi Nhạc Trẻ Phát Triển
Gần ðây, với những thông tin từ báo chí, truyền hình cho thấy: không khí của nhạc trẻ khá rầm rộ, số lýợng soạn giả và ca sĩ trẻ khá ðông, ðã phần nào làm cho không ít ngýời, ðặc biệt là giới trẻ say mê và tự chọn cho mình một thần týợng riêng; chính những thần týợng này ðã tác ðộng mãnh liệt nõi các bạn trẻ và làm cho họ ðánh mất những giá trị vãn hóa cổ trong ðó có nghệ thuật cải lýõng.
Con ngýời chúng ta biết tiếp nhận những giá trị mới trong cuộc sống là ðiều tốt, nhýng phải tiếp nhận bằng thái ðộ nào lại là một vấn ðề rất quan trọng. Tôi không dám phê bình hay khẳng ðịnh nhạc trẻ là không hay, không tốt ðối với mọi ngýời. Nhýng, nếu chúng ta không biết chọn lọc, mà chỉ tiếp thu một cách thụ ðộng, thì có lẽ rất nguy hiểm. Khi chúng ta chạy theo những thần týợng mà mình cho là hấp dẫn, ðiều này khá mạo hiểm. Chúng ta không nghĩ rằng: ðến một thời ðiểm nào ðó, thần týợng của ta không còn, thì ta có výợt qua ðýợc không, hay là ta cứ ôm ấp trong lòng và một lúc nào ðó ta cảm thấy thất vọng, chán nản vì không có thần týợng ðể chiêm ngắm, ðể giải trí. Trong khi ðó, nghệ thuật cải lýõng là một trong những nét vãn hóa, thì ta không ðể ý tới, ta cho là cổ ðiển không hợp thời. Có thể nói: sự thâm nhập của nhạc trẻ ðối với con ngýời hôm nay vô cùng tinh vi, nó ði vào trong tâm thức con ngýời lúc nào không hay. Sở dĩ, tôi nói nhý vậy, là vì: một số nhạc sĩ cũng nhý ca sĩ ngày nay sáng tác và biểu diễn theo cảm hứng ðến cuồng nhiệt. Nhiều bài hát, hầu nhý nội dung và hình thức không mấy lành mạnh và ðặc biệt là không truyền ðạt ðýợc một bài học nào trong cuộc sống con ngýời.
Ðứng trýớc những chuyển biến của âm nhạc hôm nay, ngýời nghe cần phải thận trọng, biết tiếp thu, nhýng ðồng thời cũng phải biết chọn lọc, ðể làm sao không làm lu mờ những giá trị nghệ thuật mà ngýời Việt Nam ðã có từ xýa.
IV.1.b Sự Phát Triển Của Nghệ Thuật Cải Lýõng
Khi nói ðến sự phát triển một cách rộng rãi của nghệ thuật cải lýõng Việt Nam, thì ta không thể quên những cố gằng trong việc cải cách từ hát bộ, vì chính hát bộ ðã tạo tiền ðề cho việc ra ðời của nghệ thuật cải lýõng.
Tại sao nghệ thuật cải lýõng mới hình thành mà phát triển một cách mạnh mẽ nhý thế? Trýớc hết, chúng ta thấy: cải lýõng biết thừa kế và sáng tạo một cách linh hoạt, hầu làm phong phú cho mình, ðồng thời cũng sớm khẳng ðịnh mình. Nghệ thuật cải lýõng phát triển nhanh, vì nó biết tiếp thu một cách khéo léo các loại hình vãn học nghệ thuật khác, trýớc hết là tuồng. Cải lýõng tiếp thu ở tuồng từ hệ thống kịch bản cổ, ðến hệ thống ðộng tác và hóa trang. Nghệ thuật biểu diễn của cải lýõng tuy gần với cuộc sống hõn, nhýng vẫn sử dụng thủ pháp của tuồng nhý cách ðiệu, ýớc lệ, týợng trýng. Cải lýõng còn tiếp thu cả những thủ pháp biểu diễn của sân khấu Trung Quốc và sân khấu Pháp, nhờ vậy mà nghệ thuật cải lýõng ngày một phong phú hõn, rạng rỡ hõn và tiết tấu sân khấu của nó cũng nhanh hõn so với tuồng và chèo cổ.
Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nghệ thuật cải lýõng ðã lan truyền khắp vùng Nam Bộ, dần dần tới miền Trung và sau ðó tràn ra tới miền Bắc. Bất kỳ ở ðâu, công chúng cũng ðón nhận cải lýõng nhý một món ãn tinh thần mới mẽ và hấp dẫn. Phong trào lớn mạnh của cải lýõng không những cuốn hút khán giả mạnh mẽ, mà còn cuốn hút những nghệ sĩ của các bộ môn nghệ thuật khác, cụ thể là nhiều ðoàn hát bội ðã chuyển sang hát cải lýõng. Cụ thể, nhý: “ Bầu Bòn, Quốc Bửu Ban hoặc nhý ông Nguyễn Ngọc Cýõng dù xuất thân trong một gia ðình hát bội có tiếng, nhýng ðã ðứng ra lập gánh cải lýõng với bảng hiệu Phýõng Cýõng, tập họp rất nhiều nghệ sĩ tài nãng nhý Nãm Phỉ, Bảy Nhiêu, Tám Danh, Sáu Chýõng, Nãm Bình, Ba Vân, Bảy Nhỏ, Bảy Thành, Sáu Lê, Hai Lợi, Hai Từ, Bảy Lựa, Chín Lê, Tý Huê… Các ðoàn hát cải lýõng thi nhau ra ðời ðể ðáp ứng nhu cầu cần thiết của nhân dân.”[11]
Cho ðến nay, cải lýõng không còn ðóng khung ở vùng Nam Bộ nữa, mà ðã lam rộng khắp nõi và nõi nào cũng thể hiện ðýợc nét riêng của mình. Nhýng, ðều chung một ðiểm, là: thể hiện ðýợc con ngýời và bản chất con ngýời Việt. Hõn nữa, còn lột tả ðýợc bản sắc vãn hóa sâu xa của dân tộc Việt Nam.
IV.2 Nhu Cầu Giải Trí Ngày Câng Cao
Bên cạnh sự phát triển rộng rãi của nghệ thuật cải lýõng, thì chúng ta cũng thấy ðýợc nhu cầu về ðời sống tinh thần ðòi hỏi ngày một cao và thực tế.
Khi nói tới nhu cầu giải trí ngày càng cao, chúng ta hiểu rằng: ðó là một sự phát triển ðồng bộ, ðồng thời là một býớc tiến sâu vào bản chất vãn hóa của ngýời Việt Nam, qua những sinh hoạt rất thýờng hằng trong cuộc sống. Ðể biết ðýợc xuyên suốt vấn ðề, chúng ta trở lại với những gì mà nhà hát trung ýõng ðã ðạt ðýợc trong thời gian qua. Trong lúc giải trí nâng cao, thì những tý týởng của những nhà soạn giả cũng thay ðổi và phần nào ðáp ứng ðýợc nhu cầu của dân chúng. Các soạn giả ðã có ðýợc những hình týợng sâu ðậm, chân chính và tâm huyết nhất trong nghệ thuật cải lýõng. Vì thế, khi con ngýời ðýợc thýởng thức không cảm thấy lảng phí thời gian hay vô vị lợi. Ngýợc laiï, họ cảm thấy mình nhý ðón nhận ðýợc một sức sống mới, một lýợng thông tin vô cùng hữu ích. Chính nhờ sự tìm tòi, khám phá không ngừng, soạn giả ðã ðýa lại cho quần chúng, cho những ai yêu thích cải lýõng không chỉ là những giây phút giải trí thoáng qua, mà còn là cả một chýõng trình sống. Những gì mà soạn giả ðýa tới cho quần chúng, không phải những tý týởng triết lý cao siêu khó hiểu, nhýng với những gì rất gần gủi với sinh hoạt của ngýời dân. Soạn giả ðã gửi tới cho quần chúng những hình ảnh về ngýời công nhân, ngýời nông dân, ngýời trí thức và ðặc biệt là những hình ảnh của ngýời lính Cụ Hồ… Nhằm nói lên cái hồn của dân tộc ðýợc thể hiện cách cụ thể và mới mẽ của thời ðại. Từ ðó, phần nào cũng nói lên tinh thần kiên quyết ðấu tranh cho sự phát triển chung cho toàn ðất nýớc, nhằm ngãn chặn tính chất ù lỳ, thụ ðộng, sống trong sự lạc hậu không chịu thay ðổi và không chịu tiếp nhận cái mới.
Ðể thỏa mãn nhu cầu về vấn ðề giải trí của mọi tầng lớp trong xã hội, nghệ thuật cải lýõng phải nổ lực hõn nữa trong việc cập nhật hóa những thông tin, những giá trị từ cuộc sống của ngýời dân. Hõn nữa, phải làm thế nào qua mỗi vở cải lýõng trình diễn, phải toát lên ðýợc giá trị vãn hóa của dân tộc Việt Nam, ðể giúp mọi ngýời nhận ra nét ðẹp và sự hài hòa trong cuộc sống.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:04:25 GMT 9
IV.2.a Khoa Học Kỷ Thuật
Khi xét về chiều hướng phát triển của khoa học kỷ thuật ngày nay, thì có nhiều điều rất phức tạp và nhiều vấn đề đặt ra; không những đặt ra cho con người những thắc mắc về chính mình, mà khoa học kỷ thuật còn đặt ra dưới rất nhiều khía cạnh mang tính xã hội học. Nhằm, hướng con người tới niềm vui, niềm hạnh phúc và sự hoàn thiện của cuộc sống.
Từ những vấn đề mà khoa học kỷ thuật đã đưa ra, khiến con người phải tiếp nhận và thực hành trong sinh hoạt thường ngày của mình. Cho nên, con người phần nào đánh mất những giá trị văn hóa đơn sơ, mộc mạc đã có từ ngàn xưa. Mặc dù, con người luôn khát khao thay đổi và muốn đạt tới sự toàn vẹn. Nhưng, cách nào đó: con người đang tự mình làm phai nhạt những nét văn hóa riêng của mình. Hằng ngày, con người tiếp thu một lượng thông tin rất lớn từ khoa học đem đến và bị nó chi phối tất cả những suy nghĩ. Nên, làm cho con người coi thường những giá trị mang tính thời sự của nếp sống thời xưa. Từ đó, ta cũng thấy được sức mạnh của khoa học kỷ thuật tác động tới con người thế nào. Và như vậy, khoa học kỷ thuật phần nào làm cho những giá trị văn hóa nói chung và cách riêng đối với nghệ thuật cải lương có phần bị lu mờ. Để khắc phục được điều này, thiết nghĩ: mỗi người phải nhận biết khoa học chỉ là một sự khám phá nhất thời; mặc dù nó đã đạt được những thành công đáng kể. Nhưng, chỉ những gì thuộc bản sắc văn hóa, thì mới phát triển và tồn tại lâu dài.
Để hợp thức hóa điều này, đòi hỏi ngành nghệ thuật sân khấu nói chung và cách riêng đối với sân khấu cải lương phải có sự sáng tạo, để cập nhật hóa mọi thông tin. Cho dù, phải tiếp thu những gì khoa học đưa tới, nhưng phải làm sao dùng khoa học để thăng hoa các giá trị mang tính chất và bản sắc văn hóa của đất nước mình.
IV.2.b Khi Âm Nhạc Việt Nam Đang Thịnh Hành
Song song với sự phát triển của toàn ngành, thì âm nhạc Việt Nam cũng là một trong những bộ môn đang được nhiều người quan tâm và tiếp nhận. Vì, nó có sức truyền cảm qua chính hình thức biểu diễn của các ca sĩ với những sứ điệp phong phú và hấp dẫn.
Khi nhìn lại những năm tháng đã qua, khi đất nước còn trong tình trạng bấp bênh do nhiều yếu tố gây nên, con người phải sống trong cảnh bần cùng, phải kiếm từng chén cơm, manh áo. Thế rồi, đất nước được giải phóng, con người sống trong sự bình an, lúc này con người không lo về chén cơm manh áo, nhưng lại lo về những giây phút nghĩ ngơi, thư giãn. Như vậy, cho tới lúc này, con người đã và đang sắp xếp cho mình một chương trình sống đầy sự hưởng thụ. Hơn nữa, lúc này không mấy ai nhớ về những giá trị của văn hóa dân tộc của thời qúa khứ, họ chỉ biết sống với cuộc sống thực dụng. Có lẽ, vì ngành khoa học phát triển nhanh qúa, khiến con người dễ quên những giá trị truyên thống của dân tộc. Mặc dù, cải lương là một trong những nét độc đáo riêng biệt của dân tộc Việt Nam, thế mà con người ngày nay không mấy ai quan tâm cũng không có tinh thần cỗ võ. Từ đó, cho chúng ta thấy: việc phát triển về âm nhạc đã ảnh hưởng đáng kể đến việc phát triển nghệ thuật sân khấu cải lương. Đây là vấn đề nổi cộm được đặt ra cho giới nghệ thuật cải lương.
Nếu như, với đà phát triển của âm nhạc hiện nay, thì nghệ thuật cải lương trong tương lai sẽ ra sao? có còn ai quan tâm, xây dựng và vun đắp nữa không. Đây là câu hỏi đăt ra cho giới nghệ sĩ cũng như đặt ra cho những tài tử cải lương Việt Nam.
V. TRONG TƯƠNG LAI
V.1. Có Nên Duy Trì Nghệ Thuật Cải Lương Không?
Đối với tôi, khi đứng trước một vấn đề thuộc về văn hóa hay không thuộc về văn hóa, thì điều kiện đưa ra nên “bỏ” hay nên “duy trì” đối với tôi rất quan trọng. Vì, bỏ thì rất dễ, còn duy trì thì lại rất khó và nếu duy trì, thì duy trì bằng cách nào. Từ đó, khi tôi đặt vấn đề: “có nên duy trì cải lương trong tương lai hay không”? Theo tôi, chẳng những phải duy trì, mà còn phải vun đắp hằng ngày, để làm sao nó phát triển không ngừng trong tương lai.
Cải lương đã đưa lại cho tôi rất nhiều điều hữu ích, nó chẳng những làm cho cuộc sống của tôi thêm vui tươi, mà còn làm cho đời sống tinh thần của tôi được thăng hoa. Đồng thời, cải lương còn giúp tôi nhìn xa hơn về cuộc sống của đồng bào và đồng loại. Có thể nói: qua cải lương, tôi thấy được cuộc sống muôn màu, muôn vẽ và đẹp biết bao. Mặc dù, không ít người cho cải lương là lối hát không có gì đặc sắc và còn là lối hát mang tính giả tạo. Điều đó, tôi không phủ nhận. Vì, khi người thưởng thức cải lương, họ không nhận ra trọng tâm của nội dung tác giả muốn nói là cái gì, chỉ thấy sao mà dỡ khóc, dỡ cười; dễ buồn, dễ vui của các diễn viên biểu diễn. Thì, đương nhiên cảm thấy không những là không thú vị, mà còn nhàm chán nữa là khác. Tôi xin được chia sẻ một vài cảm nhận trong những năm tháng tôi đến với cải lương. Mặc dù tôi là người miền Trung, nhưng tôi cảm thấy có một điều gì đó gắn bó mật thiết giữa tôi với cải lương. Nhất là, khi tôi nhập vai để lên sân khấu trình diễn, thì lúc này tôi không phải là tôi nữa, vì tôi như được thuộc về mọi người. Tôi thấy được một sự gần gủi giữa con người với nhau, họ khen thưởng tôi bằng những tràng pháo tay sau khi tôi chấm dứt câu ca với một hơi rất dài.
Qua những cảm nhận đó, tôi nhận ra con người Việt Nam là như thế, tràn đầy chất nữ tính và luôn nhận định bằng trực giác. Vì thế, sau những lần tôi xuất hiện, thì số người làm quen với tôi thêm đông. Phải chăng? qua giọng ca của tôi có một sự truyền cảm nào đó, giúp người khác nhận ra tính chất của người Việt Nam rất dễ thương và dễ mến. Tôi rất lấy làm hãnh diện, khi nói về đức tin, thì đây là một ơn Chúa ban cho tôi, để qua giọng ca đó tôi có thể loan truyền một sứ điệp Tin Mừng của Đức Kitô . Trong tương lai, tôi nghĩ: mình phải sáng tác những câu vọng cổ về những chủ đề và nội dung mang tính Kitô giáo, nhằm chuyển tải một nội dung chứa đựng sự gắng bó mật thiết giữa con với Thiên Chúa. Qua sáng tác của tác giả khuyết danh về “Babilon”, phần nào gợi lên một tình gắn bó giữa con người với Gia-vê Thiên Chúa. Trích đoạn: “ Bờ sông Babilon ta ra ngồi nức nở để tưởng nhớ Sion, bên rặng liễu xanh kia, ta tạm gác cây đàn cầm lên đó. Bọn lính canh mời ta hát xướng, nhưng làm sao ta ca vãn được Giavê nơi đất khách quê… người…Ta mà quên ngươi hỡi Salem thì tay phải ta cũng bại đi liền. Lưỡi của ta sẽ dính chặt lại, nếu như mình không nhớ đến Sion. ờ. ơ…”
Từ chủ quan, tôi khẳng định: phải duy trì nghệ thuật cải lương. Vì, trong tương lai con người sẽ trở về với những gì là cội nguồn của văn hóa của dân tộc. Nếu, trong phụng vụ của Kitô giáo mà chuyển một số nội dung Lời Chúa qua cải lương, thì theo tôi việc loan báo Tin Mừng của Đức Kitô ngày nay sẽ dễ dàng và hiểu qủa hơn.
V.2 Cải Lương Đem Lại Lợi Ích Gì?
Để tìm ra được những ích lợi đối với các môn nghệ thuật nói chung và cách riêng về nghệ thuật cải lương, thì qủa là một vấn đề không mấy khó khăn. Vì, nó rầt thiết thực và gần gủi với cuộc sống của con người.
Khi chúng ta nói rằng: cải lương là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với với việc giải trí hằng ngày, thì cũng là lúc chúng ta cảm nhận được giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam một cách sâu xa. Sở dĩ, cải lương trở nên món ăn tinh thần của mọi tầng lớp trong xã hội, là vì: nó chứa đựng đầy tinh hoa văn hóa truyền thống. Mặt khác, cải lương còn phản ánh hiện thực xã hội một cách sống động, sâu sắc và đầy ý nghĩa. Hơn nữa, sân khấu cải lương còn là hình ảnh xã hội thu hẹp, được nghệ thuật hóa qua các vỡ diễn, như: Đời Cô Lựu hay là Dạ Cổ Hoài Lang… Tất cả đều diễn lại những sinh hoạt của quần chúng, của gia đình và của tình yêu đôi lứa.
Với những điểm mà tôi đã trình bày ở phần trên, thì có thể nói: cải lương đã đưa lại rất nhiều hữu ích cho cuộc sống; nó còn giúp con người thoát khỏi những giây phút căng thẳng trong khi làm việc.
VI. KẾT
VI.1 Điểm Mạnh Trong Nghệ Thuật Cải Lương
Để tìm ra ưu điểm và khuyết điểm của lối hát cải lương, thì trước hết tôi xin trở lại vấn đề đã được trình bày, là: hát cải lương là một nghệ thuật dân gian mang tính dân tộc sâu sắc.
Với những chiều kích của cuộc sống, cải lương đã đi vào lòng của người Việt Nam trong các tầng lớp. “Mặc dầu, trong một giai đoạn rất ngắn từ 1927 đến 1930, khi soạn giả Đào Châu viết tuồng ‘xử án Bà quí phi’ phỏng theo tích truyện Trung Quốc với hình thức nhiều màu sắc, trống phách rộn rã, được khán thính giả yêu chuộng”[12]. Vì thế, cải lương ngày một phát triển, được mọi người yêu thương và nâng đỡ. Trong giai đoạn đầu, và trong giai đoạn tuồng Tàu, cải lương đã giữ lại nhiều nét của bộ điệu hát tuồng, hát bội, tiếp thu những lối múa của hát Quảng và sau này cách diễn xuất của nghệ sĩ màn bạc, cải lương có thể đem lên sân khấu của mình những lớp tuồng về lịch sử ngày xưa hay là một tình huống trong xã hội ngày nay. Nhờ tính cách “động” mà cải lương không bị gò bó trong một khuôn khổ nào, mà tuỳ theo đề tài, tuỳ trường hợp và tuỳ khả năng hay biệt tài của đào kép. Từ đó, nó có những cách diễn xuất phù hợp với vỡ tuồng, có những bài bắt nguồn trong điệu “ cầm ca tài tử”, thêm rất nhiều những bài Lý, như: Lý con sáo, Lý giao duyên, những điệu nói thơ trong dân giả, những câu hò trong ruộng hay trên sông… Mặt khác, cải lương còn có khả năng thể hiện rất nhiều đề tài cũ và mới. Cải lương vừa diễn được tuồng cổ với xiêm áo lộng lẫy ( loại tuồng lịch sử) nhưng có thể diễn được đề tài cách mạng hay xã hội hôm nay. Có người đã đánh giá cải lương một cách quá sơ bộ và phiến diện, cho rằng: Tuồng có tính cách hùng, Chèo rất trào lộng và cải lương thì bi lụy. Do đó, mà có lúc, vào buổi đầu của cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, bài vọng cổ đã bị cấm và hát cải lương nhiều nơi không được diễn. Thế mà, cải lương đã vượt ra khỏi những bức tường ngăn cấm và thâm nhập vào trong đời sống một cách âm thầm.
Cải lương có rất nhiều ưu điểm, được thể hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng bên cạnh những ưu điểm mà nghệ thuật cải lượng đạt được, thì nghệ thuật cải lương cũng có nhiều nhược điểm của mình, không chỉ ở một vài điểm, mà hầu như còn giới hạn về các mặt. Để cụ thể hơn, tôi xin tiếp tục trình bày viề một số đểm chưa đạt của nghệ thuật cải lương.
VI.2 Điểm Yếu Cảu Nghệ Thuật Cải Lương
Theo tôi nhận thấy: sở dĩ cải lương có những điểm yếu, là vì qúa dễ dãi trong sự tiếp thu, hay ý định đổi mới mà nhiều lúc cải lương đã đi qúa trớn trong việc trang trísân khấu, chọn lựa đề tài, sáng tác kịch bản và đôi khi sơ sài trong cách diễn xuất.
Trang trí sân khấu: Trên sân khấu cải lương, phía sau có cảnh trí, lúc đầu được gọi là tấm phong, bên cánh gà và phía trước có màn nhung màu sẫm. Dần dần cảnh trí và ánh sáng càng ngày càng phức tạp hơn. Vì vậy, dọn lớp mất nhiều công, làm khán giả phải đợi chờ rất lâu từ màn này đến màn kia và như thế làm mất tính cách liên tục của kịch bản. Sau này, lại có pha thêm đèn rọi màu và điện ảnh, làm cho tâm của khán giả bị phân tán. Có khi lại còn làm ra cảnh sấm sét, đèn chớp tắt liên tục làm phân tâm người xem. Nhưng cũng đừng qúa sơ sài, mà phài một vừa hai phải, để làm sao vừa tầm nhận thức của người xem.
Đề tài kịch bản: cải lương muốn vượt ngoài khuôn khổ của hát bội ngày xưa, nên nhiều tác giả chọn đề tài trong truyện cổ tích hoặc trong các tiểu thuyết trong nước và ngoài nước. Thêm vào đó, một số soạn giả phỏng theo các phim Ấn Độ, Nhật Bản… để viết cải lương. Lúc đầu, các soạn giả còn dùng lối văn biền ngẫu, có đối đáp, có vần điệu, có tính chất văn chương. Nhưng, càng về sau một số soạn giả tự ý cải biên làm cho cải lương không thể hiện được cung cách riêng của mình và thậm chí làm cho người xem hiểu sai. Đó là, chưa kể những câu hát không hợp với cải lương, mà vẫn hát trên sân khấu. “Càng về sau văn chương cải lương miền Nam càng trở nên sống sượng và soạn giả thích dùng văn xuôi, có người dùng chữ sai như “ hoàng tử” mà nói là “ tử hoàng”, em gái của vua mà dân gọi là “ hoàng muội…”[13]
Diễn xuất trong nghệ thuật cải lương: Qua một số bài viết cho biết, trong nước ta, từ trước không có trường dạy cải lương, nhưng đã có những nghệ sĩ lỗi lạc và những lối diễn xuất độc đáo tìm vai diễn như vai điên, các vai ghiền… Sau này có một loạt nghệ sĩ trẻ, những người được giải “Thanh Tâm”, nhưng cũng có vài điểm làm cho cách diễn xuất mất sự hấp dẫn của nó. Bên cạnh đó, một số nghệ sĩ không được luyện tập, và không được thiên tư hay kinh nghiệm như các bậc lão thành, làm màu lấy lệ, chú trọng vào hào nhoáng của y phục, rầm rộ đèn chớp, đã làm mất đi tính chất riêng của nghệ thuật cải lương.
Với những gì tôi tìm hiểu về nghệ thuật cải lương, chỉ là nét sơ khởi. Mong rằng: trong tương lai tôi sẽ đi sâu hơn, để có dịp trình bày, chia sẻ với thế hệ trẻ ngày nay, giúp họ nhận biết nét độc đáo và muôn trùng phong phú của nghệ thuật cải lương Việt Nam nói chung và cách riêng đối với nghệ thuật cải lương ở Đồng Bằng Nam Bộ./.
|
|