|
Post by Huu Le on Feb 3, 2008 8:37:23 GMT 9
Những Ngày Cuối Cùng Của VNCH
- J. M. Merillon Ngày 27 tháng 4 năm 1975 Sinh viên VN .tại Pháp để tang cho miền Nam. Quyển "Saigon Et Moi" nầy được giới thiệu ngày 23/3/1985 tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris. Đây là một quyển sách rất có giá trị về mặt lịch sử, từng được các báo Việt Nam tại Pháp đăng bản tóm lược vào thập niên 80. Trong hàng cử tọa ngày hôm đó có một số nhân vật quan trọng lúc bấy giờ như cựu Tổng Thống Giscard d' Estaing, thị trưởng Jacques Chirac, Ông Pierre Mesmer v.v... nhưng sau đó hình như tác giả không được phép của Bộ Ngoại Giao (hay của chánh phủ Pháp) nên không có thể phổ biến quyển sách nầy ra thị trường. Và cho đến giờ nầy không còn ai tìm thấy tung tích quyển sách nầy nữa ở bất cứ thư viện nào bên Pháp, kể cả Thư Viện Quốc Gia Pháp ở Paris, cũng như sau nầy chính Ông Mérillon đã đính chánh ông không phải là tác giả của quyển "Saigon Et Moi" hay bất cứ quyển nào khác viết về Việt Nam. Tuy nhiên các báo Việt Nam tại Pháp lúc bấy giờ đều có đăng bản tóm lược của quyển sách nầy, mà bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ tại Paris là một. Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa: NGƯỜI ĐI KHÔNG MUỐN LƯU LẠI BẰNG CHỨNG Nguyên tác: "Sài Gòn et moi", của tác giả Jean Marie Mérillon, cựu đại sứ Pháp tại Sài Gòn năm 1975. Đã đến lúc Đại Sứ Martin phải nói thật với tôi: Nước Mỹ cần phải làm gì vào những ngày sấp tới khi Phan Rang thất thủ? Và Mỹ cần xác minh thái độ đối với Dương văn Minh mới hôm qua vừa đòi Nguyễn văn Thiệu từ chức . Ông Martin đã lưỡng lự rất nhiều rồi mới nói cho nước Pháp hay rằng Hoa Kỳ sẽ bỏ rơi Miền Nam . Còn nước Pháp thì muốn cố giữ Miền Nam bằng một chánh phủ trung lập giả định, biết rằng đó chưa hẳn là một liều thuốc hồi sinh cho toàn thể chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa một cách công hiệu, nhưng chẳng còn phương thức cấp cứu nào phù hợp với tình thế lúc đó. TỐI 18/4/75 : Qua điện thoại, lần thứ nhất Ông Martin mới nói ra ý định của Hoa Kỳ. Đối với chính trường nước Mỹ thì chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt sau Hiệp Định Paris năm1973. Vấn đề còn lại là giải thể Hoa Kỳ tại Đông Dương. Ông Martin muốn nhờ tôi làm trung gian chuyển đạt ý muốn của Mỹ cho phía Việt Cộng. Tôi bèn trả lời: - "Điều mà ông yêu cầu, tôi sẽ thõa mãn cho ông 5 tiếng nữa nếu không có gì trở ngại trong việc liên lạc. Tuy nhiên tôi phải phúc trình lên chánh phủ của tôi, vậy ông Đại Sứ gởi cho tôi một công hàm ủy thác làm việc nầy." - "Không thể được" người ta không muốn lưu lại bằng chứng. - "Như thế từ giờ phút nầy nước Pháp sẽ đãm nhận vai trò hòa bình cho Việt Nam theo chủ thuyết của Pháp." - "Chúng tôi cám ơn nước Pháp. Với tư cách cá nhơn tôi hoàn toàn chống lại chủ trương của Hoa Kỳ dành trọn quyền thắng trận cho Việt Cộng." Sau đó chúng tôi chuyển sang phần tâm sự gia đình, hỏi thăm sức khỏe bà Đại Sứ v.v... Đại Sứ Martin cho biết nước Mỹ quá chán ngấy những vụ đão chánh trước kia nên để cho ông Thiệu từ chức rồi ra đi hơn là đão chánh. Vai trò của Nguyễn cao Kỳ không còn cần thiết sau khi Hoa Kỳ đã tặng phần thắng cho Việt Cộng. Ngày 30/4, trước 3 tiếng đồng hồ hạ cờ Hoa Kỳ sau 20 năm bay trên vòm trời Việt Nam, Đại Sứ Martin gọi điên thoại vấn an, chúc tôi ở lại xứ sở nầy tiếp tục sứ mạng hòa bình, đồng thời khuyến khích tôi "còn nước còn tát." Công việc đầu tiên của tôi là liên lạc với Phan Hiền trong trại Davis (Tân sơn Nhất) cho biết chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam của Huỳnh tấn Phát muốn ấn định rõ thời hạn Mỹ rút quân khỏi Việt Nam . Phan Hiền bèn hỏi lại tôi là nên ấn định vào ngày nào? Sự giàn xếp người Mỹ ra đi cũng làm phiền phức tôi không ít. Ông trưởng phòng CIA xúi ông Tổng Giám Đốc Liên Đoàn Lao Công Việt Nam kiếm khoảng 20.000 người mặc quần áo nông dân biểu tình trước Tòa Đại Sứ Mỹ đòi Mỹ phải ở lại giúp Việt Nam. Ông Trần quốc Bửu hứa sẽ làm được, nhưng rồi chẳng thấy biểu tình chi cả. CIA chưa muốn đi vội, có vẻ muốn ở lại để tổ chức phá rối cộng sản như họ đã từng làm ở ngoài Bắc sau Hiệp định Genève 1954. Trưởng phòng thương mại Mỹ xin gia hạn đến tháng 6 để giúp các hảng thầu,ngân hàng, các nhà kinh doanh di tản các dụng cụ xí nghiệp, cơ xưởng máy móc về Mỹ. Nhưng rồi Đại Sứ Martin nhận được lệnh của Tòa Bạch Ốc là người Mỹ và tất cả những gì liên hệ đến Mỹ phải rời khỏi Việt Nam chậm lắm là cuối tháng 4/75. Đại tướng Pháp Vanuxem chạy chỗ nầy chỗ kia với thiện chí cố vấn cho ông Thiệu phản công, nhưng vô ích. Tôi được thông báo Mỹ đã sắp xếp ngày đi cho ông Thiệu đâu vào đó cả rồi. Tướng Vanuxem, người từng chỉ huy ông Thiệu, than thở với tôi: "Thiệu "lủy" không nghe "moa", đánh giặc theo kiểu Mỹ sẽ thua không còn một mảnh đất để thương thuyết với Việt Cộng." Ngày 18 tháng 4 chúng tôi xác nhận ngày di tản của Hoa Kỳ với Phan Hiền. Trước khi lập chánh phủ giả định, tôi xét phản ứng của Nga Sô và Trung Cộng. Nước nhiệt thành đầu tiên là Trung Cộng. Thủ Tướng Chu ân Lai điện cho Bộ Ngoại Giao Pháp là sẵn sàng hợp tác với Pháp để xây dựng một chánh thể trung lập tại Miền Nam nếu có thành phần MTGPMNVN tham dự. Tại Hànội, cuộc vận động với Đại Sứ Nga được xem là mấu chốt của vấn đề. Nhưng Đại Sứ Nga, ông Malichev từ chối, nói rằng: "Chủ quyền xây dựng chính thể Việt Nam do đãng cộng sản Bắc Việt quyết định. Ngoài tình hữu nghị cũng như các sự giúp đở Việt Nam, Nga chẳng có quyền hạn gì cả." Lời tuyên bố đó giống như một kẻ ăn trộm nho bị bắt quả tang rành rành mà vẫn cứ chối bai bải là mình chỉ đi dạo mát trong vườn nho mà thôi. Chẳng là vì chúng tôi có đủ tin tức tình báo nói rõ có 5 vị tướng lãnh Nga có mặt trong Bộ Chỉ Huy chiến dịch Hồ chí Minh tại chiến trường Long Khánh. Không lẽ các vị ấy chỉ ngồi uống trà nói chuyện chơi với Văn tiến Dũng hay sao ? Toàn thể các nước Đông Nam Á lo ngại một nước Việt Nam độc lập dù dưới một chánh thể nào trong tương lai. Đối với họ, Việt Nam mãi mãi có chiến tranh bao giờ cũng có lợi hơn một Việt Nam hòa bình thống nhất. Theo quan điểm đó, khối Đông Nam Á tán thành Việt Nam được đình chiến trong trung lập hơn là thống nhất trong độc lập. Quan niệm nầy lan rộng cả Á Châu, đặc biệt là Nhật Bản, nước Nhật sẽ hết mình đóng góp cho Đông Dương trung lập. Duy có Nam Dương cực lực phản đối. Nam Dương chưa nguôi mối thù Trung Cộng đạo diễn cuộc đão chánh hụt năm 1965, nên bác bỏ giải pháp đình chiến tại Việt Nam có Trung Cộng tham dự. (Mãi đến năm 1978, tướng Suharto có gởi cho tôi một bức thơ tỏ ý hối tiếc là lúc đó chánh phủ ông đã có nhận xét sai lầm về những ý kiến của chúng tôi). Mao thì ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân Nga, thành thử những điều kiện Bắc Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên thân Nga, cầm chân quân Bắc Việt để dành cho MTGPMN tiến vô Sài Gòn. Thực ra nền trung lập đối với chúng tôi chỉ coi như tạm thời ngăn cản dòng nước lũ, cho Việt Nam Cộng Hòa tạm dung thân. Lời giao ước chánh trị khác hẳn với lời giao ước ngoại giao. Bắc Kinh chỉ giao ước bằng miệng là sẽ tìm cách cản trở Bắc Việt chậm nuốt Miền Nam , biện pháp quân sự coi như yếu tố cần phải có. (Rất tiếc chờ mãi đến năm 1978 Trung Cộng mới dùng biện pháp nầy để dằn mặt Việt Nam). Phần chúng tôi là phải đáp lời hứa là thành lập chánh phủ liên hiệp gồm 3 thành phần: Quốc gia, Đối lập, và MTGPMN. Chu Ân Lai đưa ra một danh sách: Trương như Tảng, Nguyễn thị Bình, Đinh bá Thi, thiếu tướng Lê quang Ba, trung tướng Trần văn Trà, ngỏ hầu làm lực lượng nồng cốt thân Tàu trong chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam. Điều kiện họ đưa ra thoạt nhìn thì không thấy có gì trở ngại, nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn. Vì những người nầy không có thực lực hay quyền hành gì cả. Toàn thể quyền hòa hay chiến đều do Lê Duẫn nắm cả. Trên Lê Duẫn một bực là Mạc tư Khoa. "Dường như đã từ lâu phe quốc gia lẫn phe cộng sản Việt Nam đều đã không có quyết định gì về số phận đất nước của họ" Móc nối với Trung Cộng thỏa thuận đâu vào đó cả rồi, sáng ngày 22/4 tôi mời phái đoàn Dương văn Minh vào tòa Đại Sứ tiếp xúc với chúng tôi. Phái đoàn nầy có nhiều nhân vật đang tập sự làm chánh trị, những kẻ chuyên sống nhờ xác chết của đồng bào họ: Huỳnh tấn Mẫm, Hoàng phủ Ngọc Tường, Ngô bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, Lý quý Chung, Vũ văn Mẫu, Hồ ngọc Cứ v.v... Tôi thấy ông Dương văn Minh đã liên lạc quá vội với một thành phần vô ích. Những khuôn mặt nầy Bắc Việt chưa biết họ, còn hao công giúp Bắc Việt thì chỉ có việc chưởi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Tôi đi ngay vào vấn đề hỏi chung trước mặt mọi người là: "Chúng tôi hết sức ủng hộ người Việt Nam thành lập một chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Vậy trong những ngày sấp tới có những cuộc thương thuyết xảy ra, quí vị có đồng ý nhận quí vị là đại biểu các khuynh hướng chánh trị ở Miền Nam không ? Chiến tranh đang đến hồi dứt khoát phải có kẻ thua người thắng. Hảy cho chúng tôi biết, chánh phủ quí vị tới đây sẽ thua hay Việt Nam Cộng Hòa thua, hoặc MTGPMN thua ? " Huỳng tấn Mẫm cướp lời Dương văn Minh nói trước: - "Thưa ông Đại Sứ Pháp, cuộc chiến nầy Mỹ đã thua, Tất cả người Việt Nam chúng tôi thắng trận" Căn cứ theo lời của Huỳnh tấn Mẫm, tôi đoán ngay hắn là một thứ bung xung trước thời cuộc, háo danh, sẵn sàng làm tôi mọi cho bất cứ chế độ nào chịu cấp phát tước quyền cho hắn. Nếu biết khôn và khách quan nhận định thì hắn phải nói như vầy: "Bọn phản chiến Mỹ thua trận, và tất cả người Việt Nam thắng trận trong một nền hòa bình rơi nước mắt." Bà ni sư Huỳnh Liên nói nhiều lắm. Bà kể lể "tín đồ Phật Giáo bị kềm kẹp từ 20 năm qua, nếu cộng sản thắng thì đó là lời cầu nguyện của hàng triệu phật tử Việt Nam " Luật sư kiêm chánh trị gia Vũ văn Mẫu có vẻ già dặn hơn. Ông đặt tiếng "nếu" ở mỗi mệnh đề để thảo luận. "Nếu" chính phủ tương lai mà trong đó có ông làm thủ tướng thì viễn ảnh hòa bình sẽ nằm trong tầm tay dân tộc Việt Nam v.v.." Ông cũng ngỏ lời cam ơn tôi dàn xếp thời cuộc để lập ván bài trung lập tại Việt Nam . Đây là buổi thăm dò quan niệm, nhưng những con cờ quốc tế đã gởi cho tôi từ trước không có Huỳnh tấn Mẫm, Ngô bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ văn Mẫu và Lý quý Chung. Tôi lễ phép mời họ ra về, ngoại trừ đại tướng Dương văn Minh để thu xếp nhiều công việc khác. Tiển ra tận thềm sứ quán, tôi có nói mấy lời để họ khỏi thất vọng sau nầy : - "Thưa quí vị, thiện chí thành lập tân chánh phủ, điều đó không ai chối cải công lao của quí vị. Tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút nầy nằm trong tay Hànội. Nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian hơn là chủ động'
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 3, 2008 8:39:08 GMT 9
Mọi người trợn ngược tròng mắt nhìn tôi hết sức ngạc nhiên. Ông Vũ văn Mẫu nói nhỏ với tôi một câu bằng tiếng Latinh; "Tôi muốn đi Pháp nếu tân chánh phủ không đuợc Hànội nhìn nhận."
Khi trở vào, Đại tướng Dương văn Minh ngồi đó chờ tôi, nét mặt sung mãn, tự hào là đã nắm vững thời cuộc. Vừa nghe chuông điện thoại reo, tùy viên giao tế của chúng tôi giới thiệu người bên kia là Võ đông Giang. Đường dây điên thoại viễn liên nầy kêu qua tòa Đại Sứ Pháp ở Tân gia Ba rồi cũng dùng đường dây nầy chuyển về Bộ Ngoại Giao Hànội. Tại Hànội họ sẽ móc đường dây tiếp vận vô Nam để tiếp xúc với vị Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, vì ông nầy muốn gập tôi có chuyện gấp. Tôi đồng ý nhưng phải chờ hai tiếng đồng hồ nữa mới bắt xong đường dây như thế.
KẾ HOẠCH THỨ NHẤT
Thành phần chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc , đồng chủ tịch là hai ông Dương văn Minh và Trần văn Trà. Ba phó chủ tịch là Vũ văn Mẫu, Trịnh đình Thảo và Cao văn Bổng. Tổng trưởng quốc phòng Phạm văn Phú. Tổng trưởng ngoại giao Nguyễn thị Bình. Tổng trưởng tư pháp Trương như Tảng. Tổng trưởng nội vụ Vũ quốc Thúc. Tổng trưởng kinh tế Nguyễn văn Hảo. Tổng trưởng thương mại Lê quang Uyễn. Tổng trưởng tài chánh Trần ngọc Liễng. Xen kẻ nhau nếu tổng trưởng quốc gia thì Đổng lý văn phòng là người của MTGPMN, và ngược lại. Hội đồng cố vấn chánh phủ có: Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Thích trí Quang, Lương trọng Tường, Hồ tấn Khoa, Linh mục Chân Tín, Cựu thủ tướng Trần văn Hữu.
Hai mươi bốn giờ sau khi công bố thành phần chánh phủ, nước Pháp sẽ vận động các nước Âu Châu, Á Châu và các nước phi liên kết công nhận tân chánh phủ hòa giải Việt Nam, làm chậm lại bước tiến xe thiết giáp Liên Xô mưu toan đè bẹp Sài Gòn.
KẾ HOẠCH THỨ HAI
- "Thưa Đại tướng, ông Nguyễn văn Thiệu để lại quân đội nầy còn bao nhiêu người? Hoa Kỳ để lại vũ khí nếu dùng được ở mức độ phòng thủ thì đuợc bao lâu ?
Đại tướng Dương văn Minh trả lời là ông chưa nắm vững quân số vì hơn chín năm ông không có dịp biết các bí mật quốc phòng.
- "Thưa Đại tướng, đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi sẽ phúc trình cho đại tướng biết sau. Theo chúng tôi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn đủ khả năng chiến đấu thêm 10 tháng nữa, nếu các nhà quân sự chịu thay đổi chiến thuật từ quy ước sang du kích chiến. Ngay từ bây giờ Đại tướng còn 2 Quân đoàn. Phải dùng hai Quân đoàn nầy mặc cả cho thế đứng của phía quốc gia. Tôi tung liền giải pháp trung lập đồng thời tạo áp lực ngoại giao ngừng bắn 7 tiếng đồng hồ. Trong khi đó Đại tướng kịp thời chỉnh đốn quân đội và chọn các tướng lãnh có khả năng trường kỳ phản công. Tôi tin tuởng Việt Nam Cộng Hòa chưa thể thua và đích thực Bắc Việt đang lúng túng chưa biết họ sẽ chiến thắng bằng cách nào đây.
KẾ HOẠCH THỨ BA
Cùng lúc mời thành viên MTGPMN hợp tác trong chánh phủ trung lập, Đại Tướng tuyên bố sẳn sàng bang giao với Trung Quốc và các nước theo chủ nghĩa xã hội, dĩ nhiên trong đó có cả Liên Xô.
Trung Quốc sẽ chụp lấy cơ hội nầy để cử Đại Sứ đến Sài Gòn ngay sau 24 giờ cùng với tiền viện trợ 420 triệu Mỹ kim là tiền sẽ trao cho Hànội mà nay trao cho chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Kế hoạch nầy đánh phủ đầu Hànội bằng cách đưa đứa con nuôi của họ là MTGPMN lên nắm chính quyền (một lực lượng mà từ trước đến nay Hànội vẫn ra rã trước dư luận là dân Miền Nam đứng lên chống Mỹ, chớ Hànội không có dính dáng gì hết).
Đi từng bước, lần lượt tân chánh phủ sẽ lật lại từng trang giấy ký ngưng bắn trong Hiệp Định Paris, giao cho Trung Quốc cưởng ép Hànội vào bàn hội nghị nói chuyện ngưng bắn tức khắc.
Quả thật Trung Quốc muốn cứu sống MTGPMN để xây dựng ảnh hưởng của mình tại Đông Dương. Phe quốc gia cũng muốn cứu cấp Sài Gòn đừng lọt vào tay cộng sản . Như vậy hai quan niệm cùng có một mục đích, còn có thể dàn xếp được là tốt hơn cả, vì đừng để cho bên nào thắng.
Tôi cũng thông báo cho ông Minh hay là tôi đã liên lạc với thành viên MTGPMN. Hầu hết đều tán thành giải pháp giúp họ thoát khỏi vòng quỷ đạo của Bắc Việt. Họ chạy theo HàNội là muốn tiến thân sự nghiệp chánh trị bằng con đường hợp tác với cộng sản, nếu giúp họ nắm được chánh quyền Miền Nam thì phương tiện dùng cộng sản Bắc Việt đã quá lỗi thời.
Bà Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt chẻ với chúng tôi. Thêm một bằng chứng: 17 ngày sau khi Sài Gòn mất, bà Bình còn tuyên bố trước Liên Hiệp Quốc dụng ý tống khứ đạo quân Bắc Việt về bên kia Bến Hải: "Miền Nam Việt Nam sẽ sinh hoạt trong điều kiện trung lập 5 năm trước khi thống nhất hai miền Nam Bắc.". Các nhà phân tích thời cuộc nói chỉ cần 5 tháng Miền Nam sống dưới chánh phủ trung lập thay vì có diễm phúc 5 năm, có lẽ hòa bình Việt Nam sẽ ở trong hoàn cảnh thơ mộng tươi đẹp rồi. Bà Bình bị thất sủng sau lời tuyên bố đó.
Nước Pháp sẽ trao 300 triệu quan chuyển tiếp từ chế độ Việt Nam Cộng Hòa giao cho tân chánh phủ để nuôi sống giải pháp trung lập. Chúng tôi sẽ quyên góp các nước bạn đồng minh Âu Châu một ngân khoảng độ 290 triệu mỹ kim cho các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển nông nghiệp, nhân đạo v.v...tổng cộng cũng gần bằng viện trợ của Hoa Kỳ trước đây.
Bấy nhiêu đó cũng đủ nuôi dưỡng tạm thời chánh phủ Dương văn Minh Trần văn Trà, để rồi người quốc gia tranh thủ với cộng sản duy trì một Miền Nam không nhuộm đỏ màu cờ.
Đại tướng Dương văn Minh không nói chi nhiều, ông lắng nghe tôi trình bày cặn kẻ từng kế hoạch, và nói ông sẳn sàng thực hiện theo quan điểm của chúng tôi. Ông chỉ nêu một câu hỏi duy nhất:
- "Dưới hình thức nào tôi thay thế cụ Trần văn Hương để thành lập nội các để thương thuyết với phía bên kia?"
- "Thưa Đại tướng, cụ Trần văn Hương hôm qua vừa thảo luận với chúng tôi là sẽ trao quyền chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa lại cho Đại tướng, nếu Đại tướng có một kế hoạch không để mất Sài Gòn ."
Sự thực từ lúc ông Thiệu tuyên bố từ chức, ông Minh đã nhiều lần thúc hối chúng tôi tiến dẫn ông nắm chánh quyền ngay lúc ấy. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu nầy. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu đó vì chưa tiếp xúc được với thành phần MTGPMN. Hơn nữa ông Minh ra lãnh đạo guồng máy quốc gia không mang điều mà thế giới mong đợi sau khi Hoa Kỳ rút đi. Khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam thì cụ Trần văn Hương sửng sốt và tỏ vẻ phiền trách: "Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Tưởng chọn ai chớ chọn Dương văn Minh, nó là học trò tôi, tôi biết nó quá mà. Nó không phải là hạng người dùng trong lúc dầu sôi lửa bỏng... Tôi sẽ trao quyền lại cho nó nhưng nó phải hứa là đừng để Sài Gòn thua cộng sản ." Có sự hiện diện của ông Trần chánh Thành là người rất am tường thực chất cộng sản, chúng tôi giải thích với cụ là Bắc Việt rất sợ MTGPMN đoạt phần chiến thắng, công khai ra mặt nắm chánh quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn thôi.
Cụ Trần văn Hương thông cảm kèm theo lời thở dài tỏ ra mất tin tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô tình đã đè bẹp tin thần chống cộng sắt đá của cụ. Theo cụ thì giải pháp hữu hiệu là bỏ ngỏ Sài Gòn, tổng động viên những vùng đất còn lại để tiếp tục đánh cộng sản. Chọn giải pháp nầy sẽ đổ máu thêm, nhưng chiến tranh nào mà không đổ máu, ít nhất Việt Nam Cộng Hòa không thua một cách mất mặt.
Mười năm sau tôi thấy kế hoạch của cụ Trần văn Hương đúng. Nếu lúc bấy giờ các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, yểm trợ cụ, thì có thể gở gạc được thể diện người Quốc gia Miền Nam. Tôi kính mến cụ già Trần văn Hương, Người Việt Nam nhận xét cụ bất tài, già nua lẩm cẫm, song chúng tôi thấy cụ là một người Việt Nam trung tín, sống chết cho lý tưởng, can đãm trước mọi tình huống. Năm 1976, nghe cụ bị bệnh nặng, thiếu thốn phương tiện chữa trị, chúng tôi yêu cầu Tổng lảnh sự Pháp ở Sài Gòn vận động với nhà cầm quyền HàNội cho cụ sang Pháp chữa bệnh. HàNội còn cần Pháp làm giao điểm tuyên truyền chủ nghĩa xã hội, sẽ không làm khó dễ trong việc cấp giấy xuất cảnh, nhưng cụ từ chối, quyết định ở lại chết tại Việt Nam . Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói năm 1975: "Ông Đại Sứ à, tui đâu có ngán Việt Cộng, nó muốn đánh tui đánh tới cùng. Tui chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại nước tui mất, tui xin thề ở lại đây và mất theo nước mình." Cụ Trần văn Hương đã giữ lời hứa.
Đại tướng Dương văn Minh ra về, chúng tôi hẹn gặp lại nhau. Trong lúc nầy, về phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không quên nhắc nhở đại tướng Dương văn Minh gấp rút tổ chức lại quân đội, liên lạc thường xuyên với tướng Nguyễn khoa Nam, khuyến khích vị tướng nầy giữ vững các vị trí phòng thủ để còn một mảnh đất làm địa bàn ăn nói khi thương thuyết với phía bên kia. Ngay lúc đó tôi biết ông Dương văn Minh cách đây hai ngày đã liên lạc với người em ruột là thiếu tướng Dương văn Nhật, nhờ môi giới để nói chuyện thẳng với Bắc Việt. Vì hấp tấp, nông cạn, ông tưởng em ông có đủ tư cách đại diện cộng sản ngưng bắn tại Miền Nam . Từ chỗ móc nối sai lệch, tình thế đã xỏ mũi ông đến chỗ phá nát bấy hết kế hoạch hòa bình Việt Nam .
(GHI CHÚ của dịch giả DHN: Dương văn Nhật không phải là một thiếu tướng mà chỉ là một thiếu tá thường, trực thuộc MTGPMN nên không phải là một nhân vật quan trọng. Cộng sản đã cho về liên lạc thường xuyên với Dương văn Minh trước đó như là một liên lạc viên xoàng để săn tin mà thôi, và đã được lệnh kín đáo nằm luôn tại nhà Dương văn Minh từ khi chúng tiến chiếm tỉnh Banméthuột. Có lẽ ông Dương văn Minh muốn đưa em ông lên hàng tướng vì lý do thể diện chăng? Sau 30/4/75 mới là trung tá))
LÊ ĐỨC THỌ THÓA MẠ TÔI
Chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia tự giới thiệu:
- "Chào ông Đại Sứ, tôi là B trưởng B2 đây.""
Tôi chào lại và rất ngạc nhiên không biết B trưởng B2 là nhân vật nào. Thái độ thiếu lịch sự xã giao qua lời giới thiệu tên họ chức phận bằng bí danh của đầu dây bên kia chứng tỏ họ coi thường chúng tôi. Tôi gằn mạnh từng tiếng:
- "Nếu đầu dây bên kia muốn trao đổi câu chuyện với tôi thì nên tỏ ra lịch sự một chút. Khi tiếp xúc với một nhà ngoại giao thì dù thù hay bạn cũng vậy. Thưa ông B trưởng B2, chắc ông thừa hiểu ông đang nói chuyện với Đại sứ nước Pháp, và bắt buộc tôi phải cúp nếu ông không nói tên họ, chức phận. Nguyên tắc của ngành ngoại giao đối lập với ngành gián điệp là không tiếp xúc với hạng người bí mật."
B2 xin lỗi tôi liền khi đó, bảo rằng ông ta sợ CIA phát hiện sự có mặt của ông ở Miền Nam trong lúc hoàn cảnh chưa cho phép ông xuất đầu lộ diện. Ông cũng rất phiền khi bị ép buộc nói tên họ:
- "Thưa ông Đại sứ, tôi là Lê đức Thọ, Tổng tư lệnh chiến dịch Hồ chí Minh."
thì ra Lê đức Thọ, con người khuynh đão trong các cuộc hòa đàm Paris . Tiểu sử Thọ từ năm 1937 chúng tôi có đầy đủ trong tay, duy tôi chưa gặp mặt nên không nhận được giọng nói qua điện thoại. Sau Tết Mậu Thân, Phòng nhì Pháp đã có đủ tài liệu để biết Lê đức Thọ là Tổng chỉ huy bộ máy chiến tranh tại Miền Nam . Y từ Nga trở về hồi tháng giêng 1975, và đi thẳng vào Nam trực tiếp chỉ huy tổng tấn công Sài Gòn. Mà Phòng nhì biết thì CIA cũng biết. Tôi nói:
- "Chào ông Tổng tư lệnh, qua vai trò trung gian và với thiện chí lớn lao nhất, nước Pháp hết lòng đứng ra hòa giải các phe tranh chấp để sớm đạt được một nền hòa bình tại Việt Nam. Ông Tổng tư lệnh có cần gởi đến chúng tôi những quyết định gì từ phía Bắc Việt nhằm tức khắc giải quyết chiến tranh không? Chúng tôi sẽ chào mừng quyết định của quí vị.’
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 3, 2008 8:40:28 GMT 9
Thấy mình là kẻ chiến thắng trong canh bạc về sáng, Lê đức Thọ tố xa láng, không cần che đậy bề trái của sự thật nữa:
- " Quyết định của đãng cộng sản chúng tôi là đánh gục Mỹ, thống nhất hai miền Nam Bắc, xây dựng nước Việt Nam theo con đường Mác xít Lê nin nít".
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, đó là mục đích. Còn quyết định chấm dứt cảnh cốt nhục tương tàn của người Việt, chưa thấy đãng cộng sản Việt Nam nói tới ?"
Lê đức Thọ hùng hồn giảng thuyết (chỗ nầy ông Mérillon không cho biết Lê đức Thọ nói bằng tiếng gì, vì y nói tiếng Pháp còn kém lắm):
- "Thưa ông Đại sứ, tôi xin nói về chính danh và ý nghĩa cuộc chiến đấu của chúng tôi. Sau khi đánh bại bọn đế quốc Pháp, đãng và nhân dân chúng tôi tiếp tục sự nghiêp đánh bọn ngoại xăm đế quốc Mỹ. Cuộc chiến đấu nầy từ lâu đã được nhân dân thống nhất thành một phong trào chống Mỹ. Từ ngữ "cốt nhục tương tàn" tôi bảo đãm với ông đại sứ là do bọn tay sai ngụy quyền Sài Gòn khơi lên để kêu gọi lòng thương hại của chúng tôi, chớ không phải lời oán than từ phía nhân dân. Xác nhận như vậy để ông đại sứ thấy rằng chúng tôi chưa hề chính thức hóa một nghị trình hòa giải nào với bất cứ đãng phái nào tay sai trong Miền Nam với quyết định của chúng tôi là để thắng chớ không phải để hòa giải."
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, trường hợp nầy thì vị trí của MTGPMN ở đâu?"
- "Nó sẽ đứng ở chỗ giải tán khi: một là Đại sứ Mỹ bị bắt, hai là cuốn cờ bỏ chạy trước khi người cộng sản yêu nước tiếp thu Sài Gòn".
- "Nếu đúng như thế, M TGP MN không phải là một thực thể riêng biệt, tách rời quyền lực HàNội đứng lên chống Mỹ từ 15 năm qua, và các ông đã lừa gạt dư luận quốc tế."
- "Thưa ông Đại sứ, dư luận quốc tế hả ? Mà dư luận nào mới được chớ? Nếu dư luận quốc tế thuộc khối tư bản thì không xứng đáng để phẩm bình. Đối với nước Pháp chúng tôi xem là bạn. Thưa ông Đại sứ, chúng ta sẽ bang giao trong tình hữu nghị giửa hai nước."
- "Trung Quốc đang yêu cầu chúng tôi dàn xếp một cuộc đình chiến tại Việt Nam, ông nghĩ sao?
- "Trung Quốc thuộc bọn xét lại, đã biến thể và phản bội nghĩa vụ giải phóng nhân loại qua chủ nghĩa Lênin. Mọi việc nhúng tay vào của Trung Quốc chúng tôi xem đó là hành động thù nghịch. Riêng ông Đại sứ, ngay bây giờ xin ông nhận lời cảnh cáo của chúng tôi. Nếu ông Đại sứ còn tiếp tay với Trung Quốc và các thế lực ngoại bang khác ngăn cản đà chiến thắng chống đế quốc Mỹ ở Miền Nam , thì 24 giờ sau khi tôi đặt chân vào Sài Gòn tôi sẽ trục xuất ông Đại sứ ra khỏi Việt Nam."
- "Làm như vậy ông không ngại gây sự hiềm khích giữa hai nước sao?"
- "Không, Chánh trị và quyền lợi không chú ý tới những vấn đề nhỏ nhặt giữa hai nước . Pháp còn quyền lợi tại Việt Nam . Pháp đừng nên gây hấn với Việt Nam bằng giải pháp trung lập nầy nọ, cũng đừng nên chen vào nội bộ của chúng tôi."
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, ông nên nhớ Pháp ngày hôm nay không phải là Pháp đô hộ ngày hôm qua. Pháp chẳng có quyền lợi gì nếu phải bang giao với một nước Việt Nam cộng sản. Nếu ông cảnh cáo chúng tôi , bù lại xin ông và đãng cộng sản Việt Nam tiếp nhận lời cảnh cáo của chúng tôi là số tiền 300 triệu hằng năm viện trợ Miền Nam va 200 triệu viện trợ nhân đạo cho Bắc Việt sẽ không được chuyển giao nếu giải pháp trung lập bị bác bỏ một cách vô nhân đạo."
Lê đức Thọ có vẻ căm tức, nhưng lần nầy vì lịch sự, y nói vài lời cáo lỗi rồi cúp điện thoại, đúng với ý muốn của tôi.
Thật ra chúng tôi cũng vẫn biết cuộc chiến tranh nầy do tập đoàn HàNội quản lý từ đầu đến cuối, nhưng không trắc nghiệm được phản ứng ngang tàng của họ mà đại biểu chánh thức là Lê đức Thọ, nhất định nuốt Miền Nam bằng lá bài quân sự.
Sự kiện nầy đã khuyến khích tôi tìm kiếm những phương pháp cấp thời chỉnh đốn lại quân đội Việt Nam Cộng Hòa giữ vững phòng tuyến để kéo dài thời gian mặc cả.
Tôi rất ghét người cộng sản thiếu quân tử (đó là cái chắc!) khi họ thắng trận. Lê đức Thọ là một điển hình năm 1964. Thọ đã từng xin chúng tôi giúp y nói chuyện trực tiếp với Hoa Kỳ, chúng tôi không hề từ chối. Bất cứ điều gì cần đến, nếu thỏa mãn được thì chúng tôi cho ngay. Họ có mang ơn nước Pháp chớ nước Pháp chưa hề chịu ơn họ. Đến khi nước Pháp muốn Việt Nam có hòa bình trên nền tảng trung lập có thành phần quốc gia tham dự, HàNội đã bạc ơn từ chối.
Khi xe tăng Nga vượt hàng rào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng thì tới 3 giờ chiều Lê đức Thọ ngồi trên xe Falcon đến tòa Đại Sứ Pháp xấc xược đi thẳng vô phòng tôi nói:
- "Mérillon, tôi đến đây tống cổ ông rời khỏi Sài Gòn trước 9 giờ sáng mai "
Tôi gật đầu. Sáng hôm sau ngày 1-5-75 , Thọ còn hạ nhục tôi bằng cách cho công an xét va li và bắt tôi phải ra HàNội trước khi về Pháp. Tôi phản đối. Khi phi cơ cất cánh, tôi ra lệnh cho phi công bay luôn sang Bangkok thay vì ra HàNội .
Hành động sỉ nhục một Đại sứ, Lê đức Thọ và công an Việt Nam phải trả một giá rất đắt. Tổng số ngân quỷ viện trợ nhân đạo hằng năm nước Pháp quyết định để dành mua sinh mạng người Miền Nam Việt Nam không hề cho HàNội một cắt nào suốt 10 năm sau.
Ngày 27 tháng 4/1975.
Chiều ngày 27/4/75, tôi nhận được tin rất phấn khởi: Tướng Trần văn Trà bắn tin nhờ tôi cấp tốc thành lập chánh phủ trung lập và ông gởi gấp hai nhân vật thân tín của ông vào chánh phủ, là bà Nguyễn thị Bình và ông Đinh bá Thi (ông này bị HàNội giết vài năm sau bằng tai nạn xe hơi tại vùng Rừng Lá Phan Thiết, sau khi bị Hoa Kỳ trục xuất về tội mua tài liệu tình báo kỹ thuật cho Liên Xô - Lời dịch giả). Tùy viên quân sự của chúng tôi cũng xác nhận là 2 sư đoàn tập kết của Trần văn Trà sẽ vào tiếp thu Sài Gòn, phỏng tay trên của đạo quân Văn tiến Dũng.
CÁC TƯỚNG LÃNH Bị NHỐT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU
Chứng cớ mà Trần văn Trà lấn quyền HàNội trong mưu đồ Miền Nam tự trị được thể hiện ngay sau ngày 30/4/75 . Trần văn Trà chạy nước rút, tự ý thành lập Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định hầu làm bàn đạp cho MTGPMN nhảy lên nắm chánh quyền trước khi Bắc Việt an bài chế độ cộng sản. Chung một mục đích: Bắc Việt đoạt chánh quyền để bành trướng chủ nghĩa cộng sản, còn MT GPM N cướp chánh quyền với thâm ý tạo sự nghiếp danh vọng cá nhân. HàNội có Nga Sô làm điểm tựa, có toan tính theo từng sách lược, còn MT là những chánh trị gia thời cuộc có tính cách giai đoạn nên cuối cùng bị thua trắng tay, bị cưỡng bức phải giải tán, cán bộ bị hạ từng công tác (hay thanh trừng) trong thầm lặng.
Dựa theo quan niệm "còn nước còn tát", chúng tôi không bỏ lở một cơ hội nào có thể duy trì nhịp thở của Việt Nam Cộng Hòa đang hấp hối vào giờ cuối của cuộc chiến. Lúc 9 giờ tối ngày 27/4/75 , chúng tôi họp với các tướng lãnh De Séguins, Pazzi, Bigeard, Langlais, Vanuxem, Gilles, Pierre Bodet. Các tướng nầy đến Sài Gòn ngày 16/4 trong hảo ý phối hợp với các tướng lãnh Việt Nam từng được Pháp đào tạo trước kia để phản công lại Bắc Việt. Họ đến với tư cách cá nhân.
Qua lời xác nhận của tướng Gilles, chỉ huy quân đoàn nhảy dù Pháp trong trận Điện biên Phủ, thì thiếu tuớng Phạm văn Phú không phải thuộc hàng tướng lãnh bỏ lính khi thua trận và chạy dễ dàng như vậy. Tướng Gilles yêu cầu tôi can thiệp với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa trả tự do cho tướng Phú lúc đó đang bị ông Thiệu nhốt chung với các tướng lãnh khác trong Bộ Tổng Tham Mưu. Ông Thiệu đã làm một việc quá nguy hiểm. Đang lúc quân đội cần tướng mà tướng lãnh bị tống giam, như vậy là có ác ý đập tan nát Bộ Tham Mưu Hành Quân của Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 29/4, tướng Phú nằm trong bệnh viện Grall. Tôi điện thoại trấn an ông, yêu cầu ông đừng bỏ đi sẽ tạo thêm tình trạng hỗn loạn hoang mang cho binh sĩ. Ông húa sẽ không bỏ chạy, nếu không phản công giữ được Sài Gòn thì ông thề bỏ xác tại bệnh viện nầy. Tướng Phú đã giữ lời hứa. Ông là một tướng lãnh mà chúng tôi hết sức tin tưởng trong ván bài trung lập sau Dương văn Minh. Tối 29/4, được tin Dương văn Minh sẽ đầu hàng cộng sản vào sáng mai, ông đã dùng độc dược tự sát.
Các tướng lãnh Pháp cũng đề nghị tôi thực hiện kế hoạch bỏ trống Sài Gòn qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1.- Rút phân nữa quân gồm lực lượng tự vệ, an ninh, cảnh sát, những binh đoàn nhảy dù, thủy quân lục chiến , biệt động quân, và các binh chủng thuộc bộ binh, lén di chuyển lúc nửa đêm, sau lưng cộng sản đi lên các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Phước Long, với nhiệm vụ tái phối trí lực lượng và bồi dưỡng tinh thần binh sĩ.
Phân nữa kia, gồm Hải quân và Không quân di chuyển về miền Tây để dùng cho các trận chiến sông ngòi, cắt đường tiến của cộng sản tràn xuống Quân khu 4 . Mời hai tướng Dương văn Minh và Trần văn Trà công bố chánh phủ trung lập. Sài Gòn là vùng phi quân sự nơi chỉ nói chuyện, thương thuyết bằng giải pháp chánh trị. Sài Gòn không có quân, cộng sản không có cớ đễ tàn phá.
- Giai đoạn 2.- Phản công trên cơ sở du kích, chiếm lại lần hồi đất đai đã mất và chờ quân viện mới. Thay thế chánh phủ trung lập bằng một chánh phủ lưu vong Việt Nam Cộng Hòa. Vai trò Dương văn Minh đến đây coi như chấm dứt. Các tướng Phạm văn Phú, Nguyễn khoa Nam, Lê nguyên Vỹ, Ngô quang Trưởng được xem là thành phần chủ lực cho chiến trường tương lai.
Các tướng lãnh hồi hưu Pháp quả quyết sẽ tìm được nguồn quân viện chẳng mấy khó khăn, qua sự đóng góp của các cựu quân nhân Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Do Thái... nếu có lời kêu gọi của Hiệp Hội Cựu Quân Nhân Thế Giới Tư Do.
Sáng ngày 28/4/75 , tôi chuyển hết kế hoạch nầy cho Dương văn Minh và định tối 28 thì sẽ hoàn tất kế hoạch.
KẾ HOẠCH CHƯA ĐƯỢC THỰC HIỆN?
Đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi trình bày tỉ mỉ về quân số của đôi bên.
- Quân cộng sản Bắc Việt hiện đang bao vây Sài Gòn gồm các sư đoàn 304, 308, 312, 320, 322, 325 và 2 sư đoàn MTGPMN, 300 thiết giáp, 600 đại bác đủ loại. Tổng cộng quân số khoảng 70.000, tính cả lực lượng trừ bị. Đúng như lời Trung Quốc thông báo, HàNội tung hết quân, bỏ ngỏ HàNội . Giá lúc ấy Trung Quốc chỉ cần cho một vài sư đoàn diễn binh trên biên giới Hoa Việt thì lập tức HàNội sẽ tự ý ngưng chiến và tán thành chánh phủ trung lập rất mau lẹ. Rất tiếc.
- Quân số Biệt khu Thủ đô có khả năng tác chiến, có vũ khí trong tay ước được 100.000. Can cứ vào vũ khí đạn dược, hỏa lực nặng, tiếp liệu, và tinh thần chấp nhận chiến đấu thì Sài Gòn có thể phòng thủ, cầm cự được chừng 7 tháng.
Trong 7 tháng đó biết đâu tình hình lại chẳng thay đổi theo chiều hướng khác? Chúng tôi đưa ra sự kiện nầy nhằm bác bỏ lập luận nói rằng cộng sản Việt Nam sẽ thiêu hủy Sài Gòn với số quân gấp 5 lần.
Kinh nghiệm bọn Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh ngày 17 tháng 4/75, đã xảy ra tình trạng chém giết hỗn loạn nguy hiểm đến sinh mạng Pháp kiều và các phóng viên ngoại quốc, cần Tòa Đại sứ Pháp che chở. Vì vậy ngày 19/4/75 tôi đã yêu cầu Bộ Ngoại Giao Pháp tăng phái cho chúng tôi một trung đội thủy quân lục chiến từ Nouvelle Calédonia đến Sài Gòn để bảo vệ sứ quán. Lại yêu cầu các vị Lãnh Sự ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Đà Lạt, Hué gấp rút kiểm tra lại tổng số Pháp kiều, và phải tiếp tục ở lại nhiệm sở để trấn an dư luận. Khi đó có 722 người là người Pháp chính gốc, 9500 người có quốc tịch Pháp, 11.000 trẻ em lai Pháp sống tại các cơ quan từ thiện. Tất cả 21.000 người nầy sẽ được đưa về Pháp định cư. Tuy nhiên để cứu thêm mạng người, chúng tôi sẽ gởi cho HàNội danh sách đăng ký cho hồi hương thêm những người hồi tịch Pháp, cựu quân nhân tham dự bên cạnh quân đội Pháp trong hai thế chiến, công chức thời Pháp và nhân viên làm việc trong các cơ sở tư nhân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi người hội đủ điều kiện như vừa quy định có thể kéo thêm gia đình anh em ruột thịt, con cháu dâu rể bên ngoại cũng như bên nội. Kết quả chúng tôi đem về Pháp tất cả 80..000 người. Để mua thêm người cộng tác với Pháp, mỗi năm chánh phủ Pháp phải trả cho cộng sản máy cày, dược phẩm, các bộ phận bảo trì công ty nhà đèn, thủy cục, nông phẩm v.v...
Chiều 28/4, tướng Pazzi xuống Cần Thơ gặp tướng Nguyễn khoa Nam . Sau đó khi trở về tướng Pazzi cho biết miền Tây rất khả quan, chỉ có quốc lộ 4 tạm thời bị cắt đứt. Tướng Nguyễn khoa Nam đã hai lần yêu cầu ông Dương văn Minh cho phép ông đem quân giải tỏa Quốc lộ 4, phản công.., nhưng Dương văn Minh dặn đi dặn lại mấy lần là đừng phản công mạnh, tạm thời ở tư thế chờ, để ông tìm giải pháp chánh trị tại Sài Gòn. Tướng Nam than thở với tướng Pazzi: "Nếu tôi đánh mạnh là bất tuân thượng lệnh, nếu tôi đánh nhẹ thì tinh thần binh sĩ mất hết. Đến giờ nầy mà bức màng chánh trị còn bịt mắt quân đội. Ông nói lại với tướng Minh giùm là nước tràn bờ mà không cho đắp đê ngăn lại! Ông làm chứng giùm tôi: Quân đoàn 4 chúng tôi không thua. Chính trị Sài Gòn đã trói tay chúng tôi bắt buộc chúng tôi phải thua."
Sáng ngày 30/4/75, sau khi nghe Dương văn Minh đọc bản "trao nước cho giặc", tướng Nguyễn khoa Nam cùng nhiều tướng lãnh liêm sĩ khác đã chọn câu nói của Voltaire để giữ danh dự của người làm tướng; "Còn giữ được danh dự là chưa mất mát nhiều."
Trời đã vào đêm rồi. Đại bác, súng liên thanh nổ gần hơn. Làn sóng người ngơ ngác tìm đường chạy trốn cộng sản nghẹt cứng cả thành phố. Ông Đại tướng Dương văn Minh đâu? Tướng Trần văn Trà đâu? Tại sao những người nầy không xuất hiện để thành lập chánh phủ liên hiệp? Tôi tự hỏi như thế.
Tôi lo lắng, gọi điện thoại về nhà ông Dương văn Minh. Người trả lời là trung tá Đẩu, chánh văn phòng: "Dạ thưa ông Đại sứ, Đại tướng chúng tôi hiện đi lên Xuân Lộc thương thuyết với người phía bên kia."
Bỗng nhiên đầu óc tôi căng cứng từng mạch máu, tay chân bủn rủn. Ông Minh lên Xuân Lộc có nghĩa là gặp trực tiếp thượng tướng Lê đức Anh, phụ tá Văn tiến Dũng, nơi đây đang có mặt Lê đức Thọ. Tức là ông Đại tướng đi thẳng với phe Bắc Việt. Ông Minh đi trên tư thế nào? Quân không có, quan cũng không, chánh phủ chưa có gì hết. Như vậy chỉ là đi đầu hàng Bắc Việt. Công việc nầy không cần đến một Đại tướng! Trao cho một em bé đánh giầy 10 tuổi cũng làm được.
Cái hướng mà ông Minh cần đi là hướng Củ Chi, nơi thượng tướng Trần văn Trà đang chờ... Chờ đến kiếp sau !
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 3, 2008 8:41:34 GMT 9
Những gì mà ông Minh hứa với chúng tôi đã như nước đổ lá khoai. Bao nhiêu kế hoạch, bao nhiêu công trình vận động, phút chốc ông Minh làm tiêu tan hết. Lại còn dối gạt các tướng lãnh yêu nước khác, gây ra sự chậm trể phản công giờ chót, bởi đa số đều tưởng ông Đại tướng có phép lạ, sáng chế được công thức ngưng bắn tại chỗ để phe quốc gia không bị thua trong nhục nhã.
Thâm ý của ông Minh là muốn đầu hàng, sau đó ngồi ăn, hưởng cho đến già.
(Lời dịch giả D.H.N.: Thật đúng như ông Mérillon đã nói, từ ngày 30/4/1975 cho đến ngày nay 1996, Dinh Hoa Lan của ông Minh không mất một chiếc đủa, không mất một cành hoa, một bụi cỏ nào. Khi ông rời Việt Nam để đi định cư ở Pháp với toàn bộ gia đình, ông được tự do mang theo bất cứ thứ gì ông muốn, từ những món đồ cổ đến những kỹ vật, thượng vàng hạ cám... cộng sản phải dùng mấy xe vận tải đưa các thùng tài sản của gia đình ông xuống bến tàu cho ông. Dinh Hoa Lan ở đường Testard, bất động sản riêng của ông được ông giao cho trung tá Khử giữ gìn và quản lý, đến giờ nầy không một tên cộng sản nào dám đụng đến. Trung tá Khử hiện là chủ một vườn trồng lan tại Thủ Đức, cuối thập niên 80 là tổng thơ ký của Hội Hoa Lan Việt Nam ).
Ngày 29/4/1975, 8.00 giờ tối, sau khi nhận lãnh chức Tổng Thống do cụ Trần văn Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi chúng tôi, bày tỏ sự hối tiếc đã không hợp tác được với chánh phủ Pháp. Cách duy nhất mà ông phải chọn là đầu hàng Bắc Việt mới mong cứu sống được thủ đô Sài Gòn.
Tôi lạnh lùng trả lời một câu duy nhất:
- "Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam cần có một người lãnh đạo cương quyết, dám dấn thân, nhưng chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng."
Tôi cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không muốn liên lạc với ông ta nữa.
NGÀY 1 THÁNG 5
Lúc phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy hướng qua Bangkok , tôi nhìn xuống Sài Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một niềm ngậm ngùi thương tiếc tất cả những gì đang xảy ra dưới đất. Tôi như người bại trận, hay nói cách khác, tôi xin được làm bạn với người bại trận, một người bạn đã không chia xẽ mà còn bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải gánh chịu hết tất cả ... trong những ngày sắp tới.
Việt Nam và tôi có rất nhiều kỹ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu năm, tôi cảm thấy thương xứ sở nầy. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước, nhưng cái quyền làm chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt. Tôi xin lỗi người Việt Nam . Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu vãn được nền hòa bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn hồn nhiên với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm giao.
Năm 1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời tôi trở lại thăm Sài Gòn. Tôi từ chối với lý do không quen với cái tên Hồ chí Minh. Sài Gòn đã mất, tôi trở lại đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm cũng chỉ gạt được người ta lần thứ hai, làm sao lừa dối được người ta lần thứ ba? Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi lớn là đã lường gạt Tây Phương..
Sau hết, chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua, nhưng thật ra người Việt Nam chưa thua cộng sản . Trận chiến chưa chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Mỗi năm, vợ chồng chúng tôi đều đi xuống Lourdes để kính lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Luôn luôn tôi nhắc nhở nhà tôi, chúng tôi cùng cầu nguyện cho người Việt Nam đạt được nền hòa bình theo sở nguyện của họ. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời và Đức Mẹ không bỏ rơi dân tộc Việt Nam .
Jean Marie MÉRILLON Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 9:32:01 GMT 9
TÔI ÐÃ GIỮ ÐƯỢC AN-NINH CHO VÙNG I TRƯỚC THÁNG TƯ ÐEN 1975 Le Xuan NhuanCuối năm 1973 (ngày 26-9), tôi đến Vùng I đảm-trách Ngành Ðặc-Cảnh tại đây . Ngay lần đầu tiên tôi dự phiên họp hỗn-hợp với các cấp chỉ-huy an-ninh, tình-báo và phản-gián dân-sự và quân-sự tại địa-phương (đại tá Phạm Văn Phô, Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn I; đại tá Lê Quang Nhơn, Chánh Sở I An-Ninh Quân Ðội; đại tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư-Lệnh Cảnh Lực Vùng I; v.v...), thiếu-tướng Hoàng Lạc (Tư-Lệnh-Phó Quân-Khu I, đại diện trung-tướng Ngô Quang Trưởng, Tư-Lệnh Quân Ðoàn I và Quân-Khu I) cho biết tình-hình chung, nhất là ngay giữa và xung quanh thành-phố Ðà-Nẵng (nơi Quân Ðoàn I và Quân-Khu I đặt tổng-hành-dinh, nơi bây giờ là thủ-phủ cuả Miền Trung) với các vấn-đề cụ-thể như sau: Kho xăng lớn nhất cuả Quân-Khu I ở Liên-Chiểu, sát bên chân đèo Hải-Vân, đã bị Việt-Cộng tấn-công mấy lần rồi; Các bồn xăng dự-trữ quan-trọng khác, ở giữa nội-thành, cũng đã bị đặc-công Việt-Cộng cắt rào thép gai dở chừng; Xe lửa từ Huế vào khỏi hầm Ðèo Hải-Vân là bị Việt-Cộng giựt mìn đều đều; Ðặc-biệt ngay ở phiá nam Núi Ngũ Hành-Sơn, trực-thăng cuả trung-tướng Ngô Quang Trưởng cũng thường bị Việt-Cộng bắn sẻ, nên ông phải tránh vùng đó bằng cách bay vòng ra xa ... Tôi không cần thắc-mắc tại sao các cơ-quan và đơn-vị Quân-Lực và Cảnh-Lực sở-tại đã không thanh-toán được các ung-nhọt kinh-niên này . Tôi liền tự-nguyện đảm-trách việc phục-hồi và bảo đảm an-ninh lâu đài cho các nơi kể trên. Tôi còn đề-nghị để cho Cảnh-Lực nói chung, mà thật ra là Ðặc-Cảnh cuả tôi nói riêng, do tôi đích-thân nhập-cuộc, đảm-nhận vai trò chủ-trì trong các hoạt động cả chìm lẫn nổi, tiễu-trừ cộng-sản và duy-trì an-ninh lãnh-thổ, trên bất cứ vùng đất nào có thường dân cư-trú và sinh-hoạt, bắt đầu từ các Thành phố, Thị xã và Quận lỵ, trên khắp Quân-Khu . Tôi chỉ xin một chữ ký cuả Tư-Lệnh Quân Ðoàn I và Quân-Khu I, thông-báo việc này cho hết thảy các cơ-quan và đơn-vị quân-sự trên toàn Vùng đều biết để tuân-hành. Sau khi Trưởng Phòng 2 và Chánh Sở An-Ninh Quân Ðội hoan nghênh, thiếu tướng Tư Lệnh Phó tán đồng, trung-tướng Tư-Lệnh Quân Ðoàn I và Quân-Khu I đã chấp-thuận đề-nghị ấy cuả tôi . Một cuộc hành-quân “gương-mẫu” Khi tôi xuống sân thì có thể nói là hầu hết các cấp nam+nữ nhân-viên tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I đều đổ dồn ra mọi cửa lớn và cửa sổ để xem quang-cảnh mới lạ mới thấy lần đầu . Bên này là hai trung đội Cảnh-Sát Dã-Chiến, khác hẳn trung-đội danh-dự trong lễ thượng-kỳ mỗi sáng đầu tuần, vì có mũ sắt trùm lưới ngụy-trang và mang ba-lô hành-quân, với vẻ mặt nghiêm lạnh khác thường. Bên kia là hai toán Thám-Sát Ðặc-Biệt, mặc áo quần Cảnh-Sát Dã-Chiến, nhưng đội bê-rê màu xanh lá cây cuả Lực-Lượng Ðăc-Biệt và được trang-bị nhiều loại súng máy lạ mắt. Phiá trước là một toán Ðặc-Nhiệm cuả Sở Tác-Vụ mặc giả thường dân: đồ đen, đồ nâu, mũ vải, nón lá, dép nhựa, giày bố... Thám-Sát Ðặc-Biệt là danh-xưng mới cuả Thám-Sát Tỉnh (PRU: Province Reconnaissance Unit) do cơ-quan CIA trực-tiếp tổ-chức và sử dụng, bí-mật đột-nhập căn-cứ Việt-Cộng, do-thám, phục-kích, tấn-công, kể cả bắt cóc đối-phương. Sau Hiệp Ðịnh Ðình-Chiến Paris 1973, Thám-Sát Tỉnh được chuyển-giao cho các Tỉnh-Trưởng; nhưng các Tỉnh-Trưởng không cầm nắm được họ. Sau đó, CIA chuyển-giao cho Cảnh-Sát Quốc-Gia; Bộ Tư-Lệnh CSQG giao cho Khối Hành-Quân là nơi điều-hợp Cảnh-Sát Dã-Chiến và Giang-Cảnh; nhưng nơi đây không biết sử dụng PRU cách nào cho phù-hợp với nhau . Sau đó, PRU được giao cho Bộ Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh, và mang tên Thám-Sát Ðặc-Biệt; nhưng Cảnh-Sát Quốc-Gia và Ðặc-Cảnh vẫn để cho Thám-Sát Ðặc-Biệt được bán-tự-trị (quản-trị nhân-số, lương-bổng, v.v...) và hoạt động riêng, như hồi còn là PRU. Nhận thấy đó là lực-lượng hữu-ích mà tôi cần có, như những đơn-vị biệt-kích cuả Công-An ngày xưa, nên tôi đích-thân trực-tiếp sử dụng, không để phí phạm tiềm-năng cơ-hữu cuả Ngành mình. Cảnh Sát Dã-Chiến thì thỉnh thoảng cũng có đi hành quân, nhưng hoặc là dưới quyền Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Sắc Phục, hoặc là dưới quyền Uỷ Ban Phụng Hoàng, tuy có Ðặc Cảnh tham gia nhưng không thuộc quyền chỉ huy cuả Ðặc Cảnh, nên không khai dụng được tin tức tình báo cấp thời . Tôi muốn kiêm phần trực tiếp điều động lực lượng ấy trong các hoạt động chống Cộng để tận-dụng và phát-huy tiềm-năng cuả mọi người. Tôi có thể tập-trung các bộ-phận Biệt-Tác, Ðặc-Nhiệm, và Thám-Sát Ðặc-Biệt, thuộc Ðặc-Cảnh, tại bất-cứ địa điểm nào khác, để làm nơi xuất-phát; nhưng tôi cố ý trình diễn như thế là để nói lên cho mọi người biết rằng: Cảnh-Sát Dã-Chiến cũng phải hành-quân diệt Cộng; các đơn-vị thuộc các Khối khác nhau cuả Cảnh-Sát Quốc-Gia cũng có thể phối-hợp công-tác với nhau; và từ nay tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I đã có người đứng ra tổ-chức và điều-hợp các hoạt động chủ động và tích-cực rồi (điều mà các nơi khác chưa ai làm). Vì thế, chúng tôi gọi đây là một cuộc hành-quân gương-mẫu . Tôi đích-thân đi đến Xã Hoà-Long, thuộc Quận Hoà-Vang, Tỉnh Quảng-Nam, chỉ dẫn cho thiếu-tá Ngô Phi Ðạm (Chánh Sở Tác-Vụ cuả Nha Ðặc-Cảnh) điều-khiển các đơn-vị khác nhau phối-hợp với nhau, bố-trí công-tác cho từng bộ-phận và cả từng cá-nhân tham-gia cuộc hành-quân này. Ðây là khu-vực Việt-Cộng nấp lén bắn súng lên trực-thăng cuả trung-tướng Ngô Quang Trưởng, bao gồm những rừng cây rậm-rạp, xen lẫn với những tảng đá, ngôi mộ, hào rãnh, lều chòi, từ phiá nam Núi Non Nước vào đến ven làng. Việt-Cộng không ám-sát, bắt cóc, phục-kích, tuyên-truyền, thu mua; chúng không trực-tiếp nhắm vào đối-tượng trên đất, mà chỉ nhắm vào mục-tiêu trên không: ấy là nhân-vật quan-trọng số một cuả toàn Quân-Khu. Muốn làm việc đó, chỉ cần vài tay thiện-xạ, am-thạo ngõ-ngách xung quanh để dễ tháo lui, có chỗ cất giấu súng đạn an-toàn, có thể nấu nướng ăn uống tại chỗ để khỏi về nhà, và có thể có những đồng-loã canh gác cảnh-giới mọi sự bất-thường. Chúng có thể dùng ngụy-thức làm ruộng, làm rẫy, giữ bò, chăn dê, tát cá, bắn chim, câu ếch, bẫy cu... Trong cuộc hành-quân này, chúng tôi không tấn-công, đột-nhập, chạm súng; mà chỉ áp dụng các kỹ-thuật chuyên-môn về mặt chìm cuả Ngành mà thôi. Về mặt nổi, chúng tôi đã khám-phá ra được, cuả đặc-công Việt-Cộng, nhiều chốt điểm quan-sát, hang hốc nấp-ẩn, lối nẻo thoát-thân; cũng như lùng tìm, tịch-thu được cuả chúng nhiều vũ-khí, lương-thực, v.v... cất giấu rải-rác xung quanh... Ðặc-biệt là tôi chưa nhờ địa-phương, nhất là bên phiá Quân-Lực, tiếp sức, như Bộ Tư-Lệnh Quân Ðoàn I & Quân-Khu I đã chuẩn-y; nhưng khi thấy chúng tôi đến hoạt động, các nhân viên Cảnh Sát Xã và nhiều Nghiã-Quân đồn-trú gần đó đã tự động đến tham-gia. Các cuộc hành-quân “gương-mẫu” tiếp theo Sau đó, tôi cho học-tập để rút kinh-nghiệm, và hướng dẫn thêm, để Sở Tác-Vụ tự mình làm theo những gì tôi đã đề ra . Tôi đã tổ-chức hành-quân như thế tại Liên Chiểu, thiết-lập màn lưới an-ninh, tình-báo và phản-gián quanh vùng Kho Xăng cuả Quân-Khu . Ðặc-Cảnh Vùng I chúng tôi cũng làm một việc tương-tự kéo dài từ bên ngoài Ðèo Hải-Vân, thuộc hoạt-vực cuả Tỉnh Thừa-Thiên, vào quá bên trong Ðèo ấy, thuộc lãnh-thổ cuả Tỉnh Quảng-Nam, để phục-hồi an-ninh cho các chuyến xe lửa từ Huế vào trong này. Nhiều toán Nghiã Quân và một số Ðịa Phương Quân ngoài này cũng tự-nguyện đến hợp-tác với chúng tôi. Về các Kho Xăng phụ, ngay giữa thành-phố Ðà-Nẵng, thì công-tác cuả các thuộc-viên cuả tôi được thi-hành dễ dàng và nhanh-chóng hơn. Tôi đã giữ được an-ninh cho toàn Quân-Khu I Khi các kế-hoạch cuả tôi đã được tiến-hành trôi chảy, nhanh chóng, tại Ðà-Nẵng và các vùng xung quanh, tôi cho áp dụng tại khắp các Tỉnh khác, từ Quảng-Trị, Thừa-Thiên, vào Quảng-Nam, Quảng-Tín, Quảng-Ngãi. Các Chánh-Sở Ðặc-Cảnh các Tỉnh nói trên đều là thành-phần ưu-tú. Họ có đủ khả-năng nghề-nghiệp, tinh-thần chống Cộng, và quyết-tâm phục-vụ; nhưng vì không có hoàn-cảnh và phương-tiện làm việc thích-ứng, nhất là không được cấp trên có vốn liếng điều-nghiên, có đầu óc sáng-tạo, và có ý hướng tiền-phong, bật đèn xanh cho, nên trước đó đã chỉ đóng khung công-tác hằng ngày, dù là tích-cực, trong lề lối hành-sự thụ động và thủ-phận mà thôi. * Tôi nhận định rằng cộng-sản không phải chỉ là các đơn-vị quân-sự hay các lực-lượng vũ-trang phục-kích, tấn-công, pháo-kích chúng ta mà thôi. Do đó, dù không có các lực-lượng chính-quy làm gió bão thì chính các tổ-chức chính-trị và dân-sự cuả chúng cũng vẫn là những ổ ẩn và nôi nuôi cho các loại mối mọt và dịch-khí, đủ sức đục rỗng, xoi mòn, làm sụp đổ nền-móng cuả Quốc-Gia . Ði vào thực-tế mới thấy, Quân-Lực chỉ mới đối-phó hữu-hiệu với các đơn-vị quân-sự cuả địch trên các chiến-trường mà thôi; còn thì bỏ trống phần lớn lãnh-thổ cuả ta: các đại đơn-vị khi hành-quân xong thì về doanh-trại; Ðịa-Phương-Quân cuả Quận, Nghiã-Quân cuả Xã, phần lớn co cụm trong đồn, cố-thủ trong vòng rào vọng gác, trụ-sở Chi-Khu, nhất là ban đêm. Mình không hiện diện bên ngoài để bảo-vệ dân, làm sao mong dân bên ngoài tay không mà bảo-vệ cho mình bên trong? Trong vụ VC "tổng tấn công" Tết Mậu-Thân tại thành-phố Pleiku (nơi có Bộ Tư-Lệnh Quân Ðoàn II, và là thủ-phủ cuả Vùng II), ngót hai tuần-lễ không thấy một người lính Bộ Binh nào, kể cả Cảnh-Sát địa-phương, ra hoạt động vào ban đêm. Tôi phải tự-nguyện đích-thân xuống phố, điều động Sở Tác-Vụ cuả thiếu-tá Nguyễn Văn Ðộ, thuộc Ngành Ðặc-Cảnh Vùng II cuả tôi, thức suốt mọi đêm để tuần-tiễu, cứu-cấp đồng-bào bị hoả-tiễn cuả Việt-Cộng liên-tục bắn vào, chữa lửa, cô lập các nơi có hoả tiễn chưa nổ, kiểm-chứng tại chỗ để giúp Không-Quân khỏi xạ-kích lầm xuống thường dân vẫn luôn di-chuyển chỗ ngủ hỗn-loạn trong bóng đêm... Lúc ấy Hoa Kỳ chưa đề-xuất Kế-Hoạch “Cảnh-Sát-Hoá”, mà tại thủ-phủ cuả Vùng II tôi đã chứng-tỏ được là Cảnh-Lực có thể làm được nhiều việc tiếp tay với Quân-Lực, bảo-vệ an-ninh cho đồng-bào. Nay thì, dù cho Kế-Hoạch ấy đã bị các nhà lãnh đạo Việt-Nam Cộng-Hoà dẹp bỏ, tôi thấy nó vẫn có giá-trị lớn-lao, nên tôi liều-lĩnh đơn-phương thi-hành trong phạm-vi quyền-hạn cuả tôi . Và kết-quả là... * Ngoài các thành-quả công-tác khác, riêng về vấn đề phục-hồi và duy-trì an-ninh cho các vùng đất có dân-chúng cư-ngụ và sinh-hoạt trên lãnh-thổ toàn Vùng I, tôi đã đạt được kết-quả: - Ðã phá vỡ Ổ Ðặc-Công Việt-Cộng vùng nam Núi Ngũ Hành Sơn, vốn chuyên bắn sẻ lên phi-cơ trực-thăng cuả trung-tướng Ngô Quang Trưởng. Kể từ cuối năm 1973, đã tái-lập và duy-trì an-toàn 100% cho đường bay cuả Tư-Lệnh Quân Ðoàn I & Quân-Khu I khắp vùng nói trên. - Ðã thanh-toán các phần-tử Ðặc-Công Việt-Cộng nội-thành Ðà-Nẵng. Kể từ cuối năm 1973, chúng không còn cắt rào thép gai để mong vào phá-hoại các bồn xăng dự-trữ cuả ta . - Ðã chận đứng vĩnh-viễn mọi nỗ-lực cuả Ðặc-Công Việt-Cộng vùng nam Ðèo Hải-Vân. Kể từ cuối năm 1973, chúng không còn tấn-công Kho Xăng lớn nhất cuả Quân-Khu I ở Liên Chiểu, sát Ðèo Hải-Vân. - Ðã chấm dứt tức thì mọi toan-tính cuả Ðặc-Công Việt-Cộng vùng bắc Tỉnh Quảng-Nam vốn giựt mìn đều đều các chuyến xe lửa, giết hại hành-khách thường dân, hằng ngày từ Huế vào . Kể từ cuối năm 1973, đã tái-lập và duy-trì an-ninh 24/24 giờ trên tuyến thiết lộ này . - Ðã triệt-tiêu mọi hoạt động khủng-bố và phá-hoại cuả Biệt Ðộng Việt-Cộng nội-thành, vốn thường-xuyên quấy rối phố phường đông dân. Chỉ trừ một vụ Việt-Cộng xúi-giục trẻ-con ném chất nổ gây thương-tich cho Cảnh-Sát Lưu-Thông, còn thì kể từ cuối năm 1973, đã tái-lập và duy-trì an-ninh hoàn-toàn tại khắp các thành-phố và Thị-Xã trong toàn Quân-Khu I ... Tôi đã giữ được an-ninh cho vùng dân-cư trên khắp Vùng I, trong một năm rưỡi sau cùng tôi đảm-trách Ngành Ðặc-Cảnh tại Vùng này (cho đến ngày thất-thủ toàn Vùng). Tôi đáp-ứng được kỳ-vọng của Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia và Bộ Tư-Lệnh Ðặc-Cảnh Trung-Ương đã đặt vào tôi, đồng-thời thực-hiện được lời hứa của tôi với Bộ Tư-Lệnh Quân Ðoàn I & Quân-Khu I, nhất là với trung-tướng Ngô Quang Trưởng mà tôi mãi hoài kính yêu. LÊ XUÂN NHUẬN
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:23:22 GMT 9
Tìm Hiểu Hư Thực "Saigon et Moi " do Vũ Hải Hồ dịch Thuật Liên Quan Tướng Dương Văn Minh như thế nào?
Nguyễn Trần Việt
Như chúng ta đã biết, kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, có nhiều chuyện đã được bạch hóa hồ sơ về những ngày cuối cùng Việt Nam Cộng Hòa, nhờ sách báo cũng như sự giải mật tài liệu của chánh phủ Hoa Kỳ, nhân đây để Tìm HIểu Hư Thực "Saigon et Moi" như thế nào? xin trích dẫn lần lượt để quý độc giả cùng nhau thẩm định như sau :
Mãi đến tháng 4 năm 1991, nguyệt san Diễn Đàn Việt Nam số 4 phát hành tại miền Nam nước Đức, do hai nhóm Hướng Việt và Khởi Hành chủ trương & thực hiện, đăng tóm lược hồi ký của Mérillon Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam (Những ngày Cuối cùng của VNCH) từ trang 02 đến trang 07, và viết Lời Toà Soạn (LTS) như sau :
LTS : Tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris, ông Mérillon, nguyên đại sứ Pháp tại Việt Nam Công Hòa cho tới năm 1975, đã ra mắt cuốn hồi ký Saigon et Moi (Sài gòn và Tôi) trước một số cử tọa thượng thặng như 3 vị cựu Thủ tướng Giscard D'Estaing, Pierre Mesmer, Jacques Chirac (ông Chirac còn là chủ tịch đảng Cộng Hòa RPR), Jacques Hunzinger (Ủy viên ngoại vụ đảng Xả Hội Pháp), Louis Mermas (Chủ tịch Hạ Viện) v.v... Theo một nguồn tin được biết là cuốn sách này đã bị Bộ Ngoại Giao cho lệnh thu hồi. Rút cuộc, chúng ta chỉ được thấy một bản tóm tắt dưới đây do một nhân vật tình cờ có được cuốn đó. Chúng tôi xin đăng bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ, Paris, để biết được ít nhiều thêm về những việc làm của những vị đã, đang cầm vận mệnh đất nước cũng như những thế lực ngoại bang trong những ngày hấp hối của Việt Nam Cộng Hòa.
Báo Viên Giác số 80, phát hành tháng 4 năm 1993 cũng tại nước Đức đã đăng dề tài nêu trên, từ trang 64 đến trang 69, nhưng có thêm phần Lê Đức Thọ Sỉ Mạ Tôi và Các Tướng Lảnh Bị Nhốt Tại Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng không có LTS, được biết bài này đã được tạp chí Dân Tộc Việt đăng trước, báo Viên Giác trích đăng lại với tựa như sau :
18 năm sau ngày Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, nghe lại lời kể của Đại Sứ Pháp Về : Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa
(bài này đã đăng quá nhiều báo đăng nên không cần trích ra đây cho mất thời giờ)
Trong khi đó, báo Ngày Nay số 109 tháng 4 năm 1993 đăng từ trang 42 đến trang cuối là 108, phát hành tại Hoa Kỳ cũng đề tài trên, ngoài ra có lồng hình của ông Nguyễn Hữu Thọ và bà Nguyễn Thị Bình, trong Lời Toà Soạn xin trích dẫn như sau :
LTS : Ngày 23-03-1985, tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris, ông Mérillon, nguyên đại sứ Pháp tại Việt Nam Công Hòa cho tới năm 1975, đã ra mắt cuốn hồi ký Saigon et Moi (Sài gòn và Tôi) trước một số cử tọa thượng thặng như 3 vị cựu Thủ tướng Giscard D'Estaing, Pierre Hesmer, Jacques Chirac (ông Chirac còn là chủ tịch đảng Cộng Hòa RPR), Jacques Junzinger (Ủy viên ngoại vụ đảng Xả Hội Pháp), Louis Mermas (Chủ tịch Hạ Viện) v.v... Ngay sau khi biết có tập hồi ký trên, chúng tôi đã nhờ thân hữu tại Paris đặt mua, nhưng không tiệm sách nào có. Theo một nguồn tin được biết là cuốn sách này đã bị Bộ Ngoại Giao cho lệnh thu hồi. Rút cuộc chúng ta chỉ được thấy một bản tóm tắt dưới đây do một nhân vật tình cờ có được cuốn đó. Chúng tôi xin đăng bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ ở Paris.
Tóm lược cuốn hồi ký của MÉRILLON, cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam
Những ngày Cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa
Vũ Hải Hồ
Nếu chúng ta so sánh Lời Tòa Soạn của báo Dìễn Đàn Việt Nam và báo Ngày Nay, thì thấy tên các nhân vật Pháp khác nhau : Pierre Mesmer/ Pierre Hesmer - Jacques Hunzinger/ Jacques Junzinger (Ủy viên ngoại vụ đảng Xả Hội Pháp). Đặc biệt báo Ngày Nay xác nhận đăng thêm : "Ngay sau khi biết có tập hồi ký trên, chúng tôi đã nhờ thân hữu tại Paris đặt mua, nhưng không tiệm sách nào có "
Riêng báo Đất Mẹ 56 phát hành tháng 4 năm 1995 tại Houston, Texas USA do ông Nguyễn Phi Thọ làm chủ nhiệm & chủ bút cũng đăng đề tài trên từ trang 21 đến trang 33, với Lời Toà Soạn xin trích dẫn như sau :
LTS : Nhân ngày 30 tháng 4 năm 1995, tưởng nhớ một kỷ niệm đau buồn : Miền Nam Việt Nam bị rơi vào tay Cộng Sản, hàng trăm ngàn quân cán chính phải đi vào vòng lao tù cả đến hàng chục năm. Đây là hậu quả của một nhóm người không có khả năng lãnh đạo đất nước, đã tự ý quyết định những giải pháp ngu xuẫn trong những giờ phút hấp hối của VNCH. Lời kể lại của cựu Đại Sứ Pháp Mérillon chứng minh rằng : Đất nước rơi vào tay Cộng Sản không phải vì quân lực VNCH yếu kém, nhưng rõ ràng chỉ vì cái đám "cào cào" vô tài bất tướng, không có khả năng lãnh đạo, hèn nhát trong tinh thần và quyết định còn thua cả thằng bé đánh giầy 10 tuổi. Chúng tôi hy vọng rằng, sai hai mươi năm, dân tộc Vìệt Nam ôm mối hận chưa nguôi, sẽ là bài học cho những ai ở hải ngoại, nếu cảm thấy mình không đủ tài sức và phong cách, thì đừng vì có tự do mà muốn làm lãnh tụ. Hãy lượng sức mình trước khi muốn dìu dắt hai triệu ngươì Việt di cư theo mình trong những mưu đồ bất chánh. Khi tướng Dương Văn Minh nhảy lên làm Tổng Thống, bất chấp hiến pháp, là ông đã có ý định đầu hàng Cộng Sản chứ không như ông tuyên bố sau này : Không muốn biến Sàigòn thành một biển máu. Lý do thứ hai, tướng Minh hy vọng sau khi dâng miền Nam cho Cộng Sản, ông sẽ có một chỗ ngồi tốt lành trong chính phủ Hà Nội (hoặc có thể trong chinh phủ MTGPMN), và rồi được CSVN ca ngợi. Hy vọng này phát xuất từ sự tin tưởng vào người em ruột của ông là tướng Dương Văn Nhật (*) đang phục vụ trong quân đội Cộng Sản Hà Nội. ……. (còn tiếp) « Last Edit: Apr 16, 2005, 8:37pm by Ðạm Thủy » Link to Post - Back to Top IP: Logged Ðạm Thủy Admin * member is offline
[homepage]
Joined: Dec 2003 Posts: 107 Karma: 0 Re: Tìm Hiểu Hư Thực « Reply #1 on Apr 15, 2005, 7:28pm »
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:24:26 GMT 9
Hơn nữa, trên báo Ngày Nay số 341, phát hành tại Houston, Hoa Kỳ ngày 15 tháng 4 năm 1996 từ trang A5 đến A7 và lại được báo Thời Báo (Bắc California- Hoa Kỳ) đăng lại toàn bộ bài viết của Ngự Sử, ở trang Tạp Ghi, xin trích dẫn như sau :
Giới Thiệu của Yên Mô
Tháng 4 năm 1989 có tin loan báo đại sứ Pháp tại Việt Nam thời 1975 đã cho ra mắt sách hồi ký "Saigon et Moi" với nhiều tình tiết éo le và rất là có vẻ hợp lý. Năm 1995 khám phá ra là "Con Cá Tháng 4". Bài viết đặc biệt sau đây của tác giả Ngự Sử tại Texas đăng trên Ngày Nay quả thực là những tài liệu mà chúng tôi thấy cần giới thiệu với bạn đọc Bắc California.
YÊN MÔ
LTS : Ngự Sử là bút hiệu của một nhà ngoại giao thời Việt Nam Cộng Hòa từng phục vụ tại nhiều nhiệm sở ở Á Châu. Ông định cư ở Houston từ cuối năm 1975.
Con cá tháng 4 lớn nhất của người Việt di tản DựNG Đứng lên cuốn "Saigon et Moi" gán cho Đại Sứ Pháp ở Việt Nam Mérillon là tác giả.
Tất cả những chi tiết quanh vụ ông nhà báo Vũ Hải Hồ nào đó đã tạo dựng ra việc Đại Sứ Pháp ở Việt Nam thời 1975 Jean Marie Mérillon viết hồi ký "Saigon et Moi" để bênh Việt Nam Cộng Hòa, kết tội người Mỹ bỏ rơi miền Nam. Bản dịch tác phẩm trên của ông Vũ Hải Hồ hồi 1989 đã được rất nhiều báo Việt ngữ hải ngoại đăng đi đăng lại vào mỗi dịp 30 tháng 4. Mới đây, cựu Đại Sứ Pháp ở việt Nam Mérillon xác định ông không viết cuốn sách đó (Saigon et Moi) và cũng chưa hề viết một cuốn sách nào khác về Việt Nam cả. So sánh việc dựng đứng lên cuốn "Saigon et Moi" với việc ngụy tạo cuốn "Người Việt Cao Quý" trước đây của nhà văn Việt Cộng nằm vùng Vũ Hạnh đảm nhận qua chỉ thị của Trần Bạch Đằng (Ngự Sử).
Xin trích đoạn những phần liên quan đến ông Vũ Hải Hồ tạo dựng quyển "Saigon et Moi" do ông Ngự Sử viết như sau :
. . Trong tình huống thao thức trăn trở như thế, thì như nắng hạn gặp mưa, đùng một cái vào đầu năm 1989, cộng đồng di tản được tin người Đại Sứ biết quá nhiều Jean Marie Mérillon đã long trọng cho ra mắt ngày 23-03-1986 cuốn hồi ký "Saigon et Moi" tại khách sạn La Fayette, quận 6 Paris, trước một cử tọa gồm các chính khách hàng đầu của Pháp như : Giscard d'Éstaing, Jacques Chirac, Pierre Mesmer... Nhưng, sau đó cuốn sách này bị Bộ Ngoại Giao Pháp lập tức thâu hồi? Nhưng may mắn thay, một Việt kiều còn giữ được một cuốn và một ông Vũ Hải Hồ nào đó đã dịch ra và phổ biến cho báo chí hải ngoại vào đệ nhất tam cá nguyệt 1989. Ông Vũ Hải Hồ đã tiết lộ những chi tiết ra mắt sách kể trên trong phần đầu của bản dịch, nhưng không hiểu vì lý do gì ông lại không cho biết các chi tiết liên hệ đến hình thức nội dung của cuốn sách (bìa mõng hay dầy, bao nhiêu trang, bao nhiêu chương, có hình ảnh ảnh gì, nhà xuất bản nào? .v.v). Bản dịch của ông cũng không nói rõ là trích đoạn hay tóm lược tác phẩm của Mérillon. Nhìn chung, bản dịch của ông Vũ Hải Hồ xem ra có vẽ là một bản tóm lược, lời văn đôi lúc có vẻ trúc trắc, luộm thuộm, dữ kiện lắm khi xem ra không ăn khớp và lạc lõng, nhưng tình tiết thì hấp dẫn, có lúc ly kỳ như tiểu thuyết gián điệp, đôi khi lại mùi mẫn như tuồng cải lương. "Saigon et Moi" qua ngòi bút dịch thuật đã được phổ biến đúng thời điểm (gần tháng 4 đen) nên đã lập tức trở thành một "instant hit", được nồng nhiệt đón nhận bởi các cộng đồng người Việt di tản trên khắp năm châu Chẳng khác nào bài thơ "ông đồ" của Vũ Đình Liên được chiếu cố trường kỳ trên các báo Việt vào mỗi dịp Tết, mỗi năm cứ đến dịp tháng 4 đen là thế nào cũng có hàng chực tờ báo tranh nhau đăng tải "Saigon et Moi" do Vũ Hải Hồ dịch với những lời bàn khi thi lâm ly, lúc thì thống hận. Phần lớn phản ứng đầu tiên của độc giả di tản là thấy "đã" quá, đúng y chang như mình nghĩ . Người nào người nấy cảm thấy dường như bao nhiêu dồn nén ấm ức từ hồi bỏ xứ ra đi đến giở đã được giải tỏa. Vấn nạn về cái chết tức tưởi của miền Nam Việt Nam xem ra đã có thể nhờ tác phẩm này mà tìm ra giải đáp. . . . . Sự đón nhận đầy thiện cảm của cộng đồng di tản hải ngoại với bản dịch này do đó cũng dễ hiểu. Có lẽ vì vậy, không mấy ai lưu ý tới các dữ kiện không phù hợp với thực tế, mặc dù vào thời điểm bản dịch lưu hành đã có nhiều tài liệu sách báo liên hệ đến những ngày cuối cùng của miền Nam Việt Nam đã được xuất bản, khiến việc kiểm chứng không đến nỗi khó khăn. Hơn nữa, tên của vị Đại Sứ Pháp đã tạo một tác dụng tâm lý khiến độc giả chấp nhận các dữ kiện trong tác phẩm không chút thắc mắc. . . . Ngoài vấn đề các dữ kiện không phù hợp với thực tế như đã dẫn, cái thắc mắc căn bản nhất là sự ra mắt của một cuốn hồi ký chính trị của một nhân vật ngoại giao quan trọng như như vậy, lại được tổ chức long trọng như ông Vũ Hải Hồ tiết lộ, mà sao không được đăng tải trên bất cứ một tạp chí văn học chính trị nào của Pháp cững như Hoa Kỳ? Ở một nước có truyền thông tự do như Pháp, liệu có thể có việc thu hồi toàn bộ một cuốn sách đã ra mắt trước một cử tọa gồm có các vị tân cựu nguyên thủ quốc gia như vậy không? Báo chí Việt Ngữ tại hải ngoại phần vì thiếu phương tiện, phần vì dễ chấp nhận các bài vở soạn sẵn mà lại hợp tâm ý độc giả, nên sáu bảy năm cứ bổn sao soạn lại không cần thắc mắc gì cho mệt. ...
Mãi đến năm 1994 khi cuốn "Những Ngày Cuối Cùng của Tổng Thống ngô Đình Diệm " của ông Hoàng Ngọc Thành và Bà Thân Thị Nhân Đức xuất bản tại Hoa Kỳ, trong phần phụ bản (trang 622-623) có in môt bức thư đề ngày 12-11-1990 của ông Jean Marie Mérillon, phủ nhận ông là tác giả của cuốn "Saigon et Moi". Lý do là vì năm 1989 ông Hoàng Ngọc Thành qua Paris tìm mãi không ra quyển sách đó, ông đành liên lạc với chính tác giả là ông Mérillon lúc đó đang là Đại Sứ Pháp tại Mạc Tư Khoa. Trong bưc thư ông Đại Sứ Mérillon viết : "Riêng về cuốn sách "Saigon et Moi", tôi xin khẳng định rõ ràng là tôi không viết cuốn sách đó và cũng chưa hề viết một cuốn sách nào khác về Việt Nam cả. Do đó tác phẩm mà ông hỏi không phải của tôi. Tuy nhiên, tôi cũng tò mò muốn biết tác phẩm ấy và rất mong muốn nhận được các tin tức liên quan đến nó" Mặc dù đã có sự xác nhận trên giấy trắng mực đen nhự vậy, một số báo hải ngoại phát hành thượng tuần và trung tuần tháng 4-1995 vẫn còn rải rác in lại bản dịch của ông Vũ Hải Hồ với nhiều lời bàn Mao Tôn Cương. Hiện tượng ngụy tạo một dịch phẩm từ một "tác phẩm ngoại ngữ ma", làm chúng ta không khỏi liên tưởng tới một vụ tương tự xảy ra trước đây 30 năm tại Sàigòn. Đó là dịch phẩm "Người Việt Cao Quý" do cô Hồng Cúc dịch và do nhà Cảo Thơm ấn hành vào khoảng thượng bán niên 1965 tại Sàigòn. Điểm tương đồng giữa dịch phẩm "Người Việt Cao Quý" và dịch phẩm "Sàigòn và Tôi " là : "Dịch phẩm chỉ được phổ biến sau khi nguyên tác ra đời từ 4 đến 5 năm. Nguyên tác "Người Việt Cao Quý" ở Ý từ năm 1960, bản dịch được phổ biến năm 1965. Nguyên tác"Sàigòn và Tôi " ra mắt tại Pháp từ năm 1985, bản dịch ông Vũ Hải Hồ phổ biến trên báo chí hải ngoại vào năm 1989. Không một người Việt nào ngoài một "đệ tam nhân" vô danh hoặc dịch giả " Sàigòn và Tôi " thấy nguyên tác. Cô Hồng Cúc cho biết bản gốc tiếng Ý in trên một tờ báo văn hóa nào đó tại Ý, một người bạn của cô dịch ra tiếng Pháp và gửi về Việt Nam cho cô (chưa ai ngoài cô Hồng Cúc thấy bản tiếng Pháp đó). Ông Vũ Hải Hồ được một "việt kiều" cho coi ké nguyên tác và nhờ đó dịch ra tiếng Việt. Nguyên tác viết bởi một người Tây phương đã sống lâu năm tại Việt Nam và có cảm tình với đất nước và dân tộc Việt. "Người Việt Cao Quý" theo dịch giả, có tên Ý là "Per Comprendere il Vietnam e Vietnamita" viết bởi "Pazzi" một người Ý đã ở Việt Nam khoảng 20 năm và đã có đủ thì giờ hiểu người dân kỳ diệu và khả ái này. "Sàigòn và Tôi" có tên Pháp là "Saigon et Moi", theo dịch giả viết bởi cựu Đại Sứ Pháp Mérillon, người đã có rất nhiều kỷ niệm và có nhiều quan hệ mật thiết với Việt Nam. Người đã chọn Sàgòn làm bạn hữu tâm giao. "Người Việt Cao Quý" được đăng làm nhiều kỳ trên báo "Đất Tổ" ở Saigòn, sau đó được in thành sách bởi nhà xuất bản Cảo Thơm. "Sàigòn và Tôi" được phổ biến rộng rãi trên các báo chí hải ngoại chưa được in thành sách. Dịch giả thường lấy một bút hiệu ít người biết của một cây bút quen thuộc. Điểm khác biệt duy nhất giữa "Người Việt Cao Quý" và "Sàigòn và Tôi" là : - Tác giả "Người Việt Cao Quý" có một lý lịch bất minh. - Tác già "Sàigòn và Tôi" là một nhà ngoại giao Pháp nổi tiếng.
. . . . Điểm qua làng văn làng báo hải ngoại không thấy có một nhà văn nhà báo lấy bút danh là Vũ Hải Hồ. Xét kỹ thì thấy nó có trùng với một trong những bút hiệu mà soạn giả cải lương kiêm ký giả Trần Trung Quân đôi lúc sử dụng trong khi làm tờ Sàigòn Thời Báo tại Houston, Texas trong những năm 1985-1988. Ký giả Trần Trung Quân rời Hoa Kỳ về Pháp vào khoảng cuối năm 1988. Bản dịch "Saigon et Moi" được phổ biến từ Pháp vào đệ nhất tam cá nguyệt năm 1989. Vũ Hải Hồ là ai? ..... (toà soạn tạm không đăng phần này). Với một người có những biệt tài như vừa kể, thì việc dàn dựng một tác phẩm về tháng 4 đen, thực chẳng khó khăn gì. Trên thực tế có khá nhiều dữ kiện có thể dựng thành một khung vững chãi cho một vỡ kịch đầy tình tiết éo le như "Saigon et Moi" Các sơ hở nếu có chỉ vì kiến thức chính trị giới hạn của ông đã bị năng khiếu hư cấu vô bờ lấn át. Với tất cả ưu nhược điểm của ông, chủ đích dàn dựng "Saigon et Moi", có lẽ nhằm trong ý hướng diễn nghĩa những ngày bi thảm cuối cùng theo như ông nghĩ là đã xảy ra. Cũng có thể, trong cơn ngẫu hứng động cỡn tháng 4 (April Fool), ông đã thả ra một "con cá tháng tư" (Poisson d'Avril) : "Saigon et Moi", đem những ngày tang tóc ra để mua vui vài trống canh?!
Ngự Sử tháng Tư 1996
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 10:24:51 GMT 9
Trong khi đó, báo Ngày Nay số 341 phát hành tại Houton Hoa Kỳ, ngày 15 tháng 4 năm 1996, còn có ghi Lời Toà Soạn, xin trích dẫn như sau : LTS : Trong phần kết của bài trên, tác giả Ngự Sử đã dựa trên một số dữ kiện trong quá khứ (ở hải ngoại) về biệt tài tạo dựng dưới hình thức phóng sự của một nhà báo (hiện ở Pháp). Nhà báo này đã cho xuất bản ít nhất hai tác phẩm liên quan tới các biến cố chính trị trong cuộc chiến Việt Nam vào thời đệ nhất Cộng Hòa cũng như nhiều bài phóng sự giả tưởng khác về các vụ hải tặc Thái Lan hiếp phụ nữ thuyền nhân Việt Nam... Ông Ngự Sử đã kết luận rằng người có tên Vũ Hải Hồ nào đó đã tạo dựng ra cuốn sách ma "Saigon et Moi" chinh là nhà báo chuyên viết phóng sự chính trị giả tưởng nêu trên. Tuy nhiên, vì một vài vấn đề khá tế nhị trong giai đoạn hiện nay. Ngày Nay xét thấy chưa phải lúc để công bố phần kết luận bài viết của tác giả Ngự sử.
Kế đến, khoảng tháng 10 năm 1996, quyển sách PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ tuyển tập của Cửu Long Lê Trọng Văn ra đời, nơi trang 3, Lời Mở Đầu cũng có nhắc đến ngụy tạo sách "Saigon et Moi" đo Vũ Hải Hồ dịch, xin trích dẫn như sau :
. . . Rồi các tài liệu, tác phẩm ngụy tạo được tung ra như "Trong Lòng Địch" của Trần Trung Quân, "Ai Giết Hồ Chí Minh" cũng của Trần Trung Quân. Hồi ký Đại Sứ Pháp Mérillon "Saigon et Moi" của Vũ Hải Hồ tức Trần Trung Quân. . . v. v.
Đó là một số sách báo đã vô tình đăng báo hoặc tiếp tay trích dẫn quyển "Saigon et Moi" không có do ông Vũ Hải Hồ tức Trần Trung Quân dịch, để lồng vào tác phẩm mà tôi đã mạn phép trích dẫn vừa qua.
Để biết thêm những ngày cuối cùng Việt Nam Cộng Hòa, xin mời quý độc giả tìm đọc hồi ký của Ông Nguyễn Bá Cẩn, cựu Chủ Tịch Hạ Nghị Viện và cựu Thủ Tướng Chánh Phủ VNCH đã phát hành tác phẩm dày gần 600 trang tại California Hoa Kỳ vào đầu tháng 9 năm 2003. Đặc biệt nơi tiểu mục : 4. Riêng VNCH còn bị Hoa Kỳ hy sinh để đổi lấy Trung Đông từ trang 530 đến trang 552 được tóm lược như sau :
Năm 1954 Hoa Kỳ không sẳn lòng dùng B52 để giúp Pháp tiêu diệt lực lượng của tướng Võ Nguyên Giáp tại Điện Biên Phủ làm cho Pháp đầu hàng và tháo chạy bởi hội nghị Genève để Hoa Kỳ vào thay thế, từ đó Pháp lúc nào cũng cay cú suốt thời gian quân đội Hoa Kỳ chiến đấu bên cạnh VNCH, đồng thời sẵn sàng yểm trợ giúp đỡ CSVN, nhất là trong thời gian hội đàm Paris. Năm 1975 Hoa Kỳ hoàn thành kế hoạch hy sinh Việt Nam Cộng Hòa để đổi lấy Trung Đông và người Mỹ muốn ra đi không để lại bằng chứng, thì Pháp có cơ hội bằng vàng để nhảy vào giờ thứ 25, ngõ hầu tìm giải pháp liên hiệp hoà giải hòa hợp cho miền Nam Việt Nam bằng một chính phủ trung lập để thủ lợi. Nhưng Pháp không nắm vững được điều kiện tất yếu của dán cờ lúc bấy giờ, nên đành thảm bại một lần nữa tại Việt Nam. Nước Pháp thù hận Hoa Kỳ từ năm 1954 cho dến ngày nay thời Tổng Thống Jacques Chirac, nhưng về mặt ngoại giao lúc nào cũng nương tựa vào nhau để sanh tồn, tuy nhiên mỗi khi có dịp Hoa Kỳ nhờ Pháp nhưng không có quyền lợi cho Pháp, thì Pháp luôn luôn chống đối, ví như để đánh nước Irac vừa qua, thì chính Tổng Thống Jacques Chirac của nước Pháp là một trong những nước chống Hoa Kỳ mạnh nhất. Đó là bằng chứng cho thấy hai nước Pháp và Hoa Kỳ vẫn còn thù hận, bởi vì tranh giành quyền lợi với nhau..
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 8:23:21 GMT 9
Suốt hai năm nay ẩn thân nơi chốn tuyết phủ, "nóc nhà nước Mỹ" nầy, quả tình tôi không muốn dính dấp đến những chuyện "cặn bã tồi tệ", với người và việc trong tranh chấp chính trị. Nhưng nay, nhân người bạn trở lại vụ việc cũ với câu hỏi: "Làm sao năm 1995, ông bị gán cho tiếng "Việt cộng nằm vùng?!" mà kẻ chụp cái nón cối kia không ai khác là những người cùng ông chung nơi xuất phát, đồng trình độ khả năng kỹ thuật quân sự và vị thế chính trị - những người thuộc Hội Võ Bị Ðà Lạt!!" Tại sao đến nông nổi như thế? Tại sao ? Ngày 30 Tháng Tư, 1995, lên đường từ San Jose, chốn tôi đã đến Mỹ đầu tiên do bảo trợ của Gia Ðình Mũ Ðỏ, để trả phần nợ ân nghĩa đối với những người lính đã cùng tôi sống, chết hết một đời người, tôi đi tiếp đến 38 nơi trên toàn thế giới để nói với những cộng đồng Người Việt một điều tận cùng DẪU BỊ BÓ TAY, BẺ SÚNG, CÙNG ÐÀNH THẤT TRẬN, NHƯNG CHÍNH CHÚNG TA - QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ - LÀ NGƯỜI NHẬN SỨ MỆNH BẢO QUỐC AN DÂN TRƯỚC LỊCH SỬ DÂN TỘC, VÀ ÐÃ PHẢI TRẢ GIÁ MỐI THỐNG HẬN KHÔNG HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ KIA BẰNG MÁU VÀ MẠNG SỐNG CỦA MÌNH. Những tưởng với cố gắng như trên sau 30 năm "ở lính và ở tù", chí ít cũng làm cho những người khắc nghiệt nhẫn tâm nhất phải nhận ra: Lòng tôi trước sau hằng sắc son thủy chung với một màu cờ đã chọn lựa từ buổi thanh xuân (mà nay đang gần hết một đời người với tuổi quá 50) Nhưng tại sao, từ đâu đã xẩy ra sự kiện ác độc bất công như trên? Chắc chắn phải có một trung tâm quyền lực với những con người cực thâm hiễm điều hành một cách có hiệu quả âm mưu lăng nhục, vấy bẩn, đánh phá tất cả không từ một aị Thế nên, hôm nay, tôi phải trở lại câu chuyện cũ để xác nhận một điều cay đắng CHÚNG TA ÐÃ BỊ BỨC HẠI BỞI CHÍNH KẺ NỘI THÙ NGỤY TRANG TRONG ÐỘI NGŨ CHÚNG TA - NHỮNG TÊN VIỆT CỘNG NẰM VÙNG. I. Màn kịch dựng lên: Trong nỗi thấm nhục rã rời sau ngày 30 tháng Tư, 1975, khi lâm cảnh "hàng thần lơ láo" tại những trung tâm "đăng ký trình diện học tập cải tạo", chúng tôi còn phải gánh chịu thêm tình trạng bàng hoàng của kẻ bị lừa gạt, khi nhận ra những người hôm qua còn là "huynh đệ, bằng hữu", nay thoắt trở thành "cán bộ" với những y phục xa lạ thô kệch, chiếc nón cối chùm hụp và đôi dép râu quê mùạ Lẽ tất nhiên những kẻ nầy không quên đeo trên người khẩu K54 và chiếc băng đỏ. Tôi và Triệt, người bạn cùng khoá, gặp Lưu Thừa Chí (cũng chung khoá 18 Ðà Lạt) trong tình thế bẽ bàng đáng hổ thẹn nầỵ Chí ngồi ghi danh người đến "đăng ký" với lon thượng úy- ba ngôi sao và một vạch ngang, địa điểm trường Trần Hoàng Quân, Chợ Lớn. Thật sự, anh ta cũng có vẻ ngượng khi Triệt hỏi gằn với cách mĩa mai¦ Mầy làm cái gì mà kỳ cục như thế nầỷ Ờ...ờ tại vì kỳ làm ở Phong Dinh, tao có vài liên hệ với họ nên bây giờ họ nói tao giúp trong buổi chuyển tiếp. Tôi đứng xa chỉ nghe Triệt đến kể lạị Thôi kệ nó, mầy và tao lần nầy lại ở chung với nhau như mười bốn năm trước trên trường Ðà Lạt, chỉ khác bây giờ là trại tù việt cộng, đất trời tính ghê quá, con người không biết đâu mà lường. Ngày 23 tháng 6, 1975, chúng tôi vào trại Long Giao, Long Khánh, câu chuyện về một người gọi là "thiếu tá an ninh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà mang lon thượng úy cộng sản ngồi ghi danh anh em không ai muốn nhắc lại - Vì hiện tượng phãn trắc đã lộ mặt và cùng khắp - tồi tệ hơn, những kẻ thay màu áo nầy hãnh diện với "sự nghiệp" tráo trở của mình - thành tích "có công với cách mạng". Chữ nghĩa được dùng với toàn bộ tính đê tiện khinh miệt nhất. Tôi và Triệt mất liên lạc với nhau khi chuyển ra Bắc, sau chuyến đi địa ngục trên tàu Sông Hương, khởi hành từ Tân Cảng, Sài Gòn, đúng Ngày Quân Lực 19 tháng Sáu, 1976. "Mười tám" năm sau, thêm một lần "số 18" phải nhớ, 1994, tôi và Triệt lại gặp nhau ở Houston, đường Beechnut. Hai chúng tôi đã thật sự ở tuổi già sau ba mươi năm "tuổi tù và tuổi lính", nhưng Triệt vẫn giữ nguyên cách thẳng thắng mạnh mẽ của người miền Nam như đang kỳ trai trẻ. Lần gặp gỡ bắt đầu với câu hỏi gay gắt như đã chực sẵn từ lâu Mầy nhớ vụ thằng Chí khoá mình ngày trình diện năm 1975 không? Thằng Chí thiếu tá an ninh quân đội, cũng là thượng úy việt cộng chứ gì? Tôi cũng sẳng giọng không kém. Hắn qua Mỹ rồi đó, HO2, đi trước khi mầy ở tù về, bây giờ đang ở DC, kỳ đại hội Võ Bị tháng 7 vừa rồi, nó có mặt trong ban tổ chức!! Mầy có giỡn không, nó là việt cộng chính gốc, sao lại đi HỎ! Câu chuyện được kể lại với những chi tiết bất ngờ, cho dẫu kẻ có trí tưởng tượng phong phú cũng khó lường phần bố cục. Bắt đầu từ những năm đầu của thập niên 80, một số ít sĩ quan miền Nam thuộc những đơn vị chuyên môn như hành chánh tài chánh, quân cụ, quân nhu lần lượt được trở về chịu sự quản chế của địa phương sở tạị Khoá chúng tôi do một may mắn hiếm có (chỉ xẩy ra một lần với khoá 1 , vào giai đoạn ra trường (cuối năm 1963), khi chiến tranh tăng cường độ, tổ chức quân đội mở rộng nên cần một số sĩ quan về các đơn vị chuyên môn. Những người may mắn nầy sau 1975 nhận thêm một lần "hên", họ được thả sớm hơn so với những người bạn ở các đơn vị tác chiến, mà theo đánh giá của cán bộ cộng sản thì món "nợ máu của nhân dân" chia ra bốn cấp: "Nhất Pháo, nhì Phi, tam Rằn Ri, tứ Chính Trị". (Y nói, lính pháo binh; phi công; biệt kích, nhảy dù, biệt động, thủy quân lục chiến; và chiến tranh chính trị là những đơn vị đứng hàng đầu tội phạm.) Nhóm sĩ quan may mắn của khoá 18 kia vào ngày 23 tháng 11, 1981 (kỷ niệm ngày mãn khóa học mười tám năm trước, 23 tháng 11, 1963), tập trung tại nhà Nguyễn Ngọc Anh, biệt thự gia đình vợ, đường Pasteur cũ. Mười mấy anh, chị lôi thôi, tơi tả vì trận đòn thù từ 1975 đến nay vẫn chưa hồi tỉnh, tính sổ lại 198 mạng của ngày mãn khoá nay chỉ còn không tới 20, với 50 người tử trận vĩnh viễn không về, mươi kẻ tỵ nạn, vượt biên, số lớn còn lại hiện sống, chết không nên dạng người nơi các trại tù trong Nam, ngoài Bắc. Trong giây phút mừng tủi của lần hội ngộ, bỗng nhiên, Lưu Thừa Chí xuất hiện. Mọi người đồng im bặt. Sau cùng, có người gắng gượng hỏi: Anh còn đến với chúng tôi làm gì? Tôi cũng đi cải tạo như các bạn, ở trại Cây Trâm! Chí giả lã làm hòa, hắn đưa ra Giấy Ra Trại để làm bằng, và đề nghị được góp phần tiền lớn để cùng mua thức ăn, đồ uống về chung vui buổi gặp mặt. Không khí hoá nên nặng nề, từng người lặng lẽ rút lui Mầy có mặt hôm đó không? Tôi nôn nóng hỏi Triệt, cố tìm nên đầu mốị - Có, năm đó tao mới về, về được một tháng thì Tết Tâỵ - Thế thì nó cũng đi tù như bọn mình saỏ - Tù chỗ nào, sao mầy ngu vậy, thiếu tá an ninh quân đội thì phải đi ra Bắc chứ; với lý lịch an ninh quân đội thì chẳng phải cần đến cấp tá, chỉ thiếu, trung úy hoặc hạ sĩ quan nó còn tìm cớ để bắn chết không cần xét xử như trại ở Xuân Phước, Tiên Lãnh ngoài Trung. Thiếu tá an ninh quân đội nào để lại ở trại Cây Trâm, Bình Dương như thằng nầỷ! Triệt gắt cao giọng lộ vẻ bực tức vì tôi vẫn chưa rõ đầu mối câu chuyện. - Trại Cây Trâm ở đâu, ngày ở Long Giao không nghe ai nói đến. - Ðó là trại tụi hình sự, cũng có sĩ quan, nhưng chỉ có cấp thiếu, trung úy, mà là thành phần gây vụ việc sau 1975, chứ không là đám tập trung tháng 5, tháng 6, năm 75 như bọn mình. - Rồi sao nữả Tôi ngao ngán. - Sao nữa, đ. m nó đi HO2 trước hơn ai hết, kỳ đại hội 7 vừa rồi ở DC, nó góp 1000 đồng cho ban tổ chức. - Tiền đâu mà một thằng HO có ngay một ngàn để đóng?! - Mầy tìm nó mà hỏi!! Triệt gầm gừ chấm dứt câu chuyện với cách chưởi thề chậm rãi từng tiếng một. II. Những "kép độc" cũ kỷ. Những nhân sự như Lưu Thừa Chí kể trên sẽ mãi mãi ở trong bóng tối với khả năng tầm thường, đối tượng công tác hạn chế riêng của nó, và giá như bị phát hiện (như đã từng bị nhận ra lý lịch), thì cũng chỉ được giải quyết bằng biện pháp "đóng cửa dạy nhau", coi như trường hợp "xử lý nội bộ" (nói theo cách cộng sản), bởi người phe quốc gia vốn dễ tính, không chấp nhất đối với những kẻ tráo trở, bội phản, cũng do những kẻ nầy lỡ đã một lần là bạn bè cùng khóa, cùng hội, cùng trường. Nói ra sợ "xấu hổ cả đám". Nhưng, vì năm 1994 kia, tôi mới qua Mỹ được mấy tháng, lòng còn đang sôi sục "những chuyện cần được kể lại", với ý hướng "ngây thơ" - người bên ngoài cũng đang muốn nghe về những câu chuyện kia - dẫu những vụ việc nói ra gây nặng lòng, cau mặt. Ngày 23 tháng 4, 1995, đúng hai mươi năm im lặng, tôi trở lại công việc đã bị người cộng sản bắt gián đoạn - Tiếp tục bản tường trình tưởng như huyền thoại về "NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM LÀ MỘT NHIỆM MẦU"- chuyện kể chưa có hồi kết thúc trong Mùa Hè Ðỏ Lửa, Tù Binh Hoà Bình của hơn hai mươi năm trước, với bài viết "Sứ Mệnh Người Lính Việt Nam", mà chương "Nhìn Rõ Ðịch Tình" là một cáo trạng chính xác, đầy đủ về tổ chức tình báo, gián điệp cộng sản gài nhân sự trong hệ thống công quyền, quân đội miền Nam và hiện nay ở hải ngoại, nơi những cộng đồng Việt Nam, từ Paris, Sydney, Montreal và chính yếu ở California, Texas, vùng tập trung số đông người Việt. Bài viết cần có những dẫn chứng cụ thể về người, áp dụng cho từng trường hợp, với mỗi đối tượng tác động, tại những giai đoạn đặc biệt của loại công tác, thế nên, tôi phải nại đến những cá nhân như, Thái Quang Chức, thiếu tá hải quân thuộc Bộ Tư Lệnh Vùng IV Sông Ngòi ở Mỹ Tho, Trần Trung Phương, đại úy Biệt Ðội Ðiện Tử Sư Ðoàn Dù, Ðinh Văn Ðệ, đại tá tỉnh trưởng Bình Thuận, tay chân cật ruột của Nguyễn Văn Thiệu, đã được xếp đặt vào vị trí trưởng ban ngân sách quốc phòng hạ viện, lo phần tài chánh cho quân đội Miền Nam. Danh sách sẽ được kéo rất dài nếu có đủ thời lượng trình bàỵ Bài viết có ngay phản ứng. Cần phải mở một ghi chú quan trọng ở đây: Những người dậy nên phản ứng thuộc về hàng ngũ chúng ta - chính là chúng ta - Tôi không hề ám chỉ họ là "phe địch" hoặc làm lợi cho cộng sản!! Nhưng chính điều ghi nhận nầy làm nổi lộ phần tác hại hiểm độc của đám Việt cộng nằm vùng. Bắt đầu, một ông thuộc khoá 8 Ðà Lạt trong một buổi họp của tổ chức cựu quân nhân ở Houston, Texas tuyên bố :"Phan Nhật Nam đề cao cộng sản, phủ nhận cờ quốc gia"; và những tờ báo "chợ" ở địa phương nầy đi tiếp loạt bài: "Phan Nhật Nam phủ nhận quốc kỳ", với trích đăng câu: "chúng ta là những người người lính không còn quân, quốc kỳ", của bài viết dài 36 trang, trong đó có những khẳng định chung kết: "Phần chúng ta, Người Lính Miền Nam dẫu không đi hết bổn phận đến ngày toàn thắng. Nhưng chính chúng ta chứ không ai khác, đã làm làm đúng chức năng cao quý "BÃO QUỐC AN DÂN". (Những Chuyện Cần Ðược Kể Lạị PNN xuất bản, Houston 1995, trang 1- . Hoặc: Thế nhưng, chúng ta vẫn chiến đấu - Người Lính Việt Nam là Một Nhiệm Mầụ (Mùa Ðông Giữ Lửa, PNN xuất bản, Cali 1996, trang 146). Những "bài báo chợ" kia biến thành "tài liệu đáng tin cậy" được photocopy (ai thực hiện?) gởi đến những địa điểm tôi "sắp đi tới", những chốn đông đảo người Việt, những người vốn có hảo ý, quý mến cá nhân tôi, mời đến sinh hoạt, lẽ tất nhiên những bằng hữu, chiến hữu thân quen cũng không lọt ra khỏi danh sách người nhận. Và những cú điện thoại viễn liên gọi tới tấp (ai gọỉ) ngay trong đêm hôm trước ngày tôi sẽ đến một thành phố. Chiến dịch có liền hiệu quả. Một ông chức sắc lớn trong Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (tất nhiên của QLVNCH) đi một bài báo dài nhiều kỳ với chủ điểm: "Vạch mặt tên "nằm vùng" (PNN) đội lốt "chiến sĩ QLVNCH". Cũng phải nói ra một điều khó tin nhưng có thật: Nếu kết án tôi tội "nằm vùng" như trên, thì trước tiên, Ðại Tá Trần Ngọc Huyến, chỉ huy trưởng, toàn bộ ban tham mưu, cán bộ của trường phải liên đới trách nhiệm về quá trình đào tạo tôi trở thành một tay "nằm vùng" siêu đẳng, giỏi giang đến như thế!! Nghĩa là, cũng chính ông ta, vì giai đoạn 1960 -1963, nhân vật "nhà văn quân đội lão thành" nầy là sĩ quan chiến tranh chính trị của trường, có nhiệm vụ dạy dỗ tôi về kinh nghiệm "chiến tranh chính trị". Hoặc điển hình, lần sinh hoạt ngày 11 tháng 6, 1995 do Ðào Quang Vinh (khóa 19 Ðà Lạt, phi công C130 Sư đoàn 5 Không Quân, Tân Sơn Nhất) tổ chức tại Florida, trước giờ khai mạc, phòng họp vắng mặt gần như toàn thể các sĩ quan gốc trường Ðà Lạt của địa phương, gờn gợn không khí của buổi "huyết chiến", duy chỉ có Hổ, Cang, khoá 17, và anh Lê Minh Ngọc, khoá 16 đến với tôi và Vinh, (có lẽ nhóm nằm vùng biết được rằng, các anh là những người gần gũi thân thiết với tôi (khoá 1 , bởi cùng chung trường suốt thời gian dài, lại là huynh trưởng, chỉ huy trực tiếp tôi ở nhảy dù; anh Lê Minh Ngọc, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 7 Dù; Cang và tôi cùng Tiểu Ðoàn 9. Hệ quả của "vận động ngầm" không hạn chế trong nước Mỹ, mà kéo dài xuống đến Sydney, Melbourn ở Uøc; lên tới Montréal, Québec, Toronto, qua Paris, Luân Ðôn. Và không chỉ xẩy ra, gây tác động trong 1995, nhưng mãi đến 1996, 97, 98, và nếu như bây giơ, tôi lại "xuống đường", thì "tổ chức" cũng sẽ bắt đầu khởi động. Tháng 7, 1997 tại Bỉ, buổi nói chuyện của tôi với Thế Hệ Võ Bị Thứ Hai (các con em của Gia Ðình Võ Bị) không được kể vào chương trình sinh hoạt của Ðại Hội Võ Bị Liên Hội Tây Âu, thậm chí tên tôi không được ghi vào danh sách khách tham dự đại hội, dẫu đích thân Nguyễn Văn Giám, Khoá 19, người tổ chức đại hội đã qua Paris mời tôi đến Bỉ. III. Phần Kết. Tôi đã quá tuổi để bắt đầu một dự định mới, cho dẫu kế hoạch dự trù ấy cần thiết, cấp bách đến bao nhiêu, bởi thời gian còn lại không cho phép và việc chưa hoàn tất lại quá nhiềụ Ðồng thời hiểu rõ khả năng, khuynh hướng của bản thân có những hạn chế để không thể nào làm nhiều việc một lúc được. Nhưng bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại điển hình như LTChí kể trên (hiện tràn lan khắp cộng đồng Người Việt hải ngoại) quả thật không thể trì hoãn và khoan thứ, vì đây không là "liên hệ giữa những cá nhân", nhưng là sự tồn vong sinh mệnh chính trị của một tổng thể rộng lớn - Không phải chỉ khối Người Việt Miền Nam mà là toàn Việt Nam khổ nạn. Bởi chúng ta, Người Việt Không Cộng Sản, Không bao giờ là đảng viên cộng sản - đã lần lượt thua những trận quyết định liên quan đến vận mệnh toàn dân tộc, lần tháng 8, 1945, lần 20 tháng 7, 1954, và cuối cùng 30 tháng 4, 1975. Và nếu chúng ta không điều chỉnh sách lược (mà thật sự đang vô cùng thuận lợi và nhiều khả năng) để NHÌN RÕ ÐỊCH TÌNH thì e rằng khí thế của lần Cali Vùng Dậy Cờ Vàng 1999 sẽ trở nên vô ích, gây tàn lụi nguồn hy vọng bức thiết từ Xuân Lộc, Long Khánh, Thái Bình. Chúng ta sẽ mãi mãi là "Người Việt cay đắng xấu xí" trước mắt thế giới do âm mưu từ một kẻ nội thù hiễm độc. Nhưng, cũng phải nói rõ thêm một lần hay bao nhiêu lần mới đủ: Ðây là LỖI TỰ CHÚNG TA cứ sẵn khắc nghiệt cáo buộc, tranh chấp cùng nhau để rãnh tay cho kẻ thù đồng nghĩa tiếp tay kẻ nghịch, bức hại anh em, để cuối cùng bản thân ta đơn độc nguy khốn vì lẽ đã tự tay phá hũy vũ khí đoàn kết của chính mình. Phan Nhật Nam
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 10:04:39 GMT 9
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Phụ bản A 1. Giai đoạn hình thành 1951-1954. Nước Pháp thực dân bị sa lầy trong cuộc chiến với Việt Minh cộng sản 1946-1954, khi trở lại xâm chiếm Việt Nam ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ hai chấm dứt. Quốc Hội Pháp, vào trung tuần tháng 5/1950, đã thông qua dự luật thành lập một quân đội cho quốc gia Việt Nam thống nhất, với quân số 60.000 người để chiến đấu trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp. Như vậy, việc thành lập Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam xuất phát từ quyền lợi của nước Pháp thực dân, nhưng từ đó mà từng bước hình thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau này. Lần lượt các đơn vị được thành lập như sau: - Bắt đầu với Trường Sĩ Quan Việt Nam tại Huế năm 1948, sau đó chuyển lên Ðà Lạt tiếp nhận Trường Võ Bị Liên Quân Ðặc Biệt của Pháp, và đổi tên là "Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt". - Thiết Giáp 1/1/1951. - Truyền Tin 1/2/1951. - Quân Vận 1/5/1951. - Nhẩy Dù 1/8/1951. - Công Binh 1/9/1951. - Pháo Binh 1/11/1951. - Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, 12/1950. - Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Ðịnh, 12/1950. - Bộ Tổng Tham Mưu Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, 1/5/1952. Bản doanh là ngôi biệt thự ở đại lộ Trần Hưng Ðạo, Quận 5, Sài Gòn. Cuối giai đoạn hình thành 1950-1954, cũng là lúc lãnh thổ Việt Nam bị Hiệp Ðịnh Geneve 20/7/1954 chia làm hai quốc gia: từ vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo theo chế độ độc tài, từ vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam do Quốc Trưởng lãnh đạo theo chế độ tự do. Lúc bấy giờ Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam vào khoảng 200.000 người, gồm: Lục Quân. - Bộ Binh: 67 Tiểu Ðoàn. Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt. Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức (Trường Sĩ Quan Nam Ðịnh chỉ đào tạo khóa duy nhất vào năm 1951). Trung Tâm Huấn Luyện Quán Tre (tiền thân của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung). - Nhẩy Dù: 5 Tiểu Ðoàn với phiên hiệu 1, 3, 5, 6, 7. Tháng 9/1954, các Tiểu Ðoàn được tổ chức thành Liên Ðoàn Nhẩy Dù. - Thiết Giáp: 1 Trung Ðoàn Thám Thính, 5 Chi Ðội biệt lập, 1 Trung Tâm Huấn luyện. - Pháo Binh: 5 Tiểu Ðoàn với phiên hiệu 1, 2, 3, 4, 5. - Truyền Tin: 6 Ðại Ðội. - Công Binh: 6 Ðại Ðội. - Quân Vận: 6 Ðại Ðội. Không Quân. - 2 Phi Ðoàn quan sát và trợ chiến, trang bị phi cơ Morane Saulnier. Ngay trước cuối năm 1954, nhận thêm 39 phi cơ do Mỹ viện trợ qua trung gian của Pháp, gồm Cessna L19, phi cơ vận tải C45 và C47. Hải Quân. - 3 Hải Ðoàn Xung Phong, trang bị LCM và LCVP. - 3 Iiên Ðoàn Tuần Giang. - Một lực lượng com-măng-đô. Tuy không thuộc Hải Quân, nhưng khi chuyển vào Nam thì sáp nhập vào một tổ chức có tên là "Hải Quân Bộ Binh". Binh Chủng này là tiền thân của "Thủy Quân Lục Chiến" vào năm 1955. 2. Giai đoạn phát triển lần thứ nhất 1955-1967. Hạ tuần tháng 10/1955, sau cuộc trưng cầu ý dân với kết quả Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm trở thành Tổng Thống. Nước Việt Nam là một nước Cộng Hòa, gọi ngắn gọn là "Việt Nam Cộng Hòa". Cũng từ đây, tiêu đề trên các văn thư quân sự là "Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa". Với sự yểm trợ của Hoa Kỳ, một kế hoạch cải tiến được thực hiện, từ những đơn vị cấp Tiểu Ðoàn lên cấp Trung Ðoàn, Sư Ðoàn, trong một hệ thống tổ chức lớn hơn, chặt chẻ hơn, thống nhất trang bị, thống nhất chỉ huy, thống nhất huấn luyện. Tuy đã đình chiến, nhưng mãi đến đầu tháng 7/1955, Bộ Tổng Tham Mưu mới chánh thức chỉ huy toàn thể quân đội do Bộ Tư Lệnh Quân Viễn Chinh Pháp chuyển giao. Nửa đầu năm 1956, khi người lính viễn chinh cuối cùng của Pháp rời khỏi Việt Nam, Bộ Tổng Tham Mưu chuyển đến doanh trại bề thế hơn, khang trang hơn, tọa lạc gần cổng vào phi trường Tân Sơn Nhất. Trước mặt là đường Võ Tánh nối dài, sau lưng là đường Võ Di Nguy. Vậy là, trang sử nước Việt Nam thuộc địa của Pháp, được khép lại từ đây. Giữa năm 1964, quân đội gồm Hải Quân, Lục Quân, Không Quân, Ðịa Phương Quân, và Nghĩa Quân, dưới danh xưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và cuối giai đoạn phát triển, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vào khoảng 650.000 người, gồm: Lục Quân. - Bộ Binh. Năm 1955-1956, thành lập 4 Sư Ðoàn Dã Chiến (phiên hiệu 1, 2, 3, 4), và 6 Sư Ðoàn Khinh Chiến (phiên hiệu 11, 12, 13, 14, 15, 16). Năm 1957-1959, 10 Sư Ðoàn này được tổ chức lại thành 7 "Sư Ðoàn Bộ Binh". Quân số mỗi Sư Ðoàn là 10.500 người, bằng 2 lần quân số Sư Ðoàn Khinh Chiến. Các Sư Ðoàn Bộ Binh với phiên hiệu 1, 2, 5, 7, 21, 22, 23. Những năm sau đó, Sư Ðoàn 9, 18, và 25 Bộ Binh được thành lập. Cộng chung là 10 Sư Ðoàn Bộ Binh. Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I, II, III, và IV, lần lượt hình thành với trách nhiệm an ninh toàn lãnh thổ. - Nhẩy Dù. Năm 1962, Liên Ðoàn được phát triển lên cấp Lữ Ðoàn, và tiếp tục phát triển thành Sư Ðoàn Nhẩy Dù vào cuối giai đoạn. - Biệt Ðộng Quân. Binh Chủng được thành lập năm 1960 với cấp Ðại Ðội. Ngay trong nửa đầu năm 1960, đã hoàn tất 50 Ðại Ðội và hoạt động sâu trong vùng thường ghi nhận có địch. Năm 1963 lên đến 86 Ðại Ðội. Dần dần hình thành các bộ chỉ huy Tiểu Ðoàn bên cạnh các Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn/Vùng Chiến Thuật, với các phiên hiệu 11, 21, 22, 31, 32, 33, và 41. - Thiết Giáp. Một số đơn vị trước 1954 cộng với một số mới thành lập, Binh Chủng này có 4 Trung Ðoàn Kỵ Binh Thiết Giáp được trang bị thám thính xa, chiến xa M24. Ngoài ra còn có 1 Liên Ðoàn Thủy Xa. Năm 1963, sau thời gian trắc nghiệm tại Sư Ðoàn 7 và Sư Ðoàn 21 Bộ Binh thành công, Thiết Giáp được trang bị thiết vận xa M113 và M114. Năm 1964-1965, chiến xa M41 thay thế chiến xa M24 và thám thính xa V100 thay thế thám thính xa M8 lỗi thời. - Pháo Binh. Năm 1955, Pháo Binh có 9 Tiểu Ðoàn với phiên hiệu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 12, 32, 34. Năm sau đó, thành lập thêm Tiểu Ðoàn 23 và 25. Ðồng thời Tiểu Ðoàn 34 Pháo Binh là đơn vị đầu tiên được trang bị đại bác 155 ly. Theo đà bành trướng chiến tranh của quân cộng sản, Pháo Binh trong tổ chức mỗi Sư Ðoàn Bộ Binh có 2 Tiểu Ðoàn Pháo Binh 105 ly được trang bị 18 khẩu cho mỗi Tiểu Ðoàn (thay vì trước đó là 12). - Lực Lượng Ðặc Biệt, được thành lập vào những năm cuối giai đoạn, với nhiệm vụ hoạt động dọc biên giới Việt Nam-Cam Bốt và Việt Nam-Lào. Vì là "nhiệm vụ đặc biệt", nên tổ chức không theo khuôn mẫu các binh chủng khác. A là đơn vị nhỏ nhất, từ những căn cứ trong rừng dọc biên giới hoặc những hành lang mà quân cộng sản dùng xâm nhập, xuất phát thu thập tin tức hoặc tấn công địch. B gồm nhiều A. Và C, là bộ chỉ huy đặt cạnh Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn/Vùng Chiến Thuật. Không Quân. Năm 1955, tiếp nhận căn cứ Nha Trang và đổi tên là "Căn Cứ Trợ Lực Không Quân số 1". Năm 1956, tiếp nhận căn cứ Tân Sơn Nhất và căn cứ Biên Hòa. Cả hai đổi thành "Căn Cứ Trợ Lực Không Quân số 2" và "số 3". Ðến cuối năm 1958, Không Quân có 7 Phi Ðoàn, gồm: 1 Phi Ðoàn khu trục, 2 Phi Ðoàn liên lạc, 2 Phi Ðoàn vận tải, 1 Phi Ðoàn trực thăng, và 1 Phi Ðoàn đặc vụ. Từ 1961 đến 1964, Hoa Kỳ liên tục cung cấp nhiều loại phi cơ, nhất là khu trục cơ AD6, trực thăng H34. Ðơn vị tác chiến và yểm trợ tác chiến, được phát triển lên cấp Không Ðoàn tại mỗi Vùng Chiến Thuật, với phiên hiệu và đồn trú như sau: - Không Ðoàn 41, Ðà Nẳng. - Không Ðoàn 62, Plei Ku. - Không Ðoàn 23, Biên Hòa. - Không Ðoàn 33, Tân Sơn Nhất. - Không Ðoàn 74, Cần Thơ. Năm cuối của giai đoạn này, có 1 Phi Ðoàn khu trục được trang bị phản lực cơ F5. Phiên hiệu của các đơn vị xếp thành 3 số. Theo đó, số hàng trăm để chỉ công dụng của đơn vị, như: số 1 là liên lạc, số 2 là trực thăng, số 3 là đặc vụ, số 4 là vận tải, số 5 là khu trục, số 7 là quan sát, số 8 là hỏa long, và số 9 là huấn luyện. (không thấy nói đến số 6) Hải Quân. Năm 1955, Quân Chủng này có một lực lượng tác chiến với 24 chiến hạm, hơn 110 chiến đỉnh, trong tổ chức 5 Hải Ðoàn và 1 Hải Lực. Năm 1959, Lữ Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến tách ra khỏi Hải Quân để trở thành lực lượng tổng trừ bị. Hải Quân lần lượt tiếp nhận tàu chiến từ Hải Quân Hoa Kỳ: - Năm 1956 đến 1963, gồm 31 chiến hạm với 193 chiến đỉnh. - Năm 1964 đến 1967, gồm 9 chiến hạm và hằng trăm ghe xi-măng gắn máy Yabuta thay ghe buồm của lực lượng Hải Thuyền. Do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bành trướng chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, một số quốc gia Ðồng Minh đưa quân đến cùng chúng ta chiến đấu chống quân cộng sản. Ðó là Hoa Kỳ, Ðại Hàn, Úc Ðại Lợi, Phi Luật Tân, Thái Lan, Tân Tây Lan. 3. Giai đoạn phát triển cao điểm 1968-1975. Cuối tháng 1/1968, quân cộng sản mở cuộc tổng tấn công vào thủ đô Sài Gòn, cố đô Huế, và hơn 30 tỉnh lỵ trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, tuy bị tấn công bất ngờ vì là hai bên đơn phương tuyên bố ngưng bắn nhân những ngày Tết Mậu Thân, nhưng quân cộng sản đã bị đánh bại hoàn toàn tại tất cả các thành phố tỉnh lỵ. Trong trận chiến này, cho thấy lực lượng cộng sản được khối cộng sản quốc tế trang bị vũ khí mới, nên Hoa Kỳ thực hiện chương trình tối tân hóa quân dụng cho Việt Nam Cộng Hòa. Bắt đầu là lực lượng tổng trừ bị, dần dần đến toàn bộ Hải Lục Không Quân. Hội Nghị quốc tế về Việt Nam họp tại Paris, Pháp quốc, từ nửa cuối năm 1968 đến đầu năm 1973, một Hiệp Ðịnh hình thành mà theo đó các quốc gia Ðồng Minh rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa. Chính phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ đã dẫn đến Hội Nghị Paris. Ðằng sau của Hiệp Ðịnh là chương trình "Việt Nam Hóa Chiến Tranh", theo đó thì Hoa Kỳ để lại đa số quân dụng giúp trang bị cho các đơn vị gấp rút thành lập thay thế phần nào mà các đơn vị Ðồng Minh rút khỏi Việt Nam. Trọng tâm là phát triển Không Quân, Hải Quân, Thiết Giáp, và Pháo Binh. Vào cuối giai đoạn này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với quân số lý thuyết 1.100.000 người, gồm: Cơ quan trung ương. Bộ Tổng Tham Mưu với đầy đủ các cơ quan, binh chủng, và binh sở trong hệ thống quản trị hành chánh, nhân viên, huấn luyện, chiến tranh chính trị, tiếp vận. Riêng ngành Tiếp Vận có khả năng sửa chữa và tân trang toàn bộ quân dụng chung, do Lục Quân Công Xưởng, các Căn Cứ 10 Quân Nhu, 40 Công Binh, 50 Ðạn Dược, 60 Truyền Tin, 90 Tồn Trử Sửa Chữa Dù, và các Trung Tâm Bảo Toàn trách nhiệm. Quân dụng chung là quân dụng thuộc Lục Quân quản trị, nhưng có trang bị trong Hải Quân và Không Quân. Lục Quân. Chỉ huy, tác chiến, và yểm trợ tác chiến, có: - 4 Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn và các đơn vị yểm trợ trực thuộc. - 11 Sư Ðoàn Bộ Binh (Sư Ðoàn 3 Bộ Binh thành lập tháng 10.1971). - 1 Sư Ðoàn Nhẩy Dù. - 1 Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến. - 1 Liên Ðoàn Biệt Cách Dù. - Hơn 20 Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân. - 4 Lữ Ðoàn Kỵ Ninh Thiết Giáp. - Lực Lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ Thuật. - Các đơn vị Pháo Binh biệt lập. - Và lực lượng Ðịa Phương Quân Nghĩa Quân (chiếm khoảng 1/2 quân số). Vào những ngày cuối tháng 4/1975, Sư Ðoàn 106 Biệt Ðộng Quân được thành lập bằng cách kết hợp 3 Liên Ðoàn của binh chủng này, cùng với đơn vị Thiết Giáp và Pháo Binh. Sư Ðoàn có nhiệm vụ tổ chức tuyến phòng thủ Phú Lâm, cửa ngỏ vào thủ đô Sài Gòn từ hướng tây nam. Không Quân. Quân số hơn 60.000, tổ chức tổng quát gồm: - 1 Bộ Tư Lệnh với đầy đủ các cơ quan và binh sở yểm trợ. - 5 Sư Ðoàn tác chiến. - 1 Sư Ðoàn vận tải. - 1 Không Ðoàn Tân Trang & Chế Tạo. Chỉ trong năm 1973, tiếp nhận hơn 900 phi cơ, gồm: 560 trực thăng, 230 khu trục, 100 vận tải, và các loại khác. Trong tổ chức 6 Sư Ðoàn Không Quân, có số lượng các Phi Ðoàn như sau: - 20 Phi Ðoàn khu trục, trang bị khoảng 550 phi cơ A1H, A37, và F5. - 23 Phi Ðoàn trực thăng, trang bị khoảng 1000 phi cơ UH1 và CH47. - 8 Phi Ðoàn quan sát, trang bị khoảng 200 phi cơ O1, O2, và U17. - 9 Phi Ðoàn vận tải, trang bị khoảng 150 phi cơ. C7, C47, C119, và C130. - Và 4 Phi Ðoàn Hỏa Long, trang bị phi cơ AC119 (không rõ số lượng). Ngoài ra còn có các Phi Ðoàn trắc giác (tình báo kỹ thuật), Phi Ðoàn quan sát RC119L, và Biệt Ðoàn đặc vụ 314. Hải Quân. Ðầu năm 1969, Hải Quân liên tiếp tiếp nhận tàu chiến từ các Giang Ðoàn 91, 533, 534, 574, và 591 của Hải Quân Hoa Kỳ chuyển giao. Với quân số hơn 40.000, ngoài các đơn vị yểm trợ hành chánh, nhân viên, huấn luyện, tiếp vận (có Hải Quân Công Xưởng), Hải Quân tổ chức thành 3 lực lượng tác chiến: - Hành quân lưu động sông, với 14 Giang Ðoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh. - Hành quân lưu động biển, với 1 Hạm Ðội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận hạm, và giang vận hạm. - Các Lực Lượng đặc nhiệm 211 thủy bộ với 6 Giang Ðoàn, 212 tuần thám với 12 Giang Ðoàn, 214 trung ương với 6 Giang Ðoàn, và Liên Ðoàn Người Nhái. (Tôi nhớ có Lực Lượng Ðặc Nhiệm 213, nhưng trên tài liệu thì không thấy) Tóm tắt. Ðến ngày sụp đổ 30 tháng 4 năm 1975, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có: - Hơn 1.000.000 quân. - Khoảng 2 triệu khẩu súng cầm tay. - 1.200 xe chạy xích, kể cả chiến xa M48. - Hơn 1.000 khẩu đại bác từ 105 xe kéo đến 175 ly cơ động. - 40.000 xe chạy bánh. - Hơn 1.600 chiến hạm chiến đỉnh. - Hơn 2.000 phi cơ.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 10:05:48 GMT 9
Phụ bản B
Giải thích các sơ đồ
(1) Quân Ðội. Quân số lý thuyết 1.100.000 quân, với khoảng 150.000 công chức quốc phòng.
(2) Ðơn vị đặc biệt của Bộ Tổng Tham Mưu là Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù và Nha Kỹ Thuật (xâm nhập hoạt động trong vùng địch)
(3) Tổng Cục Tiếp Vận. Là cơ quan tham mưu của Bộ Tổng Tham Mưu, vừa là cơ quan chỉ huy các ngành Quân Cụ, Quân Nhu, Quân Vận, Quân Y, Quân Tiếp Vụ, Truyền Tin, Công Binh, Mãi Dịch, Trường Tiếp Vận, Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân, Trung Tâm Ðiện Toán Tiếp Vận.
(4) Phòng 1. Quản trị quân nhân theo chỉ số. Cơ quan trực thuộc là các Phòng Tuyển Mộ & Nhập Ngũ tại các địa phương.
(5) Phòng 2. Tình báo quân sự, với các cơ quan trực thuộc: Trường Quân Báo, Trung Tâm Khai Thác Tài Liệu, Trung Tâm Khai Thác Chiến Cụ, Trung Tâm Thẩm Vấn Tù Binh, Trung Tâm Giải Ðoán Không Ảnh, và Ðơn Vị 101 (tình báo chìm)
(6) Phòng 3. Tổ chức và hành quân, có Trung Tâm hành Quân.
(7) Phòng 6. Truyền Tin & Ðiện Tử, với Tiểu Ðoàn Truyền Tin/Tổng Tham Mưu, và Ðơn Vị 15 (kiểm thính vô tuyến).
(8) Phòng 7. Tình báo kỹ thuật, có Biệt Ðội Kỹ Thuật với phi cơ L20 trang bị hệ thống máy điện tử săn tìm các sóng vô tuyến của quân cộng sản.
(9) Phòng Tổng Quản Trị. Quản trị quân nhân theo chỉ danh, với các cơ quan trực thuộc: Trung Tâm Ðiện Toán Nhân Viên, Trung Tâm Ấn Loát Ấn Phẩm, Trung Tâm Quân Bưu, Trung Tâm Văn Khố.
(10) Cục Truyền Tin, với các đơn vị trực thuộc: Căn Cứ 60, tân trang các loại máy liên hệ, Trung Tâm Qui Chuẩn Lục Quân, và Trường Truyền Tin về chuyên môn.
(11) Cục Công Binh, với các đơn vị trực thuộc: Căn Cứ 40, tân trang các loại máy liên hệ, 4 Liên Ðoàn Công Binh Chiến Ðấu, 4 Liên Ðoàn Công Binh Kiến Tạo, và Trường Công Binh về chuyên môn.
(12) Cục Quân Cụ, với các đơn vị trực thuộc: Lục Quân Công Xưỡng tân trang các loại quân dụng liên hệ, Căn Cứ 50 Tồn Trữ Ðạn Dược, Trung Tâm Thâu Hồi Quân Dụng, và Trường Quân Cụ.
(13) Cục Quân Nhu, với các đơn vị trực thuộc: Trung Tâm Khảo Sát Kỹ Thuật, Căn Cứ 10 Tồn Trữ Thực Phẩm Quân Trang, Căn Cứ 30 Tồn Trữ Nhiên Liệu, Căn Cứ 90 Tồn trữ và Tiếp Tế Thả Dù, và Trường Quân Nhu.
(14) Cục Quân Vận, với Liên Ðoàn 10 Vận Tải tổng trừ bị, các Giang Ðoàn Vận tải, Giang Ðoàn Sửa Chữa, Quân Cảng Sài Gòn.
(15) Cục Quân Y, với các đơn vị: Căn Cứ 70 Tồn Trữ Y Dược, Tổng Y Viện Cộng Hòa, Tổng Y Viện Duy Tân, và các Quân Y Viện.
(16) Cục Quân Tiêp Vụ, với các đơn vị; Kho trung ương, và một hệ thống các Trung Tâm Bán Lẻ.
(17) Ðồn trú của các Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận (BCH/TV):
- BCH1TV: Ðà Nẳng, yểm trợ các đơn vị đồn trú lãnh thổ Quân Ðoàn I.
- BCH2TV: Qui Nhơn, yểm trợ các đơn vị đồn trú lãnh thổ Bắc Quân Ðoàn II.
- BCH3TV: Biên Hòa, yểm trợ các đơn vị đồn trú lãnh thổ Quân Ðoàn III.
- BCH4TV: Cần thơ, yểm trợ các đơn vị đồn trú lãnh thổ Quân Ðoàn IV.
- BCH5TV: Cam Ranh, yểm trợ các đơn vị đồn trú lãnh thổ Nam Quân Ðoàn II.
(18) Hệ thống chỉ huy yểm trợ các đơn vị.
(19) Hệ thống quản trị nhân viên, tiếp liệu, sửa chữa, và vận chuyển.
(20) Cung cấp tiếp liệu quân dụng các loại.
(21) Sửa chữa quân dụng hư hỏng cấp 3 và cấp 4.
(22) Hệ thống sửa chữa quân dụng có 5 cấp:
- Cấp 1: người sử dụng trách nhiệm (tức tài xế)
- Cấp 2: cơ xưỡng của đơn vị trách nhiệm.
- Cấp 3 và 4: các Trung Tâm Bảo Toàn Trung Hạng trực thuộc các Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận trách nhiệm.
- Cấp 5 hay tân trang: Lục Quân Công Xưởng, Căn Cứ 40 Công Binh, Căn Cứ 60 Truyền Tin, trách nhiệm.
(23) Bộ Chỉ Huy Quân Vận cạnh các Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận, có: Quân Cảng, các Giang Ðoàn Vận tải, Liên Ðoàn Vận Tải (đường bộ).
(24) Các Liên Ðoàn Quân Nhu, có: Các Kho Thực Phẩm Quân Trang, các Kho Nhiên Liệu.
(25) Các Liên Ðoàn Ðạn Dược, có các kho đạn và chất nổ.
(26) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, đào tạo Sĩ Quan trừ bị.
(27) Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, đào tạo Sĩ Quan hiện dịch có trình độ đại học.
(28) Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, đào tạo cấp chỉ huy Tiểu Ðoàn, Trung Ðoàn, Sư Ðoàn. (Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng, đào tạo cấp lãnh đạo các ngành sinh hoạt quốc gia, trực thuộc Bộ Quốc Phòng)
(29) Các trường chuyên môn, đào tạo sĩ quan và chuyên viên cho các binh chủng binh sở.
(30) Trường Hạ Sĩ Quan, đào tạo Hạ Sĩ Quan (xương sống của quân đội).
(31) Các Trung Tâm Huấn Luyện, đào tạo chiến binh.
(32) Ðồn trú của các Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn:
- Quân Ðoàn I: Ðà Nẳng.
- Quân Ðoàn II: Plei Ku.
- Quân Ðoàn III: Biên Hòa.
- Quân Ðoàn IV: Cần Thơ.
(33) Pháo Binh Quân Ðoàn, có:
- Ðại bác 105 ly xe kéo.
- Ðại bác 155 ly xe kéo.
- Ðại bác 175 ly cơ động.
- Ðại bác phòng không.
(34) Thiết Giáp Kỵ Binh Quân Ðoàn, có:
- Thiết Vận Xa M113.
- Chiến Xa M41.
- Chiến Xa M48.
(35) Lực lượng tại mỗi Tiểu Khu, có:
- Ðịa Phương Quân.
- Nghĩa Quân.
- Chi Ðội Thám Thính.
- Các Trung Ðội Pháo Binh diện địa.
- Giang Ðội vận tải
- Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận.
(36) Ðồn trú của các Sư Ðoàn:
- Sư Ðoàn 1 Bộ Binh: Huế.
- Sư Ðoàn 2 Bộ Binh: Quảng Ngãi.
- Sư Ðoàn 3 Bộ Binh: Ðà Nẳng.
- Sư Ðoàn 5 Bộ binh: Lai Khê, Bình Dương.
- Sư Ðoàn 7 Bộ Binh: Mỹ Tho.
- Sư Ðoàn 9 Bộ Binh: Sa Ðéc.
- Sư Ðoàb 18 Bộ Binh: Xuân Lộc, Long Khánh.
- Sư Ðoàn 21 Bộ Binh: Bạc Liêu.
- Sư Ðoàn 22 Bộ Binh: Qui Nhơn.
- Sư Ðoàn 23 Bộ Binh: Ban Mê Thuột.
- Sư Ðoàn 25 Bộ Binh: Củ Chi, Hậu Nghĩa.
- Sư Ðoàn Nhẩy Dù: Sài Gòn.
- Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến: Sài Gòn.
(37) Pháo Binh Sư Ðoàn, có:
- 3 Tiểu Ðoàn với đại bác 105 ly.
- 1 Tiểu Ðoàn với đại bác 155 ly.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 10:14:25 GMT 9
TIỂU ĐOÀN 5 NHẢY DÙ, 1972: TRẤN THỦ BÌNH LONG - THƯỢNG KỲ QUẢNG TRỊ Chân thành cổ chất đầy xương máu
Anh hùng ôm nỗi hận thiên thu.Đ-C-V. Xin cùng tôi thắp nén hương lòng tưởng niệm các anh hùng tử sĩ của Tiểu đoàn 5 Nhảy dù QLVNCH trên chiến trường
An Lộc-Quảng Trị 1972. Tưởng nhớ đích thân “Minh Hiếu”
Việt-Long (GĐMĐ/D.C.)
Lời tác giả: Bài này được trình bày như một bút ký chiến tranh của một chiến binh Nhảy dù, QLVNCH, xoay quanh những trải nghiệm cá nhân cùng những dữ kiện được tổng hợp, gạn lọc và tóm lược từ lời thuật của một số sĩ quan thực sự tham chiến. Thêm vào đó, chiếm một phần không nhỏ để trình bày bối cảnh của trang chiến sử, là phần tóm lược một tài liệu liên quan và một số hình ảnh trên website chính thức của Sư đoàn Nhảy Dù QLVNCH, nhaydu.com. Hầu hết những tài liệu trên website này do hai cựu sĩ quan Nhảy Dù dày công thu thập và tổng hợp, biên soạn một cách nghiêm chỉnh và trung thực, đại uý Võ Trung Tín, Tiểu đoàn truyền tin, và đại uý Nguyễn Lưu Viên, Tiểu đoàn 3 Nhảy dù. Mong hai “đích thân” nhận nơi đây lời cám ơn chân thành của tác giả, người đang làm phụ công việc của hai anh, là ghi nhận để lưu giữ và phổ biến những dữ liệu chân thực của cuộc chiến đấu của Đoàn quân Mũ đỏ QLVNCH. Tái chiếm Quảng Trị : Hành Quân Lam Sơn 72 28/6/1972 là ngày N của kế hoạch phản công tái chiếm Quảng Trị do trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐI, dày công 4vietnam.org/vne/2010/BanDocViet/Tailieu/VietLong/tieudoan5_nhaydu-01_files/image003.gifthiết kế, sau khi ông tổ chức xong một Trung tâm phối hợp hoả lực có khả năng điều động và phối hợp toàn bộ hoả lực yểm trợ của các đơn vị Hoa kỳ và Việt Nam. Lực lượng tham chiến gồm có SÐND làm nỗ lực chính, SÐTQLC tấn công cánh phải, Thiết Ðoàn7KB tăng phái, LÐ1BÐQ và SÐIBB trừ bị và bảo vệ hậu tuyến. SÐIBB bung rộng sang vùng tây Huế, tái chiếm các căn cứ trong khu vực thung lũng Ashau. Trung Ðoàn 57BB hành quân bảo vệ địa bàn Quảng Nam. SĐ3BB trấn ngự chung quanh Đà Nẳng. Thành phần trừ bị gồm Trung Ðoàn 4/2BB, Trung Ðoàn 51 và Thiết Ðoàn 17KB. Sư Đoàn Nhảy Dù khởi động chiến dịch Lôi Phong: Ngày N-2 và N-1: không tập toàn diện bằng tất cả hỏa lực của Việt Nam và đồng minh: B52, hải pháo, hoà lực không quân chiến thuật của Việt Nam và hạm đội 7, toàn thể pháo binh của ba sư đoàn tham chiến, nhắm vào các vị trí tập trung quân, kho tàng cơ giới và vị trí pháo binh địch. Thêm vào đó là một kế hoạch nghi binh bằng một lực lượng Nhảy Dù chuẩn bị nhảy xuống Cam Lộ, cùng lúc TQLC đổ bộ vào cửa Việt để cắt đường tiếp vận của đối phương. Kế hoạch này nhằm đánh lạc hướng chú tâm phòng thủ của địch. Ngày N. Lấy QL1 làm trục tiến quân, hai đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH tiến song song: SÐND bên trái, SÐ/TQLC bên phải, TĐ7KB tăng phái,. Hằng vạn quân rải từ bờ biển đến tận chân dãy Trường Sơn. Mục tiêu: cổ thành Quảng Trị. Theo kế hoạch, SĐND sẽ được trực thăng vận qua sông Mỹ Chánh rồi dàn quân tấn công về hướng Bắc. Nhưng 5.00 giờ chiều ngày N-1, Trung Tướng Dư Quốc Đống, tư lệnh SĐND, bất ngờ thay đổi lệnh hành quân . 3.00 giờ sáng ngày N, 28/6, 3 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù thuộc quyền BCH/Lữ Đoàn 3 âm thầm vượt sông Mỹ Chánh. TÐ2ND do Thiếu Tá Nguyễn Ðình Ngọc chỉ huy đi cánh trái, TÐ1ND do tân Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Hồng chỉ huy đi giữa và TÐ3ND do Thiếu Tá Trần Văn Sơn làm Tiểu Ðoàn Trưởng đi cánh phải. Tất cả súng phòng không của CSBV ở bên kia bờ sông sẵn sàng chĩa mũi lên trời dàn chào các “Thiên Thần Sát Địch” bằng lửa địa ngục của quỷ. Nhưng bất ngờ, hằng ngàn quân mũ đỏ nổ súng tấn công ngay các vị trí chỉ huy và phòng ngự của VC. TÐ2ND đánh thẳng vào BCH Trung Ðoàn 203 chiến xa của VC. TÐ1ND xung trận tiêu diệt hết các vị trí phòng không, tịch thu 14 súng phòng không 12.7 ly và 37 ly, 2 đại bác 57 ly phòng không, bắt sống 5 tù binh. TÐ3ND đi cánh phải chiếm vùng Lương Ðiền, Tân Tường, Trường Vinh đến tận phía Nam sông Ô-Khê để bảo vệ bãi đáp cho 2 TÐ9ND và TÐ11ND. Sau đó TÐ3ND tiến về phía Bắc quét sạch các chốt địch dọc theo Quốc Lộ I (Ðại Lộ Kinh Hoàng) rồi hướng mũi dùi qua phía Ðông tái chiếm Quận Hải Lăng. Bản đồ chiến trường Quảng Trị (courtesy of NHAY DU VIETNAM web nhaydu.com) Lữ Đoàn I Nhảy Dù xung trận: Sáng ngày 2/7/1972, Trung Tá Lê Văn Ngọc tân LÐT/LÐIND chỉ huy 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù gồm: TÐ9ND (Trung Tá Trần Hửu Phú TÐT), TÐ11ND (Thiếu Tá Lê Văn Mễ) và TĐ7ND (Thiếu Tá Trần Đăng Khôi TĐT) giữ trách nhiệm lùng quét địch trên trục phía Tây dưới chân dãy Trường Sơn, từ phía Bắc sông Mỹ Chánh qua sông Nhung đến La Vang, quét dọc theo bờ sông Thạch Hản rồi vào thị xã Quảng Trị. TÐ9ND và TÐ11ND được trực thăng vận đổ xuống phía Bắc Sông Nhung, tiến song song diệt từng dãy chốt liên hoàn trên những dãy đồi trọc không một bóng cây, dưới ánh nắng cháy da của mùa hè đỏ lửa. TÐ9ND chia quân thành 2 cánh tiến đánh vùng Tân Lê Phước Môn, tất cả 4 ÐÐT đều bị thương vì pháo địch. Ðại Úy Ngưu ÐÐT94 tử thương tại Tân Téo. TÐ11ND là trục chính của cuộc tiến quân, từ Hải Lâm chia làm 2 cánh tiến chiếm mục tiêu nhà thờ La Vang, “Song kiếm trấn ải” (hai con số 1 song song) dàn quân phục kích một đoàn chiến xa BTR85 và PT76 chuyển quân của địch ngược chiều trên QL1. Sau 2 giờ quần thảo, chiến xa địch quay đầu bỏ chạy, hoảng loạn khi qua cầu. dồn đè lên nhau lật xuống sông. Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trần Đăng Khôi làm TĐT được trực thăng vận xuống khu vực nhà thờ La Vang, lập tức tấn công bắn cháy 2 chiến xa T54 bố trí trước sân nhà thờ, làm chủ tình thế sau 3 giờ kịch chiến. Trưa 7/7, TÐ3ND tấn công vào quận đường Hải Lăng sau 5 ngày bứng chốt. ÐÐ33ND xung phong, địch tháo chạy về hướng Bắc, quận đường Hải Lăng về tay ta lúc 4.00 giờ chiều. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù giã từ An Lộc, hẹn với Cổ Thành: Ba Tiều đoàn Nhảy dù 5,6,8 thuộc BCH/Lữ đoàn 3 dưới quyền Đại tá Lê Quang Lưỡng tăng cường cho mặt trận Bình Long-An lộc, sát vai cùng nhiều đơn vị bạn quần thảo với trên 3 sư đoàn cộng quân từ trung tuần tháng 4 đến cuối tháng 6/1972. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù dưới quyền Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu,“Minh Hiếu”, từ An Lộc trở về căn cứ Ngô Xuân Soạn ở Tam Hiệp lúc gần cuối tháng 6. Tôi, lúc đó là trung uý Nguyễn Tiến Việt, “Đại Cồ Việt”, lên làm đại đội trưởng đại đội 51 trong An Lộc từ khi đại uý Trương đăng Sỹ “Sỹ Biên” bị thương, di tản. Lúc lên đường hành quân, đại đội 51 chất đầy 5 chiếc GMC, anh Sỹ và truyền tin đi xe Jeep. Cả tiểu đoàn hùng binh mũ đỏ, quân phục láng o, súng sạch đẹp như ngày khám xét, ngồi chật 30 xe quân vận, chưa nói đến xe tăng và pháo binh cùng cả một lữ đoàn hành quân bộ, khí thế đổ thành nghiêng nước. Một lần xuống xe lúc nửa đường tới Chơn Thành, một đợt tấn công, bóng dáng nhỏ thó của thiếu tá tiểu đoàn phó Lê Hồng đứng sừng sững trên mặt đường nhựa trong làn mưa đạn địch phất bản đồ thúc xung phong, hai đại đội 53,54 tung 200 quân hàng ngang tràn qua mặt đường như sóng vỡ bờ, diệt liên hoàn chốt gần 100 VC đóng sát quốc lộ 13, đếm trên 40 xác cộng quân và vô số vũ khí. Trực thăng võ trang UH-1B còn đuổi tàn quân VC tuốt trong rừng sâu, rocket, đại liên bắn xoẹt đùng tắc tắc như trống múa lân. Sau đó là trận phản phục kích bắc Chơn Thành trên QL13, rồi gần ba tháng trường đánh trộn trấu vùi dập với địch quân quanh An Lộc và trong thành phố. Đổ trực thăng xuống chân đồi Gió hôm 17 tháng 4, sáng hôm sau TĐ5ND nhắm hướng tây hành quân vào An Lộc. Địch phục kích chặn đánh trong rừng cao su, bị đẩy lui lập tức. Tiểu đoàn chia đôi đóng thế ỷ dốc trên hai đồi cách thành phố chừng 2 km hướng đông nam. Đêm xuống hai trung đoàn địch tấn công. Trung uý cố vấn Cover gọi smart bomb 500 pound thả một trái một sát tuyến đại đội 51, dập tắt ngầm đợt xung phong của tiểu đoàn địch. Sáng ra đếm 30 xác sát tuyến và vô số súng ống. Vừa thu dọn rút về hướng tiểu đoàn, qua con suối giữa, thì địch gom một đại đội quay lại bất ngờ quật một mũi vu hồi. Khá khen cho địch quân thiện chiến, nhưng các con xung phong đông như kiến vào vị trí trống, lãnh M79 tơi bời, chạy ra không kịp. Lực lượng chính xung phong vào tuyến tiểu đoàn. “Minh Hiếu”, “Chí Bệu” (trưởng ban 3) đứng thẳng trên nóc hầm điều chỉnh air show. Phản lực và Cobra Mỹ luân phiên từng pass một đánh bom và rocket theo hướng thẳng góc với nhau block hai mặt tiểu đoàn, nhuyễn chưa từng thấy. Quân ta đứng nhìn VC chạy bom xuống suối, thì Cobra tọc tọc xịt rocket xoẹt đùng dọc lòng suối cạn. Quân ta ôm súng há mỏ sau cây cao su nhìn VC sinh Bắc tử Nam không đếm kịp. Địch tung xác đầy rừng, nhưng tiểu đoàn chưa lấy được bao nhiêu súng thì đã vội rút chạy marathon vào An Lộc, bỏ cả nồi niêu xoong chảo: B-52 trên đường bay tới đánh mục tiêu. Đến cạnh nam thành phố nhìn sang Xa Cam, chưa kịp đào hầm hố thì VC pháo kích, tấn công. Quân ta của hai đại đội 53,54 bám gốc cao su chống trả, may sao cối 82 pháo trật, ta lấn ra và tung quân phản xung phong truy kích. Đại uý Dũng 54, “Dũng Sĩ” hy sinh ngay trận này. Ba đại đội 50, 52, 53 tổn thất nặng trong rừng cao su Xa Cam Xa Cát trong vòng nửa tháng. Tiểu đoàn phó Lê Hồng đã trúng thương trong trận đoạn chiến ở QL13 trên đường tới Tàu Ô. Năm đại đội trưởng, thì Dũng Sĩ 54 hy sinh, Từ Khánh Sinh 50, “Sỹ biên” 51 và Hồ Tường 52 bị thương, đều bị ở Xa Cam Xa Cát. ĐĐT53 Hải Thần cũng cùng số phận. 50, 52, 53 gom lại chưa bằng một đại đội lúc nhập trận, phải ở cạnh BCH tiểu đoàn làm trừ bị cuối. Bồ Tát Quán Thế Âm, phải, chỉ có Ngài, đã ban phép lạ cho tôi đứng đội trời tới phút chót, sau hơn chục lần rách áo, thủng quần, đạn bứt quai nón sắt, mà chỉ xây sát chưa đủ báo cáo chiến thương, trong khi đồng đội ngã như rạ ở xung quanh. Đại đội 51 của tôi và 54 của trung uý Nguyễn Vũ Dương chỉ còn mỗi đơn vị từ 40 đến 60 quân khiển dụng, dựa nhau đội pháo đạp mìn đánh giặc, giải toả và giữ vững phòng tuyến nhà thương An Lộc ở phía tây, đối diện ty công chánh và toà nhà cải huấn kiên cố cách đó chừng 500 mét, bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch. Sau lúc trình diện đại tá Lê quang Lưỡng trong compound của tướng Nhựt, tôi và Dương dẫn đại đội đội pháo chạy qua ty cảnh sát và nhiều dãy phố đổ nát còn dính đầy máu vì pháo kích, vượt qua bộ tư lệnh chiến trường, nhắm tới nhà thương và ty công chánh. Tôi được chọn vị trí, bèn chọn phòng thủ chính diện hướng tây, làm tấm khiên thép cho bộ tư lệnh của tướng Lê Văn Hưng. Compound chỉ huy chiến trường của vị tướng anh hùng chỉ cách một con phố nhỏ phía sau. Dương thủ vị trí trừ bị bên trái. Một đêm 700 trái 105mm và 155mm toàn đạn delay từ hướng Cần Lê phóng về, ù ù vèo vèo sát mái tôn bệnh viện bên tôi tưởng chừng tốc mái, nhưng rớt qua nổ chìm sập nhà tơi bời bên Dương, Dương bị đè vẹo xương sống, không chịu knock-out, quỷ thần đếm chưa tới 10 đã lồm cồm bò dậy chỉ huy, giữ vững vị trí và tải thương anh em ra phía sau. Cộng quân mở hai đợt tấn công đêm, dùng chiến thuật đặc công. Chúng chưa biết đang đụng phải Nhảy dù mới vào trám tuyến, từng nắm tẩy các công trường cộng quân quá rõ. Anh em tôi thắp sáng đêm không ngủ bằng lửa đỏ của 12 thùng lựu đạn, bò ra sát đường ném qua, không nổ một tiếng súng, giết vô số địch bên kia đường, khu vực ty công chánh, chỉ tức là không thể qua lấy súng. Không tên nào lọt qua tới bên Dương 54. Gần sáng, C-130 bao vùng bắn spector và stinger. Từng phát từng phát, tóc tóc bùng bùng, lửa toé pháo bông đẹp như mơ. Cộng quân định dở trò một đợt gần sáng, phải bung hàng chạy tán loạn, làm mồi cho cây đại liên M60 thiện xạ của hạ sĩ Sơn và cây M79 bách phát bách trúng của trung sĩ Đổng, tới lúc đó mới khai hoả. Đang vui nhộn um sùm thì spector tóc bùng một phát cuối trúng ngay cái container chứa nước đặt trên bệ cao phía cạnh bắc của nhà thương, ngay phòng tuyến của chuẩn uý Ngưỡng. Hên quá, một em bị thương nhẹ. Xạ thủ Mỹ từ cao độ 12,000 feet báo là thấy chiến xa địch nằm ở đó! Có đêm được lệnh chờ đánh xe tăng địch. Đại đội xé lẻ đóng chốt rộng và sâu, theo binh thư Sư đoàn Dù vừa huấn luyện. Ba toán chống tăng phục kích chân chim từ ngã tư trở vô. XM-202 bắn được 4 hoả tiễn liền nhau, cho lên tháp nước, nằm im chờ nổ liền 4 phát mà không bắn cháy được nó là phải đu dây phóng xuống. Sáu tổ hoả lực sẵn sàng bọc lưng cho khinh binh vác M72 đuổi bắn vào đuôi xe tăng. Nhưng chưa tới 11 giờ đêm, C-130 lên vùng, dập tóc tóc bùng bùng tưng bừng trong rừng cao su phía tây, minigun réo như bò rống tới gần sáng. Các bạn bộ binh nói có thấy lửa bùng như xe tăng cháy trong rừng. Sáng rõ, SA-7 từ mặt phía bắc phóng lên. Làn khói leo cao leo cao mãi. Hồi hộp sợ máy bay rớt, quân ta ngóng cổ nhìn theo, thấy cục lửa bám vào hông chiếc C-130. Nó bay vòng lại, xả mimigun “bò rống” xuống điểm phát pháo, rồi mang cả đốm lửa bay về. Hên quá!
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 10:15:31 GMT 9
Hai bên đối diện cầm cự suồt gần hai tháng qua con đường nhựa rộng chừng năm mét. Địch đánh kiểu gì cũng bể gáo với Nhảy dù. Tôi chưa là một đại đội trưởng đủ kinh nghiệm và tự tin để dám tung hơn 50 sinh mạng anh em tấn công một lực lượng địch có trừ bị mạnh, có ưu thế về hoả lực vá địa thế. Bên ta không có yểm trợ hoả lực pháo binh. Cả mặt trận An Lộc lúc đó chỉ có được đúng hai cây súng cối 81 ly, đạn dược hạn chế tối đa, nhưng hoả lực không yểm rất mạnh, giúp đỡ rất lớn cho việc phòng thủ. Tất cả các căn cứ hoả lực pháo binh từ An Lộc sang hướng tây đều lọt vào tay địch, chúng sử dụng để pháo bên ta suốt ngày đêm. Vậy mà mọi cuộc tấn công của địch đều bị quân Dù bẻ gãy. Trung đoàn địch đóng bộ chỉ huy trong trại cải huấn, điều động bổ sung quân số cho tuyến trước mặt tôi, nhưng mon men đánh vô bao nhiêu là bị anh em mũ đỏ chúng tôi tôi hốt gọn bấy nhiêu. Nhưng bên tôi bung ra cũng không được vì toà nhà trại cải huấn kiên cố với tường cao, hoả lực yểm trợ trực tiếp cho quân địch bằng súng không giựt và B-41 trực xạ từ trên cao xuống khu vực nhà đổ trống trải của ty công chánh, có lúc quân ta đã nhào qua chiếm được nhưng không thể giữ được tới một ngày, phải rút về để tránh tổn thất vô ích. Skyraider đánh bom nhà cải huấn bị trúng SA-7, phi công VN thiệt giỏi, còn xả bom và ngóc đầu máy bay lên, nhảy dù ra, rớt qua phía bộ binh ta ở hướng nam. Đại đội bộ binh tăng cường cho tôi, có được đâu hơn 20 quân, tôi nhờ đóng giữ sườn cánh phải, hướng bắc, ít khi phải nổ súng. Ông trung uý đại đội trưởng hơn tôi 10 tuổi, dong dỏng cao, có bộ râu đẹp, lúc nào cũng lạc quan và hài hước, thích nói chuyện về phụ nữ, có hôm anh làm cả hầm chỉ huy cười ầm ỹ giữa lúc đạn pháo kích bay ào ào qua mái tôn... Đại đội 51 của tôi cũng bị tổn thất trung bình. Ngoài giao chiến, bắn sẻ, đại bác và súng cối mỗi ngày pháo kích lai rai hằng trăm trái, không cách gì thoát nổi. Trên hai tháng trời, tôi mất nhiều em út thân yêu. Nhớ nhất là binh nhứt Hiền, người Quảng Trị, phụ xạ thủ đại liên, từng bắn lui cả một đại đội địch đang lấp ló xung phong lúc Lữ đoàn đoạn chiến ở QL13 để lên trực thăng vào An Lộc, tôi dành cây M60 bắn tiếp, để chú kéo M72 thảy tung một khẩu đội 75 li không giựt đang mon men đặt súng cách 200 mét để trực xạ trung đội tôi đang nằm lại chống cự quân truy kích, bao chót cho cả Lữ đoàn. Sau khi phản lực đánh tung lên trời đại đội địch trong đội hình tấn công từ bên kia đường QL13, chúng tôi mới khiêng được xác trung uý Kiều Nại vừa chết vì pháo cối ngay đó, còn nóng hổi, về tới căn cứ hoả lực. Trong An Lộc Hiền còn bắn sẻ hạ 7 tên địch phía bên ty công chánh. Rối em bỏ mình vì một viên bắn sẻ.
.. .An lộc an bình, Lữ đoàn Dù chúng tôi với ba tiểu đoàn 5,6,8 kéo ra, thay phiên nhau bứng chốt dọc QL13 tới căn cứ Tân Khai để về Sài Gòn... Đánh nhau trong rừng cao su rất “sòng phẳng”. Bên nào thiện chiến hơn là thắng, dù trong điều kiện yểm trợ tiếp vận chênh lệch. Trong số ba tiểu đoàn mũ đỏ này chỉ có Tiểu đoàn 6 Nhảy dù là gần đủ quân số, vừa từ Tân khai đánh ngược lên bắt tay với Lữ đoàn. Hai tiểu đoàn 5 và 8 chỉ còn chừng ¼ quân số. .. Nhưng chốt kiềng dọc đường đều bị nhổ sạch, hoặc địch buộc phải rút vào sâu tránh quân Dù, chờ Dù đi qua lại ra chặn đường trở lại... Tướng Hollingsworth ra lệnh cho trực thăng Mỹ phải bốc hết lữ đoàn trong ngày, ở cạnh phía nam căn cứ Tân Khai. Tiểu đoàn trưởng TĐ5ND, “Minh Hiếu”, chấp thuận ý kiến của tôi đề nghị bốc quân ngay trên quốc lộ, tránh được hoả tiễn 107 ly và 122 ly bắn qua đầu sang hết cánh rừng phía đông…
Đoàn xe Tiểu đoàn 5 chạy chậm hẳn lại khi vào cổng xã Tam Hiệp. Hai bên đường đầy những đồng bào và cả xứ đạo với ban nhạc kèn trống nghênh đón. Đại đội tôi chỉ còn 3 xe ngồi còn trống gần một nửa. Tôi không ngăn được dòng nước mắt tuôn trào. Tiếng hoan hô và quân nhạc đón chào như văng vẳng bên tai. Hình ảnh đồng bào hân hoan nhoà nhạt như lẫn vào những hình bóng chập chờn các anh em huynh đệ như thủ túc đã không còn quay lại nơi chốn thân yêu này để về trại gia binh tiều đoàn với vợ con được nữa.
Ngoài mặt trận không hề biết lo buồn, suy nghĩ, nay lễ tuyên dương đang tưng bừng giữa sân cờ Tiểu đoàn, tim tôi rướm máu. Anh em binh sĩ cũng đồng tâm trạng, lòng cứ hướng về phía những chiếc khăn tang mới của các quả phụ cô nhi tử sĩ dựa nhau khóc ngất dưới hàng phượng vĩ quanh sân cờ. Chồng và cha họ không bao giờ còn trở về trại gia binh ấm êm hạnh phúc kia…
Rồi hình ảnh mặt trận đầy chặt trong giấc ngủ chập chờn chờ sáng tung cánh về Sài Gòn với gia đình, lúc đó Sài Gòn chưa biết tiểu đoàn đã về hậu cứ.
*****
Lệnh Sư đoàn cho nghỉ ngơi bổ sung quân số 1 tuần lễ trước khi đi Quảng Trị. Nghỉ phép 4 ngày chưa hết thì hậu cứ phóng người về Sài Gòn triệu tập hết sĩ quan chúng tôi lên doanh trại. Tiểu đoàn nhận lệnh không vận ra Huế vào đúng 4 ngày sau đêm từ An Lộc trở về. Hầu hết quân nhân cơ hữu ở bên ngoài trại gia binh vẫn chưa trở về. Anh Sỹ bình phục, về nắm lại 51. Tôi qua làm đại đội trưởng 54, đem đại đội ra phi trường chỉ có gần 30 quân, toàn hạ sĩ quan và binh sĩ của ĐĐ54 ở trong trại gia binh.
Tiểu đoàn chuẩn bị lên phi cơ với khoảng 25% quân số, gồm bộ chỉ huy tiểu đoàn và các bộ chỉ huy của 5 đại đội cơ hữu, cộng thêm 52 tân binh bổ sung tại phi trường Tân Sơn Nhứt. Nhưng đó lại là lúc tôi phải luyến tiếc bàn giao đại đội 54 cho trung uý Dương vừa ra phi trường trình diện hành quân; trước đó ai cũng tưởng sau gần ba tháng An lộc anh chàng này phải trốn ở nhà với vợ thêm ít hôm rồi mới lên đường ra trận. Té ra anh chàng cũng ghiền đánh giặc không kém gì tôi.
Tôi trở về 51 với đại uý Sỹ. ĐĐ51 dưới quyền tôi sau hai tháng trong An Lộc chỉ còn hai sĩ quan khiển dụng: tôi với thiếu uý Vũ Văn Hợi (các trung đội trưởng Trung, Ngưỡng, Lượm đều bị thương, trung uý Tuyết tử trận) tuy quân số lúc kéo từ An Lộc ra đánh chốt dọc QL13 về tới Tân Khai vẫn còn được đâu khoảng 52 quân, nhiều nhất trong cả tiểu đoàn. Đại uý Trương Đăng Sỹ là đại đội trưởng duy nhất trong hàng ngũ chỉ huy kỳ cựu của tiểu đoàn mà còn sống sót sau An Lộc và trở lại hành quân. “Sỹ Biên” cùng đại đội 51 là element de choc của “Minh Hiếu” trong nhiều năm nay, tôi là cánh tay mặt của anh, nên anh lấy tôi về cho kỳ được.
Ra mặt trận Huế- Quảng Trị, tiểu đoàn trú đóng tại một căn cứ cũ khoảng một tuần lể. Thành phần quân nhân cơ hữu đi phép về lần lượt ra hành quân từ lúc đó đến lúc di hành đi Cổ thành thì đã được 90% quân số. Đó là tinh thần của nhảy dù: không bỏ đồng đội lúc gian nguy. Hai sĩ quan bổ sung ĐĐ51 là một chuẩn uý địa phương quân và một trung uý từ không quân đưa sang. Anh trung uý cao nghều, đeo cặp kính cận dày cộp, không biết về sau số phận ra sao trong cơn bão lửa. Tôi ngồi suốt ngày trên nóc một căn hầm cao, trong nắng gắt, bên cạnh là hai chiếc bi đông nước, gói thuốc lá Bastos de Luxe, máy truyền tin PRC 25, dùng ống dòm theo dõi các trung đội trưởng tân đáo thực tập điều động hành quân vùng làng mạc và đồi trọc, đánh trận giả với nhau, thao dượt tác chiến trong làng mạc đông dân và thành phố. Tiểu đoàn huấn luyện và thực tập bắn các loại hỏa tiển TOW, M72, XM202 chống chiến xa.
Ngày 5/7/1972, TĐ5ND di chuyển bằng đường bộ đến La Vang Tả rồi tiến về hướng Tây. Sau khi B52 trải thảm dọc bờ sông, TĐ5ND tung quân vào lục soát đến tận bờ sông Thạch Hản, thấy rất nhiều xác cộng quân, tịch thu 2 khẩu phòng không 37 ly.
Ngày 9/7/1972, bàn giao khu vực lại cho TĐ7ND, TĐ5ND di chuyển về hướng Đông, băng ngang QL1, hôm sau dừng quân tại khu vực thôn An Thái cách Cổ thành khoảng 3 km về hướng Đông Nam. Tại đây BCH/TĐ lập sa bàn chuẩn bị kế hoạch điều quân tấn công Cổ Thành.
Ngày 10/7/1972, “Minh Hiếu” ban lệnh hành quân. Di chuyển vòng xa lên hướng đông bắc qua nhiều làng mạc nhiều cây cối để tiếp cận Cổ Thành với yếu tố bất ngờ, TĐ5ND vây bọc diệt gọn những chốt lẻ tẻ nằm trong các làng canh giữ đường về thành cổ, không một tên nào chạy thoát về báo tin quân Dù đánh mặt đông bắc. Tôi dẫn quân đi, vừa đánh vừa nhai cơm sấy thịt hộp trong nỗi hân hoan như một viên tiểu tướng của vua Quang Trung vừa thần tốc diệt được chốt Hà hồi, Ngọc Hồi, chuẩn bị gươm giáo ngựa voi giết hết những tên Tôn Sĩ Nghị của giặc xâm lăng phương bắc mang tội tàn sát hằng ngàn đồng bào Huế trong Tết Mậu thân chưa xa.
Ngày 11/7/1972, bay qua đầu là TÐ1TQLC được trực thăng vận đổ xuống thị xã Quảng Trị 2 km về hướng đông bắc để chận đường tiếp vận của địch cho Cổ Thành, và có thể cũng để bảo mật cho đường tiến sát của quân Dù. Hai trực thăng chuyển quân CH53 của Mỹ bị hỏa tiển SA-7 bắn rơi, 30 quân nhân TQLC và phi hành đoàn tử trận.
2 giờ sáng 14/7/1972, le Quatorze de Juillet, TĐ5ND xuất phát, tiến về cổ thành. Pháo 130 mm của địch nổ lác đác cầm chừng về hướng quân ta. 51&52 “từng bước từng bước thầm” tiến qua cánh đồng 2 km quanh những ngôi mộ cao như đồi nhỏ, nhắm hướng làng Tri Bưu sát cạnh đông bắc cổ thành Đinh Công Tráng. Pháo thủ phòng không VC đang ngồi hút thuốc rê ngóng lên trời chờ phi cơ ta tới. Đại đội 52 hí hửng lặng lẽ dàn quân, Hồ Từơng tung 2 trung đội xung phong, bợ ngay mấy cây phòng không và súng cối ngon ơ, chiếm được bìa làng không tốn một giọt máu.
Đại đội 51 tiến vô theo, vượt qua 52 kiểu chân rết, bắt đầu đánh chốt. Tới đêm đó tôi mới tiến được gần 100 mét. Anh Sỹ hỏi thăm liên tục. Chưa quen địa thế, quân ta ăn đậm pháo, nhưng pháo trật chỉ trong vài chục một trăm mét qua hướng nam, ta chỉ tổn thất nhẹ, phải nghỉ đêm chờ phi pháo diệt địch. Sỹ Biên thức suốt đêm điều chỉnh phi pháo. Sáng hôm sau, tôi xin lệnh anh giao cho tôi dẫn quân bung ra phía trước thật nhanh để tránh cối 61 ly cấp tập bảo vệ chốt, anh cứ lo theo dõi để đánh phi pháo ở xa và phản pháo các vị trí cố. Tôi hô hào anh em “bám thắt lưng địch mà đánh” để tránh pháo, chính là huấn lệnh chiến trường của VC mà tôi bắt được trên xác cộng quân ở An lộc, mà chúng không bao giờ làm được. Chốt địch trong làng thường đóng rải ngoài sân, trong nhà; nằm quan sát thấy rõ cách bố trí, ta kín đáo dàn quân, mở tối đa hoả lực, VC chưa thò đầu khỏi hầm là xung phong liền, như vậy mới vượt mau khỏi vùng hoả tập dự phòng và địch không kịp kéo hoả lực cối về sát tuyến. Chiến thuật chốt kiềng của VC đã bể từ lâu. Xông xáo tới xế trưa, tôi chỉ có hai ba em bị thương. Cách đánh thật hiệu quả, thấy nguy hiểm nhưng lại ít tổn thất. Ai ai cũng hăng hái. Cộng quân vừa nhác thấy bóng áo hoa dù thấp thoáng là đã bị xung phong tràn ngập, tên nào sống sót chỉ kịp bương về hướng cổ thành. Đánh như quân Quang Trung diệt Tôn Sĩ Nghị, anh em ơi! Dân ta đã chạy giặc hết. Quân ta quan sát không thấy hầm chốt ngoài sân thì bắn M72, M79 vào cửa sổ những ngôi nhà chỉ cách nhau mảnh vườn, nhảy tới tung lựu đạn rồi ria M16 từ đất lên nóc. VC trốn núp trong nhà chịu không nổi, bỏ chạy tán loạn, quân ta cứ thế chiếm từng nhà, từng vườn. Đạn pháo lọt tọt rớt phía sau, rõ ràng nó bắn không kịp. Đại đội 52 của Hồ Tường bên cánh trái kêu oai oái. Thiếu uý Hợi đánh giặc rất hăng, tay trái móc lựu đạn, tay phải bắn M16 kẹp hông, nhảy ngang, ria sủi đất chém ngang miệng hầm (ông này là thiện xạ của khoá 24 Đà lạt, với tôi thân hơn anh em ruột), miệng chỉ huy hô hào như sấm, lăn bò và phóng qua rào lẹ hơn cả khinh binh. Trung đội của anh đeo sát bên tôi không nhường nửa bước. Lính Dù Tiểu đoàn 5 xung trận như xi-nê. Anh em tôi đánh giặc đẹp tuyệt vời, nhất là trong thế chủ động tấn công, sở trường của đoàn quân bách chiến. Nhưng… Một đợt xung phong nữa, một trái lựu đạn từ hầm VC trong mảnh vườn lọt giữa hai trung đội, ngang hông trái, nhắm ngay tôi thảy qua. Vừa nhác thấy cái gì lạ trên không thì nghe khinh binh hét vang “lựu đạn, trung uý!”. Bay đại vô một góc tường, mới được nửa ngực, liền cảm thấy chân trái tung lên cao, lật ngửa cả thân người, tưởng đâu nguyên cẳng trái đã đi chơi chỗ khác. Lính tôi chĩa M16 xả liên thanh hội đồng, nhào tới tông xuống hầm cái kẻ khờ khạo đáng thương kia hai trái lựu đạn, lấy 2 cây AK xong mới cõng tôi ra sau. Dọc đường tôi chợt thấy thiếu tá Bùi Quyền “Tố Quyên”, đã nghe danh từ lâu, vừa bổ sung làm tiểu đoàn phó, tay cầm combiné nhảy từ hầm này qua hầm khác giữa trận pháo dữ, điều động hai đại đội 51, 52. Lòng tôi đầy ấm ức, y như lúc cây fender đứt giây Mi giữa đoạn solo nóng bỏng trên sân khấu hội quán trường Võ Bị vào đêm có người yêu ở Nha Địa Dư vô coi. Anh Sỹ cầm tay tôi, không dấu được vẻ lo âu. Tôi nói uổng quá không cùng anh zô Cổ thành rồi lên Ti Vi được nữa rồi. “Sỹ biên” biểu tôi “thôi mày lo về dưỡng thương rồi ra sớm với tao”. Tôi chợt mỉm cười nhớ lại hồi trận Hạ Lào, anh Sỹ cũng cầm tay tôi dưới giao thông hào trong tiếng Cobra vần vũ, nói “thôi mày zìa zới con zợ mày cho rồi, bày đặt xin ở lại! Bị thương zô gân tay đêm lạnh chịu không nổi đâu em!”
Tới lúc đó quân Cộng từ bên kia sông Thạch hãn đã gấp rút ồ ạt bổ sung, đi ngờ ngờ giữa ban ngày, bắt đầu phản kích dữ dội với hoả lực yểm trợ tối đa. Quân ta đã hết yếu tố bất ngờ để tốc chiến tốc thắng. Tôi rời mặt trận, đúng lúc anh em tôi bắt đầu đổ đầy máu xương trên đoạn đường tiến vào cổ thành Đinh Công Tráng, nơi quân Dù đã giữ cả thị xã Quảng Trị vững như bàn thạch trong trận Mậu thân choáng váng.
Ngày 17/7/1972 ba tiểu đoàn Dù đã vây kín ba phía tây, nam, đông của cổ thành. Góc chính bắc qua sông Thạch hãn vẫn là đường tiếp vận của địch. Hướng đông bắc thì TĐ5ND dưới quyền “Minh Hiếu”, “Tố Quyên”, đánh rát qua nhà thờ Tri Bưu nhắm bức tường thành. “Minh Hiếu” ban lệnh tái chiếm thành Đinh Công Tráng với một toán tiền thám cảm tử xâm nhập vào thành trong đêm 18 tháng 7, quan sát và lập đầu cầu cho tiểu đoàn tung lực lượng tấn công, trong 2 ngày phải chiếm và cố thủ được ít nhất phân nửa chu vi bờ thành và nội thành.
Một toán "thám sát cảm tử" tình nguyện được thành lập, tuyển chọn ưu tiên các quân nhân gốc người Quảng Trị. Trong số đâu chừng hơn 20 người, 8 anh em được chọn đều thuộc đại đội 51. Hạ sĩ nhứt Trần Tâm làm trưởng toán, hai hiệu thính viên rất chăm chỉ của đại đội là hạ sĩ Hậu, người Nam, và hạ sĩ nhứt Lịch, người Quảng Trị, đều tình nguyện, binh nhứt Hồ Khang đòi mang lá quốc kỳ, thêm nữa là hạ sĩ Hồ Con, và ba binh sĩ khác. (Danh sách này dựa theo lời kể của đại uý Trương Đăng Sỹ).
Giờ G đêm 18. Từ điểm xuất phát đến mục tiêu cách hơn 200 mét, toán quân dũng cảm tiến vào đêm tối, mong lách chốt nhập thành. Gần sáng, Hậu thì thầm báo cáo đang lội qua hào nước sâu. 5 phút sau, đột nhiên cả tiểu đoàn chợt thấy lá cờ vụt nhô lên tung bay trên nền trời mờ tối, trên nền ánh hoả châu lập loè phía xa. Rồi lại giựt mình nghe tiếng Hồ Khang hô vang trong cái tĩnh lặng rợn người đúng vào khi chiến địa chợt im tiếng súng: “Việt Nam Cộng Hoà muôn năm – Nhảy dù cố gắng- Nhảy dù chiến thắng|” Hậu hét luôn trong máy báo cáo với đại uý Sỹ : “Quốc kỳ dựng rồi, đích thân ơi!” Lập tức lửa đạn vang ầm vĩnh viển cắt đứt tiếng Hậu. Đạn lửa thượng liên xanh lè hội tụ dập vùi toán anh hùng mũ đỏ, giữa những tảng lửa B40, B41 nổ tập trung vào giữa chân cờ. Tiểu đội cảm tử quân hoàn toàn mất liên lạc. Hai đại đội 51, 52 rùng rùng xuất phát. Pháo binh Dù bắn hằng trăm trái vào thành, yểm trợ và che chở cho lực lượng bạn. Ôi ván bài lộ tẩy quá sớm mất rồi các em ơi. Trần Tâm, Hồ Khang, Hồ Con, Hậu và Lịch vình viễn nằm lại trên mặt thành, chung quanh lá cờ tổ quốc. Ba em còn lại trúng thương lăn xuống chân thành, được quân bạn cứu sống. Quân ta đến nơi, không sao vượt được bức tường thành kiên cố có hoả lực bảo vệ vững chắc.
Ngày 21/7 lực lượng TĐ5ND được lịnh dãn lui để không quân Mỹ đánh bom lớn phá thành. Địch phản công hàng hàng lớp lớp, toàn tân binh mặc kaki còn mới. 51 và 52 bị hai tiểu đoàn địch tấn công, cắt hậu, chơi sang toàn trực xạ không giựt 82 ly. Quân Dù phải tử chiến và cứu ứng nhau, sử dụng phi pháo tối đa, phối hợp thọc mũi phản kích vào sườn quân địch để hoá giải sức tấn công, mới thoát khỏi vòng vây.
Ba ngày sau, 25/7, lực lượng đặc nhiệm nhảy dù bất ngờ phản kích. Tiểu đoàn phó TĐ5ND “Tố Quyên” trực tiếp điều động, được tăng cường Đại Đội 111/ND của Trung Úy Đinh Viết Trinh “Ba búa” đánh từ hướng Tây Bắc, đỡ đòn cánh trái. Sườn cánh phải, hướng Bắc Cổ Thành, có hai đại đội 81 biệt cách tăng cường, đều sa lầy trong biển chốt. Đại Đội 2/Trinh sát ND của Đại Úy “Út Bạch Lan” cũng vướng chốt địch bố trí chiều sâu. Địch quyết chiến, tăng cường đông như nêm, chốt dày như vỏ dừa, liều thân kháng cự. Út Bạch Lan trúng B40 “ép-phê một băng” qua cửa mả, may sao đạn trúng lớp áo giáp mà không nổ. ĐĐ2/TSND của đại ca Út bị hóc nặng, không theo kịp đà tiến nỗ lực chính, theo lời thuật của “Sỹ Biên”. Ngày 26, nỗ lực chính là hai ĐĐ51, 52 cũng tràn tới bờ hào, vì nỗi uất ức mất nguyên toán cảm tử. Phải lui lại đào hầm hố tránh hoả lực từ mặt thành cao nã xuống, điều chỉnh phi pháo, chờ bom phá thành, đánh đêm.
Tố Quyên thuật tiếp: “54 lo bảo vệ khu vực đông bắc Tri Bưu và tải thương, 51 và 52 nhào vào Cổ thành sau khi smart bomb của Mỹ đục một mảng tường lớn ở góc phía đông bắc để lấp đoạn hào sâu ở đây và do đó mà con cái trúng miểng” (Email này từ San Jose anh Quyền gửi tôi hôm mùng 9 tháng 9 năm 2009, quá sơ lược, vì anh đang gom góp tài liệu, ký ức và nhân chứng sống để viết lại đầy đủ).
Trong email này Tố Quyên cũng xác nhận vài chuyện trước đó: “Tôi theo Sĩ và Hồ Tường vào Tri Bưu ngay buổi sáng khi 2 ĐĐ từ làng Quy Thiện tờ mờ sáng sang chiếm khu mả ở phía đầu làng rồi từ đó bám được đầu cầu ven làng sau đó dánh dọc lên hướng nhà thờ Tri Bưu (đó là lúc Đại Cồ Việt bị tản thương ra như đã kể: LTG) v.v.. Khi Út Bạch Lan bị một trái B40 trúng vào thành mả rồi văng qua trúng áo giáp nên ê ẩm cả ngực, tôi có gọi anh hỏi có cần tản thương không. Cả Đinh Viết Trinh khi dẫn ĐĐ 111 vào găp tôi trong Tri Bưu đã xin lệnh tôi cho ra trấn khúc làng sát ngay góc con đường Duy Tân và Lê văn Duyệt ở ngay góc đông bắc Cổ Thành. Sau đó đại tá Trần Quốc Lịch còn cho tôi thêm 2 ĐĐ của 81 Biệt cách do 2 Trung úy Châu văn Tài và Nguyễn Đắc Lực sang Tri Bưu để tìm cách đột kích vào thành. Những người này còn sống và một ở Westminster,một ở Houston, Texas. Khi đó (ngày 25: LTG) viên cố vấn Mỹ cho tôi biết là mờ sáng hôm sau sẽ có phi cơ Mỹ dùng bom lớn do tia laser điều khiển để đánh từ trong ra cho tường lở lấp cái hào ở gần sát góc đông bắc thành để quân ta có thể xông vào. Nhờ thế 51 & 52 mới vào được. Sau đó phi tuần VN (phải là A-37 của KQVN, đánh rất bạo và chính xác: LTG) đánh vào cáí cột cờ chỗ kỳ đài rất tốt…
Sỹ Biên, từ Australia, cách đây mấy tháng, kể tiếp: Hai trung đội đầu của 51 vượt hào khá dễ, bám được góc thành đã vỡ, lựa thế tiến vào trong, trong khi anh kêu pháo binh Dù bắn đạn nổ và khói che phủ mục tiêu. Ta lên chiếm được mặt thành, bèn cắm cờ lần nữa, chuẩn bị xung phong. Nhưng khói vừa tan địch bắn trả dữ dội, nhất là từ hai lô cốt ở mặt tiền và giữa sân cờ còn hầm hố kiên cố. L19 bao vùng cho biết VC từ bên kia sông tràn qua như kiến. Sỹ Biên đòi phi pháo yểm trợ chặn viện và tung thêm một trung đội vào thành, nhứt quyết xả láng đánh bứt sân cờ trước khi viện binh địch ứng cứu. Một trái cối 82 nổ giữa Sỹ Biên và Hồ Tường, hai vị anh hùng bị thương đẫm máu, nhưng quyết không rời trận địa. Những ai từng xả thân cùng đồng ngũ anh em trên những chiến trường một mất một còn vì màu cờ sắc áo mới hiểu tại sao có những lúc người chiến sĩ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, đặt danh dự trách nhiệm lên trên hết. Nhưng, ai oán thay, ông trời cao kia chẳng chịu chiều người.
Tố Quyên, từ San Jose, viết tiếp: ... phi tuần VN đánh vào cái cột cờ chỗ kỳ đài rất tốt, thì lúc đó tự nhiên có 2 phi tuần Mỹ ở đâu vào vùng. Cố vấn hỏi tôi có muốn xài không thì tôi nói cứ xài và bảo nó đánh ngay vào chỗ VN vừa đánh. Nhưng than ôi, trời nỡ hại TĐ5ND mình, khói bụi từ chỗ mới đánh vừa tỏa ra bị gió đưa về phía 2 ĐĐ 51, 52. Trời ơi thế là bom bên mình giáng xuống quân ta….
Ôi... Ai hiểu được nỗi uất hận của những người chiến binh Nhảy dù lúc ấy khi thành quả máu xương của cả đơn vị đã nằm trong tầm tay toàn đội… Đại đội 51 máu thịt của tôi chỉ còn 38 quân nhân sống sót; đại đội 52 tất cả 5 sĩ quan đều bị thương, gần 50 thương vong. TĐ5ND đã mất hết máu. Tố Quyên, Sĩ Biên, Hồ Tường, Ba búa, Út bạch Lan, Châu Văn Tài, Nguyễn Đắc Lực suy kiệt hết tâm lực, chỉ còn như những xác không hồn. Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu lặng lẽ ôn tồn ban lệnh trở về tuyến xuất phát.
Sau đó, cùng ngày, trên hệ thống liên lạc siêu tần số cơ hữu của SĐND, sĩ quan truyền tin Võ Trung Tín nghe cuộc điện đàm ngắn giữa Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lịnh SĐND và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lịnh Quân Đoàn I như sau:
- Trung Tướng Đống : Trưởng có thấy không, trước khi tấn công vào mục tiêu, Tổng Thống Thiệu ra lịnh tuyệt đối không cho phá hủy cổ thành, đến khi vừa vào được trong thành thì bom dội xuống trên đầu như thế nầy thì đánh giặc cái gì đây. Đánh giặc như thế nầy thì tôi không đánh nữa, Trưởng cứ cho ai vào đánh thì đánh đi.
- Trung Tướng Trưởng: Thưa Trung Tướng được rồi, để sáng ngày mai tôi bay ra Sally gặpTrung Tướng sẽ bàn định lại…
Ngày 27/7/1972 , ba lữ đoàn hùng binh quân mũ đỏ đã tận sức lót đường xương máu, bàn giao chiến trường cho Sư đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến. Những người anh hùng mũ xanh của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà cũng hy sinh máu xương không kém, lập nên kỳ tích dựng lá cờ vàng tổ quốc trên Cổ thành Quảng Trị lần thứ ba và là lần sau cuối.
Việt-Long, GĐMĐ/D.C.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 10:25:01 GMT 9
Hổ Cáp – Gia đình 9 Kỵ Binh cuối tháng 4/75…
Tác giả/Nhân vật: Trần Hữu Thành - Sanh năm 1937 tại Thủ Dầu Một. - Xuất thân khoá 10 Nhân Vị , Trường SQTB / Thủ Đức năm 1961 . - 1961-1968 : Chi Đội Trưởng và Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 3 Trung Đoàn 1 KBTG. - 1968-1969 : Sỉ Quan Tiếp Vận , Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh, Quảng Trị, QĐ I - 1969-1970 : Trưởng Phòng Bảo vệ, Phủ Thủ Tướng, Sàigòn . - 1970 -1971: Chi Đoàn Trưởng CĐ2/18 Thiết Kỵ, LĐ III KB, QĐ. III . - 1972-1974 : Thiết Đoàn Phó TD9KB, LĐIVKB, QĐ.IV . -1974-1975 : Thiết Đoàn Trưởng , TD9KB, LĐIVKB, QĐ IV. - 1975-1983 : Tù CS ở Miền Bắc Việt Nam . - Cuối 1990 : Định cư tại Hoa Kỳ/ HO3. - Với 5 lần bị thương ở chiến trường .
* Tri ân và tưởng niệm Cố Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV và Quí Chiến hữu cùng chiến đấu đã nằm xuống vì lý tưởng Tự Do .
* Vinh danh và trân trọng tri ơn Quí Chiến hữu Không Quân, Hải Quân, Biệt Động Quân, Bộ Binh, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và Kỵ Binh các cấp đã cùng phối hợp tạo nên những thành quả nầy.
* Kính tặng Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, người đã trực tiếp chỉ huy tôi…* * * * * Sau Hiệp Định Paris năm 1973, vì nhu cầu chiến lược giành dân, giữ đất và yểm trợ bình định, Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư Lệnh Quân Đoàn IV kiêm Quân Khu IV, đã xử dụng SĐ21BB, tổ chức những cuộc hành quân càn quét, dồn địch vào rừng U Minh và lập một hệ thống đồn bót vòng đai U Minh để kiểm soát và ngăn chận hoạt động địch, đồng thời thành lập căn cứ hoả lực Pháo binh 105 ly tại xã Lương Tâm để chỉ huy và yểm trợ các hoạt động của quân ta. (Quân Khu IV dự trù sau nầy dân cư trù phú, sẽ trình Chính Phủ lập thêm 1 Quận Hành Chánh đặt tên là Quận Hưng Long thuộc Tỉnh Chương Thiện) Ngày 1/11/ 1974, Đại Tá Mạch văn Trường nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB thay Chuẩn Tướng Lê văn Hưng. Tướng Hưng về làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV, Phụ Tá cho Thiếu Tướng Nguyển Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Sư Đoàn 21 BB, trách nhiệm hành quân yểm trợ chiến thuật cho các Tỉnh An Xuyên + Bạc Liêu + Ba Xuyên + Phong Dinh + Chương Thiện + Kiên Giang + An Giang, tức là phần đất từ Sông Hậu Giang xuống Cà Mau, trực thuộc QĐ IV và QK IV. Giữa năm 1974, do nghị quyết của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản VN ở Hà Nội, Sư Đoàn 4 Hậu Giang trực thuộc Quân Khu 9 CSVN (tức vùng đất từ Sông Hậu Giang xuống mũi Cà Mau) được thành lập, gồm có 3 Trung Đoàn Chủ lực biệt lập D1+ D2 + E 6, thêm Trung Đoàn Pháo – Cối từ Miền Bắc mới xâm nhập vào (hoả Tiển 122 ly + cối 120 ly + đại bác không giật 82 ly và súng 12ly 8 phòng không ) Cuối năm 1974, CSVN phát động chiến dịch Đông Xuân, đánh phá đồng loạt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tại QK9,Việt Cộng tung Sư Đoàn 4 Hậu Giang khai quân vào chiến dịch nầy. Khởiđầu, địch quân đánh chiếm hệ thống đồn bót vòng đai U Minh, giai đoạn kế tiếp là đánh chiếm tỉnh Chương Thiện. Chương Thiện và Rạch Giá là một vùng sông rạch chằn chịt, ruộng lúa và sình lầy ngập nước. Dụ địch ra khỏi hang … VC phơi mình trong lưới lửa Ngày 11/11/74, nhằm giải tỏa áp lực địch và giải vây cho căn cứ hỏa lực tại xã Lương Tâm, theo lệnh của Quân Đoàn IV, Trung Đoàn 31 /21 BB, do Đại Tá Nguyển văn Biết chỉ huy, cho 2 Tiểu Đoàn 1+3/31 BB trực thăng vận xuống ruộng trống hướng Đông của căn cứ hoả lực và cách khoảng 2 cây số. Vừa đặt chân xuống bãi đáp an toàn, 2 Tiểu đoàn tiến song song về hướng Tây (hướng căn cứ hoả lực), cách căn cứ hoả lực khoảng 1 Km. Tiểu Đoàn 1/31 đi ngoài ruộng trống và bị VC dùng chiến thuật độn thổ phục kích. Tiểu Đoàn 3/31 đi phía trong con rạch và vườn cây cũng chạm súng nặng và bị VC cầm chân, không ứng cứu được Tiểu Đoàn 1/31. Trung Đoàn 31 BB đã phải dùng hoả lực phi pháo yểm trợ tối đa mới giúp được 2 Tiểu Đoàn nầy lui quân ra khỏi vòng chiến. Trong trận đổ quân bị phục kích và chạm địch này, Tiểu đoàn 1/31 BB bị tổn thất nặng (Tiểu đoàn trưởng chết và mất xác, một số binh sĩ bị mất tích), Tiểu Đoàn 3/31 BB bị tổn thất trung bình, đổi lại, Việt Cộng bị tổn thất rất nặng trong trận đánh xáp lá cà và bị mưa pháo bắn dập. Điều đáng ca ngợi tinh thần huynh đệ chi binh của 2 Tiểu Đoàn nầy, mặc dầu giao chiến hết sức gay go và thất thế, nhưng họ vẫn cố gắng khiên vác đưa ra vùng an toàn hơn 100 đồng đội bị thương. Sau đó Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn lệnh cho thành lập Chiến Đoàn 32 lưu động do Trung Tá Hồ Viết Lượng, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 32/21 Bộ Binh Chỉ huy (nồng cốt là Trung Đoàn 32/21 BB) và di quân rời vùng Cà Mau lên vùng Chương Thiện, phối hợp với Chiến Đoàn 219 xung kích (nồng cốt là Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh do Trung Tá Trần Hữu Thành, Thiết Đoàn Trưởng TĐ9KB làm Chiến Đoàn Trưởng) để hành quân giải tỏa áp lực VC ở vùng căn cứ hỏa lực nầy. Sư Đoàn 21BB chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân . Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn nhận định, với thực tế địa thế sình lầy, sông lớn và kinh rạch chằng chịt, sông Cái Lớn quá rộng và sóng rất to, 2 bờ sông sình và lầy, Thiết kỵ khó có thể làm capstan để vượt sộng, rất trở ngại cho Thiết Kỵ di chuyển và áp dụng đội hình thích hợp. Nếu tung Chiến Đoàn 32 Lưu Động vào mà không có Thiết Kỵ đi kèm để hổ trợ thì khó thành công, và sẽ bị tổn thất nặng như Trung Đoàn 31 BB. Do đó, Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn và chúng tôi thảo luận và chấp nhận chọn giải pháp: Câu thời gian, dùng chiến thuật “điệu hổ ly sơn”, dụ địch ra khỏi hang để tiêu diệt. Giai đoạn đầu, quan niệm hành quân là: Chiến Đoàn 219 xung kích nhận nhiệm vụ làm mũi nhọn tiến quân chính, tiến từ hướng Bắc xuống sông Cái Lớn, vượt sông Cái Lớn và tiến xuống giải toả áp lực địch quanh căn cứ hoả lực. Chiến Đoàn 32 Lưu Động làm lực lượng trừ bị, hành quân phía sau, giữ đường tiếp tế, giải toả áp lực địch quanh quận Kiên Hưng, cùng lúc đánh phá khu hậu cần của Trung Đoàn D2 Việt Cộng và sẳn sàng Trực Thăng Vận. (Xem phóng đồ số 1) Khi Chiến Đoàn 219 tiến xuống cách phía Bắc bờ sông Cái Lớn khoảng hơn 3 cây số thì Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ báo cáo bị lầy. Chi Đoàn 3/9Thiết Kỵ do Thiếu Tá Nguyễn Quí Phát làm Chi Đoàn Trưởng, được 2 Đại Đội của Tiểu Đoàn 1/33/21 BB tùng thiết. Chiến Đoàn đã dùng nghi binh là bị lầy, các chiến xa lên, xuống, xoay xích sắt quanh chỗ nầy, không đi được xuống hướng Nam để chuẩn bị vượt sông như lệnh hành quân. Liên tiếp trong nhiều ngày Chiến Đoàn bị Tư Lệnh Sư Đoàn xài xể rùm beng trong máy… Trong thời gian nầy căn cứ hoả lực được bảo vệ hữu hiẹäu bằng Pháo Binh. Những trở ngại trao đổi giữa Chiến Đoàn với Tư Lệnh Sư Đoàn chắc chắn là VC kiểm thính và nghe tất cả. Đánh giá là Thiết giáp thực sự không đi xuống hướng Nam được, VC cho bỏ trận địa chờ đón đả viện ở phía Nam sông và di quân vượt sông Cái Lớn lên hướng Bắc, bố trí tạo dựng trận địa mới, phục kích chận đánh BB. Sáng ngày N+4, khoảng 10 giờ, sau khi báo cáo bị lầy như các ngày trước, Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ cho 2 ĐĐ/BB tùng thiết xuống xe và đi về phía trước, tức hướng Nam cận bờ sông Cái Lớn, lục soát và bố trí. Khi 2 ĐĐ/BB đi cách Chi Đoàn khoảng 700 thước thì bị VC khai hoả bằng thượng liên phòng không 12 ly 8. Bộ Binh liền nằm lại, móc hố, bố trí bám trụ, không rút lui.( Vì đã nhận lệnh miệng từ trước là nằm tại chỗ, Thiết Kỵ sẽ tràn lên diệt địch ). Bộ Binh báo cáo trước mặt họ khoảng 600 thước có 5, 6 cái ụ đất có cây tràm mọc,VC đặt thượng liên ở đó bắn vào cánh quân của Bộ Binh, và có thể có súng nặng ở đó. Chiến Đoàn cho pháo binh tác xạ mạnh vào các điểm tiên liệu phía trước và điều động Chi Đoàn 1/9 TK do Đại Uý Lê Quí Thọ chỉ huy, trừ bị từ phía sau tiến lên, cùng dàng hàng ngang với Chi Đoàn 3/9 TK, di chuyển vượt qua tuyến Bộ Binh, cùng lúc, 2 Chi Đoàn cùng xung phong vào phòng tuyến VC… Hai chi đội 4/1/9 và 4/3/9 yểm trợ cùng 6 xe M113 trang bị 106 ly không giật của 2 Chi Đoàn 1 và 3 Thiết kỵ do Thiếu Uý Nguyển Ngọc Dưỡng, Chi Đoàn phó Chi Đoàn 1/9 TK chỉ huy, di chuyển xéo lên bên phải và bố trí để làm căn cứ hoả lực, xử dụng cối 81 ly cùng 106 không giật và đại liên 50 tác xạ cực mạnh xéo ngang hông các đơn vị VC, yểm trợ cho 2 Chi Đoàn xung phong. Hai Chi Đoàn trưởng đã phối hợp hàng ngang tuyệt vời, từng đợt từng đợt 6 trái 106 ly không giật bắn bay mất các ụ đất cao, khoá miệng các súng phòng không 12 ly 8 và 82 ly không giật chống Thiết Giáp. Vết xích xung phong của Thiết Kỵ đã cày nát tuyến phục kích của VC. Tuyến bị vỡ, quân VC số bị dìm chết dưới xích sắt chiến xa, số bung ra khỏi hầm hố thoát chạy và bị bắn gục hết lớp này đến lớp khác. Trên thực tế, VC bị yếu tố bất ngờ vì nghĩ rằng đất lầy nên M 113 không di chuyển được, nhưng địa thế tuy có nước lấp xấp, đất vẫn còn cứng và M113 di chuyển rất tốt và dễ dàng, do đó VC không trở tay kịp và làm mồi cho đại bác 106 không giật, súng cối và đại liên 50 + 30 trên xe M113. Một số lớn bị đánh bật khỏi vị trí, rút lui về phía sông thì lại bị pháo binh và cối của ta hủy diệt, xác địch nằm vương vãi trên bờ ruộng, trong lùm cây, trên sông lạch… Với kinh nghiệm chiến trường, Thiếu Tá Phát và Đại Uý Thọ cùng các Kỵ Binh 2 Chi Đoàn đã phối hợp hỏa lực và di động chuẩn xác đã gây cho VC thiệt hại nặng nề. Trong trận đánh này, Chiến Đoàn chưa nhờ đến sự yễm trợ của không quân. Kiểm điểm kết quả sau trận đánh, về phíaViệt Cộng, 1 Tiểu Đoàn của Trung Doàn D2 bị xoá tên hoàn toàn và một số tổn thất khác không rõ. Về phía QLVNCH, số thương vong không đáng kể, gồm 8 người bị thương (6 BB và 1 HSQ xạ thủ ĐL50 và 1 Trung sĩ trưởng xa.) Ta tịch thu 2 đại bác 82 ly không giật chống TG +3 thượng liên 12ly8 phòng không và trên 50 súng cá nhân và B40, B41. Chiến thuật Ngựa ngậm tăm: im lặng vô tuyến, nghi binh, chuyển thế. Lê Đức Anh vứt chiến bào thoát thân trong lửa đạn. Sau những lần thất bại nặng nề liên tiếp, tướng Việt Cộng Lê Đức Anh, Tư Lệnh Quân Khu 9 của CSVN rất bực tức, quyết định phục hận, quyết đánh chiếm Toà hành chánh cùng thị xã Vị Thanh của Tỉnh Chương Thiện và san bằng BTL/Hành Quân của SĐ 21 BB nằm sát cạnh vòng đai Thị Xã Vị Thanh về phía Nam. Cùng lúc, địch dàn quân với ý đồ phục kích chận đánh tiêu diệt Chiến Đoàn 219 xung kích và Chiến Đoàn 32 lưu động từ vùng Kiên Hưng khi các đơn vị này về cứu viện, và theo dự trù, hai Chiến đoàn này di quân dọc theo trục lộ từ Cầu đúc Cái Sình qua xóm làng Hỏa Lựu về sát phía Nam với BTL/HQ của SĐ21 BB. Tướng VC Lê đức Anh, cho lệnh tấn công, pháo kích nặng đồn Vĩnh Chèo và Chi Đoàn 2/9 Thiết Kỵ do Trung Uý Dương Vĩnh Trường, Chi Đoàn Trưởng chỉ huy. Chi Đoàn đang tăng phái hành quân bảo vệ vùng nầy, hành quân xa với Chi Đoàn 1 và 3. Lê đức Anh cùng lúc cho đại quân di chuyển dần ra gần tỉnh và BTL/SĐ21/HQ, chiếm khu vườn Cò của Ông Hội Đồng Hổ ở xã Tân Thuận Đông, cùng dàn tuyến phục kích dài theo xã Hoả Lựu, chuẩn bị trận địa đồng loạt tấn kích ngày hôm sau. Nhận được báo cáo chính xác tin của Phòng 2 SĐ, Đại Tá TL/SĐ 21BB cho lệnh Chiến Đoàn 219 xung kích phản công, chận đánh VC với quan niệm không chấp nhận bị phục kích từ Cầu đúc Cái Sình, Hỏa Lựu về BTL/SĐ/HQ. Chiến Đoàn Trưởng trình bày kế hoạch tổng quát như sau : Để Chi Đoàn 1/9 Thiết Kỵ ở lại vùng hành quân với Chiến Đoàn 32 Lưu Động. Cho Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ di chuyển về Chương Thiện, phối hợp với Chi Đoàn 2/9 Thiết Kỵ phản công, kế hoạch chi tiết, tôi sẽ trình vào sáng hôm sau. Đại Tá Tư Lệnh đồng ý với kế hoạch trên. Ngay sau khi nhận lệnh, Hổ Cáp (biệt danh của Chiến Đoàn Trưởng) đáp trực thăng Chỉ huy xuống Chi Đoàn 1+ 3 Thiết Kỵ và cho lệnh miệng tại chỗ: - 36 (biệt danh của Thiếu Tá Nguyển Quí Phát, Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 3/9 Thiết kỵ), chuẩn bị khi trời vừa tối, chi đoàn chở Đại Đội 32 Trinh Sát làm tùng thiết, tắt đèn, im lặng vô tuyến, không liên lạc bằng máy truyền tin (chỉ lên tiếng khi chạm địch), chỉ liên lạc bằng mắt, di chuyển ra lộ cái, đi về Rạch Giá, qua Long Xuyên, về Cần Thơ, xuống ngả 3 Cái Tắc nhận tiếp tế đạn dược, xăng dầu, lương thực. Đúng 3 giờ sáng rời điểm tiếp tế đi vô Chương Thiện, cách Tỉnh Lỵ 2 Cây số, đổi hướng trái và vượt kinh, bố trí sau lưng xóm nhà hướng về hướng Nam, sẳn sàng tấn công mục tiêu trước 6 giờ sáng. Chờ lệnh. Trong khi Chi Đoàn di chuyển, Chi Đoàn cho 1 HSQ Ban 3 ở lại với BCH/Chiến Đoàn 32 với máy truyền tin tại ấp Áp Lục, luôn báo cáo về BCH/Chiến Đoàn 219 Xung Kích điểm ngủ đêm của Chi Đoàn, phục kích đêm của Bộ Binh tùng thiết, hỏa tập pháo binh, báo cáo hoạt động trong ngày. Nhiệm vụ là luôn giữ liên lạc và báo cáo y như là Chi Đoàn đang qua đêm tại Vùng hành quân. - 18 (biệt danh của Đại Uý Lê Quí Thọ Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 1/9 Thiết Kỵ) bố trí qua đêm tại chỗ. Sáng hôm sau, Chi Đoàn tăng phái cho Chiến Đoàn 32 lưu động, vào tần số và nhận lệnh trực tiếp Chiến Đoàn. Ngay chiều hôm đó, Thiếu Tá Hồ Đình Thuận, Thiết Đoàn Phó TĐ9KB theo trực thăng chỉ huy về hậu trạm Chiến Đoàn tại tỉnh lỵ Chương Thiện, phối hợp với 94 ( biệt danh của Đại uý Đào văn Cung), Sĩ quan Tiếp Vận của Thiết Đoàn lo việc tiếp tế cho Chi Đoàn 3/9 TK tại Ngả 3 Cái Tắc, đoàn xe tiếp tế có mặt trước 1 giờ sáng và Ban truyền tin chuẩn bị máy và rà, tìm kiếm tần số liên lạc truyền tin của VC, theo dõi hoạt động của chúng hầu cập nhật tình hình, tìm đúng chỗ chúng bố trí để có quan niệm hành quân thích nghi, áp dụng đội hình cùng hướng tiến quân thích hợp và chính xác vào sáng hôm sau. Đúng 6 giờ sáng, mặt trời sắp mọc, ánh sáng mờ mờ, Chiến Đoàn điều động Chi Đoàn 2/9 TK do 27 (biệt danh của Trung Uý Dương Vĩnh Trường Chi Đoàn Trưởng) rời điểm ngủ đêm, di chuyển lên hướng Bắc vượt kinh Hội Đồng Hổ, bắt tay với Chi Đoàn 3/9 TK cùng thanh toán mục tiêu. Đồng thời cho Chi Đoàn 3/9 TK rời vi trí di chuyển xuống hướng Nam, sẳn sàng bắt tay với Chi Đoàn 2/9 TK. Thiết Kỵ di chuyển rất chậm và đổi hướng luôn luôn theo lệnh Chiến Đoàn để Ban Truyền tin do 96 Thượng Sỉ I Hầu Châu Pâu chỉ huy rà tìm tần số liên lạc của VC. Sau hơn 1 giờ tìm kiếm, Ban Truyền Tin Chiến đoàn đã bắt được tần số liên lạc của VC. Và sau nhiều lần thay đổi hướng tiến của Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ, nghe chúng báo cáo, Chiến Đoàn biết chắc chắn là Tướng VC Lê đức Anh đã cho quân bố trí ngoài ruộng trống, trước mặt của Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ chứ không bố trí trong kinh rạch như lệ thường, cốt ý là để tránh phi pháo và gây bất ngờ cho ta. Một lần nữa, Việt cộng lại áp dụng chiến thuật độn thổ phục kích ngoài ruộng trống. Tình hình dàn quân của địch đã rõ: Địch ở ngay trước mặt Chi Đoàn 3/9 TK. Chiến Đoàn lệnh cho Chi Đoàn 2/9TK vượt kinh ngay, sau khi vượt kinh xong, Chiến Đoàn lệnh cho Trung uý Diệp Minh Tâm, Chi Đoàn phó Chi Đoàn 3/9 Thiết kỵ chỉ huy căn cứ hoả lực gồm 6 đại bác 106 ly không giật (gồm 3 của Chi Doàn 3/9 TK và 3 của Chi Đoàn 2/9 TK) cùng 2 Chi Đội yểm trợ súng cối 81 ly của 2 Chi Đoàn cùng toàn bộ phần còn lại của Chi Đoàn 2/9 TK, tác xạ từ hướng Đông sang Tây yểm trợ cho chi Đoàn 3/9 TK xung phong từ Bắc xuống Nam. Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt, trên trực thăng chỉ huy, Hổ Cáp nhìn xuống trận địa thấy rất rõ địa thế và tình hình bao quát, thấy hỏa lực địch còn rất nặng trước mặt bên phải Chi Đoàn 3/9 TK, dàn súng cối của VC đặt ở bờ sông Cái Lớn phía Nam bắn lên. Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ nhận lệnh bố trí lại tại chỗ và tác xa cầm chân VC chờ lệnh. Trung úy Tam nhận lệnh dời căn cứ hỏa lực lên thay thế vi trí Chi Đoàn 2/9 TK, và 27 cùng Chi Đoàn di chuyển đi phía sau Chi Đoàn 3/9 từ hướng Đông qua hướng Tây, qua bên phải xong, đổi đội hình dàn hàng ngang với Chi Đoàn 3/9 Thiết Kỵ. Hổ Cáp cho 2 Chi Đoàn dàn hàng ngang, mỗi xe cách nhau khoảng 50 thước, đại liên nối đạn dài 5 hay 10 thùng, tác xạ 15 hay 20 viên / loạt, mãnh liệt và liên tục vào mục tiêu địch. 27 và 36 liên lạc hàng ngang phối hợp thật chặt chẽ ào ạt xung phong vào tuyến VC. Cùng lúc, lệnh cho 93, Đại úy Nguyễn Quang Minh, sĩ quan Hành Quân Chiến Đoàn, điều phối họp hỏa lực Pháo Binh bắn tập trung vào tuyến địch ở Kinh Ông Hội Đồng Hổ, khu vườn Cò và vị trí súng cối địch ở phía Nam, đồng thời cản đường tiếp viện hay rút lui, tản thương của địch. Thiết Kỵ và Bộ Binh đan lưới lửa phủ chụp lên các vị trí địch, và yếu tố bất ngờ mà địch tưởng dành cho đối phương đã bị đảo ngược, họ trở thành mục tiêu tác xạ lộ thiên không nơi chắn che, nương tựa, bị dí chết giữa đồng rộng dưới lưới đạn và xích sắt, hoặc vỡ phòng tuyến tháo chạy thành những hàng bia di động bị đốn ngả. Sau hơn 1 giờ quần nhau từ ruộng lầy trống vào đến sát bờ kinh, Chiến Đoàn đã làm chủ toàn bộ chiến trường và khai thác trận địa. Nắng soi rõ mặt, chiến địa sình lầy nhầy nhụa máu và xác người, súng và đạn, những mô đất vỡ tung, những nhành cây gẫy cụp. Chiến địa hoang tàn trong nỗi kinh hoàng của những toán quân cộng sản may mắn còn sống tháo chạy không dám quay đầu.. Chiến Đoàn báo cáo chiến lợi phẩm thu được về cho 54 (biệt danh của Đại Tá Lâm Chánh Ngôn, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn) ghi sổ và tính ra tiền để thưởng, và cuối cùng 54 báo qũy hết tiền, tức không còn tiền để thưởng nữa vì vũ khí quân lính tướng VC Lê Đức Anh bỏ lại quá nhiều (Mỗi khẩu súng cộng đồng được thưởng 50.000đồng). Và phải ghi nợ (Xem phóng đồ số 2) Trong trận đấu trí và ác chiến kinh hoàng này, theo tin tức của Đoàn 7X tại Cần Thơ cung cấp thì Tướng VC Lê Đức Anh đã phải cởi áo, lột sao bỏ lại trận địa, giả dạng ông già câu cá… mới vượt được khỏi trận địa và thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Tư Lệnh Phó Chiến Trường, nhân vật số 2 sau Lê Đức Anh, bị xích sắt M 113 dìm giữa trận địa sình lầy, trọng thương được quân ta chuyển về rừng U Minh, được chữa trị nhưng ông ta hôn mê và chết sau đó 4 tháng. Cha xứ nhà thờ Vĩnh Chèo cho biết VC đã dùng nhiều xuồng, có trên 30 chiếc, chở xác chết và thương binh trong đêm tối về vùng căn cứ lỏm ở kinh Trực Thăng và Hóc Hỏa… Thế nhưng, cuộc chiến thắng nào cũng có cái giá bi thương của nó. Về con số quân bạn thương vong, Bộ Binh tùng thiết có 4 tử thương và 8 bị thương. Chi Đoàn 3/9 TK 1 HSI xạ thủ ĐL50 tử thương và 1 bị thương. Chi Đoàn 2/9 TK bị cháy 1 xe M 113 và 3 kỵ binh bị thương. Về vũ khí, tịch thu: 3 Đại bác 82 ly không giật chống Thiết Giáp, 9 thượng liên 12ly 8 phòng không, 22 khẩu súng B40 và B41 chống xe Thiết Giáp, trên 100 súng tiểu liên Ak 47 của khối Cộng Sản. Đặc biệt, HSI xạ thủ đại liên 50 bị tử thương là anh ruột của BI lái xe, và chính BI nầy đã anh dũng dùng 1 tay quăng lựu đạn, 1 tay lái xe cày nát tuyến VC và nhẩy xuống khỏi xe, thu khẩu Thượng liên 12 ly 8 phòng không đầu tiên, trước cả Trinh sát 32 tùng thiết. Anh đã được đặc cách vinh thăng lên HSI. Hai Anh Em cùng làm việc chung trên 1 xe M.113 ( Anh là 1 xạ thủ đại liên 50, Em thì lái xe. Hai anh em cùng đầu quân vào Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh và cùng phục vụ chung trên 1 xe M 113.) Tôi rất tiếc và vô cùng ân hận đã quên tên họ của 2 chiến hữu kỵ binh kiêu hùng nầy. Cầu xin 2 anh thứ lỗi cho tôi. Nhìn lại trận chiến, tướng VC Lê đức Anh và Ban Tham Mưu của Quân Khu 9 VC đã ước tính sai tình hình. Họ nghĩ là họ đã khoá chặt Chiến Đoàn 219 và Chiến Đoàn 32 tại vùng Kiên Hưng, không về ứng cứu được trận địa mới nầy. Nếu về thì phải đi vào đường chết do chúng chọn lựa. Theo dự liệu của Lê Đức Anh và bộ tham mưu VC, toàn bộ Chiến đoàn 219 trên đường về cứu viện sẽ bị phục kích và tiêu diệt, vì Chiến Đoàn phải vượt sông Cầu Đúc, cầu nầy đã bị VC giật mìn sập không xử dụng được, muốn qua phải dùng phà do Công Binh chở qua sông và phải đi qua ấp Cái Sình, xã Hỏa Lựu, tức đi vào vùng trận địa do chúng chọn lựa và tổ chức phục kích. Đây là đoạn đường gần nhất dài khoảng 20 cây số. Duy nhất chỉ có Chi Đoàn 2/9 TK trong vùng và VC đã bố trí độn thổ ngoài trống để phục kích chận đánh Chi Đoàn nầy khi di chuyển về cứu Tỉnh lỵ và BTL/SĐ. Họ không ngờ họ bị đánh lừa. Chiến Đoàn đã nguỵ trang, cho Chi Đoàn 3/9 TK im lặng vô tuyến, không mở đèn, di chuyển suốt đêm, đi một đoạn đường dài trên 260 cây số ngàn, để sáng sớm hôm sau vượt kinh xong và di chuyển về hướng chúng nằm ngoài trống, phía sau tuyến bố trí của chúng. Quân Lê Đức Anh phải chấp nhận giao tranh trong tình trạng bất ngờ trên một chiến địa bất lợi trước hỏa lực của Thiết Kỵ và Bộ Binh tùng thiết.. Trong tình hình nếu Chi Đoàn 2/9 Thiết Kỵ không được lệnh nghi binh, di chuyển đường xa và đổi chiến thuật lừa địch, thì khi đang vượt kinh và bị cộng quân khai hỏa, quân ta sẽ rơi vào tình thế rất nguy hiểm, mức độ tổn thất sẽ không lường được, thế trận bị kẹt cứng, không khai triển đội hình để lui về phía sau, không di quân bên phải, bên trái được, không xử dụng hỏûa lực được… vì dừa nước 2 bên bờ kinh cản trở và chỉ làm mồi ngon cho B40, B41 của địch mà thôi. Chính vì thế, thay vì tiêu diệt được Chiến Đoàn 219 xung kích, ngược lại, Quân Khu 9 CSVN đã bị tổn thất rất nặng nề về quân số và vũ khí cũng như cấp chỉ huy, không kể trường hợp Tư Lệnh chiến trường tướng VC Lê Đức Anh đã phải theo “sách Tôn Sĩ Nghị”, vứt chiến bào, giả dạng thường dân lội sình trốn chạy thoát thân… Hổ Cáp Trần Hữu Thành Gia đình 9 Kỵ Binh
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 11:40:17 GMT 9
30.4.75: Nhảy Dù, Biệt Cách Dù Kịch Chiến Với CQ Trước Giờ G Vương Hồng Anh -------------------------------------------------------------------------------- * Người lính Việt Nam Cộng Hòa, những giờ cuối cùng của cuộc chiến Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những người lãnh đạo tối cao của quốc gia và quân đội tìm mọi cách để ra đi, thì tại mặt trận vòng đai Sài Gòn và ngay trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, người lính Quân lực VNCH từ anh binh nhì cho đến các trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng... thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối cùng. Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn, những người lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến... đã đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn cháy, gần 2 tiểu đoàn Cộng quân tan xác... Ðó là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ Ðô Sài Gòn trong buổi sáng cuối cùng của cuộc chiến, trước khi tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối cùng này, tại Sài Gòn-trái tim của Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập, những trận đánh hào hùng và bi tráng của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù... trước giờ G. * Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối cùng Như đã trình bày, trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩm quyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Ðại tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với chuẩn tướng Thọ (trưởng phòng 3); trung tướng Ðồng Văn Khuyên, tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng đã "chia tay" với các cộng sự viên của mình từ sáng ngày 29/4/1975. Ðể có tướng lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức tổng tham mưu trưởng, Nguyễn Hữu Hạnh, chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng 4/1974-làm phụ tá tổng tham mưu trưởng; cựu thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên tư lệnh phó Quân khu 2, làm tư lệnh phó phụ giúp tướng Phát; chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên cục trưởng Công binh, thứ trưởng Ðịnh cư trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức tổng cục trưởng Tiếp vận. Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm". Về Không quân, đến chiều ngày 29/4/1975 chỉ còn Sư đoàn 4 Không quân tại căn cứ Trà Nóc, Cần Thơ là còn nguyên vẹn, một số phi cơ của các Sư đoàn 3 và Sư đoàn 5 Không quân đã bay về căn cứ Trà Nóc từ chiều ngày 29/4/1975. Vị tướng Không quân còn quân và phi cơ trong tay là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, tư lệnh Sư đoàn 4 Không quân đồng thời là quyền tư lệnh Không quân vào ngày cuối của cuộc chiến. * Trận chiến tại các cửa ngõ vào Sài Gòn Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng chuẩn tướng Lý Tòng Bá, tư lệnh Sư đoàn, và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đã phải thay nhau làm khinh binh với những bài toán chiến thuật cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông và người cận vệ gần đến Hóc Môn. Theo lời kể của tướng Bá, cùng bị bắt trong đêm rút quân này còn có một số sĩ quan cao cấp của Sư đoàn 25 Bộ binh: đại tá Trương Thắng Chức, tư lệnh phó Sư đoàn; đại tá Khiêm, tham mưu trưởng Sư đoàn, Trung tá Chong, chỉ huy Pháo binh Sư đoàn; Trung tá Út, trung đoàn phó Trung đoàn 50, thiếu tá Anh tiểu đoàn 25 Công Binh, thiếu tá Hoàn trung đoàn 49... Tại phòng tuyến của Sư đoàn 5 Bộ binh, trung tâm Huấn luyện Sư đoàn chỉ thật sự chấm dứt hoạt động huấn luyện trên bãi tập vào ngày 28/4/1975 và được lệnh cấm trại 100% để lo phòng thủ. Khoảng 10 giờ đêm ngày 29/4/1975, Cộng quân di chuyển trên xa lộ Ðại Hàn (Sài Gòn-Bình Dương). Bộ binh đi hai hàng dọc, kẹp sát lề đường, xen kẽ ở giữa là chiến xa T 54. Các đơn vị Cộng quân ngang nhiên di chuyển về hướng Sài Gòn và không ngụy trang lá cây như những cuộc chuyển quân trước đó. Vừa đi ngang khu vực trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 5 Bộ binh, thì pháo đội súng cối 81 ly của trung tâm bắn ra để ngăn cản bước tiến quân của địch. Ngay sau đó, chiến xa và bộ binh của Cộng quân đã dàn hàng ngang tiến thẳng về phía trung tâm, những súng phòng không trên pháo tháp của chiến xa Cộng quân thi nhau nhả đạn, nhưng chỉ một lát sau thì ngưng lại. Ðoàn quân của địch lại tiếp tục di chuyển về hướng Sài Gòn. Quân lính CS đi rất vội vã, hối hả. Ðó là dấu hiệu cho thấy Cộng quân tránh giao tranh dọc đường, bảo toàn lực lượng tối đa, tiến nhanh về Sài Gòn càng sớm càng tốt. Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không còn quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh đã được điều động về quận lỵ Cần Ðước theo liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Ðước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Ðường (khu vực này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975). Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi thì kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ. Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25. Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa. * 5 cánh quân CSVN tấn công vào Sài Gòn Ngay trong đêm 29 tháng 4/1975, 5 cánh quân của Cộng quân tiến sát Sài Gòn. Hướng Tây Nam do binh đoàn 232 với 5 sư đoàn do Lê Ðức Anh làm tư lệnh chỉ huy (sau này là chủ tịch nhà nước CSVN từ 1992-1997); quân đoàn 3 CSBV do Vũ Lăng, thiếu tướng CS BV chỉ huy; quân đoàn 1 CSBV do Nguyễn Hóa làm tư lệnh; quân đoàn 4 do Hoàng Cầm chỉ huy; Binh đoàn 2 CSBV với 4 sư đoàn do Nguyễn Hữu An làm tư lệnh. Chỉ huy trực tiếp các cánh quân CSBV là Trần Văn Trà- thượng tướng, tổng chỉ huy lực lượng CSVN tại miền Nam. Bộ tư lệnh điều hợp toàn bộ kế hoạch của CSBV đặt tại một căn cứ ở miền Ðông do Văn Tiến Dũng làm tư lệnh và Phạm Hùng làm chính ủy, Lê Ðức Thọ từ Hà Nội làm cố vấn và là đặc phái viên bộ Chính trị CSVN. * Những trận đánh trước giờ G ... Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngã tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn. Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu, thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Nhảy Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là trung tướng Vĩnh Lộc, tân tổng tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai. Trước tình hình đó, thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời: Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống. Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: Ðại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó? Thiếu tá Tài trình bày: Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định. Tướng Minh trả lời: Các em chuẩn bị bàn giao đi! Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: Bàn giao là như thế nào thưa đại tướng, có phải là đầu hàng không? Tướng Minh đáp: Ðúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Ðộc Lập. Nghe tướng Minh cho biết như vậy, thiếu tá Tài nói ngay: Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Ðộc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống. Tướng Minh suy nghĩ, thiếu tá Tài nói tiếp: Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2,000 cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu. Tướng Minh trả lời: Tùy các anh em! Theo lời thiếu tài Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã gặp trung tá Võ Ngọc Lan, liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống Phủ. Trung tá Lan nói với thiếu tá Tài: Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống. Thiếu tá Tài giải thích: Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy quân đội.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 11:46:20 GMT 9
Đại Tá NGÔ TẤN NGHĨA Và Thành Quả Bình Định Phát Triển Tại Bình Thuận 1970-tháng 4/1975 HỒ ĐINH -------------------------------------------------------------------------------- - Kính tặng QUÂN DÂN BÌNH THUẬN đã hy sinh cho đại nghĩa Dân Tộc - Riêng về Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, Tỉnh Trưởng Bình Thuận. Lúc 12 giờ trưa ngày 30-4-1975 tại Sài Gòn, ngày vinh quang của bác đảng nhờ Dương văn Minh và Hoa Kỳ ép bắr QLVNCH bỏ súng đầu hàng khi đang chiến đấu với giặc xâm lăng. Có tận mắt chứng kiến quang cảnh lúc đó, mới cảm nhận sự thất bại cay chua của Hà Nội trong giây phút, gọi là giải phóng. Thật vậy dọc theo đại lộ Thống Nhất, gần sát cổng Dinh Độc Lập, nơi có hàng tăng T54 và PT76 made in Liên Xô-Trung Cộng đậu, dân chúng thủ đô xếp hàng một lưa thưa, chiêm ngưỡng của lạ trong khối Xã Nghĩa. Ngoài ra đi khắp phố, thấy toàn dân chiến nạn lụt đục kéo về nhà, đám hôi của lỉnh kỉnh đủ thứ, tuyệt nhiên chẳng có cảnh người thành phố hàng hàng lớp lớp túa ra đường hồ hởi biểu tình, hoan hô chào mừng bộ đội miền bắc như Lê Duẩn, Phạm Hùng, Trần Độ. mong đợi thổi phồng và được Bùi Tín, trước khi chưa bị quẹt đít bôi vôi, viết báo nói dóc. Tóm lại mặc dù người Sài Gòn rất đa sự, nên trong suốt 30 năm lửa loạn, họ luôn luôn túa ra đường để hòa nhập vào các biến cố. Nhưng có lẽ đã đoán trước kết cuộc của chặng đường bi thảm trước mắt, khi thật sự đối diến với VC bằng xương thịt có AK mã tấu, chứ không qua sách vở báo chí đã đọc, vì vậy trừ cán bộ nằm vùng, bọn Việt gian nâng bi đảng để lấy điểm, còn hầu hết người dân không nhập cuộc chơi ngay từ lúc ban đầu. Tháng 9/1975 đảng VC ra lệnh đốt sách bắt trí thức miền Nam đi cải tạo vì tội làm CIA Mỹ., sau khi hốt được gần trọn ổ quân, công, cán, cảnh VNCH vào các trại tù, qua chiêu bài đi cải tạo tư tưởng một tuần rồi về. Tóm lại, gần hết nhà văn nhà báo VNCH đều bị đảng hốt vào tù, kể cả Hồ hữu Tường, soạn giả cải lương Mộc Linh, các nhà in sách bán sách như Khai Trí,Độc Lập, Nam Cường, Đồng Nai..Ngoài VC nằm vùng như Vũ Hạnh, Phong Đạm, Thái Bạch lên chức, có hai nhà văn nhớn là Nguyễn mộng Giác và Nguyễn xuân Hoàng, không hề bị gì cho tới khi xuất ngoại sang Hoa Kỳ, tiếp tục làm báo, viết trường thiên tiểu thuyết. Trong chốn lao tù còn có họa sĩ CHÓE, tức Nguyễn hữu Chí, người Long Xuyên, cấp bậc hạ sỉ, phục vụ tại Bộ TTM/QLVNCH. Trước năm 1975, Chóe là một họa sĩ vẽ biếm họa nổi tiếng, thường lấy cái tài thiên phú của mình, phát tranh trên báo chí châm biếm, sĩ nhục một cách công khai chính quyền VNCH không chừa một ai, kể cả Tổng thống Mỹ lúc đó là Nixon và cố vấn Kissinger. Tranh biếm của Chóe càng có giá khi được một nhân viên Bộ Ngoại Giao Mỹ làm việc tại Sài Gòn là Barry Hilton in lậu và muốn xuất bản tại Hoa Kỳ. Việc đổ bể, Hilton bị cảnh cáo, còn Chóe thì bi Mỹ bán cái cho Cục An Ninh QD bắt giam tại Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo Duyên Anh kể qua hồi ký “ Nhà Tù “ do Xuân Thu phát hành năm 1987, thì cùng nằm chung trong Ấp với Chóa lúc đó, còn có vài tên KÝ GIẢ NẰM VÙNG (DA-Nhà Tù-Hồi ký trang 52, dòng 14.). Ngày 30/4/1975 Chóe ra tù vàlại tiếp tục vẽ biếm họa cho nhật báo Tin Sáng của Ngô công Đức, Nguyễn văn Bính, Hồ ngọc Nhuận, ký là TA. Rồi thăng hoa lên Thư Ký Tòa Soạn tuần báo LAO ĐỘNG MỚI của đồng chí Nguyễn Hộ, lương biên chế. Rồi tháng 9/1976 tự dưng lại bị chính phe ta bỏ vào tù, vì màn tranh ăn, đấm đá giữa những tên đồ tể văn nô bồi bút của đảng, mãi tới năm 1985 mới được thả. Rồi Choé lại được phe ta cho vẽ biếm họa, bán tranh và năm 1995 là họa sĩ Việt duy nhất được Đảng cữ đi triển lãm tranh tại Nhựt bổn (theo KTNN số 242 xuất bản tại thành Hồ ngày 10-4-1997). Sau đó nghe nói nhà cách mạng Choé chết bệnh tại Hoa Kỳ. Biến cố này làm sống lại cái thời đâm sau lưng chiến sĩ của một vài người, qua bài viết đăng báo vừa khóc vừa kể lại chiến công hiển hách năm nao của đượng sự tại Sài Gòn. Như vậy qua cuộc dâu bể ê chề tận tuyệt, sau ngày giặc tới, những người Bình Thuận so sánh với nhiều nơi khác, đã cảm thấy được an ủi rất nhiều, khi được sống trong cảnh hạnh phúc tối thiểu, có an ninh,được đi lại khắp nơi, từ lúc Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, nguyên Trưởng Phòng 2/QĐ từ Pleiku, thay thế Đại Tá Đàng Thiện Ngôn, làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Thuận, từ cuối năm 1969 tới sáng 19-4-1975 khi bộ đội cọng sản Bắc Việt tràn ngập Phan Thiết. Theo lượng giá của tất cả thẩm quyền có liên hệ tới tỉnh nhà, kể luôn đồng bào, trừ VC, qua người thương kẻ ghét, thì Ông đã thành công hoàn hảo trong công tác an ninh, bình định và phát triển toàn tỉnh. Sau này được đọc sách báo trong nước, thấyVC rất nể phục nhưng vẫn không bỏ qua những thành quả của Ông, đã làm cho chúng và đồng bọn đại bại tại Bình Thuận. Do trên, dù hiện Ông đang sống ở hải ngoại, cũng vẫn còn trong danh sách đen mà Hà Nội phải thanh toán bằng mọi cách, trong đó có màn khói độc làụ hạ nhục trên sách vở, báo chí với tội danh tham nhũng và bỏ lính vào giờ thứ 25, khi VC tràn ngập., khiến cho trận đánh không có đại bàng. BÌNH THUẬN, VÙNG XÔI ĐẬU VÀ MẤT AN NINH: Dù bị chia cắt nhiều lần, Bình Thuận vẫn là một tỉnh rộng lớn và quan trong nhất nhì Miền Trung về ngư nghiệp và kỹ nghệ chế biến hải sản. Do vị trí đặc biệt quan trọng về tài nguyên rừng tiền biển bạc, nên 300 năm qua, vùng đất này luôn là nơi tranh chấp của mọi thế lực, ai cũng muốn dành để trục lợi. Ngay khi Pháp chiếm Nam Kỳ năm 1867, các sĩ phu nhà Nguyễn như Nguyễn Thông, Trần thiện Chánh, Trương gia Hội..không chịu hợp tác với thực dân, nên đã tới vùng biển mặn tị địa và lập căn cứ chống giặc. Truyền thống yêu nước tiếp nối qua các Khoa bảng cũng là những sĩ phu lãnh tụ Nghĩa quân Bình Thuận như Ung Chiếm, Bùi Hàng,Cao Hành. Đất lành chim đậu, phượng hoàng thì sinh con oanh vũ, nên trải qua bao thế hệ, miền đất bị đời mỉa mai là “ văn chương không bằng cái xương cá mòi’ cũng đã sản sinh không biết bao nhiêu bậc khoa bảng tài trí đạo đức, văn võ song toàn, có chức phận cao cũng như suốt đời hy sinh vì dân, vì nước mà danh thơm còn lưu nhớ qua Hồ Tá Bang,Trương Gia Mô, Vũ Anh Khanh, Dũng Chinh và hàng vạn cựu học sinh nam nữ các trường trung học tư thục cũng như công lập mà điển hình là Trung Học Phan Bội Châu Phan Thiết. Ở đây, đi tới đâu, cũng thấy người dân dù là người Thượng tây bắc như Koho,Roglai hay Chàm,Nùng, Người Việt gốc Hoa và người Kinh, đều hãnh diện về gia tộc gia đình mình khi có những người đổ dạt cao và biết phụng sự cho dân tộc. Cho nên không lạ về sự tham gia ồ ạt của cha anh ta trong mặt trận LIÊN VIỆT tức Việt Minh, một tổ chức tự phát của toàn dân không phân biệt đảng phái, suốt chín năm kháng chiến từ 1946-1954, để chống lại giặc Tây đã trở lại cưỡng chiếm VN lần thứ hai. Từ đó Bình Thuận là mật khu, chiến trường, bất kể trong nội thành Phan Thiết ngay tại ngã bảy, Chợ Lớn, Xóm Cồn, Động Làng Thiềng, Lò Heo, Bến đò Vân Thánh cho tới những cánh đồng khô cháy vì bị bỏ hoang bên hai bờ sông Quao,Ba Bào, Cẩm Hang, Mường Mán,cạnh những cánh rừng già rừng thưa của khu tam giác, Láng Thang, Láng Quý, Bà Gò, Bà Chơn, Bà Hải, Lò Thổi, Bàu Sẽ..hay nơi vùng gió cát nóng bỏng Tuy Phong, Phan Rí, Đá Chẹt giáp ranh Cà Ná,Phan Rang qua Gò Xanh, Phú Điền, Gộp, Dốc Tơ Hồng lên núi ra biển, ở đâu người dân cũng nức lòng đánh Pháp cứu nước. Suy cho cùng, chính cái kết quả đói nghèo mà người Bình Thuận đã gánh chịu suốt bao thế kỷ qua cho tới tận ngày nay, dù được sống trong cõi tiền rừng bạc biển nhưng sự thật rừng và biển chỉ giúp cho một thiểu số làm giàu, có con cái học nước ngoài đỗ đạt cao, tiếp tục giàu và ngồi trên cao. Trong khi đó hầu hết dân chúng thì nghèo mạt rệp và chính điều này đã giúp VC rủ rê họ nhập đảng ngay từ thời Pháp thuộc. Rồi hai mươi năm triền miên chinh chiến, những người lính trận Miền Nam, xuất thân trong giới nghèo hay trung lưu lại độc hành lo chuyện dân nước, giúp cho một số khoa bảng tiếp tục bán xương máu quân dân để làm giàu nhờ buôn lậu lúa gạo, thuốc men và bán tin quốc sự cho giặc. Có đuợc làm một người lính dù thuộc các Tiểu đoàn Bộ Binh chính quy của Trung Đoàn 43 Biệt lập hay các Trung Đoàn 44,53/SD23BB hoặc KQ,TG,LLDB tăng phái hành quân. Có là người lính ĐPQ-NQ Bình Thuận, người Cán Bộ XDNT,Cán Bộ Xã Ấp, Cảnh Sát Dã Chiến..Tất cả mới cảm nhận được niềm đau quê hương trong chiến tranh, nỗi khổ đau cùng tận của đồng bào vùng chiến nạn, khi hành quân qua những đồi cát hoang vu của Rạng, Mũi Né,Hòn Rơm, Bầu Sen, Sông Lũy hay lang thang công tác trong cái tĩnh lặng u trầm buồn bã mông mênh của Quận Phan Lý Chàm, một miền đất có bản đồ hành chánh kỳ lạ nhất tại VNCH thời đó. Đến hành quân hay công tác vùng này, nhìn bản đồ chậm tọa độ, ai cũng muốn nổ tròng mắt vì những vị trí cóc nhẩy. Đấy là xóm Cầu Rang ở tận cực bắc tỉnh, gối đầu trên một con dốc cao lỡ lói tràn bên phía tây quốc lộ 1. Rồi lại nằm mãi tận phiá nam trong xã Ma Lâm Chàm, địa phận quận Thiện Giáo, nơi người Chiêm rất hãnh diện vì còn giữ được mấy cái Dinh Ông, Dinh Cậu theo họ rất hiển linh. Ngay cái gọi là Quận Đường Hựu An, có các xã Tịnh Mỹ, Hậu Quách, Lạc Trị..nhưng diện tích hẹp bó, bước qua phía bên kia quốc lộ đã là đất của xã Chợ Lầu, Hòa Đa. Còn sau lưng quận, qua vài đám ruộng nhỏ dùng để làm đồ gốm..thì đã đụng ngay giang san của người Nùng Hải Ninh. Bình Thuận xôi đậu là vậy, ra khỏi cửa ô huyện ly là cảm thấy bơ vơ lạc lỏng lạ cảnh lạ người không cùng lối bước, dù khi đối mặt vẫn nói chung một ngôn ngữ, cười vui hề hà nhưng sau đó có dịp thì tắc cù lính ngay dù lính hết lòng thương và giúp đỡ họ chân thành. Trên cái vùng đất mà phần lớn là núi rừng, đồi cát và người dưng kẻ lạ, thật sự khó mà quy trách nhiệm cho bất cứ motả cấp Tỉnh Trưởng nào, ngoại trừ người Tỉnh Trưởng VC nằm vùng, Trung Tá Đinh văn Đệ. Đây cũng là nơi lý tưởng của chiến thuật du kích qua cái thế đứng hai chân, chân đồng bằng, chân nông thôn có rừng núi, động cát và nằm vùng làm rào chắn tiếp tế che chở. Dùng vùng này để bao vây Phan Thiết, Huyện Lỵ, cắt đường bộ, thiết lộ, sông biển, khiến cho trục lộ cả nước bị đứt đoạn, coi như đã thành công chia cắt VNCH một lần nửa. Bình Thuận là hậu cứ của Trung Đoàn chính quy 812 miền lâu đời,luôn có nhân lực và tiếp tế đầy đủ bổ sung băng một vựa lúa Tuy Phong, Thiện Giáo, Hàm Thuận, cùng cá mực, thuốc men, vải vóc đủ mọi thứ được bọn khoa bảng, hàm hộ bất nhơn giàu sụ người Bình Thuận nhưng muôn năm ở Sài Gòn, bán lậu, cho không và chở bằng tàu thuyền, xe đò tới giao cho kinh tài VC tại trạm thu thuế số 25, hay Mũi Đèn, Quán Thùng, Hòn Rơm, Đá Chẹt. Đôi lúc người lính đã nghiến răng quên đi lòng nhân đạo trước thực tế chiến tranh, khó quá làm sao cho trọn vẹn hời giời. Đi trong lòng quê hương lúc đó thật ngao ngán, dù Rạng,Mũi Né lối đi vẫn rợp bóng dừa nhưng làng xóm xác xơ, nhà cửa thu vén gần đồn lính, hàng quán lèo tèo, chỉ lính ít thấy dân. Đường về Ma Lâm còn thảm thê hơn, khúc ngang Bình Lâm bì bầm như tương, mô đáp hàng ngày, xe lam người đi bộ lãnh mìn phe ta muôn năm.thê thảm. Qua những ý đồ như lập Mặt Trận GPMN, chuyển quân trang, bộ đội và cán bộ mùa thu hồi kết về Nam, lập nhiều căn cứ hậu cần trên đất Lào, lãnh thổ Miên. Tất cả chỉ nhắm vào mục đích cưỡng chiếm VNCH bằng võ lực, bởi vậy Hoa Kỳ đã phải đổ quân vào giúp đồng minh ngăn chận cọng sản từ năm 1965. Kế hoạch “ Lùng và Diệt” liên hợp giữa lực lượng chính quy Đồng Minh và QLVNCH đánh thẳng vào sào huyệt VC, lật lại thế cờ mà Hà Nội đã có trong mấy năm xáo trộn chính trị lên miên tại miền nam do loạn tướng kiêu tăng và đám cọng sản nằm vùng gây nên từ sau ngày binh biến 1-11-1963. Năm 1969 tướng Abraham thay tướng Westmoreland làm Tổng tư lệnh quân lực Hoa Kỳ và Đồng Minh tại Đông Dương, chuyển từ chiến lược “lùng và diệt” sang kế hoạch “ Bình Định Phát Triển” trên toàn lãnh thổ VNCH. Tóm lại đây là kế hoạch nhầm bình định lãnh thổ, phát triển lực lượng an ninh diện địa bao gồm ĐPQ-NQ và các Toán XDNT tỉnh. Cũng trong chiến lược này, từ đây các lực lượng Tổng Trừ Bi của BTTM cũng như các SD bộ binh, Thiết Giáp..hành quân lưu động, còn công cuộc Bình Định Phát Triễn là nhằm thanh lọc và tiêu diệt hạ tầng cơ sở VC tới xuống Ấp, Xã tại nông thôn là những vùng xôi đậu. ĐẠI TÁ NGÔ TẤN NGHĨA VÀ CÔNG CUỘC BÌNH ĐỊNH PHÁT TRIỂN BÌNH THUẬN TỪ 1969-1975: Bình Thuận có bảy quận và tỉnh lỵ Phan Thiết nhưng tình hình an ninh trước năm 1970 rất tồi tệ. Tại Tuy Phong có nhiều vùng xôi đậu, nguy hiểm như các Ấp Bình Long (Bình Thạnh), Vĩnh Hảo( Vĩnh Hoà) và Tuy Tịnh Việt. Các Ấp Vĩnh Hảo, Tuy Tịnh Việt được bình định hoàn toàn vào năn 1967. Riêng Ấp Bình Long vì tình hình an ninh, nên vào năm 1971, Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, Tỉnh Trưởng BT đã cho dời vào vòng đai Thị Trấn Long Hương. Trong quận Hòa Đa, thời kỳ Đại Uý Đổ quang Mẫn làm Quận/Chi khu Trưởng năm 1967, đã bình định được các Ấp Duồng (Thượng Văn), các Ấp Lâm Lộc 1,2,3 xã Phan Rí Cửa. Từ năm 1970, Đại Uý Dụng văn Đối về làm Quận/CKT/HD đã bình địng được các Ấp xôi đậu Phú Hải (Phan Rí Cửa), Liêm Bình, Long Lễ (Phan Rí Thành). Quận Phan Lý Chàm hoàn toàn không có hạ tầng cơ sở VC nên không có vùng xôi đậu. Tại Hải Ninh chỉ có Ấp Xuân Quang mất an ninh nhưng cũng được vãn hồi sau năm 1970. Quận Thiện Giáo do vị trí địa dư đặc biệt, lại tiếp cận với các mật khu có thời kỳ Việt Minh kháng Pháp như Lê Hồng Phong, Động Bà Hòe, Nam Sơn, Tam Giác, Dân chúng trong vùng ít nhiều có thân nhân nhảy núi tập kết, kháng chiến..cho nên phần lớn lãnh thổ bị coi như là vùng xôi đậu tại Long Hiệp, Hòa Vinh, Tùy Hòa, Bình Lâm, Tân An, Tân Điền..Từ năm 1972-1973, Thiếu Tá BĐQ.Hồ Quang Lượng về làm Quận/CKT/TG đã bình định hết các vùng xội đậu trên, kể cả Ấp Bình Lâm là sào huyệt của du kích, chấm dứt nạn đáp mô, đào đường, giật mìn, ám sát viên chức xã ấp, mang lại an ninh hoàn toàn trên Liên tỉnh lộ 8, từ Phan Thiết đi Ma Lâm lên tới Sông Quao, Cầu Trại, Gia Bát. Quận Hải Long nói chung tình hình an ninh tốt, nhờ các Quận/CKT như Trung Tá Kiều văn Uùt, Thiếu Tá Hàng Phong Cao. Quận Hàm Thuận năm 1965 có nhiều Ấp Xã xôi đậu như Mường Mán, Phú Hội, Tường Phong, Đại Nẳm. Riêng xã Kim Bình coi như mất an ninh hoàn toàn, ngoại trừ Ấp Kim Hải vùng xôi đậu, tuy nằm sát Ấp Đức Long của Thị Xã Phan Thiết. Năm 1969 Đại Uý Lê văn Cậy về giữ CKT/Quận đã bình định tất cả các xã, Ấp trên. Trước khi Đại Tá Ngô Tán Nghĩa về nhận chức Tỉnh Trưởng, tình hình an ninh Bình Thuận vô cùng nguy ngập, tại PhanThiết và các Thị Trấn luôn luôn có biểu tình chống đói Chính phủ, nạn tham nhũng hoành hành tại Ty Điền Địa, CSQG, Tiểu Khu nhưng công khai tại Ty Xã Hội thời Trưởng Ty Nguyễn Thượng Aùi và Nguyễn Quang Chùy. Mặt khác Tỉnh trưởng Đinh văn Đệ, điệp viên VC nằm vùng, tạo điều kiện cho bọn thương buôn công khai tiếp tế, bán lậu thuốc tây, vải vóc cho VC cơ sở. Y còn cố tình gây chia rẽ giữa các tôn giáo trong tỉnh, thông báo các cuộc hành quân của ĐPQ-NQ, làm cho nhiều đơn vị bị thiệt hại nặng trong thời gian 1965-1967 mới chấm dứt khi Đệ đắc cử dân biểu Quốc Hội VNCH (1967-1971). Trung Tá Nguyễn khắc Tuân về làm Tỉnh Trưởng BT (1967-1968). Sau năm 1975 bị tù khổ sai tại Bắc Việt và vùi thây nơi đó, giống như Tỉnh Trưởng /BT Lưu Bá Châm cũng chết thảm trong tù tại vùng biên giới Việt Hoa. Năm 1965, VC tấn công quận đường Thiện Giáo tại thị trấn Ma Lâm, đốt trụ sở quận, hạ sát nhiều binh sĩ ĐPQ-NQ trong đó có CKT/Quận là Đại Uý Mỹ và Thiếu Uý Lê văn Ngọ, trưởng ban 3/chi khu, nguyên khóa 19 SQ/ĐPQ. Tháng 7/1966, Trung Đoàn 812 VC tấn công ĐĐ288/ĐPQ/BT do Thiếu Uý Nguyễn văn Liên, khóa 15 SQTB/TD làm ĐĐT, đang bảo vệ Đoàn 59XDNT công tác tại xã Phú Hội, làm thương vong nhiều binh sĩ ĐPQ và đoàn viên XDNT. Quân ta phải lội qua sông Cà Ty mới thoát được vòng vây. Quận Trưởng Hàm Thuận lúc đó là Đại Uý Lê văn Trạch..Tháng 8/1966, Trung đoàn 812 chính quy Miền của VC, tổ chức cuộc phục kích dọc dài theo thiết lộ từ Ga Phú Hội tới Nhà Máy nước. Được tin, Đại Uý Khanh Yếu Khu trưởng YK/Phú Đại (Phú Hội-Đại Nẳm), điều động ĐĐ954ĐPQ/BT mở đường yểm trợ cho Đoàn 59XDNT công tác tại xạ Phú Hội. Nhưng quân ta đã bị phục kích tấn công ngay nhà ga Phú Hội, làm ĐĐ954 bị thiệt hại 90% quân số, toàn bộ sĩ quan tử trận, kể cả Đại Đội Trưởng là Thiếu Uý Huỳnh Đức, SQTB/TĐ khoá 14, cựu học sinh PBC 1955-1962 cũng là một cầu thủ thượng thặng của đội bóng tròn nhà trường và Phan Thiết. Đại Uý Khanh cùng lực lượng Yếu Khu lên tiếp viện cũng rơi vào vùng phục kích và tử trận, phần lớn đoàn viên đoàn 59XDNT kể cả Đoàn trưởng đều thương vong tại trận. Nói chung thời gian đó, dưới sự chỉ huy của Đinh văn Đệ, công tác bình định và triệt hạ cơ sở hạ tầng VC chì làm lấy lệ để báo cáo trên giấy tờ. Nguy hiểm hơn là các thành phần nằm vùng, cơ sở, các phần tử nhân danh tôn giáo sách động dân chúng,học sinh biểu tình, bãi khoá, gây xáo trộn khắp tỉnh, bị câu lưu trong một thời gian ngắn thì có lệnh phóng thích hay do các thế lực mọi phía bảo lãnh. Thành ra mọi công tác giống như đem muối bỏ biển. Mùa thu năm1969, Trưởng phòng 2/QD2/V2CT được Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu qua đề nghi của Trung Tướng TL/QD2 là Lữ Lan và Tướng Cố Vấn Mỹ/QD2, cử làm Tỉnh Trưởng kiêm TKT/BT thế Đại Tá Đàng Thiện Ngôn. Lúc bấy giờ trong tỉnh được một lực lượng tăng phái hùng hậu gồm 2 TD của TRD44 và 53/SD23/BB, một Chi Đoàn/TD8KB, một Chiến Đoàn Không Kỵ Hoa Kỳ, Hải Pháo Mỹ, Một toán Viễn thám/BTTM và nhiều đơn vị ĐPQ,NQ. Tuy nhiên tình hình chiến sự vẫn không được khả quan, lãnh thổ bị địch chiếm gần 90% và ngay tại Phan Thiết, ban ngày thuộc ta, ban đêm bị VC về hoành hành, ám sát, tấn cộng đốt phá các trụ sở Ấp Hưng Long,Phú Trinh,Đức Long, Đức Nghĩa..khiến cho Tỉnh Trưởng ngay trong Tòa Hành Chánh khi di chuyển vẫn có cận vệ. Trầm trọng hơn là việc tất cả các trục giao thông trong và ngoài tỉnh đều bị tắc nghẽn. Trên quốc lộ 1, VC công khai đặt hai tram thu thuế tại số 25 và Cây Táo, khiến cho các hãng xe đò phải ngưng chạy, nên việc đi lại chỉ còn đường biển và máy bay quân sự. Hàng không VN có một chi nhánh tại Phan Thiết nhưng vì phi trường quá nhỏ, nên các chuyến bay rất hạn chế và thường là trạm chuyễn tiếp giữa Sài Gòn-Nha Trang. Để vãn hồi an ninh trật tự trong tỉnh, Đại Tá Nghĩa đã triệt để áp dụng tình báo trong mọi lĩnh vực, từ quân sự cho tới tâm lý chiến, dùng phương châm “ dân vi quý”, lấy dân làm khởi điểm để nhờ vào tình báo nhân dân mà triệt hạ tất cả cơ sở hạ tầng VC đang bám vào dân. Ông cũng đã đề ra chiến thuật 5 bước, để bình định phát triển tỉnh. Nhờ sự Tỉnh Trưởng hàng đêm tới ngủ chung với binh lính, cán bộ, nghĩa quân và đồng bào ngay tại thôn ấp, tiền đồn hiểm nguy mà chấm dứt được nạn lính ma,lính cậu và đem lại tinh thần chiến đấu cho tất cả các đơn vị ĐPQ+NQ đang trực diện với kẻ thù trên mọi chiến trường. Trong mặt trận chiến tranh tâm lý, Ông cũng cho cải tổ lại những sự cố đã xảy ra làm mất lòng dân, liên hệ tới nông ngư nghiệp, ty xã hội và ngân hàng phát triển nông nghiệp. Việc Ty Cựu Chiến Binh được thành lập với công tác giúp đỡ trực tiếp các đối tượng CCB, đem tiền phát cho họ ngay tại các quận và hải đảo Phú Quý mỗi tam cá nguyệt, xây Làng Phế binh Vĩnh Thủy, cấp tiền sửa nhà..đã chấm dứt tình trạng chiếm đất bất hợp pháp của thương phế binh Bình Thuận, do một vài phần tử xấu xúi giục để trục lợi. Nhưng quan trọng nhất vẫn là lãnh vực quân sự như thay đổi vùng hoạt động của các đơn vị ĐPQ-NQ để chấm dứt nạn tình cảm hay nội tuyến. Riêng kế hoạch dùng mìn Claymore làm hàng rào ấp chiến lược lưu động, giúp các đơn vị ĐPQ-NQ phòng thủ đêm hữu hiệu, lại ngăn chận được sự xâm nhập của du kích về ấp hay thân nhân đem tiếp tế ra bưng bởi vướng mìn làm thiệt hại rất nhiều nhân mạng. Chiến thuật trên đã khiến các hoạt động của VC gần như khựng lại và an ninh gần như được vãn hồi ngay tại xã ấp,kể cả những nơi như Bình Thạnh, Long Hiệp, Bình Lâm, Đại Nẳm..nhưng vùng mà VC coi như mật khu an toàn. Do trên dân chúng lần lượt hồi cư và sống yên ổn qua bảo vệ của ĐPQ-NQ cùng các Toán XDNT. Cũng từ đó, TK/BT không còn lo việc thiếu quân số như trước vì đã có mìn Claymore lớp trong lớp ngoài canh gác, yểm trợ cho người lính. Đơn vị đầu tiên gây chấn động và có kết quả cụ thể trong kế hoạch trên là ĐĐ238/ĐPQ/BT cơ hữu của Chi Khu Hoà Đa do Đại Uý Dụng văn Đối làm CKT. Do những chiến công đã thu được tại Liêm Bình, Thoại Thủy,Long Lễ, Minh Mỵ..nên ĐĐ238/ĐPQ lúc bấy giờ do Thiếu Uý Lê văn Mùi làm ĐĐT và Thiếu Uý Ngô Trúc Khánh là ĐĐP, đã được Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa,Tỉnh kiêm TKT/BT tuyên dương trước toàn thể ĐPQ-NQ tỉnh ngay sân cờ Toà Hành Chánh.. Ngày 1/10/1970 một buổi lễ được tổ chức tại sân cờ chi khu Hòa Đa, đón phái đoàn cố vấn Hoa Kỳ cạnh BTL/QD2. Trong dịp này, Tướng Cố vấn Trưởng Quân Đoàn đã thay mặt Chính Phủ Mỹ, gắn huy chương Lục Quân Bội Tinh cho hai sĩ quan/ĐPQ là Lê văn Mùi và Ngô Trúc Khánh. Cũng từ đó tới ngày 18-4-1975, kế hoạch được phát triển toàn diện tới mọi cấp trong lực lương ĐPQ,NQ,XDNT kể cả CSDC với mỗi người một mìn claymore tự động, khiến cho tất cả các đơn vị đều kiêu hãnh về niềm tin quyết thắng. Ngược lại, các hoạt động của VC gần như hoàn toàn tê liệt, chấm dút nạn khủng bố,kinh tài, xâm nhập, ám sát và khuyấ động biểu tình làm loạn tại Phan Thiết như cơm bữa trước năm 1970. Tuy vậy nhờ có nội tuyến, nội thành, VC cũng đã thành công trong việc đặt mìn phá hoại Ty Bưu Điện /Bình Thuận và Đài Phát Thanh/Phan Thiết đặt trên Lầu Nước vào tháng 3/1970, nhưng thiệt hại không có gì về nhân mạng lẫn cơ sở vật chất. Ngoài ra nhờ chương trình ủi quang hai bên quốc lộ 1, nên đã kiểm soát được an ninh hoàn toàn trên các trục lộ giao thông, nối lại các tuyến đường bộ với xe cộ đủ loại di chuyển nhộn nhịp ngày đêm từ ranh giới Bình Tuy ở cây số 25 ra tới cầu Đá Chẹt, tiệp cận với Cà Ná,Ninh Thuận. Từ đầu năm 1972, trước khi thi hành hiệp định ngưng bắn, hầu hết các đơn vị tăng phái cho Bình Thuận đều di chuyển đi nơi khác. Do đó để thích ứng và chuẩn bị chống lại việc dành dân chiếm đất khi hiệp định có hiệu lực vào tháng 1/1973, Tiểu khu đã hoán chuyển Vùng các CKT/Quận như Thiếu Tá Dụng văn Đối từ Hòa Đa về Hàm Thuận, Thiếu Tá Hàng phong Cao từ Hàm Thuận đi Hải Long, Trung Tá Kiều văn Uùt từ Hải Long đi Hòa Đa..Cũng đổi vùng hoạt động của Tiểu Đoàn 248/ĐPQ từ Tuy Phong vào xã Phú Hội-Hàm Thuận, TD275/ĐPQ tại Thiện Giáo ra Tuy Phong thế TD248. Tiểu Đoàn 202/ĐPQ thay thế TD212/ĐPQ trấn giữ Lương Sơn và khu Lê Hồng Phong..Các Đại Đội ĐPQ và Liên Đội Nghĩa quân biệt lập cũng thay vùng.Nhờ sự điều động kịp thời và hợp lý trên, TK/Bình Thuận đã toàn thắng vào giờ G, khi VC đồng loạt tấn công vào 13 Ấp trong tỉnh và sau 2 ngày giao chiến, cuối cùng không một tấc đất nào lọt vài tay địch, trái lại VC đã bỏ tại Đại Nẳm 121 xác chết. Thành công trên mọi mặt, đem lại hạnh phúc và sự thương mến của đồng bào Bình Thuận trong suốt thời gian làm Tỉnh Trưởng từ 1969-1975 nhưng Ông chẳng những trở thành kẻ thù của VC mà còn là người không thể đội trời chung của những thành phần phá hoại, nhất là sau cuộc bầu cử Tổng Thống và Quốc Hội VNCH 1971 khi công khai ủng hộ Giáo Sư Nguyễn Quốc Biền và Quân Y Sĩ, Đại Uy Đinh Xuân Dũng. Từ tháng 3/1975 tình hình miền Trung trở nên bi thảm khi Ban Mê Thuột thất thủ, rồi hai cuộc lui quân đảm máu của QD1 và 2 nhưng Bình Thuận vẫn yên tĩnh và giải giới được đoàn quân di tản ô hợp khi đi ngang qua Phan Thiết. Ngày 7/4/1975 Tướng Phạm văn Phú trên đường từ Nha Trang về Sài Gòn đã ghé lại BCH Tiền Phương /TKBT tại đồi Hàn Mạc Tử ở Phú Hài, trước khi Ông tuẫn tiết vì nước ngày 1/5/1975 tại Nhà Thương Đồn Đất. Những ngày ly loạn tiếp diễn dồn dập trong tháng tư đen nhưng ĐPQ+NQ/Bình Thuận vẫn giữ vững phòng tuyến, giúp đồng bào di tản an bình ra khỏi vùng chiến nạn.. Ngày 20/4/1975 hơn 3500 binh sĩ còn lại trong số 13.000 quân của TK/BT được Hãm Đội của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, di tản từ bến tàu Kim Hải tới Vũng Tàu và cùng với các đơn vị bạn tiếp tục chiến đấu tại Phước Tuy cho tới khi bị Dương văn Minh bắt buông súng đầu hàng giặc Hồ. Những ngày cuối cùng của Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa cũng thật thê thảm như thời gian Ông về làm Tỉnh Trưởng Bình Thuận. Ngoài việc bị Hà Nội treo giá cái mạng bằng vàng ròng và đô la, Ông còn bị báo chí đánh hằng ngày vì đã dám dẹp yên VC tại Bình Thuận, Phan Thiết khiến cho bọn lợi dụng máu xương thương phế binh không còn đất cắm dùi, đám VC nằm vùng không còn hạnh phúc gia đình vì quê nội, quê ngoại chứa VC dưới hầm bị mìn Claymore lưu động bứng tận gốc. Cũng may nhờ Trời Phật độ mạng, Ông đã thoát được bằng tàu đánh cá tại Hà Tiên tới Thái Lan, còn gia đình bị kẹt lại tới năm 1979 mới vượt biển thành công. Hưng thịnh và tồn vong của các triều đại chẳng qua cũng chỉ là một thời gian ngắn ngủi nhưng danh giá và sĩ khí của con người thì miên viễn theo bia miệng, bia đời. Qua dòng lịch sử, những Nguyễn Thân, Hoàng cao Khải, Trần bá Lộc..mang tiếng là khoa bảng nhưng phản dân hại nước, nên chỉ có tiếng xấu là việt gian. Đức Từ Cung, mẹ ruột của Hoàng đế Bảo Đại, đã cùng ký chung với Nguyễn phước Hoàng Tộc, đồng ý truất ngôi nhà vua trong cuộc trưng cấu dân ý năm 1956 vì lợi ích chung của dân tộc VN. Đại Uý Nhãy Dù/QLVNCH cũng là nhà văn quân đội nổi tiếng Phan Nhật Nam, thà chịu nhiều năm tù tội khổ đau máu lệ nhưng khẳng khái không nhìn cha ruột của mình, vì ông ta là một cán bộ cọng sản cao cấp Hà Noi. Nhiều người Việt từ sau 1975, dù có liên hệ với VC, vẫn bằng mọi cách trốn lánh và phủ nhận sự liên hệ trên vì không muốn để cho dòng họ mình phải xấu hổ nhơ nhớp với bọn sát nhân, bán nước. Lịch sử là thế đó, bưng bợ để làm gì khi sự thật vẫn là sự thật. Người Bình Thuận vốn thẳng thắng, nên không lạ gì khi thấy ai cũng tỏ lòng kính trọng những người vì dân vì nước và khinh ghét cái bọn học cho nhiều nhưng chỉ biết lấy đó để vinh thân phì gia, theo giặc đâm sau lưng chiến sĩ và vênh váo với chính mình trong giấc ngủ cô miên. -/- -------------------------------------------------------------------------------- Tháng 6/2003 Hồ Đinh
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 11:52:42 GMT 9
Người Lính Địa Phương Quân Và Nghĩa Quân Trong Những Ngày Hấp Hối Tháng 4-75 Tại Bình ThuậnTác gỉa: Mường Giang(Nguyên Tiểu Đoàn 1/Trung Đoàn 43/SĐ18BB - KBC 4424, Phó Trưởng Tty XLTV Trưởng Ty CCB-Bình Thuận – KBC 4508) Thời VNCH(1955-1975), quân đoàn 2 chiếm một lãnh thổ có diện tích lên tới 78.841 km2, rộng nhất trong bốn vùng chiến thuật. Bộ tư lệnh đóng tại Pleiku, còn 2 Bộ chỉ huy tiếp vận 2 và 5 thì ở Qui Nhơn và Nha Trang-Cam Ranh, còn có hai SD 2 và 6 không quân chiến thuật đóng tại Pleiku và Nha Trang. Các phi trường Nha Trang,Bửu Sơn,Phù Cát và Cù Hanh rộng lớn tối tân. Vùng 2 chiến thuật bao gồm 12 tỉnh cao nguyên và duyên hải trung phần, trong đó quan trọng và cũng có nhiều phiến cộng, nằm vùng nhất là Bình Thuận-Bình Định. Để xâm lược miền nam, cọng sản Bắc Việt cho mở lại con đường giao liên đã có sẳn từ thời toàn dân kháng chiến chống Pháp 1945-1954, thành con đường chiến lược mang đủ thứ tên trong đó có Hồ chí Minh, xuất phát từ Hà Nội vào tới Cà Mâu dài trên 2000 cây số. Con đường khai sinh đồng thời với cái mặt trận ma GPMN sau khi vượt qua vùng phi quân sự ở Bến Hải , men theo rặng Trường Sơn, tới Đổ Xá, Kòn Tà Nừng, Chulya, Khánh Hoà. Tại đây đường phân làm hai nhánh, một đi ngược lên Lâm Đồng, Quảng Đức, Phước Long về Sài Gòn. Nhánh hai tới Ninh Thuận,Bình Thuận, Rừng lá,rừng sát, Biên Hòa... Sau ngày binh biến 1-11-1963, VNCH gần như vô chính phủ, rối nát tan hoang do đám kiêu tăng loạn tướng gây ra, mãi tới cuối năm 1967 khi tướng Nguyễn văn Thiệu đắc cử Tổng Thống VNCH , tình thế mới tạm ổn định. Bình Thuận là một trong các tỉnh ở miền Trung cùng chịu nhiều nạn kiếp, khiến cho tình hình an ninh toàn tỉnh kể luôn thị xã Phan Thiết tồi tệ đến mức ai nghe tới cũng sợ, khi phải tới miền đất này. Dù Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công Phan Thiết ba lần bị thất bại, không có cơ hội tắm máu đồng bào như tại Huế theo mong muốn của một số VC nằm vùng và có thân nhân nhảy núi , tập kết nhưng hoàn cảnh lúc đó hết sức bi quan, 95 % lãnh thổ bị địch chiếm, vùng còn lại ban ngày là của ta và thuộc về giặc ban đêm. Tại Phan Thiết, VC về ám sát,đốt tấn công các trụ sở ấp Đức Nghĩa,Phú Trinh,Hưng Long, Đức Long..coi như chỗ không người, thậm chí ngay trong Tòa hành chánh và tiểu khu, tỉnh trưởng khi di chuyển cũng phải có hộ tống và cận vệ. Các viên chức xã ấp,công chức, cảnh sát kể luôn các cấp chỉ huy XDNT,Nghĩa quân, ĐPQ ..ban đêm phải di chuyển chiến thuật tới các vùng tạm có an ninh ở Sông Mao, Phan Thiết, Mũi Né để ngủ giữ mạng. Các đồn bót trong tỉnh luôn bị tấn công, VC pháo kích bạt mạng vào thành phố, huyện lỵ và tàn nhẩn gài mìn khắp nơi, khiến cho thường dân vô tội bị chết oan hằng ngày khi di chuyển cũng như lúc ra đồng làm ruộng. Các trục giao thông tại quốc lộ 1, liên tỉnh lộ 8, tỉnh lộ Phan Thiết-Mũi Né..bị tắt nghẽn,nhiều trạm thu thuế gần như công khai của VC tại cây số 25, Thiện giáo, Tùy Hoà,Tà Dôn, Đá ông Địa,Vĩnh Hảo..làm cho mọi người lo sợ, phải dùng phương tiện ghe thuyền thay vì đi xe đò. Đã vậy trong tỉnh còn thêm vụ học sinh các trường trung học xuống đường biểu tình đòi Mỹ rút, kêu gào bảo vệ đạo pháp và các thầy cha, còn thêm màn mổ bụng rạch ngực viết huyết thư, tạo đủ đắng cay máu lệ cho người dân vô tội trong cảnh chiến tranh tận tuyệt. Tóm lại theo lượng giá của Đại Tá Ngô tấn Nghĩa, trong ngày nhậm chức Tỉnh Trưởng vào mùa thu 1969 thế đại tá Đàng thiện Ngôn, thì Bình Thuận và Phan Thiết lúc đó sắp lọt vào tay VC. Theo Trung Tá Ngô văn Xuân, nguyên Tiểu đoàn trưởng TĐ 2, Trung đoàn 44, Sư đoàn 23 BB từng tham chiến nhiều ngày tại Bình Thuận, thì chính Đại Tá Ngô tấn Nghĩa, một sĩ quan dầy kinh nghiệm trong chức vụ trưởng phòng 2 quân đoàn 2 nhiều năm, qua nhiều vị tư lệnh, đã thành công trong việc tách rời các cơ sở cũng như vô hiệu hoá Việt Cộng tại địa phương, từ đó cho tới ngày miền nam bị sụp đổ vào tháng 4-1975. Chính các lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân đã góp phần lớn máu xương trong việc bảo vệ an ninh và mạng sống của đồng bào trong tỉnh, cho tới những giây phút cuối cùng trong đêm 18 tạng ngày 19-4-1975. Họ là những chiến sĩ của QLVNCH không tên với những chiến công hiển hách , đã dánh những trận để đời như sử gia Chánh Đạo đã hết lòng khen ngợi trong tác phẩm “ 55 ngày đêm-cuộc sụp đổ của VNCH”. Tôn vinh cuộc chiến đấu thần thánh trên là cách trả lời cao thượng nhất để tri ân và lấy lại uy tín cũng như danh dự cho người lính miền nam, những người đã vì nước vì đời, mà tự tìm lấy cái chết bình thản tại chiến trường , ngay lúc giặc đã tràn ngập. 1. NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐPQ & NQ/QLVNCH Tại Bình Thuận vào năm 1952, trước ngày đình chiến, quân đội quốc gia đã thành lập 2 trung đoàn vệ binh , mỗi trung đoàn có 5 đại đội. Trung đoàn số 2 đóng tại Phan Rí, trung doàn số 4 đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1953, các trung đoàn vệ binh được biến đổi thành tiểu đoàn bộ binh. Do đó, trung đoàn vệ binh số 4 thành tiểu đoàn 264 B1 (Bataillon d’infanterie), còn trung đoàn 2 thành tiểu đoàn 265 B1. Ngày 1-8-1954 lại thành lập trung đoàn 404 BB tại Phan Thiết với các tiểu đoàn 83 (nguyên TĐ 264 B1), tiểu đoàn 84 ( nguyên TĐ 265 B1) và TĐ 808 biệt lập đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1955, Trung đoàn 404 được cải danh là Trung đoàn 43 BB với các TĐ 1/43 (83), 2/43(84) và 3/43(808) thuộc SĐ 15 khinh chiến, từng tham dự các chiến dịch tiểu trừ Bình Xuyên, Hòa Hảo năm 1955 tại Nam phần Từ năm 1964 trung đoàn 43 biệt lập qua các trung đoàn trưởng tài danh như Thiếu tá Võ văn Cảnh, Thiếu tá Quách Đăng, Trung tá Lý bá Phẩm,Đại tá Đàm văn Quý.. trấn đóng tại biệt khu Bình Lâm, sau đó di chuyển vào nam. Năm 1966 cùng với các trung đoàn biệt lập 48 BB,52BB thành lập Sư đoàn 10 BB., sau đổi thành SĐ18BB vào tháng 4-1975, dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng Lê minh Đảo, đã tạo nên chiến thắng Xuân Lộc vang lừng trong việt sử cận đại. Cũng tại Bình Thuận vào tháng 7/1954 có 4800 quân nhân người Nùng, thuộc SĐ 3 khinh chiến của Đại Tá Woàng A Sáng từ miền bắc di cư vào đóng tại Sông Mao nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn lại di chuyển vào Tam Hiệp, Biên Hòa, sau đó đổi thành SĐ 5 BB. Để thay thế, trung đoàn 44 và 53 thuộc SĐ 23 BB , hậu cứ đóng tại Sông Mao thường xuyên hành quân bảo vệ Bình Thuận và Ninh Thuận. Từ đầu năm 1970, hầu hết các thành phần cơ sở, du kích kể luôn chính quy VC gần như bị tiêu diệt., khiến cho quân khu 7 Việt cộng, trong đó có tỉnh Bình Thuận do tướng Bắc Việt Nguyễn văn Ngàn chỉ huy, cũng lâm vào tuyệt lộ. Để vớt vát cũng như vực dậy niềm tin của cán binh, cán bộ, VC xữ dụng 2 tiểu đoàn chính quy miền bắc là 481 và 482 tấn công vào trung doàn 44 BB tại Sông Mao từ tháng 7-10/1970, đồng thời thường xuyên tổ chức các cuộc phục kích , phá rối trên quốc lộ 1, từ đoạn đường cây số 25 nam về tới Phan thiết và khúc ngang qua mật khu Lê hồng Phong, từ Long Thạnh tới Lương Son, Chợ Lầu và phía bắc trong quận Tuy Phong. Thời gian này Bình Thuận còn có sự yểm trợ của Chi đoàn 3/8 thiết kỵ/QLVNCH và tiểu đoàn 3 thuộc Lử đoàn 506 nhảy dù Hoa Kỳ và toán viễn thám LLĐB/BTTM/QLVNCH, hải pháo Mỹ ở ngoài khơi, các phi tuần Mỹ-Việt luôn tiếp ứng tỉnh mau lẹ và cấp thời , nên đã bẻ gảy tất cả Nhưng rồi giai đọan VN hoá chiến tranh và hiệp định ngưng bắn 1973 đã thành hình, theo đó các đơn vị chính quy của VNCH cũng như Hoa Kỳ đều rời tỉnh vào cuối năm 1971 hoặc hồi hương hay nhận nhiệm vụ mới, giao công cuộc bình định và gìn giữ an ninh cho các đơn vị ĐPQ và NQ của tỉnh lúc đó lên tới 13.000 người đãm trách. Để chống địch bằng cây nhà lá vườn, Đại Tá Nghĩa đã áp dụng chiến lược mọi người đều phải RA TIỀN TUYẾN kể cả các trưởng ty sở, phó tỉnh trưởng, phó quận.., không bỏ đồn bót lẽ loi cho giặc về đêm. Theo lời các nhân chứng hiện ở Hoa Kỳ như Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, Trung Tá Dụng văn Đối quận trưởng Hoà Đa rồi Hàm Thuận, Đại úy Mai xuân Cúc DDT /DD 948 DPQ.. thì chính Đại tá Nghĩa là người đầu tiên xung phong làm gương mẫu cho thuộc cấp, ông đã noi gương cố tổng thống Nguyễn văn Thiệu luôn xông xáo tại chiến trường khi dấu binh lửa, bom đạn còn ngun ngút , đại tá Nghĩa đã lần lượt ngủ đêm tại 173 trong tổng số 197 tiền đồn hẻo lánh và nguy hiểm của tỉnh, do các tiểu trung đội nghĩa quân hoặc xây dựng nông thôn trấn giữ. Nhờ vậy đã tạo được nềm tin trong quân đội cho tới khi mất nước. Một chiến thuật khác cũng vô cùng hiệu quả, đó là xữ dụng hàng rào mìn claymore làm ấp chiến lược lưu động. Với phương pháp này đã làm VC bị tổn thất nặng và gần như hoàn toàn tê liệt. bẽ gảy kế hoạch nuôi ăn cán binh vì ai cũng sợ toi mạng khi vướng mìn vào ban đêm khi ra vào ấp .Song song còn có chương trình đập cỏ bắn rắn, tức là ủi quang hai bên quốc lộ 1 từ cây số 25 nam Phan Thiết cho tới Cà Ná, giáp giới Ninh Thuận,các vùng cây cỏ rậm rạp mà trước đây VC dùng làm địa bàn để hoạt động quân sự, thu thuế, phục kích, chặn xe đò.., mang lại tình hình an ninh hoàn toàn trong tỉnh và tại thị xã Phan Thiết.Cũng kể từ đó cho tới hồi tàn cuộc, cán bộ xã ấp, công chức không còn phải sống lưu vong và việc Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu tới Phan Thiết cùng với Tỉnh Trưởng săn bắn ban đêm ngay trên địa bàn của cái gọi là mật khu Lê hồng Phong. hay đi xe jeep trên quốc lộ 1 từ Phan thiết về Phan Rang như lời tư sự của trung Tá Ngô văn Xuân, trung đoàn trưởng trung đoàn 44, SD 23 BB, trong Quân sử VNCH, là một xác nhận khích lệ. Từ sau hiệp định ngưng bắn 1973, lực lượng ĐPQ &NQ đã được tổ chức và phối trí lại để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Quyền chỉ huy trực tiếp thuộc tiểu khu, chi khu và các phân chi khu. Quân số cũng được cải tổ từ cấp đại đội thành tiểu đoàn, liên đội và Liên đoàn . Tính đến năm 1973, quân lực VNCH đã có 360 tiểu đoàn ĐPQ, quân số từ binh sĩ, HSQ tới SQ một số là chủ lực quân biệt phái, nên có rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu, có đủ khả năng thay thế các SĐ bộ binh kề cả các lực lượng tổng trừ bị trong các cuộc hành quân cơ động quy ước chiến, đáp ứng sự hổ trợ đác lực cho các đơn vị chính quy. Theo tài liệu từ quân sử, cho tới tháng 4-1975, lực lượng ĐPQ-NQ gần 500.000 người và số tử vong cũng nhiều lần so với các lực lượng chính quy, diều đó chứng tỏ sự chiến đấu dũng mảnh và can trường của họ. Trong hiệp định Paris năm 1973, có điều khoản cắm cờ nhận đất vào giờ N và Bình Thuận được coi là thí điểm. nơi CS Bắc việt luôn đòi trở thành vùng vỹ tuyến. Các xã giáp tỉnh lỵ như Đại Nẵm, Phú Long, Tuỳ Hòa,Phú Lâm có nhiều nằm vùng và thân nhân nhảy núi hoặc tập kết, nên luôn là điạ điểm tin cậy để giặc đóng quân hay đặt BCH. Với quân số lúc đó là 13.000 ĐPQ-NQ nhưng vì phải bảo vệ 197 ấp nên đã dàn mỏng , trong khi việt công luôn tập trung được ba tiểu đoàn địa phương, ngoài ra còn có một trung đoàn chủ lực từ quân khu 6 tăng phái và cán binh cơ sở, nên tình thế lúc đó cũng thật nguy hiểm . Rồi giờ G cũng tới, VC tấn công một lúc 13 ấp trong tỉnh nhưng nặng nhất là tại ấp Đại Tài, xã Đại Nẳm. Nhờ đã chuẩn bị trước, nên sau 2 ngày giao tranh , VC thất bại trong âm mưu cắm cờ dành đất, một phần là do đồng bào có ý thức quốc gia không chịu hợp tác hay đồng khởi, phần khác sợ tai bay đạn lạc nên đã bồng bế nhau tản cư khỏi vùng chiến địa theo lời kêu gọi của tỉnh qua truyền đơn và đài phát thanh. Cuối cùng các ấp xã chỉ còn thuần tuý là chiến địa, điểm hợp đồng của pháo binh và phi pháo, trước khi các đơn vị DPQ-NQ mở cuộc tấn công, làm VC phải chém ve, mang theo nhiều xác chết đồng bọn khi tháo chạy sau 2 ngày giao tranh đẳm máu nhưng vẫn bỏ lại tại ấp Đại Tài, xã Đại Nẳm 121 xác chết.. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI BÌNH THUẬN Ngày 7-4-1975, tướng Phạm văn Phú tư lệnh QĐ2 từ Nha Trang đáp trực thăng ghé thăm BCH tiểu khu Bình Thuận lúc đó đang đóng tại lầu ông Hoàng, thuộc xã An Hải quận Hải Long. Lúc này, tướng Phú đã bị tước chức Tư lệnh QĐ2 và do tướng Nguyễn văn Hiếu thay thế. Tình hình đã bắt đầu hổn loạn vì Ninh Thuận, Bình Thuận đã trở thành vùng hỏa tuyến. Sau này tại hải ngoại, có dịp tiếp xúc với những thẩm quyền của Bình Thuận trong phút giờ hấp hối như Đại Tá tỉnh trưởng Ngô tấn Nghĩa, ông Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, Trung Tá Dụng văn Đối, quận trưởng Hàm Thuận và các đại úy Nguyễn chánh Trúc, DDT giữ cầu Phú Long nhưng quan trọng nhất là tự sự của Đại Úy Mai xuân Cúc, đại đội trưởng ĐĐ 948 ĐPQ là đơn vị giữ an ninh trong thị xã Phan Thiết cho tới giờ phút cuối cùng.Tóm lại không giống như nhiều tỉnh thị khác, Bình Thuận vào những giờ phút hấp hối , đã không có những trận đánh không có đại bàng như một tác giã nào đã viết trong mấy năm trước, vì tất cả đại bàng từ cấp thấp nhất như thiếu uý Phùng thế Xương phân chi khu trưởng PCK Hòa Vinh, trung úy Lê Ngữ phân chi khu trưởng PCK Thiện Khánh cho tới các đại bàng cao cấp ở quận như Trung Tá Dụng văn Đối, thiếu tá Phạm Minh trung tâm trưởng Trung tâm Tiếp vận , các vị Phó tỉnh tưởng, quận trưởng, trưởng ty và trên hết là đại tá tỉnh trưởng Ngô tấn Nghĩa đều không bỏ chạy. Sự sụp đổ nhanh chóng của QLVNCH từ khi Ban mê thuộc thất thủ, tiếp theo là cuộc di tản đẳm máu trên liên tỉnh lộ 7-B và Quân đoàn 1, cuộc lui binh tại Qui Nhơn., Quảng Ngãi..khiến cho vòng vây bao quanh Sài Gòn càng lúc càng thu hẹp. Mặt bắc, Phan Rang và Phan Thiết trở thành vùng hỏa tuyến phải đương đầu với nhiều lộ quân hùng hậu của cọng sản Bắc Việt có đầy đủ tăng, pháo hiện đại do Liên xô, Trung Cộng và các nước Động Âu trong toàn khối cọng sản quốc tế viện trợ. Trong lúc đó, VNCH đang lâm vào tuyệt lộ vì đồng minh Hoa Kỳ đã cạn tào ráo mán, rút ván qua sông, ngoài ra còn đem danh lợi cò mồi một số tướng lãnh miền nam bỏ nước ôm của chạy, khiến cho QLVNCH bốn bề thọ địch, chỉ còn chờ chết mà thôi. Ngày 4-4-1975, hai tỉnh còn lại của QD2 là Ninh Thuận và Bình Thuận được sáp nhập vào QD3 lúc đo do tướng Nguyễn văn Toàn làm tư lệnh, bổ nhiệm thiếu tướng Nguyễn vĩnh Nghi làm tư lệnh tiền phương QD3, chỉ huy mặt trận Phan Rang, vốn là quê hương của tổng thống Thiệu. Trong dịp này Phan Thiết cũng được tăng cường trung đaòn 6 và một pháo đội thuộc SD 2 BB vừa di tản từ Quãng Ngải vào Bình Tuy. Tại Phan Thiết, thời gian này đã giao tranh ác liệt với trung đoàn 812 chính quy và các tiểu đoàn địa phương VC, nhưng đã giữ vửng được phòng tuyến nhờ sự yểm trợ của phi pháo và hỏa pháo VNCH. Ngày 16-4-1975 mặt trận Phan Rang tan vở, các tướng lảnh Nghi, Sang, đại tá Nguyễn thu Lương và nhiều sĩ quan cao cấp khác của VNCH bị bắt làm tù binh. Từ đó Bình Thuận là chiến tuyến về hướng tây bắc, phiá nam Bình Tuy vẫn còn nhưng đường bộ bị bít vì giao tranh long trời lở đất đang nổ tung tại Xuân Lộc , Long Khánh từ ngày 9 cho tới 14/4/1975. Vào ngày 2/4/1975, đại đội 948 ĐPQ đang đóng tại Ấp Hiệp Hòa, xã Chợ Lầu , quận Hòa Đa thì được lệnh Trung tá quận trưởng Kiều văn Út theo chỉ thị của P3 TK , về tăng cường thị xã Phan Thiết. nhưng đóng quân tại trường nông lâm súc Phú Long , bảo vệ Trung đội pháo binh đóng gần cầu đang yểm trợ hỏa pháo cho chi khu Thiện Giáo. Ngày 3-4-1975, đoàn di tản từ Nha Trang-Đà Lạt về trong đó có đủ mọi quân binh chủng kể luôn trường võ bị quốc gia , nổ súng bắn loạn xạ làm cho dân chúng sợ hãi và trước khi ra đi đã cướp bốc cũng như đốt chợ lớn Phan Thiết được xây dựng từ năm 1899. Lúc này tại khu vực Phú Long và các vùng lân cận, ngoài ĐĐ 948 của ĐU Cúc từ Hòa Đa về tăng cường, còn có DD 283 DPQ của DU Nguyễn văn Ba giữ Tuỳ Hòa, DD 3/TD 249 DPQ của DU Hòa phụ trách xã Hòa Vinh, nên tình hình an ninh cũng khả quan, ngoài các vụ pháo kích, bắn sẽ vào ban đêm mà thôi. Vào ngày 15-4 75 chi khu Thiện giáo tại huyện ly Ma Lâm được lệnh di tản chiến thuật vì không chịu nổi đại pháo 130 ly của VC. Các đơn vị của chi khu do DU Lê văn Tuân, chi khu phó chỉ huy đoàn xe, qua cầu Phú Long về Phan thiết. Ngày 16-4-75 lại thêm một đoàn quân xa đông đảo gồm đủ mọi thứ binh chủng như Dù, BDQ, Sư đoàn 2 BB, DPQ..từ Phan Rang cũng qua cầu Phú Long, để di tản về Sài Gòn sau khi Ninh Thuận mất. Lúc này tình hình trong thị xã Phan Thiết đã bắt đầu hổn loạn, nhiều gia đình kể cả công chức đã cuốn gói ra đi bằng thủy lộ, trong phố hầu như chỉ còn lại người nghèo không có phương tiện đào sanh, các hàng cột đèn không có chân và lính, cảnh sát, XHNT ở lại mà thôi. Từ ngày 10/4/75 DĐ948 DPQ của DU Cúc đổi vùng, di chuyển về đóng cạnh căn cứ của Duyên đoàn 28 HQ sát cửa Thương Chánh thuộc ấp Vĩnh Phú, để bảo vệ cho BCH hành quân của Trung tá Trì, TKP/TKBT. Lúc đó đại tá Nghĩa cho thành lập hai BCH hành quân, BCH chánh do ông trực tiếp điều động toàn bộ lực lượng DPQ-NQ đóng tại Lầu ông Hoàng, còn TKP làm việc với các phòng 2,3 hành quân. Cũng trong ngày , DU Cúc nhận lệnh trực tiếp từ Đại tá Nghĩa, dẫn DD 948 DPQ biệt phái cho yêu khu châu thành tại trại Đinh công Tráng của Thiếu tá Cư, trước sân vận động Quang Trung, nằm kế một phân đội YTQC sát trường Trung học tư thục Bạch Vân và Dân y viện Phan Thiết. Lúc này VC đã pháo kích nhiều hỏa tiển 122 ly vào phố, các khu vực quanh TK và Toà hành chánh thường hứng đạn. Sở dĩ VC bắn rất chính xác vì tiền sát viên của chúng là bọn nằm vùng , một tên giả làm ngư ông câu cá dươi chân cầu Phan Thiết, tên khác là cận vệ của Đại tá Nghĩa, một tên làm tuỳ phái cho tòa hành chánh.. Theo Cúc, thì Phan Thiết lúc đó hầu như chỉ còn có lính mà thôi, DD 948 DPQ phòng thủ ấp Đại Tài, DD 206 trinh sát tỉnh của DU Lê văn Trò giữ xã Tường Phong, kế đồn Trinh Tường, xa hơn có Tiểu đoàn 202 DPQ do DU Nguyễn văn Hoàng, thế thiếu tá Bích làm XLTV tiểu đoàn trưởng, đóng tại Phú Hội và vùng giáp ranh với Đại Nẳm. Trên liên tỉnh lộ 8, tiểu đoàn 275 DPQ bao vùng từ cầu Bến Lội , xã Lại An trên quốc lộ 1, qua tới các ấp Tân An, Tân Điền trên đường Phan Thiết-Ma Lâm. Về phiá nam giao cho một DD/DPQ và một Liên đội NQ giữ cổng chữ Y, bảo vệ các ấp Kim Hải, Bình Tú và Đức Long. Trong phố, phần an ninh được giao cho các đơn vị NQ và NDTV do Thiếu tá Nguyễn thanh Hải, xã trưởng xã châu thành Phan Thiết chỉ huy. Tại BCH Cảnh Sát Bình Thuận nằm trên đường Cao Thắng, phía sau CLB sĩ quan và TTTV, là phần phòng thủ của một tiểu đoàn CSDC do Trung tá trưởng ty điều động. Tại QYV Đoàn mạnh Hoạch không có đơn vị nào tăng phái bảo vệ, chỉ còn các quân nhân cơ hửu do y sĩ đại uý Lê bá Dũng và trung úy Công, SQ /CTCT của Đơn vị chỉ huy. Cũng theo lời Đại uý Mai xuân Cúc hiện ở Hoa Kỳ, một nhân chứng thật của Bình Thuận trong lúc đó, thì vị thiếu tá CHT.QYV.Đoàn mạnh Hoạch đã di tản chiến thuật về Sài Gòn từ đầu tháng 4/1975 khi Bình Thuận đang bước vào giờ thứ 25 định mệnh. Trong ngày 17/4/75, VC pháo kích ban ngày lẫn đêm, một vài quả bích kích pháo và hỏa tiển rơi rớt quanh các khu quân sự, trước tiểu đội quân cảnh điều tra tư pháp và ty bưu điện , thành phố thật sự đã chết, nhà nhà caì chặt cửa, chen chúc chui rúc dưới các hố tránh đạn thô sơ làm bằng bao cát mua ngoài chợ. Nơi nơi im vắng nảo nùng ngoại trừ khu vực cồn chà Đức Thắng vẫn còn hoạt động tấp nập vì ai cũng chạy. Giờ N đã tới lúc 17 h 30 chiều ngày 18-4-1975, phòng tuyến Phú Long vỡ nhưng cầu không phá kịp, tuy nhiên phía bên khu vực Phước Thiện Xuân, An Hải, kể cả Hải Long, Lầu ông Hoàng vẫn chưa vở tuyến, đại tá Nghĩa cùng BCH vẫn đủ giờ di chuyển về cữa thương chánh, trong lúc ngoài khơi có hằng hà tàu chiến của hải quân VNCH nhưng không làm gí được vì tàu lớn không áp sát ven bờ được, hơn nửa sợ pháo kích như đã từng xãy ra ở Qui Nhơn, Phan Rang, Cà Ná..Bên Quốc lộ 1, doàn âm binh của cọng sản Bắc việt với tăng, pháo và hàng hàng lớp lớp cán binh cở lộ quân, chừng mấy chục ngàn người, aò aò hơn sóng cuộn cuồng phong di chuyển khắp các nẽo đường phố thị. Tất cả các phòng tuyến DPQ và NQ gần như bị đè bẹp trước đạn súng tối tân của Nga Hoa. Tại phòng tuyến ở Đại Tài, DU Cúc nhận được lệnh từ Thiếu Tá Cư, yêu khu trưởng trên máy PRC 25 cho biết VC đã chiếm được Tòa hành chánh, Tiểu khu nhưng tại Trung tâm tiếp vấn, Thiếu Tá Phạm Minh đã đốt được các kho quân nhu trước khi di tản, , Bình Thuận coi như đã mất , DD 948 của Cúc được lệnh vượt sông Cà Ty để di tản về Bình Tuy. Nửa đêm rạng sáng ngày 19/4/75, đại đội tới được xóm đạo Văn Lâm, từ đó lần về quận đường Hàm Thuận, mới biết Trung tá Dụng văn Đối chi khu trưởng cùng đại uý Lê viết Lợi chi khu phó , cũng đã nhận được lệnh di tản. Đêm khuya thật là buồn, cả đại đội phần đói khát thêm lạnh run vì quần áo ướt sủng nước khi lội qua sông, nên tạm bố trí tại ngả hai Phú Lâm vào lúc 2 giớ sáng, để rồi khi tiếng gà đầu vừa cất thì mọi người cũng choàng dậy , băng quốc lộ 1, đi ngược về hướng Phú Khánh, Bình Tú để xuống bến tàu cạnh phi trường đợi hải quân vào rước theo lệnh của TKBT. Trong đêm 18/4/75, qua máy truyền tin vẫn còn liên lạc 24/24, DU Cúc biết được Thiếu tá Cư yếu khu trưởng châu thành cùng Trung tá Trí đã xuống được thuyền của Duyên đoàn 28 HQ. Theo Điệp Mỹ Linh trong tác phẩm “ HQ.VNCH ra khơi năm 1975 “ thì giữa lúc khói đạn mịt mùng, tàu HQ 505 nghe tiếng cầu cứu của Đại tá Nghĩa trong máy PRC 25 nhưng bất lực, tuy nhiên như lời ông Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, thì đại tá cuối cùng nhờ được một ghe đánh cá đưa ra tàu lớn và đã rớt xuống biển khi hai chiếc va chạm, cũng may mọi người cứu ông kịp thời. Sáng ngày 19-4-75 tuy cọng sản đã làm chủ Phan Thiết nhưng khu vực bến tàu thuộc ấp Kim Hải, phía sau QYV Đoàn mạnh Hoạch và phi trường vẫn còn thuộc quyền kiểm soát của QLVNCH, trên bải có đầy lính đủ mọi quân binh chủng, từ Dù, SD2, BDQ tại mặt trận Phan Rang còn đọng lại, cho tới các đơn vị DPQ-NQ tỉnh. Cũng trong ngày 19-4-75, một chiếc L19 của KQ/VNCH bay trên thành phố, kêu gọi các lực lượng ÐPQ-NQ đang bị thất lạc, phải tìm cách xuống bến tàu để được lực lượng Hải quân V2 Duyên hải cứu vớt đem về Nam. Một phi tuần F.5 có nhiệm vụ dội bom phá sập ba cây cầu trên dòng sông Mường Mán , hầu ngăn cản bước tiến quân của cộng quân nhưng đánh lạc vào ngả tư quốc tế, làm hư hại một vài căn nhà trên đường Gia Long, Ngô sĩ Liên và Nguyễn tri Phương. Cuối cùng nhờ kỷ luật và bình tỉnh, tất cả các quân nhân mọi binh chủng có mặt trên bải biển Bình Tú vào lúc 10 giờ sáng ngày 19-4-75 đều được vớt. Lúc đó thủy triều đang xuống nên đoàn tàu lớn phải đậu xa bờ hơn nữa cây số. Tuy nhiên nhờ những chiếc tàu đổ bộ LCM nên tất cả các đơn vị kể cả chi đoàn TQV thuộc thiết đoàn 8 kỵ binh hành quân tại Phan Thiết, cũng được theo tàu về nam, ngoại trừ một chiếc bị chìm tại bải Vĩnh Phú. Tóm lại đoàn tàu hải quân thuộc BTL vùng 2 duyên hải đã hoàn thành nhiệm vụ , chở hơn 3000 quân nhân các cấp thuộc ÐPQ-NQ Bình thuận trong đó có ÐÐ 948 ÐPQ của DU Mai xuân Cúc, cùng các lưc lượng Dù, BÐQ, SÐ2BB và mọi quân binh chủng tham chiến tại Phan Thiết - Phan Rang trong những giớ phút hấp hối ngày 19-4-1975, đoàn tàu HQ đã cặp bến Vũng Tàu an toàn lúc 3 giờ sáng ngày 20-4-1975 và các đơn vị lại được Ðại Tá Ngô tấn Nghĩa tiếp rước hướng dẫn , vào trú đóng tại Doanh trại củ của Trungđdoàn 43/SÐ18BB ở Bà Rịa, cùng góp phần tham chiến với các đơn vị bạn tại đây cho tới ngày tàn cuộc. Riêng Trung Tá Dụng văn Đối, quận trưởng Hàm Thuận, ngày 18-4-1975 cho người đốt các kho đạn, kho quân tiếp vụ, sau đó cùng Liên đoàn DPQ-NQ, một pháo đội và một chi đội thiết giáp V100, mở cuộc hành quân từ Hàm Thuận vào tới Bà Rịa một cách an toàn. Đoàn quân di tản này được bổ sung cho sư đoàn 22BB chiến đấu tại Bên Lức Long An, cho tới ngày tàn cuộc. Như vậy, trong những ngày cuối cùng QLVNCH đã có hai cuộc lui binh thành công, một tại bến tàu Kim Hải, Phan Thiết do BTL/V2DH thực hiện, vớt ÐPQ-NQ-BT và nhiều quân binh chủng tham dự trận Phan Rang, cuộc lui binh thứ hai bằng đường bộ từ Long Khánh về Phước Tuy của SÐ18BB và các đơn vị do Thiếu tướng Lê minh Đảo chỉ huy. Đời lính da ngựa bọc thây, nổi tủi hờn của những thanh niên thời đại VNCH, may thay đã sớm chấm dứt khi cái mặt thật của lịch sử , của cọng sản Hà Nội trơ trẽn lộ ra sau lớp phấn son huyền thoại : hại dân, bán nước và vị kỹ. -------------------------------------------------------------------------------- Mường Giang XB đông 2002 (Viết Tặng Mai Xuân Cúc) TÀI LIỆU THAM KHẢO - ĐĐ 948 ĐPQ, những ngày tử thủ BT của Đ/U. Mai xuân Cúc - Một chiến thuật hửu hiệu … của Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa - Tôn vinh QLVNCH của Phạm Kim Vinh - Chiến sử QLVNCH của Phạm Phong Dinh - 55 ngày sụp đổ của Chánh Đạo
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 12:02:07 GMT 9
VÙNG IV DUYÊN HẢI NHỮNG NGÀY CUỐI Nguyễn Hữu Duyệt, AET2767 -------------------------------------------------------------------------------- Tình cờ đọc lại bài "Tưởng nhớ một người anh: HQ Đại úy Ngô Minh Dương" của HQ Đại úy Trần Minh Chánh, khoá 24 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt viết hồi năm ngoái trên báo Lướt Sóng, có nhắc nhở đến những người bạn cùng khoá với tôi như HQ Đại úy Nguyễn Văn Định đã mãn phần năm 2000, Trương Tấn Lạc đã theo giúp Tướng Hoàng Cơ Minh, MTTNGPVN, cho đến giờ anh em cùng Khoá cũng không biết anh ở đâu, còn sống hay đã chết, và Trần Minh Lộc vẫn vui vẻ "đẹp lão" và chịu chơi như thuở nào hiện đang ở thành phố mệnh danh là Windy City, v..v... nên tôi cũng muốn ghi lại vài chi tiết nhằm chia sẽ những nỗi xót xa trong chuyến hải hành cuối cùng của tôi và để tỏ lòng thuơng tiếc các anh em HQ đã quá vãng, nhất là anh Ngô Minh Dương khoá 15 SQHQ Nha Trang. Sau hơn hai năm phục vụ trên chiến hạm HQ401, Bệnh Viện Hạm Hàn Giang LSMH, tôi nhận được công điện thuyên chuyển về Hải Đội 5 Duyên Phòng tại Năm Căn. Chưa kịp đi nhận nhiệm sở mới thì lại nhận được công điện thứ hai đi học khóa hai Trung Cấp Chỉ Huy Tham Mưu 1974 tại Sài Gòn. Không vui gì cho lắm vì tôi chưa phục vụ ở Hải Đội 5ZP (HĐ5ZP) được trên sáu tháng nên khi học xong tôi lại phải trở về đơn vị "cũ." Tôi không có cảm tình với vùng Năm Căn vì tôi đã có một vài kỹ niệm không hay. Vào khoảng tháng 5 năm 1970, tôi xuống Năm Căn coi ba Đơn vị tăng phái cho chiến dịch Trần Hưng Đạo, đó là Duyên Đoàn 35 - Đơn vị tôi đang phục vụ, Duyên Đoàn 33 và Duyên Đoàn 36, gồm có khoảng 9 chiếc yabuta do chính Hải Quân Công Xưởng chế đóng, trực thuộc Bộ Tư Lệnh Vùng 3 Duyên Hải Cát Lở, Vũng Tàu. Buổi sáng của ngày ngay trước khi tôi hoàn tất nhiệm vụ tăng phái để trở về Duyên Đoàn 35 thuc tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh cũ), khi đang khai thông trên kinh Cái Nháp cùng với hai chiếc yabuta, chiếc tàu của tôi, trong lúc tôi và cố vấn Mỹ ngồi trên nóc đã bị lãnh nguyên một loạt B-40 khi gần đến ngã ba Đầm Cùng. Một anh bạn cùng khoá 19 SQHQ Nha Trang (*) với tôi và một Hạ Sĩ Quan (*) của HQ401 thuc chiếc tàu đang công tác Dân Sự Vụ tại Năm Căn, vì buồn nên muốn đi theo Toán của tôi qua bên chợ gần ngã ba Đầm Cùng chơi, đều bị thương. Vết thương cắt ngang đầu gối nên sau đó anh bạn cùng khoá đã phải giải ngũ. Đáng lẽ có cả bác sĩ của HQ401 đi theo chuyến khai thông này, nhưng vào giờ chót, anh đã không đi được như đã dự tính vì quá bận với công việc khám bệnh sáng hôm đó. Sau khi học xong khoá Trung Cấp Tham Mưu và chuẩn bị mãn khoá thì Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh lên thay thế Tư Lệnh HQ Trần Văn Chơn. Ông muốn tất cả sĩ quan khoá Trung Cấp Tham Mưu được ưu tiên chọn tàu. Thế là tôi có cơ may không phải về HĐ5ZP Năm Căn và đã chọn HQ330, Giang Pháo Hạm Lôi Công LSIL làm nơi phục vụ cho đến ngày cuối của cuc chiến. Sau này tôi được biết là Tân Tư Lệnh muốn tất cả các sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ HQ các cấp không hoặc chưa đủ hải vụ đều phải thuyên chuyển xuống tàu. Hạm Trưởng HQ330, HQ Thiếu Tá HĐT, khoá 13 SQHQ Nha Trang, đáo nhiệm, HQ Thiếu Tá NVA. cũng khoá 13 từ Giang Đoàn về thay thế. Tân Hạm Trưởng là một người rất cương trực nên đôi khi những quyết định của ông khi tàu về bến Sài Gòn đã làm nhiều sĩ quan buồn lòng và bất mãn. Họ đã nhiều lần nhờ tôi chuyển những đề nghị lên ông, nhưng hầu hết đều bị ông khước từ. Theo ông: quân đi là kỷ luật, lệnh trên đã ban hành thì phải được tuân theo. Sau khi tàu công tác dọc theo sông Nhà Bè, tàu về bến để tiểu kỳ, thường là một tháng. Thời gian đó là vào khoảng một tháng trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Vừa về bến được một ngày thì ngày hôm sau Hạm Trưởng (HT) nói với tôi là chuẩn bị trong vòng hai ngày để đi công tác tiếp. Tôi hỏi Hạm Trưởng là tàu về tiểu kỳ tại sao lại phải đi công tác ngay. Ông trả lời là với tình thế bất ổn như thế này e rằng nhân viên sẽ hoang mang, có thể gây ra hỗn loạn nên ông đã xin Tư Lệnh Hạm Đi đi công tác tiếp. Ông cũng chưa biết là sẽ công tác Vùng nào. Ngày 24 tháng 3 Huế thất thủ. Ngày 29 tháng 3 Đà Nẵng rơi vào tay quân cộng sản. Cộng sản đã xé hiệp định Ba Lê và mở các mũi dùi tấn công vào Sài Gòn. Lệnh công tác HQ330 ban hành, mỗi Ban lo chuẩn bị phần vụ để sẵn sàng đi công tác khẩn cấp. Tôi không bao giờ quên là Ban Ẩm Thực đã mua hai tạ cá khô với lý do là nếu công tác Vùng I hoặc II thì có thể là cả tháng hoặc hơn nữa sẽ không vào bờ vì tình hình hỗn loạn ở miền Trung và dân chúng đang di tản vào Nam. Nhưng rồi tàu nhận công tác Vùng 4 Phú Quốc đem theo hai tạ cá khô đầy mùi khó ngửi vì cá chưa khô hẳn. Khi tàu tăng phái cho ộB Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải (BTL/V4ZH), có nhiều biến chuyển liên tục đến với Phú Quốc như tiếp nhận người tỵ nạn từ miền Trung đổ về, xử tử những thành phần cướp bóc giết người hoặc bị chỉ điểm mà Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 được tự quyền phân xử. Trong bốn tuần lễ ở Phú Quốc, HQ330 có nhiệm vụ tuần tiễu vùng biển phía tây bắc Kiên Giang, phía bắc Phú Quốc và bên kia bờ Phú Quốc, vùng núi do quân Khờ Me Đỏ chiếm đóng. Cứ khoảng sau ba cho dến năm ngày hải tuần, tàu lại về bến nghỉ một hoặc hai ngày rồi lại tiếp tục ra vùng tuần tiễu. Tàu được lệnh yểm trợ hải pháo đêm cho Dương Đông khi bị địch quân tấn công vào các đồn lính Cộng Hoà khi được yêu cầu. Thỉnh thoảng Hạm Trưởng cũng ban hành nhiệm sở thực tập vận chuyển chiến thuật, tu bổ các ụ súng lớn nhỏ, v..v... để phòng khi hữu sự. Qua tuần lễ thứ hai, trong khi đang công tác tuần tiễu đêm vùng đông bắc thì chúng tôi nhận được công điện mật là phải lên ngay vùng bắc giáp ranh giới ngọn núi do quân Khờ Me Đỏ chiếm đóng để tiếp cứu cho một toán quân thuộc một Duyên Đoàn thộuc BTLV4ZH bị kẹt ở ngay chân núi vì sau khi đổ bộ thì quân Khờ Me Đỏ tấn công bằng hoả lực quá mạnh nên tàu chở toán quân đổ bộ phải rút ra ngay. HQ330 được lệnh tiến sát và chỉ cách chân núi hai dặm, mực nước nơi này sâu thẳm nên không trở ngại cho việc vận chuyển. Tàu đã sẵn sàng trong tư thế tác chiến từ nửa đêm. Trục tuần tiễu dọc theo dãy núi do quân Khờ Me Đỏ chiếm đóng. Có lẽ chúng đã theo dõi sát lộ trình tàu nên vừa chập sáng từ trên đỉnh núi chúng bắn hàng loạt đạn đại bác 105 ly về phía tàu. Đạn rơi lõm bõm quanh tàu. Với hai máy tiến FULL, tàu chạy uốn éo zig zag để cố tránh tầm đạn của địch. Đạn liên tục đuổi theo con tàu cho đến khi tàu vượt ra khỏi tầm bắn của chúng. Cảm thấy may mắn là đã thoát nạn, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm nhưng mọi người đều im lặng. Im lặng đến nỗi có thể nghe được cả nhịp tim đập mạnh của chính mình. Tàu lại được lệnh công tác về phía bắc Phú Quốc. Vào buổi gần trưa trong khi đang đi tuần, một chiếc PCF (Duyên Tốc Đĩnh) mang cờ Kampuchia chạy từ phía đông nhắm ngay con tàu đi đến. Tàu chuẩn bị trong tư thế tác chiến để phòng hờ sự tấn công. Chiếc PCF cặp cạnh tàu. Tôi thấy trên tàu thật đông người. Được biết ra họ toàn là nhân viên của tàu và thân nhân. Sĩ quan Thuyền Trưởng chiếc PCF nói tiếng Việt Nam rất rành, lên tàu gặp và cho hay Kampuchia đã thất thủ nên ông và nhân viên muốn sang tỵ nạn ở Thái Lan. Trước khi vị sĩ quan này rời tàu, tôi hỏi ông có muốn xin tỵ nạn ở Việt Nam không, chúng tôi sẽ giúp. Ông lắc đầu không nhìn tôi, từ chối. Câu hỏi này làm tôi sau này cứ hổ thẹn với sự ngờ nghệch của mình vì có lẽ vị sĩ quan PCF này đã cười về câu hỏi ngây ngô của tôi vì ông đã biết sớm muộn gì thì Việt Nam cũng chung một số mệnh như nước của ông vậy!!! Thực sự lúc bấy giờ tôi không bao giờ nghĩ đất nước VN lại mất vào tay cộng sản một cách dễ dàng và nhanh chóng đến như vậy. Một tuần trước ngày 30 tháng 4 năm 1975: Tàu không được lệnh đi tuần tiễu và đậu tại cầu tàu BTL/HQV4ZH. Tàu được BTL Vùng nhắc nhở luôn sẵn sàng tiếp liệu vật liệu để nếu có chuyện gì thì tàu có thể hải hành một thời gian dài mà không cần tiếp tế. Những thùng mì khô, gạo, đồ khô tàu cũng được nhận lãnh tối đa. Ngày 21 tháng 4, TT Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức, trao quyền Tổng Thống lại cho Cụ Trần Văn Hương. Vị giáo sư thanh liêm và khả kính này lên nắm chính quyền được đúng bảy ngày thì bị Quốc Hội làm áp lực nên phải trao quyền lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Ngày 26 tháng 4, trước khi Hạm Trưởng đi họp trên BTL/HQ Vùng, ông nói với tôi là nếu có chuyện gì và không thấy ông trở về thì cứ việc mang tàu ra đi. Vẫn ngu ngơ, tôi hỏi HT là đi đâu? Ông chỉ cười. Tôi nghĩ là nếu vì một bất trắc nào như trọn B Tham Mưu BTL kể cả Đơn vị Trưởng tăng phái bị bắt thì chúng tôi cứ việc đưa tàu ra hải phận quốc tế để tái phối trí lại lực lượng hay liên lạc với tàu thuc Đệ Thất Hạm Đội. Trong những ngày này, tôi thường hay đi lên trại ty nạn để tìm kiếm thân nhân và bạn bè từ miền Trung vào, nhưng mỏi chân rồi cũng chẳng tìm gặp được ai. Tôi không rõ sự việc xảy ra cho Bộ Tư Lệnh Hạm Đội từ lúc nào, mà chỉ biết một vị sĩ quan thâm niên khác đã thay thế HQ Đại Tá NXS trong chức vụ Tư Lệnh Hạm Ðội Sáng ngày 28 tháng 4, sau khi họp từ BTL/HQ Vùng về, Hạm Trưởng tập họp nhân viên. Ông phân tách tình hình lúc bấy giờ và thăm dò ý kiến của nhân viên xem ai muốn ở, ai muốn theo tàu đi ra hải phận quốc tế nếu Sài Gòn thất thủ. Đa số nhân viên lưỡng lự về quyết định này. Trước khi chấm dứt buổi họp, HT nhắc nhở nhân viên nên suy nghĩ kỹ về quyết định của mình. Tối ngày 28 tháng 4, nhân viên trên BTL/HQ Vùng có vẻ hoang mang, bối rối. HQ330 trong tình trạng tác chiến sẵn sàng chờ lệnh từ BTLHQV, nhưng không nghe tin gì từ BTL cả. Một lúc sau thì thấy trên BTL im lặng trở lại như không có gì xảy ra. Sáng ngày 29 tháng 4, được biết sở dĩ có sự hhoảng hốt là do tin đồn Tư Lệnh Vùng lên chiếc HQ230, Trợ Chiến Hạm Nguyễn Ngọc Long LSSL (HQ Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Long khoá 11 SQHQ Nha Trang đã bị Việt ộcng sát hại cùng với một Niên Trưởng khoá 10, sau khi ông nhận bàn giao chức vụ Chỉ Huy Trưởng Duyên Đoàn 35) để đi nước ngoài. BTL Vùng có hai cầu tàu cho các chiến hạm lớn cặp để lấy tiếp liệu hay nghỉ bến. HQ330 cặp cầu phía Nam và HQ230 cặp cầu phía Bắc. Ngày hôm sau, thấy tình hình trên BTL/HQ Vùng yên lặng, tôi đi bộ ra khu phố sát cạnh BTL để nghe ngóng tin tức, tình cờ gặp lại người bạn làm cho đài "Gươm Thiêng Ái Quốc." Chúng tôi vào quán Bò Vàng ăn phở và bàn chuyện đang xảy ra ở Sài Gòn, việc Quân Đi Mỹ được lệnh rút ra khỏi Việt Nam nội trong ngày hôm nay. Các quân dân cán chính có liên hệ hoặc liên quan đến Mỹ đều nằm trong kế hoạch di tản này. Anh cho biết là Mỹ đã bốc nguyên toán của anh ra Phú Quốc để chờ lệnh nên bây giờ chỉ chờ cấp trên, họ cũng không biết phải làm gì bây giờ. Trước khi từ giã, tôi cho anh biết chỗ tàu tôi cặp hàng ngày, nếu có tin tức gì thì liên lạc. Tôi trở lại tàu đúng lúc Hạm Trưởng đi họp trên BTL/HQ Vùng về. Ông cho hay là tình hình vẫn không có gì thay đổi. Tôi nghĩ là ông biết một vài tin quan trọng trong cuộc họp nhưng không cho tôi hay. Quản Nội Trưởng cho tôi biết là sáng qua ông đã cho ba nhân viên đi đường biển lên Kiên Giang về Sài Gòn với dụng ý gì tôi không được biết. Thực ra, tuần trước tôi đã đề nghị với HT nên cho vài nhân viên về Sài Gòn nhắn các thân nhân ở Sài Gòn và vùng lân cận biết là tàu đang công tác cho BTL/HQ Vùng 4, dặn họ nên ra Phú Quốc. Còn ở xa thì dùng thư gửi ngay Sài Gòn để nếu có chuyện gì thì ít ra cũng đỡ ân hận. Ông đã bác bỏ đề nghị này. Chiều tối, đài phát thanh loan những tin tức như quân ộcng sản đang tiến vào Sài Gòn, pháo kích vào toà Đại Sứ Mỹ, Mỹ đang dùng trực thăng di tản nhân viên Mỹ và liên hệ ra Đệ Thất Hạm Đội. Các tàu Hải Quân VNCH ở các bến đang di tản hàng trăm ngàn người từ Sài Gòn hướng về Vũng Tàu để ra hải phận quốc tế v..v... Lúc đó đầu óc tôi choáng váng, mất hẳn bình tĩnh, không biết mình sẽ phải đương đầu như thế nào nếu cuộc chiến đến lúc tàn và tính mạng mình sẽ ra sao! Đêm đó, viên sĩ quan cơ khí trưởng tàu khoá 22 SQHQ Nha Trang(*) có trong tay khoảng 30 nhân viên cơ-điện khí, đến gặp tôi tại phòng ngủ và đưa ý kiến là nếu có chuyện gì mong muốn tôi đưa tàu về Sài Gòn. Tôi đã khẳng định là tôi không đưa tàu về Sài Gòn được nếu tàu còn đủ cấp số nhân viên lái tàu vì gia đình tôi là người Bắc di cư nên Việt cộng sẽ không để yên cho tôi. Rút từ kinh nghiệm của chính cá nhân của ba tôi, ông biết là tình hình không được ổn nên trước khi tôi đi công tác lần này, ba tôi đã căn dặn rằng nếu có chuyện gì xảy ra thì đi đâu thì đi, đừng bao giờ ở lại. Ông đã sống, đã từng bị tù đày ngoài Bắc trong Chiến khu Tư nhưng đã may mắn vượt thoát khỏi ách cng sản nên biết chắc chúng sẽ không tha cho những thành phần đã chống lại chúng. Anh có vẻ thất vọng và bỏ đi ra. Tôi xin mở một dấu ngoặc ở đây, trong những năm đi biển ở HQ401, chức vụ chính của tôi là Sĩ Quan Đệ Tam, Hành Quân Hải Hành kiêm SQ Chiến Tranh Chánh Trị vì tôi có bằng Đại Đội Phó CTCT khi còn là Chỉ Huy Phó Duyên Đoàn 35. Tôi đã từng xử lý Hạm Phó HQ401 cả sáu tháng sau khi HQ Đại Uý ĐĐT Hạm Phó khoá 16 rời tàu để chuẩn bị du học Hoa Kỳ. HQ Đại uý NVT. khoá 17 về thay thế. Đó là một truyền thống của Hải Quân Việt Nam, khoá đàn anh đi thì có khoá đàn em hoặc Sĩ Quan Hàng Hải Thương Thuyền thâm niên tương đương về nối tiếp chức vụ và do chính Bộ Tư Lệnh Hải Quân ban hành lệnh Thuyên Chuyển cho cấp Trưởng và Phó. Tôi là khoá 19, tôi rất được HQ Thiếu Tá TNH khoá 10 tín nhiệm vào khả năng khi phục vụ HQ401, nên thay vì tôi phải thuyên chuyển đơn vị sau 18 tháng, ông đã giữ tôi thêm sáu tháng nữa nhưng cũng chỉ giữ vai trò xử lý mà thôi. Vì vậy nên khi về HQ330, tôi đã quen thuộc với con tàu này một cách dễ dàng sau vài lần công tác trong sông Vùng Nhà Bè, Lòng Tảo và Vũng Tàu. Tân Hạm Trưởng rất tin cậy về kinh nghiệm và khả năng cặp cầu cũng như quán xuyến về hải hành của tôi. Được nhiều người tín nhiệm và có uy tín nên tôi cũng không lấy làm lạ khi vị Sĩ Quan Cơ Khí Trưởng này đến gặp tôi. Tình hình vẫn có vẻ bình thường như mọi khi cho đến khoảng 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4 thì có tiếng nhân viên trên tàu la hét, tiếng súng bắn chỉ thiên trên BTL/HQVùng liên hồi làm tôi hốt hoảng chạy lên boong tàu. DươngVăn Minh tuyên bố đầu hàng. Nhiệm sở vận chuyển và tác chiến được ban hành cùng một lúc. Ngay lúc đó, từ phía BTL Vùng, hàng loạt người lũ lượt chạy về phía những tàu đậu bến. Rồi tiếng súng đủ loại vang dậy. Tàu rời cầu tách bến thật gấp rút để tránh đổ máu cho người trên cầu lẫn kẻ dưới tàu. Hạm Trưởng đã dùng tần số mật mà ông đã có sẵn trong những lần đi họp trên BTL/HQ Vùng để liên lạc với HQ230, HQ331 Giang Pháo Hạm Tầm Sét LSIL, và HQ602 Tuần Duyên Hạm Minh Hoa PGM. Lúc đó, tôi không biết Tư Lệnh HQ/V4ZH Đại Tá NVT., khoá 7 SQHQ Nha Trang và gia đình đã có mặt trên chiếc HQ230. Hạm Trưởng cho hay là chỉ nhận chỉ thị từ ông. Sau khi tách bến, tàu HQ330 chạy vòng quanh phía Nam Phú Quốc để nhận lệnh phối trí với một số tàu bạn và điểm hẹn là Hòn Khoai (Duyên Đoàn 41) gần cửa Bồ Đề vào BTL Vùng 5 Duyên Hải. Trong thời gian này, tàu đã vớt một số lính Hải Quân và gia đình thuộc BTL/HQ Vùng trên các ghe, PCF, LCM, v..v... Cho đến gần tối thì tổng cng khoảng 400 hải quân và gia đình được cứu lên tàu. Một lần nữa, Hạm Trưởng cho họp khẩn cấp nhân viên và tuyên bố những nhân viên kể cả sĩ quan nếu ai muốn về đất liền thì tối nay sẽ nhờ ghe đánh cá Kiên Giang đưa họ về, còn ai đi thì tiếp tục cuc hành trình. Ông cũng không quên trấn an anh em là Tư Lệnh HQ Vùng 4 ZH có hứa là với những kinh nghiệm của TL, TL sẽ đưa anh em đến nơi đến chốn an toàn, v..v... Buổi họp không đầy năm phút thì tan hàng. Mọi người trở về với phận vụ của mình. Không ai nói với ai một lời nhưng có lẽ mọi người đều tự hỏi: ĐI hay VỀ !!! Nửa đêm, tàu chặn được một chiếc ghe đánh cá Kiên Giang loại lớn để cho những ai muốn về lại đất liền thì có thể lên chiếc ghe đánh cá này. Không ngờ là tất cả nhân viên cơ-điện khí đều rời tàu, chỉ còn mỗi một sĩ quan phụ tá cơ khí trưởng. Vừa chập sáng, Quản Nội Trưởng đã phải tập họp tất cả nhân viên kể cả những Hải Quân trên BTL/HQV4ZH vừa được bốc lên tàu. Tất cả nhân viên thuc cơ-điện khí được chia làm ba ca ngay, thiếu thì bổ xung từ các thành phần thuộc nghề khác. Cùng ngày, hầm máy báo cáo lên đài chỉ huy, một giàn máy tả bất khiển dụng và chỉ còn một giàn máy hữu hoạt động. Thế là tàu còn chạy được có một chân vịt. Một chuyện tình buồn mà tôi cũng không thể nghĩ là có thể xảy ra. Vài tuần trước ngày 30 tháng 4, một anh thủy thủ thuc HQ330 lâu ngày tôi không nhớ tên anh, đang đi phiên trên đài chỉ huy với tôi. Anh kể là anh có người yêu ở Phú Quốc và chuẩn bị làm đám cưới, dù bất cứ biến chuyển gì anh cũng phải đi theo tàu vì gia đình vợ tương lai của anh đã bàn là cũng tìm mọi cách để đi ra nước ngoài chứ không ở lại. Tôi có nói với anh là "Em là người may mắn nhất tàu." Anh cười nói rất vui vẻ. Nhưng khi tàu đánh cá Kiên Giang cặp tàu vào nửa đêm để cho nhân viên về lại đất liền, anh đã bị lung lạc tinh thần và theo nhóm cơ-điện khí về Kiên Giang. Sáng sớm ngày hôm sau, gia đình và người vợ sắp cưới của anh được tàu vớt. Người vợ sắp cưới xin đài chỉ huy cho phép được gặp anh. Biết anh đã theo chiếc ghe đánh cá mới hồi đêm về đất liền, cô đã bật khóc nức nở. Thật đáng thương thay! Tàu vẫn chạy quanh từ đảo Phú Quốc đến hòn Thổ Châu nằm về phía Nam. HQ331 bị cháy cả hai giàn máy, bất khiển dụng 100%, không thể sửa chữa, và trên tàu có khoảng trên 300 người. HQ330 quyết định sẽ kéo chiếc HQ331 với dự tính là khi liên lạc được đoàn tàu di tản theo kế hoạch cho BTLV5ZH ở Hòn Khoai, sẽ chuyển người trên HQ331 sang một chiếc Dương Vận Hạm, rồi hai đoàn tàu sẽ nhập lại đi Côn Sơn, nơi điểm hẹn của các tàu Hải Quân QLVNCH. Cuối cùng, không liên lạc được với nhóm tàu này. HQ230, HQ330, HQ331, và HQ602 quyết định đi Singapore ngay lập tức. HQ330 vẫn kéo HQ331 và là chiếc dẫn đầu toán. Trên đường đi, thỉnh thoảng thấy bóng dáng những chiếc máy bay lượn xa xa hoặc những chiếc tàu buôn hay tàu của Đệ Thất Hạm Đi đi lại trên hải phận Quốc tế - tôi chỉ đoán như vậy vì cách nhau quá xa nên không thể thấy rõ lá cờ của họ thuc quốc gia nào. Nhiệm sở tác chiến luôn thi hành mỗi khi thấy những chiếc máy bay hay các chiếc tàu xuất hiện để tránh những bất trắc có thể xảy ra. Khi đoàn tàu tiến vào phía trong cửa sông Singapore thì tàu Hải Quân Singapore đến cặp và đoàn tàu quyết định xin ty nạn nước này. Họ dẫn đoàn tàu đến một địa điểm và yêu cầu thả neo để chờ họ liên lạc với chính quyền về việc xin tỵ nạn. Hai ngày hôm sau, khi trời vừa chập tối, hai chiếc LCM của Quân Vận VNCH cặp lại xin chuyển người qua HQ330 vì e rằng tàu nhỏ không thể vượt biển nếu không được Singapore tiếp nhận. Trong số những người lên tàu tôi nhận ra ngay một anh bạn AET Nguyễn Viết Chiến ra trường sau tôi một năm và ở Tam Hiệp thuộc tỉnh Biên Hòa. Anh về Quân Vận và mới cưới vợ được đúng có một tháng; vợ cùng đi với anh. Được biết họ từ Tân Cảng Sài Gòn đi ngày 30 tháng 4. Vị Sĩ Quan Giang Đoàn Trưởng Quân Vận cũng là một AET tên Xung, tôi quên họ, là người đầu đàn của hai chiếc này cùng gia đình đi theo. Vị Tư Lệnh Phó Vùng 4 ZH là HQ Trung Tá MML, khóa 8 SQHQ Nha Trang, là Thày dạy khoá tôi về Vận Chuyển Chiến Thuật sau mđt thời gian phục vụ đơn vị Hải Tuần, lúc đó ông còn mang lon Đại úy. Tôi luôn nhớ ông vì sau những giờ học nhàm chán, ông thường kể cho khóa sinh về những lần Bắc phạt đầy nguy hiểm của ông bằng PT chạy nhanh lướt sóng hùng dũng, hoả lực mạnh với hai dàn phóng chống tàu địch hai bên, v..v... Mỹ giao sĩ quan HQVN điều khiển, nhưng sau này thì Mỹ đã lấy lại những chiếc PT này. Ông đã chuyển sang tàu tôi từ HQ230 trong thời gian chờ đợi quyết định của chính phủ Singapore. Chờ đợi rồi đợi chờ...... Mđt giờ mà tưởng như cả tuần so với thời gian đi công tác tuần tiễu. Khá lâu mà vẫn không thấy bóng nhân viên thuộc chính quyền Singapore trở lại cho biết kết quả là có cho tỵ nạn hay không, mọi người càng nóng lòng và lo lắng vì nếu neo ở đây lâu mà họ không tiếp nhận thì phải đối phó với nghịch cảnh hay sóng biển như thế nào! Lúc bấy giờ tinh thần anh em thật xuống dốc. Hạm Trưởng có lẽ cũng đã bàn với các vị có thẩm quyền của các tàu bạn cho tôi hay là sẽ đi Úc nếu Singapore không nhận tỵ nạn. Tôi hỏi Hạm Trưởng là HQ230 có bản đồ hàng hải để đi Úc hay không. Ông liên lạc với HQ230 rồi các tàu trong toán. Tất cả trả lời là "không." Không có hải đồ thì khó mà định hướng một cách chính xác để đi đến Úc, tôi vội vã xuống phòng Hành Quân Hải Hành tìm lục trong các ngăn tủ. May thay, có một tấm hải đồ tổng quát vùng Đông Nam Á cũ rích với tỷ lệ xích 1/1000 (nếu tôi nhớ không lầm). Có lẽ tấm bản đồ đã nằm trong đó từ khi Mỹ bàn giao tàu này cho Hải Quân Việt Nam hay cũng có thể là từ thời đệ nhị thế chiến. Đến ngày thứ năm, tàu Hải Quân Singapore cho hay họ không nhận tỵ nạn, cung cấp thêm nước và yêu cầu chúng tôi rời hải cảng càng sớm càng tốt. Thế là mọi người dều thất vọng và chuẩn bị cho chuyến hải hành không định hướng rõ rệt. Đoàn tàu chia phận vụ. Tôi nghĩ HQ230 phải là chiếc dẫn đầu vì có vị Tư Lệnh Vùng 4 ZH trên đó và ông đã hứa là "sẽ dẫn dắt đoàn tàu đến nơi đến chốn với kinh nghiệm của ông" nhưng HQ330 vẫn được chỉ định dẫn đầu chạy dù với một chân vịt nhưng lại kéo theo HQ331, kế đó đến HQ230, và sau cùng là HQ602. Ngoài vấn đề liên lạc bằng hệ thống truyền tin, HQ602 là chiếc tàu nhỏ vận chuyển dễ dàng nên dùng làm "taxi" chạy qua chạy lại cặp cạnh với các tàu hàng ngày hoặc khi cần. Hạm Trưởng HQ602 là HQ Đại úy Ngô Minh Dương thuc khóa 15 SQHQ Nha Trang. Anh Dương vừa du học Mỹ về và mới cưới vợ được ít tháng. Thỉnh thoảng khi chiếc tàu của anh cặp cạnh HQ330, chúng tôi có dịp trao đổi những lời chào hỏi và một số tin tức. Anh cho biết Hạm Phó của anh là một Sĩ Quan khóa 2X SQHQ Nha Trang (*). Một hiện tượng thật lạ lùng, có thể nói là một phép mầu mà ơn Trên đã thương và che chở cho đoàn tàu chúng tôi trong suốt thời gian lênh đênh trên biển vì với hơn ba năm đi biển tôi chưa từng thấy khi nào mà biển thật êm ả như đi sông dù đoàn tàu đang hải hành trên vĩ tuyến "zero độ" từ tây qua đông hướng về Úc Đại Lợi. Nhờ vậy HQ330 đã kéo HQ331 mà không gặp bất cứ một trở ngại nào về cấp sóng hay bão tố. Vào buổi xế trưa sau hai ngày lênh đênh hải hành, như thường lệ HQ602 cặp cạnh tàu tôi. HQ Thiếu Tá NVA khoá 10 và gia đình chuyển qua tàu tôi vì trên HQ602 đông người và quá chật chi cho gia đình đông con của ông. Ông là Sĩ Quan huấn luyện của Trường Chỉ Huy Tham Mưu Sài Gòn. Tôi nhận ra ông ngay vì ông huấn luyện khoá Chỉ Huy Tham Mưu mà tôi thụ huấn năm 1974. Ông cho hay là các SQ khóa sinh đang thụ huấn ở Sài Gòn phải ra Phú Quốc công tác giúp dân tỵ nạn trong mấy tháng qua; bây giờ thì mạnh ai nấy chạy... Thường thì mỗi buổi sáng hay trưa HQ602 hay cặp tàu tôi để đưa tin vì không muốn liên lạc bằng máy vô tuyến hoặc để tán gẫu, trò chuyện cho vui cho quên bớt buồn lo. Anh Dương lên HQ330 gặp anh em như thường lệ. Tôi đang đứng gần mũi HQ602 khi cặp cạnh tàu tôi, thì thấy Hạm Phó của HQ602 đến ngồi ngay phía dưới đài chỉ huy HQ602. Tôi đoán là anh vì trông anh quen quen nên đến chào hỏi. Gương mặt anh rất buồn và tôi hỏi gì anh chỉ trả lời cho qua chuyện. Anh không nhìn thẳng mặt tôi và hình như muốn né tránh tôi. Cái nhìn như muốn che dấu một mưu tính gì. Thường thì khi đàn anh đàn em cạnh khóa gặp nhau tay bắt mặt mừng, nhưng anh vẫn ngồi bó gối trong một tư thế tư lự buồn chán và uể oải. Bắt chuyện với anh nhưng dường như anh không muốn nói chuyện. Tôi đứng thêm một vài phút nữa rồi bỏ đi lên đài chỉ huy, thỉnh thoảng tôi vẫn theo dõi cử chỉ của anh: anh vẫn trong thế ngồi với hai tai tay vẫn ôm trọn hai đầu gối. Một lúc sau anh cũng đi vào tàu. Hạm Trưởng Dương trở về tàu. HQ602 tách ra và quay lại vị trí cuối của mình. Sáu giờ sáng ngày hôm sau tôi lên ca hải hành. Trời đã sáng tỏ, không thấy bóng dáng HQ602 đâu như tôi thường thấy vào mỗi sáng. Gọi máy cũng không thấy trả lời. Sĩ quan đương phiên trên HQ 230 cho biết cũng không thấy HQ602 đâu. Tôi báo cáo cho Hạm Trưởng về việc này. Vì chiếc tàu của tôi hiện đang kéo HQ331, không thể dễ dàng quay trở lại tìm kiếm HQ602, tôi đề nghị HT là yêu cầu HQ 230 vòng trở lại tìm kiếm xem HQ602 có bị trở ngại kỹ thuật hay bất trắc gì không. Chiếc HQ230 vòng trở lại tìm vài tiếng nhưng rồi cũng bó tay, không thấy bóng dáng HQ602 ở đâu. Cho đến gần trưa, đoàn tàu quyết định tiếp tục di chuyển theo đi hình. Đến sáng ngày hôm sau, đài BBC Luân Đôn cho hay "một chiếc Tuần Duyên Hạm HQ602 của Hải Quân VNCH do một sĩ quan (*) lái về sau khi đã giết Hạm Trưởng bỏ trôi dưới biển ... đã được mặt trận GPMN tuyên dương công trạng." Nghe tin HT HQ602 Ngô Minh Dương bị giết, anh em trên tàu đều bàng hoàng xúc động. Cũng trong ngày này, đài BBC Luân Đôn cho biết "Úc gửi công điện công nhận mặt trận giải phóng miền Nam..." Thế là hết hy vọng đi Úc. Chỉ còn một con đường là đi Phi Luật Tân, không còn giải pháp nào hơn. Sau 17 ngày lênh đênh trên biển cả, đoàn tàu đã đến Subic Bay vào một buổi sáng. Một nhóm nhân viên chiếc DE của Hải Quân Mỹ như đã dự trù sẵn, lên các chiến hạm và yêu cầu vứt bỏ tất cả súng đạn trên tàu xuống biển. Một buổi lễ hạ Quốc Kỳ VNCH lần cuối cùng, không ai bảo ai nước mắt tự dưng tuôn chảy, cất cao tiếng hát bài Quốc Ca trong nghẹn ngào, nức nở, buồn tủi cho cảnh những người lính chiến ngã ngựa. Quốc Kỳ VNCH bị tháo ra khỏi thân cờ. Cờ Mỹ được kéo lên thay thế. Đoàn tàu nối đuôi chiếc DE vào vịnh Subic. Vẫn chiếc HQ330 què một chân kéo theo HQ331, HQ230 nối theo sau. Mãi cho đến nay, mỗi lần nhớ lại chuyến di tản đau thương trên đường biển từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải đến Phi Luật Tân, tôi vẫn không khỏi bùi ngùi. Xin được thắp một nén hương lòng hướng về biển cả để tưởng nhớ đến HQ Đại úy Ngô Minh Dương, Hạm Trưởng HQ602 nói riêng và quân dân cán chính Việt Nam Cng Hoà đã vị quốc vong thân trên khắp nẻo đường đất nước vào những tháng của năm 1975 nói chung. Nguyện cầu vong linh của đồng bào rut thịt thân yêu an nghỉ trong cõi bao la của Đất Việt. -------------------------------------------------------------------------------- Nguyễn Hữu Duyệt, AET2767 Ngày 29 tháng 4 năm 2002 Ghi Chú: *Người viết không nhớ tên hoặc không muốn nhắc đến. Ghi Chú Đặc Biệt: Viết thể theo lời yêu cầu của Sư Cô Chủng Từ, Florida. PHỤ CHÚ Sau khi bài hồi ý này được phổ biến, tác giả nhận được khá nhiều ý kiến của bằng hữu trong và ngoài HQ , đặc biệt là anh em cùng khóa với Hạm Phó HQ 602. Tôi thành thật xin lỗi anh em, nếu sự kiện tôi kể lại đã vô tình gây thương tổn đến bất cứ cá nhân nào. Với sự đồng ý của anh CV Th., Ðại Diện K.20, để rộng đường dư luận, tôi đã yêu cầu các Webistes đăng tải câu chuyện dưới đây của Hạm Phó HQ 602. "Trên hải trình di tản, Hạm Trưởng HQ 602 đã tập họp nhân viên và thông báo tình hình chiến sự, một số gồm cả một SQHQ 24 đã rời chiến hạm xuống PCF để trở về.
HQ 602 tiếp tục hải hành và nhập đoàn cùng các chiến hạm khác ra hải phận quốc tế.
Người Hạm Trưởng đã cương quyết ra đi, không đầu hàng Cộng sản, mặc dù phải bỏ lại gia đình.
Trên chiến hạm còn có thêm hai Sĩ quan cơ hữu khác, thuộc những khóa sau của người Hạm Phó, và hai người này đã cùng một vài HSQ khác đã âm mưu chủ chốt cướp chiến hạm để trở về vì đổi ý sau đó.
Một Hạ sĩ CK đã dùng búa phòng tai chém chết Hạm Trưởng trên đài chỉ huy và bỏ xác xuống biển.
Thấy động tĩnh, Hạm Phó từ phòng ngủ chạy lên, liền bị một HSQ khác uy hiếp bằng súng M-16 và sau đó hai người Sĩ quan đàn em đã bắt Hạm Phó lái tầu về BTL/HQ đầu hàng.
Người Hạm Phó khóa 20 SQHQ/NT đã bị đi tù cải tạo hơn 5 năm, hai người SQ chủ mưu cướp chiến hạm cũng cùng chung số phận."
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 12:08:15 GMT 9
CHUYẾN CÔNG TÁC BẦU TRÓ (ÐỒNG HỚI) V.12 -------------------------------------------------------------------------------- Lời Mở Ðầu: Thưa quý Niên Trưởng và quý bạn, có tham gia trong chuyến công tác Bầu tró, Ðồng Hới 1964. Người viết là một nhân chứng đi trong chuyến đó, vì thời gian đã quá lâu nên không thể nhớ hết hơn nữa lối hành văn thiếu mạch lạch, mong quý N/T và các bạn nếu biết xin bổ túc thêm, thành thật cám ơn. Tôi và anh Nguyễn Bảy lúc hồi còn niên thiếu, chúng tôi hai đứa cùng chung học dưới một mái trường Tiểu- Học Thánh Giuse, Ðà nẵng. Gia đình 2 chúng tôi cách nhau một con sông Hàn (sông Hàn Ðà Nẵng) đứa ở bên kia sông gọi là làng Nhượng nghĩa, thằng ở bên nầy sông gọi là làng Ðức- Lợi (về sau này Ðức Lợi và Thanh- Bồ cả 2 sát nhập lại gọi chung là Thanh Ðức). Hai đứa chúng tôi thường nô đùa với nhau trong những lúc ra chơi và tan trường, đã từng chia sẽ cho nhau từng cái càrem (ice cream). Có những khi chia phe bắn nhau bằng những sợi giây thun và các cọng phượng cùng với những thằng bạn đồng lứa khác thật hết sức hồn nhiên và vui thích, có những buổi chiều thứ sáu cuối tuần tôi rủ anh Bảy về với bọn tôi để ở lại đá banh, có khi năm bảy đứa hoặc có lúc ba bốn thằng mỗi bên, mãi mê chơi đến chiều tối anh mới chịu trở về lại Nhượng Nghĩa, trên những chuyến đò ngang có những cô thiếu nữ chèo đò thật mơ mộng, dễ thương. Anh Nguyễn Bảy cao hơn tôi cả một cái đầu, anh rất vui tính mỗi lần gặp tôi thường nhoẽn một nụ cười vui vẽ. Sau nầy Nhượng Nghĩa và Thanh Ðức thành lập các đội bóng tròn Thanh Thiếu Niên, chúng tôi mỗi đứa một bên thĩnh thoảng gặp lại nhau trên sân cỏ, có cả những lúc chơi bóng chuyền với nhau nữa mỗi lần được dịp gặp nhau anh đều hỏi thăm tôi có khỏe không V.12? Tôi vội trả lời vẫn khỏe chứ, có khỏe tao mới đến chơi banh với mầy được hôm nay. Nói xong cả hai đứa cùng ôm nhau cười toe toét rất ư hồn nhiên. Thời gian sau nầy khôn lớn, mỗi đứa một nơi và nghe tin anh đã lập gia đình, còn tôi vẫn mang nhãn hiệu độc thân vui tính. Vào khoảng cuối tháng 11 hoặc 12 năm 1963, chúng tôi hai đứa vô tình gặp lại nhau dưới mái nhà tôn xiêu vẹo trong cùng một chí hướng tương lai của thời trai lúc bấy giờ, căn nhà đã bỏ hoang phế tự lúc nào và anh em được một người của cơ quan tuyển mộ hẹn gặp gỡ nhau tại đó, tựa như những chàng điệp viên lai vãng tới để lấy tin tức. Tôi và anh Tòng A được một chiếc xe Jeep chở tới trước, khoảng độ 15 phút sau thì lại thấy anh Châu B và anh Bảy cũng được người có thẩm quyền chở tới, tất cả anh em chúng tôi 4 thằng không hẹn mà gặp và rồi ôm nhau với nỗi vui mừng khôn tả nhất là anh Bảy vì đã quá lâu tôi không được gặp, mười phút sau đó chúng tôi được gặp thêm anh Hiển (râu) anh Hợp và anh Lạc từ làng Tam Tòa xuống. Tất cả anh em chúng tôi tổng cộng 7 người được mời lên một chiếc xe GMC (Quân đội) chạy về hướng cầu Trịnh Minh Thế Ðà Nẵng khi tới ngã ba viên tài xế quẹo phía tay phải trực chỉ Non Nước, chạy đến ngang làng Mỹ Thị xe quẹo trái lần theo dấu đường mòn quanh co, tiến vào rừng thông (Mỹ Thị) thì tới một doanh trại. các dãy nhà này được lợp bằng tôn chung quanh xây bằng những viên táp lô, cuối sân có một giếng nước và một căn nhà bếp chứa khoảng được 20 hoặc 30 chục người ngồi ăn, trong căn trại chính đã có sẵn một số giường nệm đôi lên đến con số 30 chục và một người Sỹ quan trực đứng sẵn ở đó, sau nầy tôi được biết tên ông ta là Chuẩn Úy Ninh, quê quán ở Huế. Chúng tôi ở tạm đó một thời gian, để chờ tiếp nhận thêm một số anh em ở các nơi về cho đủ túc số để nhập khóa. Vào khoảng đầu tháng 1 năm 1964, khóa II Biệt Hải bắt đầu học, trong thời gian đầu 3 tháng đầy nhiều cam go cực khổ nếm đủ mùi vị cay đắng nhất là trong tuần huấn nhục (tuần Ðịa Ngục) một số anh em đã chấp nhận bỏ cuộc vì không chịu nỗi, hoặc thiếu sức khỏe, được trả về nguyên quán hoặc đồng ý sát nhập vào Dân Sự Chiến Ðấu (lính gác,doanh trại) Số anh em còn lại hội đủ điều kiện được phân chia ra các toán. Sau ngày mãn khóa tôi và anh Tòng A, anh Châu B, anh Hiển (râu) anh Hợp B và anh Lạc tất cả được đưa về toán Cumulus (Trại 4) còn anh Bảy và các bạn khác được đưa về toán Mercury (Trại 3) ở Mỹ Thị. Trong thời gian 1964 đến 1966 chúng tôi đã đột kích vào lòng đất địch nhiều lần, từ Ðồng Hới ra đến tận Nghệ An, Thanh Hóa mục tiêu được chỉ định là bắn phá các đồn công an dọc theo ven biển, dùng các hỏa tiễn bắn vào các doanh sự quân đội miền Bắc đồng thời bắt những cán bộ địa phương đưa vào Nam khai thác tin tức. Tôi nhớ vào khỏang tháng 5 năm 1964, anh em chúng tôi được lệnh cấp trên cho biết thực tập liên toán Cumulus và Mercury để công phá nhà máy nước tại Bầu Tró, Ðồng Hới mục đích triệt hạ và làm tê liệt hệ thống cung cấp nước cho toàn tĩnh Ðồng Hới và các vùng phụ cận. Cả hai toán đã âm thầm thực tập trong vòng một tháng, có lúc cả liên toán và một đôi khi cũng thực tập riêng từng toán, tập di chuyển theo đội hình và đổ bộ ban đêm từ ngoài Chiến đỉnh PTF (Patrol Torpedo Fast) vào bờ bằng xuồng cao su (bobo) thực tập bắn các loại súng cá nhân Tiểu liên M-3 hoặc Suzuke của Thủy Ðiển, có cả súng đại bác 57 ly không giật và súng cối 61 ly thật tinh nhuệ, suốt trong thời gian dài thực tập rất công phu và tỉ mĩ, các cấp chỉ huy hỗn hợp luôn cố tìm các địa thế trong Nam tương giống với địa thế ở Bầu Tró Ðồng Hới để cho nhân viên dễ làm quen. Hằng ngày chúng tôi thực tập bắn đại bác 57 ly không giật vào các mục tiêu không di động. Tôi, anh Hiền, và anh Quắc xạ thủ 57 ly còn anh Châu B, anh Hợp A và anh Hợp B phụ xạ thủ, và cả 2 anh khác phụ trách 61 ly không giật có bổn phận bắn trái sáng để anh em chúng tôi xác định mục tiêu (vì đã quá lâu nên tôi không còn nhớ tên 2 anh nầy) Trước ngày ra đi chúng tôi được tập dượt qua tất cả phận sự của từng người một lần cuối cùng, hôm đó có sự hiện diện đầy đủ các cấp chỉ huy cả 2 phía Mỹ & Việt và được sự thẩm định kết quả xem như hoàn hảo của cấp trên chấp thuận, liền ngay lúc đó chúng tôi được lệnh cấm trại 100% . Vào buổi chiều cùng ngày tất cả nhân viên toán Cumulus chúng tôi, được mời về trại 3 họp chung với toán Mercury và được thiết đãi một buổi cơm thân mật với sự có mặt đầy đủ các cấp chỉ huy Mỹ & Việt và ban huấn luyện viên, trong lúc mọi người đang vui vẽ ăn uống chúng tôi vẫn được nghe thuyết trình đầy đủ về chuyến công tác phá hũy nhà máy nước Bầu Tró cho những ngày sắp tới, thuyết trình viên chỉ dẫn rất tỉ mĩ từng chi tiết, hướng dẫn cách thức xữ dụng và căn dặn những điều cần thiết, đồng thời cũng cho biết mật khẩu để nhận diện nhau khi bị thất lạc. Mật Khẩu "Hỏi ai ? trả lời khát nước" tất cả chúng tôi đều bắt buộc phải thuộc nằm lòng. Còn trường hợp súng 57 ly và cối 61 ly cũng như xuồng cao su (ho bo) nếu bị địch bao vây liệu thế không mang ra được phải nhanh nhẹn phá hủy tức khắc không được chần chờ. Sau khi cơm nước vừa xong xuôi tất cả các cấp chỉ huy lớn nhỏ, tới trò chuyện thăm hỏi anh em chúng tôi hình như để khích lệ tinh thần lần cuối cùng, và không quên cầu chúc cho công tác sớm được thành công và gặt hái mọi thắng lợi. Trong lúc tôi đang cầm lon Beer đứng một góc quanh đó, thì từ đằng xa nghe đươc tiếng của anh Bảy gọi V. 12, và bảo lại đây với anh, tôi vội vàng đi tới và nhận thấy trên gương mặt của anh Bảy lúc ấy vương vấn một nét buồn, trông không được vui cho lắm anh đang nằm trên giường và nhìn xuống nói với tôi. Nè 12, không biết tại sao hôm nay tao thấy sốt ruột không yên, tôi an ủi anh và nói không sao đâu có lẽ mầy uống beer tối nầy hơi nhiều đó thôi, nhưng anh vội trả lời tao đã từng uống nhiều lần nhưng lần nầy tao thấy có vẻ hơi khác lạ. Nếu trong chuyến nầy có gì xãy ra chắc chắn vợ con tao sẽ khổ. Với thân tình bạn bè tôi lại trấn an anh một lần nữa, chuyện gì cũng có Chúa Mẹ quan phòng cả, mầy hãy xin phó thác cho các đấng, yên chí đừng có lo nghĩ vẫn vơ vui vẽ lên lấy sức khỏe cho chuyến này. Tối hôm đó chúng tôi chia tay nhau, tất cả toán Cumulus trở về trại 4, phần có hơi thấm mệt bỡi chất men tôi lên giường ngũ một giấc cho đến sáng ngày hôm sau mới tĩnh dậy, buổi sáng hôm đó tất cả chúng tôi được nghĩ không phải đi thực tập, anh em mọi người ai lo công việc của người đó, lấy hết súng lớn súng nhỏ ra lau chùi cẩn thận đạn dược lắp vào băng sẵn sàng, kiểm soát tất cả các dụng cụ được đưa đi theo gồm có 3 khẩu đại bác 57 ly không giật, 1 khẩu súng cối 60 ly không giật cùng cấp số đạn nổ và đạn trái sáng cộng thêm vài ba trái lựu đạn lân tinh phá hũy súng lớn. Sau khi đã đầy đủ mấy ông huấn luyện viên và ban vũ khí lấy xe chở tất cả số vũ khí đó, và đưa xuống trước đặt trong các chiến đĩnh PTF, còn lại 3 chiếc xuồng cao su được chở đi theo 2 toán, tổng cộng tất cả là 22 người nhân viên có mặt buổi trưa hôm đó tại bến tàu. Nhân viên toán được trang bị loại Tiểu liên-3 và Tiểu liên Suzuke (Thủy Ðiển) với 7 băng đạn, mỗi băng lắp đầy 3 chục viên, trừ ra 3 người xạ thủ 57 ly chỉ mang Rulo và 5 viên đạn đã lắp sẵn,ngoài ra còn phải mang 3 trái đạn lân tinh để phá hũy súng khi trường hợp khẩn cấp. Tôi nhớ lúc đó vào khoảng giữa tháng 6. 1964, lúc 8.30 chiều 4 chiếc Chiến đĩnh PTF (Patrol Topedofast) bắt đầu rời bến cảng Ðà Nẵng. Vượt trùng duơng trực chỉ hướng Ðông Bắc, như những con kình ngư rẽ sóng lướt nhanh tiến về hướng hải phận Quốc tế, và sau đó 4 chiến đĩnh bèn quay mũi về hướng Bắc Việt Nam, và tiến sâu vào bờ biển Ðồng Hới. Trong khi đó anh em chúng tôi đang nằm ngũ dưỡng sức, cũng có một số anh em leo lên khỏi hầm tàu vì chịu không nỗi mùi hôi của dầu, nói chung tất cả mọi người bấy giờ cùng đều mang một tâm tư băn khoăn và lo lắng từng phút từng giây, của chuyến công tác đầy táo bạo và cực kỳ nguy hiểm trong một vài giờ tới, có lẽ lần đầu tiên Biệt Hải xữ dụng loại súng cá nhân hạng nặng ra vuốt râu giặc Hồ. Không ảnh vùng Ðồng Hới Và rồi cũng không ai quả quyết hoặc đoán được những gì có thể xãy ra trong đêm nay cho chính bản thân mình, sự sống chết lúc này tựa như sợi chỉ treo mành thật mong manh. Lúc nầy tôi đang nằm ở dưới hầm tàu dù cảm thấy thấm mệt nhưng không tài nào chợp mặt được, bèn ngồi dậy đọc vài kinh phó thác vận mạng cho Chúa và Mẹ xin quan phòng và giữ gìn bản mạng con cũng như toàn thể bạn bè lần này. nghe một hồi chuông báo động vang lên, tiếp theo là ngọn đèn màu đỏ đầy ghê rợn được bật sáng. Báo hiệu giờ giấc sắp sửa thi hành, chúng tôi mọi người không ai bảo ai đều ngồi dậy một lúc và tất cả cùng làm một động tác đó là chụp vội lấy khẩu súng cá nhân, và kiểm soát tất cả các dụng cụ cần thiết để mang đi theo xữ dụng. 4 chiếc chiến đĩnh vẫn âm thầm tiến vào cửa biển của Ðồng Hới, khi đã xác định đúng mục tiêu, 2 chiếc ở lại phía ngoài để bảo vệ đồng thời yểm trợ cho 2 chiếc đang chở toán chạy vào sát gần bờ hơn. Dưới ánh trăng lờ mờ hình dáng 2 Chiến Ðĩnh trông tựa như 2 con kình ngư đang từ từ giãm bớt tốc độ và rồi dừng lại, một lệnh được phát ra từ trên phòng lái của Hạm Trưởng tất cả chuẩn bị sẵn sàng đổ toán, chiếc PTF tôi đi anh em đã giúp phụ nhau, nhanh nhẹn cho thả xuống 2 xuồng cao su, đồng thời lúc đó tôi thấy Hạm Trưởng có đưa cho trưởng toán Yên một cái đèn pin hình dáng nhỏ như cây viết và căn dặn anh giữ lấy nó, khi nào gặp trở ngại cần được tiếp cứu cứ bấm đèn pin nầy lên tôi có thể nhận ra bạn và địch để giúp yễm trợ cho các anh. Tất cả anh em chúng tôi xuống, xuồng cao su vào lúc 11 giờ tối, dưới sự chỉ huy của Trưởng toán Yên, cả 3 chiếc xuồng cao su đồng nỗ máy cùng một lúc chạy theo hướng đội hình chữ V trực chỉ vào bờ, được khoảng 45 phút thì thấy ở phía trước và cả vùng chung quanh hơi xa xa chúng tôi có các thuyền đánh cá của dân, một vài chiếc thắp đèn số còn lại đều đã tắt, hình như mọi người trong ghe đều ngủ không nghe thấy tiếng động đậy. Lúc ấy 3 chiếc xuồng cao su của chúng tôi đều được giãm bớt tốc độ để tránh gây ra tiếng động, mặt biển đêm nay thật phẵng lặng gió chỉ thổi nhẹ lất phất nên mấy chiếc xuồng (ho bo) lướt nhanh trên mặt nước không hề bị cản trở của các đợt sóng, bỗng tôi và một số anh em ngồi chung xuồng nghe được rõ ràng tiếng mõ đánh lóc cốc tựa như những tiếng báo động của địch từ hướng làng Phú Hội dội tới (làng này nằm ở phía Bắc cửa biễn Ðồng Hới) khi xuồng cao su hơi tiến gần vào bờ chúng tôi lại càng nghe được tiếng mõ đánh rõ hơn, tôi vội nói với trưởng toán hay là chúng đã thấy anh em mình rồi đó, 3 chiếc được lệnh tắt máy và dùng bằng dầm chèo tay khi đã vào gần tới bờ chúng tôi ngừng chèo và cố gắng quan sát, và tiếng mõ kia nghe mỗi lúc một xa dần. Khi ước lượng khoảng cách bờ còn 400 thước, thì 2 người tiền sát viên lội vào trước đó là anh Chút và anh Lạt phụ trách kiểm soát bờ biển đồng thời tìm chổ an toàn cho toán xâm nhập, lúc đó chiếc xuồng của tôi lại chèo trở ngược ra hợp với 2 chiếc ở ngoài tất cả đều hướng mắt vào bờ để chờ sự báo hiệu của 2 bạn bằng loại đèn hồng ngoại tuyến cầm tay, ngồi ngoài xuồng lúc bấy giờ trưởng toán Yên cũng cầm hồng ngoại tuyến để theo dõi vào trong bờ (vì mắt thường không thể thấy được) thời gian trôi qua thật hết sức chậm chạp, mọi người ai nấy đều hồi hộp từng phút từng giây hầu như bất động, để chờ tình hình của 2 bạn đang còn ở trong bờ cho biết kết quả gần 20 chục phút trôi qua, chiếc hồng ngoại tuyến được chuyền tay hết người nầy đến người khác nhưng chẳng thấy gì khác lạ. Xuồng đổ bộ của Biệt Hải tại Bầu Tró (Ðồng Hới, ngày 30 tháng 6 năm 1964) Ông Yên vội lên tiếng hỏi vọng qua 2 chiếc xuồng cao su bên cạnh anh em có thấy gì lạ không? tinh thần mọi người rất căng thẳng vì thời gian chờ đợi đã lâu sợ có chuyện gì không may cho 2 người tiền sát. Bỗng ông Yên nhận được tín hiệu của 2 tiền sát trong bờ bấm đèn báo an toàn cho toán đổ bộ, lúc đó trưởng toán ra lệnh cả 3 chiếc xuồng phải chèo thật nhanh vào bờ, đồng thời phụ nhau khiêng xuồng cao su tới chổ cất dấu, và 5 người trong số 22 anh em được trang bị Tiểu liên M-3 & Suzuke bọc nòng giãm thanh ở lại đó canh giữ. Còn tất cả 17 anh em với nhiệm vụ từng người mang 57 ly không giật, và 1 khẩu súng cối 61 ly cộng với cấp số đạn dược đầy đũ di chuyển thật nhanh đội hình hàng dọc theo hướng địa bàn của trưởng toán chỉ định, đi được khoãng 500 thước thì mọi người nghe được những tiếng lạch cạch (tựa như tiếng súng giảm thanh của Tiểu liên M-3) tôi kéo trưởng toán tới và nói nhỏ vào tai, hình như ở ngoài chổ dấu xuồng đã bị động, ông Yên vội cho toán dừng lại để lắng nghe và xác định, nhưng những tiếng hồi nãy bỗng nhiên đều tắt lặng luôn và không còn nghe nữa, thấy dừng lại hơi lâu vã lại thời giờ không cho phép tôi vội bấm trưởng toán, tiến hay lùi thì ông nên cho anh em biết, khi nghe tôi nói xong ông bỗng ra lệnh tiến tới mục tiêu, chúng tôi tất cả vừa đi vừa chạy trên vai vẫn vác khẩu 57 ly nhưng lúc đó hầu như tôi không còn cảm thấy nặng nề, thoạt một lúc đã tới bờ Bầu Tró và rẽ lối sang phía tay trái 50 thước cho sát gần mục tiêu hơn, và cùng lúc được lệnh đặt tất cả súng xuống khai hỏa, chúng tôi hành động như một cái máy bắn vào tới tấp, phần anh xạ thủ cối 61 ly thì nạp đạn trái sáng bắn lên không trung giúp cho anh em chúng tôi xác định mục tiêu. Thế là cả ba khẩu 57 ly không giật nhắm vào mục tiêu liên tiếp bắn tới, nhà máy nước Bầu Tró đã bị sập hoàn toàn, sau đó thấy một đám cháy và ngọn lữa được bốc cao soi sáng cả một vùng quanh đó. Bắn xong chúng tôi được lệnh rút nhanh để kịp ra gặp tàu mẹ đúng 5 giờ sáng. Trong lúc đang chạy gần tới bờ biển tôi có gặp anh Bảy và anh chỉ tay bảo tôi theo hướng của anh, lúc bấy giờ trên vai tôi vẫn còn vác khẩu 57 ly không giật vì quá mệt và bây giờ lại cảm thấy nặng nề nên tôi chạy thẳng ra, còn anh bảy chạy ngược về hướng dưới cửa Ðồng Hới, khi chúng tôi chạy ra gần tới chổ dấu xuồng cao su (hobo) thì nghe tiếng chạm súng ở phía làng Phú hội (nghĩa là lúc đó toán canh gác xuồng cũng đang chạm địch). Anh em được lệnh của trưởng toán dàn hàng ngang chạy ra, vì ban đêm nên lính cộng sản không nhận ra chúng tôi và lên tiếng hỏi, bộ đội hay công an đó? Thế là anh em chúng tôi tha hồ bắn “ vì mật khẩu của toán hỏi ai? đáp khát nước”. Toán ở làng Phú Hội chạm súng trước, vì trong cửa Ðồng Hới đi ra xa gấp 2 lần từ trên làng Phú Hội đi xuống, ở làng Phú Hội có toán của anh Châu và anh Tín, nghe anh nói 7 băng đạn không còn một viên nào mang về, vì đám dân quân nhào ra quá đông chúng dùng bằng gậy gộc xông vào, có lúc anh Châu đã đánh cận chiến với chúng nên trên trán anh đã bị rách da, còn anh Lê Văn Chút và một số anh em đã bắn tới tấp yễm trợ cho số anh em còn lại rút ra. Riêng anh Hiển (râu) đã lấy được một khẩu CKC của tụi nó. Phía dưới cửa biển Ðồng Hới thì thuộc toán của anh Bảy anh Sắc và một số bạn khác đang chống đỡ, tôi và các anh thuộc xạ thủ 57 ly nằm ở giữa lúc đó ở hai đầu đang bắn nhau dữ quá, cộng với tiếng la hét của dân quân và công an cộng sản nghe thật rùng rợn nhìn bên tay trái thấy Hiển và Quốc hai anh đang sữa soạn phá hũy súng 57 ly sẵn đó tôi cũng cho phá luôn. Sau khi thanh toán 3 khẩu 57 ly xong chúng tôi lại chạy tiếp tìm hướng ra bờ biển, thì nghe được tiếng của Bảy kêu tôi bằng ám số 12 tụi nó xông ra đông lắm, tôi quay lại nhìn thấy anh rất hùng tay kẹp khẩu tiểu liên M 3 xối xã bắn từng loạt vào đám cộng sản, riêng tôi không thể giúp gì cho anh được trong phút giây này vì xạ thủ 57 ly nên chỉ có độc nhất một khẩu rulo phòng thân mà thôi. Thấy bên phía tay trái có một mô đất khá cao, tôi vội trườn người qua đó nghĩ xã hơi cho đỡ mệt, một lát sau lại thấy Châu B cùng tới, và bảo tôi cùng chạy anh Châu B còn khỏe chạy trước còn tôi cố gắng theo sau, trong lúc chạy chân tôi vấp phải một mô đất và té xuống, thì một loạt đạn bay xẹt ngang đầu hú hồn miệng lâm râm nói lời cám ơn Chúa, rồi lại lồm cồm đứng dậy tiếp tục chạy được khoảng độ 50 thước thì trông thấy một tên cộng sản bị thương khá nặng đang dãy dụa cố trườn đi, tôi liền rút khẩu rulo nhằm vào bóp cò, nhưng mấy lần súng không nỗ miệng lẩm bẫm chửi thề "à mẹ kiếp nó" liền sực nhớ ra, là hồi nãy vừa bị té sấp mặt xuống cát ngay lúc đó trên tay đang cầm khẩu rulo nên cát đã vào đầy cả nòng súng, bởi lẽ đó hèn gì súng không nổ, một số anh em đã ra được trước leo lên xuồng cao su và nổ máy, tôi ra sau một số anh em liền kéo lên tất cả 3 chiếc trực chỉ chạy về hướng các Chiến đĩnh PTF đang đậu (cũng xin được nói thêm ở đây chiến thuật xâm nhập của Biệt Hải, là đột kích chớp nhoáng và rút thật nhanh, chỉ trừ ra khi bị bất ngờ chạm địch thì mới phản ứng tự vệ mà thôi, lý do vùng hoạt động quá xa xôi không được sự yểm trợ của các đơn vị bạn, phần cơ cơ sở hậu cần của chính phủ VNCH không có ở miền Bắc, anh em các toán Biệt Hải đều biết được tất cả những điều kiện đơn phương khi thi hành công tác, nhưng vẫn chấp nhận, theo sự suy luận của anh em toán viên chúng tôi, mục đích là cốt tạo hoang mang cho dân chúng mất niềm tin vào cán bộ, và gây sự nghi ngờ lo lắng cho công an cộng sản). Khi 3 chiếc xuồng cao su chở toán chạy ra được 15 phút thì có 2 chiếc tàu Hải thuyền của cộng sản chạy theo rượt đuổi chúng tôi xuất phát từ các hướng, ở làng Phú Hội và cửa biển Ðồng Hới. Anh em lấy ống nhòm quan sát thấy hình như trên tàu có trang bị đại liên. liền lúc đó trưởng toán Yên bảo tôi lấy cái đèn pin trước khi đi Hạm trưởng đã đưa cho ông để dùng khi khẩn cấp, tôi cầm đèn pin đứng trước mũi và nhắm hướng các PTF đang đậu bấm lên mấy lần, ở ngoài khơi các Hạm Trưởng và anh em Hải Tuần khi nhận được tín hiệu kêu cứu của chúng tôi và đồng thời theo dõi trên màn ảnh rada lập tức chạy vào và bắn đại bác 40 ly cũng như đại liên 20 ly nhắm thẳng tới các tàu hải thuyền của cộng sản, và sau đó thì không còn thấy các tàu của chúng chạy theo nữa. Chiến đĩnh PTF (Patrol Torpedo Fast) thuộc Lực Lượng Hải Tuần trên Biển Bắc Tất cả anh em được vớt lên hai chiếc PTF, lúc đó trưởng toán Yên kiểm soát lại nhân viên thấy thiếu mất 2 người gồm có anh Nguyễn Bảy và anh Vũ Văn Sắc, mọi người đều cảm thấy đau buồn và thương tiếc, nhất là tôi đã mất đi một người bạn thân thương của thời thơ ấu, một đồng đội mà tôi hết sức mến yêu đó là anh Nguyễn Bảy, và rồi phút chốc làm cho tôi hồi nhớ lại những lời anh đã trăn trối trước một ngày ra đi. “Riêng tôi mãi mãi xin được đốt nén hương lòng cho 2 bạn trong chuyến công tác Bầu tró, Ðồng Hới “ Trước khi 4 Chiến đĩnh PTF quay mũi chạy về hướng Nam Ðà nẵng, thì bất chợt 2 Hạm Trưởng, Nguyệt và Sơn cho tàu chạy sát gần bờ biển và bắn hàng loạt đạn 40 ly và súng cối 81 ly vào các đồn bót duyên phòng của chúng từ Phú Hội đến cửa Ðồng Hới, đã làm cho anh em toán hết sức phấn khởi như một cử chỉ trả thù cho 2 người bạn của chúng tôi đó là, Bảy và Sắc. Xin được Vĩnh- Biệt các anh lần cuối, trên đường trở về lại miền Nam, vì quá mệt trong suốt đêm qua nên tôi ngũ thiếp đi lúc nào không hay, khi được các bạn đánh thức dậy thì các Chiến đĩnh PTF đã tới gần bến và các toán được di chuyển sang một chiếc Swift. Chúng tôi về trại tắm rữa thay quần áo xong được Sỹ quan trực dẫn lên phòng ăn sáng, tiếp theo đó lấy giấy phép xuất trại. qua mấy ngày sau anh em trở lại Trại và vẫn tiếp tục thi hành các sứ mạng như trước. Một vài hôm sau được nghe một số anh em cho biết có mở đài radio của cộng sản để theo dõi về tin tức 2 bạn: Bảy, Sắc. Và tin tức của cộng sản cho biết thì anh Nguyễn Bảy bị chết tại mặt trận, còn anh Vũ văn Sắc bị chúng bắt sống và kết cho anh tội danh là gián điệp Biệt Kích phạm tội phá hoại, giết người đồng thời lên án tử hình anh Vũ Văn Sắc trong cùng một tuần.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 12:12:18 GMT 9
VÀI NÉT VỀ HOẠT ÐỘNG CỦA BIỆT KÍCH DÙ TẠI BẮC VIỆTTrung Tá Nguyễn Văn Vinh -------------------------------------------------------------------------------- Lời Tòa Soạn: VNCH đã giữ vững được cuộc sống tự do trong suốt 21 năm ngắn ngủi nhưng đầy gian truân, máu và nước mắt, đầy sự hy sinh của biết bao nhiêu người.
Trong số những sự hy sinh đó, phải nói tới sự hy sinh của người lính Biệt Kích Dù hoạt động tại Bắc Việt. Số phận của họ rất bi thảm khi bị kẹt tại Bắc Việt. Bảng tổng kết sơ khởi cho biết trong số những Biệt Kích Dù được thả ra miền Bắc có 7 người đã bị CS tuyên án tử hình và đã bị hành quyết, 9 người tử trận, 21 người chết trong các trại tù khổ sai miền Bắc, 7 người chết sau khi được thả về, 2 người mất tích khi thi hành nhiệm vụ, 11 người bị chỉ định phải định cư tại các nông trường hay hợp tác xã miền Bắc. Đa số những người còn lại đều bị tra tấn dã man và bị bắt lao động khổ sai trong những trại tù khắc nghiệt nhất. Tại sao hầu hết các biệt kích thả xuống miền Bắc đã bị CS bắt?
Bài viết sau đây là của Trung tá Nguyễn Văn Vinh, người trực tiếp phụ trách các toán Biệt Kích Dù được thả xuống Bắc Việt, sẽ cho chúng ta biết những nét đại cương về tổ chức các đơn vị Biệt Kích, các hoạt động của họ và cách thức điều hành của cơ quan tình báo Hoa Kỳ. * * * * * Vài nét về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt Ít ai biết đến các tên P45, Sở Bắc hay Sở Khai Thác, tiền thân của Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưụ Đó là những bí danh của một cơ quan tình báo chiến lược, được thành lập từ cuối năm 1958, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống và nằm trong mạng lưới chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt VNCH. Cơ quan này được Hoa Kỳ yễm trợ cả về tài chánh lẫn các phương tiện cần thiết để thực hiện cuộc chiến tranh không quy ước chống miền Bắc CS. Sau Hiệp dịnh đình chiến Geneva, vĩ tuyến 17 được chọn làm vùng phi quân sự và sông Bến Hải là biên giới thiên nhiên, ngăn cách 2 miền Nam Tự Do và Bắc CS. Quân đội viễn chinh Pháp, dưới áp lực của Hoa Kỳ, đã phải kéo cờ tam tài xuống khỏi dinh Norodom, nhường chỗ cho quốc kỳ VN tung bay tại dinh Độc lập vừa được đổi tên và đổi chủ. Để đáp lại, quân đội Pháp đã không nương tay, xóa sạch mạng lưới tình báo mà họ đã khổ công gầy dựng trong nhiều năm tại miền Bắc. Đây là một sự thiệt hại khá lớn cho ngành tình báo non trẻ của miền Nam. Trong khi đó, CS đã để lại tại miền Nam vô số cơ sở tình báo mà họ đã gầy dựng trong suốt thời kỳ chống Pháp, trong đó phải kể đến các thân nhân của các cán bộ và bộ đội tập kết. Thêm vào đó, các khuyết điểm to lớn chồng chất của 2 chế độ lỗi thời Thực dân dân và Phong kiến đã làm mồi nuôi dưỡng các phong trào chống đối trong nội bộ miền Nam, rất thuận lợi cho các cán bộ CS nằm vùng khai thác. Dù vậy, ngành tình báo miền Nam, tuy phải xây dựng trễ và phải đặt nền móng từ đầu, nhưng lại được hưởng ứng nồng nhiệt vì đa số người Việt thời ấy, nhất là đồng bào di cư, các bộ lạc dân tộc thiểu số, các đảng phái chính trị và tín đồ các tôn giáo, đã thấy rõ bộ mặt gian dối của CS. Có người đã chứng kiến những vụ tàn sát hay đấu tô dã man các thành phần quốc gia yêu nước nhưng bất đồng chính kiến với CS và có khi họ chính là thân nhân của các nạn nhân đó. Ngoài ra, những tài liệu sống động như cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống đã gây được một ấn tượng ghê tởm CS trong mọi tầng lớp nhân dân miền Nam. Nắm được các yếu tố thuận lợi trên đây, Sở Bắc đã gấp rút gửi nhân viên đến các trại định cư, liên lạc với các vị lãnh dạo tinh thần cũng như các bộ lạc dân tộc thiểu số, chiêu mộ các thanh niên nhiệt tình yêu nước còn thân nhân ở tại miền Bắc, để cấp tốc đưa về huấn luyện và tạo vỏ bọc thuận lợi, đưa họ về quê quán hoạt động. Từ những năm đầu tiên đến năm 1966, các toán xâm nhập miền Bắc thường xử dụng một trong những phương cách sau đây: - Nhảy dù đêm vào vùng mục tiêu. - Xâm nhập đường biển bằng thuyền mẹ, và từ đó xử dụng thuyền con bơi vào vùng công tác. - Xâm nhập vào vùng phi quân sự, vượt sông Bến Hải và lén lút đi bộ vào điểm công tác, móc nối với thân nhân đã nằm vùng, hoặc giới chức được tín nhiệm tại địa phương. Trường hợp sau này thường phải xử dụng “bona fides” để nhận nhau. - Cử chuyên viên phục vụ tại Tòa Đại sứ của một vài nước thứ 3 như Lào, Cam-bốt, Pháp, Thái Lan hay Hong Kong...rồi từ đó tuyển mộ và huấn luyện các công tác viên có khả năng, và tạo cho họ cái vỏ bọc thích hợp cũng như giấy tờ hợp lệ để họ dễ dàng xâm nhập vào miền Bắc hoạt động. Phương pháp này đã được điều nghiên tỉ mỉ, nhưng vì quá tốn kém nên chỉ được thực hiện từng giai đoạn. Tuy có nhiều hình thức xâm nhập khác nhau như vừa trình bày trên, nhưng trong bài này, tôi (Trung tá Nguyễn Văn Vinh) chỉ xin đề cập đến những toán Biệt Kích xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không mà thôi, vì đây la phần việc mà chính tôi đã đảm nhận trong nhiều năm tại cơ quan tình báo chiến lược này. Những chuyến bay đêm Các toán Biệt Kích Dù thường được thả xuống miền Bắc vào những đêm trăng. Mùa trăng thuận lợi cho công tác này bắt đầu từ ngày mồng 10 - 20 âm lịch hằng tháng. Giờ giấc được chọn tùy thuộc vào điều kiện an ninh và thời tiết tại vùng công tác. Để có đủ phương tiện đối phó với các bất trắc có thể xảy ra khi toán chạm đất, các nhân viên Biệt Kích Dù phải mang theo các trang bị cá nhân khá nặng nề. Ngoài súng tiểu liên Swedish K. của Thụy Điển hoặc Sten của Anh hay Uzi của Do Thái có trang bị ống giảm thanh và 3 đơn vị hỏa lực, họ còn phải đèo thêm các dụng cụ khác trên 20 món, nào bidon nước, bản đồ vùng mục tiêu, địa bàn, lựu đạn, 3 ngày lương khô, đèn bấm, pamean, dao găm, túi cứu thương cá nhân, cà mèn, pháo hiệu (pen flare), đồng hồ đeo tay, radio, v.v... Các dụng cụ này thường được mua ở các nước thứ 3 và không một trang cụ nào được mang nhãn hiệu Hoa Kỳ hay miền Nam VN. Các đồ trang bị tập thể nhưng dụng cụ phá hoại, đồ cứu thương, lương thực dự trữ dùng cho 3 tháng, v.v...đều được đóng thành kiện. Máy truyền tin dự trữ và máy beacon là máy phát tín hiệu có tầng số nhất định, được đặt tại kiện hàng só 1. Các toán viên khi nhảy dù xâm nhập vào đêm, chiếc dù có thể bị ảnh hưởng của gió, bạt ra xa cách bãi thả 1-2 km. Nhưng nhờ các radio cá nhân, họ có thể dễ dàng bắt tín hiệu từ máy beacon phát ra, để đi về hướng tập trung. Thông thường, các nhân viên quê quán vùng vào được thả về mục tiêu vùng đó. Để đảm bảo an ninh cho công tác, mục tiêu và nhiệm vụ của toán chỉ được thuyết trình vào giờ chót, trước khi lên máy baỵ Các chuyến xuất phát trong những năm đầu đến năm 1964, chính cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ đã yểm trợ cho các chuyến bay bí mật này và lộ trình duy nhất được xử dụng là Tân Sơn Nhất - Đà Nẵng - Vùng mục tiêu. Tại Đà Nẵng, đợi lúc trời tối, phi cơ cỡi bỏ hết mọi huy hiệu trước khi khởi hành xâm nhập vào vùng hành quân. Phi cơ được xử dụng là loại DC7 hoặc DC6. Phi hành đoàn thường là người Trung Hoạ Tuy nhiên, cũng có lúc phi hành đoàn là người VN, được tuyển chọn trong số sĩ quan có khả năng và được tín nhiệm nhất của Không Quân Việt Nam. Phó TT Nguyễn Cao Kỳ hồi còn mang lon Đại úy, đã nhiều lần làm phi công chính thức cho các phi vụ đặc biệt này. Đến cuối năm 1966, Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ rút vào bóng tối, nhường chỗ cho MAC-SOG, một cơ quan tình báo quân sự, thay thế yểm trợ cho Nha Kỹ Thuật. Khi cường độ chiến tranh VN đi đến giai đoạn khốc liệt nhất thì nhu cầu tin tức gia tăng cao, do đó số toán Biệt Kích Dù hoạt động phải được tăng cường nhiều hơn. Các phương tiện xâm nhập cũ được thay thế bằng C123 hoặc C130 và nơi phát xuất được chuyển sang Nakor-Phanum, một sân bay nằm sát biên giới Thái-Lào hoặc sân bay don nằm ở phía Đông -Bắc Thái Lan. Từ các nơi đó các toán Biệt Kích Dù được chuyển qua trực thăng CH3 để bay băng qua lãnh thổ Lào, tiến về vùng mục tiêu nằm trên ranh giới Lào-Việt. Cũng có lúc mục tiêu được lựa chọn nằm sâu trong nội địa Bắc Viêt. Trực thăng là phương tiện xâm nhập vừa rẻ tiên vừa tiện lợi nhưng lại là phương tiện kém an toàn nhất, vì tiếng động cơ quá lớn, địch dễ phát hiện. Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân thất bại của công tác Biệt kích tại miền Bắc? Vấn đề này đã được phía VN quan tâm và nêu lên nhiều lần trong các phiên họp Việt-Mỹ, nhưng phía đối nhiệm không quan tâm. Số phận những con chim lạc loài Đến cuối năm 1968, trong số gần 40 toán được cho xâm nhập bằng đường hàng không và đường bộ để hoạt động dài hạn, chỉ con có 5 toán là còn giữ được liên lạc với Trung ương, đó là các toán Tourbillon (1962), AreÀs (1962), Remus (1963), Easy (1963) và Eagle (1963). Theo đánh giá chung của các chuyên viên hữu trách Việt - Mỹ. thì cả 5 toán này hình như đã bị địch kiểm soát, nhưng cá nhân tôi vẫn còn tin tưởng một toán, đó là toán Ares. Sự tin tưởng này có thể đúng vì lý do sau đây: Vào những năm đầu ở trại cải tạo, tôi thường bị cán bộ, không biết thuộc cơ quan nào và cấp nào, đã thay nhau thẩm vấn tôi về các toán Biệt Kích. một trong những lần thẩm vấn ấy, tôi bị 3 tên cùng một lúc thay nhau hạch hỏi suốt buổi sáng, khiến tôi không còn sức chịu đựng, tôi đã bị gục ngã vì tức giận và xây xẩm. Họ cho người dẫn tôi về phòng, nhưng 2 giờ sau lại kéo tôi lên tiếp tục thẩm vấn. Họ dùng đủ trò ma giáo “hỉ, nộ, ái, ố”,...lúc thì mời tôi hút thuốc lá “có cán” (tức loại thuốc có đầu lọc, một loại thuốc cao cấp vào thời ấy), lúc lại đập bàn quát mắng, khinh bĩ. Họ chưa bao giờ đánh đập tôi lúc thẩm vấn, nhưng họ đã dùng những lời rất cộc cằn và thô lổ để áp đảo tinh thần tôi. Một điều làm tôi quan tâm hơn cả là họ hỏi tôi rất nhiều về toán Ares, như trưởng toán tên gì, quê quán ở đâu, tuổi tác độ bao nhiêu, dáng điệu bên ngoài như thế nào, có những đặc điểm gì, những liên hệ gia đình, địa chỉ của các người thân lúc ở miền Nam, v.v... Tôi thầm nghĩ nếu Ares đã thật sự nằm trong tay họ thì mắc mớ gì họ phải hỏi tôi những chuyện thừa thải ấy. Tôi có lý do để không trả lời họ, vì Ares đã xuất phát năm 1962, trước khi tôi được thuyên chuyển về Sở Bắc. Tuy nhiên, hôm nay tôi xin nói ra đây những gì tôi có thể nói ra được. Một vài chi tiết khác tôi thấy chưa thể tiết lộ lúc này vì có thể phương hại đến sự an toàn của toán đó, nếu quả thật toán đó đến nay vẫn còn dấu được tung tích. Ares hay Hạ Long có tên thật là..., một cán bộ trung cấp và là đảng viên CS bị khai trừ vì bất mãn. Anh đã theo đoàn người di cư vào Nam năm...và được một giới chức miền Nam báo cáo lên ông Ngô Đình Nhu, Tổng Thống Diệm và ông Nhu đã lưu tâm và giúp đỡ cho người này. Sau dó, Sở Bắc đã cử người đến tiếp xúc thuyết phục và bố trí cho anh trở về Bắc hoạt động. Anh đã đồng ý và đã được đưa xâm nhập vào Vịnh Hạ Long năm 1962, rồi từ đó tiến dần về cảng Hải Phòng và nhà máy điện Uông Bí. Đây là 2 mục tiêu mà anh có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo mọi sinh hoạt. AreÀs tỏ ra rất tích cực trong mọi nhiệm vụ giao phó, và điều rất kỳ lạ là anh đã mộ mến Tổng Thống Ngô Đình Diệm một cách khác thường. Hàng năm, trước ngày Song Thất hoặc 26/10, anh đều có đánh điện chúc mừng TT Diệm và nguyện trung thành phục vụ tổ quốc. Khi nghe tin TT Diệm bị giết qua đài phát thanh, anh rất thắc mắc và sau khi được Trung ương xác nhận, anh đã tỏ ra chán nản tột độ. Dù vậy, anh vẫn thi hành mọi công tác giao phó một cách chu đáo. Những chuyến tàu cập bến Hải Phòng, nhất là các tàu chở vũ khí hay quân dụng, đã được anh theo dõi và báo cáo khá chi tiết. Ngoài nhiệm vụ trên, anh còn báo cáo kết quả oanh tạc của một số mục tiêu khác nhau như cầu Hàm Rồng và nhà máy điện Uông Bí ở quanh vùng Hải Phòng. Để giúp anh thi hành nhiệm vụ trong thời gian anh bị bị bịnh sốt rét, Trung ương đã chấp thuận đề nghị của anh, tuyển mộ thêm người em ruột và một hai người khác trong họ hàng, để phụ anh thực hiện quan sát các mục tiêu ở xạ Trong những năm 1966, 1967 và 1968, bệnh sốt rét của anh trở nên trầm trọng, nhưng Trung ương không tiếp tế cho anh được vì địa điểm nhận tiếp tế của anh nằm trong Vịnh Hạ Long đã bị lộ. Thêm vào đó, vùng biển Hải Phòng bị Mỹ gài mìn khiến mọi cố gắng tiếp tế bằng thuyền cho anh đều không thể thực hiện được. Khoảng giữa năm 1968, do lời yêu cầu của phía VN, Hoa Kỳ đã tìm được kế hoạch tiếp tế cho AreÀs. Trung ương báo ngay cho ahn tọa độ một số bãi thả tiếp tế và yêu cầu toán đến tận nơi nghiên cứu và báo ngay địa điểm ưu tiên được chọn. Sau khi nhận phúc đáp, Trung ương đã hướng dẫn các chi tiết mà toán phải thi hành để có thể nhận tiếp tế đúng như dự liệu. Đến ngày N, giờ G, một đoàn phản lực đã xuất hiện bắn phá một số mục tiêu ở Hải Phòng, cùng lúc đó một phản lực cơ khác đã bắn một thùng “container” đựng hàng tiếp tế xuống thửa ruộng đã ấn định và được AreÀs đánh dấu bằng 2 cụm khói trắng như đã chỉ thị. Cách tiếp tế này đã được thực tập 2 lần tại trại Long Thành và cả 2 lần đều đem lại kết quả mong muốn. Trong container đựng hàng tiếp tế, ngoài lương thực, thuốc men, áo quần còn có 10 khâu vàng để toán trao đổi thực phẩm hoặc thuốc men mỗi khi cần đến. Ngoài các vật dụng trên, còn có 4 lá thơ, trong đó có một lá thơ thăm hỏi của Trưởng công tác, còn 3 lá thơ khác được dán bì kín. Toán được chỉ thị dán tem vào và tuần tự gởi đến một địa chỉ trung gian tại Thái Lan. Mỗi thơ đều có dấu hiệu riêng mà toán không được biết lý do. Chỉ trong một thời gian ngắn, 2 thơ có nội dung thường đã đến tay người nhận, thơ còn nguyên si không bị mở, nhưng thơ thứ 3 có “gài” một tài liệu bí mật giả tạo lại không đến tay người nhận. 2 tháng sau, khi dược Trung ương hỏi về lá thơ này thì toán cho biết, trên đường di tới bưu điện, bị còi báo động, đương sự phải chạy tìm hầm trú ẩn, không may đánh rơi lá thơ xuống vũng bùn nên đương sự đã không gửi. Lý do này đã khiến bạn đồng minh Hoa Kỳ nghi ngờ lòng trung thành của Ares Nhiệm vụ mới Đến năm 1968, sau đợt tấn công của địch vào dịp Tết Mậu Thân, Nha Kỹ Thuật phải lãnh nhận thêm rất nhiều công tác ngoại biên với những toán mới được thành lập : - Các toán STRATA là những toán quân nhân được huấn luyện thuần thục để thi hành những công tác đột kích hay phá hoại các căn cứ địch nằm trên lãnh thổ Bắc Việt. - Các toán PICK-HILL là những toán người Miên gốc Việt hoạt động trong lãnh thổ Cam-bốt, có nhiệm vụ quan sát và phá hoại các căn cứ địa của VC nằm trên lãnh thổ nước láng giềng Cam-bốt. - Các toán EARTH-ANGEL, còn được gọi là Đề Thám, là những toán được thành lập với thành phần tù binh bộ đội Bắc Việt hồi chánh. Các toán này hoạt động rất đắc lực, được trang bị như bộ đội chánh quy miền Bắc. Nhờ đó họ len lỏi vào vùng địch khá dễ dàng và đã nhiều phen lập được nhiều thành tích đáng kể. Một số toán viên sau dó đã gia nhập Quân đội VNCH. - Các toán SINGLETON hoạt động riêng biệt từng cá nhân. Họ là những Việt kiều từng sống nhiều năm tại Cam-bốt, được móc nối trở lại hoạt dộng nằm vùng tại Mimote, Krek, Sihanoukville, Kratié, Ba Thu, v.v... Đây là những nơi địch đặt căn cứ quân sự và hoạt động rất mạnh. Các nhân viên này có nhiệm vụ theo dõi, báo cáo hoạt động địch và hướng dẫn phi cơ oanh tạc lúc cần thiết. Ngoài các toán hoạt động như trên, còn có chương trình công tác lừa địch và ly gián địch, được gọi là chương trình Borden, mà toán viên là những tù binh bộ đội Bắc Việt cứng đầu. Họ được học nhảy dù vài hôm trước khi được trang bị như một toán viên rất trung thành của miền Nam : một bản đồ, lệnh hành quân, thơ giới thiệu, v.v... Các thứ này được dấu kín trong áo nhảy và chỉ được trao cho toán viên tù binh cứng đầu mặc vào trước khi được thả dù xuống vùng địch chiếm đóng. Các chương trình mới này đã đem lại những kết quả hết sức khích lệ, nên phía Hoa Kỳ đã yêu cầu phía VN chấm dứt liên lạc với 5 toán còn lại ở miền Bắc, bằng cách ra lệnh cho các toán ấy tìm cách xâm nhập qua Lào, trinh diện với bộ đội Vang Pao hoặc rút về miền Nam... Tuy nhiên, nhiều tháng sau khi lệnh được ban hành, không một toán nào xuất hiện. Hướng về những người anh em kiêu hùng Các Biệt Kích Dù bị CS bắt đã phải chịu đủ thứ cực hình. Tuy vậy, họ vẫn giữ vững tinh thần quốc gia và đồng đội. Thái độ cương quyết của họ đã phải làm các cán bộ CS khâm phục và gọi họ là những người “không cải tạo được”. Mãi đến một thời gian lâu sau khi VNCH bị chiếm đóng, CS mới tuần tự tạm trả tự do cho các tù nhân Biệt Kích. Người được trả sớm nhất đã phải ở tù suốt 15 năm và người lâu nhất trên 20 năm. Khi họ trở về, chúng ta đã biết thêm được nhiều chuyện đã xảy ra khi họ công tác tại Bắc Việt. Tuy nhiên, vẫn còn một số toán bặt tin, trong đó có toán VOI do anh Trần Hiếu Hòa làm trưởng toán cùng với 4 toán viên. Toán AreÀs mà tôi đã đề cập ở trên và một vài toán khác nữa, cũng đang nằm trong danh sách những toán mất tích này. Phải chăng họ đã bị thủ tiêu hay đã hy sinh trên đường thi hành nhiệm vụ. “Hy sinh trong bóng tối, tất cả vì Tổ quốc”, đó là phương châm hành động mà mọi Biệt Kích đã chấp nhận khi gia nhập vào binh chủng này. Tôi còn nhớ năm 1970, các sĩ quan trong Bộ chỉ huy Nha Kỹ Thuật đã được xem một cuốn phim mà một đơn vị VNCH vừa tịch thu được của bô đội Bắc Việt khi tấn công vào một căn cứ địch ở Mimot, Cam-bốt. Cuốn phim ghi lại phiên tòa xét xử một toán Biệt Kích mang tên toán Jackson, hoạt dộng tại vùng Nghệ Tĩnh. Bản cáo trạng rất dài, luận tội rất nặng “nào là tay sai đế quốc Mỹ, tay sai Ngô Đình Diệm, nào là xúi dục nhân dân lật đổ chính quyền và phá hoại tài sản nhân dân, v.v... Toán Jackson đã bị bắt toàn bộ với tất cả vũ khí và chất nổ khi toán phá chiếc cầu thứ 2 tại Cửa Lò. Hầu hết toán viên đã lãnh án tử hình, chỉ 1-2 người lãnh án chung thân. Điều làm anh em chúng tôi xúc động và hãnh diện, là được chứng kiến thái độ hiên ngang và bình tĩnh của các toán viên khi bản án tử hình được tuyên đọc. Theo lời một nhân chứng quê ở Thọ Ninh, bà con với một toán viên cho biết, 6 người lãnh bản án tử hình đã bị bắn ngay sau đó, và lời nói cuối cùng của họ là : Việt Nam Cộng Hòa muôn năm! Tổng Thống Ngô Đình Diệm muôn năm! Anh em chúng tôi là nững người đã đi qua nhiều trại cải tạo ở miền Bắc và đã được nghe nói rất nhiều về những việc làm đáng phục của anh em Biệt Kích. Trong số đó có các vị linh mục, đại đức tuyên úy, các bạn bè của tôi đã sống chung trại với các anh ấy. Ngoài ra, các tù hình sự miền Băc mà đa số chúng tôi thường gọi họ bằng danh từ “bọn hình sự”, vì phần đông họ thuộc thành phần bất hão, trộm cướp, đâm chém, giết người...khi được hỏi về anh em Biệt Kích thì họ tỏ vẻ rất khâm phục. Họ nói với tôi :”Các anh Bê Ka là những người rất hào hùng, cán bộ trại cũng phải nể, các anh ấy rất kỹ luật và đoàn kết với nhau, họ thương nhau và giúp đỡ nhau. Khi một người bị biệt giam được thả hay bị ốm, là các anh khác tìm cách giúp đỡ. Dù ai cũng đói, nhưng họ nhịn bớt phần ăn để bồi dưỡng cho anh em bị bệnh hay bị ốm. Đã có những anh Bê Ka cướp súng bắn cán bộ rồi chạy thoát, có nơi các anh toàn bộ đứng lên làm reo tuyệt thực không đi lao động, nhưng cán bộ trại cũng đành phải làm ngơ...” Riêng cá nhân tôi, trong 13 năm cải tạo, đã không may mắn gặp lại các anh em Biệt Kích, nhưng tôi không bao giờ quên những con người hào hùng cùng chung lý tưởng đã cùng chung sống với nhau trong tình huynh đệ chân thành. Tôi là người đã từng sống chung với họ ở trại huấn luyện Long Thành và lúc họ lên đường đi công tác., tôi đã tiễn chân hoặc nhiều khi đã cùng vói họ bay vào vùng mục tiêu xâm nhập, đưa tay vẩy chào họ khi họ rời máy bay... Những kỷ niệm đó khó quên được. Những kỷ niệm khó quên Tôi nhớ lại năm xưa, có lần trước ngày lên đường công tác, tôi lái xe đưa một nhân viên của tôi đến thăm lần cuối người bạn gái, hay nói đúng hơn, một người yêu, có nhà ở hẽm xứ Bùi Phát, trên đường Trương Minh Giảng, nay đổi tên là Lê Văn Sỹ. Đến nơi, người thanh niên ấy vội vã bước xuống xe như muốn tận dụng những giây phút ngắn ngủi và quý báu còn lại... Khoảng 10 phút sau, anh trở ra với người bạn gái đi theo tiễn chân, trên tay anh còn mang một gói quà nhỏ mà tôi đoán chắc đó là quà kỷ niệm của người yêụ Họ nhìn nhau, mắt đẫm lệ, và tôi chỉ biết im lặng cảm thông nỗi buồn chan chứa đang xâm chiếm 2 tâm hồn... Xe chạy được một quãng đường, người thanh niên ấy quay nhìn tôi, vừa nói vừa mở món quà :”Đây, anh xem, quà cô ấy tặng em”. Tôi liếc nhìn, thấy một nắm tóc thề được gói trong một chiếc áo lót. Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường về trại. Lần khác, một nhân viên của tôi cũng sắp lên đường, anh đến gặp tôi và trao cho tôi một chồng thơ khá dày đã đề bì sẵn và nói :”Anh Dũng, anh biết em là con một, em đi nhưng em đã không dám nói thật với mẹ em. Vì vậy, em nhờ anh mỗi tháng đến thăm mẹ em và trao cho em. em một bức thơ này, nói là em đang đi học ở ngoại quốc gửi về để mẹ em yên tâm”. Tôi xúc động nhìn người thanh niên ấy với tất cả lòng yêu thương và mến phục. Tôi đã nhận thơ anh giao và hàng tháng, tôi đã đến thăm mẹ em và trao cho bà quả phụ ấy bức thư của con bà... Nhưng đau đớn thay, lá thơ cuối cùng của anh đã được trao mà “khóa học” của anh vẫn chưa mãn. Hai nhân viên Biệt Kích mà tôi vừa kể trên đây, cả 2 đều trở về từ cõi chết, sau gần 20 năm sống trong lao tù CS, một anh hiện đang sống ở Cali, đó là anh Lâm, em ruột của anh Nguyễn Ngọc Trâm, còn người kia, trước ngày tôi rời Saigon, anh ấy đang vất vã hành nghề thợ mộc ngoài Vũng Tàu. Hy vọng một ngày không xa, anh Độ cũng như bao nhiêu anh hùng Biệt Kích khác còn ở VN sẽ được đoàn tụ với chúng ta tại quê hương thứ hai này. -------------------------------------------------------------------------------- Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 12:15:40 GMT 9
Chuyến Công Tác Cuối Cùng Của HQ 09 Hoàng-Ðình-Báu -------------------------------------------------------------------------------- Lời Giới Thiệu: Tác giả Hoàng Ðình Báu là Hạm Trưởng Hộ Tống Hạm Kỳ Hòa (HQ-09) trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông xuất thân Khóa 11 Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.
Ông hiện định cư tại Hoa Kỳ sau trên 10 năm trong ngục tù Cộng Sản. * * * * * Ðầu năm 1974 tôi được chỉ-định đãm-nhận Hộ-Tống-Hạm Kỳ-Hoà HQ 09. Suốt năm đó HQ 09 có hai nhiệm-vụ chính: Tuần-tiểu vùng Trường-Sa và yểm-trợ các giàn khoan dầu cuả Hoa-Kỳ ngoài khơi từ Vũng-Taù đến Côn-Ðảo. Mổi chuyến công-tác kéo dài 3 tháng nên việc nghỉ bến để tiếp-tế lương-thực, dầu và nước là Vũng-Tàu, đôi lúc cũng ghé Côn-Sơn để nghĩ-ngơi và tiếp-tế. Ðến năm 1975 khi các tỉnh ở Cao-Nguyên Trung-Phần bị lọt vào tay Cộng-Quân. Ðầu tháng 2 thì Huế và Quãng-Trị bắt đầu rối-loạn, Sư-Ðòan 1 đóng tại Huế đang được di-tản vào Ðà-Nẳng. Vào thời-điểm này HQ 09 được lệnh chuẩn-bị ra công-tác khẩn cho Vùng 1 Duyên-Hải. Ðây được coi như là chuyến công-tác cuối cùng cuả HQ 09 mà hằng năm vào dịp 30.04 vẫn còn ghi đậm trong lòng thủy-thủ-đòan đã từng phục-vụ trong những ngày tháng cuối cùng đó. - Sáng ngày 26-03-1975 chiến-hạm khởi-hành ra Vùng 1 Duyên-Hải. - 6.00 AM ngày 28-03-1975 chiến-hạm tới cưả Sơn-Trà để chờ lệnh. Các tin-tức nhận được từ Bộ-Tư-Lệnh Vùng 1 Duyên-Hải và do dân chúng toả ra bằng ghe cặp vào chiến-hạm lúc sáng nay như sau: Tối hôm qua Cộng-Quân pháo-kích vào BTL/HQ/V1DH bằng hoả-tiễn 122 ly và sơn-pháo 130 ly, làm hư-hại chiếc trực-thăng cuả Tư-Lệnh V1DH, Phó Ðề-Ðốc Hồ-Văn-Kỳ-Thoại. Toàn thành-phố bị thiết-quân-luật 24/24. Lính của các Binh-Chủng di-chuyễn về Ðà-Nẳng quá đông, không nơi ăn chốn ở, gia đình ly-tán. Lợi-dụng cơ-hội nầy đặc-công Cộng-Sản trà-trộn để phá-hoại nên có nhiều tiếng súng và vài đám cháy nhỏ xãy ra trong thị-xã. Các đơn-vị cơ-giới hạng nặng cùng các chiến-xa, quân-xa cuả Quân-Lực VNCH đã đậu dài từ cầu Trịnh-Minh-Thế cho đến bờ biển Tiên-Sa. Một vài nhóm quân-nhân đã uy-hiếp 1 tầu Haỉ-Quân, buộc phải đưa họ tách bến. Nhưng tầu này bất-khiển-dụng nên rất may là không có gì đáng tiếc xãy ra. Với tình-hình đó HQ 09 được lệnh không vào Ðà-Nẳng mà cũng không cập cầu Tiên-Sa. Chiến-hạm vận-chuyễn với 2 máy tiến 1, chạy lòng vòng ngoài cửa Ðà-Nẳng để chờ lệnh. Chiến-hạm quan-sát thấy hàng trăm ghe tầu đủ loại đang tiến ra biển; một số ghe tiến về chiến-hạm rồi cập vào để đưa một số binh-sỉ và thường dân lên boong tầu. - 12.00 ngày 28-03-1975, chiến-hạm nhận lệnh xuôi về Qui-Nhơn để đón Sư-Ðoàn 23 Bộ-Binh di-tản. Trên đường đi, chiến-hạm cũng đã vớt nhiều đồng-bào từ Quảng-Ngải, Cù-Lao-Chàm và Cù-Lao-Ré. Phần đông họ đi trên các ghe thúng hoặc ghe nhỏ. Chiều hôm đó chúng tôi đã chứng-kiến bao cảnh thương- tâm mà không sao cưú-giúp được. Ðó là các đồng-bào đang ở trên xà-lan do các tầu dòng cuả hảng thầu RMK kéo về Saigòn. Tầu kéo thì quá chậm, trên xà-lan lại quá đông người, lẫn lộn vơí nhiều binh-sĩ đầy đủ súng ống. Trời nóng như đốt, không nước, không lương-thực thì chuyện rối-loạn là điều không tránh khỏi. Chiến-hạm không thể đến gần để giúp đở vì lúc đó trên tầu cũng đang đầy người, nếu đến gần không biết chuyện gì sẽ xãy ra. Ðành bấm bụng cho tầu chạy lướt qua, để lại đàng sau những tiếng la cầu-cứu lẫn tiếng súng. - 08.00 AM ngày 29-03-1975, đến Qui-Nhơn, lúc bấy giờ đã thấy hiện-diện nhiều chiến-hạm gồm LSM, LST, WHEC, DER và rất nhiều tiểu-đỉnh cuả Vùng 2 Duyên-Hải đang di-tản, một số quân-nhân cuả Sư-Ðòan 23 từ bờ ra biển. Bải biển Qui-Nhơn với bãi cát vàng được ôm-ấp bởi hàng trăm cây dừa xanh tươi, nay nhìn vào chỉ thấy lửa và khói. - 12.00 ngày 29-03-1975, chiến-hạm được lệnh tác-xạ để phá-hủy 3 bồn dầu ở ngã ba quốc-lộ 1 và đường vào thị-xã. Cùng vài chiến-hạm bạn, sau gần nưả giờ tác-xạ, 3 bồn dầu đã bị phá-huỷ, khói đen cao ngất che phủ một góc trời. - 4.00 PM Cùng ngày, chiến-hạm được lệnh về Nhatrang. Ðến 4 giờ sáng ngày hôm sau thì tầu đến Hòn Pyramid, nằm ngoài khơi Nhatrang. Tầu tiếp-tục xuống Hòn-Yến rồi Hòn-Dungđể chờ sáng sẽ vào Nhatrang bằng ngỏ Cầu-Ðá phiá bên Hải-Học-Viện. Trời sáng dần, biển êm, gió nhẹ, chiến-hạm bắt đầu nhiệm-sở tác-chiến. Trên đài chỉ-huy nhìn hướng 10 giờ là Hòn-Tre với đài kiểm-báo trên đỉnh như còn say ngủ. Bên hướng 3 giờ là con đường Duy-Tân với bao biệt-thự xinh đẹp cùng 1 dãy các Ky-Ốt dọc theo bờ cát trắng. Xa xa là Chụt, phi-trường, quân trường Hải-Quân Nhatrang. Xa hơn nưả là Xóm-Bóng, Hòn-Chồng, Ðồng-Ðế. Tất cả đều lần lượt thấy rỏ qua mắt thường. Chiến-hạm chạy từ từ, thận-trọng, quan-sát. Có lúc chiến hạm chạy sát bờ biển Nhatrang đến nổi có thể thấy rõ người đi bộ.Ðặt ống nhòm nhìn càng rõ hơn, toàn người và người. Tuyệt nhiên không thấy xe thiết-giáp nào cuả Cộng-Sãn cả. Có vài chiếc xe hơi rọi đèn pha ra phía biển, không biết có còn ai ngồi trong đó. Lúc đi ngang qua khách-sạn lớn cuả thành phố, chiến-hạm thấy có nhiều người đang đứng trước khách-sạn này, có người lấy nón vẫy cầu-cưú. Từ Cầu-Ðá đến Xóm-Bóng, bờ biển Nhatrang dài độ 6 cây-số, chiến-hạm đi qua rồi vòng trở lại Cầu-Ðá. Quan-sát kỷ nhưng chẳng thấy bóng dáng T 54 như lời đồn-đải lúc bấy giờ. Thủy-thủ-đòan làm việc ngày đêm, ngoài việc đi phiên hải-hành thường lệ, họ còn giúp-đở đồng-bào lúc lên tầu. Kiểm-soát an-ninh và trật-tự vì có nhiều binh-sỉ quá-giang, nhiều đàn-bà và trẻ em đang cần sự giúp-đở. Bận rộn nhất là nhân-viên nhà bếp, luôn luôn phải có cơm nóng và nước uống cho đồng-bào. Tôi còn nhớ tên một vài người đã làm việc rất tích-cực như giám-lộ Long và Thiếu-Úy trọng-pháo Dũng trong chuyến công-tác này. Ngày hôm sau chiến-hạm được lệnh tuần-tiểu ngoài khơi vùng biển Nha-Trang. Chỉ-thị cuả Phó Ðề-Ðốc Hoàng-Cơ-Minh Tư-Lệnh V2 Duyên-Hải kiêm Tư-Lệnh tiền-phương sau khi mất Ðà-Nẳng là: Tuần-tiểu và chận bắt các tầu lạ xâm-phạm hải-phận Vùng 2 từ Nhatrang đến Camranh. Vào lúc này, các tầu lạ mang quốc-tịch Trung-Quốc và Liên-Sô di chuyển về phiá Nam rất đông. Các thương- thuyền này ngang nhiên xâm-phạm hải-phận Việt-Nam một cách trắng-trợn. Tôi báo-cáo lên cho Bộ-Tư-Lệnh Vùng 2 DH và xin chỉ-thị. Lần nầy tôi được lệnh không ngăn-chận nó mà chỉ theo dõi và báo-cáo mà thôi. Số lượng tầu ngoại-quốc đi sát bờ biển Việt-Nam càng lúc càng đông, đến nổi không thể nào kiểm-soát hết; vã lại các thương-thuyền lạ này có trọng-tải và vận-tốc lớn, nên chiến- hạm ta khôngđủ khả-năng bám-sát được. Có lần chiến-hạm thử chặn đầu 1 thương-thuyền có mang cờ Buá-Liềm bằng cách chớp đèn, nhưng nó vẫn tiến mà không hề giảm tốc-độ. Buộc lòng chiến-hạm phải né sang một bên, nếu không tránh kịp sẽ bị đứt làm đôi. - Ngày 2-04-1975, chiến-hạm được lệnh tiến đến " Chụt" một làng nhỏ cách Cầu-Ðá Nhatrang độ 1 Km để phá-huỷ hai bồn dầu cuả kho xăng nằm dưới chân nuí đối diện phiá bên kia con đường. Các bồn xăng sơn màu bạc, từ chiến- hạm nhìn vào giống như 2 ống khói khổng-lồ nhô lên trong đám dừa xanh. Tôi yêu-cầu Sĩ-Quan trọng-pháo lên đài-chỉ-huy để chuẩn-bị dùng 76 ly tác-xạ vào 2 bồn dầu dó. Chiến hạm tiến gần sát thêm vào mục-tiêu; giám-lộ Long và Sĩ-Quan đương-phiên xác-định điểm neo. Lúc đó là10 giờ sáng, trời tốt, biển động nhẹ, gió nhẹ. Khoảng cách mục-tiêu cần tác-xạ là 2 haỉ-lý. Nhân-viên vào nhiệm-sở tác-xạ, tất cả sẳn-sàng. Tôi nhìn kỷ mục-tiêu lần chót trước khi ra lệnh tác-xạ. Tôi cũng như mọi người trên tầu đều thấy rõ hàng ngàn đồng-bào đang lũ-lượt lên dốc nuí để qua bên kia Cầu-Ðá, họ đang hướng về bến cảng nơi đó có hàng trăm ghe-thuyền đang chờ đợi để di-tản về Saigòn. Các ụ súng cũng báo-cáo thấy rất đông đồng-bào đang di-chuyển ngang qua bồn dầu. Tôi ra lệnh ngưng tác-xạ, theo dỏi mục-tiêu và chờ lệnh. Tôi báo-cáo lên phòng hành-quân cuả Tư-Lệnh Hoàng-Cơ-Minh rằng mục-tiêu không thể tác-xạ được vì đồng-bào đang đi qua đó rất đông. Vài phút sau tôi lại được lệnh bằng mọi giá phaỉ triệt-hạ 2 bồn dầu đó. Biết không thể nào từ chối việc thi-hành lệnh cấp trên, tôi chỉ cho Sĩ-Quan trọng-pháo nên bắn lên các đỉnh nuí cao nằm phiá sau kho xăng đó. Khẩu trọng-pháo 76 ly bắt đầu nhả đạn, từng viên, từng viên nổ chát-chúa rung chuyển cả con tầu, tạo nên những cột khói trắng trên đỉnh nuí cao, tựa hồ như những đám khói cuả các người đốt rừng để trồng-trọt. Sau khi tác-xạ theo lệnh xong, tôi lên máy báo-cáo: Ðã tác-xạ 10 viên 76 ly. Bên kia hỏi cho biết kết-quả. Tôi trả lời không trúng mục-tiêu. Sau đó tôi bị dằng-vặt bởi lời báo-cáo này. Nhưng tôi không biết phải làm gì hơn, trong khi tất cả nhân-viên trên chiến hạm cũng như tôi ai cũng cảm thấy nhẹ nhỏm. Ngày hôm sau, chiến-hạm lại được lệnh tiêu-huỷ 2 bồn dầu đó, trước khi rút về CamRanh nhận lệnh mới. Chiến-hạm trở lại "Chụt" lần nưả, vẫn còn thấy nhiều người qua laị gần bồn dầu. Vì lý do nhân-đạo tôi liền báo-cáo về Tư-Lệnh Vùng 2 Duyên-Hải là tôi sẳn-sàng chịu nhận mọi trách-nhiệm vì không thể tác-xạ vào 2 bồn dầu này được. Ngày 5-04-1975, chiến-hạm khởi-hành về CamRanh mang theo gần 500 đồng-bào và binh-sỉ. Số người quá đông nên vấn-đề ăn-uống và vệ-sinh bắt đầu khó-khăn. Chiến-hạm cặp cầu CamRanh lúc 12 giờ trưa. Một số đông đồng-bào rời tầu để tìm phương-tiện khác vào Saigòn. Bộ-Tư-Lệnh Vùng 2 Duyên-Hải đã di-tản nên không thể liên-lạc được, một vài thủy-thủ còn lang-thang trên cầu tầu, xa xa các bồn dầu CamRanh đã tiêu-huỷ từ các ngày trước chỉ còn lại đống tro tàn. Ngày 8-04-1975, sau 14 ngày chiến-hạm liên-tục hoạt-động không ngơi nghỉ. Hai máy chánh bắt đầu có trở-ngại, máy quá nóng nên chiến-hạm cho chạy một máy, máy kia nghỉ. Nước ngọt và dầu cặn đã bắt đầu cạn mà không có nơi tiếp-tế. Tôi báo-cáo mọi hư-hỏng về Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân Saigòn xin được về để sưả-chửa và tiếp-tế. Một ngày sau Bộ-Tư-Lệnh cho chiến-hạm về Phan-Thiết để tuần-tiêủ từ muỉ Kê-Gà đến Vũng-Tàu. Taị đây chiến-hạm sẽ nhận tiếp-tế dầu, nước từ các chiến-hạm bạn đang cùng công-tác trong vùng. Khi nhận được tiếp-tế đầy đủ, chiến-hạm lại tiếp-tục chở đồng-bào và quân-nhân từ Phan-Thiết về Vũng-Tàu. Ngày 16-04-1975 mới được lệnh về Saigòn để sưả-chưả. Ngày 17-04-1975, chiến-hạm ráng lết về Saigòn với 1 máy chánh tả. Cập cầu HQCX vị-trí 1 cho đồng-bào lên bờ. Các thuỷ-thủ bắt đầu dọn dẹp vệ-sinh. Tôi rời tàu, ra cổng HQCX gọi Honda ôm để về nhà. Trên đường đi tôi bị ám-ảnh bởi cảnh đoạ-đày trên xà-lan mà đồng-bào ta đang chịu đựng, làm lòng tôi nôn- nóng muốn mau về để thấy mặt vợ con. Tôi nghĩ lại mình còn có hạnh-phúc hơn nhiều người. Ngày hôm sau tôi vaò Hạm-Ðội và trình-diện HQ Ð/Tá Nguyễn-Xuân-Sơn, Tư-Lệnh Hạm-Ðội. Ông cũng là vị Hạm-Trưỡng đầu tiên nhận lảnh chiến-hạm HQ09 năm 1960 tại Hoa-Kỳ. Ông nói tôi phải đưa lệnh công-tác sửa-chưả gấp cho HQCX, đồng-thời xúc-tiến ngay việc lảnh gạo và nhiên-liệu để sẳn-sàng công-tác. Ðặc-biệt lần lãnh gạo này được cấp đầy kho, điều đó cũng đã nói lên ý-định cuả hạm-đội chuẩn-bị cho một cuộc di-tản sắp tới. Ngày hôm sau Ð/Tá Sơn bị cách-chức và HQ Ð/Tá Phạm-Mạnh-Khuê lên thay thế. Một buổi họp khẩn-cấp các Hạm-Trưỡng của Hạm-Ðội, Ðaị-Tá Khuê tuyên-bố : Anh em yên chí, chúng ta vưà mơí thả 2 trái bom CBU ở Long-Khánh, Cộng-Quân đang bị chận đứng. Mọi công-tác vẫn như thường lệ, việc chuẩn-bị chiến-hạm di-tản huỷ bỏ. Tất cả mọi người lặng-lẽ ra về. Tuần lễ cuối cùng cuả tháng 4 năm 1975 là một tuần lể thê-thảm cuả HQCX. Máy chánh, máy điện rả ra mà chẳng có thợ xuống ráp laị. Mỗi ngày có 1 đốc-công xuống xem qua rồi lên, họ lắc đầu noí chờ "Part " v.v. Các nhân-viên chiến-hạm cũng điểm-danh đầy-đủ, có 1 Sĩ-Quan vào chào từ-biệt tôi để đi Hoa-Kỳ ngày 20-04-1975, anh nói đã có vé máy bay vì bà-xã làm ở cơ-quan Mỹ. Chiều 29-04-1975, các chiến-hạm từ cầu A cho tới sở Hàng-Hà đều đầy nghẹt người, riêng các chiến-hạm đậu trong HQCX thì ít người hơn vì vào lối này phải có người hướng-dẫn. Tr/Tá Trị, Hạm-Trưỡng HQ 406 đang đậu vị-trí ngoài cùng gặp tôi đang lúc anh đưa gia-đình ngang qua HQ09, anh bảo tôi cùng đi nhưng gia-đình tôi chưa vào được nên tôi từ chối. Chiều lại, tôi tập-họp nhân-viên trên tầu, mọi người nhìn tôi chờ đợi. Tôi nói tầu mình hư không thể chạy được, anh em nào muốn đi thì qua HQ 406, tối nay tầu sẽ khởi hành. Riêng bản thân tôi thì ở lại, vì vợ con tôi không vào được. Một vài người qua HQ 406, còn bao nhiêu hầu như cùng ở laị chiến-hạm như tôi. Tối hôm đó tôi vào phòng truyền-tin để theo-dỏi việc di-tản. Trong phòng đã có sẳn 2 nhân-viên vô-tuyến đang đàm-thoại với những chiến-hạm bạn. Tôi chỉ sợ nếu có một chiến-hạm bị bắn cháy trên đoạn đường từ Saigòn ra Vũng-Tàu thì cuộc di-tản cuả chúng ta sẽ như thế nào? May thay đám du-kích Việt-Cộng hai bên bờ sông Lòng-Taò và Soài-Rạp chưa đủ sức để làm chuyện này. Sáng 30-04-1975, đứng trên đài-chỉ-huy tôi chỉ thấy một vài chiến-hạm còn laị đang cột ngoài phao ở giửa sông, hay cặp bến tại các cầu tầu. Phần đông các chiến-hạm đều bị bất-khiển-dụng, chỉ có một số ít chiến-hạm không đi, mặc dầu còn khiển-dụng 1 máy hoặc cả 2 máy. Lý do vì không có Hạm-Trưỡng hay cơ khí viên. Nhưng không phaỉ vì thế mà chiến-hạm bị bỏ ngỏ. Tất cả vẫn nhiệm-sở tác-chiến. Họ là những người lính, nên dù ở hoàn-cảnh nào, họ cũngđều tuân-lệnh và chiến-đấu hết mình. HQ 09 cũng vậy, tất cả vào nhiệm-sở để chiến-đấu dù tuyệt-vọng. Nếu ông Dương-Văn-Minh không tuyên-bố đầu-hàng, chắc chắn các chiến-hạm còn lại cũng phải một sống một chết với Cộng-Quân. 11.00 AM ngày 30-04-1975, ông Dương-Văn-Minh tuyên-bố đầu-hàng. Tôi tập-họp anh em một lần chót : - Tôi nói anh em đã nghe rồi, chúng ta đầu hàng. Bây giờ các anh em có quyền về nhà.. Trước khi về, anh Quản-Nội-Trưỡng cho anh em mang gạo về mà ăn. Cứ mở kho, ai mang được bao nhiêu thì mang. Tôi thay thường phục lái xe về nhà. Tôi mang theo xách tay, trong đó có 2 khẩu súng ( 1 Ru-lô và 1 Colt 45 ). Theo xe tôi có Hạ-Sĩ Thành, anh là trọng-pháo nhưng luôn luôn sát cạnh để lo ăn-uống và giúp-đở cho tôi khi cần. Vừa ra khỏi HQCX tôi quẹo phải đường Cường-Ðể. Trước hết tôi thấy bao nổi kinh-hoàng còn ghi dấu hai bên đường. Nào là các xe hơi, xe JEEP, xe HONDA nằm đầy la-liệt với hàng đống Vali và xách-tay cùng hàng đống hình ảnh và Búp-Bê rơi tung-toé. Ðến đường Hiền-Vương tôi quẹo trái, gần ngang cổng Nha Hàng-Không Dân-Sự thì gặp phải 1 chiếc T 54 cuả Cộng-Sản đang tiến nhanh ngược chiều về phía tôi, tôi nép qua phaỉ, chút nưả là tôi bị cán nát. Ðây là lần đầu tiên tôi thấy tận mắt T 54. Về đến nhà, tôi thấy vợ con tôi và một số bà con đang ngồi bẹp dưới sàn nhà. Có lẽ moị người cũng như tôi đã chờ đợi suốt đêm qua, nhưng mỗi người chờ đợi mỗi cách. Gia-đình và bè bạn thì chờ tôi về để đưa đi. Còn tôi và toàn thể nhân-viên trên chiến-hạm thì chờ đợi những giờ phút cuối cùng của lịch-sử trong đời quân-ngủ. Một lúc sau chẳng ai nói vơí ai một điều gì, mọi người tự giải-tán trong nặng nề và u-uất. Tôi đưa cho HS Thành khẩu COLT 45 và một ít tiền để anh vể xe, anh ở tận Cần-Thơ. Từ đó tôi chẳng bao giờ gặp laị mặt anh. Những ngày đầu tháng 4 này, Sàigòn như lên cơn sốt bệnh-tật. Nhà nhà đóng cưả, ngoài đường xe cộ chạy loạn-xạ, một chiếc đâm vào nhà tôi làm sập cánh cưả sắt, mặc dầu nhà tôi ở trong hẽm nhỏ. Người lái xe chẳng ai xa lạ, mà là một cậu Xì-Ke nhà đầu xóm. Cậu ta vừa mới vớ được chiếc xe Jeep cuả ai mới bỏ sáng nay nên lái chạy chơi, có người còn cầm súng bắn lên trời mừng chiến-thắng. Sực nhớ còn khẩu Ru-Lô trong tuí xách, tôi bảo vợ tôi lấy tờ báo gói lại rồi đem ném vào đống rác ở chợ Bàn-Cờ. Vợ tôi lặng-lẽ ra đi một lát sau bà về bảo đã làm xong nhiệm-vụ. Tôi tự nhủ thầm, hôm nay tôi mới thực-sự từ giả vũ-khí. Ngày 2-05-1975, tôi đứng dậy sau một ngày nằm dài như người mê-man. Tôi cố đi 1 vòng quanh khu Bàn-Cờ chổ tôi ở. Hai bên đường cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam treo đầy, các Bộ-Ðội Giải-Phóng hồ-hởi phấn-khởi mặc đồ đen, đồ xanh, có người quấn khăn rằng, có người đội nón tai-bèo. Họ vừa chạy xe Honda vưà bóp còi inh-ỏi. Một tuần sau tôi lại đi lần nưả để xem có gì khác lạ không, khi đi ngang qua rạp hát Văn-Hoa trên đường Ðiện-Biên-Phủ gần Ngả-Bảy, tôi thấy Bộ-Ðội Miền-Bắc đóng đầy trong đó, ngoài cổng có hai tên đầu đội nón cối, chân đi dép râu, tay cầm AK báng đỏ đứng gác. Nhìn chung quanh đường tôi chẳng còn thấy bóng-dáng cờ Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam đâu cả mà thỉnh thoảng có vài lá cờ đỏ sao vàng bay trên nóc các cao-ốc. Tôi nghỉ bụng, Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam chỉ chiến-thắng có vài ngày thôi, họ hy-sinh nhiều nhất mà thua cũng mau nhất. Vài ngày sau tôi đạp xe chạy xuống bến Bạch-Ðằng. Hôm đó trời mưa lất-phất, dẫn xe đạp qua gần cầu B, tôi thấy vài chiến-hạm còn đậu ngoài phao, nhìn về phiá HQCX tôi thấy mủi tầu HQ 09. Tôi im-lặng với bao niềm-thương nổi-nhớ. Vĩnh-biệt HQ 09! Tôi đạp xe về nhà mà lòng tái-tê.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 12:36:42 GMT 9
Tướng Cao Văn Viên kể lại 2 buổi họp lịch sử Tháng 3/75 Vương Hồng Anh tổng hợp (Trích VBKT, 4/3/00) -------------------------------------------------------------------------------- Trong loạt bài viết về cuộc triệt thoái khỏi Cao nguyên trong tháng 3/1975, được phổ biến trên Việt Báo cách đây hai năm, chúng tôi có trình bày sơ lược về một số cuộc họp đặc biệt của Hội đồng An ninh Quốc gia do Tổng thống VNCH Nguy-n Văn Thiệu chủ tọa để duyệt xét tình hình chiến sự. Thể theo lời yêu cầu của đông đảo bạn đọc, VB xin giới thiệu bài viết trình bày chi tiết về hai cuộc họp lịch sử di-n ra trong tháng 3/1975, một cuộc họp tại Dinh Ðộc Lập vào ngày 11/3 và cuộc họp mang tích cách quyết định chiến trường Quân khu 2 tổ chức tại Cam Ranh ngày 14/3. Phần này được biên soạn dựa theo loạt bài của cựu đại tướng Cao Văn Viên viết cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ (nguyên bản bằng tiếng Anh, do dịch giả Duy Nguyên chuyển sang tiếng Việt), có đối chiếu với các bản tin chiến sự của Tổng cục Chiến tranh Chính trị QL.VNCH phổ biến cho báo chí, và hồi ký của cựu trung tướng Trần Văn Ðôn. * Cuộc họp ngày 11/3/1975 tại Dinh Ðộc Lập Một ngày sau khi Cộng quân tổng tấn công vào Ban Mê Thuột, sáng ngày 11 tháng Ba, 1975, Tổng thống Nguy-n Văn Thiệu đã mời Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH Cao Văn Viên, trung tướng Ðặng Văn Quang, phụ tá An ninh của Tổng thống đến dinh Ðộc Lập để ăn sáng và họp. Sau khi ăn và uống cà phê xong, các nhân viên phục dịch đi hết, Tổng thống Thiệu lấy ra một tấm bản đồ có tỷ lệ nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa và bắt đầu nói đến tình hình quân sự ở mỗi nơị Sau đó, Tổng thống Thiệu nói thật rằng "tính ra thực lực của chúng ta thì không thể nào giữ hết nổi lãnh thổ như ý chúng ta được". Vì vậy chúng ta cần phối trí lực lượng lại để phòng thủ những nơi nào đông dân cư mà thôi và tăng cường bảo vệ những nơi nào hiểm yếu. Nhắc lại chuyện này, đại tướng Viên đã ghi lại trong hồi ký như sau: Kết luận này làm chúng tôi ngạc nhiên vì nói như vậy tức là ông đã cân nhắc rất kỹ lưỡng. Dường như ông chưa muốn công bố quyết định này nên tỏ ý rằng chỉ cho ba chúng tôi tham dự bữa ăn sáng này biết trước. Tổng thống Thiệu đã vạch ra một bản đồ ghi những vị trí quan trọng. Ða số các vị trí này đều nằm quanh Quân khu 3 và 4 cùng với hải phận của hai quân khu này. Chỉ một vài nơi quan trọng mà hiện lúc ấy đang bị Cộng sản chiếm và như vậy Quân đội VNCH phải ra sức tái chiếm lấy bằng mọi giá. Sau cùng, lãnh thổ mà Quân đội VNCH sẽ giữ gồm những nơi vựa lúa, đồn điền cao su, khu kỹ nghệ, v.v. Chính phủ cần giữ những nơi trù phú và đông dân đó. Thêm nữa, ngoài thềm lục địa vừa mới khám phá có dầu, và chính phủ xem đó là những vùng yết hầu bất khả xâm phạm, nơi cần giữ vững nhất là Sài Gòn, các tỉnh phụ cận và vùng châu thổ sông Cửu Long. Theo lời đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu đã thao thao bất tuyệt về kế hoạch tái phối trí vùng địa lý chánh trị, nhưng khi đề cập đến Quân khu 1 và Quân khu 2 thì Tổng thống Thiệu không còn vẻ khẳng khái. Còn Cao nguyên Trung phần thì ông vừa nói, vừa dùng tay chỉ vào khu vực Ban Mê Thuột, quan niệm rằng đó là nơi quan trọng hơn Pleiku và Kontum gộp lại vì vị trí kinh tế và dân số. Những tỉnh dọc duyên hải Quân khu 2 cũng quan trọng không kém vì các tỉnh này có thềm lục địa nhiều tiềm năng khai thác. Còn đối với Quân khu 1 thì ông chủ trương giữ vững những gì giữ được. Tại đây, ông phác họa một kế hoạch nhiều giai đoạn đánh dấu bằng đường ranh cắt bỏ dần để rút xuống phía Nam. Ông nói: Nếu chúng ta đủ sức, hì sẽ giữ đến Huế hay Ðà Nẵng. Nếu không thì rút về và giữ từ Chu Lai hoặc từ Tuy Hòa trở vào. Ông nhấn mạnh làm như vậy chúng ta mới tái phối trí được khả năng mình, giữ vững được các yếu điểm của lãnh thổ một cách hữu hiệu và mới có cơ may phát triển đất nước giàu mạnh được. Cứ như vậy, Tổng thống Thiệu nói hết ý định của mình, và cũng kể như quyết định quan trọng. Thế nhưng dụng ý của toàn bộ kế hoạch thì chưa rõ, nhưng chắc chắn sẽ tạo ra nhiều vấn đề, nhất là về phương diện quân sự. Với tư cách một Tổng tham mưu trưởng, cố vấn quân sự cho Tổng thống, đại tướng Viên cảm thấy có bổn phận phải lên tiếng. Sau đây là ý kiến của đại tướng Viên trình bày tại buổi họp: Tôi (đại tướng Viên) nói rằng khi tái phối trí thì quả thật có hiệu quả phòng thủ tuy hệ quả của nó không thể tránh khỏi, và tôi cũng đã từng nghĩ đến tình trạng này từ lâụ Tuy nhiên tôi chưa nói ra vì chưa phải lúc. Trước hết, tái phối trí là trái với chủ trương duy trì chính sách quốc gia, và thứ hai tôi đưa ra đề nghị đó thì có thể bị nghĩ là có óc chủ bại. Duy có điều tôi nhấn mệnh đến một sự tái phối trí lúc này đã quá tr- và không chắc thành công được. Ngoài ra tôi không cho rằng quyết định này của Tổng thống sẽ loại trừ được bất cứ chỉ trích có lợi nào. Dù sao, với tư cách tổng tư lệnh Quân đội, Tổng thống có toàn quyền và trách nhiệm để đưa ra mọi quyết định ứng phó với cuộc chiến. Chắc ông đã nắm vững những gì ông đang làm chứ. Nhận xét tổng quát về quyết định của Tổng thống Nguy-n Văn Thiệu, đại tướng Viên viết: Cho dù quyết định này có đi sai chính sách quốc gia hiện hành đến cách mấy, bản thân quyết định đó vẫn hợp lý mà một nhà lãnh đạo có thể làm được. Ðã hai năm kể từ ngày Hiệp định Ba Lê được ký kết, tình hình cứ suy sụp đến mức báo động. Chỉ có thể phê bình Tổng thống là ở điểm tại sao ông đợi lâu đến như vậy mới đưa ra quyết định. Trong cuộc họp, ông không hề giải thích hay có hướng dẫn nào về những bước cần thiết khi ông quyết định như vậy. Dường như quyết định do thực tế bên ngoài đưa tới. * Cuộc họp ngày 14/3/1975 quyết định tình hình chiến trường Cũng theo hồi ký của đại tướng Cao Văn Viên, hai ngày sau cuộc họp lịch sử tại Dinh Ðộc Lập (ngày 11/3/1975), Tổng thống VNCH Nguy-n Văn Thiệu muốn lên thăm tướng Phạm Văn Phú ngay tại bộ tư lệnh Quân đoàn 2 ở Pleikụ Nhưng lúc đó, Ban Mê Thuột đang bị Cộng quân vây hãm, còn Pleiku thì bị áp lực địch vì hỏa lực pháo binh của địch cứ nã vào thị xã từng hồi. Do đó Tổng thống Thiệu không thể đến được. Lo lắng cho sự an toàn của Tổng thống, thiếu tướng Phú đề nghị họp tại một địa điểm khác. Sau một hồi bàn bạc, Tổng thống Thiệu quyết định họp tại Cam Ranh. Buổi họp di-n ra ngày thứ Sáu, 14 tháng 3/1975. Ðịa điểm họp này là một tòa nhà nằm vắt vẻo trên đỉnh đồi. Ðó là nơi mà vào năm 1966 binh sĩ Hoa Kỳ cấp tốc xây dựng để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Tổng thống Johnson khi ông ghé thăm lực lượng Hoa Kỳ tại Cam Ranh. Cùng đi với Tổng thống VNCH Nguy-n Văn Thiệu ra Cam Ranh có Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên, trung tướng Ðặng Văn Quang. * Diễn tiến cuộc họp lịch sử Mở đầu cuộc họp là phần trình bày của thiếu tướng Phú. Với tư cách là tư lệnh Quân đoàn 2 & Quân khu 2, tướng Phú thuyết trình về tình hình bạn và địch trong khu vực trách nhiệm của mình. Phần thuyết trình chấm dứt, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rõ câu trả lời. Ðại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Ðộng Quân đã được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972. Theo lời đại tướng Viên thì vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm gì. * Kế hoạch rút quân khỏi Cao nguyên Một lần nữa, cũng như lần ăn sáng trước tại Dinh Ðộc Lập, Tổng thống Thiệu đứng bên tấm bản đồ Việt Nam Cộng Hòa, còn thiếu tướng Phú nhìn chăm chú. Tổng thống Thiệu vừa chỉ, vừa nói, giải thích những điểm trọng yếu mà tướng Phú có nhiệm vụ phải bảo vệ. Theo Tổng thống Thiệu, vì lý do dân số và địa lý, Ban Mê Thuột lúc nào cũng quan trọng hơn cả Pleiku và Kontum cộng lại. Vì vậy bây giờ Quân đoàn 2 phải dùng lực lượng cơ hữu của mình chiếm lại thị xã Ban Mê Thuột bằng mọi giá, và như thế phải triệt thoái lực lượng tại Pleiku và Kontum. Sau đó, Tổng thống Thiệu hỏi tướng Phú là sẽ bố trí lực lượng ra sao để chiếm lại và đường nào sẽ dùng để chuyển quân đến Ban Mê Thuột. Tướng Phú đã trình bày rằng Quốc lộ 19 chạy từ Pleiku về hướng Ðông ra đến biển thì không thể dùng được, đại đơn vị còn đầy đủ quân số và khả năng chiến đấu tốt là Sư đoàn 22 Bộ binh đã không khai thông được đoạn đường tại Bình Khệ Quốc lộ 14 nối liền Ban Mê Thuột và Pleiku theo trục Nam-Bắc cũng bị cắt tại Thuận Mẫn, phía bắc thị xã Ban Mê Thuột. Tướng Phú nhận định rằng có thể giải tỏa đường này nhưng rất khó khăn vì làm như vậy địch quân sẽ biết có quân cứu viện. Vì vậy, theo tướng Phú cho rằng ông muốn sử dụng con đường liên tỉnh lộ 7B. Ðây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát biển. Ðường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. * Lộ trình rút quân và những bài học từ cuộc chiến Ðông Dương Theo phân tích của đại tướng Viên, ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn dùng được, đoạn còn lại không biết tình hình giao thông như thế nào. Tuy nhiên, có một điều biết chắc là cầu bắc qua sông Ba về phía Nam của Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thể sửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Hòa thì những năm trước, lực lượng Ðại Hàn hoạt động tại đây đã gài mìn dày dặc. Thế nhưng tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo lộ trình này. Giải thích về sự chọn lựa này, tướng Phú nói yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế. Tướng Phú chỉ yêu cầu bộ Tổng Tham Mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôị Với quyền hạn của một tổng tham mưu trưởng, đại tướng Viên chấp thuận ngay lời yêu cầu của tướng Phú. Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của tướng Phú, đại tướng Viên cho rằng "đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 260 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết tình hình an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ hay không là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉ huy sáng suốt thì lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước tình trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó". Trong phần thảo luận, với tư cách tổng tham mưu trưởng, tướng Viên đã nhắc nhở tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Tướng Viên cũng đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc cho tướng Phú về hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Ðông Khê, dọc theo Quốc lộ Thuộc Ðịa số 4. Về địa thế và con đường mà thiếu tướng Phú chọn để di chuyển quân đoàn 2 thì vào tháng 6/1954, Lực lượng cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Pháp tại Ðông Dương đã bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Ðeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo tướng Viên, đó là "những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở của vùng Cao nguyên là vậy."
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 12:41:41 GMT 9
Vai Trò Của Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh Và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III Trong Những Ngày Cuối Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi -------------------------------------------------------------------------------- Nhân đọc KBC số 14 "Ngày tàn binh của tôi hay là ngày cuối cùng của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh" của Nguyễn Minh Tánh, ở trang 35 có câu "...nhưng trong thâm tâm tôi lúc đó là rời khỏi đây đi về Vùng 4 Chiến Thuật chứ Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp thì đã tan hàng từ khuya." Anh Nguyễn Minh Tánh kể lại diễn biến sáng ngày 30-4-1975 tại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh ở Lai Khê và nghĩ rằng Lữ Ðoàn Kỵ Binh trấn giữ Biên Hòa lúc đó đã tan hàng từ lâu rồi!
Tôi không rõ anh Tánh dựa vào đâu mà nói như vậy. Tôi đề nghị anh công khai đưa lên báo chí hay KBC chứng cớ rõ ràng để cho Cộng Ðồng Việt Nam nhất là những chiến hữu của chúng ta biết rõ. Ðiều mong muốn của tôi là tất cả quân nhân các cấp đã anh dũng chiến đấu, dưới ngọn cờ của Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III trong đó có Thiết Giáp Kỵ Binh, Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Cách Dù, Nhảy Dù, Quân Y, Quân Cụ, Tiếp Vận, nhữmg chiến sĩ kiên cường đã nằm xuống, bị thương tật hay còn sống hiện nay trong nước hay ở ngoài nước không hổ thẹn khi nhắc đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến trang Việt Nam. 1. Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III Lữ Doàn 3 Kỵ Binh là đơn vị Thiết Giáp nồng cốt và là đơn vị khung của Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn IIỊ Lực lượng này do Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí thành lập giao cho tôi tổ chức huấn luyện và chỉ huy từ tháng 11/1970 để phục vụ chiến trường Campuchia. Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III là một lực lượng liên binh gồm nhiều binh chủng hợp đồng chiến đấu trên chiến trường, lúc cao điểm quân số và khả năng tác chiến của nó tương đương với một Sư Ðoàn cơ giới. Ðây là một lực lượng cơ động cao, hỏa lực mạnh, trừ bị xung kích Quân Ðoàn III, khi thì can thiệp vào khu vực hành quân của Sư Ðoàn 25 Bộ Binh, khi thì tác chiến trong khu vực hành quân của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Trong Vùng III Chiến Thuật, chỗ nào "nặng" là có mặt Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III. Thời Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí là Tư Lệnh Quân Ðoàn III kiêm Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, nó là lực lượng chủ lực Quân Ðoàn, luôn luôn chủ động và thường xuyên hoạt động trên chiến trường ngoại biên Campuchia. Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III đã từng quần thảo nhiều với các Sư Ðoàn cộng sản Bắc Việt còn gọi là Công Trường CT-5, CT-7 và CT-9 ở Peang Cheang, Chup, Chlong, Ðambe, Krek, Snoul, Ðức Huệ, An Ðiền, Rạch Bắp. Nó cứu Chiến Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân của Ðại Tá Ðương ở Chlong và Ðambe tháng 2/3-71 khi rút ra QL-7. Nó tiếp cứu Chiến Ðoàn 8/SÐ5BB ở Snoul rút về Lộc Ninh tháng 6-71. Nó giải vây và cứu Tiểu Ðoàn 30 BÐQ của Thiếu Tá Võ Mộng Thùy ở căn cứ Alpha trên mặt trận Krek tháng 11-71. Cuối năm 1971 tôi rời LÐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III. Trong hai năm 1972-1973 tôi du học. Không bao lâu, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn III phân tán và giải thể LÐ3KB đồng thời giải tán Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III. Khi trận An Lộc- Bình Long bùng nổ dữ dội mùa Hè 1972, lực lượng Thiết Giáp QÐ III hoàn toàn bị tê liệt. Khi tôi trở về nước, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Trung Tướng Nguyễn Văn Minh yêu cầu tôi trở về lại LÐ3KB. Ngày 7-11-1973 tôi nhận Lữ Ðoàn và đề nghị với Tướng Thuần tổ chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III theo mô hình tổ chức của Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí. Ông cho tôi toàn quyền hành động. Tôi gom Thiết Giáp lại. Bấy giờ mình đã có chiến xa M-48. Tôi thay đổi tổ chức, mỗi Chi Ðội 3 chiến xa M-48, nó nhẹ nhàng, linh hoạt và hữu hiệu hơn 1 Chi Ðội 5 chiến xa. Mỗi Chi Ðoàn 11 chiến xa M-48 giờ đây có 4 Chi Ðoàn chiến xa 44 chiếc và 3 xe chỉ huy = 47 chiếc. Một Thiết Ðoàn chiến xa M-48 tổ chức theo Mỹ có 54 chiếc, vì vậy tôi có dư ra 7 chiến xa M-48 làm dự trữ. Tôi cơ động hóa TÐ61 PB 105/Quân Ðoàn III bằng cách dùng xe xích M-548 (xe chở ngặng đạn thiết giáp) cho quân cụ biến cải chở đại bác 105 ly của Pháo Binh đồng thời huấn luyện pháo thủ cách vận chuyển và hạ súng tác xạ. Ðược tăng phái Liên Ðoàn 33 BÐQ, Tiểu Ðoàn 46 PB 155, Tiểu Ðoàn 61 PB PB 105 và Tiểu Ðoàn 302 CB, tôi tổ chức Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III thành 3 Chiến Ðoàn Thiết Giáp: Chiến Ðoàn 315, Chiến Ðoàn 318 và Chiến Ðoàn 322. Các Chiến Ðoàn đều có tổ chức giống nhau. Mỗi Chiến Ðoàn có: 2 Chi Ðoàn Thiết Kỵ M-113, 1 Chi Ðoàn Chiến Xa M-48, 1 Tiểu Ðoàn BÐQ, 1 Pháo Ðội 105 ly cơ động trên xe M-548 và 1 Trung Ðội Công Binh. BDH/LÐ 33 BÐQ, Ðội Trinh Sát/LÐ33, PÐ 105/LÐ 33, TÐ 46 PB 155, TÐ 302 CB(-) Chiến Ðoàn Chiến Xa M-48/TH.Ð 22 và ÐÐ Yểm Trợ Tiếp Vận/ BCH3TV. Sau khi kiện toàn tổ chức, huấn luyện chiến đấu hợp đồng binh chủng, học tập chính trị và tuyên truyền giáo dục tư tưởng, tôi báo cáo lên Tư Lệnh Quân Ðoàn III là chúng tôi đã sẵn sàng. Ngày 2-4-1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III lại xuất quân, bất thần tiến vào vùng liên ranh Củ Chi-Trảng Bàng, đánh giải tỏa áp lực địch chung quanh đồn Bò Cạp ở Bắc Củ Chi và đồn Chà Rày thuộc Chi Khu Trảng Bàng. Chiến Ðoàn 315 đập tan TÐ Tây Sơn thuộc Trung Ðoàn 101 địa phương. Cuối tháng 4-1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III đánh bại hoàn toàn Sư Ðoàn 5 Cộng Sản BV, giải vây cứu TÐ 83 BÐQ Biên Phòng ở Căn Cứ Ðức Huệ. Nó yểm trợ Sư Ðoàn 5 BB phản công chiếm lại An Ðiền, Căn Cứ 82 và Rạch Bắp tháng 7/8-74. Nó giải tỏa áp lực địch ở phía Bắc Bình Dương, tiêu diệt BCH/TÐ Phú Lợi tháng 2-75. Nó gỉai tỏa áp lực ở Gò Dầu Hạ, Dầu Tiếng, Khiêm Hạnh tháng 3-75 để yểm trợ SÐ 25 BB tấn công lên phía Bắc Tây Ninh. Và đặc biệt từ ngày 11-4-75 đến ngày 25-4-75, trong 14 ngày đêm nó chận đứng mũi tấn công củ 1 Quân Ðoàn Cộng Sản BV ở Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây và đánh giải vây tiếp cứu Chiến Ðoàn 52/SÐ 18 BB rút về Long Bình-Biên Hòa. 2. Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III Trong 5 Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Tình hình vào hạ tuần tháng 4-75 biến chuyển dồn dập. Áp lực địch ở mặt trận phía Ðông ngày càng nặng, tôi được Quân Ðoàn tăng cường Trung Ðoàn 8/SÐ5BB do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU 55 của Không Quân Biên Hòa để chận đứng địch và giải cứu Chiến Ðoàn 52/SÐ18BB của Ðại Tá Dũng khỏi bị tiêu diệt. Ở Sài Gòn có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. Phi trường Biên Hòa đóng cửa. Ngày 20-4-75 SÐ18BB của Tướng Lê Minh Ðảo rút bỏ Xuân Lộc về Long Bình. Ngày 21-4-75, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Timmes, Phụ Tá Ðại Sứ Martin ở Sài Gòn, đại ý nói: "Thưa Trung Tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các Sư Ðoàn Cộng Sản ở đây thì cũng là lúc Quốc Hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm 300 triệu Mỹ kim cho Quân Lực VNCH không. Tình hình gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ Quốc Hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho Quân Lực chúng tôi đi nữa thì cũng đã quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin Trung Tướng giúp cho gia đình tôi được di tản đến một nơi an toàn..." Sau khi SÐ18BB được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25-4-75 Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom-Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III được rút về Biên Hòa dưỡng quân. Trung Ðoàn 9/SÐ5BB được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III trở thành lực lượng trừ bị Quân Ðoàn. Về tới Biên Hòa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25-4-75, có tin lực lượng địch chiến trường Thiết Giáp và tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Ðoàn, tôi liền phái Chiến Ðoàn 322 tăng cường 1 Tiểu Ðoàn TQLC do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngã Ba Long Thành-Trường Thiết Giáp. Chiến Ðoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, thì chạm địch nặng và giao trang dữ dội với chúng đến khuya bắn cháy 12 chiến xa T-54 buộc chúng phải rút vào bên trong. Chiến thắng này làm nức lòng toàn dân ở Biên Hòa. Sau khi kiểm soát kết quả trận đánh, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn III hứa sẽ thưởng 1.200.000 đồng cho các chiến sĩ có công diệt chiến xa địch, mỗi chiếc hạ được 100.000 đồng. Ngày 29-4-75 có lệnh mới của Quân Ðoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III ngoài Liên Ðoàn 33 BÐQ, được tăng phái thêm: Lư Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ Ðoàn 4 Nhảy Dù(- Tiểu Ðoàn) và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, yểm trợ hỏa lực trực tiếp có: Tiểu Ðoàn 46 PB 155 và Tiểu Ðoàn 61 PB 106 Quân Ðoàn. 12 giờ trưa ngày 29-4-75, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư Lệnh SÐ18BB ở Long Bình. Chỉ có Toàn, Ðảo và tôi. Anh chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho SÐ19BB của Ðảo phòng thủ khu vực Long Bình và kiểm soát xa lộ Biên Hòa, kế đó ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III của tôi phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa và đặt lực lượng ÐPQ và NQ của Tiểu Khu Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này đi tù tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực SÐ25BB ở Củ Chi đã bị địch chiếm, SÐ25BB đã bị đánh tan và Tướng Lý Tòng Bá đã bị địch bắt. Nguyễn Văn Toàn giấu tôi và Lê Minh Ðảo tin xấu này. Anh chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn. Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất hiện Ðại Tá Hiếu, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 43/SÐ18BB với giọng rung rung xúc động, Hiếu báo cáo: quân địch đang tấn công Trảng Bôm và Trung Ðoàn 43 BB đang rút quân về hướng Long Bình, mặt Ðảo cau lại, Toàn nổi giận la hét Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ, Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Ðông Biên Hòa ở Trảng Bôm của SÐ18BB khó có thể cầm cự nổi vì SÐ18BB đã bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Ðảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: "Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh." Xoay qua tôi, anh nói tiếp: Còn số tiền thưởng 1.200.000, tôi sẽ cho người mang đến Lữ Ðoàn." Ðấy là những lời nói cuối cùng của Tư Lệnh Quân Ðoàn III. Về Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III, tôi liền họp các Lữ Ðoàn Trưởng, Liên Ðoàn Trưởng, Chiến Ðoàn Trưởng và các Ðơn Vị Yểm Trợ. Tiểu Khu Trưởng và Tiểu Khu Phó Biên Hòa đã bỏ trốn từ nấy ngày trước. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Hòa kể từ 15 giờ 00 ngày 29-4-75, chỉ thị cho các đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân chung quanh thị xã Biên Hòa bố trí tại chỗ, ở đâu ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Hòa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ðể phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa, tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III như sau: - Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù: Bố trí trong khu phi trường Biên Hòa, giữ mặt Bắc BTL/Quân Ðoàn III. - Lữ Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến: 1 Tiểu Ðoàn bảo vệ BTL/Quân Ðoàn III, Lữ Ðoàn(-1 Tiểu Ðoàn) bố trí phòng thủ mặt Nam BTL/Quân Ðoàn III. - Lữ Ðoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Ðoàn): Tổ chức phân tán thành nhiều Tiểu Ðội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới Biên Hòa, giữ Cầu Sắt Biên Hòa và đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố Biên Hòa. - Chiến Ðoàn 315: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến ngã Tư Lò Than (gần trại Ngô Văn Sáng). - Chiến Ðoàn 322: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến cổng phi trường Biên Hòa (trừ bị 1). - Chiến Ðoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Hòa đến Cầu Mới Biên Hòa (trừ bị 2). - Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực. - BTLLÐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III: Ðặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Ðoàn III. Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh Quân Ðoàn, thì thình lình chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống bãi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. Thiếu Tá Cơ pilot vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long Bình, Cơ đưa Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu, nơi đó anh thấy có các Tướng Lãm và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu đánh cá ra Hạm Ðội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ý vì đơn vị trực thăng của anh giờ này không còn ở Biên Hòa nữa. Lúc 17 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một vòng quan sát tình hình trong và chung quanh thành phố Biên Hòa. Tình hình chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt đầu xâm nhập vào mặt Bắc và Ðông Bắc thành phố từ hướng phi trường đụng với quân Biệt Cách Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Giao tranh bắt đầu, 1 cánh quân Biệt Ðộng Quân của Chiến Ðoàn 315 cũng đụng địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Ðịch bám sát vào tuyến phòng thủ mặt Bắc và Ðông Bắc của quân ta. Hai bên bám trận địa nằm cách nhau 10-15 mét. Cho đến giờ phút này, quân ta chiến đấu vững vàng tự tin. Không có tình trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy địch ra xa tuyến phòng thủ. Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Ðổng ở Sài Gòn. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không có cách gì liên lạc được. Tôi nóng lòng chờ lệnh của Sài Gòn. Tôi tự hỏi Ðại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Ðội có giải pháp gì không? Có lệnh gì mới cho chúng tôi không? Ðến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: "Tôi là Trung Tướng Có đây, tôi đang ở bên cạnh Ðại Tướng, anh cho chúng tôi biết tình hình ở Biên Hòa như thế nào?" "Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xã Biên Hòa, Ðảo giữ Long Bình, Toàn đã bỏ chạy, phi trường Biên Hòa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Ðông Biên Hòa." 1, 2, 3 phút trôi qua, ở đầu giây, Tướng Có nói tiếp" "Ðại Tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai, để Ðại Tướng nói chuyện với bên kia được không?" Tôi trả lời không do dự "Ðược, tôi có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai." Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Ðại Tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: "Lệnh của Ðại Tướng cho anh: Chỉ huy phòng thủ bảo vệ Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30-4-75. Chúc anh thành công." Tôi đáp nhận. Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xã Biên Hòa, chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp Trung Ðoàn từ Ngã Ba Hố Nai - Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III. Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá Ðỗ Ðức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Ðịch rút lui. Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30-4-75, Tướng Lê Minh Ðảo gọi tôi ở đầu máy PC-25: "Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm." Tôi liền hỏi: "Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì tôi không?" Ðảo đáp: "Tôi hiện ở gần nghĩa trang Quân Ðội, đang rút đi về hướng Thủ Ðức." Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Ðảo vô hạn. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Ðảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, vì Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III của tôi là lực lượng cơ động số 1, và SÐ18BB của Ðảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Ðoàn. Trong tù, bọn cán bộ cộng sản rất để ý đến hai chúng tôi vì đã gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống cộng "điên cuồng" nhất. Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, địch lại pháo vào Biên Hòa, lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt điểm Biên Hoà sau khi đã chiếm được Long Bình. Tôi chuẩn bị sẽ tung cả 3 Chiến Ðoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định, nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện 1 đoàn chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau, liền bị Chiến Ðoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn, chúng bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ đó, thị xã Biên Hòa trở nên yên tĩnh. Ðúng 08 giờ 00 sáng ngày 30-4-75, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các Lữ Ðoàn Trưởng, Liên Ðoàn Trưởng, Chiến Ðoàn Trưởng và các Ðơn Vị Trưởng Yểm Trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận tình hình ở mặt trận, tình hình trong thành phố Biên Hòa. Áp lực địch bên ngoài không còn nữa. Chung quanh bên ngoài thị xã, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích, bên trong thành phố vắng vẻ. Ðặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Hòa. Không có tình trạng dân chúng xuống đường hô hào ủng hộ cộng sản. Tôi sung sướng nhất là thấy tinh thần của chiến sĩ ta rất tốt, không có tình trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có tình trạng hãm hiếp cướp bóc trong thành phố, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Trong đêm qua có nhiều tốp lính bạn thuộc SÐ18BB rã ngũ định chạy qua thành phố, tôi ra lệnh chận lại, đuổi họ trở ra, cương quyết không cho vào thành phố đang giới nghiêm vì sợ có tình trạng gây mất tinh thần rã ngũ giây truyền như đã xảy ra ở miền Trung trước đây. Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30-4-75, tôi kết luận buổi họp: "Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản BV đang tập trung tấn công Sài Gòn. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Ðô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III về tiếp cứu Sài Gòn." Tất cả các Ðơn Vị Trưởng ủng hộ quyết định này của tôi. Tôi liền ban hành Lệnh Hành Quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III tiến về Sài Gòn theo kế hoạch sau đây: Lấy đường xe lửa Biên Hòa-Sài Gòn và xa lộ Ðại Hàn làm hai trục tiến quân chính. a) Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù + Lữ Ðoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Ðoàn) do Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Sài Gòn. Ðến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh. b) Lữ Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Liên (TQLC) chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng Sài Gòn. Ðến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh. c) Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh + Liên Ðoàn 33 Biệt Ðộng Quân: Bố trí yểm trợ quân BCD, ND và TQLC rời vị trí phòng thủ, rút an toàn qua Câu Mới Biên Hòa trước. Sau đó, lấy xa lộ Ðại Hàn làm trục chính, tiến về Sài Gòn theo thứ tự như sau: - Chiến Ðoàn 315 do Trung Tá Ðỗ Ðức Thảo chỉ huy: Ði trước, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí bên này cầu Bình Triệu, chờ lệnh. - Chiến Ðoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên (TG) chỉ huy: Ði sau CÐ 315, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí sau CÐ 315, chờ lệnh. - Chiến Ðoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Ðức Dương chỉ huy: Ði sau cùng, đến Sài Gòn, bố trí sau BTL và Ðơn Vị Yểm Trợ, chờ lệnh. Trước khi lên trực thăng Chỉ Huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Hòa trong vòng trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30-4-75. Tôi lên trực thăng Chỉ Huy của Tướng Toàn do Thiếu Tá Cơ lái, chiếc trực thăng Chỉ Huy thư hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Hòa, quan sát thấy tình hình bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Sài Gòn. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi đang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo vì không liên lạc được với Sài Gòn, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Ðô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó thì đột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: "Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi." Tôi liền hỏi lại: "Còn anh thì sao?" "Khi đưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với vợ con còn ở Biên Hòạ" "Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đã quyết định việc này từ lâu rồi." Chúng tôi bay về hướng Gò Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân cộng sản BV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hòa và trên Quốc Lộ 13 bò vô Sài Gòn. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phủ Ðổng nơi đặt BCH TGB và BTL/Quân Ðoàn III. Tôi vội đi vào văn phòng tìm sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn phòng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có 1 Trung Úy mang huy hiệu Quân Ðoàn III, tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với BTL Biệt Khu Thủ Ðô báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngõ Bắc Sài Gòn để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở đầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt đạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay TSN. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima. Trong khi tôi đang lúng túng trong việc liên lạc với BKTÐ và Bộ Tổng Tham Mưu, thì thình lình tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nhìn đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút. Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của mình và xem nhiệm vụ của LÐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự động buông vũ khí đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống. Tôi không có gì để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến và cùng tôi giữ tròn khí tiết của người chiến sĩ đối với Quân Ðội và Tổ Quốc. 3. Quan Ðiểm và Kết Luận Sau khi ngưng chiến theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, tôi bị địch bắt, truy vấn, tù đầy 17 năm và sang Mỹ năm 1993 theo diện tỵ nạn chính trị. Mỗi năm cứ đến ngày 30-4, tôi đọc đi đọc lại nhiều bài viết của bên Cộng Sản cũng như của bên ta về cuộc chiến tranh Việt Nam. Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Ðặc biết khi viết về Biên Hòa thì không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Hòa là vị trí chiến lược số 1 của MNVN, phi trường Biên Hòa còn là nơi đặt bản doanh BTL/Quân Ðoàn III và V3CT, đầu não của bộ máy quân sự miền Ðông. Biên Hòa là cửa ngõ quan trọng bậc nhất ở phía Bắc thủ đô Sài Gòn. Ðể mất Biên Hòa là mất Sài Gòn, mất miền Nam Việt Nam. Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thấy một tài liệu nào nói rõ về Biên Hòa trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh VN. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng cho đến ngày hôm nay, vì nghĩ rằng cuối cùng rồi sự thật lịch sử cũng được phơi bày. Vả lại khi viết về cuộc chiến tranh mà mình là nhân chứng trực tiếp, không khỏi phải nói nhiều rất nhiều về mình, cái mà tôi không hề thích vì như Pascal nói: "Cái tôi là đáng ghét" (Le moi est haissable). Nhưng anh Nguyễn Minh Tánh đã viết sai sự thật về LÐ3KB do tôi chỉ huy, đã xúc phạm đến DANH DỰ của chúng tôi nên tôi có bổn phận với những ngưỡi đã hy sinh và những người còn sống, phải cải chính và nói lại cho rõ để không phụ lòng những chiến sĩ anh hùng đã cùng tôi chấp nhận ở lại chiến đấu đến cùng. Những năm đầu trong ngục tù, cán bộ Cộng Sản luôn truy vấn tôi kịch liệt. Chúng làm tổng kết chiến trang để rút kinh nghiệm chiến trường, chúng ngạc nhiên trước sức chiến đấu của LÐ3KB và Lực Lượng Xung Kích nQuân Ðoàn III, đặc biết chúng bắt tôi viết đề tài Những nguyên nhân nào mà LÐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III do tôi chỉ huy không bị tan rã trước sức tấn công của Quân Ðội Cách Mạng. Chính miệng chúng nói với tôi: "Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III là đại đơn vị duy nhất của Quân Ðội Sài Gòn chiến đấu tới cùng cho đến khi có lệnh ngưng bắn." Chúng kể ra những thành tích chiến đấu của Chiến Ðoàn 318 trên chiến trường Campuchia thời Tướng Ðỗ Cao Trí của LÐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III mà chúng gọi là những tội ác "Trời không dung Ðất không tha" và kết tội tôi đã kéo dài chiến tranh nhiều năm. Chúng đã chọn và định đưa một số chúng tôi ra Tòa Án Chiến Tranh của chúng xét xử như những tội phạm chiến tranh nếu không có áp lực mạnh mẽ của Hoa Kỳ và Cộng Ðồng thế giới tự do cũng như của dư luận Quốc Tế lúc bấy giờ. Tôi không hề ân hận việc mình đã làm, không hề hối tiếc hay than van về những hậu quả mà mình phải gánh chịu sau khi bị bắt. Nếu phải làm lại từ đầu, thì tôi cũng vẫn làm như thế. Tôi biết rằng làm như thế là tôi mất tất cả, mất tất cả trừ DANH DỰ. -------------------------------------------------------------------------------- Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi Virginia ngày 16/6/1995
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 12:48:15 GMT 9
đường mòn Hồ Chí Minh I. Sơ Lược Lịch Sử Con đường chuyển vận người và vũ khí của Việt Cộng từ Bắc vào Nam xuyên qua vùng cán chảo của vương quốc Lào đã có từ thời chiến tranh Ðông Dương. Lúc đó hệ thống giao liên này đích thực là những "đường mòn" dùng cho người đi bộ xuyên qua vùng rừng rậm Hạ Lào. Sau khi chiến tranh Việt - Pháp chấm dứt vào năm 1954 với hiệp định Geneve chia cắt Việt Nam thành hai miền Nam - Bắc, hệ thống đường mòn này hầu như không còn được xử dụng. Cho tới năm 1959, để chuẩn bị cho dã tâm đưa quân xâm chiếm miền Nam, Việt Cộng thành lập một Ðoàn Tiếp Vận đặc biệt mang bí số 559 có nhiệm vụ bảo vệ, mở mang, tu sửa và xếp đặt những cơ sở hậu cần dọc theo trục tiếp vận Bắc - Nam dọc theo bán đảo Ðông Dương, thường được các giới chức quân sự mệnh danh là "đường mòn Hồ Chí Minh" này. Ðơn vị Việt Cộng phụ trách mang tên 559 vì được thành lập vào tháng 5 năm 1959. Nhưng dù đã được đặt dưới quyền quản trị đặc biệt của Ðoàn Tiếp Vận 559, trước năm 1967, hệ thống đường xâm nhập Bắc - Nam tại Hạ Lào vẫn rất thô sơ nên Việt Cộng còn phải dùng dân công và xe đạp thồ để chuyển vận vũ khí và tiếp liệu. Mãi tới năm 1971, khi cường độ của cuộc chiến tranh Việt Nam gia tăng với những trận đánh qui mô trận địa chiến dùng chiến xa và đại pháo, đường mòn Hồ Chí Minh mới được canh tân thành những xa lộ lớn, xe hơi có thể di chuyển hai chiều. Con đường này bắt đầu từ đèo Mụ Già gần thị trấn Vinh - với hải cảng Bến Thủy - thuộc tỉnh Quảng Bình của Bắc Việt, xuyên qua lãnh thổ Lào rồi đâm sâu về phía Nam song song với biên giới Lào - Việt. Ðường mòn Hồ Chí Minh giao tiếp với đường số 9 là trục lộ Ðông - Tây nối liền thị trấn Ðông Hà thuộc miền Nam Việt Nam và tỉnh Savanakhet của Lào tại hai điểm quang trọng, đó là thị trấn Tchépone và Mường Nông. Hai trung tâm chuyển tiếp mấu chốt dùng làm nơi dưỡng quân và có nhiều kho quân lương, vũ khí này được Việt Cộng đặt cho bí danh 604 và 611 nằm đối diện với hai tỉnh cực bắc Quảng Trị, Thừa Thiên của miền Nam Việt Nam. Ðây là những địa điểm chính của Cộng Quân dùng làm bàn đạp để đẩy mạnh những cuộc tấn công và xâm nhập lãnh thổ Quân Khu I và II của VNCH. II. Ðường mòn Sihanouk Xa hơn về phía Nam, đường mòn Hồ Chí Minh kéo dài qua vùng Tam Biên, nơi gặp gỡ của 3 biên giới giữa các quốc gia Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Khi vào tới lãnh thổ Cam Bốt hệ thống đdường xá này thường được gọi là "đường mòn Sihanouk", mang ngụ ý ông Hoàng xứ Chùa Tháp là một tay sai cho Cộng Sản Bắc Việt. Nói khác đi, đường mòn Sihanouk là phần cực Nam, nối dài của đường mòn Hồ Chí Minh nằm trong lãnh thổ Cam Bốt. III. Hệ thống đường xá Thông thường, khi nghe nói tới "đường mòn", mọi người đều mường tượng đến hình ảnh những lối đi nhỏ cheo leo hoặc độc đạo xuyên qua những khu rừng núi hiểm trở. Nhưng thực sự đến năm 1971, đường mòn Hồ Chí Minh là một hệ thống đường giao thông rộng lớn và phức tạp gồm nhiều xa lộ chạy song song nhau và tỏa rộng như một màng lưới nhện khổng lồ. Màng lưới này dài trên một ngàn cây số phủ dọc biên giới Việt - Miên - Lào theo hướng Bắc - Nam. Có nhiều nơi, bề rộng theo hướng Ðông - Tây của chiếc lưới nhiều nhánh này lên tới 90 cây số, ăn sâu trong lãnh thổ Lào và Cam Bốt. Các giới chức quân sự VNCH - Mỹ phỏng đoán nếu nối chung các nhánh này, tổng Cộng chiều dài của hệ thống "đường mòn xa lộ" có thể lên tới trên 10 ngàn cây số! Các cơ quan tình báo VNCH và Hoa Kỳ sau nhiều năm tung các toán thám sát vào khu vực đường mòn chiến lược này cũng mới chỉ vẽ được bản đồ được chừng trên 5 ngàn cây số, nghĩa là khoảng phân nửa. Việc khám phá, kiểm soát cũng như cắt đứt hệ thống lưới nhện này vô cùng khó khăn, không những vì quá rộng lớn mà còn vì khi cắt đứt được nhánh này, Việt Cộng lại xây cất nhiều nhánh phụ mới phức tạp nằm sâu hơn trong lãnh thổ Lào hoặc Cam Bốt. IV. Tổ chức Ðể xây cất, tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh, Ðoàn Tiếp Vận 559 đã phải thường trực xử dụng chừng 100,000 dân công Lào - Việt, chưa kể khoảng 50,000 quân lính để hộ tống những đoàn quân xa di chuyển cũng như bảo vệ 7 căn cứ quan trọng dọc theo đường mòn. Ngoài những căn cứ tiếp vận chính, còn có khoảng 50 trạm giao liên phụ, gọi là binh trạm. Mỗi binh trạm là một căn cứ yểm trợ gồm các cơ cấu chuyển vận, tiếp liệu, truyền tin, tu bổ đường xá, phòng thủ, y tế v.v... riêng biệt. Theo lời thuật lại của Thiếu Tá Lê Văn Thời, Tiểu Ðoàn Phó TÐ 4, Trung Ðoàn 2 thuộc Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, khi bị bắt làm tù binh tại vùng Căn Cứ Hỏa Lực Sophia tại Hạ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 vào tháng 3 năm 1971, anh đã bị giải qua nhiều binh trạm dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh trên đường ra Bắc. Thiếu Tá Thời cho biết mỗi binh trạm là một địa điểm dừng quân cách nhau khoảng một ngày đi bộ trong rừng có nhiệm vụ cung cấp lương thực, nơi ăn, chốn ở và hướng dẫn đoàn người tới trạm kế tiếp. V. Di chuyển Sau năm 1967, vì nhu cầu chuyển quân cũng như yểm trợ tiếp vận của Việt Cộng gia tăng tại chiến trường miền Nam, đường mòn Hồ Chí Minh đã được cải tiến và mở rộng để xe hơi có thể lưu thông được. Từ đó, xe vận tải kiểu Molotova do Nga Sô viện trợ đã được dùng để thay thế cho dân công và xe đạp thồ trong việc chuyên chở. Cơ quan tình báo đồng minh cho biết mỗi ngày có hàng trăm xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh và cũng có hàng trăm trạm nghỉ cho xe cộ chỉ riêng trong lãnh thổ Lào. Những xe này thường chạy vào ban đêm để tránh bị phi cơ phát hiện. Mỗi đêm, xe di chuyển được chừng 50 cây số là khoảng cách trung bình giữa trạm nghỉ này và trạm khác. Vì phải di chuyển ban đêm nhưng lại không dám để đèn để tránh bị phát hiện nên cần tài xế rất quen thuộc với đường xá trong vùng. Do đó, mỗi trạm nghỉ đều có một toán tài xế cơ hữu thường trực chuyên lái xe từ trạm mình tới trạm kế tiếp để thuộc nằm lòng địa thế vì lái đi lái lại có mỗi một đoạn đường chừng 50 cây số. VI. Hệ thống dẫn nhiên liệu Trước kia, nhiên liệu cần dùng được chứa trong những thùng phi 200 lít do xe vận tải chuyên chở hoặc đôi khi được thả trôi theo những giòng nước vào mùa mưa. Qua năm 1968 vì nhu cầu gia tăng gấp bội, Việt Cộng đã hoàn tất một hệ thống dẫn dầu dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để tiếp tế nhiên liệu cho các xe cơ giới. Ống dẫn dầu có đường kính 4 inch (khoảng 10 cm) bắt đầu từ đèo Mụ Già chạy dọc theo biên giới Lào - Việt tới khu vực Mường Nông bên Lào, đối diện với thung lũng A Shau về phía Nam. Như vậy, Việt Cộng không những đã giải quyết được vấn đề tiếp tế nhiên liệu cho các xe vận tải di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, mà còn có khả năng yểm trợ cho các chiến xa hoạt đông sâu tại chiến trường miền Nam. Tưởng cũng nên nhắc lại chiến xa kiểu PT-76 của Việt Cộng xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam vào đêm 8 tháng 2 năm 1968 trong trận đánh tại trại Lực Lượng Ðặc Biệt Lang Vei gần Khe Sanh sát biên giới Lào - Việt trên đường số 9. Chiến xa PT-76 là loại xe lội nước hạng nhẹ nên có thể di chuyển khá dễ đàng trên đường xá lầy lội bên Lào, sau đó, không còn thấy tham chiến cho tới năm 1971 trong trận Hạ Lào. Vì vậy, giới chức quân sự đồng minh cho rằng vì gặp khó khăn về việc tiếp tế nhiên liệu cũng như trở ngại về địa thế không thích hợp nên chiến xa hạng trung như loại T-54 của Việt Cộng không phải là mối đe dọa lớn trên chiến trường miền Nam, nhất là tại vùng cao nguyên núi non trùng điệp và rừng rậm hiểm trở. Theo ước lượng của giới tình báo, trong khoảng thời gian 5 năm từ 1966 tới 1971, có chừng 600,000 ngàn quân CS Bắc Việt, 100,000 tấn thực phẩm, 400,000 ngàn vũ khí đủ loại và 50,000 tấn đạn dược đã được chuyên chở qua đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam. Mật độ xe cộ đi lại rất rộn rịp trong mùa khô từ tháng 10 tới tháng 4. Sáu tháng còn lại trong năm, vì mưa lũ thường xuyên nên đường xá lầy lội rất khó đi. Các cuộc tấn công của VIệt Cộng trên chiến trường miền Nam thường được khởi sự vào mùa khô, khi việc chuyên chở người và vật liệu trên đường mòn Hồ Chí Minh không gặp trở ngại vì thời tiết. VII. Nỗ lực cắt đứt đườn mòn Hồ Chí Minh của VNCH và đồng minh Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, tiếp vận thường là yếu tố sinh tử góp phần quyết định quan trọng trong việc thành công hay thất bại. Các bậc danh tướng cổ kim luôn luôn đặt vấn đề tiếp vận thành mối ưu tư hàng đầu trong mỗi cuộc hành quân. Thời xưa, khi hình thái chiến tranh còn đơn giản với những vũ khí thô sơ, công tác tiếp vận thường thu gọn vào việc tiếp tế lương thực cho quân lính. Dưới thời Tam Quốc bên Tầu, vạn đại quân sư Khổng Minh Gia Cát Lượng của nhà Hán đã chế ra "trâu gỗ, ngựa gỗ" để giải quyết vấn đề tải lương trong những lần "lục xuất Kỳ Sơn" ra đánh Tào Tháo tại Trung Nguyên. Ông cũng lập kế dùng thuyền chở rơm rạ chèo tới gần thủy trại của quân Tào rồi cho quân khua chiêng gióng trống khiến địch sợ hãi bắn tên loạn xạ nên nhàn nhã thu được 10 vạn mũi tên cắm vào thuyền đem về nạp cho Ðô Ðốc Chu Du của Giang Nam làm vũ khí đại thắng quân Tào trong trận Xích Bích. Tào Tháo gian hùng đã ra lệnh chém quan Chưởng Bạ Dương Tu khi lương thực bị cạn cũng chỉ mong trấn an lòng quân sĩ. Gần đây hơn, dưới thời nhà Trần trong Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đại phá quân Mông Cổ hùng mạnh khởi đầu bằng chiến thắng Vân Ðồn khi tướng Trần Khánh Dư đốt hết những thuyền chở lương của giặc. Kết qủa, 50 vạn quân do Nguyên đã bị thảm bại. Trong thế chiến thứ hai, những đoàn chiến xa Panzer lừng danh bách chiến bách thắng dưới quyền con cáo già sa mạc Romme đã bị quân Anh chận đứng tại Phi Châu vì thiếu nhiên liệu. Vào năm 1954, quân đi Pháp đã bị thất trận tại Ðiện Biên Phủ vì bị cắt đứt đường tiếp vận và tăng viện duy nhất bằng đường hàng không. Ngày nay, quân lực Hoa Kỳ được coi là hữu hiệu nhất thế giới không hẳn chỉ vì binh sĩ thiện chiến mà còn nhờ bộ máy tiếp vận khổng lồ hữu hiệu gần như vô giới hạn có thể tiếp tế bất cứ phần đất nào trên thế giới trong khoảnh khắc dăm ba tiếng đồng hồ. Trong cuộc chiến tại Việt Nam, theo thống kê, cứ mỗi quân nhân Hoa Kỳ trực tiếp cầm súng đánh giặc ngoài mặt trận, có ít nhất 5 người khác đàng sau lo việc tiếp vận và yểm trợ. Vì vậy, chúng ta thấy những căn cứ quân sự lớn của Hoa Kỳ trên thế giới không phải là những trại lính mà là những căn cứ yễm trợ tiếp vận khổng lồ. Vì tầm quan trọng có mức độ quyết định của vấn đề tiếp vận, nên binh thư thường nói "một tướng lãnh chỉ biết về hành quân mà không biết về tiếp vận thì chưa phải là một vị tướng hoàn toàn". Hoàng Ðế Napoléon bách chiến của nước Pháp tóm tắt ngắn gọn và đơn giản hơn: "Ðạo quân nào cũng tiến bằng chiếc bụng". Ý ông muốn nói quân lính có no bụng mới đánh trận được. Trong thời buổi văn minh hiện đại, chiếc bụng của một đạo quân không chỉ đơn giản chỉ cần lương thực cho quân lính, mà còn không thể thiếu nhiên liệu cho xe cộ, máy bay, tầu chiến và bom đạn cho những loại vũ khí tối tân. Do đó, khi cường độ của cuộc chiến tại Việt Nam trở thành ác liệt với các trận đánh chuyển từ hình thái du kích chiến qua trận địa chiến với quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, vấn đề tiếp vận đương nhiên trở thành một yếu tố sinh tử đối với Cộng quân. Ðể tiếp tế cho chiến trường miền Nam, Việt Cộng dùng hai ngả chính. Ðó là đường mòn Hồ Chí Minh và hải cảng Kompong Som còn được gọi là Sihanoukville của Cam Bốt. Nhưng tới năm 1971 khi chính phủ Lon Nol thân Hoa Kỳ thay thế ông hoàng Sihanouk, đường tiếp vận từ Cam Bốt qua ngả Kompong Som bị cấm chỉ. Con đường duy nhất còn lại là đường mòn Hồ Chí Minh. Cả Việt Cộng lẫn phe đồng minh đều biết rằng bên nào kiểm soát được trục tiếp vận huyết mạch này sẽ chiến thắng tại miền Nam. Vì tầm mức chiến lược vô cùng quan trọng này, ngay từ năm 1965, QLVNCH đã có 2 kế hoạch để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh: một là đổ bộ lên miền Bắc ngay vùng hải cảng Vinh nhằm phá vỡ ngay từ đầu mối, hai là đánh sang Lào để cắt đứt tại khúc giữa. Nhưng những kế hoạch này đã không thực hiện được vì QLVNCH không đủ mạnh. Vả lại Hoa Kỳ cũng không đồng ý nới rộng chiến tranh qua toàn cõi Ðông Dương vì e ngại Trung Cộng và Nga Sô sẽ nhân cơ hội nhẩy vào vòng chiến. Do đó, trong lúc Cộng Quân ra sức bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh thì lực lượng đồng minh dồn nỗ lực đánh phá. Các hoạt động quân sự của đồng minh nhằm cắt đứt trục tiếp vận quan trọng này gồm: thả những toán biệt kích xâm nhập nội địa Lào, dùng máy bay bắn phá, dùng lực lượng sắc tộc thiểu số Hmong của Lào và trực tiếp đổ quân sang đánh phá. 1. Hoạt động của những toán Biệt Kích -------------------------------------------------------------------------------- Những đơn vị chuyên xâm nhập vùng lãnh thổ do địch quân kiểm soát này thường được gọi là Lôi Hổ do Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ huấn luyện. Ðây là những toán nhỏ chừng 4, 5 người được phi cơ thả xuống khu vực đường mòn Hồ Chí Minh để thu thập tin tức tình báo về các hoạt động và di chuyển của Cộng quân cũng như thi hành những công tác phá hoại. Ban đầu, những toán biệt kích được thả dù từ các phi cơ vận tải loại C-47, sau này được thả bằng trực thăng loại H-34 hay UH-1B. Phi Ðoàn 219 của Không Quân VNCH là đơn vị phụ trách thả và bốc những toán biệt kích bên Lào. 2. Dùng máy bay đánh phá -------------------------------------------------------------------------------- Song song với các hoạt động biệt kích, không lực Hoa Kỳ còn dùng phi cơ oanh tạc khu trục để thường xuyên thả bom hay bắn phá để ngăn chận sự di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh. Mỗi khi thu thập được những tin tức tình báo chính xác từ các toán biệt kích hay từ những máy móc điện thám về di chuyển của những toán quân, đoàn xe hay nơi tập trung quân của địch, phi cơ Hoa Kỳ từ các căn cứ không quân bên Thái Lan như Phanat Nikhon hay Takhli v.v... lập tức cất cánh oanh tạc. Ngoài ra, các phi cơ võ trang Hải Quân Hoa Kỳ từ hàng không mẫu hạm ngoài Biển Ðông cũng thường xuyên bay tuần tiễu dọc theo đường mòn dể sẵn sàng bắn phá mỗi khi phát hiện mục tiêu. Các dụng cụ điện tử thám báo tối tân trông giống như những chòm cây được thả từ máy bay dọc theo đường mòn để thâu thập dữ kiện. Khi có xe hay người di chuyển qua, các máy "sensor" có antenne này sẽ ghi nhận những địa chấn và tự động phát ra những tín hiệu đặc biệt. Trên không phận Lào, lúc nào cũng có một phi cơ Hoa Kỳ bao vùng để ghi nhận và báo về trung tâm kiểm thám bên Thái Lan. Những tin tức này được đưa vào máy điện toán để phân tích và xác định mục tiêu cho phi cơ oanh tạc. Không quân Hoa Kỳ có loại phi cơ vận tải C-130 biến cải mang tên "Spectre" trang bị máy nhắm hồng ngoại tuyến chuyên dò tìm và bắn phá các xe cộ di chuyển vào ban đêm. Trong một tài liệu chính thức, cán binh Việt Cộng nhận xét về phi cơ Spectre này như sau: "Thằng này đánh đêm tinh như ma ... " 3. Lực lượng sắc tộc Hmong Lào -------------------------------------------------------------------------------- Ngoài các toán biệt kích hỗn hợp Việt- Mỹ, LLÐB Hoa Kỳ còn tuyển mộ và huấn luyện người của bộ lạc thiểu số Hmong để thường trực ngăn chận các hoạt động của Cộng quân bên Lào. Lực lượng người Hmong này được đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Vang Pao, đặt căn cứ tại Long Cheng. Tướng Vang Pao có nhiều tiểu đoàn hoạt động tại vùng Savannakhet gần khu vực Tchépone là một diểm tiếp vận quan trọng của Cộng Quân. Lực lượng này do Hoa Kỳ trực tiếp điều động và quản trị, không thuộc quân đội Hoàng Gia Lào trên nguyên tắc. 4. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Lào -------------------------------------------------------------------------------- Vào tháng 2 năm 1971, khi lực lượng Cộng quân tập trung đông đảo tại Lào để dự định tấn công vào Quân Khu I, QLVNCH đã mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 nhằm phá vỡ ý đồ của địch quân bằng cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh là trục tiếp vận chính. Lực lượng VNCH gồm có các đơn vị tinh nhuệ như Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Sư Ðoàn Dù, Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến và Liên Ðoàn 1 Biệt động Quân. Vì bị đánh trúng yếu điểm, Cộng Quân phải tung ra 6 Sư Ðoàn để bảo vệ. Ðôi bên quần thảo khoảng 45 ngày với những trận đánh đẫm máu dữ dội tại Căn Cứ BÐQ Bắc, Căn Cứ Hỏa Lực 31, đồi Lolo, đồi Sophia v.v... Kết quả, đôi bên đều bị thiệt hại nặng về nhân mạng, chừng 10,000 người về phía QLVNCH và 20,000 người về phía Cộng Quân. Nhưng điều quan trọng là tuy QLVNCH chiếm được mục tiêu Tchépone, phá hủy nhiều cơ sở tiếp vận quan trọng tại khu hậu cần 604 và 611, nhưng vì không đủ quân số chiếm đóng nên phải rút về, không hoàn toàn cắt đứt được đường mòn Hồ Chí Minh. Vì vậy, chỉ tới mùa hè năm sau, Cộng Quân đã tập trung được đủ tiếp vận và quân số để vượt biên giới tấn công VNCH tại 3 mặt trận: giới tuyến Ðông Hà tại Quân Khu I, vùng cao nguyên Kontum tại Quân Khu II và thị trấn An Lộc thuộc tỉnh Bình Long tại Quân Khu III. Sau khi hiệp định ngưng chiến Paris được ký kết vào năm 1972, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ, quân đội Hoa Kỳ có cớ rút lui "trong danh dự". Quân Lực VNCH không còn được yểm trợ$đúng mức nên thiếu sức mạnh để đánh phá khu vực đường mòn Hồ Chí Minh. Cộng Quân coi như được Hoa Kỳ bật đèn xanh, tự do chuyển người và vũ khí xâm lấn miền Nam. Vào tháng 4 năm 1975, Cộng Quân đã dùng toàn lực, đưa hầu hết quân số của miền Bắc, khoảng 20 sư đoàn chiến đấu, nhiều Sư Ðoàn pháo binh và Trung Ðoàn chiến xa nặng vào chiến đấu tại miền Nam với đầy đủ lương thực, nhiên liệu và đạn dược. Tất cả bộ máy quân sự khổng lồ này đã được di chuyển qua ngả đường mòn Hồ Chí Minh, chẳng gặp sức chống đối hay trở ngại nào vì QLVNCH không còn mạng để ngăn chặn. Có thể nói miền Nam đã rơi vào tay Cộng Quân dễ dàng vì chúng đã hoàn toàn làm chủ được con đường tiếp vận huyết mạch Hồ Chí Minh. Trần Ðỗ Cẩm (camtran11@yahoo.com)
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 16, 2011 12:54:33 GMT 9
Ngày tàn của cuộc chiến
Lê Nguyên Bình
-------------------------------------------------------------------------------- (Trích Ðặc san Nguyễn Khoa Nam Tiểu đề do tòa soạn đặt)
LTS: Tác giả bài dưới đây, Ðại tá Lê Nguyên Bình, là một chiến hữu nguyên là sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ở phương vị này, Ðại tá Bình đã có dịp được chứng kiến nhiều sự kiện đã xảy ra trong và ngoài khuôn viên của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV trong ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu cho tự do.
Ðọc những lời tường thuật của một nhân chứng trong cuộc, và đặc biệt những lời tường thuật chưa hề được tiết lộ trên báo chí, người đọc, nhất là những cựu quân nhân chúng ta, không khỏi bồi hồi, xúc động nghĩ rằng chúng ta đã có những vị tướng, tá như thế mà đành phải thất trận, không cứu vãn nổi tự do thì âu cũng là tại lòng Trời còn muốn đày đọa dân Việt vậy. Những tràng đại liên chính xác từ bốn chiếc trực thăng võ trang thuộc Sư đoàn 4 Không quân đổ trên đầu toán tuần thám thuộc Trung đoàn Cộng Sản D1 miền Tây Nam Bộ, đang vượt kinh Thác Lác với ý đồ mở đường cho Trung đoàn này xâm nhập vòng đai Alpha bao quanh thị trấn Cần Thơ và phi trường Trà Nóc. Tiếng gào thét rợn trời, từng xác người tung lên khỏi mặt nước như xé tan bầu trời, sau đó trả lại cho màn đêm dần dần phủ kín lớp sông dài. Ðội hình hàng dọc các đơn vị thuộc Trung đoàn D1 được lệnh phân tán tại chỗ, chờ động tĩnh. Những bóng đen xì với những chiếc nón tre bọc lưới, ẩn hiện nhấp nhô như những bóng ma sau đám cây, những bụi chun bàu. Dưới sông, đám bèo tây vẫn lững lờ vô tình trôi, cuốn theo vài xác chết. Thời gian trôi qua khoảng chừng tàn một nén nhang, Thủ trưởng Trung đoàn ra lệnh toàn bộ vượt sông với hàng trăm ghe xuồng lớn nhỏ đã được bố trí từ buổi sáng. Tiếng đập của mái chèo khua nước dồn dập như cố thúc đẩy những con thuyền gia tăng tốc độ chóng qua bờ. Tiếng người xì xào nho nhỏ pha trộn hai giọng Bắc và Nam tạo nên nhưng âm thanh kỳ lạ, bí ẩn. Cuộc vượt sông tưởng như diễn tiến tốt đẹp. Ðột nhiên, những "coup départ" khai pháo từ phi trường Bình Thủy, từ Tiểu đoàn 21 Bộ binh ở Vị Thanh, từ các pháo đội địa phương Rạch Gỏi, Cầu Nhím, Phong Ðiền như xé bầu không khí nổ tới tấp theo tuyến vượt sông, dọc theo hai bờ kinh, mưa trên đầu các đơn vị từ tiền phong tới hậu tập. Tiếng người xô đẩy chạy ngược xuôi, khi hàng ngũ rối loạn. Cuộc tiến quân bất thành vì bị bại lộ. Trung đoàn D1 bị cắt làm hai, phải phân tán vào các thôn xóm lân cận hai bên bờ sông. Yên lặng lại trở về trong màn đêm cho miền Tây hiền hòa. Bấy giờ là vào khoảng thượng tuần tháng Tư năm 1975. Tôi ngồi trước bản đồ Quân khu IV. Màu đỏ chỉ những vị trí của Việt Cộng, tạo thành một vòng đai bao quanh các thị trấn Quân khu 4. Ðúng theo nghị quyết số 14 của Trung Ương Cục Miền Nam, Cộng Sản bỏ nông thôn tiến về thành thị theo kế hoạch thanh toán toàn miền Nam theo chỉ thị của Trung Ương Ðảng Cộng Sản. Màu xanh trên bản đồ chỉ những vị trí của các đơn vị bạn được tái phối trí chặt chẽ hơn. Sư đoàn 21 phụ trách việc bảo vệ vòng đai Alpha, từ phi trường Bình Thủy tiếp nối liên tỉnh lộ Cần Thơ Chương Thiện. Sư đoàn 9 trải quân trấn giữ con lộ huyết mạch của Quân đoàn 4, từ phà Mỹ Thuận đến ngã ba Trung Lương. Sư đoàn 7 Bộ binh, đơn vị lừng danh của QLVNCH đã từng xóa bỏ Sư đoàn 5 và 9 của cộng sản giữ ải địa đầu của Quân khu 4, đoạn vòng cung từ Chợ Thày Yên, Bến Tranh đến ranh tỉnh Long An. Lập căn cứ ở Quân khu 4? Trong thời gian này, tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân khu 4 và Quân đoàn 4 đã đặt nỗ lực vào việc xây cất nhiều địa ốc thật kiên cố, chuẩn bị cho Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Lực và các đơn vị bạn, khi cần, có thể rút về giữ tuyến cuối cùng bảo vệ đất nước. Tình hình chung lúc ấy là, sau cuộc rút lui của Quân khu 2, kế tiếp là Quân khu 1, vòng đai của Quân khu 3 bảo vệ Thủ đô Sài Gòn dần dần bị thu hẹp. Vì những rối loạn chính trị đương thời tại thủ đô, vì Quân khu 3 thiếu yếu tố địa thế hiểm trở, chắc chắn việc tử thủ tại thủ đô sẽ gây ra nhiều tổn thất cho quân lực và dân chúng. Tôi liên tưởng tới sự thành công của cuộc phòng thủ Quân khu 4, mảnh đất cuối cùng của đất nước. Với vị trí thiên nhiên của sông Tiền Giang cắt ngang miền Nam, với địa thế sình lầy của vùng Ðồng Tháp có thể làm giảm thiểu tốc độ chuyển quân của địch, sự di chuyển của chiến xa và trọng pháo sẽ bị trở ngại. Với sự tồn tại của toàn bộ các thị trấn, chưa nơi nào lọt vào tay địch; với các căn cứ Không quân và Hải quân vẫn còn nguyên vẹn dùng làm căn cứ cho các lực lượng liên hệ từ các quân khu khác rút về. Với ba Sư đoàn Bộ binh, cộng thêm gần nửa triệu Ðịa phương và Nghĩa quân, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chống cự một thời gian chờ cơn sốt chánh trị gây rối loạn và hoang mang trong hàng ngũ qua đi, chúng ta sẽ tìm thế phản công trong tương lai, chiếm lại phần đất nước đã bị mất. Tôi nghĩ đến gương của nước người, nước Trung Hoa vĩ đại của Tưởng Giới Thạch với hàng triệu binh sĩ, đã không đánh mà tan, phải bỏ chạy trước đạo quân của Mao Trạch Ðông. Ðến khi tàn quân chạy ra Ðài Loan, một mảnh đất nhỏ bé, họ Tưởng đã tổ chức lại hàng ngũ, đẩy lui bao nhiêu cuộc tiến công của cộng sản, rồi tổ chức được một xã hội bền vững đến bây giờ. Tôi nghĩ lại nước Việt Nam thân yêu rồi sẽ đi về đâu. Tưởng Giới Thạch còn có Ðài Loan, mình thì có gì? Phú Quốc? Hòn đảo này quá nhỏ và quá gần đất liền, không bảo toàn được. Tôi nghĩ đến giải đất vùng biên giới Việt Miên, bao gồm các khu vực có giáo dân Hòa Hảo sinh sống, có dẫy Thất Sơn, có căn cứ an toàn, có ba, bốn ngàn hang động hiểm trở thành những phòng tuyến kiên cố chống giữ các cuộc tiến công từ biên giới sang thì việc phòng thủ Quân khu 4 sẽ lâu bền hơn. Tôi mang ý kiến ra bàn với vị Tư lệnh Quân đoàn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam thì được sự tán thành của ông ngay. Nhưng rủi thay, việc hợp tác với giáo dân Hòa Hảo đã gặp trở ngại ngay từ bước đầu vì trước đó Thiếu tướng Nam đã có lần nhận chỉ thị của Tổng thống Thiệu để giải giới lực lượng Hòa Hảo Huỳnh Trung Hiếu và bắt giữ ông Hai Tập nên đã gây ra sự nghi kỵ và hiềm thù trong lòng những người bạn Hòa Hảo. Khoảng trung tuần tháng Tư năm 1975, Thiếu tướng Nam cùng tôi qua Mỹ Tho họp với các Tư lệnh Sư đoàn các Tỉnh trưởng miền Hậu Giang để thảo luận về kế hoạch ngăn chặn hoạt động của Cộng sản gây ảnh hưởng với tình hình an ninh Quân khu 4, Tướng Ngô Quang Trưởng từ Bộ Tổng Tham Mưu xuống tham dự buổi họp. Trong buổi họp, tôi có trình bầy tường tận về nghị quyết "Tổng tấn công, Tổng khởi nghĩa" để đi đến dứt điểm chiến trường của Cộng Sản. Một số sĩ quan tham dự buổi họp tỏ vẻ hoài nghi về khả năng của Cộng sản để thực hiện nghị quyết ấy ở miền Tây. Vào cuối tháng Tư, tại các vùng khác quân ta phải triệt thoái liên miên; riêng Vùng 4, cho đến ngày cuối cùng vẫn giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc phòng thủ Bộ Chỉ Huy cuối cùng của quân đội vẫn được ráo riết thực hiện. Các đà sắt làm cầu được xuất kho để hoàn thành những nhà hầm kiên cố, có thiết trí hệ thống truyền tin, chuẩn bị đoán tiếp Bộ Tổng Tham Mưu nếu Sài Gòn thất thủ. Chiều 26 tháng Tư, Thiếu tướng Nam cho lệnh họp các sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu và các đơn vị trưởng thuộc Quân đoàn 4 tại Trung tâm Hành quân. Họp xong, ông yêu cầu tôi lấy cuốn phim tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng chiếu cho mọi người xem. Ðó là cuốn phim "Chiến thắng Hạ Lào" liên quan đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 của quân đội ta. Tôi còn nhớ khi phim chiếu cảnh bọn Việt Cộng dẫn giải những chiến sĩ QLVNCH bị chúng bắt, những khuôn mặt quen thuộc hiện ra trên màn ảnh làm rung động sự cảm xúc của mọi người. Ðại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng 3 Nhảy dù hiện thoáng qua; anh bị thương phải chống gậy. Anh vẫn mặc bộ quân phục Dù, ốm hẳn đi nhưng khuôn mặt vẫn còn nét rắn rỏi. Theo sát anh là một tên Việt Cộng bé con, mặt còn non, hờm khẩu AK như chực nhả đạn. Hình ảnh này làm máu tôi sôi lên trong huyết quản. Tôi liếc nhìn Thiếu tướng Nam, ngồi bên cạnh, ông cũng nhìn lại tôi với cặp mắt buồn. Tôi biết rằng ông còn xúc động hơn tôi vì ông nguyên là Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù trước khi nhận lãnh chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông khẽ bảo tôi: "Nếu đời mình như thế là hết!" Ngày hôm sau, để nhận định thêm tình hình, tôi qua thăm Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 12 thuộc Sư đoàn 7, đóng tại Tân Lý Tây, quận Bến Tranh. Tôi gặp Ðại tá Ðặng Phương Thanh, Trung đoàn trưởng, cho biết tình hình trận chiến. Anh nhận định trung đoàn của anh đủ khả năng đối đầu với Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản đang dàn quân trước trận tuyến của anh. Anh đưa tôi đi xem chiến địa, nơi vừa xảy ra giao tranh ngày hôm qua. Xác địch còn nằm ngổn ngang trên các bờ bụi. Nhìn anh Thanh với dáng đi lầm lũi, chắc nịch, tôi cảm thấy anh là sĩ quan sẽ không hề lùi bước trước địch. Tốt nghiệp Khóa 16 Võ Bị Ðà Lạt, suốt thời gian trong quân ngũ, anh luôn có mặt tại đơn vị chiến đấu và mới được thăng cấp Ðại tá vào hôm trước. Sau này, tôi được biết anh đã lựa chọn thà tự sát còn hơn đầu hàng địch. Chúng ta là quân nhân ... Thời gian lặng lẽ trôi, bi thảm dần dần tới. Lúc đó vào khoảng tối 28 tháng Tư 1975, tiếng nói của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu vang lên từ Ðài phát thanh Sài Gòn yêu cầu toàn bộ Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ và Cơ Quan D.A.O. rút ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Lời yêu cầu trên được lập lại nhiều lần như xoáy vào tim óc, như nổ trong lồng ngực. Thế là hết! Họ đã âm mưu bỏ chúng ta thực sự rồi. Thành tích bao nhiêu năm chiến đấu đã tan thành mây khói. Ðêm đó và sáng hôm sau, quang cảnh thị xã Cần Thơ nhộn nhịp hẳn. Các loại xe ba bánh chở đồ từ các cơ sở Mỹ chạy ngược xuôi. Những trực thăng Air America không ngừng lên xuống các tàu nhỏ nhưng nhiều mã lực của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ rời bến trực chỉ hướng Ðại Ngãi, đem theo toàn bộ người Hoa Kỳ và nhiều người Việt làm việc với họ. Cảm nghĩ của tôi lúc đó là tôi không nuối tiếc sự ra đi của người Mỹ; vì dù họ có ở lại cũng không đóng góp được gì cho công cuộc chống Cộng của chúng ta. Nhưng sự ra đi của họ, trong bối cảnh bấy giờ đã trở thành một đoàn cân não trí mạng, đánh mạnh vào tâm trạng hoang mang của toàn thể nhân dân Việt Nam và làm suy yếu hẳn sự kháng cự cộng sản của QLVNCH. Trọn ngày 29, tôi có dịp gặp Thiếu tướng Nam nhiều lần nhưng chỉ bàn qua về tình hình có ảnh hưởng trực tiếp đến Quân khu 4 mà thôi. Nhìn ông trầm tư, tôi không nhắc tới chuyện thiết lập mật khu vì tôi biết ông cũng cảm thông với những gì tôi muốn nói. Chiều hôm đó, khi đi qua sân Bộ Tư Lệnh trở về phòng làm việc, tôi có gặp Chuẩn tướng Tham mưu trưởng Quân khu 4. Ðây là lần cuối tôi gặp ông vì nửa đêm hôm đó, tôi bắt được nghị quyết số 15 của cộng sản đề cập đến việc chuẩn bị tiếp thu các thành phố, đến kế hoạch thâm độc nhắm tiêu diệt những quân nhân và cán bộ quốc gia một khi chúng nắm được quyền hành. Sáng sớm ngày 30 tháng Tư, không khí Bộ tư lệnh Quân khu 4 có vẻ khẩn trương vì sự ra đi của Chuẩn tướng TMT và một số sĩ quan trong đêm trước. Tiếp theo đó, qua đài phát thanh Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh toàn bộ QLVNCH buông súng đầu hàng địch và chuẩn bị bàn giao căn cứ cho chúng. Mọi người đều rúng động; không khí căng thẳng đến cực độ. Sự thật quá phũ phàng. Trước đó, có người còn hy vọng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống để sửa soạn một giải pháp trung lập, hòa giải chứ đâu có ngờ ông ta lên làm Tổng thống để đầu hàng địch. Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh được chỉ định thay thế Chuẩn tướng TMT để triệu tập tất cả sĩ quan có mặt tại Bộ tư lệnh và các đơn vị trực thuộc và vị Tỉnh trưởng Cần Thơ tại Trung tâm Hành Quân để Thiếu tướng Nam nói chuyện. 10 giờ 30 sáng, Thiếu tướng bước vào Hội trường, mọi người nghiêm chỉnh đứng lên chào. Ông từ từ tiến lên bục cao, xoay mình đối diện với các sĩ quan trực ộc, khuôn mặt vẫn đầy cương nghị nhưng ánh mắt thật buồn. "Các sĩ quan thân mến," ông nói, "Như anh em đều biết, đất nước chúng ta đang rẽ vào khúc quanh quan trọng nhất của lịch sử. Chúng ta là quân nhân thì phải tuyệt đối tuân lệnh chánh phủ. vậy tôi để các anh lát nữa trở về đơn vị, tùy tiện sắp xếp công việc để bàn giao cho họ. Về phần tôi, mặc dù có sẵn trực thăng, tôi sẽ không đi đâu hết." Nói xong, ông rời phòng hội để về văn phòng ông. Tôi đẩy cửa bước theo để được nói chuyện với ông lần cuối: "Ông Tướng ơi, ông đành chịu vậy sao?" Tôi vẫn xưng hô kiểu đó khi chuyện vãn chỉ có ông và tôi. Ông cười buồn: "Biết làm sao được bây giờ hả anh." Rồi ông im lặng hút thuốc, thở khói nhè nhẹ, vẻ mặt đăm chiêu. Trước mặt ông là cái gạt tàn thuốc lá khổng lồ đầy ắp, chắc đêm qua ông đã thức trắng đêm. Trong thâm tâm, tôi muốn đề nghị với ông cùng tìm cách thoát hiểm nhưng tôi không mở lời được vì biết ông sẽ từ chối. Một lúc sau, tôi đứng thẳng người, kính cẩn chào cấp chỉ huy lần cuối rồi quay trở về phòng. Bấy giờ, tôi còn nhớ rõ, Trung uý Danh, Sĩ quan Tùy viên của Thiếu tướng Nam chạy theo, gọi tôi nhờ chỉ dẫn cách sử dụng khẩu súng lục màu xanh biếc mà Thiếu tướng vừa cho anh vào buổi sáng. Tôi không hiểu ông đã cho sĩ quan tùy viên khẩu súng xinh xắn để làm gì? Tôi âm thầm đếm bước chân trên lối đi dẫn về phòng tôi ở. Tôi liên tưởng ngày mai đây, cũng trên những bục đi này, bàn chân kẻ thù cũng sẽ bước chồng lên dấu chân tôi. Cuộc chiến này đã kéo dài trong bao năm trường, không ngờ lại tàn nhanh đến thế. Lòng tôi đầy bi phẫn. Mặc dù tôi không có cách gì để kháng cự địch nữa nhưng tôi không cam lòng đầu hàng chúng. Suy nghĩ mãi, tôi thấy mình phải tìm cách thoát hiểm, dù bỏ mạng trên đường thoát hiểm cũng đành. Ý nghĩ này làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi nhảy lên xe jep, lái ngang qua Tiểu khu Cần Thơ gặp Ðại tá Huỳnh Ngọc Diệp, một sĩ quan trừ bị bạn đồng khóa với Thiếu tướng Nam, để tìm phương thoát hiểm. Tôi trình bầy với anh về nghị quyết 15 của cộng sản và những tủi nhục và chúng sẽ dành cho mình khi chúng chiếm được phần đất này. Tôi đề nghị anh cùng tìm cách thoát hiểm. Ban đầu anh từ chối lời đề nghị, nhất quyết tử thủ. Nhưng sau tôi thành công trong sự thuyết phục anh và chúng tôi tìm phương tiện di chuyển. Chúng tôi rời bến Cần Thơ vào chiều ngày 30 tháng Tư 1975 trên một con đò máy chật hẹp, hướng ra cửa biển. Cuộc hành trình đầy cam go, tổn thất đã đánh dấu sự chấm dứt binh nghiệp của chúng tôi, trong sự tủi nhục, ê chề. Trên đường vượt thoát, được tin Thiếu tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng và một số bạn hữu đã tự sát hoặc bị cầm tù, tôi đã nhắm nghiền cặp mắt để nén lệ trào ra, lòng ngậm ngùi nhớ đến những khuôn mặt thân yêu đó mà trọn đời tôi sẽ không bao giờ quên... -------------------------------------------------------------------------------- Lê Nguyên Bình
|
|