|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 17:23:56 GMT 9
NGÔI NHÀ MA ĐẾN CHUYỆN CON RANH CON LỘN
Huyền Đức Sưu Tập
NHỮNG NGÔI NHÀ CÓ MA TẠI NGAY HOA KỲ NÀY HAY CÁC NƯỚC TÂY PHƯƠNG KHÁC KHÁC CHẲNG LẠ LÙNG GÌ! Trong bài sau tầm của Phương Trâm có ghi nhận về những trường họp tương tự ngôi nhà ma tại Bevery Hills California Như chuyện "Những Ngôi Nhà Ma" được ghi nhận bên dưới đây xảy ra tại miền Nam Yorkshier của Anh Quốc khiến nhiều người lạnh mình:
"Nguyên Hai vợ chồng Albert và Ivy Cardwell dọn đến ở tại một chung cư mà họ thích tại Rotherham nhằm tháng Bảy năm 1986. Ngay ngày đầu hai vợ chồng này đã cảm thấy có sự dị thường ngay dãy phòng họ ở ban đêm. Thoạt đầu họ nghe tiếng cọt kẹt có vẻ dè dặt rồi như có tiếng chân đi và sau đó là đến tiếng gỏ cửa ở phòng ngoài nơi họ đang ngủ. Tiếng động ấy nhiều người nghe rõ nhưng bà Cardwell lại là người độc nhất thấy rõ một hình ảnh lạ lùng đến ghê rợn. Chính mắt bà đã nhìn thấy rõ ràng có một con ma xuất hiện ngay trước mặt mình. Hình bóng con ma đó là một người đàn bà và con ma này biến mất ngay khi bà Cardwell có ý định chỉ cho chồng thấy cảnh tượng lạ lùng này.
Không phải hình ảnh ma luôn luôn hiện ra mờ mờ ảo ảo mà trái lại đôi lúc chẳng khác nào như một người sống. Tại Dunstable, ở Bedfordshire (Anh) có một ngôi nhà cổ mà dân trong vùng không dám lại gần vì nhiều người đã thấy ở đó, hàng đêm xuất hiện một con ma đã già, mặc bộ y phục đen bạc màu thời đại Nữ Hoàng Victoria có nút đính khuy vàng nổi trên cổ áo. Đây không phải là một bóng ma mờ ảo mà trái lại hiển hiện như người thật. Năm 1966, vào mùa hè, con ma này lại xuất hiện một lần nữa ngay ở khung cửa của ngôi nhà ma nhìn xuống đồi.
Một nhóm nghiên cứu về hiện tượng ma quái đã đột nhập ngôi nhà cổ để quan sát và đã khẳng định rằng: hàng đêm khoảng 7 giờ đến 8 giờ tối, con ma già xuất hiện thường nhất là ở ngay phòng ngụ. Gương mặt mờ xám nhưng không có vẻ gì dễ dợ, tuy nhiên những người có mặt cảm thấy rợn tóc gáy. Luôn luôn, con ma đứng ngay giữa phòng, tóc màu xám tro rũ xuống trước trán. Vừa lúc đó, con chó Lassie chạy ngang, lúc bước qua trước mặt "con ma già" nó rên rỉ một tràng dài não ruột như bị một luồng điện chạy qua cơ thể nó.
Qua nhiều cuộc điều tra tỉ mỉ, người ta biết được ngôi nhà này ngày xưa chủ nhân sống cơ độc và sau này phát điên rồi chết, người chết ấy chính là con ma thường đêm xuất hiện ngay nơi phòng ngủ của ngôi nhà hoang vắng này.
Tại một vùng hoang vắng ở California *Hoa Kỳ), có một nhà gạch, ngôi nhà này được hai vợ chồng Frandes Little mua lại vào năm 1968. Chỉ sau vài tuần dọn đến ở, người chồng bỗng thấy một người đàn bà lầm lũi đi quanh nhà như muốn tìm kiếm một cái gì, khi nhìn kỹ gương mặt người chồng bỗng kinh ngạc vì đó là người vợ trước của mình.
Sau đó, bà Little (người vợ sau) một hôm đang ở nhà một mình bỗng đêm ấy thấy có một người đàn bà cao mảnh khảnh tự nhiên không biết từ đâu đi ra từ sau căn phòng một cách yên lậng và tiến vào phòng ngụ (phòng dành cho khách thân thuộc). Tại đây, người đàn bà này có vẻ tần ngần do dự trong bước chân đi nhưng không quay mặt về phía bà Little. Rồi bất thần, bà ấy đi xăm xăm về phía phòng khách, ở vị trí này, bà Little có thể quan sát rõ ràng toàn thể rõ ràng người đàn bà lạ này, nhanh trí, bà Little vội lấy cái máy ảnh nơi tủ gần chỗ bà đứng và bấm ngay một bức ảnh. Khi đèn lóa lên thì người đàn bà quay lại và sau đó biến mất. Bức ảnh được rửa ra và ông bà Little nhận ra đó là Alice Margaret Colitisch, người đàn bà đã cùng ông Little xây dựng lên ngôi nhà nơi hoang vắng này vì lúc đó họ muốn sống một cuộc sống ẩn dật, hạnh phúc lứa đôi với nhau. Năm đó là năm 1920.
Một trường hợp khác đặc biệt xảy ra tại một ngôi nhà ở Stockton, nơi vùng ngoại ô của New Castle, New South Wales (Úc Đại Lợi), một ngôi nhà vừa được hai người trẻ tuổi và một người cháu gái thuê ở. Chỉ mới hai tuần lễ mà họ đã trải qua nhiều thử thách bởi một năng lực siêu nhiên huyền bí phát sinh quanh nhà và ngay cả trong nhà (từ đầu năm 1970 khi họ dọn đến ở). Trước tiên họ thấy tấm drap trải giường nhàu nát một cách lạ lùng sau mỗi lần họ căng trải cẩn thận. Đồ chơi của đứa cháu gái thì di chuyển một cách tự nhiên mặc dù không có ai đụng tay vào; còn cửa lớn thì có tiếng gõ vang dậy một cách vang dội khẩn cấp. Điều kỳ lạ là đứa cháu gái nhỏ thường bị một bàn tay vô hình của ai đónhấc bổng lên khỏi chỗ nằm hay chỗ ngồi. NHững người bạn của hai người trẻ tuổi này thường năng lui tới căn nhà này cũng đã chứng kiến nhiều hiện tượng lạ lùng, có ngfười đang ngồi bỗng nhiên có ai lắc đôi vai
thật mạnh, có người cảm thấy như có đôi mắt nào đó đang chăm chú nhìn mình một cách quái đản. Micheal và Dianne Cooke, hai người trẻ tuổi thuê nhà đã nói như sau:
_ Thường đêm chúng tôi thấy và nghe nhiều điều kỳ dị, ghê rợn nhất là gương mặt trắng bệch hiện ra nơi cửa sổ với đôi mắt trắng dã và con ngươi màu xám tro, chúng tôi phải tính chuyện dọn đi khỏi ngôi nhà quái gỡ kinh khiếp này càng sớm càng tốt.
(còn nữa)
Huyền Đức
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 17:26:22 GMT 9
CÔ GÁI AFGHANISTAN CÓ ĐÔI MẮT THU HỒN ĐÃ CÓ NHỮNG GIÂY PHÚT NHỚ LẠI CHUYỆN 17 NĂM VỀ TRƯỚC NGƯỜI NHIẾP ẢNH GIA ĐÃ CHỤP HÌNH CÔ
By Cathy Newman National Geographic Senior Writer Photographs by Steve Mc Curry
Phong Thu chuyển ngữ
Cô gái nhớ lại là cô đã tỏ thái độ khó chịu trước một người đàn ông xa lạ. Cô chưa bao giờ chụp hình trước đó. Và cô cũng chưa bao giờ chụp hình, trừ khi cô gặp lại người nhiếp ảnh gia sau 17 năm.
Ông Steve Mc Curry, người nhiếp ảnh gia cũng đã nhớ lại những giây phút gặp cô gái và chụp hình cô. Một tia sáng mờ nhạt của quá khứ đã sống lại trong trí nhớ của ông về câu chuyện bức chân dung cô gái. Trại tị nạn ở Pakistan là những chiếc lều màu xanh rộng lớn nối tiếp như biển. Trong một căn lều dành làm trường học, ông Steve Mc Curry đã chú ý đến cô gái trước tiên. Cô có vẽ mắc cở, vì vậy cô là người ông tiếp xúc sau cùng. Cô gái nói với ông rằng ông có thể chụp hình cô. "Tôi đã không nghĩ rằng tấm hình của cô gái có những nét độc đáo hơn những tấm hình khác mà tôi chụp trong ngày hôm đó” ông nhớ lại rằng ông đã chụp bức ảnh cô gái vào năm 1984 ở trại tị nạn người Afghanistan.
Bức chân dung cô gái Afghanistan được phổ biến rộng rãi và đã gây xúc động mạnh cho mọi người, và tháng 6 năm 1985 bức chân dung đã được trở thành bìa của tạp chí National Geographic. Đôi mắt của cô gái có màu xanh biếc như màu nước biển. Đôi mắt có sức hút mãnh liệt như thôi miên người đối diện, và chúng ta có thể đọc được trong đôi mắt đó một nỗi buồn, sự lạnh lùng, pha lẫn sự căm giận và niềm tha thiết đối v?i cuộc sống của một vùng đất đang phải gánh chịu một cuộc chiến tranh. Cô cũng bắt đầu biết về tạp chí National Geographic cũng như biết về câu chuyện xoay quanh “cô bé Afghan” có đôi mắt u sầu mà mãi cho đến 17 năm sau không một ai biết tên cô.
Vào tháng Giêng, ông Steve Mc Curry đã tháp tùng cùng với đài truyền hình của tạp chí National Geographic và xưởng phim Explorer đến Pakistan để tìm cô gái có đôi mắt xanh biếc thu hồn. Họ đã chiếu nhiều hình ảnh của cô xung quanh trại Nasir Bagh, một trại tị nạn vẫn còn ở đo,ù gần Peshawar, nơi ông Steve Mc Curry đã chụp bức chân dung cô gái. Một người thầy giáo trong trường đã nói là ông biết tên cô gái. Người ta đã chỉ cho họ một người đàn bà trẻ tên là Alam Bibi đang sống ở một làng gần bên, nhưng ông Mc Curry quả quyết đó không phải là người ông muốn tìm.
“Không phải cô gái đó”, người thầy giáo lắc đầu, ông nói rằng ông có nghe câu chuyện đoàn người đi tìm cô gái.
Ông biết cô gái trong bức ảnh nầy. Ông đã từng sống với cô trong trại tị nạn khi cả hai còn bé. Cô đã trở về Afghanistan từ nhiều năm qua, ông nói rằng hiện nay cô đang sống trên một ngọn núi gần Tora Bora. Ông đã tình nguyện tháp tùng với đoàn người đi tìm cô gái.
Muốn đi đến nơi cô ở phải mất ba ngày đêm. Đến làng của cô phải lái xe mất 6 tiếng đồng hồ và 3 giờ đi bộ leo núi xuyên qua biên giới giữa Pakistan và Afghanistan.
Khi ông Mc Curry nhìn thấy cô gái từ trong phòng bước ra, ông đã thầm nghĩ: Đây chính là người mà ông muốn gặp.
Tên gọi có một sức mạnh, vì vậy mà chúng tôi đã nói chuyện với cô gái. Tên cô là Sharbat Gula, và cô là người thuộc sắc tộc Pashtun, một bộ tộc Afhgan hăng say chiến đấu. Ngay cả khi họ sống trong thời kỳ hoà bình cũng chính là thời gian họ đang có chiến tranh, bộ tộc Pashtun không bao giờ có hoà bình, và đôi mắt của người con gái Pashtun, ngay bây giờ đang bùng cháy một ngọn lửa căm giận. Cô 28 tuổi, có thể là 29 hoặc hơn 30. Không một ai biết chính xác tuổi của cô, ngay cả bản thân cô không không biết chắc chắn rằng mình bao nhiêu tuổi. Ởû đó không có giấy tờ để xác nhận tuổi tác, nên những câu chuyện về tuổi tác giống như những hạt cát trong một cơn gió mà mọi người không thể tìm ra được đoạn kết.
Thời gian và cuộc sống gian truân đã tàn phá tuổi xuân của Sharbat Gula. Da mặt cô trông giống như một miếng da đã nhuộm màu. Quay hàm của cô đã nhão ra và biến dạng. Duy chỉ có đôi mắt vẫn sáng lên ngọn lửa mãnh liệt và không dịu đi chút nào. "Cô ấy đã có cuộc sống rất khó khăn,” ông Mc Curry nói. “Ở đây có nhiều người đã kể những câu chuyện về cuộc đời cô”. Có những con số mà chúng ta nên biết về cuộc chiến tranh giữa Afghanistan và Liên Xô. Hai mươi ba năm chiến tranh, 1 triệu 500 ngàn người đã chết, 3 triệu 500 ngàn người đã trở thành nạn nhân của chiến tranh: Đây là thảm trạng của người Afghanistan của một phần tư thế kỷ.
Bây giờ, chúng tôi trở về với bức chân dung cô gái có đôi mắt màu xanh nước biển. Đôi mắt cô là một thử thách đối với chúng tôi. Hơn tất cả mọi thứ, đôi mắt đã làm xáo trộn tâm tư chúng tôi và chúng tôi không thể quay lưng, quên được dễ dàng.
"Ở Afghanistan không phải chỉ có một gia đình nếm mùi đau khổ, cay đắng trong chiến tranh”, một người lái buôn trẻ tuổi Afghan đã kể chuyện về đất nước anh với tạp chí National Geographic khi nhìn thấy bức chân dung cô gái in ngoài bìa của tạp chí trong năm 1985. Cô gái chỉ là một đứa bé khi đất nước bị nằm trong gọng kềm sự xâm lược của Liên Xô. Chỉ cần một tấm thảm nhỏ người ta có thể giết một mạng người như cô bé một cách dễ dàng. Khi cha mẹ cô bé bị bom của Liên Xô giết chết thì cô bé chỉ mới 6 tuổi đầu. Đó là một ngày bầu trời đầy bom đạn. Vào ban đêm, những xác chết mới được đi chôn cất. Và cô bé luôn luôn phải nghe máy bay gầm rú như những nhát dao đâm vào tim cô bé nỗi đau đớn khủng khiếp và đầy sợ hãi.
“Chúng tôi đã rời Afghanistan bởi vì ở đó đang có chiến tranh”, ông Kashar Khan, anh ruột của cô gái đã nói, ông kể lại câu chuyện về cuộc đời của cô. Ông Kashar Khan có dáng người cao dong dõng, khuôn mặt dài, nhọn và đôi mắt sâu sắc xảo. "Người Nga ở khắp nơi. Họ giết mọi người. Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác".
Bà nội ông phải dìu dắt ông và bốn chị em gái đến Pakistan. Suốt một tuần lễ, họ đi bộ xuyên qua những ngọn núi phủ đầy tuyết, họ phải đi xin mền để quấn quanh người sưởi ấm.
“Các anh không bao giờ biết được khi nào thì máy bay sẽ đến", ông ta nhớ lại. “Chúng tôi phải trốn trong những hang động”.
Cuộc hành trình gian nan đã bắt đầu khi cha mẹ họ đã bị giết và họ phải đi bộ xuyên qua những ngọn núi đầy tuyết phủ và cuối cùng là đến trại tị nạn sống với những người hoàn toàn xa lạ.
“Những đứa trẻ sống ở nông thôn như Sharbat đã có mộc cuộc sống rất khó khăn trong một môi trường gò bó của trại tị nạn”, Rahimullah Yusufzai, người thông dịch Pakistan đã nói thêm về cuộc sống của cô gái trong trại tị nạn. "Ở những nơi đó không có sự riêng tư. Anh sống bằng lòng nhân từ của người khác". Hơn thế nữa, anh sống trong sự rộng lượng của chính phủ của đất nước đó che chở cho anh. “Người Liên Xô xâm lược và tàn phá cuộc sống của chúng tôi", anh của Sharbat Gula nói thêm.
Đó là một thảm kịch đối với người Afghanistan. Xâm lược. Chiến đấu. Xâm lược. Cuộc chiến đó đến bao giờ mới chấm dứt? “Mỗi thời gian thay đổi chính phủ đều mang đến cho mọi người niềm hy vọng”, ông Yusufzai nói. “Mỗi lần người Afghanistan tìm kiếm cho họ một người lãnh đạo thì những người nầy điều phản bội niềm tin của họ và ngay cả việc họ trông chờ vào sự giúp đỡ của những nước bạn để tìm người lãnh đạo thì việc đó cũng không có gì tốt đẹp hơn."
Vào giữa năm 1990, khi cuộc chiến đã lắng dịu, Sharbat Gula đã trở về quê hương cô ở một ngôi làng nằm dưới chân một ngọn núi đầy tuyết phủ. Đó là một ngôi làng được xây dựng bằng đất nung màu xám nằm sâu trong một vùng núi cao nguyên xa xôi hẻo lánh ở vùng cực Bắc Afghanistan mà phương tiện di chuyển hết sức khó khăn. Nơi đó có những dãy đất được đắp cao trồng bắp, lúa mì, và lúa, một vài cây Óc Chó, một dòng suối chảy xuống núi (vào những thời gian có mưa), không có trường học, không có bệnh xá, đường xá hoặc ống dẫn nước.
Cuộc sống ở đây là những ngày tháng trống rỗng, tẻ nhạt hiện ra hàng ngày trước mắt cô. Cô thức dậy trước khi mặt trời mọc và cầu nguyện. Cô đến lấy nước từ dòng suối mang về. Cô nấu nướng, tắm rửa, giặt giủ và lau chùi nhà cửa. Cô rất quan tâm đến các con; chúng là trung tâm cuộc sống của cô. Robina 13 tuổi, Zahida ba tuổi. Alia, còn bé, chỉ độ một tuổi. Một trong bốn đứa con của cô đã chết khi còn ở tuổi ấu thơ. Sharbat Gula chưa bao giờ có một ngày vui, anh của cô đã nói, trừ khi ngày cô lấy chồng.
Chồng cô, Rahmat Gul, là một người đàn ông gầy và nhỏ, anh có nụ cười thấp thoáng niềm vui rồi vụt tắt rất nhanh như những tia nắng chiều vào buổi hoàng hôn. Cô nhớ lại là cô lấy chồng lúc 13 tuổi. Không, chồng cô nói rằng lúc đó cô 16 tuổi. Cuộc sống của họ rất đầm ấm.
Rahmat Gul sống ở Peshawar (nơi đó có vài công việc ở Afghanistan) và anh làm việc trong một tiệm bánh. Hàng ngày anh phải khuân vác những chồng giấy tờ tiền thuốc rất nặng nề. Tiền lương một đô la trong một ngày đã biến đi một cách nhanh chóng như làn khói. Cô bị bệnh hen suyển và không thể nào chịu đựng được sự nóng bức và bụi khói của Peshawar vào mùa hè, thời gian mà cô có thể đến thành phố với chồng cô là vào lúc mùa đông. Đó là thời gian cô nghĩ ngơi sau một năm sống trên núi.
Khi 13 tuổi, Yusufzai, người thông dịch viên giải thích thêm, cô phải che mặt theo tập quán của những người đàn bà Hồi Giáo khi chuẩn bị đến tuổi trưởng thành. "Người phụ nữ phải tránh những đôi mắt dòm ngó của đám đông”, ông tiếp. Trên đường phố cô phải che một chiếc khăn màu tím sậm, nó là bức tường ngăn cản thế giới bên ngoài để những người đàn ông khác không thể nhìn được cô ngoài chồng cô. "Che mặt cũng là một điều tốt, để tránh tai hoạ”. Cô gái nói.
Có một số câu hỏi, khiến cho cô gái đã che mặt lại và không muốn trả lời, cô làm như vậy với hy vọng không ai hỏi về cô nữa. Đôi mắt cô ánh lên những tia giận dữ. Phong tục tập quán của cô là không cho phép cô được trả lời những câu hỏi của những người lạ mà cô không hề quen biết.
Cô có bao giờ cảm thấy mình được an toàn không?
“Không. Nhưng sống dưới chế độ Taliban thì tốt hơn. Ít nhất ở chế độ đó còn có hoà bình hơn những chế độ khác".
Cô có bao giờ nhìn thấy tấm hình của cô khi cô còn là một cô bé không?
"Không".
Sharbat Gula có thể viết tên cô, nhưng cô không biết đọc. Cô mơ ước và hy vọng các con cô sẽ được đi học. “Tôi mong ước các con tôi có kiến thức”, cô nói. “Tôi muốn đi học nhưng tôi không thể đến trường. Tôi rất buồn khi tôi phải rời trường lớp”.
Sự học rất quan trọng, kiến thức là ánh sáng. Ở đó không có chút tia hy vọng nào cho Sharbat Gula. Cô con gái 13 tuổi có thể đã quá trễ để đến trường, Sharbat Gula đã nói. Hai cô gái nhỏ thì may ra còn có hy vọng.
Cuộc gặp gỡ giữa người nhiếp ảnh gia và cô gái có đôi mắt xanh biếc u buồn diễn ra thật yên tỉnh. Đối với một người đàn bà đã có chồng, tập quán của cô là không cho phép cô được nhìn và ngay cả mỉm cười với một người đàn ông không phải là chồng của cô. Cô đã không mỉm cười với ông Mc Curry. Thái độ cô bình thản, ông Mc Curry nói. Cô cũng không thể hiểu vì sao người ta chụp quá nhiều hình cô. Cô cũng không hiểu được sức mạnh đến từ đôi mắt xanh biếc, rực lửa, u buồn và thu hồn của cô.
Giống như một định mệnh kỳ diệu, cô đã sống sót. Người nhiếp ảnh gia đã may mắn tìm thấy cô. Cô đã phải cam chịu những gì mất mát trong cuộc đời cô. Những sự mất mát đó đã hiện ra trên khuôn mặt chất chứa niềm đau và cay đắng, nghị lực đã giúp cô vượt qua tất cả. Làm thế nào cô sống sót đến hôm nay, cô tự hỏi?
Câu trả lời chắc chắn có một phép lạ?
“Đó là do bàn tay của Thượng Đế”, Sharbat Gula đã nói.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 17:28:07 GMT 9
LỜI NGUYỀN NƠI KIM TỰ THÁP
Trần Liêm Khảo sưu tập
KIM TỰ THÁP DẪY ĐẦY NHỮNG CÂU CHUYỆN BÍ ẨN TƯỞNG KHÓ TIN NHƯNG LẠI LÀ SỰ THẬT. Như câu chuyện "Lời Nguyền Nơi Kim Tự Tháp" sau đây nói lên một trong những bí ẩn mà các khoa học gia ngày nay vẫn còn chưa giải thích được.
Câu chuyện thứ nhất này theo VL thuật lại: "...Một tấn thảm kịch lạ lùng kinh dị cùng diễn ra một lần tại hai nơi rất xa khi con chó của nhà khảo cổ lừng danh Lord Carnavon bỗng nhiên hốt hoảng tru lên những tiếng hãi hùng rồi lăn ra chết đúng vào lúc người chủ thân yêu của nó ở cách xa đến hàng ngàn dặm cũng tự nhiên kêu lên một tiếng rồi ngã vật ra trút hơi thở cuối cùng trong một căn phòng của khách sạn ở Cairo, thủ đô Ai cập.
Câu chuyện khởi đầu từ ngày 17 tháng 2 năm 1929 khi nhà khảo cổ này và đoàn thám hiểm của ông đục phá cánh cửa bí mật của Kim Tự Tháp nổi tiếng ở Ai Cập để đột nhập vào ngôi mộ của vua Tutankhamen. Chính ngay ở nơi ngôi mộ này, Howard Carter đã khám phá ra được thêm một kho tàng vô giá vượt ngoài sức tưởng tượng hoặc ước mơ của họ, những đồ vật bằng vàng khối, những bảo thạch, những đồ dát ngọc tập trung nơi chiếc quan tài rực rỡ chứa đựng thân thể vua, nơi đây hai nhà khảo cổ còn tìm thấy được những thứ mà từ lâu họ từng thiết tha mong đợi.
Điều làm cho kẻ đột nhập ngôi cổ mộ trông thấy trước tiên có lẽ là hàng chữ khắc trong vách đá, hàng chữ mà nội dung là cả một lời nguyền đầy vẻ cảnh cáo hăm dọa: "Kẻ nào làm quấy giấc ngủ của Pharaon (vua Ai cập) đều phải chết!" Không ai có thể ngờ được, nhất là đối với nhà khoa học, dòng chữ khắc trên đá ấy lại là cả một lời nguyền với sức mạnh siêu linh huyền bí tác động lên những ai dám mạo hiểm đột nhập vào ngôi cổ mộ của vua Ai Cập.
Về sau những người dấn thân vào việc khám phá Kim Tự Tháp vào đến bên áo quan của vua Tutankhamen đều lần lượt trả giá rất đắt. Trước tiên là nhà khảo cổ Lord Carnavon, một hôm đang ngủ trong căn phòng của khách sạn Continental thì bỗng nhiên thức dậy nói lẩm bẩm như người ngủ mê:
- Tôi cảm thấy thích chốn địa ngục.
Vừa lúc đó con trai của ông chạy đến lo lắng hỏi han, nhưng nhà khảo cổ vẫn lẩm bẩm câu nói quái gở ấy và ngớ ngẩn như chẳng còn biết gì ở chung quanh. Ngay đêm đó ông trút hơi thở cuối cùng. Cùng thời điểm ấy, con chó nhà ông tru lên từng hồi. Sau đó không lâu tại khách sạn này, nơi trú của một nhà khảo cổ quan sát về Kim Tự Tháp Ai cập lại xảy ra một thảm kịch nữa, nhà khảo cổ Mỹ là Arthur Mace tự nhiên kêu là mình bị mệt mỏi rồi bất thình lình vùng dậy tất tả đi về hướng Kim Tự Tháp và đòi vào thăm cho được chiếc quan tài của vua Ai Cập Tutankhamen lần nữa, mặc dù đêm đã khuya. Thế rồi, Arthur Mace nấc lên và chết. Các bác sĩ không tìm ra nguyên nhân cái chết của nhà khảo cổ này.
Mọi người chưa dứt sự bàng hoàng về cái chết kỳ lạ trên thì George Gould, bạn của nhà khảo cổ của Carnavon (người đã vào tận hầm mộ của vua Ai cập trong Kim Tự Tháp và đã chứng kiến tận mặt xác thân và gương mặt của nhà vua) bỗng nhiên lên cơn sốt dữ dội và chết sau một đêm không chợp mắt. Tiếp đến, Reid, người đã chiếu tia X qua xác ướp của vua Tutankhamen để mong khám phá những điều mới lạ đã chết một cách đột ngột. Rồi điều kinh dị khác xảy ra; người thư ký của nhà khảo cổ Carnavon (người đã theo ông bất cứ nơi nào trong các cuộc khảo sát Kim Tự Tháp) được phát giác là đã chết khi đang nằm trên giường ngủ, theo bác sĩ khám nghiệm thì người thư ký này chết vì chứng trụy tim.
Chưa hết, nhà tư bản công nghiệp Anh là Joel Wool, một trong nhưng người đào hầm mộ của vua Tutankhamen cũng đột nhiên lăn ra chết sau một cơn sốt lạ kỳ.
Tính kỹ lại thì chỉ trong vòng có 6 năm trong cuộc mở cánh cửa bí mật nơi Kim Tự Tháp của đoàn khảo cổ để vào tận mộ của vua Ai Cập, đã có 12 người chết một cách bí mật mà đến tận nay vẫn trong vòng bí ẩn!"
Không phải chỉ có câu chuyện bí ẩn trên do VL đã ghi lại, mà chuyện Kim Tự Tháp còn bao nhiêu trường hợp khác nữa, mà các nhà khoa học còn đành phải khoanh tay chưa tuyên bố được một lời nào.
Chúng tôi sẽ lần lượt ghi nhận lại để cống hiến cùng độc giả trong những số báo tới.
Trần Liêm Khảo
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 17:29:00 GMT 9
SỰ THẬT VỀ CĂN NHÀ BỊ QUỈ ÁM TẠI BEVERLY HILLS
(tiếp theo)
Vũ Tứ Thành
VÌ BÀN ĂN HÌNH BẦU DỤC VÀ DÀI ĐỦ CHỖ CHO 12 NGƯỜI NGỒI, nên khi bao giờ ăn bao giờ hai vợ chồng và bà mẹ cũng ngồi gọn ở một đầu còn đầu kia để trống. Nghe tiếng chó sủa, thấy vẻ mặt hoảng hốt của vợ và mẹ vợ, Joe bực tức đứng dậy bước thẳng về phía cuối bàn ăn kéo chiếc ghế đổ nghiêng ra sàn.
Cả ba người chờ đợi có chuyện lạ xảy ra nhưng tất cả đều bình thường và lạ lùng thay, con chó Hasi cũng im bặt không sủa thêm một tiếng nào. Nhìn xuống chiếc ghế, Joe ngạc nhiên khi thấy mặt ghế ướt sũng nước mưa và một vũng nước lênh láng ngay trên sàn gỗ...
Một chiều nọ khi hai vợ chồng về đến nhà, hai con chó của họ bỗng trở chứng nhất định không chịu vô nhà cứ đứng ngoài cổng chỏ mõm vò sủa ầm ĩ, sủa đến khi khản cả tiếng vẫn còn sủa. Thấy vậy,hai vợ chồng đành phải mang hai con chó đi bác sĩ thú y, sau khi khám nghiệm vị bác sĩ này tuyên bố cả hai chú chó đều ở trong trạng thái bình thường.
Có người khuyên hai vợ chồng Joe nên mua bộ bàn ăn mới và mua các màn cửa mới treo thay vì những cái cũ, có thể có hơi hám của vong hồn ma còn quấn quít ở đâu đây tìm đến để... đòi lại. Cũng có người khuyên Joe là phải sơn phết toàn diện ngôi nhà, làm như thể nhà mới vị chi là các hồn ma ấy sẽ bỏ đi nơi khác. Joe làm theo chỉ trong một ngày.
Quả nhiên, ngay đêm đó tiếng động của ma gây nên không còn nữa,trả lại sự yên tĩnh đầu tiên kể từ ngày hai vợ chồng Joe dọn đến ở. Nhưng... chỉ được đúng chỉ hai đêm, đến đêm thứ ba, tiếng động kỳ lạ lại vang lên như cũ. Lần này còn có vẻ dữ dội hơn. Đêm ấy trời mưa như cầm chỉnh, tiếng sấm sét liên tục vang lên. Gió càng lúc càng thổi mạnh làm lay động cả đồ đạc treo trong nhà. Joe khép kín cửa lại. Nhưng lạ lùng thay gió không biết từ khe nào mà cứ lồng vào liên tục. Đèn điện trong nhà bỗng tắt ngấm. Joe phải chạy kiếm trong bóng đêm tìm đèn cầy và máy quẹt thắp lên. Khi ánh nến vừa tỏa sáng thì... họ đều trông thấy rõ ràng một người đàn ông đứng bên ngoài cửa sổ nhìn vào. Và không bao lâu bóng người đàn ông lạ đó biến mất. Cả ba quay lại nhìn nhau và đều xác nhận cùng một hình ảnh giống hệt như nhau. Tất nhiên, đây không phải là ảo giác vì cả ba đều mô tả giống hệt hình dáng, lối ăn mặc luôn cả nét mặt của "người ma" đó. Ngay sau đó Joe lấy đèn bấm lại gần khung cửa sổ tìm kiếm thì nhận ra cửa sổ vẫn đóng chặt. Bên ngoài mưa vẫn như trút và gió vẫn gào thét, cây cối vẫn vật vã từng hồi không ngớt. Tuy nhiên, không thấy có bóng dáng của ai bên ngoài. Điều lạ lùng là ngay dưới cửa sổ, trên sàng gỗ bóng loáng còn nguyên một vũng nước mưa không hiểu từ đâu chảy vào?!
Nhìn lên trần, Joe thấy trần khô ráo. Đưa tay sờ vào khung sổ, vào tường, anh không tìm thấy một dấu hiệu gì chứng tỏ có nước hắt vô hay thấm vô. Là người can đảm, có nghị lực, không hề biết sợ hãi là gì nên Joe vội khoác áo mưa, lấy dù, rồi mở cửa đi ra
ngoài. Trong thâm tâm lúc đó, anh đinh ninh người đàn ông lạ mặt mà ba người thấy chỉ là một người bình thường đứng bên ngoài cửa sổ rình mò một chuyện gì đó chứ không thể nào có chuyện ma quái trên cõi đời này. Tự tin như vậy nên khi đến bên cửa sổ, Joe có ý định dùng đèn bấm tìm kiếm thật kỷ dấu vết người đàn ông để lại. Nhưng khi rọi đèn đến vùng đất dưới cửa sổ, Joe bàng hoàng ngạc nhiên khi thấy đó là một vùng đất cát xốp trải rộng cả khu gần chục thước vuông. Tất cả đều nguyên vẹn dưới làn nước mưa, tuyệt nhiên không hề thấy bất cứ có dấu chân nào. Sau sự kiện kỳ bí này, cả Joe lẫn Elke và bà mẹ vợ đều giật mình và tin rằng, căn nhà họ đang ở chắc chắn có chứa đựng một chuyện gì ghê gớm lắm. Ngay đêm đó Elke đề nghị báo nội vụ cho cảnh sát, còn mẹ của Elke thì đề nghị đi mời thầy pháp về làm phép trừ tà trừ quỉ.
Nhưng Joe tin tưởng, dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa thì trên dương thế, người sống bao giờ cũng làm chủ nên anh tính cứ chờ xem chuyện thế nào rồi tính sau.
Trong những tuần lễ kế tiếp gia đình Joe tiếp tục chứng kiến những hiện tượng lạ lùng như những tiếng thở khò khè như người nghẹn thở thỉnh thoảng vang lên trong đêm. Có người khuyên hai vợ chồng Joe nên tìm sự giúp đở của Hiệp Hội Nghiên Cứu Tâm Thần ASPR (American Society for Psychal Research) Hoa Kỳ tại Los Angeles để nhờ giúp đỡ.
Vợ chồng Joe tìm đến. Sau khi trò chuyện với chuyên viên của Hội hai vợ chồng mới biết, trước đây tại căn nhà họ ở cũng đã xảy ra những chuyện tương tự và hai người chủ cũ đã phải bán vội vàng ngay sau khi dn đến ở không bao lâu.
Theo lời của những người chủ cũ thì họ cũng đã từng bị người đằn ông mặc áo rằn sọc trắng như gia đìng Joe đã thấy. Người này cho biết là người mà gia đình Joe trông thấy mặc áo đen ba sọc trắng nguyên là người chủ đầu tiên của căn nhà nhưng không hiểu sao bỗng nhiên bị mất tích cách đó cả nửa thế kỷ.
Sau khi nghe chuyện hai vợ chồng Joe đồng ý để cho Hội cử một chuyên viên nổi tiếng về trừ ma đuổi quỉ đến nhà làm phép. Chuyên viên đó là bà Lotte Von Strahl. Nghi lễ đuổi ma quỉ của bà Lotte rất đơn giản. Bà đến ngồi gọn gàng ở đầu một bàn ăn và mời hai vợ chồng Elke ngồi ở đầu bàn bên kia.
Sau vài phút im lặng nhắm mắt nhập thần, bà Lotte lạnh lùng tuyên bố: "Ồ ! Đúng rồi... tôi thấy nó rồi. Bây giờ thì con quỉ ghê gớm đó đang ngồi cạnh tôi. Vậy tôi xin mời hai ông bà cùng tôi đọc một đoạn kinh cầu nguyện..." Sau khi ba người đọc kinh xong,bà Lotte quay sang bên trịnh trọng tuyên bố, "Nhân danh Thượng Đế, ta ra lệnh cho ngươi rời khỏi căn nhà này ngay từ bây giờ. Hãy để cho những người lương thiện sống yên ổn và từ nay ngươi hãy chấm dứt trò quấy rầy những người sống trong căn nhà này." Tuyên bố xong, bà Lotte nhắm mắt im lặng một lúc nhập định rồi mở mắt tuyên bố giọng vui mừng, "Ông bà yên trí. Nó cút khỏi căn nhà này rồi. Từ nay trở đi ông bà sẽ sống thoải mái, kho lo sợ điều gì nữa."
Ngay tối hôm đó, hai vợ chồng đóng cổng, khóa cửa sổ và lên giường ngủ thật sớm. Đến chín giờ tối, khi Joe vừa thiu thiu ngủ, bỗng nhiên những tiếng động thường lệ lại nổi lên. Lần này có cả tiếng vật vã, rên rỉ nghe không rõ là của người hay thú.
Sau này, trong một tác phẩm ghi lại những sự kiện xảy ra trong căn nhà ở Beverly Hills, Joe đã phải thú nhận: "Dù không bao giờ tin chuyện ma quỉ, cuối cùng trước những hiện tượng mà chính tôi nhìn thấy, nghe thấy, tôi đành phải tin trong nhà mình ở quả thật có ít nhất là một con quỉ hay một con vật vô hình nào đó đại loại như quỉ". Nhưng dù đã có phần nào tin có quỉ trong nhà, Joe vẫn nhất định không chịu bán nhà. Joe bướng bỉnh tuyên bố: "Với tôi, người sống còn không làm cho tôi sợ huống chi người chết. Tôi sẽ ở lại căn nhà này cho đến khi nào tôi chết thì thôi."
Nhưng cuối cùng lòng dũng cảm của Joe bị đánh gục vào buổi sáng hôm ấy. Sáng sớm hôm ấy bỗng dưng có tiếng đấm cửa thật lớn. Joe vội vã với khẩu súng chạy xuống và mở cửa. Không thấy ai, Joe ngạc nhiên chạy ra ngoài coi thì thấy đường vắng ngắt. Khi quay vô, Joe giật mình thấy khói và lửa bốc lên ngùn ngụt từ phòng ăn. Hoảng hốt, Joe chạy vội lên phòng gọi vợ và mẹ vợ. Khi cả ba chạy thoát ra đến ngoài đường thì thần hỏa biến cả căn nhà thành một biển lửa. Hai tuần lễ sau, Joe đành phải ký giấy cho phép địa ốc treo bản bán khoảnh đất còn lại này.
***
Nửa năm sau, người chủ mới cho san bằng những căn nhà còn lại để xây một dinh thự mới to hơn. Khi đào móng xây nhà, người ta phát hiện thấy dưới căn nhà có một căn hầm cao ra rộng gần 100 mét vuông. Ngay giữa hầm có một người đàn ông mặc áo đen ba nẹp trắng , quần sọc, cổ bị treo trong một chiếc thòng lọng, còn chân thì một chăn cặm vào cây sắt đóng sâu dưới sàng xi măng, một chân khác tuy lơ lửng trên không nhưng cũng bị thủng nhiều lổ, máu chảy đần đìa. Đầu của cây cọc sắt tuy không nhọn nhưng có lẽ vì phải chịu đựng cả một thân thể trong một thời gian quá lâu nên cây cọc sắt tầy đầu đã xuyên qua bàn chân để lại trên sàn xi măng một vũng máu khô cứng.
Nhìn cảnh tượng người đàn ông bị treo cổ, người ta đoán được người đàn ông đã phải trải qua một cực hình đầy ghê rợn, nếu không chịu đứng trên cọc sắt thì dây thòng lọng sẽ xiết sâu vào cổ làm cho y nghẹt thở.
Điều lạ lùng là không biết người đàn ông đó chết trong bao lâu,nhưng cả người và máu loang lổ đều khô quánh lại. Không thấy người viết tả lại mặt mày và thân thể người đàn ông này có bị rữa nát không?
Chỉ thấy ngườii ghi lại câu chuyện này đưa ra câu hỏi: "Phải chăng vì chiếc chân bị dính cọc sắt và cổ bị siết chặt như vậy nên mỗi khi xuất hiện, hồn ma của người đàn ông đều bước đi khập khễnh và hơi thỏ khò khè như người bị bóp cổ?"
Vũ Tứ Thành
|
|