|
Post by Can Tho on Apr 11, 2009 0:28:38 GMT 9
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Trả Lời Phỏng Vấn Của Spiegel 1979: Hòa Bình Của Nấm Mồ02/05/2015 Phạm Thị Hoài Cuối năm 1979, Cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, người ít khi lên tiếng từ khi sống lưu vong sau tháng Tư 1975, đã dành cho tạp chí Spiegel của Đức một cuộc phỏng vấn dài về kết cục của Chiến tranh Việt Nam. Bài sau đây đăng lại từ Báo Trẻ Online.
* TT Nguyễn Văn Thiệu. Spiegel: Thưa ông TT Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đã nỗ lực thương lượng hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn hồi ký của mình, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đã dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, đã chống lại những nỗ lực nhằm đem lại hòa bình cho một cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc chiến để "bóp nát trái tim Hoa Kỳ". Vì sao ông Tổng thống lại cản trở như vậy? TT Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở thì đã không có Hiệp định Hòa bình năm 1973 mặc dù, như ai cũng biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ rõ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi. Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một cường quốc như Hoa Kỳ thì việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có gì đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc. Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông Tổng thống cũng đồng ý. Nhưng ông ấy cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy vì ông TT cản trở nhiều, rằng ông TT đồng ý với các đề xuất của Mỹ chỉ vì ông TT chắc mẩm rằng đằng nào thì Hà Nội cũng sẽ bác bỏ. TT Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rõ rằng đối với người Mỹ đã đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ vì thế mà họ vội vã như vậy. Nhưng điều chúng tôi cần là một nền hòa bình lâu dài. Spiegel: Kissinger có ý cho rằng ông Tổng thống không thực sự muốn ký kết một thỏa thuận về hòa bình, đúng ra ông TT ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông TT. Kissinger viết rằng ông TT đồng ý với nhiều đề xuất từ phía Mỹ - trong tinh thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ vì trong thâm tâm ông TT không tin rằng hòa bình sẽ được ký kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông TT đã bịp, với hy vọng là sẽ không bao giờ phải ngửa bài lên? TT Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ thì có thể bỏ chạy. Nhưng chúng tôi thì phải ở lại Nam Việt Nam. blank Hình ảnh về TT Nguyễn Văn Thiệu. Chúng tôi có quyền chính đáng để đòi hỏi một hiệp định hòa bình toàn diện. Không phải là vài ba năm hòa bình, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh. Spiegel: Vậy tại sao ông Tổng thống lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger? TT Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đã không còn là điều bí mật. Cho phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đã loan khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. Vì sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả bóng thăm dò, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đã rồi. Spiegel: Tức là ông Tổng thống đã nắm được tình hình? TT Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rất rõ là bàn về việc rút những toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đã không hình dung sai điều gì và đã làm chủ tình thế. Không có gì phải lo lắng, và tôi đã rất vững tâm. Spiegel: Khi đề xuất Mỹ rút quân, ông Tổng thống có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một mình và cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó tin lắm. TT Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của Mỹ, vì Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ. Spiegel: Và ông TT không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ? TT Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đã hình dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã trình bày với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho phép tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng trên đôi chân của mình. Quan trọng hơn, tôi đã bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ý với tôi ở mọi điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả hai phía... Spiegel:... và mang tính tượng trưng? TT Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rõ rằng cuộc chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi cũng lưu ý rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn thì chúng tôi cũng không thể ngăn cản. Vậy thì đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lý hơn. Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn. Spiegel: Mỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà. TT Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một dân tộc rất kiêu hãnh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ, nhưng nhiệt huyết và tính mạng thì chúng tôi không thiếu. Spiegel: Ông TT đánh giá thế nào về tình thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: "Việt Nam hóa chiến tranh". Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc "phi Mỹ hóa" cuộc chiến. Cái khái niệm mới ấy đã thể hiện rõ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi, đúng không? TT Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài Gòn vào tháng Bảy 1969, ông Nixon đã nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc rút quân là một lịch trình mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo: "Hãy giúp chúng tôi giúp ông." Tôi đáp: "Tôi giúp ông giúp chúng tôi." Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng bước. Spiegel: Nhưng không đưa ra một lịch trình cụ thể? TT Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam. Spiegel: Ở thời điểm đó ông TT có nhận ra rằng nếu thấy cần thì Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân không? TT Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đã ngờ. Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi. Spiegel: Có lẽ ông TT tin thế là phải. Cuốn hồi ký của Kissinger cho thấy khá rõ rằng chính phủ Nixon không thể dễ dàng "đình chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc gia đồng minh và đã khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản chuyển sang một kênh TV khác." Rõ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút quân. Ông TT có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa Washington và Hà Nội không? TT Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chán ngấy chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ xâm lăng đã tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy. Spiegel: Ông TT đã oán trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền Nam. Ông TT khẳng định rằng mình chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong quá trình đàm phán, còn sau khi ký kết thì Hà Nội phải rút quân. Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này. TT Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đã chấp thuận như Kissinger nói thì lúc ông ấy cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của Bắc Việt, tôi đã chẳng phản đối quyết liệt như thế. Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đã tuyên bố rõ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó thì không có ký kết. Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta bảo: "Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được thì tôi đã làm rồi. Vấn đề này đã đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận." Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ đã nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của tôi. Spiegel: Có lẽ Liên Xô không thể làm khác, vì Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một thời gian dài họ còn phủ nhận việc họ đã đưa quân đội chính quy vào miền Nam. TT Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chiến đấu hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng nhìn ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh thì chúng ta phải nhìn vào hiện thực chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch. Spiegel: Ông TT có lập luận như thế với Kissinger không? TT Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: "Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định hòa bình với Liên Xô không?" Spiegel: Ông ấy trả lời sao? TT Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa. Spiegel: Nhưng Kissinger thì có câu trả lời trong hồi ký. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội rút quân, vì họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng "lực lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất." TT Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được gì từ những cuộc đàm phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao. Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, vì sao TS Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho mình là nhà thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ? Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là đã có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những gì Bắc Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi thì không. Vì thế mà tôi đã cương quyết đòi Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn hòa bình thì họ ở lại miền Nam làm gì? Spiegel: Vậy Kissinger nói sao? TT Nguyễn Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của họ. Spiegel: Kissinger viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đã đổi vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, còn Sài Gòn thì muốn đánh cho đến khi giành toàn thắng. TT Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa! Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã đem chiến tranh vào miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi mình là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi Bắc Việt giao nộp lãnh thổ. Tôi chưa bao giờ đòi có chân trong chính phủ ở Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng? Spiegel: Về vấn đề rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đã đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi ký, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông TT được thông báo trước, mà ông TT còn chấp thuận. TT Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đã thay đổi lập trường và tìm cách ép chúng tôi, với những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: "Hình ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!" Hoặc: "Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ." Vân vân. Họ áp dụng đúng những chiến thuật đã biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt tôi trước sự đã rồi. Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: "Ông ta đòi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ được trở về." Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện, mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: "Ông mà chống thì sẽ bị cắt viện trợ." Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới hình thức nào, phía Mỹ cũng hỏi ý kiến ông TT trước. TT Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ý kiến tôi, nhưng chắc chắn không phải là để nghe tôi nói "Không", nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó. Spiegel: Bây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971. Ông ấy viết rằng, ông TT đã đồng ý rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện trong mùa khô. Vậy ý tưởng đó ban đầu là của ai? TT Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng có ý định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một mình. Đến khi phía Mỹ đề xuất thì chúng tôi sẵn sàng đồng ý, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rõ ràng: Chúng tôi tác chiến tại Lào, còn phía Mỹ thì hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới. Spiegel: Vì sao? Vì Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào? TT Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng vì chúng tôi không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực thăng. Không có họ thì không đời nào chúng tôi đồng ý thực hiện chiến dịch tại Lào. Spiegel: Kissinger viết rằng quân của ông TT gặp khó khăn khi yêu cầu không quân hỗ trợ, vì gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh. TT Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề gì với việc hỗ trợ của không quân. Đôi khi không có thì chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đã mất rất nhiều phi công trực thăng. Vì thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam. Spiegel: Tinh thần binh lính bị suy sụp? TT Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị ảnh hưởng. Spiegel: Kissinger nêu ra một lý do khác. Rằng ông TT đã lệnh cho các sĩ quan chỉ huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó thì không đời nào họ đồng ý tham gia chiến dịch này. TT Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất về quân số là điều phi lý. Nếu TS Kissinger nói thế thì ông ấy thật giàu trí tưởng tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đã rút quân mà không báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay biết gì? Spiegel: Tức là ông TT đã thông báo cho họ? TT Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức hình một người lính Nam Việt Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: "Nhát như cáy". Tôi chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong chiến dịch này. Spiegel: Một điểm gây rất nhiều tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi ký của Kissinger thì ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ đã thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông TT không chỉ chấp thuận mà còn ủng hộ đề xuất này. TT Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định hòa bình. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm thì hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân. Spiegel: Kissinger viết: "Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và TT Thiệu cùng đồng hành hợp tác." Phía Mỹ đã không hiểu rằng ông TT đem những "chiến thuật né tránh" mà "người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc" ra dùng. TT Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép mình dùng những thủ đoạn nào đó. Spiegel: Khi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông TT phải thấy là ông TT đã thua trong cuộc chiến này? TT Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở. Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định. Spiegel: Mặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào. TT Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính. Spiegel: Về điều này thì ông TT và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không? TT Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt. Spiegel: Nếu Hoa Kỳ giữ lời thì theo ông TT, hiệp định hoàn toàn có thể thành công? TT Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy. Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi? TT Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi đã ký kết, vì chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi đã nói, mà hiệp định đó còn được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo. Spiegel: Trong cuốn hồi ký, TS Kissinger có những bình luận rát mặt về khá nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông TT thì bị ông ấy dành cho những lời hạ nhục nhất. Tuy đánh giá cao "trí tuệ", "sự can đảm", "nền tảng văn hóa" của ông TT, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào "thái độ vô liêm sỉ", "xấc xược", "tính vị kỷ chà đạp" và "chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng" trong cách ứng xử với người Mỹ của ông TT. Vì thế, cuối cùng Kissinger nhận ra "sự phẫn nộ bất lực mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực". Ý kiến của ông TT về những khắc họa đó thế nào? TT Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn nhận xét gì về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn nói về những điều đã xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn. Spiegel: Hay ông TT đã làm gì khiến ông ấy ( Kissinger)có cái cớ để viết về ông TT với giọng coi thường như thế? TT Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đã ngạc nhiên vì gặp những người quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với ông ta lại địch được một người tự coi mình là vô cùng quan trọng. Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, vì thật chẳng bao giờ tôi có thể hình dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi, gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao. Spiegel: Như trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi trên một chiếc ghế cao để có thể nhìn xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn. TT Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc phòng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đã rất bất ngờ vì Tổng thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn vậy. Spiegel: Trong hồi ký, Kissinger phàn nàn là đã bị cá nhân ông TT đối xử rất tệ; ông TT bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon còn quá lời hơn. Theo Kissinger thì Nixon đã gọi ông TT là "đồ chó đẻ" (son of a pregnant dog) mà Nixon sẽ dạy cho biết "thế nào là tàn bạo". TT Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép mình đáp lại những lời khiếm nhã, thô tục đó của Nixon, vì tôi xuất thân từ một gia đình có nề nếp. Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker thì đơn giản chỉ vì chúng tôi chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đã cần đến 4 năm, vậy vì sao lại bắt tôi trả lời ngay lập tức trong vòng một tiếng đồng hồ? Có lẽ họ sẽ hài lòng, nếu chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ, và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ý kiến Quốc hội. Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông TT với ông ấy ( Kissinger )chủ yếu xuất phát từ "lòng oán hận độc địa". TT Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là đã có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần yêu nước của tôi. Spiegel: Kissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn "thông cảm với hoàn cảnh bất khả kháng" của ông TT. Ông TT có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không? TT Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ. Spiegel: Kissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông TT chiến đấu "theo kiểu Việt Nam: gián tiếp, đi đường vòng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn là làm sáng tỏ vấn đề", rằng ông TT "chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng vào trọng tâm câu chuyện". TT Nguyễn Văn Thiệu: Hãy thử đặt mình vào tình thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đã chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đã thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật nhưng chỉ về những gì mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đã tin tưởng rằng đồng minh của mình sẽ không bao giờ lừa mình, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng đất nước tôi. Các ông có hình dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một. Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị gì khác thì Kissinger phải trở lại hội ý với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy. Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi trình ra cho tôi bằng tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định hòa bình sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết bằng ngôn ngữ của chúng tôi không? Spiegel: Nhưng cuối cùng ông TT cũng có bản tiếng Việt? TT Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đòi bản tiếng Việt, đòi bằng được. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đã soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh mà như thế thì có chân thành và trung thực không? Spiegel: Một số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Kissinger bác bỏ quan niệm đó. Ý kiến của ông TT thì thế nào? TT Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam. Spiegel: Nhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải như vậy. TT Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm cách ép chúng tôi phải đồng ý. Để họ có thể hãnh diện là đã thoát ra được bằng một "thỏa thuận danh dự". Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: "Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ." Và ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng: "Chúng tôi đã đạt được hòa bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự." Spiegel: Kissinger viết như sau: "Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh." TT Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nhìn miền Nam Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông Dương hiện nay thì biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định hòa bình, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng vai, mà thực tế là đã biện hộ cho ác quỷ. Spiegel: Có bao giờ ông TT thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger viết rằng: "Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt." TT Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy còn tỏ ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ còn sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ. Spiegel: Cá nhân ông TT có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không? TT Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với Hà Nội thì miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc là đã không như vậy. Nhìn vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy đã đạt được. Đó là hòa bình của nấm mồ. Spiegel: Xin cảm ơn ông TT Thiệu đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này. (Nguồn: "Die Amerikaner haben uns verraten", tạp chí Spiegel số 50/1979. Những người thực hiện: Engel, Johannes K., Lohfeldt, Heinz P.) Ben Thang CuocĐất nước & Con người 01-04-2009 30 tháng Tư: nhìn từ một góc độ khác Lê Văn Lời dẫn ‒ Bài viết dưới đây đã được đăng trên Đàn Chim Việt - Online vào đầu tháng 5, 2007. Sau đó khoảng hai tuần, một “sự cố” kỹ thuật xảy ra , tiêu hủy mấy tháng bài vở và ý kiến mới nhất của trang nhà DCV. Ban Kỹ Thuật cần nhiều ngày mới tái thiết được hầu hết bài vở mất mát, nhưng một vài bài đã “ra đi không hẹn ngày về”, trong số đó có bài “30 tháng Tư: nhìn từ góc độ khác” của tôi. Mới đây, nhân đọc lại bài viết này, tôi nhận ra rằng những vấn đề đặt ra trong đó sau 2 năm vẫn còn y nguyên hay có khi còn tệ hại hơn! Tôi nẩy ra ý nghĩ nhờ DCVOnline cho đăng lại. Biết đâu nó chẳng là tấm gương giúp mọi người suy ngẫm xem trong thời gian hai năm qua mỗi người trong chúng ta đã làm được gì cho dân tộc và đất nước? Bài viết được nguyên như cũ, trừ việc sửa một số lỗi typo, viết lại một số câu tối nghĩa, cắt bỏ vài câu thừa thãi hay mất thời gian tính. Đặc biệt, tôi có giữ lại được hầu hết những ý kiến dưới bài, và xin trích lại một số ý kiến tôi cho là đặc biệt hoặc tiêu biểu. Lại 30 tháng Tư… Chuyện 30 tháng Tư của tôi hơi khác những chuyện mọi người thường nghe, vì là chuyện ở nước ngoài! Tôi cũng chưa kể bao giờ, vì không có cơ hội, mà cũng chẳng nghĩ có ai muốn nghe (“Cha nội ở ngoại quốc sướng thấy bà nội, đâu có phải chạy trối chết như anh em tụi tôi...!!!”). Dầu sao đây cũng là một ‘premier’ – buổi trình diễn đầu tiên – dành riêng cho độc giả Đàn Chim Việt. Tây Đức – Đêm 29/04/1975 – Nghe phong phanh có trực tiếp truyền hình từ Sài Gòn đêm hôm nay, tức là sáng ngày 30 tháng Tư ở Việt Nam (giờ Đức sau Việt Nam – miền Nam – 5 tiếng). Tôi tin mấy ông ký giả Đức “đánh hơi” giỏi nên quyết định thức đêm để theo dõi. Điều dự đoán đã xảy ra ... 5-6 giờ sáng chương trình thời sự đặc biệt trên TV chấm dứt. Ở Việt Nam đã là 10-11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư, 1975. Bây giờ mọi người có thể đi ngủ (lu) bù. Chắc chắn còn lâu lắm mới có một chương trình truyền hình trực tiếp từ Việt Nam trở lại! Sáng 30/4/1975 – Trong lòng hoàn toàn trống rỗng, trong túi còn ít tiền, tôi không muốn leo lên phòng đi ngủ – phòng TV cho cư xá nằm ở dưới hầm. Quyết định ra phố ngồi uống cà phê, hy vọng qua được một buổi sáng. Bấy giờ là mùa xuân, 6 giờ trời đã sáng trưng. Ngày 30 tháng Tư năm 1975 là một ngày nắng tuyệt đẹp, sau những ngày Đông dài lạnh lẽo, khắc nghiệt. Tôi chọn bàn kê sát vỉa hè để nhìn thiên hạ đi qua đi lại… Cafe ngoài đường (Heidelberg, Đức) Nguồn: community.iexplore.com -------------------------------------------------------------------------------- Trưa 30/04/1975 – Ngồi chầy ở quán cà-phê cũng không được, tôi lội bộ trở về cư xá. Vào giờ này thì trẻ già lớn bé, người Đức hay Việt thì cũng phải biết tin Sài Gòn thất thủ rồi. Vừa vào trong nhà gặp một thằng Đức cao nghều, râu quai nón, nhưng mặt mũi còn non choẹt, tay ôm một cuộn vải to, vừa chạy lên cầu thang vừa la: chiến thằng ... hòa bình ... Tôi chạy theo xem nó làm trò gì. Lên tới sân thượng nó bung mớ vải ra, đó là lá cờ xanh đỏ ở giữa có ngôi sao vàng. Cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, người Đức còn gọi là cờ Việt cộng. Nó định treo lên nóc cư xá để tỏ tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam. Để tỏ ra là người văn minh không kém, tôi hỏi han nó vài câu và cám ơn nó đã là người bạn của một dân tộc đau khổ ... Nhìn xuống phía dưói sân, tôi bất chợt thấy một tên bạn, gốc Huế, đang đứng chết trân nhìn lên. Hết nhìn ngọn cờ xa lạ bay phất phới, hắn ta lại nhìn tôi, có vẻ không hiểu chuyện gì ... Rồi đột nhiên hắn ngoẳng mặt, đi như chạy. Không hiểu sao tôi nghĩ hắn chạy đi vì bắt đầu khóc. Ít lâu sau gặp lại, hỏi thăm thì hóa ra lúc đó hắn khóc thật. Không phải vì sung sướng! Trả lời bạn Đông A Bạn Đông A hỏi, sau 32 năm người Đức nghĩ gì về Việt Nam, có còn quan niệm 30 tháng 4 là ngày “chiến thăng và hoà bình” cho dân tộc Việt Nam nữa không? Suy nghĩ của người Đức “bây giờ” về Việt Nam nói chung thi tôi thì tôi không dám nói, nhưng quan điểm ‘chiến thắng – hòa bình’ thì sau 30 tháng Tư 1975 không lâu thì biến mất hẳn. Nhờ vào thông tin dồi dào, và thói quen suy tư độc lập người Đức, hay người Tây Phưong nói chung, không ‘ngu lâu’. Ngay cả những người Đức trẻ, tương đối ngốc nghếch, dễ bị lừa cũng mau chóng nhìn ra sự thật... Còn những người Đức lớn tuổi, bản thân cũng đã có “kinh nghiệm cộng sản” thì không dễ bị loé mắt. Nói tóm lại, chừng một năm sau là dư luận nói chung thay đổi chiều khoảng 180 độ rồi. Không ít nhờ vào hình ảnh những người di tản. “Thuyền nhân” lúc đó cũng đã có nhưng chưa nhiều. Xê ra cho nhà nước làm việc … Khoảng một năm sau, thủ tướng Hà Nội, Phạm Văn Đồng, đi Âu Châu để “đòi” tiền mà, trước khi Hiệp định Ba Lê (Paris – DCV)được ký, nhiều quốc gia Tây Âu đã hứa cho miền Bắc để tái thiết nếu Hà Nội chấm dứt gây hấn, mấy năm về trước. (Chắc mọi người còn nhớ là không có nước nào cho phài đoàn Hà Nội một xu, ngoại trừ một vài nước Bắc Âu như Thụy Điển hứa tặng ít viện trợ nhân đạo, nhưng không đáng kể). Sau lần đó, Giang Thanh – quả phụ Mao – nhạo báng Hà Nội là “chỉ giỏi ngửa tay đi xin”… Thế “môi hở răng lạnh” giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang vào thời kì thức nhối, sẽ còn lên đên tột đỉnh vài năm sau, 1979. Lãnh đạo đối lâp Đức lúc đó là Franz Joseph Strauss, nổi tiếng là bạo mồm đã tuyên bố thẳng thừng tại Bundestag – Quốc hội Đức – là số tiền đó thà để lo cho người tỵ nạn cộng sản hơn là cho bọn “lừa đảo”. Và chính phủ Đức đã áp dụng điều này làm chính sách chung đối với Việt Nam nhiều năm sau đó. Kinh nghiệm chính trị chỉ đến từ lịch sử… Với hai kinh nghiệm đau thương, còn rớm máu, về các thứ chủ nghĩa – chủ nghĩa Quốc Xã Hitler và chủ nghĩa cộng sản – đã làm tan hoang cả quốc gia và chém đôi lãnh thổ và dân tộc, người Đức không giáo điều nữa. Những người lãnh đạo Tây Đức chú trọng vào khía cạnh nhân đạo của mọi vấn đề, đồng thời uyển chuyển về mặt ngoại giao. Vì thế, dù là hoàn toàn lệ thuộc vào khối NATO, do người Mỹ điều khiển, chính quyền Tây Đức vẫn có một chính sách ngoại giao riêng, đặt quyền lợi quốc gia và dân tộc trên hết. Nhờ thế mà họ đã thống nhất được đất nước, mà không đổ một giọt máu. Cái khôn ngoan của người giữ trách nhiệm cả một nước trong tay là ở chỗ đó. Vấn đề Việt Nam không bao giờ dứt – 15 năm sau! Để làm rõ nhận định trên về trách nhiệm của lãnh đạo quốc gia, tôi xin đơn cử một chuyện có thật, liên quan đến người Việt ở Đức. Đại học Dusseldorf Nguồn: mattw.de -------------------------------------------------------------------------------- Năm 1990, 15 năm sau 1975, bức tường Bá Linh (Berlin – DCV) vừa sụp đổ, nước Đức đang trên đường thống nhất. Nhưng “vấn đề Việt Nam” lại quay trở lại với nước Đức, vì trên 60.000 người Việt còn ở Đông Đức. Không ai trong số đó chịu về nước, cho dù hợp đồng lao động còn hiệu lực hay đã chấm dứt, hoặc xí nghiệp mà họ công tác đã đóng cửa. Họ tìm cách ở lại bằng cách này hay cách khác, kể cả và thường thường là xin “tị nạn chính trị”. Tất cả đều được trợ cấp thất nghiệp. Cứ tính chung chung mỗi đầu người là 500 đức mã (1) một tháng, thì tiền trợ cấp sinh sống cho thành phần này không thôi cũng ít nhất là 30 triệu mỗi tháng hay 360 triệu đức mã mỗi năm. Số tiền khá lớn, mà chẳng giải quyết đuợc vấn đề gì cả. Đuổi họ về cũng khó, vì ở Đức làm gì cũng cần phải qua cửa ải luật pháp. Đa số xin tị nạn để được ở lại, cho dù đơn bị bác, mỗi “ca” cũng kéo dài ít nhất 3 năm. Trong thời gian chờ đợi quyến định của tòa án, dĩ nhiên chính phủ Đức vẫn phải trợ cấp theo luật định, chưa kể tốn kém gây ra bởi việc kiện tụng. Chính phủ Đức đã nghĩ ra một giải pháp khá hoàn hảo, có lợi cho nhà nước đôi bên, và nhất là cho 60.000 người Việt lao động ở Đông Đức trước. Kế hoạch này gồm có việc dạy nghề “chính quy” cho tất cả 60.000 công nhân Việt ở Đông Đức cũ (thường không có nghề nghiệp chuyên môn). Mỗi khoá huấn nghệ là ba năm. Sau khi tốt nghiệp phải về nước, nhưng sẽ nhận một số tiền làm vốn, có thể bắt đầu một cuộc đời mới ở quê hương, vừa bảo đảm đời sống cho mình, vừa có lợi cho quốc gia. Một phái đoàn do thứ trưởng bộ Viện trợ Phát triển, Tây Đức, cầm đầu lên đường sang Hà Nội để thương thuyết về kế hoạch đó. Tôi nhớ lúc đó là tháng 12 năm 1990. Nhưng kết quả là Hà Nội từ chối thẳng thừng và phái đoàn Đức đã về tay không. Nói chung, trước sau thái độ của chính quyền Hà Nội không nhận “trách nhiệm” về những người Việt lao động vốn đi từ miền Bắc, do chính nhà nước gửi đi lao động nước ngoài, đã từng nộp tiền “mãi lộ” và tiếp tục đóng thuế ngày nào còn đi làm và lãnh lương... Lý do nào, suy nghĩ gì mà Hà Nội đã từ chối kế hoạch đó? Có thể, một đàng thì họ chẳng thấy được lợi lộc gì cho cá nhân họ, vì chắc chắn một phái đoàn quốc gia Đức sẽ không bao giờ quị lụy, đút lói gì cho quan chức Hà Nội. Đàng khác, nhà nước Việt Nam có thể nhìn ra việc 60.000 thanh niên được huấn luyện ở Tây Đức về, có tay nghề cao và vốn liếng trong tay (tôi nhớ là số tiền chính phủ Đức hứa tặng cho các công nhân Việt ở Đông Đức về nước làm vốn lên đến 10,000 đức mã mỗi người) rất dễ trở thành một lực lượng chuyển đổi chế độ. Một thứ “ngựa thành Troy” ngay trong lòng chế độ! Mèo vẫn hoàn mèo… Chỉ một câu chuyện tầm thường đó đã cho thấy sự khác biệt giữa một nhà nước độc đoán, lạc hậu như ở Việt Nam hiện nay, và một chế độ dân chủ tân tiến như ở Đức. Nó đủ giải thích được toàn bộ vấn đề tại sao một bên tiến bộ, giàu sang, hạnh phúc và ta thì vẫn lẹt đẹt, nghèo đói như vậy. Giỏi dang như chính phủ Đức mà còn gặp bao nhiêu thử thách, khó khăn. Còn nhà nước ta lại ích kỷ, giáo điều, độc đoán, chỉ nghĩ đến cái lợi của môt nhóm người vốn đã giàu có vô hạn, nhưng vẫn còn muốn vơ vét thêm nữa cho đầy túi tham không đáy thì tương lai của Việt Nam sẽ như thế nào? Hiểm họa diệt vong Hiểm họa mất nước về Trung Cộng là một điều có thật. Và đang xảy ra. Ngay bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy vô vàn những dấu hiệu của sự lệ thuộc vào “Bắc Triều”, không thể chối cãi. Trước hết là chuyện mất đất, mất biển mà chúng ta đã kêu gào thảm thiết nhiều năm nay, và Hà Nội vẫn chối biến! Kinh tế nói chung, thì hơn nửa số hàng nhập cảng đang đến từ Trung Quốc. Hàng xuất khẩu thì ta không cạnh tranh nổi với Trung Quốc. Cho nên, có gia nhập WTO thì cũng thế thôi, vì không cạnh tranh nổi với TQ hay các nước Đông Nam Á. Những hàng mà ta xuất cảng mạnh là những thứ độc quyền “tự nhiên”, như thóc gạo, cà-phê v.v... Và nhất là dầu thô, thứ mà cả thế giới lúc nào cần, ngày càng hiếm, nhưng một ngày nó cũng sẽ hết. Tóm lại, TQ không cần phải xâm chiếm Việt Nam, mà chỉ cần biến Việt Nam thành một thứ Châu Phi, hoàn toàn lệ thuộc vào họ về kinh tế là đủ rồi. Trung Quốc sẽ – và đang – là chủ, người Viêt là nô lệ, hàng năm triều cống món ngon vật lạ và... gái đẹp! Một ngàn năm nô lệ dễ gì quên được? Giải pháp nào cho tương lai? Chúng ta có một giải pháp nào không? Dĩ nhiên là có, nếu người dân Việt còn muốn giữ đất nước cho mình, hay cho đến khi nào mà ta mất nước hẳn (10, 20 năm nữa?). Giải pháp nào đi nữa đều phải dựa trên căn bản dân chủ. Thứ nhất, người dân phải nắm chủ quyền thật sự. Thứ hai, là người Việt trong và ngoài nước phải nắm tay nhau cùng biến đổi tình huống hiện nay. Người Việt ngoài nước có sẵn kiến thức, hiểu biết chuyên môn cao, và cũng có ít nhiều vốn liếng. (Tổng sản lượng của hơn ba triệu người Việt hải ngoại tương đương với tổng sản lượng của quốc gia Việt Nam là điều có thật!) Trong nước có nhân lực và ý chí phấn đấu vẫn còn. Nếu thực hiện được điều này chuyện này thì chỉ cần 5, 10 năm là chuyển đổi được tình thế, thoát khỏi nguy cơ diệt vong, và 20, 30 năm đất nưóc sẽ trở thành một quốc gia vững chãi, dân tộc hạnh phúc, người Việt lại có quyền tự hào về đất nước, dân tộc mình. Tại sao … không? Giản dị như thế, nhưng rất khó xảy ra, bởi những “vật cản” mà ai cũng biết. Vật cản rõ ràng và lớn nhất dĩ nhiên là nhà nước CSVN… Nhưng vật cản nằm bên trong chính mình sẽ khó nhận ra hơn nhiều. Cộng đồng người Việt hải ngoại vẫn chưa chịu nhìn về tương lai cho cả nước. Vẫn còn những vấn nạn nhì nhằng, cục bộ, hướng nội và hướng về quá khứ. Chăm lo cho bản thân gia đình, nhiều lắm là cộng đồng nơi mình đang ở, hơn là tổng thể tương lai của Việt Nam. Ở trong nước, xã hội đã biến thành một quán nhậu khổng lồ. Ai khôn thì mở quán nhậu, chẳng mấy chốc là giàu có, tậu nhà tậu xe hơi, dư thừa hơn nữa thì đi du lịch Thái Lan, hay tận Paris, Cali … Dĩ nhiên, nói thì dễ, làm mới khó… Nhưng khó không phải vì không có phương tiện, hay thiếu khả năng, mà vì… chưa muốn làm (“… chưa muốn làm vì chưa thích làm…”, như ngài giám đốc hãng Hàng Không Việt Nam có lần tâm sự với nhà báo…)! Hãy lấy một thí dụ cụ thể. Cô Lê Thị Công Nhân đang bị bắt giam, chờ ngày xét xử, mà kết quả ai cũng biết trước là… tù ít nhất 5 năm, nhiều là 8 năm. Ra tù cô sẽ trên 30 tuổi, có khi gần 40, kể là đã già! Trước khi bị bắt cô đã có lời kêu gọi đồng bào hải ngoại hãy làm cái gì để chặn đứng làn sóng đàn áp đang diễn ra trong nước. Cụ thể, cộng đồng hải ngoại có thể tạm ngưng về thăm Việt Nam trong một thời gian vô hạn định. Giản dị có thế. Ai có nhu cầu giải tri, có thể tạm thời đi một nơi nào khác, vừa đổi khung cảnh vừa mở mang tầm nhìn. Ai nhớ thân nhân thì có Internet, có thể trò chuyện mỗi ngày, gửi hình về v.v... 4 tỉ USD năm 2006 Nguồn: vneconomy.com.vn -------------------------------------------------------------------------------- Thử tưởng tượng một tháng, và chỉ một tháng thôi, không có “Việt Kiều” về “thăm nhà”, chính quyền Hà Nội sẽ “lên ruột” như thế nào? Hàng họ của người dân sẽ ế ẩm, các quán nhậu cũng mất hào hứng… Từ đó, áp lực từ người dân lên chính phủ sẽ dâng cao từng ngày. Chẳng mấy chốc Lê Thi Công Nhân, Nguyễn Văn Đài.. và cả linh mục Lý sẽ đưọc trả tự do… Bảo đảm có kết quả, chắc chắn hơn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ! Tương lai ở đâu? Người Việt chắc ai cũng biết câu châm ngôn “Tương lai ở trong tay ta”. Không những thế còn biết nó đúng đến một trăm phần trăm. Nhưng nếu có ai áp dụng thì cũng chỉ giới hạn, cho cá nhân mình. Trong khi ý nghĩa của nó thật ra vượt khỏi tầm mức cá nhân, đến cả bình diện quốc gia: không ai có thể làm gì cho đất nước mình ngoài chính mình. Muốn là làm được. Và có trăm ngàn cách để làm. Ngược lại, chờ đợi thời cơ, “lãnh tụ anh minh”, Quang Trung giáng thế, Nguyễn Trãi đầu thai… chúng ta vẫn có thể chờ đến Tết… Công-gô… hay nói một cách thân tình hơn: chờ đến ngày 30 tháng Tư năm sau! Trong ý nghĩa đó, tôi xin hẹn gặp lại mọi người ngày này năm sau, cũng trên diễn đàn Đàn Chim Việt mến yêu. Chúng ta sẽ cùng nhau “ăn mừng” ngày 30 tháng Tư thêm một lần nữa. Trich DanChimVietOnline
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 11, 2009 0:36:31 GMT 9
Bạn Đọc Viết 04-04-2009 Tôi không khóc cho tháng Tư Đen nữamythanh 1975 Nguồn: coldtype.net -------------------------------------------------------------------------------- Tháng Tư Đen lại tới. Chúng ta đã được nghe những lời kêu gọi “Không về Việt Nam, không gửi tiền vào tháng Tư”, nghị quyết tưởng niệm Tháng Tư Đen... Tôi thường bận rộn và tránh hồi tưởng lại những ký ức mất mát này quá sớm, nhưng dù tránh thế nào, nhất định là đến đúng ngày đó những hồi ức về sự sụp đổ, mất mát của miền Nam sẽ sống lại trong tôi, trở thành những vết cắt sắc bén nhất. Nhưng năm nay, tôi nghĩ tôi không nên “buông thả” để mặc tình cảm của mình theo dòng tự nhiên nữa. Khoảng thời gian này, 34 năm về trước, Sài Gòn đang đã sôi động hơn nhịp điệu bình thường của nó. Tin tức từ chiến trường dồn dập những tin xấu; những từ ngữ như “triệt thoái khỏi cao nguyên, di tản, mất Ban Mê Thuật, thất thủ, rút quân, tử thủ, ect...” trở thành những ám ảnh. Nhưng trong một chiều hướng nào đó cũng vẫn có những người Sài Gòn vô tư hay ngây ngô như tôi thường lắng nghe những lời bàn lạc quan “Không lo đâu, Tết Mậu Thân ‘tụi nó’ vào đến tận Sài Gòn mà cũng đâu chiếm được...” Cũng có một số không nhỏ dân chúng bắt đầu lo tìm đường ra khỏi nước, lo bán nhà cửa cơ ngơi, thu vén của cải, chuẩn bị cho một cuộc chạy thoát cộng sản lần thứ hai. Tôi còn nhớ những lời phát thanh từ radio, truyền hình, kêu gọi đồng bào đừng hoảng loạn. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Người quốc gia không thấy ăn tìm đến, thấy biến tìm đi, etc... Dù còn nhỏ tôi cũng cảm thấy rất đồng tình với những lời kêu gọi này. Tôi lại nhớ được cả buổi tối xem truyền hình, Tổng thống Thiệu lên đọc bài diễn văn từ chức, đến giờ tôi nhớ rõ nhất những lời cuối của ông “nắm xương tàn của tôi sẽ nằm bên cạnh nắm xương tàn của các anh em chiến sĩ...” Ông Thiệu đã không giữ lời, nhưng có hề chi, đã có những Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vĩ, Nguyễn Văn Long (xin lỗi các vị anh hùng tuẫn tiết, tôi đã không kể tên ra hết được ở đây) im lặng làm chuyện này. Họ đã chọn nằm lại cùng các chiến sĩ vị quốc vong thân. Đó là những anh hồn của Việt Nam Cộng hòa, những hồn thiêng sông núi chỉ chứng cho lý tưởng tự do, cho chính nghĩa của miền Nam mãi mãi trường tồn. Những người lính VNCH sẽ được ngậm cười nơi suối vàng với các vị chỉ huy của mình. Chúng tôi, những con dân của miền Nam cũng luôn được hào hãnh về cha anh của mình dù trong bại trận và nước mắt. Tôi nhớ đến cảnh đứng với người nhà trên lầu ba của một building trên đường Hiền Vương vào trưa ngày 30 tháng Tư, sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh, nhìn những đoàn xe tăng của VC chầm chậm chạy qua dưới con đường trước mặt. Cảm giác trẻ con của tôi là “chúng” mặc đồ như những “giúm mắm tôm”, không oai hùng như những “ông lính” VNCH của tôi. Tôi nhớ trưa ngày 1 tháng 5, trở về nhà sau những ngày “chạy loạn”, thấy xác một ông lính nhảy dù ngay trước sân ngôi nhà mặt tiền đầu ngõ. Cuộc đổi đời đã bắt đầu. Con tem đóng dấu trong trí óc chưa trưởng thành của tôi về cuộc đổi đời chính là xác người lính nhảy dù chết vô thừa nhận, được che đắp sơ sài, để lộ một chân mang chiếc giầy trận với đàn ruồi bu kín. Ngày tàn của một chính nghĩa, ngày đó dù chưa lớn đủ, tôi đã cảm được sự bàng hoàng, hụt hẫng như đứng trước một lầu đài sụp đổ. Nhưng có lẽ không ai biết rằng cơn ác mộng của dân tộc có thể kéo dài đến như vậy. Hiện tại, 34 năm đã trôi qua. Ngày đó nếu có một nửa nước và một thiểu số nào đó của miền Nam mơ tưởng đến viễn ảnh huy hoàng của nền hoà bình trước mặt, thì đến giờ phút này hẳn họ đã sáng mắt, nếu họ đang không cố tình tự bịt mắt. Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào tay một băng đảng mafia. Đó là những tên ma cô, mới đây đã chính thức danh chánh ngôn thuận, lập hội Tú Ông, gả bán phụ nữ Việt Nam cho ngoại nhân. Họ cũng đường hoàng rước voi về dầy mả tổ, cho hàng ngàn quân Trung Cộng vào Trung Nguyên để khai thác Bauxite. Trong bao năm chúng vì lợi nhuận cấu kết với tư bản nước ngoài dùng đất nước làm nơi chứa chất phế thải, giết chết môi trường sống của dân mình qua việc để bao nhiêu con sông chết vì chất thải công nghiệp. Họ thậm thụt cắt đất nhượng biển cho đàn anh Trung Cộng để được bảo kê địa vị. Họ phản lại nhân dân, bịt miệng, khủng bố, giam cầm và thậm chí thủ tiêu những ngời con ưu tú lên tiếng đòi hỏi quyền lợi cho đất nước, bóp nghẹt lòng yêu nước của sinh viên. Những tội ác này nhiều có kém chi lời của bài Bình Ngô Đại Cáo năm xưa: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội. Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.” Ôi, Việt Nam mến yêu! Việt Nam với bản tình ca tha thiết Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, lời mẹ ru những câu xa vời... với truyền thuyết con Hồng cháu Lạc, với tiếng trống Diên Hồng, với hào hãnh ba lần thắng quân Mông Cổ. Tôi sẽ không dành tháng Tư Đen để tưởng niệm, để khóc thầm như những tháng Tư trước nữa. Không gửi tiền về Việt Nam, không về Việt Nam ư? Còn hơn thế nữa! Hãy bàn thảo, hãy trích một phần tiền đặc biệt vào tháng Tư để làm một chuyện gì cho Việt Nam. Đó là hy sinh tối thiểu của người Việt hải ngoại. Người viết xin được phép trích một đoạn của bài viết “Cái gì giúp cho CSVN vẫn tồn tại” của tác giả Chu Chỉ Nam. Sau đây là một trong những lý do ông nêu ra: Cộng sản Việt Nam vẫn tồn tại là nhờ tiền của cộng đồng hải ngoại gửi về để tiếp máu. Ngân sách quốc gia của Cộng sản Việt Nam khoảng 20 tỷ US ; trong khi đó người Việt ở hải ngoại gửi về Việt Nam khoảng 8 tỷ, gần nửa ngân sách quốc gia để tiếp máu cho cộng sản. Nhìn vào những cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ nhân quyền, chống lại cộng sản gần đây ở Nga Sô, Đông Âu, chúng ta thấy những nước này cũng có một cộng đồng hải ngoại rất lớn, nhưng số tiền họ gửi về tiếp máu cho cộng sản rất ít, ngược lại số tiền họ gửi về giúp những tổ chức đấu tranh chống cộng sản lại rất lớn. Hoàn toàn trái ngược với Việt Nam. Tôi không bao giờ chủ trương là không gửi tiền về, cũng như không bao giờ về Việt Nam, vì chúng ta là con người nhân bản, thương gia đình, yêu quốc gia; khi bố mẹ chúng ta bệnh hoạn, cần tiền bắt buộc chúng ta phải gửi về. Cũng như tôi hoan hô những người về Việt Nam mà tự biến mình thành một chiến sĩ đấu tranh gián tiếp hay trực tiếp, kín đáo, ầm thầm cho lý tưởng tự do, dân chủ, cho quốc gia, dân tộc. Nhưng tôi rất khinh bỉ những người về Việt Nam để tìm thú vui trên sự đau khổ của dân, ăn một bát phở mà có cả mấy em đứng chung quanh xin lại phần thừa, hay tìm thú vui nhục dục trên thân xác những chị em phụ nữ vì túng quẫn do chế độ cộng sản gây ra, phải bán thân nuôi miệng. Những kẻ này rất là đáng khinh bỉ. Các bạn đọc thân mến của DCVOnline, ngoài số tiền 5, 10 đồng chúng ta giúp tờ báo nhà hàng tháng, riêng tháng Tư Đen, nếu có thể xin để tang tưởng niệm cho Việt Nam một cách tích cực. Cùng nhau Tích cực Nguồn: centerforglobalsilence.org -------------------------------------------------------------------------------- Hãy trích hẳn ra một số tiền chẵn trong khả năng của các bạn để góp phần vào một công quỹ thiết thực, đang hỗ trợ cho Việt Nam thoát khỏi ách độc tài cộng sản. Gửi đến phong trào dân chủ, đến gia đình của các tù nhân lương tâm, đến những đài phát thanh tự do chuyển tải tin về Việt Nam, đến các tờ báo phát hành lén lút tại Việt Nam. Xin các bạn liên lạc với nhau đề nghị các tổ chức khả tín mà các bạn biết để dùng đồng tiền của chúng ta một lần trong tháng Tư này, giúp thắp lửa cho quê nhà. Bài viết này chỉ là phần mở. Tất cả các góp ý của các bạn sẽ là phần thân và phần kết. Trân trọng. DanChimVietOnline *************************************************** Khi đồng minh bỏ chạy – 30 năm sau October 28, 2015 (Tin Chosun Ilbo) Dae-young Hồi ký của một nhà ngoại giao Hàn Quốc công bố hôm thứ Hai kể lại cách ông và một số đồng hương đên nơi an toàn sau một cuộc tẩu thoát ngoạn mục trong những giây phút cuối cùng của chiến tranh Việt Nam vào năm 1975. (Hình: Cựu bộ trởng Lee Dae-Yong bắt tay người đã ra lện bắt giam ông suốt 5 năm ở Việt Nam.)Nhà ngoại giao kể lại cuộc chạy thoát khỏi Việt Nam vào giờ chót Giới chức thẩm quyền và dân thường vội vàng lên một chiếc trực thăng của Thuỷ quann lục chiến trong cuộc di tản khỏi Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, ngày 29 tháng 4, 1975. Nguồn hình: AP Hồi ký của một nhà ngoại giao Hàn Quốc công bố hôm thứ Hai kể lại cách ông và một số đồng hương đên nơi an toàn sau một cuộc tẩu thoát ngoạn mục trong những giây phút cuối cùng của chiến tranh Việt Nam vào năm 1975. Tập tài liệu của Kim Chang-keun, Bí thư thứ hai của Đại sứ quán Hàn Quốc tại Nam Việt Nam vào thời điểm đó, đã được Bộ Ngoại giao và Thương mại giải mật, theo luật, sau 30 năm. Tập tài liệu kể lại, vào ngày 28, Đại sứ quán Hàn Quốc tại Nam Việt Nam đã đạt được thỏa thuận hợp tác với Đại sứ quán Mỹ để di tản. Vào ngày 29, nhân viên ngoại giao Hàn Quốc đến Đại sứ quán Hoa Kỳ, vì đã được cho biết là họ sẽ được cấp một chiếc máy bay. Nhưng Đại sứ quán Mỹ đã ưu tiên cho di tản công dân Mỹ bằng trực thăng, và nhân viên Đại sứ quán và công dân Hàn Quốc tiếp tục bị đẩy xuống cuối hàng đợi. Ngày 30 tháng tư, họ đã cố gắng một lần chót dưới sự giám sát của Bộ trưởng Lee Dae-yong để được lên chuyến máy bay trực thăng cuối cùng. Nhưng Thuỷ quân lục chiến Mỹ đẩy họ trở lui bằng cách bắn lựu đạn hơi cay. Khoảng 100 công dân Hàn Quốc và nhân viên sứ quán đã bị bỏ lại Sài Gòn. Họ yêu cầu các đại sứ quán nước ngoài khác giúp đỡ. Nhưng Đại sứ quán Pháp chặn không cho họ vào căn cứ của Pháp, và đại sứ Nhật Bản đã rời cuộc họp với những người Hàn Quốc nói rằng ông bị trói tay không giúp gì được. Một viên chức Đại sứ quán Nhật Bản đưa cho họ những cây viết đầu bi làm quà tặng, nói, ‘Xin đừng làm bất cứ điều gì có thể gây ra rắc rối cho chúng tôi.’ Một số nhân viên của Đại sứ quán Hàn Quốc đã quyết định tự sát hơn là rơi vào tay quân Bắc Việt và đã đi đến một bệnh viện xin các loại thuốc cần thiết (để tự sát). Họ đã bị đuổi ra khỏi bệnh viện. Bộ trưởng Lee Dae-yong đã ở lại và bị bắt giam 5 năm, cho đến 12 tháng 4, 1980. Năm 2002 khi gặp lại cựu thù, Đại sứ Việt Nam tại hàn Quốc (2001) Dương Chính Thức, người đã ra lệnh bắt ông vào năm 1975, ông Lee Dae-yong đã kể lại cho phóng viên Nhật báo Triều tiên, “Tôi không chấp nhận phản bội và dù không bị tra tấn vì là một nhà ngoại giao tôi đã chuẩn bị cho cái chết. Tôi đã phải sống dưới lòng đất 297 ngày không có ánh sáng mặt trời trong một nhà tù. Tôi bị xuống cân, từ 78 kg chỉ còn 40kg.” Nguồn: Memoir of Minister Lee Daeyong [Former Re-education Camp Prisoner] – LN775-86, Story of A Vietnamese POW In Vietnam’. Trang 9. Ngày 3 tháng 5, một số người trong nhóm đã đề nghị tìm đường thoát ra biển theo ngả Long Hải, Vũng Tàu. Ông Kim đã đi với một số người khác, nhưng các nhân viên đại sứ quán khác ở lại vì tin rằng chọn lựa đó quá nguy hiểm. Nhóm do ông Kim dẫn đầu vượt qua nhiều khó khăn đến Long Hải lúc 2 giờ chiều; họ đã thuê một chiếc thuyền và bắt đầu chuyến vượt biển. Tuy nhiên, người lái thuyền tỏ ra bất hợp tác, vì vậy họ đã bắt nhốt ông ta và để một người trong nhóm lái tàu. Ngày 5 tháng 5, nhóm vượt biển đã gặp được một tàu Đài Loan và xin với thuyền trưởng đưa họ đến nơi an toàn. Ban đầu vị thuyền trưởng tàu Đài Loan từ chối, nhưng họ đã nài nỉ. Viên thuyền trưởng Đài Loan sau đó cho thực phẩm và cố gắng xoa dịu họ. Sau cùng, một số người trong nhóm được phép lên tàu và những người còn lại quyết định ở lại trên thuyền nhỏ và lái theo con tàu Đài Loan. Ngày 7 tháng Năm, thuyền trưởng Đài Loan ra lệnh cho những Hàn Quốc phải rời tàu, hứa cho nhiên liệu và nước. Họ không có sự lựa chọn nào khác hơn là trở về tầu của họ. Ngày 8 tháng 5, họ đã thấy Singapore trong tầm mắt, nhưng một tàu tuần tra đã ngăn chặn không cho đoàn người Hàn Quốc vào bãi. Cuối cùng, chỉ mình ông Kim được phép lên bờ và gặp một lãnh sự để giải thích những gì đã xảy ra. Ngày 9 tháng 5, những người còn lại ngoài khơi cũng được phép vào bờ, và ngày 11 tahnsg 5, 1975, tất cả đã trở về Seoul.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 11, 2009 1:30:58 GMT 9
Quan Điểm 08-04-2009 Chế độ hay lãnh tụ?Caubay Làng tôi ngày xưa có ông Ba Nầy đi theo du kích. Lý do ông trốn lên rừng để theo Việt cộng nghe nói chỉ vì ông hận ông anh ruột là Hai Kia đã ỷ thế lấn hàng rào trong mảnh vườn của cha mẹ hai ông để lại. Ông Hai Kia là ủy viên an ninh xã, thế là ông Ba Nầy bèn theo du kích. Lại cũng có ông Chín Cu nhảy núi bởi vì một lý do rất đơn giản là đi du kích thì được ở gần nhà; đi lính cộng hòa nghe nói dễ bị đưa vô tận trong Nam xa lắc. Trong thời kỳ chiến tranh Nam Bắc vừa rồi, người dân, nhất là dân quê các vùng xôi đậu, không thể đứng trung lập; họ thường phải đứng hẳn về một bên. Người dân quê theo Việt cộng lắm khi chỉ vì những lý do đơn giản thế đó, họ không biết gì về chủ nghĩa xã hội, xã hội đại đồng, tư tưởng ông Mác, ông Mao. Ông Hồ, họ cũng chỉ biết rất mơ hồ, nghe cán bộ nói là bác Hồ là cha già dân tộc, thương dân lắm. Thế thôi, còn thương dân như thế nào họ cũng không biết. Có nhận được tình thương cụ thể nào từ bác đâu mà biết! Tôi cũng biết một người bạn học tại Đại học Khoa học Sài Gòn. Anh ta là sinh viên từ miền Trung; cha anh đi tập kết khi anh chưa ra đời. Anh được hoãn dịch gia cảnh vì khai con một, có cha chết. Bạn bè biết mà chẳng có đứa nào màng quan tâm. Có lẽ cha anh theo lịnh của tổ chức vội vã cưới vợ rồi …cắm cho cái bầu trước khi ra đi. Trong thời gian học tại Sài Gòn, cũng như nhiều sinh viên trọ học khác, anh bị mấy ông cảnh sát, nhân dân tự vệ trong phường sách nhiễu. Anh ta căm hận và khinh ghét chính quyền miền Nam lắm. Anh bảo rằng đây là một chính quyền thối nát, tay sai. Quân đội thì có “thằng” Quang, chính quyền thì có “thằng” Khiêm làm cho CIA, lại còn ông tướng như Quế tướng công dùng quân xa buôn quế lậu mà vẫn được thăng chức đều đều. Phu nhân thì bà này bà nọ buôn lậu gạo, thuốc tây tiếp tế cho Việt cộng. Tất cả tin tức loại này đầy dẫy trên báo chí miền Nam. Mùa hè năm 1973 anh thi hỏng rồi biến mất, có đứa nói anh vô bưng. Anh vẫn ấp ủ hình ảnh người cha trong tim; người cha mà nay có lẽ đã có một gia đình khác và cũng quên mất là mình có giọt máu rơi lại ở miền Nam. Quân VNCH bắn hạ xe tăng Việt Cộng trước nhà thờ Ba Chuông (Saigon, 1975) Nguồn: vnafmamn.com -------------------------------------------------------------------------------- Tôi cũng có ông chú họ, là giáo sư Pháp văn, đảng viên kỳ cựu của Việt Quốc, trước năm 75 là dân biểu của miền Nam. Dù là dân biểu, ông ghét tổng thống Thiệu lắm. Những lần ông đến thăm cha tôi, tôi pha trà và vẫn nghe ông nói “thằng” Thiệu thế nầy thế kia. Tất nhiên ông thuộc cánh đối lập trong Hạ Nghị Viện. Ông ghét “Thiệu” đến độ ông sẵn sàng đứng vào thành phần thứ ba và tìm mọi cách để lật “Thiệu.” Những ngày cận 30 tháng 4 năm 1975 ông thuộc nhóm Dương Văn Minh đón tiếp Mặt trận Giải Phóng vào tiếp quản dinh Độc lập. Sau đó ông đi tù, khi được thả về thì sắp chết. Đó là những người tôi trực tiếp biết. Họ theo cộng sản hay chống lại chính quyền miền Nam vì những lý do đơn giản đến thiển cận và rất cá nhân. Cũng có những trường hợp mà tôi cho là tương tự khi đọc về họ sau này. Thí dụ như trường hợp nhà văn Đào Hiếu. (Xin mở ngoặc, với những người đã từng theo cộng sản, tôi trân trọng sự can đảm bất chấp bạo quyền hay vượt qua bản thân mình để nói lên sự thật về của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện tại. Từ các cựu cán bộ cao cấp miền Bắc như ông Bùi Tín cho đến chị dân oan từng theo du kích ngày xưa ở miền Nam, tôi đều trân trọng như nhau. Với Đào Hiếu, khi đọc những gì ông viết gần đây, tôi cho ông là một người dám sống thực với lòng mình. Điều đó không nhứt thiết là tôi đồng quan điểm với những gì họ đã nghĩ, đã làm hay đã viết.) Trong bài “Những “Lã Bất Vi” thời đại mới” của Đào Hiếu đọc được trên Talawas có đoạn như sau: “Trong thời đại ngày nay, thật khó mà nhìn ra bộ mặt thật của bất cứ một vấn đề nào vì nó bị giấu kỹ trong nhiều lớp vỏ bọc ngụy trang tinh xảo. Nhưng thời đó, chuyện đúng hay sai của sự dấn thân rõ ràng quá. Vì kẻ thù đã chường mặt ra cùng với bom đạn, máy bay, xe tăng, đại bác... Những người có tấm lòng không thể không tìm kiếm một chọn lựa. Nhưng chọn lựa ai? Ngô Đình Diệm? Ông vốn là quan Thượng thư Bộ Lại dưới triều Bảo Đại, sau đó sang Mỹ núp bóng Hồng y Spellman rồi được Mỹ đưa về thay Bảo Đại. Ông ta có công lao gì với đất nước? Những vị anh hùng như Nguyễn Trung Trực, Hoàng Hoa Thám bị giặc Pháp bêu đầu giữa chợ, Hoàng Diệu tuẫn tiết theo thành Hà Nội… còn Ngô Đình Diệm, ông ta đã đổ giọt mồ hôi nào cho cái đất nước này? Thế còn Big Minh, ông Khánh, ông Thiệu, ông Kỳ? Họ là sĩ quan của Pháp, nói tiếng Pháp, cầm cây súng Pháp và... ăn lương của Pháp. Làm sao những chàng trai đầy nhiệt huyết của thế hệ anh và tôi có thể chọn lựa họ, đi theo ngọn cờ của họ? Ngày nay chính quyền cộng sản Việt Nam đã tự hủy hoại “thanh danh” của mình bằng sự độc tài và lòng tham vô độ, đã phô bày lộ liễu cả một guồng máy tham nhũng xù xì, lông lá... Nhưng cái thời ấy, những trí thức trẻ như Trần Quang Long, Trần Triệu Luật, Trần Bội Cơ, Hồ Hảo Hớn, Dương Thị Xuân Quý... và cả những người như anh như tôi đã đi theo cụ Hồ, cụ Giáp, những người hùng đã làm nên một chiến thắng Điện Biên rực rỡ mà không ai, kể cả kẻ thù, có thể phủ nhận được. Từ tháng 8 năm 1950 Đoàn cố vấn quân sự sang đến Việt Nam đến đình chiến Đông Dương năm 1954, quân đội nhân dân lần lượt tiến hành tám chiến dịch qui mô tương đối lớn: Biên giới, Trung du, Đông bắc, Ninh Bình, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. (Trích Trương Quảng Hoa, Đoàn Cố vấn Quân sự hoàn thành nhiệm vụ viện trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam). Và có lẽ tác giả Đào Hiếu nên tìm đọc cuốn Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp do Nhà xuất bản Lịch sử Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã phát hành năm 2002 ở Bắc Kinh. Nguồn: jasonbarbacovi.com -------------------------------------------------------------------------------- Những thần tượng đó về sau này có thể có nhiều sai lầm thậm chí rất nghiêm trọng, nhưng ở thời điểm lịch sử đó họ vẫn là những gương mặt sáng giá bên cạnh một Ngô Đình Diệm, một Khánh, một Thiệu, một Kỳ... kém cỏi, cũ kỹ, xám xịt, lu mờ.” Hết trích. Tuy không có ý tranh luận, tôi cũng xin nán lại để nói về một số điểm trong đoạn văn trên của ông Đào Hiếu, chỉ nhằm chia xẻ suy nghĩ của mình với bạn đọc. Thứ nhất, bộ mặt thật của chế độ cộng sản cũng đã phơi bày từ lâu. Ít nhất từ thời Stalin những năm 30, thời cải cách ruộng đất bên Tàu và ở miền Bắc Việt Nam những năm 50 hay thời Cách mạng Văn hóa những năm 60 bên Tàu. Tất cả những sự kiện đó người có học, có quan tâm đến thời sự ở miền Nam đều biết cả. Cái “rõ ràng” để ông Đào Hiếu chọn lựa vào lúc đó là điều đến nay tôi vẫn không… rõ, bởi vì ông là người có học, không giống mấy người dân quê tôi nhắc tới trên kia. Về chuyện ngoại bang, kẻ chường mặt ra với súng đạn kè kè mà mọi người đều thấy là Mỹ. Nhưng cũng là ngoại bang với rất nhiều súng đạn là Nga và Tàu thì lẽ nào một người trí thức không thấy? Đám ngoại bang này vẫn có mặt trên đất nước ta đấy chứ. Chỉ khác là chúng không “chường mặt” ra để đóng góp xương máu mà chễm chệ ở hậu trường điều khiển mọi công việc của “ta”. Chúng tiếp tế vũ khí để đổi lại các quyền lợi khác như lãnh thổ hay vây cánh. Kẻ nào thâm độc hơn? Sự sùng bái ngoại bang cũng rất dễ so sánh vì cứ nghe trên đài phát thanh hay đọc trên báo chí của hai miền thì rõ. Lẽ nào kinh nhật tụng “tinh thần quốc tế vô sản”, “tình hữu nghị anh em” ở miền Bắc lại là tấm ngụy trang tinh xảo hơn “thế giới tự do” tại miền Nam? Về những điểm ông Đào Hiếu chê ông Diệm, theo tôi, nếu thay chữ Diệm bằng chữ Hồ, chữ Mỹ bằng chữ Nga Tàu, vài tên riêng người này bằng tên người nọ, thì cũng có lý cả. Trong thế nước yếu, bị đô hộ bởi thực dân Pháp, để giành độc lập khó mà không liên kết với ngoại bang. Ông Hồ hay ông Diệm thì vẫn không một mình đứng vững được, vấn đề là dựa vào ngoại bang để xây dựng cái gì. Cái chế độ mà phe ông Hồ đòi hy sinh cho đến người Việt cuối cùng để đạt được là điều nên xa lánh. Lại một lần nữa, đó không phải là điều đến hôm nay mới biết. Còn chuyện “Ngày nay chính quyền cộng sản Việt Nam đã tự hủy hoại “thanh danh” của mình bằng sự độc tài và lòng tham vô độ…” thì tôi cho rằng ông Đào Hiếu vẫn còn nhầm lẫn về một quá khứ. Theo tôi, ngày nay chính quyền cộng sản đã để rơi mặt nạ, bởi những “thanh danh” mà họ có chỉ là nhờ vào sự lừa bịp, còn bản chất của họ trước sau như một và đã có từ trước khi du nhập vào Việt Nam kia. Về cái nhìn đối với những người lãnh đạo miền Nam, không riêng gì ông Đào Hiếu, rất nhiều người, trong đó có tôi, cũng không ưa, nói gì đến phục. Tỷ dụ tôi khinh rẻ sự tranh chấp giữa các ông Thiệu, Kỳ. Tôi muốn mửa khi nghe nói ông thủ tướng Khiêm làm cho CIA. Xin tha lỗi nếu điều này không thực; tuy vậy tôi cho rằng một người có liêm sỉ không nên nhận chức trong chính quyền, nói gì đến chức thủ tướng, chủ tịch, nếu mình là gián điệp của ngoại bang. Khi viết: “Những thần tượng đó về sau này có thể có nhiều sai lầm thậm chí rất nghiêm trọng, nhưng ở thời điểm lịch sử đó họ vẫn là những gương mặt sáng giá bên cạnh một Ngô Đình Diệm, một Khánh, một Thiệu, một Kỳ..…” ông Đào Hiếu có lẽ đã quên mốc thời gian. Việc sai lầm của ông Hồ, nếu có, đã xảy từ khi ông Đào Hiếu mới ra đời hay còn mặc quần thủng đít. Thời điểm Đào Hiếu hướng về thần tượng sáng giá (khoảng giữa tới cuối thập niên 60), thần tượng ấy đã không còn khả năng để phạm sai lầm nữa! Cái hào quang mà ông thấy chỉ là sự giả tạo; tiếc thay nhiều người lại lầm tưởng là một sự thực “rõ ràng”. Ngày nay khi con người đích thực của ông Hồ đã dần dần bị phơi bày thì mọi việc đã muộn màng.Về điểm này cộng sản đã thành công trong kỹ xảo tuyên truyền của họ. Khi chỉ xét thành phần xuất thân để khẳng định tư cách và hành động của một người thì dễ mắc bịnh lý lịch. Điều này dẫn đến tình trạng lãng phí nhân tài và bít lối về của những kẻ lạc đường! Tuy vậy thực tế cho thấy có nhiều lãnh đạo của miền Bắc xuất thân từ giai cấp phong kiến, địa chủ, đảng viên các đảng phái quốc gia hay từng làm công chức cho Pháp. Cũng như thế, rất nhiều người trong chính quyền miền Nam là những chiến sĩ cách mạng chống thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh giao thời của đất nước ta lúc đó, quả khó tìm được một “bộ sậu” có lý lịch hoàn toàn trong sáng, nói theo kiểu cộng sản. Thiết nghĩ để đánh giá một người chúng ta không cần câu nệ lý lịch cho lắm mà nên nhìn vào công việc họ đang làm. Vì vậy cái chúng ta cần nhìn cho rõ ràng là kẻ cầm quyền ở hai miền đang nhắm xây dựng cái gì, họ có mưu đồ gì. Với kẻ cầm quyền miền Bắc, câu trả lời khá dễ, họ công khai khẳng định ý muốn xây dựng chế độ cộng sản toàn trị theo gương Nga hoặc Tàu. Do vậy, tôi nghĩ rằng chế độ miền Nam tốt hơn, vì nó cho người dân có cơ hội đóng góp xây dựng một xã hội theo ý dân. Điều đó nay đã được kiểm chứng bằng thực tế. Nay xin bỏ qua những con người cá biệt để nói về cái chung. Đối với đồng bào trong nước, do xảo thuật tuyên truyền đánh bóng lãnh tụ để làm cái phao duy trì chế độ độc tài, chúng ta cần sáng suốt để phân biệt giả chân. Xin đặt câu hỏi là ta chọn lãnh tụ hay chọn chế độ. Tất nhiên lãnh tụ anh minh là một yếu tố góp phần cho một chế độ tốt. Nhưng chẳng may nếu không có lãnh tụ tốt thì cái ta cần là cái nền tảng của chế độ. Hai chế độ xã hội dân chủ và cộng sản hoàn toàn khác biệt. Trong xã hội dân chủ chúng ta có phương tiện (như lá phiếu) để hoàn thiện và có cơ may tìm ra lãnh tụ xứng đáng để đưa đất nước đi lên. Với chế độ cộng sản, việc đó là không thể. Hãy xem các chế độ cộng sản còn sót lại hiện nay trên thế giới. Với Việt Nam hiện tại, điều 4 Hiến pháp là một bằng chứng phản động rõ ràng nhất. Đối với người Việt hải ngoại tôi cho là chúng ta cần ôn cố tri tân. Theo cái nhìn của tôi, thời gian đã làm nhiều người ở hải ngoại đã quên đi bài học cũ. Lắm khi vì những bất đồng với một số cá nhân trong cộng đồng, vì thất bại hay bất mãn với đời sống hiện tại, hoặc bị miếng mồi hấp dẫn của cộng sản mà vô tình hay hữu ý đã tiếp tay hổ trợ cho cái chính quyền bất nhân trong nước. Tôi nghĩ rằng ngày nay không ai có thể ưa cộng sản, kể cả những kẻ cơ hội, vô liêm. Nhưng có một số người, hoặc có đặc quyền đặc lợi, hoặc tác hại do cộng sản gây ra không trực tiếp ảnh hưởng tới họ và bởi vì nhìn từ xa, họ dễ mơ màng nghe theo lời đường mật của cộng sản. Họ, vì thế, lại dẫm lên vết xe đổ năm xưa. Bài học xưa vẫn hữu ích, nhất là khi con tắc kè bịp bợm xưa kia vẫn còn tồn tại, vẫn thay da theo mùa. Nói theo Đào Hiếu, nó vẫn được “giấu kỹ trong nhiều lớp vỏ bọc ngụy trang tinh xảo.” Lính Việt Cộng diễn lại ngày Sài Gòn sụp đổ nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày chấm dứt chiến tranh (1/05/2005) Nguồn: The New York Times -------------------------------------------------------------------------------- Tóm lại, điều chúng ta cần là xác định mục tiêu đúng đắn cho cả dân tộc hướng tới mà không vướng bận bất kỳ tình cảm của cá nhân hay đảng phái nào. Mục tiêu đó là một chế độ dân chủ đa nguyên. Muốn như vậy điều tiên quyết là thủ tiêu chế độ cộng sản. “Chế độ cộng sản phải dẹp bỏ mà không thể thay đổi.” Boris Yeltsin đã từng nói ra điều này từ sự hiểu biết về cộng sản của ông ta. Kinh nghiệm về cộng sản, người Việt chúng ta có lẽ không thua ai! Chúng ta chủ trương thủ tiêu chế độ cộng sản chỉ vì nó phản dấn chủ, phản tiến hóa, không vì nó là di sản của bất cứ ai. Ai đó dù có yêu ông Hồ hay ghét ông Thiệu đến mấy cũng không nên góp phần duy trì nó. SD 4/06/09
|
|
|
Post by NhiHa on May 8, 2011 1:26:39 GMT 9
Phan Chính Hồ Hữu Tường - Những ngày cuối đời Hồ Hữu Tường với tư thế một đại thụ trên lĩnh vực báo chí và văn học còn là một nhà chính trị độc lập nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975. Cuộc đời ông có cái duyên nợ với mảnh đất La Gi - Hàm Tân (Bình Thuận) như một tình cờ, nhưng với tôi lại có những điều đáng nhớ. Tập Kể chuyện (Huệ Minh xuất bản 1965) gồm 9 câu chuyện kể, viết cùng Nguiễn Ngu Í, một nhà văn nhiều giai thoại và cách tân chữ viết, quê ở Hàm Tân. Như một định mệnh, Hồ Hữu Tường có những ngày cuối đời sau 70 năm thăng trầm khổ ải rồi dừng lại ở đây. Trên một số website ở nước ngoài đều ghi rằng sau những năm cải tạo, Hồ Hữu Tường được trả tự do và mất tại Gia Định. Có trang viết một cách mập mờ là “Hồ Hữu Tường - một người chết u uẩn”, có gì đó ám chỉ về chế độ lao tù. Nhưng đều chính xác ngày mất của Hồ Hữu Tường là ngày 26.6.1980. Thời gian này tôi đang làm việc tại Bệnh viện huyện Hàm Tân (tỉnh Thuận Hải, năm 1992 trở lại tên Bình Thuận) phụ trách Phòng Y vụ, một bộ phận trực tiếp với Giám đốc về chuyên môn. Đây là cơ sở cũ, trước ngày giải phóng 23/4/1975 là Bệnh viện Phối hợp Dân Quân y tỉnh Bình Tuy mà tôi cũng từng làm việc ở đây dưới lớp áo Quân y Việt Nam Cộng hoà. Năm 1980, bệnh viện này là tuyến huyện với 120 giường, tình trạng trang thiết bị hầu như tận dụng lại những gì đã có, tiếp tục hư hỏng ngày càng nhanh và nhếch nhác. Số bác sĩ cũ không còn, một số có trình độ trung cấp, sơ học được sử dụng lại, gọi là lưu dụng, nhưng lần lượt bị loại dần do lý lịch… bù vào số cán bộ từ khu về, từ miền Bắc chi viện. Ngoài năm hay sáu bác sĩ còn lại, rất nhiều chức danh y sĩ (xếp ngang trình độ trung cấp y tế sau này), được quyền mang ống nghe khám bệnh kê đơn, giữ các chức vụ Bệnh viện phó, Trưởng khoa, nhưng các tên thuốc Tây trên toa thuốc chỉ viết bằng phiên âm theo cách đọc. Trong khi đó cán sự điều dưỡng học 4 năm chỉ xếp là y tá trung cấp, thực hiện chỉ định của y sĩ. Có lúc chiếc máy X-quang làm chức năng chụp phim chẩn đoán rất hiện đại, đặt trong phòng có vách chì cản tia phóng xạ độc hại cho người, lại bị đập bỏ cho rộng và chỉ dùng bộ phận rọi (gọi là rọi kiếng), tức xem trực tiếp theo kiểu cũ cách đó trên 20 năm. Kết quả thế nào tùy thuộc do nét bút vẽ mô tả của y sĩ đứng máy, thay vì có phim như trước đây. Thuốc men thì cũng rất khó khăn, phải phát động phong trào Đông Tây y kết hợp. Loại thuốc xuyên tâm liên trị bá bệnh, tức bệnh nào cũng uống được, mỗi lần hàng chục viên, đắng đến nỗi… hết bệnh. Trị sốt xuất huyết thì có cây cỏ mực sao tẩm nấu thành xi-rô, trị sốt rét có lá mãng cầu ta sao sắc uống… Các loại vitamine tiêm thì cao cấp hơn như B1, B6, B12 được mua hoá chất từng ký, về hòa nước cất, sản xuất tại chỗ, vào ampule hoặc lọ pénicillin đã dùng… Dịch truyền loại 5%, 10% cũng vậy. Dây truyền, kim tiêm phải luộc đi luộc lại nhiều lần để tiết kiệm, được coi là có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Không có băng keo cố định kim tiêm dịch truyền cho bệnh nhân được thay bằng sợi dây nang lá buông. Bệnh dù có nặng mấy đi nữa cũng phải đi theo hệ thống tuyến xã, huyện, tỉnh, trung ương… cơ quan, đơn vị ở địa bàn nào cũng theo con đường đó. Từ bệnh viện huyện muốn chuyển bệnh nhân lên bệnh viện tỉnh phải có biên bản tập thể do y bác sĩ các khoa hội chẩn, cho nên có truờng hợp bệnh sản đẻ khó mà bác sĩ, y sĩ khoa Nhi hoặc Đông y cũng được tham dự và cho ý kiến. Có khi phải xin ý kiến Bí thư Chi bộ, dù anh ta chỉ là cán bộ chính trị. Có sự ràng buộc đó cũng vì sự khắt khe quái ác của các chỉ tiêu tử vong, chuyển viện… Nhiều quá thì mất điểm thi đua. Như vậy thì không thể nào có bệnh nhân được chuyển thẳng về các Bệnh viện ở Sài Gòn, dù biết bệnh tình có ra Phan Thiết cũng chào thua. Trước đó không lâu, tôi là một trong những người trực tiếp tiếp xúc với trường hợp đại sứ Đinh Bá Thi, là đại sứ đại diện Chính phủ CHXHCNVN tại Liên hợp quốc (tại Mỹ) về nước công tác tại Bộ Ngoại giao. Chuyến xe đi mua hàng thực phẩm mỗi sáng sớm của Trại giam Z30C chở 4 nạn nhân và 1 trẻ em đến bệnh viện. Ông Thi bị vết thương ở đầu, lột cả mảng da tóc khá rộng, còn người vợ bị nhiều chấn thương đã hôn mê. Người chị vợ, anh lái xe và đứa cháu ngoại của ông Thi chỉ xây xát nhẹ. Lúc vào viện, ông Thi còn tỉnh táo và bảo cố gắng chăm sóc người khác, ông không tự giới thiệu mình là ai! May mà anh lái xe còn tỉnh táo, mới cho biết đó là ông Đinh Bá Thi trên đường công tác sau đêm ngủ tại nhà khách Uỷ ban Tỉnh ở Phan Thiết, sáng đi Thành phố Hồ Chí Minh, đến căn cứ 8 thì bị một chiếc xe tải cùng chiều ép, làm cho chiếc Comanca lật nhào mấy vòng. Tôi nhận ra đây là một yếu nhân, biết tiếng ông từng là người cùng bà Nguyễn Thị Bình đại diện cho Chính phủ Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại bàn hoà đàm Paris. Sau này biết thêm, ông trên đường đi truyền đạt chỉ thị quan trọng trước sự đe dọa can thiệp của Trung Quốc dưới chiêu bài cứu nạn kiều Sài Gòn trong chiến tranh biên giới vừa nổ ra. Sau mấy giờ cấp cứu chờ xe 05 của Bệnh viện Tỉnh đưa đội phẫu thuật vào thì ông Đinh Bá Thi tắt thở, xác quàn tạm ngay trong phòng mổ chờ ý kiến của tỉnh. Huyện giao cho Xí nghiệp Cơ khí gấp rút làm chiếc hòm kẽm có thêm một lớp chứa được đá lạnh để giữ tươi thi hài, đem đặt tại hội trường Ủy ban Huyện. Khuya đêm đó xe của Văn phòng Đại diện Bộ Ngoại giao phía Nam ra và chuyển vào áo quan, đem về Sài Gòn. Nhắc đến sự kiện này để thấy tình trạng nghèo nàn của hệ thống y tế dù đã gần 6 năm giải phóng. Nhiều người so sánh, nếu có máy bay cấp thời chở ông Thi về Chợ Rẫy, có khả năng ông qua khỏi. Cách bệnh viện chừng 300 mét, phía sau nhà bưu điện bây giờ, trước giải phóng có một sân bay trực thăng, bất cứ đêm ngày có bệnh nặng cần chuyển cấp cứu đều đáp xuống chở ra Hạm đội 7 hoặc Bệnh viện Long Bình. Trở lại trường hợp Hồ Hữu Tường, khoảng đầu tháng 6 năm 1980, xe của Trại giam Z30C chở đến với yêu cầu điều trị. Trên địa bàn Hàm Tân, xã Tân Minh lúc này có 2 trại giam Z30C và Z30D nằm liền kề, còn gọi là trại Thủ Đức, rộng hàng ngàn hec-ta đất rừng tiếp giáp Núi Bể và cặp đường quốc lộ I, giáp ranh đất tỉnh Đồng Nai. Tù nhân cải tạo hầu hết là thành phần quan chức, sĩ quan tướng tá chế độ cũ và mắc tội chính trị chống đối sau này. Nay nhập một gọi là Trại Z30D thuộc Cục Quản lý Trại giam (V26) Bộ Công an, xe chạy Bắc - Nam ngang qua thấy trạm xăng Đức Khải rất bề thế với màu sắc đỏ mà chủ nhân là người có tên Anh Lâm, trước đây bị án chung thân về tội buôn lậu, cũng là tù nhân “đặc biệt” của trại này. Trước khi đến Trại giam Z30C, từ năm 1977 Hồ Hữu Tường đã vào tù, từng qua các trại giam Phan Đăng Lưu, Chí Hoà và Long Bình… Theo cán bộ canh giữ, ông được giao chăm sóc vườn thuốc nam thuộc bệnh xá của Trại. Hồ Hữu Tường cao lớn, cặp vành tai của tướng mạo trường thọ, tóc đậm sắc muối tiêu, còn đi đứng được. Trong hồ sơ có ghi đến chức vụ của ông tham gia tổ chức phản động là Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Trung lập Phục quốc Việt Nam gì đó, tôi nhớ chưa đầy đủ lắm! Chẩn đoán là xơ gan cổ chướng, bụng ông to độn lên áo trông thấy rõ. Nhập vào Khoa Nội 2, bác sĩ Nguyễn Văn Thảo phụ trách. Tên tuổi của Hồ Hữu Tường từng khuấy động sân khấu chính trị miền Nam từ thời Diệm đến thời Thiệu… Mới đó, với danh nghĩa dân biểu Hạ nghị viện, ông đã cùng giới báo chí làm cuộc biểu tình “Ngày ký giả ăn mày” (10/1974) đòi tự do báo chí. Năm 1926 sang Pháp học Đại học Marseille, đậu thạc sĩ toán Đại học Lyon… rồi làm chính trị, làm báo, viết văn…, rồi thời Pháp thuộc, đến lúc Mỹ sang và sau cùng là Thiệu, tù tội với ông đều có, Diệm từng kêu án tử hình và có văn hào Pháp Albert Camus viết thư can thiệp. Trong hàng chục tác phẩm của Hồ Hữu Tường, tôi chỉ nhớ được một ít tựa sách và chỉ đọc đôi quyển như Phi lạc sang Tàu, Phi lạc đại náo Hoa Kỳ, Kể chuyện, Luận lâm, Người Mỹ ưu tư… Trong bài tựa của tập Kể chuyện, ông viết: ”Mục đích của tôi là lập một cuộc tạ ơn những vị giáo sư đã dạy tôi viết văn nhà quê, hoang đường, trào lộng và châm biếm, đặc biệt của nông dân miền Tây Nam bộ vào đầu thế kỷ XX này...” Sinh ra ở Cái Răng, Cần Thơ, thấm đậm cái chân chất Nam bộ, nhưng ông là con người có tư tưởng xuất chúng hiếm hoi. Ông thật lòng nói, “thầy dạy là những người bạn có lúc đồng chí hướng như Phan Văn Hùm khuyến khích và chịu khó năn nỉ dạy không công cho tôi viết văn, tôi lại lười biếng"! Nhiều chính khách nhận xét về Hồ Hữu Tường, rằng ông là con người của chủ nghĩa dân tộc, người đề xướng giải pháp trung lập chế v.v… Với những điều đó tôi hiểu rất lờ mờ, đơn giản chỉ thấy lay động trước tên tuổi một Hồ Hữu Tường. Ngay chiều ấy tôi ghé nhà cậu ĐĐC - Châu Anh báo tin này vì Châu Anh là bạn Nguiễn Ngu Í, biết Hồ Hữu Tường khi làm báo ở Sài Gòn, nhưng cậu ngại không đến thăm. Là tù nhân chính trị nên trại cử một anh công an theo canh giữ, không ai dám đến gần bắt chuyện, dù là nhân viên y tá trong khoa. Tôi có lợi thế là làm công tác y vụ, tức bộ phận quản lý điều hành chuyên môn ở bệnh viện, nên có lý do tiếp xúc với ông công khai mà không bị ai dòm ngó. Ông than với tôi rằng chiếc mùng vải xô của bệnh viện phát bị thủng rách nhiều chỗ quá, muỗi chui vào cắn không ngủ được. Thêm nữa, tôi hỏi ông thèm ăn gì. Ông nói cá, cá… Nhà tôi ở xóm Phò Trì, cách bệnh viện 2 cây số, đi làm bằng chiếc xe đạp cọc cạch thường tuột xên, nhà chỉ có một chiếc xe này, may là vợ tôi đi dạy học ở một trường nhỏ gần nhà. Vợ tôi mua mấy lát cá thu, chỉ tẩm một ít gia vị, chút nước mắm nhạt vì bệnh ông không được ăn mặn. Hai lát cá thu vừa đủ trong một hộp nhựa để mang đi kín đáo. Ông ăn một cách ngon lành và trông ông hiền từ như ông Phật. Tôi gói mấy đoạn chỉ và kim may để ông vá lại các lỗ thủng chiếc mùng. Ông cứ loay hoay vá, lại vá, tôi hỏi bác làm gì nhọc vậy. Ông cười, quen rồi đời tôi cũng thế, phải vá mãi! Trong cái túi đồ dùng của ông có nhiều thuốc Tây ngoại và ma-gi (xì dầu) cũng ngoại, ông nói nhờ các con ở nước ngoài gởi về. Khi ông có chút tin tôi, ông mới nhờ tôi nhắn tin cho gia đình. Lúc ấy chỉ có viết thư điện tín ở bưu điện, chuyển bằng moọc tích tích te te. Hai ngày sau vợ ông, bà Nguyễn Huệ Minh, đi xe than từ Sài Gòn ra đến bệnh viện gần cuối chiều. Hai ông bà ôm chầm lấy nhau một cách tự nhiên ở ngay hiên khoa nội, làm ai cũng thấy lạ nhưng thật bùi ngùi. Tôi lén lút đưa bà về nhà tôi để tắm rửa và bàn chuyện bệnh tình của ông vì sau mấy ngày nhập viện bệnh ông có triệu chứng nặng hơn, theo chuyên môn phải chuyển viện, mỗi ngày phải dùng bơm tiêm lớn chọc dò, rút ra cả lít dịch axit từ màng bụng ông mới dễ thở. Chỉ báo lại trại Z30C, họ sẽ mang ông ra bệnh viện Phan Thiết thôi, là xong. Nhưng ra đó là chết và coi như chết trong tù, chôn cất theo tù… Tôi nghĩ đến điều đó phải xảy ra. Tôi không có một xu hướng chính trị nào, trước đây cũng vậy, dù cộng sản hay quốc gia, chỉ mong đợi hoà bình, bên nào cũng được… Hồi năm 1974, thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang, Tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà ký lệnh thuyên chuyển số 11075 đẩy tôi về Bệnh viện Tiểu khu An Xuyên (Cà Mau) với lý do ghi rõ: "Có tư tưởng hành động chống chánh phủ cũng như chánh quyền địa phương”, cho đến sau ngày giải phóng tuy còn tiếp tục làm việc với ngành y nhưng không phải yên ổn gì, mỗi năm không ít hơn ba bốn lần khai lại lý lịch. Những câu hỏi của cơ quan an ninh từ một hồ sơ nào đó trong tàng thư của cơ quan Cảnh sát Việt Nam Cộng hoà để lại (sau này tôi biết có phiếu điều tra lý lịch của Ty Cảnh sát Quốc gia Bình Tuy lập 5/5/1974) ghi về mối quan hệ anh em giữa tôi với dân biểu Trần Ngọc Châu và điệp báo cộng sản Trần Ngọc Hiền (Trần Ngọc Hiền vào Nam hoạt động lúc Trần Ngọc Châu làm tỉnh trưởng Kiến Hoà tức Bến Tre và Hiền bị bắt lúc Châu là dân biểu Tổng thư ký Hạ viện). Sự thực Trần Ngọc Châu với tôi là anh em cùng mẹ khác cha, còn Trần Ngọc Hiền với Châu là anh em cùng cha khác mẹ. Nhưng lúc này Trần Ngọc Châu đã bị Tổng thống Thiệu bỏ tù, không liên quan gì. Với Hồ Hữu Tường, tôi ngưỡng mộ ông ở văn tài, con người minh triết, chứ tôi không mê ông ở phương pháp hành động. Truyện ngắn “Con thằn lằn chọn nghiệp” trong tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta (NXB Sóng, Sài Gòn 1974), theo bà Huệ Minh là truyện ông tâm đắc nhất. Phải chăng kiếp con thằn lằn có gì đó là hình ảnh của kiếp người ông đang cưu mang? Suốt đời lầm lũi tìm đủ phương kế ngăn chặn kẻ cuồng tín, u mê, tự hủy hoại, giết hại nhau… vì một mục đích hão huyền, lại cho đó là thiên đường! Chuyện kể trong tù, một hôm có người tù trẻ cùng phòng hỏi Hồ Hữu Tường: "Bác Tường ơi, bác biết tại sao từ thời Pháp đến Mỹ, rồi cả bây giờ bác cứ ở tù dài dài không?" – Ông nói, "Mày trả lời giùm tao đi!" Anh ta nhanh nhẩu: "Dễ quá, Bác có tên là Hữu Tường nên bác 'hưởng tù' dài dài thôi!" Ông trầm ngâm, "Có thể thằng này nói đúng." Như có cùng một suy nghĩ, bác sĩ Thảo làm rất đầy đủ bệnh án của một bệnh nhân bị đe dọa tử vong bất cứ lúc nào. Bác sĩ Thảo học y khoa Huế trước giải phóng và sau giải phóng mới tốt nghiệp, rồi xin về Hàm Tân. Sau này lấy vợ cùng ngành rồi đi theo đường bảo lãnh qua Mỹ. Tôi nhanh chóng hoàn tất hồ sơ cho Giám đốc bệnh viện Vương Xuân Long ký với yêu cầu Z30C sớm đưa về chữa trị ở Sài Gòn, đây là một ngoại lệ. Có sự bàn bạc thế nào đó ở trại giam và họ báo với bà Huệ Minh phải làm đơn bảo lãnh xin đưa về Sài Gòn. Sau đó bà Minh về lại Sài Gòn và thay bà là người em gái của ông. Mấy ngày sau, Z30C có văn bản của Bộ Công an quyết định tạm tha Hồ Hữu Tường để đi điều trị. Có lẽ ai cũng tiên lượng được tình trạng bệnh tật của ông đã liền kề cái chết và cũng tránh dư luận xấu về cách đối xử với một nhân vật nổi tiếng nên dễ dàng có một quyết định như thế. Được biết trước khi ông chuyển về trại Z30C, có phái đoàn Ân xá Quốc tế đến thăm hỏi và can thiệp. Có được giấy tạm tha, nhưng người em gái của ông, tuổi ngoài 60 chân quê, không tính toán được gì và tôi phải làm một cái gì giúp ông. Tôi gặp người bạn Nguyễn Phát Minh, anh có chiếc xe tải Daihatsu chở cá ướp đá chạy đường quốc lộ 46 – La Gi, giá xăng xe 200 đồng, để gấp rút chở ông về Sài Gòn. Xe ghé nhà tôi lấy chiếc nệm giường cá nhân, lót lên sàn xe và lên bệnh viện nhận bệnh. Lúc ấy bác sĩ Nguyễn Văn Khánh, chuyên khoa răng - muốn về thăm nhà, tôi can thiệp để bác sĩ Khánh nhận làm y tá chuyển bệnh. Tôi báo lại cơ quan có việc nhà xin nghỉ phép, về nhà dắt con gái Bảo Vy 6 tuổi lên đầu dốc Tân An đón xe chở ông lên. Xe đến Tân Minh thì trời mưa tầm tã, phải dừng lại để kiểm tra khi qua mấy trạm quản lý thị trường, vì đây là loại xe thường chở hàng hải sản. Chai dịch truyền đong đưa dưới mui xe cạn dần và tôi phải tiêm cho ông mấy mũi campho… Xe đến Gia Định khoảng 5 giờ chiều, hướng về nhà ông ở Đa Kao vì trước đây bà Huệ Minh nói nếu đưa được ông về Sài Gòn thì có mấy người bạn thân là bác sĩ Lương Phán, bác sĩ Nguyễn Thị Lợi chăm lo. Theo giấy chuyển viện, chỉ được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy thôi, nhưng tôi chuẩn bị thêm một giấy chuyển viện ký khống để dự phòng, với ý định ghé nhà để hỏi ý kiến vợ ông quyết định. Chỉ còn khoảng 100 mét quanh qua góc đường Trần Quang Khải là đến nhà, thì Hồ Hữu Tường tắt thở trên xe. Lúc này cảnh nhà trống vắng không có ai, mới biết bà Huệ Minh vừa ra Hàm Tân hồi sáng nay. Người em gái ông loay hoay cùng tôi và Minh khiêng xác ông vào nhà. Tôi chỉ kịp thấy căn nhà lầu bề thế, phòng khách có một bức tranh rất rộng treo trên tuờng. Chuyện tiền xe lúc này tôi không dám hỏi để trả cho Minh đổ xăng vòng về, nhưng có hỏi thì biết ai. Chúng tôi về Phú Thọ ngủ đêm ở nhà em tôi và sáng ghé qua nhà ông, bà Huệ Minh chưa thể về kịp, người em gái ông gởi lại tiền xăng cho Phát Minh… Từ ngày đó tôi không còn liên lạc gì, dù nhiều lần về Sài Gòn, vì không muốn vương víu đến chuyện nghĩa ơn. Sau này bà Huệ Minh cho tôi biết, khi bà từ Hàm Tân về nhà thì tin dữ đến với gia đình. Hồ Xích Tú, người con trai đầu của ông bà, bị bắt tại Bến Tre do vượt biên. Trước giải phóng, Tú là giám đốc Nha nhân viên Hàng không, nhưng trong những ngày cuối cùng Sài Gòn sụp đổ, Tú chần chờ cùng với cha ra đi, nhưng Hồ Hữu Tường tin rằng mình là người yêu nước, quyết định ở lại. Sau này nghe nhà báo Lê Phương Chi nói, đám ma Hồ Hữu Tường đông lắm, có nhiều người không dám nhập vào đám đưa tang mà âm thầm đi trên lề đường đưa tiễn. Anh còn gợi ý tôi viết lại chi tiết những ngày cuối của Hồ Hữu Tường, đó là một nhân vật đặc biệt kỳ tài. Khoảng tháng sau, tôi nhận được vài dòng thư của bà Huệ Minh: “Chú Chính, không biết lời nào để nói hết được lòng biết ơn của gia đình tôi đối với chú” kèm theo 30 đồng. Tôi mới nhớ lại, hôm bà ra chăm sóc ông, đến ngày phải về Sài Gòn bà lúng túng bảo rằng không còn tiền và tôi vét được 30 đồng đưa cho bà. Lương tôi lúc đó là 47 đồng, tiêu chuẩn gạo tháng 13 kg nhưng trên 60% là độn bột mì hoặc bo bo… Nói đến chuyện cơm áo thời đó, có khi kể lại thì thế hệ trẻ bây giờ cho là cổ tích, hoang đường. Không đâu, có một gia đình, anh chồng làm nhân viên đưa thư, vợ nấu bếp cho cửa hàng thương nghiệp mà phải nuôi 6 đứa con. Tiêu chuẩn mỗi gia đình chỉ được 2 nhân khẩu lương thực ăn theo. Hai vợ chồng phải đưa nhau ra tòa ly dị (tất nhiên là giả) để có thêm tiêu chuẩn lương thực ăn theo! Thời ấy còn khổ lắm, những người trước đây sống bằng đồng lương công chức, làm lính chế độ cũ đối mặt với sự thay đổi, bị hụt hẫng nên rất sợ lao động ruộng rẫy và không có một việc làm nào để sống, lại phải đi vùng kinh tế mới âm u. Mà bám vào một tập thể cỡ hợp tác xã hay cơ quan nhà nước thì coi như một cái phao cứu sinh. Anh bạn Đỗ Hồng Hùng là dược sĩ Đại học Y Sài Gòn, bị động viên mang lon trung úy, nay xin làm xã viên hợp tác xã phân hữu cơ, ngày 4 tiếng đồng hồ phải gầm mình xuống Bưng Ngang, đỉa bám vào da, anh trân mình móc từng vốc bùn trộn tro rơm rạ chế biến phân bón. Mãi sau này bệnh viện mới nhận anh vào để “pha chế” thuốc Đông y. Trong bản lý lịch cá nhân luôn có phần kê khai hai, ba người bạn thân nhất, bóp bụng và dẹp sĩ diện lục tìm trong trí nhớ cho được người bạn nào đó có thành tích cách mạng, nếu đương chức quyền uy thì càng hay. Nói đến điều này, tôi lại tự hỏi mình, có những quan hệ với Hồ Hữu Tường trong tình cảnh đó có phải là “liều” lắm không? Trong lòng tôi khi ấy không có gì lưỡng lự và thật sự thấy rất nhẹ nhàng. Khi ghi lại những dòng này thì câu chuyện tưởng mới đây mà đã trôi qua 28 năm rồi, nghe đâu bà Nguyễn Huệ Minh cũng đã mất. Đời người sao ngắn ngủi quá! La Gi 10/2008
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 29, 2011 16:32:56 GMT 9
Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi (1923 2007) Cựu trung tướng Nguyễn Chánh Thi qua đờiTrần Củng Sơn tổng hợp, Jun 25, 2007 Suu TamCali Today News - Theo tin từ các thân hữu Mũ Đỏ cho biết Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, cựu tư lệnh Binh Chủng Nhảy Dù Quân Đội VNCH đã từ trần vào lúc 6 giờ 42 chiều thứ bảy 23/6/2007 tại Landcaster, tiểu bang PA, Hoa Kỳ, hưởng thọ 84 tuổi. Trung tướng Nguyễn Chánh Thi được biết đến là người đã cầm đầu cuộc đảo chánh tổng thống Ngô Đình Diệm vào năm 1960 cùng với Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng và một số chính trị gia của các đảng phái Việt Nam thời đó. Đảo chánh thất bại, ông lưu vong qua Cam Bốt và trở về sau khi Hội Đồng Quân Nhân do đại tướng Dương Văn Minh lên nắm chính quyền vào năm 1963. Năm 1966, có cuộc tranh chấp giữa chính quyền quân đội và đồng bào Phật tử ở Huế, Nguyễn Chánh Thi lúc đó là tư lệnh quân khu 1 đã đứng về phía địa phương và ông bị cách chức và sau đó bị bắt phải lưu vong tại Mỹ vào năm này. Như vậy cuộc đời của vị tuớng Nhảy Dù đã sống tại Hoa Kỳ được 41 năm cho đến ngày qua đời. Trong một lần gặp gỡ, tướng Nguyễn Chánh Thi đãkể lại nỗi buồn lưu vong trong những năm đầu nơi xứ lạnh Bắc Mỹ. Từ khi có hàng triệu người VN tị nạn qua hải ngọai, cuộc sống của ông có phần ý nghĩa hơn. Oâng đã viết hồi ký Một Trời Tâm Sự kể lại cuộc đảo chánh năm 60 và cuộc đời thăng trầm binh nghiệp và chính trị của mình. Những phong trào kháng chiến của người hải ngọai thập niên 80 đã bùng lên và tướng Nguyễn Chánh Thi là một trong những quân nhân được chú ý để làm người lãnh đạo. Các nhân sự trong tổ chức Người Việt Tự Do đã tìm đến ông nhưng việc hợp tác không thành và sau đó đề đốc Hoàng Cơ Minh đảm trách. Mặc dù đã cuộc tranh luận ai là người thực sự cầm đầu cuộc đảo chánh năm 1960 giữa Vương Văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, nhưng phải công nhận dù ít hay nhiều tuớng Thi cũng có phần. Và lịch sử ghi lại một hành động can đảm của một vị tướng dám đảo chánh một chế độ đang vững mạnh, cho dù đúng hay sai tùy theo cái nhìn của mỗi phe phái. Nói theo nhận xét của một người lính Nhảy Dù về tướng Nguyễn Chánh Thi là ông ngay thẳng, bộc trực và bình dân. Trần Củng Sơn --------------------------------------------- ----------------------------------- Tướng Nguyễn Chánh Thi Qua Đời Ở Lancaster, Thọ 84 VƯƠNG HỒNG ANH . Việt Báo Thứ Ba, 6/26/2007, 12:02:00 AM Theo tin của thân hữu và gia đình, vào chiều ngày thứ Bảy 23 tháng 6/2007, cựu trung tướng Nguyễn Chánh Thi, nguyên tư lệnh các đại đơn vị: Nhảy Dù, Sư đoàn 1 Bộ Binh, Quân đoàn 1/Vùng 1 Chiến thuật, đã từ trần tại Lancaster, Pennsylvania, hưởng thọ 84 tuổi. Linh cửu Trung Tướng sẽ hỏa táng theo nghi thức Phật Giaó vào ngày thứ ba 26-6-2007. Theo tài liệu được ghi trong cuốn "Việt Nam, Một trời tâm sự , tác giả: Nguyễn Chánh Thi", cuốn Việc từng ngày của Đoàn Thêm, và tài liệu quân sử, tiểu sử của cựu Trung tướng Nguyễn Chánh Thi lược ghi như sau: -Sinh ngày 23/2/1923 tại Huế, gia nhập Quân đội từ năm 1941. Trong năm 1945, bị Nhật bắt làm tù binh, cũng trong năm này, ông bị Cộng sản bắt giam tại Ba Tơ, Quảng Nam. Vượt ngục, trở lại phục vụ trong Quân đội Liên Hiệp Pháp từ năm 1947, sau đó, được tuyển lựa vào binh chủng Nhảy Dù, tham dự nhiều cuộc hành quân tại chiến trường Bắc Việt. Tháng 8/1954, sau hiệp định Genève, ở cấp bậc Thiếu tá, được bổ nhiệm giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Ngự Lâm Quân tại Đà Lạt. Năm 1955, trở lại binh chủng Nhảy Dù, giữ chức chỉ huy phó Liên đoàn Nhảy Dù và được thăng trung tá. Từ năm 1956 đến năm 1960, là Đại tá Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù. Ngày 11/11/1960, chỉ huy cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng thất bại, sang lánh nạn tại Cam Bốt. Giữa tháng 11/1963, trở về nước, được phục hồi cấp bậc. Tháng 12/1963, được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh phó Quân đoàn 1. Cuối tháng 1/1964, sau cuộc chỉnh lý của Trung tướng Nguyễn Khánh, được cử giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 1, thăng Chuẩn tướng vào tháng 5/1964, thăng Thiếu tướng vào tháng 10/1964 và được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 1/Vùng 1 Chiến thuật; thăng trung tướng vào tháng 10/1965. Ngày 13 tháng 3/1966, bị giải nhiệm khỏi chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 1/Vùng 1 chiến thuật với lý do "chống lại trung ương". Ngày 29/7/1966 rời VN sang Mỹ với lý do "chữa bệnh", và đã cư ngụ tại Mỹ từ thời gian đó cho đến ngày qua đời. VƯƠNG HỒNG ANH --------------------------------------------- ----------------------------------- Tướng Nguyễn Chánh Thi: Anh hùng lỡ vận hay người tạo thời cuộc? Jun 26, 2007 Cali Today News - Vị tướng lừng danh của quân đội Việt Nam CH “gẫy cánh” rất sớm vào năm 1966 khiến đất nước miền Nam sau đó liên tục bị rối rắm, cùng lúc với chiến trận chống Cộng Sản gia tăng, ông Nguyễn Chánh Thi, đã qua đời ở Lancaster, Pennsylvania, thọ 84 tuổi. Ông sinh ngày 23 tháng 2 năm 1923 tại Huế, một thành phố mà sau này ông sẽ trở về cai trị. Cha ông là quan chức nhỏ vốn có đầu quân cho quân đội Pháp trong Đệ Nhất Thế Chiến. Ông cũng gia nhập quân đội Pháp khi mới 17 tuổi và chống lại nhiều thành phần quốc gia đang nổi lên chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam lúc bấy giờ. Trong lực lượng quân đội Việt Nam CH, ông là loại sĩ quan của tầng lớp ‘trung lưu”. Đa số được tập luyện ở Hoa Kỳ, nói được chút ít Anh Ngữ và làm việc với các cố vấn và quân nhân Mỹ khá dễ dàng. Tướng Thi liên tục dính vào các cuộc chuẩn bị đảo chánh, tin đồn đảo chánh hoặc… dẹp tan đảo chánh. Tháng 11 năm 1960, lúc đó là Đại tá chỉ huy Lực Lượng Nhảy Dù, ông đã đảo chánh hụt ông Ngô Đình Diệm. Sau vụ này ông bay sang lánh nạn ở Cambodia trong vòng 3 năm, chỉ trở về sau khi ông Diệm bị lật đổ vào tháng 11 năm 1963. Tháng giêng năm sau, ông lại giúp một cuộc binh biến khác, đưa Tướng Nguyễn Khánh lên cầm quyền và sau đó có giúp tướng Khánh dẹp được 1 cuộc đảo chánh. Tờ Times năm 1965 gọi tứơng Thi là ‘chuyên viên đảo chánh” (A coup specialist). Trong quyển sách “Fire in The Lake” (1972) Frances FitzGerald viết là “các tướng lãnh Vietnam CH cứ kháo nhau xem tướng Kỳ và Tướng Thi ai đảo chánh ai”. Tướng Thi thăng chức và lên làm Tướng Lãnh chỉ huy vùng 1 Chiến Thuật. Nhờ có hậu thuẫn của chính TT L. Johnson trong tháng 2 năm 1966 mà tướng Kỳ thuyết phục 8 tướng lãnh trong số 10 vị tướng để cùng ông tống khứ tướng Thi và dẹp tan cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm đó. Nhưng tướng Thi rất được lòng dân chúng Huế. Chỉ 5 ngày sau khi ông bị tước lon, lúc trở về Huế có khoảng 20,000 người ra đón và hoan hô ông. Một sinh viên Phật Tử cầm loa nói với đám đông: “Quý vị có muôán Tướng Thi ở lại với chúng ta không?”, thì lập tức rất nhiều sinh viên la lớn: “Muốn, muốn!” Sau đó Tướng Thi sang Hoa Kỳ. Ông ném tất cả huân chương, xếp tàn y quân nhân lại và chỉ giữ cái mền như là kỷ niệm cuối cùng của cuộc đời quân ngũ. Lúc đầu ở Mỹ ông nhận tiền trợ cấp cho 1 tướng 3 sao là 600 đô la mỗi tháng, nhưng do chỉ trích Tướng Kỳ không ngớt, tiền cấp dưỡng của ông bị rút lại còn 170 đô la/tháng. Trong nhiều năm ở Hoa Kỳ, tướng Thi là khách hàng thường xuyên của một motel ở Los Angeles và mở 1 quán cà phê ở Arkansas. Nhưng khi đồng hương Việt Nam nhận ra ông trong một nhà hàng thì thường ông được chào đón như một anh hùng. Và ngày nay, người hùng một thời đã yên giấc ngàn thu, bỏ lại phía sau tất cả, và tất cả, kể cả chuyện người ta tranh luận nhau: Ông đúng hay sai? Nguyễn Dương, source The New York Times --------------------------------------------- ----------------------------------- Những chi tiết mới tiết lộ về cố trung tướng Nguyễn Chánh Thi Nguyễn Dương, source Washington Post, Jun 28, 2007 Cali Today News – Cựu trung tướng Nguyễn Chánh Thi, cựu tư lệnh vùng, đã qua đời vì bệnh tim ở nhà thương Hospice of Lancaster County, thọ 84 tuổi. Ông ta một gương mặt đặc biệt của quân đội Việt Nam CH đã nằm xuống. Có thời ông đã chỉ huy cả 5 tỉnh ở tuyến địa đầu ở phương Bắc của Việt Nam CH, nổi tiếng là một vị tướng chỉ huy gan dạ nhưng cũng nổi tiếng là “người quá hiểu biết về chính trị” nên cứ tạo liên tiếp nhiều cú đảo chánh và phản đảo chánh trong thập niên 1960. Nguyễn Cao Kỳ, khi đã là người giữ chức như một Thủ Tướng, đã “ngửi” thấy ở tướng Thi một đối thủ nguy hiểm, đã tìm cách liên lạc kết cấu nhiều tướng lãnh “bứng” tướng Thi ngày 10 tháng 3 năm 1966. Tướng Thi được lệnh rời Việt Nam CH đi Mỹ chữa bệnh hôi mũi và tướng thi đã trả lời: “Tôi chỉ ngửi thấy có 1 mùi hôi duy nhất là mùi hôi của tham nhũng.” Chỉ ít lâu, trên đường phố nhiều thành phố của Việt Nam CH tràn ngập người phản đối. Tướng Thi là Phật tử ít ỏi trong nhóm tướng lãnh tài ba và đa số là Công giáo. Ông nổi tiếng trong lòng dân chúng và có quyền uy thật sự. Nhiều người tỏ ra không tin tướng Kỳ vì chính phủ của ông Kỳ tham nhũng và ông từng hứa sẽ từ chức nhường lại cho một chính phủ dân sự, nhưng ông ta đã không bao giờ giữ lời hứa. Báo Washington Post cho biết sau vụ hạ bệ tướng Thi, thành phố Đà Nẵng tê liệt đến 90% do một cuộc đình công lớn. Tướng Thi trở về bản doanh và nói với đám đông đến ủng hộ ông: “Hãy nghĩ đến đất nước, xin đừng nghĩ đến tôi!” Sau đó khi nói chuyện với ký giả Ward Just của Washington Post, ông bảo: “Tôi có thể chấp nhận bất cứ chức vụ nào, miễn là gíúp ích cho đất nước.” Hoa Kỳ lúc đó ủng hộ việc tống xuất tướng Thi, vì người Mỹ xem ông là “tướng nổi loạn”, không tích cực chống cộng và còn tỏ ra muốn nói chuyện thương thảo với Bắc Việt. Một bảng phân tích của CIA lúc đó nhận định: “thật ra quân đoàn có rối loạn thì không do lỗi của tướng Thi. Ôâng ấy giống như kẻ chơi bài, hay đặt cược vào vị này rồi mai khác là vị kia. Mục tiêu chính của ông ta là chơi bài chính trị. Đối với thuộc hạ cũng thế.” Tướng Kỳ mang quân ra Đà Nẵng và cuộc dẹp biểu tình, vốn kéo dài 2 tháng, khiến hàng trăm người chết. Tướng Thi sang Mỹ. Thật ra có lần ông đã trở về nước vào tháng 2 năm 1972, nhưng quân đội Việt Nam CH bao vây chiếc máy bay chở ông ngay trên phi đạo và không cho ông đặt chân trở lại quê hương. Tướng Thi không bao giờ được đặt chân xuống đất mẹ lần thứ nhì và máy bay chở ông cất cánh bay về phương trời xa. Có một chi tiết khác là trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, ông đã bị quân Nhật bắt làm tù binh trong nhiều tháng. Chỉ nhờ một cuộc oanh kích của máy bay đồng minh, ông trốn thoát được. Sau chiến tranh, ông bị Việt Minh bắt giam trong 3 tháng, theo tài liệu của gia đình ông. Có lần trong các năm từ 1964 đến 1965, thời Đại sứ Maxwell Taylor, một sĩ quan CIA gặp tướng Thi đang cười toe có vẽ rạng rỡ. Khi người này hỏi tướng Thi tại sao ông cười thì Tướng Thi đáp: “Vì hôm nay là một trong những ngày hạnh phúc nhất của tôi. Hôm nay tôi đã nói thẳng vào mặt viên Đại sứ Mỹ là ông ta không sai bảo chúng tôi được cái gì hết!” Sau này trong quyển “The Best and Brightest” (1969), David Hambestam kể lại chi tiết đó với lời bình: “Một nhắn nhủ nhỏ mà đau thương cho Việt Nam Cộng Hòa là cách duy nhất chống Cộng Sản hữu hiệu là đôi lúc phải đớp chát với chính ông Đại Sứ Hoa Kỳ!” Nguyễn Dương, source Washington Post --------------------------------------------- ----------------------------------- Thứ Sáu 29-6: Chùa Phổ Đà Làm Lễ Tưởng Niệm Tướng Thi Việt Báo Thứ Năm, 6/28/2007, 12:02:00 AM: Chùa Phổ Đà, Quận Cam (VB) . - Chùa Phổ Đà sẽ tổ chức buổi lễ cầu siêu và tưởng niệm cố Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tướng lãnh sống lưu vong từ năm 1966 sau những biến cố chính trị dồn dập tại miền Trung và Saigon lúc ấy. Với rất nhiều người trọng tuổi gốc miền Trung, Tướng Nguyễn Chánh Thi được xem là 1 trong những người hùng cách mạng, dù ông thất bại trong việc chỉ huy một lực lượng tấn công dinh Gia Long ngày 11/11/1963 nhằm thực hiện cuộc đảo chánh chế độ bị lên án là độc tài, đàn áp tôn giáo. Với vị viện chủ chùa Phổ Đà, Hòa Thượng Thích Hạnh Đạo, tướng Thi từng là cấp chỉ huy Tư lệnh Quân đoàn 1 kiêm đại biểu chính phủ vùng 1 chiến thuật vào những năm mà Hòa Thượng là trưởng phòng Tuyên Úy Phật giáo Quân đoàn, được xem tương đương cấp bậc thiếu tá. Riêng với cựu chuẩn tướng Đặng Long (tiếp xúc với báo Việt Báo tại sân chùa Phổ Đà trưa Thứ Tư), tướng Thi là chiến sĩ Dù tài năng, và có tình nghĩa với anh em. "Tôi đến chùa vì nghe tin đây có lễ cầu siêu, tưởng niệm vào chiều Thứ Sáu này. Tôi là đàn em của Tướng Thi, bởi lúc ông là Trung sĩ Nhất Nhảy Dù thuộc tiểu đoàn 6 của Pháp, tôi mới cấp trung sĩ tiểu đoàn 10. Sau đó, ông học khóa sĩ quan ở Đập Đá, còn tôi học khóa 3 Trừ Bị Thủ Đức.", cựu chuẩn tướng Long, 82 tuổi cho biết. Vị tướng lão thành Đặng Long cho biết, “sau này ông biết tôi phục vụ tại Phòng Đặc Nhiệm Phủ Tổng Thống (TT Thiệu), nhưng bao nhiêu năm sau mới gặp lại tại Mỹ, ông vẫn tình chiến hữu như xưa. Lần gần đây nhất còn gặp ông, là bữa ăn tại nhà hàng Hương Vỹ thành phố Garden Grove khi ông về đây chơi, và vẫn thư từ liên lạc thường xuyên.” Theo một bức thư mới nhất đề ngày 29-3-07 được cho xem, nét chữ vị tướng lãnh 84 tuổi này vẫn rất đẹp, nói đùa vùng ông đang cư ngụ những ngày cuối đời là nơi "chó ăn đá gà ăn muối", và cho biết còn đi nhiều thành phố như Nữu Ước, ở Canada để thăm viếng chiến hữu Dù xưa cũ theo lời mời của anh em. Khóa 3 Thủ Đức mà tướng Long theo học, có một số Thiếu Tướng, Đại Tá mà độc giả quen tên, như cố Thiếu tướng Nguyễn khoa Nam, Đại tá Nguyễn trọng Liệu, Đại tá Tạ Tỵ, .v.v. Người có liên quan nhiều đến cố Trung tướng Thi, cựu nghị sĩ, cựu trung tướng Tôn thất Đính đã được ban tổ chức lễ cầu siêu, tưởng niệm liên hệ, và cho biết cũng sẽ đến dự, nghiêng mình, và phát biểu cảm tưởng. Việt Báo --------------------------------------------- ----------------------------------- Tướng Tôn Thất Đính Kể Tướng Thi Nhớ Quê Hương Muốn Về: Tướng Thi Tới Phi Trường TSN, Bị Cấm, Phải Quay Trở Lại Mỹ Westminster (VB) . - Bộc trực, đánh giặc giỏi, đem quân nổi dậy chống chế độ độc tài, rồi chống cả kiêu binh quân phiệt, tham gia phong trào đấu tranh của Phật Giáo đòi hỏi thành lập Quốc Hội Lập Hiến thành công, nhưng rốt cuộc laị bị chính quyền đẩy đi lưu vong "để chữa bịnh đau mũi" và cấm cửa không cho trở về dù nhớ quê hương xứ sở. Đó là nội dung những cảm tưởng được bày tỏ bởi cựu Trung tướng Tôn thất Đính về cựu Trung tướng Nguyễn Chánh Thi vừa qua đời lúc 84 tuổi, sau thời gian sống lưu vong suốt 40 năm, kể từ khi bị cách chức Tư Lịnh Quân Đoàn 1 và Vùng 1 chiến thuật do những xáo trộn ở vùng này năm 1966. Tướng Đính nói trong một cuộc phỏng vấn: "Tôi chống chế độ nhà Ngô năm 1963, còn ông Thi chống từ năm 1960 lận ! Nhưng bởi tướng Thi lúc đó tổ chức gấp rút quá, nên không thành công. Năm 1966, ông cũng đứng về phía lập trường dân tộc tham gia phong trào đấu tranh đoì hỏi thành lập Quốc Hội Lập Hiến. Cuộc tranh đấu biến tình hình Miền Trung căng thẳng, xáo trộn. Tôi đang lúc bị "trù" với chức thanh tra, quân huấn, được tướng Thiệu yêu cầu ra Trung gấp giúp giải quyết tình hình. Tôi ra gặp Tướng Thi, thuyết phục mình cần lo đánh giặc trước, để tình hình rối loạn sẽ không lợi. Tướng Thi bàn giao chức vụ cho tôi và trở về Saigon. ổn định được tình hình rối loạn lúc đó." Sau đó, Tướng Thi bị chính phủ của Tướng Thiệu Tướng Kỳ cô lập, đưa ra Hội Đồng Kỷ Luật, ép buộc qua Mỹ với lý do để chữa bệnh đau mũi. Những năm tháng kế đó, Quốc Hội Lập Hiến được thành lập, với QH Lưỡng Viện. Cựu trung tướng Đính trở thành nghị sĩ Thượng Viện VNCH và có lúc được bầu làm chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng. Khi phái đoàn QH công du HK, tướng Thi tâm sự nhớ quê hương gia đình, nhờ Quốc hội vận động để hồi hương, theo nội dung lời thuật. Tôi và các nghị sĩ trong Ũy Ban QP vận động công khai trước Ủy ban, trước khoáng đại QH, cả lúc gặp Tổng Thống Thiệu. "Được đồng ý cho tướng Thi về, nên Tướng Thi mới về bằng chuyếnbay hãng PanAm. Nhưng khi về tới phi trường Tân Sơn Nhất, thấy thân nhân tiếp đón đông đảo quá hay sao đó, chính quyền có lịnh máy bay phải đưa Tướng Thi trở lại Mỹ, các nghị sĩ chúng tôi trở tay không kịp và thấy sự ngăn cấm thật vô lý", cựu nghị sĩ Đính thuật lại. Tướng Đính cũng kể ra nhiều chiến công của cựu trung tướng Nguyễn Chánh Thi nhưng cũng nhận xét Tướng Thi thẳng thắn, bộc trực, và... nóng nảy. Ông cho biết, sẽ đến dự lễ cầu siêu, tưởng niệm vào chiều Thứ Sáu này tại chùa Phổ Đà, "bởi Tướng Thi là một người đánh giặc giỏi, yêu nước, chống độc tài và quân phiệt, chống sự thao túng của ngoại bang, đòi hỏi phải có Quốc Hội Lập Hiến mới để đáp ứng tình thế, nhưng rồi bị đẩy phải sống xa đất nước" Việt Báo
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 18, 2012 1:59:33 GMT 9
THIÊN THẦN MŨ ĐỎ
Ai còn ? Ai mất ?
Mũ Đỏ Lê Quang Lưỡng.
LTS. Tướng Lê Quang Lưỡng Tư Lệnh sau cùng của Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, Ông xuất thân từ Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cùng khóa với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu................Tướng Lê Quang Lưỡng phục vụ trong Binh Chủng Nhảy Dù Việt Nam từ ngày 15 tháng 6 năm 1954 với cấp bậc thiếu úy Trung Đội Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, ngày 1 tháng 9 năm 1965 với cấp bậc Thiếu Tá, ông thành lập Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù, ngày 1 tháng 1 năm 1968 với cấp bậc Thiếu Tá, ông nhận chức vụ Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, ngày 22 tháng 11 năm 1972 với cấp bậc Chuẩn Tướng, ông nhận chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù, ngày 29 tháng 4 năm 1975 ông di tản sang hoa kỳ, định cư tại thành phố Hampton tiểu bang Virginia, Ông về cõi Niết Bàn ngày 21 tháng 9 năm 2005 tại Bakersfield, miền trung Tiểu Bang California, Ông ra đi sau cơn bệnh ngặt nghèo, kéo dài lâu ngày. Ông để lại luyến thương sâu xa cho đoàn quân Mũ Đỏ.
Ông là vị Tướng, vị Tư Lệnh Nhảy Dù duy nhất sinh hoạt chặt chẽ với Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam từ năm 1980 đến năm 2005; năm 1990 ông cùng Đại Tướng Vaugh Hoa Kỳ dẫn đầu đoàn diễn hành, của Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam, đi diễn hành trên đại lộ Constitution, Washington D.C., cùng với các đơn vị Nhảy Dù của 32 quốc gia bạn, nhân ngày kỷ niệm 50 năm thành lập binh chủng Nhảy Dù Hoa Kỳ, đơn vị của QLVNCH đầu tiên và duy nhất từ trước cho đến nay, được mời chính thức rước ngọn cờ Vàng ba sọc Đỏ giữa lòng thủ đô Hoa Kỳ, hai bên đường dân chúng Hoa Kỳ và đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản, đón tiếp và cổ võ nồng nhiệt.
Bài " Thiên Thần Mũ Đỏ. Ai còn? Ai Mất?", được báo Hồn Việt xuất bản tại miền Nam Ca Li đăng từ năm 1984, chúng tôi xin đăng lại bài này, với bản thảo chính gốc, chúng tôi hoàn toàn không hiệu đính như những báo khác, kể cả báo Hồn Việt, để anh chị em Mũ Đỏ đọc và suy gẫm, xin các anh chị em Mũ Đỏ: Chúng ta cùng nhau thắp nén hương lòng tưởng nhớ người anh cả của binh chủng Nhảy Dù từ năm 1971-1975.
Tôi vẫn nhớ rõ như mới nhìn thấy hôm qua những khuôn mặt, giọng nói tác phong của những anh em Dù đã cùng tôi vào sinh ra tử. Thiếu Tá Thanh Tiểu đoàn 8 mà đồng đội của người Tiểu Đoàn Trưởng nầy thường gọi là Thanh Râu. Anh em chúng tôi có Thiếu Tá Châu Lùn Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1, Thiếu Tá Hạnh, Hào Hoa Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Thiếu Tá Trang Trĩ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Tá Bùi Quyền, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 nổi nóng mặt đỏ gay, Thiếu Tá Lô Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7, biệt danh là Lô Lọ Rượu. Anh em chúng tôi còn có Cậu Út Biên Hòa hay cậu "Bảy Tình" Mười Lựu Đạn tức Trung Tá Thành, Tiểu Đoàn 6, Trung Tá Trần Đăng Khôi Lữ Đoàn 2 tài đức song toàn.
Thiếu Tá Đường TĐ9, thích làm thơ tình lãng mạn, gọi là Đường Thi Sĩ, anh em chúng tôi có Thiếu tá Hồng Thu, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 16 gọi Cô Thu. Chúng tôi có hai Ngọc, Ngọc Long Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 và Ngọc Nga, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 4, Làm sao anh em Dù chúng tôi quên được, chúng tôi có 2 người bạn anh hùng, mỗi người chỉ có một mắt. Trung Tá "Bùi Đăng" trong thẻ quân nhân không phải họ "Bùi" cũng chẳng có tên "Đăng", tên anh là Bằng, Anh chỉ có một mắt. Nhưng những chiến sĩ của anh gọi anh một cách âu yếm là Bùi Đăng. Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 2 cũng chỉ có một mắt từ ngày còn là Đại Đội Trưởng Tiểu Đoàn 5, anh em Dù gọi là Hiệp sĩ Mù, tội nghiệp Sơn đã hy sinh trong trận chiến sau cùng tại mặt trận Phan Rang. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù của chúng tôi, Hiệp sĩ mù của Thiên thần Mũ Đỏ không xử dụng cùng một loại vũ khí như Hiệp sĩ mù của phim ảnh và tiểu thuyết. Nhưng oai phong người Hiệp sĩ của Quê Hương ta, chẳng thua sút sự hào hiệp của người trong truyện. Chúng tôi có Hiệp sĩ mù, chúng tôi có nhiều lắm. Làm sao quên Đại Tá Nguyễn Thu Lương, anh em thân thương gọi là Lương Ruột Ngựa. Đỉnh Tây Lai, Bố già Đại Tá Lê Văn Phát, người tử thủ Khánh Dương, người lính già có mặt hầu hết những trận lớn của Quê Mẹ? Bố Già Lữ Đoàn 3? Đúng, chúng tôi có Bố Già đó.
Tháng 6/1972, sau trận Bình Long, tôi được trả về Sư Đoàn Dù, ít lâu sau SĐ Dù được đưa ra Đà Nẵng để tăng phái cho Quân Đoàn I. Lúc đó tôi là Lữ Đoàn Trưởng LĐ1 Nhảy Dù. Cùng với LĐ1 ra vùng I có LĐ2 và LĐ3. Thời gian nầy, Trung Tướng Dư Quốc Đống là Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù.
Sự phân phối các đơn vị Dù tại Quân Đoàn I lúc ấy như sau: Toàn bộ Sư Đoàn Dù ở phía bắc sông Mỹ Chánh, đang tiến quân về hướng Quảng Trị, dọc theo sườn dẫy trường sơn . Tháng 9/1972, tôi được bổ nhiệm làm phụ tá hành quân Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù. Vào tháng 8 năm đó, Trung Tướng Dư Quốc Đống bị bệnh, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó Sư Đoàn được chỉ định đảm nhận Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, còn Đại Tá Bảo, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn thì vừa tử nạn phi cơ, do đó tôi được đảm nhận trách vụ xử lý thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù một cách không chính thức. Cuối tháng 8, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi tôi vào Dinh Độc Lập để làm lễ thăng chức Chuẩn Tướng cho tôi, và sau đó tôi được bổ nhiệm Tư Lệnh phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đóng tại căn cứ Hiệp Khánh, cây số 17 Bắc Huế. Đến tháng 11/1972, tôi chính thức nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, thay thế Trung Tướng Đống từ nhiệm vì lý do sức khỏe. Khoảng thời gian 72 đến 75 ải địa đầu của Tổ Quốc của ta không phải là vùng đất bình lặng, Quảng Trị, Thạch Hãn, Chu Lai, Cố Đô Huế. Những danh xưng đủ nói lên những trời giao động. Những người lính chiến được đồng bào gọi một cách âu yếm là "Thiên Thần Mũ Đỏ". Trong suốt thời gian máu lửa đó đã có mặt khắp cùng trên những vùng đất ải địa đầu, cùng anh em quân nhân thuộc các quân binh chủng khác, mang lại cho đồng bào, tuy không phải sự bình yên tuyệt đối cũng là một tình hình khả quan.
Năm 1975 vào những ngày tháng lịch sử, sự phân phối các đơn vị Dù như sau: Hai Lữ Đoàn ở phía nam đèo Hải Vân, một Lữ Đoàn ở phía bắc đèo Hải Vân, chúng tôi đứng vững ở vùng I; Đập những nhịp tim tin tưởng, anh em chúng tôi, một mặt nhìn bao quát tình hình chiến trường khắp nước, một mặt theo dõi mọi tiến thoái của các đơn vị đối phương trong vùng, tay gìm súng sẵn, chờ địch quân. Thói quen tiến vào chỗ chết, thói quen chấp nhận mười thua một ăn mà vẫn chiến đấu oai hùng, đó là đặc tính của anh em Nhảy Dù, mặc dù tin tức giao động đến từ bốn phía, vẫn tiếp tục sẵn sàng chiến đấu, tiếp tục cố gắng.
Lệnh của cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gọi Sư Đoàn Dù về Sài Gòn hiện ra với tôi, bởi đó như một chấn động. Lúc đó tôi chờ đợi mọi thứ trong tư thế sẵn sàng. Đợi đối phương ào ạt vượt sông Thạch Hãn, đợi chiến xa địch đến đây, miền Trung kiêu hãnh từ những vùng rừng rậm Nam Lào cho đến miền đồng bằng cát trắng Hội An. Nhưng tôi không chờ đợi được điều đó. Lệnh di chuyển Sư Đoàn Dù về Sài Gòn, lệnh không phải chỉ nghe một phía mà từ mọi hướng. Ngày 10.03.1975, Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuộc. 11.03.1975 Ban Mê Thuộc thất thủ. Tổng Thống Thiệu gọi Trung Tướng Trưởng vào SàiGòn nhận chỉ thị. Lệnh khủng khiếp, lệnh làm choáng váng, làm tan nát, đó là "Bỏ vùng I". Dường như muốn cho lệnh tổng quát đó được thi hành chính xác, Tổng Thống Thiệu đòi Trung Tướng Trưởng phải tức khắc cho rút Sư Đoàn Dù về Sài Gòn ngay. Cho chắc ăn, Sài Gòn qua lệnh rút Sư Đoàn Dù về, muốn trói tay Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I. "Trói tay" là một hình ảnh dễ hiểu nhưng có lẽ không đủ nghĩa. Sài Gòn đã lấy mất thanh gươm và chặt hết một cánh tay, cánh tay cầm gươm của Tướng Trưởng khi đối phương bắt đầu tiến tới.
Chỉ sau vài chục giờ sau khi lệnh Tướng Trưởng trả Dù về Sài Gòn, công điện tối mật của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thay vì do Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng ký, nhưng lại do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký gởi cho Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, hạ lệnh toàn bộ Sư Đoàn Dù rời khỏi miền Trung không chậm trễ. Lúc đó tin Thủy Quân Lục Chiến rút khỏi Quân Đoàn I cũng bắt đầu loan ra.
Ngày 17/03/75, sau khi đã thực hiện đầy đủ những giải pháp kỹ thuật cho các anh em Dù rời miền Trung, chuyển vận, tiếp liệu, an toàn khi ra đi v.v...tôi lên gặp Trung Tướng Trưởng để chào từ giã. Tôi nói với Trung Tướng Trưởng về việc Thủy Quân Lục Chiến cũng sẽ ra đi. Tôi cũng nói lên những lời hàm ý chia sẻ ưu tư của Trung Tướng về sự "Trói tay", sự tước bỏ mọi hỗ trợ trước một trận đánh lớn. Khuôn mặt Tướng Ngô Quang Trưởng, vẫn sẵn ưu tư, càng hiện ra ảm đạm. Ông chỉ cầm tay tôi nói:"Cảm ơn anh và các Anh em Nhảy Dù đã giúp tôi rất nhiều trong những năm qua".
Anh em quân nhân Nhảy Dù nghĩ rằng mình được di chuyển toàn bộ về Sài Gòn. Các Sĩ quan chỉ huy từ Đại Đội cho đến Lữ Đoàn được loan báo là họ được di chuyển về thủ Đô VNCH. Tướng Trưởng được lệnh "trả Sư Đoàn Dù về SàiGòn". Lệnh tôi nhận được cũng rất rõ rệt: Đưa Sư Đoàn Dù về Sài Gòn.
Có thể những sử học trong tương lai cũng tóm tắt sự di chuyển của anh em chúng tôi bằng những dòng chữ "Tướng Thiệu, để chặt tay Tướng Trưởng, để gây cho Dân, Quân miền Trung sự kinh hoàng tột độ, mở đầu cho tan rã ồ ạt, hạ lệnh rút Sư Đoàn Dù ra khỏi tuyến đầu".
Sự việc không hoàn toàn đơn giản như thế. Lệnh rút Sư Đoàn Dù về SàiGòn chỉ là một lệnh bề mặt mà chiều sâu là phân tán Sư Đoàn Dù. Ông Thiệu áp dụng kế hoạch "Bẻ bó đũa" làm tan tành một đoàn quân bách chiến, một Binh chủng oai hùng, xô đẩy những Thiên Thần vào hỏa ngục. 12 Tiểu Đoàn Trưởng trên 18 Tiểu Đoàn, linh hồn của đoàn quân Mũ đỏ hoặc gục ngã ở chiến trường sắp đặt, hoặc rơi vào tay địch, có cả một Lữ Đoàn tan thành mây khói, có cả một Lữ Đoàn đánh đoạn hậu bảo vệ cho đồng bào di tản và tới phiên mình quân trải trên một diện tích rộng lớn, chỉ còn dưới tay được mấy trăm con.
Lệnh tôi nhận được là chia Sư Đoàn Dù ra làm hai nhánh, một đi tàu thủy và một do không vận. Lữ Đoàn 1 và 2 di chuyển bằng phi cơ của Không Lực VNCH. Lữ Đoàn 3 di chuyển bằng tàu HQ-404 của Hải Quân VN. Lữ Đoàn 1 và 2 đến điểm hẹn như ấn định, nhưng Lữ Đoàn 3 không được đưa đến nơi. Khi HQ-404 đến gần Nha Trang thì Hạm Trưởng nhận được lệnh đổ anh em xuống Nha Trang. Tôi chưa kịp ngạc nhiên, nhưng ý tưởng thắc mắc vì sao Tổng Thống Thiệu nói đưa toàn bộ Sư Đoàn Dù về Sài Gòn để rồi phân tán một phần đi nơi khác. Dù vậy, không bao giờ tôi quên được khuôn mặt, mắt liếc xéo, nụ cười khoái trá, giọng nói chứa đựng thỏa mãn, toàn bộ khuôn mặt toát ra một sự khoan khoái kỳ lạ. Cựu Tổng Thống nhìn tôi với tia mắt kỳ lạ đó với nụ cười ở cuối môi, ông nói: "Theo anh liệu Trung Tướng Trưởng có giữ nổi Quân Đoàn I khi tôi rút Sư Đoàn Dù về đây không?".
Mặc dù lệnh lạc lung tung, bảo về Sài Gòn lại đổ xuống Nha Trang, mặc dù bảo về dưỡng quân lại được ném ra mặt trận, là một quân nhân kỷ luật, ý thức được rằng sức mạnh đến từ kỷ luật sắt thép, anh em Lữ Đoàn 3 xuống Cầu Đá Nha Trang là lên đường đi chiến đấu ngay. Đại Tá Lê văn Phát, người nắm Lữ Đoàn 3 cũng là người có biệt hiệu "Bố Già" đặt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn tại Huấn Khu Dục Mỹ. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn 3 là nút chặn địch ở Khánh Dương giúp cho các Đơn vị của Quân Đoàn II rút lui an toàn. Biết rõ sự oai hùng của các Thiên Thần Mũ Đỏ của QLVNCH, Văn Tiến Dũng tung 2 Sư Đoàn với quân số 6 lần, là những SĐ 320 và SĐ 10 đánh bọc ngang hông. Lữ Đoàn 3 Dù bình tĩnh và oai hùng chiến đấu, quất cho quân địch tổn thất nặng nề. Lữ Đoàn 3 còn ở Khánh Dương, địch không thể đi lên một bước. Ngày 28/03, vì quân số đối phương đông gấp 10 lần, nên không thể ngăn chặn vĩnh viễn, vì lệnh Sài Gòn hay vì một lý do nào khác, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã ra lệnh cho Đại Tá Phát rút Lữ Đoàn 3 từ Nha Trang vào Phan Rang, sau đó lệnh lại được đưa xuống là bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và các thành phần yểm trợ thì rút về Phan Rang, còn 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 thì rút lên núi trấn giữ ở đó. Tại sao lại đưa 3 Tiểu Đoàn Dù lên núi? Nghe tin này tôi vội vã bay ra Phan Rang.
Tư Lệnh Nhảy Dù trên nguyên tắc và bởi định nghĩa là người chỉ huy binh chủng Nhảy Dù. Nếu không được tham dự vào việc soạn thảo kế hoạch hành quân, thì ít nhất trách nhiệm chiến thuật phải được trọn vẹn. Tôi không được Bộ Tổng Tham Mưu hay Phủ Tổng Thống tham khảo một lần nào về việc lui quân, kể từ ngày binh chủng Dù được bốc khỏi Vùng I, quyền chỉ huy, chiến thuật binh chủng Dù, quyền xử dụng anh em quân nhân Dù cũng vượt ra khỏi tầm tay của Tư Lệnh Dù. Anh em binh chủng tôi, đã bị chặt và giao cho người nầy một mảnh, người kia một miếng. Khi nhìn thấy chiến hữu của tôi bị vất vả cùng cực, tôi chạy ngược chạy xuôi đi can thiệp. Trong những giờ chạy đôn chạy đáo, ý tưởng ghê gớm lóe lên trong tôi, "Phải chăng một ác thần đang làm tê liệt hàng vạn tinh binh trước khi mở ra cuộc hỏa thiêu thành La Mã?".
Tôi bay ra Phan Rang gặp ngay Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi lúc đó là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, đang chỉ huy Bộ tư Lệnh tiền phương Quân Đoàn III tại đây. Nơi đó tôi cũng gặp Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân. Tôi yêu cầu cho trực thăng lên núi bốc 3 Tiểu Đoàn 2, 5, 6 về Phan Rang. Tướng Nghi chấp thuận, chỉ thị Tướng Sang cho Không Quân giúp. Anh em trực thăng đã rất nhiệt tâm và can đảm trong việc bốc hơn 1000 người bỗng nhiên bị ném lên một ngọn núi chơ vơ mà không một lý do chiến lược hay chiến thuật nào giải thích được cả. Lữ Đoàn 3 trong tư thế vững vàng, sẵn sàng chiến đấu nghiêm chỉnh trong vị trí đứng đắn. 30.03.1975, tôi tạm yên tâm, bay về Sài Gòn.
Vừa đặt chân đến Thủ Đô, tôi được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu cho Lữ Đoàn 2 ra Phan Rang thay thế Lữ Đoàn 3, Lữ Đoàn 3 về Sài Gòn tái chỉnh trang Đơn vị. Tôi muốn hét to lên: Tăng cường chớ sao lại thay thế? Mặt trận đang nặng, rút một đập ngăn nước lớn đi, đập mới chưa dựng xong, nước sẽ ùa tới mang lụt lội tàn phá tan tành! SĐ 310 và 320 của đối phương đang di chuyển nhanh về vùng 3 chính vào lúc đầu tháng tư nầy. Sư Đoàn 10 của địch càn quét Nha Trang. Mặt Bắc là Sư Đoàn 10, Nam là các SĐ 310 và 320, tăng chúng ào ào, tù nhân thả ra do bàn tay bí mật từ các khám đường, một số quân nhân của một binh chủng bị mất cấp chỉ huy sinh rối loạn, chính trong biển hỗn loạn và tan vỡ đó, người ta ném Lữ Đoàn 2 Dù, những đứa con thân yêu ruột thịt của tôi, những bằng hữu vào sinh ra tử, nằm gai nếm mật của tôi, trọn lượng ném vào khoảng trống, viên ngọc quý ném vào đại dương giông bão. Ba Tiểu Đoàn 3, 7, và 11 của Lữ Đoàn 2 chiến đấu như những con cọp bị vây hãm, dường như sợ cái đại dương hỗn loạn đó chưa đủ làm thành một hỏa ngục rực lửa, người ta không ai còn nhớ đến việc tiếp tế cho những Thiên thần Mũ Đỏ từ trời cao đáp thẳng xuống địa ngục A Tỳ.
Anh em Lữ Đoàn 2 mặc dù tình hình rối loạn, mặc dù tin tức giao động từ bốn phía, mất Quân Đoàn I, Quy Nhơn thất thủ, Nha Trang thất thủ, anh em vẫn chiến đấu, cho đến viên đạn cuối cùng. Tiểu Đoàn 6 sau những trận oai hùng được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu rút khỏi Phan Rang, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân của Đại Tá Biết thay thế. Nhưng Tiểu Đoàn 3 chỉ 100 anh em được trực thăng bốc về Phan Thiết, Tiểu Đoàn 11 mất liên lạc toàn diện. Tôi mất Thiếu Tá Thành, con chim đầu đàn của Tiểu Đoàn 11 và Đại Tá Nguyễn Thu Lương, mà anh em chúng tôi thường gọi một cách thân thương là "Lương Ruột Ngựa", con chim đầu đàn của Lữ Đoàn 2 cũng tại vùng đất lửa này. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân cũng lọt vào tay địch ở Phan Rang.
Chiếc đũa Lữ Đoàn 2 bị bẻ gãy, chiếc đũa Lữ Đoàn 3 bị ném tại Khánh Dương, bốc về Phan Rang, lửa hỏa lực nung nấu mệt nhừ. Ngày 8.4.1975, viên Trung Úy Không Quân tên Trung ném bom Dinh Độc Lập, về mặt dân sự, một số chính khách đối lập bị bắt giữ. Nhưng phản ứng của Tổng Thống Thiệu là đưa "chiếc đũa Lữ Đoàn 1" chiếc đũa còn nguyên vẹn của bó đũa bị tách rời từng chiếc, ra tăng phái Quân Đoàn III, dưới quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Văn Toàn. Ý tưởng rõ rệt trong tôi lúc đó, và cả bây giờ là Tổng Thống Thiệu sợ đảo chánh nên phân tán các đơn vị Nhảy Dù ra các nơi. Tôi là Tư Lệnh Nhảy Dù nhưng tay chân hoàn toàn bị chặt hết.
Ý tưởng làm sống dậy hình ảnh, một ngày tại vùng I, ở Cố Đô Huế, tôi nói với Trung Tướng Ngô Quang Trưởng: "Trung Tướng cứ để anh em tôi về Sài Gòn làm một chuyến, thử xem sao?" Trung Tướng lắng nghe lặng lẽ. Tôi hiểu Tướng Trưởng cũng như anh em chúng tôi là những người lính đơn thuần, chỉ lấy việc bảo vệ Quê Hương làm quan trọng, không màng gì tới danh vọng và chính trị, chúng tôi không có thói quen chọn lựa những quyết định không liên quan trực tiếp đến chiến trường. Cựu Tổng Thống Thiệu có nghe phong phanh về những toan tính đó không? Trong mọi trường hợp, lúc đó tôi nghĩ là ông phân tán anh em chúng tôi vì nghi ngờ. Bây giờ tôi còn muốn nghĩ như thế. Trừ khi ông muốn bẻ tan bó đũa vì lý do khác
- Lý do khủng khiếp
- Tôi không muốn nghĩ tới lý do đó. Tôi muốn nghĩ đến một sự nghi ngờ. Như một sự xua đuổi ý nghĩ ghê gớm kia.
Lữ Đoàn I ra Quân Đoàn III trấn giữ Xuân Lộc, tăng phái cho Sư Đoàn 18 do Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy. Nhiệm vụ của Lữ Đoàn là chận đứng bước tiến của VC vào SàiGòn. Anh em Dù của Lữ Đoàn 1 đã oai hùng làm tròn nhiệm vụ, địch quân không tiến thêm được một tấc đất. Đoàn quân viễn chinh của Võ Nguyên Giáp, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng, tiến như thác đổ, bị khựng lại ở ngay cửa ngõ của SàiGòn. Từng đợt xung phong có chiến xa và pháo binh yểm trợ, tất cả đều bị đánh bật, tiến lên là phải lùi lại, tấc đất đánh được buổi sáng, buổi chiều anh em Dù ngạo nghễ giành lại. Sau nhiều ngày giao tranh, Sư Đoàn 18 được lệnh rút về Biên Hòa qua ngã Bà Rịa, Lữ Đoàn 1 chiến đấu giữ vững trận tuyến, từ đầu tới cuối. Sau chót đến đêm 28 rạng 29/04, Bộ Đội CS tấn công Lữ Đoàn 1 Dù ở Lăng Can, Bà Rịa đánh đến giờ chót, Lữ Đoàn 1 Dù mới rút ra Vũng Tàu. Tôi được lệnh trực tiếp cho Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù, mà anh em chúng tôi âu yếm gọi là Đỉnh Tây Lai, đứng ở dưới bờ bảo vệ cho những đứa con lên tàu. Người chỉ huy Nhảy Dù có thói quen ở với hiểm nguy cho tới phút cuối cùng, dành sự an toàn cho từng đứa con yêu quý. "Đỉnh Tây Lai" là một trong những Thiên Thần lẫm liệt đó.
Về phần Lữ Đoàn 4, từ Đà Nẵng được rút về SàiGòn giữa tháng 02/74, biệt phái Biệt Khu Thủ Đô. Chính Lữ Đoàn 4, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em Dù chúng tôi âu yếm gọi là "Ngọc Nga", đã chận VC ở cửa ngõ Thủ Đô, ngang Xa Lộ Biên Hòa, trong những giờ khắc Sài Gòn bắt đầu rơi vào rối loạn. Lữ Đoàn 3 của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Lữ Đoàn Phó mới thay thế Đại Tá Phát trong chức vụ Lữ Đoàn Tưởng Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi Quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, thay thế Khôi trong chức vụ Lữ Đoàn Phó lữ đoàn này) từ Phan Rang rút về đóng ở Hoàng Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong lòng Thủ Đô, mặc dù trăm nghìn giao động cho tới phút chót. Đến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân, làm nút chặn địch, để đồng bào ra đi bình yên, để được ngã gục trên thân thể của Quê Mẹ nghìn đời.
Tướng Lê Quang Lưỡng
Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù/ QLVNCH
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 24, 2012 9:12:57 GMT 9
Chuyện chưa kể của người lái trực thăng di tảnViệt Hà, phóng viên RFA 2010-04-20 Hàng năm, vào dịp 30/4, tại triển lãm trên chiến hạm Midway của Mỹ tại San Diego, đông đảo người Việt lại họp mặt để ôn lại kỷ niệm xưa khi họ rời Việt nam bằng trực thăng và hạ cánh xuống tàu. Photo courtesy of vnwarflight.com Trực thăng tải thương trong chiến tranh Việt Nam. Rất nhiều người Việt đã rời Việt nam như vậy. Đó là nhờ những người phi công Việt nam tài giỏi đã góp phần làm nên một phần lịch sử trên tàu Midway. Có một người phi công lái trực thăng cũng ra đi vào ngày đó và mang theo mình sinh mạng của hàng chục người khác. Nhưng ông không hạ cánh xuống tàu Midway nổi tiếng. Chuyến bay ngày hôm đó của ông cũng ly kỳ chẳng kém gì những đồng đội của ông trên tàu Midway. Tạp chí câu chuyện hàng tuần kỳ này xin được gửi tới quý vị câu chuyện 35 năm trước của Trung uý phi công Vũ Minh Thám. 35 năm trước Trong những dấu ấn không thể nào quên cuả cuộc đời của mỗi con người, có những kỷ niệm buồn và những kỷ niệm vui, nhưng đối với phi công tải thương Vũ Minh Thám, thì ngày định mệnh 30 tháng tư của 35 năm về trước lại là một kỷ niệm hòa trộn cả buồn lẫn vui. Đầu năm 1975 là những tháng ngày gần cuối cuộc chiến. Quân Bắc Việt mở các cuộc tấn công dồn dập vào nhiều thành phố lớn của miền Nam, kéo theo đó là hàng đoàn người, xe di tản theo quốc lộ 1 vào Sài gòn. Ngày 11 tháng 3 năm 1975, Buôn Ma Thuột thất thủ. Lúc này, trung uý Vũ Minh Thám, 25 tuổi, đang lái máy bay trực thăng Huey cho phi đội tải thương 259 Pleiku thuộc sư đoàn sáu không quân. Trong phi trường lúc đó có rất nhiều máy bay, không biết là bao nhiêu phi đoàn phi đội khắp nơi họ đổ về. Ai chụp được cái máy bay nào thì cứ việc bay cái máy bay đó lên. Ông Vũ Minh Thám Sau khi Việt Cộng chiếm được Buôn Mê Thuột, sư đoàn 6 không quân được lệnh rút về Nha Trang. Ở Nha trang được khoảng 3 ngày, phi đội lại rút về Sài gòn. Ít ngày sau, do phi trường Tân Sân Nhất rối loạn, ông được lệnh rút tiếp về Cần Thơ. Sáng 30 tháng 4, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Ông Vũ Minh Thám nhớ lại khoảnh khắc đó: Vũ Minh Thám: Lúc đó tôi đang ở dưới Cần Thơ. Cả phi đội tải thương của chúng tôi và những phi đoàn tác chiến khác cũng ở dưới Cần Thơ. Khi đầu hàng rồi, thì phải có hệ thống chỉ huy thì mới có thể chống đỡ nổi chứ hỗn quân hỗn quan thế này thì phải chạy. Trong phi trường lúc đó có rất nhiều máy bay, không biết là bao nhiêu phi đoàn phi đội khắp nơi họ đổ về. Ai chụp được cái máy bay nào thì cứ việc bay cái máy bay đó lên. Lúc đó không còn gọi là phi hành đoàn chung với nhau mà người nào nhảy lên được cái nào thì bay cái đó giống như xe buýt vậy. Có khoảng 10 người lính trong phi trường họ nhào lên máy bay, họ bay với tôi. Suy nghĩ đầu tiên mà ông Thám có lúc đó là làm sao bay về nhà để cứu mẹ, và đưá con trai 3 tuổi ở Đại Ngãi thuộc tỉnh Sóc Trăng, và gia đình người yêu trong thành phố Cần Thơ. Chiếc Huey của ông bình thường chỉ trở tối đa không quá 15 người. Ông bay thẳng từ phi trường đến nhà người yêu ở thành phố mất khoảng 5 phút. Khác với bao lần khác đến nhà người yêu, lần này ông đến bằng trực thăng, và vì nhà không được thiết kể để có chỗ đáp máy bay nên ông phải đáp lên giàn hoa gỗ mong manh trên sân thượng căn nhà gác. Ông kể: Vũ Minh Thám: Nó chỉ là một cái patio (dàn hoa). Lúc đó đậu rất nhẹ , vì nếu mình mà đáp lên trên đó thì nó nặng nó sụp hết, hư hết máy bay. Hovering rất sát, có một chút xíu trọng lượng lên đó, không quá nặng để giàn hòa sập và không quá nhẹ để mất điều khiển của mình, vì nếu hovering không thì nó rung dữ lắm. Tôi đáp rất nhẹ và người ta nhào lên máy bay. Khi máy bay của ông đến đón gia đình ở Cần thơ, thì những người đi đường nhìn thấy và họ cũng trèo lên mái để được vào máy bay di tản. Trong khi đó, một số khác ào vào nhà để hôi của. Cuộc di tản khó khăn Ông Vũ Minh Thám, hình do Ông cung cấp cho RFA. Sau khi đón xong gia đình người yêu, ông bay về Đại Ngãi để đón mẹ và con. Thời gian bay mất khoảng 15 phút. Lúc này, dù cuộc chiến đã được tuyên bố chấm dứt, nhưng trên thực tế lính hai bên vẫn bắn nhau và làm cho cuộc di tản bằng trực thăng của ông vốn đã khó khăn lại trở nên vô cùng khó khăn. Ông nhớ lại: Vũ Minh Thám: Về tới Đại Ngãi, đó là quê của tôi, tôi lớn lên ở đó mấy chục năm nên tôi rất rành rẽ. Lúc đó quân đội Bắc Việt đang tấn công vào trong xã Đại Ngãi. Hai bên đang bắn nhau. Tôi ở trên trời tôi thấy súng đạn lửa bắn qua bắn lại như vậy. Và tôi cũng nhìn thấy mẹ tôi ẵm con tôi chay ra bãi đáp đó. Lòng tôi phân vân giờ làm sao. Xuống hay không xuống. Không lẽ mình đi mình bỏ gia đình, bỏ mẹ lại làm sao. Tôi bay hai vòng trên chỗ mà tôi định đáp xuống. Tôi quyết định thôi cứ đáp xuống đi. Mẹ mình đã ẵm con mình ra như vậy. Tôi đáp xuống thì họ thôi không bắn nhau nữa. Lính Việt cộng nhấp nhố, bên Cộng Hòa cũng vậy. Mẹ và con tôi nhảy lên máy bay. Ngay sau khi mẹ và đứa con đã lên máy bay an toàn, ông quyết định cất cánh. Nhưng ngay chính lúc ông cất cánh cũng là lúc các tay súng nhắm thẳng máy bay ông bắn tới tấp. Ông cho rằng phía Việt cộng đã làm vậy vì lính bên xã Đại Ngãi biết rõ ông nên không thể bắn ông. Lúc này máy bay ông đã chở đến 35 người, tức là quá sức chở quy định đến 20 người. Ông phải sử dụng công suất tối đa để bay ra. Ông bay sát ngọn cây ra ngoài khoảng 500 thước thì mới bắt đầu nâng độ cao. Lúc này trời mưa, thời tiết hoàn toàn không thuận lợi cho phi hành: Vũ Minh Thám: Tôi còn nhớ hôm đó trời mưa. Không có mưa lớn lắm, nghĩa là cũng đủ để nhìn nhưng không nhìn xa được. Bắt đầu máu của những người bị thương và dầu transmission cuộn lại và bao phủ phía trong kính máy bay. Tôi phải dùng tay trái để gạt nó đi để thấy đường bay. Sau đó tôi bay lên. Từ Đại Ngãi tôi bay về phía bờ biển là bờ biển Bảy Giá, cũng khoảng 5, 10 phút bay. Bờ biển lúc đó trống không toàn là rừng dừa nước, đáp chỗ nào cũng được. Lúc đó mình bình tĩnh mình nhìn trở lại thì những người chết họ nằm xuống. Những người bị thương than khóc. Về tới Đại Ngãi, lúc đó quân đội Bắc Việt đang tấn công vào trong xã Đại Ngãi. Hai bên đang bắn nhau. Tôi ở trên trời tôi thấy súng đạn lửa bắn qua bắn lại. Ông Vũ Minh Thám Đây là lúc ông phải quyết định đi hay ở, một quyết định mà ông cho là khó khăn nhất từ trước đến giờ trong suốt cuộc đời vào sinh ra tử trên chiến trường của mình. Vũ Minh Thám: Tôi bay hai vòng trên biển, tôi phải đi đến quyết định là đi hay ở. Đời tôi đã từng chiến đấu, vào sinh ra tử nhiều lần. Nhưng hồi đó mình chở người khác bị thương, và những người chết khác. Mình cứ làm nhiệm vụ của mình và mình không phải quyết định nhiều. Lần này là một chuyến đi, những người bị thương là những người quen biết của mình. Và chuyến đi này không biết đáp ở đâu, có ai cứu mình hay không. Lúc đó trời không có nóng lắm mà tôi nhớ mãi những giọt mồ hôi của tôi từ gáy nhiễu xuống theo áo tôi đi xuống ướt hết cả thắt lưng. Sau hai vòng bay, cuối cùng ông quyết định ra đi. Ông đã biết từ trước là ngoài khơi, cách Sài gòn khoảng 50 hay 70 mile có tàu Mỹ đậu và ông hy vọng có thể bay tới tàu này để hạ cánh. Lúc này suy nghĩ duy nhất của ông là đến được tàu Mỹ để những người bị thương được chăm sóc. Khó khăn chồng chất khó khăn. Máy bay lúc này đã bị hư hỏng nặng. Đồng hồ chỉ vận tốc và xăng nhớt không còn hoạt động. Ông bay mà không biết máy bay có thể bay được bao lâu nữa. Nhưng rất may khi bay đi tìm tàu Mỹ, vào khoảng trưa ngày 30 tháng 4 ông đã gặp một tàu hải quân Việt nam, chiếc HQ 5 ngoài khơi. Lúc đầu những người trên tàu chưa biết ông là ai nên họ chĩa súng vào máy bay. Ông cho máy bay bay chậm hai vòng để những người lính trên tàu hiểu là ông cũng như họ, đang trên đường di tản. Mũi của tàu hình chữ V, tôi chỉ đáp được một càng. Trực thăng có hai càng, tôi đáp một càng xuống. Tất cả những người ở trên xuống tàu. Ông Vũ Minh Thám Khi các họng súng trên tàu hạ xuống thì là lúc ông phải đối mặt với một quyết định khác nữa là tìm chỗ đậu để mọi người xuống tàu an toàn. Dù là một tàu hải quân lớn, nhưng tàu HQ5 không có chỗ đậu máy bay. Mũi tàu nơi có họng súng đại bác đã chĩa lên máy bay lúc trước là chỗ duy nhất mà ông có thể đáp máy bay. Vũ Minh Thám: Mũi của tàu hình chữ V, tôi chỉ đáp được một càng. Trực thăng có hai càng, tôi đáp một càng xuống. Tất cả những người ở trên xuống tàu. Những người bị thương hoặc chết thì lính hải quân hoặc những người trên tàu kéo xuống đem vào. Đáp ngoạn mục Khi mọi người đã xuống an toàn, ông nhìn lại và chỉ thấy một mình mình với cái máy bay. Ông không thể nhảy ra khỏi máy bay trong tình trạng nửa đậu nửa đứng lơ lửng trên mũi tàu với một càng máy bay. Chỉ còn một cách duy nhất là nhấc máy bay lên cao, bay ra xa và cho nó đâm xuống nước, rồi bơi ra ngay sau đó. Hồi còn học bên Mỹ, ông cũng có được học về cách đáp máy bay xuống nước nhưng chỉ được học lý thuyết mà thôi. Bây giờ là lúc ông phải làm thật: Vũ Minh Thám: Tâm trạng lúc đó còn một mình mình mới sợ, cứ nhấp nhỏm lên xuống mãi không biết thế nào đây. Cuối cùng mình nói là mình không quyết định ra khỏi tình trạng này thì mình sẽ chết và không ai cứu mình được hết. Tôi bay máy bay cao lên hơn mái nhà, tôi tắt máy và đâm nó xuống dưới nước. Trước khi đó tôi dặn lòng mình là thế này nhé, khi máy bay xuống nước, nó có vỡ tan tành ra cái gì đó, cánh quạt nó rất to nó đập xuống nước thì gây tiếng động lớn lắm thì mình phải trồi khỏi mặt nước. Khi máy bay vừa xuống nước khoảng vài giây thì máy bay nghiêng đi và chìm xuống dưới nước, lúc đó tôi trồi người lên và bơi ra khỏi máy bay. Ông Vũ Minh Thám cho trực thăng đáp xuống nước và bơi ra, hình do Ông cung cấp cho RFA. Sau khi ra khỏi máy bay và bơi khoảng 3 phút, tàu hải quân đã thả thuyền xuống để cứu ông. Ông chỉ bị thương nhẹ ở mặt và người do những mảnh vỡ của kính máy bay. Khi lên tàu ông được mọi người vỗ tay hoan hô. Thậm chí một viên tướng không quân lúc đó có mặt trên tàu đã đến tận nơi bắt tay ông và khen ngợi khả năng lái máy bay của ông. Lúc đó chàng trung uý trẻ cảm thấy rất tự hào, và xen vào đó là niềm hạnh phúc vì đã cứu được những người thân quen của mình. Giờ nhắc lại ông nói chắc có nhiều phi công khác cũng có thể làm được như vậy nếu họ gặp phải tình huống như của ông. Còn về những người đi trên máy bay với ông, có 3 người lính không quân bị chết do trúng đạn đã được thuỷ táng sau đó. Những người bị thương được chăm sóc chu đáo. Con tàu chính thức dời khỏi hải phận Việt nam vào ngày 1 tháng 5 năm 1975 cũng là ngày ông đón sinh nhật thứ 25 của mình. Ông cùng những người trên tàu sau đó đến Philippines và sau nữa là định cư tại Mỹ. Ông và những người được ông cứu hôm đó cuối cùng đã an toàn trên đất Mỹ. Rất nhiều người trong số họ đã có cuộc sống ổn định. Bản thân ông giờ cũng đã nghỉ hưu sau nhiều năm phục vụ cho hải quân Hoa Kỳ. Cậu con trai ngày đó giờ đã thành tài và đã có gia đình. 35 năm sau khi rời khỏi Việt Nam, ông vẫn không quên kỷ niệm ngày nào. Sang đất Mỹ, ông chỉ có dịp lái máy bay trực thăng để rải phân bón cho các cánh đồng tại bang Texas trong một thời gian vài tháng hồi mới sang Mỹ. Ông rất nhớ chiếc máy bay. Ông bảo chắc sinh nhật năm tới ông sẽ thuê một chiếc máy bay chở bà xã đi chơi cho đỡ nhớ.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 11, 2012 4:20:28 GMT 9
Chuyến hải hành sau cùng của Hải Quân VNCH Tháng 4-1975 04/10/2012 Tác giả : Trần Lý Trong tập sách nhỏ 'Tổ Quốc Đại Dương', viết năm 1999 để tặng một số thân hữu Hải Quân tại Portland, Oregon (Hoa Kỳ), chúng tôi đã dành chương sau cùng để viết về cuộc di tản của Hải Quân VNCH trong những ngày sau cùng của cuộc chiến. Bài viết, khi đó, dựa trên một số tài liệu sưu tầm được (rất hạn hẹp), đa số từ các sách báo Mỹ-Việt ở vào thời điểm chưa có Wikepedia, và Internet chưa phát triển như ngày nay.. Bài viết đã đưa ra một số vấn đề mà các nhà nghiên cứu Hải sử (trong Hội đồng Hải sử, tập Hải sử Tuyển tập chỉ phát hành vào năm 2004) cho là chưa thật chinh sac, nhất là các đoạn viết về vai trò của HQ Đại Tá Đỗ Kiễm., của Ông Richard Armitage trong việc 'tổ chức di tản'.. Đến nay đã hơn 37 năm, một số tài liệu về cuộc chiến tranh VN đã được giải mật, đồng thời rât nhiều nhân chứng đã sông và đã chứng kiến cuộc di tản viết lại những sự kiện đã xẩy ra.. trên nhiều bài hồi ký phổ biến trên nhiều tạp chi, tập san tại hải ngoại. Tựa đề bài viêt ' Cuộc Hải hành sau cùng' có lẽ thich hợp hơn là 'Di tản' (Riêng Tác giả Điệp Mỹ Linh, trong tập Hải Quân VNCH ra khơi, đã dùng một tựa đề khác, rất chính xác là ' Chuyến Ra khơi cuối cùng của Hải Quân VNCH . Để tránh việc trùng lập, chúng tôi xin chỉ 'thu gọn' một số sự kiện đã viết trong 'Tổ Quốc Đại Dương'. Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Việt Nam đã thực sự chấm dứt từ ngày họ ký Hiệp Định Paris (28 tháng Giêng 1973) và số phận VNCH chỉ còn là vân đề thời gian. Những lời hứa hẹn 'riêng' của TT Nixon với TT Thiệu về việc sẽ 'can thiệp' khi BV vi phạm Hiệp Định Paris chỉ là..hứa cho có, cho xong việc.. Phó Đô đốc (Tướng 3 sao) Chung tấn Cang được chuyển từ chức vụ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô về làm Tư lệnh Hải Quân, nhậm chức ngày 24 tháng 3 năm 1975, Tướng Cang được xem là người 'tín cẩn' của TT Thiệu, và có thể TT Thiệu đã nghĩ dến việc phải di tản Chính phủ về Miền Tây ? (Tâm tư TT Thiệu-Nguyển Tiến Hưng trang 125). Ngày 29 tháng 3, VNCH rút bỏ Đà Nẵng : Vùng 1 tan rã và sau đó là những cuộc lui binh liên tục.. Tình trạng Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 ở vào giai đoạn tuyệt vọng.. - Ngày 21 tháng 4 : Tuyến phòng thủ Xuân Lộc tan rã Ngày 23 tháng 4, năm 1975 TT Thiệu từ chức và sau đó rời VN ngày 25 tháng 4 cùng với cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đi Đài Bắc bằng chiêc phi cơ C-118 (phi cơ riêng của Đại sứ Martin). Tổng Thống kế nhiệm Trần văn Hương, chỉ được 2 ngày đã phải nhường chức vụ TT cho Ông Dương văn Minh (28 tháng 4 năm 1975)..Đại tướng Cao văn Viên TTM Trưởng QL VNCH từ nhiệm và ra Hạm đội Mỹ từ 27 tháng 4. Trung Tướng Đổng văn Khuyên, Tổng Tham mưu Phó, xử lý thường vụ TTM trưởng di tản vào 29/4.. Chiều 28 tháng 4 Ông Dương văn Minh nhận chức Tổng thống VNCH.. Sáng 29 thàng 4, Ngoại trưởng Vũ văn Mẫu đọc bản văn yếu cầu Hoa Kỳ..rút khỏi VNCH..Kế hoạch di tản hay đúng hơn ..tháo chạy 'Frequent Wind' của HK bằng trực thăng bắt đầu. 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4: Bộ TTM QL VNCH hoàn toàn tan rã và không còn ai có thẩm quyền quyết định (Phạm Bá Hoa- Đôi dòng ghi nhớ, trang 270) 3 giờ chiều 29/4, Tường Vĩnh Lộc vào nhận chức TTM trưởng.. nhưng chẳng còn..ai.Tường Vĩnh Lộc phong cho bất kỳ sĩ quan nào còn lại những chức vụ cần thiết .. Ngày 24 tháng 4 năm 1975, theo yêu cầu của Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Erich von Marbod, Richard Armitage đã đáp chuyến bay cuối cùng của PanAm để đến Sàigòn với nhiệm vụ 'tối mật' là tìm cách đưa ra khỏi VN các chiến cụ 'càng nhiều càng tốt'. Von Marbod lo phần Không Quân, và Armitage lo phần Hải Quân. (Armitage vốn là một sĩ quan hải quân HK, đã từng phục vụ tại VN 4 nhiệm kỳ liên tiếp, có nhiều liên lạc mật thiết với các sĩ quan hải quân VNCH cao cấp. Tuy chỉ đóng vai trò sĩ quan liên lạc giữa HQ Mỹ và HQ VN, nhưng trên thực tế, Ông là một giới chức quan trọng tại Bộ Quôc Phòng Mỹ) Armitage đã tìm gặp HQ Đại Tá Đỗ Kiểm (Tham mưu Phó Hành Quân có trách vụ điều hành và theo dõi các hoạt động của các chiến hạm từng ngày tùy theo kế hoạch hành quân) để hoạch định một kế hoạch di tản tổng quát..Armitage cũng bàn một số công việc với Phó Đô đốc Cang (Counterpart-Đỗ Kiểm trang 198) Công việc tổ chức 'di tản' cần phải giữ 'bí mật' tối đa, tránh mọi sự hoảng loạn rất dễ xẩy ra. Để sửa soạn 'ngầm', các cuộc tuần phòng của HQ được thu hẹp để các chiến hạm tuần duyên có thể được tập trung nhanh hơn. Các nhu cầu tu bổ đại kỳ được tạm ngưng để tập trung tu sửa cho các chiến hạm có thể ra đi được. Các Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4, Tuần dương hạm Phạm Ngũ Lão HQ 15, Hai Hộ tống hạm Kỳ Hòa HQ 09 và Hà Hòi HQ 3, Ba Dương vận hạm HQ 501, 503 và 504 và Hai Hải vận Hạm Ninh Giang HQ 403, Tiền Giang HQ 405 đang nằm trên ụ tàu để đại tu sẽ phải bỏ lại. Số phận chiếc Lam Giang HQ 402 với một máy đang hỏng..chưa được quyết định.. Duyệt xét sơ khởi cho thấy khoảng trên 30 chiến hạm trong tổng số 45 chiếc cở lớn của HQ VN có thể ra đi được..Và số chiến hạm này được phân bố vừa tại bến Sàigòn, vừa tại vùng biển Vũng Tàu và tại vùng biển Phú Quốc..Việc di tản khó khăn nhất được đặt ra cho những chiến hạm đang đậu tại bến Bạch Đằng, ngay trưốc Bộ Tư lệnh HQ.. - Diễn tiến cuộc Di tản tại Bến Bạch Đằng : Chiều 26 tháng 4, HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn Tư lệnh Hạm đội bị cách chức do tin tức chuẩn bị di tản bị..lộ. Người thay thế là HQ Đại tá Phạm Mạnh Khuê. 5 giờ chiều 28 tháng 4 TT Dương văn Minh họp với Phó Đề đốc Tư lệnh phó HQ Diệp Quang Thùy (đại diện Tương Cang) đồng ý để HQ di tản và gửi theo các Tướng Nguyễn Xuân Hoàng, Mai Hữu Xuân và Đại tá Nguyễn hồng Đài (con rể Ô. Minh). Lệnh di tản HQ được công bố vào khoảng 2 giờ chiều ngày 29 tháng 4.. Thủy thủ được cho phép về nhà sắp xếp và nếu muốn ra đi có thể đem theo gia đình trong khoảng thời gian 2 tiếng đồng hồ.. Tướng Cang quyết định HQ sẽ chính thức ra đi vào lúc 6 giờ chiều ngày 29 tháng 4 và cuộc di tản dự trù sẽ hoàn tất vào lúc 22 giờ..đêm. Điểm hẹn là Côn Sơn. Nhìn xuống bờ sông : 8 chiến hạm đang nằm chờ : 5 chiếc tại cầu tàu A (không theo thứ tự): HQ 601, HQ 11, HQ 504, 502, 501.. 3 chiếc tại cầu tàu B đậu từ trong ra ngoài : HQ 1 (tại vị tri số 1 gần sát đường lộ, mặt tiền Bộ Tư lệnh HQ, bên cạnh là HQ 3 và ngoài cùng là HQ 2. Xa hơn nữa là cầu tàu C..Các cầu tàu D và E nằm trong HQ c6ng xưởng, cách sân cờ Bộ Tư lệnh khoảng 200m. Tại cầu tàu E của Hải Quân Công Xưởng có các chiến hạm HQ 400 (đậu trước Câu lạc bộ HQ) và HQ 500 Chiến hạm HQ 402 đậu tại cầu tàu D Ngoài ra còn một số Chiến hạm thả neo tại Nhà Bè.. Lúc này bên Bạch Đằng đông nghẹt người..đang chờ được di tản. * Cầu tàu B : Tuần dương hạm HQ 2 Trần Quang Khải là chiến hạm đầu tiên do HQ Tr/Tá Đinh Mạnh Hùng điều khiển.. tách bến. Trên chiến hạm có Phó Đề đốc Nguyễn Hữu Chí , Phụ tá Hành quân lưu động biển của HQ VNCH. Trên tàu còn có một số tướng lãnh như Lâm Quang Thi, Lâm Quang Thơ, Nguyển Bảo Trị, Nguyển Đức Thắng, Phạm quốc Thuần, Nguyển Đức Khánh (KQ) ( theo Nguyễn Kim : Di tản về Miền Tây..và Hy vọng ; tuy nhiên trong The Twnty-five Year Century, Tương Lâm Quang Thi cho biêt Ông và các Tương trên được HQ Trung Tá Văn Trung Quan đưa lên HQ 1 ?) . Sau khi tập trung tại Côn Sơn, HQ 2 được giao nhiệm vụ vơt một sà lan, nhưng đã từ chối thi hành; sau đó trợ giúp HQ 402 và sau cùng kéo HQ 329..và sau đó tự động tách riêng.. không còn nhận lệnh từ Hạm đội để đi thẳng đến Subic Bay (Hải sử tuyển tập trang 53-536) Khoảng 7 giờ chiều, Tuần dương hạm Trần Nhật Duật HQ 3 do Hạm trưởng HQ TrTá Nguyễn Kim Triệu điều khiển, rời bờ. Trên chiến hạm có các Phó Đề đốc Đinh Mạnh Hùng và Hoàng Cơ Minh. Tàu chở đầy người .. Khu trục hạm HQ 1 Trần Hưng Đạo, tuy được dự trù sẽ là soái hạm, kéo cờ Tư lệnh trên kỳ đài, nhưng chưa tách bến vì còn chờ Hạm trưởng HQ Trung tá Nguyển Địch Hùng vắng mặt , do đón gia đình chưa về đến. Trên tàu đã có mặt Đề đốc Lâm Nguơn Tánh (Cựu Tư lệnh HQ), Phó Đề đốc Nguyễn Thanh Châu..Do dân chúng tràn ngập trên bờ nên các Tướng Cang và Thùy..không thể lên tàu.. Cuối cùng Phó Đề đốc Châu ra lệnh..tách bến (khoảng 8 giờ chiều). Trên đường ra biển, HQ 1 , do một máy bị hỏng, đã lủi vào bờ và mắc cạn tại bờ hữu ngạn sông Lòng Tảo, phải nhờ HQ 801 (sau khi nghe lời kêu cứu của Đề đốc Tánh) quay lại và giúp kéo ra..Sau đó chiến hạm do HQ Đ tá Phan Phi Phụng điều khiển đã ra đến điểm hẹn Côn Sơn Cầu tàu A : Tình trạng hỗn loạn và căng thẳng diển ra trên bờ. Trong khi đó dưới sông, ba chiến hạm còn chờ : Dương vận hạm Qui Nhơn HQ 504 đậu ngoài cùng trống trơn vì Hạm trưởng (HQ Tr/ tá Nguyễn như Phú) không chịu ra đi, và cũng không tách rời để 2 chiến hạm phia trong có thể tách bến..Nhờ uy tín cá nhân Đại Tá Đỗ Kiểm đã giúp giải quyết tình trạng bế tắc kể cả việc dùng tiền VNCH thu góp của người di tản để mua chuộc các thủy thủ của HQ 504 chịu tháo giây, dời tàu để các chiến hạm phía trong có thể ra đi..Hệ thống chỉ huy của HQ cũng rối loạn : Nhiều Đại Tá như Trịnh Xuân Phong 'tự phong' thành Tư lệnh Hạm đội để ra lệnh cho các tàu..phải ở lại..Đ Tá Trần Bình Phú (TM Phó Nhân viên) , cũng trở thành Tư lệnh Hành Quân để bắt các tàu giữ nguyên vị tri chờ lệnh. Đ Tá Nguyễn văn Tân (Trưởng Khối An Ninh).. Tư lệnh HQ sau cùng (do Tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mu trưởng sau cùng của QL VNCH , phong)..cũng xuất hiện để cấm..di tản .(?)..(Tình trạng hỗn loạn tại Bến Bạch Đằng cũng như các sự việc xẩy ra được kể lại trong các tác phẩm Counterpart của ĐTá Đỗ Kiểm, Hải Quân VNCH ra khơi của Điệp Mỹ Linh và Bút ký 'Di tản về miền Tây' của Phạm Kim) Các Tướng HQ Cang và Thùy sau khi không lên được HQ 1 đã lên Tuần duyên hạm Tiên mới HQ 601. HQ 601 do Hạm trưởng HQ Đại Úy Trần Minh Chánh (Con Đề đốc Trần văn Chơn, cựu Tư lệnh HQ ) điều khiển, tuy đã quyết định sẽ không di tản, ở lại cùng gia đình gồm cả Tương Chơn, vẫn điều hành chiến hạm và đưa các Tường Cang và Thùy (trên tàu còn có ĐTá HQ Nguyễn xuân Sơn, cựu Tư lệnh Hạm đội) ra Vũng Tàu. Sau khi chuyển đoàn tư lệnh HQ lên HQ 3. Hạm trưởng Chánh đã đưa tàu trở lại Bến Bạch Đằng (Trần Minh Chánh-Chuyến hải hành cuối cùng của Chiê hạm PGM HQ 601- Đặc san Lướt sóng số 51) (Tuần duyên hạm=PGM là loại tàu nhỏ nhất để được gọi là..chiến hạm.) Sau khi HQ 504 chịu tháo dây : Tuần duyên hạm Chi Linh II HQ 11 cũng ra đi vào khoảng 11 gìờ đêm, do hạm trưởng HQ Thiếu tá Phạm Đình San điều khiển, mang theo Đại Tá Đỗ Kiểm. Trên đoạn đường từ Sài gòn ra biển , Ông đã tạm dùng hệ thống vô tuyến của chiến hạm để chỉ huy việc di chuyển của đoàn tàu..(Theo Counterpart, chiến hạm neo bên ngoải HQ 11 là chiếc HQ 503, trong khi đó theo' Hải quân VNCH ra khơi' thì là chiếc HQ 504 ) Dương vận hạm Thị Nại HQ 502, sau những điều đình với thủy thủ của HQ 501 , cột giây bên ngoài nhưng không chịu ra đi..và sau cùng HQ 502 do HQ Tr tá Nguyễn văn Tánh làm hạm trưởng cũng rời bến vào khoảng 1 gìờ đêm 29, rạng sáng 30 tháng 4. Sau một số trục trặc về may móc, tàu được sự trợ giúp của một tàu giòng của Ty Quân Cảng đã ra được giữa dòng sông để theo ra cửa biển..Trên đường đi, vớt được Đ Tá Trịnh Quang Xuân (Tư lệnh vùng 3 Sông ngòi) từ một PBR, Phó Đề đốc Nghiêm xuân Phú..Sau cùng với tình trạng hỏng máy, HQ 502 được HQ 17 kéo đi Subic Bay.(Phan Lạc Tiếp -'Giã từ Saigon' trên KBC số 19) Hải Quân Công Xưởng : Các chiến hạm HQ 400 và HQ 500 rời bến khoảng 2 giờ sáng ngày 30 tháng 4. Hải vận hạm Lam Giang HQ 402 đang trong giai đoạn tu sửa, đã được một số sĩ quan và thủy thủ sửa chữa gấp rút và sau cùng đã tách bến được vào lúc 3 giờ chiều ngày 30 tháng 4 (sau khi DV Minh đã ra lệnh đầu hàng. HQ Trung Úy Cao thế Hùng đã điều khiển chiến hạm ì ạch ra đi, chở theo trên 1000 người. 5 giờ chiều ngày 30 tháng 4, tàu còn đón được HQ Đ tá Lê Hữu Dõng từ một LCM 8 và sau đó Phó Đề đôc Nghiêm văn Phú..Sau cùng sáng 1 tháng 5, HQ 402 cũng ra được biển Vũng Tàu.. Sau khi liên lạc được với Hạm đội VN và Hạm đội Hoa Kỳ, những người trên HQ 402 đã được chuyển sang HQ 2 và HQ 402 đã được đánh chìm vào lúc 3 giờ chiều ngày 2 tháng 5 ngoải khơi Côn sơn (Những bài về HQ 402 : 'Hải vận hạm Lam Giang HQ 402, một huyền thoại-Điệp Mỹ Linh; ' Chuyến Hải hành cuôi cùng'-Đỗ Kim Bảng-KBC số 60). Các Tướng Vĩnh Lộc, Trần văn Trung đến Bến Bạch Đằng vào sáng 30 tháng 4 và dùng một LCM của giang cảnh để tìm đường ra biển. LCM được Tuần duyên hạm Tây Sa HQ 615 vớt vào tối 30/4. Nhưng đến sáng 1/5 HQ 615 bị hết dầu khi còn đang ở trong hải phận Vũng Tàu. Sau cùng được HQ 17 chịu quay lại cứu. HQ 17 vớt được tr6n 300 người từ HQ 615 và 200 người từ HQ 470.. Sau đó cả 2 chiếc 65 và 470 đều bị đánh chìm.. Nhà Bè : - Dương vận Hạm Mỹ Tho (HQ 800) , do dự định sẹ được dùng làm Bộ Chỉ huy HQ khi cần, nên được trang bị đầy đủ cùng nhân viên cơ hữu. Hạm trưởng HQ Trung Tá Dương Hồng Võ mới được bổ nhiệm ngày 26 tháng 4, thay vị tiền nhiệm vì đưa gia đình lên chiến hạm trước (ngày 25 tháng 4). HQ 800 nhận lệnh trực tiếp từ Tư lệnh HQ..và cũng lặng lẽ ra đi.. Vùng biển Vũng Tàu : Tại vùng biển Vũng tàu, những chiến hạm hiện diện gồm HQ 5, HQ 802, HQ 16, HQ 7, HQ 12, HQ 505, HQ 400.Các tàu chở dầu HQ 470, 471 .Tất cả đều thả neo ngoài khơi.. Cuộc di tản tại Vũng Tàu tuy không gặp những hỗn loạn như tại Bến Bạch Đằng SàiGòn , vì chiến hạm đậu ngoài khơi : dân chúng di tản phải dùng các ghe đánh cá để chạy ra tàu..Tuy nhiên sự ra đi của các chiến hạm..tùy thuộc vào từng Hạm trưởng. Tư lệnh Vùng 3 Duyên Hải, Phó Đề đốc Vũ Đình Đào không có những quyết định chính thức nào về vấn đề di tản. Sáng sớm ngày 29 tháng 4, Ông đã cùng bộ tham mưu lên chiến hạm HQ 802. Ngày 29 tháng 4 , hai Tuần dương hạm Ngô Quyền HQ 17 và HQ 14 , về đến Vũng Tàu, sau khi được lệnh bỏ dở chuyến tuần tiễu Trường Sa. Trưa 29 được lệnh từ Hải đội 3..cho tự do vận chuyển..toàn quyền tự quyết định, không cần thông báo.. (một hình thức..rã ngũ ?) HQ 17 do Hạm trưởng HQ TrTá Trương Hữu Quýnh đành quay đầu về hướng Côn Sơn..Tại đây tàu tiếp nhận khoảng 3000 người tỵ nạn..một số thủy thủ xin rời tàu trở về vơi gia đình.. HQ 17 theo đoàn tàu HQ VNCH di chuyển đi Phillipines , và trong khi di chuyển còn trở lại vùng biển Vũng Tàu để tiếp cứu chiếc PGM hết dầu chết máy đang trôi dạt.. Đây là chiếc PGM HQ 615 có chở trên 300 người trong đó có các Tướng Vĩnh Lộc, Trần văn Trung.. Dương vận hạm Nha Trang HQ 505 (Hạm trưởng HQ Tr Tá Nguyễn văn Nhượng) thả neo bên ngoài Cửa Vũng Tàu..chờ đợi. Từ sáng 28, ghe của dân chạy ra rất nhiều và xin lên chiến hạm. Trưa 29, xe tăng tại bãi biển Vũng Táu bắn ra nên HQ 505 lui ra xa hơn..Trực thăng KQVN cũng đáp xuống. Ngày 29, HQ 505 rời vùng biển Vũng Tàu theo lệnh' Vận chuyển tự do'.của Vùng 3 Duyên hải..di chuyển về Phú Quốc. Tại vùng biển này HQ 505 vớt thêm được một số người.. và quyết định trở lại Côn sơn sau khi đã dàn xếp chuyển những người muốn trở về qua các tàu thuyền đánh cá. HQ 505 về đến Côn Sơn trưa ngày 2 tháng 5, lúc này đoàn tàu HQ VNCH đã đi về hướng Philippines. Sau cùng HQ 505 đã liên lạc được với một chiến hạm của HQ Hoa Kỳ và được hộ tống đi Subic Bay (Nguyễn Nhật Cường- 'Tháng Tư, Cả một đời người trước' Biển Khơi Số tháng 4/2009). HQ 505 di chuyển về Phú Quốc để đón Tr/Tá Hậu Chỉ huy trưởng căn cứ An Thới đang bị kẹt lại trên đảo. HQ 505 đã đón được nhóm này chạy ra biển bằng một LCM 8, lúc 5 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5, miễn cưỡng phải nhận thêm những người cùng chạy theo Tr/tá Hậu. Hạm trưởng HQ 505 dự trù đi Pháp nên không muốn vớt thêm người..tuy nhiên sau đó quyết định đi Phi và những thủy thủ, đoàn viên muốn trở về đã dùng chiêc LCM8 để vào bờ..(Lê văn Mạnh-'Cuộc trùng phùng kỳ diệu'. Tac giả ghi nhầm số hiệu của chiến hạm đã vơt LCM8..504 thay vì 505 , chiếc 504 ở lại Saigon không di tản). Tại Căn cứ Hải Quân Cát Lở (nơi trú đóng của Bộ Tư lệnh HQ Vùng 3 Duyên hải) : Phó Đề đốc Hồ văn Kỳ Thoại đã dùng PCF rời căn cứ để ra Cơ Xưởng hạm Vĩnh Long (HQ 802) neo sẵn ngoài khơi vào đêm 29 tháng 4, cùng đi có Tướng Trần văn Nhựt. Trên tàu đã có Tương Nguyễn duy Hinh và còn thêm 2 Tương Hoàng Xuân Lãm, Phan hòa Hiệp được Tướng Nguyễn văn Toàn..gửi theo (Hồ văn Kỳ Thoại trong Can trường trong chiên bại) . Tư lệnh vùng 3 Duyên hãi cũng di tản trên chiến hạm này. HQ 802 rời Vũng Tàu và đi thẳng đến Subic Bay, không đến điểm hẹn Côn Sơn (Giờ thứ 25 của Người linh biển-Nguyễn Hữu Chí trong Hải sử Tuyển tập) Hải vận hạm Hát giang HQ 400, nhổ neo lúc 3 giờ chiều ngày 24 để..lui ra xa..Tàu chở đầy đạn và người. Hạm trưỡng xin lệnh vứt đạn xuống biển, nhưng không giới chức nào..cho lệnh ..Tàu tự di chuyển đi đến điểm hẹn Côn Sơn.. HQ 7 : Khi có lệnh 'tự do vận chuyển' Hạm trưởng quyết định ra đi, nhưng gặp sự chống đối của một số nhân viên nên đã dùng phương thức trao hết tiền trong quỹ dự trữ của chiến hạm đồng thời thả tàu nhỏ (wizard) cho những người muốn trở về vào lại bờ..
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 11, 2012 4:21:28 GMT 9
Vùng biển Phú Quốc :
Tình hình Phú Quốc bắt đầu suy sụp khi có tin nhân viên Đài Việt Nam được đưa ra đảo bằng phi cơ. Phú Quốc đã phải tiếp nhận gần 40 ngàn dân tỵ nạn từ Miền Trung..
Chiều tối (19 giờ 31) Chiến hạm Dubuque của HQ HK đến vùng biển Phú Quốc, để nhận một nhiệm vụ đặc biệt : yểm trợ, tiếp tế xăng dầu cho các trực thăng của KQ VNCH cần bay sang Thái Lan, đồng thời dùng làm Đài Không lưu hướng dẫn cho các phi cơ VNCH di tản sang Thái..
Ngày 29 tháng 4 , nhân viên Đài Mẹ VN được đưa ra Thương thuyền American Challenger đậu ngoài khơi. Trong vùng biển Phú Quốc còn có các thương thuyền và tàu vận tải của Mỹ khác như Greenville Victory, Sergeant Miller, Pionneer Contender. Trên đảo đã trở thành rối loạn hơn..Và sau đó trưa 30/4 khi TT Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng thì Hải Quân Vùng 4 Duyên hải cũng tự động..tan hàng và tự tìm đường thóát thân , chỉ những người thân tín với HQ Đại Tá Nguyễn văn Thiện, Tư lệnh.. mới có phương tiện di tản..mang theo cả những hành lý 'cồng kềnh' . Đa số nhân viên HQ..chạy thoát bằng ghe đánh cá, tiểu đỉnh..sang Thái Lan (Nguyễn Tấn Hưng-Trong cảnh sống còn) (Nguyễn tân Hưng còn cho biết Tướng Đỗ Mậu và gia đình cũng ở tại trại tạm cư Thái, nhưng không cho biết đến Thái bằng phương tiện nào?)
Trong những ngày cuối cùng của VNCH, lực lượng Hải Quân tại Phú Quốc gồm 4 chiến hạm :
Trợ Chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ 230 Hạm trưởng HQ Th tá Nguyễn Nguyên
Giang pháo hạm Tầm sét HQ 331 (Th tá Phan Tấn Triệu)
Giang pháo hạm Lôi công HQ 330 (Th tá Nguyễn văn Anh)
Tuần duyên hạm Minh Hoa HQ 602 (Đại Úy Ngô Minh Dương).
Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải có 2 cầu tầu lơn : HQ 330 đậu tại cầu phía Nam và HQ 230, cầu phía Bắc..Các chiến hạm rời bến ngay khi..HQ tan hàng. Đ Tá Thiện và gia đình lên HQ 230..
Sau khi tách bến HQ 330 chạy vòng quanh phia Nam Phú Quốc để về điểm hẹn ngoài khơi Hòn Khoai. HQ 331 bị cháy cả 2 máy, trên tàu có khoảng 200 người, nên được HQ 330 kéo theo. Sau khi mât liên lạc với nhóm tàu dự trù đến Côn sơn, đoàn tàu 4 chiếc do HQ 330 dẫn đầu kéo theo 331, tiếp đó là HQ 230 và sau cùng HQ 602 quyết định đi Singapore..
Đoàn tàu thả neo tại Singapore để xin tỵ nạn, tại đây HQ 330 tiếp nhận thêm một số người từ 2 LCM của Quân vận VNCH (rời Tân Cảng Sài gòn ngày 30 tháng 4) cũng vừa đến đây. Tư lệnh phó Vùng 4 DH cũng từ HQ 230 chuyển sang HQ 330.
Sau 5 ngày chờ đợi, Singapore từ chối yêu cầu tỵ nạn, cung câp thêm nước và yêu cầu đoàn tầu rởi Singapore. Đoàn tàu quyết định đi Úc. Trên hải trình đi Úc, thủy thủ của HQ 602 đã nổi loạn, giết hạm trưởng, vứt xác xuống biển và lái tàu trở về..Khi được tin Úc công nhận MT GPMN, đoàn tàu còn lại 3 chiếc đảng đi về hướng Philippines .. Sau 17 ngày lênh đênh..đến được Subic Bay (Nguyễn Hữu Duyệt-'Vùng 4 Duyên hải, những ngày cuối' Lươt sóng Số 51)
Hạm đội 21 tại Cần thơ :
Hạm đội đặc nhiệm 21 Vùng 4 Sông ngòi được đặt dưới quyền chỉ huy của Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng. Bộ Tư lệnh đặt tại Bến Ninh Kiều trong Căn cứ HQ Cần Thơ.
Trưa 29 tháng 4, Tòa Lãnh sự Mỹ tại Cần Thơ đã dùng 2 LCM để chở nhân viên di tản ra ngoài khơi. 2 LCM bị chặn lại nhưng sau đó qua sự can thiệp trực tiếp của Tổng Lãnh sự Terry Mc Namara
Tướng Thăng đã đồng ý để 2 chiếc LCM này tiếp tục ra đi..(theo Marc Leepson trong 'Escape to the Sea', VietNam Veterans of America Publications thì khi đoàn LCM bị HQ VNCH chặn xét theo lệnh Tương Nguyẽn KhoaNam, Lãnh sự MacNamara có mặt trên 1 trong 2 LCM đã từ chối không cho HQ lên lục soát và yêu cầu gặp Phó Đđ Thăng để giải quyêt. (MacNamara đã giúp di tản gia đình Tương Thăng từ nhiều ngày trước) 2 LCM này chở khoảng 300 người Việt, 16 người Mỹ và 6 người Phi. Các LCM này sau đó cặp vào được Thương thuyền Pionneer Contender..đây là chiêc tàu Mỹ duy nhất có mặt trong vùng..)
6 giờ chiều 29/4 Trợ Chiến hạm Đoàn Ngọc Tảng HQ 228 do Hạm trưởng HQ Th Tá Nguyễn Hoàng Be điểu khiển được điều động về Bộ Tư lệnh.
10 giờ đêm : Liên lạc với Bộ Tư lệnh HQ tại Sài Gòn, tin trực tiếp cho biết.. Hải Quân VNCH.. rã ngũ..
11 giờ đêm 29/4 Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng tập họp nhân viên trong phạm vi Bộ Tư lệnh Hạm đội 21 và công bố ..tan hàng, tùy nghi quyết định ra đi hay ở lại
0 giờ 20 sáng 30 tháng 4..Những người di tản cùng gia đình xuống HQ 228..và HQ 228 đi ra biển.
1 giờ 15 phút sáng 30 tháng 4 : Trên đài chỉ huy của HQ 228, qua máy khuếch đại âm tần của máy PRC 46, tướng Nguyễn Khoa Nam phát ra lệnh 'kêu gọi cácTư lệnh Quân, Binh chủng, quân nhân các cấpkhông được tự ý rời nhiệm sở..sẽ bị kết tội 'đào ngũ trong thời chiến..Tất cả đều im lặng vô tuyến..Trên HQ 228 còn có Chuẩn tướng Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân đoàn 4..(Nguyễn Tạ Quang'Hạm đội 21, những ngày cuối cùng. Lướt sóng Số 51)
HQ 231 :
Trợ chiến hạm Nguyễn đưc Bổng HQ 231 do HQ Đ/úy Nguyễn Văn Phước điều khiển, 10 giờ đêm ngày 29 tháng 4 có lệnh di chuyền từ Cần Thơ về Căn cứ Đồng Tâm. Mỹ Tho. Khi DV Minh tuyên bố đầu hàng, Hạm trưởng quyết định rời vùng Mỹ Tho, ra đi và ra biển theo đường Cửa Tiểu.. Nhân viên và thủy thủ không muốn ra đi đều được đưa vào bờ để tùy nghi di tản..
HQ 229 :
Trợ chiên hạm Lưu Phú Thọ HQ 229 cũng rời vùng trách nhiệm ra đi sau lệnh buông súng của DV Minh, tàu đi ngang Căn cứ Đồng Tâm, hương dẫn một số PCF chạy theo sau và cũng theo Cửa Tiểu để đến điển hẹn ngoài khơi Côn Sơn.
Từ Côn Sơn đi Philippines :
Các chiến hạm VNCH tập trung tại Côn Sơn và hoàn toàn chưa có chương trình..kế tiếp cho đến khi liên lạc với Hạm đội Hoa Kỳ (ngoại trừ HQ 802..đã lên đường đi thẳng sang Subic Bay).
Ngày 2 tháng 5, Hạm đội HQVNCH gồm 26 chiếc, đặt duới quyền chỉ huy của Tướng Cang, chia thành 3 hải đội :
Một do Tướng Cang chỉ huy
Một do Tướng Lâm nguơn Tánh (trên HQ 1) chỉ huy
Một do Tướng Hoàng cơ Minh (trên HQ 3)
Chạy theo đoàn tàu còn có thêm 2 tàu đánh cá tư nhân.
Hải Quân Hoa Kỳ đã thành lập một lực lượng đặc nhiệm : Hạm đội Destroyer's Squadron 23 do Đề đốc Donald Roane, đặt bộ chỉ huy trên Chiến hạm Kirk (DE-1097) để yểm trợ cho Hạm đội VN Các chiếc hạm trong lực lượng này ngoài USS Kirk ( DE-1087), còn có USS Tuscaloosa (LST 1187), USS Cook, USS Deliver (ARS-23), USS Abnaki (ATF-96), USNS Lipan (T-ATF-85). Một số chiến hạm khác tuy không thuộc lực lượng đặc nhiệm này nhưng cũng góp phần vào công tác y tế và tiếp liệu cho đoàn tàu VN : USS Mobile (LKA-115), USS Balbour County (LST-1195) USS Vega (AF-59) và USS Denver (LPD-9).
(USS Kirk đã trực tiếp yểm trợ cho HQ 3, HQ 402 trươc khi bị đanh chìm và thương thuyền Tân Nam Việt..USS Vega tiêp tế cho cac tàu YFU-69, HQ 3 , HQ 800, HQ 801..
Chuyến hải hành từ Côn Sơn đi Phi dự trù sẽ kéo dài trong 5 ngày. Ngay trong ngày đầu, các phi cơ phóng pháo Liên sô đã bay trên đoàn tàu, tuy nhiên không có những hành vi thù nghịch.
Bộ Quốc phòng HK, tuy đã sắp xếp trước để yêu cầu Chinh phủ Phi trợ giúp trong việc nhận khoảng 50 ngàn người tỵ nạn Việt và Campuchia tạm trú và sau đó sẽ được chuyển từ Phi sang Guam, nhưng lại không xin phép Chinh phủ Phi để đưa một đoàn chiên hạm đến Subic Bay. Tổng Thống Phi Ferdinand Marcos và Ngoại trưởng Carlos Romulo đều không muốn 'đụng chạm' với Chế độ 'mới' tại Nam VN.
Trong khi hạm đội VNCH đang từ từ di chuyển về hướng Phi, Chinh Phủ HK đã tìm được giải pháp : viện dẫn một điều khoản ghi trong các văn kiện chuyển giao chiến hạm từ HK sang cho VNCH là 'chủ quyền của chiến hạm sẽ được giao hoàn lại cho HK khi VNCH không còn dùng chung trong các hoạt động quân sự nữa..Và theo tinh thần này thì đoàn tàu HQ VNCH nay thuộc HK và có quyền đến Căn cư Subic Bay..Tuy nhiên CS Nam VN cũng chính thức lên tiếng đòi chủ quyền trên các chiến hạm đang di tản..Trong khi các cuộc thương thuyết ngoại giao đang tiến hành, HQ HK đã nghĩ đến việc đưa cả đoàn tàu đi Guam, nhưng vơi số lượng người khoảng gần 30 ngàn và tình trạng thiêu an toàn về kỹ thuật của một sô chiến hạm VNCH, kế hoạch này khó thực hiện được.
Ngày 7 tháng 5, khi đoàn tàu gần đến hải phận Phi, cuộc tranh chấp vể chủ quyền giữa HK và CS Nam VN vẫn chưa được giải quyết. Ngoại trưởng Phi dọa sẽ 'bắt giữ' đoàn chiến hạm nhưng khi Đại sứ HK tại Phi bàn đến số phận của gần 30 ngàn người tỵ nạn trên các tàu sẽ là một'gánh nặng' mà Phi chưa bao giờ ..nghĩ tới và cũng chưa sửa soạn để đối phó thì Ngoại trưởng Romulo đành chấp nhận giải pháp chuyển các chiến hạm VN thành chiến hạm HK và theo đó trườc khi vào lãnh hải Phi, đoàn tàu sẽ phài vưt bỏ đạn dược, xóa bỏ tên và số hiệu của từng chiến hạm , thay thế cờ VNCH bằng cờ HK..
12 giờ trưa 7 tháng 5, những buổi lễ 'hạ kỳ' đã được tổ chức trong trang nghiêm và buồn thảm trên từng chiến hạm VNCH. Mỗi chiến hạm có sự hiện diện của 2 nhân viên HQ HK để nhận bàn giao. Cờ Mỹ được kéo lên, và các tàu nhỏ của HQ HK tiến hành việc xóa số hiệu..Các quân nhân HQ VN tử thay bỏ quân phục..HQ VNCH không còn nữa.
Và nếu theo công pháp quốc tế : 'chiến hạm là lãnh thổ quốc gia' thì VNCH tồn tại cho đến trưa ngày 7 tháng 5 năm 1975.
Vai trò của Richard Armitage và Hoa Kỳ trong cuộc di tản của HQ VNCH
Theo 'Hải sử tuyển tập' (trang 511-515) trong bài 'Phỏng vấn Phó Đô đốc Chung tấn Cang : Một đời quân ngũ và cuộc lui binh vẹn toàn' một số sự kiện đã được đưa ra :
'Đoàn tàu VN rời Sài gon, đem theo hầu như tât cả chiên hạm khiển dụng vơi hơn 27 ngàn quân nhân và đồng bảo. Ra đi đúng lúc, không sớm, trước khi quá muộn. Đó là cuộc lui binh đẹp đẽ, đầy kỷ luật' (trên thực tê, chỉ có khoảng trên 10 chiến hạm, ra đi từ Sàigòn, số còn lại từ Vũng Tàu, Phú Quốc...Cuộc di tản cũng gặp những trường hợp..vô kỷ luật như đạ mô tả trong phần trên..; trong Counterpart trang 208 có kể lại khi Tướng Cang, không lên được HQ 1, dự trù làm soái hạm, Đ tá Kiểm phải thay đổi kế hoạch đưa Tướng Cang và gia đình lên HQ 601. Nhưng HQ 601 lại do Hạm trưởng Chánh, con Đề đốc Chơn cựu TL HQ lảm hạm trưởng.. lúc đầu Đ úy Chánh từ chối nhưng sau đó chịu sự thuyêt phục yêu cầu giúp để đưa Tương Cang ra đi.. Ngoài ra một câu hỏi được nêu là trong khi Tường Cang đang ở trên Chiến hạm trên đường di tản..co nhiều Đại Tá đã lên hệ thống liên lạc vô tuyến tự phong là Tư lệnh HQ ra lệnh cho các chiến hạm phải ở lại hay trở vể bến..nhưng không thấy Tướng Cang, tuy là Tư lệnh chính thức..ban hành lệnh nào cả ?)
Về kế hoạch di tản, bài viết: 'Khi đất nước đã đến lúc phải tính chuyện đi hay ở, người giúp tôi soạn thảo kế hoạch là ông Chí, ông Sơn, ông Kiểm, ông Luân và ông Khuê.. (Trong 'Counterpart, từ trang 195 đến 199, Đ tá Đỗ Kiểm đã ghi lại kha nhiều chi tiết về kế hoạch di tản, kể cả buổi họp riêng giữa Ông và Tương Cang..Riêng Ông Sơn (Đ tá Tư lệnh Hạm đội, người có 'tần số liên lạc với Hạm đội HK' đã bị cách chức ngày 28/4). Kê hoạch di tản đã được bàn thảo..khá nhiều, rong bí mật giữa Ông Kiểm và Richard Armitage, kể cả điểm hẹn ngoài khơi Côn Sơn.)
Về vai trò của ông Richard Armitage : Tương Chơn cho biết : 'Mưi đây có người nói là Ông Richard Armitage lo cho đoàn tàu. Sai. Ông ta chỉ là một sĩ quan liên lạc giữa HQ Mỹ và đoàn tàu HQ VN không hơn, không kém. Tướng Chơn cho biêt thêm : '..Khi đoàn tàu vào hải phận Phi, Chah phủ Phi không cho vào..Chinh tôi đã đề nghị trả lại tàu chiến cho Mỹ..' . Trong 'Hải Quân VN ra khơi' của Điệp Mỹ Linh, trang 276-277 có bài phỏng vấn ông Richard Armitage (có tên VN là Trần văn Phú) về cuộc di tản của HQ VNCH , sau khi xác nhận là ông tháp tùng Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng HK Erich von Marbod đến VN để lo di chuyển quân cụ Những đoạn đáng chú ý như :'..kế hoạch giúp HK giúp HQ di tản rất hạn hẹp. HK chỉ chuẩn bị một cách tổng quát cho một cuộc di tản với nhân số phỏng định chứ không có kế hoạch tỉ mỉ. Chương trình giúp HQ VN được phác hoạ vào giờ phút chót..' 'Lúc đó vì Chinh phủ HK chưa dự trù một phương kế nào cho HQ VN cả nên tôi chỉ thông báo với HQ VN là : nếu tình thế bắt buộc, hãy cố gắng đến Côn Sơn, tôi sẽ gặp tất cả ở đó' (ghi chú của người viêt: Armitage có cho một số sĩ quan cao cấp HQVN, biết tần số liên lạc vơi Hạm đội 7 của HK). Armitage cũng cho biết thêm 'Mọi quyết định liên quan đến Hạm đội VN từ Côn Sơn cho đến Phi đều do những biến chuyển tình hình lúc đó tạo nên chứ không hề có một sự chuẩn bị nào cả..'. Bài viết 'Frequent Wind ' của USS Kirk (Chiến hạm chính đã trợ giúp và hộ tống đoàn tàu VNCH) Association có một số chi tiết về vai trò của Armitage.. Richard Armitage rời Sàigon chiều 29/4 bằng trực thăng và đáp xuống chiến hạm USS Blue Ridge, soái hạm của Hạm đội 7. Tuy không có giấy tờ tùy thân, ông vẫn yêu cầu gặp Đô đốc Donald Whitmire, Tư lệnh Hạm đội 7 tại Thái Bình dương, và xin liên lạc với Ngũ giác đài, xác nhận lý lịch đồng thời xin phép trợ giúp HQVN..Sau khi được phép của Ngũ giác đài, Richard Armitage đã được chuyển từ Blue Ridge sang USS Kirk vào nửa đêm ngày 30 rạng 1/5. Tuy chỉ là một nhân viên dân sự, nhưng Armitage vẫn có thẩm quyển đề yêu cầu hạm trưởng USS Kirk, một tướng 2 sao.. quay tàu trở lại Côn Sơn, nơi tập trung của đoàn tàu VN.. và sau đó Armitage sang HQ 3 để giúp di tản đoàn tàu VN đi Philippines.. ..(Richard Armitage sau đó trở thành Phụ tá cho Bộ trưởng Quốc Phòng HK Colin Powell, thời TT Bush)
Tổng kết :
Theo các bài viết của Tác giả Phan Lạc Tiếp thì đoàn tàu VN gồm 27 chiếc đã từ vùng tập trung tại Côn Đảo để cùng dự chuyến hải hành cuối cùng đi Phillipines. Cùng đi theo trong đoàn còn có thêm 2 tàu đánh cá. Báo cáo của Khu trục hạm Cook về cho TF 76 ngày 2 tháng 5 ghi nhận :' Đoàn tàu di tản của HQVN gồm 26 chiến hạm và một Khinh tốc đỉnh. Vị trí đoàn tàu tại Vĩ độ 09* 35'N và kinh độ 108* 55'E..
Hải sử Tuyển tập, trang 553 : Danh sách các chiến hạm di tản vào tháng 4 năm 1975 liệt kê 43 chiến hạm trong đó có các chiếc trở về như HQ 602, H 609 và những chiếc hư hỏng phải đánh chìm gồm HQ 402, 406, 604, 474 và 702..
Tập Dự án Hải Sử ghi lại trong đoạn Từ Hạm đội/HQ VNCH sang Hạm đội HQ Phi số hiệu và tên của 30 chiến hạm VN.
Đối chiếu với các tài liệu ngoại quốc như Jane's Fighting Ships.
Danh sách các Chiến hạm chạy khỏi VN (bao gồm những Chiến hạm đi theo đoàn từ Côn sơn, hoặc tự đến Subic Bay (như HQ 802), hoặc tự tách khỏi đoàn (HQ 2) , hoặc đến trễ hơn như nhom tàu từ Phú Quốc..) gồm:
1 Khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ 1 (chuyển thành BRP Rajah Lankandula-PS-4)
5 Tuần dương hạm (WHEC):
- Trần Quang Khải HQ 2 (thành BRP Diego Silang PS-9) - Trần Nhật Duật HQ 3 (tuy được chuyển giao cho HQ Phi nhưng bị phế thải để lấy các cơ phận thay thế dùng sữa chữa cho các chiến hạm khác của HQ Phi) - Trần Bình Trọng HQ 5 (thành BRP Francisco Dagohoy PF-10) - Trần Quốc Toản HQ 6 (cùng số phận như HQ 3) - Lý thường Kiệt HQ 16 (thành BRP Andres Bonifacio, PF-7) - Ngô Quyền HQ 17 (thành BRP Gregorio del Pilar PF-8)
5 Hộ tống hạm (PCE) :
- Đống Đa II HQ 07(thành BRP Sultan Kudarat PS-22) - Chi Lăng II HQ 08 (thành BRP Magat Salamat PS-20) - Chí Linh HQ 11 (thành BRP Datu Tupas PS-18) - Ngọc Hồi HQ 12 (thành BRP Miguel Malvar PS-19) - Vạn Kiếp HQ 14 (thành BRP Datu Marikudo PS-23)
5 Dương vận hạm (LST) :
- Cam Ranh HQ 500 (thành BRP Zamboanga Del Sur LT-86) - Thị Nại HQ 502 (thành BRP Cotabato Del Sur LT-87) - Nha Trang HQ 505 (thành BRP Agusan Del Sur LT-54) - Mỹ Tho HQ 800 ( thành BRP Sierra Madre LT-57) - Cần Thơ HQ 801 (thành BRP Kalinga Apayao LT-516)
1 Cơ Xưởng hạm (ARL)
- Vĩnh Long HQ 802 (thành BRP Yakal AR-617)
3 Hải vận hạm (LSM) :
- Hát giang HQ 400 (thành BRP Western Samar LP-66) - Hàn giang HQ 401 (dùng lấy cơ phận) - Hương giang HQ 404 (thành BRP Batanes LP-65)
3 Trợ chiến hạm (LSSL) :
- Đoàn Ngọc Tảng HQ 228 (thành BRP La Union LF-50) - Lưu Phú Thọ HQ 229 (HQ Phi dùng để lấy cơ phận thay thế sử dụng cho các chiến hạm khác) - Nguyễn Đức Bổng HQ 231 (thành BRP Camarines Sur LF-48)
3 Giang pháo hạm (LSIL) :
- Thiên kích HQ 329 - Lưi công HQ 330 - Tầm sét HQ 331
(Hai chiếc 329 và 330 có trong danh sách của HQ Phi, chiếc 331 được ghi là..không rõ số phận)
2 Hỏa vận hạm (YOG)= sà lan tự hành để chở dầu :
- HQ 470 và HQ 471
1 Tuần duyên hạm (PGM) :
- Hòn trọc HQ 618 (thành BRP Basilan PG-60)
Ghi chú :
Trong danh sách Chiến hạm HQ Phi tiếp nhận vào tháng 5-1975, có một Chiến hạm của HQ Kmer : Chiếc PC Submarine Chaser , số hiệu E-312. Sau đó đổi thành Negros Oriental PS-26. Không thấy có tài liệu nào viết về chiến hạm này khi chạy sang Phi ?
Trợ chiến hạm Nguyễn Ngọc Long HQ 230 không ghi trong danh sách trên, nhưng được ghi trong Hải sử Tuyển tập trang 564 là do HQ Tr tá Nguyễn Nguyên làm hạm trưởng, không thuộc đoàn tàu di tản của Bộ Chỉ Huy HQ . Chiến hạm được chuyển thành BRP Sulu LF-49)
Trong danh sách Hỏa vận hạm YOG HQ Phi tiếp nhận có ghi thêm HQ 474
WPB Chiến đỉnh Huỳnh văn Đức HQ 702 đến được Philippines và phế thải tại Subic Bay ngày 19 tháng 5 năm 1975.
'Dự án Hải sử' không ghi về các PGM 600, 604 và 605, tuy nhiên 'Hải sử tuyển tập' ghi các chiến hạm này có mặt trong đoàn tàu của Bộ chỉ huy HQ (?) : Phú Dự (HQ 600), Keo Ngựa (HQ 604), và Kim Quy (605) không có tên trong danh sách các chiến hạm HQ Phi tiếp nhận?
Trần Lý (3/2012)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 11, 2012 4:56:52 GMT 9
30 Tháng 4: Để mãi mãi nhớ ngày 30 tháng 4 năm 1975. 04/10/2012 Tác giả : Trần Văn Giang Ai vui ? Ai buồn ? Ngày 30 tháng 4, ngày có "hàng triệu người vui, hàng triệu người buồn" như lời nhận xét của “cựu thủ tướng” cs Võ Văn Kiệt, “người” này cũng giống như một số “người” lãnh đạo csvn khác phải chờ đến mãi buổi xế chiều của cuộc đời thì bỗng dưng phải gió rồi trở giọng “phản động.” Phải chi mấy “người” này tỉnh táo một chút vào lúc đang còn quyền cao chức rộng thì đám dân đen cũng được nhờ (!) và đã nhiều sinh mạng không phải oan thác. CS vẫn tiếp tục hân hoan vui mừng “nhiệt liệt” hợp ca cái điệp khúc "ngày chiến thắng huy hoàng", “là một (ngày) thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta." (sic) (Lời của Đại tướng gốc thợ may Văn Tiến Dũng). Kỷ niệm chiến thắng, bắn pháo hoa “diễu binh” ăn mừng ngày 30/4, mà ngay bên lề đường còn nhiều đám dân đen xếp hàng kêu oan bị cướp mất đất, bà già run rẩy ăn xin, em bé bỏ học bán vé số… Ăn mừng ngày đánh “Mĩ cút ngụy nhào.” Oái oăm, ngày này cũng là ngày ăn mừng “đổi mới,” trải thảm đỏ mời đón Mỹ trở lại đầu tư vì “đảng ta” vừa mới định hướng kinh tế thị trường XHCN và cảm thấy “bị tư bản bóc lột” là chuyện “tiên tiến, tốt” phải làm trong giai đoạn phát triển kinh tế quốc gia. Ngày này cũng là ngày các lãnh tụ csvn vĩ đại kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” về xây dựng quê hương vì sau mấy chục năm chiến thắng vinh qunag “đảng ta” vẫn chỉ giỏi ở cái mảng phá hoại và tham ô. Đám chăn trâu, thợ thiến heo, ở đợ, cướp cạn, thất học… đi bộ từ trong rừng ra với áo không lành giầy không vớ “ăn mừng” vì bỗng nhiên một sớm một chiều trở thành tiến sĩ, đại gia, cán bộ cao cấp lèo lái “con thuyền không bến” Việt Nam đến vinh quang vô địch (?) Ăn mừng vì “thép đã tôi thế đấy” đội ngũ cán bộ lãnh đạo (từ chính quyền trung ương đến cơ sở chính quyền địa phương) thành một lũ vô cảm, dửng dưng trước những đau khỗ quằn quại của đồng loại, coi thường dân, không dám nhận chịu trách nhiệm về những sai trái; Ăn mừng vui vì “tụi nó” cướp của người khác chứ không (chưa) cướp đến của nhà mình?! Ngược lại, cũng có nhiều người ở cùng chiến tuyến với cs rất buồn vì đã tự “giác ngộ.” Họ nhìn ra là họ đã bỏ phí cả thời xuân xanh, tài sản để chạy theo cs rồi bây giờ sau mấy chục năm ròng mới nhận ra cái ngu xuẩn của mình và ngu xuẩn của chính sách cs; Mặc dù họ mới chợt “phản tỉnh” và tuyên bố “phản động” này nọ nhưng cũng chỉ làm cho có chuyện, làm để lấy tiếng ngu vì cô thế (người quốc gia còn bán tín bán nghi, không buồn để ý đến họ), sức đã mòn, chợ đã chiều… không thay đổi cái quái gì được nữa! Tờ lịch ngày 30-4-1975. Có những “cựu” cảm tình viên cs, “hùa” viên cs (loại này rất đông đảo – Họ hầu như mù tịt về cs nhưng lại thích làm dáng cs; lọai “Nếu là chim tôi sẽ là bồ câu trắng / Nếu là hoa tôi sẽ là hoa hướng dương / Nếu là người tôi sẽ là người cộng sản… Người quốc gia cỡ phó thường dân thôi cũng hiểu là cs không phải là bồ câu trắng; và cs cũng chẳng có ưa gì hoa hướng dương, hoa hướng âm gì ráo trọi!) thích và mơ tưởng thiên đường bánh vẽ cs; ăn cơm quốc gia thờ ma cs. Đám đông này trước đây rất ồn áo, đã từng nhẩy múa điên cuồng theo nhịp đập trống bịp bợm của cs rồi bây giờ rất buồn; đành phải im lặng vì cái thực tế cs quá bẽ bàng làm họ không thể nói và làm gì hơn để biện minh cho cái sự kiện “bé cái lầm” của mình. Có những gia đình gồm nhiều thế hệ dù không bao giờ chấp nhận cs nhưng không tìm được lối thoát thân. Họ rất buồn vì phải đón chịu tất cả những trận đòn thù hận, tù đày, bao vây kinh tế… từ mafia cs. Có trên 3 triệu người tị nạn ở hải ngoại rất buồn, nhìn về ngày 30/4 như một ngày quốc hận, một tháng Tư đen; một ngày đau đớn cay đắng nhiều nước mắt nhất trong suốt 4000 ngàn năm lịch sử dân tộc Việt. Ai thắng ? Ai thua? Sau một cuộc chiến tranh thì phải có kẻ chiến thắng, người bại trận. Cứ theo như luận điệu như csvn đang “ăn mừng” thì mọi người phải hiểu là “Mĩ và Ngụy đã thua?!” Mà có thiệt vậy không hà? Hãy nhìn nước (“đế quốc”) Mỹ từ ngày 30/4/1975 cho đến hôm nay. Họ không có tỏ cái vẻ gì là một nước bại trận. Họ vẫn là một cường quốc mà các lãnh đạo csvn lần lượt thay phiên nhau xin đến thăm viếng (sau cấm vận!) Các chuyến thăm viếng của lãnh tụ csvn vẫn được báo lề phải cs tường trình như một niềm hãnh diện “Chủ tịch, Thủ tướng nước ta được Tổng thống Mĩ tiếp đón tại Nhà trắng, tại phòng Bầu dục, tại vườn Hồng…” Rõ ràng là các Tổng thống Clinton, Bush đã đến Việt Nam mà vẫn được dân chúng Việt Nam niềm nở háo hức tiếp đón… Họ không hề đến Việt Nam để ký giấy đầu hàng hay xin xỏ csvn bất cứ chuyện gì?! “Ngụy” (một danh từ có nghĩa xấu mà cs đã gán cho tất cả người dân, chính quyền hay bất cứ sự kiện gì có dính dáng đến “đế quốc Mĩ!”) có thua thiệt không?Chiến tranh đã chấm dứt nhưng sự tranh đấu của “Ngụy” đâu đã thấy chấm dứt!Thực ra, sự tranh đấu của “Ngụy” mỗi ngày mỗi mạnh hơn; nhất là từ hải ngoại.Cờ vàng vẫn tung bay hiên ngang oai hùng trước công đường thế giới trong khi cờ đỏ cs phải lén lút đi vào cửa sau.Cơ hội “Ngụy quân, Ngụy quyền” trở lại Việt Nam (khi csvn bị giải thể) không còn là chuyện “không tưởng.”Người dân Việt Nam (nhất là dân miền Nam) đâu còn giấu diếm e dè gì khi họ cần tỏ thái độ là “thà sống với Mỹ làm Ngụy như người Nhật, Đức, Nam hàn, Đài loan… vẫn còn hơn là vinh quang cúi đầu dưới “4 cái tốt” và “16 chữ vàng” của kẻ tử thù truyền kiếp TQ.Chẳng thà sống lưu vong làm Ngụy hơn là sống dưới cái nhà tù lớn CSVN lập ra.” Cs một mặt kêu gọi "hòa giải và hòa hợp dân tộc" mà tại sao mặt khác, bao nhiêu năm trôi qua, vẫn gọi những người “phía bên kia chiến tuyến” là “ngụy quân, ngụy quyền?” Vẫn gọi Mỹ là “đế quốc tư bản” mà thích gởi con cháu họ sang Mỹ du học để được học… cách bóc lột của đế quốc tư bản? Ôi cộng sản Việt Nam!!! Một sự nghịch lý lố bịch cuối cùng còn xót lại trên hành tinh này! Ai giải phóng ai? Giải phóng cái gì? Theo tự điển tiếng Việt, chữ “Giải phóng” có nghĩa là “Làm cho thoát khỏi tình trạng bị nô dịch, bị chiếm đóng. Làm cho được tự do; thoát khỏi sự ràng buộc bất hợp lý.” Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn người dân miền Nam lại bị cưỡng chế nô dịch (đi tù, đi kinh tế mới, bị quản chế, bị cô lập, hoàn toàn mất tự do, mất quyền công dân…) Người dân miền Nam có cần được cs bắc Việt giải phóng họ hay không? Nếu gọi là “đã được giải phóng” thì đời sống của họ phải khá hơn, tốt đẹp hơn lúc chưa “được giải phóng.” Hãy nhìn, đọc những con số không biết nói dối. Bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn - rời Việt Nam năm 1981 sang định cư tại Úc năm 1982 là Giáo sư Đại học New South Wales (Úc) - đã trình bày một cách cụ thể kết quả (bằng số) trước và sau ngày “giải phóng” 30 tháng 4 năm 1975 như sau: (Trích nguyên văn – tuy hơi dài nhưng đáng đọc; đáng đồng tiền bát gạo) Tính từ ngày 30/4/1975. Nhân dịp đọc một cuốn sách cũ, tôi thấy có vài thông tin về kinh tế của miền nam Việt Nam trước 1975 cũng có ý nghĩa so sánh nào đó ... Về thu nhập bình quân, theo “số liệu kinh tế - GDP” bình quân, ở miền Nam vào thời trước 1975 là 150 USD. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan. Ba mươi sáu năm sau, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD). Về giáo dục đại chúng, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, năm 1973, tỉ lệ dân số biết đọc, biết viết là 70%, rất cao so với các nước Á châu láng giềng hồi đó. Hiện nay, tỉ lệ dân số biết đọc và viết là 90%. Ba mươi sáu năm, chỉ tăng 20%? Hôm nọ, khi tôi viết rằng thời trước 1975, du học sinh Thái Lan sang đại học miền Nam học, còn bây giờ thì mình sang đó... du học. Chẳng có gì xấu hổ. Người ta giỏi hơn mình thì mình học người ta. Nhưng nói ra sự thật ấy làm tôi nao lòng và buồn về sử đổi đời. Có người từ miền Bắc hỏi tôi có bằng chứng gì giáo dục miền Nam tốt hơn bây giờ? Tôi nói chính tôi là sản phẩm của nền giáo dục thời trước 1975 đây. Còn hàng vạn "sản phẩm" của nền giáo dục trước 1975 đang ở nước ngoài và họ cũng thành danh, thành tài. Đó là một bằng chứng của nền giáo dục trước kia. Về trình độ của giới cầm quyền, 36 năm sau nước (CHXHCN) ta đã có 50% bộ trưởng có văn bằng tiến sĩ. Thời trước 1975, tôi không có con số chính xác, nhưng chỉ nhớ số bộ trưởng có bằng tiến sĩ chỉ đếm đầu ngón tay. Ngay cả ông Hoàng Đức Nhã với bằng thạc sĩ (MS degree) nhưng được giới báo chí và công chúng nể lắm rồi. Nhưng theo Giáo sư Đặng Phong thì tuy họ học không cao, nhưng trình độ thật thì cao và đáng nể: “Cần phải phân biệt rõ: nền chính trị thối nát (không phải tôi nói, mà người Mỹ và người trong giới chính trị Sài Gòn nói) với bộ máy kinh tế chuyên nghiệp. Những cấp cao nhất, tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng... phần lớn là dân võ biền, là lính sang làm chính trị như Thiệu, Kỳ, Khiêm... Nói chung, họ không có mấy kinh nghiệm để điều hành một xã hội dân sự văn minh. Nhưng điều đặc biệt là cấp dưới của họ (bộ trưởng, tổng trưởng...) và các chuyên gia hàng đầu đều là những người có học vấn, kiến thức kinh tế - xã hội rất giỏi để vận hành khối lượng tiền, hàng cực lớn. Bằng chứng là Nam VN khi đó đã có hệ thống ngân hàng, hệ thống thuế, bảo hiểm... trình độ quốc tế, hoạt động toàn cầu. Dân đã xài séc (checks), các công cụ tín dụng, công sở xài máy tính IBM, tổ chức nền kinh tế đã sử dụng các phương tiện hiện đại, mà bây giờ chúng ta mới chập chững tiến vào.” Ngày xưa (thời VNCH) cũng có tham nhũng, nhưng hình như bản chất hơi khác với thời nay. Ngày xưa, giới quan chức VNCH tham nhũng chủ yếu là ăn chận tiền tài trợ của Mĩ. Thật ra, tham nhũng của VNCH là có lợi cho “cách mạng,” vì lợi dụng đó mà du kích mới có tiếp viện! Tham nhũng thời VNCH theo Gs Đặng Phong là “một nguồn hậu cần quan trọng giúp chúng ta thành người chiến thắng.” Còn ngày nay, cứ như báo chí phản ảnh thì quan chức ăn chận tiền của… dân. Họ cũng ăn chận (hay ăn cắp?) tài nguyên đất nước. Hình thức tham nhũng nào cũng nguy hiểm, nhưng ăn chận tiền dân và tài nguyên quốc gia thì đúng là nguy hiểm và […]. Giáo sư Đặng Phong nói: “Tham nhũng cũng là một cách ra đời tầng lớp hữu sản cho nên đạo lý kém hơn, chụp giật hơn, lưu manh hơn.” Ngày 30/4 thường được nhắc đến như là một “ngày chiến thắng,” “ngày giải phóng miền Nam.”Đứng trên quan điểm kẻ thắng người thua,thì chắc cũng có lí do để gọi đó là ngày chiến thắng.Nhưng thử hỏi với cả 4 triệu (?) người phải bỏ mạng trong cuộc chiến đó, cộng thêm hàng trăm ngàn bỏ mạng trên biển, và 3 triệu người lưu vong, thì chiến thắng đó có vẻ vang không?Chẳng lẽ ăn mừng chiến thắng trên xác người? Còn giải phóng thì có nghĩa là giải phóng từ nô lệ, gông cùm của bọn đế quốc, nhưng trong thực tế ngày xưa đâu có nô lệ, và bọn đế quốc Mĩ cũng đâu có gông cùm gì;chúng vẫn phát triển giáo dục tốt, hệ thống y tế tốt, kinh tế gia đình khá no ấm, học trò lễ phép, báo chí nói khá thoải mái(diễu cợt ông Thiệu,ông Kỳ liên miên).Do đó, hai chữ “giải phóng” e rằng không thích hợp với thực tế của những con số vừa trình bày.(nguồn Nguyễn Văn Tuấn Blog) (hết trích) Như đã trình bày hơi dài giòng, “giải phóng” là thay đổi cái (chế độ chính trị) cũ bằng một cái khác tốt đẹp hơn. Ai cũng biết nhạc sĩ thân cộng Trịnh Công Sơn, sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã lên đài phát thanh Sàigòn kêu gọi “anh em văn nghệ sĩ và học sinh sinh viên miền Nam Việt Nam” như sau: (Tôi xin ghi lại nguyên văn từ tài liệu audio của “youTube”) Nguồn: “Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động được gặp và nói chuyện với tất cả anh em văn nghệ sĩ ở miền Nam Việt Nam này (!). Hôm nay (ngày 30 tháng 4 năm 1975) là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta. Đó là ngày mà chúng ta đã giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam; cũng như những mơ ước của các bạn (?) bấy lâu về sự độc lập, tự do và thống nhất… Hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả… Chúng tôi đang ở đài phát thanh Sàigòn… Tôi xin hát lại cái bài Nối vòng tay lớn… Hôm nay thật sự cái vòng tay lớn đã được nối kết… Rừng núi dang tay nối lại biển xa… ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà..”(sic) Cũng “cái ngày hôm nay,” ai đã từng nghe bài “Em còn nhớ hay em đã quên” của con vẹt TCS thì chắc phải nhớ câu hát “Em ra đi nơi này vẫn thế.” Trịnh Công Sơn viết: “Em ra đi nơi này vẫn thế Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ” Hay nhỉ? “Nơi này vẫn thế” là thế nào? Tại sao lại có sự mù lòa lạ lùng như vậy? Chuyện “Lá vẫn xanh” là chuyện dễ hiểu, tất nhiên. Bạo quyền và chủ nghĩa cs đâu có tài thánh nào đổi mầu lá cây từ xanh sang đỏ được? “Nơi này vẫn thế” là thế nào? Chỉ một thời gian ngắn sau khi lên đài phát thanh Sàigòn “kêu goại và hót” “rừng núi dang tay nối lại biển xa…” để “mừng ngày chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước” thì Trịnh Công Sơn đã phải trở ra sống ở Huế và “tham gia” vào những chuyến lao động trồng khoai sắn trên những cánh đồng còn đầy rẫy mìn ở Cồn Thiên, gần vĩ tuyến 17 chứ đâu có còn được các tướng tá của chính phủ Sàigòn che chở cho sống ung dung và tự do đi hát nhạc phản chiến ở Sàigòn… Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nếu toàn dân miền Nam được sống một cuộc sống “vẫn thế” thì đâu có hàng triệu người dân Việt phải liều mạng vượt biên vượt biển đi tị nạn ở nước ngoài (Ậy! Đến ngay cả cô “Em” nào đó của TCS cũng phải“ra đi” một cách “phản động.”) Người ở lại đã và đang sống một cuộc sống thê thảm nhất trong lịch sử dân tộc chứ đâu có cái chuyện “Nơi này vẫn thế?” Thật là chuyện trơ trẽn! Ốt dột! Anh là ai? Ai là anh? Trong chiến tranh, anh (cs) tự cho anh là anh hùng vì anh có can đảm ném lựu đạn, gài bom plastic, pháo kích vào chỗ đông dân lành tự nhiên như “người Hà lội.” Anh tự hào là anh rất giỏi về môn phá hoại cầu cống, đắp mô đường xá. Anh tự hào có can đảm cầm súng bắn, ám sát, thủ tiêu, thảm sát hàng trăm hàng nghìn người không có cái gì để tự vệ Anh vẫn cho anh là anh hùng là vô địch vì anh đã đứng lên, đã thành công trong việc giải phóng dân tộc trong khi các nước láng giềng của anh không cần có lãnh tụ kiệt xuất như HCM và cũng chẳng cần một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vinh quang như của anh mà dân họ vẫn độc lập ấm no tự do hơn dân tộc anh!… Sau chiến tranh anh (cs) chứng tỏ anh là một thằng hèn nhất lịch sử.Anh đem đất liền và đảo của tiền nhân dâng nhượng cho TQ rồi anh bảo đó là chuyện nhỏ.Anh không dám phản kháng và anh cũng cấm dân của anh biểu tình lên tiếng bày tỏ phản kháng khi TQ chiếm đất lấn biển.Anh làm ngơ khi dân anh bị TQ tàn sát ở ngoài biền, ở biên giới. Anh làm ngơ đế các đối tác TQ đánh đập dân anh ngay ở quanh các vùng nội địa mà anh cho phép họ khai thác tài nguyên quốc gia.Anh rất hèn khi anh cưỡng bức tài sản, đất đai của dân nghèo.Anh rất hèn hạ bịt mồm, đánh xập các tiếng nói oan ức chính đáng của dân. Chẳng sớm thì muộn, anh sẽ đền tội với dân… Chân lý đó chỉ là vấn đề thời gian. Anh cũng biết thừa là cái bánh xe thời cuộc sẽ phải lăn theo chiều hướng không còn thuận lợi cho chính sách cướp bóc sát nhân của anh… Cho nên trong lúc này, khi còn nắm chút quyền hành, anh cố vơ vét tham nhũng càng nhiều càng tốt và anh dự định xây sẵn một cái ống cống để anh có cơ hội chui, vượt thoát… Tương lai của các anh có lẽ cũng chẳng sáng sủa gì hơn kết cuộc của con chuột Gaddafi. Chờ xem… Trần Văn Giang Tháng 4/2012 _______ Phụ chú: Xin mời quý vị đọc thêm hai bài thơ được tôi ghi lại từ một “phản hồi” (reply) trên trang mạng “Đàn Chim Việt:” Ngoài Bắc có một anh điên điên khùng khùng đi đến đền Kiếp Bạc (đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) xướng bài thơ ngạo mạn như sau : Bác anh hùng tôi cũng anh hùng Tôi, Bác cùng chung nghiệp kiếm cung Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng Bác đưa một nước qua nô lệ Tôi dắt năm châu đến đại đồng Bác có linh thiêng “đù” một tiếng Rằng tôi cách mạng đã thành công. Bài thơ trên được lưu truyền đến tai một cô gái giang hồ. Cô ta ôm mặt khóc ròng ròng; than thở là đã bất hạnh không được sinh cùng thời với tác giả bài thơ trên. Lời than của cô nàng được thi sĩ dân gian ghi lại như sau: Bác tôi, tôi bác cũng là người Mà đã là người “cũng thế thôi!” Tôi, GÁI GIANG HỒ, vang khắp nước Bác, TRAI TỨ CHIẾNG, cộm muôn nơi Bác đưa cầy cáo lên bàn độc Tôi dắt nai tơ đến... chợ trời Ví thử chúng mình cùng thế hệ Đẹp duyên Rồng Phượng Bác và Tôi. TVG
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 11, 2012 5:07:40 GMT 9
Tháng Tư Đen 2012: Nhớ về Bình Long Anh Dũng 1972 04/07/2012 Giao Chỉ, San Jose Xin hân hạnh giới thiệu với quí vị bộ phim DVD Bình Long Anh Dũng đã thực sự hoàn tất sau 2 lần sửa chữa. Xin cáo lỗi với 400 chiến hữu đặt mua Bình Long 3 tháng mà vẫn chưa vào được An Lộc… Lời mở đầu. Sau những phim “Chân Dung người Lính,” “ Quảng Trị mùa Hè,” “ Lịch sử ngàn người viết,” “35 năm nhìn lại” do Dân Sinh Media thực hiện, bây giờ chúng tôi xin giới thiệu phim ảnh về chiến sự An Lộc. Chúng ta đã trải qua vừa đúng 4 thập niên, tài liệu về phim ảnh vốn đã thiếu thốn lại còn thất lạc và mờ nhạt. Các nhân chứng không còn hiện diện. Vì vậy chúng tôi cố gắng tối đa để xử dụng những thước phim quý giá nhất còn tìm được và phỏng vấn những nhân chứng còn liên lạc được. Chắc chắn một bộ DVD chưa thể hiện được tất cả mọi khía cạnh của cuộc chiến với sự tham dự của hàng ngàn chiến binh nhiều quân binh chủng, Nhưng chúng tôi may mắn có được tài liệu gốc từ trung tâm quốc gia điện ảnh Việt Nam trước 75. Với khả năng vẫn còn giới hạn, chúng tôi chắc chắn rằng đã nỗ lực thực hiện một tài liệu có giá trị xứng đáng với đề tài chiến sử An lộc. Tài liệu này chính là một sản phẩm phát hành để yểm trợ cho viện bảo tàng Việt Nam vốn là một biểu tượng xây dựng nhịp cầu văn hóa với nước Mỹ, là thông điệp lịch sử dành cho thế hệ tương lai. Và quan trọng nhất đây là một thách đố đối với cộng sản Việt Nam. Bây giờ là năm 2012, bốn mươi năm sau cuộc chiến mùa hè 72 xin quý vị cùng chúng tôi, lấy tro tàn An Lộc để viết chiến sử Bình Long. Trong chiến tranh Việt Nam chúng ta phải có 4 bộ phim tài liệu cần thực hiện. Quảng Trị mùa hè, Bình Long Anh Dũng, Mậu Thân oan trái, và Nước mắt 75. Sau Quảng Trị, bây giờ là Bình Long. Xin trân trọng gửi đến quý vị, cùng tấm lòng chân thành tưởng niệm quân dân miền Nam đã hy sinh trong trận chiến khốc liệt kéo dài suốt 93 ngày từ 4/4/ đến 7/7-1972 để Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng. Sau đây là phần giới thiệu sơ lược những đoạn chính: Bình Long miền đất quê hương . Ngày xưa thị trấn Hớn Quản là một vùng gíáp ranh biên giới Cam Bốt với nhiều đồn điền cao su và thuộc về lãnh thổ Thủ Đầu Một. Bắt đầu từ thời Việt Nam Cộng Hòa, tỉnh Bình Long được thành lập với 3 quận Chân Thành, Hớn Quản và Lộc Ninh chạy dài theo hướng Nam Bắc trên quốc lộ 13 đến vùng biên giới. Sau đó quận Hớn Quản đổi tên thành An Lộc và trở thành thủ phủ của Bình Long. Vào thời gian trận An Lộc bắt đầu, thị xã này có 25 ngàn người trên tổng số 65 ngàn dân của toàn thể Bình Long. Cho đến tháng 3-1972 An Lộc vẫn còn là thành phố bình yên giữa các mặt trận sôi động tại miền đông từ Bà Đen đến Bình Giả. Đặc biệt là vùng đất tranh chấp ngày đêm tại Củ Chi, Hậu Nghĩa. Bình Long cũng không phải là vùng chiến sự triền miên như Kon Tum, Quảng trị. Không ai biết rằng một sớm một chiều An Lộc sẽ trở thành bình địa. Không ai biết rằng cộng quân đã có lúc chiếm hơn phân nửa thị xã. Nhưng ngày nay dấu vết của cuộc chiến chẳng còn tìm thấy tại An Lộc. Khu nghĩa trang nổi tiếng của biệt kích dù hoàn toàn biến mất. Ai là người đã từng nhỏ lệ khóc cho biệt kích dù vị quốc vong thân. Các khu nghĩa địa của chiến binh Việt Nam Cộng Hòa vừa chiến đấu vừa chôn cất chiến hữu ngay tại chiến trường ngày nay cũng chẳng còn tìm thấy. Từ trái: Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tác phẩm chân dung sơn dầu và chuần tướng thiết giáp Trương Hữu Đức (1964). Trong khi tiếng súng còn vang dậy, quân dân An Lộc giữa vòng vây đã phải đào hố chôn tập thể hàng ngàn xác chết không toàn thây vì pháo kích của cộng quân. Đa số là xác dân chúng, một số nhỏ là chiến binh của ta và có cả xác bộ đội. Ngày nay trên 4 khu mộ tập thể tại An lộc, chính quyền cộng sản làm bảng tưởng niệm ghi rằng. Đây là mộ 3000 nhân dân An Lộc chết vì bom đạn của Mỹ Ngụy. Chính vì những xuyên tạc lịch sử như thế mà DVD Bình Long anh dũng phải ra đời. Nếu hỏi rằng dấu vết quê hương Bình Long một thời oanh liệt nay còn ở đâu. Xin thưa rằng, Bình Long ngày nay chỉ còn vương theo bước chân lưu vong của hàng ngàn con dân trên khắp nẻo đường thế giới. Và DVD Bình Long Anh Dũng là một di sản đóng góp vào hành trang lịch sử của mỗi gia đình. Ghi dấu gian truân của người Lộc Ninh, An Lộc, Chân Thành đã trải qua cơn binh lửa kinh hoàng vào hậu bán thế kỷ thứ 20. Đường vào An Lộc. Khi An Lộc bị tấn công, các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa tại miền Đông với sư đòan 5, và 18 của quân đoàn 3 đã hết sức chống trả. Quân tổng trừ bị nhẩy dù, biệt động quân và biệt kích dù đã vào cứu An Lộc. Tiếp theo những người lính của miền sông nước Cửu Long cũng kéo về cứu An Lộc. Họ đeo huy hiệu của SĐ 21 Hậu Giang và SĐ 9 Tiền Giang. Một cuộc chuyển quân khẩn cấp đã được Bộ TTM/ Tổng cục tiếp vận điều động. Các trung đoàn từ Cà Mau, Chương Thiện tập trung về Bạc Liêu, và Sóc Trăng để cùng bộ tư lệnh sư đoàn 21 lên đường. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 của sư đoàn 9 ra đi. 12 ngàn quân đi xe trên quốc lộ trong 3 ngày để đến điểm hẹn với cả chiến xa và pháo binh. Trong khi đó các sư đoàn của Bắc quân tập trung cho trận Bình Long phải chuẩn bị chuyển quân vào chiến trường trong nhiều năm. Hà Nội đóng cửa các trường học bắt cả lính dưới 18 tuổi. Thậm chí có nhiều em 16 tuổi. Chuyến vào Nam đường xa vạn dặm. Đi toàn đường rừng và phần lớn đi bộ. Xe chỉ chở quân dụng và lương thực. Một thế hệ thanh niên phải hy sinh. Ra đi không hề có thư từ tin tức giữa tiền tuyến và hậu phương. Chiến binh chỉ có một con đường duy nhất. sinh Bắc tử Nam. Đa số thương binh chết tại chiến trường hay chết sau khi được đưa về hậu tuyến. Việc bị khóa trong xe tăng hay bên các đại pháo là điều có thật. Và con số quyết tâm tử chiến của địch rất cao. Đó là lý do ta bắt được rất ít tù binh. Chứng tỏ guồng máy tuyên truyền một chiều của cộng sản hết sức hữu hiệu. Phải ghi nhận phía đối phương được chuẩn bị với ý chí kiên cường như thế, giá trị chiến thắng của VNCH mới thể hiện rõ ràng. Đã 40 năm qua, phía Hà Nội có cả một viện bảo tàng để ca ngợi cuộc chiến 80 ngày giữ cổ thành Quảng Trị, nhưng ngày nay không ai nhỏ nước mắt khóc thương cho 20 ngàn bộ đội thương vong trên con đường vào An Lộc. Còn về phía VNCH, trên con đường số 13 oan nghiệt. Một tấc đường, một giải khăn tang. Bình Long máu đỏ nhuộm cờ vàng. Câu chuyện này phải được ghi lại bằng DVD Từ trái:Nghĩa trang tạm khi chiến đấu, Nghĩa trang sau cuộc chiến, Ngày nay không còn nữa. Người Chiến binh. Nói về người lính chiến Việt Nam Cộng Hòa tại mặt trận An Lộc chúng ta phải có cái nhìn tổng hợp và toàn diện. Đây là một cuộc chiến có đầy đủ mọi khía cạnh nhưng không thể có đủ phim ảnh và thời gian để diễn tả hết. Từ sự tan hàng đau thương của trung đoàn 9 tại Lộc Ninh. Trung đoàn trưởng bị bắt cùng bộ tham mưu. Cố vấn trưởng tự tử chết. Chi khu Lộc Ninh bị tràn ngập và bên ta có các sỹ quan bị bắt làm tù binh bây giờ kể lại nỗi đoạn trường. Ngay từ ngày đầu, khi Lộc Ninh thất thủ, tư lệnh sư đoàn 5, tướng Lê văn Hưng vào ngay An Lộc để trở thành người hùng tử thủ với 2 trái lựu đạn đeo trên ngực và một lời thề sẽ tự sát theo thành. Phải theo sát cuộc tiến quân của trung tá Hồ Ngọc Cẩn và trung đoàn 15 của sư đoàn 9 bộ binh suốt 40 ngày chiến đấu để sau cùng vào được phòng tuyến của sư đoàn 5. Phải nói đến cái bắt tay lịch sử của đại tá Lưỡng, lữ đoàn dù khi gặp chuẩn tướng Lê văn Hưng trong hầm chỉ huy An lộc. Và gần 40 năm sau cái bắt tay của tướng Lưỡng và tướng Nhật gặp lại nhau tại Orange County. Câu chuyện của các chiến binh nhân dân tự vệ hạ được chiến xa địch ngay giữa Thành phố. Hãy ghi nhớ câu chuyện 550 chiến binh Biệt kích dù nhẩy vào An Lộc mà chỉ 3 ngày đã làm nghiêng ngả phòng tuyến Bắc quân. Biệt kích chia toán đánh bằng dao găm đã thanh toán các ổ kháng cự trên từng ngôi nhà, từng con phố. Sau 86 ngày các anh ra đi để lại 86 ngôi mộ mang lời thơ bất hủ. Biệt kích Dù vị quốc vong thân. Rồi chuyện tư lệnh phó sư đoàn 5, đại tá Lê NguyênVỹ đích thân lấy súng M72 hạ T54. Lê văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn đều là anh hùng của chiến trường Bình Long và gương hy sinh lẫm liệt tại An Lộc là đã dọn sẵn con đường để những người chiến binh chết cho đất nước 3 năm sau vào tháng 4-1975. Bằng những phương tiện khác nhau, bằng những hoàn cảnh khác nhau, từ không quân cho đến bộ binh. Pháo binh thiết giáp. Các SĐ 21, 5, 18, Sư đoàn 9, Biệt động quân, nhẩy dù, các đơn vị tiếp vận yểm trợ binh đoàn, nhân dân tự vệ, xây dựng nông thôn, địa phương quân, v..v.. Tất cả đều mang danh nghĩa chiến binh Bình Long.Và chúng ta cũng không quên các nhân viên dân chính. Rất nhiều cố vấn Mỹ rồi ngay cả các lao công đào binh cũng đã chiến đấu và hy sinh cho Bình Long suốt 93 ngày khói lửa. Về phương diện cá nhân đã có 2 cái chết anh hùng đáng ghi nhận là trung tá cố vấn trưởng của trung đoàn 9 bị thương đã tự vẫn tại Lộc Ninh để cho các chiến hữu có thể yên tâm vượt thoát.Người thứ hai là vị đại tá thiết đoàn trưởng đã hy sinh trên trời khi máy bay của ông bị trúng dàn phòng không trong lúc bay hành quân. Chuẩn tướng kỵ binh Trương hữu Đức chết đi để lại cho con gái tại San Jose một di vật là cuốn chiến sử tặng cho viện bảo tàng làm tài liệu hướng dẫn chính cho cuốn phim Bình Long anh dũng. Để nhận diện anh hùng, dù người chiến sĩ mang huy hiệu bất cứ binh chủng nào, nhưng nếu đã trở về từ An Lộc đều xứng đáng là chiến binh của Bình Long Anh Dũng. Người Y sĩ của An Lộc Tôi muốn giới thiệu riêng về một chiến binh của chiến trường An Lộc. Mặc dù ông đã từng là y sĩ trung đoàn thuộc Sư đoàn 18. Cũng đã đi hành quân với bộ binh, nhưng vào năm 1972 khi bác sĩ Nguyễn văn Quý bắt đầu về nhận việc tại tiểu khu Bình Long, ông vẫn là một bác sĩ tỉnh lẻ. Ông không còn là một y sĩ tiền tuyến. Công việc của ông là điều hành bệnh viện tiểu khu, lo săn sóc cho địa phương quân và gia binh. Buổi chiều có thể về phòng mạch tư. Văn phòng mới thuê, việc làm ăn thông thường chưa ổn định thì những trái pháo bắt đầu rơi xuống. Xứ hậu phương bình yên An Lộc của bác sĩ Quý bỗng trở thành tiền tuyến. Ông không chọn con đường ra trận. Chiến tranh đã chọn ông. Hậu phương bây giờ trở thành tiền tuyến. Nhưng bác sĩ Quý trước sau vẫn không cầm súng tại An Lộc. Dưới trận mưa pháo kích, và các phương tiện hết sức thiếu thốn. Người bác sĩ giải phẫu duy nhất của An Lộc đã đứng vững 63 ngày, mổ gần 300 ca cứu sống biết bao nhiêu người kể cả chiến binh của ta, dân chúng và tù binh cộng sản. Sau khi cuộc chiến chấm dứt, bác sĩ Quý không nhận mình là anh hùng, ông chỉ nói là cố làm tròn nhiệm vụ. Tuy nhiên. ông đã được chọn là chiến sĩ xuất sắc của ngành quân y và được lên cấp thiếu tá. Nguyễn Cầu và khóa phóng viên tiền tuyến. Năm 1960 tại Saigon có một khóa học hết sức đặc biệt do Hoa Kỳ huấn luyện chuyên môn đào tạo phóng viên tiền tuyến. Khóa học một năm duy nhất dành cho 25 khóa sinh. Khi ra trường anh em theo quy chế lương bổng đặc biệt, nhưng không có cấp bậc. Chia ra đi theo các đơn vị quay phim, chụp ảnh và đôi khi viết tin phóng sự chiến trường. Khi chúng tôi muốn tìm lại người phóng viên đã vào An Lộc, hết sức may mắn có ông Nguyễn Cầu đang ở San Jose. Năm 1972 Phóng viên Nguyễn Cầu nhẩy theo lính sư đoàn 1 bộ binh vào giải cứu Bastogne. Căn cứ này vừa giải tỏa xong là ông bay từ miền Trung về Saigon để rồi lại vào An Lộc. Những chàng trẻ tuổi đi theo các đơn vị trưởng. Các cấp chỉ huy sau nhiều năm đã trở thành tướng tá, nhưng Nguyễn Cầu mãi mãi chỉ là người phóng viên cầm máy ghi lại dấu vết lịch sử chiến tranh. Hàng trên,từ trái:Phóng viên Nguyễn Cầu(2012),Thiếu tá y sĩ Ng.Văn Quý(72);Hàng dưới,từ trái:Trung úy Lê Bắc Việt và Kiều Trang(71),SVSQ/CTCT Đà Lạt Lê Bắc Việt ra trường về SD5BB,khi lên trung úy lấy ca sĩ Kiều Trang,lên đại úy đại đội trưởng đã hy sinh tại An Lộc 1972,truy phong thiếu tá.40 năm sau vợ vẫn chưa tìm thấy xác. Và còn nhiều đồng nghiệp khác đã hy sinh nhưng không bao giờ được ghi nhớ. Những người chiến binh võ trang bằng máy quay phim, hai máy chụp hình, không có đơn vị, không có thăng thưởng, không có huy chương và cũng chẳng bao giờ họp khóa. Một nén hương muộn màng theo chân Bình long anh dũng xin gửi đến các anh đã giúp cho chúng ta có những thước phim quí giá để lại cho mai sau. Phần đúc kết phim Bình Long Anh Dũng. Trong trận chiến phòng thủ và giải vây An Lộc, đã có biết bao nhiêu gương hy sinh anh dũng. Biết bao nhiêu quân dân cán chính cùng tham dự và gần như toàn thể các quân binh chủng hiện diện. Trong những gương hy sinh lẫm liệt của quân dân miền Nam, chúng tôi đã chọn câu chuyện của những người không phải là chiến binh tiền tuyến. Một phóng viên chiến trường, một quân y sĩ và một người vợ lính. Mặc dù không phải là chiến binh cầm súng tại tuyến đầu nhưng đây là các thành phần tiêu biểu cho dân quân miền Nam. Họ là những người thực sự đã chia xẻ với toàn dân trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Phóng viên tiền tuyến mang vũ khí là máy quay phim, cả khóa đã hy sinh gần hết trên chiến trường. Một y sĩ giải phẫu, vũ khí là con dao mổ. Một người vợ lính. Suốt đời làm vợ chỉ gần chồng có 4 lần. Hai ngày lễ cưới. Một lần về phép chính thức và một lần trốn trại một ngày. Được sống bên người chồng chiến binh lâu dài nhất là tuần lễ dưới hầm An Lộc. Bụng mang bầu, hầm đầy người và đêm ngày đội bom đạn trên đầu. Sau đó từ giã chồng, chạy ra khỏi An Lộc. Bị thương ở chân. Lê lết 2 tuần lễ về đến Chân Thành. Từ đó 40 năm sau vẫn không tìm thấy xác chồng. Ý nghĩa cho cuộc sống của người vợ lính ngày nay là cô con gái ở San Jose cùng chạy thoát khỏi An Lộc khi còn nằm trong bụng mẹ trong bụng mẹ. DVD Bình Long anh dũng của chúng tôi nhằm mục đích ghi lại hoàn cảnh của những người rất bình thường đã trải qua giai đoạn khác thường mà còn sống sót từ An Lộc cho đến ngày nay. Những người anh hùng đích thực của chiến trường xưa không còn nữa. Với phần hiếm hoi còn lại chúng tôi lựa chọn để nhắc đến những chiến binh thường ít được ghi lại trong quân sử. Thí dụ cụ thể là sự đóng góp một trung đoàn của sư đoàn 9 Sa Đéc do trung tá Hồ ngọc Cẩn chỉ huy. Ông đem lính từ miền Tây lên để hy sinh cho chiến trường miền Đông. Những người chiến binh của đồng ruộng xình lầy miền Cữu Long đã nằm xuống trong vườn cao su đất đỏ miền Đông Nam phần. Sau đó, trung đoàn Hồ Ngọc Cẩn ca khúc khải hoàn về lại Sa Giang để rồi 3 năm sau miền Tây chứng kiến giây phút cuối cùng của vị đại tá anh hùng tiểu khu Chương Thiện. Trận An Lộc đồng thời cũng nêu gương hy sinh lẫm liệt khi có được các anh hùng tuẫn tiết 1975 như Lê Nguyên Vỹ và Lê văn Hưng. Để nhận diện anh hùng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng nhất, chúng tôi xin nhắc lại một lần lời tưởng niệm chung cho toàn thể quân dân miền Nam đã nằm lại trên chiến trường Anh Lộc. Dù ngày nay, vật đổi sao dời, các di tích cũ của chiến trường xưa không còn nữa, nhưng gương anh hùng Bình Long vẫn còn mãi trong lòng người đã một lần sống với Lộc Ninh, Hớn Quản, Bình Long và Chân Thành..Nên biết rằng ở miền Virginia Hoa Kỳ, vẫn còn có người chiến binh trung đoàn Hồ Ngọc Cẩn hằng năm vẫn cúng giỗ cho vị chỉ huy đã cùng binh sĩ tiến quân vào An Lộc. Tại California người vợ lính sư đoàn 5 cũng khấn vái cho người chồng mất tích và các chiến hữu của anh khi tham dự vào cuốn DVD Bình Long Anh Dũng. Với tấm lòng trân trọng xin gửi đến quí vị bộ DVD 40 năm muộn màng, nhưng có ý nghĩa lịch sử hết sức thiêng liêng. Xin quí vị vui lòng lưu giữ cho thế hệ tương lai của chúng ta. Liên lạc IRCC, Inc. 1518 N. 4th St. San Jose CA. 95112 irccsj@yahoo.com Tel: (408) 392 9923
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 11, 2012 8:11:53 GMT 9
Cờ đỏ sao vàng là cờ tổ quốc? Bài viết nhân dịp 30-4-2012 Macy’s là một trong 20 công ty buôn bán sản phẩm tiêu dùng lớn nhất nước Mỹ. Đứng đầu danh sách là Walmart. Cách đây vài năm, trên diễn đàn Internet, một người hay một nhóm người Việt nào đó tố cáo công ty Macy’s “treo cờ Cộng Sản”, tức cờ nền đỏ sao vàng. Thế là hàng trăm người lên tiếng phản đối theo. Thậm chí có người viết thư gởi thẳng cho ban giám đốc Macy’s yêu cầu công ty này phải hạ ngay “lá cờ máu” đó xuống. Thật ra, thương hiệu của Macy’s là nền trắng sao đỏ dù có lúc đổi ngược bằng nền đỏ sao trắng giống như các đội thể thao chuyên nghiệp thường đổi ngược màu áo tùy thuộc khi chơi ở sân nhà hay sân khách. Mà cho dù, công ty Macy’s có dùng nền đỏ sao vàng đi nữa cũng chỉ là thương hiệu của một công ty, giống như công ty buôn bán đồ cũ được thành lập vào sáng 2-9-1945 tại Việt Nam mà thôi. Theo các tài liệu về công ty Macy’s, trong khi làm việc cho hãng Emily Morgan, Rowland Hussey Macy thấy một cô gái xâm một ngôi sao đỏ. Thấy đẹp, ông ta cũng tìm thợ xâm cho mình một hình sao đỏ. Ngày 28-10-1858, công ty Macy’s chính thức thành lập. Nhưng một công ty thì phải có thương hiệu, nghĩ đến hình xâm mình ưa chuộng, ông quyết định dùng cờ nền trắng sao đỏ là thương hiệu chính thức cho công ty. Công ty Macy’s làm ăn khấm khá, mở nhiều cơ sở vùng Đông Bắc, bao gồm Massachusetts và New York, nhưng tham vọng của ông Macy không chỉ quanh quẩn miền bắc đất hẹp người thưa nhưng nhắm vào thị trường đông dân trù phú ở miền nam. Macy’s thu phục các công ty nhỏ như O’Connor Moffat ở San Francisco, John Taylor Dry Goods Co. ở Kansas. Trong thời gian này, Macy’s dùng một số thương hiệu khác nhau, nhưng sau khi đã chế ngự thị trường, Rowland Macy chỉ dùng một hình sao đỏ như thương hiệu chính thức cho công ty từ đó đến ngay. Theo tài liệu chính thức của đảng CSVN, tác giả lá cờ nền đỏ sao vàng là ông Nguyễn Hữu Tiến làm nghề thầy giáo, tham gia đảng Cộng Sản, bị tù và vượt ngục. Năm 1935, ông được Xứ Ủy Nam Kỳ giao trách nhiệm vẽ lá cờ để sử dụng trong các cuộc đấu tranh. Ông đã vẽ lá cờ nền đỏ sao vàng. Lá cờ này được Xứ Ủy Nam Kỳ chấp thuận và xuất hiện trong các cuộc đấu tranh do đảng Cộng Sản tổ chức và lãnh đạo, trong đó có cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 23-11-1940. Ngày 28-8-1941 ông Nguyễn Hữu Tiến bị xử bắn cùng các lãnh đạo trung ương khác của đảng Cộng Sản như Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Vǎn Tần, Hà Huy Tập. Ông Hồ Chí Minh rất thích lá cờ này và thường dùng trong các hoạt động của phong trào Việt Minh, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản. Cờ nền đỏ sao vàng xuất hiện không chính thức trong ngày 2-9-1945 vì đến ngày 5-9-1945, ông Hồ mới ký sắc lịnh dùng cờ của Xứ Ủy Cộng Sản Nam Kỳ làm cờ chính thức cho nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Sau đó lá cờ nền đỏ sao vàng được đưa sang quốc hội gồm khoảng 300 đại biểu bù nhìn của đảng Cộng Sản, không tính 70 đại biểu từ các đảng không Cộng Sản thêm vào sau không bầu, thông qua. Sau giai đoan khó khăn từ 1945 đến 1950, đảng Cộng Sản với sự yểm trợ bằng máu xương và súng đạn từ hai đàn anh Cộng Sản quốc tế, đã chiếm được một nửa nước Việt Nam. Nhưng mục tiêu của Đảng không dừng lại ở miền bắc đất hẹp người thưa nhưng nhắm vào khu vực đông dân trù phú ở miền nam. Ngày 20-12-1960, trung ương đảng CSVN lập thêm chi nhánh miền nam và để che dấu dư luận quốc tế, Đảng dùng cờ nửa xanh nửa đỏ làm thương hiệu cho cơ sở miền nam. Nhưng sau khi chiếm trọn miền nam vào 30-4-1975, việc che đậy không còn cần thiết, Đảng dùng cờ nền đỏ sao vàng cho cả nước từ đó đến nay. Dù có vài tình tiết trùng hợp lý thú, công ty Macy’s và đảng CSVN chẳng liên hệ gì nhau. Sự so sánh chỉ nhằm chứng minh rằng cờ nền đỏ sao vàng của đảng CSVN và cờ nền trắng sao đỏ của công ty Macy’s đều chỉ là thương hiệu của một hai tổ chức kinh doanh. Một công ty quốc tế ở Mỹ hay một tiệm bán đồ cũ ở Việt Nam cũng đều có thương hiệu và sự tồn tại của thương hiệu gắn liền với thời gian hoạt động của công ty. Giả thiết, một ngày nào đó công ty Macy’s bị công ty Target mua, ngôi sao đỏ sẽ bị thay bằng hai vòng tròn trắng đỏ, thương hiệu của công ty Target. Tương tự, một ngày, chắc chắn sẽ có ngày đó, chế độ CSVN sụp đổ, lá cờ nền đỏ sao vàng cũng sẽ tiêu tùng theo chế độ. Trong quan điểm đó, tôi chia sẻ ý kiến của nhà báo Lê Diễn Đức viết trong Facebook góp ý bài báo “Những lá cờ” của tác giả Bá Tân đăng trên Blog Quê Choa của nhà văn Nguyễn Quang Lập: “Theo tôi, cờ đỏ sao vàng không phải là cờ của Tổ quốc VN, của dân tộc VN, mặc dù tôi đã từng học tập, lớn lên dưới lá cờ này và nhiều lúc đã tự hào vì cha ông tôi đã chiến đấu dưới lá cờ này. Nhưng chính xác mà nói thì đó là cờ hiệu của nhà nước CHXHCN VN do Đảng CSVN cầm quyền. Nước VN có mấy ngàn năm lịch sử, trải qua bao nhiêu triều đại và chế độ với những là cờ khác nhau. Cờ đỏ sao vàng có chính thức từ ngày 2/9/1945, chỉ là biểu tượng của một nhà nước với ý thức hệ cộng sản, không đại diện cho cả chiều dài lịch sử của dân tộc.” Dưới đây là vài bằng chứng. Tại châu Âu. Trước 1989, “cờ tổ quốc” của Hungary gồm ba màu đỏ, trắng, xanh lá cây, ở giữa là huy hiệu sao đỏ và búa liềm của đảng Cộng Sản. Quốc kỳ của Hungary hiện nay, trong lúc vẫn duy trì ba màu truyền thống của dân tộc Hung, ở giữa là hai đường cung trống rỗng, đánh dấu sự cắt bỏ chủ nghĩa Cộng Sản khỏi đất nước Hungary. Khoảng trống được giữ lại giữa lá cờ còn để nhắc nhở sự hy sinh của các thế hệ Hungary trong cuộc nỗi dậy vào tháng Mười 1956. Ngày đó, đường phố Budapest ngập đầy những lá “cờ tổ quốc” bị xé nát như những xác lá cuối mùa thu. Tiến sĩ Nicholas Martin, giáo sư ngôn ngữ học tại Pasadena City College, vào thời điểm đó là một cầu thủ Water Polo và đang đại diện cho Hungary trong Thế Vận Hội 1956 tại Melbourne, nhắc lại kỷ niệm không thể nào quên trong đời ông: “Việc đầu tiên tôi làm là xé ngay lá cờ Cộng Sản Hungary trong làng Thế Vận và chúng tôi tuyên bố đại diện cho một quốc gia Hungary tự do”. Nhưng vào những ngày cuối của Thế Vận 1956 cũng là lúc đoàn xe tăng của Hồng Quân Liên Xô đang càn lên xác những người dân Hung yêu chuộng tự do được trang bị bằng gậy gộc, đội tuyển Hung gặp đội tuyển Liên Xô trong giải chung kết Water Polo. Trận đấu được báo chí tường thuật là trận đấu “máu hòa trong nước”. Kết quả đội tuyển Hungary đã thắng đội tuyển Liên Xô tỉ số 4-0. Thật ra, các cầu thủ Liên Xô cũng chỉ là những cầu thủ vô tội, chẳng may phải gánh chịu các trận tấn công liên tục của các tuyển thủ Hungary đang sôi máu căm thù. Tại châu Á. Mông Cổ, sau thời đại huy hoàng của Thành Cát Tư Hãn và các con ông, vào thế kỷ 14, quê hương của đại đế bị chia cắt thành hai mảnh và phân hóa trầm trọng. Vào thế kỷ 17, Mông Cổ bị đặt trong vòng cai trị của nhà Thanh và phần lớn khu Nội Mông đã trở thành đất của nhà Thanh, hiện nay là Khu tự trị Nội Mông thuộc Trung Quốc. Lợi dụng cách mạng Tân Hợi Trung Hoa 1911, các phong trào yêu nước Mông Cổ tuyên bố độc lập nhưng chưa kịp làm gì đã bị quân Trung Hoa đánh bại và chiếm đóng. Trong lúc số phận Mông Cổ, một trong những đế quốc lừng danh trong lịch sử nhân loại sắp bị xóa tên khỏi bản đồ thế giới, quân đội Bạch Nga dưới quyền Bá Tước Ungern, bị Cộng Sản Nga đánh đuổi, tràn sang biên giới và đánh bại quân Trung Hoa. Trong cái rũi có cái may, sự xâm lược của quân Nga vô tình cứu Mông Cổ thoát khỏi nạn đồng hóa. Khi Liên Xô thắng, nước Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ, trong vùng Ngoại Mông, được thành lập. Tuy bị đặt trong vòng kiểm soát của Liên Xô, về đối ngoại Mông Cổ là một quốc gia độc lập, thành viên của Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức quốc tế. Khi Liên Xô sụp đổ, giống như các nước trong vòng ảnh hưởng của Liên Xô, Mông Cổ trở thành nước Cộng Hòa Mông Cổ. Hai chữ “nhân dân” trong tên nước bị xóa bỏ. Trong thời Cộng Sản, “cờ tổ quốc” của Mông Cổ gồm ba phần, hai bên màu đỏ, phần giữa mà xanh với dấu hiệu sao vàng của đảng Cộng Sản bên trái. Ngày 15 tháng Giêng 1992, quốc hội Cộng Hòa Mông Cổ biểu quyết xóa bỏ ngôi sao vàng Cộng Sản khỏi lá cờ và thay vào đó bằng ngọn lửa biểu tượng cho tinh thần Soyombo phát triển, thịnh vượng và thành công của dân tộc Mông Cổ. Tại châu Phi. Ethiopia là một trong những chiếc nôi của văn minh nhân loại nhưng trong thập niên 1980 của thế kỷ 20 quốc gia 82 triệu người này đã chịu đựng nạn nghèo đói tận cùng và ách Cộng Sản dã man. Chỉ trong vòng 5 năm, khoảng 10 phần trăm dân số bị chết trong đói khát hay chết dưới bàn tay của bạo chúa Mengistu. Kỷ nguyên Mengistu được báo chí gọi là “khủng bố đỏ” để so sánh với “khủng bố trắng” do thực dân Âu châu gây ra cho các nước Phi châu trước đây. Sau khi thiết lập chế độ độc đảng vào năm 1987, Mengistu Haile Mariam và đảng Lao Động Ethiopia do y thành lập tuy vẫn giữ ba màu đỏ, vàng và xanh lá cây truyền thống đoàn kết châu Phi nhưng ngay giữa lá cờ, Mengistu đã thêm huy hiệu nền đỏ sao vàng biểu tượng cho quyền lãnh đạo trung ương của đảng Cộng Sản. Nhiều đảng phái chống Mengistu ra đời và phối hợp hoạt động dưới danh nghĩa của Mặt Trận Dân Chủ Cách Mạng Ethiopia. Cuối cùng chế độ khát máu Mengistu bị lật đổ vào tháng 5 năm 1991. Ngày nay, Ethiopia vẫn còn là một nước nghèo với 40 phần trăm dân số sống bằng nông nghiệp và không có nguồn tài nguyên thiên nhiên nào lớn nhưng là một trong những quốc gia Phi châu có mức phát triển nhanh. Con đường dân chủ hóa của Ethiopia bắt đầu từ 1994, là con đường đầy gai góc nhưng đã tiến xa so với thời bạo chúa Cộng Sản Mengistu. Sau khi được tự do khỏi xích xiềng Cộng Sản và có hiến pháp dân chủ, quốc kỳ đại diện cho quốc gia Ethiopia gồm ba màu truyền thống đỏ, vàng, xanh lá cây và tia sáng có chiều dài bằng nhau kết thành hình ngôi sao trên vòng tròn màu xanh nước biển biểu tượng cho tinh thần bình đẳng, chính thức được phê chuẩn ngày 6-2-1996. Tại Kamchuchea láng giềng. Trước ngày 17-4-1975, lá cờ Cộng Hòa Khemer gồm hai màu xanh đỏ với hình Angkor Wat bên góc trái và ba ngôi sao trắng bên góc phải. Ngày 22-5-1975, lá cờ này bị thay đổi bằng cờ nền đỏ với Angkor Wat vàng của chế độ diệt chủng Pol Pot. Điều 16 trong hiến pháp “Dân chủ Kampuchea” công bố ngày 5 tháng Giêng 1976, giải thích “màu đỏ là màu cách mạng, biểu tượng cho quyết tâm của nhân dân Kampuchea để giải phóng, bảo vệ và xây dựng đất nước”. Cờ của chế độ Pol Pot không phải là cờ mới được vẽ nhưng có lịch sử gắn liền với sự ra đời của đảng Cộng Sản Kampuchea được thành lập vào 1951 sau khi đảng Cộng Sản Đông Dương “tự động giải tán” ngày 11-11-1945. “Cờ tổ quốc” của chế độ diệt chủng Pol Pot được phát họa khá giống với “cờ tổ quốc” của đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay chỉ khác vị trí của sao vàng được thay bằng Angkor Wat vàng. Sử gia David P. Chandler trong bài phân tích về hiến pháp Cộng Sản Kampuchea (The Constitution of Democratic Kampuchea: The Semantics of Revolutionary Change) do ký giả Đức Siegfried Ehrmann trích lại trong bài báo Lá cờ với một quá khứ đầy cực hình (A flag with a tortured past), cũng thừa nhận cờ của chế độ Pol Pot “giống như cờ của phong trào được gọi là Việt Minh trong đầu thập niên 1950”. Sau một thời gian dài đầy biến cố, quốc kỳ của Kampuchea Quân Chủ Lập Hiến hiện nay gồm hai màu xanh đỏ truyền thống như đã được dùng trong thời Cộng Hòa Khemer với biểu tượng Angkor Wat trắng được đặt ở trung tâm. Tóm lại, từ 15 nước thuộc Liên Bang Xô Viết cho đến 8 nước Cộng Sản Đông Âu, 3 nước Cộng Sản vùng Baltics (Latvia, Lithuania, Estonia), Cộng Sản Phi châu (Ethiopia), Cộng Sản Á Châu (Kampuchea), có quốc gia thay đổi ít như Ba Lan hay quốc gia thay đổi hoàn toàn như Nga, nhưng không có một nước nào tiếp tục sử dụng lá cờ của chế độ Cộng Sản làm cờ đại diện cho quốc gia thời sau Cộng Sản. Lịch sử diễn ra trước mắt như thế, rõ ràng và dễ hiểu. Tuy nhiên, từ hai phần ba thế kỷ từ 1945 đến nay, ban tư tưởng trung ương đảng CSVN đã nhồi sọ, tẩy não các thế hệ Việt Nam để họ tin một cách tự nhiên, tin một cách chân thành rằng lá cờ nền đỏ sao vàng của Xứ Ủy Cộng Sản Nam Kỳ, thương hiệu đối ngoại của đảng CSVN là cờ tổ quốc. Thế nào là tổ quốc? Hiểu một cách đơn giản và gần gũi, tổ quốc là đất nước, là cội nguồn và là căn nhà chung của một giống dân có cùng một lịch sử, văn hóa, truyền thống, lãnh thổ, vùng trời, vùng biển. Ngay trong Đại Tự Điển do Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo và nhà Xuất bản Văn hoá Thông Tin ấn hành năm 1998 cũng định nghĩa tổ quốc là “Đất nước, gắn liền với bao thế hệ ông cha, tổ tiên của mình: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ quốc Việt Nam của chúng ta.” Với định nghĩa đó, thương hiệu của đảng CSVN không thể gọi là cờ tổ quốc và càng không nên dùng, dù là dùng như một lá chắn, để biểu dương lòng yêu nước của mình. Biểu tượng của tự do dân chủ không nhất thiết phải là một lá cờ mà có thể là một hình chữ V như Boris Yeltsin ra dấu khi đứng trên chiếc xe tăng, một ngón tay còn dính mực xanh chứng tỏ vừa làm xong nghĩa vụ công dân của người phụ nữ Iraq, một giọt nước mắt vui mừng của người mẹ Ai Cập hay trong nhiều năm tại Miến Điện là bức ảnh của bà Aung San Suu Kyi. Mặc dù chỉ là biểu tượng nhưng cách dùng biểu tượng cũng thể hiện ý thức chính trị của người dân tại quốc gia đó. Nếu ai để ý sẽ thấy, trong số hàng triệu sinh viên Trung Quốc tham dự cuộc biểu tình suốt bảy tuần lễ tại Thiên An Môn tháng Tư 1989, rất ít người mang theo cờ đỏ năm sao vàng của đảng CS Trung Quốc. Lá cờ của phong trào dân chủ là cờ trắng với hàng chữ đòi hỏi “Tranh luận dân chủ”. Họ đi tìm một biểu tượng. Những ngày cuối của cuộc biểu tình tuổi trẻ Trung Quốc đã can đảm chọn tượng Nữ Thần Tự Do làm biểu tượng chính thức cho cuộc đấu tranh vì về mặt tinh thần, nữ thần tự do không có quốc tịch và không đứng trên biên giới của một nước nào. Bảy tháng sau biến cố Thiên An Môn, cuộc biểu tình chống chế độ Nicolae Ceausescu tại Timosoara, Rumani cũng diễn ra tương tự. Hơn 100 ngàn dân, đa số là thanh niên sinh viên, xuống đường chống chế độ độc tài CS không mang theo “cờ tổ quốc” như họ vừa được dạy ngày hôm trước mặc dù lúc đó chế độ Ceausescu vẫn còn rất mạnh và các cuộc đàn áp đẫm máu sắp sửa diễn ra tại thành phố này. Hầu hết tuổi trẻ Việt Nam sinh ra và lớn lên sau 1975. Tâm hồn của các em là những tờ giấy trắng, xã hội vẽ lên đó những con đường, những tín hiệu và các em đi trên con đường đó, nhận diện cuộc đời qua các tín hiệu đó. Xã hội trong trường hợp Việt Nam là bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng Sản, một tổ chức chuyên nghiệp với trách nhiệm khống chế mọi lãnh vực, suy nghĩ và nhận thức của con người. Dù sao, tuổi trẻ sinh ra và lớn lên khi lá cờ đỏ sao vàng đã có rồi, bị đầu độc để hiểu sai lịch sử, còn có thể thông cảm, những giáo sư, trí thức, nhà văn, nhà thơ học nhiều hiểu rộng, có dịp ra nước ngoài học tham khảo thêm nhiều tài liệu khách quan mà vẫn tin lá cờ nền đỏ sao vàng của đảng Cộng Sản là cờ tổ quốc mới là đáng trách. Họ thích khoe khoang bằng cấp, trình độ học vấn và luôn nhấn mạnh đến tinh thần khách quan khoa học nhưng lại sống và hành động như một thói quen, cảm tính, một phản xạ sinh tồn tự nhiên, chấp nhận những hiện tượng nghịch lý, phi lý một cách dễ dàng. Điều đó cho thấy không gian giữa kiến thức và nhận thức vẫn còn là một khoảng cách khá dài. Cho đến nay, lý do được viện dẫn nhiều nhất để biện minh cho tính chính thống của cờ đỏ sao vàng là căn cứ vào quốc hội khóa 1 và hiến pháp 1946. Cả thế giới đều biết trong chế độ Cộng Sản quốc hội chỉ là tấm bình phong dân chủ để che mắt dư luận. Đảng mới là trung tâm quyền lực tuyết đối điều khiển mọi hoạt động của đất nước. Ngày 6-1-1946, ngoại trừ 70 đại biểu không bầu gọi là “đại biểu truy nhận” từ các đảng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng được thêm vào sau đó, hầu hết trong số 333 đại biểu là đảng viên đảng Cộng Sản hay các tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản và phải qua sự giới thiệu của Việt Minh, một tổ chức tương tự như Mặt Trận Tổ Quốc ngày nay. Một vài quan điểm biện minh cho hiến pháp 1946 xem đó như là hiến pháp dân chủ, giá trị, thế nhưng giá trị của một hiến pháp không phải vì đó là một văn bản có nội dung súc tích, chứa đựng tầm nhìn xa nhưng ở chỗ thực hiện và áp dụng hiến pháp trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Hiến pháp 1946 mặc dù trên danh nghĩa được thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946 nhưng chưa từng được chính thức công bố cho đến khi được thay bằng hiến pháp 1959. Giống như trò hề bầu cử quốc hội khóa 13 năm ngoái, năm 1946 người dân cũng không có một chọn lựa nào khác ngoài những tên tuổi đã được Đảng đưa ra. Nhiều nơi như ở Quảng Nam, ban tuyên truyền của đảng ủy địa phương sợ đồng bào bỏ phiếu trắng vì không nhớ hết tên nên đã phổ danh sách đại biểu thành vè, thành thơ và bắt dân học thuộc lòng. Báo Quảng Nam năm ngoái còn hãnh diện khoe khoang thành tích tuyên truyền của Đảng khi đăng lại những bài thơ lục bát chuyển từ danh sách đại biểu như Trần Đình Tri, Lê Văn Hiến, Phan Bôi, Huỳnh Ngọc Huệ, Phan Thanh, Lâm Quang Thự, Phan Thao v.v.. Trung Bộ có Trần Đình Tri Cùng Lê Văn Hiến vậy thì đồng song Phan Bôi một dạ, một lòng Cùng Huỳnh Ngọc Huệ vốn dòng đấu tranh Cứu tế có chị Phan Thanh Có Lâm Quang Thự cùng anh Phạm Bằng Trần Tống tuổi trẻ tài năng Phan Thao, Võ Sạ từng quen ta nhiều Quế Sơn đồng chí Phan Diêu Cùng Nguyễn Xuân Nhĩ đủ điều kinh luân Trần Viện nhiều nỗi gian truân Còn Nguyễn Thế Kỷ mười phần quyết tâm… Và tác giả bài báo vui mừng kết luận “Mười bốn ứng cử viên ở các huyện đồng bằng và trung du do Mặt trận Việt Minh giới thiệu đều trúng cử với số phiếu cao tuyệt đối.” Đọc bài báo chỉ để thấy tội nghiệp cho các thế hệ ông bà chúng ta đã bị các tầng lớp phong kiến áp bức tận cùng, bị thực dân bóc lột và cuối cùng bị đảng Cộng Sản lừa gạt và dẫn dắt như lớp người nô lệ trong thời đại mới. Sau lần “bầu cử” 1946, đảng CSVN không thấy cần có quốc hội nên suốt 14 năm sau đó, Đảng chẳng màng nghĩ đến chuyện bầu bán “cơ quan quyền lực cao nhất” này làm gì cho tốn công tốn của. Sáu mươi lăm năm dài dằng dặc từ khóa 1 đến khóa 13, đừng nói chi văn minh nhân loại đã tiến quá xa mà cả hình dạng trái đất cũng đã đổi thay nhiều nhưng số phận làm nô lệ cho chủ nghĩa Cộng Sản của người dân Việt Nam vẫn không thay đổi. Lý do thứ hai, lá cờ nền đỏ sao vàng là cờ tổ quốc vì đã thắm máu của nhiều người Việt Nam yêu nước trong cuộc “chiến tranh chống thực dân Pháp đầy chính nghĩa”. Từ những ngày gian truân trên núi rừng Việt Bắc cho đến khi lá cờ này được cắm trên nóc hầm chỉ huy của tướng De Castries, và đó là một chiến thắng không thể phủ nhận. Tạm gát qua bên vai trò then chốt của các tướng lãnh Trung Quốc trong trận Điện Biên Phủ và mục đích cuối cùng của đảng Cộng Sản, máu xương của hàng triệu người Việt Nam đổ xuống không chỉ ở lòng chảo Điện Biên Phủ mà trong suốt gần một thế kỷ Pháp thuộc, phát xuất từ lòng yêu nước. Không ai chối cãi hay phủ nhận điều này. Như tôi đã viết nhiều lần trước đây, tình yêu dành cho quê hương của họ là một tình yêu thuần khiết và trong sáng. Họ ngã xuống cho thanh bình sớm được vãn hồi trên quê hương khổ đau và bất hạnh Việt Nam. Họ là những công nhân đôi tay còn dính dầu máy, là những nông dân từ bỏ ruộng vườn, ra đi theo tiếng gọi của núi sông vang vọng từ Mê Linh, Lam Sơn, Bạch Đằng, từ bốn ngàn năm lịch sử. Những người Việt Nam đó đã chết chỉ vì một mục đích duy nhất cho con cháu họ được sống trong thanh bình, tự do, độc lập chứ không phải sống trong xiềng xích độc tài nô lệ, và quan trọng nhất, họ không chết vì lá cờ của đảng Cộng Sản Việt Nam. Tôi thật sự tin, trong một nước Việt Nam tự do dân chủ, sự hy sinh của đồng bào trong suốt gần một trăm năm dưới ách thực dân, dù chết ở đâu và chết như thế nào, chẳng những không bị lãng quên mà còn được vinh danh xứng đáng. Giống như trong các tổ chức khác, trong hàng ngũ đảng Cộng Sản có nhiều người yêu nước nhưng bản thân đảng Cộng Sản như một tổ chức chính trị chưa bao giờ là một đảng yêu nước. Dùng lá cờ của chế độ Cộng Sản độc tài để vinh danh những người đã chết vì nguyện vọng độc lập tự do cho dân tộc là một hình thức phỉ báng họ. Lý do thứ ba, lá cờ nền đỏ sao vàng phải được gọi là cờ tổ quốc vì đã thắm máu của nhiều người Việt Nam yêu nước trong cuộc chiến “chống Mỹ xâm lược anh hùng” và cuối cùng đã cắm lên “trên đỉnh cao nhất của dinh Độc lập Sài Gòn”. Sau 37 năm với hàng ngàn tài liệu được công bố, hàng trăm tác phẩm được viết ra, đã chứng minh một cách tận tường và chi tiết lịch sử hình thành và mục tiêu của đảng CSVN từ 1930 cho đến nay. Hàng hàng lớp lớp thanh niên Việt Nam bị xua vào cuộc chiến gọi là “chống Mỹ cứu nước” chỉ để thỏa mãn tham vọng Cộng Sản hóa toàn cõi Việt Nam, và ngoài ra, để làm những tên lính đánh thuê trung thành cho Liên Xô và Trung Quốc. Trong các thập niên 1930, 1940, một mặt hô hào đoàn kết nhưng mặt khác Đảng thẳng tay tận diệt mọi thành phần yêu nước, từ các chính khách, lãnh tụ đảng phái tên tuổi như Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn bị cắt cổ ở miền bắc, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi bị giết ở miền trung, Phan Văn Hùm, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Hồ Vĩnh Ký bị giết ở miền Nam, cho đến các bậc lãnh đạo của hai tôn giáo được khai sinh ngay trong lòng dân tộc là Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, chỉ vì họ có quan điểm đấu tranh chống Pháp khác với mục tiêu xích hóa Việt Nam của đảng Cộng Sản. Không khác gì các chế độ phong kiến bất nhân, chẳng những cá nhân họ bị giết mà con cái họ dù còn trong tuổi vị thành niên cũng không được tha như trường hợp năm người con của nhà cách mạng Bùi Quang Chiêu. Hôm nay, Liên Xô đã sụp đổ nhưng mối họa Trung Quốc do đảng CSVN rước về chẳng những chưa chịu ra đi mà đang tiếp tục gậm nhấm từng phần lãnh thổ Việt Nam, tàn sát và đe dọa đời sống của ngư dân vô tội. Trung Quốc là lý do chính để Việt Nam từ một quốc gia bán đảo phì nhiêu nhìn ra biển Đông bao la bát ngát trở thành là một nước nghèo nàn, chậm tiến, bị cô lập trong một vũng ao tù nước đọng không lối thoát ra đại dương. Tại sao Trung Quốc yểm trợ CSVN trước 1975 và đánh Việt Nam sau 1975? Đảng Cộng Sản Trung Quốc được xem là cha mẹ đở đầu, dành từng hạt gạo để nuôi dưỡng đảng CSVN ngay cả trong lúc hàng triệu dân Trung Quốc chết đầy đường, không phải vì một nước “cộng sản anh em”, không phải vì “chủ nghĩa quốc tế vô sản”, không phải vì tình cảm “sắn liền sắn khoai liền khoai” (nhái theo âm Quan Thoại bài hát Tình Hữu Nghị Việt Nam – Trung Hoa của Đổ Nhuận) đậm đà tình nghĩa, nhưng chỉ vì Việt Nam là một sân sau, một vùng độn, một vòng đai, một lãnh thổ nối dài của Trung Quốc. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm mới nhất Về Trung Quốc (On China) vừa xuất bản, đã trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm Trung Quốc của họ Phạm vào năm 1968. Chu Ân Lai: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp đúng ngay ý chủ: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Phạm Văn Đồng phấn khởi: “Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng thấy”. Chu Ân Lai đồng ý: “Các đồng chí nên nghĩ như thế ”. Một lá cờ tắm máu bao thế hệ thanh niên Việt Nam đã chết chỉ vì phải đem thân làm tôi mọi, làm phên dậu châu Á cho chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc xứng đáng được gọi là cờ tổ quốc? Khi sân sau Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng quay về ám ảnh giới lãnh đạo CS Trung Quốc và Đặng Tiểu Bình đã quyết định chặt đứt vòng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài học”. Cuối 1978 đến đầu 1979, Đặng Tiểu Bình thực hiện chuyến đi nước ngoài dài nhất trong cuộc đời y, từ các cường quốc cựu thù Anh, Mỹ, Nhật, cho đến các nước nhỏ hay đang phát triển như Thái Lan, Mã Lai, Singapore và cả Nepal, Miến Điện chỉ với mục đích cô lập “Cu Ba phương Đông”. Họ Đặng đã lấy được lòng nguyên thủ các quốc gia y thăm viếng. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản lên án Việt Nam. Tổng thống Carter đồng ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Chưa đầy hai tuần sau khi từ Mỹ về, họ Đặng xua quân đánh Việt Nam. Thân xác của hàng vạn tuổi trẻ Việt Nam ngã xuống dọc biên giới Việt Trung chỉ vì nợ máu xương giữa hai đảng Cộng Sản. Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc đối với Việt Nam vẫn không thay đổi. Trung Quốc muốn Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Quốc và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp. Những diễn biến chính trị kể từ sau lễ ký kết công hàm Thành Đô 1990 đến nay cho thấy, lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc đã nắm giữ cả phần xác lẫn phần hồn của giới lãnh đạo CSVN. Một lá cờ được làm mục tiêu tác xạ của hải quân Trung Quốc trên biển Đông, đại diện cho một đảng chỉ biết khúm núm trước kẻ thù nhưng vô cùng tàn ác với đồng bào cùng máu mủ xứng đáng được gọi là cờ tổ quốc? Không phải ngày nay Trung Quốc mới là một nước lớn mà đã lớn trong thời Nam Hán hơn một ngàn năm trước và không phải nước sông Hồng Việt Nam mới đỏ hôm nay mà đã đỏ từ máu của quân xâm lược khi Ngô Quyền đóng cọc trong lòng sông hơn một ngàn năm trước. Lịch sử đã chứng minh, Trung Quốc giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì sự thật. Tôi biết, nhiều chú bác anh chị, nhất là từ miền bắc sống sót sau cuộc chiến Việt Nam, có thân nhân, đồng đội chết dưới lá cờ đỏ sao vàng. Thân xác họ được gói trong lá cờ đó và hôm nay trên mộ họ vẫn còn cắm lá cờ đó. Tuy biết cái sai của chế độ nhưng không phải dễ dàng dứt đi được vì không ai nhẫn tâm chặt đứt cánh tay mình, cắt bỏ đi một phần xương thịt của chính mình. Một chiếc áo cũ ném đi lòng còn vương vấn đừng nói chi một người thân, đồng đội, anh em, một phần đời trai trẻ. Không, tôi không nghĩ các chú bác anh chị nên quên quá khứ hay giết chết đi kỷ niệm. Đúng ra, không ai có thể hay có quyền ra lịnh đó. Vượt qua không có nghĩa là quên đi nhưng biết đặt kỷ niệm, đặt quá khứ vào đúng chỗ trong một ngăn tủ riêng tư và đóng góp phần đời còn lại cho một tương lai tốt đẹp chung của con cháu mình, đất nước mình. Con người có tuổi thơ, tuổi trẻ, tuổi về chiều nhưng dân tộc thì không. Dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm nhưng vẫn còn rất trẻ. Và một ngày, các chú bác anh chị sẽ thấy mình, giống như dân tộc, trẻ lại vì khát vọng hồn nhiên của thưở tuổi hai mươi đang chảy cùng đất nước trong giai đoạn phục hưng đầy sức sống. Lịch sử nhân loại cho thấy, không một chế độ độc tài nào tồn tại vĩnh viễn. Một ngày, dân tộc Việt Nam sẽ có một lá cờ tổ quốc, biểu tượng của ý chí vươn lên, tinh thần độc lập, khát vọng tự do đã được hun đúc, trui rèn trong lửa đỏ, vượt qua bao khốn khó gian lao trong suốt chiều dài lịch sử. Để sớm có ngày đó, người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, phải dứt khoát chọn lựa một con đường, một lối thoát cho chính mình và cho dân tộc mình. Không thể phó thác sinh mạng chín chục triệu người và tương lai giòng giống Việt cho thiểu số ăn trên ngồi trước, nắm giữ quyền lực theo kiểu cha truyền con nối và cong lưng làm tôi mọi ngoại bang. Và lối thoát duy nhất, chọn lựa duy nhất của thời đại là dân chủ. Trần Trung Đạo
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 13, 2012 3:28:45 GMT 9
Nhân ngày 30 tháng 4: Một dấu chấm trên chữ “i” Wednesday, April 11, 2012
Nguồn: Blog Bùi Tín (VOA) Ngày 30 tháng 4 lại sắp đến. Ba mươi bẩy năm đã trôi qua. Nhanh thật. Ngày quốc hận, ngày mất nước, ngày gãy súng, ngày bị đồng minh phản bội, đối với không ít đồng bào ta. Một người đang xem bức ảnh 'Sài Gòn thất thủ của nhiếp ảnh gia Hugh Van Es tại một cuộc triển lãm ở Hong Kong năm 2009. (Hình: MIKE CLARKE/AFP/Getty Images) Ngày đại thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc, ngày hòa bình trở lại, ngày lịch sử, đối với những người lãnh đạo đảng cộng sản và bộ máy tuyên truyền của họ, cũng như những người còn nhẹ dạ quen nghe theo họ. Tôi không có cảm giác hay nhận thức nào như trên. Tôi tự thấy trong hoàn cảnh đặc biệt. Xin đừng ai bắt tôi phải theo phía này hay phía kia. Tôi cũng không ba phải. Mỗi người có một hoàn cảnh riêng, một quá trình riêng, một số phận riêng, không ai giống ai. Cái đẹp nhất của nhân loại là hàng tỷ, tỷ con người, cấu tạo cùng một kiểu “người” nhưng không có lấy 2 người giống hệt như nhau, nghĩ hệt như nhau. Giống hệt nhau thì chán chết! Cứ đến ngày 30 tháng 4, suốt 37 năm nay, nhiều nhà báo Việt Nam trong và ngoài nước, một số nhà báo Pháp, Anh, Ðức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Phần Lan, Canada... lại hỏi tôi, phỏng vấn tôi về vấn đề này, năm nào tôi cũng trả lời rõ ràng, ngay thật. Từ đó đến nay, đông đảo đồng bào quan tâm đến thời sự đất nước hiểu tôi rõ hơn, đầy đủ hơn, tôi rất mừng và biết ơn. Tuy vậy năm nay tôi thấy vẫn cần “đặt một dấu chấm trên chữ i.” Ðó là bởi vì ngày 30 tháng 4, 1975, do đưa đẩy của hoàn cảnh lịch sử, do nghề nghiệp của mình, tôi được làm một chứng nhân tại chỗ của thời điểm kết thúc chiến tranh ở một địa điểm then chốt, Sài Gòn, thủ đô của chế đô Việt Nam Cộng Hòa. Ðối với tôi, ngày 30 tháng 4, 1975, không hẳn là ngày vui, cũng không hẳn là ngày buồn, mà là một ngày trộn lẫn vui và buồn, cảm nhận ngày càng sâu đậm nhất trong tôi là một niềm cay đắng dai dẳng cho thân phận của dân tộc mình, cho thân phận cá nhân mình. Không thể không vui khi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn chấm dứt, không thể không vui khi sự chia cắt độc ác do 2 ông anh nham hiểm một thời của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa áp đặt hồi 1954 cho đất nước đã được xóa bỏ, mở ra triển vọng hòa hợp dân tộc. Cay đắng cứ gặm nhấm dần niềm vui chưa trọn, khi nhận ra rằng từ “giải phóng “ sao mà trớ trêu, phải nói thẳng đây là sự “chiếm đóng,” bỏ tù hàng trăm nghìn sĩ quan đồng bào mình, đày ải và hạ nhục trong hàng trăm nhà tù mang danh trại cải tạo, gây nên thảm cảnh “thuyền nhân” kinh hoàng trên biển cả, với hàng vạn người già trẻ lớn bé đồng bào ta chết chìm trong lòng đại dương... Trên đời, trong lịch sử, có bao giờ, ở đâu có cảnh ai oán trầm luân đến vậy? Có bạn blogger trong nước hỏi tôi, vậy thì niềm cay đắng xuất hiện trong tôi từ thời điểm nào? Tôi cố nhớ lại, và nhận ra ngay từ dịp Tết Mậu Thân đầu năm 1968, khi duyệt các bản trình bày báo Quân Ðội Nhân Dân hàng ngày, tôi đã cảm thấy bị “sốc,” khi thủ trưởng Tổng Cục Chính Trị chỉ thị cho tôi là khi đăng tin chiến sự miền Nam, nếu có các trận thắng diệt gọn “1 cứ điểm do 2 tiểu đoàn, 1 chiến đoàn hay chiếm được 1 quận lỵ, hoặc là diệt trên 1 nghìn địch trở lên” thì phải in tít đậm màu đỏ, kèm theo bản đồ hay sơ đồ, có bài bình quân sự đi theo. Tôi từng được biết tuy còn lờ mờ là một số anh họ, em họ, cháu họ tôi ở Huế và Sài Gòn đang là sĩ quan của miền Nam. Tôi phân vân về chỉ thị trên đây, sao lại mừng, lại vui được, khi quân Việt hăng say diệt quân Việt cùng chung máu mủ họ hàng, không hề thù địch nhau, chỉ do hoàn cảnh mà phải ở tình trạng gay gắt trớ trêu. Cái cảm giác cay đắng này cứ lớn lên, lớn lên mãi thành chất men bất đồng, đối lập, đối kháng về sau. Khi lời hứa hòa giải bị quên. Có bạn trong nước hỏi, gần như trách móc tôi, là sao chậm giác ngộ thế? đến tận năm 1990 mới rời bỏ chế độ và quyền lực. Tôi nghĩ sớm hay chậm chỉ là tương đối. Tôi ôm niềm cay đắng, không thuần phục cường quyền trong 15 năm, rồi điều gì phải đến đã đến, như một cuộc đổ vỡ, ly hôn không thể tránh khỏi, khi tôi có dịp chính thức sang Pháp, theo lời mời đích danh của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CS Pháp, do tôi từng hướng dẫn đoàn đảng CS Pháp đi thăm Ðiện Biên Phủ, vịnh Hạ Long và rừng Cúc Phương 2 năm trước. Tôi nghĩ kỹ, cho rằng đứng ngoài tìm cách nói về có khi hơn là nói từ trong nước, sẽ bị bịt mồm. Ðiều tôi tự an ủi là dù sao so với những đảng viên bỏ đảng, trả lại thẻ đảng sau này, tôi vẫn còn là người sớm hơn. Anh Nguyễn Hộ, anh Trần Ðộ, anh Hoàng Minh Chính, anh Lê Hồng Hà, anh Bùi Minh Quốc, anh Phạm Ðình Trọng, anh Ðỗ Xuân Thọ... đã trước sau vĩnh biệt đảng. Nay phong trào “nhạt đảng,” “chán đảng,” bỏ sinh hoạt đảng, quay lưng lại với đảng, trả thẻ đảng, nhẹ nhàng, còn tự cho là từ bỏ một gánh nặng, một “của nợ,” đang lan rộng. Một blogger trong nước phỏng đoán rằng nếu như sắp đến có luật về lập hội, nếu phỏng như xuất hiện một Tập hợp Dân chủ-Xã hội, hay một Mặt trận Công dân Việt Nam, có nhóm lãnh đạo trong sạch, có tâm và có tầm, vượt xa Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng CS thời suy thoái và đổ đốn hiện nay, thì lập tức sẽ có 60 % đảng viên CS hân hoan tự nguyện chuyển sang tổ chức mới. Ðó sẽ là đảng của đa số, đảng của dân tộc, của tuổi trẻ, của thời đại mới. Cũng cần nói rõ trong 15 năm, tôi đã nhiều lần cố góp ý, đề đạt chính kiến với lãnh đạo, như gửi hẳn một thư kiến nghị cho ông Trường Chinh, nhưng không có hồi âm. Tôi còn nhớ một đoạn như sau: “Hiện ta có 1.3 triệu quân tại ngũ, trong khi Ấn Ðộ có dân số gấp 6 ta mà quân số chỉ bằng của ta, Indonesia có dân số gấp 3 ta mà quân số chưa đến 1 triệu, cho thấy việc giảm quân là cấp bách ra sao, sau khi ta đã rút quân khỏi Campuchia.” Lúc ấy là năm 1987, sau khi tôi là nhà báo đi trong đoàn ông Lê Duẩn thăm Ấn Ðộ và sau đó trong đoàn Tướng Văn Tiến Dũng thăm Indonesia. Tôi được nghe chính bà Gandhi trao đổi với ông Lê Duẩn về xung đột biên giới Ấn-Pakistan cùng thực trạng quân đội Ấn, cũng như nghe Tướng Suharto trao đổi rất cởi mở về tình hình quân đội Indonesia. Họ đều cho rằng vấn đề số lượng quân tại ngũ là rất quan trọng, theo một tỷ lệ hợp lý so với số dân và nền kinh tế, nếu không sẽ thành gánh nặng nguy hiểm cho xã hội. Các tỷ lệ trên làm tôi giật mình khi nghĩ đến tỷ lệ quá ư phi lý, nguy hiểm ở nước ta, không ai chú ý, nhưng cứ ám ảnh tôi mãi cho đến nay. Cũng có bạn trẻ ở Bắc Cali, Hoa Kỳ, hỏi tôi chuyện tôi “huênh hoang đe dọa Tướng Dương Văn Minh và đồng sự rồi đòi họ đầu hàng, được kể trên báo chí hải ngoại, thực tế là ra sao?” Xin trả lời bạn: Tôi đã đọc nhiều bài, tả lại cứ như thật. Nào là: Bùi Tín phách lác, xông vào phòng, rút súng ngắn bắn lên trần, rồi bắt tất cả giơ 2 tay đầu hàng không điều kiện. Thật ra sau khi Trung Tá Hân, trưởng phòng bảo vệ Quân Ðoàn 4, báo trước: “Một sĩ quan cao cấp sắp gặp các ông,” tôi bước vào phòng, còn ngăn lại một chiến sĩ cầm AK dừng lại ở ngoài cửa. Tướng Dương Văn Minh, ông Vũ Văn Mẫu, ông Nguyễn Văn Hảo, tất cả là 37 người, đứng dậy, Tướng Minh nói: “Chúng tôi chờ quý ông từ sáng đặng chuyển giao chính quyền,” tôi liền đáp ngay: “Chính quyền các ông đã sụp đổ từ sáng nay rồi,” tôi biết ông Minh đã tuyên bố đầu hàng trước đó rồi, không ai giao cho tôi việc tiếp nhận chính quyền, tôi nói thêm: “Các ông không thể chuyển giao cái không còn ở trong tay.” Thấy họ đều buồn, tôi liền nói, như một lời an ủi: “Từ nay chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình đã trở lại, toàn dân tộc ta đã thắng, chỉ có người Mỹ là thua.” Tôi thấy ông Mẫu mỉm cười. Sau đó tôi nói chuyện riêng, nhẹ nhàng, có thể gọi là thân mật tự nhiên với ông Minh, ông Mẫu, ông Hảo... Tôi hỏi ông Mẫu về phong trào Phật giáo, về chuyện vui ông từng cắt tóc ngắn, về chuyện giảng dạy ở trường Luật, tôi hỏi ông Minh về sưu tập hoa phong lan, về chuyện chơi tennis của ông. Cả cảnh này được tổ quay phim thời sự của quân Giải Phóng do anh Sanh ghi lại, và sau đó mươi ngày chiếu lại cho các Tướng Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy Ban Quân Quản, và Tướng Văn Tiến Dũng xem. Sau buổi chiếu, anh Trà bắt tay tổ quay phim và tôi, còn nói: Nhà báo nói hay quá! Sau này Tướng Võ Nguyên Giáp cũng kể cho nhà báo Hoa Kỳ Stanley Karnow về chiến dịch cuối cùng, và giới thiệu về tôi: Bùi Tín là nhà báo, cũng là sĩ quan cao cấp có mặt ở Dinh Ðộc Lập ngày 30 tháng 4, 1975. Có mấy điểm gây hiểu lầm tôi đã nhiều lần cải chính. Xin một lần nữa đặt dấu chấm trên chữ i cho sòng phẳng. Tôi từng kể là tôi đi cùng “đơn vị xe tăng đầu tiên” chứ không phải đi trên “chiếc xe tăng đầu tiên.” Hai điều này khác hẳn nhau. Do có nhà báo Pháp hiểu và ghi sai. Tôi cũng không bao giờ nói rằng tôi là sĩ quan cao cấp đầu tiên và duy nhất đến Dinh Ðộc Lập. Tôi được biết trước tôi hơn 1 giờ, Thượng Tá Nguyễn Công Trang, phó chính ủy Quân Ðoàn II, đã đến cùng đơn vị tiền trạm. Nhưng không hiểu sao, anh Trang không vào gặp Tướng Minh và đồng sự. Ðến chiều gần tối tôi mới gặp Tướng Nam Long, lúc ấy là phái viên Bộ Tổng Tham Mưu đi theo sát Quân Ðoàn II, anh Nam Long rủ tôi chụp chung một pô kỷ niệm. Tôi kể chuyện gặp Tướng Dương Văn Minh và hỏi anh rằng anh có định gặp họ không. Anh nói trên không giao nhiệm vụ này. Vậy khi trên báo trong nước và nước ngoài có viết rằng Bùi Tín là sĩ quan cao cấp duy nhất gặp đại diện chính quyền Sài Gòn ngày 30 tháng 4, 1975 ở tại Dinh Ðộc Lập là một sự thật. Ðiều này tôi không bao giờ lấy đó làm một điều gì ghê gớm để khoe khoang. Khoác lác hay phách lác không phải lối sống, phong cách xử sự của tôi. Tôi chỉ là một nhân chứng may mắn. Những sĩ quan khác gặp Tướng Minh, nhận đầu hàng hay chứng kiến sự kiện này là Trung Tá Bùi Văn Tùng, Trung Tá Nguyễn Văn Hân, Ðại Úy Phạm Xuân Thệ... Theo điều lệnh quân đội, họ thuộc bậc trung cấp, ở dưới cấp thượng tá và đại tá một bậc, chứ không phải 1, 2 cấp mà thôi. Cao cấp so với bậc trung cấp có mức lương khác hẳn, bếp ăn khác (gọi là tiểu táo), giường nằm khác, quân phục và lễ phục chất lượng khác, lớp học, trường học khác, tài liệu đọc khác. Công bằng mà nói, người được ủy quyền hợp pháp của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng là ông Sáu Hoàng, tên thật là Cao Ðăng Chiếm, chức vụ là thứ trưởng Bộ Công An ở Hà Nội, vào Nam “phụ trách an ninh miền “ thay cho anh Nguyễn Tài, con nhà văn Nguyễn Công Hoan, bị bắt sau Tết Mậu Thân. Anh Sáu Hoàng đi từ Dầu Tiếng xuống, có giấy ủy nhiệm của Chủ Tịch Mặt Trận Nguyễn Hữu Thọ và Thủ tướng Chính phủ lâm thời Huỳnh Tấn Phát. Tôi gặp anh Sáu Hoàng khi trời đã tối mịt. Trong sân Dinh Ðộc Lập một cảnh độc đáo thú vị diễn ra, các tổ trinh sát, thông tin, xe tăng... lần lượt nổi lửa bằng cành cây, đun nước, nấu cơm, làm mì ăn liền rải rác trên sân cỏ. Anh Sáu Hoàng hỏi chuyện tôi qua loa rồi vội vào gặp Tướng Minh và đồng sự. Không có tổ quay phim theo anh, cũng không có ai chụp ảnh. Cũng chẳng cần. Bản tin tôi làm về sự kiện này gửi tiếp ra Hà Nội không được đăng. Thì ra ý định xóa sổ cái bình phong Mặt Trận và Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN đã được quyết định trước rồi. Họ thâm thật! Họ biết từ nay không cần đóng kịch nữa. Còn một câu hỏi khác: “Có phải nhà báo Bùi Tín dự đoán tình hình Việt Nam sắp biến động như Ðông Âu và Liên Xô, nên đã sớm tách ra khỏi chế độ độc đảng để hy vọng sẽ trở thành một Havel, một Walesa, hay là một Gorbachov?” Không, tôi không bao giờ có cao vọng như thế. Tôi không hề có tham vọng hay ý định là một nhà chính trị, một chính khách. Từ khi bước vào nghề làm báo (đầu năm 1965) tôi dần dần mê say nghề báo, càng về sau tôi càng xác định sẽ làm báo suốt đời. Tôi quen thân nhiều nhà báo quốc tế Pháp, Ðức, Ý, Nhật, Hoa Kỳ, Nga, Thái Lan... trong đó có nhiều nhà báo nổi tiếng. Tôi từng dự nhiều cuộc họp quốc tế ở Bangkok (Thái Lan), Tokyo (Nhật Bản), New York (Hoa Kỳ), Alger (Algeria), Ethiopia, Zimbabwe, thăm Viện báo chí Manila (Philippines)... nên tôi cho rằng viết báo là nghề có ích, thú vị, tự do nhất. Tôi chỉ muốn là nhà báo tự do, không muốn có chức vụ gì, dù là phó tổng, là tổng biên tập. Gia đình tôi, bạn bè tôi đều biết tôi không có máu công danh, máu làm quan, máu hưởng danh lợi. Tôi chỉ có bè bạn thân ở cấp dưới, tôi rất ít tìm gặp cấp trên. Cái tính tôi xưa nay là vậy. Tôi tin là rồi ở ta sẽ có những Walesa, những Havel, những Gorbachov, rồi những Aung San Suu Kyi, nhưng trong đó không có tôi. Tôi tận lực ủng hộ họ. Thế cũng đủ. Có một cô nhà báo người Việt muốn hỏi tôi về chuyện “16 tấn vàng.” Tôi xin hẹn sẽ nói rõ vào một bài sau. Vì bài này đã khá dài. Cách đây vài năm, Bộ Tổng Tham Mưu Hà Nội đã đưa ra một bản văn kiện chính thức kết luận về diễn biến ngày 30 tháng 4, 1975, có anh Bùi Văn Tùng, anh Nguyễn Văn Hân, anh Phạm Xuân Thệ... tham gia. Họ cố tình không nói gì đến tôi một cách ngay thật, cũng cố tình xuyên tạc để vu cáo tôi là dối trá, tranh công. Họ cố tình xuyên tạc và vu cáo vì tôi vắng mặt, vì tiếng nói trung thực của tôi được đông đảo đồng bào chú ý lắng nghe, do đó gây hại cho chế độ đang lâm vào quá trình băng hoại không sao kìm hãm nổi. Ðó cũng còn vì họ không muốn nhắc đến chuyện hơn 16 tấn vàng do chính quyền Dương Văn Minh giao lại ngày 30 tháng 4, 1975, qua lời ông phó thủ tướng đặc trách kinh tế-tài chính Nguyễn Văn Hảo chính thức báo cho tôi - và không hề báo cho một ai khác. Họ vẫn chơi trò mờ ảo, ngầm gieo rắc hoài nghi, dựa vào bài viết của một nhân viên CIA Frank Snepp, rằng ông Thiệu đã mang cả 16 tấn vàng ròng của Ngân Khố sang Ðài Loan vào tối ngày 24 tháng 4 rồi. Vì muốn mọi sự được minh bạch, rõ ràng trong lịch sử dân tộc, tôi sẽ hầu chuyện các bạn xa gần trong một bài sau.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 13, 2012 4:12:47 GMT 9
Dinh Ðộc Lập, ngày tháng đợi chờÝ Yên Thuở ấy, đầu xuân Ất Mão 1975, sau 30 năm phát động hai cuộc chiến tranh “xây dựng đảng,” quân bắc phương đã đến bên sông La Ngà giữa vùng cây trái hiền hoà Miền Ðông. Qua 20 năm kháng chiến, quân đội Miền Nam không để một khu vực đông dân cư nào lọt vô tay Cộng sản; đôi khi trong thế giằng co, hễ tạm mất, liền được dành lại tức thì. Mỹ và đồng minh ào ào kéo đến vào năm 1965, tưởng như ăn sống nuốt tươi Cộng quân, nhưng chỉ hoạt động tại Miền Nam, nổi lửa cho chiến tranh bùng lên, bắt tay với Trung Cộng, ký một hiệp định với CSVN, rồi lặng lẽ rút đi, để lại Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà một mình gánh chịu hết sức nặng chiến tranh trước toàn khối Cộng Sản Quốc tế. Người viết có mặt tại Miền Ðông trong mùa quốc nạn, sẽ ghi lại tình hình chiến sự nơi đây, là hướng tiến quân chánh của Cộng sản về Sàigòn. Ðôi khi phải nêu lên những sự kiện xoay quanh nào khác, đó là nhu cầu liên hệ khi viết, nhưng sẽ tránh lời chỉ trích đối với những nhân vật chánh yếu can dự trực tiếp tới ngày 30 Tháng Tư 1975, nói thẳng ra là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Dương Văn Minh. Trong đêm khuya 5-4-1975, trên đỉnh Ðồi Móng Ngựa, tám cây số hướng tây theo đường chim bay vô Xuân Lộc, chàng lính chiến một tiểu đoàn lưu động nơi vùng chạm tuyến, nằm đu đưa trên chiếc võng hành quân mắc vô hai cây mít, chiếc radio ba băng áp sát bên tai, nghe ngóng sự đời. Giải tiền đồn cực bắc của Miền Nam tại Ðông Hà-Quảng Trị vào năm 1955, đã phải thoái lui hàng ngàn cây số về nam, dừng lại nơi khu vực Dốc Mơ-Gia Kiệm, hướng về phương bắc mịt mờ. Xe tăng quân CSVN tại dinh Độc Lập ngày 30-4-1975 Nguồn ảnh: Hà Nội Mới Mấy đài phát thanh nước ngoài đổi giọng vu cáo Tướng Ngô Quang Trưởng đào nhiệm, gieo hoang mang khắp nước và Vùng Một giới tuyến. Tổng Thống Thiệu kêu Tướng Trưởng vô Sàigòn nhận lệnh bỏ Huế, rồi lại giữ Huế, sau lại bỏ Huế, lời lẽ như một tân khoá sinh ấp úng thực tập ra lệnh hành quân. Miền Trung di tản trong hỗn loạn kinh hoàng. Khi về gặp lại tổng thống tại Sàigòn, vị danh tướng cam phận vô nằm nghỉ mát tại một trailer house gần cổng chánh doanh trại Bộ Tổng Tham Mưu. Sau khi TT Thiệu từ chức, Tướng Trưởng được thong thả, nhưng tay trắng, cô độc hết binh quyền, lại mang nón sắt áo giáp túc trực tại Bộ Tổng Tham Mưu chờ nhận lệnh chiến đấu không bao giờ có nữa, từ một chánh quyền chuyển tiếp mau lẹ để tan hàng. Một vị tư lệnh quân đoàn khác cũng ôm một nỗi buồn-muôn-thuở cùng Ban Mê Thuột. Tướng Phạm Văn Phú , Tư Lệnh Quân Ðoàn II / Vùng 2 Chiến Thuật, tâm sự cùng người bạn là Trung Tá Trần Thanh M., Khoá 13 Ðà Lạt. Vào dịp Tết Ất mão 1975, trong bữa ăn trưa nhân chuyến thăm Quân Ðoàn II, Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho ông tăng cường phòng thủ Ban Mê Thuột (BMT), nhưng thời gian sau lại ra phản lệnh cho ông ưu tiên phòng thủ Pleiku, coi nhẹ BMT. Tướng mặt trận thi hành chỉ thị chòng chéo của nhà vua, đâu có ngờ đó là lệnh lạc – vô tình hay hữu ý – để BMT sa vô tay đối phương, từ đó biến cố như sức nổ dây chuyền ra tới Huế ngày 25-3-1975 và liên tiếp về Miền Nam. Tướng Phú căn dặn Trung Tá M. chỉ được tiết lộ sự kiện BMT này vào thời gian thuận tiện. Tướng Phạm Văn Phú tuẫn tiết cuối Tháng Tư, trước ngày mất nước. Trong hai tháng Ba và Tư 1975, từng đoàn dân chúng lũ lượt bám theo các đoàn quân di tản, từ cao nguyên đổ xuống đồng bằng, từ Miền Trung xuôi nam. Cảnh tượng Ðại lộ Kinh Hoàng ngoài Quảng Trị trong mùa hè 1972 tái diễn, nhưng nay với mức độ khủng khiếp trăm lần, người dân Miền Nam đã phải chịu đựng hoả lực đại pháo 130 và hoả tiễn 122 tối tân của quân cộng sản. Trên đường tiến quân về Sàigòn, bắc quân chạm phải kháng tuyến Xuân Lộc. Sau 12 ngày tấn công thất bại, quân đoàn IV Bắc Việt để lại chiến địa một số lượng tổn thất về nhân mạng và chiến cụ thừa đủ để tổ chức và trang bị một sư đoàn mới. Nhưng Tổng Thống Thiệu, sau hai lần chỉ thị rút bỏ hai vùng cao nguyên và giới tuyến, thêm một lần cuối, cho di tản Xuân lộc vào ngày 20-4-1975. Câu hỏi Tổng thống Thiệu có nhận lệnh từ đâu hay của ai không là nội dung bài này. Sau đây là một trận đánh điển hình của các đơn vị thuộc Sư Ðoàn 18 trong khuôn khổ chiến trường Xuân Lộc, qua phát biểu của phi công Võ Ngọc Ấn, trong buổi họp mặt tại tư gia Nhật Thịnh – Khuê Dung trên đường McKee, San José vào buổi tối ngày 29 Tháng Tư năm 2000: “…. Tôi đã sáu lần bị thương trong các phi vụ yểm trợ tác chiến, nhưng chưa lần nào kinh ngạc và cảm phục bằng khi chứng kiến sự hy sinh quả cảm của một đơn vị thuộc Sư đoàn 18 tại Ðồi Móng Ngựa phía bắc Dầu Giây giữa Tháng Tư năm 1975… Chúng tôi vô vùng lúc 8 giờ 30 sáng thì đơn vị dưới đồi đã đánh gục mấy đợt xung phong địch… Tôi nghe địch là thuộc trung đoàn 95 quân đoàn Bốn Bắc Việt… Tôi thấy địch lố nhố di động qua những trảng trống… tập họp lại, đợt xung phong mới bắt đầu, chúng tôi vừa kịp đến. Ðịch quân hàng ngang xông lên, chúng tôi lao tới yểm trợ tiếp cận… Quân bạn dưới đồi chống trả dữ dội… Đạn pháo ta pháo địch chấp chới um khói khắp vùng… A-37 dội bom trên hai ngọn đồi gần đó bên quốc lộ…Trận chiến cứ thế kéo dài trong ngày, Ðồi Móng Ngưa đứng vững. Về buổi chiều tôi thấy cây cối khắp chung quanh xơ xác không rõ đâu là thân cây đâu là xác người ta… Có lúc tôi nghe tiếng trong máy hỏi, hình như là lời Tướng Lê Minh Ðảo, “Mày nói cái gì, em nói gì, em muốn gì, hả 51?” … Và có tiếng trả lời đứt quãng trong máy: “Chúng tôi… vẫn giữ địch…Chúng nó tiếp tục xông lên…rất đông… Khi cần, khẩn cấp, xin cứ dội bom chụp pháo lên đầu tôi và đâu địch luôn…(Tiếng trong máy là lời hai đại đội trưởng Nguyễn Thanh Trường và Mai Mạnh Liêu thuộc Tiểu đoàn 3.52-18 từ Ðồi Móng Ngựa – YY). Hai chiến hữu Không Quân và Sư Ðoàn 18 không hẹn mà nên, đã có mặt trong buổi tối văn nghệ tại tư gia Nhật Thịnh-Khuê Dung, và nhận ra nhau từ một một địa danh xa khuất, nơi biết bao đồng đội đã bỏ mình, cùng biết bao lính trẻ bắc phương đã ngã gục, sương gió lãng quên. Những người ở Dinh Ðộc Lập, 1955-1975 Người viết xin được tôn vinh lòng yêu nước thương dân của quý vị lãnh đạo Việt Nam Cộng Hoà, qua các hoàn cảnh khác nhau, đã thể hiện trước người đồng minh Hoa Kỳ, và trước người Cộng Sản Miền Bắc. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Khi còn là thủ tướng, ông Diệm tiếp nhận dinh Norodom từ người Pháp và đổi tên là Dinh Ðộc Lập. Thủ Tướng Diệm dẹp loạn sứ quân, thống nhứt quốc gia và quân đội. Là người thiết lập và tổng thống đầu tiên Việt Nam Cộng Hoà. Phục hồi một tinh thần quốc gia cao độ. Miền Nam hưởng chín năm thịnh trị, phát huy văn hoá và kinh tế. Ðầu thập niên 1960, TT Diệm cương quyết chống lại dự tính của Hoa Kỳ đem quân tác chiến vô Miền Nam VN, nếu không ký kết một thoả ước an ninh song phương với Việt Nam Cộng Hoà. Có thế lực ngầm phát động phong trào chống phá chế độ. Tướng Dương văn Minh làm đảo chánh và thảm sát hai anh em Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Từng có ý dùng tiền từ bốn ngân hàng VN để tiếp tục chống Cộng (bốn ngân hàng sau đó bị áp lực giải tán). Yêu cầu Mỹ cho vay ba tỉ USD có tính lời, kêu là Freedom Loan, trả trong 10 năm, nhưng Mỹ từ chối. Yêu cầu quốc vương Saud Arabia là Saud Al Faisal giúp kháng chiến; quốc vương nhận lời, nhưng chẳng may bị ám sát sau đó, ngày 25-3-1975, một tháng trước ngày Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ. Khi cho rút bỏ hai vùng cao nguyên và giới tuyến, TT Thiệu có lẽ tin rằng sẽ có vùng trái độn tại Miền Trung sau khi ngưng chiến. Niềm tin đó là vô vọng, cho đến khi TT Thiệu lại phải ra lệnh di tản kháng tuyến Xuân Lộc, rồi từ chức vào ngày hôm sau, 21-4-1975. Ðại sứ Martin và hai tướng CIA, Polgar và Timmes, đưa tiễn ông Thiệu ra nước ngoài ngày 24-4-1975. Khi sang Mỹ, vào năm 1993, trả lời BBC phỏng vấn, ông Thiệu nói vẫn tin rằng thực thể Việt Nam Cộng Hoà còn toàn vẹn theo pháp lý. Tổng Thống kế nhiệm Trần Văn Hương (một tuần lễ). Một nhân sĩ ái quốc nhiêt tình, vô cùng thanh liêm, quả cảm, thề giữ Miền Nam tới cùng, nhưng rồi cũng phải trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh, và chỉ cho ông Minh thôi, theo đòi hỏi của Bắc Việt, “Bất cứ người nào khác ông Minh, sẽ có nghĩa là Sàigòn trong biển lửa!” Trước viễn tượng khủng khiếp về hàng triệu dân lành bị chết oan uổng và một Sàigòn tan nát, cụ Hương trao quyền cho Big Minh. Cụ Hương ở lại Miền Nam, từ chối đi định cư tại Pháp hay Mỹ theo lời mời của hai chánh phủ này. Cụ từ chối sự trợ cấp lương thực của cộng sản, cụ nói, “Những đàn em tôi còn đang đói rét trong tù…” Cụ không làm chứng minh nhân dân, không đi bỏ phiếu trong chế độ CS. Cụ quá vãng tại Sàigòn, theo ý nguyện vẫn là người công dân Việt Nam Cộng Hoà. Ðại Tướng Dương văn Minh. Tướng Minh xin viết cấp bậc là “đại tướng” trên “Lời đầu hàng,” nhưng viên sĩ quan Bắc Việt không chịu, vẫn bắt ghi là “Tổng Thống”. Ông Minh xa chánh quyền từ 1965, không được dân bầu cử, không có tư cách kế nhiệm chức tổng thống, bởi không là phó tổng thống, chủ tịch quốc hội, hay chủ tịch giám sát viện. Ông làm tổng thống trong hai ngày theo đòi hỏi của Bắc Việt. Ông là tổng thống soán ngôi vi hiến khi đọc lời đầu hàng trước viên sĩ quan cấp Tá là Bùi Văn Tùng của Bắc Việt. Ông Minh khước từ đề nghị của Pháp muốn giúp giải quyết nội tình Miền Nam Việt Nam. Sơn Tinh chiếm Dinh Ðộc Lập Sau khi cho bỏ tuyến Xuân Lộc, Tổng Thống Thiệu từ chức vào buổi tối ngày kế tiếp. Ba ngày sau, 24-4-1975, ông ra đi nước ngoài, được Ðại sứ Martin và hai Tướng CIA tiễn ta tận thang máy bay quân sự Mỹ. Ðiều này cho thấy, tất cả những quyết định chiến lược của ông gần đây – rút bỏ hai vùng chiến thuật và chiến tuyến Xuân Lộc, đến việc từ chức và ra đi – không phải là những chuyện riêng của ông. Trung tá chính ủy Bùi Văn Tùng và nhà báo Borries Gallasch tại dinh Độc Lập ngày 30-4-1975 Nguồn ảnh: Ảnh tư liệu gia đình của Borries Gallasch TT Thiệu từ chức trong cơn sơn hà nguy biến là lời báo trước sự tan hàng tất yếu của Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng người ta chưa thể giải thích rõ, vì sao ông Thiệu không ở lại tại chức để chịu cái nhục nhã đầu hàng, mà lại là ông Big Minh, một tổng thống không hợp pháp. Mặt khác, nếu Mặt Trận GPMN không nhường Bắc Việt, tới Dinh Ðộc lập trước và tuyên bố “chương trình hòa giải,” thì tình thế sẽ diễn như thế nào? Nhắc lại trận Xuân Lộc, phe Bắc Việt đã đem Tướng Trần Văn Trà sang Quân đoàn IV, là để cách ly Trà khỏi quyền chỉ huy các lực lượng giải phóng Miền Nam, đề phòng chương trình hoà giải. Thế là sau 15 năm làm cầu lót đường cho CS Bắc Việt, Mặt trận GPMN đành công dã tràng, chỉ còn lại một trái dừa tròn trịa như con “số không” mà ông Hồ gởi tặng nhân dân Miền Nam qua phái đoàn Thị Ðịnh năm nào. Cộng sản Bắc Việt đòi hỏi đích danh ông Minh để nói chuyện, mà không là ai khác. Ông Dương văn Minh đã trở ra sân khấu trong hoàn cảnh đó; cái chức “tổng thống” của ông chưa được một ai công nhận, trừ ra Cộng Sản Bắc Việt. Ông Minh hành động qua hai ngày tổng thống như sau. Ngày 28-4-1975. Ông Minh cử một phái đoàn vô Camp Davis trong phi trường Tân Sơn Nhứt nói chuyện “hoà giải” với CS. Ngoài ra, có tin tức chưa phối kiểm về việc ông Minh đích thân đi gặp một cấp tư lệnh chiến trường CS Bắc Việt tại Long Khánh, và một vị lãnh tụ tôn giáo. Ông Minh chỉ thị cho Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu lên tiếng “tống xuất’ người Mỹ ra khỏi Miền Nam trong vòng 24 giờ. Sau này khi sang Pháp, ông Minh tiết lộ, ông Ðại Sứ Martin đã nhắn ông Minh tuyên bố như rứa, chứ “Sức mấy mà tôi dám đuổi Mỹ!” Trong đêm 29-4-1975, ông Minh chỉ thị cho đại tá Chiêm, chánh võ phòng, cấm binh sĩ không nổ súng, phải mở cổng chánh sẵn sang “để tui đón tiếp những”người anh em bên kia.” Lúc 09:45 sáng 30-4-1975, trên đài phát thanh quốc gia, ông Minh ra lệnh cho toàn thể Quân Lực VNCH ngưng bắn, buông súng tại chỗ, để “tôi bàn giao chánh quyền cho “Chánh Phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam.” 30 tháng 4, 1975 Nguồn ảnh: photobucket.com/ Lúc 11:15 ngày 30-4-1975, toán xe tăng Bắc Việt tới cổng dinh theo đường Thống Nhứt, trương cờ Mặt Trận GPMN. Một người lính trên xe ra lệnh cho lính gác khoá cánh cổng lại; anh lính chần chờ, quay vô hỏi lệnh sĩ quan trực, bị người bộ đội trên xe bắn chết tại chỗ. Một bộ đội khác nhảy xuống, khép cánh cổng, lấy khoá xích vòng chặt lại để chiếc T-54 rồ máy húc nghiêng cánh cổng màu xanh, dây xích bung ra. Ðại liên trên xe và lính tùng thiết đồng loạt tác xạ dữ dội, làm như có sức chống trả từ trong dinh. Xe tăng tràn vô đến giữa sân cỏ, mấy người lính Bắc Việt nhảy xuống, hai người cầm cờ Mặt Trận GPMN (hai lá cho chắc ăn), nón cối sùm xụp trên đầu, lúp xúp chạy lên thềm dinh. Ông Minh và đoàn tùy tùng phải giơ tay lên khỏi đầu, úp mặt vô tường, tỏ dấu đầu hàng. Nhưng cùng buổi sáng đó, không một người lính Quân lực Việt Nam Cộng Hoà nào khác đã giơ tay lên đầu như Big Minh. Tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Nguồn ảnh: photobucket.com/ Tướng Minh xin viết cấp bậc “đại tướng” trên trang giấy ghi ‘Lời đầu hàng,” nhưng viên sĩ quan Bắc Việt bắt giữ y nguyên chức vụ ‘tổng thống”. Dù sao mặc lòng, ông Minh vẫn là một tổng thống không hợp pháp, và quân đội Miền Bắc vẫn là quân ngoại nhập, đã cưỡng chế một sự thống nhứt qua hành động võ lực. Sự kiện này trái ngược với tình hình bên Cam Bốt, đã có tuyển cử từ 1991 theo Chương VII Hiệp định Ba Lê, và trở về nền quân chủ như trước 1975. Dinh Dộc Lập, tháng đợi năm chờ Một buổi sáng mùa xuân 1992, trời Sàigòn ấm áp, kẻ ngoại đạo, người lính cũ Miền Ðông mới ra tù, đạp xe quanh quẩn đi thăm thành phố xưa. Sau khi gởi một tập hồ sơ sang ODP Bangkok, anh ta dừng xe đạp bên con đường lớn, kêu ly nước mía. Dinh Ðộc Lập hiện ra cuối đường Lê Duẫn mới đổi ra từ tên cũ là đường 30 Tháng Tư. Nhìn kỹ, cái dinh trông chẳng khác nào nhũng khúc xương trắng, chính giữa là phòng khánh tiết nay để trống, vì thiếu ánh sáng nên trông như cái miệng há toác ra rồi…không ngậm lại được nữa. Theo lẽ thường, vị thủ lãnh bên thắng trận sẽ chiếm ngự toà nhà số một của bên thua trận, ví dụ ông Hồ chiếm dinh thống sứ tại Hà Nội làm chủ tịch phủ, vì đó là niềm kiêu hãnh của kẻ mạnh. Thế nhưng, CSVN vẫn bỏ bê cái dinh và chỉ xử dụng làm nơi vãng cảnh qua bao tháng năm, thu nhặt tí tiền còm. Khuôn viên dinh vẫn để trống không rất là phí phạm, chưa được biến cải thành một trường đại học, hay một trung tâm thương mại quốc tế… Khoảng năm 1992, báo chí đăng tin, nhà nước sẽ bỏ ra ba tỉ đồng trùng tu dinh, và sẽ mời một đại tá Công Binh Sàigòn cũ về giám sát công trình. Không biết việc này đã đi tới đâu. Toà đại sứ Hoa Kỳ gần đó cũng vắng hoe, dành một căn buồng tối om phía dưới cùng làm văn phòng đại diện một công ty dầu khí, ít khách ra vô. Vào đầu năm 1989, báo đài loan tin sẽ dựng tượng cụ Hồ trong khuôn viên dinh nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhật của ông. Tượng bán thân cao sáu mét, đế tượng hoa sen cao ba mét, do Diệp Minh Châu đẽo gọt dở dang tại một sân vắng nơi khu nhà kho cũ bên đường Tô Hiến Thành. Nhưng bức tượng đó không bao giờ được mang vô dinh, và từ trại Tô Hiến Thành, đã bị lôi đi đâu mất dạng. Thiệt là mâu thuẫn lớn, khi ngoài Ba Ðình Hà Nội có lăng ông Hồ uy nghi đồ sộ nhứt nước, theo lối kiến trúc nặng nề Liên Sô, mà tại thành phố mang tên …người, lại chỉ có một bức tượng tí teo mang từ Lạng Sơn vô đặt trước toà đô chánh xưa, cho có lệ. Vì sao có sự chênh lệch thiên vị với Hà Nội mà quên Sàigòn như thế? Vật đổi sao dời. Liên Sô đã sụp đổ. Trung Cộng hết còn là bà chị đỡ đầu như ngày nào. Người Mỹ đã trở lại Việt Nam. Ðảng CSVN đã làm thân với Mỹ, đương nhiên làm quen với các đồng minh Mỹ xưa, như Ðại Hàn, Thái Lan, Tân Tây Lan, Úc Châu… thì sao lại không thể làm thân với Việt Nam Cộng Hoà, là bạn thân của Mỹ, đang còn “tạm vắng tạm trú” nơi hậu trường? Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhứt, bỏ trống lâu năm, đã hoàn trả cho Mỹ. Trong khi đó, dinh Ðộc Lập vẫn còn vắng vẻ qua hơn ba mươi năm dài, thầm lặng, như một thiếu phụ trong ngày tháng đợi chờ. Trích “Dặm trường Việt Nam”
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 17, 2012 4:26:01 GMT 9
Bùi Tín Viết Riêng Cho VOA Thứ Năm, 12 Tháng 4 Năm 2012: Nhân ngày 30-4: Câu chuyện về 16 tấn vàng 04/14/2012 Tác giả : Bùi Tín Chuyện này xảy ra đã gần 37 năm. Từ đầu năm nay tôi nhận được 6 điện thư từ trong nước, từ Canada và Cộng hòa Liên bang Đức hỏi về chuyện này. Đây là chuyện rất cũ, nhưng do chế độ độc đảng luôn duy trì nhiều mảng tối, không công khai minh bạch, nên có nhiều vấn đề lịch sử cần làm rõ.Trưa 30-4-1975, trong phòng lớn của Dinh Độc lập, sau khi tôi gặp và hỏi chuyện tướng Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu, không khí dần dần bình thản. Ông Nguyễn Văn Hảo ghé tới nói nhỏ với giọng miền Nam, «Thưa tôi là Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách về kinh tế - tài chính, có chuyện cần trình bày riêng với các ông». Tôi cùng ông Hảo đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ gần cửa sổ. Vừa ngồi xuống, ông Hảo nói ngay: «Chúng tôi vừa trao đổi với nhau, muốn nhờ ông báo ra ngoài đó là bọn này đã giữ lại hơn 16 tấn vàng không để họ mang đi, hiện để trong ngân khố, mong ngoài đó cho người vô nhận». Tôi hỏi lại: «Ông nói sao? 16 tấn vàng trong ngân khố? Có thiệt không?». Tôi ghi vội vài chữ trên sổ tay: Ng. v Hảo, 16 tấn, ngân khố…, và nghe ông Hảo trả lời: «Thiệt chớ, bọn này chịu hoàn toàn trách nhiệm mà». Ông còn nói thêm: «Nếu các ông gửi (ông dùng tiếng Pháp «placer») ở các ngân hàng quốc tế lớn thì sau sẽ có thể thành 18 tấn, 20 tấn. Nếu cần, bọn này sẽ giúp». Tối hôm đó tôi đi trên chiếc xe jeep của đơn vị thông tin Quân đoàn II khi được biết họ sắp vào sân bay Tân Sơn Nhất để bắt liên lạc với phái đoàn ta trong Ban Liên hợp Quân sự bốn bên (về sau là Ban LHQS hai bên) lập ra từ sau Hiệp định Paris tháng 1-1973. Tôi đã từng ở đó 60 ngày trong một khu gọi là trại Davis. Thật là may mắn không ngờ. Tôi hướng dẫn Thiếu úy Hà lái xe vì tôi đã hàng chục lần đi con đường này hồi 1973, và đã nghiên cứu rất kỹ bản đồ Sài Gòn mấy ngày đó. Tôi vào trại Davis như về nhà. Anh Võ Đông Giang, anh Hoàng Anh Tuấn vẫn ở đó. Chào hỏi xong tôi vội xuống trạm thông tin, thì vẫn là tổ thông tin hơn 2 năm trước. Dạo ấy anh em vẫn đánh bài viết của tôi cho báo Quân đội Nhân dân. Chiều nay sau khi viết bài báo xong, tôi rất băn khoăn vì các nhà báo Pháp, Ý, Đức đều cho tôi biết là bưu điện Sài Gòn đóng cửa 2 hôm nay rồi. Điện thoại viễn liên bị cắt đứt. Họ đang bế tắc không sao gửi bài đi được. Tôi cũng sốt ruột không kém. Vì gửi bài báo ngay đêm nay để sáng mai bài báo được in trên báo QĐND là một yêu cầu cấp bách. Thượng sỹ thông tin trẻ măng người Thái Bình tên là Hải đánh bài báo của tôi bằng tín hiệu Morse, tè tè tích tích. Bài báo gửi cho Thiếu tướng Lê Quang Đạo, phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, để chuyển cho báo QĐND. Ngay sau bài báo là mấy dòng chữ «Gửi riêng Thủ trưởng Tổng Cục Chính trị - Tuyệt mật. Hôm nay 30-4-1975 Phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo đặc trách kinh tế - tài chính báo tin cho tôi là đã giữ lại trong ngân khố hơn 16 tấn vàng, mong ta cho người vào nhận. Bùi Tín». Sau đó tôi mới thong thả gặp gỡ các anh em ta trong trại Davis, cùng ăn một nồi chào gà tuyệt trần sau một ngày cực kỳ căng thẳng, mệt nhọc. Bài báo đăng trên báo QĐND sáng ngày 1-5-1975 là bài báo duy nhất gửỉ được từ Sài Gòn vì hồi đó chưa có điện thoại cầm tay, chưa có máy điện toán xách tay như hiện nay. Máy fax rất nặng nề. Do bài báo được chuyển bằng tín hiệu Morse tè tè tích tích, nên có 2 chữ ghi sai. Đó là khi tôi nói về thực đơn của Tổng thống ngày 30-4 được in trên giấy đặt trên bàn làm việc của ông, có 2 món là «cá thu kho mía» và «gân bò hầm sâm», một món của cao lâu Tàu được gọi là «ngầu pín», đã bị ghi sai thành cá thu kho giá và gan bò hầm sâm. Nhiều người thắc mắc cá thu kho giá và gan bò hầm sâm thì có gì ngon và bổ. Người đánh và nhận Morse đã nhầm chữ «g» (tè-tè-tích) thành chữ «m» (tè-tè) và chữ «â» thành «a». Ít lâu sau đó, tôi đọc trên cuốn A Decent Interval (Khoảng cách vừa phải) của Frank Snepp, một cán bộ CIA ở Sài Gòn trước đó, nói rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mang đi hàng chục tấn tài sản quý sang Đài Loan, nơi có anh ông là đại sứ Nguyễn Văn Kiểu, để đưa sang Hoa Kỳ sau đó. Tất cả các báo chính thức ở Hà Nội hồi đó đều trích đăng cuốn sách của Frank Snepp, đoạn nói về việc ông Thiệu chở tài sản quốc gia trong đó có hơn 10 tấn vàng trong ngân khố ra khỏi nước, và ai cũng đinh ninh là chuyện này là có thật. Ở hải ngoại nhiều bài viết cho đến nay vẫn đinh ninh chuyện ông Thiệu mang đi 16 tấn vàng là có thật, lên án ông rất nặng nề là trong tình hình cực kỳ khẩn trương ông đã chỉ lo vun vén cho cá nhân, lo chiếm đoạt tài sản công thành của riêng một cách tồi tệ. Về phía chính quyền độc đảng ở trong nước, họ vẫn cố tình duy trì một tình hình ỡm ờ úp úp mở mở, không rõ ràng minh bạch về hơn 16 tấn vàng trong ngân khố Sài Gòn hồi ấy, với ý định không sạch sẽ là để cho mọi người hiểu lầm về chuyện này. Năm 1994, khi tôi đã ở Paris, một bạn người Việt làm việc cơ quan nghiên cứu và lưu trữ về chiến tranh Việt Nam ở Lubbock, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ, cho tôi địa chỉ điện thoại của ông Nguyễn Văn Hảo. Tôi gọi ngay cho ông và từ đó có dịp nói chuyện về ngày 30-4-1975. Ông cho biết ông đang ở Port-au–Prince, thủ đô nước cộng hòa Haiti, trong vùng Antilles - Caribbean, làm cố vấn kinh tế cho chính phủ Haiti. Ông cũng được biết đầu tháng 5-1975 ngoài Hà Nội đã cho riêng 1 chuyến chuyên cơ vào tiếp nhận hơn 16 tấn vàng và chở ra Hà Nội. Đầu tháng 5-1975 tôi cũng được tướng Đào Đình Luyện, chỉ huy không quân, cho biết nguyên một chuyến chuyên cơ IL 18 đã chở số vàng thu được từ Sài Gòn ra Hà Nội. Ông Hảo kể lại chuyện này: «Hồi đó, ông Vũ Văn Mẫu đề xuất với tướng Dương Văn Minh rồi giao cho tôi (là ông Hảo) mật báo cho đại diện của các ông, sau khi được báo là một sỹ quan cao cấp vào gặp bọn này». Ông nói thêm: «Các ổng muốn các ông hiểu rõ là bọn này đã cố giữ lại không cho họ mang đi để giữ lại tài sản quốc gia đặng giao lại cho quý ông». Ông còn cười vui: «Lẽ ra quý ông có một lời tiếp nhận và đánh giá công khai chuyện này cho đồng bào cả nước biết thì bọn này mới thật hài lòng». Lần sau gặp ông trên điện thoại, ông cho tôi biết thêm là «công bằng mà nói, đã có nhiều dự án chuyển hết số vàng trong ngân khố ra nước ngoài, qua các ngân hàng quốc tế, nhưng các cuộc thương lượng chưa ngả ngũ thì quý ông đã vô rồi. Anh em phụ trách Ngân khố quốc gia cũng tỏ rõ thái độ không để cho họ mang đi. Lẽ ra các ông nên có lời khen cho anh em đó vui lòng». Trong các phiên họp của chính phủ, của quốc hội sau 30-4-1975, không có một chi tiết nào về hơn 16 tấn vàng được chính quyền miền Nam chính thức giao lại. Nó có thật sự nhập kho Nhà Nước đầy đủ, và được dùng vào những việc gì? Không ai biết. Đại biểu Quốc hội không ai hỏi, vì 90% đại biểu là đảng viên, số ngoài đảng còn bảo hoàng hơn nhà vua. Tháng 4-2010, Bộ Quốc phòng Hà Nội có cuộc họp «viết lại một cách chính thức diễn biến ngày 30-4-1975 ở Dinh Độc lập», họ không nhắc đến tên tôi, coi như nhà báo Bùi Tín không hề có mặt ở Sài Gòn ngày hôm đó, cũng không hề nhắc đến chuyện hơn 16 tấn vàng, một chi tiết không nhỏ, nhưng họ không muốn nhắc đến nữa. Năm 1987, khi có dịp gặp ông Trường Chinh ở Đà Lạt, tôi kể lại chuyện này, ông cho biết: «Tôi có biết chuyện này, nhưng hết sạch cả rồi, trong mấy năm khó khăn, cấu véo hết tấn này đến tấn khác, mua lương thực, nguyên liệu, nay còn gì nữa đâu!». Đây là câu duy nhất tôi nghe được về số phận của hơn 16 tấn vàng năm 1975, từ miệng một nhà lãnh đạo. Các phiên họp Quốc hồi từ 1975 đến nay, không ai biết, cũng không ai hỏi, chiến lợi phẩm thu được ở miền Nam, số tiền hồi ấy bộ Công an có chủ trương bán bãi, bán tầu thuyền, thu vàng cho mỗi người lên tàu di tản - từ 3 lạng đến 6 lạng, có khi lên đến 12 lạng vàng mỗi đầu người - tất cả là bao nhiêu? Và tiền thu của người Hoa bị xua đuổi từ Cẩm Phả, Hon Gai, Hải Phòng vào đến Vũng Tàu, Chợ Lớn, Cần Thơ...là bao nhiêu? Lại còn tiền của thu được qua các chiến dịch tiêu diệt công thương nghiệp tư nhân, cái gọi là diệt gian thương trên toàn miền Nam hồi đó, tiêu tan đi đâu cả rồi? Trong Quốc hội có Ban Kinh tế - Tài chính, nhưng có ai được biết gì đâu, có ai dám hỏi gì đâu, cả một khối mờ ám cỡ quốc gia, do đồng nhất đảng với nhà nước, đảng với quốc gia, đảng với nhân dân, tuy ba mà một. Lại còn trong chiến dịch gọi là giải phóng Campuchia khỏi diệt chủng của Khơ-me Đỏ cuối năm 1978- đầu năm 1979, đơn vị đặc công và một sư đoàn của Quân đoàn IV được lệnh chiếm các cơ sở trong thủ đô Pnom Penh, đặc biệt là khu hoàng cung, tiền của, kho tàng, đồ cổ lớn nhỏ đã được thu về bao nhiêu? Mang về nước ta bao nhiêu? Ờ đâu, có biên bản, thống kê gì không? Tôi được biết phần lớn là giao cho Ban Tài chính - Quản trị trung ương đảng, một cơ quan kinh tế - tài chính - thương nghiệp xuất nhập khẩu - sản xuất kinh doanh riêng của đảng, mà biên chế còn lớn hơn cả bộ Công thương và bộ Kế hoạch - Đầu tư cộng lại. Chế độ hiện tại quan tâm đến tiền bạc, ngoại tệ, ngân khố, ngân hàng, hơn là cái gốc của nền kinh tế là sản xuất ra của cải với kỹ thuật cao, giá thấp. Họ quên chức năng cơ bản của nhà nước là phân phối, điều tiết phân phối lại thành quả phát triển cho toàn xã hội cùng hưởng. Các bộ của chính phủ coi rất nhẹ việc quản lý về hành chính, chỉ chăm chú đến sân sau là các công ty kinh doanh để chia chác bổng lộc, mặc cho các chỉ thị thu rất hẹp lĩnh vực này. Xin quan sát kỹ để thấy rằng ai dính đến tài chính, ngân hàng, ngân sách đều được thăng quan tiến chức nhanh nhất; thủ tướng hiện nay từng là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; chủ tịch Quốc hội hiện nay trưởng thành từ Cục trưởng Cục Ngân sách, rồi thứ trưởng tài chính, rồi bộ trưởng tài chính, rồi phó thủ tướng thường trực. Một phó thủ tướng hiện nay cũng từng là thứ trưởng rồi bộ trưởng bộ tài chính. Nguyên thống đốc ngân hàng Trần Đức Thúy cùng cậu con trai Trần Đức Minh và cộng tác viên thân cận là đại tá công an Lương Ngọc Anh đều là những nhân vật con cưng của chế độ, những công thần hàng đầu trong việc ngang nhiên phân phối lại tiền của của nhân dân đổ vào ngân sách riêng của đảng. (Các bạn có thể đọc thêm bài báo «Nạn chảy máu tài nguyên quốc gia» trên VOA ngày 17-8-2011). Lúc này giới cầm quyền trong nước cần nhớ lại lời khuyên tâm huyết của ông Lý Quang Diệu mươi năm về trước là: «Khi sẽ có nhiều khoản tiền đầu tư lớn từ nước ngoài chảy vào, hãy giữ gìn cẩn thận, không để cho đồng tiền chỉ huy, ngự trị, làm chủ lương tâm viên chức, hãy rất cảnh giác với đồng tiền bẩn, đồng tiền phi pháp, nó sẽ phá hoại công cuộc phát triển». Cũng chính Cụ Lý - như một số người trong nước thân mật gọi – căn dặn cách phòng chống tham nhũng có hiệu quả là: luật pháp, ngành tư pháp, tòa án phải rất nghiêm (để không ai dám tham vì sợ tù ), lương viên chức tạm đủ sống (không cần tham nhũng), tuyên truyền giáo dục nêu gương các viên chức trong sạch sống thanh bạch, chỉ ra kẻ tham là kẻ cắp, kẻ cướp xấu xa ô nhục tàn phá rường cột của quốc gia (không ai nỡ tham nhũng vì sợ nhục). Có thể nói tiền nong, vàng bạc, của cải trong chế độ độc đảng đã gây nên tham nhũng, bất công kinh khủng chưa từng có trong xã hội nước ta, tiền của vàng bạc phi pháp đã tha hóa giới cầm quyền ở mọi cấp, tàn phá đảng cộng sản Việt Nam từ gốc lên ngọn. Hiện là thời kỳ đảng viên quan chức lao lên trước đi tiên phong để trở thành đại gia, đại điền chủ, đại trọc phú, đại tư bản đỏ, bỏ mặc nhân dân của mình nghèo đói ở phía sau, đến nỗi nhà Mác-xít Lữ Phương phải la trời rằng đảng cộng sản đã đi đầu trong xây dựng chủ nghĩa tư bản man rợ. Đó là thời kỳ các quan chức vứt hàng ngàn tỷ này đến hàng nghìn tỷ khác qua cửa sổ, chìm nghỉm dưới đáy biển, để mặc cho hệ thống y tế và giáo dục tàn tạ, bệ rạc. Thời đại kim tiền của các nhà cầm quyền tỷ phú Marcos, Suharto, Park Chung Hy, Ceausescu, Ben Ali, Ghadafi, Mubarak…đã kết thúc bi thảm. Gương tày liếp cho những bầy sâu chói mắt vì ánh vàng.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2012 9:15:21 GMT 9
Biến Động Miền Trung
Đọc “Biến Động Miền Trung” Của Tác Giả Liên Thành Trần Minh Công “Biến Động Miền Trung” là một cuốn sách, hay nói đúng hơn là một tập tài liệu dày trên 430 trang, được tác giả Liên Thành cho ra mắt lần đầu tiên vào ngày 31 tháng 5/2008 tại thành phố Westminster, Nam California. Cuốn sách được đồng hương Nam Cali nồng nhiệt đón nhận, trong một hội trường thành phố đông nghẹt người. Liên tiếp sau đó cuốn sách được ra mắt tại các thành phố San Jose, Dallas, Houston và Phoenix, Arizona. Riêng tại Houston số đồng hương tham dự lên tới gần 700 người. Điều này phần nào đã nói lên giá trị của cuốn sách. Điều gì đã làm cho đồng hương chú ý tới cuốn sách? Có lẽ câu trả lời đơn giản nhất là vì đây là lần đầu tiên những bí mật trong vụ “Biến Động Miền Trung” được chính người trong cuộc kể ra, có liên hệ tới một số tu sĩ tên tuổi được VC móc nối trong một mạng lưới tình báo quy mô do Cục Tình Báo Trung Ương tại Hà Nội điều khiển mà những âm mưu xách động và gây rối tại Miền Trung vào những năm 1964-65-66-67 mới chỉ là giai đoạn khởi đầu. Tác giả Liên Thành là ai. Ông là một Trung Úy quân đội được biệt phái sang phục vụ trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia tại tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Cấp bậc và chức vụ sau cùng của ông là Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng CSQG Thừa Thiên-Huế. Ông từng là Trưởng phòng Cảnh Sát Đặc Biệt rồi Phó Ty và sau cùng là Trưởng Ty. Vì nhiều năm làm việc tại cùng một nhiệm sở nên ông có cơ hội liên tục theo dõi và nắm giữ hồ sơ hoạt động của mạng lưới tình báo VC trong vùng. Kỳ công của ông và các đồng nghiệp tại Ty CSQG Thừa Thiên-Huế không chỉ là thành công trong việc giữ vững được Huế trong vu biến động 1966 mà là đã dày công theo dõi và cuối cùng phá vỡ được một mạng lưới điệp báo quan trọng của Hà Nội tại Miền Trung. Tác giả Liên Thành cho thấy ngay sau cuộc chính biến 1/11/1963 tên Trung Tá điệp báo VC Hoàng Kim Loan đã cài người vào các đoàn thể “tranh đấu”, xâm nhập và lũng đoạn các tôn giáo, đặc biệt là các tổ chức Phật Giáo Miền Trung. Hoàng Kim Loan đã xử dụng những cơ sở này để phá nát nhiều tổ chức tình báo của VNCH ngay sau cuộc chính biến 1963. Nhừng tu sĩ nào bị VC móc nối. Những khuôn mặt trí thức nào đã chạy theo VC. Những ai đã theo VC ra bưng để rồi trở lại Huế tàn sát hàng ngàn người năm Mậu Thân 1968 đều được tác giả kê rõ danh tánh. Tác giả kể lại tình hình sôi động tại Huế năm 1966 ra sao. CSQG dẹp bạo loạn bị vu cáo như thế nào. Ai là người dứng đàng sau tất cả những vụ này. Ai chỉ đạo, ai bị lợi dụng? Ai đã ra lệnh mang bàn thờ Phật xuống đường, ai đã chủ mưu trong vụ đốt phá Phòng Thông Tin Hoa Kỳ tại Huế. Trong phần thứ hai của cuốn sách tác giả ghi lại khá chi tiết những hoạt động của tình báo cộng sản và vụ tàn sát trên 5,000 đồng bào tại Huế. Ông cũng cho biết ngoài hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan - Hoàng Phủ Ngọc Tường, những khuôn mặt trí thức nào đã lộ diện theo VC. Chương này là một tài liệu lịch sử mà tất cả chúng ta và nhất là mọi người dân Huế cần đọc để biết. Nhân đây tôi cũng muốn phản bác lời tuyên bố của ông Bùi Tín, một cựu Đại Tá CS hiện đang sống lưu vong tại Pháp. Ngày 24 tháng 1/2008 khi được đài BBC phỏng vấn về vấn đề CS thảm sát dân chúng trong vụ Tết Mậu Thân tại Huế. Ông Bùi Tín lúc đó (1968) là Phó Tổng Biên Tập báo Quân Đội Nhân Dân tại Hà Nội cho biết ông không ngờ cuộc thảm sát quy mô lớn như vậy. Ông viện lý do rằng: “Do vướng chân, mệt, rồi bị pháo bắn ở ngoài biển vào dữ dội nên phần lớn do tự động các cấp chỉ huy Trung đội tới Trung đoàn đồng loã với nhau để thủ tiêu không cho cấp trên biết. Theo ông thì không có mệnh lệnh cấp trên là tiêu diệt và giết tù binh” (theo bài viết của tác giả Trần Thanh về cuộc thảm sát Mậu Thân). Liên Thành trong cuốn sách của ông có thuật rõ VC đã thảm sát người ta như thế nào, bắn hay đập bể sọ. Giết xong họ còn có thì giờ vùi thây trong các nấm mộ tập thể chứ không phải vì bị truy kích mà họ phải vội vàng giết và phần lớn số người bị giết là thường dân vô tội chứ không phải là “tù binh” như ông Búi Tín nói. Lời khai của tên Trung tá điệp báo Hoàng Kim Loan khi bị Ty CSQG Thừa Thiên-Huế bắt giữ cho biết việc thảm sát dân chúng Huế năm Mậu Thân là do chỉ thị của Khu Ủy VC chứ không phải do “chỉ huy cấp nhỏ tự tiện quyết định mà không cho cấp trên biết” như ông Bùi Tín nói. Không biết ông cựu Đại Tá Bùi Tín đang biện minh và chạy tội cho ai đây? Có lẽ phần gây cấn và hấp dẫn nhất của cuốn sách là phần đặt kế hoạch theo dõi, vây bắt và quan trọng hơn cả là lời cung khai của tên Trung Tá điệp báo Hoàng Kim Loan. Cung từ của y đã tiết lộ cho thấy y đã móc nối được những ai và xử dụng những người được móc nối như thế nào. Người đọc không khỏi ngỡ ngàng về những tiết lộ động trời của viên sĩ quan điệp báo này. Theo Thiếu Tá Liên Thành ghi lại thì ngay vào giữa năm 1965 Huế đã trở nên sôi động khác thường, với những cuộc biểu tình dữ dội, chiếm đài phát thanh quốc gia, đốt phá phòng Thông Tin Hoa Kỳ, tổ chức xách động đình công bãi khoá liên miên. Nhìn chung thì có vẻ như đây là những phong trào quần chúng tự phát nhưng thực sự lại là những hành động được sắp đặt và chỉ đạo rõ ràng. Ai chỉ đạo? Ai sắp đạt? Ai là kẻ chủ động gây rối? Ai là người bị lợi dung? N ếu đọc hết tác phNm “Biến Động Miền Trung” của tác giả Liên Thành người ta sẽ dễ dàng thấy câu trả lời cho những thắc mắc trên. Thiếu Tá Liên Thành cũng cho biết ông và các cộng sự viên xuất sắc của ông, mà hầu hết là các sĩ quan trẻ tốt nghiệp Học Viện CSQG, đã dày công theo dõi một mạng lưới tình báo do Hà N ội trực tiếp chỉ huy qua viên Trung Tá điệp báo Hoàng Kim Loan. Khi tên điệp báo này bị bắt vào năm 1972, y đã khai ra các cơ sở nội tuyến được y móc nối mà chúng ta ít ai ngờ tới: 2 Trưởng Ty cảnh Sát, một Thiếu Tướng, một Trung Tướng, hai Thiếu Tá quân đội và khá nhiều tu sĩ trong phong trào đấu tranh tại Huế. Thì ra phần lớn các tổ chức tôn giáo và quần chúng đấu tranh tại Miền Trung và nhất là tại Huế đã do cán bộ điệp báo cộng sản chỉ đạo và điều khiển. Chúng đã thành công phần nào trong năm 1966 khi tạo ra những rối loạn tại Huế và Đà N ẵng đưa đến cuộc biến động tại Miền Trung. N ên nhớ rằng vào những năm sau chính biến 1963, thế lực của phong trào Phật giáo đấu tranh lên rất mạnh. Chính trường miền N am lúc bấy giờ chịu ảnh hưởng rất nhiều của “các Thầy”. Các tướng lãnh cầm quyền đều phải vị nể các Thầy. Việc bổ nhiệm nhân sự vào các chức vụ quan trọng đôi khi phải có sự thoả thuận ngầm của các nhóm áp lực trong phong trào đấu tranh Phật giáo. Việc này dần dà đưa đến những tranh chấp quyền lực giữa các tôn giáo, nhất là giữa Phật giáo và Công giáo. N hững cuộc biểu tình đụng độ giữa hai tôn giáo này tại nhiều nơi là những điều chúng ta vẫn chưa quên. Cũng vì vậy mà Thiếu Tá Liên Thành khi thi hành nhiệm vụ đã dễ dàng bị phe tranh đấu Miền Trung khép tội chống Phật Giáo mặc dù gia đình ông vốn là một gia đình Phật tử thuần thành. Mẹ ông quy y và trách cứ ông khi ông dẹp bàn thờ xuống đường và chống lại các Thầy biểu tình. Ông là cháu Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết, anh bà con ông là một Thượng Tọa, ông còn là cháu nội Kỳ N goại Hầu Cường Để, vậy mà vẫn bị khép tội chống phá Phật giáo. Ông đứng vững được trong vụ Biến Động Miền Trung, lại còn theo dõi và khám phá ra một ổ điệp báo quan trọng liên quan đến nhiều thế lực đương thời thì quả là một điều kỳ lạ. Trước 1975 và ngay cả cho tới ngày tác giả Liên Thành cho ra mắt cuốn sách vào tháng 5 năm nay (2008) có lẽ ít tai trong chúng ta ngờ được là Trung Tá điệp báo VC Hoàng Kim Loan đã móc nối được một cựu Thiếu Tướng, một Trung Tướng, hai Thiếu Tá quân đội quốc gia trong đó có một vị từng nắm giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng CSQG Quảng Trị, một Quận Trưởng cảnh Sát và một nguyên Trưởng Ty CSQG thị Xã Huế, một cựu Trưởng Ty An N inh tỉnh Thừa Thiên, Chủ tịch và một N ghị viên Hội Đồng Tỉnh, một số giáo sư và sinh viên tại Huế. Danh sách được móc nối còn gồm nhiều vị cao tăng được tác giả Liên Thành nêu rõ tên tuổi trong cuốn sách của ông. Từ xưa đến nay và nhất là ở VN trước 1975 việc nêu danh tánh các tu sĩ có liên hệ đến VC ít ai dám làm vì sợ đụng chạm và người làm việc đó có thể dễ dàng bị chụp mũ là phá hoại tôn giáo. 3 Việt Cộng biết rõ yếu điểm này của phe quốc gia nên đã tận tình khai thác kế hoạch tôn giáo vận của chúng. Cũng chính vì vậy mà các chính quyền quân nhân sau 1963 đều kiêng nể không dám đụng chạm đến các chức sắc tôn giáo. Do đó mới có những vụ xuống đường bừa bãi phá nát hậu phương mà cảnh sát không dám thẳng tay đàn áp, trong khi chúng ta đang rất cần một hậu phương ổn định để yểm trợ tiền tuyến. Hình ảnh những binh sĩ nhNy dù, đáng lý phải có mặt tại các chiến trường đang sôi động, nay phải phụ lực cảnh sát ngăn chặn biểu tình trên đường Trần Quốc Toản trước Viện Hoá Đạo ngày nào giờ đây làm chúng ta thấm thía vì thua mưu cộng sản. Cuốn sách “Biến Động Miền Trung của tác giả Liên Thành như tôi vừa sơ lược là một tập tài liệu mà mọi người nên đọc. Đọc để biết rõ chúng ta đã thắng CS ở điểm nào và người dân Miền N am thuần hậu dễ tin đôi khi đã bị VC và bọn người nhiều tham vọng chính trị lợi dụng và lừa bịp ra sao. Trong cuốn sách của ông, tác giả Liên Thành ghi lại những gì xNy ra tại Huế vào giai đoạn Miền Trung biến động. N hưng cuộc biến động lớn năm 1966 tại Miền Trung không phải chỉ giới hạn trong phạm vi Thừa Thiên-Huế. Thị xã Đà N ẵng nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I cũng chứng kiến những xáo trộn hãi hùng khi đám dân quân tranh đấu đụng độ với lực lượng quân đội do chính quyền trung ương đưa ra Đà N ẵng dẹp loạn. Là người cùng theo cánh quân trung ương ra dẹp loạn tại Đà N ẵng, tôi xin được tiếp tay với tác giả Liên Thành làm sáng tỏ thêm về tầm mức và quy mô của vụ Biến Động Miền Trung năm 1966: Lịch sử còn ghi nhớ cuộc chính biến 1963 lật đổ Tổng Thống N gô Đình Diệm đã đưa Miền N am VN vào một khúc quanh mới đầy xáo trộn và biến loạn. N gay sau cuộc chính biến, các tướng lãnh cầm quyền liên tiếp đảo chánh nhau. Các cuộc xuống đường biểu tình xNy ra như cơm bữa tại Saigon và các đô thị lớn. N ơi phát động và được coi là trung tâm chống đối chính quyền trung ương là Huế và Đà N ẵng tiếp tục sôi động sau 1963. Phong trào tranh đấu Miền Trung vẫn tạo áp lực nặng nề lên các chính quyền Saigon. Sau 1963, ảnh hưởng và tiếng nói của Thưọng Toạ Trí Quang và một số các nhà lãnh đạo đấu tranh khác là điều mà không tướng lãnh cầm quyền nào có thể coi thường. Áp lực chính trị và bất ổn liên tiếp trong hai năm 1963-64 đã buộc các chính phủ quân nhân kế tiếp nhau phải ít nhiều nhượng bộ phe tranh đấu. Quân đội được xử dụng để lo đảo chánh và chống đảo chánh đã phần nào lơ là trong công tác diệt Cộng, tạo cơ hội thuận tiện cho Việt Cộng dễ dàng bành trướng và gia tăng các hoạt động phá hoại tại nông thôn. Tổng N ha CSQG thời bấy giờ dưới quyền của các Đại Tá Trần Thanh Bền và Phạm Văn Liễu, phối hợp với tình báo Hoa Kỳ, liên tiếp ghi nhận những âm mưu phá hoại của VC không những chỉ ở nông thôn mà còn ngay tại thủ đô. N hững vụ đặc công VC đặt chất nổ tại cư xá Brink góc đường Catinat ngay trung tâm Saigon và tại toà Đai Sứ Hoa Kỳ trên đường Hàm N ghi đã làm cho dư luận hoang mang. Phía Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm về khả năng bảo vệ Miền N am của các chính phủ quân nhân sau 1963. N ăm 1965 Hoa Kỳ quyết định mang quân vào tham chiến tại VN . Quyết định này của Hoa Kỳ đã buộc Hà N ội phải có một đối sách mới. Một mặt họ gia tăng các cuộc tấn công ngày càng công khai mạnh mẽ tại khắp nơi, mặt khác họ gia tăng các hoạt động phá rối gây bất ổn tại các dô tỉnh thị chuNn bị cho một kế hoạch tổng nổi dậy tiến chiếm Miền N am. Việc xâm nhập, gây chia rẽ và đố kỵ giữa các tôn giáo, giữa các tổ chức đấu tranh và các nhóm chống đối nhiều tham vọng chính trị đều nằm trong sách lựơc phá hoại này của VC. N hững cuộc xuống đường nhằm gây áp lực chính trị đã dần dà biến thành các cuộc bạo động quy mô. Tại Saigon phe biểu tình chiếm giữ khu đường Trần Quốc Toản quanh Viện Hoá Đạo, khu chùa Ấn Quang. Cảnh sát và quân đội dẹp biểu tình là chuyện thường ngày, không còn làm ai ngạc nhiên. N hưng ít người nghĩ rằng VC đang có mặt để điều động và giật giây tạo nên những rối ren hỗn loạn, cầm chân những người lính chiến đáng lý ra phải có mặt tại các mặt trận đang cần họ. Cũng nằm trong kế hoạch gây rối loạn này, tại Miền Trung VC đã xúc tiến một kế hoạch quy mô nhằm biến Miền Trung thành một vùng tự trị, dĩ nhiên dưới sự điều động ngầm của chúng. N hư đã trình bầy ở đoạn trên, tác giả Liên Thành có ghi 4 rõ lời khai của Trung tá tình báo VC Hoàng Kim Loan. Theo đó tổ điệp báo của y đã xâm nhập vào các phong trào đấu tranh trong vụ Biến Động Miền Trung, gây náo loạn tại Huế và Đà N ẵng như thế nào. Tầm vóc của cuộc “Biến Động tại Miền Trung” năm 1966. N ếu không có mặt tại Huế và Đà N ẵng trong thời điểm này người ta sẽ dễ dàng nghĩ rằng đây chỉ là những cuộc xuống đường thường thấy tại Saigon trong những năm sau 1963. Thực ra, tầm vóc của cuộc Biến Động Miền Trung lớn hơn nhiều. Đây không phải chỉ là những cuộc xuống đường gây náo loạn như tại Saigon. Cũng không phải chỉ là những màn cảnh sát tung lựu đạn cay dẹp biểu tỉnh, mà thực sự là một cuộc chiến nhỏ, một thách thức đối đầu giữa phe tranh đấu Miền Trung và chính quyền trung ương, có tình báo VC tham gia lũng đoạn, giật giây và chỉ đạo. Tại Đà N ẵng, cuộc biến động này có bắn nhau, có đổ máu, có người chết và buồn thay lại là giữa quân đội của chính quyền trung ương và vài đơn vị quân đội ly khai theo phe tranh đấu. N hiều người trong chúng ta hẳn còn nhớ, không bao lâu sau khi Trung Tướng N guyễn Chánh Thi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn I, ông đã ngả theo Thượng Toạ Thích Trí Quang và phe tranh đấu Miền Trung chống lại chính quyền trung ương. Vào cuối năm 1965 một phong trào mới xuất hiện tại Huế và Đà N ẵng, với danh xưng Phong Trào Tranh Thủ đòi “thực thi Dân Chủ và bầu cử Quốc Hội Lập Hiến”. Đây là một phong trào tranh đấu do Thượng Tọa Thích Trí Quang và một số giáo sư, sinh viên đại học Huế chủ xướng nhằm tạo áp lực và làm khó chính quyền trung ương. Đặc biệt nhắm vào hai Tướng Thiệu Kỳ là hai nhân vật lãnh đạo trong Hội Đồng Quân Lực. Lúc này trong cương vị Tư Lệnh Quân Đoàn I, Trung Tướng N guyễn Chánh Thi đã công khai đứng hẳn về phe tranh đấu. Sau nhiều lần thương thảo bất thành, Hội Đồng Quân Lực quyết đinh cất chức Tư Lệnh Quân Đoàn I của Tướng Thi. Phong trào chống đối liền nhân cơ hội này xuống đường, với danh nghĩa bênh vực Tướng Thi, khởi đầu cho một mặt trận mới được mở ra tại Đà N ẵng. N gười ta thấy xuất hiện nhiều đoàn thể mới với những danh xưng tưởng như của VC: N ào là Hội Đồng N hân Dân Cứu Quốc, Phong Trào Tranh Thủ Dân Chủ và Hoà Bình, Thanh N iên Sinh Viên quyết tử, Đoàn Thanh N iên Phật Tử quyết tử, Quân N hân quyết tử, Công Chức quyết tử, đoàn thể nào cùng thề quyết tử với chính quyền trung ương. Biểu tình và mít tinh lên án Thiệu-Kỳ được tổ chức khắp nơi. Đình công bãi khoá liên tiếp xNy ra, làm ngưng trệ mọi sinh hoạt thường nhật của dân chúng. N hiều toán thanh niên sinh viên quyết tử đi từng nhà hô hào và ép buộc mọi người xuống đường. Họ ngăn chặn họp chợ, kêu gọi học sinh sinh viên bãi khoá, hăm dọa những ai chống đối. Đại tá Đàm Quang Yêu, Đặc Khu Trưởng đặc khu Quảng-Đà ngả theo phe tranh đấu, Thị Trưởng Đà N ẵng là BS N guyễn Văn Mẫn cũng tham gia phe tranh đấu, từ đó phát sinh ra đoàn Công Chức tranh đấu. Cảnh sát là cơ quan bảo vệ và duy trì trật tự cũng phải theo phe tranh đấu. Phải nói rằng, ngoại trừ những người dân bình thường sợ tham gia chính trị tìm cách tránh né, còn những ai có chút máu mặt đều phải đi theo phe tranh đấu. Thậm chí ngay cả một vài đơn vị quân đội cũng ly khai theo phe tranh đấu làm cho tình hình thêm căng thẳng và khó xử cho chính quyền trung ương. Gần phân nửa sư đoàn I do chuNn tướng Phan Xuân N huận chỉ huy ngả theo phe tranh đấu. Một phần của một Trung đoàn thuộc sư đoàn 2 cũng theo phe tranh đấu. Tiểu đoàn 11-Biệt Động Quân của Đại Úy N guyễn Thừa Dzu (sau này là Trung Tá) đang đóng quân tại ngoại ô Đà N ẵng cũng ngả theo và trở thành đơn vị nồng cốt bảo vệ phe tranh đấu. N goài ra một số quân nhân ở các đơn vị khác quanh Đà N ẵng tự động mang theo vũ khí gia nhập phe tranh đấu. Đã có những xung đột bạo động xNy ra giữa phe tranh đấu và một số đảng viên Việt N am Quốc Dân Đảng và Đại Việt. Đụng độ cũng xNy ra giữa phe tranh đấu giáo dân Công giáo tại hai làng Thanh Bồ-Đức Lợi. Kết quả là phe tranh đấu thuộc Hội Đồng N hân Dân Cứu Quốc đã tấn công và đốt cháy hai làng Thanh Bồ Đức Lợi gần khu bãi biển Thanh Bình. Đà N ẵng nằm trong tình trạng gần như vô chính phủ. Trước tình trạng này, trung ương cử Thiếu Tướng N guyễn Văn Chuân ra thay thế tướng Thi với hy vọng Tướng Chuân sẽ vãn hồi được an ninh trật tự. Phong trào tranh đấu đón chào Tướng Chuân bằng những 5 cuộc xuống đường rầm rộ đả đảo Mỹ-Thiệu-Kỳ. Thượng Toạ Trí Quang và nhóm đầu não tranh đấu không nhương bộ và không hợp tác với tướng Chuân. Rút cục trung ương đành cử một vị tướng khác ra thay thế. Trung tướng Tôn Thất Đính là người kế nhiệm cũng không ổn định được tình hình. Đình công bãi thị vẫn tiếp tục. N hóm quân nhân ly khai không chịu buông sung trở về đơn vị. Tướng Đính bị bao vây tứ phiá và tính mạng còn bị hăm dọa. Sau đó ông đã phải chạy vào căn cứ TQLC Hoa Kỳ ở Đà N ẵng để xin được Trung Tướng Lewis Walt bảo vệ. Trung ương lại phải bổ nhiệm thêm một tướng lãnh khác ra thay thế. Cũng như hai tướng lãnh tiền nhiệm của ông, Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao cũng bị cô lập và chống đối. Khó khăn của ông còn có phần rắc rối hơn khi phe tranh đấu tố cáo ông là dân Công giáo thuộc thành phần được Tổng Thống Diệm ưu đãi trước đây. Một hôm khi trực thăng của ông đang cất cánh từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đi thị sát mặt trận thì một viên Trung Úy theo phe tranh đấu đã rút súng bắn theo ông. N gay lập tức Trung Uý N guyễn Đại Thức đã bị xạ thủ đại liên người Mỹ trên phi cơ bắn trả thiệt mạng. N gay sau biến cố này phe tranh đấu liền rầm rộ phát động việc chống đối Tướng Cao và lấy tên viên Trung Úy đặt cho một đơn vị võ trang gồm một số sinh viên và binh sĩ ly khai. Và người ta thấy có “chiến đoàn N guyễn Đại Thức” ra đời với nhiều quân nhân và sinh viên có võ trang chia nhau đi bảo vệ các chùa và canh chừng tại các ngả đường đi vào thành phố. Đà N ẵng lúc này trở nên căng thẳng và nghiêm trọng khác thường. Trong vòng 5 tháng, phải thay đổi 4 vị Tư Lệnh Quân Đoàn mà vẫn không vãn hồi được an ninh trật tự. Tình hình ngày càng trở nên tồi tệ tại. Tinh thần quân dân cán chính tại Vùng I hoang mang và sa sút rõ rệt. Đến mức này chính quyền trung ương không còn một lựa chọn nào khác hơn là thẳng tay đối đầu với phe ly khai Miền Trung do Thượng Toạ Thích Trí Quang lãnh đạo với sự tham gia công khai của một số đơn vị trưởng quân đội và nhóm trí thức nhiều tham vọng chính trị. Để chuNn bị cho chiến dịch bình định Miền Trung, Đại Tá KQ N guyễn N gọc Loan đưọc bổ nhiệm thay thế Đại Tá Phạm Văn Liễu trong chức vụ chỉ huy ngành Cảnh Sát. Việc thay thế Đại tá Phạm Văn Liễu là chuyện đã được nhiều người tiên đoán ngay sau khi Tướng Thi bay chức Tư Lệnh Quân Đoàn I. Đại Tá Liễu vẫn được coi là người thân thiết của Trung Tướng Thi khi ông cùng tướng Thi tham gia đảo chánh Tổng Thống Diệm vào năm 1960 và sau đó cả hai phải sống lưu vong tại Cao Miên. N ăm 1965 sau khi đưa “quân đoàn giải phóng thủ đô” về Saigon dẹp đảo chánh, Tướng Thi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đại Tá Liễu đươc bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc CSQG. Cần nói rõ ở đây là quyền hành của Đại Tá N guyễn N gọc Loan không chỉ thu gọn trong ngành Cảnh Sát. Ông còn được kiêm nhiệm luôn chức Giám Đốc An N inh Quân Đội và Đặc Uỷ Trưởng Trung Ương Tình Báo. Với quyền hành như vậy, Đại Tá Loan được chỉ định giải quyết vấn đề Biến Động Miền Trung đang làm điên đầu chính quyền trung ương và có cơ tạo ra một cuộc đảo chánh mới lật đổ chính phủ. Trong khi tại Huế biểu tình bãi thị tràn lan thì nguy cơ đổ máu đang đe doạ mỗi ngày tại Đà N ẵng, với khí thế lên cao của phe tranh đấu và các đơn vị quân đội ly khai nhập cuộc. Với ba cơ quan tình báo trong tay, Đại Tá Loan hơn ai hết biết được khả năng gây loạn của phe tranh đấu và ai là người chủ động, thành phần yểm trợ phe chủ động là những đơn vị nào. Trong một kế hoạch vân dụng tình báo vừa công phu vừa táo bạo, ông đã bí mật đưa Đại Úy Trần Thụy Ly (sau này là Thiếu Tá Trưỏng Ty CSQG Quận N hì Saigon) và Đại Úy N guyễn Văn Duệ (nguyên thuộc binh chủng Biệt Động Quân thời trước 1963) ra Đà N ẵng. Ly và Duệ vốn là hai người bạn quen biết lâu năm với Đại Úy N guyễn Thừa Dzu, Tiểu Đoàn trưởng TĐ-11 Biệt Động Quân. Cả hai có nhiệm vụ móc nối Đại Úy Dzu từ bỏ phe tranh đấu. Tiểu đoàn 11-BĐQ được coi là một đơn vị thiện chiến và là đơn vị ly khai nồng cốt của phe tranh đấu. Cũng trong thời gian này, do sự móc nối ngầm của trung ương, Tướng Phan Xuân N huận Tư Lệnh Sư Đoàn I tuyên bố tách ra khỏi phe tranh đấu và kêu gọi quân nhân dưới quyền ông trở về đơn vị.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2012 9:16:13 GMT 9
Chỉ sau khi đã móc nối được Đại Úy Dzu để tiểu đoàn 11-BĐQ án binh bất động, và sau khi Tướng Phan 6 Xuân N huận vì sợ bị truất binh quyền và ra toà án quân sự, đã lên đài phát thanh tố cáo Thượng Tọa Trí Quang theo cộng sản, Đại Tá Loan mới quyết định dứt khoát đem quân ra dẹp phe tranh đấu và tái chiếm Đà N ẵng. Tôi được chỉ thị mang Biệt Đoàn 222-Cảnh Sát Dã Chiến do Đại Úy nhảy dù N guyễn Duy Am chỉ huy đi theo Lữ Đoàn TQLC do Đại Tá N guyễn Thành Yên chỉ huy và một tiểu đoàn nhảy dù do Đại Úy N guyễn Hữu Bào làm Tiểu Đoàn Trưởng, ra tái chiếm Đà N ẵng. Lực luợng vừa quân đội vừa Cảnh Sát dã chiến gần 3000 người được đổ xuống phi trường Đà N ẵng vào sáng ngày mùng 3 tháng 6/1966. Lúc đó phi trường Đà N ẵng vẫn còn bị quân đội ly khai bao vây, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Tạm thời Đại Tá Loan đành thúc thủ vì không muốn chạm súng để quân ta lại bắn quân mình. Các đơn vị trung ương vừa kể đành phải nằm chờ trong phi trường Đà N ẵng. ĐT N guyễn N gọc Loan phải mượn văn phòng của Thiếu Tá KQ Dương Thiệu Hùng để tạm thời đặt bộ chỉ huy. Các tướng Cao Văn Viên và N guyễn Cao Kỳ (lúc này đã là Thủ Tướng chính phủ) bay ra Đà N ẵng để tìm cách giải quyết. Vì phe tranh đấu và nhóm quân đội ly khai vẫn không chịu nhượng bộ, Tướng Kỳ dọa ngày mai sẽ ra lệnh tấn công vô Đà N ẵng và cho phi cơ khu trục của KQ-VN bắn xuống bộ chỉ huy phe ly khai nếu họ không chịu đầu hàng. Không hiểu do đâu lời đe dọa này đến tai viên Tư Lệnh TQLC Hoa Kỳ tại Đà nẵng là Trung Tướng Lewis Walt. Tướng Walt liền thông báo cho tướng Kỳ là nếu phi cơ VN bắn xuống phe ly khai và nhóm tranh đấu tại Đà N ẵng, ông ta sẽ cho phi cơ phản lực Hoa Kỳ lên nghênh chiến. Lúc này tình hình trở nên thật căng thẳng. Tướng Kỳ và ĐT Loan yêu cầu được gặp tướng Lewis Walt. Tôi không rõ ba vị này thương thảo và tranh luận những gì. Sau đó Tướng Kỳ bay về Saigon gặp Đại Sứ Hoa Kỳ và hôm sau ĐT Loan được lệnh tấn công vào Đà N ẵng. Tướng Kỳ và Tướng Thiệu gặp các giới chức Hoa kỳ và đã phải chấp nhận những điều kiện gì để Tướng Lewis Walt không can thiệp vào chiến dịch tái chiếm Đà N ẵng là điều mà chỉ có Tướng Kỳ và Tướng Thiệu biết và còn giữ kín. Chỉ biết là ĐT Loan lúc đó rất bực bội. Ông cho rằng người Mỹ đã can thiệp quá nhiều vào chuyện nội bộ của VN . Sau này có dịp nhắc lại chuyện đem quân theo ông ra Đà N ẵng, ông cho biết ngày đó nếu Mỹ không quyết định bỏ rơi Thượng Tọa Thích Trí Quang thì chưa chắc việc tái chiếm Đà N ẵng đã có thể xNy ra tương đối mau chóng như vậy. Đây có lẽ là một bài học khó quên cho những ai thích làm chính trị núp bóng người Mỹ. Khi mà sự cần thiết không còn nữa thì ngay cả “người làm rung chuyển nước Mỹ” (tựa đề trên tuần báo Time năm 1964) như Thượng Toạ Trí Quang cũng dễ dàng bị bỏ rơi. Chúng ta chưa quên, năm 1975 số phận của tiền đồn chống Cộng VN CH cũng đã kết thúc không khác. Trở lại việc tái chiếm Đà N ẵng, Lữ Đoàn TQLC của ĐT N guyễn Thành Yên ra khỏi phi trường Đà N ẵng và đụng độ với quân ly khai, gây tử thương cho gần 20 quân nhân và thành phần có võ trang theo phe tranh đấu. Biệt đoàn 222-CSDC bám sát TQLC để lục soát và bắt giữ những thành phần gây loạn. Chỉ sau khi những người lãnh đạo phong trào đấu tranh như Thượng Toạ Trí Quang, Đại Tá Đàm Quang Yêu, BS N guyễn Văn Mẫn và một số nhân vật chủ chốt khác bị bắt giữ và giải giao vào cục An N inh Quân Đội các nhóm đấu tranh và các đơn vị ly khai mới thực sự buông súng đầu hàng. Việc tái chiếm Đà N ẵng bằng quân sự được hoàn tất trong vòng hai ngày nhưng trật tự chỉ thực sự được vãn hồi sau gần 3 tháng biểu tình tiếp tục liên miên. Cái nghiệp Tình Báo-Cảnh Sát. Đến đây hẳn bạn đọc đã thấy vụ Biến Động Miền Trung không chỉ đơn thuần là những cuộc biểu tình xuống đường như ta thường thấy tại Saigon trong những năm nhiễu loạn sau 1963. N ếu Thiếu Tá Liên Thành và các cộng sự viên ưu tú của ông không kịp thời khám phá và bắt giữ ổ điệp báo quan trọng Hoàng Kim Loan thì chắc tình trạng rối loạn tại Huế sẽ còn tiếp diễn và chưa biết hậu quả sẽ ra sao. N hưng có lẽ công trạng lớn nhất trong vụ Biến Động Miền Trung phải được dành cho cố Thiếu Tướng N guyễn N gọc Loan. N ên nhớ là sau khi 4 vị Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I đều thất bại không vãn hồi được an ninh trật tự vì bị phong trào tranh đấu của Thượng Tọa Trí Quang bao vây thì ít có vị Tướng lãnh nào muốn nghĩ tới việc ra thay thế chức vị Tư Lệnh Quân Đoàn I chứ đừng nói đến một sĩ quan cấp thấp hơn như Đại Tá Loan. 7 Đối đầu với thế lực đang lên của Thượng Tọa Trí Quang lúc bấy giờ không phải là một quyết định dễ dàng. Vậy mà Đại Tá N guyễn N gọc Loan đã chấp nhận công tác may ít rủi nhiều này. N ếu không khôn khéo và cương quyết trong vụ dẹp loạn Miền Trung và nếu tình hình đổi ngược lại thì với cấp bậc Đại Tá khiêm tốn của ông có thể số phận của Đại Tá N guyễn N gọc Loan cũng đã không khác gì số phận của Thiếu Tá Đặng Sĩ sau đảo chánh 1963. Và nếu vụ biến động không được kịp thời dẹp tắt thì Miền Trung chắc đã trở thành một vùng tự trị, một thứ trái độn cần thiết mà Hà N ội mong muốn trong kế hoạch lấn chiếm Miền N am. Và như vậy, rất có thể người dân Miền Trung đã không được sống trong tự do yên ổn cho đến tận tháng 4/1975. Sẽ có bạn đọc thắc mắc tại sao những bí Nn trong vụ Biến Động Miền Trung giờ này mới được tác giả Liên Thành đưa ra ánh sáng. Có nhiều lý do để giải thích việc này nhưng có lẽ lý do căn bản vẫn là lý do nghề nghiệp. N ghề tình báo (trong tổ chức Cảnh Sát có ngành Cảnh Sát Đặc Biệt phụ trách về tình báo và phản tình báo) vốn là nghề “sống để bụng, chết mang đi”. Rất nhiều trường hợp công tác đã xong nhưng các tình báo viên hoặc các cộng tác viên còn nằm lại. Việc tiết lộ kết quả công tác sẽ mang lại nhiều rủi ro cho những người đó. Chính vì vậy mà những thành quả tình báo không được vinh danh, không có vòng hoa chiến thắng và khao quân. Cảnh Sát làm tình báo chẳng khác gì người “mặc áo gấm đi đêm”. Có áo quý nhưng không dám khoe! Không những không được khoe mà đôi khi còn bị hiểu lầm. N hư chuyện năm 1967 một sĩ quan tình báo của Cảnh Sát được gài trong mật khu VC. Có lẽ để thử thách lòng trung thành của sĩ quan này, VC giao cho đương sự đặt chất nổ phá hoại trong Bộ Tư Lệnh CSQG. Vì tầm quan trọng của công tác và để gây uy tín cho tình báo viên của mình, Bộ TL Cảnh Sát đã phải ngụy trang một vụ nổ giữa sân Bộ TL Báo chí thời đó loan tin với khá nhiều mỉa mai. Một số dân biểu đối lập được dịp chỉ trích chính phủ và chĩa mũi dùi vào Tư Lệnh CSQG. Bộ TL-CSQG vẫn phải âm thầm gánh chịu, không hề biện bạch cải chính. Cái nghiệp tình báo là như vậy! Trở lại vụ cuốn sách của tác giả Liên Thành, tôi nghĩ ông và các cộng sự viên của ông cũng bị các nguyên tắc nghề nghiệp ràng buộc. Trong dịp ra mắt cuốn sách của ông tại Houston vào tháng 9/1975 mới đây, ông cũng bị một vài thành viên trong Ban Đại Diện cộng đồng phản đối. Họ hô hào chống đối buổi ra mắt sách, buộc ông tội gây chia rẽ giữa giữa các tôn giáo chỉ vì cuốn sách của ông tiết lộ tên tuổi một số tu sĩ Phật giáo bị điệp báo cộng sản móc nối trong vụ Biến Động Miền Trung. Họ cho rằng bây giờ chưa phải là lúc đề cập tới những chuyện như vậy, trong khi số đồng hương đến tham dự không dưới 700 người. Điều này làm tôi nhớ lại thái độ tương tự của những người có trọng trách trong chính quyền thời bấy giờ, coi chuyện tôn giáo và tu sĩ như những lãnh vực bất khả xâm phạm. Phải chăng những tránh né như vậy đã phần nào nuôi dưỡng tình trạng “kiêu binh” gây sóng gió trong chính trường Miền N am nhiều năm trước ngày sụp đổ? Thái độ thờ ơ cả nể đã di hại cho công cuộc bảo vệ Miền N am không ít. Bây giờ 33 năm sau, chúng ta vẫn còn cả nể như vậy sao? Không lẽ ta không học được những bài học của quá khứ để truyền lại cho con cháu sau này? Câu nói của sử gia Santanaya đã được nhiều người nhắc lại và đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Those who do not learn from the lessons of history will be condemned to repeat history” (xin dịch thoáng như sau: Kẻ nào không chịu học những bài học của lịch sử thì sẽ phải gặp lại những bất hạnh tương tự khi lịch sử tái diễn). Cám ơn Thiếu Tá Liên Thành đã làm sáng tỏ một số bí Nn trong vụ Biến Động Miền Trung và xin cám ơn Tập San Biệt Động Quân đã cho xuất bản tập sách này. Trần Minh Công
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2012 8:47:42 GMT 9
Tháng 4, 1865 – Tháng 4, 1975 DanChimViet
LTS: Tháng 4 luôn là tháng đau buồn cho cả dân tộc Việt. Nói như TNS John Mc Cain: Những kẻ xấu đã chiến thắng. Người cộng sản giương cao ngọn cờ dân tộc để lấy cớ xâm lấn miền Nam. Họ nêu ra đủ mọi hình ảnh tốt đẹp thể hiện ngay trên quốc hiệu: Độc lập, tự do, hạnh phúc để xô đẩy toàn dân vào cuộc chiến tương tàn đẫm máu. Thế nhưng 36 năm trôi qua, độc lập tự do hạnh phúc vẫn chỉ là những chiếc bánh vẽ khổng lồ, đất nước đang có nguy cơ rơi vào tay kẻ lạ phương Bắc. Những tiếng nói cương trực như của ông Cù Huy Hà Vũ thì bị bịt miệng, đoạ đày.
Trong tháng 4 đau thương uất nghẹn đó, ĐCV đăng lại bài viết “Tháng 4, 1865 – Tháng 4, 1975” của hai tác giả Phan Quang Tuệ và Đỗ Thái Nhiên để chúng ta cùng suy gẫm.
Xe tăng cs bắc Việt ủi sập cánh cổng Dinh Độc Lập Lúc bấy giờ là đêm ngày 8 tháng 4 năm 1865, Đại Tướng Robert Lee thống lãnh Quân đội Miền Nam cùng Ban Tham Mưu ngừng chân đặt bản Doanh Bộ chỉ huy trong một cánh rừng gần Toà Thị Xã Appamatox, thuộc tiểu bang Virginia. Sáu ngày liên tiếp trước đó đạo quân miền Nam đã đi không ngừng nghỉ tiến về phía Tây hướng về dãy núi Blue Ridge nơi mà Tướng Lee từng tuyên bố ông có thể cầm cự chiến đấu ít nhất là 20 năm. Nhưng đêm nay khi tướng Lee và Bộ Tham Mưu mệt mỏi của ông dừng quân tại Appamatox thì đạo quân miền Nam đang bị quân đội miền Bắc bao vây, lương thực cạn, hy vọng tiếp tế không có, hy vọng tăng viện cũng không. Xa xa tiếng đại bác xé màn đêm dội về… Tất cả hy vọng của tướng Lee lúc này chỉ còn đặt vào một vị tướng trẻ gan dạ, John Gordon. Vị tướng này sáng sớm hôm sau sẽ tiến quân chọc thủng phòng tuyến bao vây của quân đội miền Bắc. Cách đó không xa, viên sĩ quan phụ tá của tướng Grant, thống lãnh quân đội miển Bắc, bước vào phòng riêng của tướng Grant để đánh thức ông dậy. Người sĩ quan hầu cận vội mang đến tướng Grant một tách cà phê nóng hổi. Tách cà phê dẫu có giúp nhẹ đi cơn nhức đầu nhưng không làm giảm bớt mối căng thẳng lo âu của tướng Grant. Sau cùng tướng Grant kéo ghế ngồi, và khởi sự thảo bức thư trả lời thư mới nhận được từ tướng Robert Lee. “Tôi rất muốn hòa”, tướng Grant viết, “và mong muốn kết thúc cuộc chiến mà không phải tổn thất thêm một nhân mạng nào nữa. Nhưng cuộc hội kiến do Đại Tướng đề nghị vào 10 giờ sáng hôm nay không có một lợi ích nào cụ thể và tôi không có thẩm quyền quyết định hoà hay chiến.” Nhưng bức thư của tướng Grant chưa kịp đến tay tướng Lee, tiếng súng đã lại bắt đầu nổ. 5 giờ sáng, sương mù còn bao phủ rặng đồi bên kia Appamatox. Loạt đạn đầu tiên xé màn sương, đánh thức sáng chủ nhật 9/Apr/1865, tiếp theo là tiếng thét tiến quân của quân đội miền nam. Từng đợt tấn công của tướng Gordon đã đánh bật tuyến phòng thủ đầu của quân miền Bắc, chiếm nhiều cỗ súng đại bác, đánh bạt hai bên mở rộng đường tiến quân, và ào ạt tiến lên đồi. Nhưng từ phía bên kia đồi, quân miền Nam đã đụng phải một bức tường dày đặc, kéo dài hơn 2 dặm, cuả hai đơn vị bộ binh quân đội miền Bắc. Và ép từ phiá sau là hai đơn vị bộ binh khác của quân miền Bắc tiến lên. Quân miền Nam bị ép vào giữa, tiến không được, lui cũng không xong, và chém vè cũng không được. Chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ sau, tướng Lee được tin khấp báo của tướng Gordon “Quân sĩ của tôi đã chiến đấu hết mình. Trình Đại Tướng tôi không làm gì hơn được nữa!” Lập tức tướng Lee triệu tập Ban Tham Mưu thâu hẹp để quyết định hoà hay chiến. Tướng Lee nói với các tướng bao quanh: “Giờ đây tôi chẳng còn làm gì hơn là đến trình diện và đầu hàng trước tướng Grant”. Nơi được chọn để nghị hòa là một căn nhà nhỏ mái ngói thuộc Appamatox, một thị xã hẻo lánh nằm vào phía Nam tiểu bang Virginia. Có độ chừng 20 căn phố, lèo tèo vài cửa hàng nhỏ, một lữ quán và toà thị xã. Khi mặt trời leo lên cao là lúc tướng Lee đã đến điểm hẹn, ông bước theo sự hướng dẫn của vị sĩ quan tuỳ viên và một sĩ quan tham mưu thuộc Bộ Tham Mưu của Tướng Grant. Tướng Lee, uy nghi trong bộ binh phục đại lễ, hông đeo trường kiếm, ngồi xuống cạnh một chiếc bàn gỗ nhỏ. Giờ đây ông đã có mặt ngay trong lòng đất đối phương. Vào khoảng nửa tiếng sau, tiếng giày nện trên sàn gỗ và tướng Grant bước vào. Khác hẳn với tướng Lee, tướng Grant không đeo kiếm, không mặc quân phục, quần và đôi ủng lấm đầy bùn. Theo lời yêu cầu của tướng Lee, tướng Grant đích thân thảo bản văn kiện chính thức đầu hàng của quân đội liên hiệp miền Nam và sau đó tự tay trao cho tướng Lee xem lại. Chậm rãi, từ tốn, tướng Lee rút cặp kiếng đeo mắt, lấy khăn lau kỹ lưỡng, đeo kính lên và chăm chú đọc. “…. Vũ khí, đại bác và các tài sản công phải được liệt kê, sắp xếp và giao nộp cho một viên sĩ quan do tôi chỉ định. Những vũ khí này sẽ không gồm có vũ khí cá nhân của các sĩ quan, cũng như ngựa và tư trang của họ. Sau khi hoàn tất, mọi sĩ quan và binh sĩ sẽ được phép trở về nguyên quán, và sẽ không bị quấy nhiễu bởi các cơ quan cầm quyền chừng nào họ tôn trọng lệnh đầu hàng và tuân theo luật lệ địa phương nơi họ cư ngụ.” Lần đầu tiên trong buổi hội kiến, gương mặt của tướng Lee tươi hẳn. Như vậy có nghĩa là sĩ quan và binh sĩ dưới quyền của ông sẽ không bị giam giữ như tù binh chiến tranh. Có nghĩa là họ sẽ không bị đem ra bêu riếu diễn hành hạ nhục trên các đường phố. Có nghĩa là họ sẽ không bị mang ra toà truy tố về tội phản loạn. Tướng Lee nói, “Thưa Đại Tướng, những điều kiện đầu hàng thế này sẽ có ảnh hưởng rất tốt với quân đội của tôi.” Và tướng Lee nói tiếp, “Nhưng thưa ngài, trong quân đội miền Nam cuả tôi, ngay cả binh sĩ khi gia nhập cũng mang theo ngựa của họ vào quân đội.” Tướng Grant nói ông sẽ không thay đổi gì trong văn kiện đầu hàng, nhưng sẽ ra khẩu lệnh cho phép mọi binh sĩ miền Nam được phép mang ngựa và lừa về quê quán để sử dụng trong việc trồng trọt ở các nông trại. Tướng Lee còn thêm một lời yêu cầu nữa. Ông trình bày cho tướng Grant biết ông còn giam giữ hơn một ngàn tù binh quân đội miền Bắc nhưng không có lương thực cung cấp cho họ và ngay chính quân đội của ông cũng không còn lương thực. Không ngập ngừng, tướng Grant đề nghị sẽ ra lệnh xuất kho cấp ngay khẩu phần cho hơn 25,000 quân sĩ của quân đội liên hiệp miền Nam. Tướng Grant hỏi, “Như vậy, đủ chưa?” “Thưa quá đủ, quá đủ, thưa đại tướng.” Tướng Lee trả lời. Tướng Lee đứng dậy, lần lượt bắt tay các sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của tướng Grant, bắt tay tướng Grant, nghiêng mình chào tất cả mọi người có mặt và bước ra khỏi phòng họp. Tướng Grant và ban sĩ quan tham mưu đã đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà, nơi đôi bên nghị hòa. Khi ngựa tướng Lee rảo bước đi qua, cặp mắt của hai vị tướng quân chạm nhau trong giây phút, họ đồng ngã nón chào nhau. Trên bao lơn xung quanh tướng Grant và suốt trong sân trước căn nhà lịch sử, sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đều đưa tay chào kính vị tướng bại trận quân đội liên hiệp miền Nam. Tin đồn đầu hàng của tướng Lee tràn lan mau chóng như thuốc súng. Khắp nơi binh sĩ miền Bắc reo mừng. Họ liệng lên không trung mũ nón, giày, bao đạn, áo hay bất cứ vật gì có thể ném tung lên được. Họ ôm nhau, hôn nhau. Các súng ống, kể cả đại bác bắt đầu nổ. Thế nhưng tướng Grant nhanh chóng ra lệnh ngưng ngay tức khắc những biểu lộ nổi vui mừng của binh sĩ miền Bắc. “Rồi sẽ có ngày mừng chiến thắng”, tướng Grant giải thích, “Nhưng không phải là ngày hôm nay. Quân đội miền Nam đã đầu hàng. Chúng ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ.” Điều quan trọng với tướng Grant là phải làm sao để thắng trận, đồng thời cũng phải gìn giữ cho bằng được sự toàn vẹn tình cảm giữa những người cùng trong cộng đồng dân tộc Hoa Kỳ. 4:30 chiều ngày 9 tháng 4, 1865, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh tại Hoa Thịnh Đốn nhận được một điện văn ngắn ngủi của tướng Grant, “Tướng Lee đã buông súng đầu hàng quân đội miền Nam theo những điều kiện do tôi ấn định.” Cách đó không bao xa, tướng Lee cỡi ngưạ trở về bản doanh của mình. Dọc hai bên đường, binh sĩ miền Nam nghiêm chào vị tướng lãnh mà họ tôn sùng. Nhiều người bật khóc, phủ phục bên đường. Tướng Lee cũng không cầm được nước mắt. Về đến đại bản doanh, trước mặt sĩ quan và binh sĩ đứng chờ, tướng Lee hướng về họ và nói: “Ta đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được. Và nay lòng ta nặng trĩu, không thể nói gì hơn.” Bước đi vài bước, ông dừng lại và thêm: “Các ngươi hãy trở về quê quán. Và nếu các ngươi sống được như những công dân tốt như các ngươi đã từng chiến đấu như các chiến sĩ thì các ngươi sẽ thành công rồi. Và tôi sẽ luôn luôn hãnh diện vì các anh em.” Và tướng Lee biến mình vào trong lều vải của mình. Điều kiện đầu hàng được hai tướng Lee và Grant ký kết tại Appamatox ngày 9 tháng 4, 1865 thì 3 ngày sau, ngày 12 tháng 4 mới là ngày quân liên hiệp miền Nam chính thức buông súng đầu hàng. Hai đạo quân dàn đôi bên con đường chạy theo phía Đông rừng Appamatox. Chỉ huy cánh quân miền Bắc và điều khiển buổi lễ là tướng Chamberlain, nguyên là một giáo sư đại học, Huy Chương Danh Dự, hai lần bị thương trên chiến trường. Chỉ huy 28,000 sĩ quan và binh sĩ liên hiệp miền Nam là tướng Gordon, một trong những cận tướng can trường của Đại tướng Lee, 4 lần bị thương tại mặt trận, một lần bị trúng đạn xuyên qua mặt. Tướng Chamberlain đã ghi lại trong hồi ký cuả mình: “Từng đoàn, từng đoàn, họ tiến bước theo nhịp quân hành, ép chặt vào nhau giống như một giòng người đội vương miện màu đỏ ối, giương cao quân kỳ và hiệu kỳ. Đây là những người mà gian lao, đau khổ, nhọc nhằn, kể cả tử thần không bẻ cong được quyết tâm của họ. Họ đứng thẳng hàng trước mặt đoàn quân chúng tôi, một đoàn quân tơi tả, xương xẩu, nhưng hiên ngang, mắt sáng ngời chiến thắng, họ là những hình ảnh sống phản ảnh mối liên hệ thắm thiết chỉ có thể có giữa những đồng đội trên chiến trường”. Không hề dự định trước, cũng như không hề được chuẩn y trước, tướng Chamberlain bất thần hô lớn ra lệnh, “Bồng súng chào!” cho quân đội miền Bắc. Một tiếng kèn lệnh vang lên, và lập tức toàn thể đoàn quân miền Bắc bồng súng lên vai, tiếng báng súng rập khuôn vang lên. Phía đối diện, tướng Gordon thúc nhẹ con tuấn mã khụy hai chân trước xuống, người và ngựa cùng cúi đầu, gươm tuốt trần chúc mũi trong một giáng đìệu hùng vĩ tuyệt vời. Cùng lúc, đoàn quân miền Bắc chuyển qua bồng súng nghiêm chào. Họ chào những “anh hùng bại trận”, họ bày tỏ sự kính trọng của những người Hoa Kỳ đối với những người Hoa Kỳ. Và phía hàng quân miền Bắc tiếp tục giữ đúng thế nghiêm. Không có thêm một tiếng kèn. Không có một tiếng trống. Không có một tiếng hô chiến thắng. Không có một tiếng nói. Không cả một tiếng thầm thì. Mà chỉ còn là một hàng quân im phăng phắc. Mọi nhịp thở như ngừng lại. Buổi lễ đầu hàng kéo dài 7 tiếng đồng hồ. Gần 28,000 người, trên 100,000 tấn vũ khí, đạn dược, quân kỳ, hiệu kỳ lần lượt bỏ xuống. Từng đơn vị tiến lên, gác súng, tháo bao đạn, và xếp súng xuống. Kế đến họ trìu mến cuốn hay xếp quân kỳ, hiệu kỳ, lắm cái tơi tả và lắm cái nhuộm máu đã khô, sau cùng họ khẽ đặt những lá cờ kia xuống mặt đất… * * * Bây giờ, xin tạm gọi ngày 09 tháng 04 năm 1865 tại Mỹ là tháng 04/1865, và 30/04/1975 tại Việt Nam là tháng 04/1975. Một số người cho rằng Mỹ là quê hương của “Cow Boy”. Mỹ là xã hội sống theo phương châm “Bắn nhanh thì sống, bắn chậm thì chết”. Mỹ là nơi “mắt đổi mắt, răng đổi răng”. Tại sao giữa những tin đồn hung hiểm như vậy, người Mỹ lại có được tháng 04/1865 tuyệt vời như thế kia? Tuyệt vời bởi lẽ sau nhiều năm quần thảo với nhau trên núi xương, sông máu, người Mỹ đã nhanh chóng làm hòa với nhau, lấy tình tự dân tộc làm gốc. Tuyệt vời bởi lẽ biến cố Tháng 04/1865 đã nêu bật tình cảm rằng cả người thắng lẫn kẻ bại đều thiết tha và chân thành tôn kính lẫn nhau. Tuyệt đối không có cảnh “nhảy múa trên đau khổ của kẻ bại”. Người đích thực là kẻ chiến thắng trong 04/1865 chính là dân tộc Hoa Kỳ. Mang tháng 04/1865 đặt cạnh tháng 04/1975, mọi người, kể cả những người khác biệt chính kiến, đều có thể dễ dàng nhận ra những khác biệt lớn lao sau đây: - Chiến bại trong 04/1865 là chiến bại thật. Chiến bại trong 04/1975 là chiến bại biểu kiến (thấy vậy mà không phải vậy). Chiến bại trong 04/1975 là chiến bại của một quân đội bị “Đồng Minh” đâm sau lưng. - Sau 04/1865, quân Bắc Mỹ không hề trả thù quân Nam Mỹ. Tất cả hình thức ăn mừng chiến thắng đều bị ngăn cấm. Chẳng những không bị ngược đãi, quân Nam Mỹ còn được Bắc quân trao tặng hơn hai mươi lăm ngàn (25.000) phần ăn như một lời chúc thượng lộ bình an trên con đường trở về quê hương gốc. Sau 04/1975, CSVN ra lệnh mang ra chợ xử bắn những quân cán chính nào của VNCH mà Hà Nội gán cho danh hiệu “ác ôn”. Mặt khác, tất cả thương bệnh binh của VNCH lập tức bị đuổi ra khỏi tòan bộ hệ thống quân y viện của Miền Nam Việt Nam. Đó là lý do giải thích tại sao những ngày đầu tháng 05/1975 vô số thương binh VNCH, kể cả những thương binh vết thương còn mới nguyên, lê lết khắp phố chợ làng quê… - Không một người lính nào trong quân đội Nam Mỹ bị bắt giam như những tù binh. Ngược lại, tại Việt Nam 04/1975, CSVN bắt giam nhiều trăm ngàn quân nhân từ tướng đến binh (an ninh tình báo) của VNCH. Hành động bắt giam này được thực hiện bằng lời kêu gọi mang theo mười ngày lương thực nhằm tạo cho “nạn nhân” hiểu lầm là họ chỉ đi “học tập cải tạo” mười ngày. Trong thực tế 10 ngày có nghĩa là một hai thập niên tù khổ sai. - Tháng 04/1865 quân Bắc Mỹ chỉ tịch thu vũ khí cộng đồng, họ cho phép quan, quân miền Nam giữ lấy ngựa và vũ khí cá nhân như những tài sản riêng. Tháng 04/1975 nhà cửa, xe cộ của sĩ quan cao cấp của VNCH bị tịch thu, vợ con của quân nhân các cấp bị mất việc làm, bị đuổi đi kinh tế mới. Đặc biệt, không chỉ riêng gia đình quân cán chính VNCH mà ngay cả người dân bị goi là “dân vùng ngụy” cũng bị CSVN đánh đòn rất cẩn thận: đánh tư sản mại bản, đánh công thương kỹ nghệ gia, đánh tiểu thương, đánh văn nghệ sĩ, đánh tu sĩ các tôn giáo. Nói chung, tháng 04/1975 là ngày ghi dấu toàn bộ xã hội miền Nam Việt Nam biến thành địa ngục trần gian. Cùng là CON NGƯỜI, tai sao người Mỹ đối xử với người Mỹ khác hẳn CSVN đối xử với người Việt Nam? Phải chăng văn hóa Mỹ khác với văn hóa Cộng Sản? Đúng rồi, văn hóa CS hoàn toàn phản lại văn hóa của loài người. Nhóm chữ “văn hóa CS” chỉ là kiểu dùng chữ tạm thời, giúp cho sự diễn đạt được nhanh chóng. Văn hóa là sự thăng hoa của văn minh, là cao diểm của văn minh NGƯỜI. Xuất phát từ tiền đề triết học duy vật ( kim chỉ nam của đấu tranh giai cấp), trong tim óc của môn đồ Cộng Sản không có chỗ dành cho Con Người. Thoạt tiên Karl Marx dạy người CS hãy nhóm lên ngọn lửa đấu tranh giai cấp để thống tri xã hội. Thế nhưng trong thực tế ý niệm giai cấp rất mơ hồ. Ghét ai thì gọi người đó là phú nông, địa chủ. Thương ai thi goi người đó là “tư sản dân tộc”. Mặt khác, theo đà phát triển của văn minh loài người, triết học Marx đã hiện nguyên hình là một quái tượng tư tưởng vô cùng to lớn. Từ đó, người Cộng Sản, đặc biệt là CSVN, hoàn toàn mất hướng suy nghĩ. Tuy nhiên, trong cuộc đời mất hướng kia, thói quen đấu tranh giai cấp đã hằn sâu trên tim óc của người CS ba phương châm sống gọi là “ba ác” mà người CS cho là cực kỳ khôn ngoan: 1. Ác một là: Sống tức là đấu tranh chống những người chung quanh (kể cả đồng chí) để vươn mình lên, để cai trị mọi người, để tước đoạt tài sản của người khác càng nhiều càng tốt. 2. Ác hai là: Sẵn sàng thực hiện bất kỳ điều ác nào, kể cả giết cá nhân hay tập thể người, nhằm hoàn tất cho bằng được mục tiêu số (1). 3. Ác ba là: Phương châm (1) và (2) phải được dấu tuyệt đối kín. Sống để bụng, chết mang theo. Nhằm tăng cường cho công việc dấu kín kia, người CS phải lòe bịp người đời bằng cách thường xuyên đề cao Trời Phật, tình Người, tình yêu tổ quốc, yêu nhân loại. Muốn tìm ra lý do tại sao có sự khác biệt lớn lao giữa tháng 04/1865 và 04/1975 chúng ta hãy căn cứ vào “ba ác” kể trên để theo dõi hành động của đảng CSVN từ 1954 đến ngày nay, 2008. 1955 và các năm kế tiếp, CSVN nhân danh giai cấp bần cố nông đánh các mặt trận: Cải cách ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án xét lại chống đảng… Mục đích: cướp tài sản của quần chúng nhân dân và củng cố quyền thống trị của đảng. 1968, CSVN nhân danh giai cấp vô sản tàn sát nhiều vạn đồng bào cố đô Huế. Mục đích: khủng bố quần chúng Huế để cưỡng bách Huế phải tuân phục Hà Nội. 1975, tháng 04, CSVN vẫn nhân danh giai cấp vô sản một mặt tống giam hàng trăm ngàn quân nhân và nhiều thành phần quần chúng khác nhau, mặt khác đánh tư sản, công thương gia, cưỡng đoạt tài nguyên quốc gia, biến tài nguyên này thành tài sản riêng của đảng CS, xuất cảng thuyền nhân, phụ nữ, trẻ em, công nhân lao động… Tất cả những việc làm kia chỉ vì mục đích cướp tài sản của toàn dân và củng cố quyền thống trị. 1985 đến 2008, kinh tế quốc doanh của CS bắt buộc phải đầu hàng kinh tế thị trường, giai cấp tư bản đỏ ra đời ngay càng đông, càng giàu có một cách bất lương. CSVN bắt đầu đổi giọng, không còn nhắc đến giai cấp vô sản nữa, mặc dầu giai cấp nay ngày càng phình to. CSVN công khai phục vụ Trung Quốc, phục vụ doanh nhân quốc tế. CSVN không ngần ngại thẳng tay đàn áp sinh hoạt tôn giáo, những tổ chức yêu chuộng tự do dân chủ, công nhân, dân oan, thanh niên sinh viên biểu tình chống Trung Quôc xâm lược, chống Olympic Trung Quốc… Quá trình hoạt động của CSVN trong các thập niên qua để lộ ra rằng CSVN cai trị đất nước dưới nhiều lớp áo khác nhau: Bần cố nông, vô sản, tư bản đỏ, người bạn thân thiết của doanh gia ngoại quốc, kẻ tôi tớ trung thành của quân xâm lược Trung Quốc… Trong nhiều lớp áo khác nhau kia CSVN bao giờ cũng “đề cao” tình người, tình tổ quốc, tình nhân loại. Hẳn nhiên những đề cao như vậy đều là những đề cao gian dối , những đề cao nằm trong kế hoạch thực hiện “ba ác” của người CS- biến- thái- sau- khi- chủ- nghĩa- Marx- thất- bại. Nói đúng hơn, sau thất bại của Marx, con người Cộng Sản trở thành con người Mafia. Thế rồi, đảng CSVN với bản chất Mafia đã “Mafia hóa” xã hội Việt Nam qua ba cội nguồn sau đây: 1) Quan hệ giữa nhà cầm quyền CSVN với quần chúng Việt Nam là quan hệ giữa cá lớn với cá bé, giữa động vật khỏe với động vật yếu. Lâu dần, do ảnh hưởng cách ứng xử của nhà cầm quyền, người dân quay ra đối xử với nhau theo luật mạnh được, yếu thua. Luật này là luật hàng đầu của xã hội Mafia. 2) Nhà cầm quyền CSVN ra lệnh cho báo chí, truyền thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác phải truyền thông theo kiểu cắt đầu, cắt đuôi, bóp méo sự thực. Bằng lề thói truyền thông kia nhà cầm quyền đã dạy dỗ và đào tạo người dân thành những kẻ ăn gian nói dối. Ngay thẳng là khờ khạo, gian manh là khôn ngoan. Không gian dối, không phải là Mafia. 3) Biết rõ thế giới kinh tởm bộ mặt Mafia, CSVN thường xuyên nỗ lực che đậy bộ mặt Mafia của họ. Muốn vậy CSVN phải ẩn nấp đàng sau tấm bảng Karl Marx. Ẩn nấp như vừa kể, CSVN muốn nói với thế giới rằng CSVN không là một đảng trộm cướp Mafia, và rằng CSVN đích thực là một đảng chính trị lấy tư tưởng Marx làm kim chỉ nam. Nhằm giúp cho việc ẩn nấp được chu đáo hơn, “giống thật” hơn, CSVN cưỡng bách toàn bộ hệ thống giáo dục của xã hội Việt Nam phải đều đặn học tập chủ nghĩa Marx. Sự thể này đã dẫn đến một sự thực rằng: Trước kia ông Hồ Chí Minh và những đồng chí của ông ấy đã từng học Marx, theo Marx, đã từng trở thành những người CS biến thái sau khi chủ nghĩa Marx thất bại, đã từng sống theo “ba ác”, đã từng là Mafia. Ngày nay CSVN lôi kéo toàn bộ xã hội Việt Nam đi vào con đường có đầy đủ cái “đã từng” kia. Cùng là con người, tại sao tháng 4, 1865 là thiên đàng, tháng 4,1975 lại là hỏa ngục? Thưa rằng tại vì tháng 4, 1865 người Mỹ đối xử với nhau bằng văn hóa con người so với tháng 4, 1975 CSVN “đãi ngộ” quân dân miền Nam Việt Nam bằng “văn hóa” ba ác, “văn hóa” Mafia. Điều nguy hại hơn nữa là từ sau tháng 4, 1975 cho đến nay, CSVN không ngừng thủ tiêu văn hóa Việt Nam, thay vào đó là “văn hóa” Mafia. Văn hóa là quốc hồn. Văn hóa đi vắng. Quốc hồn bay xa. Lòng yêu nước của người dân mờ phai. Hiện nay, đa số người dân Việt gần như không nghĩ đến nghĩa vụ bảo vệ non sông. Trong khi đó, tin tức thời sự cho biết dân Tàu đang ồ ạt kéo vào lãnh thổ Ai Lao với lý do kinh doanh, thực tế là lục tìm lương thực. Trong khi đó tin từ Việt Nam cho biết nương vào sự việc từ lâu, CSVN đã cho phép Tàu vào Việt Nam như đi chợ không cần giấy tờ nhập cảnh, nương vào lý do “bảo vệ ngọn đuốc Olympic” nhiều đạo quân Tàu mặc thường phục đang tràn ngập Việt Nam từ Bắc vào Nam. Phải chăng đây là một cuộc đại xâm lăng không bằng súng đạn mà bằng chiến thuật lấy thịt đè người? Đây là dấu hỏi gây nhức nhối tim óc dành cho người Việt Nam trong cũng như ngoài nước vào dịp 30/04/2008 vậy. Phan Quang Tuệ – Đỗ Thái Nhiên
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 22, 2012 9:37:44 GMT 9
Khoảng cách chạy tội – Sự thật phũ phàng về Hiệp Định Paris 1973Ngày 27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định Paris 1973, một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những hậu quả của nó áp đặt trên mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày nay. Thay vì đưa đến “hòa bình trong danh dự”, hiệp định này mở đường cho CSVN xâm chiếm trọn vẹn miền Nam Việt Nam trong vòng hơn hai năm sau.Những tài liệu về chiến tranh Việt Nam được bạch hóa trong thời gian gần đây cho thấy những sự thật phũ phàng đã đưa đến Hiệp Định Paris 1973. Tóm tắt diễn tiến Hiệp Định Paris 1973Hiệp Định Paris 1973 được thỏa hiệp tại Bắc Kinh, chứ không phải tại Paris. Từ trái: Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, Thủ Tướng Chu Ân Lai, và Chủ Tịch Mao Trạch Đông, Bắc Kinh, 1972. Cuộc hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và tiếp tục tiếp diễn dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến bộ nào cả cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những phiên họp bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái Đoàn Thương Thuyết của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và trong cuộc tiếp súc bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố chi tiết về những điều hai Ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa đàm trở nên bế tắc.Một mặt Ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục trong 12 ngày vào cuối năm 1972.Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH chấp nhận điều kiện ngưng chiến. Ngày 23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ.Bốn ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này. Trong khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ. Khoảng cách chạy tội Việc mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng không phải là điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris. Thật vậy, chánh quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có nghĩa là hi vọng thắng cử nhiệm kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo. Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27-1-1973. Vì muốn bảo vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông Nixon đã làm đủ mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay CSVN trong nhiệm kỳ I (1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản. Trên một tài liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông Kissinger ghi chú rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có sự cam kết của Hoa Kỳ. Ông Kissinger viết nguyên văn như sau: “We need a decent interval. You have our assurance.” Theo những tài liệu do các phụ tá của Ông Kissinger ghi chép lại những lời đối thoại của ông với Thủ Tướng Chu Ân Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa Kỳ sẽ ấn định thời hạn chót cho việc rút quân và trong thời gian rút quân sẽ có ngưng bắn trong khoảng 18 tháng và đàm phán. Nếu thỏa hiệp thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải quyết. Nếu chính phủ miền Nam Việt Nam không được quần chúng ưa chuộng, lực lượng của Hoa Kỳ càng rút nhanh, chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ không can thiệp. Ông Lê Đức Thọ và Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm Paris. Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau: “We will set a deadline for withdrawals, and during withdrawals there should be a cease-fire, and some attempt at negotiations. If the agreement breaks down then it is quite possible that the people in Vietnam will fight it out. If the [South Vietnamese] government is as unpopular as you seem to think, then the quicker our forces are withdrawn the quicker it will be overthrown. And if it is overthrown after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time limit, say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security Advisor Henry Kissinger, Beijing, July 9, 1971. Hoa Kỳ cũng không muốn miền Nam Việt Nam mất nhanh chóng trong vòng sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không bị mang tiếng thua trận.Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả.VNCH cần phải tự lực chiến đấu trong một thời gian đủ dài để chịu trách nhiệm về cuộc bại trận cuối cùng.Sau đây là phần phát biểu thâu băng của Ông Nixon về vấn đề này: “The country would care if South Vietnam became Communist in a matter of six months. They will not give a d**n if it’s two years.” President Richard M. Nixon, March 17, 1973. Ông Kissinger trước đó cũng có quan điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo chạy mà không bị bẽ mặt: “We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two, after which–after a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater. If we settle it, say, this October, by January ’74 no one will give a d**n.” National Security Adviser Henry A. Kissinger, August 1972. Cả hai ông Nixon và Kissinger đều đồng ý rằng VNCHcó thể sẽ mất sau cuộcbầu cử tại Hoa Kỳ vào tháng 11, 1974.Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời điểm này tốt hơn là mùa xuân 1976. Nhà Sử Học Ken Hughes thuộc University of Virginia nhận xét rằng: “Nhiều người có tư tưởng phóng khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết muốn ngăn chặn Cộng Sản thắng ở Việt Nam.NhưngÔng ta chỉ cương quyết ngăn chặn Đảng Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.” Sử Gia Ken Hughes, June 2010. Vào tháng 2, 1972, Ông Nixon viếng thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với Trung Quốc, khởi sự thảo luận với Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai về chính sách một nước Trung Hoa, và đạt được sự bảo đảm của Bắc Kinh về giải pháp hòa bình trong danh dự đối với Việt Nam với một khoảng cách chạy tội (decent interval). Kéo dài chương trình Rút Quân và Việt Nam Hóa chiến tranh Những tài liệu mới giải mật cũng cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng: Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sẽ không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả năng để tự bảo vệ. Những điều kiện “hòa bình” mà Ông Kissinger đã thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam sụp đổ sau một thời gian một hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội). Để che đậy sự thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông Nixon với sự khuyến cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến năm thứ tư (1972) của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự sụp đổ của VNCH trước ngày bầu cử nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon kéo dài chương trình rút quân qua nhiều năm. Trong cuốn băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói: “We’ve got dates in mind. We’ve got dates everywhere [from] July to August to September [to] October [to] November to December [to] January of 1973.” President Richard Nixon, September 4, 1971. Quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm 1968 và đến đầu năm 1973 mới chấm dứt, tức là sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972. Đối với công chúng, Ông Nixon phải rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục tiêu: Chứng tỏ chương trình Việt Nam hóa thành công. Giữ lời hứa khi tranh cử. Đối với sự nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh cử để hoạch định chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà Nội hay không (Theo Ông Nixon sắc xuất chỉ có 40% – 55 %) và bất kể VNCH có đứng vững sau khi quân Hoa Kỳ rút về nước hay không. Hãy nghe cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger vào ngày 11-3-1971: Nixon: “We’ve got to get the hell out of there.” Kissinger: “No Question.” Tuy nhiên trước công chúng Hoa Kỳ, Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình trong danh dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào chương trình Việt Nam hóa hoặc cuộc thương thuyết thành công – khi miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ và tự quản trị. Hoa Kỳ thất hứa không can thiệp trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép 150,000 quân CSBV ở lại miền Nam sẽ khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới được bạch hóa, trong buổi họp với Tướng Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, tại Saigon vào ngày 4-10-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng theo đề nghị của Hoa Kỳ, chính phủ VNCH tiếp tục tồn tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp đau lòng và sớm muộn chính phủ này sẽ sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự sát. Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau: “In the proposal you have suggested, our Government will continue to exist. But it is only an agonizing solution, and sooner or later the Government will crumble and Nguyen Van Thieu will have to commit suicide somewhere along the line.” President Nguyen Van Thieu, Saigon, October 4, 1972. Ông Thiệu cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc hòa đàm ở Paris ngưng lại. Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CSBV tấn công. Đồng thời Ông Nixon đe dọa sẽ cắt viện trợ để buộc Ông Thiệu phải chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ. Một tài liệu mới được bạch hóa cho thấy rằng Ông Nixon đe dọa đến cả tính mạng của Ông Thiệu: “I don’t know whether the threat goes too far or not, but I’d do any d**n thing, that is, or to cut off his head if necessary.” President Richard Nixon, January 20, 1973. Hiệp Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút được quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm dứt việc can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng đã không mang lại hòa bình cho Việt Nam. Thật vậy, khoảng một năm sau, vào tháng 1, 1974, Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris không còn giá trị sau khi Cộng quân lợi dụng cuộc ngưng chiến trong năm 1973, tiến hành những trận đánh nhỏ để chiếm những vùng xa xôi hẻo lãnh. Trong khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975. Tình trạng miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối năm 1974 khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật 1974 Foreign Assistance Act, chấm dứt tất cả những viện trợ quân sự. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không thể thể dùng không lực để trợ giúp miền Nam Việt Nam khi CSBV vi phạm Hiệp Định Paris. Sau khi Đạo Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh và chiếm tỉnh Phước Long vào đầu năm 1975 và bẩy ngày sau tỉnh Bình Long thất thủ. Khi không thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà Nội ra lệnh tổng tấn công để giải phóng miền Nam bằng cách xua quân ngang nhiên vượt qua biên giới Bắc Nam, tấn công toàn diện Vùng I và II Chiến Thuật vào tháng 3, 1975 và cuối cùng chiếm Saigon vào 30-4-1975 đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger dự đoán. Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào ngày 14-1-1975 rằng Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy ngày sau, Tổng Thống Gerald Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, tuyên bố rằng Hoa Kỳ không sẵn sàng tái tham chiến tại Việt Nam. Kết luận Hoa Kỳ dưới thời Nixon đã bỏ rơi đông minh của mình là một điều đáng hổ thẹn đối với một quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng may thay, những sử gia và những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh phui ra sự thật và lên ánnặng nề những lỗi lầm đó. Về phía người Việt, hơn ai hết, chúng ta cũng có trách nhiệm về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và đưa phần đất này vào tay Cộng Sản. Một bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng minh. Gần đây, có vài nhóm người Việt tại hải ngoại chủ trương vận động quốc tế để phục hồi lại Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt mới đây nhất là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH (UBLĐLTVNCH), một hình thức chính phủ lưu vong nhưng không dùng danh xưng tổng thống hay thủ tướng, của Ông Nguyễn Ngọc Bích (75 tuổi). Các tổ chức này tin rằng nếu vận động quốc quốc tế làm sống lại Hiệp Định Paris 1973 (nhưng không nói gì đến Hiệp Định Geneva 1954 mà chính VNCH đã xé bỏ), Hà Nội sẽ phải trả lại miền Nam Việt Nam cho VNCH. Giả sử rằng UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không có một cơ may nào cả, Ông Nguyễn Ngọc Bích sẽ không thâu tóm phần đất dưới vĩ tuyến thứ 17 cho chính phủ của ông ngay được. Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay. Để đỡ tốn giấy mực, tóm tắt lại, ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris 1973 khốn nạn này do chính họ dựng lên. © Nguyễn Quốc Khải © Đàn Chim Việt ————————————————– Tài liệu tham khảo: 1- Larry Berman, “No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam,” The Free Press, 2001. 2- Finding Dulcinea, “On this Day: Paris Peace Accords Signed, Ending American Involvement in Vietnam War,” January 27, 2012.’ 3- Trọng Đạt, “Nixon và Hòa Bình Trong Danh Dự,” 27-01-2012. 4- Kennedy Hickman, “Vietnam War end of conflict, 1973-1975,” Military History. 5- Ken Hughes, “Fatal Politics: Nixon’s Political Timetable For Withdrawing From Vietnam,” Diplomatic History, Vol. 34, No. 3, June 2010. 6- Stanley Karnow, “Vietnam A History,” Penguin Books, 1997. 7- Jeffrey Kimball, “Decent Interval or Not? The Paris Agreement and the End of the Vietnam War,”December 2003. 8- Henry Kissinger, “Years of Renewal,” Simon & Schuster, 1999. 9- Richard Nixon, “No More Vietnam,” Arbor House, New York 1985. 10. Frank Snepp, “Decent Interval,” Random House, 1977. 11. Global Security, “A Decent Interval – Who Lost Vietnam?” May 7, 2011. 12. Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, “Hiệp Định Paris 1973.”
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 5:15:30 GMT 9
Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3 & Quân Khu 3 SQ: 52/120.091Sinh tháng 10-1932 tại Gia Định 1951: SVSQ Khóa 5 Hoàng Diệu Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt 1952: Tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy. 1955: Ngày 1-1, Thiếu Tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 31 Bộ Binh tân lập ( Sư Đoàn 7 Bộ Binh) - Ngày 30 tháng 5 Trưởng Phòng Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu 1960: Chỉ Huy Phó Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Theo học lớp Tham Mưu và Chỉ Huy tại Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ1963: Xử Lý Thường Vụ Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. 1966: Tháng 2, thăng Đại Tá nhiệm chức. Tham Mưu Trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. 1968: Ngày 16-3, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh - Ngày 19-6 vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức 1969: Vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ 1970: Vinh thăng Thiếu Tướng Nhiệm Chức 1972: Tư Lệnh Quân Đoàn 4 và Quân Khu 4 1974: Vinh thăng Trung Tướng nhiệm chức 1-11 Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh Long Thành 1975: 4-4 Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3 kiêm Tư Lệnh BTL Tiền Phương Quân Đoàn 3 Chiến Trường Phan Rang. - 16-4 Lúc 9:00 giờ tối bị bắt và chuyển về Khánh Hòa. -19-4 chuyển về Đà Nẳng. - 22-4 Chuyển về trại giam Hỏa Lò Sơn Tây 1988: được thả về ngày 11-2-1988 * Lược ghi tình hình Phan Rang những ngày đầu tháng 4/1975 Sau khi lực lượng VNCH triệt thoái khỏi Quân khu 1 vào ngày 29/3/1975, tình hình chiến sự tại các tỉnh duyên hải phía Nam Trung phần ngày càng nguy kịch. Trước áp lực của CQ, trong các ngày 30, 31/3, 1/4 và 2/4, các đơn vị VNCH thuộc Quân đoàn 2/Quân khu 2 đã lần lượt rút khỏi các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Để ngăn chận mức tiến quân của CSBV, và để cứu vãn tình hình, nhất là tại hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, hai thành lũy cuối cùng của Quân khu 2, bộ Tổng Tham mưu QL.VNCH đã ủy nhiệm cho Quân đoàn 3 đảm trách hai tỉnh này. Trong hai ngày 6 và 7 tháng 4, phòng tuyến Phan Rang được tăng cường lực lượng với nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xã Phan Rang. Trước đó, vào ngày 4/4, bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập tại căn cứ Không quân Phan Rang với trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, đương kim chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, trực tiếp chỉ huy các đơn vị tại mặt trận Ninh Thuận-Bình Thuận. Trung tướng Nghi từng là tư lệnh Quân đoàn 4/Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến tháng 10/1974, trước đó ông là tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh (từ tháng 6/1968 đến tháng 5/1972). Với hệ thống chỉ huy mới, lực lượng mới đến tăng cường, được sự yểm trợ hữu hiệu của Không quân, tình hình an ninh, trật tự tại Ninh Thuận-Bình Thuận được vãn hồi nhanh chóng. Trong tuần lễ đầu, chỉ có vài trận đụng độ nhỏ không đáng kể, chỉ có áp lực của sư đoàn 7 CSBV ở cạnh sườn Phan Thiết. Trong khi đó, tại Quân khu 3, áp lực của CQ đã gia tăng tại mặt trận Biên Hòa-Long Khánh. Trước tình hình đó, trung tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân đoàn 3, quyết định rút Lữ đoàn 2 Nhảy Dù từ Phan Rang về để củng cố lực lượng trừ bị phản ứng cấp thời. Thay thế cho Lữ đoàn 2 Dù và tăng cường lực lượng phòng thủ Bình Thuận là thành phần còn lại của Sư đoàn 2 Bộ Binh (BB) được tái chính trang sau khi rút khỏi Quân khu 1 vào hai tuần trước đó, một liên đoàn Biệt động quân cũng vừa được củng cố cách đó ba ngày và một chi đoàn M 113 thuộc Quân đoàn 2 mới được tái thành lập. Theo tài liệu của đại tướng Cao Văn Viên thì lực lượng Sư đoàn 2 BB được tái thành lập với 2 trung đoàn BB, 1 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 1 pháo đội 155 ly và chi đội M 113. Việc chuyển quân ra thay thế vừa sắp hoàn tất thì chiến trận bùng nổ. Ngày 14 tháng 4/1975, sư đoàn F-10 CQ được tăng cường bởi các đơn vị của Sư đoàn 3 CSBV tấn công vào cụm vị trí của Thiết giáp và Pháo binh. Trước tình thế nguy kịch, trung tướng Nghi yêu cầu giữ lại một tiểu đoàn Nhảy Dù đang chuẩn bị rút về để đối phó. Sau đây là tình hình chiến sự tại mặt trận Phan Rang trong hai ngày 15 và 16/4/1975. Phần này được biên soạn dựa theo hồi ký của cựu trung tướng Trần Văn Đôn, nguyên Tổng trưởng Quốc phòng VNCH, bài nhận định của cựu đại tướng Cao Văn Viên viết cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, cuốn Đời Chiến Binh của cựu thiếu tá Nhảy Dù Trương Dưỡng, và tài liệu riêng của VB. * Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn thị sát mặt trận Phan Rang Ngày 15/4/1975, cựu trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng của tân nội các Nguyễn Bá Cẩn, đã bay ra Phan Rang để thị sát chiến trường. Sau khi nghe trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, trình bày tình hình và những đề nghị cấp thiết, Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn hứa là sẽ tìm mọi cách để cung cấp các loại vũ khí chiến lược như hỏa đạn CBU cho lực lượng bảo vệ phòng tuyến Phan Rang. Sau khi về đến Sài Gòn, cựu trung tướng Trần Văn Đôn cho mời thiếu tướng Smith, tùy viên Quân sự tòa đại sứ Mỹ đến gặp ông tại văn phòng Tổng trưởng Quốc phòng VNCH ở đường Gia Long. Trong cuộc gặp này, cựu trung tướng Trần Văn Đôn đã yêu cầu thiếu tướng Smith cung cấp cho bộ Quốc phòng VNCH những loại vũ khí mà Quân lực VNCH đang cần đến, trong đó có hỏa đạn CBU, ống dòm và máy truyền tin cho các đơn vị chiến đấu. Trước yêu cầu của VNCH, thiếu tướng Smith cho biết hiện trong kho vũ khí của Hoa Kỳ không còn những loại này. Tướng Smih hứa sẽ hỏi lại bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, vì vào thời gian này vũ khí và đạn dược đều nằm ở những tổng kho ngoài lãnh thổ Việt Nam. Rời bộ Quốc phòng, Thiếu tướng Simth ghé qua văn phòng của Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, ông báo cho đại tướng Viên biết qua về nội dung cuộc gặp gỡ của ông với tổng trưởng Quốc phòng VNCH. Thiếu tướng Smith nói với đại tướng Viên: “Tôi được ông tổng trưởng Quốc phòng mời đến, tưởng ông bàn chuyện di tản gia đình của ông, không ngờ tướng Đôn bàn chuyện tiếp vận cho các đơn vị ngoài tiền tuyến. Lần đầu tiên, một vị tổng trưởng Quốc phòng bàn với tôi vấn đề đó từ mấy tháng nay”. Cũng cần ghi nhận rằng trước ngày 14/4/1975, chức vụ tổng trưởng Quốc phòng VNCH do đại tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng chính phủ, kiêm nhiệm. Theo nhận xét của thiếu tướng Smith, Thủ tướng Khiêm ít có thời gian để lo công việc quốc phòng, và hầu như ông cũng không có thực quyền, mọi việc liên quan đến quốc phòng đều do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định. Khi cựu trung tướng Trần Văn Đôn được tân Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn mời làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, ông yêu cầu Tổng thống Thiệu giao cho ông được trọn quyền về quốc phòng. Là cấp chỉ huy cũ của Tổng thống Thiệu nên tướng Đôn gặp nhiều sự dễ dàng khi đưa ra những đề nghị liên quan đến vấn đề quốc phòng và tiếng nói của ông có “trọng lượng”. Trở lại với việc tìm nguồn vũ khí tăng viện cho các đơn vị, sau khi gặp tướng Smith, cựu trung tướng Đôn cũng đã gặp trung tướng Trần Văn Minh, tư lệnh Không quân để bàn về phương cách làm sao có CBU để giúp cho các đơn vị chiến đấu. * Trận chiến cuối cùng tại phòng tuyến Phan Rang Trong khi bộ Quốc phòng VNCH đang tìm cách để cung cấp các vũ khí tối cần thiết cho các đơn vị tại chiến trường thì tại mặt trận Phan Rang, trong 2 ngày 15 và 16/4/1975, Cộng quân đã tung 2 sư đoàn tấn công vào căn cứ Không quân Phan Rang và trung tâm thị xã. Phòng thủ vòng đai căn cứ Không quân là tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và 1 tiểu đoàn Địa phương quân. Tiểu đoàn Nhảy Dù này thuộc Lữ đoàn 2 Dù chuẩn bị về Sài Gòn theo kế hoạch chuyển quân của Bộ Tổng Tham Mưu nhưng do tình hình chiến sự rất nguy ngập, nên trung tướng Nghi đã xin giữ lại đơn vị này. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 2 Dù cũng còn ở lại Phan Rang khi Cộng quân tấn công vào thị xã tỉnh lỵ. Tại trung tâm thị xã, lực lượng phòng thủ là một trung đoàn của Sư đoàn 2 Bộ binh và một tiểu đoàn Địa phương quân thuộc tiểu khu Ninh Thuận. Hệ thống bảo vệ từ xa của phòng tuyến Phan Rang do một liên đoàn Biệt động quân, 1 tiểu đoàn Pháo binh, 1 chi đoàn M 113 phụ trách, đã bị Cộng quân tấn công từ ngày 14 tháng 4/1975. Để dọn đường cho bộ binh tấn công vào căn cứ Không quân Phan Rang và trung tâm thị xã, Cộng quân đã pháo liên tục vào các vị trí phòng ngự vòng quanh căn cứ Không quân, đồng thời bắn phá dồn dập vào khu vực phi cơ đậu và phi đạo để không cho phi cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không quân cất cánh. Cùng lúc đó, Cộng quân tấn công mạnh vào thị xã bằng ba hướng. Lúc bấy giờ đại đa số cư dân Phan Rang đã di tản vào Nam, thị xã chỉ còn lại quân nhân, cảnh sát và một số công chức. Lực lượng phòng thủ thị xã chống trả quyết liệt, nhưng do Cộng quân quá đông nên lần lượt các tuyến phòng thủ trung tâm đều bị chiếm. Cùng lúc đó, Cộng quân tung một trung đoàn cắt đứt đường giao thông trên Quốc lộ 1 ở khu vực Cà Ná cách thị xã Phan Rang khoảng 48 km về hướng Tây Nam cốt để chặn đường rút quân của các đơn vị VNCH. * Phan Rang thất thủ, trung tướng Nghi và chuẩn tướng Sang bị bắt Không còn lực lượng trừ bị để tăng viện cho các tuyến phòng thủ, trong khi đó căn cứ Không quân bị tấn công dữ dội, nên sáng ngày 16 tháng 4/1975, trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 kiêm tư lệnh mặt trận Phan Rang họp khẩn cấp với chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang-tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, sư đoàn đang phụ trách căn cứ Không quân Phan Rang, và chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, để bàn kế hoạch rút quân. Theo lời của chuẩn tướng Nhựt thì giải pháp mà các vị tướng chọn lựa là phân tán và rút theo cá nhân. Tình hình tại bộ Tư lệnh của tướng Nghi vào lúc đó rất nguy kịch, do hệ thống truyền tin bị trúng đạn pháo kích của Cộng quân, nên bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 ở Phan Rang đã không còn liên lạc được với bộ Tư lệnh chính của Quân đoàn 3/Quân khu 3 đóng tại Biên Hòa, cũng như bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn. Đến trưa ngày 16/4/1975, thị xã Phan Rang bị Cộng quân chiếm. Tại bộ Tư lệnh mặt trận Phan Rang đặt trong căn cứ Không quân, Cộng quân xua quân tiến sát đến vòng đai phi trường, trung tướng Nghi và tướng Sang cho lệnh các sĩ quan và đơn vị trú phòng tùy nghi phân tán. Riêng chuẩn tướng Nhựt được trực thăng (dành riêng cho tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh) đáp xuống ngoài hàng rào phi trường Phan Rang bốc đưa ra biển. Trực thăng chở tướng Nhật gặp tàu Hải quân HQ 3. Tướng Trần Văn Nhựt kể lại rằng từ trực thăng ông nhảy xuống biển và được chiến hạm HQ 3 vớt lên. Từ HQ 3, tướng Nhựt dùng máy truyền tin của Hải quân báo cáo về Sài Gòn là Phan Rang đã thất thủ. Trở lại với tình hình tại căn cứ Không quân Phan Rang, sau hàng loạt pháo kích bắn phá căn cứ phi trường, doanh trại và hệ thống công sự phòng thủ trong căn cứ, Cộng quân điều động bộ binh và thiết giáp đánh thẳng vào căn cứ. Trong tình hình nguy kịch, bộ chỉ huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã mở đường máu ra khỏi phi trường và “bắt tay” tiểu đoàn 11 Nhảy Dù ở ngoài. Sau đó, đại tá Nguyễn Thu Lương, lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù, đã liên lạc được với phi cơ quan sát, sĩ quan liên lạc của Sư đoàn Nhảy Dù trên phi cơ yêu cầu đại tá Lương tìm bãi đáp để 25 trực thăng sẽ hạ cánh bốc quân đi. Vị lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2 Nhảy Dù trình với trung tướng Nghi đưa bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn và Sư đoàn 6 Không quân di chuyển đến bãi trống phía trái phi trường để lên chuyến trực thăng đầu, còn toàn bộ anh em Nhảy Dù sẽ di chuyển bộ đi về hướng núi Cà Núi để gặp một số đại đội Nhảy Dù bố phòng tại đây. Trung tướng Nghi đã từ chối kế hoạch bảo vệ sự an toàn cho ông và các sĩ quan tham mưu của bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, ông nói với đại tá Lương: “Báo cho đoàn trực thăng trở về túc trực, sáng mai sẽ tính. Bây giờ chúng ta tiếp tục di chuyển về Cá Ná lập phòng tuyến chận địch tại đó.” Nghe tướng Nghi nói như vậy, đại tá Lương đành cho lệnh bố trí chờ đêm tối băng đường ra khỏi vòng vây của Cộng quân. Theo lời kể của một số nhân chứng thuật lại với cựu thiếu tá Trương Dưỡng, tác giả cuốn Đời Chiến Binh, thì trong lúc nguy kịch, có một chiếc C 47 được trang bị máy móc để hình thành bộ chỉ huy trên không. Trung tướng Nghi bảo chuẩn tướng Sang cùng sĩ quan Tham mưu bay lên trời để điều hợp chỉ huy, tướng Sang trả lời: “Trung tướng là tướng 3 sao mà ở dưới đất, tại sao tôi có 1 sao lại ở trên trời" Tôi phải ở dưới cùng chịu chung nguy hiểm với trung tướng.” Cuối cùng trung tướng Nghi và chuẩn tướng Sang và một số sĩ quan bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 bị CQ bắt trong giờ cuối của trận chiến. Bài Viết của Thiếu Tướng Việt Cộng sưu tầm trên NET Người thành cổ Quảng trị Thiếu tướng Lê Phi Long Sau khi phần lớn Tây Nguyên được giải phóng, ngày 25-3-1975, một cơ quan chiến dịch gọn nhẹ gồm cán bộ của ba tổng cục vừa được hình thành bắt đầu hành quân từ Hà Nội vào chiến trường bằng cả hai phương tiện máy bay và ô tô. Tôi cũng từ ở Bộ tổng Tham mưu với đồng chí Lê Trọng Tấn may mắn được tham gia cuộc hành quân cấp tốc này với cương vị là Trưởng phòng tác chiến mặt trận. Ngày 4-4-1975, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 74 do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương ký, nói rõ: “Giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Trọng Tấn và đồng chí Lê Quang Hòa chỉ huy Quân đoàn 2 (trừ Sư đoàn 324 ở lại bảo vệ Huế, Đà Nẵng) và Sư đoàn 3 của Quân khu 5 cùng các đơn vị binh khí kỹ thuật do Bộ tổng Tham mưu điều động hành quân cấp tốc theo đường ven biển về đông nam Sài Gòn để cùng các lực lượng tại chỗ hoàn thành nhiệm vụ ở chiến trường trọng điểm”. Với tinh thần đó, cánh quân này được gọi là cánh quân Duyên Hải có nhiệm vụ cơ động và tác chiến dọc theo vùng duyên hải miền Trung giải phóng các tỉnh ven biển trước khi tiến vào khu vực tập kết tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sáng ngày 7 tháng 4 năm 1975, sau 2 ngày chuẩn bị, cánh quân Duyên Hải xuất phát từ Đà Nẵng bắt đầu cuộc hành quân thần tốc tiến về phía Nam và ngày 14 tháng 4 năm 1975 đánh Phan Rang, tiến công tuyến phòng thủ từ xa của quân đội Sài Gòn. Lực lượng địch ở Phan Rang gồm lữ đoàn 2 dù, sư đoàn 2 bộ binh mới phục hồi, liên đoàn 31 biệt động quân, sư đoàn 6 không quân ở Thành Sơn có hơn 100 máy bay các loại, cùng các đơn vị địa phương quân của Tiểu khu Ninh Thuận, quân số tổng cộng khoảng hơn một vạn tên do Bộ tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 chỉ huy, đứng đầu là trung tướng 3 sao Nguyễn Vĩnh Nghi. 5 giờ sáng ngày 14 tháng 4 năm 1975, quân ta bắt đầu tấn công Phan Rang, đến khoảng 10 giờ ngày 16 tháng 4 thì hoàn toàn làm chủ thị xã Phan Rang và sân bay Thành Sơn, bắt sống trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, cố vấn Mỹ Javel Lewis cùng nhiều sĩ quan khác của quân ngụy Sài Gòn. Nhận được báo cáo về việc quân ta đã bắt sống được tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, đồng chí Lê Trọng Tấn rất mừng. Là tướng vừa ở Tổng hành dinh ra trận, vốn có tầm nhìn chiến lược, Trung tướng liền gọi tôi tới giao nhiệm vụ đi hỏi cung ngay hai viên tướng ngụy vừa bắt được. Trước khi đi, Tư lệnh bảo tôi: “Đối với tù binh cấp tướng như Nghi và Sang, đồng chí chỉ cần tìm hiểu hai vấn đề: Một là, có khả năng Tổng thống Thiệu bị lật đổ không, và Thiệu đổ thì ai sẽ thay thế? Hai là, nếu quân ta đánh vào Sài Gòn thì liệu Mỹ có can thiệp không?”. Rồi ông vui vẻ nói đùa: “Cậu có mái đầu bạc xem ra có vẻ lão tướng. Làm việc này thuận lợi đấy”. Sau khi nhận được lệnh đó, tôi liền liên lạc điện thoại ngay với đơn vị đang giam giữ Nghi, Sang và tên cố vấn Mỹ. Đơn vị cho tôi biết là ba người đang ở trước mặt và họ đòi được đối xử tử tế. Tôi ra lệnh dẫn họ về một ngôi nhà tại Suối Dầu, cạnh quốc lộ 1, giao lại cho đơn vị cảnh vệ của mặt trận để tôi trực tiếp xuống hỏi cung. Lúc vệ binh dẫn họ về sau khi trời đã tối, giữa đường xe bị hỏng máy. Trên xe, ngoài hai viên tướng ngụy còn có một người Mỹ trạc 30 tuổi, từ đầu chí cuối ngồi im lặng, làm như không biết tiếng Việt nên quân ta hỏi gì cũng không trả lời. Nhưng khi màn đêm đã buông xuống, anh ta sợ quân du kích từ trong rừng ra sẽ xử anh ta, nên anh ta vội lân la đến cạnh đồng chí lái xe và nói một câu rất đúng tiếng Việt: “Tôi có thể phụ giúp các ông việc gì nào?”. Với tay nghề thành thạo, sau mười phút sửa chữa, anh ta đã làm cho chiếc xe nổ máy và đoàn người lại lên đường. Khi ba tù binh đã về tới trại giam tạm thời tại khu vực Suối Dầu, nam Diên Khánh, tôi chỉ thị cho đơn vị cảnh vệ ở đấy tổ chức canh gác cẩn thận, cho tù binh ăn uống, tắm giặt tử tế, chờ sáng ngày mai sẽ hỏi cung. Tám giờ sáng 17 tháng 4, cuộc hỏi cung bắt đầu. Giúp việc tôi có đồng chí Mẫn, cán bộ Cục Quân báo và đồng chí Hà Thúc Đại, cán bộ Cục Địch vận. Hai đồng chí này phụ trách ghi cung và giúp tôi về mặt nghiệp vụ. Trước khi vào cuộc, tôi hỏi thăm đêm qua họ có ngủ được không, ăn uống thế nào, có điều gì phàn nàn không? Hai tù binh tỏ lời cảm ơn và không có điều gì đề đạt. Tách riêng từng người, tôi hỏi Nguyễn Vĩnh Nghi trước. Nguyễn Vĩnh Nghi sinh năm 1927, đã có vợ và hai con, đậu tú tài, sau đó học sĩ quan. Đã qua các cấp từ úy đến tá, leo lên đến cấp trung tướng, gần đây nhất giữ chức Tư lệnh vùng 4 (đồng bằng sông Cửu Long). Do không ăn cánh với Thiệu và phạm tội tham nhũng, bị Thiệu điều về làm Giám đốc trường Bộ binh Long Thành, sau đó về làm phó cho Tư lệnh vùng 3, trung tướng Nguyễn Văn Toàn. Sau một vài câu hỏi có tính chất thủ tục ban đầu và trấn an tư tưởng bằng cách nhắc lại một số điểm trong chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng, tôi đi ngay vào vấn đề. Tôi cũng không quên nói rõ tình hình chiến sự gần đây và hình thái quân sự của đôi bên để Nghi nhận rõ thêm tình hình tuyệt vọng của phía Sài Gòn. Tôi nói: - Ông Nghi! Ông thấy đấy, chúng tôi đang lợi thế, sớm muộn thế nào cũng sẽ tấn công vào Sài Gòn. Khi chúng tôi vào Sài Gòn, liệu Mỹ có nhảy vào không và nhảy bằng cách nào? - Xin lỗi ông-Vĩnh Nghi đáp-Đây là một vấn đề thuộc lĩnh vực chiến lược, một vấn đề thuộc cấp trên. - Nhưng ông là tướng lẽ nào ông không có tầm nhìn và không có ý kiến của riêng mình? - Nếu ông muốn hỏi ý kiến cá nhân thì tôi cũng có thể trả lời. Tôi thấy người Mỹ hứa nhiều, nhưng chẳng làm bao nhiêu. Nói một cách khác, Mỹ ít giữ lời hứa với bạn bè mỗi lúc đụng chạm tới quyền lợi của họ. Vả lại, nước Mỹ cũng đang bê bối lắm. Làm bạn với Mỹ thật khó. - Cảm ơn ông đã nói thật suy nghĩ của mình. Thế về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chúng tôi được biết gần đây ông Thiệu không còn được tín nhiệm trong hàng ngũ tướng lĩnh. Trước tình hình nghiêm trọng như hiện nay mà ông Thiệu là người chịu trách nhiệm chính, ông có nghĩ đến việc ông Thiệu từ chức hoặc bị đánh đổ không? Nếu trường hợp đó xảy ra, theo ông thì ai là người có khả năng lên thay thế ông Thiệu? - Tôi nghĩ rằng tình hình đã đến mức nghiêm trọng mà tướng lĩnh chúng tôi thì mỗi người có cách suy nghĩ riêng, có chỗ dựa riêng, khó đồng tâm nhất trí. Hiện nay chỉ có ông Thiệu là người duy nhất đoàn kết được các tướng lĩnh và quốc dân đồng bào. Nếu ông Thiệu cũng bó tay thì coi như mọi việc đã kết thúc. Nói xong Vĩnh Nghi nhìn sang một phía khác, cặp mắt lơ đễnh hình như không muốn nói thêm điều gì. Tôi thấy cần phải đánh vào lòng tự ái của Nghi, khêu gợi sự chống đối của hắn ta đối với những người đã hạ bệ mình. Tôi nói: - Ông Nghi! Ông kể thật khó lý giải tại sao một người như ông, nguyên Tư lệnh vùng 4, một vùng giàu có, có một vị trí chiến lược quan trọng, mà lại phải điều về làm phó cho ông Toàn cũng là Tư lệnh một vùng? Hình như hiểu rõ ý đồ của tôi, Vĩnh Nghi nhẹ cười và nói vắn tắt: - Tôi là một quân nhân. Tôi chỉ biết chấp hành lệnh trên. - Theo ý ông thì tại sao Phan Rang bị thất thủ nhanh như vậy trong lúc các ông đã tuyên bố tử thủ tại Phan Rang? - Đối với người chỉ huy từng trải như ông, điều đó cũng dễ hiểu thôi! Sở dĩ Phan Rang thất thủ nhanh vì ba lẽ: Một là, binh lính mất tinh thần không chịu chiến đấu. Hai là, chúng tôi thiếu tiếp liệu, thiếu vũ khí, đạn dược cần thiết. Ba là, chúng tôi thiếu thời gian. Xin lỗi ông, nếu chậm một tháng nữa các ông mới tới thì tình hình có thể khác. Đánh vào tự ái của Nghi không được, tôi chuyển sang phương pháp khác. Tôi rót nước, đưa thuốc lá mời Nghi nhưng Nghi từ chối hút thuốc, chỉ uống nước. - Chúng ta có thể kết thúc cuộc nói chuyện tại đây. Ông có đề nghị gì không? - Hiện nay tôi là một tù binh, tính mạng nằm trong tay các ông. Yêu cầu các ông tuân theo đúng luật pháp quốc tế về vấn đề tù binh mà Hiệp định Giơ-ne-vơ đã quy định. Nếu các ông làm khác đi thì mình tôi xin chịu cả, xin đừng làm hại gia đình, vợ con tôi. Xin cảm ơn các ông. Tôi được dịp nói rõ thêm để Nghi an lòng: - Ông thấy đấy, chúng tôi đối xử với tù binh rất nhân đạo. Từ khi ông bị bắt đến giờ, chúng tôi đối đãi với ông chắc không có gì đáng để ông phàn nàn. Nhưng tôi cũng khuyên ông một điều: phải nhận rõ mình là người có tội với dân tộc, với nhân dân, phải biết ăn năn, hối lỗi, thành thật khai báo để lập công chuộc tội. Ông có sớm được về với vợ con gia đình là tùy thuộc thái độ của ông. Ông sẽ được về tuyến sau. Đến đây, Vĩnh Nghi hơi chột dạ, hình như muốn nói gì thêm. Tôi không bỏ lỡ dịp tốt: - Tôi còn ít thời gian. Nếu ông muốn chúng tôi sẽ trao đổi thêm về thế cuộc. Không rõ các ông đánh giá thế nào về chúng tôi? - Tôi cũng không có nhiều thông tin. Bộ tổng Tham mưu cũng chẳng mấy thông báo, chỉ biết là các ông có một số lực lượng mới chuyển từ miền Bắc vào, có ý định đánh chiếm Sài Gòn theo hai hướng, đường 1 và đường 22, sử dụng lực lượng có sẵn tại chỗ là chủ yếu. - Ông có thể phân tích đôi điều về trận chiến sắp tới nếu xảy ra không? - Thật là khó nói lúc chưa có đủ các yếu tố. Về các ông thế nào thì tôi chưa được rõ lắm, tôi chỉ nói về phía chúng tôi. Chúng tôi đang ở thế yếu. Cách phòng thủ Sài Gòn hiện nay là phòng thủ từ xa theo hình vòng cung từ Gò Dầu Hạ, Lai Khê, Biên Hòa, Xuân Lộc, lực lượng mỗi hướng có khoảng một sư đoàn. Còn trong nội đô thì không có chủ lực, không tổ chức phòng ngự kiên cố, chỉ có lực lượng cảnh sát, địa phương quân, nhân dân tự vệ… Nếu các ông diệt được lực lượng án ngữ vòng ngoài, khống chế và làm tê liệt sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hoà và chiếm được hai mục tiêu quan trọng là Bộ tổng Tham mưu và trại Hoàng Hoa Thám của quân dù thì các ông sẽ làm chủ Sài Gòn, Sài Gòn sẽ sụp đổ nhanh. Thấy thái độ của Vĩnh Nghi đã có chuyển và đã nói ra được những điều mà cả cơ quan tham mưu chiến lược của ta cũng đang cần biết, tôi bèn tranh thủ “lấn sân” luôn: - Ông có nhận xét gì về tác dụng của các sân bay trong hoàn cảnh hiện nay không? - Hiện nay lực lượng bị căng mỏng, lực lượng trù bị còn ít nên phía chúng tôi chủ yếu dựa vào không quân của bốn sân bay Thành Sơn, Biên Hòa, Tân Sơn Nhất và Cần Thơ. Nay sân bay Thành Sơn đã bị mất, chỉ còn lại ba cái mà quan trọng nhất là sân bay Biên Hòa vì toàn bộ máy bay F.5 và A.37 đều được sửa chữa và bảo trì tại đây, còn sân bay Tân Sơn Nhất và Cần Thơ không có kỹ thuật để bảo trì hai loại phản lực này. Muốn khống chế sân bay, dùng pháo bắn từng đợt cũng tốt, nhưng trong lúc này tôi sợ nhất lối bắn liên tục kéo dài của các ông, cứ 15 - 30 phút bắn một đợt, mỗi đợt vài phát vào hai đầu đường băng. Như vậy thợ máy không dám ra bảo dưỡng và lắp bom, máy bay không dám cất cánh. - Còn kho tàng, nên phá hủy cái nào? Chiếm giữ cái nào? Sau một giây lát suy nghĩ, Vĩnh Nghi trả lời: - Hiện nay kho Cái Bè và kho Cát Lái là quan trọng nhất. Kho Cái Bè chứa xăng dầu, kho Cát Lái chứa đạn dược. Kho Long Bình chứa hàng hóa và một số vật tư, thiết bị máy móc. Còn chiếm cái nào, phá hủy cái nào là tùy các ông. Tôi đặt câu hỏi chủ bài cuối cùng: - Vùng 4, vùng chiến thuật quan trọng, xưa kia nằm dưới quyền của ông có thể là nơi tử thủ cuối cùng của quân đội cộng hòa hay không? - Không, trăm ngàn lần không. Tôi chưa bao giờ nghe nói kế hoạch này và tôi tin là không có, vì vùng 4 không chuẩn bị cơ sở tiếp tế và hậu cần. Trước khi chia tay, tôi nói với Nghi: - Ông sẽ được đối xử tử tế theo đúng chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và sẽ được đưa về tuyến sau. Tôi cũng mong ông tiếp tục suy ngẫm về quá khứ và thời cuộc để có hành động tức thời, có lợi cho dân cho nước, chuộc lại phần nào lỗi lầm đã qua. Vĩnh Nghi không đáp, chỉ cúi đầu chào tôi. Trở về Sở chỉ huy tôi báo cáo lại với đồng chí Lê Trọng Tấn toàn bộ diễn biến cuộc hỏi cung. Sau giây lát trầm ngâm suy nghĩ, đồng chí vui vẻ nói: “Thế là đã rõ. Ngụy quyền dao động, lục đục. Ngụy quân mất sức chiến đấu, khó lòng chống đỡ nổi cuộc tiến công vũ bão của chúng ta. Mỹ cũng đang gặp bê bối không dễ gì quay trở lại can thiệp. Thế là an tâm thực hiện kế hoạch đã định, giải phóng miền Nam. Còn các mục tiêu chiến dịch và cách đánh vào Sài Gòn mà Vĩnh Nghi đã nêu lên, cơ quan tham mưu cần nghiên cứu thêm để bổ sung kế hoạch tác chiến cho đầy đủ”. Các mục tiêu mà Nghi đề cập đến đúng là những mục tiêu hiểm yếu mà trong kế hoạch tác chiến của ta đã xác định, còn cách đánh táo bạo khôn ngoan để giảm bớt thiệt hại cho dân thường, để thành phố khỏi đổ nát thì làm sao mà tướng Nghi hình dung ra được. Bản cung của tướng Nghi theo chỉ thị của đồng chí Lê Trọng Tấn đã được điện gấp về Tổng hành dinh ở Hà Nội để cơ quan đầu não có thêm cơ sở đánh giá tình hình vững tâm thực hiện kế hoạch giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam. Trích Sự Kiện & Nhân Chứng, QĐND Ngày 25 tháng 04 năm 2005 ĐDTB, ngày 18/12/05 Một bài sưu tầm trên net Qua khai thác tù binh và các nguồn tài liệu của địch, ngay từ năm 1973, “chân dung” tướng ngụy Nguyễn Vĩnh Nghi đã được các cán bộ địch vận của ta xác định là một viên tướng khôn khéo, nhiều thủ đoạn và rất được lòng cấp trên
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 5:29:13 GMT 9
Hồi ký chính trị 1963 - 1975 / Đại Tá Phạm Bá Hoa 3 / Biểu Dương Lực Lượng ngày 13 tháng 9 năm 1964 - ba -Biểu Dương Lực Lượngngày 13 tháng 9 năm 1964******* Sự "mâu thuẫn một chiều" từ phía Trung Tướng Nguyễn Khánh đối với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, như cái hố ngày càng rộng và sâu thêm, cơ hồ khó mà hàn gắn lại nếu không nói là không thể hàn gắn được. Hai vị không có những cuộc tiếp xúc trực tiếp nhau nữa, trong khi những hình thức chống đối Trung Tướng Khánh từ các tổ chức chính trị không ngưng nghỉ, càng làm cho Trung Tướng Khánh tức tối thêm và mục tiêu chính mà ông cần triệt hạ vẫn là Đại Tướng Khiêm. Rất có thể những sự kiện chính trị nội tình Việt Nam Cộng Hòa xảy ra trong tháng 07 và 08/1964, chưa đủ để ông thẳng tay với Đại Tướng Khiêm, vì dù sao Đại Tướng Khiêm cũng là người chính yếu đưa ông đến tột đỉnh vinh quang hiện nay. Và rồi Trung Tướng Nguyễn Khánh có cái cớ mà tôi nghĩ là nguyên nhân của Trung Tướng Khánh, để ông xuống tay với người bạn đồng khóa và rất thân của ông. Và nếu nhìn theo góc cạnh tình cảm, Đại Tướng Khiêm cũng là ân nhân của Trung Tướng Khánh nữa. Ngày 13/09/1964, 07 giờ sáng, tôi đưa Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và gia đình gồm vợ và hai con của ông, cùng với Đại Úy Nguyễn Trọng Hồng -sĩ quan tùy viên- lên phi cơ đi Đà Lạt, và dự trù trở về Sài Gòn vào buổi chiều cùng ngày. Đại Úy Hồng thay thế Đại Úy Nguyễn Hữu Có đã thuyên chuyển sang Lữ Đoàn Nhẩy Dù, làm sĩ quan tùy viên cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên. Phi cơ rời phi trường Tân Sơn Nhất, và khi mất hút trong những đám mây lang thang trên không phận Gia Định, tôi lên xe quay về nhà với dự định đưa gia đình dạo phố vì lâu lắm mới có một ngày chủ nhật rảnh rang như hôm nay. Nhưng không. Vì khi về đến nhà là nghe tiếng súng ròn rã ở hướng Bộ Tổng Tư Lệnh, và hướng Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Tôi chạy sang Bộ Tổng Tư Lệnh. Đang mở cửa văn phòng thì gặp ngay Đại Tá Huỳnh Văn Tồn, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh (đồn trú ở Mỹ Tho) cũng vừa đến. Với nụ cười cố hữu trước khi vào chuyện, ông hỏi:
“Đại Tướng đâu rồi anh Hoa?
“Đại Tướng và gia đình đi Đà Lạt, nhưng khoảng 8 giờ mới đến trên đó. Có chuyện gì vậy Đại Tá?
“Chúng tôi "Biểu Dương Lực Lượng" để cảnh cáo ông Khánh. Có cách nào anh liên lạc được với Đại Tướng sớm hơn không?
“Chỉ có cách là nhờ hệ thống Bộ Chỉ Huy Không Chiến của Không Quân thì may ra, nhưng tôi nghĩ là mình không nên để bên đó biết cuộc nói chuyện như vậy, thưa Đại Tá. Với lại khoảng 20 phút nữa thì mình liên lạc được thôi mà”.
Ngay lúc đó điện thoại reo:
“Thiếu Tá Hoa tôi nghe”.
“Trung Tướng Khánh đây. Đại Tướng Khiêm đâu rồi?
“Thưa Trung Tướng, Đại Tướng Khiêm đang trên không trình Sài Gòn-Đà Lạt. Trung Tướng có cần liên lạc ngay bây giờ không, thưa Trung Tướng?
“Khi đến nơi, anh nói Đại Tướng Khiêm điện thoại ngay cho tôi”.
“Vâng. Nhưng điện thoại Trung Tướng ở tư dinh hay ở Phủ Thủ Tướng, thưa Trung Tướng?
“Phủ Thủ Tướng”.
Tôi liền gọi lên Đà Lạt, dặn trên đó trình với Đại Tướng Khiêm liên lạc ngay với Trung Tướng Khánh khi đến nơi. Vừa gác ống nói vừa xoay qua Đại Tá Tồn:
“Trung Tướng Khánh cần nói chuyện với Đại Tướng đó Đại Tá”.
“Ổng ở đâu vậy? “Dạ ở Phủ Thủ Tướng. Vị lãnh đạo hôm nay là ai vậy Đại Tá? “Trung Tướng Đức với tôi”.
Trung Tướng Dương Văn Đức là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật. Bộ Tư Lệnh đồn trú tại Cần Thơ.
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm bị quản thúc.
Vài phút sau, điện thoại reo:
“Thiếu Tá Hoa tôi nghe”. “Hồng đây anh. Anh gọi Đại Tướng có việc gì vậy?
“Sài Gòn đang có biến động do Trung Tướng Đức với Đại Tá Tồn lãnh đạo. Trung Tướng Khánh dặn Đại Tướng khi đến Đà Lạt là gọi về ổng ở Phủ Thủ Tướng đó. Anh trình Đại Tướng ngay đi. Có tin gì thì cho tôi biết với nghe”. Mấy phút sau đó, Đại Úy Hồng gọi tôi:
“Trung Tướng Khánh bảo Đại Tướng ở lại Đà Lạt cho đến khi nào ổng cho về mới được về. Đại Tướng bảo anh đến nhà lấy một ít áo quần và đồ dùng cần thiết, cho phi cơ mang lên Đà Lạt ngay hôm nay. Nhờ anh ghé nhà tôi lấy túi áo quần gởi lên giùm tôi luôn. Vợ tôi đang chuẩn bị đó. (Trong những năm 1970-1975, Đại Tướng Khiêm giữ chức Thủ Tướng, Đại Tá Hồng là chánh văn phòng. Hiện anh định cư tại Houston).
“Chiếc (phi cơ) C47 còn trên đó không?
“Sau khi nói chuyện với Trung Tướng Khánh, Đại Tướng cho phi hành đoàn lái về Sài Gòn rồi”.
“Vậy tôi sẽ yêu cầu chiếc đó trở lên Đà Lạt ngay chiều hoặc tối nay. Nhớ, có tin gì thêm thì gọi tôi ngay nhé. Ngược lại, tôi cũng gọi anh khi có tin tức mới nhất”.
Cuộc "Biểu Dương Lực Lượng" của Trung Tướng Dương Văn Đức đến buổi trưa là xẹp xuống sau mấy tiếng đồng hồ ồn ào, tự lui quân về Mỹ Tho và Cần Thơ. Tình hình thủ đô cũng như những vùng lân cận trở lại yên tỉnh. Nhưng đó chỉ là bề mặt thôi. Và đây là lời của Đại Tá Tạ Thành Long, thuật tóm tắt cho chúng tôi nghe khi cùng bị giam tại trại tập trung tù chính trị ở Nam Hà (miền bắc) năm 1981, về cuộc "Biểu Dương Lực Lượng" nói trên. Lúc bấy giờ anh Long là Trung Tá Tham Mưu Phó hành quân Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV tại Cần Thơ: "Giữa đêm 12 rạng 13/09/1964, Trung Tướng Đức ra lệnh tổ chức bộ chỉ huy hành quân và cấp tốc di chuyển sang Sư Đoàn 7 Bộ Binh ở Mỹ Tho, và chuyển quân lên Sài Gòn vào sáng sớm. Làm việc suốt đêm và di chuyển trên chặng đường Cần Thơ-Mỹ Tho trong đêm tối mà không được bảo vệ an ninh lộ trình, một cuộc vận chuyển rất nguy hiểm trong tình hình lúc bấy giờ, nhưng cũng may là đến nơi bình yên. Sau khi phối hợp với Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tất cả cùng chuyển quân lên Sài Gòn". "Theo kế hoạch, các đơn vị phải dừng lại ở Bình Chánh (một quận của tỉnh Gia Định ven ngoại ô thủ đô), chỉ có Trung Tướng Đức và các sĩ quan cần thiết mới được vào Sài Gòn. Nhưng Trung Tướng Đức cho lực lượng tiến đến Phú Lâm, ngưỡng cửa phía tây của thủ đô. Trung Tướng Đức giao cho tôi (tức Trung Tá Long) đến tòa đại sứ Hoa Kỳ liên lạc với bộ phận tình báo ở đó xem tình hình sắp tới ra sao. Đến nơi, chờ một lúc mới tiếp xúc được với nhân viên tình báo. Ông ta lên tiếng: “Các ông đã không thực hiện đúng lời hứa. Tại sao các ông đưa lực lượng vào Sài Gòn? Hành động của các ông gây khó khăn cho chúng tôi và cho cả các ông nữa. Ông chờ tôi liên lạc về Hoa Kỳ nhận lệnh”. “Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau đó: Hoa Thịnh Đốn quyết định các ông phải rút quân về vị trí ngay, nếu không, các ông hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc biến động hôm nay. "Tôi quay về Bộ Tổng Tư Lệnh trình cho Trung Tướng Đức về kết quả cuộc tiếp xúc đó thì ông cho lệnh rút quân. Và chuyện kể chỉ có thế". Cuộc Biểu Dương Lực Lượng" ngày 13/09/1964, chỉ diễn ra trong khoảng mười tiếng đồng hồ thì lặng lẽ rút lui. Ngay sau đó, Trung Tướng Đức bị bắt tại Cần Thơ đưa lên phi cơ về Sài Gòn, ông đã nóng giận to tiếng khoa tay múa chân tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Quân Cảnh và An Ninh Quân Đội "dìu" lên xe đưa về cơ quan an ninh. Chắc là Hoa Kỳ khó chịu về cái hơi hám "độc tài" của Trung Tướng Khánh nhưng chưa đến mức đảo chánh lật đổ, nên "nhờ" Trung Tướng Đức ra oai cảnh cáo dưới tên gọi "Biểu Dương Lực Lượng", và lực lượng cảnh cáo hăng quá nên đưa quân áp sát thủ đô suýt nữa là chiếm luôn các cơ sở trọng yếu như các cuộc đảo chánh trước đây đã làm. Thế là bộ phận tình báo tại tòa đại sứ Hoa Kỳ giáng cho một lệnh xuất phát từ Hoa Thịnh Đốn, và lực lượng biểu dương vội vàng rút lui có phần mất trật tự một chút. Rõ ràng là Mỹ chưa bật đèn xanh hoặc đèn xanh giới hạn thì cái ghế Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực không phải dễ.
Đại Tướng Khiêm bị cách một chức. Xin mời trở lại với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. Sau một tuần bị quản thúc trong một dinh thự tại Đà Lạt, ông và gia đình được Trung Tướng Khánh cho về Sài Gòn. Những ngày tiếp theo, Đại Tướng Khiêm rất buồn và không vào văn phòng làm việc. Buổi sáng và chiều, tôi mang hồ sơ về nhà trình ông giải quyết. Trung Tướng Khánh ra lệnh Đại Tướng Khiêm bàn giao chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng cho ông, và tôi thì bàn giao hồ sơ của văn phòng Bộ Quốc Phòng cho Trung Tá Nguyễn Khắc Bình (về sau, Trung Tá Bình là Chuẩn Tướng, Đặc Uỷ Trưởng Trung Ương Tình Báo, và Tư Lệnh Cảnh Sát). Trong hồ sơ này có cả hồ sơ 10 kí lô vàng thoi mà tôi nói ở phần cuối của cuộc Chỉnh Lý ngày 30/01/1964. Như vậy, Trung Tướng Khánh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực, Thủ Tướng, nay kiêm thêm chức Tổng Trưởng Quốc Phòng. Một mình ông nắm giữ các chức vụ tối quan trọng giống như trường hợp Tổng Thống Ngô Đình Diệm trước ngày bị lật đổ và bị giết chết vậy. Vào ngày cuối tháng 09/1964, Trung Tướng Khánh điện thoại tôi:
“Anh trình với Đại Tướng Khiêm, 12 giờ trưa nay tôi đến ăn cơm tại nhà Đại Tướng Khiêm”.
“Xin Trung Tướng vui lòng điện thoại với Đại Tướng Khiêm đang có mặt tại nhà, thưa Trung Tướng”.
“Không. Anh về trình đi”. Ra lệnh xong là ông gác ống nói.
Thật khó nghĩ cho tôi, vì hai gia đình đang hờn giận nhau nếu không nói là Trung Tướng Khánh đang "ghìm" Đại Tướng Khiêm, và trường hợp này chẳng khác nào Trung Tướng Khánh lôi tôi vào thế trận giống như tôi đang trở thành thành viên trong nhóm sĩ quan dưới quyền ông vậy. Tôi đến tư dinh Đại Tướng Khiêm, trình xong, Đại Tướng Khiêm im lặng trong khi bà Khiêm tức giận:
“Tại sao ổng không điện thoại đến đây mà lại nói chuyện với chú?
“Bà phải hỏi ông Khánh sao lại hỏi chú Hoa? Thôi, bà lo cơm cho kịp”.
Đại Tướng Khiêm đỡ lời cho tôi. Nếu Đại Tướng Khiêm không đỡ lời thì tôi chỉ biết trả lời là "Tôi cũng không biết tại sao nữa".
Phần tôi, mỗi khi có khách đến nhà Đại Tướng Khiêm dùng cơm, tôi lo sắp xếp bàn ăn, tổ chức an ninh, và những gì cần thiết liên quan đến bữa ăn đó. Hôm nay cũng vậy, cộng thêm sự thận trọng cần thiết. Sau khi chỉ định công việc và cách thức xếp bàn ăn cho mấy anh làm việc tại nhà Đại Tướng Khiêm, tôi về văn phòng.
Mưu sát Trung Tướng Khánh. Khoảng nửa giờ trước giờ ăn, tôi trở lại tư dinh Đại Tướng Khiêm. Như thường lệ, kiểm soát công tác chuẩn bị trong phòng ăn, tôi sang bên cạnh kiểm soát các nhân viên an ninh để biết chắc là công tác đang diễn tiến như dự định. Chợt thấy Trung Tá Luông đi tới đi lui mấy lần, điều mà chưa bao giờ xảy ra vì không liên quan gì đến chức vụ Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tư Lệnh của ông cả. Trung Tá Nguyễn Văn Luông, năm 1958 là Thiếu Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 35 Bộ Binh thuộc Sư Đoàn 12 Khinh Chiến, đồn trú tại Kon Tum. Lúc ấy tôi là Trung Úy, Trưởng ban 3 kiêm Ban 5 bộ chỉ huy Trung Đoàn này. Trong cuộc đảo chánh 01/11/1963, ông là Thiếu Tá Chỉ Huy Phó Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu (lúc chưa cải danh Bộ Tổng Tư Lệnh), ngay sau đó thăng cấp Trung Tá và giữ chức Chỉ Huy Trưởng thay thế Trung Tá Lê Soạn về hưu. Tôi đến cạnh ông:
“Ô! Trung Tá. Trung Tá có gì cần gặp Đại Tướng hả?
“Không. Không có gì”.
“Không có gì sao Trung Tá đi qua đi lại với vẻ suy tư vậy?
Trung Tá Luông kề tai tôi với giọng ngập ngừng:
“Hôm nay tụi tôi ám sát ông Khánh”.
Tôi rất kinh ngạc về câu nói của ông: “Bằng cách nào?
Ngưng một lúc, ông tiếp:
“Vào bàn ăn độ 5 phút, ông Anh từ trên lầu gọi điện thoại xuống đây (vừa nói ông vừa chỉ điện thoại trên bàn cạnh cửa, sát phòng ăn), lúc đó tôi sang mời ông Khánh qua nghe điện thoại và nói là của Phủ Thủ Tướng gọi. Khi ông ta vừa qua khỏi khung cửa thì anh Yểm câu cổ và đâm chết”.
“Đại Tướng có biết việc này không Trung Tá?
“Không”.
“Vậy là không được. Tôi muốn Trung Tá hủy bỏ dự định này, nếu không, tôi sẽ trình Đại Tướng ngay. Tôi chắc rằng, Đại Tướng không bao giờ đồng ý về một hành động như vậy đâu. Xin Trung Tá hãy hình dung việc gì xảy ra tiếp đó, vì cả tháng nay mỗi khi Trung Tướng Khánh đến đây là y như rằng, tiểu đội cận vệ của Trung Tướng Khánh với vũ khí cầm tay gần như bao quanh nhà này. Chỉ cần tiếng động lạ nào đó trong phòng ăn, là tiểu đội đó nhào vô tức thì, và liệu sự kiện xảy ra có phải là những xác chết -kể cả chúng mình- nằm la liệt ở đây không? Lịch sử sẽ lưu lại những gì cho mai sau, nếu không phải là "tiếng xấu muôn đời" chỉ vì tranh giành quyền lợi mà giết chết lẫn nhau! Hủy bỏ đi Trung Tá”
Trầm ngâm một lúc: “Anh chờ tôi một chút”. Trung Tá Luông lên lầu và khoảng 5 phút sau, ông lại kề tai tôi với giọng tự nhiên: “Được rồi. Ông Anh đồng ý hủy bỏ việc đó”. Tư dinh Đại Tướng Khiêm gồm 3 căn nhà số 1, số 2, và số 3 có cửa thông nhau, trong dãy số 4 (của nhiều dãy) trong cư xá trại Trần Hưng Đạo, tức khuôn viên Bộ Tổng Tư Lệnh. Nhà 2 tầng, vách gạch, lầu đúc bê tông, kiến trúc mang dáng vấp Châu Âu, vì do quân đội Pháp xây dựng dùng làm bản doanh bộ tư lệnh quân viễn chinh của họ. Phòng ăn ở căn số 1, ngay cạnh phòng ăn có cửa thông qua căn số 2, nơi có cái bàn dành cho sĩ quan tùy viên trực tại nhà. Trên bàn có máy điện thoại và những vật dụng cần thiết của một văn phòng thu hẹp. Tầng trệt căn này không có người ở. Căn số 3 là gia đình của vợ chồng người em gái của bà Khiêm ở. Em rể của bà là luật sư Bùi Văn Anh, chính là người mà Trung Tá Luông nhận chỉ thị sau khi tôi phản đối vụ mưu sát nói trên. Tôi không trực tiếp nghe luật sư Anh nói về vụ này, mà những gì tôi ghi lại ở đây là do Trung Tá Luông nói với tôi. (Đầu năm 1975, Trung Tá Luông là Đại Tá, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Khu 3 tại Biên Hòa, và anh Lưu Yểm là Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Biên Hòa) Trước 12 giờ một chút, Trung Tướng Khánh đến cùng với 2 xe Jeep chở đầy nhân viên cận vệ với vũ khí trong tay. Vẫn như hành động trong thời gian gần đây, toán cận vệ có mặt quanh nhà nhưng không anh nào ngồi hay đứng yên một chổ mà luân chuyển nhau từ vị trí này đến vị trí khác, miễn sao các anh ấy trông thấy được bàn ăn bên trong. Vì là bữa ăn rất căng thẳng nên tôi không ra vào như lệ thường. Khoảng 10 phút đầu tiên, không khí trong phòng ăn thật yên lặng nếu có đôi mắt bàng quan nào đó nhìn vào. Nhưng, sau đó, lời qua tiếng lại tuy không đến nỗi ồn ào nhưng rõ ràng là bữa ăn đầy sóng gió. Lời lẽ gay gắt qua lại giữa bà Khiêm với Trung Tướng Khánh, cho tôi nhận xét "không cân sức" về phía bà Khiêm trong khi Đại Tướng Khiêm đăm chiêu suy nghĩ hơn là tranh cãi, vì Trung Tướng Khánh đang có trong tay tất cả quyền lực quốc gia, đâu dễ dàng bị thuyết phục cho dù ông bà Khiêm là bạn thân với gia đình ông. Chữ "bạn thân" chẳng qua là thuở chưa có quyền lực đấy thôi, chớ bây giờ thì khác. Khác xa lắm rồi!
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lưu vong Khi Trung Tướng Khánh rời phòng ăn với thái độ gần như bình thường, cứ như không có chuyện gì xảy ra cả. Đó là cái lạnh lùng của người có quyền lực đối với "kẻ thù"! Mà liệu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm có phải là kẻ thù của Trung Tướng Nguyễn Khánh hay không? Chính trị, biết đâu mà lường phải không quí vị? Tôi vào phòng ăn:
“Thưa Đại Tướng, điều gì xảy ra mà Trung Tướng Khánh to tiếng vậy Đại Tướng?
“Ông Khánh "muốn" (hàm chứa ý nghĩa một mệnh lệnh) tôi phải ra ngoại quốc, nếu không thì tánh mạng tôi khó an toàn”.
“Đại Tướng nghĩ sao?
“Tôi quyết định đi. Chú lo thủ tục cho tôi và gia đình tôi càng sớm càng tốt. Chú với chú Châu, nếu được thì cùng đi với gia đình tôi”.
“Tôi sẽ theo Đại Tướng. Còn anh Châu thì tôi sẽ hỏi ý kiến anh ấy và trình Đại Tướng sau, thưa Đại Tướng”.
"Chú Châu" mà Đại Tướng Khiêm nói ở đây là Đại Úy Đặng Văn Châu. Năm 1963, anh là chánh văn phòng tỉnh Vĩnh Long, lúc ấy Trung Tá Lê Văn Phước là Tỉnh Trưởng. Sau cuộc đảo chánh 01/11/1963, Trung Tá Phước bị cách chức và anh Châu cũng mất chức luôn. Sau cuộc đảo chánh 30/01/1964, Đại Tướng Khiêm bảo tôi liên lạc phòng Tổng Quản Trị/Bộ Tổng Tư Lệnh thuyên chuyển anh Châu về văn phòng chúng tôi để thông dịch Anh ngữ cho Đại Tướng Khiêm khi có phóng viên báo chí ngoại quốc phỏng vấn. Đại Tướng Khiêm nói tiếng Anh rất khá, nhưng với báo chí quốc tế nên có thông dịch để có thì giờ suy nghĩ cho câu trả lời. Khi hỏi ý kiến, anh Châu đồng ý đi. Vậy là số người "lưu vong" có Đại Tướng Khiêm, vợ và hai con ông, tôi, và Đại Úy Châu. Anh Châu sang Bộ Quốc Phòng xin "sự vụ lệnh", đến Sở Hành Chánh Tài Chánh số 6 lãnh phụ cấp xuất ngoại vì "sự vụ lệnh" ghi "thay mặt chánh phủ sang Anh quốc và Cộng Hòa Liên Bang Đức, cám ơn hai quốc gia này đã giúp đỡ Việt Nam Cộng Hòa chống cộng sản". Lại đến Bộ Ngoại Giao xin “thông hành ngoại giao" và chiếu khán ở tòa đại sứ Anh quốc và Cộng Hòa Liên Bang Đức. Xong, xuống Tổng Nha Hối Đoái và Ngân Hàng để đổi ngoại tệ. Phần phụ cấp bằng tiền Việt Nam đổi được 10 ngàn mỹ kim, và phần tiền Việt Nam mà tôi giữ trong tủ sắt của văn phòng đổi được 10 ngàn mỹ kim nữa. Đó là số tiền dự trữ trong tủ sắt để Đại Tướng cấp phát cho các đơn vị tình báo sử dụng. Trong cuộc "Biểu Dương Lực Lượng" ngày 13/9/1964, tôi mang về nhà và Đại Tướng Khiêm bảo tôi cứ giữ đó. Nay, tôi đưa Đại Úy Châu đi đổi luôn. Đúng lúc mọi thủ tục sẳn sàng thì Trung Tướng Khánh điện thoại tôi:
“Anh không được đi mà chỉ một mình Đại Úy Châu theo Đại Tướng Khiêm”.
Ra lệnh xong là ông gác ống nói ngay. Tôi điện thoại lại thì Thiếu Tá Thịnh, bí thư, anh Thịnh cho biết Thủ Tướng không tiếp chuyện. Thế là tôi không trình bày được gì cả.
Tôi đến trình Đại Tướng Khiêm, Đại Tướng không nói gì nhưng rõ ràng là bà Khiêm không hài lòng. Tôi nhận ra rằng, bà Khiêm không hài lòng không phải vì tôi không được đi, mà không hài lòng chỉ vì bà ngờ tôi "chưa chi đã trở mặt" đây. Tôi áp dụng câu của Đại Tướng Khiêm có lần nói với tôi rằng: "Sự trong sáng không cần phải đính chánh mà thời gian sẽ chứng minh cho mình, tuy có chậm nhưng rất hiệu quả". Tôi trở về văn phòng.
Hôm sau tôi đến Phủ Thủ Tướng xin gặp Thủ Tướng Khánh, và ông tiếp: “Anh có chuyện gì? “Thưa Thủ Tướng, tôi không được đi theo Đại Tướng Khiêm trong chuyến đi chưa biết ngày nào trở về. Vậy, tôi xin Thủ Tướng vui lòng cho tôi một số tiền đủ đổi 10 ngàn mỹ kim và một giấy phép để đổi số tiền đó. Số tiền này tôi sẽ trao Đại Tướng Khiêm như là món quà nhỏ để Đại Tướng và gia đình có thêm khoản tiền chi tiêu ở ngoại quốc trong thời gian đầu. Xin thưa với Thủ Tướng rằng, tôi đến đây là tự tôi chớ Đại Tướng Khiêm không hay biết gì về hành động này, thưa Thủ Tướng”.
Không cần suy nghĩ, ông trả lời ngay:
“Được. Tôi cho anh”.
“Xin cám ơn Thủ Tướng”.
Chính tôi đi đổi tiền, và tôi thuật lại Đại Tướng Khiêm nghe khi tôi trao tiền cho ông. Ông rất cảm động:
“Tôi cám ơn chú”.
Chiều ngày 06/10/1964, Đại Tướng Khiêm gọi tôi đến tư dinh của ông. Vào phòng khách, ông mời tôi ngồi, điều mà chưa bao giờ xảy ra mỗi khi tôi đến nhận lệnh ngoại trừ hai lần ra lệnh về đảo chánh. Tự ông, đem bánh ngọt với nước trà ra mời tôi. Tôi hiểu rằng, "sếp" của tôi sắp tâm sự chia tay đây rồi vì ngày mai ông và gia đình rời Việt Nam lưu vong. Năm năm làm việc trực tiếp dưới quyền ông trong trách nhiệm một sĩ quan tham mưu đặc biệt, trong một chừng mực nào đó, tôi hiểu được những cử chỉ cùng những thái độ của ông thể hiện điều ông muốn hoặc ông sắp làm. Xong miếng bánh với hớp trà, ông vào chuyện:
“Tôi cám ơn chú, trong mấy năm qua chú đã làm việc với tất cả nhiệt tình và trung thực. Giờ đây, trước khi rời Việt Nam lưu vong không biết ngày về, tôi muốn nói với chú rằng, nếu chú và những chú khác, còn nhớ đến tôi thì đừng bao giờ làm chính trị, vì làm chính trị ít khi người ta dành lại tình cảm cho bạn bè và đôi khi cũng không còn tình cảm cho thân nhân của họ nữa”.
Tay phải ông gỡ kiến cận xuống và tay trái ông cầm miếng nỉ lau, đó là thói quen mỗi khi ông suy nghĩ. Mang kiến vào, ông lại mời tôi:
“Chú ăn bánh uống trà đi”.
“Vâng. Xin mời Đại Tướng”.
Thái độ của ông làm tôi lúng túng. Tôi nghĩ, không phải ông ngưng lại để mời tôi ăn bánh uống trà, mà là chính ông đang nén lại nỗi xúc động của ông khi ông đang sống trong góc cạnh tình cảm. Đại Tướng Khiêm là mẫu người giàu tình cảm, rất có tình có nghĩa với những quân nhân mà trước kia cùng đơn vị với ông cho dù người đó hiện là sĩ quan hay hạ sĩ quan cũng vậy. Tôi đã nhiều lần chứng kiến hình ảnh lúc ông niềm nở bắt tay những anh hạ sĩ quan cùng phục vụ tại Tiểu Đoàn 3 Việt Nam hằng chục năm trước đó.
Đại Tướng Khiêm tiếp lời:
“Trung Tướng Khánh đã xử sự với tôi như chú thấy đó, thật là không còn chút tình nghĩa gì hết”.
“Có vài vị Tướng Lãnh nêu thắc mắc với tôi rằng: "Tại sao Đại Tướng lại im lìm để Trung Tướng Khánh dùng cả thủ đoạn không tốt với Đại Tướng". Riêng tôi, tôi thấy Trung Tướng Khánh là mẫu người nhiều tham vọng chính trị, chính với Đại Tướng là người đã góp phần quan trọng đưa Trung Tướng Khánh lên đến tột đỉnh địa vị ngày nay, nhưng Trung Tướng Khánh cứ quả quyết Đại Tướng là người đang tìm cách đẩy ổng ra khỏi những chiếc ghế mà ổng đang ngồi, thưa Đại Tướng”.
“Tôi biết chớ chú. Nhưng tranh giành làm gì!
Trong phòng trở nên yên lặng. Một lúc sau:
“Các sĩ quan do tôi đào tạo là người có khả năng và là người tốt nữa. Chắc chắn chú sẽ được các vị khác sử dụng, và tôi tin là không có gì khó khăn cho chú đâu. Thôi, ngày mai tôi đi, chú ở lại mạnh giỏi. Cho tôi gởi lời thăm thiếm”.
“Thưa Đại Tướng, tôi chân thành cám ơn Đại Tướng đã dìu dắt tôi trong 5 năm qua. Tôi kính chúc Đại Tướng và gia đình được mạnh khỏe và luôn gặp điều may trên đường lưu vong. Kính chào Đại Tướng”.
Tôi đứng thẳng người và chào ông một cách trân trọng như khi tôi chào ông để nhận chức chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh năm 1961 vậy. Đại Tướng Khiêm siết chặt tay tôi thật lâu, và cả hai đều bùi ngùi trong cuộc chia tay này! Ngày 07/10/1964, Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và gia đình rời Việt Nam Cộng Hòa trên chuyến bay của Air France đi Paris để "lưu vong" dưới danh nghĩa thật là vinh dự (!): "Thay mặt chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa sang Anh quốc và Đức quốc, cám ơn hai quốc gia đồng minh đã và đang giúp Việt Nam Cộng Hòa chống cộng sản". Ngay chiều hôm đó, tôi và gia đình dọn ra khỏi cư xá trong khuôn viên bộ Tổng Tư Lệnh, và sẳn sàng nhận lệnh thuyên chuyển đến đơn vị hay cơ quan nào đó, vì có bao giờ một chánh văn phòng của ông Tướng thất sũng lại tiếp tục phục vụ tại đơn vị cũ đâu, nhất là đơn vị cũ lại là văn phòng Tổng Tư Lệnh.
Trung Tướng Nguyễn Khánh thêm chức Tổng Tư Lệnh Quân Lực. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm ra đi không bàn giao chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày hôm sau, Trung Tướng Nguyễn Khánh vào nhận thêm chức đó. Có nghĩa là Trung Tướng Khánh nắm giữ cả 4 chức vụ cao nhất nước: Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực, Quốc Trưởng bao gồm Tổng Tư Lệnh Tối Cao, Thủ Tướng, Tổng Trưởng Quốc Phòng, và Tổng Tư Lệnh Quân Lực. Ngay hôm đầu tiên Trung Tướng Khánh nhận chức, tôi viết "Phiếu Trình" trình vào Trung Tướng Khánh, xin chỉ định đơn vị tôi trình diện. Ông phê 3 chữ: "Ở tại chỗ". Thế là tôi vẫn ngồi lại văn phòng này nhưng chưa rõ chức vụ. Xin nói thêm, “Phiếu Trình” là một loại văn kiện trong hồ sơ tham mưu, sử dụng khi cần trình một vấn đề gì để xin chỉ thị của cấp trên. Cũng ngày hôm ấy, tôi thấy thêm một thủ đoạn của Trung Tướng Khánh. Đó là hai ngày trước khi Đại Tướng Khiêm lưu vong, văn phòng tôi có nhận được một "Nghị Định" thiết lập "quỹ mật" cho ông Tổng Tư Lệnh với số tiền đầu tiên là 20 triệu đồng (Việt Nam). Phía dưới Nghị Định có ghi chú "chờ lệnh". Giới chức thiết lập quỹ là Trung Tướng Khánh nhân danh Thủ Tướng cấp cho Tổng Tư Lệnh, và bây giờ chức Tổng Tư Lệnh cũng trong tay Trung Tướng Khánh. Vậy là, giới chức cấp quỹ với giới chức sử dụng quỹ, đều là ông. Lúc ấy, hối suất chánh thức là 35 đồng Việt Nam bằng 1 mỹ kim. Xin giải thích đôi nét về "quỹ mật" này. Nguyên tắc của quỹ mật là chi tiêu không cần chứng minh, nhưng giới chức sử dụng phải chịu trách nhiệm trực tiếp với giới chức cấp quỹ khi giới chức cấp quỹ yêu cầu chứng minh, nhưng thực tế thì trong những năm qua tôi chưa thấy yêu cầu này xảy ra lần nào. Xem chừng lấy tiền trong ngân khố của chánh phủ quá dễ chăng? Nhưng còn ghê gớm hơn nữa kìa. Theo lời bà Khiêm nói với tôi rằng, khi mà gia đình Đại Tướng Khiêm với gia đình Trung Tướng Khánh không còn coi nhau là bạn bè thân thiết như trước nữa, bà biết bà Khánh đã hai lần đưa cho người em làm Tổng Lãnh Sự Việt Nam Cộng Hòa tại Hong Kong, mỗi lần 500 triệu đồng Việt Nam Cộng Hòa để bán lấy đồng mỹ kim. Ai mua tiền Việt Nam đó nếu không phải là quân cộng sản của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, để mang trở về mua hàng trên thị trường Việt Nam Cộng Hòa tiếp tế cho quân của chúng đánh lại quân ta? Sự thật đến mức nào tôi không rõ, nhưng những thông tin này là từ bà Khiêm đến tôi và tôi ghi lại đây là chính xác. Xin mở ngoặc để nối tiếp phần trên. Trong tạp chí Thế Kỷ 21, số 147 tháng 07 năm 2001 phát hành tại Nam California, có loạt bài "Công Cuộc Nghiên Cứu Việt Sử Tại Bắc Mỹ" (1975-2000), và bài số 10 với tựa: "Nhóm Viết Hồi Ký" của tác giả Trần Anh Tuấn, nói về "Sĩ quan cấp Tá viết hồi ký". Dưới đây là vài đoạn trích từ trong bài này. "Cấp Tá viết hồi ký khoảng 18 người, theo thứ tự tên gọi là: Trương Dưỡng, Trần Kim Định, Vương Văn Đông, Phạm Bá Hoa, Đặng Trần Huân, Đỗ Kiểm, Trần Khắc Kính, Hoàng Ngọc Liên, Vũ Văn Lộc, Phan Nhật Nam, Trần Ngọc Nhuận, Phan Lạc Phúc, Phan Lạc Tiếp, Trịnh Tiếu, Võ Đại Tôn, Trần Đình Trụ, Tạ Tỵ, và Ngô Văn Xuân". "Nói một cách tổng quát, khi chúng ta rời bỏ thế giới hồi ký của cấp Tướng để đọc hồi ký của cấp Tá là chúng ta sang một thế giới khác. Một thế giới của văn nhân. Một đàng là quyền lực quốc gia, và một đàng là văn chương nhân bản". " ... Về hình thức, nhiều hồi ký cấp Tá với những áng văn chương trong sáng, chữ dùng nhiều khi đắc địa, có thể trích làm bài giảng văn mẫu trong các trung tâm Việt ngữ tại hải ngoại. Điển hình của hồi ký loại này là tác phẩm của Phan Lạc Phúc, Phan Lạc Tiếp, Phạm Bá Hoa, Đặng Trần Huân, Vũ Văn Lộc, ......." Sau khi tác giả điểm qua hồi ký của hai nhà văn Phan Lạc Phúc và Phan Lạc Tiếp, đến quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ của tôi (Phạm Bá Hoa), tác giả Trần Anh Tuấn viết: " ..... Hồi ký của cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa có nội dung khác hẳn những hồi ký vừa kể". ".......... Đây là một hồi ký chính trị, ghi lại những biến cố trên chính trường Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1963 cho đến ngày 30/4/1975. Giai đoạn lịch sử này tương ứng với thời gian tác giả đóng vai trò tuy không có hào quang của một nhân vật trên mặt nổi, nhưng lại là người sắp xếp và do đó thấu hiểu những uẩn khúc của hậu trường, cùng diễn trình của nhiều biến cố có tầm mức lịch sử ngay từ lúc khởi thủy. Việc ghi nhận này rất thẳng thắn và thành thật. Ngòi bút Phạm Bá Hoa can đảm, trung thực, bất vị thân... " "Đặc biệt, Đôi Dòng Ghi Nhớ" ghi nhận sự kiện kinh khủng trong chiến tranh Việt Nam. Đó là việc, lấy nguồn tin từ bà Trần Thiện Khiêm, tác giả cho biết bà Nguyễn Khánh đã hai lần đưa cho người em làm Tổng Lãnh Sự Việt Nam Cộng Hòa tại Hong Kong, mỗi lần 500 triệu, tổng cộng một tỷ bạc Việt Nam Cộng Hòa để đổi lấy đô la. Sau tiết lộ kinh khủng đó, tác giả Phạm Bá Hoa đặt một câu hỏi chắc như đinh đóng cột, rằng, "Ai mua tiền Việt Nam trên đất Hong Kong nếu không phải là Cộng Sản Việt Nam?". Câu nghi vấn đó của tác giả Phạm Bá Hoa, nay đã được phía bên kia kiểm chứng là xác thực. Nếu muốn, xin độc giả tìm đọc "Đồng Đô La Trong Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước" dựa theo hồi ký của Thăng Long Huỳnh Bá Việt và những người làm công tác tài chánh đặc biệt trong chiến tranh với sự cộng tác của các nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Hiền Phương, Thanh Giang, và Hoàng Xuân Huy, để biết Ban Kinh Tài Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (của cộng sản) đã mua tiền Việt Nam Cộng Hòa từ đâu để đem về chi phí cho chiến trường miền Nam..... " Sau đoạn nhận xét rất tinh tế của tác giả về cách dùng chữ của người miền Nam trong khi có vài chữ tôi dùng chữ của người miền Bắc để giảm nhẹ ý nghĩa sự tức giận của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm đối với Trung Tướng Dương Văn Minh, tác giả Trần Anh Tuấn kết luận: "Điều tác giả Phạm Bá Hoa có thể yên tâm là, ít nhất có một độc giả tin ông, tin ở tấm lòng trung cang nghĩa khí của ông. Đôi Dòng Ghi Nhớ, vì thế, là một trong rất ít hồi ký chính trị hoàn tất sau biến cố 30/4/1975 có cơ tồn tại với thời gian. Ông là một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có tư cách". Xin đóng ngoặc, và trở lại văn phòng Tổng Tư Lệnh. Trung Tướng Khánh cho giải tán văn phòng Tổng Tư Lệnh, và tổ chức thành "Nha Đổng Lý Văn Phòng Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa". Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ, được Trung Tướng Khánh cử giữ chức Đổng Lý Văn Phòng. Lớn ơi là lớn, nhưng kỳ ơi là kỳ! Dưới quyền Thiếu Tướng Vỹ có: (1) Thiếu Tá Thịnh, bí thư. (2) Tôi, Trưởng Phòng Quân Sự Vụ, với toàn bộ nhân viên và trách nhiệm của văn phòng Tổng Tư Lệnh trước đây, ngoại trừ những vấn đề riêng tư của ông Tổng Tư Lệnh. (3) Thiếu Tá Hoàng Ngọc Tiêu -tức nhà thơ Cao Tiêu- Trưởng Phòng Dân Sự Vụ. (4) Thiếu Tá Tâm (tôi không nhớ họ), Trưởng Phòng Báo Chí. Công tác kế tiếp là Trung Tướng Khánh giao cho Chuẩn Tướng Phạm Đăng Lân, Chỉ Huy Trưởng binh chủng Công Binh, đúc bê tông tầng trên phòng họp số 1 trong tòa nhà chánh (nơi tạm giữ những vị bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng xem là trung thành với Tổng Thống Diệm trong cuộc đảo chánh 01/11/1963) để làm văn phòng mới của Tổng Tư Lệnh. Đồng thời xây cái hầm ngầm ngay phía dưới phòng họp số 1 để làm hầm trú ẩn với tiện nghi cần thiết cho bộ chỉ huy hành quân khoảng 30 người. Từ bàn viết của ông Tổng Tư Lệnh nhìn đến cuối phòng trước mặt, sát góc bên trái có cầu thang xoáy ốc xuống hầm. Nếu không phải nhân viên phục vụ nơi đây, phải để ý lắm mới trông thấy được cái quan trọng của cầu thang xoáy ốc này. Hầm làm xong từ mặt đất lên đến nóc là 2.2 thước, chung quanh và cả nóc hầm được tấn bằng những tấm kim khí thật dày, lớp đất trên nóc hầm dày đến 1.5 thước. Ngay trên hầm là một đoạn của con đường vòng đai bên trong hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa Bộ Tổng Tư Lệnh với một góc của phi trường Tân Sơn Nhất. Trong lúc đơn vị Công Binh đang đổ đất lấp nóc hầm thì Trung Tướng Khánh nói với Chuẩn Tướng Phạm Đăng Lân, lúc ấy tôi đứng cạnh chờ trình công văn gấp của Phòng 3: “Làm xong hầm này tôi chấp tất cả phi cơ của "thằng" Kỳ đó”. Thằng Kỳ mà Trung Tướng Khánh nói là Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ , Tư Lệnh Không Quâ n.Nói xong ông cười khoái chí, chừng như ông không còn lo ngại Thiếu Tướng Kỳ đảo chánh ông bằng Không Quân vậy. Tôi không hiểu câu nói của ông là thật hay đùa, nhưng cho dù là đùa hay thật thì tự ông nói lên nỗi lo của ông về sự chống đối của những đồng đội quanh ông. Nhưng tại sao Trung Tướng Khánh lại sợ như vậy? Mẫu người nhiều tham vọng với một bụng thủ đoạn như ông, phải tự hiểu tại sao ông bị cô lập giữa đồng đội và lúc nào cũng sợ đồng đội của ông. Qua những hành động của ông từ trong cuộc đảo chánh ngày 30/01/1964 đến bấy giờ, theo tôi, ông là vị Tướng có vẻ như mang tham vọng vượt lên trên tất cả mọi người để trở thành vị lãnh đạo bậc nhất của Việt Nam Cộng Hòa trong nét nhìn thán phục của các quốc gia lân bang trong vùng, và cả Hoa Kỳ nữa. Cái tham vọng của Trung Tướng Khánh dễ dàng nhận thấy qua 4 chức vụ cao nhất nước đang trong tay ông: "Quốc Trưởng + Thủ Tướng + Tổng Trưởng Quốc Phòng + Tổng Tư Lệnh Quân Lực". Với 4 chức vụ đó, làm sao biện minh là ông không có tham vọng? Làm sao biện minh là ông không độc tài? Thêm nữa, Trung Tướng Khánh còn cấp cho Công Binh 10 triệu đồng để xây cái hầm sâu trong lòng núi đá ngay sau lưng Trường Thiếu Sinh Quân/Vũng Tàu nữa. Tôi không rõ những chi tiết về cái hầm này, chỉ được nghe ông nói trong buổi họp tham mưu của Bộ Tổng Tư Lệnh rằng: "Trường hợp cuộc chiến dẫn đến sự xâm nhập của không quân địch thì hầm này là nơi đặt bản doanh hành quân của Bộ Tổng Tư Lệnh". Đến khi trường này chuẩn bị di chuyển để bắt đầu phá núi xây hầm, cũng là lúc Trung Tướng Khánh lưu vong nên kế hoạch bị hủy bỏ. Ngay trước ngày Quốc Khánh đầu tiên 01/11/1964 -kể từ sau cuộc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm- Trung Tướng Khánh tấn phong chánh phủ dân sự do giáo sư Trần Văn Hương làm Thủ Tướng, và kỹ sư Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng. Quốc Trưởng là nhà cách mạng quốc gia lão thành, hoạt động không mệt mỏi, từng vào tù ra khám vì hoạt động cách mạng, nổi tiếng là trong sạch, và chống cộng sản một cách triệt để. Thủ Tướng là nhà giáo kỳ cựu, có tiếng là thanh liêm, nhiệt tình, chống cộng sản không khoan nhượng, nhưng có dáng vẻ và phong cách của một công chức cần mẫn hơn là nhà hoạt động chính trị. Cả hai vị đều do Trung Tướng Khánh nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội (Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã đổi danh xưng là Hội Đồng Quân Đội) đề cử sau khi tham khảo cơ quan do ông thành lập có tên gọi "Hội Đồng Dân Quân". Dưới nét nhìn nào đó cho thấy Trung Tướng Khánh muốn dư luận thấy ông giảm bớt cái hơi hám "độc tài" mà ông luôn bị cáo giác trong các cuộc mít tinh biểu tình, và nhất là trong những vị hoạt động chính trị, nên ông nhường chức Quốc Trưởng và Thủ Tướng cho hai vị dân sự. Nhưng thật ra, với chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội, ông vẫn tự cho mình cái chức năng trên Quốc Trưởng chẳng khác dưới chế độ cộng sản độc tài bao nhiêu. Dù sao thì chánh phủ dân sự cũng tô điểm đôi chút cho hình ảnh chính trị Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, bớt tính cách năng nổ đầy u ám của một vị võ tướng cầm quyền có pha chút "hơi hám quân phiệt" lãnh đạo. Ngày 01/01/1965, Trung Tướng Khánh xuống Cần Thơ chủ tọa lễ kỷ niệm "Ngày Quân Đoàn IV hai tuổi". Ông nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội thăng cấp Trung Tướng cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Quân Đoàn này.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 5:32:06 GMT 9
Trong cuộc đảo chánh 01/11/1963, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu là Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tham gia tích cực. Đảo chánh thành công, ngày hôm sau ông được thăng cấp Thiếu Tướng, giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Chẳng bao lâu sau đó, ông bàn giao cho Thiếu Tướng Cao Văn Viên để nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật cách nay vài tháng. Nay, ông được thêm một ngôi sao mỗi bên cầu vai. Trung Tướng Khánh là người rất xông xáo, nay đơn vị này mai đơn vị khác. Ông thường thăm và khen thưởng tại chỗ về những thành tích cá nhân cũng như tập thể đơn vị. Mỗi lần đi bằng phi cơ, tôi được lệnh mang theo tất cả hồ sơ công văn của các phòng trình lên để ông làm việc ngay trên phi cơ. Chiếc phi cơ C47 mà Không Quân dành cho ông, có trang bị bàn viết, giường nằm, tủ lạnh nhỏ, và vài tiện nghi lặt vặt khác. Thường khi như vậy, ngoài Trung Tướng Khánh ra, còn có sĩ quan tùy viên, cận vệ, vài nhân viên an ninh, vài nhân viên truyền tin, và tôi. Đến thành phố nào đó là tôi tìm phi cơ khác của Không Quân Việt Nam, Không Quân Hoa Kỳ, hoặc Hàng Không dân sự, để mang công văn trở về Bộ Tổng Tư Lệnh hoàn lại các Phòng Sở. Việc bảo vệ số công văn này luôn được quan tâm đúng mức. Đây là nét đặc biệt của Trung Tướng Nguyễn Khánh mà vị Tổng Tư Lệnh trước ông là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, và những vị sau ông là Trung Tướng Trần Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, và Đại Tướng Cao Văn Viên, không có. Tôi không dám đoan chắc đó là điều tốt, nhưng rõ ràng là ông không để thời gian trống trong nhiệm vụ của ông. Tôi không biết có phải là do vụ "Biểu Dương Lực Lượng" ngày 13/09/1964 hoặc vụ đó chỉ là "giọt nước làm tràn ly nước" hay không, nhưng từ sau vụ ấy thì Trung Tướng Khánh với Đại sứ Hoa Kỳ -cựu Tướng Maxwell Taylor- đã bất hòa nhau, và Trung Tướng Khánh đặt bản doanh Bộ Tổng Tư Lệnh ở tòa nhà trắng Vũng Tàu. Tòa nhà này, người dân địa phương thường gọi là "bạch dinh". Hằng ngày, tôi dùng phi cơ nhỏ mang công văn của Bộ Tổng Tư Lệnh từ Sài Gòn ra Vũng Tàu trình ông, xong là quay về Sài Gòn. Ngày hai buổi sáng chiều, tôi đi đều đều như vậy. Đôi khi có công văn gấp, tôi phải đi ngay dù là ngày chủ nhật hay nghỉ lễ. Thường thì tôi sử dụng chiếc phi cơ L20 do anh bạn cùng khóa với tôi lái. Anh Nguyễn Xuân Lễ, sau khi ra trường thời gian ngắn thì anh chuyển sang Không Quân. Hiện (2006) anh định cư tại Houston. Trong một chuyến bay trên chiếc vận tải C7 (Caribou) từ Vũng Tàu về Sài Gòn, bị quân cộng sản bắn lên và Đại Úy Long ngồi cạnh tôi bị trúng đạn xuyên từ dưới mông lên vai, và chết liền. Không biết chúng bắn bao nhiêu viên đạn nhưng chỉ có 1 viên trúng phi cơ và đã gây tử thương một sĩ quan mới tái ngũ vài tháng trước đó, và đang phục vụ tại Bộ Tổng Tư Lệnh. Hôm ấy, chiếc L20 tu bổ, tôi ôm công văn quá giang chiếc L19 ra Vũng Tàu, và lại quá giang chiếc C7 nói trên trở về Sài Gòn. Quí vị nghĩ xem, ông Tổng Tư Lệnh giận ông Đại Sứ của nước "chi tiền", dời văn phòng xa hơn trăm cây số, để lại đằng sau cả một bộ tham mưu đầu não của quân đội hơn 600 ngàn người đang từng giờ chiến đấu chống cộng sản. Cho nên có những việc mà vị Trưởng Phòng cần trình bày trực tiếp với vị Tổng Tư Lệnh cũng chỉ dùng điện thoại mà điện thoại thì không hoàn toàn bảo mật được! Phải chăng Trung Tướng Khánh là vị lãnh đạo quốc gia xem chính trường như sân khấu? Đồng ý chính trường cũng là một loại sân khấu, nhưng nền tảng của sân khấu là nghệ thuật dựng lại những góc cạnh của cuộc sống, trong khi chính trường là nơi thể hiện tài năng, kinh nghiệm, bản lãnh, của người lãnh đạo xây dựng cuộc sống đó. Sở dĩ tôi nói đến "sân khấu" là vì trong năm 1964, nhiều báo chí tại Sài Gòn nói Trung Tướng Khánh có giòng máu nghệ sĩ. Xin mở ngoặc. Trong cuộc đàm thoại tối ngày 21/10/2003, cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm từ Virginia nói với tôi liên quan đến đoạn trên đây, như sau:
“Chú có biết tại sao ông Khánh với ông Taylor giận nhau hông?
“Dạ không”.
“Tại vì ông Khánh chửi ông Taylor (Đại Sứ Hoa Kỳ) về vụ ông Đức (Trung Tướng Dương Văn Đức) biểu dương lực lượng đó. Ông Khánh nói với tôi như vậy sau khi ổng bị đuổi khỏi Việt Nam qua Hoa Kỳ ở với tôi mấy ngày”.
Xin đóng ngoặc.
Ngày 16/02/1965, Trung Tướng Khánh ra phi trường chậm hơn nửa tiếng đồng hồ, điều mà ít khi xảy ra. Sau khi phi cơ lên đến độ cao để trực chỉ Qui Nhơn, ông ngưng tay duyệt công văn và quay sang tôi:
“Tôi vừa thành lập xong chánh phủ”.
“Thủ Tướng Trần Văn Hương còn không, thưa Trung Tướng?
“Bác sĩ Phan Huy Quát thay ông Hương rồi. Với tôi thì mọi việc chẳng có gì khó khăn cả”.
Nụ cười của ông lúc bấy giờ nếu cựu Thủ Tướng Hương trông thấy chắc là dễ tức lắm cho dù giáo sư Hương có tiếng là người trầm tỉnh. Tôi không rõ nguyên nhân thay đổi Thủ Tướng, chỉ nghe Trung Tướng Khánh nói rằng:
“Trong giai đoạn này mà làm mất lòng tôn giáo thì không thể chấp nhận được”.
Ông là Trung Tướng, với chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội, "đã" ngang nhiên chỉ định Thủ Tướng trong khi Quốc Trưởng vẫn tại chức, lại còn tự cho mình là người giải quyết công việc quốc gia nhanh chóng nữa!
Đến Qui Nhơn, không có phi cơ về Sài Gòn nên tôi phải ở lại. Tình hình quân sự tại tỉnh Bình Định ngày càng xấu đi, đến nỗi đêm hôm đó mọi người phải ngủ tại hầm chiến đấu. Tôi sang Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận ngủ nhờ hầm chiến đấu của Bộ Chỉ Huy này. Lúc ấy, Tỉnh Trưởng Bình Định là Trung Tá Lê Trung Tường. Thiếu Tá Trương Bảy là Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận. (Về sau, Trung Tá Tường là Chuẩn Tướng quân đội, Thiếu Tá Bảy là Chuẩn Tướng Cảnh Sát). Sáng hôm sau, cả đoàn dùng trực thăng bay vào Nha Trang. Sau khi thăm Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt mà Chuẩn Tướng Đoàn Văn Quảng là Tư Lệnh, Trung Tướng Khánh bay ngược ra Vũng Rô, nơi mà hôm trước Hải Quân và Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã bắn chìm chiếc tàu của quân cộng sản chở vũ khí từ ngoài bắc xâm nhập vào. Nói cho đúng, chiếc tàu này bị Hạm Đội 7 Hoa Kỳ phát hiện và liên tục theo dõi, đến khi vào duyên hải Việt Nam Cộng Hòa thì họ báo cho Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa biết. Kết quả là tàu địch bị đánh chìm. Khi trực thăng lượn nhiều vòng trên không phận Vũng Rô, tôi nhìn thấy dòng chảy của nhiên liệu từ chiếc tàu chìm phía dưới loang dài trên mặt biển. Lực lượng Người Nhái của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đang trục vớt vũ khí lên tàu, trong khi lực lượng của Quân Đoàn II đang hành quân lục soát trong khu vực núi Đá Bia, lân cận Vũng Rô. Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có, Tư Lệnh Quân Đoàn II tin rằng, trong khu vực này có thể có kho tồn trữ của quân cộng sản. Chỉ trong ngày 17/2/1965, cả hai lực lượng thu được hơn 1000 khẩu súng đủ loại, tất cả hoàn toàn mới nguyên được bao bọc trong giấy dầu cẩn thận. Theo nhận định của Phòng Nhì/Bộ Tổng Tư Lệnh, hơn một năm qua, với những bất ổn chính trị trong nội tình Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, quân cộng sản miền bắc đã lợi dụng "khoảng trống an toàn" đó để gia tăng vận chuyển đơn vị chính qui và vũ khí đạn dược vào lãnh thổ chúng ta bằng đường bộ dọc dãy Trường Sơn và đường thủy dọc duyên hải từ bắc vào. Những lần trước, số vũ khí đạn dược tịch thu được ở cửa sông Bồ Đề tỉnh An Xuyên (Cà Mau), bờ biển Ba Động tỉnh Vỉnh Bình (Trà Vinh). Vụ Vũng Rô này là lần thứ 3 tịch thu được số lượng vũ khí quan trọng. Khi chánh thức cầm quyền sau cuộc đảo chánh thành công, với một Thông Điệp quan trọng, Trung Tướng Khánh chánh thức lên tiếng kêu gọi các quốc gia đồng minh giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản, điều mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không làm theo ý muốn của Hoa Kỳ. Nhưng liệu có phải Thông Điệp mà Trung Tướng Khánh tuyên đọc là do Hoa Kỳ trao cho ông hay chánh phủ của ông chủ động viết bản văn đó? Nhìn theo góc độ quân sự, cho dù Hoa Kỳ có cần thực hiện "chiến lược Domino" bằng cách thiết lập các căn cứ quân sự trên đất nước chúng ta hay không thì sự hiện diện của quân bộ chiến Hoa Kỳ, trong một mức độ nào đó thật sự là cần thiết. Trong khi áp lực quân sự từ phía quân cộng sản ngày càng xấu đi thì tình tình chính trị tại thủ đô Sài Gòn vẫn trong tình trạng rối ren. Tuy là Quốc Trưởng với Thủ Tướng đều là dân sự, nhưng thực chất thì quyền hành vẫn trong tay Trung Tướng Khánh. Các nhà chính trị vẫn thường tổ chức những cuộc hội họp mít tinh nhằm tạo áp lực đòi Trung Tướng Khánh rút lui thật sự, vì vậy mà Trung Tướng Khánh luôn luôn lo sợ một ngày "xấu trời" nào đó ông sẽ bị đảo chánh bởi lực lượng quân sự. Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đã lưu vong từ tháng 10/1964, và Trung Tướng Dương Văn Minh cũng lên đường lưu vong 2 tháng sau đó, nhưng điều đó không có nghĩa là "họa đảo chánh" không còn.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 5:33:46 GMT 9
Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt (1923-1984) SQ: 43/300.953 Sanh ngày 16-9-1923 tại Hải Dương - Phu nhân: Bà Lê Thị Cẩm Vân Sanh hạ 8 người con 4 trai và 4 gái 1937: Theo học trường Thiếu Sinh Quân (14 tuổi) Phủ Lạng Thương, Đáp Cầu, Bắc Ninh ra trường năm 1943 1945: Tốt nghiệp Trường Sĩ Quan Pháp với cấp bậc Thiếu Úy - Ra trường phục vụ trong đơn vị Nhảy Dù - Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Đội, đồn trú tại Bãi Cháy. 1954: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Ngự Lâm Quân Đà Lạt. 1955: Quân Khu Trưởng Quân Khu Thủ Đô - Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Quân Khu 5 Cần Thơ. 1959: Trưởng Phái Đoàn công du viếng thăm các Trung Tâm Huấn luyện Bộ Binh Hoa Kỳ tại Hawaii, Hoa Kỳ - ngày 11-2 Chỉ Huy Trưởng Trường Hạ Sỉ Quan Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa - Tư Lệnh Phó Quân Khu 5 Cần Thơ. 1961: Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 9 Bộ Binh 1963: 7-11 Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh 1964: Chỉ Huy Trưởng Trường Biệt Động Quân vùng 3 Chiến thuật. - Tư Lệnh Biệt Khu Phước Bình Thành. - Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt thay thế Chuẩn Tướng Lam Sơn - Ngày 1-11 Vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức. 1965: Vinh thăng Chuẩn Tướng thực thụ 1966: Vinh thăng Thiếu Tướng nhiệm chức 1968: Trưởng phái đoàn Lực Lượng Đặc Biệt tham dự Hội Nghị LLDB Đông nam á tại Naha, Okinawa Japan 1969: Phụ Tá Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Vùng 2 Chiến Thuật 1972: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung 1975: Sau 30-4 ở Tù Cộng Sản. 1984: Từ trần ngày 6-3 tại trại giam Nam Hà, Hà Nam Ninh. Hưởng thọ 61 tuổi. 1986: Phu nhân bốc mộ, hỏa thiêu. Di cốt mang theo gia đình đến nơi định cư tại North Carolina tháng 8 năm 1992 cùng với 8 người con
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 6:51:41 GMT 9
Trung Tướng Lê Nguyên Khang / Tư Lệnh Sữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (1931-1996) SQ: 51/700.272 Sinh tháng 8-1931 Sơn Tây 1951: SVSQ Khóa 1 Lê Lợi Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định 1953: Giang Đoàn Trưởng thuộc Đệ Tam Liên Đoàn Tuần Giang Xung Kích , Nam Định. 1955: Tháng 1, thăng cấp Đại Úy. - Đại Đội Trưởng Đại đội Hành chánh và Công vụ Thủy Quân Lục Chiến. 1956: Du học lớp Bộ Binh Cao Cấp tại Trường Võ Bị Liên Quân Fort Benning, Georgia, Hoa Kỳ - Sĩ Quan Liên lạc TQLC ( bên cạnh Bộ Tư Lệnh Hải Quân) 1957: Tháng 9, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Đổ Bộ ( sau cải danh thành Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên TQLC ) đóng tại Động Ba Thìn. 1958: Tháng 5, du học lớp Tham Mưu Đổ Bộ tại Trung Tâm Huấn Luyện TQLC Quantico, Virginia Hoa Kỳ. 1960: Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 TQLC - Thăng Thiếu Tá giả định - Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn TQLC 1962: Thăng cấp Trung Tá giả định - Ngày 1-3 thăng cấp Trung tá thực thụ - Tháng 11, thăng Đại Tá tạm thời và được cử làm Tùy Viên Quân Sự tại Manila, Phi Luật Tân 1964: Tháng 4 Tư Lệnh Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến - Ngày 11-8, vinh thăng Chuẩn Tướng - Ngày 21-10 vinh thăng Thiếu Tướng nhiệm chức. 1965: Ngày 14-4 Xử Lý Thường Vụ Tư Lệnh Hải Quân - 5-5 Tổng Trấn Sàigon Gia Định - Ngày 1-11 vinh thăng Thiếu Tướng thực thụ 1966: Ngày 9-6 Tư Lệnh Quân Đoàn 3 và vùng 3 Chiến Thuật - Ngày 1-11 vinh thăng Trung Tướng nhiệm chức 1972: ngày 4-5 Tổng Thanh Tra QLVNCH 1974: Ngày 1-11, phụ tá Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đặc trách hành quân. 1975: Định cư tại Los Angeles, California 1996: Từ trần vào lúc 3 giờ chiều ngày 12-11 tại West Covina, California Hoa Kỳ Hưỡng thọ 65 tuổi
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 6:59:03 GMT 9
Thiếu Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến VNCH SQ 52/700.453 Sanh tháng 11-1932 tại Hà Nội 1954: SVSQ Khóa 4 Cương Quyết Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy- Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến 1960: Trung Úy Tham Mưu Trưởng Liên Đoàn TQLC 1961: 1-6 Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng Tiễu Đoàn 4 TQLC 1963: Bàn giao chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4 TQLC cho Đại Úy Lê Hằng Minh, du học khóa Chỉ Huy và Tham MưuTQLC tại căn cứ TQLC Quantico, Virginia Hoa Kỳ 1964: Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn TQLC thay thế Thiếu Tá Trần Văn Nhật nhậm chức Tùy Viên Quân Sự tại Phi Luật Tân. - Thăng cấp Thiếu Tá 1965: Ngày 1-11, thăng cấp Trung Tá 1966: Thăng cấp Đại Tá 1971: Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn TQLC 1972: Ngày 4-5 Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến thay thế Trung Tướng Lê Nguyên Khang nhận chức vụ Tổng Thanh Tra QLVNCH. - Ngày 28-5 Vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức 1973: Vinh thăng Chuẩn Tướng thực thụ 1975: Đầu tháng 4 vinh thăng Thiếu Tướng nhiệm chức 1975: Định Cư tại Houston, Texas và San Jose California Huy Chương: - Được ân thưởng nhiều huy chương Quân Sự và Dân Sự cao quý kể cả các huy chương của Đồng Minh. - Legion of Merit ( Degree of Commander) Vài cảm nghĩ về Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLCVN MX Mai văn Tấn. Trong cuối cuộc đời : Chấp nhận lưu vong làm người bại tẩu, Lang thang xứ người hưởng chút lòng nhân. thơ Phan văn Thuận Cuộc đời buông trôi với nổi ưu tư và mối hờn vong quốc, nhìn xem diễn tiến tình hình VN không khỏi bùi ngùi đất nước càng ngày đi dến chổ tuyệt vọng,nhân dân lầm than, xã hội bất công, tệ nạn không còn cách giải quyết. Nếu Cộng SảnVN còn cai trị đất nước, không biết tương lai đi về đâu…. Qua 35 năm, nghĩ lại một thời quá khứ gian khổ và nguy hiểm, nhưng cũng không thiếu nét hào hùng trong cuộc chiến xa xưa. Biết bao chiến sĩ đã đổ xương máu, trong cuộc chiến cho tự do,chống lại làn sóng Đỏ. Bao người đã hy sinh một phần thân thể, hiện sống lê lếch ngoài xã hội ở VN. Mặc dầu thất bại trong cuộc chiến chống Cộng, nhưng công lao của các chiến sĩ QLVNCH không phai mờ trong lòng nhân dân VN. Dành một phút suy tư để tưởng nhớ đến những anh hùng vị quốc vong thân. Nhắc đến công lao của Sư Đoàn/TQLC, nhiều bài viết đã nói lên những hào hùng và sự hy sinh của các chiến sĩ TQLC. Nhưng chưa bài viết nào nói đến vị Tư Lệnh,Thiếu Tướng Búi thế Lân.Nhân đọc bài "Ký ức tháng 4, liên quan đến TQLC của Tiến Sĩ Nguyễn tiến Hưng" tôi muốn nhân cơ hội nói lên cảm nghĩ về Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn/TQLCVN. Ông nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn sau cùng cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bắt đầu hành quân Lam sơn 719, ông làm Tư Lệnh phó nhưng thường xuyên tại vùng hành quân, trong khi Trung Tướng Lê nguyên Khang đương kiêm Tư Lệnh nhưng ở tại hậu cứ Saigon. Từ dây tôi muốn xác nhận Sư Đoàn/TQLC bắt đầu hành quân cả Sư Đoàn không còn tăng phái từng Tiểu Đoàn hoặc Lữ Đoàn cho các đơn vị Bộ Binh.Trong trận tái chiến chiếm cổ thành Quảng Trị ông chính thức Tư Lệnh Sư Đoàn/TQLC. Trận tái chiếm Cổ thành Quảng Trị, phải nói cuộc hành quân tấn công quy mô cấp Quân đoàn. Cuộc hành quân nầy là cuộc hành quân quan trọng về chính trị lẫn chiến lược trong quân sử VNCH, vĩ đại nhất và cũng thành công nhất trong hơn hai mươi năm chinh chiến chống Cộng Sản. Gồm các đơn vị thiện chiến nhất như Nhảy Dù, Biệt Động Quân,TQLC,Thiết giáp, trong đó Sư ĐoànTQLC là nổ lực chính tấn công vào Cổ thành .Ngoài ra các phi tuần yểm trợ Chiến lược lẩn Chiến thuật của Không Quân Việt Nam và Hoa Kỳ,Hải Pháo,Pháo Binh….51 ngày đêm thường trực. Các chiến sĩ ngày đêm đối đầu với Địch, tinh thần luôn căng thẳng, gian lao, nguy hiểm giành từng tất đất với Cộng Sản. Bộ tham mưu từ cấp Quân Đoàn, Sư Đoàn, Lữ Đoàn ngày đêm thường trực theo dỏi, phối họp hoả lực yểm trợ…Cuộc chiến với sự hy sinh vô bờ bến để quyết chiến thắng chứ không may mắn, hoặc phép lạ nào. Ngày 15 tháng 9 năm 1972 lá cờ Quốc Gia bay phất phới trên Cổ Thành là ngày đáng vinh danh cho cho tất cả các chiến sĩ QLVNCH, không quên bao chiến sĩ đã hy sinh và đã bị loại ra ngoài vòng chiến.Trong trận chiến gay go, ta không thể phủ nhận công lao của Thiếu Tướng Tư Lệnh, người đã sát cánh với tất cả chiến sĩ Mũ Xanh trong những lúc hiểm nguy cũng như có những quyết định chính xác để có sự chiến thắng vẻ vang. TĐ3 TQLC TĐ6 TQLC Ghi lại chiến tích, xin kèm hai công điện : Tổng thốngVNCH : « Tôi trân trọng yêu cầu Đại Tướng chuyển đến Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I, Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC cùng toàn thể đơn vị và chiến sĩ TQLC đã đánh tan Cộng sản xâm lược ra khỏi Thị xã và Cổ Thành Quảng Trị, lời ngợi khen nồng nhiệt nhất, đồng thời lời khâm phục vô biên của Tôi và toàn thể Chính Phủ họp tại dinh Độc Lập sáng hôm nay 16 tháng 9 năm 1972. Bốn ngày trước khi đúc kết chiến dịch ba tháng thừa thắng xông lên tái chiếm lãnh thổ và sau những tuần lể đầy hy sinh gian khổ, toàn thể các đơn vị thuộc mọi Quân Binh Chủng địa đầu giới tuyến đã ghi thêm những nét vàng son sáng chói vào Quân Sử hào hùng của Dân tộc. Mưu đồ của bọn Cộng Sản xâm lược muốn biến Quảng Trị thành một Bình Long anh dũng, một Kontum kiêu hủng của chúng, đồng thời bám lấy một địa danh tâm lý và chánh trị để lừa bịp dư luận đã bị toàn thể anh em đánh tan ra mây khói. Một lần nửa Tôi nhiệt liệt khen ngợi toàn thể anh em đã chiến thắng. Tôi nghiêng mình trước trước những chiến sĩ hy sinh cho đại nghĩa Dân tộc.Tôi sẽ đến thăm anh em Ký Tên Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I & Quân Khu I : Gởi Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC Tôi đã nhìn thấy Quốc kỳ tung bay trên nền trời Quảng trị chỉ ít lâu sau khi những bàn tay kiêu dũng của anh em kéo lên từ trong Cổ Thành hôm 16 tháng 9 năm 1972.Tôi muốn thấy tại chổ chiến thắng của anh em để ngay tại chiến trường, tự cảm thấy hảnh diện được chỉ huy Sư Đoàn TQLC trong một chiến dịch quy mô nhất của Quân Đội. Từ Bến Hải đến Cà Mau,gót chân người chiến sĩ TQLC đã trải qua bao nhiêu thử thách và chiến thắng.Nhưng phải nói đây là lần đầu tiên Sư Đoàn phải chiến đấu trong hoàn cảnh đặc biệt, đối đầu với nhiều khó khăn nhất, với kẻ thù đông gấp bội. Vì thế chiến thắng Quảng Trị, đánh tan Địch quân, giải phóng thị xã, là chiến thắng lớn nhất, lẩy lừng nhất. Đấu tháng 5 năm 1972, khi Quảng Trị mất vào tay Địch, Sư Đoàn đã trấn giử được tuyến Mỹ Chánh và đã góp công đầu, cùng với các đơn vị của Sư Đoàn Nhảy Dù và Sư Đoàn I BB trong nhiệm vụ giữ Huế. Hàng trăm ngàn dân Trị Thiên đã phải di tản về Nam trước áp lực của Địch, nhưng tại tuyến Mỹ Chánh anh em đã ngăn được sức tiến của quân thù. Những cuộc tấn kích hạn chế, sau đó đã được tổ chức trong vùng Hải lăng để dành lại thế chủ động và lủng đoạn các kế hoạch tiếp tục tấn công của giặc. Hành Quân Sóng Thần 5 ngày 13 tháng 5 tại Hải Lăng và Đa Nghi. Hành Quân Sóng Thần 6 ngày 24 tháng 5 tại Mỹ Thủy, Hành Quân Sóng thấn 8 vượt tuyến Mỹ Chánh ngày 8 tháng 6 đã đánh vào địch những đòn nặng và đã chuẩn bị cho cuộc phản công của quân ta ngày 28 tháng 6 năm 1972 là ngày chiến dịch Lam Sơn 72 bắt đầu.TQLC và Nhảy Dù đã gây được bất ngờ kỳ thú ngay cho cả Địch cùng với các Quân Binh Chủng khác và với một quân số bạn địch 1/4, anh em đã đẩy lui được Địch, tiêu diệt một phần lớn tiềm năng của chúng,và trận chiến gay go nhất đã khởi diển từ ngày 27 tháng 7 năm 1972 khi Sư Đoàn tiếp nhận thị xã Quảng Trị từ Sư Đoàn Nhảy Dù. Chiến sĩ TQLC sau 51 ngày tiến chiếm từng tất đất, từng ngôi nhà, đã dành lại toàn bộ thị xã Quảng Trị, diệt được trên14.000 tên Địch, thu 4350 vủ khí, huỷ hay thu 71 khẩu pháo, 73 chiến xa tính từ đầu tháng 5/72. Giặc đã dùng lực lượng của 4 Sư Đoàn chủ lực để giử thị xã Quảng Trị, những Sư Đoàn lừng danh với nhửng chiến thắng ở Bắc,Trung Việt và nhất là ở Điện Biên Phủ 304, 312, 325. Sư Đoàn TQLC đã đương đầu với chúng và nhẩn nại hơn chúng, dũng cảm hơn chúng,và đã chiến thắng chúng « ,những anh hùng Điện Biên một thời » Chiến thắng đã được xây dựng với nhiều xương máu của các chiến sĩ, với sức chịu đựng vượt mức của anh em. Nhờ sự khéo léo và tài ba của Chuẩn Tướng và các SQ. Tôi muốn qua thư nầy tỏ lòng khâm phục của Tôi đối với Sư Đoàn/TQLC, với những hy sinh vô bờ bến của các anh em, và lập lại sự hảnh diện chỉ huy các anh em trong cuộc thử thách lớn nhất, trong chiến dịch quy mô nhất của Quân Đội. Tôi yêu cầu Chuẩn Tướng chuyển lới ngợi khen của tôi đến tất cả SQ, HSQ và BS của Sư Đoàn. Trung Tướng Ngô quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn I & Quân Khu I Một cách khách quan nhìn nhận, lúc phải quyết chiến tấn công dành lại thị xã Quảng Trị, ngoài Sư Đoàn/TQLC không còn đơn vị nào quân số đây đủ, tinh thần sẵn sàng hơn TQLC.Vì chỉ có đơn vị TQLC , đơn vị duy nhất bổ sung quân số nhanh nhất và sẵn sàng nhất. Ngay ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân số khối bổ sung sẵn sàng còn hơn 1000 người để bổ sung khi cần thiết. Điều nầy cũng khó chối bỏ công lao sắp xếp của Tư Lệnh. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi xin ghi lại biến chuyển ngày cuối cùng: Vũng Tàu giúp tránh đại họa: Một điểm lịch sử quan trọng khác là việc Đại Sứ Martin cực lực phản đối việc Washington có kế hoạch đưa TQLC Mỹ vào Saigon để di tản người Hoa Kỳ. Kế hoạch nầy hết sức nguy hiểm vì Binh Sĩ Mỹ phải đánh nhau với QLVNCH dể tìm lối thoát, dân chúng sẽ bị tai họa không tránh khỏi. Đại Sứ Martin đã vận động với Nhảy Dù và TQLCVN để bảo đảm cửa biển, một lối thoát cho người Mỹ. Ông đã trình bày với Washington ngăn cản một cách quyết liệt, đã có quân thiện chiến của VNCH bảo đảm an ninh cho cuộc di tản người Mỹ từ Saigon, những đơn vị đồn trú tại Vũng tàu và những điểm cần thiết để tàu cập bến Một bức điện văn gởi cho Tướng Scowcroft đề ngày 16 tháng 4 như sau: Nếu tôi phải mang những người lính Dù và TQLC nầy cùng gia đình họ đi,tôi sẽ làm như vậy và trả lời sau về việc nầy.Tôi chẳng xin phép ông đâu dể khỏi làm phiền đến toà Bạch ốc quá sớm.Và ông cũng không cần nói tới chuyện nầy khi trả lời tôi.Tuy nhiên tôi muốn ông Henry Kissinger và Tổng Thống biết chuyện nầy.Nếu có gì trục trặc thì ông cứ tách rời khỏi tôi và đổ trút cho tôi hành động không có phép nếu ông muốn.Nhưng đây là cách tốt nhất để rút ra khỏi đây mà không phải dùng quân đội Mỹ đánh nhau với quân đội Đồng minh trước đây của chúng ta và sát hại nhân dân VN vô tội. Vì Đại Sứ Martin liên lạc với Thiếu Tướng Tư Lệnh không qua Tổng Tham Mưu và Quân Đoàn 3 nên mới có nhiều thị phi là Thiếu Tướng ở Vủng Tàu không về Long Bình với TQLC mọi việc để Tư Lệnh phó, sẻ bị phạt hoặc bị đưa toà án Quân Sự ….Bây giờ thấy điều đó oan cho ông, nhưng có điều ông giử im lặng cho đến giờ, không tranh cải hay nói cho ai biết để biện minh hành động của mình. Bởi thế ngày ông rời đảo Guam để đi đến trại tỵ nạn US Marine camp Pendleton đã được Đại Tá Mc Cain Tư Lệnh TQLC Mỹ ở Guam đến trại Navy camp Cunningham và một toán dàn chào đưa tiển riêng ông mặc dầu trên trại có cả Thủ Tướng Nguyễn lưu Viên và một số Tướng Lãnh khác. Ngày ông rời camp Pendleton để đi định cư, Tướng Tư Lệnh Mỹ ở tại căn cứ US Marine camp Pendleton ở San Diego và một trung đội dàn chào tiển đưa cũng chỉ độc nhất Tướng Lân có một số người VN tỵ nạn tham dự. Khi tôi nghe tin nầy thú thật không hiểu vì sao và tại sao vì có nhiểu vị Tướng hơn thâm niên lẫn cấp bậc đối với Tướng Lân, sao không ai đưa tiển. Bây giờ tôi hiểu đấy là sự danh dự trả lại công đạo cho Tư Lệnh TQLCVN. Hơn nửa cuộc chiến dũng cảm ở Xuân Lộc cho thời gian di tản được thêm 10 ngày quý giá. Cái nghịch lý là QLVNCH không những đã không bắt con tin mà lại giúp những người Đồng Minh của VNCH di tản an toàn (theo lời Đại sứ Martin). Điều nầy làm tôi liên tưởng đến chương trình ra đi của nhửng tù nhân cải tạo được thông qua bởi những công lao nầy một phần Những cảm nghĩ của tôi, chắc Thiếu Tướng Tư Lệnh không bằng lòng,nhưng xin phép Thiếu Tướng đó là những gì chân thật của một thuộc cấp suy nghĩ sau khi đọc được ký ức tháng tư của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng.Nhưng chắc chắn tôi không biết nhiều, chỉ kể những điều mình hiểu trong khả năng giới hạn vì tôi không làm việc kề cận bên cạnh Thiếu Tướng, nhưng tôi nghĩ cũng nói lên được suy nghĩ dành cho một cấp chỉ huy có nhiều hàm oan và những tiếng thị phi không đích xác và hy vọng nhỏ nhoi những lời nầy sẽ là một chút gì đó an ủi chuổi ngày còn lại của Tư Lệnh.. Ngày hôm nay ngồi viết lại những dữ kiện nầy để vinh danh tất cả quân nhân các cấp trong Sư ĐoànTQLC những người đã hy sinh cũng như những người còn sống rải rác mọi nơi cùng những người đã hy sinh một phấn thân thể cho cuộc chiến vừa qua. Riêng Thiếu Tướng Tư Lệnh cả đời đã đem tất cả tâm tư và công sức cho sự lớn mạnh của Sư đoànTQLC. Chúng ta đương nhiên chấp nhận không bàn cải. Mặc dầu trong lúc thi hành nhiệm vụ, không khỏi có những lỗi lầm làm phật lòng một số chiến hữu, nhưng nhân vô thập toàn không ai không có lỗi lầm. Đến bây giờ mỗi khi hội ngộ của Sư Đoàn TQLC Ông cũng đến chung vui với anh em trong tình huynh đệ chi binh nếu sức khoẻ cho phép. Mọi gian khổ đã qua.mọi người bây giờ thanh thản, nhớ những nổi khổ cực, nguy hiểm đã qua như một niềm hảnh diện trong đời của một biến cố lịch sử chưa bao giờ xảy ra cho dân tộc VN. Chúng ta tỵ hiềm để làm gì trong những ngày cuối cuộc đời, ai ai cũng phải ra đi vĩnh viễn. Chi bằng gặp nhau vui vẻ, hỏi thăm sức khoẻ nhau, búi ngùi cho những người ra đi sớm, nói những lời đẹp đẻ cho nhau.Thật ra chúng ta cứ cố chấp người đau khổ chính là chúng ta. Mây trắng vẫn là mây trắng củ, Trời xanh đâu khác trời xưa. Giếng sâu ấp ủ lòng thương nhớ. Đôi cánh chim bằng tạt dậu thưa thơ Nguyễn sỹ Tế MX Mai Văn Tấn Indiana cuối xuân 2010. Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam với cuộc Tổng Công Kích Tổng Nổi Dậy 1972 của CSBV tại Vùng I Chiến Thuật Tài liệu tổng hợp của MX Trần Văn Hiển Tổng Thống Richard Nixon, trong bài diễn văn được truyền hình toàn quốc ngày 25 tháng 1 năm 1972, đã đề nghị một kế hoạch hòa bình 8 điểm nhằm chấm dứt chiến tranh VN, trong đó Hoa Kỳ đồng ý rút quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh khỏi VN trong thời hạn 6 tháng sau khi một hòa ước dược ký kết. Không đầy môt tuần lễ sau, ngày 31 tháng 1, Hà Nội đưa ra một kế hoạch hòa bình khác gồm 9 điểm. Hà Nội nhấn mạnh đòi quân đội Hoa Kỳ và quân đội ngoại quốc triệt thoái ngay khỏi Đông Dương và ngưng mọi hình thức viện trợ cho chính phủ VNCH. Về phía VNCH, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vừa tái đắc cử vào tháng 8/71, mạnh mẽ phản đối kế hoạch hòa bình của Hoa Kỳ, vì trong đó, TT Nixon đã bỏ điều kiện đòi CSBV rút quân đội khỏi Nam VN cùng một lúc với quân đội Hoa Kỳ. Nhằm tạo áp lực đưa Hà Nội đến bàn hội đàm một cách nghiêm chỉnh, chính phủ Hoa Kỳ, một mặt đẩy mạnh kế hoạch vận động ngoại giao quốc tế, mặt khác, tăng cường các cuộc oanh tạc trên lãnh thổ Bắt Việt và đường mòn Hồ chí Minh. Chuyến công du lần đầu tiên của TT Nixon qua Trung Cộng ngày 17 tháng 2/72 để mật đàm với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, rồi chuyến đi của Ngoại Trưởng Henry Kissinger qua Nga gặp Brezhnev và Kosygin trong tháng 4/72, và những cuộc oanh tạc nặng nề của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ xuất phát từ Đà Nẵng, Thái Lan và Hạm Đội 7, đã đưa đến kết quả là Hà Nội chấp thuận mở lại những cuộc hòa đàm giữa Ngoại Trưởng Kissinger và Lê Đức Thọ vào đầu tháng 5/72 tại Paris. Trong khy đó, để hậu thuẫn cho cuộc thương thuyết, Hà Nội áp dụng chiến thuật cố hữu "vừa đánh vừa đàm". Cuối tháng 3/72, CSBV và MTGPMN mở cuộc Tổng Công Kích Tổng Khởi Nghĩa (TCK-TKN) mang tên "Cuộc tấn công Nguyễn Huệ" (người Hoa Kỳ gọi là "Easter Offensive" vì nhằm đúng vào dịp cuối tuần lễ Phuc Sinh). Cuộc tấn công đã diễn ra đồng loạt trên 3 mặt trận: Mặt trận thứ nhất khởi diễn tai Vùng 1 Chiến Thuật vào ngày 30 tháng 3 với 6 sư đoàn CSBV 304, 308, 312, 324, 325, Mặt Trận B-5(4 trung đoàn) cùng vói 2 trung đoàn biệt lập, vượt sông Bến Hải và từ phía Tây từ biên giới Lào, tấn công Sư Đoàn 3 Bộ Binh(SĐ3/BB) và 2 Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến tăng phái, lúc đó đang tran thu giới tuyến. Mặt trận thứ nhì diễn ra vài ngày sau đó, ngay 5 thang 4 bằng 3 sư đoàn CSBV 5, 7 và 9 từ biên giới Cam Bốt xâm nhập Vùng 3 Chiến Thuật, tấn công Tỉnh Bình Long, chiếm Lộc Ninh và bao vây An Lộc, cách Sài Gòn 96 cây số. Mặt trận thứ ba tại Vùng 2 Chiến Thuật, khai diễn tiếp theo vào ngày 6 tháng 4, nỗ lực chính với 3 sư đoàn 2, 320 và sư đoàn Sao Vang cùng nhiều tiểu đoàn biệt lập, tấn công Kontum, Dakto, Tân Cảnh, đèo Mang Yang và nhằm cắt đứt quốc lộ 1, nơi giáp ranh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chủ đích tách rời Vùng 1 khỏi lãnh thổ Miền Nam, để MTGPMN có đất, có dân và có thế đứng thương thuyết. GIAI ĐOẠN 1: CSBV XÂM LĂNG TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG. Lực lượng QLVNCH tai Vùng 1 Chiến Thuật (phía Bắc đèo Hải Vân) gồm có: -Sư Đoàn 1/BB trách nhiệm lãnh thổ Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, -Sư Đoàn 3/BB, -Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh với Thiết Đoàn 20 chiến xa M-48, -Lữ Đoàn 147 và 258/TQLC, -Và lực lượng Địa Phương Quân Nghĩa Quân(ĐPQ/NQ), trách nhiệm Tỉnh Quảng Trị và Thị Xã Đông Hà diện tích rộng trên 300 dặm vuông. Hai lữ đoàn TQLC được đặt dưới quyền điều động hành quân của BTL/SĐ3, một đại đơn vị tân lập, vừa hoàn tất chương trình huấn luyện đơn vị trước đó 6 tháng, chưa có kinh nghiệm nhiều về hành quân từ cấp trung đoàn trở lên và phối hợp hỏa lực hành quân liên quân binh chủng. Các đơn vỉ tại giới tuyến được phí trí như sau: -Trung Đoàn 57/SĐ3/BB tại các căn cứ A1, A2, A3 và C1(Gio Linh). -Trung Đoàn 2/SĐ3/BB tại A4(Cồn Thiên), Fuller, C2 và C3. -Trung Đoàn 56/SĐ3/BB tại Cam Lộ, Khe Gió và Carroll (Tân Lâm). -Lữ Đoàn 147/TQLC tại 4 cứ điểm: núi Bá Hô, Sarge, Holcomb và Mai Lộc. -Lữ Đoàn 258/TQLC trừ bị tại những cứ điểm: Pedro (Phượng Hoàng), Anne, Jane, Barbara và Nancy. -Lực lượng ĐPQ/NQ phụ trách các đồn bót và cầu cống, dưới quyền điều động chiến thuật của Tiểu khu Quảng Trị. -Ba Liên Đoàn 1, 4 và 5 Biệt Động Quân (BĐQ) được tăng cường sau khi nhiều vị trí của SĐ3/BB và TQLC tại Đông Hà và Quảng Trị thất thủ. Lực lượng Cộng quân: Để chuẩn bị cho cuộc đại tấn công này, CSBV đã được Nga Sô và Trung Cộng viện trợ một số lượng vũ khí tối tân khổng lồ. Trong hai năm 70 và 71, nhiều số lượng vũ khí đã đưọc vận chuyển đến Bắc Việt gồm: chiến đấu cơ MIG 19 và 21, hỏa tiễn địa không SA-2, chiến xa T-54, T-55, chiến xa lội nước PT-76, đại bác 130 và 152 ly, hỏa tiễn 122 ly, súng cối 160 ly, đại liên phòng không 23 và 57 ly, hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 chống phi cơ,hỏa tiễn AT-3 chống chiến xa, và nhiều vũ khí cá nhân hiện đại khác. Tướng Võ Nguyên Giáp đã tung chủ lực gồm 14 sư đoàn chính quy CSBV, 26 trung đoàn biệt lập và các đơn vị trợ chiến khác vào chiến dịch TCK-TKN này. Tại Vùng 1 Chiến Thuật, CSBV tấn công bằng các Sư đoàn 304, 308, 324, Mặt Trận B-5 (gồm 4 trung đoàn), 1 trung đoàn hỏa tiễn, 4 trung đoàn pháo binh, 3 trung đoàn chiến xa và 2 trung đoàn biệt lập địa phương. Trong tháng 4 và 5/72, 2 Su đoàn 320 và 325 từ BV xuống và Sư đoàn 312 từ Lào về tăng cường tấn công Cam Lộ, La Vang, Hải Lăng và thành phố Quảng Trị. Tương quan lực lượng giữa Ta và Địch là 1 chống 4. DIỄN TIẾN CUỘC TẤN CÔNG. Ngày 30 tháng 3/72, lúc 11 giờ sáng, tại tuyến phòng thủ phía Tây, 2 cứ điểm Sarge và núi Bá Hô của Tiểu Đoàn 4/TQLC phát hiện quân CSBV điều động ào ạt. Pháo binh bạn được yêu cầu bắn ngăn chặn và tiêu diệt. Cùng lúc đó, Tiểu Đoàn 8/TQLC tại cứ điểm Holcomb bị pháo kích và tấn công. Đúng 12 giờ trưa, chủ lực CSBV trên 45,000 quân gồm 3 sư đoàn chính qui, 4 trung đoàn của Mặt Trận B-5, 2 trung đoàn chiến xa T-54 T-55 và PT-76, được pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, hỏa tiễn địa không SA-2 yểm trợ, đồng loạt vượt qua vùng phi quân sự Bến Hải và từ hướng Tây Bắc Quảng Trị, mở 3 mũi dùi tấn công phòng tuyến của SĐ3/BB và LĐ 147/TQLC. Trước đó, từ 8 giờ sáng, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh SĐ3/BB cho lệnh hoán đổi khu vực hoạt động của 2 Trung Đoàn 2 và 56/BB, trùng vào ngày giờ CSBV mở cuộc tổng tấn công, mặc dù Ông đã được Phòng 2/QĐ1 và cố vấn Hoa Kỳ báo động trước sẽ có cuộc tấn công lớn của CSBV. Trong cuốn "Easter Offensive" của Ông Gerald H. Turley, Đãi tá TQLC/HK hồi hưu đã cho biết thêm chi tiết: "...Theo chương trình, vào trưa ngày 30/3, Tướng Giai và vị cố vấn Hoa Kỳ sẽ bay về Sài Gòn nghỉ lễ Phục Sinh cuối tuần, mặc dù việc hoán đổi vị trí của 2 trung đoàn đến 6 giờ chiều mới hoàn tất...". Khi CSBV mở màn cuộc tấn công và pháo kích, 60 phần trăm lực lượng của hai trung đoàn này còn đang trên đường di chuyển hoán đổi, đã không kịp phản ứng, tuyến phòng thủ nhiều nơi bị bỏ ngỏ. Hỏa lực pháo binh CSBV đã gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng thuộc 3 quận lỵ giới tuyến, khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa, chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng thành phố Quảng Trị phía Nam. Chiến xa T-54 và chiến xa lội nước PT-76 vượt sông Bến Hải bắn phá, gây kinh hoàng và bất ngờ cho binh sĩ trú phòng tuyến đầu. Trong 24 giờ đầu của cuộc tấn công, trên 5,000 quả đạn pháo binh, hỏa tiễn và súng cối đủ loại của CS đã rơi vào 12 căn cứ hỏa lực và phòng thủ chính của quân VNCH. Hai căn cứ hỏa lực lớn của SĐ3/BB và TQLC tại Carroll và Mai Lộc bị CSBV pháo kích nặng nề và liên tục, vì thế không yểm trợ được cho quân bạn và bắn phản pháo. Thời tiết trong mấy ngày đầu của cuộc chiến rất bất lợi cho các đơn vị VNCH. Trần mây thấp và mưa gió, phi cơ chiến thuật, quan sát và trực thăng tiếp tế tản thương VN và HK đã không thể yểm trợ đươc cho quân bạn. Tính đến 6 giờ chiều ngày 30/3, hai vị trí của TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô và Sarge bị pháo kích trên 600 quả đại bác và hỏa tiễn đủ loại, 70 phần trăm công sự phòng thủ bị phá hủy, nhiều quân sĩ tử thương và bị thương. Đến 10 giờ 45 đêm 31/3, địch tấn công tràn ngập căn cứ Sarge. 4 giờ sáng hôm sau ngày 1/4, Bộ Chỉ Huy LD147/TQLC mất liên lạc với TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô. Đây là 2 vị trí TQLC đầu tiên mất về tay quân CS trong 48 giờ đầu của cuộc tấn công. Trước đó, ngày 30/3, BTL/QĐ1 điều động TĐ7/TQLC từ Đà Nẵng tăng cương mặt trận Quảng Trị cho LĐ147/TQLC. Đồng thời, TĐ3/TQLC thuộc LĐ258/TQLC phòng thủ cứ điểm Nancy phía bắc sông Mỹ Chánh đươc điều động lên Đông Hà dể giữ an ninh quốc lộ 9 từ Đông Hà đến Cam Lộ. Ngày 31/3, BCH/LĐ 258/TQLC được điều động lên căn cứ Ái Tử, nơi đặt bản doanh BTL/SĐ3/BB, liền bị pháo kích trên 800 đạn pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly. TĐ6/TQLC từ căn cứ Barbara lên tăng cường và phòng thủ căn cứ Ái Tử. Trong đêm, Tướng Giai cùng với một số sĩ quan tham mưu SĐ triệt thoái về cổ thành Quảng Trị, không còn liên lạc trực tiếp được với các đơn vị cơ hữu và tăng phái. Việc phối hợp điều quân và yểm trợ hỏa lực phi pháo tạm thời do BCH/LĐ258/TQLC và toán cố vấn HK do Trung Ta Gerald H.Turley, cố vấn phó SĐ/TQLC đang bị kẹt tại đây, khi ông vừa từ Sài Gòn ra thăm các cố vấn TQLC/HK và các đơn vị TQLC/VN. Qua ngày 1/4/72, chiến trương giớo tuyến càng trở nên sôi động. Dưới áp lực nặng nề của địch quân, 10 giờ 45 sáng, đơn vị tại căn cứ Cồn Thiên (A4) triệt thoái, 14 giờ 50 chiều, các căn cứ Fuller (thuộc Trung Đoàn 2/BB), Khe Gió (thuộc Trung Đoàn 57/BB) và Holcomb ( TĐ/8TQLC) rút bỏ. Dân chúng chạy giặc, xe cộ và binh sĩ bỏ ngũ mang theo gia đình, gây cản trở việc điều quân và lưu thông trên quốc lộ 9 và 1. Tiền sát pháo binh của CS trà trộn vào đám đông di tản để điều chỉnh pháo binh vào các vị trí QLVNCH. Địch xử dụng những máy truyền tin tịch thu được từ những đơn vị thất trận để quấy phá hệ thống liên lạc của QLVNCH và cho những lệnh ngụy tạo, làm xáo trộn việc điều quân, gây hỗn loạn thêm cho binh sĩ VNCH. Ngày 2/4, BTL/SĐ3 dồn nỗ lực để gom quân và thiết lập hệ thống phòng thủ mới dọc theo tuyến Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng. Hai căn cứ hỏa lực Carroll và Mai Lộc tiếp tục bị pháo kích nặng nề. Chiến xa CSBV trực tiếp tham chiến. Vào lúc 9 giờ sáng, một lực lượng chiến xa T-54 khoảng 20 chiếc từ hướng Bắc tiến về Đông Hà theo quốc lộ 1. Một trục chiến xa lội nước PT-76 ở hướng Đông, tiến dọc theo bờ biển tiến xuống hướng Cửa Việt. Tình hình căng thẳng, TĐ3/TQLC được lệnh tử thủ Đông Hà "bằng mọi giá". Toán chống chiến xa trang bị đại bác 106 ly của TĐ6/TQLC từ Ái Tử được điều động lên tăng cường cho Đông Hà. Lần đầu tiên trong cuộc chiến VN, lực lượng bộ binh CSBV với chiến xa T-54 và PT-76 yểm trợ, trực diện với TQLC có đại bác 106 ly và hỏa tiễn M-72 chống chiến xa. Hải pháo của Hạm Đội 7 HQ/HK yểm trợ bắn vào 2 đoàn chiến xa CSBV. Kết quả, một số chiến xa bị trúng đạn, gây nhiều tiếng nổ phụ và 4 cột khói và đám cháy lớn. Thời tiết tương đối tốt, phi cơ A-1 và A-37 của Không Quân VN bay lên oanh tạc chính xác vào 2 đoàn chiến xa địch, phá hủy 11 chiếc, 1 chiếc A-1 bị hỏa tiễn địa không SA-2 bắn rơi, phi công nhảy dù ra được, nhưng rơi về phía bắc cầu Đông Hà, trước những cặp mắt nhìn vô vọng của quân bạn. Để đề phòng chiến xa địcg vượt qua cầu Đông Hà, toán công binh chiến đấu TQLC và cố vấn HK đã can đảm, dưới hỏa lực che chở của bộ binh, đặt trên 500 cân Anh thuốc nọ dưới gầm cầu Đông Hà và cầu xe lửa gần đó. Đúng vào 16 giờ 30 chiều cùng ngày, 2 chiếc cầu này được giật xập, ngăn cản phần nào kế hoạch của CSBV dùng cầu này đưa bộ binh và chiến xa tiến xuống phía Nam. Một biến cố xảy ra trong ngày 2/4, gây chấn động không ít đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ vùng giới tuyến đó là, căn cứ hòa lữc Carroll cách vùng phi quân sự 13 cây số, sau 3 ngày liên tiếp bị pháo kích và bao vây, sau khi toán cố vấn HK may mắn được một trực thăng HK bốc đi, đã mất về tay địch. Đúng 14 giờ 30 chiều, cờ trắng được kéo lên tại căn cứ Carrol. Trung Tá Phạm Văn Đính, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 56/BB, sau khi họp với các cấp chỉ huy trực thuộc, đã liên lạc với đối phương xin đầu hàng cùng với gần 1,500 binh sĩ và 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại bác 175 ly, 10 khẩu 105 ly của pháo đội TQLC, còn lại là pháo đội 155 ly và 105 ly của pháo binh QĐ1 và SĐ3/BB. Ngày hôm sau, qua làn sóng đài phát thanh của Hà Nội và MTGPMN, người ta nghe được tiếng nói của Trung Tá Đính kêu gọi chiến sĩ QLVNCH đầu hàng. Về phía TQLC, TĐ4/TQLC bị tổn thất nặng trong đêm 30/3 phải triệt thoái khỏi 2 cứ điểm Núi Bá Hô và Sarge, đến 6 giờ chiều ngày 2/4 đã liên lạc lại được với BCH/LĐ147/TQLC và tập trung tại căn cứ Mai Lộc cùng với Thiếu Tá Walter Boomer, cố vấn trưởng tiểu đoàn (Sau này, Ông lên cấp trung tướng tư lệnh quân đoàn gồm 2 sư đoàn TQLC/HK trong trận chiến Vùng Vịnh đầu năm 1991). Sau khi căn cứ hỏa lực Carroll thất thủ, căn cứ hỏa lực Mai Lộc, nơi đặt BCH của LĐ147/TQLC trở thành tuyến đầu, đã liên tục bị pháo kích và tấn công. Được lnh tái phối trí, pháo đội 105 ly TQLC tại đây sau khi bắn hất đạn, đã được phá hủy bằng chất nổ. Đến 10 giờ tối, BCH/LD và TĐ4/TQLC triệt thoái khỏi Mai Lộc về Đông Hà. Sáng hôm sau, lực lượng này về tới Đông Hà, LĐ147/TQLC được lệnh di chuyển về tuyến sau tái bổ sung. Sau 4 ngày tấn công của quân CSBV, lực lượng QLVNCH tại giới tuyến đã mất 53 khẩu trọng pháo đủ loại, trên 7 ngàn binh sĩ tử thương, bị thương, bị bắt và thất lạc đơn vị. Hầu hết các căn cứ phòng thủ tuyến đầu bị thất thủ. Các vị trí phía sau như của LĐ258/TQLC với các TĐ1, 3 và 6 TQLC tại Phượng Hoàng, Ái Tử và Đông Hà vẫn còn được duy trì. Về phía Hoa Kỳ, hỏa lực yểm trợ của phi cơ chiến lược B-52 và chiến thuật đã được tăng cường cấp thời oanh tạc các vị trí tập trung quân CSBV tại giới tuyến và tại Bắc Việt. Ngày 3/5, hai hàng không mẫu hạm Kitty Hawk và Coral Sea tiến vào hải phận VN hợp lực với hai hàng không mẫu hạm Hanthingy và Constellation hiện có trong vùng, tăng số phi cơ oanh tạc của Hải quân lên 275 chiếc và 250 chiếc khác của không quân từ Đà Nẵng và Thái Lan, tạo nên một hỏa lực không trợ hùng hậu chưa từng thấy, kể từ sau cuộc oanh tạc Bắc Việt năm 1968. Thời gian từ ngày 3 đến 8/4, một mặt, các đơn vị bộ binh bạn tái phối trí chung quanh căn cứ Ái Tử và Thị xã Quảng Trị, mặt khác, TĐ3/TQLC vẫn án ngữ tuyến phòng thủ phía Bắc, đẩy lui nhiều cươc tấn công của quân CSBV, bắn cháy 3 chiến xa PT-76 khi chúng mưu toan vượt qua sông Cửa Việt và Đông Hà. Ngày 3/4, Bộ TTM không vận BTL/SĐ/TQLC, BCH/BĐQ và LĐ369/TQLC từ Sài Gòn ra tăng cường QĐ1. BTL/SĐTQLC đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và phòng thủ tại các căn cứ Nancy, Jane, Evan và phòng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Mặc dù toàn bộ lực lượng của SĐ/TQLC đã có mặt tại giới tuyến, nhưng 2 trong 3 LĐ/TQLC vẫn đặt dưới quyền điều động hành quân trực tiếp của BTL/SĐ3/BB, đây là một sai lầm quan trọng về chiến thuật khi xử dụng toàn bộ một SĐ Tổng Trừ Bị của BTL/QĐ1, để mãi 2 tháng sau khi Tướng Ngô Quang Trưởng thay thế Tướng Hoàng Xuân Lãm, mới được điều chỉnh lại. Do đó, đã có nhiều trường hợp, các đơn vị TQLC và BĐQ chỉ thi hành lệnh của BTL/SĐ3/BB khi đã được cấp chỉ huy đơn vị gốc chấp thuận. Các sư đoàn CSBV vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công váo Thị xã Quảng Trị. Vì cầu Đông Hà đã bị giật xập, nên bộ binh và chiến xa CSBV phải qua sông bằng cầu Cam Lộ phía Tây. Từ đó, một cánh quân tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo QL1 tiến về hướng Nam, một cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo tỉnh lộ 558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn công căn cứ Phượng Hoàng và Thị xã Quảng Trị từ hướng Tây. Sáng ngày 9/4, 2 tiểu đoàn CSBV phối hợp với chiến xa T-54 tấn công TĐ6/TQLC tại căn cứ Phượng Hoàng (Pedro). Nhờ pháo binh TQLC từ căn cứ Ái TỬ yểm trợ hữu hiệu, quân bạn đã chận đứng nhiều đợt xung phong. Trận xa chiến tuyệt vời trên đồi Phượng Hoàng giữa đoàn Cọp Biển dùng hỏa tiễn chống chiến xa M-72 phản công quân CSBV tháp tùng chiến xa, tại địa điểm 10 cây số Tây Nam Quảng Trị khi Cộng quân thọc mũi dùi tấn công về thị xã này. LĐ 258/TQLC điều động 2 đại đội của TĐ1/TQLC từ Ái Tử cùng với thiết đoàn 20 chiến xa M48 và thiết vận xa M113 tăng cường cho TĐ6/TQLC. Cuộc phản công phối hợp diễn ra ác liệt và phần thắng lợi nghiêng hẳn về phía liên quân binh chủng pháo binh, thiết giáp, không quân và TQLC. Phi cơ Skyraider VN lên yểm trợ kịp thời, bắn cháy nhiều chiến xa. Các binh sĩ TQLC lên tinh thần tiến gần địch quân, dùng hỏa tiễn M72 và dại bác không dật 106 ly bắn cháy nhiều chiến xa T-54 . Sau hơn 2 giờ tử chiến, 13 trong số 16 chiếc T-54 bị bắn cháy tại chỗ, 3 chiếc còn lại bỏ chạy về hướng thung lũng Ba Lòng, bị pháo binh ta bắn chặn đầu, quá hoảng sợ, xạ thủ và tài công rời chiến xa bỏ chạy thoát thân, để lại 2 chiếc T-54 còn nổ máy tại chỗ, được TQLC lái về căn cứ Ái Tử (sau đó được đưa về Sài Gòn triển lãm cho dân chúng xem cùng với các chiến lợi phẩm khác). Địch để lại trận địa 157 xác chết với toàn bộ vũ khí. Trong hai ngày 10 và 11/4, quân CSBV mở thêm nhiều đợt tấn công vào căn cứ Phượng Hoàng nhưng bị pháo binh bạn và lực lượng trú phàng đẩy lui, để lại 211 xác chết và nhiều vũ khí. Tài liệu tịch thu được cho biết, 2 trung đoàn của sư đoàn 304/CSBV có nhiệm vụ đánh chiếm Phượng Hoàng và Ái Tử. Qua trận chiến phía Tây Bắc giới tuyến này chứng tỏ, vũ khí của QLVNCH có đủ khả năng chống trả lại những chiến xa Nga sô và Trung Cộng trang bị cho quân CSBV. Kinh nghiệm sương máu của các Cọp Biển TQLC lần đầu tiên dùng hỏa tiễn M72 hạ chiến xa địch, đã được Bộ TTM QLVNCH phổ biến cho toàn quân đang chiến đấu trên các mặt trận. Kể từ đó, chiến xa CSBV và chiến thuật tấn công theo thế chân vạc Pháo-Bộ-Xa không còn là một mối nguy hại trên trận địa nữa.
|
|