|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:44:39 GMT 9
Tuần ký 13-NHỮNG MẨU CHUYỆN NGHE ĐƯỢC Ở "CỔNG THIÊN ĐƯỜNG"
(nguồn blog nhac sy To hai) Chẳng biết khi bà Thiệu "sáng tác" ra cái bệnh viện "Vì dân" có thật để phục vụ nhân dân không chứ từ ngày "giải phóng miền Nam" bệnh viện này được đổi tên là Thống Nhất, chuyên phục vụ các quan mà hầu hết đều là các quan ..."sắp chết" . Vì ít nhất đã qua tuổi 60 mới đạt được mức lương chuyên viên để được đủ tiêu chuẩn chữa trị trong bệnh viện này. Năm 59 tuổi, tức là cách đây 23 năm, khi tớ về hưu cũng là lúc tớ cầm được cái thẻ bảo hiểm y tế của bệnh viện này. Một số văn nghệ sỹ ăn lương nhà nước cũng hân hạnh được chữa bệnh và chết ở đây Một số chưa được mức lương mà bệnh viện yêu cầu thì cười khểnh và đặt cho cái bệnh viện đó là bệnh viện "vì quan", là "cổng thiên đàng" .Và sau này, khi các bác sỹ tài danh đều vượt biên, về hưu, bỏ ra làm bệnh viện tư thì nó xuống cấp đến nỗi nó mang cái tên :"Cửa địa ngục-" đến nơi nhận một bịch thuốc nội gần giống nhau rồi..... về.... !Của đáng tội. Tớ bảo đảm rằng nơi này là một nơi có "y đức" cao nhất nước . Hầu hết các "cháu bác sỹ" khó có thể hư được với mấy ông cán bộ già vì : 1) Mấy anh về hưu già hầu hết đều chẳng bao giờ chịu xì ra một cái phong bì nào 2) Cán bộ lương cao ,bằng hoặc hơn gấp ba,bốn lần lương bọn tớ bây giờ... quá nhiều và tòan trẻ măng. Giám đốc giám điếc, giáo sư, giáo siết, tiến sỹ, tiến siết đều lúc nha lúc nhúc vào cái nơi tưởng rằng "ưu tiên này".Còn cái số thực sự được ưu tiên bây giờ....đều chữa bệnh ở Thái Lan,Xanh Ga Po,Thụy Sỹ...hoặc ít nhất cũng là bệnh viên Việt Pháp. 3) Số lượng người đến khám bệnh ngày càng nhiều. Trung bình mỗi "cháu bác sỹ" nếu khám tử tế như ở một bệnh viện tư thì chắc chắn không thể nào đủ thời gian dù chỉ dành cho mỗi cụ bệnh nhân 10 phút Năm vừa qua là năm tồi tệ nhất của tớ vì phải bước chân tới cửa thiên đàng tới năm bảy lần trong đó có hai lần qua hẳn cửa nằm ở các khoa... chờ chết. Ấy vậy mà, cho tới hôm nay (21/7/2009). tớ lại vừa rút lui khỏi "cổng thiên đàng"...một lần nữa nhưng trong lòng thấy lóe lên chút niềm vui. Số là: Mỗi lần nhập viện, dù hôn mê phải thở oxy, phải tiếp nước hoặc lấy thuốc về nhà đều có dịp trực tiếp với những quan điểm của những người chẳng còn khát vọng, hòai bão gì nên hầu hết đều nói thẳng, nói thật. Té ra SỰ THẬT viết hoa ở nơi bệnh viện Thống nhất này ngày càng đựoc tô thêm rõ nét. Ngày 17 vừa qua, huyết áp tớ lên 153, đầu đau như búa bổ, không ăn uống được bất cứ thứ gì. Sau mấy lần cự tuyệt đi bệnh viện, bị áp lực của vợ con, bạn bè tớ đành chịu cưỡng chế lên taxi đến cổng thiên đàng Thống Nhất..... Mới có 8h mà các cụ bệnh nhân đã đông như một góc bán tôm,cá chợ Bến Thành. Sau khi lấy được số ở phòng chờ thứ nhất. Gọi số xong, trình thẻ bảo hiểm y tế và sổ y bạ, khai bệnh xong thì được hướng dẫn đến phòng chờ số 2. Xếp sổ y bạ xong thì chờ bác sỹ gọi vào khám . Trở ra phòng chờ để lấy kết luận của bác sỹ sẽ phải đi mấy phòng chờ nữa nếu cần (thử máu, siêu âm, đo điện tâm đồ, chiếu X quang,... nghĩa là 7,8 phòng chờ). Sau hai phút sờ sờ nắn nắn của bác sỹ và kết thúc ở phòng chờ phát thuốc thì tổng số thời gian chờ có người nói rằng gấp 100 lần thời gian khám bệnh. Cái sự chờ này đối với mấy ông già tuy có mệt thật nhưng chính lại là nơi mà dù chẳng quen nhau cũng có dịp để thổ lộ nỗi lòng, phát huy "tự do tư tưởng", thậm chí chửi đổng vài câu cho đỡ bức xúc cái... tâm hồn. Lần này cũng vậy, kiếm mãi mới ra một chỗ ngồi bên cạnh một cặp vợ chồng già mà tớ chẳng hề quen biết... Hai ông bà chia nhau một tờ báo, ngồi đọc để giết thì giờ, đang có vẻ chăm chú nghiên cứu tình hình đất nước. Bỗng ông chồng buông thõng một câu :
- Thế là lại chìm xuồng! Bà vợ: -Chìm cái xuồng nào? - Cái xuồng PMU18 chứ gì nữa. Đây này! Cái thằng "Dũng con" chết mẹ nó trong nhà giam rồi. Lấy ai mà xử tội bây giờ ?khi thằng "Dũng bố" đã được phục hồi Đảng tịch ,ra khỏi tù và "phản công " lại tất cả những ai ghép tội hắn. Đưa đến cả một ông tướng công an và 2 nhà báo ra tòa thay hắn ta. - Lại có chuyện diệt khẩu đây rồi ! Tớ ngứa miệng bèn đế vào một câu vu vơ: -Cứ ai thấy nhà thằng này có tang lễ, đưa ma đàng hoàng thì tôi mới tin là báo nói thiệt, Trắng, đen, sống, chết, công, tội thời này tôi chả tin những gì ở báo nhà nước cả. Ông già vừa buông hai tiếng "Đúng thế" thì..lạnh lùng tiếng loa phát ra "134 đến cửa 2" Thế là như vừa trúng số,ông vội vã gấp báo ,lập cập đứng lên :"Có tôi" ....Và câu chuyện thời cuộc bị cắt ngang khi bà dìu ông đến cửa số 2 trình diện!Tớ đang tiếc ngẩn tiếc ngơ vì ít khi gặp được các loại "xưa nay hiếm" này thì.... hai ông cụ khác đã tiếp thu ngay hai chiếc ghế trống ,tướng tá có vẻ "nhà binh về vườn", mỗi ông cũng cầm theo một tờ báo. Hình như hai cụ đang gay gắt tranh luận sẵn từ trước nên vừa ngồi xuống là đã tiếp tục nhập đề. Cụ A:Lần này chú Lê Dũng đã lên tiếng kiên quyết ra phết rồi còn gì nữa. Định liều mạng đánh nhau với NÓ chắc? Cụ B:Phải kiện chúng nó ra tòa án quốc tế chứ! Biển trời của mình mà nó bắt người của mình lại còn đòi nộp tiền phạt mới nhục chứ Cụ A: Trước sau rồi cũng phải nộp, chỉ có điều dân nộp hay nhà nước nộp mà thôi! Cụ B: Cống nộp đã bao đời rồi nhưng chưa bao giờ thấy khốn nạn như ngày nay Giữa lúc đó một cụ được gọi tên vào khám bệnh. Cụ đứng dậy, miệng lẩm bẩm: "ĐM nó! Lúc này mà ông còn ở quân đội, ông chẳng chịu đâu!" Tớ nhân thể "kích cầu" thêm một câu: "Thế hai bác cũng ở quân đội về cả hả.?" Được dịp cụ còn lại vội vàng giải bầy tâm sự: "Lão ta và tôi đều cùng sư đòan 325,đi B, đánh Đông dẹp Bắc, huân chương đỏ ngực, vậy mà nay , trước cảnh tổ quốc bị bọn bành trướng nó gặm nhấm dần mà chẳng làm gì được. Gặp nhau trước "cổng thiên đường," chạm tới các vấn đề thời sự chỉ thấy buồn thúi ruột. Khí thế "bộ đội cụ Hồ"ngày xưa giờ còn đâu nữa!" Tớ vội tranh thủ "hâm" lại khí thế cho các cụ bằng một câu "kích cầu" nữa: "Ít nhất thì các cụ cũng còn biết tức giận và buồn bực trước hiện trạng cay đắng của đất nước hôm nay, tôi cũng như các cụ, là dân lính cụ Hồ xưa, đều thấy uất hận mà đành chịu. Chẳng hiểu mấy trăm ông tướng và hàng vạn quân họ nghĩ gì nhỉ ?"... Chưa kịp nói tiếp thì cụ cựu sư trưởng phát ra một câu mà nghe xong tớ thật bất ngờ : "Nghĩ với chẳng ngợi gì, lính tráng thời nay,!Chiến tranh không nổ ra với bất cứ ai là yên chí với con đường tiến thân vùn vụt rồi !. Lính 18 tháng trở về, quan cứ 3 năm lên một bậc. Tướng nhiều như lợn con. Họ chỉ mong đường lối ngoại giao càng "mềm dẻo" là càng bảo tòan được tính mạng thôi! Với họ, tất cả đã có người nghĩ hộ rồi. Họ đâu có phải nhiều băn khoăn thắc mắc như lớp "cựu chiến binh" chúng mình!.." Giữa lúc ấy, bà xã tớ nhận được giấy đưa tớ đi xét nghiệm máu,.Vừa tới nơi chờ gọi tên thì chạm trán ngay một cuộc đối đầu khá gay cấn giữa một cặp vợ chồng, bà vợ thì cứ chạy theo van lơn: "Thôi mà! Ông cố chờ thêm dăm bảy phút nữa. Cứ sùng sục lên như thế thì có lợi gì". Ông chồng :" Khám bệnh khám biếc cái con mẹ gì mà chờ cả tiếng chẳng đến lượt, thôi !thôi !...đi về". Tớ định thần nhìn lại thì té ra vợ chồng một nhà văn tuy không nổi tiếng lắm nhưng cũng có dăm bảy bài báo, vài ba truyện ngắn được đăng trên các báo của nhà nước. mà khi tớ còn làm việc "trong biên chế", có quen sơ sơ. Thấy vợ chồng tớ, 2 ông bà bỗng dịu hẳn xuống và cả bốn đều ngồi xuống một chiếc ghế đá. ....rồi "bộc lộ tư tưởng" cùng nhau để... giết thời giờ,. Ông chồng: -"Lên mạng dạo này thấy ông viết lách mạnh quá đấy. Lại nghe có hồi kí hồi kiếc gì nữa, có còn bản nào cho tôi xin một bản".Tớ hơi...sợ tí chút vì thấy ông ta cứ bô lô ba la như chỗ không người vội giải thích " Đâu có!đâu có ! Tôi nào nhìn thấy mặt mũi nó như thế nào đâu.Vả lại có gửi cho tôi,tôi cũng chẳng dám nhận .Cái tội "làm ra,tàng trữ,phát tán tài liệu chống phá nhà nước " đang sắp sửa chụp lên đầu tôi rồi đấy!Ông nói nhỏ cho tí chút! Nào ngờ ông ta lại lên giọng,to hơn:-"Sợ cái đéch gì cơ chứ! Ai thèm bỏ tù cái thằng già 83 vừa chống gậy vừa vịn vai vợ mới bước nổi đến cái "cổng địa ngục "này ! Bà vợ: "Khổ thân ông ấy, về hưu 2 năm nay , bỏ chức tổng giám đốc trở thành "tổng nhàn rỗi" nên ông ấy chỉ suốt ngày cắm cúi với cái computer tưởng sẽ giải trí được lúc cuối đời. Ai ngờ càng mê lên mạng thì lắm lúc ông ấy suýt mất mạng. Có lần, ông ấy đọc xong một tin gì đó thì bỗng dưng nổi khùng lên rồi tăng xông lên vùn vụt. Thần kinh đang ngày càng "có vấn đề"...chẳng biết cãi nhau với ai,nổi khùng với ai ,ông ấy chỉ biết cãi nhau với.....cái Tivi. Có lần vừa nghe một cái tin nào đó không vừa ý ,ông tắt máy cái phụt rồi bỏ đi ,kèm theo những câu chửi rủa mà chẳng ai phải nghe.. ngòai tôi cả!". - Sống cứ như bà mà cũng đòi viết văn, viết báo! - Biết lắm chỉ khổ, tôi chẳng cần biết ai là chủ tịch nước, ai là thủ tướng. Thằng nào cũng giống thằng nào thôi! Biết chỉ thêm đau đầu, không làm được, không viết được như ông Nguyễn Khải, chẳng cần phải đi tìm cái tôi nó mất hay nó còn ra sao? bao giờ,? ở đâu.? Ấy vậy mà, tôi vẫn cứ viết những chuyện chẳng dính gì đến chính trị ,chính chọe gì .Chuyện bà bán xôi bắp nuôi con thành thạc sỹ,chuyện em bé mồ côi Cầu ông Lãnh.,chuyện ung thư ,sida vẫn vui sống đến cuối đời.Chẳng cần ai chỉ đạo chỉ điếc gì..,chẳng va chạm ai...Gửi đâu đăng đấy . - Đấy ông Tô Hải xem, nhà văn ,nhà báo mà ăn nói như thế đấy! "Đi tìm cái tôi đã mất" của Nguyễn Khải hay như thế mà bà ấy lại nói rằng viết để làm gì trong khi sống thì chẳng dám viết. ?Nói như bà thì đúng là không còn tư cách gì để cầm bút nữa. Thôi tôi đếch khám bệnh khám biếc gì nữa Và cứ thế ông vùng vằng đi về chẳng cần thèm chào hỏi gì hai vợ chồng tớ nữa Bà xã tớ gợi ý cho nữ nhà văn (xin phép cho tớ được giấu tên).-" Chạy theo ông ấy đi, giữ ông ấy lại.! Nhưng muộn quá mất rồi, ông thì hầm hầm ra đi không quay đầu trở lại, bà thì :"mặc kệ ông ấy,! cho ông ấy đi xe ôm về. "Lần sau, tôi chả dại gì mà đưa ông ấy đi khám bệnh nữa", Thế đấy, chỉ ở cái cổng thiên đường này mà tớ đã thấy được cái "quan trí " của dân tộc ta nó bi-đát- đờ- xút đến chừng nào. Tuy nhiên, tớ cũng thấy được le lói những niềm vui vì chính ở cái nơi mà hầu hết những con người đã không còn nhiều hòai bão, nhiều toan tính,mưu ma chước quỷ , kiếm chác, tranh giành ...những con người đã qua nhiều phen đấu tranh giữa cái sống và cái chết, và khi "cổng thiên đường" đã sẵn sàng chào đón các cụ U70,U80,U90 ra đi trong trật tự khỏi kẹt xe, ket lô cốt bằng những con số điểm danh,bằng những phòng chờ khá tươm tất thì chính là lúc những lời ăn ,tiếng nói thiệt thà nhất, thậm chí bất cần đời được phát ngôn thỏai mái chẳng sợ ai ghép vào các tội "mất lập trường", "bị bọn xấu kích động"hoặc "âm mưu lật đổ chính phủ" nữa Ai không tin cứ đến bệnh viện Vì dân (tức Thống Nhất- tức Cổng thiên đường), giả vờ là bệnh nhân ngồi ở mấy phòng chờ thì khắc biết. Tớ không hề phịa
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:49:59 GMT 9
ĐÔI ĐIỀU PHI LỘ VIẾT... SAU CÙNG
Tập “Hồi ký” này tôi đã viết xong từ năm 2000, nhưng do... hèn, tôi đã không dám cho nó ra mắt bạn đọc. Vâng, do... hèn, chứ chẳng phải do cái gì khác, tôi đã giấu nó đi, lại còn cẩn thận ghi thêm một dòng ở ngoài bìa “Để xuất bản vào năm 2010”.
Như một lời di chúc dặn vợ con, khi tôi đã... chết!
Tới năm 2003, mang bản thảo ra đọc lại, thấy ngòi bút của mình sao vẫn còn rụt rè, vẫn còn lấp lửng. Mới biết mình vẫn còn chưa hết sợ... mà mình từng nếm trải. Nhất là sợ rồi đây vợ con mình sẽ phải chịu đựng những ..., nếu chẳng may những gì mình viết ra ...
Tôi thấy mình cần phải sửa lại cuốn sách - từ cách viết, từ cái nhìn chưa đủ tinh tường về những sự kiện lịch sử - và viết thêm về những con người cần được nhắc tới, mỗi người là một mảnh gương nhỏ, nhưng gộp lại người đọc có thể thấy hình ảnh một thời đại.
Và viết thêm một chương “TÔI ĐÃ HẾT HÈN”!
Nhưng đã đến chưa, cái thời cơ có thể đưa cuốn sách mà tôi ấp ủ bấy lâu ra trình diện người đọc? Vẫn còn chưa phải lúc chăng? Ngẫm ra, tuy viết là “Tôi đã hết hèn”, nhưng trong thực tế cái hèn vẫn còn đó, nó vẫn bám chằng chằng, như một bộ phận của cơ thể, cái sự mình khẳng định với mình rằng đã hết hèn mới chỉ là sự mạnh dạn với bản thân khi cầm bút mà thôi!
... ...
Tôi cũng mong sao mỗi người trong các văn nghệ sĩ sắp giã từ cõi đời nhầy nhụa này hãy để lại một “bản di chúc” nói lên ... để tạ tội với đồng bào, về những gì mình đã vì miếng cơm manh áo, vì yếu hèn mà phải cúi đầu ... Được như Ba Người Khác của Tô Hoài ([4]) cũng đã là tốt, làm được thế thì người viết cũng có thể được nhân dân “xá tội” cho phần nào.
Người đọc đang chờ xem “di cảo” của một Chế Lan Viên ([5]), một Nguyễn Đình Thi ([6]) — hai nhân vật đứng đầu bầy nô lệ cầm bút. Đáng ngạc nhiên là theo Nguyễn Đình Chính (con trai Nguyễn Đình Thi) thì cuốn hồi ký của Nguyễn Đình Thi sẽ chỉ được phép công bố vào năm... 2014?!
Sao lại lâu đến thế? Nguyễn Đình Chính vẫn còn sợ, còn tính toán thiệt hơn, còn bắt linh hồn người cha ở thế giới bên kia tiếp tục đóng kịch mãi sao? Hay là chính tác giả cuốn hồi ký doạ sẽ in năm 2014 vẫn còn chưa tin...
Tôi sẽ phải đưa vào chương sẽ viết những nhận thức mới, tình cảm mới, những sự kiện bổ sung dưới ánh sáng mới, một chương gần như tóm tắt tất cả những gì tôi đã viết vào lúc chưa có được sự tiếp xúc và tiếp sức của ....
Viết xong chương bổ sung cần thiết, tôi sẽ công bố cuốn hồi ký của đời mình trên mạng Internet toàn cầu để mọi người nếu đã biết rồi sẽ biết thêm về mặt trái với những góc khuất của một xã hội ... có cả bàn tay của kẻ viết những dòng này.
Tại sao lại phải công bố trên Internet?
Bởi vì không thể trông chờ sự xuất hiện của một nhà xuất bản tư nhân nhờ “ơn trên” nào đó sẽ ra đời trong một cuộc đổi mới giả hiệu, và tập hồi ký này sẽ được in. ...
Thật tình, tôi những ước mong lời nhắn gửi của tôi sẽ đến tay đồng bào, bè bạn, đồng đội, “đồng chí” cũ của tôi, những thế hệ sau tôi, kể cả “kẻ thù” của tôi nữa, trong dạng một cuốn sách bằng giấy trắng mực đen hơn là một cuốn sách trên màn hình máy tính. Mạng thông tin toàn cầu cho tới nay vẫn còn là một cái gì xa lạ với tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam, kể cả nhiều người gọi là có học nhưng đã về già, không còn sức để đọc mấy trăm trang trên computer!
Cuối cùng, xin người đọc, nhất là các bậc thức giả, hãy lượng thứ cho những thiếu sót, những nhầm lẫn ở chỗ này chỗ khác về tên tuổi, địa danh, ngày, tháng... mà một cây bút “trẻ” ở tuổi 80, tài vốn hèn, sức đã kiệt, có thể mắc phải.
Sài Gòn ngày 1 tháng 5 năm 2007
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:51:09 GMT 9
TUỔI ẤU THƠ
Người ta thường nói: “Mở mắt chào đời” hoặc “Cất ba tiếng khóc chào đời”. Trường hợp tôi ra đời thì ngược lại! Tôi đã...“nhắm mắt chào đời” và...cười sằng sặc khi ra khỏi bụng mẹ!
Chuyện bịa?
Không! Thật trăm phần trăm.
Mẹ tôi kể lại tôi ra đời không bình thường. Con “đường ra” đúng là “ra...khỏi bụng”! Tôi vì to con quá (gần 4 kí-lô), mà lại là con đầu lòng, nên người ta phải mổ để “bứng” ra sau cơn trở dạ của mẹ tôi kéo dài hơn mười tiếng đồng hồ! Tôi ra đời “mắt nhắm nghiền, miệng phát ra tiếng sằng sặc như tiếng cười”, có lẽ do bị nghẹt thở, chứ không phải tiếng khóc!
Hơn thế nữa, miệng tôi lại có sẵn hai cái răng cửa!
Tiếng cười ở cái miệng có sẵn răng cửa của một thai nhi trở thành công dân Anamít ngày 24 Septembre 1927 sau này được họ nhà Tô bảo rằng tôi đã cất tiếng “cười ngạo nghễ chào đời!” Hai cái răng này mãi 4 năm sau mới chịu rụng để tôi bị mang hai tiếng “Hải sún”! Khi răng mọc hai cái mới, vừa to vừa dài khác thường thì tôi lại bị đổi tên thành “Hải hô”, “Hải mỡ” vì tôi to béo cũng quá khổ. Những năm sau này, người nào yêu tôi thì gọi là “răng duyên”, người ghét tôi thì gọi là “răng nhai”, “răng đớp”.
Tôi được cứu sống nhờ những cú phát thật mạnh vào mông mới chịu cất tiếng khóc. Phải chăng đó là điềm gở vì kể từ lúc trở thành “công dân của xứ bảo hộ Bắc Kỳ” cho tới sau này, tôi luôn bị “ăn đòn” mới sáng mắt, mới chịu khóc! Thằng quỷ sứ là tôi ra đời đúng 5 giờ 10 phút tại nhà thương hàng Đồng, Hà Nội và ra đời như vậy đó!
Tờ khai sinh bằng tiếng Tây gọi là Acte de naissance với các mục ngày sinh, tháng đẻ, tên cha, tên mẹ, tuốt tuột đều bằng tiếng Pháp, tôi còn giữ một bản trong ba lô mãi những năm đã thành anh Vệ Quốc Quân. Chính cái tờ khai sinh nửa Tây, nửa ta này một lần đã làm tôi suýt mất mạng vì mang nó trong ba lô và bị những người có tinh thần cảnh giác cách mạng cao phát hiện, tưởng là truyền đơn tiếng Pháp. Cũng may là trong đám kiểm tra hành trang của tôi trước lúc vượt đường số 5 lại có một ông chỉ huy nguyên là đội khố xanh biết nó là loại giấy gì. Nếu không, tôi đã bị mấy ông nông dân răng đen cho đi “tầu suốt” như những cô gái, những ông già bị chết oan uổng vì chạy tản cư ngày đầu kháng chiến lại mang theo cả “livret scolaire”- học bạ, mặc áo, đi tất có ba màu xanh-trắng-đỏ: cờ Pháp!
Tôi nhớ rõ tham mưu trưởng chiến khu III Vũ Hiển lúc ấy đã nói “Thà giết lầm 10 người còn hơn để lọt một tên Việt gian”! Tất nhiên, ông tham mưu trưởng của tôi không phải là người sáng tạo ra cái khẩu hiệu ghê rợn đó. Ông chỉ nhắc lại lời các lãnh tụ của ông mà thôi. Đó là cái rùng mình đầu tiên trong ngàn vạn cái rùng mình sau này suốt quá trình tôi đi theo cách mạng!
Trở lại chuyện tôi ra đời, to như Tây, khai sinh nửa Tây nửa ta, và nghe kể lại, khi đón tôi về nhà có cả kèn bú-dích ([1]), vì nhà tôi ở phố Bảo Khánh đang inh ỏi tiếng kèn đón ông vua con Bảo Đại ([2]) ra Bắc Kỳ du hành quanh hồ Hoàn Kiếm!
Bản nhạc đầu đời tôi được nghe, như thế, là một bản kèn Tây do lính ta thổi, có mặt cụ Đinh Ngọc Liên ([3]) nổi tiếng sau này và ông Tây Camille Parmentier chỉ huy!
Chẳng hiểu bố tôi có quá đề cao thằng quí tử không khi đã hơn một lần khoe với bạn bè: “Thằng Hải nhà tôi nó có “bông-gu” ([4]) âm nhạc từ lúc mới đẻ! Cứ nghe nhạc bên nhà kèn nổi lên là nó khóc ré đòi bế đi nghe!”
Môi trường âm nhạc đầu đời này còn ảnh hưởng mãi trong tôi từ lúc nằm nôi cho tới khi biết ê a tiếng hát. Đó là nhờ bên phải nhà tôi có Nhà Thờ Lớn, bên trái có ki-ốt hoà nhạc hàng tuần của dàn nhạc harmonique quân đội, đằng sau là phố hàng Trống với tiếng bung, bung, cắc, cắc ... của những bác thợ sản xuất trống, cứ gõ đều đều không nghỉ từ sớm tinh mơ đến tận chiều tối.
Sự ra đời của tôi không được bà nội tôi (ông nội đã mất trước khi có cháu) và họ hàng hoan nghênh. Ít người thăm hỏi. Tất cả chỉ do lời dèm pha: “Thằng Hoàn, con Nhung (tên bố mẹ tôi) sinh ra quái thai”
Chả là bố tôi đã có vợ và một con trai ở quê, kết quả của một vụ tảo hôn nghe đâu kéo dài hơn 10 năm, từ khi bố tôi mới lên 8. Rồi bố tôi trốn khỏi thôn Thượng Phúc, xã Đại Hoàng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình để làm con nuôi một ông cậu ruột, bố đẻ của ông Nguyễn Hữu Trí, tổng trấn Bắc phần Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất 1945-1954. Gia đình ông cậu “thối không chịu được”, theo cách nhìn của bố tôi. Chính vì vậy, bố tôi đã mang trong đầu tư tưởng ghét Pháp từ rất sớm, nhất là ghét những người vào làng Tây!
Mãi sau này, lúc bà nội tôi qua đời, tôi mới được chứng kiến cái “thối” ấy nó ra sao. Đưa ma bà có đủ Tây trắng, Tây đen, Tây lai và rất đông con cháu...Tầu nữa. Thì ra ông cậu ruột của bố tôi, khi làm tham tá đầu toà đã lấy một bà vợ Tây. Bà này có con với một ông thống sứ chết trận cát-tó đít-duýt! (I914-I918) nên ông nuôi luôn con ông thống sứ (tôi phải gọi là chú Albert), thêm cả đứa con của ông thống sứ “nhặt” được ở Marốc mà tôi chỉ gặp một lần nhưng vẫn nhớ tên là Mahomed. Ông tham và bà vợ cũng như mấy người con đều giữ tên ta nhưng vào làng Tây, hàng ngày nói chuyện với nhau toàn bằng tiếng Tây. Còn họ hàng người Tầu là do bà nội tôi có bà em ruột lấy một ông xì thẩu chính gốc Quảng Đông. Bố tôi hay chửi cái thói nô lệ Tây nhưng ông cũng tự thấy sở dĩ ông nói được tiếng Tây như Tây chính là nhờ những năm tháng nửa làm cháu, nửa làm gia sư, nửa làm đầy tớ ở nhà ông cậu ruột “đờ-mi Tây” này. Tuy nhiên, về tình cảm họ hàng rõ ràng ông yêu cái phía họ hàng Tầu hơn họ hàng Tây rất nhiều.
Với cái nhìn hôm nay, bố tôi đúng là sản phẩm của một nền văn hoá tả pí lù. Đỗ đíp-lôm xong, được bổ nhiệm tại nhà Dây Thép ([5]) Hà Nội là ông làm ngay cuộc cách mạng đầu tiên: Không báo cáo gì với bà nội tôi, ông lẳng lặng làm lễ thành hôn với mẹ tôi, một cô đỡ Đông Dương (sage femme Indochinoise) khoá đầu tiên. Hậu quả của hành động vượt ra ngoài khuôn phép là ông phải chịu sự ruồng bỏ của họ hàng, của mẹ đẻ.
Khi tôi lên mười, bà nội tôi mới chịu ra thăm con, thăm cháu và đúng dịp hoà thuận với con cháu ấy, cụ đã từ trần ngay tại nhà đứa con trai độc nhất là bố tôi.
Tôi rất ít được sự săn sóc của cha mẹ vì cả hai đều là công chức, đi làm suốt ngày. Tối, mẹ tôi còn phải “gác”, chưa kể những ca đẻ khó, “bà đốc” bị gọi bất kể giờ nào. Bố tôi thì là một tín đồ của chủ nghĩa yêu nước, yêu dân tộc... không định hướng! Ông rất coi trọng các giá trị văn hoá dân tộc, coi trọng mọi lễ nghi truyền thống. Do được học và đọc khá nhiều, ông rất hiểu cái nhục mất nước. Tuy nhiên, ông không tin bất cứ tổ chức chính trị nào. Tôi còn nhớ khi biết ông bác ruột, Tô Đình Hoè, “làm cộng sản”, viết báo Le Travail ([6]), ông đã tiên đoán: “Cộng sản là cái mà thằng Tây ghét nhất! Rồi đi Côn Lôn cho mà coi!” Quả như thế! Bác Hoè tôi bị bắt và bị đưa đi đâu không biết! Tới ngày Cách Mạng Tháng Tám, bác trở về thành người mất trí sau nhiều năm nằm cát-xô ([7]) ở các nhà lao Sơn La, Côn Đảo. Và bố tôi, cho tới mãi sau này vẫn phàn nàn: “Chẳng có đảng nào xứng đáng để đi theo cả!” Ông là cả một khối mâu thuẫn lớn. Buổi trưa, ông mặc áo the thâm, đầu đội khăn xếp, xì xụp một bước tiến hai bước lùi trước bàn thờ tổ, dạy tôi cách khấn vái, thắp nhang. Buổi tối, ông mặc bộ đồ Tây do Charles Mau’s - Chu Mậu cắt, đeo cà vạt Nicky, xức nước hoa Lanthéric đi nhảy đầm!
Ông cũng là một “nhạc công toàn diện” về nhạc cụ dân tộc. Trên tường phòng khách nhà tôi là cả một bộ sưu tập về đàn tranh, đàn nguyệt, đàn tứ, sáo, tiêu, nhị, hồ... cái nào cũng khảm sà cừ, lủng lẳng cái tua đỏ. Ông có thể ngồi rung đùi chơi tất cả mọi nhạc cụ đó. Có lẽ tôi mê nhất là cây đàn một dây mà ông chỉ gảy một tiếng rồi nắn ra không biết bao nhiêu nốt. Những lúc ấy, ngồi bên ông, tôi trố mắt ngạc nhiên rồi cười thích thú, thỉnh thoảng lại đưa tay bịt ngay dây đàn để ông nổi cáu mắng yêu: “Yên nào, để bố đánh cho mà nghe”!
Khiếu âm nhạc của tôi thực sự phát triển khi một hôm, bố tôi thuê xe kéo, chở về một máy hát quay tay cùng một đống đĩa nhựa, to, nhỏ. Tôi chỉ mong chóng đến tối vì cơm nước xong là bố tôi thường vặn máy hát.
Ôi, cái tiếng hát qua diagphrame nheo nhéo tiếng kim sắt lúc bấy giờ, hấp dẫn tôi làm sao! Có điều bố tôi mua quá nhiều đĩa cải lương, một món hoàn toàn không hợp khẩu vị tôi tí nào. Đã thế, vở nào cũng dài năm sáu đĩa! Nào là Tội Của Ai, Xử Án Bàng Quí Phi, Huyền Châu Nữ ... với các giọng ca Năm Phỉ, Tư Chơi, Tư Út, Tư Anh, Năm Sang, Bảy Nhiêu... mà tôi rất ngán. Tôi chỉ mong nó chóng hết cho rồi, để bố tôi cho “ăn xen” mấy món “Dè-đơ-dà-múa” (J’ai deux amours), “Actuya” (Arthur), “Cằng-tông” (Quand on est matelot)([8])... Những lúc ấy, có ai rủ đi chơi, tôi cũng không thể rời cái máy Bê Ka (Béka) tuyệt vời đó.
Cho đến một hôm, trong một bưu kiện từ Pháp gửi đến –– bố tôi thường đặt mua theo các cuốn mẫu hàng ––có một chồng đĩa hát thật to, loại 78 vòng/phút. Một thế giới âm nhạc hoàn toàn mới lạ đã mở ra trước mắt tôi. Đó là các bài hát tiếng Pháp của Rina Ketty, của Joséphine Barker, Tino Rossi ([9]), các bản độc tấu, hòa tấu của các nhạc sĩ lừng danh Schubert, Beethoven, Chopin, Liszt, Strauss ([10])... Khả năng của cái máy quay tay lúc ấy chỉ có thể đọc những đĩa 78 và tôi được làm quen ngay từ tuổi lên 5, lên 7 các tiểu phẩm ngắn hoặc trích đoạn ouverture, rhapsodie của các tác giả cổ điển mà tôi sớm thuộc lòng. Một tác phẩm lớn duy nhất thu trong hai đĩa 78 có đến gần 50cm đường kính cũng về với chuyến hàng này. Đó là bản “giao hưởng chưa hoàn thành” của Franz Schubert. Tôi chỉ thấy bố tôi đặt lên máy một lần duy nhất. Tôi giương tròn mắt lắng tai nghe, nhưng sao thấy nó dài quá, khó nghe quá và...chán quá! Thời ấy, bố tôi có lẽ cũng “nghe nói” người ta đã thu thanh Symphonie Inachevée ([11]) vào đĩa nên ông đặt luôn để tỏ ra mình trí thức hay để cố tìm hiểu một tác phẩm mà ông đã nghe nói, đã đọc đâu đó mà chưa có dịp tìm hiểu, tôi không rõ.
Tuy nhiên, điều rõ ràng là dù trân trọng nó như thế, sau khi lau chùi bằng tấm vải flanelle màu vàng, ông đã xếp nó vào tủ sách, cạnh những Horace, Les Misérables, Comédie Humaine, Polyeucte, Le Cid ([12])... để chẳng nghe thêm lần nào nữa.
Tôi cũng chẳng thích thú gì những thứ khó hiểu đó. Đỉnh cao âm nhạc của tôi lúc ấy là Rêve d’Amour của Litz, Sérénata của Toselli, Menuet của Boccherini, Sérénade của Schubert, Tristesse của Chopin ...
Tôi thuộc lòng những giai điệu tuyệt vời này ngay từ khi chưa biết chữ. Tôi bắt đầu thấy ớn những “bài ta theo điệu Tây” cũng như những đĩa hát của Năm Châu, Phùng Há ([13])…Những rung động do âm nhạc tạo ra cho tôi chính là những vốn cổ nước ngoài! Còn lại, tôi chỉ mong sao bố tôi sớm chán mà xếp nó vào tủ cho đỡ khổ tai. Nhưng ông thì không. Ông vẫn say mê vốn cổ dân tộc cũng như tỏ ra thời thượng bằng những tác phẩm ngắn của các tác giả cổ điển, những bài hát đang thịnh hành ở Châu Âu.
Ông còn làm tôi ngượng chín người với những lần mời các danh ca vọng cổ Phùng Há, Tư Chơi, Bảy Nhiêu về nhà tổ chức các buổi ca hát thính phòng, trong đó ông cũng là một cây đàn hoà tấu. Với hình ảnh nhếch nhác của các đoàn cải lương mà tôi chứng kiến từ trên gác nhà tôi (lúc ấy dọn về Khâm Thiên nhìn ngay sang rạp hát Phúc Thắng), tôi không chịu nổi chuyện bố tôi giao du với loại “xướng ca vô loài”, ăn chung ở đụng, thuốc xái, cờ bạc, văng tục ngay dưới chân tôi. Mẹ tôi không bao giờ có mặt ở các buổi liên hoan văn nghệ kiểu ấy. Bà có ấn tượng về “bọn con hát” còn nặng nề hơn tôi. Bà thường nói xa nói gần: “Cẩn thận kẻo rồi bán nhà, bán cửa, bỏ vợ, bỏ con đi theo chúng nó cho mà xem!”. Mâu thuẫn về cái “Hay” cái “Đẹp” nảy sinh ngay trong tập thể nhỏ bé là gia đình tôi để sau này ở các cuộc tranh luận về nghệ thuật tôi luôn khẳng định: “Áp đặt một cái Hay chung cho mọi người là điều không tưởng!”, “Bắt cả nước chỉ được sáng tác và thưởng thức một kiểu, ăn một món, là ngu xuẩn!”
Tôi sẽ kể về những bi hài kịch “văn nghệ phục vụ công nông binh” sau này mà trong đó, tôi là một “tội phạm, đồng phạm kiêm nạn nhân” ở các chương sau...
Trở lại với gia đình tôi.
Bố tôi, dù gì đi nữa đã là người khai tâm cho tôi về thẩm mỹ. Nhưng tôi đã không tiếp thu tất cả vốn hiểu biết của ông. Ông là người mê âm nhạc, nhưng âm nhạc cổ truyền với ông là chủ yếu. Âm nhạc thế giới với ông chỉ là thời thượng (snobisme). Sau này, tôi còn tiếc mãi giá mà biết say mê tiếng đàn bầu, tìm được cái hay cái đẹp trong những điệu hò Huế, điệu lý..., học ở ông cách “kim cổ giao duyên” từ sớm thì tốt biết mấy. Tôi chỉ mê nhạc cổ điển phương Tây, những bài hát bằng tiếng Tây, dù chẳng hiểu nội dung. Những giai điệu đẹp vô cùng của nó đã rung động tâm hồn nhỏ bé của tôi tới mức tôi như mê mẩn.
Tôi vui, tôi buồn và không ít lần, tôi khóc. Khóc khi tự tay mình vẽ những câu nhạc “si, đô, rê, đô, rê, đô, rê, đô, rê”...trong bản Menuet của Beethoven trên cây mandoline. Ôi! Chỉ có hai nốt “đô, rê” nhắc đi nhắc lại rồi đổ xuống cái kết nửa “la son son fa fa la son mi rề”...đã gợi trong tôi biết bao nỗi buồn, cho tôi biết bao tưởng tượng. Một chiều mưa rả rích?...Những bước chân lê trên đường?...Một nỗi cô đơn, lạnh lùng đến vô tận?...
Sao mà âm nhạc có sức truyền cảm mãnh liệt, thần kỳ đến thế! Chẳng cần có lời! Chẳng biết nó ra đời ở đâu! Chẳng biết do ai sáng tác! Lúc ấy làm sao tôi đọc nổi tên các nhạc sĩ Đức, Pháp, Ý. Và sau này, tôi càng khẳng định: Âm nhạc chỉ có Hay và Dở. Chẳng có âm nhạc địch, âm nhạc ta, âm nhạc có lập trường, âm nhạc mất lập trường nào hết. Tất cả nhận thức đầu đời này té ra vẫn là chân lý!
Những gì tôi tiếp thu được từ tấm bé trong gia đình về âm nhạc còn phải kể đến cái tập thể nho nhỏ ở “nhà dưới”. Nó gồm anh bếp Tý, anh xe ([14]) Lạc, vú Hải, vú Hiền, vú Bích và sau này đến vú Nga thì... nông dân không còn ở “nhà dưới” của gia đình tôi nữa! Lý do: Cách mạng đã nổ ra và kiếp đi ở chấm dứt.
Do bố mẹ tôi quanh năm ngày đi làm, tối tiệc tùng, và sau này bố tôi còn rơi vào con đường “xoa” thín cẩu ([15]), mẹ tôi rời nhà thương lại vui hội tổ tôm nên mọi việc trong nhà đều do một nửa tiểu đội người ở đảm nhiệm. Chính các bà vú già, anh bếp, anh xe, vú Hiền, vú Bích (mẹ tôi cứ đẻ xòn xòn vì đẻ xong đã có người nuôi) là những người gần gũi nhất đối với anh em tôi. Nhiều người trong số họ đã để lại cho tôi những ấn tượng khó quên, tạo cho tôi những rung động đầu đời trong lãnh vực “văn nghệ bình dân”. Người tôi nhớ nhất là anh bếp Tý, chủ nhiệm “câu lạc bộ âm nhạc bình dân” mà trụ sở là cái bếp nhà tôi, rộng độ 20 mét vuông, có tường và nền lát gạch men trắng toát. Ở đấy, cứ tối đến, khi bố mẹ tôi vắng nhà, cả đám người ở từ quê ra lại họp nhau trao đổi tâm tình. Tôi không thể quên những chuyện tiếu lâm “tục mà thanh” của anh bếp Tý. Nó gây cười cho cử toạ đến sặc sụa và người kể đôi khi bị mấy bà vú thưởng cho một cái phát nhẹ kèm theo câu: “Khỉ gió cái anh này!”
Anh chỉ cười, nhe đôi hàm răng vẩu và dặn tôi lúc ấy đã 6, 7 tuổi: “Đừng có kể cho ông bà nghe nhé!” Tôi phục nhất cái tài bắt chước mèo đực, mèo cái đánh tiếng gọi nhau, gặp nhau rồi gào lên như sắp phát điên. Từ cổ họng anh, phát ra các tần số âm thanh, âm lượng, sắc thái, tình cảm lúc ngập ngừng, do dự, lúc mãnh liệt, sấn sổ, lúc nhẹ nhàng, êm dịu, lúc bốc lửa, dồn rập để đi tới cao trào!
Sau này, khi học nhạc chính quy, để hình dung được p, mp, sf, conagitato, con fuoco, crescendo, decrescen-do, smorzando, rit, rall, poco a poco.. tôi thường nghĩ đến bài học của anh bếp Tý! Ôi, giá mà anh biết tôi vất vả thế nào khi đánh vật với bài học âm nhạc của ông thầy dòng, thầy Bích: “Moderato là chậm vừa? Allegreto là nhanh vừa? Allegro là nhanh? Vivace là hết sức nhanh?”Nhanh thế nào? Vừa thế nào? Có lẽ chỉ anh bếp Tý là người thực hiện mà chẳng cần học hành ba cái tiếng Ý càng dịch, càng giải thích, càng tối mù và xám xịt lý thuyết!
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:51:56 GMT 9
Trở lại với cái “câu lạc bộ bình dân” ở nhà tôi.
Chính từ đó mà tôi sớm làm quen với đủ thứ “bình dân” hay có, dở có. Từ những câu đố tục mà thanh, thanh mà tục, những truyện tiếu lâm hoàn toàn có mục đích gây cười, từ tiếu lâm đả kích đến những bài hát ví, hát chèo “người thật việc thật” (vừa hát vừa diễn), những điệu “sẩm soan”, “hề gậy” mà anh bếp Tý vừa hát vừa dùng đũa cả gõ lách cách, leng keng vào chiếc nồi rang. Sau này, khi được chính ông Năm Ngũ, bà cả Tam ([16]) truyền dạy, các bài Sẩm soan, Hề gậy đã “vào” tôi không mấy khó khăn vì tôi từng bắt chước anh bếp Tý hát thử, gõ thử: “Gió cát trăng lân cái đêm đông trường...” từ thuở còn thơ rồi.
Chính những con người cụ thể, hát những điệu dân ca cụ thể đã làm tôi nhớ hơn, tác động vào tâm hồn tôi gấp nhiều lần những đĩa hát phát ra từ cái diaphrame (thời ấy máy chưa có loa) lạnh lùng. Nhưng khắc đậm nhất trong tôi mãi tới bây giờ chính là không khí giao hoà, không khí tâm đầu ý hợp, thương yêu nhau giữa những người cùng cảnh ngộ. Chính từ nơi ấy, tôi đã chứng kiến rất sớm một cuộc tình mà tôi cho là đẹp nhất, chân thật và trong sáng nhất, hợp lý nhất. Đó là cuộc tình giữa anh bếp Tý và vú Bích! Cả hai “cây văn nghệ” bình dân này đã “phải lòng nhau” ở cái câu lạc bộ nhà bếp nói trên.
Nó bắt dầu ra sao? Thế nào? Từ bao giờ?
Tôi không biết, vì chỉ biết họ “phải lòng” nhau qua một cuộc trao đổi giữa bố mẹ tôi mà tôi nghe được!
Mẹ tôi: “Phải tống cổ cả hai đứa. Để chúng nó ở lại, có ngày ễnh ruột ra thì mang tiếng nhà mình”.
Bố tôi: “Nhưng đã bắt được chúng nó “trai trên gái dưới” gì đâu mà đuổi chúng nó cơ chứ? Con bé (em Bích tôi) đang quấn vú nó, thằng Tý thì thật khó kiếm ai thay. Nó tháo vát, khéo xoay xở, đổi món ăn, lo cho cả trên mười miệng chỉ loáng một cái là xong. Đừng làm thế, tội hắn!”
Mẹ tôi: “Ai ở nhà mà biết chúng nó làm gì nhau? Làm sao tránh khỏi chứ? Mấy hôm nay con bé (em Bích tôi) bắt đầu diarrhée (ỉa chảy) rồi đó! Không thể để nó bú sữa con này được nữa đâu”.
Ngay ngày hôm sau, khi đi học trường sơ về, vừa tới cổng, tôi thấy vú Bích, tay ôm mấy bộ quần áo gói bằng một tờ nhật trình, nước mắt lưng tròng, đi ngược lại phía tôi. Vú cúi ôm lấy tôi, hôn vào hai má tôi, nói trong tiếng nấc: “Cậu Hải ở lại nhé! Tôi về quê đây, bà đuổi tôi rồi!”
Tôi thấy thương vú quá nhưng chẳng biết nói gì, vội chạy vào nhà cầm một trong số 4, 5 con búp bê để trên kệ đi-văng, đuổi theo vú: “Này, của em Hải cho vú đấy, vú mang về cho bé vú ở nhà quê”. Vú vội vàng gạt tay, giẫy nảy: “Ấy chết! Chớ làm thế! Bà biết được, cậu chết đòn đấy”! Rồi vú lủi thủi, gạt nước mắt bước đi.
Cái bóng dáng người đàn bà nhỏ bé, chậm chạp lê bước trên hè phố, đầu cúi gầm bỗng làm tôi trào nước mắt. Tôi chẳng hiểu đây là thứ xúc cảm gì? Tôi đâu biết nước mắt của vú là nước mắt của một cuộc tình tan vỡ? Hay là sự oan uổng? Là nỗi đau khổ, sợ hãi trước một tương lai mờ mịt.
Tôi thương người đàn bà nghèo, chồng bỏ đi Tân Thế Giới, gửi con mình, đi nuôi con người khác, nay bỗng chốc mất việc, nhất là, tuy vú nuôi em Bích nhưng vú yêu quý tôi, chăm sóc tôi còn hơn mẹ tôi nhiều. Hơn thế nữa, tuy còn nhỏ tuổi, nhưng tôi cũng thấy sự ra đi của vú Bích sẽ kéo theo sự giải tán cái “câu lạc bộ bình dân” mà tôi rất yêu, rất thích. Và... quả là như thế!
Anh bếp Tý nhờ bố tôi che chở, được ở lại nhưng từ ngày vú Bích ra đi, anh ít nói, ít cười hẳn. Cơm nước dọn dẹp xong là anh tắt đèn, lên chiếc chõng tre nằm nghe từng đôi thạch sùng đuổi nhau trên trần mà thở dài và thỉnh thoảng lại chồm dậy hút thuốc lào vặt. Không bao giờ cái câu lạc bộ ấm cúng và vui vẻ ấy họp lại nữa. Đôi lần, tôi mon men xuống bếp đều bị anh Tý xua tay đuổi lên nhà: “Ông cấm! Không được xuống đây nghe chuyện bậy nữa đâu!” Chuyện bậy? Thế mà cũng là bậy sao?
Cái “thắc mắc văn nghệ” đầu đời của tôi đã lần đầu nảy sinh. Còn chuyện anh bếp Tý và vú Bích cũng luôn làm tôi buồn và buồn mãi. Thương hại hai người, hai “vai chính” trong những đêm văn nghệ bình dân, đã mãi xa nhau, xa tôi. Thương anh bếp Tý trước vui vẻ, tiếu lâm suốt ngày, nay cứ thờ thẫn như bị mất con, mất vợ.
Một hôm, anh gọi tôi xuống bếp, kéo tôi vào lòng nói nhỏ: “Ngày mai tôi đi rồi. Tôi đã xin ông bà nghỉ việc. Phải về quê làm ruộng thôi. Cậu ở lại học hành tiến tới nhé!”
Tôi đủ thông minh để biết anh nói dối. Anh không hề biết quê anh ở đâu. Chính bố tôi đã nhiều lần nói: “Thằng Tý mồ côi cha mẹ, đi ở từ thuở lên 5, nó chẳng có quê quán, họ hàng hang hốc gì nên nuôi nó trong nhà ít lo nó bỏ trốn!” Có nghĩa là anh không có quê, cũng chẳng bao giờ làm ruộng. Vậy anh về quê nào?
Mãi sau này, trong dịp hành quân qua một làng ở huyện Phù Dực, tỉnh Thái Bình, trời xui đất khiến thế nào tôi đã gặp lại anh, cái anh bếp Tý của 12 năm về trước! Dáng người thấp nhỏ, bộ răng vẩu kể chuyện có duyên, tuy già đi, nhưng tôi vẫn nhận ra anh: Một ông chủ quán thịt cầy ở ngay đầu làng. Anh cũng nhận ngay ra tôi: “Cậu Hải mỡ!”. Ngạc nhiên đến cùng cực là khi anh gọi to: “Bu mày ơi! Ra mà xem này, cậu Hải đã thành bộ đội này!” Khi “bu mày” bước ra, tay bồng một em bé độ 5, 6 tháng tuổi thì tôi không khỏi ngạc nhiên đến bàng hoàng: vú Bích!
Thì ra anh bếp Tý đã theo “tiếng gọi của trái tim”, bỏ nghề nấu bếp thuê đi theo Tình Yêu. Tình yêu viết hoa hẳn hoi! Anh đã về quê vú Bích, mở cửa hàng thịt cầy, vượt mọi lời đàm tiếu, lấy hẳn vú Bích làm vợ, nuôi cả đứa con riêng của vú Bích với người chồng đã bỏ xác ở Tân Thế Giới và còn sinh hạ thêm 4 đứa con, đủ cả trai lẫn gái. Tôi thực sự mừng cho anh chị –– lúc này tôi gọi họ bằng anh, chị. Sau này tôi còn chứng kiến nhiều cuộc tình nhưng tôi chẳng thấy cuộc tình nào đẹp như cuộc tình của anh bếp Tý và vú Bích. Phải chăng cái câu lạc bộ bình dân và cuộc tình đẹp, chân thật, chất phác, chung thủy tuyệt vời đó đã gieo vào tâm hồn tôi những cảm xúc nghệ thuật đầu đời.
Cũng từ những nhận thức tự nhiên đó tôi đã tập toẹ làm thơ rồi viết nhạc thuở 15, 16 tuổi. Bài thơ “Thôi thế là tan giấc mộng vàng, Nàng đi giữa lúc gió xuân sang...” đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy năm 1943, với bút danh Thái Bình Dương năm tôi 17 tuổi, chính là tôi cảm xúc từ mối tình của bếp Tý và vú Bích. Bài hát Có Một Nàng Thôn Nữ,1944, là tôi nói lên tình cảm đối với những người nông dân mà tôi yêu, tôi quý. Tôi cảm ơn cái “câu lạc bộ bình dân” ấy. Tôi cảm ơn mối tình ngang trái và kết thúc đẹp đẽ ấy, vì chính nó đã cho tôi những nhận thức, những tình cảm quí giá sâu sắc, không phai mờ mà chẳng một cuốn sách, một lớp học nào có thể mang lại. Những khám phá đầu tiên của Tình Yêu cũng từ đó bắt đầu. Tình yêu thật sự chân chính là không kể tuổi tác, hình thức, là phải vượt mọi trắc trở, phải chịu đựng đủ mọi điều tiếng, phải mất để có, phải vượt để chiếm, phải giữ để còn.
Anh bếp Tý của tôi có đẹp trai gì cho cam –– người nhỏ thó, răng hô, mắt toét nhèm và yêu một người đàn bà đã có chồng, có con, hơn anh 3, 4 tuổi. Còn vú Bích? Cái gì đã làm cho vú sớm quên anh chồng mất tích? Cái gì đã làm vú “phải lòng” anh bếp Tý nếu không phải mê anh về cái tài, cái duyên của một cây văn nghệ bình dân?
Và họ đã thành vợ thành chồng, sinh con đẻ cái, thương yêu nhau đến lúc bạc đầu. Tôi nhận thức khá sâu sắc về tình yêu từ mối tình chất phác dễ thương đó và đã thể nghiệm trong cuộc đời yêu đương của bản thân. Nhưng đạt đến cái kết “có hậu” như cuộc tình bếp Tý - vú Bích quả là khó khăn, đôi khi vấp ngã đến tróc vẩy, trầy da mà chẳng tìm được tình yêu lý tưởng.
Trở lại tuổi ấu thơ, tôi cũng không thể quên cái trường “Sơ” Saint Joseph, nơi đã tạo cho tôi một tính cách nổi loạn, phản ứng và châm biếm. Chính từ nơi này tôi đã được bố tôi công nhận là có “khiếu văn nghệ” và có khiếu “cứng đầu cứng cổ” nên ông nhét tôi vào cái trường mà ông tưởng tôi sẽ hết đường cục cựa! Nào học chữ, học nhạc, học hát, học kinh thánh giữa những con người gần như không biết cười, biết khóc...người nào cũng giống người nào ở cách ăn mặc, ở bộ mặt vô cảm, lờ đờ, đi đứng khoan thai, nói năng nhỏ nhẹ, khác hẳn với tôi, một đứa bé ăn to, nói lớn, luôn thích chơi trội, khác người.
Tôi còn nhớ như in cái cổng trường to tướng, xây kiểu gô-tích, được xích lại bằng một ống khoá to bằng nắm tay, suốt ngày đóng im ỉm. Học trò vào trường bằng một cổng hẹp bên hông, chỉ mở vào những giờ vào học và tan lớp. Đường dẫn vào các lớp vừa đủ đi không quá hai người, xây bằng xi-măng uốn cong một cách có ý đồ.
Đã qua đây thì phải đi chậm, đầu phải cúi và phải đi chính giữa đường! Bước sang bên phải hay bên trái là mất thăng bằng, ngã bổ nghiêng vào hai bụi dâm bụt cao quá đầu lũ con nít chúng tôi ngay! Đằng sau hai bức tường lá dày đặc đó là cái gì thì bọn trẻ chúng tôi đều biết và sợ phát run mỗi khi có người ở cái thế giới bị cách ly đó được đưa lên lớp học để doạ học trò nào mắc lỗi! Đó là những người mù, người câm, người dị dạng, quái thai mà nhà thờ nuôi “làm phúc”. Họ chỉ có một nhiệm vụ là làm vườn, kể cả người què cụt, để đổi lấy hai bữa ăn.
Con đường vào lớp đó là con “đường một chiều” đầu tiên tôi bắt buộc phải đi, khi bước vào tuổi tiền học đường (préscolaire) lúc đó chưa gọi là mẫu giáo. Chỉ có “trở lên” chứ không có “trở xuống” vì sẽ vướng cẳng người khác. Tan lớp thì về bằng một con đường y hệt nhưng ở bên kia dãy nhà bố trí thành hàng loạt lớp học giống những căn hộ có số để khỏi vào nhầm mà tôi thấy lại sau này khi có những căn hộ xây dựng theo kiểu Bắc Triều Tiên! Nghĩa là giống nhau và tiết kiệm đến mức như thách thức mọi kiến trúc sư phải thất nghiệp! Ở đấy, lũ con nít chúng tôi ngày nào cũng phải quì trên ghế băng cầu kinh bằng tiếng Latinh và học những bài thánh ca mà chẳng hiểu “Bo-nê vô-lun-ta-tít Pắc-xi-om-ni-bút” là cái quái gì.
Do to con nhất nên được xếp ngồi băng ghế sau cùng, tôi thường lẳng lặng đưa một chân xuống đất, đọc kinh trong tư thế chân đứng chân quỳ nên đầu gối không bị chai như các bạn. Còn việc học chữ của đức cha A-lếch-xăng đờ Rốt ([17]) thì cả năm chỉ ngồi ngoẹo cổ, vẹo sườn, tô mực lên các chữ a, b, c mà các sơ đã viết sẵn bằng bút chì. Điều này giải thích tại sao học trò bắt đầu đi học từ trường sơ, chữ viết đều như gà bới! Tuy nhiên phải ghi nhận một điều: chính từ cái trường này, qua những buổi hát hợp ca dưới bàn tay chỉ huy của sơ Thanh và cây đàn harmonium do sơ Trúc ấn lên những hợp âm tuyệt vời, khái niệm đầu tiên về hoà thanh đã hình thành trong tôi. Nghe âm nhạc mà không có bè đệm, hát mà chỉ có một bè đối với tôi, ngay từ thuở ấy, chẳng khác mặc quần không dải rút! Riêng tôi, dù các sơ chẳng ưa gì thằng “con nhà Judas ([18]) ngỗ nghịch” nhưng vẫn phải xử dụng tôi vào chân đơn ca, lĩnh xướng...rồi bè trưởng trong mọi hoạt động ca hát trong cũng như ngoài nhà trường.
Tôi trở thành kẻ tự mãn, tự kiêu ngay từ tuổi lên 6! Tôi được gọi là “con sơn ca” của trường, được thầy (frère) Quảng và cha (père) Rangel đặc biệt chú ý và cho vào nhà thờ bồi dưỡng thêm về âm nhạc. Nhưng lạ thay, tôi học không vào. Âm nhạc quái gì mà cứ: “Một tròn thì bằng hai trắng, một trắng thì bằng hai đen, một đen thì bằng hai móc”. “Bằng” là thế nào cơ chứ? Học hết cả quyển Marmontel mà tôi chẳng thấy tôi hát hay thêm, hiểu thêm cái hay, cái đẹp của các đĩa hát của Brahms, của Beethoven mà bố tôi ngày càng có thêm nhưng chỉ để “kính nhi viễn tri”! Thế đó! Sự coi thường mọi quy tắc, bản chất luôn muốn “bung ra”, luôn muốn khác người, đã sớm hình thành trong tôi, làm cho cuộc đời luôn luôn bị vấp ngã, bị nhồi lên dập xuống mãi đến hôm nay, và có lẽ, còn bị đánh giá chẳng mấy hay ho gì cho đến khi đã trở thành tro bụi.
Những năm sau này, khi đã...“dở ông dở thằng”, có dịp về thăm những nơi tôi bắt đầu thành người, nhớ tới các kỷ niệm tuổi ấu thơ, tôi không thể cầm được nước mắt. Cảnh xưa, cái còn cái mất. Người cũ thì chẳng còn ai. Bố tôi đã mất. Mẹ tôi và 6 đứa em đã đi theo ông Thiệu ra nước ngoài. Các người thân thuở nhỏ như vú già, anh bếp, anh xe, vú Hiền, vú Bích, vú Nga... chắc cũng ra người thiên cổ, vì “cậu Hải” đã thất thập cổ lai hy rồi.
Sở dĩ tôi hay buồn và có thể khóc khi nghĩ tới những ngày xa xưa đầy kỷ niệm đó vì tôi đã sống đơn độc, bơ vơ giữa đường đời suốt bao năm tháng, không họ hàng thân thuộc, không một lần có ý định “trở về mái nhà xưa”. Tôi cam chịu nhận một vai “kịch” phụ, rất phụ trong suốt vở bi kịch dài của đất nước.
Viết về những kỷ niệm tuổi ấu thơ, tôi còn có thể kể nhiều, rất nhiều, vì tất cả đều được ghi trong trí nhớ, khi tái hiện chúng còn đậm nét, còn gây xúc động cho tôi hơn bất kỳ kỷ niệm nào suốt gần nửa thế kỷ “phiêu lưu trên đường cách mạng”. Có người cho rằng do nó là những hình ảnh in ban đầu lên vỏ đại não một con người. Tôi thì cho là vì nó không bao giờ lặp lại, thậm chí giông giống nhau như khi con người đã trưởng thành, đã quá chai lì với kỷ niệm, nhất là với con người Việt Nam, trải 35 năm khói lửa, huynh đệ tương tàn, quá nhiều chia ly, mất mát, quá nhiều trận chiến, quá nhiều tên núi, tên làng, tên sông để mà nhớ chính xác. Tôi chỉ kể lại những gì chủ yếu đã tác động đến bản năng và trí tuệ của tôi, một kẻ “cái gì cũng biết mà chẳng biết cái gì”, một kẻ cứ tưởng mình thông minh hơn người nhưng nay bị người đời cho là “ngu xuẩn nhất nước”. Chẳng ngu sao mà đến hôm nay, có đủ thứ văn bằng, kể cả hai bằng quân sự, một bằng tú tài Tây, một bằng tốt nghiệp Anh Văn ngoài giờ, một giấy chứng nhận tốt nghiệp sáng tác âm nhạc trình độ “tương đương đại học” loại ưu và một lô huân chương, huy chương, bằng khen chẳng giúp cho tôi kiếm nổi một mái nhà, vẫn đi ở thuê dài dài, vẫn đi cái xe lọc cọc.
Thời gian trôi nhanh hơn sức viết của tôi quá nhiều.
Cái chết! Tao phải chạy đua với mày để hoàn thành bản “tự thú” này, để con cháu tao, bạn bè tao biết được tao đã sống đẹp hay sống... hèn ra sao?
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:52:51 GMT 9
MƯỜI NĂM ĐÈN SÁCH HỌC VĂN HOÁ TÂY ĐỂ... ĐÁNH TÂY
Đúng lúc tôi chập chững bước vào lớp Đồng Ấu (Enfantin) trường tiểu học là lúc bố tôi được bổ nhiệm về làm phó chủ sự bưu điện tỉnh lẻ, tỉnh Thái Bình. Thời gian ấy Thái Bình là tỉnh đói nghèo nhất nước và cũng là nơi được người Pháp cai trị với bàn tay sắt nhất! Lý do: quá nhiều vụ nổi loạn!
Về sau, khi đã trưởng thành, tôi mới vỡ lẽ vì sao mảnh đất “bị gậy khắp nơi tung hoành” ([1]) này lại sinh ra quá nhiều con người khác nhau, cách mạng thì cách mạng đến cuồng tín, đối kháng thì đối kháng đến cùng cực! Cũng từ môi trường này, xuất hiện những gương mặt lá phải lá trái, đổi trắng thay đen đến không ngờ: những người gặp vận may, những tên cơ hội, cách mạng giả hiệu, cả những “con rối” được cách mạng tạo nên để sau này làm khổ cho cả ngàn vạn con người!
Chính từ cái trường mang tên ông Tây Monguillot nào đó, cái trường “Primaire Supérieur de Thái Bình”([2]) đã có những học sinh sau này trở thành đủ thứ “tướng ta”, tướng địch”, nhà văn, nhạc sĩ, đạo diễn, hoạ sĩ, giáo sư… để rồi chửi nhau, đánh nhau chí chạp suốt nửa thế kỷ bằng ngòi bút và bằng súng đạn. Gặp lại nhau ở tuổi 60, 70 tất cả chúng tôi chẳng còn ai muốn nhắc lại vở bi kịch có một không hai, vở bi kịch dài nhất mà họ đã phải tham gia gần hết cuộc đời.
Hãy để cho người đã khuất được nằm yên dưới ba tấc đất ở miền Bắc, miền Nam hoặc bên Mỹ, bên Pháp. Hãy để người “gặp may” hưởng nốt những hạnh phúc “trời” cho đến cuối đời. Xét cho cùng, nhắc đến họ dù yêu, dù ghét cũng là tàn ác. Họ và tôi chẳng qua chỉ là những vai –– kẻ phụ, người chính –– trong vở bi hài kịch do người khác viết mà ở hồi kết chẳng ai thắng ai vì tất cả đều trở lại điểm xuất phát!
Một người bạn cũ của tôi, ông Vũ Ngọc Hoàn, thiếu tướng Việt Nam Cộng Hoà thời ông Nguyễn Văn Thiệu, sau nhiều năm chạy trốn cộng sản trở về, gặp lại tôi trên lầu 12 khách sạn Caravelle đã chỉ tay vào đám lau nhau đang ngoe nguẩy trên sàn nhảy mà nói: “Ils sont des vrais vainqueurs et nous deux…–– Họ chính là những người chiến thắng, còn hai đứa mình...” Tôi tiếp: “des vaincus! –– kẻ chiến bại”.
Trong cuộc chia tay lần cuối ấy, dường như cả hai chúng tôi rốt cuộc rồi cũng tìm được những nhận thức mới về cuộc đời, về con người...
Hoàn phá lên cười, nói tiếp: “Ước gì sống lại cái thời đi học ở trường Monguillot, chúng mình sẽ chọn con đường khác.” Tôi lắc đầu: “Tất cả là định mệnh! Không thể chọn lựa được! Mày dòng dõi nhà quan, lại là dân “làng Tây”, bố tao, công chức hạng nhì (cadre secondaire). Theo Tây là lô-gích đối với mày. Chỉ tao có quyền lựa chọn, nhưng tao đã chọn con đường mà bố tao không chọn: Đi theo cách mạng! Con đường mà bố tao đã chỉ vào mặt tao thét lên khi tao chào ông lên đường: “Đi theo cộng sản hả? Đói đừng có vác xác về, tao tống cổ ra đường đó!”
Chính câu nói này của bố tôi đã làm tôi trở thành “trung thành đến cùng” với cách mạng, dù không ít lần bạn bè vỡ mộng đã rủ tôi “trở về mái nhà xưa”! Có thể gọi nó là “lập trường kiên định” khi muốn tặng thưởng một huân chương cũng được, nhưng cũng có thể gọi đó là lòng tự ái, hoặc tự trọng, theo kiểu nhân vật bi kịch của Corneille ([3]), của Shakespeare ([4]), chứ trong chuyện này chẳng có chút chính trị, chính choẹ gì hết.
Trở lại cái trường tiểu học Monguillot, nơi con người đầu tiên trong tôi hình thành, nơi mà đến hôm nay, những kỷ niệm vẫn in đậm trong bộ não của một lão già hơn 70 tuổi, đậm nét hơn cả những kỷ niệm dọc đường gió bụi, gian khổ, nguy nan “ba vạn sáu ngàn ngày”([5]) Không thể quên buổi từ giã “nhà giam Saint Joseph” (trường Sơ) để bước vào thế giới ồn ào mới lạ của thời học trò thật sự. Vẫn còn đó mùi hăng hăng dễ chịu của cái cặp da và đôi xăng-đan mà bố tôi dắt tôi đến cửa hàng Thụy Ký để mua cho tôi những ngày chuẩn bị nhập trường. Thật lạ, khi bước vào lớp “Enfantin” (lớp Đồng Ấu) tôi lại gặp một thầy giáo già dạy trường Tây, không bận âu phục mà mặc áo dài thâm, đội khăn xếp và đi giầy Gia Định: thầy Tấn!
Trong bộ óc của thằng bé lên bảy ngay từ ngày đầu, đã thấy một cái gì đó thật nghịch lý, thật khôi hài! Phải chăng khi nắn nót viết trên bảng đen dòng chữ buổi đầu cho chúng tôi chép lại: Lundi, Le 3... Août, 1934, thầy Tấn vẫn muốn khẳng định: Các trò học tiếng Tây nhưng không được bỏ qua những gì là quốc hồn quốc tuý? Tiếc thay, ở thuở xa xôi ấy, lớp trẻ con được đến trường Monguillot hầu hết đều sinh ra từ những gia đình “có của ăn của để”, đến trường buổi đầu đều mặc quần soọc, đi giày Tây. Số còn lại có mấy chú bé mặc áo the thâm, chân đi guốc mộc (người còn lại đến hôm nay là ông “giáo sư hề chèo” Hà Văn Cầu) là dân “nhà quê ra tỉnh” hoặc dân ngoại ô, trong cặp bao giờ cũng có nắm cơm kèm vài con tép, quả cà để ăn trưa, vì thời đó học hai buổi. Thầy Tấn cùng các bạn áo the thâm hoặc “cát bá” trắng đối với tôi lúc ấy là một “hiện tượng xã hội” lạc lõng, bảo thủ, quê mùa thế nào ấy!
Tôi đến lớp học với điều đinh ninh rất sớm là chẳng có cái gì đáng học ở đây cả! Bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia tôi đã quá ngán khi học ở trường “sơ” St Joseph. Còn ba cái bài Quốc Văn Giáo Khoa Thư thì, lạy giời, ai thấy những thứ “Ai bảo chăn trâu là khổ” hoặc “Cơm nước xong trời vừa tối”... nó hay, nó giáo dục tâm hồn ngây thơ của học trò lên 7, lên 8 thời ấy và “đọng lại tâm hồn con người ta mãi mãi” thì thấy, chứ tôi chẳng thấy nó hay ở chỗ nào? Đơn giản là tôi đã biết cảnh chăn trâu “sướng” thế nào mỗi lần về thăm bà nội ở cái làng Đại Hoàng nghèo khổ của tôi. Anh cu Nhương, chú Rịch mỗi lần đánh trâu ra đồng chỉ có một cái khố, dắt theo mo cơm, đi từ sớm tinh mơ đến tối mịt mới về, khổ như trâu và hôi cũng như trâu. Cái đó mới thật sự làm tôi thấy rung động. Đó là tình thương những con người mà số phận nghèo hèn ngay từ lúc 5, 7 tuổi đã phải sống kiếp trâu cày thực sự. Vậy mà nói là “chăn trâu sướng lắm!” Nói dối!
Chính ông thầy cổ hủ, khăn xếp áo the, lại là người đầu tiên dạy tôi: “Chăn trâu chẳng có gì là sướng đâu, các trò ạ!” Thầy Tấn thường rất buồn và giảng như người vô hồn những bài học thuộc lòng kiểu “chăn trâu sướng lắm chứ!” nhưng rất say mê, sang sảng khi giảng những bài luân lý về đạo làm người. Bài làm tôi xúc động nhất và nhớ nhất là bài nói lên tinh thần tôn sư trọng đạo của Sadi Carnot, viên tướng trở lại mái trường xưa để chào thầy học: “Thưa thầy, em là Carnot đây!”
Ở thầy Tấn, cái “là lạ” mà tôi cảm thấy phải chăng là nỗi buồn của một ông giáo già Việt Nam phải dạy cho lớp trẻ những điều mà bản thân ông không muốn? Còn tôi, vừa đến trường đã thấy mình phải học những cái mình không muốn học! Tất cả đối với tôi đều quá dễ, quá nhàm chán, không có gì kích thích trí tò mò, thậm chí tôi muốn đi tìm ngay một nơi nào học cao hơn, hay hơn, lạ hơn. Chính tôi đã đề nghị với bố tôi cho tôi về Hà Nội, “đi học trường Tây thứ thiệt như Albert Sarrault, Sainte Marie ([6]), chứ ở cái trường tỉnh lẻ này, chán quá!”
Thời ấy, những gia đình có khả năng đều cho con cháu học theo hệ thống Tây chính cống, nghĩa là theo chương trình học của “nước mẹ”! Không có bằng đíp-lôm (tốt nghiệp trung học) để ra làm thầy thông, thầy ký, ông phán... mà học thẳng lên tú tài, “bắc Oong, bắc Đơ” (Bac I, Bac II). Đa số các gia đình đều muốn con mình theo học hệ thống này để có nhiều tương lai hơn, học hành tấn tới hơn và triển vọng đi Tây học đại học cũng nhiều hơn. Cái gọi là “tư tưởng nô lệ”, “bám gót ôm chân” ham “bơ thừa sữa cặn” mà sau này trong các cuộc chỉnh huấn, bọn tôi thường bị chụp những cái mũ to tướng, tới hôm nay tôi có thể tuyên bố thẳng: Trừ một số rất ít (những kẻ vong quốc) lúc đó nhận thức được rằng trường học theo hệ thống bảo hộ (régime du protectorat) chẳng nhằm mục đích gì hơn là đào tạo số công thức từ sơ đến cao cấp cho chế độ thuộc địa Pháp (một số còn được bổ nhiệm cả sang Lào, Miên, Tân Thế Giới), tất cả chúng tôi đều là những người có tư tưởng “Tây học” chính cống, cũng chính là những người sau này chống Tây hăng hái nhất. Bố tôi và tôi đều nhận ra cái “vô hồn” của “trường bảo hộ” rất sớm.
Tiếc thay, lúc ấy bố mẹ tôi không thể cho tôi sống lại cái cảnh mà bố tôi đã chịu đựng cả 10 năm trời để kiếm ít chữ Tây: Làm con nuôi của một gia đình đã theo Tây cả thể xác lẫn tâm hồn. Còn việc cho đi trọ học Hà Nội, đối với gia đình tôi lúc ấy không có gì khó. Nhưng bố tôi lo nhất là cái tính ngổ ngáo và tự kiêu ngất trời của tôi sẽ mang lại cho tôi không ít rắc rối trong cuộc đời! Cuối cùng ông hứa với tôi: “Cố học hết Primaire (Sơ học) ở Thái Bình đi, sau Certificat (bằng Sơ học) sẽ cho thi vào Sixième (Đệ lục) học hệ tú tài Pháp.”
Thế là cuộc đời học sinh tiểu học của tôi trôi qua nhanh chóng, dễ dãi và buồn tẻ, nếu không có những sinh hoạt ngoài học đường làm cho tôi đỡ chán ngán. Đó là các tổ chức “Sói con” (Louveteau), “Hướng đạo”(Scout), bị nhiều nhà “kách mệnh” lên án là “âm mưu đế quốc tổ chức và giáo dục thiếu niên, thanh niên làm tay sai mật vụ” –– vì có học cả đánh tín hiệu sémaphore!
Tội nghiệp cho ông Baden Powell ([7])! Ông Tây người Ăng-lê này đầy thiện chí đối với thanh thiếu niên trong sự hướng dẫn họ tới điều Thiện, thế mà có lần tôi đã phải nhận liều rằng vì mình u mê nên đã... “tôn thờ một thằng Tây làm lãnh tụ” (!) trong một cuộc chỉnh đảng!
Sự thật thì, chính từ những tổ chức này đã nảy mầm ra biết bao người cách mạng. Hàng loạt những Lê Quân, Tuấn Sơn, Tài Khoái, Tử Giang, Kỳ Đông, Kỳ Vẩu, Biên Tâm, Bùi Lê, Lê Kim... đã từ những tổ chức này trở thành người chống Tây có tổ chức.
Có điều rất hiếm người sau này đi theo cách mạng dám “thành khẩn” khai rằng mình đã ở trong tổ chức này vào những lần khai lý lịch. Mà nào có khai ít lần đâu! Chỉ người duy nhất “dại” là tôi. Học ở đâu? Ai dạy? Tham gia hội đoàn nào? Đọc và viết được chữ Tây đến đâu? Tôi khai tuốt! Đơn giản là tôi thấy phải cảm ơn những gì mà trường của Tây đã trang bị cho tôi đi... đánh Tây!
Chẳng phải những lần đi cắm trại ở Núi Voi, Bạch Mã, các “trò chơi lớn” (grands jeux) đã hình thành trong tôi tư tưởng ưa phiêu lưu, mạo hiểm, thèm được ra khỏi thành phố, đi tìm một “vật lạ” giấu kín ở khu rừng núi xa xôi? Chẳng phải từ những tổ chức ngoài nhà trường đó đã làm nảy nở trong tôi các xúc cảm nghệ thuật đầu đời?
Đó là những buổi đi về với người nghèo, đi làm việc cứu tế, những buổi dã ngoại để tìm hiểu nông thôn, để biết cây lúa không giống cây bàng mọc ở sân trường? Và đa số những “xếp” — người dẫn đường (routier) — như thầy Đang, thầy Khoa, thầy Doãn sau cách mạng tháng 8-1945, khi vào Vệ Quốc Đoàn, tôi đã lại gặp họ. Hầu hết họ đều nắm các chức vụ phân đội trưởng, chính trị viên, xoàng thì cũng là chính trị viên đại đội! Ngoài một người tên Nguyễn Quang Luyện (về sau này hình như làm chức gì khá to ở trong Nam ), tất cả lũ chúng tôi đều trở thành người chống Tây hăng hái nhất. Một số lớn đã hi sinh ngay những ngày đầu kháng chiến, một số “gặp may” còn sống sót đến ngày thắng lợi 1975! Đó là những người sớm trở về với hoạt động chất xám của mình, những giáo sư như Vũ Triệu An, Đặng Xuân Kỷ, Trần Bảng... các kỹ sư, bác sĩ, các tướng tá về hưu sớm như Trần Kiên, Trịnh Lý Thản, Bùi Xuân Vĩnh, Lê Bình (Luỹ), Vũ Tất Đắc, Trịnh Minh Quát... mà chẳng được một học hàm học vị, một danh hiệu gì. Nhưng tôi thường tự hào về các bạn học cũ ở cái trường Monguillot Thái Bình mỗi lần gặp gỡ nhau khi có một đồng hương, đồng khoá “trở về với cát bụi”. Tất cả gần như đều sống hết mình, chết trong sạch. Những người ở miền Bắc đều về hưu rất sớm nên thoát mọi ô nhiễm của nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chẳng một ai trong chúng tôi bị “lên mâm” trên báo chí, chẳng một ai bị rơi vào hoàn cảnh “không ăn cắp cũng không được” để phải ra toà. Nếu có nỗi đau riêng của những con người sạch sẽ, thì chính là nỗi đau phải chịu đựng sự dè bỉu, thành kiến, thậm chí chửi bới của lớp trẻ ngày nay: “Sao thời ấy các cụ “dại” đến thế nhỉ!”
Ôi! Làm sao cãi được với lớp trẻ hôm nay rằng “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” là đúng? Cái nhiệt tình của chúng tôi, trước mắt thế hệ con cái của nền kinh tế thị trường là một sự “ngu dại”, một sự “lầm lẫn”. Đau lắm chứ. Nhưng không phản biện được! Chúng không thể hiểu cái tâm của chúng tôi lúc ấy không cho phép chúng tôi nghĩ khác, làm khác. Chúng tôi không có nhiều chọn lựa và đã chọn cái mà chúng tôi phải chọn: vì tình yêu đất nước.
...
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:54:06 GMT 9
....
Đoàn thuỷ thủ ấy gồm những tên lưu manh vô học, những tên giám-đốc-không-vốn, những tay cầm đầu hải quan mà buôn lậu, những tay phụ trách tư pháp, toà án, thanh tra chuyên nghề kết án người vô tội, những tên quản lý nhà đất mà cướp nhà, cướp đất để chia nhau vô tội vạ, những kẻ buôn lậu ma tuý nằm ngay trong những trung tâm đầu não chống ma túy. Và... những tên đại lưu manh trơ tráo, chẳng Mác chẳng Xít gì, đang trấn áp, đe dọa người dân bằng nhà tù, súng đạn, để ăn cướp bất cứ thứ gì có thể cướp, vơ vét của cải đất nước làm của riêng, lấy tiền bỏ vào các tài khoản khổng lồ ở nước ngoài do con, cháu, bồ bịch, tay chân chúng làm chủ!
Chúng tôi, “những người ngu muội” giờ đây chẳng có đủ can đảm để lên tiếng cải chính: “Không! Đây không là tội của chúng tôi! Chúng tôi đã chiến đấu không phải để có một xã hội như thế này. Đây là một bọn lưu manh đang ... để lừa bịp nhân dân đấy!”
Chúng tôi biết nói gì khi mọi người cứ nghe thấy ... với cướp của, giết người, với bắt bớ, tù đầy, với chiến tranh, diệt chủng.
Đấy cũng là lý do để những người già như tôi cảm thấy hết sức lẻ loi, đơn độc. Chúng tôi chỉ có cách buồn khổ để chóng... chết, hay quay về sống với quá khứ và tìm đến nhau như tìm đến một sự an ủi bằng liều thuốc “có một thời đẹp nhất của bọn mình... ”
Viết hồi ký, đối với tôi, chính là sự tạ lỗi với đời.
Ấy đấy, cứ mỗi lần chạm tới ... là tôi không kìm mình được, lại bị “lạc đề”.
Xin trở về với những dòng hồi ký.
Kể từ lớp “Moay-ăng Đơ” (Moyen 2) trở lên, chúng tôi được trực tiếp với nền giáo dục Tây thật sự. Cũng từ cấp học có tên Primaire Secondaire (tiểu học đệ nhị cấp), không còn ông thầy nào mặc y phục quốc hồn quốc tuý nữa. Từ đây, tất cả mọi giờ lên lớp, mọi giao dịch sinh hoạt, thầy trò bắt buộc phải dùng tiếng nước mẹ Phú-Lăng-Xa. Giã từ thầy Tấn, thầy Lô, thầy Bản, chúng tôi bước vào cuộc sống học đường “đờ-mi Tây” với cuốn Grammaire Francaise - Ngữ Pháp Tiếng Pháp của Larrive Fleury, cuốn Histoire de France - Lịch Sử Pháp. Chỉ còn lại một giờ “Annamite” mỗi tuần, coi như môn ngoại ngữ!
Một điều may mắn, hay vô phúc, cho tôi là vào năm học cuối, Cours Supérieur, trường tôi nhận được một ông thầy mới. Ông cũng mặc Tây nhưng là thứ đồ Tây hiếm thấy: Quanh năm một bộ kaki vàng nhạt, không bao giờ thắt cà-vạt. Chân thì không giống ai, đi dép xăng-đan với đôi quai hậu luôn bị dẫm lên, méo mó. Nghe nói ông có “phốt” ([8]) nên đang dạy một trường nào đó lớn lắm ở Hà Nội thì bị “đuổi” về Thái Bình! Theo lời đồn, ông mắc tội “têtu” ([9]), dám cãi lại quan Tây. Ông có bộ dạng ngang tàng, bộ tóc “bốc-xơ”([10]), cái cười nửa mép, cằm nhô ra như thách thức, càng tăng vẻ bất cần đời, rất ăn khớp với bộ đồ Tây dã chiến quanh năm của ông.
Tuy nhiên, với tôi, ông có cái gì đó thật hấp dẫn, thật đáng chiêm ngưỡng và hơn thế, cần chú ý, theo sát mà học tập. Không chỉ vì ông đã nổi tiếng trên văn đàn, không phải ông là ông thầy giỏi mọi mặt (thời đó một thầy dạy tất cả các môn cho đến cuối lớp Supérieur), mà chính là sự ngang tàng, coi khinh dư luận của ông đã mê hoặc tôi.
Ông chính là nhà văn Nguyễn Công Hoan ([11]), tác giả Bước Đường Cùng, Đào Kép Mới... Hàng loạt tác phẩm sau này, ông lấy bối cảnh ngay ở Thái Bình, xây dựng nhân vật rất Thái Bình mà 5, 10 năm sau, khi được đọc, tôi đều nhận ra là ai đã được ông điển hình hóa một cách tài tình trong những câu chuyện “bịa như thật” — theo định nghĩa của chính Nguyễn Công Hoan về thể loại tiểu thuyết. Đặc biệt, trong cuốn Đống Rác Cũ, một số tên nhân vật có thật ông chẳng thèm thay đổi, lại gồm những bộ mặt có ít nhiều quan hệ với chính ông và gia đình tôi nên tôi “liều mạng” xuống nhà in tìm tập sách mới in xong. Chưa có bìa, cuốn sách đã bị đem đi hủy ngay lập tức theo “lệnh trên”! Tôi còn giữ nó cho đến ngày vào Sài Gòn, tặng một ông bạn sắp vượt biên, hy vọng ở nước ngoài, người yêu văn sẽ được thưởng thức những “trái cấm” của nền văn học cộng sản. Tiếc thay, đến nay, hình như Đống Rác Cũ vẫn chưa được phục hồi cả ở trong lẫn ngoài nước.
Trở lại với cái Cours Superieur thời xa xưa ấy. Có thể nói nếu như tôi chú ý đến phong cách thầy Hoan bao nhiêu thì thầy cũng chú ý đến thằng “tướng cướp” là tôi không kém! Làm sao một ông thầy như thầy lại không để ý tới một học sinh “ngang tàng số một” và học giỏi cũng số một như tôi? Sau này, mỗi lần gặp thầy, thầy vẫn nhắc đến bài luận văn của tôi: “Tiền không làm nên hạnh phúc? - “Một sự lừa dối trắng trợn của những nhà triết học ăn tiền của bọn triệu phú”. Thầy Hoan cho tôi 10 điểm về cách bình luận độc đáo và cả hai thầy trò bị thầy hiệu trưởng gọi lên văn phòng cảnh báo về cách dạy và học. Sau này tôi còn bị hai lần “exclus provisoire par turbulence” ([12]) nữa.
Sự thật thì tôi đâu có du côn du kề gì trong sinh hoạt mà chỉ “du côn trong đầu”, nghĩa là phản ứng với những cái mà tôi cho là không đúng! Phản ứng công khai bằng lời nói hoặc giấy mực đàng hoàng. Tôi đâu có biết khi người ta ra một cái đề như: “Khi trò tốt nghiệp, nguyện vọng và mong ước tương lai của trò là gì?” là người ta muốn “nắm tư tưởng” học trò vì những năm ấy phong trào chống Pháp đang lên cao trong các trường trung học. Vâng! Chống Pháp và sớm thấy được cái bất công của ngay chế độ học đường, bất công ngay trong cách đối xử giữa các thầy với các thầy, giữa trường ta và trường Tây. Lòng thù ghét Tây này, có lẽ trong chúng tôi không ai không có một ít, hoặc nhen nhúm để bùng lên, bùng lên mãi hoặc... tắt phụt khi bị giám thị hoặc hiệu trưởng gọi lên cho một cái tát tai với lời cảnh cáo: “Hãy cẩn thận! Sở Liêm Phóng đang chờ mày đó! – Attention! La sûreté t’attend!” Và chính cái bài nguyện vọng làm ký giả, nhà văn để vạch trần những bất công xã hội, đấu tranh cho mọi người được hưởng ba chữ Liberté, Fraternité, Égalité -Tự Do, Bác Ái, Bình Đẳng như trong sách của chính người Pháp viết đã làm tôi bị một cái bạt tai nổ đom đóm mắt và tống cổ khỏi trường giữa năm cuối của lớp Supérieur. Năm ấy tôi mới 13 tuổi.
Nhưng chính những gì mà tôi học và đọc được ngoài học đường đã sớm hình thành trong tôi một nhận thức tự nhiên như không khí, như ánh sáng mặt trời: Học trò Việt Nam, con người Việt Nam so với thằng đội đoan Tây, thằng cẩm Tây (commissaire) chỉ là dân nô lệ! Phải chống Tây, phản đối Tây, thậm chí có dịp là đánh nhau với Tây. Tôi bị đuổi học, nhưng chỉ ít ngày thôi, bởi vì chỉ cần một cú điện thoại của ông chủ-dây-thép, bố tôi, tôi lại được “réadmis” (nhận lại) với lý do chiếu cố học sinh giỏi!
Cứ tuần tự như thế tôi học dần lên cao. Hết cấp 2, lên cấp 3 gọi là Primaire Superieur, tôi nhận được gần hết các giải thưởng học giỏi hàng năm về Pháp văn. Tôi không còn hứng thú với các trò chơi khác, ngoài đọc và đọc. Càng đọc tôi càng thu nhận thêm những gì nhà trường không hề giảng dạy, đặc biệt là thích đọc những gì cấm kỵ! Nhờ trình độ Pháp văn ngày càng khá lên, tôi sớm tiếp cận tư tưởng nhân bản, tự do cao cả của Rousseau, Voltaire, Balzac, Hugo, Zola, Stendhal ([13]).
Tuy nhiên, dù tôi là học sinh giỏi về Pháp văn nhưng bài làm, nhất là các luận văn, thường bị phê là “lạc đề”! Lỗi của tôi là hay dẫn chứng dài dòng về những vấn đề nằm ngoài bài giảng trong lớp. Thầy Phương, người thầy duy nhất sau này đã đi theo kháng chiến, thuộc lớp các giáo sư hệ Thành Chung, khi gặp lại tôi (trong cương vị lãnh đạo Khu Giáo Dục khu III, còn tôi lúc ấy đã là nhạc sĩ) đã ôm lấy tôi và nói một câu tiếng Pháp: “Chúng ta đã trở thành đồng chí! May cho mày không bị Delorges (tên của viên chánh mật thám Thái Bình) hỏi thăm!”
Kể cũng may thật, nhưng tôi chỉ chịu ảnh hưởng của sách báo tiến bộ Pháp mà bố tôi nhận được hàng tuần từ Pháp gửi sang (để chuyển cho các quan Tây), ngoài ra chẳng có ma nào giác ngộ giác nghiếc gì cho thứ hăng máu vịt như tôi cả.
Bên cạnh những cái hay, cái có ích, mà tôi đọc được, cần phải kể đến hàng mớ hổ lớn những thứ lãng mạn rẻ tiền như hồi ký của Cassanova, truyện ngắn của Bocasse, những thứ thuộc loại dâm thư của Maurice de Kobra, hay Marcel Prévost... Thậm chí cả những tạp chí như Paris Magazine, Vivre-Santé (một loại Playboy thời ấy) tôi đều đọc tất tật. Nguyên nhân chính gây ra những bài làm lạc đề của tôi là do biết quá nhiều mà chẳng hiểu bao nhiêu, luôn nhảy từ chân lý này sang chân lý khác! Một thứ “không kiên định lập trường” ngay từ thiếu thời (!?)
Có lẽ vì thế mà chẳng ai lôi kéo tôi vào một tổ chức có màu sắc chính trị. Chứng cớ là ngay tên “Lũy môi đỏ”, ngồi sát cánh cùng bàn, nhiều năm về sau tôi gặp lại dưới cái tên Lê Bình, hoặc tên Trần Văn Trọng, tên Nguyễn Quang Luyện về sau tôi mới biết là những người có tên tuổi trong các tổ chức làm tôi té ngửa. Kẻ theo Việt Minh, người theo Quốc Dân Đảng, Đại Việt đàng hoàng, đều hoạt động có tổ chức!! Anh nào gặp tôi cũng ngạc nhiên: “Cái thằng Tô Hải mà lại đi theo cộng sản à? Lạ thật!” Vâng! Tôi đã theo cộng sản vì các động cơ đầy nghịch lý.
Tôi và nhiều bạn bè đồng khóa, đồng niên, chúng tôi đều yêu nước trong vô thức, cùng giác ngộ tinh thần tự hào dân tộc một cách tự phát nhờ sự hiểu biết xã hội thuộc địa qua thực tế, qua sách báo. Nhưng chúng tôi phần nhiều chỉ ghét Tây một cách yếu hèn, nghĩa là không dám tham gia một tổ chức nào, dù chỉ là một tổ chức như “Hội Chuối” ở trường Bưởi! Cái gương tầy liếp của Nguyễn Đình Thi, năm nào cũng bị “xe xà-lách” của mật thám đến xích tay đưa về ”thẩm vấn” đến mặt mũi xưng vù. Những người khác còn gãy cả xương sườn hoặc mất tích luôn, đã làm nhiều người hết vía. Đặc biệt các gia đình, trong đó có gia đình tôi, những năm 1943-1944 ấy rất lo lắng cho số phận những đứa con mình, chẳng gì cũng sắp thành cậu tú, cậu cử, với một tương lai “sáng rượu sâm banh tối sữa bò!”, vậy mà, chẳng mấy đứa còn chú ý tới học hành, thi cử. Tất cả cứ rối tung rối mù với các thứ phong trào yêu nước, chẳng biết con đường nào, lý tưởng nào là đúng?
Không phải lũ chúng tôi không thấy được việc nhà trường thuộc địa bắt chúng tôi phải hâm nóng tinh thần “yêu nước... mẹ” bằng bài hát Marechal, nous voilà! ([14]), đọc những bài viết ca ngợi tinh thần hy sinh vì nước mẹ của đại uý Đỗ Hữu Vị, chẳng qua chỉ là những mánh khoé tự vệ thuộc bản năng sinh tồn của một chế độ đang lụi tàn. Nhưng nên làm gì thì chúng tôi không biết. Anh nào anh nấy cứ ngơ ngơ ngác ngác như kẻ quáng gà đi giữa cơn tranh tối tranh sáng của thời cuộc. Mà thời cuộc thì đang đảo lộn nháo nhào. Đấy là điều giải thích cho hiện tượng vì sao lớp thanh niên mang tinh thần yêu nước chung chung như bọn tôi thời ấy dễ bị cuốn vào bất cứ phong trào nào, dù giả hiệu, dù mị dân, thậm chí phản động nếu nó được dán nhãn hiệu vì dân tộc!
Bản thân tôi, hết theo phong trào Ducouroy ([15]), Khỏe Vì Nước đến phong trào Đại Đông Á, Á châu của người châu Á được quân đội Thiên Hoàng quảng bá, lại đến phong trào Khất Thực, dưới thời khâm sai đại thần Phan Kế Toại ([16]), cầm cờ quẻ Ly đi biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim ([17]). Chúng tôi mặc com-lê, xách bị đến các nhà xin vài bát cơm cứu sống những bộ xương người đang thoi thóp, la liệt khắp các nẻo đường trong nạn đói khủng khiếp tháng ba Ất Dậu mà tưởng đâu đã dấn thân vào con đường cách mạng
Cho tới nay, nghĩ về cái “khúc quanh rối rắm” đó của lịch sử, tôi không khỏi xấu hổ cho sự ngây thơ đến đáng thương của lớp trẻ chúng tôi. Tôi càng hiểu ra rằng cái vốn văn hóa dù dày đến mấy cũng không sao bì được với cái khôn, hay nói đúng hơn là thủ đoạn, ...
Nhiều bạn thân thiết của tôi hồi ấy bỏ cả nhà lầu, xe hơi, đồn điền, nhà máy, bỏ cha mẹ, anh em lên rừng chống Pháp. Một số bỏ xác dưới cờ một trong những thủ lĩnh Quốc Dân Đảng - Đỗ Đình Đạo! Số khác may mắn hơn, nhập vào dòng lũ cách mạng đang dâng, bám lấy cán cờ Việt Minh, để rồi sau này, khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, thành đạt trên hoạn lộ. Những người này khéo giấu biến cái lý lịch Tây học, diễn tuồng “vô sản hóa” rất đẹp, đã leo tót lên những ghế lãnh đạo cao nhất trong một số ngành nghề, thậm chí một vài ghế bộ, thứ trưởng.
Có thể họ đã giác ngộ cách mạng chăng? Có thể họ đã thực sự ”tiến bộ” trong đấu tranh cách mạng, với lập trường vững vàng? Có thể khi ca ngợi cái nước Pháp của thống chế Pétain ([18]) họ bị nhầm lẫn chăng?
Tôi không muốn nêu tên họ ở đây, vì theo tôi, họ đã tìm được một sự trung thành mới chứ không hề phản bội một lý tưởng, một chủ nghĩa nào! Mà thay đổi một niềm tin, một cách nhìn, thậm chí cả một tình yêu khi nó đã không còn mang đến hạnh phúc, tại sao lại gọi là phản bội?
Chẳng phải chính những Trần Văn Trọng, Nguyễn Bá Lai, Tô Đáng... và sau này, cả Bùi Tín ([19]) nữa từng “lên lớp” cho tôi về “chủ nghĩa cộng sản khoa học”, về “duy vật biện chứng” với “duy vật lịch sử”, từng “góp ý” cho tôi về cái “lập trường thiếu kiên định”, “tiểu tư sản cố hữu” của giai cấp tiểu tư sản, đã giới thiệu tôi vào Đảng, chính những người ấy sau này lại trở thành những kẻ “phản bội” đó sao? Đứa “dinh-tê”, đứa chiêu hồi, đứa trở thành chủ tiệm ăn ở Marseille, đứa gửi nắm xương tàn ở California ...
Còn những kẻ theo cách mạng đến cùng, trong đó có tôi, dù được coi là triệt để giác ngộ cách mạng, hoặc đóng kịch giỏi để được coi là như thế, dù không bao giờ được tin yêu, tín nhiệm, hôm nay đây, còn sống hay đã chết, hoặc sống cũng như chết, khi gặp lại nhau lúc cuối đời, trong mọi cuộc hàn huyên đều đi đến một kết luận: Chẳng qua là có số cả! Số thằng Định là chết bỏ xác ở những ngày đầu Nam tiến, số thằng Trang là chết ở mặt trận Tây Tiến, số thằng Việt là quanh năm bán sới ở nước ngoài…
Có một điều lạ làm tôi tới giờ vẫn không thể nào tự giải đáp: Những tên chẳng có một tí tẹo năng khiếu văn nghệ nào, học hành dốt đặc cán mai mà đi theo cách mạng lại trở thành văn nghệ sĩ, giáo sư, nghệ sĩ nhân dân, thế là thế nào? Chẳng lẽ có cả cái “số” làm nhà văn, đạo diễn, nhạc sĩ, giáo sư, tiến sĩ cho những người chưa học hết cấp trung học, chẳng một lần học qua một lớp sơ cấp đồ, rê, mi hay sao?
Nghĩ cho cùng, nó chẳng kỳ lạ chút nào, và cũng chẳng khó để có được cái số đó, một khi người ta muốn hoặc bị phân công làm kỹ sư tâm hồn cho giai cấp vô sản.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:54:58 GMT 9
Thời học sinh 12 năm (chấm dứt với cuộc Cách Mạng Tháng Tám 1945) cuối cùng cũng mang lại cho tôi cái vốn quý nhất là nắm bắt được chìa khóa của văn hóa đích thực, nói theo ngôn ngữ Voltaire. Nó đã giúp tôi đi sâu vào nhiều lãnh vực văn học, nghệ thuật, triết học. Nó cũng giúp tôi hiểu rõ nước Pháp, nước Mỹ, hiểu rõ cả Marx, Engels, tìm đến những chân trời lạ qua đọc, đọc và đọc.
Nhưng cái đam mê này đã hơn một lần suýt đưa tôi đến chỗ chết, chết về cả thể xác lẫn tâm hồn, suốt chặng đường dài làm anh lính Vệ Quốc. Những chuyện cười ra nước mắt này tôi sẽ kể trong cuộc “phiêu lưu” của một cậu tú nửa mùa, không biết ăn cà, ăn mắm, dám rời bỏ gia đình, khoác áo lính lên đường đánh Pháp, với niềm tin học được ở những nhà cách mạng... Pháp!
Tôi phải trả giá nhiều lần cho sự ngộ nhận này, nhất là thời “giặc Pháp chạy rồi đánh ai đây?” Đối tượng cách mạng đã thay đổi? Các cuộc cách mạng mới “long trời lở đất” như “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cải tạo tư sản”, các cuộc “chỉnh huấn”, “chỉnh quân” chống tư tưởng “văn hóa thuần túy”, chống “xét lại”, chống “nghệ thuật đơn thuần”, “kỹ thuật tư sản” nhập cảng từ thiên triều của Mao sếnh xáng. Chúng diễn ra liên tục và khốc liệt, đầy nước mắt, máu, và cả xác con Lạc cháu Hồng!
Là đảng viên, người lãnh đạo một đoàn nghệ thuật quân đội, dù cố gắng đến mấy để đóng kịch là kẻ vững lập trường, tôi vẫn không sao tránh khỏi bị những cơn lốc điên cuồng đó dập lên vùi xuống! Bên cạnh những “thành phần cốt cán”, tôi chỉ là một “phần tử phức tạp”, xuất thân từ “thành phần tạch tạch sè”, “chuyên đọc và tàng trữ sách Tây”! Hơn nữa, gia đình tôi lại là những “phần tử theo địch” vì bố mẹ tôi đã cùng 6 đứa em vào Nam năm 1954. Chuyện bố mẹ tôi đều là công chức chính ngạch, phải đi theo Sở làm, chỉ là cách nói không có giá trị biện bạch.
Trong những cuộc đấu tranh điên cuồng, với khí thế cách mạng “hừng hực” người ta đã làm những việc có thể nói là dã man nhất đối với những người từng vào sinh ra tử suốt 9 năm đánh Pháp như tra tấn, bỏ tù, đưa đi cải tạo hàng loạt “đồng chí” với các tội danh hết sức vu vơ. Chính tôi cũng bị đấu tố, o ép, bị bắt phải nhận những “tội” tôi không hề phạm phải.
Sau này, khi những thiệt hại đã sừng sững trước mắt, không thể chối bỏ, không thể che giấu, Đảng buộc phải sửa sai thì bao số phận đã tan nát, không thể nào sửa được nữa! Chưa kể những sai lầm không có tên và những nạn nhân do chúng gây ra chẳng bao giờ được sửa.
Một số đã mất gia đình, sự nghiệp, nhất là tinh thần và lòng tin để có thể tiếp tục kề vai sát cánh với những kẻ xưa kia nhờ đấu tố mình đã leo lên những cương vị mà chúng chẳng bao giờ đảm nhiệm nổi. Chính vốn liếng học vấn của những người thuộc tầng lớp “tạch tạch sè” chúng tôi đã khiến bọn cơ hội nhân danh Đảng ganh ghét, tìm mọi cách loại trừ. Dù căm tức trong lòng, ngoài mặt chúng vẫn thơn thớt nói cười, vỗ vai vỗ vế, vẫn phải cắn răng xử dụng chúng tôi, chừng nào “chanh chưa hết nước”.
Chính hoàn cảnh đó tạo nên nhân cách của lũ tiểu tư sản lạc loài là đầu hàng, cam chịu, chấp nhận tất cả, cúi đầu nghe lệnh, làm việc qua quít, im lặng để yên thân, để kiếm miếng cơm manh áo, thậm chí, nếu giỏi đóng kịch, giỏi lừa dối, kể cả phản bội bạn bè, có khi còn được thăng tiến vì đã “tiến bộ” (!)
Riêng tôi, trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, tôi đã chọn con đường thứ hai, con đường sống hèn!
Nhưng làm sao cóc có thể im mãi khi trời đổ hết cơn mưa này đến cơn mưa khác? Hơn nữa, con cóc Tô Hải lại không chịu ngồi đáy giếng mà cứ hay nhảy đây, nhảy đó để ngóng trời! Chính cái vốn tiếng Pháp ngày càng được cập nhật do hoàn cảnh hòa bình trở lại đã giúp tôi hiểu rằng trời không chỉ sắp mưa mà còn mưa lớn, còn giông bão nữa. Tôi bỗng hiểu ra hà cớ những thằng bạn cũ của tôi sau ngày chiến thắng lại bỏ ngũ, xuống Hải Phòng, vào Nam để trở thành kẻ chống cộng đến cùng bằng ngòi bút và cả súng đạn! Trước lúc chọn “con đường mới”, khi chia tay tôi, cậu Tâm, nguyên trung đội trưởng trong tiểu đoàn Ký Con, còn nói với tôi một câu bằng tiếng Pháp làm tôi ớn lạnh nhưng suốt đời không thể quên: “Chúng ta đã lầm đường. Không có chủ nghĩa cộng sản ở cái đất nước này đâu! Sẽ đến lượt mày là “đối tượng” để các nhà chính trị phát động một cuộc cách mạng mới cho mà xem!”
Và thật trớ trêu: sau 30 năm vắng bóng, hắn trở về giữa Sài Gòn trong bộ cánh Việt kiều Canada, chủ một hàng ăn lớn ở Québec, có con là bác học nguyên tử sắp về giảng dạy gì đó ở cả Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt. Gặp lại tôi với tư cách bạn học cũ, lính cụ Hồ cũ, hắn hể hả nhắc: “Tu vois? Pas de communisme dans ce pauvre pays!”([20])
Với những chứng minh thực tế của nền kinh tế mở... toang hoác, với sự cách biệt giàu nghèo sờ sờ trước mắt, cụ thể là căn hộ thuê của Nhà Nước lủng củng những đồ vật tầm tầm vứt không ai nhặt của tôi, với sự xâm nhập chưa từng có của lối sống, của nghệ thuật, của chữ nghĩa, quảng cáo, mốt áo, váy, tóc tai, thời trang quậy phá còn hơn cả Mỹ ở ngoài căn hộ ấy, hắn vạch ra cái “đúng” của hắn — chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn một thiên đường ở Việt Nam là cái chưa từng có và sẽ không bao giờ có hết.
Như một võ sĩ về già bị dồn tới góc võ đài, tôi chẳng dám gật mà cũng chẳng dám lắc! Hắn nhắc tới một số bạn đồng khóa, đồng niên giờ đã về hưu với đồng lương “khôi hài” mà hắn đã đi thăm ở Hà Nội, Sài Gòn, tất nhiên có cả tôi trong đó, rồi nhận xét rằng hầu hết các bạn đều sống có nhân cách nhưng quá cực nhọc những ngày cuối đời.
Hắn ước sao là triệu phú để có thể mời tất cả bạn bè cùng lớp, cùng đơn vị sang tham quan Canada một tháng, để thấy được con đường hôm nay của Việt Nam đang đi chính là con đường mà Canada đã đi cách đây cả 100 năm. Chỉ có cái khác là nền kinh tế thị trường ở đấy không có các nhà “tư bản đỏ”, nghĩa là những nhà “tư bản không cần vốn”. Các nhà tư bản thứ thiệt ở các nước văn minh phải nhảy từ lầu 32 hoặc bắn một phát súng vào đầu khi xí nghiệp của mình phá sản. Họ không biết “vén tay áo xô đốt nhà táng giấy” khi bỏ ra cả trăm triệu để chiêu đãi một nhà đầu tư “dỏm” nước ngoài, mong chấm mút được “số huê hồng” khi ký kết hợp đồng! Sau khi đưa ra những chứng cớ không thể chối cãi, hắn kết luận: “Tao là một người yêu nước không gặp thời! Vì, tao không chấp nhận cái “đạo” của chúng mày nên tao trở thành một kẻ yêu nước lưu vong!” Ôi! Cái thằng Tâm học dốt như bò, cái thằng từng bị thương vì đạn Tây trong một đơn vị lừng danh một thời ở mặt trận Đông Bắc, hôm nay không hổ thẹn chút nào về hai tiếng “phản bội”. Hôm nay trở về hắn còn lên lớp cho tôi nữa, mà lên lớp toàn bằng tiếng Pháp. Hắn nhớ khi còn học chung tôi giỏi tiếng Pháp nên muốn thử lại cái vốn tiếng Pháp của tôi đấy! Tôi chỉ biết ngậm hột thị trước thực tế quá phũ phàng mà hắn đã tích lũy từ bao giờ không biết về thực trạng nền kinh tế “thị trường bập bẹ” ở Việt Nam những năm cuối thế kỷ thứ 20.
Đến câu hỏi cuối cùng “Mày hãy chỉ cho tao cái gì là xã hội chủ nghĩa ở nước này?” thì tôi bị đo ván. Tôi đành tìm cách chặn lại: “Cẩn thận! Ở đây không thiếu người biết tiếng Pháp đâu!” Hắn ré lên cười, kết luận: “À! Phải! Đó là cái còn lại của chủ nghĩa xã hội: “Cấm nói sự thật!”
Và chúng tôi rẽ sang chuyện bạn bè cũ. Té ra hắn có điều kiện để nhớ tới bạn bè đồng khóa, đồng ngũ hơn tôi. Hắn đọc vanh vách, địa chỉ thằng còn sống, thằng đã chết, rồi buông một câu: “Chữ nghĩa thằng Tây “nhồi nhét” cho chúng ta đi lính cụ Hồ thì phải giấu giấu diếm diếm. Ngày nay nước nhà yên bình thì khắp nơi... tiếng Mỹ, văn hóa nghệ thuật Mỹ...công khai tràn lan, chẳng ai đụng đến! Mày biết không? Ngay ở Pháp, ở Anh, sang thế kỷ 21 sẽ không còn Shakespeare, Montesquieu, Voltaire, Balza… đâu, văn chương nghệ thuật Hollywood đang và sẽ tràn ngập khắp hành tinh. Có thánh mới chống được!”
Tôi cũng buông một câu cho sớm kết thúc: “May mà lúc ấy tao với mày chẳng còn sống để mà phải quan tâm! Après nous, le déluge!” ([21])…Một cách tối ưu để cắt đứt câu chuyện bỏ dở và cái kết cũng sẽ có nếu cả hai đứa tiếp tục sống được đến năm 2010! Lẽ phải, chân lý thuộc về nó là cái chắc rồi, nhưng làm sao tôi cứ thấy nhục ơi là nhục? Chẳng lẽ tôi đành thú nhận: “Đúng! Mày đúng. Từ khi rời ghế nhà trường đi Vệ Quốc Đoàn, tao, và những thằng như tao đều “mất” nhiều hơn “được”.
Thế mà không ít thằng già tay trắng trong thế hệ chúng tôi hôm nay vẫn cố nắm chặt cái “thẻ đảng”, khư khư ôm mớ huân chương bạc phếch ngong ngóng chờ dịp nào đó được lớp “cộng sản kiểu mới” thương tình bố thí cho một khoản “trợ cấp người có công”. Sự sống khốn khó sau cuộc chiến đấu trường kỳ cho độc lập, tự do và hạnh phúc đã đưa cả lũ chúng tôi vào trạng huống hèn hạ suốt đời là như vậy đó!
Ôi! Cái đầu biết nghĩ, trái tim biết xúc động làm khổ những con người có học như tao, như chúng mày đấy, các bạn của tao ơi! Thằng giàu có bên xứ người cũng như thằng trắng tay trong lòng tổ quốc đều có nỗi đau tự đánh mất hết tuổi trẻ của mình. Chúng mày cảm thấy lạc lõng giữa trời Âu, Mỹ. Còn tao, đau hơn, thấy mình lạc lõng trên chính đất nước mình, ngay giữa lòng con, cháu mình. Một cuộc tha hương trên đất mẹ.
Phải chăng tội của tao và chúng mày là chẳng may đã là người có học? Những kẻ vô học hãnh tiến với cái túi đầy ắp đô-la đâu phải đau nỗi đau của bọn mình? Chúng nào thấy gì khi học đòi tất cả mọi cái của nước ngoài, kể cả những mốt xấu xa nhất?
Ngày xưa, chúng ta gọi những tên hay xì xồ tiếng Tây, hay “toi, moi” ([22]) ầm ĩ là đồ “lọ”(!) Hôm nay chẳng ai dám lên tiếng, thậm chí còn cười hô hố khuyến khích khi thấy các cháu mẫu giáo sớm “Ai, Y-u” từ tuổi lên 3.
Cái mà ông già Nguyễn Xuân Khoát ([23]) nói là “mất nước về âm nhạc” thì hôm nay đã nhỡn tiền. Mất nước về văn hóa, về kinh tế, về phong cách sống, là mất cả linh hồn lẫn thể xác. Điều mà súng đạn, nhà tù không làm nổi, thì hôm nay đồng đô-la làm nổi. Không cách nào cứu vãn được tâm hồn, đạo đức của một dân tộc khi cả dân tộc đó chạy theo một cuộc thi kỳ quái được công khai khuyến khích: Làm giàu! Đáng sợ hơn là người ta thi nhau làm giàu trên cơ sở...hai bàn tay trắng và cái đầu...rỗng tuếch, cái mồm sẵn sàng nuốt tất cả sắt, thép, nhà, cửa, gỗ, quặng, xi măng...
Tiền, vàng, đất đai là của “trời ơi”, “của chùa”, giờ đây nằm gọn trong tay kẻ có chức, có quyền! ..., không tài, không vốn và hầu hết không đầu! Té ra cái gọi là “lương tâm”, chỉ có lớp chúng ta mới được học đến nơi, đến chốn — Lương tâm đối với nghề nghiệp, đối với đồng loại, đối với lời hứa, lời thề và trước hết trên hết, đối với bản thân mình!
Chúng ta mới dại dột làm sao! Chúng ta đã đánh đổi lương tâm trong sáng ấy lấy một thứ lương tâm đen tối không phải của mình. Lương tâm thời buổi đánh nhau của tao, của chúng mày, ơi các bạn của tôi, đều là lương tâm của...người khác! Lương tâm của ông Diệm, ông Thiệu chống cộng sản, lương tâm của ông Mác, ông Lê, ông Mao, ông Hồ không khoan nhượng với kẻ thù giai cấp!
Cái lương tâm thuở ấy của chúng ta cao đẹp biết bao! Nhưng các nhà cách mạng giả hiệu, cả quốc gia lẫn quốc tế, đã lợi dụng sự khờ khạo của chúng ta để nhào nặn nó thành thứ “lập trường giai cấp” hoặc “lập trường chống cộng”. Bất cứ ai đã đứng vào một trong các lập trường ấy là mất béng cái “lương tâm” đúng nghĩa nhân bản. Chỉ còn lại cái u mê đến ngu độn: Lao vào thịt nhau cho đến khi bị người khác thịt vì không cùng một “lương tâm” với họ!
Trải hơn nửa thế kỷ đi tìm con đường hợp với trái tim, khối óc, đã biết bao thằng học trò thuở 18 như tôi là nạn nhân của sự u mê, đã lầm đường lạc lối và trả giá bằng đủ mọi cách. Có những tên ghét Tây đến cùng cực, lấy mạng sống ra đuổi quân xâm lược, để rồi chết đi với ô danh “phản động”. Có những tên gục xuống trước mũi súng của bên đối lập về tư tưởng vẫn hô đả đảo thực dân Pháp bằng tiếng Tây. Đó là trường hợp Phó Bá Hùng, trường hợp cả đội tuyên truyền xung phong của Đạo, của Nở, hy sinh ngay từ ngày Hải Phòng mới nổ súng. Không một tấm huân chương, không một danh hiệu anh hùng…
Đúng vậy. Những gì làm chúng tôi sớm có trái tim yêu nước, yêu tự do và độc lập chẳng phải do một anh Hai, anh Ba, hay bác Hồ, bác Tôn nào, chẳng phải do Đảng Cộng Sản hay Đảng Lao Động nào tuyên truyền, giác ngộ cho cả. Chính những nhân vật của Corneille, của Racine ([24]), Molière, của Hugo, Daudet ([25]), Anatole France và thậm chí cả những nhân vật tích cực và tiêu cực trong lịch sử Pháp, những Jeanne d’Arc, Richard Coeur de Lion, kể cả Robespierre, Danton, đã hằn sâu vào tâm hồn đầy sức sống và khát vọng của lớp học trò chúng tôi. Chính văn hóa Pháp đã giúp chúng tôi thấy được cái đáng yêu, cái đáng ghét, đã mở đường cho chúng tôi đến những lý tưởng chân, thiện, mỹ. Cũng chính vì cái vốn nhân văn được giàu có thêm nhờ tự học, tự đọc, nhất là được thực tế cuộc đời dạy thêm, đã đưa lũ chúng tôi đi theo Cách Mạng, lòng phơi phới như cờ gặp gió.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:55:42 GMT 9
Nào ai ngờ...
Chính cái vốn học thức cỏn con đó đã gây bao khó khăn cho cả cuộc đời bọn tôi sau này. Vào thời ấy thậm chí chẳng ai hiểu cái “lập trường vô sản” nó ra sao, ngoài cái ghét Tây và mong muốn nước nhà độc lập, tự do. Những con người đi tiên phong, sớm lên đường cũng sớm hy sinh đó chính là lớp trẻ cùng thời với tôi. Tất cả những ai đã dám bỏ cả sự nghiệp lẫn tương lai để lên đường “làm cách mạng” sau này có dịp tâm sự khi gặp nhau đều thừa nhận một điều là chúng tôi đi với cách mạng là nhờ những gì tiếp thu từ nền văn học nhân bản Pháp.
Đấy là nói về lớp người có Tây học sau này bị khinh miệt gọi là “tạch tạch sè”, bị hành hạ khốn khổ vì cái sự học ấy. Cũng như mọi người Việt Nam , chúng tôi đi với cách mạng giải phóng dân tộc đơn giản vì không thể chịu đựng thân phận nô lệ.
Nhớ tới những ngày đầu cách mạng, đứng vào đội ngũ những người cầm súng đánh Tây, tôi không khỏi nghĩ tới những chàng trai tài hoa, đẹp trai, học khá đã ra đi, kẻ Nam Tiến, người Tây Tiến... Hàng loạt đã bỏ xác không tờ giấy báo tử, một số ít, nay còn sống, mỗi khi có dịp gặp nhau đều nhắc đến những bè bạn đã vĩnh viễn ra đi: Vũ Đang, Minh Thái chết ở Tiên Yên, Ba Chẽ; Tài Kính, Đăng Ích chết ở Thị Nghè, Biên Hòa; Kỳ Năng, Tử Thanh, Tử Giang, Kỳ Vẩu... chết ở mặt trận khu III, đường 5... Những người còn sống đến nay chẳng anh nào leo lên quá cái chức trung đoàn trưởng như Lê Quân, Tuấn Sơn mà đều lẹt đẹt ở cái “đại tá chiếu cố” trước khi về hưu là hết mức.
Tất cả đều là những phần tử “chậm tiến bộ” với một lý do duy nhất: Họ hiểu quá nhiều, biết rõ từng... con “rận” trong chăn nên “chết” vì sự hiểu biết quá nhiều đó! Vẫn là cái “lương tâm” học được ở 12 năm đèn sách, nó không cho phép nghĩ và nói theo cái đầu và cái mồm của người khác. Tư cách của một con-người-có-học không cho phép nói đen thành trắng, không cho phép khuất phục, quì gối, thậm chí nô lệ để đổi lấy một chỗ ngồi bình an mà họ từng có quá đủ và từng vứt bỏ tất cả để ra đi.
Tấn bi kịch dài của những cậu tú, cậu cử đi theo cách mạng (về sau mới biết là vô sản) bắt đầu từ chỗ đó. Có thể tóm tắt là chính cái vốn kiến thức, cho dù là Tây học, đã giúp họ vươn tới khát vọng độc lập tự do và đã hình thành một lớp tiểu tư sản trí thức đầy nhiệt huyết với tổ quốc. Nhưng cũng chính những gì họ mang trong đầu, trong tim suốt 18 năm đã ngăn cản bước đường thăng tiến, thậm chí không thể dung hòa với một bọn lãnh đạo, luôn coi họ là thành phần “tiểu tư sản trí thức không đáng tin cậy”, thậm chí là “đối tượng cần theo dõi”, “cải tạo”, đôi khi cần thẳng tay trấn áp nữa.
Những cuộc rời bỏ cách mạng, dứt áo ra đi của Ngọc Bích ([26]), Phạm Duy, Canh Thân ([27]), thậm chí của cả một số chỉ huy quân sự cao cấp thời chưa có sư đoàn như Hai Giá, Hai Trí, Trần Ích, Chu Đằng (tức Trụ) mà tôi có dịp sống gần đều do cái nguyên nhân rất cơ bản: Họ không được lòng tin của những người nhân danh cách mạng, do họ không muốn và không thể nói và làm theo cái đầu của người khác.
Vậy mà tôi, một thành phần cũng chẳng kém cứng cổ, cứng đầu, tại sao tôi lại trụ lại đến cùng trên cương vị một người lính cách mạng? Con đường rẽ ngang sang làm âm nhạc đã tránh cho tôi khỏi bỏ xác nơi chiến trường như bao đồng niên, đồng khóa, đồng hương. Nhưng chính con đường văn nghệ, văn nghệ quân đội nữa, đã biến tôi thành một con người khác, đẩy tôi vào một cuộc phiêu lưu đầy bi kịch suốt đời. Tôi đã thành một kẻ hai lập trường: một lập trường của tôi đích thực mà tôi cố giấu giếm, và bên cạnh nó, lập trường của anh lính văn nghệ đảng viên Cộng Sản Việt Nam mà tôi phải chìa ra trong mọi sinh hoạt và sáng tác hàng ngày. Nói trắng ra, tôi đã phải sống hai mặt, phải đóng kịch hoan hô những cái tôi không muốn hoan hô, im lặng, thậm chí gật đầu trước những gì tôi không tán thành.
Nhưng hỡi ôi! Làm sao đóng kịch mãi mãi khi cuộc chiến tranh và đời sống quân ngũ cứ kéo dài như tưởng chừng chỉ có chết mới kết thúc. Và thế là, trước sau rồi cũng bật ra cái “mất lập trường” trên từng vấn đề cụ thể, trên những sáng tác riêng tư và nhất là trước các sự kiện chính trị trọng đại như Cải Cách Ruộng Đất, Sửa Sai, Cải Tạo Tư Sản… Nhất là sau này, từ sau những hội nghị các đảng cộng sản và công nhân họp hết lần này đến lần khác để tìm một đường lối chung mà vô phương, thay vì đoàn kết, chỉ là lớn tiếng cãi vã, thậm chí choảng nhau, và tôi đã thấy cái được gọi là “phe ta”([28]) không còn là “một khối thống nhất từ Bá Linh đến Vĩnh Linh” nữa rồi.
Khi chính ở những nước chủ nghĩa cộng sản ra đời cũng như lần đầu tiên được áp dụng, người ta đã kêu lên “Vô sản tất cả các nước, buông nhau ra!” (đối lập với khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước, liên kết lại” của hai ông tổ Marx - Engels), thì phàm ai không mù cũng thấy tương lai của các nước gọi là xã hội chủ nghĩa trước sau rồi cũng... đi đứt! Nhưng đến được lúc ấy thì không ít người đã là vật hy sinh cho viễn kiến của mình! Lại một lần nữa người ta nhớ đến câu nói của người xưa: “Ceux qui ont raison trop tôt, ont tort!” ([29])
Với tôi, nó là chặng đường dằng dặc đầy bi hài của một kẻ ngu dại, một thằng ngốc, một thứ nhân vật của Dostoevsky vừa đáng thương vừa đáng ghét, vừa đáng khen vừa đáng trách, vừa đáng nể vừa đáng khinh! Gần 60 năm, đứng trong hàng ngũ những người làm cách mạng, rồi chiến sĩ văn nghệ, đảng viên cộng sản, chiến sĩ văn hóa vô sản, “kỹ sư tâm hồn”...tâm hồn tôi luôn bị rầy vò bởi sự phân thân bất đắc dĩ trước thực tế phũ phàng.
ĐÂy là tập Hồi ký của Tô Hải đã đăng trên mạng Tôi đã lấy về để mọi người cùng chia sẻ ,tập hồi ký này đăng lần đầu ,sau đó có thông tin Tô Hải xin gỡ xuống để sửa chữa một số lỗi .Rát tiếc là một số chú thích Tôi chưa kịp ghi lại thì bản gốc đã bị gỡ mong các bạn chỉ giúp ,hoặc chờ tác phẩm đăng lại Một số chỗ có ghi bằng các dấu chấm có thể là do máy của Tôi bị lỗi hoặc các yếu tố kỹ thuật có thể làm sai lệch chủ ý của Tác Giả Rất mong sự cảm thông .
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 12, 2010 9:07:24 GMT 9
Tô Hải Vâng! Tôi, một « linh hồn chết » đã bỏ cái thân xác của «Hắn» ra đi từ những ngày "Cách mạng long trời lở đất", mặc xác «Hắn» sống trong lo âu, sợ hãi. Mặc xác «Hắn» lo cho vợ con «Hắn» không có bát cơm ăn, «Hắn» sợ vì tính mạng «Hắn» chẳng biết lúc nào sẽ vào tù, đi cải tạo hoặc bị sát hại. «Hắn» sống trong khắc khoải, lo âu, sống giả vờ để làm tròn trách nhiệm của một đảng viên, của một cán bộ, của một cây kèn chuyên cất lên những giai điệu hào hùng, thúc giục mọi người tiến lên đánh thắng mọi kẻ thù giai cấp một cách bất đắc dĩ.! Tôi ghét « Hắn »! nên. . kệ thây «Hắn»... Nhưng dù sao vì "tình nghĩa thể xác- linh hồn" thỉnh thoảng tôi cũng trở về nhập vào «Hắn» để xem «Hắn» suy nghĩ gì. Thì ra, «Hắn» vẫn còn dấu vết của linh hồn là tôi. Đặc biệt sau gần 40 năm tôi bỏ «Hắn» ra đi, «Hắn» đã có những hành động và việc làm đáng cho tôi phải nhập hồn giúp «Hắn» khỏi những « cơn đau thế kỷ » ... Kể từ khi «Hắn» đã xa rời mọi trách nhiệm, mọi toan tính cuộc đời để về ở ẩn tại một nơi xa vắng thì đầu óc của hắn đã làm tôi muốn nhập hẳn về lại xác thịt "Hắn". Và tôi đã làm đúng cái cương vị của một linh hồn, tuy chết rồi nhưng nay sống lại để nâng hắn đứng dậy, truyền thêm sức mạnh cho cái thể xác đã tàn úa, hom hem, tồn tại đúng như một cái xác không hồn suốt hơn 40 năm qua ... Mấy hôm nay, «Hắn» cặm cụi xem ti vi, đọc báo, lên mạng rồi băn khoăn chẳng biết nói gì trước những ý kiến của những lão thành cách mạng hơn «Hắn» cả về thành tích vào tù ra tội, xung phong nơi chiến địa ngoài Bắc, trong Nam, bên Lào, bên Căm Bốt, quyết tâm chống trả máu xương vì bài học của Đặng Tiểu Bình nơi biên cương tổ quốc ... «Hắn» đọc những trang lý luận dài dòng, «Hắn» phân tích những tài liệu của các ông mà «Hắn» phục lăn như Đặng Quốc Bảo, Trần Độ ... «Hắn» gõ phím chữ để xem lại các tài liệu từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim để ấp ủ một văn kiện gì đó mà «Hắn» sẽ công bố thật rầm rộ chăng? Tôi thấy thương «Hắn» quá, chỉ còn 5 ngày nữa là «Hắn» chính thức bước sang tuổi 84. Vậy mà «Hắn» vẫn ăn không ngon, ngủ không yên với những công việc mà chẳng ai cần hắn dính tới. Do đó, tôi, linh hồn chết của «Hắn» sống lại xin thay mặt «Hắn» làm cái việc mà tôi nắm được (vì tôi là linh hồn của «Hắn» mà) cái việc mà hắn vẫn luôn ngập ngừng khi phải gọi đúng chữ đúng nghĩa khi cần góp ý phản bác hoặc xây dựng một vấn đề gì liên quan tới vận mệnh của đất nước. Vậy thì, tôi, là linh hồn của Hắn, cao hơn thể xác Hắn một cái đầu, nhân dịp này thay mặt Hắn phát biểu một ý kiến duy nhất mà nếu: hơn 3 triệu đảng viên đảng công sản VN kể cả các vị lãnh đạo, chịu lắng nghe và chịu thực hiện thì mọi vấn đề băn khoăn của «Hắn» và hàng ngàn sĩ phu đất Việt khỏi tốn công lý luận dài dòng! Đó là: Giải tán ngay cái đảng Cộng Sản đi. - Thực tế cái chủ nghĩa cộng sản do 2 ông Mác, Lê nguỵ tạo ra một cách điên khùng đã làm đảo lộn thế giới loài người gần 1 thế kỷ qua, làm chết cả trăm triệu con người nhân danh đấu tranh giai cấp ... Chẳng lẽ các ông không biết? - Thực tế cái chủ nghĩa cộng sản bị toàn thế giới loài người lên án. Sang Tây, sang Mỹ, ở đâu cũng thấy những đài tưởng niệm, những nạn nhân và lên án những kẻ giết người. Gần đây nhất là sự thú nhận tội lỗi của ông cha mình gây ra vụ thảm sát hơn 20.000 sĩ quan Ba Lan tại rừng Katyn bởi chính Tổng Thống Medvedev nước Nga đến dự lễ tưởng niệm phải liều mạng vượt dưới làn bụi tro khiến mọi chuyến bay phải đình chỉ ... Chẳng lẽ các ông cũng không biết? - Thực tế là chủ nghĩa cộng sản đã xụp đổ ở những nước "thành trì cách mạng vô sản" và những tượng đài cuối cùng của 2 anh Mác, Lê đã bị đập tan và vất vô bãi rác ngay đúng giữa ngày ông Nguyễn Minh Triết có mặt tại Nga kỷ niệm ngày chiến thắng Phát Xít Đức chẳng lẽ các ông cũng không không biết? -Thực tế là ngay cái "chủ nghĩa xã hội" phát minh "ảo" của chủ nghĩa cộng sản làm người đời lầm tưởng với chủ nghĩa xã hội dân chủ hay chủ nghĩa quốc gia dân chủ (quốc xã của Hitler), nên trên thế giới ngày nay, ngay đất nước anh "Kim điên" hay anh "Phi đen xồm", anh Hun-sen, anh Cù Mông chi chít gì đó bên nước Lào, đặc biệt bên nước đàn anh "láng giềng 4 tốt", cũng chẳng ai dám lấy nó để đặt tên nước. Vậy mà giữa lúc bị tứ bề bao vây, cấm vận, giữa lúc toàn dân ăn bo bo, cái tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được chiềng làng một cách liều lĩnh, vô duyên! Ai quyết định? Vì sao phải thay đổi tên Đảng, tên Nước? Chẳng lẽ các ông không biết nốt? - Thực tế là trên các văn kiện Đảng của nước bạn "16 chữ vàng", họ đã chối bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin thậm chí gần đây lên án nó, loại bỏ hình ảnh 2 ông Tây điên này cùng chủ tịch Mao của họ ra khỏi hội trường các đại hội Đảng gọi là cộng sản Trung Hoa của họ. Chẳng lẽ các ông cũng không biết? - Hồ Cẩm Đào nói những gì về việc "thay đổi cơ chế chính trị sớm nếu không muốn thành quả về kinh tế sẽ bị xụp đổ "trong chuyến viếng thăm Thâm Quyến vừa qua … Tướng Lưu Á Châu, con rể Lý Tiên Niệm, trong một tài liệu hy hữu được phổ biến công khai bên Tầu, phủ nhận tất cả những thành quả thậm chí đạo đức tư cách của người Trung Hoa cộng sản và khẳng định con đường duy nhất tốt đẹp là đi … theo con đường của Mỹ! Mười sáu ngàn (16,000) ý kiến phản đối chế độ chính trị phản dân chủ, sau khi có đường liên hệ bằng web thẳng từ 20 triệu công dân mạng tới Hồ Cẩm Đào. Chẳng lẽ các ông không biết? - Anh em nhà Castro vừa giờ nói gì, làm gì ở bên kia bán cầu giữa lúc ông Nguyễn Phú Trọng đang có mặt tại Cuba chứng kiến việc mời gần 1 triệu công chức nhà nước nghỉ việc, ra khỏi biên chế ăn lương nhà nước mà buôn bán, kiếm sống bằng ... kinh tế thị trường đến nỗi cuộc gặp của ông Trọng và Fidel chẳng được chụp ảnh, quay phim, và báo chí lề phải thì ... im thin thít ... Chẳng lẽ ông Trọng và tất cả các ông cũng không biết? Còn ở trong nước: - Cộng sản gì mà lại có hàng tỉ đô la, có hàng vạn công nhân, có máy bay riêng, có du thuyền riêng, có thể tung ra hàng tỉ đồng để mua vui khen thưởng trong một kỳ thi hoa hậu, một trận đá bóng! Đây là chủ nghĩa cộng sản kiểu gi? Chẳng lẽ các ông không biết? - Chủ nghĩa cộng sản gì mà ruộng đất của nông dân trở thành của các tập đoàn tư nhân nước ngoài, nhà cửa đất đai của cá nhân kể cả các cựu chiến binh, của các bà mẹ anh hùng đều bị rỡ bỏ để cho họ hàng anh em các vị lãnh đạo thực hiện "dự án", xây nơi ăn chơi nghỉ dưỡng, sân golf ... Uất ức đi khiếu nại hăng quá có khi vào tù! Chẳng lẽ các ông cũng không biết? - Giai cấp "công nhân tiền phong" của quý vị được trả mỗi tháng mấy đồng lương và đồng lương đó có thể nào giúp họ kiếm được một miếng thịt ăn mỗi tuần, may được cái áo mỗi tháng, nuôi được đứa con mấy năm. Chẳng lẽ các ông không biết? - Một ông giáo sư, một bác sĩ mới ra trường quý vị trả cho họ bao nhiêu đồng để đến nỗi họ phải làm thêm, mở phòng mạch thêm, dạy thêm … và cả ăn cắp thuốc, khai man bệnh nhân. Tại sao? Chẳng lẽ các ông không biết? - Những cán bộ có quyền cao chức trọng, đặc biệt quyền ký cho ngân sách chi tiêu bạt mạng, cho vợ con, anh em họ hàng nắm những "quả đấm thép kinh tế nhà nước" như Vinashin, như các Ngân Hàng, các thị trường chứng khoán, các Tập Đoàn Dầu Khí, Than, Khoáng Sản, Điện Lực ... Họ là những ai! Làm và phá như thế nào? Chẳng lẽ các ông không biết? - Những vụ quan tham làm vua ở mọi "sứ quân", thậm chí chủ tịch xã com lê cà vạt đi thăm đồng nay cũng cưỡi cả xe Lexus, cũng chơi gái tập thể, cũng vẫn thao thao giảng dạy đạo đức tư cách Hồ Chí Minh. Hàng ngàn tiến sĩ giáo sư chẳng một ngày đi học, đi dạy, chẳng bao giờ có đề án nghiên cứu hay công trình khoa học nhưng vấn được cấp văn bằng thật, được giới thiệu om sòm trên báo trên đài với những cái tên lạ hoắc, mặt mũi ngớ ngẩn, ăn nói lắp bắp, "L" thành "N". Ở đâu ra? Chẳng lẽ các ông không biết? - Văn học nghệ thuật lai căng, đồi truỵ, phụ thuộc nước ngoài thậm chí "bán nước về văn hoá" như phim "Lý Công Uẩn ... đường về Bắc Kinh". Giới khoa học, lịch sử, văn nghệ sĩ đang vạch trần cái mưu đồ Hán Hoá văn hoá Việt này thì ở bên nước "bạn" người ta cũng cho công bố những văn bản "Chiếu dời đô" bằng chữ Hán và tuyên bố ngay trên báo chí là "Lý Công Uẩn chính là người Tàu" cho nên vở "kịch phim sân khấu" nói trên là một sự hợp tác ngay từ đầu để khẳng định một lần nữa là "người Việt Nam là dân Bách Việt của người Tàu, (!?) đất, biển Việt Nam chính là đất biển của người Tàu, nền văn hoá Việt Nam chính là văn hoá của người Tàu" Chẳng lẽ các ông không biết? Chỉ kể qua mấy thực tế trong vài ba nước còn sót lại do chủ nghĩa cộng sản đẻ ra đang "chuyển hoá" về ý thức hệ cũng như về kinh tế xã hội. Chỉ nói đến thực tế của xã hội Việt Nam, từ khi ông Đỗ Mười chúc mừng"toàn dân làm giàu" bắt chước lời tuyên ngôn bất hủ của một Đảng viên cộng sản TC (bốn lần bị khai trừ Đảng) nhưng khi nắm được chính quyền rồi thì mới mạnh miệng: "Mèo trắng hay mèo đen đều tốt, miễn là bắt được chuột" rồi sang Mỹ đội mũ cao bồi, cưỡi ngựa sánh vai cùng Tổng Thống Hoa Kỳ thì mọi lý thuyết của cái chủ nghĩa cộng sản phản khoa học đã bị chính những người cộng sản chính thức gạt bỏ. Cho nên, là một "linh hồn chết" nhưng tôi đã sống lại và "nhập" vào thân xác "Hắn» để nói lên hộ hắn những điều này: - Chủ nghĩa cộng sản với cái Đảng của nó chưa hề và không thể có ở xã hội Việt Nam. - Nó chỉ ra mặt chính danh bởi những vị lãnh tụ kiêu binh sau khi người Mỹ rút lui và Việt Nam Cộng Hoà xụp đổ tưởng chừng "một nước nhỏ mà đánh thắng hai Đế Quốc to" thì làm gì cũng được, cái tên nước CHXHCN Việt Nam và đảng cộng sản Việt Nam mới vênh vang thay thế VNDCCH và Đảng lao động. - Với sự thay đổi bốc nhằng này, các vị lãnh đạo cao nhất, nhưng quá trẻ để chẳng dám làm điều gì ngược ý tiền nhân đành cứ "anh đã phóng lao thì em phải theo lao". Đành bày ra những Viện nọ Ban kia, cố gắng xây nên một nền lý luận tả pí lù vẫn theo chủ nghĩa cộng sản nhưng đổi mới bằng mảng kinh tế thị trường nghĩa là vẫn có tư bản bóc lột. Vẫn đề cao ông Mác ông Lê nhưng vẫn bắt tay hợp tác những người đã vứt ông Lê ông Mác vào sọt rác. Quý vị đều biết những gì mà chúng tôi biết, và chúng tôi cũng biết quý vị biết chúng tôi biết những cái gì! Chứ chẳng ai không biết những gì mà quý vị cũng như triệu triệu người khác biết mà không tiện nói ra đâu. Vậy mà quý vị cứ lúng ta lúng túng mãi trong những rừng rậm rịt chữ nghĩa của hết văn kiện này đến văn kiện khác mà nội dung cốt làm người đọc bị gỡ không ra trong cái mớ bòng bong chữ nghĩa để rồi chẳng hiểu nó nói cái gì vì toàn những con số, những phần trăm, những phương hướng, những dự án, những kế hoạch, những tầm nhìn do những tiến sĩ không phải văn chương mà là tiến sĩ chính trị Mác Lê Nin ảo soạn thảo cốt để làm nản lòng người đọc càng nhiều càng tốt. Có một cái điều mà nhân dân mong đợi kể cả đảng viên mong đợi nhất đó là tuyên bố(hoặc không tuyên bố cũng được): xoá bỏ chủ nghĩa mác Lê Nin, bỏ tên Đảng cộng sản mà ai cũng muốn cũng biết thì lần này lại ... Không! Không! và Không! Cái gì đã làm cho quý vị không dám nói, không dám hành động như một Gorbachev, một Eltsine? Phải chăng là do quyền lợi, ngôi vị? Phải chăng vì chẳng ai tin ai sợ ... Tổng cục 2, hay sợ một thế lực nào? Riêng tôi, thì tôi nghĩ, khi có một nhóm lãnh đạo cao nhất can đảm đứng lên như "Khrút xốp" vạch trần trội ác của Stalin tại đại hội Đảng cộng sản Liên Xô lần thứ 20 thì những người đó sẽ được toàn thể đảng viên cũng như nhân dân tung hô nhiệt liệt vì chính từ những ngòi nổ đó sẽ tạo thành cả chuỗi nổ tiếp theo, giải quyết mọi vấn đề mà các nước Nga, Đức, Tiệp, Hung đã "diễn biến hoà bình", đã tự hoàn chỉnh để đi lên độc lập thật sự, hạnh phúc thật sự và giàu mạnh thật sự. Vạn chuyện trên đời sẽ tiến lên hay thụt lùi cũng nhờ vào sự "mở miệng" của các ông Đảng viên cộng sản đó!. Có đi trước thì làng nước mới theo sau. Và lần này điều kiện để theo sau đang có đầy đủ không đến nỗi bị đơn độc, bị trừng trị, trấn áp như thời các ông Đặng Quốc Bảo, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Quế Dương, Vũ Cao Quận, Hoàng Minh Chính ... nữa đâu. Mấy lời gọn gàng khó nghe nhưng dễ hiểu, nhân danh linh hồn chết của «Hắn» gửi tới các vị. Xin vái các ông mớ bái, mong các ông ghi vào văn kiện: Giã từ chủ nghĩa Mác Lê Nin, vĩnh biệt chủ nghĩa cộng sản cho toàn dân nhờ! Tô Hải
|
|