Post by NhiHa on Sept 11, 2010 16:26:02 GMT 9
Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, thờ thủy thần là một tục thờ có sớm và phổ biến ở các vùng có địa bàn sông nước ở đồng bằng sông Hồng. Nghiên cứu truyền thuyết về các vị thần được thờ trong các đình, đền ở Đồng bằng sông Hồng, lễ hội rước nước, tục thờ các vị thần này thì thấy dấu vết về tục thờ thủy thần khá đậm nét.
Từ tục thờ thành hoàng: Sự tích, nguồn gốc…
Có nguồn gốc từ thời Trung hoa cổ, sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết sức đa dạng. Thành hoàng có thể là một vị thiên thần như Phù đổng Thiên vương, một thần núi như Tản Viên Sơn thần, một vị nhân thần có công với dân với nước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng... lại có khi là các yêu thần, tà thần... với nhiều sự tích hết sức lạ lùng, nhiều khi có vẻ vô lý. Tuy nhiên các thành hoàng được sắc vua phong (trừ những tà thần, yêu thần...) luôn luôn tượng trưng cho làng xã mà mình cai quản là biểu hiện của lịch sử, của đạo đức, phong tục, pháp luật cũng như hy vọng sống của cả làng. Thành hoàng có sức toả sáng vô hình như một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ.
Theo tục lệ xưa, các đời vua thường phong các vị thành hoàng thành ba bậc: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, tuỳ theo sự tích và công trạng của các vị thần đối với nước với dân, với làng xã. Các vị thần cũng được xét đưa từ thứ vị nọ lên thứ vị kia, nếu trong thời gian cai quản các vị này đã phù hộ, giúp đỡ được nhiều cho đời sống vật chất và tâm linh của dân chúng. Việc thăng phong các vị thành hoàng căn cứ vào sớ tâu của làng xã về công trạng của các vị thần. Sớ này phải nộp về triều đình trong một thời gian quy định. Mỗi lần thăng phong triều đình đều gửi sắc vua ban rất linh đình và cất nó trong hòm sắc thờ ở hậu cung đình làng.
Thành hoàng cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân làng, thường mỗi làng thờ một thành hoàng, xong cũng có khi một làng thờ hai, ba hoặc hai ba làng thờ một vị. Thành hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tuỳ sự tích mỗi làng.
Đình làng là nơi thờ phụng thành hoàng và trở thành một biểu tượng văn hoá tâm linh của mỗi người dân quê Việt. Làng nào cũng có đình, có khi mỗi thôn lại có một đình riêng. Đình để thờ thành hoàng nhưng đồng thời cũng trở thành nơi hội họp của chức sắc trong làng, hay là nơi sinh hoạt của cộng đồng làng xã. Mọi hoạt động này đều xảy ra ở đình với sự chứng kiến của thành hoàng.
Trong tâm thức người dân quê Việt, Đức thành hoàng là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi.
Có thể cho rằng, thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất của dân làng. Cho nên sự thờ phụng thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng.
Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất nề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, các hương chức cũng như các gia đình trong làng, mỗi khi muốn mở hội hoặc tổ chức việc gì đều phải có lễ cúng thành hoàng để xin phép trước.
Đến những dấu tích thờ thần nước...
Những dấu tích thờ thần nước tại Hà Nam
Nay đền được xây bên cạnh dòng sông Hồng và dấu tích của dòng Lảnh Giang đang dần cạn. Ngày hội đền trước đây có tục đua thuyền, rước nước là những tục liên quan mật thiết đến việc thờ cúng thủy thần. Vị thần mà ngôi đền này thờ là Mẫu Thoải, vị thần đảm trách miền sông nước trong tín ngưỡng Tứ Phủ.
Liên quan mật thiết đến đền Cửa Sông là đền Lảnh Giang, còn được gọi là đền Chính, đền Quan Lớn Đệ Tam. Đó là đền thờ một trong ba vị đại vương vốn là ba con rắn được sinh ra từ một cái bọc. Tương truyền, vị đại vương này rất có công trong việc chống Thục nên được vua Hùng phong là Nhạc Phủ Ngư thượng đẳng thần, sau được gia phong là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng thái thượng đẳng thần. Từ xuất xứ của thần sinh ra từ sự hoài thai của thủy thần trong hình hài của một con rắn, biểu hiện của nước, đến tên hiệu của vị thần này cũng thấy rất rõ bản chất của thần là một vị thần sông nước. Đó là lớp nghĩa cổ nhất của vị thần này mà truyền thuyết về một vị tướng của Hùng Vương được thêu dệt sau này cũng không làm mờ lớp nghĩa ban đầu.
Đền được xây sát phía ngoài chân đê, là nơi mà dân sông nước qua lại có thể dễ dàng vào cầu nguyện. Hình ảnh của vị thần, một con rắn thần, là hình ảnh phổ biến về các vị thủy thần ở nhiều vùng sông nước. Lễ hội đền Lảnh Giang, cũng như đền Cửa Sông, có lễ rước nước, hội đua thuyền, bơi chải. Đó là những nghi lễ phổ biến của tín ngưỡng thờ thủy thần. Nằm trong vùng một cụm di tích, cách nhau chỉ 100m mà có tới hai ngôi đền thờ thủy thần, đền Lảnh Giang và đền Cửa Ông đã thể hiện rất rõ tín ngưỡng thờ thủy thần của người dân địa phương.
Có thể thấy dấu vết của tục thờ thủy thần qua biểu tượng rồng được chạm khắc xung quanh và trên trán bia Sùng Thiện Diên Linh, trên vách tháp cũng chạm khắc nhiều mảng rồng ổ. Rồng biểu tượng cho tín ngướng của các cư dân canh tác lúa nước, ẩn dụ sự cầu mong mưa thuận gió hòa để phát triển sản xuất nông nghiệp. Trên trán bia chạm hai con rồng đối xứng, chầu vào hàng chữ Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (tháp bia Sùng Thiện Diên Linh – nước Đại Việt triều vua Lý thứ tư). Rồng còn làm vật trang trí trên gạch đất nung: thân hình tròn trịa với nhiều khúc uốn lượn, chân dài và nhỏ dần về phía đuôi, vừa có dáng dấp của một con rắn, vừa có hình thù của cá sấu. Hình rồng còn thô sơ như vậy là do biểu hiện tín ngưỡng của cư dân Việt viễn cổ ở đồng bằng sông nước với tục thờ rắn và cá sấu, lấy các loài thủy tộc này làm vật tổ. Huyền thoại họ Hồng Bàng (giải thích nguồn gốc các tộc người Việt cổ) kể rằng, ông Lạc Long Quân (vị tổ của người Việt đồng bằng) là một loài rắn hoá thân mà thành. Rắn và cá sấu theo tín ngưỡng của dân gian được trừu tượng hóa dần, trở thành hình tượng rồng. Và rồng cũng được các triều đại phong kiến Việt Nam chọn làm biểu tượng của vương quyền, càng về sau vẻ mạo của nó càng thể hiện uy quyền phong kiến.
Truyền thuyết về vị thần đình làng Văn Xá (thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân) cũng cho thấy rõ dấu vết của tục thờ thủy thần. Vị thần thành hoàng của làng thoát thai từ một con rắn, khi con đê vỡ, đã trở lại hình hài rắn, nằm chắn ngang đoạn đê vỡ, căng mình ra để ngăn nước lũ, bảo vệ xóm làng.
Vị thần thành hoàng của đình Đá Tiên Phong (thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện Duy Tiên), một nữ tướng của Hai Bà Trưng lúc hóa cũng có rồng mang thuyền vàng đến đón. Đó là những trầm tích văn hoá sâu xa của tín ngưỡng dân gian nhiều khi đã bị chìm đi dưới lớp nổi là các truyện kể về lịch sử được chồng chất sau này. Nhìn vào tục thờ, lễ hội, có thể thấy rõ những biểu hiện của tín ngưỡng này, tục rước nước, tục đua thuyền… phổ biến trong các lễ hội cổ truyền ở Hà Nam.
Những dấu tích thờ thần nước tại Bắc Ninh
Tụ thờ Thần nước ngày nay vẫn còn thấy rõ nét ở các ngôi làng cổ Bắc Ninh: Kẻ Diềm (làng Viêm Xá), Kẻ Chóa (thôn Chân Lạc, xã Dũng Liệt) và hệ thống các đền thờ Bách Noãn ở phía Nam sông Đuống.
Theo các nhà nghiên cứu thì Bắc Ninh là vùng nông nghiệp phát triển sớm vì điều kiện tự nhiên thuận lợi. Thời trước các kinh đô cổ đều tập trung lâu dài ở vùng này, tiêu biểu là Dâu trải gần hết thời Bắc thuộc. Nông nghiệp lúa nước phát triển thì nước rất cần để tưới tiêu đồng ruộng nhưng có những năm hạn hán lại liên tiếp xảy ra, mùa màng thất bát, có những năm lại mưa lũ, đồng ruộng lại ngập úng tất cả đều vì nước. Vì thế mà người dân nơi đây sớm có tục thờ Thần nước để cầu khấn Thần cho nước dưới sông hiền hòa không gây lũ lụt, nước trên trời rơi xuống đúng lúc để người dân có thể canh tác trên đồng được thuận lợi.
Tại đền Diềm trong tiết Thanh Minh, diễn ra ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch thường diễn ra lễ cúng nữ thần Giếng và thần cá ở đền Giếng hay còn gọi là đền Cùng. Theo truyền thuyết thì ngôi đền này được xây từ năm 1642, khi vùng này là rừng núi um tùm, người dân đến khai phá và dựng nên một ngôi đền, trước cửa đền lại cho đào một cái giếng lấy nước từ mạch ngầm từ trong núi chảy ra và lấy nước đó để nấu ăn. Trong giếng có một đôi cá mà theo các bô lão thì đôi cá này đã sinh sống ở đây cả trăm năm, dù có lụt lội nước tràn ngập làng cá vẫn không đi và được dân làng gọi là "Cá Thần". Cứ hàng năm vào tiết Thanh minh người dân trong làng lại chuẩn bị vật phẩm gồm xôi gà, ngũ quả, hương hoa và chọn ra vài chàng trai tân đến làm lễ tát giếng, đôi "Cá Thần" được trân trọng vớt lên thả vào 1 cối đá to (đường kính khoảng 1m) bên cạnh bờ giếng. Trong đền dân làng tổ chức tế lễ thì phía ngoài bên bờ giếng cũng làm lễ thờ Cá (gọi là ông Cá).
Cũng là tục thờ Thần nước nhưng làng Kẻ Chóa và hệ thống các đền thờ Bách Noãn ở phía Nam sông Đuống lại thờ các con của Lạc Long Quân và Âu Cơ mà thể hiện rõ nét nhất là tục "Cầu đảo" - cầu mưa mỗi khi hạn hán. Nghi thức tế lễ Thần được tiến hành trong ba ngày liền, không mưa lại ba ngày tiếp theo. Nếu trời vẫn không mưa thì dân làng tổ chức "Tắm kiệu" trên sông, người ta sẽ dùng gáo đồng múc nước dội lên kiệu. Sau lễ tắm kiệu mà trời vẫn không mưa, dân làng lại tổ chức "Rước bơi" - tổ chức bơi chải. Sau ba ngày rước bơi mà trời vẫn không mưa thì nhân dân ở đây tổ chức "Rước huyện", tức đồng loạt các làng ven sông đều tổ chức tế lễ cầu đảo.
Đây là một tín ngưỡng cổ xưa của người Việt cổ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay tại các ngôi làng cổ ven sông mà không phải bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam ta có thể tìm thấy. Nó chứng tỏ một đều là nước Việt đã tồn tại từ rất lâu đời và con người luôn sống gắn bó với thiên nhiên, đồng ruộng, xóm làng, văn hóa Việt Nam không dễ phôi pha khi mà đất nước Việt Nam ngày càng phát triển.