|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 2:59:43 GMT 9
Tạ Tỵ Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 9 Bùi Giáng Bùi Giáng và thủ bút Sinh ngày: 17-12-1926 tại Quảng Nam Tác phẩm: Lá hoa cồn (Thơ) Thi ca tư tưởng (Đi vào cõi thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1969 Sa mạc phát tiết (Thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1969 Martin Heidegger (Vấn đề căn bản của Siêu hình học), Nhà xuất bản Võ Tánh, 1969 Mùa thu trong thi ca (Tư tưởng và thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1970 Sa mạc trường ca (Thơ), Nhà xuất bản An Tiêm, 1970 Ngày tháng ngao du, Nhà xuất bản An Tiêm, 1971 Bùi Giáng – người thi sĩ chối bỏ thi ca Bùi Giáng (trung niên thi sĩ), thuở còn bé, ham đọc thơ. Bỏ học về nhà quê chăn trâu. Làm thật nhiều thơ, thân tặng chuồn chuồn và châu chấu. Bùi Giáng đã tự giới thiệu với dòng chữ trên, được in ở mép bìa tập thơ Sa mạc phát tiết do nhà An Tiêm xuất bản năm 1969. Lời giới thiệu đó cũng là ý hướng tỏ bày quan niệm về chiều hướng thi ca của thi sĩ. Cõi sống này không làm gì còn ai, có ai biết và hiểu thơ nữa, nên người thơ đành gửi tinh hoa, huyết lệ mình cho đám côn trùng đồng nội! Mỉa mai thay, Bùi Giáng! Đi già nửa vòng đời với gần 30 năm đọc sách, làm thơ, để hôm nay nói lên lời cay độc! Bùi Giáng đã sử dụng cái tinh thể của ngôn ngữ để đạt tới thượng đỉnh của suy nghĩ, nhưng không cần ai biết suy nghĩ đó để làm gì? Thơ với Bùi Giáng, đích thực không phải cứu cánh, chỉ được thực hiện nhằm giải tỏa ám ảnh về thân phận trong vòng đai cuộc sống nhiều băn khoăn với ý thức siêu hình. Cái sa-mạc-cõi-đời-thế-giới-hôm-nay đầy ngụy trang, bất trắc. Nó u tối như vùng địa ngục, nếu không, cũng rừng rú man rợ, hỗn loạn trước mắt nhìn thi sĩ. Bùi Giáng – người thơ, không ở trong trạng thái bình thường cả tâm hồn lẫn nghệ thuật. Sự đòi hỏi về mình, cho mình cái tuyệt đối trong sáng tạo là yếu tố căn bản cho mỗi cá nhân làm văn học, nghệ thuật. Tuyệt đối, con người từ vạn cổ đã đi tìm tuyệt đối. Nhưng tuyệt đối cũng như chân lý, chúng không phải vật thể để con người có thể dùng mắt nhìn, dùng tay sờ, dùng trực giác phán đoán và phân tích chúng qua suy luận. Tuyệt đối là vô hình, vô ảnh. Nó sống do mơ ước, cũng chết theo mơ ước! Cũng chính vì con người ham tìm tuyệt đối nên mới nảy sinh tiến bộ. Cái tuyệt đối biến mất, và trở thành tương đối lúc con người tưởng rằng đã tới nó. Vậy, cái điều thi nhân mơ ước giữa cõi Thơ, đi tìm tuyệt đối trong tư tưởng, ngôn ngữ, mãi mãi chỉ là thất bại! Điều này, khi luận về chữ "Đạo" Lão Tử đã nói: …"Có một cái nó bao gồm hết thảy, nó sinh ra trước khi có Trời có Đất. Nó yên tĩnh biết bao! Nó trơ trọi biết bao! Nó đứng một mình và không thay đổi. Nó hồi chuyển về bản thể của nó không một chút nguy hại và nó là Mẹ của Vũ Trụ. Ta không biết tên nó, nên gọi nó là "Hành Lộ" là "Đường Đi"(the Path). Miễn cưỡng ta gọi nó là "Vô Cùng Tận" (the Infinite). Vô Cùng Tận là Phù Du (Fleeting); Phù Du là Tiêu Tán (the Vanishing); Tiêu Tán là Phản Hồi (the Reverting). Đạo ở "Thông Lộ" (Passage) hơn ở trong "Hành Lộ" (Path). Nó là tinh thần của "Vũ Trụ Biến Hóa", - sự sinh trưởng không ngừng luôn luôn quay trở về bản thể để sinh sản ra những hình thức mới. Nó cuộn mình lại như rồng, biểu tượng sở thích của môn đồ Đạo gia. Nó cuốn lại và tỏa ra như mây. Có thể ví Đạo như cuộc Biến Thiên Vĩ Đại. Theo chủ quan, nó là khí chất của Vũ Trụ. Tuyệt Đối của nó là Tương Đối… (Trà đạo – Tiểu luận, trang 53-54, Okakura Kakuzo, Bảo Sơn dịch) Thơ có phải là Đạo? Không, thơ không phải là Đạo nhưng nó sinh hoạt tương tự như Đạo, nghĩa là nó cũng đi tìm cái biến thiên vĩ đại trong cõi mông lung Trời Đất. Nó đi tìm niềm Tin trong mắt nhìn, hồn nghĩ. Cái niềm Tin đó không lệ thuộc vào nguyên tắc hay giáo lý của Đạo Pháp mà nó phiêu phiêu giữa ý thức của cá nhân, trong cái Nhìn và cái Nghĩ về Vũ Trụ đối chiếu với bản-thể-đời-sống. Người thơ vừa đóng vai Giáo Chủ vừa làm tín đồ ngoan đạo. Thơ, tiếng nói siêu ngôn ngữ. Cái giá trị mỹ cảm của nó, không lệ thuộc vào sự thẩm xét có tính cách thông thường mà thuộc về cái-gì-bền-bỉ và cao-đẹp-nhất của con người trong địa hạt suy tưởng. Thơ, không phải là cơ hội giải trí, nó có tính cách sùng mộ. Trong thi ca, cái đẹp không nhất thiết phải có Chân, có Thiện. Nó được quan niệm rộng rãi hơn, tự do hơn và vượt trên những thứ đó. Bởi vậy, sự dấn thân của thi nhân không phải để giành về phần mình những đặc ân, mà chính để ban phát đặc ân cho kẻ khác, còn mình chỉ thâu nhận khổ đau, khắc nghiệt. Nói vậy, không hàm chứa ý nghĩa tuyệt đối của mỗi số phận thi nhân ở môi trường thi ca, mà nhằm tỏ bày ý niệm. Bùi Giáng, người làm thơ đã chối bỏ thi ca vì đã nhìn rõ cái mong manh của ngôn ngữ trước Định Mệnh và cõi Siêu Hình. Có lẽ, vì chịu ảnh hưởng quá nhiều các triết thuyết Tây phương và gần đây của Đông phương, nhất là giáo lý Phật giáo, nên người thơ đã đánh mất bản ngã, để chịu giày vò trong "vòng quay" của các nhà đại-tư-tưởng cả Đông lẫn Tây, làm cho ngơ ngác. Nhưng ác thay, cũng nhớ nó, để có vóc dáng đặc biệt Bùi Giáng hôm nay: … Chân nhân đời xưa đưa ra một "chủ thuyết" nào đó, đều có như là tình phi đắc dĩ? Chẳng đừng được mà phải nói. Nói ra, mà vẫn có chỗ như là chẳng muốn nói ra. Chẳng đừng được mà phải nói tới nhân nghĩa, lễ nghĩa, như Khổng Tử. Chẳng đừng được mà phải nói bỏ nhân nghĩa, lễ nghĩa đi, như Lão Tử. Chẳng đừng được mà viết Tề Vật Luận, như Trang Tử. Trang Tử thường dùng phép "Chi ngôn", ấy là bởi ông đứng ngay giữa cơn lốc của sự tình bất đắc dĩ: muốn gác bỏ chuyện thị phi, mà vẫn cứ bị bó buộc phải nêu mãi chuyện thị phi… … Sau ba cái khối Khổng, Lão, Trang, tư tưởng Trung Hoa đã đi vào phiên nhiên trong cung bậc Đường Thi. Rồi nó kết tinh trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều là chỗ dung hợp của Khổng, Lão, Trang và Phật. Người tư tưởng sẽ không còn dám viết gì về tư tưởng nữa. Trang Tử tái sinh sẽ nghĩ sao về cuốn Nam Hoa Kinh của ông? Ông sẽ viết một bộ Tân Nam Hoa Kinh, hay là ông hồn nhiên ngâm câu thơ Hồ Dzếnh? "Thơ về nắng sáng lừng bay Gấp đi ánh phượng cho ngày rạng ra". Hoặc câu thơ của Xuân Diệu: "Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ Giữa đáy trưa trong lòng mẹ vô cùng. Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió Mẹ là trời con là hạt sương rung Sương uống mãi chẳng bao giờ hết sáng Của trời cao chói lọi mỗi triều ngày Sáo ca mãi lòng tre run choáng váng Gió vẫn đầy ngàn nội bốn phương bay" Thơ như thế là cái chốn của "tâm vô thố hồ thị phi, hưu hồ thiên quân. (Thi ca tư tưởng) Chính vì say mê triết thuyết này nọ, nên Bùi Giáng bị ám ảnh đến nỗi nghi hoặc cả thi ca và càng lúc, càng đưa thi ca vào vùng trời u mặc để cười giỡn cho vui, vì đời là chiêm bao cả! Cái Có, cái Không, cái Còn, cái Mất hàm trong tinh thể của Tạo Hóa mà sức người không có cách nào làm cho lay động! Đúng, Bùi Giáng đã đi vào chiêm bao giữa cuộc sống vì cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, con người không thể dùng luận lý để biện minh phải trái. Nhưng dù nói gì mặc lòng, đích thực Bùi Giáng bị cái hàng rào triết học bủa vây thật chặt chẽ. Giả dụ, Bùi Giáng không đọc sách Triết, hoặc chú trọng tới vấn đề Siêu hình mà chỉ làm thơ thôi, chắc thơ Bùi Giáng không mang sắc thái độc đáo với tinh thần u mặc thâm thúy của Lão Tử, kèm theo đấy, nào Platon (triết gia Hy Lạp, môn đồ của Socrate và là thầy của Aristote), nào Parménide, Nietzsche, Dylan Thomas, Rilke, Hoelderlin, Baudelaire, v.v. là những khuôn mặt lớn của Tư Tưởng và Thi Ca Thế Giới để chứng tỏ khả năng hiểu biết của mình. Đôi lúc, người thơ cũng bị lôi cuốn vào khung trời quái dị qua hình ảnh "thiên tài đày đọa" Edgar Allan Poe, người đã có những tưởng tượng dị thường với cái nhìn ma quỷ, luôn luôn bị ám ảnh bởi các "thiên thần kỳ quái" trong kích thước văn nghệ quốc tế. Thơ Bùi Giáng súc tích, chứa đựng nhiều u uẩn. Cái khung trời sáng láng, hiền hậu, chan hòa mơ ước phiêu bồng của buổi nào xa xôi, vẫn thấp thoáng hiện về trong thi nhân qua những vần điệu: Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết Đỗ quang ôi và có lẽ quyên ôi Đi lìa xa xứ sở của mặt trời Thì chuyện cũ cũng như từng chưa biết… Ngày mai, ôi! ngày mai khi con người lìa xa cuộc thế, khi mắt đã nhắm không còn nhìn thấy mặt trời cùng người quen, kẻ lạ, thì còn nói làm chi cũ, mới? Cái chết nào đó chết biết từ đâu tới làm mờ mịt cõi nhân gian! Nó làm người đi quên hết, quên "dấu tiên sa" và "đông tàn thu gãy", cả chút tình Đông Á cũng trôi vào về xứ nào mù thẳm, nhưng xin em, người yêu dấu, còn ở lại cõi đời cứ nô đùa, cười vui như chuyện qua rồi: Tôi chẳng rõ cội nguồn tôi ly biệt Dấu tiên sa và ngấn tích tiên nga Bờ dạt bèo hay bến lạnh trôi hoa Ngày ngóng mộng hay đêm chờ máu chảy Xuân thơ dại hay đông tàn thu gãy Chút tình xưa Đông Á mất đâu rồi Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết Những người em hãy ở lại bên đời Nô hay đùa xin cứ mỉm hai môi… (Sa mạc phát tiết) Sự đi, ở tùy số mệnh, nhưng người thơ sở dĩ phải nói ra để chứng tỏ, mình đã sẵn sàng chờ đón nó, không hề sợ hãi. Vì thế mỗi lời nói, mỗi chữ viết, mỗi ý nghĩ tuy cay đắng, nhưng vô cùng thành thực. Sống và chết, hai vấn đề cùng chung định lý: có sinh phải có tử. Vì ý thức rõ ràng, nên người thơ thung dung tỏ bày tâm sự: "Thưa em rượu uống bây giờ Là trăm năm gục hai bờ tử sinh…" "Thưa em rượu uống bây giờ Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình…" "Thưa em rượu uống bây giờ Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma…" "Thưa em rượu uống bây giờ Là thiên thu lại còn trơ hận trường…" (Sa mạc phát tiết, Rượu uống) Bài "Rượu uống" hàm chứa một ý tình tuy can đảm, nhưng quả thực thê lương. Nếu đời sống chỉ được sinh ra để chờ đợi cái chết, chắc chẳng còn ai muốn có mặt ở cõi đời này cho mệt xác. Mọi cuộc đua tranh, mọi cố gắng để làm cho cuộc sống mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn cũng là thừa. Nhưng may mắn thay, cái tinh thần hoài nghi và bi quan ấy không phải là giáo điều cho mỗi kiếp người. Nó chỉ được phát sinh trong một cảnh huống, một trạng thái bất thường của cá nhân thi sĩ. Có thể nó bi quan, yếm thế và người thơ cấu tạo cũng nhằm mục đích tác động riêng mình bằng buồn đau, giận hờn cho khuây khỏa xót thương. Sự chấp nhận hay không, thuộc quyền người thưởng ngoạn. Con người cô đơn, mãi mãi cô đơn vì mỗi con người, tự nó đã là điều xa lạ. Chính vì mặc cảm cô đơn nên con người cảm thấy nhỏ bé trước rộng lớn của Vũ Trụ. Sự hiện hữu nào đó, có nghĩa gì đối với Sa-Mạc-Hư-vô? Con người sợ Hư Vô, nhưng vẫn muốn tìm hiểu Hư Vô là cái gì mà khiếp đảm thế? Con người phải dùng đến suy luận để giải đoán băn khoăn qua môn học Siêu Hình. Đã bao nhiêu thế kỷ, qua nhiều công khó tìm tòi nghiên cứu mong đem lại một định nghĩa rõ ràng, để ấn định minh bạch cương vị con người và linh hồn trước Vũ Trụ. Nhưng cho tới nay, hình như các nhà đại-tư-tưởng vẫn chỉ đưa ra những nguyên cớ siêu hình mà chưa đạt tới cái tinh thể siêu hình tức là giá trị tâm linh và chu kỳ con người trước Hư-Không-Tuyệt-Đối. Bởi vậy, Bùi Giáng khuyên mọi người đừng nói làm gì đến giao hưởng, đến Tồn Tại và Hư Vô. Bận tâm làm gì cái Nếp Gấp Siêu Hình "bất khả tư nghị" trong Sein und Zeit, trong Holzwege hoặc trong Der Satz vom Grund. Sống trong cái cõi "tư lự dị thường đó" mệt lắm! Nó trừu tượng quá. Nó bao trùm mọi sinh hoạt tâm tư và ngoại giới, ngay cả ngôn ngữ nữa. Cái sa mạc Chân-Không-Tịch-Mịch chắn ngang tầm suy nghĩ đã có đủ những đau đớn rồi đó. Ngay cả Heidegger, một trong những triết gia đã cấu tạo nên triết thuyết Hiện Sinh, một nhà Đại-Tư-Tưởng chẳng những của Đức Quốc mà còn của thế giới nữa, người đã mở ra được một chân trời siêu hình rộng rãi nhất, nhưng từ xa, con người u mê đứng ngắm mãi vẫn chẳng thấy vóc dáng mình đâu! Bùi Giáng cũng đề cập đến vấn đề căn bản của Siêu Hình Học qua Heidegger mà người thơ đã chịu ảnh hưởng nhiều trong ý hướng thi ca. Điều này, trái ngược hẳn với Nguyên Sa, học Triết và dạy Triết, nhưng làm thơ rất trữ tình, không để lộ chút gì dính dấp giữa thi ca và triết học. Có lẽ Nguyên Sa đã quan niệm rõ ràng, mục đích của triết học là đi tìm cái nguyên nhân đầu tiên còn nghệ thuật là sáng tạo và phát huy chăng? Bùi Giáng đi vào trời Thơ như một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện, gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra sum suê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau đụng mãi: Hồn tại thể tan lìa trong điệu ấy Vâng là rằng không ấy phủ mây xuân Núi bất tuyệt mưa đầu truông phượng dậy Bước lên miền lũng thẳm bạch dương thân Cỏ phát tiết bờ khơi sông dẫn sóng Biển lên trời đầu ngọn mở nghe chim Đất từ tạ Lam Kiều ngân nguyệt vọng Nắm xuân xanh về giữa tối khuya tìm… Ngôn ngữ trong thơ Bùi Giáng đi vào cõi suy tưởng. Ở đấy, người thơ như bị cấu xé giữa Thực và Mộng. Tiếng thơ buồn bay lang thang trong vòm cong trí tuệ để bất chợt vượt thoát ra khỏi kiềm tỏa tung vào quỹ đạo dự ước, trong tâm cảm người thơ. Giữa cái say sưa vô độ, linh hồn bay lả lả, ngất ngất trong cõi rộng rinh ảo tưởng. Nó là một tư lường không định trước. Từ một khắc khoải đơn sơ đi vào thênh thang mộng mị đầy hào quang diễm lệ: … Khung cảnh hẹp tờ bay trong mấy ngón Chết là gieo vàng lộn mấy phen rồi Sầu nhan sắc đèn lay trong mấy ngọn Đến năm sau chờ buổi trước không lời Nhưng màu lá nhớ màu cây đầu ngõ Thị thành vui gì sắp sửa sang đèo Gió khuyến khích trong dập dồn hiểm họa Hồn thu phong trường kiếm dựng cho bèo… (Sa mạc phát tiết, Phát tiết) Cuộc sống là trò chơi, thay đổi bất tường trong mỗi giờ phút, nhan sắc chỉ là hư ảnh, cũng như dấu bèo in trên mặt nước làm uổng đi cái khí phách "thu phong trường kiếm". Chết là gieo vàng, là luân hồi tiền kiếp mấy phen rồi sinh tử? Vì: Con chim sầu tuyết băng nguồn Mở heo hút cỏ phơi truồng đá xanh Trên vòm thời đại đi quanh Rách quần quỹ đạo tan vành nguyệt hoa… (Sa mạc phát tiết) Bùi Giáng đã thấy rõ thân phận mình với chu kỳ góp mặt và thấp thoáng cõi hư vô mở rộng bát ngát làm choáng váng mặt mày. Để chứng minh sự có đấy, Bùi Giáng luôn luôn đòi hỏi về phần mình cái nguyên cớ đầu tiên của lẽ sinh tồn, giữa vũ trụ thuần nhất, bất khả phân, bất biến của Aristote. Cái cõi vô hình, vô ảnh nó làm thi nhân cảm thấy thương thật đấy, nhưng nó là vùng sa-mạc-hoang-liêu chẳng ngào ngạt hương hoa và chất ngất mến thương. Giữa ý nghĩ mơ hồ của tiềm thức, chợt nở lên đóa hoa tâm ý: tình yêu và thương tiếc, cả hai vòng tử sinh quấn quít, như tinh thể giao hòa cùng bản thể giữa vòm trời hiền hậu: Vì ảo mộng ở chân mình đi tới Bước chân trời muôn hướng gọi mây xanh Nên mùa nọ đường nằm canh ngõ lội Đến tìm nhau ở dưới bóng thiên tài … Em gục khóc, em mỉm cười với mộng Với môi răng và khóe hạnh mày ngài Với dáng dấp tuổi rằm trăng lay động Sầu nguyên tiêu tư lự nước trôi dài… (Sa mạc phát tiết, Dặm mòn, LHC) Tự cổ, mối sầu có cùng với bao niềm ăn năn vì đã trót làm kiếp thi nhân. Con người đi từ cuộc sống vào chiêm bao hay trái lại, nhưng trong địa hạt thi ca đích thực con người đi tìm đau khổ và thất bại! Cái vùng trời Siêu-Thoát, cái Sa-Mạc-Hư-Không mà người thơ thong dong bước vào, mong tìm thấy chân lý, chao ôi! nào ngờ phải gặp lại tiền kiếp hoang vu, cùng với bàng hoàng, điên điên tỉnh tỉnh, mập mờ không phân định. Nó là Vô Thường đó! Một khi đối diện với nó, ở trong nó rồi thì không còn chi thắc mắc, không còn gì thiết tha, ân cần, vồ vập. … Nếu giả sử mùa xuân thu lại căn cơ thiết lập mọi cuộc cơn tồn sinh tồn hoạt, thì cái sự vụ bàn hư luận tới nó, có thật là thập phân tầm phào lẩn thẩn? Không còn dâu biển thì mất luôn cả trường sinh tử diệt phù du? Mọi mọi mất hết cả, thì còn lại riêng một cái chi? Mọi mọi mất đi, chẳng lẽ duy chỉ còn riêng Cô Em Mọi Nhỏ? Hỡi ôi!... (Mùa thu trong thi ca) Bùi Giáng đi vào thơ, luôn luôn đeo bên mình niềm ám ảnh của thần học để giãy giụa trong đó với băn khoăn, tuy trong thâm tâm, một thoáng nào đó, cũng muốn buông xuôi cho nhẹ nợ. Bùi Giáng đối thoại với Nietzsche, Sophocole, Parménide, Khổng Tử, Lão Tử, Sartre, Camus, v.v. lại còn trò chuyện với Brigitte Bardot, với Marylin Monroe, cô đào chiếu bóng đã tự tử ở bên trời Mỹ quốc năm nào, và cô em Mọi nhỏ cùng "Phùng Khánh mẫu thân" nữa: … Nhiều người hỏi tôi có quả Phùng Khánh đã có đẻ tôi ra đời chăng. Bà đẻ tôi ra lúc nào? Sự thật là Phùng Khánh chẳng hề có đẻ ra tôi một phen nào cả. Tôi nay bốn mươi bốn tuổi đầu. Phùng Khánh chỉ mới hai mươi sáu tuổi. Làm sao một thiếu nữ hai mươi sáu tuổi lại có thể đẻ ra một ông cụ luống tuổi bốn mươi bốn, bốn mươi lăm?… … Thế thì bởi đâu Phùng Khánh lại là mẫu thân của tôi mặc dù bà không đẻ ra tôi? Ấy là bởi cái đường tơ luận lý học như thế này: Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Vậy tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là người nào? Hoặc người Cao Miên. Hoặc con dân Âu Mỹ ư?… Huống nữa là: Phùng Khánh là bà mẹ của loài người. Tôi là con người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải là con người? Chẳng ra tôi là con vật? Phân tích nghiêm mật luận lý học ra như thế, rành rành Phùng Khánh là Mẹ của tôi. … Mỗi khi tôi mơ màng nghĩ tới dung nghi diễm lệ Phùng Khánh thì dòng thơ bát ngát lại tuôn ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy… (Thi ca tư tưởng) Người thơ đã sử dụng luận lý học để giải thích về "mẫu thân Phùng Khánh". Nó thật hay đùa? Nó là chiêm bao hay thực tại? Nó là sự mất thăng bằng trí não hay công việc thuần túy của luận lý học? Sự vụ này lạc quan hay bi quan? Là thất bại hay hy vọng? Dù nó là gì đi nữa, ít nhất, thi sĩ cũng đưa ra một mẫu người để bấu víu vào mà lý luận qua thi ca cho đỡ buồn, cũng như Nietzsche đã dùng Zarathoustra để khai triển thuyết siêu nhân và ý lực của quyền uy, qua tập văn vần trong khung trời triết học Tây phương. Mục đích và giá trị tuy khác nhau nhưng ý hướng là một. Có người cho rằng, Bùi Giáng lập dị. Có người nói, vì mất thăng bằng trí não nên thi nhân mới nảy sinh ý nghĩ bất bình thường qua ngôn ngữ thi ca. Bệnh hoạn, điều may mắn hay bất hạnh cho mỗi con người làm văn học, nghệ thuật? Nếu không vì bệnh hoạn, làm sao Hàn Mặc Tử có thể chuốt sáng trời thơ Việt Nam qua ngôn ngữ thống thiết, nghẹn ngào. Tiếng thơ Hàn Mặc Tử kêu khóc không thôi từ mấy chục năm rồi đó! Cái vừng trăng lạnh lẽo mơ hồ lần quanh trái đất với chu kỳ đều đặn kia, đã dìm chết thi hào Lý Bạch dưới đáy nước đêm nào với cơn say chưa dứt. Nó còn làm thể xác Hàn Mặc Tử đớn đau đến tột độ, mỗi lần nó "lên ngôi" nên tự đáy lòng người thơ bật lên vần điệu vừa ghê rợn vừa nguy nga: Gió rít từng cao trăng ngã ngửa Vỡ tan tành vũng đọng vàng khô Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra… (Say trăng, Hàn Mặc Tử) Và thi nhân đã hơn một lần, xin chị Hằng tha thứ cho bàn tay tội lỗi của mình đã kẻ lên trăng những ngôn từ si mê, cuồng dại! Cái khuôn mặt xanh xao ấy, tạo nên bao nhiêu mộng mơ cho kiếp làm thơ? Vùng ánh sáng mát dịu chảy từ trời cao đối với thi nhân là mơ, là mộng, là nguồn yêu thương vô lượng. Giữa cõi thinh không mù khơi, dòng Ngân Hà xa xôi quá, các vì tinh tú lạnh lẽo quá, không làm cõi nhân gian ấm áp hằng đêm, chỉ có vầng trăng treo lơ lửng với bí mật quyến rũ qua trí tưởng tượng của thi nhân mà thôi. Nhưng đau thay, khoa học đã làm trăng mất hẳn nét thiêng liêng từ khi có bàn chân nhân thế bước chậm chạp trên thân thể chị Hằng và còn để lại dấu tích đến bao lâu nữa?... Bích Khê cũng vì bệnh lao, tạo nên tập Tinh huyết. Phạm Hầu, họa sĩ kiêm thi sĩ, chết vì bệnh thần kinh tại nhà thương Vôi (Bắc Giang) cách đây mấy chục năm, cũng để lại ít bài thơ bất hủ. Vậy, bệnh hoạn đâu phải là một đọa đày toàn diện cho mỗi số phận tài hoa? Cái thân xác đầy tội lỗi, nhơ nhớp có đáng gì, mà phải quan tâm. Người thơ bước trên mặt trái đất nhưng tâm hồn bay bổng giữa thinh không. Một khung trời sáng tạo chói lói có muôn vạn ánh hào quang rực rỡ – vì mặt trời thì bị nhân gian hãm giữa trái tim – để rọi vào hố thẳm nhân gian từng ý nghĩ tuyệt vời, diễm lệ. Bùi Giáng làm thơ, nhưng chẳng bao giờ thừa nhận thi ca là lẽ sống duy nhất của đời mình. Người thơ coi kiếp sống như một hiện hữu bất đắc dĩ, nên làm thơ cho khuây khỏa ám ảnh, cái ám ảnh thực sâu đậm, bi thương giữa cõi đời hỗn mang và suy tưởng thuần khiết. Bùi Giáng cho rằng, con người đã đánh mất cái nghĩa thiêng liêng của nó rồi. Nó không còn linh hồn nữa. Nó được chỉ huy và phán xét bằng ước lệ. Nó tàn nhẫn, độc ác ngay với chính nó. Thời đại hôm nay đã in đậm vết tích rừng rú với hổ, báo, heo, v.v, Con người biến thành dã nhân tự bao giờ chẳng biết! Bùi Giáng thoát hồn vào ảo giác để nhận ra sự thật: Trần gian rộng rộng hơn nhiều nữa Mênh mông hơn và bát ngát mây hơn Thì thua kém hay so le tàn úa Thì thế thôi giới luật cũng phiêu bồng Một mây chiều nguyệt có khổ buồn không? (Mùa thu trong thi ca, Vì như vậy) Thua kém, so le, tàn úa cũng vậy cả thôi. Cái phù du mệnh số đi song hàng với rộng rộng trần gian thì con người lấy gì để cưỡng chống, lấy gì để sinh tồn qua kiếp trăm năm? Và Thượng Đế kia, Đấng Tối Cao, Tối Linh mà con người hằng kính cẩn, liệu có còn giữ nguyên tín mộ? Hỏi: Tại sao các hạ tin rằng có Thượng Đế? Đáp: Bởi vì nếu không tin là có, ắt phải tin rằng không có, mà hễ tin là không có, ắt thời gian phong cảnh sẽ hoang liêu. Mọi "dưỡng chất trần gian" ắt sẽ do sa mạc cung cấp. àm sao chịu đựng nổi sự tình đó? Uống một chai la-de, mà nghĩ rằng đó là của cải do hư vô ban cho, thì hỡi ôi! Làm sao còn sum suê uống ăn nhậu nhẹt thơ mộng được nữa. Tuy nhiên… Hỏi: Tuy nhiên thế nào? Đáp: Tuy nhiên tại hạ thỉnh thoảng cũng đánh mất Thượng Đế. Hỏi: Thỉnh thoảng đánh mất như thế nào? Đáp: Như trường hợp chán chường một cách đột ngột không còn muốn uống la-de. Hỏi: Hoặc như thế nào nữa? Đáp: Hoặc như trường hợp đọc sách vũ hiệp tới chương kết thúc. Hỏi: Vì sao như thế? Đáp: Vì kết thúc, thì tức nhiên là chấm dứt hết mọi miền cõi liên tồn. Còn biết lấy đâu mà đeo đuổi chiêm bao được nữa. Hỡi ơi! Đến sách vũ hiệp mà cũng kết thúc, thì Trời Xanh Thượng Đế cũng thi đua nhau tử vong, tiêu tán tuốt hết cả ngấn tích di hài… (Mùa thu trong thi ca, Vấn đáp) Hình như, không cách nào Bùi Giáng kinh qua được cái gốc suy luận về Siêu Hình. Luôn luôn người thơ đặt cho mình mối băn khoăn về cái Còn, cái Mất. Đi từ vật thể qua tinh thể đến khách thể rồi chủ thể, sự gì cũng tiêu tan trước Hư Không làm người thơ chán mỏi: Bây giờ ai biết hỏi ai Dù lòng biển rộng sông dài thênh thênh… Cái cõi thơ trinh nguyên, đôn hậu mà tự cổ các thi nhân thường nhìn vào đấy, coi như cứu cánh, nó đã xa vời, chìm khuất. Bùi Giáng thường gặp mình, giữa hồn mình. Cô đơn và cô đơn trước bạt ngàn vướng mắc. Mảnh trời xanh kia, trái đất hệ lụy này và kiếp sống bọt bèo như mối vấn vương làm người thơ khắc khoải, trốn mình trong đường mòn suy tưởng. Nhưng suy tưởng chỉ dẫn vào tuyệt lộ trước Hư Vô. Sợ quá, người thơ ôm đầu nức nở. Những mơ ước nào đó, những khát vọng rồ dại nào đó, cũng chỉ để đi tới đỉnh nhọn của chán chường! Nào có gì đâu? Nào còn gì đâu? Một chu kỳ ngắn ngủi, một góp mặt vô danh, một ganh đua vô ích. Trời thì lãng quên, Đất lại vô tình. Ta hiện hữu hay ta thừa thãi cùng nghĩa, vì cát bụi lại trở về cát bụi! Thơ Bùi Giáng, có nhiều bài đọc nghe vui vui, nhưng nếu tìm hiểu sâu xa, phân tích kỹ, nó vẫn chứa đựng trọn vẹn những nỗi niềm bi đát: nào tình yêu vọng tưởng qua vóc dáng mẫu thân Phùng Khánh, nào "dồn nén" qua nuồng Mọi Cao Nguyên, với vú đồi căng mộng Monroe, Bardot, v.v. Không biết cái tình này có nằm trong diễn trình Phân Tâm Học của Freud không? Nó là "Es" (Bản Ngã) qua "Ich" (Cá Ngã)? Nó đã được Ueberich (Thượng Ngã) kiểm soát chưa? Người con gái lội qua khe Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau Nỗi niềm tưởng lại xưa sau Bàn chân với nước cùng nhau lại đè. (Sa mạc phát tiết, Bàn chân với nước, LH) Thơ Bùi Giáng mang nhiều ẩn dụ ở chiều sâu ngôn ngữ. Lời thơ tuy đơn sơ, ý thơ tuy thanh thoát, nhưng tâm trạng chắc gì xuôi mái? Thư gửi nương tử Monroe là hình thức u mặc hay chứa chấp mối ẩn ức? Ngày nương tử còn bình sinh cuộc sống, tại hạ vốn có phen một đôi lần đôi lúc nằm ngủ chiêm bao thấy nương tử ghé về thăm nước Việt. Nương tử đưa bàn tay mềm mại nắm lấy cái hình hài xương xẩu của tại hạ, rồi ẵm bổng tại hạ ở trong lòng lộng bát ngát vô biên của liên tồn nương tử… Trong lúc nằm khoanh tròn ở trong lòng nương tử, tại hạ có sờ nhè nhẹ (sẹ sẹ) vào chỗ rốn của nương tử, thì cảm thấy một mối sung sướng siêu phàm. Nhưng mà bỗng nhiên lúc bấy giờ nương tử thét lên tiếng "Chao ôi! Nhột quá, nhột quá". Đồng thời nương tử vung hai cánh tay, thì tại hạ té lăn nhào xuống đất, giữa một thửa ruộng bùn lầy… (Mùa thu trong thi ca) Lá thư viết với ý nghĩ thật ngộ nghĩnh. Bùi Giáng viết đùa, nhưng cũng có phần thực nằm trong dục tính của thi nhân. Bùi Giáng đùa qua triết học, đùa với nhiều nhân vật siêu phàm chứ chẳng riêng gì nàng Monroe. Có khác, ở mỗi người, thi nhân đùa mỗi cách. Đây có lẽ, một phương pháp dùng để tạm trốn mình chốc lát vì suy nghĩ và làm thơ khổ quá! Bùi Giáng làm nhiều thứ thơ lắm. Ngoài thơ Việt, còn thơ Pháp và Anh cũng như chữ Nho viết bằng quốc ngữ nữa. Có thể nói, không thi sĩ nào làm nhiều thơ bằng Bùi Giáng. Nhiều ở đây, không phải tất cả, cũng không có nghĩa toàn bích, mà chỉ để chứng minh sức sáng tạo rất phong phú của thi nhân. Cái cõi thơ đích thực Bùi Giáng hằng nguyện cầu và mơ ước nó vẫn mênh mang dâu bể, bát ngát ở đầu bến Mê, với bóng dáng chàng nghệ sĩ phiêu đãng Gaugin: Ngài đã gặp tượng đá kia của đá Một hoàng hôn hồn lữ thứ tiêu tao Ngài đã thử trao cho ngàn cây lá Gọi chim bay về mỉm miệng cười chào Ngài đã định một lần kia thư thả Dưới trăng rằm vô định tuyệt tăm hơi Mở ngọn cỏ tìm vết chân hội họa Giấu quan san liều một trận không lời Ngài bắt gặp một lần kia xứ lạ Nước mênh mông hồ hải mộng xanh trời Ngài đã vạch một ngân hà óng ả Cho tinh kỳ du ngoạn giữa kim bôi Và tinh sương thấp thoáng lấp chôn rồi… (Sa mạc phát tiết)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 3:01:11 GMT 9
Gaugin (1848-1903), nhà danh họa thuộc phái Dã Thú (Fauvisme) đã bỏ nước Pháp qua đảo Tahiti để làm hội họa. Gaugin kẻ đam mê chẳng những màu sắc, còn ma túy và tình yêu nhục thể. Gaugin, nghệ sĩ trên nghệ sĩ, dấn thân để tìm về cho mình chân trời sáng tạo mới và cuối cùng đã bất tử trong địa hạt nghệ thuật tạo hình thế giới. Người thơ cũng muốn làm cuộc lãng du để mong gặp được chân trời mới trong trí tưởng, nhưng ở cương vị của người thơ bé nhỏ và hiền lành trước cuộc sống Việt Nam, đành gửi hồn qua vóc dáng Gaugin với hàng hàng tưởng niệm!
Thơ Bùi Giáng không có chiều hướng rõ rệt ở mỗi giai đoạn. Nó được cấu tạo miên man, tùy hứng. Nó tự do tuyệt đối. Người thơ là ông Hoàng, là Lãnh chúa trong địa hạt thuộc riêng mình. Bởi vậy, trong mỗi tác phẩm, đều có phần của tác phẩm khác. Nó giao hòa trong mọi chiều tư tưởng để hình thành dòng thơ đặc biệt Bùi Giáng. Người thơ quyết định hết và chịu toàn trách nhiệm. Bùi Giáng sáng tác không cần đắn đo hơn thiệt trong mỗi bài, mỗi ý. Thơ Bùi Giáng tựa như cơn gió, lúc tản mác thổi dịu nhẹ mơn man da thịt, khi tập trung từ xa tắp không gian, cuốn thành cơn lốc quét từng luồng giận dữ làm đổ vỡ, xiêu dạt trần gian.
Viết về thơ Bùi Giáng, nên hệ-thống-hóa hoặc phân loại một cách thông thường tức là giết người thơ vậy, vì Bùi Giáng không chỉ làm thơ với ý nghĩa chung chung, mà đích thực người thơ dùng thi ca để chuyên chở tư tưởng và phô diễn những trạng thái phức tạp nảy sinh giữa cõi lòng chứa chấp nhiều hệ lụy.
Người thưởng ngoạn thơ cũng vậy, thích thì đọc, nếu không, cứ việc vứt xuống bất kỳ chỗ nào. Bùi Giáng làm thơ cho mình, nhưng tại đời. Cuộc đời chán quá! Công danh, phú quý là cái gì đâu, làm con người ham hố đến quên cả chức phận thiêng liêng mà Đấng Tối Cao ban riêng cho loài người, đó là một linh hồn thuần khiết để hướng vào Chân, Thiện, Mỹ. Người thơ u uẩn đi vào cõi Tịch Mịch. Bùi Giáng làm thơ thật tự nhiên không kiểu cách, gò bó, dù đôi chỗ để lộ ý kiêu bạc ngay cả với mình:
Hãy mang tôi tới giữa đời Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo Hãy mang tôi tới nắng chiều Giết tôi chết giữa một chiều khe nương Hãy mang tôi tới dặm trường Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ Hãy mang tôi tới bất ngờ Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên Hãy mang tôi tới diện tiền Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia.
(Sa mạc trường ca, Cầu nguyện ca)
Giết tôi, hãy giết tôi trong những điều kiện do tôi mong muốn và tự nguyện. Một cuộc đời mốc meo, nhàm chán, một khe mương dơ dáy, một dặm trường bơ vơ và một ngẫu nhiên nào đó, hay giữa tôi và thuyền quyên đang "diện tiền" góp vui, thì cái chết đó cũng là điều thú vị lắm chứ? Cái chết rất triết học vì với triết học người ta chẳng có chơi một cơn, đùa một cuộc, nhảy múa một vòng, vậy cái chết do thi nhân mong muốn cũng chỉ như một nuôi dưỡng sinh tồn quẩn quanh giữa suy tư và cõi đời chán mỏi mà thôi!…
Bùi Giáng là một hiện tượng. Người yêu thơ phải nhìn Bùi Giáng qua phong cách độc đáo, ở đấy, mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi ý, được viết ra là máu thịt của thi nhân dâng hiến cho đời. Thơ Bùi Giáng không thuộc môn phái nào hết. Nó không cũ, chẳng mới. Nó có thể là thơ, là tư tưởng, đôi khi thơ và tư tưởng lẫn lộn giao hòa tạo thành một vùng "mờ mịt thức mây". Thơ Bùi Giáng như cơn đau chưa dứt, như nỗi bàng hoàng chiêm bao chợt tỉnh, để rồi lại chìm vào chiêm bao khác. Nó bâng khuâng ở mỗi vần, mỗi chữ. Có lúc, nó buồn bã như niềm tuyệt vọng! Người yêu thơ cứ phải men lần theo, như đi trên một hành lang trú ngụ nhiều điều bí mật. Mỗi khúc quanh lại mở ra những kỳ dị phi thường. Cái trạng thái hỗn mang này Hàn Mặc Tử đã thấy:
Bây giờ tôi dại tôi điên Chắp tay tôi lạy cả miền không gian…
Kể từ năm 1924, André Breton và một số nhà thơ tiến bộ đồng ký tên vào bản tuyên ngôn, chính thức khai trương trường Siêu Thực giữa vòm trời thi ca Lãng Mạn Tây Phương. Cũng kể từ đó, khuôn mặt thi ca thế giới đổi thay. Thơ đã có một ngôi vị cao hơn trong ước lệ xã hội. Thơ vượt thoát dần dần mọi quy luật và đồng thời cởi bỏ những ràng buộc quá chặt chẽ và phi lý trong vần điệu, ngôn từ. Ở Việt Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền cũng đưa ra một quan niệm về thi ca, tuy không phải bản tuyên ngôn về thơ mới, nhưng nội dung bản văn cũng tóm lược đầy đủ chủ điểm của vấn đề:
… Người thơ hôm nay quan niệm rằng: người ta có thể viết những bài thơ có vần điệu, nhưng người ta không biết làm thơ… Trong thơ hôm nay có một số tiếng bỗng mất tích, một số khác biến dạng và vô số những tiếng lạ xuất hiện làm nên cái thế giới riêng. Cái thế giới ấy quá kỳ quái với người đọc, người ta không hề quen thuộc, chưa nghe nói tới và ngỡ mình lạc vào một tinh cầu khác. Thơ hôm nay là một tinh cầu biệt lập với thơ hôm qua. Người ta không tìm thấy trên tinh cầu này những cảnh tượng, những sự vật trong trí người ta vẫn coi là vĩnh viễn không đổi dời của thơ. Trong thơ hôm nay không còn những bông hoa kiều diễm, những đêm trăng huyền ảo, những buổi chiều bâng khuâng, những mối tình thơ mộng dù tan vỡ, những nhớ nhung cách trở tự nhiên, những khúc đàn ca nhịp nhàng, người kỹ nữ bên Tầm Dương, tà áo tha thướt trong ánh nắng, mùa xuân với giọng chim ca, mùa thu trong lá vàng, những cơn mưa buồn hiu hắt không thôi, cái tâm hồn của ngàn đời còn run hoài chưa hết những đau thương vỡ mộng, thoáng qua của một hình bóng, một cơn gió, một bóng mây…
… Trong thơ hôm nay, người ta lạc vào cái thế giới có những đêm tối nghẹn ngào, những ánh sáng của lộ liễu, những bệnh viện lạnh lẽo, những nấm mộ hoang vu, những thành phố đổ nát không chim muông, chỉ những gạch ngói, những nỗi lặng câm khắc khoải, những cặp mắt đen cú vọ, những hoảng kinh xô đẩy của loài cầm thú trốn chạy thiên tai, những mối tuyệt vọng sâu thẳm không được cứu vớt, những hồn chết dần trong thèm khát tương lai, những ràng buộc vô lý vào cuộc đời lạ mặt với đám đông ồn ào nhung nhúc, những tầm thường khổ đau gọi ra tên tuổi, cái tâm hồn hôm nay chịu vùi dập bởi những khốn nạn tang thương đòi giải phóng ngay chính ở hiện tại…
… Trong thơ hôm nay hoặc là thiên nhiên không được nhắc đến nhường chỗ cho những vỉa hè, cột đèn, gạch ngói, khối sắt, khối thép, da thịt, tay chân, mặt mũi hoặc là hiện ra thản nhiên lạnh lùng khó chịu nếu không muốn nhập với một ý thức…
(Nỗi buồn trong thơ hôm nay)
Trên đây, chỉ tóm lược ý chính của bài văn, nhưng cũng đủ chứng minh sự dứt khoát của Thanh Tâm Tuyền trong vấn đề thi ca. Bùi Giáng không nói gì cả, nhưng toàn bộ thi phẩm của Bùi Giáng đã khơi động một trời thơ rộng rinh, bát ngát. Thi nhân không dấn thân vào đâu hết, coi cuộc đời như cõi rong chơi tạm bợ. Làm thơ cũng là một cách rong chơi cho quên đi từng đắn đo, phiền muộn! Bùi Giáng đi vào thơ như đi vào cõi vô định. Không có chọn lựa hay thử thách, chỉ có xúc cảm và ngôn ngữ giao thoa, diễn đạt những gì ám ảnh trong hồn. Với từng bước khoảng khoát nhưng rất ưu tư, người thơ đăm đăm ngó về phía trước qua sự tàn phai của vật giới trong cái bất diệt của Tạo Hóa:
Mây năm sắc giăng sông mười sáu Tuổi mười lăm đổ máu ấu thơ Tin vui giục giã hai bờ Mỗi buồn chết gục từng giờ đi qua…
(Sa mạc thi ca, Xuân)
Thời gian, ai cũng sợ nó. Sáng, trưa, chiều, tối, cái nhịp đi rất êm nhưng vô cùng nghiệt ngã làm chia lìa tất cả:
Nằm xuống đất bất bình một lúc Chợt nghe ra từng phút đang trôi Sát na gây cấn hồi lời Xin thâm tạ đất và trời xa nhau.
(Sa mạc thi ca, Một tấm áo)
Đất trời xa nhau đành một lẽ. Nó là cái xa của vũ trụ bất biến tự cõi vô cùng, trời đất vẫn quấn quít luân chuyển bồi hồi trong vòng ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng cái xa của con người và cuộc sống, cái bất lực của chủ thể và Hư-Không-Tuyệt-Đối, sự vụ đó mới thật đau thương! Cái nên thơ của Horace trong thi ca với quan niệm Thượng Đế là thuần nhất, chân lý cũng thuần nhất hình như cũng phôi pha theo năm tháng, với bao nhiêu tìm tòi của nhiều thế hệ qua nhiều triết thuyết. Một vùng Chân-Không-Tịch-Mịch còn đó, dù cho tinh lực của đời sống (force vitale) có là căn bản thiết yếu cho mọi sinh hoạt tinh thần hay vật chất, dù nó là yếu tố sinh tồn cho mọi chu kỳ nhân loại, nó vẫn thuộc về trừu tượng. Đời sống cho đi hay giữ lại cũng chẳng có cách nào ra thoát khỏi vòng "tử sinh hữu mệnh". Vì ham tuyệt đối của suy nghĩ nên Bùi Giáng thường tỏ ý buồn phiền về hai danh từ thực mênh mông và bi đát: Thực-Tại với Hư-Không. Nó là đám rong rêu bám chặt vào chiếc sọ suy tư, nó đẩy thi nhân vào vùng sương mù dày đặc. Người thơ đưa tay quờ quạng lần đường, và cuối cùng phải trông cậy vào niềm tin để khai thông mê lộ qua bài thơ Chấp trước:
Không trước đông thì trước tây Không trước cây thì trước lá Không trước ma đầu gió thì trước quỷ cuối sương Không trước thiên đường thì trước Ba La Mật Không trước thật thì trước hư Không trước hư thì trước hữu…
Bài thơ gồm 29 chữ không ở đầu mỗi câu. Không cái nọ thì cái kia, không người này thì người khác, có nghĩa là khi ta góp hơi thở thứ nhất, đời sống đã có sẵn những phiền lụy và cảnh huống vây quanh, vậy "cố chấp" làm gì trước sự kiện đã rành rành như vậy? Tại sao không kinh qua, không vượt lên để giải tỏa kềm hãm, để tìm đến cõi tịnh độ lâng lâng? Lời than thở choáng váng của Chúa Jésus trên đỉnh Golgotha hay lời từ bi của Đức Phật dưới cội Bồ Đề, muôn đời vẫn là sự "thấu suốt cơ cực trần gian" trong vòng tay độ lượng. Vì thế, trước cuộc đời, Bùi Giáng chẳng cần tỏ bày thái độ, cứ dửng dưng sống theo ý mình, thả tâm hồn vào cõi đẩy đưa tới đâu cũng được! Chuyện đời dù ngàn năm trước, trăm năm sau, hay bây giờ cũng vậy thôi! Nếu đôi khi dáng dấp cuộc đời có được người thơ nghĩ đến, cũng chỉ có nghĩa như nói đến trò chơi cút bắt có đấy. Hãy cứ vui đùa cho nhẹ bớt buồn thương. Phẫn nộ hoặc nguyền rủa xã hội là điều vô ích! Ngay cả chiến tranh và cái chết do nó tạo nên, cũng được tượng trưng bằng "nuồng" Mọi nhỏ. Cái chết đó, lẽ đương nhiên thuộc số mệnh, nên có tìm cách tránh cũng vô ích! Hoạt cảnh chiến tranh cũng được "siêu-hình-hóa" qua cuộc "luận lý" dí dỏm, chứa chấp ẩn dụ giữa hai linh hồn Monroe và Mọi Nhỏ:
Monroe: Chị tự tử đã đành. Sao em cũng tự tử? Em ở trong rừng mát mẻ, em tự tử làm gì cho phí mất cái màu da bồ quân bánh mật của em như thế?
Mọi nhỏ: Em đâu có tự tử. Chính thật ra cái hòn đạn nó tự tử em.
Monroe: Hòn đạn nào như thế?
Mọi nhỏ: Hòn đạn hoặc là trái bom gì đấy. Nó nổ một trận tam bành. Nó tự tử mất em, đồng thời với cái truông đèo thơ mộng chiều hôm qua.
Monroe: Sao em không dời đi nơi nào ẩn trú, lại ở yên một chỗ mà chờ đợi đạn bom làm gì như thế?
Mọi nhỏ: Dời đi nơi khác, thì đồng thời phải dời cái truông đèo đi nơi khác. Em sức mấy mà làm cho xuể sự đó. Kể ra lúc bấy giờ em cũng chợt có cái ý định lặn xuống ở dưới đáy nước khe kia thì thật là bảo đảm, nhưng không kịp. Cái bom nó nổ còn chớp nhoáng hơn cái ý định nảy ra trong đầu óc em.
Monroe: Lần sau em phải lo xa hơn mới được.
Mọi nhỏ: Lo xa như thế nào?
Monroe: Em phải sắp đặt có ý định cho sẵn sàng trước đi.
Mọi nhỏ: Trước bao lâu?
Monroe: Một tuần lễ là ít nhất. Chẳng hạn như trái bom nó nổ vào Chủ nhật tuần này, thì em phải sắp đặt cái ý định lặn xuống khe từ hôm Chủ nhật tuần trước.
Mọi nhỏ: Còn nếu như mình sắp đặt xong xuôi cái ý định, mà rồi ra rốt cuộc cái trái bom nó không nổ thì có phải là uổng cái công trình sắp đặt kể biết mấy mươi?
Monroe: Đâu có chi mà uổng. Cuộc sắp đặt chỉnh tề, tự nơi nó cũng đã làm một cái gì thơ mộng lắm rồi. Cũng tỷ như chàng thi sĩ kia bao năm trời nó làm thơ tặng chị, mặc dù nó biết rằng chị đã chết rồi, thì làm sao tiếp nhận được những bài thơ nhớ nhung của nó.
(Mùa thu trong thi ca)
Tất cả sắp đặt đều vô ích trước định mệnh. Con người và định mệnh luôn luôn chơi trò ú tim để chụp bắt nhau ở mỗi cung số. Chính vì người thơ đã thấy được và biết qua thực tại, nên mỗi suy nghĩ như niềm đau hủy diệt! Nhưng cuộc sống là một dòng nối tiếp vĩnh cửu cũng như Vũ Trụ, chỉ có khác, nó thay đổi theo mỗi giai đoạn góp mặt của từng lớp người liên tiếp và liên tục, nên cái qua đi và cái sắp đến, không chắc đã nằm chung ước lệ. Thơ Bùi Giáng ít có chuyện đề cao tình yêu hay lãng đãng nhớ nhung một vóc dáng đàn bà nào. Tình yêu chỉ được coi như chuyện đùa bỡn qua từng ý nghĩ u mặc. Bản chất người thơ như vậy:
Em xin chàng chớ lai rai Con đường thôn lấm ngày dài chi mô Mở môi ngôn ngữ hồ đồ Vén xiêm em lội xuống hồ nước kia…
(Lá hoa cồn, Thôn nữ)
Trinh nữ em có mặc áo quần Mà không ắt hẳn là quần thật xinh Nếu như em chẳng mặc quần Thì ông trời ắt càng mừng rỡ hơn…
(Sa mạc phát tiết, Tuy nhiên)
Thơ Bùi Giáng không quấn quít, vội vã. Ngôn từ đi dần vào thản nhiên, suôn sẻ gần như buông lơi trước mắt. Nhiều bài cho người đọc cảm tưởng, làm thơ dễ quá! Nhưng xin chớ tưởng lầm. Cái hồn nhiên, thư thái đó là kết quả của công phu học hỏi, ví như vị Trưởng Thượng dày công tu luyện tới mức "thượng thừa", đã nhập Đạo rồi, thì sắc diện và thân xác bên ngoài ngó nhẹ như tơ, nhưng nội tại thâm hậu, tóm thâu càn khôn một mối.
Bùi Giáng thường nhìn cuộc đời qua tấm lăng kính bi quan, có lẽ vì mải mê suy luận. Người thơ cho rằng, cái nhân loại man rợ này đã làm ung thối hết mọi tinh hoa, và máy móc làm con người trở thành nô lệ cho phương tiện, Bùi Giáng phải đi tìm cái tinh thể đích danh của thi ca trong suy tưởng. Mỗi con người là một vũ trụ của riêng nó, tại sao chẳng ai hay biết? Cái vùng Chân-Không-Tịch-Mịch kia nào có xa gì và chiếc cánh cửa cuối cùng đều mở cho mỗi kiếp sống đó ru? Thi nhân đi tìm Heidegger trong ngôn ngữ, tư tưởng để nguôi ngoai thần trí. Nhưng cuối cùng: "Một dị báu huyền mộng huyền sương đìu hiu như đàm hoa nhất hiện. Tại miền biển tục sông lam (August vốn xưa kia từng ra phiêu du miền biển) có một cái gì động đậy (dù sao chăng cũng, tuy nhiên ấy mà), và ngoài kia có một thanh âm nào động khía bọt mơ hồ, một cái gì khả dĩ nghe ra đường gân nhúc nhích, hỡi ôi! một trận thúy lục hòa âm, thủy triều hòa tấu. Tại đây – hư vô gặp gỡ hư vô, ở đâu? Chẳng phải là ở đó, cũng chẳng phải là một cái lỗ, hoặc một khe hang. Chỉ biết cam lòng đành phận lắc đầu mà thôi...". (SHHNM, Bùi Giáng, trang 306, có kèm theo phần Đức ngữ, nguyên tác của Heidegger)
Nhưng câu hỏi đầu tiên: "Đáo cùng do đâu mà có hiện thể, sao lại chẳng là hư không?" vẫn chìm sâu trong Nếp Gấp của nó. Người thơ muốn cùng lúc làm một triết gia? Không hẳn như thế. Bùi Giáng bị ám ảnh bởi hư vô nên muốn tìm hư vô trong tất cả mọi tư tưởng của các đại-triết-gia phương Tây lẫn phương Đông. Vấn đề này mất nhiều thì giờ và làm khổ người thơ không ít. Có lẽ, nó là nghiệp chướng! Người thơ còn để Parménide, triết gia Hy Lạp ở giữa thế kỷ thứ V và VI trước Công nguyên, đối thoại với thi hào Nguyễn Du về chiều hướng tư tưởng:
Nguyễn Du: Kể từ thiên thu đứng lại?
Parménide: Đứng lại tự bao giờ hỡi tướng công? Lão hủ mạo muội đáp nhé: đứng lại từ giữa cuộc chuyển di trên một đường-rẽ-trắng-ngã-ba, đi về trong ngôn ngữ của tồn lưu lịch sử ngậm ngùi.
Nguyễn Du: Vì sao lịch sử ngậm ngùi? Thưa lão trượng! Chắc rằng lão trượng còn kinh? Giấc mơ quỷ dị bên mình còn reo?
Parménide: Thưa tướng công, tướng công từng đã linh cảm tấn kịch bi hùng riêng biệt của non sông này, và đặc dị của dân tộc này. Linh cảm đến mức độ nào, mà lời về trong ngôn ngữ tướng công đã dạy triều mênh mông đến thế? Đó là điều lão hủ không dám chắc mình đã nghĩ ra, và đó cũng là nguyên nhân khiến lão hủ không ngại dặm nghìn nước thẳm tìm tới viếng tướng công bận này.
Nguyễn Du: Dám thưa lão trượng: sao gọi là linh cảm. Tại hạ cũng không rõ mình đã linh cảm trong cơn xuất thần trên nhịp phiêu bồng chiêm bao… hay là tại hạ đã xuất phóng hoạt tồn trước những điều trông thấy. Trông thấy một lần và bàng hoàng suốt xứ. Và biên thùy từ đó đã mờ xóa hết để miền cõi kết tụ và hiển hiện ra ở trong ánh vàng nhị bội của một vừng nguyệt biên cương.
Parménide: Những điều trông thấy…
Nguyễn Du: Vâng. Tại hạ đã nhìn suốt tuổi thanh xuân mình. Và từ đó về sau…
Parménide: Từ đó về sau tướng công đã nguyện làm liệp hộ.
Nguyễn Du: Được chăng, thưa lão trượng?
Parménide: Được. Đó là điều kiện tiên khởi cho mọi cuộc tái lập trùng tu. Làn ánh sáng Như Lai đã ngậm ngùi về trên Việt Nam vô song từ đó.
Nguyễn Du: Vì sao ngậm ngùi riêng biệt trên non nước Việt Nam?
Parménide: Vì Việt Nam là cái chốn, cái nơi của mọi cuộc tương xưng sử lịch cõi trần bên mép bờ Hình Nhi Hạ Khổng.
Nguyễn Du: Vâng ạ. Và bên cõi miền của Thiên Chúa giáo xa xôi rã rời trong mạch thẳm. Nguyên tuyên Hy Lạp không nhắc nhở lời nào cho làn nước chảy lang thang.
Parménide: Đó cũng là nguyên nhân xui ta về viếng tướng công. Mà ban sơ ta tưởng không thể nào tìm ra lời thích đương để thốt. Nhưng thưa tướng công, ngôn ngữ của tướng công còn khép mở một ẩn ngữ xui lòng ta xao xuyến. Tướng công cùng tư lự trong một cõi với ta. Nhưng những điều trông thấy của tướng công còn dội vào đáy thẳm linh hồn tướng công đến một độ nào ta không rõ lắm. Nêu câu hỏi tại chỗ đó, có là thô lỗ trống trải chăng? Có làm tướng công phiền muộn chăng?
Nguyễn Du: Lão trượng yên lòng. Chính tại hạ vừa rồi đã có ý nêu ra trong cái lời thốt… Xuất phóng hoạt tồn trước những điều trông thấy. Trông thấy một lần, và bàng hoàng suốt xứ…
Thiên cổ vô cùng giang mạc mạc…
(Trăng châu thổ)
Cuộc đàm luận Parménide – Nguyễn Du ở giữa cõi U Minh! Vì sao lại xảy ra sự tình như vậy trong ý nghĩ của Bùi Giáng? Có lẽ qua tìm hiểu, thi sĩ đã khám phá ra giữa hai thiên tài có những điểm trùng hợp về ý tưởng. Hơn hai ngàn năm trước Parménide đã ý thức được cõi Vô-Cùng-Bất-Diệt trong tập thơ De la Nature và Nguyễn Du cũng đã thấu suốt "những điều trông thấy…" nên "trải qua một cuộc bể dâu", cũng là trải qua khoảng Chân-Không-Tịch-Mịch. Nguyễn Du vì rõ "Trước, Sau" nên tạ đáy tiềm thức hiện ra một dòng sống không ngơi nghỉ từ tiền kiếp tới mai hậu. Cố gắng làm chi, cõi Hư Vô thì câm tiếng, thời gian vẫn ác nghiệt, còn không gian lại ngoảnh mặt làm thinh.
… Biết thân chạy chẳng khỏi trời Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh…
… Nàng rằng tiền định tiên tri Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào…
… Xập xè én liệng lầu không Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày…
(Kiều)
Có thể do đấy, Tố Như đi tìm Vô Cùng qua vóc dáng Giác Duyên? Nguyễn Du, phải chăng là cái gạch nối giữa Lão Tử chối bỏ và Khổng Tử dấn thân, giữa con người và cõi Siêu Thoát trong đạo Phật? Parménide đi tìm Nguyễn Du cũng vì "duyên xưa, phúc sau" để soi tỏ cái thâm hậu của Đông phương trầm mặc! Nguyễn Du đã đau đớn vì "biết" mà không tránh được mệnh trời, "thấy" mà vẫn phải làm theo duyên nghiệp với nàng Kiều mười lăm năm lưu lạc! Chẳng rõ Bùi Giáng có "biết" và "thấy" gì không, hay cũng vì chữ nghiệp mà tự đày ải vào cõi mông lung của luận lý, làm điêu đứng đời sống và chết sững tâm hồn trong vần điệu? Nguồn thơ Bùi Giáng không chảy chung một mạch nước, nó tỏa ra nhiều nhánh, ở mỗi nhánh lại chứa đựng từng buồn phiền riêng biệt. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng cho ta thất vọng và con người đâu cần phải có một kiến thức căn bản triết học mới sống được? Cái đời sống hồn nhiên, giản dị, mỗi người đều có thể tự mình hình thành một cách thỏa đáng, miễn tự biết và đừng có tham vọng. Người thơ chắc cũng muốn tìm đời sống hồn nhiên đó cho mình, nhưng chỉ gặp những "đoạn trường", để từ đó, đi dần vào mê loạn tâm trí:
Cuộc điên đã chấm dứt rồi Bây giờ điên nữa cho đời điên thêm Dưới trời thiên hạ hằng đêm Đổ ra thiên thượng ở trên hằng ngày Dấu chân tỳ tử an bài Mép rìa xuôi ngược nét ngài nở nang.
(Sa mạc phát tiết, Nỗi buồn)
Cái điên của thi nhân, sự thực, không làm phiền lụy đến ai hết, nó thuộc về đời sống riêng, người yêu thơ chỉ cần cảm thông chứ không cần lý luận.
Thỏ lặn ác tà mộng tưởng hao Mòn con mắt một cõi chiêm bao Ngũ canh tầm nã con đò dọc Tam giác tinh hà ảnh động dao Quá khứ liên tồn vô ngấn tích Sáng tiền minh nguyệt chiếu hoàng mao Hai hàng mọc cỏ thu sương ngậm Vành vạnh lê hoa chước chước chào…
(Sa mạc phát tiết, Quỷ ma đối thoại)
Nguyên vẹn dồn nén và ám ảnh, từ chiêm bao ám ảnh đi: Năm canh không ngủ để tầm nã "con "đò dọc" và "liên tồn" không ngấn tích, có ánh trăng chiếu sáng "hoàng mao" với hai hàng cỏ mọc ngậm sương thu chào đón. Chao ôi! Cô đơn nó sầu thảm đến thế sao, nó giày vò thể xác như vậy sao? Nó là quỷ ma quấn riết vòng trí não vì:
… Mưa đẩy thời gian xuống tuyệt vời Bay về đủng đỉnh cụng đầu tôi Tháng theo ngày dậy rằm xanh nguyệt Ba góc càn khôn lộn bốn trời.
(Sa mạc phát tiết, Đường cong)
"Ba góc càn khôn lộn bốn trời" chỉ là ngôn ngữ tượng trưng trong thi ca, nhưng chắc phải quyến rũ lắm, đam mê lắm, nên người thơ mới ngất ngây giữa thi tứ!…
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 3:01:54 GMT 9
Bùi Giáng, nhà thơ siêu thoát, coi đời như giấc chiêm bao, nên đùa vui để khuây khỏa, cho quên đi ngày tháng buồn tênh, và đắm chìm nhớ thương vào cõi U-Hoài-Tịch-Mịch. Bùi Giáng, người đã chối bỏ thi ca chẳng phải vì câu nói của Platon thuở nào, đã chạm tới tự ái thi nhân, mà chính vì thi ca bất lực, không có quyền năng cứu vãn được thân phận ai cả, lại còn làm cho con người chán chường thêm! Bùi Giáng đọc nhiều, nhớ nhiều, nhưng càng đọc, càng nhớ lại càng dìm sâu tâm hồn vào cõi mơ cuồng loạn đổ vỡ:
… Nếu Thượng Đế quả thật yêu thương loài người thì Thượng Đế nên tạo ra nhiều nương tử khổng lồ. Ấy là cốt để làm gì? Ấy là cốt phòng khi nào bọn chán đời muốn lọt vào lòng mẹ trở lại thì có chỗ để lọt đầu chui vào. Và như vậy sẽ còn có cơ hội được sinh ra đời lần khác, khởi sự làm trở lại một thằng bé sơ sinh tuyệt nhiên không biết sao gọi là chán đời.
Tuy nhiên vì trái đất nhỏ hẹp quá, nếu tạo ra Nương Tử khổng lồ thì các nàng sẽ không có chỗ trú. Vậy trước tiên, Thượng Đế nên thổi phồng trái đất to ra gấp mười lần, thì sự tình sẽ được dàn xếp viên mãn về sau.
(Thi ca tư tưởng, Thượng Đế)
Buổi nào đó, Bùi Giáng gặp cõi Tịch Mịch chắc thi nhân mới hết băn khoăn về ý thức Siêu Hình, về nguyên cớ thứ nhất: Đáo cùng do đâu mà có hiện thể, sao lại chẳng là hư không?... hẳn nhiên, trong ngôn ngữ thi ca đã có điều đó rồi!
Bùi Giáng dấn thân vào triết học mong tìm trong đó vài điều hợp ý mình. Nhưng có lẽ, càng vào sâu càng gặp thất vọng và cảm thấy đi sai con đường dự tưởng. Hơn nữa, giữa cuộc đời người thơ gặp nhiều u uẩn với bao thị phi rối rắm làm buồn lòng không ít. Bùi Giáng như đứng mấp mé trước hiểm họa "Tẩu Hỏa Nhập Ma", nên cuối cùng, muốn trút bỏ hết để trở về với những cánh chuồn chuồn và châu chấu trong đồng ruộng quê hương tuổi nhỏ?...
Trích thơ Bùi Giáng
Rượu uống
Thưa em rượu uống bây giờ Là trăm năm gục hai bờ tử sinh Động hờ hững Chúa điêu linh Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi Nhà ma cửa quỷ đi đời Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh Càn khôn xiêm mỏng che mành Về trong thiên hạ em thành thiên thân
Thưa em rượu uống bây giờ Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình Tài hoa tiếng vọng điêu linh Phạm Đan Phượng chết theo Quỳnh Như sao
Thưa em từ bữa nghiêng chào Chớm trang đầu chợt sóng trào trường giang Em đi rắc lá trên đàng Cỏ xanh rì mọc suốt càn khôn kia Mùa xuân mưa rưới mộng lìa Về trong nắng hạ mép bìa sai bâu
Thưa em rượu uống bây giờ Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma Chạy quanh cồn cụm lá già Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng Càn khôn gió đổ chất chồng Rú như beo rống như hùm đổi hang Trên rừng dưới lũng tan hoang Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
Thưa em rượu uống bây giờ Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma Hỗn mang về giữa hiên nhà Bây giờ cố quận tên là chiêm bao Nhìn nhau trong lũy ngoài hào Lời phôi dựng một điệu chào dị sai Trên đầu thế kỷ chia hai Nguồn man mác lạnh tìm ai bây giờ
Thưa em rượu uống bây giờ Là thiên thu lại còn trơ hận trường Cầm chung dâu biển khôn lường Chân trời mộng lý con đường chia ba Nam đình doanh trại dàn qua Trống chầu trùng ngộ thưa là không mong Hoạt tồn phát tiết sầu đong Tràng giang thế kỷ xô dòng xuống lên. (Lá hoa cồn)
Từ Thứ
Người đã bỏ đường kia ở lại Để đi vào đối diện hư không Bờ thánh thót thu sau về vạn đại Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng Bóng trắng như sương – vàng bay pha bạc Quanh Trường Thành bờ cõi đất in rêu Dòng trở lại ngậm ngùi khe bến cát Gió mông lung vì mây nổi lưng đèo Xuân đi đến đi về nằm ở giữa Hẹn một kỳ bấn loạn mấy mùa đông Màu tuyết bạch mơ màng trang lệ ứa Rớt xung quanh lá đú đởn cầu vồng Từ vĩnh biệt một lần đi từ đó Nước xuôi dòng cổ độ chẳng nhìn theo Lòng lây lất bên trời phương hướng nọ Mắt ngu ngơ nhìn bọt nước sa bèo. (Lá hoa cồn)
Câu hỏi
Những con chim vào đời quá sớm Đứng một mình nhìn xuống ngó lên Mùa măng mọc măng mai mới chớm Đã vô cùng u tối van xin Đất mồ côi một mùa dằng dặc Gió chân trời quá khứ trăm năm Triều sông bể bao giờ sẽ tắt Theo hồn hoa lá dại đêm rằm Tìm cố quận xanh mờ thủy nguyệt Kiếm quê hương khóc bích ngạn nào Nhung nhớ chết đọa đày biền biệt Gió một vùng huyền mộng chiêm bao. (Lá hoa cồn)
Em mọi điên
Một tiếng hát giữa rừng hô hấp Chết trăm năm ẩn ấp khung đời Trời ma đất quỷ hai nơi Em điên từ bữa ra đời em điên Beo và cọp trước tiên chạy trốn Vượn đìu hiu nhìn lộn cây hoa Em về giũ áo mù sa Tiền trình vạn lý anh là đười ươi.
Nửa đêm
Lời vui nói cạn mấy chiều Tiếng buồn nhỏ giọt như triều sương bay Bâng quơ hồn mộng lạc loài Nửa đêm sực tỉnh di hài sử xanh Phiêu bồng dậy lớp đạp thanh Tuổi xuân bỏ lại biên thành chiêm bao Hồng sơn mấy ngọn tư trào Mừng theo trận gió bước vào chân mây
Chiêm bao
Chết từ trận gió sử xanh Trước đèn câu chuyện âm thanh không lời Gót đi đứng giữa khung trời Thâm u mộng đổ hiên nhà Ngoảnh về Thượng Đế thưa là chúng con.
Đừng đi vào
Đừng đi vào du dương trong đêm lành tốt nọ Đừng đi vào thuần khiết giấc mơ kia Triền miên ấy sẽ băng tuôn vạn đại Thạch nham kia còn ấy mép chia rìa Rìa chia mép dặm khuya đêm ngất tạnh Mù khơi dâng tiền diện lạnh ra đời Đừng đi nữa một lần kia cánh nhạn Bờ nấu nung trong cõi mộng ra ngoài Cây phát tiết chùm xuân xanh nộ phóng Gió lao lung trời khổ lụy thu hồi Hồi thu lệnh võ vàng trong bóng nguyệt Sơ khai đi hồng lậu lạc thêm loài.
Ophelia
Cho xin màu lục một lần Cho xin màu liễu một lần thử buông Ngày mai hẹn ước trôi nguồn Em về quá khứ mang buồn lang thang.
Mây bình nguyên
Cành trở lại trên đầu xuân lệch dạng Bên mặt trời chùm sóng mọc mai sau Phiến sương nâu đó đứng lại trong màu Giờ vội vã trời nhìn trong khóe mắt Kỷ niệm nào từ đất vội ra đi Ngày lâu sao vì tháng nhớ năm vì Ngày thung lũng trong lời xa tiếng Hồ nước mây từ cõi biệt vô cùng Tà áo bay xanh vĩnh viễn sau lưng Đèo lưng ngựa đá ghềnh vang từ bữa Buồn cao nguyên từ đô hội sang tuần Xin chắp rừng vào suốt xứ mông lung Đường xây dựng gục lưng gỗ bó Mộng ông bay sực tỉnh giữa chân người Đến bây giờ – quang gánh lệ trong ngươi Em Hà em Phương em về nước chảy Mây bình nguyên buồn ngủ nhớ nhung miền Xứ sở nào gió ruộng mặn đồng chiêm. (Lá hoa cồn)
Gió cây trút lá
Tuần trăng lệch đầu hoa trong cổ độ Tự bao giờ trời đất bỏ quên ta Vết thương nhớ ngậm ngùi không chỗ trú Nước đêm rằm về biển động chia xa Chiều lại đi một giờ là đi biệt Chiều mang theo là suốt xứ mang theo Hình vội vã góp thân về gió tuyết Thổi mông lung làm sương bóng lên đèo Đêm cầu nguyện đau thương là bất tuyệt Kéo điêu linh sầm lãnh đổ nguyên tuyền Mây vần vũ như mộng đầu thao thiết Người đã đi ta mất hết uy quyền Bờ nước chảy bảo ta về đất thượng Hỏi cao nguyên có hận đồng bằng Hỏi bách lý đến bây giờ có muộn Rừng ong bay gấu mỉm miệng thưa rằng… (Lá hoa cồn)
Lá cây
Tôi về gởi lá đầu cây Mốt mai từ giã hai tay còn cầm Mùa xuân hoa nở tình câm Màu trăng ly biệt trong tâm hồn người Một phương gió lạ giập vùi Hình em ca sĩ ngậm ngùi ngón tay.
Chấp trước
Không trước Đông thì trước Tây Không trước cây thì trước lá Không trước ma đầu gió thì trước quỷ cuối sương Không trước Thiên đường thì trước Ba la mật Không trước thật thì trước hư Không trước hư thì trước hữu Không trước Nữu Ước thì trước Bắc Kinh Không trước thình lình thì trước đột ngột Không trước ủ dột thì trước đìu hiu Không trước nắng chiều thì trước mưa sớm Không trước ốm thì trước đau Không trước gió dậy cuộc sống sang giàu thì trước mưa dàn con phú quý Không trước bồ đào túy lúy thì trước mỹ tửu đăm chiêu Không trước phù kiều thì trước trụ cột Không trước nhà dột thì trước dậu thưa Không trước chưa vừa thì trước ắt đủ Không trước xiêm hồng ủ rũ thì trước duệ địa trưởng quần Không trước tuyệt nhiễm duyên vi bột trần thì trước khai tính đức vi hợp giác Không trước diệu hoa lầu các thì trước tràng hột hóa sinh Không trước ngạc kình thì trước kiện cáp Không trước la porte étroite thì trước la voste immense Không trước Lý Thương Ẩn phân vân thì trước ca nhi thánh thót Không trước con chim hót thì trước con gấu kêu Không trước tồn lập con mèo, thì trước tập trung con cá Không trước liên tồn cái lá, thì trước tồn lý lún phún in rêu Không trước sóng nam hải dậy triều thì trước le promontoire hellénique Không trước l’existentialisme est un humanisme thì trước l’être maléfique et le temps abyssal Không trước l’hôpital Grall thì trước la fatalité de l’Océan Pacifique Không trước le grand Jeu d’Héraclite thì trước les drames titaniques de Shakespeare Kể làm sao xiết mép rìa Ngổn ngang chấp trước miền kia cõi này Sịch mành lam đái hoàng khai Nhất căn hồng đái chạy dài hai cung Thái sơ thị vẫy thị vùng Chùm bông thị rụng cuối cùng thị rơi.
Nguồn: Tạ Tỵ. Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay. Lá Bối ấn hành lần thứ nhất. Bìa của Đinh Cường. In xong tại Việt Hương ấn quán, 34 đại lộ Lê Lợi, Sài Gòn ngày 29-1-1972. Giấy phép SPNHT số 4452 BTT/PNHT, ngày 20-9-1971. Ngoài những bản thường có in thêm 50 bản trên giấy quý dành riêng cho nhà xuất bản và bạn văn của tác giả. Nhà xuất bản Lá Bối. Lô 0, số 121, Chung cư Minh Mạng, Sài Gòn 10. Giám đốc sáng lập: Nhất Hạnh. Thư từ xin đề ông Võ Thắng Tiết. Giá: 800đ. Bản điện tử do talawas thực hiện.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 4:41:09 GMT 9
Bùi Giáng Đi vào cõi thơ (Tuệ Sỹ, Trương Cam Vũ, René Crayssac, Huy Cận) 1 2 3 4 5 Tựa
Đi vào cõi thơ theo lối ngẫu nhiên tao ngộ. Cơ duyên sẽ dun dủi… Chẳng nên gò ép cưỡng cầu.
Người viết sách này có dụng tâm không sắp đặt theo thứ tự thứ loại thường thấy. Những bài thơ đến rồi đi. Lời “nhận định” cũng đi rồi đến…
Bùi Giáng
Tuệ Sỹ
Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u …
Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt.
Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghiệu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng có ai ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “Không đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ. Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn…
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho. Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông đáp: - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
Đôi mắt ướt tuổi vàng Cung trời Hội cũ
Xin viết xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì? – Cung trời hội cũ. Một hội đạp thanh? Một hội nao nức? – “Giờ nao nức của một thời trẻ dại?”.
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ…
Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh… Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều “phải nói” với mọi người “muốn nghe”, với riêng mình “không thiết chi chuyện nói”.
Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe.
Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng có chi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả - par manque de justice interne.
Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa một đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.
Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: - “Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam, kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (……..) Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế?”.
Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch!
Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, ơn Thánh Đế đã dồi dào với Liệp Hộ như thế, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn cứ như thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.
Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Đôi mắt ướt tuổi vàng Cung trời hội cũ.
Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào, hay vì quá long lanh?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng niệm cho thơ.
Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ.
Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng?
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang…
Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?
Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng có về Sài Gòn tới chùa viếng ông, đem quà cho ông một đôi giép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.
Đôi mắt ướt tuổi vàng Cung trời hội cũ Áo màu xanh Không xanh mãi Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ. Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ?
Mình là thân bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?
Phải có nhìn thấy gương mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng.
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Ta tưởng như nghe ra “cao cách điệu” bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzsche.
Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?
Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du:
Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Một tiếng “buồn chăng” lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tân thanh đoạn trường:
Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:
Đếm tóc bạc Tuổi đời Chưa Đủ Bụi đường dài Gót Mỏi Đi Quanh
Tiết điệu cũng rời rạc như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ? Một tuổi Xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi “đá” sớm giã từ mọi yêu thương?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ Suối nguồn xa Ngược nước Xuôi ngàn…
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường vôi nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Trương Cam Vũ
Trương Cam Vũ là người thy sỹ đã dịch Truyện Kiều ra Hán Thi.
Bản dịch đạt tới mức tối đa của tinh thể Hoa Thi. Chúng tôi đã bàn nhiều trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều.
René Crayssac
René Crayssac là thy sỹ Pháp đã đem Truyện Kiều dịch ra thơ Pháp.
Bản dịch huyền diệu ở chỗ: Ông đã đòi hỏi ở Pháp Ngữ một thể điệu nào Pháp Ngữ vốn không có, và đùng một cái, Nguyễn Du trong bản Pháp mang đầy rẫy tinh thể Cựu Hy Lạp Homère.
Sự tình này được đề cập tới trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều.
Huy Cận
Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa Yêu một người ta dâng cả tình thương
Câu thơ đó dường như là cái chìa khóa mở đường vào cung thành Lửa Thiêng.
Huy Cận chẳng khi nào trực tiếp nói tới tình yêu một cách quay quắt sôi cuồng như Xuân Diệu, hoặc tràn lan ra như Nguyễn Bính.
Huy Cận kín đáo ngậm ngùi. Và thỉnh thoảng vài lời chân thành thăm thẳm của ông bỗng xô nguồn thơ tình yêu kia vào một cõi thống thiết cổ kim chưa từng có.
Bóng đêm tỏa không lấp niềm thương nhớ Tình đi mau sầu ở lại lâu dài Ta đã để hồn tan trong tiếng thở Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai
Bốn câu đơn giản thiết tha đôn hậu thượng thừa như thế, chính là vùng khí hậu riêng biệt để toàn thể cuốn Đoạn Trường Tân Thanh Nguyễn Du đi về ngưng tụ hết mọi màu hương vang bóng.
Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du – Hà Tĩnh. Sông núi non nước kia đẹp dị thường. Và con người đất nước kia sống lận đận làm ăn cày cấy cũng cực nhọc dị thường. Giữa phong cảnh và con người từ đó liên miên có một cuộc đối thoại thiết tha không lời, về một nỗi bất khả tư nghì. Tình yêu sẽ đưa con người ta tới một cõi xót xa, là căn bản cho một cuộc phát nguyện từ bi, gây dựng nên những thiên tài vô song của Hồng Lĩnh.
Chỉ những thiên tài Hồng Lĩnh mới thành tựu một cuộc Trùng Phục dị thường giữa vũ trụ trời mây phong cảnh.
Phong cảnh trong thơ Huy Cận là một loại phong cảnh đã khiến con người mở những cuộc “Lữ” huyền hoặc của Dịch Kinh. Khổng Tử đã chu du theo một cuộc Lữ dị thường Homère Hy Lạp, mà con người ngày nay không thể nào quan niệm được ra.
Xa nhau mười mấy tỉnh dài Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ nhung Tâm tình một nẻo quê chung Người về cố quận muôn trùng ta đi.
Nguyễn Du đã làm Liệp Hộ. Huy Cận đã đi muôn trùng. Mặc dù các ông có thể ngồi im lìm giữa một triều đình, các ông vẫn cứ thành tựu cuộc “Lữ” như thường, nơi một triều đình khác, riêng ở một góc trời miêu cương mạc ngoại.
Trông vời trời biển mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruổi rong. Dừng cương nghỉ ngựa non cao Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon Đi rồi khuất ngựa sau non Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu.
Tiếng nhỏ thưa tràng đạc đó bàng bạc tịch liêu trong Lửa Thiêng cũng như suốt Đoạn Trường Tân Thanh, là khởi từ một duyên do uyên nguyên thăm thẳm, mà bấy lâu ta không ngờ tới, nên thường ngạc nhiên tự hỏi vì lẽ gì thơ Huy Cận lại đạt tới hai chóp đỉnh huyền diệu nhất ở hai cõi chênh vênh: thơ phong cảnh của ông không ai đi kịp; thơ tình yêu của ông khiến mọi thiên hạ đầu hàng.
Tình yêu và lữ thứ, lữ thứ và không gian, đó là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa Thiêng. Bao nhiêu màu quan san ly biệt bàng bạc trong Truyện Kiều, bỗng nhiên về quy tụ tinh hoa trong một bài “Thuyền Đi” của Huy Cận.
Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi
Sang đêm thuyền đã xa vời Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang
Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước trường giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau.
Lời thơ đi phiêu phiêu, tuyệt nhiên không thấy dấu vết một chút kỹ thuật nào còn vướng sót. Tưởng như không còn một chút cố gắng tìm lời lựa ý gì hết cả. Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ, len lõi thấm nhuần mọi ngôn ngữ ly biệt Nguyễn Du và toàn thể Đông Phương Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang.
Các bạn thử thong dong hình dung lại cái khối Đường Thi Vương Duy, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Cao Thích, Sầm Tham, Apollinaire, xem thử có một cái gì lọt ngoài vòng lục bát Huy Cận kia chăng.
Chúng ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ.
Cái thói học đòi vá víu thông thái đã âm thầm giết chết mất máu me thân thể chúng ta. Hết chạy theo đuôi ông Camus, tới chạy theo đít bà Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng ông Krishnamurti. Nghĩ rằng cũng đáng tủi cho cái kiếp con người. Nhục cho cái phận con ngợm.
Đó chính là cái lõi của lai rai thượng thừa, của bê bối tối hậu. Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười ươi? Hỡi những thằng trung niên thy sỹ, và hỡi những đứa chẳng thi sỹ trung niên. Cái trò ma quái lóc lăn nọ, kể cũng đáng tởm hơn cuộc dập dìu mà Tú Bà đã bố trí cho Nuồng Thúy xưa kia.
Cái tinh thần nô lệ không tự biết mình nô lệ, cái tinh thần ấy nó thấm nhập tủy xương chúng ta đến độ nào, mà mỗi phen chúng ta kêu gào tự do, đòi hỏi tự tại, gào thét tự tôn – càng mỗi phen cho thấy hiện thị lù lù cái linh hồn đĩ điếm.
Chúng ta thà chui vào một cái hang dế đen ngòm, một cái hang chim đen ngộm, một cái hang chuột đen thui, cam lòng thờ phượng Brigitte, sùng phụng Bardot, chui đầu vào tà xiêm Monroe để nằm ngủ, hơn là phải đi thức tỉnh tự do trong cái bầu khí hậu gớm guốc kia.
Nghĩ cũng kỳ dị thật. Người Việt Nam vốn là người thơ mộng thy sỹ nhất thế giới (Chỉ riêng cái màu da vàng Việt Nam thôi cũng đã thơ mộng hơn mọi màu da đen trắng) thì người Việt Nam lại chẳng bao giờ đọc thơ Việt Nam, lại luôn luôn đem trút hết cõi lòng thơ mồng của mình cho những thứ sách vở thổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi si mê những da trắng Marilyn những da đen phi châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao nhiêu thơ mộng lại đem gán hết cho châu chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà đoạn trường ra như thế. Lâu lâu lại còn ca ngợi tài hoa ông Kút Xếp, tài liệu ông Vương Dương Minh.
Thôi thì thôi cũng chìu lòng Cũng cho nghỉ nghị trong vòng lai rai.
Huy Cận cũng đã có phen gián tiếp giải oan cho mọi người lưu lạc:
Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu trả lại Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang Sầu đã chín xin người thôi hãy hái Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường…
Huy Cận nói cái lời gì bao la như thế? - Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường?
Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái chỗ u ẩn nhất trong ngôn ngữ Jesus Christ.
Và đọc Huy Cận, chư vị Bồ Tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ Tát mà rằng:
“Chư Phật vô lượng phương tiện lực, chư pháp vô quyết định hướng; vị độ chúng sinh, hoặc thuyết nhứt thiết thực, hoặc thuyết nhứt thiết bất thực, hoặc thuyết nhứt thiết thực bất thực, hoặc thuyết phi thực phi bất thực…” (Xem Sương Bình Nguyên, trang 490).
Cũng vì lẽ đó, nên lần giở Dịch Kinh, chúng ta đọc lại ngôn ngữ thi ca của Khổng Tử:
“Hữu thiên địa, nhiên hậu vận vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả. Duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân. Truân giả doanh dã. Truân giả vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chỉ dĩ Mông. Mông giả Mông dã. Vật chi trĩ dã, vật trĩ bất khả bất dưỡng dã. Cố thụ chi dĩ Nhu. Nhu giả ẩm thực chi đạo dã… Ẩm thực tất hữu Tụng. Cố thụ chi dĩ Tụng. Tụng tất hữu chúng khởi. Cố thụ chi dĩ Sư… vân vân vân vân vân vân…”
Từ cõi Vô Ngôn của Bồ Tát tới cõi Vô Ngôn của Khổng Tử chúng ta trở lại với Kiều, Lửa Thiêng, sẽ nhận ra một chân lý mà không có sách vở học giả ru rú nào có thể chỉ vẽ ra. Phusis sơ nguyên Hy Lạp cũng lại lập lòe hiện thị một cách phong nhiêu dị thường trong hai câu mở đầu bài “Thuyền Đi”:
Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 4:42:05 GMT 9
Thuyền Đi
Thuyền đi là nước đi, thời gian đi, hay đời người đi? biệt ly, nói tóm lại?
Nhưng tại sao bài thơ “Thuyền Đi” của Huy Cận lại xa vắng mênh mông hơn bất cứ một bài thơ ly biệt nào xưa nay? Nó tiềm ẩn những tố chất gì như thế?
Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ dong miền viễn khơi
Sang đêm thuyền đã xa vời Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang
Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau
Bài thơ mười hai câu cả thảy. Mười hai câu lục bát Huy Cận trông giống như một cung thành Đông Á, một chùa chiền Á Đông, một tượng vân thạch, hoặc đồng đen Đông Phương đang nhô lên nhìn sang khối Sơ Nguyên Hy Lạp.
Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Một cái gì bỗng dưng về giữa hai câu thơ, một cái gì đồ sộ, bất tuyệt, vô thủy vô chung về trong một lúc? Phải là Thời Gian của Vĩnh Viễn về trì ngự trong Phusis Mở Phơi? Về trong một lúc? Là về trong một Sát Na của Viên Mãn Viên Dung cho âm dương tịch hạp? Cuộc Nảy Nở của Càn Khôn đang phơi mở thịnh triều trì ngự trong tiếng “trăng lên, triều lên”. Tươi thắm của Sơ Khai hiển hiện trong những tiếng “gió về trong lúc, trăng lên, đang chiều…”
Hai câu thơ đong đưa kỳ ảo dìu Thiên Nhiên về giữa lòng vạn vật để thành tựu cái mà người xưa đã thể nghiệm thiên hình vạn trạng qua những tiếng Vĩnh Thể và Tồn Lưu, Thời Gian và Thời Thể. Một cái gì nhiệm màu cũng song trùng về trong những tiếng “là là” nhịp điệu của Nguyễn Du.
Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Trong bài thơ Huy Cận, cuộc Lễ Hội ấy đang hiễn hiện trong cảnh trời là nơi chốn của Phùng Ngộ trong chia ly. Một cuộc hôn phối dị thường mà Khổng Tử xưa kia cũng đã từng thể nghiệm qua cuộc Lữ.
Thiên Nhiên rộng rãi đang lên lời giục giã người lên đường lữ thứ để thành tựu cuộc Trùng Phục Quy Hồi trong mỗi bước chân đi.
Trăng lên trong lúc đang chiều Gió về trong lúc ngọn triều mới lên Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi
Ra đi như thế là kết hợp vũ trụ vào trong nhịp lưu ly của tại thể mình. Dìu tồn lưu về để mở phơi ra và đón nhận lấy. Cái ân huệ vô ngần kia đòi hỏi những cuộc ra đi, từ giã cõi miền đóng kín quanh quẩn trong nếp quen thuộc nhân tuần. – “Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai !”.
Cái nghĩa thời của cuộc Lữ to lắm lắm thay!
Nỗi ưu phiền của sông nước kia là một niềm kỳ vọng, một niềm chúc phúc lên đường.
Sang đêm thuyền đã xa rồi Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng
Thế thì các cuộc đi kia đã khiến cho sự hiện diện của kẻ đi càng bát ngát thêm trong cơn khiếm diện.
Kẻ đi và toàn thể cái khối gì đang đi?
Và do đó một cõi mênh mông nào đang phát hiện tinh thể? Cõi thái hư tịch mịch? Cõi sầu bi siêu thoát?
Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ
Có cuộc đi trong một tuần trăng thời thể, mới có theo về trong một xứ sở của bỉ ngạn chon von. Thời gian được thời thể hóa. Thời thể được thể nghiệm trong Mnemosyne Ký Ức lưu tồn. Nó giữ lại một cái gì trường lưu hằng cửu mà con người vong thể ngày nay chẳng thể nào thể hội được nữa. Chạy theo đuôi danh từ lí nhí, đem phân chia cắt xén thời gian ra làm khoảnh khắc tủn mủn, rồi chối bỏ lung tung chẳng còn rõ mình đang tham dự vào cái cuộc nhảy múa ma trơi nào thiểu não.
Thuyền người đi một tuần trăng Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau
Cuộc ra đi như thế trở thành cuộc lên đường lữ thứ tìm lại tinh thể mình. - Hãy trở thành… Nhà ngươi là gì, hãy trở thành cái ấy. “Deviens ce que tu es” – Té ra con người phải đi một cuộc mười lăm năm, rồi ra mới nhận chân được tinh thể mình nằm tiềm ẩn trong cung đàn ban sơ bạc mệnh: và từ đó? – phát nguyện đại từ bi?
Đức Khổng còn khổng lồ nói lên sự đó một cách đơn sơ ẩn mật vô ngần:
“Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả, vạn vật, duy cố thụ chi dĩ Truân… Truân giả doanh dã. Truân giả vạn vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông…”
Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả cảnh tả tình sầu. Nhưng thật ra Huy Cận là khối óc vĩ đại đạt tới một cõi tư tưởng bát ngát nên tự nhiên như nhiên, lời thơ ông đi vào trong phong cảnh bao la, dội vào đáy thẳm thiên nhiên, và gửi lại cho ta những dư vang bất tận. Khối óc kia cũng là thông tuệ của tâm thể thiên tài.
Chết
Chân quấn quít rồi đến ngày nghỉ bước Miệng trao lời rồi đến buổi làm thinh Thân có đôi chờ lúc ngủ một mình Không bạn lứa cũng không mền ấm nóng
Tai dưới đất để nghe chừng tiếng sống Ở trên đời - đầu ấy ngửng lên cao Sẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng nào Thân bay nhảy giam trong mồ nhỏ tí
Một dáng điệu suốt trăm nghìn thế kỷ Ngày sẽ về gió sẽ mát hoa tươi Muôn trai tơ đi hái vạn môi cười Làn nắng ấm vào khua trong lá sắc
Nhưng mắt đóng trong đêm câm dằng dặc Còn biết gì đất ở trên kia Bướm bay chi! Tay nhậy đã chia lìa Tình gọi đó nhưng lòng thôi bắt mộng
Bỏ chung chạ để nằm khô một bóng Chẳng ai vào an ủi nắm bàn tay Khổ bao nhiêu cho một kẻ hằng ngày Tìm thế giới để làm khuây lẻ chiếc.
Huy Cận tặng Thần Chết một bài thơ cảm động. Nói là tặng Thần Chết nhưng cũng là dâng cho Cuộc Sống. Cuộc Sống ôi! Hình dạng của Thần Chết đã ra như thế thì Thánh Sống nghĩ sao?
Ắt nghĩ rằng: nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống sẽ giống tợ tợ như cái chết.
Cái chết trông dị dạng quá. Mà hằng ngày vô tình ta sống theo lối chết đó. Tuy không đến nỗi căm căm gớm guốc như thế, nhưng cũng tai hại điêu linh gần bằng. Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi. Và meo mốc tử khí bám đầy rẫy cái hình hài cuộc sống.
Tiếc sao! Tiếc sao! Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng.
Xin một lần thử thong dong nhìn lại rõ bộ mặt cái chết, để hỏi lại linh hồn mình nên nhớ lại chuyện chi.
Thì từ đó rất có thể rằng cái chết hãi hùng sẽ là một cơ hội huy hoàng cho cái sống thành tựu được tinh hoa. Ta sẽ nhìn các em, các em sẽ nhìn con chim, con cá. Con cá sẽ nhìn con giế con giun… Mọi mọi sinh vật sẽ mọi mọi nhìn nhau bằng một nhãn quan khác hẳn. Và cõi đời từ đó sẽ đúng là đời cõi của yêu thương.
Đức Phật ôi! Chính Ngài đã có cái dụng tâm giống như chàng Huy Cận. Ngài đã đem những não nùng sinh lão bệnh tử ra nói lên cho kiếp phù du thể hội cái nghĩa não nùng, là phát nguyện bi tâm để dìu tồn sinh về bỉ ngạn…
Cái chết được thể nghiệm sâu xa sẽ trở thành cái khả năng vô thượng của con người mang một cái sống phù du. Đó là lý do (do lý) đã khiến ông Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho cái sống của Dasein. Và gọi rằng: con người ta là một sinh - thể - cho - tử - diệt.
Tinh thể của con người là: sinh - thể - cho - tử - vong?
Thì tử diệt tử vong chính là Tặng Vật vô ngần cho Sinh Thể. Sinh Thể sẽ ôm cái Tặng Vật vô ngần đó mà đi khắp mặt biển dâu lảo đảo.
Em quốc sắc, em thiên hương, em hoàng hậu, em nữ chúa, em giai nhân da vàng, em mọi nào da trắng, em mọi nào da đen…
Thảy thảy mọi mọi em em cùng chia nhau cái món quà kỳ ảo. Thì can chi các em lại bảo rằng cái da vàng thơ mộng hơn cái da đen? Cái da trắng văn minh hơn cái da đỏ?
Buổi hội trần gian sẽ từ đó mà mất vui. Thế giới mất ân tình. Cõi đời mất đời cõi. Thì lễ hội mất đi cái gọi là. Là gì? Ban sơ xuân xanh ngày đó, ông Nguyễn Du đã bảo rằng:
Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Hội đạp thanh mất đi cái ý nghĩa vô ngần của thanh đạp, một phen thanh đạp trở thành đạp thành, phá lũy, theo thể điệu Caligula. Ấy cũng chỉ vì đăm đăm riêng nghĩ tới hội là đạp thanh, mà bỏ quên cái tình riêng của lễ là tảo mộ…
Ai chết đó? Nhạc sầu chi lắm thế? Kèn đám ma? Hay ấy tiếng yêu thương Của cuộc đời…
Tiếng đau thương đó của cuộc đời dội vào cuộc sống, thì cuộc sống đổi hình thay dạng…
Tôi nhớ lại ngày tháng chuyển dịch Những thay hình đổi dạng mở phơi Trong ly nước mộng tuyệt vời Mối sầu dao động nỗi đời giao thoa (Apollinaire)
Cuộc sống thay đổi hình dạng theo thể thái sầu bi ngậm ngùi đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải nên dìu nó về thể thái thanh thản khiêm tòng… Cạo đầu sạch sẽ đi tu? Đi làm đạo sỹ? Hay tiếp tục làm thy sỹ phiêu bồng? Làm nhà thương mãi đi buôn? Kỹ nghệ gia? Làm gì thì làm, cũng hơn là làm Caligula vậy.
Ngày còn đi học, hai bài thơ “Chết”, “Nhạc sầu” của Huy Cận đã gây chấn động dị thường cho tôi. Tôi bỏ học, chẳng thiết chi sách vở. Chạy về quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu!
Thế cũng là một cách chịu chơi với Thần Chết vậy. Nghe tin Marilyn Monroe lìa đời, tôi buồn bã suốt mấy tháng. Phải chi bình sinh nàng có đọc thơ Huy Cận, ắt nàng chẳng nên giận phận gì mà vội ngang tàn tính mệnh như thế.
Bây giờ tôi xin chậm rãi chép bài “Nhạc Sầu” ra tặng nàng. Mong rằng ở dưới suối vàng nàng hãy bỏ chút thì giờ đọc giải trí cho vui.
Nhạc sầu
Ai chết đó! Nhạc buồn chi lắm thế Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương Sương hay chính bụi phai tàn lả tả
Từng tiếng lệ ấy mộng sầu úa lá Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh Môi tái nhạt nào cười mà héo vậy
Ai chết đó! Trục xoay và bánh đẩy Xe tang đi về tận thế giới nào Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó
Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ Trần gian sao? Đây thành phố đang quen Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy
Và ngựa ôi đi nhịp đằm chớ nhảy Kẻo thân đau chưa quên nệm giường đời Ai đi đưa, xin đưa đến tận nơi Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi
Người đã chết. Một vài ba đầu cuối Dăm bảy lòng thương tiếc đến bên mồ Để cho hồn khi sắp xuống hư vô Còn được thấy trên mặt người ấm áp
Hình dáng cuộc đời từ đây xa tắp Xe tang đi xin đường chớ ghập ghềnh Không gian ơi xin hẹp bớt mông mênh Áo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt
Và ngươi nữa tiếng gió buồn thê thiết Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô đơn Hàng cờ đen như bóng quạ chập chờn Báo tin xấu dẫn hồn người đã xế
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương Tiếng nức nở gởi gió dường quạnh quẽ Sầu chi lắm trời ơi chiều tận thế… (Huy Cận)
Nhưng cố nhiên, chép xong rồi thì nên xếp giấy lại, ra đường phố dạo một phen rong chơi. Để nhìn lại đậm đà những tà áo phấp phới. Chẳng nên đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết. Kéo dây dưa cuộc tình duyên với Tử Thần, là điều tối kị. Nó có tính ăn hiếp. Ta lân la chơi đùa với nó, thì nó rút mòn xương tủy ta.
Bây giờ nên ngâm chơi vài vần “Tặng Em Mười Sáu” của Huy Cận:
Tặng em mười sáu
Em mười sáu xuân lang vừa độ tốt Trời trong sáng sông trôi vui chim lảnh lót Để tay ngời nối lại với tay anh Anh thấy mơ hồ huyền diệu mong manh
Một giải lụa quấn qua hồn đây đó Nỗi vui cũ ngày nay anh lại có Thêu đời hồng anh nói ít lời hoa Em ca lừng cho bốn phía sinh ca
Đem dâng tặng mặt trời muôn thuở mới Hãy đẹp giọng khúc huy hoàng vời vợi Nhạc tưng bừng tuôn chảy tự hồn vui Thuyền du dương anh cầm lái em mui
Chèo một nhịp hò khoan cùng vũ trụ Em mười sáu ấy hoa đời đương nụ Nở xuân quang anh vừa quá hai mươi Ta nối tay tròn kết một vòng tươi
Mà vẫn lấy cuộc đời. Em có thấy Trong máu thắm dòng vui luôn tiếp chảy Suối hân hoan cuồn cuộn sóng dương hòa Làm nụ cười cho vạn vật muôn hoa Em! Nào ta hát bài Thiên Cổ Lạc (Huy Cận)
Nguồn thơ vui nhất của Việt Nam nằm trong Huy Cận. Mà nguồn thơ buồn nhất Việt Nam cũng là nơi Huy Cận. Sự đó không còn chi đáng nên ngạc nhiên.
Huy Cận đã sống trọn vẹn với linh hồn mình, vì thế ông sống trọn linh hồn nhân gian. Nguồn thơ ông chảy khắp mặt buồn vui của nhân thế.
Từ Nguyễn Du đến chúng ta bây giờ, chỉ có một Huy Cận mà thôi. Một Quang Dũng mà thôi. Một J. Leiba, Kiên Giang, Hồ Dzếnh mà thôi.
Và mọi mọi chúng ta cũng từ đó mà mọi mọi được có một nguồn thơ duy nhất của ta ta mọi mọi mà thôi.
Ta còn bận tâm chi nữa về câu chuyện xếp loại, định nguồn, nhận riêng khuynh hướng?
Huy Cận có làm văn nghệ văn ngừng gì đâu. Thi sĩ chân chính cổ kim có một ai chịu thiết lập trường trại gì đâu. Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian cũng đơn sơ như con chim về Mùa Xuân ca hót. Đến từ xứ lạ? Xứ quen? Xứ xa xuôi vô ngần thân thuộc? Ngứa cổ hát chơi? Khi gió nắng vào reo um khóm lá? Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời? Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn? Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca? Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín? Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa?
Họ đơn sơ hồn nhiên như thế. Sao ta lại cầu kỳ buộc họ phải cầu kỳ gay cấn như ta? Họ có đòi hỏi chi đâu? Họ chẳng bao giờ tranh giành địa vị? Chẳng bao giờ chịu làm thần tượng. Chỉ xin vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến tiệc giữa Hoa Đăng…
Khi ta đến các ngươi đà đến cả Có Thiên Nhiên Suối Chị với Rừng Anh Cỏ vạn dại đã quen chiều óng ả Liễu thiên thu từng thuộc lối buông mành
Thơ Huy Cận dịu dàng như thế đốt cháy bỏng máu me ta bởi ông đơn giản ca ngâm. Ông chân thành khiêu vũ. Đừng ai nỡ đem gán bừa cho họ những gì họ chẳng hề có bận tâm. Bao phen chúng ta từng tàn nhẫn một cách quá vô tình. Và vì thế, họ đành quay lưng trốn chạy. Kêu gọi buổi chiều về bên mình để tâm sự cô đơn:
Chiều ơi hãy xuống thăm ta với Thiên hạ lìa xa đời trống không Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ Đìu hiu bên phố nhớ bên lòng
Thiên hạ lìa xa? Thiên hạ vẫn ngồi đó. Vẫn làm thơ tặng nhau. Nhưng cũng bằng gấp mấy quan san trong gang tấc. Vì đã tuyệt dòng chân thành tương ứng. Mỗi người mỗi đánh lạc mất linh hồn tinh thể mình, và mỗi mỗi đầy đọa nhau dằng dặc…
Đã mấy năm rồi thơ nở hoa Trang vui cũng lúc lệ buồn nhòa Giòng đời cũng nặng sầu lưu thủy Tóc nặng sầu tư gió thổi tà
Chiều ơi gặp gỡ đã đòi cơn Sương lạnh dồn thêm lệ tủi hờn Một buổi xưa kia phòng vắng bạn Đó ngày quen biết với cô đơn
Buổi hoàng hôn dị thường nào xưa kia Nguyễn Du đã nhìn và tâm sự? Buổi hoàng hôn nhân loại. Ngày tận thế đó chăng? Không có lẽ như thế. Vì lời thơ thân thiết vẫn như âm thầm báo hiệu một bình minh sắp mọc trong hoang liêu:
Có lúc xa người bởi quá yêu Than ôi sông núi lại buồn nhiều Mây xa lạc gió bên trời vắng Đời bạt lòng ta lại gặp chiều.
Nguồn: Ca Dao xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1969. An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998. Bản điện tử do talawas thực hiện.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 5:27:25 GMT 9
Huỳnh Ngọc Chiến Bùi Giáng và nỗi đau hội thoại (Kỷ niệm 8 năm ngày mất Bùi Giáng 07.10.1998 – 07.10.2006) “Ils tous parlent de moi mais personne n’a aucune pensée pour moi” Tất cả bọn chúng đều nhao nhao nói về ta, nhưng chẳng có kẻ nào chịu vì ta mà suy tưởng (Ainsi parlait Zarathoustra - F. Nietzsche)
Nếu Bùi Giáng không phải là suối nguồn khai thác hầu như vô tận thì khó lòng cầm bút viết tiếp về ông. Trước đây, tôi đã có viết đôi bài về ông. Bài đăng báo xong, lại cảm thấy áy náy, vì vẫn chưa nói lên được điều gì. Ngày ông qua đời, ở xa không thể vào dự đám tang, lại thêm một điều ân hận. Tự hẹn với lòng có khi dịp sẽ viết về ông đầy đủ hơn. Ðọc lại sách ông nhiều lần, rồi chợt hiểu không thể và không nên tổng hợp, phân tích ông theo thể lệ biên khảo được. Bình sinh ông đã vô cùng căm phẫn với các học giả phê bình.
Khi ông còn sống, người ta “trao đổi” nhau về “giai thoại Bùi Giáng” để “phân tích tìm hiểu” (!) ông, thì khi ông qua đời, người ta càng đua nhau bới móc lục lọi cái đống “giẻ rách văn học” đó để đăng tải trên báo chí theo thói ngồi lê đôi mách, mà có bao giờ những người đó tự hỏi họ đã lăng nhục ông đến độ nào? Cái ông cần chia sẻ trong tấm lòng và trong tư tưởng thì các “nhà biên khảo” đó đều quay lưng không bàn tới. Thuở sinh tiền ông đã cô đơn, thì giờ đây ở chốn Bồng Lai chắc ông còn cô đơn thập bội, thiên bội. “Văn chương, văn học, thi ca… người đọc chăm chỉ một chút, đọc cái điều gã văn thi sĩ nói, há tất phải tò mò nghe những cái gọi là ‘giai thoạI’ của những đàn bà nhàn rỗi thời gian ngồi lê đôi mách?” (Thời văn, số 19, tr. 21).
Hôm nay, viết về ông theo lối ngẫu nhĩ lai rai hoạ may có thể nói lên được chút gì chăng?
*
Bùi Giáng là thi sĩ vĩ đại mà mãi cho đến ngày nay tôi vẫn giữ nguyên niềm kính mộ. Có vài thi sĩ gần gũi ta trong quãng đầu đời, như một tri kỷ, một người bạn đường thủy chung, cho rồi đến một lúc nào đó, ta bỗng thấy họ trở nên xa lạ: họ bị vượt qua và chỉ còn là kỉ niệm. Ðối với Bùi Giáng thì không thế, càng đọc ông càng thấy ông vĩ đại. Tôi đã học hỏi được rất nhiều ở cái phong thái hoằng viễn và tư tưởng phóng dật thênh thang của ông. Trong một vài tác phẩm của mình, Bùi Giáng đã đưa ngôn ngữ Việt Nam đến một nhạc điệu hay nhất xưa nay. Sức sáng tạo của ông quả thật phi phàm. Trong nhiều trang sách của ông, khó lòng phân biệt được đâu là văn xuôi, đâu là thơ ca và đâu là triết lí. Cơn "điên"của ông cũng thuộc loại "điên" của Nerval, Nietzsche, Hölderlin... Mặc dù có trí huệ mênh mông, có công lực thâm hậu của mấy mươi năm đạo hạnh ông vẫn không giữ được cõi lòng tịnh nhiên bất động trước những phong ba biến động của cuộc "obscurcissement du monde" [1] dị thường của thế kỉ 20.
Các bạn thử nghĩ sự lãnh hội của bọn hậu bối chúng ta đối với thiên tài Nguyễn Du sẽ lệch lạc biết dường nào nếu không có Bùi Giáng? Ông đã khai mở những dư hưởng mênh mông trong Truyện Kiều và nhiếp dẫn chúng đi về giữa cuộc đối thoại của tư tưởng Ðông Tây hiện đại. Từ thuở nhỏ chúng ta đã học và đã thuộc Truyện Kiều và đều xem đó là áng văn chương tuyệt diễm. Song mười phen thì hết chín phen rưỡi, chúng ta đọc cổ lục với thể điệu ngủ gật mơ màng. Rồi chúng ta háo hức say mê nghiền ngẫm nghiên cứu tâm hồn thiên tài theo thể lệ giáo khoa biên khảo, khiến cho bao nhiêu ngữ ngôn vi diệu, bao nhiêu diệp hưởng hoa âm đều bị thói lơ đễnh của chúng ta dập tắt ngay từ khi mở sách.
Hồn thơ Nguyễn Du từ lâu bị vây khổn trong màn lưới thâm u của phê binh duy lí. Bùi Giáng đã đem hết thiên tài bạt tuỵ của mình ra để giải thoát Tố Như khỏi tù ngục giáo khoa, và khai phá một thông đạo khác nhằm tái lập lại chân dung sơ thuỷ của Truyện Kiều. Ðọc ông, ta có cảm tưởng rằng suốt dưới vòm trời Ðông Tây kim cổ dường như không có một tư tưởng nào thoát khỏi sức phủ toả mơ màng của thiên tài Liệp Hộ. Những phát kiến kì lạ của ông về Kiều đã mở ra một thông đạo dị thường cho bọn hậu bối đời sau (nếu quả thật bọn hậu bối ngày sau có đủ tư cách xứng đáng để lịch hành trên thông đạo đó). Ðứng tại trung tâm thông đạo đó, ta sẽ đón nhận được nhiều dư hưởng mênh mông khác từ bốn phương vọng lại, và càng nhận ra sự hoằng đại của Nguyễn Du và Khổng Tử. Ðây quả là một điều kì lạ mà chúng ta vẫn ù lì chưa một lần sực tỉnh để thử đặt lại vấn đề từ cơ sở nên cứ để cho Sử Lịch Biển Dâu mãi bước đi theo thể điệu của Lịch Sử Ðoạn Trường Tang Thương Dâu Biển.
*
Ngoài Truyện Kiều, ông rất mê thơ tập Lửa thiêng của nhà thơ Huy Cận, một tập thơ đã khiến ông bị “chấn động dị thường” và do đó, theo lời người ta kể, ông phải làm tập Mưa nguồn, vì ông cho rằng chỉ có Mưa nguồn mới có thể dập tắt nỗi Lửa thiêng! Nếu quả đúng vậy thì đó là trận chơi kỳ tuyệt của những kẻ thượng thừa. Và đó cũng chính là thể điệu mà Trang Tử công kích Khổng Tử trong Nam hoa kinh, bởi vì theo Bùi Giáng thì “Trang Tử vẫn kính phục Khổng Tử một cách không bờ không bến”. Rồi ông làm thơ Lá hoa cồn để tương ứng với tập thơ Lá cỏ (Leaves Of Grass) của Walt Whitman. Trong cảnh giới của những tâm hồn thượng thừa thì công kích vẫn là đồng hội, bài bác vẫn là đồng thuyền, trong mâu thuẫn vẫn chan chứa cảm thông. Đó là điểm kỳ diệu mà những ai ham mê thuyết thoại và bút chiến ì ầm đều không bao giờ lường được. Đừng bao giờ thấy người ta công kích cũng hồ đồ công kích theo, mà phải tự hỏi việc công kích đó bắt nguồn từ yêu sách nào của lập ngôn hay từ tư tâm hiểm độc muốn đè bẹp người khác một cách “lịch sự có văn hóa” theo thói của bọn nhà nho hương nguyện, hay từ thủ đoạn nham hiểm của những Iago thời hiện đại? Nếu công kích đúng thể điệu thì việc đó còn mang ơn ích gấp ngàn vạn lần những lời ca ngợi hồ đồ, bởi vì “Ces sorts de louanges qui viennent d’en bas sont toujours les outrages” (những kiểu ca ngợi từ bên dưới vẫn luôn luôn là những lời xúc phạm). Người yêu ta xấu với người. Yêu nhau còn lại bằng mười phụ nhau.
*
Ðọc từ Martin Heidegger và Tư tưởng hiện đại đến Lễ hội tháng Ba rồi Ngày tháng ngao du, tôi thấy ông bị vây khổn bởi nỗi cô liêu không cùng trong tư tưởng. Con người ấy đã đi về trần gian với tấm lòng thơ nhạc quá đỗi mênh mông và đã thất vọng đắng cay trong việc muốn tìm kiếm một người đồng điệu. Hai câu thơ của Xuân Diệu được ông nhắc tới nhiều lần trong các tác phẩm mình như một đoạn trường điệp khúc:
Từ ngàn xưa người ta héo than ôi Vì mang phải những sắc lòng tươi quá
Ta hãy lắng nghe ông nói gì với Nietzsche:
"Còn ta, quả nhiên bình sinh không hề gặp một nửa con người bạn hữu. Bởi vì nếu có bạn hữu chân thành thì tuyệt nhiên nó chẳng nghe rõ một chút gì trong điều tao nói. Và cũng chẳng bao giờ tao hiểu được những điều bọn chúng đã nói ra. Thì những thằng bạn đó cũng làm quẫn bách người ta cũng ngang mức địch thủ bức bách mà thôi." [2]
Trong nỗi cô đơn tột cùng đó, dường như ông chỉ viết cho chính mình đọc. Tác phẩm Ngày tháng ngao du là cuốn bị chế riễu chê bai nhiều nhất, xem như chỉ viết lăng nhăng, tào lao không đầu không đuôi như chuyện Kim Cương đi tiểu v.v… Song đọc xong, ta vẫn thấy có một cái gì kì lạ, dường như có một dòng ẩn lưu mờ hồ chảy ngầm bên dưới tác phẩm. Thử đọc lại Lâm Tây trọng bàn về Nam hoa kinh:
"Thầy Trang chỉ có ba cách nói:
Ngụ ngôn là đời vốn không có người ấy, việc ấy, mà ‘hư-không đặt-để nên lời’.
Trùng ngôn là lời ấy, việc ấy vốn không phải của người xưa, nhưng đặt ra rồi đem gán cho họ.
Còn chi ngôn là buộc miệng nói luôn, chẳng kể gì phải, trái.
Văn của tác giả vốn là những huyễn tướng, như hoa trong gương, như trăng đáy nước. Nếu ta lại xem là điển cố, đặt lời chê khen, có khác gì nói chuyện chiêm bao." [3]
Và hốt nhiên ta chợt hiểu ra, trong Ngày tháng ngao du, Bùi Giáng đã sử dụng triệt để phép chi ngôn để triển khai tư tưởng nghiêm mật trong bước đi phiêu bồng của nó. Một vài năm sau khi tác phẩm ra đời, ông lại nói trong lời bạt của cuốn Tư tưởng hiện đại nhân kì tái bản:
"Ngày tháng ngao du đi bước ngu dao nghiêm mật phiêu bồng trong toàn thể bồng phiêu của nó. Không thể tách rời một bài nào ra, để công kích hay tán dương theo lối hồ đồ bác học. Cũng không thể bảo rằng một bài nọ viết khá, một bài kia viết kém. Ðánh rằng ngao du là ngao du với bước đi của ngôn ngữ thượng thừa, nhưng thỉnh thoảng cũng phải chịu chơi dấn thân vào cuộc với ngôn ngữ hạ thừa. Tỷ như: lúc phải nêu vấn đề đọc kinh Phật với Kimura Taiken, buộc phải lý luận với học giả, thì ngôn ngữ phải tự thân hạ thấp cho vừa tầm câu chuyện. (Bọn trí thức phàm phu si độn thì cố nhiên cho rằng bài đó viết giỏi, và có thể lấy làm ngạc nhiên sao trong một cuốn sách lăng nhăng mà nảy ra được một bài tài tình như thế!) Dù sao thì dù, lúc ngôn ngữ ngao du đi bước hạ thừa, nó vẫn đi trong nếp gấp riêng biệt của ngao du và được ngao du chiếu cố bằng những làn cánh thượng thừa chuồn chuồn phấp phới". [4]
Khi lịch hành đến cuối đường, tư tuởng và triết học sẽ biến thành thơ nhạc mênh mông, còn ngôn ngữ đứng trước hiểm hoạ lập ngôn sẽ tự thân biến thành chi ngôn trong những nếp gấp riêng biệt thượng thừa của nó để tựu thành cái l'impensé trong tư tưởng. Ðó có phải chăng là Yêu Sách Bức Bách của Mê Cung Tư Tưởng cuối thế kỉ 20 mà Bùi Giáng là người đã cảm nhận một cách cực kì sâu sắc?
"Sử dụng chi ngôn, ngụ ngôn, trùng ngôn phản ngữ hầu mong đạt tới cõi vô ngôn trong lời." [5]
*
Xin chào nhau giữa con đường Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau
Bùi Giáng đã nói lên hai câu lục bát khôn hàn kỳ tuyệt đó để rồi bỏ lạị mùa Xuân phía sau và đi vào cõi miên trường vô tận.
Hai câu thơ “vịnh” mùa Xuân - Nguyên Xuân - mà sao nghe ra man mác tâm sự của Thúy Kiều âm thầm ngõ với Ðạm Tiên nhân ngày tảo mộ.
Thử thong thả chấm xuống hàng để tìm ra chút tố chất hàm ẩn bên trong:
Mùa Xuân? Phía trước? Miên trường? Phía sau?
Mà sao gọi là Nguyên Xuân? Là mùa Xuân còn Trinh Nguyên Trọn Vẹn? hay là mùa Xuân từ Nguyên Khai Sơ Thủy? Dù sao thì dù, ông Bùi Giáng nối tiếp Tố Như đi theo cung bậc của các tâm hồn tài hoa bước vào lễ hội trần gian. Mùa Xuân phía trước? Vâng, lộng lẫy xiết bao là cảnh huy hoàng tấp nập của ngày Xuân:
Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước, áo quần như nen
Thế nhưng linh hồn tài tử, ngay khi đối diện với cảnh sắc huy hoàng của ngày Xuân vẫn luôn luôn dự cảm được vẻ bấp bênh phù động của thiều quang thấp thoáng, trong tương phùng vẫn luôn dự cảm sự chia ly. Thế cho nên trong cảnh du xuân náo nhiệt vẫn man mác điệu buồn:
Thoi vàng gió rắc, tro tiền giấy bay
Và
Bóng tà như giục cơn buồn
Người ta thường nói đến vẻ buồn của mùa thu. Ông Tô Ðông Pha bảo:
Tao nhân trường thụ nhất thu bi (Nhà thơ mang mãi mối sầu thu )
(“Họa Triều Ðồng niên cửu nhật kiến kí”)
nhưng rồi cũng chính ông lại nói:
Nhân ngôn thu bi, xuân cánh bi (Người ta nói mùa thu buồn nhưng mùa xuân càng buồn hơn nữa )
(“Pháp Huệ tự Hoành Thuý các”)
Ông Bùi Giáng thì bóng bẩy hơn:
Xin chào nhau giữa con đường Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau
Chính bởi niềm dự cảm mùa Thu mai hậu ngay giữa mùa Xuân nên có kẻ làm thơ cuống quít vội vàng như Xuân Diệu, có kẻ tư lự ngậm ngùi như Huy Cận, có kẻ phiêu dật mênh mông như Lý Bạch, có kẻ đạm nhiên thông tuệ như Nguyễn Du, có kẻ đăm chiêu phiêu bồng như Bùi Giáng.
Bước vào mùa Xuân với niềm dự cảm thế kia là bước chân vào cuộc “Lữ” miên trường. Sau bao tháng năm lang bạt kỳ hồ trong cuộc đời, trong tình yêu, trong nỗi nhớ, trong đam mê cay đắng, trong thương nhớ ngọt ngào, trong đoạn trường khổ lụy, con người, một ngày, chợt dừng lại và bắt gặp hình ảnh nào cuả buổi ra đi. Lời thơ cũ sẽ ngân lên theo một cung bậc khác:
Thưa rằng ly biệt mai sau Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
Ở cuối cuộc Lữ, mùa Xuân bỗng hiển thị trong tố chất long lanh, trở thành nơi tao ngộ của Sương Bình Nguyên và Trăng Châu Thổ [6] .
Và giờ đây ông đã trùng ngộ chưa, màu Nguyên Xuân ấy? Tại hạ xin kính tặng ông một bài thơ thay cho những nén nhang:
Thế là ông đã ra đi Cuộc chơi bất khả tư nghì đã xong Trần gian nhớ bước phiêu bồng Cõi nào chứa nổi linh hồn Trung Niên? Sài Gòn mất một người điên Thiên cung thêm một ông Tiên đa tình Về trong cõi mộng huyền linh Trăng Châu Thổ chiếu, Sương Bình Nguyên giăng Kiếp sau trở lại trần gian Có còn giữ thói lăng nhăng phiêu bồng? [7]
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Xem Martin Heidegger, Introduction à la Métaphysique, Epiméthé, traduit par G. Kahn 1958: "La décadance spirituelle de la terre est déjà si avancé que les peuples sont menacés de perdre la dernière force spirituelle,... car l'obscurcissement du monde, la fuite des dieux, la destruction du monde, la grégarisation de l'homme, la suspicion haineuse envers tout ce qui est createur et libre, tout cela a déjà atteint, sur toute la terre, de telles proportions que, des catégories aussi enfantines que pessimisme et optimisme sont depuis longtemps dévenues ridicules, p. 47 (Sự suy đồi tinh thần trên quả đất này đã tiến xa đến mức các dân tộc bị đe doạ đánh mất luôn cả sức mạnh tinh thần cuối cùng... bởi vì sự tăm tối âm u của cõi thế, chư thần đã bỏ đi, quả đất bị tàn phá, con người kết bè nhóm, mọi thứ sáng tạo phiêu bồng đều bị ngờ vực hận thù, tất cả những điều ấy, trên trái đất này, đã đạt mức tương xứng đến nỗi các phạm trù ấu trĩ như bi quan hoặc lạc quan đều trở nên lố bịch từ lâu.) Và: "Les évenements essentiels de cet obscurcissement du monde sont: La fuite des dieux, la destruction du monde, la grégarisation de l'homme, la prépondérance du médiocre" p. 54 (Những biến cố thiết yếu của sự tối tăm âm u trên cõi thế, ấy là: sự bỏ đi của chư thần, sự tàn phá trái đất, việc đoàn lũ hoá con người và sự đắc thế của bọn tầm thường dung tục .) [2]Lễ hội tháng Ba, tr. 100 [3]Nam hoa kinh, Nhượng Tống dịch, tr. XVIII [4]Lời bạt, Tư tưởng hiện đại, Tân An tái bản, tr. 222 [5]Lời tựa cho cuốn Martin Heiddeger và Tư tưởng hiện đại tập 1 [6]Tên hai tác phẩm của Bùi Giáng [7]Thơ Bùi Giáng: Ông còn cự nự nữa không? Tôi đưa ông đi cải tạo cho ông bỏ thói phiêu bồng lăng nhăng (“Như Sương - Một cô hàng xóm”)
Nguồn: Tạp chí Kiến thức ngày nay số 581, ngày 01.10.2006
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 5:54:22 GMT 9
Bùi Giáng Thư mục Nhận xét về Bà huyện Thanh Quan, Sài gòn, 1957 Nhận xét về Lục Vân Tiên, Sài gòn, 1957 Nhận xét về Truyện Kiều, Sài gòn, 1957 Giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Sài gòn, 1959 Giảng luận về Chu Mạnh Trinh, Sài gòn, 1959 Giảng luận về Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị, Sài gòn, 1959 Tư tưởng hiện đại, Sài gòn, 1960 Mưa nguồn (thơ), Sài gòn, 1962 Lá hoa cồn (thơ), Sài gòn, 1963 Ngàn thu rớt hột (thơ), Sài gòn, 1963 Màu hoa trên ngàn (thơ), Sài gòn, 1963 Sa mạc trường ca (thơ), Sài gòn, 1963 Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại, I & II, Sài gòn 1963 Sao gọi là không có triết học Heidegger?, Sài gòn, 1963 Dialoque (viết chung với Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Tam Ích, Phạm Công Thiện - phần 16, Lettre à René Char), Sài gòn, 1965 Monodialoque (bản đánh máy), Sài gòn, 1965 Trăng tì hải (dịch), Sài gòn, 1966 Cõi người ta (dịch), Sài gòn, 1966 Khung cửa hẹp (dịch), Sài gòn, 1966 Hoa ngõ hạnh/ Othello (dịch), Sài gòn, 1966 Bạo chúa Caligula (dịch), Sài gòn 1967 Ngộ nhận (dịch), Sài gòn, 1967 Kim kiếm điêu linh (dịch), Sài gòn, 1967 Con người phản kháng (dịch), Sài gòn, 1988 Mùa hè sa mạc (dịch), Sài gòn 1968 Kẻ vô luân (dịch), Sài gòn, 1968 Ophelia Hamlet (dịch), Sài gòn, 1969 Nhà sư vướng lụy (dịch), Sài gòn, 1969 Hoà âm điền dã (dịch), Sài gòn, 1969 Đi vào cõi thơ, Sài gòn, 1969 Thi ca tư tưởng, Sài gòn, 1969 Sa mạc phát tiết, Sài gòn, 1969 Sương bình nguyên, Sài gòn, 1969 Trăng châu thổ, Sài gòn, 1969 Mùa xuân trong thi ca, Sài gòn, 1969 Thúy Vân, Sài gòn, 1969 Biển Đông xe cát, Sài gòn, 1970 Mùa thu trong thi ca, Sài gòn, 1970 Ngày tháng ngao du, Sài gòn, 1971 Đường đi trong rừng, Sài gòn, 1972 Lời cố quận, Sài gòn, 1972 Lễ hội tháng Ba, Sài gòn, 1972 Con đường ngả ba - Buớc đi của tư tưởng, Sài gòn, 1972 Bài ca quần đảo (thơ), Sài gòn, 1973 Hoàng tử bé (dịch), Sài gòn, 1973 Mùi hương xuân sắc (dịch), Sài gòn, 1974 Thơ Bùi Giáng, Montreal, 1990 Thơ Bùi Giáng, California, 1994 Bùi Giáng 1994 (thơ), California, 1994 Xa cõi đi về (thơ, viết chung với Thân Thị Ngọc Quế), Sài gòn, 1994 Hán tự hài cú (viết chung với Ngô Văn Tao và Trịnh Công Sơn), Sài gòn, 1994 La Commune poétique aventure - Vào chung cục thơ (viết chung với Ngô Văn Tao), Sài gòn, 1994 Rong rêu (thơ), Đà nẵng, 1996 Chớp biển (thơ), Sài gòn, Anaheim, 1996 và khoảng 10 tác phẩm chưa công bố
Nguồn: Trích Chớp biển, Sài gòn, Anaheim, 1996
Trần Hữu Thục Bùi Giáng giữa chúng ta Có lẽ chưa có người nghệ sĩ nào mà cái chết gây ra sự quan tâm nơi nhiều người thuộc nhiều thế hệ khác nhau như Bùi Giáng. Từ trong nước ra ngoài nước, từ già đến trẻ, từ chống Cộng đến thân Cộng và kể cả Cộng sản, tất cả đều nhất loạt bày tỏ tình cảm và lòng trân trọng của mình đối với Bùi Giáng. Tin tức về sức khỏe cũng như cái chết của ông được loan báo tức thời, đồng loạt trên các báo trong và ngoài nước. Chúng ta có cảm tưởng như cái chết của ông đã tạo nên một sự đoàn kết hiếm có giữa những người viết lách trong giai đoạn lịch sử mà sự nghi kỵ vẫn còn nằm ở hàng đầu.
Hầu như các nhà văn, nhà thơ, nhà báo đều nhất loạt ca ngợi nhân cách và sự nghiệp của nhà thơ đất Quảng này. Mọi người đều dùng những từ hay nhất, đẹp nhất để xưng tụng ông. Ta thử đọc qua một số câu trích của một số nhà văn, nhà thơ viết về ông trên Hợp Lưu, số đặc biệt về Bùi Giáng [1] sau đây: Nhà thơ Huy Tưởng: Bùi Giáng "thông tuệ và tài ba ngất trời điên đảo" ..." thiên tài thơ Bùi Giáng" (HL, tr. 9)
Nhà văn Mai Thảo:"Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương" (HL, tr. 12)
Nhà phê bình Huỳnh Hữu Ủy: " Ði cho tới cùng cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ, tới đỉnh cao chót vót của nó, sống với nó trong từng mỗi giây phút, trong từng mỗi sát na, xưa nay có lẽ chỉ mới có Bùi Giáng là một." (HL, tr. 19)
Nhà văn Cung Tích Biền: "Bùi Giáng giàu ngôn ngữ như cát bãi biển"... "Bùi Giáng đã trải một cánh bay dài mênh mông chiếc bóng trong bầu trời thi ca Việt Nam nữa thế kỷ qua" (HL, tr. 62 & 54)
Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc: "Ông là một thi sĩ bát ngát, ngây thơ và cỏ hoa điên đảo" (HL, tr. 75)
Nhà phê bình Hoàng Nguyên Nhuận: "Ðời anh là một công án tử sinh" (HL, tr. 96)
Ông Huỳnh Ngọc Chiến: "Bùi Giáng là bậc thượng trí, hầu như "vô sở ngộ" (HL, tr. 135).
Bà Ý Nhi: "...những câu thơ được chắt ra từ máu của con người khắc khoải khôn nguôi về thân phận con người, về thế gian này" (HL, tr. 138)
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền: "Bùi Giáng là một thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca hiện đại" [2]
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc: "Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ hỏa diệm sơn của hồn ông". [3]
Ông Nguyễn Hoàng Văn: "Thơ ông là khối trầm hương chữ nghĩa" [4] vv...và vv...
Tóm lại, đặt bút viết về ông, ta chỉ biết có ca tụng và ca tụng. Dường như ta có quyền dùng bất cứ ngôn ngữ xưng tụng nào sáng giá nhất để nói về ông mà không sợ đại ngôn, không sợ nhầm lẫn.
Bùi Giáng giữa chúng ta: hư cấu.
Thế là, năm nay (1998) , văn học Việt Nam có ba cái tang lớn: Mai Thảo, Nguyên Sa và Bùi Giáng. Nói chung, cảm giác của chúng ta đối với ba cái chết không hoàn toàn giống nhau, Mai Thảo một cách, Nguyên Sa một cách và Bùi Giáng một cách. Nhưng Bùi Giáng khác xa nhất.
Theo tôi, khi nghĩ đến Mai Thảo hay Nguyên Sa, ta nghĩ đến những con người thật. Họ đã đến, đã sống, đã tồn tại đâu đó, như ta, bên cạnh ta, vui buồn với ta, chia sẻ với ta, cao thượng như ta và cũng tục tằn như ta. Mai Thảo chết như là một maithảo. Nguyên Sa chết như một nguyênsa. Cũng như, tôi rồi sẽ chết như tôi, anh rồi sẽ chết như anh. Bùi Giáng thì khác. Bùi Giáng không chết như Bùi Giáng. Ông chết như một người khác chết. Khi nghe tin ông chết, ta có thương tiếc, nhưng dường như không xúc động mấy. Không bàng hoàng mấy. Không xót xa mấy. Ta có cảm giác như nhà thơ vừa lên đường rong chơi ở một nơi nào đấy rất xa, rất khác thế giới chúng ta đang ở. Và sẽ trở về. Mai, mốt, hay một lúc nào đó, nhưng chắc chắn trở về. Tại sao ta có cảm giác đó? Tôi không nghĩ rằng vì Bùi Giáng hiện đang ở trong nước còn Mai Thảo hay Nguyên Sa thì ở ngoài nước, tức là gần chúng ta hơn. Theo tôi, ngay khi ông còn sống, ông vốn đã cư ngụ ở một thế giới khác với chúng ta rồi, dù ông vẫn ăn, vẫn uống, vẫn gần cận ta hàng ngày. Chúng ta vẫn gặp ông đâu đó, thỉnh thoảng, hoặc có khi hàng ngày, hàng tuần mà không có cảm giác gì khác ngoài cảm giác này: đó là Bùi Giáng. Thế thôi. Ta biết ông vẫn còn đó, chưa đi đâu xa. Cần cho ông cái gì, ta sẽ có ông bên cạnh để cho. Cần thơ, ông sẽ chép ngay một loạt mấy bài thơ hay cả chục bài thơ không chừng. Ông ở đó, như ta, với ta, nhưng dường như khác băng tầng. Hồi còn ở Sài Gòn, nhiều khi ở tiệm sách ra, trên tay còn cầm cuốn sách của ông vừa mới mua, lại gặp ông đang đứng ngay giữa đường, múa may, cười cợt mà tôi vẫn ít có liên hệ nào giữa cuốn sách đang cầm trên tay và tác giả đang ở đó. Hình như Bùi Giáng trên sách không dính dáng gì đến Bùi Giáng đang ở kia.
Thế đấy! Trong chúng ta, Bùi Giáng nửa thực, nửa hư. Vừa thiên tài, vừa là người điên. Vừa rất giống lại vừa quá khác chúng ta. Trong chúng ta, Bùi Giáng luôn luôn là một nghịch lý. Ta vừa quan tâm đến ông, vừa hững hờ với ông. Tin ông chết không làm tim ta đau nhói lên như một số người khác, Nguyên Sa chẳng hạn. Tôi muốn nói: Bùi Giáng hiện hiện giữa cuộc đời và giữa chúng ta như một hư cấu. Nghĩa là một nhân vật. Một câu chuyện. Có thể nói cho rõ hơn, theo tôi, ông là nhân vật trong một cuốn truyện dài không kết thúc. Và sẽ không bao giờ kết thúc. Ngay lúc này đây, ông chết đã mấy tháng rồi mà tâm thức của tôi về ông vẫn chẳng khác gì trước đây, khi còn ở Sài Gòn hay cách xa ông đến ½ vòng trái đất. Tôi vẫn tự hỏi: chẳng biết ông chết thật hay ông giả vờ. Bùi Giáng thân xác đã tiêu tán, nhưng Bùi-Giáng-như-một-hiện-sinh vẫn còn đâu đó, nghêu ngao ca hát, làm thơ và sống hồn nhiên trên các đường phố Sài Gòn. Một Sài Gòn có Bùi Giáng và một Bùi Giáng có Sài Gòn:
Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng Tối tối về chùa đêm làm thơ Ngày ca múa khóc cười giữa chợ Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi.
Mai Thảo
Sống như là hư cấu. Chết như là hư cấu. Và vì là hư cấu, ta có quyền đọc lại đời ông. Nghĩa là cũng như bất cứ một nhân vật hư cấu nào khác, nhân vật Bùi Giáng sẽ phục sinh và lại chết và lại phục sinh và lại chết...cứ thế. Ðiều đó giúp ta hiểu thêm vì sao đời ông kết tinh bởi những giai thoại. Những giai thoại chồng chất, trùng nhau và khác nhau. "Ðã có rất nhiều giai thoại, huyền thoại về ông; vô số được thế gian tô bồi sau này, khó minh xác thực hư" (Cung Tích Biền, tr. 56 & 57)). Không hề gặp ông, ta nghe kể về ông như một hư cấu, kiểu Trạng Quỳnh hay Ba Giai Tú Xuất chẳng hạn. Gặp được ông, đối diện với ông, nắm tay nắm chân ông, nhậu với ông, mà cũng như ta đọc về ông. Cuộc đời ông = giai thoại + thơ. Chính vì thế mà tôi có thể quả quyết rằng, tất cả những gì mà ta đang nghĩ về Bùi Giáng thảy đều là nghĩ về một nhân vật, một hư cấu. Hư cấu của hư cấu. Rồi hư cấu của hư cấu của hư cấu. Nghĩa là, hiểu theo một cách nào đó, ta có thể tùy tiện bày ra một giai thoại nào đó về Bùi Giáng mà vẫn có cảm giác không hề xúc phạm tới ông và làm thương tổn người nghe. Nghĩa là, hư cấu mà là thực. Ta thì hư cấu mà Bùi Giáng trong đó vẫn cứ thực như thường. Và Bùi Giáng đứng bên cạnh ta mà vẫn hư cấu như thường. "Sống giữa đời, ông có khả năng lấy mật đắng ớt cay làm ngọt. Ăn cơm để thiu nguội rất nhiều ngày. Ông ăn chè ngọt nấu cả với tương chao, nêm vài con mắm. Ông nổi tam bành lúc người đời lẽ ra nên cười, được phúc đắc lợi. Ông rất vui với những ngày chói lòa ánh dương trong một thị thành mà nhìn xe cộ tưởng hươu nai"... "Ông lạ trong sinh hoạt đời thường, lạ trong thi ca, tư tưởng. Ông rất đỗi cô đơn tự đọa đày; vầy cuộc chơi múa hát chỗ vô thanh, đùa giỡn quỷ thần, tương đắc kẻ ở mộ, nhớ nhung người sẽ tới. Ông trào lộng tuyệt cùng giữa bi đát, siêu thoát ngay giữa một tồn sinh tinh mật. Nói chung cuộc sống của ông khá bí ẩn và kỳ dị." (Cung Tích Biền, tr. 56).
Tôi vốn mê Kim Dung, vì mê những nhân vật đầy "chất khái niệm" mà ông tạo dựng ra trong hơn chục pho truyện đồ sộ của ông, nào Thần Ðiều Ðại Hiệp, Anh hùng Xạ Ðiêu, Tiếu Ngạo Giang Hồ...Tôi tìm thấy nhân vật Bùi Giáng của tôi chứa đầy "chất khái niệm" như thế. Ngẫm mà xem, ta có thể tìm thấy ở Bùi Giáng khi thì một chút cuồng ngạo nghịch thường hoàngdượcsư, khi thì lém lỉnh hoàngdung, khi thì ngờ nghệch quáchtỉnh, khi thì đầy cả trào lộng lãongoanđồng, khi thì chân chính, hào sảng, trượng phu hồngthấtcông, khi thì quái đản kiểu mấy quái nhân luyện võ trong hang động, khi thì điên tàn, thống hận tạtốn...Ngẫm mà xem, ông sống đó cũng như ông mất đi. Ông như có đó mà như không hề có đó. Kẻ sĩ hay người điên. Nhà thơ hay triết nhân. Ông sống giữa thế kỷ này hay một ngàn, hai ngàn năm trước. Thiên tài hay tên vô lại. Trong hay ngoài. Tỉnh hay say. Ông làm thơ hay thơ làm ông. Chính vì thế, ngẫm mà xem, tưởng nghĩ đến ông lúc nào cũng làm ta bối rối. Ðọc thơ ông lại càng bối rối hơn. Dở hay, hay dở. Ðiên tỉnh, tỉnh điên. Ðời ông như một dấu hỏi lớn ném vào hư không. Rất giống mọi người và chẳng giống ai. Tôi có thể quả quyết rằng, nếu bạn chịu khó tưởng tượng ra một nhân vật, rồi vẽ rắn thêm chân, tô màu tô mè, vẽ râu vẽ ria...theo cách của bạn, bạn sẽ có ngay một Bùi Giáng để thưởng thức, để làm quen.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 5:55:16 GMT 9
Chúng ta trong Bùi Giáng
Bởi thế mà viết về ông tưởng như rất dễ mà hóa ra không dễ tí nào. Nguyễn Hưng Quốc: "Thơ ông cũng lạ lùng, lạ lùng đến nỗi ai cũng ngại ngùng khi viết về ông. Kể chuyện về ông: có; nhưng phê bình thơ ông: chưa" [5]
Huy Tưởng: "...vốn sống, vốn chữ nghĩa và cảm thức của mình vẫn chưa thể hứng chờ nỗi chiếc bóng lồng lộng, đa âm sắc và linh hoạt của ông". (HL, tr. 9)
Cung Tích Biền: "Viết về Bùi Giáng là tôi làm cái việc chỉ vào cục gạch mà bảo rằng đây là Nhu Lai phu nhân". (HL, tr. 55)
Hoàng Nguyên Nhuận: "Những điều tôi sắp nói chỉ là viên đá dò đường ném vào hư không hoặc chỉ như người chạy bắt bóng" (HL, tr. 95)
Huỳnh Ngọc Chiến: "Viết về ông quả là điều mạo muội nếu không muốn nói là liều lĩnh" (HL, tr. 137) Chắc chắn là không ai giả đò khiêm tốn trong những lời thú nhận thêm. Chắc chắn không ai cố tình viết "cho quá", phóng đại để tâng bốc, kiểu tâng bốc lãnh tụ trong các chiến dịch tuyên truyền, mà là nói thực. Dường như khi viết về Bùi Giáng, chúng ta càng tỏ ra khiêm tốn càng hay. Có lẽ càng khiêm tốn chúng ta càng thấy dễ chịu, để cam đảm cầm bút viết về ông. Tâm trạng đó chẳng phải là lạ lùng, độc nhất vô nhị sao? Cầm bút viết về Bùi Giáng người ta rất ngần ngại, dù chỉ viết để khen, nói gì đến chuyện viết để phê bình. Ấy thế mà có người "dám" phê bình; không những chỉ phê bình chung chung, lấy lệ mà là phê bình "nặng tay", nghĩa là chê, chê thật. Ðó là nhà phê bình Thụy Khuê. Chị viết:
"Trong gần nửa thế kỷ làm thơ, Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng. Những dạ thưa, tồn sinh, trùng lai, phố thị của Bùi Giáng, tà huy của Nguyễn Gia Thiều, mù sa, trăm năm của Nguyễn Du ban đầu làm xao xuyến người đọc: (...) Nhưng vì lập lại nhiều lần, chúng bị phá giá. Hiện tượng phá giá này có mặt ngay ở những tác phẩm đầu và chủ yếu của Bùi Giáng" (HL, tr. 39-40) ......... "Nhà thơ tiện tay bắt đươc chữ nào vội bỏ ngay vào lục bát, không màng nhìn lại những câu đầu nữa" (HL, tr. 42) ... "Cho nên biết bao lần người đọc tiếc, giá Bùi Giáng đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở chỗ đáng dừng để những câu thơ sáng giá như (...) khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những lời thơ vội vàng, mọc lên như cỏ dại". (HL, tr. 43)
Ðọc xong bài Thụy Khuê, ít nhất có hai người bạn gọi điện thoại hỏi ý kiến tôi và bày tỏ "thái độ": sao bà Thụy Khuê "dám" phê bình Bùi Giáng? Sao lại không dám nhỉ, tôi trả lời. Bùi Giáng khi sống thì phiêu lãng như hương đồng cỏ nội, như châu chấu như chuồn chuồn, lúc chết thì chết bình thường, thậm chí tầm thường hơn cả những kẻ tầm thường, chứ có phải lãnh tụ vĩ đại gì đâu mà phải dám với không dám. Tôi cho rằng, nếu Bùi Giáng sống lại, đọc được những giòng trên của nhà phê bình Thụy Khuê, chắc phải vô cùng sảng khoái kêu lên: "Thiệt đúng ý qua! Thiệt đúng ý qua!". Y như Archimedes la lên: "Euréka, euréka!" khi tìm ra được nguyên lý về sức đẩy của nước. Hay như nhân vật Ðộc Cô Cầu Bại của Kim Dung vô cùng sung sướng khi tìm ra được kẻ có thể đánh bại được mình. Theo thiển ý của tôi, nhận xét của chị Thụy Khuê không có gì sai (không có gì sai không tất nhiên có nghĩa là đúng). Thơ Bùi Giáng, và kể cả văn, quả là bị "phá giá", ông làm thơ theo kiểu "tiện tay gặp được chữ nào là bỏ vào chữ nấy", rồi lại "ham chơi" khiến cho có những lời thơ "vội vàng mọc lên như cỏ dại".
Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay - chưa hẳn là rất hay -, còn lại hầu hết thơ ông đều dở. Tôi có cảm tưởng rất nhiều câu thơ ông làm chẳng khác gì những câu thơ ngây ngô của mình khi mới bắt đầu tập tễnh làm thơ hồi còn học trò. Thậm chí có nhiều câu hệt như các em "ma-ri-sến" làm thơ tặng tình nhân. Vần điệu ráp nối tùy tiện, ý tứ lại tầm thường. Chúng ta thử đọc lại một vài câu:
ngô nghê: Giật mình lúc chợt nghĩ ra Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi.
đạo văn (của Nguyễn Du): Rừng phong thu đã nhuốm màu Quan san ngần ấy tư trào ngần kia
gượng ép chữ cho có vần: Thưa em ngôn ngữ quặt què Làm sao nói được nghiệp nghề người điên
lập lại (vần): Non nửa thế kỷ xa quê Mà chưa có dịp về quê một lần
nói nhăng nói cuội: một hôm gầu guốc gầm ghì hai hôm gần gũi cũng vì ba hôm vv...và vv...
Tóm lại, những câu thơ như thế rất, rất nhiều trong sự nghiệp thi ca của ông. Ðôi khi tôi có cảm tưởng ta cứ làm đại một bài thơ lục bát nào đó thật dở rồi đề tên Bùi Giáng là ta có một bài thơ rất Bùi Giáng. Nếu bạn không tin, bạn cứ thử đi rồi sẽ biết.
Ta có thể nói, cái dở trở thành tính cách của thơ ông. Nói cho đúng ra, nhà văn nhà thơ nào chẳng có cái dở. Chẳng hạn Mai Thảo, nhà văn được xem như một trong những khuôn mặt hàng đầu của văn học miền Nam, cũng có nhiều cái dở, đến nỗi ta khó mà không đồng ý với nhận xét sau đây của Nguyễn Ngọc Tuấn: "Ðọc lại những cuốn tiểu thuyết một thời rất ăn khách ở miền Nam, sau này được in lại tràn lan ở hải ngoại của Mai Thảo, dù thương ông đến mấy, tôi nghĩ, chúng ta cũng nên thẳng thắn thừa nhận một điều là chúng chỉ là những cuốn tiểu thuyết đèm đẹp. Cố gắng lắm, tôi cũng chỉ đọc vài chục trang là phải buông sách xuống". Cái dở của Mai Thảo cũng như cái dở của nhiều nhà văn, nhà thơ khác là vì không thể viết hay hơn hoặc theo như Nguyễn Ngọc Tuấn "người ta không thể không cúi xuống vỗ về những thị hiếu kém cỏi của quần chúng" [6] . Nhưng Bùi Giáng có cái dở riêng, phải nói là rất riêng, của Bùi Giáng. Và ông không che dấu cái dở của mình. Không bao giờ. Chẳng những thế, ông lại còn cố ý phô bày nó ra, phô bày một cách chân tình, hồn nhiên, toàn diện. Hay nói cho đúng hơn, ông phô bày mọi thứ. Chúng có thể hay, có thể dở, có thể thế này có thể thế khác. Chúng dính kết vào nhau thành từng chùm, đến nỗi chị Thụy Khuê lấy làm tiếc, cho rằng vì ông quá "ham chơi". Mấy câu thơ đang hay như thế này, bỗng xen vào những câu thơ dở không chịu nỗi. Thật uổng!
Gẫm lại, con người chúng ta thường sống hai mặt: tốt và xấu. Tốt khoe, xấu che. Trong văn chương, có bản nháp, bản thật. Thường thì chúng ta tìm cách dấu đi, càng dấu kín càng tốt, bản nháp hay background của đời mình. Chúng ta sống với cái phía khác của đời mình, một phía khác thường không mấy thật. Nếu viết văn, làm thơ, chúng ta rất sợ những câu thơ dở, những đoạn văn tầm thường, nhạt nhẽo hay chữ nghĩa ngô nghê phô bày ra giữa ba quân thiên hạ để tránh bị xem thường, tránh bị tổn hại "thanh danh" (nếu lỡ có thanh danh). Chúng ta trau chuốt chữ nghĩa, tạo nên "nhân cách', tạo nên bề mặt, tạo nên cái vỏ, càng nhiều lớp càng tốt. Biết bao nhiêu bản nháp của đời mình bị chính mình cố tình quên lãng, tìm cách quên lãng. Cũng như biết bao nhiêu bản nháp của thơ, văn, tiểu luận bị đôi vào sọt rác. Chúng không phải là của mình, vì chúng dở. Tưởng chừng như, một kẻ thiên tài như ta đâu có đời nào lại có thể sáng tác ra cái thứ dở như thế. Chúng ta không thích cái dở của mình, không thích cái sai của mình, không thích cái điên của mình, không thích cái xấu của mình trong lúc biết rất rõ, thấy rất rõ cái dở, cái sai, cái điên của người khác. Ta đâu có cam đảm công bố một câu thơ dở, một đoạn văn dở của chính chúng ta, trừ phi nó dở mà ta cứ tưởng là hay, là số một. Cái gì xuất hiện trên văn đàn thường cũng đã được cắt xén, hoàn chỉnh, được "review" năm lần bảy lượt. Chúng ta hoàn thành "nhân cách" của mình, vai trò xã hội của mình trong cái vỏ đó.
Bùi Giáng làm trái lại. Bùi Giáng cho chúng ta thoải mái xem bản nháp của đời ông, của văn chương ông. Ông sống và làm thơ, viết văn hở hang, trần trụi. Không trau chuốt, kiểu cách. Ông bỏ cái dở vào đời mình, vào sự nghiệp của mình, trân trọng nó y như chúng ta trân trọng cái hay. Càng nổi danh, chúng ta càng ngụy trang, càng dấu dốt. Bùi Giáng thì càng nổi danh, càng được ca ngợi, tâng bốc, lại càng dở, dở một cách thành thật, hồn hậu. Cái dở của Bùi Giáng, hiểu một cách nào đó, chính là phía khác của Bùi Giáng, cũng là phía khác của đời người, mà cũng là phía khác của chúng ta. Vì sao? Cái hay có thể chúng ta không giống nhau (nếu giống nhau thì làm sao mà hay được). Nhưng cái dở thì hầu như chắc chắn rất giống nhau. Ðại loại là...dở. Ta cứ tưởng Bùi Giáng tách bạch cái hay, cái dở. Hay thì để dành cho ông, còn dở thì xem như ông diễu cợt (kiểu làm thơ tự trào). Không. Hay và dở trong Bùi Giáng trộn vào nhau y như bụi trộn với đất, nước lạnh trộn với nước nóng, rất khó lựa ra, khiến chị Thụy Khuê tiếc hùi hụi: "giá như ông đừng ham chơi...để những câu thơ sáng giá như (...) khỏi bi lọt vào khu rừng hoang".
Tôi tin rằng có mặt của mỗi một người chúng ta trong vô vàn nhưng câu thơ dở đó, trong cuộc tồn sinh trần trụi đó của Bùi Giáng. Hãy dùng chữ của Thanh Tâm Tuyền: bóng vang. "Ông luôn luôn nhắc nhở nơi ông là những bóng vang của ai khác. Và ta hãy là bóng vang của ông" [7] Chúng ta đã từng làm thơ dở và có thể vẫn tiếp tục làm thơ dở như thế. Ví như, có thể trong sâu thẳm của tâm hồn chúng ta vẫn vang lên tiếng hát thuộc loại "sến" của Tuấn Vũ, Thanh Tuyền, Chế Linh trong lúc, bên ngoài, chúng ta chỉ thích nghe Tuấn Ngọc, Thái Thanh, Vũ Khanh...Ta vẫn "sến" ngay khi rất "trí thức", vẫn yếu đuối trong lúc vô cùng mạnh mẽ, vẫn vô cùng bần tiện, tục tằn ngay khi được tôn thờ như lãnh tụ, thánh nhân (Quang Trung, Gia Long của Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạn). Có một đứa bé trong người lớn, có một ác quỷ trong tâm hồn thánh thiện, một lão ngoan đồng trong vị "bắc đẩu võ lâm". Chúng ta sống trong và bằng ngụy tín. Bùi Giáng gánh hết cái dở của đời ông, của đời người, của chính ông và của chúng ta. Ông là kẻ cứu chuộc chúng ta bằng cái dở toàn diện của đời ông và thơ ông. Ông giúp ta nhìn thấy "bản lai diện mục" của mình: dở. Ðôi khi tôi cũng muốn lý luận như sau về ông: thơ ông càng về sau càng ngô nghê, càng dở là vì ông đi từ hữu chiêu tới vô chiêu, từ chấp ngã tới phi ngã, từ chấp trước tới phá chấp, từ lý luận đến triệt bỏ lý luận, từ chữ nghĩa đến phá bỏ chữ nghĩa, từ nói đến...vô ngôn (như hiện giờ dưới lòng đất). Nhưng thành thật mà nói, khi chúng ta khen ông biết đâu lại chính là chê ông, tưởng "thấu hiểu" được ông, té ra chẳng hiểu mô tê gì ráo:
điên cuồng mà tưởng nên thơ cuồng điên mà tưởng làm thơ như thần
Gặp
Khoảng mùa hè năm 1969. Ðêm đó, nhân nhà tôi ở trọ có giỗ, tôi mang một ít thức ăn đến chỗ thầy Tuệ Sĩ để thầy dùng. Phòng thầy ở thuộc tầng hai đại học Vạn Hạnh. Kế bên phòng thầy là phòng của anh Nguyễn Hữu Hiệu (hồi đó là nhà tu Thích Chơn Pháp). Ðến gõ cửa phòng thầy thì thầy đi vắng. Anh Hiệu cũng đi vắng. Thường thì khi thầy Tuệ Sĩ không ở nhà, tôi dùng lối đi bên phòng anh Hiệu để đột nhập phòng thầy, ở đó nằm đọc sách hoặc nghe nhạc đợi thầy về. Lần này cả hai đều đi vắng. Vậy là tôi tìm một lối leo ra phía lan can, bò dọc bên ngoài, đến chỗ cửa sổ, thò tay kéo cửa sổ để vào phòng thầy Tuệ Sĩ. Tới nơi, thấy cửa đã mở sẵn, tôi hơi ngạc nhiên. Trèo vào, thấy có một người đàn ông đã ở trong phòng. Ông mặc quần xà lỏn, áo mai-ô. Tôi hết sức ngạc nhiên, không biết người đàn ông này là ai và sao ông ta lại biết lối đi này để vào. Cảm giác đầu tiên của tôi là: ông ta là một tay trộm cắp. Tôi hỏi: "Anh quen với Tuệ Sĩ à? Anh là ai vậy?". Người đàn ông trả lời tỉnh bơ: "Ta chẳng biết ta là ai nữa. Mà sao? Nếu ta nói ta không phải là ta, thì sao?". Câu trả lời là lạ khiến tôi nhìn kỹ lại khuôn mặt và chợt biết ngay đó là ai. Tôi mừng rỡ nhào vào ôm người đàn ông, la lên: "Bùi Giáng hả?!".
Vâng, ông ta là Bùi Giáng. Thấy tôi mang đồ ăn vào, ông hỏi và tự nhiên lấy đồ ăn ra ăn, chừa lại một ít cho thầy Tuệ Sĩ. Ăn xong , ông hỏi: "Có rượu không?". "Không. Nhưng hề gì, đi mua thôi". Tôi lao xuống lầu, chạy ra tiệm rượu gần chợ Trương Minh Giảng mua chai Johnnie Walker và một ít đồ nhắm. Tôi nói nhậu ở trong phòng thầy bất tiện. Ông bảo: "Ðược, đi theo ta". Ông kéo tôi đi lên tầng bốn, đến chỗ Thiền viện. Hai chúng tôi ngồi giữa sân Thiền viện bày ra nhậu. Nơi đây, thực là một chỗ nhậu lý tưởng. Ðêm trời đầy sao, không trăng, ánh đèn đường từ bên ngoài phản chiếu lên vừa đủ. Lại nghe tiếng khánh reo leng keng đồng loạt khi có gió thổi qua. Không khí vô cùng tĩnh lặng.
Ðêm đó, hai chúng tôi nhậu quên trời quên đất, quên luôn chuyện trở lại phòng Tuệ Sĩ (đêm đó, may là thầy không về). Tôi, anh học trò nhỏ từ Huế vào, mang trong mình một ít mớ kiến thức triết học tạp nham, thảo luận về đủ thứ chuyện cùng một bậc thầy về nhiều mặt. Nói cho đúng , chẳng thảo luận gì ráo. Tôi chỉ thắc mắc, đặt câu hỏi và nghe trả lời. Thỉnh thoảng dè dặt đưa ra một vài ý lấy lệ. Nhưng rồi, khi rượu đã ngà ngà, tôi bắt đầu chẳng úy kỵ gì nữa, gặp đâu nói đó, ngông nghênh, lếu láo y như đang đấu hót với đàn em. Chẳng hiểu sao, Bùi Giáng cũng hứng chí, đấu hót với mình y như bạn. Ôi, thiên thung mang nai, từ Platon, Socrate đến Sartre, Heiddeger, Gabriel Marcel, Camus, Lão Tử, Trang Tử, rồi Freud, Jung... rồi Kim Dung, gái điếm, chiến tranh, Cộng sản, Mỹ. Ðược nói chuyện với ông dường như làm tôi hứng khởi cực độ, nên có gì trong đầu là tuôn ra tưới hột sen. Cái làm tôi ngạc nhiên nhất là tôi tiếp cận với một Bùi Giáng hoàn toàn khác hẳn với điều tôi tưởng nghĩ, khác hẳn với những giai thoại, những hình ảnh khác thường mà thi ca và những cuốn khảo luận triết học của ông gợi ra. Ông bình thường, vô cùng bình thường. Một Bùi Giáng thông tuệ, ưu tư, tra vấn về mình và về cuộc đời với một ý thức tỉnh táo vô lượng. Một Bùi Giáng uyên bác, kinh viện hết mực. Chẳng ba đào, tồn lưu, mù sa, thưa rằng...Chẳng châu chấu, chuồn chuồn, xoang điệu, hồng quần, mẫu thân Phùng Khánh...Mà là một Bùi Giáng trên bục giảng đại học. Một Bùi Giáng rất mực luận lý. Một Bùi Giáng rất đời thường với những bất bình, giận hờn, tủi nhục, đau đớn của những đoạn đời trải qua. Ông nói về cái học của ông, về hai người mà ông hận nhất trong đời. Ông nói về việc học chữ Hán và đọc cho tôi nghe mấy bài thơ mới nhất bằng chữ Hán ông vừa mới làm để tặng Kim Dung (Kim Dung thời gian này đang ở Sài Gòn trong một chuyến viếng thăm hình như khá dài ngày) [8] . Triết gia mà ông đề cập nhiều nhất đêm hôm đó là Pierre Teilhard de Chardin [9] . Tôi không còn nhớ rõ từ đâu lại đưa đến đề tài này. Nhưng lạ là ông nói về những quan điểm triết lý của cha Teilhard rất say sưa hào hứng. Khoa học và triết lý. Tôn giáo và triết lý. Giáo điều, bảo thủ và tiến bộ...Nhất là ông bàn về một trong những quan điểm của Teilhard: việc "thấy" ("voir" trong tiếng Pháp). Ông đối chiếu quan điểm này với khái niệm về "kiến tánh" trong Phật Giáo.
Nửa đêm, hết rượu, tôi lại phải leo tường ra tìm mua thêm rượu. May mà chưa đến giờ giới nghiêm và may mà có một quán phở ở đường Kỳ Ðồng còn mở cửa. Rốt cuộc cả hai người nằm gục trên sân Thiền viện. Sáng ra, chúng tôi thất thểu tìm về phòng thầy Tuệ Sĩ. Ở đây, Bùi Giáng lục tìm một số sách của ông, tặng tôi hai cuốn sách vừa mới in. Ở cuốn "Trăng Tỳ Hải", ông đề tặng như sau:
Tồn lỡ bốn lần sinh bấn loạn Tặng chàng Hữu Thục hục hay hang.
Sau lần đó, tôi còn tìm gặp ông hoặc tình cờ gặp ông nhiều lần, khi thì giữa đường, khi thì trong Vạn Hạnh, khi thì đâu đó trên đường phố Sài Gòn. Ông chẳng hề nhớ tôi, và cũng chẳng nhớ gì về cuộc nhậu trên sân thiền viện Vạn Hạnh ngày nào. Nói chi đến hai câu thơ ông hồn nhiên viết vội sau một đêm nhậu sa đà. Hai câu thơ ngây ngô, vô nghĩa và dở. Như rất nhiều, rất nhiều câu thơ vô nghĩa, ngây ngô và dở khác của ông. Ấy thế mà tôi cứ nhớ mãi, nhớ mãi đến bây giờ. Ba mươi năm sau.
Xin thưa rõ, Bùi Giáng mà tôi gặp đó chỉ là một hư cấu! Tất nhiên, câu chuyện trên cũng hoàn toàn là hư cấu!
12/1998
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Trừ những đoạn trích có ghi chú riêng, tất cả những trích dẫn trong bài này đều lấy từ Hợp Lưu (viết tắt là HL) số 44 đặc biệt về Bùi Giáng, tháng 12/98 và tháng 1/99. [2]Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn, Tạp chí Thơ (Cali) số 1, năm 1994, tr. 73 [3]Nguyễn Hưng Quốc, Thơ, V.V...và V.V..., Văn Nghệ (Cali) 1996, tr. 217-218 [4]Nguyễn Hoàng Văn, Về nơi cố quận..., tiểu luận, Văn Học số 152, tháng 12/98, tr. 6 [5]Nguyễn Hưng Quốc, sđd, tr. 217 [6]Nguyễn Ngọc Tuấn, Mai Thảo, tiểu luận, Tạp chí Việt số 2, Úc châu, tr. 184-185 [7]Thanh Tâm Tuyền, bđd, tr. 75 [8]Có thể là nhà văn Quỳnh Dao, tôi nhớ không rõ lắm. Nhưng chắc chắn Kim Dung đã từng đến Sài Gòn, nếu không dịp đó thì cũng trước đó không lâu. [9]Pierre Teilhard de Chardin ( 1881-1955), linh mục Công giáo người Pháp, triết gia, nhà cổ sinh vật học. Ông dùng các nghiên cứu khoa học để chứng minh sự hiện hữu của Thượng Ðế. Nhưng vì ông chấp nhận quan điểm tiến hóa luận, nên trong một thời gian khá dài ông gặp nhiều chống đối từ phía giáo hội Công giáo.
Nguồn: Viết và Ðọc, tập tiểu luận văn học, Văn Học (California) xuất bản, 1999
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 5:56:35 GMT 9
Nguyễn Viện Nhìn thấy Bùi Giáng lần cuối Lúc đó, tôi đang làm ở báo Thanh Niên. Sếp tôi, tổng thư ký tòa soạn Nguyễn Khắc Nhượng, bảo ông Bùi Giáng đang nằm cấp cứu trong bệnh viện Chợ Rẫy, ông vào xem thế nào. Tôi vào, cùng với một phóng viên ảnh. Lẽ ra, không một ai được phép vào gặp ông ấy trong thời điểm đó, nhưng nể tôi là nhà báo, bác sĩ trưởng khoa cấp cứu Tề Văn Tiếng đã đồng ý cho chúng tôi vào.
Ở Sài Gòn, không mấy ai (trong giới văn nghệ) lại đã không từng gặp Bùi Giáng. Bình thường ông ăn mặc kiểu "Cái bang", múa may ngoài đường, bất cứ ai có vài đồng lẻ cũng có thể mời ông uống một ly cà phê, nói dăm ba câu, hoặc được ông tặng vài câu thơ viết trên một tờ giấy vụn. Bảo ông điên cũng được, bảo tỉnh cũng không sai.
Cái con người rất "bụi" ấy, giờ đây, trước mắt tôi, đang nằm trên chiếc giường sắt của bệnh viện, chuẩn bị giải phẫu. Toàn bộ thân thể ông đã được cạo trắng, sạch sẽ. Trần truồng. Ðược đắp trên người tấm drap trắng. Trông ông nhỏ bé và thơ dại, dù khuôn mặt hóm hém. Phóng viên ảnh nháy máy.
Bác sĩ Châu, người phụ trách mổ cho Bùi Giáng, nói với tôi không hy vọng lắm, nhưng sẽ cố gắng. Bác sĩ Châu cũng cho tôi biết, ngoài gia đình nhà thơ, người đầu tiên và có lẽ cũng là người cuối cùng đến với Bùi Giáng trong bệnh viện là nghệ sĩ "mẫu thân" Kim Cương. Tôi cũng còn biết vài chuyện xung quanh chuyện hậu sự của ông, như có một số anh em văn nghệ đã tự vận động để ông được mai táng trong nghĩa trang thành phố. Thành ủy chấp thuận. Nhưng gia đình ông đã từ chối ân huệ ấy. Ông vốn sống là nhân dân, chết cũng là nhân dân, nên chôn ở nghĩa trang nhân dân Gò Dưa. Tôi cũng biết rất nhiều anh em tranh nhau để được đọc "đít cua" trước quan tài ông.
Tôi muốn viết những dòng này, vì tôi không thể nào quên được, không phải hình ảnh một nhà thơ điên nhảy múa hồn nhiên rất tuồng chèo trên đường phố, mà một hình hài thơ dại trước cái chết. Trần truồng.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 5:57:57 GMT 9
Mộc Giai Lời phi lộ của Bùi Giáng Trích bút kí “Đàm Thoại” Mộc Giai dịch Ðầu năm 1965, một số trí thức miền Nam Việt Nam: thiền sư Thích Nhất Hạnh, nhà thơ Bùi Giáng, triết gia Phạm Công Thiện...nhìn vào thời cuộc chiến tranh của tổ quốc. Họ nghe tiếng gọi hoà bình, đòi quyền sống của tuổi trẻ, của sinh viên trên toàn cõi miền Nam. Và trước hành động không không (acte gratuit), tiêu cực của các Phật tử tự thiêu mình, họ cũng nghe ra tiếng kêu chấn động tâm hồn, vang dội để mà vụt tắt, tiếng kêu vô vọng không làm sao dẫn đưa dân tộc trở về với lòng bác ái từ bi, tìm ra lại lẽ sát giới của lời kinh.Thời đại là thời của bạo lực võ tướng, cực đoan đấu tranh tư tưởng, độc tài chuyên chế chính trị; những nhà trí thức của chúng ta không khỏi tự thấy hoang mang, bất lực trước cảnh chết chóc tang thương của đất nước. Họ tự hỏi: phải làm gì?
Phải làm gì? Họ họp nhau lại viết thư ngỏ cho các danh nhân thế giới: mục sư Martin Luther King, nhà thơ René Char, văn sĩ Henry Miller...để mong nhận lại một câu trả lời. Gửi đi những bức thư không không, vô vọng thầm kín cầu xin lòng thiện chí của thế giới giúp cho dân Việt Nam tìm lại thăng bình, tìm lại sự ôn hoà bao dung. Những bức thư gửi vào cõi hư không (René Char có trả lời bằng cách gửi tặng toàn tập tác phẩm của mình cho Bùi Giáng và về sau, Phạm Công Thiện tiện có dịp gặp Henry Miller).
Bánh xe lăn của lịch sử đã quay. Thiền sư Thích Nhất Hạnh tiếp tục hành lộ truyền bá đạo khắp trời Tây. Triết gia Phạm Công Thiện thăm quan các Phật viện ở Âu Mỹ, gần gũi các tăng đoàn, tiếp tục suy luận về triết học trong Phật giáo...Nhà thơ Bùi Giáng sinh thời vẫn từ lâu tự khép kín trong thế giới thi ca của mình, bàng quan đối với rối ren đổi thay của xã hội.
Những bức thư ngỏ, tiếng Anh và tiếng Pháp, của những nhà trí thức thời đó đã đóng thành sách: Dialogue (Ðối thoại, nhà xuất bản Lá Bối, Saigon -1965). Bùi Giáng viết bài Phi Lộ (Avant propos, bằng tiếng Pháp). Những lá thư không không vô vọng mang tính chất của sự lặng lẽ trước lịch sử, một sự im lặng khai động mai vàng ở chân trời khác (Ngô Văn Tao).
Phụ Lục này chép lại bài Phi Lộ của Bùi Giáng. Cốt để bạn đọc trực tiếp làm quen với thế giới thi ca của Bùi Giáng, hay nói đúng hơn với Khái Niệm thi ca của Bùi Giáng. Bài Phi Lộ viết bằng tiếng Pháp, dĩ nhiên không phải là viết với lời văn gọn gàng tươm tất của một ông giáo Việt Nam đỗ thạc sĩ Pháp văn, hay với lời văn của một nhà văn người Pháp thoải mái bay bổng với tiếng mẹ đẻ của mình. Những câu Pháp văn của Bùi Giáng lúng túng và sứt mẻ, nó là cuộc mạo hiểm vào ngôn ngữ, nó là những bước nhảy vọt qua vực thẳm ngăn cách thi ca với đối tượng: tư tưởng.
Tôi chép lại bài Phi lộ kèm theo bản dịch ra Việt ngữ của tôi. Hồ Hữu Hưng đã từng dịch trước và đăng trong tập Tưởng nhớ thi sĩ Bùi Giáng, kỷ niệm một năm ngày mất Bùi Giáng, Nhà Xuất Bản Trẻ, Sài gòn 1999. Tôi có giữ lại của Hồ Hữu Hưng một số từ ngữ đặc thù thích ứng, tuy rằng bản dịch của tôi với bản của Hồ Hữu Hưng hoàn toàn khác biệt. Khác biệt là lẽ dĩ nhiên vì dịch bài Phi Lộ này, dịch giả chỉ có thể phỏng dịch, tái tạo một cuộc mạo hiểm vào ngôn ngữ hay tự sống lại một cuộc độc thoại "sương phủ lấp chân trời, lung linh ánh sáng của màn đêm" (un monologue diaphane, à travers lequel passe une clarté nuiteuse).
5.11. 2002
*
Bùi Giáng Avant Propos
Un dialogue est toujours exposé à devenir un monologue. Mais un monologue peut devenir fécond, si c'est un monologue diaphane, à travers lequel passe "une clarté nuiteuse''. L'essence du monologue tient en ceci qu'un être se dédouble: Deux univers se contemplent dans un monde; un monde se partage en deux contrées qu'un abỵme sépare. L'essence de l'abỵme réside dans le fait qu'il peut être franchi d'un bond. L'essence du bond, c'est le risque.
Or le risque est l'essence même de la vie. Vivre, c'est risquer. Risque pour risque, pourquoi ne pas choisir le risque diaphane?
Choisir? Est-ce nous qui choisissons le risque? Est-ce plutôt le risque qui vient vers nous et qui nous choisit?
Mais un risque diaphane, qu'est-ce à dire? Peut-on vraiment parler de "la diaphanéité" d'un risque? Non ! Peut-Être, s'il s'agit d'un risque politique ou militaire. Oui ! Peut- Être, s'il s'agit du risque de la langue auquel s'exposent ceux qui parlent et qui parlent pour être reçus dans le sillage d'un vent.
Ðùng đùng gió giục mây vần Một xe trong cõi hồng trần như bay
Nguyễn Du
Le char qui part comme une flèche, porte toutes les marques d'un char mystique - diabolique ou divin, on ne sait...Suivons-le du regard. Que voyons-nous?
D'un coup par la traversée du char, le monde dans lequel nous vivons, se dévoile comme Monde. C'est le "mondant originaire" qui instaure pour notre existence un fondement essentiel.
Le monde s'est modifié une fois en "monde-des poussières-roses", assez séduisant quand même. Mais par la suite, le monde des poussières roses a glissé sans relâche sur sa pente et risque de devenir le monde des cendres noires, c'est-à-dire le pur et simple "non-monde". C'est là le danger par excellence, qui détermine l'être de notre séjour sur terre comme un non-être sur la planète qui erre.
Occident! Y-a-t-il là de votre faute, pour une part? Non, bien sûr. Il s'agit d'autre chose...Quoi donc? Laissons la question ouverte.
La maison de l'être n'est plus. Le berger de l'être, la sentinelle du néant nous ont abandonnés. Notre language se frélate. Le "Pli diaphane" reste non-dévoilé. Qu'en est-il de l'essence du dialogue?
Nous avons tout perdu, et la proximité secrète de l'indivulgué, et l'intimité de l'éloignement se portant au devant d'un avènement futur dans l'âme du risque d'un grand jeu. Nous avons tout perdu. Qu'est-ce qu'il nous reste encore à perdre? Dans la détresse extrême dont l'absurdité nous écrase , qu' avons-nous à gagner?...
"Là où il y a danger, là croỵt aussi ce qui sauve"...
Par l'ébranlement de tout étant, la Vérité de l'Être s'annonce, et brusquement se dévoile: dans une clarté étrange, face au monde, l'âme de l'Asie éternelle se réveille dans toute sa splendeur, par la mort hérọque des bonzes du Vietnam.
Avons-nous conscience de toute la gravité du fait? Quel est l'appel qui résonne d'un bout à l'autre de la terre, et qui se tait après avoir atteint le tréfonds de nos âmes?
Frères lointains, c'est à partir de cette question que ces feuilles bien minces ont pris la résolution - peut-être fatale - de risquer leur être chétif en traversant tant de mers houleuses pour parvenir à s'ouvrir devant vous.
Juin 1965
*
Phi Lộ
Ðối thoại là để luôn luôn trở thành độc thoại. Một cuộc độc thoại sung mãn là cuộc độc thoại "sương phủ chân trời", lung linh ánh sáng của màn đêm. Ðộc thoại chính là "bản thể tồn lưu" tự phân chia thành hai vũ trụ, hai vũ trụ đối nhau trong một thế giới, thế giới của hai miền đất lạ ngăn cách bởi một vực thẳm mà ta phải vượt qua bằng một bước nhảy, bước nhảy của sự dấn thân mạo hiểm.
Mà đời là một cuộc mạo hiểm. Sống là dấn thân liều lĩnh. Ðã dấn thân liều lĩnh, tại sao lại chẳng chọn liều lĩnh trong màn sương hư hư thực thực.
Nhưng ta có quyền chọn không? Hay chính cuộc đời chọn chúng ta?
Mà thế nào là mạo hiểm vào cõi sương mờ? Có không những nguy nan huyền ảo vô thực? Không! Có thể là không trong đấu tranh chính trị, trên chiến địa của loài người. Nhưng mà có, biết bao nhiêu là có khi con người mạo hiểm vào ngôn ngữ và nói những lời để gió mang đi!
Ðùng đùng gió giục mây vần Một xe trong cõi hồng trần như bay
Nguyễn Du
Chiếc xe vọt như tên mang đầy đủ chứng tích của một cỗ xe huyền thoại - địa ngục hay thần thánh - ai nào có biết. Cứ dõi nhìn theo, chúng ta thấy gì?
Bỗng chốc chiếc xe vượt qua, cái cõi mà chúng ta đang sống hiện nguyên hình là Một Thế Giới. Ðó là "thế giới bản lai diện mục"- thế giới uyên nguyên căn bản của đời sống con người.
Thế giới uyên nguyên đã trở thành thế giới bụi hồng - cõi hồng trần nên thơ quyến rũ! Nhưng rồi sau, cõi hồng trần không ngừng sa đoạ, đi đến hiểm hoạ có thể trở thành thế giới của tro đen hay nói một cách khác trở nên "hư không thế giới". Chính là cái hiểm hoạ biến con người đang sống trên quả địa cầu trở thành hồn ma bóng quế trên hành tinh lạc quỹ đạo.
Thế giới Tây Phương ơi! Phần nào là lỗi của các anh? Chắc rằng không! Vậy thì nguyên nhân là gì?...Vì đâu? Một câu hỏi, chúng ta đành bỏ ngỏ.
Ngôi nhà của tự thể không còn nữa. Kẻ chăn tự ngã, anh lính gác của hư vô đã bỏ chúng ta. "Nếp gấp sương mờ huyền ảo" vẫn khép kín. Ngôn ngữ của chúng ta trở nên sứt mẻ. Còn đâu ý nghĩa của cuộc đối thoại?
Chúng ta đã mất tất cả. Gần gũi sự khép kín, thân thuộc sự xa lìa. Sẵn sàng tiếp nhận một biến cố tương lai và bằng cả tâm hồn, dấn thân liều lĩnh vào nguy nan của một cuộc chơi lớn. Chúng ta đã mất tất cả. Chúng ta còn gì để mất? Trong khốn khổ tận cùng, tàn bạo phi lý, chúng ta còn gì để được?
"Hiểm nghèo mang theo mầm mống của giải thoát" Do sự chuyển động của "Hiện là", cái chân của "Bản thể" khởi động và biểu lộ: qua ánh lửa lung linh kỳ diệu, hồn thiêng của châu Á vĩnh cửu thức tỉnh hiển hiện cho toàn thế giới thấy trong hào quang rực rỡ, trong cái chết anh dũng của những nhà sư việt Nam. Chúng ta có nhận ra không cái trầm trọng của sự kiện? Tiếng kêu nào như rền vang khắp trái đất để rồi vụt tắt, khuấy động tận đáy tâm hồn của chúng ta?
Ôi ! Những người anh em của phương xa, từ câu hỏi đó mà những trang giấy mỏng manh này sẽ liều mạng bản thể, mạo hiểm vượt trùng dương ba đào để đến tay các bạn.
Tháng 6 -1965
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 5:59:39 GMT 9
Phan Nhiên Hạo Bùi Giáng như tôi thấy Vâng, tôi không quen biết Bùi Giáng. Tôi chỉ thấy ông, một cách khá thường xuyên, trong những năm học Ðại Học Sư Phạm ở Sài gòn. Trong bốn năm từ 1985 đến 1989, tôi sống ở ký túc xá Ðại Học Sư Phạm, tức trường Vạn Hạnh cũ. Nơi này vừa là chỗ ở vừa là chỗ học của sinh viên khoa Văn, bên cạnh các lớp học ở cơ sở chính trên đường An Dương Vương. Bùi Giáng hay lang thang trong sân trường Vạn Hạnh và khu vực quanh cầu, chợ Trương Minh Giảng.
Thời tôi học, sinh viên văn chương không phải là những anh chàng lãng đãng văn nghệ như sinh viên văn khoa Sài gòn trước 1975. Sinh viên thời chúng tôi chỉ có một bận tâm lớn nhất, lớn hơn cả sự học hành: đói. Tôi không biết có nơi đâu trên thế giới mà sinh viên phải sống cảnh thiếu thốn như sinh viên ký túc xá những năm đó. Ðói ngày đêm. Những bữa ăn gạo mục, một mẩu cá khô, và một bát "canh toàn quốc" thật ghê sợ. Chiều ăn, đến khoảng tám giờ tối đã đói run người. Ban ngày đang ngồi học trên giảng đường cũng đói. Ðó là thời người ta uống rượu được làm cho trong bằng cách chấm thuốc trừ sâu vào, bia lên men ủ từ những trái cây thối rửa nồng nặc mùi cồn y tế. Sinh viên càng đói thì càng nhậu dữ. Nhậu để quên nỗi thống khổ hiện tại, để thôi hình dung về một tương lai bi đát với đồng lương thầy giáo chết đói và cuộc đời rã mục ở một xứ sở khỉ ho cò gáy. Ðại đa số sinh viên văn khoa lúc đó giỏi lắm chỉ nghe tên Bùi Giáng chứ không hề đọc tác phẩm của ông. Vì trong chương trình học người ta không hề nhắc đến tên tuổi ông, mà nếu muốn đọc cũng chẳng có sách để đọc. Ngoại trừ một số rất nhỏ sinh viên cố gắng mở rộng kiến thức bằng cách săn tìm những sách xuất bản ở Sài gòn trước đây, đại đa số chỉ được dạy dỗ bằng những giáo trình thiển cận, méo mó.
Tôi đã đọc Bùi Giáng trước đó rất lâu, trong tủ sách của các chú tôi, cùng với những tác phẩm của Phạm Công Thiện, Nhất Hạnh, Lê Tôn Nghiêm... Thời mới lớn, sống ở Phan Thiết, thỉnh thoảng tôi cũng được dẫn đi lang thang bởi một nhân vật rất gần gũi về mặt tinh thần với Bùi Giáng: nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn. Tác giả "Chiến Tranh Việt Nam và Tôi" này luôn nhắc đến Bùi Giáng với giọng kính trọng đăc biệt, gọi ông là "thầy Bùi Giáng". Qua cách diễn đạt của Nguyễn Bắc Sơn, tôi có cảm tưởng Bùi Giáng là một nhân vật mà những người thường khó lòng hiểu được. Ông điên hay không điên, tôi không biết và cũng không thắc mắc nhiều. Có điều tôi biết rõ, ngay từ lần đầu tiên đọc Bùi Giáng, tôi không thích văn chương ông. Tôi không thích thơ ông, và tôi không chịu được dịch thuật của ông. Thơ ông làm theo những thể điệu cũ, vừa trong sáng nhưng cũng vừa cầu kỳ, giọng điệu vừa đùa cợt lại vừa trịnh trọng, và phảng phất một không khí cổ. Còn dịch thuật, phải nói ông phóng tác thì đúng hơn. Mà phóng tác như viết kiếm hiệp. Từ nhỏ tôi đã rất ghét kiếm hiệp, mặc dù tôi có thử đọc một đôi lần. Trong những ngày đói kém ở Sài gòn sau 1975, kiểu văn chương "phiêu bồng" của Bùi Giáng dường như ở quá xa mặt đất đối với tôi. Tôi cần một thứ văn chương trực tiếp hơn, thẳng thắn nhìn vào đời sống hiện thực, xoa dịu sự khốn cùng hôm nay. Tôi cũng có xu hướng thích thơ tự do, triết Tây phương, mà thơ Bùi Giáng thì phần lớn là lục bát và có vẻ phiêu bồng rất Á Ðông. Văn chương của Bùi Giáng trong những ngày đói kém ở Sài gòn sau 1975 là một loại văn chương quá mông lung và cũ kỹ đối với tôi. Ðó là lý do tại sao tôi đã không cảm thấy một sức hút đặc biệt đối với Bùi Giáng. Tôi đã không đến gần để hỏi han gì, mặc dù tôi vẫn thường thấy ông lang thang trong sân đại học Vạn Hạnh. Một người bạn tôi, tên Thuấn, lân la làm quen với ông và xin được mấy bài thơ lục bát Bùi Giáng mới làm. Ông viết chữ to, hơi nghiêng, rõ ràng và khá đẹp. Còn tôi, tôi không đến gần ông, nhưng vẫn hay quan sát ông.
Ông là một nhân vật khá nổi đình đám ở khu vực cầu Trương Minh Giảng. Có những buổi chiều đông đặc xe cộ, tôi ngồi uống cà phê bên đường nhìn ông đứng làm cảnh sát giao thông nơi đầu cầu Trương Minh Giảng. Ông đội một chiếc quần lót đỏ chói trên đầu, áo quần te tua, tay cầm chiếc roi tre dài, xoay ngang xoay dọc chỉ đường cho xe cộ. Người ta đi qua, cố gắng tránh xa ngọn roi tre dài, nhưng không ai chú ý đến ông. Ông loay hoay như vậy giữa dòng xe cộ hàng giờ liền, rồi chán, bỏ đi.
Một lần đang ngồi ăn cơm của một bà bán cơm gánh trước cổng trường, ông đến ngồi cạnh tôi. Bà bán hàng thấy ông, có vẻ rất ngán ngẩm nhưng không đuổi ngay. Ông cũng chẳng kêu cơm nước gì. Ông dùng ngón trỏ và ngón giữa móc vào nhau tạo thành một dấu hiệu tục tĩu mà trẻ con hay làm. Tay kia cầm một quả chanh, không biết kiếm đâu ra. Ông cố nhét quả chanh vào giữa cái hình ô van tạo nên bởi hai ngón tay, miệng lẩm bẩm: "Ðây là con c. nhét vô cái l. Kim Cương. Con c. to quá nhét vô không đươc".
Ông nói tiếng Quảng Nam, phát âm tiếng c. nghe như "ạketỳ". Tôi cố nín cười mà không được. Ông vẫn tỉnh bơ lặp đi lặp lại trò chơi quả chanh to và cái khe nhỏ đó cho đến khi bị bà bán cơm quát đuổi. Rồi ông nói ông mong được Kim Cương đái lên mồ ông. Ông còn nói một vài câu nữa về Kim Cương, toàn những câu rất tục, có vẻ ông bị ám ảnh ngày đêm bởi khao khát tình dục với người đàn bà này.
Có lần tôi thấy ông mặc một chiếc áo chim cò rộng thùng thình. Chiếc áo rất mới có vẻ hàng ngoại đắt tiền, chắc ai đó ở nước ngoài về tặng ông. Nhưng chỉ vài hôm đã thấy chiếc áo trở nên cũ bẩn.
Ðôi khi tôi bắt gặp ông ngồi dưới hành lang trong sân Vạn Hạnh, chỗ gần cổng. Ông nửa ngồi nửa nằm, tựa lưng vào cột. Dưới bóng cây phượng xanh mát, những lúc như vậy trông ông có vẻ tỉnh và buồn. Ông ngồi một mình, ánh mắt sau cặp kính cận dày nhìn xa xăm ra dòng xe cộ bên ngoài cổng trường.
Hình như Bùi Giáng không chỉ lang thang trong "lãnh địa" chợ Trương Minh Giảng và trường Vạn Hạnh. Một lần tôi thấy ông ở một chỗ khác, khá xa "nhà". Hôm đó trời mưa to, tôi đứng chơi trên lầu nhà một anh bạn ở đường Nguyễn Thiện Thuật, đối diện một cái chợ, không nhớ rõ là chợ Vườn Chuối hay chợ Nguyễn Thiện Thuật. Trước chợ có một đống rác cao nghệu, đen xì, bục ướt và rất hôi thối. Bùi Giáng đang đứng cãi nhau với một bà bán hàng ngay cạnh đống rác. Chắc ông phá phách gì nên bị bà này mắng xối xả, còn ông thì chỉ la ó những câu vô nghĩa để đáp lại. Nhưng ông cũng hoa tay múa chân vẻ khá hung hăng. Cuối cùng người đàn bà xô mạnh Bùi Giáng. Ông ngã chỏng gọng vào đống rác đen, miệng la bai bải. Cặp kính cận dày và cái thân hình lèo khoèo trong tư thế nằm ngửa khiến ông trông giống một con bọ ngựa bị bẻ chân. Dưới trời mưa tầm tã, ông có vẻ không gượng dậy được vì đống rác quá nhão. Còn người đàn bà vẫn tiếp tục chửi bới.
Tôi cũng đã thấy Bùi Giáng trong một trường hợp khác, rất đáng nhớ. Một buổi sáng chỉ mới khoảng 6 giờ, sinh viên ký túc xá bỗng nghe tiếng la hét từ phía dãy phòng các sinh viên nữ. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe những tiếng la như vậy khi có trộm lẻn vào bên khu nữ. Tôi vội chạy ra hành lang. Nhìn qua bên dãy nữ, thấy các mái tóc dài thò ra rồi thụt vào, hết người này đến kẻ khác. Tiếng la oai oái vẫn không ngớt, nhưng bây giờ xen lẫn tiếng cười khoái trá của các sinh viên nam. Nhìn xuống, tôi thấy giữa sân trường, Bùi Giáng đang trong tư thế trồng chuối, nhưng hoàn toàn... khỏa thân, quần áo cởi hết ra để bên cạnh. Mấy sinh viên bảo vệ từ ngoài cổng vội chạy đến, nhét quần áo vào tay ông lôi ra khỏi sân trường. Thật là một buổi "điểm tâm" đặc biệt cho cả ký túc xá.
Thời tôi học cũng có một nhân vật "điên điên" nổi tiếng khác trong trường là giáo sư ÐXH. Ông từ Hà nội vào, dạy tu từ học và là dịch giả của một cuốn truyện Xô Viết, cuốn "Lục Ðịa Sanhicốp". Sau 1975, phim "Lục Ðịa Sanhicốp" được chiếu ở miền Nam. Như những bộ phim "màu-màn ảnh rộng-Liên Xô" thời đó, người ta chen lấn nhau đến rách áo để vào xem "Lục Ðịa Sanhicốp". Trong sự thiếu thốn cùng cực không chỉ về vật chất mà còn cả về văn hóa, người ta thèm khát bất cứ thứ gì từ thế giới bên ngoài, từ những chiếc bình thủy lòe loẹt Trung Quốc đến những cuốn phim viễn tưởng vụng về của Liên Xô.
Không biết do ông tự xưng hay do sinh viên đặt, tất cả chúng tôi đều gọi giáo sư ÐXH là thầy Trình Văn Ðộ. Thầy Trình Văn Ðộ đã về hưu nhưng vẫn hay ôm cặp, một chiếc cặp bằng da cũ kỹ, đứng trước cửa giảng đường. Sinh viên ra khỏi lớp, vây lấy Trình Văn Ðộ, yêu cầu ông diễn Shakespeare. Chúng tôi khoái nhất ông diễn cảnh Othello giết Desdemona. Ông rống lên những tiếng kêu bi thiết, ôm ngực lảo đảo gục xuống như một kịch sĩ thượng thặng. Ông đọc Shakespeare bằng tiếng Anh và thơ của chính ông bằng tiếng Pháp, giọng hùng hồn vang khắp sân trường. Ông là một ông già to con, lưng hơi còng, hai lỗ tai đầy những sợi lông đen mọc thò ra ngoài. Ông nói ông biết bảy ngoại ngữ. Về khả năng ngoại ngữ của ông thì tôi không kiểm chứng được vì tôi chỉ biết lõm bõm tiếng Anh. Tôi đoán ông rành nhất tiếng Pháp, tiếng Nga, và đọc được tiếng Anh. Chúng tôi khoái Trình Văn Ðộ vì ông rất "điên". Ông lang thang vào phòng các sinh viên huyên thuyên chuyện văn chương trên trời dưới đất, lâu lâu lại đóng kịch, xổ ngoại ngữ. Ông có vẻ là một trong số hiếm hoi những giảng viên có khả năng thật sự, những người say mê văn chương và yêu thích việc dạy học. Ông nói ông phải vào trường để tiếp tục "dạy ngoài hành lang" cho chúng tôi. Cũng như chúng tôi, Trình Văn Ðộ hình như rất đói. Ông hay hỏi thẳng xem "chúng mày có gì cho thầy ăn không". Thỉnh thoảng tôi mời ông một tô mì ăn liền dưới cantin rồi dẫn ông vào nằm nghỉ trưa trong giường của tôi.
Nếu như Bùi Giáng hay bị ám ảnh bởi kịch sĩ Kim Cương thì Trình Văn Ðộ hay bị ám ảnh bởi giáo sư Hoàng Nhân. Hoàng Nhân dạy văn học phương Tây và có thời làm chủ nhiệm khoa văn. Sự dạy dỗ của ông thầy này tôi có thể tóm gọn trong một câu: "Toàn bộ văn học hiện đại phương Tây đều đồi trụy và bế tắc, ngoại trừ Aragon, một nhà thơ tiến bộ Cộng Sản". Dĩ nhiên ông không đề cập nhiều đến chuyện Aragon rồi cũng từ bỏ Cộng Sản. Trình Văn Ðộ hay than vãn chuyện Hoàng Nhân "đì" ông, không cho ông đi Tây, bắt ông phải về hưu như thế nào. Những chuyện này, được kể ra từ miệng một ông già hơi điên điên, không biết thật hư thế nào. Nhưng rõ ràng Trình Văn Ðộ rất "cay" Hoàng Nhân. Trình Văn Ðộ cũng có một điểm đặc biệt là mặc dù điên, ông không bao giờ dám động đến các lãnh tụ. Về phương diện này thì ông hoàn toàn khác với Bùi Giáng, một người tôi đã từng nghe đem tên các "thánh thần" ra nhiếc móc. Mỗi khi tôi đặt những câu hỏi chính trị, Trình Văn Ðộ lập tức lái câu chuyện sang hướng khác. Khôi hài hơn nữa, ông còn làm thơ tặng các lãnh tụ. Những bài thơ rất nghiêm túc, hùng hồn. Ông làm thơ tiếng Nga tặng Brezhnev, một bài thơ hình như tặng lãnh tụ Tito của Nam Tư, một bài khác tặng đồng chí Ðỗ Mười. Ông nói ông đã gởi các bài thơ này đến các đồng chí lãnh đạo, xin được đi Nga. Thấy ông cũng điên điên như Bùi Giáng, chúng tôi hỏi ông có biết Bùi Giáng không. Ông trả lời một cách rất ngông: - "A, Bùi Giáng. Bùi Giáng chỉ là một con mèo nhỏ bên cạnh con sư tử lớn Trình Văn Ðộ".
Chúng tôi rất mong chứng kiến một cuộc đụng độ giữa Trình Văn Ðộ và Bùi Giáng để biết ai thật sự là mèo, ai là sư tử. Nhưng chuyện đó đã chẳng bao giờ xảy ra. Có thể vì cả hai ông đều điên nên không nhận ra nhau, như cái cách những người tâm thần chẳng bao giờ nhận ra nhau. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng hai ông không đụng độ nhau vì thật sự hai ông chẳng có một điểm chung nào, mặc dù bề ngoài đều "điên". Bùi Giáng là một người đọc sách nhiều nhưng coi thường kiến thức hàn lâm, trong khi Trình Văn Ðộ rất hay trích Ðông dẫn Tây khi nói chuyện. Bùi Giáng dịch sách rất phóng túng trong khi Trình Văn Ðộ dịch sách rất cầu kỳ, trau chuốt theo kiểu một chuyên gia tu từ học. Bùi Giáng là một nhà thơ, mà là một nhà thơ giang hồ nhất, trong khi Trình Văn Ðộ về bản chất là một ông giáo mực thước. Và quan trọng hơn, Bùi Giáng là một con người của tự do tuyệt đối, một kẻ không e ngại hay hệ lụy bất cứ điều gì ngoài những huyễn tượng tình yêu (hoặc tình dục) của chính ông. Trong khi đó, mặc dù điên điên, Trình Văn Ðộ vẫn là một người bị ám ảnh bởi cái quán tính của một đời sống tủn mủn, đầy sợ hãi của những người bị đè nén quá lâu. Trình Văn Ðộ than vãn không ngừng về chuyện không được đi Tây, làm thơ ca ngợi lãnh tụ, và có vẻ vẫn hy vọng sẽ được "đèn trời soi xét". Khoảng năm 1989, khi bắt đầu bùng lên phong trào các đầu nậu sách thuê người dịch truyện ngoại quốc, Trình Văn Ðộ hình như có dịch một vài cuốn sách cho một nhà xuất bản ở miền Tây. Bẵng đi một dạo mới thấy ông lại vào trường, tay đeo chiếc nhẫn vàng một chỉ, ăn mặc tề chỉnh, và ông cũng thôi la hét, thôi diễn kịch Shakespeare. Ông đã tỉnh lại khi có mùi tiền. Còn Bùi Giáng thì hình như điên hoài, điên cho tới ngày ông chết.
Tôi không phải là người ái mộ văn chương Bùi Giáng, và tôi thuộc một thế hệ hoàn toàn khác với thế hệ ông. Nhưng tôi nghĩ sự tuyệt diệu của văn chương miền Nam, trong số nhiều điều tốt đẹp khác mà nó đã làm được, là việc sản sinh ra một nhân vật kỳ vĩ như Bùi Giáng. Nền văn chương đó đã cho phép ông sống trọn vẹn cuộc sống của một nghệ sĩ sáng tạo, đi đến tận cùng con đường tinh thần đã chọn mà không phải sợ hãi hay quỵ lụy bất cứ điều gì. Sự dấn thân tuyệt đối của ông cho thơ ca có một điều gì gần như là tôn giáo và khiến tất cả chúng ta xúc động. Ông không chỉ là một nhà thơ, ông là một nhân vật lớn hơn đời sống (a larger than life character). Ðóng góp của Bùi Giáng vào văn chương miền Nam, bên cạnh những giá trị thơ văn, chính là cái đời sống nghệ sĩ can đảm và kỳ lạ của ông. Cái đời sống có khả năng kích thích và khiến những người viết khác, nhất là những thế hệ đi sau, giữ được lòng tin vào sự kỳ diệu của văn chương. Ông là một huyền thoại hiện đại của thơ ca, như Rimbaud vậy.
Sau cùng, và quan trọng nhất, Bùi Giáng là biểu tượng trọn vẹn của tự do sáng tạo. Một tự do đã mất.
Nghe nói Bùi Giáng có nhiều người quen ở Sài gòn, nhưng tôi chỉ luôn thấy ông đi một mình. Ông ra vào trường Vạn Hạnh nhưng không còn tìm thấy ai quen. Ông đứng trên cầu giữa giòng xe cộ la hét nhưng không ai chú ý đến ông. Người ta đẩy ông ngã xuống rác. Tôi không biết ông có cảm thấy cô độc không, những lúc ngồi lặng lẽ dưới bóng phượng, nhìn mọi sự đổi thay. Có thể dưới cái bề ngoài điên khùng, thật ra ông đã sống những ngày buồn bã.
Tôi không biết chắc, vì tôi chỉ đứng từ xa nhìn ông mà thôi. Ðó là những ngày tôi rất đói.
9/2003.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 6:08:34 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 6:21:54 GMT 9
La Toàn Vinh Chân dung Bùi Giáng Có người nhìn Bùi Giáng với một tấm lòng đầy thán phục tinh thần một nhà thơ, có người nhìn ông như một biến cố, một hiện tượng, hay như một kẻ điên dại. Tôi lại khác hẳn, vì Bùi Giáng đã như một tầm vóc của tự nhiên, của một dấu vết đi ngoài bao giới hạn, định chế mà con người áp đặt, nên tôi có những cái nhìn về chiều sâu, chiều rộng của ông trong lòng con người Sài Gòn, trong lòng cuộc đời với đầy dẫy những bất an, cùng những vọng tưởng mà nhân loại đã cưu mang. Bùi Giáng như một hình ảnh để giải thoát tất cả trói buộc, một con người khi tỉnh, khi mê, khi mộng tưởng, khi hóa bướm, khi làm người…
Có thể nói Bùi Giáng đã đi vào con người Sài Gòn với từng ngày một, những chuỗi ngày đó trải dài, khiến cho chúng ta biết về ông còn nhiều hơn về tất cả những hình ảnh khác. Tôi không quen biết Bùi Giáng, thế nhưng tôi đã gặp ông rất thường xuyên trên các đường phố Sài Gòn, hình ảnh đó như một cái gì thân quen, không thể thiếu vắng, nhất là những ngày còn ở Cao đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, không hiểu tại sao? Duyên cớ nào mà Bùi Giáng xuất hiện rất thường xuyên ở trước ngôi trường của chúng tôi, những quãng đời dài miệt mài cùng sơn với cọ.
Một buổi sáng vào năm 1972, tình cờ tôi gặp một người ăn mặc dị dạng, mon men đến bên cạnh một gánh hàng bán xôi, đột xuất ông giật gói xôi trên tay của một khách hàng vừa mới mua. Hành động này làm bà khách hàng tỏ ra bực bội, không ngừng chửi xối xả vào mặt ông. Ông chỉ cười hì hà và nhai một cách ngấu nghiến, nhai luôn cả những mảnh lá gói xôi, đồng thời ông tự nhiên nhảy múa như có vẻ khoái trá lắm. Câu chuyện này làm bao người hiếu kỳ chăm chú nhìn với một con mắt thật khó hiểu. Nhưng sau đó có người bộ hành hoàn trả lại cho khổ chủ mua xôi, ông ấy nói: "Bà xem tôi lớn tuổi như vầy, nhưng ông ấy lại là thầy của chúng tôi, thôi bà đừng phiền hà gì cả". Câu chuyện được giải quyết một cách êm thấm. Hôm ấy, khi vào lớp học, trong giờ phối cảnh của kiến trúc sư Huyền Tôn Nữ Quỳnh Như, tôi thuật lại chuyện này, bà giáo tôi cười bảo: "Đó là thi sỹ Bùi Giáng."
Một thời gian sau đó, tôi lại tìm thấy ông với một "mode" mới. Bùi Giáng lúc đó chẳng ngại cái nóng bức của Sài Gòn, ông mặc chiếc áo dài màu đen, bên ngoài lại thêm chiếc áo bà ba khác, rồi lại vận thêm cái veston Tây phương bên ngoài rõ là Đông Tây Kim Cổ. Lúc ấy ông đang lui cui ôm con gà nòi thật chiến, mon men đến bên một quầy hàng chiên bánh tiêu, bất thình lình, ông xông tới, đổ trọn cái chảo dầu, tiện đó dùng bàn tay vét lọ đen để bôi lên mặt mình. Tiếp đến, ông cũng không quên thoa lên cổ, lên đầu chú "gà độ" và nói thầm điều gì khó hiểu. Tuy vậy, những lần thiệt hại trên đều có người nể phục chi tiền để bồi thường, riêng phần ông, chỉ hì hà cùng nhảy múa một cách tự nhiên.
Cũng từ những lần gặp gỡ, hình ảnh của ông đã ăn sâu vào ký ức tôi. Đôi lúc tôi tự nghĩ, nếu như ông có điên dại, cái "điên" này cũng không phải như bao người điên khác. Chúng tôi đã gặp ông rất nhiều lần, khi ở Lăng Ông Bà Chiểu, khi ở các sạp báo ở đường Lê Lợi. Rồi những ngày đi qua, con người Bùi Giáng đã ăn sâu vào xã hội Sài Gòn, nó như hình bóng thân quen. Thậm chí còn nhiều hơn những tấm bích chương, những khuôn mặt chính trị mà tôi đã thấy nhan nhản trên vách tường ở các đường phố này:
"Ban ngày mặc quần đỏ, áo xanh Ban đêm mặc quần xanh, áo đỏ…"
Đến những ngày sau 1975, Bùi Giáng vẫn cứ làm con người Bùi Giáng. Con người nhân chứng cho cảnh đời, cho bao bể dâu biến đổi và nếu như cuộc đời ví như một vở kịch thì người thắng cuộc lại là những người đóng trọn vai tuồng một cách xuất sắc.
Có lần Huy Cận về nói chuyện ở Cao đẳng Mỹ Thuật, Bùi Giáng lại xuất hiện, đi tới đi lui ở trước cổng trường và chửi đổng: "Mẹ mày Huy Cận, mẹ mày Huy Cận." Một sinh viên đứng gác cổng trường vào báo cho ban giám hiệu cùng Huy Cận, nhưng tất cả đều im lặng.
Có lần vào năm 1977, tôi gặp lại tiên sinh với dáng dấp tiều tụy, hốc hác như người từ xa mới về, cũng với chiếc áo gấm đen, lai vãng trước cổng trường. Lúc đó Bùi Giáng quẩy trên vai một bó củi, đầu kia thì đầy nồi niêu soong chảo, hình ảnh này làm tôi liên tưởng đến các vị tiều phu thời xa xưa hay những người từ vùng "Kinh tế mới" trở lại đô thành. Bao hình ảnh chợt thoáng qua như một đoạn phim ngắn, một bối cảnh, quãng đời mà Sài Gòn đổi khác. Đời trở nên chật vật, trật tự xáo trộn, kinh tế khó khăn.
Tối hôm đó, khi đi ngang qua Lăng Ông, tôi bắt gặp Bùi Giáng tỏa mình ở giữa "Ngã ba Đường". Chợt một người xích lô hỏi: - Bác có muốn về nhà không? Ông liền trả lời: - Về thì về. Một mạch ông nhảy lên xe và biến mất. Một con người thật đặt biệt trong ý tưởng của tôi, nó như những câu hỏi, những câu trả lời một cách tự nhiên, cùng những tất nhiên phải đến.
Sau thời gian đi vẽ ở Phan Thiết, Phan Rí, Cửa Cà Mau, Cần Thơ… trở lại Sài Gòn, bọn tôi kéo ra quán cà phê vỉa hè, ở cạnh ngôi mộ Nguyễn Văn Học. Buổi sáng hôm ấy, tôi lại gặp Bùi Giáng. Ông lúc này hiện thân như người bán thuốc lá, vẫn ăn mặc kỳ dị. Cái kỳ dị đó vẫn không làm chúng tôi thắc mắc mà nó trở thành bao hình ảnh thân thuộc. Đến cạnh bàn chúng tôi ông mời: - Mua thuốc không mấy anh? Chúng tôi ngước nhìn ông và im lặng, thấy vậy ông bèn mở một bao thuốc lá hiệu Hàng Không, loại thuốc này chỉ bán ở phi trường cho những khách ngoại quốc, ông đưa ra một điếu và nói: - Hút đi, cứ tự nhiên đi. Chúng tôi bốn người chia nhau điếu thuốc, sau đó ông hỏi: - Sao, thấy sao? Tôi gật gù thích thú, ông xoè tay ra nói: - Một đồng một điếu Một anh bạn gửi tiền trả cho ông và hỏi: - Thuốc ngoại phải không bác? Ông trả lời: - Liên Xô… Liên Xiếc… Liên Xô… Liên Xiếc Kế đó ông ngồi xuống và hỏi: - Mấy anh là sinh viên mỹ thuật? Tôi trả lời: - Đúng như vậy bác à… Tôi hỏi: - Bác người miền Trung phải không? Ông đáp lại: -Qua..ã..ng N.oôm.
Sau đó ít lâu, tôi ra hải ngoại, không còn gặp lại hình ảnh đó, một hình ảnh gắn chặt trong khoảng thời niên thiếu của chúng tôi. Cuộc sống và người vẫn thay đổi, những đột biến cùng con người Bùi Giáng luôn làm những tín hiệu của thời thế, tôi chợt nhớ lại vài câu lục bát hay của ông mà tôi đã đọc lâu lắm rồi, như bài Phùng Khánh Mẫu Thân:
"Mẹ về trong cõi người ta, Một hôm mẹ gọi con ra bảo rằng Trần gian vui sướng lắm chăng? Hay là đau khổ hỡi thằng chiêm bao?"
Ðã bao lần ngồi uống cà phê bên cạnh Quỳnh Thi, nàng nói: "Nhiều khi thấy tội nghiệp. Mẹ mình mang Cậu về nhà tắm gội cho sạch sẽ, xong xuôi đâu đó, Bùi Giáng đi thẳng một mạch đến sào phơi quần áo, lấy cái quần lót, đội lên đầu rồi một mạch rời khỏi nhà một cách tự nhiên." Tôi mỉm cười hỏi: - Em có biết về bài thơ "Thu Ba ngồi cạnh Thu Bồn không?" - Biết, ai trong họ hàng của Cậu cũng biết.
Thực ra, nói cho cùng, những hiện tượng về fetish, pissing ở phương Tây cũng đầy dẫy khắp nơi. Ở Á châu, Trung Hoa, thời nhà Minh, Thanh cũng phổ biến nhiều về những tranh in gỗ nói về dục tính, luôn cả trong văn học. Ở Việt Nam, thời Bùi Giáng cũng chẳng ngần ngại phát biểu lên cho dù dưới dạng thơ ca, ví như: "Cô Kim Cương nó đái trong mày chuồn ơi…" Từ xưa đến nay mọi thứ đều có thể đi đến lỗi thời, duy chỉ có dục tính luôn luôn cập nhật, luôn luôn mới mẻ. One of two things never go out of fashion… Ở nhiều quốc gia tiến bộ người ta đã chẳng ngần ngại nghiên cứu soạn thảo ra hàng khối sách như "Érotisme dans l'art plastique".
Sau bao ngày xa vắng, Sài Gòn đã thay đổi nhiều, nhưng khi dạo bước trên các vỉa hè, bên những gốc cây, tôi liên tưởng đến một nhà thơ xứ Quảng, một con người Việt Nam chẳng khác như một Van Gogh, một Antonin Artaud vậy.
1998-2003
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 6:23:40 GMT 9
Đặng Tiến Bùi Giáng, sơ thảo tiểu truyện Des lisières lointaines les cerfs ont bramé
Từ ven rừng xa tiếng nai gào gọi
Apollinaire
Sơ thảo, gọi như vậy vì tính cách sơ lược của bài viết.
Vì một số dữ kiện nêu lên, không chắc chắn, dù cho người viết hết lòng tìm căn cứ. Chung quanh Bùi Giáng có nhiều giai thoại, dần dần trở thành huyền thoại, đồng thời với những tư liệu có khi không hợp lý, hay mâu thuẫn, không dễ gì kiểm chứng.
Sơ thảo, vì lối biên tập còn rườm rà, khi chúng tôi cố tình muốn đưa ra nhiều tư liệu, có lúc ngoài lề, để người khác có thể men theo và truy cứu thêm, về chuyện này hay chuyện khác. Sơ thảo, tóm lại, không phải là lời từ tốn vào đề chiếu lệ, mà là lời mời gọi giới văn học và độc giả cải chính, bổ sung đào sâu hay nâng cao.
Bùi Giáng đứng tên trên khoảng 60 đầu sách, chủ yếu là 14 tập thơ, xen kẽ 19 dịch phẩm, 6 sách giáo khoa đầu tay, phần còn lại là biên khảo về triết học và thơ. Hiện nay còn khoảng 10 tập thơ và nhiều văn bản dịch, chưa in.
Trên cơ bản, Bùi Giáng là nhà thơ.
*
Bùi Giáng là tên thật. Có khi sử dụng nhiều bút danh khác: Vân Mồng, Bùi Bàng Giúi, Búi Bàng Giùi, Báng Giùi, Trung Niên Thi Sĩ, Ðười Ươi Thi Sĩ.
Ông sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926, Bính Dần, tại làng Thanh Châu, nay đổi thành Duy Châu vì thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam [1] .
Thân phụ là Bùi Thuyên, tục danh Cửu Tỳ, địa chủ giàu có; thân mẫu là Huỳnh Thị Kiền, còn tên là Hai. Cụ Bùi Thuyên có hai đời vợ, bà trước là con Phạm Tuấn, là một trong năm tiến sĩ đồng khoa 1898 cùng quê Quảng Nam, gọi là Ngũ Phụng Tề Phi [2] . Bà mất sớm khi hạ sinh người con thứ ba. Bà sau là cháu nội cụ Hoàng Văn Bảng, em ruột Hoàng Diệu, phó bảng khoa 1853, Thượng thư Bộ Binh, Tổng Ðốc Hà Ninh, tuẩn tiết tại Hà Nội năm 1882. Bà sinh được hai gái và bảy trai. Bùi Giáng là con thứ năm, kể cả con bà mẹ trước, nên còn tên là Sáu Giáng.
Những chi tiết này chứng tỏ Bùi Giáng xuất thân tự một giòng họ gia thế. Họ này gốc Nghệ An, di dân vào đây từ đời Hồng Ðức [3] .
Nhiều người trong giòng họ này nổi tiếng như bác sĩ Bùi Kiến Tín, sản xuất dầu khuynh diệp, kỹ sư Bùi Thạnh, hay giáo sư Bùi Xuân Bào, gia đình ra lập nghiệp tại Huế.
"Dòng họ Bùi giàu có bậc nhất trong vùng với những sở ruộng "cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi". Bùi Giáng trong mắt người dân thuở đó là một trang công tử. Dòng họ Bùi gốc ở Vĩnh Trinh lên ngụ cư ở Trung Phước khoảng những năm đầu của thập kỷ 40. Hồi đó, dòng họ có những căn nhà lầu đầu tiên ở xứ này. Trong nhà của họ có rất nhiều nô bộc. Sau này, nhà Quảng Nam học Nguyễn Văn Xuân nhận xét rằng những dòng họ giàu có nổi tiếng ở xứ Quảng đều sinh sống dọc hai bên triền sông, tận dụng lợi thế "nhất cận thị, nhị cận giang" [4] .
Sông Thu Bồn quanh năm có lưu lượng cao, nối liền miền Thượng Du với cửa Ðại (Hội An), cửa Hàn (Ðà Nẵng) và cửa Kỳ Hà (Tam Kỳ) qua nhiều sông lớn khác. Do đó, Vương Quốc Chăm đã đóng đô tại vùng Trà Kiệu, bên sông này, khoảng thế kỷ IV. Nhờ kinh tế phồn thịnh, dân địa phương nhiều người học hành và đỗ đạt.
Bùi Giáng sinh ra và lớn lên giữa "những dãy nhà rộng thênh thang tường xây bằng đá" [5] . Thời niên thiếu giữa một thiên nhiên phong phú, nhiều sắc thái: sông hồ, đồi núi, ruộng nương là một thiên đường mà Bùi Giáng suốt đời hoài vọng, và gọi là cố quận. Trong Ngày Tháng Ngao Du, ông kể: "Hồi nhỏ, tôi được sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt tuổi thơ. Làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn khổng lồ".
Có lẽ vì vậy mà mãi đến tuổi 71 ông mới về quê sau non 50 năm xa cách, qua bài thơ Tâm Sự, 1996, trong Ðêm Ngắm Trăng.
Về học trình của Bùi Giáng, tư liệu chi tiết nhất là bài diễn văn năm 1995 của Bùi Văn Vịnh, em ruột: "Thuở nhỏ, anh học trường Bảo An, tại Ðiện Bàn, Quảng Nam. Sau đấy, anh theo Trung học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1945, đang lớp đệ tứ thì gặp đảo chính Nhật, song anh kịp đậu Thành Chung (Diplôme). Cùng năm, anh lập gia đình riêng - chị qua đời ba năm sau. Việt Minh lên, anh trôi nổi khắp các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú của Liên Khu V trong vùng kiểm soát này. Cho đến 1950, khi có kỳ thi Tú tài đặc biệt do Liên Khu V tổ chức ("đặc biệt" vì đề thi do Liên Khu IV gửi vào, thi xong bài thi gửi ra Liên Khu IV chấm), anh đậu Tú tài II Văn Chương, rồi lên đường ra Liên Khu IV, tới Hà Tĩnh, để tiếp tục vào học Ðại Học. Từ Liên Khu V ra Liên Khu IV phải đi bộ theo đường mòn trên núi, hơn một tháng rưỡi trời. Khi ra đến nơi, trong ngày khai giảng sau khi nghe ông Viện trưởng Ðại học đọc diễn văn, Bùi Giáng quay ngay về Quảng Nam - với một tháng rưỡi đi bộ nữa theo đường mòn trên dãy Trường Sơn. Và anh bắt đầu quãng đời "Mười lăm năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt". Xin mở một ngoặc đơn: con số "15" được hiểu với nghĩa tượng trưng của điển " mục dương", và anh chăn dê chứ không bò hay trâu! Tháng 5-1952, gửi đàn dê lại cho... chuồn chuồn, châu chấu, anh băng qua Huế lấy Tú tài tương đương, để vào Sài Gòn ghi danh theo học Ðại Học Văn khoa. Lần này nữa, sau khi nhìn danh sách các giáo sư sẽ giảng dạy, anh quyết định chấm dứt việc học ở trường của mình tại đây" [6] .
Nhiều bài biên khảo sử dụng tư liệu này, vì tư cách của tác giả và những dữ kiện cụ thể được đưa ra. Nhưng cũng có người tự hỏi: Hà Tĩnh thì làm gì có đại học? Năm 1952, thì Sài gòn làm gì có đại học văn khoa [7] ?
Chúng tôi dò hỏi và đề nghị một học trình khác của Bùi Giáng: Tiểu học: Bùi Giáng có học trường Viên Minh, Hội An,
1940 ông bắt đầu vào Trung Học, trường Cẩm Bàng, Quy Nhơn. Trường tên như thế vì là tên làng của chủ trường, ông Lâm Tô Bông, người Quảng Ngãi.
1941-1945: Bùi Giáng ra Huế, học trường Tư thục Thuận Hóa. Thầy là các vị Hoài Thanh, Ðào Duy Anh, Trần Đình Ðàn, Lê Trí Viễn...Hai ông sau là cùng quê với Bùi Giáng. Nhà thơ khâm phục và về sau có viết bài ca ngợi các bậc thầy này.
1945: Nhật đảo chính. Ông đỗ bằng Thành Chung, thường gọi là Diplôme, sau khi thi hỏng năm trước, và ở lại lớp Tứ Niên C.
1943: Bùi Giáng đọc trên báo Bạn Ðường, do Hướng Ðạo chủ trương, in tại Thanh Hóa, mấy câu thơ:
Mịt mùng một nẻo quê chung Người về Cố Quận, muôn trùng ta đi.
Theo Bùi Giáng "đây là một niềm tương ngộ, cuộc trùng phùng, những tao ngộ tình cờ trong một cuộc Hội Thoại". Có thể xem như là khởi điểm nguồn sáng tạo văn học của Bùi Giáng, như ông thổ lộ ở phần đầu Lời cố Quận (1972), mà không cho biết tên tác giả câu thơ. Tuy nhiên trước đó, trong Ði vào Cõi Thơ (1969), Bùi Giáng có trích hai câu này trong một đoạn 4 câu trong bài Cảm Thông (12 câu, 1940) và nói rõ là của Huy Cận. Bài này chưa bao giờ được in ở các thi tập đã xuất bản của Huy Cận.
1945: ông về quê, cưới vợ, dọn lên Trung Phước, một làng Trung Du hẻo lánh.
Vợ ông tên Phạm Thị Ninh, trạc tuổi ông, sinh trưởng trong một gia đình công chức khá giả, ông bà Phán Trai, Hội An, ở gần Chùa Cầu, nay còn người em là Phạm Văn Hòa, 71 tuổi.
Bà Ninh qua đời năm 1948 vì bệnh dài hạn và đẻ non, đứa con cũng mất, tại làng Trung Phước. Người em, Bùi Công Luân, kể lại rằng khi mất, thì "chị không thấy mặt chồng. Anh Bùi Giáng bấy giờ đang ở Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên gì đó, nghe phong thanh anh đang đi học" [8] .
Chúng tôi lần theo, và được biết là giai đoạn này, Bùi Giáng tiếp tục học tại trường Nguyễn Huệ Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Trường này không dạy đủ lớp, chỉ dạy hai trên ba năm, bậc Tú Tài, và chỉ dạy chuyên khoa Toán Lý Hóa. Bùi Giáng có ra Hà Tĩnh - bài Kỷ Niệm, trong tập Mưa Nguồn, làm tại Hà Tĩnh, 1951- nhưng có thể để học tiếp ban Tú Tài văn chương, rồi bỏ dở.
Tháng 5-1952, Bùi Giáng về thành [9] . Rồi vào Sài Gòn dạy học.
Học trình Bùi Giáng, chúng tôi chỉ biết có vậy. Trên cơ bản ông là người tự học và đã đạt tới một kiến thức uyên bác, làm nhiều người ngạc nhiên và kính phục. Chúng tôi phụ chú thêm ba điểm :
Việc hôn nhân: khi trả lời một bài phỏng vấn của báo Thời Văn, 1997, Bùi Giáng có tiết lộ: "phải thuận theo ý cha mẹ lấy cô vợ người thành phố Hội An, suốt đời không biết cày sâu cuốc bẫm là gì" [10] . Người em trai Bùi Công Luân xác nhận điều này trên báo Khởi Hành số 25 đã dẫn, nói rằng hai bên không yêu nhau.
Việc chăn dê: khoảng 1948, tại Trung Phước, chúng tôi tin vào kỷ niệm của ông Phạm Văn Hòa: "Ông anh rể tôi kỳ lạ lắm. Hồi đó ổng mua một đàn dê khoảng 100 con và rủ tôi đi chăn cùng. Buổi sáng ông thường lùa dê vào Giáp Nam, Gò Om, sau đó hai anh em rủ nhau xuống khe (suối) Le ngồi dưới bóng của các lùm tre và...đọc thơ suốt buổi. Có những buổi ổng lang thang lên tận các quả đồi hái hoa, lá kết vòng thơ thẩn đeo vào cổ cho dê... " Ðặc biệt Bùi Giáng rất thương vợ. Sáng nào ông cũng vắt một bát sữa dê đem chưng lên cho vợ uống. Tôi chẳng hiểu hồi đó ông có tâm sự gì nhưng chỉ biết ông nuôi dê để chơi thôi, không thấy bán (vì nhà rất giàu, đâu cần tiền), cũng không thấy giết thịt vì ông rất yêu những con dê. Mỗi con ông đặt cho một cái tên, rất kỳ lạ. Chuyện Bùi Giáng chăn dê nhiều người còn nhớ. Ðấy là hình ảnh một thanh niên hàng ngày lặng lẽ lùa dê vào núi, trên tay ôm một cuốn sách tiếng Pháp dày cộp. Quãng đời du mục của Bùi Giáng kéo dài khoảng 3 năm thôi nhưng sau này khi viết Nỗi lòng Tô Vũ, thi sĩ đã đề từ "Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú". Mười lăm năm - nhiều người cho rằng có thể Bùi Giáng lấy thời gian lưu lạc của nàng Kiều để nói về đời mình" [11] .
Thời kháng chiến: ngày Toàn quốc Kháng Chiến chống Pháp, Bùi Giáng đúng 20 tuổi. Vậy ông làm gì? chẳng nhẽ chỉ chăn dê và làm thơ?
Bùi Giáng có đi bộ đội, thời đó là Giải Phóng Quân. Trong lúc "vui lòng cởi mở" ở dưỡng trí viện Biên Hòa tháng 5-1969, ông có kể với các Bác sĩ trong viện: "trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa ngừng chân thì "Bông hoa rừng" nọ cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng mình như đang lạc vào suối Ðào-nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm anh. Ðó là phần Cô em Mọi nhỏ; còn Hoàng hậu Nam-Phương thì đến với anh trên một bao thư: người mẫu nghi thiên hạ này, sau anh có gặp lại ở Huế - lần này, người thiệt, chớ chẳng phải là một con tem thư - nhưng thực và mộng vẫn không sai biệt." [12]
Ðoạn văn được trích dài, để quy chiếu, về một chi tiết trong tiểu sử mà các tài liệu khác không đề cập, và trong chừng mực nào đó giúp ta hiểu thêm về hình ảnh người đàn bà - rất nhiều đàn bà - trong thơ Bùi Giáng.
*
1952 - 1960: về vùng "quốc gia", Bùi Giáng vào Sài Gòn lập nghiệp, dạy Pháp văn và Việt văn cho nhiều trường Tư Thục: Tân Thịnh, Vương Gia Cần...và gửi thơ đăng báo.
Ông cư ngụ tại đường Trương Tấn Bửu, nay là Trần Huy Liệu, gần chợ Trương Minh Giảng, cùng với các em, trong một ngôi nhà giữa vườn cây vú sữa [13] . Võ Phiến, ở gần đó, thường lui tới. Có lần Bùi Giáng chiêu đãi Ðinh Hùng tại nhà, mời ăn Mì Quảng, nhưng tại một căn nhà đường Dixmude, Ðề Thám, theo lời kể của Mặc Thu [14] .
Mì Quảng là món ăn quê hương mà ông tự hào và ưa thích. Có lần tuyên bố: "ta ăn hai ngàn tô mì Quảng nữa ta chết " [15] .
Thời gian dạy học, ông đã soạn 6 cuốn sách giáo khoa, do nhà Tân Việt ấn hành, về Bà Huyện Thanh Quan, Lục vân Tiên, Kiều (1957), Tản Ðà, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị (1959) chủ yếu cho học sinh cấp hai.
1960-1975 : 1960: xuất bản Tư Tưởng Hiện Ðại, biên khảo về tư tưởng phương Tây, chủ yếu là chủ nghĩa hiện sinh đang thời thượng. Có thể xem như là sáng tác đầu tay quan trọng. Dường như từ thời gian này ông mới học tiếng Ðức, bắt đầu đọc Heidegger, do ảnh hưởng nhóm Phật giáo Vạn Hạnh với Thượng tọa Thích Minh Châu, Tuệ Sĩ, và Phạm Công Thiện. Hai cuốn về Heidegger, in 1963, trích nhiều tiếng Ðức.
1962: xuất bản tập thơ Mưa Nguồn, có bài làm từ 1950, thời chăn dê. Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá trị nhất của Bùi Giáng. Liên tiếp, năm sau, là 4 thi phẩm: Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn và Sa Mạc Trường Ca.
Dường như sau đó có thời gian ông về ở chùa Phát Hội, một trung tâm nghiên cứu Phật Học, tiền thân của Ðại Học Vạn Hạnh, với Nhất Hạnh, Tuệ Sĩ, Phạm Công Thiện,...
1965: chiến tranh leo thang. Cùng với nhóm trí thức: Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Tam Ích,... Bùi Giáng tham gia kêu goị hòa bình. Dường như đây là hoạt động chính trị chính thức duy nhất trong đời Bùi Giáng. Nhưng lá thư gửi René Char của Bùi Giáng chỉ nói đến hòa bình chung chung.
Thời gian này ông chủ tâm dịch sách, xuất bản 13 dịch phẩm, nhiều nhất là Camus. Kịch bản Ngộ Nhận (le Malentendu) xuất bản 1967, đã đăng trên báo Bách Khoa từ 1963, và Bùi Giáng yêu thích Camus từ lâu. Dường như đôi bên có trao đổi thư từ.
1969: xuất bản 10 tác phẩm trong một năm, chủ yếu về thơ. Ðồng thời xảy ra tai nạn lớn: một hỏa tai thiêu rụi căn gác ông ở và chứa sách, trong ngõ Phan Thanh Giản, bây giờ là Ðiện Biên Phủ. Căn gác này do tu sĩ Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản An Tiêm, thuê cho Bùi Giáng ở, chứa nhiều tư liệu và rất nhiều sách, Pháp, Anh, Ðức, Hán, có ghi chú. Hỏa hoạn xảy ra khoảng 3 giờ chiều, trước đôi mắt bất lực của Bùi Giáng và Thanh Tuệ, thiêu rụi tư liệu, bản thảo, và sách tặng của Camus, dường như có cả sách tặng của Heidegger.
Bùi Giáng, cuồng nhẹ từ trước, nổi cơn điên, được gia đình đưa vào dưỡng trí viện Biên Hòa đầu tháng 5-1969. Theo các bác sĩ của viện: "Người cầm bút cô độc này, bịnh đã chuyển từ cuồng nhẹ sang cuồng nặng" [16] . Không biết bệnh có di truyền hay không, vì thân sinh ông cũng bị cuồng nhẹ, theo lời người địa phương "thân sinh ông Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thường gọi là Cửu Tỳ, Ông Cửu Tỳ cũng là một ngườ ... điên, hàng ngày thường làm bộ cưỡi ngựa bằng mo cau đi từ làng Trung Phước đến làng Cà Tang đọc thơ, làm câu đối và đặc biệt ông này rất thích chọc ghẹo...các cô gái có nhan sắc!" [17]
Ra khỏi dưỡng trí viện, Bùi Giáng sống lang thang nay đây mai đó. Từ đầu năm 1973, ông dọn về khu nội xá của Ðại Học Vạn Hạnh, đường Trương Minh Giảng, có phòng riêng ở lầu 3. Thời gian này Bùi Giáng thỉnh thoảng có dự những buổi đàm luận chính trị với nhóm trí thức chủ hòa thời đó: Nguyễn Đăng Thục, Tuệ Sĩ, Ngô Trọng Anh,...nhưng vẫn ăn ngủ đó đây và biểu diễn nhiều trò lạ mắt trong y phục thùng thình trên hè phố Sài Gòn. Thân hữu và gia đình vẫn ồ ạt xuất bản sách cho ông. Tạp chí Văn đã ra một số đặc biệt Bùi Giáng tháng 5-1973, và Mai Thảo, phụ trách tờ báo giải thích về sau: "Phải làm cái gì về ông. Ðể ghi nhận lại".
Mai Thảo còn kể tiếp: "chưa biết tìm Bùi Giáng ở đâu, thì thi sĩ bất ngờ ghé thăm tòa soạn. Ông chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy (...) Mấy tháng trước biến cố 1975, chỉ thỉnh thoảng nghe thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu " [18]
1975-1998: Sau 1975 bệnh cuồng trầm trọng thêm, dù rằng vẫn có lúc ông sáng suốt. Sống nhờ bạn bè và trợ cấp của gia đình từ nước ngoài. Có lúc ở nhờ chùa Già Lam, xóm Gà, Gia Ðịnh.
Từ 1985, về ở với gia đình người cháu gái, đường Lê Quang Ðịnh, Tân Bình, Vợ chồng người cháu giúp Bùi Giáng định cư và định tâm, an dưỡng và sáng tác, đến ngày cuối đời. Hiện gia đình này còn giữ nhiều di cảo.
Từ 1992, tâm trí có phần ổn định, Bùi Giáng làm nhiều thơ trong năm 1993. Sau đó sáng tác cầm chừng, vẫn làm nhiều thơ.
1996 về thăm lại "Cố Quận" Quảng Nam khi đã 71 tuổi.
7-10-1998 (ngày 17 tháng Tám năm Mậu Dần): Bùi Giáng mất tại Sài Gòn vì bị tai biến mạch máu não.
Ðêm 23-9, ông có uống rượu, trượt té và vào hôn mê sâu. Giải phẩu tối 25-9, nhưng ông vẫn hôn mê, cho đến 14 giờ ngày 7-10 thì qua đời.
Tang lễ được tổ chức trọng thể tại chùa Vĩnh Nghiêm. Khoảng 600 người, phần đông là thanh niên, sinh viên đến canh thức, ngâm thơ. Một đám tang nhẹ nhàng, nhắc lời ông thường nói, để đời: "vui thôi mà".
11-10-1998: an táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Ðức.
Hiện nay Bùi Giáng còn 10 tập thơ và dịch phẩm chưa in.
Viết cho ngày tưởng niệm Bùi Giáng, 7-10-2003, Sơ Thu Quí Mùi
2003 talawas
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Du khách đi thăm di tích Chàm ở Mỹ Sơn, từ quốc lộ số 1, lấy tỉnh lộ 610 khoảng 15 km sẽ đi qua làng Duy Châu. Ði thêm 30 km sẽ đến làng Trung Phước, nơi Bùi Giáng chăn dê, nay đổi là Quế Phước vì thuộc huyện Quế Sơn, phía mỏ than Nông Sơn. Cả hai làng đều nằm bên sông Thu Bồn, bờ bên này và bên kia. [2]Năm người theo thứ tự là: Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn, Ngô Truân và Dương Hiển Tiến. Ngoại trừ Phan Quang huyện Quế Sơn, bốn người kia đều thuộc huyện Diên Phước, nay là Ðiện Bàn. [3]Bùi Tấn, Chớp Biển, Sài Gòn, Anaheim 1996, tr. 35. [4]Nguyễn Minh Sơn, báo Người Lao Ðộng, số Xuân Quý Mùi 2003, TPHCM. [5]Bùi Công Luân (em ruột Bùi Giáng), báo Khởi Hành, số 25, tháng 11/1998, tr. 27, California. [6]Bùi Văn Vịnh, trong Chớp Biển, sdd, tr. 90. [7]Trường Ðại Học Văn Khoa, Sài Gòn, có từ 1958. Trước đó, có lớp Văn dạy tại Ðại Học Sư Phạm, 1956. Khoa trưởng cả hai trường thời đó là G.s Nguyễn Huy Bảo, mà Bùi Giáng tỏ lòng ngưỡng mộ, như đã tuyên bố ở trang 17, báo Thời Văn, 6-1997, Sài Gòn. Tại Khu IV, khoảng 1948, chỉ có lớp dự bị Văn Khoa, 7 sinh viên học với g.s. Ðặng Thai Mai, Quần Tín, Thanh Hóa, và g.s. Cao Xuân Huy, Diễn Châu, Nghệ An. Cụ Huy là thầy Bùi Giáng môn Pháp văn, tại trường Thuận Hóa, Huế. [8]Bùi Công Luân, trong Chớp Biển, sđd, tr. 15, có đăng lại trên báo Khởi Hành, số 16 tháng 2-1998, tr. 20, California. [9]Cùng một thời điểm với nhà thơ Tạ Ký 1928-1979. Tạ Ký vào học trường Khải Ðịnh 1952, Huế, học đủ ba năm cấp ba, đậu Tú Tài năm 1955. Tạ Ký cùng quê, và ở cùng xóm, trong làng Trung Phước với Bùi Giáng. Làng này đã trở thành một đề tài thi ca qua câu thơ Tạ Ký: Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc, Tình cheo leo cao vút một con đèo. Trong chiến tranh, một chiều mưa bên bờ sông Vĩnh Ðiện, nhà thơ Tường Linh, quê ngoại ở Trung Phước, học trò Pháp văn của Bùi Giáng, nhìn về Trung Phước, có câu thơ cảm động : Thấy gì đâu, chỉ thấy núi mây mờ Lòng gọi mãi tên làng xưa Trung Phước! Nhà văn Võ Phiến, 1986, có lời bình luận: "Làng Trung Phước, ngày còn ở trong nước tôi chưa đến bao giờ, chính dân làng còn khó về làng huống hồ người xa kẻ lạ. Từ khi xa nước, nghe nói tới Trung Phước càng thấy mơ hồ típ tắp. Tôi đinh ninh đó là một làng đáng tưởng nhớ, đáng mê say : dễ gì một ngôi làng nhỏ bé hẻo lánh, mà có được hai thi sĩ dễ thương ngoan lành như vậy ? Hơn nữa, ngoài Tạ Ký và Tường Linh, làng Trung Phước còn liên hệ dến một thi sĩ thứ ba rất quen thuộc là Bùi Giáng, người đã từng sống với đàn dê tại đây một thời gian thời kháng chiến chống Pháp " (Võ Phiến, Văn Học Miền Nam - Thơ, nxb Văn Nghệ, tr. 3145, 1999, California.) Khi mộ Tạ Ký được dời về Gò Dưa, Thủ Ðức, Tường Linh có đọc điếu văn. Ngày nay cùng nghĩa trang với Bùi Giáng. [10]Bùi Giáng, tạp chí Thời Văn, số 19, tháng 6-1997, tr. 26, TPHCM. [11]Nguyễn minh Sơn, báo Người Lao Ðộng, sđd. Chúng tôi chua thêm hai điều : a. Mười lăm năm là cái "khớp" trong đời Bùi Giáng : mười lăm tuổi, rời thôn ấp về " thành phố " Huế, mười lăm năm sau, đất nước chia đôi, rồi 1969, vào dưỡng trí viện Biên Hòa, v..v...Ông có bài thơ Mười lăm năm: Mười lăm năm ngọn tử phù Mù sương cố quận chín tầng tầng rơi Linh cảm, có thể quan hệ với thân phận Thúy Kiều. b.Tâm sự u uất: Bùi công Luân xác nhận điều này, khi Bùi Giáng rời gia trang ở Thanh Châu miền trung du Trung Phước chăn dê: "dường như anh muốn xa lánh trốn tránh, thậm chí đoạn tuyệt với một cái gì đó. Có thể là một quá khứ với những kỷ niệm không phai. Có thể là một đoạn đời với nhiều bão giông còn âm " Bùi Giáng có thơ: Người điên mang một mối buồn Chưa bao giờ biết cỗi nguồn từ đâu (Một Lần Nàng Tiên) [12]Thơ Ðiên, nxb Ki-Gob-Jó-Cì, Thái Bình Ðiên Quấc, năm Chó 70, tr. 81, 1970, Sài Gòn. Sách do các bác sĩ dưỡng trí viện Nguyễn văn Hoài, Biên Hòa, thực hiện, 140 trang khổ 16x24 cm. [13]Viên Linh, Khởi Hành số 25 bđd, tr. 23. [14]Mặc Thu, Khởi Hành, số 25, tr. 25. [15]Trần Hữu Cư, báo Thời Văn, bđd, tr. 71. [16]Thơ Ðiên, sđd, tr. 80. Giám đốc dưỡng trí viện là Tô dương Hiệp, con trai nhà văn Bình Nguyên Lộc. Bác sĩ chuyên trị Bùi Giáng và thân thiết, là Nguyễn Tuấn Anh. [17]Nguyễn minh Sơn, báo Người Lao Ðộng, sđd. [18]Mai Thảo, tạp chí Văn, số 26, tháng 8-1984, California, in lại trong Hợp Lưu, số 44, tháng 12-1998, tr. 15-16, California.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 6:24:54 GMT 9
Võ Phiến Bùi Giáng Mở đầu một bài báo được đăng trên tạp chí Giao Điểm cuối năm 1992, ông Phạm Xuân Đài viết: "Hiện nay có lẽ không có một người nào trong giới văn nghệ truớc đây ở miền Nam, và có lẽ cả nuớc, được yêu mến như Bùi Giáng."
Tôi bất giác kêu thầm: "Đúng quá!" Kêu xong, tôi bẽn lẽn. Ông Phạm không nói đến một cuộc trưng cầu dân ý, cuộc thăm dò, cuộc điều tra nào; mà tôi cũng không hề có lấy một chút căn cứ, biết đâu là đúng là sai. Vậy mà tôi vẫn không rời được ý kiến của ông Phạm.
Ai cũng biết mấy năm gần đây ngành xuất bản gặp khó khăn: Sách không bán được mấy nữa. Và trong các loại sách, khó bán nhất là thơ. Thậm chí nhiều hiệu sách dứt khoát từ chối, không nhận bán thi phẩm. Trong tình cảnh ấy lắm thi sĩ trong nước cũng như ngoài nước sinh ngán ngẩm, chính thơ mình viết ra cũng không dám nghĩ tới việc tìm được cơ hội cho nó chào đời. Vậy mà năm 1990, một nhà xuất bản ở Gia-nã-đại cứ cho ấn hành một tập thơ Bùi Giáng dày cộm, tung sách ra trong một buổi ra mắt quy tụ bao nhiêu là khuôn mặt quan trọng của văn giới hải ngoại.
Ai cũng biết việc mang văn hoá phẩm từ nước ta ra nước ngoài không tự do. Nhất là tác phẩm của những văn thi sĩ Miền Nam nổi danh trước 1975. Vậy mà thỉnh thoảng vẫn có những bà con khi thoát nước ra đi, cố cất giấu trong người, trong hành lí, hoặc dăm ba bài thơ, hoặc mấy câu thủ bút của Bùi Giáng. Thứ quốc cấm ấy lọt ra ngoài, gặp ngay sự đón tiếp nồng hậu. Báo này báo nọ đăng lên, in cả thủ bút thân yêu. Bà con Việt kiều bắt được, hoặc trong lúc thưởng thức miếng chocolat, hoặc đang nhâm nhi tách cà-phê, hứng chí mừng rỡ: "Đích thị Bùi Bàng Giúi chính cống rồi. Vẫn y nguyên giọng thơ trung niên ấy. Thích thật!" Và cười ha hả.
Thích thế nào? Đố biết. Cũng ông Phạm Xuân Đài bảo: "Có điều lạ là trong những người yêu mến và kính phục Bùi Giáng ấy không ít người chưa từng đọc thơ hoặc bất cứ thứ gì anh viết, hoặc đã đọc nhưng vị tất đã hiểu. Không cần."
Không đọc, không hiểu, tại sao lại yêu lại mến? Yêu qua loa nhất thời hay yêu mãi nghìn năm, yêu vượt thời gian? Khó quá. Ai mà trả lời nổi. Chuyện xa vời không biết được. Chỉ biết người ta đã yêu Bùi Giáng suốt cuộc chiến tranh, yêu giữa những tháng năm tan tác vì bom đạn. Rồi lại yêu Bùi Giáng trong cảnh lưu lạc tha hương. Có gì trong Bùi Giáng liên hệ đến những hoàn cảnh ấy chăng? Hoặc giả có gì trong Bùi Giáng liên hệ đến những nét cố hữu nào đó trong tâm hồn chúng ta chăng?
Chưa ai biết về những cái ấy. Chỉ biết cái yêu này là có, là thật, và rất hồn nhiên. Bùi Giáng không bè không cánh, không quảng cáo quảng kiếc, không khéo léo tranh thủ ai, cũng không thủ đoạn lôi kéo ai. Chẳng những không "khéo", thường khi ông còn gây lúng túng cho kẻ khác: như những mẫu thân này mẫu thân nọ, những nhan sắc được ông mến mộ hẳn không khỏi có lúc bối rối về sự tung hô lớn tiếng của ông. - Mặc kệ. Ai nấy cứ yêu Bùi Giáng.
Rất có thể những cái kì cục của ông là một hiện tượng bệnh lí. Rất có thể cái yêu Bùi Giáng, mê Bùi Giáng, là hiện tượng tâm lí quần chúng, tâm lí xã hội, trong một hoàn cảnh nào đó; chứ không phải là sự kiện liên hệ đến văn chương nghệ thuật? - Mặc kệ. Vẫn nên suy nghĩ về Bùi Giáng, trong một tác phẩm nói về thơ.
*
Riêng tôi, tôi chịu cái lối ông phê bình thơ. Ông đã phê bình nhiều thi sĩ, thi sĩ tiền bối trước chúng ta nhiều thế kỉ cũng như thi sĩ cùng thời, đang sống với chúng ta. Hãy xin cử ra trường hợp ông Bùi nói về tiền bối Nguyễn Du. Ông chọn một câu Kiều ai nấy đều biết ("phong lưu rất mực hồng quần"); từ câu ấy ông lại chọn khen cái chữ "hồng quần". Ông đem "hồng quần" so với "quần hồng", rồi so với đàn bà; ông đùa với chữ này, bỡn với chữ kia, cợt nhả với chữ nọ. Xong rồi, ông lôi bản dịch của Crayssac ra mà chế giễu đã đời. Ấy là chuyện Ngao du ngày tháng (1971) của ông Bùi.
Khi khác, Đi vào cõi thơ (1969) của các thi sĩ cùng thời với mình, Bùi Giáng càng tỏ ra tinh quái quá lắm. Chẳng hạn về trường hợp một thi sĩ nọ -đồng hương với ông- ông nói qua nói lại một hồi, rồi ông bảo trót đánh mất tập thơ của bạn nên không trích được bài nào. Sau này, có dịp cầm chính tập thơ nọ trong tay, tôi loanh quanh tìm mãi không thấy có bài nào trích được! Vậy Bùi Giáng có mất sách thực chăng? Và không tìm ra cuốn sách nào khác của bạn thực chăng? Lẽ nào ba muơi năm trước ở Việt nam thơ ấy khó tìm hơn ba muơi năm sau ở Mĩ?
Vả lại, không chỉ có trường hợp người bạn vừa kể. Chuyện như thế xảy ra đều đều. Nói về một thi sĩ khác, ông bảo khỏi cần trích thơ, chỉ cần nên ra các tên bài cũng đủ. Và ông liệt kê một loạt tên bài tùm lum; chỉ có tên bài thôi. Có nhiều thi sĩ, ông "đi vào cõi thơ" của người ta một hồi mà không thấy ông chọn được bài nào, thậm chí một ý hay một câu hay, một chữ đẹp cũng không! Như thể bận tâm chứng minh là một bận tâm nhỏ mọn quá, ti tiểu quá, không đáng lí đến.
*
Đi vào bất cứ cõi thơ cõi văn nào của bạn bè quen biết xa gần là cái khó. Năm khi mười họa, gặp cõi đắc ý khen ầm lên, bốc nhau tận mây xanh, thì nhất. Còn như lâm vào cái thế phải nói về hết bạn này đến bồ kia, thì lắm lúc kẹt muốn chết. Thế mà ông Bùi cứ khơi khơi, tỉnh bơ, cười cười, "vui thôi", tránh thoát mọi rắc rối phiền hà dễ như chơi. Gặp người tài tình như vậy mà ta cứ nhanh nhẩu xông vào đòi bình thơ của người ấy thì là một việc làm vô duyên và không thích hợp chút nào. Thích hợp nhất là nghe chính Bùi Giáng bình thơ Bùi Giáng.
Có việc ấy chăng? - Có đấy. Bùi Giáng từng làm việc ấy cách tuyệt vời. Hãy nghe:
"Những bài thơ chuồn chuồn châu chấu của ông (Bùi Giáng tự gọi mình như thế) quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung Việt, vào những buổi chiếu mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ, đầu sân, quả thật là tha thướt. Đôi phen cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng múa lượn. (Đi vào cõi thơ, Ca Dao, 1969, trang 93)
Thế là phong cách thơ Bùi Giáng đã được xác định rõ ràng. Nhưng cũng có người thắc mắc: "Thơ chuồn chuồn châu chấu" là thơ gì? - Về chỗ thắc mắc ấy, Bùi Giáng cũng đã có lời giải thích. Giải thích rất mực bay bướm. Người đời tha hồ đọc đi đọc lại nghĩ tới nghĩ lui hết ngày này qua ngày khác, càng nghĩ càng thấm. Xin lược chép dăm ba câu:
"Bay lơ lửng loanh quanh, ấy là con chuồn chuồn. Bay mà cũng như không bay, ấy là con chuồn chuồn. Khiến người ta nhớ nhung mà chẳng rõ nhớ nhung cái gì, ấy là con chuồn chuồn. Hiện diện gần gũi mà xa vắng như trong lớp mù sương, ấy là con chuồn chuồn. Xa vắng thơ ngây hơn cả mây hay hạc lánh, ấy là con chuồn chuồn.(...) Vô khả vô bất khả, ấy là con chuồn chuồn. Mang vô lượng a tăng kì kiếp về trong mỗi sát-na, ấy là con chuồn chuồn. Muời phương quốc độ đi vào một lỗ chân lông, ấy là con chuồn chuồn. (...) Làm thơ hay hơn ông Nguyễn Du, ấy là con chuồn chuồn. Làm thơ dở hơn ông Nguyễn Du, ấy là con chuồn chuồn. Chẳng còn biết sao gọi là hay, sao gọi là dở, ấy là con chuồn chuồn. Dờ tức là hay, hay tức là dở, ấy là con chuồn chuồn. Hữu tức thị vô, vô tức thị hữu, hữu thị bất-hữu-đích-hữu, vô thị phi-vôđích-vô, ấy là con chuồn chuồn. Có tức là không, không tức là có, có tức là có-chẳng-có, không tức là không-chẳng-không, ấy là con chuồn chuồn. Ăn nói tục tĩu, ấy là con chuồn chuồn. Vì tục mà nên tiên, vì tiên mà nên tục, ấy là con chuồn chuồn. Tối-huyễn cố tối-chân, tối-chân cố tối-huyễn, tối-huyễn thị bất-tối-huyễn, tối-chân thị phi-tối-chân-đích-tối-chân, ấy là con chuôn chuồn..." (Ngày tháng ngao du, trang 81, 82)
*
Đến đây, tưởng Bùi Giáng trình bày về thơ ông đã rõ ràng đầy đủ.
Về việc chọn trích thơ ông, tôi cũng theo sát sự hướng dẫn của ông, tức chọn hai bài thí dụ về thơ chuồn chuồn châu chấu: bài "Giữa phố" và bài "Bóng dương buồn ngủ". Ngoài ra, xin thêm mấy bài nữa. Cũng là thơ chuồn chuồn châu chấu, cố nhiên, nhưng tần mần ngắm nghía hồi lâu, xem chừng có tướng mạo đại bàng cũng nên.
3.1993
Nguồn: Võ Phiến: Văn học miền Nam- Thơ, Nxb Văn Nghệ, California 1999, tr. 2818-2821
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 6:25:50 GMT 9
Phạm Xuân Đài Kẻ cuồng sĩ trong vuờn cây Hiện nay có lẽ không có một người nào trong giới văn nghệ trước đây ở miền Nam -và có lẽ cả nước- được yêu mến như Bùi Giáng. Những ai từng sống trong không khí văn nghệ ấy, bây giờ sau khi trải qua thực sự một cuộc bể dâu, dù ở trong nước hay ra nước ngoài đều nhớ tới anh như một đám xanh tươi duy nhất còn sót lại giữa một vùng đã bị sa mạc hóa cằn khô. Có điều lạ là trong những người yêu mến và kính phục Bùi Giáng ấy không ít người chưa từng đọc thơ hoặc bất cứ thứ gì anh viết hoặc đã đọc nhưng vị tất đã hiểu. Không cần. Anh có một ma lực tự nhiên của đấng tài hoa, và ảnh hưởng của anh trong cõi tinh thần của một số đông người là có thực.
Cuộc sống của anh tại Sài Gòn hiện nay là của một cuồng sĩ, khi thì thu mình trong túp lều của anh tại một khu vườn bên Gia Ðịnh, khi thì lang thang vô định trong cơn điên. Những cơn điên như là dưỡng chất cho cuộc sống và đặc tính của anh, nó làm cho anh bùng cháy lên, phát tiết một cách thê thảm những gì có trong anh, sống với anh, là chính anh, mà anh không nói ra được. Ngôn ngữ đời thường bất lực. Chỉ có thơ và những cơn điên. Thơ Bùi Giáng tung hoành bên trên lề thói thi ca, cũng như ngôn ngữ và cử chỉ điên khùng vượt ra khỏi khung khổ của cuộc sống xã hội. Bây giờ anh ít làm thơ lắm, còn các cơn điên thì viếng anh gần như định kỳ. Những lúc ấy anh đi nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện vùng chợ Trương Minh Giảng (chỗ Ðại Học Vạn Hạnh là nơi ngày xưa anh từng trú ngụ), đứng giữa đường vung tay điều khiển xe cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt là đôi mắt sáng quắc bừng bừng. Anh đang thể hiện một năng lực nào đấy đầy ắp trong người anh. Có khi anh múa may trong một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh mẽ chính xác gần như múa võ, miệng hò hét như đang nạt nộ với một đối tượng vô hình đang hiện diện ngay trước mặt mình. Ðêm khuya một hai giờ sáng người ta nghe thấy một người vừa đi vừa tranh luận với chính mình, lời lẽ khó hiểu, thì ai nấy đều biết đó là Bùi Giáng. Chỉ có các em nhỏ là im thin thít. Ðối với chúng, "ông Bùi Giáng" là ông ba bị thực sự hiện diện trên cõi đời này. Gầy gò, dơ bẩn, tóc hoa râm có khi dài chấm vai, quần áo tả tơi, hay múa may la hét, đôi mắt sáng rực một cách ma quái sau cặp kính trắng, tất cả thành viên các nhà trẻ vùng chợ Trương Minh Giảng đều thất kinh với hình ảnh ấy. Hình như nhà nào ở khu vực này cũng biết dọa con nít khóc nhè bằng câu "Ông Bùi Giáng đó, nín đi" và câu dọa có hiệu lực tức thì. Nhưng nhiều người lớn khi nói câu ấy thì cảm thấy một nỗi xót xa vô hạn, thương cho một người mà họ biết trí thức và tài hoa, nhưng định mệnh đã buộc anh phải tự thể hiện một cách dữ dội và khác thường như thế. Chính Bùi Giáng sau những cơn điên đều kiệt sức vì đã phung phí năng lực quá nhiều, anh nằm im trong một thời gian, tinh thần tỉnh táo nhưng suy sụp và cảm thấy một nỗi buồn vô bờ bến.
Bùi Giáng sinh năm 1926, con cháu họ Bùi là một tộc lớn gốc ở Vĩnh Trinh, tỉnh Quảng Nam. Năm 1945, anh đang ở độ tuổi hai mươi, vừa đậu tú tài, kết thúc thời kỳ đi học tại Huế. Anh về quê, và trong khung cảnh "lúc kháng chiến xa nhà biệt ly đời gấm hoa," anh bắt đầu cuộc đời chăn bò, chăn dê ở khắp các miền núi rừng, và có lẽ trong chính thời kỳ này anh bắt đầu đi vào thế giới thi ca.
Anh lùa bò vào đồi sim trái chín Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim ... Cây lá bốn bên song song từng lứa Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn Hạnh phúc với trời đất mang mang Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ.
Cuộc đình chiến năm 1954 là một vận hội đối với anh. Sài Gòn, thủ đô thời ấy, đang chuyển mình để thành một trung tâm chính trị văn hóa kinh tế lớn, cùng với cuộc di cư của đồng bào miền Bắc, bao nhiêu tinh hoa của cả miền Nam đang dồn về đây. Các trường đại học được thành lập, không khí văn hóa khởi sắc trước một vận hội mới. Bùi Giáng đến Sài Gòn, hòa nhập ngay vào không khí ấy. Sau chín năm cắt đứt với học vấn đích thực để thả hồn trong đồi sim với bầy bò hoặc sống "Nỗi lòng Tô Vũ" cạnh bầy dê, giờ đây Bùi Giáng trở lại với chữ nghĩa. Thoạt đầu, anh đến với Ðại Học Văn Khoa, nhưng rồi anh tự học. Anh đọc rộng về triết học và văn học, thậm chí tự học tiếng Ðức để có thể đọc nguyên văn các tác giả Ðức, đi dạy Việt Văn, viết sách giảng luận về văn học (các luận đề văn chương), về triết học (Tư Tưởng Hiện Ðại 1962; Heidegger và Tư Tưởng Hiện Ðại I, II - 1963...) dịch sách và viết văn, làm thơ (Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn, xuất bản trong các năm 1962, 63). Nghe nói có thời gian anh vẽ tranh. Ðó là một con người sung mãn sáng tạo. Các bản dịch của anh dù là triết học hay văn học đều là các sáng tạo đẹp đẽ để nuôi sống được tinh thần nguyên bản. Trong vòng hai mươi năm (1955-1975) Bùi Giáng đã tạo nên một văn nghiệp đồ sộ, và cũng trong thời gian ấy, lúc nhặt lúc thưa, khi nặng khi nhẹ, các cơn điên vẫn đến với anh. Anh không có gia đình.
Từ sau năm 1975, cuộc sống của Bùi Giáng suy sụp xuống một bực, các cơn điên có vẻ mạnh và thường xuyên hơn. Trong vòng đùm bọc của bà con, anh được cư ngụ trong một căn lều nhỏ làm riêng cho anh giữa một khu vườn đầy cây lá. Chỗ ở thích hợp với anh lạ lùng. Nó như một cái am của ẩn sĩ, như "túp lều lý tưởng" cho một nhà thơ, lại cũng là nơi nương náu đầy may mắn của một kẻ không vợ không con không sản nghiệp. Ở đấy anh được yên tĩnh và tự do. Cái góc xanh tươi kín đáo ấy giữa đất Sài Gòn hỗn độn sau 75 là một món quà đặc biệt mà số phận dành cho một kẻ tài hoa lận đận nhưng rõ ràng là cũng có phước có phần.
Cái ông già gầy gò ngoài sáu mươi ấy lấy đâu ra sức lực để trải qua các cơn điên dữ dội của mình? Ðấy là một điều bí ẩn. Ði lang thang hàng chục cây số bất kể nắng mưa, múa may la hét suốt mấy ngày liền, kẻ lực sĩ chưa chắc đã làm được. Hay là anh được "tiếp dẫn" một lực nào từ bên ngoài? Nhìn anh lúc giữa "cơn" sẽ thấy rõ ràng một mãnh lực trào dâng không thể kềm chế, đôi mắt lấp lánh vừa điên dại vừa thông minh như muốn nói nhiều điều, như đã hiểu thấu nhiều điều. Những giây phút thăng hoa cực điểm. Giây phút một con người có thể thành thần.
Bây giờ Bùi Giáng không bao giờ nói về những gì mình đã trước tác. Với anh những cái đó hình như chỉ có giá trị khi anh đang sáng tạo ra chúng. Xong rồi, quên rồi. Anh là một khối tinh thần đang chuyển hóa chứ không phải là một tác giả thỏa mãn với một sự nghiệp. Nay lo tái bản cuốn này, mai được mời thuyết trình về cuốn kia, anh hoàn toàn chẳng biết một tí gì về những điều như thế. Nếu nói là nói cái bây giờ, mặc dù đó có thể là điều rất cũ nhưng nó phải đang tươi roi rói trong tâm thức của anh. Ðó là chỗ Bùi Giáng rất khác chúng ta, những "người phàm," được hiểu là những con người bám chặt lấy đời sống xã hội với tất cả các hệ lụy của nó. Anh không có gia đình nên chẳng bận tâm về vợ con; không có của cải riêng nên chẳng bận tâm chuyện mất còn; không màng tới địa vị danh vọng (dù là trong văn giới) nên chẳng khổ tâm chuyện hơn thua. Phải chăng như thế anh đã có được các điều kiện căn bản của một bậc chân tu? Bao nhiêu người thực sự thoát khỏi tham sân si như anh? Tinh thần, đời sống, văn thơ anh là một khối không phân biệt, anh đạt đến chỗ nhất quán một cách hồn nhiên. Không biết đó có phải là trạng thái của các bậc hiền triết thời xưa khi tất cả sự sống là một nguyên khối chưa đi vào thế giới ý niệm chẻ nhỏ mọi thứ ra khiến xã hội loài người vừa văn minh vừa điêu đứng? Bùi Giáng hay nói về cõi "lãng đãng phiêu bồng," phải chăng muốn diễn đạt một cách tương đối cái chỗ ngọn nguồn ấy? Trong thơ của anh Bùi Giáng cũng hay dùng hai chữ "cố quận".
Ðất hoa khóc vĩnh biệt người Ngàn cây cố quận đổi lời sương thâu.
Người đọc dần dần cảm thấy cố quận không còn là một thực thể địa lý của một thời đã qua mà chính là một vùng tâm thức xa xưa nào đấy trong ý thức tập thể của loài người. Ðây là một hình tượng gợi cảm rất Việt Nam bên cạnh các "tro tàn Hy Lạp," "ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu" v.v... rất tân kỳ của anh. Cố quận ở nẻo mù khơi nào? Có phải như Huy Cận đã viết:
Tâm tình một nẻo quê chung Người về cố quận muôn trùng ta đi.
nẻo quê chung, cố quận, luôn luôn là một nỗi niềm trong thâm sâu mỗi chúng ta?
Có lẽ vì tinh thần không vương hệ lụy, thơ của Bùi Giáng tràn đầy một loại ngôn ngữ tài hoa, bình dị, táo bạo, bất ngờ. Ðôi khi như là lời lẽ dân gian nhưng mang tính chất cực kỳ bác học. Ðôi khi như một lời văng tục nhưng lại cực kỳ tài hoa. Và nhất là không theo một đường mòn nào cả. Mỗi câu thơ Bùi Giáng là một lối lạ mới phá nhưng luôn luôn mang đầy đủ bản sắc của anh. Trong tâm thức lãng đãng phiêu bồng, anh nói ra những ngữ, những điệu thuộc về thế giới của anh. Anh xa lạ với những diễn dịch của trí tuệ, lý luận chẻ sợi tóc làm tư của cung cách học giả. Lời thơ của anh lắm khi kỳ lạ đối với chúng ta, nhưng chúng ta luôn luôn thích thú với sự tập hợp chữ nghĩa ấy, vì thấy nó "hay", gần giống như khi đọc âm chữ Hán một bài thơ Ðường, có khi không hiểu hết nghĩa nhưng tâm hồn vẫn bàng bạc một nỗi cảm hoài. Có thể thơ Bùi Giáng nói được đôi điều rất chân thật với tâm hồn ta, và ta được hưởng ít giây phút sung sướng phiêu bồng mà hầu hết chúng ta đã đánh mất, đã rời quá xa trong cuộc sống đầy phân chia đến chỗ cằn cỗi này. Ta có thể chia sẻ chút nào chăng trong các câu thơ Bùi Giáng viết đã lâu rồi để tự giới thiệu mình:
Hỏi tên rằng biển xanh dâu Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa Gọi tên rằng một hai ba Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
Ngày nay, một cách đùa cợt cho mình là đười ươi, kiểu cách khác hẳn xưa, nhưng điều anh muốn nói hình như không khác:
Hoặc rằng người cũng là tôi Hay là tôi cũng là tôi như người Ấy rằng tinh thể đười ươi Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và Ấy rằng một cũng là ba Là hai mai một mốt là hôm nay...
Bùi Giáng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nguyễn Du và truyện Kiều. Nguyễn Du và truyện Kiều đã hóa thân vào anh. Ngôn ngữ Nguyễn Du đã biến thành ngôn ngữ của anh tự nhiên như thức ăn biến thành sự sống của sinh vật. Anh gọi Terre Des Hommes của Saint Exupéry là Cõi Người Ta, tài tình đến sửng sốt nhưng lại tự nhiên như dùng một tiếng Việt vốn có từ nghìn xưa. Không phải là anh "lẩy Kiều" mà là tạo ra một "ngôn ngữ Kiều." Khắp mọi nơi trong thơ anh, ngôn ngữ ấy luôn luôn lãng đãng như gần như xa:
Chiêm bao hội thoại ngân dài Ý trong tờ mộng nhớ ngày Việt Nam
Trăng Gò Vấp sương Ða Kao Huệ lan sực nức niềm khao khát chờ Tưởng bây giờ là bao giờ Sát na niệm tưởng chép thơ tặng người...
Dấu bèo phong vận nguy nga Sống phơi trường mộng đầu hoa cuối cành Dập dìu quân nhạc đại doanh Ngàn thu rớt hột thập thành trở cơn.
Về sau chẳng biết vân mồng Ra sao thế nọ phiêu bồng thế kia...
Gần đây một hôm đang trò chuyện với vài người bạn trong khu vườn cây, đột nhiên anh la lớn: "Nguyễn Du đâu phải như Trần Trọng Kim 'phân tích', vẽ ra cuộc đời Kiều để nhằm gởi gắm tâm sự này nọ của mình! Nguyễn Du khác hơn nhiều, không phải như thế, không phải như thế!" Tuy anh không nói rõ về Nguyễn Du là như thế nào -thời gian sau này ít khi anh nói mọi điều một cách khúc chiết- nhưng qua mạch câu chuyện cùng là nhìn anh và nghe anh trong lúc ấy, người đối diện phải hiểu rằng theo anh, Nguyễn Du đâu có bận tâm về những chuyện biện minh cho mình về chuyện thị phi ở đời như trung với triều đại hay làm quan với triều đại khác, Nguyễn Du vượt xa cao hơn những cái đó, muốn trình với đời nỗi đau khổ của con người trong thiên thu. Nỗi đau như là bản chất vĩnh viễn của cuộc sống, của vô minh nhưng được miêu tả trong thân phận một con người và một hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể. Cũng cụ thể như những cảnh sinh, lão, bệnh, tử mà thái tử Tất Ðạt Ða chứng kiến trong những lần du hành của mình để làm khởi điểm cho một chứng nghiệm cứu đời vĩ đại. Rõ ràng tác phẩm Nguyễn Du cũng là một phơi bày như thế, một đánh động thê thiết đầy nhân bản về thân phận con người, đồng thời cũng hé lộ cho thấy khả năng đầy lạc quan của nó. (Tìm cách diễn dịch Bùi Giáng như thế có thể là... liều mạng, nhưng biết sao, đành phải cố gắng "hiểu" anh với khả năng trí óc và ngôn ngữ hạn chế đời thường của mình thôi).
Người đọc Bùi Giáng trước năm 1975 tất nhiên rất quen thuộc với các "nhân vật nữ" của anh: Kim Cương, Marilyn Monroe, Phùng Khánh..., toàn là những nhân vật có thật của đương thời. Tuy thật nhưng họ hiện diện trong văn thơ anh, như một hư cấu, như một tượng trưng. Tuy được nhắc đến lúc nào cũng như với chút bông đùa, cái mà họ tượng trưng lại vô cùng nghiêm trang: mẫu thân, mẹ. Phải chăng Bùi Giáng muốn nhắc đến cái nguyên lý sinh sôi và êm dịu -yếu tố Nữ- vốn có trong trời đất qua tên những người đàn bà quen thuộc nổi tiếng ấy? Nhưng đây là thuộc phạm vi tư tưởng. Từ sau năm 1975 thơ anh có nhắc đến một người đàn bà khác nhưng với một cung cách khác hẳn. Không bông đùa mà thân mật. Không tượng trưng mà đầy cảm mến. Và vẫn bàng bạc một tâm tư sùng bái như trước kia.
Tâm tùy thị hiện sát na Căn do Hoàng thị đầu hoa Chiên Ðàn Cội trồng ánh ngọc cưu mang Tờ rung Hoa Tạng dư vang vô ngần.
Hoàng thị... Ðó là một người có thật, trong họ hàng bên ngoại mà Bùi Giáng gọi bằng dì (nhưng tuổi nhỏ hơn Bùi Giáng ít nhất một giáp). Cũng vốn là giòng dõi thi văn, người dì từ lâu đã lấy làm khâm phục ông cháu tài hoa họ Bùi, và nhà thơ của chúng ta, trong những cơn vật vã sau 1975, luôn luôn nhắc đến người dì một cách trìu mến. Ðây lại là một "nhân vật nữ" nữa của Bùi Giáng, nhưng nhờ sự gần gũi họ hàng, nhờ sự chăm nom thăm hỏi từ xa của người dì, nhân vật nữ này trong thơ Bùi Giáng không thăng hoa để thành một tượng trưng của ý niệm triết học mà lại thành một tình thương mến pha nhiều màu sắc trân trọng nặng tính chất đời thường.
Giữ ngọc gìn vàng trân trọng chút Nghìn thu cổ lục sẽ mai sau Hoàng Trang Thy Thỵ còn vang mãi Cùng điểm quần thoa điểm điểm màu
Ân lộc nghìn kho lả lướt chào Chùm chùm xuân sắc hộ xuân trao Hồ Hương Ðoàn Ðiểm Thanh Quan huyện Cùng xiết bao quần cân quắc cao.
Rõ ràng phong cách thơ Bùi Giáng bỗng chững chạc lại trước dì Trang. Hình như đã lâu lắm thơ anh phóng túng như một chàng đãng tử không nhà, bỗng trở nên lễ giáo như một thời nào trẻ trung chàng còn đang vòng kèm cặp của nghiêm đường. Người dì đã làm nhà thơ nhớ lại nếp xưa? Ta hãy đọc bài Hoàng Hoa Giữa Phố mà tác giả làm để riêng tặng dì Trang, để thấy thêm một chút phong cách xưa của anh:
(Màu con mắt bên mùa xuân xiêu đổ Ở bên kia nhìn ngó lại bên này Gió lắt lay bốn phương về dồn tụ Bụi thu mờ ai phủi với hai tay)
Hoàng Hoa phố chợ niệm tình Chép câu ủy tạ chưa đành bởi đâu Hoàng Hoa Phố Thị hương màu Ði thiêm thiếp cõi mai sau lạ lùng Hoàng hoa tinh thể não nùng Từ mai hậu với vô cùng Hôm Nay (Kính tặng Dì Trang)
Và bài Tưởng Niệm, cảm hứng từ một câu thơ của dì Trang:
"Mừng mãi chưa quên nỗi bẽ bàng" (Hoàng Trang Thị)
Chim xa cất cánh bay vù Nhớ Lâm Tuyền Mộng đất phù du hoa (Hồi sinh hồng lệ trao quà Từ bình nguyên rộng lại nhà thăm nhau) (Em về mấy thế kỷ sau) Ngồi bên gốc cây Ngủ trên ngọn sóng Ði giữa trời mây Tần ngần nghe ngóng (Buồn vui như thể thân mình Ai chia nửa máu ai giành nửa xương)
Cũng trong khu vườn ấy, một lần Bùi Giáng kể: "Khi ta còn nhỏ, khoảng bốn năm tuổi, mỗi khi mẹ đi vắng, ta nhớ ghê lắm, ngồi một mình đầu hè trông ngóng mẹ về. Nhưng khi mẹ ta về, bà không ngó tới ta, mà chạy thẳng vào nhà ôm lấy thằng em của ta!..."
Trong Bùi Giáng, niềm khát khao Mẹ không lúc nào vơi, dù là lúc còn thơ hay khi tóc đã bạc. Dù niềm khao khát có thể thăng hoa thành nguyên lý Mẹ phổ quát, nhưng trong đời sống của anh lúc nào cũng cần có những "mẫu thân" nâng đỡ suốt đường đi. Dù các mẫu thân ấy có thực một cách hư cấu hay hư cấu một cách rất thực, thì vẫn là một niềm an ủi êm dịu cho tâm hồn dằng dặc khao khát vỗ về của nhà thơ.
Bùi Giáng như một ngọn lửa cháy liên tục mấy mươi năm nay trong thế giới thơ ca -của anh và của chúng ta. Ngọn lửa có khi thu lại thành một đốm nhỏ, có khi bùng lên dữ dội, có khi bị gió bão lắt lay, nhưng vẫn là nguyên một ngọn lửa ấy từ đầu cho đến bây giờ. Anh không bao giờ tự phủ nhận mình để bắt đầu lại từ đầu -nghĩa là tắt ngọn lửa của mình đi để thắp lên một ngọn theo kiểu khác hẳn. Anh cũng thoát khỏi các hệ lụy của đời thường để không lâm vào cảnh lúng túng hoặc đối đầu khi hoàn cảnh hoàn toàn thay đổi. Ở giữa đời mà quả thực anh không dính dáng với cõi trần. Nếu đừng hiểu chữ ung dung tự tại một cách quá chặt chẽ thì quả là anh đã đạt tình trạng ấy, theo kiểu của anh. Trước sau anh nguyên vẹn. Có thi nhân nào của Việt Nam trải mấy mươi năm qua mà được như anh? Sau tháng Tư 1975, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư... vào Nam trưng thơ tình của mình ra trong cung cách làm công tác để chứng tỏ rằng trong chế độ của họ thứ hàng nào cũng được sản xuất cả. Họ đã trưng một ít hàng-mẫu-không-bao-giờ-bán của một cơ cấu sản xuất toàn là quốc doanh. Quần chúng miền Nam cảm thấy một bãi khô cằn mênh mông. Giữa sa mạc với những viên đá đen đúa lăn lóc, Bùi Giáng trở thành một ốc đảo xanh tươi mát rượi, ốc đảo duy nhất còn lại giữa một miền Nam cháy da sau khi "thằng bán tơ kia dở dói ra" đủ các trò ma mãnh để đổ vào khuôn tất cả mọi sinh hoạt tinh thần. Anh càng lang thang, càng lên cơn điên dữ dội, càng điêu linh tàn tạ, nhưng cùng lúc anh đang đóng vai trò của một sứ đồ tự do, bản thân anh là một bài ca đầy cảm hứng cho nỗi khát khao tinh thần tự do của xã hội. Anh thành một chỗ tựa cho bạn bè cũ và một sức mạnh cảm hóa đối với người mới đến. Anh tượng trưng cho sự "ngoài vòng cương tỏa" mà người văn nghệ chân chính nào cũng thèm muốn. Ngọn lửa của anh được giữ cháy liên tục là biểu tượng cho một truyền thống tinh thần không bị đứt. Ngọn lửa ấy không phải cháy do một thứ nhiên liệu trần thế nào nên các sức mạnh trần thế không dập tắt nó được. Anh như là một loại người nhà trời xuống để giúp con người ra khỏi được tai họa do chính sự dại dột của nó gây ra. Anh không có và không cần hào khí của một dũng sĩ rút gươm đương cự với con chằn tinh gian ác. Nơi anh không có sự phân biệt ta và nó. Chỉ là một khối tinh thần vật chất lãng đãng phiêu bồng.
Nhưng tất cả chúng ta luôn luôn cần và biết ơn cái lãng đãng phiêu bồng ấy.
Saigon 21-6-1992 (Giao Điểm, 1992)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 6:27:18 GMT 9
Nguyễn Hưng Quốc Cuộc hoà giải vô tận: Trường hợp Bùi Giáng Khi viết về thơ ở miền Nam trước 1975 cũng như thơ trong nước sau 1975, tôi ít nhắc đến Bùi Giáng. [1] Không phải vì tôi đánh giá ông thấp. Ngược lại. Tôi đồng ý với Mai Thảo: Bùi Giáng là một tài thơ trác tuyệt. "Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời". [2] Càng đọc Bùi Giáng, tôi càng thấy ông lạ lùng. Con người ông lạ lùng: nói như Thanh Tâm Tuyền, qua lời kể của Mai Thảo, Bùi Giáng là người "ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ". [3] Thơ ông càng lạ lùng, lạ lùng đến nỗi ai cũng ngại ngùng khi viết về ông. Kể chuyện về ông: có; nhưng phê bình thơ ông: chưa.
Có lần, Thanh Tâm Tuyền gọi Bùi Giáng là "một thiên tài tự huỷ ghê gớm nhất của thi ca Việt Nam hiện đại' và là 'một hồn thơ bị vây khốn". [4] Bị vây khốn bởi cái gì? Theo tôi, Bùi Giáng bị vây khốn, trước hết, bởi những hoài nghi, những dằn vặt. Thì một số khá đông các nhà thơ khác ở miền Nam thời kỳ 1954-75 cũng hoài nghi, cũng dằn vặt. Song, có điều, không ai sống đến tận cùng sự hoài nghi, sự dằn vặt như là Bùi Giáng. Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ hoả diệm sơn của hồn ông. Nhưng khác các nhà thơ khác, Bùi Giáng lại nguỵ trang thảm kịch của mình bằng một giọng cợt nhã, bông đùa. Trong một bài viết về Hàn Mặc Tử, sau khi ghi nhận thơ Hàn Mặc Tử là 'một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn', Bùi Giáng nhắc đến thơ của chính ông, như một sự so sánh:
Thơ tôi làm... là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm hoạ trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử chăn trâu không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao. [5]
Có dìu ba đào về chân trời nào khác thì ba đào vẫn cứ là ba đào, động biển vẫn cứ là động biển. Bay đi đâu cánh chuồn chuồn của Bùi Giáng cũng gặp giông bão. Giông bão dậy lên, trước hết, từ đôi cánh của nó: ngôn ngữ. Đã đành, làm thơ, ai cũng chú trọng đến ngôn ngữ. Song tôi có cảm tưởng ít có ai bị ám ảnh bởi vấn đề ngôn ngữ một cách nặng nề, triền miên như Bùi Giáng. Chữ 'ngôn ngữ' thường xuyên xuất hiện trong thơ ông, đặc biệt trong hai tập thơ mới xuất bản ở hải ngoại sau 1975, [6] ở đó, câu 'Đường qua ngôn ngữ tuyệt trù', 'Đường qua ngôn ngữ điệp trùng' và 'Đường qua ngôn ngữ cuối cùng' được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau. Hãy để ý đến nhóm từ 'đường qua ngôn ngữ': với Bùi Giáng, dường như công việc làm thơ chủ yếu là một cuộc hành trình vượt qua ngọn đèo cheo leo của ngôn ngữ trước khi là bất cứ một cái gì khác. Ngọn đèo ấy không những cheo leo mà còn mù mịt, thăm thẳm. Phần lớn các câu thơ kế tiếp mấy câu vừa dẫn đều là bóng đêm ('Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm'; 'Mừng xuân viễn vọng đêm lừng lẫy đêm'; 'Mừng xuân viễn tuyệt đêm từng từng đêm'). Xuân, ừ, thì xuân. Nhưng đêm vẫn mịt mùng đêm. Đêm vô tận. Ngôn ngữ không làm cho bóng đêm ấy tan biến. Trái lại.
Chấm ngòi bút sắt se vào mực Viết ra câu thúc giục sương mù
(Mùa xuân chiêm bao)
Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dù nhận chân được vị thế hẩm hiu của nhà thơ trong xã hội, vẫn tin tưởng vào ngôn ngữ và vẫn tự hào về công việc sáng tạo của mình, nói như Thanh Tâm Tuyền, 'cuộc hành trình hoàn toàn cô độc' trên một 'con đường chưa ai tới', [7] Bùi Giáng, ngược lại, tuy vẫn làm thơ, hơn nữa, còn làm thơ cực kỳ nhiều, nhiều hơn bất cứ một người nào khác, lại có vẻ rất coi thường cái việc làm thơ ấy và chắc chắn là không mấy tin tưởng vào khả năng thể hiện của ngôn ngữ:
Người điên ngôn ngữ điệp trùng Dở chừng như mộng dở chừng như mê Thưa em ngôn ngữ quặt què Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên
(Người điên)
Trong quyển Mùa thu trong thi ca, Bùi Giáng viết:
một hôm mai thảo bảo rằng làm thơ bê bối sao bằng đi rong phố phường mọc cỏ quanh năm
(Sa mạc phát tiết)
Có người đọc câu thơ thấy đâm ra bực mình hỏi: 'Phố phường đâu có cỏ nào mọc! Thằng thi sĩ ăn nói tầm phào, sai sự thật!' Ấy thế là người ta cưỡng bức thi ca một cách không chính đáng. Và trầm trọng hơn nữa, người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể nói ra được sự thật. Tưởng chừng như người ta chẳng bao giờ suy gẫm về Kim Cương Kinh. Thế gian ngôn ngữ phi chân kinh. [8]
Ngôn ngữ không những quặt què, không những không nói ra được sự thật mà, hơn nữa, trong thời hiện đại, đặc biệt, khi cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản - Cộng sản đang gay gắt, khi cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam đang ác liệt, khi vấn đề thắng bại không những được quyết định ngoài chiến trường mà còn trên các bàn hội nghị quốc tế, ngôn ngữ còn có tác dụng ngược lại: nó che giấu sự thật và, thay vì đem lại sự cảm thông giữa loài người, nó lại làm cho con người ngộ nhận lẫn nhau, thù ghét lẫn nhau, say sưa chém giết lẫn nhau. Đó là lý do tại sao Bùi Giáng lại
Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ Mỹ Thọ muôn đời là Lục Tỉnh hôm nay Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng Gọi người sương phụ gái thơ ngây
(Lẫn lộn lung tung)
Bùi Giáng xáo trộn chữ nghĩa để nói lên một sự thật: ngôn ngữ đang bị xáo trộn, đang bị tha hoá. Bùi Giáng gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ, Mỹ Thọ, người ta cho là hài hước hoặc điên khùng, nhưng chẳng phải là trong cuộc sống người ta đã không từng gọi một kẻ bán nước là yêu nước, một kẻ giết người như ngoé là nhân đạo, một kẻ bắn súng vào anh em vào đồng bào vào đồng loại vì một thiên đường không tưởng nào đó là cách mạng đó ư? Chẳng phải là người ta đã không từng gọi nhà tù là trại học tập, độc tài là tập trung dân chủ, sự ngu đần là đỉnh cao trí tuệ, khố xanh khố đỏ là quốc gia, thái độ khom lưng trước ngoại bang là biểu hiện của tinh thần dân tộc đó ư? Thử thế chữ Mỹ Tho bằng bất cứ chữ nào trong từ điển chính trị Việt Nam hiện đại người ta sẽ thấy ngay cái điều mà Ionesco từng nói: 'một nền văn minh của ngôn ngữ là một nền văn minh quẩn trí, hỗn độn'. [9] Ngôn ngữ mất linh hồn. Ngôn ngữ xác xơ, rách mướp, tơi tả. Nhiều người thuộc loại nhạy cảm nhất trong thời đại chúng ta đã thất vọng não nề. Sự thất vọng ấy, ở Tây phương, dẫn đến sự im lặng của một số người cầm bút, sự ra đời của loại kịch không lời; ở Bùi Giáng, tạo ra những vần thơ đại loại thế này:
- ... Một hai hai một di hài Dài hy hữu mộng an bài chẩm ma Chả xin? Chả hỏi? Vịt gà? Và thân thể máu me và thịt xương... - Ma đên ỳ nẽ ô mà Xơ tin ô đố đâu là đến đây Xền nô đô thí xi đầy Xè rê tê nến ngọn lầy lội cơn A tin a tỷ oan hồn Vong lưu lỳ lẫy cung đờn cợt trêu Người ôi ô ướt dấu bèo Ồ thôi thế vậy thu vèo sang thu Lừng bay thân thế pha mù Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân
(Đạm Tiên)
Gắn liền với sự hoài nghi ngôn ngữ là sự hoài nghi lý trí. Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dù hoài nghi lý trí, luôn luôn khắc khoải tìm kiếm sự thật, với niềm tin, dù mơ hồ và mong manh, là sự thật ấy có, đâu đó, sẽ gặp được, một ngày, Bùi Giáng, ngược lại, tuy dịch và viết khá nhiều tác phẩm về triết học hiện đại Tây phương, lại hoàn toàn phủ nhận đầu óc duy lý của Tây phương, hoàn toàn mất niềm tin với mọi cái gọi là chân lý. Cuộc đời, với Bùi Giáng, là chuỗi dài những nghi vấn và phẫn nộ:
Đi vào giữa cuộc thị phi Nửa tam bành tới nửa nghi vấn về
(Y ư mộng, du ư mê)
Làm thơ, với Bùi Giáng, là một hành động phản kháng, phản loạn. Như Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
Sao bằng riêng một biên thuỳ Cõi điên vũ trụ tuỳ nghi tung hoành Xiết bao vô ngại ngọn ngành Chọc trời khuấy nước tan tành thịt xương Ấy như thể, ấy như dường Đi vô tận ý đi đường chơn không Đi mây gió đi phiêu bồng Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi Đi về thể lệ lâm ly Đi đi suốt cõi lời nghi vấn lời.
(Sao bằng)
Nghi vấn. Lúc nào cũng nghi vấn. Nghi vấn cả lời nói của mình. Bài thơ 'Tặng Mã Giám Sinh' là một bài thơ hay:
Hỏi tên, rằng biển xanh dâu Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa Gọi tên, rằng một hai ba Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.
Tôi đoán là Bùi Giáng rất tâm đắc bài thơ này: nó được in lần đầu trong Mùa thu trong thi ca với tựa là 'Mã Giám Sinh', sau, in lại trong Thơ Bùi Giáng xuất bản tại Canada năm 1990 với sự thay đổi nhỏ: thêm chữ 'tặng' ở tựa đề. Có hay không có chữ 'tặng', thật ra, cũng chả có gì quan trọng. Cũng như mọi cái tựa trong thơ Bùi Giáng: chả có gì là quan trọng. Lười, ông thường nhặt bất cứ từ hay nhóm từ nào trong bài dùng để làm nhan đề. Bài thơ trên được đặt tựa là 'Mã Giám Sinh' hay 'Tặng Mã Giám Sinh' có lẽ để ghi lại xuất xứ một nguồn cảm hứng: nó xuất phát từ mấy câu thơ trong Truyện Kiều có liên quan đến Mã Giám Sinh:
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh, cũng gần.
Trong bài 'Chiều nguyên xuân' in trong tập Mưa nguồn, xuất bản từ năm 1963, Bùi Giáng đã bị ám ảnh bởi vấn đề quê hương:
Hỏi rằng: người ở quê đâu Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà.
Từ 'ở rất lâu quê nhà' đến 'mộng ban đầu đã xa', tư tưởng của Bùi Giáng đã vượt biên, lấn sang một tầm khác. Với một sức oằn khác.
Dẫu sao, ở đây, điều quan trọng nhất là câu cuối cùng: 'đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm'. Mọi sự phân biệt đều bị xoá nhoà. Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng chính là sự xoá nhoà của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay.
Thứ nhất là xoá nhoà những đường biên về giọng điệu. Những ai từng viết lách ít nhiều cũng đều hiểu cái khó nhất đối với người cầm bút là pha trộn giọng điệu, nghĩa là, chẳng hạn, vừa nghiêm túc lại vừa cười cợt, vừa uyên bác lại vừa bình dân, vừa suy tư lại vừa thích thảng. Bùi Giáng vượt qua tất cả những khó khăn ấy một cách nhẹ nhàng. Ví dụ dưới đây, tôi chọn một cách tình cờ:
Hai cô bán phở dịu dàng Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta - Trẫm từ lịch kiếp phôi pha Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng Tình thương ẩn mật từ trong Nội tâm vô tận mà long đong vì Phong tao phấn đại tương nghi Tuỳ thời thể dựng mà tuy nhiên là.
(Tặng quán phở Huyền Trân)
Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy. Mà đây cũng lại là một đặc điểm rất phổ biến trong thơ Bùi Giáng. Nói một cách tóm tắt, thơ ông có hai loại từ vựng: một loại tạm gọi là bác học và một loại tạm gọi là bình dân. Bác học thì như thục nữ, thuyền quyên, cảo thơm, thượng thừa, miên trường, đoạn trường, băng tuyết, thập thành v.v... nghĩa là những từ Hán Việt lâu lắm không còn được sử dụng nữa. Còn bình dân thì như đại ca, Huê Kỵ, Liên Xồn, lai rai, nhậu nhẹt, máu me, số dzách, giấn bước, giấn liều v.v... nghĩa là những khẩu ngữ, còn lấm lem bụi bặm ngoài đường ngoài phố. Cả hai loại đều dễ khiến giới làm thơ chùn tay. Dùng loại trên thì dễ có nguy cơ trở thành sáo, cổ. Dùng loại dưới thì dễ có nguy cơ trở thành nhả nhớt, rẻ tiền. Bùi Giáng hoàn toàn thoát khỏi hai nguy cơ ấy. Hơn nữa, ông còn hoà trộn cả hai loại ngôn ngữ ấy lại với nhau một cách tài tình. Đọc, người ta không hề có chút cảm giác lấn cấn nào. Như một phép mầu.
Gắn liền với sự xoá nhoà trên là một sự xoá nhoà khác: xoá nhoà ranh giới giữa truyền thống và hiện đại. Không phải Bùi Giáng kết hợp truyền thống và hiện đại, như cái điều chúng ta có thể nói về một số nhà thơ khác. Nói đến sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại tức là thừa nhận chúng ta có thể ít nhiều khu biệt đâu là truyền thống và đâu là hiện đại. Ở Bùi Giáng, mọi nỗ lực khu biệt ấy đều trở thành vô vọng. Ở Bùi Giáng, tính chất truyền thống và tính chất hiện đại tan hoà vào với nhau. Là một. Thể thơ ông dùng: cũ; hình tượng ông dựng: cũ; ngôn ngữ ông viết: cũ; thế nhưng, rất lạ, toàn bộ bài thơ của ông thì lại mới, mới như chưa từng có ai viết được như thế. Mới đến độ tôi có cảm tưởng phần lớn những từ, những chữ nào đã được Bùi Giáng sử dụng một lần đều trở thành của riêng của Bùi Giáng, một thứ tài sản của Bùi Giáng, trên đó có dấu ấn của Bùi Giáng; sau đó, ai dùng lại những từ ấy, chúng ta cứ ngờ ngợ ngỡ như họ ăn cắp của Bùi Giáng. Đọc thơ của bất cứ người nào, hễ gặp chữ 'giũ áo', 'rớt hột', 'đười ươi', 'chuồn chuồn', 'châu chấu'... chúng ta hay tri hô lên: Bùi Giáng! Ngay cả một số từ quen thuộc hơn, như 'thập thành', 'máu me', 'lai rai'... chúng ta cũng lại tri hô lên: Bùi Giáng! Trong lịch sử thi ca Việt Nam hiếm có trường hợp nào lạ lùng đến như vậy. Phần lớn, tính chất độc đáo chỉ ở cấp độ bài hoặc cấp độ câu. Ở Bùi Giáng, tính chất độc đáo thể hiện ngay ở đơn vị từ. Với sự xuất hiện của Bùi Giáng, số phận của các nhà thơ đâm ra lao đao hẳn. Khi chọn chữ không khỏi có cảm giác e dè vì sợ dẫm vào dấu chân của Bùi Giáng.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 6:28:10 GMT 9
Thứ ba là sự xoá nhoà ranh giới giữa cái gọi là thơ và cái gọi là phi thơ. Ngổn ngang trong thơ Bùi Giáng những chi tiết ngỡ như không bao giờ thành thơ được, ngỡ như mãi mãi thuộc thế giới của văn xuôi, của tiểu thuyết, của đời thường. Nhớ người yêu, có lẽ ai cũng nhớ như Bùi Giáng nhưng không có ai viết được như Bùi Giáng:
Bây giờ em đứng nơi đâu Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao
(Gửi thôn nữ Vĩnh Trinh)
Bùi Giáng có tài hoá giải những tình thế oái oăm: cái đáng lẽ sàm sỡ, dưới ngòi bút ông, tự nhiên thành thơ mộng, thiết tha, tội nghiệp. Bùi Giáng cũng có tài làm cho những cái lắt nhắt trở thành mênh mang:
Sáng nay bao tử mơ mòng Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia
(Sáng nay)
Tất cả những chi tiết ấy đều tầm thường đến độ nhảm nhí. Đi vào thơ Bùi Giáng, tự dưng chúng lại có một âm vang gì rất lạ, rất xa, tưởng như không còn là chuyện 'cà phê'' hay 'cháo lòng' nữa. Một nỗi phân vân giữa cuộc đời, chẳng hạn. Một niềm xót xa trong cảnh khốn cùng, chẳng hạn. Bùi Giáng còn có tài làm cho những cái linh thiêng trở thành bình thường. Những Thượng đế, Phật, thánh hiền... đi vào thơ ông, mất một chút hào quang song bù lại, dường như đẹp hơn. Bùi Giáng làm cho cái đáng kính biến thành cái đáng yêu. Hình tượng ni cô trong thơ ông là một ví dụ. Bùi Giáng cũng lại có tài làm cho cái thô và tục trở thành những cái thơ mộng, xôn xao.
Cuối cùng, thứ tư, tôi tạm gọi là sự xoá nhoà giữa cái lý và cái phi lý. Ít có ai để ý trong thơ Bùi Giáng có đặc điểm này: ông rất thích dùng những từ có tính chất lý luận như 'mặc dù', 'càng... càng', 'vẫn là', 'và', 'vì', 'rằng', 'bởi chưng', 'chỉn e', 'té ra', và đặc biệt, nhiều nhất là từ 'tuy nhiên'... Chắc chắn là không có nhà thơ nào dùng các từ này nhiều bằng ông. Thế nhưng, cách Bùi Giáng sử dụng các liên từ này rất lạ lùng, không giống bất cứ người nào trước ông hoặc sau ông. Xin hãy đọc lại bài 'Tặng quán phở Huyền Trân' dẫn ở trên, và hãy chú ý đến ba câu cuối cùng: chữ 'vì' và chữ 'là' đứng hết sức lửng lơ. Chúng không nối kết cái gì cả. Chúng cũng không giải thích cái gì cả. Chúng hoàn toàn trái ngược mọi luật lệ ngữ pháp. Chúng thường xuất hiện ở những vị trí thật bất ngờ: ở cuối câu, thường là câu cuối bài:
- Em về - nhà cửa nhỏ nhoi Buồn rầu khôn xiết em soi gương và...
(Em đi) - Nối đuôi khởi sự từ đầu Ví dù kết thúc trước sau vẫn là.
(Vẫn là là) - Bá phương phảng phất rồi ra Mùi hương xa vắng càng xa xôi càng
(Băng tâm) - Mai sau dù có đi về Xin nhìn gió rụng ngành tre thưa rằng.
(Em về)
Một điều vừa thú vị vừa khó hiểu là: người đọc thơ Bùi Giáng lại ít chú ý, không bị giật mình vì những cách dùng từ, đặt câu ngược ngạo như vậy. Mà, ở những trường hợp này, Bùi Giáng đều cố tình cả. Một mặt, tần số xuất hiện của những kiểu câu như thế ê hề; mặt khác, nhiều lúc Bùi Giáng đem những liên từ lý luận ra đùa nghịch:
- Nếu và nhưng vẫn ắt rằng Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia Và nhưng tuy dẫu là chia Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn
(Tuy nhiên) - Tuy nhiên đất quạnh sơn hà Còn tuy nhiên mãi hoạ là nhiên tuy
(Ích dụng hung sự) - Mầng răng ra rứa ví dù Mầng ri thế nọ tịt mù thế kia.
(Mỗi ngày)
Một lần, Bùi Giáng giải thích:
Dù sao, tôi nói dù sao, bởi vì thiên hạ vốn ưa thích dù sao. Cho có mạch lạc. Chứ thật tình tôi chẳng rõ sao gọi là mạch lạc liên tục ngụ trong tính tình của ngôn ngữ dù sao dao sù. [10]
Cách phân tích như trên khá nguy hiểm: nó dễ làm cho người ta có cảm tưởng thơ Bùi Giáng là một cái gì tĩnh tại và cố định. Thật ra, không phải. Theo dõi thơ Bùi Giáng chúng ta sẽ nhận ra ông thay đổi không ít. Tập Mưa nguồn xuất bản năm 1962 rất trong sáng; từ tập Ngàn thu rớt hột (1963) về sau, thơ ông tối tăm hẳn; sau năm 1975, ở hai tập thơ xuất bản tại hải ngoại, thơ ông trong sáng trở lại, nhưng so với Mưa nguồn, đằm hơn, lắng hơn và chín hơn.
Mưa nguồn là niềm nhớ thương đồng ruộng không nguôi:
Viết thơ lạc dấu sai dòng Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong [...] Viết thơ là trở lại bên Con người thôn nữ răng đen hai hàng
(Ca dao)
Sau này, ông vẫn bâng khuâng nhớ đồng quê. Chỉ bâng khuâng thôi. Nghĩa là rất man mác. Có một câu thơ có lẽ ông thích, cứ lặp đi lặp lại rải rác ở nhiều bài thơ khác nhau:
Trông về đồng ruộng đôi khi Thị thành tâm sự hoài nghi trăng tà.
(Gấu buồn)
Nhưng tâm sự chính của ông là nỗi tuyệt vọng về khả năng giao cảm giữa người và người, niềm cay đắng trước một xã hội ngày một đảo điên. Ông hoàn toàn cô độc:
quay về một cõi riêng thôi liệu trong tấc cỏ kiếm trời ba xuân
(Đời rộng đương chìm)
Ông làm thơ cho hư không:
Bây giờ xin ngó cụm cây Chắp hàng viết nốt áng mây về trời
(Bây giờ)
Ông độc thoại:
Ngàn năm độc đối riêng hàng Tờ xanh ứa lệ đẫm trang xuân đầu
(Khởi từ)
Có khi ông im lặng:
Từ đây đổi vịt thay gà Chán chường đến thế là ta ngậm lời
(Nhà ma đi đời)
Sau 1975, cảm giác cay đắng và tuyệt vọng ấy, không hiểu tại sao, dường như nhẹ nhàng đi nhiều. Đời sống ông cơ cực hơn, những cơn điên đến với ông thường xuyên hơn, [11] song thơ của ông lại có vẻ thanh thản hơn. Ông bớt những thắc mắc siêu hình để quan tâm hơn đến khía cạnh cảm xúc, từ đó, nhấn mạnh đến yếu tố tâm hồn, coi đó là nguồn gốc của thơ:
Chợt mùa thơ vội đổi giòng Cỗi nguồn cũng bởi tự lòng mà ra
(Từ bấy tới nay)
Với quan niệm như vậy, thơ không còn là trò đùa nghịch chữ nghĩa nữa mà là một sự bộc bạch tâm sự:
Lời tỉnh táo, lời mê man Điệu thê thiết rống điệu bàng hoàng ca
(Y ư mộng du ư mê)
Do đó, ông khao khát được thông cảm:
Xổ bầu tâm sự điêu linh Ai người chia xẻ với mình với ta
(Một giờ)
Bài 'Bao giờ' in trong tập Thơ Bùi Giáng do Thế Kỷ 21 xuất bản là một bài thơ hay:
Bằng bút chì đen Tôi chép bài thơ Trên tường vôi trắng
Bằng bút chì trắng Tôi chép bài thơ Trên lá lục hồng
Bằng cục than hồng Tôi đốt bài thơ Từng phút từng giờ Tôi cười tôi khóc bâng quơ Người nghe cười khóc có ngờ chi không.
Thơ, với Bùi Giáng, trước hết là một sự hiện hữu cụ thể với những màu sắc cụ thể nhất định: đó là một văn bản với những từ, ngữ, giấy, mực cụ thể. Văn bản ấy có đời sống riêng của nó: có sinh có tử. Nhưng đằng sau, ẩn náu phía trong cái hình thức cụ thể ấy lại là một tâm tình, là tiếng cười, là tiếng khóc. Tâm tình của người làm thơ oà vỡ bất chấp những giới hạn tự thân của ngôn ngữ:
Ngữ ngôn khép kín mặc dầu Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
(Bé con ơi)
Bùi Giáng băn khoăn:
Tôi cười tôi khóc bâng quơ Người nghe cười khóc có ngờ chi không?
Bùi Giáng lại năn nỉ:
Tặng nhau từ ngữ lạc lầm Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn
(Y ư mộng du ư mê)
Trong bài 'Thuở chưa điên' in trong tập Thơ Bùi Giáng do Việt Thường xuất bản tại Canada năm 1990, Bùi Giáng tự so sánh thơ mình ngày trước với thơ mình bây giờ:
Ấy là thơ thuở chưa điên Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười Bây giờ xoang điệu đười ươi Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân
Sự khác nhau không phải ở chỗ: có lúc ông 'quàng xiên reo cười', có lúc ông lại 'ngậm ngùi dấn thân'. Ở Bùi Giáng cái cười và cái khóc đôi khi rất giống nhau. Theo tôi, chỗ khác nhau căn bản là: trước đây, Bùi Giáng loay hoay mãi trong 'dấu ngoặc' của ý thức, của cái tôi; sau này, ông tung hê hết, ông hoà nhập vào cái chung của cuộc đời: 'Ta quên như thể mình ta quên mình' ('Tặng hai cháu Quỳnh và Na'). Ông trở thành dễ thương và tội nghiệp vô cùng:
Trái tim mỗi mới mỗi ngày Mỗi giờ phút động mây trời rung rinh Đường đi mất hút thình lình Những khuôn mặt lạ những hình ảnh quen Tạm nhờ men rượu nguôi quên Niềm vui nỗi nhớ chênh vênh lạ lùng
(Đường quanh ngõ quẹo)
Ở khía cạnh này, có thể nói Bùi Giáng xoá nhoà ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung:
Hoặc rằng người cũng là tôi Hay là tôi cũng là tôi như người Ấy rằng tinh thể đười ươi Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và Ấy rằng một cũng là ba Là hai mai một mốt là hôm nay.
Xoá nhoà. Xoá nhoà ranh giới giữa các giọng điệu, giữa truyền thống và hiện đại, giữa thơ và phi thơ, giữa cái lý và cái phi lý, giữa cái tôi và cái ta, cái riêng và cái chung, xoá nhoà mọi sự phân biệt, biện biệt: theo tôi, đó là những đặc điểm nổi bật nhất trong thơ Bùi Giáng. Bằng những sự xoá nhoà ấy, Bùi Giáng xoá nhoà luôn cả ranh giới giữa cái gọi là văn hoá cao cấp và văn hoá bình dân. Đồng thời, Bùi Giáng cũng xoá nhoà luôn cả tính chất nghiêm nghị, nghiêm túc với những khẩu hiệu ồn ào như 'vị nhân sinh', 'vị nghệ thuật' vốn kéo dài rất lâu trong văn học Việt Nam. Khác với các nhà thơ khác lúc nào cũng nhăn mặt nhíu mày, lao vào thơ như lao vào một trận địa, kỳ khu và khắc khổ, lúc nào cũng khắc khoải sáng tạo ra cái mới, mà chưa chắc đã mới và chưa chắc đã hay, Bùi Giáng, ngược lại, làm thơ cứ như đùa như giỡn, như không phải đang làm thơ, vậy mà tự nhiên thơ lại trở thành bát ngát và lấp lánh và lộng sắc và lộng hương. Mai Thảo kể: "ba chữ 'vui thôi mà' là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của (về ?) lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông", rồi bình tiếp: "Thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui". [12] Theo Leslie Fiedler, sự xoá nhoà ranh giới giữa văn hoá bình dân và văn hoá cao cấp, và cùng với nó, việc đoạn tuyệt với chủ nghĩa đặc tuyển (elitism) và tính chất nghiêm cẩn (seriousness) là những đặc điểm chính yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism). [13]
Ở khía cạnh này, Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại. Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều những bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng. Susan Sontag cho một trong những đặc trưng lớn của chủ nghĩa hậu hiện đại là tính chất phản-diễn dịch (anti-intepretation), là sự nhấn mạnh vào hình thức và sự trình diễn (performance) hơn là nội dung và ý nghĩa. [14] Chúng ta biết theo quan niệm của Ferdinand de Saussure, ngôn ngữ chỉ là một hệ thống ký hiệu, ở đó, mỗi đơn vị ký hiệu đều có hai mặt: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt là âm hoặc chữ viết. Cái được biểu đạt là ý niệm do âm hoặc chữ viết ấy gợi lên trong đầu chúng ta. Ví dụ: nghe âm 'chó' (cái biểu đạt), chúng ta nghĩ ngay đến giống vật thường được nuôi trong nhà (cái được biểu đạt). [15] Từ đó, người ta đi đến chỗ coi bài thơ cũng là cái biểu đạt. Đọc thơ là để tìm kiếm cái được biểu đạt, tức ý nghĩa, điều ẩn giấu phía sau bài thơ. Với Bùi Giáng, cũng như với các nhà thơ hậu hiện đại, ngược lại, bài thơ là cái được biểu đạt chứ không phải là cái biểu đạt. Nói cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn đằng sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm. Nó giống như một bức tượng đá. Bề mặt: đá; trong ruột: cũng là đá. Do đó, nếu hỏi ý nghĩa bài thơ 'Đạm Tiên' tôi dẫn ở trên là gì ư? Chịu! Ý nghĩa của nó là chính sự hiện hữu của nó, là bài thơ có nhan đề là 'Đạm Tiên', vậy thôi. Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Đọc lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Đọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Đọc lần thứ ba: chúng ta lại vẫn không hiểu gì cả. Nhưng càng đọc chúng ta càng nghe rõ, càng thấm, càng cảm cái nhạc điệu lầm rầm, lầm rầm của bài thơ. Nghe như thần chú. Như tiếng tụng kinh. Như lời cầu hồn. Chúng ta sống trong một không khí huyền bí, ma quái, không có gì rõ nét. Thì Đạm Tiên là một bóng ma mà! Ở nhiều bài thơ khác, điều chúng ta nghiệm được thường là sự bất lực của ngôn ngữ: chúng ta không hiểu vì chính nhà thơ cũng không thể diễn tả được những gì ông chỉ cảm nhận một cách mơ màng hoặc bằng trực giác hoặc bằng tiềm thức.
Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại được chăng? Khái niệm hậu hiện đại, mặc dù xuất hiện từ thập niên 30 và 40 với Frederico de Oníz, Dudley Fitts và Arnold Toynbee, được sử dụng khá nhiều tại Mỹ vào thập niên 50 và 60, trở thành thời thượng tại Âu Mỹ từ giữa thập niên 80 đến nay, [16] vẫn còn khá xa lạ với giới cầm bút Việt Nam. Điều đó dễ gợi cho chúng ta ấn tượng chủ nghĩa hậu hiện đại là cái gì rất mới, chỉ gần đây thôi, gắn liền với máy vi tính, chẳng hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, khác hẳn. Danh sách các nhà thơ hậu hiện đại được Jerome Mazzaro phê bình trong quyển Postmodern American Poetry bao gồm W.H. Auden (1907-73), Randall Jarrell (1914-65), Theodore Roethke (1908-63), v.v... [17] Với Margaret E. Gray, ngay cả Marcel Proust (1871-1922) cũng là một nhà văn hậu hiện đại. [18] Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại hay hậu 'iện' đại (người vượt ra ngoài chủ nghĩa 'iện' đại tại Việt Nam) hay 'ậu' hiện đại (người ít nhiều - chứ chưa hoàn toàn - nhích ra khỏi chủ nghĩa hiện đại theo cách hiểu truyền thống tại Tây phương) được chăng?
Dù sao, vấn đề xác định danh xưng ở đây, tôi nghĩ, cũng không phải là điều quan trọng. Quan trọng hơn, chúng ta cần ghi nhận đóng góp lớn lao của Bùi Giáng: ông đã tiến một bước khá xa trên con đường hoà giải giữa thơ và hiện thực cũng như giữa nhà thơ và người đọc.
Trích trong cuốn Thơ, v.v... và v.v... do Văn Nghệ xuất bản tại California năm 1996
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Bài này vốn là một chương, chương thứ 14 trong cuốn Thơ, v.v... và v.v.... của Nguyễn Hưng Quốc (Văn Nghệ, California, 1996). [2]Mai Thảo (1994), 'Thay lời bạt: Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng', in trong tập Thơ Bùi Giáng, nxb Thế Kỷ 21, California, 1994, tr. 146. [3]Như trên, tr. 139. [4]Thanh Tâm Tuyền (1994), 'Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn', Tạp chí Thơ (California) số 1, mùa thu 1994, tr. 73-75. [5]Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Ca Dao, Saigon, tr. 102-3. [6]Thơ Bùi Giáng, Việt Thường xuất bản tại Montreal, 1990 và Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, 1994. [7]Trong bài 'Bao giờ' và 'Bài thơ của tháng giêng' in trong tập Liên, đêm mặt trời tìm thấy, nxb Sáng Tạo, Saigon, 1964. [8]Bùi Giáng (1970), Mùa thu trong thi ca, Sống Mới in lại tại hải ngoại, không ghi năm, tr. 223-4. [9]Dẫn theo Steiner, G. (1967), Language and Silence, Faber & Faber, London, tr. 72. [10]Bùi Giáng (1970), Mùa thu trong thi ca, sđd, tr. 17. [11]Xem Phạm Xuân Đài, 'Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây' lời tựa tập Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21, 1994, tr. 15-26. [12]Mai Thảo (1994), bài đã dẫn, tr. 141. [13]Fiedler, L. (1975), 'Cross the Border - Close the Gap: Postmodernism' in trong tập American Literature since 1900 do Cunliffe chủ biên, Sphere Books, London, 1975, tr. 344-366. [14]Sontag, S. (1966), Against Interpretation and Other Essays, Delta, New York. [15]Tác phẩm chính của Saussure, Cours de linguistique générale, in tại Paris năm 1916, sau đó, được dịch ra nhiều thứ tiếng và tái bản rất nhiều lần; một thời gian dài, ít nhất cho đến đầu thập niên 70, được xem như một tác phẩm kinh điển trong ngành ngôn ngữ học trên khắp thế giới. Về Saussure, có thể xem quyển sách giới thiệu rất hàm súc của Jonathan Culler, Saussure, Fontana / Collins, 1976. [16]Về lịch sử thuật ngữ "chủ nghĩa hậu hiện đại", có thể xem: Bertens, H. (1986), 'The Postmodern Weltanschauung and Its Relation with Modernism: An Introductory Survey' in trong Approaching Postmodernism do Fokkema, D & Bertens, H. biên tập, John Bengamins xuất bản tại Amsterdam, 1986, tr. 9-51; Best, S & Kellner, D. (1991), Postmodern Theory, Macmillan, Hampshire, tr. 1-33. Về chủ nghĩa hậu hiện đại trong lãnh vực văn học, có thể xem: Hassan, I. (1982), The Dismenberment of Orpheus: toward a Postmodern Literature, Oxford University Press, New York; Hassan, I. (1987), The Postmodern Turn: Essays in Postmodern Theory and Culture, Columbus; Spanos, W. (biên tập) (1979), Martin Heidegger and the Questions of Literature: toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Indiana University Press, Bloongton; Connor, S. (1989), Postmodernist Culture: an Introduction to Theories of the Contemporary, Basil Blackwell, Oxford, đặc biệt chương 4, 'Postmodernism and Literature', tr. 103-131; McHale, B. (1986), 'The Semantic and Syntatic Organisation of Postmodernist Texts' in trong tập Approaching Postmodernism, sđd, tr. 81-98; và Jameson, F. (1988),'Postmodernism and Consumer Society' in trong Postmodernism and its Discontents: Theories & Practices, Kaplan E.A. biên tập, Verso, London, tr. 13-29. [17]Mazzaro, J. (1980), Postmodern American Poetry, University of Illinois Press, Urbana. [18]Gray, M. E. (1992), Postmodern Proust, University of Pennsylvania Press, Philadelphia.
Nguồn: Trích trong cuốn Thơ, v.v... và v.v... do Văn Nghệ xuất bản tại California năm 1996
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 6:29:23 GMT 9
Thanh Tâm Tuyền Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khổn Đối với đa số, Bùi Giáng là một nhà thơ điên. Không nhắc đến bọn tục, bọn tỉnh, bọn khôn suốt cả đời chẳng một giây nào thèm "thơ" đến tuyệt vọng, nói ngay những người quí ông - nhìn được ông như một thiên tài, thiên tài tự huỷ ghê gớm nhất của thi ca Việt nam hiện đại - nhiều khi cũng né tránh, chẳng dám bước hẳn vào cõi thơ ông, hoặc có bước vào thì cũng theo cái lối "chân trong chân ngoài", "mắt trước mắt sau", cười cợt vui đùa hay nghiêm trọng lố bịch, tưởng như thế là làm thuận ý, vui lòng nhà thơ - người bầy trận nghiêm trọng và ta nên chiều người.
Chính thái độ của những kẻ yêu ông, những kẻ ghét ông chẳng đáng nói, càng khiến ông phát "bẳn", càng khiến ông phát "điên" (điên tiết), càng khiến nhà thơ thêm lạc lõng, "một mình một cõi", càng đẩy ông tới chốn hoang vu bờ bãi, chơi với mọi với beo, với gấu, với châu chấu, chuồn chuồn.
Không. Bùi Giáng không điên. Ông là một nhà thơ sáng suốt, cực kỳ. Ông là một nhà thơ "ngộ". Đừng hiểu chữ "ngộ" trong cái nghĩa đơn giản của đạo giáo, Bùi Giáng sẽ nhăn mặt nổi quạu, ông có thể sẽ tông cửa chạy tuốt xuống Biên Hoà ngay lập tức. Hãy để cho tiếng ấy "phiêu bồng" từ Nam chí Bắc qua mọi nghĩa có thể có: (ngộ dại, giả ngộ, ngộ quá ta, ngồ ngộ, ngộ không, ngộ nhận, ngộ độc...)
Từ buổi đầu Bùi Giáng đã nói :
Tôi chấp thuận trăm lần trong thổn thức Tôi bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt Tôi đui mù cho thoả dạ yêu em
Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thuỷ Qua những lần buồn tủi giữa đảo điên Thân xương máu đã đành là uỷ mị Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh
Em đứng mũi chịu sào có vững Bàn tay bưng đĩa muối có chấm gừng Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn Hết tâm hồn và hết cả da xương
Xin yêu mãi mãi và yêu nhau mãi Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn.
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi Còn một đêm còn thở dưới trăng sao Thì cánh mộng còn tung lên không ngại Níu trời xanh tay với kiễng chân cao.
(Phụng Hiến)
Bùi Giáng đó, Bùi Giáng của Mưa Nguồn "bát ngát" mặc dù những "đảo điên" không ngớt, còn nguyên vẹn đến giờ nếu chúng ta gặp Ông đúng lúc.
*
Muốn gặp Bùi Giáng hãy ngao du theo dấu chân Ông để lại, hãy đánh mất mình trong cuộc Lữ, hãy chịu cuồng si để sáng suốt. Nghĩa là hãy "thơ mộng" như Ông.
Chẳng khó khăn lắm đâu.
Hầu như Ông đã mở sẵn những cửa mời gọi kẻ đồng điệu.
"Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là: muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác. Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ, chứ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời nay trái lại, họ buộc phải luận thơ có mạch lạc luân lý, không được "bốc đồng" vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghị vậy."
"Thơ tôi làm (...) trong mấy cuốn thơ của tôi chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão dông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn, đem phó thác thảm hoạ trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cách tay mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm bay về Sương Hy Lạp, nghé Calvaire viến thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng rộng, làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng, khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao..."
"Hãy để yên cho tôi điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống... Người yêu đừng bén mảng đến, bạn bè hãy đi xa. Để tôi một mình tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần thì hãy thử điên dại cho như tôi..."
"...Ông Whitman ôi. Tại hạ làm thơ nửa phần giống thơ ông, nửa phần giống thơ ông Dylan Thomas, nhưng giống theo một thể thái bê bối đười ươi, chứ không có được cái phong đọ tiên thiên cốt cách. Vậy bây giờ tôi cố gắng làm một bài thơ rất mực cốt cách tiên thiên để tặng ông chơi một trận. Tuy nhiên càng hì hục bắt chước tiên thiên càng lộ ra cái nết na đười ươi phong thói. Vậy tôi xin ngậm ngùi dừng bút, chẳng dám ký tên dưới tờ thư cay đắng."
Không có ai có thể nói về thơ Bùi Giáng hơn Bùi Giáng, bởi chẳng ai ở đây đã sống thảm hoạ trần gian thu trong thảm hoạ thơ hơn ông. "Chán chường thi ca mà cứ làm thơ hoài ấy là đạo vậy".
Xin chào nhau giữa con đường Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Đó là mở phơi hào hứng một thời - như Whitman, "kẻ rỡn như ông già bơi đua cùng lũ trẻ và chịu thua lũ trẻ"
Đường sông bóng đổ cơ trần Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua Ghì môi cơn mộng la đà Tiêu giao suốt cõi mù sa trên rừng Nửa vời trăng rộng mông lung Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô
Đây là phiêu bông "thơ dại nhất và sầu u nhất" - như Dylan Thomas.
Whitman kẻ mở, Dylan Thomas kẻ đóng, một chân trời. Kẻ say với "lá cỏ", với "phố thi", với "ta"; kẻ say với cơn chết, giọt sầu, với huyễn hoặc.
*
Nhưng còn chúng ta? Chúng ta nghĩ gì về thơ ông?
Đừng có nghĩ, hãy buông mặc theo ông, như ông từng buông mặc trong trận đồ kẻ trước. Ông luôn luôn nhắc bảo nơi ông là những bóng vang ai khác. Và ta hãy là bóng vang của ông.
Hãy để ông nghĩ cho chúng ta về những gì chúng ta có thể nghĩ tới và cả những gì chúng ta không thể nghĩ tới.
"Chúng ta quen thói ngong ngóng chạy theo đuổi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ."
"Cái thói học đòi vá víu thông thái đã âm thầm giết chết mất máu me thân thể chúng ta. Hết chạy theo đuổi ông Camus, tới chạy theo đít bà Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng ông Krishnamurti... Đó chính là cái cõi của lai rai thượng thừa, của bê bối tối hậu. Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười ươi? Hỡi những thằng trung niên thi sĩ, và hỡi những đứa chẳng thi sĩ trung niên..."
"Nghĩ cũng dị kỳ thật. Người Việt nam vốn là người thơ mộng thi sĩ nhất thế giới (chỉ riêng cái màu da vàng Việt nam thôi cũng đã thơ mộng hơn mọi màu da đen hay trắng) thì người Việt nam lại chẳng bao giờ đọc thơ Việt nam, lại luôn luôn chút hết cõi lòng thơ mộng của mình cho những thứ sách vở hổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi si mê những da trắng Marilyn, những da đen Phi châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao nhiêu câu thơ thơ mộng lại đem gán hết cho châu chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà đoạn trường ra như thế".
"Những bài thơ chuồn chuồn châu chấu của ông quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ, đầu xuân, thật là tha thướt. Đôi phen cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng múa lượn".
Chúng ta hãy chịu chói lọi trong tan nát giữa trận đồ của Bùi Giáng. Mọi điều Bùi Giáng đều nói, chẳng bao giờ hết, nhưng chẳng thể ngậm miệng, nên chúng ta cứ việc ngậm miệng, si mê và chúng ta sẽ được nghe. Nghe bát ngát, nghe phiêu bồng, nghe tới cõi im ông trốn lảng, lượn vòng.
*
Đừng tưởng Bùi Giáng điên, cũng đừng tưởng Bùi Giáng rỡn, mặc dầu có lần ông tuyên bố là ông thích bày "cuộc vui".
Bùi Giáng là một nhà thơ trầm trọng:
"...Như Lai rỡn từ bi, Jesus Christ rỡn bác ái, Sophocles rỡn trang nhã, Thâm trầm kỳ nguyệt, Euripide rỡn ẩn ẩn hiện hiện, Ngoạ Long Sinh rỡn u rùng, Kim Dung rỡn bất tuyệt, Hồ Dzếnh rỡn nên thơ chân thiết, Tú Mỡ rỡn như đười ươi, Shakespeare rỡn như Phượng Hoàng, Nietzsche rỡn tan tành xương máu, Gide rỡn lúc giật lúc buông lúc chùng lúc thẳng, Tô Man Thu rỡn não nùng đốt cháy máu tim."
Còn Bùi Giáng?
"Nhe răng cười trong bóng tối... Không bao giờ bắt chuồn chuồn và cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn... Không thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài... Suốt năm khắc khoải loay hoay mà tự cho mình thanh thoát phiêu bồng... Chán chường thi ca mà cứ làm thơ hoài, đêm tối trần gian đau đớn vô cùng mà vẫn bảo rằng trần gian lộng lẫy... chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống canh..."
Rỡn trầm trọng là Bùi Giáng, rỡn đầy thảm hoạ, rỡn khắp mặt thế giới như Tôn Ngộ Không - Ngộ Không nhảy trên bàn tay của Quan Âm (Quan Âm biến thành Phùng Khánh, Trì Hải, Marilyn, Brigitte, Kim Cương, ba cô mọi bên bờ Phi Châu...) chỉ vì "Người tư tưởng không còn dám viết gì về tư tưởng nữa."
Bởi rỡn trầm trọng nên:
"Chúng ta phải để cho thơ Xuân Diệu rúc vào trong tuỷ xương mình. Vì y đủ thói bông lông thắm thiết của con người thượng đạt. Y trẻ dại, y lăng nhăng, y nói tới nỗi đời rồi y xoá đa đoan dâu biển. Y hồn nhiên giũ áo, nắm lấy cung cầm Tăng Điểm đánh lên giữa mùa Xuân..."
Nói vậy nhưng Bùi Giáng chẳng bao giờ là Xuân Diệu. "Tây Phương, Đông Phương cổ kim không có một nguồn thơ sánh kịp". Cứ chịu khó theo ông "đi vào cõi thơ", đi vào "thi ca tư tưởng" mà nghe ông bình thơ, mà nghe ông "Ngàn thu rớt hột" nghe "Sa mạc trường ca". Và hãy nhớ lời dặn dò này:
"Đi vào cõi tư tưởng, chúng ta luôn luôn phải lưu ý tới cái lối ăn nói nghịch lý của người tư tưởng. Họ nói một đường để ta suy ra một ngả."
Sở dĩ Bùi Giáng trầm trọng, bởi nơi ông cả cái kiếp hoạ của thơ đang diễn: hồn thơ đang bị vây khổn. Bị vây khổn bởi "tư tưởng", bởi "văn". Thơ muốn bay thoát, chấp chới như những cánh chuồn chuồn giữa trời. Nhưng đâu là tổ chuồn chuồn đây? Nào ai biết. Bùi Giáng cố muốn biết, cố săn đuổi tới cùng.
Nhưng chuồn chuồn báo hiệu trời sắp mưa. Một trận mưa nguồn thuở cũ, Bùi Giáng mơ màng chăng? Ông Bùi Giáng ơi, Tang Phượng đâu? Trang Phượng đâu? Sau trận mưa nguồn kiếm nàng giáp cúng trận đồ ông chẳng thấy. Chỉ thấy trở đi trở lại hoài đây đó hai câu của Hồ Dzếnh:
Thơ về nắng sáng lừng bay Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra.
Đến đây coi như tạm đủ, nói thêm đến bao nhiêu nữa rồi cũng vẫn là tạm. Tạm với Bùi Giáng. Tạm với chúng ta. Tạm hết.
Chỉ mong một lúc nào bạn "ngộ" cõi thơ kia.
"Đi vào cõi thơ". Thế nghĩa là? Có một cõi và một cuộc đi, cuộc đi có nhiều thể thái. Có thể đi theo lối chu du của ông Khổng Tử. Có thể đi theo lối ngồi yên không rục rịch suốt bao nhiêu diên trường tuế nguyệt dưới một gốc cây bồ đề theo lối Như Lai. Cũng có thể đi theo lối anh lùa bò vào đồi sim trái chín..."
"Đi như vậy dù sao thì dù, cũng là trong ý hướng mở cõi ra chơi. Không ai buộc ai phải theo ý riêng độc đoán của ai."
"Anh lùa bò vào đồi sim trái chín? Một mặt anh lưu tâm đến trái chiếu cố cho những con bò, đừng để chúng lạc lối vào sâu trong rú rậm rồi mất lối trở ra... Anh thong dong ngồi xuống một gốc cây sim. Anh có thể chọn một gốc cây sim già, hoặc sim trẻ, hoặc một cây sim sử lịch nào vốn đã từng chứng giám một u tình của một Hoàng hậu Phèdre xưa kia."
"Rồi anh dần dần mở cõi. Đã gọi là mở cõi thì chẳng nên khép miền. Nghĩa là... tránh cái lối bưng bít..."
"Đó là điều kiện cần và đủ, không ai buộc ai phải đi qua miên bạc bình sinh."
"Ta ngồi dưới gốc cây sim, lắng tai nghe bò đương gặm cỏ, thong dong đưa tay với một cành, hái một trái chín ăn chơi."
"Bỗng dưng? Bỗng dưng nảy ra một sự tình kỳ bí: bàn tay ta vừa chạm với một trái sim riêng rẽ, thì suốt dãy rừng, toàn thể ngàn sim lục bỗng chấn động vang lừng. Đó là bí quyết lạ lùng. Một bí quyết bất khả truyền".
-------------------------------------------------------------------------------- Các đoạn trích dẫn rút từ Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ, Thi Ca Tư Tưởng, Mùa Thu Trong Thi Ca.
Nguồn: Giai phẩm, Văn, Sài gòn 1973
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2008 6:30:38 GMT 9
Bùi Giáng Một đường lối dịch Thơ Dịch thơ là điều khảm kha nhất. Dịch thơ ắt phải cho ra thơ – nói như ông Crayssac trong bài Tựa bản dịch Kiều: “toute poésie traduit a le devoir de l’être enver [...] La langue des Dieux m’a paru seule idoine à chanter l’héroique et douloureux calvaire de la divine Thuy-Kieu.”
Cũng vì quan niệm tới mức triệt để tế nhị đó, nên bản dịch Kiều của Crayssac là bản dịch đạt nhất trong mọi bản dịch Kiều ra ngôn ngữ Tây Phương. Lời thơ Crayssac thỉnh thoảng có vài chỗ sống suợng, nhưng Crayssac đã đòi hỏi, đã tận dụng khả năng ngôn ngữ thi ca Pháp tới mức tối đa. Và nhiều phen bất ngờ, những tư tưởng, tư lường sâu xa, ẩn trong Nếp Gấp Lục Bát Nguyễn Du, bất thình lình đuợc Crayssac mở phơi ra một cách tinh tế.
Tiện đây, tôi xin dẫn một thí dụ để làm sáng tỏ phần nào đường lối dịch thơ. Dịch thơ Emily thingyinson:
My life closed twice before its close It yet remains to see If Immortality unveil A third event to me So huge, so hopeless to conceive As these that twice befell Parting is all we know of heaven And all we need of hell.
Một bài ngắn như thế của Emily thingyinson dịch còn khó hơn dịch cả một cuốn Lá Cỏ [Leaves of Grass] của Walt Whitman... Ấy bởi vì, nó thuộc loại thơ bất khả dịch diễn.
Những điệp ngữ và điệp âm và đảo ngữ mà Emily thingyinson sử dụng, là riêng Mỹ Ngữ một lần được thiên tài cho phát tiết anh hoa ra ngoài:
my life closed – its close to see – to me twice before – twice befell parting is all – and all all we know – all we need of heaven – of hell to see – to me – to conceive a third event – as these that twice so huge – so hopeless ...
Tôi thử chép ra như thế, những thanh-âm-vận song trùng nhị bội liên tồn giao hưởng nhau trong bài thơ, xoay vít quanh nhau trong tám câu huyền diệu đó. Thế cũng đủ nhận ra tính chất phong phú đìu hiu dị thường trong lời thơ tài tử. Thế mà, vẫn còn những giao hưởng giao thoa ngấm ngầm âm ỉ trong tiết nhịp rung rinh, không làm sao ghi ra song đôi cho được. Bởi vì những giao hưởng ngầm nọ vừa như giao nhau vừa như xô đẩy nhau, ly khứ nhau... Bây giờ thử đọc lại toàn bài:
My life closed twice before its close It yet remains to see If Immortality unveil A third event to me So huge, so hopeless to conceive As these that twice befell Parting is all we know of heaven And all we need of hell.
Nếu dịch ra văn xuôi ắt sẽ thành cái gì? Chẳng lẽ vất vơ thành ra cái như sau:
Cuộc đời tôi khép lại hai lần Trước buổi chung cục của nó Nó vẫn ở lại để xem Thử sự Bất Tử có mở ra Một sự cố thứ ba cho tôi không Bao xiết đồ sộ khổng lồ tuyệt vọng cho quan niệm Là ấy những gì đã hai lần xảy ra Ly biệt là tất cả những gì chúng tôi biết về Thiên Ðường Và tất cả những gì chúng ta cần (của) nơi Ðịa Ngục
Thật là không thể tưởng tượng được. Chẳng những nghe ra lớ ngớ, mà còn chẳng ai biết nói cái gì. Không một chút ý nghiã nào tồn tại, đừng nói chi là tinh thể tinh hoa. Thế mà thường thường tôi vẫn thấy người ta dịch theo lối đó một cách rất hồn nhiên, và còn cho rằng mình dịch rất sát.
Gẫm về cái vụ dịch thơ, nhiều phen phải toát mồ hôi hột. Giữ tiếng thì lạc lời. Giữ lời thì mất ý. Giữ ý thì mất nghiã. Giữ nghiã thì mất trụi thần hồn tinh thể.
Do đó, ta có thể dám chắc rằng giữa hai bản dịch Kiều ra Pháp Ngữ của ông Nguyễn Văn Vĩnh và René Crayssac, quả thực có cách biệt ngàn trùng. René Crayssac mặc dù không lột hết được tinh hoa ngôn ngữ Kiều, nhưng vẫn đạt hơn Nguyễn Văn Vĩnh có tới hơn một trăm lần là ít. Ông có tái tạo được một bầu khí hậu thơ-mộng đặc biệt trong bản dịch của ông.
Giờ thử dịch bài thơ Emily thingyinson ra lục bát:
Ðời tôi khép lại hai lần Trước lần khép mắt khôn hàn vĩnh ly Tuy nhiên còn nấn ná vì Ðể xem Vĩnh Cửu còn gì mở ra Cho mình biến cố thứ ba Những gì song điệp xảy ra Gẫm càng đồ sộ gợi ra lại càng Ngất trời tuyệt vọng mang mang Thiên đường địa ngục còn chan chứa gì Vĩnh ly là chất của trời Biệt ly là thói của đời nhà ma (kể từ cửa quỷ tuôn ra thói nhà băng tuyết chất là phỉ phong)
Bạn đọc ắt có nhận thấy rằng tôi đã chịu khó khiếp dẫn vài ngôn ngữ đặc biệt Nguyễn Du vào lối dịch thơ Emily thingyinson. Dịch theo lối đó là âm thầm bố thiết cuộc đối thoại ấm áp cho hai tài tử kia, mà đồng thời vẫn không lìa xa ngôn ngữ Emily thingyinson gì mấy chút.
Ðó là bước thứ nhất mà lời dịch đã gắng thực hiện cho cuộc hội đàm. Từ đó chúng ta có thể tiến tới giai đoạn thứ hai. Cái bước sơ khởi ngại ngùng đã đi tới chỗ hài hòa thân thiết thì từ đó, ta có thể “mở lời phương tiện” một cách táo bạo hơn. Lời dịch thứ hai có thể ra như thế này:
Song trùng khép kín đôi phen Sơ khai đậu khấu khép bằng thiên thu Tường vôi tô vách tử tù Trăm năm trong cõi sương phù du tuôn Niềm riêng nấn ná hý trường Xem Con Tạo mở môi trường đệ tam Bình sinh ngất tạnh hội đàm Xiết bao tuyệt vọng gẫm càng buốt tim Sự tình nhị bội đánh ghen Trút quần giũ áo thưa rằng thế thôi Vĩnh ly là chất của trời Biệt ly là thói của đời nhà ma
Cước chú: My life closed twice before its close... Ðời ta đã khép lại hai lần từ trước cuộc khép kín trăm năm... Nghiã là?
Nghĩa là: trước khi xảy ra cuộc tử diệt thì ta đã hai lần chết thật sự rồi. Nhưng chết mà vẫn chịu chơi, nên còn sống lai rai để xem còn có một đệ tam tử diệt nào thơ mộng hơn chăng. Cái lối nói chịu chơi gay cấn đó đưa tới lời kết thúc dị thường: all we know of heaven ... all we need of hell. Tất cả những gì ga biết về thiên đường... Tất cả những gì ta cần nơi địa ngục... là?
Từ đó dịch lần thứ ba ra thế này:
Cần nơi địa ngục những gì Biết nơi thiên thượng những gì biển dâu Chất hằng ly biệt thiên thâu Biệt ly là thói dâng trào sử xanh Niềm riêng tại thể đã đành Nồi riêng hiện thể còn thành khẩn xin Chờ xem Vĩnh Cửu lặng im Song trùng tam bội còn tin chi về Kỳ oan phong vận đề huề Trước đèn lần giở lời quê dông dài Mai sau khép mắt ngủ dài Còn nghe mộng cũ di hài liễu dương Ðánh tranh chụm nóc thảo đường Một gian nước biếc mây vàng chia đôi
Bất thình lình cái câu thơ lục bát Nguyễn Du nọ lại kỳ dị hiện ra tại đây. Mọi sự bỗng dời bình diện. Cái câu thơ “một gian nước biếc mây vàng chia đôi” vốn là một câu thơ thuộc loại hàm hỗn man mác nhất trong Truyện Kiều. Nước biếc một gian? Sao gọi là một gian? Mây vàng chia đôi? Chia đôi cái gì? Chia đôi hai cõi nào? Hai miền hai ngả nào? Nhưng tại sao trong thể thái chia đôi nọ, lại có hàm ngụ quy hợp? Do một thứ tinh hoa âm thầm nào phát tiết từ trong tiết điệu lục bát cùng với những vang bóng lãng đãng tỏa ra từ một nóc thảo đường? Một mái hiên? Một thanh hiên tồn lập bao dong ra như thế và sẽ chứng giám một “vô lượng phương tiện lực” nào, sẽ “vớt người trầm luân” và thành tựu cái nghiã của “nam hải điếu đồ”?
Ðiếu đồ? Ông câu câu cá? Câu cá giữa một vùng tịch mịch chân không? Câu cá trong tính thể giác duyên như lai bồ tát? – Ta làm Nam Hải Điếu Đồ? Ngồi câu con Cá Hư Vô linh hồn? Sự đó liên can gì tới câu: Như lai giả vô sở tòng lai diệc vô sở khứ? Và cái lời đó trong Kinh Kim Cang lại thiêm thiếp đi trong sa mù mà tiếp giáp với câu thơ “Parting is all we know of heaven/And all we need of hell” như thế nào?
Thế thì cái sự vụ dịch thơ đã nằm trong một cõi suy tư nào như thế? Nó đã biến ra một thứ dịch di, dy viễn, diên vỹ, vy diễn, như thế nào, để... ? Ðể bất thình lình xô ùa chúng ta trở lại với cái lời Khổng Tử: “Ngô đạo nhứt dĩ quán chi”.
[...]
Cái bí quyết của thiên tài sáng tạo, cũng như thi tài dịch thuật, là: tạo nên một vùng sương bóng cho ngôn ngữ. Sương bóng đó có thể bắt gặp bóng sương Hy Lạp, hay Ðường Thi, hay Tây Trúc – không hề gì. Không hề gì. Miễn là nó mở ra một chân trời cho chiêm niệm chịu chơi.
Ðánh tranh chụm nóc thảo đường, một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Cài then cửa đóng đến nơi, sư đà hái thuốc phương trời nào xa .. Parting is all we know of heaven – and all we need of hell.
Ai đã độ ra được cái tầm đầy vơi trong tư lự tồn lưu nọ, ắt chẳng còn thiết chi tới chuyện bàn luận viết sách làm thơ gì nữa cả.
Nguồn: trích tập san Quê Mẹ, Giai Phẩm Xuân Canh Thìn số 153 & 154, tháng 1 & 2, 2000
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 24, 2009 10:51:58 GMT 9
"Bùi Giáng điên vì ông quá tỉnh" Tác giả: Thanh Hải Bui GiangChàng "trung niên thi sĩ" ra đi đã lâu nhưng đây đó vẫn còn những giai thoại. Hình ảnh một "thi sĩ lập dị" vẫn không phai mờ trong lòng các độc giả. Nhiếp ảnh gia Lâm Ngọc Duy kể về "niềm hạnh phúc nhất của cuộc đời" khi gặp Bùi Giáng. Thi sĩ Bùi Giáng (Ảnh: Lâm Ngọc Duy) Giấc mơ thành hiện thực Vì hoàn cảnh nhưng cũng là một cơ duyên, năm 1980 ông Duy rời Đà Lạt xuống Sài Gòn, đem theo đứa con gái nhỏ sống vất vưởng dọc vỉa hè. Hai cha con tứ cố vô thân, không nhà cửa, hằng ngày ông Duy phải đi chụp ảnh dạo dọc đường phố Sài Gòn tìm miếng cơm, bát cháo lay lắt sống qua ngày. Một thời gian sau, ông Duy may mắn gặp được nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh. Hai người trở thành bạn thân, từ đó ông Duy thuê phòng trọ và được nhận vào làm trong Ảnh Viện Đống Đa trên đường Trương Minh Giảng. Một hôm ông đi qua bùng binh Trương Minh Giảng, thấy một ông già đang nhảy múa, xung quanh con nít vây xúm rất đông. Cũng hiếu kì nên ông chạy lại xem, ngó chừng dung mạo thấy giống Bùi Giáng được nghe qua lời kể của bạn bè, ông Duy liền hỏi: "Xin lỗi! Có phải ngài là Bùi Giáng không?". Ông già nhướng mắt nhìn và hỏi lại: "Sao anh biết ta?". "Dạ, con là độc giả của ngài đây, hâm mộ ngài đã từ lâu nay mới được gặp, thật là một cơ duyên!". Bùi Giáng rẽ đám trẻ con ra, cầm tay ông Duy kéo vào một con hẻm nhỏ trên đường Trương Minh Giảng. Tại đó hai người chuyện trò và Bùi Giáng đã chép thơ lên vỏ bao thuốc lá tặng ông Duy. Bài thơ chỉ có một câu: "Chép lời bờ cỏ ra hoa". Nhìn câu thơ mà ông Duy vui mừng khôn tả, thấy thơ lạ nên ông Duy hỏi: "Thơ ngài quả là siêu phàm, con không hiểu được ý thơ?", nghe Bùi Giáng giải thích ông Duy lại càng kính nể và vui mừng hơn (nhưng vì lí do cá nhân nên ông Duy không kể lại lời giải thích của Bùi Giáng). Theo dòng ký ức Lâm Ngọc Duy (Ảnh: NLĐ) Nghe Bùi Giáng giải nghĩa câu thơ xong, ông Duy chở "ngài" trên xe đạp dạo quanh Sài Gòn". Lúc nào bên mình ngài cũng có bầu rượu và túi thơ như thế. Và cứ khoảng 200 mét, Bùi Giáng lại bắt ông Duy dừng lại, tạt vào lề đường làm mấy hớp rượu rồi mới chịu đi tiếp. Đến ngã ba, ngã tư có khi ngài lại xuống đường làm cảnh sát giao thông, chỉ đường cho xe cộ đi lại! - ông Duy kể". Sau cả ngày "du ngoạn" Bùi Giáng cho ông Duy địa chỉ nhà và dặn: "Anh muốn tìm ta thì đến đường Lê Quang Định, cứ hỏi nhà của ông già điên thì ai cũng biết, đến mà thấy ta bệnh thì ghé chơi, còn ta khỏe thì im lặng mà về, ta không tiếp" (những lúc bệnh là lúc ông ca hát, nhảy múa, làm cảnh sát...). Chiều tối ấy, hai người từ giã nhau ra về, ông Duy còn vui mừng lắm khi kể với chúng tôi ngày kỷ niệm đó. Cách ít lâu sau, ông Duy có đến tìm nhà Bùi Giáng mấy lần, nhưng không lần nào gặp được. Người ta bảo: "Hôm nào ông cũng đi từ lúc 3 giờ sáng, có khi cả nửa tháng mới về nhà". Rồi một bận ông Duy đi sớm. Lần đó ông mang theo bộ tách trà nhỏ với hai cái bánh pía và gặp được ngài trong một quán cà phê ở cuối con hẻm. Thấy ông Duy, Bùi Giáng lên tiếng hỏi: "Sao anh biết ta ở đây?", "Dạ, con đi tìm ngài mấy bữa nay mà không gặp, hôm nay đi không ngờ lại tìm được ngài". Tại quán cà phê đó, ông Duy pha trà mời, Bùi Giáng cúi xuống rồi đưa tay cao quá đầu nhận trà một cách lễ phép, còn húp cả những giọt trà rơi xuống bàn. Cử chỉ của thi sĩ Bùi Giáng làm ông Duy nhớ mãi không quên. Bộ tách trà uống cùng Bùi Giáng hôm đó, đến bây giờ ông Duy vẫn giữ và trân trọng. Rời quán cà phê, hai người dắt nhau qua chùa Liên Ứng, tại đây ông Duy đã chụp những bức ảnh đầu tiên về Bùi Giáng. Ngài lại làm thơ tặng ông Duy. Bài thơ không đề có đoạn viết: "Tăng thanh đầu ngọn yêu đào/Hắc phong hải ngoại tự trào hoàng hôn/Chẻ hai mảnh giấy vô hồn/Lầm sương lạc tuyết là cồn điếu tang/Còn nguyên phố thị hội đàm/Với trăng châu thổ muôn vàn dưới kia". Phía dưới có ghi "Thân tặng Lâm Ngọc Duy, người bạn Quảng Ngãi (tôi bạn Quảng Nam), kí tên Bùi Giáng". Vào cuối câu chuyện, Bùi Giáng đề nghị: "Anh đưa ta về thăm nhà anh, ta ở lại một đêm mai đi chơi tiếp". Ông Duy ở trọ trong căn nhà lá nhỏ, chỉ có một chiếc giường, đêm hôm ấy ông Duy mời thi sĩ lên giường ngủ. Bùi Giáng không chịu: "Ta nằm dưới đất quen rồi, anh để ta ở đây thoải mái hơn". Bùi Giáng tiếp: "Anh có làm thơ không? Cho ta coi?". Đọc xong, Bùi Giáng khen hay và nói: "Hay anh in chung với ta một tập đi?", ông Duy khiêm nhường trả lời: "Tôi chỉ đáng xách dép cho ngài sao lại ngồi chung chiếu với ngài được". Hai lần gặp "một đời" nhớ! Thi sĩ Bùi Giáng (Ảnh: Lâm Ngọc Duy) Sau đêm đó, Lâm Ngọc Duy không được gặp lại cho đến khi Bùi Giáng qua đời. Thế nhưng những kí ức về thi sĩ Bùi Giáng đến nay và suốt đời sẽ còn in đậm trong tâm trí ông. Những bài thơ ghi trên giấy vụn, những tách trà xưa uống chung nhau, những bức hình Bùi Giáng, những tập thơ, truyện dịch của Bùi Giáng đến nay ông Duy vẫn còn lưu giữ, tất cả được ép, được đóng khung và trưng trong tư gia một cách trang trọng. Ai đó có dịp qua Đức Trọng (Lâm Đồng) nhớ ghé nhà Lâm Ngọc Duy. Một căn nhà gỗ nhỏ nép giữa vườn cây cảnh và hoa, hằng tháng ở đây vẫn có những đêm thơ, hằng năm vẫn có những lần giỗ Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn và đặc biệt là được nghe ông kể về những kỉ niệm của ông với "Trung niên thi sĩ", "Trịnh nhạc sĩ". Cuối cuộc trò chuyện, chúng tôi hỏi ông Duy về những nhận xét riêng của ông đối với Bùi Giáng (về cuộc đời, con người cũng như thơ của ông), ông Duy trả lời: "Ngài là một Bồ Tát nghệ Sĩ, người ta cứ nói là Bùi Giáng điên, nhưng tối thấy ngài không điên, họ nói vậy vì họ không biết, Bùi Giáng điên vì ông quá tỉnh!".
|
|