|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:05:01 GMT 9
Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa Ra Khơi, 1975 – Cuộc Rút Quân Tại Qui-NhơnPosted on March 1, 2020 by dongsongcu Điệp Mỹ Linh i2.wp.com/www.tranbinhnam.com/story/HaiQuan_RaKhoi_Original_files/image002.jpg?resize=567%2C426&zoom=2Trong thời gian tình hình Đà-Nẵng sôi động, HQ 400 – đã được tháo gỡ tất cả trang bị của một bệnh viện hạm – nhận lệnh chuyên chở đạn pháo binh từ Cam-Ranh ra tiếp tế Sư-Đoàn 22 phòng thủ Qui-Nhơn. Ngày 20 tháng 3, HQ 400 ủi bãi Qui-Nhơn. Tối 20 tháng 3, lúc 11 giờ, trong khi chờ phương tiện “bốc” số đạn pháo binh, HQ 400 bị 3 người nhái Việt-Cộng lặn đến, đặt mìn. Nhân viên canh phòng chiến hạm phát giác kịp thời, thảy lựu đạn, bắt sống được một tên – chỉ mới 16 tuổi – hai người kia lặn thoát. Vào thời điểm này, Lực-Lượng Hải-Quân trong vịnh Qui-Nhơn có khoảng mười chiến hạm, gồm PC, PCE và WHEC với súng lớn, có tầm bắn xa, cùng với một số PGM. Tình hình Qui-Nhơn sôi động hơn, vì tin tình báo cho hay 3 Sư-Đoàn Bắc-Việt, sau khi chiếm Đà-Nẵng, đang trên đường tiến vào Qui-Nhơn. Trên đường tiến quân, Bắc quân đã chiếm một quận nhỏ phía Bắc Qui-Nhơn. Sau khi “đổ” quân bạn và đồng bào xuống Cam-Ranh, HQ 505 được lệnh từ Vùng II Duyên-Hải: Trở ra Sông-Cầu để yểm trợ Duyên-Đoàn 23 rút về Nha-Trang. HQ 3 đưa Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, từ Cam-Ranh đến Qui-Nhơn. HQ 3 trở thành Soái-Hạm. Tại Qui-Nhơn, Tướng Nguyễn Duy Hinh và Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại từ HQ 802 sang HQ 3; và hầu hết đơn vị trưởng Hải-Quân đều ở trên HQ 3. Riêng Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương ở trên HQ 8. Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, vào chức vụ Tư-Lệnh các Lực-Lượng Hải-Quân yểm trợ chiến trường Qui-Nhơn. Ngày 31 tháng 3, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân ra lệnh Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương bắn kho xăng Shell và kho xăng Quân-Nhu trên núi, thuộc thành phố Qui-Nhơn. Đồng thời Tổng Thống Thiệu cũng chỉ thị Hải-Quân “bốc” Sư-Đoàn 22, thuộc quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, tại vịnh phía ngoài hải cảng Qui-Nhơn. Vịnh này rất cạn. Một hải đạo sâu nhất vịnh được ghi trên bản đồ chỉ có độ sâu từ một thước rưỡi đến một thước tám! Điểm gần nhất chiến hạm có thể vào được cách bờ đến khoảng năm trăm thước – một khoảng cách không thể nào một người bình thường có thể bơi ra được! Trong khi HQ 7 được lệnh vào sát Ghềnh-Ráng, bắn chung quanh Tòa Tỉnh – vì được báo cáo nơi đây đang bị Việt-Cộng tấn công – thì Hải-Quân Trung-Tá Lê Thuần Phong, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội II Chuyển-Vận được chỉ định sang HQ 403 thực hiện cuộc đón quân của Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh. Từ HQ 403, Trung-Tá Phong lấy ống dòm quan sát. Biển êm. Trên bờ quân lính ngồi ngay ngắn, rất có kỹ luật. HQ 403 từ từ tiến vào. Cả chiến hạm đều ngạc nhiên, tự hỏi: Tại sao thấy chiến hạm vào mà khối quân nhân trên bờ vẫn ngồi yên? Phải chăng đơn vị này đã bị Việt-Cộng chế ngự? Tuy sợ mắc cạn và thấy tình thế bất lợi trên bờ, HQ 403 cũng vẫn chuẩn bị ủi bãi sau khi ban hành nhiệm sở tác chiến. Trời tối dần. Biển lặng cho đến nỗi có thể nghe được tiếng mũi tàu chạm vào cát. Bỗng, ầm! Ầm! Ầm…Tiếng đạn B40 vang rền và nước bắn tung tóe trước mũi chiến hạm. Vì chỉ là một LSM, không được trang bị súng lớn, HQ 403 báo cáo ngay về HQ 3 rồi lui ra khỏi tầm đạn, chờ lệnh. Trong khi HQ 403 chưa thể vào vịnh được thì Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh ra lệnh HQ 400 ủi bãi Trường Sư-Phạm Qui-Nhơn để đón vài đơn vị khác của Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh. Từ trong bờ, Việt-Cộng bắn ra chiến hạm dữ dội khiến HQ 400 không thể nào ủi bãi được. Cuối cùng, những đơn vị của Sư-Đoàn 22 phải bơi ra tàu. Trong số những quân nhân bơi ra tàu có Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, Tư-Lệnh Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh. Trong khi đó, từ thành phố Qui-Nhơn, Trung-Đoàn-Trưởng Trung-Đoàn 42 Bộ-Binh, Đại-Tá Nguyễn Hữu Th. liên lạc trực tiếp với Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương, Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển và cho biết rằng trong thành phố Qui-Nhơn không có một tên Việt-Cộng nào cả. Trung-Tá Uyển hỏi về những tiếng súng thì Đại-Tá Th. trả lời, đó là của Nhân-Dân Tự-Vệ bắn vu vơ, để ông ấy cho dẹp. Vì muốn biết tình hình trên bờ, Trung-Tá Uyển yêu cầu Đại-Tá Th. ra tàu sớm để hỏi thăm. Đại-Tá Th. bảo Trung-Tá Uyển cho tàu đón lính của Ông trước đi. Tối 31 tháng 3, sau khi được báo cáo là Thiếu Tướng Phan Đình Niệm đang ở trên HQ 400 và tinh thần của Ông hơi bất an, Tướng Phạm Văn Phú, Tư-Lệnh Quân-Đoàn II, chỉ định Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, thay thế Tướng Phan Đình Niệm ở chức vụ Tư-Lệnh chiến trường Bình-Định. Tướng Phan Đình Niệm rời vùng trách nhiệm, theo HQ 400 về Vũng-Tàu. Sáng 1 tháng 4, Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh các chiến hạm bắn hải pháo vào phi trường Qui-Nhơn. Lúc này, tại vịnh phía ngoài hải cảng Qui-Nhơn, không biết bao nhiêu quân nhân bơi lố nhố trên mặt biển. Vì độ sâu của biển không cho phép chiến hạm ủi bãi, cho nên, nhiều PCF được phái tới, vào sát bờ, cứu gần trọn vẹn một Trung-Đoàn; còn một Trung-Đoàn khác ở lại, không bơi ra tàu. Lý do một Trung-Đoàn không bơi ra tàu là vì: Trong cuộc chạy loạn từ vùng hỏa tuyến vào, cựu Trung-Đoàn-Trưởng của một Trung-Đoàn thuộc Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh gặp lại đơn vị cũ của Ông. Đơn vị này cho Ông biết, họ không hiểu tại sao họ phải bỏ chạy trong khi họ đang thắng lớn tại đèo Phủ-Cũ, An-Khê. Vị Trung-Đoàn-Trưởng “nhận lại” đơn vị của Ông, rồi tất cả quay vào rừng! Cuộc đón quân tại cầu tàu Qui-Nhơn được thực hiện tương đối không mấy khó khăn. Trung-Tá Uyển lại liên lạc với Đại-Tá Nguyễn-Hữu-Th., hỏi tại sao chưa thấy Ông trên tàu? Đại-Tá Th. đáp: “Tôi không thể ra với anh được. Lính của tôi ra hết rồi. Cảm ơn anh. Tôi đi về!” Không ai biết vị anh hùng ấy đi về đâu! Tất cả Duyên-Đoàn thuộc Vùng II Duyên-Hải ở mạn Bắc Qui-Nhơn được lệnh rút về phía Nam. Tại Sông-Cầu, trong khi yểm trợ Duyên-Đoàn 23, HQ 505 bị hai xe tăng Việt-Cộng bắn trực xạ. Là một LST với trọng tải chuyên chở một ngàn tấn, bài-thủy-lượng bốn ngàn tấn và chỉ được trang bị ba khẩu 40 ly đơn để phòng không chứ không có “moọc-chê”, Hạm-Trưởng cho chiến hạm quay mũi, chạy ra. Vừa lúc đó, Duyên-Đoàn 23 cũng ra khỏi cửa sông. Từ đây, HQ 505 hộ tống Duyên-Đoàn 23 và đoàn ghe cùng PCF của Vùng I Duyên-Hải về Nha-Trang. Thời gian này, nhiều MSF và PC tuần tiễu vùng Sông-Cầu báo cáo về Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân Saigon là xe tăng Việt-Cộng di chuyển khơi khơi trên quốc lộ và ban đêm từng đoàn Molotova chạy, rọi đèn sáng rực mà những chiến hạm này không thể ngăn chận; vì MSF và PC chỉ được trang bị súng 76 ly mà thôi! Sau khi Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân xin Không-Quân yểm trợ mà bị từ chối, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang chỉ thị những chiến hạm với trọng pháo có tầm bắn xa, bắn sập tất cả cầu trên quốc lộ I từ Qui-Nhơn đến Đèo Cả. Hải-Quân Đại-Tá Đỗ Kiểm, Tham-Mưu-Phó hành quân, trình lên Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham-Mưu-Trưởng Liên-Quân: Hải-Quân có thể điều động 3 Duyên-Đoàn; mỗi Duyên-Đoàn có khoảng 150 đoàn viên, cộng với vài chiếc WHEC có đại bác và 4, 5 MSF. Lực lượng này cùng với tất cả đơn vị Bộ-Binh, Nghĩa-Quân, Biệt-Động-Quân, v. v…sẽ đặt tuyến vòng đai phòng thủ Qui-Nhơn. Nếu Bộ-Tổng-Tham-Mưu can thiệp để Không-Quân yểm trợ cho lực lượng này trong vòng một tuần lễ thì Hải-Quân sẽ tăng phái nhiều WHEC vận chuyển súng lớn đến. Và như thế, những đơn vị phía Nam Qui-Nhơn đủ thì giờ tổ chức, phối hợp, bố trí, chận ngang quốc lộ I. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đồng ý giải pháp do Hải-Quân đề nghị và giao Hải-Quân trách nhiệm điều động và chỉ huy. Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang đề nghị Bộ-Tổng-Tham-Mưu: Nếu muốn giao nhiệm vụ đó cho Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh thì nên đặt Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh vào chức vụ Tổng-Trấn Qui-Nhơn để Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh có toàn quyền xử dụng lực lượng Bộ-Binh và những đơn vị hiện diện trong vùng. Tối 1 tháng 4 lúc 11 giờ, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên gọi Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân và cho biết: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký nghị định chỉ định Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh làm Tổng-Trấn Qui-Nhơn trong nhiệm vụ phối trí các lực lượng, đổ quân vào tái chiếm Qui-Nhơn. Khuya 2 tháng 4 lúc 2 giờ, Đại-Tá Đỗ Kiểm liên lạc và thông báo với Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh về quyết định của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sáng 2 tháng 4, sau khi Lực-Lượng Hải-Quân tại Qui-Nhơn dồn hết vào gần bờ, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, kiêm Tổng-Trấn Qui-Nhơn, kiêm Tư-Lệnh chiến trường Bình-Định, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, cùng vài đơn vị nhỏ của Bộ-Binh và một số sĩ quan Hải-Quân đổ bộ lên Qui-Nhơn thăm dò tình hình. Tình hình thành phố Qui-Nhơn yên lặng, ngột ngạt, nhưng tuyệt nhiên không có bóng dáng tên Việt-Cộng nào cả. Tại phi trường Phù-Cát, mấy mươi chiếc phi cơ còn nằm đó, nguyên vẹn. Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh đích thân liên lạc vô tuyến với những đơn vị của Sư-Đoàn 22 chưa di tản; nhưng những đơn vị này đang tán loạn, không thể liên lạc được! Tiểu-Khu-Trưởng và các Chi-Khu-Trưởng đều vắng mặt. Vì lẽ đó, sự phối trí giữa Địa-Phương-Quân, Bộ-Binh và Biệt-Động-Quân tăng phái không thực hiện được. Chiều 2 tháng 4, toán quân đổ bộ trở lại chiến hạm. Kế hoạch lập chiến tuyến ở Qui-Nhơn bị bức tử khi vừa mới tượng hình; vì những đơn vị trưởng trách nhiệm đã đào ngũ trước khi kẻ thù xuất hiện! Kể từ sau khi rút quân khỏi Đà-Nẵng, một hiện tượng tương tự cứ xảy ra nơi những tỉnh dọc theo miền duyên hải: Nếu thấy chiến hạm – bất kể của Hải-Quân Việt-Nam hay Hải-Quân Hoa-Kỳ – lãng vãng ngoài khơi và cố vấn Mỹ chào tạm biệt Tiểu-Khu-Trưởng để ra đi thì, liền sau đó, Tiểu-Khu-Trưởng cũng đi theo, tạo nên tình trạng “rắn không đầu”! Binh sĩ tự động rời đơn vị về lo cho gia đình! Trên hải trình trở về Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ thị HQ 7 bắn yểm trợ vùng Phú-Yên. Cũng chính Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh trực tiếp điều động tất cả Lực-Lượng Hải-Quân trong vùng và liên lạc với những đơn vị bạn trên bờ để thực hiện các cuộc đón quân dọc theo miền duyên hải. Nguồn: www.diepmylinh.com/qui-nhon
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:08:17 GMT 9
CHUYẾN CÔNG TÁC CUỐI CÙNG CỦA HQ 08 – Nguyễn Trường Yên & Trần Đỗ Cẩm Posted on April 9, 2020 by dongsongcu Nguyễn Trường Yên & Trần Đỗ Cẩm Ghi chú: Được tự do trích đăng và phổ biến rộng rãi trên báo chí & các diễn đàn điện tử – Cám ơn. Vui lòng cho biết những sai sót để chúng tôi tu chỉnh. Email liên lạc với tác giả: yennguyen1945@gmail.com – camtran11@gmail.com Ho tong Ham Chi Lang II HQ08 va Ky Hoa HQ09 Hộ Tống Hạm Chi Lăng II HQ 08 nguyên là USS 239 Gayety được chuyển giao cho HQ/VNCH vào ngày 17-4-1962. Chiến hạm dài khoảng 70 m, rộng 10 m, vận tốc 15 hải lý/giờ, trang bị 1 đại bác 76 ly ở sân trước và 2 đại bác 40 ly ở sân giữa. Thủy thủ đoàn khoảng 100 người. Vào tháng 9-1974, HQ Thiếu Tá Nguyễn Trường Yên Khóa 15 SQHQ Nha Trang đang chỉ huy HQ 405, được chỉ định làm hạm trưởng HQ 08, thay thế HQ Thiếu Tá Lê Quang Lập Khóa 11 SQHQ Nha Trang. Lúc đó chiến hạm đang đảm nhận công tác tuần dương tại V1 Duyên hải nên tân hạm trưởng phải quá giang ra Đà Nẵng trên HQ 500 do HQ Thiếu Tá Nguyễn Văn Tánh Khóa 11 SQHQ Nha Trang tạm thời làm Hạm Trưởng tạp dịch. Sau khi nhận quyền chỉ huy, HQ 08 tiếp tục công tác tuần dương thường lệ như những chiến hạm khác cùng hải đội. Khoảng tháng 2-1975, trong lúc tình hình chiến sự trên đất liền bắt đầu sôi động, thì ngoài khơi sự tranh chấp chủ quyền thềm lục địa với các quốc gia láng giềng như Indonesia, Philippines tại vùng quần đảo Trường Sa, nơi có nhiều triển vọng về dầu lửa và hơi đốt cũng trở nên gay gắt, vì vậy ngoài các công tác hành quân, Hải Quân còn phải đảm nhận thêm nhiệm vụ bảo vệ các giàn khoan dầu ngoài Biển Đông gần Trường Sa. HQ 08 được chỉ định thay thế HQ 14 trong công công tác bảo vệ giàn khoan dầu lửa Ocean Prospector của hãng Pecten đang hoạt động tại vị trí 188 hải lý Đông Nam Côn Sơn đang khoan các giếng Hồng, Dừa Mía v.v… tại lô 12 thềm lục địa, trong khi giàn khoan Glomar IV của hãng Mobil Oil hoạt động bên lô số 9 lân cận. Cũng nên nói rõ thêm Pecten là công ty chuyên khoan giếng dầu ngoài khơi với 80% số vốn do hãng dầu Shell cung cấp. Theo qui ước đã thỏa thuận với chính phủ VNCH khi đấu thầu khai thác các lô dầu lửa tại Biển Đông, hãng Pecten dùng tên các loại cây trái như Dừa, Hồng, Mía … để đặt tên các giếng khoan dầu, còn hãng Mobil dùng tên các con thú như Đại Hùng, Bạch Hổ, Đại Bàng v.v… Tới trung tuần tháng 3, tình hình mặt trận khu vực bắc đèo Hải Vân rất nghiêm trọng, lực lượng Nhẩy Dù và TQLC đã rời Quảng Trị lui về Huế. Các đơn vị Hải Quân phía Bắc đèo Hải Vân gồm GĐ 32 Xung Phong, GĐ 92 Trục Lôi, GĐ 60 Tuần Thám, DĐ 12 tại Thuận An, DĐ13 tại cửa Tư Hiền v.v… cùng gia đình binh sĩ cũng được đưa về Đà Nẵng an toàn vào ngày 20-3. Trong thời gian đó, HQ 08 đang tuần tiễu tại Vùng 3 Duyên Hải được lệnh khẩn cấp ra Vùng I trình diện ĐĐ Thoại nhận nhiệm vụ mới. Khi tới Đà Nẵng, hạm trưởng trình diện BTL/V1DH để nhận công tác, Đô Đốc Tư Lệnh hỏi kỹ về khả năng, tình trạng và đặc biệt muốn biết rõ về kế hoạch sẵn sàng tác chiến của chiến hạm. Hạm trưởng HQ 08 trả lời sẽ cho nhân viên túc trực tại các ổ súng có thể bắn ngay khi cần thiết. Sau đó HQ 08 được HQ Trung Tá Lê Thành Uyển, Hải Đội Trưởng HĐ III Tuần Dương chỉ thị ra tuần tiễu trục Thuận An – Cửa Việt cùng với HQ 07 do HQ Thiếu Tá Trần Nam Hưng Khóa 10 SQ/HQNT làm hạm trưởng đã có mặt ngoài vùng. Ít lâu sau, có HQ 14 do HQ Thiếu Tá Phạm Thành Khóa 13 SQHQ Nha Trang làm hạm trưởng, cũng ra nhập toán tuần tiễu vào quá nửa đêm ngày 23-3. Bắt đầu từ lúc 9 giờ sáng ngày 24-3, phân đội ba hộ tống hạm do HQ Thiếu Tá Trần Nam Hưng chỉ huy (OTC) thiết lập đội hình hàng ngang, cách nhau khoảng 1 hải lý hướng về vĩ tuyến 17; HQ 07 ở vị trí 1 bên trái, HQ 08 vị trí 2 ở giữa và HQ 14 vị trí 3 bên phải. Phân đội có nhiệm vụ phát hiện và ngăn chặn phi cơ và chiến hạm Bắc Việt xâm nhập. Đàng sau toán chiến hạm tiền phong này có các Khu Trục Hạm và Tuần Dương Hạm lớn hơn sẵn sàng yểm trợ. Khoảng 4 giờ chiều, lúc phân đội đang vận chuyển ở vị trí Đông Bắc cửa Thuận An, khoảng cách 10 hải lý, đột nhiên HQ 14 bị 2 phi cơ A-37 từ trên mây nhào xuống thả 2 trái bom nhưng trật trước mũi rồi bay lẫn vào đám mây. HQ 14 không bắn trả vì hạm trưởng biết chắc đây là phi cơ VNCH thả bom lầm; nhưng chỉ vài phút sau đó, bất thần 2 phi cơ này quay lại thả 2 trái bom nữa sát bên hữu hạm gần phòng ăn đoàn viên. Mảnh bom đâm thủng nhiều lỗ bên hữu hạm và khiến 5 nhân viên tử thương và 10 bị thương nặng; tay lái điện và hệ thống truyền tin bất khiển dụng, chỉ còn liên lạc được bằng máy truyền tin PRC-25. HQ 07 được gấp rút gọi đến tản thương còn HQ 08 được lệnh giòng HQ 14 về Đà Nẵng. Khi vừa tới Hòn Sơn Chà gần cửa vịnh, HQ 14 báo cáo đã sửa được máy điện, có thể tự vận chuyển được nên HQ 08 tháo giây giòng tầu và quay trở lại vùng hành quân. Nhiệm vụ yểm trợ cho các LCU và LCM 8 đón quân bạn tại cửa Thuận An. Ngày 25-3, khi HQ 08 vào gần bờ đã thấy đông nghẹt người, quân dân lẫn lộn trên bãi cát. Tiểu đoàn 7 TQLC do Thiếu Tá Phạm Cang làm TĐT, Thiếu Tá Lê Quang Liễn TĐP vừa xuất phái khỏi Lực Lượng Đặc Nhiện Tango cùng với Lữ Đoàn 147 TQLC gồm các TĐ3, 4, 5 do Đại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy vừa về đến cửa Thuận An sẵn sàng trên bãi chờ tầu Hải Quân bốc đi. Hồi 10 giờ sáng, BCH nhẹ SĐ/TQLC do Đại Tá Nguyễn Thành Trí chỉ huy lên một LCM 8 ra khơi tiếp tục chỉ huy cuộc rút quân. HQ 801 lúc 1 giờ chiều đã cố gắng ủi bãi đón quân bạn nhưng vẫn còn cách bờ khoảng 200 m nên quân trên bờ vẫn không ra tầu được vì sóng lớn. Ngày 26-3, lúc 8 giờ sáng một LCU vào đón được BCH/LĐ 147, thêm một số thương binh và khoảng 1 tiểu đoàn TQLC. Tuy bị Việt Cộng dùng hỏa tiễn AT 3 bắn trúng ngay tại bãi ủi gây một số thương vong, nhưng chiếc LCU này rút ra được ngoài biển. Chiếc LCU thứ hai vào bãi đón nhưng quân TQLC hỗn loạn ào lên quá đông nên mắc cạn vì quá tải. HQ Trung Tá Trần Đình Hòa, sĩ quan trưởng toán tầu đón quân cho LCU khác vào cố kéo chiếc tầu bị mắc cạn dưới làn mưa đạn của địch quân, nhưng không thành công. Từ đó không có tầu HQ nào vào nữa. Ý định bốc quân bạn bằng tầu HQ tại bãi biển Thuận An coi như thất bại nên cấp chỉ huy buộc phải dùng kế hoạch khác để cứu các binh sĩ đang bị kẹt trên bãi biển. Theo dự tính mới, thay vì đón quân tại cửa Thuận An, LĐ 147 TQLC sẽ đi bộ từ cửa Thuận An dọc theo bãi biển về hướng Nam tới cửa Tư Hiền cách 40 cây số. Hải Quân và Công Binh sẽ lập cầu nổi tại cửa Tư Hiền để binh sĩ qua đầm Cầu Hai đi về Đà Nẵng. HQ 08 đang yểm trợ quân bạn tại cửa Thuận An nhận được lệnh về BTL/V1DH họp khẩn để thực hiện kế hoạch mới này. Tới Đà Nẵng khoảng 8 giờ tối, hạm trưởng lên trình diện BTL và được mời họp hành quân. Hiện trong buổi họp có PĐĐ Thoại TL/V1DH, HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn TL/HĐ, Đại Tá Lê Đình Quế Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn TQLC. Đại Tá Sơn nói thẳng với hạm trưởng HQ 08:”Tôi cần anh làm cái “mission” này: anh chỉ huy toán LCM 8 Quân Vận kéo ponton tới cửa Tư Hiền; sau đó sẽ có toán chất nổ của Biệt Hải đánh chìm những ponton này để làm cầu nổi cho quân bạn đi qua”. Đại Tá Quế nói thêm: “Nếu anh làm được công tác này sẽ cứu được cả ngàn TQLC”. ĐĐ Thoại hỏi tầu có nhiều giây thừng không, hạm trưởng Yên trả lời chỉ có mấy cuộn giây cột tầu. ĐĐ Thoại ra lệnh cứ xử dụng tối đa giây để làm cầu nổi , V1DH sẽ bồi hoàn sau. Rời phòng họp, hạm trưởng Yên lập tức xuống tầu thi hành lệnh ngay. Rạng sáng ngày hôm sau 27-3, HQ 08 và toán LCM 8 Quân Vận đưa được 4 ponton từ Đà nẵng tới ngoài khơi cửa Tư Hiền, nhưng không liên lạc được với toán công binh hay bất cứ quân bạn nào trên bờ. Vì không rõ tình hình địch bạn trong vùng nên HQ 08 thận trọng thả trôi chờ ngoài biển nghe ngóng tin tức. Tình cờ, HQ 08 vớt được một ghe dân sự chở khoảng mươi người lính mặc quân phục BĐQ, hạm trưởng HQ 08 hỏi thăm tình hình trong bờ, viên Trung Úy chỉ huy cho biết tình hình rất bi đát, địch đã chiếm hết những vị trí trọng yếu, không còn quân bạn, Việt Cộng đặt súng trên các đỉnh núi cao bắn xuống ác liệt, cả trung đội của ông chỉ còn lại có mấy người trên ghe. Khi được biết ý định của HQ 08 đem ponton vào lập cầu nổi tại cửa Tư Hiền, viên Trung Úy can ngăn:” Toán ông vào đó chắc không ra được”. Tuy nhiên HQ 08 vẫn tuân hành thượng lệnh, chuẩn bị giây thừng sẵn sàng, coi chừng các LCM 8 QV kéo ponton quanh quẩn tại vùng. Chờ mãi không liên lạc được với quân bạn và cũng không thấy toán Biệt Hải mang chất nổ. Tới gần tối, BTL/V1DH liên lạc hủy bỏ kế hoạch làm cầu nổi. Dự tính làm cầu nổi băng ngang cửa Tư Hiền để quân bạn đi qua có thể thực hiện trên nguyên tắc, vì cửa lạch ăn thông từ đầm Cầu Hai ra Biển Đông rất hẹp, chỉ vào khoảng 70 m và cạn. Duyên Đoàn 13 đóng tại đây nhiều khi phải dùng chất nổ đặt dưới lòng lạch để đào cát sâu thêm đủ cho ghe thuyền qua lại. Tuy nhiên, trên thực thế rất khó thành công trong tình thế khẩn trương lúc bấy giờ. Điều kiện tiên quyết là an ninh tuyệt đối nhưng lúc đó, địch đã chiếm hai cao điểm quan trọng là núi Túy Vân ở bờ Bắc và núi Vĩnh Phong ở bờ Nam. Từ hai vị trí khống chế chỉ cách cửa Tư Hiền không xa này, địch đặt súng bắn xuống sẽ tiêu diệt hết ghe thuyền qua lại như toán BĐQ cho biết; vì vậy kế hoạch kéo ponton vào để làm cầu phao không thể nào thực hiện nổi. Thứ hai là điều kiện thủy đạo vì cửa biển rất hẹp nên nước chẩy xiết khi thủy triều lên hay xuống; việc đặt các ponton vào đúng vị trì làm cầu chỉ có thể thực hiện khi nước ròng đứng. Cả hai điều kiện cần thiết đều không hội đủ, vì vậy dự tính đặt cầu nổi đã bị thất bại. Thật ra, nếu có làm được cầu nổi đi nữa cũng không còn quân bạn đi qua vì tất cả đã bị Việt Công bắt vào sáng sớm ngày 27-4 khi họ còn cách cửa Tư Hiền chừng 1 cây số. Đây là một trở ngại khác lớn hơn, đó là “lãnh đạo và chỉ huy”. Nói chung, kế hoạch dùng tầu HQ để di tản TQLC bằng đường biển tuy có thể thực hiện được, nhưng đã bị thất bại vì không giữ được an ninh và trật tự tại các điểm bốc quân. Trước đó chỉ mấy ngày khi địch quân chưa tới gần an ninh còn khả quan, tất cả các đơn vị HQ và gia đình binh sĩ tại vùng cửa Thuận An đã được di chuyển bằng đường biển về Đà Nẵng an toàn. Ngay cả khi quân bạn đã đến điểm hẹn, các LCM hay LCU vẫn có thể bốc quân đưa ra tầu lớn nếu an ninh và trật tự trên bờ được duy trì. HO TONG HAM CHI LANG II HQ08..Sau chuyến công tác không thành công tại cửa Tư Hiền, ngày 28-3, HQ 08 trở về hoạt động trong vùng vịnh Đà Nẵng, vớt được khá nhiều dân tỵ nạn bằng ghe từ bờ đi ra. Sáng 30-3 HQ 08 cập HQ 802 chuyển dân tỵ nạn sang, đồng thời đón PĐĐ Thoại và Tướng Nguyễn Duy Hinh TL/SĐ3 qua rồi di chuyển xuống vùng Chu Lai – Cù Lao Ré để tham dự vào cuộc đón quân SĐ3. Ngày 31-3, HQ 472 do HQ Đại Úy Lê Chân An Thuận làm hạm trưởng cập HQ 08 đón tướng Hinh và nhân tiện tiếp tề dầu. Sau đó HQ 472 lên đường về Cam Ranh. Sau Đà Nẵng, HQ 08 lại được lệnh về Qui Nhơn yểm trợ cho cuộc rút quân SĐ 22 Bộ Binh do tướng Phan Đình Niệm làm Tư Lệnh. Trên hệ thống âm thoại, HQ 08 nghe được lệnh chỉ định PĐĐ Hoàng Cơ Minh là Tư Lệnh Chiến Trường kiêm nhiệm Tổng Trấn Qui Nhơn. Lúc này tình hình tại Qui Nhơn đã rất bi đát, địch quân xâm nhập khắp nơi và cắt đứt đường rút quân SĐ 22 về bãi biển Qui Nhơn. HQ 08 được lệnh cùng các chiến hạm bạn bắn hải pháo tối đa yểm trợ cho quân bạn và phá hủy những bốn xăng dầu trên bờ. Đô Đốc Minh cố thiết lập đầu cầu giữ vững Qui Nhơn nhưng không thành công vì thiếu quân số và dân chúng trong thành phố đang hoang mang tán loạn, tình trạng vô cùng hỗn loạn. Sau khi mất Qui Nhơn, HQ 08 xuôi dần về Nha Trang rồi Cam Ranh. Lúc đó trên chiến hạm có hạm phó và một số nhân viên quê quán ở Nha Trang xin được ghé vào đón gia đình nhưng hạm trưởng không chấp thuận vì Nha Trang cũng đã bị địch xâm nhập, mất an ninh. HQ 08 về tới Cam Ranh mới thả youyou đưa những nhân viên này lên bờ để họ đón xe về Nha Trang kiếm gia đình với kỳ hẹn 24 giờ sẽ quay trở lại. Lúc này căn cứ hải quân Cam Ranh cũng đã di tản, bồn dầu bị phá hủy còn đang cháy dở trên bờ. HQ 08 thả trôi trong vịnh Cam Ranh chờ đón gia đình nhân viên, nhưng chỉ có gia đình HQ Trung Úy Ngô Thiện Tánh Khóa 20 SQHQ/NT trở lại được. Tiếp theo Cam Ranh, HQ 08 về Phan Rang vào khoảng ngày 16-4 đã thấy nhiều chiến hạm thuộc hạm đội 7 Hoa Kỳ lảng vảng ngoài khơi, trong đó có cả soái hạm Blue Ridge với trực thăng lên xuống liên ttiếp. Rồi Phan Rang, Phan Thiết cũng theo nhau di tản. Sau hơn một tháng trời miệt mài chinh chiến không ngừng nghỉ, máy móc của HQ 08 đã bằt đầu hư hỏng vì không có thời gian bảo trì, do đó chiến hạm được cho về Vũng Tầu, cập Cơ Xưởng Hạm Vĩnh Long HQ 802 để sửa chữa. Nhưng vì bị hư hỏng nhiều, chỉ còn một máy chánh nên ngoài khả năng của cơ xưởng hạm. Cuối cùng HQ 08 được lệnh về Sài Gòn, vào Hải Quân Công Xưởng sửa chữa khẩn cấp. Chiến hạm về tới Sài Gòn vào khoảng ngày 20-4, cập cầu HQCX. Khi còn ở Vũng Tầu, hạm trưởng HQ 14 là HQ Thiếu Tá Phạm Thành nghe tin HQ 08 được về Sài Gòn nên gặp hạm trưởng Yên xin địa chỉ để gia đình tiếp xúc trong trường hợp cần phương tiện di tản. Hạm trưởng Yên nghe gia đình nói lại phu nhân của Thiếu Tá Thành có tìm tới tận nhà cám ơn và còn cẩn thận nhắn rằng đã có phương tiện riêng, không cần làm phiền nữa. Sau này gia đình hạm trưởng Thành quá giang trên HQ 3 và đoàn tụ tại Côn Sơn. HQ 08 vừa về đến Sài Gòn, thợ HQCX giám định tình trạng kỹ thuật cho biết phải tháo cả 2 máy chánh để sửa chữa. Hạm trưởng Yên không đồng ý, chỉ cho tháo một máy khi sửa xong mới tháo máy kia để chiến hạm còn có thể xoay sở khi hữu sự. Vài ngày sau trong lúc chờ đợi, HQ 08 được lệnh của HQ Trung Tá Nguyễn Tam, Tư Lệnh Phó Hạm Đội dời qua cầu D trên bến Bạch Đằng, cập cạnh Câu Lạc Bộ Nổi, mũi thượng giòng, hải pháo 76 ly hướng về phía cổng vào HQCX trên đường Cường Để, sẵn sàng bắn ngăn chận chiến xa Việt Cộng xâm nhập. Vì chỉ còn một máy nên HQ 08 được tầu giòng Ty Quân Quảng đưa qua cầu D thi hành nhiệm vụ. Nhân dịp này, hạm trưởng cho nhân viên lấy đầy nước vào hầm thủy lựu đạn (depth charge) phía sau lái để dự trữ; vì vậy sau này HQ 08 mới có đủ nước để những người quá giang xử dụng trên đường đi Subic bay sau này. Tối 29-4, khi các chiến hạm bạn tách bến ra khơi, HQ 08 vẫn còn đậu tại cầu D, vị trí 1 sát Câu Lạc Bộ Nổi để thi hành lệnh chuẩn bị bắn chiến xa địch xâm nhập. HQ 329 do HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Danh Khóa 15 SQHQ/NT làm hạm trưởng cập vị trí 2 bên ngoài. Khi nghe tiếng Đại Tá Nguyễn Văn Tấn qua hệ thống truyền tin, tự xưng là Tư Lệnh Hải Quân ra lệnh cho các chiến hạm ở lại, HQ 08 mới chuẩn bị lên đường. Vì dân chúng đã tràn ngập trên bờ, chen lấn cố tìm đủ mọi cách xuống các chiến hạm còn cập cầu nên hạm trưởng Yên đã phải thả youyou (xuồng nhỏ cơ hữu của chiến hạm) chạy dọc theo bến Bạch Đằng mới đón được gia đình tại cầu Tự Do đối diện với Hotel Majestic. Youyou phải chạy nhiều chuyến mới đón hết được gia đình vì mỗi lần xuồng cập bến là dân chúng lại ùa xuống. Riêng hạm trưởng Danh của HQ 329 còn chần chừ chưa muốn đi vì chưa đón được gia đình. Hạm trưởng Yên giúp bạn phương tiện chuyên chở là 2 chiếc xe hơi của gia đình mới xuống tầu để lại, do đó hạm trưởng Danh đón được gia đình lên tầu. Trước khi rời bến, HQ 08 còn đón thêm khoảng 400 người đang tuyệt vọng chờ đợi trên bờ. Hai chiến hạm tách bến ra khơi vào lúc 3 giờ sáng ngày 30-4 và tới điểm tập trung Côn Sơn an toàn. Cuối cùng HQ 08 nhập đoàn chiến hạm HQVN đi sang Subic Bay. Chiến hạm được đổi tên thành Magat Salamat (PS 20 khi chính thức gia nhập hải quân Philippines vào tháng 9-1975. Nguồn: camtran11.6te.net/hqtext/ahqyen.html
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:18:13 GMT 9
HQ 14 và Những Tháng Cuối Của Cuộc Chiến – Phạm Thành Posted on April 6, 2020 by dongsongcu Phạm Thành HUY HIEU HO TONG HAM VAN KIEP HQ14 Lời Tựa Sau khi chuyển giao Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp II (HQ 14) cho Hải Quân Hoa Kỳ tại Subic Bay năm 1975, gia đình chúng tôi nhập trại tỵ nạn tại Guam và sau đó được đưa qua lục địa Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1975 để nhập trại tỵ nạn Indian Town Gap, Pennsylvania. Đến tháng mười 1975, chúng tôi được xuất trại, về định cư tại thành phố nhỏ Wilkes Barre thuộc tiểu bang Pennsylvania. Sau đó, theo công việc làm, chúng tôi dời lên Long Island, New York; và cuối cùng, chuyển về Annapolis, Maryland. Tôi đã về hưu cách đây ba năm lúc 71 tuổi, hiện sống với vợ tại Annapolis. Hai con gái của chúng tôi đã lập gia đình. Chúng tôi có 2 cháu ngoại. Từ khi đến Hoa Kỳ, nhiều lần nhớ đến anh em cùng chiến hạm, tôi muốn viết lại vài dòng để làm mối dây liên lạc và cùng ôn lại quá khứ. Nhưng vì bận bịu với gia đình, học hành, và việc làm, nên tôi cứ hẹn rày hẹn mai mãi. Cho đến tuần trước, khi nói chuyện với anh Trần Thanh T, bạn cùng khóa 13 Hải Quân Nha Trang với tôi, T khuyên tôi nên viết lại một bài ngắn gởi đăng trên Đặc San của Đại Hội Hải Quân VNCH Toàn Cầu 2017, để chia sẻ với các chiến hữu Hải Quân VNCH, tôi mới quyết định viết bài này, với mong ước được ôn lại kỷ niệm cũ và liên lạc với anh em thuộc HQ 14, những chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu bảo vệ tự do, chia sẻ vui buồn, hiểm nguy, nhọc nhằn gian khổ, nhất là trong những tháng cuối của cuộc chiến. Tôi xin cầu mong cho anh em và gia đình ở ngoại quốc và trong nước luôn được mọi sự bình an. Vì tôi còn giữ được quyển nhật ký riêng tôi viết trong thời gian ấy, nên ngày tháng và các chi tiết quan trọng trong bài này đều chính xác. Ngoại trừ một số ít chi tiết dựa trên trí nhớ, có thể sai lạc chút ít. KO TONG HAM VAN KIEP II HQ14HQ 14 trong ngày Lễ Quốc Khánh tại Thương Cảng Saigon HQ 14 vào sửa chữa Tiểu Kỳ Sau chuyến công tác dài trên ba tháng đầy sóng gió, HQ 14 trở về Saigon ngày 13 tháng 2 năm 1975 để vào Tiểu Kỳ, Thủy thủ đoàn ai cũng vui mừng vì được gần nhà hơn một tháng. Riêng tôi, đây cũng là dịp được gần vợ con. Chúng tôi cưới nhau đầu nằm 1973. Đến nay, con gái đầu lòng của chúng tôi đã tròn một năm. Tôi cần thời gian để làm quen với nó. Hồi nó mới sanh ra, tôi còn làm hạm trưởng HQ 404, sau đó được thuyên chuyển qua HQ 14. Lần về bến vừa qua sau 3 tháng lênh đênh trên biển cả, nó đứng xa xa, vịn thành giường, nhìn tôi như người xa lạ. Tôi cảm thấy thấm thía với cuộc đời Hải Quân và cũng thông cảm hơn với nhân viên của tôi. Theo thường lệ, khi chiến hạm về Saigon, tôi cho nhân viên làm việc đến 12 giờ trưa thì hai phần ba được đi bờ cho đến sáng hôm sau. Nhưng trong thời gian Tiểu Kỳ, mọi người phải làm việc đến bốn giờ chiều. Ngoài công việc liên lạc Hải Quân Công Xưởng liên quan đến viêc sửa chữa máy chánh, máy điện, hệ thống phòng tai, điện tử, truyền tin… thủy thủ đoàn còn phải lo lãnh đạn hải pháo tại Thành Tuy Hạ, lãnh tiếp liệu tồn kho, bảo trì chiến hạm hằng ngày, huấn luyện các nhiệm sở Phòng Tai, Tác chiến… Sau khi sửa chữa Tiểu Kỳ hoàn tất vào ngày 24 tháng 2, Trường Chiến Hạm bắt đầu chương trình Huấn Luyện HQ 14 tại bến, và sau đó, tại Vũng Tàu, cho đến ngày 8 tháng 3. Chuyến Công Tác Vùng I Duyên Hải Sáng ngày 21 tháng 3, chỉ vài ngày sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh Triệt Thoái Quân Đội khỏi Vùng Cao Nguyên, tôi lên BTL/HQ/P3 nhận lệnh công tác đi bảo vệ dàn khoan Ocean Prospector, cách Côn Sơn 188 hải lý về phía đông nam. Nhưng sau đó, trên đường đi, vào lúc 3 giờ 30 chiều, tôi lại nhận được lệnh đổi hướng đi công tác V1ZH. Biển tương đối êm và chúng tôi có một chuyến hải hành thoải mái. Ngồi trên đài chỉ huy, ngắm sao trời và những ngọn đèn le lói từ các ghe đánh cá nhấp nhô trên sóng nước, tôi lại suy nghĩ miên man đến cuộc chiến, không biết mai đây số phận của Miền Nam sẽ đi về đâu. Tôi tự nhủ, dù sao tôi và thủy thủ đoàn vẫn phải giữ vững tinh thần chiến đấu cho đến phút cuối cùng. Chúng tôi vẫn còn hy vọng! Mãi đến 6 giờ chiều ngày 23, HQ 14 mới đến BCH/V1ZH. Tôi cặp cầu Tiên Sa và lên trình diện TL/V1ZH, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Tôi được lệnh khởi hành ngay trong đêm đến khu vực hành quân 1B1, ngoài cửa Thuận An, để yểm trợ Bộ Binh rút quân về nam, qua đường biển. Đô Đốc Thoại có hỏi tôi “ Hạm Phó của anh có đủ khả năng chỉ huy chiến hạm khi có bất trắc gì xảy ra cho anh không?” Tôi mạnh dạn trả lời “Thưa Đô Đốc, tôi đã huấn luyện Ham Phó đầy đủ”. Đô Đốc Thoại nói thêm “Khi ra đến vùng hoạt động, anh chờ khi có lệnh của tôi thì tách ra, thành lập một phân đội riêng, và tiến ra gần vĩ tuyến 17. Phân đội của anh có nhiệm vụ ngăn chặn và tiêu diệt các chiến hạm, chiến đỉnh Bắc Việt khi chúng tiến vào Nam”. Tôi chào Đô Đốc Thoại và về chiến hạm ngay. Biết rằng tình thế đã đến giai đoạn nguy ngập. 3.1. HQ14 bị Không Quân VNCH bắn HQ 14 đến vùng hành quân ngoài cửa Thuận An lúc 2 giờ sáng ngày 24. Đến 9 giờ sáng, tôi bắt đầu cho chiến hạm đi theo đội hình dưới sự điều khiển của HQ 07. HQ 08 cũng đã đến vùng và nhập đội hình. Khoảng trưa, tôi quan sát thấy Bộ Binh hành quân bên trong, chắc cũng để yểm trợ rút quân. Tôi không có tần số để liên lạc với Bộ Binh. Lúc này HQ 709 đã được lịnh rời vùng hành quân, trở về Tiên Sa. Như vậy, trong vùng chỉ còn HQ 07, HQ 8, HQ 609, và HQ 14. Vào khoảng sau 4 giờ chiều, tôi được lệnh tách ra khỏi đội hình để thành lập phân đội riêng, và tiến ra vĩ tuyến 17. Tôi lên đài chỉ huy để đích thân điều khiển chiến hạm. Nhưng trước khi tôi có thì giờ thành lập phân đội gồm HQ 14 và HQ 609, tôi nghe hai tiếng nổ thật chát chúa như tiếng bom. Nước tung tóe gần trước mũi chiến hạm. Nhìn lên bầu trời trắng đục, đầy mây trắng bao phủ, tôi thấy hai chiếc máy bay A 37 mà tôi biết chắc là của Không Quân VNCH, vì sáng nay có vài máy bay loại này bay lượn bên trong, yểm trợ hành quân của bộ binh. Sau này, khi có dịp gặp lại vài nhân viên của HQ 07 tại Pennsylvania năm 2016, họ cũng xác nhận với tôi như thế . Hai chiếc máy bay này lợi dụng thời tiết, bay cao trên mây để tránh bị phát giác và bất thần nhào xuống, thả 2 quả bom, nhắm chiến hạm tôi nhưng trật. Chúng bay vút đi. Chiến hạm không hư hại. Vì tình trạng an ninh trong vùng hành quân này không mấy khẩn trương, tôi chỉ cho 1/3 nhân viên ứng chiến. Tôi cho gọi nhiệm sở tác chiến 100/100 và không ra lịnh bắn trả, vì tôi ước lượng, nếu bắn hạ được một hay cả 2 chiếc A 37 này thì chắc chắn bộ chỉ huy Không Quân từ Đà Nẵng sẽ nghĩ HQ 14 chắc chắn là chiến hạm địch và sẽ gởi ra một phi đội phản lực F5 để bắn chìm HQ 14. Tôi cho chiến hạm chạy zic-zac và ra lịnh thay lá cờ nhỏ trên cột cờ chính bằng lá cờ lớn nhất cho dễ thấy từ xa. Nhưng bất thần, chỉ vài phút sau, một lần nữa, hai chiếc máy bay này vòng trở lại, ném thêm 2 quả bom nữa. Lần này, các quả bom cũng không trúng chiến hạm, chỉ rơi trên biển, bên hữu hạm gần phòng ăn của đoàn viên. Nhưng các mảnh bom bay tung tóe, đâm thủng rất nhiểu lỗ bên hữu hạm. Rủi thay, đúng lúc này, nhân viên đang chạy lên nhiệm sở tác chiến, ngang phòng ăn, vì vậy tổng số nhân viên bị thương lên thật cao. Thêm vào đó, 4 nhân viên ở các nhiệm sở 40 ly, 20 ly, và hầm máy bị tử trận. Sau đây là tổng kết tổn thất của chiến hạm: Tử trận (5): TSI/VC Bùi Đức Hùng (40 ly), TS/CK Trần Văn Trung (hầm máy), HIS/VC Đặng Hữu Thành (20 ly), TT/TS Lưu Chảy (40 ly), HIS/QK Lê Văn Quí. Theo nhật ký, tôi ghi 4 tử trận, nhưng lại liệt kê tên 5 người. Điều này cần kiểm chứng. Bị thương nặng (10): TT/TS Nguyễn Hữu Trí, TT/TS Nguyễn Văn Hinh, HS/QK Nguyễn Xuân Quí, HS1/KT Nguyễn Văn Hòa, HS1/GL Cao Ngọc Bé, HS1/PT Hồ Thanh Siêng, TS/VC Nguyễn Văn Hùng, TS/GL Nguyễn Văn Vỉnh, TT1/TX Hồ Văn Sáu. Bị thương nhẹ (10): ThS/VC Nguyễn Văn Thủ, TS1/VC Phạm Văn Túc, TS1/TP Trần Thiểu, TS/TV Nguyễn Văn Bình, HS1/CK Lê Văn Hùng, HS1/TP Đoàn Văn Ba, TT/TS Nguyễn Hữu Phúc, TT/TS Trần Văn Minh, TT/TS Hoàng Thanh Long, ThS/KT Trần Đình Phương. Tổn thất vật thể: Cơ khí, Điện khí, Vỏ tàu, Phòng tai, Vũ khí, Vô tuyến, và vật dụng linh tinh. Máy điện hư. Hệ thống tay lái điện bất khiển dụng. Hệ thống vô tuyến bất khiển dụng, không liên lạc được với BTL/HQ/V1ZH, phải dùng máy truyền tin cầm tay để cố gắng liên lạc với các chiến hạm trong vùng hành quân. Y Tá và thủy thủ đoàn đã nỗ lực tối đa để săn sóc và cứu chữa các nhân viên bị thương, sửa chữa máy điện, hệ thống truyền tin… Cuối cùng HQ 07 đã nghe được và đến phụ giúp tải thương, nhưng vì biển động, phải tách ra và chỉ có một số nhân viên tử thương và bị thương được đưa qua HQ 07 để chuyển về Bệnh Viện Duy Tân Đà Nẵng. Đồng thời, HQ 08 cũng nghe được và làm trung gian báo cáo tình trạng của HQ 14 về BTL/HQ/V1ZH và dòng HQ 14 về Tiên Sa, Đà Nẵng. Dọc đường, rất tiếc, thêm môt nhân viên trút hơi thở cuối cùng. Đến gần sáng hôm sau, khi gần đến Tiên Sa, HQ 14 đã sửa chữa xong một phần hư hỏng và có thể tự vận chuyển được. HQ 08 tháo dây dòng và trở lại vùng hoạt động. (Đoạn trên đã được tu chính sau khi Hạm Trưởng HQ 08, Nguyễn Trường Y, đọc được bài này và chúng tôi có dịp trao đổi tin tức với nhau qua điện thoại) . HQ 14 về cặp cầu sáng sớm ngày 25. Các nhân viên bị thương được chở qua bệnh viện quân đội Duy Tân bên Đà Nẵng để điều trị. CCYTTV/HQ bắt đầu cấp tốc sửa chữa để chiến hạm có thể chạy về Saigon. Tối ngày 26, tôi được lệnh chở gia đình Hài Quân về Saigon. Ngay sau đó, chiến hạm bắt đầu tiếp nhận gia đình quân nhân cho đến sáng hôm sau. Nghĩ rằng Đà Nẵng sẽ thất thủ trong một ngày rất gần, tôi mượn xe của CCYTTV/HQ, chạy qua bệnh viện Duy Tân xin cho tất cả nhân viên của tôi được xuất viện và cuối cùng, tất cả đều được chuyển về bệnh xá CCYTTV/HQ, ngoại trừ một nhân viên giám lộ bị gãy mất một cánh tay, phải ở lại thêm để điều trị. Tôi rất buồn vì tôi muốn, khi chiến hạm khởi hành, tôi sẽ đem tất cả các nhân viên của tôi về Bệnh Xá HQ Bạch Đằng (Saigon). Đi ngang qua thành phố Đà Nẵng, tôi thấy người đi lố nhố đầy đường. Không biết họ đi đâu, đi tìm đường về Saigon? Hay là Việt Cộng đã trà trộn vào dân? Tuy không có bạo động, tình thế có vẻ hỗn loạn. Tôi biết chắc Đà Nẵng sẽ mất nay mai. Sau này nghĩ lại, tôi vẫn ân hận mãi. Biết đâu, nếu tôi cho bắn hạ hai chiếc máy bay khi chúng trở lại lần thứ nhì thì thiệt hại nhân sự sẽ giảm thiểu đi không? Có thể F5 sẽ không ra? Nhưng tôi lại tự an ủi, nếu F5 ra, bắn hỏa tiển, thì thiệt hại sẽ lớn hơn nhiều, có thể tôi và phần lớn nhân viên đã không còn có mặt trên quả đất này nữa. Dù sao, đây là một biến cố đau lòng nhất trong đời chỉ huy của tôi. Nó sẽ đeo đẳng tôi suốt đời. Xin linh hồn của các nhân viên chiến hạm đã hy sinh vì tổ quốc trong biến cố này hiểu cho tôi, và nếu tôi lầm lỗi, xin được tha thứ. Với các nhân viên bị thương, tôi cũng xin lỗi và mong có dịp gặp lại để cùng nhau tâm sự. Vào năm 2007, tôi có dịp đọc quyển hồi ký “Can Trường Trong Chiến Bại” của Đô Đốc Thoại. Ông có đề cập đến việc HQ 14 bị bắn, nhưng không thể xác nhận ai đã bắn hoặc ai đã ra lệnh. 3.2 Di Tản Gia Đình HQ từ Đà Nẵng về Vũng Tàu Sáng ngày 28 tháng 3, một số gia đình Hài Quân đã lên tàu nhưng chưa đầy đủ. Tôi được lệnh đem chiến hạm ra neo trong vũng Tiên Sa, chờ tiếp nhận thêm cho đủ khoảng 600 người. Sau khi thả neo, tôi đi quanh chiến hạm vài vòng để biết tình trạng của các gia đình quá giang, rồi lên đài chỉ huy ngồi quan sát. Dãy núi Tiên Sa sừng sững trước mặt. Trong nhiều năm qua, tôi đã ra vảo hải cảng này nhiều lần, đã thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng, hòa lẫn với mây trời sóng nước, mà tâm hồn thấy thoải mái, dù chỉ trong chốc lát, trước khi con tàu ra khơi, lướt sóng đại dương! Nhưng hôm nay, tôi cảm thấy buồn thấm thía, linh cảm một mất mát lớn sắp xảy ra. Tôi sẽ không bao giờ có dịp đem con tàu trở lại vùng biển này nữa! Hải Cảng Tiên Sa Tôi trở lại thực tế! Một số ghe nhỏ đang chèo đến gần lái của chiến hạm và nhân viên canh gác ra hiệu cho họ ngưng lại, chờ lệnh của tôi. Tôi đi ra sân sau chiến hạm, nhìn những khuôn mặt hốt hoảng của người lớn lẫn trẻ con, tôi không cầm lòng được! Họ chỉ là những người dân, không thuộc gia đình Hải Quân, đang hớt hải tìm đường chạy trốn Cộng Sản. Trên tàu không ai quen biết với họ. Tôi ra chỉ thị cho sĩ quan và nhân viên áp dụng các tiêu lệnh an ninh trước khi cho họ lên tàu. Gia đình Hải Quân tiếp tục lên tàu. Đến chiều, HQ 14 khởi hành về Saigon. Chiến hạm về đến Vũng Tàu chiều 31, tháng 3. Theo lịnh chuyên chở, tôi cho các gia đình HQ và khách quá giang lên Vũng Tàu, trước khi chiến hạm tiếp tục về Saigon. HQ 14 về đến Bến Bạch Đằng ngày 1 tháng 4 và cặp tai cầu E trong HQCX để tải thương và sửa chữa. Chiếu theo tập hồi ký “Can Trường Trong Chiến Bại” của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, cũng trong ngày này, Đà Nẵng đã bỏ ngỏ. Đô Đốc Thoại và tất cả lực lượng yểm trợ V1ZH đã rời vùng này, trực chỉ Qui Nhơn dưới sự điều động của BTL/HQ. Sau đó, Phó Đề Đốc Thoại được chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Thuât (OTC) để yểm trợ Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đang đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Chiến Trường Qui Nhơn kiêm Tổng Trấn Qui Nhơn. Trong thời gian này, tôi có dịp gần nhà. Con gái tôi vừa được một năm và đã nhận ra tôi. Chiều chiều, tôi bế nó đi quanh chung cư Phạm Thế Hiển. Nó mở mắt lớn, tò mò nhìn khung cảnh chung quanh. Tôi thấy thương nó quá và, trong chốc lát, tạm quên thế sự đang biến chuyển từng giây phút. Sinh hoạt quanh chợ Phạm Thế Hiển vẫn bình thường, nhưng nhìn ánh mắt của phần lớn các bà, các cô bán hàng, tôi thấy những nét ưu tư thật khó tả. Tôi nghe đồn, nhiều gia đình đang tìm đường chạy. Có một đêm, sau bữa ăn tối, hai vợ chồng tôi ngồi, bàn bạc với nhau về tình hình cuộc chiến. Tôi cũng không biết quyết định của các “ông lớn” trong Hải Quân như thế nào. Vợ tôi hỏi “Em và con có thể lên tàu đi công tác với anh không?” Tôi ngần ngừ một lúc rồi lấy hết can đảm đáp “Chắc không được đâu em. Tàu anh là tàu chiến. Vả lại, nếu anh cho em và con đi thì anh phải cho gia đình tất cả thủy thủ đoàn đi. Điều này chắc không được”. Vợ tôi buồn buồn nói “Thôi, anh cứ yên lòng mà đi. Ở lại nhà, em sẽ lo săn sóc con. May ra Cậu (bố của vợ tôi) có thể tìm phương tiện máy bay cho gia đình đi, vì Cậu làm cho cơ quan Mỹ ở Saigon. Nếu khi mất nước, anh thấy an toàn để về đón gia đình, thì anh về. Nếu không, anh cứ đi ra ngoại quốc và tìm cách liên lạc với em sau”. Tôi thấy cảm động quá, nghẹn ngào thương cho sự hy sinh và phục cho lòng can đảm của vợ tôi. Tôi muốn ôm vợ tôi vào lòng để an ủi. Nhưng biết nói gì đây trong hoàn cảnh bất định này? Tôi chỉ khẽ gật đầu, ngồi yên lặng, cố nén hai dòng lệ muốn trào ra. , rồi quay qua nhìn con gái chúng tôi đang ngủ say. Nhiều lần trước, khi nhìn nó ngủ, tôi thường mơ đến cảnh thanh bình sau chiến tranh, và Miền Nam chiến thắng. Vợ chồng tôi sẽ nắm tay nó, dẫn đi Sở Thú, đi về Huế, về Hải Phòng thăm quê nội ngoại… Nhưng bây giờ, giấc mơ đó hầu như đã tiêu tan, chỉ còn cầu mong có một phép mầu xảy ra để quân nhân anh dũng VNCH đâp tan được âm mưu xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV). Nếu không, xin cho tất cả chúng tôi được an toàn và có dịp đoàn tụ ở một nơi nào đó, trên một xứ tự do. Nơi ấy có thanh bình, công lý, và dân chủ. Công Tác Vùng III Duyên Hải Trong lúc HQCX tiến hành việc sửa chữa vỏ tàu, và các hệ thống đã hư hỏng trong biến cố vừa qua tại V1ZH, nhân viên chiến hạm lo bảo trì súng phòng không, hệ thống máy chánh, hải pháo, radar, truyền tin, phòng tai, vận chuyển… và xin tiếp tế nhiên liệu, nước ngọt… để chuẩn bị cho chuyến công tác sắp đến. Tôi chỉ định Thiếu Úy T lo hồ sơ tử tuất cho các nhân viên đã tử trận, lo chuyển giao di sản, và đón tiếp thân nhân. Tôi cho gởi TT/TS Nguyễn Văn Hùng nhập TYV Cộng Hòa. Ngày 2 tháng 4, tôi chỉ định Hạm Phó, SQ/CTCT, và Y Tá lên Bệnh viện HQ Bạch Đằng đón bà Trần Nguơn Phiêu đến thăm thương binh. Tôi định sẽ đến nếu không bận. Nếu bận, tôi sẽ đến thăm anh em ngày hôm sau. Tôi cho thao dợt Nhiệm Sở Phòng Không mỗi ngày lúc 3 giờ chiều. Ngày 8 tháng 4, lúc 8:30 sáng, một chiếc F5 của Không Quân bắn Dinh Độc Lập. Hải Quân chỉ định các chiến hạm sau ứng chiến phòng không: HQ 5, HQ 17, HQ 5, HQ 229, HQ 329, HQ 606, và HQ 231. Lúc này Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) đã tràn vào Bình Định, Qui Nhơn, và Phú Yên. Bộ Binh từ Tuyên Đức rút về Đà Lạt, sau đó Đà Lạt mất. Quân đội ta vẫn còn trấn giữ các tỉnh từ Nha Trang trở xuống. Tôi không nghe đồn có một mật ước nào cả giữa Mỹ và Trung Cộng. Trong lúc này, Miền Nam vẫn giữ lập trường “Không cắt đất, không chấp nhận liên hiệp”. Hải Quân vẫn còn giữ vững V3ZH, V4ZH, và V 4 Sông Ngòi, tuy nhiên tất cả đều đang trong tình trạng báo động. Hiện tại, thủy thủ đoàn HQ 14 gồm có 17 sĩ quan kể cả các sĩ quan tạp dịch, 37 hạ sĩ quan, và 54 đoàn viên hiện diện. Ngoài ra còn 12 nhân viên đi phép và 7 nhân viên còn nằm bệnh viện. Thêm vào đó, tôi còn tiếp nhận 70 nhân viên tạm trú thuộc HQ 2, 3, 07, 11, 12, 16, 800, và 228. Sáng ngày 8 tháng 4, một F5 thuộc Không Quân VNCH bắn Dinh Độc Lập. Hải Quân được lệnh ứng chiến phòng không. Tôi chỉ thị Thiếu Úy T và toán ẩm thực đi chợ thêm để dự trữ cho chuyến công tác dài hạn sắp đến. Sáng ngày 12 tháng 4 lúc 9 giờ sáng, HQ 14 khởi hành công tác V3ZH. Chiến hạm ra khỏi sông Lòng Tảo, đến Vũng Tàu và nhập V3ZH lúc 1 giờ trưa. Sau khi chuyển giao tất cả nhân viên tạm trú cho HQ 802, tôi cho chiến hạm trực chỉ phía bắc Vũng tàu, để thay thế HQ 618. Đến ngày 16, lúc 10 giờ 45 sáng, tôi khởi hành đi Phan Thiết. Nhưng đến 12 giờ 30 sáng lại được lệnh đổi đường đi Phan Rang. Lúc này Phan Rang đã bị Cộng Sản tràn ngập. Chuẩn Tướng Nhật và TKT/TK Khánh Hòa đã lên được HQ 3. Không có tin tức gì về Tướng Nghi. Ban đêm HQ 14 tuần tiểu từ Hòn Lao đến Lagran. Tôi cho báo cáo về Trung Tâm Kiểm Soát Cam Ranh tình trạng kỹ thuật và đạn dược trên HQ 14 như sau: máy điện số 2, bơm cứu hỏa số 2, và motor số 2 của Frigo bất khiển dụng. Chiến hạm hiện tồn trử 110 ngàn lít dầu, trên 5 ngàn lít nhớt, 20 tấn nước ngọt, 441 viên đạn đại bác 76 ly, trên 3 ngàn đạn 40 ly, trên 13 ngàn đạn 20 ly, một số đạn đại liên và chiếu sáng. Với khả năng này, và nếu máy điện số 1 (máy điện duy nhất còn khiển dụng) vẫn chạy tốt thì chiến hạm còn khả năng hoạt động vài tháng nữa, không cần tiếp tế. Chỉ còn vấn đề thực phẩm, chỉ còn khoảng 2 tuần, ngoại trừ gạo còn rất nhiều. Tôi cho cắt bớt khẩu phần thịt và rau vì không biết bao giờ mới được ghé bến tiếp tế, và không tiên liệu được chiến tranh còn kéo dài bao lâu nữa. Đồng thời tôi giới hạn việc dùng nước ngot, vì máy chế tạo nước ngọt đã hư từ lâu. Tiêu lệnh này được áp dụng từ Hạm Trưởng đến đoàn viên. Sau này nghĩ lại, tôi thấy cảm phục nhân viên của tôi nhiều về tinh thần kỹ luật, can đảm, và sức chịu đựng lớn lao của họ. Trưa ngày 18 tháng 4, chiến hạm đến gần mủi Cà Ná thuộc tỉnh Ninh Thuận. Nơi đây Quốc Lộ 1 có môt đoạn ngắn chạy ra tận biển. Sau này, chiếu theo bài tường thuật “Măt Trận Phan Rang” (http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/MatTranPhanRang.htm), tôi biết được bên trong đất liền, tuần trước, hai Lữ Đoàn Nhảy Dù và Quân Đoàn 3 còn hiên ngang trấn thủ Địa Đầu Giới Tuyến này mặc dầu đã bị thiệt hại nặng, nay Phan Rang đã bị Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tràn ngập. Một người bạn thân của gia đình bên vợ tôi, Đại Úy Đinh Quốc Tuấn thuộc Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đã anh dũng chiến đấu và đã tử trận ngày 15. Sau đó, Trung Tướng Nghi cũng đã bị địch bắt. Vị Trí HQ 14 tại Vùng Biển Cà Ná, Phan Rang Tôi cho chiến ham tiến vào cách bờ khoảng 9 ngàn yards để quan sát. Nhìn qua ống nhòm, trên Quốc Lộ 1, tôi thấy xe tăng, xe chuyển vận, đại pháo của CSBV đang kéo nhau đi sờ sờ trên quốc lô, hướng về nam. Tôi nóng máu. Suốt thời gian làm Duyên Đoàn Phó ZD 13 ở Cửa Tư Hiền, nhiều lần tôi đã dẫn quân đi phục kích và chạm tráng với CSBV khi chúng chuyển quân từ Phú Thứ, qua Quốc Lộ 1 để vào dảy Trường Sơn. Anh em chúng tôi đã hạ chúng sát ván. Nay thấy tận mắt đoàn xe của chúng đang đi lừ lừ giữa thanh thiên bạch nhật, tôi không chịu nổi. Tôi quyết dùng hết hỏa lực để làm chậm bước tiến của chúng, để quân ta có thêm thời giờ rút lui. Tôi vận chuyển chiến hạm vào gần bờ thêm chút nữa và đích thân hướng dẫn hải pháo 76 ly bắn vòng cầu vào toán quân xa này. Viên đầu tiên rơi gần quốc lộ. Qua ống nhòm, tôi thấy chúng dừng lại. Tôi điều chỉnh và cho bắn tiếp, nhưng vô hiệu. Sóng biển chỉ lắc một tí là đạn rơi sai đi vài chục yards! Bắn một hồi, thấy bụi mù bay tung tóe, nhưng không biết có mảnh đạn nào trúng chúng nó không, tôi đành cho ngưng để tiết kiệm đạn, đồng thời vận chuyển chiến hạm ra xa bờ để tránh đạn địch, có thể bắn ra từ đại pháo của chúng. Một lúc sau, qua máy truyền thanh trên đài chỉ huy, tôi nghe giọng nói của Hạm Trưởng HQ 11 gọi tiếp viện, bắn yểm trợ cho HQ 07. Trước đó, HQ 07 đã tiến vào bờ gần Cà Ná để bắn triệt hạ một cây cầu nhằm trì hoản địch. Cầu không sập, trái lại CSBV bắn ra tới tấp, và HQ 07 cần HQ 14 yểm trợ hải pháo để rút ra xa bờ. Lập tức, tôi gọi nhiệm sở ứng chiến 100/100 đồng thời cho HQ 14 tiến hết tốc lực về phía cầu. Càng lúc càng gần bờ. Tôi leo lên đài quan sát nhỏ bên trên đài chỉ huy, tay chỉ hướng bắn cho hải phào 40 ly, miệng la hét để kích thích nhân viên. Đạn 40 ly nổ rang dọc theo bờ biển. Một lúc sau, HQ 07 rút ra đến chỗ an toàn, tôi cho bắn cầm chừng và rút tàu về vị trí cũ. Tôi gởi công điện thỉnh cầu thượng cấp kêu gọi Không Quân ra bắn đoàn quân xa của CSBV nhưng được trả lời “Không Quân đang lo yểm trợ trấn thủ Saigon”. (đoạn văn trên đã được tu chỉnh theo đề nghị của Châu Ngọc Lợi, một nhân viên trên HQ 11: thay vì HQ 11 bị CSBV bắn, sửa lại HQ 07 bi CSBV bắn) Lúc này, HQ 17 đã đến vùng và đảm nhận OTC. Đô Đốc Minh, trên HQ 3, đến điều động tại chỗ. Hồi trưa này, nhìn lên trên rặng núi bên trong, tôi thấy hàng trăm ánh sáng nhỏ nhấp nhánh, tôi biết quân ta đã tan rã, có lẽ đang tìm đường rút lên núi. Một số trong đó thuộc Lữ Đoàn 2 Biệt Động Quân. Họ đang ra hiệu. Tôi thấy thương cho họ quá. Cũng như tôi, họ đang căm hờn nhìn địch tiến về Saigon. Nhưng khác với tôi, họ là những anh hùng, quả cảm chiến đấu, nhưng không còn đường triệt thoái. Quân CSBV đã tràn ngập và đang lùng kiếm khắp nơi. Họ không thể rút ra biển.Vài cấp chỉ huy của họ đã lên được HQ 3 và có mật hiệu để liên lạc với họ, nếu họ rút ra được gần bờ biển Cà Ná. Một lúc sau, tôi được lệnh cho tàu vào bờ thi hành công tác rút quân của Bộ Binh, trong lúc đoàn quân xa, đại pháo của địch còn di chuyển liên tục trên quốc lộ. Vì HQ 14 thuôc loại tuần dương, và tôi không có một tin tức tình báo nào trên bờ, đem chiến hạm vào đó không khác gì làm mục tiêu cho chúng bắn, nên tôi đề nghị môt giải pháp và được chấp thuận: Tôi sẽ dùng ghe Duyên Đoàn và ghe dân đánh cá để ban đêm tiến vào bờ chuyển quân. Nhìn ra ngoài khơi, tôi thấy một đoàn ghe của Duyên Đoàn đang tiến về nam. Tôi xin thượng cấp cho tôi xử dụng 2 ghe Yabuta, và chỉ định vài nhân viên lên hai ghe này để chỉ huy việc đón quân Bộ Binh trên bờ. Tôi dặn dò hai thuyền trưởng Yabuta và các nhân viên của tôi các việc phải làm, cho họ mật hiệu đánh đi và mật hiệu nhận khi đến gần bờ. Các mật hiệu này do cấp chỉ huy Bộ Binh trên HQ 3 cung cấp. Tôi bảo họ nhớ đem theo vài khẩu súng, vài cây đèn pin để ra hiệu, hai máy truyền tin, và cố gắng gom góp một ít ghe đánh cá để cùng đi vào bờ (tôi định sẽ trả công cho các ghe đánh cá này sau khi công tác hoàn tất), chờ đến lúc trời tối thì khởi hành đi. Tôi còn dặn họ, tắt máy truyền tin để khỏi bị địch phát giác, chỉ dùng trong trường hợp khẩn cấp. Trời vừa sập tối, tôi ngồi trên đài chỉ huy chiến hạm, theo dõi đoàn ghe của các cảm tử quân đang tiến vào bờ cho đến khi không còn thấy họ nữa. Trên Quốc Lộ 1, đoàn quân xa của CSBV vẫn đều đều tiến về nam. Lòng tôi nôn nóng, cầu nguyện cho họ được bình an trở về. Nếu tôi được toàn quyền quyết định, chưa chắc tôi đã gởi họ đi, vì sự thành công của công tác này quá mong manh. Nếu thất bại, bị địch bắn tiêu diệt, thì hậu quả thật vô lường. Suốt đêm tôi thao thức chờ tin đoàn ghe vớt Bộ Binh trở về, nhưng chờ mãi vẫn không thấy tăm hơi! Tôi lo ngại vô cùng. Mãi đến rạng đông vẫn không thấy bóng các ghe này. Tôi vận chuyển chiến hạm vào gần bờ hơn, dùng ống nhòm để quan sát. Bỗng nhiên, tôi nghe một tiếng nổ lớn, một cột nước trắng tóe lên cách tàu độ một ngàn yards. Biết đại pháo của địch vừa bắn ra, tôi cho chiến hạm chạy ra xa. Đúng lúc này, qua ống nhòm, tôi thấy xa xa đoàn ghe bốc quân đang từ từ tiến ra. Tôi mừng vô kể. Họ đã xa bờ! Nhưng chỉ có 2 chiếc Yabuta. Còn các ghe đánh cá ở đâu, mọi người có an toàn hay không, tôi tự hỏi. Khi 2 ghe này cặp bên tả hạm, nhân viên báo cho tôi biết các ghe đánh cá sợ quá, đã biến đi mất trong đêm, trước khi vào đến bờ. Họ cho ghe đi dọc theo bờ suốt đêm mà chỉ liên lạc được và vớt khoãng 20 người. Tôi khen ngợi anh em đã can đảm thi hành trách vụ. Tôi tiếp nhận quân nhân Bộ Binh và cho họ tạm trú trên chiến hạm, đồng thời cám ơn và chào từ giả các chiến hữu trên Yabuta trước khi họ trở về đơn vị. Sau này, cách đây độ 5 năm, tôi có gặp lại Đại Úy T mới được biết anh thuộc Duyên Đoàn này và có hiện diện lúc đó tại Mũi Né. Không ngờ chúng tôi đã quen nhau nhiều năm tại Mỹ mà không biết đã có dịp cộng tác với nhau một khoảnh khắc ngắn trong thời gian cuối của cuộc chiến. Ngày 19 tháng 4, CSBV tràn ngâp Phan Thiết. Tôi được lệnh V3ZH gọi chiến hạm về Vũng tàu để nhận tiếp tế và đị công tác quần đảo Trường Sa. Trưa ngày 20, HQ 14 về đến gần Hòn Bà, Vũng Tàu. Ngày 21, tôi thả neo ngoài Vũng Tàu, nhận thêm trên 3 ngàn viên đạn 40 ly và 330 viên 76 ly do HQ 08 tiếp tế, và cho ban ẩm thực đi chợ, đồng thời cho các quân nhân và dân sự tạm trú lên bờ. Qua các đài truyền thanh, tôi được biết Tổng Thống Thiệu đã giao quyền lãnh đạo quốc gia cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. (Sửa lại Phó Tổng Thống thay vì Thủ Tướng, theo tin tức của anh P N Ấn, cùng Khóa 13 SQHQ/NT với tôi) Nhật lịnh của Đại Tướng TMT/QLVNCH: “Bảo vệ bờ cõi, đánh bại quân xâm lăng, bảo vệ Vùng 3 và Vùng 4”. Tuần trước, tôi mong có một hiệp ước nào đó giữa Mỹ và Trung Cộng để bắt buộc CSBV ngưng lại tại Phan Thiết. Nhưng sau khi Phan Thiết mất. Tôi không còn hy vọng nữa. Công Tác Quần Dảo Trường Sa Lúc 9 giờ 30 tối ngày 21, HQ 14 khởi hành đi Trường Sa theo chỉ thị của BTL/HQ, thừa lệnh Bộ Tổng Tham Mưu. Cùng đi, có HQ 17 làm OTC. Vì HQ 17 khởi hành trước và chạy nhanh hơn nên sẽ đến Trường Sa trước. Chúng tôi được tiêu lệnh từ Bộ TTM: “Không được khai hỏa trước khi đối đầu với đich tại Trường Sa”. Địch là ai, không biết rõ. Tôi chỉ được biết trong các ngày vừa qua, có tin một số máy bay lạ xuất hiện trên đảo. Nhiệm vụ của HQ 14 và HQ 17 là bảo vệ sinh mạng của lực lượng Địa Phương Quân đồn trú trên quần đảo này. HO TONG HAM VAN KIEP II HQ14. HQ 14 đến quần đảo Trường sa lúc 4 giờ chiều ngày 23 tháng 4. Quần đảo Trường Sa cách Vũng Tàu 305 hải lý về phía Đông. Các đảo này là những cồn cát rất thấp, bao quanh bởi nhiều đá ngầm và san hô. Việc vận chuyển quanh quần đảo này tương đòi khó khăn, nhất là ban đêm tối, dù chiến hạm có radar. Cần nhất là máy định vị trí LORAN, nhưng máy này đặt trên HQ 14 đã hư từ lâu, không đươc sửa chữa. HQ 17 và HQ 14 chia nhau đi tuần tiểu trên quần đảo này. HQ 17 quan sát thấy một ngọn cờ đỏ trên đảo và ra lịnh HQ 14 bắn triệt hạ. Cứ mỗi lần đạn 76 ly nổ, cả ngàn con hải âu trắng lại bay lên ngập trời, rồi đáp xuống ngay! Ngày đầu tình hình tương đối yên lặng. Đến quá nửa đêm ngày 25, có hai tàu lạ xuất hiện ở đảo Nam Yết, một ở hướng đông và một ở hướng tây. HQ 17 và HQ 14 gọi nhiệm sở tác chiến, rượt theo hai tàu này. Chúng bỏ chạy mất dạng. Đến 7 giờ sáng, 2 echo xuất hiện trên radar, cách HQ 17 gần 4 ngàn yards, nhưng chúng đi xa dần. HQ 17 xin chỉ thị BTL/HQ Saigon và được đáp: “Phải báo cáo trước khi hành động”. Tôi mong được chỉ thị “Tùy nghi hành động” thì dễ cho chúng tôi hơn! Ngày 28, HQ 14, HQ 17, và Địa Phương Quân được lệnh rút khỏi Trường Sa, về Vũng Tàu. Tôi khởi hành trước. HQ 17 ở lại để tiếp nhận Địa Phương quân cho xong trong ngày và trực chỉ Vũng Tàu. Vào lúc 5 giờ chiều, tôi nghe lễ bàn giao chức Tổng Thống giữa Cụ Trần Văn Hương và Đại Tướng Dương Văn Minh đã diễn ra tại Dinh Độc Lập. Trên đường về gần đến Vũng Tảu, tôi thấy “rồng hút nước” (những cột nước cuốn lên trời do sức xoáy cực mạnh của gió). Suốt 8 năm trên biển, đây là lần đầu tiên tôi thấy hiện tượng này. Người xưa tin rằng đây là một điềm xấu! Xa xa tôi thấy vài chiến hạm Mỹ. HQ 14 về đến Vũng tàu trưa ngày 29 tháng 4. Quang cảnh ngoài khơi Vũng tàu lúc đó thật tấp nập, nào chiến hạm Mỹ, nào thương thuyền ngoại quốc đến tiếp nhận dân sự do lời yêu cầu của chánh phủ Hoa Kỳ, nào ghe chở dân đến thương thuyền, nào trực thăng Mỹ bốc quân Mỹ và thường dân di tản từ Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon, lên chiến hạm. Tôi nghĩ đến gia đình vợ con, không biết tất cả bây giờ ở đâu, có an toàn không. Chắc nhân viên của tôi cũng cùng tâm trạng. Nhưng không ai nói với ai điều gì. CSBV đã tiến đến gần Saigon và đang pháo kích Tân Sơn Nhất. Tôi cố thẩm định tình thế xem có nên liều đem chiến hạm về Saigon hay không, tuy nhiên tôi không có tin tức gì chính xác. Ngay cả bên trong Vũng Tàu, tôi cũng không biết rõ. Trong lúc còn phân vân, tôi được lịnh của V3ZH cho tất cả chiến hạm dưới sự điều động của vùng này được tan hàng và các Hạm Trưởng được toàn quyền quyết định, có nghĩa BTL/HQ không còn ra lịnh nữa. Nghe vậy, tôi lặng người, nghĩ đến mất nước. Một biến cố đau lòng tôi tiên đoán hơn cả tháng qua, nay đã đến! Nhưng tôi kềm chế được tình cảm của mình ngay. Bình tỉnh, tôi quyết định đưa HQ 14 ra ngoại quốc. Tôi nghĩ đi Philippines rất gần, nhưng không chắc được tiếp nhận. Vì vậy tôi cho nhân viên Giám Lộ chuẩn bị các hải đồ từ Vũng Tàu đến đảo Guam để tôi vẽ đường đi, vì qua tin trên các đài truyền thanh, tôi biết tại đó chánh phủ Hoa Kỳ đang tiếp nhận quân nhân và thường dân VNCH tị nạn Cộng Sản Tức tốc, tôi triệu tập một buổi họp ngắn, gồm có các Sĩ Quan, Quản Nội Trưởng, một số Hạ Sĩ Quan, và một số nhỏ đoàn viên. Tôi cho họ biết ý định của tôi và phân công cho mọi người trong việc giữ gìn an ninh cho chiến hạm và thủy thủ đoàn. Đại khái, mỗi người giữ một cây súng cá nhân, tất cả súng cá nhân còn lại và lựu đạn phải giữ trong kho và khóa lại cẩn thận, quản thủ chìa khóa kho sung, bảo vệ các súng trên bong tàu, phản ứng cần thiết và cấp thời khi một nhân viên có hành động gây hấn hoặc nội loan. Thật ra, qua hơn nửa năm trường cùng sống chết với anh em, tôi đã biết rõ tinh thần kỷ luật cao độ và tình cảm của anh em đối với tôi. Tôi không tin có môt sự việc đáng tiếc nào sẽ xảy ra. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, đây là môt biện pháp mà bất cứ cấp chỉ huy cẩn trọng và có trách nhiệm nào, cũng cần áp dụng trong trong trường hợp đặc biệt này. Tôi cho tập họp anh em để nói chuyện. Khi tôi đến đứng trước hàng quân, anh em nghiêm chỉnh chào tôi như thường lệ. Nhưng thoáng nhìn ánh mắt của họ, tôi thấy hầu hết đều đượm một nét buồn sâu xa, hay hơn nữa một thất vọng. Chắc họ đã biết những gì đã xảy đến. Ngừng một chút, tôi nhẹ nhàng báo tin cho họ. Tôi nói “Chúng ta đã cùng nhau chiến đấu một thời gian dài, hy vọng sẽ chiến thắng. Nhưng hôm nay, không may, chúng ta đã bại trận. CSBV đã tiến vào Saigon. Tôi quyết định đem chiến hạm ra ngoại quốc, đến môt nước tự do. Anh nào muốn theo tôi, đứng ra bên này. Anh nào muốn trở về với gia đình, đứng ra bên kia”. Sau một hồi lưỡng lự, anh em đứng ra hai bên. Tôi cho Hạm Phó và Quản Nội Trưởng ghi tên các anh em muốn trở về. Số người trở về tôi không ghi trong nhật ký, chỉ nhớ thoang thoáng trên 30 người. Trời đã về chiều, tôi bắt đầu tìm phương tiện cho anh em vào bờ để về nhà. Hồi trưa nay tôi thấy hằng trăm chiếc ghe nhỏ đưa dân sự từ Vũng Tàu ra tàu buôn ngoại quốc. Tôi định nhờ họ chở anh em vào bờ và trả bằng dầu. Nhưng bây giờ các ghe này biến đi đâu mất. Tôi cho tàu chạy vòng vòng để tìm kiếm. Khi trời sụp tối tôi cho rà trên radar xem có thấy gì không, nhưng vô vọng. Tôi muốn khởi hành đi Guam ngay để ra đến hải phận quốc tế, và càng xa càng tốt, sợ máy bay CSBV có thể rượt theo. Chỉ cẩn thận thôi, vì tôi ước đoán chiến đấu cơ Mig của chúng chưa đến Saigon. HQ 17 đã khởi hành đi từ lâu. Nhưng tôi đã hứa với nhân viên là cho họ vào bờ, bây giờ làm sao đây? Trong lúc đang tấn thối lưỡng nan, tôi được công điện mật của Đô Đốc Minh gọi tập trung tại Côn Sơn để cùng đi. Tuy không biết đi đâu, nhưng vì tin Đô Đốc Minh nên tôi cho trực chỉ Côn Sơn. Trong lúc này Cộng Sản nằm vùng trong BTL/HQ liên tiếp gọi máy dụ dỗ các hạm trưỡng đưa tàu về Saigon. Chuyến Di Tản Cuối Cùng: Vũng Tàu – Côn Sơn – Subic Bay, Philippines Sáng hôm sau, ngày 30, trên đường đi Côn Sơn, tôi gặp vài chiếc LCVP chở toán sửa chữa lưu động chạy tìm đường đi. Tôi cho vớt tất cả. Trong lúc họ lên tàu, một nhân viên giám lộ từ LCVP leo lên, đến chào tôi. Tôi nhận ra ngay, đó là nhân viên của tôi đã bị gảy mất một tay trong lúc Không Quân bắn HQ 14 ngoài cửa Thuận An. Lúc đó anh đang đứng cạnh tôi trên đài chỉ huy. Anh nằm điều trị tại bệnh viên Duy Tân, và khi chiến hạm rút khỏi Đà Nẵng tôi không can thiệp cho anh ra được vì vết thương của anh vẫn còn đang rỉ máu. Anh cho biết, khi CSBV tràn vào Đà Nẵng, anh đã thoát ra được và theo một nhóm nhỏ Biệt Kích tìm về Saigon bằng đường biển. Mọi người đều mừng cho anh và nhân viên y tá săn sóc cho anh tận tình. Vài ngày sau, khi gặp chiến hạm Mỹ, tôi xin cho anh được chuyển qua điều trị. Từ đó, tôi không được tin tức gì về anh nữa. Trên đường đến Côn Sơn, tôi vớt thêm nhiều dân sự và gia đình quân nhân, tổng cộng trên 100 người. Vào buổi chiều trên đường đến Côn Sơn, khi đang ngồi trên đài chỉ huy, tôi được HQ 3 gọi máy cho biết có gia đình vợ tôi trên chiến hạm. Tôi vừa mừng, vừa ngỡ ngàng, tại sao vợ tôi lại lên được HQ 3, hay là gia đình ai không. Từ lúc khởi hành đi công tác V3ZH đến nay, chúng tôi không có tin tức gì của nhau cả. Tuy nhiên tôi vẫn hy vọng là đúng. Tôi yêu cầu được nói chuyên trực tiếp với vợ tôi trên máy. Nhưng bị từ chối, bảo tôi phải chờ vì máy quá bận rộn. Mãi đến tối HQ 3 mới gọi lại cho tôi nói chuyện với vợ tôi. Nhưng vợ tôi chẵng nói được câu nào. Sau này hỏi lại mới biết vợ tôi không biết phải bấm máy khi nói. Thay vì, tôi nghe dọng nói của ông cậu ruột nhà tôi, ông Trần Van L. Ông cho tôi biết vợ con tôi và gia đình bên vợ, tổng cộng 19 người đang có mặt trên tàu. Tôi mừng quá, không kịp hỏi tại sao, chỉ hứa sẽ đón qua tàu tôi khi được phép. Nhưng cái mừng của tôi không trọn vẹn. Tôi thấy buồn cho nhân viên của tôi. Từ Hạm Phó trở xuống, không ai có thân nhân đi được cả. Sau này, khi gia đình vợ tôi được chuyển qua HQ 14, tôi được nghe kể lại chi tiết viêc chạy từ nhà ở bên Chí Hòa đến khi lên được HQ 3. Đoạn đường tuy không xa, nhưng thật hồi hôp và bất định. Mấy ngày trước đó, gia đình vợ tôi từ chung cư Phạm Thế Hiển chạy qua Chí Hòa cho gần đường lên phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng không vào phi trường được vì Cộng Sản pháo kích. Đến chiều 29, trong khi CSBV pháo kích, đạn nổ nghe rất gần, và cả nhà ngồi chung dưới đất cầu nguyện, ông anh ruột của nhà tôi, Trung Úy L, và ông cậu ruột, Thiếu Tá Trần Quốc B thuộc bộ TTM đã về hưu, dùng xe Honda 2 bánh chạy đi tìm đường. Ra đến đầu ngõ, gặp một người bạn. Cô này cho biết trưc thăng Mỹ đang bốc người ở bến Bạch Đằng. Hai người chạy ra bến Bạch Đằng xem tình hình. Khi đến nơi, họ không thấy trực thăng đâu, chỉ thấy những vòng kẻm gai giăng ngang cổng vào BTL. Nhiều quân nhân HQ cầm súng ở thế tác chiến đứng gác. Thỉnh thoảng, có vài quân nhân HQ đưa gia đình vào. Hai người bàn bạc “chắc HQ đang di tản”, hãy về đưa gia đình ra đây rồi tính sau. may ra vợ tôi có thể xin vào được. Cả nhà, 19 người gồm cả bà con, chạy ra bến Bạch Đằng. Dọc đường, thỉnh thoảng lại thấy nhân dân tự vệ đang bắn chỉ thiên, chỉ lo bị chúng chận đường. Một lúc sau, đến được cổng BTL/HQ. Nhà tôi tiến đến, đưa ra một tấm hình của tôi chụp chung với cố vấn Mỹ khi tôi còn làm hạm trưởng HQ 612, và xin cho vào, nói tôi là hạm trưởng HQ 14 đang công tác ngoài khơi. Nhân viên gác cổng chỉ liếc qua rồi gạt đi. Vợ tôi thất vọng nghĩ thầm: Thế là vô phương rồi! May thay, đúng lúc đó, một sĩ quan HQ mang huy hiệu hạm trưởng từ trong đi ra. Nhận ra đó là Thiếu Tá Nguyễn Thụy Đ, cùng khóa với tôi mà vợ tôi được gặp một lần cách đây mấy năm về trước. Vợ tôi nhờ giúp đỡ và cả nhà được vào. Nhưng vào trong cổng rồi cũng không biết đi đâu. Bỗng nhiên, lúc đó một đoàn người trong một cơ sở bên trong đi ra và lên tàu. Cả nhà cứ theo họ và cuối cùng lên được HQ 3. Đến Côn Sơn, sau khi chuyển các nhân viên muốn về nhà qua một hỏa vận hạm được chỉ định về Việt Nam, tôi cho chiến hạm ra khơi chạy vòng vòng đến sáng mới vào cặp với các chiến hạm khác. Khoảng 9 giờ sáng, tất cả chiến hạm cùng nhau khởi hành qua Subic Bay, cách Côn Sơn 900 hải lý, với vận tốc trung binh 6 hải lý/giờ, vì có nhiều chiến hạm hư hỏng phải chạy chậm. Vào lúc 3 giờ chiều ngày 2 tháng năm, HQ bắn chìm HQ 474 vì chiến hạm này hầu như bất khiển dụng. Đến sáng ngày 3 tháng 5, HQ 14 cặp HQ 3 nhận thực phẩm và một số gia đình, trong đó có gia đình vợ tôi. Tình trạng biển trong các ngày qua thật êm, nhờ vậy không ai ói mửa. Suốt buổi sáng ngày 5, chiến hạm Kirk (USS Kirk, DE 1087) tiếp tế thực phẩm cho đoàn tàu VNCH. Trung úy Don Swain và Trung Sĩ Richardson thuộc USS Kirk lên HQ 14 để chuẩn bị bàn giao chiến hạm cho HQ Hoa Kỳ. Sau này, khi đọc hồi ký của Đại Tá Kiểm và video The Lucky Few của HQ Hoa Kỳ tôi mới biết rõ vì sao phải bàn giao ngoài khơi thay vì trong hải cảng. Hồi đó Philippine đã công nhận ngụy quyền CSBV mà chúng đã tự đặt cho mình cái tên thật trái ngược với bản chất của nó, “VN Dân Chủ Cộng Hòa”. Vì vậy, Philippines nhất quyết từ chối việc nhập hải cảng Subic Bay của các chiến hạm VNCH. Cuối cùng, các cấp lãnh đạo của HQVN trên soái hạm HQ 3 và chánh phủ Hoa Kỳ đã tìm ra một giải pháp hợp lý: Chuyển giao các chiến hạm HQVN cho HQHK ngoài khơi Subic Bay, theo thỏa ước “Khi nào VNCH không còn dùng các chiến hạm này nữa, thì phải trả lại cho Hoa Kỳ”. Ngoài ra, để giữ thể diện cho HQ/VNCH, một lễ bàn giao cần được cử hành trên tất cả chiến hạm VNCH hiện diện ngoài khơi Subic Bay, gồm có: HQ 3, 11, 12, 14, 228, 229, 231, 401, 470, 505, 618, 800, 607, 17, 07, 08, 1, 404, 16, 502, 471, 5, và 801. Ngày 6 tháng 5, HQ 14 còn cách Subic Bay 87 hải lý, thủy thủ đoàn được lệnh ném tất cả đạn dược, lựu đạn và súng cá nhân xuống biển, đồng thời vô hiệu hóa tất cả hải pháo và chuẩn bị kế toán nhiên liệu, nước ngọt, tình trạng chiến hạm để bàn giao ngày hôm sau. Sáng ngày 7 tháng 5, các chiến hạm VNCH đã tập trung ngoài khơi Subic Bay. Đến trưa, lễ bàn giao chiến hạm bắt đầu trong bầu không khí trang nghiêm và cảm động. Trên HQ 14, tất cả thủy thủ đoàn và nhân viên quá giang đều tham dự. Trung Úy Don Swain, đại diện HQHK, tiếp nhận chiến hạm. Cảm động nhất là nghi thức hạ kỳ VNCH. Sau đó là lễ thượng quốc kỳ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Sau khi lễ bàn giao chấm dứt, thủy thủ đoàn gỡ lon ném xuống biển, một số giữ lại để kỷ niệm. Không ai nói vói ai, rơm rớm nước mắt. Lá quốc kỳ VNCH vừa hạ xuống, đươc trao cho tôi. Tôi vẫn giữ gìn, trân quí nó cho đến ngày hôm nay. Lá quốc kỳ nhuộm màu phong sương này đã phất phới tung bay trên HQ 14 suốt mấy tháng cuối cùng của cuộc chiến. Phần tôi, ngoài mặt tôi vẫn giữ nét nghiêm trang, nhưng trong lòng, tôi đang khóc. Một cuộc chiến dài đăng đẵng đã chấm dứt trong đau thương, thất vọng! Bao nhiêu quân sĩ, tướng tá anh dũng của Quân Lực VNCH đã thương vong. Bao nhiêu gia đình đau khổ, mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất bố. Tất cả hy sinh đó chỉ nhắm một mục đích: Bảo vệ Miền Nam Tự Do. Nay, tất cả hy vọng đã trở thành mây khói! Lễ Hạ Quốc Kỳ VNCH trên HQ 14(Do Bùi Dương L chụp) Lễ Thượng Quốc Kỳ Hoa Kỳ trên HQ 14 (Do Bùi Dương L chụp) Tuy đã nhận bàn giao, Trung Úy Don Swain vẫn yêu cầu tôi tiếp tục điều khiển nhân viên và đưa chiến hạm vào trong Subic Bay. Lần lượt, các chiến hạm vào hải cảng. HQ Hoa Kỳ không cho phép các hạm trưởng VNCH tự cặp cầu và HQ Hoa Kỳ cũng không đủ phương tiện để chuyên chở tất cả thủy thủ đoàn và người quá giang vào bờ. Vì vậy, tôi phải vận chuyển HQ 14 chờ trong hải cảng đến khi tàu kéo của HQ Hoa Kỳ dòng chiến hạm vào cặp cầu. Sau đó, tôi có vài lời từ giã nhân viên quá giang và thủy thủ đoàn trước khi họ rời chiến hạm. Theo lời yêu cầu của HQ Hoa Kỳ, tôi cho Trung Úy Dân và vài nhân viên cơ khí cùng vô tuyến Tuấn tiếp tục ở lại chiến hạm để lo máy móc cho đến khi tôi rời chiến ham và tàu dòng của HQ Hoa Kỳ hoàn tất việc đưa HQ 14 ra buộc phao trong hải cảng thì tắt hết máy móc và theo tàu dòng vào bờ. Khi tôi vào phòng ăn sĩ quan, các sĩ quan an ninh của HQ Hoa kỳ đã có mặt ở đó, chờ tôi cho biết tình hình trên quần đảo Trường Sa trong thời gian HQ 14 hoạt động quanh quần đảo này. Sau khi thuyết trình cho họ, tôi cùng gia đình rời chiến hạm. Tuy tôi không còn mang cấp bậc, anh quân nhân TQLC Hoa kỳ đang đứng gác hạm kiều vẫn nhận ra tôi và nghiêm chỉnh đưa tay chào. Tôi chào lại anh, và quay lại chào lá quốc kỳ Mỹ, chào HQ 14 thân yêu một lần chót, và rời chiến hạm. Bây giờ, cũng như tất cả nhân viên của tôi, tôi sẽ bắt đầu một hành trình mới đến đất tự do. Cuộc hành trình này, tuy không nguy hiểm, nhưng chắc không kém cam go, bất định. Viết tại Hoa Kỳ ngày 22 tháng 3 năm 2017 Phạm Thành Nguồn: catvangannapolis.blogspot.com/p/hoi-ky.html
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:23:47 GMT 9
“30 THÁNG TƯ 1975, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải DI TẢN 3000 ĐỒNG BÀO” – NGUYỄN VĂN THIỆN Posted on April 23, 2020 by dongsongcu ** Lời Giới Thiệu : Cuộc chiến ở Miền Nam Việt Nam đã kéo dài qua hai thời kỳ Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà và đã kết thúc trong “uất-ức, đau khổ” (1) cho quân dân Miền Nam. Có không biết bao Thi-Văn-Nhân khoác chinh-y đã viết lại về thời kỳ binh lửa mà không ai có thể quên, ” Muà Hè Đỏ Lửa “, ” Đại Lộ Kinh Hoàng ” , ” Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị ” , ” Tử Thủ An Lộc “… Tàn cuộc chiến, rất nhiều hồi ký của các Nhà Văn thuộc các Quân-Binh-Chủng đã tường thuật những trận đánh dũng-cảm chận đường tiến quân của địch, những cuộc không kích mà sự hy-sinh của phi-công chỉ trong đường tơ kẻ tóc, phòng-tuyến tử-thủ của một số đơn vị vào giờ phút cuối. Bên cạnh đó, còn có cuộc di-tản của Không Quân, Hải Quân để tài-sản không lọt vào tay địch và đưa thân nhân, đồng bào vượt thoát. Nhà Thơ Hữu Phương (cố Phó Đề-Đốc Nguyễn Hữu Chí) gọi là “Giờ Thứ 25 của người lính biển” (2), mô tả chuyến hải hành cuối cùng của Hạm Đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà rời bến Bạch Đằng và các cầu tàu trước Bộ Tư Lệnh Hải Quân lúc 8 giờ tối ngày 29 tháng Tư – 1975, để ra khơi cùng với non ba mưoi ngàn đồng bào di-tản, điểm tập kết là Côn Sơn. Vùng 4 Duyên Hải với bản doanh Bộ Tư Lệnh ở An Thới–Nam đảo Phú Quốc–từ ngày 29 tháng Tư không còn liên lạc đuợc với Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn, tình hình chung về chính-trị quân-sự biến chuyển qúa nhanh, nên Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thiện, đương kim Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải (V4ZH) đã nhanh chóng triệu tập bốn vị Hạm Trưỏng các chiến hạm tăng phái cho V4ZH để thảo luận kế hoạch di-tản cùng thân nhân gia đình binh sĩ, quân dân chánh ở Quận Phú Quốc. Ước tính tình báo và dự thảo Lệnh hành quân đối với Kế hoạch di tản khẩn cấp thật không đơn giản, nhưng BTL/HQ/V4ZH đã có quyết định dứt khoát ; đó là cuộc di-tản dự trù đưa lực lượng Hải Quân đến Úc Châu. Ngay sau khi có lệnh buông súng của đương kim Tổng Thống Dương Văn Minh, sáng 30 tháng Tư, Đại Tá Thiện đã không quên tập họp tất cả Sĩ Quan và nhân viên thuộc quyền để cảm ơn mọi người đã kề vai sát cánh trong nhiệm vụ trấn giữ bờ cõi, hải phận và để mọi nguời tự quyết định “ra đi” hay “ở lại”. Tình cảm gắn bó trong tinh thần Huynh đệ chi binh đã được thể hiện trong đáp từ cảm ơn các chiến sĩ Hải Quân đã chiến đấu trên cùng trận tuyến qua bao năm, của vị Tư Lệnh Hải Quân V4ZH ; mà do tình hình chính trị an-bài đành phải chia tay. Giờ phút các chiến hạm rời đảo, để ra đi với biết bao phức tạp từ tâm-tư tình cảm của các cấp thuộc quyền, bị dày-vò vì “đi” hay “ở” , cho đến yếu tố tiếp-vận tiếp-liệu cho đoàn chiến hạm và cho gia đình đồng bào trên chiến hạm, thêm phần pháp-lý đối-phó với chính quyền Tân Gia Ba, … nhưng với tinh thần hài-hoà, rộng lượng đối với thuộc cấp, vị Tư Lệnh HQ V4ZH đã hành-xử giàu lòng nhân-ái ; ai muốn ra đi thì theo tàu ra khơi tìm Tự Do, ai muồn về với gia đình lên tàu lái quay trở lại bờ. Cuối cùng đã đưa đuợc đoàn tàu an-toàn đến Quân Cảng của Hải Quân Hoa Kỳ ở Vịnh Subic, Philippines. Trang Lưu Niệm của Khoá 7 Đệ Nhất Thiên Xứng dù trình bày và nội dung còn rất khiêm-tốn, nhưng đã được Quý Vị Độc Giả dành thì giờ và cảm tình quý báu vào viếng trang nhà ; chúng tôi kính xin chân thành cảm ơn Quý Độc Giả ; và xin giới thiệu bài hồi ký ” 4 Chiến Hạm di tản từ đảo Phú Quốc ” , mà tác giả là nguyên Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Khoa Khoá 7 , Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thiện, cựu Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Duyên Hải, Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Trân-trọng. TRANG LƯU NIỆM KHOÁ 7 Ghi chú : (1) Trích lời Đô-Đốc Trần Văn Chơn, cựu Tư Lệnh Hải Quân : ” Đôi giòng nhận xét về quyển CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI ” của Tác Giả Phó Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, cựu Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải. Xb 2007. (2) Tạp Chí ” ĐI TỚI ” số 44 & 45 Năm thứ Tám – Tháng 4 & 5 – 2001 – Montréal, Québec, CANADA. Trang 94 – 97. bienxua.files.wordpress.com/2016/03/huy-hieu-bo-tu-lenh-hqv4dh-tvq-collection.jpg?w=257&h=251” 4 CHIẾN HẠM DI TẢN TỪ PHÚ QUỐC” 1.- BTL/HQ V4ZH. 2.- Căn cứ HQ Phú Quốc. 3.- Hải Đội 4 Duyên Phòng 4.- Duyên Đoàn 42. 5.- Một Đài Kiểm Báo. 6.- Căn Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận. 7.- 4 Chiến Hạm do BTL Hạm Độị biệt phái cho BTL/V4ZH : 1.- Trợ Chiến Hạm “Nguyễn-Ngọc Long”, HQ 230 Hạm Trưởng HQ Thiếu Tá Nguyễn-Nguyên. 2.- Giang Pháo Hạm “Lôi Công”, HQ 330 Hạm Trưởng HQ Thiếu Tá Nguyễn-Văn-Anh. 3.- Giang Pháo Hạm “Tầm Sét”, HQ 331 Hạm Trưởng HQ Thiếu Tá Phan-Tấn-Triệu. 4.- Tuần Duyên H ạm “Minh-Hòa”, HQ 602 Hạm Trưởng HQ Đại Úy Ngô-Minh-Dương. Về phần lãnh thổ, vị TL/HQ/V4ZH giữ luôn Chức Vụ Đặc Khu Trưởng/Đặc Khu Phú Quốc. Lực Lượng Đặc Khu gồm có 2 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân, 1 Đại Đội Trinh Sát và 1 Trung Đội Pháo Binh 105 ly. Đóng tại Dương Đông có 1 Tiểu Đoàn ĐPQ, Đại Đội Trinh Sát với 1 Bán Trung Đội Pháo Binh. Tiểu Đoàn ĐPQ thứ hai đóng tại xã An Thới với 1 Bán Trung Đội PB. Để bảo vệ an ninh lãnh thổ cho Đảo Phú Quốc về mặt Bắc Lực Lượng ĐPQ có Đồn Cửa Cạn. Về phía Đông có Đồn Hàm Ninh. Quận Trưởng Quận Phú Quốc là một vị Trung Tá Bộ Binh đóng tại xã Dương Đông về phía Tây của đảo. Quận Trưởng Quận Phú Quốc cũng kiêm luôn chức vụ Đặc Khu Phó và là Phụ Tá Hành Quân trên Bộ cho vị Đặc Khu Trưởng. Ngoài ra một phi cơ quan sát L19 với một Trung Úy Phi Công và 1 toán kỹ thuật nhỏ thuộc BTL/KQ Quân Đoàn 4 cũng được biệt phái cho Đặc Khu. 2/ Những khó khăn của BTL/HQ/V4ZH trước ngày 30-4 -75. Tôi được Phó Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh vị đương kiêm Tư Lệnh Hải Quân thời bấy giờ bổ nhiệm tôi ra Phú Quốc vào đầu năm Dương Lịch 1975. Lúc đó Đại Đội ĐPQ đóng tại Đồn Cửa Cạn trên Bắc Đảo đang bị lực lượng gần 1 Tiểu Đoàn địch bao vây. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giải tỏa vòng vây của địch và đem lại an ninh cho vùng Bắc Đảo. Một tháng sau khi tôi nhậm chức thì vòng vây đã được giải tỏa và đời sống của đồng bào trên vùng đó đã trở lại bình thường như trước cũng như sự sinh hoạt thường xuyên của BTL/HQ/V4ZH và Đặc Khu Phú Quốc. Huy hieu Can cu Hai qiuan Phu Quoc. TVQ Collection Đoàn người tỵ nạn từ Miền Trung. Vào cuối tháng 3 năm 1975 sau khi Vùng II Chiến Thuật và Vùng I CT mất vào tay Cộng Sản, Thiếu Tưóng Nguyên khoa Nam TL/Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật ra lệnh cho tôi vào Cần Thơ trình diện Ông ngay lập tức. Trong buổi gặp mặt hôm ấy Thiếu Tướng ra lệnh cho tôi là phải sẵn sàng để nhận khoản 20 ngàn đông bào tỵ nạn từ miền Trung về Phú Quốc. Những khó khăn cho BTL/HQ/V4ZH trước ngày 30 tháng tư năm 1975 đã bắt đầu từ đó, và chúng tôi phải dùng đủ mọi phương tiện có sẵn trong tay và nhứt là sự tiếp tế và yểm trợ quy mô của Chính Phủ VNCH và Chính Phủ Hoa Kỳ để đón tiếp đồng bào tỵ nạn. Tổng số đồng bào tỵ nạn dần dần đã tăng lên đến khoản 60 ngàn người khi tôi bước lên Trợ Chiến Hạm HQ 230 để đi tìm Tự Do trong ngày 30 tháng tư năm 1975 với HQ 330,HQ 331 và HQ 602 tháp tùng theo. Tuy nhiên mặc dù vậy, BTL/HQ/V4ZH đã cố gắng rất nhiều để chu toàn nhiệm vụ giữ gìn an ninh không những riêng cho Đồng Bào tỵ nạn từ Miền trung vào và còn bảo vệ sanh mạng và tài sản của người dân trên Đảo Phú Quốc. Phần 3. Hạm Đội gồm 4 chiến hạm lên đường di tản. ** 1.- Chuẩn bị để rời Phú Quốc.Sau ngày tôi gặp Th/Tướng Nguyễn Khoa Nam trở về và cùng một lúc tình hình chiến sự và tương lai miến Nam VN càng ngày càng mỏng manh, tôi thường xuyên gặp 4 vị Hạm Trưởng HQ 230 HQ Th/Tá Nguyễn Nguyên, HQ 330 HQ Th/Tá Nguyễn Văn Anh, HQ 331 HQ Th/Tá Phan Tấn triệu và HQ 602 HQ Đại Úy Ngô Minh Dưong mỗi lần các vị HT về nghỉ bến. Trong những lúc đàm thoại, ai ai cũng đều bày tỏ sự lo âu về vận mạng của đất nước. Vào đầu tuần tháng tư sau khi nghe tin lực lượng CS đã đánh vào Long An và đe dọa cắt đứt Quốc Lộ 4, huyết mạch của Sàigòn và miền Tây, T/Tá Nguyên đang nghỉ bến lên BTL/V4ZH gặp tôi một cánh rất cấp tốc và hỏi tôi ngay tôi đã có quyết định và kế hoạch gì chưa. Tôi liền trả lời với Th/Tá Nguyên là tôi đã có và tôi phải chờ để có dịp hỏi ý kiến chung của tất cã 4 vị Hạm Trưởng. Tôi khuyên Th/Tá Nguyên nên về tàu nghỉ và hôm sau chúng ta sẽ có một buổi họp với sự hiện diện đầy đủ của 4 vị HT tại văn phòng tôi. Tôi sẽ ra lệnh cho các HT trở về căn cứ gấp vì có việc khẩn. Như đã dự định, ngày hôm sau vào lúc 10 giờ sáng chúng tôi, 4 vị HT và cá nhân tôi gặp nhau tại văn phòng của tôi để bàn về kế hoạch và chương trình di tản khi cần. Sau khi cửa đã đóng kín tôi liền trải lên bàn làm việc của tôi một hải đồ tôi đã vẽ sẵn đường di tản của tôi. Sau khi rời Phú Quốc đoàn tàu chúng tôi sẽ hưóng về Tân Gia Ba, rồi Djakarta ở Nam Dương, kế tiếp Bali, Flores, East Timor, sau cùng hướng về phiá Nam thẳng đến hải cảng Darwin ở Úc Châu. Thời gian hải hành có thể một tháng và tôi đã có chương trình cho các chiến hạm tiếp tế đầy đủ lương thực. Nước ngọt, dầu cặn và thực phẩm tươi chúng ta sẽ xin chính phủ tại các bến chúng ta ghé. Trình bày đề nghị của tôi xong, năm người chúng tôi không có bàn lâu và sau khi tôi giải đáp vài câu hỏi của 4 vị HT một cách thỏa mãn, kế hoạch của tôi đề nghị được tất cả 4 vị HT chấp thuận. 2.- 30 tháng tư năm 1975. Những gì phải tới đã tới. Vài ngày trước 30 tháng tư tôi liên lạc rất đều đặn với Phó Đề Đốc TMT/HQ. Nhưng đến ngày 29 tháng tư tôi hoàn toàn mất liên lạc với BTL/HQ ở Saìgòn. Tôi liền báo cho các vị HT biết là kế hoạch của tôi sẽ được áp dụng ngay tức khắc và tùy các vi HT để cho lính ĐPQ, gia đình và đồng bào được quá giang. Điều chính là sự an toàn của Chiến Hạm và nếu cần sẽ áp dụng biện pháp nặng để tránh sự nổi loạn và khi thấy không còn giữ được an ninh và trật tự thì chiến hạm phải rời cầu cập ngay ra khơi chờ lệnh của tôi. Bầu không khí sáng ngày 30 tháng tư năm 1975 yên một cách lạ thường như trước khi cơn bão tố đến. Theo như thường lệ tôi vào TTHQ của BTL/HQ V4ZH để nghe xem có tin gì mới không nhưng trong TTHQ cũng rất yên tịnh một cách quái lạ. Khác hơn mọi khi tất cả máy vô tuyến đều lặng yên và chỉ nghe có tiếng xèo xèo trong các loa thôi. Tôi trở vào văn phòng của tôi và ngồi chờ. Đến 11:30 giờ sáng tiếng náo loạn nổi lên càng lúc càng to trong TTHQ sau khi nghe Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng bọn Cộng Sản. Tôi liền triệu tập tất cả Anh Em Đoàn Viên, Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan vào ngay phòng ăn Thủy Thủ Đoàn của căn cứ. Bước vào phòng ăn với một giọng rất cảm động, tôi liền có vài lời nhắn nhủ cho tất cả Anh Em Đoàn Viên thuộc BTL/HQ/V4ZH có mặt trong đó. ” Trước hết tôi cám ơn Anh Em đã đến nhanh chóng sau khi tôi kêu gọi các Anh Em đến. Đây là buổi họp cuối cùng của chúng ta, tôi xin cám ơn các Anh Em thật nhiều đã giúp tôi trong những tháng qua, kể từ khi tôi đến nhận chức tại BTL/HQ/V4ZH để lãnh đạo các Anh Em. Tôi và gia đình tôi sẽ rời Quê Hương của chúng tôi vì chúng tôi không thể sống chung dưới chế độ Cộng Sản. Nếu có chết chúng tôi cũng lấy làm thỏa mãn được chết Tự Do ngoài biển khơi. Những Anh Em nào đã quyết định rờì xứ sở quê hương thì cứ việc lên đường đi. Tôi chúc các Anh Em nhiều may mắn. Những Anh Em nào ở lại xin giúp các Anh Em nào đi, được lên đường một cách an toàn. Tôi xin từ giã các Anh Em và mến chúc nhiều may mắn.” Theo như đã hẹn đoàn tàu 4 chiếc đã rời bến và chờ tôi ở ngoài khơi cách Hòn Thơm chừng một hải lý về hướng tây. Sau khi rời phòng họp tôi về cư xá của tôi ngay để đốc thúc nhà tôi và mấy đứa con chuẩn bị lên tàu để di tản, vì LCM 8 của Tr/Tá Lê Thành Thọ CHT/CCYTTV An Thới (SQ cùng khóa 7 Nha Trang với tôi) sẽ đến đón chúng tôi ngay ở cầu tàu trưóc nhà thủy tạ của TL Vùng. Chiếc LCM 8 sau đó chở chúng tôi ngay ra khơi trong khi đó tôi cố liên lạc với Th/Tá Nguyên, vị HT thâm niên của đoàn tàu di tản. Cũng nên nhắc lại là khi tôi về đến cư xá, thì xe Jeep tôi gởi ra phi trường An Thới để đón Trung Tá Đinh Xuân Thảo Quận Trưởng cũng đã về tới. Tôi bèn thúc Tr/Tá Thảo đi ngay xuống LCM 8 của CCYTTV di tản theo chúng tôi luôn. Ra đến ngoài biển khơi chúng tôi liền chuyển ngay qua một chiếc ghe ciment Chủ Lực của Duyên Đoàn 42 đề nhờ đưa gia đình chúng tôi qua Trợ Ch/Hạm HQ 230 với HT Nguyễn Nguyên. Thiếu Tá Nguyên chờ tôi ở cầu thang lên tàu và đưa tôi đến chưn khẩu 76 ly ở sân trước mũi tàu. Đây là nơi mà tôi và gia đình của tôi sẽ tá túc trên suốt đường đi tìm Tự Do. Sau đó chúng tôi lên đài chỉ huy chiếc HQ 230 và khởi hành ngay đi về Poulo Panjang ở hướng Tây vì ngại rằng bọn Cộng Sản có thể gởi phi cơ đến oanh tạc chúng tôi. Lúc đó là 03:30 giờ chiều ngày 30 tháng tư năm 1975. Trên đưòng đi đến P.Panjang đêm đó có một số Anh Em trong Thủy Thủ đoàn muốn nổi loạn, đòi tàu quay trở về vì họ không muốn bỏ gia đình họ lại Việt Nam. Sau một hồi bàn cãi và đấu lý một cách sôi nổi và gây cấn, HT Nguyên và tôi hứa là khi đến P. Panjang chúng tôi sẽ để lại một chiến hạm để Anh Em nào không muốn đi theo thì lái về trở lại Phú Quốc. Rất may là đêm đó mọi việc đều được giải quyết xong một cách êm xuôi không sắt máu. Tôi còn ngây ngủ khi tàu thả neo ở P. Panjang sáng hôm sau. Tôi giựt mình thức dậy do tiếng động rất to bên ngoài làm như có tàu cập bên hông và tiếng người chạy rầm rầm trên boong. Mở mắt ra thì ôi thôi mặt mày tôi sáng lên vì thấy có cả chục chiếc PCF đang chạy ào ào vòng quanh các chiến hạm đang thả neo, có chiếc đang cập vào thành tàu và sac ballot đầy đồ đạc, nệm, gối, chăn được quăng lên boong tàu. Tổng cộng tất cả đều có gần 40 chiếc PCF. Lúc đó là 08 giờ sáng ngày 1 tháng năm, 1975. Sau đó chúng tôi mới biết là nhửng chiếc PCF đó, một nhóm thuộc Hải Đội 5 Duyên Phòng ở Năm Căn, và những chiếc khác thì thuộc Hải Đội 4 Duyên Phòng ở An Thới. Các PCF thuộc Hải Đội 4, khi thấy đoàn tàu hướng về phía tây, thì Anh Em biết là chúng tôi đi ra P. Panjang nên Anh Em vọt trước và chờ chúng tôi ở đó, vì vận tốc PCF nhanh hơn đoàn tàu con rùa của chúng tôi. Phần Anh Em ở Năm Căn thì họ dò tần số trên máy PRC 25, mà chúng tôi liên lạc với nhau giửa 4 chiến hạm, nên họ bắt được tần số và theo dõi nghe, nên biết chúng tôi hướng về P. Panjang. Gặp được đoàn PCF đó, chúng tôi rất mừng là tất cả mọi khó khăn và nguy hiểm xảy ra đêm qua trên HQ 230, đã được giải quyết một cách tốt đẹp. Những Anh Em nào không muốn đi theo đoàn tàu lưu vong của chúng tôi, thì có thể lấy những PCF do các Anh Em ở Hải Đội 4 và 5 để lại, lái trở về với gia đình, còn chúng tôi thì được tăng cường thêm nhân lực để thay phiên nhau lái tàu đến bến mới. Để giải quyết vấn đề kỹ thuật và tiếp liệu, trên con đường xa xăm và dài lâu mà chúng tôi sẽ khởi hành đi sau khi rời hải phận Việt Nam, chúng tôi bàn với nhau và đồng ý là sẽ dùng chiếc HQ 331 làm chiến hạm dự trữ, để cung cấp cơ phận thay thế cho 2 chiếc HQ 230 và HQ330 vì tất cã 3 chiếc đều dùng loại máy Graymarine Diesel. Chiếc HQ 331 vì chỉ còn 2 trên 8 máy chánh sử dụng được, sẽ được HQ 330 dùng dây kéo trên đường đi. Đúng 12 giờ trưa ngày 1 tháng 5, năm 1975, Hạm Trưởng 2 chiếc HQ 330 và HQ 331 báo cáo tất cả đều sẵn sàng. Chúng tôi liền cấp tốc kéo neo khởi hành vì không muốn trì trệ nữa. Trong suốt thời gian hải hành, 4 Chiến hạm sẽ đi theo đội hình hàng dọc, với HQ 230 dẩn đầu, kế tiếp là HQ 330 giòng HQ 331. HQ 602 thì sẽ ở vị trí bọc hậu. Vận tốc trung bình của đoàn tàu là 8 gút. Vì là đầu tháng 5 nên biển rất êm với gió nhẹ từ hướng Nam và Đông Nam thổỉ vào buồi chiều và đêm suốt trong thời gian chúng tôi hài hành đến Tân Gia Ba Hai ngày sau khi chúng tôi rời P.Panjang thì bờ biển Mã Lai phát hiện mờ mờ ở bên phía hữu hạm. Qua ngày thứ 3 sau khi ăn sáng xong, Th/Tá Nguyên và tôi lên đài chỉ huy để xem hải đồ và kiểm lại vị trí hiện tại của đoàn tàu đang đi và khoản cách còn lại để đến Tân Gia Ba. Vào lúc 11 giờ, một chiếc Tuần Duyên Hạm (TDH) của Hải Quân Tân Gia Ba (TGB) xuất hiện ở chân trời và tiến rất nhanh thẳng đến mũi tàu chiếc HQ 230. Tôi liền nóí với Th/tá Nguyên ra lệnh cho đoàn tàu ngừng máy và thả trôi để chờ Chiến Hạm ấy đến gần. Khi còn 200 thước cách HQ 230, chiếc TDH giảm bớt vận tốc và vận chuyển đến sát chiếc HQ 230 bên phiá hữu hạm rồi ngừng máy. Trong khi đó Th/Tá Nguyên gởi Hạm Phó xuống gặp vị HT chiếc TDH để xem Ông ấy muốn gì. Một vài phút sau Hạm Phó trở lên ĐCH và cho tôi biết là HT chiếc TDH/TGB mời tôi sang tàu Ông ấy để gặp Thượng Cấp của Ông. Tôi liền rời đài chỉ huy và xuống cầu thang để qua chiếc TDH/TGB. HT chiếc TDH đón tiếp tôi ở cầu thang một cách rất lịch sự và hướng dẫn tôi ngay xuống phòng ăn Sĩ Quan. Trong phòng ăn, một vị Đại Tá HQ TGB đang ngồi trong đó liền đứng lên chào tôi và tự giới thiệu, Ông là đương kim Tư Lệnh HQ/TGB. Tôi liền chào Ông lại và tự giới thiệu tôi cho vị TL/HQ/TGB. Sau đó Ông liền mời tôi ngồi xuống bàn ăn và mời tôi uống trà mà chiêu đãi viên đã dọn sẵn trên bàn. Khi chúng tôi đã ngồi xuống, Ông liền cho tôi biết là chính phủ của Ông đã được tin từ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở TGB cho biết về đoàn tàu của chúng tôi đang tiến về hải phận TGB, do đó Chính Phủ TGB ra lệnh cho Ông ra đón tiếp chúng tôi, và hỏi chính phủ Ông có thể giúp được những gì cho đoàn tàu của chúng tôi. Tôi liền cám ơn vị TL/HQ/TGB đã đích thân ra gặp chúng tôi ngoài khơi như vậy. Sự thật chúng tôi, như Ông đã biết, là đoàn tàu tỵ nạn vô bờ bến đang đi tìm Tự Do và chỉ mong có một Quốc Gia nào đó nhận chúng tôi. Ngoài ra tôi cũng xin chính phủ của Ông liên lạc với Tòa Đại Sứ Mỹ tại TGB để hỏi xem họ có thể cho chúng tôi biết đoàn tàu chúng tôi nên hướng về đâu. Hiện tại thì chúng tôi đang cần hải đồ để hướng về Úc Châu như chúng tôi đã dự trù khi rời xứ sở chúng tôi, và nếu có thể, chúng tôi xin được tiếp tế nước ngọt và thực phẩm tươi như trái cây, rau cải nếu được. Vị Tư Lệnh trả lời cho tôi Ông sẽ chuyển đến chính phủ của Ông ngay khi Ông về tới bến những nhu cầu của tôi vừa trình cho Ông. Ông nói tiếp là vì tàu chúng tôi là tàu chiến, nên khi vào đến hải cảng TGB tàu chúng tôi bắt buộc phải thả neo ở vòng ngoài của hải cảng (outer anchorage). Chiếc TDH đang chở Ông hiện nay sẽ trở lại ngay, để hướng dẫn đoàn tàu đến địa điểm thả neo, sau khi Ông đã trở về TGB. Chiếc TDH nầy cũng sẽ ở lại để giữ an ninh cho các chiến hạm của Đại Tá. Một lần nữa tôi cám ơn vị TL/HQ TGB và rời phòng ăn SQ chiếc TDH/TGB trở về lại chiếc HQ 230. Như đã dự trù, chiếc TDH/TGB sau khi đưa vị TL/HQ/TGB trở về hải cảng xong, chiến hạm quay trở lại gặp chúng tôi và hướng dẫn chúng tôi vào vị trí neo tại vòng ngoài hải cảng. Khi thả neo xong lúc đó là 06 giờ sáng ngày 5 tháng 5 dương lịch năm 1975. Ngoại trừ 4 chiến hạm chúng tôi không có tàu nào khác neo xung quanh. 3 ngày sau, vào lúc 9 giờ tối ngày 8 tháng 5 năm 1975 chiếc TDH/TGB đến cập vào chiếc HQ 230 và vị Hạm Trưởng mời tôi lên chiến hạm của ông để vào Tân Gia Ba họp. Trên đường vào hải cảng, chiếc TDH ghé lại chiếc thương thuyền Trường Thành của hãng Vishipco Line đang neo tại phần phía trong của hải cảng (inner anchorage) đón Thuyền Trưởng. Lúc đó tôi gặp em tôi là Tr/Tá Y/Sĩ Trưởng SĐ/TQLC Nguyễn Văn Thể xuống cầu thang bước qua chiếc TDH/TGB. Hai anh em gặp lại nhau tại đây thật là một sự bất ngờ ở trong một hoàn cảnh và trường họp như vậy nên chúng tôi rất vui mừng và rất cảm động ôm nhau và nước mắt liền tuông chảy xuống hai gò má chúng tôi. Em tôi sau đó cho biết là Th/Tướng Lân TL/SĐ TQLC và đoàn tùy tùng của Ông hiện đang ở trên chiếc Trường Thành và Ông ấy chỉ định em tôi thay thế vị Thuyền Trưởng để lên TGB họp. Buổi họp do Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận TGB chủ tọa. Chúng tôi không có biết gì thêm nhiều trong buổi họp, ngoại trừ chỉ nghe Đức TGM/TGB kêu gọi sự yên tịnh và nhẫn nại của chúng tôi trong khi chờ đợi sự quyết đinh của chính phủ TGB. Sau buổi họp em tôi và tôi từ giã nhau và xuống chiếc TDH trở về tàu. Khi chiếc TDH/TGB đưa tôi về đến chiếc HQ 230 lúc đó là đã quá 12 giờ khuya ngày 8 sang ngày 9 tháng 5, 1975. Tôi liền đi gặp Th/Tá Nguyên và lên máy vô tuyến thông báo tin tức cho các HT các chiến hạm khác. GIANG PHAO HAM TAM SET HQ331 Lúc 4 giờ sáng ngày 9 tháng 5, năm 1975 chiếc TDH/TGB cặp vào chiếc HQ 230 và vị Sĩ Quan trực trên tàu đánh thức tôi dậy để gặp HT chiếc TDH/TGB. Khi gặp tôi, vị HT chiếc TDH trao cho tôi một cuồn hải đồ, và nói với tôi rằng ” Kính Đại Tá, các chiến hạm của Đại Tá sẽ được tiếp tế nước ngọt và một ít thực phẩm tươi. Xà lan chở nước ngọt đang tiến đến gần tàu Đại Tá để bơm nước ngọt. Đại Tá cho các chiến hạm biết ngay để sẵn sàng nhận tiếp tế.” và chỉ vào cuồn hải đồ tôi đang cầm trong tay Ông nói tiếp ” Sau khi đoàn tàu của Đại Tá tiếp tế xong, Đại Tá cho nhổ neo và khởi hành ngay. Toà Đại Sứ Hoa Kỳ khuyên Đại Tá nên dẫn các chiến hạm đi thẳng đến căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ ở Subic Bay, Phi luật Tân. Đây là những hải đồ mà Đại Tá cần để hải hành như Đại Tá đã xin”. Tôi liền cám ơn vị HT chiếc TDH/TGB thật nhiều, và sau đó tôi củng nhờ vị Tr/Úy HT chuyển những lời biết ơn thật chân thành của tôi và cã 4 vị Hạm Trưởng của đoàn tàu tỵ nạn chúng tôi đến Chính Phủ TGB, và riêng cá nhân Đại Tá TL/HQ/TGB đã giúp và đón tiếp chúng tôi một cách rất đặc biệt và nồng hậu. Sau khi chiếc TDH tách rời HQ 230, tôi lập tức báo cho Th/Tá Nguyên, lúc đó đang đứng cạnh tôi ở gần cầu thang dây của tàu, và nhờ Th/Tá Nguyên chuyển đến các vị HT lệnh chuẩn bị nhận nước ngọt và thực phẩm, và sau khi chiến hạm cuối cùng nhận tiếp tế xong, đoàn tàu sẽ nhổ neo và khởi hành ra khơi hướng về Subic Bay. Đền 07:30 gìờ sáng chiếc HQ 602 báo cáo đã nhận tiếp tế xong. Tôi lìền ra lệnh cho đoàn tàu nhổ neo khởi hành ra khơi ngay, sau 4 ngày nằm chờ tại hải cảng TGB mà trong lòng không yên với tương lai còn mù mịt đen tối, vì chúng tôi không biết sẽ đi về đâu. Đúng 08 giờ sáng ngày mùng 9 tháng 5 năm 1975, đoàn tàu chúng tôi rời Hải Cảng Tân Gia Ba khởi hành tiến về Căn Cứ HQ Hoa Kỳ tại Vịnh Subic Bay, Phi Luật Tân theo như lời nhắn của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại TGB do Hạm Trưởng chiếc TDH/TGB chuyển lại. Như khi chúng tôi rời P. Panjang, chiếc HQ 230 dẫn đầu theo đội hình hàng dọc, kế đó là chiếc HQ 330 kéo chiếc HQ 331 và sau cùng là chiếc HQ 602. Một sự kiện đã làm cho tôi rất cảm động, là sau khi các chiến hạm của chúng tôi đã vào đội hình bắt đầu rời hải cảng TGB, chiếc TDH/TGB với Thủy Thủ Đoàn trên tàu đều sắp hàng dàn chào, với quân phục trắng theo nghi lễ truyền thống Hải Quân, từ trên Đài Chỉ Huy xuống đến boong chánh, từ mũi tàu đến phần sau lái của chiến hạm để chào từ giã đoàn tàu chúng tôi. Chiếc TDH/TGB bắt đầu nghi lễ tiển đưa di chuyển từ chiếc HQ 602 đang ở phía bọc hậu, lên đến chiếc HQ 331, kế đó là chiếc HQ 330, và sau cùng chiếc HQ 230. Lúc đó từ trên đài chỉ huy chiếc HQ 230 tôi nhìn sang đài chỉ huy chiếc TDH/TGB, tôi thấy vị Trung Úy Hạm Trưởng trong quân phục tiểu lể màu trắng, vừa bước ra ngoài nhìn qua đài chỉ huy chiếc HQ 230 và chào chúng tôi. Chiếc TDH/TGB sau đó cho nhân viên giải tán, tiếp tục đưa chúng tôi ra khỏi hải phận TGB và quay trở về căn cứ với hết tốc lực. Trong khi đó đoàn tàu chúng tôi tiếp tục hải hành đi về phiá Đông. Tâm trí tôi lúc đó tôi thấy thật nhẹ nhàng và nhẹ lo, vì biết rằng trong tương lai chính phủ Hoa Kỳ sẽ giúp đỡ chúng tôi khi đoàn tàu chúng tôi đến tới vịnh Subic. Tuy nhiên sự yên tịnh đó chúng tôi không hưởng được bao lâu. 2 ngày sau khi rời TGB chúng tôi phải đổi hướng, đi từ hướng đông chuyển sang hướng đông bắc, và trên khúc đường chúng tôi sắp đi, chúng tôi sẽ đi qua địa điểm gần Vũng Tàu nhứt, với khoảng cách chừng 300 hải lý. Th/Tá Nguyên là một con người rất dè dặt và hay lo, nên sợ bọn Cộng Sản nếu họ biết tin về đoàn tàu của chúng tôi, thì họ có thể cho chiến hạm của họ ra ngăn chận chúng tôi vả bắt đưa trở về lại Việt Nam. Tôi khuyên Th/Tá Nguyên đừng có lo chi cho lắm vì chúng ta đang ở trên hải phận quốc tế, và nếu cho cùng đi nữa không lẽ chúng ta chịu cho bọn CS bắt chúng ta một cách dễ dàng hay sao mà không kháng cự, mặc dù trên tàu chúng ta có rất nhiều dân tỵ nạn theo chúng ta tìm tự do. Hơn nữa tàu chúng ta là tàu chiến, nếu cùng chẳng đã,,, chúng ta sẽ chống lại họ với vũ khí chúng ta có trên tàu. Sau đó thì Th/Tá Nguyên mới bình tĩnh trở lại và đồng ý với tôi. Tuy nhiên, cá nhân tôi, tôi cũng lo và cầu mong rằng đoàn tàu sẽ vượt qua khúc đường nầy một cách êm xuôi. TUAN DUYEN HAM MINH HOA HQ602.jpg 4 ngày sau thì đoàn tàu chúng tôi đã vượt qua khỏi địa điểm gần Vũng Tàu nhứt trên hải đồ. Nhưng ngay trong đêm đó vào lúc 2 giờ sang, Sĩ Quan đương phiên chiếc HQ 230 xuống chỗ tôi ngủ với gia đình ở chưn khẩu đại bác 76 ly,, đánh thức tôi dậy và báo cáo cho tôi biết là HQ 602 đã mất liên lạc với HQ 230 từ lúc 12 giờ khuya. Theo như sự đồng ý chung của 4 vị HT thì về đêm trong lúc hải hành, HQ 602 trước rồi đến HQ 331 và kế tiếp là HQ 330 phải lên máy PRC 25 đặt trên ĐCH của mỗi chiến hạm báo cáo cho HQ 230 biết về tình trạng của chiến hạm. Khi tôi lên tới ĐCH thì Th/Tá Nguyên đã có mặt trên đó và đang gọi chiếc HQ 602 trên máy vô tuyến nhưng không kết quả. Khi thấy tôi Th/Tá Nguyên đề nghị quay trở lại đường đoàn tàu đang di chuyển để tìm chiếc HQ 602, xem chiếc hạm nầy có bi trục trặc máy chánh và cả máy điện không. Tôi liền đồng ý với Th/Tá Nguyên và cho đoàn tàu quay 180 độ ngược trở lại đường đi cũ và cứ tiếp tục cố gắng bắt sự liên lạc với HQ 602. Việc tìm kiếm chiếc HQ 602 kéo dài đến gần 7 giờ sáng nhưng chiếc HQ 602 thì biệt tâm biệt tích. Tất cả HT của 3 chiến hạm còn lại đều đồng ý chấm dứt việc đi tìm và quay trờ về hướng đi Subic Bay. Qua khỏi Bornéo, chúng tôi hải hành song song dọc theo quần đảo Palawan của Phi Luật Tân. Vào ngày 14 tháng 5 năm 1975, 4 ngày trước khi chúng tôi đến Subic Bay, 1 chiếc Phi tuần P3-Orion của Hải Quân Hoa Kỳ bay rất thấp sát đoàn tàu còn lại 3 chiếc của chúng tôi, từ sau lái đến mũi tàu và quần trở lại. Sau khi quan sát chúng tôi xong, chiếc P3-Orion quây thẳng về hướng Đông Bắc và biến mất dạng. 3 ngày sau vào lúc 1 giờ chiều một chiếc trực thăng của Hải Quân Hoa Kỳ xuất hiện từ phía Đông Bắc và bay thẳng đến đoàn tàu chúng tôi. Sau khi bay duyệt qua hết 3 chiến hạm, chiếc trực thăng ấy quây ngược trở lại và xà thấp xuống bên hữu hạm của chiếc HQ 230 gần Đài Chỉ Huy. Lúc đó tôi và Th/Tá Nguyên đang ở trên ĐCH theo dõi sự di chuyển của chiếc trực thăng. Khi đến ngang ĐCH viên phi công dừng trực thăng lại một chỗ ở thế bất động. Bên cửa hông chiếc trực thăng, một SQHQ Hoa Kỳ chồm ra ngoài vẫy tay chào chúng tôi, và với cánh tay trái Ông làm dấu cho chúng tôi đổi hướng hải hành tiến về phía Bắc Tây-Bắc. Khi thấy vậy, tôi nói liền với Th/Tá Nguyên là cho tàu đổi hướng ngay về phiá Ông ấy chỉ. Sau khi thấy đoàn tàu đã đổi hướng đi, chiếc trực thăng liền bay thẳng về phía trước mặt chúng tôi. 2 tiếng đồng hồ sau, vào khoản 3 giờ chiều, một chiếc Tuần Dương Hạm (loại Light Cruiser) của HQHK xuất hiện ở chân trời trước mũi chiếc HQ 230 hướng thẳng về chúng tôi với vận tốc rất nhanh. Khi đến gần chiếc HQ 230 chiến hạm bớt máy lại và ngừng khi cách khoản chừng 500 thước và thả một chiếc canoe xuống mặt biển. Lúc đó đoàn tàu chúng tôi cũng cho máy ngừng. Sau khi xuống tới mặt nước chiếc canoe vọt thẳng lại chiếc HQ 230 và cặp bên phiá hữu hạm, ngay chiếc thang nhôm mà Th/Tá Nguyên đã cho lệnh hạ xuống trước khi chiếc canoe đến với Hạm Phó chiếc HQ 230 đang đứng chờ tại đó. Một vị Đại Úy HQHK bước lên cầu thang, và theo sự hướng dẩn của Hạm Phó lên gặp Th/Tá Nguyên và tôi trên ĐCH. Sau khi trao đổi thủ tục chào đón trong quân ngũ xong, vị Đại úy HQHK cho biết Ông là người ngồi trên chiếc trực thăng lúc nãy và làm dấu hiệu cho HQ 230 để đổi hướng đi. Việc đầu tiên Ông hỏi là tình trạng sức khỏe chung của thủy thủ đoàn và dân tỵ nạn trên 3 chiến hạm trong những ngày hải hành trên biển, và trên tàu có ai cần đến sự chăm sóc khẩn cấp không. Tôi cám ơn Ông ấy và trả lời không và cũng cho Ông biết là trên chiếc HQ 330 chúng tôi có một bác sĩ HQ và ông vừa phụ đỡ một thiếu phụ sanh một đứa con gái trên chiến hạm. Kế đó Ông hỏi tiếp là ngoài ra chiến hạm có cần nước ngọt, trái cây, sữa tươi v…v… những gì chiến hạm cần và Ông có thể giúp. Tôi trả lời lại là chúng tôi còn nước ngọt và chỉ cần trái cây, và nhứt là sữa tươi cho trẻ em. Tôi chưa kịp dứt hết câu thì Th/Tá Nguyên cắt ngang tôi xin thêm thuốc lá. Chúng tôi 3 người đều cười rộ lên và Ông ấy trả lời là Ông sẽ gọi ngay trên máy walkie- talkie Ông có sẵn về chiến hạm của Ông để báo cáo cho Hạm Trưởng hay tình trạng của 3 chiến hạm và nhu cầu tiếp tế của chúng tôi xin. Sau đó Ông cho hay rằng, Ông sẽ trở về chiến hạm của Ông và sẽ cho chiếc canoe trở lại đem thực phẩm tiếp tế và thuốc lá qua cho chúng tôi. Ông còn nhắn thêm là sau khi chiến hạm cuối cùng của chúng tôi nhận tiếp tế xong thì khởi hành ngay, đi theo sau chiếc Tuần Dương Hạm để về Subic Bay. 18 tháng 5, năm 1975 lúc 10 giờ sáng, chiếc TDH/HQHK giảm máy, ngừng lại và thả chiếc canoe xuống nước. Đoàn tàu chúng tôi theo đó cũng ngừng máy lại và chờ chiếc canoe qua gặp lại chúng tôi. Cũng nên nhắc lại là suốt thời gian hải hành trong đêm đó, chiếc TDH/HQHK và đoàn tàu chúng tôi đều đi ngoài khơi cách xa hải phận của Phi Luật Tân. Khi chiếc canoe cập xong vào mạn tàu chiếc HQ 230, vị Đại Úy hôm qua bước thang lên ĐCH gặp chúng tôi. Ông cho chúng tôi biết và giải thích ngay thủ tục vào lãnh thổ Phi Luật Tân do chính phủ đã ban ra cho chiến hạm vào căn cứ HQHK ở vịnh Subic. Chính phủ Phi Luật Tân chỉ cho các chiến hạm thuộc Hải Quân Hoa Kỳ được phép vào căn cứ vịnh Subic mà thôi. Chiến hạm nước VNCH muốn được vào căn cứ nầy bắt buộc phải hạ cờ Quốc Gia của mình, và treo cờ xứ Hoa Kỳ trên cột buồm trước khi vào lãnh hải Phi Luật Tân, và phải giao quyền chỉ huy cho một vị Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ. Hạm Trưởng chiếc TDH/HQ Hoa Kỳ đã trao quyền chỉ huy cho Ông Đại Úy biệt phái cho chúng tôi nhận trách nhiệm đem các chiến hạm vào vịnh, và chỉ một mình Ông ấy mới có quyền lái tàu mà thôi. Đây chỉ là để tránh mọi sự rắc rối với chính phủ Phi Luật Tân. Trên thực tế thì các vị Hạm Trưởng của 3 chiến hạm có nhiệm vụ lái chiến hạm của mình vào vịnh Subic cho đến lúc thả neo ở trong vịnh. Ngoài ra các chiến hạm bắt buộc phải quăng hết tất cã vũ khí nhỏ cũng như lớn và tất cả đạn dược đang chở trên tàu xuống biển. Các loại đại bác to như 76 ly và 40 ly Bofors, nếu không gỡ nòng súng ra được, thì phải tháo cơ bẩm ra và quăng xuống biển. Đến khoản 01:30 giờ chiều tất cã 3 chiến hạm đều hoàn tất việc quăng bỏ súng ống và đạn dược xuống đáy biển. Lễ hạ Quốc Kỳ nền Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam bắt đầu sau đó. Nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ từ từ được kéo xuống mà lòng mình se thắt lại và nước mắt từ từ rơi xuống. Đau đớn thay cho Nước Việt Nam mến yêu đã lọt vào bàn tay của Cộng Sản vô thần. Sau đó Quốc Kỳ xứ Hoa Kỳ được treo lên cột buồm. Trong lúc các anh em thủy thủ trên tàu quăng bỏ súng ống và đạn dược xuống biển thì chiếc TDH của HQHK chạy chầm chậm phiá ngoài khơi không xa lắm chờ chúng tôi thi hành xong nhiệm vụ. Khi vị Đại Úy liên lạc viên báo cáo cho HT chiếc TDH/HQHK là thùng đạn chót đã được quăng xuống biển, chiếc TDH liền tăng máy và dẫn đầu đoàn tàu chúng tôi vào vịnh Subic. Vào vịnh Subic để đến điạ điểm neo không lâu lắm. Qua khỏi Grande Island chiếc TDH/HQHK tăng thêm vận tốc đi thẳng vào căn cứ HQHK tại vịnh nầy. Phần chúng tôi sau khi qua khỏi Grande Island phía bên hữu hạm chừng trăm thước, chúng tôi rẽ sang phải 90 độ đi đến điểm neo gần cầu cập trên đảo chừng vài trăm thước. Cũng nên nhắc lại Grande Island là trại tỵ nạn được dựng lên sau ngày 30 tháng tư để đón tiếp người dân từ Việt Nam sang Phi Luật Tân. Sau khi tàu thả neo xong, Th/Tá Nguyên cho giải tán nhiệm sở vận chuyển và tàu tắt máy. Th/Tá Nguyên và tôi chia tay và cám ơn Ông Đại Úy HQHK đã giúp chúng tôi trong hai ngày qua. Ông ấy chúc chúng tôi nhiều may mắn, và rời chúng tôi trở về chiếc TDH đang vận chuyển cập bến bên căn cứ HQHK trong vịnh Subic. Tôi nhìn sang Th/Tá Nguyên và bắt tay cám ơn Th/Tá Nguyên đã hết lòng lo cho gia đình chúng tôi đến trại tỵ nạn Phi Luật Tân một cách an toàn. Chúng tôi chưa từgiã nhau hẳn vì sẽ còn gặp nhau trên trại tỵ nạn. Lúc đó đúng là 3 giờ chiều ngày 18 tháng 5, năm 1975. Đoàn tàu chúng tôi rời An Thới với 4 chiến hạm và gần 3,000 ngườì. Chúng tôi tới Subic Bay với 3 chiếc tàu mà thôi và khoản gần 2,500 đồng bào tỵ nạn cộng thêm một em bé gái sanh trên chiếc HQ 330. Chúng tôi rất tiếc đã mất chiếc HQ 602 và số đồng bào quá giang trên đó ở giữa đường. Trách nhiệm lớn nhứt và nặng nề nhứt trong cuộc đời quân ngũ của tôi đến đây đã chấm dứt và theo đó luôn cả sự nghiệp của tôi trong Quân Chủng Hải Quân mà tôi đã phục vụ gần 20 năm. NGUYỄN VĂN THIỆN Nguồn: hq-tonthatphusi.centerblog.net/205-30-04-1975-BTL-HQ-V%C3%99NG-4-ZH-DI-T%E1%BA%A2N-V%E1%BB%9AI-3000-%C4%90%E1%BB%92NG-B%C3%80O
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:27:23 GMT 9
Sài Gòn những ngày cuối tháng Tư 75 – Ðinh Yên Thảo tổng hợp và trích dịch Posted on April 23, 2020 by dongsongcu Time Magazine (Ðinh Yên Thảo tổng hợp và trích dịch) Thoắt hiện đã 45 năm từ ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Trong khi ngày càng nhiều hồ sơ và sử liệu quý giá được công bố, những bài báo của các ký giả Mỹ và phương Tây được tường trình từ Sài Gòn hay các văn phòng Á Châu trong những ngày cuối cùng tháng 4 năm 1975 đã cung cấp thêm một số thông tin mang giá trị báo chí riêng biệt khi nhìn về lịch sử. Từ kho dữ liệu chiến tranh Việt Nam, chúng tôi đã tổng hợp và trích dịch một số bài báo đã được đăng liên tục trên các số báo đặc biệt của Time vào tháng 4 và tháng 5 năm 1975, riêng về những dàn xếp chính trị để dẫn đến cuộc thất thủ miền Nam VN và đưa đến làn sóng di tản 1975 ra sao. 1. Dàn xếp sau những tấm rèm nhung Trong bốn tiếng đồng hồ, đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin tại Nam Việt Nam đã nóng nảy, cố điện thoại cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng không được. Ngày hôm sau, ông lên chiếc limousine Cadillac đen trực chỉ thẳng đến Dinh Ðộc Lập, chỉ cách tòa đại sứ một khúc đường. Tổng thống bên trong, còn Martin thì mặt mày tỏ vẻ giận dữ. Trong vài tháng qua, ông đã là người sống chết binh vực tổng thống Thiệu. Còn bây giờ là một nhiệm vụ cay đắng khác, chuyển một thông điệp đã thỏa thuận với đại diện Bắc Việt tại Paris: Bắt đầu đêm Chủ Nhật, tổng thống Thiệu có đúng 48 tiếng đồng hồ để từ chức, hoặc Sài Gòn trở thành bình địa. Nước Mỹ cuối cùng đã phải chối bỏ người mà họ đã đặt cược trong chính sách Việt Nam. Và hệ lụy là, phải từ bỏ cả Nam Việt Nam. Ðối với Bắc Việt, sự ra đi của TT Thiệu là một chiến thắng to lớn của họ. Sau hơn hai thập niên can dự vào Việt Nam, tuần rồi tổng thống Gerald Ford đã tuyên bố rằng cuộc chiến đã chấm dứt. Một lực lượng lớn quân Cộng Sản đang bao vây mọi phía Sài Gòn và Sài Gòn chỉ còn cơ hội cuối cùng để tránh cuộc đổ máu. Theo yêu cầu từ Bắc Việt, các lực lượng quân sự Mỹ phải rời khỏi Việt Nam và một tân chính phủ VNCH mà họ chấp nhận, sẽ được thành lập để có thể thương thuyết một cuộc đầu hàng với quân CS. Hoặc giả họ sẽ tổng tấn công. Ước tính có khoảng 130 ngàn quân CS đang bao vây Sài Gòn và vẫn đang tiếp tục tăng viện, so với 60 ngàn binh lính VNCH bên trong. Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Lâm Thời Miền Nam VN đã đưa tuyên bố rõ ràng như vậy. TT Nguyễn Văn Thiệu đành tuyên bố từ chức vào ngày 21/4/1975. Trong diễn từ 90 phút đầy cay đắng. Ông lên án đích danh Ngoại trưởng Henry Kissinger và chính phủ Hoa Kỳ đã cắt viện trợ, phản bội lại lời hứa của mình, cũng như ám chỉ cả Quốc Hội và dân Mỹ. Nước mắt ràn rụa, ông tuyên bố cùng quốc dân rằng, “Tôi từ chức hôm nay. Xin đồng bào, các binh sĩ và quý vị các tôn giáo hãy tha thứ những lỗi lầm của tôi khi đương nhiệm. Tổ quốc và tôi sẽ luôn biết ơn quý vị.” Ngay sau đó, ông lên máy bay quân sự Mỹ sang Ðài Bắc, để rồi ông có thể sang lưu vong tại Anh hoặc Thụy Sĩ theo chọn lựa. Phó TT Trần Văn Hương, 71 tuổi lên nắm quyền tổng thống. Nhưng ngay lập tức, Bắc Việt tuyên bố không chấp nhận. Lại biến chuyển theo một tình thế mới. Liệu TT Hương cứ đương chức, bất chấp lời quân CS, vừa chuẩn bị tử thủ nếu cần, vừa có thể thương thuyết với Hà Nội? Nhưng rồi TT Trần Văn Hương nắm quyền chỉ đúng một tuần lễ. Để cuối cùng, Đại Tướng Dương Văn Minh, một Phật tử trung hòa và người cầm đầu cuộc đảo chính TT Ngô Ðình Diệm năm 1963, được đưa lên thay thế ông Trần Văn Hương vào ngày 28/4, thành lập một chính phủ trung lập với hy vọng có thể thương thảo với phía cộng quân để tìm một giải pháp tốt hơn. Nhưng cũng không xoay chuyển được tình thế. Quân cộng sản tấn công vào Sài Gòn rạng sáng 30/4. Và đến gần trưa xe tăng húc ngã cổng dinh Độc Lập. TT Dương Văn Minh được áp giải đến đài phát thanh Sài Gòn, nơi ông phát lịnh đầu hàng vô điều kiện và kêu gọi quân đội VNCH buông súng để tránh đổ máu. Nam Việt Nam đã bị bức tử và cuộc chiến Việt Nam chính thức kết thúc ngày 30/4/1975. 2 . Những cuộc di tản tháng Tư Lực lượng cảnh sát đặc biệt và an ninh phi trường chặn xét và vẫy tay cho qua những chiếc xe bus đen chở đầy người Mỹ và các thân nhân Việt Nam của họ, liên tục chạy vào phi trường Tân Sơn Nhất. Một cuộc di tản cho người Mỹ và các nhân viên VN đã được chính phủ Hoa Kỳ chuẩn bị. Cứ nửa tiếng đồng hồ, chiếc phi cơ C-141 Star-lifters và C-130 Hercules lại chở khoảng 100 người cất cánh, đưa sang căn cứ quân sự Clark của Mỹ tại Philippines hoặc chuyển tiếp sang đảo Guam. Nhiều người Mỹ, dân sự hay quân sự mang theo hàng chục người thân, nội ngoại, dâu rể người Việt Nam. Có người dắt đến 39 “người thân”. Những người VN có liên hệ với các người Mỹ này có thể là vợ, hôn thê hay nhân viên của họ. Và theo sau là gia đình, bà con của những người này. Thêm vào đó là những người là các nhân viên chính phủ VNCH nằm trong danh sách gặp nguy hiểm một khi quân CS chiếm Sài Gòn. Hàng ngàn người chen chúc trong rạp hát phi trường đã tháo bỏ ghế để điền đơn, khai các mối quan hệ để được cho di tản. Ðàn bà, con nít, hành lý ngổn ngang. Phía ngoài sân banh, hàng người dài đã được chấp nhận cho di tản đứng sắp hàng dài, đợi đến phiên mình lên máy bay; có người đợi cả 24 tiếng đồng hồ. Cuộc di tản được thực hiện khẩn cấp sau khi TT Thiệu từ chức và chính phủ Mỹ e rằng sẽ có một cuộc tấn công dữ dội xảy ra nếu các cuộc thương thuyết không thành. Phái bộ quân sự Hoa Kỳ DAO lẽ ra đã muốn thúc đẩy một kế hoạch di tản từ trước nhưng đại sứ Martin và thượng cấp của ông là Ngoại Trưởng Kissinger lại phản bác, vì sợ rằng làn sóng sợ hãi sẽ làm hoảng loạn cả Sài Gòn. Ðầu tháng 4, Sài Gòn còn lại khoảng hơn 7,500 người Mỹ. Nhưng kế hoạch di tản còn áp dụng cho cả các công dân nước ngoài, cùng khoảng 140 ngàn người Việt trong danh sách của chính phủ Mỹ cho rằng họ bị de doạ tính mạng và được chấp nhận cho di tản theo kế hoạch. Quốc hội Hoa Kỳ đã chuẩn chi 327 triệu đô la cho các kế hoạch di tản và trợ giúp các người tị nạn này. Bên ngoài là con số đông vô kể những người muốn tìm một cơ hội để được di tản. Một kế hoạch dự phòng “Giai đoạn Hai”, di tản bằng 60 chiếc trực thăng CH-46 và CH-53 từ Hạm Đội 7 còn được Ngũ Giác Ðài đặt ra một khi Tân Sơn Nhất bị khống chế dưới tầm pháo 130 ly hay hỏa tiễn SA-2 và SA-7 của cộng quân. Tất cả người Mỹ còn kẹt lại Sài Gòn đã được mật báo rằng, ám hiệu của chiến dịch “Phase Two” sẽ là bản tin dự báo thời tiết trên đài Mỹ cho hay Sài Gòn nóng “trên 105 độ” trên đài Mỹ, theo sau bản nhạc White Christmas được phát mỗi 15 phút; những người Mỹ còn kẹt lại phải đổ về 13 địa điểm “LZs” – landing zone, ám hiệu các địa điểm bốc người bằng trực thăng trên nóc các tòa cao ốc của người Mỹ tại trung tâm Sài Gòn. Chiến đấu cơ Mỹ sẽ bay sang từ Thái Lan để bắn hạ các hỏa tiễn SA-2 hay SA-7 của địch quân và hộ tống các trực thăng này ra biển. Phía bên ngoài, các nhân viên làm việc với nước ngoài cùng các viên chức chính phủ cũng tìm cách di tản. Thành phần trí thức và giới giàu có, các thương gia tìm mọi cách liên lạc các đầu mối quan hệ nước ngoài để được ra đi. Phía bên ngoài đại sứ quán Hoa Kỳ lúc nào cũng đông đúc người ăn bận lịch sự, xin các quân cảnh Mỹ được gặp người này người kia. Bưu điện Sài Gòn không dứt những hàng người liên tục điện tín cầu cứu khắp thế giới. Số điện tín tăng gấp bốn lần ngày thường, lên đến 20 ngàn bức điện được gởi ra từ lúc bưu điện mở cửa đến tận 8 giờ tối – giờ giới nghiêm. Các hãng Mỹ, ngân hàng hay các hãng thông tấn nước ngoài cũng đầy người chầu chực. Không chỉ người Việt, giới ngoại giao nước ngoài cũng ra Tân Sơn Nhất di tản khỏi Sài Gòn. Ðại sứ Anh, Ðức, Canada, Thái Lan, Nhật Bản… đều đồng loạt ra đi, chỉ còn nhân viên đại sứ quán Pháp và Bỉ là các quốc gia có giao hảo ngoại giao với Hà Nội còn ở lại. Không còn mấy chuyến bay ra vào Sài gòn vì các hãng hàng không thế giới đã hủy toàn bộ các chuyến bay thường lệ đến VN của mình. Tại đại sứ quán Mỹ, một người đàn ông đang được phỏng vấn, là giáo sư đại học và không ai khác hơn là cháu ruột của Phạm văn Ðồng, Thủ Tướng Bắc Việt. Nhân viên sứ quán hỏi “Bộ ông không tin vào chú mình hay sao?”. Ông ta chỉ trả lời ngắn gọn “Không”. Những người may mắn được chấp thuận di tản chính thức là những người nằm trong danh sách 140 ngàn người có thể bị nguy hiểm của Bộ ngoại giao Mỹ, nhưng không chắc họ sẽ được ra đi hết bằng phi cơ. Một kế hoạch di tản mạo hiểm khác được các viên chức Mỹ chịu trách nhiệm vạch ra là đi cả bằng đường thủy nếu không còn đủ thời gian, và có thể ngang qua họng súng của địch quân. Dân chúng các thành phố sắp hay đã bị thất thủ đổ dồn về Sài Gòn. Sự hoảng loạn châm ngòi cho sự hoảng loạn. Và người dân Nam Việt Nam có lý do để hoảng loạn. Năm 1954, sau khi hàng triệu người di cư vào Nam, phong trào cải cách ruộng đất và đấu tố tại miền Bắc đã sát hại hàng vạn người, một con số ước tính dè dặt. Tết Mậu Thân 1968, sau khi chiếm đóng Huế, Cộng quân đã có một danh sách dài những người cần bị thủ tiêu; hàng ngàn thường dân vô tội đã bị sát hại tập thể. Chọn lựa cuối cùng với nhiều người Việt là di tản. Những ngọn đèn cuối cùng rồi đã tắt. ĐYT dịch Nguồn: Time Magazine Archivehttps://baotreonline.com/van-hoc/kien-thuc/sai-gon-nhung-ngay-cuoi-thang-tu-75.baotre
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:29:41 GMT 9
Trận đánh Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, hay là ‘chiến công trên giấy… báo?’Posted on April 9, 2020 by dongsongcu Huy Phương live.staticflickr.com/8446/29813219115_62688eb181_b.jpg Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH trước năm 1975. (Hình: Manhhai) Ðại Tá VNCH Chu Văn Hồ, nguyên chỉ huy trưởng Trung Tâm Ðiện Toán Nhân Viên, Phòng Tổng Quản Trị, Bộ TTM-QLVNCH, hiện cư ngụ tại New Jersey là sĩ quan cao cấp duy nhất có mặt tại Bộ TTM-VNCH vào trưa ngày 30 Tháng Tư, 1975. Ông được Bảy Vĩnh, đại diện quân Bắc Việt, vào tiếp thu Bộ TTM, cấp cho tờ giấy giới thiệu, “tạm thời có nhiệm vụ bảo quản của công!” trong khi chờ đợi các lực lượng Việt Cộng vào. Theo lời Ðại Tá Hồ, sáng hôm đó, sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì Bộ TTM là một ngôi nhà không chủ, bỏ trống, không còn binh sĩ, chỉ có một số đơn vị trưởng ở lại để “chờ bàn giao” theo lệnh. Vào khoảng 10 giờ 30 sáng, có một cán bộ Bắc Việt tên Bảy Vĩnh (trên giấy tờ ghi là Quân Ðoàn Trưởng QÐ 2 giải phóng thủ đô) đi trên xe Jeep do một tài xế tên Suốt (phục vụ tại Phòng 7 Bộ TTM làm nội tuyến) đến gặp Ðại Tá Chu Văn Hồ ở Trung Tâm Ðiện Toán Nhân Viên, mượn thang lên treo cờ ở tòa nhà chính, rồi ra về, đến tối mới dẫn một toán quân đi từ cổng số 1 vào. Khi đó, quân phòng thủ Bộ TTM không còn ai nữa. Bảy Vĩnh đóng quân tại Trung Tâm Ðiện Toán của Ðại Tá Chu Văn Hồ, mấy ngày sau mới bàn giao cho chuyên viên ở Bắc Việt vào. Theo một bài báo của Tướng Cộng Sản Trần Văn Trà đăng trên tạp chí Ngày Nay, số đề ngày 1 Tháng Năm, 1990, xác nhận người vào Bộ TTM đi bằng xe Jeep, gặp Ðại Tá Hồ, sau đó lên tòa nhà chính cắm cờ với sự trợ giúp của một hạ sĩ là nội tuyến! Không một tiếng súng! Chấm hết! Nhưng theo sách vở và sự tuyên truyền của Bắc Việt, 55 ngày đêm chiến đấu của Việt Cộng là thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, vũ bão, sáng tạo, và ca tụng kiểu Võ Nguyên Giáp: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng!” Nếu với chỉ một chiếc xe Jeep, chiến lợi phẩm lượm dọc đường và một tên lính nằm vùng, Bảy Vĩnh vào Bộ TTM-QLVNCH treo cờ mà không cần bắn một phát súng, đổ một giọt máu, thì trận đánh chiếm miền Nam có còn chi là hào hùng, vũ bão! Ðể lừa bịp hậu sinh và dân chúng miền Bắc, 10 năm sau, trận chiến này được vẽ lại trên mặt báo: Trong cuốn “Tự Ðiển Bách Khoa Quân Sử” của Bộ Quốc Phòng CSVN xuất bản năm 2004 tại Hà Nội, do hơn 100 tướng lãnh và hơn 1,000 đại tá viết, trong trang 1023, trong bài “Trận Bộ Tổng Tham Mưu,” đã viết ra những dòng trên giấy, vẽ ra một trận tiến công tưởng tượng như sau: “Lực lượng địch tại Bộ TTM khoảng 4,400 quân (gồm cơ quan văn phòng, 1 tiểu đoàn tổng hành dinh, 1 tiểu đoàn truyền tin, 1 đại đội quân cảnh, 1 chi đoàn xe tăng thiết giáp, 2 đại đội pháo và súng cối…) Ngoài ra, còn có lực lượng bảo vệ vòng ngoài của hệ thống phòng thủ Sài Gòn. Với sức mạnh áp đảo, sáng 30 Tháng Tư, ta tiếp tục tiến công tiêu diệt các ổ đề kháng và lực lượng phản kích của địch, hình thành nhiều mũi đột phá cổng chính và cổng 1, 2, 3, đồng loạt đánh chiếm các mục tiêu trong Bộ TTM, làm chủ và kết thúc trận đánh lúc 11 giờ 30 phút. Kết quả diệt, bắt và làm tan rã toàn bộ quân địch: -Thu và phá hủy gần 200 xe quân sự (phần lớn là xe tăng và xe bọc thép), -Sáu khẩu pháo, -Bắn cháy hai máy bay trực thăng, -Thu hơn 3,500 súng bộ binh và nhiều tài liệu quan trọng…” Trong “Những trận đánh làm nên lịch sử” do nhà xuất bản Quân Ðội Nhân Dân, Hà Nội, xuất bản, bài “Ðánh chiếm Bộ Tổng Tham Mưu:” “Ðến cổng số 3, Ðại Ðội 6 gặp địch ngăn chặn, súng máy, súng tiểu liên của chúng quét như vãi đạn từ các ô cửa xuống mặt đường, năm chiến sĩ của ta bị thương nặng phải đưa về phía sau. Phải chia cắt để tiêu diệt địch ta mới có thể vào sâu bên trong, chính trị viên Trần Hạng trao đổi với đại đội phó Nguyễn Ðức Dương và lập tức Ðại Ðội 6 tách thành hai mũi. Chính trị viên Hạng chỉ huy mũi thứ nhất vượt qua làn đạn, nhằm hướng Bộ Tổng Tham Mưu tiến vào. Mũi thứ hai do đại đội phó Dương chỉ huy sử dụng M48 bao vây địch ở khu tiếp liệu, tới tấp nã đạn về phía quân ngụy. Chỉ 10 phút sau, tiếng súng địch im bặt. “Ở ngoài cổng số 6, Ðại Ðội 5 cùng Trung Ðội 2, Ðại Ðội 7 dùng pháo cối chế áp cùng hai chiếc K63, bốn chiếc M48, đột kích thẳng vào khu nhà hai tầng. Nhưng bọn địch đã lập tức di chuyển về phía sân vận động và bắn như điên cuồng về phía quân giải phóng. “Lúc này, binh lính địch quăng súng, lột áo chạy tháo thân, tiểu đoàn biệt kích dù, tiểu đoàn bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu tan rã nhanh chóng. “Chỉ một lát sau, lá cờ giải phóng đã tung bay tên nóc nhà Bộ Tổng Tham Mưu ngụy, trong tiếng reo hò của quân ta và nhân dân vùng phụ cận !!!” Thông Tấn Xã Việt Nam, Tháng Tư, 2015, có bài “Cắm cờ trên nóc Bộ Tổng Tham Mưu:” “Qua 40 năm nhưng ông Ðông vẫn nhớ như in từng chi tiết với nỗi niềm tự hào của người lính cụ Hồ. Ông kể vào khoảng 11 giờ kém 20 ngày 30 Tháng Tư, 1975 theo đường Trần Xuân Soạn tiến về đường Hàm Nghi, Tiểu Ðoàn 2 đánh thẳng vào cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu ngụy quyền Sài Gòn. Lúc này cuộc chiến đấu vô cùng ác, Tiểu Ðoàn 2 không thể thọc sâu tấn công được. “Theo lệnh của chỉ huy trưởng Thiều Quang Nông xe bọc thép tiến vào cổng số 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Hai lô cốt bị tiêu diệt, thừa thắng xe bọc thép húc tung cánh cửa Bộ Tổng Tham Mưu tiến vào nội tâm. Lúc này xe tăng của ta và quân giải phóng đồng thời tiến vào đánh chiếm các mục tiêu quan trọng của giặc. Ông Ðông hồi tưởng lại. “Trong đó, xe bọc thép chờ đội trinh sát của ông Ðông lao thẳng vào tòa nhà ba tầng cao nhất. Ông Ðông nhẩy xuống trước, các đồng đội theo sau hỗ trợ. Phía trong nhà Bộ Tổng Tham Mưu còn rất nhiều giặc. Nhanh trí, ông Ðông đã khống chế một tên địch và bắt dẫn lên lối gần nhất nóc nhà ba tầng. “Sau khi cả đội lên đủ năm người,mỗi người một nhiệm vụ, phối hợp nhanh chóng cắm được lá cờ của lực lượng giải phóng. Ông Ðông mở ba lô lấy cờ, ông Lại Ðức Lưu tung cờ, ông Ðỗ Xuân Hương lồng cờ vào cán.” Từ câu chuyện ông Bảy Vĩnh với sự trợ giúp của một anh lính nằm vùng trong Bộ TTM, mượn thang treo cờ, biến thành câu chuyện có đến ba anh chàng trong “toán treo cờ,” anh mở ba lô lấy cờ, một anh tung cờ, một anh lồng cờ vào cán, thật là rắc rối! Ngoài ra, còn nhiều báo và phim bịa đặt nói về trận đánh Bộ TTM và cắm cờ ngày 30 Tháng Tư, 1975, trong phim có nhiều anh bộ đội chạy lúp xúp, nấp sau gốc cây, nhưng lúc quay phim thì toàn bộ các tòa nhà Bộ TTM đã sơn màu khác rồi! Trận đánh vào Bộ TTM, lúc thì Cộng Sản cho là do công của Trung Ðoàn 48, khi thì nói là của Biệt Ðộng Sài Gòn. Phỏng vấn những nhân vật tưởng tượng không tham gia gì trận đánh như Ðại Tá Nguyễn Văn Tàu và Ðại Úy Lương Hoài Nam, và những nhân vật tự nhận là người cắm cờ đầu tiên ngày 30 Tháng Tư, 1975 ở Bộ TTM. Ðể tìm hiểu sự thật của lịch sử, xin đọc “Lược Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,” xuất bản năm 2011 (trang 849-854) của các tác giả Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, và Lê Ðình Thụy, đã in thủ bút của Bảy Vĩnh khi vào gặp Ðại Tá Chu Văn Hồ, chứng nhận Ðại Tá Hồ “đã bàn giao cho cách mạng.” Không có đơn vị Cộng Sản nào đánh chiếm Bộ TTM ngày 30 Tháng Tư, 1975, thì làm gì có việc Bắc Việt đã tiến công bắn hạ hai trực thăng, phá hai khẩu pháo, hàng trăm xe bọc thép, và tịch thu hàng nhìn khẩu súng. Ðây là những chiến công tưởng tượng chỉ có trên mặt giấy… báo. Nhất là đoạn văn “cờ được treo trong tiếng reo hò của quân ta và nhân dân vùng phụ cận!” thì quả là phét lác quá sức. Lúc đó có một mình ông Bảy Vĩnh thì “quân ta” ở đâu mà reo, và trong khu vực Bộ TTM rộng lớn ở xa phố xá thì lấy đâu ra dân mà hò? Cuối cùng thì vẫn là: “Ðừng nghe những gì Cộng Sản nói…” Bệnh mãn tính Cộng Sản là sự dối trá. Viết sử giả tạo không đúng sự thật, cũng giống như người làm chứng gian, để cho đời sau rơi vào sự lầm lạc. “Chủ nghĩa Cộng Sản và sự dối trá là một; và để chúng ta thấy rằng dối trá là hiện tượng thuộc về bản chất của các xã hội Cộng Sản trên toàn thế giới.” (Bauxit online). Nguồn: www.nguoi-viet.com/nhin-tu-little-saigon/tap-ghi-huy-phuong-tran-danh-bo-ttm-qlvnch-hay-la-chien-cong-tren-giay-bao/
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:37:06 GMT 9
Tưởng Niệm 30 Tháng Tư: Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH Những Ngày Cuối CùngPosted on April 23, 2020 by dongsongcu Vương Hồng Anh Tưởng Niệm 30 Tháng Tư: Quân đội VNCH anh hùng. Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “Ngày 30-4-1975″, VB trân trọng giới thiệu bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra trong những ngày cuối tháng 4/1975. Bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo. *Đại tướng Cao Văn Viên, những giờ cuối cùng tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH Theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong Việt Nam Nhân Chứng, trước lễ bàn giao chức vụ Tổng thống VNCH diễn ra vào buổi chiều 28/4/1975, thì vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn đã đến văn phòng Tổng tham mưu trưởng như thường lệ gặp Đại tướng Cao Văn Viên để theo dõi tình hình quân sự. (Theo tài liệu ghi trong Quân sử VNCH, vào năm 1955, ông Trần Văn Đôn là Thiếu tướng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu, ông Cao Văn Viên là Thiếu tá, giữ chức vụ Trưởng phòng 4 Bộ Tổng Tham mưu). Trong cuộc gặp nói trên, Đại tướng Cao Văn Viên nhắc với Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn rằng Tổng thống Trần Văn Hương đã ký sắc lệnh cho ông nghỉ, do đó, ông yêu cầu cựu Trung tướng Đôn với chức danh là Tổng trưởng Quốc phòng, cử người thay thế. Ngay lúc đó, có điện thoại của ông Dương Văn Minh gọi cho Phó thủ tướng Trần Văn Đôn, dặn ông cố gắng giữ Đại tướng Viên ở lại chức vụ Tổng Tham mưu trưởng, đừng cho Đại tướng Viên đi. Trước sự việc như thế, Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn không biết xử sự làm sao vì Tướng Viên đã được Tổng thống Trần Văn Hương cho nghỉ ( sắc lệnh này được Tổng thống Trần Văn Hương công bố vào chiều ngày 28/4/1975). Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn hỏi Đại tướng Cao Văn Viên: -Nếu anh đi, thì theo anh ai sẽ thay thế được” Đại tướng Cao Văn Viên không trả lời thẳng mà hỏi lại cựu Trung tướng Trần Văn Đôn: -Anh sẽ làm gì ” Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn trả lời: -Tôi cũng chưa quyết định. Mấy ngày trước ông Minh và ông Mẫu muốn tôi tiếp tục giữ ghế Tổng trưởng Quốc phòng nhưng tôi chưa trả lời, nay ông Minh cho tôi biết Hà Nội không muốn có người nào trong nội các cũ ở lại trong nội các mới.” Về lại văn phòng, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn nhận được điện thoại của ông Dương Văn Minh hủy bỏ sắc lệnh mà Tổng thống Trần Văn Hương đã ký cho phép Đại tướng Cao Văn Viên nghỉ dài hạn không lương, nhưng sắc lệnh đó Tổng thống Trần Văn Hương đã ký trước khi bàn giao chức vụ Tổng thống. *Chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH vào những ngày cuối tháng 4 Về chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4/1975, và sau cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không còn thiết tha với chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, trong khi đó, tân Tổng Thống Trần Văn Hương lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên làm Tổng tư lệnh Quân đội với đầy đủ quyền hạn, so với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng mà Đại tướng Viên đã nắm giữ từ tháng 10/1965. Thế nhưng, như đã trình bày ở phần trên, Đại tướng Cao Văn Viên đã trình xin Tổng Thống Trần Văn Hương cho ông được giải nhiệm. Tổng thống Trần Văn Hương không đồng ý và yêu cầu Đại tướng Viên tiếp tục giữ chức vụ. Chỉ đến khi Tổng Thống Trần Hương trao quyền cho ông Dương Văn Minh thì Đại tướng Cao Văn Viên mới nhận được quyết định giải nhiệm. Kể lại chuyện này, Đại tướng Cao Văn Viên ghi trong hồi ký như sau: “Trước khi Tổng Thống Hương bước xuống, Tổng Thống đưa ra một sắc lệnh giải nhiệm tôi khỏi chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Đến khi tân Tổng Thống (cựu Đại tướng Dương Văn Minh) muốn chọn người thay thế tôi, tôi đề nghị Tướng Đồng Văn Khuyên, lúc ấy đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận”. * Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, những giờ cuối cùng Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Cao Văn Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởngphòng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận rời Bộ Tổng Tham mưu từ trưa ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô vào cuối tháng 3/1975, cũng đã ra đi. ( Giữa năm 1968, Tướng Nguyễn Văn Minh đã giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô lần thứ 1; đến năm 1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 thay thế Trung tướng Đỗ Cao Trí tử nạn; từ tháng 11/1973 đến tháng 3/1975, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, Tổng thanh tra Quân đội). Trước tình trạng nhiều vị tướng lãnh đã “từ nhiệm”, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ giúp Tướng Lâm Văn Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cục trưởng Tiếp vận. Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm”. Về tình hình chiến sự, từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân… đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn. Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi Bộ Tổng Tham mưu, thì vào 10 giờ 15 phút (theo ghi nhận của cựu đại tá Phạm Bá Hoa, nguyên Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp Vận, có mặt tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô sáng 30/4/1975 và nghe đài Sài Gòn vào giờ phút đó), Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Nhảy Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Nhảy Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh Bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai. Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai” Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời: Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống. Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó” Thiếu tá Tài trình bày: “Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định. Tướng Minh trả lời: “Các em chuẩn bị bàn giao đi!”, Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: “Bàn giao là như thế nào thưa đại tướng, có phải là đầu hàng không”” Tướng Minh đáp: “Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập”. Nghe Tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: “Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống”. Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp: “Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu.” Tướng Minh trả lời: “Tùy các anh em”. Theo lời Thiếu tài Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã gặp Trung tá Võ Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài: Lúc đó, moa đứng cạnh Tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống.Thiếu tá Tài giải thích: Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy quân đội. Nguồn: vietbao.com/a100761/tuong-niem-30-thang-tu-bo-tong-tham-muu-qlvnch-nhung-ngay-cuoi-cung*************************************************** Vòng Đai Sài Gòn, Trận Chiến Những Ngày Cuối Tháng 4-75Posted on April 20, 2020 by dongsongcu Vương Hồng Anh Tưởng Niệm 30 Tháng 4 Năm 1975: Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “30 tháng 4-1975”, ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, Việt Báo trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài tổng hợp lược trình một số sự kiện về tình hình chiến sự quanh vòng đai Sài Gòn và thực trạng chính trị Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày cuối của cuộc chiến. Bài tổng hợp được biên soạn dựa theo các tài liệu: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên, cựu Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn, tài liệu chiến sử VN của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, hồi ký của cựu Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh Mặt trận Bà Rịa-Vũng Tàu, một số bài viết phổ biến trên các đặc san của các hội cựu chiến binh QL.VNCH, tài liệu riêng của Việt Báo. * Toàn cảnh về tình hình chiến sự tại miền Đông Nam phần từ 24-4 đến 27-4-1975. Từ ngày 24-4-1975, tình hình chiến sự tại vùng trách nhiệm của Quân đoàn 3 ngày càng sôi động kể từ khi Sư đoàn 18 Bộ binh, lực lượng Nhảy Dù, các binh đoàn tăng phái triệt thoái khỏi Xuân Lộc. Trước những diễn biến dồn dập, sáng ngày 26 tháng 4/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để bàn kế hoạch tái phối trí lực lượng tại Quân khu 3 và khu vực quanh Sài Gòn. Theo đó, cụm tuyến phòng ngự sẽ gồm có: tuyến vòng đai Thủ đô, tuyến Trảng Bom-Long Thành-Phước Tuy. Trong khi cuộc họp hành quân đang diễn ra tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn, thì tin tức tình báo ghi nhận Cộng quân đang tung quân cố cắt đứt trục giao thông Sài Gòn-Vũng Tàu ở đoạn Long Thành, cùng lúc đó, thông tin thám sát của các toán tình báo kỹ thuật cũng ghi nhận một đơn vị Pháo của Cộng quân đã di chuyển về hướng Bà Rịa. Tại tỉnh Phước Tuy, từ ngày 24 tháng 4/1975, phòng tuyến Bà Rịa (tỉnh lỵ) do Sư đoàn 3 Bộ binh, Lữ đoàn 1 Dù và chi đoàn 2/15 Thiết vận xa đảm trách. Quân số Sư đoàn 3 Bộ binh chỉ còn hơn 1 ngàn kể cả thành phần quân nhân tập hợp từ Sư đoàn 1 Bộ binh nhập lại. Với chừng ấy quân số, chỉ đủ để thành lập 2 tiểu đoàn, 1 tiểu đoàn cho trung đoàn 2 và 1 tiểu đoàn cho trung đoàn 56. Về lực lượng 3 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 Dù, quân số của mỗi tiểu đoàn chỉ còn khoảng từ 357 đến hơn 400 quân sĩ. Nếu tính cả các đơn vị Địa Phương Quân, quân số phòng thủ vòng thủ chưa đến 3 ngàn quân, chưa bằng quân số của 2 trung đoàn, trong khi đó tại khu vực này đã có 2 sư đoàn Cộng quân, 1 trung đoàn pháo và 1 lữ đoàn thiết giáp. Theo phân nhiệm, Lữ đoàn 1 Dù chịu trách nhiệm trấn giữ vòng đai ngoài của thị xã Bà Rịa (tỉnh lỵ tỉnh Phước Tuy) và Quốc lộ 15. Sư đoàn 3 Bộ binh phụ trách một số khu vực gần Bà Rịa. Bộ Chỉ huy Hành quân của Sư đoàn 3 Bộ binh đóng trong Bộ Chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy. Các đơn vị của Sư đoàn 3 Bộ binh có đủ súng cá nhân cho binh sĩ nhưng thiếu súng cộng đồng, máy truyền tin và thiếu cả sự yểm trợ của Pháo binh. Khi còn hoạt động tại chiến trường Quảng Nam (Quân khu 1), cũng như các sư đoàn Bộ binh khác, Sư đoàn 3 BB có 3 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly và 1 tiểu đoàn Pháo binh 155 ly (mỗi tiểu đoàn có khoảng 18 khẩu đại bác). Sau hai ngày tạm im tiếng súng, vào 6 giờ chiều ngày 26/4/1975, mặt trận Phước Tuy bắt đầu sôi động trở lại. Cộng quân pháo kích vào thị xã Bà Rịa, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy, tư dinh tỉnh trưởng, Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp. Trận mưa pháo kích kéo dài 3 tiếng. Toàn bộ hệ thống điện trong thị xã Bà Rịa đều bị hư hại. Khoảng 10 giờ đêm, Cộng quân tổ chức tấn công theo 3 mũi vào tỉnh lỵ, 2 mũi do bộ binh và thiết giáp CSBV phối hợp đánh vào Trung tâm Tiếp vận Tiểu khu và Tư dinh Tỉnh trưởng, 1 mũi vào khu vực dọc theo xa lộ mới ở phía Nam thị xã Bà Rịa. Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh kiêm Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa, điều động 1 tiểu đoàn Dù và đặt đơn vị này thuộc quyền chỉ huy của Đại tá Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Phước Tuy để tổ chức các cuộc phản công đánh đuổi Cộng quân ra khỏi trung tâm thị xã. Tiểu đoàn Dù đã bắn cháy 5 chiến xa Cộng quân ngay trong đêm 26/4/1975. Rạng sáng ngày 27/4/1975, lực lượng Nhảy Dù đã quét Cộng quân ra khỏi tỉnh lỵ. Để ngăn chận các đợt tấn công kế tiếp của Cộng quân, Bộ chỉ huy Lữ đoàn 1 Dù tăng thêm quân phòng thủ bên ngoài thị xã. Khoảng 8 giờ sáng, Cộng quân điều động hai trung đoàn bộ binh và khoảng 30 chiến xa từ hai hướng mở đợt tấn công thứ hai vào thị xã Bà Rịa. Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đã chống trả quyết liệt và cả bên đều bị thiệt hại nặng. Theo hồi ký của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh mặt trận Bà Rịa, vào 2 giờ chiều ngày 27/4/1975, Lữ đoàn 1 Dù được lệnh rút khỏi Bà Rịa và về phòng thủ tuyến Cỏ May (nằm trên đường Bà Rịa-Vũng Tàu). Cùng trong buổi chiều ngày 27/4/1975, một đơn vị Công binh Thủy quân Lục chiến được điều động đến để giật sập cầu Cỏ May hầu ngăn chận Cộng quân tràn qua. Tại Long Thành, tối 26 tháng 4/1975, Cộng quân tấn công vào trường Thiết Giáp, chiếm quận lỵ Long Thành và cắt đứt Quốc lộ 15 nối liền Vũng Tàu và Sài Gòn. Cũng trong ngày 26 tháng 4/1975, một tiểu đoàn đặc công Cộng quân đánh chiếm cầu xe lửa về hướng Tây Nam thành phố Biên Hòa trong khi đại bác của các đơn vị pháo binh Cộng quân bắn phá vào căn cứ Không quân Biên Hòa. Ngày 27 và 28/4/1975, Cộng quân tiếp tục pháo kích vào các vị trí của quân trú phòng tại Long Thành và khu vực phụ cận. Cũng trong hai ngày 26 và 27/4/1975, Cộng quân điều động bộ binh và thiết giáp tiến đến gần liên tỉnh lộ 25 và nhắm quận lỵ Nhơn Trạch, một đơn vị CSBV đánh chiếm các đồn Địa phương quân và Nghĩa quân dọc trên đường tiến quân. Tại Trảng Bom do một đơn vị của Sư đoàn 18BB phụ trách đã bị Cộng quân pháo liên tục trong các ngày 26, 27: Tại vòng đai Sài Gòn, tuyến phòng thủ của Quân lực VNCH đã phải co cụm lại: vùng Tây Bắc còn lại tỉnh Biên Hòa, phía Đông còn Long Thành, phía Bắc còn Lai Khê, phía Đông Nam còn Hóc Môn. Trong đêm 26 tháng 4/1975, Cộng quân đồng loạt tấn công khu Tân Cảng, cầu Biên Hòa và đài phát tuyến Phú Lâm. Một tiểu đoàn Dù đang bảo vệ dinh Độc Lập đã được điều động đến Tân Cảng và nhanh chóng quét sạch địch quân khỏi khu vực này. Tại Củ Chi, sau khi triệt thoái từ Tây Ninh, lực lượng bộ chiến Sư đoàn 25 Bộ binh đã cố gắng lập tuyến chận địch tại Củ Chi. Tại vòng đai Sài Gòn, Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã tổng điều động toàn bộ lực lượng cơ hữu và tăng phái để lập các cụm điểm chận địch tại các yết hầu trọng yếu vào Sài Gòn. Sáng ngày 27 tháng 4/1975, tình hình Thủ đô Sài Gòn đã trở nên sôi động khi Cộng quân bắt đầu pháo kích vào vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất, tiếp đó một đơn vị đặc công CSBV đã tấn công cầu xa lộ Tân Cảng và cầu xa lộ Biên Hòa. Lực lượng xung kích của Biệt khu Thủ đô đã được điều động khẩn cấp để giải tỏa áp lực địch. Đến chiều ngày 27/4/1975, lực lượng tiếp ứng VNCH đã giải tỏa áp lực địch tại các khu vực này, Cộng quân phải rút lui sau khi bị tổn thất nặng. Tại Bình Dương, liên tiếp trong các ngày 26 và 27/4/1975, Cộng quân tấn công mạnh vào phòng tuyến của một trung đoàn thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh gần quận lỵ Phú Giáo, 2 phi cơ phản lực của Không quân VNCH luân phiên thực hiện các đợt oanh tạc vào những vị trí tập trung của Cộng quân để ngăn cản sức tiến quân của địch. Trong nỗ lực chận đứng các cuộc tấn công của đối phương vào căn cứ Lai Khê, bản doanh của bộ Tư lệnh và một số đơn vị của Sư đoàn 5 BB, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn, đã cho lập các cụm điểm án ngữ quanh vòng đai căn cứ này. Cũng cần ghi nhận rằng từ khi quận Chơn Thành bị bỏ ngõ vào giữa tháng 4/1975, căn cứ Chơn Thành trở thành tiền đồn của tỉnh Bình Dương. Trong một chuyến thị sát tình hình chiến trường, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3, đã khuyên Tướng Vỹ nên di chuyển Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB ở Lai Khê về Phú Lợi, chỉ nên để lại 1 trung đoàn phòng ngự căn cứ. Tuy nhiên đã không đồng ý. Ông nói với tướng Toàn: Nếu bộ Tư lệnh Sư đoàn di chuyển về Phú Lợi, anh em binh sĩ sẽ nói mình là “di tản chiến thuật”…Tôi quyết ở lại sống chết với căn cứ này… Nguồn: vietbao.com/a92096/tuong-niem-30-thang-4-nam-1975-vong-dai-sai-gon-tran-chien-nhung-ngay-cuoi-thang-4-75
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:39:54 GMT 9
Sự Yểm Trợ Cuối Cùng Của Hoa Kỳ Cho Quân Lực VNCHPosted on March 13, 2020 by dongsongcu Đại Tướng Cao Văn Viên Kể Lại Chiến Sự 1975: * Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, đến Sài Gòn quan sát tình hình chiến sự Ngày 26 tháng 3/1975, sau khi lực lượng VNCH triệt thoái khỏi Kontum, Pleiku, Phú Bổn (Quân khu 2), các sư đoàn chủ lực của CSBV gây áp lực nặng quanh vòng đai Đà Nẵng, các quận phía Tây tỉnh Quảng Nam, và các tỉnh duyên hải của Quân khu 2 (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa). Cũng trong ngày này, chính phủ Hoa Kỳ đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV). Trước khi Đại tướng Weyand đến Việt Nam, vào cuối tháng 2/1975, ông Eric Von Marbod, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, đã đến Việt Nam. Lúc đó, CSBV chưa khởi động cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột. Trong thời gian viếng thăm VN, ông Marbod đã gặp và trao đổi ý kiến với Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, về tình hình chiến sự. Trong cuộc tiếp xúc với vị Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Đại tướng Cao Văn Viên đã yêu cầu Bộ Quốc phòng Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào mà Không quân Việt Nam có thể sử dụng được. Đó là loại bom 15 ngàn cân Anh có tên là bom bạch cúc (Daisy Cutter) mà Không quân Hoa Kỳ thường dùng thả bằng phi cơ C-130 để khai quang dọn bãi đáp trong các khu vực rừng già. Thế nhưng, gần đến cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp ứng yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm của Đại tướng Weyand. Như VB đã trình bày trong bài tổng lược về hoạt động của Không quân VNCH vào giai đoạn cuối cuộc chiến, 27 quả bom này được dự trù vận chuyển đến VN cùng với chuyên viên Hoa Kỳ trong vòng một tuần. Vào giữa tháng 4/1975, ba trái chuyển đến trước và sau đó ba trái nữa chuyển đến chỉ hai ngày trước khi cuộc chiến kết thúc. Một chuyên viên Mỹ đi theo chuyến này để hướng dẫn cho chuyên viên VN cách gắn ngòi nổ và cách gắn bom lên phi cơ. Thế nhưng chuyên viên Mỹ này không đến kịp. Trước tình hình khẩn cấp và vì mức độ nguy hiểm nếu tồn trữ thứ bom này tại Tân Sơn Nhất hay tại Long Bình nên Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư lệnh Không quân VNCH phải chọn một phi công kinh nghiệm để bay thả thử trái đầu tiên. Trở lại với cuộc viếng thăm của Đại tướng Weyand, theo lời của Đại tướng Cao Văn Viên trình bày trong cuốn hồi ký do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ xuất bản (dịch giả Duy Nguyên chuyển sang Việt ngữ và đồng ý cho VB sử dụng để biên soạn các bài tổng hợp về cuộc chiến VN), diễn tiến các cuộc tiếp xúc của vị Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ với các nhà lãnh đạo VNCH được ghi nhận như sau. * Các cuộc tiếp xúc giữa Đại tướng Weyand và Đại tướng Viên Trong thời gian Đại tướng Weyand thăm Việt Nam, Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã không có buổi thuyết trình chính thức nào dành cho Đaị tướng Weyand, nhưng giữa Đại tướng Weyand và Đại tướng Viên đã có những cuộc tiếp xúc bàn luận về tình hình và trao đổi ý kiến về tình hình chiến cuộc. Trong các lần tiếp xúc, Đại tướng Cao Văn Viên đã cho Đại tướng Weyand biết những khó khăn mà Quân lực VNCH đang gặp phải và chỉ yêu cầu một điều duy nhất: Xin Không quân Hoa Kỳ sử dụng B-52 để đánh vào những nơi tập trung quân và các căn cứ lộ thiên mà Cộng quân vừa thiết lập. Tướng Viên nói rằng nếu có được B-52 thì sự tự tin và tinh thần chiến đấu của quân sĩ sẽ được phục hồi nhanh chóng. Trước yêu cầu của Đaị tướng Cao Văn Viên, tướng Weyand giải thích cho vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH biết là “bất cứ hình thức can thiệp mới nào của Mỹ tại Việt Mam cũng đều phải được sự chấp thuận của Quốc hội Hoa Kỳ”, do đó yêu cầu của Đại tướng Cao Văn Viên rất ít hy vọng được chấp thuận. * Cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Weyand: Phái đoàn của Đại tướng Weyand sau đó cùng với Đại sứ Hoa Kỳ đến thăm chính thức Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập. Trong khi trao đổi ý kiến với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, phái đoàn Hoa Kỳ đưa ra các điểm chính sau đây: -Chính phủ VNCH nên giải thích cho dân chúng biết tình hình để người dân không còn lo sợ bởi những tin đồn thất thiệt do địch cố tình tung ra. Các nhà lãnh đạo VNCH nên xuất hiện nhiều hơn trên truyền hình cho dân chúng biết mặt. -Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH cần được trao thêm nhiều quyền hạn hơn trước. -Quân lực VNCH nên tìm một chiến thắng, dù thật nhỏ, để tạo điều kiện cho Chính phủ Hoa Kỳ xin Quốc hội duyệt thêm 300 triệu đô quân viện bổ sung. Theo nhận xét của Đại tướng Weyand, Sư đoàn 5 CSBV tại vùng Mũi Két là một mục tiêu tốt để Quân lực VNCH tạo một chiến thắng “thật ngoạn mục”. -Vấn đề di tản dân tị nạn nên được giải quyết sớm. Nhất là phải chú tâm đến các thân nhân gia đình binh sĩ. Thành phần này cần sớm được đưa ra khỏi vùng nào có nguy cơ sẽ xảy ra chiến trận. Tất cả những vấn đề liên quan chính phủ và dân chúng đều được thảo luận giữa Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn Hoa Kỳ. Theo lời kể của Đaị tướng Cao Văn Viên, vấn đề cho Bộ Tổng tham mưu có thêm quyền hạn không được bàn đến nữa vì đây là một vấn đề rất tế nhị và chỉ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mới làm được điều đó nếu ông muốn. Về đề nghị Quân lực VNCH phải tạo một chiến thắng, Đại tướng Cao Văn Viên hoàn toàn đồng ý nhưng ông nhận định rằng muốn làm cũng không làm được vì bộ Tổng Tham mưu không còn lực lượng nào trong tay để tiêu diệt sư đoàn 5 CSBV, trong tình hình này, phải chờ một cơ hội thuận tiện mới có thể làm được. * Nỗ lực của Quân lực VNCH Trong cuộc họp, Đaị tướng Cao Văn Viên nhắc lại yêu cầu của ông là xin Không quân Hoa Kỳ sử dụng B-52 oanh tạc các nơi địch tập trung quân. Theo Đại tướng Viên, chỉ bằng cách đó mới có hiệu quả, mới làm cho tinh thần quân dân Việt Nam lên cao được. Tướng Viên cũng đã trình bày cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn Hoa Kỳ những nỗ lực của bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH trong hoàn cảnh không được sự yểm trợ hỏa lực của B-52. Suốt trong vài tháng cuối của cuộc chiến, Bộ Tổng Tham mưu QL.VNCH đã chỉ thị cho Không quân dùng phi cơ C-130 vận tải để thi hành nhiệm vụ yểm trợ chiến thuật, tăng cường hỏa lực. Khi được sử dụng để thi hành nhiệm vụ chiến thuật, mỗi C-130 mang theo tám bánh thùng dùng đựng JP-4 chứa đầy dầu phế thải. Phi cơ bay trên độ cao từ 15 đến 20 ngàn feet. Mỗi lần phi cơ bay qua và bom nổ, binh sĩ dưới đất lấy làm vui mừng. Được hướng dẫn bằng vô tuyến từ dưới đất nên rất chính xác, mỗi đợt thả chỉ cách nhau 150 đến 450 mét. Mỗi C-130 có thể chở đến 8 bành bom loại thùng GP 81-82 (tương đương với 250-500 cân anh) hay ba bành loại GP-117 (tương đương với 750 cân Anh. Binh sĩ đặt tên cho các phi vụ này là “tiểu B-52” hay B-52 Việt Nam. Lần đầu tiên khi loại bom này được thả tại Tây Ninh, dân chúng tưởng đó là B-52 của Mỹ thả. Vậy là tin đồn Không quân Mỹ can thiệp yểm trợ Quân lực VNCH đã được loan đi thật nhanh. Về việc di tản thân nhân gia đình binh sĩ rời những nơi có chiến trận, Đại tướng Viên cho rằng việc làm này thường có tác dụng ngược. Tướng Viên nêu ra nhận xét: nếu không có thân nhân tại đó, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sẽ giảm sút. Vị Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH nhắc đến một số kinh nghiệm trong quá khứ, nhất là kinh nghiệm của trận Mậu Thân 1968 và tại các tiền đồn xa xôi, vợ con binh sĩ là những người giúp tải đạn, tải thương và thậm chí sử dụng cả đại liên rất hữu hiệu. Những đề nghị của Đại tướng Viên được phái đoàn Hoa Kỳ ghi nhận, và khi tướng Weyand rời Việt Nam thì Cộng quân đang bao vây phòng tuyến Phan Rang và tấn công vào mặt trận Long Khánh. Trong tình hình chiến sự sôi động, nhiều giới chức của VNCH hy vọng ở sự can thiệp của Không quân Hoa Kỳ để chận đứng cuộc tấn công lớn của Cộng quân, dù biết rằng đó là một hy vọng vô cùng mong manh… Nguồn:https://vietbao.com/a23266/dai-tuong-cao-van-vien-ke-lai-chien-su-1975-su-yem-tro-cuoi-cung-cua-hoa-ky-cho-quan-luc-vnch Kế hoạch của Ngũ Giác Đài cứu nguy Việt Nam Cộng Hòa năm 1975Posted on March 18, 2020 by dongsongcu Vương Hồng Anh LTS: Tiếp theo loạt bài Tưởng niệm 30-4, VB giới thiệu đến bạn đọc những tài liệu đặc biệt liên quan đến các sự kiện quân sự, chính trị giưã VNCH và Hoa Kỳ, đã được Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại Hoa Kỳ giải mật và chuyển giao cho Văn Khố Quốc gia Hoa Kỳ. Đại tướng Frederick C. Weyand và Đại tướng Cao Văn Viên (Ảnh của New York Time) * Bộ Quốc phòng Mỹ đề nghị những biện pháp cứu nguy VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình.. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần phúc trình của Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởngï Lục quân, đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ, về những biện pháp khẩn cấp cứu nguy VNCH trong tháng 4/1955. -Những gì xảy ra tại miền Nam Việt Nam trong tháng tới hay sau đó, tùy thuộc rất nhiều vào những gì được thực hiện, hay không được thực hiện, bởi Bắc Việt, Chính Phủ VNCH, và Hoa Kỳ trong hai tới ba tuần tới hay ngay cả trong những ngày tới. -Ngoại trừ lực lượng Cộng quân Bắc Việt bị chận đứng tại trận địa hay Hànội bị thuyết phục ngưng chiến qua ngã ngoại giao hay ngã nào khác, Cộng sản Bắc Việt sẽ đánh bại Chính Phủ VNCH trên bình diện quân sự. Không có dấu chỉ cho thấy Bắc Việt đang gặp khó khăn tiếp vận hay bắt đầu thiếu hụt nguồn tiếp liệu. Sự nam tiến của chỉ một, nếu không nói là hai, trong số năm sư đoàn Cộng quân Bắc Việt hiện đang có mặt tại Quân khu 2 sẽ đủ để tấn công lực lượng VNCH tại vùng ven biển thuộc Quân Đoàn 2. Nếu một trong số năm sư đoàn của Cộng quân Bắc Việt hiện đã có mặt tại Quân khu 2 được đưa xuống Quân khu 3 đặc biệt là nếu được tăng cường với pháo binh và chiến xa, cán cân lực lượng tương quan hiện tại Quân khu 3 sẽ bị nghiêng ngửa. Các lực lượng của VNCH tại vùng Đồng Bằng (Miền Tây Nam phần), đủ khả năng đương đầu với lực lượng Cộng quân hiện đã có mặt trong Quân khu 4, và vùng này sẽ không đứng vững nổi nếu Quân khu 3 tan rã sau các cuộc thất bại tại Quân khu 1 và Quân khu 2. -Hình ảnh phác họa trên may ra có thể biến cải đang khi Chính Phủ VNCH điều quân tại Vùng 3 CT với các đơn vị sống sót từ Vùng 1 và 2. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi thời gian để tái tổ chức và tái trang bị. Chúng ta có thể chẩn đoán là Bắc Việt có thể tiến quân và xung trận các sư đoàn hiện diện tại Nam Việt Nam nhanh hơn là Chính Phủ VNCH có thể thiết lập các sư đoàn tân trang. -Còn phần Chính Phủ VNCH, phải thực hiện những công tác thật sự hữu hiệu không những để ngăn ngừa sự suy thoái của vị trí quân sự tại Quân khu 3, nhưng cũng để, và có lẽ quan trọng hơn,-hiến cho dân chúng và giới quân đội, một thôi thúc tâm lý tin tưởng vào tài lãnh đạo của các nhân vật tối cao của Chính Phủ VNCH. Trong lãnh vực tinh thần, miền Nam Việt Nam, ít ra tại Quân khu 3, kể cả Sàigòn, rất gần kề miệng dốc đưa tới thất bại và vô vọng của một sự đổ vỡ cơ cấu toàn diện. *Vai Trò và Các Lựa Chọn Hành Động của Hoa Kỳ Về phần vai trò và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ trong tình hình nguy kịch của VNCH, bản phúc trình của Đại tướng Weyand viết như sau. -Điều gì Hoa Kỳ làm, hay không làm, trong những ngày tới có lẽ là yếu tố định đoạt cho những biến cố xảy ra trong mấy tuần tới; điều này cũng đúng đối với điều gì Sài Gòn hay Hà Nội làm hay không làm. Một mình Hoa Kỳ không thể cứu vãn Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ có thể, cho dù có vô tình đi nữa, xô đẩy Nam Việt Nam xuống hố chôn. -Đề nghị cụ thể của tôi có thể được phân thành hai loại. Có những hành động ngắn hạn, một phần về mặt thể lý nhưng chính yếu về mặt tâm lý,cần để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu có thể, ép buộc đình trệ hành động. Điều này chỉ mua được thời giờ, nhưng trong tình thế hiện tại thời giờ là điều tối cần. Thứ đến, có những hành động dài hạn, tuy mang tính chất vật chất nhưng cũng có khía cạnh tâm lý mạnh mẽ, cần thiết nếu muốn Nam Việt Nam có tí hy vọng tồn tại trước sự tàn phá của Bắc Việt hay thương thảo một hiệp ước khác hơn là đầu hàng. Điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ. Cảm quan này quan trọng về mọi mặt. Cảm quan Hoa Kỳ giảm thiểu ủng hộ Nam Việt Nam khuyến khích Bắc Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm quan này đã khiến Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu triệt thoái khỏi các vị trí lẻ tẻ và lộ liễu tại các tỉnh phía bắc. Cảm quan này được cấu tạo bởi các hành động sau đây: Ngay sau khi ký kết Hiệp Định Ba Lê, 1.6 tỷ mỹ kim được đệ trình để cung ứng cho nhu cầu của Nam Việt Nam cho tài khóa 1974; 1.126 tỷ mỹ kim được xuất ra–thanh thỏa 70% nhu cầu. Tiếp sau đó 500 triệu mỹ kim còn lại bị từ khước không được tháo khoán. Đối với tài khóa năm nay, 1.6 tỷ được đệ trình để duy trì khả năng tự vệ của Nam Việt Nam; 700 triệu được chấp thuận,thanh thỏa 44 nhu cầu. Những hành động này đã giúp khai sinh khủng hoảng tin tưởng khiến Chính Phủ NVN dùng tới biện pháp triệt thoái chiến lược. -Điều then chốt cho sự tồn tại sống còn của quốc gia Việt Nam nằm trong khả năng của Chính Phủ VNCH ổn định tình thế, và đem các nguồn lực quân sự chống đối lại sức tấn công của Bắc Việt. Khả năng ổn định tình thế này tùy thuộc, một phần lớn, vào khả năng thuyết phục hạ tầng giới quân nhân và dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả, và còn có thể chận đứng Bắc Việt. Tuy đó là trách vụ chính của Chính Phủ Việt Nam, các hành động về phía Hoa Kỳ mang tính chất quyết liệt trong việc tái tạo niềm tin. Hành động mà Hoa Kỳ có thể làm để gây nên ấn tượng tức khắc cho Việt Nam,Bắc lẫn Nam,-là dùng không lực Hoa Kỳ để chận đứng thế tấn công hiện tại của Cộng quân Bắc Việt. Cho dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới hạn, những tấn công này sẽ gây tổn thất lớn lao cho lực lượng viễn chinh Bắc Việt về mặt nhân sự và quân cụ, và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm lý đối với các chiến binh xâm lăng. Những tấn công không tập này cũng sẽ khiến giới lãnh đạo Ha Nội phải đắn đo suy nghĩ, thái độ mà hiện giờ họ không có, đến hậu quả tai hại có thể xảy đến nếu họ làm ngơ lời cam kết chính thức họ đã hứa với Hoa Kỳ. Giới lãnh đạo quân sự VNCH thuộc mọi cấp bậc đều luôn lập đi lập lại tầm mức quan trọng của sử dụng B-52 phản công chống lại một lực lượng địch to lớn hơn và quan điểm này hợp lý về mặt quân sự. Tôi ý thức đến các khó khăn về mặt pháp lý và chính trị gây nên bởi việc thi hành biện pháp không tập này. Một việc quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là xác định cách rõ ràng Hoa Ky quyết tâm ủng hộ Nam Việt Nam. Việc này phải bao gồm lời minh định tích cực của Tổng Thống và các giới chức cao cấp Mỹ. Tinh thần suy sụp của dân chúng Việt Nam đã hứng khởi lên rõ rệt khi phái đoàn Hoa Kỳ do Tổng Thống phái đi với nhiệm vụ điều tra tình hình đặt chân tới Sàigòn. Có thêm những hành động tương tợ như vậy sẽ minh chứng mối quan tâm của Hoa Kỳ. Cộng thêm vào các lời xác định của Ngành Hành Pháp, cần thêm nỗ lực tạo một mối quan tâm chung tại mọi lãnh vực trên đất Hoa Kỳ. Sự ủng hộ từ các thành viên của Quốc Hội; xác định lập trường ủng hộ từ các nhân vật có trọng trách trong và ngoài chính phủ; và sự thông cảm trong giới báo chí Hoa Kỳ sẽ cải biến cảm quan về phía Hoa Kỳ liên quan đến tình hình tại Việt Nam. Nguồn:https://vietbao.com/a13212/ke-hoach-cua-ngu-giac-dai-cuu-nguy-viet-nam-nam-1975
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:41:47 GMT 9
Mật Trình Của Ngũ Giác Đài Về Mức Quân Viện Cho VNCH – Vương Hồng Anh Posted on March 16, 2020 by dongsongcu Vương Hồng Anh
[ihttps://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/4a/Fred_Weyand_Vietnam.jpg/800px-Fred_Weyand_Vietnam.jpg/img] Đại tướng Frederick C. Weyand (ảnh của wikimedia.org) LTS: Tiếp theo loạt bài Tưởng niệm 30-4, VB giới thiệu đến bạn đọc những tài liệu đặc biệt liên quan đến các sự kiện quân sự, chính trị giưã VNCH và Hoa Kỳ, đã được Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại Hoa Kỳ giải mật và chuyển giao cho Văn Khố Quốc gia Hoa Kỳ.
* Bộ Quốc phòng Mỹ đề nghị mức quân viện cứu nguy VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình..
Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần phúc trình của Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởngï Lục quân, đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ, về mức quân viện khẩn cấp cứu nguy VNCH trong tháng 4/1955. Trong phần trình bày vền vai trò và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ trong tình hình nguy kịch của VNCH, bản phúc trình của Đại tướng Weyand đã ghi nhận rằng”điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ.” Từ nhận định này, Đại tướng W eyand nêu ra những nỗ lực khẩn cấp của Hoa Kỳ để cứu nguy VNCH: –Hoa Kỳ cần tiếp tục nhấn mạnh tác động của Việt Nam đối với niềm tin đặt để vào sự can dự của Hoa Kỳ. Thế giới rõ ràng thông cảm các cam kết của Hoa Kỳ đối với Việt Nam trong quá khứ. Ai nấy đều ý thức sự mất mát về nhân lực và tài lực trong việc đeo đuổi sự cam kết này. Các chính phủ trên thế giới đều biết quá khứ, nhưng sẽ coi sự bất lực ủng hộ Nam Việt Nam hiện tại đang trong cơn khủng hoảng sống chết như là một thất bại trong quyết tâm về phía Hoa Kỳ. Nếu chúng ta không cố gắng, trong tương lai, bạn cũng như thù sẽ coi như chúng ta không còn biết đến chữ tín là gì nữa. -Các lời xác định ủng hộ của Hoa Kỳ là quan trọng, nhưng chúng phải được hỗ trợ bởi những hành động cụ thể chứng tỏ quyết tâm của Hoa Kỳ đứng sau lưng đồng minh của mình. Tuy các tài nguyên quân sự tùy thuộc tối hậu vào ngân khoản bổ túc Quốc Hội chấp thuận cho tài khóa này, nhưng hiện giờ còn dư hơn 150 triệu mỹ kim từ 700 triệu mỹ kim Quốc Hội đã chuẩn chi với Đạo Luật Chuẩn Chi Quốc Phòng. Số tiền này có thể được dùng để đáp ứng nhu cầu cấp bách ngay bây giờ và cho một vài tuần tới. Tuy nhiên, sự tiêu xài của ngân khoản thặng dư này sẽ làm hao mòn nhanh chóng khả năng hỗ trợ của Hoa Kỳ. Một ngân khoản chuẩn chi, có lẽ khoảng 722 triệu, cần thiết cấp bách để đáp ứng những nhu cầu quân sự căn bản để tạo nên cơ may sống còn cho Việt Nam Cộng Hòa.
*Chi tiết về ngân khoản quân viện cho VNCH Về các chi tiết của ngân khoản quân viện cho VNCH này, Đại tướng Weyand trình bày như sau. Chiến dịch tấn công hiện tại của Bắc Quân khiến mất mát quân cụ trầm trọng cần được thay thế ngay bây giờ: Năm Sư Đoàn QLVNCH đã bị phá hủy hay bất khả dụng và một sư đoàn khác chỉ được cứu vãn một phần. Tuy không thể xác định con số chính xác về sự mất mát nhân sự và quân cụ giờ phút soạn thảo bản thẩm định này, sau đây là những mất mát chiến cụ biết được : Đạn dược (dự trữ tồn kho mà thôi) $129.0 triệu Súng ống cá nhân và đội tốn $24.6 triệu Pháo binh $16.0 triệu Thiết vận xa $85.0 triệu Quân xa thiết bị bánh cao su $77.0 triệu Dụng cụ truyền tin $15.6 triệu Tiếp liệu $6.3 triệu Y tế $7.9 triệu Công binh $1.8 triệu Tồn kho tổng quát $110.5 triệu Tổng cộng $473.7 triệu –Thêm vào đó Không Quân Việt Nam mất 393 máy bay trị giá 176.3 triệu mỹ kim, 52.8 triệu mỹ kim đạn dược, và 68.6 triệu mỹ kim bộ phận và khí cụ yểm trợ. –Trong cuộc tấn công hiện tại Hải Quân VNCH mất ba chiến hạm trị giá 2.4 triệu mỹ kim và 5.4 triệu mỹ kim tiếp liệu và khí cụ yểm trợ. Tổng cộng, sự mất mát của QLVNCH trong cuộc tấn công hiện tại về tiếp liệu và quân cụ được ước tính vào khoảng 779.2 triệu mỹ kim. Những mất mát này không bao gồm đạn dược gài nòng căn bản, các đơn vị yểm trợ không thuộc về sư đoàn và các công trình xây cất tỉ như phi đạo, hải cảng và các cơ sở quân sự. Chính Phủ VNCH tin rằng có thể chận đứng được cuộc tấn công hiện tại với các lực lượng hiện có và tái thiết bị. Chính phủ VNCH dự tính giữ lại một Việt Nam Cộng Hòa thu hẹp bao gồm một phần lãnh thổ phía đông nam của Quân khu 2 , hai phần ba lãnh thổ phía nam của Quân khu 3 và tất cả Quân khu 4 . Phần đất phải giữ chứa đựng hầu hết dân số và có đủ điều kiện cho một thể chế chính trị và kinh tế tồn tại được. Họ đang thực hiện một kế hoạch tái tổ chức, nếu thi hành thành công, thì có thể bảo vệ về mặt quân sự cho một Việt Nam Cộng Hòa thu gọn.
*Các biện pháo tái trang bị, tái tổ chức các đơn vị VNCH Đại tướng Weyand trình bày tiếp: “Trong giờ phút soạn thảo phúc trình này (thượng tuần tháng 4/1975), kế họach tái tổ chức của Chính Phủ NVN có ý định tái thiết bị bốn sư đoàn bộ binh, cải biến 12 liên đoàn biệt động quân thành bốn sư đoàn biệt động quân và tăng cấp 27 liên đoàn lực lượng địa phương quân thành 27 trung đoàn bộ binh. Để có thể hữu hiệu, việc thi hành phải được thực hiện tức khắc. Trong giả thuyết Chính Phủ NVN có thể ổn định tình thế quân sự hiện tại, với các chiến cụ và tài nguyên nhân lực hiện tại nắm trong tay và trong sự giới hạn của ngân khoản chuẩn chi cho tài khóa 1975, họ cần có được ngay một số chiến cụ đòi hỏi một chuẩn chi mới.”
Theo ước tính của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, điều kiện cấp thời như sau: –Trang bị cho bốn sư đoàn: $138.6 triệu –Biến cải 12 liên đoàn Biệt động quân thành bốn sư đoàn: $118.0 triệu –Biến cải 27 liên đoàn Địa phương quân thành 27 trung đoàn Bộ binh: $69.6 triệu –Đạn dược bộ binh cho hành quân tác chiến và tái thiết mức độ tồn kho: $198.0 triệu –Đạn cho không quân hành quân tác chiến và tái thiết tồn kho: $21.0 triệu –Nhiên liệu hành quân tác chiến và tái thiết mức độ tồn kho: $10.4 triệu –Tiếp liệu và bộ phận sửa chữa chung: $21.0 triệu –Yểm trợ y tế (bệnh xá và trang bị) $7.0 triệu –Phi cơ, bộ phần rời, khí cụ yểm trợ, sửa chữa phi đạo: $44.9 triệu –Phí tổn vận chuyển tiếp liệu và khí cụ: $93.7 triệu Tổng cộng $722.2 triệu Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ước tính các vật liệu trên có thể được giao vào tay Việt Nam Cộng Hòa nội trong 45 ngày kể từ khi có ngân khoản. Phải hiểu là nếu không có các vật liệu bổ sung này, QLVNCH sẽ tiêu hao hết đạn dược hiện có trong kho trước khi tài khóa năm nay chấm dứt với mức độ giao tranh hiện tại. Không thể tái tạo các đơn vị bất khả dụng nếu không có các vật liệu bổ sung này.
Nguồn:https://vietbao.com/a13259/mat-trinh-cua-ngu-giac-dai-ve-muc-quan-vien-cho-vnch
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:45:37 GMT 9
Mặt trận Đông Nam phần thượng tuần tháng 4/1975 – Vương Hồng Anh Posted on March 23, 2020 by dongsongcu Vương Hồng Anh Trong số báo tuần trước, VB đã trình bày về sự yểm trợ cuối cùng của Hoa Kỳ cho Quân lực VNCH biểu thị qua việc cung cấp bom “Daisy cutter” cho mặt trận Long Khánh. Thể theo yêu cầu của nhiều độc giả, VB xin giới thiệu phần ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên về tình hình mặt trận miền Đông Nam phần, đặc biệt là tình hình chiến sự tại Xuân Lộc, Long Khánh. Phần này được biên soạn dựa theo hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ xuất bản, dịch giả Duy Nguyên chuyển dịch sang Việt ngữ và đồng ý cho VB sử dụng làm tài liệu tổng hợp. Ngoài ra có phần bổ sung dựa theo tài liệu của Khối Quân Sử Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, một số bài viết được phổ biến trong Tạp chí KBC, và tài liệu riêng của VB. * Tổng lược tình hình chiến sự tại mặt trận miền Đông Nam phần Theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, sau khi chiếm các tỉnh ở Quân khu 1 và 10 tỉnh ở Quân khu 2, Cộng quân gia tăng áp lực tại miền Đông Nam Phần. Lực lượng của CSBV bắt đầu tập trung khai triển các cánh quân để tìm cách đánh thẳng vào Biên Hòa và Sài Gòn, tức là trung tâm của quốc gia. Các sư đoàn chính quy của địch quân thường xuyên hoạt động tại Quân khu 3 sau 1973 như Sư đoàn 324B và 325 và các sư đoàn tại Quân khu 2 như 968, NT-3 và F-10 đều nhắm hướng Nam để tấn phát. Thêm vào đó, các sư đoàn mà từ lâu dùng làm quân trừ bị như CT-5, CT-7, CT-9 và Sư đoàn 3 CSBV tân lập cũng đều kéo vào Nam tham gia. Nói tóm lại, tổng lực lượng của địch chung quanh vòng đai Sài Gòn trong những ngày cuối cuộc chiến là 15 sư đoàn CSBV cùng với 1 sư đoàn đặc công, một sư đoàn pháo binh, nhiều đại đoàn thiết giáp và các đơn vị phòng không SAM. Theo phân tích của Đại tướng Cao Văn Viên, trong thượng tuần tháng 4/1975, địch quân mở đồng loạt 4 mặt trận khác nhau, mỗi mặt trận có lực lượng tương đương với một quân đoàn. Để đối phó với một tình hình như vậy. Quân đoàn 3 phải huy động toàn bộ 3 sư đoàn cơ hữu là Sư đoàn 5 BB, Sư đoàn 18 BB, và Sư đoàn 25 BB, Lữ đoàn 3 Kỵ binh, 3 liên đoàn Biệt động quân và 1 lữ đoàn Nhảy Dù. Mặc dù các đơn vị khác được tái thành lập sau khi triệt thoái từ Vùng 1 và Vùng 2 vào nhưng bây giờ khả năng đã sút giảm khá nhiều chứ không như xưa. Muốn cho các đơn vị này lấy lại sức mạnh cũ thì cần phải có thời gian và vũ khí đầy đủ. Sư đoàn 2 BB bị thiệt hại ít hơn hết nên có thể phục hồi mau chóng nên được đưa ra bố trí tại Phan Rang, sau khi thị xã này thất thủ thì sư đoàn này mới rút đi. Trong khoảng thời gian này Sư đoàn 3 BB và Sư đoàn 23 BB bị thiệt hại nặng. Sư đoàn 22 BB thiệt hại khoảng 40% lực lượng và phải mất một tuần lễ để tái tổ chức và được điều phái đi Long An với hai trung đoàn để tăng cường phòng thủ mặt Tây Nam của Quân khu 3. * Tình hình mặt trận Long Khánh Nhận định về tình hình chiến sự tại miền Đông Nam phần, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng mặt trận Long Khánh sôi động hơn mặt trận Tây Ninh và Bình Dương rất nhiều. Ngày 8 tháng 4/1975, Cộng quân tập trung quân để chuẩn bị đợt tấn công quy mô vào tuyến phòng thủ của Sư đoàn 18 Bộ binh tại Long Khánh. Tính đến sáng ngày 8/4/1975, trên lãnh thổ của Quân khu 3 (Vùng 3) ngoài tỉnh Phước Long bị Cộng quân chiếm vào tháng 1/1975, Cộng quân đã kiểm soát một số trục lộ giao thông, trong đó có một phần quốc lộ 20. Thị trấn Định Quán trên đường Sài Gòn-Đà Lạt đã bị Cộng quân chiếm đóng. Theo phân nhiệm, Sư đoàn 18BB chịu trách nhiệm phòng ngự toàn khu vực tỉnh Long Khánh. Ngoài ra Sư đoàn này còn có nhiệm vụ tái chiếm Định Quán, tái lập giao thông trên Quốc lộ 1 đoạn Xuân Lộc và Bình Tuy, bảo vệ vòng đai phía Bắc của căn cứ tiếp tế huyết mạch Long Bình trên Quốc lộ 15 và Căn cứ Không quân Biên Hòa. Sư đoàn 18 Bộ binh thành lập vào năm 1965, với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn 10 Bộ binh do Đại tá Nguyễn Văn Mạnh giữ chức Tư lệnh (Đại tá Mạnh sau này là Trung tướng, từng giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 4 và Tham mưu trưởng Liên quân). Sau một thời gian ngắn, theo quyết định của Bộ Quốc phòng, đại đơn vị này cải danh hiệu đổi thành Sư đoàn 18 Bộ binh. Từ khi thành lập cho đến tháng 4/1975, trong gần 10 năm liền, Sư đoàn 18 Bộ binh trấn giữ khu chiến thuật Long Khánh-Phước Tuy-Bình Tuy, các trung đoàn của Sư đoàn này đã có những cuộc đụng độ lớn với các đơn vị chính quy của Cộng quân tại miền Đông. Kinh nghiệm chiến trường của các đơn vị thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh đã góp phần cho cuộc chiến đấu bảo vệ phòng tuyến Long Khánh trong những tuần đầu của trận chiến tháng 4/1975. * Phối trí lực lượng phòng thủ tại phòng tuyến Xuân Lộc Khi Cộng quân chuẩn bị tấn công vào Xuân Lộc thì Sư đoàn 18 BB có 3 trung đoàn cơ hữu, đó là Trung đoàn 43, 48 và 52 được tăng cường thêm Trung đoàn 8 Bộ binh của Sư đoàn 5 BB. Cũng như các sư đoàn Bộ binh khác của Quân lực VNCH, Sư đoàn 18 có các đơn vị thuộc dụng gồm 1 thiết đoàn kỵ binh (gồm 2 chi đoàn M 113 và 1 chi đoàn M 41), 3 tiểu đoàn Pháo binh 105 mm, 1 tiểu đoàn Pháo binh 155 mm, 1 tiểu đoàn Công binh chiến đấu. Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh lúc bấy giờ là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo. Ngoài lực lượng nói trên, Quân đoàn 3 còn tăng viện cho lực lượng phòng thủ Long Khánh các đơn vị sau đây: Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, 2 tiểu đoàn Biệt động quân và 2 tiểu đoàn Pháo Binh. Bộ Tổng tham mưu cũng đã tăng cường thêm Lữ đoàn 1 Dù, Liên đoàn Biệt Cách 81 Dù. Lực lượng an ninh diện địa của Tiểu khu Long Khánh có 4 tiểu đoàn Địa phương quân. Sư đoàn 3 Không quân yểm trợ về không quân chiến thuật, thực hiện không vận các cánh quân tăng viện, yểm trợ hỏa lực không pháo, xạ kích, bay tuần thám, vận chuyển tiếp tế đạn dược, chở thương binh từ phòng tuyến về quân y viện. * 3 sư đoàn Cộng quân tung vào mặt trận Long Khánh. Lực lượng Cộng quân tham chiến tại mặt trận Long Khánh gồm có: sư đoàn 341 chính quy, sư đoàn 7 tổng trừ bị của khu Miền Đông và sư đoàn 3 tân lập. Theo tài liệu tổng hợp, từ bộ chỉ huy đặt tại Ban Mê Thuột, Văn Tiến Dũng, đại tướng CSBV, đã ra lệnh cho 3 sư đoàn nói trên phải “giải quyết chiến trường” thật nhanh để mở đường tấn công vào Sài Gòn. Mục tiêu đầu tiên là khu vực ngã ba Dầu Giây, giao điểm giữa Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Để ngăn chận của tấn công của CSBV, trong các ngày 7 và 8/1975, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 BB đã cho tăng cường lực lượng phòng thủ tại Nga Ba Dầu Giây, đồng thời Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã cho gia tăng số phi vụ tuần thám, các đợt nhảy thám sát, viễn thám để theo sát các diễn biến và lộ trình chuyển quân của Cộng quân. * Toàn cảnh về tình hình chiến sự tại các tỉnh khác ở miền Đông Nam Phần. Tại Sài Gòn, để ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân, Bộ Tổng tham mưu đã cho tái tổ chức lại hoạt động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, cựu tư lệnh Quân đoàn 3 từ 1971 đến 1973, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô kiêm Tổng trấn Đô Thành. Trung tướng Nguyễn Văn Minh nhận được lệnh trực tiếp của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu là tái phối trí lực lượng để thiết lập vòng đai bảo vệ Sài Gòn. Tại khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 25 Bộ binh bao gồm các tỉnh Long An, Hậu Nghĩa và Tây Ninh, ngay từ tháng 3/1975, Cộng quân đã tung một sư đoàn tấn công chiếm những ngôi làng nằm phía Tây tỉnh Tây Ninh và núi Bà Đen để mở rộng hành lang xâm nhập vào các khu Hố Bò, Khiêm Hạnh và Hiếu Thiện. Tại phòng tuyến Khiêm Hạnh-Hiếu Thiện, Cộng quân đã bị các đơn vị của Lữ đoàn 3 Thiết kỵ và một trung đoàn của Sư đoàn 25 Bộ Binh đẩy lùi, hơn 200 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa. Tư lệnh Sư đoàn 25 BB vào thời gian này là Chuẩn tướng Lý Tòng Bá (tướng Bá đã làm tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh trong mùa hè 1972). Ngoài các mặt trận nói trên, Cộng quân còn gia tăng áp lực tại khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ binh bao gồm các tỉnh Bình Dương và Bình Long, riêng tỉnh Phước Long nằm trong địa bàn hoạt động của Sư đoàn 5 Bộ Binh, đã bị Cộng quân chiếm vào tháng 1/1975. Nỗ lực của Cộng quân tại mặt trận Bình Dương là tung quân chọc thủng phòng tuyến mặt đông nam của tỉnh này và khu vực giáp với mặt tây bắc của tỉnh Biên Hòa. Chỉ huy phòng tuyến Bình Dương là Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh. Cuối ngày 8 tháng 4/1975, các toán viễn thám của Sư đoàn 18 BB và của Nha Kỹ thuật đã ghi nhận được nhiều tin tức về cuộc chuyển quân của Cộng quân dọc theo Quốc lộ 20, trong đó có cả xe tăng và đại pháo. Giải đoán của bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 BB là Cộng quân sẽ chuẩn bị đánh cùng lúc vào Biên Hòa và Xuân Lộc, cắt đứt trục giao thông giữa Xuân Lộc và Sài Gòn. Lệnh báo động đỏ được ban hành trên toàn khu vực trách nhiệm của Quân khu 3. Một trận chiến mới xảy ra trên chiến trường miền Đông vào những ngày sau đó. Nguồn:https://vietbao.com/a8570/dai-tuong-cao-van-vien-ke-lai-chien-su-1975-mat-tran-dong-nam-phan-thuong-tuan-thang-4-1975 Ngày 9/4/1975, mặt trận Long Khánh bùng nổ – Vương Hồng Anh Posted on March 24, 2020 by dongsongcu Vương Hồng Anh Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “Ngày 30-4-1975”, nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo. *Tổng lược về trận chiến Long Khánh ngày 9/4/1975 Theo tài liệu ghi trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên, sau khi đã điều động 3 sư đoàn chính quy vào mặt trận Long Khánh, ngày ngày 9 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến chiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vật tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Cùngthời gian khai triển lực lượng tại khu vực nói trên, rạng sángngày 9/4/1975, Cộng quân đã pháo kích như mưa vào Căn cứ Khôngquân Biên Hòa, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Căn cứ Tiếp vận Long Bình. Tại tỉnh lỵ Xuân Lộc, từ 6 giờ sáng 30 cùng ngày (9/4/1975), Cộng quân đã đồng loạt pháo kích khoảng vào nhiều vị trí quanh tỉnh lỵXuân Lộc. Khoảng 1 giờ sau, Cộng quân tung trung đoàn 266 thuộcsư đoàn 341 chính quy Bắc Việt, và 1 tiểu đoàn chiến xa T54, 2tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn đặc công tấn công vào ngay thị xã. Cũng với trận tấn công vào vào thời gian đó, CQ tấn công vào khu vực ngã ba Dầu Giây. Kế hoạch của Cộng quân là muốn chiếm Dầu Giây để từ đây tấn công vào tuyến phòng thủ của Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh. Ngay trước khi trận chiến xảy ra, để ngăn chận các đợt tấn công của Cộng quân, Không quân VNCH đã thựchiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Cộngquân, tuy nhiên, các phi tuần này đã gặp khó khăn do màn lưới phòng không dày dặc của các trung đoàn pháo binh phòng không của Cộng quân được bố trí quanh vòng đai phòng tuyến của Sư đoàn 18Bộ binh. *Lực lượng VNCH tại mặt trận Long Khánh Về lực lượng tác chiến của Quân lực VNCH tại mặt trận Long Khánh, theo tài liệu của Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH được Đại tướng Cao Văn Viên ghi lại trong hồi ký, thì tính đến sáng ngày 9/4/1975, các đơn vị phòng ngự gồm có toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh, được tăng cường thêmTrung đoàn 8 Bộ binh thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, Thiết đoàn 3 , hai tiểu đoàn Biệt động quân, hai tiểu đoàn Pháo binh. Các đơn vị này được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm 316, 318 và 322 được phối trí án ngữ quanh vòng đai thị xãXuân Lộc. Tư lệnh mặt trận Long Khánh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo,Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh, chỉ huy lực lượng diện địa là Đại táPhạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Long Khánh. * Diễn tiến các trận giao tranh trong ngày 9/4/1975. Theo bản tin chiến sự do phát ngôn viên Quân sự QL.VNCH phổ biến và được báo Chính Luận số ra ngày 10/4/1975 phổ biến, diễn tiến các trận giao tranh tại Xuân Lộc trong ngày 9/4/1975 được ghi nhận như sau. Tại phòng tuyến quanh thị xã Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh), 7 giờ 30 sáng, Cộng quân đã mở nhiều đợt tấn công vào vị tríphòng ngự của các chiến đoàn 316, 318 và 320. Tại trung tâm tỉnhlỵ Long Khánh, trận chiến xảy ra ngay tại nhà thờ Chánh tòa vàgiữa chợ Xuân Lộc. Đối phương sử dụng thiết giáp có bộ binh tùngthiết tấn công vào khu vực trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh. Để đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xã, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động thêm lực lượng đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn. Lực lượng tăng viện và trú phòng đã quyết chiến và đẩy lùi đượccác đợt tấn công của Cộng quân. 4 chiến xa của địch đã bị bắncháy gần chợ Xuân Lộc. Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốtcầm cự của Cộng quân trong tại thị xã Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Tòađã hoàn toàn bị đẩy lui, 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa vớitrên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại cáckhu vực kế cận thị xã, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm mớitạm lắng sau khi lực lượng tăng viện giải tỏa được áp lực của Cộng quân. * Cuộc chuẩn bị của Cộng quân tại mặt trận Long Khánh Theo lời khai của 2 tù binh Cộng quân, những binh sĩ này thuộcmột trung đoàn mới từ miền Bắc xâm nhập vào Nam từ đầu năm 1975.Trước khi tấn công vào thị xã Xuân Lộc, đơn vị của hai tù binhnày đã được tập dượt trước với sự tham gia của một tiểu đoàn thiết giáp. Theo tài liệu trong Tạp chí “Lịch sử Quân đội” CSVN số 3/1998 ( do tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh Hứa Yến Lến trích dẫn phổ biến trong KBC số 22, thì kế hoạch chuẩn bị cuộc tấn công vào Xuân Lộc được Lê Đức Thọ, ủy viên Bộ chính trị CSVN, kể lại diễn tiến như sau: ” Sau 2 lần B 2 xin quân thì tôi (Lê Đức Thọ) vào chiến trường gặp lúc hội nghị miềm Bắc vưà kết thúc. Lúc đó, tôi cũng được biết trước đó, anh em (CSBV) đã đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường. Ngoài ra địch còn chống cự như trận đánh vào Đồng Dù, Nước Trong là những trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta (CSBV) không phải là ít, tôi có ý định toan bàn với các đồng chí (Bộ Tham mưu trung ương của CQ tại miền Nam, nhưng nghe anh Dũng (Văn Tiến Dũng, đại tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội CSBV, tôi cũng nghĩ có thể mình mới vào chưa rõ tình hình; cứ để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là an hem (CSBV) không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra. Cũng theo tài liệu nói trên, lực lượng CQ tại mặt trận Long Khánh trong những ngày đầu là quân đoàn 4 CSBV do tướng CSBV Hoàng Cầm làm tư lệnh, chính uỷ là tướng CSBV Hoàng Đình Hiệp. Các đại đơn vị thống thuộc quân đoàn này gồm có: sư đoàn 6 sư đoàn 7 và sư đoàn 341, sư đoàn này vưà di chuyển từ Thanh Hóa vào với thành phần Pháo binh cơ hữu. (Tài liệu phổ biến trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên có phần khác biệt về danh hiệu các sư đoàn CSBV, theo đó 2 sư đoàn 3 và 341 là những đại đơn vị đầu tiên của CSBV tại mặt trận Long Khánh, sau đó được tăng cường thêm sư đoàn 7 CSBV). Nguồn: vietbao.com/a40780/30-nam-nhin-lai-ngay-9-4-1975-mat-tran-long-khanh-bung-no
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 17:53:59 GMT 9
THÁNG TƯ TỘI LỖIPosted on April 21, 2020 by dongsongcu Phạm Chi Lan LGT: Thật bất ngờ khi tình cờ đọc được Tháng Tư Tội Lỗi trên trang vanchuongviet.org với lời chú: bút ký này “chưa in lại hay xuất hiện trên internet.” Đây là một trong vài bài viết hiếm hoi mà chúng tôi thiếu trong tập di cảo nhỏ nhắn và khiêm nhường của Phạm Chi Lan. Cũng như trong những bút ký khác, Phạm Chi Lan không “làm văn chương”. Tác giả chỉ đơn giản ghi lại những diễn biến thực, chung quanh và bên trong. Rất thực. Xin chân thành cám ơn vanchuongviet.org và xin giới thiệu đến bạn đọc tâm tư của một cô bé đã ngậm ngùi từ giã khung trời tuổi nhỏ, bước vào những xao động đầu đời thiếu nữ trong bối cảnh kinh hoàng của đất nước tháng Tư xưa. (Nguyên Nhi). Chủ nhật, 27 tháng 4-1975 Đang ngủ ngon thì mẹ gọi thốc dậy. Vẻ mặt nghiêm trọng, mẹ gọi tôi và Biếc ra góc bếp rồi dúi vào tay chị em tôi mỗi đứa một cuộn giấy bạc. Mẹ cho tiền tiêu vặt, muốn mua gì thì mua thỏa thích này. Và không giải thích gì thêm. Cầm cuộn tiền trong tay, tôi bối rối, ngại ngùng. Lần đầu tiên được giữ nhiều tiền, tôi hỏi Biếc làm gì với nó, chị ngơ ngác bảo không biết. Mỗi đứa có 50.000 đồng, số tiền quá lớn đối với một đứa trẻ. Hồi hộp với cảm giác lạ, không biết lấy làm vui sướng hay lo sợ một điều gì mơ hồ đang xảy đến. Số tiền này, chị em tôi có thể hùn mua được chiếc xe đạp mini, một mơ ước ngoài tầm với những ngày trước. Nhà nghèo, chị tôi vẫn mơ có một chiếc xe đạp xinh xinh để đi học và chở tôi đến trường, thay vì phải lội bộ dưới những cơn nắng gắt. Nhưng, lúc này, chiếc mini không còn là giấc mơ hay cần thiết nữa. Chỉ thấy lòng dửng dưng với xấp giấy bạc. Tiền để làm gì bây giờ nhỉ? Mấy tháng nay tình hình xao động, chung quanh không bình thường, yên ổn như ngày này năm ngoái, những ngày chuẩn bị mùa nghỉ hè. Có nhiều chuyện quan trọng khác, chẳng hạn như cảm giác bất an trong lòng mà tôi không định hình được. Tôi đang thấp thỏm chờ đợi một biến cố tâm lý, cơ thể đứa con gái bắt đầu dậy thì, đang xôn xao với nhiều bồn chồn, lo lắng. Như lần đầu tiên mặc cái áo nịt ngực, xấu hổ tưởng ai cũng đang nhìn mình chằm chằm, xuyên qua lớp áo nhìn thấy hết… Bà bắp luộc cắp rổ đi ngang, tôi gọi mua một chục cái bắp nóng hổi. 12 cái à, dạ hôm nay con bao cả nhà ăn bắp. Tôi tặng bà luôn số tiền thối lại khá lớn. Gặm một cái và đưa Biếc một cái. Ngô nhạt nhẽo, miệng mồm tôi cũng nhạt nhẽo, không cảm thấy thèm quà vặt. Những chiếc bắp dư thừa nằm lăn lóc trên bàn không ai ngó ngàng tới, ruồi bậu vo ve. Không khí im sững lại. Tôi nghe tiếng thở của mình nặng nề giữa buổi trưa nóng nực. Biếc có vẻ tư lự, suy nghĩ gì, chị bảo chạy đi đây một tí, sẽ về ngay. Tôi nhắc theo, mẹ dặn không được đi đâu quá một tiếng đồng hồ đấy. Bố mẹ lại thì thào, bàn tính chuyện gì không muốn cho bọn trẻ nghe. Tôi tò mò, không biết bố mẹ đang có chuyện gì quan trọng. Vẻ mặt mẹ rầu rầu đăm chiêu, tôi hồi hộp nhưng không dám hỏi. Đến chiều, bà chị ở Bến Đình đạp xe vào, rón rén nhìn trước nhìn sau. Mẹ và chị kéo nhau ra góc thì thầm. Chị Thuận nói nhỏ, “gia đình con thu xếp xong rồi, nhà có 5 người, tiền thì mua vàng hết, chỉ có cái TV và xe honda thì để lại, dấu trong góc vườn, nếu không đi lọt trở lại…” Tôi bàng hoàng, tay nổi gai, rờn rợn khắp người. Cái lo bỗng ập đến, tôi hoang mang vô cùng. Điều ghê gớm là gia đình tôi đang tính đi xa, nhưng mà đi đâu? Con Hà hàng xóm chạy sang rủ đi ciné có phim hay đang chiếu, tôi lắc đầu không đi. Cũng không muốn tâm sự gì với nó. Có điều gì trong tôi đang giằng co, bứt rứt mà không thể nói với ai được. Tôi vẫn giữ trong bụng nhiều điều, Biếc vẫn bảo tôi bày đặt kín đáo, khó tính như bà cụ non. Bà cụ non đang buồn muốn chết… Cả tháng nay tin thời sự nóng bỏng. Tối nào ăn cơm xong tôi cũng phải đọc báo cho bố nghe khan cả cổ. Tôi đọc như con vẹt, toàn những từ ngữ dao to búa lớn, những địa danh khói lửa. Nội dung là trận chiến đang thảm khốc, tới hồi quyết liệt. Báo đăng toàn tin xấu: Huế, Đà Nẵng thất thủ, Khe Sanh, Pleiku tơi bời. Bên ta, bên địch người chết như rạ. Lính bỏ áo giáp, súng ống chạy có cờ. Mỹ thì đã bỏ chạy từ kiếp nào. Chữ “Time” tôi đọc là “Ti-me” mặc Biếc che miệng cười. Tham-mờ, nhỏ này quê quá, là tờ Thời Báo của Mỹ đó. Kệ tui, tui đọc bố hiểu là được rồi… Bố mua gần hết nhật trình ở sạp. Đối với tôi những tin gì liên quan tới chiến tranh, Việt cộng, Giải phóng nằm vùng, Nguyễn văn Thiệu, Dương văn Minh, Mỹ Mẽo… đều chán phèo, tôi đọc như một cái máy, đọc vì được bố trả công, vì cặp kính lão của bố bị gãy càng. Đọc mà không biết mình đọc gì, đầu rỗng toang. Chỉ chờ đọc xong phần tin tức cho bố, tôi lật ngay trang trong có đăng từng kỳ truyện “Áo mơ phai” của Nguyễn Đình Toàn, đọc ngấu nghiến. Văn nhẹ nhàng, thơ mộng, hợp với tuổi ô mai hơn. Giọng ông này đêm mà đọc truyện trên đài Quân Đội thì tuyệt, ru ngủ rất ngon, tối nào chị em tôi cũng dành cái radio nghe nhạc. Tôi đang chán ghê vì những gì người lớn đang toan tính. Không ai hỏi ý kiến bọn trẻ có muốn đi hay không. Biết đi là trọng đại, ai cũng mơ hồ cảm nhận, vừa thấy thích vừa hoang mang, hồi hộp. Nhưng một khi bố đã quyết định thì không còn một chọn lựa khác. Mẹ lúc này tiêu tiền phóng khoáng, không hà tiện chắt chiu như lúc thường. Dường như tiền không còn ý nghĩa giá trị trong những ngày loạn lạc, hay mẹ dùng tiền dành dụm bao lâu nay để bù đắp cho chúng tôi những món ngon, vui hưởng những giờ phút còn lại ở nơi này? Mua một lúc 2 ký nhãn và mấy chục cái lạp xưởng, bánh mì, phó mát… mẹ xài sang như dân Saigon có tiền vậy. Gia đình bà chị cả đã kéo ra Cấp tối qua, lễ mễ hành lý, radio, máy hát lỉnh kỉnh. Biếc tìm được trong thùng cuộn băng nhạc Trịnh Công Sơn, khoái chí. Giọng Khánh Ly khàn khàn, rên rỉ. “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…” Họ nói tất cả đã sẵn sàng, tăng lều đã được dựng lên ở đảo Guam, đảo Wake, Philippine… Người Mỹ đã biết hết thời cuộc. Bố kêu nhức đầu nằm ngả lưng trên phản, bảo tôi mang báo có hình quang cảnh trại tị nạn cho bố xem. Bố ngồi ngay dậy: “Đây này, tin xác thực có cả hình đây, bác Gián nói không sai. Tình hình không ổn đâu, trước sau gì cũng mất nước. Mình là dân Bắc di cư không thể chần chừ được…”, bố phân trần với mẹ. Mẹ đang loay hoay thu xếp, mẹ buông tay thẫn thờ. Dưới ánh đèn, hình ảnh mẹ chịu đựng như một bức tượng. Miền Trung đã mất cả tuần nay, bố bồn chồn đứng ngồi không yên. Báo và radio toàn loan tin thời sự, từng thành phố một thất thủ. Người miền Trung bỏ chạy về phía nam, những khuôn mặt thất thần, nhếch nhác, rách rưới, nhà cửa cháy tan hoang… Họ thoát chết vì bom đạn trên quốc lộ số một. Người chết nhiều lắm. Xe tăng Việt cộng đang tiến vào Sàigòn. Xuân Lộc đang tử thủ. Lại nghe đồn giá gạo mắm sẽ lên. “Ôi dào,” mẹ thở ra, “tôi chẳng biết, ông tính sao thì tính…” Người bạn của bố ghé nhà mấy lần có vẻ vội vã, thầm thì với bố điều gì, rồi phóng xe đi ngay. Không khí căng thẳng ngột ngạt một điều gì… Biếc nói bên trường trung học phải nhường phòng lớp cho người di tản. Nghe nhiều chuyện dễ sợ lắm, có người chết hết cả gia đình. Tuần trước, lớp tôi quyên được ít tiền ủy lạo nạn nhân thời cuộc, tôi nhịn tiền quà sáng đóng góp. Các cửa hàng bán đồ khô, gạo, nước mắm đắt như tôm tươi. Ai cũng lo dự trữ thực phẩm. Tối qua mẹ chở về nhà 2 tạ gạo, bố gắt um lên, bà mua làm gì lắm thế. Mẹ cẩn thận bao giờ cũng lo đến cái ăn trước tiên. “Ông có nhớ năm đói không? Tôi phải tích trữ gạo, nước mắm… kẻo chết đói cả lũ.” Bố lắc đầu, đầu hàng mẹ. Sáng thứ hai, 28 tháng 4 Cả nhà thức dậy sớm hơn thường lệ. Bố hô hào chuẩn bị hành lý. Túi lớn túi nhỏ, bóp ví đã đặt ở đầu giường từ đêm qua để khỏi quên. Trời nắng rất đẹp. Trong nắng có một cái gì long lanh mà buồn hiu hắt. Có ai vừa bật cái máy hát, lại nhạc họ Trịnh, giọng Khánh Ly ngân nga, sướt mướt: “Người con gái Việt nam da vàng, yêu quê hương như yêu đồng lúa chín…” Mấy chị gánh hàng rong đi ngang, mẹ gọi mua mỗi người một gói xôi và chén đậu hũ đường. Không ai nuốt được, bảo không đói. Hàng xóm đi lại thơ thẩn, thản nhiên như thường ngày. Vài người nhìn chúng tôi tò mò, dò hỏi. Gia đình Bắc kỳ này lạ lùng, làm cái gì cũng kín kín mở mở, ít ai hiểu. Mà chẳng ai thèm quan tâm đến chuyện người khác trong lúc này. Có ai biết chuyện gì ghê gớm đang xảy ra không? Đời sống vẫn đang tiếp diễn. Chiến tranh kẻ thù ở nơi khác, ở đây chỉ có giá vàng là tăng, bến tàu thì nhộn nhịp khác thường, và ngư phủ ra giá từng khoang tàu bằng những cây vàng. Tôi cảm thấy có điều gì bứt rứt không yên. “Em chưa thấy quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam…” Lại dấy lên ý nghĩ so sánh giữa đi và ở. Tội nghiệp họ hay tội nghiệp mình? Có biết ai may mắn hơn ai? Đám con nít chạy chơi rông ngoài đầu ngõ, trường cho nghỉ học cả tuần nay vì biến động thời cuộc. Chiến tranh đã mò về tới thị xã du lịch miền biển này. Vũng Tàu mà cũng đi chạy giặc là đánh tới đít rồi. Việt cộng vào sẽ không tha một ai. Ông Hùng là nằm vùng đó, ổng biết hết ai tẻ ai nếp… Những lời truyền miệng hoang mang. Sôi động khắp nơi, thày cô nhớn nhác, hiệu trưởng bù đầu với đám tị nạn thời cuộc lếch thếch, rách rưới, gồng gánh từ Đà Nẵng vào chiếm ngụ hết cả nhà trường. Họ nằm ngổn ngang, lều chõng la liệt, nấu nướng giặt giũ giống cái trại tị nạn. “Đàn bò vào thành phố, không còn ai hỏi thăm… Đàn bò tìm dòng sông, nhưng dòng nước cạn khô… Cái máy lải nhải, đĩa nhựa đứng tại chỗ không nhảy qua vòng khác được. Rồi người bỗng thấy buồn… Rồi người đã thấy buồn. Chiến tranh thảm khốc ở đâu đâu chẳng biết, ở đây, tôi nhìn thấy hậu quả. Chiến tranh chính là mi đấy ư? Ôi quê hương đã lầm than sao còn chiến tranh? Mười giờ sáng, xe lam tới đậu trước cửa nhà, bố chạy ra bảo chờ. Đại gia đình nhà tôi tất cả 20 người đã tề tựu từ mấy hôm trước. Đã sẵn sàng cả rồi. Bố dặn túi xách của ai người nấy mang. Trong túi, ai cũng có một số tiền mẹ phát “để dằn túi”. Tôi vẫn còn một bó nhỏ, gài kim băng cẩn thận. Mới tiêu hết có vài nghìn, tiền ăn hàng, mua mấy tập truyện và một đôi dép mới. Tôi mua mấy cuốn Tuổi Hoa đỏ và tím là mấy loại tôi thích nhưng vẫn chưa động tới. Có gì trong nắng mà nhớ… Nắng lung linh nhảy múa, buổi trưa nóng gắt. Tôi bỗng hoảng hốt nhìn quanh quất, linh tính lần cuối cùng nhìn khung cảnh căn nhà quen thuộc này. Con mèo tam thể chạy đến gạ gạ dưới chân, tôi bồng nó lên vuốt nhè nhẹ. Thôi ở lại nha mèo, sao hôm nay mày nhiều tình cảm thế này. Con Mướp cũng tới meo meo đòi nựng. Tôi vẫn cưng Tam thể hơn vì nó nhu mì, mắt nó trong veo, lim dim nhắm nghiền. Mẹ dục, rồi đẩy tôi lên xe lam ngồi trước cạnh ông tài. Nhìn lại con ngõ một lần cuối, tôi cố thu hết hình ảnh. Đến Cầu Đá chuẩn bị xuống ghe, mẹ khóc, vai mẹ rung nhè nhẹ. Ông anh thứ vẫn còn kẹt ở đơn vị chưa về kịp. Mẹ nói bố chờ đến tối xem anh có về kịp, bố gạt đi bảo không thể chờ, nó lớn tự lo đường đi sau. Bến tàu đông nghẹt người, người ở đâu ra nhiều thế? Trên mặt ai cũng lộ hoang mang, hoảng hốt điều gì. Ghe tàu đủ loại đậu kín các bãi. Bến đậu bẩn thỉu, hỗn loạn, bát nháo. Người ta chen lấn, giành giật, chửi rủa nhau vì không được mang gà vịt, chó, xe honda, tủ lạnh xuống ghe. Nhìn ra biển, tôi thấy lo. Nếu đắm tàu, tôi sẽ níu ai, ai có thể cứu tôi. Lần đầu tiên đi biển trên một chiếc ghe, tôi bỗng thấy khiếp. Tôi không thể bơi, và Biếc thì sợ nước giống con mèo Tam thể. Thuyền chòng chành, ruột gan bắt đầu nhộn nhạo. Chạy một đoạn thì tấp vào một tàu đánh cá lớn, đây là tàu bố tôi mua chỗ do bác Gián môi giới thu xếp. Sóng lớn, ghe trồi lên dập xuống. Chân tôi mềm oặt không có điểm tựa, tôi cố trèo lên tàu. Người trên thì kéo, người dưới thì đẩy, ngón tay tôi bị kẹp dập tím, đau điếng. Trên tàu đã chật ních người, ngột ngạt mùi tanh lợm của cá chết và gây gây nặng mùi mồ hôi của mấy gã đánh cá. Sóng lớn, gió nóng và rát bỏng, mặt ai cũng đỏ gay vì say nắng, say sóng. Đầu mơ màng, tôi ói tận mật xanh. Tôi thiếp đi một giấc dài, tỉnh dậy thấy trời đã tối mịt. Mênh mông trời nước. Một rừng ghe tàu đông nghẹt trên mặt biển, nhấp nháy đèn dầu sáng lung linh như một thành phố nổi. Phía xa, những đốm sáng của những chiếc tàu lớn đen ngòm, lừng lững một góc trời. Đệ thất hạm đội Mỹ đó, người ta đang bàn tán, chỉ chỏ. Bụng cồn cào, buồn nôn vì mùi tanh tanh, mùi muối mặn, gió nồng… Tôi nhịn tiểu đã gần một ngày, người bứt rứt khó chịu. Mệt lả, lịm đi không còn cảm giác, không muốn ăn uống, tiêu tiểu như bình thường… Mồ hôi ra rịn ướt, chất cặn trong người thải ra đỡ khỏi tiểu. Biếc ôm khư khư cái túi vải, không biết có gì quí mà ôm chặt không rời, Biếc ngủ gục trên cái túi đó. Tôi gặm một miếng bánh mì cứng như khúc củi, miệng khô rát, đắng ngắt. Chúng tôi ở trên ghe đánh cá đã 2 ngày đêm rồi, tàu cắm neo một chỗ, tay chân tôi tê điếng vì gò bó không nhúc nhích được. Sáng nay, tôi và Biếc phụ họa với chị Cả đòi vào bờ. Mình cứ đậu đây hoài sao, để làm gì chứ, quay về đi bố ơi. Bố quát bảo im miệng, con nít biết gì… Giữa đêm có tiếng nhốn nháo, mọi người chồm ra tàu nhìn xuống. Một chiếc ghe nhỏ táp lại gần, nhao nhao đòi lên. Ông Biên chủ tàu quát lớn: “Không cho nó lên. Lấy cái chày đâu, đưa tao…” Ông ta đập túi bụi vào đầu người đàn ông. Hắn nhảy được lên tàu, mắt long sòng sọc, hắn rút khẩu súng lục, lên đạn, bắn mấy phát lên trời, rồi chộp ngay một đứa bé ngồi ở mạn tàu. “Đ.M. không cho gia đình tao lên, tao quăng con nhỏ này xuống nước.” Bà chủ ghe hét lớn “Ối, không được đụng tới con tao. Cho nó lên đi, ghe còn chỗ đấy…” Họ kéo nhau lên. Nhiều người lầu bầu chửi, ỷ đi lính có súng giỏi uy hiếp. Mệt và chán nản, không ai thèm quan tâm tới ai. Chúng tôi nằm chồng chất lên nhau, thiêm thiếp trong mỗi tâm trạng riêng. Có tiếng đọc kinh tối của một gia đình ngoan đạo nào trong hầm tàu, tiếng kinh líu ríu quyện với tiếng sóng vỗ đều đặn. Tôi cố làm quen với những đợt sóng ngả nghiêng, chòng chành, tôi dựa đầu lên lưng mẹ. Đêm ấy bầu trời trong đầy sao. Tôi nhìn những khoảng trống đen trên biển, cảm thấy lạc lõng. Rồi tôi thiếp đi. Giữa đêm tàu bị sóng động, tôi bị nhồi sóng không ngủ lại được. Nằm thao thức, tôi thấy Biếc thò tay vào túi vải, cái túi cựa quậy. Tôi kinh ngạc chồm dậy. Biếc ra hiệu cho tôi im lặng. Tam Thể hay Mướp? Tam Thể đó. Nó đòi theo. Đừng nói cho ai biết nghe. Miu miu, nằm im, ngoan nào. Tôi cười đồng lõa với Biếc. Sáng 30 rồi, bố thì thào với mẹ, tay ôm cái radio áp sát tai nghe đài. Mẹ vấn lại mái tóc xổ, nhìn hướng vào bờ, trông ngóng. Núi lớn nổi rõ, sừng sững. Ngọn hải đăng đã tắt ngúm từ bao giờ, mặt trời chói chan trồi lên mặt biển. Tôi choàng tỉnh dậy giữa tiếng nhốn nháo ở đầu ghe. Ông Biên chủ tàu đang quát nạt một người đàn bà. “Không được! Bao giờ có lệnh thì tàu chạy.” Ông Biên hách dịch cắp đít bỏ đi. Có khói lên từ phía cuối ghe, mùi cơm sôi thơm ngào ngạt. Chắc gia đình chủ tàu nấu cơm cho nhau ăn. Ba ngày nay, gia đình tôi chỉ ăn cơm nắm mẹ bới mỗi đứa một bịch. Ăn cơm nắm với ruốc, vừa mặn vừa khô thật khó nuốt. Cái gì vào bụng cũng muốn tống ra ngay. Tôi thấy ngăm ngăm đau ở bụng, cái đau khác thường lắm. Lòng bàn tay tôi lấm tấm rịn mồ hôi, run run. Tôi ráng nín đau, kềm nó lại. Tàu lại có thêm vài người mới lên. Nắng chói gắt, nóng ghê gớm, mặt trời đã lên trên ngọn núi. Bỗng có tiếng nổ ầm ở mé trái, ngọn nước bắn cao tung tóe. Người nhốn nháo, kêu rú thất thanh. Việt cộng pháo kích, bắn từ trong đất liền ra? Rồi tiếng súng đì đạch phát ra từ những tàu ghe đậu cạnh. Chung quanh tàu ghe đã đậu sẵn từ bao giờ, cả hàng ngàn chiếc ghe đánh cá đầy nhóc người. Tôi run bần bật, níu lấy áo mẹ, sợ như chưa bao giờ sợ. Chưa bao giờ nghe tiếng súng, tiếng nổ to và sát bên tai thế này. Tôi nói mẹ quay vào bờ, thôi không đi Mỹ nữa đâu. Người đàn ông đen thui từ dưới hầm ghe chui lên, mắt đỏ ngầu giận dữ, quát lớn: “Tổ cha đứa nào mang mèo lên tàu! Đi biển mà mang mèo theo là xui tận mạng. Ai? Đ. má đứa nào ngu vậy, tao vặn cổ ném xuống biển…” Mặt Biếc tái xanh không còn giọt máu, tay run cầm cập. Bố chợt hiểu. Bố quay nhìn chị em tôi, nghiến răng trừng mắt giận dữ. Mẹ ra hiệu nín im, không được lên tiếng. Tôi nắm chặt tay Biếc. Con Tam Thể chui ra túi từ hồi nào, chạy rông kêu meo meo nên bọn tài công biết được. Biếc cúi đầu, không dám hó hé. Gã đen đủi xấu xí kia túm được Tam thể, xách cổ nó lên boong, mắt nó ngơ ngác, co rúm vì sợ. Gã rủa, rồi ném mạnh con mèo rơi tõm xuống biển. Biếc rú lên, tôi cấu tay chị. Biếc bụm miệng, rung bần bật. Tôi bỗng thấy cơn giận ập đến, nhoài người ra tàu nhìn theo con mèo hiền lành của mình đang ngụp lặn, ngáp ngáp, giãy giụa trên sóng. Nó quào quào yếu ớt, rồi chìm lỉm, mất hút. Tam thể mọi khi rất sợ nước. Biếc mím chặt môi khóc không thành tiếng. Tối nào nó cũng nằm ngoan ngoãn lim dim trong lòng chị khi học bài. Kẻ thù, chiến tranh, quân địch ở đâu? Tôi vừa nhìn thấy cái mất mát đầu tiên. Con mèo thân thuộc chìm lỉm làm tôi thấy nhói trong lòng. Cơn đau lại quặn lên từ bụng, nó ngâm ngâm như là… mà không phải, tôi không cần đi ra đầu tàu lúc này… Đầu tôi quay mòng, nhức khủng khiếp. Giữa trưa, nắng lên nóng gắt. Tiếng radio của ông chủ ghe mở lớn, át tiếng xì xào nói chuyện, bàn tán, cãi nhau. Ông Biên quát mọi người im lặng để ông nghe đài. Dương văn Minh đã đầu hàng. Thôi, thế là hết rồi. Người ta nhao nhao hét nhổ neo mà chạy thôi. Đám đàn bà con nít sợ hãi, ré khóc um sùm. Mặc ai nấy khóc, nói, quát nạt, chạy tới chạy lui, bứt đầu bức tóc. Tàu nào chung quanh cũng có cảnh tương tự. Một chiếc ghe lớn đi ngang tông cái rầm vào sườn tàu. Tàu chao nghiêng, tiếng rú thất thanh. Ối lạy chúa, Nam mô a di… Ông Biên hét gã tài công nổ máy, chạy gấp. Đã có lệnh ra khơi. Đoàn tàu nhổ neo túa ra biển như những chiếc lá tre, trực chỉ phía hải phận quốc tế. Tai tôi lùng bùng giữa nhiều thứ âm thanh hỗn tạp, tiếng hét, tiếng khóc, tiếng đọc kinh, tiếng súng nổ, tiếng pháo kích, tiếng máy tàu, tiếng trực thăng quạt trên đầu… Có tiếng bàn tán của những người nhanh miệng trước thời cuộc. Việt cộng đã vào Dinh độc lập. Có người ôm mặt khóc. Làn sóng đài thủ đô đang vỗ tay đánh nhịp: Rừng núi dang tay nối lại biển xa… Dương văn Minh chào mừng người anh em từ miền bắc vào giải phóng. Bố đập mạnh tay vào thành tàu: “Khốn nạn!” Không ai còn lòng dạ nào lắng nghe những lời hát, lời nhạc, diễn từ phát ra từ cái radio ấy. Vài thanh niên đứng lên ngồi xuống, nhấp nhổm trông ngóng ra hướng biển xa. Chúng tôi quay nhìn lại trong bờ, đất liền xa dần, ngọn núi Bãi sau chỉ còn là một chấm li ti ở đường chân trời, thu nhỏ rồi mất hút. Giã từ đất liền, giã từ Việt nam. Chúng tôi đã nhấc chân ra khỏi vùng đất quen thuộc, gắn bó. Tôi chợt nhớ tới một câu trong cuốn sách đã đọc. Chữ quê hương bỗng trở nên lạ lùng, khó hiểu đối với tôi kể từ lúc này. Chiến hạm khổng lồ xuất hiện. Ghe tàu tị nạn bu quanh như đàn kiến. Tàu Mỹ rất lớn, sừng sững như tòa nhà mười tầng. Chúng tôi tiến về phía đó, mọi người trên ghe la ó, mừng rỡ, tay phất cờ Mỹ và cờ vàng ba sọc đỏ. Có tiếng loa phóng thanh từ trên tàu lớn, người thông dịch viên yêu cầu “đồng bào” lần lượt chờ lên tàu theo trật tự. Không có gì gọi là trật tự trong giờ phút này, người mất nước bỏ chạy như đàn kiến vỡ tổ. Mạnh ai nấy leo, mạnh ai nấy đẩy, đè đạp lên nhau để trèo lên. Lão Biên ra lệnh cho thân nhân ông ta khiêng vali hành lý của họ lên trước. Lão quay lại nạt nộ bố không được mang theo gì hết, đồ đạc lính Mỹ sẽ mang lên sau. Mẹ đỡ tôi trèo qua được cái xà lan dập dềnh sát cạnh cầu thang lên tàu. Một ngọn sóng lớn trồi lên, xà lan chòng chành, tôi bước hụt chân, tiếng mẹ hét lớn. Bỗng một cánh tay lông lá, rắn chắc khỏe mạnh của ai vừa nhấc bổng tôi lên. Người lính Mỹ bế tôi lên thang dây, những bậc thang mỏng manh, chòng chành, tôi níu chặt ông ta sợ té. Bụng tôi lại đau quặn, lưng mỏi ghê gớm. Tôi thở ra như sắp đứt hơi. Có cảm giác ẩm ướt chảy sướt, mồ hôi vã ra, bàn tay lạnh ngắt. Điều lo sợ kinh hãi nhất trong đời tôi đang xảy đến, trời ơi, không ngờ nó lại là lúc này. Tôi cắn răng, kềm tiếng rên. Mặt tôi tái nhợt. Trời hành tôi là con gái, tôi than thầm. Không dám rên la hay động đậy mạnh. Những gì “người-lớn” chuẩn bị tinh thần về chuyện hành kinh đầu đời con gái, giờ thấy vô lý hết. Tôi bối rối, sợ và cảm thấy tức giận một điều gì ghê gớm, giận vu vơ. Tại sao lại ngay giờ phút này mà không đợi tháng sau, năm sau? Tủi cực, xấu hổ, tôi ngợp với cảm giác choáng váng, nôn nao, cơn đau càng lúc dồn dập. Gập mình bậm miệng… Đau này có giống cái đau của đàn bà đau đẻ? Tôi không biết làm sao mình qua được những giây phút khốn khổ đó. Tôi chỉ nhớ, người đàn ông Mỹ đó đặt tôi lên chiếc băng ca lúc vừa lên tàu. Có nhiều người tị nạn đã có mặt sẵn ở đó, có lẽ họ di tản trước bằng trực thăng. Họ nháo nhác tìm gọi người thân từ đám người mới lên. Tôi ngất lịm đi. Vì sợ, hay vì đau. Tôi không thể nhớ. Lúc ấy chỉ kịp ghi nhận hình ảnh mẹ tôi lếch thếch chạy theo đám người Mỹ khiêng tôi trên chiếc băng ca về trạm y tế. Tôi không nhớ cảm giác đau bụng đó kéo dài bao lâu. Người y tá cho tôi uống một viên thuốc và đưa tôi hộp băng vệ sinh. Hình như mẹ thay cho tôi cái quần khác. Tôi mơ màng, nóng sốt giữa nhiều hình ảnh. Tiếng khóc, tiếng người gọi nhau trên loa phóng thanh, tiếng sụt sịt, tiếng gào, tiếng thở dài… Tôi hỏi mẹ gia đình mình đâu hết rồi. Mẹ dìu tôi leo những nấc thang lên tầng trên, tìm mãi mới thấy cả nhà tôi đã chiếm ngụ một góc. Chị Biếc đưa cho tôi hộp lương khô lính Mỹ vừa phát và một cái ca đựng cơm nấu độn với cá hộp nhão nhoét. Tôi ngồi thu mình trong góc chiến hạm. Tôi không thấy đói, không có cảm giác gì rõ rệt lúc bấy giờ. Người ta đổ lên chiến hạm mỗi lúc mỗi đông, tàu đã chứa cả gần mười ngàn người. Bố tức giận khi khám phá tất cả tài sản, đồ đạc, vali xách tay của gia đình tôi đều bị bỏ lại trên ghe, gã tài công đã bỏ chạy về đất liền. Mấy bà chị của tôi bật khóc. Thôi, thế là mất hết hình ảnh kỷ niệm, cùng những món đồ quí mang theo. Không ai còn quần áo thay, trừ bộ đồ duy nhất mặc trên người. Tôi rờ túi, tiền mẹ cho vẫn còn. Những tờ giấy bạc làm được gì cho hoàn cảnh gia đình tôi lúc này? Một người đàn ông đầu hói mặc áo vest đen lang thang trên boong, bỗng ông ta ôm mặt khóc thảm thiết. Lúc này, người khóc người cười không còn đánh động sự tò mò chung quanh. Ông ta đi một mình, người ta xì xầm bàn tán. Nghe nói là ông chủ nhà băng, mang được nhiều tiền nhưng không mang được một người thân nào. Người đàn ông cầm cặp táp da, ngồi quị xuống. Ông ta loay hoay mở cặp. Cái nắp bật ra, những tờ giấy bạc văng tung tóe, toàn giấy bạc mới tinh. Một cơn gió biển lướt ngang, những mảnh giấy bạc bay như bướm lượn. Đám trẻ nít nhào tới vồ chộp những tờ giấy. Tiền của Việt Nam Cộng Hòa, giờ vô nghĩa như giấy lộn không mua đổi được gì. Một người thủy thủ Mỹ đi ngang, cúi nhặt một tờ bạc, chăm chú ngắm rồi đút vào túi quần. Để làm kỷ niệm. “Một ngàn năm nô lệ giặc tàu, một trăm năm đô hộ giặc tây… Hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ để lại cho con… Gia tài của mẹ, một nước Việt buồn…“ Đêm 30 tháng 4 Biển gầm sóng, chúng tôi nằm lăn lóc trong góc tối của chiến hạm. Tương lai về đâu. Đất liền ở đâu. Những chòm sao đêm vẫn bình thản ngó. Tôi ứa nước mắt, nằm quay mặt vào trong vách. Cơn đau hành kinh của tuổi 13 đã xảy đến đúng cái ngày oan nghiệt. Không biết gọi điều nào là biến cố lớn trong đời tôi. Rồi cứ đến mỗi tháng, khi cơ thể trở mình theo chu kỳ con gái , tôi sẽ lại đau cái đau ngất ngư này. Cơn đau ngấm ngầm của một đổi thay, ùa vỡ. Tôi ghét tôi, tôi ghét thân phận mình trong một đất nước Việt nam đã sinh ra tôi, để phải tủi cực bỏ nó ra đi trong một ngày kinh hoàng nhất. Tôi khóc vùi trong lòng mẹ. “Dạy cho con tiếng nói thật thà, dạy cho con chớ quên màu da, ôi nước Việt xưa…“ Viết cho tháng 4 đã 30 năm. Texas, 21 tháng 2-2005 Phạm Chi Lan Nguồn: www.bienkhoi.com/so-50/thang-tu-toi-loi.htm
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 18:01:26 GMT 9
Truyện những con tàu: Tuần duyên hạm (PGM) Posted on April 7, 2020 by dongsongcu Trần Lý Tuan duyen ham HQ.604, HQ.615.Các chiến hạm PGM (Patrol Gun Motor), khi HQVN nhận được từ 1963, được gọi là Tuần duyên đỉnh , nhưng sau đó từ 1969 được đổ thành Tuần duyên hạm khi HQVN tiếp nhận các WBP , các tàu nhỏ này được gọi là Tuần duyên đỉnh. Tuần duyên hạm (PGM) là tàu nhỏ nhất, để được gọi là Hạm. Chỉ những vị chỉ huy các Tuần duyên hạm..”trở lên” mới được gọi là “Hạm trưởng” và đeo phù hiệu “Bánh xe-Tay lái”, còn các vị chỉ huy chiến đỉnh chỉ được gọi là.. “Thuyền trưởng”.. Toàn bộ 20 Tuần duyên hạm của HQVN đều thuộc lớp 39 hay PGM-39 class gunboat Class 39 là để phân biệt với PGM-43, dành cho Miến Điện và 53 dành cho Ethiopia (hai lớp này có một số đặc điểm kỹ thuật khác với lớp 39) Lớp PGM-39 được chế tạo tổng cộng 59 chiếc, trong thời gian 1959-1970 tại những xưởng đóng tàu khác nhau tại Hoa Kỳ. HOA DO KIEN TRUC PGMHọa đồ kiến trúc PGM-39. Vài dòng lịch sử : Hải quân thế giới dành tên Gunboat để gọi chung các loại tàu chiến nhỏ, trang bị đại bác nhỏ (40 ly) hoạt động trên sông (river gunboat), và cả những chiến hạm cỡ ‘vừa’ có thể hải hành ven biển (Patrol Gunboat). Lịch sử HQ ghi nhận việc dùng Gunboat từ 1824 trong các trận thủy chiến tại Crimea, Trung Hoa trên sông Dương tử),và cã trong cuộc nội chiến Mỹ (trên sông Mississippi)… Gunboats và các chiến thuyền nhỏ được Hải Quân Hoa Kỳ gọi chung là US Small Combatants.. Từ 1953 Hoa Kỳ đã cung cấp nhiều loại chiến hạm nhỏ cho các quốc gia đồng minh trong đó PGM là những chiến hạm loại nhỏ do HQHK chế tạo trong mục đích bán hay viện trợ cho các quốc gia chỉ có lực lượng Hải quân giới hạn. PGM được sử dụng trong hai mục đích chính : kiểm soát duyên hải và sông khi đổ ra biển là các đường lưu thông của nhiều quốc gia; các nước Á châu có rất nhiều thuyền bè có thể chở các loại hàng hóa bất hợp pháp kể cả võ khí cho các nhóm phiến loạn. Quân viện Hoa Kỳ của tài khóa FY62 bắt đầu cấp các PGM cho VN và sau đó là FY64 cấp cho HQVN 3 chiến hạm , tài khóa FY65 cấp 5 chiến hạm. Việc thay đổi ngân sách đưa đến thay đổi về máy móc trang bị nên các PGM của HQVN đã có các chiến hạm có động cơ khàc nhau.. HUY HIEU BO TU LENH HAM DOI HAI QUAN VNCHHUY HIEU TUAN DUYEN HAM PHU DU HQ600, P COLLECTIONHuy hieu tuan duyen ham Kim Quy HQ605Huy hieu tuan duyen ham Thi Tu HQ613 Huy hiệu, phù hiệu Hạm đội và HQ600, HQ605, HQ613 Các PGM viện trợ cho Việt Nam: Nhiệm vụ của các Tuần duyên hạm của HQVN là: Tuần tiễu ngăn chặn sự xâm nhập của CQ bằng đường biển, yểm trợ các đơn vị bộ binh trên bờ, và sau 1973 còn hộ tống các sà lan, tàu chở tiếp phẩm và đạn cùng quân nhu cho Nam Vang Xếp theo thứ tự ngày chuyển giao : (Số trong ngoặc là số của HK) Tên Việt Nam của các chiến hạm được đặt theo tên một số các hòn đảo thuộc lãnh hải Việt Nam. – Tháng Hai năm 1963 : 5 chiến hạm – HQ 600 Phú Dự (PGM-64) – HQ 601 Tiên Mới (PGM-65) – HQ 602 Minh Hoa (PGM-66) – HQ 603 Kiến Vàng (PGM-67) – HQ 604 Kèo Ngựa (PGM-68) Các PGM trên được đóng tại Xưởng đóng tàu Marinette Marine Corp, Marinette, Tiểu bang Wisconsin, hoàn tất năm 1962. – Tháng Năm năm 1963 : 3 chiến hạm – HQ 605 Kim Quy (PGM-59) HQ 606 Mây Rút (PGM-60) – HQ 607 Nam Du (PGM-61) Đóng tại Xưởng JM Martinac Shipbuilding Corp, Tacoma Washington, hoàn tất tháng Ba năm 1963. TUAN DUYEN HAM NAM DU HQ607 – Tháng Bảy năm 1963 : 2 chiến hạm – HQ 608 Hoa Lư (PGM-62) – HQ 609 Tổ Yến (PGM-63) Đóng tại JM Martinac, hoàn tất tháng Năm 1963 – Tháng Hai năm 1964 : 2 chiến hạm – HQ 610 Định Hải (PGM-69) – HQ 611 Trường Sa (PGM-70) Mariette Marine Corp hoàn tất tháng năm 1963 – – Tháng Giêng năm 1966 : 3 chiến hạm – HQ 612 Thái Bình (PGM-72) – HQ 613 Thị Tứ (PGM-73) – HQ 614 Song Tử (PGM-74) Do xưởng Julius Petersen Builders , Sturgeon Bay , WI hoàn tất tháng 8-9 năm 1965 – Tháng Mười năm 1966 : một chiến hạm – HQ 615 Tây Sa (PGM-80) Julius Petersen đóng xong tháng 6 -1966 – Tháng Tư năm 1967 : 4 chiến hạm sau cùng – HQ 616 Hoàng Sai (PGM-81) – HQ 617 Phú Quý (PGM-82) – HQ 618 Hòn Trọc (PGM-83) – HQ 619 Thổ Châu (PGM-91) Do Petersen, WI hoàn tất tháng 7 đến 12-1966 (Ghi chú : PGM-71 (nhảy số trong danh sách trên) được giao cho HQ Thái mang số hiệu T-11 , các chiếc PGM-75 và 76 giao cho Ecuador, PGM-77 cho Dominican Republic; PGM-78 cho Peru ; PGM-79 cho Thái , số hiệu T-12) Đặc tính kỹ thuật chung của các Tuần duyên hạm của HQVN : – Kích thước : 35.5 m x 6.4 m x 1.8 m – Trọng tải : 140 đến 143 tấn – Động cơ trang bị : 2 loại tùy chiến hạm – 2 máy Mercedes Benz 12V493 TY57 chạy bằng dầu cặn 2200 mã lực ( các HQ từ 600 đến 611 ) – 4 máy Grey GM quads ghép đôi dầu cặn , 2000 mã lực (các HQ từ 612 đến 619) – Vận tốc trung bình 17 knots , có thể đến 20 knots – Tầm hoạt động : 630 hải lý (khi hải hành 16 knots/giờ) – Thủy thủ đoàn : 15- 17 nhân viên – Võ trang : 1 đại bác 40 ly phía mũi, 1 giàn 2 đại bác 20 ly phía đuôi và 2 giàn đại liên .50 đặt 2 bên boong tàu có chiến hạm trang bị thêm 1 súng cối trực xạ 81 ly. TUAN DUYEN HAM KIM QUY HQ605 Truyện.. trên PGM : * Thủy thủ và con tàu : Sinh hoạt của các chiến sĩ HQVN trên các Tuần duyên hạm quả là ‘không thoải mái’ (!), nếu không nói là ‘khổ’ sở : tàu nhỏ, khó cân bằng khi biển động : ‘lắc lư’ con tàu đi .. – HQ Phan Ngọc Long ghi lại trong bài “Những kỷ niệm với Tuần duyên hạm Tây Sa HQ-615 “ (http://www.denhihocap.com/ds2009/hq615.html) ..” Các bạn đi PCF hay CoastGuard không biết phải chịu sóng như thế nào chứ HQ-615 của chúng tôi thì bị lắc cứ như là ‘hột vịt lộn’ mỗi khi biển động ! Đứng kiểu trung bình tấn và gần như bất động, bụng quặn thắt với cơn say sóng, hàm răng cắn chặt, chặn cơn nôn mửa mà lúc nào cũng như muốn chỉ chực trào lên khỏi cổ; hai tay ôm cứng la bàn từ, nhìn mũi tàu trồi lên hụp xuống theo những cơn sóng bạc đầu giờ này qua giờ khác, ngày này qua ..ngày khác !..” – “Hùng Gà tồ” (OCS 6) ghi về sinh hoạt trên HQ-618 trong Đặc San Trần Hưng Đạo Kỷ niệm 25 năm TĐ/SVSQ/HQ Trần Hưng Đạo, OCS-Newport “ .. Dàn PGM từ HQ-610 trở xuống còn đỡ, hai máy Mercedes khá mạnh, chứ còn từ HQ-611 trở lên là tám máy Grey ghép lại yếu xìu..” “.. ra biển thì nhồi như quả trứng trong lòng đại dương, vào sông thì hai máy tiến full cụng chỉ làm bia cho VC tập bắn (?)’.. PGM , tàu cũ máy yếu..sóng to thì radar bị..đui, máy điện sụp, máy chính tiến full mà vận tốc vẫn âm trừ!”.. Đi PGM rất cực: tiện nghi không có, nước ngọt không đủ, phòng ốc chật hẹp.. Đi một chuyến công tác 3 tháng về là sụt cả 10 ký, sóng gió hành hạ… “ “ ..lại còn vụ gõ sét , rỉ sét đâu mà lắm thế.. đi công tác về..chạy rùa, gõ sét bá thở (?)..” TUAN DUYEN HAM TAY SA HQ615– HQ Phạm Viết Khiết (K21) trong “Hải quân Chiến binh từ bờ đến biển” ( đăng nhiều kỳ trên SaigonNho) có những ‘kỷ niệm’ với HQ-615 như sau : “ Nhân viên trên HQ 4 gương mẫu bao nhiêu thì nhân viên HQ-615 lại bê bối bấy nhiêu. Tuần duyên hạm là một chiến hạm nhỏ, hạm phó làm cả công việc của sĩ quan hài hành và nội vụ nữa..Tàu nghỉ bến nhân viên thường trốn trực nhật đi chơi hay về nhà..” – HQ Lê ngọc Trùng Dương ghi lại trong “ Kỷ niệm đời quân ngũ” trên haiquanvietnamconghoa.com : lần HQ-614 công tác tại vùng biển Hà Tiên, hải hành đêm, bị tàu vận tải Sealand đụng “..một tiếng ầm vang dội.. Toàn thân tàu rung động, con tàu nghiêng ngửa. Đ úy cố vấn Dudley từ trên giường tầng cao té xuống sàn tàu. Tôi có cảm tưởng như tàu sắp lật úp và sẽ bị chìm. Tôi vội lên đài chỉ huy , con tàu vẫn chòng chành…Con tàu bị Sealand đụng, bên hữu hạm bị vỡ một khoảng gần nửa thước cạnh khẩu 20 ly !.. chiếc tàu kia biến dạng * PGM chiến đấu : – HQ Phan Ngọc Long (K20): Trong trận Năm Căn- Cà Mau : HQ-615 nhận nhiệm vụ tuần tiễu, ngăn chặn sự xâm nhập của các ghe thuyền CS, yểm trợ hải pháo cho các đơn vị bạn trong khu vực cửa Bảy Háp, Cửa Bồ Đề..HQ-615 bị phục kích khi theo sông Bồ Đề vào Ngã Ba Tam Giang.. Tàu lùi được về Căn cứ Năm Căn sau hai lần bị tấn công liên tục..Trận đụng độ gây Hạm trưởng cùng 5 thủy trơng thương .. Cuối 1973, HQ-615 tham dự các cuộc hành quân hộ tống các đoàn tàu tiếp tế cho Nam Vang, từ Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Đồng Tâm (Mỹ Tho) đến Tân Châu và sau đó HQ Miên lo hộ tống tiếp từ biên giới lên Nam Vang… – HQ Lê ngọc Trùng Dương : HQ-614 thường công tác tại Phú Quốc, Vũng Tàu, Năm Căn, Quy nhơn, Nha Trang nhưng nhiều nhất là Phú Quốc, chặn bắt ghe đánh cá Thái vi phạm lãnh hải, yểm trợ hải pháo cho Căn cứ Năm Căn. TUAN DUYEN HAM HON TROC HQ618 Một số chiến công : – HQ-618 góp phần trong trận chặn bắt tàu xâm nhập CSBV tại Cửa sông Sa Kỳ, mũi Ba làng an (Quảng Ngãi ) ngày 13 tháng 7, 1967 (Xin đọc bài viết về chiến công này trên Dòng sông cũ) – HQ-614 tham dự trận chặn bắt và đánh chìm tàu xâm nhập BV loại SL 5 tại Cửa Bồ Đề, Cà Mau (lần thứ I) ngày 19 tháng 5 năm 1966 (Xin đọc trên Dòng sông cũ) Vài hoạt động của các Tuần duyên hạm (đầu năm 1975) – HQ 601 Tiên Mới : sau khi sửa chữa tiểu kỳ tại HQ Công xưởng . được biệt pháI cho Vùng 4 Duyên hải với các nhiệm vụ tuần tra, ngăn ngừa xâm nhập của VC vùng Bắc Phú Quốc, Dương Đông hay bao vùng Thổ Châu và phía Nam Cà Mau hay Hòn Tre, đôi khi chặn bắt ghe Thái hay Campuchia; hành quân yểm trợ hải pháo tại mật khu Mặt quỷ và có khi vào đảo Thổ châu đón ĐPQ đi phép về An thới.. Đầu 4/75 HQ-601 được lệnh tăng phái cho Vùng I/ZH , khi đến Cù Lao Ré lệnh tạm ở lại VII/ZH, tuần duyên và vào Sông Cầu yểm trợ cho Duyên đoàn 23 di tản, sau đó cặp cầu Cam Ranh và tiếp tục tuần duyên tại Vùng II ..Giữa tháng 4/75 ..thi hành hải vụ đón VIP tại Phan Rang ! (nhóm thân nhân 20 người của Ông Thiệu !) đưa về Nhà Bè.. ! HQ-601 sau đó đậu tại Cầu H.(Theo bài viết của HQ Trần Minh Chánh “Công chúa Tiên Mới” trên Đa Hiệu 71) – Các Tuần duyên hạm tại Vùng 1 ZH : (theo Tướng Hồ văn Kỳ Thoại trong “Can trường trong Chiến bại” : Hải đội 1 Duyên phòng (HQ Tr tá Nguyễn Mạnh Trí ) chỉ huy các PGM : HQ 609 và HQ 615. Ngày 24 tháng 3, Hai chiến hạm này được huy động vào Liên đoàn đặc nhiệm 11.4 tại Cửa Thuận An, các PGM không vào bãi, chỉ yểm trợ bên ngoài…Trong thời gian gian di tản Đà Nẵng , các PGM lo việc bảo vệ an ninh cho Vịnh Đà Nẵng, tạo một vòng đai phía ngoài cách bờ 15 đến 20 miles, nghênh chiến đề phòng phi cơ và tàu thuyền CS tấn công HQ-605 hoạt động tại Vùng 2/ZH, ngày 2 tháng 4 thám sát vùng biển Nha Trang đang bị bỏ ngỏ, khi đến Cầu Đá bị pháo của CQ từ đỉnh Hòn Tre bắn xuống khiến vỏ tàu bị nứt do sức ép của đạn pháo, nước vào tả hạm vẫn tiếp tục hoạt động để về SG sửa chữa. HQ-601 : 27 tháng 4 hành quân yểm trợ hải pháo tại Tân cảng SG : VC chiếm lô cốt bên kia cầu. Chiến hạm dùng hải pháo bắn phá , lực lượng Dù và Cảnh Sát dã chiến tái kiểm soát khu vực.. Số phận các Tuần duyên hạm của HQVN sau cuộc chiến : Sau 30 tháng 4 năm 1975 , số phận các Tuần duyên hạm của HQVN rất mù mờ và kém may mắn ! Tài liệu chính thức chỉ ghi nhận một chiếc duy nhất đến được Philippines trong đoàn tàu di tản.. Hai chiếc ra khơi rồi quay về.(một do Hạm trưởng quyết định và một do bị nhân viên nổi loạn cướp tàu ). một số tự đánh chìm trên sông hay ngoài biển do trục trặc máy móc.. Sau đây là vài chi tiết thu nhặt được trong các tài liệu và sách báo Việt-Mỹ ..: Tài liệu “khả tín” nhất chúng tôi dùng làm căn bản là “Phương vị các Chiến hạm HQ/VNCH ra khơi” của HQ Đ tá Trần Đỗ Cẩm có thể tìm đọc trên camtran1.6te.net/hqtext/achdttxt.html . Ngay như tài liệu của DIA 103-75 chỉ ghi : – Các PGM ra đi : HQ 600; 605; 608; 610; 615 và 618 bị đánh chìm khi di tản : HQ 604 bỏ lại : HQ 601; 602; 603; 606; 607; 609; 611; 612; 614; 616; 617 và 619 Sau đây là số phận của một số PGM : – HQ-600 : Hạm trưởng HQ Th tá Phạm văn Chí ra đi theo đoàn tàu di tàn, nhưng bị đánh chìm trên biển..ngày 30 tháng 4 gần Côn Sơn (theo HQ Tr tá Phạm Đình San trong “Tình trạng Chiến hạm di tản” trên hqvnch.com – HQ-601 : Chiến hạm ở lại với nhiều chi tiết rõ rệt . “ Hạm trưởng là HQ Đại úy Trần Minh Chánh không muốn di tản nhưng vẫn đồng ý chở Phó Đô Đốc CT Cang Tư lệnh HQ và P Đề đốc DQ Thủy rời cầu A lúc 7 giờ 30 ngày 29-4 để ra cửa biển Vũng Tàu, chuyển đoàn tùy tùng của TL Cang lên HQ 3 và Ông Chánh lái HQ-601 về lại Saigon, ở lại cùng Cha là Đề đốc (hưu) Trần văn Chơn không di tản..” HQ Đại tá Đỗ Kiểm trong “Counterpart” ghi lại : Ông Chánh lúc đầu không chịu đưa Ông Cang ra đi..nhưng sau đó đồng ý vì “nể” ông Kiểm : ..” only because you asked me to “ Tuy nhiên Ông Chánh trong bài “Chuyến hải hành cuối cùng của Chiến hạm PGM HQ 601″ trên Lướt sóng Số 52 có một số chi tiết khác hơn : ..”Ông Kiểm..giận dỗi bỏ đi, có lẽ ông nghĩ rằng tôi không muốn thi hành lệnh của ông.. “.. “Tôi mời hai vị Đô đốc và phái đoàn BTL ( có 2 vị phu nhân) nhập hạm HQ-601 hải hành ra biển trong đêm , bằng radar và đến Vũng Tàu lúc 2 giờ sáng…”Tư lệnh bảo tôi xin cập vào các chiến hạm lớn, nhưng không có chiếc nào cho cập, trái lại còn nổ súng về HQ-601 khi tàu đến gần ! Cuối cùng Đô đốc Thủy phải dùng bạch văn để xin cập và được HQ-3 chấp thuận”.. Sáng 30-4, 10 giờ sáng HQ-601 quay về SG cập cẩu C.. Sau khi toàn bộ thủy thủ đoàn rời tàu, cơ khí viên mở lỗ lù…. nhưng sau này 601 đổi số thành 9601 của CSBV ! – HQ-602 : Hoạt động trong tháng 4-75 tại Vùng 4/ZH. Theo đoàn tàu di tản từ Phú Quốc đến Singapore . Hạm trưởng HQ Đ úy Ngô Minh Dương bị giết trên tàu vì từ chối quay về.. Nhóm SQ và thủy thủ nổi loạn ép Hạm Phó lài tàu về SaiGon – HQ-604 : Ngày 29-4 đậu tại Cầu U. Theo Combat Fleet of The World 1978-1979 thì bị hủy trên biển khi di tản. Tài liệu của Ông Trần Đỗ Cẩm : “Hạm trưởng HQ Th tá Nguyễn Thanh Lộc rời bến , nhưng HT ở lại giao quyền chỉ huy cho Thủy thủ đoàn ra điểm hẹn Côn Sơn, chuyển nhân viên sang tàu lớn và sau đó tự đánh chìm..” Theo HQ Đại tá Phạm Mạnh Khuê trong thư gửi cho Đô Đốc Zumvalt thì sáng 1 tháng 5, hạm đội HQVN tại Côn Sơn khi đi Subic có 28 chiến hạm và HQ-604 trong đoàn tàu này.. – HQ-605 : Ngày 29-4 đậu tại Cầu U, đang trong tình trạng sửa chữa cấp tốc chưa hoàn tất, di tản để tập trung tại Côn Sơn, Sau khi chuyển người lên HQ 5 đã tự đánh chìm.. – HQ-607 : Trong bài “HQ 14 và những tháng cuối của cuộc chiến” của Tác giả Phạm Thành (trên bienxua.worldpress.com) có ghi HQ-607 có mặt tại Subic Bay ngày làm lễ hạ kỳ (7 tháng 5, 1975). Một bài báo của “Trung Học Hà Tiên xưa” có ghi lại là HQ-607 theo đoàn tàu di tản đến được Phi ? (HQ-607 rất thường cập bến Hà Tiên) – HQ-608 : Trong những ngày cuối tháng 4-75, chiến hạm công tác tại Vùng 3/ZH và ngày 29-4 nhận lệnh “tự do vận chuyển”. HQ-608 dự trù về SG theo sông Soài Rạp, nhưng đến Vàm Láng tuy có lệnh ..tập trung tại Côn Sơn, chiến hạm tiếp tục hành trình vào Thương cảng, Hạm trưởng HQ Đ úy Nguyễn Trung Tú ghé bến Tân Thuận lên bờ đón gia đình.. Hạm phó đưa tàu cặp cầu A.. Chiến hạm ra đi trưa 30 tháng 4 (vắng Hạm trưởng) ..Trên chiến hạm khi ra cửa biển có hai Tướng Vĩnh Lộc và Trần văn Trung..(theo Trần Đỗ Cẩm, xem HQ-615 bên dưới..) TUAN DUYEN HAM DINH HAI HQ610. – HQ-610 : Các hoạt động của Chiến hạm này không rõ. Theo Jonathan Malay trong tập sách “War in our Wake”. Chiến hạm của ông USS Benjamin Stoddert vào chiều 1 tháng 5 đã vớt được chiếc HQ-610 đang kêu cứu tại một điểm thuộc Vịnh Thái Lan nơi gần Mũi Cà Mau, một số nhân viên đã bỏ tàu tên một thuyền nhỏ, chỉ còn các Sĩ quan cùng vài thuỷ thủ..Vỏ tàu bị nứt, hết khả năng hải hành nên các quân nhân HQVN được lên chiến hạm Mỹ , HQ-610 để tự chìm..Ngày 3 tháng 5 chiến hạm Mỹ vớt được 158 người trên một tàu nhỏ đang trôi giạt và các quân nhân HQVN của HQ-610 đã giúp sức vào cuộc cứu vớt này (Sách có bức hình chụp nhân viên HQVN trên chiếc USS Benjamin Stoddart nhìn cảnh HQ-610 bị đánh chìm) HQ THIEU TA Jonathan Malay, HAM PHO KHU TRUC HAM USS Benjamin Stoddert VA SI QUAN VATHUY THU DOAN HQ610 NHIN HQ610 BI PHA HUY CHIM NGAY 3 THẠNG 1975 – HQ-611 : Đậu tại cầu A : Quyền Hạm trưởng HQ Đ úy Phạm Quốc Nam, khi về nhà đón gia đình, gặp trở ngại.. Chiến hạm bị uy hiếp tách bến, qua khỏi Khánh Hội bị nước vào hẩm máy và chìm trên sông.. – HQ-615 : đậu tại Cầu U . Hạm trưởng HQ Th tá Phạm văn Diên , rời bến tối 29-4, bị hư máy giạt sang Thủ Thiêm, nhưng sau đó sửa được một máy, ghé Sở Hàng Hà đón thân nhân.. trên đường ra biển còn đón được Quận trưởng quận Quảng Xuyên đang trên PBR tại Ngã ba sông Soài Rạp-Nhà Bè.. Đến Côn Sơn chuyển người sang HQ-800 và tự làm chìm tàu..(Theo Điệp Mỹ Linh hai Tướng Vĩnh Lộc và TV Trung ra bến Bạch Đằng xuống một LCM Giang cảnh để xuôi sông SG và dược HQ-615 vớt vào tối 30-4?) – HQ-616 : tại cầu H . Hạm trưởng không di tản. Hạm phó và nhân viên nhờ Hạm trưởng của HQ-619 ra biển..Khi mới đến Công trường Mê Linh, hỏng cả hai máy trôi tấp vào HQ 2 ..Tất cả nhân viên bỏ tàu chuyển sang HQ 2 . – HQ-618 : hoạt động tại Vùng 3/ZH , khi nhận lệnh “vận chuyển tự do” Hạm trưởng HQ Th tá Trần văn Dùng di chuyển về điểm tập trung Côn Sơn và do tình trạng máy móc tốt nên đã tự hải hành đến Subic Bay. HQ-618 là Tuần duyên hạm duy nhất của HQVN được ghi là chuyển cho Hải quân Phi , chiến hạm được đổi tên thành BRP Basilian (phế thải năm 1991) – HQ-619 : đang thời gian tu bổ đại kỳ, vừa ráp xong một máy chánh, đành bỏ lại không thể di tàn được. Ghi chú : Có nhiều sự kiện chúng tôi chưa tìm ra được câu giải đáp thỏa đáng : – Có thể một số PGM của HQVN đến được Subic Bay nhưng chỉ một chiếc duy nhất là HQ-618 được ghi là chuyển cho HQ Phi ? còn HQ-607 mất dạng (?), HQ Philippines có 4 chiếc PGM class 39 (BRP Agusan, Catanduanes, Romblon, và Palawan ) tương tự các PGM của HQVN, trong tình trạng cần tu bổ nên có thể các PGM của HQVN bị họ dùng lấy cơ phận sửa chữa không ..giấy tờ chuyển nhượng ? – Hải quân Hoàng Gia Thái có tổng cộng 9 chiếc PGM Class-39 (loại tương tự như các PGM của HQVN. trong thời gian từ tháng 7-1965 đến 7-1970. Các PGM của Thái kh6ng có tên, chỉ đánh số từ T-11 đến T-20. Chiếc T-1 (PGM-107 của HoaKỳ) đầu tiên định dành cho HQ Thái trong Lực lượng Tình Nguyện HQ Hoàng Gia Thái tại VN , nhưng các kế hoạch này bị bỏ và HQ Thái chỉ đóng góp 3 chiến hạm LST trong Phân đội Sea Horse với 185 nhân viên và thủy thủ. Trong các cuộc hành quân biển Market Time, PGM T-12 của HQ Thái có tham dự với tính cách tăng cường và không có trong lực lượng tham chiến chính thức Sau 30 tháng 4 năm 1975 , không có báo cáo nào ghi nhận việc HQ Thái nhận các chiến hạm tử VN , nhưng trước đó có những chiến hạm nhỏ của Campuchia chạy sang Thái.. – Một bản báo cáo trong Harthingy Quarters năm 2012 khi viết về HQ CSVN dưới tên Vietnamese People’s Navy (VPN) ghi lại một số sự kiện khó hiểu : Sau 30 tháng 4 1975 , ngoài số chiến hạm chạy được sang Phi ,CSVN lấy được “seventeen PGM-type patrol boat, 26 Point-class patrol boat” .. con số 17 này chắc chắn không chính xác ! Bản báo cáo ghi thêm là HQCSVN không phải là lực lượng quan trọng trong Quân đội CS. Đến 2011 chỉ còn 2 LST cũ của HQVN còn hoạt động. Các chiến hạm Trần Khánh Dư và Phạm Ngũ Lão còn dùng trong huấn luyện. Ba PGM cuối cùng lớp PGM-59/PGM-71 bị phế thải năm 2000 Chúng tôi xin chân thành cảm tạ Cựu HQ Thiếu Tá Phùng Học Thông, nguyên Hạm Trưởng Tuần Duyên Hạm Nam Du HQ607 và Anh TVQ đã khuyến khích và giúp sưu tầm rất nhiều hình ảnh và bài vở để có thể viết bài ngắn này. Xin quý vị chiến sĩ HQVNCH vui lòng giúp bổ túc và sửa chữa cho những sai lầm và những thiếu sót không thể tránh được. (Trần Lý 3-2020) Nguồn: Cảm ơn Mr. Trần Lý chuyển.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 18:03:51 GMT 9
Chuyến Hải Trình Định Mệnh – Lê Bá Thông Posted on April 10, 2020 by dongsongcu Lê Bá Thông HAM GOI HAI QUAN VNCH DI TAN NAM 1975 Hình của npr.org Ðịch ngưng pháo kích khi tia sáng đầu ngày bắt đầu le lói trên hàng cây dừa nước hai bên bờ sông. Tôi liên lạc máy với toán kích đang nằm tại hướng hạ giòng và được biết địch cũng vừa ngưng pháo vào Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè và vẫn chưa thấy địch tấn công bằng đường bộ. Tôi gọi máy cho vị Sĩ quan Chỉ huy Giang đoàn bạn và thông báo cho biết là tôi sẽ trở về Căn cứ để thám sát tình hình và tái phối trí đơn vị. Trời đã bắt đầu sáng hẳn khi đoàn chiến đỉnh cặp bến tàu Căn cứ vào lúc gần 0700 giờ ngày 30 tháng 4. Nhân viên lần lượt đổ bộ lên bờ và được lệnh ra các vọng gác. Nhìn cảnh điêu tàn của đơn vị, lửa vẫn còn cháy tại những nhà kho, nhà máy đèn tan tành, đổ nát vì bị địch pháo hỏa tiển 122 ly suốt đêm qua, tôi cảm thấy bâng khuâng nhưng vẫn giữ vững niềm tin là đơn vị còn đứng vững để tiếp tục chiến đấu. Tôi lệnh cho Sĩ quan Truyền tin phá hủy những tài liệu không cần thiết và cố gắng gọi máy liên lạc với Bộ Tư lệnh Hải quân. Tôi hy vọng Bộ Tư lệnh Hải quân vẫn còn đứng vững và mong có thể liên lạc được với những Sĩ quan thâm niên hiện diện, đang ở lại tử thủ như cá nhân tôi, để nhận chỉ thị cần thiết. Sau khi đi duyệt qua tình hình Căn cứ, tôi trở về phòng hành quân và nhận được báo cáo là Sài Gòn đang rối loạn, Bộ Tư lệnh Hải quân không trả lời máy. Tôi phân vân rồi ra lệnh mở kho thực phẩm để phân phối cho các đơn vị bạn và các Giang đoàn đang triệt thối về đây. Những chiến đỉnh thuộc nhiều đơn vị khác nhau như là Liên đoàn Tuần Thám, Phóng Thủy Hỏa, Thủy Bộ, Xung Phong, Trục Lôi… tất cả hơn 100 giang đỉnh không có Ðơn vị trưởng đang xin tạm trú tại nơi này. Khoảng 10 giờ sáng lúc vừa quay về Bộ chỉ huy, bỗng nhiên tôi nghe tiếng chân người chạy rộn rịp, tiếng máy xe Honda và xe Vespa nổ ồn ào. Nhân viên của tôi đang đùng đùng bỏ hàng ngũ, vất lại súng đạn và chạy ra phía cổng chánh. Tôi ra lệnh chận lại để tìm hiểu lý do và được báo cáo là nhân viên mở radio, nghe nói Sài Gòn rối loạn, họ sợ gia đình vợ con thất lạc nên mọi người xin phép được trở về lo cho gia đình. Thế là hết, không ai còn tinh thần để ở lại chiến đấu nữa, mà họ chiến đấu cho ai ở giờ phút này, trong khi những cấp chỉ huy khác đã đưa vợ con ra ngoại quốc rồi chạy theo ra biển thoát nạn. Tôi thở dài chán nản và cảm thấy niềm uất ức dâng tràn lên trong tim. Chỉ trong khoảng khắc đơn vị đã trở nên một bãi vắng bóng người, chỉ còn lại súng ống bỏ lại đầy trên nền đất lạnh. Tôi ngước mặt nhìn trời, nước mắt tuyệt vọng chảy dài xuống má. ***** Trời đổ mưa ào xuống khi chiếc tàu đánh cá chạy ngang qua ngã ba sông Nhà Bè, một hướng chảy về Cát Lái, một ngã xuôi ra sông Lòng Tào, Soài Rạp. Người tỵ nạn đứng ngồi trên sàn tàu, chen chúc nhau dưới các tấm ny lông, thân hình co ro với chiếc áo mưa, trong khi gió sông thổi mạnh phía sau lái, làm tăng tốc lực thêm cho con tàu đi biển loại nhỏ. Các quân nhân Lôi hổ, hờm sẵn súng tiểu liên, phóng lựu M79, hướng về mặt sông, nơi thuyền bè của dân di tản đang xuôi ra biển Vũng Tàu. Trận mưa đám mây không kéo dài lâu lắm, gió mạnh đã bắt đầu dịu xuống và bầu trời trở nên quang đảng, ánh nắng buổi xế trưa lại le lói xuyên qua các vầng mây xám đen, đang bay về phương trời xa. Từ hướng kho xăng Nhà Bè, hàng chục chiến đỉnh Hải quân thuộc các Giang đoàn Xung Phong, Thủy Bộ, Trục Lôi… đang chậm rãi giang hành về hướng Sài gòn. Mọi người trên chiếc tàu đánh cá thắc mắc, không lẽ cấp Chỉ huy của toán chiến đỉnh này không biết gì về việc Tướng Dương văn Minh đầu hàng, Sài Gòn đã thất thủ và Bộ Tư lệnh Hải quân đã bị Việt Cộng vào chiếm rồi hay sao? Lúc bấy giờ đã hơn 12 giờ rưởi trưa, một vài người khoác tay về phía các giang đỉnh đang dẫn đầu, ra hiệu cho các thủy thủ mặc quân phục tác chiến, áo giáp, nón sắt. Dân di tản muốn liên lạc và bảo những chiến hữu này hãy quay tàu chạy ra biển, thay vì tiếp tục về hướng Sài Gòn. Phía trước mặt bên tả hạm, có vài chiếc tàu cũng lớn xấp xỉ bằng tàu đánh cá này. Các nhân viên trên vài chiến đỉnh loại nhỏ của Liên đoàn Thủy Bộ và Tuần Thám có lẽ như đã nhận hiểu thủ hiệu. Họ quay chiến đỉnh trở lại, và lái tàu chạy theo sau những tàu đánh cá, rồi một vài người trong thủy thủ đoàn cổi áo giáp, đeo các sợi dây thừng, leo lên tàu lớn và bỏ lại chiến đỉnh trôi bập bềnh trên sông. Cũng như nhiều quân nhân Hải quân không có gia đình ở Sài Gòn, những thủy thủ này đã quyết định theo các tàu thuyền di tản, vì thấy mọi người đều bỏ quê hương ra đi. Tôi ở trên soái đỉnh của Giang đoàn Thủy Bộ và đang cùng đoàn chiến đỉnh gần 50 chiếc, hải hành về trình diện Bộ Tư lệnh Hải quân tại bến Bạch đằng. Cô Y tá thuộc Bệnh viện của Căn cứ báo cáo cho tôi, về việc Tướng Minh đã đầu hàng quân Cộng sản miền Bắc cũng như ông vừa ra lệnh tất cả các đơn vị thuộc Quân lực Việt Nam Cọng Hòa buông súng và ngưng chiến đấu. Tôi sững sờ, không tin những gì đang nghe, rồi nghẹn ngào uất ức và đau buồn dâng tràn trong tim. Khi chiếc tàu đánh cá chạy ngược chiều với chiếc chiến đỉnh trang bị hải pháo và pháo tháp nặng nề này, Ðại tá Ch. là một Sĩ quan Hải quân ngành Cơ khí, người chỉ huy tàu đánh cá, ra lệnh chuẩn bị ngừng tàu lại. Ông ấy vừa nhận ra người bạn Hải quân, một Sĩ quan cấp bậc Trung tá ngành chỉ huy, thuộc Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè, đang đứng trên boong soái đỉnh. Ông dùng loa nói chuyện và thông báo tình hình cho tôi, Ðại tá Ch. cho tôi biết về tình trạng rối ren tại Sài Gòn và chấp thuận cho gia đình tôi quá giang, đồng thời yêu cầu tôi giúp ông ta đưa tàu này ra biển. Vì người tài công có nhiệm vụ lái tàu, phút cuối đã không đến được và cho đến bây giờ trên tàu không có dụng cụ hải hành, bản đồ… và chỉ có một la bàn từ dùng cho việc định hướng lái tàu. Sài Gòn đã mất vào tay Cộng sản và không còn gì để tiếp tục chiến đấu nữa cả. Sau một hồi đắn đo suy nghĩ, như người mất hồn, tôi gọi máy hỏi ý kiến thuyền trưởng các chiến đỉnh và tất cả đều khuyến khích tôi nên cùng gia đình theo tàu đánh cá ra khỏi vùng lửa đạn. Họ đồng ý và hứa với tôi, sẽ tìm phương tiện để đưa gia đình của họ, đang còn kẹt ở Sài Gòn, di tản ra biển tìm Tự do. Tôi ngậm ngùi chào từ giã các chiến hữu thân mến đã cùng tôi tử thủ và chiến đấu suốt đêm qua, chúc mọi người gặp nhiều may mắn. Sau đó tôi đưa vợ tôi, Minh và bốn đứa con đang còn nhỏ, lên chiếc tàu đánh cá rồi phụ giúp Ðại tá Ch. vận chuyển tàu giang hành ngang qua kho xăng Nhà Bè. Từ xa một cột khói đen bay lên cao từ hướng Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận, suốt đêm bị địch pháo kích phá hủy tan tành và gây nên những đám cháy dữ dội. Tàu ngưng máy một lúc để chúng tôi đón vài nhân viên Hải quân thuộc Căn cứ Yểm trợ này lên. Sau đó mọi người trên tàu đánh cá quyên góp tiền Việt Nam mà họ còn mang theo, nay đã trở thành vô giá trị đối với người di tản, chuyền xuống các chiến đỉnh cho các thủy thủ, hoặc vì lý do này hay lý do khác, quyết định ở lại với gia đình và quê hương. Các người Tàu đưa hết những xấp giấy 1000 đồng cho quân nhân Hải quân với tất cả tấm lòng. Nhân viên giang đỉnh cũng cảm động cám ơn, rồi họ mang ra ba bốn bao gạo, vài thùng mì gói tặng cho người di tản. Họ ngậm ngùi chúc nhau nhiều may mắn và biết đây là lần đầu tiên họ gặp nhau và cũng là lần cuối. Các thuyền trưởng chiến đỉnh đưa cho vị Chỉ huy cũ của mình vài bản đồ khu vực sông Lòng Tào, từ Soài Rạp ra đến Vũng Tàu, loại bản đồ hành quân của đơn vị Bộ binh. Họ còn cho tôi biết là chiếc thương thuyền Việt Nam Thương Tín bị Việt Cộng chận bắn trên sông Lòng Tào khoảng nửa giờ trước đây, vào lúc 1 giờ 30 chiều, một số người bị tử thương, trong số đó có nhà văn Chu Tử. Khi nghe được tin này, Ðại tá Ch. và tôi quyết định thay đổi giang trình, thay vì dùng sông Lòng Tào chật hẹp dễ bị tấn công bởi quân Cộng sản, tôi sẽ vận chuyển tàu theo lộ trình sông Soài Rạp, mặc dù khó hải hành nhưng vì sông rất rộng nên có thể tránh được nguy hiểm và an toàn hơn. Trên sông tàu thuyền tấp nập với những tàu chở hàng LCU của Quân vận, ghe đánh cá dân sự, Giang tốc đỉnh PBR thuộc các Liên đoàn Tuần Thám, phăng phăng rẽ dòng nước đục ngầu, đầy bùn phù sa và rong bèo lẫn lục bình, cuồn cuộn trôi ra phía vịnh Vũng Tàu. Gió mát thổi từng cơn từ phía hàng dừa nước hai bên bờ, mặt nước sông như sáng hẳn lên dưới ánh nắng chiều, lóng lánh ngàn vì sao nhỏ phản chiếu từ giòng sông uốn khúc. Vài con chim cò, chim vạc với đôi cánh dài nhẹ lướt qua những lùm cây thấp bên gành, cạnh rừng lau sậy mọc lưa thưa. Thiên nhiên vẫn bình thản như không có gì thay đổi trước mắt dân di tản. Tuy nhiên mọi người đã nhận thức rằng kể từ giờ phút này, họ bắt đầu một cuộc đổi đời mà định mệnh đã làm cho dân miền Nam phải xa lìa quê cha đất tổ và bỏ lại tất cả những gì quý giá nhất của mình vì không muốn sống dưới chế độ độc tài Cộng sản. Những việc gì sẽ đến trong giờ phút sắp tới đều có ảnh hưởng đến cả cuộc đời của người đi tìm ánh sáng Tự do và an toàn cho cá nhân cũng như gia đình họ. Tàu tiếp tục giang hành với vận tốc chậm vì lòng sông Soài Rạp thay đổi, sâu cạn bất thường, nếu không có kinh nghiệm, tàu sẽ bị mắc cạn, do đó tôi cẩn thận theo sát các chiến đỉnh chạy trước để tránh vùng nước cạn. Thỉnh thoảng tôi ngừng tàu lại, và đón vớt quân nhân đủ mọi cấp thuộc các Quân binh chủng di tản trên các tàu nhỏ, chật hẹp, sắp bị chìm, lên tàu đánh cá này. Từ xa vịnh Vũng Tàu đã thấy xuất hiện về phía tả hạm với ngọn núi nhô lên cao và ngọn hải đăng trắng xóa nằm trên đỉnh. Trên không thỉnh thoảng vài chiếc trực thăng thuộc Không quân Việt Nam Cọng hòa trực chỉ về hướng đông, có lẽ bay ra Ðệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Từ trong Căn Cứ Yểm trợ Tiếp vận Cát Lỡ, các chiến đỉnh Hải quân và Quân vận, chở đầy người tỵ nạn, chen chúc chạy ngang Bãi trước Vũng Tàu, xuôi ra biển. Về phía nam, các chiến đỉnh thuộc đơn vị Hải quân từ Vùng 4 Sông Ngòi nối đuôi nhau đổ ra cửa sông. Một vài chiếc cặp lại bên cạnh các thuyền đánh cá lớn, hay chạy theo các chiến hạm Hải quân để yêu cầu được quá giang, vì chiến đỉnh của họ quá nhỏ, không thể đi xa ra biển khơi. Tàu đánh cá của Ðại tá Ch. cũng lại vớt nhiều gia đình Hải quân trong đám chiến đỉnh này. Vào khoảng 7 giờ tối, tàu tiếp tục chạy về phía đông nam, sau khi tôi dùng chiếc la bàn từ để định hướng và lấy ngọn hải đăng trên đỉnh núi Vũng Tàu làm chuẩn. Dân di tản ngồi chen chúc ngổn ngang trên sàn tàu nhỏ xíu, phía trước và trên boong thượng phía sau lái, mọi người ngồi yên tại chỗ, không thể di chuyển đi đâu được cả. Tổng số người đi tìm Tự do, kể cả người Tàu Chợ Lớn và gia đình, đã lên đến trên dưới 300 người, so với khoảng gần 200 người lúc tàu chạy ngang qua Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè vào lúc hơn 2 giờ chiều ngày hôm nay. Mặt trời từ từ lặn xuống sau rừng cây đang đổi qua màu đen thẫm về phía tây bắc. Chiếc tàu chở đoàn người tỵ nạn, dật dờ, lắc lư trên những đợt sóng dài giữa biển cả mênh mông, trong một buổi hoàng hôn màu tím nhạt, bắt đầu buông phủ và bao trùm vũ trụ. Từng tia sáng chớp lên rồi tắt ngúm từ ngọn hải đăng Vũng Tàu như cây đèn trời giữa đêm tối, gieo trong lòng người di tản nỗi buồn cô đơn trống vắng. Họ cảm thấy tủi thân cho số phận mình, những người đi đày như dân Do Thái, lênh đênh trên chiếc tàu Exodus đi tìm đất thánh ngày xa xưa. Tương lai và thân phận của người Việt tỵ nạn tựa màn đêm bao quanh họ. Hy vọng được cứu vớt thật là mong manh như tìm nước uống trên sa mạc, tùy thuộc vào sự may mắn và định mệnh đẩy đưa. Khoảng 10 giờ tối khi tàu cách xa bờ biển Vũng Tàu khoảng chừng 20 hải lý, mọi người đang chập chờn tìm quên qua giấc ngủ sau một ngày tinh thần căng thẳng và mệt mõi, bỗng họ chợt tỉnh dậy vì nghe tiếng xôn xao từ phòng lái. Hình như Ðại tá Ch. cho biết có một thương thuyền lớn thắp đèn sáng trưng phía bên tả hạm cách chừng một hải lý. Ông ra lệnh tàu tăng máy và hướng về chiếc thương thuyền đó. Khi đến gần, ông dùng ống loa và kêu gọi vị thuyền trưởng xin được phép tiếp cứu và cho dân tỵ nạn Cộng sản lên tàu. Ðây là một thương thuyền Ðại Hàn trên đường về bến tại Hán Thành. Ông thuyền trưởng thương thuyền đặt loa cho biết là ông không thể cho người tỵ nạn Việt Nam lên tàu của ông được vì không có phép của công ty và của chính phủ Ðại Hàn. Họ đang trong tình trạng phân vân chưa biết phải đối phó thế nào trước tình hình sụp đổ quá nhanh của miền Nam Việt Nam. Ông thuyền trưởng rất thông cảm và thương hại muốn giúp người Việt Nam đang gặp hoạn nạn. Nhưng vì vấn đề chính trị mà Quốc gia ông phải đối phó, chính phủ Ðại Hàn cần thời gian cân nhắc, tìm đường lối chính trị hợp với họ, trước khi đi đến quyết định trợ giúp công dân của Việt Nam, một nước trước đây là đồng minh của Ðại Hàn trong cuộc chiến vừa tàn. Sau khi dứt lời, ông ta cầu chúc Thượng đế ban phước lành cho mọi người, và hy vọng những thương thuyền của các nước khác, đã có chỉ thị cho phép nhận người tỵ nạn Việt Nam, sẽ đón những người di tản lên tàu. Thế rồi chiếc thương thuyền mang quốc tịch Ðại Hàn đổi hướng đông bắc, trực chỉ về phía đảo Hải Nam, để lại sau lưng, trên biển một con tàu nhỏ chở đầy những người di tản thất vọng, đang ngậm ngùi nhận thức được cái giá tủi nhục đầu tiên phải trả khi bị nhân loại ngoảnh mặt từ chối giúp đỡ. Bầu trời đầu tháng 5 dương lịch, đầy sao lấp lánh dán trên vòm đen vĩ đại. Vầng trăng nửa vành tỏa tia sáng nhạt xuống vùng biển Ðông, không đủ soi đường cho các chiến hạm, tàu đánh cá, ghe Kiên giang, xà lan, thuyền buồm… đang bập bềnh hướng về phía mặt trời mọc và hy vọng được cứu giúp bởi người bạn đồng minh Hoa Kỳ. ***** Trên bầu trời đầy sao lấp lánh, vầng trăng nửa vành treo lơ lửng về phía tây nam, phía hữu hạm chiếc tàu di tản, đang nhấp nhô đi tìm những Duyên vận hạm (LCU) hoặc tàu đánh cá lớn chạy bằng dầu cặn bỏ lại trên biển, để tiếp tế thêm dầu. Sau một thời gian khá lâu, tiếng gọi từ phòng lái chuyền xuống cho mọi người biết rằng có thể tàu đã tìm ra LCU của Quân vận hoặc tàu có nhiên liệu. Sau đó tôi từ từ vận chuyển tàu đánh cá cặp vào một chiếc LCU, đang trôi bập bềnh trên sóng. Trên tàu này không một bóng người, không có đèn, tối thui, sàn tàu đầy rẫy va li áo quần, xách tay, dụng cụ, giày dép vương vãi khắp boong chính. Ðại tá Ch. chỉ thị tổ chức những thanh niên, nối đuôi thành hàng dài chuyền tay các xô dầu múc từ hầm chiếc Duyên vận hạm đổ xuống hầm chứa dầu của tàu đánh cá. Công tác tiếp tế tập thể diễn tiến tốt đẹp dưới ánh sáng của ngọn đèn rọi từ phòng lái, và tiếng máy rì rầm vang dội trong đêm khuya tỉnh mịch, tại một vùng biển trời mênh mông. Công tác lấy dầu từ chiếc Duyên vận hạm lại tiếp tục dưới ánh sáng mờ ảo của vầng bán nguyệt đang ngã về phương tây, hướng đất Mẹ Việt Nam. Những ánh đèn bin lập lòe, trên tay các bóng đen như ma trơi, thấp thoáng im lặng di chuyển, âm thầm với ý nghĩ riêng tư của mỗi người, đang còn bị ám ảnh bởi sự kiện vừa xảy ra trong chuyến di tản. Tình người, tình mẫu tử, tình cha con bắt đầu thay biến trong cuộc đổi đời. Và trong tương lai họ biết sẽ gặp nhiều ngạc nhiên hơn nữa, khi hội nhập vào đời sống người tỵ nạn tại các quốc gia Tự do với nhiều nhu cầu vật chất hơn giá trị tinh thần. Các người Tàu Chợ Lớn lấy vải vóc, tơ lụa, đồ ngủ may sẵn, những áo quần mà họ dự trù mang theo qua Tân Gia Ba để xử dụng và mua bán, đem ra phân phát cho thiếụ nữ và các bà vợ dân di tản trên tàu. Những bộ áo quần thêu tay thật đẹp và đắt tiền này là món quà chia nhau giữa những người không quen biết, nay cùng chung cảnh ngộ, dù ngôn từ khác biệt nhưng ánh mắt và cử chỉ đã nói lên lòng ưu ái, nhân hậu của tình người. Con tàu di tản cô đơn trên biển cả mênh mông, tách rời chiếc Duyên vận hạm đang trôi dạt xa dần về phía vô định, tiếp tục hải trình về hướng đông sau khi lấy thêm những phi nước ngọt chất đầy trên boong thượng. Ðã gần năm giờ sáng, từ phía chân trời, ánh sáng bình minh đã bắt đầu nhuộm đám mây hồng, đang lờ lững vắt ngang vũ trụ. Mặt trời hình tròn, đỏ chói hiện lên dần từ dưới vùng nước xanh, ánh sáng tựa dòng sông, lóng lánh như vàng, tỏa rực trên đại dương. Từ xa về phía hữu hạm, bóng dáng con thoi dài một chiến hạm Hoa Kỳ nổi bật lên trên mặt biển êm như hồ. Mọi người la lên mừng rỡ vì tưởng sắp được tàu Mỹ cứu vớt. Dân di tản đứng dậy, tay cầm áo quần, khăn tắm, lấy mũ đang đội trên đầu, ngoắc lia lịa về phía chiến hạm Hoa Kỳ để gây sự chú ý của thủy thủ đoàn trên chiếc tàu này. Họ thấy từ xa, vây quanh chiếc Khu trục hạm, cũng có nhiều tàu thuyền chở đầy dân tỵ nạn, đang cố gắng xin tàu Mỹ cho lên. Khi tiến về phía Khu trục hạm, mọi người đều ngạc nhiên khi thấy thủy thủ trên tàu dùng súng trường M16 bắn chỉ thiên lên trời như xua đuổi không cho ghe thuyền dân tỵ nạn đến gần. Tất cả đều thất vọng và thắc mắc. Như vậy là thế nào? Họ tự hỏi, có phải người Mỹ từ chối giúp người di tản không? Tương lai và số phận của họ sẽ ra sao? Những tin tức về chiến hạm Ðệ thất Hạm đội chờ sẵn để tiếp đón dân miền Nam Việt Nam là tin thất thiệt, không đúng sự thật hay sao? Và niềm lo âu trở thành bất mãn, họ la ó dữ dội để thỏa lòng uất hận. Người Mỹ đểu cáng bỏ rơi nước Việt Nam, tự động gửi quân qua Việt Nam tham chiến, rồi kéo quân về nước, và cắt đứt viện trợ năm 1973 làm cho Quân đội mất hết tiềm năng chiến đấu. Thế rồi Mỹ lại giúp phương tiện cho các cấp chỉ huy hèn nhát bỏ lại chiến hữu thuộc cấp, cao chạy xa bay ra ngoại quốc làm suy sụp tinh thần quyết tử của quân dân nhiều lòng yêu nước. Bây giờ Mỹ lại dùng súng đạn xua đuổi, trở mặt không cứu vớt và giúp đở người di tản Việt Nam, đang bập bềnh trên sóng nước biển đông. Trời sáng dần, ghe thuyền dân tỵ nạn không biết từ phương nào tới, xuất hiện càng ngày càng nhiều, lũ lượt chạy quanh chiếc Khu trục hạm. Sau một thời gian ngừng máy, có lẽ để báo cáo cho giới chức có thẩm quyền Hải quân Hoa Kỳ, chiếc Destroyer này vận chuyển, tăng hết tốc lực, đổi hướng về phía nam. Và bỏ lại sau lưng hàng chục chiếc tàu chở dân Việt Nam di tản, đang thất vọng, uất ức nhìn theo cột khói đen mờ dần, rồi khuất hẳn cuối chân mây. Chỉ trong phút chốc chỉ còn những ghe thuyền đang chơi vơi trên biển. Dân di tản lần lượt lái ghe thuyền, trực chỉ phía mặt trời mọc, tiếp tục hải trình và nuôi hy vọng sẽ gặp may mắn hơn. Mặt trời lên cao, làn gió nhẹ từ hướng đông nam không đủ xoa dịu cơn nóng oi bức của buổi trưa đầu hè trên biển. Từ xa về hướng đất liền, mọi người chợt thấy một chiến đỉnh nhỏ của Hải quân, treo cờ vàng ba sọc đỏ đang phăng phăng tiếng về hướng chiếc tàu đánh cá. Tôi nhận ra đây là loại Duyên tốc đỉnh (PCF), có lẽ thuộc Hải đội 3 Duyên phòng tại Vũng Tàu. Quả đúng như vậy, vị Thuyền trưởng, một Trung úy trẻ tuổi và ba nhân viên cặp vào tàu đánh cá và xin Ðại tá Ch. cho phép quá giang vì chiến đỉnh nhỏ không thể đi xa ra khơi được. Trung úy Thuyền trưởng cho biết chiến đỉnh còn dầy dầu, trên dưới 3000 gallons, vì thế Ðại tá Ch. quyết định cho dòng chiếc tàu này theo, để có đầy đủ dầu xữ dụng, đề phòng trường hợp phải hải hành qua Phi Luật Tân. Vào khoảng ba giờ chiều, tàu đang chạy ngon trớn bỗng nhiên vận tốc giảm dần, rồi tiếng máy tàu nổ vài tiếng nhỏ và ngưng hẳn, mọi người tiên đoán hình như máy tàu bị trục trặc. Các Sĩ quan cơ khí quá giang báo cáo cho Ðại tá Ch. là có nước hòa lẫn trong dầu. Có lẽ tối hôm qua, khi lấy dầu của chiếc LCU Quân vận, vì đêm tối nên không ai biết dầu Diesel này có nước trong đó. Không gian chung quanh chiếc tàu quá im lặng vì không có tiếng máy tàu. Thỉnh thoảng vài cơn gió mạnh thổi ngang qua, gây nên tiếng kêu phần phật từ các tấm vải giăng tạm, làm lều che nắng cho người đi tìm Tự do. Chiếc tàu đánh cá đầy ắp dân di tản, dật dờ, bồng bềnh trôi với thủy triều trên mặt biển êm ả. Tiếng người thì thầm nhỏ to, bàn tán với nhau về việc máy tàu bị hư, và lo âu vì đêm qua thương thuyền Ðại Hàn từ chối cứu vớt và sáng hôm nay, Khu trục hạm Mỹ dùng súng bắn đuổi đi. Cho đến bây giờ vẫn không thấy bóng dáng chiến hạm Mỹ khác, như lời đồn đãi của dân chúng Sài Gòn trước ngày 30 tháng 4. Khoảng hơn hai giờ sau, các Sĩ quan Cơ khí đã sửa chữa xong hai máy chánh và mọi người thở ra nhẹ nhõm khi nghe tiếng nổ của máy tàu. Sau khi xác định vị trí trên hải đồ, chiếc tàu đánh cá với chiến đỉnh của Hải đội Duyên phòng, được kéo phía sau lái, chạy trở lại hướng đông bắc, vào thủy lộ của đoàn tàu đi tìm kiếm các chiến hạm thuộc Ðệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Tôi lấy ống nhòm và quan sát bốn phía với hy vọng tìm thấy một đối vật gì trên mặt biển đang ngả sang màu xanh đậm, khi mặt trời bắt đầu thấp xuống dần về hướng tây. Tôi nhìn phía tả hạm, không thấy gì khác ngoài những đợt sóng dài và trời biển như dính liền thành một bức họa màu xanh. Tôi quay về phía hữu hạm, hơi chếch trước mũi tàu và chợt ngừng lại, điều khiển ống nhòm để nhìn thấy rõ hơn. Xa xa, bay lên từ chân trời xanh đậm, một đợt khói đen mờ ảo, thấp thoáng như làn mây mỏng. Quan sát viên ngoài phòng lái đã báo cáo cho Ðại tá Ch. về cuộn khói này và ông ta cũng đang chăm chú đặt ống nhòm quan sát về hướng đó. Có lẽ đây là khói bay lên từ một chiến hạm lớn của Hoa Kỳ, đang chạy cùng chiều với chiếc tàu đánh cá. Với vận tốc quá chậm so với chiến hạm Mỹ, tàu sẽ không bao giờ bắt kịp và cơ hội được cứu vớt sẽ không thực hiện được. Vì thế Ðại tá Ch. quyết định yêu cầu Thuyền trưởng Duyên tốc đỉnh và ba nhân viên tháp tùng một Thiếu tá Hải quân thông thạo tiếng Anh, dùng chiến đỉnh chạy nhanh để bắt kịp chiến hạm Hoa Kỳ, và xin giúp đở dân di tản trên tàu đánh cá này. Sau khi dùng lốp xe hơi bọc kín các súng đại liên, cũng như bao kín khẩu súng 81 ly, để tàu Mỹ khỏi nghi ngờ và hiểu lầm bị tàu Việt Cộng tấn công, chiến đỉnh tăng tốc độ tối đa tiến về hướng chiến hạm Hoa Kỳ. Tất cả mọi người nín thở nhìn theo chiến đỉnh và cũng là niềm hy vọng của họ, đang nhỏ dần trên sóng nước mênh môngỳ. Tàu tăng thêm tốc độ để cố gắng đuổi theo chiến hạm Mỹ, thân tàu rung chuyển thật mạnh dưới sức đẩy của hai máy chánh, khói đen nhả lên bầu trời như dấu hiệu cầu cứu của người thất lạc trên biển khơi. Vào khoảng một giờ sau, chiếc tàu đánh cá đã bắt kịp chiến hạm Hoa Kỳ, đang ngừng lại trên biển chờ đợi. Cặp bên cạnh hông chiến hạm Mỹ là chiếc Duyên tốc đỉnh, vừa làm xong nhiệm vụ cứu mạng sống của hơn 300 người tỵ nạn. Ðây là loại tàu chở dầu (Oiler) cở lớn dùng để tiếp tế ngoài khơi cho các chiến hạm Hoa Kỳ, Hạm trưởng là một Sĩ quan Hải quân cấp bậc Ðại tá. Tôi thông báo cho Trung tá Hạm phó chiến hạm biết là hầu hết trong số gần 300 người di tản trên chiếc tàu đánh cá này, là quân nhân Hải quân và gia đình, rồi tôi xin phép Hạm trưởng chấp thuận giúp đở và cho phép mọi người lên tàu dầu. Lời thỉnh cầu thiết tha của tôi không được chấp thuận vì lý do an toàn của chiến hạm, chiếc Nhiên liệu hạm này không thể chở người trên tàu. Tuy nhiên vị Hạm trưởng đã yêu cầu Bộ Tư lệnh Ðệ thất Hạm đội và được chấp thuận dòng chiếc tàu của dân tỵ nạn ra địa điểm tập trung ngoài khơi của Hạm đội. Toàn thể dân di tản đang lo âu vì không được giúp đở, reo hò mừng rỡ khi nghe Ðại tá Ch. loan báo tin vui. Thế là thoát nạn và sống sót rồi. Mọi người sung sướng, họ ôm nhau, nước mắt chảy dài trên những gò má sạm nắng của các bà mẹ già, thiếu nữ, đàn ông lớn bé nhảy nhót vui mừng, vì biết rằng chuyến hải trình tìm Tự do sắp sửa đến bờ. Thượng đế đã che chở và giúp người dân Việt tìm về đất mới vì họ không muốn sống dưới chế độ độc tài Cộng sản. Màn đêm bắt đầu buông phủ vùng biển đông, gió mát thổi từng cơn làm mọi người cảm thấy phơi phới. Tiếng nói cười ròn rã như mừng hội lớn khi họ đón nhận những dĩa cơm trắng còn nóng hổi, rau giá xào trứng và thịt nạc heo ngon lành do các đầu bếp Mỹ nấu, được chuyền xuống bởi các người thủy thủ trẻ tuổi, từ sau lái chiếc Nhiên liệu hạm. Sau đó dân di tản còn được cung cấp sữa tươi, chuối, cam và táo… Thôi thì đủ thứ thực phẩm, mọi người cảm thấy thích thú, nhai ngấu nghiến, ngon lành vì họ chỉ ăn mì gói gần hai ngày nay. Một ý nghĩ làm cho tôi thắc mắc về sự chuẩn bị quá chu đáo của người Mỹ. Không hiểu đây có phải là một kế hoạch đã được dàn xếp và chuẩn bị từ lâu chăng. Làm sao mà Hải quân Hoa Kỳỳ có thể biết người Việt sẽ di tản ra khỏi miền Nam Việt Nam, để có thể có một chương trình tiếp cứu quá quy mô như thế này. Ðó là chưa kể thức ăn thuần túy của người Việt Nam như cơm trắng, giá xào trứng và thịt heo, sẵn sàng nuôi người tỵ nạn trên biển? Nhưng rồi tôi gạt ý tưởng này qua một bên và tiếp tục ăn dĩa cơm trắng với giá xào, bên cạnh gia đình, vợ con mà tôi không gặp mặt nhiều trong chuyến hải trình tìm Tự do này, vì mãi lo phụ trách việc lái và đưa chiếc tàu đánh cá đến bến an toàn. Chiếc tàu chở dân di tản được dòng suốt đêm với tốc độ thật chậm đến vùng tập trung của chiến hạm thuộc Ðệ thất Hạm đội. Và rồi vào khoảng ba giờ sáng, mọi người nhìn thấy từ xa một vùng trời rực sáng, hào quang tràn ngập một góc trời như ánh đèn của một thành phố nổi. Khi tàu tiến đến gần, mọi người ngạc nhiên và bàng hoàng khi nhìn thấy hàng chục chiến hạm Mỹ đủ loại đang bềnh bồng trong một vùng biển thật rộng lớn, đèn pha rọi sáng trưng, tiếng loa phóng thanh vang dội hòa lẫn với tiếng máy tàu. Không khí thật tưng bừng náo nhiệt như chợ phiên, gồm hàng trăm tàu bè, ghe thuyền lớn nhỏ, xà lan chở đầy dân di tản Việt Nam, đang chuyển người qua các tàu loại đổ bộ như Dương vận hạm hoặc Tiếp tế hạm hay Tuần dương hạm… Công cuộc cứu vớt dân chúng miền nam Việt Nam thật vĩ đại và quy mô chưa từng thấy xảy ra trong lịch sử nhân loại với hàng trăm chiến hạm Hoa kỳ trợ giúp hàng trăm ngàn dân di tản trong ba ngày đầu kể từ lúc Sài Gòn thất thủ. Sáng sớm ngày mồng 2 tháng 5 năm 1975, tôi cùng gia đình theo sau đoàn người trên dưới 300 đã quá giang trên chiếc tàu đánh cá nhỏ, lần lượt leo qua boong tàu, bước lên chiếc cửa “ramp” phía sau lái của chiếc tàu Dương vận hạm mang tên USS Barbour County (LST 1195). Mọi người phải để tất cả hành trang tại chỗ được ấn định, để nhân viên an ninh và thủy thủ đoàn kiểm soát. Tôi để chiếc va li nhỏ đựng áo quần của các con mà vợ tôi mang theo được khi rời Căn cứ Yểm trợỳ, xuống sàn tàu được giăng dây chung quanh, rồi đưa gia đình đi vòng qua phía người lính gác, đứng lại đưa hai tay lên trời, để những thủy thủ này dùng chiếc máy dò tìm kim loại khám xét. Trước khi lên tàu Mỹ, những quân nhân Lôi hổ, được thuê để bảo vệ tàu đánh cá, đều phải liệng các vũ khí cá nhân của họ xuống biển. Thuốc lá, aspirin, dầu xanh, dầu cù là, thuốc chữa bệnh cũng bị thủy thủ đoàn vất xuống biển. Sau hơn ba ngày lênh đênh, hải hành trên biển, vào buổi sáng sớm ngày 6 tháng 5, chiếc Barbour County đã vào hải phận của Phi Luật Tân. Từ xa rặng núi xanh tại thành phố Baguio City nổi tiếng, đã hiện dần trong sương mù trên mặt biển màu xanh dương. Tàu đổi hướng vào vịnh Subic Bay và thả neo khoảng xế trưa. Ðại tá Hạm trưởng Dương vận hạm Barbour County (LST 1195) thông báo trên máy phóng thanh là các chiến đỉnh nhỏ sẽ lần lượt chuyên chở người tỵ nạn vào bờ. Ðồng thời ông cầu nguyện ơn trên ban phước lành và chúc mọi người gặp được nhiều may mắn trong hành trình còn lại đến đời sống mới. Tôi yên lặng đứng trên sàn tàu nóng bỏng của chiếc tiểu đỉnh, nhìn lá cờ Mỹ đang bay phất phới trên kỳ đài của Căn cứ Hoa Kỳ tại Subic Bay, mà lòng cảm thấy thổn thức, ngậm ngùi. Tôi bâng khuâng nghĩ đến một Ðại cường quốc, vì lý do chính trị nội bộ, vì quyền lợi đất nước của họ, đã bỏ rơi cuộc chiến đấu của một Quốc gia nhược tiểu. Trong hơn hai thập niên qua, miền Nam Việt Nam đã hy sinh tính mạng hàng trăm ngàn thanh niên vô tội cho Thế giới Tự do, trong cuộc chiến tranh ý thức hệ; ngăn chặn mưu đồ và hiểm họa nhuộm đỏ Ðông Nam Á của đảng Cộng sản Quốc tế Việt Nga Tàu. Gió mát đại dương không làm giảm bớt cơn nóng miền nhiệt đới và thoa dịu nỗi lòng buồn tủi của dân Việt Nam tỵ nạn Cộng sản. Một cuộc đổi đời phiêu lưu vô định sắp sửa bắt đầu và tiếp tục nối dài chuyến hải trình định mệnh, đang chờ đón người di tản, mất quê hương, nơi phương trời xa lạ. Tiểu bang Virginia, 44 năm sau ngày di tản đau thương Nguồn: minhthong.net/truyen/haitrinhdm.html
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 18:05:45 GMT 9
Cuộc Rút Quân của Pháo Đội Chỉ Huy & Công Vụ của Tiểu Đoàn 23 Pháo BinhPosted on April 21, 2020 by dongsongcu Nguyễn Bá Khương Các phao thu khau doi dai bac 105 ly dang khai hoa yem tro quan ban Tiểu Đoàn 23 Pháo Binh yểm trợ trực tiếp cho Trung Đoàn 6 Bộ Binh. Năm 1970, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và Pháo Đội Chỉ Huy & Công Vụ, từ sân bay Quảng ngãi di chuyển ra Chu lai, đóng trong doanh trại của Trung Đoàn 6 BB trên một đồi thấp, sát Quốc lộ 1 về phía Tây – Đối diện với Căn Cứ Chu lai bên phía Đông QL 1. Năm 1974 BCH/TĐ và PĐCH&CV lại di chuyển sang căn cứ Chu lai đóng cạnh BCH/PB Sư Đoàn 2 Bộ Binh – Các Pháo Đội Tác Xạ đóng rải rác trên QL 1 từ quận Lý Tín thuộc tỉnh Quảng Tín đến sân bay Quảng Ngãi và quận Nghĩa Hành. Sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký kết ngày 27-01-1973; Quân đội Hoa kỳ đã rút hết khỏi Việt Nam – Kể từ đó Không lực Hoa kỳ không còn yểm trợ các cuộc hành quân của Quân đội VNCH nữa mà giờ đây, yểm trợ cho các trận đánh là Pháo binh và Không lực VNCH – Nhưng tiếp liệu Pháo binh bị cắt giảm đến mức tối đa, xăng dầu chỉ còn 1/6 so với năm 1970 và trước đây đạn PB bắn không giới hạn nay mỗi khẩu chỉ được bắn 3 quả trong một ngày.Vào đầu tháng 3/1975 – Tình hình chiến sự tại Quân Khu 1 trở nên khẩn trương và căng thẳng – Cộng sản Bắc Việt mở các trận tấn công hầu hết vào các tỉnh của Vùng 1 chiến thuật – Tại Quảng Ngãi quân Cộng sản Bắc Việt, từ dãy núi phía Tây tấn công xuống quận Nghĩa Hành và Mộ Đức. Trung Đoàn 6/BB/SĐ2 và Biệt Động Quân đã đẩy lui quân CSBV về phía núi. Trận chiến vẫn giằng dai ở đó… Sáng ngày 10 tháng 3/1975 nghe tin quân Cộng Sản Bắc Việt, có chiến xa yểm trợ, đã tràn ngập quận Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Tín, một quận nằm phía Tây Thị xã Tam Kỳ 30 km – Chuẩn Tướng Trần Văn Nhật điều Trung Đoàn 5/SĐ2 và Liên Đoàn 12 Biệt Động Quân lên chặn địch, đồng thời đưa Trung Đoàn 4/SĐ2 lên quận Hậu Đức, một quận nằm phía Tây quận Lý Tín lập tuyến ngăn chặn địch kéo dài từ Tiên Phước xuống quận Hậu Đức. Tiểu đoàn 21 Pháo binh cũng được di chuyển để yểm trợ cho Trung Đoàn 4 BB. Khi nghe tin tại tuyến phòng thủ Quảng Trị, TQLC đã rút về phía sau, thay vào đó là một Liên đoàn BĐQ, một lực lượng yếu kém hơn, khó mà giữ nổi Quảng Trị – Vì thế một số quân nhân trong PĐCH&CV của tôi mà gia đình họ ở Thừa Thiên và Quảng Trị tỏ ra rất lo lắng. Hơn nữa khi nghe tin Ban Mê Thuột thất thủ, thì Quảng Trị cũng khó lòng đứng vững – Nỗi lo của họ có phần đúng. Chiều ngày 15 tháng 3/1975, bạn tôi là Đại úy Hà Viên từ Pleiku gọi điện thoại cho biết Quân Đoàn 2 sẽ rút quân về miền Duyên hải và hỏi tôi tình hình Quân Đoàn 1 ra sao ? Có di tản không ? Tôi cho Viên biết quận Tiên Phước đã lọt vào tay quân Cộng sản Bắc việt và nghe đâu Quân Đoàn 1 đang phối trí lại lực lượng ( Hà Viên trước đây cùng ở TĐ23PB với tôi, sau xin thuyên chuyển về Vùng 2 để gần gia đình ). Viên nói rằng :”- Lực lượng QĐ 2 tại Pleiku còn đầy đủ và rất mạnh , tại sao phải rút !”. Ngày 16 tháng 3/1975 , một Chuẩn úy trong Pháo đội, đến xin tôi cho phép về để đưa gia đình cha mẹ già từ Thừa Thiên vào Đà Nẵng -Anh cho biết : “ Lữ đoàn 369/TQLC sẽ thay thế cho LĐ/Nhảy Dù tại Thượng Đức để quân Dù rút về Sài Gòn – Quảng Trị và Huế sẽ không thể đứng vững “. Sau đó tôi có liên lạc bằng điện thoại với một người bạn làm việc tại BTL/QĐ1, được biết LĐ 3 ND, TĐ 7 ND và BTL/SĐND đã lên tàu về Saigon ngày 17/3/1975. Bạn tôi cho biết thêm : “- Dân chúng Quảng Trị và Thừa Thiên, Huế đã ồ ạt vô Đà Nẵng rất đông, họ di chuyển chật cả đường phố làm giao thông bị tắc nghẽn “. Người dân khi họ thấy Quân Đội di chuyển thì họ cũng chạy theo – Vì không muốn sống với Cộng sản. Buổi sáng ngày 19/3/1975 – Tin tức từ BTL/SĐ 2 phổ biến nói rằng : – Các đơn vị của SĐ2BB sẽ di chuyển ra Đà Nẵng – Súng pháo binh và quân xa được mang theo bằng Dương vận hạm ( LST ), các thương bệnh binh tại TĐ 2 QY cũng được di chuyển an toàn ra Đà Nẵng và tập trung ở đó. Gia đình quân nhân sẽ di chuyển trước – Nghe tin này tôi rất hoang mang và nghĩ rằng Quân Đoàn 1 cũng sẽ rút quân như Quân Đoàn 2 mà thôi ! Trong bao năm qua làm tiếp liệu, tôi thấy mọi thứ đều bị cắt giảm – Quân Đội VNCH chiến đấu trong thiếu thốn mà Cộng Sản càng ngày càng lớn mạnh với vũ khí tối tân do khối CS giúp đỡ. Chiều ngày 19/3/75, Ban tài chánh Tiểu đoàn phát lương cho PĐCH & CV. Ngày 20 tháng 3 phát lương cho các Trung đội và các Pháo đội tác xạ tại Thị xã Quảng Ngãi và quận Nghĩa Hành. Trong ngày này tôi cũng vào trong Quảng Ngãi gặp các Pháo Đội Trưởng PĐ/Tác xạ xem họ cần những gì cho nhu cầu hành quân không ? Tôi có mang theo một số mìn Claymore cho các Pháo đội phòng thủ. Được biết Trung Đoàn 6/BB tiêu diệt nhiều Cộng quân và thu nhiều chiến lợi phẩm – Tôi thật vui mừng khi nghe tin này và cảm thấy an tâm đôi chút. Sau đó tôi ghé TT/HQ gặp Thiếu tá TĐT/23PB báo cáo cho ông rõ những việc xẩy ra tại BCH/TĐ và những tin tức mà BTL/SĐ phổ biến. Ngày 22/3/1975 – Đoạn đường từ Chu lai vào Quảng Ngãi, một số Cộng quân tiến ra cắt QL 1 – Sư Đoàn 2 điều lực lượng đến giải tỏa, vài giờ sau lưu thông trên QL 1 trở lại bình thường . Tiểu đoàn 23PB tiếp tế đạn cho các PĐ đi về trong ngày. Tin tức nghe được từ Quảng Trị và Thừa Thiên biến chuyển nhanh chóng – Toàn là những tin xấu… Chưa bao giờ lòng tôi buồn bằng lúc này – Dòng người di tản từ Huế vào Đà Nẵng càng lúc càng đông, bồng bế, gồng gánh chạy trốn Cộng sản trên đoạn QL1 từ Huế đến đèo Hải vân – Nỗi sợ hãi về sự tàn ác của Cộng sản Bắc Việt hồi Tết Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 vẫn còn ám ảnh nơi họ. Quận lỵ Trà Bồng giáp ranh với Quận Bình Sơn về phía Tây thuộc Tỉnh Quảng Ngãi cũng đã được di tản trước áp lực của địch quân vượt trội hơn về quân số và hỏa lực – SĐ2BB cũng không còn quân trừ bị để gửi tới các điểm nóng. Tôi trở về nhà ngoài phố Chu lai để ăn cơm, vợ tôi nói có nhiều gia đình họ tính xuống bến Kỳ Hà thuê ghe đi vào trong miền Nam. Thấy vợ tôi có vẻ lo âu – Tôi trấn an nàng :” Sư Đoàn đã có chương trình đưa gia đình quân nhân ra Đà Nẵng trước, Sư Đoàn sẽ ra sau, rồi sẽ di chuyển vào Nam “. Ngày 24/3/1975 – 9 giờ sáng phu nhân Đại tá CHT/PB/SĐ 2 gọi điện thoại cho tôi nói rằng :” Ngày mai có trực thăng về Đà Nẵng , Anh hỏi Bà Thiếu Tá TĐT/23/PB , nếu có về Đà Nẵng thì đúng 10 giờ sáng có mặt tại Pháo Binh Sư Đoàn để cùng đi với Bà Đại tá về Đà Nẵng”. Tôi nói với Bà ĐT là buổi chiều tôi sẽ gọi cho Bà ĐT để xác nhận Bà Thiếu Tá có về Đà Nẵng hay không ? Sau đó tôi tới đài truyền tin của đơn vị, gọi vô tuyến cho Thiếu Tá/TĐT đang ở TT/HQ tại Quảng Ngãi – Ông đồng ý để vợ con ông về ĐN với Bà Đại tá CHT/PB/SĐ. Về phòng làm việc, được BTL/SĐ cho biết – Ngày mai (25/3/1975) sẽ có nhiều chuyến LCM chở gia đình Quân nhân đi ĐN tại Cảng Chu lai. Sau đó tôi ra phố Chu lai, tới trường Tiểu học mà bà Thiếu tá dạy học, nhưng trường học đã đóng cửa và tôi cũng được biết trường Trung Học quận Lý Tín cách Chu lai hơn cây số về phía Bắc cũng đã đóng cửa. Về nhà Bà Thiếu Tá, tôi thông báo đầy đủ tin tức cho bà biết và hẹn ngày mai sẽ đón bà vào căn cứ Chu lai lúc 9 giờ sáng. Trở ra ngoài phố Chu lai Dân chúng qua lại vội vàng có nhiều gia đình đang xếp đồ lên xe để di chuyển – Có nhiều nhóm chừng năm mười người tụ lại hỏi chuyện nhau với sắc mặt lo âu – Tôi về nhà ăn cơm, nói cho vợ tôi biết chuẩn bị những thứ cần thiết để trưa mai tôi về chở vào căn cứ Chu lai, rồi ra xe lấy vài lon sữa Guigoz mà tôi mua tại thị xã Quảng Ngãi mấy hôm trước, ít bịch gạo sấy và vài ba hộp thịt đưa cho vợ tôi để sửa soạn – Vợ tôi có vẻ buồn mà không nói ra. Ngày 25/3/1975 – Vợ tôi và 2 đứa con, một đứa chưa đầy 2 tuổi và đứa kia chỉ mới 3 tháng tuổi cùng bà Dì xuống LCM đi ĐN lúc 4 giờ chiều. Đưa vợ con đi rồi, về đơn vị, tôi gặp một người Bạn là SQ Liên Lạc Hành Quân với Trung Đoàn 4BB vừa được bốc về Căn Cứ Chu Lai – Bạn tôi cho biết các Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 4 rút quân qua QL 1, đi thẳng ra biển rồi trở về Căn Cứ Chu Lai – Anh ta có vẻ lo lắng vì năm 1972 khi Pháo đội của anh đóng tại Quế Sơn bị quân CSBV tràn ngập – Bị bắt làm tù binh. Đầu năm 1973 được trao trả tù binh nên bây giờ sợ CS bắt trở lại… Lúc 5 giờ chiều lại nghe tin chiến xa CS đã chiếm Thị Xã Tam Kỳ – Tình hình trở nên nguy ngập. Gần nửa đêm biết tin TĐ 23 PB, Trung Đ 6BB, BĐQ và Tiểu khu Quảng Ngãi của Đại Tá Ngọc đang rút quân về Chu Lai. Tôi theo dõi đến khuya vẫn không thấy tin tức… Sáng 26/3/1975 được biết Thiếu Tá TĐT/TĐ 23PB và Trung Tá Tôn Thất Hồ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 6 cùng một số SQ và Binh sĩ trên mấy chiếc TVX đã về được BCH/Trung Đoàn 6 BB lúc 2 giờ sáng. Từ sáng đến chiều ngày 26/3/1975 đủ mọi sắc lính lẻ tẻ về Căn Cứ Chu Lai hàng trăm người – Trong số đó Pháo Binh cũng có mấy chục người. Trung đội PB đóng tại Quận Bình Sơn cách Chu Lai 8 Km về đông nhất. Trong ngày 26/3/1975 – Quân nhân các cấp thuộc Sư Đoàn 2 BB tại Căn Cứ Chu lai có khoảng 6500 người, có nghĩa là SĐ 2 chỉ còn trên 50% quân số. Trong đó quân nhân tác chiến chừng 3.000 người, số còn lại là quân nhân của các Tiểu Đoàn Tiếp Vận, TĐ Truyền Tin, TĐ Công Binh, TĐ Quân Y, Kho Đạn, Đại Đội Tổng Hành Dinh, BTL/SĐ, PB/SĐ, BCH/TĐ 20PB, BCH/TĐ/ 23PB v.v… Buổi sáng BTL/SĐ quyết định Tử Thủ tại căn cứ Chu Lai : – Yêu cầu các đơn vị cho người tới Kho đạn lãnh thêm về để phòng thủ. Tôi xuống kho đạn nhận được một hỏa tiễn M-72 – Xin lãnh một số lựu đạn nhưng không được thỏa mãn. Về kho đạn đơn vị lấy đạn M-16 phát cho binh sĩ – Tập họp PĐCH, tôi phổ biến lệnh tử thủ của Sư Đoàn. Đến quá trưa, lệnh tử thủ được thay đổi, thay vào đó là Sư Đoàn sẽ rút quân về Đà Nẵng và cho biết các đơn vị di chuyển về bãi biển phía Nam căn cứ Chu lai lúc 7 giờ tối – Có tàu Hải quân vào đón. Tôi hiểu ý Sư Đoàn không muốn bốc tại cảng Chu Lai ở phía Bắc căn cứ vì nơi đó có rất nhiều dân chúng. Cuộc Rút Quân Bắt Đầu : Tất cả những gì tôi viết dưới đây đều là những sự kiện có thực – Mắt thấy, tai nghe và được chứng kiến : Ra khỏi đơn vị, ba lô trên vai, Pháo đội rẽ phải đi về hướng Nam theo đúng lệnh mà Sư Đoàn đã phổ biến. Tôi rất ngạc nhiên thấy bên kia đường một dòng Quân nhân đang đi ngược chiều tiến lên cảng Chu lai về hướng Bắc. Pháo đội tôi vẫn tiếp tục đi hướng Nam như Sư Đoàn đã chỉ dẫn, 40 phút sau tới nơi, nhìn ra khơi tôi thấy chiếc Dương Vận Hạm mang số 505 ( LST ) đang đậu ngoài đó cách xa tôi trên 200m. Đây là chỗ bờ biển lõm vào toàn là những mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước ra tới chỗ tầu đậu. Có năm ba Quân nhân đang lội ra, nhưng bị sóng biển đánh té lên té xuống, không thể biết độ sâu giữa các mỏm đá và nhiều chỗ khoảng nước rộng với sóng biển nhấp nhô rất nguy hiểm. Tôi quay ngược trở lại , mới hiểu rằng tại sao có dòng người đi ngược chiều với chúng tôi về cảng phía bắc của căn cứ – Vì bãi này không thể lên tầu được. Khi đi ngang đơn vị, tôi tạt vào lấy xe Jeep để tới cảng Chu Lai cho nhanh. Tới cảng, tôi đã thấy chiếc LST 505 về đây và đang hạ bửng tàu. Tại sân bến, rất đông người, ước chừng đến bảy tám ngàn người gồm Quân nhân và dân chúng và còn đang tiếp tục đổ về Cảng nhiều hơn nữa. Ở đây không có Ban tổ chức, không có máy phóng thanh, không có ai điều động việc lên tàu. Tôi chọn hướng thẳng về cửa tàu mà tiến tới, nhưng còn cách xa bửng tàu khoảng 25m. Tôi nhìn đồng hồ, lúc này là 8 giờ 30 tối, việc tiến tới cửa tàu, lâu lâu mới nhích được một bước – Những người lính đã bỏ súng, chỉ mang theo ba lô, không có tiếng la hét, không ồn ào và không náo động… Bên tay phải tôi, cách 2m là một hàng Conex xếp dài từ ngoài vào gần tới cửa tàu. Một giờ sau tôi mới tới chỗ cách chéo với bửng tàu khoảng 7m – Lúc đó lực ép của khối người đằng sau đẩy tới rất mạnh, một số người đằng trước tôi đã ngã xuống chồng lên nhau, lớp này trên lớp kia – Tiếng la thất thanh. Tôi bị đè ở lớp trên cùng, hai chân không còn cục cựa, bờ nước cách tôi có 3m. Phía bên kia bửng tàu cũng có tiếng la – Tôi nghĩ rằng bên đó cũng bị đè do sức đẩy dồn ép từ ngoài vào. Người bên trái tôi bị đè chính là Trung Tá Hà Tiểu Đoàn Trưởng /TĐ21PB. Phía sau tôi, chỗ cuối dẫy Conex có nhiều tiếng la lối, tôi ngoảnh mặt nhìn lên hàng Conex thấy 2 cô gái đang chạy trên đó mà trên người chỉ còn chiếc áo ngực và quần lót ( Tôi rõ mặt hai cô này, phải nói sao đây cho nhẹ nhàng – Vâng chính là hai cô gái “ làng chơi “ ngoài phố Chu Lai mà hàng ngày khi về nhà ăn cơm tôi thường nhìn thấy các cô mời chào khách trước một căn nhà, mà nhiều người cũng biết ) – Một cô nhẩy xuống ba lô trên lưng tôi và nhẩy thêm mấy bước nữa trên đầu những người khác rồi nhẩy xuống bửng tàu và vào được trong tàu. Khi thấy 2 cô gái xuất hiện tại bửng tàu chỉ với quần áo lót thì lựu đạn ném vào, có trái nổ dưới nước, một trái nổ trên bửng tàu, tôi thấy họ chạy được hết vào trong tàu, nhưng có một thanh niên quần áo dân sự nằm lại, tôi thấy vệt máu ở cổ chân anh ta chẩy ra, rồi chỉ 30 giây sau anh ta ngồi dậy được và đi vào được trong tàu. Rồi bửng tầu được kéo lên, đóng kín cửa lại và lui ra – Theo sự quan sát và nhận định của tôi thì không có ai chết và chỉ bị thương. Khối người phía sau tôi từ từ dãn ra, tôi không còn bị đè nữa; Không khí ngột ngạt quá, tôi tìm đường ra ngoài xa để thở chút không khí thoáng mát. Nhìn đồng hồ – đúng 10 giờ tối, tôi ra ngoài chỗ xe đậu ngồi nghỉ. Con tầu bây giờ quay ngang, họ ném những giây thừng xuống để cột vào những ụ sắt ở dưới bến – Ai muốn lên tầu thì đu giây, nhiều người ra đến nửa đoạn giây, sút tay rơi xuống nước – Chỉ những người trẻ mới lên tàu được bằng cách này. Một lát sau tôi gặp anh Đổng là Trưởng Chi Cảnh Sát Quận Lý Tín, anh rủ tôi qua Hải Thuyền kiếm phương tiện khác để đi. Đơn vị Hải Thuyền, điện vẫn sáng nhưng họ đã đi hết. Tôi trở lại cảng Chu lai kiếm chỗ vắng đậu xe, Lấy bịch gạo sấy tôi đã đổ nước lúc chiều ra ăn – Tôi nghe nói có vài người chết vì ngạt thở, chính tôi khi bị đè phần chân, mũi miệng vẫn thở được mà còn cảm thấy như bị ngộp. Chiếc LST 505 đón thêm được một ít người bằng leo giây lên tàu, như vậy tàu còn rộng chỗ và rời bến lúc 12 giờ đêm. Với chiếc LST này, chở 3 ngàn người là bình thường, là 1/3 số người tại bến cảng Chu lai. Vài lính Pháo binh mỏi mệt lên xe tôi ngồi đợi tàu. Một chiếc Trực thăng bay trên khu vực bến cảng – Đó là Chuẩn Tướng TL/SĐ Trần văn Nhật, Ông bay liên tục liên lạc với các tàu Hải quân còn đang trên đường tới Chu lai để vào bốc Sư Đoàn 2. Tôi dựa lưng vào ghế, nhắm mắt cho đỡ mệt. Trời tối đen, không thể nhìn xa được. Căn Cứ Chu lai vẫn bình yên – Thị xã Tam Kỳ cách Chu lai về hướng Bắc 25 Km đã rơi vào tay quân Cộng Sản 5 giờ chiều ngày hôm qua – Chu lai vẫn chưa bị pháo kích. Một lúc sau một người lính PB trở về xe báo cho tôi biết : “ – Có một tầu đậu cách đây trên 3 trăm mét, đã mở bửng, một số người đang lội ra, mau lên ông Thầy “ Tôi vội vàng nổ máy xe chạy tới – Chúng tôi tháo giầy cột vào ba lô rồi lội ra tàu cách bờ độ 60 mét – Mực nước sâu dần, mặt nước phẳng lặng, còn cách tàu khoảng vài chục mét mực nước đã ngập đầu, nhưng không sao, mình biết bơi mà… Lên tàu, tôi thấy chừng 100 người đã ngồi xếp thành hàng ngang theo thứ tự – Chưa có nhiều người biết có con tàu, nhưng rồi họ sẽ biết, và như vậy sẽ tốt hơn – Không ai bị chết đuối. Tôi nhìn đồng hồ – Đã 1 giờ sáng, quần áo tôi ướt sũng… Chẳng bao lâu, con tàu đã đầy người – Hầu hết là Quân nhân, trên thành tàu cũng có người. Lúc 2 giờ sáng, có tiếng nói từ loa phóng thanh :”- Tầu bắt đầu rời bến đi Đà Nẵng – Cầu chúc con tàu thượng lộ bình an “ Nghe cũng ấm lòng như thời thanh bình. Tôi mệt quá, ngủ thiếp đi cho đến khi thức dậy lúc 8 giờ sáng. Tôi lên thành tàu quan sát, thấy đây là đảo Lý Sơn. Tôi đã lên đảo này một lần do Sư Đoàn tổ chức ra thăm đảo. Ba chiếc tàu đang neo tại đây là : HQ 505 (LST), HQ 802 (LST) và HQ 401. Cù Lao Ré, Đảo Lý Sơn : Theo chương trình, SĐ 2 sẽ ra Đà Nẵng, nhưng bây giờ được lệnh xuống đảo Lý Sơn do các ghe đánh cá của người dân tại đảo đưa vào bờ. Chiếc tàu tôi đi có hàng trăm người gồm Quân đội và một số ít dân sự, Họ muốn đi Đà Nẵng, không muốn xuống đảo và ở lại trên tàu. Hai HQ 505 và HQ 802 cũng có nhiều người ở lại để đi ĐN – Vì trước đây SĐ 2 đóng tại Đà Nẵng, trại gia binh các đơn vị cũng ở ĐN – Sau SĐ 2 di chuyển vào Quảng Ngãi, gia đình họ không đi theo nên giờ đây họ tìm về gia đình. Sự việc ba chiếc tầu đổ quân xuống đảo để lấy tầu ra ĐN làm cho tôi suy nghĩ :” Có thể ĐN đang bị lâm nguy ! “ và tôi cũng rất lo cho vợ con tôi đã ra ngoài Đà Nẵng cách đây hai hôm trong chương trình di chuyển của Sư Đoàn là : Đưa các gia đình Quân nhân ra ĐN trước rồi Sư Đoàn sẽ ra sau… Tôi là Pháo Đội Trưởng Pháo Đội Chỉ Huy Công Vụ, có trách nhiệm với Pháo Đội, thi hành lệnh là trên hết – Tôi và các Quân nhân lên đảo Lý Sơn buổi sáng ngày 27/3/1975. Tôi đưa Pháo Đội đến ở tại một Trường Tiểu Học; Sau đó tập họp, sơ khởi : Tổng số Quân nhân các cấp là 123 người. BTL/ Sư Đoàn báo cho biết – Có thể mượn gạo của Đảo Lý Sơn. Tôi đi liên lạc và ký mượn một bao gạo 100 ký – Đong cho mỗi người một ca (700 gram). Vì tôi rời cảng Chu Lai lúc 2 giờ sáng, không biết những gì xẩy ra tại Chu Lai sau đó. Tôi có hỏi mấy người lính rời Chu Lai sau tôi, họ cho biết – Khoảng 3 giờ sáng Chu Lai bị pháo kích. Sau đó có tàu vào đón – Đó là LST 802. Số người còn lại lên xà lan nhưng không có tàu kéo… Việt Cộng tới kêu gọi Họ vào bờ. Số người trên xà lan cũng khá đông, trong số đó cũng có lính pháo binh – Một số người trên Xà lan cũng vượt thoát được là nhờ những ghe đánh cá từ xã Kỳ Hà ra đi, chạy qua ghé vào xà lan đón, nhưng phải có tiền. Sau khi ra ngoài cửa biển, kẻ ít người nhiều đưa tiền cho Chủ ghe. Sáng 28/3/1975. Tôi ra quán uống cà phê (cà phê kho), tiện thể mua bao thuốc lá – Không có Captan, đành lấy Ruby Quân tiếp vụ. Trong khi ngồi uống cà phê – Tin tức từ Radio đang mở đài phát thanh Đà Nẵng nói rằng : “ Đà Nẵng sẽ trở thành vùng Trái Độn “ tôi cũng chẳng suy nghĩ gì thêm về tin này và cũng chẳng tin như vậy. Một rổ bánh được mang ra bán, còn nóng – Tôi lấy thử một cái bóc ra ăn – Nếp gói với nhân chuối, không đến nỗi tệ. Tôi mua cả chục cái mang về phòng xa khi cần . Một số lính Pháo Binh gặp tôi nói : ”- Tụi em muốn về lại đất liền, Ông Thầy nghĩ sao ?” Tôi nói cho họ biết là các anh em về hoặc ở lại, hoàn toàn tùy thuộc vào anh em. Hai giờ chiều ngày 28/3/1975 Sư Đoàn kêu Pháo Binh tập họp về BTL/SĐ. Nhưng nửa giờ sau cho giải tán về lại trường học, tôi nán lại nghe ngóng tin tức được biết tại Đà Nẵng đang hỗn loạn -“ Tối hôm qua, phi trường ĐN bị pháo kích, các máy bay đồng loạt cất cánh sang phi trường Non Nước tránh pháo kích. Tình hình trở nên rối loạn không thể kiểm soát nổi “. Ngày 29/3/1975 cũng 2 giờ chiều, Sư Đoàn kêu Pháo Binh tập họp tại BTL/SĐ. Lên đến nơi đã thấy các quân nhân xếp thành hàng hai, từ từ đi xuống bãi biển. Tôi nhìn ra khơi, thấy chiếc Dương vận Hạm đang đậu ngoài đó – Vậy là đã có tàu cho SĐ 2 di tản. Việc lên tàu được thực hiện rất chu đáo và kỷ luật – Đầu tiên Quân nhân xuống ghe đánh cá, chở ra ngoài chừng 200m, đưa người sang mấy chiếc tàu nhỏ bằng sắt nổi lềnh bềnh của Hải Quân; Sau đó chuyển tiếp ra tàu lớn – Công việc tuần tự cứ như thế, nhanh và gọn. Khi lên tàu – Đàn bà, trẻ em và những người già yếu ngồi vào cái sọt bằng sắt, các anh em HQ kéo lên tàu. Còn các Quân nhân lên tàu bằng cách xỏ chân vào mắt lưới và hai tay bám vào lưới từng bước lên tàu. Đến 6 giờ 30 là hoàn tất – Thành công tốt đẹp. Trên boong tàu đã có hai trực thăng đậu sẵn của Chuẩn Tướng Trần Văn Nhật và BTL/SĐ 2/BB. Tàu bắt đầu khởi hành đi về Nam vào khoảng 8 giờ tối. Số người trên tàu bây giờ ước chừng hơn hai ngàn gồm Sư Đoàn 2 Bộ Binh và dân sự – Như vậy đã giảm đi non một nửa bao gồm số người tiếp tục đi ĐN – với số ở lại Đảo Lý Sơn. Cam Ranh : Ngày 30/3/1975 – Lúc 5 giờ chiều, tầu ghé Cam Ranh. Chuẩn Tướng Trần Văn Nhật lấy Trực thăng bay vào đất liền xem xét tình hình. Đứng trên boong tầu nhìn xuống tôi thấy hàng trăm người gồm Quân nhân và dân sự tiếp tục rời tàu xuống Cam Ranh. Chừng 10 phút sau chiếc HQ 401 từ ĐN vào, cũng cập bến phía tay phải của tôi – Đây là chiếc tàu đã chở tôi vượt thoát từ Chu lai ra đảo Lý Sơn; Rồi sau đó ra ĐN tiếp tục bốc người di tản. Nhìn xuống tầu HQ 401 tôi thấy nhiều Quân nhân bị thương – Đầu hoặc chân tay của họ còn băng bó. Cũng có một số Quân nhân trên tầu này xuống Cam Ranh. Hơn một giờ sau, máy bay Trực thăng của CT Nhật trở lại đậu trên tàu. Sau đó con tàu khởi hành xuôi Nam với vận tốc chậm hơn. Suốt ngày 31/3/1975 tàu chạy cặp theo bờ biển, cách bờ một đoạn không xa – Đến 2 giờ sáng ngày 1/4/1975 tàu ngừng lại. Trời tối đen, không thể biết tầu đang ở tỉnh nào. Buổi sáng thức dậy, biết đây là Tỉnh Bình Tuy. Tại Bình Tuy : Sư Đoàn 2 /BB lên bờ trong buổi sáng ngày 1/4/75. Pháo Binh được chỉ định đóng tại Ty Thông Tin Tỉnh Bình Tuy – Ty này lúc đó hoàn toàn bỏ trống. Việc đầu tiên tôi tập họp điểm danh – Tôi chọn một TS1 làm Thường Vụ Pháo Đội Chỉ Huy và Công Vụ. Tổng số Quân nhân về được Bình Tuy là : 104 Quân nhân, trong đó có 4 Sĩ quan. Ngoài ra còn có 3 gia đình vợ con của các Hạ Sĩ quan đi theo – Trong đó có một người vừa mới sinh con đầu lòng được 2 tháng. Tôi cho họ lập bảng danh sách để báo cáo lên SĐ 2 nếu cần. Nửa giờ sau có mấy Nữ quân nhân Phòng Xã Hội tới thăm viếng – Họ cho biết nếu có ai muốn nhắn tin về gia đình trên đài phát thanh thì ghi tên ra tờ giấy – Lời nhắn duy nhất là : Được Bình An. Tiếp theo là một xe Lam chở mì gói tới phát cho mỗi Quân nhân 6 gói – Tôi cũng xin thêm 6 phần cho 3 gia đình đi theo. Nửa đêm ngày 1/4/75 có một đoàn xe gồm Cargo và Jeep chạy vào tỉnh, trên xe có Quân đội và thường dân chạy về bãi biển chỗ mà buổi sáng chúng tôi lên bờ. Sáng hôm sau chúng tôi được biết : Đó là đoàn quân di tản từ Pleiku về – Phần lớn là Biệt Động Quân và có cả dân sự. Sáng ngày 2/4/75 – Lệnh Sư Đoàn nói : – Pháo Binh ra Bãi biển xin xe các loại để có phương tiện hành quân sau này. Tôi đến gặp các Trung Tá, Thiếu Tá BĐQ trình bày sự việc, được các vị đồng ý ngay. Chúng tôi nhận được 5 Cargo và 4 Jeep, đưa về Ty Thông Tin ngay buổi sáng hôm đó. Vài ngày sau các đơn vị BĐQ được tầu chở về Vũng Tàu. Chuẩn Tướng Nhật can thiệp cho mỗi Quân nhân được lãnh 1.000$. Chiều 2/4/75 tôi sang ĐĐ/HCTV/BT lãnh 104 ngàn đồng về phát cho đơn vị; Đồng thời lãnh cho mỗi Quân nhân 2 bộ đồ trận. Tôi có xin lãnh một số nón sắt – Được trả lời rất khan hiếm. Sáng hôm sau được lệnh lãnh 50 bao gạo, mỗi bao 45 kg. Buổi chiều lãnh 400 lít xăng và 800 lít dầu. Nhìn kho tàng tiếp vận, tiếp liệu của tỉnh Bình Tuy trống rỗng… Thật ra đó là tình trạng chung của Đất Nước – Vài năm qua Quân Đội VNCH chiến đấu trong thiếu thốn, chiến đấu trong đơn độc. Máy bay không đủ nhiên liệu để yểm trợ hành quân. Viện trợ bị cắt giảm đến cùng cực. Số xăng dầu lãnh về tôi cho đổ đầy vào các xe, thùng phi trống đem trả ngay cho Đại đội HCTV. Tại Bình Tuy, ngày nào tôi cũng có công việc phải làm nên không nghĩ về gia đình, những Quân nhân trong pháo đội không có việc làm khiến họ ngồi dưới gốc cây buồn rầu nghĩ về gia đình. Tôi phải thường xuyên động viên họ – Có gạo, có tiền, không có điều kiện tổ chức ăn tập thể – Như vậy cũng tốt. Tôi cho từng nhóm ăn chung với nhau : Người thì đi chợ, người nấu cơm, người lặt rau, người nấu đồ ăn, người kiếm củi – Với hai bữa cơm hết cả ngày. Sau đó dọn vệ sinh nên khu vực Ty Thông Tin lúc nào cũng sạch sẽ và thoáng mát và người lính cũng bớt u sầu. Chiều ngày 4/4/75 – Sư Đoàn báo cho biết : – Saigon đã chuyển lên Bình Tuy 2 khẩu 105 ly – Tôi lấy xe chạy ra Phi Trường – Súng còn mới nguyên từ trong kho lấy ra còn đầy dầu mỡ. Công việc làm sạch súng sẽ tiến hành vào sáng mai. Sau đó tôi xuống La Di mua vài thứ cần thiết, nhìn thấy một số Quân nhân SĐ 2 tại bến và vài người đang xuống ghe. Tại đây có hàng trăm ghe lớn nhỏ, ngày nào cũng có nhiều chuyến về Vũng Tàu – Không ai kiểm soát, số Quân nhân bỏ ngũ càng đông. Buổi tối, tôi và Thiếu Tá TĐT vừa ăn cơm xong thì có Trung Tá Hà TĐT/TĐ 21PB tới thăm. Ông cho biết đã đưa gia đình về Sài Gòn mấy ngày trước khi di tản tại Chu Lai bằng máy bay Boing 727. Tiểu Đoàn 21 PB ở đây không còn ai nên ông nói ông sẽ về Sài Gòn. Tôi thầm nghĩ :” Sư Đoàn 2 đang chờ trang bị vũ khí và bổ xung thiết bị ra Phan Rang chiến đấu, đến lúc đó chắc sẽ không còn bao nhiêu người ! ” Pháo đội của tôi Quân nhân là người Quảng Ngãi, Quảng Tín và Đà Nẵng nên Họ vẫn theo đơn vị và hiện diện đầy đủ. Ngày 5/4/75 hoàn tất việc lau chùi và rửa sạch súng, kể như sự chuẩn bị đã xong; Nghe nói sẽ mượn thêm 2 khẩu 105 ly của Tiểu khu Bình Tuy kéo ra Phan Rang. Cũng trong ngày này Đoàn SVSQ Võ Bị Đà Lạt hành quân bộ về tới Bình Tuy trong trật tự. Chuẩn Tướng Nhật đã xin máy bay C – 130 đưa SVSQ/ĐL về Long Thành. Quốc Lộ 1 từ Bình Tuy về Long Khánh đã bị cắt, mọi trang bị cho SĐ 2 đều nhờ vào Không quân – Được biết sẽ di chuyển ra Phan Rang vào ngày 12 tháng 4/1975. Phan Rang : Sư Đoàn 2 nhận lệnh di chuyển ra Phan Rang bằng đường bộ – Vẫn duy trì 3 Trung Đoàn : Trung Đoàn 4 Trung Đoàn 5 , Trung Đoàn 6 mà mỗi Trung Đoàn giờ đây chỉ còn khoảng 450 người – Trung Đoàn 4 và Trung Đoàn 5 tới Phan Rang ngày 14/4/75 với quân số dưới 1 ngàn. Trung Đoàn 6 của Trung Tá Tôn Thất Hồ giữ Phan Thiết. Được biết Chuẩn Tướng Nhật được lệnh đề cử Đại Tá Trương Đăng Liêm, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 4 làm Tỉnh Trưởng Phan Rang thay thế Đại Tá Tự. Trung Tá Chế Quang Thảo, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 4 lên nắm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 4. Đại Tá Hoàng Tích Thông, Tư lệnh Phó SĐ 2, đi với Trung Đoàn 5. Tôi chỉ là một Sĩ quan cấp thấp, không dám có ý kiến – Nhưng tôi nghĩ rằng binh sĩ SĐ 2 đã bị giao động từ những cuộc rút quân tại Quảng Trị và Thừa Thiên – Khi dân chúng chạy vào Đà Nẵng rất đông – Thì người lính SĐ 2 đã bỏ ngũ đi tìm kiếm gia đình. Từ mấy ngàn quân khi rút khỏi Chu lai nay chỉ còn khoảng trên 1400 quân ( Kể cả 104 Quân sĩ của Pháo Binh ). Tại bến cảng Chu lai tôi đã thấy Binh sĩ họ :” Giã từ vũ khí, vĩnh biệt quân binh “ – Nay về Bình Tuy, trang bị thiếu thốn – Mất hết tinh thần chiến đấu. Riêng Pháo Binh chỉ có mấy khẩu đại bác, súng cá nhân M16 thì không có. Lệnh từ Sài Gòn rút Lữ Đoàn 2 Dù về Saigon, thay vào đó là một Liên Đoàn BĐQ của Đại Tá Nguyễn Văn Biết vừa rút quân từ Chơn Thành về, chưa được nghỉ ngơi và bổ xung quân số đã phải lên đường ra Phan Rang với với 3 Tiểu Đoàn mà quân số thiếu hụt, tổng cộng 3 Tiểu Đoàn khoảng 1 ngàn người – Các đơn vị BĐQ điền trám vào các vị trí phòng thủ của Nhảy Dù. Về quân số thì SĐ 2 + LĐ BĐQ lúc này cũng chỉ bằng một LĐ Nhẩy Dù, nhưng về trang thiết bị cũng như tinh thần chiến đấu thì LĐ Dù hơn hẳn. Tóm lại Nhẩy Dù là đội quân mạnh, SĐ 2 và LĐ BĐQ là đội quân yếu – Lấy quân yếu mà thay cho quân mạnh là không hợp lý. Chính vì vậy, chỉ một ngày sau đó, quân CS Bắc Việt bắt đầu rời vị trí ém quân – Pháo kích vào Phi trường lúc 8 giờ tối, đồng thời chúng cho nhiều đoàn xe chở bộ binh cùng Pháo binh, Thiết giáp vượt qua đèo Du Long, vượt thoát khỏi tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 31 BĐQ với mục đích tiến về phía Nam ( Du Long cách Phi trường về phía Tây bắc trên 20 km ). Tại tuyến Ba Râu có TĐ 36 BĐQ và TĐ 11 Dù trừ – Tại tuyến Ba Tháp có TĐ 3 Dù – ( Khi LĐ/BĐQ tới Phan Rang – Chỉ có TĐ 7 Dù và các bộ phận nặng của Lữ Đoàn 2 Dù về được Sài Gòn – TĐ 11 Dù trừ và TĐ 3 Dù ở lại chờ phương tiện về sau nên ta thấy hai TĐ này trên tuyến phòng thủ ). Khi đoàn xe của quân CS tới Ba Râu, Ba Tháp, đã đụng mạnh với lực lượng phòng thủ của VNCH – A-37 cất cánh oanh kích vào đoàn xe làm cho chúng tổn thất rất nặng. Đoàn xe tắt đèn và vẫn quyết tiến tới. Mấy chiếc A – 37 bị phòng không của địch quân bắn thủng bình xăng nên phải quay về đáp xuống phi trường. Chúng chiếm Thị xã buổi sáng sớm, xâm nhập Phi trường và gia tăng pháo kích vào căn cứ. Trực thăng lên nghênh chiến bị hỏa tiễn SA7 bắn cháy. Tình hình trong căn cứ thêm rối loạn. Tướng Nghi và mấy trăm binh sĩ rút khỏi Phi trường vào buổi trưa ngày 16/4/1975 đi về hướng Nam. Sau này chúng ta được biết Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang và Đại Tá Nguyễn Thu Lương đã bị bắt vào buổi tối trong ngày. Căn cứ Không quân Phan Rang và Thị xã hoàn toàn lọt vào tay quân Công sản. Trong trận chiến này – Địch quân ở thế thượng phong về Quân số cũng như vũ khí – Hơn nữa SĐ 2 và LĐ 31 BĐQ là những đơn vị vừa rút quân, cần phải được trang bị lại vũ khí, bổ xung quân số và nghỉ ngơi. Việc rút quân của QĐ 2 và QĐ 1 – Đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần chiến đấu của binh sĩ – Nhất là Tỉnh Phước Long bị mất vào đầu năm 1975 mà không được Hoa kỳ yểm trợ như đã hứa. Pháo Đội chúng tôi ở phía sau rút về Phan Thiết và sau đó về Bình Tuy. Trở Lại Bình Tuy : Pháo Đội về đến Phi trường Bình Tuy lúc 4 giờ chiều ngày 18/4/1975 – Tại Phi trường lúc đó có 2 chiếc máy bay loại nhỏ đang đậu sẵn – ( Những ngày tôi ở Bình Tuy, ngày nào cũng có những chuyến máy bay nhỏ liên lạc giữa BT và Sài Gòn ). Tôi cho Pháo đội xuống xe nghỉ ngơi và ăn cơm. Một lát sau không thấy Thiếu Tá TĐT và hai SQ khác, tôi tới phía sau máy bay mở cửa, đã thấy Thiếu Tá cùng 2 SQ và một số Hạ SQ đang ngồi trong máy bay; Chiếc máy bay kế cũng có một số HSQ, đóng cửa máy bay lại, tới chỗ Pháo đội tôi nói cho họ biết là tôi sẽ tìm phương tiện cho toàn thể Pháo đội về Sài Gòn. Tôi kêu tài xế lái chiếc Cargo trên đó còn 25 bao gạo loại 45kg chạy theo xe tôi xuống bến La Gi Rất nhanh chóng tôi đã bán cho một bà lái buôn số gạo có trên xe với giá : 5.000đ x 25 = 125.000 đồng ( Bán rẻ ). Sau đó tôi và tài xế của tôi cùng xuống ghe chuyền từ ghe này sang ghe khác, ra mãi tới ngoài xa có một chiếc ghe khá lớn, trên ghe có một chiếc xe vận tải, chỉ có đầu máy và dàn bánh – Ghe này sẽ về Vũng Tàu tối nay. Tôi gặp Chủ ghe xin cho Pháo đội di chuyển về Vũng Tàu, có trả tiền cho ghe phần nào. Chủ ghe đồng ý; Tôi cho tài xế lên báo cho tài xế chiếc Cargo còn đang đợi trên bến về Phi trường đưa toàn bộ PĐ xuống bến. Tôi vào mui ghe ngả lưng cho đỡ mệt. Toàn thể Pháo Đội xuống ghe xong lúc 6 giờ 15 chiều. Có 3 người vợ của HSQ với con nhỏ vẫn còn theo PĐ đến giờ phút này – Trong đó có người mới sanh con so được 2 tháng tuổi. Trên 3 tuần lễ Họ theo Pháo đội và cùng chịu cực với đơn vị. Sau khi ghe rời bến, Chủ ghe tới chỗ tôi lấy số tiền là : 88 ngàn ( Đã trừ cho 2 ngàn ) – (PĐ có 90 người trên ghe). Vũng Tàu về Sài Gòn : Mờ sáng ngày 19/4/1975 ghe cập bến tại Vũng Tàu – Có Quân Cảnh tại bến thu lại vũ khí – Khẩu Colt 45 lúc nào cũng ở bên tôi, nay phải đưa cho Quân cảnh. Toàn thể PĐ lên bến – Tôi cho họ 1 giờ 30 phút : – Cafe và ăn sáng… Có 2 xe đò về Saigon – Trên mỗi xe đã có một nửa số người ngồi. Tôi tìm người thu tiền đưa cho Ông ta số tiền 10 ngàn đồng để trả tiền vé cho các Quân nhân trong Pháo đội và nói với ông – Dọc đường có đón khách, Quân nhân sẽ nhường ghế. Ông ta cầm tiền và không nói chi hết – Xe bên kia cũng tương tự như vậy. Về đến Xa cảng Quân cảnh yêu cầu các Quân nhân xuống xe đò và lên 2 chiếc Cargo đã đậu sẵn ở đó – Xe về tới Quân Cảnh Biệt Khu Thủ Đô lúc 13 giờ. Sau một tiếng làm thủ tục giấy tờ xong. Họ mời chúng tôi đi ăn cơm ở sân sau có dẫy nhà tôn mới làm – Có năm sáu người phục vụ – Sẵn cơm và đồ ăn. Đến 4 giờ chiều QC chở chúng tôi qua Bộ Xã Hội đường Trần Quốc Toản chỉ cách xa khoảng vài trăm mét. Đây là nơi dành cho Sư Đoàn 2 BB khi di tản về. Chúng tôi đã gặp lại Thiếu Tá/TĐT, vài SQ cùng HSQ và Binh sĩ đã về đây bằng hai máy bay nhỏ tại Phi trường Bình Tuy chiều hôm qua (18/4/1975) – Tất cả đều vui mừng là tôi đã đưa được Pháo Đội về Sài Gòn an toàn. Buổi chiều tôi về thăm Mẹ tôi tại khu Ông Tạ – Trong nhà rất đông các cháu lớn nhỏ – Con chị tôi từ Tây Ninh về, con anh tôi từ Biên Hòa về; Có thêm 4 đứa cháu con chị tôi di tản từ Pleiku về – Tất cả chạy tới ôm lấy tôi mừng rỡ… Mẹ tôi vẫn đứng cách xa đó; Tôi tiến tới ôm Mẹ – Mẹ tôi vui mừng khôn xiết và có những giọt nước mắt trên má mẹ rơi xuống. Bà đã 75 tuổi rồi, nhưng còn khỏe mạnh lắm – Khi hay tin Vùng 1 rút quân Bà lo lắng cho tôi mỗi đêm ngày. Chị tôi kể lại cuộc di tản từ Pleiku về rất gian nan khổ cực. Gia đình anh chị tôi về đến Saigon trước tôi chừng hơn 10 ngày. Mỗi buổi sáng tôi có mặt tại đơn vị ở đường Trần Quốc Toản xem có tin tức gì mới không ? Vài hôm sau có khoảng 50 Sinh viên SQ/Đà Lạt ra trường sớm – Gắn cấp bậc Thiếu Úy tại BTL / SĐ 2 – Nét mặt các Tân sĩ quan lộ vẻ ưu tư, không thấy sự vui mừng. Tối 21/4/1975 – Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn từ chức. Đây là buổi tối mà trong lòng tôi rất buồn :” Kể từ khi Phước Long rơi vào tay CSBV cho đến Ban Mê Thuột thất thủ, Vùng 2 và Vùng 1 rút quân – Hoa kỳ không hề can thiệp – VNCH chưa bao giờ rơi vào tình trạng đen tối như lúc này “. Ra Vũng Tàu Dưỡng Quân : Sáng ngày 23/4/1975 – Sư Đoàn 2 BB và Pháo đội Chỉ Huy TĐ/23 PB được lệnh ra Vũng Tàu dưỡng quân. Pháo đội đóng quân tại Đặc Khu Vũng Tàu, tôi cho điểm danh quân số, và lập danh sách của PĐ – Khi về tới Sài Gòn có một số QN rời khỏi đơn vị; Nhưng cũng có một số từ ĐN vào tìm đến đơn vị – Hiện diện của PĐ là : 105 QN. SĐ 2 BB chỉ còn : 100 QN- Có Đại Tá Nguyễn Khoa Bảo, Tham Mưu Trưởng; Tr.Tá Tôn Thất Hồ, Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 6 BB ; Trung Tá Chế Quang Thảo, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 4 BB. Ngày 24/4/1975 – Tại khu rừng Chí Linh, nơi mà đồng bào di tản từ Đà Nẵng vào ở đó – Có xe đưa Quân nhân đi tìm thân nhân. Tôi và Đại úy Xếp cùng đi tới đó và Đại úy Xếp đã tìm thấy vợ con Ông tại rừng Chí Linh. Còn vợ tôi với em bé mới sanh chưa được 3 tháng tuổi, khó có thể di tản được. Tôi tới đây để cho biết chứ không hy vọng tìm được vợ con. Ngày 25/4/1975 – Tôi mang danh sách Quân nhân PĐCH/TĐ 23PB lên Bà Rịa để lãnh cho mỗi Quân nhân 30 ngàn đồng, không phân biệt cấp bậc – Đó là lương tháng 4/1975. Tôi lãnh số bạc tổng cộng là : 3.150.000 đồng. Sau đó lãnh 20 bao gạo loại 45 kg. Về Đặc khu tôi phát cho mỗi người 30 ngàn xong trong ngày. Ngày hôm sau, Đại Tá Nguyễn Khoa Bảo, Tham Mưu Trưởng SĐ 2 kêu Pháo binh chúng tôi tới – Đại Tá muốn trang bị súng cá nhân cho chúng tôi; Theo ĐT vào nhà kho , có rất nhiều súng M 16 , cầm lên xem , tôi thấy nòng súng đều bị rỉ sét bởi nước biển khi di tản . Tôi trình bày với ĐT – Muốn xử dụng những súng này , phải có cây thông nòng , dầu các loại và giẻ lau nòng súng . Đại Tá không nói gì và ra khỏi nhà kho. Lúc này nghe tin Sư Đoàn 18 triệt thoái khỏi Xuân Lộc về Long Bình. Lữ Đoàn 1 Dù xuất phát khỏi SĐ 18, về Bà Rịa rồi ra bảo vệ Thị Xã Vũng Tàu. Ngoài ra Thị Xã cũng có một đơn vị TQLC trấn giữ. Trong khi đó TĐ 9 ND thuộc LĐ 1 Dù đang đụng mạnh với một đơn vị CSBV hùng hậu có xe tăng yểm trợ. TĐ 9 Dù rút về Vũng Tầu, qua cầu Cỏ May xong – Công binh Dù đặt chất nổ phá sập một nhịp cầu để ngăn chặn chiến xa địch. Sự giao thông từ Vũng Tàu về Saigon hoàn toàn bị gián đoạn kể từ ngày 28/4/1975. Trong thời gian SĐ 2 và PB ở Đặc Khu VT – Chuẩn Tướng Trần Văn Nhật TL/SĐ2/BB có đến thăm 2 lần – Nói chuyện với QN các cấp trong SĐ – Lần thăm chót của Chuẩn Tướng Tư Lệnh vào ngày 29/4/1975; Lần viếng thăm này có Bác sĩ Thiếu Tá Lang TĐT/TĐ 2 Quân Y tháp tùng. Thiếu Tá Lang nói với tôi : “- Chuẩn Tướng sẽ bay về Quân Đoàn 4 xem xét tình hình “. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐ 1, QK 1 cũng đến thăm SĐ 2 – Có một Đại Úy đi theo. Trung Tướng không nói chuyện với Quân sĩ – Chỉ nhìn và quan sát một hồi… Rồi ra đi – Nét mặt Trung Tướng rầu rầu. Tôi luôn trân trọng vị Tướng này – Thông cảm với những khó khăn quá đỗi mà Ông phải thi hành lệnh rút quân mà ông không hề mong muốn – Cả một Quân Đoàn hùng mạnh với trên 100 ngàn quân bỗng chốc đã tan biến ! Đêm 29/4/1975 – Một cơn mưa lớn đổ xuống thành phố Vũng Tàu, sấm sét chớp liên hồi – Buồn thương cho thân phận VNCH – Các Tỉnh Thành rút đi còn nhanh hơn địch quân tới tiếp thu. Không thể tưởng tượng nổi – Chỉ hơn một tháng mà một nửa Đất Nước đã rơi vào tay giặc. Ngày 30/4/1975 – Pháo đội quây quần bên chiếc Radio, nghe ngóng tin tức – Không một tin nào vui mừng, cho đến khi Tổng Thống Dương Văn Minh nói trên Đài Phát Thanh là Các anh em Quân nhân hãy bỏ súng xuống, chờ quân giải phóng đến bàn giao ! Ôi tất cả đã xụp đổ. Tôi vội nói lời chia tay ngắn ngủi với các Quân nhân trong Pháo Đội đứng quanh đó – Mọi người đi lấy đồ cá nhân, rời khỏi Đặc Khu Vũng Tàu. Pháo Đội Chỉ Huy và Công Vụ Tiểu Đoàn 23 Pháo Binh Sư Đoàn 2 BB tan hàng tại Vũng Tàu kể từ khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên Đài Phát Thanh Sài Gòn lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30/4/1975. Sau đó Việt Cộng bắt đầu pháo kích vào Đài Radar Vũng Tàu – Tiếng nổ khủng khiếp, đinh tai, nhức óc, hơn một giờ sau mới chấm dứt pháo kích. Lời Cuối : Phần trình bày trên đây, người viết ghi lại những sự kiện có thực đã mục kích hoặc nghe nói trong phạm vi hiểu biết của một Sĩ quan Pháo Binh Pháo Đội Trưởng – Đã 39 năm trôi qua – Tìm hiểu thêm, cũng muốn đóng góp những suy nghĩ của mình về việc rút quân của Sư Đoàn 2 BB và trận chiến cuối cùng của Sư Đoàn 2/BB và PĐCH&CV/TĐ 23PB tại Phan Rang. Trong việc rút quân của Sư Đoàn 2/BB. Tướng Trần Văn Nhật đã có những quyết định nhanh chóng và kịp thời – Khi quân CS tràn ngập quận Tiên Phước, Chuẩn Tướng Nhật đưa Trung đoàn 5 và BĐQ lập tuyến ngăn chặn, nhưng vì ảnh hưởng việc rút quân của Quảng Trị và Huế nên một số Quân nhân đã bỏ hàng ngũ đi tìm gia đình – Hơn nữa quân CS với vũ khí tối tân và chiến xa yểm trợ nên Tướng Nhật đã cho rút quân về Căn Cứ Chu Lai – Lúc 5 giờ chiều ngày 25/3/1975 Chiến xa quân CSBV đã chiếm được Thị xã Tam Kỳ cách Căn Cứ Chu Lai 25 Km về phía Bắc. Tình hình thật nghiêm trọng, nhưng quân CSBV chưa thể tấn công Căn Cứ Chu Lai được nên ngay đêm đó Tướng Nhật cho Trung Đoàn 6, BĐQ, TĐ 23PB và Tiểu khu Quảng Ngãi rút quân về Chu Lai để sáng hôm sau phát lệnh Tử Thủ. Đồng thời Tướng Nhật liên lạc với Hải Quân cho tàu đến bốc Sư Đoàn 2BB – Chiếc LST 505 đến đúng hẹn 7 giờ tối (26/3/1975) – Những chiếc khác còn cách xa Chu Lai về phía Nam. Đêm đó Tướng Nhật dùng Trực Thăng bay ra biển liên lạc và hối thúc các tàu mau tới – HQ 401 tới lúc 1 giờ đêm, LST 802 lúc hơn 3 giờ sáng – Đó là những quyết định kịp thời và nhanh chóng cùng mọi cố gắng của Tướng Trần Văn Nhật trong vài ngày cuối cùng trước khi rút quân an toàn tại Căn Cứ Chu Lai. Sư Đoàn 2 BB về Bình Tuy chờ bổ xung quân số và các trang thiết bị. Tình hình an ninh ổn định và Tỉnh lỵ vẫn yên bình. Sau 10 ngày Sư Đoàn 2 BB nhận lệnh ra tham chiến tại Phan Rang với quân số ít ỏi và trang bị thiếu thốn – Nhưng vẫn còn đầy đủ các SQ của Bộ Tư Lệnh như : Chuẩn Tướng TL Trần Văn Nhật, Đại Tá TL Phó Hoàng Tích Thông, Đại Tá TMT Nguyễn Khoa Bảo, HQ/TV – Đại Tá Nguyễn Thới Lai, Pháo Binh SĐ Đại Tá Lê Thương và các Trung Đoàn Trưởng. Về tương quan lực lượng – CSBV gồm có : SĐ F 10, SĐ 3 CSBV, SĐ 325 và Đoàn 968, Phòng không dầy đặc, Thiết giáp : 200 chiếc, Pháo binh, Hỏa tiễn SA-7. Tổng cộng quân CSBV trên 20 ngàn người. VNCH gồm có : LĐ 31 BĐQ, SĐ 2 BB, TĐ 3 Dù, TĐ 11 Dù, 2 Tiểu đoàn ĐPQ, SĐ 6 KQ yểm trợ – Tất cả trên 4 ngàn người. Ngoài ra Nha Kỹ Thuật gửi ra 3 toán Thám sát, mỗi toán 10 người để giúp BTL Tiền Phương Quân Đoàn 3 biết được những đơn vị CS đang có mặt tai khu vực. Xét về khả năng tham chiến thì địch vượt trội hơn ta cả về quân số lẫn vũ khí và có ưu thế đủ mọi mặt. Căn cứ Phan Rang rộng lớn, có đầy đủ cơ sở, kho tàng, ụ chứa, kho bom, bồn xăng v.v… Mọi quả pháo của địch quân đều rơi trọn vào Phi trường. Sáng 16/4/1975 quân CSBV pháo kích liên tục gây rối loạn trong căn cứ – Trực thăng bị SA-7 bắn cháy – Cộng quân đã có mặt vòng ngoài của Phi trường. Tướng Nghi ra lệnh rút lui qua cổng số 1. Đoàn quân rút đi trong vòng vây trùng điệp của địch quân – Cuối cùng Tướng Nghi và Tướng Sang đều bị bắt tối ngày 16/4/1975. Đại Tá Nguyễn Thu Lương quay lại tìm Trung Tướng Nghi để rồi cũng bị rơi vào tay địch – Pháo Binh ở phía sau được lệnh rút về Bình Tuy an toàn – Cuối cùng ở Vũng Tàu với Quân số 105 người và Sư Đoàn 2 BB 100 người. Tôi viết những lời cuối này mọi sự chỉ quy về lòng Dũng cảm của các Tướng lãnh, SQ và các Chiến sĩ của những đơn vị VNCH tham chiến cho dù với số quân ít ỏi và hỏa lực không tương xứng, nhưng tất cả đều mang sự hy sinh thân mình trong trận chiến cuối cùng dù sống hay chết cũng để trả nợ Non Sông Đất Nước. Nguyễn Bá Khương. hoiquanphidung.com/showthread.php?17856-Cu%E1%BB%99c-R%C3%BAt-Qu%C3%A2n-c%E1%BB%A7a-Ph%C3%A1o-%C4%90%E1%BB%99i-Ch%E1%BB%89-Huy-amp-C%C3%B4ng-V%E1%BB%A5
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 18:09:27 GMT 9
Trại LLĐB Gia vực và TĐ 70 BĐQ Biên PhòngPosted on April 12, 2020 by dongsongcu Trần Lý Địa danh Gia vực rất xa lạ không những với người dân ‘thị thành’ mà cũng còn với các quân nhân QLVNCH nếu không phục vụ tại Vùng 2 Chiến Thuật ..Trong loạt bài viết về các Trại LLĐB trấn giữ biên giới và các Tiểu đoàn BĐQ Biên phòng, bài Gia vực được lấy từ một nguồn cảm hứng thật đặc biệt : Tập sách “Qua đồi Trinh nữ” của Thảo Nguyên, một truyện dài ‘rất thật’ mà tác giả (một cựu Sĩ quan CTCT) đã kể lại trong gần 500 trang sách ..Tập sách đã được rất nhiều đọc giả khen ngợi như một tác phẩm hiếm hoi viết về chiến tranh với những tình tiết lãng mạn ..khá lôi cuốn .. LLDB GIA VUC 1LUC LUONG DAC BIET GIA VUC 2 Vài đặc điểm địa lý : Vị trí : Gia vực là một xã của Quận Ba tơ, Tỉnh Quảng Ngãi (Quảng Ngãi có ba tỉnh miền núi là Minh Long, Sơn Hà và Ba tơ) Gia vực nối với Ba tơ bằng QL 24. Về phương diện hành chánh Xã Gia vực chỉ có 4 ấp đánh dấu bằng A, B,C và D nằm gọn trong một khu lòng chảo có núi non bao quanh Trại LLĐB Gia vực nằm cách Quận lỵ Ba Tơ 18 km về phía Tây- Tâynam ; cách LZ English 56 km phía Tây Bắc .. Phi trường Gia vực :có phi đạo đất nện dài 3200 ft , các C-123 có thể đáp xuống. Trại cũng kiểm soát TL 5 nối KonTum và Quảng Ngãi Sông Rê tuy cạn vào mùa khô không thể di chuyển bằng thuyền nhưng lại dâng cao và chảy xiết trong mùa nuớc lũ Dân tộc : Người Hre có thể được xem như một nhóm dân sắc tộc thiểu số đặc biệt , sinh sống tập trung trong các vùng cao nguyên Bình Định và Quảng Ngãi. Trong những thế kỷ trước, dân Hre đã từng tấn công xuống các khu cư dân Việt ven biển cướp phá gia súc bắt cả phụ nữ và trẻ em Kinh..Sự pha trộn sắc tộc qua nhiều thế hệ đã tạo một sắc dân khoẻ mạnh và thông minh hơn nhiều sắc dân Thượng khác và không được cảm tình của dân Việt vùng Đồng bằng. Phụ nữ Hre có sống mũi thẳng, không tẹt kiểu Việt , có người da trắng và đôi khi tóc hung. Khi chính quyền Hồ Chí Minh thành lập năm 1946, họ phong 2 bộ trưởng gốc Hre để mua chuộc các sắc dân Thượng.. Trong 2 năm kế tiếp vì chưa đù cán bộ, VM để người Hre ‘tự trị’, sinh sống theo tục lệ cổ trong khu vực thung lũng sông Rê (kể cả Gia vực) nhưng sau đó VM đã tổ chức lại hành chánh và quân sự kiểu Công sản và đưa di dân cùng cán bộ lên khu vực. Để đối phó với các cuộc nổi dậy của người Hre, VM đưa quân đàn áp,, và người Hre ngả sang phe Pháp… Khi LLĐB Mỹ lập Trại , còm một số người Hre nói tiếng Pháp. Dân số hiện nay khoảng 120 ngàn ( CSVN ngày nay còn gọi là Chăm rê) tập trung tại Quảng Ngãi, còn giữ tập tục nhai trầu và đập răng.. Gia vực trong trận chiến Pháp-Việt minh Tháng 8 năm 1945, khu vực rừng núi các tỉnh Bình-Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam do Việt Minh(VM) kiểm soát, họ đã thành lập 2 tiểu đoàn dân quân Hre hoạt động trong vùng Ba Tơ-Minh Long..(Đây là tiền thân của đội du kích Ba tơ) Năm 1946, Lực lượng viễn chinh Pháp tại Viễn Đông (Corps Expedition naire Francais en Extreme-Orient=CEFEO) bắt đầu tấn công tái chiếm các khu vực đồng bằng miền Trung và chỉ mới chiếm lại được vài tiền đồn trong các vùng xa xôi. Năm 1949 , VM đã loại hết các Già làng Hre , chia đất cho người Kinh từ Quảng Ngãi đến và xung dân Hre vào các đoàn dân công..Người Hre nổi dậy, chống đối và kéo chạy về đồn Tây Kon Plong để nhờ Pháp bảo vệ..Mãi đến tháng 4 năm 1951, Pháp mới có nhân lực để quy tụ các bộ tộc Hre, tổ chức thành một lực lượng quân sự chống VM , lúc đầu gồm khoảng 200 dân quân Hre đang tạm ngụ tại Kontum và chỉ hoạt động giới hạn trong vùng Sơn Hà-Vi muk. Ngày 8 tháng 8 năm 1951 VM đánh chiếm đồn Kon Plong, Pháp phải mở cuộc hành quân nhảy dù dùng TĐ2 Dù Pháp (2 BEP) để tái chiếm, dùng thêm một toán quân phụ thuộc (supplétifs) Hre bọc hậu đẩy được VM khỏi vùng thung lũng sông Rê và quy tụ dân về lại lập ấp nhưng sau đó VM dùng 2 Trung đoàn 108 và 803 chiếm toàn bộ vùng núi Quảng Ngãi , Pháp đem khoảng 700 quân Hre và gia đình chạy về Kontum. Năm 1952, có thêm quân tăng viện, Pháp tái tổ chức thân binh (partisan) , đóng tại Gia vực và tháng 4-52 , vượt sông Rê .. chiếm Ba Tơ , VM rút chạy bỏ lại kho tàng và cơ sở của Tr đ 108 VM.. quân Hre rút lại về Gia vực…Đến cuối 1952 Pháp đã tổ chức được một đạo quân Hre , và lính Việt (Bảo chính đoàn) lên đến 1500 quân hoạt động lưu động tại Quảng Ngãi và đến cả quanh Đà Nẵng.. chuyên đánh du kích chống quân VM khá hữu hiệu..Đến 1954, lực lượng Hre tập trung về vùng Gia Vực và một số gia nhập quân địa phương VNCH (lực lượng Bảo an). LLDB GIA VUC 5 Gia vực : Trại LLĐB Trại Gia vực được LLĐB Mỹ (SF) thiết lập vào tháng Hai năm 1963 (A-729), lực lượng CIDG căn bản của Trại là người Hre. Đây là một trong những trại đầu tiên SF lập tại Vùng 1, trên vị trí đồn Kon Plong (cũ) sau khi tập trung được quanh Gia vực trên 1500 dân Hre và 300 dân Việt. Trại gần sông Re, nằm trong Quận Ba tơ thuộc Tịnh Quảng Ngãi, cách Đà Nẵng khoảng 80 miles vế phía Tây-Nam: khi thiết lập Trại thuộc Vùng 2 nhưng đến 1964 VNCH điều chỉnh lại biên giới các Vùng và Gia vực chuyển sang Vùng1 và là Trại cực Nam của Vùng 1 với nhiệm vụ chính là phòng thủ biên giới và canh chừng VC xâm nhập từ phía núi xuống. Bãi mìn phía trước trại còn sót lại nhiều quả mìn chôn, gài từ thời Pháp .Theo tài liệu của 5th SF ghi lại thì các Toán chịu trách nhiệm điều hành Trại thay đổi : A-112 (tháng 12-64) A-103 (tháng 10-63 đến 2-69) Trại có đặt 5 tiền đồn phòng thủ từ xa tại các cao điểm cách 8-10 km quanh vùng. Ngoài toán A-103 SF với 12 quân nhân Mỹ còn có một toán A LLĐB VN với 9 quân nhân ..Khi thành lập Trại có quân số khoảng 515 CIDG , đa số người Rhe, chia thành 4 đại đội , 2 trung đội trinh sát và một toán dân sự vụ Lực lượng trú phòng tuy không trang bị đại bác 105, nhưng thay vào đó là nhiều vị trí đặt súng không giật 106 ly.. Trại đôi khi chịu pháo kích của CQ bằng súng cối. Theo đánh giá của LLĐB Mỹ thì trại Gia vực là một trong những trại được xem là thành công nhất về phương diện dân sự vụ và bình định (?) có lẽ vì hầu như không bị CQ tấn công trong suốt khoảng thời gian 1965-1970 !. Từ Gia vực, LLĐB Mỹ đã mở nhiều cuộc hành quân về Ba Tơ và các đại đội cơ hữu của Trại đã nhiều lần hành quân trợ giúp các Trại khác trong vùng Quảng Ngãi. Các toán thám sát LRRP (Long Range Reconnaissance Patrol) cũng dùng Gia vực làm nơi xuất phát . Các CIDG gốc Hre cũng tập họp thành một Đại đội riêng trong lực lượng Mike : ĐĐ 12 Mike, tham dự trận Lang Vei (tháng Giêng 1968). Các cuộc chuyển quân (trực thăng )và tiếp vận thường bằng máy bay C-123 và mất 45 phút bay đi và đến từ Đức Phổ (Quảng Ngãi) KQHK đã mất 2 phi cơ C-123 trong các phi vụ tiếp tế và yểm trợ cho Gia vực : – 23 tháng 7 năm 1964 : C-123 B (SN#56-4383) phi vụ thả hỏa châu, gặp nạn khi đáp, chạy khỏi phi đạo đâm vào một dãy nhà, 4 nhân viên phi hành an toàn nhưng phi cơ hư hại hoàn toàn. – 20 tháng 7 năm 1967 : C-123 B (SN#54-0630), phi vụ tiếp tế, trúng đạn phòng không CSBV lúc bay ở cao độ 150 ft trên phi trường , bốc cháy, 5 nhân viên phi hành tử nạn trong đó có Tr sĩ áp tải viên Lê tấn Bộ của KQVNCH * Hành quân Pershing (tháng 8 1967) LLDB GIA VUC 3 Liên quân Việt-Mỹ đã mở cuộc hành quân Pershing tảo thanh vùng biên giới các Tỉnh Bình Định-Quảng Ngãi, Tham dụ hành quân gồm các lực lượng của SĐ 1 Không Kỵ HK, Lữ đoàn 3 /SĐ 25 HK, SĐ 22 BB VNCH và SĐ Mãnh hổ Nam Hàn (giới hạn trong Tỉnh Bình Định). Cuộc hành quân kéo dài từ 12 tháng 2 năm 1967 đến 19 tháng Giêng 1968. Trong khuôn khổ cuộc hành quân này SĐ 1 Không kỵ đã tiến vào vùng Thung lũng Sông Rê từ ngày 7 tháng 8, và dùng Trại Gia vực như một căn cứ chỉ huy và tiếp liệu.. Kế hoạch của Tướng John Tolson là lập một căn cứ hỏa lực cấp Đại đội tại Bãi đáp Landing Zone Pat cách Gia vực khoảng 15 km về hướng Bắc và đặt tại đây một pháo đội 105 (dự trù là Pháo đội C của TĐ 2/ Trung đoàn 19 Pháo binh HK) để từ đây tảo thanh, lùng và diệt CQ trong Thung lũng sông Rê. Sau hai ngày tiến quân không gặp kháng cự, cuộc đổ quân trực thăng vận được tiến hành vào ngày 9 tháng 8 . Chịu trách nhiệm chuyển vận đổ quân là do TĐ 229 Aviation của Lục quân Hoa Kỳ. Từ Gia vực các toán trinh sát nhảy vào khu vực hành quân , thới tiết rất tốt, không mây. 7 giờ 30 sáng , ĐĐ B/TĐ2/8 Không kỵ vào bãi đáp Lou , làm vị trí tiền tiêu bảo vệ cho Căn cứ Pháo binh và Bộ Chỉ huy TĐ, ĐĐ A/2 được trực thăng vận vào LZ Pat lúc 9 giờ 45 chiếm vùng triền núi giữa các đổi 450 (Tây-Bắc) và 625 (Tây-TâyNam), khu vực này đủ rộng để làm bãi đáp cho 6 trực thăng cùng một lúc. Cuộc đổ quân bắt đầu theo dự trù từng đợt, chia thành 4 đợt, mỗi đợt 6 chiếc Huey và mỗi chiếc chuyển vận 5 binh sĩ.. Đợt đổ quân đầu tiên gồm Trung đội 1, bộ chỉ huy đại đội sẽ chiếm ngự và bảo vệ phía Nam LZ; đợt thứ nhì đổ Tr đội 2 bảo vệ phía Bắc và sau đó là Tr đội súng nặng trong đợt ba, sẽ đặt các ổ súng cối, cùng 2 đại liên để bảo vệ đợt sau cùng đổ nốt Tr đội 3… Sau khi dọn bãi bằng 105 yểm trợ tu Gia vực , cuộc đổ quan tiến hành với 2 trực thăng võ trang yểm trợ trên không.. Hai trực thăng võ trang chỉ huy cuộc đổ quân do các Th tá Harvey và Đ úy Thompson bay quần trên đồi 450 trúng đạn phòng không và rơi khẩn cấp, chiếc của Đ úy Thompson bốc cháy, nổ khi chạm đất còn chiếc của Th tá Harvey đáp (crash landing) xuống chân đồi 450…4 trực thăng tiếp cứu đã bay ngay từ Gia vực vào vùng (Tiểu đoàn 107 Phòng không CSBV đã di chuyển từ Quảng Ngãi vào khu vực từ tháng 4 và lập trận địa tại vùng Thung lũng sông Rê từ tháng 6. Đại đội 3 của TĐ này đã chọn nơi đặt các súng phòng không tại một khu vực ‘yên ngựa’ giữa hai đồi 625 và 450. TĐ 107 này trang bị 12 khẩu 12 ly 7 , được bảo vệ bởi Tiểu đoàn 120 Thượng cộng. Ngọn đồi CQ chiếm ngụ có tầm quan sát bao trùm LZ Pat, tại đây có 3 khẩu 12.7 do 80 quân phòng không điều khiển cùng 80 thượng cộng trang bị cối 82 và SKZ 57.. Hai TĐ CQ trú đóng cách LZ Pat khoảng 5 km) Các trực thăng võ trang bao quanh khu vực 2 phi cơ bị rơi, các khu trục A-6 của HQ và TQLC Mỹ oanh kích liên tục..trong các phi vụ tiếp cứu, thêm một trực thăng võ trang trúng đạn và bị rơi.. Trong lúc các trận đánh diễn ra dữ dội quanh LZ Pat suốt từ sáng đến trưa thì tại Gia vực các hoạt động của KQHK diễn ra liên tục : các C-123 của KQ và Caribou của Lục quân chở đến đạn pháo binh, rockets và đạn nhỏ ..Các trực thăng vận tải CH-47 Chinooks, trực thăng cần cẩu CH-54 mang đến nhiên liệu.. (Đặc biệt nhất là trong trận này Lục Quân HK thử nghiệm việc dùng loại ACH-47A , trang bị 5 đại liên .50, 2 đại bác 20, 2 ống phóng rocket 2.75 inch và 1 giàn phóng lựu 40 ly để yểm trợ cho toán quân Mỹ đang chiến đấu tại LZ Pat) CQ tiến đến bao vây toán quân Mỹ… Nhờ trực thăng võ trang bao vùng và pháo binh yểm trợ , quân Mỹ không bị tràn ngập.. khi CQ rút , bên Mỹ có 11 tử trận và 27 bị thương. 73 CQ bị hạ.. Trận LZ Pat chấm dứt ngày 10 tháng 8. LLDB GIA VUC 4 Gia vực và TĐ 70 BĐQ Biên phòng Trại Gia vực được SF bàn giao lại cho LLĐB vào 31 tháng Giêng năm 1969, lúc này dân số Xã Gia Vực khoảng 6500 người (Việt và Hre). Một toán liên lạc SF vẫn ở lại đến khi 460 Dân sự Chiến đấu được chuyển đổi thành TĐ 70 BĐQ ngày 30 tháng 9 năm 1970 trực thuộc Liên đoàn 11 BĐQ [ cùng các TĐ 68 (CIDG của Trại Minh Long) và 69 (CIDG Trại Ba tơ)] Khi Trại được bàn giao, các CIDG đã được gửi đi huấn luyện tại Dục Mỹ và cải biến thành Biệt Động Quân biên phòng, một TĐ BB của SĐ 22 tạm trấn đóng và tình hình an ninh quá khả quan nên Trại được giao lại cho một Đại đội ĐPQ của Quận Ba Tơ trần giữ cùng một Trung đội Nghĩa Quân Hre..cho đến khi TĐ 70 BĐQ hoàn tất huấn luyện trở lại trấn giữ. Tác giả Thảo Nguyên (trong tác phẩm ghi trên) có ghi một đoạn đáng chú ý : (trang 67) “ Tiểu đoàn mình (70) đóng ở đây tuy không phải là biên giới giữa hai nước nhưng là biên giới giữa ta và địch, mà cái biên giới đó thật không rõ ràng. Hồi trước Ông Tướng Tư Lệnh SĐ lên đây, tôi có xin thêm đạn ngoài cấp số để phòng thủ..Ông nói : VC nó đánh TĐ anh ..làm gì. Một TĐ anh ở đây nuôi nổi cả Trung đoàn của nó, nó chưa đánh vội đâu ! [ có thể đây là lý do CQ không tấn công Gia vực ?] CSBV bắt đầu tấn công vùng núi Quảng Ngãi từ tháng 8 năm 1974.. Chi khu Minh Long do 2 Đại đội ĐPQ trấn giữ bị Trung đoàn 52 CSBV đánh chiếm ngày 17 tháng 8, các tiền đổn do 15 trung đội Nghĩa quân Quận đóng chốt bị pháo CQ tàn phá. Trung đội Pháo binh Chi khu bị hủy.. Lực lượng tiếp viên gồm 3 TĐ BB không phá nổi vòng vây của CQ. Sau khi Minh Long thất thủ, ba ngày sau, Tướng Trần văn Nhật xin Tướng Trưởng cho phép rút TĐ 70 BĐQ khỏi Gia vực, lúc này hoàn toàn bị cô lập và đang bị CQ đe dọa, Tướng Nhật cũng muốn rút các TĐ 68 khỏi Sơn Hà và 69 khỏi Trà Bồng.. Tướng Trưởng .. không dám quyết định vì không được SaiGon cho phép (?) Ngày 19 tháng 9 năm 1974, huy động 1 Tr đoàn BB (các TĐ 8 và 406 CSBV), cùng Đặc công, Pháo các loại, có xe tăng yểm trợ đã tấn công Chi khu cùng Trại Gia vực CQ pháo kích liên tục và dùng BB tấn công . 5 tiền đồn bị mất nhưng quân trú phòng phản ứng quyết liệt và tái chiếm ngay trong ngày..Thời tiết xấu , TĐ 70 không nhận được phi pháo yểm trợ : 50 binh sĩ hy sinh và số bị thương lên cao , không tản thương .. các chiến sĩ chiến đấu trong vô vọng và toàn bộ các cứ điểm phòng thủ bị tràn ngập ngày 21 tháng 9. TĐ 70 BĐQ đã chiến đấu đến cùng , Đ úy Trần Nghĩa TĐ Phó hy sinh cùng trên 200 quân tử thủ, chỉ 21 chiến sĩ sống sót phân tán tìm về Kontum và Quảng Ngãi và TĐ được tái tổ chức và bổ xung .. Đầu năm 1975, việc phòng thủ Tỉnh Quảng Ngãi được giao cho Trung đoàn 6/SĐ 2 BB và LĐ 11 BĐQ (gồm các TĐ 68, 69 và 70) Tác giả William LeGro trong “VietNam from Cease-Fire to Capitulation” ghi lại : Tháng 3-75 : .. “ Tình hình Quảng Ngãi nguy ngập, tuy các đơn vị BB của Tr đoàn 4 đã khai thông được QL1 trong Quận Bình Sơn, nhưng về phía Tây Bình sơn, CQ đã tấn công vào đoàn dân quân rút khỏi Trà Bồng, TĐ 69 BĐQ bị phục kích và tan rã. CQ tấn công vùng Nam Đức Phổ, cắt đứt QL1. cô lập Sa Huỳnh nơi TĐ 70 BĐQ trấn giữ cùng TĐ 137 ĐPQ Khi Quảng Ngãi thất thủ cùng toàn bộ Quân Đoàn I .. TĐ 70 BĐQ .. tan hàng vì hoàn toàn mất liên lạc với các cấp chỉ huy (?) (TĐ Trưởng sau cùng là Đúy Hoàng Trọng Khải ) Trần Lý 4-2020 (Quý vị muốn có tác phẩm Qua đồi Trinh nữ có thể liên lạc : thaonguyẽn750@ yahoo.com) Cảm ơn Mr. Trần Lý chuyển.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 18:16:58 GMT 9
Trại Lực Lượng Đặc Biệt Dak Seang và Tiểu Đoàn 90 Biệt Động Quân 1965-1972 Posted on March 28, 2020 by dongsongcu Trần Lý, 3-2020 Trại LLĐB Dak Seang là một trong những Trại biên phòng hầu như bị quên lãng trong Quân sử QLVNCH tuy là nơi đã xảy ra nhiều trận đụng độ đẫm máu giữa Quân VNCH và Hoa Kỳ chống lại quân CSBV.. Vị trí Dak Seang Tỉnh Kontum (trước 1975) có 4 quận : DakTo, DakSut, Kontum và Toumorong. Dak Seang thuộc Quận DakTo., tại xã này tháng 8 năm 1966 LLĐB Hoa Kỳ đã thiết lập một Trại Dân sự Chiến đấu, tuyển mộ các nhân sự sắc tộc Stieng, Sedan.. Trại Dak Seang nằm phía Tây-Bắc Tỉnh Kontum, cách Thị xã Kontum 65 km về Tây-Bắc, và 16 km Bắc- Đông/Bắc Ben Het. Trại nằm trong khu vực thung lũng sông Dak Poko, khoảng 2 km phía Tây dòng sông, bao quanh bởi đối và các vùng đất có cao độ trung bình 700 m trên mặt biển, đa số phủ bởi các tầng cây rừng rậm rạp. Các phía Đông và Tây là các rặng núi cao đến 1800 m.. Trại nằm dọc sông Dak Seang (cùng tên)=[ Dòng sông máu], cách Kampuchea 10-15 km về phía Đông. Trại hình vuông, diện tích khoảng 3000 m 2, nằm trên một đồi thấp giữa hai suối Dak vai và Dak si (đều là nhánh của sông Poko) Lực lượng trú đóng gồm 3 ĐĐ DSCĐ (mỗi đại đội 132 người theo cấp số), một Trung đội Trinh sát, một đơn vị súng nặng trang bị 2 khẩu 105, 2 cối 160 . Bộ Chỉ huy lá A-245 SF Mỹ và 1 toán LLĐB VNVH (toán A-112) Trại có hệ thống phòng ngự, ngầm và nổi , giao thông hào cùng 9 lớp vỏng rào kẽm gai.. Ba chốt phòng thủ từ xa đật tại Núi Ek, Núi Sie và Núi Pút.. Phi trường Dak Seang có phi đạo đất nện dài 1400 ft ,các C-130 có thể đáp được; cách Trại Dak Pek 27 km về phía Nam, cách Lào 14 km về phía Tây và cách Trại Dak To 23 km về phía Tây-Bắc.. Các trận đụng độ 1965-1970 – Tháng 5-1967 CQ tấn công thăm dò các Trại Dân sự Chiến đấu trong khu vực Dakto (A-244)-Dak Seang (A-245) . Ngày 16 tháng 5, một đại đội CIDG từ Dak Seang hành quân giải tỏa Dakto, thu hồi xác 4 nhân viên tử trận đã đụng mạnh với lực lượng CQ thuộc Tr Đoàn 24 BV. Nhờ KQ oanh kích và yểm trợ CIDG rút quân.. Trung sĩ SF Gerard Parmentier của A-245 tử trận.. – 18 tháng 8- 1968 CQ mở cuộc tấn công vào Dak Seang : Tr Đoàn 101 D CSBV định lợi dụng đêm tối và thời tiết xấu đề ‘thanh toán’ Trại thật nhanh chóng. 3 giờ 30 sáng CQ mở cuộc pháo kích vào Trại bằng súng cối và bắn B-40 vào chu vi phòng thủ.. sau đó tung 3 đại đội BB tấn công vào khu vực phía Tây, đồng thời một đại đội khác đành vào vòng rào phía Đông. Sau 20 phút, cả hai mũi tấn công đều bị chặn đứng tại vòng rào.. Đến 4 giờ 25 sáng, CQ chỉ qua được vòng rào thứ nhất và tuy KQ không thể yểm trợ vì mây mù quá thấp nhưng pháo binh đã yểm trợ rất hữu hiệu..và cuộc tấn công của CQ bị đẩy lui hoàn toàn.. Trận Dak Seang tháng 4-1970 Trận Dak Seang năm 1970 đúng hơn là một Chiến dịch quan trọng tại Vùng 2 CT trong các tháng 4-5 năm 1970. Chiến dịch gồm các trận đánh tại Trại CIDG Dak Seang và các cuộc hành quân của Biệt Khu 24 VNCH để giải tỏa áp lực của CQ và đẩy lui CQ về bên kia biên giới. Tin tình báo trong các tháng 2 và 3 năm 1970 ghi nhận CQ gia tăng hoạt động trong vùng Ba biên giới, đồng thời có thêm các kế hoạch tổng tấn công của CQ trên toàn quốc VNCH theo kiểu Mậu Thân (1968) ?. Các báo cáo trinh sát, máy cảm ứng điện tử ghi nhận các cuộc chuyển quân của CQ trong Tỉnh Kontum, đặc biệt quanh khu vực Dak Seang. Cung từ của tù binh chỉ nhắc đến Thị xã Kontum, Dak To và Ben Het .. không đề cập đến Dak Seang .. CQ đã huy động các Trung đoàn 28 (trách nhiệm phía Bắc Dak Seang ) , 66 (phía Nam), các TĐ Đặc công 20 và 37 và Trung đoàn Pháo 40 CSBV yểm trợ tổng quát vào chiến dịch ‘Mùa Hè’ này Ngày 31 tháng 3, CQ mở nhiều cuộc tấn công trên khắp lãnh thổ VNCH nhưng chỉ đánh và rút , không chiếm đóng lãnh thổ kiểu 1968 (!) Trại Dak Seang : Trong các tháng 2 và 3 năm 1970, Tr Đ 28 CSBV đã di chuyển vào vùng thung lũng sông PôKô, không bị phát hiện, cắt cây sẵn sàng bằng cưa điện, đào các giao thông hào đến sát chu vi trại chừng 1000 m..Các vị trí phòng không được thiết trí dọc theo hành lang không phận Trại, các điểm quan sát pháo binh cũng được lựa chọn kỹ lưỡng.. Trại Lực Lượng Đặc Biệt Dak Seang 1970 . Trưa 31 tháng 3 , một phi cơ C-7 của KQHK rời Phi trường Pleiku vận chuyển thực phẩm đến Trại theo phi vụ thường lệ và chuyển 100 quả đạn 105 ly về lại Pleiku để phân phối cho các Trại khác đang cần.. Không ngờ chỉ 24 giờ sau Dak Seang lại cần mọi loại tiếp liệu, dĩ nhiên là đạn ! CQ bắt đầu tấn công vào Trại vào hừng sáng ngày 1 tháng 4 năm 1970 bằng pháo kích súng cối và súng không giật vào Trại, phá sập nhiều doanh trại và cột ăng ten vô tuyến, gây một số thương vong..LLĐB (SF) Mỹ phản ứng bằng đưa Đại đội 207 CIDG từ Trại Plateau Gi (A-111), trực thăng vận ban đêm đến bên ngoài chu vi Trại và sáng hôm sau vào tiếp viện cho việc phòng thủ. Một số đơn vị của Tr Đoàn 32 BB VNCH cũng đến trợ giúp..Một hàng rào lửa bằng napalm đã chặn đứng quân BV ngoài vòng rào..44 phi suất được sử dụng trong đó 3 phi cơ AC-119 (Shadow) bao vùng suốt đêm. Trại Dak Seang bắt đầu được tiếp vận bằng KQ : Sáng 2 tháng 4, 2 chiếc C-7 Caribou, được Skyraiders hộ tống bay vào thả dù cho trại, một C-7 Caribou # 61-2406 bị hạ khi vừa thả xong., 3 nhân viên phi hành tử nạn. Phi đoàn 483 KQ Chiến lược tập trung C-7 từ Cam Ranh về Pleiku.. Vào 4 giờ 45 chiều 2 tháng 4, quân BV tấn công mạnh, vượt rào nhưng bị đẩy lui nhờ không yểm.. 7 giờ tối, CQ tái tấn công đến gần vòng rào phía Tây và cụng bị trực thăng võ trang đẩy lui.. CQ tấn công thêm hai đợt nữa trong đêm.. Sáng sớm, 2 trực thăng bị hạ , SF đưa vào trận lực lượng trừ bị của họ : 2 tiểu đoàn CIDG xung kích (Mobile Strike Force=MSF) TĐ 1 và 4 của Lực lượng MSF số 2 được trực thăng vận đến một bãi đáp gần Trại..(TĐ 1 MSF có một toán Cố vấn Úc 10 người, 1 tử trận và 2 bị thương trong Trận) Một TĐ BĐQ VNCH cùng hành quân với TĐ 1 MSF tại một vị trí phía Nam Trại..Các cuộc đụng độ và tấn công liên tục của CQ kéo dài suốt ngày 4 tháng 4 và CQ dù sử dụng đặc công trong 6 đợt nhưng đều bị hỏa lực của quân trú phòng và phi pháo ngăn chặn không tiến nổi đến sát chu vi phòng thủ. Trong ngày 3-4 tháng 4 KQ yểm trợ 67 phi suất khu trục, 4 phi suất trực thăng võ trang và 6 phi suất B-52 .Ngày 3-4 16 phi vụ C-7 tiếp tục thả tiếp liệu cho Trại, tuy vẫn được các Skyraiders hộ tống nhưng 9 phi cơ trúng đạn. Ngày 4-4 , có 15 phi vụ : 6 trúng đạn, một bị hạ ( C-7 # 62-4180) toàn bộ phi hành đoàn 3 người tử nạn. Ngày 5 tháng 4 , số phi vụ tiếp tế giảm xuống còn 6 phi vụ và chuyển sang thả dù ban đêm và thay đổi hành lang bay vào vùng và kỹ thuật thả dù, dùng thêm AC-119 yểm trợ. 6 tháng 4 chiếc C-7 #63-9746 bị bắn rơi, 3 quân nhân tử trận. Ngày 6 tháng 4 CQ chuyển hướng lo chống đỡ cuộc hành quân giải vây của Biệt Khu 24, Trại Dak Seang tiếp tục bị pháo kích trong những ngày kế tiếp và các cấu trúc trên mặt đất của Trại hầu như bị san bằng . 8 tháng 4 các TĐ 1 và 4 MSF đến gần 900 m chu vi Trại từ hai phía Đông-Bắc và Tây-Bắc..KQ yểm trợ 134 phi suất khu trục..CQ tạm ngưng tấn công Trại.. Các ngày 9, 10 và 11 chỉ còn các đụng độ nhỏ giữa MSF và CQ.. Áp lực của CQ giảm rất nhiều.. CQ quay sang tấn công Trại Dak Pek vào ngày 12 tháng 4 như nghi binh.. Theo “Pacific Stars & Stripes -11 tháng 4-1970′ : Lực lương trú phòng Dak Seang hầu như sống dưới mặt đất .. kẹt trong Trại còn có 11 người của một ban nhạc VN trình diễn tại đây từ 31 tháng 3..’ Các phi vụ C-7 tiếp tục thả dù ban đêm trong thời gian 10-12 tháng 4 và sau đó các C-7 rút về Cam Ranh.. Trực thăng vận tải đã bay được vào Trại an toàn. TRẠI LLĐB DAK SEANG 15/4/1970 . Tuy CQ vẫn bao vây Trại cho đến 8 tháng 5 những trận đánh thật sự tiếp tục giữa CQ và quân VNCH quanh khu vực Dak Seang.. Báo cáo “sau hành quân” của B-24 ngày 22 tháng 5-1970 ghi nhận : “Tổn thất tại Trại Dak Seang” : Hy sinh : 2 LLĐB Việt, 44 CIDG , 6 dân chính . Bị thương : 14 SF Mỹ , 4 LLĐB Việt , 80 CIDG (Sổ tổn thất không gồm thiệt hại của MSF).. Tổn thất của CQ không thể tổng kết chỉ đếm được 222 xác bỏ lại quanh rào Trại Tướng Lữ Lan Tư lệnh QĐ 2 cho phóng viên Star&Stripe biết : 104 quân nhân VN và Mike Force hy sinh ( 35 bên trong Trại) 430 quân nhân bị thương CQ bị hạ 896 do hỏa lực BB và 472 do KQ.. KQ HK cho biết : 1 cố vấn Mỹ và 1 cố vấn Úc tử trận cùng 11 chiến sĩ KQ khi bay các phi vụ tiếp tế cho Trại.. Các cuộc hành quân của Biệt Khu 24 quanh Dak Seang: Chiến dịch phản công của QLVNCH để giải tỏa Dak Seang của Biệt khu 24 có thể chia thành 5 giai đoạn : ( Tư lệnh V2 là Tướng Lữ Lan, TL BK 24 là Đại tá Nguyễn bá Thìn (tự Long), các đơn vị tham dự cuộc hành quân gồm các Trung Đoàn 42 (thuộc SĐ 22) và 45 BB biệt lập (Tr Đ 45 nhập vào SĐ 23 vào năm 1972) , Liên đoàn 2 BĐQ (các TĐ 11,22 và 23 BĐQ) – Giai đoạn 1 : 1 đến 7 tháng 4 , BK 24 tiến công từ phía Nam để chiếm các cao điểm phía Đông và Tây trại Dak Seang. – Giai đoạn 2 : 8 đến 14 : BK 24 hành quân giải tỏa quanh Trại. – Giai đoạn 3 : 15 đến 28 ..tiến công các cao điểm phía Bắc Trại Dak Seang – Giai đoạn 4 : 29-4 đến 6 tháng 5 , tiếp tục hành quân quanh Trại – Giai đoạn 5 : 7 đến 9 tháng 5 :các đơn vị của SĐ 22 BB hành quân yểm trợ cho việc rút các đơn vị khỏi Dak Seang.. Giai đoạn 1 : Từ 1 tháng 4 Tình trạng quanh Trại Dak Seang không mấy sáng sủa, CQ bao vây và pháo kích vào Trại .Việc tiếp tế đường bộ bị cắt đứt , Trại bị cô lập khỏi nguồn nước từ sông Dak Poko. Lực lượng trú phòng khoảng 550 quân gồm A-245 của 5th SF; Toán A-114 LLĐB VNCH và 3 ĐĐ CIDG cơ hữu..Dân sự tại Trại khoảng 700 nhân viên hành chánh và gia đình binh sĩ.. Ngày 2 tháng 4, BK 24 đưa quân tiếp viện đến Căn cứ hỏa lực Tango (xem bản đồ) để yểm trợ cho Trại , quân tiếp viện gồm 1 TĐ BB VNCH cùng 2 TĐ Pháo binh Mỹ-Việt. Một TĐ BB khác dược đưa từ Kontum đến Tân Cảnh. Ngày 3 tháng 4 CQ bắt đầu tấn công thăm dò quân VNCH quanh Tango, tuy nhiên VNCH tiếp tục tiến quân chiếm các cao điểm : 2 TĐ BĐQ vào khu vực phía Tây và 1 TĐ BB bên phía Đông..KQ HK đã yểm trợ hữu hiệu.. : từ 1 đến 7 tháng 4 có gần 200 phi suất đủ loại .. Giai đoạn 2 : 8 đến 14 tháng 4 Ngày 8 tháng 4 các đơn vị hành quân chiếm các cao điểm.. Các ngày 13 và 14 : CQ tập trung tấn công các vị trí QLVNCH trong khu vực Đông-Bắc ..Ngày 12 tháng 4 TĐ 1/ 42 được đưa vào một vị trí phía Đông-Nam Trại, cùng nhảy theo TĐ còn có toán Tiền sát Pháo binh Mỹ, hoạt động chung với Toán Cố vấn 4 người của TĐ (Th tá Noll).. TĐ 1/42 bị CQ bao vây và tấn công liên tục.. Giai đoạn 3 : 15 đến 28 tháng 4 Đây là Giai đoạn giao tranh nặng nhất giữa quân BV và lực lượng BK 24 : mục tiêu chiến lược là vùng đất cao phía Bắc Dak Seang, quan trọng nhất là Căn cứ hỏa lực FSB 31, thiết lập tại Núi Ek một cao điểm cách Dak Seang 3 km về phía Bắc. (Mãi đến 25 tháng 4 quân VNCH mới chiếm được khu vực này) Ngày 15-4, một đơn vị xung kích VNCH được trực thăng vận vào khu vực Núi Ek : 4 trực thăng chuyển quân HK đầu tiên vào vùng đã gặp phòng không dữ dội của CQ , một chiếc UH-1H bị hạ ( 2 Mỹ và 2 Việt hy sinh )và 3 chiếc phải dạt ra.. BB không tiếp cứu được các quân nhân sống sót , Đơn vị tiếp cứu của KQ đem được nhóm này ra nhưng lại mất thêm một trực thăng tiếp cứu khác loại HH-3 E cùng 1 nhân viên phi hành.. Cuộc đổ quân này được ghi lại trên specialoperations.com (Dak Seang 15 April 1970) , tóm lược như sau : “ ĐĐ Trực thăng xung kích 170 của KQHK chịu trách nhiệm đổ quân , bãi đáp theo ký hiệu của Trực thăng là LZ Orange. Kế hoạch là đưa TĐ 3 / Tr Đ 42BB VNCH vào bãi đáp, các trực thăng của 170 được các trực thăng võ trang yểm trợ trực tiếp..Cuộc hành quân bắt đầu lúc 4 giờ 30 sáng 15-4 từ điểm tập trung tại phi trường KonTum và đến 6 giờ các toán quân bắt đầu vào bãi đáp. Hai quân nhân trinh sát Mỹ (Pathfinders) nhảy theo toán 6 trinh sát VN..và sau đó các toán 8 người tiếp tục đổ xuống..CQ phản ứng mạnh, Một trực thăng bị hạ ngay đợt đổ quân đầu tiên. KQ HK đã tập trung hỏa lực của các F-4 oanh kích khu vực và đưa 2 trực thăng Jolly Green(HH-3E) từ Đà Nẵng vào vùng đề tìm cách bốc các quân nhân Mỹ ra khỏi khu vực LZ..’ (WO Miller bị bắt làm tù binh và trao trả vào tháng 3-73 ; 2 xác quân Mỹ được thu hồi ngày 29-4-1970, một còn đang liệt kê mất tích..) Ngày 16-4, TĐ 3 /Tr Đ 42 được đưa vào một bãi đáp tại 1 km Đông Dak Seang, từ đây tiến về phía Bắc để đến FSB 31..TĐ này đụng CQ ngày 17-4 tại một vị trí 2 km Đông-Bắc Trại và bị thiệt hại nhẹ..Đơn vị không tiến thêm được trong suốt ngày 18-4.. Các đơn vị VNCH thuộc Tr Đ 42 đụng độ với CQ trong suốt ngày 20-4. Vị trí của TĐ 1/42 bị CQ tấn công suốt đêm bằng cối và B40. Các phi cơ vận tải võ trang Shadow (AC-119G) và Stinger (AC-119K) oanh kích yểm trợ suốt đêm và khu trục không yểm ngay khi trời hừng sáng..Các ngày 21 và 22 CQ tiếp tục tấn công và tập trung vào các TĐ 1 và 3/42 đang tìm cách tiến về hướng Bắc.. TĐ 1 bị tổn thất nặng phải rút về Trại Dak Seang (23-4) và TĐ 3 trở thành mục tiêu chính của CQ; đến 24-4 BK24 quyết định đưa TĐ 2 vào trận, đổ quân thẳng trên đỉnh núi Ek.. KQ tập trung không yểm đủ loại, kể cả B52. Quân VNCH chiếm đóng Núi Ek từ 25-4..TĐ 3/42 hành quân ngược về Trại Dak Seang và giải tỏa vòng vây CQ quanh Trại.. về đến chu vi Trại ngày 26 và được rút về ngày 27-4 để bổ xung quân số..Hai TĐ BB khác của Tr Đ 45 được đưa vào trận..Các đơn vị VNCH bắt đầu phản công đẩy CQ khỏi khu vực.. Giai đoạn 4 : 29 tháng 4 – 6 tháng 5 Hoạt động của QLVNCH tiếp diễn với 2 TĐ 2 và 4 của Tr Đ 45 : TĐ đặt tại một Điểm chiến lược ở 1 km Đông-Bắc Dak Seang có pháo binh cùng hoạt động; TĐ 4 đóng quân cách TĐ 1 khoảng 1 km và bị CQ tập trung tấn công , phải lùi lại và KQ phải yểm trợ trong suốt các ngày 29 và 30..qua cả ngày 1 tháng 5 mới tiến nổi. Các cuộc đụng độ tiếp tục, CQ dùng các đơn vị nhỏ trì hoãn cuộc rút chạy, các toán nhỏ CQ phục kích liên tục quanh khu vực Núi Ek .. Suốt các ngày 2 đến 5 tháng 5, KQ phải oanh kích nhiều đọt để tiêu diệt các toán CQ đóng chốt cố thủ.. Giai đoạn 5 : Các ngày 7-9 tháng 5.. CQ bỏ chiến trường, các Tr Đ 28 và 40 CSBV rút chạy sau khi bị tổn thất quá nặng.. Chiến dịch Dak Seang chính thức chấm dứt ngày 9 tháng 5.. Vài điểm ghi nhận của Department of the Air Force USA trong CHECO Report “The Defense of Dak Seang” 15 Feb 1971 : – KQHK : Vận tải võ trang AC-130 lần đầu thử nghiệm tại VN trang bị đại bác 40 và hệ thống xạ kích điện tử để oanh kích xe cộ CQ trên đường mòn HCM được sử dụng công phá hầm hố của CQ, kết quả khá hữu hiệu. Hệ thống hướng dẫn mục tiêu X-Band Beacon và Infrared Fabric dùng cho AC-119K được thử tại Dak Seang với kết quả rất chính xác ngày 17 tháng 4.. – Phối hợp với KQVNCH : Theo KQ HK, các phi cơ quan sát hướng dẫn mục tiêu FAC của KQVNCH của KĐ 62 không liên lạc hữu hiệu với các FAC Mỹ . Sĩ quan liên lạc điều không KQVN tại Trung Tâm Điều Hành Không trợ Vùng 2 (DASC) chưa được huấn luyện đúng mức..có những mục tiêu trùng lập .. – Hoạt động phối hợp Pháo binh và Không yểm chưa hoàn hảo ..BB VNCH không tin tưởng vào pháo binh mà muốn được yểm trợ nhanh hơn bằng trực thăng võ trang… Vị trí pháo binh không được chú ý về phòng thủ đêm (?) Tư lệnh BK24 họp mỗi đêm lúc 20 giờ (?), và quyết định mọi hoạt động hỏa lực đêm phải có lệnh của chính ông (!).. Các phi vụ không kích thường phải dự trù trước (?) như số phi suất, loại bom đạn .. – Về Hệ thống chỉ huy của quân VNCH tại Dak Seang : Thiếu tin tưởng vào cấp chỉ huy thuộc quyền : hầu như chỉ Tư lệnh và TTM Biệt Khu quyết định mọi chuyện..(?) nên bộ TM BK24 không có kế hoạch lâu dài..hoàn toàn tùy vị tư lệnh – Tổng số phi vụ B52 trong chiến dịch lên đến 23 phi vụ Tác giả Vương Mộng Long ghi lại trong “Dak-Seang 1970” các hoạt động của BDQ : – Liên đoàn 2 BĐQ do Trung Tá Bùi văn Sâm chỉ huy trấn đóng tại Căn cứ hỏa lực Tango phía Đông- ĐôngNam của Trại DakSeang. LĐ và 2 TĐ 22 và 23 BĐQ cùng hoạt động trong khu vực Nam Dak Seang.. Ngày 7 tháng 4 TĐ 23 BĐQ do Đ Úy Nguyễn văn Thu chỉ huy đóng quân tại 3 ngọn đồi cao trên triền Đông-Bắc của rặng Ngok Remang và bị CQ tấn công vào sáng 8-4 và tràn ngập trong đêm TĐ trưởng và Cố vấn tử trận… Sau khi TĐ 23 bị thiệt hại nặng và rút khỏi vùng trách nhiệm TĐ 11 BĐQ vào thay cho 23 tại Tango và sau đó LĐ 2 BĐQ và TĐ 22 di chuyển lên Căn cứ Lima.. ‘ Trung sĩ Gary Littrell , thuộc toán cố vấn của TĐ 23 BĐQ được ân thưởng Huy chương Medal of Honor của Chính Phủ HK trong trận này.. Trận đánh oai hùng này của TĐ 23 BĐQ được Shelby Stanton ghi lại trong “Rangers at War” trang 263 : — “ Sáng 4 tháng 4 TĐ 23 tiến quân qua các khu rừng rậm, chiếm đóng đồi 763, dàn quân phòng thủ và lập một bãi đáp trực thăng phía Bắc khu đóng quân. Trung đoàn 28 CSBV đang chiếm ngự đồi 1043 về phía Tây và căn cứ của BĐQ nằm trọn trong tầm hỏa lực của pháo binh CQ ! CQ pháo ngay trưa 4 tháng 4 vào bộ Chỉ huy TĐ : trong đợt cối đầu tiên 20 quả đạn, đã gây tử thương cho TĐ trưởng và Cố vấn phụ tá, Cố vấn trưởng và cố vấn súng nặng đều bị thương nặng xem như bị loại khỏi vòng chiến..Cố vấn duy nhất còn lại là Gary Littrell ..Littrell đã cố giúp cùng tái tổ chức hàng ngũ phòng thủ, di chuyển các binh sĩ bị thương ra khu bãi đáp tải thương..và nhận đạn và tiếp phẩm cùng Tr úy Nguyễn ngọc Khoan (ban 3 TĐ). Littrell sau đó giúp điều hành không trợ và cùng chiến đấu với Đ úy Nguyễn Công Bảo , ĐĐ trưởng ĐĐ 2/23.. CQ tiến đánh các vị trí của TĐ 23 từ trưa 5 tháng 4 , đặc công CQ phá rối suốt đêm và pháo kích liên tục vào bãi đáp trực thăng gây trở ngại cho việc tản thương ..TĐ 23 đẩy lui hai đợt tấn công của CQ trong các ngày 6 và 7 cùng các đợt pháo kích liên tục.. Ngày 7 tháng 4 , ĐĐ trưởng ĐĐ 1/23 trúng pháo kích bị thương.. Littrell đã giúp di tản Đ úy Trần Mừng.. CQ vẫn bị BĐQ đẩy lui dù bị tấn công và thiếu hụt đạn dược, KQ HK đã yểm trợ rất hữu hiệu.. BĐQ hầu như cạn đạn vào sáng 8 tháng 4 và được lệnh rút quân lúc 10 giờ 30 qua đồi 743 , băng rừng rồi vượt sông Dak Poko tìm về vị trí của TĐ 22 BĐQ.. Cuộc rút quân bắt đầu từ 11 giờ.. Littrell giữ nhiệm vụ liên lạc cùng cố vấn TĐ 22 để điều hành trực thăng và khu trục yểm trợ rút quân..Sau khi đánh tan được 2 cuộc phục kích của CQ, lực lượng còn lại của TĐ 23 qua sông Poko về khu an toàn .. TĐ 23 có 218 hy sinh và 19 mất tích.. “ Các phi vụ tiếp tế cho Trại Dak Seang bằng Caribou được ghi chép rất đầy đủ trong Tạp chí của C-7A Caribou Association số April 2010 . Các chi tiết kỹ thuật. danh sách nhân viên phi hành trong tổng số 100 phi vụ (58 ban ngày/42 đêm) và nhân viên hy sinh đều..đươc liệt kê Tiểu đoàn 90 BĐQ : Trong chương trình rút khỏi Việt Nam, Trại biên phòng Dak Seang được chuyển cho BĐQ VN vào ngày 30 tháng 11 năm 1970. Quân số tại Trại gồm 431 người được chuyển thành Tiểu đoàn 90 Biệt Động Quân Biên phòng.. TĐ 90 được đưa đi huấn luyện tại Dục Mỹ và không trở về Dak Seang ..TĐ 90 BĐQ trở thành một TĐ lưu động và trực thuộc Bộ Chỉ Huy BĐQ vùng 2 CT. Trại Dak Seang trở thành một tiền đồn do ĐPQ Kontum trấn giữ. (Theo Tướng Tất , khi còn là Đ tá, TĐ 90 BĐQ tham dự trận đánh Chupao ngày 23-7-72 cùng LĐ 2 BĐQ và là đơn vị thanh toán đỉnh Chupao) Dak Seang 1972 Trong trận Tổng tiến công Hè 1972 tại Vùng 2 CT : CQ tiến đánh DakTo và Tân Cảnh : 24 tháng 4, 1972 CQ chiếm Tân Cảnh và sau đó tiến công Kon Tum . DakTo bị chiếm ngày 13 tháng 10..Dak Seang trở thành Tiền đồn duy nhất còn lại trong khu vực bị CQ chiếm đóng..và CQ thanh toán nốt Dak Seang để chiếm trọn vùng Ba biên giới , sửa soạn cho Hiệp định ngưng bắn “da beo” Paris ! Ngày 23 tháng 10, 1972 CSBV tập trung Tr Đ 66 BV và Tr Đ Pháo 40 BV (đưa 3 khẩu 105, 1 khẩu 155, 1 cối 160 và 1 khẩu 85 ) bao vây Dak Seang và tấn công Trại ngày 30 tháng 10.. Dưới mưa pháo , không chi viện .. Trại thất thủ trong ngày (Tác giả Lê Xuân Nhị có bài viết về trận này). thumbnail_1585241010689blob Vĩnh biệt Dak Seang. Liên đoàn 25 Biệt Động Quân : Đầu năm 1974, Bộ TTM QLVNCH đã tái tổ chức Binh chủng BĐQ gồm 45 Tiểu đoàn chia thành 15 Liên đoàn..Quân khu II có 5 Liên Đoàn (21 đến 25) Và LĐ 25 BĐQ gồm các TĐ 67, 76 và 90. (TĐ 67 từ CIDG của Trại Thạnh Trị Mộc Hóa khi chuyển đổi quân số còn 315) TĐ 76 từ Trại Cái Cai, Mộc Hòa quân số 396 người) Khi chuyển từ CIDG sang BĐQ, các TĐ 67 và 76 BĐQ biên phòng trực thuộc Liên đoàn 41 BĐQ của Vùng 4 CT đóng tại Chi Lăng (LĐ này giải tán vào 1974) Vào thời điểm đầu năm 1975 : Các cấp chỉ huy của LĐ 25 BĐQ gồm : – Liên đoàn Trưởng : Trung tá Đặng Hưng Long – LĐ Phó : Tr tá Lê Chữ – TĐT TĐ 67 : Th tá Ngô văn Niên – TĐ 76 : Th tá Phạm Công Toại – TĐ 90 : Th tá Phan Bát Giác Với quân cơ hữu được đưa ra Vùng 2 từ Mộc Hóa, Kiến Tường đa số gốc Khmer, khả năng tác chiến và tinh thần rất thấp, bỏ ngũ..Quân số của LĐ 25 thiếu hụt. chỉ tương đương với 2 TĐ (đầy đủ) Trong cuộc rút quân 1975 , theo Le Gro (VietNam from Cease-fire to Capitulation ) Ngày 16 tháng 3-75 LĐ 7 và LĐ 25 BĐQ vẫn chống đỡ khu vực Tây Pleiku và một phần LĐ 25 bị CQ tấn công mạnh tại Thanh An.. Các LĐ 4 và 25 là các đơn vị sau cùng rút khỏi Thanh An-Pleiku.. Ngày 21 tháng 3 các đơn vị rút quân tập trung tại Củng Sơn..Các LĐ 6, 7 và 22 BĐQ vượt qua đèo Cà Lúi còn các LĐ 4, 23 và 25 bị kẹt lại.. Tướng Phạm Duy Tất trong bài trả lời phỏng vấn của Đỗ Sơn xác nhận : “LĐ 25 BĐQ dự trù là “vật hy sinh cản đường” rút quân cho quân rút khỏi Pleiku, trì hoãn CQ tại Thanh An… tuy nhiên sau cùng LĐ25 cũng rút từ từ khỏi khu vực và không bị SĐ 968 CQ đuổi theo và ngày 18 tháng 3 LĐ 25 ..là toán quân đoạn hậu cho đoàn quân của ông Tất. Ông cho biết thêm LĐ 25 đã làm tròn nhiệm vụ cản đường cho cuộc Triệt thoái, sự thiệt hại của LĐ này đã dự liệu trước (?) không có gì là ngạc nhiên ! Liên Đoàn 25 BĐQ chính thức .. tan hàng trên Liên tỉnh lộ 7. Trần Lý *********************************************** Trận Dak Seang ở Kon Tum làm rạng danh Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Lực VNCHPosted on March 11, 2020 by dongsongcu Toán gác tại một tiền đồn ở Dak Seang hồi thập niên 1970. (Hình minh họa: hinhanhlichsu.org) Vann Phan Khi nói đến những chiến công cùng những đóng góp to lớn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào nỗ lực duy trì sự tồn tại của chế độ tự do, dân chủ tại miền Nam Việt Nam và luôn cả dòng sinh mệnh của dân tộc Việt Nam, người ta vẫn hay quên đi hoặc ít khi nhắc tới công lao của các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân. Tuy nhiên, chính họ là lực lượng đã được giao phó trách nhiệm phòng thủ an ninh diện địa, mà trên lý thuyết cũng như trên thực tế, là đối tượng phải hứng chịu phần lớn gánh nặng của cuộc chiến. Điều này có nghĩa là Địa Phương Quân và Nghĩa Quân luôn phải hy sinh nhiều hơn và, vì được trang bị yếu kém hơn, đã phải chịu tổn thất nhiều hơn so với các quân, binh chủng khác trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Rồi khi toàn thể quân đội đó bị báo chí truyền thông phản chiến Mỹ và các sử gia thiên tả đánh giá thấp một cách oan uổng giữa lúc họ đang trên đà chiến thắng quân Cộng Sản – sau khi kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh được khởi sự hồi cuối thập niên 1960 – các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, dĩ nhiên, càng dễ bị coi là những chiếc bóng mờ trên các chiến trường gai lửa và ác liệt hồi năm 1972, cỡ Quảng Trị, An Lộc, Kon Tum, và cả Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 của Cộng Sản Bắc Việt. Nhưng những hy sinh xương máu cùng những chiến công gần như hằng ngày của Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, trong thập niên sau của nền Cộng Hòa, lúc chiến tranh đạt đến cao điểm tại miền Nam Việt Nam, đã là những sự thật không thể nào bỏ qua trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa. Trong số hàng trăm trận đánh khốc liệt với Cộng Quân mà các lực lượng an ninh diện địa này từng tham dự từ Quảng Trị cho tới Cà Mau, phải kể đến các trận đánh hào hùng tại căn cứ Dak Seang ở Kon Tum hồi năm 1971 và Võ Đắc ở Bình Tuy hồi cuối năm 1974 và đầu năm 1975. Diễn tiến cũng như kết quả của các trận đánh nói trên đã được chính những chiến binh tham dự ghi lại qua các hồi ký được viết ra sau khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam kết thúc. Đó là bài viết nhan đề “Vĩnh Biệt Dak Seang” của Trường Sơn Lê Xuân Nhị trên trang mạng vnafmamn.com và bài phỏng vấn cựu Đại Úy Lê Phi Ô trên nhật báo Người Việt hồi Tháng Hai, 2020. Trận Dak Seang Dak Seang là một ngọn đồi chiến lược nằm sát biên giới Lào của tỉnh Kon Tum, bao gồm Căn Cứ A-245 – mà trước năm 1970 do Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ trấn đóng và sau đó được chuyển giao do Tiểu Đoàn 95 Biệt Động Quân Biên Phòng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – cùng các tiền đồn lân cận do các đơn vị Địa Phương Quân Kon Tum chịu trách nhiệm phòng thủ. Căn cứ này là chốt chận huyết mạnh quan sát mọi cuộc chuyển quân và súng ống, đạn dược cũng như đồ tiếp liệu từ miền Bắc xâm nhập vào miền Nam qua Đường Mòn Hồ Chí Minh để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản. Nhằm nhổ đi cái gai nhọn trước mắt này, các đơn vị chính quy cấp trung đoàn thuộc Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Chiến Dịch Dak Seang của Cộng Sản Bắc Việt, phối hợp với quân du kích địa phương, đã thực hiện cuộc tấn công vào Dak Seang trong những ngày đầu Tháng Tư, 1970, chủ yếu nhắm vào Căn Cứ A-245 và một tiền đồn do các chiến sĩ Địa Phương Quân phòng thủ ở gần đó. Trận đánh không cân sức này giữa bộ đội Cộng Sản và các chiến sĩ Địa Phương Quân trong tiền đồn nói trên, do hoàn cảnh chiến sự đưa đẩy, đã được Trường Sơn Lê Xuân Nhị, một phi công quan sát và không yểm của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa và cũng là tác giả bài viết, nghe được qua các liên lạc vô tuyến và đích thân chứng kiến từ trên không lúc cuộc vây hãm và tấn công của địch vào đồn đã tiến vào những giờ phút quyết định. Khi các lực lượng tấn công sắp sửa tràn ngập đồn, vị trưởng đồn đã yêu cầu các phản lực cơ F-4 Phantom của Không Quân Mỹ hãy đánh bom thẳng vào đồn thay vì chỉ thả bom yểm trợ bên ngoài vòng rào, để họ và các chiến sĩ Địa Phương Quân đang tử thủ cùng chết với lực lượng Cộng Sản có quân số đông gấp bội phần. Sau khi phải bất đắc dĩ thi hành nhiệm vụ, các phi công Mỹ cũng ngậm ngùi đồng ý với các phi công Việt Nam rằng đây là một Alamo thứ hai trong chiến tranh, ý muốn nhắc đến trận đánh bi hùng tại Alamo, Texas, vào năm 1836, khi hơn 100 binh sĩ trú phòng của Cộng Hòa Texas (lúc chưa gia nhập Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ) bị các lực lượng Mexico bao vây và tiêu diệt nhưng quân trú phòng đã tử thủ và chiến đấu cho tới viên đạn cuối cùng chứ không một ai đầu hàng quân địch. Sau đây là lời kể của Trường Sơn Lê Xuân Nhị vào lúc các chiếc F-4 đang dội bão lửa xuống đầu giặc sát hàng rào phòng thủ của đồn Dak Seang theo lời hướng dẫn mục tiêu của các phi công Không Quân Việt Nam: “Đang đánh [bom] ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưới đất: -Bạch Ưng (phi cơ quan sát), đây Thạnh Trị (trưởng đồn). Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường. Anh Ngọc (phi công Bạch Ưng) bấm máy: -Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn. -Tôi yêu cầu Bạch Ưng cho đánh ngay vào trong đồn. Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là minh nghe… lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại: -Bạch Ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi. -Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn? -Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi Cứ đánhvào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi. -Bạn suy nghĩ kỹ chưa? Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn: -Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà bạn… Đó là những tiếng nói cuối cùng mà tôi nghe được từ đồn Dak Seang “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.” Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị Quân Đoàn. Quân Đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dak Seang một lần nữa rồi cho biết kết quả. Người phi công Hải Quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém: -Roger! Sir. Did you say… right on it? Over. -Yes, sir, it’s all over. I said you salvo right on it. Over. -Roger, sir. I understood, sir. Over. Chỉ có vậy thôi, đồn Dak Seang biến thành một biển lửa sau hai đợt bom salvo của mấy chiếc Phantom… Bay cách dó chừng 5 cây số với cao độ chừng 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bom 500 cân Anh nổ một lần. làm sao còn ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?… Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của phi tuần trưởng Phantom vang lên: -Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: These people down there have foiught like men and have gone in honor. Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào: -Yes, sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An even greater Alamo than ours. Over.” (Vann Phan) Nguồn: www.nguoi-viet.com/
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 18:19:40 GMT 9
Quân Đoàn III Giữ Phòng Tuyến Phan RangPosted on March 11, 2020 by dongsongcu Vương Hồng Anh Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “Ngày 30-4-1975”, nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo. * Tổng lược tình hình 7 tỉnh Cao nguyên của Quân khu 2 trước khi Quân đoàn 3 thành lập phòng tuyến Phan Rang Như đã trình bày, kể từ ngày 10/3/1975 ,ngày Cộng quân (CQ) mở trận tấn công cường tập vào thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc, cho đến ngày 3 tháng 4/1975, trong vòng 23 ngày, CQ đã chiếm vùng Cao nguyên sau khi lực lượng VNCH triệt thoái, theo trình tự sau đây. -Ban Mê Thuột (tỉnh lỵ tỉnh Darlac) thất thủ ngày 11/3/1975; ngày 16-18/4/1975, lực lượng Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi hai tỉnh Pleiku và Kontum, và CQ đã chiếm 2 tỉnh này mà không qua các cuộc giao chiến. Ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Ngày 22/3/1975, trên địa bàn tỉnh Quảng Đức, Cộng quân đã mở nhiều cuộc tấn công và pháo kích. Tỉnh Quảng Đức được ghi nhận là thất thủ vào ngày này. -Ngày 29/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ huy đã triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối ngày 29/3/1975.(Theo nhật ký hành quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2 ghi theo báo cáo của Trung tâm Hành quân Quân đoàn 2 đặt tại Nha Trang thì diễn tiến tình hình chiến sự tại Lâm Đồng như sau: “Vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đã tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào thị xã tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, tỉnh lỵ bị tràn ngập.” Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Viên, nguyên trưởng ty Thông tin-Chiêu Hồi tỉnh Lâm Đồng, người đã rời Bảo Lộc vào 12 giờ trưa ngày 29/3/1975, thì ” không hề có vấn đề thị xã Bảo Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng) bị tràn ngập, ít ra là tính tới 12 giờ trưa ngày này, mà chỉ có việc quân ta tự ý rút lui và đồng bào di tản theo mà thôi.) – Ngày 3/4/1975, tỉnh và thành phố cuối cùng của Cao nguyên bị CQ chiếm là tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt (Sau 1975, CS sát nhập 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt là tỉnh lỵ của tỉnh này). *Quân đoàn 3 phối trí lực lượng giữ phòng tuyến Phan Rang Nhằm ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉn NinhThuận,Bình Thuận, thành lủy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH đã quyết định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến phòng thủ bảo vệ hai tỉnh này. Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & QuânKhu 3, thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Tưlệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn này. Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, ông cũng đã từng giữ chức Tư lệnh Quânđoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau khi đã giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đến tháng 5/1972). Trở lại với việc phối trí hoạt động tại Ninh Thuận và Bình Thuận,theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tư lênh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, thì Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân mà Tư lệnh là Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang. Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng phòng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.Trong những ngày đầu của tháng 4/1975, lực lượng chính để bảo vệphòng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến mặt trận Khánh Dương và tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được không vận từ Sài Gòn ra ngày 2/4/1975. Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân.Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến. Ngày 8 tháng 3/1975, sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đến Phan Rang để thay thế Lữ đoàn 3, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đã khởi sự phối trí lực lượng để bảo vệ phòng tuyến Phan Rang như sau. CAC CHIEN SI NHAY DU NGHI NGOI TREN QUOC LO, SAU MOT CUOC HANH QUAN TRUY LUNG DICH QUAN Nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xã Phan Rang. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù còn được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đã tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội hình của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù. MOT PHAO DOI PHAI BINH NHAY DU DANG YEM TRO QUAN BAN * Tình hình Phan Rang trong thượng tuần tháng 4/1975: Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập tại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh nàyđã được vãn hồi ngay. Vị Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởngNinh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lậpviệc phòng thủ quanh thị xã và điều hành công việc hành chínhtrong tỉnh. Tuy nhiên lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Ninh Thuận chỉ còn một phần ba quân số tại hàng. Một số lớn binh sĩ và hạ sĩ quan đã bỏ đơn vị vào Nam tìm gia đình. Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí phòng thủgần thị xã, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ gìnan ninh tại thị xã và các vùng phụ cận. Lực lượng nòng cốt để bảovệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù. Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữuhiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và tìnhhình tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn. * Phần bổ sung về cuộc hành trình của Trung tướng Ngô Quang Trưởng trên đường vào Nam Trong khi Cộng quân tiến chiếm các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa thì một số tàu Hải quân đang chở hàng ngàn quân sĩ của các đơn vị Quân khu 1 và một số tiểu đoàn của Sư đoàn Thủy quân Lụcchiến từ Đà Nẵng vào Nam. Như đã trình bày, chỉ có một ít đơn vịcủa Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 Bộ binh lên được tàu cùng với một sốsĩ quan. Riêng Trung tướng Trưởng được tàu Hải quân HQ 404 vớtsau khi ông phải bơi từ bờ. Trong cuộc hải trình vào Nam trên tàu HQ 404, Tướng Trưởng đã nhận được mật điện của Tổng thống Thiệu yêu cầu ông chuyển qua HQ5 hay các chiến hạm lớn có đầy đủ tiện nghi và sạch sẽ hơn vì HQ 404 quá chật chội, không có máy lạnh và chở toàn binh sĩ. Theo lời kể của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, thì lúc đótàu này dơ bẩn và hôi hám vì có nhiều người chết. Dù được yêu cầu chuyển qua một tàu lớn hơn nhưng Trung tướng Trưởng không đồng ý, Ông yêu cầu Trung tá Nhơn báo về Sài Gòn là ông xin ở lại trên tàu với anh em Thủy quân Lục chiến chứ không đi đâu cả. Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận. HAI VAN HAM HUONG GIANG HQ404 LSM. Khi HQ 404 đến Cam Ranh, Hạm trưởng của tàu này nhận được lệnh bỏ hết anh em Thủy quân lục chiến xuống Cam Ranh và chỉ chở một mình Trung tướng Trưởng vào Sài Gòn. Để thực hiện lệnh này, HQ 404 được phép ủi bãi Tân Cảng để đổ Thủy quân lục chiến xuống. Ngay khi cuộc đổquân bắt đầu, Trung tướng Trưởng lặng lẽ đứng dậy đi xuống tàu. Trung tá Nhơn thấy vậy tiến đến trình bày: “Lệnh Sài Gòn yêu cầu tôi chở Trung tướng về Sài Gòn. Xin Trung tướng ở lại tàu cho”. Với nét mặt cương quyết, Trung tướng Trưởng nói rõ từng tiếng yêu cầu Hạm trưởng HQ 404 xin phép Sài Gòn cho Thủy quân Lục chiến về Sài Gòn để dưỡng quân và chỉnh đốn đội ngũ. Tướng Trưởng nói tiếp: Nếu anh em Thủy quân Lục chiến xuống Cam Ranh thì tôi cũng xuống đây luôn. Liền ngay sau đó, Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404 báo về Sài Gòn và chờ đợi kết quả. Cuối cùng công điện trả lời: “Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận”. Quân nhân Thủy quân Lục chiến đã xuống bờ được gọi trở lên tàu. Khi tất cả quân nhân Thủy quân Lục chiến đã có mặt đầy đủ, với khuôn mặt khắc khổ, Tướng Trưởng lặng lẽ trở vào phòng của ông. Nguồn:https://vietbao.com/a40762/30-nam-nhin-lai-quan-doan-3-giu-phong-tuyen-phan-rang
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 18:22:15 GMT 9
Hành Trình Vượt Biển Của TôiPosted on April 25, 2020 by dongsongcu Trần Hoàng Yến Tôi lớn lên ở Sài Gòn trong một gia đình có 9 chị em, sau ngày 30.4.75 ba tôi bị bắt đi trình diện và rồi bị nhốt luôn trong tù. Gia đình tôi bị đẩy về vùng Kinh Tế mới gần 2 năm, cuộc sống khó khăn nên mẹ tôi quyết định bỏ vùng KTM về Thành Phố ở. Chính quyền địa Phương không cấp hộ khẩu cho gia đình tôi vì mẹ tôi tự ý bỏ Kinh Tế Mới đi. Mẹ tôi phải chạy chọt khắp nơi để có hộ khẩu và có chỗ ở cho chị em tôi được đi học. Vượt Biên Gặp Hải Tặc ( 5.1981) Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người. Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ. Lúc này nhiều người đã kiệt sức nên khi nhìn thấy một hòn đảo, ai cũng muốn tấp vô để kiếm thức ăn và nước uống, một người xung phong nhảy xuống bơi vào bờ xem xét tình hình trước nếu ổn thì thuyền sẽ tấp vào. Nhưng có người trên thuyền đặt ống dòm và thấy trên đảo có nhiều xác máy bay, ông ra dấu hiệu cho người dưới biển lên tàu lại và thuyền quay đầu chạy. Vừa mới chạy thì chúng tôi nghe bắn ầm ầm hai bên mạn thuyền, nhưng may mắn thuyền chúng tôi chạy thoát, nghe nói đó là đảo của tụi Khờ me đỏ. Thuyền lại tiếp tục chạy vì không thức ăn và không nước uống, tôi và nhiều người cũng bắt đầu mê sảng, tôi không còn nhận ra anh tôi, và khi ai đó lượm được vỏ dưa hấu trên biển đưa cho tôi ăn, vì sảng tôi cứ tưởng mình đang ăn trái ổi. Rồi thì chúng tôi may mắn gặp một tàu đánh cá của Thái, họ quăng dây cho chúng tôi lên tàu, khi hai tàu sát nhau và sóng đánh dạt ra có hai anh bị rớt xuống biển. Chúng tôi được họ cho ăn và uống, ai có vàng thì họ xin, sáng hôm sau họ quay lá cờ lại và nói vì họ không phải là tàu Thái, họ là Tàu Campuchia nên họ không được vô hải phận Thái và mời chúng tôi xuống thuyền nhỏ lại. Thuyền tiếp tục chạy, mọi người đang kiệt sức thì bỗng thấy xa xa thấp thoáng những chiếc thuyền, mừng quá nhiều người cởi áo ra ngoắt la S.O.S. Rồi 4-5 con tàu xuất hiện, tiến tới và bao vây thuyền chúng tôi vào giữa và họ bịt số ghe lại vì sợ những người trên tàu nhìn thấy sẽ đi thưa họ. Nhưng có người còn thấy và ghi số ghe. Tôi nhìn thấy họ là những người đàn ông lực lưỡng, đen thui, ở trần, chỉ mặc quần lót, nhìn rất hung dữ, nhảy xuống ghe chúng tôi và lôi kéo mấy người phụ nữ đưa lên tàu của họ, và lúc đó tôi thấy nhiều cô chạy tới đầu máy ghe và lấy dầu máy trét lên mặt. Tôi lúc đó nghĩ, sao họ chơi dơ thế. Về sau tôi mới hiểu mấy cô làm vậy cho mặt mày xấu xí để đừng bị mấy tên cướp bắt. Một chị đang bị mê sảng nặng chúng cũng tính bắt nhưng mọi người nói chị sắp chết nên họ tha. Tôi nghĩ số chị may mắn và tôi cũng may mắn. Một tên bắt tôi đứng lên và quay lại nói gì đó với thằng nhóc trên tàu của nó, thằng bé đó cỡ 13-14 tuổi, nhưng thằng bé lắc đầu, tôi lúc đó không hiểu nó nói gì và muốn gì, khi thằng bé lắc đầu thì nó tha không bắt tôi lên tàu nó. Nghĩ lại thấy số mình cũng hên, tôi thầm cảm ơn trời, Phật và thằng nhỏ đó, vì tuổi nó con nít chẳng biết gì nên sự ngây thơ của nó đã cứu tôi và có một điều tôi nghĩ chắc nó cũng là một người lương thiện. Sau đó bọn hải tặc bắt 8 chị lên tàu đem đi và cướp hết vàng của những ai đang có. Trước khi bỏ đi chúng còn lấy luôn đầu máy ghe của chúng tôi, ghe không có máy nên cứ trôi bềnh bồng. Sang ngày thứ tư thì gặp một tàu đánh cá khác họ cho chúng tôi lên, nhưng hai người cầm 2 cây giáo vì sợ bị bạo động, họ biết tàu chúng tôi vừa mới bị tàu khác cướp. Trại Tỵ Nạn Chúng tôi được đưa vào trại tỵ nạn Laem Ngop, tôi còn nhớ khi thuyền tấp vào đảo chúng tôi không còn sức để bước xuống thuyền ai cũng đi nghiêng ngả như người say rượu vì 4 ngày lênh đênh trên biển mà không ăn, uống. Khi nhập trại những người biết tiếng Anh đi thưa cảnh sát Thái, khai họ nhìn thấy số ghe của bọn hải tặc thì tối đó cảnh sát Thái cho người tới đánh những người đi khai.Tôi nghe người lớn nói Cảnh sát Thái và Hải Tặc có cấu kết với nhau. Có một anh có đứa con nhỏ 2 tuổi, vợ anh bị hải tặc bắt, tội nghiệp đứa nhỏ khóc hoài vì nhớ mẹ. Sau đó vài tuần chúng tôi chuyển qua trại Laem Sing, ở đó cũng có nhiều chuyện lạ. Khi người Thái mở nhạc chào cờ của Thái mà người VN trong trại tỵ nạn không đứng chỉnh tề chào cờ Thái thì sẽ bị phạt. Có hôm tôi thấy họ bắt mấy anh VN cạo đầu trọc lóc ,tay cầm cây nhang đi một hàng dài xuống biển, phải hụp đầu xuống nếu chưa cho phép mà trồi đầu lên sẽ bị cảnh sát Thái lấy đá chọi, và những ai ra ngoài đi làm lén nếu bị bắt thì cảnh sát Thái sẽ bắt họ cởi áo và nằm lăn vòng vòng trên đường đá sỏi cho tới khi da thịt rướm máu. Giờ nhớ lại tôi vẫn không hiểu sao họ không thích người Việt Nam, trong khi người Lào và Campuchia cũng lén ra ngoài trại bán gạo hoặc đi làm lén thì họ không phạt mà chỉ phạt người Việt nam. Mẹ tôi gửi tiền cho chủ ghe nhưng cô chủ ghe cũng bị hải tặc bắt nên hai anh em tôi không có tiền sống và cũng không có tiền để gửi thư về nhà. Anh tôi lúc đó 13 tuổi là một người ham chơi nhưng khi qua đảo anh tôi lại đổi tánh biết lo, khác hẳn ra, anh đi bẻ măng và có khi trốn ra ngoài đi rửa chén cho tụi Thái. Có lần anh tôi trốn ra ngoài làm và vì trời tối nên bị sụp chân xuống cây cầu về bị sốt nặng nhưng không dám đi bác sĩ và anh nằm miên man 3 ngày vì không có thuốc. Lúc đó tôi đã khóc vì sợ anh tôi chết, may mắn trời cũng thương và anh tôi qua khỏi. Nhờ anh tôi đi làm có chút tiền nên chúng tôi gửi thư về cho mẹ. Khi chúng tôi chuyển qua trại Transit Center, một thời gian thì chúng tôi gặp lại mấy chị bị hải tặc bắt, mấy chị kể hải tặc bắt mấy chị hãm xong quăng xuống biển nhưng cũng may chúng nhìn thấy tàu tuần cảnh sát Thái nên nhảy xuống bắt mấy chị lên thuyền lại, và sau đó thả mấy chị vào 1 hòn đảo hoang. Mấy chị không quần áo, không miếng vải che thân phải nắm tay nhau đi lên dốc núi, nhiều khi bị đá ở trên rớt xuống trúng vào người. Sau này mấy chị gặp được mấy bà Thái, họ cho quần áo bận và đưa mấy chị vô trại. Có một chị vừa bị hải tặc bắt mà em trai đi cùng thuyền lại té chết trên biển nên chị rất buồn, ngày nào chị cũng cúng cơm cho em và hy vọng em chị vẫn còn sống. Về sau có một anh thương chị nên tôi thấy chị cũng nguôi ngoai phần nào, còn một chị 15 tuổi thì phải vô nhà thương hoài, nghĩ lại tôi cảm thấy thương mấy chị. Giờ nầy mấy chị đã ở Mỹ, không biết mấy chị sống ra sao? Cô chủ tàu gặp lại chúng tôi dúi trả lại một ít tiền, không biết là bao nhiêu nhưng cũng đủ cho hai anh em tôi ra nhà hàng ăn được mỗi đứa một tô mì gói, cảm giác của tôi lúc đó thật là hạnh phúc và sung sướng. Sau đó chúng tôi chuyển qua trại Pananis Khom để đi Đức. Thời gian ở đảo 4 tháng rất khó khăn và khổ nhưng tôi cũng có rất nhiều kỷ niệm vui. Ở trại tôi có nhiều bạn bằng lứa tuổi nhưng chúng tôi may mắn hơn các bạn vì đi Đức theo diện minor nên chỉ có 4 tháng còn các bạn ấy đi Mỹ nên phải đợi hơn 1 năm. Ngày rời khỏi trại để đi tôi rất buồn vì xa các bạn, ngược lại anh tôi rất vui. Định Cư Hai anh em tôi qua Đức vào một chiều mùa Thu giữa tháng 9, lúc đó trời hay mưa và lạnh, xứ lạ làm tôi buồn và nhớ nhà nhiều lắm, tôi nhớ mẹ, chị, mấy em và các bạn cùng cô giáo của tôi. Mẹ tôi ở nhà trông hoài không thấy tin tức gì của anh em tôi nên đi coi bói, ông thầy bói nói anh, em tôi chết trên biển rồi làm mẹ tôi khóc và ăn chay cả tháng. Ba chị em tôi vì tuổi dưới vị thành niên nên phải sống chung với một gia đình khác, ba năm sau chị tôi bảo lãnh cả gia đình qua. Đó là hành trình của chuyến đi tìm tự do mà mọi người phải trả giá rất đắt. Sau này tôi nghe nói hải tặc Thái xuất phát từ Phuket, không biết có bao nhiêu người như vậy đã làm xấu đi hình ảnh của dân tộc họ trong suy nghĩ của tôi, nhưng dầu sao tôi cũng phải cảm ơn chính phủ Thái Lan đã giúp cho nhiều người Việt tỵ nạn như chúng tôi và cảm ơn nước Đức đã cưu mang gia đình chúng tôi. Hiện các con tôi đã lớn và tôi muốn chúng hiểu giá trị của sự tự do mà chúng đang được hưởng. Nó là một sự liều mình giữa cái sống và chết của những người quyết định ra đi tìm tự do và nó được đón nhận bởi lòng nhân đạo của người Đức để các con tôi có một tương lai tốt lành của ngày hôm nay. PS: Hy vọng qua bài viết này mình có thể tìm lại được các bạn mình hay các anh chị em chung chuyến ghe. Nguồn: vietbao.com/p301414a302994/hanh-trinh-vuot-bien-cua-toi
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 25, 2020 18:25:26 GMT 9
CÂU CHUYỆN VƯỢT BIỂN TỪ THỦ ĐÔ SAIGON – Lê Thanh Tùng Posted on April 23, 2020 by dongsongcu Lê Thanh Tùng Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, việc vượt biển tìm Tự Do ngay tại Saigon, rất khó thực hiện, vì lúc đó bọn phỉ quyền còn kiểm soát chặt chẽ, công an khu vực luôn luôn „dòm ngó“ nhà dân. Việc „đi bán chính thức“ do công an tổ chức cũng không còn rầm rộ như các năm 1978-1979. Kể từ ngày hé lộ chuyện vượt biển bằng ghe ngay tại Thủ Đô Saigon, cho đến bây giờ, cũng không thấy có ghe thứ hai, như vậy, trong lịch sử thuyền nhân, chỉ có duy nhất một chiếc thuyền chở 45 người ra đi, xuất phát ngay trên sông rạch của Thủ Đô Saigon, và bây giờ, người tổ chức chiếc thuyền này kể lại để cống hiến cùng bạn đọc, thân hữu xa gần. Không có ai đi bằng ghe từ Saigon liên lạc với tôi, nhưng có rất nhiều email muốn tôi viết lại việc tổ chức này do hiếu kỳ và tò mò, như vậy trong lịch sử thuyền nhân Boat People chỉ độc nhất một chiếc thuyền do tôi làm, đi từ sông Saigon ra cửa biển Vũng Tàu. Đường bộ Saigon-Vũng Tàu dài 120 Km, đường sông tương đương hoặc dài hơn nhưng quanh co vắng lặng, tàu tuần công an lúc nào cũng chạy tới chạy lui để kiểm soát và làm tiền các ghe thuyền chuyên chở hàng hoá, do đó phải cẩn trọng suốt cuộc hải hành. Công an chận xét mà trên ghe đầy người, coi như xong, tất cả vào „nhà đá“, người tổ chức không có ngày về. Tôi dùng chiến thuật như khi đi hành quân diệt Việt Cộng, một xuồng tam bản, chạy máy đuôi tôm, lọai ghe này chạy rất nhanh, không có mui, dùng làm tiền sát chở 2 người, chạy trước khoảng 1 hải lý, gặp tàu tuần, quay lại, bấm đèn pin để làm hiệu báo động, đó là lần thứ 3, đi ban đêm. Khi thấy có đèn hiệu, chiếc thuyền chính chở người phải rẽ ngay vào con rạch gần nhất, trốn trong đó, chờ ghe tiền sát thám thính, thấy an toàn mới cho tiếp tục lên đường. Tôi cũng chân thành tạ lỗi cùng các bạn bè thân thiết từ ngày gặp nhau trên nước Đức, 37 năm qua, trong lúc „trà dư tửu hậu“ chỉ toàn các chiến hữu thiết thân, nhưng tôi cũng không hề nói về câu chuyện vượt biển ngay tại Thủ Đô Saigon, như người „hàng xóm“ tại khu Hoà Hưng, là anh Nguyễn Hữu Huấn, người được Cap Anamur vớt trước tôi, đã gặp nhau trên boong tàu vào tháng 5.1980 tại cảng Singapore, cũng không hề nghe tôi nói về con thuyền đi đường sông từ Saigon ra cửa biển Vũng Tàu…Sở dĩ tôi giữ kín „như bưng“ là vì „nói ra“, bọn công an cộng sản biết được, sẽ tóm trọn ổ những người đi sau, nếu họ cũng làm như tôi. Cap Anamur đã cứu vớt thuyền nhân như sau: Cap Anamur 1 gồm nhiều chuyến, từ tháng 9.1979 đến tháng 05.1982, vớt được 194 ghe, 9507 người. Cap Anamur 2, từ tháng 03.1986 đến tháng 06.1986, vớt được 18 ghe, 888 người. Cap Anamur 3, từ tháng 04.1987 đến tháng 06.1987, vớt được 14 ghe, 905 người. Tổng cộng 3 lần ra khơi, Cap Anamur đã vớt được 226 thuyền, 11.300 người. Ở đây cũng xin nói rõ, tất cả các thuyền nhân dưới 18 tuổi đều được bảo lãnh đoàn tụ gia đình, chính phủ Đức chi trả mọi chi phí cho việc đoàn tụ này. Tôi đem đi 2 đứa cháu, một đứa gọi là chú ruột, một đứa gọi là cô ruột, cả 2 đứa đã bảo lãnh cha mẹ, anh chị em, mỗi gia đình 7 người, chúng tôi không phải trả một chi phí nào cho tiền vé máy bay đoàn tụ, đặt chân đến nước Đức, mọi người được lãnh trợ cấp để sinh sống ngay. Nhiều người thấy nước Đức „cưu mang“ và mở rộng lòng nhân, đều nói là những thuyền nhân này đẻ bọc điều mới được hưởng những may mắn như thế, công ơn cứu tử của vị ân nhân, ông Thánh Neudeck sẽ sống mãi trong lòng chúng tôi, những người phải từ bỏ chế độ cộng sản độc tài, khát máu ra đi, chín phần chết, chỉ có một phần sống mong manh. Sau 37 năm (1979-2016), số người đoàn tụ, số người trưởng thành lập gia đình, sinh con đẻ cái, nâng con số lên khoảng 70.000 người, trong đó có rất nhiều gia đình, các con em họ đều thành đạt trên bước đường học vấn, như gia đình anh chị Nguyễn Đức Trụ, cả 5 cháu, 3 trai 2 gái đều đỗ đạt, đứa thì Bác Sĩ, đứa thì Kỹ Sư, đứa thì Dược Sĩ. Gia đình anh chị Lê Thanh Tùng ở Bochum, 4 cháu gái đều xong bậc Đại Học, đi làm, có địa vị ngoài xã hội, mỗi cháu học một ngành nghề khác nhau. Đặc biệt, ghe của tôi có anh Trương Ngọc Thanh, đã tốt nghiệp Kỹ Sư Phú Thọ, khi đến Đức, đi học lại, tốt nghiệp Bác Sĩ, hiện mở phòng mạch tại Tỉnh Minden, Tiểu Bang NRW, Germany. Anh Nguyễn Hữu Hoàng, Kỹ Sư Địa Chất tại VN, qua Đức, học lại, thành Bác Sĩ Y Khoa, đang hành nghề tại một nhà thương ở tỉnh Menden, còn gia đình anh Phạm Văn Hoá, đã bị 3 ghe hải tặc bao vây, sửa soạn tấn công, thì Cap Anamur đến cứu kịp, 2 cháu gái của anh Hoá lúc đó mới 4,5 tuổi, nay đã tốt nghiệp Đại Học, cháu Thanh Trúc, một nữ Luật Sư trẻ, đã làm MC cho buổi khánh thành tượng đài thuyền nhân năm 2009, tại hải cảng Hamburg. Đặc biệt hơn nữa, một thuyền nhân đã trở thành Dược Sĩ Trung Tá trong quân đội Đức, đó là Anh Lê Vĩnh Hiệp, còn nhiều điều kỳ thú mà chúng ta chưa biết được như ĐĐ Thích Hạnh Giới, Trụ Trì chuà Viên Giác, là một Boat People, tốt nghiệp Đại Học Đức, xuống tóc đi tu được Sư Phụ Thích Như Điển cho qua Ấn Độ du học, đậu bằng Tiến Sĩ Phật Học. Tôi chỉ kể ra những trường hợp điển hình, chắc chắn còn rất nhiều các con cháu đã đạt được thành quả rất tốt đẹp trong lãnh vực học vấn, riêng đạo Công Giáo đã có thêm nhiều Linh Mục, những vị này được Cap Anamur vớt ngoài biển Đông, đi tu trở thành các vị lãnh đạo tinh thần trong Giáo Hội Công Giáo, tôi quen biết thân thiết với vài vị Linh Mục, dù tôi không phải là tín hữu. 1.- TÌM ĐƯỜNG RA ĐI. Thấm thoát sống với loài qủy đỏ đã gần 5 năm, nhất là sau ngày mẹ tôi mất, 08.02.1979, càng thúc đẩy tôi quyết tâm tìm kiếm một lối thoát, 3 đứa con gái của tôi không thể nào học lên được, vì với lý lịch, cha là dân di cư 54, Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, con cái chắc chắn bị „trù dập“ trong cái guồng máy „xét lý lịch 3 đời, hồng hơn chuyên“. Cá nhân tôi, được lưu dụng làm việc tại Saigon Thủy Cục, nay đổi tên là Công Ty Cấp Nước, đến tháng 06.1976, bị cưỡng bách cho nghỉ việc để đi kinh tế mới, các hậu quả do chế độ mới giành cho tôi đã từ từ phủ chụp lên cuộc sống gia đình tôi, đây là một sự trả thù hèn hạ mà chế độ phỉ quyền luôn luôn tuyên truyền, là khoan hồng, nhân đạo với người chế độ cũ, tôi bị thương, giải ngũ, trở thành Thương Phế Binh với cấp độ tàn phế 70%, vừa kịp lúc Saigon Thủy Cục, một cơ quan tự trị, lương bổng cao hơn lương Trung Úy Quân Lực VNCH, thi tuyển nhân viên, ngạch kiểm soát viên kiêm thâu ngân viên, tôi nộp hồ sơ, kèm các huy chương để được ưu tiên, thêm điểm. Kết quả tôi đậu đầu trong 5 người và làm việc tại khu Chợ Lớn, sau 3 tháng tôi xin đổi về khu Saigon, gần nhà hơn. Saigon Thủy Cục có 3 khu chính là Saigon, Chợ Lớn , Gia Định và nhà máy nước Thủ Đức. Sau ngày 30.04.1975, bọn „răng đen mã tấu“ tiếp thu Saigon Thủy Cục, chúng đổi tên là Công Ty Cấp Nước, vẫn làm việc như cũ, chúng giao cho tôi 2 người mới từ ngoài Bắc vào, để chỉ dẫn cho họ, tôi có chút nghi ngại, nhưng không chỉ bảo cho chúng, thì có thể bị kỷ luật, tôi và các nhân viên được lưu dụng phải „học tập cải tạo“ 1 tháng tại cơ quan, mãn khoá được cấp giấy chứng nhận, tôi dùng giấy chứng nhận này, sau khi bị cho nghỉ việc, đi khắp các tỉnh miền Tây, tìm đường vượt biển. Thời buổi nhiễu nhương, sống trong một xã hội lấy „lừa dối“ làm kim chỉ nam, rất nhiều người mất vàng mà không đi được, còn bị vào tù, đi đâu cũng nghe, người này người kia vừa bị gạt, dù thế, tôi cũng không nản. Trong gia tộc có một vị thông gia với nhạc phụ của tôi, làm nghề đánh cá tại Vũng Tàu, tôi và người anh đồng hao, đã ra Vũng Tàu, ngủ đêm tại nhà vị thông gia này, để tính chuyện ra đi, nhưng không thành, vị thông gia không dám chứa chấp số người từ Saigon ra đây, chỉ ngủ lại một thời gian rất ngắn, lý do công an khu vực tại xóm chài này như con cú vọ, lúc nào cũng „lùng xục“ khắp trong xóm, người lạ xuất hiện là bị xét hỏi ngay. Đường đi từ bãi sau Vũng Tàu không thể nào thực hiện được với người từ nơi khác đến. Trên đường trở về Saigon, chúng tôi ghé chợ Rạch Dừa, Bà Rịa, thăm một người bạn, anh này cho biết những khó khăn mà bọn công an kiểm soát các khu xóm dễ dàng đem ghe thuyền ra biển, nói chung, những thôn xóm gần bờ biển đều được vào sổ „bià đen“, bọn công an khu vực luôn luôn „để mắt“ đến. Việc mua „bãi“ nếu êm xuôi thì an toàn cho người ra đi, nhưng nhiều khi vì „tranh ăn“, chúng nó „đấm đá“ lẫn nhau mà chủ ghe lãnh đủ, người đi mất vàng bạc cũng không dám „tố cáo“ hay thưa gởi gì cả. Thằng cháu rể tôi kể về chuyến ra đi của nó năm 1979, đi xe đò ra Vũng Tàu, có người dẫn đường tới khu đánh cá Phước Tỉnh, di chuyển ban ngày, không lén lút, nói chuyện ồn ào như cái chợ, thanh niên mỗi người vác một bao bố lớn kinh sách Phật Giáo, trong số người đi chung có Ni Cô Thích Nữ Diệu Hạnh, nay đang trụ trì một ngôi chuà tại Barntrup, Đức Quốc, số kinh sách và Tượng Phật do số thanh niên của ni cô vác đem theo. Đây là chuyến vượt biển đã được mua „bãi“ không sợ bị công an bắt giữ, rất an toàn xuống ghe để ra khơi. Tôi có anh bạn tên Dương Phục, vợ là Vũ Thanh Thủy, 14 lần mới đi được, bây giờ hai vợ chồng đang làm Đài Phát Thanh tại Houston, Texas, nhờ gia đình bên vợ đi trước, gởi đô la về nên mới có tiền để trả cho 13 lần ra đi không thành, lần thứ 14 mới ra khơi được, thì lại bị tàu hải tặc cướp bóc thật dã man, khủng khiếp. Dương Phục và Vũ Thanh Thủy đã viết hồi ký „TÌNH YÊU NGỤC TÙ & VƯỢT BIỂN ghi lại tất cả các diễn biến cuộc vượt biển tìm tự do của đời mình. Tôi bôn ba khắp các tỉnh sát bờ biển thuộc vùng bốn, nhưng vì không có người quen nên việc tổ chức ra đi không thực hiện được, sau bốn tháng, trở lại Saigon để tìm đường khác. Tôi ghé thăm thúc phụ tại trại Khuông Việt, Ngã Ba Ông Tạ, thím tôi hỏi thăm việc ra đi như thế nào, tôi cho biết tình hình chung rất khó khăn vì việc lừa gạt trong chuyện vượt biển xảy ra quá nhiều, không biết ai thật ai giả, tiền mất tật mang. Thím tôi cho biết, người hàng xóm sát cạnh nhà có người chú, ông ấy có chiếc thuyền chạy từ Saigon ra Vũng Tàu, chặt củi ở rừng đem về bán sinh sống cả nhà, mấy đứa con lái ghe từ sau 30.04.1975 đến bây giờ nên rất rành đường đi trên sông, biết chỗ nào có trạm kiểm soát đế tránh né, giống như đi trên đường bộ vậy. Đúng là „buồn ngủ gặp chiếu manh“, nhờ thím tôi giới thiệu với ông Sơn hàng xóm, và xin trực tiếp gặp ông Hoàng Văn Vân, người có chiếc ghe chặt củi, ngày giờ hẹn gặp sẽ cho biết sau, tôi ra về, đúng ngày hẹn, tôi đến, cuộc gặp gỡ thân mật tại nhà ông Sơn, ông Vân và tôi đã thoả thuận, phiá tôi bỏ tiền mua ghe, mua máy và mọi chi phí khác, phiá ông Vân được đi cả gia đình, không phải đóng góp gì cả vì nhà quá nghèo, vợ ông Vân đã chết, ông ở vậy nuôi đàn con hơn mười đứa, 2.- GIAI ĐOẠN MUA THUYỀN, MUA MÁY. Người con trai trưởng của ông Vân là Hoàng Văn Sự đã đưa tôi lên Thủ Đức để mua thuyền, chiếc thuyền dài 11 mét, ngang 3 mét, không có máy móc gì cả, còn tốt, chắc chắn, thuyền này chỉ đi trên sông, mũi bầu, nghe nói thuyền đi biển phải đóng mũi Tháilan mới chẻ sóng được, nếu là mũi đi biển, công an sẽ „hỏi thăm“ ngay, tôi quyết định mua chiếc ghe này với giá 5 lượng vàng, chủ thuyền viết giấy tay bán cho tôi, không có thị thực gì cả, tôi phải nhờ chiếc ghe của ông Vân lên kéo về cột đằng sau nhà ông Vân, nằm sát con kinh Nhiêu Lộc, khúc ấp Hoà Bình, gần Ngã Ba Ông Tạ. Muốn vượt biển phải gắn máy Yamaha một „blok“ hoặc lớn hơn, tôi đi thăm dò nhiều người có ghe thuyền chuyên chở từ vùng bốn về Saigon và ngược lại, may mắn có vị giới thiệu tôi với „chú Bảy Chợ quán“, nhà trước Bệnh Viện Chợ Quán, sau nhà là con rạch chạy dài đến cầu chữ Y và cầu Rạch Ông. Tôi trình bày thẳng với chú Bảy, tôi có ý định ra đi và nhờ chú ấy lo chuyện lắp ráp máy, chú Bảy bảo đem chiếc ghe neo ngay sau nhà để chú xem xét, ngày hôm sau tôi trở lại với chiếc thuyền và cột ngay dưới chân cột nhà chú Bảy, sống với Cộng Sản 5 năm, tôi biết lòng người dân Saigon, ai ai cũng chán ghét bọn „răng đen mã tấu“ nên không ngần ngại nói thẳng ý định „vượt biển tìm tự do“ với người đối diện, cứ lấy cái „tâm thật“ để cư xử, chính vì bản tính của tôi lúc nào cũng thủy chung với mọi người, nên kể từ ngày làm tờ Tạp Chí Dân Văn, đã lấy bút hiệu là Lý Trung Tín. Chú Bảy xem xét chiếc ghe, cho biết còn khá tốt, với kích thước này thì chỉ gắn máy Yamaha đầu bạc 1 block thôi, tôi đồng ý với lời cố vấn của chú, hôm sau nữa, tôi giao 5 lượng vàng lá cho chú Bảy, không cần viết giấy biên nhận gì cả, đối xử bằng tấm lòng chân thật giữa 2 bên, những chuyện làm có tính cách „bất hợp pháp“ mà đòi hỏi „giấy tờ“ thì là đã không tin nhau rồi, bọn phỉ quyền biết được thì cả 2 phiá đều „mắc tội“, chi bằng ta cứ đối đãi thực tâm của những người bị áp chế bởi cường quyền. Thời gian khoảng 1 tuần lễ sẽ ráp máy xong, hàng ngày tôi đều ghé chú Bảy, lần nào ông cũng đãi tôi bữa cơm thật chân tình, càng nói chuyện càng thấy hợp tính nhau, nhất là các nhận xét về cái chế độ này, tôi mở lời mời chú Bảy cùng ra đi với tôi, nhưng chú từ chối chờ chuyến đi của giòng họ chú, và chú chúc tôi gặp được nhiều may mắn khi ra khơi. Đúng 7 ngày sau, việc ráp máy hoàn tất, chú Bảy hẹn ngày giờ cho ghe chạy thử, xong xuôi tôi giao ghe cho cậu em vợ là Trần Văn Vinh giữ và lái, để thực hiện các giai đoạn kế tiếp. 3.- CHỌN NGƯỜI THÂN TÍN – HỌC CĂN BẢN HẢI QUÂN. Mua ghe, ráp máy xong, phải có người tin cậy, thân tín giữ ghe, mới có thể tiến hành từng bước, tôi phải ở trên „bờ“ để „tính toán“ mọi chuyện. Tôi có 5 cậu em vợ đều đã trưởng thành, chỉ riêng cậu út Trần Hoàng Minh đang phải đi „nghiã vụ quân sự“ đóng bên Cao Miên, 4 cậu kia đang sống tại Saigon và Biên Hòa. Tôi là con trai út, chỉ có một người em thúc bá nhưng chú này còn ham chơi, không thể giao cho những việc hệ trọng, cuối cùng tôi chọn cậu em Trần Văn Vinh, hai anh em đi uống cà phê, tôi rủ Vinh tham gia chuyện vượt biển tìm tự do bằng thuyền ngay tại Saigon, Vinh không do dự cũng không thắc mắc, đồng ý đi với tôi, như vậy, yên tâm một việc, đã có người thân tín „cật ruột“ để giữ chiếc ghe trong suốt thời gian chờ đợi ngày giờ khởi hành, tôi dặn Vinh đem ghe chạy „đi lại“ trên sông Saigon ra đến cửa biển Vũng Tàu, quan sát và nắm vững những địa điểm mà tàu tuần công an chận xét trên sông, một thời gian sau Vinh cho biết đã „thuộc“ đường đi trên sông, giống như đi trên bộ, chỗ nào có tàu tuần, chỗ nào hay bị chận xét, cách tránh né chúng như thế nào Vinh đều đã nắm rõ. Cứ khoảng một tuần về lại Saigon, lên bờ mua thực phẩm cho việc ăn uống, rôi xuống thuyền đi ra Vũng Tàu chặt vài bó củi chở về Saigon cho gia đình ông Hoàng Văn Vân. Trên thuyền lúc nào cũng có ít nhất 2 thủy thủ lái ghe, là Hoàng Văn Quỳnh và Trần Văn Vinh, hoặc Hoàng Văn Mục, Trần Văn Vinh, thỉnh thoảng có thêm Lê Quang Đĩnh, em thúc bá, đi theo cho quen „sóng gió“, các người con trai ông Vân đã thay nhau đi cặp và chỉ bảo Trần Văn Vinh điều khiển chiếc thuyền thật nhuần nhuyễn, dù trước đó Vinh chưa hề chèo ghe trên sông rạch. Ê kíp lái thuyền đã đầy đủ, nhưng người chỉ huy phải có sự hiểu biết tối thiểu về biển cả, tôi nghĩ ngay đến chú em Nguyễn Gia Bảo, em ruột người bạn thân cùng khoá Sĩ Quan Thủ Đức với tôi, chú Bảo tốt nghiệp khoá 24 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, chỉ bị đi tù cải tạo hơn một năm thì được thả về, đang sống chung với gia đình có người chị dâu là em kết nghiã của tôi, khi cô em này lên thăm tôi trên trường Sĩ Quan Thủ Đức, tôi đã giới thiệu cho Nguyễn Thiện Tường, người bạn thân, anh ruột Nguyễn Gia Bảo, sau đó nên duyên vợ chồng, lúc mãn khoá Tường chọn Thiết Giáp, tôi lựa Biệt Động Quân. Từ ngày ra trường tháng 1/1968, cách Tết Mậu Thân 18 ngày, Tường và tôi đi hành quân liên miên, đứa ở Quân Đoàn 2, đứa thuộc Quân Đoàn 3, tôi dự trận Mậu Thân ngay tại Chợ Lớn, Tường thì còn đang học khoá căn bản Thiết Giáp, hai đứa không gặp được nhau lần nào cả, rồi ngày 30.04.1975 ập đến, Tường trong trại cải tạo, tôi bị thương trở thành Thương Phế Binh trước Hiệp Định Paris nên không phải đi tù cải tạo, chỉ học tập 1 tháng tại cơ quan đang làm việc là Saigon Thủy Cục. Năm 2010 nhân dịp sang Cali dự Đại Hội kỷ niệm 50 năm thành lập binh chủng Biệt Động Quân/Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, tôi đã làm một vòng các Tiểu Bang thăm bạn bè, thân nhân, ở Thành phố Camden, NJ gặp Trần Văn Nam, người anh em đồng hao, bị Việt Cộng đày ra Bắc hơn 8 năm, bây giờ „tối ngày“ đi biểu tình chống Cộng Sản tại New York, Washington với chiếc xe lăn và lá cờ vàng ba sọc đỏ, bay qua Orlando, Florida, thăm gia đình Nguyễn Thiện Tường mà từ ngày mãn khoá 25 Sĩ Quan Thủ Đức, tháng 01.1968, đến bây giờ tháng 07.2010 mới gặp lại, hơn 42 năm, vật đổi sao dời, bị đầy đọa bởi bọn người cầm thú, nay có dịp trùng phùng, những kỷ niệm được nhắc đến như một phần ký ức trong cuộc sống, chuyến bay kế tiếp đưa vợ chồng tôi đến Thành Phố Denver, Tiểu Bang Colorado, hội ngộ với Huỳnh Lập Quốc, tôi và Quốc cùng khoá Thủ Đức, chỉ có 2 thằng về Tiểu Đoàn 51 Biệt Động Quân, nên rất thân nhau, tôi bị thương, giải ngũ, Quốc tiếp tục trong quân ngũ đến ngày tan hàng, tôi không hề biết tin Quốc ra sao sau tháng 4 đen, Quốc người Sóc Trăng, tôi ở Saigon, bặt tin nhau từ ngày lũ „răng đen mã tấu“ chiếm trọn miền Nam, mới mấy năm nay thôi, nhờ có Tổng Hội Biệt Động Quân, tôi mới liên lạc được với Quốc và rủ nhau cùng về dự Đại Hội tại Cali. Lúc này Tường còn đang bị giam trong trại cải tạo thuộc vùng 2, tôi đến thăm vợ con Tường, gặp Bảo, tôi nhờ Bảo xuống nhà chỉ dẫn các điều căn bản khi đi biển, Bảo sốt sắng mỗi ngày chạy xuống nhà tôi, đóng kin căn phòng và hướng dẫn thật tỉ mỉ về coi sao trên trời, đo tốc độ chiếc ghe, tính độ giạt của sóng, cách xem Hải Đồ, Hải Bàn…sau một tuần, những điều căn bản trên tôi đã nắm vững, dù sao tôi cũng đã tốt nghiệp Sĩ Quan Bộ Binh, việc coi bản đồ, địa bàn không thành vấn đề, khi được Bảo, một Hải Quân Thiếu Úy chỉ dẫn, là hấp thụ được ngay những điều căn bản khi đi biển, kể từ đây tôi vững tin hơn để đem con thuyền bé nhỏ vượt biển tìm tự do, tìm sự sống trong cái chết, khi ra đi mọi người đều biết, thập phần hiểm nguy, 9 phần chết chỉ có 1 phần sống rất mong manh. Tôi biết ơn sự hướng dẫn rất tận tình của Nguyễn Gia Bảo khi Bảo đích thân xuống chiếc ghe tại bến Bạch Đằng để đo tốc độ con thuyền, rồi chạy thử một khoảng rất dài, giải nghiã cặn kẽ các điều tôi hỏi về đi biển với con thuyền nhỏ bé này, dĩ nhiên với Bảo thì tàu sắt mới đúng tiêu chuẩn để ra khơi. Tôi mời Bảo cùng đi với tôi, nhưng mẹ Bảo không muốn vì trong gia đình vừa có chuyện đau buồn, 2 đứa em của vợ Tường vượt biển, chiếc ghe bị sóng đánh vào bãi san hô, cả thuyền chỉ có 2 người còn sống nên mới có tin về nhà, những trường hợp chết hết cả ghe thì rất nhiều, mà chúng ta thấy đăng tin trên báo tìm thân nhân vượt biển, không có tin tức gì về chuyến đi, bởi cả thuyền đã chìm vào lòng biển cả, không còn ai sống sót, chưa có cơ quan, báo chí truyền thông nào của thế giới thống kê tương đối chính xác được số người chết trên biển Đông mà chỉ ước tính, 1 người đến bờ thì 4 người vào „bụng cá“, trong lịch sử mấy ngàn năm của đất nước Việt Nam, chưa có thời kỳ nào mà số người ra đi tìm sự sống trong cái chết ào ạt như thời kỳ này, thà là chết hết chứ không thể sống trong một xã hội do lũ người tàn độc cai trị từ sau 30 tháng 04 năm 1975. Đây là một sự thật của lịch sử mà các nhà viết sử sau này phải ghi vào trang sử của tổ tiên để lưu lại ngàn đời sau. Cá nhân người viết đã bị „trả thù“ của lũ „vượn người“, thì đến đời con cháu sau này còn bị trù dập đến tận cùng khổ ải. Nơi nào có tự do thì nơi đó là quê hương của mình, ta hãy „nhủ thầm“ và cầu xin như thế. 4.- TRANG BỊ CHO CHUYẾN RA KHƠI. Thuyền bè, máy móc đã lắp ráp xong, bây giờ phải tìm mua các vật dụng cần thiết cho việc ra đi, các “món” không thể thiếu: Hải Bàn, Hải Đồ, Thức Ăn, Nước Uống 300 lít, 3 trái Xi-Nhan, Dầu Chạy Máy khoảng 300 lít, dự trù 100 bịch gạo sấy, 100 ký củ đậu, thêm khẩu K54, 2 băng đạn để thủ thân. Vì phải giữ kín, các thứ trên do một mình tôi lo liệu, riêng khẩu K54 và 2 băng đạn cùng 3 trái xi-nhan, do người anh họ Hà, gọi mẹ tôi là cô mua dùm, anh này và tôi không biết nhau, vì năm 1954, tôi theo gia đình di cư vào Nam tìm tự do, ngày 02.05.1975, anh Hà Văn Cường, cán bộ Thương Nghiệp được cử vào Saigon công tác, anh Cường đã tìm đến nhà mẹ tôi, tôi được nhắn về chào người anh em, vừa thấy tôi, anh nói ngay, chú mày là Sĩ Quan mà sao không đi, ở lại, “đòn thù” sẽ giáng xuống không lâu đâu, đúng như người anh họ đã nói, chúng “lưu dụng” tôi đến tháng 6.1976, buộc nghỉ việc để đi kinh tế mới. Tôi đóng một cái hộp để cất khẩu súng trên ghe, và chỉ một mình tôi biết chỗ cất súng. Anh Hà Văn Cường còn giúp tôi nhiều việc khi tôi nhờ đến, anh chẳng sợ hậu quả nếu việc bị đổ bể. Tôi cũng cho anh ấy biết, là tôi đang tổ chức để ra đi, anh hoàn toàn đồng ý với quyết định của tôi, chỉ khuyên tôi thật cẩn thận và tỉnh táo để “qua mặt” bọn công an Phường, Khóm. Hải đồ mua chỗ quen tại khu quận 5, Hải bàn phải đến xem tại chỗ, loại của Hải Quân VNCH giá 1 lượng vàng lá. Tôi cho cắt đôi 3 thùng phi 200 lít, hàn bằng mặt và có vòi vặn nước, 3 thùng phi này để vừa khít dưới sàn ghe làm chỗ ngồi, trong chứa nước ngọt và dầu chạy máy. 100 bịch gạo sấy mua tại chợ Kim Biên, 100 ký củ đậu mua ở chợ Cầu Muối. Tất cả các thứ này được chuyển lên ghe trước chuyến đi 1 ngày, tôi bảo Vinh đem ghe đậu không nhất định một chỗ, thường xuyên neo ở chợ Thị Nghè, chỗ ghe chở hàng lên xuống, bọn công an không kiểm soát được. Nhà ở cạnh bờ sông, rạch, không thể cột thuyền được, bọn công an khu vực sẽ “rờ gáy” ngay, chúng sẽ làm khó dễ để kiếm tiền, dễ dàng bị lộ. Nói chung làm chuyện này, hoàn toàn bất hợp pháp, “chui” từ đầu đến cuối, phải giữ bí mật càng ít người biết càng tốt, chỉ một mình tôi quyết định mọi chuyện, từ ngày mua xong chiếc ghe, tóc tôi bỗng nhiên bạc trắng, vì lúc nào cũng suy nghĩ, tính toán, để qua mặt bọn cú vọ và cậu em Trần Văn Vinh theo lệnh tôi chấp hành, ngay việc bốc người để ra đi, chỉ một mình Vinh biết địa điểm rồi giao cho từng người đem xuồng nhỏ, chạy máy đuôi tôm đến mỗi điểm hẹn, các xuồng này là taxi chở vài ba người đến ghe chính, tôi luôn luôn áp dụng yếu tố bất ngờ mới qua mặt được tụi công an. 5.- RA ĐI RỒI TRỞ VỀ. Một hôm Vinh lên bờ cho tôi biết, vừa bị tàu tuần bắt giữ, chúng đánh đập tra khảo rất dã man 2 người lái ghe là Vinh và Hoàng Văn Hàn, em Hàn mới 12 tuổi, rất thuộc đường sông vì theo ghe chặt củi từ sau tháng 4 đen, hơn 4 năm đi lại từ Saigon đến Vũng Tàu, “ngõ ngách” nào cũng biết, bọn tàu tuần nghi ngờ chiếc ghe là ghe taxi đưa người đến tàu chính để vượt biên, nhưng Vinh, Hàn một mực khai là nhà nghèo chỉ đi chặt củi về bán để sinh sống, cuối cùng phải cho chúng 2 can dầu, bọn chúng mới thả ra. Được cấp báo các sự việc, như vậy chúng đã nghi ngờ, tôi quyết định “nhổ neo” khẩn cấp, thuyền ra khỏi Vũng Tàu đúng ngày 23 Tết năm 1980, gặp “gió chướng”, tất cả say sóng nằm la liệt, toán lái thuyền “ngất ngư” hết vì các chú em này chưa hề đi lính, chỉ có một mình tôi còn tỉnh táo, tôi đành phải cho ghe quay về, lương thực còn nguyên chưa ăn uống gì cả, đến khúc sông Saigon thì trời đã sáng trưng, lúc đó là khoảng 7 giờ sáng, tôi cho ghe đậu tại bến đò Long Kiểng, quận Tư, Khánh Hội, số người trên ghe lên bờ an toàn, không một ai bị “làm khó dễ”, Vinh đem thuyền đi dấu chỗ khác. Bến đò Long Kiểng là nơi lên xuống hàng hoá, trái cây từ vùng 4 đem về giao cho các bạn hàng ở Saigon, rất đông đúc, nhộn nhịp. Có 3 địa điểm “lý tưởng” cho việc tổ chức vượt biển bằng ghe thuyền là: Chợ Thị Nghè, đối diện là chuồng Voi, Sở Thú. Nơi đây lúc nào cũng tấp nập, kẻ lên người xuống, ghe thuyền chở hàng hoá neo chật cả một khúc rạch Nhiêu Lộc, công an khu vực không kiểm soái gắt gao như xóm nhà dân. Bến đò Long Kiểng, quận 4 Khánh Hội, cũng nhộn nhịp không kém chợ Thị Nghè, công an khu vực đi lại nhưng là để kiếm ăn cò con, bạn hàng “thí” cho vài trái cây, xấp bánh tráng. Chợ Cầu Muối, nơi này xô bồ, bạn hàng chửi thề inh ỏi, đặc biệt công an khu vực không “léo hánh” vì dân hàng chợ là thứ dữ nhất Saigon. Tôi mua một tạ củ đậu ở đây, đem lên ghe thoải mái. 3 địa điểm này để neo ghe, “lên xuống” các thứ cần thiết cho chuyến đi, bọn công an khó theo dõi, bạn hàng không để ý đến người chung quanh. Trong thời gian tính toán, sắp xếp cho chuyến “bốc người”, tôi đã “la cà” khắp hang cùng ngõ hẹp để xem chỗ nào, nơi nào thuận tiện, nhất là tránh sự để ý của bọn công an, nghiên cứu, điều nghiên, cuối cùng quyết định các địa điểm mà không có ai để bàn bạc, tham khảo, ngay như vợ tôi cũng không hề được biết những tính toán, những quyết định của tôi. Lúc di chuyển, chạy Honda Dame màu đỏ của vợ tôi, mặc bộ đồ đen, đội nón cối, dắt khẩu K54, khẩu súng này không dám để ở nhà, vì chúng kiểm soát hộ khẩu mà thấy được thì “ông bà già” bị liên đới trách nhiệm, giọng nói và các từ xử dụng, hoàn toàn là giọng Bắc Kỳ 75 khi phải nói chuyện với bọn công an Phường Khóm, nhìn bộ dạng ai cũng nghĩ là tôi mới từ ngoài Bắc vào Saigon. Con cháu thành đạt đúng theo ý mình khi tôi đã „liều chết“ mua ghe đem cả gia đình „ra đi“ ngay trên sông Saigon, tôi thật sự mãn nguyện, cộng thêm 40 người đi chung, trong khi tôi không có một chút kinh nghiệm gì về „biển cả“, tôi chỉ là một Sĩ Quan Bộ Binh thuần túy, nếu bị bọn vẹm “vồ” thì cũng không có ngày ra khỏi tù, tóc tôi bạc trắng từ lúc quyết định mua ghe để tìm đường sống, lúc nào “đầu óc” cũng phải “tính toán” làm sao qua mặt được tụi công an Phường, Khóm, khoảng thời gian này, đầu năm 1980, bọn chúng còn kiểm soát rất gắt gao, công an khu vực luôn luôn dòm ngó theo dõi nhà dân. Nhiều người đã yêu cầu tôi viết lại câu chuyện vượt biển tìm tự do ngay tại Thủ Đô Saigon, lúc đầu mới đến Đức tôi không nói với bất cứ ai, dù là bạn bè thân thiết, vì viết và kể lại sợ ảnh hưởng đến những người cũng định làm như tôi, phỉ quyền biết được sẽ dễ dàng “tóm” trọn ổ, nay “phong trào” vượt biển không còn nữa, nên hôm nay tôi sẽ kể chi tiết, nhất là cách qua mặt bọn công an cú vọ từ lúc mua chiếc ghe, ráp máy, cho đến lúc rời Saigon, Đặc biệt, như đã nói ở trên, tôi chẳng có một chút “kinh nghiệm” gì về “biển cả” nên đã ra khỏi Vũng Tàu lại phải quay về 2 lần vì “sóng to gió lớn”, lần đầu lược thuật ở trên, vào ngày 23 Tết, lợi dụng dịp đón Tết, bọn Công An bận bịu với gia đình đón Năm mới, lơ là việc tuần tra trên sông, biển, nhưng hỡi ơi mùa Tết âm lịch hay có “gió chướng” mà dân thành phố như tôi không hề biết. Lần thứ 2, cũng ban ngày như lần thứ 1, bốc người công khai trên các điểm đã ấn định, trạm cầu Tân Thuận, công an gác trên cầu, ghe taxi bốc 6 người ngay phiá dưới, chạy đến chỗ ghe chính đang neo trong một con rạch rậm rạp. Đến bây giờ đã 37 năm, tôi nằm chiêm nghiệm, việc tôi đưa được 45 người đến bến bờ tự do là do hồng phúc mà tôi được thừa hưởng từ người mẹ hiền hậu, đạo đức, nhất là có phép lạ trong 2 lần quay về, trời đã sáng trưng khi từ Vũng Tàu chạy về Saigon, 7 giờ sáng, trên ghe còn đầy đủ lương thực vì chưa ăn uống gì cả, khẩu K54 và 2 băng đạn cùng 3 trái Xi-nhan cũng để kín đáo trên ghe, cả 2 lần không một ai bị làm “khó dễ” khi đổ người xuống để chờ đi lần thứ 3, phải có người “che mắt” bọn công an mới không thấy chiếc ghe chở đầy người tắp vào chân cầu Calmet cho người xuống, có lẽ tôi làm chuyện “bất ngờ” nên không ai nghĩ rằng đó là ghe vượt biên quay về. Tôi tin tưởng một sự huyền bí đã xảy ra mà khoa học không thể nào giải thích được, quay về lần thứ 2, ngày 08.02.1980, đúng ngày giỗ đầu Mẹ tôi, trở về lần thứ nhất, tôi đã quyết định “bỏ” căn nhà trong khu cư xá Công Ty Cấp Nước (tên cũ là Saigon Thủy Cục) sợ công an khu vực “để ý”, cả gia đình qua bên mẹ vợ tôi “ở nhờ” vì nhà này nằm ngay mặt đường Xa Lộ Biên Hoà, ít ai “để ý”, lúc quay về lần thứ 2, vì quá mệt mỏi, tôi đã ngủ thiếp đi, rồi như có tiếng gọi bên tai, dậy đi, hôm nay là giỗ đầu Từ Mẫu, tôi choàng tỉnh dậy và lấy Honda chở hết vợ con về bên Hoà Hưng, nhà của Bố tôi, đường Tô Hiến Thành, Quận 10, chỉ cách Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương Quân Lực Việt Nam Công Hòa không tới 100 mét. Tôi cũng nói rõ, trong tâm thức tôi, hoàn toàn không nhớ ngày giỗ của mẹ tôi, mới đây mà đã đúng một năm, người mẹ mà tôi yêu qúy nhất trở về với cát bụi, tôi đã quỳ trước di ảnh của từ mẫu, khấn nguyện mẹ hiền phù hộ cho gia đình nhỏ của tôi đến được bến bờ tự do. Con gái lớn của tôi có một bút ký ghi lại tổng thể cuộc vượt biển tìm tự do của gia đình tôi, vì cháu không biết gì về việc tổ chức ra đi do tôi thực hiện. Quý bạn nào muốn có bút ký này, tôi sẽ gởi đến các bạn tường. Email: lytrungtin.de@gmail.com 6.- QÚA TAM BA BẬN. Hai lần trước đi ban ngày, dĩ nhiên bốc người cũng “thanh thiên bạch nhật”, lần thứ 3, quá tam ba bận, đi ban đêm. Dân thành phố từ nhỏ đến khi trưởng thành, không biết “sông nước” là gì, cho đến khi nhập ngũ, lội suối, lội sông thì cũng có để tảo thanh Việt Cộng, nhưng kinh nghiệm đi biển thì không có tí nào, nên 2 lần đã khuất núi Vũng Tàu mà đành phải quay về, sóng to gió lớn, dựng đứng chiếc ghe giữa biển khơi, toán lái ghe toàn thanh niên, chưa hề dính đến “lính tráng”, say sóng nằm gục hết trơn, chỉ còn mình tôi “tỉnh táo” không bị say sóng, thế thì đi làm sao được nữa, tôi quyết định cho ghe quay về. Vì sóng đánh bung mũi ghe nên phải sửa chữa, cho thuyền lên “ụ” tại cầu Rạch Ông, bọc tôn và bắt bù lon, chi phí hết 2 lạng vàng lá, tôi thấy dân tình ở đây thật “dễ thương”, họ nhìn chiếc ghe là biết vừa “ra biển” trở về nhưng không hề “báo cáo” cho bọn công an khu vực. Một tuần nằm “ụ”, ghe được “hạ thủy”, Vinh lái thẳng về chợ Thị Nghè, sau đó đem ghe về khu cư xá Thanh Đa neo tại đó, nghỉ ngơi một tuần, tôi suy nghĩ và vạch ra kế hoạch đi lần thứ 3. Trước chuyến đi lần thứ nhất, tôi chia số vàng lá còn lại làm 3 phần, gởi “tứ thân phụ mẫu” giữ dùm, trường hợp chúng tôi đi thoát, thì số vàng này để các vị sống dưỡng già, nếu bị bắt thì dùng số vàng này “chạy” cho tôi ra tù. “Tứ thân phụ mẫu” nay chỉ còn 3 vì mẹ tôi đã an nghỉ ngàn thu. Giỗ đầu mẹ tôi xong, tôi cho vợ tôi ra Vũng Tàu, gặp vị thông gia làm nghề đánh cá, hỏi xem đi biển vào thời gian nào tốt nhất, vị thông gia cho biết, với cái ghe đi trên sông như vậy, thì chỉ đi vào tháng 3 âm lịch tức tháng 4 dương lịch, các tháng khác sóng gió hãi hùng lắm, quả đúng như vậy. Thời gian biển êm, chắc chắn bọn tàu tuần sẽ kiểm soát gắt gao hơn, nên lại phải “tính toán” làm sao ra được biển an toàn mới hy vọng sống sót được, đường sông Saigon-Vũng Tàu xa vời vợi, hai bên bờ chỉ toàn cây rừng âm u, chúng có 2 chiếc tàu mã lực rất mạnh, thường xuyên chạy trên tuyến sông này để kiểm soát và làm tiền người dân lành sống bằng nghề chuyên chở hàng hoá từ vùng 4 về Thủ Đô, rất nhiều các rạch nhỏ dễ dàng cho ghe vào trốn bọn tàu tuần. Vợ con tôi và vợ Vinh lên ghe chính tại chợ Thị Nghè, chạy ra neo dưới chân nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, cạnh bến phà Thủ Thiêm, để chờ các xuồng taxi đem người đến. Trong nửa giờ là đủ số người, thuyền nhổ neo khởi hành, trên nhà hàng và cạnh bờ sông, người ta vẫn ăn nhậu, nói cười ồn ào, chắc chắn không ai ngờ có một chiếc ghe chở 45 người xuất phát ngay nơi này để ra biển tìm tự do. Đó là lúc 20 giờ ngày 26.04.1980. Lần này, tôi áp dụng chiến thuật như khi đi hành quân diệt Việt Cộng, Vinh và Hàn làm “khinh binh tiền sát” chạy trước cách ghe chính khoảng 1 hải lý, bằng xuồng tam bản chạy máy đuôi tôm, loại này chạy rất nhanh, khi thấy tàu tuần lập tức quay về và báo hiệu bằng đèn Pin, 2 dài 1 ngắn là có địch, ghe chính phải rẽ ngay vào con rạch nhỏ gần nhất để trốn chúng, nhiều lần như vậy, ghe chúng tôi mới đến được cửa biển Vũng Tàu, lúc này trời đã hừng đông, không thể ra biển giờ này, phải chạy vào bãi cát vàng ẩn nấp trong đó, “bãi cát vàng” là một địa danh nằm sát chân núi Vũng Tàu, cây cối khá rậm rạp, đợi 2 giờ sáng cùng khởi hành ra biển với các ghe đánh cá, giờ giấc người dân ra khơi, chúng tôi đã “nắm rõ”, cả trăm chiếc thuyền đổ ra biển, ghe chúng tôi lẫn lộn trong đó. Vừa chạy được hơn nửa tiếng, thì gặp „dàn đáy“, ngang với phao „số không“, Vinh cho biết phải tránh dàn đáy, coi chừng vướng vào, lưới cá quấn chặt „chân vịt“ thì vô phương đi được, đúng lúc này một tầu tuần của Việt Cộng chiếu đèn pha quét ngang ghe chúng tôi, trước đó tôi đã bắt mọi người chui hết vào khoang, không được nói chuyện lớn tiếng, theo sự tính toán và với tốc độ của chiếc ghe, thì khoảng 10 giờ sáng là ra đến “hải phận quốc tế“, tức đường tàu buôn, lúc đó lấy hướng Nam, chạy khoảng một ngày một đêm, bẻ hướng Đông để vào bờ biển Mã Lai Á. Trên tấm Hải Đồ, tôi đã vẽ và viết rõ ràng để các người lái ghe theo đó thi hành, cũng nói thêm ở đây, sau 2 lần trở về, tôi nghĩ là phải có một Sĩ Quan Hải Quân mới có thể đi được nên tôi đã đi tìm người Sĩ Quan này, tôi được một người quen giới thiệu một Sĩ Quan Hải Quân mới đi tù cải tạo về, tôi chỉ cần người lái ghe, việc đi đứng do tôi vẽ „phóng đồ“, sắp xếp và chỉ huy. Không ngờ vị này là Thiếu Úy Hải Quân. tên Trần Duy Bút mà tính một hải lý bằng một cây số nên đã bẻ lái quá sớm, đúng vào cái vùng mà bọn hải tặc đang hoành hành, tôi chỉ nói nhỏ cho vợ tôi biết điều này, sợ cả ghe xôn xao, mất bình tĩnh. Sau này tôi mới biết, anh Trần Duy Bút là Hạ Sĩ Quan được cho đi học khoá Sĩ Quan Đặc biệt nên trình độ hiểu biết có giới hạn, tôi cho Bút đi theo không phải đóng góp tiền bạc gì cả. Hơn 10 giờ sáng, ngày 28.04.1980, gặp ngay một tàu dầu của Panama rất lớn, chạy cách ghe chúng tôi không tới 100 mét, trông rõ „mồn một“ những người trên „boong“ tàu Panama, giữa „ban ngày ban mặt“ như vậy, Trần Duy Bút lấy một trái sáng „thụt“ lên trời, tôi giận quá, chỉ nói mấy trái „xi-nhan“ dùng cho buổi tối khi cần cấp cứu mới xài, ban ngày thấy rõ ràng như bây giờ đâu cần phải „bắn trái sáng cấp cứu“, Bút có lẽ đã biết cái sai của mình nên im lặng, tôi cũng nguôi ngoai cơn giận, chạy về hướng Nam, giữ và theo đường tàu buôn, cả ngày, chúng tôi gặp thêm 3 chiếc tàu sắt rất lớn, nhưng chúng bỏ chạy luôn, chẳng giúp hay vớt chúng tôi, đến giữa trưa, trời nắng „chang chang“, tôi cho „neo ghe“ để tắm biển, tất cả các chú biết lội đều nhảy xuống biển tắm thoải mái, nước và lương thực vẫn còn đủ để đi trong một tuần nữa. Đúng là “tháng ba bà già” đi biển, mặt biển êm như nuớc hồ thu, đi vào tháng 3 âm lịch rất dễ bị “tóm” ngay cửa biển, tàu công an lúc nào cũng có mặt. Chạy thêm hai ngày, gặp vài chiếc tàu sắt, và một số ghe đánh cá, tất cả đều làm ngơ dù chúng tôi đã làm đủ mọi động tác xin cấp cứu, chỉ duy nhất một ghe đánh cá của Singapore đã cho chúng tôi 2 thùng bánh bích quy và một can nước ngọt. Bỗng lúc 10 giờ 47 phút sáng ngày 01.05.1980, một chiếc trực thăng bay lượn quanh ghe chúng tôi và ra dấu cho ghe chạy về hướng Tây. tôi xem Hải bàn, ra lệnh tắt máy ghe và thả trôi, vì hướng Tây là hướng chạy về lại Việt Nam…chỉ khoảng nửa tiếng sau, một chiếc tầu sắt rất lớn „lù lù“ xuất hiện, bên hông sơn hàng chữ tiếng Pháp PORT DE LUMIERE – đảo Ánh Sáng, trên boong tầu, có người Việt bắc loa chiã xuống ghe, bảo tất cả phải bình tĩnh, đây là con tàu CAP ANAMUR sẽ vớt đồng bào, tôi ra lệnh, chia ra hai bên ghe để ngồi tránh nghiêng một bên có thể lật ghe, rồi đàn ông, thanh niên được đưa lên tầu Cap Anamur bằng những thang giây, đàn bà, con nít thì được cần cẩu võng lên, đây là ngày giờ mà cả 45 người sẽ nhớ ơn suốt đời: 10 giờ 47 phút ngày Quốc Tế Lao Động 01.05.1980, chiếc tàu CAP ANAMUR đã cứu sống chúng tôi. Tàu Cap Anamur chạy dọc theo bờ biển Việt Nam để tìm ghe vượt biển, mỗi ngày vớt được một ghe, 12 ngày vớt được 12 ghe, tổng cộng 474 người. Tôi được đưa đến gặp vị thuyền trưởng Cap Anamur và tặng ông khẩu K54 và 2 băng đạn. Ông cám ơn và chúc tôi gặp may mắn trong cuộc sống mới. Ngày 12.05.1980, Cap Anamur đem số người được vớt gởi tại Singapore, chúng tôi ở trại tạm cư trên đường Hawkins một tháng 28 ngày, ngày 09.07.1980, được đưa qua sống tại West-Germany bằng máy bay. Cũng xin nói thêm, Cao Ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc, phát cho mỗi người 2,50 Đô la Singapore, một tuần phát một lần, tất cả tự túc nấu ăn, vị Trại Trưởng là một Trung Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, đã cho mời tôi lên Văn Phòng trại làm việc giúp đồng bào, mặc dù „chưa hoàn hồn“ nhưng tôi cũng sốt sắng và vui vẻ nhận lời, ông Trại Trưởng giao cho tôi làm Trưởng Ban Nội Vụ, còn Nguyễn Hữu Huấn, một phi công trực thăng Việt Nam Cộng Hoà đang giữ chức Trưởng ban Ngoại vụ vì Huấn rất giỏi tiếng Anh, đã qua Mỹ học lái máy bay, nhà Huấn ở trước rạp hát Thanh Vân, đường Lê Văn Duyệt, rất gần nhà bố tôi, đường Tô Hiến Thành, hồi nhỏ tôi và Huấn đều học trường Tiểu học Chí Hoà. Người Singapore rất giàu và có lòng thương người, hàng tuần họ đã đem đến trại cho rất nhiều quần áo và đồ ăn, mỗi lần cả „bao bố“ lạp xưởng, tôi phải điều động một số thanh niên khuân vác các tặng phẩm đem chất vào kho, mỗi ghe nhập trại được tôi phân phát quần áo và thức ăn tồn trữ trong kho, cho đến lúc gia đình tôi đi định cư, hai kho quần áo và thức ăn vẫn còn rất nhiều, có lẽ vì được phát tiền, tự do mua bán nên số người trong trại không „tha thiết“ với các vật dụng cho không chăng? Sau này, đọc báo chí mới biết, trại Singapore là trại tị nạn thần tiên số 1, không đâu sánh bằng. Năm 1981, trên truyền hình số 2 (ZDF) Đức đã chiếu một cuốn phim dài gần 1 giờ, cảnh tàu Cap Anamur vớt người tại Biển Đông, trong đó đã quay thật rõ cái ghe của chúng tôi. Cái cánh quạt của máy phụ đã bị gãy, nên người phóng viên nói là khó có thể đi đến bờ được. Tên cuốn phim phóng sự là: (tiếng Đức, Einen Milimeter über dem Rand der Welt…Tiếng Việt, Một milimét qua bờ kia của thế giới), ý nói là chìm vào lòng biển không đến bến bờ, đặc biệt, 2 lần phóng viên đài Truyền hình đã đến quay cảnh sinh hoạt gia đình chúng tôi, tiêu biểu cho các người Việt Nam tị nạn Cộng Sản được tàu Cap Anamur cứu vớt, đã hội nhập và thành đạt tại nước Đức, đoạn phim này được chiếu trên đài truyền hình Quốc Gia Đức năm 2006 và 2008. Gia đình nhỏ của tôi, lúc rời Saigon có 5 nhân khẩu, bây giờ, năm 2017, đã thành 15 người, tất cả sống hạnh phúc quây quần bên nhau trong một xã hội tự do, nhân bản tại thành phố Bochum, Germany. LÊ THANH TÙNG (ghi lại để tưởng nhớ ơn cứu tử của vị đại ân nhân, Tiến Sĩ Rupert Neudeck) Nguồn: nhinrabonphuong.blogspot.com/2020/04/cau-chuyen-vuot-bien-tu-thu-o-saigon-le.html
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 26, 2020 2:44:51 GMT 9
Chuyến Vượt biển khủng khiếp – Thùy Nhiên Posted on April 21, 2020 by dongsongcu Thùy Nhiên Sau bao tháng ngày mẹ và các anh chuẩn bị ghe thuyền, từng can dầu, tom góp từng gói lương khô như gạo sấy, thuốc men v….v…một cách bí mật. Ông ngoại, gia đình bà dì ruột, gia đình của cha Liêm, từng tốp, từng tốp len lỏi trong đêm tối lần lượt đến điểm tập trung tai bãi Đá Bạc Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải. Tất cả chúng tôi yên lặng lên thuyền, gồm có 22 người đã có mặt đầy đủ. Tiếng nổ dòn của máy lướt sóng ra khơi, mọi người chúng tôi nín thở hồi hộp. Qua mấy giờ lầm lũi chạy trong đêm, trời đã sáng, ánh nắng chan hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt Nam, mọi người thở ra nhẹ nhỏm, vui mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được chặng đường đầy nguy hiểm và bất trắc nhất, vì nếu chẳng may mà bị VC bắt lại, thì bị tù tội, tịch thu tài sản, tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát được khỏi bọn công an VC đang miên man trong đầu óc mọi người, bỗng nhìn đằng xa có chiếc tàu lớn hiện ra, tim tôi đánh thình thịch, tàu của ai đây? Của CS hay của thế giới tự do? Càng lại gần thì càng hồi hộp, một thoáng chán nản và sợ sệt hiện rõ trên nét mặt mọi người khi nhìn rõ màu cờ máu Liên Xô, Thuyền của chúng tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu lớn, cứ thế tiến thẳng, đã qua thêm một sự nguy hiểm, và cũng vì thế thuyền đã chệch hướng đi như ban đầu đã định trước của mình. Chạy thêm vài giờ nữa thì đằng trước hiện lên một chiếc thuyền đánh cá treo cờ VC (cờ đỏ sao vàng), bên hông tàu thấy hai chữ Kiên Giang, giây phút trọng đại, mọi người như nín thở, từ thuyền bên kia phát loa yêu cầu thuyền chúng tôi ngừng lại để cho họ kiểm soát. Không thể để bị bắt, rồi phải ngồi tù, tài sản bị mất sạch, nên thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực. Một loạt đạn AK nổ dòn bắn về phía chúng tôi, tài công lúc đó là anh Hai Liêm của tôi bị thương ở cánh tay, Mẹ bị thương ở bả vai, ông Ngoại bị thương nhẹ ở đầu. Thuyền bắt buộc phải ngừng lại. Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu nhất sắp xảy ra. Thuyền Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ VC, công an mang theo súng, bọn chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người một kể cả những em bé 3, 4 tuổi, tịch thu một số vàng và tiền bạc (đô la) mà mọi người mang theo, chúng lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở lại vào bờ giao cho công an địa phương xử lý. Ông ngoại tôi là người lớn tuổi nhất trong thuyền, ôm vết thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt, cố gắng năn nỉ giải thích: – Các anh cho chúng tôi đi, nếu đưa chúng tôi trở lại bờ Việt Nam thì các anh chẳng có lợi gì cả, chúng tôi bị tù tội, tiền, vàng của các anh vừa tịch thu thì cũng phải giao nạp cho công an thôi. Sau đó bọn họ cho chúng tôi đi, và chỉ hướng cho tàu chạy. Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một cách nặng nhọc, chậm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện, khi chiếc thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, nhưng dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp và lo sợ, tất cả như nín thở, những đứa nhỏ cũng biết được những gì quan trọng sắp xảy ra nên chúng ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động. Tiếng nói ở thuyền bên kia là một tiếng lạ không ai hiểu gì, lúc đó cha Liêm là người biết tiếng Anh nói xin họ giúp đỡ. Toán người kia như không nghe biết, với cử chỉ hung hăng dữ tợn, cặp vào thuyền chúng tôi la hét lục soát từng người một. Một lần nữa vơ vét sạch những gì tàu Kiên Giang VC vơ vét còn sót lại. Thấy kết quả lục soát chúng chẳng được là bao, chúng đi tìm từng bộ mặt một, nhất là nhìn chằm chằm vào những người đàn bà con gái. Mẹ tôi còn trẻ đẹp nhưng vừa bị thương mất máu co ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không để ý tới. Chúng đến gần tôi và chị H, bạn gái của anh Hai, chúng liền nắm áo chúng tôi kéo qua thuyền chúng nó. Trước cảnh dã man này mấy anh tôi không kềm hãm được nên đã có phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới được 18 tuổi, cô kia xấp xỉ tuổi tôi hoặc lớn hơn một tuổi ) nên đã la ó phản đối. Mẹ tôi cúi lậy xin chúng tha. Ông ngoại, cha Liêm năn nỉ nài nỉ chúng chẳng nghe. Chúng đẩy chúng tôi qua thuyền chúng. Phẫn uất trước hành động tàn bạo này, mấy anh tôi đánh trả lại chúng. Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự mấy anh. Lúc đó chúng lôi chúng tôi xuống nhốt dưới hầm tàu tối đen. Từ đó không hay biết chi nữa những việc xảy ra bên ngoài. Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy cho tàu chạy, sau đó quay trở lại đâm vào thuyền chúng tôi làm vỡ thuyền, thuyền chìm, chuyện xảy ra tôi sẽ kể tiếp phần sau khi tôi gặp lại người dì ruột tại trại SongLa. Ngồi trong hầm tàu tối đen mà lòng tan nát, tôi chấn tĩnh mình bằng lời cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, hiện ra trước mặt tôi là hình ảnh của mẹ, các anh, em tôi và ba tôi. Mẹ, các anh em tôi giờ đây trên biển cả mênh mông đã trôi dạt về đâu rồi? Đã được tàu của thế giới tự do vớt chưa? Ba tôi trong trại tù CS tại trại Tiên Lãnh, Quảng Nam Đà Nẵng, ba là sĩ quan QLVNCH ở tù 10 năm rồi tương lai sẽ ra sao đây. Tôi nhớ hết những người thân thương, đầu óc tôi rối bời như có trăm ngàn mũi kim nhọn đâm vào quả tim bé nhỏ của tôi tan nát. Chưa bao giờ tôi nghĩ đến hoặc tưởng tượng ra hoàn cảnh mà tôi phải gánh chịu như hôm nay. Nước mắt tràn đầy ra má mà chẳngoi hay biết gì, nước mắt đã làm dịu cơn khủng hoảng của tôi. Một niềm hy vọng loé lên trong đầu, chắc mẹ và các anh em của mình còn sống sẽ được tàu vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ tự do và mình sẽ được gặp lại. Ở trên tàu của bọn cướp được vài hôm, chúng chuyển tôi qua tầu đánh cá thứ hai, còn chị H. thì ở lại trên tầu của chúng nói tiếng Thái với nhau tôi không hiểu một tí gì cả chỉ biết cảm nhận theo linh tính của mình, thấy tàu này chuyên lo đánh cá, chắc là họ vừa đánh cá vừa làm hải tặc ăn cướp chăng? Một tuần sau chúng lại chuyển tôi qua tàu khác, cứ thế lênh đênh trên biển cả qua ngày thứ 51, ngày này chúng chuyển qua một tàu khác nữa, người trên tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những chiếc tàu trước đây. Vào khoảng nửa đêm một tên đàn ông vào kéo tôi dậy, nhìn cặp mắt nó, thấy dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Người tôi run bần bật, miệng thầm đọc kinh xin ơn trên phù hộ cứu giúp. Chúng nó sờ mó và bắt cởi hết quần áo, chúng nói gì với nhau tôi không hiểu, chỉ biết kẹp hai chân cứng lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, và nhìn vào vết thẹo nổi đỏ trên cánh tay tôi. Lúc nhỏ khoảng hai tuổi bị tai nạn phỏng dầu làm đường đến 50% khi chữa lành vẫn còn vết thẹo luôn ửng đỏ. Không biết ai xui khiến cho tôi cứ nhìn vào vết thẹo ấy và kêu la thảm thiết. Bọn chúng nói với nhau những điều gì, tôi cảm nhận như chúng e ngại về vết thẹo của tôi là bị bệnh phong cùi gì chăng? Sau khi bàn bạc chúng đã xô tôi xuống biển không cho một vật gì có thể trôi nổi trên mặt biển. Nước lạnh làm tỉnh hẳn người, tôi đã thoát qua những bàn tay con quỷ dữ, cố gắng với hai chân để người mình nổi lên trên mặt nước (ở Cà Mau tôi sống bên sông nên bơi lội cũng khá giỏi. Trên biển giữa đêm đen, có gì ghê rợn bằng. Tôi cố sức mình chống chọi với bao ý nghĩ bi thương, bản năng sinh tồn lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin mẹ Maria bổn mạng hãy cứu giúp tôi. Một lần nữa hình ảnh của mẹ, anh, em và Ba tôi ở trại cải tạo lại hiện ra như khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi với tử thần để ráng sống may đâu có người cứu vớt. Vì thế mà đã qua được năm tiếng đồng hồ dưới biển lạnh. Trời đã hừng đông, một tia hy vọng đến với tôi, nhưng người càng ngày càng bị lạnh cóng, sắp sửa không chịu đựng nổi nữa rồi, thì may thay, nghe có tiếng động cơ của thuyền chạy đến. Tôi cố giơ tay lên nhưng thân hoàn toàn cóng cứng, rất may trên thuyền họ nhìn thấy, dừng thuyền lại và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là một chiếc thuyền làm ăn lương thiện để tôi còn được sống an bình. Thật quả như lòng mong ước, tôi được những người này săn sóc tận tình, cho quần áo để mặc, cho ăn uống đàng hoàng và dùng máy vô tuyến gọi police (cảnh sát ) Thái cho tàu ra đón tôi vào bờ và đưa đến trại Song La và đến trại Sikiew. Hằng ngày ở trại, cô đơn lạc lõng, thân gái dặm trường, hằng đêm nguyện cầu cho lòng vơi đi ít niềm đau. Mong chờ mẹ, anh em sẽ đến với mình, nhưng càng ngày càng thấy bặt tăm vô âm tín, lòng buồn rười rượi. Mỗi khi có người mới nhập trại tôi thường đến để cầu mong gặp người thân. Hôm nay bất thần tôi thấy dì Sa, em của mẹ thất thểu bước vào trại, dì cháu gặp lại nhau, nước mắt tuôn trào như mưa, và Dì đã kể lại những gì xảy ra kế tiếp khi tôi bị hải tặc bắt qua tàu của chúng. Sau khi bọn hải tặc bắt con và H qua tàu của chúng. Vì không chịu nổi những uất ức các anh con đã phản ứng mãnh liệt đánh lại chúng nó. Nhưng chúng có súng, nên các anh con đành thúc thủ. Chúng lồng lộn lên lục soát nát bét trên tàu, bắt mọi người cởi bỏ hết quần áo chỉ cho mặc một quần lót mỏng, lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi rú máy cho tàu chạy. Mọi người chưa kịp hoàn hồn thì thấy tàu hải tặc quay đầu trở lại, và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông thuyền của mình đánh rầm, thuyền vỡ làm đôi, một số người văng xuống biển. Đồ vật nặng chìm xuống nước, những vật nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mỗi người đều bơi lội, vớ lấy can đựng dầu, đụng nước làm phao. Các anh con, Chương, Long bơi vớt những tấm ván để kết làm bè, kèm lên phần thuyền còn lại nổi trên mặt nước. Phần bè và thuyền nổi cho mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài, hai em con. Ông ngoại và anh Liêm đã ra đi trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả hai đều bị thương. Trời bắt đầu sập tối, nỗi kinh hoàng xâm chiếm lòng người. Màn đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong cảnh thập tử nhất sinh, lạnh đói và khát, nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau, cùng nhau sống chết. Thấy các em con vì đói khát và lạnh, quá tội nghiệp nên Chương liều bơi, lặn xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn. Nhưng đã lâu không thấy Chương trở lại, mẹ và Dì kêu gào thật lâu chẳng có tiếng trả lời. Hễ người nào chịu không nổi buông tay ra là đi vĩnh viễn. Thấy những người thân lần lượt ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây hỡi trời, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp, hộ phù. Phía bên kia có Linh mục Hồ Quang Liêm và người em Hồ Quang Lập cùng mấy người bà con của cha trong đêm đó cũng ra đi. Ngày thứ hai kể từ ngày đắm thuyền chỉ còn có dì, mẹ và mấy đứa nhỏ vì được ngồi trên bè, nên chống được sự lạnh cóng. Mẹ con bị thương máu ra nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả đi, hơi thở yếu dần, dì gọi mẹ không trả lời nổi, mẹ tức tưởi ra đi. Đạt, Hoài hai em của con ôm mẹ khóc thảm thiết, dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ mẹ lại bên cạnh không xa rời, dì khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con xuống lòng đại dương. Còn lại con Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát lặng lẽ ra đi. Dì như người mất hồn, không còn biết gì nữa, đặt con mình xuống nước cho dòng nước trôi xuôi, đau đớn vô cùng. Ngày thứ ba chỉ còn lại Dì, Em Đạt của con, mệt quá gục trên tấm ván, bỗng nó ngồi nhổm dậy nói: Để con lấy nước cho dì, con thấy có dòng suối trong xanh, nước ngọt lắm dì ơi nó định bước xuống nước để đi. Dì cầm tay nó kéo lại: Con ơi không có đâu, đó chỉ là ảo ảnh mà thôi, con ngồi xuống đây đọc kinh với với dì xin ngài ban phước. Sau khi kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó lại kêu lên khát nước quá dì ơi con chịu hết nổi rồi. Dì nói trong vô thức hay con uống đại một hớp nước biển xem có chống chọi được không? Sau khi uống một miếng nước vào bụng, tức thì cháu ôm bụng rên la khủng khiếp, nước bọt trào ra nơi miệng, nước bọt giống như bọt xà phòng trào ra, trào ra, cháu lịm người dần và nằm bất động, người cuối cùng ở bên cạnh dì cũng ra đi. Còn lại một mình đang nằm chờ chết dưới ánh nắng như thiêu như đốt bỗng thấy có đám mây đen kéo đến trời đột nhiên dịu xuống, một vài giọt mưa rơi trên mặt dì, dì liếm từng giọt nước, nhưng người dì đã kiệt sức không còn hay biết gì nữa cả. Khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên thuyền đánh cá của người Thái Lan. Theo tàu họ trên biển, 15 ngày sau thì được đưa vào trại Batani, qua trại SongLa và dì gặp con tại đây. Ôi ! Những biến cố đó trong đời làm tôi điên dại, sống dưới ánh nắng mặt trời mà như trong hang âm u. Tôi đã mất mẹ, mất anh, mất em, mất ông ngoại, cậu, cháu và những người thân yêu, 18 người đã chết tức tưởi, bỏ mình trên biển cả … Đó là tất cả NỖI BẤT HẠNH CỦA ĐỜI TÔI. Mẹ ơi! Sao mẹ nỡ xa lìa con, xa lìa ba, ba đã chịu bao nhiêu điều cay đắng tủi nhục trong ngục tù Cộng Sản. Các anh ơi! Các em ơi! Tất cả đã xa lìa tôi, vĩnh viễn ly biệt tôi một cách tức tưởi: Khổ đau tột đỉnh, hận thành non cao, Biển xa sóng lớn dạt dào, nhớ anh, em, mẹ có ngày nào nguôi. Thùy Nhiên, viết từ Úc Châu * Viết để kính dâng linh hồn mẹ Phạm Thị Khanh, Ông ngoại Phạm Văn Đình, Cậu Phạm Văn Tiếng, các Anh: Nguyễn Bá Liêm, Nguyễn Bá Chương, Nguyễn Bá Long, các em, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Bá Đạt, Nguyễn Bá Hoài, Chú nguyễn Văn Dậu, các em con dì Nguyễn thị Minh Châu, Nguyễn thị Minh Xuân, Nguyễn Minh Toàn và Linh mục Hồ Quang Liêm, chú Hồ Quang Lập và các anh bà con với cha Liêm mà tôi không nhớ tên. * Viết cho Ba là Nguyễn Bá Quang. Ba và con cùng chịu NỖI BẤT HẠNH trên cuộc đời này. Qua câu chuyện của thuyền nhân Nguyễn Thùy Nhiên, tôi mạn phép viết thành thơ để tặng tác giả và những mảnh hồn thương đau trong giai đoạn lịch sử Tháng Tư Đen 1975 đầy uất hận, bi thương. (Xuân Mai) ***** VẾT SÂU XÉ LÒNG ***** ( Viết tặng Thuyền Nhân VN ) Tên tôi là Nguyễn Thùy Nhiên Viết dòng dư lệ oan khiên để đời Trăm năm trong kiếp con người Những điều bất hạnh một đời cưu mang Đời tôi như triệu người đang Nỗi đau mất nước bàng hoàng xác thân Sống đời lưu lạc tha nhân Niềm đau uất hận quẩn quanh tháng ngày Cõi lòng bao nỗi đắng cay Quê hương đất nước đong đầy vai mang Nỗi nhà canh cánh ngổn ngang Con tim rạn vỡ nát tan cuộc đời Ngược dòng quá khứ xa xôi Viết lên tâm trạng phận người lưu vong Trải qua bao những thăng trầm Vết thương rỉ máu mà lòng chưa nguôi Bao nhiêu câu chuyện đổi đời Trăm bề nghìn nỗi khóc cười đớn đau Đoạn trường trong cuộc bể dâu Oan khiên gieo nỗi thảm sầu ai đong? Quê tôi bên dòng Cửu Long Những con sông chảy xuôi dòng phù sa Làng quê yên ấm nếp nhà Đến ngày ly loạn bóng ma mượn hồn Bẩy Lăm bao nỗi đoạn trường Niềm đau thống khổ tiếng buồn hờn căm Chong đêm ruột rối tơ tằm Cảnh nhà tan nát ruộng đồng xác xơ Quê hương nhuộm đỏ mầu cờ Người đi cải tạo kẻ chờ chung thân Sĩ phu vùi chốn rừng xanh Để quân cướp nước lộng hành tác tung “Đổi đời” máu nhuộm thành sông Anh hùng tuẫn tiết một lòng trung trinh Gái trai già trẻ giữ mình Nổi trôi vận nước mưu sinh kiếp người Cha tôi “lính ngụy nợ đời!” Mười năm cải tạo phương trời cách ly Mẹ tôi đánh đổi xuân thì Nuôi chồng gánh vác tiếc gì chiếc thân Nuôi con bao quản nhọc nhằn Vùng kinh tế mới tập tành mưu sinh Trẻ thơ theo cuộc hành trình Nông trường lao động quấn khăn cổ cò Cha già nặng gánh con thơ Tìm đường vượt biển huyễn mờ xác thân Trải bao cay đắng nhọc nhằn Đợi đêm trừ tịch liều mình vượt biên Lòng đau tấc dạ ưu phiền Ra công lèo lái con thuyền TỰ DO Bao nhiêu giông tố vỡ bờ Ra đi một mất mười ngờ rủi ro Dấn thân đánh đổi mầu cờ Dẫu không chết biển cũng vô nhà tù Quyết lòng đành đoạn sầu tư Hy sinh hai chữ tuyệt mù bóng đêm Bao năm đau đáu nỗi niềm Bước đi một bước dặm nghìn gian truân Bờ lau bụi nứa ẩn mình Lương khô nước uống trăm phần lo toan Đến ngày đêm tối thuyền quang Dìu nhau dắt díu rỡ ràng qua sông Nín hơi thở gượm tấc lòng Con thuyền không bến dòng sông mơ hồ Nghẹn ngào tiếng khóc trẻ thơ Bóng đêm trừ tịch sóng xô thét gào Biển trời thân phận lao đao Chắp tay khấn nguyện đón chào bình minh Bóng đêm xua đuổi bóng hình Thuyền chao sóng vỗ dập dềnh biển khơi Lênh đênh góc bể chân trời Thuyền trôi rẽ sóng ngỡ người tầm ngư Giật mình giây phút thiên thu Niềm vui dập tắt kể như tàn đời! Công an cướp biển ngoài khơi Tóm thu vàng bạc bắt người chuộc thân Đối đầu thập tử nhất sinh Đang treo mạng sống trên cành cây khô Trời thương bọn cướp giả lơ Sau khi lấy của cũng lờ cho qua Thuyền trôi đi mãi phương xa Thoát cơn thống khổ chưa qua ngặt nghèo Dật dờ trong cảnh óc eo Gặp ngay hải tặc thét gào hung hăng Đánh nhào uy hiếp thuyền nhân Khảo tra vàng bạc mặc tình kêu van Lũ người dã thú lòng hoang Lưỡi lê giáo mác ngang tàng hành hung Chị em lâm cảnh khốn cùng Chúng giam hãm hiếp thét gầm kêu la Súng kề miệng cổ âm ba Sẵn sàng nả đạn bước qua xác người Con thuyền trồi sóng ra khơi Lắc lư trong tiếng hét cười dã nhân Bỗng dưng thuyền vỡ tan tành Đứt lìa hai mảnh xác thân chia lìa Tiếng người gào thét thảm thê Mồ chôn tập thể thác về biển khơi Mẹ tôi bám ván thuyền trôi Xác anh em thả khoang đời nắng mưa Ông tôi chìm dưới sóng xô Trăm nghìn lớp sóng vỗ bờ đêm đen Bầu trời ngập nỗi oan khiên Ma vương quỉ dữ hát trên thảm sầu Biển đen thăm thẳm một mầu Nỗi đau chung cuộc theo nhau về trời Chuyến tàu định mệnh than ôi! Cướp đi tất cả những người thương yêu Hồn tôi như khói sương chiều Nỗi đau tuyệt vọng, tiếng kêu xé lòng Đất trời tiếng gọi hư không Đêm sâu thăm thẳm tận cùng bóng đêm Đời tôi đi giữa miếu đền Viết dòng dư lệ thắp đêm nguyện cầu Cho người nay đến nghìn sau Khúc quanh lịch sử thẫm mầu bi thương Trăm năm cát bụi mù đường Tình quê non nước người thương theo cùng Mai về thăm lại dòng sông Bên bờ Đá Bạc trải lòng mơ xa Bạc Liêu, Một chốn Quê Nhà! Nhìn con trăng tỏ hồn ta chín chiều Thắp lòng ngọn lửa tin yêu Mong sao xóa được vết sâu xé lòng?? Ai về nghe chuyện dòng sông Biển Đông dậy sóng cõi lòng mang mang Tôi đi trên cánh đồng hoang Ngược dòng quá khứ về ngàn dâu xưa Quặn lòng nghe tiếng ầu ơ Lời ru của Mẹ năm xưa vọng về Bao giờ cất bước đường quê Tôi về với Mẹ trong khe đá nằm Ru đời hết những hờn căm Trăm năm chung cuộc kiếp tằm nhả tơ Vần thơ gói trọn sầu mơ Cuộc đời ly loạn tiếng thơ đã chùng Thơ tôi như gởi tiếng lòng! Xuân Mai Tôi tên Nguyễn Bá Quang, là một sĩ quan QLVNCH cấp bậc Đại Úy thuộc đơn vị 101 P2/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ở tù CSVN tại trại tù Tiên Lãnh, Quảng Nam, Đà Nẵng suốt hơn 12 năm. Qua Mỹ với diện HO.5 năm 1991. Hiện cư ngụ tại Reda, Califonia. Trong thời gian tôi ở tù chưa được thả, gia đình vợ con tôi vượt biển tìm tự do tại Cà Mau tỉnh Minh Hải. Trong chuyến vượt biển hãi hùng ngày 22-2-1985 vợ và sáu người con trai của tôi đã bỏ xác trên biển cả vì bọn hải tặc làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có cả nhạc phụ của tôi và các em vợ cùng các cháu đã chết một cách tức tưởi trên chuyến tàu đau thương ấy. Chỉ còn sống sót người con gái yêu thương của tôi tên Thùy Nhiên và dì ruột của cháu là Phạm Thị Sa. Năm 1975 mất nước, con gái tôi mới có tám tuổi. Khi CS Bắc Việt chiếm miền Nam chúng dọa nạt, đấy ải gia đình của các sĩ quan QLVNCH đi cải tạo tại các trại lao động khổ sai. Vợ con tôi phải đi kinh tế mới tại Cà Mau, Minh Hải, việc học hành khó khăn, cháu chỉ học tới lớp bảy rồi phải bỏ lỡ dở đi buôn cá tại vùng ven sông thuộc Cà Mau để kiếm tiền nuôi gia đình và các em trai còn nhỏ tiếp tục đi học, vì thế nên cháu chỉ có thể thuật lại Nỗi bất hạnh của đời tôi một cách trung thực. Là ba của cháu, tôi cũng chỉ sửa những lỗi văn phạm, chính tả. Qua sự thúc bách của tôi, cháu mới có thể thuật lại câu chuyện thương tâm, vì mỗi lần nhớ lại những cảnh đau thương tang tóc của gia đình thì cháu đâm thẫn thờ, ngơ ngẩn hết mấy ngày, và lòng tôi cũng quặn đau vô vàn. Hiện cháu đã lập gia đình và sống với chồng con tại Úc. Sau đây là câu chuyện của con gái tôi, nỗi bất hạnh của cháu, cũng là nỗi bất hạnh của tôi. (Nguyễn Bá Quang) Nguồn: nhinrabonphuong.blogspot.com/2020/04/chuyen-vuot-bien-khung-khiep-thuy-nhien.html
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 3:34:23 GMT 9
30-4-1975 mất hết, chỉ còn tình đồng đội!Trần Cẩm Tường Cac chien si SD18BB vung tay sung tai Xuan Loc Người dân miền Nam ai cũng có một câu chuyện tâm sự về ngày 30 tháng 4 năm 1975: ngày Quốc Hận, Tháng 4 Đen, Ngày đứt phim, Tháng 4 gãy súng… Đối với Quân nhân QLVNCH đây là một ngày đau thương nhất trong cuộc đời Quân ngũ. Riêng chúng tôi, những SQ cấp chỉ huy nhỏ, đơn vị căn bản chiến đấu trực tiếp tại mặt trận : Tiểu Đoàn, Đại Đội, Trung Đội, không những đau thương mà còn nhục nhã vì chưa đánh đã đầu hàng địch quân; vì tình đồng đội mà cố sống và tiếp tục chiến đấu với đơn vị; ở lại với lính, bảo vệ mạng sống hàng trăm người; khi không còn ai chỉ huy, tự quyết định lấy trách nhiệm của mình. Hơn bốn mươi năm sau, ký ức trong đầu tôi vẫn không quên về TĐ 1/48 BB của chúng tôi. Sáng sớm ngày hôm đó đang bố trí quân trên đồi BS Tín, ngang NTQĐ/BH; thi hành nhiệm vụ làm tuyến chặn đánh sau cùng với các đơn vị của SĐ 18 BB nằm dọc theo QL1, không cho quân CSBV vượt qua cầu đúc Đồng Nai (cầu Biên Hòa) tiến về Saigon. Nếu không có lệnh buông súng đầu hàng địch của ông Dương Văn Minh, SĐ18BB sẽ còn đánh một trận sau cùng sống mái với quân BV. Dù hàng chục xe tăng địch dùng hỏa lực đại bác, đại liên trấn áp bắn dữ dội lên ngọn đồi, chúng tôi vẫn bám chắc trận địa, chờ địch lọt vào tầm súng bộ binh. Nhưng trước đó, theo lời cấp trên, tôi không nghĩ là xe tăng VC qua được cây cầu đúc vững chắc này, vì dưới chân cầu Công Binh đã gắn sẵn hàng chục thùng thuốc nổ TNT, chờ được lệnh là kích nổ, giật sập ngay. Nhưng Ông Trời không làm giật sập cầu Đồng Nai, mà do một nhân duyên; chuyện cũ thế gian kể lại như sau : ba ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng cùng khóa, nhưng chỉ huy ba đơn vị khác nhau, ngày 30-4-75 cùng tụ lại một điểm dưới chân cầu. *** Khi Thiếu tá Võ Trọng Em, nguyên TĐT/TĐ 5 ND, sang Úc du lịch; anh em cùng khóa (19 Nguyễn Trãi, VBĐL) gặp lại nhau sau mấy chục năm ra trường. Chúng tôi tâm sự quãng đời trong Quân ngũ. Tôi có hỏi Em đang ở đâu làm gì ngày 30-4-75. – “Mình giữ cầu Đồng Nai.” – ”Ủa, sao không giật nó sập ?” Tôi đang mò ra câu trả lời thắc mắc làm tôi nhức đầu, mà chưa hề nghe ai nói rõ hơn. – ”Không được !” Em trả lời tôi và có vẻ ngạc nhiên rồi hỏi lại tôi : – ”Tại sao bạn lại hỏi tôi như vậy ?” – ”Bạn biết không, tôi thắc mắc tại sao ông Tướng Đảo trực tiếp nói với tôi là cầu Đồng Nai sẽ bị giật sập để cản đường tiến quân của VC. Tiểu Đoàn tôi đang chiếm giữ đồi Bác Sĩ Tín (đối diện NTBH bên kia QL1), làm tuyến quan sát cho Sư Đoàn; căng mắt nhìn về hướng cầu, chờ một tiếng nổ lớn. Vậy mà xe tăng địch chạy qua được, chạy ngờ ngờ trên xa lộ; chúng nó bắn thẳng vào đội hình của chúng tôi. Tôi muốn biết lý do tại sao ?” Tôi thôi thúc Em trả lời nhanh, Em chép miệng : – ”Bạn thông cảm, tôi không làm được vì bạn Trần Văn Hợp gọi máy yêu cầu tôi đừng phá cầu. TĐ 2 TQLC của nó đang ở bên kia sông. Đại quân VC đang dồn sức đánh cho nó tan nát ra từng mảnh, một mình nó chống đỡ không ai giúp cả. Nó nói với tôi : chừa một sinh lộ cho con cái nó qua sông an toàn”. Tôi nhớ đến Hợp, bạn đồng khóa hiền lành ít nói hồi còn học chung dưới mái Quân trường, cũng là Thiếu tá TĐT/TĐ 2 TQLC. Anh chết ở trại cải tạo ngoài Bắc, bỏ mình trên núi rừng Hoàng Liên Sơn. Ba người chúng tôi khác trại, nhưng thỉnh thoảng nghe tin nhau qua các đội đi lao động hằng ngày. Tôi hỏi Em : – ”TĐ bạn có sao không ?” – ”Sao lại không ?” Em hồi tưởng lại : – ”VC chúng nó dạt TQLC, mở đường về phía tôi. TĐ chúng tôi bị phân chia lực lượng giữ các chân cầu huyết mạch về Saigon. Hai Đại Đội giữ cầu Đồng Nai bị đánh tơi tả, nhưng vẫn cố bám cho TQLC rút qua. Lọt qua cầu này được, VC buông TQLC, bạn Hợp điều động con cái vượt qua áp lực nặng tránh bị tiêu diệt toàn bộ. Xin lỗi bạn lúc đó tôi không biết bạn là nạn nhân sau cùng, cũng bị xe tăng địch tấn công.” Tôi thở dài : – ”Không sao đâu, chúng tôi núp xéo qua bên đồi, chỉ thương các bạn phơi mình dưới áp lực địch quân. Bây giờ thì là chuyện của quá khứ rồi, thôi không nhắc lại nữa. Vận nước đã đến hồi như vậy !” Bây giờ thì tôi có câu trả lời rõ ràng trung thực, về cây cầu không bị giật sập trong sáng ngày 30-4-75. Xin mọi người hãy thông cảm hoàn cảnh chúng tôi lúc đó như rắn mất đầu, không ai tiếp trợ. Là những cấp chỉ huy nhỏ, chúng tôi phải nghĩ đến sinh mạng đồng đội, đơn vị, trường hợp xử trí hợp lý nhất. May thay cây cầu Đồng Nai, cửa ngõ huyết mạch vào Saigon ngày nay vẫn còn đó ! Không biết bây giờ ai đi qua cầu, có nghĩ đến một tình huống xấu, nếu cây cầu này đã gãy trong ngày 30-4-75 ? (Ăn cơm mới nói chuyện cũ) Trần Cẩm Tường (Nguyên TĐT/TĐ1/48/SĐ18BB) Nguồn: hoiquanphidung.com/showthread.php?22783
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 3:46:38 GMT 9
MỘT THỜI CÚI MẶT*HÀ NGỌC 22-4-1975 CHI KHU PHƯỚC NINH Trong hầm trú ẩn, nằm trên chiếc ghế bố nhà binh tôi đang đọc lại cuốn “Nghĩ trong một xã hội tan rã” thì Sĩ bước vào, nói trỏng: -Đường Tây ninh – Saigon bị cắt rồi! Đoạn hắn ngồi phịch xuống chiếc giường gần đó với tiếng thở dài chán nản, tôi buông sách, bật dậy hỏi: -Ai nói thế? Sĩ uể oải trả lời: -Chẳng ai cả. Hồi sáng sớm, tớ dù về nhà, mới đến Trà Võ, từ xa đã thấy một số xe chạy ngược lại, tớ nghe mấy tràng AK nổ dòn, họ la lớn: -Trở lại đi, chết đầy đằng kia kìa! Ghê quá, tớ phóng về Long Hoa hỏi thăm. Được biết, VC đóng 3 chốt từ Trà Võ đến Suối Sâu,không cho một xe nào qua. Biết như vầy, tuần trước tớ đi là ổn rồi. Hắn có vẻ bực bội. Như chợt nhớ ra điều gì, tôi vội lấy nón sắt bên đầu nằm, ra văn phòng lấy xe còn nghe tiếng Sĩ nói với theo gì đó… Chạy khoảng một cây số, hai bên đường là rừng cao su, lạnh tanh, tôi nhấn thêm ga , bất ngờ gặp Thụy ngược chiều, tôi đưa tay chỉ về hướng thị xã, hắn quay xe đi song song,Thụy vồn vả: -Ta lên nhà ngươi đây. Tôi thoáng ngạc nhiên: -Có chuyện gì không? Hắn cười: -Mình kiếm gì lai rai cho quên mớ đời. -Bộ mi mới lãnh lương hả ? -Còn phải hỏi, 22 rồi mà! -À! Lính hành chánh tài chánh có khác . Hai đứa tôi như mặt trời mặt trăng. Một đứa trầm, chậm rãi, đứa kia sống động xông xáo. Thế mà thật chí thân. Nhiều lúc giận nhau có thể đấm vào mặt được, nhưng rồi cũng xí xoá vì cả hai đều mê làm văn nghệ. Hắn, Dạ Sầu Vĩnh Thuỵ trong Hội văn nghệ sĩ Quân Đội. Trời khéo cho hắn có mã đẹp trai và sớm kênh đời . Quán Dịch Thuỷ sáng nay vắng khách. Cô chủ ngồi buồn nhìn xuống dòng sông, nước lửng lờ trôi. Chúng tôi bước vào, cô tươi hẳn nét mặt, nhoẻng miệng cười, nói: -Ồ! Lâu nay mấy anh biệt tích đâu nhỉ? Thuỵ tươm tướp đáp: -Tiền lính tính liền em ơi! Ba mươi ngày chỉ có một, muốn gặp em thường lắm chứ. Hồng vừa tiến lại chúng tôi, vừa tiếp: -Thôi đi! Em sợ mấy ông nhà văn khéo nói lắm! Tôi nhìn Thuỵ ngầm hỏi, hắn hiểu ý, gọi bia. Trong lòng không vui, uống từng ngụm, tôi nghe đắng ngắt, im lặng một chút, Thuỵ giục: -100% đi! Nhà ngươi say với ta một bữa coi. Biết ngày mai còn được như vầy không? Tôi lan man nghĩ ngợi: -Ừ! Ta cũng lo quá! Bây giờ miền Trung đã bỏ ngõ, không khéo thì tất cả… rơi vào tay cộng sản, nhà ngươi có thấy sự tính toán sai lầm của cấp lãnh đạo không? Thuỵ nốc cạn ly, hừng chí: -Qua đài phát thanh và báo chí, ta tức quá. Tại sao dễ dàng buông súng, chạy như vịt vậy? Theo ta, nếu cố thủ vùng 3 + 4 thì VC cũng khó nuốt. -Ta e chẳng kịp nữa! Thuỵ như ngơ ngác hỏi: -Nhà ngươi nói sao? Có gì lạ đâu, cứ nhận xét tình hình toàn bộ, sẽ tiên đoán được tương lai…Ta chán quá rồi, mình đang sống trong một xã hội bệnh hoạn, mưng mủ, nhiều tướng lãnh bất tài lại tham nhũng cùng những chính khách xôi thịt,quan liêu, chỉ đánh giặc mồm trên ghế salon, trong phòng trà, tổ chức buôn lậu tiếp tế cho địch, giàu trên xương máu đồng bào. Hơn nữa, Mỹ có thực sự giúp chúng ta không hay coi miền nam như con chốt thí trên bàn cờ quốc tế? Chiến trường trung đông đang lên cao điểm, Mỹ có thể đổi VN để lấy Trung Đông vì ở đây là mạch máu của họ. Vả lại nền kinh tế Mỹ đã kiệt quệ bởi chiến tranh VN làm phong trào phản chiến ở Mỹ bùng phát dữ dội. Do đó, Mẽo áp lực T.T Thiệu ngồi vào bàn Hiệp Định Paris. Người không hiểu sẽ cho ông Thiệu ngu, nhưng thực tế thật là đau lòng … Thuỵ ngà ngà say như một gã thấm đòn gian lận. Tôi chua chát : -Mỹ là kẻ phản bội! Ai bảo trí khôn con người không có lúc bị nhiễm độc? Nguy hiểm cho cả một dân tộc và nhiều thế hệ…Vụ Watergate đã làm họ chới với, chưa bao giờ chính trường Mỹ gặp cơn bão thế này… Thuỵ chợt vỗ vai tôi: -Mình là con kiến trong bàn tay ác quỷ, cứ sống nốt đời phu phen và chấp nhận tình trạng khốn nạn nếu nó đến… -Không! Tao không thể làm tên nô lệ. Tao chấp nhận cái chết, một khi cuộc sống chẳng còn ý nghĩa… 24-4-1975 Sáng tinh sương, vùng thượng biên đẹp tuyệt vời. Tôi và thiếu uý Tân thuộc TTHQ ra quán café trước Chi Khu, Tân cho hay Tiểu Đoàn 350 đã bỏ Bến Sõi, về bố trí làng Cao Xá sát nách mình rồi vì áp lực địch quá mạnh. Như vậy, vòng đai an ninh ở đây bị thắt lại, địch chỉ cách ta 2km, bên kia sông Vàm Cỏ Đông. Làng Cao Xá, một thời được sáng danh, nhờ dân di cư đoàn kết mà 2 trung đội Nghĩa Quân đánh bật một Tiểu Đoàn VC. Trời lành lạnh thơm mùi gió núi nhưng tôi tưởng chừng mồ hôi tươm khắp mình. Trên đường,người người gồng gánh, bồng bế, hối hả tản cư, họ nói không kịp thở: -Có nhiều tàu…của mấy ông đội nón cối, dép râu, mấy ổng bảo chúng tôi đừng đi…Hòa bình tới nơi rồi!… BBC & VOA bình luận Đông Dương sắp rơi vào tay CS. Ai ai cũng xôn xao bàn tán, mặt mày biến sắc mất hồn, chỉ những chủ xe hàng hí hửng được dịp hốt bạc. Lên giá bao nhiêu người ta cũng thuê, miển di chuyển tài sản của họ khỏi vùng lửa đạn. Họ nghĩ cùng lắm là mất Tây Ninh, Saigon khó sụp đổ. Họ đâu biết gần 2000 cô nhi đã đến đất Mỹ. Ý đồ gì đây của lầu năm góc? Tên sen đầm quốc tế, có lẽ đang thực hiện lời khuyên của ARAFAT, CT phong trào GP Palestin: -MUỐN THẮNG CS PHẢI THUA CHÚNG! Tôi đứng trước cổng Chi Khu nhìn bốn phương trời. Đường về thị xã người đi như trẩy hội. Nét mặt nào cũng bơ phờ sợ hãi. Thị xã nằm trong tầm pháo của “người anh em phía bên kia” . Mỗi ngày điểm tâm, trưa, chiều dăm mươi quả để đồng bào té khói chơi. Những trạm kiểm soát buôn lậu biến dạng.Tha hồ nhu yếu phẩm tiếp tế cho VC dồn dập . Tiền làm cho con người mù quáng, bất chấp hậu quả dù có mất nước… 25-4-1975 Nghe radio loan báo về tình hình miền Trung,di tản và di tản…cấp chỉ huy chạy trước…làng nước theo sau, hỗn loạn, chết vì pháo VC, thịt, xác văng tứ tung, chết đói, khát, tạo thành bức tranh rùn rợn nhất trong lịch sử dân tộc. Miên quốc đang trả thù tàn bạo hơn thời Đức Quốc Xã. Rồi đây miền Nam sẽ lãnh bản án chung thân hoặc tử hình do VC trả thù Tôi không mường tượng nổi cảnh hãi hùng đó… 25-4-1975 Tổng thống Hương đọc diễn văn trước lưỡng viện Quốc Hội. Giọng ông run run chất chứa đầy uất ức, khác nào lời di chúc của một người đang hấp hối, lìa đời. Ông cho biết súng đạn còn có thể chiến đấu 2 năm, lương thực 3 năm. Trước đó trong một cuộc họp báo, tướng Dương văn Minh khẩn khoản yêu cầu: -Để kịp thời cứu nguy đất nước, xin thầy hy sinh một lần cuối cùng giao quyền tổng thống cho tôi, tôi sẽ lãnh sứ mạng thương thuyết với người anh em phía bên kia. Thời gian đó, làn sóng radio không gọi VC hay CS mà dùng những từ thân mật “người anh em phía bên kia” ?! T.T Hương từ chối và khẳng khái nhất định: KHÔNG ĐẦU HÀNG CS SẴN SÀNG CHẾT THEO QUE HƯƠNG! 28-4-1975 Những giờ phút nghiêm trọng của lịch sử nóng bỏng…mặc dù T.T Hương sức đã cùng lực kiệt, nhưng ông cố chiến đấu mãnh liệt với chính mình về vấn đề: Nên bàn giao quyền TT cho DVM hay không? Tiếng nói không của ông, Saigon biến thành biển máu ?! Cuối cùng, lúc 17:15pm, ông ngậm ngùi bàn giao cho DVM mưu tìm một giải pháp hữu hiệu thương nghị với CS. Cựu CT/TNV Huyền làm phó Tổng Thống. Đêm. VP/Tổng trấn Saigon – Gia Định đọc thông báo 14/75 Lệnh giới nghiêm 24/24, phi trường TSN bị 3 chiếc A37 dội bom. Đường SG – Biên Hòa bị VC khống chế … Dân tư bản mại bản, thượng lưu trí thức, quân nhân cao cấp ùn ùn kéo đến TSN, bến Bạch Đằng xô đẩy, đạp nhau leo lên phi cơ, tàu ra ngoại quốc. Biết bao nhiêu xác nổi lềnh bềnh trên sông Saigon khi bước chân giặc quỉ đỏ chưa tới … 29-4-1975 VC pháo từng chập vào căn cứ Trảng Lớn Tây Ninh, nơi TTYT Tiếp Vận Tiểu Khu và hậu cứ Trung Đoàn 49/SĐ 25 bộ binh, hướng tây bắc cách thị xã 5km. Một bồn xăng cháy lửa cao ngùn ngụt. Khoảng 3 giờ chiều, một chiếc F5 bị hỏa tiển Sam đuổi kịp bốc cháy đâm nhào xuống khu rừng Dương Minh Châu. Tôi tê tái nhìn ánh nắng chiều run rẩy … Bất ngờ gặp Hoàng từ Huê’ về, hắn kể thao thao: -Thỉnh thoảng tao đi xe và chạy bộ trối chết. Tao vừa tái sinh mày ạ! Cửa Hội An, Đà Nẳng, Qui Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Saigon đã diễn ra những bi kịch trốn chạy chưa từng có…nhiều người bị đạp rơi từ trên phi cơ xuống như khúc củi mục, kẻ đeo dưới lườn trực thăng như đóng phim, chen lấn nhau xuống tàu, rớt xuống biển, trước khi chìm lỉm kêu , khóc , la , thét vang cả một góc trời …bỏ lại hết, rồi cũng bỏ mạng… 30-4-1975 Rạng đông. Tôi đứng trên hầm trú ẩn. Một cột khói phía thị xã từ chiều hôm qua vẫn còn ngạo nghễ cao thêm giống con quái vật khổng lồ điên cuồng vùng vẫy . Trên đỉnh núi Bà Đen cũng thế. Khói ngùn ngụt đùn mây đen cả một góc trời. Các đơn vị hỗn hợp báo về, đài Viễn Thông ở đó đã di tản mấy ngày qua. Họ phá huỷ toàn bộ hệ thống máy móc và đài ra-đa vì chịu không nổi chiến thuật tấn công đánh lấn phối hợp đặc công của VC. Gần 20 chiếc trực thăng tiếp vận chiến đấu sợ hãi né tránh hỏa tiễn Sam phóng ra từ sườn núi… Nắng hè trở nên gay gắt. Gọi rừng chất chứa não nùng. Nỗi chết không rời quanh tôi. Tuổi trẻ bất lực, tôi muốn đấm vào ngực mình và thèm một chút yên bình trong đời. Bạn bè lần lượt đi về hư vô , còn ta lâm chiến chắt chiu. Bỗng trung uý Minh tìm tôi nói nhỏ: -Chuẩn bị di tản ! Nhanh lên!…Tôi bang hoàng hỏi: -Về đâu? Hắn có vẻ nghiêm trọng : -Chưa biết! Phải sẵn sàng chờ lệnh. Tôi định hỏi thêm, nhưng hắn đã vội đi. Tôi xếp đồ, tự hỏi: Khiêm Hanh bị bao vây. CSBV cô lập Gò Dầu . Bến Cầu mất. Đồn Mỏ Công bị tràn ngập. VC bên kia sông Bến Sỏi. Suối Đá , Trường Lưu đang dằn co .Xung quanh như thế. Di tản đi mô Chịu chết thôi! Đầu óc lan man rối bời suy tính, tôi nhét vội quân trang vào ba lô rồi ra ngoài nghe ngóng. Phòng TTHQ trực máy khẩn trương. Thỉnh thoảng Tiểu Khu gọi, bảo chờ lệnh… Đại úy Sơn trưởng ban 2, quân phục gọn ghẽ trong văn phòng, đứng cạnh chiếc radio nhỏ vang tiếng hát thật lạc lỏng. Dường như không ai chăm chú nghe, nét mặt dàu dàu mệt mỏi … Đột nhiên, tiếng radio kêu rè rè …Anh lấy làm lạ tưởng hư, định chỉnh nó, thì một giọng nói bệnh hoạn phát ra, kêu gọi toàn bộ Quân, Cán, Chính Miền Nam bàn giao chính quyền trong vòng trật tự … Tôi và anh Sơn đánh thót người, nhưng chưa tin là sự thật. Đến khi Dương văn Minh lập lại lần thứ ba, anh em mới nhìn nhau nghẹn ngào. Tôi cảm thấy mình đang rơi xuống vực thẳm. Lần đầu tiên tôi buông tiếng chửi thề trước mặt nhiều người, kêu lên như người vừa bị trúng đạn: -Đầu hàng vô điều kiện! Khốn nạn! DVM là tên phản quốc! Tham sinh uý tử! Lịch sử VN không chấp nhận một tên tướng đê hèn như thế!!! Anh em bứt tóc, đập bàn văng tục… -Đồ khốn ! Lê Chiêu Thống tái sinh… Chỉ có anh Sơn là người biến sắc hơn cả, lớn tiếng hỏi : – Có ai đi không hãy theo tôi!… -Đi đâu Anh không đáp, tuy nhiên nhìn ánh mắt rực lửa của anh cũng đủ hiểu ý . Mọi người im lặng phân vân…rồi vứt ba lô, thay đồ dân sự …Một trái bom hạch tâm nổ trong đầu khi tôi thấy thiếu tá Thà CKT ngoan ngoản lo bàn giao, sợ sệt đủ thứ, còn Đ/U Sơn đã âm thầm mất dạng… Chợt có tiếng anh Đ/U Trưởng Chi ANQĐ phòng bên cạnh, đọc lập đi lập lại vang vang hai câu thơ của tôi : THÔI RỒI TRỜI ĐÃ NGỦ MÊ ĐỂ BẦY QUỈ DỮ XUỐNG ĐÈ QUÊ HƯƠNG!… 15:00PM . Đám du kích MTGPMN cầm cờ “cách mạng” kéo ra đường đứng trước Chi Khu cách 100m. Chúng đeo băng đỏ … Nỗi uất hận dâng trào , tôi cúi mặt lầm lũi đi …Một con én làm sao dệt nổi mùa xuân ?… *HÀ NGỌC Nguồn: nhinrabonphuong.blogspot.com/2020/04/m-ot-tho-i-c-u-i-m-t-ha-ngoc.html
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 3:58:28 GMT 9
CIA và những ngày cuối tại Sài GònConrad Edward LaGueux – Phó Trưởng Văn Phòng CIA tại Việt Nam, là một trong những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Sài Gòn trong ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Đối với LaGueux, người đã thực hiện các điệp vụ tình báo Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến cho đến chiến tranh Việt Nam, sự sụp đổ của Sài Gòn là một chương sử khó khăn, phức tạp và gây tranh cãi trong lịch sử Hoa Kỳ và chính ông. Mặc dù những ngày cuối của cuộc chiến Việt Nam được nhiều người biết đến, nhưng vai trò của các sĩ quan tình báo CIA như LaGueux trong những ngày cuối cùng này không được biết đến nhiều. Hãy đọc lại câu chuyện về ông, người chịu trách nhiệm tổ chức cuộc di tản 1975, như thế nào. LaGueux gia nhập Cục Tình Báo Quốc Gia Hoa Kỳ (CIA) vào năm 1949, hai năm sau khi cơ quan này được thành lập. Trước kia, ở tuổi 22, ông từng là trưởng toán của một nhóm đặc nhiệm OSS (Office of Strategic Services – tiền thân của CIA) gồm 15 người trong Đệ Nhị Thế Chiến, chuyên nhảy toán vào sâu lòng địch tại Pháp. Làm việc cùng với các kháng chiến quân Pháp, toán đặc nhiệm của LaGueux từng đặt mìn lật đường ray một đoàn xe lửa của Đức, dẫn đến sự đầu hàng sau đó của hơn 5,800 lính Đức Quốc xã – một sự kiện chính trong việc giải phóng miền Nam nước Pháp. Sau đó, ông và một số nhân viên trong nhóm OG của ông đã được đưa đến vùng tam giác Trung Quốc-Miến Điện-Ấn Độ để giúp huấn luyện binh chủng Dù quốc gia của quân đội Tưởng Giới Thạch trong việc chiến đấu chống lại quân Nhật. Hoạt động của LaGueux trong Đệ Nhị Thế chiến đã mang lại cho ông một số anh dũng bội tinh. Khi LaGueux gia nhập CIA, với tiếng Pháp mẹ đẻ của ông đã đưa ông vào một chức vụ trong Ban Đặc Vụ Châu Âu. Tuy nhiên, một đồng nghiệp cũ của ông tại OSS đã thuyết phục được ông thay đổi hướng hoạt động và chấp nhận một công việc lâu dài với Ban Tình Báo Viễn Đông, sau này chuyển thành Đông Á sự vụ. Trong những năm theo sau, ông đảm nhận nhiều vị trí lãnh đạo cấp cao trong cục tình báo, cả tại các tổng hành dinh CIA và ở nước ngoài. Ông nhanh chóng nổi tiếng nhờ có đầu óc phân tích tin tức và thời cuộc sắc sảo, có khả năng giải quyết nhiều vấn đề đặc vụ và hành chính phức tạp. Một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp tình báo lâu đời của LaGueux là khi ông giữ chức vụ Phó Chánh Văn Phòng CIA tại Sài Gòn, là một hành dinh tình báo CIA lớn nhất thế giới tại nước ngoài. Theo sau hòa đàm Paris vào tháng Một năm 1973, Hoa Kỳ đồng ý rút các lực lượng quân sự ra khỏi miền Nam Việt Nam, trong khi Bắc Việt đồng ý sẽ giới hạn sự tiếp viện cho Mặt Trận Giải Phóng miền Nam Việt Nam đang cố gắng tấn công lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Lệnh ngừng bắn cùng các thỏa thuận không được tôn trọng, Bắc Việt đã phá bỏ hòa đàm và phát động một cuộc tổng tấn công vào miền Nam Việt Nam vào tháng Hai năm 1975, với trận tấn công mở màn vào Ban Mê Thuột do quân đội Bắc Việt thực hiện. Đây là trận chiến quyết định trong chiến tranh Việt Nam, dẫn đến sự sụp ngã hoàn toàn quân khu chiến thuật của Quân Đoàn Hai miền Nam Việt Nam. Trận chiến là một phần của một chiến dịch quân sự rộng lớn hơn của Bắc Việt, được gọi là Chiến Dịch 275 nhằm đánh chiếm vùng cao nguyên Việt Nam. Nhận được tin tình báo về cuộc tấn công của cộng quân và dẫn đến kết quả triệt thoái của quân đội Nam Việt Nam, LaGueux tự mình lên máy bay trực thăng Air America- một nhánh hàng không bí mật của CIA trong chiến tranh Việt Nam, để thị sát chiến trường. Xe buýt, xe jeep, xe hơi và xe tải quân sự chở hàng ngàn người di tản bị ùn tắc dài trên con đường số 7 dẫn về khu vực duyên hải miền Trung miền Nam Việt Nam. Kinh nghiệm của ông với OSS trong Đệ Nhị Thế Chiến đã dạy ông bài học rằng, không có gì khó khăn hơn là việc tổ chức và thực hiện một cuộc triệt thoái quy củ để tái thiết lực lượng cho các mặt trận khác. Cũng như với việc mất cao nguyên này, LaGueux biết rằng cuộc chiến đã kết thúc. LaGueux trở về Sài Gòn sau chuyến thị sát với bằng chứng quan trọng là tình hình đang xấu đi trầm trọng. Quân Bắc Việt đã tiến quân với thế chẻ tre xuống hướng Nam, về phía Sài Gòn. Tại Sài Gòn, Đại Sứ Mỹ Graham Martin lưỡng lự việc di tản nhân viên Hoa Kỳ, mặc dù ông đã giảm đáng kể các hoạt động trước đó. Martin mang hy vọng còn giữ được một quốc gia Việt Nam Cộng Hòa thu nhỏ, bao gồm Sài Gòn và các khu vực lân cận. Ngay cả khi không thể thực hiện điều này thì Martin cũng không muốn tạo ra sự hỗn loạn cho người dân Sài Gòn bằng cách đột ngột di tản Đại Sứ Quán Hoa Kỳ. LaGueux và thượng cấp của ông, Thomas Polgar – Trưởng Văn Phòng CIA tại Sài Gòn , cũng là cựu sĩ quan OSS, cũng đã giảm bớt nhân viên CIA trước đó. Họ thúc giục Đại Sứ Graham Martin và cấp lãnh đạo CIA buộc Nam Việt Nam tìm kiếm giải pháp cho việc đình chiến. Tuy nhiên, đến giữa tháng Tư thì các phân tích tình báo đã cho thấy rõ là Bắc Việt không còn muốn đàm phán nữa. Ngày 27 tháng Tư, quân Bắc Việt đã bao vây Sài Gòn và pháo kích vào phi trường Tân Sơn Nhứt, khiến phi cơ không thể cất cánh. Điều này đã khởi đầu cho Chiến dịch Gió Xoáy (Operation Frequent Wind), sử dụng trực thăng của Thủy quân lục chiến và Air America để di tản các nhân viên Hoa Kỳ cùng các viên chức cao cấp chính quyền Sài Gòn ra các tàu hải quân của Hạm Đội 7 ngoài khơi. LaGueux lên kế hoạch và chịu trách nhiệm thực hiện các cuộc di tản cho tất cả người Mỹ còn bị kẹt lại. Khối lượng công việc khổng lồ và khẩn cấp này bao gồm việc lên kế hoạch và thực hiện cuộc di tản an toàn cho tất cả nhân viên ngoại giao, quân nhân Hoa Kỳ và gia đình họ, các nhân viên ngoại giao, thương gia và phóng viên Châu Âu. Và trên hết, LaGueux được giao nhiệm vụ di tản càng nhiều các viên chức chính phủ, sĩ quan cấp cao của miền Nam Việt Nam cùng gia đình họ càng tốt. 11 giờ sáng ngày 29 tháng 4, lệnh di tản toàn bộ được phát ra. Người Mỹ còn kẹt lại Sài Gòn đã nhận được ám hiệu và được yêu cầu phải tuyệt đối giữ bí mật các thông tin này. Khi đài phát thanh Hoa Kỳ thông báo rằng nhiệt độ ở Sài Gòn là “105 độ và còn tăng cao” và sau đó là bài hát “White Christmas”, họ phải lập tức đến ngay điểm tập họp gần nhất, nơi trực thăng sẽ bốc dỡ họ. Điểm khởi hành trung tâm là chính Đại Sứ Quán Hoa Kỳ, nơi máy bay trực thăng có thể hạ cánh trên nóc nhà và xuống khuôn viên. Một trong những bức ảnh nổi tiếng nhất trong chiến dịch di tản và sự sụp đổ của Sài Gòn từ ký giả người Hà Lan Hubert van Es là tấm ảnh chụp chiếc trực thăng bấp bênh trên nóc một tòa nhà, với người phi công bước ra và vói kéo một hàng dài người tị nạn đang trèo lên một chiếc thang dốc. Tấm ảnh chụp ngay tại khu chung cư Pittman mà LaGueux cùng một vài nhân viên CIA cư ngụ tại Sài Gòn, là một trong những địa điểm bốc người và chỉ cách đại sứ quán vài block. Rạng sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, LaGueux, Giám đốc CIA Polgar và Đại sứ Martin là một trong vài người Mỹ còn sót lại trong đại sứ quán khi quân Bắc Việt đã tiến sát vùng ngoại ô Sài Gòn. Trước đó, Polgar đã đánh bức điện tín về tổng hành dinh CIA với dòng chữ rằng, “Đây là bức điện tín cuối cùng phát đi từ Sài Gòn. Một cuộc chiến dài và khó khăn, chúng ta đã thua cuộc”. LaGueux chờ Polgar đánh xong điện tín để cùng phá hủy các thiết bị liên lạc này trước khi ra với đại sứ Martin. Khoảng 4:00 sáng, một chiếc trực thăng hạ cánh xuống Đại sứ quán trong nhiệm vụ đưa Đại Sứ Martin cùng các viên chức cao cấp của CIA còn lại ra chiến hạm USS Blue Ridge. Một lính thủy quân lục chiến bước ra và tiến đến Đại sứ nói rằng, “Thưa ngài Đại Sứ, Tổng Thống Ford đã ra lịnh cho tôi đưa ngài lên chiếc trực thăng này nếu ngài không tự nguyện ra đi. Đã đến lúc rời khỏi Sài Gòn”. Trực thăng cất cánh, LaGueux và đại sứ Martin nhìn xuống thành phố Sài Gòn lần cuối. Màn đêm sẽ còn che phủ thành phố này rất lâu. ĐYT (từ CIA archives) Ps. Connie LaGueux từ giã CIA và về hưu năm 1977. Ông mất ngày 31 tháng 7 năm 2001 và được an táng tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington với đầy đủ quân cách danh dự.
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 27, 2020 4:05:02 GMT 9
Kết Cuộc Đắng Cay – Toàn Như dịch từ THE BITTER END, hồi ký của Harry G. Summers, Jr Posted on April 6, 2020 by dongsongcu Đó không phải là một ngày đáng để làm người Mỹ tự hào. Ngày đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975, vào lúc 5 giờ 30 sáng, khi chiếc trực thăng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) CH-46 rời khỏi mái nhà Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn mang theo những người Mỹ cuối cùng, không kể những người lính TQLC, để tới chiếc tầu USS Okinawa và nơi an toàn, toàn bộ sự phản bội của chúng ta đã chấn động tận quê nhà. 420 người dân di tản ở phía dưới, những người mà chúng tôi đã hứa hẹn nghiêm chỉnh rằng sẽ không bỏ rơi, đã bắt đầu dồn ép những người lính TQLC cũng đang rút vào bên trong tòa đại sứ. Nhưng đã quá trễ. Nước Mỹ đã không chỉ bỏ rơi người bạn đồng minh cũ một cách vô trách nhệm vào lúc dầu sôi lửa bỏng này mà còn bỏ rơi một cách đáng hổ thẹn mấy trăm người di tản cuối cùng, những người đã tin cậy Hoa Kỳ vào giờ phút cuối cùng đó. Trong số đó có cả những người lính cứu hỏa địa phương, những người đã khước từ được di tản sớm vì e ngại một trong những chiếc trực thăng có thể bị rớt trong sân tòa đại sứ; một linh mục người Đức cùng với một số trẻ mồ côi Việt Nam; và những thành viên tòa đại sứ Đại Hàn, gồm cả các sĩ quan Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Đại Hàn, những người đã tự nguyện ở lại đến giờ chót nhường cho các người dân thường được di tản trước họ và để rồi sau đó họ đã bị thảm sát một cách vô cảm bởi những kẻ xâm lược đến từ miền Bắc Việt Nam. Cái đáng tiếc nhất là chuyện ấy xảy ra hoàn toàn không do chủ ý, mà đó là do sự mất liên lạc giữa những người đang điều hành cuộc di tản ở tòa đại sứ, những người trên hàng không mẫu hạm đang kiểm soát các trực thăng ở ngoài khơi, và những người ở Honolulu và Washington đang có những quyết định sau cùng. Nói tóm lại, Chiến Tranh Việt Nam một lần nữa đã chấm dứt. Việc trở lại Việt Nam của tôi vào tháng Bảy năm 1974 bắt đầu hoàn toàn khác với chuyến công tác của tôi trước đó vào năm 1966-1967. Khác với lần công tác thứ nhất lúc đó tôi là một sĩ quan hành quân của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1 Bộ Binh (Hoa Kỳ), rồi sau khi bị thương lần thứ hai, tôi phụ trách sĩ quan hành quân G-3 với lực lượng Dã Chiên II Việt Nam, lúc đó có thể đã không còn nhiều chết chóc. Vào năm 1975, Việt Nam coi như đã hòa bình. Nó tưởng như đã hòa bình đến nỗi vợ tôi và đứa con trai 18 tuổi đã tháp tùng theo tôi tới Sài Gòn cùng với một số gia đình khác trong Phái Bộ Mỹ – như ban tham mưu tòa đại sứ Mỹ; 50 nhân viên quân sự của Phòng Tùy Viên Quốc Phòng (cơ quan DAO: Defense Attaché Office); và phái đoàn nhỏ bé của Toán Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên của Hoa Kỳ mà tôi được chỉ định làm Trưởng Tiểu Ban về thương thuyết. Tòa đại sứ tọa lạc ở trung tâm Sài Gòn, nhưng cơ quan DAO và Toán Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên lại tọa lạc tại trụ sở của cơ quan MACV (Military Assistance Command, Vietnam) cũ ở căn cứ Tân Sơn Nhứt nơi ngoại ô Sài Gòn cách đó vài dặm. Thomas Polgar, là Trưởng Văn Phòng CIA lúc đó, trong một bài báo mang tựa đề “Managing the Company Store” trên tạp chí Vietnam (tạp chí của các cựu chiến binh tham chiến tại Việt Nam xuất bản mỗi hai tháng) trong Tháng Tám năm 1989 đã viết: “Vào năm 1973-1974, tôi thường xuyên lái xe từ Sài Gòn đi Mỹ Tho trong vùng đồng bằng sông Cửu Long … và để cho nhân viên của tôi lái xe đi Đà Lạt. Những trục lộ chính xuyên suốt trong nước về căn bản là an toàn cho những chuyến đi vào ban ngày.” Khi người con trai lớn của tôi, sau này là một sinh viên sĩ quan trường võ bị West Point, đến chung vui với chúng tôi nhân mùa lễ Giáng Sinh 1974, cả hai cậu con trai đều muốn tham gia vào toán người của tòa đại sứ lái xe đi chơi tắm Vũng Tàu. Tôi đã từ chối, vì nhớ lại hai sư đoàn Mỹ đã từng phải khai thông con đường đó gần mười năm trước vượt qua một vùng quê đầy thù nghịch. Nhưng Việt Cộng đã gần như biến mất khoảng gần sáu năm do hậu qủa của cuộc tấn công Tết 1968. Từ đó cho đến khi ký kết Hiệp Định Hòa Bình Paris trong Tháng Giêng 1973, cuộc chiến gần như chỉ là giữa quân đội chính qui Bắc Việt và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, còn Việt Cộng hầu như không còn giữ một vai trò gì. Và, kể từ sau Tết 1968, Hoa Kỳ cũng đã bắt đầu giảm bớt sự liên hệ. Tiếp theo trận đánh trên Đồi Thịt Bằm (Hamburger Hill) vào tháng 5-1969, tất cả các cuộc hành quân có tính tấn công chiến lược của Hoa Kỳ đã bị cắt giảm một cách nghiêm trọng, và kể từ tháng 7-1969 việc rút quân đội Mỹ đã bắt đầu được thực hiện. Đến Tháng Tám năm 1972 toàn bộ các lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ đã ra đi. Đến Tháng Ba năm 1973, theo Hiệp Định Paris, tất cả lực lượng quân sự Mỹ còn lại, ngoại trừ 50 nhân viên DAO và các thành viên Toán Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên, đều đã rời khỏi Việt Nam. Các trận đánh trong năm 1973 chỉ còn giới hạn qua các trận đụng độ nhỏ nơi nông thôn hẻo lánh giữa QLVNCH và 15 sư đoàn Bắc Việt, gồm khoảng 149.000 quân chiến đấu và 71.000 quân yểm trợ đã được phép ở lại Miền Nam Việt Nam theo những điều khoản của Hiệp Định Paris. Nhiều người sau này đã trách cứ cho rằng đó là những điều khoản đã dẫn đến sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, Trưởng văn phòng CIA Polgar lại không đồng ý về điều đó. Trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Vietnam vào Tháng Tám năm 1989, ông đã nói rằng “Hiệp Định Hòa Bình Paris được coi như là một thỏa hiệp trong danh dự và hợp lý đã được thảo ra và ký kết … Vấn đề là ở chỗ Bắc Việt đã nhạy bén và nhận thấy sự suy yếu trong quyết tâm của Mỹ không còn muốn tiếp tục yểm trợ cho Nam Việt Nam, nên những người Cộng Sản đã gia tăng xem thường bản Hiệp Định Paris. Các điều khoản của Hiệp Định Paris nếu được thi hành, chẳng hạn giống như những điều khoản trong bản Thỏa Ước Đình Chiến Đại Hàn năm 1953, thì sự tiếp tục cho một Miền Nam Việt Nam độc lập, dù có thể bị yếu đi, cũng có thể được bảo đảm trong nhiều năm.” Nhưng nó đã không được như vậy, bởi vì vào đúng cái thời điểm quan trọng nhất Hoa Kỳ đã không giữ lời hứa. Như Tướng Homer Smith đã đề cập [trong bài viết “Bốn Mươi Lăm Ngày Cuối Cùng ở Việt Nam” (Final Forty Five Days in Vietnam) trên tạp chí Vietnam số Tháng Tư 1995] rằng, không chỉ Quốc Hội đã không đáp ứng số tiền gần một tỷ đô la viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cho Việt Nam, mà cả chính phủ Mỹ cũng ngoảnh mặt với những cam kết về an ninh của mình. Tổng Thống Richard Nixon trong một lá thư gởi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của Miền Nam Việt Nam vào tháng 11 năm 1972 trước ngày ký Hiệp Định Hòa Bình Paris đã viết: “Tôi bảo đảm tuyệt đối với ông rằng, nếu Hà Nội không tôn trọng những điều đã cam kết trong bản hiệp định này, tôi sẽ có những hành động trả đũa quyết liệt.” Nhưng rất tiếc không đầy hai năm sau, Nixon đã phải rời khỏi chức vụ vì vụ tai tiếng Watergate. Tại một buổi họp của Bộ Chính Trị Bắc Việt vào Tháng Mười năm 1974, Lê Duẩn, người kế tục Hồ Chí Minh, đã lưu ý về sự kiện đó và “đưa ra một quyết định quan trọng và sau đã trở thành một nghị quyết.” Y nói, một khi đã rút ra khỏi Miền Nam, Hoa Kỳ khó mà có thể quay trở lại, nên sẽ không có vấn đề nó sẽ can thiệp như thế nào, và nó không thể nào cứu vãn cho chính phủ Sài Gòn khỏi sụp đổ. Tỉnh Phước Long nằm ở phía Tây Bắc của Sài Gòn là một thí nghiệm cho nghị quyết đó. Ở nơi tương đối hẻo lánh, lực lượng phòng thủ của tỉnh chỉ gồm có bốn tiểu đoàn Địa Phương Quân với quân số khoảng 340 cho mỗi tiểu đoàn và một số trung đội Nghĩa Quân. Hỏa lực yểm trợ gồm có 4 khẩu đại bác 155 ly và 16 khẩu 105 ly được sử dụng bởi các trung đội sử dụng cả hai loại súng cho toàn vùng. Lực lượng phòng thủ này thật không tương xứng với Binh Đoàn 301 của quân đội Bắc Việt, gồm có Sư Đoàn 3 tân lập của Bắc Việt, Sư Đoàn 7 kỳ cựu, một tiểu đoàn xe tăng với những chiếc tăng T-54 của Sô Viết, một trung đoàn pháo binh, một trung đoàn pháo cao xạ, cùng các đơn vị bộ binh và công binh địa phương. Cuộc tấn công của họ khởi đi từ những mật khu ở Cambodia vào ngày 13 tháng 12 năm 1974, binh đoàn 301 đã loại bỏ những chốt tiền tiêu của Nam Việt nam, rồi tập trung tấn công vào sân bay Sông Bé. Quân đồn trú tại đó được tăng viện bởi Tiểu Đoàn 2 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh được trực thăng vận đến từ căn cứ Lai Khê. Thêm sáu khẩu đại bác 105 ly cũng được trực thăng vận đến. Sau đó, hai đại đội của Tiểu Đoàn 85 Biệt Động Quân của QLVNCH cũng được gởi đến. Nhưng chúng vẫn không cân xứng với quân Bắc Việt mà pháo binh của chúng đặc biệt dữ dội. Cho đến ngày 3 tháng 1 năm 1975, mức độ pháo kích của quân Bắc Việt đã lên đến 3.000 qủa một ngày. Theo sử liệu chính thức về trận đánh, “cuối cùng vào ngày 6 tháng 1, vị tỉnh trưởng đã nhận ra rằng ông ta không thể làm chủ trận chiến.” Báo cáo viết, “dưới sự trực xạ từ bốn chiếc xe tăng T-54, ông đã bị thương nặng nên đã cùng bộ tham mưu còn lại rút khỏi Sông Bé. Quân Bắc Việt đã chiếm được một tỉnh đầu tiên.” Sự tổn thất của Nam Việt thật là choáng váng. Trên 5.400 binh sĩ QLVNCH và các lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đã tham gia vào trận đánh, nhưng chỉ khoảng 850 người sống sót. Vị tỉnh trưởng cũng chẳng thoát được đến nơi an toàn. Khoảng 3.000 thường dân trong số 30.000 hay hơn đã trốn khỏi sự kiểm soát của cộng sản. Một số viên chức xã, ấp, tỉnh đã bị bắt và đã được coi như thiệt mạng. Tuy nhiên, những tổn thất này bi kịch là ở chỗ, trận đánh đã tạo ra những hậu qủa khôn lường. Trận chiến ít được lưu ý tại Phước Long lại là một trong những trận đánh quyết định cuộc chiến vì nó đánh dấu sự bỏ rơi của Hoa Kỳ đối với người bạn đồng minh lâu năm trước số phận bi thương của nó. “Nghị Quyết” của Lê Duẩn đã trở nên qúa đúng. Để đương đầu với sự vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris – nó đã được nghiên cứu kỹ lưỡng để cố tình vi phạm hầu thử thách sự đối phó của Mỹ – Tổng Thống Gerald Ford đã chỉ hạn chế sự đối phó một cách yếu ớt bằng những lưu ý về ngoại giao. Bắc Việt đã nhận được cái tín hiệu xanh cho cuộc xâm lăng Nam Việt Nam. Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng, người chỉ huy trận tấn công vượt tuyến sau cùng để tiến chiếm Nam Việt Nam, đã phát biểu tại cuộc họp Bộ Chính Trị ngày 8-1-1975 rằng, “Rõ ràng là Mỹ rất khó có thể trở lại, … Để lợi dụng thời cơ lớn lao này, chúng ta phải có những trận đánh thật qui mô rộng khắp để tiêu diệt và đập tan kẻ thù trên một bình diện lớn.” Thế là việc chuẩn bị cho một trận chiến sau cùng của quân Bắc Việt đã được hoạch định. Tướng Smith đã chi tiết hóa diễn tiến của sự phản bội như sau, vào Tháng Ba 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã có một quyết định đầy định mệnh là bỏ Cao Nguyên đã khiến cho toàn bộ cấu trúc phòng thủ của Miền Nam Việt Nam bắt đầu bị tan rã. Nhưng không phải toàn bộ QLVNCH đã sụp đổ. Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Xuân Lộc, khoảng 40 dặm về phía Đông Bắc Sài Gòn đã cố gắng một cuộc chiến đấu thật can đảm. Từ ngày 17-3-1975 đến ngày 5-4-1975, Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã giữ vững vị trí, gây tổn thất nặng nề cho các sư đoàn 6, 7, và 341 của Bắc Việt. Chỉ cho đến khi Bắc Việt đem vào sư đoàn 325 và đưa vào trận địa các sư đoàn 10 và 304 thì Sư Đoàn 18 mới rút lui. Nhưng cũng đã qúa trễ, vì vào những tuần lễ cuối cùng của Tháng Tư, các sư đoàn quân Bắc Việt đã vào đến cửa ngõ Sài Gòn. Rõ ràng là tất cả đã đến hồi kết cuộc. Vào lúc đó, đường dây liên lạc duy nhất giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt được qua trung gian Toán Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên được hưởng quy chế ngoại giao theo Hiệp Định Paris. Các chuyến bay thường xuyên của Toán QSHHBB giữa Sài Gòn và Hà Nội đã được thực hiện kể từ năm 1973. Sử dụng những vận tải cơ C-130 của Bộ Chỉ Huy Không Lực Thái Bình Dương, các chuyến bay đã bao gồm các thành viên của cả bốn phái đoàn trong Toán QSHHBB gồm có Hoa Kỳ, Bắc Việt, Nam Việt Nam (VNCH) và Việt Cộng mà tên gọi chính thức của nó là “Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam”. Một chuyến bay như vậy đã được sắp xếp vào ngày 25-4-1975, với sự hiểu biết rằng chính phủ Bắc Việt ở Hà Nội đã được chuẩn bị cho việc Hoa Kỳ rút đi. Là Trưởng Phái Đoàn thương thuyết của chính phủ Hoa Kỳ, tôi được hưởng quy chế ngoại giao theo Hiệp Định Paris. Tôi được lệnh thực hiện chuyến bay, cùng đi với tôi là thông dịch viên, Chuyên viên 7 Garnett “Bill” Bell (sau này đã nghỉ hưu và hoạt động trong những công tác về POW/MIA và từng là Trưởng Văn Phòng POW/MIA của Mỹ ở Hà Nội – trước khi Mỹ và Hà Nội có bang giao). Bell là một chiến sĩ rất nhiệt tình trong công tác, ông vừa trở lại nhiệm sở sau khi đã chuyển đưa thi hài của người vợ và các con về Hoa Kỳ cùng với đứa con gái còn sống sót duy nhất. Họ đã bị tử nạn trong tai nạn máy bay rớt trong khi di tản các em mồ côi trên chiếc máy bay C-5 ngày 3-4-1975. Tai nạn đó cũng lấy đi mạng sống của Barbara Kavulia, người thư ký dân sự của Tiểu Ban Thương Thuyết. Mặc dù được phép ở lại Hoa Kỳ, nhưng Bell vẫn trở lại vì ông biết rằng ông là một thông dịch viên rất cần thiết cho phái đoàn. Kể từ lúc bắt đầu cho đến khi hoàn tất chuyến đi là cả một vấn đề vượt ngoài sức tưởng tượng. Để lên đường, tôi cần có những sự hướng dẫn về thương thuyết. Toán QSHHBB đã có sự chỉ huy kép. Một là qua cơ quan DAO (Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự) ở Sài Gòn và Bộ Chỉ Huy Thái Bình Dương ở Honolulu cùng ông phụ tá bộ trưởng quốc phòng Roger Shields đặc trách về POW/MIA ở Ngũ Giác Đài. Hai là qua con đường ngoại giao mà khởi đầu với James Devine, một viên chức vừa quân sự vừa chính trị ở Tòa Đại Sứ ở Sài Gòn. Vì đây là một sứ mạng ngoại giao mà tôi đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ nên tôi đã tìm gặp Devine để nhận những sự hướng dẫn về những điều khoản mà Hoa Kỳ đề nghị. Nhưng vào lúc đó, vị đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin vừa bị mất một người con trai trong cuộc chiến ở Việt Nam, đang bị suy sụp về tinh thần lẫn thể chất và ông Ngoại Trưởng Kissinger ở Hoa Thịnh Đốn hầu như cũng đang toan tính một sự “phản bội” bắt nguồn từ tên Lê Duẩn của Bắc Việt, thành ra Devine cũng mù mờ như tôi vậy. Tôi hỏi: “Những hướng dẫn về thương thuyết dành cho tôi như thế nào?” Devine đáp: “Mẹ kiếp, tôi cũng không biết nữa.” Tôi nói: “Vậy tôi phải làm gì đây?” Devine trả lời: “Thì cứ cố gắng hết mình thôi.” Nếu tôi tiết lộ sự hướng dẫn lạ kỳ này cho Bắc Việt, họ có thể đã nghĩ rằng tôi nói dối họ, bởi vì bất cứ những gì họ làm, kể cả việc ấn định cho chúng tôi đậu chiếc máy bay C-130 ở sân bay Gia Lâm ở Hà Nội cũng có một mục đích chính trị. Chiếc C-130 phải đậu làm sao để cho các hành khách trên chuyến máy bay thương mại của Trung Quốc đến từ Quảng Đông phải đi dưới cánh chiếc máy bay Mỹ để ra vào nơi tiếp nhận hành khách, rõ ràng đây là một hình thức thiếu tôn trọng. Hà Nội, như đã được tưởng tượng, có vẻ hồ hởi với những đám đông tụ tập ngoài đường phố. Sau những năm chiến đấu họ đã thắng trên chiến trường điều mà họ đã thất bại tại bàn thương thuyết. Tôi nói với Đại tá Tư (không rõ Tư, Tứ, Tú hay Tự, nguyên văn tiếng Anh không bỏ dấu), người đối đầu với tôi của Bắc Việt: “Ông nên biết rằng, các ông không bao giờ đánh bại được chúng tôi ở chiến trường đâu.” Ông ta đã nói: “Có thể là như vậy, nhưng cũng không hẳn là như thế.” Như đã mong đợi, Bắc Việt đưa cho tôi những điều khoản về việc rút đi của Hoa Kỳ. Họ nói, cơ quan DAO, mà bộ phận tuyên truyền của Bắc Việt đã khiếu nại một cách sai lạc con số lên đến hàng ngàn phải ra đi hết. Toán QSHHBB (những người mà họ cố gắng liên hệ trong cuộc thương nghị về chuyện đòi bồi thường thiệt hại do chiến tranh để đổi lấy những tin tức về POW/MIA) được ở lại và tòa đại sứ Hoa Kỳ có thể hoạch định tương lai cho nó. Trở lại Sài Gòn, tôi được gặp Eric von Marbod, đại diện riêng của Bộ Trưởng Quốc Phòng James Schlesinger. Tôi đã báo cáo: “Đó là một tình thế hết sức rắc rối mà tôi đã tham dự. Đáng lẽ tôi nên cho họ một cái tối hậu thư về bom nguyên tử và họ sẽ phải tin tôi.” “Sao ông không làm như vậy đi?”, ông đã nói với vẻ nửa đùa cợt. Tôi vẫn tự hỏi, điều gì có thể đã xảy ra nếu Tổng Thống Ford, lúc ấy còn đang bận chơi golf trong một trận đấu ở California, đã làm như thế. Nhưng cũng giống như Pontius Pilate (2), cả ông và Quốc Hội đã phủi tay với Việt Nam rồi. Vào lúc đó, quân Bắc Việt đã tiếp tục đến gần vành đai Sài Gòn. Mười sáu sư đoàn quân Bắc Việt đã mở một cuộc tấn công với ba mũi giáp công vào thủ đô của Miền Nam. Cái kết cuộc đắng cay đã đang kề cận. Trước đó, dự trù rằng chúng tôi có thể ở lại sau khi Sài Gòn thất thủ, phái đoàn QSHHBB của Hoa Kỳ đã được tinh giản một cách kỹ lưỡng, hầu hết các nhân viên quân sự của chúng tôi đã được tái phối trí tới Thái Lan để hình thành một toán công tác đặc biệt tại hậu cứ. Ngày 20-4-1975, Ngũ Giác Đài đã chỉ đạo một chuyến bay đặc biệt để di tản tất cả các nhân viên dân sự người Việt tới Guam. Thành phần còn lại trong phái đoàn gồm có Đại tá Lục Quân John H. Madison, Jr., trưởng phái đoàn; cá nhân tôi; vị phụ tá của tôi, Đại Úy Lục Quân (nay đã là Đại Tá) Stuart A. Herrington; Thượng sĩ William G. Herron; Trung sĩ xạ thủ TQLC Ernest Pace; và Bill Bell. Trong mấy tuần lễ vừa qua, chúng tôi đã bận rộn giúp cho Tướng Smith và ban tham mưu DAO thực hiện những cuộc di tản bằng máy bay có cánh cố định các thường dân Hoa Kỳ, gia đình họ và các nhân viên Việt Nam đã được lọc lựa. Chúng tôi liên tiếp nhận được những công văn ưu tiên từ Hoa Thịnh Đốn hướng dẫn chúng tôi lựa chọn di tản những viên chức cao cấp của Việt Nam cùng với gia đình họ mà mạng sống của họ có thể bị hiểm nguy vì những sự cộng tác với Hoa Kỳ trong thời gian chiến tranh. Tiến trình này đã trở nên phức tạp vì chính phủ Nam Việt Nam đã ngăn cấm một sự ra đi như thế, cho nên cảnh sát an ninh Nam Việt Nam đã ngăn chận các cổng vào Tân Sơn Nhứt. Nhưng nhờ vào sự khéo léo của Đại Úy Herrington, một sĩ quan xuất sắc thông thạo tiếng Việt nên những khó khăn này đã được vượt qua. Một trong những tình huống cảm động đã xảy ra trong lúc thực hiện việc di tản gia đình các cộng sự viên trong phái đoàn QSHHBB của Nam Việt Nam. Một vị đại tá đã giàn giụa nước mắt nói những lời từ biệt cuối cùng với vợ và các con của ông ngay tại cầu thang máy bay để tiễn họ ra đi đến nơi an toàn. Bất ngờ Herrington nói với ông ta: – Ông lên máy bay đi. Vị đại tá nói trong đau khổ: – Tôi không thể làm như thế. Tôi không thể bỏ mặc quê hương tôi trong lúc tuyệt vọng này. Herrington nói: – Thôi đừng khùng nữa ông ơi. Mọi việc đã xong cả rồi. Tổng thống Thiệu đã ra đi rồi. Những người khác cũng đang ra đi. Ông hãy lên máy bay mà lo cho gia đình ông. Cuối cùng vị đại tá đã miễn cưỡng nghe theo. Lúc đầu tôi cũng giận dữ. Tôi nói với Herrington: “Bạn biết rõ là ông Thiệu chưa ra đi mà. Và bạn cũng biết là chúng ta bị cấm không được di tản bất cứ người nào trong QLVNCH. Tại sao bạn lại để cho ông sĩ quan này phải khó xử giữa một bên là nhiệm vụ và một bên là gia đình?” Thế nhưng Herrington đã nói đúng. Đó chỉ là vấn đề thời gian khi nào ông Thiệu sẽ ra đi và đất nước này sụp đổ. Vị sĩ quan đó chả làm được gì để có thể thay đổi được. Nếu ông ta ở lại, ông ta cũng sẽ chỉ để cộng thêm vào cái con số sĩ quan QLVNCH phải ở trong các trại tập trung của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nơi mà, nếu ông ta không chết thì cũng bị lăng nhục trong suốt mười bảy năm kế tiếp, bởi vì mãi đến năm 1992, người sĩ quan tù binh cuối cùng của QLVNCH mới được thả. Nhưng rồi, như Tướng Smith đã mô tả, cuộc di tản bằng máy bay có cánh cố định đã phải chấm dứt vì đạn hỏa tiễn của quân Bắc Việt bắn vào Tân Sơn Nhứt làm chết hai TQLC phụ trách an ninh là Hạ Sĩ Darwin Judge và Hạ Sĩ Charles McMahon. Ngày 29-4-1975, chúng tôi di chuyển từ trụ sở DAO tới Tòa Đại Sứ ở trung tâm Sài Gòn để chuẩn bị ở lại. Tuy nhiên khi vừa đến nơi, chúng tôi được biết rằng Ngoại Trưởng Kissinger đã ra lệnh cho tất cả các nhân viên Hoa Kỳ phải rời khỏi Việt Nam, kể cả Toán QSHHBB và ban tham mưu tòa đại sứ. Trong lúc cuộc di tản ở trụ sở DAO được bắt đầu, cuộc di tản duy nhất từ tòa đại sứ bởi một ít máy bay trực thăng UH-1 của hãng Air America đã được thực hiện từ trên nóc nhà để làm con thoi di chuyển những nhân viên tới địa điểm di tản ở DAO. Kế hoạch dự trù di tản khoảng 100 nhân viên Hoa Kỳ từ tòa đại sứ theo cách này. Những người di tản khác sẽ được di chuyển bằng xe búyt hoặc bằng trực thăng của Air America tới địa điểm di tản chính ở DAO. Nhưng kế hoạch này đã bị hỏng vì đã có khoảng 3.000 người mà một nửa là người Việt đã tụ tập bên trong bức tường tòa đại sứ. Những đường phố Sài Gòn đang trở nên tắc nghẽn, không có cách nào có thể chuyển họ bằng xe búyt tới địa điểm di tản ở Tân Sơn Nhứt được cả. Một cây me lớn trong sân tòa đại sứ đã làm cản trở cho việc sử dụng bãi đáp (trực thăng), và ông Đại sứ Martin rõ ràng đã coi cái cây như là một biểu tượng cho quyết định không rời bỏ nhiệm sở của ông, ông đã không đồng ý cho đốn nó xuống. Nhưng bây giờ thì cái kết cuộc đã không thể nào tránh khỏi, nên cái cây cuối cùng đã ngả xuống. Tuy nhiên, cái bãi đáp vẫn còn bị cản trở bởi đám thường dân di tản. Để làm giảm bớt sự lộn xộn, Đại Tá Madison đã tình nguyện cùng với Wolfgang Lehman, phó trưởng phái bộ (chức vụ tương đương phó đại sứ), ra giúp ổn định trật tự. Trong lúc Thiếu tá TQLC James Kean và các nhân viên an ninh tòa đại sứ được tăng cường thêm khoảng 130 TQLC Mỹ từ Lực Lượng An Ninh Lãnh Thổ tại cơ quan DAO canh giữ bức tường không cho thêm người vào bên trong, chúng tôi phải dọn sạch bãi đáp trong sân tòa đại sứ và tổ chức cho những người di tản ra đi. Sự lộn xộn lại bắt đầu bùng ra khi đám đông nhìn thấy những chiếc trực thăng của Air America cất cánh từ mái nhà tòa đại sứ. Nỗi lo sợ tệ hại nhất của chúng tôi trong cuộc di tản là sợ rằng sẽ lập lại cái sự việc đã xảy ra ở Đà Nẵng vào tháng trước, nơi mà sự hoảng sợ đã qúa mức và ngay cả việc đáp xuống cũng không thực hiện được, vì sợ rằng máy bay sẽ bị chật cứng không thể nào cất cánh lên được. Những điều đó đã không xảy ra ở tòa đại sứ. Đó là nhờ các nhân viên an ninh TQLC giữ an ninh bức tường đã ngăn chặn cả ngàn người ở ngoài đường không để tràn vào bên trong. Một lý do khác nữa là nhờ Đại úy Herrington, các trung sĩ Herron và Pace cùng với chuyên gia Bell (tất cả đều nói được tiếng Việt) đã cam kết với đám đông rằng họ sẽ không bị bỏ lại. Công việc trước tiên là phải dọn trống cái sân tòa đại sứ. Dưới sự kiểm soát của Trung sĩ xạ thủ Pace, hầu hết những người ở trong sân được chuyển vào bên trong tòa nhà tòa đại sứ, để rồi sau đó sẽ được di tản từ trên mái nhà khi các trực thăng CH-46 Sea Knight đến từ hàng không mẫu hạm ngoài khơi. Số người còn lại được tập trung trong trụ sở của CRA (Combined Recreation Association) ở bên cạnh. Khu vực hội quán tòa đại sứ và hồ bơi được ngăn cách với chính tòa đại sứ bằng trạm cứu hỏa và một cái hàng rào làm bằng những sợi xích. Với sự giúp đỡ của vị truyền giáo địa phương, Mục sư Tom Stebbins, người nói được tiếng Việt, tôi đã đi loanh quanh giữa đám đông trong trụ sở CRA đảm bảo với mọi người rằng thế nào họ cũng được di tản. Trong khi đó, một bãi đáp dành cho những trực thăng TQLC CH-53 Sea Stallion lớn hơn cũng đã được dọn dẹp xong trong sân tòa đại sứ. Mặc dù với hai bãi đáp được sử dụng cùng một lúc, việc di tản vẫn bắt đầu một cách chậm chạp và thưa thớt, vì địa điểm di tản chính ở Tân Sơn Nhứt vẫn là ưu tiên. Đến khoảng nửa đêm, đã có khoảng 1.800 người được di tản từ tòa đại sứ, nhưng rồi đoàn trực thăng phải tạm ngưng để chờ lấy thêm nhiên liệu sau khi hoàn tất cuộc di tản ở DAO. Sự hoảng sợ bắt đầu bùng ra trong đám người di tản vẫn còn trong trụ sở CRA. Các lính TQLC giữ gìn an ninh nơi cổng giữa trụ sở CRA và sân tòa đại sứ đã bắt đầu bị chèn ép dữ dội. Đại úy Herrington phải đến để giải cứu bằng cách vào hẳn bên trong trụ sở CRA để vãn hồi trật tự, chính tôi cũng đi theo cùng với Trung sĩ Herron. Herron nói bằng tiếng Việt: “Không ai sẽ bị bỏ lại.” Herrington thì nói bằng tiếng Anh: “No one will be left behind!” Anh đã lập đi lập lại cam kết với họ: “Tôi ở đây với quý vị, và tôi sẽ đi chuyến trực thăng chót. Họ sẽ không bỏ tôi ở lại đây đâu. Không ai bỏ quý vị đâu. Một lát nữa các trực thăng sẽ trở lại.” Cuối cùng sự hoảng sợ mới tạm lắng. Ngay sau đó, chúng tôi đã di chuyển khoảng 1.100 người còn lại trong trụ sở CRA đi qua cổng và đi lên mái nhà trạm cứu hỏa để từ đó họ có thể thấy những gì đang diễn ra. Vào khoảng 2 giờ sáng, đoàn trực thăng đã trở lại. Sau khi buộc mọi người phải bỏ lại hành lý, chúng tôi thấy rằng chúng tôi có thể để 90 người Việt lên mỗi chiếc CH-53. Đến khoảng 4g15 sáng, Đại tá Madison thông báo cho Wolfgang Lehman rằng, chỉ cần sáu chuyến không vận nữa để hoàn tất việc di tản. Lehman cho ông biết rằng sẽ không có thêm trực thăng nữa. Nhưng Đại tá Madison thì không thể không có nó. Chúng tôi phải nói ra ý kiến của chúng tôi. Madison và các cộng sự của ông sẽ đi chuyến không vận cuối cùng sau tất cả những người di tản dưới sự đảm trách của chúng tôi để được bay đi đến nơi an toàn. Lehman đã phải dịu giọng và nói các trực thăng sẽ được phái đến. Chính điều này sau đó đã được xác nhận bởi Brunson McKinley, phụ tá riêng của ông đại sứ. Thế nhưng McKinley đã nói dối. Ngay cả khi ông cam kết với chúng tôi, ông đã biết rằng cuộc không vận đã bị hủy bỏ, và sau đó ông đã mau chóng di tản cùng với ông đại sứ và Lehman, vị phó trưởng phái bộ của ông. Đó là lần duy nhất trong 38 năm quân ngũ tôi đã nói dối về một vấn đề hành quân. Đối với một sĩ quan trong quân đội, hành động như vậy là không bao giờ có thể nghĩ tới. Nhưng Bộ Ngoại Giao rõ ràng đã có những tiêu chuẩn khác, cho nên sau này McKinley đã trở thành một viên chức cao cấp tại Bộ Ngoại Giao phụ trách về người tị nạn. Mặc dù chúng tôi đã bảo đảm là chúng tôi sẽ không bỏ họ và chúng tôi sẽ là những người ra đi cuối cùng, nhưng rồi Đại Tá Madison cũng không còn cách nào khác hơn là phải làm như vậy. Ông đã ra một cái lệnh thật không thể ngờ cho toán của ông rút đi. Khi chúng tôi ra đến hàng không mẫu hạm, Madison đã quở trách viên chỉ huy phi đội trực thăng vì sự thiếu chữ tín. Nhưng cả ông nữa, cũng đã hoảng hốt. Mọi người đều hiểu rằng, họ đang trải qua một sự khủng hoảng dữ dội, và không ai nhận ra rằng tất cả ngoại trừ sáu chuyến đều đã thành công. Thật ra lời cáo chung cho mối liên hệ của Hoa Kỳ ở Đông Dương đã được dự báo từ tháng trước, trước sự thất thủ của thành phố Nam Vang (Phnom Penh), nơi nước láng giềng Cambodia. Ngay vào những ngày cuối cùng trước khi bị hành quyết bởi bọn Khmer Đỏ, Quốc Trưởng Cambodia Sirik Matak đã viết trong lá thư cuối cùng gởi vị Đại Sứ Mỹ để từ chối lời mời di tản dành cho ông như sau: “… Hỡi ơi, tôi không thể nào ra đi một cách hèn nhát như vậy. Đối với ông và đặc biệt với đất nước vĩ đại của ông, tôi chẳng bao giờ tin được rằng các ông lại có cái ý định bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn sự tự do … Các ông cứ ra đi và tôi cầu chúc cho ông và đất nước ông sẽ tìm thấy hạnh phúc dưới bầu trời. “Nhưng ông hãy ghi nhớ cho rằng, nếu tôi sẽ chết ở đây vào lúc này và trên quê hương mà tôi yêu mến, điều đó thật là tồi tệ dù rằng chúng ta tất cả được sinh ra và sẽ phải chết một ngày nào đó. Tôi chỉ có một lỗi lầm duy nhất là đã tin cậy ở các ông, những người Mỹ.” (nguyên văn: … I cannot, alas, leave in such a cowardly fashion. As for you and in particular for your great country, I never believed for a moment that you would have this sentiment of abandoning a people which has chosen liberty … You leave and my wish is that you and your country will find happiness under the sky. But mark it well that, if I shall die here on the spot and in my country that I love, it is too bad because we all are born and must die one day. I have only committed this mistake in believing in you, the Americans.) TOÀN NHƯ Dịch từ THE BITTER END, hồi ký của Harry G. Summers, Jr. (1) (Đại Tá Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ trong Uỷ Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên sau Hiệp Định Paris 1973) (1) Harry G. Summers, Jr. (1932-1999), tác gỉả bài báo này nguyên là một Đại Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ. Ông từng phục vụ 2 nhiệm kỳ tại Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Trong thời gian từ 1966-1967, ông đã hai lần bị thương trong lúc là sĩ quan hành quân của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 2 thuộc Sư Đoàn 1 Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trở lại Việt Nam lần thứ 2 năm 1974, ông là trưởng phái đoàn thương thuyết của Hoa Kỳ trong Ủy Ban Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên (một cơ chế được lập ra theo Hiệp Định Paris năm 1973) cho đến ngày 30/4/1975. Ông giải ngũ vào năm 1985 với cấp bậc Đại Tá; sau đó năm 1988, ông là chủ nhiệm sáng lập tạp chí VIETNAM, tạp chí của các cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam, xuất bản mỗi 2 tháng một lần. Ngoài ra, ông còn là tác gỉa của nhiều sách viết về chiến tranh Việt Nam. Năm 1999, ông bị bệnh và qua đời sau một cơn đột qụy, hưởng thọ 67 tuổi. (2) Pontius Pilate: Kẻ đã bán đứng chúa Jesus khiến Ngài phải chịu đóng đinh trên thập tự giá. Nguồn: hung-viet.org/p19a17932/ket-cuoc-dang-cay
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 8:17:34 GMT 9
Giải Mã: Lý Do Then Chốt Dẫn Đến 30.04.1975?Posted on April 27, 2020 by dongsongcu Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi I/ Một biến cố lịch sử xảy ra quá bất ngờ ?Đúng vậy, sau gần nửa thế kỷ năm nhìn lại vẫn thấy biến cố 30.04.1975 xảy ra quá bất ngờ đối với toàn thể dân VN chúng ta. Bằng chứng hiển nhiên là rất nhiều cấp lãnh đạo VNCH trong chánh quyền và trong quân đội không ngờ được nên đành phải bị bắt đi tù cải tạo cả hàng chục năm để rồi chết dần mòn trong rừng thiêng nước độc. Nói chi đến người dân bình thường thiếu thông tin của cả 2 miền Nam Bắc tất cả không ai cảm thấy hoặc đoán trước được chuyện sẽ xảy ra. Sự thực này chúng ta có thể đọc thấy rõ trên các tài liệu của 2 miền. Kinh nghiệm cho thấy nếu có thế lực nào “âm mưu” gây ra biến cố bất ngờ đó thì họ đã biết một thời gian dài trước khi xảy ra. Thời gian trôi qua gần nửa thế kỷ nên đã có nhiều chi tiết quan trọng tiết lộ ra và nhứt là gần đây có những chuyện xảy ra “tương tự” trong thời TT Trump khiến chúng ta có thể so sánh tạm đưa ra những nhận xét có bằng chứng và lý luận hợp lý về biến cố lịch sử 30.04.1975. Trong tinh thần tôn trọng sự thực, tất cả chi tiết đưa ra dựa vào chủ trương “nói có sách mách có chứng” để mọi người đều có thể dễ dàng kiểm soát hư thực. Quan trọng nhứt là xem “ngòi nổ” nào trực tiếp đã gây ra biến cố lịch sử 30.04.1975. II/ Điểm đặc biệt của các biến cố lịch sử có tính cách “bất ngờ” ?Đó chính là có cùng mẫu số chung: các biến cố được thực hiện qua âm mưu cực kỳ bí mật. Đặc tính này trước nay trên 2000 năm vào cuối đời Đông Châu Liệt Quốc đã được một tư tưởng gia xuất sắc Hàn Phi Tử trình bày với vua Tần. Ông đã giải thích hợp lý được về chuyện các vì vua trong lịch sử Trung Hoa bị chết bí ẩn quá trẻ hoặc bị soán đoạt mất ngôi. Ông cho rằng các vì vua đó bị những người tin cậy nhứt như Hoàng Hậu, Thái Tử hoặc quan cầm quyền lập âm mưu hãm hại để đoạt ngôi vua. Cho nên ông này đã khuyên vua Tần đề phòng những người thân tín chung quanh (xem Nguồn 1 phía dưới bài). Chính vì vậy triều đại Nguyễn Gia Long ở VN đã học được điều này và thực hiện ngay Lệ “bất tứ” bao gồm: Bất thiết tể tướng; bất thủ Trạng nguyên; bất lập Hoàng hậu; bất phong Đông cung (không lập Tể Tướng, Trạng nguyên, Hoàng hậu và Đông cung Thái tử). Tương tự rất nhiều biến cố lịch sử quan trọng cho thấy đã được những âm mưu cực kỳ bí mật hoạch định. Chẳng hạn cuộc ám sát Thái tử Franz Ferdinand của Áo Quốc đã gây ra Thế Chiến Thứ Nhứt hoặc 2 cái chết bí ẩn của anh em TT Kennedy mà thế lực đằng sau cho đến nay vẫn chưa điều tra ra. III/ Những quan điểm về biến cố lịch sử 30.04.1975Ngay sau khi biến cố xảy ra đã có nhiều quan điểm khác nhau về nguyên nhân tạo ra sự sụp đổ “bất ngờ” của miền Nam VN. Nhưng với thời gian trôi qua nhìn kỹ lại thì phần lớn tập trung lại có cùng một quan điểm chung là viện trợ Mỹ – nhứt là về quân sự – dành cho miền Nam VN bị cắt giảm mạnh khiến cho quân đội VNCH không còn đủ xăng nhớt và đạn dược để chiến đấu. Nhứt là quyết định của Quốc Hội Mỹ ngăn chặn món tiền 700 triệu USD về viện trợ vũ khí với lý do là : “cho Việt Nam Cộng Hòa bao nhiêu cũng không đủ, vậy giữ lại để tiết kiệm ” (xem Nguồn 2). Chính tin tức về quyết định hoàn toàn bất lợi này đã khiến cho tinh thần của miền Nam VN xuống thấp và dẫn đến sự sụp đỗ bất ngờ. Quan điểm chung này được thấy trong các tài liệu được viết ra từ cấp lãnh đạo của 2 miền Nam & Bắc VN và Mỹ. Tiêu biểu điển hình: a) TT Nguyễn Văn Thiệu trong bài phỏng vấn duy nhứt sau 30.04.1975 do tuần báo thiên tả Der Spiegel (Phản ảnh) tại Tây Đức thực hiện vào tháng 12 năm 1979 (xem Phụ đính 3 phía dưới bài) b) Tướng Văn Tiến Dũng trong tác phẩm Đại Thắng Mùa Xuân cho biết Hà Nội thấy tình trạng thiếu quân viện cho Sài Gòn nên đã họp ra quyết định tiến đánh ngay, thay vì dự định sẽ đánh vào năm 1976 trong dịp bầu cử TT Mỹ như họ đã làm hồi năm 1968 (Tết Mậu Thân 68) và năm 1972 (Mùa Hè Lửa Đỏ 72) c) Tướng Westmoreland cũng đề cập quan điểm này trong hồi ký “War in Vain?” và lên tiếng xin lỗi quân dân miền Nam VN trong ngày Quân Lực 1987 (xem Nguồn 3) IV/ Âm mưu bí mật tạo ra biến cố lịch sử 30.04.1975 ?Nhưng – như phần trên đã trình bày – biến cố 30.04.1975 xảy ra rất bất ngờ và kinh nghiệm lịch sử từ ngàn năm qua đã chứng minh ắt phải được thực hiện qua âm mưu cực kỳ bí mật. Nhờ phương tiện truyền thông rộng rãi – nhứt là internet – đã dần dần cho thấy ai là tác giả của âm mưu bí mật này. Thực vậy qua trang web của tờ Huffingtonpost vào ngày 21/12/2008 đăng tải cho thấy chính Kissinger đã bày kế “độc” này cho Nixon hồi năm 1972 như sau: “Chúng ta phải tìm ra một phương thức nào đó để giải quyết mọi chuyện trong một hai năm, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ” (nguyên văn: “We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two,” Kissinger told Nixon. “After a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater.” (xem Nguồn 4)) Quả nhiên sau đó chừng một năm, Kissinger đã hoàn thành Hiệp định Paris 1973 và dùng mọi thủ đoạn kể cả hăm dọa ám sát bắt ép cấp lãnh đạo miền Nam VN phải ký kết. Kissinger còn biết rõ là miền Nam VN chỉ được viện trợ nhỏ giọt thì sẽ sụp đỗ liền. Trên trang web của tờ New York Times vào ngày 21.08.2001 đã đăng tải như sau: “Kissinger được John Ehrlichman (trợ lý của TT Nixon) hỏi rằng: “Ông có thể xác định được miền Nam VN có thể sống sót theo Hiệp định này trong bao lâu?”. Kissinger đã trả lời, “Tôi nghĩ rằng nếu họ may mắn, họ có thể nắm giữ trong một năm rưỡi.” Khi trợ lý của Kissinger là John Negroponte cho rằng Hiệp định không phải là lợi ích tốt nhất cho miền Nam Việt Nam, Kissinger hỏi ngược lại: “Anh có muốn chúng ta ở lại đó mãi mãi không?” (nguyên văn: Kissinger was asked by the assistant to the president, John Ehrlichman, “How long do you figure the South Vietnamese can survive under this agreement?” Ehrlichman reported that Kissinger answered, “I think that if they’re lucky they can hold out for a year and a half.” When Kissinger’s assistant John Negroponte opined that the agreement was not in the best interests of South Vietnam, Kissinger asked him, “Do you want us to stay there forever?” (xem Nguồn 5) Chứng cớ rõ ràng trên giấy trắng mực đen ai cũng đọc được – chớ không phải là thuyết âm mưu như thường được biện minh – cho thấy mưu kế này do Kissinger bày ra thuyết phục Nixon vào năm 1972 để thực hiện Hiệp định Paris 1973 nhằm “bức tử” miền Nam VN vào 30.04.1975 tiến hành đúng như thời gian đã dự trù nói trước. Tất cả những diễn tiến chung quanh từ vụ cúp viện trợ cho đến di tản cô nhi & vợ con các nhân vật cao cấp của miền Nam VN chỉ là kịch bản che mắt dư luận và nạn nhân miền Nam VN mà thôi. V/ Kissinger một mình thực hiện âm mưu “bức tử” miền Nam VN ?Có 2 ý kiến về nghi vấn này: 1) Ý kiến đầu tiên cho rằng Kissinger “đơn thân độc mã” làm chuyện này và với tư cách làm quân sư cho TT Nixon nên có đầy đủ quyền lực & phương tiện để hoàn thành âm mưu này. 2) Ý kiến thứ nhì cho rằng Kissinger người gốc Do Thái cho nên theo kinh nghiệm lịch sử 2000 năm qua họ có đặc tính luôn luôn làm việc chung chặt chẻ và đoàn kết với nhau. Đặc biệt là có Linh mục Cao Văn Luận, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Bác sĩ Đặng Vũ Ái … đã nêu ra nghi vấn có thế lực tài phiệt Wall Street (gốc Do Thái) đứng sau điều khiển Kissinger và dùng hệ thống truyền thông “dòng chính” quốc tế yểm trợ cho âm mưu “bức tử” miền Nam VN để Mỹ rảnh tay rút về yểm trợ & bảo vệ Do Thái tại Trung Đông. Sự kiện đáng chú ý là Quốc hội Mỹ (khuynh hướng thân Do Thái) đã cương quyết ngăn chặn 700 triệu USD viện trợ vũ khí cho miền Nam VN, nhưng sau biến cố 30.04.1975 lại tặng toàn bộ số tiền đó viện trợ cho Do Thái (xem Nguồn 2 và Phụ đính 1). Riêng về phía Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Vào năm 1982, Giáo sư Huy cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Nhờ đi tham dự Hòa đàm Paris (1968), Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhận xét rằng Kissinger có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Vào năm 2004, Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa (thành viên trong Phái đoàn Quân Sự Bốn Bên VN) minh chứng sự kiện này trong Hồi ký “Cuối đời binh nghiệp” khi nhắc lại lời của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nguyên văn như sau: ” …ngay lúc đó (cuối năm1969) Hoa Kỳ (hay đúng hơn là Kissinger) đã có quyết định bỏ rơi số phận của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa rồi, và coi như chúng ta đã mất nước kể từ khi chúng tôi bị đưa vào ngồi ở “bàn hội nghị ” ở Paris (1968)” (xem Nguồn 6) Ông bà mình thường nói đến sức mạnh ghê gớm của đồng tiền “Có tiền mua tiên cũng được”. Cho nên hiện tượng tài phiệt “nuôi dưỡng” tầng lớp trí thức phục vụ cho quyền lợi cho mình, thực ra đã có trên 2000 năm trước. Trong giai đoạn cuối thời Đông Châu Liệt Quốc ở Trung Hoa đã xuất hiện tầng lớp tài phiệt làm chuyện đó. Nổi tiếng nhứt với nhân vật Mạnh Thường Quân “nuôi dưỡng” tiếp đãi đến vài nghìn tân khách để đạt đến chức vụ Tể Tướng (xem Nguồn 7). Còn nhân vật Lã Bất Vi bỏ tiền đầu tư “nuôi dưỡng” vua Tần lúc còn long đong hàn vi để sau này trở thành nhân vật nắm quyền sanh sát của nước Tần (xem Nguồn 8) VI/ Tại sao thế lực tài phiệt Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam ?Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này. Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm “lá bùa hộ mạng”. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại nhiều lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa. Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực tài phiệt Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của họ. Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực tài phiệt Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một. VII/ Kế hoạch thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam VNKhởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975. Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng. Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ… bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan!) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ – đa số gốc Do Thái quản trị – khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác. Một nước cờ vô cùng hữu hiệu là họ dùng Tướng độc nhởn Moshe Dayan – Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái – đột ngột qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi VN vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!). Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines – South Vietnam 1966 Bắt đầu từ đó phong trào phản chiến càng ngày càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc cơ hội thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng đắc cử Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh quốc gia. Thế lực tài phiệt Wall Street còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (đưa người bạn thân Bob Haldeman vào làm chức vụ vô cùng quan trọng Chánh văn phòng Phủ Tổng Thống) … Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam. Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. VIII/ Thế lực gốc Do Thái thực sự như thế nào trong nước Mỹ ?Chúng ta chắc chắn không nắm vững vấn đề này bằng những người hoạt động trong chính trường Mỹ leo được lên tới chức vụ Tổng Thống . Điển hình là quan điểm của TT Nixon và TT Trump: 1) Tổng Thống Nixon trong cuốn ghi âm “lén” tại Tòa Bạch Ốc công bố vào năm 1999 – được đăng tải trên trang của tờ Washingtonpost vào ngày 6.10.1999 – đã nhận xét là thế lực gốc Do Thái có mặt khắp nơi trong chính quyền Hoa Kỳ, thủ đô Washington đầy nhân sự gốc Do Thái và cầm đầu các phong trào phản chiến VN (nguyên văn: Nixon complained “The Jews are all over the government, Washington is full of Jews (xem Nguồn 9) 2) Còn phía TT Trump đã làm một chuyện hi hữu chưa bao giờ ứng cử viên TT Mỹ nào dám làm. Đó là tố cáo thế lực tài phiệt gốc Do Thái đã hối lộ và tài trợ “ma giáo” cho ứng cử viên đối nghịch. Ông đã phổ biến hình ảnh tố cáo Bà Clinton tham nhũng nhận tiền của thế lực tài phiệt gốc Do Thái qua hình chụp trước đống tiền với ngôi sao David 6 góc của Do Thái: Description: VB-Trump-David Screen grab of Donald Trump’s tweet of an image of Hillary Clinton with the words “Most Corrupt Candidate Ever” on a Star of David-like form. July 2, 2016. Cho nên cho đến nay TT Trump là vị Tổng Thống đặc biệt nhứt của nước Mỹ luôn luôn bị giới truyền thông dòng chính tấn công dữ dội trên mọi chuyện, dù có làm đúng có lợi cho đất nước Mỹ đi nữa. Điều này liên tưởng đến trường hợp tương tự đã xảy ra cho miền Nam VN bị đánh phá khủng khiếp trên mặt trận truyền thông Mỹ vào giai đoạn từ năm 1966 – 1975. Bởi vậy dư luận cho rằng giới truyền thông dòng chính này phần lớn do nhân sự gốc Do Thái điều khiển (xem Nguồn 10). Dĩ nhiên còn nhiều tài liệu khác cho thấy thế lực tài phiệt gốc Do Thái có ảnh hưởng quan trọng đến chính trường Mỹ & Thế giới (xem Phụ đính 2) IX/ “Ngòi nổ” đã khiến cho biến cố lịch sử 30.04.1975 phải xảy raĐó chính là một sự kiện rất quan trọng đã khiến VNCH bị mất vào ngày 30.04.1975. Số là trong cuộc bầu cử quốc hội giữa kỳ vào ngày 5/11/1974, sau vụ xì cang đan Watergate (1972 – 1974) Đảng Dân Chủ Mỹ phản chiến đã thừa thắng chiếm đa số tuyệt đối trên 2/3 trong Quốc Hội Mỹ nên họ đã thẳng tay ngăn chận không cho viện trợ quân sự cho VNCH. Chính vì vậy quân đội VNCH không còn đầy đủ võ khí và mất tinh thần vì quyết định bỏ rơi nên mới xảy ra thảm trạng 30.04.1975. Xem: en.wikipedia.org/wiki/1974_United_States_electionsSự kiện lịch sử rất quan trọng này đã được Bác sĩ Đặng Văn Sung (cũng là Thượng nghị sĩ) sau chuyến công du Hoa Kỳ hồi đầu năm 1975 đã lên tiếng báo động đỏ khẩn cấp trên báo Chính Luận là “gió đã đổi chiều” rất nguy hiểm cho VNCH. X/ Kết luậnNhìn lại thấy có 2 điểm đáng chú ý vì có liên hệ chặt chẻ với nhau: 1) Như đã nêu trên chỉ có Kissinger mới biết rõ khi ký kết xong Hiệp định Paris 1973 thì miền Nam VN chỉ sống sót khoảng một năm rưỡi. Thế mà chỉ một năm sau đó Trung Cộng đã ra tay đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của VN và Mỹ đã yên lặng không hề can thiệp hoặc lên tiếng phản đối. Phải chăng Trung Cộng đã được Kissinger thông báo “ngầm” biết được thời hạn này để sau này khỏi phải gặp khó khăn khi Hà Nội chiếm được miền Nam VN ?. 2) Trung Cộng luôn lên tiếng xác nhận coi Kissinger như một người bạn thân. Bù lại lúc nào Kissinger cũng lên tiếng ủng hộ Trung Cộng. Điển hình nhứt là tại Đại Học Columbia University vào cuối tháng 9/2017, Kissinger phát biểu thúc giục hợp tác lớn với Trung Quốc và tiếp tục chính sách “One-China ” để chiều lòng Trung Cộng (xem Nguồn 11). Rõ ràng hơn hết là lúc Trung Cộng bối rối không hiểu rõ Tân Tổng Thống Trump như thế nào nên đã “triệu tập” Kissinger qua Bắc Kinh. Mặc dù già cả đã 93 tuổi và không giử chức vụ gì cũng như từng chống đối mạnh mẽ TT Trump trong lúc ra tranh cử, Kissinger vẫn bay qua đó vào ngày 2/12/2016 để gặp Tập Cận Bình “báo cáo” (xem Nguồn 12). blank Qua đó có nghi vấn cho rằng giữa Kissinger và Trung Cộng có mối liên hệ rất khác thường: Có thể Kissinger làm việc lobby “ngầm” vận động cho Trung Cộng hoặc là đại diện cho quyền lợi của giới tài phiệt gốc Do Thái làm ăn tại Trung Cộng ? (xem Nguồn 13). Biết đâu trong tương lai sẽ có thêm những tiết lộ mật rõ ràng hơn về vai trò của Kissinger và thế lực tài phiệt gốc Do Thái. Nhờ đó bí ẩn 30.04.1975 càng được soi sáng thêm. Trước nay đúng 10 năm, cũng trong quan niệm “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, anh chị em chúng tôi gồm 11 người tại Âu Châu & Bắc Mỹ gắng sức thực hiện một cuốn phim dài 100 phút nói về “Đại Họa Mất Nước” sau biến cố lịch sử 30.04.1975 khi thấy đất nước chúng ta càng ngày cùng bị láng giềng Trung Cộng thao túng cho người ào ạt vào khắp nơi tại VN với chiến lược “tầm ăn dâu”. Xem: Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi Tháng 4, 2020 ——– —- ——- Nguồn 1: vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0n_PhiNguồn 2: www.vietnamvanhien.org/SuTanDocCuaHenryKissinger.pdfNguồn 3: Westmoreland: On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.) www.vlink.com/nlvnch/vinhbiet_westmoreland.htmlNguồn 4: Kissinger nói với Nixon. “Sau một năm, thưa Tổng thống, Việt Nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng.” (“We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two,” Kissinger told Nixon. “After a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater.”) www.huffingtonpost.com/stanley-kutler/kissinger-unplugged_b_145278.htmlNguồn 5: “Kissinger được John Ehrlichman (trợ lý của TT Nixon) hỏi rằng: “Ông có thể xác định được miền Nam VN có thể sống sót theo Hiệp Ước này trong bao lâu?”. Kissinger đã trả lời, “Tôi nghĩ rằng nếu họ may mắn, họ có thể nắm giữ trong một năm rưỡi.” www.nytimes.com/2001/08/12/books/chapters/no-peace-no-honor-nixon-kissinger-and-betrayal-in-vietnam.htmlNguồn 6: Giáo sư Huy: ” …ngay lúc đó (cuối năm1969) Hoa Kỳ (hay đúng hơn là Kissinger) đã có quyết định bỏ rơi số phận của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa rồi, và coi như chúng ta đã mất nước kể từ khi chúng tôi bị đưa vào ngồi ở “bàn hội nghị ” ở Paris (1968)” nguyentin.tripod.com/dt_duonghieunghia.htmNguồn 7: Mạnh Thường Quân tiếp đãi đến vài nghìn tân khách vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1nh_Th%C6%B0%E1%BB%9Dng_qu%C3%A2nNguồn 8: vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A3_B%E1%BA%A5t_ViNguồn 9: TT Nixon: Thế lực gốc Do Thái có mặt khắp nơi và cầm đầu các phong trào phản chiến (Nixon complained “The Jews are all over the government, Washington is full of Jews”) www.washingtonpost.com/wp-srv/politics/daily/oct99/nixon6.htmNguồn 10: Nhân sự tài phiệt gốc Do Thái kiểm soát 75 % truyền thông Mỹ: thezog.wordpress.com/who-controls-big-media/Nguồn 11: Kissinger tiếp tục chính sách “One-China” để chiều lòng Trung Cộng www.scmp.com/news/china/policies-politics/article/2112957/kissinger-urges-us-boost-cooperation-beijing-massiveNguồn 12: Kissinger qua Trung Cộng để trấn an www.upi.com/Top_News/World-News/2016/12/02/Henry-Kissinger-visits-China-to-ease-concerns-amid-Trump-transition/3041480733459/Nguồn 13: Thế lực tài phiệt Mỹ gốc Do Thái cấu kết ma giáo với Trung Cộng: danlambaovn.blogspot.com/2016/07/co-khi-nao-nguoi-my-goc-do-thai-se-giup.htmlPhụ Đính 1: Gs Nguyễn Ngọc Huy & Linh Mục Cao văn Luận tiết lộ: Bí Ẩn 30.4.1975 www.vietnamvanhien.org/bian30041975.pdfPhụ Đính 2: Sức mạnh & thế lực gốc Do Thái www.ngo-quyen.org/a5296/mot-cai-nhin-moi-giao-su-nguyen-ngoc-huy-va-linh-muc-cao-van-luan-tiet-lo-bi-an-30-4-1975-phan-2-Phụ Đính 3: Phỏng vấn duy nhứt của TT Nguyễn Văn Thiệu sau 30.04.1975 www.flickr.com/photos/13476480@N07/25482287271Nguồn: vietbao.com/a303020/giai-ma-ly-do-then-chot-dan-den-30-04-1975-
|
|