Post by Huu Le on Aug 26, 2006 3:59:02 GMT 9
Khoa học và ngụy khoa học:
Một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Nguyễn Văn Tuấn
Việc ứng dụng các nguyên lí khoa học vào mục tiêu cải thiện cuộc sống của con người có một lịch sử lâu dài. Dấu vết của ứng dụng khoa học trong đời sống con người có thể tìm thấy trong nền văn minh Lưỡng hà, tức khoảng 4500 năm trước đây, khi mà người Sumerian sáng tạo ra chữ viết, toán học, lịch, và thiên văn học để cải tiến nông nghiệp, chính trị, và tôn giáo. Tuy nhiên việc ứng dụng phương pháp khoa học vào đời sống con người chỉ thực sự phát triển mạnh kể từ thế kỷ 14 trở đi. Có thể gọi đó là một thời kỳ cách mạng khoa học. Nói "cách mạng" cũng không ngoa, bởi vì các tư tưởng khoa học đã giải phóng con người khỏi những tăm tối (Dark Age), ở thời kỳ mà các ý thức hệ tôn giáo mộng mị thống trị niềm tin của con người qua hàng ngàn năm. Cho đến nay, ai cũng phải công nhận rằng chính khoa học xây dựng nên thế giới hiện đại. Khoa học cho chúng ta xe ô-tô, xe tăng, máy bay, điện lực, điện thoại, máy điện toán (computers), liên mạng (internet), v.v.. Khoa học giúp cho con người du hành vào mặt trăng. Khoa học góp phần làm tăng tuổi thọ của con người và con người sống lâu gấp hai lần so với 150 năm trước đây. Danh sách này có thể còn dài, nhưng thiết tưởng những lợi ích của khoa học như thế cũng đủ để thấy sự đóng góp của khoa học vào xã hội cực kỳ to lớn, và nó là một bộ phận không thiếu được trong xã hội hiện đại.
Trong những năm gần đây người ta thấy những thông tin liên quan đến khoa học (hay với danh nghĩa khoa học) và y khoa nói riêng xuất hiện trên báo chí và hệ thống truyền thông đại chúng với một tần số cao chưa bao giờ thấy trước đó. Hầu như hàng ngày, công chúng được cung cấp hàng chục bản tin về một khám phá mới nhất, hay một phát hiện có tầm cỡ, hay một thuật chữa trị tân tiến, hay một con số làm sửng sốt đến cả những người thờ ơ với khoa học. Nhiều khi, các bản tin được truyền đi với vài thay đổi về những chi tiết nhỏ, hay thậm chí những chi tiết mang tính đối nghịch nhau. Những mâu thuẫn như thế tăng theo cấp số nhân và cường độ xuất hiện của những bản tin như thế cao đến nổi người ta khó mà phân biệt được đâu là thật và đâu là giả. Nhiều khi người ta chỉ xuôi tay theo một võ đoán. Vì thế sự dồi dào của thông tin trên hình thức thực ra có thể lại là một sự nghèo nàn thông tin về bản chất.
Những loại thông tin sai lạc, huyễn hoặc đã và đang xâm chiếm vào xã hội, và có cơ may biến thành một loại "tôn giáo" mới, và chúng có thể làm cho người ta lẫn lộn giữa sự thật và hoang đường, giữa thực tế và mộng mị, giữa cái khả dĩ và cái không tưởng. Thực vậy, từ tôn giáo, thần thoại, dị đoan, chủ nghĩa thần bí, những niềm tin về Thời đại Mới (New Age), đến những tin tưởng vô lí đã và đang có mặt trong mọi thành phần xã hội. Có người sẽ nghĩ là những chuyện như thế là thuộc về thời Trung cổ, nhưng những con số thống kê gần đây cho thấy, những niềm tin phi khoa học như thế đang phát triển mạnh trong thế kỷ 20 và có thể cả thế kỷ 21. Một cuộc thăm dò ý kiến trong 1236 người Mỹ do hãng Gallup tổ chức năm 1990 cho thấy: 52% người tin vào thuật chiêm tinh, 46% tin vào tri giác ngoại cảm (ESP), 22% tin rằng có người từ một hành tinh khác ghé thăm trái đất, 42% tin rằng con người có thể liên lạc với người chết, 35% người tin rằng có quỉ, và 67% có kinh nghiệm siêu linh.
Một mẫu số chung của những thông tin loại này là những người sản sinh ra chúng thường hay dựa, hay nhân danh, vào hai chữ "khoa học". Hai chữ "khoa học" thường nhận được nhiều sự kính mến trong công chúng. Ngay cả những người dù không am hiểu nhiều về khoa học cũng thấy có một cái gì đó đặc biệt trong khoa học và phương pháp khoa học. Chỉ cần đặt hai chữ "khoa học" vào trước một lời phát biểu hay một lí lẽ là người ta cảm nhận ngay rằng đây là những phát biểu hay lí lẽ có thể tin cậy được. Một quảng cáo về một sản phẩm nào đó cho rằng đã được kiểm chứng bằng khoa học và cho thấy sản phẩm này tốt hơn các sản phẩm đang bày bán. Điều này ám chỉ rằng quảng cáo này đáng tin cậy, không còn bàn cãi gì thêm cả. Gần đây, một quảng cáo khác cho rằng các nhà khoa học tin tưởng rằng những gì viết trong Kinh Thánh là sự thật! Điều này hàm ý cho rằng nhà khoa học có uy tín và thẩm quyền trong việc thẩm định giá trị của Kinh Thánh.
Vấn đề được đặt ra là những câu hỏi tại sao: tại sao lại có những mâu thuẫn trong các thông tin liên quan đến khoa học; tại sao người ta lại tin vào những điều càn rỡ, quái đảng, phi lí; tại sao người ta lại tin vào những lí lẽ mà tên gọi của chúng thường được nhét vào hai chữ khoa học đằng trước? Trả lời những câu hỏi này không phải là một việc dễ dàng, vì có nhiều nguyên nhân cho hiện tượng trên. Nhưng một trong những nguyên nhân đó là sự lạm dụng khoa học, và nhất là tình trạng lẫn lộn giữa khoa học (science) và ngụy khoa học (pseudoscience). Đến đây thì câu hỏi được đặt ra: thế nào là khoa học và thế nào là ngụy khoa học?
Nói một cách ngắn gọn, khoa học là tập hợp những phương pháp trí tuệ và phương pháp thực tiễn dùng để diễn tả và giải thích những hiện tượng quan sát được hay suy đoán được, trong quá khứ hay hiện tại, nhằm xây dựng một hệ thống tri thức mà chúng ta có thể bác bỏ hay xác nhận được. Khoa học là một phương pháp suy nghĩ và hành động nhằm vào mục đích hiểu và cảm nhận được thế giới chung quanh một cách trực tiếp hay gián tiếp, quá khứ hay hiện tại. Những phương pháp trí tuệ bao gồm linh cảm, ước đoán, tư tưởng, giả thuyết, lí thuyết, và mô hình. Những phương pháp thực tiễn bao gồm bối cảnh của nghiên cứu, thu thập dữ kiện, hệ thống hóa dữ kiện, cộng tác cùng đồng nghiệp, thí nghiệm, tìm tòi và khám phá, phân tích thống kê, viết báo cáo khoa học, trình bày trong các hội nghị khoa học, và công bố kết quả nghiên cứu.
Khoa học dựa vào sự thật (facts). Những sự thật phải được quan sát hay thu thập bằng những phương pháp khách quan. Khoa học dựa vào những sự thật có thể thấy, có thể nghe, có thể sờ được, chứ không dựa vào kinh nghiệm cá nhân hay suy luận theo cảm tính. Điều quan trọng và cần thiết trong khoa học là không chỉ sự thật, mà là sự thật có liên quan đến vấn đề đang được điều tra. Những sự thật này phải được thu thập (i) có tổ chức, trực tiếp, và khách quan; (ii) độc lập với lí thuyết; và (iii) một cách tin cậy để làm nền tảng cho suy luận.
Tuy nhiên, cũng như mọi hiện tượng khác, phát triển của khoa học thường phải đi đôi với một phong trào khoa học giả tạo, hay ngụy khoa học. Ngụy khoa học cũng giống như ngụy biện, tức là những phát biểu của ngụy khoa học thường là những lí lẽ mà bề ngoài xem ra có vẻ đúng, hợp lí, nhưng sự thật là sai, để rút ra những kết luận xuyên tạc sự thật.
Thực ra, đối với giới chuyên môn và khoa bảng, họ không quan tâm đến ngụy khoa học vì họ cho đó là những trò chơi giải trí, và họ xem những người làm việc theo ngụy khoa học là những diễn viên múa rối lố bịch có chức năng chính là đóng hài kịch cho xã hội mua vui. Nhưng thiết tưởng đó là một thái độ thụ động, và hậu quả có thể rất xấu, vì ngụy khoa học có thể trở nên cực kỳ nguy hiểm. Trong quá khứ, ngụy khoa học đã từng xâm nhập vào chính trị và gây ra nhiều cuộc tàn sát đẩm máu (như trong thời Hitler và thuyết siêu chủng tộc). Ngụy khoa học còn có thể xâm nhập vào học đường và có thể làm băng hoại con em chúng ta. Ngụy khoa học, vì tính đơn giản của nó, còn làm cho chúng ta trở nên nô lệ với những cái tầm thường.
Vì thế một trong những kỹ năng của một công dân trong xã hội dân chủ hiện đại là cần phải phân biệt đâu là những giá trị thuộc về khoa học và đâu là những giá trị thuộc phạm trù ngụy khoa học. Vả lại, một công chúng hiểu biết khoa học và công nghệ, cùng với những hạn chế và ý nghĩa của khoa học, sẽ là một lực lượng hùng hậu để bẻ gẫy những ngụy biện của giới ngụy khoa học. Nhưng làm thế nào để phân biệt được khoa học với ngụy khoa học? Việc trước tiên là chúng ta phải định nghĩa thế nào là khoa học chân chính (mà trong bài viết này sẽ đề cập là "khoa học"). Trong quá khứ đã có quá nhiều học giả viết và tranh luận về một truyền thống văn hóa mà người ta gọi là khoa học. Những tác giả lừng danh như Eddington, Popper, Kuhn, Cohen, Losee, Woolgar ... đã từng viết nhiều về lịch sử và đặc tính của khoa học. Ở đây, người viết bài này không muốn lập lại những điều đã có trong sách giáo khoa, mà chỉ muốn đưa ra một vài đặc tính mà ai cũng có thể nhận thấy được thế nào là khoa học và thế nào là ngụy khoa học.
Nhận dạng là phương cách xác thực nhất để phân biệt khoa học với nguỵ khoa học, nhận dạng càng nhiều càng tốt, những gì thực và đối chiếu với những gì giả tạo. Khi người phát biểu nói "biết khoa học", điều này không có nghĩa là người đó chỉ biết những dữ kiện khoa học (ví dụ như khoảng cách giữa trái đất và mặt trời, tuổi của trái đất, phân biệt giữa loài động vật có vú và loài bò sát, v.v.), mà phải biết về bản chất của khoa học, tức là những tiêu chuẩn về bằng chứng, kế hoạch tiến hành một thí nghiệm có ý nghĩa, xem xét và cân nhắc những tình huống khác nhau, việc thử nghiệm giả thuyết, củng cố hay đề ra một lí thuyết, v.v. Nói tóm lại là biết những khía cạnh về phương pháp khoa học mà các nhà khoa học dùng chúng để rút ra những kết luận chính xác, đáng tin cậy, và có ý nghĩa về những hiện tượng chung quanh chúng ta.
Do đó, cần phải xem xét những dấu ấn của ngụy khoa học. Sự vá lấp những sự thật bằng những điều huyễn hoặc và vô duyên là những điều rất dễ dàng nhận dạng. Trong quá khứ, đã có nhiều người viết về những đặc tính của ngụy khoa học để cảnh báo học sinh và sinh viên, nhưng thiết tưởng trong các tác giả đó, Tiến sĩ Rory Coker, giáo sư Vật lí thuộc Trường Đại học Texas (Austin), là một trong những người đã làm một cách đầy đủ nhất. Trong một bài viết ngắn, "Distinguishing science and pseudoscience", Giáo sư Coker đã thống kê những đặc điểm của ngụy khoa học một cách xúc tích nhưng dễ hiểu. Bài viết này, một phần lớn, dựa vào những ý của Giáo sư Coker, nhưng thêm vào đó là những nhận thức riêng của người viết qua kinh nghiệm cá nhân.
Cần nói thêm là những đặc tính của ngụy khoa học được trình bày dưới đây không phải là một danh sách đầy đủ, nhưng ít ra chúng ta cũng có một ý niệm khá rõ ràng về giới làm công tác khoa học. Nếu một hay một số đặc tính này hiện diện trong bất cứ một tài liệu nào thì đó là triệu chứng của ngụy khoa học. Mặt khác, nếu một tài liệu không có những đặc tính đó vẫn có thể là một ngụy khoa học, bởi vì nhà ngụy khoa học có thể đã sáng chế ra một cách thức mới để lường gạt chính họ. Những đặc tính dưới đây là một số điều kiện đủ, hơn là những điều kiện cần, để nhận diện ngụy khoa học.
Thứ nhất, giới ngụy khoa học thường có khuynh hướng lãnh đạm, thờ ơ trước sự thật và cơ sở lập luận. Chúng ta biết rằng những nhà viết tiểu thuyết hay sáng chế ra những "sự thật ma" – những "sự thật" mà Norman Mailer gọi một cách dí dỏm và văn chương là "factoid" (tức giống-sự-thật), mà không cần phải đi đâu xa để tìm hiểu thực tế ra làm sao. Ấy thế mà cái cách làm việc của những nhà viết tiểu thuyết đó lại được giới làm ngụy khoa học trân trọng. Nhà ngụy khoa học chẳng cần tốn công đi vào thực tế để thu thập dữ kiện (data) thật mà chỉ đưa ra những dữ kiện ma, và từ đó đúc kết thành kết luận. Một khi đã có kết luận, họ cũng chẳng cần phải duyệt lại kết luận đó đúng hay sai. Các sách về khoa học luôn luôn được cập nhật hóa đều đặn, chiếu theo những dữ kiện mới; ngược lại sách của giới ngụy khoa học thì chẳng bao giờ thay đổi, cứ hết tháng này sang năm nọ, vẫn những dữ kiện ma, vẫn những kết luận cứng như đá.
Thứ hai, những "nghiên cứu" ngụy khoa học hầu như lúc nào cũng mang tính rời rạc, chấp nối. Tức là, nhà ngụy khoa học chỉ cắt xén một mớ bản tin trong các tờ báo dành cho công chúng, thu thập những tin đồn, đọc những tài liệu ngụy khoa học khác, hay trích dẫn từ kinh thánh hay những chuyện thần thoại. Họ cũng chẳng thèm tốn công kiểm tra nguồn gốc và tính chính xác của tài liệu mà họ dùng. Nhà ngụy khoa học hầu như không bao giờ làm những cuộc điều tra khoa học cho có hệ thống và độc lập trước khi kết luận, mà thường hay kết luận trước khi thu thập dữ kiện.
Thứ ba, giới làm ngụy khoa học thường bắt đầu bằng một giả thuyết cảm tính, hay một giả thuyết có thể làm hấp dẫn và kích động công chúng. Rồi từ đó, họ tìm những tin tức, dữ kiện – bất cứ dữ kiện nào – để làm nền tảng cho niềm tin của họ. Họ sẵn sàng bỏ qua những bằng chứng nào mâu thuẫn với niềm tin của họ. Nói rõ hơn, giới làm ngụy khoa học cố gắng hợp lí hóa những niềm tin của họ, chứ không màng đến những điều tra và tìm hiểu sự kiện một cách nghiêm túc, và cũng chẳng cần phải cân nhắc những tình huống khả dĩ khác nhau. Giới làm ngụy khoa học rất thiếu kiên nhẫn, lúc nào họ cũng nhấp nhỏm nhảy đến kết luận mà họ đã có sẵn từ trước, và sẵn sàng nghiền nát những trục ý thức hệ khác mình.
Một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Nguyễn Văn Tuấn
Việc ứng dụng các nguyên lí khoa học vào mục tiêu cải thiện cuộc sống của con người có một lịch sử lâu dài. Dấu vết của ứng dụng khoa học trong đời sống con người có thể tìm thấy trong nền văn minh Lưỡng hà, tức khoảng 4500 năm trước đây, khi mà người Sumerian sáng tạo ra chữ viết, toán học, lịch, và thiên văn học để cải tiến nông nghiệp, chính trị, và tôn giáo. Tuy nhiên việc ứng dụng phương pháp khoa học vào đời sống con người chỉ thực sự phát triển mạnh kể từ thế kỷ 14 trở đi. Có thể gọi đó là một thời kỳ cách mạng khoa học. Nói "cách mạng" cũng không ngoa, bởi vì các tư tưởng khoa học đã giải phóng con người khỏi những tăm tối (Dark Age), ở thời kỳ mà các ý thức hệ tôn giáo mộng mị thống trị niềm tin của con người qua hàng ngàn năm. Cho đến nay, ai cũng phải công nhận rằng chính khoa học xây dựng nên thế giới hiện đại. Khoa học cho chúng ta xe ô-tô, xe tăng, máy bay, điện lực, điện thoại, máy điện toán (computers), liên mạng (internet), v.v.. Khoa học giúp cho con người du hành vào mặt trăng. Khoa học góp phần làm tăng tuổi thọ của con người và con người sống lâu gấp hai lần so với 150 năm trước đây. Danh sách này có thể còn dài, nhưng thiết tưởng những lợi ích của khoa học như thế cũng đủ để thấy sự đóng góp của khoa học vào xã hội cực kỳ to lớn, và nó là một bộ phận không thiếu được trong xã hội hiện đại.
Trong những năm gần đây người ta thấy những thông tin liên quan đến khoa học (hay với danh nghĩa khoa học) và y khoa nói riêng xuất hiện trên báo chí và hệ thống truyền thông đại chúng với một tần số cao chưa bao giờ thấy trước đó. Hầu như hàng ngày, công chúng được cung cấp hàng chục bản tin về một khám phá mới nhất, hay một phát hiện có tầm cỡ, hay một thuật chữa trị tân tiến, hay một con số làm sửng sốt đến cả những người thờ ơ với khoa học. Nhiều khi, các bản tin được truyền đi với vài thay đổi về những chi tiết nhỏ, hay thậm chí những chi tiết mang tính đối nghịch nhau. Những mâu thuẫn như thế tăng theo cấp số nhân và cường độ xuất hiện của những bản tin như thế cao đến nổi người ta khó mà phân biệt được đâu là thật và đâu là giả. Nhiều khi người ta chỉ xuôi tay theo một võ đoán. Vì thế sự dồi dào của thông tin trên hình thức thực ra có thể lại là một sự nghèo nàn thông tin về bản chất.
Những loại thông tin sai lạc, huyễn hoặc đã và đang xâm chiếm vào xã hội, và có cơ may biến thành một loại "tôn giáo" mới, và chúng có thể làm cho người ta lẫn lộn giữa sự thật và hoang đường, giữa thực tế và mộng mị, giữa cái khả dĩ và cái không tưởng. Thực vậy, từ tôn giáo, thần thoại, dị đoan, chủ nghĩa thần bí, những niềm tin về Thời đại Mới (New Age), đến những tin tưởng vô lí đã và đang có mặt trong mọi thành phần xã hội. Có người sẽ nghĩ là những chuyện như thế là thuộc về thời Trung cổ, nhưng những con số thống kê gần đây cho thấy, những niềm tin phi khoa học như thế đang phát triển mạnh trong thế kỷ 20 và có thể cả thế kỷ 21. Một cuộc thăm dò ý kiến trong 1236 người Mỹ do hãng Gallup tổ chức năm 1990 cho thấy: 52% người tin vào thuật chiêm tinh, 46% tin vào tri giác ngoại cảm (ESP), 22% tin rằng có người từ một hành tinh khác ghé thăm trái đất, 42% tin rằng con người có thể liên lạc với người chết, 35% người tin rằng có quỉ, và 67% có kinh nghiệm siêu linh.
Một mẫu số chung của những thông tin loại này là những người sản sinh ra chúng thường hay dựa, hay nhân danh, vào hai chữ "khoa học". Hai chữ "khoa học" thường nhận được nhiều sự kính mến trong công chúng. Ngay cả những người dù không am hiểu nhiều về khoa học cũng thấy có một cái gì đó đặc biệt trong khoa học và phương pháp khoa học. Chỉ cần đặt hai chữ "khoa học" vào trước một lời phát biểu hay một lí lẽ là người ta cảm nhận ngay rằng đây là những phát biểu hay lí lẽ có thể tin cậy được. Một quảng cáo về một sản phẩm nào đó cho rằng đã được kiểm chứng bằng khoa học và cho thấy sản phẩm này tốt hơn các sản phẩm đang bày bán. Điều này ám chỉ rằng quảng cáo này đáng tin cậy, không còn bàn cãi gì thêm cả. Gần đây, một quảng cáo khác cho rằng các nhà khoa học tin tưởng rằng những gì viết trong Kinh Thánh là sự thật! Điều này hàm ý cho rằng nhà khoa học có uy tín và thẩm quyền trong việc thẩm định giá trị của Kinh Thánh.
Vấn đề được đặt ra là những câu hỏi tại sao: tại sao lại có những mâu thuẫn trong các thông tin liên quan đến khoa học; tại sao người ta lại tin vào những điều càn rỡ, quái đảng, phi lí; tại sao người ta lại tin vào những lí lẽ mà tên gọi của chúng thường được nhét vào hai chữ khoa học đằng trước? Trả lời những câu hỏi này không phải là một việc dễ dàng, vì có nhiều nguyên nhân cho hiện tượng trên. Nhưng một trong những nguyên nhân đó là sự lạm dụng khoa học, và nhất là tình trạng lẫn lộn giữa khoa học (science) và ngụy khoa học (pseudoscience). Đến đây thì câu hỏi được đặt ra: thế nào là khoa học và thế nào là ngụy khoa học?
Nói một cách ngắn gọn, khoa học là tập hợp những phương pháp trí tuệ và phương pháp thực tiễn dùng để diễn tả và giải thích những hiện tượng quan sát được hay suy đoán được, trong quá khứ hay hiện tại, nhằm xây dựng một hệ thống tri thức mà chúng ta có thể bác bỏ hay xác nhận được. Khoa học là một phương pháp suy nghĩ và hành động nhằm vào mục đích hiểu và cảm nhận được thế giới chung quanh một cách trực tiếp hay gián tiếp, quá khứ hay hiện tại. Những phương pháp trí tuệ bao gồm linh cảm, ước đoán, tư tưởng, giả thuyết, lí thuyết, và mô hình. Những phương pháp thực tiễn bao gồm bối cảnh của nghiên cứu, thu thập dữ kiện, hệ thống hóa dữ kiện, cộng tác cùng đồng nghiệp, thí nghiệm, tìm tòi và khám phá, phân tích thống kê, viết báo cáo khoa học, trình bày trong các hội nghị khoa học, và công bố kết quả nghiên cứu.
Khoa học dựa vào sự thật (facts). Những sự thật phải được quan sát hay thu thập bằng những phương pháp khách quan. Khoa học dựa vào những sự thật có thể thấy, có thể nghe, có thể sờ được, chứ không dựa vào kinh nghiệm cá nhân hay suy luận theo cảm tính. Điều quan trọng và cần thiết trong khoa học là không chỉ sự thật, mà là sự thật có liên quan đến vấn đề đang được điều tra. Những sự thật này phải được thu thập (i) có tổ chức, trực tiếp, và khách quan; (ii) độc lập với lí thuyết; và (iii) một cách tin cậy để làm nền tảng cho suy luận.
Tuy nhiên, cũng như mọi hiện tượng khác, phát triển của khoa học thường phải đi đôi với một phong trào khoa học giả tạo, hay ngụy khoa học. Ngụy khoa học cũng giống như ngụy biện, tức là những phát biểu của ngụy khoa học thường là những lí lẽ mà bề ngoài xem ra có vẻ đúng, hợp lí, nhưng sự thật là sai, để rút ra những kết luận xuyên tạc sự thật.
Thực ra, đối với giới chuyên môn và khoa bảng, họ không quan tâm đến ngụy khoa học vì họ cho đó là những trò chơi giải trí, và họ xem những người làm việc theo ngụy khoa học là những diễn viên múa rối lố bịch có chức năng chính là đóng hài kịch cho xã hội mua vui. Nhưng thiết tưởng đó là một thái độ thụ động, và hậu quả có thể rất xấu, vì ngụy khoa học có thể trở nên cực kỳ nguy hiểm. Trong quá khứ, ngụy khoa học đã từng xâm nhập vào chính trị và gây ra nhiều cuộc tàn sát đẩm máu (như trong thời Hitler và thuyết siêu chủng tộc). Ngụy khoa học còn có thể xâm nhập vào học đường và có thể làm băng hoại con em chúng ta. Ngụy khoa học, vì tính đơn giản của nó, còn làm cho chúng ta trở nên nô lệ với những cái tầm thường.
Vì thế một trong những kỹ năng của một công dân trong xã hội dân chủ hiện đại là cần phải phân biệt đâu là những giá trị thuộc về khoa học và đâu là những giá trị thuộc phạm trù ngụy khoa học. Vả lại, một công chúng hiểu biết khoa học và công nghệ, cùng với những hạn chế và ý nghĩa của khoa học, sẽ là một lực lượng hùng hậu để bẻ gẫy những ngụy biện của giới ngụy khoa học. Nhưng làm thế nào để phân biệt được khoa học với ngụy khoa học? Việc trước tiên là chúng ta phải định nghĩa thế nào là khoa học chân chính (mà trong bài viết này sẽ đề cập là "khoa học"). Trong quá khứ đã có quá nhiều học giả viết và tranh luận về một truyền thống văn hóa mà người ta gọi là khoa học. Những tác giả lừng danh như Eddington, Popper, Kuhn, Cohen, Losee, Woolgar ... đã từng viết nhiều về lịch sử và đặc tính của khoa học. Ở đây, người viết bài này không muốn lập lại những điều đã có trong sách giáo khoa, mà chỉ muốn đưa ra một vài đặc tính mà ai cũng có thể nhận thấy được thế nào là khoa học và thế nào là ngụy khoa học.
Nhận dạng là phương cách xác thực nhất để phân biệt khoa học với nguỵ khoa học, nhận dạng càng nhiều càng tốt, những gì thực và đối chiếu với những gì giả tạo. Khi người phát biểu nói "biết khoa học", điều này không có nghĩa là người đó chỉ biết những dữ kiện khoa học (ví dụ như khoảng cách giữa trái đất và mặt trời, tuổi của trái đất, phân biệt giữa loài động vật có vú và loài bò sát, v.v.), mà phải biết về bản chất của khoa học, tức là những tiêu chuẩn về bằng chứng, kế hoạch tiến hành một thí nghiệm có ý nghĩa, xem xét và cân nhắc những tình huống khác nhau, việc thử nghiệm giả thuyết, củng cố hay đề ra một lí thuyết, v.v. Nói tóm lại là biết những khía cạnh về phương pháp khoa học mà các nhà khoa học dùng chúng để rút ra những kết luận chính xác, đáng tin cậy, và có ý nghĩa về những hiện tượng chung quanh chúng ta.
Do đó, cần phải xem xét những dấu ấn của ngụy khoa học. Sự vá lấp những sự thật bằng những điều huyễn hoặc và vô duyên là những điều rất dễ dàng nhận dạng. Trong quá khứ, đã có nhiều người viết về những đặc tính của ngụy khoa học để cảnh báo học sinh và sinh viên, nhưng thiết tưởng trong các tác giả đó, Tiến sĩ Rory Coker, giáo sư Vật lí thuộc Trường Đại học Texas (Austin), là một trong những người đã làm một cách đầy đủ nhất. Trong một bài viết ngắn, "Distinguishing science and pseudoscience", Giáo sư Coker đã thống kê những đặc điểm của ngụy khoa học một cách xúc tích nhưng dễ hiểu. Bài viết này, một phần lớn, dựa vào những ý của Giáo sư Coker, nhưng thêm vào đó là những nhận thức riêng của người viết qua kinh nghiệm cá nhân.
Cần nói thêm là những đặc tính của ngụy khoa học được trình bày dưới đây không phải là một danh sách đầy đủ, nhưng ít ra chúng ta cũng có một ý niệm khá rõ ràng về giới làm công tác khoa học. Nếu một hay một số đặc tính này hiện diện trong bất cứ một tài liệu nào thì đó là triệu chứng của ngụy khoa học. Mặt khác, nếu một tài liệu không có những đặc tính đó vẫn có thể là một ngụy khoa học, bởi vì nhà ngụy khoa học có thể đã sáng chế ra một cách thức mới để lường gạt chính họ. Những đặc tính dưới đây là một số điều kiện đủ, hơn là những điều kiện cần, để nhận diện ngụy khoa học.
Thứ nhất, giới ngụy khoa học thường có khuynh hướng lãnh đạm, thờ ơ trước sự thật và cơ sở lập luận. Chúng ta biết rằng những nhà viết tiểu thuyết hay sáng chế ra những "sự thật ma" – những "sự thật" mà Norman Mailer gọi một cách dí dỏm và văn chương là "factoid" (tức giống-sự-thật), mà không cần phải đi đâu xa để tìm hiểu thực tế ra làm sao. Ấy thế mà cái cách làm việc của những nhà viết tiểu thuyết đó lại được giới làm ngụy khoa học trân trọng. Nhà ngụy khoa học chẳng cần tốn công đi vào thực tế để thu thập dữ kiện (data) thật mà chỉ đưa ra những dữ kiện ma, và từ đó đúc kết thành kết luận. Một khi đã có kết luận, họ cũng chẳng cần phải duyệt lại kết luận đó đúng hay sai. Các sách về khoa học luôn luôn được cập nhật hóa đều đặn, chiếu theo những dữ kiện mới; ngược lại sách của giới ngụy khoa học thì chẳng bao giờ thay đổi, cứ hết tháng này sang năm nọ, vẫn những dữ kiện ma, vẫn những kết luận cứng như đá.
Thứ hai, những "nghiên cứu" ngụy khoa học hầu như lúc nào cũng mang tính rời rạc, chấp nối. Tức là, nhà ngụy khoa học chỉ cắt xén một mớ bản tin trong các tờ báo dành cho công chúng, thu thập những tin đồn, đọc những tài liệu ngụy khoa học khác, hay trích dẫn từ kinh thánh hay những chuyện thần thoại. Họ cũng chẳng thèm tốn công kiểm tra nguồn gốc và tính chính xác của tài liệu mà họ dùng. Nhà ngụy khoa học hầu như không bao giờ làm những cuộc điều tra khoa học cho có hệ thống và độc lập trước khi kết luận, mà thường hay kết luận trước khi thu thập dữ kiện.
Thứ ba, giới làm ngụy khoa học thường bắt đầu bằng một giả thuyết cảm tính, hay một giả thuyết có thể làm hấp dẫn và kích động công chúng. Rồi từ đó, họ tìm những tin tức, dữ kiện – bất cứ dữ kiện nào – để làm nền tảng cho niềm tin của họ. Họ sẵn sàng bỏ qua những bằng chứng nào mâu thuẫn với niềm tin của họ. Nói rõ hơn, giới làm ngụy khoa học cố gắng hợp lí hóa những niềm tin của họ, chứ không màng đến những điều tra và tìm hiểu sự kiện một cách nghiêm túc, và cũng chẳng cần phải cân nhắc những tình huống khả dĩ khác nhau. Giới làm ngụy khoa học rất thiếu kiên nhẫn, lúc nào họ cũng nhấp nhỏm nhảy đến kết luận mà họ đã có sẵn từ trước, và sẵn sàng nghiền nát những trục ý thức hệ khác mình.