Post by NhiHa on Sept 3, 2009 9:58:26 GMT 9
Bí Ẩn Ấn Độ McAmmond Nguyen Thi Tu Chia sẻ với bạn bè♦ 10 bình luận ♦ 21.08.2009 .
Cánh cửa một biệt thự tư nhân ở Pune, Ấn Độ (ảnh Akshay)
Tôi đã chẳng ghé thành cổ Goa, nơi từng được mệnh danh “thành Rome của phương Đông” dưới đế chế Bồ Đào Nha. Cũng chẳng đến Delhi, chứng nhân lịch sử từ thời các vị hoàng đế Mughal, British Raj, đến những kỷ nguyên sau độc lập. Chẳng đi thăm nơi Gandhi bị ám sát nay trở thành đền thờ quốc gia. Chẳng dừng lại Mumbai xem hang động Buddhist Kanheri nơi các nhà sư ở và thiền trong suốt bốn tháng mùa mưa. Chẳng tới chỗ có tượng thần Shiva tạc bằng đá cao năm thước rưỡi. Chẳng tìm coi kiến trúc kỳ vĩ của lăng Taj Mahal đã được xếp vào di sản thế giới. Tóm lại là chẳng đi được đến những chỗ thiên hạ nhắc tên.
Viện huấn luyện Yoga Kabir Baug
Suốt thời gian năm tuần ở Ấn Độ tôi hầu như chỉ quẩn quanh ở mỗi cái góc nhỏ lọt thỏm trong những dãy nhà tăm tối nghèo nàn giữa thành phố Pune ồn ào sôi động. Cái góc ấy có tên Kabir Baug, một học viện nghiên cứu, giảng dạy, và thực nghiệm yoga.
Những người thợ nghèo ở Pune
Lúc đầu cái hơi hướng có vẻ tôn giáo ở đây khiến tôi thấy lạc lõng. Qui định như không cá thịt, không rượu bia, không thuốc lá, nói năng ăn mặc phải đứng đắn, vào gian chánh điện bỏ giầy dép bên ngoài, là những điều hiểu được với tôi. Trước mỗi giờ tập luyện thầy trò chắp tay ê a bài kinh tưởng niệm Patanjali – bậc hiền triết có công soạn thảo kinh pháp yoga từ 200 năm trước công nguyên, cũng là điều chấp nhận được. Nhưng khi thấy người ta quỳ mọp xuống chân một người đàn ông họ gọi là guru, rồi dùng trán hoặc tay chạm vào bàn chân ông để tỏ lòng tôn kính trí tuệ thông thái của Ngài và tin mình sẽ lãnh nhận được ân phúc, thì kẻ vốn hững hờ nguội lạnh với tôn giáo và thần thánh như tôi thật không khỏi bất ngờ.
Tượng hiền triết yoga Patanjali
Vị guru người Hinđu ấy là một triết gia về yoga, nguyên bác sĩ Tây y, ngoài 70 tuổi, người sáng lập học viện kiêm bệnh viện yoga tại Kabir Baug. Gần hai chục năm nay ông giảng dạy phương pháp ứng dụng động tác yoga kết hợp với y học hiện đại trong điều trị các chứng bệnh mãn tính, nhưng niềm đam mê lớn hơn của ông là chia sẻ kiến thức về triết lý yoga với mọi người. Bên cạnh những chuyến đi giảng ở các nước như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Nhật, Nga, và Hàn Quốc, ông dành thời gian huấn luyện ngay tại Kabir Baug cho học viên trong và ngoài nước.
Tôi thật ra là kẻ ngoại đạo với yoga. Đến Kabir Baug lần này cũng không phải để học hỏi nó. Chỉ muốn tận mắt nhìn thấy một đất nước với bao điều lạ lùng tôi chỉ biết chút ít qua sách vở. Tôi bảo với guru tôi ước gì đi được hết và hiểu hết cả cái xứ sở bao la này. Guru cười, nếu hiểu được hết Ấn Độ thì cũng giống như hiểu được cả thế gian. Rồi ông bảo đi hết đất nước này có lẽ là điều không thực tế, nhưng tại Kabir Baug cũng có thể thấy được nhiều.
Hôm tôi đến, học viện khai giảng khóa đào tạo mới. Học viên Hàn Quốc chiếm số lượng đông nhất. 16 nữ 2 nam. Còn lại từ Mỹ và Canada. Tôi không tham gia những lớp thực hành động tác yoga, chỉ dự thính một số giờ triết học trong gian chính điện lúc nào cũng thoảng mùi khói nhang.
Trong bộ trang phục kurta pyjamas truyền thống màu trắng, đầu cạo nhẵn thín, chừa đuôi tóc bạc thắt bím đằng sau, guru ngồi xếp bằng nghiêm nghị trên nền nhà. Những chồng sách triết lý dầy cộm bằng tiếng Sanskrit trước mặt ông. Đối diện là nhóm học viên trong đồng phục áo thun xanh nước biển và quần dài màu xám tro, cũng ngồi khoanh chân giống thầy trên nền nhà với cuốn sổ và cây bút trong tay. Guru giảng bằng tiếng Anh, có một người đàn ông Hàn Quốc trong nhóm thông dịch lại. Những bài thuyết giảng của guru chủ yếu về các quan niệm triết lý trích ra từ quyển trường thi Bhagavad Gita được xem như kinh thánh của người Hinđu, và về kinh điển yoga của Patanjali. Những lý thuyết khô khan, xa lạ với tôi. May lâu lâu có xen vào những câu chuyện kể.
Tôi để ý không phải tất cả học viên đều tỏ ra hào hứng với môn học này. Lâu lâu có người che miệng ngáp. Có người ngủ gục nữa. Guru cho rằng rất nguy hại và đáng buồn là yoga ngày nay đang thịnh hành như một thứ thời trang trên thế giới. Tập luyện thể xác được chú trọng, rèn luyện trí não bị coi nhẹ. Ông bảo nếu mục đích việc luyện tập tư thế “con thuyền” chỉ để làm cho cái eo bụng nhỏ thì không đúng tinh thần yoga. Học yoga mà chỉ hướng đến các động tác cho cơ thể thì chẳng khác khỉ nhảy chuyền trên cây.
câu chuyện trong lớp:
Hai Chị Em Thần
Làng Thachanattukara ở Ấn Độ là nơi duy nhất có một ngôi đền thờ nữ thần Jyeshta, chị của nữ thần Lakshmi. Jyeshta là nữ thần của người nghèo và sự bất hạnh. Lakshmi là nữ thần của người giàu và sự vinh hiển. Trong khi Lakshmi là thần tượng của sự hứa hẹn, thuận lợi, triển vọng, may mắn, của tất cả những khát vọng thì Jyeshta tượng trưng cho khó khăn, thất bại, tuyệt vọng, ô nhục, của tất cả những điều bị nguyền rủa trong đời. Hai chị em sinh ra đã là đối thủ của nhau. Hễ người này vào người kia ra, người này bên trong thì người kia bên ngoài.
Gia đình nào ở Ấn Độ cũng muốn giữ Lakshmi trong nhà và đẩy Jyeshta ra. Nếu Jyeshta không bị đuổi ra thì Lakshmi không chịu vào nhà. Vì thế người ta thường mở cửa sau cho Jyeshta ra rồi mở cửa trước cho Lakshmi vào. Một lần hai thần chạm nhau ở ngưỡng cửa cãi nhau xem ai đẹp hơn. Cuộc tranh cãi không phân thắng bại, họ hỏi ý kiến chủ nhà. Chủ nhà thông minh, không muốn làm thần nào nổi giận, nói: “Lakshmi, ngài đẹp hơn khi bước vào, và Jyeshta, ngài đẹp hơn khi bước ra.” Thế là hai chị em thần đều vui và tự hào.
Thế gian có thói quen ngưỡng mộ, cầu cạnh Lakshmi, và sợ hãi, khinh rẻ Jyeshta. Nhưng cũng không ít người biết Lakshmi nổi tiếng là cội nguồn của nhiều khổ đau và bất hạnh. Lakshmi là nguồn của hạnh phúc bề mặt, và chỉ thoáng qua, không bền. Sự đấu tranh cho Lakshmi thường hạ thấp nhân phẩm con người. Thế gian yêu quý và tôn thờ Lakshmi vì cái vẻ bên ngoài hào nhoáng mời mọc của nó. Còn Jyeshta xuất hiện nghèo và bần cùng, nhưng có sự mạnh mẽ của tính cách. Không quyến rũ mời gọi, không đổi thay chóng vánh. Hờ hững với vẻ ngoài. Can đảm và chịu đựng. Jyeshta đem đến cho con người sức mạnh và hạnh phúc thật.
Đền thờ nữ thần Jyeshta là một biểu tượng của trí tuệ người Ấn Độ. Nó được coi như là một “Hindu Sphinx” đối với người Tây phương.
bên ngoài lớp học:
Hộp Giấy Lau Mặt “Witch Hazel”
Nhìn cô như một diễn viên Holywood. Cô làm cho một trung tâm vật lý trị liệu ở California. Để theo kịp trào lưu yoga đang thịnh hành, trung tâm gởi cô đi Ấn Độ học để về quảng cáo với khách một phương pháp điều trị mới kết hợp với yoga. Chị học viên lớn tuổi chung phòng bảo ngày nào cô cũng ngắm nghía cơ thể trước gương. Làm điệu với đôi môi bơm đỏ mọng và bộ ngực giả căng phồng. Đến Kabir Baug được hai tuần, cô xài hết hộp giấy ướt lau mặt nhãn hiệu Witch Hazel đem từ nhà đi. Không muốn dùng nước Ấn Độ rửa mặt sợ hư da, cô điện thoại cho người yêu ở Mỹ mua giấy ướt gởi gấp qua. Ba hôm sau, tưởng bưu điện sẽ giao đến tận Kabir Baug, ai dè cô nhận được giấy báo đến văn phòng hải quan để đóng thuế. Tắc xi đi về mất 7 đô. Thuế 20 đô. Trị giá hộp giấy thì chưa tới 10 đô! Chưa tính người yêu cô phải trả 80 đô cho dịch vụ phát nhanh Air Couriers. Đem về mở ra thì không phải giấy lau mặt. Anh bồ đã mua nhầm cái hộp giấy ướt lau đít cho trẻ em, cũng đúng nhãn hiệu Witch Hazel ấy. Thật hết sức ngu xuẩn! Cô tức tốc gọi điện mắng người yêu một trận. Anh thật thà bảo cô xài đỡ vậy. Cũng là một thứ giấy người ta làm ướt sẵn dùng cho tiện thôi. Cô kêu trời. Giấy chùi đít mà anh dám bảo tôi chùi lên mặt được sao. Nghe cô kể lại, các học viên khác cười như hưởng ứng cô, nhưng sau lưng có kẻ lại xầm xì đồng tình với ý kiến của anh chàng người yêu ấy.
bên ngoài lớp học:
Mua Sắm
Học viên các nước đến Ấn Độ để học yoga, nhưng nhiều người cũng nhân cơ hội này thoả mãn ý thích mua sắm. Nghe guru nói lúc đầu tôi ngỡ ông nói vui sau mới thấy chiều tan học xong là cả lớp rủ nhau ra các khu vực sắm đồ. Hai con đường nổi tiếng học viên thường ghé mua sắm là Lakshmi và Mahatma Ganhdi. Học viên Hàn Quốc cũng như Mỹ và Canada mê man với hàng hóa và giá cả ở đây. Người nào cũng mua đầy dẫy để đóng gói mang về nước cho bản thân và gia đình. Quần áo, nữ trang, giày dép, dụng cụ làm bếp bằng i-nốc, và các tượng Phật tượng thần bằng đồng thanh. Chỉ có mấy người tìm mua mấy cuốn sách triết học, yoga, và văn hóa Ấn Độ. Rồi tối đến các phòng học viên lại chộn rộn, khoe nhau những thứ đã mua được, và bàn cách làm sao trốn được thuế hải quan.
Tôi nhớ đến giờ giảng của guru về yama, các điều răn dạy của nhà hiền triết Patanjali đối với những người theo học yoga. Một trong những điều răn ấy là không sở hữu. Phải giải thoát con người mình khỏi sự ham muốn, tích trữ, và góp nhặt của cải. Phải đơn giản hóa nhu cầu vật chất hàng ngày của mình đến mức tối đa. Guru giảng rằng khi lòng mình còn nao nức trước một bộ sa-lông tân kỳ hay một cái điện thoại di động đa năng thì chắc chắn chưa qua được nổi chặng đầu tiên, hết sức cơ bản, trên cuộc hành trình dài và gian khổ đến với yoga. Cả lớp im lặng gật gù như thông hiểu. Sau tôi nghe học viên phàn nàn sau lưng guru rằng những thuyết giảng ấy không cao. Lặn lội đến Ấn Độ họ ngỡ sẽ được nghe từ guru những điều thâm sâu bí ẩn hơn của yoga.
câu chuyện trong lớp:
Đó Là Cách Thức Thế Gian, Đó Là Qui Luật Cuộc Sống
Thằng bé đi dọc bờ sông, thấy cá sấu bị mắc lưới. Cá sấu nói: “Làm ơn cứu tôi. Tôi xấu xí thật, nhưng có phải lỗi tôi đâu, tôi bị tạo ra như vậy. Nhưng dù bề ngoài tôi thế nào tôi vẫn có trái tim của một người mẹ. Sáng nay tôi đương tìm thức ăn cho lũ nhỏ thì bị dính vào cái bẫy này.”
Thằng bé nói: “Nếu tôi giúp bà thoát ra, bà sẽ nuốt tôi mất.”
Cá sấu nhỏ những giọt nước mắt, nói: “Ôi, cậu nghĩ tôi có thể làm được điều ấy với vị ân nhân đã giải thoát tôi ư?”
Thằng bé gỡ tấm lưới ra, cá sấu tức thì vồ lấy nó.
Bị kẹt trong hàm cá sấu, thằng bé nói: “Ra thế, đây là điều tôi nhận được từ hành động tốt của mình.”
Cá sấu nói: “Đừng quá nghĩ ngợi, nhóc con ạ. Đó là cách thức của của thế gian, đó là qui luật của cuộc sống.”
Thằng bé không đồng ý. Cá sấu nói: “Không tin thì hỏi ý kiến kẻ khác xem.”
Thấy một con chim đậu trên cành cây gần đó, thằng bé nói: “Cô chim nè, bà cá sấu nói vậy có đúng không?” Chim nói: “Đúng đấy. Như tôi đây này. Tôi đang ngậm thức ăn về nhà cho lũ nhỏ, thì… ôi, hãy tưởng tượng nỗi kinh hãi của tôi khi nhìn thấy một con rắn bò lên cây đến ngay cái tổ của tôi. Tôi bất lực nhìn nó nuốt ngấu nghiến đám con tôi, từng con một. Tôi gào thét khản cổ, nhưng vô ích. Cá sấu nói đúng đấy. Đó là qui luật của cuộc sống, đó là cách thức của thế gian.”
“Thấy chưa,” cá sấu nói. Nhưng thằng bé bảo: “Để tôi hỏi người khác nữa.” Cá sấu nói: “Hỏi đi.”
Có một con lừa già đang gặm cỏ bên cạnh. “Này ông lừa,” thằng bé nói, “Bà cá sấu nói vậy có đúng không?”
Lừa nói: “Đúng đấy. Như ta đây này. Ta làm việc như một tên nô lệ cho chủ suốt cuộc đời, mà ông ấy không khi nào cho ta ăn đủ no. Bây giờ ta già và vô dụng thì ông ấy đuổi đi. Ta đang phải lang thang trong rừng, đợi một con thú dữ kết thúc cuộc đời mình. Cá sấu đúng đấy, đó là qui luật của cuộc sống, đó là cách thức của thế gian.”
“Thấy chưa,” cá sấu nói. “Sẵn sàng đi!”
Thằng bé nói, “Hãy cho tôi một cơ hội cuối cùng. Để tôi hỏi thêm một người nữa. Chẳng lẽ bà đã quên tôi vừa mới làm một điều tử tế với bà đó sao.” Cá sấu nói: “Được, cơ hội cuối cùng.”
Vừa lúc thấy một con thỏ ngang qua, thằng bé nói, “Chú thỏ ơi, bà cá sấu nói vậy có đúng không?”
Thỏ ngồi sụp xuống, hỏi cá sấu, “Bà nói như vậy với thằng nhỏ hả?” Cá sấu nói, “Ừ.” “Chờ một chút,” thỏ nói, “Chúng ta phải thảo luận vấn đề này.” Cá sấu nói,“Đồng ý.” Thỏ nói: “Nhưng thảo luận thế nào được khi thằng nhỏ còn nằm trong miệng bà. Thả nó ra đi, nó cũng phải tham gia vào cuộc thảo luận.” Cá sấu nói, “Chú em thông minh đấy. Ta thả nó ra để nó chạy mất à.” Thỏ nói, “Tôi cứ ngỡ bà hiểu biết hơn như thế. Nếu thằng nhỏ tìm cách chạy, một phát đuôi quật của bà là đủ nó tiêu đời.”
“Có lý,” cá sấu nói, và nhả thằng bé ra. Thỏ nói, “Chạy đi!” Thằng bé chạy xa khỏi chỗ cá sấu. Thỏ quay sang nói với cá sấu: “Bà đã biết rồi đấy. Đó là cách thức của thế gian, đó là quy luật của cuộc sống.” Rồi thỏ nói với thằng bé, “Mày không thích thịt cá sấu sao? Người trong làng mày không thích một bữa ăn ngon tuyệt sao? Mày chưa giải thoát cá sấu hẳn đâu, cái đuôi nó còn mắc kẹt trong tấm lưới kìa. Hãy về làng gọi mọi người tới thịt nó đi.”
Thằng bé chạy về gọi người làng. Họ cầm búa, gậy gộc, giáo mác ra và giết con cá sấu. Con chó của thằng bé cũng chạy ra, và khi trông thấy con thỏ, nó rượt theo bóp cổ con thỏ chết ngắc.Thằng bé đuổi theo cản con chó không kịp. Nhìn con thỏ chết, thằng bé buồn rầu nói, "Cá sấu đúng. Đó là cách thức của thế gian. Đó là qui luật của cuộc sống."
bên ngoài lớp học:
Bức Tranh Trong Nhà Bảo Tàng
Trong một nhà bảo tàng lịch sử và văn hóa, tôi chú ý đến một bức tranh minh họa tập tục Sutteeism của người Hinđu. Khi chồng qua đời, vợ cũng phải chết theo. Một cô học sinh cấp ba Ấn Độ đứng gần bên giải thích với tôi rằng tục lệ này bắt đầu bị bãi bỏ từ thế kỷ 17 dưới triều các hoàng đế Murghal, đến thời thuộc địa Anh năm 1828 bị đưa vào luật cấm, nhưng đến giờ nó vẫn tồn tại ở các làng mạc xa xôi. Tấm tranh vẽ cảnh bên bờ sông Hằng một phụ nữ trong bộ áo sari quý phái bị ném lên giàn lửa để thiêu sống cùng với thi hài người chồng. Cô học sinh đọc lời chú thích bằng tiếng Hin-đi và bảo bức tranh này là một trường hợp thật xảy ra cách đây cả trăm năm. Người đàn ông qua đời là một ông quan lớn ở huyện. Thấy tôi cứ nhìn sững bức tranh cô gái nói: “Bà chớ xúc động. Đó không phải vợ ông ta đâu, mà chỉ là một người đàn bà thuộc tầng lớp tiện dân bị bắt thay vào. Còn người vợ thì được giấu đi. Thời đó người ta thường làm vậy.”
bên ngoài lớp học:
Khi Hai Kẻ Yêu Nhau Không Cùng Đẳng Cấp
Chuyện vừa xảy ra chiều hôm qua ở một vùng ngoại ô cách Kabir Baug gần trăm cây số. Chị thư ký văn phòng nói với tôi. Hai học sinh trường cấp ba yêu nhau. Cậu con trai thuộc đẳng cấp Brahmins, tầng lớp cao nhất trong xã hội. Cô gái là con một gia đình thuộc đẳng cấp Shudras của những người lao động chân tay. Gia đình cả hai nhiều lần cảnh cáo. Hôm ấy đôi trai gái trốn học hẹn hò ở một nơi rất xa. Không biết thế nào mà cha mẹ hai bên biết được. Họ đến tận nơi bắt đôi trai gái về, và lôi ra trước một ngôi chùa giữa làng dùng đá và gậy gộc đánh cả hai đến chết. Sao cảnh sát và dân làng không can thiệp? Tôi hỏi. Chị nhún vai bảo, làm gì được.
Câu chuyện làm tôi nhớ đến chị bạn người Ấn di dân làm chung sở ở Canada. Năm nay tới tuổi 40, có nhan sắc, học thức, công việc lương cao, nhiều đức tính tốt, gia đình cũng thuộc tầng lớp Brahmins. Chị luôn khát khao có chồng có con như những phụ nữ khác trên đời. Người đàn ông chị vẫn trông đợi chỉ cần mỗi hai điều kiện: cùng đạo Sikh, và cùng đẳng cấp Brahmins. Nhưng thật khó. Có đàn ông nào vừa ở tuổi chị vừa đạt hai tiêu chuẩn ấy còn độc thân? Trẻ hơn thì người ta không tìm đến chị. Thực ra 15 năm trước cô gặp một chàng trai học nha khoa cũng người Ấn nhưng Hinđu, và rủi hơn lại là con trai của một gia đình bán hàng xén, có nghĩa thuộc đẳng cấp thứ ba – Vaishyas. Tất nhiên hôn nhân chẳng thể xảy ra cho hai người. Rồi thời gian qua. Anh ta đã cưới vợ, một cô giáo, gia đình thuộc đẳng cấp Shudras, thấp hơn anh một bậc, và có hai con. Chị thường thở dài bảo tôi giá như chị sinh ra thuộc tầng lớp của gia đình cô giáo ấy.
bên ngoài lớp học:
Những Người Giới Tính Thứ Ba
Anh học viên Hàn Quốc chưa hoàn hồn khi kể lại sự cố xảy ra trên đường Lakshmi khu vực trung tâm thương mại. Hai phụ nữ Ấn Độ trong bộ sari sặc sỡ, phấn son diêm dúa, vòng vàng đeo đầy người, chặn anh lại xin 100 ru-pi. Anh từ chối. Một cô giơ tay bẹo lên má anh, xong tuôn ra cả tràng ngôn ngữ anh không hiểu, vẻ tức giận. Rồi bất ngờ, cả hai cô cùng kéo hất vạt áo sari lên, phô ra phần cơ thể đã bị cắt trụi của đàn ông. Đám trẻ con gần đó rộ lên cười. Anh bỏ đi như chạy, vừa xấu hổ vừa sợ hãi.
Guru bảo hai người đó thật ra là đàn ông bị hoạn, tiếng Hinđi gọi là hijras. Có trường hợp bẩm sinh, có trường hợp sinh ra với cơ cấu sinh dục nam nhưng tính cách con người lại phát triển như nữ. Không ít hijras từ nhỏ bị gia đình ruồng bỏ vì sức ép của dư luận xã hội, đã bỏ trốn lên thành phố, trải qua nghi thức cắt bỏ dương vật và tinh hoàn của mình để gia nhập vào quần thể của những người cùng cảnh ngộ. Toàn nước hiện nay có hơn một triệu hijras sống trong những cộng đồng riêng. Đông nhất là ở các thành phố lớn như Mumbai, Chennai, Kolkata và Delhi. Không còn vai trò của một tầng lớp được sủng ái và trọng dụng trong chốn cung đình của người Hinđu và cả trong giới cầm quyền Hồi giáo của bao thế kỷ xưa, những “hoạn quan” trong xã hội Ấn Độ đương thời bị kỳ thị nặng nề, bị tước bỏ nhiều quyền lợi của một công dân. Mặc dù người ta tin rằng hijras được thần thánh ban cho quyền năng đặc biệt là có thể đem đến lời chúc phúc hoặc lời nguyền độc, nhưng thái độ chung của xã hội là ghê sợ và tìm cách né tránh họ. Ở các bến xe, nhà ga, hijas thường bị sỉ vả, uy hiếp. Phần lớn họ phải kiếm sống bằng cách ăn xin, bán thân, canh giữ các nhà chứa, hoặc ban phước lành ở tiệc mừng trẻ mới sinh, đám cưới, tân gia, khởi công xây nhà, khai trương buôn bán. Một số nhà băng thuê họ đòi nợ. Tưởng tượng cảnh một nhóm hijras trong những bộ áo sari lộng lẫy kéo đến trước cửa nhà con nợ múa hát, vỗ tay, gào thét. Rất có hiệu lực. Vì không ai đợi đến lúc lời rủa độc địa phát ra từ miệng họ “Con trai nhà ngươi sẽ là một hijra!”
Hijras hiện nay vẫn là một vấn nạn ở Ấn Độ. Những năm gần đây các cộng đồng hijras liên tục tranh đấu để không bị kỳ thị khi xin việc, không bị hiếp đáp bởi cảnh sát và dân chúng, và được sống như những người bình thường khác.
Cánh cửa một biệt thự tư nhân ở Pune, Ấn Độ (ảnh Akshay)
Tôi đã chẳng ghé thành cổ Goa, nơi từng được mệnh danh “thành Rome của phương Đông” dưới đế chế Bồ Đào Nha. Cũng chẳng đến Delhi, chứng nhân lịch sử từ thời các vị hoàng đế Mughal, British Raj, đến những kỷ nguyên sau độc lập. Chẳng đi thăm nơi Gandhi bị ám sát nay trở thành đền thờ quốc gia. Chẳng dừng lại Mumbai xem hang động Buddhist Kanheri nơi các nhà sư ở và thiền trong suốt bốn tháng mùa mưa. Chẳng tới chỗ có tượng thần Shiva tạc bằng đá cao năm thước rưỡi. Chẳng tìm coi kiến trúc kỳ vĩ của lăng Taj Mahal đã được xếp vào di sản thế giới. Tóm lại là chẳng đi được đến những chỗ thiên hạ nhắc tên.
Viện huấn luyện Yoga Kabir Baug
Suốt thời gian năm tuần ở Ấn Độ tôi hầu như chỉ quẩn quanh ở mỗi cái góc nhỏ lọt thỏm trong những dãy nhà tăm tối nghèo nàn giữa thành phố Pune ồn ào sôi động. Cái góc ấy có tên Kabir Baug, một học viện nghiên cứu, giảng dạy, và thực nghiệm yoga.
Những người thợ nghèo ở Pune
Lúc đầu cái hơi hướng có vẻ tôn giáo ở đây khiến tôi thấy lạc lõng. Qui định như không cá thịt, không rượu bia, không thuốc lá, nói năng ăn mặc phải đứng đắn, vào gian chánh điện bỏ giầy dép bên ngoài, là những điều hiểu được với tôi. Trước mỗi giờ tập luyện thầy trò chắp tay ê a bài kinh tưởng niệm Patanjali – bậc hiền triết có công soạn thảo kinh pháp yoga từ 200 năm trước công nguyên, cũng là điều chấp nhận được. Nhưng khi thấy người ta quỳ mọp xuống chân một người đàn ông họ gọi là guru, rồi dùng trán hoặc tay chạm vào bàn chân ông để tỏ lòng tôn kính trí tuệ thông thái của Ngài và tin mình sẽ lãnh nhận được ân phúc, thì kẻ vốn hững hờ nguội lạnh với tôn giáo và thần thánh như tôi thật không khỏi bất ngờ.
Tượng hiền triết yoga Patanjali
Vị guru người Hinđu ấy là một triết gia về yoga, nguyên bác sĩ Tây y, ngoài 70 tuổi, người sáng lập học viện kiêm bệnh viện yoga tại Kabir Baug. Gần hai chục năm nay ông giảng dạy phương pháp ứng dụng động tác yoga kết hợp với y học hiện đại trong điều trị các chứng bệnh mãn tính, nhưng niềm đam mê lớn hơn của ông là chia sẻ kiến thức về triết lý yoga với mọi người. Bên cạnh những chuyến đi giảng ở các nước như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Nhật, Nga, và Hàn Quốc, ông dành thời gian huấn luyện ngay tại Kabir Baug cho học viên trong và ngoài nước.
Tôi thật ra là kẻ ngoại đạo với yoga. Đến Kabir Baug lần này cũng không phải để học hỏi nó. Chỉ muốn tận mắt nhìn thấy một đất nước với bao điều lạ lùng tôi chỉ biết chút ít qua sách vở. Tôi bảo với guru tôi ước gì đi được hết và hiểu hết cả cái xứ sở bao la này. Guru cười, nếu hiểu được hết Ấn Độ thì cũng giống như hiểu được cả thế gian. Rồi ông bảo đi hết đất nước này có lẽ là điều không thực tế, nhưng tại Kabir Baug cũng có thể thấy được nhiều.
Hôm tôi đến, học viện khai giảng khóa đào tạo mới. Học viên Hàn Quốc chiếm số lượng đông nhất. 16 nữ 2 nam. Còn lại từ Mỹ và Canada. Tôi không tham gia những lớp thực hành động tác yoga, chỉ dự thính một số giờ triết học trong gian chính điện lúc nào cũng thoảng mùi khói nhang.
Trong bộ trang phục kurta pyjamas truyền thống màu trắng, đầu cạo nhẵn thín, chừa đuôi tóc bạc thắt bím đằng sau, guru ngồi xếp bằng nghiêm nghị trên nền nhà. Những chồng sách triết lý dầy cộm bằng tiếng Sanskrit trước mặt ông. Đối diện là nhóm học viên trong đồng phục áo thun xanh nước biển và quần dài màu xám tro, cũng ngồi khoanh chân giống thầy trên nền nhà với cuốn sổ và cây bút trong tay. Guru giảng bằng tiếng Anh, có một người đàn ông Hàn Quốc trong nhóm thông dịch lại. Những bài thuyết giảng của guru chủ yếu về các quan niệm triết lý trích ra từ quyển trường thi Bhagavad Gita được xem như kinh thánh của người Hinđu, và về kinh điển yoga của Patanjali. Những lý thuyết khô khan, xa lạ với tôi. May lâu lâu có xen vào những câu chuyện kể.
Tôi để ý không phải tất cả học viên đều tỏ ra hào hứng với môn học này. Lâu lâu có người che miệng ngáp. Có người ngủ gục nữa. Guru cho rằng rất nguy hại và đáng buồn là yoga ngày nay đang thịnh hành như một thứ thời trang trên thế giới. Tập luyện thể xác được chú trọng, rèn luyện trí não bị coi nhẹ. Ông bảo nếu mục đích việc luyện tập tư thế “con thuyền” chỉ để làm cho cái eo bụng nhỏ thì không đúng tinh thần yoga. Học yoga mà chỉ hướng đến các động tác cho cơ thể thì chẳng khác khỉ nhảy chuyền trên cây.
câu chuyện trong lớp:
Hai Chị Em Thần
Làng Thachanattukara ở Ấn Độ là nơi duy nhất có một ngôi đền thờ nữ thần Jyeshta, chị của nữ thần Lakshmi. Jyeshta là nữ thần của người nghèo và sự bất hạnh. Lakshmi là nữ thần của người giàu và sự vinh hiển. Trong khi Lakshmi là thần tượng của sự hứa hẹn, thuận lợi, triển vọng, may mắn, của tất cả những khát vọng thì Jyeshta tượng trưng cho khó khăn, thất bại, tuyệt vọng, ô nhục, của tất cả những điều bị nguyền rủa trong đời. Hai chị em sinh ra đã là đối thủ của nhau. Hễ người này vào người kia ra, người này bên trong thì người kia bên ngoài.
Gia đình nào ở Ấn Độ cũng muốn giữ Lakshmi trong nhà và đẩy Jyeshta ra. Nếu Jyeshta không bị đuổi ra thì Lakshmi không chịu vào nhà. Vì thế người ta thường mở cửa sau cho Jyeshta ra rồi mở cửa trước cho Lakshmi vào. Một lần hai thần chạm nhau ở ngưỡng cửa cãi nhau xem ai đẹp hơn. Cuộc tranh cãi không phân thắng bại, họ hỏi ý kiến chủ nhà. Chủ nhà thông minh, không muốn làm thần nào nổi giận, nói: “Lakshmi, ngài đẹp hơn khi bước vào, và Jyeshta, ngài đẹp hơn khi bước ra.” Thế là hai chị em thần đều vui và tự hào.
Thế gian có thói quen ngưỡng mộ, cầu cạnh Lakshmi, và sợ hãi, khinh rẻ Jyeshta. Nhưng cũng không ít người biết Lakshmi nổi tiếng là cội nguồn của nhiều khổ đau và bất hạnh. Lakshmi là nguồn của hạnh phúc bề mặt, và chỉ thoáng qua, không bền. Sự đấu tranh cho Lakshmi thường hạ thấp nhân phẩm con người. Thế gian yêu quý và tôn thờ Lakshmi vì cái vẻ bên ngoài hào nhoáng mời mọc của nó. Còn Jyeshta xuất hiện nghèo và bần cùng, nhưng có sự mạnh mẽ của tính cách. Không quyến rũ mời gọi, không đổi thay chóng vánh. Hờ hững với vẻ ngoài. Can đảm và chịu đựng. Jyeshta đem đến cho con người sức mạnh và hạnh phúc thật.
Đền thờ nữ thần Jyeshta là một biểu tượng của trí tuệ người Ấn Độ. Nó được coi như là một “Hindu Sphinx” đối với người Tây phương.
bên ngoài lớp học:
Hộp Giấy Lau Mặt “Witch Hazel”
Nhìn cô như một diễn viên Holywood. Cô làm cho một trung tâm vật lý trị liệu ở California. Để theo kịp trào lưu yoga đang thịnh hành, trung tâm gởi cô đi Ấn Độ học để về quảng cáo với khách một phương pháp điều trị mới kết hợp với yoga. Chị học viên lớn tuổi chung phòng bảo ngày nào cô cũng ngắm nghía cơ thể trước gương. Làm điệu với đôi môi bơm đỏ mọng và bộ ngực giả căng phồng. Đến Kabir Baug được hai tuần, cô xài hết hộp giấy ướt lau mặt nhãn hiệu Witch Hazel đem từ nhà đi. Không muốn dùng nước Ấn Độ rửa mặt sợ hư da, cô điện thoại cho người yêu ở Mỹ mua giấy ướt gởi gấp qua. Ba hôm sau, tưởng bưu điện sẽ giao đến tận Kabir Baug, ai dè cô nhận được giấy báo đến văn phòng hải quan để đóng thuế. Tắc xi đi về mất 7 đô. Thuế 20 đô. Trị giá hộp giấy thì chưa tới 10 đô! Chưa tính người yêu cô phải trả 80 đô cho dịch vụ phát nhanh Air Couriers. Đem về mở ra thì không phải giấy lau mặt. Anh bồ đã mua nhầm cái hộp giấy ướt lau đít cho trẻ em, cũng đúng nhãn hiệu Witch Hazel ấy. Thật hết sức ngu xuẩn! Cô tức tốc gọi điện mắng người yêu một trận. Anh thật thà bảo cô xài đỡ vậy. Cũng là một thứ giấy người ta làm ướt sẵn dùng cho tiện thôi. Cô kêu trời. Giấy chùi đít mà anh dám bảo tôi chùi lên mặt được sao. Nghe cô kể lại, các học viên khác cười như hưởng ứng cô, nhưng sau lưng có kẻ lại xầm xì đồng tình với ý kiến của anh chàng người yêu ấy.
bên ngoài lớp học:
Mua Sắm
Học viên các nước đến Ấn Độ để học yoga, nhưng nhiều người cũng nhân cơ hội này thoả mãn ý thích mua sắm. Nghe guru nói lúc đầu tôi ngỡ ông nói vui sau mới thấy chiều tan học xong là cả lớp rủ nhau ra các khu vực sắm đồ. Hai con đường nổi tiếng học viên thường ghé mua sắm là Lakshmi và Mahatma Ganhdi. Học viên Hàn Quốc cũng như Mỹ và Canada mê man với hàng hóa và giá cả ở đây. Người nào cũng mua đầy dẫy để đóng gói mang về nước cho bản thân và gia đình. Quần áo, nữ trang, giày dép, dụng cụ làm bếp bằng i-nốc, và các tượng Phật tượng thần bằng đồng thanh. Chỉ có mấy người tìm mua mấy cuốn sách triết học, yoga, và văn hóa Ấn Độ. Rồi tối đến các phòng học viên lại chộn rộn, khoe nhau những thứ đã mua được, và bàn cách làm sao trốn được thuế hải quan.
Tôi nhớ đến giờ giảng của guru về yama, các điều răn dạy của nhà hiền triết Patanjali đối với những người theo học yoga. Một trong những điều răn ấy là không sở hữu. Phải giải thoát con người mình khỏi sự ham muốn, tích trữ, và góp nhặt của cải. Phải đơn giản hóa nhu cầu vật chất hàng ngày của mình đến mức tối đa. Guru giảng rằng khi lòng mình còn nao nức trước một bộ sa-lông tân kỳ hay một cái điện thoại di động đa năng thì chắc chắn chưa qua được nổi chặng đầu tiên, hết sức cơ bản, trên cuộc hành trình dài và gian khổ đến với yoga. Cả lớp im lặng gật gù như thông hiểu. Sau tôi nghe học viên phàn nàn sau lưng guru rằng những thuyết giảng ấy không cao. Lặn lội đến Ấn Độ họ ngỡ sẽ được nghe từ guru những điều thâm sâu bí ẩn hơn của yoga.
câu chuyện trong lớp:
Đó Là Cách Thức Thế Gian, Đó Là Qui Luật Cuộc Sống
Thằng bé đi dọc bờ sông, thấy cá sấu bị mắc lưới. Cá sấu nói: “Làm ơn cứu tôi. Tôi xấu xí thật, nhưng có phải lỗi tôi đâu, tôi bị tạo ra như vậy. Nhưng dù bề ngoài tôi thế nào tôi vẫn có trái tim của một người mẹ. Sáng nay tôi đương tìm thức ăn cho lũ nhỏ thì bị dính vào cái bẫy này.”
Thằng bé nói: “Nếu tôi giúp bà thoát ra, bà sẽ nuốt tôi mất.”
Cá sấu nhỏ những giọt nước mắt, nói: “Ôi, cậu nghĩ tôi có thể làm được điều ấy với vị ân nhân đã giải thoát tôi ư?”
Thằng bé gỡ tấm lưới ra, cá sấu tức thì vồ lấy nó.
Bị kẹt trong hàm cá sấu, thằng bé nói: “Ra thế, đây là điều tôi nhận được từ hành động tốt của mình.”
Cá sấu nói: “Đừng quá nghĩ ngợi, nhóc con ạ. Đó là cách thức của của thế gian, đó là qui luật của cuộc sống.”
Thằng bé không đồng ý. Cá sấu nói: “Không tin thì hỏi ý kiến kẻ khác xem.”
Thấy một con chim đậu trên cành cây gần đó, thằng bé nói: “Cô chim nè, bà cá sấu nói vậy có đúng không?” Chim nói: “Đúng đấy. Như tôi đây này. Tôi đang ngậm thức ăn về nhà cho lũ nhỏ, thì… ôi, hãy tưởng tượng nỗi kinh hãi của tôi khi nhìn thấy một con rắn bò lên cây đến ngay cái tổ của tôi. Tôi bất lực nhìn nó nuốt ngấu nghiến đám con tôi, từng con một. Tôi gào thét khản cổ, nhưng vô ích. Cá sấu nói đúng đấy. Đó là qui luật của cuộc sống, đó là cách thức của thế gian.”
“Thấy chưa,” cá sấu nói. Nhưng thằng bé bảo: “Để tôi hỏi người khác nữa.” Cá sấu nói: “Hỏi đi.”
Có một con lừa già đang gặm cỏ bên cạnh. “Này ông lừa,” thằng bé nói, “Bà cá sấu nói vậy có đúng không?”
Lừa nói: “Đúng đấy. Như ta đây này. Ta làm việc như một tên nô lệ cho chủ suốt cuộc đời, mà ông ấy không khi nào cho ta ăn đủ no. Bây giờ ta già và vô dụng thì ông ấy đuổi đi. Ta đang phải lang thang trong rừng, đợi một con thú dữ kết thúc cuộc đời mình. Cá sấu đúng đấy, đó là qui luật của cuộc sống, đó là cách thức của thế gian.”
“Thấy chưa,” cá sấu nói. “Sẵn sàng đi!”
Thằng bé nói, “Hãy cho tôi một cơ hội cuối cùng. Để tôi hỏi thêm một người nữa. Chẳng lẽ bà đã quên tôi vừa mới làm một điều tử tế với bà đó sao.” Cá sấu nói: “Được, cơ hội cuối cùng.”
Vừa lúc thấy một con thỏ ngang qua, thằng bé nói, “Chú thỏ ơi, bà cá sấu nói vậy có đúng không?”
Thỏ ngồi sụp xuống, hỏi cá sấu, “Bà nói như vậy với thằng nhỏ hả?” Cá sấu nói, “Ừ.” “Chờ một chút,” thỏ nói, “Chúng ta phải thảo luận vấn đề này.” Cá sấu nói,“Đồng ý.” Thỏ nói: “Nhưng thảo luận thế nào được khi thằng nhỏ còn nằm trong miệng bà. Thả nó ra đi, nó cũng phải tham gia vào cuộc thảo luận.” Cá sấu nói, “Chú em thông minh đấy. Ta thả nó ra để nó chạy mất à.” Thỏ nói, “Tôi cứ ngỡ bà hiểu biết hơn như thế. Nếu thằng nhỏ tìm cách chạy, một phát đuôi quật của bà là đủ nó tiêu đời.”
“Có lý,” cá sấu nói, và nhả thằng bé ra. Thỏ nói, “Chạy đi!” Thằng bé chạy xa khỏi chỗ cá sấu. Thỏ quay sang nói với cá sấu: “Bà đã biết rồi đấy. Đó là cách thức của thế gian, đó là quy luật của cuộc sống.” Rồi thỏ nói với thằng bé, “Mày không thích thịt cá sấu sao? Người trong làng mày không thích một bữa ăn ngon tuyệt sao? Mày chưa giải thoát cá sấu hẳn đâu, cái đuôi nó còn mắc kẹt trong tấm lưới kìa. Hãy về làng gọi mọi người tới thịt nó đi.”
Thằng bé chạy về gọi người làng. Họ cầm búa, gậy gộc, giáo mác ra và giết con cá sấu. Con chó của thằng bé cũng chạy ra, và khi trông thấy con thỏ, nó rượt theo bóp cổ con thỏ chết ngắc.Thằng bé đuổi theo cản con chó không kịp. Nhìn con thỏ chết, thằng bé buồn rầu nói, "Cá sấu đúng. Đó là cách thức của thế gian. Đó là qui luật của cuộc sống."
bên ngoài lớp học:
Bức Tranh Trong Nhà Bảo Tàng
Trong một nhà bảo tàng lịch sử và văn hóa, tôi chú ý đến một bức tranh minh họa tập tục Sutteeism của người Hinđu. Khi chồng qua đời, vợ cũng phải chết theo. Một cô học sinh cấp ba Ấn Độ đứng gần bên giải thích với tôi rằng tục lệ này bắt đầu bị bãi bỏ từ thế kỷ 17 dưới triều các hoàng đế Murghal, đến thời thuộc địa Anh năm 1828 bị đưa vào luật cấm, nhưng đến giờ nó vẫn tồn tại ở các làng mạc xa xôi. Tấm tranh vẽ cảnh bên bờ sông Hằng một phụ nữ trong bộ áo sari quý phái bị ném lên giàn lửa để thiêu sống cùng với thi hài người chồng. Cô học sinh đọc lời chú thích bằng tiếng Hin-đi và bảo bức tranh này là một trường hợp thật xảy ra cách đây cả trăm năm. Người đàn ông qua đời là một ông quan lớn ở huyện. Thấy tôi cứ nhìn sững bức tranh cô gái nói: “Bà chớ xúc động. Đó không phải vợ ông ta đâu, mà chỉ là một người đàn bà thuộc tầng lớp tiện dân bị bắt thay vào. Còn người vợ thì được giấu đi. Thời đó người ta thường làm vậy.”
bên ngoài lớp học:
Khi Hai Kẻ Yêu Nhau Không Cùng Đẳng Cấp
Chuyện vừa xảy ra chiều hôm qua ở một vùng ngoại ô cách Kabir Baug gần trăm cây số. Chị thư ký văn phòng nói với tôi. Hai học sinh trường cấp ba yêu nhau. Cậu con trai thuộc đẳng cấp Brahmins, tầng lớp cao nhất trong xã hội. Cô gái là con một gia đình thuộc đẳng cấp Shudras của những người lao động chân tay. Gia đình cả hai nhiều lần cảnh cáo. Hôm ấy đôi trai gái trốn học hẹn hò ở một nơi rất xa. Không biết thế nào mà cha mẹ hai bên biết được. Họ đến tận nơi bắt đôi trai gái về, và lôi ra trước một ngôi chùa giữa làng dùng đá và gậy gộc đánh cả hai đến chết. Sao cảnh sát và dân làng không can thiệp? Tôi hỏi. Chị nhún vai bảo, làm gì được.
Câu chuyện làm tôi nhớ đến chị bạn người Ấn di dân làm chung sở ở Canada. Năm nay tới tuổi 40, có nhan sắc, học thức, công việc lương cao, nhiều đức tính tốt, gia đình cũng thuộc tầng lớp Brahmins. Chị luôn khát khao có chồng có con như những phụ nữ khác trên đời. Người đàn ông chị vẫn trông đợi chỉ cần mỗi hai điều kiện: cùng đạo Sikh, và cùng đẳng cấp Brahmins. Nhưng thật khó. Có đàn ông nào vừa ở tuổi chị vừa đạt hai tiêu chuẩn ấy còn độc thân? Trẻ hơn thì người ta không tìm đến chị. Thực ra 15 năm trước cô gặp một chàng trai học nha khoa cũng người Ấn nhưng Hinđu, và rủi hơn lại là con trai của một gia đình bán hàng xén, có nghĩa thuộc đẳng cấp thứ ba – Vaishyas. Tất nhiên hôn nhân chẳng thể xảy ra cho hai người. Rồi thời gian qua. Anh ta đã cưới vợ, một cô giáo, gia đình thuộc đẳng cấp Shudras, thấp hơn anh một bậc, và có hai con. Chị thường thở dài bảo tôi giá như chị sinh ra thuộc tầng lớp của gia đình cô giáo ấy.
bên ngoài lớp học:
Những Người Giới Tính Thứ Ba
Anh học viên Hàn Quốc chưa hoàn hồn khi kể lại sự cố xảy ra trên đường Lakshmi khu vực trung tâm thương mại. Hai phụ nữ Ấn Độ trong bộ sari sặc sỡ, phấn son diêm dúa, vòng vàng đeo đầy người, chặn anh lại xin 100 ru-pi. Anh từ chối. Một cô giơ tay bẹo lên má anh, xong tuôn ra cả tràng ngôn ngữ anh không hiểu, vẻ tức giận. Rồi bất ngờ, cả hai cô cùng kéo hất vạt áo sari lên, phô ra phần cơ thể đã bị cắt trụi của đàn ông. Đám trẻ con gần đó rộ lên cười. Anh bỏ đi như chạy, vừa xấu hổ vừa sợ hãi.
Guru bảo hai người đó thật ra là đàn ông bị hoạn, tiếng Hinđi gọi là hijras. Có trường hợp bẩm sinh, có trường hợp sinh ra với cơ cấu sinh dục nam nhưng tính cách con người lại phát triển như nữ. Không ít hijras từ nhỏ bị gia đình ruồng bỏ vì sức ép của dư luận xã hội, đã bỏ trốn lên thành phố, trải qua nghi thức cắt bỏ dương vật và tinh hoàn của mình để gia nhập vào quần thể của những người cùng cảnh ngộ. Toàn nước hiện nay có hơn một triệu hijras sống trong những cộng đồng riêng. Đông nhất là ở các thành phố lớn như Mumbai, Chennai, Kolkata và Delhi. Không còn vai trò của một tầng lớp được sủng ái và trọng dụng trong chốn cung đình của người Hinđu và cả trong giới cầm quyền Hồi giáo của bao thế kỷ xưa, những “hoạn quan” trong xã hội Ấn Độ đương thời bị kỳ thị nặng nề, bị tước bỏ nhiều quyền lợi của một công dân. Mặc dù người ta tin rằng hijras được thần thánh ban cho quyền năng đặc biệt là có thể đem đến lời chúc phúc hoặc lời nguyền độc, nhưng thái độ chung của xã hội là ghê sợ và tìm cách né tránh họ. Ở các bến xe, nhà ga, hijas thường bị sỉ vả, uy hiếp. Phần lớn họ phải kiếm sống bằng cách ăn xin, bán thân, canh giữ các nhà chứa, hoặc ban phước lành ở tiệc mừng trẻ mới sinh, đám cưới, tân gia, khởi công xây nhà, khai trương buôn bán. Một số nhà băng thuê họ đòi nợ. Tưởng tượng cảnh một nhóm hijras trong những bộ áo sari lộng lẫy kéo đến trước cửa nhà con nợ múa hát, vỗ tay, gào thét. Rất có hiệu lực. Vì không ai đợi đến lúc lời rủa độc địa phát ra từ miệng họ “Con trai nhà ngươi sẽ là một hijra!”
Hijras hiện nay vẫn là một vấn nạn ở Ấn Độ. Những năm gần đây các cộng đồng hijras liên tục tranh đấu để không bị kỳ thị khi xin việc, không bị hiếp đáp bởi cảnh sát và dân chúng, và được sống như những người bình thường khác.