Post by Vĩnh Long on Apr 15, 2007 2:05:08 GMT 9
Dòng nhật ký và tùy bút trong vãn học Nhật Bản.
Cái nhìn sắc bén của những kẻ ðứng bên lề về cuộc ðời
Nguyễn Nam Trân
TIẾT I: NHẬT KÝ
Trong xã hội quí tộc Nhật Bản, vai trò của nikki (nhật ký) là ghi chép các việc công hằng ngày. Viết bằng chữ Hán, nó ðýợc dùng nhý một thứ tài liệu thực dụng ðể ghi nhớ mọi việc (bị vong lục) và do các quan chức thýờng là phái nam ðảm nhiệm. Nikki viết bằng chữ quốc âm kana cũng ðã xuất hiện vào ðầu thế kỷ thứ 10 ví dụ ðể biên chép diễn biến của những cuộc thi tài ở các hội thõ (uta-awase) chẳng hạn, nhýng việc ghi chép nầy vẫn còn có tính cách công cộng. Phải ðợi ðến Tosa Nikki (Thổ Tá Nhật Ký) thì thể loại Nhật Ký viết bằng quốc âm Kana mới ðýợc coi nhý một hình thức vãn chýõng. Thể loại này cần ðýợc hiểu theo nghĩa rộng nghĩa là "ghi chép"(bút ký) có lẫn chủ quan chứ không phải "ghi chép hằng ngày" khách quan vô tý. Nó bao gồm cả những suy tý có tính chất nội tâm (jishô = tự chiếu) và thýờng chen cả thõ waka vào nữa. Tuy ngày nay ngýời Nhật vẫn tiếp tục viết nikki nhýng cái gọi là "vãn học nikki" của họ ðã thuộc hẳn vào một thời ðại quá vãng (thế kỷ 10 ðến 16).
A) Tosa Nikki (Thổ Tá Nhật Ký)
Ðýợc biết do Ki-no-Tsurayuki (Kỷ, Quán Chi, 868?-945?) viết và cho ra ðời nãm 935. Trong cuốn nhật ký nầy, Tsurayuki ðã ghi chép chi tiết về cuộc hành trình 55 ngày ðýờng của cá nhân ông từ Tosa (Thổ Tá, nay thuộc tỉnh Kochi, phía nam ðảo Shikoku), nõi ông vừa thôi việc quận thú (hay trấn thủ = kami), về ðến kinh ðô. Nội dung nhật ký nhắc nhở nhiều về kỷ niệm về ðứa con gái ðã chết trong thời gian ở nhiệm sở, nỗi lo lắng về cuộc hành trình ðýờng thủy ðầy sóng gió và cýớp bóc cũng nhý niềm vui và hy vọng lúc hồi kinh.
Chúng tôi từ giả chỗ ðỗ lại tối hôm trýớc ðể ði tiếp ðến một bến khác. Trông thấy núihiện ra ở ðằng xa. Một ðứa bé lên chín, mặt còn trẻ hõn tuổi của nó, bảo rằng nó có cảm týởng núi ðang chạy theo thuyền. Mọi ngýời còn ngạc nhiên hõn vì thấy nhân ðó nó có làm một bài thõ:
Thuyền trôi, nhìn cảnh núi ðồi,
Hỏi tùng có biết núi trôi theo thuyền?
Bài thõ thật hợp với một cậu bé.
Hôm ðó biển ðộng, tuyết rõi trên những mỏm ðá ven bờ và sóng vỡ ra nhý hoa. Có ngýời nào ðấy vịnh nhý thế này:
Tai nghe sóng ðánh gần xa,
Mắt nhìn ngỡ tuyết hay hoa trắng trời.
(Trích Tosa Nikki, Ngày thứ 22)
Tác giả ðã giả thác tâm sự vào một nhân vật nữ ðể viết cho nên sử dụng ðýợc lối hành vãn mà thời ấy mệnh danh là "lối viết ðàn bà" (onnade = nữ thủ) nghĩa là tự do, uyển chuyển, sắc sảo, biết ðùa cợt, lại hay châm biếm. Có thể nói là, lần ðầu tiên, nhờ có vãn chýõng quốc âm kana mà vãn nhân thời ðó ðã có phýõng tiện ðể mô tả và phê phán xã hội ðýõng thời cũng nhý trình bày dễ dàng hõn ðýợc những chi tiết cuộc sống nội tâm của chính mình.
Thực ra chữ onnade (nữ thủ) là ðể gọi loại vãn tự hiragana tức bình-giả danh (vãn tự biểu âm bắt nguồn từ chữ Hán viết theo lối thảo) của Nhật. Hiragana ðýợc xem nhý dành cho các bà ðể họ làm thõ Waka hay viết thý (thời ðó thý tín gọi là tiêu tức [1] và ngay cả khi viết truyện hoặc nhật ký. Trong khi ðó, chữ Hán (Kanji) ðýợc gọi là mana (chân danh) là chữ viết của ðàn ông và mang tên là onokode (nam thủ). Tuy nhiên từ ðời Nara býớc qua thời Hei-an, ðã có một sự chuyển hýớng: onokode ðã nhýờng býớc cho onnade nghĩa là Giả ðã lấn lýớt Chân, dòng vãn học phụ nữ bị coi thýờng kia lần lần ðã chiếm ýu thế.
Ðầu thời Hei-an, ðã có manyôgana (Vạn Diệp-giả danh) hay magana (chân-giả danh) tức là lối biểu hiện âm tiết Nhật qua chữ Hán viết theo lối Hài và Hành nghĩa là không giản lýợc. Thế rồi vãn tự sôgana (thảo-giả danh) ra ðời và ðúng nhý tên của nó, bắt nguồn từ lối viết thảo với khuynh hýớng giản lýợc hóa. Dýới triều Hei-an thì magana lại trở thành onokode (nam thủ). Khi viết magana nhanh tay thì tốc ðộ viết làm cho chữ tháu ði và biến dạng thành sôgana, hình thái thay ðổi ðến ðộ không còn nhận ra mặt chữ xýa (chân týớng). Ðó là onnade vậy.
Ðặc ðiểm của Tosa Nikki là trong ðó có ghi lại 57 bài waka và nội dung của Nikki có liên quan ðến cuộc sống riêng tý của tác giả, ðó là một ðiều mới mẻ. Tuy nội dung của nó không phong phú bằng Nittô Guhô Junrei Kôki (Nhập Ðýờng Cầu Pháp Tuần Lễ Hành Kí) của tãng Ennin (Viên Nhân tức Jikaku daishi, Từ Giác Ðại Sý) viết trýớc ðó hõn một thế kỷ cũng nhý một trãm bài thõ bày tỏ tâm sự mình (trong Tự Ý Nhất Bách Vận ) của Sugawara no Michizane nhýng chủ ý của Ki no Tsurayuki không phải là sự quan sát ngoại giới hay trầm tý suy gẫm nhý hai ngýời ði trýớc ðó, nhýng ðúng ra là ðể trình bày biến chuyển tâm lý, tình cảm của mình. Nhý khi về ðến ngôi nhà cũ ở Kyôto nay ðã tan hoang, ông viết :
" Lòng của ngýời giữ nhà cho ta chắc cũng ðến ðiêu tàn nhý ngôi nhà. Chỉ có nãm sáu nãm trôi qua từ ngày ta ði vắng mà týởng ðã mấy trãm nãm. Trong ta tràn ngập bao mối cảm hoài và ta nghĩ về ðứa con gái của ta ðã sinh ra trong ngôi nhà. Ta không biết nói sao hõn ðể tỏ lòng thýõng tiếc nó ðã không còn ðể về ðây với ta lần nầy ".
Vai trò của Tosa Nikki rất quan trọng vì, tuy do một ngýời ðàn ông viết ra, nó ðã mở ðýờng cho một dòng vãn học quan trọng của Nhật Bản : vãn học nữ lýu (joryuu bungaku), gồm nhật ký (sẽ ði vào chi tiết sau) nhý Kagerô Nikki, Izumi Shikibu Nikki, Murasaki Shikibu Nikki, Sarashina Nikki và tùy bút mà ðiển hình là Makura Sôshi.
B) Kagerô Nikki (Tinh Ðình Nhật Ký) [2]
Sách gồm ba quyển thýợng, trung, hạ , do bà mẹ (không rõ tên) của Fujiwara no Michitsuna (Ðằng Nguyên, Ðạo Cýõng) trýớc tác, ra ðời nãm 974. Ngýời ta chỉ biết tác giả mất khoảng nãm 995 mà thôi. Bà là con gái của Fujiwara Tomoyasu (Ðằng Nguyên Luân Ninh) và là dì của tác giả Sarashina Nikki (sẽ nói ðến trong những trang sau) tức con gái (cũng không rõ tên) của Fujiwara Takasue (Ðằng Nguyên Hiếu Tiêu). Trong ðó ghi chép sự việc từ lúc bà ðýợc Fujiwara Kane-ie [3] (Ðằng Nguyên Kiêm Gia) cầu hôn (954) nãm 19 tuổi cho ðến nãm 40 tuổi (974) nghĩa là hai mýõi mốt nãm của cuộc sống vợ chồng. Tác giả sinh trong một gia ðình quan trấn thủ (suryô = thủ lĩnh) tức giai cấp tiểu quí tộc ðịa phýõng nhýng nhờ duyên phận ðýợc lọt vào gia ðình ðại quí tộc. Bà là vợ hai, sinh ðýợc ngýời con trai là Michitsuna (Ðạo Cýõng), thành thứ mẫu của quyền thần Michinaga (Ðạo Trýờng) và hoàng hậu Senshi (Thuyên Tử), có hai cháu gái gọi bằng bà về sau cũng làm hoàng hậu (tức Teishi và Shôshi ðã nhắc ðến ở trên). Tuy nhiên, ðiều bà ghi lại trong nhật ký là chuỗi ngày không ðýợc ðầm ấm với chồng cho ðến khi trông cậy ðýợc vào con trai mình.
Thuở xýa, dýới chế ðộ ða thê, vì là ngýời có lòng tự hào nên sau khi thất bại trong việc giữ tình yêu của chồng mà ðối với bà chỉ là cái bóng chập chờn (kage), bà trở thành cay ðắng và ðau khổ. Tác phẩm trình bày ðýợc tâm trạng buồn thýõng, u ẩn ðó.
Trong tựa sách, bà phê bình tính cách bịa ðặt vô nghĩa (soragoto = không ngôn, hý sự) của thể loại truyện monogatari và chủ trýõng viết là phải ði từ những kinh nghiệm cá nhân có thực. Tuy bà trình bày nỗi bất hạnh (ghen tuông, lo lắng, tuyệt vọng) trong cuộc sống vợ chồng nhýng bà cũng muốn làm sáng tỏ ðể mọi ngýời rõ nguyên nhân của nỗi bất hạnh ðó là gì và cho biết nguồn hạnh phúc gia ðình không phải ðến từ mỗi ông chồng là Kane-ie. Phần ðầu tập nhật ký là vãn vần (quyển thýợng, 15 nãm ðầu), ðặt trọng tâm qua trao ðổi thõ xýớng họa, nhýng dần dần khi chủ ðề tác giả ðặt ra ðã ðýợc khai thác sâu xa hõn thì nó ngã hẳn qua hình thức vãn xuôi (quyển trung và hạ, những nãm còn lại).
Kagerô khai triển ðýợc bút pháp của Tosa trong lãnh vực vãn chýõng quốc âm và nhý thế làm ðồi dào thêm khả nãng phân tích tâm lý bên trong, ðã ảnh hýởng nhiều ðến Genji về sau.
C) Izumi Shikibu Nikki (Hòa Tuyền Thức Bộ Nhật Ký)
Tác phẩm xuất hiện nãm 1007, nhiều thuyết cho là bà Izumi Shikibu (Hòa Tuyền, Thức Bộ, sinh khoảng 978 - chết sau 1033) viết. Ta ðã biết bà là thi nhân waka nổi tiếng, con gái của Ôe no Masamune (Ðại Giang, Nhã Chí), một nhà thõ lớn, mẹ của nữ sĩ Koshikibu (Tiểu Thức Bộ), cũng là một nhà thõ. Bà lấy chồng hai lần. Trýớc là Tachibana no Michisada (Quất, Ðạo Trinh, nãm 996), sau là Fụiwara no Yasumasa (Ðằng Nguyên, Bảo Xýõng, 1010). Ngoài ra, giữa hai cuộc hôn nhân, bà có cuộc ðời tình ái sóng gió với nhiều ngýời ðàn ông. Tập Izumi Shikibu Nikki chép lại thời gian 10 tháng trời (nãm 1003) của cuộc tình duyên giữa bà và một trong những ngýời yêu, hoàng tử (thân výõng) Sochi-no-Miya Atsumichi (Súy Cung Ðôn Ðạo, 977-1007), dýới hình thức truyện. Nhật ký vẻ ra ðýợc quang cảnh thế giới tình ái thõ mộng của hai ngýời xoay quanh trên 140 bài thõ tặng ðáp. Sở dĩ có ngýời nghi ngờ chýa chắc bà viết là vì thắc mắc tại sao nhân vật chính lại xuất hiện với ngôi thứ ba. Kẻ phản luận bảo rằng ðó là chủ ý của tác giả muốn dấu danh tánh.
Cuộc ðời của Izumi Shikibu cũng tự phát, ðầy cá tính, lãng mạn và nồng nhiệt nhý thõ vãn của bà. Bà bỏ mặc khuôn phép, thành kiến của xã hội, có nhiều hành vi làm ngýời ðýõng thời không chấp nhận nổi, ðánh giá bà là một kẻ say ðắm ái tình. Thõ của bà còn giữ ðýợc khoảng 1470 bài tanka trong hai tập thõ (tuy có nhiều bài in trùng nhau) và từ ðó 247 bài ðã ðýợc ðãng trong các tuyển tập soạn theo sắc chiếu làm bà trở thành nhà thõ phụ nữ ðýợc nhắc ðến nhiều nhất. Lối sống và phong cách làm thõ của bà ðã ảnh hýởng nhiều ðến Yosano Akiko (Dữ Tạ Dã, Tinh Tử. 1878-1942), một nhà thõ nữ hàng ðầu của thi ca hiện ðại, ngýời ðã ðặt lại vị trí bà nhý một phụ nữ ðã ðýợc giải phóng.
D) Murasaki Shikibu Nikki (Tử Thức Bộ Nhật Ký)
Bà Murasaki Shikibu hoàn thành tác phẩm nãm 1010. Bà là nữ quan hầu cận hoàng hậu Shôshi (Chýõng Tử) nên ghi chép tách bạch ðýợc chi tiết của ðời sống xa hoa, lộng lẫy của cung ðình. Từ quang cảnh hoàng hậu lâm bồn cho ðến mọi nghi thức và lễ lạc trong cung, bà ðều mô tả rõ ràng. Bên cạnh ðó và không ðồng hóa với nó là cuộc sống nội tâm của mình mà bà cũng ðã trình bày một cách sâu sắc và bén nhạy. Phần cuối của tập nhật ký là " thý tín " (tiêu tức vãn = shosokubumi) trong ðó bà bày tỏ ý kiến về các nữ quan và vãn nhân ðýõng thời ( Sei Shônagon, Izumi Shikibu, Akazome-Emon... ) cũng nhý tâm sự về những ðiều tự phê khá nghiêm khắc ðối với bản thân :
Về Izumi Shikibu, bà phát biểu : " Có tài về vãn chýõng thý tín và thõ waka, gây ðýợc cảm týởng nhý viết lách nhẹ nhàng và làm thõ dễ nhý ứng khẩu. Tuy nhiên sự hiểu biết và lý luận về thõ thì ðáng ngờ, không phải là một nhà thõ ðáng cho ta phải ðể ý ".
Bà có vẽ nhẹ tay với Akazome-emon : " Tuy không phải là một nhà thõ xuất sắc ðặc biệt nhýng thõ ý vị sâu sắc, bài nào ðọc lên mình cũng cảm thấy thẹn vì thua kém ".
Còn ðối với Sei Shônagon, bà nặng nề hõn : " Thật tình ngýời nầy hay làm cao, ra vẻ ta ðây. Thông minh, viết ðầy chữ Hán ra ðấy nhýng nhiều chỗ vẫn chýa ðạt. Týởng nhý trội hõn ngýời nhýng lại ðể lộ ra sự yếu kém. Muốn ði tìm cái phong lýu nhýng thành ra khinh bạc ".
Lý do của sự khe khắt nầy có lẽ là hai ngýời hầu hai chủ trong tý thế ðối lập với nhau chãng ?
E) Sarashina Nikki (Cánh Cấp Nhật Ký)
Do bà Sugawara-no-Takasue-no-Musume viết vào khoảng nãm 1060. Không rõ tên tác giả, chỉ biết bà là "con gái nhà Sugawara -no-Takasue (Quản Nguyên, Hiếu Tiêu)" và sinh khoảng nãm 1008. Dòng dõi Sugawara rất giỏi vãn chýõng học vấn. Mẹ bà là con gái Fujiwara no Tomoyasu, cho nên gọi tác giả Kagerô Nikki bằng dì. Bà kết hôn với Tachibana Toshimichi (Quất, Tuấn Thông) nhýng chồng chết, sống một tuổi già góa bụa. Bà còn ðýợc xem là tác giả của Yowa-no-nezame và Hamamatsu Chuunagon nữa.
Sarashina (nhật ký lấy Sarashina tức vùng núi non thuộc tỉnh Nagano, phia bắc Tokyo bây giờ, làm bối cảnh. Có thể vì Toshimichi,chồng bà, từng làm chức quận thú (kami) ở Shinano (Tín Nùng) tức chung quanh vùng nầy) bắt ðầu kể về thế giới thõ mộng của vùng Kazusa (Thýợng Tổng, một phần của Chiba bây giờ) ở miền Ðông, thuở ấy rất hoang vu, nõi bà sống với cha suốt thời thõ ấu (trýớc nãm 1020, lúc 13 tuổi). Sau ðó là những hiện thực phủ phàng lúc lớn lên (chồng chết nãm 1058) và tuổi già ði tìm an ủi trong lòng tin tôn giáo. Nội dung nhật ký lồng trong một khoảng thời gian dài ýớc chừng 40 nãm và mô tả nhiều về thế giới thấy ðýợc trong mộng mị. Tuy vẫn ðề cập ðến những chủ ðề thýờng thấy trong các monogatari, ðặc ðiểm của Sarashina là mô tả thành công tâm trạng buồn thýõng của cảnh cô ðộc góa bụa và bàn luận một cách thấm thía về cái bèo bọt vô nghĩa của kiếp ngýời.
Ngýời ta còn phỏng ðoán bà còn là tác giả hai cuốn truyện Yoru no nezame "Tỉnh Giấc Nửa Ðêm" và Hamamatsu Chuunagon Monogatari "Truyện quan Chuunagon Hamamatsu".
F) Các nhật ký khác
Ngoài những Nikki nói ðến ở trên, có thể kể thêm Jôjin Ạjari-no-haha-no-shuu (Thành Tầm A-Xà-Lê Mẩu Tập, 1073) cảnh của bà mẹ của nhà sý Jôjin (Thành Tầm) kể lể nỗi khổ khi ðýa chân con lên ðýờng qua Trung Quốc hành hýõng các di tích của Phật Giáo. Trong tập nầy, mọi tâm trạng của ngýời mẹ ðối với con ðã ðýợc miêu tả týờng tận. Cũng nhý phải nói ðến Sanuki-no-suke Nikki [4](Tán Kỳ Ðiển Thị Nhật Ký, 1108) của chức nữ quan hầu cận tên gọi Fujiwara Nagako (Ðằng Nguyên, Trýờng Tử) viết, kể lại sự tình từ lúc thiên hoàng (thứ 73) Horikawa (Quật Hà, trị vì 1087-1107 ) phát bệnh, bãng hà cho ðến khi tân quân lên kế vị. Tác giả ghi chép tỉ mỉ về cái chết của thiên hoàng và sau khi vua mới là thiên hoàng (thứ 74) Toba (Ðiểu Vũ, trị vì 1107-1123) lên ngôi, vẫn hoài niệm về vua cũ. Ðặc ðiểm của tập nhật ký nầy là mang chủ ðề liên quan ðến Cái Chết.
Theo giáo sý Katô Shuuichi, qua các chi tiết vừa kể, ta có thể rút ra ba kết luận:
- Những tập Nikki nầy ðýợc viết trong một khoảng thời gian 200 nãm (giữa thế kỷ thứ 10 ðến giữa thế kỷ 12) và hầu nhý do phụ nữ viết. Họ ðều thuộc tầng lớp quí tộc bậc trung, con nhà quan lại trấn thủ ðịa phýõng.
- Các tác giả phụ nữ nầy hầu nhý ðều có bà con xa gần với nhau và gia ðình họ cũng có những cây bút phái nam, từng có tác phẩm viết bằng Hán hay Hòa vãn.
- Những cây viết lỗi lạc nhất trong bọn là các nữ quan học sĩ có phòng riêng (nyobô) trong cung. Việc gọi vãn học nữ lýu thời Heian là vãn học nữ quan (nyobô bungaku) thật ra rất chính xác.
Từ ðó thử trả lời câu hỏi, tại sao ở Nhật lại có một tầng lớp phụ nữ thành công trong lãnh vực vãn học nhý vậy?
Trýớc tiên là họ sống trong một thế giới khép kín và không liên quan gì ðến chính trị. Con nhà dòng dõi, họ có học vấn cao và ðiều kiện sinh sống thoải mái. Lớp quí tộc bậc trung còn chẳng có cách nào khác ðể tiến thân hay biểu lộ giá trị của mình trong một hệ thống thứ bậc chặt chẻ, nói chi ðến phụ nữ. Các bà ðành ði theo con ðýờng vãn chýõng. Vì không thể thay ðổi xã hội cung ðình, họ tìm cách quan sát và giải thích nó.
Hoàng hậu hay chính phi của ðông cung thýờng có khoảng ba bốn mýõi nữ quan thị tùng. Trong triều nhý thế phải có ðến vài trãm ngýời và tạo thành một nhóm ngýời khá quen biết nhau. Họ vừa là tác giả vừa là ðộc giả của nhau. Họ có làm thõ, viết tiểu thuyết nhýng sở trýờng của họ là thể koại nikki (nhật ký) và zuihitsu, sôshi (tùy bút).
Cái nhìn sắc bén của những kẻ ðứng bên lề về cuộc ðời
Nguyễn Nam Trân
TIẾT I: NHẬT KÝ
Trong xã hội quí tộc Nhật Bản, vai trò của nikki (nhật ký) là ghi chép các việc công hằng ngày. Viết bằng chữ Hán, nó ðýợc dùng nhý một thứ tài liệu thực dụng ðể ghi nhớ mọi việc (bị vong lục) và do các quan chức thýờng là phái nam ðảm nhiệm. Nikki viết bằng chữ quốc âm kana cũng ðã xuất hiện vào ðầu thế kỷ thứ 10 ví dụ ðể biên chép diễn biến của những cuộc thi tài ở các hội thõ (uta-awase) chẳng hạn, nhýng việc ghi chép nầy vẫn còn có tính cách công cộng. Phải ðợi ðến Tosa Nikki (Thổ Tá Nhật Ký) thì thể loại Nhật Ký viết bằng quốc âm Kana mới ðýợc coi nhý một hình thức vãn chýõng. Thể loại này cần ðýợc hiểu theo nghĩa rộng nghĩa là "ghi chép"(bút ký) có lẫn chủ quan chứ không phải "ghi chép hằng ngày" khách quan vô tý. Nó bao gồm cả những suy tý có tính chất nội tâm (jishô = tự chiếu) và thýờng chen cả thõ waka vào nữa. Tuy ngày nay ngýời Nhật vẫn tiếp tục viết nikki nhýng cái gọi là "vãn học nikki" của họ ðã thuộc hẳn vào một thời ðại quá vãng (thế kỷ 10 ðến 16).
A) Tosa Nikki (Thổ Tá Nhật Ký)
Ðýợc biết do Ki-no-Tsurayuki (Kỷ, Quán Chi, 868?-945?) viết và cho ra ðời nãm 935. Trong cuốn nhật ký nầy, Tsurayuki ðã ghi chép chi tiết về cuộc hành trình 55 ngày ðýờng của cá nhân ông từ Tosa (Thổ Tá, nay thuộc tỉnh Kochi, phía nam ðảo Shikoku), nõi ông vừa thôi việc quận thú (hay trấn thủ = kami), về ðến kinh ðô. Nội dung nhật ký nhắc nhở nhiều về kỷ niệm về ðứa con gái ðã chết trong thời gian ở nhiệm sở, nỗi lo lắng về cuộc hành trình ðýờng thủy ðầy sóng gió và cýớp bóc cũng nhý niềm vui và hy vọng lúc hồi kinh.
Chúng tôi từ giả chỗ ðỗ lại tối hôm trýớc ðể ði tiếp ðến một bến khác. Trông thấy núihiện ra ở ðằng xa. Một ðứa bé lên chín, mặt còn trẻ hõn tuổi của nó, bảo rằng nó có cảm týởng núi ðang chạy theo thuyền. Mọi ngýời còn ngạc nhiên hõn vì thấy nhân ðó nó có làm một bài thõ:
Thuyền trôi, nhìn cảnh núi ðồi,
Hỏi tùng có biết núi trôi theo thuyền?
Bài thõ thật hợp với một cậu bé.
Hôm ðó biển ðộng, tuyết rõi trên những mỏm ðá ven bờ và sóng vỡ ra nhý hoa. Có ngýời nào ðấy vịnh nhý thế này:
Tai nghe sóng ðánh gần xa,
Mắt nhìn ngỡ tuyết hay hoa trắng trời.
(Trích Tosa Nikki, Ngày thứ 22)
Tác giả ðã giả thác tâm sự vào một nhân vật nữ ðể viết cho nên sử dụng ðýợc lối hành vãn mà thời ấy mệnh danh là "lối viết ðàn bà" (onnade = nữ thủ) nghĩa là tự do, uyển chuyển, sắc sảo, biết ðùa cợt, lại hay châm biếm. Có thể nói là, lần ðầu tiên, nhờ có vãn chýõng quốc âm kana mà vãn nhân thời ðó ðã có phýõng tiện ðể mô tả và phê phán xã hội ðýõng thời cũng nhý trình bày dễ dàng hõn ðýợc những chi tiết cuộc sống nội tâm của chính mình.
Thực ra chữ onnade (nữ thủ) là ðể gọi loại vãn tự hiragana tức bình-giả danh (vãn tự biểu âm bắt nguồn từ chữ Hán viết theo lối thảo) của Nhật. Hiragana ðýợc xem nhý dành cho các bà ðể họ làm thõ Waka hay viết thý (thời ðó thý tín gọi là tiêu tức [1] và ngay cả khi viết truyện hoặc nhật ký. Trong khi ðó, chữ Hán (Kanji) ðýợc gọi là mana (chân danh) là chữ viết của ðàn ông và mang tên là onokode (nam thủ). Tuy nhiên từ ðời Nara býớc qua thời Hei-an, ðã có một sự chuyển hýớng: onokode ðã nhýờng býớc cho onnade nghĩa là Giả ðã lấn lýớt Chân, dòng vãn học phụ nữ bị coi thýờng kia lần lần ðã chiếm ýu thế.
Ðầu thời Hei-an, ðã có manyôgana (Vạn Diệp-giả danh) hay magana (chân-giả danh) tức là lối biểu hiện âm tiết Nhật qua chữ Hán viết theo lối Hài và Hành nghĩa là không giản lýợc. Thế rồi vãn tự sôgana (thảo-giả danh) ra ðời và ðúng nhý tên của nó, bắt nguồn từ lối viết thảo với khuynh hýớng giản lýợc hóa. Dýới triều Hei-an thì magana lại trở thành onokode (nam thủ). Khi viết magana nhanh tay thì tốc ðộ viết làm cho chữ tháu ði và biến dạng thành sôgana, hình thái thay ðổi ðến ðộ không còn nhận ra mặt chữ xýa (chân týớng). Ðó là onnade vậy.
Ðặc ðiểm của Tosa Nikki là trong ðó có ghi lại 57 bài waka và nội dung của Nikki có liên quan ðến cuộc sống riêng tý của tác giả, ðó là một ðiều mới mẻ. Tuy nội dung của nó không phong phú bằng Nittô Guhô Junrei Kôki (Nhập Ðýờng Cầu Pháp Tuần Lễ Hành Kí) của tãng Ennin (Viên Nhân tức Jikaku daishi, Từ Giác Ðại Sý) viết trýớc ðó hõn một thế kỷ cũng nhý một trãm bài thõ bày tỏ tâm sự mình (trong Tự Ý Nhất Bách Vận ) của Sugawara no Michizane nhýng chủ ý của Ki no Tsurayuki không phải là sự quan sát ngoại giới hay trầm tý suy gẫm nhý hai ngýời ði trýớc ðó, nhýng ðúng ra là ðể trình bày biến chuyển tâm lý, tình cảm của mình. Nhý khi về ðến ngôi nhà cũ ở Kyôto nay ðã tan hoang, ông viết :
" Lòng của ngýời giữ nhà cho ta chắc cũng ðến ðiêu tàn nhý ngôi nhà. Chỉ có nãm sáu nãm trôi qua từ ngày ta ði vắng mà týởng ðã mấy trãm nãm. Trong ta tràn ngập bao mối cảm hoài và ta nghĩ về ðứa con gái của ta ðã sinh ra trong ngôi nhà. Ta không biết nói sao hõn ðể tỏ lòng thýõng tiếc nó ðã không còn ðể về ðây với ta lần nầy ".
Vai trò của Tosa Nikki rất quan trọng vì, tuy do một ngýời ðàn ông viết ra, nó ðã mở ðýờng cho một dòng vãn học quan trọng của Nhật Bản : vãn học nữ lýu (joryuu bungaku), gồm nhật ký (sẽ ði vào chi tiết sau) nhý Kagerô Nikki, Izumi Shikibu Nikki, Murasaki Shikibu Nikki, Sarashina Nikki và tùy bút mà ðiển hình là Makura Sôshi.
B) Kagerô Nikki (Tinh Ðình Nhật Ký) [2]
Sách gồm ba quyển thýợng, trung, hạ , do bà mẹ (không rõ tên) của Fujiwara no Michitsuna (Ðằng Nguyên, Ðạo Cýõng) trýớc tác, ra ðời nãm 974. Ngýời ta chỉ biết tác giả mất khoảng nãm 995 mà thôi. Bà là con gái của Fujiwara Tomoyasu (Ðằng Nguyên Luân Ninh) và là dì của tác giả Sarashina Nikki (sẽ nói ðến trong những trang sau) tức con gái (cũng không rõ tên) của Fujiwara Takasue (Ðằng Nguyên Hiếu Tiêu). Trong ðó ghi chép sự việc từ lúc bà ðýợc Fujiwara Kane-ie [3] (Ðằng Nguyên Kiêm Gia) cầu hôn (954) nãm 19 tuổi cho ðến nãm 40 tuổi (974) nghĩa là hai mýõi mốt nãm của cuộc sống vợ chồng. Tác giả sinh trong một gia ðình quan trấn thủ (suryô = thủ lĩnh) tức giai cấp tiểu quí tộc ðịa phýõng nhýng nhờ duyên phận ðýợc lọt vào gia ðình ðại quí tộc. Bà là vợ hai, sinh ðýợc ngýời con trai là Michitsuna (Ðạo Cýõng), thành thứ mẫu của quyền thần Michinaga (Ðạo Trýờng) và hoàng hậu Senshi (Thuyên Tử), có hai cháu gái gọi bằng bà về sau cũng làm hoàng hậu (tức Teishi và Shôshi ðã nhắc ðến ở trên). Tuy nhiên, ðiều bà ghi lại trong nhật ký là chuỗi ngày không ðýợc ðầm ấm với chồng cho ðến khi trông cậy ðýợc vào con trai mình.
Thuở xýa, dýới chế ðộ ða thê, vì là ngýời có lòng tự hào nên sau khi thất bại trong việc giữ tình yêu của chồng mà ðối với bà chỉ là cái bóng chập chờn (kage), bà trở thành cay ðắng và ðau khổ. Tác phẩm trình bày ðýợc tâm trạng buồn thýõng, u ẩn ðó.
Trong tựa sách, bà phê bình tính cách bịa ðặt vô nghĩa (soragoto = không ngôn, hý sự) của thể loại truyện monogatari và chủ trýõng viết là phải ði từ những kinh nghiệm cá nhân có thực. Tuy bà trình bày nỗi bất hạnh (ghen tuông, lo lắng, tuyệt vọng) trong cuộc sống vợ chồng nhýng bà cũng muốn làm sáng tỏ ðể mọi ngýời rõ nguyên nhân của nỗi bất hạnh ðó là gì và cho biết nguồn hạnh phúc gia ðình không phải ðến từ mỗi ông chồng là Kane-ie. Phần ðầu tập nhật ký là vãn vần (quyển thýợng, 15 nãm ðầu), ðặt trọng tâm qua trao ðổi thõ xýớng họa, nhýng dần dần khi chủ ðề tác giả ðặt ra ðã ðýợc khai thác sâu xa hõn thì nó ngã hẳn qua hình thức vãn xuôi (quyển trung và hạ, những nãm còn lại).
Kagerô khai triển ðýợc bút pháp của Tosa trong lãnh vực vãn chýõng quốc âm và nhý thế làm ðồi dào thêm khả nãng phân tích tâm lý bên trong, ðã ảnh hýởng nhiều ðến Genji về sau.
C) Izumi Shikibu Nikki (Hòa Tuyền Thức Bộ Nhật Ký)
Tác phẩm xuất hiện nãm 1007, nhiều thuyết cho là bà Izumi Shikibu (Hòa Tuyền, Thức Bộ, sinh khoảng 978 - chết sau 1033) viết. Ta ðã biết bà là thi nhân waka nổi tiếng, con gái của Ôe no Masamune (Ðại Giang, Nhã Chí), một nhà thõ lớn, mẹ của nữ sĩ Koshikibu (Tiểu Thức Bộ), cũng là một nhà thõ. Bà lấy chồng hai lần. Trýớc là Tachibana no Michisada (Quất, Ðạo Trinh, nãm 996), sau là Fụiwara no Yasumasa (Ðằng Nguyên, Bảo Xýõng, 1010). Ngoài ra, giữa hai cuộc hôn nhân, bà có cuộc ðời tình ái sóng gió với nhiều ngýời ðàn ông. Tập Izumi Shikibu Nikki chép lại thời gian 10 tháng trời (nãm 1003) của cuộc tình duyên giữa bà và một trong những ngýời yêu, hoàng tử (thân výõng) Sochi-no-Miya Atsumichi (Súy Cung Ðôn Ðạo, 977-1007), dýới hình thức truyện. Nhật ký vẻ ra ðýợc quang cảnh thế giới tình ái thõ mộng của hai ngýời xoay quanh trên 140 bài thõ tặng ðáp. Sở dĩ có ngýời nghi ngờ chýa chắc bà viết là vì thắc mắc tại sao nhân vật chính lại xuất hiện với ngôi thứ ba. Kẻ phản luận bảo rằng ðó là chủ ý của tác giả muốn dấu danh tánh.
Cuộc ðời của Izumi Shikibu cũng tự phát, ðầy cá tính, lãng mạn và nồng nhiệt nhý thõ vãn của bà. Bà bỏ mặc khuôn phép, thành kiến của xã hội, có nhiều hành vi làm ngýời ðýõng thời không chấp nhận nổi, ðánh giá bà là một kẻ say ðắm ái tình. Thõ của bà còn giữ ðýợc khoảng 1470 bài tanka trong hai tập thõ (tuy có nhiều bài in trùng nhau) và từ ðó 247 bài ðã ðýợc ðãng trong các tuyển tập soạn theo sắc chiếu làm bà trở thành nhà thõ phụ nữ ðýợc nhắc ðến nhiều nhất. Lối sống và phong cách làm thõ của bà ðã ảnh hýởng nhiều ðến Yosano Akiko (Dữ Tạ Dã, Tinh Tử. 1878-1942), một nhà thõ nữ hàng ðầu của thi ca hiện ðại, ngýời ðã ðặt lại vị trí bà nhý một phụ nữ ðã ðýợc giải phóng.
D) Murasaki Shikibu Nikki (Tử Thức Bộ Nhật Ký)
Bà Murasaki Shikibu hoàn thành tác phẩm nãm 1010. Bà là nữ quan hầu cận hoàng hậu Shôshi (Chýõng Tử) nên ghi chép tách bạch ðýợc chi tiết của ðời sống xa hoa, lộng lẫy của cung ðình. Từ quang cảnh hoàng hậu lâm bồn cho ðến mọi nghi thức và lễ lạc trong cung, bà ðều mô tả rõ ràng. Bên cạnh ðó và không ðồng hóa với nó là cuộc sống nội tâm của mình mà bà cũng ðã trình bày một cách sâu sắc và bén nhạy. Phần cuối của tập nhật ký là " thý tín " (tiêu tức vãn = shosokubumi) trong ðó bà bày tỏ ý kiến về các nữ quan và vãn nhân ðýõng thời ( Sei Shônagon, Izumi Shikibu, Akazome-Emon... ) cũng nhý tâm sự về những ðiều tự phê khá nghiêm khắc ðối với bản thân :
Về Izumi Shikibu, bà phát biểu : " Có tài về vãn chýõng thý tín và thõ waka, gây ðýợc cảm týởng nhý viết lách nhẹ nhàng và làm thõ dễ nhý ứng khẩu. Tuy nhiên sự hiểu biết và lý luận về thõ thì ðáng ngờ, không phải là một nhà thõ ðáng cho ta phải ðể ý ".
Bà có vẽ nhẹ tay với Akazome-emon : " Tuy không phải là một nhà thõ xuất sắc ðặc biệt nhýng thõ ý vị sâu sắc, bài nào ðọc lên mình cũng cảm thấy thẹn vì thua kém ".
Còn ðối với Sei Shônagon, bà nặng nề hõn : " Thật tình ngýời nầy hay làm cao, ra vẻ ta ðây. Thông minh, viết ðầy chữ Hán ra ðấy nhýng nhiều chỗ vẫn chýa ðạt. Týởng nhý trội hõn ngýời nhýng lại ðể lộ ra sự yếu kém. Muốn ði tìm cái phong lýu nhýng thành ra khinh bạc ".
Lý do của sự khe khắt nầy có lẽ là hai ngýời hầu hai chủ trong tý thế ðối lập với nhau chãng ?
E) Sarashina Nikki (Cánh Cấp Nhật Ký)
Do bà Sugawara-no-Takasue-no-Musume viết vào khoảng nãm 1060. Không rõ tên tác giả, chỉ biết bà là "con gái nhà Sugawara -no-Takasue (Quản Nguyên, Hiếu Tiêu)" và sinh khoảng nãm 1008. Dòng dõi Sugawara rất giỏi vãn chýõng học vấn. Mẹ bà là con gái Fujiwara no Tomoyasu, cho nên gọi tác giả Kagerô Nikki bằng dì. Bà kết hôn với Tachibana Toshimichi (Quất, Tuấn Thông) nhýng chồng chết, sống một tuổi già góa bụa. Bà còn ðýợc xem là tác giả của Yowa-no-nezame và Hamamatsu Chuunagon nữa.
Sarashina (nhật ký lấy Sarashina tức vùng núi non thuộc tỉnh Nagano, phia bắc Tokyo bây giờ, làm bối cảnh. Có thể vì Toshimichi,chồng bà, từng làm chức quận thú (kami) ở Shinano (Tín Nùng) tức chung quanh vùng nầy) bắt ðầu kể về thế giới thõ mộng của vùng Kazusa (Thýợng Tổng, một phần của Chiba bây giờ) ở miền Ðông, thuở ấy rất hoang vu, nõi bà sống với cha suốt thời thõ ấu (trýớc nãm 1020, lúc 13 tuổi). Sau ðó là những hiện thực phủ phàng lúc lớn lên (chồng chết nãm 1058) và tuổi già ði tìm an ủi trong lòng tin tôn giáo. Nội dung nhật ký lồng trong một khoảng thời gian dài ýớc chừng 40 nãm và mô tả nhiều về thế giới thấy ðýợc trong mộng mị. Tuy vẫn ðề cập ðến những chủ ðề thýờng thấy trong các monogatari, ðặc ðiểm của Sarashina là mô tả thành công tâm trạng buồn thýõng của cảnh cô ðộc góa bụa và bàn luận một cách thấm thía về cái bèo bọt vô nghĩa của kiếp ngýời.
Ngýời ta còn phỏng ðoán bà còn là tác giả hai cuốn truyện Yoru no nezame "Tỉnh Giấc Nửa Ðêm" và Hamamatsu Chuunagon Monogatari "Truyện quan Chuunagon Hamamatsu".
F) Các nhật ký khác
Ngoài những Nikki nói ðến ở trên, có thể kể thêm Jôjin Ạjari-no-haha-no-shuu (Thành Tầm A-Xà-Lê Mẩu Tập, 1073) cảnh của bà mẹ của nhà sý Jôjin (Thành Tầm) kể lể nỗi khổ khi ðýa chân con lên ðýờng qua Trung Quốc hành hýõng các di tích của Phật Giáo. Trong tập nầy, mọi tâm trạng của ngýời mẹ ðối với con ðã ðýợc miêu tả týờng tận. Cũng nhý phải nói ðến Sanuki-no-suke Nikki [4](Tán Kỳ Ðiển Thị Nhật Ký, 1108) của chức nữ quan hầu cận tên gọi Fujiwara Nagako (Ðằng Nguyên, Trýờng Tử) viết, kể lại sự tình từ lúc thiên hoàng (thứ 73) Horikawa (Quật Hà, trị vì 1087-1107 ) phát bệnh, bãng hà cho ðến khi tân quân lên kế vị. Tác giả ghi chép tỉ mỉ về cái chết của thiên hoàng và sau khi vua mới là thiên hoàng (thứ 74) Toba (Ðiểu Vũ, trị vì 1107-1123) lên ngôi, vẫn hoài niệm về vua cũ. Ðặc ðiểm của tập nhật ký nầy là mang chủ ðề liên quan ðến Cái Chết.
Theo giáo sý Katô Shuuichi, qua các chi tiết vừa kể, ta có thể rút ra ba kết luận:
- Những tập Nikki nầy ðýợc viết trong một khoảng thời gian 200 nãm (giữa thế kỷ thứ 10 ðến giữa thế kỷ 12) và hầu nhý do phụ nữ viết. Họ ðều thuộc tầng lớp quí tộc bậc trung, con nhà quan lại trấn thủ ðịa phýõng.
- Các tác giả phụ nữ nầy hầu nhý ðều có bà con xa gần với nhau và gia ðình họ cũng có những cây bút phái nam, từng có tác phẩm viết bằng Hán hay Hòa vãn.
- Những cây viết lỗi lạc nhất trong bọn là các nữ quan học sĩ có phòng riêng (nyobô) trong cung. Việc gọi vãn học nữ lýu thời Heian là vãn học nữ quan (nyobô bungaku) thật ra rất chính xác.
Từ ðó thử trả lời câu hỏi, tại sao ở Nhật lại có một tầng lớp phụ nữ thành công trong lãnh vực vãn học nhý vậy?
Trýớc tiên là họ sống trong một thế giới khép kín và không liên quan gì ðến chính trị. Con nhà dòng dõi, họ có học vấn cao và ðiều kiện sinh sống thoải mái. Lớp quí tộc bậc trung còn chẳng có cách nào khác ðể tiến thân hay biểu lộ giá trị của mình trong một hệ thống thứ bậc chặt chẻ, nói chi ðến phụ nữ. Các bà ðành ði theo con ðýờng vãn chýõng. Vì không thể thay ðổi xã hội cung ðình, họ tìm cách quan sát và giải thích nó.
Hoàng hậu hay chính phi của ðông cung thýờng có khoảng ba bốn mýõi nữ quan thị tùng. Trong triều nhý thế phải có ðến vài trãm ngýời và tạo thành một nhóm ngýời khá quen biết nhau. Họ vừa là tác giả vừa là ðộc giả của nhau. Họ có làm thõ, viết tiểu thuyết nhýng sở trýờng của họ là thể koại nikki (nhật ký) và zuihitsu, sôshi (tùy bút).