|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:03:59 GMT 9
Vĩnh long xưa – một địa chí văn hóa thu nhỏ của đất nam bộ Tăng Tấn Lộc Ca ra bộ - Loại hình sân khấu được yêu thích ở Vĩnh Long Đình Long Thanh ở Vĩnh Long. Văn Thánh Miếu ở Vĩnh Long. 1. Vài nét về địa lý hành chính của Vĩnh Long xưa: Cũng như bao tỉnh miền Tây khác, Vĩnh Long vốn do đất phù sa cấu tạo, phì nhiêu thích hợp để trồng lúa các loại cây ăn trái và cây kỹ nghệ như: bố, bông vải. Đa số người dân sống bằng nghề nông. Vĩnh Long nằm ở vị trí trung tâm của Nam phần Việt Nam, giáp ranh với các tỉnh: Kiến Tường, Định Tường, Phong Dinh, Vĩnh Bình, Kiến Hoà và An Giang. Khảo sát về lịch sử tỉnh Vĩnh Long qua nhiều giai đoạn, chúng tôi nhận thấy: từ 1658 trở về trước, Vĩnh Long thuộc địa phận nước Chân Lạp; từ 1658 -1730 Vĩnh Long được đặt dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn; từ 1730 -1759 là thuộc địa của chúa Nguyễn; từ 1760 trở về sau, vua Chân Lạp nhượng đứt cho Việt Nam; từ 1867 bị đặt dưới chế độ thuộc địa của Pháp. Năm 1867, quân Pháp từ Định Tường (Mỹ Tho) kéo đến chiếm thành Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, dân tình sống trong cảnh lầm than, Vĩnh Long đầy tang tóc. Cụ Phan Thanh Giản tử tiết trên mảnh đất này, làm cho mọi người xúc động, cảm phục sự hy sinh cao quý của cụ, thà chết chứ không bao giờ khuất phục trước vũ lực bạo tàn của kẻ xâm lăng. 2. Những di tích lịch sử - văn hoá: 2.1. Đình: Khi nói đến một làng xưa Việt Nam thì tâm điểm trọng yếu đầu tiên mà ai cũng nghĩ đến là đình làng. Ngôi đình là nét đặc trưng hay có thể gọi là bản sắc của làng xã truyền thống Việt Nam. Đình là nơi tôn thờThành hoàng, vị thần bảo hộ cho làng, là trái tim điều khiển chi phối những hoạt động đời sống cộng đồng của đơn vị hành chính cơ sở tạo nên đất nước. Ngôi đình không chỉ là cơ sở tín ngưỡng quyền lực siêu nhiên mà còn là nơi hội họp bàn bạc tất cả những vấn đề to nhỏ liên quan đến làng. Đời sống cộng đồng hưng thịnh hay suy bại, cư dân có an khang phú quý hay không, phong tục thuần hậu tốt đẹp hay không, tất cả đều liên quan đến tâm điểm thiêng liêng – ngôi đình. Đó là nơi biểu hiện chỉnh thể kinh tế, văn hoá, xã hội của một địa phương. Các triều đại hưng rồi vong, đất nước có thể thăng trầm nhưng đình vẫn sừng sững đứng đó và làng không thể mất đi, làng lại kết tụ thành đất nước. Qua hai cuộc chiến tranh qua, có biết bao đình, chùa của làng quê Việt Nam đã bị huỷ hoại. Sau 1975, do thiếu ý thức bảo vệ, chúng ta đã tự làm mất đi không ít ngôi đình. Ngoài ra, sự tác động hàng trăm năm của văn hoá phương Tây, tinh thần thiêng liêng của ngôi đình cũng không tránh khỏi mờ khuất, dần dần bị mai một và biến dạng. May thay, có một ngôi đình cổ ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn giữ được khá toàn vẹn diện mạo ban sơ – đình Tân Giai (một ngôi đình cổ kính từ thời Gia Long). Bên cạnh đình Khao cổ kính, Vĩnh Long còn có nhiều ngôi đình mang nhiều sắc thái độc đáo và lạ kỳ. Đình Tân Giai là ngôi đình lớn nhất trong tỉnh Vĩnh Long. Được biết, vào đời Gia Long, nhận thấy dân chúng địa phương rất nặng lòng tín ngưỡng, chính quyền tán thành công cuộc xây dựng một ngôi đình thần. Đình toạ lạc trên vuông đất công điền, nằm sát mé sông Cổ Chiên, tại Vàm Cái Cá, mặt tiền hướng về phía bờ sông. Dân chúng đều hoan hỉ, tới nơi sùng phụng, tưởng niệm đất nước, tiền nhân, khói hương chiêm bái không ngớt. Đặc biệt nhất là vào những ngày đáo lệ Kỳ Yên, đủ mọi tầng lớp nhân dân hội họp cung thỉnh sắc thần, cực kỳ long trọng và tôn nghiêm. Trải qua cuộc binh biến, ngôi đình vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, biểu dương tinh thần dân tộc. Chạnh lòng hoài cổ, các ông Phó tổng Ngô Văn Lân, hương cả Tống Hữu Viên là thân phụ ông Tống Hữu Trung có công lập làng Tân Giai, các vị kỳ lão trong làng cùng nhau đứng ra lo việc tu bổ ngôi đình, nối tiếp phụng thờ. Năm 1924, vì bị dòng nước sông Cửu Long đổ xuống sông Cổ Chiên, làm lở mé hữu ngạn sông này, từ trên Vàm Tuần Bắc Mỹ Thuận chạy xuống Vàm Cái Cá và sông Long Hồ, làm ảnh hưởng đến ngôi đình. Quý vị hương chức hội tề bèn lo việc dời ngôi đình vào trong giữa đất liền của làng Tân Giai, gần mé rạch Cái Cá, cầu Kinh Cụt. Hiện nay, nhằm đáp ứng niềm sùng kính của nhân dân địa phương, các vị trong ban hội hương đã đứng ra trông nom và tái thiết lại ngôi đình. Trước hết là để bảo tồn cổ tích, sau nữa là nơi tôn nghiêm thờ phụng trong làng, gợi tinh thần yêu nước thương nòi, nhen nhúm lửa thiêng nơi lòng đồng bào không quên đất nước, tiền nhân. 2.2. Miếu: Miếu Văn Thánh là dấu tích cổ xưa nhất ở Vĩnh Long (theo Địa phương chí tỉnh Vĩnh Long). Với lòng nhiệt thành của mình, Đề học Nguyễn Thông đã đứng ra vận động và xây cất Văn Thánh Miếu để thờ Đức Khổng Tử và các bậc hiền triết là môn đệ của đức Khổng. Công trình được khởi công năm Giáp Tý 1864 và hoàn thành vào cuối năm Bính Dần 1866 với kiểu kiến trúc truyền thống Việt Nam: 1) Chánh điện: Thờ Đức Khổng Tử. Hai bên Tả ban, Hữu ban thờ Tứ phối, Thập triết. 2) Hai miếu nhỏ hai bên: Tả vu, Hữu vu thờ Thất thập nhị hiền. 3) Văn Xương Các: Phía trước và bên tả Văn Thánh Miếu có xây dựng toà Văn Xương Các. Tầng trên lầu thờ 3 vị Văn Xương Đế Quân. Tầng dưới lầu, căn giữa để một cái khánh sơn son thiếp vàng, để bài vị thờ cụ Võ Trường Toản và hình cụ Phan Thanh Giản, phía ngoài cái khánh có khắc một đôi liễn với nội dung: "Hoàng phong xử sĩ thanh cao lão. Tự hiệu thư sinh tiết liệt thần" (Câu trên nói về cụ Võ Trường Toản, là một ông già thanh cao, ở ẩn dạy học, không chịu ra làm quan, được vua Gia Long cho là "Sùng đức xử sĩ". Câu dưới nói về cụ Phan Thanh Giản, vốn là bề tôi tiết liệt, khi sắp chết, dặn ghi trong tấm triện là "lão thư sinh" mà thôi) 2.3. Danh nhân: Theo Địa phương chí tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long xưa vốn là một dinh, một trấn lớn, bao trùm một góc miền Tây. Biết bao nhân vật ưu tú đã làm rạng danh đất Vĩnh. Ngày nay, nhiều di tích vẫn còn lưu lại trên đất Sa Đéc (Đồng Tháp), Bến Tre, là những vùng thuộc Long Hồ dinh ngày trước. Chẳng hạn như: Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du – hai nhân tài đã dày công khai phá Long Hồ dinh; quốc công Tống Phước Hiệp – quan lưu phủ Long Hồ dinh đầy đủ ân oai được dân chúng xưng phục; Lâm thao quận công Châu Văn Tiếp; Kinh môn quận công Nguyễn Văn Nhơn; Nguyễn Khoa Thuyên – cai bộ Long Hồ dinh, từng sát cánh với Tống Phước Hiệp xông pha chiến trận, Nam Kỳ kinh lược đại thần Phan Thanh Giản; Trương Vĩnh Ký – nhà bác học, nhân tài của nước Việt Nam; Đốc binh Lê Cẩn và Nguyễn Giao – hai vị hào kiệt chống thực dân Pháp; Lê Long An - vị tiền hiền có công khai mở ba thôn: Mỹ Thạnh, Mỹ Hưng và Mỹ Hội; Tri huyện Tống Hữu Trung - một viên quan gương mẫu được nhiều người cảm đức; Bà Trần Thị Thọ - nhà từ thiện nổi tiếng khắp ba kỳ, được vua Khải Định tặng Kim Bảng "Háo Nghĩa Khả Gia",.v.v… 2.4. Văn hoá - Nghệ thuật: 2.4.1. Văn học: Nếu xưa kia Hà tiên từng nổi tiếng là nơi văn học do Mạc Thiên Tích chấn hưng nền văn hoá thì vĩnh Long cũng chẳng kém chi phong khí nho văn. Mặt khác, khi họ Mạc bị suy sụp, nhóm Chiêu Anh Các phân tán, nền văn học Hà Tiên cũng dần sút kém, trong khi đó ở Vĩnh Long lại rất hưng khởi dẫn đầu 3 tỉnh miền Tây lúc bấy giờ. Từ lúc Vĩnh Long bắt đầu thiết lập "Nền văn" và miếu Văn Thánh, hằng năm sĩ phu miền Tây tề tựu về đây để nhóm họp đàm luận vă chương, giảng binh kinh sách tạo nên học phong sĩ khí đáng ca ngợi. Trong lĩnh vực văn học không ai lại chẳng nghe tên, biết tiếng những tao nhân mặc khách đất Vĩnh như: Đỗ Minh Giám (Nhiêu Tâm), Đỗ Văn Sỏi (Bồng Dinh), Nguyễn Hữu Đức, nữ sĩ Trần Ngọc Lầu, Tống Hữu Định… Ông Phan Quốc Sang – tác giả 10 bài "Khuê phụ thán" nổi tiếng, ông Nguyễn Văn Dần – tác giả hai quyển sưu khảo "Vĩnh Long nhân vật chí" và "Sa Đéc nhân vật chí" . Ngoài ra, còn có các ông Nguyễn Phú Toàn (Nhập Vương Thị), Lê Ngũ Bá, Bùi Văn Khánh, Bùi Văn Triều, Lương Tử Mạnh, Nguyễn Phan Tần đều là những trang văn học tiếng tăm. 2.4.2. Sân khấu cải lương: Ở bộ môn sân khấu, Vĩnh Long cũng có nhhiều nhân tài đặc sắc. Trong đó, ông Tống Hữu Định được biết đến như người có công đầu trong việc sáng tác tuồng và cũng là ngưồi đầu tiên đưa vở tuồng cải lương lên sân khấu trình diễn. Ông Tống Hữu Định xuất thân là một Phó tổng, tổng Bình Long, thường gọi là ông Phó Mười Hai, đặc biệt có năng khiếu văn chương, luôn yêu mến và quý trọng nghệ thuật. Ông họp bạn đồng điệu lại để cùng trao đổi ý kiến rồi sáng chế ra điệu ca ra bộ, đặt để bài ca cho hoà rập với dàn đờn thêm vui tai, làm thích ý những người mộ điệu ca cầm. Bên cạnh đó, còn có ông Trần Quan Quờn, thường gọi là ông Kinh Lịch Quờn, nổi tiếng là bậc ưu tú về cổ nhạc, sáng tác rất nhiều bài vọng cổ nổi tiếng. Có thể nói, Vĩnh Long là "cái nôi" của nhệ thuật ca kịch, cùng với các nghệ sĩ ở Sa Đéc, Mỹ Tho đã đẩy mạnh sân khấu cải lương phát triển. Ngoài ra, có thể kể đến nữ sĩ Bảy Ngọc – ca sĩ hữu danh nổi tiếng nhất ở Vĩnh Long xưa nay. Soạn giả nổi tiếng có ông Năm Mãn với vở "Phật Tổ Thích Ca đắc đạo". Lớp hậu bối có kịch sĩ Duy Lân, nhạc sĩ Bửu, danh ca Út Trà Ôn lừng danh với bài vọng cổ "Tình anh bán chiếu" của soạn giả Viễn Châu. Nữ ca sĩ Thanh Tùng với làn hơi thiên phú và độc đáo làm say lòng khách mộ điệu cầm ca. Cô đã từng vô dĩa phô trương tài nghệ góp công tô điểm nền ca kịch nước nhà nói chung, Vĩnh Long nói riêng. Nhắc đến Vĩnh Long, chúng ta không thể không hoài niệm về các nhân vật: Nguyễn Văn Nhơn, Tống Phước Hiệp, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông,v,v… lại thêm đình Khao, Nền Văn, Văn Thánh Miếu… Tất cả những nét cổ kính và khả ái ấy ngày nay hãy còn di tích. Điều đó đã chứng tỏ đất Long Hồ là nơi văn hiến, đầy vượng khí. Có thể nói, nhân dân Vĩnh Long nói riêng, người Nam bộ nói chung đã trải qua mấy trăm năm văn hiến rạng rỡ và xứng đáng để thế hệ sau tưởng niệm với tấc lòng cảm khái, miên man niềm hoài cổ, xứng đáng là địa chí văn hoá của vùng đất phương Nam. NGUYỄN BÌNH ĐÔNG TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Vĩnh Long xưa, Huỳnh Minh, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2002. - Địa phương chí tỉnh Vĩnh Long. - Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long, Khoa Ngữ Văn Đại học Cần Thơ, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:08:03 GMT 9
Di tích lịch sử Côn Đảo - Nguyễn Đình Thống CÁCH NHÌN MỚI VỀ NHỮNG BẢN ĐỀ ÁN CŨ [1] Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bộ Văn hóa đã cử cán bộ ra nghiên cứu lập Đề án bảo tồn khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo. Quyết định số 66/VH/CP ngày 11-6-1984 v/v khoanh vùng bảo vệ khu di tích lịch sử Côn Đảo của Bộ trưởng Bộ Văn hoá là văn bản pháp lý đầu tiên, thể hiện tư duy khoa học và thái độ nghiêm túc nhất về việc bảo tồn, tôn tạo Di tích lịch sử Côn Đảo. Tiếc thay, những bản Đề án tiếp theo không kế tục được tư duy khoa học, tùy tiện cắt xén và phá huỷ nhiều hạng mục di tích đã được khoanh vùng bảo vệ tại Quyết định quan trọng này.
Đến nay, những thành tựu mới trong nghiên cứu khoa học và kinh tế xã hội của đất nước cho phép chúng ta có một cái nhìn mới về những bản đề án bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo. Chuyên khảo này đề cập đến những bản đề án lớn được hình thành từ năm 1984 cho đến nay.
1. Sự xuống cấp của di tích và của những bản đề án bảo tồn
Ngày 4-5-1994, Sở Văn hoá thông tin tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức Hội nghị đóng góp ý kiến vào Đề án bảo tồn khu di tích lịch sử Côn Đảo do Vụ Bảo tồn - Bảo tàng, Bộ Văn hoá - Thông tin biên soạn tháng 10-1993 (từ đây viết tắt là "Đề án bảo tồn"). Năm 1995, Sở văn hoá - thông tin tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục xây dựng Đề án “Đề án khoanh vùng bảo vệ di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo” (viết tắt là "Đề án khoanh vùng"). Đó là một bước tiến so với “Đề án bảo tồn” của Bộ Văn hoá. Tuy nhiên trong Hội nghị do Sở văn hoá thông tin tổ chức vào đầu tháng 10-1995, vẫn còn nhiều ý kiến cảnh báo về sự xuống cấp của di tích, về cơ sở khoa học của Đề án, về Nghĩa trang Hàng Keo bị bỏ rơi, về sự thiếu hiểu biết trầm trọng đối với Di tích lịch sử đặc biệt quan trọng này.
Cho đến nay khu di tích Côn Đảo vẫn đang ở tình trạng ngày càng xuống cấp. Đó là lời xác nhận trong Đề án bảo tồn và không ai nghi ngờ. Sau những chuyến đi khảo sát tại Côn Đảo, chúng tôi hiểu rằng điều đó là không tránh khỏi. Mùa gió chướng, những đợt sóng cao nhiều thước dội ầm ầm vào vách núi, tung lên trời vô vàn bọt biển. Những thảm bọt biển dày đặc trong mùa gió chướng làm hoá đá từng mảng sườn đồi, đang huỷ hoại từng ngày, khốc liệt đối với tất cả các kiến trúc trên đảo. Ấy là sự xuống cấp tự nhiên của trời đất.
Một ngôi nhà đang ở sẽ hạn chế được sự xuống cấp tự nhiên bởi sự đầu tư, thường xuyên của gia chủ. Khi còn là nhà tù, bao giờ cũng có một kíp thợ mộc, thợ hồ thường trực để sửa chữa nhỏ tại các trại giam. Khi cần sửa chữa lớn, xây dựng mới, sẽ có các hãng thầu lớn đảm nhiệm. Thời chưa giải phóng, hàng năm Mỹ viện trợ 442.000 đôla để tu bổ các trại giam, bình quân hơn 80 ngàn đôla cho mỗi nhà tù lớn. Bây giờ, không còn bộ máy quản lý hệ thống nhà tù đồ sộ với trên 1000 tên, không còn lực lượng lao động khổ sai thường trực gần 10.000 tù nhân. Ban quản lý di tích chỉ có hơn 30 người, kể cả cán bộ nghiệp vụ, nhân viên hành chính, quét lá, nhổ cỏ… hỏng đâu phải trình lên Sở, Sở trình lên Bộ, ra kiểm tra, về lập luận chứng, xin ngân sách, chuyển từ Bộ đến Ban quản lý công trình… khi vật liệu đến nơi thì di tích đã hư hỏng thêm nhiều, kinh phí thiếu hụt, chắp vá, thiếu đồng bộ và tiếp tục xuống cấp. Ấy là sự xuống cấp do thay đổi mục đích sử dụng, do cơ chế quản lý chưa thích hợp.
Có một nguy cơ tiềm ẩn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở Côn Đảo. Năm 1988, một Cầu Tàu mới đã hình thành trước cửa Khách sạn Phi Yến, cách Cầu Tàu lịch sử không xa. Xưa kia là một bãi đá đang kè dở dang, ngổn ngang hàng vạn tảng đá, những tảng đá làm nên linh hồn của Cầu Tàu lịch sử. Nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh đã ba lần ra Côn Đảo, mê mẩn nâng ống kính trước những tảng đá. Bây giờ, bãi đá ngổn ngang chỉ còn trong bộ ảnh đen trắng của cụ. Khi trăn trở trên giường bệnh, mỗi lần giở lại tập album, cụ lại thẫn thờ thốt lên: "Ôi ! Những tảng đá....". Những tảng đá lớn hàng thước khối, nặng hàng tấn kia đã đè nát biết bao thân tù khi họ xeo từ Núi Chúa về đây. Bọn gác ngục Pháp có lối giết tù bằng lao động khổ sai. Xeo đá, tảng lớn: 12 người. Xeo không nổi, chúng đánh một trận rồi bớt người, bắt xeo. Không xeo nổi lại đòn, lại bớt người, xeo tiếp. Không xeo được sẽ chết vì đòn, xeo được thì chết vì kiệt sức. Còn âm vang đâu đây trong từng phiến đá cầu ca trường hận của tù nhân: “Côn Lôn ơi, viên đá - mạng người”.
Những tảng đá ấy ít nhất cũng đã một lần được ghi vào văn bản mang tính Pháp lệnh bảo tồn. Quyết định số 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá về khoanh vùng bảo vệ khu di tích lịch sử Côn Đảo ghi: Cấm không được lấy đá kè ở bờ biển làm vào việc khác. Giờ đây, Cầu Tàu mới khang trang được thay thế vào nơi ấy, cờ, hoa và người chen nhau mỗi chuyến tàu ra, hân hoan và lưu luyến. Chỉ thiếu vắng những tảng đá lịch sử từng chứng kiến biết bao thăng trầm, lặng lẽ và kiên nhẫn trong gần một thế kỷ qua để chờ đón những ai đến đây tìm về quá khứ. Ấy là sự xuống cấp vì vi phạm Pháp lệnh bảo tồn, bảo tàng.
Không chỉ có bãi đá trước cửa Khách sạn Phi Yến, toàn bộ kè đá ven biển từ cầu tàu lịch sử về phía mũi Lò Vôi mới đây đã bị vùi lấp sạch dấu vết bởi chương trình kè chắn sóng, mở rộng con đường chạy qua mặt tiền thị trấn Côn Đảo. Mỗi giải pháp "làm đẹp cho mặt tiền" Côn Đảo là một lần những dấu ấn lịch sử bị xoá mờ. Đó là sự xuống cấp do "tư duy mặt tiền" lấn át tư duy lịch sử.
Ở nước Mỹ có một khu di tích lịch sử lớn được xem như “Chưa đến đấy, chưa biết nước Mỹ”. Hiện vật duy nhất lưu lại là một tảng đá mà người da trắng lần đầu tiên đặt chân lên lục địa này. Ở Côn Đảo có hàng triệu tảng đá để làm nên những bảo tàng như vậy. Tiếc rằng những tảng đá ấy đã bị chôn vùi dưới mặt tiền của thị trấn Côn Đảo mới, mà lẽ ra, nó xứng đáng là một bảo tàng sống vô cùng sinh động, nếu không có sự can thiệp thô bạo của các nhà hoạch định chiến lược phát triển theo lối "tư duy mặt tiền".
Có một sự xuống cấp nằm trong nằm trong những bản luận chứng bảo tồn. Đề án bảo tồn mỗi di tích trước hết phải là một công trình khoa học, xuất phát từ những luận điểm khoa học để đưa ra một giải pháp thích hợp, tối ưu và khả thi. Mỗi di tích trước hết phải được xác định bằng hồ sơ khoa học. Đã 19 năm sau ngày giải phóng[2], đã có trên 10 tỷ đồng đổ vào khu di tích để trùng tu tôn tạo nhiều hạng mục nhưng từng di tích và tổng thể di tích vẫn chưa có hồ sơ khoa học.
Hầm phân bò được Đề án xếp vào loại di tích đặc biệt, đặc trưng cho kiểu tra tấn man rợ, ngâm người xuống hố phân cho đến khi chết hoặc chịu khuất phục. Song không ai giải đáp được rằng chuyện ấy xảy ra khi nào? có bao nhiêu người bị hành hạ kiểu ấy? tên tuổi và địa chỉ vài người? chứng cứ xác nhận cho di tích này? Trả lời cho các câu hỏi trên là Nghe nói như thế, có thể như thế. Với cảm nhận riêng của từng người thì có thể kẻ địch tàn ác hơn như vậy, nhưng một di tích lịch sử lại không tồn tại lại bằng những luận điểm có thể, điều đó có thể không có sức thuyết phục, ấn tượng mơ hồ có thể gieo vào nhiều người khi đứng trước di tích lịch sử đặc biệt này.
Nghĩa trang Hàng Dương cũng được xếp vào di tích đặc biệt, nơi chôn cất hai vạn nấm mồ tù nhân. Điều đó có thể là một trong sai lầm vào loại lớn của Đề án. Nghĩa trang Hàng Dương được chỉ hình thành từ năm 1941 với số liệu ước tính gần sát thực tế là khoảng gần 5.000 ngôi mộ. Trước đó là Nghĩa trang Hàng Keo nằm ở một vị trí khác, đã hoàn toàn bị bỏ rơi ngoài Đề án.
Mộ tập thể 75 chiến sĩ bị xử bắn tại cỏ ống cũng có thể một sai lầm tương tự. Ngôi mộ này đã đi vào quy hoạch nghĩa trang với tấm bia tưởng niệm cao 6m, ốp đá quý, trên khắc đậm con số 75. Điều lạ lùng là không ai biết ngày bắn, không ai biết tên một người nào bị bắn, không ai dám chắc có một mẩu xương nào dưới ngôi mộ ấy, không một hồ sơ chứng cứ nào mà di tích vẫn tồn tại theo luận điểm Nghe nói thế, có thể có chuyện này. Ấy là sự xuống cấp của tư duy khoa học trong vực bảo tồn.
2. Đề án bảo tồn chủ trương dỡ bỏ các trại giam? Đề án bảo tồn nêu ra luận điểm bảo tồn có trọng điểm với giải pháp tháo dỡ Trại I, Trại IV để tận dụng nguyên vật liệu để tu bổ các di tích khác. Đề án thận trọng ghi thêm từ “có thể” nhưng trên thực tế, Trại IV đã được tháo dỡ xong phần mái từ vài năm trước. Việc tháo dỡ không mang lại hiệu quả kinh tế vì số vật liệu nói trên để nguyên trạng thì còn che mưa che nắng được, tháo dỡ xuống trở thành phế liệu. Về Pháp lệnh bảo tồn, đó là một sự vi phạm. Trại I và Trại IV nằm trong hệ thống các trại giam chính đã được khoanh vùng bảo vệ[3], trong khi bản Đề án bảo tồn vừa mới được soạn thảo, đang xin ý kiến. Việc tháo dỡ phần mái Trại IV đang đẩy nhanh tốc độ huỷ hoại trại giam này.
Về mặt lịch sử, di tích Trại I và Trại IV gắn liền với di tích Chuồng Cọp Pháp. Trại I thời Pháp gọi là Banh III, Trại IV là Banh phụ của Banh III, Chuồng Cọp là khu biệt lập (khu kỷ luật) chung của hai trại. Chế độ Chuồng Cọp đã trở thành điển hình cho lối đày ải man rợ tại nhà tù này, làm chấn động lương tri lương tri loài người. Là khu biệt lập chung của 2 trại, lịch sử Chuồng Cọp gắn bó chặt chẽ với hai trại giam này (Trại I và Trại IV). Bảo tồn Chuồng Cọp mà tháo dỡ Trại I và Trại IV chẳng khác gì đem trưng bày các loại còng xiềng, đồ tra tấn bên ngoài một nhà tù vậy.
3. Đề án chủ trương biến nhà tù thành … nhà tù?
Bản Đề án bảo tồn đưa ra một giải pháp cho Trại V và Trại VII, có thể sử dụng làm nơi giam giữ các phạm nhân cần cải tạo, với sự thoả thuận của Bộ nội vụ, Bộ Văn hoá – thông tin và UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chưa có ý kiến về điểm này nhưng Phó chủ tịch UBND huyện Côn Đảo Hứa Phước Ninh cho biết, Côn Đảo không cần thiết có trại giam như vậy.
Trong hơn một thế kỷ qua, những thế hệ cách mạng Việt Nam đã biến nhà tù thành một mặt trận đấu tranh, một chiến trường giữa sào huyệt kẻ thù. Năm thập kỷ cuối cùng, những người cộng sản Việt Nam đã biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, đào tạo và rèn luyện cán bộ. Hai thập kỷ hồi sinh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu cùng với huyện Côn Đảo chuyển hoá những giá trị truyền thống thành sức mạnh vật chất trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Thật trái ngược khi Vụ Bảo tồn - Bảo tàng đề xuất giải pháp biến di tích lịch sử - tài sản vô giá – trở lại thành một nhà tù?
Đề án bảo tồn phát hiện được một điều rằng từ thời Pháp qua thời Mỹ, Côn Đảo là nơi lý tưởng để giam tù, và ngày nay, Trại VII vẫn là một trại giam lý tưởng cho các tội phạm trọng án. Nhưng khi Đề án biến Trại VII trở thành trại giam của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì những người làm công tác bảo tồn sẽ giới thiệu như thế nào về di tích lịch sử này?
Trại VII là một trại giam đặc biệt cần được bảo tồn nguyên trạng. Trại VII là trại giam điển hình kiểu Mỹ, do chuyên gia Mỹ thiết kế, thầu Mỹ xây dựng, bằng đôla Mỹ viện trợ. Đó là trại giam khắc nghiệt nhất trong giai đoạn cuối của nhà ngục này, với lối hành hạ kiểu Mỹ, được gọi là Chuồng Cọp Mỹ. Trại VII có quy mô lớn nhất (25.708m2), nhiều khu nhất (8 khu), nhiều phòng nhất (384 phòng), giam đông nhất (có lúc trên 2.000 người), giam những loại tù nguy hiểm nhất được thanh lọc từ các trại. 384 gian Chuồng Cọp Mỹ có đủ còng xiềng chế tạo bằng thép F8 của Mỹ. Mỗi trại giam có một nét đặc trưng riêng biệt. Một câu thơ khắc trên vách trại giam, một kẽ nứt chứa vài hạt muối, cây kim, sợi chỉ, một góc sàn khám đẫm vệt máu tù nhân… đều là những thông điệp để giải mã những thông tin từ quá khứ, để mỗi thế hệ sau đến đây tự cảm nhận những bài học lịch sử cho riêng mình. Những dấu ấn đó hợp thành linh hồn của Di tích lịch sử Côn Đảo.
4 Đề án khoanh vùng bảo vệ di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo – một bước tiến, nhưng vẫn còn nhiều điều đáng bàn
Năm 1995, Bảo tàng tổng hợp Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc Sở văn hoá – thông tin tỉnh tổ chức lập hồ sơ khoa học cho khu di tích lịch sử nhà tù cách mạng bao gồm: Bản vẽ tổng mặt bằng, hiện trạng kỹ thuật và hạng mục của di tích; Bản vẽ khoanh vùng bảo vệ di tích; Hồ sơ ảnh khảo tả di tích; Lý lịch di tích; Phương án bảo tồn và phát huy tác dụng di tích. Bản vẽ khoanh vùng bảo vệ di tích đưa ra 3 khu vực bảo vệ. Khu vực I được thể hiện bằng màu đỏ là khu bất khả xâm phạm, bao gồm Cầu Tàu lịch sử, Nhà Công Quán, Nhà chúa đảo, Trại II, Trại III, Trại IV, Chuồng Cọp Pháp, một phần của Trại I, Khu B của Trại VI, toàn bộ 8 khu của Trại VII, Lò Vôi, Khu A và B của Chuồng Bò, Hầm chứa phân bò, Cầu Ma Thiên Lãnh, Phòng điều tra. Khu vực II là khu được phép điều chỉnh xây dựng, bao gồm toàn bộ Trại V, Trại VIII, Khu A Trại VI, nghĩa trang Hàng Dương, cùng toàn bộ vùng phụ cận của khu vực I. Khu vực III là khu vực bảo vệ cảnh quan, môi trường, bao gồm toàn bộ thị trấn Côn Đảo, khu vực cảnh quan bao quanh các trại giam, đoạn bờ biển kè đá khối và bờ biển khu vực nghĩa trang Hàng Keo.
Về mặt nhận thức, Đề án khoanh vùng bảo vệ di tích đã vượt xa Đề án của Vụ Bảo tồn - Bảo tàng, Bộ Văn hoá - Thông tin biểu hiện cụ thể là:
- Loại trừ khả năng sử dụng một số di tích làm trại giam các thường án hiện nay.
- Khẳng định giá trị lịch sử của Trại I, Trại IV, Trại VII bằng cách đưa vào vùng bảo vệ nguyên trạng
- Khoanh vùng bảo vệ cảnh quan toàn bộ thị trấn Côn Đảo và ngoại vi hệ thống trại giam, nghĩa trang Hàng Dương, bờ biển và nghĩa trang Hàng Keo.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:09:41 GMT 9
Về mặt nhận thức, Đề án khoanh vùng bảo vệ di tích đã vượt xa Đề án của Vụ Bảo tồn - Bảo tàng, Bộ Văn hoá - Thông tin biểu hiện cụ thể là:
- Loại trừ khả năng sử dụng một số di tích làm trại giam các thường án hiện nay.
- Khẳng định giá trị lịch sử của Trại I, Trại IV, Trại VII bằng cách đưa vào vùng bảo vệ nguyên trạng
- Khoanh vùng bảo vệ cảnh quan toàn bộ thị trấn Côn Đảo và ngoại vi hệ thống trại giam, nghĩa trang Hàng Dương, bờ biển và nghĩa trang Hàng Keo.
Đó là nét mới rất đáng trân trọng. Về những điều cần bàn thêm, trước hết là tính tổng thể của Đề án. Bản vẽ khoanh vùng đã loại 3 trại giam (Trại V, Trại VIII, Khu A Trại VI) ra khỏi khu di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo. Những người trực tiếp thực hiện bản Đề án cho rằng những di tích này không tiêu biểu, hơn nữa, giữ tất cả thì không có kinh phí để bảo quản. Chính vì thế mà hai mươi năm qua, những người bảo vệ khu di tích này phải gánh chịu biết bao nhiêu lời phiền trách về sự xuống cấp của di tích.
Bảo tồn có trọng điểm không có nghĩa là loại một số trại giam ra khỏi hệ thống khu di tích. Hoạch định một Đề án bảo tồn một di tích lịch sử mang tầm vóc quốc gia phải tính đến chiều hướng phát triển của đất nước trong vài thập kỷ, tính đến tiềm năng đang được đánh thức trên quần đảo này và tiềm lực của đất nước trong thiên niên kỷ mới. Không nơi nào trên nước ta có một di tích còn nguyên vẹn tính tổng thể, vừa có mật độ tập trung cao, vừa trải rộng trên địa hình không gian như Côn Đảo. Mỗi vách tường trại giam, hay một gốc cây, khe đá; mỗi cánh rừng, mỏm núi, tảng đá, nấm mồ đều gợi lên mỗi giai đoạn lịch sử đau thương mà vô cùng anh, dũng của dân tộc ta, khắc sâu ý chí đấu tranh vì độc lập, tự do của nhiều thế hệ cách mạng. Vận dụng quan điểm Bảo tồn có trọng điểm phải nhận thức rằng: Di tích lịch sử Côn Đảo là trọng điểm bảo tồn của quốc gia, Báu vật của dân tộc - Hồn thiêng sông núi. Đây cũng là ý tưởng của cố Tổng bí thư Lê Duẩn, phát biểu vào năm đầu của quần đảo hồi sinh: “Côn Đảo là một hòn Đảo anh hùng. Côn Đảo là một di tích lịch sử vĩ đại. Côn Đảo là một trường học lớn đối với thề hệ mai sau”.
"Nghĩa địa Tây" là một điểm di tích mà hầu như ít Đề án đề cập tới. Đây là nghĩa trang giám thị, nằm bên trái con đường từ thị trấn đi lên Hàng Dương. Giám thị Pháp - Việt và vợ con họ qua đời đều được an táng ở đây. Trong số đó, có nhiều giám thị ác ôn bị tù nhân trừng trị. Ngoài phương diện chứng tích của chủ nghĩa thực dân trên hòn đảo tù, về mặt đạo lý, chúng ta cũng nên đưa vào hạng mục di tích bảo tồn, tôn tạo. Những thế hệ sau này của nước Pháp văn minh sẽ có dịp hiểu hơn về đạo lý và nhân cách của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Bảo tồn cảnh quan là một yếu tố không thể tách rời việc bảo tồn di tích. Cảnh quan gần gũi với khu di tích là thị trấn Côn Đảo. Đó là một thị trấn có cấu trúc đặc biệt: Thị trấn tù trên một hòn đảo tù. Ngoài nhà tù và các cơ sở phục vụ bộ máy trị tù, thị trấn Côn Đảo không có một cơ sở kinh tế, văn hoá – xã hội nào khác. Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, người phác thảo bản quy hoạch tổng thể đầu tiên cho Côn Đảo đã đề nghị bảo tồn kiểu dáng kiến trúc này của thị trấn này, từ dãy phố công sở đến dãy biệt thự ven biển và những hàng cây, con đường, hàng rào, kè đá với ý niệm Côn Đảo là một hòn đảo di tích.
Mới đây, Tổ chức UNESCO đã chọn ngày 23-8 hàng năm làm ngày tưởng niệm quốc tế về buôn bán nô lệ và thủ tiêu chế độ nô lệ. Chắc chắn rằng, một ngày không xa, nhân loại tiến bộ sẽ có một ngày tưởng niệm quốc tế về thủ tiêu chế độ thực dân. Khi ấy, Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ và khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo sẽ là những địa chỉ đỏ cho nhân loại tiến bộ. Hệ thống nhà tù, dãy "phố tù", "thị trấn tù" sẽ hợp thành kiến trúc độc đáo có một không hai cho những ai muốn hiểu đích thực về chủ nghĩa thực dân. Cùng với việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo, việc bảo tồn Thị trấn tù - Phố tù sẽ đem lại một sản phẩm độc đáo cho khách quốc tế như một kiến trúc cổ hiếm hoi từ cuối thế kỷ trước còn lại gần như nguyên vẹn.
Các nhà bảo tồn thuần túy thường chỉ đưa vào đề án những cảnh quan cận kề di tích. Với những đề án bảo tồn và phát triển thì tính tổng thể phải được đặt lên hàng đầu. Nhận thức đúng đắn về công tác Bảo tồn di tích chính là bảo tồn động lực phát triển cho Côn Đảo. Khi đặt Côn Đảo đúng vị trí một di tích lịch sử cách mạng lớn, một tiền đồn canh giữ vùng biển giàu tiềm năng thì có nhiều giải pháp về kinh phí cho Côn Đảo, nguồn từ Ngân sách Nhà nước và ngân sách địa phương, nguồn trích từ thuế tài nguyên trên vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, nguồn từ vận động các địa phương, các cơ sở kinh tế, các tầng lớp nhân dân, các tổ chức quốc tế. Nếu sự đóng góp trong thập kỷ này còn hạn chế thì nên giành cơ hội đóng góp trong thập kỷ tiếp theo, khi nền kinh tế đất nước vào giai đoạn cất cánh.
Giống như đầu tư cho giáo dục, đầu tư cho các giá trị văn hoá truyền thống là sự đầu tư có tầm chiến lược cho sự tồn vong và phát triển của một dân tộc. Mọi nỗ lực của ngày hôm nay, nếu thiếu một tư duy đúng đắn sẽ dẫn đến phá vỡ tổng thể khu di tích, huỷ hoại một phần di tích vô giá. Điều đó sẽ trở thành tội lỗi đối với các thế hệ tiền bối đã xả thân cho nền độc lập nước nhà.
5. Đề án tôn tạo Nghĩa trang Hàng Dương và những vi phạm về nguyên tắc
Trong lúc các Đề án bảo tồn, tôn tạo và Đề án khoanh vùng bảo vệ di tích còn đang tranh luận thì Đề án tôn tạo Nghĩa trang Hàng Dương đã vi phạm hàng loạt nguyên tắc bảo tồn di tích. Ngày 15-1-1992, Hội đồng Bộ trưởng đã phê chuẩn luận chứng kinh tế kỹ thuật công trình Nghĩa trang Hàng Dương, giao cho Bộ LĐTBXH cùng UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu làm chủ quản, Chủ tịch UBND huyện Côn Đảo làm chủ đầu tư. Văn bản số 1650/KTDN ngày 11-9-1989 Thông báo kết luận của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt trong buổi làm việc với Bộ Văn hóa và Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo tại Thành phố Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Các di tích ở Côn Đảo là khu khép kín từ nhà chúa đảo các trại giam đến Nghĩa trang Hàng Dương là các bộ phận trong tổng thể di tích. Việc phân công tu bổ giữa Bộ Văn hóa và Bộ LĐ-TB-XH không có nghĩa là tách rời các di tích". Điều đó khẳng định sự nhất quán trong tư tưởng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Bộ LĐTBXH đã không quán triệt được tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng, không tiếp thu ý kiến của các ngành hữu quan, tách rời công trình tôn tạo Nghĩa trang Hàng Dương ra khỏi quần thể di tích, tôn tạo theo khuynh hướng xây dựng một Nghĩa trang liệt sĩ, vi phạm các nguyên tắc quản lý Nhà nước về Văn hóa. Trong giai đoạn II, Bộ LĐTBXH đã phạm thêm một sai lầm khi quy tập mộ ở các nghĩa trang Hàng Keo, Hòn Cau về Hàng Dương. Về mặt lịch sử, Hàng Dương là nghĩa địa tù. Tù nào chết cũng ra nghĩa địa, không phân chia đẳng cấp, quốc tịch, tôn giáo, án tiết, thái độ chính trị. Mọi khuynh hướng nhằm cải biến Hàng Dương thành nghĩa trang liệt sĩ đều không có cơ sở khoa học, không phù hợp với thực trạng di tích và tập quán của dân tộc ta.
Cùng với việc quy tập 148 hài cốt về Hàng Dương, Bộ LĐTBXH còn tổ chức di dời 21 mộ được gọi không phải tù chính trị ra khỏi Hàng Dương. Ở nhà tù này, chính trị cũng có nhiều loại: chính trị cộng sản, chính trị quốc gia, quân phạm chính trị, giáo phái chính trị, không rõ Bộ LĐTBXH quan niệm như thế nào về những hài cốt được gọi là tù chính trị và không được coi là tù chính trị? Việc quy tập và di dời hài cốt tù chính trị là trái với văn bản phê duyệt luận chứng của Nhà nước (số 13-CT), trong đó Hòn Cau, Cỏ Ống được ghi nhận như một hạng mục công trình, tương đương hạng mục các khu mộ A-B-C trong Nghĩa trang Hàng Dương. Cho đến khi đó, Nghĩa trang Hàng Keo vẫn chưa lập hồ sơ, khoa học, chưa có đề án bảo tồn thì Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội đã tổ chức qui tập hài cốt tù chính trị từ hàng keo về Hàng Dương, phá vỡ hiện trạng di tích.
Về mặt pháp lý, di tích Nghĩa trang Hàng Keo đã được phát hiện và phải được bảo vệ theo Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được Nhà nước ta ban hành. Điều 16, Pháp lệnh quy định: "Những đối tượng có dấu hiệu (là di tích lịch sử) như quy định ở Điều 1 của Pháp lệnh này đang trong thời gian nghiên cứu để công nhận đều được bảo vệ theo Pháp lệnh này."
Bên cạnh hàng loạt những vi phạm về Pháp lệnh Bảo tồn - Bảo tàng, Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội còn xúc phạm thô bạo cảnh quan Nghĩa trang Hàng Dương bằng một cái cổng đen vô cảm giống như hình một chiếc quan tài dựng đứng và ba tháp chuông như ba lô cốt canh giữ hài cốt, một nhà quản trang khổng lồ không giống đình, không giống chùa và tệ hại hơn là việc đóng cọc bê tông trước mỗi ngôi mộ, án ngữ cả những tấm bia mộ mà trước đây, những người bạn tù đã bất chấp cả hình phạt khắc nghiệt tạc nên. Những nỗ lực cuối cùng để giải ngân hàng chục tỉ đồng còn lại đang tạo ra một loạt sản phẩm khập khễnh, phá vỡ cảnh quan hơn là xúc cảm tưởng niệm, thành kính và sâu lắng.
6. Sự tuỳ tiện và tha hoá của quan chức đương thời là hiểm hoạ thường trực cho di tích
Chuyện qui tập "hài cốt liệt sĩ" từ Nghĩa trang Hàng Keo về Nghĩa trang Hàng Dương, ngoài sự thiếu hiểu biết về lịch sử và tùy tiện vi phạm Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, còn một lý do sâu xa. Cho đến khi vụ Trịnh Vĩnh Bình (Bình "Hà Lan") được khởi tố, người ta mới biết rằng 7 hécta thuộc khuôn viên di tích Nghĩa trang Hàng Keo đã được ngầm hoạch định thành một khu du lịch để "bán" cho Bình "Hà Lan" cùng với hơn 200 héc ta ở Cỏ Ống. Hàng Keo sẽ không mọc lên một khu biệt thự du lịch như "dự án ma". Không ai xây dựng khu nghỉ dưỡng trên hài cốt của các bậc tiền bối. Hàng Keo phải dành cho một công viên tưởng niệm lớn với ngôi đền thờ Hồn Thiêng Côn Đảo.
Có một di tích khác cùng chung số phận trong vụ án cũng đã được cứu vãn một cách khó khăn hơn. Đó là Công Quán. Di tích Công Quán được ghi trong quyết định 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá. Đây là ngôi Nhà khách (Maisson de passager) được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, nơi dừng chân cho lữ khách đến thi hành công vụ tại đảo. Nhà soạn nhạc tài danh của nước Pháp Camille Saint Saens đã lưu lại đây từ 20-3 đến 19-4-1895. Tại đây, ông đã hoàn tất vở nhạc kịch nổi tiếng Brunehilda. Đấy là dấu ấn đẹp đẽ duy nhất của nước Pháp văn minh trên hòn đảo tù. Những dấu ấn còn lại là của nước Pháp thực dân.
Từ nhiều năm trước, Công Quán đã được bảo tồn như một di tích lịch sử. Trên bức tường hướng ra đại dương đã được gắn một tấm biển đồng, vuông chừng 4 tấc, khắc hàng chữ lưu niệm: " Dans cette maisson vécut le grand compositeur Camille Saint Saens du 20 Mars au 19 Avril 1895, il y acheva l'Opera Brunehilda". Đã có dự án tôn tạo lại ngôi nhà này, sưu tầm bản nhạc nổi tiếng "L'Opera Brunehilda" cùng hình ảnh của nhạc sĩ về trưng bày. Thế rồi đến một ngày, tấm biển đồng bị bán cùng lô ve chai vì miếng cơm manh áo. Rồi đến một ngày, ngôi nhà di tích biến thành hạng mục kinh tế, và tiếc thay, đã trở thành vật chứng trong một vụ án kinh tế[4], trôi nổi nhiều năm, khiến chủ nhân đích thực là những người quản lý di tích không có điều kiện tôn tạo, để sự xuống cấp ngày càng thê thảm.
Vụ án xử rồi, ngôi nhà hoàn lại cho chủ cũ nhưng số phận của Công Quán vẫn còn trôi nổi. Mặc dù quy hoạch tổng thể huyện Côn Đảo đã được phê duyệt, di tích Công Quán đã được khoanh vùng bảo vệ, ngày 5-9-2002, Ủy ban nhân dân huyện Côn Đảo có văn bản đề nghị Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kiến nghị với Bộ Văn hóa - Thông tin cho giải toả căn nhà này "do toạ lạc tại vị trí trung tâm của nút giao thông Lê Duẩn - Tôn Đức Thắng, ngôi nhà này gây cản trở nghiêm trọng tầm nhìn khi xe cộ lưu thông trên hai con đường này, đồng thời, do án ngữ trong trung tâm khu công viên giữa đường Tôn Đức Thắng (đường kè ven biển) với hiện trạng hư hỏng như hiện nay đã gây ảnh hưởng rất xấu đến mỹ quan tuyến đường này... (Công văn số 393/UB.VP ngày 5-9-2002 của UBND huyện Côn Đảo)". Thật khó tin được khi người ta có thể lấy tầm nhìn giao thông thay cho tầm nhìn văn hóa. Những người làm công tác Văn hóa, Lịch sử và Bảo tồn - Bảo tàng lại phải lên tiếng cảnh báo một lần nữa, kiên quyết bảo vệ bằng được di tích lịch sử này, trong khi đã có bút phê của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:10:03 GMT 9
Trước đó không lâu, ngày 26-6-2002, ANDRÉ MENRAS, một người bạn Pháp từng đấu tranh chống chế độ Mỹ - ngụy, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta, bị chính quyền Sài Gòn kết án 4 năm tù tại khám Chí Hòa trong chuyến tìm đường ra thăm lại Côn Đảo cùng một người bạn tù Côn Đảo là Cao Nguyên Lợi đã dừng chân tại Vũng Tàu. Nghe câu chuyện về Camille Saint Saens viết bản L'Opera Brulhilda tại Côn Đảo, ANDRÉ MENRAS đã vô cùng xúc động nói rằng: "Tại Béziers - thành phố của tôi ở miền Nam nước Pháp có con đường mang tên Camille Saint Saens. Nhưng người Pháp hôm nay - kể cả tôi - để hiểu biết ý tưởng tuyệt vời của nhà soạn nhạc tài danh đó phải đặt chân đến Côn Đảo. Phải đến Côn Đảo mới có thể hiểu và thấm thía về tác phẩm tài danh đó. Vượt thời gian (từ 1895), Camille Saint Saens đã cảm nhận và tiên đoán trong bản L'Opera Brulhilda thảm họa của sự quên lãng của bất cứ ai đối với cái đẹp của một dân tộc". Cảm xúc của ANDRÉ MENRAS rất đáng để cho chúng ta suy ngẫm thêm về tầm nhìn văn hóa đối với di tích lịch sử Công Quán cũng như toàn bộ khu di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo.
Trước đó, Di tích Sở Lưới xấu số hơn đã không được cứu vãn. Một chữ ký của huyện, một chữ ký của tỉnh, một chữ ký của Bộ là một di tích ra đi. Sự thiếu hiểu biết và tuỳ tiện vi phạm Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh của những người lãnh đạo - quản lý có sức tàn phá di tích ghê gớm hơn cả bão giông, mối mọt.
7. Ý tưởng mới và những đề án cũ
Đầu năm 2004, một tia hy vọng mới đem lại sinh khí cho khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo. Sau khi Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Kế hoạch - Đầu tư xây dựng Đề án phát triển kinh tế xã hội huyện Côn Đảo (đầu năm 2003), tháng 2-2004, ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Chính phủ và nhóm cố vấn do ông mời chính thức tham gia vào Đề án.
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, trong cương vị Phó thủ tướng, ông đã đặc biệt quan tâm, trực tiếp chỉ đạo, triệu tập và chủ trì hàng loạt hội nghị bàn về việc xây dựng Đề án phát triển kinh tế xã hội Côn Đảo gắn với việc bảo tồn tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo. Ông đốc thúc các bộ, ngành, kêu gọi các nhà khoa học, các địa phương góp phần cùng với Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo để bảo tồn, tôn tạo khu di tích và phát triển kinh tế xã hội. Nhiệt huyết và uy quyền của ông đã kéo theo một sự chuyển động đáng kể, từ địa phương đến các bộ, ngành. Hàng loạt Đề án, quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát triển kinh tế xã hội Côn Đảo đã ra đời. Tuy nhiên, mặt trái của sự chuyển động ấy được biểu hiện ra như một sự thụ động trong nhận thức và sự tùy tiện trong bước đi, khiến cho những lệch lạc trong lĩnh vực bảo tồn di tích và tôn tạo Nghĩa trang Hàng Dương như đã dẫn trên đây là không tránh khỏi.
Quyền uy của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thời đó đã thúc đẩy mối quan tâm của nhiều người tham gia vào các dự án. Trong số đó, có cả những học giả mang theo "tư duy xuống cấp", "tư duy ăn uống", "tư duy cơ sở hạ tầng", "tầm nhìn giao thông"... với những sản phẩm khập khiễng như hiện trạng. Những người có tâm huyết và trí tuệ đứng ra bên lề các dự án. Có một điều, cho đến bây giờ, ông Võ Văn Kiệt vẫn chưa biết rằng, những ý tưởng của ông và nhóm cố vấn đưa ra hôm nay đã được Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn phác hoạ từ hơn 20 năm trước, khi anh đi cùng chúng tôi khảo sát lần đầu tiên, cho qui hoạch Côn Đảo. Ý tưởng của Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn không được chấp nhận. Anh gác bút, lui về căn gác nhỏ, chia sẻ cùng bạn bè tâm giao.
Lần này, ông Võ Văn Kiệt đến với Dự án phát triển Côn Đảo bền vững không phải bằng quyền lực mà bằng sự trăn trở đầy tâm huyết với ước vọng lớn là tập hợp những tâm huyết và trí tuệ để quy hoạch lại Côn Đảo đúng tầm, tạo ra bước đột phá để phát triển Côn Đảo với những tiềm năng có được từ tiềm lực mới của đất nước. Dự án phát triển Côn Đảo bền vững đặt mối quan tâm hàng đầu trong việc tổ chức bảo tồn và tôn vinh truyền thống xứng đáng một di tích - báu vật của cách mạng Việt Nam với các tiêu chí: xứng tầm, súc tích, nghệ thuật và trí tuệ. Điều đó hoàn toàn khác hẳn với tư duy của các Đề án trước đây, thường xuất phát từ luận chứng: tiền đâu để bảo tồn? đất đâu để phát triển?...
Điều đó đòi hỏi phải nhìn nhận lại toàn bộ những Đề án trước đây, toàn bộ những gì đã làm và đang làm dở dang để đánh giá lại tổng thể, quy hoạch lại tổng thể, để phát triển Côn Đảo bền vững trên nền tảng tư duy mới, với động lực tổng hợp từ tâm huyết, trí tuệ và tiềm lực mới của đất nước.
Điều đó thật không dễ dàng gì. Không phải vì đất nước ta thiếu tâm huyết và trí tuệ mà bởi sự "xuống cấp" trong nhiều năm qua khiến cho tâm huyết và trí tuệ chỉ là ước vọng của người có lương tri, trong khi ngự trị trong xã hội phổ biến là quyền lực, thói xu thời, tuỳ tiện và những "tư duy xuống cấp". Dự án phát triển Côn Đảo bền vững bao gồm hàng loạt những giải pháp về bảo tồn, tôn tạo, phát triển kinh tế xã hội, tổ chức điều hành, cơ chế đặc biệt cho Côn Đảo. Điều đó cần phải có sự qui tụ lớn hơn của tâm huyết và trí tuệ, và cần có sự đồng thuận cao, ở mọi cấp, mọi ngành, mọi người. Ý tưởng mới thường gặp trở lực lớn từ tư duy cũ. Song tính khả thi của Dự án là xuất phát điểm đúng, kèm theo động lực mạnh - động lực có được từ sự hội tụ của Tâm huyết - Trí tuệ - Tiềm lực mới của đất nước.
Trong chuyến đi thăm và làm việc với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mới đây, Phó thủ tướng Vũ Khoan đã trả lời phỏng vấn Báo Bà Rịa - Vũng Tàu (ngày 24-8-2004) "Việc cần làm trước mắt của Côn Đảo là không làm gì cả. Những bài học rút ra từ những điểm du lịch trong cả nước cho thấy chúng ta cần phải quy hoạch cho thật cụ thể đã. Điều phải làm trước hết là giữ được nguyên môi trường, di tích lịch sử, di tích cách mạng cho Côn Đảo"[5].
Về điều này, ông Vũ Khoan nói rất đúng. Việc cần làm trước mắt là dừng lại tất cả, nhìn nhận lại tất cả. Sự chậm trễ khiến chúng ta đau lòng, nhưng sẽ đau lòng hơn khi chúng ta không hiểu hết giá trị và tầm vóc của Côn Đảo, tầm vóc và giá trị mà chúng ta đang nhìn nhận bằng Tâm huyết - Trí tuệ - Tiềm lực mới của ngày hôm nay. Một Dự án phát triển Côn Đảo bền vững phải đặt trên cơ sở bảo tồn hữu hiệu tổng thể khu di tích và tôn vinh xứng đáng như một báu vật của đất nước./.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Tiến sĩ khoa học lịch sử, Trưởng Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, 26 Trương Công Định, Tp Vũng Tàu, ĐT: 064.850263 - 0918.385875
[2] Tính đến thời điểm bản đề án ra đời năm 1994.
[3] Quyết định số 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá
[4] Vụ án Trịnh Vĩnh Bình (Bình Hà Lan)
[5] Báo Bà Rịa - Vũng Tàu số ra ngày 24-8-2004
NGUYỄN ĐÌNH THỐNG
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:11:39 GMT 9
Côn đảo từ góc nhìn lịch sử Nguyễn Đình Thống Sau 55 phút bay từ Vũng Tàu hoặc Thành phố Hồ Chí Minh, bạn sẽ đặt chân lên sân bay Cỏ Ống. Xe đã chờ sẵn để đưa bạn về trung tâm thị trấn. Những cảm giác bồng bềnh của trời mây sẽ tan biến khi bạn hòa nhập vào khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ ngay trên con đường quanh co bên sườn núi, soi bóng dưới vịnh Cỏ Ống biếc xanh.
Măc dầu vậy, phần lớn du khách vẫn thích đến Côn Đảo bằng tàu thủy. Tàu nhổ neo lúc chiều tà, hoàng hôn đổ bóng trên giàn cọc đáy lặng lẽ bên hàng dừa Bãi Trước (Vũng Tàu). Bình Minh vừa hé lên, tàu cặp bến Côn Đảo.
Cách Vũng Tàu 97 hải lí, Côn Đảo gồm 16 hòn đảo, sừng sững trấn giữ vùng biển Đông Nam của Tổ quốc với những thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp cùng tiềm năng giàu có của biển, của rừng. Nằm trên tọa độ 8o47'57'' vĩ độ Bắc, 106o36' kinh độ Đông, tổng diện tích là 76,71 km2, quần đảo mang tên hòn đảo lớn nhất: đảo Côn Lôn với tên thường gọi là Côn Đảo.
Côn Đảo từng nổi tiếng là "địa ngục trần gian" ở xứ Đông Dương, song những ai đã một lần đặt chân đến đều không sao quên được vẻ đẹp say mê lòng người, những cảnh sắc kỳ thú của biển trời, đồi núi, rừng cây, bờ bãi mà thiên nhiên ban tặng. Một rặng vông đỏ rực soi bóng trên bãi Đầm Trầu, một bầy Vích con bò lổm ngổm trên bãi cát trước thung lũng Hòn Cau, một đợt sóng trào sôi ập vào cửa Đầm Tre giữa mùa gió chướng đều có thể đưa con người đắm chìm vào thiên nhiên với những cảm giác hùng vĩ, mênh mang và sâu lắng. Mười sáu hòn đảo quây quần bên nhau giống như một hạm đội tiền tiêu canh giữ vùng biển, vùng trời Tổ quốc.
*
Nhà tù Côn Đảo được thiết lập theo Nghị định ngày 1-2-1862 của Đô đốc Bonard để giam những người yêu nước, chống Pháp. Trung úy Félix Roussel được chỉ định làm Chỉ huy trưởng quần đảo kiêm Quản đốc đầu tiên của Nhà tù Côn Đảo.
Trong hơn nửa thế kỷ đầu, nhà tù Côn Đảo chỉ có một trại giam (Bagne NoI). Banh II được khởi công năm 1917, đưa vào sử dụng năm 1928. Banh III tiếp tục được xây dựng và được sử dụng năm 1939. Banh phụ của Banh III cùng 2 dãy Chuồng Cọp được sử dụng từ năm 1944.
Trong 20 năm sau cùng của nhà tù này, Mỹ nguỵ đã tăng qui mô từ 4 trại lên 8 trại. Trại V được xây dựng năm 1962. Trại VI, Trại VII và Trại VIII được xây dựng gần như cùng một lúc, vào năm 1968, hoàn thành cơ bản vào cuối năm 1970. Ba trại giam này được ngân sách MACCORD (chương trình viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ) chi tiền, chuyên gia xây cất nhà tù của Mỹ thiết kế và Hãng thầu Mỹ RMK- BRJ xây cất. Trại IX cũng đã được đổ móng, đúc cột rồi bỏ dở khi hãng RMK-BRJ rút khỏi Việt Nam (1972).
Trong 50 năm đầu, con số tù nhân ở nhà tù Côn Đảo biến động ở mức trên dưới 1000 người. Trong 15 năm tiếp theo, số lượng tù nhân ở đây dao động mức trên dưới 2000. Thời Pháp thuộc, nhân số nhà tù tăng lên cao nhất vào thời điểm sau cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ (23-11-1940). Báo cáo ngày 15-1-1943 của nhà tù cho biết nhân số hiện hữu là 4403 người. Hàng ngàn người tù đã chết trong những năm khủng bố ác liệt này.
Tháng 9-1945, hơn 2000 tù chính trị còn sống sót sau những năm khủng bố trắng đã nổi dậy giành quyền làm chủ Côn Đảo và trở về đất liền tham gia kháng chiến. Gần 1000 tù thường phạm còn lại được sinh sống tự do, bình đẳng với số công chức và gác ngục. Ngày 18-4-1946 thực dân Pháp tái chiếm Côn Đảo, lập lại nhà tù. Số lượng tù nhân kháng chiến bị giam giữ ở đây trung bình là 2000 người. Thời Mỹ - Ngụy, số lượng tù nhân Côn Đảo tăng dần từ 4000 đến mức 8.000 vào những năm 1967-1969 và gần 10.000 trong những năm 1970-1972.
*
Đến Côn Đảo bằng đường thủy, di tích lịch sử đầu tiên mà du khách đặt chân lên là Cầu tàu Côn Đảo. Cầu Tàu được khởi công từ năm 1873, mở rộng và sửa chữa nhiều lần, cho đến ngót một thế kỷ sau mới có dạng như ngày nay. Có người gọi Cầu Tàu bằng danh số 871; 914; 915 để tưởng nhớ số người đã chết trong lúc xây dựng Cầu Tàu. Những con số đó mang tính ước lệ và chắc chắn là chưa đủ.
Đứng trước cầu tàu, dấu ấn sâu lắng nhất đọng lại là những phiến đá. Hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu tảng đá ngổn ngang, sắp lớp theo kè ngang, kè dọc. Cụ Võ An Ninh, nhà nhiếp ảnh lão thành đã ba lần ra đảo, mê mẩn nâng ống kính trước những tảng đá. Những tảng đá lớn hàng thước khối, nặng nhiều tấn kia đã làm kiệt quệ và đè nát bao nhiêu thân tù khi họ xeo chúng từ Núi Chúa về đây. Bọn gác ngục người Pháp có lối giết tù bằng lao động khổ sai. Xeo đá, tảng lớn: 12 người. Xeo không nổi, chúng đánh một trận rồi bớt ra 2 người, bắt xeo. Không nổi lại đòn, lại bớt người, xeo tiếp. Không xeo được sẽ chết vì đòn roi, xeo được thì chết vì kiệt sức.
Bây giờ, những phiến đá mang đầy kỷ niệm đau thương ấy bình yên soi mình trước tấm gương xanh trải rộng trong vịnh Côn Lôn, trầm lặng và kiên nhẫn. Nhiều du khách đã ngồi rất lâu trên những tảng đá ấy, đắm chìm suy tư vào quá khứ trước biển cả gợn sóng biếc xanh, đổi muôn sắc màu huyền ảo theo góc soi của trời chiều ngả dần trên Núi Chúa.
Vào một chiều cách đây 30 năm, ngày 27-2-1965, 57 tù chính trị trong một kíp làm khổ sai, đã đánh chiếm chiếc tàu Thương Cảng Sài Gòn số hiệu TCS.131, bắt toàn bộ nhân viên rồi đoạt canô nhỏ trở về vùng giải phóng ngay trong đêm ấy. Những gộp đá tại Cầu Tàu đã giúp họ giấu hàng chục thanh sắt nhọn để rồi chuyển lên xà lan trước giờ khởi sự.
Cầu Tàu từng chứng kiến niềm hân hoan của hơn 2000 tù chính trị giải phóng vào tháng 9-1945, khi chiếc canô do người thợ máy Tôn Đức Thắng cầm lái dẫn đoàn tàu thuyền của Ủy ban hành chính Nam bộ ra rước chính trị phạm Côn Đảo. Ba mươi năm sau, Cầu Tàu lại rợp bóng cờ bay, đón hơn 4000 tù chính trị giải phóng, lần lượt trở về đất liền vào tháng 5-1975. Đã có hàng chục vạn lượt tù nhân đặt chân lên Cầu Tàu trong những chuyến lưu đày. Hàng vạn người vĩnh viễn không trở về...
Nước Mỹ có một khu bảo tàng lớn, được xem như nếu chưa đến đó, chưa biết nước Mỹ. Hiện vật duy nhất còn lại là một viên đá mà người da trắng đầu tiên đã đặt chân lên lục địa này từ vài thế kỷ trước. Cầu Tàu lịch sử có hàng triệu tảng đá có thể làm nên những bảo tàng như vậy.
*
Cạnh lối bước ra Cầu Tàu là một ngôi nhà kiến trúc kiểu Tây Phương rợp mát dưới tán bàng đại thụ. Trên bức tường hướng ra đại dương có gắn một tấm biển đồng, vuông chừng 4 tấc, khắc hàng chữ: " Dans cette maisson vécut le grand compositeur Camille Saint Saens du 20 Mars au 19 Avril 1895, il y acheva l'opera Brunehilda".
Đây là ngôi nhà khách (Maisson de passager) được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, sau gọi là Công Quán, nơi dừng chân cho lữ khách đến thi hành công vụ tại đảo. Nhạc sĩ kì tài của nước Pháp Camille Saint Saens đã lưu lại đây tròn một tháng, từ 20-3 đến 19-4-1895. Tại đây, ông đã hoàn tất vở nhạc kịch nổi tiếng Brunehilda. Nỗi đau quằn quại của những người tù khổ sai hòa trộn giữa nắng trời, sắc biển kỳ thú của Côn Lôn đã tạo cho ông những cảm xúc mãnh liệt và đi vào giai điệu tuyệt tác trong chương cuối bản nhạc kịch Brunehilda mà nhạc sĩ Guirand, người bạn quá cố của ông ủy thác.
*
Giờ đây, đến Côn Đảo, người ta vẫn còn choáng ngợp bởi một hệ thống trại giam được xây dựng qui mô với tám trại giam chính, mỗi trại rộng từ 10.000 đến 25.000 m2 cùng hàng chục trại phụ với 20 hầm đá, 14 xà lim, 31 gian biệt lập Chuồng Bò, 120 Chuồng Cọp Pháp, 384 Chuồng Cọp Mỹ, chưa kể đến hàng chục khu biệt lập nhất thời để duy trì an ninh đối với những người tù trong tay không một tấc vũ khí.
Còn đây hệ thống trại giam, những di tích Cầu Tàu, cầu Ma Thiên Lãnh, Sở Tiêu, Cỏ Ống, Bến Đầm, Hòn Cau, Bảy Cạnh - những công trình xây dựng bằng mồ hôi, xương máu của tù nhân. Hàng chục cây số đường dọc ngang trên đảo, hàng ngàn mét tường đá dày bao quanh các trại giam, hàng triệu tảng đá ngổn ngang dọc cầu tàu như còn âm vang câu ca trường hận của tù nhân: "Côn Lôn ơi, viên đá mạng người..."
Còn đây Nghĩa trang Hàng Keo, Nghĩa trang Hàng Dương, Nghĩa trang Hòn Cau, Nghĩa trang Cỏ Ống với gần 2 vạn nấm mồ có tên và không tên. Nghĩa trang Hàng Dương và Nghĩa trang Hàng Keo đang được bảo tồn như một di tích lịch sử đặc biệt, được mệnh danh là "Bàn thờ Tổ quốc”, nơi yên nghỉ của hàng vạn người con ưu tú của dân tộctrong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội giữa lao tù, xiềng xích. Nơi ấy chứa đựng nỗi đau chung của dân tộc Việt Nam, của các dân tộc bị áp bức.
Nghĩa trang Hàng Keo và Nghĩa trang Hàng Dương còn mang tính chất một nghĩa trang quốc tế. Nhiều người yêu nước của các dân tộc Lào, Campuchia, Thái Lan, Quảng Châu Loan (Tô giới Pháp ở Trung Quốc) đã bị đày ải và hy sinh tại đây. 89 tội phạm chiến tranh Nhật Bản đã bị thực dân Pháp đày ải trong những năm 1947-1950, có ít nhất là 2 người đã gửi xác lại.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:11:55 GMT 9
Nghĩa trang Hàng Keo, Hàng Dương với 2 vạn nấm mồ là bằng chứng không phai mờ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Gần hai vạn nấm mồ không tên và hàng triệu mẩu xương không địa chỉ như một lời tố cáo hùng hồn những kẻ đang lớn tiếng đòi nhân quyền cho vài trăm hài cốt của những tên xâm lược.
*
Côn Đảo không chỉ có nhà tù, hầm đá, xà lim, Chuồng Bò, Chuồng Cọp, nghĩa trang, hài cốt... Côn Đảo còn có những bãi tắm tuyệt đẹp, bãi cát mịn, nước trong vắt, với muôn màu huyền ảo tựa như có một họa sĩ thiên tài đã hòa sắc màu của trời, của biển với màu xanh của cánh rừng nguyên sinh, nay là rừng quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên với hàng trăm loài cây đại diện cho rừng Việt Nam ở các miền, với tầng sinh thái và thảm thực vật đặc trưng như một bảo tàng về rừng của đất nước. Đấy là nơi lý tưởng dành cho du lịch sinh thái và nghiên cứu khoa học, là môi trường lý tưởng tôn tạo cảnh quan cho khu di tích lịch sử có một không hai này.
Cảnh quan gần gũi nhất với di tích là thị trấn Côn Đảo. Đó là một thị trấn có cấu trúc đặc biệt: thị trấn tù của một hòn đảo tù. Ngoài nhà tù và các cơ sở phục vụ bộ máy trị tù, thị trấn Côn Đảo không có một cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội nào khác. Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, người phác thảo bản quy hoạch tổng thể đầu tiên cho Côn Đảo đã đề nghị bảo tồn kiểu dáng kiến trúc của thị trấn này, từ dãy phố công sở đến những hàng cây, con đường, tường rào, kè đá... Anh đã thiết kế bản quy hoạch với một ý niệm tâm đắc: Côn Đảo là một hòn đảo di tích.
Không thật rộng, không thật cao, từ ngoài vịnh nhìn vào, dãy biệt thự như một đường viền duyên dáng của thị trấn Côn Đảo, được bao bọc ba bề bởi Núi Chúa và mũi Lò Vôi, mũi Cá Mập. Vị trí, kích thước, đường nét và màu sắc của chúng thật hài hòa trong khung cảnh thiên nhiên. Mái ngói đỏ tươi cùng những bức tường vôi trắng như thể tô điểm cho sắc trời, sắc biển, càng rực rỡ cùng hàng cây phượng vĩ khi Hè về. Bông bằng lăng tím biếc, bông điệp đỏ, điệp vàng làm duyên khi Xuân đến, Thu sang. Mùa đông, con đường ấy lắng đọng trong âm sắc xao xác của những cành bàng gày guộc, lẫn trong tiếng sóng vỗ ầm ào.
Xa xưa, những người tù làm khổ sai trên con đường này đã tìm mọi cách lén đem về trại những đọt bàng non hoặc trái bàng xanh để làm thuốc chữa bệnh kiết lị và tăng thêm nguồn sinh tố cho những bạn tù đang kiệt quệ. Lá bàng khô cũng là món quà quý chia nhau dùng vào việc vệ sinh, và lãng mạn hơn, để chép thơ tặng nhau. Gốc cây, khe đá là những hộp thư để chuyển cho nhau tin tức, vật dụng hiếm hoi có được. Cụ Tôn Đức Thắng trong những năm làm thợ máy tại Sở Lưới đã gửi qua hộp thư ấy từng lọ mắm tép nho nhỏ, từng lon cá vụn kho mặn cho các đồng chí bị cấm cố. Mỗi thước đường, mỗi gốc cây, gộp đá trên hòn đảo này đều chứa đựng những điều bí ẩn và kỳ thú.
*
Trước ngày giải phóng, toàn bộ những công trình trên đảo đều được xây dựng bằng lao động khổ sai của tù nhân: cầu tàu, trại giam, nhà cửa và những con đường... Từ thị trấn Côn Đảo, có 2 tuyến giao thông về 2 phía: Bến Đầm và Cỏ Ống. Tuyến đường từ thị trấn ra Bến Đầm được khai phá từ những năm đầu thế kỷ. Năm 1952, chúa đảo Jarty lập đề án mở rộng con đường này để sử dụng hữu hiệu vịnh Bến Đầm.
Đề án mở đường của Jarty đã tạo tiền đề cho cuộc vượt ngục có một không hai, diễn ra trong mùa gió chướng năm ấy. Gần 200 tù binh làm đường ở Bến Đầm đã trở thành lực lượng xung kích để thực hiện phương án võ trang giải thoát của Đảo ủy. Những người lính xuất thân từ thợ mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả đã thiết kế một căn hầm bí mật theo kiểu hầm lò ngay dưới nền trại giam. Họ khoét đất bằng muôi múc cơm, đựng đất trong ống quần, vạt áo mà chuyển ra ngoài, rút gỗ từ sạp nằm để chèn, chống, kiên trì tạo dựng 2 căn hầm bí mật, vừa dài, vừa rộng, đủ để đóng 5 con thuyền vượt biển.
11 giờ trưa 12-12-1952, cuộc bạo động đã nổ ra, 28 tổ xung kích tay không đã trói gọn 28 tên lính Âu Phi, thu toàn bộ vũ khí. 5 chiếc thuyền khung gỗ, ốp mây đan, quét sơn và hắc - ín đã được hạ thủy tại Bến Đầm. Chuyến đi ấy biển trời không thuận, 117 người bị tàu Pháp đuổi theo bắt lại, 81 người khác đã không trở về.
Tám năm trước đây, cụ Nguyễn Văn Họa, người tổ trưởng tổ đào hầm dạo ấy đã cùng đoàn tù chính trị Côn Đảo tỉnh Quảng Ninh trở lại đây xác định dấu vết căn hầm và dựng tấm bia tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc võ trang giải thoát. Có thể là một ngày không xa, lớp con cháu cụ, những người thợ mỏ hôm nay sẽ tìm về nguồn cội và khôi phục di tích này để ghi tạc một chiến công đã trở thành biểu tượng cho ý chí tự giải phóng của các bậc tiền bối.
*
Như để cân bằng tiềm năng ở 2 đầu hòn đảo, thiên nhiên đã tạo dựng một thung lũng bằng phẳng phía Đông-Bắc thị trấn, vừa đủ để xây dựng một sân bay: sân bay Cỏ Ống. Cỏ Ống là tên gọi của một ngôi làng cổ, nơi sinh sôi của một loài cỏ ống mà người ta thường dùng đan đệm, nón, giỏ xách. Cho đến bây giờ, ngoài phạm vi của sân bay, cảnh sắc ở thung lũng này còn nguyên sơ như tên gọi. Bởi thế, Cỏ Ống có sức hấp dẫn đặc biệt.
Chỉ bước qua đầu đường băng phía Tây vài chục thước thôi, du khách đã phải sững sờ trước vẻ đẹp hiếm có của bãi Đầm Trầu. Một bãi cát mịn trải dài như dải lụa vàng thắt ngang tấm thảm xanh, nửa vắt lên cánh rừng, nửa buông xõa trên mặt biển. Một vách đá dựng đứng tôn thêm dáng núi uy nghiêm; một triền đá thoai thoải trải dài đến tận mép nước như thân thiện, chào mời; một rặng vông nở hoa đỏ rực giữa sắc xanh của trời, của biển và những tảng đá cô độc hay sóng đôi lô nhô quanh đây đều khiến những ai vô tình nhất cũng trở nên bâng khuâng, xao xuyến. Ấn tượng hùng vĩ của thế núi, cảm giác thẳm sâu của biển cả và sắc xanh bất tận là nguồn cảm hứng khơi dậy những khát vọng cao cả, nhân ái, thánh thiện, vĩnh hằng.
Không chỉ riêng có Bãi Đầm Trầu, mà đến bất cứ nơi nào, Bãi Rong, bãi Ông Đụng, bãi Ông Câu, Đầm Tre, Hòn Cau, Hòn Tài, Hòn Trác... phong cảnh thiên nhiên vẫn hiện ra với dáng vẻ thật riêng như ta chưa từng gặp bao giờ.
*
Từ sau ngày hoàn toàn giải phóng 1975, Côn Đảo là một đơn vị hành chính cấp tỉnh, sau trở thành một huyện thuộc tỉnh Hậu Giang; tháng 5-1979 là một quận của đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo; từ tháng 10-1991 đến nay là một huyện của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Qua nhiều lần đổi thay, Côn Đảo bao giờ cũng là một đơn vị hành chính hết sức đặc biệt: Tỉnh không có quận, huyện; huyện không có xã, phường.
Trong nhiều năm qua, dân số Côn Đảo biến động ở mức 2.000-3.000 người, tương đương với số dân ở một xã hẻo lánh ở miền núi. Lịch sử đã để lại trên hòn đảo này một nhà tù với chiều dài hơn một thế kỷ. Trong hơn một trăm năm ấy, ngoài hệ thống nhà tù và bộ máy trị tù, Côn Đảo không có một cơ cấu dân cư, không có một cơ sở kinh tế-xã hội nào khác. Thêm vào đó là sự cách trở với đất liền, khiến cho việc phát triển kinh tế-xã hội ở Côn Đảo gặp nhiều khó khăn, trở ngại gấp nhiều lần.
Những năm gần đây, cuộc sống và sinh hoạt ở Côn Đảo đang khởi sắc. Các dự án tu sửa đường xá, sân bay, xây dựng bến cảng và các khu biệt thự đang được thực thi. Côn Đảo đã có một đội tàu quốc doanh gần 30 chiếc, với tổng công suất hơn 10.000 CV, vừa đánh bắt, vừa bảo vệ vùng biển giàu tài nguyên, bảo vệ hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Bưu điện Côn Đảo đã hòa mạng quốc gia và quốc tế, giúp cho người dân Côn Đảo và du khách có thể liên lạc với bất cứ một địa chỉ nàu đã được phủ sóng trên hành tinh này.
Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày hoàn toàn giải phóng, Côn Đảo được bảo tồn như một di tích lịch sử lớn của đất nước. Hàng vạn lượt du khách trong và ngoài nước đã đến đây để suy ngẫm về sứ mệnh "khai hoá văn minh" của người Pháp và "bảo vệ tự do" của người Mỹ, để hiểu được cái giá mà các thế hệ tiền bối đã phải trả cho độc lập, tự do của Tổ quốcì. Mỗi di vật trên hòn đảo chứa đầy di tích này luôn nhắc nhở con người biết trân trọng quá khứ.
(Số 09, Tháng 2-2006) NGUYỄN ĐÌNH THỐNG
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:14:11 GMT 9
Di sản lịch sử vô giá và thiên nhiên Côn Đảo cần được tôn vinh xứng tầm Võ Văn Kiệt Đấy là một cuộc đấu tranh không cân sức giữa một bên là toàn bộ sức mạnh đàn áp khốc liệt của chế độ chiếm đóng, cai trị của nước ngoài, đã biến quần đảo Côn Lôn tươi đẹp thành “một địa ngục trần gian“, mong nghiền nát mọi sự chống đối, với một bên là ý chí sắt thép của những người tù tay không tấc sắt, bị cùm gông, tra tấn, đọa đày, chiến đấu chỉ bằng một thứ vũ khí duy nhất: “lòng yêu nước và tinh thần bất khuất của truyền thống Việt Nam” được trao lại từ lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Cuộc đấu tranh không cân sức ấy kéo dài hơn một thế kỷ, và cuối cùng, những người Việt Nam yêu nước đã thắng!
Tất cả các phong trào yêu nước từ Cần vương, Văn thân, Đông kinh nghĩa thục và các phong trào yêu nước khác như những đợt sóng trào, dồn dập, tiếp nối. Không một phong trào nào không đóng góp cho Côn Đảo những chiến sỹ ưu tú nhất của mình.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), thị trấn ngục tù Côn Đảo thực sự trở thành một lò lửa cách mạng, một trường đào tạo cán bộ. Nhiều thế hệ những người cộng sản đã kinh qua, đã trưởng thành từ đây. Những xà lim án chém, cấm cố, những chuồng cọp đày đọa tù nhân, man rợ ngoài sức tưởng tượng của loài người. Nhưng cũng chính từ những xà lim cấm cố, chuồng cọp, chuồng bò, hầm xay lúa nghiệt ngã ấy, Côn Đảo đã đào tạo và cung cấp cho cách mạng Việt Nam những thế hệ lãnh tụ kiệt xuất từ Lê Hồng Phong, Tôn Đức Thắng đến Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng vv… những người cộng sản ưu tú đã dương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, dẫn dắt dân tộc Việt Nam tranh đấu, băng qua bão lửa cách mạng và chiến tranh, đưa đất nước ta đến ngày toàn thắng.
Côn Đảo là bản hùng ca bi tráng của cách mạng Việt Nam, là hòn đá thử vàng của khí tiết và nhân cách Việt Nam, là minh chứng hùng hồn của ý chí Việt Nam. Côn Đảo mãi mãi cất cao tiếng nói dõng dạc với nhân loại và lịch sử rằng: “Ý chí và lòng yêu nước Việt Nam là không gì có thể khuất phục”. Tiếng hát kiêu hãnh của liệt sỹ anh hùng Võ Thị Sáu trên địa ngục Côn Đảo trước họng súng pháp trường mãi mãi là biểu tượng lạc quan của niềm tin tất thắng ấy.
Ở nước ta, không quần thể di tích nào còn giữ được một cách nguyên vẹn tính trung thực lịch sử như vậy khi chúng ta giành thắng lợi hoàn toàn sau chiến thắng vang dội 1975. Nơi ấy, hơn hai vạn người con ưu tú của dân tộc đã vĩnh viễn nằm lại Hàng Keo, Hàng Dương, đã tan thành cát bụi để giành lấy cuộc sống hôm nay, và gửi lại chúng ta niềm hy vọng cháy bỏng về một tương lai tươi đẹp.
Việc gìn giữ, tôn tạo hệ thống di tích này cho các thế hệ mai sau như một bài học về ý chí bất khuất, tinh thần tự lực, tự cường vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng “một nước Việt Nam giàu, đẹp, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như tâm nguyện của các thế hệ tiền bối đã ngã xuống, đã hy sinh cho sự nghiệp thiêng liêng này.
Tôi tin rằng những giá trị như vậy không có nhiều trên thế giới này, ít nhất cũng không được gìn giữ một cách gần nguyên vẹn như ở Côn Đảo.
Thị trấn tù nhân Côn Đảo là một bằng chứng hiếm hoi trong tiến trình lịch sử loài người và cả trong lịch sử kiến trúc xây dựng thế giới mà người Việt Nam chúng ta đã và đang gìn giữ, không phải chỉ cho riêng ta, mà còn cho cả nhân loại, một nhân loại đang vật vã bước vào thiên niên kỷ mới, với những nhà tù mới, đang chà đạp lên nhân phẩm con người. Côn Đảo là “Một Biểu Tượng Hy sinh – Chiến đấu” của Việt Nam, một bằng chứng thể hiện nhiều giá trị cao đẹp của người Việt. Mãi mãi thị trấn Côn Đảo và quần thể di tích mà nó hiện đang tồn giữ, vẫn nóng bỏng tính thời sự. Với Việt Nam, Côn Đảo là Vĩnh Hằng.
Về vị trí địa lý, Côn Đảo gần như nằm ở trung tâm cách đều một chùm thủ đô các nước láng giềng trong cộng đồng ASEAN, những quốc gia vùng Đông – Nam Á mà tiến trình lịch sử trong vài trăm năm qua có cùng hoàn cảnh như nước ta. Bài học Côn Đảo chẳng phải là bài học điển hình cho các dân tộc nhỏ, yếu vùng lên dành lại chủ quyền cho nhân dân, cho đất nước mình sao? Nếu vậy, “trường học Côn Đảo” không chỉ là trường học của riêng ta, mà còn là trường học của thế giới, trước hết là của các quốc gia, của các dân tộc nhỏ yếu đang cần xiết chặt tay nhau cùng đi lên trong thế giới này.
Theo tôi, quy hoạch di tích phải được coi là trọng tâm trong mọi hoạt động xây dựng ở Côn Đảo, đơn giản vì nếu không tồn tại cụm di tích quý giá này, Côn Đảo cũng chỉ là một quần đảo bình thường như nhiều quần đảo đẹp khác của đất nước chúng ta.
Tiếc rằng trong ba mươi năm qua, dù đã có nhiều cố gắng trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích, chúng ta không phải không có những lầm lẫn đáng tiếc, cần sớm được rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá và bổ ích.
*
Với Côn Đảo, thị trấn và quần thể di tích chỉ mới là một mảng nội dung.
Cách đất liền, cách những thành phố đông dân không xa, quần đảo Côn Lôn với 16 hòn lớn nhỏ quần tụ trong một vùng biển đẹp có thể được coi như một danh thắng của đất nước. Hệ sinh thái đa dạng của biển, rừng Côn Đảo, tiêu biểu cho thiên nhiên nhiệt đới gió mùa có khí hậu đại dương, là một nguồn tài nguyên đặc biệt quý giá. Vườn quốc gia Côn Đảo trong hệ thống vườn quốc gia của cả nước đã được thành lập và hoạt động trong những năm qua, đang tồn giữ một hệ sinh thái giàu giá trị khoa học là một dẫn chứng.
Côn Đảo không chỉ là một vùng cảnh quan tuyệt đẹp mà còn cất giấu trong lòng đại dương những bí ẩn chưa được khám phá hết. Biển Côn Đảo là một không gian rộng lớn tiềm ẩn nhiều giá trị du lịch đặc sắc, mở ra một triển vọng chưa thể ước lượng trong ngành công nghiệp không khói của nước ta. Du lịch đang từng bước trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn hứa hẹn một tương lai rộng lớn, sáng sủa. Vậy thì việc sắp xếp, quy hoạch lại một cách hợp lý, dành không gian thuận lợi cho phát triển du lịch trong khi vẫn đảm bảo những giá trị nguyên bản của quần thể di tích và vườn quốc gia phải là một quy hoạch liên ngành để các bên cùng phối hợp phát triển. Điều hòa lợi ích giữa bảo tồn, khai thác những giá trị lịch sử, giá trị thiên nhiên với lợi ích phát triển kinh tế trong đó có kinh tế du lịch là một bài toán cần tìm cách giải quyết một cách cân đối.
Với sân bay Cỏ Ống và cảng Bến Đầm đã xây dựng xong - cùng với Phú Quốc - Côn Đảo hứa hẹn một tiền đồ khai thác du lịch biển đảo của vùng đất phương Nam nhiệt đới, ấm áp quanh năm này là một khả năng mà nhiều vùng trọng điểm du lịch nổi tiếng khác của nước ta không có được. Vấn đề cần thiết hiện nay là nên sớm tiến hành các chương trình khảo sát sâu sắc, toàn diện, đánh giá một cách khoa học, khách quan, để tìm kiếm “một đồ án quy hoạch đủ chất lượng”, nhằm điều hoà mâu thuẫn nếu có, giữa những lợi ích khác nhau để phát triển một cách hài hòa trong chiến lược khai thác tổng thể, lâu dài.
Theo tôi, phát triển với quy mô quá lớn như hiện nay ở khu trung tâm, trong một chừng mực nhất định, khó tránh khỏi ảnh hưởng đến quần thể di tích vốn khá mong manh vì, ngoài tác động khó tránh của thời tiết, những tác động nâng cấp nhằm làm mới di tích, hoặc tận dụng di tích vào mục đích dân sinh, đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống đời thường, đang làm di tích ngày một biến dạng. Những công trình mới mọc lên ở chứng tích Hàng Dương, cầu tàu du lịch, nhà nghỉ công đoàn… cùng những công trình khác theo phong cách mới mọc lên tại khu vực trung tâm trong những năm qua là một ví dụ. Những “thêm thắt” đó không những không mang lại cho Côn Đảo một diện mạo kiến trúc mới mẻ, tương xứng với tiềm năng, mà đã, và sẽ làm biến dạng diện mạo kiến trúc tiêu biểu, điển hình như nó đã từng có. Khu vực này cần hạn chế những công trình xây dựng mới ở mức vừa đủ và giữ khoảng cách cần thiết - hoặc có giải pháp cách ly - với khu di tích, để phục vụ cho nhiệm vụ quản lý di tích và bảo tàng. Dành diện tích thoả đáng cho hồ nước, rừng cây, tạo một không gian và không khí thích hợp cho nhu cầu hành hương và tưởng niệm của du khách.
Nên chăng, một lễ cầu siêu long trọng dành cho những người đã khuất sẽ được cử hành định kỳ hàng năm, tiếp nối từ truyền thống dân tộc như một mỹ tục mới mà chúng ta sẽ xây dựng. Ngày ấy, rất có thể được chọn làm “Ngày Côn Đảo” được tiến hành trong cả nước. “Ngày Côn Đảo” cũng là ngày hành hương dành cho thân nhân các gia đình liệt sỹ đã ngã xuống nơi đây, và cũng đánh dấu ngày mở đầu mùa du lịch Côn Đảo.
*
Côn Đảo đang cần xây dựng cho mình một diện mạo mới, tương xứng với giai đoạn phát triển dài lâu trong tương lai, muốn vậy, cần tìm kiếm những không gian phát triển mới. Hai khu vực Bến Đầm và Cỏ Ống (bao gồm cả khu vực Đầm Tre) đang mở ra triển vọng hứa hẹn những khu đô thị hiện đại có thể được quy hoạch, xây dựng lớn, sẽ góp phần giúp khu trung tâm giảm bớt áp lực và bảo tồn được những giá trị tiêu biểu mà lịch sử đã trao lại.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:14:26 GMT 9
Với địa hình, địa mạo biến thiên linh hoạt, với hai vịnh biển kín gió, được bao quanh bởi đồi thấp và núi cao, Bến Đầm và Cỏ Ống (bao gồm cả Đầm Tre), như hai cửa ngõ tiếp cận Côn Đảo bằng đường biển và đường bay, hứa hẹn khả năng cho phép hình thành những khu đô thị du lịch hiện đại mà không ảnh hưởng đến quần thể di tích trong khu trung tâm. Nếu biết khai thác tốt thiên nhiên và xử lý tốt địa hình, những khu đô thị mới sẽ đáp ứng yêu cầu khắt khe của những khu du lịch cấp cao mà thế giới đang đòi hỏi.
Bến Đầm là vịnh lớn nhất Côn Đảo, đã có cầu cảng thích hợp cho việc neo đậu những du thuyền lớn trong giai đọan trước mắt và hoàn toàn có khả năng mở rộng trong tương lai. Vịnh đủ rộng cho những hoạt động thể thao trên bầu trời và trên mặt biển, phục vụ hoạt động du lịch, và là nơi trú đậu tàu thuyền trong mùa mưa bão.
Địa hình quanh vịnh gồm nhiều sườn núi dốc, cần tìm giải pháp thích hợp cho việc xây dựng những tổ hợp kiến trúc trên các sườn bao quanh, tạo một diện mạo kiến trúc đô thị độc đáo, đặc sắc.
Côn Đảo vốn không dồi dào về nước ngọt. Những ngành công nghiệp đòi hỏi nguồn nước sạch với khối lượng lớn như chế biến thủy hải sản, cơ khí sửa chữa tàu thuyền, phương tiện giao thông vận tải, và các loại máy phục vụ xây dựng vv… cần được cân đối với nguồn nước và nguồn nguyên liệu, nhất là những nguyên liệu phải chở từ đất liền hay có khả năng nhiễm bẩn môi trường.
Đất nông nghiệp ở Côn Đảo không nhiều. Sản xuất lương thực, thực phẩm để tự cung cấp rất khó đạt kết quả. Trên những diện tích cho phép, nên nghĩ đến những loại cây trồng có giá trị thương phẩm cao như cây ăn trái nhiệt đới tiêu biểu, đặc trưng, hoặc các giống hoa cao cấp, phục vụ ngành du lịch sẽ phát triển trong tương lai.
Rừng Côn Đảo có nhiều đặc sản độc đáo và dược liệu quý hiếm, biển Côn Đảo giàu sản vật hứa hẹn cung cấp dồi dào nguồn nguyên liệu cho ngành thủ công mỹ nghệ vốn đã có truyền thống trên đảo từ thời của những người tù. Nếu biết tổ chức các làng nghề đặc sắc, không những chỉ phục vụ cho ngành du lịch mà có thể nghĩ tới một tương lai rộng lớn hơn, cung cấp cho đất liền hoặc xuất khẩu.
Cũng cần nghĩ đến những cơ sở vật chất cần thiết cho công việc nghiên cứu của các ngành khoa học sau này. Có lẽ cần sớm khởi động những chương trình tìm kiếm nguồn năng lượng sạch như điện gió, điện mặt trời… rất dồi dào trong khu vực khí hậu đại dương, đảm bảo một môi trường trong lành vốn là một yếu tố hấp dẫn du khách như Côn Đảo.
Cụm du lịch Bến Đầm hoàn toàn có thể thông thương với cụm Cỏ Ống – Đầm Tre bằng một con đường xuyên đảo chạy ở sườn phía Tây như trước đây đã dự kiến. Trục đường này chia sẻ một khối lượng vận tải, giao thông sẽ tập nập trong tương lai để tuyến đường hiện có như một hiện vật lịch sử phục vụ nhu cầu hành hương, tưởng niệm.
Khu Cỏ Ống – Đầm Tre nằm phía Bắc đảo, kề cận sân bay, địa hình linh hoạt, dự trữ đất xây dựng dồi dào, hứa hẹn một khu đô thị đẹp nếu biết khai thác tốt.
Đầm Tre là một vịnh nhỏ, kín gió, thông với biển bằng một cửa hẹp, như một không gian biệt lập, dành riêng, cho phép nghĩ đến một đặc khu du lịch cấp cao, hiện đại, trên các sườn đồi quanh vịnh với những công trình kiến trúc du lịch đặc sắc. Hệ rừng quanh vịnh trong tình trạng gần như nguyên sinh chưa bị xâm hại, tàn phá, cần đặc biệt thận trọng trong xây dựng, nên được khai thác như một giá trị tiêu biểu, điển hình.
Nếu xây dựng, quản lý và khai thác tốt, khu du lịch Đầm Tre có khả năng sẽ tạo nên một sức cuốn hút, mê hoặc đối với du khách.
Khu đô thị Cỏ Ống nằm phía Nam sân bay Cỏ Ống, địa hình rộng rãi cho phép phát triển với quy mô lớn, hứa hẹn khả năng sẽ là khu dân cư chính của Côn Đảo. Ở đây ngoài hệ thống công trình du lịch, có thể bố trí các công trình hành chính, văn hoá, thể thao và các công trình khác phục vụ toàn đảo.
Vậy thì tại sao chúng ta không tiến hành tổ chức “một cuộc thi quốc tế”? Kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác trong thời gian qua đã cho chúng ta những bài học bổ ích. Việc tổ chức một cuộc thi như thế, ngoài những kết quả về chuyên môn thu được còn là một cơ hội quý giá cho chúng ta giới thiệu về Côn Đảo, về cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong hàng trăm năm qua, về con đường mà đất nước ta, nhân dân ta đã đi đến thắng lợi.
Ngoài hệ thống đường giao thông hiện có và tuyến đường dự kiến chạy phía Tây đảo như đã nói trên, nên chăng một trục đường hoặc một hệ đường thích hợp chạy trên những độ cao cho phép, kết hợp an ninh quốc phòng với quản lý rừng và du lịch.
Cần nghĩ đến ngay từ bây giờ trong quy hoạch tổng thể việc khai thác những hòn đảo khác trong quần đảo, giúp quy hoạch du lịch Côn Đảo có thêm nhiều nội dung phong phú, nhiều sản phẩm du lịch đặc sắc. Khả năng xây dựng một chiếc cầu treo vượt eo biển nối khu đô thị Cỏ Ống với hòn Bãi Cạnh từ mũi Chân Chim cũng không phải là một hiện thực quá xa vời trong mười lăm, hai muơi năm nữa khi chúng ta đã trở thành một đất nước phát triển sánh cùng các quốc gia khác trên thế giới. Ngoài giao thông đường bộ, những phương tiện vận chuyển đường thủy hiện đại đưa khách đến thăm hòn Cau, hòn Tre, hòn Trứng, hang Yến và các hòn khác trong quần đảo cần được nghĩ đến từ bây giờ. Với sân bay Cỏ Ống đã hoàn thành và sẽ được mở rộng, việc ngắm nhìn quần đảo từ trên không bằng tàu lượn, bằng khinh khí cầu phải chăng là những phương thức khai thác du lịch sinh động, làm cho Côn Đảo có thêm nhiều sức hút?
Với tất cả những giá trị được trình bày một cách khái quát trên đây, tại sao chúng ta không nghĩ đến, ngay từ bây giờ, khởi động việc xây dựng một hồ sơ đề xuất với Tổ chức Khoa học và Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO), nghiên cứu, xếp hạng “Thành phố Trăm năm ngục tù Côn Đảo” của nước ta vào “Danh mục Di sản lịch sử và thiên nhiên Thế giới”, một di sản đang cần được gìn giữ lâu dài cho Nhân loại, vì chính nó đã được xây dựng bằng máu xương của hàng vạn người con ưu tú của một dân tộc đã bền bỉ tranh đấu, hy sinh cho nhân phẩm và tự do. (Số 09, Tháng 2-2005) Suu Tam
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:16:00 GMT 9
Không được quên quá khứ Nguyễn Đình Thống Bà Rịa Vũng Tàu có nhiều Di tích lịch sử, Văn hóa và Danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng. Đầu tư bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh là bảo tồn chính những tiềm năng quyết định sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của địa phương. Điều đó đòi hỏi việc bảo tồn, tôn tạo phải tuân theo những nguyên tắc nghiệp vụ.
Dường như cùng với những yếu kém trong quản lý kinh tế, chúng ta chưa thoát khỏi yếu kém trong công tác tư tưởng và văn hóa, bảo tồn và bảo tàng. Dường như, cùng với những thành tựu kinh tế - xã hội đạt được, đội ngũ cán bộ cũng hư hỏng nhiều hơn. Chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bè phái, lối sống thực dụng, tệ quan liêu tham nhũng đang len lỏi vào ngay trong những cơ quan quản lý văn hóa, vào các quy trình nghiên cứu, đề án khoa học như những nguy cơ, thách thức.
Các nguy cơ tụt hậu, chệch hướng, tệ quan liêu, tham nhũng chính là mảnh đất thuận lợi cho kẻ thù , làm suy giảm hiệu lực của Nhà nước và Luật pháp, làm cho dân không tin Đảng, Đảng mất chỗ dựa trong dân. Nguy cơ ấy là tự đánh mất bản sắc, tự tước bỏ vũ khí tư tưởng và văn hóa. Đó là nguy cơ mất gốc, nguy cơ mất nước. Bước vào thời kỳ mở cửa, hợp tác, phát triển kinh tế thị trường, càng phải nâng cao tầm vóc công tác tư tưởng và văn hóa, bảo tồn và phát huy tác dụng các di tích lịch sử, di sản văn hóa dân tộc, cảnh giác với âm mưu phá hoạt của kẻ thù, với sự tha hóa của chính mình.
Côn Đảo là một di tích lịch sử cách mạng lớn, được Đảng và Nhà nước ,các ngành các cấp và địa phương quan tâm đầu tư, tôn tạo, nhưng vẫn còn nhiều bất cập đến khó tin. Sau gần 30 năm giải phóng, một di tích lịch sử tầm vóc quốc gia này vẫn chưa có hồ sơ khoa học. Sự xuống cấp đang hàng ngày diễn ra với nhiều nguy cơ, thách thức. Có những di tích đã được khoanh vùng bảo vệ ở khu vực trọng điểm vẫn đang có nguy cơ bị phá bỏ đi.
Có một nguy cơ xuống cấp nằm ngay trong quá trình trùng tu, tôn tạo. Một cán bộ có trách nhiệm của Bảo tàng tỉnh cho biết, nhiều loại gỗ đưa ra thay thế không đúng qui cách, thậm chí còn thua chất lượng của những dầm xà Trại II, Trại III phải thay ra. Những năm cuối của thế kỷ thứ XX, Phòng 7 Trại II, một trong những trọng điểm đầu tư tôn tạo đã bị sập mái vì chất lượng của các loại vật liệu vừa thay thế.
Có một nguy cơ khác tiềm ẩn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội ở Côn Đảo. Có một sự xuống cấp vì vi phạm Pháp lệnh bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong những năm 1990 của thế kỷ XX, một cầu tàu mới đã được xây dựng cách Cầu Tàu lịch sử không xa. Xưa kia, nơi ấy là một bãi đá ngổn ngang, hàng vạn tảng đá, những tảng đá đã làm nên linh hồn của Cầu Tàu lịch sử. Mới đây, công trình kè đá ven biển và mở con đường mới bao quanh thị trấn đã vùi lấp nốt những khối đá còn lại trên đoạn kè từ Cầu Tàu lịch sử về phía nghĩa trang Hàng Keo.
Cụ Võ An Ninh, nhà nhiếp ảnh lão thành đã ba lần ra đảo, mê mẩn nâng ống kính trước những tảng đá. Bây giờ, bãi đá chỉ còn trong bộ ảnh đen trắng của cụ. Giờ đây, cụ Võ An Ninh đang trăn trở trên giường bệnh, mỗi lần giở lại tập album, cụ lại thẫn thờ thốt lên: "Ôi ! Những tảng đá..."
Những tảng đá lớn hàng thước khối, nặng hàng tấn kia đã đè nát biết bao thân tù khi họ xeo từ Núi Chúa về đây. Không xeo được thì chết vì đòn roi, xeo được thì chết vì kiệt sức. Còn âm vang đâu đây trong từng phiến đá câu ca trường hận của tù nhân: "Côn Lôn ơi, viên đá-mạng người". Những tảng đá ấy ít nhất đã một lần được ghi vào trong văn bản mang tính pháp lệnh bảo tồn. Quyết định số 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá (nay là Bộ Văn hóa - Thông tin) quy định việc khoanh vùng bảo vệ di tích lịch sử Côn Đảo, "cấm không được lấy đá kè ở bờ biển dùng vào việc khác".
Đã bao năm qua, những phiến đá mang đầy kỷ niệm đau thương ấy bình yên soi mình trước tấm gương xanh trải rộng trong vịnh Côn Lôn, trầm lặng và kiên nhẫn chờ đợi du khách tới đây, đắm chìm suy tư vào quá khứ trước biển cả gợn sóng biếc xanh, đổi muôn sắc màu huyền ảo.
Nước Mỹ có một khu bảo tàng lớn, được xem như nếu chưa đến đó, chưa biết nước Mỹ. Hiện vật duy nhất còn lại là một viên đá mà người da trắng đầu tiên đã đặt chân lên lục địa này từ vài thế kỷ trước. Cầu Tàu lịch sử có hàng triệu tảng đá có thể làm nên những bảo tàng như vậy.
Giờ đây, cầu tàu mới, con đường mới, kè bê tông mới khang trang đã thay thế vào nơi ấy, cờ, hoa và người chen nhau cùng những đoàn khách ra thăm, hân hoan và lưu luyến. Chỉ thiếu vắng những tảng đá lịch sử, từng chứng kiến bao thăng trầm, lặng lẽ và kiên nhẫn nằm lại đây trong hơn một thế kỷ qua, chờ đón những ai tìm về quá khứ.
Có một hạng mục cũng được ghi trong quyết định 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá nay vẫn còn trôi nổi, chưa biết số phận được định đoạt ra sao, đó là Công Quán. Đây là ngôi Nhà khách (Maisson de passager) được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, nơi dừng chân cho lữ khách đến thi hành công vụ tại đảo. Nhạc sĩ kì tài của nước Pháp Camille Saint Saens đã lưu lại đây tròn một tháng, từ 20-3 đến 19-4-1895. Tại đây, ông đã hoàn tất vở nhạc kịch nổi tiếng Brunehilda. Đấy là dấu ấn đẹp đẽ duy nhất của nước Pháp văn minh trên hòn đảo tù. Những dấu ấn còn lại là của nước Pháp thực dân. Từ nhiều năm trước, Công Quán đã được bảo tồn như một di tích lịch sử. Trên bức tường hướng ra đại dương đã được gắn một tấm biển đồng, vuông chừng 4 tấc, khắc hàng chữ lưu niệm: " Dans cette maisson vécut le grand compositeur Camille Saint Saens du 20 Mars au 19 Avril 1895, il y acheva l'Opera Brunehilda".
Đã có những dự án tôn tạo lại ngôi nhà này, sưu tầm bản nhạc nổi tiếng "L'Opera Brunehilda" cùng hình ảnh của ông về trưng bày tại đấy. Thế rồi đến một ngày, tấm biển đồng đã theo lô ve chai vì miếng cơm manh áo. Rồi đến một ngày, ngôi nhà di tích biến thành hạng mục kinh tế, và tiếc thay, đã trở thành hiện vật một vụ án kinh tế, trôi nổi đến bây giờ, khiến chủ nhân đích thực của nó là những người quản lý di tích không có điều kiện tôn tạo, để sự xuống cấp ngày càng thê thảm. Cách đây vài tháng, đã có ý kiến xin dỡ di tích này mà công luận đã lên tiếng phê phán.
Mới đây, ngày 26-6-2002, ANDRÉ MENRAS, một người bạn Pháp từng đấu tranh chống chế độ Mỹ - ngụy , ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta, bị chính quyền Sài Gòn kết án 4 năm tù tại khám Chí Hòa trong chuyến tìm đường ra thăm lại Côn Đảo đã dừng chân tại Vũng Tàu. Nghe câu chuyện về Camille Saint Saens viết bản L'Opera Brulhilda tại Côn Đảo, ANDRÉ MENRAS phải đau lòng và vui sướng nói rằng: "Tại Béziers thành phố của tôi ở miền Nam nước Pháp có con đường mang tên Camille Saint Saens. Nhưng người Pháp hôm nay - kể cả tôi - để hiểu để biết ý tưởng tuyệt vời của nhà soạn nhạc tài danh đó phải đặt chân đến Côn Đảo. Phải đến Côn Đảo mới có thể hiểu và thấm thía về tác phẩm tài danh đó. Vượt thời gian (từ 1895), Camille Saint Saens đã cảm nhận và tiên đoán trong bản L'Opera Brulhilda thảm họa của sự quên lãng của bất cứ ai đối với cái đẹp của một dân tộc". ANDRÉ MENRAS đã hứa sẽ làm mọi việc để góp phần tôn tạo di tích này.
Trước khi chia tay, MENRAS vẫn còn sôi nổi nhắc lại điều tâm đắc của anh: "Sẽ là thảm họa cho những ai lãng quên cái đẹp của một dân tộc, lãng quên quá khứ hào hùng của một dân tộc".
Có một sự xuống cấp nằm trong những bản luận chứng bảo tồn. Khi đào móng xây tường rào bao quanh nghĩa trang Hàng Dương, nhiều ngôi mộ tù đã bị xới lên. Ông Chủ tịch huyện Côn Đảo và nhiều cán bộ lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã làm lễ cải táng, đưa số hài cốt ấy vào nơi qui hoạch. Người ta dự đoán rằng sẽ còn những ngôi mộ nằm ngoài tường rào của nghĩa trang, song vấn đề đặt ra là tiếp tục tìm kiếm, quy tập hay khảo sát, nghiên cứu, phát hiện và định lại đường ranh để bảo tồn đúng hiện trạng di tích? Câu hỏi này đến nay chưa có lời giải đáp.
Điều đáng tiếc là chính luận chứng bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử đặc biệt Nghĩa trang Hàng Dương lại xâm phạm, phá vỡ hiện trạng của di tích. Trước khi hoàn thành luận chứng, các kiến trúc sư đã đi khảo sát và được nghe những nguy cơ sai lầm do việc thiếu hiểu biết về hiện trạng của nghĩa trang, về đặc điểm lịch sử các ngôi mộ và ghi nhận tất cả, nhưng sự xâm phạm các phần mộ, huỷ hoại một phần di tích lịch sử đặc biệt này vẫn diễn ra. Đó là sự xuống cấp của một qui trình nghiên cứu khoa học.
Sự xuống cấp thuộc loại nguyên nhân này còn nằm ngay trong Đề án bảo tồn khu di tích lịch sử Côn Đảo. Đã gần 30 năm sau ngày giải phóng, đã có gần trăm tỷ đồng đổ vào khu di tích để trùng tu tôn tạo nhiều hạng mục công trình nhưng đến nay Đề án bảo tồn tổng thể khu di tích mới khởi thảo trong khi từng di tích và tổng thể di tích vẫn chưa hoàn thành Hồ sơ khoa học. Những kết luận mơ hồ, sai lệch đọng lại ngay trong Đề án khi đề cập đến mỗi di tích.
Hầm phân bò được Đề án xếp vào loại di tích đặc biệt, đặc trưng cho lối tra tấn man rợ, ngâm người xuống hố phân cho đến khi chết hoặc chịu khuất phục. Song không ai giải đáp được rằng chuyện ấy xảy ra khi nào? Có bao nhiêu người bị hành hạ theo kiểu ấy? Tên tuổi và địa chỉ vài ngườI ? Chứng cứ để xác nhận cho di tích này?
Câu trả lời cho các câu hỏi trên là nghe nói thế, có thể như thế. Với cảm nhận riêng của từng người thì có thể kẻ địch tàn ác hơn như vậy, nhưng một di tích lịch sử lại không tồn tại bằng những luận điểm có thể, điều đó có thể không có sức thuyết phục, ấn tượng mơ hồ có thể gieo vào nhiều người khi đứng trước di tích lịch sử đặc biệt này.
Nghĩa trang Hàng Dương cũng được xếp vào loại di tích đặc biệt, nơi chôn cất 2 vạn nấm mộ tù nhân. Điều này có thể là một trong những sai lầm vào loại lớn của Đề án. Nghĩa trang Hàng Dương chỉ được hình thành từ năm 1941 với số liệu ước tính gần sát thực tế là khoảng 5.000 ngôi mộ. Trước đó là Nghĩa trang Hàng Keo nằm ở một vị trí khác, đã hoàn toàn bị bỏ rơi ngoài Đề án.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 2, 2007 10:16:28 GMT 9
Một tập thể 75 chiến sĩ bị xử bắn tại Cỏ Ống cũng có thể là một sai lầm tương tự. Điều lạ lùng là không ai biết ngày bắn, không ai biết lấy một tên người bị bắn, không ai dám chắc có một mẩu xương nào dưới ngôi mộ ấy, không có một hồ sơ chứng cứ nào mà di tích vẫn tồn tại với luận điểm nghe nói thế, có thể có chuyện này. Đấy là sự xuống cấp của tư duy khoa học trong lĩnh vực bảo tồn.
Việc tôn tạo Nghĩa trang trong một thời gian dài đã bỏ qua các nguyên tắc bảo tồn di tích, vi phạm Pháp lệnh bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh nhưng Ngành Văn hóa Thông tin từ Trung ương đến cơ sở đều im lặng, cho đến khi dư luận lên tiếng. Hàng loạt hoạt động qui tập và di dời hài cốt, khai quật và kiểm tra di tích, xây và đập phá tượng đài trong khu vực di tích, phá hủy hiện trạng các di tích đã xếp hạng và di tích đang lập hồ sơ... đều do Chủ đầu tư cùng Ban quản lý công trình thực hiện, không hề xin phép hoặc trao đổi với cơ quan quản lý Nhà nước về Văn hóa. Có thể nói không quá đáng, trong một chừng mực, ở di tích này, Ngành Văn hoá Thông tin đã đánh mất vai trò quản lý.
Trong những năm gần đây, Ngành Văn hóa Thông tin đã có những chuyển biến tích cực. Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp kinh phí và chỉ đạo Sở Văn hóa thông tin tỉnh lập Hồ sơ di tích, lập Đề án khoanh vùng bảo vệ Di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo. Bản Đề án Quy định khu vực bảo vệ Di tích lịch sử Côn Đảo của Sở Văn hóa Thông tin tỉnh, lập ngày 12-5-1997 (theo phương án II) đã đánh giá được những nội dung cơ bản của các di tích và đưa ra được Quy định các khu vực cần bảo vệ.
Tuy nhiên, theo phương án này, còn nhiều di tích bị lãng quên cần bổ sung vào Khu vực I như: Sở Lưới, Kè Đá ven biển, Sở Recherche (Truy tầm tù trốn), Nghĩa địa Tây, toàn bộ Nghĩa trang Hàng Keo, định lại ranh giới Nghĩa trang Hàng Dương cho đúng với hiện trạng. Hiện nay, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về việc bảo tồn khu di tích này, bảo tồn toàn bộ hay chỉ bảo tồn những giá trị tiêu biểu. Lý do chủ yếu để bảo vệ cho quan điểm bảo tồn những giá trị tiêu biểu là... lớn quá, tiền đâu để bảo tồn... rộng quá, đất đâu để phát triển... ra Côn Đảo chỉ thấy có nhà tù. V.v và v.v...
Trong cuộc Hội thảo ngày 20-5-1997 tại Vũng Tàu, một số cán bộ Ngành Bảo tồn Bảo tàng đã đưa ra quan điểm "bảo tồn có trọng điểm" để thay thế việc đầu tư tôn tạo một số di tích đã được xếp hạng bằng các loại sơ đồ, sa bàn, phim ảnh... Song nếu ý tưởng trên được thực hiện, chắc chắn sẽ gây ra sự đảo lộn về đội ngũ cán bộ trong ngành, trước hết, phải thay thế các cán bộ có nghiệp vụ Bảo tàng bằng những nghệ sỹ quay phim, chụp hình.
Khu di tích Lịch sử Nhà tù Côn Đảo với ý nghĩa tố cáo sâu sắc những tội ác tột cùng của chủ nghĩa thực dân đế quốc và nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Đảng ta, của dân tộc ta cần phải được bảo tồn trọng điểm. Đó là những giá trị văn hóa vô giá không gì thay thế được. Nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ và nhân loại tiến bộ cũng sẽ đến đây để tìm hiểu hệ thống nhà tù của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà không nơi nào có được, để tự tìm những câu giải đáp từ di tích này, đâu là chính nghĩa, nhân quyền, vì sao Việt Nam chiến thắng, Pháp Mỹ thua.
Các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau cũng sẽ đến đây để tìm hiểu về cội nguồn, để hiểu về cái giá của độc lập tự do mà các thế hệ tiền bối đã đổi bằng xương máu, để biết nâng niu trân trọng hạnh phúc được sống trong độc lập tự do. Họ đến Côn Đảo, và Di tích nói với họ điều đó, không gì thay thế được.
Kinh tế càng phát triển thì dân trí và nhu cầu văn hóa ngày càng cao, đất nước càng mở cửa thì càng phải giữ vững định hướng XHCN, trong đó phải đặc biệt chú trọng giáo dục truyền thống cách mạng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đó cũng là một trong sáu định hướng lớn về công tác tư tưởng mà Bộ chính trị Trung ương Đảng đề ra trong thời kỳ đẩy mạnh công cuộc Đổi mới, Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Côn Đảo không chỉ là một khu di tích đơn thuần mà còn là một trung tâm văn hóa, khoa học, một trung tâm dịch vụ trong chương trình khai thác những di sản tinh thần và vật chất, đem lại hiệu quả không chỉ về tinh thần mà cả vật chất, ngày càng nhiều hơn trong tương lai.
Bộ Văn hóa thông tin cần đầu tư hơn nữa cho Côn Đảo. Khu di tích lịch sử Côn Đảo là công trình tầm vóc quồc gia, song sự đầu tư về cán bộ, kinh phí, nghiệp vụ của Bộ là chưa thỏa đáng. Việc phân cấp quản lý cũng cần phân định sớm, để thấy rõ trách nhiệm của Bộ, của tỉnh và của huyện. Công tác Bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác các di tích lịch sử là một vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng và văn hóa. Có nhiều vấn đề, những người làm công tác tư tưởng và văn hóa còn phải chờ đợi. Đội ngũ cán bộ, phương tiện làm việc, kinh phí nghiệp vụ, chế độ đãi ngộ... còn nhiều điều bất cập. Trong khi đó, những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường đang từng ngày tác động làm xói mòn cả con người lẫn di tích. Hơn ai hết, những cán bộ Ngành Bảo tồn Bảo tàng phải là những chiến sỹ tiên phong trên mặt trận này./. Suu Tam
|
|