|
Post by Can Tho on May 31, 2008 7:16:19 GMT 9
Đi con đường khác Võ Hồng Ngày Phật đản 2552
- Bác gắng tăng thêm tốc độ.
- Dạ.
- Gắng tăng thêm nữa.
- Dạ.
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài, lác đác có thôn ấp nấp sau những lũy tre. Chúng nằm bất động, cản ngăn tầm mắt khiến tôi có cảm tưởng là xe vẫn còn chạy chậm. Tôi muốn giục thêm bác tài nhưng tự nhiên thấy mình khiếm nhã. Tôi đã giục nhiều lần rồi. Giục thêm, có khác nào bảo rằng bác ta thiếu thiện chí hay kém tài năng.
Tôi ngồi chồm ra trước, làm như tư thế đó giúp cho xe chạy mau hơn. Tôi rung những ngón tay tưởng như điều đó làm cho chiếc xe cũng sốt ruột mà gắng chạy nhanh hơn. Rặng núi thấp có những rẫy sắn rẫy đậu nằm bắc thang trên sườn, từ nãy giờ vẫn chưa vượt qua. Tôi muốn bất chấp xã giao lên tiếng giục bác tài chạy mau hơn nữa, nhưng chợt nhìn xuống cây kim đỏ chỉ tốc độ tôi phát hoảng : 110 cây số giờ. Đó là tốc độ nguy hiểm đối với đoạn đường này. Là đùa với Thần Chết và đi kề cái chết.
Tôi lẩm nhẩm nghĩ : "Đằng nào cũng trễ rồi. Hôm nay đã 16 tháng chín. Xe không thể chạy về đêm. Trưa ngày 17 là hết. Là xong hết..." Tôi cảm thấy nóng nơi khóe mắt. Tôi cảm thấy nước mắt đang tụ tập về điểm lệ nhưng tôi cố ngăn không chúng họp thành giọt. Tôi cắn răng, cầm chắc sự can đảm trong bàn tay trái nắm chặt.
Chợt xe phanh gấp một tiếng két nhức tai. Tiếng bánh xe lết trên mặt đường. Người tôi nhảy chồm lên, ngã nhào tới trước. Nhưng tôi hoàn toàn không có chút hoảng sợ. Tôi bình tĩnh đến mức độ lạ lùng. Tôi sửa lại tư thế ngồi, dựa lưng ra nệm và chậm rãi ra lệnh :
- Thôi bác chạy chậm lại. Tám mươi đến chín mươi cây số thôi.
Tôi không cần biết cái hãm phanh vừa rồi có nguyên do nào. Mọi nguyên do đều vô ích khi không sửa chữa được Thực tại. Tôi nhắm mắt lắng nghe hơi thở của mình. Trong trí óc tôi có tiếng kêu. "Chương ơi! Chương ơi!", tiếng kêu của tiềm thức tôi. Không có tiếng đáp lại. Vĩnh viễn từ nay sẽ không còn tiếng đáp lại.
Tôi lần mở xắc lấy ra tờ chương trình. Năm chữ "Đại giới đàn Phước Huệ" in màu chữ đỏ. Những danh từ xa lạ. Lật trang sau...
Điều kiện thọ giới Sa-di :
Thuộc hai thời công phu
Thuộc hai cuốn luật tiểu
Điều kiện thọ giới Tỳ-kheo :
Đã thọ Sa-di ít nhất hai năm
Đủ hai mươi tuổi đời.
Thuộc hai thời công phu và bốn cuốn luật tiểu.
Phải có đầy đủ y bát, tọa cụ và đãy lọc nước.
Những điều kiện này đang ràng buộc Chương. Đang thắt cột Chương vào một tập thể lớn có qui luật, nơi đó Chương xóa bỏ Quá Khứ của anh. Nơi đó Chương sẽ là một cái lá trong nhiều cái lá, một cành cây giữa những cành cây, một hạt bụi lẫn lộn trong hằng hà sa số hạt bụi. Và tôi, Trâm, người yêu của anh sẽ không còn chiếm nửa linh hồn anh, ba phần tư linh hồn anh, bốn phần năm linh hồn anh... mà tôi rút gọn lại chỉ còn là một chúng sinh xếp đồng đẳng với muôn triệu chúng sinh trước đôi mắt anh. Tôi tham lam hơn, Chương ơi! Tôi không chịu được ý niệm Dân chủ, tôi ghét cái cân của ngành Luật pháp bởi tôi không chịu đồng đẳng với ai, tôi phải chiếm chỗ cao hơn hoặc là tôi đoạn tuyệt.
Mà anh có đi tu thật không? Có thể là con Như nó lầm không? Em nhận được thư hỏa tốc của nó bảo đích xác là có tên anh trong danh sách những người nhận giới trong Đại giới đàn. Có thể có sự trùng tên không? Em không hi vọng lắm. Khó có hai người cùng mang tên Lại Tăng Chương.
Như nó gởi luôn cho tôi tờ chương trình. Ngày 17 tháng 9 Quí Sửu, sáu giờ : Hưng tác thượng phan, khai chung bản, khai kinh bạch Phật. Tôi chẳng hiểu nói cái gì trong đó. Đoán lờ mờ là có treo cờ, đánh chuông, tụng kinh. Chắc không sai mấy, 8 giờ : Tấn đàn Sa-di. Chắc có nghĩa là truyền giới cho mấy ông Sa-di. 12 giờ : Quá đường. Có phải nghĩa là đi qua phòng ăn để thọ trai? Có thể là không phải vậy. Mặc kệ. Chiều ngày 19 và sáng ngày 20 : Tấn đàn Tỳ-kheo. Lễ truyền giới cho Tỳ-kheo kéo dài lâu hơn chắc bởi cấp bực tu trì cao hơn. Chẳng biết Chương sẽ nhận giới ở cấp bực nào.
Tôi hỏi bác tài :
- Bác dự tính chạy hết tốc lực thì tối nay nghỉ ở đâu?
- Theo cái đà này thì chúng ta phải nghỉ đêm tại Sông Cầu.
- Sông Cầu là chỗ nào?
- Giữa Qui Nhơn và Nha Trang.
- Chỗ đó có khách sạn không?
- Không hi vọng có.
Tôi định hỏi thêm "Nếu không có khách sạn thì ngủ ở đâu và đậu xe ở đâu" nhưng trí óc tôi lười biếng quá rồi, tôi không muốn đặt câu hỏi nữa. Thà để trí óc trống rỗng, trắng bệch còn hơn là bắt nó nghĩ suy lấy lệ.
Con đường chạy dài, xe vượt quá một cánh đồng thì bắt gặp một xóm làng. Những ngôi nhà tranh đứng hiu quạnh bên cạnh những bụi chuối bụi sả trông thật buồn. Tưởng chừng như những ngôi nhà bỏ hoang nếu nhìn quanh quất đâu đấy không thấy một con chó đang nằm khoanh nơi cháy bếp, một con gà giò ốm lỏng khỏng đi thơ thẩn nơi vạt nước hay một bà lão gầy gò da mặt nhăn nheo đang nhíu mắt nhìn ánh nắng rung rinh.
Chương sống cô đơn từ những ngày nhỏ. Gia đình anh là một thảm kịch : Cha mẹ ly dị nhau, cha cưới vợ riêng và mẹ đi lấy chồng. Anh trở thành đứa trẻ mồ côi bởi vì về ở với cha thì không chịu được dì ghẻ, về ở với mẹ thì không chịu được dượng ghẻ. Cha và mẹ anh khi cùng ở với nhau thì điều khiển một nhà xuất nhập cảng lớn, khi ly dị nhau thì trở nên hai nhà xuất nhập cảng còn lớn hơn xưa. Trong việc tái lập gia đình, hai người đều tỏ ra gặp được hạnh phúc. Tóm lại chỉ có Chương mới là kẻ bất hạnh cho dù cha và mẹ anh đều nài nỉ anh về ở với mình, và ở với người nào thì anh cũng được chìu đãi sung sướng. Chương sống tự lập ngay khi vào Đại học. Khi ra trường, anh xin đi dạy học ở một tỉnh miền trung.
Gia đình tôi và gia đình Chương quen nhau từ nhiều năm vì Ba mẹ tôi cũng mở hãng xuất nhập cảng. Cảm tình giữa chúng tôi biến thành tình yêu và sóng gió trong gia đình Chương khiến tôi càng yêu anh nhiều hơn. Tôi thấy tôi có bổn phận đối với Chương, giúp đỡ và an ủi anh. Chương chỉ còn có tôi ở trên đời để yêu ngoài cái đam mê suy tưởng Triết học. Yêu tôi, nhưng khi ba mẹ tôi đề cập đến hôn lễ thì Chương tỏ vẻ ngại ngùng.
- Hôn lễ, đó là nghi thức cần thiết. – tôi nói.
Chương gật đầu :
- Đúng vậy,
- Nhưng sao anh...
- Tại vì... Tại vì...
Tôi đoán biết tại vì sao rồi. Ba mẹ tôi giàu lớn còn anh thì hiện thời đang đứng sắp hàng theo chỉ số. Phải đi nhích tới từng bước. Nếu không muốn để cho đồng tiền cám dỗ thì mắt phải chăm chăm nhìn lên những chữ Lễ nghĩa, Liêm sỉ, Đạo đức. Chương yêu tôi mà không dám cưới tôi. Ngoài ra, những hình ảnh của cuộc hôn lễ linh đình ngày cha anh đi cưới mẹ anh đã ám ảnh anh. Chính tôi đã được nhiều lần ngồi nhìn say mê những bức hình chụp đám cưới ấy. Cha anh mặc áo thụng gấm có thêu những cái hoa to bằng cái bát úp. Má anh đội khăn màu vàng như một nàng công chúa. Xung quanh hai người là cả một rừng áo gấm và một bầy công chúa xinh đẹp như nhau. Bây giờ thì những chữ Song Hỉ bị bẻ ra làm đôi, mỗi người cầm giữ một nửa. Chương không thuộc về một bên nào. Anh lửng lơ ở nơi biên giới, ở nơi ranh giới, ở no men’land , ở chỗ đáng lẽ không có người.
Tôi nói :
- Nhưng em không thể đến sồng với anh mà không hôn lễ.
- Anh biết.
- Biết mà vẫn cứ để vậy?
- Anh không có lối thoát.
- Ba mẹ em không thể đợi anh lâu.
- Chắc là anh mất em.
Từ ngày anh ra miền trung, tôi làm gan không biên thư cho anh nữa. Tôi đợi sự hồi tâm của anh. Thì đột nhiên có bức thư khẩn cấp của Như.
- Bác liệu có thể chạy xa hơn Sông Cầu không?
- Thưa cô chắc không được. Giờ này mà mình còn leo đèo Cù mông thì không hi vọng đi vượt quá Sông Cầu.
- Cù Mông là cái gì?
- Cái đèo lớn nằm giữa tỉnh Bình Định và tỉnh Phú Yên.
- Sao mà lắm đèo lắm ải vậy?
- Miền Trung mà cô. Hết đèo đến ải.
Y như cuộc đời của Chương. Y như mối tình của chúng tôi. Người bình dân hát rằng : "Thương nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội cửu thập đèo cũng qua". Đó là những sông những núi những đèo của Thiên nhiên, dẫu cao dẫu sâu dẫu trắc trở mà với quyết tâm người ta vẫn có thể vượt được. Chỉ cần thời gian. Với núi đèo do con người tạo ra thì vượt qua không phải dễ. Và Chương đang chọn một lối vượt qua của anh.
Tôi ngủ lại đêm ở Sông Cầu. Đêm thật đen và thật buồn. Thành phố nằm bẹp dí xuống mặt đất, nhà thấp và mặt biển liếm sát bờ cát. Không thấy một sự cố gắng vượt lên. Hạnh phúc xuề xòa. Hạnh phúc cao một thước năm ngang vòng tay ôm. Hạnh phúc cao một thước sáu ngang đôi môi hôn. Hạnh phúc trong giây phút hiện tại, trong đêm tối an nghỉ, giữa hai tràng đạn bắn vu vơ, giữa hai quả hỏa tiễn câu vu vơ... Chương ơi anh coi thường thứ hạnh phúc trần gian này, anh ngước nhìn lên cao hơn, anh rướn mình lên cao hơn.
Sau một đêm ngủ chập chờn, mới mờ sáng chiếc Falcon đã lại lướt gió, nuốt vội đường trường. Những cánh đồng còn chìm trong một biển sương trắng đục mênh mông. Những toán dân vệ đi thành hàng lặng lẽ trên những bờ ruộng thấp, mũi súng chĩa xuống đất. Một đêm tối bất trắc đã qua, mọi người đón nhận ánh sáng mặt trời, vui mừng như giữa những thời xa xưa loài người còn cư ngụ trong hang đá.
Xe nhẫn nại bỏ lui lại những xóm làng. Xe hớn hở lượn theo vòng đèo, xe mê mải bò lên những dốc cao. Ánh nắng đã lên, nhuộm hồng những tàu lá cau, nhuộm vàng những ruộng lúa. Tôi không có cách nào trì níu thời gian, chiếc kim đồng hồ cứ lặng lẽ quay vòng và khi xe tôi ngút hơi đậu lại chân núi nơi địa điểm của giới đàn thì mặt trời đã lên cao.
Trễ giờ rồi. Tôi không còn hi vọng nắm giữ lấy đôi tay Chương và đổ ra những giọt nước mắt để bắt anh lưỡng lự, khí giới của tôi chỉ có thế. Tôi hơ hãi leo lên triền núi, đặt chân bất kể lên những viên đá gập ghềnh. Những bụi me đất, những đám lá dang lá bìm bìm bò vô tư dưới chân những cây mít cao. Lối đi thoai thoải rải rác lá vàng, lẩn quất dưới những tàn cây âm u.
Leo được nửa dốc, tôi mệt quá ngồi bệt xuống một tảng đá. Đằng nào thì cũng đã trễ rồi. Bóng người lao xao ở đỉnh núi, di động rộn ràng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, tiếng mõ gõ nhịp đều đều được máy phóng thanh chuyền vang xuống núi. Tôi gượng đứng dậy bước tiếp. Vài người lên xuống cùng chia với tôi lối đi hẹp. Tôi bước lên những bực cấp xây bằng đá. Tôi vịn tay lên đường lan can bằng xi măng. Tôi bước lên những bước cuối cùng.
Người đi dự lễ mặc áo dài nghiêm trang đứng nhấp nhô ỡ dãy nhà trù, ở hiên nhà khách, ở sân chùa chen chúc bụi trúc khóm tùng. Tôi len vào giữa những thân người, tôi luồn vào giữa những thân cây. Tôi đi lần tới chánh điện. Uy nghi lặng lẽ, một tượng Phật lớn thếp vàng ngồi tĩnh tọa trên đài cao. Phía dưới nhiều vị sư đắp y vàng ngồi nghiêm trang sau những chiếc bàn thấp sắp dàn ra hai bên. Nơi bàn giữa dưới chân tượng Phật, một vị Đại lão hòa thượng đang chậm rãi cân nhắc từng tiếng giữa cái im lặng mênh mông, cái im lặng mắc kẹt dưới những góc bàn chân ghế, cái im lặng rung rinh trên đầu người :
- Các giới tử ! Phật vì đại sự nhân duyên mà ra đời cho nên nói ra không lường pháp môn, tám vạn bốn ngàn diệu nghĩa ... (tôi đang nhích tới để nhìn cho rõ mặt vị Đại lão hòa thượng) ... tóm lại không ngoài ba môn học là giới, định, huệ. Song huệ do định mà phát, định nhờ giới mà sinh, công năng sinh ra giới ... Các bậc Thánh nhờ giữ giới mà chứng Bồ đề, chư Phật do nơi giới mà thành Chánh giác.
Tôi đưa mắt nhìn sang đám đông gần ba trăm vị sư trẻ đang quì trật tự trước lễ đài, cúi đầu lắng tai. Không cần hỏi ai tôi cũng biết đó là những ông Sa di. Tôi vội vàng rời chỗ đứng đi lần về phía giới trường đó.
Những ông Sa-di mặc áo tràng màu xám. Vì giới trường hẹp, họ sắp thành mười mấy hàng, mỗi hàng gần hai mươi ông. Tôi điểm mặt từng người một để tìm khuôn mặt của Chương.
Hàng đầu : một, hai, ba, tư, năm ... mười ba, mười bảy... Không có.
Hàng nhì : một, hai, ba, tư ... mười lăm, mười sáu. Không có.
Hàng ba : một, hai ... năm ... bảy ... mười hai ...
Hàng tư : một, hai ... tám ... chín ......
Tim tôi đập rộn ràng. Lạy Trời đừng có Chương. Sự thể sẽ không quá chậm đâu miễn là không có Chương trong đó. Tôi sẽ chấp nhận mọi điều kiện của Chương, tôi sẽ không cần đám cưới linh đình, tôi sẽ ở cạnh Chương giúp anh vượt qua những khổ não chập chùng đang bủa vây anh. Tôi sẽ quày xe lại đi ngay ra Trung tìm anh, tôi sẽ tự lái xe lấy và lần này kim tốc độ sẽ chỉ tám mươi cây số là cùng, bởi chưng tôi yêu đời, bởi chưng tôi quý trọng sự sống.
Hàng chín : một, hai... tám... mười bảy... Không.
Hàng mười : một, hai... mười bốn, mười lăm... Không.
Hàng mười một : Một... Tim tôi nhói lên. Mắt tôi hoa đi. Tôi vội bấu tay vào khung cửa. Chương đó. Rõ ràng là Chương đó. Tôi nhìn anh trừng trừng. Anh cúi đầu lắng nghe pháp ngôn của Hòa Thượng.
- Nay các vị nguyện bỏ thế tục theo phép xuất gia, vượt khỏi thường tình là không lạy cha mẹ. Song các vị phải nhớ bốn ân đức lớn trong giờ phút này phải chuyên tỉnh lễ tạ, về sau không còn lạy nữa.
Có tiếng phát ra từ loa phóng thanh :
- Giới tử xoay về hướng Bắc lễ tạ bốn ơn.
Những tấm lưng cúi xuống, quì lạy, đứng lên, rồi lại nhịp nhàng cúi xuống, cuồn cuộn như những lượn sóng nhấp nhô. Lạy Tạ cha mẹ! Phải lắm, cha mẹ "sinh thành chi đức", công lao như bể trời. Tôi nghe người ta nói "cát ái từ thân", nhưng cát ái từ thân đâu phải chỉ có cắt đứt tình thương đối với cha mẹ. Nơi những quả tim kia chỉ có tình thương cha mẹ thôi sao? Chương ơi, thế em không có một chỗ đứng nào trong trái tim của anh sao? Sao anh không lẩm nhẩm nói tiếp lời Hòa thượng rằng : "Còn riêng con, con xin lạy thêm một lạy để tạ từ..." Không, không, anh tha lỗi cho em, em không dám đòi hỏi một cái lạy của anh. Tình yêu không có nghĩa gì hết. Đối với cha mẹ, từ giờ phút này anh đã xin cắt đứt bổn phận rồi mà. Bốn cái lạy cuối cùng hướng về cha mẹ trả nghĩa sinh thành. Từ nay dù cha mẹ anh có từ trần, anh cũng không được quyền quì lạy trước bàn thờ nữa. Anh đã cắt đứt mọi dây liên lạc tìm cảm, cắt đứt mọi bổn phận riêng tư, như cái cây đã bứt lìa hết mọi lớp rễ chằng chịt bám vào lòng đất và thay vào đó, cây sẽ nhú ra những lớp rễ mới, bám vào những sinh môi mới. Em thuộc vào sinh môi cũ của anh. Đã cắt đứt lìa rồi. Hai giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má tôi.
Cùng với các vị Sa-di, anh vừa tụng niệm bốn lời thệ nguyện vừa quỳ lạy liên hồi:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Anh lạy vụng hơn mọi người, luôn luôn quỳ gối chậm hơn và đứng dậy cũng chậm hơn. Có hồi vướng víu gấp gáp, anh lúng túng sắp ngã. Nhưng anh đã gượng lại được. Nhìn anh quỳ lạy mà lòng em xót xa. Quỳ lạy là cái hình thái khiêm tốn cùng cực, hạ mình cùng cực, là xóa bỏ cái ngã mạn to lớn mà ngoài đời, trước kia anh đã dựng lên với tất cả niềm kiêu hãnh. Bây giờ, ở giữa chốn này, anh xếp lại đôi cánh đại bàng.
Giọng trầm trầm của Hòa thượng chủ lễ :
- Các giới tử, cái y này tiếng Phạn gọi là Ca sa. Mặc y này có thể giải thoát tham, sân, si... Tôi nay trao y này cho các vị, các vị phải gia pháp mà thọ trì.
Tiếng Hòa thượng vừa dứt, mỗi Sa-di lần mở chiếc y vàng mới tinh còn nguyên lằn xếp choàng vào người, choàng ra ngoài chiếc áo xám đang mặc. Gần ba trăm vị vươn tay duỗi vai, xốc cổ vuốt lưng... đã tạo ra một sinh hoạt rộn ràng. Nhiều vị lúng túng trong việc tháo cái dải áo và cột lại dải áo. Nhiều vị vội vàng, xỏ tay lộn ngược. Chương là một trong những người lúng túng. Ngoài đời anh vẫn vậy. Anh như con hải âu bay vượt trùng dương, thách thức bão tố, nhưng để đứng trên boong tàu thì chỉ làm trò cười cho lũ thủy thủ độc ác nhỏ nhen.
Một vị Tỳ kheo đứng cạnh đó đã tiến lại choàng chiếc y vàng lên vai anh. Vị đó còn ân cần buộc dải áo giúp anh và vuốt thẳng bâu áo. Xin cảm tạ vị Tỳ kheo rộng lòng lân mẫn. Chương hôm nay chỉ còn quý vị để giúp đỡ, để an ủi. Ngày trước đôi mắt tôi chọn ca-vát cho anh. Đôi tay tôi chọn bít-tất cho anh. Mũi tôi chọn nước hoa cho anh. Hôm nay thì những món kể trên trở thành kỷ niệm. Hòa thượng lúc nãy có trao giới tướng :
- Các ông suốt đời không đeo tràng hoa thơm, không xoa ướp dầu thơm vào người, không xem nghe ca múa hát xướng, không ngồi giường cao, không tham chứa vàng bạc...
Mọi giới cấm đều không nặng đối với Chương. Khi ở ngoài đời anh cũng chỉ bị nhuộm màu đời một cách lợt lạt. Luôn luôn anh là kẻ phong phú trong suy tưởng mà bần cùng trong hưởng thụ.
Khi các vị Sa-di đã tề chỉnh y vàng đứng sát cạnh nhau thì cái quang cảnh giới trường bỗng sáng rực hẳn lên. Màu vàng rực rỡ, màu của tâm niệm giải thoát, màu của Đông Nam Á Châu tràn đầy ánh nắng và tràn đầy khổ đau. Chương bây giờ đã hòa mình vào cái khối màu vàng kia rồi. Anh lẫn lộn trong đó, anh biến mất trong đó, không thể chỉ nhìn sau lưng mà biết được anh, không thể chỉ nhìn dáng đi mà biết được anh. Mà bây giờ cho dù có nhìn rõ mặt, thì anh cũng đã không còn là anh nữa rồi. Anh đã thay đổi khác rồi.
Tiếng chuông trống đổ hồi chấm dứt buổi lễ. Các Sa-di sắp hàng một đi vòng trước sân chùa, đi theo một hành lang dài để về các liêu. Từ một góc hoa viên, đoàn nhã nhạc bốn người mặc áo đen dài luân phiên nhau thổi những điệu kèn thật buồn. Tôi rời chỗ đứng, đi ra phía hành lang, ẩn mình dưới một gốc trắc bách diệp.
Đoàn Sa-di lần lượt đi qua, áo vàng rực rỡ, mắt nhìn xuống đất, chân bước khoan thai. Tiếng kèn thánh thót, tiếng kèn nỉ non như dẫn dụ gót chân, như nâng nhẹ gót chân, những gót chân trần chạm nhẹ trên nền xi măng.
Một vị Sa-di đi qua, gương mặt nông dân nặng và chắc. Tiếp tới một vị nét mặt ngây thơ, tuổi chưa đến 18. Một vị mày rậm và dài, mắt xếch như môn sinh của một Thiếu lâm tự. Một vị gầy gò mảnh khảnh tuổi có đến 30. Một vị đẫm thấp mập mạp dáng khoan dung yêu đời. Một vị da mặt đen đúa lấm tấm nhiều mụn. Chương lững thững đi tới kia. Luôn luôn nét mặt anh rạng rỡ và dáng dấp uy nghi. Không một cử động dư. Anh đi ngang qua chỗ tôi đứng. Ánh sáng nơi khuôn mặt bất động làm tôi bỗng nhiên bối rối kinh sợ. Tự nhiên tôi quỳ xuống.
Hành động bất ngờ khiến có người lao xao di chuyển gần tôi. Họ đoán một biến động, phòng ngừa một bạo động. Tôi phải giơ tay ra hiệu cho họ yên tâm. Tôi không muốn xáo động những bước chân của Chương. Lúc nãy tôi có ý định đợi khi anh đi qua tôi sẽ khẽ gọi tên anh. Tiếng gọi sẽ khua động cả tâm thức anh, sẽ chấn động cả tâm linh anh, sẽ phá đổ cả cái mặt biển bình lặng của tâm hồn anh hiện tại. Tôi tự tin bởi tôi biết tôi ngự trị nơi cái vùng trời Quá Khứ của anh. Nhưng khi nhìn ánh sáng nơi khuôn mặt bất động của anh, tôi vụt thấy tôi là kẻ bại trận. Vô nghĩa, phù du là tình yêu của một người đàn bà, là chính ngay người đàn bà. Trời ơi! Một con phù du vừa có ảo vọng ngông cuồng là vỗ cánh lên để làm giật mình một con sư tử.
Bóng của Chương đi khuất, nối tiếp theo là những bóng khác, cũng chậm rãi đều đặn theo một nhịp điệu êm êm, mê hoặc của giọng kèn nỉ non. Tôi vẫn cứ quỳ đó bất động, bất lực, cảm thấm thía lần đầu tiên thân phận phù du của mình.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 11, 2023 4:36:47 GMT 9
Một thoáng suy tư: Sưu Tầm
Chủ Nghĩa Marxism-Leninism giải thích đơn giản theo định hướng chủ nghĩa Tư Bản: Một giáo sư kinh tế Mỹ cho biết ông chưa từng đánh rớt sinh viên nào, nhưng đã từng đánh rớt hết cả một lớp học. Vì học sinh lớp này kiên quyết cho rằng, một xã hội có hình thái tổ chức hoàn hảo là một xã hội không ai giàu và cũng không ai nghèo, và đó là một xã hội tuyệt vời. Thế là vị giáo sư nói: “Được rồi, vậy lớp mình sẽ tiến hành một thí nghiệm về điều đó. Từ nay, tất cả các điểm sẽ được cộng lại và chia đều ra, mọi người sẽ nhận được điểm như nhau, vì thế không ai bị rớt và cũng không ai được điểm A cả.” * Sau bài thi đầu tiên, mức điểm trung bình cho cả lớp là B. Những sinh viên siêng năng rất buồn, còn những sinh viên lười biếng thì rất mừng. * Qua bài thi thứ hai, điểm trung bình cho cả lớp là D! Không ai vui cả. Vì những sinh viên lười thậm chí còn lười hơn, còn những sinh viên chăm chỉ thì quyết định rằng họ cũng chỉ nên học ít thôi. * Đến bài thi thứ ba, điểm trung bình là F. Mức điểm không hề tăng lên, mà còn nổ ra các cuộc cãi vã, nghi ngờ, buộc tội nhau. Mọi người đều khó chịu và tức giận, tất cả mọi người không ai còn muốn học để người khác có lợi. * Bài cuối cùng, tất cả đều rớt, khiến ai cũng ngỡ ngàng … Giáo sư đã nói với họ rằng: “Thông qua kết quả những bài kiểm tra thì các bạn có thể dễ dàng thấy được rằng, kiểu xã hội công bằng mà các bạn đang mong muốn rất khó thành hiện thực, vì dù ý tưởng rất hấp dẫn, nhưng khi đưa vào thực hành thì chẳng ai có động lực muốn làm việc nữa.” Cuối cùng ông kết luận: -Bạn không thể làm người nghèo giàu lên bằng cách khiến người giàu nghèo đi. -Người không làm gì mà vẫn được hưởng, trong khi người phải làm nhiều thì lại không được hưởng thêm, đây gọi là "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". -Chính phủ cho ai cái gì "free", thì phải lấy cái đó từ người khác. -Khi một nửa nhân loại thấy rằng họ không cần làm gì vì sẽ có người khác làm cho, còn một nửa kia thì nghĩ rằng họ có làm kiệt xác cũng chẳng ích gì vì sẽ bị kẻ khác chiếm mất, đó chính là khởi đầu cho sự kết thúc của mọi xã hội.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2024 17:51:14 GMT 9
L Ã N H T Ụ P H Á T K Ẹ O
Trần Trung Chính .
Trong bộ truyện Lục Mạch Thần Kiếm , văn hào Kim Dung có kể ra 2 nhân vật đặc biệt, đó là nhân vật Kiều Phong ở phía Bắc nước Trung Hoa và nhân vật Mộ Dung Cô Tô ở phía Nam nước Trung Hoa ( Chú thích của người viết : bộ truyện Lục Mạch Thần Kiếm có rất nhiều nhân vật chính, trong khi bộ truyện Anh Hùng Xạ Điêu chỉ có cặp Quách Tỉnh – Hoàng Dung là 2 nhân vật chính , hay như bộ truyện Thần Điêu Đại Hiệp chỉ có cặp Dương Qua – Tiểu Long Nữ là 2 nhân vật chính , như trong bộ Cô Gái Đồ Long chỉ có Trương Vô Kỵ là nhân vật chính… ) Kiều Phong được chùa Thiếu Lâm nhận làm đệ tử tục gia từ lúc còn nhỏ ( vì vợ chồng Kiều Tam Hòe nhận nuôi Kiều Phong theo sự ủy thác của chưởng môn phái Thiếu Lâm ) và Kiều Phong được học võ thuật dưới sự chỉ dạy của Huyền Khổ đại sư ( các nhà sư mang pháp danh có chữ Huyền đứng đầu , là sư huynh sư đệ của Huyền Từ đại sư – đương kim chưởng môn nhân của phái Thiếu Lâm ) . Vì là đệ tử tục gia, nên khi đến tuổi trưởng thành, ông rời chùa Thiếu Lâm gia nhập giang hồ. Kiều Phong có năng khiếu về võ thuật nên ông được bang chủ Cái Bang là Uông Kiếm Thông thâu nhận làm đệ tử để được trao truyền chức vụ Bang Chủ của Cái Bang khi Uông Kiếm Thông qua đời. Bang chủ Uông Kiếm Thông đã truyền dạy cho Kiều Phong 2 môn võ trấn môn của Cái Bang là Giáng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng . Mặc dù chỉ biết có 3 môn võ, nhưng Kiều Phong chăm chỉ rèn luyện, nên khi ra đòn tấn công ông đánh rất nhanh và chính xác khiến đối phương trở tay không kịp. Vì vậy chả bao lâu sau khi gia nhập vào chốn giang hồ, Kiều Phong đã trở thành một cao thủ nổi danh khắp nước Trung Hoa thời bấy giờ . Mộ Dung Phục (biệt hiệu là Mộ Dung Cô Tô – có lẽ sinh quán của Mộ Dung Phục ở gần vùng núi Cô Tô hay gần thị trấn Cô Tô) là con cháu của vua nước Yên (một nước trong thời kỳ nước Trung Hoa bị chia làm 6, đó là : Tần , Tấn, Tề, Sở, Yên, Triệu. Ghi chú của người viết : thời kỳ “lục quốc” là thời kỳ trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất toàn Trung Hoa). Thân phụ của Mộ Dung Phục là Mộ Dung Bác – một cao thủ võ lâm, ông này thừa hưởng di chúc của dòng họ là phải tái lập nước Yên, nên Mô Dung Bác tung tin là một cao thủ của nước Liêu sẽ nhập trung nguyên để trấn áp quần hùng Trung Hoa, Mộ Dung Bác đã triệu tập được 18 đại cao thủ trong đó có cả Bang Chủ Cái Bang là Uông Kiếm Thông, 2 nhà sư có võ công cao nhất của chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ Đại Sư và Huyền Khổ Đại Sư, hai vợ chồng Đàm Công + Đàm Bà, Triệu Triền Tôn (sư huynh của Đàm Bà)...(- người viết không thể nhớ hết tất cả 18 đại cao thủ vì trên 30 năm rồi, tôi chưa đọc lại bộ truyện này ) ra Nhạn Môn Quan đón đánh cao thủ của nước Liêu. ( Ghi chú của người viết : thế kỷ 12, nhà Tống suy yếu nên bị 2 nước phía Bắc là Mông Cổ và nước Kim lăm le xâm lăng, về sau Thành Cát Tư Hãn dứt điểm được nước Kim rồi tiến vào Trung Nguyên dứt điểm nhà Tống, một nhánh khác của bộ tộc nước Kim lên nắm chính quyền đổi quốc hiệu là nước Liêu. Cả nước Kim và nước Liêu đều là tiền thân của Mãn Châu sau này ; như vậy người Mãn Châu thất bại trong việc chiếm Trung Hoa vào thế kỷ 12 vì gặp đối thủ giỏi hơn và mạnh hơn là Mông Cổ, nhưng giấc mộng của họ không chấm dứt, phải đợi đến thế kỷ thứ 16 họ mới dứt điểm được nhà Minh và lập nên triều đại nhà Thanh – họ ở vùng đất Mãn Châu nên các sử gia Việt Nam gọi họ là triều đại Mãn Thanh.)
2 Khi ra tới Nhạn Môn Quan, họ thấy một võ quan của nước Liêu đi cùng người vợ đang bồng một đứa trẻ, đinh ninh võ quan này là một cao thủ nước Liêu như lời loan báo của Mộ Dung Bác, 18 cao thủ của trung nguyên (kể cả Mộ Dung Bác) bao vây và tấn công viên võ quan này. Dĩ nhiên “mãnh hổ nan địch quần hổ” (tôi nói quần hổ chứ không nói quần hồ vì võ công của 18 đại cao thủ này suýt soát với võ công của viên võ quan) nên viên võ quan cứ phải lùi mãi rồi rơi xuống vực thẳm. Người vợ thấy vậy cũng tự sát chết theo chồng, còn lại đứa nhỏ thì khóc oe oe. Thấy hoàn cảnh đứa nhỏ bi thảm như thế, 2 nhà sư phái Thiếu Lâm nhận trách nhiệm nuôi dạy đứa nhỏ, khi trưởng thành thì bàn giao cho Bang Chủ Cái Bang Uông Kiếm Thông. Đứa nhỏ đó là Kiều Phong (lấy họ Kiều vì cha mẹ nuôi là vợ chồng Kiều Tam Hòe sống gần chùa Thiếu lâm, không có con). Viên võ quan nước Liêu rơi xuống vực thẳm nhưng không chết (có tên là Tiêu Viễn Sơn) mới lẻn vào chùa Thiếu Lâm lén học võ công của phái Thiếu Lâm để báo thù , trong khi đó Mộ Dung Bác cũng lén vào Tàng Kinh Các để học lén võ công của phái Thiếu Lâm với mục đích “khuấy động quần hùng” xào xáo đánh nhau để Mộ Dung Bác có cơ hội tái lập vương triều nước Yên. Tiêu Viễn Sơn mặc áo đen khi vào Tàng Kinh Các nên tác giả Kim Dung gọi là nhà sư áo đen , còn Mộ Dung Bác thì mặc áo trắng nên Kim Dung gọi l;à nhà sư áo trắng. Cả 2 người này đều biết nhau nên sau khi học lóm võ thuật của kinh điển trong Tàng Kinh Các, cả 2 lại giao đấu với nhau để test lại khả năng của mình, cả 2 đều thấy tăng tiến võ công nhưng cũng không thể vượt xa đối thủ của mình. Tất cả hàng lãnh đạo của chùa Thiếu Lâm từ thủ tọa Tàng Kinh Các cho đến thủ tọa của La Hán Đường, Đạt Ma Đường, chưởng môn Huyền Từ Đại Sư…cũng không hề biết là có 2 cao thủ võ lâm giả làm nhà sư đột nhập Tàng Kinh Các học lén võ công cao cấp của môn phái Thiếu Lâm. Nhưng có một nhà sư già tiền bối của nhiều đời trước (đến nỗi chưởng môn Huyền Từ còn không nhớ pháp hiệu của nhà sư này, chỉ biết là ông ta đã sống rất lâu trong chùa, trước khi Huyền Từ xin vào làm đệ tử của chùa Thiếu Lâm). Nhà văn Kim Dung đã cởi nút thắt như sau : khi quần hùng tụ tập ở chùa Thiếu Lâm, 2 nhà sư áo đen và nhà sư áo trắng đã bạch hóa tên tuổi của họ, nhà sư già vô danh đã cho biết 2 nhà sư đã ăn trộm những quyển sách nào, đã luyện được những võ công nào, nhưng cũng bị thương ở những huyệt mạch nào…và sẽ chết vì “tẩu hỏa nhập ma”. Hai cao thủ Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác quá khiếp sợ, xin cầu cứu, nhà sư già vô danh nói hãy xả bỏ những tham vọng, hãy xả bỏ những võ công nguy hiểm để trở thành những người không có võ, chuyên đọc kinh niệm Phật để luyện lại nội công (lâu nay 2 cao thủ chỉ lo luyện ngoại công) thì sẽ sống thọ chứ không phải bị chết trong tương lai gần. Thấy cả 2 cao thủ Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác còn đang ngần ngừ tiếc nuối, nhà sư già vô danh dùng khinh công xông tới Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác đánh vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu của 2 người rồi 2 tay cắp 2 người bỏ chạy. Cả Kiều Phong và Mộ Dung Phục đều quan tâm đến sự an nguy của 2 thân phụ của mình nên cùng chạy theo nhưng cũng không làm sao đuổi kịp ( không phải nhà sư già vô danh đang cắp Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác bị mất hút, mà là Kiều Phong và Mộ Dung Phục không thể nào rút ngắn được khoảng cách để bắt kịp nhà sư này). Kiều Phong lúc nhảy xổ lại nhà sư già vô danh đã vung tay tung một chưởng trong Giáng Long Thập Bát Chưởng đánh trúng sau lưng nhà sư già, tuy nhiên cao thủ này không hề hấn gì vì ông ta vẫn cắp được Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác chạy như bay. Mà nhà sư già vô danh đâu có chạy đâu xa, ông cắp 2 cao thủ chạy vòng vòng khuôn viên chùa Thiếu Lâm, rồi sau đó đặt Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác trong đại sảnh – nơi mọi người đang đứng chờ, nhà sư già
3 vô danh nói ông chạy vòng vòng để giúp 2 người này đả thông kinh mạch và điều hòa hơi thở trở lại bình thường. Nhà sư già vô danh quay qua khen ngợi Kiều Phong : “chưởng lực và khinh công của thí chủ khá lắm” (trong khi đó Mộ Dung Phục không được khen như vậy). Quan sát 2 người đang ngồi điều tức hơi thở, cả Kiều Phong lẫn Mộ Dung Phục đều thấy 2 thân phụ của mình sắc mặt tươi tỉnh hơn, bỗng nhiên Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác mở mắt rồi cùng thi lễ kính chào nhà sư già vô danh xin xuất gia ở lại chùa Thiếu Lâm để học đạo (chớ không phải để có cơ hội học võ thuật trong thư viện Tàng Kinh Các). Tại sao cả Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác đã tự học được võ thuật cao siêu mà lại xin quy y tam bảo ở lại chùa Thiếu Lâm học đao ? Tại vì 2 ông này không học kinh Phật để xả bỏ lòng thù hận và xả bỏ tham vọng nên cái “mind” (có thể dịch là tâm trí) của 2 ông này trở nên lùng bùng , biết rằng một số huyệt đạo đang bị thương và sắp tiến tới tình trạng “tẩu hỏa nhập ma” mà không làm sao để tự cứu chữa. Hành động và lời giảng của nhà sư vô danh khiến 2 ông giác ngộ : cũng giống như Đức Phật, nhà sư già đã chỉ cho 2 ông con đường cứu rỗi và phần còn lại là chính 2 ông phải tự mình bước đi trên con đường cứu rỗi đó (trong Hán tự, Đạo cũng có nghĩa là con đường). Văn hào Kim Dung – qua lời nói của nhà sư già vô danh – cũng đã nhắn nhủ với độc giả hâm mộ và mến mộ văn tài của ông rằng : “võ thuật và võ công chỉ là phương tiện, suy nghĩ về thân phận con người để có thái độ ứng xử tốt đẹp với nhân quần xung quanh với tha nhân mới chính là CỨU CÁNH của con người.” Bởi vậy có rất nhiều độc giả không hiểu tại sao Tiêu Phong (sau cuộc hội ngộ ở chùa Thiếu Lâm,biết được cha ruột của mình là Tiêu Viễn Sơn, Kiều Phong không còn mang họ Kiều của cha nuôi nữa mà đổi qua họ Tiêu) cũng là cao thủ võ công không thua gì Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác (được chính nhà sư già vô danh – cao thủ bậc nhất của chùa Thiếu Lâm và môn phái Thiếu Lâm – khen ngợi ) lại không bị tình trạng “nội thương “ có thể gây nguy hiểm đến tính mạng ? Đó là vì Tiêu Phong là một con người trượng phu – khoáng đạt từ lối suy nghĩ cho đến hành động cư xử , lên làm Bang Chủ Cái Bang vì võ công giỏi và được sư phụ Uông Kiếm Thông trao truyền, nhưng đối xử với mọi người trong Cái bang như đối xử với cộng sự viên của mình chứ không phải là “ông chủ đối với thuộc cấp tay sai” của mình. Khi thấy bang chúng dị nghị về thân thế của mình không phải là người Hoa thuần túy (ông có hình xâm con chó sói trước ngực – là biểu tượng truyền thống của bộ tộc Khiết Đan - chứng tỏ ông là người nước Liêu và mặc dù ông không biết gì về ngôn ngữ bộ tộc Khiết Đan và văn hóa nước Liêu , nhưng dị nghị vẫn là dị nghị ), Tiêu Phong trao gậy trúc cho Ngô Trưởng Lão (Thanh Trúc Lệnh tiêu biểu cho chức vụ Bang Chủ Cái Bang) và bỏ đi lên phía Bắc sống nghề thợ săn : Tiêu Phong không có bất cứ hành động và suy nghĩ nào để bảo vệ và duy trì ngôi vị Bang Chủ. Về võ công, như đã đề cập ở phần đầu bài viết, Tiêu Phong chỉ biết 3 môn võ : Thiếu Lâm, Giáng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng của Cái Bang, nhưng ông đã luyện 3 môn võ này tới mức nhuần nhuyễn và chính xác, ra đòn với gia tốc thật nhanh nên đối phương không thể né tránh kịp, đồng thời với nguyên lý động lực học “lực = tích số của khối lượng nhân với bình phương của gia tốc” nên đối phương mà trúng đòn của ông thì chỉ có chết và bị trọng thương gần chết mà thôi. (tác giả Kim Dung mô tả Tiêu Phong có ngoại hình to lớn, có sức mạnh và khinh công rất nhanh). Ông không học nhiều môn võ
4 nên cái “mind (tâm trí)” của ông không bị “lùng bùng” như thân phụ của ông – Tiêu Viễn Sơn, như thân phụ của Mộ Dung Phục là Mộ Dung Bác, vì nhiều môn võ khắc chế nhau nên có nhiều đường lối và phương cách khác nhau. Vương Ngọc Yến là một cô gái xinh đẹp, là anh em họ với Mộ Dung Phục, rất yêu Mộ Dung Phục (tôi không nói Vương Ngọc Yến là người yêu của Mộ Dung Phục vì tâm trí của anh này chỉ lo nghĩ đến việc làm thế nào để trở thành hoàng đế của nước Yên), Vương Ngọc Yến là người không biết võ công nhưng lại hay đọc sách võ thuật và nhớ thuộc hết những thế võ của tất cả các môn phái. Khi Kiều Phong (lúc chưa đổi qua họ Tiêu) đụng độ với Mô Dung Phục, dĩ nhiên Vương Ngọc Yến phải thiên vị Mộ Dung Phục nên đã nói tên các đòn thế mà Kiều Phong đã xuất chiêu. Kiều Phong cả cười nói rằng : “ ta đánh ra những đòn tấn công, trước khi cô dứt lời thì hắn làm gì được ta “. Quả nhiên Mộ Dung Phục không thể áp dụng được món “gậy ông đập lưng ông” và đành phải bỏ chạy !!! Chú thích của người viết : muốn sử dụng môn võ “gậy ông đập lưng ông” hữu hiệu thì Mộ Dung Phục phải có khinh công cao hơn khinh công của Kiều Phong và phải luyện môn võ mà đối phương đang sử dụng nhuần nhuyễn hơn đối phương, cả 2 điều kiện vừa kể đều kém hơn Kiều Phong nên Mộ Dung Phục thua là phải rồi. Mặt khác, chúng ta biết rằng âm thanh (lời nói) có vận tốc truyền sóng là 340 mét/giây, nên tôi không tin là các đòn thế của Kiều Phong tung ra lại có thể “vượt bức tường âm thanh” như các máy bay phản lực của thế kỷ 20, nhưng tôi tin là Mộ Dung Phục phải trúng đòn của Kiều Phong vì khả năng “biến chiêu” của Kiều Phong (thời hiện đại, trong các võ đường Aikido – Judo , các huấn luyên viên không dùng nhóm chữ “biến chiêu” mà họ dùng nhóm từ “liên hoàn đòn“ để thay thế. Thí dụ minh họa : khi gặp một uke cao hơn mình +nặng cân hơn mình…muốn quật ngã đối phương thì không thể dùng một đòn duy nhất mà phải liên tiếp dùng đòn vai, đòn quét chân, đòn hông…để dụ uke cưỡng đòn (thứ tự có thể đảo lộn tùy người sử dụng) và sau cùng làm đối phương bị té ngã bởi đòn mông chả hạn. Tôi nhớ thời 1965 – 1967, trong thời Tổng Ủy Viên Giáo Dục Trần Ngọc Ninh (trong nội các chiến tranh của Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ, chức Ủy Viên tương đương với Tổng Trưởng hay Bộ Trưởng , và Tổng Ủy Viên Giáo Dục tương đương với Phó Thủ Tướng đặc trách Giáo Dục ), tôi đi học Aikido tại võ đường của Giáo sư Đặng Thông Phong trên lầu building số 94 trên đường Phan Thanh Giản gần góc đường Đinh Tiên Hoàng, tôi thấy Giáo Sư Đặng Thông Phong biểu diễn đã quật ngã rất nhiều người to con, nặng cân và khỏe hơn Giáo Sư Phong rất nhiều. Tôi nghĩ là Giáo Sư Phong “trình diễn” để chiêu mộ môn sinh. Đem hỏi anh bạn cùng lớp Đệ Tam B2 CVA là Trần Doãn Huyễn, lúc đó đang đeo đai nâu tại võ đường này, không thèm giải thích, anh gọi một cô gái xinh đẹp tên Mai (bảng tên đính trên ngực áo) biểu diễn cho tôi xem, mà chính tôi làm uke cho cô. Cô Mai nhỏ con, gầy và có vẻ yếu hơn tôi rất nhiều (năm 1965, tôi đã cân nặng 78 kilogram và cao 1,69 mét). Anh bảo tôi xuống tấn vững chắc và nắm chặt cô Mai bằng tay phải của tôi, chưa kịp thấy cô ra đòn gì thì tôi thấy mình bay ra phía trước và té sấp chúi nhủi, thiếu một chút xíu nữa là mặt đập xuống tapis, xém xịt máu mũi. Anh bạn Huyễn giải thích : trước hết cô Mai đẩy tôi (lực hướng vào), tôi dùng sức mạnh của mình đẩy ra (lực hướng ra), ngay lập tức cô Mai rút tay về và xoay người như khiêu vũ ballet, do đó tôi bị ngã chúi về phía trước do tổng lực 3 sức kéo ( sức của tôi đẩy ra + sức của cô Mai rút tay lại và moment ngẫu lực xoắn do sự xoay chuyển nhanh chóng của toàn thân cô Mai). Anh bạn Huyễn còn đùa thêm : “ ấy là mày mới có 78 kilogram, chớ 100 kilogram thì vẫn té như thường. Đó cũng là lý do
5 trong môn phái Aikido, kể từ hàng huyền đai, dù không làm huấn luyện viên, dẫn mặc váy xòe che phủ đôi chân, mục đích là để cho đối phương không trông thấy bộ pháp di chuyển “. Cuối truyện Lục Mạch Thần Kiếm, Mộ Dung Phục vì bất tài nen biết rằng không thể sai khiến quần hung giúp mình trong việc tái lập vương triều của nước Yên nên anh ta nẩy ra một sáng kiến tối tăm là xin làm dưỡng tử của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh, với ý đồ là khi Đoàn Diên Khánh sẽ kế vị nhà vua Đoàn Chính Minh của nước Đại Lý, sau đó không lâu vì tuổi tác đã cao Đoàn Diên Khánh sẽ qua đời thì Mộ Dung Phục sẽ lên kế vị rồi chuyện cải đổi quốc hiệu Đại Lý qua quốc hiệu nước Yên là chuyện dễ dàng. Đoàn Diên Khánh nguyên là Thái Tử chính thức của nước Đại Lý, nhưng khi có viên quan tạo phản giết mất cha ruột của Đoàn Diên Khánh và Đoàn Diên Khánh lại bị mất tích trong đêm biến loạn đó, nên hội đồng hoàng tộc mới chỉ định trưởng dòng thứ là hoàng tử Đoàn Chính Minh lên làm vua, hoàng tử Đoàn Chính Minh đã xuất gia vào chùa đi tu trước khi “được” chỉ định lên làm vua, cho nên tất cả mọi việc điều hành trong nước Đại Lý được giao cho người em là hoàng tử Đoàn Chính Thuần (có tước vị là Trấn Nam Vương). Đoàn Chính Thuần là người tài hoa và luôn cả trăng hoa nữa, nên ngoài Thư Bạch Phụng (là mẹ của Đoàn Dự) ông có rất nhiều nhân tình ở nhiều nơi trong nước Tàu. Những người con của những tình nhân của Đoàn Chính Thuần đều là con gái, kể cả Vương Ngọc Yến có mẹ là Vương phu nhân, vậy Vương Ngọc Yến là con gái của Đoàn Chính Thuần. Điểm đặc biệt là tất cả những tình nhân của Đoàn Chính Thuần đều yêu ông tha thiết muốn sống chết cùng với ông, ông là người hạnh phúc trọn vẹn vì ông chết trước khi Thư Bạch Phụng hấp hối đã tiết lộ cho Đoàn Diên Khánh và Đoàn Dự biết rằng : Đoàn Diên Khánh là cha ruột của Đoàn Dự chứ không phải Đoàn Chính Thuần là cha ruột của Đoàn Dự như mọi người đã lầm tưởng bấy lâu nay. Đoàn Diên Khánh cả đời gây tội ác cốt để tranh đoạt lại ngôi vị hoàng đế nước Đại Lý, nhưng không thành công vì ân đức và võ công của 2 anh em Đoàn Chính Minh và Đoàn Chính Thuần to lớn quá, nay qua sự tiết lộ của Thư Bạch Phụng, Đoàn Diên Khánh nghĩ rằng mình không làm vua thì con của mình làm vua cũng được. Đoàn Diên Khánh cũng biết rằng trong nhất thời, không thể bắt Đoàn Dự gọi mình là cha ruột, nhưng qua tia nhìn của Đoàn Dự, ông cũng biết rằng mình cũng có chỗ đứng trong tâm trí của Đoàn Dự. Do đó, Đoàn Diên Khánh hoàn toàn từ bỏ tham vọng trở lại chính trường và ra đi ở ẩn một nơi nào đó mà Kim Dung không nói rõ. Nói theo ngôn ngữ thời đại XHCN, Thái Tử Đoàn Diên Khánh được “hoàn toàn giải phóng” khỏi những ràng buộc của xã hội. Và nói theo kiểu Mỹ. Thái Tử Đoàn Diên Khánh đã nhắn với dưỡng tử Mộ Dung Phục rằng : “Totally, I am free”. Khi cầu cạnh làm dưỡng tử của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh, Mộ Dung Phục đã bị 2 nô tài của mình là Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng phản đối kịch liệt, đến nỗi Mộ Dung Phục đã hạt sát Bao Bất Đồng rồi Phong Ba Ác phải bỏ đi trốn tránh. Nay Thái Tử Đoàn Diên Khánh lại vân du hưởng nhàn để cho Đoàn Dự lên ngôi vua nước Đại Lý, nên Mộ Dung Phục đã hóa điên : y thường ra những nghĩa địa – nơi tụ tập của những thân nhân người chết đến dự đám tang – để phát kẹo cho đám trẻ con, với điều kiện phải gọi y là “bệ hạ” hay “hoàng thượng”. Tôi đọc bộ truyện Lục Mạch Thần Kiếm vào khoảng năm 1964 – 1965 khi đang học lớp đệ tứ trường trung học Thủ Khoa Nghĩa ở Châu Đốc, những tưởng đây chỉ là truyện giả tưởng có tính hư cấu mà thôi,
6 không ngờ 10 năm sau, nước Việt Nam ta cũng có một “hoàng thượng phát kẹo” như nhân vật Mộ Dung Phục trong truyện, đó là Tổng Thống 48 giờ đồng hồ Dương Văn Minh. Đại Tướng Dương Văn Minh được Việt Cộng cho “ăn kẹo” vì qua môi giới của Thích Trí Quang, Việt Cộng nhắn rằng “chỉ thương thuyến với Dương Văn Minh”. Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn là ông Graham Martin muốn có một người làm Tổng Thống bù nhìn để rút chân ra khỏi Việt Nam cho khỏi mất mặt, mà ông già gân Trần Văn Hương thì cứ muốn chiến đấu tới cùng, nên đại sứ Martin cho Dương Văn Minh “ăn kẹo” bằng cách áp lực với Tổng Thống Trần Văn Hương nhường chức Tổng Thống cho Dương Văn Minh. Trước đó, Tổng Thống Trần Văn Hương tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn “ quyền Tổng Thống không phải là cái khăn mouchoir, muốn trao là trao” !!! Còn Đại Sứ Pháp là Francois Marie Mérillon cho Dương Văn Minh “ăn kẹo” bằng cách lăng xăng tự nguyện làm trung gian cho một chính phủ trung lập ( Ông Mérillon này ngây thơ như muôn đời người Pháp vẫn ngây thơ trong chính trị, ông cho Dương Văn Minh “ăn kẹo” nhưn g chi1`nh ông bị bọn Bắc Việt qua “Sáu Búa” Lê Đức Thọ đuổi chạy không kịp mang lá cờ Tam Tài về nước, dĩ nhiên bọn Việt Cộng không tặng ông Mérillon kẹo đồng như bọn Khmer Đỏ đã hăm dọa lãnh sự Jean Dyras ở Phnom Penh hồi 17 tháng 4 năm 1975). Tôi nói Dương Văn Minh là “Tổng Thống phát kẹo” (hay như tiêu đề của bài viết là Lãnh Tụ Phát Kẹo) vì quốc hội lưỡng viện của VNCH biểu quyết yêu cầu Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh là một hành động vi hiến (vi hiến = vi phạm hiến pháp). Quốc Hội là cơ quan làm ra luật pháp quốc gia, nhưng đa số các thành viên quốc hội VNCH đều không phải là luật sư nên không biết luật hoặc dốt nát về luật, tuy rằng một số thành viên quốc hội có văn bằng cử nhân Luật hay có license hành nghề Luật Sư (tư pháp bao gồm cả hình luật và dân luật) ) chứ vẫn dốt về Luật Hiến Pháp. Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu – Chủ Tịch Ủy Ban Tư Pháp Định Chế của Hạ Nghị Viện VNCH thời điểm 1975 là người duy nhất bỏ phiếu chống lại sự trao quyền Tổng Thống cho Dương Văn Minh, vì Hiến Pháp được soạn thảo bởi Quốc Hội Lập Hiến năm 1966 không có điều khoản nào buộc Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho một người bá vơ như Dương Văn Minh. Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu nói : thà rằng Dương Văn Minh đảo chánh, tự xưng mình là Tổng Thống thì tuy là không hợp pháp nhưng lại hợp lý. Trong khi Quốc Hội VNCH được Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và Tòa Đại Sứ Pháp “cho kẹo” để biểu quyết ép Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho Dương Văn Minh là điều không hợp pháp và cũng chẳng có hợp lý chút nào cả ! Tới cuối năm 2011, ở kích thước nhỏ hơn, Tứ Nhân Bang của Đại Việt Cách Mạng Đảng bao gồm Nguyễn Lý Tưởng, Nguyễn Đức Cung, Lê Đình Cai và Phạm Bá Vịnh lại nhẩy ra tự thành lập cái gọi là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời rồi mở Đại Hội bầu bán và tấn phong lẫn nhau (vào đầu năm 2012) mà không dựa theo điều lệ và nội quy của Đại Việt Quốc Dân Đảng, cho nên dưới sự đánh giá của tôi : đây là những “ LÃNH TỤ PHÁT KẸO” mới, bắt đầu đi theo con đường của “hoàng thượng Mộ Dung Phục” và “Tổng Thống 48 giờ đồng hồ Dương văn Minh” đã làm từ mấy chục năm trước ! Tại sao. thủa còn sinh tiền Chủ Tịch Đại Việt Cách Mạng Đảng là ông Hà Thúc Ký không đề bạt tiến cử Nguyễn Lý Tưởng – cựu dân biểu đơn vị tỉnh Quảng Trị, hoạt động gần gũi với ông nhiều hơn, mà ông Hà Thúc Ký lại đề bạt và tiến cử ông Bùi Diễm- một người gốc miền Bắc, công chức cao cấp của Bộ Ngoại Giao VNCH, rất ít cơ hội hoạt động cùng ông Hà Thúc Ký và đã lớn tuổi ( trên 85 tuổi- là cái tuổi gần đất
7 xa trời cần nghỉ ngơi an dưỡng hơn là bon chen tìm danh lợi). Theo sự hiểu biết của tôi, ông Bùi Diễm có những ưu thế và ân nghĩa đối với ông Hà Thúc Ký mà Nguyễn Lý Tưởng không thể có : Điều thứ nhất : ông Bùi Diễm đã là Đại Sứ của VNCH trong một thời gian dài tại Washington D.C. nên ông có những mối giao hảo và liên lạc trực tiếp với chính giới Hoa Kỳ (nói thẳng là ôngt có thể lobby trực tiếp với các dân biểu, thượng nghị sĩ và các thế lực tài phiệt của Hoa Kỳ ngay tại trung tâm quyền lực Washington D.C.) trong khi đó Nguyễn Lý Tưởng mới qua Hoa Kỳ khoảng 1993, tiếng Anh qườ quạng lại cư ngụ tại miền Nam Cali, chả biết chính khách Hoa Kỳ nào (đó là chưa kể nói tiếng Anh giọng Quảng Trị,nguồi Mỹ nghe không hiểu) và với người Việt thì vùng Nam Cali quy tụ người Việt với nhau, là thủ đô của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, nhưng với chính giới Hoa Kỳ, vùng Little Saigon là nơi “khỉ ho cò gáy”. Điều thứ hai : ông Hà Thúc Ký chịu ân huệ với nhóm Đạii Việt Quan Lại từ trước khi ông thành lập Đại Việt Cách Mạng Đảng vào năm 1965. Năm 1963, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông Hà Thúc Ký được Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí – Tư Lệnh Quân Khu 1 kiêm Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và là Đại Biểu Chính Phủ VNCH của Vùng 1 Chiến Thuật – ký giấy trả tự do giải thoát khỏi sự giam giữ của Mật Vụ chính phủ Ngô Đình Diệm, trước khi nhóm Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán…được chở về Sài Gòn từ nhà tù tại đảo Côn Sơn. Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ không ra lệnh cho Đại Biểu Chính Phủ Đỗ Cao Trí làm việc này mà Tướng Đỗ Cao Trí cũng chẳng biết ông Hà Thúc Ký là nhân vật quan trọng của Đảng Đại Việt (ông là Xứ Bộ Trưởng của Đại Việt Quốc Dân Đảng tại miền Trung Việt), ông Hà Thúc Ký bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam giữ từ năm 1955 vì nhóm Đại Việt Miền Trung (lúc đó chưa có Đại Việt Cách Mạng Đảng) lập chiến khu Ba Lòng chống lại chính quyền của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên nhóm Đại Việt Quan Lại như Bác Sĩ Phan Huy Quát, Bác Sĩ Đặng Văn Sung, Đại Sứ Bùi Diễm… lần lượt chen chân được vào chính quyền VNCH. Vợ của Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí tên là Nguyễn Thị Kim Chi – là trưởng nữ của Thủ Hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí (ông Nguyễn Hữu Trí là cấp lãnh đạo của nhóm Đại Việt Quan lại ở Bắc Việt, ông Nguyễn Hữu Trí chết vì chứng cao huyết áp trên chuyến bay của chính phủ VNCH chuyên chở gia đình các viên chức hành chánh cao cấp vào những tháng đầu năm 1955). Các đồng chí trong Đại Việt (không bị chính phủ Ngô Đình Diệm trù dập như ông Hà Thúc Ký) đã không quên đồng chí kém may mắn, cho nên khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, “các chú. các bác“ trong Đại Việt đã vận động bà Kim Chi nhờ Tướng Đỗ Cao Trí giải thoát cho ông Hà Thúc Ký (nếu không có sự vận động của bà Kim Chi, Tướng Đỗ Cao Trí có thể không ký giấy thả ông Hà Thúc Ký vì ông sợ bị rắc rối với chính phủ trung ương tại Sài Gòn, kẹt cho ông sau này) . Điểm thứ ba : ngay trong tháng 3 và tháng 4/1975, khi tình hình VNCH ngày càng xâu đi, ông Bùi Diễm từ Hoa Kỳ có về VN để thu xếp đưa thân nhân gia đình rời khỏi Sài Gòn, khi đó ông có nhắn Trung Tá Bùi Quyền – thủ khoa khóa 16 của Trường Võ Bị Quốc Gia Dalat, lúc đó đang chiến đấu tại Khánh Dương trong Lữ Đoàn 2 của Sư Đoàn Dù, về Sài Gòn để di tản đi Mỹ. Trung Tá Bùi Quyền trả lời là không thể rời bỏ đơn vị trong lúc này được. Dù vậy ông Bùi Diễm cũng đã giúp đưa gia đình của Trung Tá Bùi Quyền (gồm vợ và 2 con trai của Trung Tá Bùi Quyền) sang Hoa Kỳ. Trung Tá Bùi Quyền bị Việt Cộng bắt làm tù binh khi mặt trận Khánh Dương tan vỡ. Mãi đến cuối thập niên 1980, ông mới được trả tự do và ông qua Mỹ khoảng năm 1990 trong những đợt đầu của chương trình H.O. Tôi không rõ đích xác sự liên hệ họ hàng giữa ông Bùi Diễm và ông Bùi Quyền, có người nói với tôi rằng 2 ông là 2 anh em cùng cha khác mẹ, cũng có người lại nói rằng 2 ông là anh em chú bác.
8 Tôi suy đoán rằng 2 ông Bùi Diễm và Hà Thúc Ký đã gặp nhau tại Sài Gòn vào thời điểm này, và ông Bùi Diễm đã khuyến cáo ông Hà Thúc Ký nên rời Việt Nam càng sớm càng tốt. Dĩ nhiên nhóm Tứ Nhân Bang của Đại Việt sẽ đòi hỏi tôi phải đưa ra chứng cớ, xin trả lời trước là tôi không có chứng cớ gì hết mà chỉ đưa ra những chứng lý mà thôi, tin hay không tin tùy thuộc độc giả. Tôi cũng đưa thêm những chi tiết sau đây để xác quyết cho những chứng lý của tôi thêm phần vững chắc : A/ Ông Hà Thúc Ký và 3 phụ tá thân cận của ông là Luật Sư Phạm Nam Sách, Giáo Sư Nguyễn Văn Canh và dân biểu Nguyễn Văn Kim (đơn vị Quảng Trị) đều rời Việt Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. B/ Nhân vật số 2 và số 3 trong Đại Việt Cách Mạng Đảng là Thượng Nghị Sĩ Hoàng Xuân Tửu và Dân Biểu Nguyễn Lý Tưởng đều là dân Công Giáo, cho nên ông Hà Thúc Ký khuyến cáo nên di tản trước khi quá muộn thì 2 ông này không nghe : 2 ông này tin vào trưởng khối Công Giáo trong nghị viện là Thượng Nghị Sĩ Nguyễn Văn Huyền (sau này làm Phó Tổng Thống cho Dương Văn Minh) bảo ở lại Việt Nam vì Giáo Hội Công Giáo đã có giải pháp. Kết quả là khi Dương văn Minh đầu hàng, Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền không bị đưa đi “cải tạo”, mà 2 ông Hoàng Xuân Tửu và Nguyễn Lý Tưởng phải đi trình diện để được nhà nước “cách mạng” giáo dục cải tạo dài hạn : ông Hoàng Xuân Tửu thì chết trong trại tù, còn ông Nguyễn Lý Tưởng thì mãi đến 1993 mới “bị tống sang Hoa Kỳ” trong diện H.O. ! c/ Căn cứ vào nơi cư trú của ông Hà Thúc Ký và gia đình ở tiểu bang Virginia, lân cận với Washington D.C. (cũng là nơi cư trú của ông Bùi Diễm), tôi phỏng đoán là sau năm 1975 khi đến Hoa Kỳ định cư, ông Hà Thúc Ký gần gũi với ông Bùi Diễm hơn cả với 3 phụ tá thân cận của ông : Giáo Sư Nguyễn Văn Canh vào làm việc cho Viện Nghiện Cứu Hoover – cận kề với đại học Stanford – thành phố Palo Alto, Giáo Sư Nguyễn Văn Canh cư ngụ tại thành phố Mountain View- Bắc California. Luật sư Phạm Nam Sách cư ngụ tại thành phố Chula Vista, một thành phố kề cận với San Diego - ở cực nam của tiểu bang California. Và sau cùng Dân Biểu Nguyễn Văn Kim – đơn vị Quảng Tri – cư ngụ tại thành phố Houston, tiểu bang Texas. Điểm thứ tư : (đây là điểm quan trọng nhất mà tôi để dành nói sau cùng) Tháng 7 năm 1994, khi từ San José lái xe xuống thành phố Pomona thăm viếng 2 anh em Chánh Án Nguyễn Hữu Hùng và Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu, Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu nhờ tôi lái xe của ông xuống San Diego thăm Luật Sư Phạm Nam Sách. Trong lúc trò chuyện, Luật Sư Phạm Nam Sách có hỏi thăm về một số chính trị gia quen biết với ông từ hồi 1967 – 1971 lúc ông còn làm Thượng Nghị Sĩ ở Thượng Nghị Viện, cũng như hỏi thăm một số dân biểu nguồn gốc Đại Việt bị bọn Việt Cộng cầm tù trong các “Trại Cải Tạo”. Tôi nghe Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu chê bai Dân Biểu Nguyễn Lý Tưởng qua câu nói sau : ” thằng cha này thuộc loại già dái non hột , mới ở tù Việt Cộng có vài tháng mà đã run sợ, tháng 8/1975 ở trại Long Thành, Nguyễn Lý Tưởng tuyên bố ông ta gia nhập Đại Việt Cách Mạng Đảngvì bị Hà Thúc Ký dụ dỗ. Chả bù với ông Hà Thúc Ký rất cứng cựa trong trại tù của mật vụchế độ Ngô Đình Diệm. Biết bao lần Ngô Đình Cẩn đe dọa và dụ dỗ ông Hà Thúc Ký “trở lại Đạo Công Giáo” để được tha và chính quyện trọng dụng, nhưng ông Hà Thúc Ký không đáp ứng. Trong khi đó, anh rể của ông là Giáo Sư Trần Điền đã “đầu hàng” Ngô Đình Cẩn, tuy không nói ra bất cứ lời chỉ trích hay chê trách nào, nhưng có lẽ ông Hà Thúc Ký không PHỤC ông Trần Điền” . Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu nói : thật khó mà dịch động từ PHỤC của Việt ngữ qua tiếng Anh hay tiếng Pháp vì “to respect” là kính trọng và “to admire” là ngưỡng mộ, không thể diễn đạt đúng nghĩa hoàn
9 toàn của động từ PHỤC trong Việt ngữ. Và tất cả những đảng viên của Đại Việt Cách Mạng Đảng đều PHỤC tư cách lãnh đạo của Chủ Tịch Hà Thúc Ký trong suốt 9 năm được “thử lửa” ở trại giam CHÍN HẦM tại tỉnh Thừa Thiên (dĩ nhiên về kỹ thuật lãnh đạo, ông Hà Thúc Ký vẫn chưa được toàn bích). Đương nhiên là ông Hà Thúc Ký biết chuyện xảy ra cho Nguyễn Lý Tưởng tại trại tù Long Thành hồi tháng 8/1975 qua nhiều nguồn gốc khác nhau, nhưng tôi nghĩ lời kể và lời bình luận của Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu (được Luật Sư Phạm Nam Sách báo cáo lại cho ông Hà Thúc Ký), có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến tương lai chính trị của Nguyễn Lý Tưởng : bởi vì Luật Sư Nguyễn Hữ u Hiệu là người ngoài Đảng Đại Việt, Luật Sư Nguyễn Hữ u Hiệu không có nhu cầu tương tranh chức vị kế thừa trong Đảng Đại Việt, ông chỉ bình luận hành vi chính trị của Nguyễn Lý Tưởng trong con mắt của một người Việt Nam hoạt động chính trị mà thôi. Chú thích của người viết : thành ngữ “già dái, non hột” phần lớn do người miền Bắc sử dụng vì cả 3 chúng tôi đều là người gốc miền Bắc : Luật Sư Phạm Nam Sách là ngưởi tỉnh Nam Định, Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu là người tỉnh Thanh Hóa, và người viết sinh quán tại tỉnh Hải Dương. Cỡ 3 tháng sau khi trở về từ San Diego, nhân gặp nhau trong một buổi lễ tại trường Overfelt High School do Thượng Tọa Thích Giác Lượng chủ trì, Luật Sư Nguyễn Thành – nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Thị Xã Đà Lạt, cũng thuật lại cho tôi nghe câu chuyện về Nguyễn Lý Tưởng tại trại Long Thành hồi tháng 8/1975 y hệt như Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu đã kể cho Luật Sư Phạm Nam Sách nghe ở San Diego vài tháng trước. Ghi nhận là Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu và Luật Sư Nguyễn Thành đều không phải là đảng viên của Đại Việt Cách Mạng Đảng và 2 ông không hề quen biết nhau trước 1975. Hai ông chỉ quan biết nhau khi bọn Việt Cộng nhốt tù trong Trại Cải Tạo, và khi sang Hoa Kỳ tỵ nạn chính trị, cả 2 cư ngụ tại 2 thành phố cách xa nhau hàng 500 – 600 miles nên chả bao giờ gặp nhau. Luật Sư Phạm Nam Sách qua đời vì bệnh tim hồi năm 2000 thọ 68 tuổi, Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu qua đời vì bệnh ung thư bao tử hồi tháng 12/2008, ông Hà Thúc Ký qua đời hồi năm 2009 vì cao tuổi, nhưng Luật Sư Nguyễn Thành thì vẫn còn khỏe mạnh và minh mẫn linh động, ông sinh sống ngay tại thành phố San José này. Tay chân của Tứ Nhân Bang gốc Đại Việt nếu cần để kiểm chứng thì cứ hỏi thẳng Luật Sư Nguyễn Thành về sự việc này. Tôi vượt biên đường bộ ngả Khe Sanh – Lao Bảo hồi tháng 6/1978, bị bắt giam và bị đưa lên “Trại Cải Tạo Bình Điền 1” để lao động khổ sai từ tháng 8/1978 đến tháng 6/1984 mới trở lại Sài Gòn, cho nên những chuyện “không hay” mà anh Lê Đình Cai đã làm ở trại Ba Lạch ( trước khi bị chuyển đến trại Bình Điền ) tôi đều được nghe biết tuy không được tận mắt chứng kiến. Anh Lê Đình Cai có vẻ nghi ngờ Giáo Sư Nguyễn Châu hay Giáo Sư Hồ Đình Chữ -( là những đối thủ về nghề nghiệp và cũng là đối thủ chính trị với anh) kể xấu về anh để hạ uy tín của anh, nhưng tôi minh xác là tôi biết những chuyện “không hay” của anh Lê Đình Cai từ những sinh viên trẻ của Đại Học Huế, những thanh niên sinh khoảng từ 1953 đến khoảng 1956, bị chính quyền Cộng Sản Thành Phố Huế đưa lên “Trại Cải Tạo ” Bình Điền với tội danh bâng qươ là “phản động chống phá Cách Mạng” vì những sinh viên này “phát biểu linh tinh” hay “ đùa giỡn chọc quê các giáo sư từ miền Bắc vào dạy tại Đại Học Huế”, một số khác liều mạng hơn tự tay viết vào những tờ bướm (flyers) và tự đi rải những tờ truyền đơn có nội dung chống Cộng tại các giảng đường của Đại Học Huế.
10 Chính anh Lê Đình Cai đã tự đốt cháy hào quang của mình khi anh đã ôm ảnh Hồ chí Minh mà khóc lóc làm thơ than thở cho bản thân anh. Chính những sinh viên trẻ này – không quen biết với tôi ngoài đời – đã thất vọng về tư cách của anh, đã “bất phục” ông Bí Thư Thành Ủy Đảng Đại Việt của Thành Phố Huế bằng những coup lườm nguýt, bằng những lời nói kháy…tuy rằng họ chưa đến nỗi chửi rủa và đánh đập vào thân xác anh, nhưng có phải những hành vi “bất kính” của họ xuất phát từ tư tưởng “bất phục” của học trò khi nhận ra “ông thầy không ra gì “ ? Tôi còn nhớ em Lê Thương (trùng tên họ với nhạc sĩ Lê Thương) sinh năm 1955 cho tôi biết anh Lê Đình Cai trước khi đậu văn bằng Cao Học Sử tại Đại Học Văn Khoa – Viện Đại Học Huế, đã tốt nghiệp ưu hạng từ Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ. Ngạc nhiên, tôi hỏi : “thật vậy sao ?”; em Lê Thương trả lời tỉnh bơ “ nếu không tốt nghiệp ưu hạng từ Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ thì ông Lê Đình Cai không thể đóng kịch ôm ảnh khóc Bác Hồ hay đến như vậy !!! Điều tôi ngạc nhiên là phe nhóm Tứ Nhân Bang (trong đó có anh Phạm bá Vịnh) biết rõ chuyện này, nhưng lại cứ trích dẫn quyển hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” của ông Hà Thúc Ký để chứng minh rằng Nguyễn Lý Tưởng và Lê Đình Cai có công với Đại Việt Cách Mạng Đảng (trước 1975), cho nên bây giờ (2012) rất xứng đáng “kế thừa” vai trò Lãnh Đạo của Đảng Đại Việt. Đó là lối suy nghĩ chủ quan nói lấy được của các Sứ Quân thủ lãnh nhóm Đại Việt Ly Khai mà cứ lớn lối gán ghép cho nhóm hậu duệ của ông Bùi Diễm là TIẾM DANH, và tự phong cho phe nhóm của mình là CHÍNH DANH. Tôi không tham gia đảng phái chính trị nào, cũng không phải là đảng viên của Đại Việt Cách Mạng Đảng, cũng không hề quan biết ông Bùi Diễm hay hậu duệ của ông, cho nên tôi không có nhu cầu tranh dành quyền lực với nhóm Tứ Nhân Bang mà tôi gọi là Sứ Quân của Đại Việt Ly Khai…Những điều tôi trình bày trong bài viết này chỉ cốt giúp cho những đảng viên của Đại Việt (bao gồm Đại Việt Cách Mạng Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng) cũng như quần chúng nhân dân (có để ý đến chính trị) có thêm thông tin và dữ kiện mà các Sứ Quân của nhóm Đại Việt Ly Khai cố tình dấu diếm, mục đích để những thành phần này quyết định chính xác và đúng đáng (sau khi đã lượng giá và so sánh) về chuyện ủng hộ hay tiêu trừ các nhóm hoạt động chính trị nhố nhăng đang múa may trong Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn. Xin tạm dừng tại đây vì bài viết đã khá dài, nếu có thời giờ rảnh rỗi và được nhiều độc giả yêu cầu, người viết sẽ trình bày những nguyên nhân sâu xa đã thúc đẩy Tứ Nhân Bang nhẩy ra thành lập nhóm Đại Việt Ly Khai, đồng thời cũng bình luận về chuyện nhóm hậu duệ của ông Bùi Diễm bị chỉ trích là “từ bỏ nhiệm vụ Cách Mạng” để trở thành “ cơ sở bất vụ lợi “. Trân trọng kính chào San José ngày 03 tháng 6 năm 2012 Trần Trung Chính
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2024 19:14:40 GMT 9
NHÂN QUẢ của GIÁO HỘI ẮN QUANG Trần Trung Chính April, 29,2020
Chùa Ấn Quang tại Việt Nam. Nguồn internet. Đạo Phật có nói đến NGHIỆP, đến NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO chứ không hề nói đến ĐỊNH MỆNH.
Do đó: gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành thì gặt quả an vui .chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như “định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh thuyết 4 giai cấp của Bà –la-môn (Ấn Độ giáo)
Năm 1925, tiếng bom Sa Điện nổ ở Quảng Châu do Phạm Hồng Thái phụ trách, tuy không giết được Toàn Quyền Merlin, nhưng Bộ Thuộc Địa của chính quyền Pháp đang tìm cách “vô hiệu hóa” tinh thần chống Pháp của người Việt. Năm 1930, Toàn Quyền Pasquier đệ trình kế hoạch để thực thi giải quyết vấn nạn này. Ông Pasquier nhận xét rằng những nhà ái quốc của Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho Giáo với quan niệm QUÂN – SƯ – PHỤ làm kim chỉ nam cho cuộc sống chính trị của người Việt. Ông Toàn Quyền Pasqiuer đề nghị dùng Phật Giáo để làm “chệch hướng” của cao trào “trung quân ái quốc” vì Phật Giáo chú trọng đến CỨU KHỔ và GIẢI THOÁT cho từng cá nhân chứ không bao giờ đề cập đến QUỐC GIA và TỔ QUỐC. Châm ngôn BI – TRÍ – DŨNG cũng chỉ đề cập đến thái độ ứng xử (behavior) của cá nhân chứ không đề cập đến QUỐC GIA và TỔ QUỐC.
Bác sĩ Lê Đình Thám thành lập Hội Phật Giáo (tại Huế) từ năm 1932 với sự ngầm giúp đỡ của Toàn Quyền Pasquier và chính quyền thuộc địa của các ông Khâm Sứ và Công Sứ địa phương. Lợi dụng vỏ bọc “khuếch trương Phật Giáo”, bác sĩ Lê Đình Thám bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản song hành với nghiên cứu về Phật Giáo. Khi đó những người như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Nhất Hạnh…vì nhà nghèo nên được “gửi vào chùa”. Các vị sư trụ trì các chùa lớn ở Huế nhận các “chú tiểu” này với 2 điều kiện tối thiểu:
1/ Điều kiện thứ nhất: phải thông minh 2/Điều kiện thứ hai: phải trường thọ
Chú thích 1: cả 2 điều kiện này đều dựa vào môn Tướng Mệnh Học.
Chú thích 2: thân phụ của ông bạn tù CVB của tôi suýt bị bắt vì mưu toan gia nhập Quốc Dân Đảng, sau khi Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học thất bại và bị xử tử, thân phụ ông bạn CVB sinh hoạt bình thường nhưng ẩn mình trong các chùa nên biết rõ xuất xứ của các vị sư sau này làm lãnh tụ của Khối Ấn Quang
Vào thời điểm từ khi thành lập Hội Phật Giáo Trung Việt vào năm 1932 cho đến 1945, các chú tiểu và tăng sinh trong chùa được dạy dỗ của các nhà sư lớn tuổi, cho nên rành chữ Hán, chữ Phạn. Và riêng chữ quốc ngữ Latinh hóa thì các vị sư rất là yếu kém (ở ngoài đời dân chúng trưởng thành giỏi chữ quốc ngữ là nhờ các ông Trần Trọng Kim, Trần Văn Thông, Đỗ Thận, Bùi Kỷ… soạn bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư dành cho bậc tiểu học. Rồi lên trung học đa phần là nhờ đọc báo chí của các ông Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, nhóm Tự Lực Văn Đoàn…). Giới thiệu sơ qua như vậy, chúng ta suy đoán chắc chắn rằng trình độ Việt ngữ của các nhà sư ngang tuổi với Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh, Thích Đôn Hậu…rất là kém cỏi. Về mặt Công Dân Giáo Dục thì các nhà sư này hoàn toàn không biết gì hết về ý thức “trách nhiệm và bổn phận công dân của một quốc gia độc lập”.
Thẳng thắn mà nói, chương trình Cải Tổ Giáo Dục ra đời năm 1957 dưới thời Bộ Trưởng Giáo Dục là ông Trần Hữu Thế của chính phủ Ngô Đình Diệm. Khi ấy, chính phủ VNCH cũng bắt đầu cho các vị tăng sĩ đạt được trình độ Tú Tài đi du học các nước Anh, Mỹ, Pháp…Nhưng có học vị đại học về văn chương, về Phật Học, về Xã Hội Học, về Triết Học…nhưng trong quá khứ họ không được rèn luyện ý thức CÔNG DÂN nên sau này khi nhóm ưu tú này nắm quyền lãnh đạo Giáo Hội Ấn Quang, chúng ta biết và thấy rõ là không hề có ông sư, bà sư nào đề cập đến Ý NIỆM ÁI QUỐC và đặt QUYỀN LỢI TỔ QUỐC LÊN TRÊN HẾT.
Một biến cố lớn đã xảy ra trên thành phố HUẾ và tỉnh Thừa Thiên vào năm Mậu Thân 1968 là những người dân thường, viên chức chính phủ, quân nhân, các đảng viên của Quốc Dân Đảng và Đảng Đại Việt cũng như đồng bào theo Thiên Chúa Giáo ở Phú Cam bị chôn sống gần 7,000 người. Người ta lên án những đồ tể như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, Tôn Thất Dương Kỵ, Thích Đôn Hậu… nhưng không ai thắc mắc và tìm hiểu sâu thêm là tại sao những đồ tể này đều là những phật tử thuần thành của tập đoàn tăng lữ Bình Trị Thiên ?
Xin nhắc lại hệ luận của Học Thuyết Nhân Quả là trên cõi đời này không có chuyện gì tự nhiên xảy ra, con người vì thiếu suy nghĩ hay bị màng vô minh che lấp giữa NHÂN và QUẢ nên cho rằng tự nhiên xảy ra.
Thí dụ: cựu Đại Úy Nguyễn Như Quỳnh (khóa 1 Đại Học Chiến Tranh Chính Trị) trong niên khóa 1961-1962 học lớp đệ nhị (sau năm 1970, Bộ Giáo Dục đổi lại là lớp 11), phụ trách môn Việt Văn là giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông này đã có tư tưởng ghét chế độ VNCH, ghét Thiên Chúa Giáo, ghét những kẻ theo Mỹ Pháp. Nên nhớ rằng Viện Đại Học Huế khai giảng vào năm 1958, Hoàng Phủ Ngọc Tường dạy trung học đệ nhị cấp năm 1961, tức là Hoàng Phủ Ngọc Tường học trung học và đại học tại Huế. Giáo dục của VNCH không có ai cho phép dạy học trò lòng căm thù như vậy, chắc chắn là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hấp thụ “văn hóa căm thù” từ các vị tăng gốc là đảng viên Cộng Sản của Hội Phật Giáo Trung Việt mà thôi.
Để chứng minh cho sự thật hiển nhiên là sau Hiệp Định Genève 1954, tất cả những nhà sư Cộng Sản như Thích Tố Liên, Thích Trí Độ, ngay cả bác sĩ Lê Đình Thám cũng rút ra Bắc hoạt đông (Lê Đình Thám để lại gia đình con cái tại Quảng Nam, sau này một người con trai là ông Lê Đình Duyên trở thành dân biểu của Quảng Nam, coi như cầm đầu những dân biếu thân Ấn Quang). Một lý do rất đơn giản là những hoạt động cho Việt Cộng của những tên Việt Cộng đội lốt tu sĩ này đã bị Sở Liêm Phóng lưu hồ sơ. Khi bàn giao cho chính phủ VNCH, các hồ sơ an ninh này đã được giới chức an ninh – phản gián của VNCH tiếp nhận. Những người Cộng Sản này nếu ở lại Huế thì chắc chắn sẽ bị bắt, cho nên lệnh của chính quyền VC chỉ để lại những “trẻ con” như Võ Đình Cường, Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Minh, Thích Đôn Hậu, Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm…mà thôi ( bị xem là “trẻ con” vì chưa bị Sở Liêm Phóng ghi tên vào “sổ đen”)
Những nhà sư Cộng Sản thứ thiệt đã từng bị Sở Liêm Phóng bắt giữ, chính bà Hoàng Thị Cúc (hiệu là Từ Cung – mẹ vua Bảo Đại, đích thân viết thư tay xin Toàn Quyền Pasquier thả ra và Sở Liêm Phóng vẫn còn giữ lá thư của bà Từ Cung.) Điều bí mật
này, tất cả những phật tử Huế không hề biết, ngay cả Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Nhất Hạnh… cũng không thể biết.
Những năm đầu của thập niên 1980, ông Vũ Ngự Chiêu là Ph.D. Candidate của Đại Học Mỹ (lâu quá người viết không nhớ rõ), đề tài của luận án là những hoạt động của Hồ chí Minh tại Pháp vào những năm 1920 – 1930. Ông Vũ Ngự Chiêu đã cậy nhờ Giáo Sư Nguyễn Thế Anh trợ giúp vì ông Vũ Ngự Chiêu rành tiếng Anh và tiếng Việt chứ ông không rành tiếng Pháp và càng không thể rành những nơi cất giữ tài liệu mang tính cách trung thực của lịch sử. Giáo Sư Nguyễn Thế Anh có văn bằng Tiến Sĩ Sử Học của Đại Học Sorbonne, đã nắm giữ chức Viện Trưởng Viện Đại Học Huế kiêm nhiệm luôn chức vụ Trưởng Khoa Sử của Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trong khoảng 1965 – 1975.
Cả 2 ông đã vào tận văn khố của Bộ Thuộc Địa Pháp tìm được những tài liệu mà chưa ai biết (kể cả Ban Tuyên Huấn của Đảng CSVN). Dĩ nhiên nhờ những tài liệu độc đáo này, ông Vũ Ngự Chiêu đã được chấm đậu văn bằng Tiến Sĩ Sử Học của ông. Điều quan trọng là những tài liệu được trình bày trong Luận Án đã lột mặt nạ giả dối của Hồ chí Minh mà lâu nay Đảng Cộng Sản Việt Minh vẽ vời thần thánh hóa những chuyện không có thực.
Đưa thí dụ của Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu và Giáo Sư Nguyễn Thế Anh tìm tài liệu trong văn khố của Bộ Thuộc Địa để bác bỏ những cáo buộc mà những phật tử cuồng Ấn Quang sẽ phản đối người viết là “bôi bác uy tín và bêu xấu những vị lãnh đạo của Phật Giáo”. Người viết đoan chắc là trong văn khố của Bộ Thuộc Địa vẫn còn lưu giữ những tài liệu liên quan đến vấn đề thành lập Hội Phật Giáo Trung Việt vào năm 1932, lý do cũng rất tầm thường và giản dị: “ ông Pasquier chỉ thi hành những mệnh lệnh của Bộ Thuộc Địa và ngân sách chi dùng là của Bộ Thuộc Địa chứ không phải tiền túi riêng của Toàn Quyền Pasquier.”
Dự án nâng đỡ Phật Giáo của ông Pasquier đã có kết quả tốt, đó là suốt từ năm 1932 cho đến năm 1945, không có cuộc kháng chiến vũ trang bạo động nào của người Việt thách thức đến sự thống trị của người Pháp tại Đông Dương. Như đã đề cập trong phần đầu: “học thuyết của Phật Giáo chỉ làm chệch hướng những cuộc đấu tranh chống Pháp”. Trong khi những lãnh tụ Phật Giáo Ấn Quang ngông cuồng, kiêu ngạo và ngu dốt mưu định dùng triết thuyết Phật Giáo thay thế cho ý niệm Ái Quốc của người Việt.
Người viết dám dùng 2 chữ “ngu dốt” vì những nhà sư Ấn Quang không có học Lịch Sử Việt Nam (chưa chắc các ông này đã đọc VIỆT NAM SỬ LƯỢC của học giả Trần Trọng Kim viết từ năm 1930, sách do nhà xuất bản Tân Việt in ấn). Người viết đưa ra 3 thí dụ điển hình trong Lịch Sử Việt Nam để chứng minh Ý NIỆM ÁI QUỐC và ĐẶT QUYỀN LỢI ĐẤT NƯỚC LÊN TRÊN CÁC QUYỀN LỢI KHÁC (cả 3 trường hợp này đều xảy ra trong 2 triều đại Lý – Trần, là thời đại hưng thịnh của Phật Giáo của nước ta)
Thí dụ thứ nhất : trường hợp danh tướng Lý Thường Kiệt, theo như học giả Hoàng Xuân Hãn, 2 anh em của ông Lý Thường Kiệt và Lý Thường Hiển đều làm quan trong triều nhà Lý, ông Lý Thường Kiệt có gia đình, nhưng ông được làm phụ chính cho vị vua lên ngôi còn quá nhỏ, để tránh tiếng dị nghị với Hoàng Thái Hậu và các cung nữ trong triều, ông tình nguyện tự thiến để ra vào trong cung cấm như các thái giám (mặc dù ông không phải tiến thân từ hàng ngũ thái giám). Tất cả mọi quyết định trọng đại đều do ông lên kế hoạch và thực thi, kể cả việc “tấn công để phòng thủ” của ông sang Quảng Tây .Ông nổi danh với thành tích khi hạ thủ được thành Nam Ninh (thủ phủ của tỉnh Quảng Tây) ông đã giết 36,000 người : khi quân cứu viện của nhà Tống tới Nam Ninh thì ông Lý Thường Kiệt đã rút quân về nước. Trong bản báo cáo cho triều đình, sử quan của đạo quân cứu viện này ghi nhận ông ta đếm được 360 đống đầu lâu, mỗi đống có 100 đầu lâu. Sự kiện này làm rúng động triều đình nhà Tống và làm quân dân của 2 tỉnh Quảng Đông – Quảng Tây khiếp sợ ông Lý Thường Kiệt.
Thí dụ thứ hai : Khi quân Mông Cổ xâm lăng nước ta lần thứ nhất, vua Trần Thái Tông (tên là Trần Cảnh) có ý định đầu hàng vì thực lực quân sự của nhà Trần còn yếu kém, Thái Sư Trần Thủ Độ (là chú ruột của vua Trần Thái Tông, tuy không làm vua nhưng thực sự là người thành lập – founder – nhà Trần), có tâu vua là : “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Ý kiến của người viết : “câu nói của Trần Thủ Độ được sử sách ghi lại chỉ có tính cách ước lệ và hàn lâm, chứ ông Trần Cảnh lên làm vua do vợ là Lý Chiêu Hoàng truyền lại lúc mới 8 tuổi, nên câu nói của Trần Thủ Độ phải hiểu là: Tao còn ngồi đây, đứa nào nói chuyện đầu hàng là tao chặt đầu trước”.
Thí dụ thứ ba : khi quân Mông Cổ xâm lăng nước ta lần thứ hai do Thái Tử Thoát Hoan thống lĩnh 50 vạn quân, vua Trần Nhân Tông cũng có ý định đầu hàng, danh tướng Trần Quốc Tuấn (danh hiệu Hưng Đạo Vương) chất vấn: “thế còn xã tắc và nhân dân thì sao ? Có cái gì bảo đảm rằng nhà vua đầu hàng cho yên thân thì quân Mông Cổ sẽ để yên cho nhân dân và không tàn phá đất nước ?. Danh tướng Trần Quốc Tuấn được toàn dân nhiều thế hệ sau truy tặng là THÁNH TRẦN vì ông luôn luôn đặt QUYỀN LỢI CỦA ĐẤT NƯỚC LÊN TRÊN HẾT (trên cả những quyền lợi của chi phái dòng họ của ông cũng như quyền lợi của cá nhân ông)
Chính vì không đặt quyền lợi QUỐC GIA và TỔ QUỐC là cứu cánh cho công cuộc tranh đấu, nên Giáo Hội Ấn Quang cũng như Tập Đoàn Tăng Lữ Bình Trị Thiên không có hậu thuẫn chính trị, ngoại trừ một số tướng tá dốt nát như Nguyễn Chánh Thi, Phan Xuân Nhuận, Tôn Thất Đính, Đàm Quang Yêu…và một số tín đồ cuồng tín chỉ nằm trong địa phương Huế - Thừa Thiên – Quảng Nam… Nhận định của người viết không phải từ sự võ đoán xuất xứ từ sự ghét bỏ những ông bà sư thân Cộng, mà là chính sách chủ yếu của Giáo Hội Ấn Quang, đó là tới năm 2020 mà vẫn cứ rêu rao là PHẬT GIÁO ĐỒ VN TRANH ĐẤU CHO ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC ( trong đám tín đồ ủng hộ không có ai đặt câu hỏi là thế QUỐC GIA – TỔ QUỐC ở đâu?)
Thực sự, hiện trạng của Giáo Hội Ấn Quang sau khi nhà sư Thích Quảng Độ qua đời, là hiện tượng SỨ QUÂN, y hệt như sau khi Ngô Quyền chết rồi, con trai kế vị là Ngô
Xương Ngập không đủ tài cai trị, loạn lạc nổi lên tứ tung phải nhờ em trai là Ngô Xương Văn trợ giúp cầm quân đi dẹp loạn. Không may, Ngô Xương Văn trúng tên tử trận rồi Ngô Xương Ngập cũng qua đời. Rốt cuộc con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí chỉ giữ được đất Đường Lâm và trở thành 01 trong số Thập Nhị Sứ Quân.
Cái tư tưởng ghét VNCH, ghét Mỹ, ghét Pháp…mà chỉ hô hào thương yêu dân tộc Việt Nam vẫn còn tồn đọng trong đám gọi là “trí thức Phật Giáo như Lý Khôi Việt, Trần Chung Ngọc, Trần Quang Thuận, Tạ Văn Tài, Đào Văn Bình, Trần Kiêm Đoàn, Định Nguyên Nguyễn Hữu Đính, Cao Văn Hở, Lê Công Cầu, Huỳnh Tấn Lê, Cao Huy Thuần, Thái Kim Lan…Dẫn chứng qua bài viết mới đây của Định Nguyên với tựa đề 30 tháng tư/năm 1975 là ngày gì ? Dưới vỏ bọc là cựu Đại Úy Cảnh Sát, cả nguyên bài văn chớ hề thấy Định Nguyên vạch trần tội ác của Cộng Sản mà lại lý luận quanh co là sau ngày 20 tháng 7 năm 1954 và sau 30 tháng tư năm 1975, người Việt xuất ngoại khởi đầu cho “hành trình đi tìm tự do”. Rõ ràng là nếu VC không chiếm VN thì nhân dân Việt Nam đâu có phải “Đi Tìm Tự Do” làm quái gì.
Khẩu hiệu GIẢI TRỪ PHÁP NẠN mà Giáo Hội Ấn Quang và tập đoàn tăng lữ Bình Trị Thiên thường hay rêu rao, nhưng không chỉ rõ PHÁP NẠN do ai gây ra ? Chính quyền VNCH trước 1975 ?, giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã ?, Tin Lành ?, Cao Đài?, Hòa Hảo? hay nhóm Việt Nam Quốc Tự của HT Thích Tâm Châu, TT Thích Tâm Giác? Thực tế chính trị cho thấy là khi chưa minh định rõ ràng ai hay tổ chức nào là kẻ thù (gây ra PHÁP NẠN) thì những công việc gây xáo trộn của Khối Ấn Quang chỉ là cách kiếm tiền, kiếm chức bằng nước bọt và bằng sự ngây thơ của các tín đồ khờ khạo.
Sự “đồng hành” với Cách Mạng (thực tế là đồng lõa với Cộng Sản) để “MỸ CÚT, NGỤY NHÀO” là một sự ngu xuẩn cùng cực của nhóm lãnh đạo Ấn Quang và tăng lữ Bình Trị Thiên. Sự đồng lõa với Việt Cộng chỉ tin vào cái bánh vẽ do Cộng Sản đưa ra chứ không hề căn cứ vào tình hình thực tế của lịch sử nhân loại (trách hơi oan vì những ông bà sư Khối Ấn Quang đâu có học Lịch Sử mà biết những cases điển hình)
Trường hợp điển hình thứ nhất: vào thế kỷ thứ ba trước Thiên Chúa Giáng Sinh, sau khi nhà Tần bị tiêu diệt, Lưu Bang và Hạng Võ tranh dành nhau để lên ngôi vua, Hạng Võ có sức mạnh và quân sĩ đông hơn, nhưng Lưu Bang có các tướng giỏi như Hàn Tín, Trương Lương, Tiêu Hà trợ giúp. Chính Khoái Kiệt, quân sư của Hàn Tín bàn với Hàn Tín là không nên đánh bại Hạng Võ, vì khi đánh bại Hạng Võ thì Lưu Bang sẽ giết Hàn Tín. Hàn Tín không nghe lời Khoái Kiệt, nên trước khi Hàn Tín bị giết, Khoái Kiệt giả điên lang thang ngoài chợ ăn uống và sinh hoạt như những kẻ bị bệnh tâm thần. Sau khi Hàn Tín bị giết rồi, Lưu Bang tha cho Khoái Kiệt vì cho rằng Khoái Kiệt bị điên, mà giết Khoái Kiệt thì bị mang tiếng.
Trường hợp điển hình thứ nhì: vào thế kỷ thứ ba sau Thiên Chúa Giáng Sinh, nhà Hán suy yếu, nước Tàu bị chia thành 3 QUỐC GIA : Bắc Ngụy do Tào Tháo lãnh đạo, Tây Thục do Lưu Bị lãnh đạo, Đông Ngô do Tôn Quyền lãnh đạo. Vùng Kinh Châu (địa lý chiến lược quan trọng vì nằm giữa 3 nước Bắc Ngụy, Tây Thục, Đông Ngô) , Lưu Bị giao cho Quan Công trấn giữ. Trước khi lên đường nhận nhiệm sở, quân sư Khổng Minh hỏi Quan Công: “nếu Tào Tháo và Tôn Quyền đồng loạt tấn công Kinh Châu cùng một lúc, thì ông phải làm gì ?”. Quan Công trả lời: “Thì ta chia ra làm 2 để chống đỡ”. Khổng Minh nói: “Thế thì không ổn. 2 thằng cha đó mà cùng tấn công Kinh Châu thì 8 ông Quan Công cũng chống không nổi, huống hồ chỉ có một mình ông. Ông phải giữ nguyên tắc sau đây BẮC CỰ TÀO THÁO- ĐÔNG HÒA TÔN QUYỀN thì mới giữ được Kinh Châu”. Về sau, Quan Công không giữ nguyên tắc này nên mất Kinh Châu mà còn bị Tào Tháo chém đầu.
Trường hợp điển hình thứ ba: cận đại nhất, Hoa Kỳ bắt buộc rút lui khỏi Việt Nam vì nhiệm kỳ của Tổng Thống Mỹ không thể vượt quá 8 năm, lãnh đạo của Hoa Kỳ không thể đế nước Mỹ sa lầy vào một cuộc chiến không có hồi kết thúc, Tổng Thống Nixon đã mua sự an toàn của miền Nam Việt Nam bằng Hiệp Định Paris 1973 (khoản 21B quy định, Hoa Kỳ sẽ viện trợ tái thiết Đông Dương 3 tỷ dollars với điều kiện các bên phải thành lập chính phủ 3 thành phần với sự bầu cử tự do có quốc tế quan sát để nhân dân Việt Nam tự quyết định vận mệnh chính trị của mình). Nghe lời xúi dại của Liên Sô và
Trung Cộng, Lê Duẩn xua 14 sư đoàn quân BV trong chiến dịch HCM diễn ra trong 55 ngày tiến vào Sài Gòn để nhận được lời khen là “thành đồng của chủ nghĩa Cộng Sản” nhưng Hoa Kỳ không đưa ra một cắc nào với lý do CSBV vi phạm Hiệp Định Paris. Cái đau của CSBV là không thể kiện cáo tại bất cứ tòa án náo.!!!
Kết luận: PHÁP NẠN là do cấp lãnh đạo cũa Giáo Hội Ấn Quang gây ra, bây giờ kêu gọi phật tử góp tay GIẢI TRỪ PHÁP NẠN là sao ? Văn phòng Quốc Tế Vận của Võ Văn Ái phát động chiến dịch vận động các đại cường giúp đỡ Giáo Hội Ấn Quang. Bên Âu Châu thì người viết không rõ chứ ở Hoa Kỳ, nơi mà người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đông hơn tất cả những người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại các quốc gia khác thì lời kêu gọi của Võ Văn Ái thuộc loại “nghe qua rồi bỏ”. Ngay chính giới thiên tả như John Kerry,Edward Kennedy, Jane Fonda, Tom Hayden, Joe Biden…cũng giả lơ.
Một câu hỏi khác có liên quan mật thiết với học thuyết NHÂN QUẢ, đó là tại sao Giáo Hội Ấn Quang đã gieo NHÂN tốt, có LÃNH ĐẠO NỔI DANH (làm rung chuyển Tòa Bạch Ốc) có đội ngữ cán bộ xách động quần chúng tài tình (có những người học vị rất cao), có sự ủng hộ cuồng nhiệt của khối tín đồ (xem phật tử Huế đi dự đám tang của nhà sư Thích Trí Quang hồi tháng 11/2019)… vậy tại sao kết QUẢ của Giáo Hội Ấn Quang ( sau khi nhà sư Thích Quảng Độ qua đời) lại quá bi thảm !
Có một cái gì “không ổn” trong diễn trình NHÂN – DUYÊN –QUẢ này chăng ? Theo ý kiến riêng của người viết, chính Thích Trí Quang và tập đoàn lãnh đạo của tăng lữ Bình Trị Thiên đã “luộc chín” NHÂN TỐT của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ngay từ những ngày đầu tiên thành lập GHPGVNTH vào năm 1964 tại Sài Gòn.
A.- Điều không ổn thứ nhất: nhóm tăng lữ của Bình Trị Thiên vơ vào danh xưng Giáo Hội Phật Giáo VN truyền thừa trên 2,000 năm nay. Cách sinh hoạt các ngôi chùa lớn tại miền Bắc và miền Trung là hoàn toàn độc lập, làng cấp cho chùa một số ít đất đai để tự lực mưu sinh. Sau này ngoài Huế người ta gọi các chùa lớn là Tổ Đình, thí dụ như Tổ Đình Từ Hiếu, Tổ Đình Từ Đàm…Chỉ sau khi Tướng Nguyễn Khánh lên cầm quyền
người ta mới rục rịch tổ chức thành Giáo Hội Phật Giáo Và Hiến Chương dự thảo cho Giáo Hội Phật Giáo ra đời vào năm 1964 dưới thời của Thủ Tướng Chính Phủ là Trung Tướng Nguyễn Khánh.
B- Điều không ổn thứ hai: Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo quy định Viện Tăng Thống do các Hòa Thượng cao niên trong Giáo Hội bầu ra Vị Tăng Thống: do đó Tăng Thống đầu tiên là Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, nhưng Tổng Thư Ký Viện Tăng Thống do chỉ định chứ không cần ứng cử và bầu cử.
Hiến Chương cũng quy định Viện Trưởng Viện Hóa Đạo là do các Chánh Đại Diện các miền Phật Giáo bầu ra và điều kiện ứng cử chức vụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo phải là Chánh Đại Diện miền Phật Giáo, khởi thủy chỉ có một ứng cử viên là nhà sư Thích Trí Quang đủ điều kiện ứng cử, nhà sư Thích Tâm Châu tuy nằm trong Tăng Già Phật Giáo nhưng không là Chánh Đại Diện của miền Phật Giáo nào cả. 48 giờ trước khi đầu phiếu, Thượng Tọa Thích Thanh Cát viết đơn từ chức Chánh Đại Diện miền Vĩnh Nghiêm và suy cử Thượng Tọa Thích Tâm Châu thay thế. Điều này hoàn toàn bất ngờ đối với Thich Trí Quang, nên khi công bố kết quả Thượng Tọa Thích Tâm Châu đắc cử với 9 phiếu thuận, nhà sư Thích Trí Quang chỉ được 3 phiếu (trong tổng số 13 đại biểu, có 01 vị bỏ phiếu trắng).
Chú thich : hiện nay Hòa Thượng Thích Thanh Cát đã cao tuổi (có lẽ suýt soát 100 tuổi) và vẫn cư ngụ tại chùa Giác Minh – thành phố East Palo Alto, cách thành phố San José khoảng 30 phút lái xe.
C- Điều không ổn thứ ba: cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền nguyên Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt viện cớ chùa Xá Lợi quá nhỏ bé nên vận động vị sư trụ trì chùa Xá Lợi mời tất cả các vị sư trong Ủy Ban Tranh Đấu của Phật Giáo đi tìm chỗ cư trú khác.
D- Điều không ổn thứ tư: khi Thượng Tọa Tâm Châu đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, nhà sư Thích Trí Quang qua giữ chức Tổng Thư Ký Viện Tăng Thống,
trên danh nghĩa là phụ giúp Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, nhưng thực tế cho thấy là nhà sư Trí Quang đoạt quyền lãnh đạo Viện Tăng Thống và dùng Viện Tăng Thống để khuynh đảo Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Từ khi Thượng Tọa Thích Tâm Châu nắm giữ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Thượng Tọa Thích Tâm Giác giữ chức Chánh Đại Diện miền Vĩnh Nghiêm.
E-Điều không ổn thứ năm: Thủ Tướng Nguyễn Khánh lấy đặc quyền hành pháp ký văn thư cắt một phần đất của Cục Quân Cụ tọa lạc tại ngã ba Trần Quốc Toản – Petrus Ký thuộc quận 3 Sài Gòn để xây Viện Nam Quốc Tự cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Thống Nhất có nơi sinh hoạt. Thủ Tướng Nguyễn Khánh cũng hứa Chính Phủ VNCH sẽ cấp một khoản nợ lên tới 100 triệu đồng để xây cất và đặc biệt là Giáo Hội PGVNTN trả dần số nợ này trong nhiều năm không có tiền lời (no interest). Về mặt pháp lý, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thay mặt Giáo Hội ký khế ước nhận tiền của Chính Phủ.
Vì biết chắc Thích Trí Quang và phe nhóm tăng lữ Bình Trị Thiên sẽ “đảo chánh” và trách nhiệm trả nợ sẽ rơi vào cá nhân mình, nên Thượng Tọa Thích Tâm Châu nhất định không ký giấy tờ vay nợ. Lời qua tiếng lại rất gay gắt đến nỗi Thượng Tọa Thích Tâm Giác nổi giận, ông hăm dọa: “tôi mà xây xong chùa Vĩnh Nghiêm thì các ông liệu với tôi”.
F.- Điều không ổn thứ sáu: hai năm sau, trong dịp Lễ Phật Đản năm 1966, thấy không làm gì được Thượng Tọa Tâm Châu nên Thích Trí Quang tự thành lập Giáo Hội Ấn Quang và dẫn dắt tín đồ Phật Giáo vào những cuộc đối đầu với chính phủ VNCH đồng thời công khai đồng lõa với Việt Cộng để ĐÁNH CHO MỸ CÚT- NGỤY NHÀO. Sự thành lập Giáo Hội Ấn Quang không dựa trên căn bản pháp lý nào và cũng không được chính phủ VNCH công nhận. Điều vô lý là Giáo Hội Ấn Quang chống chính phủ VNCH và chống cá nhân Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, chống cá nhân Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ… nhưng lại đòi hỏi chính phủ VNCH công nhận Giáo Hội Ấn Quang là một “thực thể chính trị” dưới danh xưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất !!!
E.- Điều không ổn thứ bảy : Chỉ có Tăng Thống Thích Tịnh Khiết và đệ nhị Tăng Thống Thích Giác Nhiên là được bầu cử đúng theo Hiến Chương 1964. Năm 1973 khi Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết viên tịch, Hội Đồng Trưởng Lão Các Tăng Già đã bầu Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên lên thay thế, lúc đó Ngài đã 101 tuổi. Năm 1977, Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên viên tịch, tự nhiên người ta thấy nhà sư Việt Cộng Thích Đôn Hậu tự xưng là Đệ Tam Tăng Thống. Rồi Thích Đôn Hậu “truyền” lại cho Thích Huyền Quang lên làm Đệ Tứ Tăng Thống không qua cuộc bầu cử nào. Thích Huyền Quang cũng “truyền “ lại cho Thích Quảng Độ lên làm Đệ Ngũ Tăng Thống.
Có lẽ nhà sư Thích Quảng Độ có LIÊM SỈ hơn bọn thầy chùa “ĐỒNG HÀNH “ với Cách Mạng nên trước khi lìa đời, ông không TRUYỀN THỪA cho bất cứ người nào.
Đó là tình trạng các sứ quân của PG đang làm “bẩn mắt + điếc tai” trên các diễn đàn điện tử hiện nay. Bọn lãnh đạo các SỨ QUÂN CỦA PHẬT GIÁO quên rằng người Phật Tử chân chính tại hải ngoại không thể và không bao giờ trở thành NHỮNG CON CHIÊN LÔNG VÀNG như đám đông tiễn đưa Thích Trí Quang hồi tháng 11 năm 2019 ở Huế.
Viết xong ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại San José Kỷ niệm năm thứ 46 NGÀY QUỐC HẬN 30 THÁNG 4
Trần Trung Chính
|
|