|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:41:58 GMT 9
Văn hóa Đại Việt trong thế đối thoại với Trung Hoa (Vai trò của các chúa Trịnh thời Lê Trung Hưng) Vietsciences- Nguyễn Xuân Diện & Trang Thanh Hiền Mở đầu Thời gian gần đây, đã có nhiều cuộc hội thảo về Chúa Trịnh thu hút được sự quan tâm của giới học giả nhiều lĩnh vực. Nhiều vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, quân sự … của thời đại Lê Trịnh (hoặc từng vị Chúa Trịnh) được các nhà nghiên cứu đưa ra thảo luận, đánh giá. Công lao của các chúa Trịnh về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…được ghi nhận. Đặc biệt là mô hình chính trị “song trùng quyền lực”(còn gọi là “lưỡng đầu chế”) đã được một số nhà nghiên cứu nêu ra và lý giải, đánh giá[1]. Về mặt văn hóa, các học giả cũng đã đưa ra những tư liệu và đánh giá về công lao của các chúa Trịnh trên các lĩnh vực văn hóa giáo dục. Tuy nhiên, ngay trong vấn đề này, cũng chưa có đánh giá toàn diện, trước hết là do sự bao quát vấn đề trong một nghiên cứu liên ngành, đa ngành mà sự khó khăn trước hết là ở sự thiếu thốn tư liệu. Bài viết này cố gắng xem xét những đóng góp của các chúa Trịnh trong việc gây dựng một nền văn hóa Đại Việt độc lập và trong thế đối thoại với Trung Hoa dưới thời Lê Trung hưng. TỪ NHỮNG THÀNH TỰU VỀ CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ Trong suốt 249 năm tồn tại, nhà Trịnh đã thể hiện được trách nhiệm chính trị đối với đất nước thông qua nhiều hoạt động tích cực và nhiều thành tựu được sử sách ghi nhận. Trong 249 năm ấy, lãnh thổ đã được giữ vững và không xảy ra một cuộc xâm lược nào của phương Bắc. Đó là một điều rất đáng được lưu ý đánh giá. Các chúa Trịnh Căn và Trịnh Cương đã nhiều lần cử các đoàn sứ bộ để bàn bạc việc xác định cắm mốc biên giới giữa nước ta và nhà Thanh, Trung Quốc. Sự kiện đáng lưu ý là năm 1728, nước ta đã đòi được mỏ đồng Tụ Long mà nhà Thanh đã chiếm trước đó[2]. Sự kiện này được Phan Huy Chú đặc biệt chú ý và đã ghi lại trong Lịch triều hiến chương loại chí[3]. Trên phương diện ngoại giao, nhà chúa duy trì phương châm mềm dẻo, ôn hòa và linh hoạt, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Một vấn đề mà các triều đại phong kiến Việt Nam luôn đặt ra khi giao thiệp với phương Bắc là danh hiệu nào cho người đứng đầu nước Việt. Trước kia, dưới thời nhà Minh, các vua Việt Nam thường chỉ được họ công nhận danh hiệu Đô thống sứ, nhưng với những cố gắng bền bỉ ngoại giao của các chúa Trịnh, nhà Minh buộc phải công nhận vua Lê là Quốc vương. Năm 1647, chúa Trịnh Tráng đã đòi được nhà Minh phong cho vua Lê Thần Tông là An Nam Quốc vương[4]. Năm 1651, nhà Minh phong cho chúa Trịnh là Đô thống sứ đại tướng quân, nhưng Trịnh Tráng trả lại ấn sắc, ý rằng nước ta đã là một vương quốc. Nhà Minh đành sai Trương Túc mang sắc sang phong chúa Trịnh Tráng là Phó Quốc vương[5]. Năm 1719, nhà Thanh sai Đặng Đình Triết sang phong vương, đòi vua Lê Dụ Tông phải ba quỳ chín vái để thụ phong. Trịnh Cương đề cao quốc thể, đưa thư không chấp nhận việc vua Lê phải quỳ lạy. Đặng Đinh Triết cứ gượng ép nhưng Trịnh Cương vẫn cứ bác bỏ. Rất nhiều thư từ đã được trao qua đổi lại, cuối cùng Đặng Đinh Triết cũng đành làm lễ phong Quốc vương cho vua Lê mà vua không phải hành lễ chư hầu ba quỳ chín vái[6]. Về thành tựu kinh tế, các nhà nghiên cứu đều nhắc đến sự phồn thịnh của Kẻ Chợ (kinh đô Thăng Long) và các trung tâm thương mại lớn như Phố Hiến, Hội An, Phú Xuân. Sử gia Phan Huy Chú, các nhà truyền giáo phương Tây, các học giả thời hiện đại như Phạm Văn Diêu, Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Thanh Nhạ đều viết về kinh tế thời Lê – Trịnh những lời khen ngợi. Nhà nghiên cứu Bỉnh Di viết: “Triều Lê Trịnh là triều đại đầu tiên trong lịch sử mở rộng buôn bán với phương Tây; năm 1645 đặt thương điếm Hà Lan, 1686 đặt thương điếm Anh…Đó là những dấu vết còn lại của một Thăng Long hưng thịnh do phát triển kinh tế hàng hóa và nghề thủ công dưới triều Lê Trịnh”[7]. ĐẾN NHỮNG THÀNH TỰU VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT ĐỘC LẬP TRONG THẾ ĐỐI THOẠI VỚI TRUNG HOA Lễ nhạc và Văn chương khác Trung Hoa Trước đây, trong khi nghiên cứu về thời Lê Trịnh, chúng tôi đã công bố phát hiện về năm bản nhạc chương Nôm đời Lê[8]. Đó là 5 bản nhạc chương Nôm được dùng tấu lên cùng âm nhạc trong cung miếu nhà Trịnh mà tác giả là các bậc đại bút tiêu biểu cho các nho sĩ phong kiến. Những nhân vật được nhắc tới và ca tụng trong các bản nhạc chương đều là các tiên liệt dòng chúa Trịnh và đều được gọi bằng tôn hiệu. Cụ thể như sau: - Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Căn (ở ngôi chúa từ năm 1682 đến 1709). - Lương Mục vương Trịnh Vĩnh (là con trưởng của chúa Trịnh Căn), mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa. - Tấn Quang vương Trịnh Bính (là con trưởng của Lương Mục Vương và là cha của chúa Trịnh Cương). Mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa. - Hy Tổ Nhân vương Trịnh Cương (ở ngôi chúa từ năm 1709 đến 1729). - Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh (ở ngôi chúa từ năm 1740 đến 1767). Các bản nhạc chương tấu trong nghi lễ ở cung miếu họ Trịnh được viết bằng chữ Nôm là điều ít ngờ tới. Song, còn ngạc nhiên hơn, khi chúng ta biết các tác giả của các bản nhạc chương này. Họ đều là những nhà khoa bảng lừng danh (trừ Mai Thế Uông chỉ đỗ Hương cống), là những nhà văn, nhà thơ, những sử gia, chính trị gia nổi tiếng. Cung miếu là nơi họ Trịnh thờ cúng tổ tiên. Các chúa Trịnh rất coi trọng việc tế lễ ở đây. Chính Trịnh Căn, trong bài Vịnh Cung miếu thi (Khâm định thăng bình bách vịnh) đã viết về nơi này: “Theo đạo hiếu thờ phụng tổ tiên; lời giáo huấn thực là rõ rệt. Xem văn hay mà chuộng đức trung thuần; Xét tế tự mà truy nguồn tìm ngọn. Than ôi! Các bậc thánh vương tôn kính; một lòng khuông phò xã tắc, gây dựng lo toan nghiệp lớn. Dấy anh uy dũng lược, trừ tiếm nghịch tà gian. Định vạc rồng, lấy lại Kinh đô; Mở cõi đất, dấy lên thế đạo….Cảm kích vô cùng, chưa hề có được chút chi đền báo, xin kính cẩn làm hai bài thơ tán dương công đức, may ra làm rõ được lòng chí kính vậy”[9]. Việc phát hiện các bản nhạc chương Nôm đời Lê có ý nghĩa quan trọng đối với các vấn đề văn hóa và âm nhạc nước ta. Như chúng ta đều biết, lễ nhạc của các triều đại phong kiến luôn luôn chịu ảnh hưởng từ phía Trung Hoa, trong đó chịu ảnh hưởng lớn nhất là các hình thức nhạc nghi lễ, tế tự, và điều này thấm sâu đến tận lễ nghi phong tục trong dân gian. Nhưng đây là lần đầu tiên chúng ta biết cha ông ta đã dùng chữ Nôm trong nghi lễ tế tự chốn cung miếu. Các bài này lại được soạn theo lệnh của chúa Trịnh, và người soạn lại là các nhà khoa bảng lớn cũng là các quan chức quan phương làm việc trong chính phủ của phủ chúa và triều đình nhà Lê. Các bản Nhạc chương Nôm đời Lê cho thấy thời đại này đang xây dựng cho riêng một lề lối “y - quan - lễ - nhạc” khác Trung Hoa, khẳng định sự độc lập và riêng khác của văn hóa Việt, trong thế đối thoại với Trung Hoa. Đáng tiếc là sau đó, triều Nguyễn đã không nối tiếp được điều này. Các chúa Trịnh cũng là những người đặc biệt coi trọng chữ Nôm và có nhiều sáng tác bằng chữ Nôm. Về sáng tác chúng ta thấy Trịnh Căn có tập Ngự đề Thiên hòa doanh bách vịnh (Khâm định thăng bình bách vịnh), gồm 90 bài thơ, trong đó chỉ có 2 bài thơ chữ Hán; Trịnh Cương (? – 1729) có Lê triều ngự chế quốc âm thi là tập thơ văn Nôm từ khúc, ký và thơ (46 bài thơ Nôm); Trịnh Doanh (1720 – 1767) có tập Càn Nguyên ngự chế thi tập 268 bài, trong đó có 37 bài thơ chữ Hán, 231 bài thơ Nôm[10]. Ở ba tập thơ trên, các chủ đề lớn từ Tam diệu đại thống (ba mối huyền diệu lớn Thiên Địa Nhân) (Khâm định thăng bình bách vịnh), đến các khúc ca vịnh đi tuần thú (Lê triều ngự chế quốc âm thi), rồi các bài vịnh nhân ái trong họ hàng, đạo trị nước, phép luyện quân, giáo huấn, sai các tướng đi đánh trận, khen dụ đại thần, úy lạo sứ thần, tưởng lệ các bậc kỳ lão, tôn sùng các vị thánh triết, cảm nhận phúc trời, ban thưởng, thơ đề vịnh phong cảnh khắp nơi (Càn Nguyên ngự chế thi tập )…đều được thể hiện bằng chữ Nôm. Đặc biệt nhất, phải kể đến Trịnh Sâm (1739-1782) là một nhân vật, mà về mặt văn hóa được đánh giá là có những đóng góp khá tích cực. Ông là một vị chúa trọng học vấn, biết phát hiện và quý trọng hiền tài. Là người thích du ngoạn, dấu vết xe loan của nhà chúa đã in khắp những nơi phong cảnh đẹp trong nước, và đời sau coi ông là người đã phát hiện những tuyến du lịch kỳ thú. Mỗi nơi ông đến, vẫn thường có thơ hoặc bút tích để lại, với số lượng nhiều mà bài nào cũng hay, với nét riêng thi vị: Chơi động Hương Tích, Tây Hồ tức cảnh, Đăng Tuyết sơn hữu hứng, Đề Hương Tích tự thi. Trịnh Sâm còn có 1 bài thơ và một bài từ chép trong sách Bình Ninh thực lục: Ngự chế lạo hoàn dịch quốc âm thi và Ngự chế quốc âm từ khúc. Bài Ngự chế Quốc âm từ khúc của Trịnh Sâm được viết bằng chữ Nôm. Trong nguyên bản, bài này được gọi là bài từ khúc. Như chúng ta đều biết, Ngâm khúc Nôm là một trong những sáng tạo thể loại của văn học chữ Nôm. Các tác phẩm Ngâm khúc Nôm mà chúng ta thường gặp như Tứ thời khúc vịnh, Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, Ai tư vãn, Văn chiêu hồn, Tự tình khúc … đều sử dụng thể thơ lục bát//song thất lục bát quen thuộc vốn có nguồn gốc từ thơ ca dân gian. Riêng trường hợp Ngự chế Quốc âm từ khúc, được ghi là từ khúc, nhưng lại được viết giống như thể phú, bằng lối biền ngẫu, với hai câu đối nhau. Chính điều này cho thấy, hoặc là cách gọi tên thể loại của người xưa thật không chặt chẽ như quan niệm của chúng ta ngày nay, hoặc là thể từ khúc ngày xưa được viết thế chăng? Tìm hiểu về các điệu từ khúc mà các tác gia Việt Nam quen dùng, chúng tôi cũng không ghi nhận được một điệu từ khúc nào viết với lối văn biền ngẫu như trường hợp Ngự chế Quốc âm từ khúc. Từ đó, cho phép chúng ta nghĩ đến việc, phải chăng, trong văn học thời trung đại, có một lối từ khúc Nôm viết bằng lối văn biền ngẫu? [11]. Trịnh Sâm còn được cho là đã sáng tạo ra điệu Thổng trong ca trù. Điều này được công bố trong Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, xuất bản tại Sài Gòn năm 1962[12]. Sau đó, Tuyển tập thơ ca trù của Ngô Linh Ngọc và Ngô Văn Phú (1987) cũng ghi như vậy. Gần đây nhất, trong hội thảo Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp tổ chức tại Thanh Hóa cuối năm 2008, nhà thơ Ngô Văn Phú có tham luận Chúa Trịnh với ca trù thêm một lần nữa khẳng định rằng chúa Trịnh Sâm đã làm ra điệu Thổng trong lối hát ca trù[13]. Nhắc đến thời kỳ này, không ai không nhắc đến cuốn từ điển song ngữ Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Đây được coi là cuốn từ điển song ngữ Hán – Việt (Nôm) đầu tiên của Việt Nam. Cuốn sách được tái bản (theo lối in mộc bản) vào năm Cảnh Hưng 22 (1761). Việc phải biên soạn một cuốn từ điển song ngữ Hán Nôm cho thấy một nhu cầu tra tìm và đối sánh về mặt ngôn ngữ đã được đặt ra, qua đó cũng cho thấy chữ Nôm Việt đã phát triển đến một trình độ ngôn ngữ thực sự, phản ánh sự phát triển của chữ Nôm cả về phương diện ngữ âm và phương diện văn tự. Từ đó đến nay, cuốn điển này luôn được các học giả quan tâm nghiên cứu và dùng làm dẫn chứng trong việc nghiên cứu về chữ Nôm, về tiếng Việt và các vấn đề khác[14]. Các nhà văn học sử đều cho rằng thời Lê Trịnh là thời kỳ nở rộ của diễn ca lịch sử và truyện Nôm, nhưng cũng không quên nhắc đến việc các chúa Trịnh nhiều lần cấm đoán các tác phẩm văn học Nôm “trái với quan điểm của Phủ chúa, có thể làm rối loạn cương thường phong hóa”[15]. Vì vậy, năm Quý Mão, niên hiệu Cảnh Trị 1 (1663), đã có lệnh cấm khắc in và lưu hành: “Phàm các sách kinh, sử, tử, tập cùng văn chương có quan hệ đến luân thường đạo lý ở đời, mới được khắc in và lưu hành. Còn các loại sách dị đoan, tà thuyết, Đạo giáo, Phật giáo cùng các truyện Nôm và thơ ca Nôm có liên quan đến chuyện dâm đãng, thì không được khắc in, mua bán, làm tổn hại đến phong hóa”[16]. Tuy nhiên, “lệnh này không được nhân dân chấp hành, truyện Nôm vẫn cứ được nhân dân truyền tụng ngày càng rộng rãi nên đến những năm 1718, 1751, Phủ chúa lại phải ra lệnh chỉ nhắc nhở việc thi hành. Rồi đến năm Cảnh Hưng 21 (1760) đời Lê Hiển Tông , Trịnh Doanh lại sai Nhữ Đình Toản diễn Nôm để dễ bề phổ biến”[17]. Thời kỳ này bên cạnh truyện thơ Nôm còn có ký Nôm, thậm chí có cả ký bằng chữ Hán nhưng lại dùng thể thơ lục bát[18]. Bên cạnh việc chữ Nôm được sử dụng rộng rãi “trong triều, ngoài nội”, từ phủ chúa tới dân gian, từ việc diễn đạt các nội dung nghiêm cẩn của đạo đức và học thuật Nho gia đến các cung điệu tình cảm khác nhau của con người chốn thôn cùng xóm vắng, thì chữ Nôm thậm chí lại còn xuất hiện cả trong văn bản hành chính[19]. Tóm lại, việc sử dụng chữ Nôm phổ biến và rộng rãi trong sáng tác văn học (các loại đề tài) trong văn bản hành chính cho thấy, thực sự trong xã hội lúc đó, dưới sự điều hành của Vua Lê Chúa Trịnh, chữ Nôm đã đi sâu vào mọi mặt đời sống xã hội. Nghệ thuật Việt: Thời đại Lê Trịnh hiện để lại rất nhiều dấu vết về nghệ thuật. Dường như, có một nền nghệ thuật thời Lê Trung Hưng trong lịch sử nghệ thuật nước nhà. Thời kỳ này, thực sự đã tạo nên những giá trị nghệ thuật thuần Việt, khác hẳn trước và sau đó. Một trong những di sản nghệ thuật của thời Lê – Trịnh để lại cho hậu thế, với số lượng di vật lớn, có thể quan sát và miêu tả được là di sản kiến trúc. 1. Kiến trúc thời Lê – Trịnh gồm hai mảng: kiến trúc Phủ chúa Trịnh và dinh thự quan lại ở Thăng Long và kiến trúc các chùa chiền, đền miếu, lăng mộ quan đại thần được xây dựng dưới thời Lê Trịnh ở Thăng Long và các trấn. Với mảng thứ nhất, cho đến nay, tư liệu về vương phủ họ Trịnh ở Thăng Long được mô tả nhiều nhất và kỹ nhất trong các cuốn ghi chép của những giáo sĩ phương Tây thế kỷ XVI. Trong phần viết về “Kiến trúc quần thể Vương phủ” trong cuốn sách Họ Trịnh và Thăng Long, tác giả Quang Vũ đã cố gắng dựng lại quy mô kiến trúc của Vương phủ họ Trịnh thông qua các tài liệu mà tác giả có được như: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài của Alexandre de Rhodes, Vương quốc Đàng Ngoài của Samuel Baron (1663), Hành trình truyền giáo (1653). Nhiều bức tranh do người Phương Tây vẽ về Thăng Long thế kỷ XVI – XVIII cũng cung cấp được hình ảnh về kinh thành của vua Lê – chúa Trịnh lúc bấy giờ. Bên cạnh các tài liệu do người Phương Tây viết, có một tư liệu rất có giá trị, miêu tả vương phủ chúa Trịnh là cuốn sách Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác, ghi lại chuyến đi tới Phủ chúa Trịnh ở Thăng Long để chữa bệnh cho thế tử họ Trịnh. Những tư liệu này đã đủ để tác giả Quang Vũ phác họa lại kiến trúc quần thể Vương phủ: Vương phủ được thiết kế hình vuông, có tường bao quanh nằm ở phía Nam hồ Tả Vọng. Vương phủ có 3 cửa, mặt phía Nam: Chính môn, mặt phía đông: Tuyên Vũ môn, mặt phía Tây: Diệu Công môn. Khuôn viên phủ chúa bao gồm khu Bệnh viện Việt Đức, qua phố Tràng Thi, Thư viện Trung ương, Tòa án Tối cao, Hỏa Lò tới giáp phố Thợ Nhuộm ngày nay”[20]. Thư tịch cổ còn ghi được tên tuổi những trí thức lớn hoặc là quan chức, hoặc là những người có họ hàng xa gần với Phủ chúa đều đã ra tay xếp đặt hoặc trang trí cho Vương phủ. Đó là Kiều Nhạc hầu Nguyễn Khản “trong cung chơi giả sơn, bể cạn hay hoa chim cây đá gì, tất phải qua bàn tay ông Khản điểm xuyết chúa mới hài lòng”[21]; là Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều (cháu gọi chúa Trịnh là cậu ruột) được Trịnh Sâm cho vào phủ vẽ trang trí và trông nom tu sửa vương phủ[22]… Những cung điện nguy nga lộng lẫy, những khu vườn ngự thấp thoáng các đình tạ chạm trổ công phu tinh tế, những dòng ngự câu thơ mộng của phủ chúa đã được miêu tả trong những tác phẩm văn học cho thấy quy mô kiến trúc to lớn, những chạm khắc tinh vi của Vương phủ. Phạm Đình Hổ, trong Vũ trung tùy bút cho hay: “Các loại trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa, non bộ trong dân gian đều thu vét hết không bỏ sót. Từng thấy lấy cả một cây đa từ bờ Bắc chở qua sông đem về. Cây đa ấy cành lá rườm rà như một cây cổ thụ treo leo nơi đầu non khe đá, rễ dài vài trượng, phải đến một cơ đội lính vây quanh mà khiêng, ngồi trên có vài bốn người cầm gươm gõ thanh la để lấy nhịp cho đi đều”. Rồi lính tráng nhà chúa đã cướp đoạt của quý của người dân như sau: “Dò xem nhà người ta có hoa chim đẹp thì biên ngay hai chữ Phụng thủ (vâng lệnh vua chúa mà lấy) vào lồng trúc chậu sứ rồi ngầm sai đem xe và tay chân đến lấy phăng đi, gán cho người ta tội giấu giếm vật cung phụng để hạch sách tiền của. Gặp hòn non bộ hay cái cây to quá, có khi phải phá nhà hủy tường để đưa ra. Những nhà giàu có khi phải bỏ hết của cải ra kêu xin. Nhiều nhà đập non bộ, phá cây cảnh để tránh tai họa”[23]. Nhưng, cho đến hôm nay, Vương phủ xưa hầu như không còn dấu vết gì. Các cơn binh hỏa, thiên tai và thời gian đã xóa hết dấu vết của Vương phủ. Những kiến trúc quy mô bị thiêu cháy, kéo theo những hoa viên đầy “kỳ hoa quái thạch” cũng không còn. Các tác phẩm điêu khắc chạm trổ trên đá, gỗ được bày biện trong phủ chúa xa hoa cũng không còn dấu vết. Bên cạnh Vương phủ, các dinh thự của các quan lại trong cung vua phủ chúa cũng mất dấu vết theo! Những hành cung của Chúa Trịnh tại Tây Hồ, Tử Trầm (Hà Tây cũ), Dũng Thúy (Ninh Bình) cũng không còn! Mảng kiến trúc các chùa chiền, đền miếu, lăng mộ quan đại thần được xây dựng dưới thời Lê Trịnh ở Thăng Long và các trấn trái lại còn nhiều dấu vết có thể khảo cứu được. Đó là những ngôi chùa đã trở thành danh lam cổ tự như: Bút Tháp (do bà hoàng Trịnh Thị Ngọc Trúc hưng công), Tây Phương (Trịnh Tạc sai trùng tu năm 1660), Nhạc Lâm (chúa và các phi tần có ghé thăm và đề thơ), Kim Liên (Trịnh Sâm sai trùng tu), Nga My (Trịnh Đỗ hưng công), Hàm Long (Trịnh Thập hưng công)…Những ngôi chùa này có diện mạo đẹp đẽ như ngày nay đều là do được xây dựng, trùng tu lớn dưới thời các chúa Trịnh. Chùa Bút Tháp với việc bố trí kiến trúc trải dài trên một trục thần đạo, xen giữa các cây cối, hoa cỏ, hồ nước, tháp mộ giữa một tổng thể cảnh quan đồng lúa và đê sông cho thấy một lối kiến trúc khoáng đạt. Hoa viên của Bút Tháp nói riêng của các chùa chiền đền miếu được xây dựng và tu bổ lớn dưới sự chỉ đạo của các chúa Trịnh hoặc sự hưng công của các quan lại, phi tần cung phi của chúa Trịnh đều có nét riêng đáng được xem là một nghệ thuật tiêu biểu. Đáng tiếc, vấn đề này chưa được thống kê, nghiên cứu và tổng kết. Phân tích các yếu tố Hoa và Việt trong bình đồ kiến trúc chùa Bút Tháp, GS Nguyễn Duy Hinh nhận định rằng kiến trúc Bút Tháp là lối kiến trúc viện lạc trong nghệ thuật kiến trúc Hoa[24]. Nhưng nhìn tổng thể kết cấu bố cục cũng như từng thành phần kiến trúc thì thấy rằng yếu tố Việt được hiện diện rất rõ ràng. Đặc biệt là tòa Tích Thiện Am bên trong có tháp Cửu phẩm liên hoa là một sản phẩm của Phật giáo Việt Nam, mặc dầu nguồn gốc của nó thuộc về Phật giáo Mật tông. Nó là sản phẩm có giá trị đặc biệt trong việc hình tượng hóa triết lý Phật giáo đặc sắc Việt Nam thế kỷ XVII. Đây cũng là một trong ba tòa tháp Cửu Phẩm bằng gỗ còn lại đến hôm nay ở nước ta[25]. Nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng nhận định rằng: “Kiến trúc, điêu khắc, trang trí Bút Tháp nằm gọn trong thế kỷ XVII là di tích kiến trúc nguyên vẹn đặc trưng nhất của nghệ thuật Phật giáo cổ điển Việt Nam”[26]. Chùa Kim Liên, chùa Tây Phương được bố trí bằng một bình đồ hình chữ “tam” là bình đồ kiến trúc được khẳng định là của người Việt[27]. Với hai ngôi chùa này kiến trúc và trang trí cung đình hoa mỹ đã được thể hiện trên rất nhiều thành phần kiến trúc. Không chỉ vậy, lối kiến trúc hình chữ “tam” này đã là tiền đề cho lối kiến trúc “trùng thiềm điệp ốc” rất độc đáo của cung điện thời Nguyễn sau này ở Huế. 2. Nghệ thuật điêu khắc trên đá, gỗ cũng là một di sản nghệ thuật Lê Trung hưng còn lại đến hôm nay. Thời đại này dường như có sự nở rộ của việc xây cất những lăng mộ của giới quý tộc. Những khu lăng mộ đá hiện còn rải rác khắp châu thổ sông Hồng và xứ Thanh như: lăng Ân vương Trịnh Doanh, lăng Quận Đăng, Phúc Khê hầu Nguyễn Văn Nghi, lăng Dương Lễ công Trịnh Đỗ (Thanh Hóa) lăng Họ Ngọ, Dinh Hương, lăng Bầu ( Bắc Giang), lăng Quận công Nguyễn Đức Nhuận (Yên Mỹ, Hưng Yên), lăng Quận Vân (Thường Tín, Hà Tây cũ)… là các lăng của các quận công, thái giám triều Lê Trịnh. Sự nở rộ của việc xây cất lăng mộ cho thấy sự quan tâm rất thiết yếu về một đời sống tâm linh của các tầng lớp trên, mong có một sự bền vững và thịnh vượng cho dòng họ cũng như quốc gia. Khi đặt lăng mộ họ luôn phải quan tâm đến yếu tố phong thủy của một cuộc đất tốt. Lăng mộ thời kỳ này vượt hẳn lên so với các triều đại trước đó về cả qui mô lẫn nghệ thuật điêu khắc. Nếu thời Lê Sơ mới đặt ra các chuẩn tắc trong việc xây dựng các lăng mộ theo công đức của người đã khuất nhưng trình độ điêu khắc đá còn rất thô sơ, thì đến giai đoạn này, nghệ thuật điêu khắc đá dường như đạt đến đỉnh cao. Từ các tượng quan văn võ cho đến các tượng voi ngựa đều được khắc tạc vô cùng sinh động. Kích thước của các tượng cũng khá lớn. Việc giải quyết khối trong không gian đã đạt đến một trình độ điêu luyện, đặc biệt là các tượng voi ngựa cho thấy trình độ quan sát rất kỹ lưỡng cũng như một tay nghề tuyệt hảo. Đồng thời, cùng với nghệ thuật điêu khắc chân dung được phát triển mạnh trong các đình chùa, hay nhà thờ họ, thì trên các điêu khắc đá ở lăng mộ tượng chân dung cũng vô cùng sinh động. Người ta có thể nhìn thấy ở đây những sự nhận xét rất sắc sảo trong việc điêu khắc chân dung, tướng mạo của các vị quan văn, quan võ hai bên tả hữu của một khu lăng mộ. Đây cũng là tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và quy củ hơn của nghệ thuật điêu khắc lăng mộ thời Nguyễn ở Huế. Mặc dầu đứng trên giá trị nghệ thuật mà nói tính chất dân gian trong các chạm khắc đá lăng mộ thời Lê Trung Hưng cho thấy một tinh thần phóng khoáng hơn nhiều so với tính chất khô lạnh của các điêu khắc lăng mộ giai đoạn sau. Chưa kể đến, nghệ thuật thiết kế kiến trúc lăng mộ giai đoạn này còn mang nhiều ý thức giải Hoa như sự biến báo của lối thiết kế trục đường thần đạo của một công trình. Các hạng mục công trình như đền thờ và lăng mộ không nhất thiết phải tạo ra trên một trục dọc, mà chúng tùy ứng theo địa thế phong thủy. Tính chất đăng đối giả cũng được chú ý đến, khiến cho các công trình điêu khắc này tạo ra những nét thú vị đặc biệt. Về đề tài chạm khắc ở các lăng mộ cũng rất phong phú, đa dạng những mô típ như khỉ, chuột, cá, chim cò, hoa cỏ được hiện diện ở khắp nơi dường như đã rời xa ảnh hưởng của Trung Hoa. Thế giới bên kia, nơi mà các chủ nhân của các ngôi mộ yên nghỉ đời đời được trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc đá rất mềm mại, thuần Việt, thể hiện quan niệm “sống gửi thác về”. Nếu như các lăng mộ của giới quý tộc Trung Hoa biểu thị một sự uy nghiêm, cách bức với trần thế, thì các lăng mộ của Việt Nam dưới thời Lê Trung Hưng luôn gần gũi với những người còn sống: giữa đồng lúa nương dâu và bên cạnh các xóm làng bình yên. Bên cạnh những điêu khắc đá ở lăng mộ quý tộc, là hệ thống văn bia không chỉ ở lăng mộ mà ở khắp các đền, đình, chùa chiền. Các văn bia thời Lê Trung Hưng cũng cho thấy một trình độ điêu khắc rất đặc sắc. Các mô típ trang trí trên diềm, hay trán bia thời này rất đa dạng. Không chỉ có rồng chầu mặt nhật, nguyệt, mà còn xuất hiện rất nhiều các dạng như tiên cưỡi rồng, hạc, phượng, thậm chí phía dưới chân bia còn có những hình ảnh như tôm, cua, cá, hay khỉ… Xen lẫn vào đó là những biểu tượng tùng, cúc, trúc mai của văn hóa Nho giáo. Điều này cho thấy tính chất giải Hoa và tâm thức dân gian đậm nét. Chúng đồng thời bộc lộ ra tính cách tự do phóng túng của người Việt trong việc tạo tác các hình thức biểu tượng, mà đôi khi ưu điểm này lại trở thành nhược điểm bới tính tùy tiện của các nghệ nhân dân gian. Đôi khi trên một số trán bia người ta còn thấy ở đó tính chất trào lộng dân gian rất đậm nét được vận dụng theo kiểu liên tưởng giữa biểu tượng và nghĩa chữ. Ví dụ trên một tấm bia phong hầu thế kỷ XVII người ta đã khắc vào đó hình ảnh của một con ong (phong) và một con khỉ (hầu), bên cạnh hai chữ phong hầu, hay trên một đồ án khác lại có hình ảnh con khỉ cưỡi trên lưng ngựa có nghĩa là “thượng mã phong hầu”[28] v.v. Những biểu tượng mang nghĩa chữ như vậy rất phổ biến trong nghệ thuật chạm khắc bia đá thời Lê – Trịnh. Biểu tượng rồng trong nghệ thuật thời Lê - Trịnh cũng có những nét chuyển biến nhất định. Nó đã kiến tạo nên những nét phóng túng là làm nên sự đa dạng trong văn hóa Việt. Con rồng dường như được nhìn và thể hiện trên nhiều góc độ khác nhau, lối chuyển động của mình rồng cũng vô cùng đa dạng. Các mô típ rồng hóa mây, hóa lá, hóa trúc bắt đầu phát triển từ thời Lê Sơ thì đến giai đoạn này đã tạo nên được những dạng vẻ vô cùng phong phú. Trên các cốn, bẩy, đầu dư, hình tượng rồng như tràn vào đình làng tạo thành biểu tượng của làng xã. Những con rồng không biểu tượng cho vua nữa mà trở thành biểu tượng cho nền văn hóa nông nghiệp, biểu tượng cho nguồn nước, cho nên ở giai đoạn thế kỷ XVII – XVIII, những con rồng này chỉ có 3 đến 4 móng, mà không bao giờ xuất hiện dạng rồng năm móng ở những chốn này. Sự xuất hiện của rồng đơn, rồng ổ, tiên cưỡi rồng thổi sáo đánh đàn và rồng trong đám quần ngư tranh thực, hay được chạm chung với cua, cá … đã trở thành một hình ảnh quen thuộc đối với hầu hết những người dân. Người ta cũng bắt gặp những biểu tượng rồng được gắn với biểu tượng của nghĩa chữ như trên các đồ án trên bia đá. Con rồng với những đôi tai như những chiếc cánh dơi, đã trở thành biểu tượng của điềm lành. Có lẽ đây chính là điểm đặc sắc nhất của nghệ thuật thời Lê Trung Hưng, mà người ta có thể thấy được tính chất giải Hoa hoàn toàn trên các biểu tượng con rồng. Ngoài ra biểu tượng phượng cũng vậy, dường như không có bất kỳ tính quy chuẩn nào cho những hình tượng này. Thậm chí ở một số di tích thuộc cấp quốc gia như đền Vua Đinh, Gia Viễn, Ninh Bình, những con phượng được chạm trên trán bia được hình dung như những con gà cồ. Hình ảnh kỳ lân (kỳ là con đực, lân là con cái), nghê, hay ly, xô trên mái đình cũng như những chạm khắc trong các đình làng là những con vật hư cấu có dạng vẻ gần giống nhau đã được thể hiện vô cùng phong phú. Chúng vừa có những nét học được từ biểu tượng sư tử vờn cầu của nghệ thuật Trung Hoa, nhưng cũng ngay lập tức biến báo cho phù hợp với thẩm mỹ của người Việt. Như vậy có thể nói bộ tứ linh vốn được nhập từ văn hóa Trung Hoa vào Việt Nam, nhưng người Việt đã sáng tạo ra những biểu tượng, kiểu dạng tứ linh của riêng mình và cũng đặt cho chúng những tên gọi khác nhau cho mình mà không theo những mẫu thức có sẵn của Trung Hoa. Cùng với di sản kiến trúc, chùa Bút Tháp còn có hệ thống tượng pháp được coi là đỉnh cao của nghệ thuật Phật giáo và nghệ thuật điêu khắc tượng chân dung của Việt Nam. Hàng loạt những tượng chân dung các vị hoàng thân quốc thích hiện nay được đặt trong các ngai thờ nhà Tổ của chùa là một minh chứng rất rõ rệt cho sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc chân dung thế kỷ XVII. Không chỉ chân dung mà tính chân thực của những trang phục được điêu khắc cũng giúp chúng ta hình dung được đời sống vương phủ trước đây. Không chỉ thế, do các bà hoàng đã qui y Phật pháp nên trên các đồ phục trang người ta thường thấy các vị có đội mũ Quan Âm có gắn tượng đức Adiđà nhỏ ở phía trước mũ. Đây cũng là sáng tạo độc đáo của các nghệ nhân dân gian.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:43:28 GMT 9
Những pho tượng như Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, hay tượng Tuyết Sơn, có thể chịu ảnh hưởng một phần từ nghệ thuật điêu khắc Trung Hoa, nhưng nó đã trở nên thuần Việt và dung dị. Trên gương mặt của các vị Phật này người ta ít thấy tính chất lý tưởng hóa một cách khô cứng hay thị uy như nghệ thuật Trung Hoa, mà là lòng từ, là sự gần gũi phổ độ chúng sinh. Đó cũng là tinh thần của Phật giáo Việt Nam, nơi bất cứ người dân thường nào cũng có thể tìm đến và san sẻ niềm đau nỗi khổ, tìm được những giây phút thanh thản trong cõi lòng.
3. Nghệ thuật gốm sứ Lê Trung hưng cũng là một nét nổi bật của thời kỳ này. Dưới thời Lê Trung hưng, do việc mở rộng giao thương, các thuyền buôn Anh, Hà Lan, Nhật Bản giới quý tộc cũng đã dùng các đồ gốm sứ ngoại, do được biếu tặng. Đặng tộc gia phả có ghi lại được bài thơ dâng đồ quý lên Trịnh Cương gồm nậm rượu và ấm pha trà của Trung Hoa, đồ sứ Nhật Bản, đồ thủy tinh Hòa Lan. Việc dùng đồ ngoại quốc tất nhiên là không loại trừ nhưng chúng ta ai cũng biết rằng các chúa Trịnh đã cho người sang Trung Hoa đặt làm rất nhiều chủng loại đồ sứ. Đồ sứ ấy gọi là đồ sứ ký kiểu. Nhà chúa cũng ra qui định từ hoàng tử đến cac vương thân và quan lại đều được dùng đồ ký kiểu Trung Hoa nhưng trừ những thứ vẽ rồng năm móng. Và “để cho có những dấu ấn riêng biệt nhà Trịnh đã cho vẽ mẫu phong cảnh đất Việt, trang trí hoa lá, thảo trùng Việt để dùng trong vương triều mang tính dân tộc tự chủ cao”[29]. Điều này cho thấy mặc dầu dùng đồ Trung Hoa nhưng, không hề phụ thuộc vào các sản phẩm đó, mà các chúa đã biết tạo ra cho mình một bản sắc riêng.
Theo như giới nghiên cứu cũng như giới sành cổ ngoạn, thì đồ sứ ký kiểu thời Lê – Trịnh được đánh giá cao, rất có giá trên thị trường cổ vật ở khu vực và trên thế giới.
Ngoài ra trong các hình thức nghệ thuật giai đoạn này thì đồ gốm men lam đặc biệt phát triển. Gốm men lam thời Lê Trung Hưng dường như đã được kế thừa một thành quả to lớn từ kiểu dáng đến kỹ thuật gốm thời Mạc. Cốt gốm dày thô, các kiểu đắp, khắc cũng được tận dụng như một lợi thế to lớn trong việc tạo ra sự thay đổi trên cùng một sản phẩm gốm. Các hình thức hoa văn trên các đĩa, lọ, chân đèn vốn đã khá phát triển vào thời Mạc, thì nay thêm phần phóng túng. Có lẽ do sự ảnh hưởng của đồ sứ ký kiểu nhập từ Trung Hoa, nên giai đoạn này xuất hiện khá nhiều những mẫu hình kiểu Trung Hoa trên các sản phẩm này. Nó là sự pha trộn giữa thẩm mỹ dân gian và thẩm mỹ cung đình, nhưng đồng thời trên chính các mẫu thức này người ta lại thấy ý thức giải Hoa rất rõ ràng. Cùng là mô típ họa tiết đó, nhưng các nghệ nhân đã cố tình thay đổi sao cho chúng có vẻ thuần Việt. Những họa tiết như chim loan, chim trĩ, đặc biệt là các con long mã dỡn sóng hay long mã đội chữ Thọ rất sinh động và có tính tượng trưng cao độ. Đặc biệt hơn nữa là các dạng họa tiết như sen - cua hay sen - uyên ương, rồi các mẫu cá trên các đĩa như thế một bức tranh khái lược trên gốm.
Minh văn cũng là một đặc trưng cho loại hình gốm thời Lê Trung Hưng, nó là sự kế thừa phát triển từ thời Mạc. Không chỉ chữ Hán, mà người ta còn khắc vẽ cả chữ Nôm lên các bình lọ gốm hay chân đèn thời này. Có rất nhiều cách thức khắc vẽ chữ Hán Nôm lên gốm như khắc chìm đúc nổi, hoặc khắc rồi phủ mem lên cũng có trường hợp viết bằng men trực tiếp lên cốt gốm, nhưng đa phần lối khắc vẽ này thường theo dạng chữ chân phương, dường như không thấy có trường hợp nào dùng lối chữ triện hay bố cục khối chữ triện như trên đồ gốm sứ Trung Hoa. Những chữ đầu dòng thuộc niên hiệu hay vương triều thường được khắc viết “đài” theo qui định tôn kính giống như trên bia ký. Thậm chí lối viết tắt cũng chỉ thấy trong các dạng văn tự Việt, như trường hợp hai chữ “Vạn” liền nhau, thì chữ “vạn” thứ 2 được ký hiệu. Điều này không bao giờ xảy ra trong lối hành văn Trung Hoa. Trên các lư hương thế kỷ XVII lối viết minh văn dưới đế rất phổ biến, khác xa với lối viết minh văn của gốm Mạc trước đó[30].
Ngoài ra giai đoạn này còn có thêm dạng men rạn kết hợp với rất nhiều những hình đắp nổi đề tài tứ linh, tứ quí, cũng tạo nên những sản phẩm độc đáo. Các dạng ấm con phượng hay chân đèn con nghê đội cũng cho người ta thấy sự phát triển đến trình độ cao trong kỹ thuật gốm sứ giai đoạn này.
4. Nghệ thuật âm nhạc và vũ đạo thời Lê – Trịnh cũng có nhiều điểm đáng chú ý, thể hiện được một tinh thần xây dựng một nền văn hóa thuần Việt, phi Hoa, đối thoại với Trung Hoa.
Với âm nhạc, đó là một lối hát cửa quyền được diễn ra trong phủ chúa và các dinh thự lớn. Biên chế dàn nhạc trong cung gồm: trúc sinh (đàn khô), thiết huyền sắt, đàn cửu huyền, đàn thất huyền, đàn tranh. Phạm Đình Hổ ghi nhận: “Tiếng hát trong cung trau chuốt, uyển chuyển, thanh nhã”[31].
Những điệu hát ca trù cổ, tương truyền có từ thời Lê Trịnh như điệu Thét nhạc, điệu Bắc phản đều dùng lời ca tiếng Việt (chữ Nôm) mà không dùng lời chữ Hán. Trong dân gian, âm nhạc giáo phường rất thịnh hành. Theo Phạm Đình Hổ, nhạc khí trong giáo phường đã rất phong phú, gồm: trường trúc, trúc địch (tiêu), yêu cổ (trống cơm), đới cầm (đàn đáy), địch quản (quyển nhị), phách, sênh, đan diện cổ (trống mảnh)[32].
Dưới thời Lê Trung hưng, các chúa Trịnh cho tổ chức đội quân nhạc Bả lệnh Ngũ quân có từ thời Lê Sơ thành ra đội Bả lệnh để “nắm giữ việc âm nhạc trong phủ chúa và các tư gia”. “Quan phủ có việc cần đến hoặc các việc tang tế trong dân gian đều do đội Bả lệnh làm”. Biên chế dàn nhạc của đội Bả lệnh có: trống, mõ, trống phong yêu (trống tầm bông), xúy quản (kèn), tiểu xúy quản (kèn tiểu), trùng quyển xúy quản (kèn tổ sâu)[33].
Ngoài ra, nghệ thuật thời Lê Trung hưng còn thể hiện ở trang phục[34] và nghệ thuật uống trà[35].
Nhận xét về nghệ thuật nhà Trịnh, sách Mỹ thuật Châu Á viết: “Nghệ thuật nhà Trịnh (1533 – 1789) được đánh dấu là từ cuối thế kỷ 16 bằng sự phát triển các công trình tưởng nhớ tổ tiên và các anh hùng dân tộc …phục hưng các công trình nghệ thuật cổ: Xu hướng “dân tộc” đã dẫn đến trong các lĩnh vực trang trí điêu khắc, từ bỏ các đề tài chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, thay thế bằng một phong cách và quan niệm thẩm mỹ độc đáo hơn với các hình dạng phức tạp hơn”[36]. Kết luận:
1. Từ thành tựu kinh tế, chính trị và ngoại giao các chúa Trịnh đã tỏ rõ ý đồ xây dựng một nền văn hóa Đại Việt độc lập, trong thế phi Hoa, giải Hoa, và đối thoại với Trung Hoa.
2. Ý chí đó của các chúa Trịnh đã được thể hiện trên nhiều lĩnh vực văn hóa: Lễ nhạc và văn chương, kiến trúc, điêu khắc, gốm sứ, âm nhạc và vũ đạo, trang phục, ẩm thực. Cách thể hiện ở mỗi lĩnh vực có khác nhau, nhưng đã cho thấy rõ ràng ý đồ gây dựng nền văn hóa thuần Việt từ triều đình, phủ chúa đến nhân dân, từ trong Kinh ra ngoài trấn, từ quan lại đến bách tính.
3. Văn hóa Đại Việt dưới thời Lê – Trịnh do các chúa Trịnh dốc lòng khởi xướng và thực hành đã để lại một di sản lớn cho đất nước, bao gồm cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Nền văn hóa Đại Việt được gây dựng dưới đời Lê Trung hưng là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử đặc biệt, làm nên sự khác biệt với các thời kỳ trước và sau đó. Sự khác biệt đó trước hết là do các triều đại trước đó đã rập khuôn theo với Trung Hoa một cách cứng nhắc mà không hề tính đến việc phải giải Hoa, đối thoại với Trung Hoa, còn triều Nguyễn sau này thì rập khuôn máy móc theo Trung Hoa và tước đoạt đi sự sáng tạo và tinh thần Việt phóng khoáng trên mỗi một tác phẩm nghệ thuật.
4. Mặc dù đã có các công trình nghiên cứu, các hội thảo đánh giá về nhà Trịnh nhưng nhiều vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ, nhiều tư liệu chưa được tập hợp, đánh giá khai thác để có thể tiếp thu và phát huy di sản văn hóa của thời đại Lê Trung hưng trong thời đại mới. Vì thế, vấn đề văn hóa và nghệ thuật Lê – Trịnh vẫn cần được nghiên cứu và thảo luận sâu hơn nữa, để hiểu biết về thời đại Lê Trung hưng ngày càng được rõ ràng và khoa học.
Hà Nội, tháng 6 năm 2009.
Tài liệu tham khảo chính:
1. Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có minh văn thế kỷ XV – XIX. Nguyễn Đình Chiến. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam xuất bản, 1999, 225 tr.
2. Chúa Trịnh - Vị trí và vai trò lịch sử. Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hóa xuất bản, 1995.
3. Đại Việt sử ký toàn thư. 4 tập. Nxb KHXH, H, 1993.
4. Điêu khắc cổ Việt Nam. Phan Cẩm Thượng. Nxb Mỹ thuật, H, 1997.
5. Hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam. Nhiều tác giả. ĐH Mỹ thuật Hà Nội xuất bản, 2002.
6. Họ Trịnh và Thăng Long. Bỉnh Di và Quang Vũ. Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2000. 187 tr.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Quốc sử quán triều Nguyễn. Hai tập. Nxb. Giáo dục, H, 1998.
8. Lịch sử và Nghệ thuật Ca trù. Nguyễn Xuân Diện. Nxb. Thế Giới, H, 2007, 210 tr.
9. Lịch triều hiến chương loại chí . Phan Huy Chú. 2 tập. Nxb. Giáo dục, H, 2007.
10. Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành. Nhiều tác giả. Nxb. Thế giới, 2009. 858 tr.
11. Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Bản in lại . Nxb.Văn học , H. 1992.
12. Tháp Cửu phẩm liên hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam. Trang Thanh Hiền. Nxb. Thế Giới, H, 2006.
13. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập I. Trần Văn Giáp. Nxb. Văn hóa, H. 1984.
14. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II. Trần Văn Giáp. Nxb. KHXH, H. 1990.
15. Tổng tập Văn học Nôm. Tập II. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2008, 717 tr.
16. Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 5. Bùi Duy Tân chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2000.
17. Trang phục triều Lê – Trịnh. Họa sĩ Trịnh Quang Vũ. Nxb. Từ điển Bách khoa, H, 2008.
18. Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nhiều tác giả. Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2009. 315 tr.
19. Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế. Nxb. KHXH, H. 1991.
20. Từ điển tác gia văn hóa Việt Nam. Nguyễn Quang Thắng.. Nxb. Văn hóa Thông tin, H. 1999.
21. Tuyển tập Thơ Ca trù. Ngô Linh Ngọc - Ngô Văn Phú:. Nxb. Văn học, H. 1987.
22. Việt Nam ca trù biên khảo. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Sài Gòn, 1962.
23. Vũ trung tùy bút. Phạm Đình Hổ. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003. 503 tr.
[1] Trần Ngọc Vương, với bài Lưỡng đầu chế thời Lê Trịnh và những hệ quả lịch sử của nó, in trong sách Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành. Nxb. Thế giới, 2009, tr. 630-657; và Bùi Thiết với bài Thử lý giải hiện tượng song trùng quyền lực vua Lê – chúa Trịnh trong lịch sử Việt Nam, in trong sách Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. VHTT, H, 2009, tr.103-107.
[2] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 466.
[3] Lịch triều hiến chương loại chí. Phan Huy Chú. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H. 2007, tr. 139 – 140.
[4] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 258.
[5] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 262.
[6] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 416.
[7] Bỉnh Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb. Văn hóa dân tộc. H, 2000, tr. 84-85.
[8] Nguyễn Xuân Diện và Đinh Thanh Hiếu: Về năm bản nhạc chương Nôm đời Lê. Tạp chí Hán Nôm số 4 (45) – 2000, tr. 62 – 72.
[9] Tổng tập Văn học Nôm. Tập 2. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2008, tr.20-21.
[10] Tổng tập Văn học Nôm. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2009.
[11] Nguyễn Xuân Diện Về bài Ngự chế Quốc âm từ khúc của Trịnh Sâm trong sách Bình Ninh thực lục. Tạp chí Hán Nôm số 1 (62) – 2004, tr. 68 – 73.
[12] Các tác giả của Việt Nam ca trù biên khảo dẫn sách Ca trù bị khảo, cho rằng “Lối Thổng do chúa Trịnh đặt ra nên gọi là Thổng cửa quyền”(sdd, tr.67). Hiện nay chưa tìm được tài liệu Hán Nôm nào khẳng định chúa Trịnh (Trịnh Sâm) là người sáng tạo ra điệu Thổng trong ca trù. Và hiện cũng chưa tìm được cuốn Ca trù bị khảo mà Việt Nam ca trù biên khảo dẫn.
[13] Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. VHTT, H, tr. 194 – 203.
[14] Xem: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, H, 1985, 260 tr. Và bài Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm của Ngô Đức Thọ trên tạp chí Hán Nôm số 3 (70) – 2005, tr 25-35. Ngoài ra, các tác giả Trần Văn Giáp (1969), Hoa Bằng (1971), Nguyễn Tài Cẩn (1985), Đào Duy Anh (1975), Lê Văn Quán (1981) cũng có các nhận xét và nghiên cứu về văn bản Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.
[15] Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 16.
[16] Lê triều chiếu lệnh thiện chính. Bản chữ Hán A.257. Dẫn theo Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 16-17.
[17] Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 17.
[18] Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 17.
[19] Xem: Họ Trịnh và Thăng Long của Bỉnh Di và Quang Vũ. Nxb. VHDT, H.2000, tr. 94-95.
[20] Bình Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2000, tr. 113.
[21] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 208.
[22] Bỉnh Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2000, tr. 144.
[23] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 36-37.
[24] Nguyễn Duy Hinh: Yếu tố Hoa – Việt trong kiến trúc chùa chiền Việt Nam. In trong sách Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử. Nxb. Thế giới, H, 1988. tr. 129 – 148.
[25] Trang Thanh Hiền: Tháp Cửu phẩm liên hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam. Nxb. Thế Giới, H, 2006.
[26] Phan Cẩm Thượng: Chùa Bút Tháp. Nxb Mỹ thuật, H, 1996.
[27] Nguyễn Khắc Tụng: Nhận biết yếu tố Hoa – Việt trong kiến trúc nhà ở cổ truyền của người Việt và ngược lại. In trong sách Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử. Nxb. Thế giới, H, 1988. tr. 122.
[28] Trần Hậu Yên Thế: Lời thuyết minh trong triển lãm Các phương pháp nghiên cứu mỹ thuật cổ. ĐH Mỹ thuật, tháng 4 năm 2009.
[29] Bình Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2000, tr. 150.
[30] Nguyễn Đình Chiến: Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có minh văn thế kỷ XV – XIX, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, H 1999.
[31] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 85.
[32] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 83 – 84.
[33] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 81 – 82 và 85 - 86.
[34] Trịnh Quang Vũ: Trang phục triều Lê – Trịnh. Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 2008. 363 tr.
[35] Xem bài Chúa Trịnh Sâm nâng cao nghệ thuật trà Việt của Trương Thị Kim Dung, in trong sách Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. VHTT, H. 2009, tr. 248- 253.
[36] Dẫn theo Trịnh Quang Vũ: Trang phục triều Lê – Trịnh. Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 2008. tr. 10.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:45:05 GMT 9
Tổng quan tài liệu Nho giáo và Nho học ở viện nghiên cứu Hán Nôm Vietsciences-Nguyễn Xuân Diện 1. Mở đầu 1.1. Chúng ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo của các học giả danh tiếng, được xuất bản trong suốt thế kỷ XX, trong đó nhiều vấn đề của Nho giáo và Nho học được nhìn nhận và đi vào xu hướng tổng kết. Tuy nhiên, có một thực tế rằng, tài liệu về Nho học và Nho giáo Việt Nam viết bằng chữ Hán Nôm chưa từng được thống kê, miêu tả và chưa từng được khai thác, dịch thuật một cách có hệ thống. Và do vậy dẫn đến chưa sử dụng một cách có hiệu quả kho sách này trong việc đánh giá các giá trị của Nho giáo và Nho học trong quá khứ cũng như những ảnh hưởng trong hiện tại. Trong các cứ liệu về Nho giáo và Nho học thì các tư liệu viết bằng chữ Hán Nôm là quan trọng bậc nhất, vì chúng được biên soạn ngay trong thời kỳ Nho giáo còn thịnh, và là các cứ liệu trực tiếp nhất về Nho giáo và Nho học trong lịch sử. 1.2. Vấn đề biên soạn thư mục tổng hợp về Nho học và Nho giáo cũng đã từng được chú ý. Vào năm 1973, một bản thư mục như vậy đã được hoàn thành tại Thư viện Khoa học xã hội Hà Nội, dưới hình thức in rô-nê-ô. Trong thư mục này đề cập đến 4 mảng tài liệu: tài liệu tiếng Việt (53 tên tài liệu), tài liệu bằng tiếng Pháp (63 tên tài liệu), tài liệu bằng tiếng Nhật (14 tên tài liệu), tài liệu bằng chữ Hán Nôm (82 tên tài liệu). Đây chỉ là các tài liệu về Nho học và Nho giáo tại Thư viện Khoa học xã hội Hà Nội, và các tài liệu được lựa chọn thì theo một tiêu chí hẹp. Trong bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu , Nxb. KHXH, H. 1993, phần Sách dẫn có mục Nho giáo, cho biết có 147 tên tài liệu về Nho giáo. Trong cuốn sách Bản sắc văn hóa Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 1998, GS. Phan Ngọc cũng dựa trên những bảng tra cứu, sách dẫn trong bộ sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu , kết hợp với các thống kê mới do ông thực hiện, để bàn về vai trò của giới trí thức trong văn hóa Việt Nam. Kết quả là GS. Phan Ngọc, đã phân tích và cung cấp nhiều thông tin bổ ích và những tổng kết về di sản Hán Nôm nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. Nhận thức được ý nghĩa của một bản thư mục Hán Nôm về Nho giáo và Nho học chúng tôi đã đề xuất với lãnh đạo Phòng Thông tin - Tư liệu - Thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, biên soạn một bản thư mục, đề xuất này đã được ủng hộ và tạo điều kiện để triển khai. Bài viết dựa trên bản thư mục nói trên(1), phạm vi tài liệu trong bài viết và thư mục của chúng tôi là chỉ đề cập đến các tài liệu ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã được miêu tả trong sách Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu và nêu lên những nhận xét bước đầu về vấn đề này. 2. Thống kê các tác phẩm về Nho giáo và Nho học tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện đang lưu trữ một khối lượng tài liệu Hán Nôm lớn nhất Việt Nam; trong đó, theo thống kê có thể là chưa đầy đủ của chúng tôi có 1.689 tên tài liệu về Nho giáo và Nho học. Chúng tôi chia các tài liệu này thành 2 nhóm như sau: 2.1. Tài liệu kinh điển Nho gia, (81 tên tài liệu) Đây là tài liệu gốc và trực tiếp để nghiên cứu về Nho học và Nho giáo Việt Nam trong lịch sử. Sự xuất hiện của các tài liệu này tại Việt Nam là một vấn đề đáng được nghiên cứu, trong đó có một số gợi ý đi sâu như: Tác phẩm kinh điển Nho học vào Việt Nam đầu tiên là tác phẩm nào ? Tác phẩm kinh điển đến Việt Nam bằng con đường nào ? Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam thì thời gian nào, triều đại nào xuất hiện nhiều tác phẩm Nho giáo nhất và lý do vì sao ? Người xưa đã bàn về kinh điển hoặc tóm tắt kinh điển như thế nào ? Về kinh điển nho gia có 81 tên tài liệu, trong số này: - Về Tứ thư : 14 tên tài liệu; Về Ngũ kinh : 19 tên tài liệu, - Tóm tắt kinh điển (toát yếu, tiết yếu): 15 tên tài liệu, - Chú giải kinh điển: 15 tên tài liệu, - Bản dịch kinh điển sang quốc âm (chữ Nôm): 25 tên tài liệu, - Bình giải về kinh điển: 9 tên tài liệu, - Bàn về kinh điển dưới dạng văn sách: 150 tên tài liệu. Về mảng tài liệu này chúng ta thấy có các tác gia nổi tiếng trong thế kỷ XVIII như Ngô Thì Nhậm (Xuân thu quản kiến), Lê Quý Đôn (Tứ thư ước giải), Phạm Nguyễn Du (Luận ngữ ngu án),... bàn luận rất sâu về tư tưởng Nho giáo và các khía cạnh có liên quan. 2.2. Tài liệu phản ánh ảnh hưởng của Nho giáo và Nho học tại Việt Nam Vấn đề này có đến 1.608 tên tài liệu, bao quát nhiều lĩnh vực trong đời sống quá khứ như: văn học, giáo dục, đạo đức, luật pháp, chế độ, sử học, lễ nghi. Dưới đây sẽ đề cập đến từng lĩnh vực nêu trên. - Văn học Nho giáo (1.246 tên tài liệu) Văn học Nho giáo là một nền văn học do các trí thức Nho giáo sáng tác, dựa trên tư tưởng và thẩm mỹ theo quan điểm của Nho giáo. Đây là các tác phẩm văn học được viết bằng nhiều thể loại khác nhau, trong số các tác giả có những tên tuổi lớn được ghi nhận trong nền văn học Việt Nam như: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đoàn Thị Điểm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Tự Đức, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh... Trong phần này, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến thơ vịnh sử - một loại đề tài rất phổ biến trong văn học trung đại, được gợi ra từ cảm hứng lịch sử Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, khác với một tác phẩm sử biên niên hay một tác phẩm sử học trong đó tính biên niên, tính nghiêm cẩn của sử bút được đề cao lên hàng đầu, thơ vịnh sử đánh giá và bình luận về một nhân vật hoặc một sự kiện lịch sử nào đó bằng hình tượng văn học và ngôn ngữ thi ca. Qua đó tác giả rút ra những bài học, coi như một tấm gương soi và gửi gắm quan điểm nhân sinh của mình. Sự chọn lựa nhân vật hay sự kiện lịch sử nào không hoàn toàn tùy thuộc vào tầm vóc của nhân vật hoặc sự kiện mà tuỳ thuộc vào cảm hứng rất riêng của người viết. Đây là tài liệu rất hữu ích cho việc nghiên cứu về văn học và tư tưởng của Việt Nam trong quá khứ. Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu trữ 112 tài liệu thơ vịnh sử. Cuốn sách tập hợp được nhiều tác phẩm thơ vịnh sử nhất là Vịnh sử hợp tập (1 bản viết tay, 246 trang, VHv1785). Sách này do Dương Thúc Hiệp đề tựa năm Nhâm Dần, niên hiệu Thành Thái (1902), chép đến 900 bài thơ vịnh sử Trung Quốc của các tác giả Việt Nam Phạm Vĩ Khiêm, Nguyễn Đức Đạt, Dương Thúc Hiệp... Xếp sau Vịnh sử hợp tập về số lượng bài thơ là Vịnh sử thi tập (6 bản in, 252 trang, gồm các bản: VHv.1456, VHv.1782, VHv.1783, VHv.2268, VHv.2269, VHv.800/2). Bộ sách có 570 bài thơ vịnh 225 nhân vật lịch sử Trung Quốc. Trong khi đó có các tác giả như Đặng Minh Khiêm (với Thoát Hiên vịnh sử thi tập, Hà Nhiệm Đại (với Khiếu vịnh thi tập ), Tự Đức (với Ngự chế Việt sử tổng vịnh) lại lấy đề tài từ sử Việt Nam. - Giáo dục và Khoa cử Nho giáo (537 tên tài liệu) Chọn người tài vào bộ máy hành chính thông qua các cuộc thi về học vấn là một hình thức phổ biến ở Trung Quốc và các nước Đông Á chịu ảnh hưởng Nho giáo. Hệ thống khoa cử để cho tất cả mọi người đều có cơ hội thể hiện tài năng và trình độ học vấn là một trong những ưu việt của các nước này, đã từng được đánh giá và ca ngợi. Tuy nhiên, lối học từ chương, sáo rỗng và khuôn mẫu đã làm cản trở sự phát triển khoa học tự nhiên và kỹ thuật ở các nước này trong quá khứ. Thống kê cho thấy có đến 439 tên tài liệu về khoa cử. Trong số này có đến 332 tên tài liệu là tập hợp các bài văn mẫu làm tài liệu tham khảo cho những người học thi; chỉ có 1 cuốn nói về hệ thống bài thi và 30 cuốn đề cập đến phép thi, quy chế thi cử. Sách giáo khoa chỉ có 22 cuốn, chủ yếu là những sách do Ban Tu thư ở Huế biên soạn để dạy học trò theo lối mới vào đầu thế kỷ XX, theo chủ trương của Dương Lâm, Đoàn Triển, Bùi Hướng Thành, Đỗ Văn Tâm. Trong suốt thời kỳ khoa cử Nho giáo, những người đi thi, đều có khát vọng được ghi danh trên bảng vàng bia đá, lưu mãi tiếng thơm, đều có khát vọng cống hiến cho triều đình và đất nước. Tên tuổi, quê quán của những người đỗ đạt trong các cuộc thi Nho giáo được chép trong loại tài liệu gọi là Đăng khoa lục (sách cho các thông tin về những người thi đỗ). Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm có lưu trữ 78 tên tài liệu (có tên gồm nhiều cuốn). Trong đó có 38 cuốn đã được sử dụng để biên soạn cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919, Ngô Đức Thọ chủ biên, Nhà xuất bản Văn học năm 1993, với các thông tin chủ yếu nhất về các nhà trí thức Nho học Việt Nam đã trúng tuyển trong các kỳ thi đại khoa (tức thi Hội và thi Đình) do triều đình tổ chức. Liên quan đến giáo dục Nho giáo, còn phải kể đến các tài liệu về Văn Miếu, là những thiết chế văn hóa phục vụ cho việc tôn vinh Đức Khổng Tử - vị “Vạn Thế Sư Biểu” của Nho giáo, và Quốc Tử giám là nơi đào tạo những người con ưu tú có triển vọng về học vấn. Thống kê cho biết có 20 tài liệu nói về văn miếu, bao gồm cả Văn miếu Hà Nội, Văn miếu Huế và văn miếu các tỉnh; có 9 tài liệu nói về Quốc Tử giám Hà Nội và Huế. - Đạo đức Nho giáo (134 tên tài liệu) Đạo đức Nho giáo cũng là một vấn đề có vị trí nổi bật trong thư tịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Và theo thống kê thì Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu trữ 134 tài liệu về vấn đề này. Các tài liệu loại này gồm: 1. Chuyện các nhà hiền triết nhân từ, các danh nho khí tiết, chuyện những người hiếu thảo, 2. Đạo đức của người làm quan, 3. Các sách về gia đình truyền thống v.v.... Trong mảng tài liệu về đạo đức Nho giáo, chúng tôi đặc biệt chú ý đến vấn đề gia đình truyền thống mà GS. Trần Đình Hượu đã từng có những nghiên cứu và có những tổng kết rất bổ ích và quan trọng. Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 61 tên tài liệu về gia đình truyền thống, đấy là chưa kể đến 264 cuốn gia phả của các dòng họ. Trong số tài liệu trên có tới 51 tên tài liệu về gia huấn. Về gia huấn, trên Tạp chí Hán Nôm số 3 (28) - 1996, tác giả Lê Thu Hương đã thông báo có khoảng 34 tên tài liệu. Bản gia huấn có niên đại sớm nhất mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ là Cùng đạt gia huấn (VHv.286). Đây là một bản viết tay, có niên đại 1733, do Hồ Phi Tích soạn. Cuốn này chép những bài học kinh nghiệm trong cuộc đời của ông, dạy con cháu trong nhà giữ gìn nền nếp, biết cần kiệm, cẩn thận, khiêm tốn, tránh kiêu căng, xa xỉ, đắm chìm trong chuyện rượu chè... Nói chung, sách gia huấn nêu ra những chuẩn mực ứng xử trong gia đình như cha con, vợ chồng, anh em, hoặc mở rộng ra trong mối quan hệ xã hội (quan hệ láng giềng, bạn bè). Một số bản còn đề cập đến giáo dục giới tính cho con trai, con gái (Hành tham quan gia huấn, Nữ huấn tam tự thư, Xuân Đình gia huấn). Riêng về Nữ huấn có 10 tên tài liệu. - Luật pháp (40 tên tài liệu) Sau khi giành được độc lập, nhà nước phong kiến Việt Nam đã chú ý ngay đến việc xây dựng hệ thống luật pháp. Theo ghi nhận của sử sách và các bộ văn tịch chí thì ngay từ thời Lý (thế kỷ XI), Việt Nam đã có Hình thư, và thời Trần (thế kỷ XIII) có Hình luật thư. Về sau chúng ta còn biết tới các bộ luật khác được biên soạn như: Thiên Nam dư hạ tập, Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức), Quốc triều chiếu lệnh thiện chính thư, Quốc triều khám tụng điều lệ soạn dưới triều Lê (thế kỷ XV); Hồng Đức thiện chính thư soạn dưới triều Mạc (thế kỷ XVI); Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) soạn dưới triều Nguyễn (thế kỷ XIX). Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu trữ 40 tên tài liệu có liên quan đến luật pháp Việt Nam thời phong kiến, trong đó có hai bộ Luật Hồng Đức và Luật Gia Long. Việt Nam không có bộ luật nào viết bằng chữ Nôm, nhưng hiện biết có 4 cuốn (AB.321; VNv.123/1-3; VNv.98/1-2-4) là bản diễn Nôm một số bộ luật, nhằm mục đích phổ biến luật pháp trong dân chúng được soạn dưới thời Nguyễn. - Chế độ cai trị (151 tên tài liệu) Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, các triều đại phong kiến ở Việt Nam đều cai trị đất nước theo chế độ được quy định bởi Nho giáo. Tài liệu được xếp vào mục này bao gồm: 1. Các văn bản hành chính trao đổi giữa vua và các quan lại; 2. Cách tổ chức bộ máy chính quyền, quan chế các đời; 3. Các quy định về khen thưởng và kỷ luật. Nghiên cứu nhóm tài liệu này chúng ta sẽ thấy các vương triều đã quản lý và điều hành đất nước như thế nào, và nếu có sự so sánh với các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản thì chúng ta có thể rút ra được nhiều nhận xét bổ ích. - Tài liệu sử học (22 tên tài liệu) Trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm lưu trữ rất nhiều tài liệu về lịch sử, bao gồm cả chính sử, dã sử, dật sử...Tuy nhiên trong thư mục của chúng tôi chỉ đưa vào thư mục 22 tên tài liệu. Đây là các tài liệu mà trong đó trình bày rõ quan điểm viết sử, làm sử của các sử gia phong kiến: 1. Cách tiếp cận các nguồn sử liệu (sử Việt Nam, sử Trung Quốc, dã sử, truyền thuyết); 2. Cách trình bày sự kiện (chọn sự kiện và đưa vào chính văn hay đưa xuống phần phụ chép); 3. Những nhận xét, bình luận, đánh giá về các sự kiện và nhân vật lịch sử. - Điển lễ và Lễ nghi nho giáo (120 tên tài liệu) Nhóm tài liệu này đề cập đến các điển lễ và lễ nghi Nho giáo do nhà nước quy định chính thức hoặc có chính thống, gồm: 1. Nghi lễ triều đình và hoàng tộc (lễ mừng thọ, đăng quang, tấn phong, lễ ban kim sách, ngân sách trong hoàng tộc); 2. Tế lễ thần linh, tiên liệt và trời đất (tế Nam Giao, tế Thái Miếu, tế Cung miếu - dưới thời các chúa Trịnh, để tế các tiên liệt của chúa Trịnh, tế Văn Miếu), thể lệ sắc phong cho bách thần; 3. Thể lệ sắc phong cho các quan chức có công lao và dân chúng. Các tài liệu thuộc điển lễ và lễ nghi Nho giáo có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử các triều đại, như: văn chương hành chính mang tính quan phương, sự thay đổi về điển lễ qua các đời, các nghi thức nghi lễ diễn ra ở triều đình, sự tưởng thưởng của nhà nước đối với người có công lao, việc bổ nhiệm các quan chức, ghi nhận của nhà nước với bách thần... 3. Triển vọng của việc khai thác nguồn tài liệu Nho giáo và Nho học 3.1. Đánh giá về trữ lượng và giá trị Như vậy, theo thống kê của chúng tôi, tài liệu Nho giáo và Nho học chiếm tỷ lệ rất lớn trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm: 1.689 tên tài liệu/5.038 tên tài liệu trong toàn bộ kho sách. Trong số này, nhiều nhất là tài liệu về văn học Nho giáo: 1.246/ 1.689 tên tài liệu, tiếp theo là số tài liệu về Giáo dục Nho giáo: 537/ 1.689 tên tài liệu. Rõ ràng là Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu trữ một khối lượng thông tin rất phong phú, đa dạng và quan trọng về Nho giáo và Nho học. Chúng phản ánh một cách rõ nét nhất độ khúc xạ của Nho giáo và Nho học tại Việt Nam, thể hiện trên nhiều bình diện: tư tưởng, triết học, văn học, đạo đức, luật pháp; và do vậy là cơ sở để nghiên cứu so sánh Nho giáo và Nho học giữa Việt Nam với các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản trong quá khứ. 3.2. Vấn đề khai thác, nghiên cứu, biên dịch các tài liệu này trong thời gian qua Có thể nói, việc khai thác, nghiên cứu, biên dịch các tài liệu Hán Nôm ở Việt Nam được đẩy mạnh bắt đầu kể từ khi chữ Quốc ngữ dần dần chiếm vị trí ưu thế. Chữ Hán chữ Nôm dần trở nên khó hiểu đối với đông đảo nhân dân. Đầu thế kỷ XX, một số lượng di sản Hán Nôm đã được dịch ra chữ Quốc ngữ; các bản dịch và bài nghiên cứu đã được đăng tải trên các sách, báo như: Tri tân, Nam phong, Thanh nghị v.v. Bài Điểm qua tình hình dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm trong thế kỷ XX, của PGS. Trần Nghĩa (Xin xem: Nhìn lại Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb. KHXH, H. 2003, tr.57-71), cho chúng ta các thống kê sau: “Trong thế kỷ XX, có khoảng 1347 tác phẩm dịch thuật và biên khảo thuộc lĩnh vực Hán Nôm đã được công bố, trong đó: Văn chiếm 579 tác phẩm; Sử chiếm 332 tác phẩm; Triết chiếm 87 tác phẩm; Giáo dục chiếm 58 tác phẩm; Y chiếm 62 tác phẩm; Địa chiếm 55 tác phẩm; Tổng hợp chiếm 174 tác phẩm” (trang 65). PGS. Trần Nghĩa còn cho biết: “Lượng sách được công bố so với lượng sách chưa khai thác, chiếm tỷ lệ như sau: Văn khai thác được 579/ 2500, tức chiếm 23,16 % trữ lượng. Sử khai thác được 332/ 1000, tức chiếm 33,20 % trữ lượng. Triết khai thác được 87/ 600, tức chiếm 14,50 % trữ lượng. Giáo dục khai thác được 58/ 450, tức chiếm 12,50 % trữ lượng. Y khai thác được 62/ 300, tức chiếm 21 % trữ lượng. Địa khai thác được 55/300, tức chiếm 18,33 % trữ lượng” (trang 66). Xin lưu ý đây là thống kê mang tính tổng quát về toàn bộ kho sách Hán Nôm, và hiện tại chúng ta vẫn chưa có thống kê riêng về tình hình dịch thuật và biên khảo tài liệu thuộc Nho học và Nho giáo. Thống kê của chúng tôi cũng đã chú ý đến khía cạnh này nhưng do còn chưa tập hợp được đầy đủ dữ liệu nên chưa công bố ở đây. 4. Kết luận 4.1. Trong bối cảnh và xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, các dân tộc đều trong quá trình phát hiện lại những giá trị văn hóa và tinh thần của mình để làm tài sản đóng góp vào kho tàng di sản nhân loại. Những di sản này vừa khẳng định tính thống nhất của văn hóa nhân loại, vừa nói lên tính đa dạng và vẻ đẹp phong phú của văn hóa các dân tộc sống trên thế giới. Trong ý nghĩa như vậy, di sản Hán Nôm là một bộ phận cấu thành của di sản tinh thần của các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Thư tịch Hán Nôm đã có một đời sống riêng trong dòng chảy bất tận của văn hóa Việt Nam, trở thành thông điệp trao chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, với cốt cách, giọng điệu, mang đậm nét tâm thế của căn cước Việt Nam. 4.2. Dòng chảy văn hóa Việt Nam vẫn thao thiết chảy từ ngàn xưa đến nay, nhưng dòng thư tịch Hán Nôm thì đã dừng lại từ một trăm năm trước và thay bằng thư tịch chữ quốc ngữ tiếng Việt. Tiếp cận, nghiên cứu, giải mã những thông điệp của cha ông trong kho di sản Hán Nôm là một việc trở nên cấp thiết hiện nay. Đó là cách tốt nhất không để cho sự đứt đoạn về văn tự kéo theo sự đứt đoạn truyền thống. Để làm tốt công việc này, trước hết là phải tiến hành công việc kiểm kê vốn di sản này (cả ở trong và ngoài nước), làm cơ sở cho việc lập ra kế hoạch khai thác, dịch thuật trong tương lai, cũng như để quản lý một cách có hiệu quả kho di sản này. Với ý nghĩa đó, bản thư mục và bài viết của chúng tôi là một cố gắng ban đầu, góp vào nỗ lực chung của tất cả chúng ta. Chúng tôi vẫn hy vọng trong thời gian gần nhất, sẽ có một bộ thư mục đầy đủ nhất, khoa học nhất và tiện ích nhất về Nho giáo và Nho học được biên soạn, làm công cụ cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này. Để làm được việc đó, chúng tôi cho rằng phải có sự cộng tác của các chuyên gia các lĩnh vực khác nhau, sự hợp tác của bạn bè quốc tế tại các cơ quan nghiên cứu, lưu trữ trên khắp thế giới, sự giúp đỡ về tài chính và phương tiện kỹ thuật của các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài Việt Nam. 4.3. Tài liệu về Nho giáo và Nho học đã là một di sản tinh thần của cha ông chúng ta để lại, việc nghiên cứu toàn diện về di sản này sẽ cho chúng ta những kinh nghiệm từ lịch sử, cũng như các biện pháp rất cụ thể trong việc phát huy tinh hoa Nho giáo và Nho học trong xã hội hiện đại hôm nay. N.X.D CHÚ THÍCH: (1) Trước khi biên soạn thư mục, chúng tôi đã tham khảo ý kiến một số học giả về vấn đề này: ý kiến của ông Mai Quốc Liên trên tờ Hồn Việt số 1, tham vấn trực tiếp ý kiến của ông Đinh Thanh Hiếu (Đại học KHXH và Nhân văn Hà Nội), ông Trần Đoàn Lâm (Nhà xuất bản Thế Giới), ông Trần Nghĩa, ông Ngô Đức Thọ (Viện Nghiên cứu Hán Nôm). Nhân đây chúng tôi xin trân trọng cảm ơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH: 1. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Ba tập, Nxb. KHXH. H, 1993. 2. Nhìn lại Hán Nôm học thế kỷ XX. Nxb. KHXH, H. 2003. 3. Bản sắc văn hóa Việt Nam. Phan Ngọc. Nxb. VH - TT. H. 1998. 4. Viện Nghiên cứu Hán Nôm 30 năm xây dựng và phát triển, H. 2000. 5. Tạp chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn. Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản. H. 2000. 6. Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học, H. 1993. 7. Bùi Duy Tân: Khảo luận một số thể loại tác gia tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, H. 2004. 8. Cùng các bài trên các tạp chí: Hồn Việt, Hán Nôm, Nghiên cứu Lịch sử, ...
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:46:31 GMT 9
Trí thức Nho giáo với việc nho giáo hóa xã hội Vietsciences-Nguyễn Xuân Diện (làng xã: từ góc nhìn tư liệu học - foklore) Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt ở Việt Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại phong kiến, Nho giáo khẳng định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi, để lại dấu ấn thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ và được bảo lưu trong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt văn hóa dân gian, trí thức Nho giáo luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Đây có thể xem là một nét riêng của trí thức Nho giáo Việt Nam so với các nước trong khu vực Đông Á cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Bài tham luận này dựa trên những tài liệu do các nhà Nho tham gia biên soạn, chỉnh lý đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, từ cách tiếp cận liên ngành tư liệu học và foklore, để điểm lại những cố gắng của trí thức Nho giáo trong quá trình Nho giáo hóa xã hội. Phổ biến truyền bá biên dịch kinh điển Nho giáo: Trong quá khứ đội ngũ các nhà trí thức đều đọc được chữ Hán Nôm. Các hình thức dịch Nôm như diễn âm, giải âm, diễn ca, diễn nghĩa các tác phẩm chữ Hán cũng chỉ nhằm chủ yếu cho 2 đối tượng là người còn đang đi học (học các tác phẩm kinh điển qua bản diễn Nôm) và tầng lớp bình dân (diễn Nôm các tích truyện, hoặc kinh Phật, diễn ca các bài thuốc). Kinh điển Nho gia cũng đã từng được chú ý dịch sang chữ Nôm - tiếng Việt. Hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 25 tên tài liệu là bản dịch kinh điển sang quốc âm (chữ Nôm), dịch Nôm hầu hết Tứ thư, Ngũ kinh trong đó chủ yếu là Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Trung Dung(1). Riêng việc dịch Nôm Kinh Thi đã thấy có hai khuynh hướng là Thi học và Kinh học. Xu hướng Thi học đã tước bỏ những chú giải của Tống Nho, để trả lại vẻ đẹp ban đầu của Kinh Thi. “Các bản dịch Nôm khá đa dạng về thể loại (văn xuôi, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ đan xen không đều đặn giữa song thất với lục bát), và cũng đa dạng về hướng tiếp nhận, đan xen cả việc tiếp nhận theo hướng kinh học và văn học, trong đó các bản dịch xuôi có thiên hướng tiếp nhận kinh học hơn, còn với các bản dịch thơ, đặc trưng thể loại đã giúp cho dịch giả phần nào thoát khỏi sự chi phối của yêu cầu “kinh học hóa” để chuyển hướng dần sang cách tiếp nhận Kinh Thi với tư cách một tác phẩm văn học” (2). Việc phổ biến và truyền bá kinh điển Nho gia đến với xã hội còn được thể hiện ở những lời dẫn dụng Nho điển trong khi các nhà Nho soạn văn bia, câu đối, hoành phi cho các địa phương. Các sưu tập hoành phi, câu đối và văn bia mà chúng ta đã sưu tầm được đầy rẫy những chữ nghĩa rút ra từ kinh điển Nho gia. Đáng tiếc là cho đến hiện nay, chưa có khảo sát nào về vấn đề này, để từ đó có thể rút ra những kết luận bổ ích về sự xâm nhập của Nho điển trong làng xã cổ truyền Việt Nam. Tham gia vào tín ngưỡng dân gian Trí thức Nho giáo ở Việt Nam luôn sống giữa cộng đồng làng xã. Con đường vào đời của họ là dùi mài kinh sử, theo nghiệp bút nghiên, trải qua các kỳ thi, và “tiến vi quan, thoái vi sư”. Nếu đỗ đạt, họ ra làm quan theo sự điều động của nhà vua, nếu không đỗ đạt, họ suốt đời ở lại chốn hương thôn, trở thành những trí thức của làng quê. Họ trở thành thầy đồ dạy học, thầy lang bốc thuốc, họ như những lãnh tụ tinh thần của cộng đồng, trở thành chỗ dựa của xóm làng. Họ tham gia vào các sinh hoạt tín ngưỡng của dân làng bằng việc văn bản hóa các truyền thuyết, sự tích ở địa phương. Kết quả là cho đến nay, sưu tập về thần tích, sự tích, huyền tích dân gian, tín ngưỡng dân gian có thể coi là một sưu tập có trữ lượng rất lớn. Trong số đó sưu tập thần tích có quy mô nhất, ghi chép lai lịch, hành trạng thần kỳ và công đức lớn lao của hàng nghìn vị thần linh, các vị thành hoàng được thờ ở khắp nơi, mang ký hiệu AE với 568 cuốn chép thần tích của các vị thần của 2821 làng xã (thôn, trang, ấp) thuộc 22 tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc. Tiến hành nghiên cứu văn bản học mảng thư tịch này, có thể bóc tách các lớp văn hóa được lưu lại. Trường hợp thần tích Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử là những ví dụ(3). Đáng chú ý nhất là chúng ta sẽ thấy được sự can thiệp của nhà Nho vào văn bản tín ngưỡng, cũng như áp đặt tư tưởng Nho giáo vào trong hệ thống bách thần; nói cách khác, người ta thấy được các thần linh được dân gian thờ cúng đã hiện lên như thế nào qua lăng kính nhà Nho(4). Ngoài thần tích trong kho AE, còn một sưu tập khác ghi lại các câu chuyện linh dị, các sự tích thần kỳ, thiêng liêng lưu truyền trong các làng quê Việt Nam. Các nhà nghiên cứu thường đưa các sưu tập này vào mục tiểu thuyết chữ Hán (Trần Nghĩa), văn xuôi tự sự (Nguyễn Đăng Na), truyện truyền kỳ (Nguyễn Huệ Chi) (5). Các khảo cứu về văn bản học của Nguyễn Văn Hoài (đối với Nam thiên trân di tập và Công dư tiệp ký)(6), Nguyễn Thị Oanh (đối với Lĩnh Nam chích quái) (7), Đào Phương Chi (đối với Việt điện u linh)(8) cho thấy trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà Nho đã dành cho các tác phẩm này sự quan tâm đặc biệt, thể hiện ở việc sao chép, thêm bớt, bình luận, tăng bổ, chú giải… theo những quan điểm riêng của mình, mà kết quả là làm cho chúng trở nên rất phức tạp về văn bản học, biến những tác phẩm từ loại hình văn học chức năng sang loại văn học hình tượng và ngược lại. Thần sắc (kho AD) với 411 cuốn là các bản sách chép các sắc phong của triều đình phong cho các vị thần thành hoàng qua các thời kỳ lịch sử. Tài liệu này nói lên sự đánh giá của nhà nước phong kiến đối với các vị thần trong cả nước qua từng thời kỳ, từng triều đại cũng như hệ thống thần linh phong phú và phức tạp của thần điện Việt Nam. Khổng Tử không nói đến “quái, lực, loạn, thần”, không tin quỷ thần, hoặc đối với thần linh thì “kính nhi viễn chi”. Nhưng ở Việt Nam, thần quyền có một vị trí quan trọng trong đời sống quá khứ. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều rất coi trọng đến việc tế lễ, thờ phụng các vị thần, đời nào cũng có ban tặng sắc phong cho các vị thần, đưa vào điển lễ. Vương quyền và thần quyền đi song song với nhau trong tâm thức dân gian. Các cuộc tế lễ ở đình làng luôn có sự tham gia của các nhà Nho ở hầu hết các nghi thức: soạn văn tế, soạn bài hát thờ, soạn tục lệ thờ cúng, sưu tầm chỉnh lý thần tích. Ghi lại sinh hoạt làng xã: Cho đến nay, những Cổ chỉ, Xã chí, Tục lệ, Hương ước, Địa chí địa phương có thể xem là những sưu tập tư liệu hết sức đặc sắc mà các nhà Nho đã ghi lại và đang trở thành nơi lưu giữ những ký ức về mọi mặt đời sống quá khứ. Kho Cổ chỉ ký hiệu AH, có 21 cuốn, bao gồm nhiều loại hình tư liệu khác nhau, trong đó có cả các gia phả, thần tích, ngọc phả...Sưu tập cổ chỉ được tập hợp theo từng xã, có ghi tên, chức tước và chữ ký của người thừa lệnh sao chép, nhận thực. Có những bản còn ghi rõ nơi tàng trữ và đóng dấu của địa phương ở phần cuối văn bản. Sưu tập này được sưu tầm được tại một số xã thuộc 5 tỉnh Hưng Yên, Ninh Bình, Sơn Tây, Lạng Sơn, Phúc Yên. Xã chí có ký hiệu kho AJ, gồm 107 cuốn sưu tập các bản điều tra về địa chí một số thôn xã thuộc 27 tỉnh, từ Khánh Hòa trở ra Bắc, do các nhà Nho thực hiện theo yêu cầu của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp tại Hà Nội. Tục lệ có ký hiệu kho AF, gồm 732 cuốn, ghi chép về tục lệ, khoán ước của 74 huyện, phủ, châu, thuộc 18 tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc. Các bản tục lệ cũng được đóng theo từng xã, thôn; trang đầu hoặc trang cuối văn bản thường ghi năm tháng lập hoặc sao chép tục lệ, nhiều bản còn ghi được đầy đủ cả tên người lập khoán lệ, tên những người ký tên xác nhận (9). Biên soạn địa chí là một việc rất được các nhà Nho quan tâm. Địa chí hiện thống kê được khoảng 113 cuốn. Nghiên cứu địa chí ngoài việc quan tâm đến bản thân cuốn địa chí, còn góp phần nghiên cứu về sự đánh giá và hiểu biết, cũng như sự gắn bó, tâm trạng và cảm quan của người viết đối với vùng đất mà họ quan tâm biên chép. Các ghi chép của Dương Văn An, Lê Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức, Bùi Dương Lịch, Vũ Phạm Khải, Phan Huy Chú…đã thể hiện rất rõ điều này. Cuốn địa chí xưa nhất là Dư địa chí của Nguyễn Trãi được viết trong niềm tự hào về non sông gấm vóc Đại Việt có chủ quyền, có văn hiến, có nhân dân anh hùng và sáng tạo. Ngoài những sưu tập kể trên, hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng còn có nhiều thác bản văn bia khoán ước, điều lệ được sưu tầm từ nhiều địa phương trong nước. Trong đó, đặc biệt phải kể đến các văn bia có nội dung khuyến học, khuyến tài. Thống kê cho biết có đến 780 văn bia thuộc loại khuyến học được tìm thấy trong kho thác bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm (10). Làng xã cổ truyền rất coi trọng người có học hành và người đỗ đạt. Hệ thống khoa cử để cho tất cả mọi người trong xã hội, bất kể sang hèn, giàu nghèo đều có cơ hội thể hiện tài năng và trình độ học vấn là một trong những lý do để các làng xã coi trọng việc học hành. Và hình ảnh “võng anh đi trước võng nàng đi sau” luôn là giấc mơ cao sang của các thôn nữ, vợ của các khóa sinh. “Một người làm quan cả họ được nhờ” cũng là kỳ vọng của các dòng họ đối với con đường nghiên bút của các sĩ tử trong họ. Những người đi thi, đều có khát vọng được ghi tên tuổi, quê quán trên bảng vàng bia đá, lưu mãi tiếng thơm, đều có khát vọng cống hiến cho triều đình và đất nước. Dưới sự sắp đặt của những người có chữ hoặc đã đỗ đạt trong làng, một số thiết chế văn hóa đã được thiết lập như các văn chỉ được xây dựng để thờ Đức Khổng Tử và các vị tiên hiền, tiên nho trong làng; ruộng học điền được lập; các hương ước có thêm phần khuyến học, miễn lính, miễn phu cho các khóa sinh; v.v. Đặc biệt nhất phải kể đến các hội Tư văn ở các làng xã, được xem là một tổ chức bao gồm những người có học trong làng. Đây là mảng tài liệu tổng hợp về mọi mặt đời sống nông thôn Việt Nam trong lịch sử như phong tục, tập quán, lề thói, thổ ngơi, diên cách, di tích, lễ hội của các làng quê. Xây dựng gia đình truyền thống: Ý thức về dòng họ đi liền với việc xây dựng và duy trì nền nếp gia phong rất được các nhà Nho quan tâm. Với quan niệm “Quốc hữu sử, Gia hữu phả” thường là câu mở đầu của các gia phả, các nhà Nho đã biên soạn những bộ gia phả cho dòng họ mình và thậm chí còn viết gia phả cho các dòng họ khác. Gia phả không chỉ cho biết việc của một dòng họ, quá trình thiên di phát tán, phát triển của một dòng họ mà còn cho chúng ta biết về sự hình thành một vùng đất, những cư dân đầu tiên đến sinh cơ lập nghiệp, và sự đóng góp của các dòng họ cụ thể đối với một làng quê, một vùng đất cụ thể...Nhiều gia phả dòng họ lớn đã ghi được nhiều sự kiện mà chính sử đã không thể ghi chi tiết, từ đó đã bổ sung cho chính sử. Thống kê cho biết Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 264 cuốn gia phả (11). Về tài liệu gia huấn hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thống kê được 51 tên sách (12). Gia huấn góp phần xây dựng tiêu chuẩn, lối sống cho mọi người theo đạo đức Nho giáo. Nói đến gia huấn, người ta vẫn nghĩ đến một cuốn sách giấy dó, trên viết chữ Hán Nôm, ít người biết gia huấn còn được khắc trên đá. Chọn hình thức lưu giữ trên bia đá, hẳn các nhà Nho mong muốn những lời giáo huấn này sẽ lưu truyền mãi mãi và vững bền như cùng các giá trị truyền thống của các bản gia huấn. Đó là những quyển sách đá ghi những lời vàng ngọc của tổ tiên truyền dạy lại cho con cháu. Chúng tôi đã tìm được một số gia huấn được khắc trên bia đá, trong đó có một số văn bia tiêu biểu cho loại này như sau: Văn bia Tích thiện gia huấn bi ký (13) do Tiến sĩ Nguyễn Nghiễm soạn năm 1765, khi ông đang giữ chức Binh bộ thị lang, hiện còn tại miếu làng Tiên Điền, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Văn bia ghi lại lời dạy của ông đối với con cháu trong gia tộc, khuyên giữ gìn gia phong, tu dưỡng đạo đức, dốc sức làm việc thiện để vun trồng cội phúc, làm gương cho hậu thế. Văn bia Tân san gia huấn bi (14)tại nhà thờ họ Nguyễn ở xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc khắc bài văn bia do Phạm Vĩ Khiêm soạn năm 1767, khắc rõ 10 điều gia huấn, khuyên con cháu: Giữ lòng ngay thẳng, chăm chỉ học hành, hiếu thuận nhân từ, ăn ở kính nhường, vợ chồng hòa thuận, cung kính đôn hậu, bạn bè tin cậy, hòa mục với láng giềng, phụng dưỡng cha mẹ, chăm chỉ nghề nghiệp. Nhà thờ họ Vũ, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có tấm bia Miễn tử tôn cần học thi (16), tạc năm 1660, khắc bài thơ Đường luật và đôi câu đối khuyên con cháu cần cù học hành giữ nghiệp tổ tiên cày bừa trên ruộng sách, sau này được hiển vinh nơi khoa giáp rồi ra giúp vua giúp nước. Nhà thờ họ Vũ, xã Mộ Trạch, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, có tấm bia Tu cấu đường châm (16) do Tiến sĩ Vũ Đăng Long soạn năm 1675, khắc bài châm nói về việc tu dưỡng lòng trung tín, dốc sức học hành. Một võ quan cao cấp dưới triều Lê Cảnh Hưng là Nguyễn Sỹ Trung vào năm 1766 cũng tự tay soạn văn bia Từ huấn bảo minh (17) khắc một bài văn vần 50 câu căn dặn con cháu phải giữ gìn đạo đức, cần kiệm, trung hiếu, không rượu chè bê tha, không làm điều phi nghĩa, để giữ lấy truyền thống của tổ tiên, đặt tại nhà thờ họ Nguyễn của mình ở xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Đặc biệt nhất, phải kể đến bia Vũ Vu thiển thuyết khắc hẳn cả một cuốn sách của Ninh Ngạn (1715 - 1781) được con trai là Ninh Tốn dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), hiện đặt tại nhà thờ họ Ninh ở xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp tỉnh Ninh Bình. Văn bia gồm 2 phần. Phần 1 là lời dẫn ghi lại sự nghiệp của Ninh Ngạn và tác phẩm của ông. Phần 2 khắc toàn văn bộ sách gồm 2 quyển thượng, hạ, gồm 45 chương sách. Trong đó có các chương 1 và 2 bàn về chữ hiếu, cách đánh giá về hiếu và bất hiếu; chương 3 bàn về quan hệ giữa nuôi và dạy con cái trong gia đình; chương 6 và 7 bàn về quan hệ vợ chồng; chương 8 và 9 bàn về Nhân và Tín; chương 10 bàn về đạo làm người; chương 12 bàn về ba loại “tâm bệnh” là giầu, sang và thọ; chương 13 bàn về việc phải coi điều thiện làm thầy, thấy ai có điều thiện, dù là kẻ dưới đều nên coi là thầy mà học; chương 29 và 30 bàn về việc làm điều tốt không cốt ở tiếng khen, đánh giá người phải xét ở lời nói và việc làm; chương 31 và 32 bàn về việc lập đức, lập thân và lập danh; chương 33 và 34 chuyên bàn về những điều cần tránh như rượu chè, cờ bạc, sắc dục, lười biếng, nói năng khinh xuất; chương 39 và 40 bàn về sống - chết, vinh - nhục ở đời (18).
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:47:14 GMT 9
Sưu tập văn học dân gian và sáng tác thơ ca
Nhà Nho Việt Nam sống giữa làng xã, tham gia vào các sinh hoạt làng xã. Không chỉ soạn thảo các văn bản ghi chép về phong tục tập quán hay phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng, hoặc sưu tầm, ghi chép lại các câu chuyện thần kỳ linh dị trong dân gian mà còn sưu tập thơ ca dân gian. Một trong những kết quả đó là kho tàng truyện thơ Nôm.
Kho tàng truyện thơ Nôm có một khối lượng tác phẩm đáng kể với 106 tên tác phẩm truyện Nôm và 47 tác phẩm truyện thơ của các dân tộc ít người, được viết bằng chữ Nôm của dân tộc họ (19). Truyện thơ Nôm khuyết danh do các nhà Nho hoặc ghi lại được, hoặc sáng tác dựa trên các tích truyện lưu truyền trong dân gian, và có mục đích là dành cho đông đảo công chúng rộng rãi ở tầng lớp bình dân (có người gọi mảng văn học này là truyện Nôm bình dân).
Theo các soạn giả của bộ sách Kho tàng ca dao người Việt thì chúng ta có 12 sưu tập ca dao được ghi chép bằng chữ Nôm (20). Đó là các tập Nam phong giải trào, Thanh Hóa quan phong, Nam giao cổ kim lý hạng ca dao chú giải, Đại Nam quốc túy, Quốc phong thi tập hợp thái, Việt Nam phong sử, Nam âm sự loại, Nam phong nữ ngạn thi, Khẩu sử ký, An Nam phong thổ thoại, Phỏng Thi kinh Quốc phong, Lý hạng ca dao. Các sưu tập ca dao này cũng đã được sử dụng trong quá trình tuyển chọn đưa vào bộ sách.
Gần đây, Nguyễn Thúy Loan cho biết có 7 cuốn sách Hán Nôm sưu tập tục ngữ của người Việt (21) và giới thiệu trong tập sách Tục ngữ trong sách Hán Nôm (22). Những sưu tập này đều do các nhà Nho thực hiện.
Ngoài ca dao, tục ngữ chúng ta còn thấy có các sưu tập thơ ca dân gian. Đáng chú ý về mảng này là các tác phẩm thơ văn giáng bút, theo thống kê của Nguyễn Xuân Diện riêng ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có 254 cuốn sách, trong đó có 226 bản là bản in(23). Các tập thơ văn này được sưu tập từ 98 Thiện đàn nằm ở hầu hết các tỉnh ở châu thổ Bắc bộ. Nghi lễ giáng bút là một hoạt động mang đậm tín ngưỡng dân gian dưới ảnh hưởng của Đạo giáo. Nhưng nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn lại do các nhà nho chủ trương. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hóa dân tộc.
- Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi: Giáng bút lời các vị anh hùng liệt nữ của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Hai Bà Trưng, Bà Triệu...; Giáng bút lời các vị thần tiên trong thần điện Việt Nam như: Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh Công chúa, Từ Đạo Hạnh...; Giáng bút lời các tiên nho, các nhà văn hóa như: Tô Hiến Thành, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan...Thơ văn giáng bút còn nhắc nhớ, thúc giục lòng yêu nước, thương yêu giống nòi, thấy được nỗi nhục của dân mất nước.
- Chấn hưng văn hóa dân tộc, xây dựng nếp sống mới: Đề cao việc nâng cao dân trí; Bài bác hủ tục; Đề cao phụ nữ (giáng bút lời Thánh Mẫu cho phụ nữ); Khuyên sống lương thiện, thương yêu đùm bọc nhau; In ấn kinh sách về tôn giáo, lịch sử, văn học, ngôn ngữ.
Thơ ca giáng bút chủ yếu viết bằng chữ Nôm rất thuận lợi cho việc truyền miệng và không gặp trở ngại về mặt văn tự đối với người bình dân không biết chữ .
Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, nó đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam. Đó là những biểu tượng về Quốc Hồn, Quốc Túy, Quốc Dân, Nòi Giống, Yêu Nước Thương Nòi, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động.
Một mảng nữa, nằm ở gạch nối giữa văn học và sử học là các bộ sử ca, diễn ca lịch sử bằng chữ Nôm, theo thể thơ lục bát như: Thiên Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm, Đại Nam quốc sử diễn ca,...Là các tác phẩm sử học, nhưng các tác phẩm này lại chứa đựng ít nhiều cảm quan, tâm thức dân gian trong việc xây dựng các hình tượng anh hùng dân tộc. Hình ảnh Bà Triệu vú dài ba thước chẳng hạn, đấy là một hình ảnh phóng đại của lối nói dân gian. Đấy là chưa kể đến cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh, lối nói ví von của dân gian trong miêu tả, xây dựng nhân vật.
Sáng tác và sưu tầm nghệ thuật sân khấu, ca nhạc dân gian:
Sân khấu dân gian:
Hai loại hình ca vũ để lại nhiều văn bản thư tịch nhất là tuồng và ca trù. Điều này hoàn toàn không khó hiểu, vì đây là hai loại hình ca vũ nhạc gắn liền với sinh hoạt của cung đình và trí thức.
Tuồng luôn đề cao tư tưởng quân quốc, kịch bản đa số bắt nguồn từ các tích truyện của Trung Hoa.
Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện có 23 pho tuồng, và 49 pho tuồng là các bản photocopy do thư viện Hoàng gia Anh trao tặng (24. Tác giả Phan Ngọc cho biết, khi ông cùng với ông Lê Ngọc Cầu viết quyển Nội dung xã hội và mỹ học Tuồng đồ thì đã có trong tay trên 100 vở tuồng đã phiên chuyển quốc ngữ (25).
Về chèo, hiện chúng ta có 7 kịch bản chèo cổ (Hà Ô Lôi, Nhị Độ Mai, Kiều, Hoa Vân, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Viên...). Việc trình diễn các tích chèo được diễn ra tại làng (địa điểm là giữa đình - một nơi công cộng), trong hội làng (thời điểm có đông nhất các thành viên, thành phần tham dự: chức sắc, quan viên, dân làng). Các kịch bản chèo Nôm còn lại đến nay cho thấy các nhà nho đã trực tiếp văn bản hóa các tích chèo, góp phần gìn giữ di sản sân khấu dân gian.
Ca nhạc dân gian:
Vốn ca nhạc dân tộc được ghi chép rất tản mạn, có thể hình dung như chúng ta đang có các sổ tay của những người yêu nghệ thuật ca hát. Ca trù tạp lục (VHv.2940) có chép các bản đàn Giao duyên, Cổ bản, Nam bằng, Kim tiền, Nam ai, Nam thương, Tứ đại cảnh...Ca trù thể cách (AB.160) có chép ca từ của một số làn điệu Hát lý, Hát bội, Hát sắc bùa. Đại Nam quốc âm ca khúc (AB.146) có ca từ các điệu Nam bằng, Nam ai, Tứ đại cảnh; các bản đàn Kê Khang, Tư Mã Phượng Cầu, Tam Thiên tụng, Phú lục (26).
Về Ca trù hiện chúng ta có 49 cuốn sách, 70 văn bia có liên quan đến ca trù (27). Nguồn tài liệu này đóng một vị trí đặc biệt và vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu về ca trù một bộ môn nghệ thuật kết hợp giữa thơ - nhạc - vũ đạo vốn có mặt trong hầu hết sinh hoạt văn hóa tinh thần của ngưòi Việt qua nửa thiên niên kỷ. Ca trù được ghi chép khá đầy đủ và toàn diện trước hết là vì ca trù gắn liền với sinh hoạt của giới nho sĩ có học vấn nhất định. Các tư liệu thư tịch và bi ký này đã cho phép khẳng định một số vấn đề sau: lịch sử và sự phát triển của bộ môn nghệ thuật ca trù trong không gian trình diễn nghệ thuật riêng của nó; về sinh hoạt và tổ chức giáo phường ca trù; về các làn điệu ca trù, đặc biệt là thể thơ hát nói. Các văn bản Hán Nôm về ca trù ghi rõ lề lối hát ca trù tại các đình làng, ca quán, tại buổi lễ tế tổ, hoặc tại tư gia, thậm chí là quy cách và nội dung các vòng thi ca trù. Nhờ những ghi chép của các nhà nho xưa mà chúng ta biết họ đã quan tâm đến nghệ thuật ca trù như thế nào, và để nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca trù. Kết luận
1. Nghiên cứu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo tại Việt Nam ngoài các các vấn đề mang tính chính thống như quá trình truyền bá kinh điển; ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học, sử học, giáo dục và khoa cử, đạo đức và luật pháp, chính trị v.v. thì một vấn đề không kém phần quan trọng đó là nghiên cứu ảnh hưởng và tác động của Nho giáo, Nho học đối với văn hóa dân gian. Với thao tác tiếp cận liên ngành, đa ngành những dấu ấn hay biểu tượng cũng như sự khúc xạ của Nho giáo trong những tầng sâu của văn hóa dân gian sẽ được phát hiện và bổ sung cho những hiểu biết về một xã hội Việt Nam đã được đặt dưới ảnh hưởng của Nho giáo như thế nào.
2. Trí thức Nho giáo Việt Nam đã tham gia soạn thảo thư tịch để phục vụ sinh hoạt của đời sống xã hội vào sinh hoạt của cộng đồng làng xã và để lại một khối lượng thư tịch lớn. Những thư tịch này cho thấy trí thức Nho giáo đã tích cực xây dựng một xã hội theo Nho giáo, từ cấp trung ương đến cấp địa phương, tới đơn vị nhỏ nhất là làng xã.
3. Việc tham gia vào sinh hoạt làng xã đã góp phần vào việc Nho giáo hóa xã hội Việt Nam dưới thời quân chủ. Quyết tâm ấy thể hiện không chỉ ở việc ra sức truyền bá kinh điển Nho gia mà họ còn trực tiếp tham gia vào mọi mặt của đời sống văn hóa, tín ngưỡng của làng xã; xây dựng gia đình theo truyền thống Nho giáo; ghi lại sáng tác dân gian và tự sáng tác các tác phẩm mang đậm chất foklore.
4. Để có một cái nhìn toàn diện, đầy đủ về vai trò của trí thức Nho giáo trong việc Nho giáo hóa xã hội từ góc nhìn foklore còn cần bổ sung bằng các cứ liệu của các ngành nhỏ của văn hóa dân gian như: Lễ hội, Tín ngưỡng, Phong tục, Nghệ thuật tạo hình (mỹ thuật, kiến trúc và điêu khắc dân gian), Nghệ thuật biểu diễn (âm nhạc, múa, trò diễn). Bài này chỉ giới hạn khảo sát về những nỗ lực của trí thức Nho giáo để Nho giáo hóa xã hội nhìn từ góc nhìn liên ngành tư liệu học - folklore.
CHÚ THÍCH
1. Xem thêm bài Tổng quan tài liệu Nho giáo và Nho học ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (khảo sát và đánh giá về trữ lượng và giá trị của Nguyễn Xuân Diện, tạp chí Hán Nôm số 1- 2005.
2. Nguyễn Tuấn Cường Tiếp nhận Kinh Thi tại Việt Nam thời Trung đại - Từ góc nhìn phiên dịch Hán Nôm. Bài tham gia Hội thảo quốc tế tại Viện Văn học.
3.3 Xem bài của Nguyễn Xuân Diện trong kỷ yếu hội thảo khoa học Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba Vì. Sở VHTT Hà Tây, 1997; và bài của Đỗ Lan Phương trên tạp chí Văn hóa dân gian số 1 năm 2004.
4. Xem thêm bài của Trần Ngọc Vương trong kỷ yếu hội thảo khoa học Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba Vì. Sở VHTT Hà Tây, 1997
5. Xem: Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam gồm 4 tập (Trần Nghĩa chủ biên). Nxb. Thế Giới, Hà Nội 1997. Văn Xuôi tự sự Việt Nam. Truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Huệ Chi chủ biên. Nxb. Giáo dục, Hà Nội 1999; Nguyễn Đăng Na chủ biên. Nxb. Giáo Dục. Hà Nội 2001.
6. Nguyễn Văn Hoài: Sơ bộ đối chiếu những mục truyện tương đồng giữa Nam Thiên Trân Di Tập và Công Dư Tiệp Ký Tiền Biên. Luận văn Thạc sĩ đã bảo vệ thành công năm 1998. Bản lưu tại Thư viện Hán Nôm, ký hiệu La.89.
7. Nguyễn Thị Oanh: Nghiên cứu văn bản Lĩnh Nam Chích Quái. Luận án Tiến sĩ đã bảo vệ thành công năm 2005.
8. Đào Phương Chi: Nghiên cứu văn bản Việt Điện U Linh và quá trình dịch chuyển của văn bản. Luận án Tiến sĩ đã bảo vệ thành công năm 2007. Bản lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
9. Xem bài của Đinh Khắc Thuân trong Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
10. Nguyễn Hữu Mùi: Nghiên cứu Văn bia khuyến học Việt Nam (Từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỷ XX). Luận án Tiến sĩ đã bảo vệ thành công năm 2006. Bản lưu tại Thư viện Hán Nôm.
11. Nguyễn Thị Oanh, bài tham gia Hội thảo khoa học Quốc tế về Gia phả tại Thư viện Thượng Hải, ngày 7 đến 12 tháng 5 năm 2000.
12. Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006. Trang 226 và 154.
13. Bia có ký hiệu số M.96, thư viện Hán Nôm.
14. Bia có ký hiệu số 14534, thư viện Hán Nôm.
15. Bia có ký hiệu số 4914, thư viện Hán Nôm
16. Bia có ký hiệu số 19828 - 29, thư viện Hán Nôm.
17. Bia có ký hiệu số 3375, thư viện Hán Nôm.
18. Xem bài của Hoàng Lê Hai tấm bia về Ninh Ngạn và cuốn Vũ Vu thiển thuyết của ông. Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1986. tr. 62-64.
19. Kiều Thu Hoạch: Truyện Nôm, nguồn gốc và bản chất thể loại. Nxb. KHXH. Hà Nội, 1993.
20. Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật đồng chủ biên: Kho tàng Ca dao người Việt. Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội, 1995.
21. Bảy cuốn sách đó là: Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục, Nhân sự thường đàm ngạn ngữ tập, Phương ngôn tục ngữ, Tục ngạn tập biên, Đại Nam quốc túy, Khẩu sử ký, Nam âm sự loại. Trong đó có 5 cuốn lưu tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
22. Tục ngữ trong sách Hán Nôm. Nguyễn Thúy Loan. Nxb. Văn học. Hà Nội, 2007. 589 tr.
23. Nguyễn Xuân Diện: Văn thơ Nôm giáng bút với việc kêu gọi lòng yêu nước và chấn hưng văn hóa dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. In trong sách Nghiên cứu Chữ Nôm. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
24. Nguyễn Thị Trang: Phông sách tuồng Nôm trong kho sách Hán Nôm. In trong Thông báo Hán Nôm học năm 1995. Nxb. KHXH. Hà Nội, 1996. Trang 408 - 413.
25. Phan Ngọc: Bản sắc văn hoá Việt Nam. Nxb Văn hoá Thông tin, H, 1998, tr. 305.
26. Nguyễn Xuân Diện: Tư liệu Hán Nôm về ca trù, trữ lượng và giá trị. Tạp chí Hán Nôm số 1- 1999, tr.18.
27. Nguyễn Xuân Diện: Nguồn tư liệu Hán Nôm với việc nghiên cứu ca trù. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn đã bảo vệ thành công năm 2007. Bản lưu tại thư viện Hán Nôm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Ba tập. Gs. Trần Nghĩa và Gs. Francois Gros đồng chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993.
2. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu. Bổ Di. Tập Thượng và Hạ. Trần Nghĩa chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 2002.
3. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam. Nguyễn Quang Hồng chủ biên. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993.
4. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919. Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học. Hà Nội, 1993.
5. 50 năm Sưu tầm Nghiên cứu Phổ biến Văn hóa - Văn nghệ dân gian. Nhiều tác giả. Hội Văn Nghệ Dân gian Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1997.
6. Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian Việt Nam. Nhiều tác giả. Hội Văn Nghệ Dân gian Việt Nam. Nxb. Văn hóa - Thông tin. Hà Nội, 2001.
7. Nghiên cứu Chữ Nôm. Kỷ yếu Hội nghi Quốc tế về Chữ Nôm. Nhiều tác giả. Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Hội Bảo tồn chữ Nôm Hoa Kỳ đồng tổ chức. Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
8. Nho giáo ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế. Nhiều tác giả. Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Harvard-YenChing tổ chức.Nxb. KHXH. Hà Nội, 2006.
[Tóm tắt]
Văn nghệ dân gian bao gồm các lĩnh vực sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân lao động sống một đời sống khép kín sau lũy tre làng – một biểu tượng của một xã hội đóng kín cả về nghĩa đen và nghĩa bóng. Tìm hiểu về dấu ấn của Nho giáo trong văn nghệ dân gian cũng chính là tìm hiểu con đường thâm nhập của Nho giáo vào cơ tầng làng xã vốn được xem như những ốc đảo biệt lập. Trải qua cả ngàn năm, theo chân các nhà cai trị để có mặt ở Việt Nam rồi trở thành một nền tảng tư tưởng của các triều đại, Nho giáo khẳng định được địa vị của mình, và đi tới các vùng quê khắp nơi, để lại dấu ấn thông qua văn tự và các sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân nông thôn Việt Nam. Từ sự xâm nhập lúc ban đầu, Nho giáo đã được khúc xạ và được bảo lưutrong văn nghệ dân gian. Tham gia vào các sinh hoạt văn hóa dân gian, văn nhân trí thức xưa luôn gắn bó với các sinh hoạt làng xã, trong đó có việc soạn thảo các thư tịch để phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng. Kết quả là họ đã để lại trong kho tàng thư tịch cổ Việt Nam một khối lượng thư tịch lớn các văn bản phản ánh nhiều mặt của cuộc sống trong quá khứ.
Tham luận này đi sâu phân tích khối lượng tư liệu đồ sộ này dưới ánh sáng của khoa học liên ngành, đa ngành, góp phần nghiên cứu các vấn đề sau: Trí thức Nho giáo và quá trình Nho giáo hóa xã hội Việt Nam; Trí thức Nho giáo với các thư tịch Hán Nôm được soạn thảo phục vụ sinh hoạt của đời sống xã hội; Quá trình bảo lưu và khúc xạ của Nho giáo trong lòng xã hội Việt Nam.
***
Confucian Scholars and the Influence of Confucianism on Society
Nguyen Xuan Dien, PhD
Folklore includes many spiritual and cultural realms of people who have a close life inside the “bamboo rampart”- the symbol of a closed society in both a literal and figurative sense. To study the impact of Confucianism in folklore requires studying Confucianism’s penetration of the village’s community structure which was considered to be an “isolated oasis”. Through thousands of years, Confucianism appeared in Vietnam as a guide for rulers and as a foundation of dynasties. Confucianism’s influence pervaded all aspects of life in Vietnam, particularly the spiritual culture of people in the rural villages in Vietnam. From the beginning the values and ideals of Confucianism was reflected and maintained in Folklore at certain levels. Participating in folkloric activities, Confucian scholars developed an interest in the community activities of the village chronicling the religious ceremonies and customs and traditional practices and beliefs of the community. In doing this they created and maintained a large number of documents incorporating details of the traditional culture. These materials serve as an invaluable source of information about the past.
Applying interdisciplinary methodologies and a review of this body of materials, this study focuses on studying two points:
1. The role of Confucian scholars and the process by which Confucianism influenced Vietnamese society;
2. The role of Confucian scholars and their work, the body of Sino-Vietnamese documents, in chronicling the traditional social activities, and helping preserve and perpetuating them.
|
|