|
Post by nguyendonganh on Jan 8, 2014 6:51:31 GMT 9
Nguyễn Tấn Dũng là ai?by Jonathan London Ông là ai? Đang làm gì đấy? Nếu đước, hãy cho ta biết. Cảm ơn trước nhé! Việt Nam vẫn còn là một chính thể độc đảng, độc đoán, trong đó các quyền tự do căn bản chưa được thừa nhận. Tuy nhiên, nền chính trị của Việt Nam đã thay đổi rõ nét trong một thời gian tương đối ngắn. Do đó chẳng có tranh cãi khi nhận xét Việt Nam hiện nay cho thấy một nền chính trị mới, đầy sinh khí, xuất phát từ những tranh luận xã hội nổi lên trong và ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, theo một cách cởi mở hơn bất kỳ lúc nào khác trong lịch sử tám thập kỷ qua của Đảng. Có thể thấy một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của các diễn biến này ở cuộc đua tranh diễn ra tại những đỉnh cao chỉ huy của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và đặc biệt là ở con đường hoạn lộ rối rắm và nhân cách bí ẩn của đương kim Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. Sự nghiệp của Thủ tướng – như trên bề nổi, đập vào mắt người ta – là rất hấp dẫn và quan trọng. Ông được chỉ định vào vị trí thủ tướng với một sự phô trương và một chương trình hành động cải cách tương đối ồn ào, nhưng phần lớn nhiệm kỳ của ông chỉ được đánh dấu bởi khả năng điều hành kinh tế có vẻ kém cỏi. Suy thoái kinh tế gần đây ở Việt Nam, mặc dù có một phần xuất phát từ suy thoái toàn cầu và sụt giảm tương tứng về đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng liên quan chủ yếu đến những khiếm khuyết về thể chế của đất nước và khoảng trống lãnh đạo lâu dài của nó. Cho mãi tới gần đây, năng lực lãnh đạo của ông Dũng trong các vấn đề kinh tế chắc chắn vẫn bị người ta đặt dấu hỏi nghi vấn. Bởi vì dưới sự lãnh đạo của ông, kinh tế Việt Nam nghiêng ngả vì vô số những vụ bê bối hàng tỉ đô la liên quan đến doanh nghiệp nhà nước, và bị đe dọa bởi núi nợ xấu ngày càng cao thêm. Vào những thời điểm có tính quyết định, Thủ tướng đã thể hiện sự hối hận vì những yếu kém của mình. Tuy nhiên lỗi lầm của ông cần được xem xét từ một khía cạnh khác. Thủ tướng Dũng không điều hành đất nước trong chân không, mà là giữa những cản lực về thể chế do Đảng Cộng sản gây ra – một đảng mà quyền lực của nó bao trùm lên bản thân nền kinh tế. Hơn thế nữa, rất nhiều lời phê phán nhằm vào đường lối của Dũng đều là xuất từ các đối thủ khác nhau trong nội bộ đảng. Những ý kiến phê phán hay hoài nghi về Dũng, cũng như những quan điểm cổ súy cho cải cách chính trị thực sự, đều cho thấy rõ nét mối liên hệ giữa Thủ tướng với số gia sản bị cho là có được nhờ những cách phi pháp. Các ý kiến, quan điểm đó làm nổi bật mối liên hệ chính trị của Dũng với Bộ Công an hùng mạnh. Và chúng cho thấy thất bại có lẽ đã rõ ràng của Dũng trong việc giải quyết những vấn đề mấu chốt như nhân quyền và sửa đổi hiến pháp. Các ý kiến đó cho rằng đối với Dũng thì điều quan trọng nhất là đảng chứ không phải cải cách thực sự. Cũng có nhiều người còn lập luận rằng ý định của Thủ tướng là làm sao để mình giành được cương vị Chủ tịch nước (khi hết nhiệm kỳ vào năm 2016), một cái ghế mà bản hiến pháp sửa đổi của Việt Nam giành cho nhiều quyền lực, trùng hợp với mô hình hiện nay của Trung Quốc. Ngay cả trong Đảng Cộng sản, Dũng cũng là nhân vật gây tranh cãi. Điều này được phản ánh tại một số khoảnh khắc có tính thử thách. Dũng đã phải chiến đấu chật vật mới giành lại được ghế thủ tướng, và sự kiện đó làm rất nhiều người ngạc nhiên. Mặc dù mới vào cuối năm 2012, ông còn gần như bị các đồng chí của chính mình trong Bộ Chính trị tống khỏi vị trí quyền lực, và chỉ được “cứu” nhờ những ý kiến phản đối từ bên trong hàng ngũ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Mùa xuân năm trước, khi Quốc hội của Đảng tổ chức lấy hiếu tín nhiệm về khả năng điều hành của Thủ tướng và các quan chức, cũng chính là Dũng thu được số phiếu ủng hộ và phản đối đa dạng nhất. Tất cả những điều này đều có thể được kỳ vọng là sẽ làm vị thế của Dũng yếu đi một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, cho đến nay điều ngược lại dường như đã xảy ra. Trong vài tháng qua, Nguyễn Tấn Dũng đã lại tái khẳng định mình là vị lãnh đạo kinh khủng nhất và có tinh thần trí thức nhất. Và ông đã thể hiện như thế trên cả mặt trận đối ngoại lẫn đối nội. Tại hội nghị thượng đỉnh “Shangri-La” ở Singapore, Dũng đã có bài diễn văn có thể khẳng định là hiệu quả nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, truyền đạt một cách cực kỳ rõ ràng viễn kiến của Việt Nam về an ninh khu vực và sự cần thiết đối với các siêu cường khu vực, là phải cư xử một cách có trách nhiệm. Quan trọng hơn nữa là những thắng lợi của Dũng trong Bộ Chính trị và trong các quyết định về nhân sự của chính phủ. Dũng không chỉ trụ vững qua các màn đấu đá quyền lực của Bộ Chính trị, mà còn có những quyết định riêng và kiểm soát được; không chỉ việc bầu những cá nhân được các đối thủ của ông ủng hộ, mà còn “cài cắm” được một loạt những “ngôi sao đang lên”, vốn được coi như đồng minh của ông. Đơn cử một ví dụ, lập luận rằng việc chỉ định cựu Bộ trưởng Giáo dục và Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân vào vị trí chủ tịch Mặt trận Tổ quốc – giống như một sự giáng chức – đã nhanh chóng đưa đến cảm giác rằng Dũng đã sử dụng, một cách rất thiện nghệ, việc sắp đặt ghế cho Nhân và các thủ đoạn khác để dọn đường cho các đồng minh của mình lọt vào Bộ Chính trị cũng như các vị trí quyền lực khác trong chính phủ. Chúng ta có thể rút ra điều gì về Nguyễn Tấn Dũng? Ông là ai? Là cái gì? Thật khó biết. Mặc dù ông ta đã phát biểu rất rõ ràng về sự cần thiết phải cải cách, nhưng nhiệm kỳ của ông đã không chứng kiến việc hiện thực hóa những cuộc cải cách thật sự có ý nghĩa. Có lẽ hệ thống chính trị của Việt Nam chỉ đơn giản là quá nhiều phe phái và quá “con ông cháu cha” và tha(thức là patrimonial) cho một cá nhân lãnh đạo nào có thể tạo ra được khác biệt đáng kể. Với vị trí địa lý, nguồn cung khổng lồ về lao động giá rẻ, và một dân tộc có tinh thần lao động đáng ngạc nhiên, Việt Nam vẫn còn tràn đầy tiềm năng. Tuy nhiên, đất nước này vẫn tiếp tục trì trệ vì những vết thương chủ yếu do chính họ tự gây ra. Cái Việt Nam thiếu là năng lực lãnh đạo cần thiết để vượt qua những ‘bệnh’ phong kiến. Nguyễn Tấn Dũng có phải người làm được việc đó không? Trong mấy ngày qua, chính Nguyễn Tấn Dũng đã tự đặt câu hỏi này khi tuyên bố nhu cầu phải cải cách, với một bài diễn văn mạnh mẽ nhất, cởi mở nhất và thẳng thắn nhất. Bài diễn văn của ông là chưa từng có tiền lệ, nói về độ rõ ràng và tính tri thức của nó. Làm cho nhiều người bất ngờ. Ngoài tất cả những cái đó ra, bài diễn văn còn kêu gọi mở rộng dân chủ, trách nhiệm giải trình, minh bạch, cũng như sự cần thiết phải có một nhà nước có năng lực, có kỷ luật và tôn trọng thị trường hơn. Không có gì đáng ngạc nhiên, diễn văn của Dũng được điểm xuyết thêm đôi lời nhắc đến Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, rõ ràng là thông điệp cải cách đầy mạnh mẽ của Dũng và hành động xứng đáng với nó, là cái Việt Nam cần nhất. Trong chính trị Việt Nam, tập thể gần như luôn luôn sùng bái cá nhân và có xu hướng không khuyến khích, hoặc bóp nghẹt các sáng kiến cải cách. Trong bối cảnh này, sự tồn tại và thăng tiến của Nguyễn Tấn Dũng là một tín hiệu phát triển gây tò mò nhất. Làm cho dân Việt Nam hởi, Ông là ai? Jonathan D. London là một giáo sư ở Đại học Thành thị Hồng Kông, thành viên chủ chốt của Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Giám đốc Chương trình thạc sĩ ngành Nghiên cứu Phát triển. Ông London là chủ biên tác phẩm “Chính trị ở Việt Nam ngày nay” (Palgrave 2014) và nhiều các bài báo, chương sách học thuật khác. Bài này nguyên được viết bằng tiếng Anh cho (Trung tâm chiến lược và quốc tế học, Hoa Kỳ. ( Center for Strategic and International Studies, Washington) ***************************** Phương sách cuối cùng để Nguyễn Tấn Dũng thoát hiểmTạ Nhất Linh (Danlambao) - Cuộc chiến quyền lực trong nội bộ bộ chính trị CSVN đang hồi gay cấn, hứa hẹn nhiều pha kịch tính bất ngờ. Trong bài này, tôi xin không điểm lại chi tiết những diễn biến đã qua của cuộc chiến đó. Chỉ xin nhắc lại bối cảnh hiện tại là phe Trọng - Sang đang bao vây Ba Dũng từ nhiều phía, và sự lo lắng của Ba Dũng nhiều lúc lộ rất rõ trên khuôn mặt, đặc biệt là trong ánh mắt. Tuy nhiên, vào ngày đầu tiên của năm mới, Ba Dũng đã có bài viết mang ý nghĩa thông điệp đầu năm, trong đó nói được vài điều về "dân chủ", khá cụ thể và khác lạ so với những luận điệu chung chung cũ rích mà các ngài lãnh đạo CS vẫn dùng trong bao năm qua. Đồng chí X ráo riết luyện tập cách chui ống cốngCó thể đoán được "thông điệp" đó muốn cho thấy hình ảnh một thủ tướng đang khát khao có những cải cách dân chủ, để tranh thủ cảm tình của một xã hội đang chán ngán với một mớ lãnh đạo thủ cựu cố bám lấy bóng ma CNXH, đặc biệt là cảm tình của những tầng lớp đòi dân chủ và giới tai mắt nói chung. Nó muốn nói lên rằng thủ tướng thực sự muốn cải cách thể chế, và việc ông chưa làm được chẳng qua vì những kẻ thủ cựu đang tìm mọi cách ngăn cản ông. Nó muốn kêu gọi mọi tầng lớp, từ quan chức đến dân thường, hãy đứng về phía ông, ủng hộ ông để ông tiến hành công cuộc cải cách thể chế một cách thành công, loại bỏ những thế lực thủ cựu, đưa đất nước ra khỏi tình cảnh bi đát hiện nay. Cũng có thể đoán rằng "thông điệp" này đã KHÔNG được bộ chính trị phân công soạn thảo và công bố, rằng các đối thủ của Ba Dũng đang thực sự tức tối khi thấy VTV và website chính phủ phát đi thông điệp này. Đây là một nước cờ khá hay của Ba Dũng, lợi dụng việc hai cơ quan trên là trực thuộc chính phủ. Tất nhiên, để ý đồ của Ba Dũng có thể được thực hiện, ông ta và các đồ đệ của ông ta còn phải làm rất nhiều việc cực kỳ khó khăn, và có thể ở một vài giai đoạn, ông ta sẽ phải bắt tay với các lực lượng dân chủ và thậm chí cả các lực lượng bài cộng. Dù không ưa gì chế độ dân chủ, nhưng đã đến lúc Ba Dũng không còn đường lui. Bằng chiêu bài "đảng lãnh đạo", phe Trọng - Sang đang can thiệp trực tiếp vào hoạt động của chính phủ. Họ đưa những quyết định liên quan đến hoạt động của chính phủ từ bộ chính trị, nhằm hạn chế, thậm chí vô hiệu hóa chính phủ. (Hãy nhớ: ngay cả việc phong thứ trưởng công an cũng do ông Tô Huy Rứa trưởng ban tổ chức đảng trao quyết định!) Nhưng nguy cơ của thủ tướng Ba Dũng không dừng lại ở đó. Nhiệm kỳ 2 của ông ta chỉ còn 2/5. Nhưng hết nhiệm kỳ 2 này, ông ta không phải chỉ đơn giản về vườn. Ông ta phạm quá nhiều tội và có quá nhiều kẻ thù trong giới quyền lực chóp bu. Sau khi ông ta rời ghế thủ tướng, các kẻ thù của ông ta sẽ lôi ông ta ra để xử tội. Ông ta sẽ bị bêu riếu, và con cháu ông ta cũng sẽ không được sống yên, nếu không tìm được cách chạy ra nước ngoài, cách mà trong bối cảnh này bọn họ khó bề thực hiện. Trong tình hình đó, để thoát hiểm, Ba Dũng chỉ còn đúng một cách: Phá đảng. Bởi nếu còn đảng thì còn quy định về nhiệm kỳ, và ông ta sẽ phải nghỉ hưu, rồi sau đó bị luận tội. Vì vậy, ông ta phải lựa chọn: Thực hiện bước đi phiêu lưu chưa từng có hoặc cúi đầu chịu chết. Kẻ gian hùng, tráo trở nhất trong đảng CSVN đang buộc phải dùng đến lá bài thay đổi thể chế. Trong "thông điệp", ông ta vẫn buộc phải nói đến đảng, và chỉ dám nói hoàn thiện và đổi mới thể chế, nhưng thực chất là muốn nói “thay đổi thể chế”. Hãy chờ xem những màn kịch sắp diễn ra! Tạ Nhất Linh danlambaovn.blogspot.com
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jan 8, 2014 8:37:01 GMT 9
Nguyễn Tấn Dũng là con rơi của Nguyễn Chí Thanh (Nguyễn Văn Linh)
Giặc đã chiếm trọn HS ,một phần TS , Ải Nam quan , một phần thác Bản Giốc, núi Lão Sơn ...và đang dùng bản đồ "Lưỡi bò" để liếm sạch Biển Đông. Chế độ XHCN sai lầm từ lý luận đến thực tiễn; ĐCSVN hèn với giặc ác với dân đã đi vào giai đoạn suy tàn phản động, tham nhũng thối nát từ trên xuống . Để CỨU NƯỚC CỨU NHÀ: nhân dân VN chỉ còn một con đường đấu tranh đòi TRƯNG CẦU DÂN Ý PHÚC QUYẾT ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP quyết định Đảng độc quyền lãnh đạo, hay dân chủ hóa đất nước, đa nguyên đa đảng để tạo điều kiện cho những tổ chức, cá nhân có đủ tài đức tham gia vào sự nghiệp lãnh đạo ĐẤT NƯỚC . Lời Dẫn : Dân gian VN hiện đại có mấy câu thơ : " Hoan hô Đại Tướng VÕ NGUYÊN GIÁP ta thắng trận Điện Biên mới về! Hoan hô đại tướng Chí Thanh Anh về phân Bắc phân Xanh đầy chuồng !"
SỰ THẬT VỀ THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG
NHỮNG BÍ ẨN VỀ THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG
Bài viết sau đây của một người ký tên Hoàng Dũng, Đang làm việc ở Văn Phòng Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, được blog “Tin Lề Trái” đăng vào ngày 30 tháng 5 năm 2010. Trong một xã hội văn minh thì lý lịch, hoàn cảnh xuất thân, sự nghiệp công tác của các Nhà hoạt động chính trị được công khai rõ ràng cho toàn dân biết. Mọi sự che giấu đều bị các đảng phái hoặc ứng viên đối lập và truyền thông phanh phui. Ở Việt Nam, do không có đa nguyên đa đảng và tự do báo chí, Nhân dân bị mất một quyền rất quan trọng đó là: “Quyền được biết về người lãnh đạo mình”. Bởi vậy những thông tin về đời tư thường kích thích sự tò mò tìm hiểu. Tôi tin bài viết có độ khả tín, xin phép đăng lại, coi như là cung cấp một góc nhìn về một số nhân vật cao cấp, đặc biệt nhân vật Thủ tướng- Đang lãnh đạo Chính phủ Việt Nam. ---------------------o0o------------------
Sau ngày 30/04/1975 tôi được phân công nhiệm vụ kiểm soát việc tiêu hủy những thứ mà lúc ấy được người ta gọi là “văn hoá phẩm đồi trụy”. Sài Gòn những ngày ấy còn hỗn loạn, bề bộn, lòng người thì hoang mang, bất ổn. Song trong mắt bọn chúng tôi – những kẻ chiến thắng vừa từ rừng núi tiến vào – Sài Gòn đúng thật là “hòn ngọc viễn đông”. Nhà cửa thành phố hiện đại, hàng hoá nhiều vô kể, đặc biệt là sách báo, tranh ảnh, băng đĩa và những thứ sản phẩm bị coi là “tàn dư của chế độ cũ”. Lúc ấy chúng tôi được ủy ban quân quản bố trí ở tại một ngôi biệt thự bỏ hoang ở khu Phú Thọ. Mặc dù là bỏ không nhưng thật ra đây là một biệt thự mới tinh chưa có người đến ở, chủ nhà có lẽ là một người giàu có, xây dựng mới xong thì bộ đội giải phóng vào nên có thể đã đi di tản hoặc không dám đến nhận nhà. Ngôi nhà có tới 13 phòng, mỗi phòng đều có trang bị đồ dùng đầy đủ và rất sang trọng. Một số những chiến sỹ trẻ lúc ấy thích đọc truyện tranh, truyện tuổi hoa niên thì mang về đầy phòng đủ các loại sách truyện từ Tây Du ký, Tam Quốc chí, đến cả Đát Kỷ – Trụ Vương, rồi chuyện kiếm hiệp không biết cơ man nào. Đối với những người sống ở miền Bắc nghèo khó và những người bao năm hoạt động ở trong rừng núi thiếu thốn thì đúng quả là bị choáng ngợp với các loại sách báo Sài Gòn ngày ấy. Trong công việc hàng ngày tôi cũng thỉnh thoảng lần giở xem xét một số những cuốn sách cũ, một số tiểu thuyết lịch sử để hiểu thêm về chế độ Việt Nam Cộng Hoà, đặc biệt nhiều nhất là sách viết về nền đệ nhất cộng hoà như cuốn “Bên giòng lịch sử” của linh mục Cao Văn Luận, hay “Những ngày chưa quên” … Lúc ấy việc đọc sách chẳng qua cũng chỉ để cho dễ buồn ngủ vào mỗi buổi tối chứ thật ra cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chúng tôi đều cho rằng đó là những sách báo nhảm nhí, viết không đúng sự thật. Một cuốn sách hình như có tựa đề là “Những bóng ma trong hồng trường” viết về những câu chuyện thâm cung bí sử trong Quảng trường đỏ thời Xô Viết, nói về chuyện dâm ô, loạn luân của các lãnh đạo Xô Viết, lúc bấy giờ đọc những chuyện ấy chỉ xem như những chuyện tiếu lâm, những hư cấu không có thật, chứ tuyệt nhiên không thể tin được. Thế rồi thời gian thấm thoát trôi qua với bao nhiêu biến chuyển, đổi thay của xã hội. Sài Gòn ngày ấy bây giờ chỉ còn trong ký ức của mỗi con người mà đã gắn bó, đã trải qua vào những giai đoạn lịch sử ấy. Tôi cũng đã luân chuyển qua nhiều vị trí, công việc khác nhau. Trong quá trình công tác tôi có may mắn được làm việc một khoảng thời gian ngắn với cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Khoảng thời gian này không dài nhưng lại là khoảng thời gian rất quý báu đối với tôi bởi vì đã học được nhiều điều và hiểu được nhiều điều từ cơ quan quyền lực cao nhất, từ người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Việt nam. Trong đó có những câu chuyện mà qua hàng chục năm giữ kín, “đào sâu chôn chặt”, suy xét, kiểm nghiệm đến ngày hôm nay mới dám nói ra, bởi vì nó có liên quan đến những con người và hoàn cảnh lịch sử của đất nước ta trước đây, ngày hôm nay, và có thể nó sẽ ảnh hưởng đến tương lai dân tộc ngày mai. Trước khi giữ chức vụ Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt nam cụ Nguyễn Văn Linh đã từng hoạt động và làm việc tại miền Nam gần 50 năm (cụ vào Sài Gòn hoạt động từ 1939), và đã từng đảm nhiệm hầu hết các chức vụ lãnh đạo cao nhất tại miền Nam trước và sau chiến tranh. Vì thế dù sinh trưởng trên quê hương Hưng Yên miền Bắc nhưng cụ đã thực sự như một người con của Nam bộ. Đến khi lên giữ chức Tổng bí thư cụ Nguyễn Văn Linh vẫn rất thường xuyên làm việc tại Sài Gòn, cụ sinh hoạt rất giản dị, khiêm tốn và kín đáo. Cụ ở trong khu vực riêng của Ban quản trị tài chính Trung ương, gọi là T78, khu vực này là một đoạn đường Trần Quốc Toản được đơn vị cảnh vệ ngăn lại hai đầu phố tiếp giáp với đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và đường Trần Quốc Thảo, thành một khu vực riêng biệt, có lối ra thông với đường Lý Chính Thắng (sau này mở thêm khách sạn Dạ Lý Hương). Có những hôm cụ vẫn xuống ăn cơm chung với cánh cán bộ chúng tôi ở nhà ăn tập thể cũng nằm trong khu vực này, cụ ăn uống đơn giản và không đồng ý có thêm bất cứ chế độ đặc biệt gì phục vụ. Hồi ấy phương tiện đưa đón cụ chỉ là loại xe Vonga đen của Nga sản xuất, mỗi lần xe của cụ đi thì trước đó lại có mấy cậu cảnh vệ mặc thường phục ngồi sẵn trên mấy chiếc xe Honda 67 “xoáy nòng” bí mật chạy trước chạy sau để xem xét, bảo vệ, chứ không phải dùng xe Police “còi hụ” hay xe “bồ câu trắng” bảo vệ như các cán bộ lãnh đạo sau này. Thế mà có lần tôi còn nghe cụ nhắc anh lái xe “chạy chậm chậm một tí không mấy cậu bảo vệ phải đuổi theo lại đụng vào dân thì khổ”, cụ biết và quan tâm đến tất cả những chuyện nhỏ như thế. Tôi còn nhớ, vào khoảng năm 1988 có lần phải xuống làm việc với đặc khu ủy Vũng tàu (lúc ấy Vũng tàu vẫn còn là đặc khu Vũng tàu-Côn đảo), làm việc xong vào cuối buổi chiều cụ lại muốn đi tắm biển một chút cho khoan khoái. Thế là đám cán bộ địa phương và lực lượng bảo vệ lại phải cuống quýt lo bố trí địa điểm kín đáo, an toàn. Đến khi cụ xuống tắm lại phải bố trí hàng chục cán bộ bảo vệ cùng tắm quanh khu vực, thậm chí có người không kịp chuẩn bị đồ tắm đã phải mặc cả đồ lót đi tắm và mặc luôn đồ ướt đi về. Sau khi biết chuyện ấy cụ mới tự trách : biết các cậu phải lo lắng kỹ lưỡng như vậy thì tôi tắm luôn trong phòng cho xong. Những ai đã sống trong thời điểm đó thì chắc đều không thể quên được chuyên mục “Những việc cần làm ngay” của cụ viết ký với bút danh N.V.L. Ngay từ khi những sự việc được báo chí đăng tải cụ đã trực tiếp đôn đốc hoặc phân công cho những cán bộ trực tiếp phụ trách theo dõi và phải hàng ngày báo cáo kết quả công việc cho cụ biết. Đúng theo tinh thần “Nói Và Làm”. Tiếc rằng lãnh đạo đất nước ta từ đó đến nay đã không xuất hiện thêm một ông “Nói Và Làm” nào nữa . Tôi vẫn thường nghĩ rằng nếu các lãnh đạo sau này và các lãnh đạo chính quyền cấp dưới có được quan điểm làm việc, đạo đức và cách sống như cụ thì chắc rằng người dân Việt nam sẽ có được cuộc sống no đủ và công bằng hơn rất nhiều. Vào khoảng thời gian trước khi về nghỉ, có lẽ nhận thấy sức mình không thể làm thay đổi được cả một bộ máy, một cơ chế cồng kềnh và bảo thủ, cũng lại do hiểu được tính bè phái và sự lộng quyền của những kẻ lãnh đạo cơ hội trong Đảng, cụ càng trở nên trầm tư hơn. Nếu ai có điều kiện lui tới gặp cụ tại nhà riêng thời gian này sẽ nhận thấy sự thất vọng và u uất thể hiện rõ trên khuôn mặt và thái độ của cụ. Ngoài quan hệ công việc tôi lại có quan hệ rất thân tình với cô Bình (Nguyễn Thị Bình) con gái cụ, tôi quen Bình từ lúc còn đang học ở Liên Xô, Bình cũng rất quý tôi, coi tôi như người anh . Có lẽ cũng vì thế mà mỗi lần tôi đến nhà cụ chơi hay có công việc gì đều thấy tự nhiên như người nhà. Sau này khi cụ Nguyễn Văn Linh thôi giữ chức Tổng bí thư Đảng, tôi không còn được làm việc với cụ nữa, nhưng thỉnh thoảng có dịp ra vào công tác tôi vẫn ghé thăm cụ, hoặc là ghé thăm Bình, vài tháng một lần. Mỗi lần gặp cụ lại hỏi thăm tình hình công việc, tình hình tổ chức nội bộ, tình hình các địa phương. Cụ tỏ thái độ than phiền với những người kế nhiệm và đặc biệt kêu ca về khâu tổ chức cán bộ và quy hoạch lãnh đạo cao cấp. Vài năm sau đó nữa, lúc này sức khỏe của cụ tỏ ra đã yếu hơn trước rất nhiều, cụ ít đi lại hơn. Một buổi tối tôi đến thăm cụ, thấy cụ có vẻ không được khỏe, tôi không dám nói chuyện nhiều, sau khi hỏi thăm cụ vài câu tôi định đứng dậy ra về, nhưng cụ bỗng khoát tay ra hiệu bảo tôi hãy ở lại chơi và sau đó lại kéo tôi vào buồng trong. Tôi hiểu là cụ muốn trao đổi một chuyện gì đó, chắc là quan trọng hơn. Vừa ngồi xuống là cụ hỏi ngay : mấy hôm nay cậu có theo dõi vụ Tổng công ty Tracodi mà báo chí vừa đưa tin không ? Tôi đáp : Dạ, có biết chứ ạ ! Nhưng cũng chưa rõ lắm đúng sai thế nào ? Cụ lại quay sang hỏi : Thế cậu có biết cái tay Tổng Giám đốc Phan Thanh Nam là người như thế nào không ? Tôi chợt hiểu ra có điều gì đó quanh vấn đề này, thời gian trước đó đã có dư luận xôn xao quanh chuyện Phan Thanh Nam là con rơi của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cánh cán bộ văn phòng chúng tôi đều có nghe nhưng vẫn không biết thực hư thế nào, nên cũng chỉ coi như một tin đồn nhảm. Bỗng cụ ghé sát gần tôi và nói : Những chuyện này mà tao không nói cho các cậu thì sau này sẽ chẳng có ai được biết đến nữa. Thế là bỗng nhiên tôi trở thành một nhân chứng để ghi nhận những sự kiện ghê ghớm thế này, những sự kiện đã gắn liền với lịch sử Cách mạng Việt nam nhưng không bao giờ được chép trong sử sách và nó là một bộ mặt thật hoàn toàn khác với những gì mà nhân dân được biết về lãnh đạo Việt nam, nhất là về lãnh tụ tối cao nhất : Hồ Chí Minh, con người mà bản thân tôi cũng từng ngưỡng mộ và tôn kính từ khi còn rất bé. Theo cụ Nguyễn Văn Linh kể thì Bộ chính trị lúc bấy giờ, (tất nhiên đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ chỉ đạo, điều này thì sau này không ai là không biết), biết rằng cụ Hồ gặp những thiếu thốn và khó khăn về tình cảm cá nhân, như chuyện muốn nối lại mối tình duyên với người vợ cũ ở Trung quốc nhưng đã bị phản đối (đây là một câu chuyện có thật đã được phía Trung quốc công bố từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước. Về việc này tôi lại nhớ về sự kiện bài báo “Bác Hồ có vợ ?” được đăng trên báo Tuổi Trẻ của tác giả Kiến Phước– Trưởng đại diện báo Nhân dân tại TP. Hồ Chí Minh, chính vì bài báo này mà sau đó Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ là Nguyễn Kim Hạnh, cũng chính là vợ ông Kiến Phước, bị mất chức. Sau này có lần đến chơi với hai vợ chồng Kiến Phước – Kim Hạnh ở trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, cũng gần khu T78, nhắc lại chuyện này họ lại buồn và phản ứng ghê lắm). Do vậy sau đó Bộ chính trị có bí mật sắp xếp nhiều người phụ nữ khác để chăm sóc và phục vụ cụ Hồ về mặt sinh hoạt tính dục. Đặc biệt, từ thuở còn thanh niên cụ Hồ đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật này đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết “đi tìm Út Huệ”), do vậy cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ chính trị đã chỉ đạo cho Trung ương cục miền Nam, mà lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ chính trị. Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Nguyễn Văn Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó đang chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc, có một cô còn trẻ và rất sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Đến lúc sự việc vỡ lở thì cô gái đã có thai được mấy tháng rồi. Thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là vị tổng Giám đốc Tracodi : Phan Thanh Nam sau này. Nghe đến đây tôi cảm thấy vô cùng sửng sốt và bỗng thấy rùng mình hết cả người. Rõ ràng người đang kể ra những sự việc đó là một người đã từng giữ trọng trách cao nhất trong Đảng cộng sản Việt nam, một người trong số vài ba người được biết rõ nhất, chính xác nhất về câu chuyện này, một người trong số vài ba người hiếm hoi biết được những chuyện thâm cung bí sử nhất trong Trung ương Đảng cộng sản, một người mà cái tuổi đã vượt quá ngưỡng “cổ lai hy” rồi . Như vậy không thể là nói thiếu chính xác hoặc vô căn cứ được, càng không thể là nói xấu tổ chức Đảng và lãnh tụ được. Như vậy những chuyện tày trời kia là có thật ư ? Tôi đang bần thần như người ngủ mê và còn chưa biết phải nói thế nào, cụ Linh lại nói tiếp : … cũng không phải chỉ riêng có Sáu Dân đâu (bí danh của Võ Văn Kiệt), mấy ông tướng nhà ta cũng đầy con rơi ra đấy, còn thằng Ba Dũng là con Nguyễn Chí Thanh, rồi thằng Trần Nam là con Trần Văn Trà hiện đang làm bên Học viện lục quân ấy. Thế là cụ lại kể cho tôi biết thêm những sự thật khác. Theo cụ Nguyễn Văn Linh thì trong thời gian tướng Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư liên khu ủy khu IV khoảng từ năm 1948 đến 1950 đã có quan hệ với một cán bộ phong trào ở đây và sinh ra Nguyễn Tấn Dũng, và cụ còn cho biết là sau Nguyễn Tấn Dũng vẫn còn một người em trai nữa cũng là con của tướng Thanh. Còn tướng Trần Văn Trà thì có quan hệ với một người phụ nữ quê ở miền Bắc (hình như là họ Hoàng, điều này tôi không còn nhớ rõ) rồi sinh ra Trần Nam, cũng là một sỹ quan quân đội đang công tác tại Học viện lục quân Đà lạt. Về Trần Nam thì hồi đó tôi không hề được biết một thông tin liên quan nào, chưa hề nghe đến danh tính. Rất gần đây tình cờ đọc báo về vụ công ty Rusalka của “siêu lừa” Nguyễn Đức Chi rồi hỏi thăm cán bộ ở dưới mới được biết Trần Nam chính là giám đốc công ty Lâm Viên thuộc Học viện lục quân – Bộ quốc phòng, có liên quan đến vụ án này. Sau buổi tối hôm ở nhà cụ Nguyễn Văn Linh ra về tôi bàng hoàng và băn khoăn nhiều lắm. Như vậy những thứ được gọi là tư cách, đạo đức, mẫu mực của các lãnh đạo cao cấp của Đảng ta thật ra chỉ là những thông tin tuyên truyền thôi ư ? Và những kẻ bày ra những trò này chắc cũng không ngoài mục đích nhằm thao túng cụ Hồ và thao túng cả Bộ chính trị ? Vậy thì đã có biết bao cô gái trẻ đã bị đánh mất tuổi thanh xuân và sự trinh trắng ở đó, và để đảm bảo tuyệt đối bí mật những thông tin này, dứt khoát phải có nhiều người đã bị thủ tiêu hoặc làm cho mất trí nhớ hoàn toàn. Như vậy những câu chuyện đồn thổi về những bóng ma trong quảng truờng Ba đình phải chăng cũng là có thật ? Thật bi thảm và khủng khiếp quá ! Bắt đầu từ câu chuyện đó nên sau này tôi đã cố tìm hiểu thêm những thông tin khác liên quan đến Ba Dũng. Khoảng năm 2000, trong cuộc trò chuyện với một thiếu tướng Quân đội đã nghỉ hưu có quan hệ khá thân thiết với tôi, ông này có thời gian đã công tác tại liên khu IV và V, ông ta cũng lại khẳng định với tôi rằng Nguyễn Tấn Dũng chính là con của Nguyễn Chí Thanh. Hiện nay vị tướng này vẫn còn sống và là ủy viên của Hội cựu chiến binh Việt nam, để tránh gây phiền phức cho ông nên tôi không dám nêu danh tính cụ thể lên ở đây Tôi đã tìm xem trong số những tài liệu lưu ở văn phòng có liên quan đến Nguyễn Tấn Dũng nhưng không thấy lộ ra chi tiết nào nói về chuyện này. Thế nhưng nhìn vào lý lịch và quá trình công tác của Ba Dũng rõ ràng có những điều bí ẩn sau đó. Ông ta chỉ là một cán bộ tầm trung bình, không có chuyên môn nghiệp vụ (thật ra được đào tạo làm y tá quân đội), trình độ văn hoá thấp, chưa được đào tạo cơ bản chính quy, không có thành tích đặc biệt, không có năng khiếu gì xuất chúng, thế nhưng lại có quá trình thăng tiến nhanh vượt bậc ( ?). Sau này, trong những lần làm việc với Nguyễn Tấn Dũng tôi lại càng thấy rõ những điều đó hơn và càng thất vọng rất nhiều. Quả là ông ta là một người năng lực rất kém. Về hình thức bề ngoài, từ trước đến nay ít có lãnh đạo Việt nam nào có được dáng dấp và khuôn mặt sáng láng như Ba Dũng, cái hình thức đó rất dễ làm cho những ai không biết tưởng rằng đó là một người rất thông minh, nhanh nhẹn. Thật ra tương phản với hình thức sáng láng đó là một não trạng rất tối tăm, dốt nát. Hồi mới về Trung ương có những lần nghe ông phát biểu mà mọi người đều không hiểu ông định diễn đạt điều gì, rất lủng củng, tối nghĩa, lại lúng túng, cụt lủn. Nhiều lần tham dự những cuộc họp do Ba Dũng chủ trì, tôi thấy ông ta không dám phát biểu gì, chỉ ngồi nghe các cơ quan cấp dưới phát biểu sau đó ông ta cũng chẳng dám có ý kiến kết luận gì cả. Phải trải qua năm, sáu năm “thực tập” ở cái ghế Phó thủ tướng thì ông ta mới tỏ ra là tự tin, biết chủ trì những cuộc họp lớn của cơ quan Đảng, Chính phủ, nhưng vẫn chỉ là cái kiểu nói lúng túng, nước đôi, nói hùa theo các ý kiến khác chứ không thấy tự tư duy được điều mới mẻ cả. Mặc dù có cả một cơ quan tham mưu giúp việc rất đồ sộ “mớm” cho từng văn bản, từng câu chữ nhưng mỗi lần phải “nói vo” anh ta đều phát biểu rất khó khăn, không có đầu đuôi gì cả. Suốt cả quá trình dài là người đứng đầu Chính phủ và phụ trách tất cả những mảng quan trọng nhất nhưng ông ta chưa làm được một việc gì đáng kể. Đặc biệt, Ba Dũng rất dốt ngoại ngữ, trong cuộc họp mà phát biểu những từ gì tiếng Anh thì toàn nói sai hoặc nói lung tung cho qua. Một con người năng lực yếu kém như vậy mà lại lên đến chức Phó thủ tướng, và nay là Thủ tướng Chính phủ thì quả là không hiểu nổi ? Quả là có một bí ẩn khủng khiếp ! Một dịp may khác ngẫu nhiên đến để tôi được kiểm chứng thêm lời nói của cụ Nguyễn Văn Linh. Đó là khoảng năm 2001, trong một lần tiếp xúc với lãnh đạo TP. Hồ Chí Minh tại ủy ban thành phố có một vị khách đến làm việc theo lịch đã hẹn, và tôi được giới thiệu người khách đó là Tư Thắng (Nguyễn Tiến Thắng), em ruột Ba Dũng. Người này nhìn bề ngoài giống hệt Ba Dũng, từ chiều cao, dáng người đến nét mặt, mái tóc và kể cả giọng nói, thậm chí kể cả cử chỉ, dáng điệu (Ba Dũng hay có thói quen hất cằm và khuôn mặt ra phía trước). Tư Thắng giống Ba Dũng đến mức chỉ nghe giới thiệu là có thể tin ngay rồi, chỉ khác một chút là nước da đen hơn Ba Dũng một chút và khuôn mặt có vài vết rỗ. Riêng về cách ăn mặc thì ngược hẳn với ông anh, phóng khoáng tự do, thể hiện là người không làm việc trong cơ quan chính quyền. Có lẽ đã nghe tên tôi từ trước, Tư Thắng chủ động tự giới thiệu trước và đưa danh thiếp có số điện thoại cho tôi (tôi vẫn còn giữ danh thiếp ấy và số điện thoại di động là 090845846, lúc ấy ĐTDĐ chỉ có 9 con số, hiện nay đều đã thêm số 3 nên sẽ là 0903845846), sau đó Tư Thắng còn mời tôi lúc nào rảnh rỗi thì đến chỗ anh ta chơi. Vì muốn tìm hiểu kỹ sự thật, có một buổi chiều sau giờ làm việc tôi đã lững thững đi bộ đến chỗ Tư Thắng. Theo địa chỉ Tư Thắng cho tôi biết thì đó là một căn nhà mặt tiền đường 3/2, gần ngã tư Cao Thắng (phía bên Nhà hát Hoà Bình), đó là một ngôi nhà lớn, vị trí rất đẹp, nhưng sau này tìm hiểu ra tôi mới được biết Tư Thắng có rất nhiều đất đai và biệt thự ở khắp các tỉnh Nam bộ, ngôi nhà này cũng chỉ là chỗ đi lại mà thỉnh thoảng ở Sài Gòn Tư Thắng mới ghé qua. Chính vì Tư Thắng muốn nhờ tôi giới thiệu thêm với một số lãnh đạo để giúp cho các công việc làm ăn của anh ta, tôi mới được biết là có rất nhiều công ty nằm dưới tay anh ta, đa phần là công ty TNHH. Các công ty này đều chỉ dựa vào thế lực và các mối quan hệ của Ba Dũng để tham gia vào rất nhiều lãnh vực khác nhau như : tài chính, ngân hàng, bất động sản, thương mại, xây dựng, tham gia các dự án nhà nước … Điều làm tôi quan tâm nhất là anh ta có quan hệ với rất nhiều người Đài Loan, đặc biệt trong mạng lưới các chân rết của Tư Thắng có một ngân hàng Đài loan hoạt động chui tại Việt nam là First China Bank (một đàn em tin cậy của ông ta được giao phụ trách việc này cũng tên là Dũng có số ĐTDĐ là 0913950661). Như vậy có thể hiểu được đây chính là những “sân sau” của Ba Dũng, và để tránh đụng chạm với các thế lực khác cạnh tranh, anh em ông Ba Dũng đã nhằm vào địa bàn hoạt động chủ yếu ở miền Trung và Nam bộ, sau đó việc rửa tiền và chuyển ngân lậu được thực hiện qua ngả Đài loan. Liệu có thế lực nào khác và bàn tay của cơ quan tình báo Đài loan nhúng vào những chuyện này không ? Chưa ai biết được chuyện đó ! Như vậy, đường đi và vị thế của ông tân thủ tướng Việt nam quả là có một quá trình đầy bí ẩn, đầy những bàn tay sắp đặt, chắc chắn đứng đằng sau ông ít nhất còn có hai người em là Nguyễn Tiến Thắng và Nguyễn Chí Vịnh (tổng cục trưởng Tổng cục tình báo quân đội, con trai chính thức được thừa nhận của tướng Nguyễn Chí Thanh) để lo thu xếp mọi việc từ tài chính đến an ninh chính trị. Lại cũng dễ hiểu khi con đường quan lộ của Nguyễn Tấn Dũng rộng mở song hành với sự thao túng và lộng quyền của Tổng cục hai trong tay Nguyễn Chí Vịnh (sự lộng quyền này, trong mấy năm gần đây có rất nhiều cán bộ cao cấp và cán bộ lão thành đã phản ánh đến các cơ quan Đảng). Nó là hai mệnh đề luôn bổ sung và giải nghĩa cho nhau. Từ mệnh đề đó có thể giải đáp được rất nhiều những câu hỏi khác. Sự liên quan và ràng buộc này nếu nhìn trên góc độ thực tế chắc chắn đã và sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu đến tương lai của đất nước. Bởi vì sự bè phái và những âm mưu thâu tóm quyền lực là những nguyên nhân lớn nhất gây nên đổ vỡ tan rã trong Đảng, đây là điều mà Hồ Chí Minh đã cảnh báo từ rất sớm. Trong thực tế chế độ ta chỉ chấp nhận một Đảng duy nhất lãnh đạo, những chia rẽ và yếu kém trong Đảng dứt khoát có nguy hại đến sự phát triển của đất nước, đến đời sống nhân dân. Nhất là trong tình hình hiện nay hai căn bệnh lớn nhất tồn tại trong Đảng đang bị xã hội lên án rất gay gắt và là nguy cơ thật sự , đó là tham nhũng và tranh giành quyền lực. Nếu những căn bệnh này còn tồn tại, không được giải quyết triệt để, sự tan rã chế độ sẽ là tất yếu. Rồi tập đoàn Dũng – Thắng – Vịnh sẽ đưa đất nước ta đến bờ vực thẳm nào ? Những sự việc cụ Nguyễn Văn Linh đã kể lại cho tôi chắc chắn cũng phải còn ít nhất là một vài người khác được biết, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai dám công khai nêu lên. Trước thực trạng đầy bất ổn của tình hình chính trị đất nước cùng với tấm lòng cảm mến và kính trọng cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, tôi nhận thấy chính mình phải có trách nhiệm nói ra những điều này, tôi xin hoàn toàn đảm bảo về tính trung thực và chính xác của sự việc này. Tôi cũng mong rằng sau khi sự thật này được đưa ra ánh sáng thì sẽ có thêm nhiều bằng chứng khác của các vị lão thành Cách mạng, của những ai có may mắn được biết đến những sự việc trên sẽ bổ sung đầy đủ hơn để bạch hoá hoàn toàn những bí ẩn này. Thứ nữa, tôi muốn thông báo đến giới trẻ, những người chủ tương lai của đất nước được biết rằng : có rất nhiều những sự thật mà các bạn không có cơ hội được biết đến, mà lẽ ra trong xã hội hiện đại truyền thông đa phương tiện ngày nay các bạn cần phải biết tất cả những sự thật, những điều trắng đen rõ ràng để tự xây dựng cho mình những tư duy sống, những quan điểm tự nhiên chứ không phải những ý thức hệ bị cưỡng bức, những tư tưởng bị chỉ đạo. Cuối cùng, tôi muốn gửi thông tin này đến tất cả mọi người dân với mong muốn rằng nhân dân chúng ta đều càng ngày càng được cởi mở hơn trong tiếp nhận thông tin, tiếp nhận sự thật. Những sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và dần dần cần được giải mã trước công chúng. Những sự việc gây ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước cần phải được minh bạch và công khai. Từ đó mỗi người dân cần có thái độ và đóng góp trách nhiệm của mình một cách rõ ràng trước những điều hệ trọng của đất nước. Nhân dân cần phải thay đổi thói quen chấp nhận để đời sống chính trị bị lệ thuộc bởi một cá nhân nào, một đảng phái nào, hay một thể chế nào, một chính phủ nào, mỗi người phải có quyền và nghĩa vụ tự quyết định cho riêng mình trong một xã hội văn minh, dân chủ.
Hoàng Dũng, Hà Nội, Cán Bộ Văn phòng Trung Ương
NGUỒN : LÊ QUỐC QUÂN Blog
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 25, 2014 10:00:31 GMT 9
BÊN THẮNG CUỘC (Chương 15)
TƯỚNG GIÁP
Huy Đức
Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông.
Vụ Án “ Năm Châu - Sáu Sứ ”
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương chỉ định về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội tại Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Cuối tháng 4-1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn đại biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa. Đợi vị tướng già cơm nước xong, Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không được phép họp với Đoàn, tướng Giáp bị yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong chiều hôm đó.
Năm ấy tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường Vinh - Hà Nội tuy chỉ hơn 300km nhưng bụi bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về phòng, viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn đại biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội, nơi ông sẽ phải ra trước Hội nghị Trung ương 12, đối diện với những cáo buộc chính trị mà về sau được gọi là vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”.
Tại Hội nghị Trung ương 12, Khoá VI, ông Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ chức, thay mặt Bộ Chính trị báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương một văn bản tuyệt mật nói rằng: Một vụ bè phái vi phạm nguyên tắc Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao đang diễn ra. Những người tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, cùng một số cán bộ cao cấp khác.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách an ninh, Trung tướng Võ Viết Thanh, nhớ lại: “Nghe ông Tâm nói, có cảm giác như đang có một âm mưu đảo chính để đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên làm chủ tịch nước sau đó thay ông Linh làm Tổng bí thư; đưa Trần Văn Trà lên làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thời gian trước Hội nghị Trung ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà Nội và bị giữ lại ở Nhà khách số 8 Chu Văn An. Văn bản tuyệt mật này được phổ biến tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm sao chép”.
Tướng Đồng Sỹ Nguyên, uỷ viên Bộ Chính trị Khoá VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện bịa đặt. Ông Giáp không chỉ là một đại tướng mà xứng đáng là một đại nguyên soái. Một người không chỉ coi trọng sinh mạng binh sỹ mà còn đặt danh dự của tổ quốc lên trên. Ông là một người thận trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ ‘chống Đảng năm 1967’, đưa ra tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án được dựng lên”. Ông Võ Viết Thanh kể thêm: “Tại hai Hội nghị 12 và 13 của Ban Chấp hành Trung ương, nhiều vị tướng trong Quân đội hết sức bức xúc, đứng lên phát biểu bảo vệ tướng Giáp. Cụ Võ Nguyên Giáp cay đắng: Đến một vị tướng đã đánh thắng Điện Biên Phủ mà người ta vẫn vu cho là con nuôi của mật thám Pháp”.
Gần tới ngày Đại hội, một hôm vào khoảng 9 giờ đêm, Bộ trưởng Nội vụ Mai Chí Thọ triệu tập một cuộc họp kín gồm có các thứ trưởng: Cao Đăng Chiếm, Phạm Tâm Long, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh. Ông Mai Chí Thọ nói: “Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh giao nhiệm vụ cho Bộ Công an làm rõ sai phạm của anh Giáp và anh Trà để xử lý cả về mặt Đảng và Nhà nước. Bộ chỉ đạo anh Võ Viết Thanh đảm nhiệm việc này”. Cả bốn vị thứ trưởng nghe đều phân vân, lo lắng. Ông Võ Viết Thanh nói: “Đề nghị Bộ trưởng trình bày lại với Tổng bí thư đây là những người có công với nước, nếu có sai thì Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xác minh làm rõ còn khi đã chuyển công an thì phải có dấu hiệu phạm tội”. Mai Chí Thọ dứt khoát: “Chúng ta phải thực hiện chỉ đạo của Tổng bí thư”.
Ông Võ Viết Thanh nói tiếp: “Nếu phải điều tra, tôi đề nghị nên giao cho anh Cao Đăng Chiếm hoặc anh Bùi Thiện Ngộ vì hai anh có kinh nghiệm trong ngành hơn tôi. Tôi không từ chối, nhưng tôi biết bản báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Tâm lấy nguồn tin từ một số người không tốt trong Cục II, Bộ Quốc phòng. Tôi cũng biết người đẩy ra vụ này là Đoàn Khuê. Cá nhân tôi với Cục trưởng Quân báo Tư Văn và Cục phó Vũ Chính có ý kiến khác nhau trong một số việc như: lợi dụng nghiệp vụ đi buôn lậu; tổ chức cài đặc tình vào nội bộ… Bây giờ nếu tôi làm vụ này nữa thì rất căng với Cục II”. Mai Chí Thọ gắt: “Ông phụ trách an ninh, không làm thì ai làm”. Võ Viết Thành đành phải: “Tôi xin chấp hành”.
Ông Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào Sài Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấn đề là tình hình nội bộ rất căng vì có tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi khi điều tra không nên làm khác báo cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất là Thiếu tướng Trần Văn Danh cũng nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời khuyên này xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của tướng Trần Văn Danh, nói: ‘Ở cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi đang được giao một công việc mà tôi không thể nào làm trái đạo đức và pháp luật’. Ba Trần nghe bắt tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng hộ tôi làm đúng”.
Ông Võ Viết Thanh kể tiếp: “Ngày 14-5-1991, tôi ra lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn Thị Sứ. Anh em thi hành không bắt tại nhà vì sợ động mà bắt bí mật, đưa về 258 Nguyễn Trãi. Vừa vào trại, Sáu Sứ hỏi: ‘Các anh ở phía nào?’. Anh em dằn mặt: ‘Chị không được phép hỏi như thế, chúng tôi là cơ quan an ninh, yêu cầu chị nói hết’. Sáu Sứ trả lời: ‘Tôi là người Cục II, yêu cầu được nói chuyện điện thoại với Tư Văn, Vũ Chính’. Anh em An ninh nói: ‘Chị là người phạm pháp, chị không được phép gặp ai cả’. Trong một ngày Sáu Sứ khai hết (173)”.
Không hề có một tổ chức nào do cụ Giáp đứng đầu như báo cáo của Nguyễn Đức Tâm đề cập. Theo ông Võ Viết Thanh, Sáu Sứ khai bà được Vũ Chính cấp tiền, cấp xe và đi gặp vị tướng nào, nói gì là đều theo chỉ đạo của Cục II. Thông qua một người tên là Năm Châu, từng công tác chung với ông Thanh Quảng, nguyên là thư ký của tướng Giáp, Sáu Sứ được đưa tới nhà Võ Nguyên Giáp cùng một số cựu chiến binh. Hôm Sáu Sứ đến, cụ Giáp đang ăn, nghe có đoàn Cựu chiến binh, cụ dừng bữa cơm để tiếp. Sáu Sứ mang theo một giỏ trái cây vào tặng rồi xin cụ Giáp cùng chụp ảnh với Đoàn. Toàn bộ cuộc gặp chỉ có vậy nhưng Sáu Sứ báo cáo: “Cụ Giáp đã đồng ý với kế hoạch”. Rồi theo ông Võ Viết Thanh: “Băng ghi âm cuộc nói chuyện của Sáu Sứ ở nhà tướng Giáp nghe không rõ nhưng Cục II vẫn xào nấu thành một bản báo cáo, theo đó: Đang có một vụ đảo chính, một vụ bè phái trong Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao trước Đại hội VII do tướng Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cùng một số cán bộ cao cấp khác tiến hành. Bản báo cáo này trở thành cơ sở để Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn Đức Tâm báo cáo trước Hội nghị Trung ương 12 về tướng Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, Chánh Văn phòng tướng Giáp, từ Hội nghị Trung ương 12 về nhà nghỉ trưa, tướng Giáp hỏi: “Cậu có nhớ ai tên là Năm Châu từng ở Nam Bộ ra đây gặp mình không?”. Ông Huyên nhắc lại sự việc xong, tướng Giáp ăn cơm rồi đi ngủ. Đến cận giờ họp buổi chiều, ông Huyên vào phòng thấy tướng Giáp vẫn ngáy khò khò, ông Huyên hỏi: “Việc đang thế này mà anh cũng ngủ được à?”. Tướng Giáp cười: “Cây ngay không sợ chết đứng”.
Trong khi đó, ngay sau khi Sáu Sứ bị bắt vào ngày 15-5-1991, theo ông Võ Viết Thanh: Cục II rúng động, Cục trưởng Tư Văn đổ bệnh. Trong ngày ông Võ Viết Thanh cầm bản cung của Sáu Sứ bay ra Hà Nội, 17-5-1991, tướng Lê Đức Anh viết một bức thư cực ngắn: “Kính gửi: Bộ Chính trị. Tôi xin không ứng cử vào Quốc hội khoá IX. Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê Đức Anh”. Do căng thẳng, tướng Lê Đức Anh ngay sau đó bị đột quỵ. Bác sỹ Vũ Bằng Đình, người trực tiếp cấp cứu, nói: “Ông Lê Đức Anh bị xuất huyết dạ dày, huyết áp tụt xuống bằng 0, hồng cầu chỉ còn một triệu. May mà cấp cứu kịp”.
Theo ông Võ Viết Thanh: “Ra Hà Nội, tôi làm báo cáo đưa ông Mai Chí Thọ đề nghị Bộ trưởng ký. Ông Mai Chí Thọ nói: ‘Cậu ký luôn, gửi và trực tiếp báo cáo anh Linh’. Ngay chiều hôm đó, Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà xếp lịch gặp Tổng bí thư. Nghe tôi báo cáo xong, ông Linh không nói gì. Nhưng, sáng hôm sau thì nhận được ‘điện mật’ của Văn phòng yêu cầu các nơi ngưng phổ biến và gửi trả văn bản do Nguyễn Đức Tâm ký về Văn phòng Trung ương. Sau đó, Trung ương không có một lời nào nói lại với tướng Giáp, còn tướng Trần Văn Trà thì vẫn bị giữ lại ở số 8 Chu Văn An”. Theo ông Võ Viết Thanh: “Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã không đưa kết luận về vụ Sáu Sứ ra báo cáo trước Hội nghị Trung ương và ngay cả các uỷ viên Bộ Chính trị cũng không mấy ai biết”. Thái độ của Tổng bí thư như một tín hiệu để ngay lập tức ông Võ Viết Thanh nhận được đòn “đánh dưới thắt lưng” của Cục II.
Theo ông Võ Viết Thanh, ngày 23-6-1991, khi đại biểu đã được triệu tập về Hà Nội: “Trước phiên họp cuối cùng của Hội nghị trù bị, Hồng Hà, Chánh Văn phòng Trung ương đưa tôi miếng giấy, ghi: ‘Đề nghị đồng chí Võ Viết Thanh đến giờ giải lao ra gặp Bộ Chính trị và Ban Bí thư có việc riêng’. Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khoá VII”.
Ông Võ Viết Thanh nói: “Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được(174). Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khoá, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận”(175). Cho dù giữ mình để bảo vệ Đại hội, tương lai chính trị của ông Thanh đã coi như khép lại. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nếu tôi cứ nghe lời khuyên, kết luận giống như bản báo cáo của Nguyễn Đức Tâm, thì tôi sẽ được thăng chức, đề bạt nhưng rồi tôi lại phải dấn vào bước thứ hai là ra lệnh bắt oan tướng Trà và tướng Giáp. Làm thế, thì lương tâm sẽ giết dần, giết mòn tôi” (176).
Năm ấy, tướng Giáp vừa tròn 80 tuổi (177). Ông không nằm trong bất cứ cơ cấu nhân sự nào, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”, nếu thành, chỉ có thể hạ bệ uy tín của ông trong Đảng. Khi Võ Nguyên Giáp đã là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Lê Đức Anh chỉ mới là một cán bộ ở cấp tiểu đoàn. Sự mặc cảm trước uy danh của tướng Giáp chỉ có thể được tích tụ thông qua hai người đã cất nhắc Lê Đức Anh: Lê Duẩn và, đặc biệt là, Lê Đức Thọ.
“ Cách mạng miền Nam ”
Mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp thoạt đầu được mô tả là khá thân thiện. Tướng Giáp kể: “Lúc mới ra Bắc, anh Lê Duẩn thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc. Anh đã nhiều lần nói với tôi, năm 1940 nhờ có chị Thái nên anh thoát khỏi án tử hình” (178).
Câu chuyện về “chị Thái” mà ông Lê Duẩn đề cập trên đây xảy ra năm 1940, trong phiên toà xử những người lãnh đạo “Nam Kỳ khởi nghĩa”, ông Lê Duẩn và Nguyễn Thị Minh Khai đứng đối diện trong song sắt trước toà. Minh Khai viết một bức thư nhỏ, gấp lại rồi ném cho Lê Duẩn, chẳng may thư rơi xuống gần người lính canh ngục. Nguyễn Thị Quang Thái đứng gần đó, nhanh chóng nhặt và nuốt ngay lá thư (179).
Khi phân công trong Đảng, Hồ Chí Minh nói: “Việc quân sự giao cho chú Giáp”. Cụ Hồ cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc học quân sự. Nhưng trên đường đi, Chiến tranh Thế giới II đưa người Pháp ở chính quốc vào thế thua, Hồ Chí Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông trở lại. Tướng Giáp vì thế chưa từng qua bất cứ một trường lớp nhà binh nào. Có lẽ, tư duy quân sự của ông hình thành trong những năm dạy sử.
Ngày 22-12-1944, tại Việt Bắc, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập Đội Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam với ba mươi bốn chiến sỹ trong đó có ba nữ (180). Ngay sau khi thành lập, Đội Tuyên truyền Giải phóng quân đã đánh thắng hai trận ở Nà Ngần và Phai Khắt, thuộc tỉnh Cao Bằng. Khi Nhật đảo chính Pháp, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mở rộng hoạt động quân sự từ Cao Bằng tới Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15-5-1945, tại Chợ Chu, Thái Nguyên, lực lượng này đã hợp nhất với Cứu Quốc quân, lập ra Việt Nam Giải phóng quân.
Mãi tới tháng 5-1940, Võ Nguyên Giáp mới sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh và tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương trong khi năm 1939 Lê Duẩn đã được bổ sung vào Thường vụ Trung ương Đảng. Tuy nhiên, trong thời gian Lê Duẩn gần như mờ nhạt ở miền Nam thì Võ Nguyên Giáp đã “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Theo ông Hoàng Tùng: “Khi mới từ miền Nam ra, cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều không thấy thoải mái khi ngồi cùng tướng Giáp”. Cho dù lịch sử gắn bó giữa Lê Đức Thọ và Lê Duẩn bắt đầu bằng một cuộc đụng độ (181). Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, Lê Đức Thọ đã đóng một vai trò quan trọng trong quy trình cán bộ đưa Lê Duẩn đạt đến đỉnh cao quyền lực (182).
Về phía mình, ông Giáp cũng đã rất giữ gìn, đặc biệt, với ông Lê Duẩn. Năm 1956, Trung ương Đảng thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh xin từ chức, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là chủ tịch Đảng kiêm thêm chức vụ Tổng bí thư. Theo Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, lúc đó đang là trợ lý về Đảng của Hồ Chí Minh: “Tháng 7-1956, tôi đề nghị Bộ Chính trị cử anh Ba làm phó Tổng bí thư để dễ làm việc, nhưng anh đã từ chối và nói, nên chờ đại hội quyết định. Tại hội nghị Bộ Chính trị bàn việc chuẩn bị đại hội, khi được đề nghị làm trưởng ban chuẩn bị Báo cáo Chính trị, anh cũng từ chối và nói, ‘đã mười năm không ở miền Bắc, chủ trì chuẩn bị báo cáo e khó khăn, vì vậy đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp tham gia’. Cuối cùng Bộ Chính trị đề nghị Bác làm trưởng ban, anh Ba làm phó” (183).
Ông Hoàng Tùng, khi đó là chánh Văn phòng Trung ương Đảng, kể: “Trong khoảng từ tháng 10-1956 đến tháng 7-1957, tôi được phân công giúp ông Giáp chủ trì hội nghị sửa sai. Khi Bác kiêm Tổng bí thư thay Trường Chinh, uỷ viên Thường trực Bộ Chính trị Võ Nguyên Giáp được cử giúp Bác giải quyết các công việc thường vụ”. Thời gian ấy, theo ông Hoàng Tùng, không khí sinh hoạt trong Bộ Chính trị diễn ra khá tế nhị, người cố gắng che giấu ý muốn được Hồ Chí Minh chọn trao chức Tổng bí thư, người hoạt động khá rốt ráo cho tham vọng ấy. Ông Hoàng Tùng kể: “Lê Đức Thọ gặp không ít đàn em gợi ý thẳng, ‘giờ đến lượt tao’. Những năm 1945, 1946, thế Lê Đức Thọ lớn lắm, chỉ sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh. Bác cử Lê Đức Thọ vào Nam cũng có ý không để hai ‘con hổ’ Trường Chinh, Lê Đức Thọ gần nhau. Nhưng khi Bác lấy phiếu thăm dò, không ai đề cử Lê Đức Thọ cả. Trong bốn ứng cử viên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cao phiếu hơn hẳn”.
Nhưng, đấy là những gì diễn ra trong năm 1960 tại Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, sau khi “đường lối cách mạng miền Nam” ngã ngũ.
Ngày 6-7-1956, hai tuần trước hạn thống nhất hai miền Nam Bắc theo Hiệp định Geneva, Hồ Chí Minh có thư “gửi đồng bào cả nước”, chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là kiên quyết tiếp tục đấu tranh thi hành Hiệp định Geneva, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình” (184). Ngày 9-7-1956, trong một cuộc mít tinh tổ chức tại Hà Nội, tướng Giáp có bài phát biểu dài diễn giải tinh thần bức thư ngày 6-7-1956 của Hồ Chí Minh (185), cho rằng: “Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hoà bình” (186).
Cũng trong thư đề ngày 6-7-1956, Hồ Chí Minh còn đưa ra sáng kiến: “Lập lại quan hệ bình thường và quyền tự do đi lại giữa hai miền, tạo điều kiện cho các đoàn thể chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội ở miền Bắc và miền Nam được liên lạc với nhau. Mở hội nghị hiệp thương gồm đại biểu của hai miền để bàn về vấn đề tổng tuyển cử tự do nhằm thống nhất nước nhà trên cơ sở Hiệp nghị Geneva” (187).
Đây không chỉ là quan điểm của tướng Giáp hay của Hồ Chí Minh mà là sách lược hoà hoãn của phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ sau khi Khrushchev thay thế Stalin chết ba năm trước đó (188). Thời gian đó, khi soạn Đề Cương Cách Mạng Miền Nam ở Sài Gòn, Lê Duẩn cũng cho rằng: “Đường lối tranh đấu của chúng ta cũng không thể ra ngoài đường lối hoà bình được. Chính đường lối tranh đấu hoà bình ấy mới tạo được lực lượng chính trị mạnh mẽ để chiến thắng âm mưu gây chiến và chính sách tàn bạo của Mỹ-Diệm” (189). Theo ông, thì hoà bình chính là “nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Nam” (190).
Trong khi tướng Giáp phân tích: “Chúng ta phải nhớ rằng: thế giới ngày nay chiến tranh có khả năng tránh khỏi nhưng nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại vì chủ nghĩa đế quốc vẫn tồn tại… đế quốc Mỹ đã vào miền Nam cho nên nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại ngay trên đất nước ta” (191). Thì quan điểm của ông Lê Duẩn vẫn là: “Việc thống nhất nước Việt Nam ta bằng phương pháp hoà bình có thể thực hiện được… Không có lý do gì mà gây chiến tranh… Nhân dân cả hai miền chống lại âm mưu chia xẻ và gây chiến của Mỹ-Diệm, đi đến hiệp thương, thương lượng giữa hai miền để hoà bình, thống nhất đất nước” (192).
Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương 8 khẳng định: “Kẻ thù cụ thể trước mắt của chúng ta hiện nay là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”. Hội nghị nhấn mạnh: “Muốn thống nhất nước nhà điều cốt yếu là phải ra sức bảo vệ miền Bắc đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”. Tháng 6-1956, Bộ Chính trị cũng đã họp và ra nghị quyết xác định nhiệm vụ cách mạng miền Nam là chống đế quốc Mỹ với phương châm: “Đấu tranh chính trị không có nghĩa là không dùng hình thức vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất định” (193).
Từ tháng 3-1957, sau Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân đội miền Bắc bắt đầu “thời kỳ xây dựng chính quy hiện đại”. Chủ trương “giải trừ quân bị” bắt đầu được thực hiện. Nhiều tướng lĩnh quân đội đã được chuyển sang làm kinh tế. Ngay cả Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng được cử vô Quảng Bình để làm “gió Đại Phong”. Bút Tre đã làm thơ : “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh / Anh về phân bắc, phân xanh đầy đồng”.
Ngày 4-6-1957, máy bay chở ông Lê Duẩn đáp xuống sân bay Gia Lâm sau một hành trình dài. Thời gian đầu, Lê Duẩn “chưa nhận một chức vụ công khai gì”, ông ở chung nhà khách với ông Phan Văn Đáng, cũng vừa từ Xứ uỷ Nam Bộ ra. Hai người vẫn thường “qua mặt” bảo vệ, lấy xe đạp đi chơi. Bảo vệ biết mà không dám ngăn, đành phải tháo van xì hơi và có lần vội quá châm kim cho thủng lốp. Hai người cũng đã từng chen chúc lấy “vé hạng chót” ở rạp Hồng Hà, đứng bám cột kèo nhà hát, coi cải lương (194).
Trước khi ông Lê Duẩn ra Hà Nội, đấu tranh vũ trang đã được những người soạn thảo Nghị quyết 15 coi như là con đường không thể tránh. Ông Hoàng Tùng kể: “Suốt mùa xuân năm 1957, tôi cùng Trần Quang Huy đi Đồ Sơn chuẩn bị Đề Cương Cách Mạng Miền Nam. Chúng tôi nêu lên phương hướng: không thể hoà bình mà phải đương đầu đấu tranh giải phóng Miền Nam”. Tuy nhiên, ông Hoàng Tùng thừa nhận: “Nhờ có thời gian lăn lộn ở chiến trường, Lê Duẩn là người phát triển, hoàn chỉnh Nghị quyết 15”.
Theo ông Hoàng Tùng: “Khi ấy, Bộ Chính trị không có ảo tưởng hoà bình, nhưng phát biểu công khai thì phải thế. Bác cũng không nghĩ thế, nhưng nếu để lộ ra, Trung Quốc và Liên Xô sẽ rầy rà mình”. Nhưng, theo ông Hoàng Tùng, khi Lê Duẩn vừa ra Bắc, ông chưa quen với cách mà các nhà lãnh đạo ở Hà Nội phải đối phó với “hai ông anh” của mình, thấy tranh cãi về Nghị quyết 15 như thế, đến giờ giải lao, ông nói với tôi: “Hoà bình vui vẻ rồi, họ muốn miền Nam chết, họ bỏ rồi”. Hoà hoãn không chỉ thể hiện trên ngôn ngữ như ông Hoàng Tùng nói vì năm 1958, Sư đoàn 332 vẫn bị giải thể, hai mươi vạn quân thường trực được chuyển đi làm kinh tế (195).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Khi từ miền Nam ra Trung ương, anh (Lê Duẩn) nói, ‘điều vui mừng nhất là biết Trung ương đã sớm xác định Mỹ là kẻ thù chính’ và ‘ra đây mới thấy hết tình hình khó khăn phức tạp chưa thể phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam sớm hơn” (196). Tướng Lê Đức Anh xác nhận, cuối năm 1957, khi gặp Lê Duẩn ở Bộ Quốc Phòng, ông đã nói: “Ra Bắc mới được vài tháng mà tôi thấy tình hình quốc tế, tình hình trong nước phức tạp quá”.
Trong thời gian chủ trương chưa dứt khoát đó, hàng vạn đảng viên Cộng sản đã bị bắt, bị giết bởi những chiến dịch tố cộng của Chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngược lại, từ đó cho đến năm 1960, “mỗi năm có khoảng 2.500 quan chức miền Nam Việt Nam bị ám sát” (197). Trên thực tế, các hoạt động du kích là chưa bao giờ ngưng cả, nhưng, tới năm 1959 thì hoạt động này chuyển lên mạnh hơn.
Theo Kissinger, “đến cuối nhiệm kỳ của Chính quyền Eisenhower, chính quyền Nam Việt Nam đã nhận được từ Mỹ hơn một tỷ đôla viện trợ; có 1.500 người Mỹ ở miền nam Việt Nam với 692 thành viên nằm trong nhóm cố vấn quân sự; đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trở thành một trong những phái đoàn lớn nhất của Mỹ trên thế giới” (198).
Trận “đánh Mỹ” đầu tiên diễn ra ngày 2-1-1963 ở một ấp chiến đấu cách thị xã Mỹ Tho 14 km có tên là Ấp Bắc (199). Nhưng cũng trong năm 1963, khi được giao soạn thảo bản báo cáo chính trị cho Hội nghị Trung ương 9, ông Hoàng Minh Chính (200) vẫn dựa trên lập trường “chung sống hoà bình” của Khrushchev. Bản báo cáo của ông không được lựa chọn. Tháng 12-1963, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn triệu tập Hội nghị Trung ương 9, đưa ra dự thảo nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Hoàng Minh Chính bảo lưu ý kiến bằng cách phân phát cho một số uỷ viên Trung ương dự Hội nghị một bài viết của ông có tên Về Chủ Nghĩa Giáo Điều Ở Việt Nam. Một số uỷ viên Trung ương đã hưởng ứng lập trường này như Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm (201).
Từ năm 1964, nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” đã làm cho khoảng bốn mươi người đang học và đang công tác ở Liên Xô xin “tị nạn”, trong đó có những người từng gần gũi với tướng Giáp như Phó Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Hà Nội Nguyễn Minh Cần; Chính uỷ Sư đoàn 308, Phó Chính uỷ Quân khu III, Đại tá Lê Vinh Quốc; nguyên Tổng Biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, Thượng Tá Ðỗ Văn Doãn,…
Sau Hội nghị Trung ương 9, vấn đề của “cách mạng miền Nam” không còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi thái độ của Trung Quốc hay Liên Xô. Trong Đảng cũng đạt được một đường lối chung: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam”. Từ tháng 9-1963, một phó tổng tham mưu trưởng được đưa vào Nam (202) và ngay trong thời gian ông Lê Duẩn đang chủ trì Hội nghị Trung ương 9, hàng trăm sỹ quan cấp chiến thuật bắt đầu được đưa về các trung tâm huấn luyện (203).
Tuy nhiên, ở Hà Nội, theo Cục trưởng Tình báo Quân đội Lê Trọng Nghĩa: “Đầu năm 1964 khi viết Nghị quyết 9 thành văn, họp Trung ương vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, Nghị quyết 9 dừng lại ở mức độ: đánh thắng Mỹ nhưng giữ nó ở mức độ chiến tranh đặc biệt, tránh để chiến tranh mở rộng ra miền Bắc”.
Những năm đầu thập niên 1960, ở miền Nam, “Ngô Chí Sĩ” bắt đầu được mô tả như là một “độc tài gia đình trị” (204). Ngày 24-8-1963, Henry Cabot Lodge, người vừa sang Sài Gòn làm đại sứ nhận được chỉ thị từ Washington yêu cầu cách chức Nhu và cảnh báo Diệm rằng, nếu ông ta từ chối, Hoa Kỳ sẽ phải “đối diện với khả năng chính bản thân ông Diệm không thể được bảo toàn” (205). Ngày 1-11-1963, các tướng lĩnh Sài Gòn đã đảo chính. Hai anh em ông Diệm phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam và sau đó bị bắn chết (206).
Ba tuần sau, ngày 22-11-1963, tại Dallas, Texas, Tổng thống Kennedy bị ám sát. Vị tổng thống mới, Lyndon Baines Johnson, bắt đầu coi sự xuất hiện của quân đội chính quy miền Bắc ở miền Nam là “xâm lược”. Ngày 21-12-1963, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara báo với Johnson rằng, nước Mỹ phải đối mặt với sự lựa chọn: leo thang can thiệp quân sự hoặc để cho miền Nam sụp đổ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 25, 2014 10:02:22 GMT 9
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Một tháng sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lại nhóm họp, đẩy cách mạng miền Nam lên một tầm mức rõ ràng hơn: “Đã đến lúc miền Bắc cần tăng viện trợ cho miền Nam, miền Bắc phải phát huy hơn nữa vai trò là căn cứ cách mạng cho toàn đất nước”. Không lâu sau đó, Sư đoàn 325 được đưa vào “Chiến trường B” (207).
Người Mỹ không ngồi yên khi nhịp độ chi viện quân sự từ miền Bắc vào Nam ngày càng tăng cao. Mỹ chủ trương đánh mạnh vùng Hạ Lào và ngoài Biển Đông, Hạm đội Bảy dịch chuyển dần lên rồi đưa tàu USS Maddox vào vịnh Bắc Bộ. Trực Ban Tác chiến Quân uỷ Trung ương tuần lễ đầu tháng 8-1964, Cục trưởng Quân báo, Đại tá Lê Trọng Nghĩa, kể: “Nguồn tin của chúng tôi cho biết, sau khi tàu Maddox di chuyển hỗ trợ cho các máy bay của hải quân Mỹ ném bom Nậm Căn, nhằm quấy rối, chặn đường chi viện miền Nam sẽ quay về Hạm đội Bảy. Quân uỷ cũng nhận định không có dấu hiệu Mỹ dùng tàu Maddox đánh ra miền Bắc”.
Ngày 2-8-1964, khi chiếc tàu USS Maddox di chuyển từ phía Bắc Việt Nam vào vùng biển Hòn Mê, thuộc địa phận Thanh Hoá, nó đã bị một đơn vị hải quân miền Bắc dùng tàu phóng ngư lôi bắn trúng mũi. Thương vong không đáng kể, nhưng “Capitol Hill đã náo loạn”. Ngày 4-8-1964 hệ thống ra đa của USS Maddox nhận được tín hiệu sẽ có một cuộc tấn công thứ hai. Mặc dù, về phía Việt Nam, “nhật ký chiến sự không ghi nhận bất cứ sự kiện gì vào ngày 4-8 cả” (208).
Vụ tàu USS Maddox đã khiến cho lòng kiêu hãnh của những người Mỹ ở Washington bị thách thức. Ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ lần đầu tiên thi hành một số phi vụ bắn phá trên miền Bắc. Ngày 7-8-1964, 100% nghị sỹ ở Hạ viện và sau đó 98/100 thượng nghị sỹ bỏ phiếu thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”; theo đó, cho phép tổng thống toàn quyền hành động quân sự với miền Bắc cộng sản. Một tuần sau, từ Thanh Hoá, 160 sỹ quan chính quy kết thúc sớm lớp huấn luyện, bắt đầu hành trình vượt Trường Sơn (209).
Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Khi ‘sự kiện Vịnh Bắc Bộ’ xảy ra, cả Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh đều đi vắng. Trung Quốc và Liên Xô cùng làm ầm lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải chủ trì họp kiểm điểm. Vào họp Hồ Chí Minh đặt vấn đề rất nghiêm: Ai ra lệnh? Hôm xảy ra vụ tàu Maddox, trực Quân uỷ Trung ương là tướng Trần Quý Hai, tôi là trực ban tác chiến chịu trách nhiệm nắm tình hình địch. Trần Quý Hai nói là đã báo cáo Bộ Chính trị trước khi ra lệnh nhưng kiên quyết không nói cụ thể báo cáo ai. Võ Nguyên Giáp yêu cầu phải kỷ luật. Trong khi, Văn Tiến Dũng nói, ‘mình không đánh nó thì nó cũng sẽ đánh mình, bản chất đế quốc là thế’. Cuối cùng Trần Quý Hai nhận kỷ luật cho dù ai cũng biết phía sau lệnh này là ai” (210).
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” trở thành lý do để những người chủ chiến ở cả phía Mỹ và Việt Nam đẩy nhịp độ chiến tranh lên mức cao hơn. Từ miền Bắc, viên tướng đứng đầu xu hướng đánh thắng Mỹ bằng quân sự, Nguyễn Chí Thanh, được cử vào Nam trực tiếp làm bí thư Trung ương Cục. Cùng đi có các tướng Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hoà, Hoàng Cầm và Trần Độ.
Chỉ ít lâu sau, tháng 2-1965, Bộ Chỉ huy Miền Nam quyết định mở Chiến dịch Đồng Xoài. Đồng thời, ở Cao Nguyên, một cuộc tấn công lớn đã được nhắm vào khu ở của cố vấn Mỹ ở thành phố Pleiku. Người Mỹ trả đũa bằng cách mở một đợt tấn công bằng không quân vào miền Bắc. Cuộc tấn công này nhanh chóng biến thành một chiến dịch ném bom có hệ thống với mật danh “chiến dịch Sấm rền”. Sự kiện này đã đặt miền Bắc vào tình thế chấp nhận để cho một lực lượng quân nhân của các nước xã hội chủ nghĩa bí mật có mặt trên miền Bắc.
Năm 1964, ông Lê Duẩn từng dự định “giành chính quyền Sài Gòn” trong năm 1965 bằng cuộc đảo chính của Đại tá Phạm Ngọc Thảo kết hợp với một cuộc tổng tiến công, nhân khi “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ được coi là “phá sản” còn quân Mỹ thì chưa được đưa vào tham chiến. Đại tá Thảo được ông Lê Duẩn “đánh vào” chính quyền Ngô Đình Diệm với vỏ bọc “người trí thức tham gia kháng chiến trở về với chính nghĩa quốc gia”. Còn cuộc tổng tiến công thì theo ông Võ Văn Kiệt, năm 1964, chỉ riêng Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định đã cho thành lập năm “phân khu”. Cũng trong năm 1964, từ Hà Nội, ông Lê Duẩn đã cử một “bộ khung” vào Nam.
Một thành viên trong “bộ khung” này, ông Kiều Xuân Long, kể: “Chúng tôi bắt đầu đi B cuối năm 1964, đích thân Lê Duẩn và Tố Hữu tiễn đưa. Đầu năm 1965, chúng tôi tới Tây Ninh, gặp cán bộ Trung ương Cục, họ thúc, ráng đi lẹ lên coi chừng không kịp”. Đồng tiền “miền Nam Việt Nam” cũng được in và chuyển vào Trung ương Cục với mật danh: “Hàng 65”. Nhưng cuộc đảo chính do Phạm Ngọc Thảo cầm đầu thất bại. Giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến bắt đầu.
Ngày 8-3-1965, lính Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và tháng 7 năm ấy bắt đầu tham chiến tại miền Nam. Đáp lại, trong tháng 9-1965, hai đơn vị chủ lực cơ động của Nam Bộ, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 5, lần lượt được thành lập; tháng 6-1966, Miền cho lập thêm Sư đoàn 7. Từ đó, quân đội Mỹ tiếp tục được ồ ạt đưa sang cho đến khi đạt con số 543.000 người vào năm 1968.
Mậu Thân và tham vọng của Lê Đức Thọ
Cuối năm 1966, khi trả lời phỏng vấn Harrison Salisbury, phóng viên tờ New York Times, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rằng, Hoa Kỳ đúng là “mạnh hơn rất nhiều về quân sự”, nhưng, theo ông: “Cuối cùng sẽ thất bại vì có nhiều người Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho Việt Nam hơn người Mỹ”.
Sức chịu đựng của nền chính trị Mỹ bắt đầu bị thách thức khi số lính Mỹ chết ở chiến trường Việt Nam lên tới con số hàng trăm mỗi tuần. Từ năm 1961 cho tới đầu năm 1968, có 31.000 người Mỹ bị chết và mất tích ở Việt Nam. Cảnh chết chóc của binh lính và đặc biệt là dân thường được chiếu mỗi tối trên máy truyền hình bắt đầu có trong phòng ngủ của các gia đình Mỹ.
Theo mô tả của Henry Kissinger, “McNamara mong muốn kết thúc chiến tranh một cách tuyệt vọng, và nhiều lần khẩn khoản tôi moi bất cứ dấu hiệu lờ mờ nào, cho dù là gián tiếp, có thể giúp ông thúc đẩy công cuộc đi tới một kết cục bằng thương lượng” (211). Ngày 7-4-1965, Tổng thống Johnson tuyên bố tại Baltimore: “Mỹ sẵn sàng thương lượng không điều kiện”. Cuối tháng 12-1965, người Mỹ cử Harriman, một nhà ngoại giao, tới Ba Lan để nhờ Ba Lan làm trung gian thương lượng với Hà Nội.
Ngày 2-1-1966, J. Mikhalowski, thứ trưởng kiêm Tổng thư ký Bộ ngoại giao Ba Lan, tới Hà Nội và thông báo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mỹ rất linh hoạt. Họ sẵn sàng tìm mọi cách để thương lượng. Mikhalowski nài nỉ: “Cần phải có một sáng kiến. Phải tiến lại với những ý kiến chứng tỏ chúng ta muốn hoà bình, và qua đó các đồng chí sẽ tranh thủ được dư luận thế giới về mình” (212). Nhưng cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều cự tuyệt (213).
Ngày 14-6-1966, một nhà ngoại giao người Canada được gửi tới Hà Nội, nhưng chuyến đi của ông cũng thất bại. Tiếp đó, ông Jean Sainteny, người từng ký với Hồ Chí Minh bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, đã được Tổng thống Pháp cử tới Việt Nam.
Ngày 1-7-1966, tại Hà Nội, Sainteny cho biết: “Mỹ đang tìm một giải pháp để khỏi mất thể diện và chính Việt Nam mới ở thế thắng. Mỹ đã bị đánh bại. Đối với một nước nhỏ mà làm cho Mỹ không thực hiện ý đồ là đã ở trong thế thắng rồi” (214). Rồi Sainteny thuyết phục Phạm Văn Đồng: “Cần nghĩ đến chiến tranh nhưng cũng cần nghĩ đến hoà bình. Một ngày nào đó sẽ phải thương lượng” (215).
Đúng lúc ấy, Hồ Chí Minh được mô tả là đã bước vào phòng, cắt ngang cuộc gặp giữa Sainteny và Phạm Văn Đồng: “Nếu ông có gặp người Mỹ, ông hãy nói cho ho rằng chúng tôi không sợ Mỹ, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, dù có phải hy sinh tất cả” (216). Hôm sau, ngày 5-7-1966, trong cuộc tiếp chính thức, Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Chúng tôi hiểu đế quốc Mỹ. Chúng tôi biết sức mạnh của họ. Họ có thể san bằng Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh và các thành phố khác. Điều đó không hề làm yếu quyết tâm chiến đấu đến cùng của chúng tôi ” (217).
Từ năm 1967, người Mỹ bắt đầu thiết lập một kênh liên lạc với Việt Nam qua người Pháp. Giữa tháng 7-1967, Henry Kissinger trở thành người trung gian khởi động tiến trình thương lượng. Cho đến lúc ấy, người Mỹ không hề biết rằng, ông Lê Duẩn đang có trong tay một kế hoạch đầy tham vọng mà về sau được các nhà báo Mỹ gọi là “Tet Offensive” và các văn kiện chính thức của Hà Nội gọi là “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968”.
Trong “chiến tranh giải phóng miền Nam”, cho dù tướng Giáp vẫn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tổng tư lệnh, bí thư Tổng Quân uỷ, nhưng theo ông Lê Trọng Nghĩa: “Thay vì ông Giáp là người quyết định, ông Lê Đức Thọ có sáng kiến lập ra Tổ năm người giúp Trung ương chỉ đạo tác chiến miền Nam gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê Đức Thọ. Trong tổ này, ông Giáp chỉ còn một phiếu”.
Chiến dịch Mậu Thân được lên kế hoạch sau “những cuộc họp liên miên” mà các bên tham gia đã phải “tranh cãi gay gắt”. Đại tá Lê Trọng Nghĩa, người dự hầu hết những cuộc họp này, nói: “Trong Quân uỷ xuất hiện hai xu hướng khác nhau: Một xu hướng cho rằng phải đánh bằng quân sự thì mới giải quyết được cách mạng miền Nam, xu hướng này do Nguyễn Chí Thanh phát ngôn và phía sau là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Một xu hướng đồng ý đánh, nhưng vừa đánh vừa cân nhắc tình hình chính trị, nếu khi nào khả năng chính trị xuất hiện thì nắm lấy cơ hội đàm phán hoà bình, người đứng đầu xu hướng này là Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh. Tuy nhiên, tới tháng 6-1967 thì đôi bên đi đến thống nhất: đánh; một ý đồ chiến lược được hình thành gọi là Kế hoạch 67-68”.
Chiều 5-7-1967, Bộ Chính trị làm cơm tiễn đưa Nguyễn Chí Thanh trở lại miền Nam, cùng dự có Hồ Chí Minh. Sau bữa cơm, tướng Thanh có ngồi lại khá lâu với tướng Giáp. Người thân của ông kể lại rằng: Sau một đêm trằn trọc bên người vợ tại nhà riêng ở số 34 Lý Nam Đế, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị choáng mệt. Lúc gần sáng, ông được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Quân y 108, nhưng khi vừa được đặt nằm xuống giường bệnh thì từ ông “phát ra tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”. Khoảng chín giờ sáng ngày 6-7-1967, Nguyễn Chí Thanh mất với kết luận của bệnh viện là do “nhồi máu cơ tim”.
Vị tướng đại diện cho xu hướng “giành chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự” vừa ra đi thì có hai sứ giả mang thông điệp hoà hoãn từ Washington tới: ông Raymond Aubrac và Herbert Marcovich. Aubrac là người quen cũ của Hồ Chí Minh trong thời kỳ ông tới Paris dự Hội nghị Fontainebleau (218). Sự ra đi đột ngột của tướng Thanh cũng làm cho ông Giáp bị sốc, ngay sau tang lễ Nguyễn Chí Thanh, tướng Giáp được đưa đi Hungary dưỡng bệnh. Hồ Chí Minh tiếp các sứ giả Washington khi bên mình không còn hai đại tướng. Ông bắt đầu nói về đàm phán.
Ngày 24-7-1967, “Aubrac cảm thấy có dấu hiệu mới mẻ” (219) khi gặp Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng gần như đã bàn chi tiết phương thức tiến hành đàm phán (220) với điều kiện Mỹ ngưng ném bom miền Bắc.
Ngày 25-8-1967, Aubrac và Marcovich chuyển tới tổng đại diện Việt Nam tại Paris thông điệp thương lượng đầu tiên của Chính phủ Mỹ gửi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Hoa Kỳ sẵn sàng chấm dứt ném bom bắn phá bằng không quân và hải quân ở miền Bắc Việt Nam với sự hiểu biết răng việc đó sẽ nhanh chóng đưa tới những cuộc thảo luận có hiệu quả giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để tiến tới giải quyết những vấn đề đang làm hai nước chống đối nhau” (221).
Không ai biết rõ thông điệp trên đây của Washington có được miền Bắc chuyển đến lãnh tụ tối cao hay không. Khi miền Bắc trả lời thì Hồ Chí Minh đã không còn ở Hà Nội nữa. Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Ngày 5-9-1967, Hồ Chí Minh được đưa đi nghỉ ở Bắc Kinh. Chúng tôi nhận được thông báo từ Ban Tổ chức Trung ương của Lê Đức Thọ: Bác mệt, phải đi nghỉ đông, từ nay, những ai trước trực tiếp làm việc với Bác thì làm việc với đồng chí Lê Duẩn”.
Ngày 11-9-1967, Mai Văn Bộ trao cho Aubrac và Marcovich trả lời của Hà Nội: “Thông điệp của Mỹ đã được trao sau một cuộc leo thang đánh phá Hà Nội và với sự đe doạ liên tục đánh phá Hà Nội. Rõ ràng đó là một tối hậu thư đối với nhân dân Việt Nam. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kiên quyết bác bỏ nhưng đề nghị trên đây của Mỹ” (222). Một kế hoạch mang tên San Antonio, theo đó, Mỹ sẽ “chấm dứt hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam - để đổi lấy các cuộc đối thoại, miễn là Hà Nội không lợi dụng việc ngừng ném bom” (223), vẫn được người Mỹ đưa ra. Ngày 29-9-1967, Johnson đồng ý “Kế hoạch San Antonio”, nhưng theo Kissinger, Hà Nội đã bác bỏ nó.
Theo ông Trần Việt Phương, thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Lê Đức Thọ và Lê Duẩn không thể đưa hai con người đang nắm quyền và có nhiều uy tín đó đi đâu nếu hai người không đồng ý. Việc Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đi ra nước ngoài được giải thích là để nghi binh. Để thế giới tin rằng, miền Bắc không thể triển khai một kế hoạch to nếu hai nhân vật quan trọng vào bậc nhất đó không có mặt ở Hà Nội”.
Những diễn biến sau đó cho thấy câu chuyện không đơn giản là một cuộc nghi binh. Đại tá Lê Trọng Nghĩa nói: “Hai mươi ngày sau khi Nguyễn Chí Thanh mất, ngày 27-7-1967, Hoàng Minh Chính bị bắt. Hơn một tháng sau khi Hồ Chí Minh được đưa tới Bắc Kinh, ngày 18-10-1967, người thư ký thân cận nhất của ông là Vũ Đình Huỳnh cũng bị bắt”. Một vụ án được nói là “Chống Đảng” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn, trực tiếp chỉ đạo, bắt đầu khởi động.
Cái chết của tướng Nguyễn Chí Thanh không làm thay đổi quyết tâm dứt điểm chiến trường miền Nam của ông Lê Duẩn. Theo tướng Giáp: “Anh Thanh mất khi chỉ mới có ý đồ chiến lược đánh vào thành phố chứ chưa hề có kế hoạch tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân”. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Võ Nguyên Giáp ở Hungary và Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh, một kế hoạch được đặt tên là “Chiến dịch Quang Trung” được gấp rút xây dựng.
Hồ Chí Minh được đưa về Hà Nội khi cuộc Tổng tiến công đã gần kề. Theo ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông, ngày 21-12-1967, Văn phòng Trung ương điện “mời Bác về dự họp Bộ Chính trị”. Ngày 23-12-1967, chuyên cơ chở Hồ Chí Minh về tới Gia Lâm. Ông Vũ Kỳ viết: “Máy bay lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch mười lăm độ. Đồng chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác” (224).
Ngay sau khi khách khứa rút lui, việc đầu tiên mà Hồ Chí Minh làm là gọi điện tới Quân uỷ Trung ương để hỏi thăm sức khỏe tướng Giáp. Theo ông Vũ Kỳ, khi nghe Quân uỷ nói Đại tướng đang ở nước ngoài, Hồ Chí Minh nhắc gửi quà và thiệp cho vợ chồng “chú Văn”. Ông nói: “Nô-en và Tết dương lịch bên ấy cũng như Tết ta của mình. Tâm lý của những người xa quê hương rất mong có một món quà của tổ quốc” (225). Không chỉ hiểu tâm trạng của vị tướng đang bị đặt ra ngoài thời cuộc, theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Hồ Chí Minh lo cho sự an toàn của tướng Giáp”.
Từ Hungary, ngày 20-9-1967 tướng Giáp gửi thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu: “Cậu Hiếu, bọn mình còn ở lại đây ít hôm nữa. Chắc Hoàng đã có thư. Rất mong thư nhà. Nhớ liên lạc với anh Thạch, anh Tiến, khi nào có đoàn sang thì gửi mình”. Theo Đại tá Hiếu, “anh Thạch” và “anh Tiến” trong bức thư này là Nguyễn Cơ Thạch và Hoàng Văn Tiến, cựu thư ký của tướng Giáp, lúc đó đang công tác tại Bộ ngoại giao. Bức thư tướng Giáp cho thấy ông đã bắt đầu “đói thông tin” và, thay vì được báo cáo qua con đường chính thức, phải tìm hiểu tình hình trong nước qua những người tin cẩn.
Ngày 11-11-1967, tướng Giáp gửi cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu lá thư thứ hai từ Hungary: “Hiếu, đã nhận được thư của Hiếu gửi cho đoàn, sau đó nhận được thư dài hơn viết từ trước. Sức khỏe tôi khá hồi phục nhưng chưa khỏi hẳn. Hoàng sẽ nói rõ. Hiếu xem, lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào để có thể chuẩn bị trước. Thăm các cậu ở báo Quân Đội Nhân Dân, Cục I, Cục II và các cục khác. Nghe nói bài báo của ta có chỗ lộ bí mật (Hoàng Tùng nói), như thế là không đúng. Ta đã cân nhắc rất kỹ”.
Theo Đại tá Hiếu, đọc lá thư viết trên postcard này, ông rất lo lắng. Tại sao tổng tư lệnh đương chức lại băn khoăn “lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào?” Đại tá Hiếu kể: “Khi anh Văn ở Hungary, ở nhà họp Quân uỷ tôi đã nhiều lần phải chịu đựng những lời nói xấu anh Văn một cách công khai. Trước đó, Quân uỷ rất đoàn kết nhưng, có thời gian Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng lôi kéo một số cán bộ cô lập anh Văn. Trước khi vào Nam, có thời gian Nguyễn Chí Thanh hay bóng gió: ‘Ở nhiều nước Tổng tham mưu trưởng mới là tướng, còn bộ trưởng quốc phòng chỉ là anh dân sự’. Khi đó, Văn Tiến Dũng đã thay Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng. Tuy nhiên, khi Nguyễn Chí Thanh mất, anh Văn vẫn bị sốc vì cuộc chiến cần tướng tài. Xét về năng lực, Nguyễn Chí Thanh sắc sảo hơn nhiều so với Văn Tiến Dũng”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, thư ký tướng Giáp, ông không có điều kiện để xác minh điều mà Trần Quỳnh nói, trước giờ dự định vào Nam, Nguyễn Chí Thanh nhắc Hồ Chí Minh phải chú ý vấn đề nội bộ. Nhưng, ông Huyên xác nhận, ở thời điểm ấy cũng có người nói tướng Giáp chống Đảng và muốn thay tướng Giáp. Theo ông Huyên: “Có người đề nghị, Bác nói: thông thường ở cấp ấy con người có thể hành động như vậy nhưng chú Giáp thì không, hơn nữa ta đang đánh Mỹ và đang thắng Mỹ không thể thay bộ trưởng quốc phòng”.
Theo ông Vũ Kỳ, ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà của Hồ Chí Minh, có bản đồ to kê trên bục trong phòng họp và có nhiều tướng lĩnh đến báo cáo. Tại cuộc họp đó, theo ông Vũ Kỳ: “Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ… đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Chiều tối, sau phiên họp Bộ Chính trị kéo dài và căng thẳng, Bác trở về nhà sàn, chân bước chậm rãi, có lẽ có một điều gì đó khiến Bác chưa thật an tâm. Cuộc họp hôm nay Bác chủ trì, ngồi ở ghế đầu bàn, đồng chí Lê Duẩn báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận” (226).
Ngày 1-1-1968, sau khi thăm một số nơi bị máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30 chiều, sau khi tiếp “Bộ Chính trị đến làm việc”, Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc Kinh dưỡng bệnh” (227). Ở Hà Nội, bàn tay của Lê Đức Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Tại Tổng Hành dinh, sáng 6-1-1968, Đại tá Lê Trọng Nghĩa đang họp với Văn Tiến Dũng để làm kế hoạch bảo đảm cho chiến dịch thì ông Dũng nói: “Anh sang Tổng cục Chính trị gặp Song Hào”. Ông Lê Trọng Nghĩa kể: “Tôi sang, người tiếp tôi không phải là Song Hào mà là Phạm Ngọc Mậu, Cục trưởng Tổ chức kiêm phụ trách Bảo vệ Nội bộ. Mậu bảo: ‘Anh để cặp, vũ khí, bản đồ lại đây rồi đi ngay, có nhiệm vụ Trung ương giao’. Tôi lần lượt tháo ra khỏi người những thứ bất ly thân, và tôi chỉ phải đi sang một phòng ở gần đó. Hôm đó, vợ tôi từ nơi tản cư ở Vĩnh Yên về đang chờ tôi về ăn cơm để tối lại về nơi tản cư tiếp. Nhưng tôi không chỉ bị giữ lại trong ngày, và cũng không chỉ có một mình. Từ các nhà bên: Lê Minh Nghĩa, phó Văn phòng Quân uỷ, kiêm chánh Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu, Đỗ Đức Kiên, cục trưởng Cục Tác chiến… cũng cùng bị bắt. Lo lắng cho một chiến dịch sắp bắt đầu, một tuần sau, lấy tư cách là bí thư Đảng Quân uỷ Bộ Tổng Tham mưu, tôi viết thư gửi cho Bí thư Tổng Quân uỷ Võ Nguyên Giáp đặt vấn đề vì sao có việc giữ người này. Một thời gian sau, khi tôi đã bị di lý đi nơi khác, một cục phó Cục Bảo vệ tới nơi tôi bị giữ, thông báo: Anh Giáp đang nghỉ, tất cả những chuyện của các anh và những chuyện trong Quân uỷ bây giờ thuộc quyền giải quyết của anh Lê Đức Thọ”.
Sau khi “điều Lê Trọng Nghĩa” về trại giam, Cục trưởng Cục Cán bộ Phạm Ngọc Mậu cho mời Chánh Văn phòng Quân uỷ Nguyễn Văn Hiếu. Theo ông Hiếu: “Ông Mậu nói: ‘Học viện quân sự đang thiếu người, anh phải lên thay Hoàng Minh Thảo làm phó giám đốc. Anh nên đi ngay’. Tôi hiểu là người ta cần tống mình đi. Đến Tam Đảo biết thêm, người ta chỉ thị cho Học viện là tôi không được tham gia cấp uỷ”. Như vậy, theo Cục trưởng Quân báo Lê Trọng Nghĩa: “Trước giờ nổ súng, phần lớn tác giả của Kế hoạch Mậu Thân, kể cả tác giả chính là Cục trưởng Tác chiến Đỗ Đức Kiên, đều bị loại ra khỏi vòng chiến đấu”.
Để đảm bảo hoàn toàn bí mật, chỉ trước khi nổ súng một tuần, Lê Duẩn mới triệu tập các uỷ viên Trung ương về Kim Bôi họp Hội nghị Trung ương lần 14. Tại hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với Trung ương rằng trong cuộc họp quan trọng này “có nhiều đồng chí vắng mặt”. Bí thư Lê Duẩn nói: “Trước hết, tôi xin báo cáo với các đồng chí, lần này hội nghị Trung ương chúng ta họp, có một số đồng chí Trung ương bị ốm không đến được, có một số đồng chí bận việc không đến được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận việc không đến được, một số đồng chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ (Lê Đức Thọ), đồng chí Dũng (Văn Tiến Dũng) sẽ đến báo cáo” (228).
Sau Hội nghị Trung ương 14, chiều 20-1-1968, Lê Đức Thọ có đến Bắc Kinh để “báo cáo Bác Hồ”. Tướng Giáp nhớ lại: “Sắp nổ súng thì Bác cũng đang ở Bắc Kinh. Bác điện cho tôi: chú thu xếp về càng sớm, càng tốt”. Từ Hungary, tướng Giáp bay tới Bắc Kinh. Theo ông Vũ Kỳ, sáng 25-1-1968, Hồ Chí Minh gặp riêng Võ Nguyên Giáp. Trong khi, cả “Cha già Dân tộc” và “Anh cả của Quân đội” vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh thì những binh đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền Nam. “Ngày 29 tháng Chạp ta”, vào lúc sáu giờ chiều, Hồ Chí Minh “nhận được điện của Bộ Chính trị và Trung ương chúc mừng Bác Hồ năm mới” (229).
Cái đêm mà cả miền Nam chìm trong khói lửa của Tổng tiến công ấy, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh, “trong căn phòng vắng” chỉ có ông và thư ký Vũ Kỳ, “Bác” mỉm cười nghe một em bé hát “Bé bé bồng bông… em đi sơ tán, mai về phố đông” và lời chúc Tết của chính mình :
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ Tiến lên ! Toàn thắng ắt về ta!” (230) Máy bay Trung Quốc đưa tướng Giáp về tới Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được tướng Vũ Lăng, cục trưởng Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói: “Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn”. Tướng Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để giấu niềm cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh, đã không được biết một kế hoạch lớn như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày.
Bốn ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân bắt đầu, một trong những nhân vật quan trọng nhất của chiến dịch, tướng Nguyễn Văn Vịnh, bị vô hiệu hoá. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, uỷ viên Thường trực Tổng Quân uỷ, được cử vào Trung ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày sau khi tướng Nguyễn Chí Thanh mất. Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng 1-1968, và chính ông là người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân uỷ, là người trực tiếp soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo thư ký riêng của ông, ông Phạm Văn Hùng: Chiều mồng 5 Tết Mậu Thân, ông Vịnh được Lê Đức Thọ mời tới nhà riêng gặp vào lúc 15 giờ. Cuộc gặp kéo dài tới chập tối nên ông Hùng không thể chờ. Sáng hôm sau khi ông Phạm Văn Hùng quay lại nhà riêng và là nơi làm việc của ông Vịnh, 34 Cao Bá Quát, thì được ông Vịnh cho biết, ông bị ngưng tất cả các chức vụ: uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng, uỷ viên thường trực Quân uỷ, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Khoảng ba mươi nhân vật cao cấp đã bị bắt, phần lớn là những người thân cận với tướng Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang (231), Cục trưởng Cục II Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng Đại tá Lê Minh Nghĩa, Cục trưởng Cục Tác chiến Đại tá Đỗ Đức Kiên, Tổng Biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, Phó Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật, nguyên tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Quảng Bình, Nguyễn Kiến Giang, Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật Minh Tranh,… Trừ một số người bị bức cung để phải khai ra “vai trò cầm đầu của tướng Giáp” lờ mờ nhận thấy mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần đông cho đến tận cuối đời không hiểu vì sao lại có vụ án này (232).
Theo Trần Quỳnh, trợ lý Lê Duẩn thì, thành phần bị bắt thời gian này gồm: “Những người không tán thành đường lối chống xét lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ Chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những uỷ viên trong Trung ương”. Các văn bản do Lê Đức Thọ ký cũng nói tới Nghị quyết 9 và quan điểm xét lại (233). Nhưng, trên thực tế, Nghị quyết 9 đã được quán triệt từ năm 1964. Người chủ trương xét lại ở Liên Xô, Khrushchev, khi đó cũng đã bị phế truất và bị thay bởi Brezhnev. Mặc dù mở đầu vụ án bằng việc bắt Hoàng Minh Chính, hầu hết những nhân vật quan trọng bị bắt đều là thư ký của Hồ Chí Minh hoặc là những trợ thủ đắc lực của tướng Giáp.
Theo thư ký của tướng Vịnh, ông Phạm Văn Hùng (234): “Ông Vịnh và ông Giang đều đã cùng ở trong Quân uỷ, biết nhau rất rõ. Ông Vịnh ở nhà 34 Cao Bá Quát, ông Giang ở nhà đối diện. Từ khi ông Giang ra khỏi quân đội, thỉnh thoảng vẫn qua lại nhà ông Vịnh trò chuyện. Nhiều cán bộ cao cấp khác thỉnh thoảng vẫn sang nhà ông Vịnh trò chuyện. Ông Vịnh là người cởi mở nhưng bí mật quân sự thì không bao giờ ông ấy tiết lộ”.
Tướng Giáp trở lại Tổng Hành dinh khi không còn những cộng sự ăn ý nhất. “Cuộc Tổng tấn công Mậu Thân” diễn ra ngay trong đêm 30 Tết, thời điểm hai miền có thoả thuận ngừng bắn để người dân đón Xuân. Tuy có gặp trục trặc về giờ nổ súng do có sự nhầm lẫn trong việc sử dụng giờ Hà Nội với giờ Sài Gòn; nhưng, gần như ngay sau Giao thừa, 31-1-1968, lẫn trong tiếng pháo mừng xuân của thường dân, Quân Giải phóng đồng loạt nổ súng vào 5/6 thành phố, 36/44 thị xã, 36/242 huyện lỵ, 25 sân bay,… Đặc biệt, cuộc tấn công đã gây rúng động với những gì mà “Việt Cộng” đã làm ở Sài Gòn và Huế.
Tướng Giáp cho rằng: “Tổng tiến công vào một thời điểm bất ngờ là một chủ trương sáng tạo, nhưng đề ra tổng khởi nghĩa là không phù hợp” (235). Tướng Giáp không coi Mậu Thân là chiến thắng vì theo ông: “Lúc đầu mục tiêu đề ra rất cao, tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành trọn vẹn chính quyền về tay nhân dân. Giấy bạc đã được in và đã được chuyển vào Nam (236). Đồng phục cho công an vào tiếp quản thành phố cũng đã được chuẩn bị. Đồng chí Đàm Quang Trung ở Quân khu IV đã chuẩn bị một đoàn xe chở quân và quân trang vào tiếp quản thành phố. Sau này giải thích tổng công kích, tổng khởi nghĩa xảy ra là một quá trình là không đúng với thực tế” (237).
Trong Chiến dịch Mậu Thân, người Mỹ bắt được một tài liệu của tỉnh Bình Định gửi cán bộ, nói rằng: “Tổng tấn công 1.000 năm mới có một lần, sẽ quyết định số phận của đất nước, sẽ chấm dứt chiến tranh”. Chính ông Lê Duẩn, trước chiến dịch cũng tiên đoán: “Cuộc khởi nghĩa ta nói đây là một giai đoạn cuối cùng”. Ông Duẩn tin, khi quân chủ lực tiến vào thì Sài Gòn sẽ nổi dậy (238). Ngay sau khi chiến dịch bắt đầu, Lê Đức Thọ đã đi thẳng vào miền Nam nắm vai trò phó bí thư Trung ương Cục. Ông ở lại cho tới tháng 5-1968, khi tình hình chiến trường không còn dấu hiệu chiến thắng nào.
Đợt “tổng tiến công” lần thứ nhất trong Chiến dịch Mậu Thân đã tạo ra được yếu tố bất ngờ; tuy nhiên, Sài Gòn đã không “bị sập một cái” và không có “nửa triệu người cầm súng cho ta” như dự đoán của Bí thư Lê Duẩn (239). Ngay trong đợt đầu, theo Đại tá Tư Chu, chỉ huy Biệt động Sài Gòn, đã “có những hy sinh, tổn thất lẽ ra có thể tránh được” (240). Nhưng, không chỉ tấn công đợt đầu, theo tướng Giáp: “Khi yếu tố bất ngờ đã không còn vẫn kéo dài tiến công vào đô thị; chậm chuyển hướng về củng cố, mở rộng, giữ vững vùng giải phóng và làm chủ ở nông thôn do đó đã gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất rất nặng nề” (241). Từ chỗ đang giữ thế thượng phong trên chiến trường miền Nam, Quân Giải phóng đã phải trải qua những ngày chống đỡ trong tuyệt vọng (242).
Nhưng, không phải những căn cứ “Việt Cộng” bị biến thành đất trắng được đặc tả trên truyền thông Mỹ mà là: cảnh Việt Cộng bắn nhau trong sân Toà Đại sứ; cảnh những xác lính Mỹ bị giết trên đường phố Sài Gòn; cảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn vào đầu một tù binh trong khi hai tay anh ta bị trói.
Tuần lễ đầu tiên của tháng 2-1968, số thương vong của lính Mỹ trong vòng một tuần đạt kỷ lục: 543 chết; 2.547 bị thương. Ngày 27-2-1968, người dẫn chương trình truyền hình có ảnh hưởng lớn khi đó, Walter Cronkite, “đã truyền những làn sóng gây sốc cho toàn Nhà Trắng bằng cách dự báo sự thất bại” (243). Wall Street, một tờ báo được coi là đang ủng hộ Washington cũng lo sợ Mậu Thân sẽ “làm hỏng các mục tiêu đáng ca ngợi ban đầu” (244). Đài truyền hình NBC ngày 10-3-1968 bình luận: “Đến lúc chúng ta phải xác định liệu việc phá huỷ Việt Nam để cứu Việt Nam có phải là điều vô nghĩa” (245).
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson quyết định “ngừng ném bom đơn phương một phần trong khu vực bắc vĩ tuyến 20” và sẽ “ngừng ném bom hoàn toàn ngay khi các cuộc thương lượng quan trọng bắt đầu”. Johnson tuyên bố “sẽ không có thêm lực lượng quân sự tăng cường lớn nào được phái sang Việt Nam”. Cũng trong ngày hôm ấy Johnson nói rằng ông sẽ không ra tái ứng cử. Phản ứng của Washington là cơ sở để Hà Nội coi Chiến dịch Mậu Thân là: “Một chiến thắng đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải bắt đầu xuống thang”.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 25, 2014 10:05:55 GMT 9
“ Nghị quyết 21 ”
Phải mất năm năm. Phải sau khi hàng vạn sinh linh của cả hai miền đã bị bom đạn nghiền nát suốt gần ba tháng ở Quảng Trị trong mùa hè năm 1972. Phải sau khi “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác” bị tàn phá, hàng nghìn người bị chết bởi B52 trong mùa Giáng sinh 1972. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris mới được ký kết.
Điều quan trọng nhất mà ông Lê Duẩn chờ đợi trong hiệp định này là quân Mỹ rút mà quân miền Bắc không rút thì, ở trên bàn đàm phán, Kissinger đã chấp nhận từ năm 1971. Trên thực tế, ngay trong những tháng đầu nhậm chức, Nixon đã đơn phương rút quân: từ 545.000 quân năm 1968, xuống còn 27.000 quân, năm 1972. Hiệp định Paris 1973 chỉ giúp cho sự ra đi của Mỹ có một tên gọi khác (246).
Sau Hiệp định Paris, theo tướng Giáp, ở Hà Nội: “Có nhiều ý kiến muốn giữ vững hoà bình, thực hiện hoà hợp, tạo thế ổn định 5-10 năm… Cũng có một kế hoạch sử dụng 3,5 tỷ đôla mà phía Mỹ hứa bồi thường chiến tranh để làm vốn tích luỹ ban đầu. Ngay ở Tổng Hành dinh cũng có ý kiến không muốn đánh trả e vi phạm hiệp định” (247).
Sáng 27-3-1973, tại phiên họp mở rộng của Bộ Chính trị, sau khi nghe báo cáo tình hình, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đề nghị “cần tranh thủ tạo thế mạnh cho ta và có đối sách cụ thể với Mỹ” (248). Bí thư thứ nhất Lê Duẩn kết luận: “Ta cần tranh thủ xây dựng lực lượng mọi mặt ở miền Nam, miền Bắc, quy trách nhiệm của Mỹ, buộc đối phương phải thi hành hiệp định” (249).
Ngày 28-3-1973, khi chủ trì họp Quân uỷ Trung ương để triển khai Nghị quyết ngày 27-3-1973 của Bộ Chính trị, tướng Giáp vẫn xác định phương châm tác chiến ở miền Nam là “kết hợp đánh chính quy và du kích, tác chiến với binh vận, chiến đấu với xây dựng lực lượng, tiêu diệt địch gắn với giành dân” (250). Ngày 29-3-1973, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Tướng Giáp xác định trong Hội nghị Quân uỷ: “Đối tượng tác chiến lúc này là quân nguỵ” (251). Ngày 28-3-1973, Bí thư Quân uỷ Võ Nguyên Giáp gửi điện cho các chiến trường, giải thích: “Tiến công quân sự bằng phản công của ta là chủ động tiến công, không phòng ngự đơn thuần” (252).
Nhưng, sau Hội nghị Bộ Chính trị ngày 27-3-1973, Tố Hữu cùng các đặc phái viên Nguyễn Thọ Chân, Đinh Đức Thiện, được cử vào Trung ương Cục phổ biến chủ trương của Bộ Chính trị theo hướng “đấu tranh chính trị là chủ yếu”, các chiến trường phải tranh thủ thời cơ để “gò cương vỗ béo” nhằm thực hiện “hoà hợp dân tộc và thi đua hoà bình”. Cùng thời gian này, tại các cơ quan của Miền, theo ông Lữ Phương, ông Trần Bạch Đằng triển khai tinh thần một bức “Thư Vào Nam” của Bí thư Lê Duẩn, theo đó, “hoà hợp, hoà giải dân tộc” là nhiệm vụ ưu tiên của thời kỳ sau hiệp định. Cuối năm 1972, ông Lê Duẩn đã bố trí cán bộ nghiên cứu việc hình thành và tham gia “chính phủ liên hiệp ba thành phần”. Ông Phan Văn Khải, khi đó là vụ phó ở Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước là một trong những cán bộ được chọn. Đoàn của ông Khải đã vào Trung ương Cục chỉ vài tuần sau đoàn của ông Tố Hữu.
Sau khi nghe Bí thư Tố Hữu vào truyền đạt tinh thần thi hành Hiệp định Paris của Bộ Chính trị, Hội nghị Binh vận Miền tháng 4-1973 triển khai “năm cấm chỉ”: cấm tấn công địch, cấm đánh địch đi càn quét, cấm bắn pháo vào đồn địch, cấm bao vây đồn bót, cấm xây dựng ấp xã chiến đấu. Ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt và Thường vụ Khu uỷ ra lệnh Binh vận Khu không phổ biến chủ trương này của Binh vận Miền.
Ông Võ Văn Kiệt kể, nhận được điện của Trung ương Cục, ông liền trao đổi ngay với Đại tá Lê Đức Anh và Thường vụ Khu uỷ, triệu tập các tỉnh đội và đơn vị. Theo ông Kiệt, bản thân các đơn vị khi nghe nội dung chủ trương này đã cảm thấy rằng, “chắc chắn Khu uỷ sẽ có chỉ đạo khác”. Trước đó, ngày 2-2-1973, ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt triệu tập Hội nghị Thường vụ Khu uỷ, “quán triệt” cấp dưới rằng không được “mơ hồ ảo tưởng” về hoà bình.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn không “mơ hồ” khi ngầm triển khai một chiến dịch gọi là “tràn ngập lãnh thổ” nhằm chiếm 85% đất đai và kiểm soát 95% dân chúng miền Nam bốn mươi lăm giờ trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Ngày 3-3-1973, ba mươi tiểu đoàn của Việt Nam Cộng hoà đã ồ ạt đánh vào Chương Thiện, dự kiến trong bảy ngày sẽ chiếm xong các mục tiêu, bịt cửa ngõ U Minh. Nhưng, các mũi tiến công đều bị chặn đứng, Khu IX tổ chức tấn công trên toàn địa bàn Quân khu.
Trước các nhà lãnh đạo Khu uỷ và Quân khu, ông Kiệt khi ấy vừa trở thành uỷ viên chính thức Trung ương Đảng, tuyên bố: “Mệnh lệnh tối cao lúc này là phải giữ đất, giữ dân”. Ông Kiệt nhớ lại: “Chưa có cuộc họp nào mà tất cả các nơi về nhanh thế. Hội nghị chỉ kéo dài một buổi rồi tất cả lại phấn khởi đòi về ngay để giữ đất”. Nhưng, nhiều nơi cho rằng “Khu uỷ Tây Nam Bộ xé Hiệp định Paris”. Trung ương Cục điện yêu cầu “Khu IX phải thấy tình hình mới”.
Bộ Tư lệnh Miền phê bình và thông báo toàn Miền, đồng thời ra lệnh cho Đại tá Anh rút hai trung đoàn chủ lực về phía sau rèn luyện nếu không sẽ “đưa Đại tá Lê Đức Anh ra Toà án binh”. Đại tá Anh sau khi trao đổi với ông Kiệt trả lời Bộ Tư lệnh: “Cho phép Quân khu IX thi hành chủ trương của Thường vụ Khu uỷ”. Ông Võ Văn Kiệt điện cho Trung ương Cục và Bộ Chính trị: “Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả”.
Sau khi nhận được điện của ông Kiệt, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho triệu tập đại diện các khu, đại diện Trung ương Cục, đại diện Bộ Tư lệnh Miền ra Hà Nội. Ngày 19-4-1973, các đại diện miền Nam, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh, Tư lệnh miền Nam Hoàng Văn Thái, Bí thư Khu IX Võ Văn Kiệt đã có mặt ở Hà Nội, báo cáo với Bộ Chính trị tại nhà khách Hồ Tây.
Ông Lê Duẩn có một phương pháp làm việc được Võ Văn Kiệt gọi là “bỏ túi nghị quyết”. Nghĩa là, khi xuống cơ sở để triển khai nghị quyết thay vì bắt buộc cơ sở phải chấp hành những gì cấp uỷ đã ban hành, phải lắng nghe xem, nghị quyết đề ra như vậy đã phù hợp chưa, nếu không phù hợp thì phải điều chỉnh nghị quyết chứ không phải điều chỉnh cuộc sống. Ông Kiệt gọi cách là đó là “đưa cuộc sống vào nghị quyết”.
Khi những cán bộ chiến trường như ông Kiệt ra tới Hà Nội, ông Lê Duẩn yêu cầu các uỷ viên Bộ Chính trị, các bộ, ngành phải dành đủ thời gian để nghe tình hình từng chiến trường. Ông Duẩn cũng chỉ thị cho những cán bộ từ chiến trường ra: “Bất cứ uỷ viên trung ương nào cần nghe là phải báo cáo”. Bản thân ông Lê Duẩn cũng cần tìm kiếm sự nhất trí cao trong Trung ương. Theo ông Kiệt thì khi ông mới ra Bắc, ông Tố Hữu vẫn còn gặp nhiều lần để “thuyết phục Khu IX thi hành nghị quyết gò cương vỗ béo”.
Đó là lần đầu tiên ông Võ Văn Kiệt ra Hà Nội, lần đầu tiên làm việc nhiều với Bộ Quốc phòng, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tướng Lê Hai chỉ vào “lõm Tây Nam Bộ” trên bản đồ rồi hỏi: “Giữ được không?”. Ông Kiệt nói: “Sẽ mất nếu rút lui. T3 (253) cũng tuỳ thuộc vào cái thế chung của chiến trường. Nếu cả chiến trường tiếp tục tiến công, T3 sẽ giữ được. Nếu chiến trường rút, T3 mất”. Không như các tướng Lê Hai, Văn Tiến Dũng, bộc lộ khá rõ chính kiến, tướng Giáp nghe rất kỹ và hỏi rất cặn kẽ, nhưng gần như không bộc lộ quan điểm của ông và của Bộ Chính trị về việc thi hành Hiệp định. Chỉ một lần, ông nói: “Hoàn toàn ẩn cũng có lợi cho dân, nhưng, đánh lại như T3 là tích cực”.
Khi ấy ông Võ Văn Kiệt chưa biết, trong vị thế khó khăn của mình, tướng Giáp phải rất giữ gìn, tuy nhiên không phải tự nhiên mà ông đánh giá “T3 tích cực”. Từ giữa tháng 4-1973, tướng Giáp đã cho lập “Tổ Trung tâm” để xây dựng “đề cương kế hoạch chiến lược” mang bí số “305 TG1”. Tổ do một vị tướng tâm phúc của ông phụ trách: Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn.
Mùa hè năm 1973, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho gọi tướng Lê Hữu Đức lên và trước khi ra về, ông hỏi: “Bộ Tổng Tham mưu đang làm gì?”. Ông Đức: “Dạ đang dự thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam”. Lê Duẩn: “Thế tôi nghe được không?”. Theo tướng Đức thì sau khi nghe, Lê Duẩn lệnh cho cả Tổ Trung tâm sang trình bày kế hoạch cho ông nghe. Buổi chiều, Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng cùng Lê Hữu Đức quay lại trình bày chi tiết. Lê Duẩn nói: “Tôi đang suy nghĩ như vậy. Hôm nay nghe xong, Tổ Trung tâm lại củng cố suy nghĩ đó của tôi. Tôi sẽ báo cáo Bộ Chính trị”.
Việc báo ra Bộ Chính trị một “vấn đề tuyệt mật” đã làm cho các sỹ quan tác chiến lo lắng, tướng Lê Trọng Tấn sau đó đã phải đi báo cáo xin ý kiến Văn Tiến Dũng và tướng Giáp. Ông Hồ Ngọc Đại, con rể và là người sống cùng ông Lê Duẩn trong dinh thự số 6 Hoàng Diệu kể: Một lần khi vừa chạy xe suốt nửa ngày từ Hà Nội xuống Đồ Sơn thì ông Duẩn nhận được điện thoại của tướng Lê Trọng Tấn đề nghị được báo cáo tình hình cho Tổng bí thư. Lê Duẩn định kêu tướng Tấn xuống Đồ Sơn nhưng ông Tấn không chịu vì theo nguyên tắc, bí mật quân sự chỉ có thể được nói trong Tổng Hành dinh. Thế là Lê Duẩn lại phải quay xe về Hà Nội dù khi ấy đường rất xấu (254).
Cũng trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8-1973, khi Trung ương đang nghe các chỉ huy chiến trường báo cáo và xác định hướng chiến lược sau Hiệp định Paris, ở Khu IX, Quân lực Việt Nam Cộng hoà liên tiếp mở các trận càn vào Chương Thiện với lực lượng lên tới bảy mươi lăm tiểu đoàn. Khu IX đã ngăn chặn thành công nỗ lực này của Sài Gòn. Theo tướng Lê Đức Anh thì Trung đoàn 1, khi ấy do ông Phạm Văn Trà chỉ huy, đã đóng vai trò tích cực. Tháng 5-1973, khi Bộ Chính trị quyết định họp mở rộng ở Đồ Sơn, theo tướng Giáp: “Không còn ai nghĩ tới nghỉ ngơi, hoà hoãn nữa” (255).
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Hội nghị Trung ương 21 không còn phê phán Khu IX và quyết định sửa đổi chủ trương”. Hội nghị Trung ương 21, khai mạc tháng 6-1973 và thông qua lần cuối vào ngày 4-10-1973, xác định: con đường cách mạng ở miền Nam là con đường bạo lực”. Tướng Trần Văn Trà cho rằng: “Nếu như từ năm 1973, chúng ta tin bằng cách này hay cách khác, Hiệp định Paris sẽ được thi hành giống như chúng ta đã tin hai năm sẽ có tổng tuyển cử hồi Hiệp định Geneva… thì tình hình đã không như bây giờ” (256). “Bây giờ” mà tướng Trà đề cập là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, trận đánh cuối cùng của Quân Giải phóng.
Khoảng một tháng sau khi ông Lê Đức Anh từ Hà Nội quay lại Bộ Tư lệnh Miền, Hà Nội công bố quyết định phong quân hàm vượt cấp lên trung tướng cho hai đại tá: Lê Đức Anh và Đồng Sỹ Nguyên, tư lệnh Bộ đội Trường Sơn.
Chiến dịch Hồ Chí Minh
Điều mà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lúc ấy băn khoăn là người Mỹ sẽ phản ứng thế nào khi vẫn “bạo lực” sau Hiệp định. Có lẽ như lời một bài hát lúc đó: “Vận nước đã tới rồi”. Ngay trong năm 1973, Nixon bị cuốn vào vụ bê bối Watergate khiến ông phải từ chức. Ngày 1-9-1974, Gerald Ford lên thay Richard Nixon. Theo Kissinger, người tiếp tục được Tổng thống Ford giữ lại làm ngoại trưởng: “Quyết định đầu tiên của tổng thống là phản ứng như thế nào đối với khoản viện trợ không tương xứng cho Việt Nam” (257).
Ngân sách dành cho Sài Gòn đã giảm từ 2,1 tỷ đôla năm 1973 xuống còn 1,4 tỷ đôla năm 1974 và chỉ còn 700 triệu cho năm tài khoá 1975. Cho dù mức mà Nixon trước đó đề nghị vẫn là 1,4 tỷ đôla. Theo “bản ghi nhớ” ngày 12-9-1974, Kissinger chuyển cho Ford thì ngay cả khi Quốc hội Mỹ chuẩn thuận mức viện trợ quân sự 700 triệu đôla, thì Quân lực Việt Nam Cộng hoà khó có khả năng kháng cự (258). Tính tới tháng 9-1974, 26.000 binh sĩ Việt Nam Cộng hoà đã bị tử trận kể từ khi ký Hiệp định Paris. Thế nhưng, Thượng viện Mỹ không những không tăng viện trợ theo đề nghị của tổng thống mà còn cắt đi 300 triệu.
Đầu năm 1974, khi tình hình bắt đầu “nước sôi lửa bỏng”, trong một chuyến công tác, tướng Giáp bị đau bụng dữ dội rồi ngất đột ngột. Ông kể, “khi tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trong máy bay trực thăng cấp cứu” (259). Do Viện Quân y 108 không chẩn đoán ra bệnh, Bộ Chính trị quyết định đưa tướng Giáp sang Liên Xô bằng một chuyến chuyên cơ. Tại Moscow có lúc tim ông đã ngưng đập trong mấy giây và trước khi chấp nhận một cuộc đại phẫu thuật bệnh sỏi mật, ông đã viết “mấy điều dặn dò để lại”. Tháng 4-1974, sau khi tướng Giáp hồi phục, Liên Xô đã bố trí một máy bay để đưa ông trở về Hà Nội. Khi ấy, Văn Tiến Dũng cũng bị ốm phải đưa đi chữa bệnh ở nước ngoài.
Theo tướng Giáp: Mùa hè năm 1974, khi cùng đi nghỉ ở Đồ Sơn, Lê Duẩn đã bàn với ông một loạt các vấn đề chiến lược và khi thấy sức khỏe của tướng Giáp đã ổn sau khi mổ sỏi mật ở Liên Xô về, Lê Duẩn nói với tướng Giáp: “Công việc rất quan trọng, khẩn trương. Anh nắm lấy mà làm”. Ở Đồ Sơn, tướng Giáp vừa an dưỡng, vừa hoàn thành dự thảo lần thứ sáu “kế hoạch chiến lược giành thắng lợi ở miền Nam”. Ông vừa đi bộ quanh bán đảo Đồ Sơn, khi ấy là một khu chỉ dành riêng cho Trung ương, vừa trao đổi với những cán bộ đi cùng. Tuy nhiên, theo ông, kế hoạch chiến lược được giữ tuyệt mật, ông chỉ đọc ra cho Đại tá Võ Quang Hồ, cục phó Cục Tác chiến viết từng phần.
Khi Bộ Chính trị bàn “kế hoạch giải phóng miền Nam”, theo Trung tướng Lê Hữu Đức: Hai hội nghị đầu suôn sẻ, nhưng từ hội nghị thứ 3 cho đến hội nghị thứ 6, sau khi Lê Duẩn gợi ý thảo luận phương án tổng khởi nghĩa, tức là dùng chủ lực đánh vào đầu não như hồi Mậu Thân rồi phát động nhân dân nổi dậy. Bộ Chính trị chuyển sang sôi nổi bàn về phương án tổng khởi nghĩa. 7/11 uỷ viên Bộ Chính trị ủng hộ ý kiến này của Lê Duẩn. Tướng Giáp chỉ còn có hai uỷ viên ủng hộ phương án tổng công kích.
Theo tướng Lê Hữu Đức: “Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, tướng Giáp thường rất đơn độc, những tướng lĩnh trong Quân uỷ như Văn Tiến Dũng, Song Hào, Lê Quang Đạo, Trần Quý Hai thường ngả theo ý kiến của ông Lê Duẩn. Lê Trọng Tấn là một vị tướng tài và trung thành với tướng Giáp nhưng khi ấy ông chưa là uỷ viên Trung ương”. Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức, “rất may là Bộ Chính trị đã không buộc thiểu số phục tùng đa số” và tướng Giáp thì đã kiên trì thuyết phục.
Từ Hội nghị lần thứ 7, Bộ Chính trị bắt đầu chấp nhận phương án “tổng công kích” của tướng Giáp. Tướng Lê Hữu Đức, thời gian ấy là cục trưởng Cục Tác chiến, thường xuyên phải làm việc với Lê Duẩn và trực tiếp ghi chép các ý kiến khác nhau trong Bộ Chính trị, kể: “Anh Lê Duẩn cứ cằn nhằn tôi: sao Cục Tác chiến không thích tổng khởi nghĩa. Khi phương án ‘tổng công kích’ được chọn rồi, ông lại nói: đã tổng công kích sao không công kích thẳng vào Sài Gòn mà lại chọn Buôn Mê Thuột?”.
Kế hoạch đánh Buôn Mê Thuột được tướng Giáp trao đổi với tướng Dũng chi tiết trong một cuộc gặp có mặt tướng Hoàng Văn Thái ngay trước khi Văn Tiến Dũng vào miền Nam. Theo tướng Giáp: từ giữa năm 1973, Tổ Trung tâm đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên và trong một buổi làm việc, tướng Hoàng Minh Thảo cho rằng, khi đã chọn hướng Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột (260). Tướng Giáp, tướng Dũng đều nhất trí với lựa chọn này.
Theo tướng Lê Hữu Đức: “Tháng 1-1975, ngay sau khi Lê Duẩn tán thành mở đầu cuộc tổng tiến công vào Buôn Mê Thuột tướng Giáp ra lệnh cho tướng Lê Trọng Tấn: kiên quyết phải làm đường vào sát Buôn Mê Thuột, phải có xe tăng, pháo lớn mới đánh đòn quyết định được. Khi ta làm chủ Buôn Mê Thuột, tướng Giáp nói với chúng tôi: tình hình này không loại trừ địch rút khỏi Tây Nguyên. Hôm đó là ngày 11-3-1975, ngày 26-3-1975, đúng như dự đoán của anh, Nguỵ rút”.
Sáng 11-3-1975, ngay sau khi có tin tướng Văn Tiến Dũng làm chủ hoàn toàn Buôn Ma Thuột, bao vây Kon Tum, Pleiku, Bộ Chính trị và Thường trực Quân uỷ Trung ương nhóm họp, nhất trí đánh giá: “Ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến và đồng ý kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu”. Trong một không khí rất hào hứng, gần cuối buổi họp, Lê Duẩn nói: “Trước ta dự định hai năm giải phóng miền Nam, nay tiếp theo Phước Long có Buôn Ma Thuột, ta có thể đẩy mạnh hơn không? Đề nghị Bộ Chính trị và các anh bên Quân uỷ suy nghĩ xem ta đã có thể chuyển sang tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam chưa?”. Theo tướng Lê Hữu Đức: “Anh Văn là người đầu tiên nhất trí với đề xuất của anh Ba. Tiếp đó, các đồng chí trong Bộ Chính trị đều tán thành” (261).
Từ ngày 11-3-1975 cho đến khi quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hầu như làm việc tại Cục Tác chiến. Ông trực tiếp đọc hết các điện chiến trường gửi về. Cục trưởng Tác chiến Lê Hữu Đức có trách nhiệm hằng ngày vào lúc 19 giờ, tới nhà riêng ông Lê Duẩn báo cáo diễn tiến chiến trường và các kế hoạch tác chiến. Với tư cách là tổng tư lệnh trong chiến dịch, tướng Giáp nắm vấn đề bao quát và đặc biệt liên hệ chặt chẽ với các tư lệnh chiến trường.
Theo tướng Lê Hữu Đức, sau khi quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi Tây Nguyên, tướng Giáp và Thường trực Quân uỷ nhất trí nên tác chiến phát triển về phía Đông, bố trí cụ thể sẽ do tướng Văn Tiến Dũng quyết định. Tướng Lê Hữu Đức nói: “Anh Văn chỉ thị tôi sang báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của anh Ba. Nghe xong, anh Ba tỏ ý phân vân. Từ năm 1972, anh Ba vẫn muốn tập trung lực lượng chủ lực, để khi có điều kiện, đánh uy hiếp Sài Gòn, giành thắng lợi quyết định. Ý anh là khi Tây Nguyên giải phóng, việc tiêu diệt địch và giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung nên giao cho Quân khu V, lực lượng còn lại của Tây Nguyên nên tiến về Lộc Ninh, đánh vào Sài Gòn càng sớm càng hay. Nhưng, khi ấy các mặt chuẩn bị chiến trường, hiệp đồng tác chiến quy mô lớn chưa được chuẩn bị. May mà lúc ấy, anh Dũng cũng điện ra đề nghị cho phát triển về hướng Đông, phù hợp với Quân uỷ Trung ương. Chúng tôi báo cáo lần nữa và được anh Ba đồng ý” (262).
Nhận được tin, Tư lệnh chiến trường Văn Tiến Dũng gửi Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bức điện số 107: “Đêm qua tôi không ngủ được về ý định của tôi với chỉ thị phải tập trung Sư 10 về. May quá hai mươi lăm phút sau thì nhận được điện của anh. Tôi mừng quá về sự tâm đầu ý hợp của lãnh đạo và người ở chiến trường” (263).
Tướng Giáp dự định đi ngay vào Vĩnh Linh. Trực thăng đã sẵn sàng. Nhưng ông quyết định ở lại vì “tình hình chiến trường phát triển quá nhanh”, Tổng Tư lệnh không thể rời Tổng Hành dinh. Sau ngày 18-3-1975, khi Bộ Chính trị họp tại Nhà Con Rồng, nhất trí đề nghị của Quân uỷ, “giải phóng miền Nam trong năm 1975”, tướng Giáp đi vào Ninh Bình, ông quyết định đưa vào Nam Quân đoàn I, Quân đoàn cuối cùng ở miền Bắc. Khi ấy Quân đoàn I đang giúp dân đắp đê ở Ninh Bình theo kế hoạch nghi binh, nhận lệnh báo động, nhanh chóng theo trục Quốc lộ l hành quân vào Nam, chỉ để lại Sư đoàn 308 ở khu vực Hà Tây làm nhiệm vụ dự bị và bảo vệ Hà Nội.
Trước đó, từ ngày 17-3, tướng Giáp liên tiếp gửi các “điện” đến Bộ Tư lệnh Trị Thiên và Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đôn đốc đưa lực lượng xuống đồng bằng, chia cắt chiến lược giữa Huế và Đà Nẵng, cho phép sử dụng xe tăng và pháo lớn để tăng thêm sức đột kích, nâng cao tốc độ tấn công. Tướng Giáp phê bình tướng Lê Trọng Tấn khi ông định lập kế hoạch trong vòng năm ngày, trong khi theo tướng Giáp, khả năng quân đội Sài Gòn rút chạy là cao và tướng Tấn chỉ có ba ngày để giải quyết chiến trường Đà Nẵng.
Ngày 24-3, Bộ Chính trị và Quân uỷ họp, hạ quyết tâm: “Hành động nhanh chóng táo bạo, bất ngờ đánh cho địch không kịp trở tay, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa 1975”. Bộ Chính trị cũng thông qua kế hoạch lập Mặt trận Quảng Đà, lấy mật danh là “Mặt trận 475” do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân làm chính uỷ, Trung tá Lê Phi Long được cử làm trưởng Phòng Tác chiến cánh quân này.
Sáng 25-3, tướng Lê Trọng Tấn nhận những chỉ thị cuối cùng của tướng Giáp và ngay chiều hôm đó, ông cùng bộ phận chủ yếu của cơ quan chiến dịch đi máy bay vào sân bay Quảng Bình, sau đó được chuyển tiếp bằng trực thăng vào Quảng Trị. Bộ Tư lệnh 475 đến vùng núi Tây Huế và chuyển theo đường 72 ra Động Truồi, định để chỉ huy đánh Huế, Đà Nẵng, nhưng theo ông Lê Phi Long: “Giữa đường thì được tin quân ta đã giải phóng Huế vào chiều 25-3”. Không còn phải đánh nhau ở Huế, Quân đoàn I được lệnh quay lại Quảng Trị, chuyển trục hành quân từ Quốc lộ l sang đường Trường Sơn. Ba vạn người cùng với l.053 xe pháo các loại, rầm rộ tham gia cuộc hành quân thần tốc, ngày 16-4 thì vào đến Đồng Xoài.
Thấy tình hình “chắc ăn”, ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị, Lê Đức Thọ “xung phong” vào chiến trường, ông rời Hà Nội vào ngày 28-3-1975. Như vậy, tại Bộ Chỉ huy Chiến dịch “giải phóng miền Nam” có tới ba uỷ viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Ngày 14-4-1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch điện ra Hà Nội đề nghị đặt tên chiến dịch: Hồ Chí Minh. Một tuần trước đó, ngày 7-4, tướng Giáp đã lệnh cho “Cánh quân Duyên Hải” (264) phải “thần tốc và táo bạo” (265) còn tướng Lê Trọng Tấn thì khi ấy cũng đã chuẩn bị mọi mặt để thắng trong “trận cuối cùng”.
Theo kế hoạch, ngày 27-4-1975 các hướng sẽ bắt đầu tiến đánh để ngày 29-4-1975, cả “Năm cánh quân” đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Tuy nhiên, theo tướng Lê Hữu Đức, tối 24-4 (266), Tư lệnh Cánh quân Duyên Hải, tướng Lê Trọng Tấn đã điện ra xin cho Quân đoàn II và Quân đoàn IV tiến công vào lúc 17 giờ ngày 26-4, vì nếu ngày 27 mới bắt đầu như các cánh quân khác thì sẽ không kịp “cùng lúc nổ súng”. Cánh quân Duyên Hải lúc đó còn phải vượt qua hai con sông lớn: sông Đồng Nai và sông Sài Gòn.
Đọc bức điện khi đêm đã khuya vì vừa phải lần lượt đến tận nhà riêng của các vị Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng báo cáo, nhưng thấy tình hình khẩn cấp, tướng Đức quyết định đánh thức tướng Giáp. Xem xong bức điện, tướng Giáp đồng ý ngay với tướng Tấn. Tuy nhiên, rất thận trọng, ông đã cùng với cục trưởng Tác chiến mang bản đồ đến nhà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn.
Sau khi để tướng Đức đọc bức điện của tướng Tấn xong, Võ Nguyên Giáp nói: “Đề nghị anh Ba cho đánh theo điện báo cáo của Tấn”. Theo ông Lê Hữu Đức: Anh Ba nói ngay: “Đánh, đánh, cứ đánh ngay anh ạ! Bây giờ không chờ nhau nữa. Lúc này cánh quân nào thuận lợi thì cứ phát triển”. Anh Văn hỏi thêm anh Ba: “Điện trả lời ký tên anh chứ?”(267). Anh Ba nói: “Không, anh là tổng tư lệnh, cứ ký tên anh thôi”. Sau một thoáng suy nghĩ, anh Ba nói thêm: “Nếu cần thì để cả tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi với anh Ba và anh Ba hoàn toàn đồng ý”(268). Cũng trong ngày 24-4, tướng Tấn cử Trưởng phòng Tác chiến Cánh quân phía Đông Lê Phi Long trực tiếp đến Sở Chỉ huy Chiến dịch và tướng Dũng cũng đồng ý để Cánh quân phía Đông đánh trước.
Ngày 30-4-1975, 10 giờ 50, Cục II báo cáo Tổng Hành dinh: “Quân ta đã vào dinh Tổng thống Nguỵ”; 11 giờ 30, cục phó Cơ yếu mang vào phòng họp bức điện của tướng Lê Trọng Tấn báo cáo, “một đơn vị thuộc Cánh quân phía Đông đã cắm cờ trên Dinh Độc Lập”. Chiều hôm ấy, tướng Giáp kể: “Tôi lên xe đi một vòng quanh Hà Nội. Cả một rừng cờ hoa dậy lên tự lúc nào. Người đi chật phố, chật đường như trẩy hội”.
“ Thống chế đi đặt vòng ”
Tháng 12-1976, tại Đại hội IV, tuy vẫn còn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nhưng theo thứ bậc mới trong Bộ Chính trị, tướng Giáp bị xếp sau Lê Đức Thọ. Năm 1977, tướng Giáp thôi chức bí thư Quân uỷ Trung ương, theo Điều lệ mới, chức vụ này sẽ thuộc về Tổng bí thư. Năm 1980, ông phải giao chức bộ trưởng Quốc phòng cho Đại tướng Văn Tiến Dũng (269). Trước Đại hội Đảng lần thứ V, “Vụ án chống Đảng” tưởng đã khép lại từ năm 1967, lại được ông Lê Đức Thọ đưa ra bàn trong Bộ Chính trị.
Trong buổi Bộ Chính trị họp nghe “Vụ án chống Đảng”, theo ông Võ Văn Kiệt (270): “Anh Thọ cũng đưa ra những thông tin như Trần Quỳnh (271) kể nhưng anh Giáp bác bỏ. Tuy nhiên, anh Thọ vẫn kết luận. Bộ Chính trị không có cơ sở gì để quyết khác với những điều anh Thọ nói. Anh Lê Duẩn không nói gì, anh Phạm Văn Đồng không nói gì. Có thể có những uỷ viên Bộ Chính trị biết vấn đề anh Giáp nhưng tôi thì không biết”.
Về sau ông Kiệt chất vấn ông Phạm Văn Đồng: “Anh hiểu anh Giáp, anh có tiếng nói trong Bộ Chính trị, đó là cái gì?”. Ông Đồng chỉ nói: “Tôi cũng biết uy tín anh Giáp trong dân”, rồi cười. Ông Kiệt nói: “Uy tín trong dân của một con người là không thể xem thường. Nếu khai thác được uy tín đó của anh Giáp thì sẽ có lợi cho dân cho nước. Tôi không đồng tình với cách cư xử của một số anh với anh Giáp. Tôi kính trọng sức kiềm chế của anh. Đó cũng là bản lĩnh, nghị lực của một nhân vật lớn”.
Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ, nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm đó có cuộc họp bàn về vấn đề của tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”.
Tại Đại hội V, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương và Nguyễn Văn Linh được đưa ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Hoàng Tùng cho rằng: “Lê Đức Thọ phải đưa cùng lúc năm người ra khỏi Bộ Chính trị để khỏi mang tiếng nhưng thực chất của việc thay đổi này là nhằm vào ông Giáp”. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng: “Trước đó, cả ông Thọ và ông Lê Duẩn đều nhiều lần công khai đánh giá thấp khả năng, kể cả khả năng cầm quân, của tướng Giáp”.
Năm 1983, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao kiêm nhiệm chức chủ tịch Uỷ ban Quốc gia về sinh đẻ có kế hoạch trong khi Tố Hữu vào Bộ Chính trị giữ chức phó thủ tướng thường trực. Dân gian truyền nhau : “Nhà thơ làm kinh tế / Thống chế đi đặt vòng”.
Năm 1984, Nhà nước tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm “30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ”, báo chí đăng hàng loạt hồi ký, bài viết của cả người Việt và người Pháp. Các bài viết đăng trên báo Nhân Dân từ tháng 3 đến tháng 5-1984, trong khi nói rất kỹ về Henri Navarre và Christian de Castries, đã không hề nhắc tên Võ Nguyên Giáp, vị tư lệnh chiến dịch đã đánh bại hai viên tướng Pháp này.
Ngày 7-5-1984, đúng ngày kỷ niệm chiến thắng, báo Nhân Dân đăng trên trang nhất bức ảnh chụp Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, nhưng thay vì nêu tên từng cá nhân, Nhân Dân chỉ chú thích: “Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chủ trương tác chiến Đông-Xuân 1953-1954”. Các bài viết trên tờ Quân Đội Nhân Dân cũng không có tên “Võ Nguyên Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, khi Đại tướng Hoàng Văn Thái công bố hồi ký “Điện Biên Phủ- Chiến dịch lịch sử”, đăng nhiều kỳ trên báo Quân Đội Nhân Dân, trong mấy kỳ đầu, tờ báo này đã tự ý cắt bỏ tên của tướng Giáp. Khi có sự kiện bắt buộc phải nhắc đến vai trò của ông, báo Quân Đội Nhân Dân bèn gọi theo chức vụ “tổng tư lệnh” hoặc “bí thư Tổng Quân uỷ” thay vì gọi “Đại tướng Võ Nguyên Giáp” hoặc “anh Văn” thân mật. Tướng Hoàng Văn Thái nổi giận đòi ngưng, tên của tướng Giáp thỉnh thoảng mới xuất hiện trở lại trên tờ Quân Đội Nhân Dân trong hồi ký của ông Hoàng Văn Thái.
Tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân trong hai ngày 7 và 8-5-1984 đã dành gần như toàn bộ 4 trang A3 để nói về Điện Biên. Nhưng, trong xã luận, trong các bài diễn văn đã không hề có tên tướng Giáp. Trên số báo ra ngày 8-5-1985, hai tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân cùng đưa tin về lễ “Mít tinh trọng thể kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng Điện Biên Phủ” tổ chức tại Hà Nội vào chiều 7-5, cùng nhắc tới Võ Nguyên Giáp trong danh sách “Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh”, nhưng chỉ bằng một cái tên trống không - xếp sau Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Hữu Thọ - không “đại tướng” và không nói gì tới vai trò của ông trong “chiến thắng” mà “cả nước” đang “nức lòng ca ngợi” ấy (272).
Trong khi đó, báo chí đầu thập niên 1980 lại đăng dồn dập nhiều loạt bài mô tả vai trò của Bí thư Lê Duẩn như là một “tổng tư lệnh trên thực tế” của cuộc “kháng chiến chống Mỹ”(272). Trong loạt bài Thời Thắng Mỹ, Thép Mới dẫn lời Lê Đức Thọ kể chuyện năm 1955, Lê Duẩn đã tiên tri cuộc chia tay Bắc-Nam sẽ kéo dài hai mươi năm (274). Cũng trong loạt bài này, Lê Duẩn được mô tả như là một người đề xuất hầu hết các chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. “Bác là người đầu tiên tán đồng những ý kiến đề xuất của anh Ba trước Bộ Chính trị, ngay sau khi anh ra Bắc” (275). Theo Thép Mới thì: “Sự vĩ đại của Bác Hồ là lắng nghe” anh Ba và sau khi nghe, Bác bảo với anh: “Chú nói đúng” (276).
Tháng 3-1985, tướng Giáp, lúc này đã không còn chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vào Huế dự lễ mừng “10 năm giải phóng”. Cùng đi với ông có tướng Lê Trọng Tấn, Tổng tham mưu trưởng và tướng Lê Phi Long. Họ được đón tiếp khá nồng hậu và được bố trí nghỉ tại khu nhà nghỉ xưa kia của Ngô Đình Cẩn.
Tướng Lê Phi Long kể: “Anh Văn gọi tôi tới cùng đi dạo chơi quanh vườn và nói: ‘Lâu nay các cậu có nghe người ta nói gì không?’. Tôi trả lời. Anh bảo: ‘Sao không thấy nói lại! Trong tình hình phức tạp hiện nay, con người ta có thể bị phân hoá thành ba thái độ: một là thẳng thắn đấu tranh bảo vệ sự thật, chân lý; hai là trong khi chưa có điều kiện nói ra sự thật thì ngồi yên kiên trì chờ đợi; ba là cơ hội, xuyên tạc, sẵn sàng đổi trắng thay đen, bóp méo sự thật. Các cậu có đủ dũng khí thì theo cách một, chưa có điều kiện thì chọn cách hai, còn cách ba, thì phải tuyệt đối tránh”.
Hôm sau, đoàn của tướng Giáp vào Đà Nẵng bằng đường bộ. Trên đèo Hải Vân, khác với không khí nồng hậu mà Huế dành cho Đại tướng, Đà Nẵng chỉ cử một tỉnh uỷ viên trẻ măng, vô danh ra đón, không có đại diện Quân khu, Tỉnh đội. Tướng Lê Phi Long nhớ lại: “Chúng tôi rất bực mình, nhưng anh Văn vẫn bình thản”.
Đêm ấy, đoàn nghỉ ở nhà khách Mỹ Khê, sáng hôm sau, theo chương trình, sẽ đến đặt vòng hoa tại đài liệt sỹ trước khi dự lễ mừng chiến thắng. Nhưng đợi mãi, không thấy ai phát thư mời và phù hiệu cho đoàn của “anh Văn”. Các sỹ quan đi cùng hỏi thì được trả lời: “Ai không có giấy thì coi như không được mời”.
Lễ mừng Chiến thắng Đà Nẵng năm ấy được tổ chức trọng thể vì có Tổng bí thư Lê Duẩn tới dự. Tướng Lê Phi Long kể: “Chúng tôi rất băn khoăn, liền xin ý kiến của anh Tấn và anh Văn”. Trong đoàn có ý kiến đề nghị thôi không dự lễ nữa. Tướng Giáp suy nghĩ rất lâu rồi nhẹ nhàng nói: “Chúng ta vào đây không phải vì lễ lạt mà còn để viếng những đồng đội, đồng chí đã ngã xuống trên mảnh đất này. Đã tổ chức viếng thì phải tổ chức trang trọng, chu đáo theo đúng nghi thức quân đội”.
Lập tức, tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân khu V tổ chức một lễ viếng riêng có đủ tiêu binh, quân nhạc và đích thân một vị trong Bộ Tư lệnh phải tháp tùng. Sáng hôm sau, xung quanh đài liệt sỹ, dân chúng kéo đến rất đông. Những người dân ấy không phải đến vì được triệu tập mà đến để nhìn tướng Giáp.
Trong lễ “kỷ niệm 10 năm giải phóng miền Nam” tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30-4-1985. Võ Nguyễn Giáp vẫn được ngồi trên “Đoàn Chủ tịch”, nhưng trong danh sách mà báo Nhân Dân ngày 1-5-1985 đăng, ông được xếp đứng sau chín người, trong đó có nhiều người từng là cấp dưới của ông trong chiến tranh như Văn Tiến Dũng, Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Đỗ Mười, Nguyễn Cơ Thạch,… Đây là thứ bậc dựa trên chức vụ trong Đảng mà ông nắm giữ trong thời điểm 1985. Tên ông chỉ được đặt bên cạnh hai chức danh: uỷ viên Trung ương Đảng, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Từ sau khi tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc phòng, báo chí nhà nước không bao giờ gọi ông là “đại tướng”. Nhưng, cũng trong suốt thời gian ấy, Võ Nguyên Giáp gần như rất ít khi rời khỏi bộ quân phục của mình. Trong những chuyến công du hiếm hoi mà ông được cử, Võ Nguyên Giáp luôn mặc bộ lễ phục cấp tướng sang trọng màu trắng.
Ông vẫn sống trong biệt thự 30 Hoàng Diệu. Quân đội, ngay cả trong thời kỳ Lê Đức Anh làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vẫn giữ lực lượng vệ binh gác nhà ông. Nhưng, cao hơn cả mọi nghi lễ là sự ngưỡng mộ mà các tướng lĩnh, quân đội, dân chúng dành cho ông. Tên tuổi tướng Giáp càng bị biên tập khỏi các trang báo Nhân Dân thì nhân dân lại càng nhắc đến ông trong đời thường của họ. Là một ông thầy dạy sử, có lẽ tướng Giáp biết được vị trí trong lịch sử của mình. Ông đã đi qua những tháng ngày bị xếp xuống hàng cuối cùng trên những khán đài, lặng lẽ và sừng sững.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, năm 1991, tướng Giáp chính thức rời khỏi chính trường. Cho dù vụ “Năm Châu-Sáu Sứ”, theo ông Võ Viết Thanh, chỉ là một vụ án được dựng lên, Bộ Chính trị đã chưa một lần minh oan như ông đề nghị. Mãi tới năm 1994, trong lễ “kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ”, tên tuổi của ông mới chính thức được nhắc lại trong một “diễn văn nhà nước”. Đó là bài diễn văn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc vào tối 6-5-1994: “Xin chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thời đó là tổng tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ, người đã chấp hành triệt để và sáng tạo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, chỉ đạo trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành toàn thắng”. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Trước đó, khi Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê lên Điện Biên Phủ kỷ niệm 40 năm, diễn văn của Đoàn Khuê không hề nhắc một câu tới anh Giáp”.
Cho dù trong bài diễn văn được viết công thức và rào đón của ông Kiệt, phần nói về tướng Giáp vỏn vẹn chỉ có năm mươi chín từ, nhưng chỉ cần cái tên tướng Giáp được xướng lên cũng đủ làm cho Cung Văn hoá Việt-Xô oà vỡ. Thật khó biết điều gì đang diễn ra trong lòng tướng Giáp, từ lâu ông đã có một gương mặt rất ít biểu lộ. Nhưng những giọt nước mắt của những người có mặt hôm ấy thì không thể kềm chế, chúng lăn rất nhanh trên má họ; trong khi, tiếng vỗ tay kéo dài.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 25, 2014 10:39:06 GMT 9
Chú thích
(173) Nguyễn Thị Sứ sinh năm 1934 tại Kiên Giang, thường trú tại quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Từng tham gia lực lượng Thanh niên Tiền Phong nhưng sau năm 1954 chọn ở lại miền Nam.
(174) Khi chính quyền Tong Thong Ngô Đình Diệm lập ấp chiến lược, ba má ông Võ Viết Thanh đã lớn tuổi, chống không vô ấp. Tối 26-8-1962, một toán lính đồn Lương Phú, huyện Giồng Trôm, Bến Tre, đóng giả giải phóng quân vào nhà “mời hai bác ra gặp giải phóng quân về”. Ông bà cảnh giác không đi, liền bị trói dẫn ra bờ sông cắt cổ. Sáng hôm sau, Chính quyền Sài Gòn tung tin, “Gia đình có hai con đi tập kết, hai con đi giải phóng quân mà Việt cộng còn về giết thế này, cho nên không ai ở ngoài ấp chiến lược được”. Về cáo buộc bắt hai cán bộ quân báo, theo ông Võ Viết Thanh: Chiều 30-4-1975, trinh sát bắt được hai người: Phan Mậu, nguyên trung đoàn trưởng, Sư đoàn 5, đầu hàng quan doi VNCH trong chiến dịch Mậu Thân; Lê Đức Phượng, một tình báo viên được Cục II đánh vào năm 1954 nhưng sau đó khi bị lộ đã phản bội. Ông Thanh, khi ấy là Chính trị viên một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn quân báo 316, chỉ đạo thả. Nhưng, ngày 2-5-1975, ông Thanh nói: “Lữ đoàn trưởng đi giao ban Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh về, truyền đạt lệnh: Trong khi còn tranh tối tranh sáng cần xử lý ngay những tên đã gây tội ác. Anh yêu cầu tôi cho bắt lại hai đối tượng đã tha vào chiều 30-4. Tôi truyền lệnh cho đại đội trinh sát rồi từ đó bị công việc cuốn đi, không kiểm tra lại việc này nữa”. Sau Đại hội, ông Võ Viết Thanh cho lục lại toàn bộ hồ sơ, thì được Tư lệnh Quân khu Thủ đô cho biết, Lê Đức Phượng vừa mới được Cục II cấp tốc lập hồ sơ công nhận liệt sỹ. Theo ông Võ Viết Thanh: “Sau này, khi đối chất trong một cuộc họp của Bộ Chính trị, Tư Văn phải công nhận, Phượng không phải là đại uý cũng không phải là đảng viên. Tư Văn nói: Do có sự nhầm lẫn ở phòng chính sách”.
(175) Sau khi Võ Viết Thanh bị đưa ra khỏi danh sách ứng cử Ban chấp hành Trung ương, ngày 24-6-1991, Lê Đức Anh viết bức thư thứ 2: “Kính gửi anh Linh, anh Tô, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trước đây khi chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VI, tôi đề nghị với Bộ Chính trị Khoá V cho phép tôi được chuyên trách làm công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, không làm việc gì khác. Bộ Chính trị lúc bấy giờ không chấp nhận và nói tiếp tục làm thêm một khoá nữa. Theo sự phân công của Đảng, tôi đã cố gắng chấp hành nghiêm túc quyết định của Đảng. Hiện nay tuổi đã lớn mà vẫn chưa thực hiện được nguyện vọng cần thiết đó. Nay do công việc cần thiết tôi có thể tiếp tục làm việc thêm vài năm nữa như nghiên cứu phối hợp chiến lược quốc phòng-an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế trước tình hình diễn biến rất phức tạp. Nếu Đảng phân công công việc cao hơn, nặng hơn không hợp với sở trường của tôi, trong khi tuổi đã lớn, chắc chắn tôi sẽ không làm được, có hại cho công việc của Đảng, của Tổ quốc. Xin Đảng cho phép tôi, phân công cho tôi chuyên trách công tác tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và cùng với anh em nghiên cứu nâng cao những kinh nghiệm đó ứng dụng vào tình hình mới, và xin được rút khỏi danh sách đề cử vào Bộ Chính trị Trung ương khoá VII. Mong các anh chấp nhận. Lê Đức Anh”(Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 243). Lê Đức Anh ra viện khi Đại hội Đảng lần thứ VII bắt đầu. Ông Võ Viết Thanh kể: “Giờ giải lao, đích thân Lê Đức Anh tìm tôi, rồi nắm lấy tay tôi kéo ra một hàng ghế bên hành lang Hội trường. Ông nói: Việc xảy ra khi tôi đang bị chảy máu dạ dày, phải nằm viện nên không biết. Chuyện Bảy Thanh thì tôi biết rõ là không có vấn đề gì. Để từ từ rồi mình tính”. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nghe ông Lê Đức Anh nói vậy tôi cũng xúc động, nghĩ, Cục II làm như vậy có thể chỉ do mối quan hệ giữa tôi với Tư Văn. Nhưng, khi tôi chuẩn bị rời Bộ Nội vụ về Sài Gòn, anh Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, gọi tôi lên nói thì tôi mới giật mình. Anh Ba Ngộ nói: Bảy Thanh ơi, tôi không biết Lê Đức Anh đối xử với anh thế nào nhưng, sau Đại hội, ông ấy bảo tôi đừng để Bảy Thanh ở trong ngành mà nên chuyển ngay Bảy Thanh sang Bộ Thương mại”.
(176) Năm 1983, sau gần bảy năm lặn lội với lực lượng Thanh Niên Xung Phong, ông được ông Võ Văn Kiệt yêu cầu về công tác trong ngành Công an. Trong năm đó, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Công an Thành phố. Năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, ông chính thức trở thành uỷ viên Trung ương khi Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Mỹ Hoa chỉ là uỷ viên dự khuyết. Trung tướng Võ Viết Thanh là anh hùng Quân đội CS. Bị buộc phải ra đi ở một thời điểm mà không ai nghĩ là còn có kẻ thù. Không chỉ gạt được tướng Giáp ra khỏi chính trường, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ” còn chặn được con đường của Võ Viết Thanh, người mà Võ Văn Kiệt hy vọng sẽ giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ khi ông trở thành Thủ tướng.
(177) Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911 tại thôn An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình. Giáp kể: “Ông ngoại tôi vốn là một lãnh binh theo nghĩa quân Cần Vương”. Những năm học ở Trường Quốc Học Huế, Giáp thường tới nhà cụ Phan Bội Châu đàm đạo và được cụ Phan cho mặc sức sử dụng kho sách của mình. Giáp cũng chơi thân với thầy giáo Đặng Thai Mai. Năm ông mười sáu tuổi, người Pháp đuổi học Nguyễn Chí Diểu. Giáp khởi xướng một cuộc bãi khoá để phản đối. Vì sự kiện ấy Giáp cũng bị đuổi học, về làng. Anh Nguyễn Chí Diểu đến An Xá tìm Giáp: “Chúng tôi đã lập Đảng Tân Việt”. Giáp bảo: “Tôi đi với anh”. Võ Nguyên Giáp là người đã góp phần tích cực đưa Tân Việt tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng. Tháng 10-1930, Giáp bị bắt cùng với thầy Đặng Thai Mai và nhiều người khác, trong đó có Nguyễn Thị Quang Thái, em gái Nguyễn Thị Minh Khai. Năm 1929, Giáp cùng thấy Mai ra Hà Nội, vừa dạy sử ở trường Thăng Long, vừa tự học lấy bằng cử nhân luật và kinh tế. Một trong những học trò của tướng Giáp, ông Bùi Diễm, người đã từng là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà năm 1965, viết: “Những gì về ông Giáp hồi ấy thật đặc biệt, vì vậy mà hơn nửa thế kỷ sau, tôi vẫn còn nhớ rõ rệt. Phần giảng dạy của ông về Nã Phá Luân rất ly kỳ… Hình như ông đã in tất cả trong đầu và sử trở thành một phần trong con người ông. Ông như chìm đắm vào thế giới của mình và ông lôi kéo học trò vào thế giới đó” (Bùi Diễm, Trong Gọng Kìm Lịch Sử, Phạm Quang Khai xuất bản năm 2000, trang 21, 22, 23). Năm 1946, khi Đặng Thai Mai chuyển từ Sầm Sơn ra Hà Nội, Giáp tìm tới thăm, lúc này cô con gái của thầy Mai, Đặng Bích Hà đã là một cô gái xuân mười chín. Họ lấy nhau và có bốn người con. Sau 1954, cả gia đình tướng Giáp, kể cả người con gái của ông và bà Quang Thái, Võ Hồng Anh, sống quây quần trong biệt thự 30 Hoàng Diệu.
(178) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 36
(179) Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Thị Quang Thái cưới nhau năm 1935. Năm 1940, khi cùng Phạm Văn Đồng sang Vân Nam gặp Nguyễn Ái Quốc, Giáp chia tay với người vợ trẻ khi họ vừa có Hồng Anh, con gái đầu lòng. Sau đó, Nguyễn Thị Quang Thái bị Pháp bắt rồi chết ở trong tù vào năm 1944. Theo lời kể của Giáo sư Võ Hồng Anh, con gái tướng Giáp: “Năm 1929, cha tôi lần đầu tiên nghe nhắc đến cái tên Nguyễn Thị Quang Thái, cô em gái trẻ, thông minh và rất xinh của Nguyễn Thị Minh Khai. Trong chuyến tàu cha tôi trở lại Huế, tới Vinh thì gặp mẹ tôi lên tàu, cùng với một nữ sinh Đồng Khánh. Lúc đó mẹ tôi mặc áo dài, tóc để xoã, da trắng, gương mặt sáng. Nhưng điểm gây ấn tượng với cha tôi nhất là đôi mắt”.
(180)Giáp là người đội mũ phớt trong bức hình chụp “34 chiến sỹ này” nên về sau Lê Đức Thọ đã gọi ông là “ông tướng mũ phớt”.
(181) Năm 1948, với tư cách là uỷ viên Thường vụ Trung ương, Thọ được cử vào Nam, nơi Lê Duẩn đang là bí thư Xứ uỷ Nam Bộ. Trong một hội nghị do Xứ uỷ tổ chức vào năm 1949, Lê Đức Thọ đã xuất hiện như một cấp trên, chỉ trích Xứ uỷ Nam Bộ bằng những lời lẽ nặng nề. Theo Võ Văn Kiệt, người có mặt trong hội nghị này: “Mặc dù phái đoàn (anh Lê Đức Thọ) có những đánh giá không sát với chiến trường Nam Bộ, nhưng trước hội nghị, anh Ba vẫn nhận lấy trách nhiệm một cách nghiêm túc. Phát biểu của anh Ba như tiếp thêm nguồn sinh lực và làm cho hội nghị trở nên hào hứng khi anh phân tích có sức thuyết phục bằng tầm bao quát sâu rộng và những lý lẽ được minh chứng bằng thực tiễn sinh động”. Con trai Tổng bí thư Lê Duẩn, Lê Kiên Thành, nói rằng, khi mới vào Nam Bộ, Lê Đức Thọ là cấp trên và ông cũng có ý định thay thế Lê Duẩn giữ chức bí thư Xứ uỷ, nhưng đã bị Lê Duẩn thuyết phục hoàn toàn. Lê Đức Thọ sau đó đã chủ động xin ở lại làm phó cho Lê Duẩn.
(182) Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh ngày 10-10-1911, tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cha là Phan Đình Quế, làm hương trưởng, chánh hương hội ở xã, từng được ban hàm cửu phẩm. Hai vợ chồng Phan Đình Quế sinh được tám người con, trong đó có ba người theo cộng sản: Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ), Phan Đình Dinh (Đinh Đức Thiện), Phan Đình Đống (Mai Chí Thọ). Năm mười lăm tuổi, khi đang học tại trường tiểu học tại Nam Định, Lê Đức Thọ đã tham gia bãi khoá và dự lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh. Ba năm sau ông tham gia Đông Dương Cộng sản Đảng, làm bí thư chi bộ học sinh. Tháng 11-1930, thì bị bắt, bị kết án mười năm khổ sai và bị đày đi Côn Đảo. Ông được tha trước thời hạn vào năm 1936. Nhưng, năm 1939, do có hai đảng viên phản bội, gần như tất cả các tổ chức cộng sản ở bốn tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình đều bị vỡ, trên 500 nguời bị bắt, trong đó có ba anh em Phan Đình Khải. Theo Hoàng Tùng, một người cùng quê, bị bắt chung, “Phan Đình Khải bị tra tấn rất dã man vẫn không khai”. Sau khi ra khỏi nhà tù Sơn La, Lê Đức Thọ bắt đầu được giao phụ trách công tổ chức và huấn luyện cán bộ (từ tháng 9-1944) và được chỉ định làm uỷ viên Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách Xứ uỷ Bắc Kỳ. Thọ là một trong số các nhà lãnh đạo của Đảng dự hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương đêm 9-3-1945, hội nghị đề ra chủ trương “phát động một cao trào cách mạng đi tới cuộc tổng khởi nghĩa”. Ông được cử vào Ban Thường vụ Trung ương tại hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, tháng 8-1945 và kể từ sau Cách mạng tháng Tám được chính thức giao phụ trách công tác tổ chức của Đảng. Từ năm 1956, sau khi Lê Văn Lương nhận án kỷ luật trong vụ cải cách ruộng đất, Lê Đức Thọ chính thức làm trưởng Ban Tổ chức Trung ương
(183) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 36
(184) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(185) Bài diễn văn ngày 9-7-1956 của Võ Nguyên Giáp có đoạn: “Tháng 7-1956 đã đến, cuộc tổng tuyển cử đúng kỳ hạn theo hiệp định Geneva quy định đang bị đế quốc Mỹ và chính quyền miền Nam phá hoại. Nhưng, trong thời gian hai năm qua nhân dân ta đã thu được những thắng lợi to lớn: miền Bắc được giải phóng và bước đầu được củng cố, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam được giữ vững và rèn luyện, sự đồng tình quốc tế ngày càng vững thêm… Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hoà bình… Chúng ta đã kháng chiến lâu dài để tranh thủ hoà bình, hoà bình được lập lại là một thắng lợi của nhân dân ta. Hoà bình càng được củng cố lâu dài thì thắng lợi của ta càng có điều kiện phát triển. Chúng ta kiên quyết đấu tranh lâu dài để thực hiện thống nhất nước nhà. Đó cũng tức là cuộc thi đua hoà bình giữa chế độ chính trị của miền Bắc và chế độ chính trị của miền Nam ở trong phạm vi một nước” (Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956).
(186) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(187) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(188) Trong bài phát biểu trước cuộc mit tin ở Hà Nội ngày 9-7-1956, Giáp nói: “Trong tình thế hiện nay, chủ trương đó (thi đua hoà bình) là chủ trương chính xác duy nhất. Nhận định trên hoàn toàn phù hợp với sự phân tích tình hình thế giới của Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, đại hội đã nêu ra những hình thức mới tiến lên chủ nghĩa xã hội trong đó có đường lối hoà bình phát triển không dùng đến vũ trang đấu tranh” (Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956).
(189) Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập 17-1956, trang 797-798.
(190) Sách đã dẫn.
(191) Báo Nhân Dân số ra ngày 12-7-1956.
(192) Sách đã dẫn.
(193) Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 35-36.
(194) Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002.
(195) Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009.
(196) Nhiều tác giả, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, trang 36.
(197) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster 2003, trang 26
(198) Sách đã dẫn
(199) Hai đại đội Quân Giải phóng đã đọ súng với một lực lượng quân Việt Nam Cộng hoà đông gấp bốn lần, có thiết vận xa M113, máy bay, pháo binh và cố vấn Mỹ. Kết quả, phía Việt Nam Cộng hoà: sáu mươi chết, 109 bị thương; cố vấn Mỹ: 3 chết, 8 bị thương. Phía Quân Giải phóng, ngay trong đêm rút lui an toàn về Đồng Tháp mươi.
(200) Viện trưởng Viện Triết học, Hiệu phó Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc.
(201) Tháng 4-1963, Ung Văn Khiêm đã bị cho thôi chức Bộ trưởng Ngoại giao sang làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
(202) Tháng 9-1963, Đại tá Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm phó Tổng tham mưu trưởng và vào “cuối mùa đông” năm đó ông được cử vào Nam. Theo Lê Đức Anh: “Trước ngày ra đi ông Văn Tiến Dũng căn dặn: ‘Vào tới nơi anh báo cáo với hai anh Nguyễn Văn Linh và Trần Văn Trà, bàn với các anh thực hiện Nghị quyết 15: Việc thứ nhất, ra sức xây dựng lực lượng quân sự tại chỗ; thứ hai, miền Đông Nam Bộ thì nên mở rộng ra hướng biển Đông; thứ ba, cố giành và khai thác nhân tài, vật lực để phát triển cách mạng’. Sau đó, ông Lê Đức Anh sang gặp ông Lê Duẩn tại số 6 Hoàng Diệu, ông Lê Duẩn nói: ‘Ba ý kiến đó đúng. Nhưng thêm một điều quan trọng nữa, là chú trọng xây dựng lực lượng cách mạng và hoạt động vũ trang ở trong đô thị và vùng ven đô” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 63). Khi ấy, ở Trung ương Cục ông Nguyễn Văn Linh đang là bí thư; ở Bộ chỉ huy Miền, tướng Trần Văn Trà làm tư lệnh, cả hai đều nói: “Thế thì chúng ta cứ làm theo ý của anh Ba Duẩn và anh Văn Tiến Dũng” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2005, trang 65).
(203) Theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Ngày 1-12-1963, tôi được thông báo về nhận nhiệm vụ mới… Chúng tôi hành quân vào tập kết ở Tây Hồ, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Tại đây, các đồng chí Tô Ký, Đồng Văn Cống, quán triệt tình hình nhiệm vụ, động viên và bố trí chuẩn bị lần cuối thật chu tất cho chuyến hành quân xa” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 87).
(204) Giữa năm 1963, Sắc lệnh cấm treo cờ của các giáo phái, các nhóm tôn giáo và các đảng phải chính trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã tạo ra một làn sóng chống đối. Trong cuộc biểu tình tại Huế vào ngày 8-5-1963, binh lính đã nổ súng vào đoàn người biểu tình. Ngày 11-6-1963, tại Sài Gòn, trước ngã tư Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt, hoà thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu. Bức ảnh chụp vị sư già ngồi thiền trong khi lửa cháy được truyền đi khắp thế giới như một bằng chứng về sự mất lòng dân của Ngô Đình Diệm. “Giọt nước tràn ly” khi ngày 21-8-1963, lực lượng của Ngô Đình Nhu bất ngờ khám xét hàng loạt chùa chiền, bắt đi hơn 1.400 nhà sư.
(205) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 35
(206) Ngày 2-11-1963: 6:20, ông Diệm gọi điện thoại cho tướng Trần Văn Đôn xin đầu hàng và được an toàn tới phi trường để ra đi cùng với Ngô Đình Nhu; 6:45 tướng Khiêm được ông Diệm cho biết nơi hai anh em ông đang trốn; 7:00 tướng Big Minh sai Mai Hữu Xuân đi đưa ông Diệm về Bộ Tổng Tham Mưu; 8:30 hai anh em Diệm và Nhu bị giết chết và được công bố là “tự tử” trong một chiếc xe M113, trên xe khi ấy có Đại uý Nguyễn Văn Nhung cận vệ tướng Big Minh. Không rõ ai đã ra lệnh giết hai ông Diệm - Nhu vì sau đó ít lâu Đại uý Nhung đã chết và được công bố là “tự tử”.
(207) Mật danh các chiến trường miền Nam: B-2 gồm các tỉnh Nam Bộ; B-3 Tây Nguyên. Các chiến trường Campuchia gọi là K; Lào gọi là C.
(208) tướng Giáp khẳng định với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara trong cuộc gặp ngày 23-6-1997 tại Hà Nội. Năm 2005, tài liệu giải mật của Nhà Trắng cho thấy Tổng thống Johnson biết là không có cuộc tấn công thứ hai vào ngày 4-8. Tuy nhiên, sự kiện ấy đã không được Nhà Trắng báo cho Quốc hội và ngay cả Bộ trưởng Quốc phòng cũng bất ngờ khi nghe tướng Giáp nói.
(209) Đại tướng Phạm Văn Trà kể: “Ngày 14-8-1964, đoàn chúng tôi chính thức lên đường. Đoàn xe ô tô của Tổng cục Hậu cần đưa chúng tôi về Nam theo đường số 1. Toàn đoàn trên dưới 160 anh em, hầu hết là sĩ quan cấp uý… Trước đó hơn một tuần, không quân Mỹ đã ào ạt đánh phá Đồng Hới, Quảng Bình, Vinh - Cửa Hội, Nghệ An, Lạch Trường, Thanh Hoá, Hòn Gai, Quảng Ninh… Bà con ở Vinh kể lại, ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ ném bom trúng kho xăng Bến Thuỷ, mặc dầu xăng dầu ta chuyển sơ tán từ trước, chỉ còn dầu cặn, nhưng khói lửa vẫn bùng cao hàng nghìn mét” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 92).
(210) Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa, tướng Trần Quý Hai là người thân tín của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.
(211) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 42
(212) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 124.
(213) Mikhalowski, được nói là “đặt nhiều hy vọng vào cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh”, ông nói: “Tôi được uỷ nhiệm của các đồng chí lãnh đạo chúng tôi đến tìm hiểu ý kiến của các đồng chí về việc này… Tôi nghĩ rằng nếu Tổng thống Mỹ thấy các đồng chí bác bỏ khả năng đàm phán thì chỉ còn con đường đẩy mạnh chiến tranh” (Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách dã dẫn, trang 127-128). Nhưng, Hồ Chí Minh còn tỏ ra cứng rắn hơn cả Phạm Văn Đồng: “Tại sao Mỹ phải đi gõ cửa khắp nơi? Chính Mỹ gửi quân đội Mỹ đến đây, bây giờ Mỹ phải đình chỉ xâm lược, như vậy vấn đề sẽ giải quyết. Mỹ phải cút đi!… Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mỹ cút đi! Gut-bai (Goodbye)” (sách dã dẫn, trang 128). Mikhalowski cố gắng: “Chiến tranh ghê gớm sẽ kéo dài năm năm, mười năm. Tại sao không vận dụng chiên thuật chính trị để đạt được kết quả tương tự? Rất có thể là Mỹ bây giờ cũng muốn rút lui theo một phương thức nào đó” (sách dã dẫn, trang 129). Hồ Chí Minh: “Mỹ có mạnh hơn Pháp, nhưng ngay nay chúng tôi cũng mạnh hơn trước kia… Khi chống Pháp, chúng tôi có một mình, bây giờ có cả phe xã hội chủ nghĩa ủng hộ chúng tôi” (sách dã dẫn, trang 129). Mikhalowski: “Nhưng phe xã hội chủ nghĩa của chúng ta không nhất trí. Chỉ có các đồng chí là đổ máu. Giá phải trả sẽ rất cao” (sách dã dẫn, trang 129). Hồ Chí Minh: “Nhân dân Việt Nam không sợ. Nếu đời chúng tôi không hoàn thành thì con cháu chúng tôi sẽ hoàn thành” (sách dã dẫn, trang 129).
(214) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 147.
(215) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 147.
(216) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 148.
(217) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, sách đã dẫn, trang 149.
(218) Raymond Aubrac (1914-2012), và vợ ông, bà Lucie (1912-2007), là hai nhân vật kiệt xuất trong cuộc Kháng chiến của người Pháp chống Phát xít Đức (1940-1944). Trong thời gian lãnh đạo chính quyền ở Marseille, nửa cuối năm 1944, Raymond Aubrac đã tận tình giúp đỡ giới “lính thợ” (ONS) người Việt ở vùng này, những người mà về sau trở thành những hạt nhân đầu tiên của phong trào Việt kiều ở Pháp. Mùa hè 1946, khi tới Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm gặp Raymond Aubrac. Chỉ sau một lần tiếp xúc, chủ tịch Hồ Chí Minh và những người thân cận trong phái đoàn (Vũ Đình Huỳnh, thư ký riêng, đóng vai ‘tuỳ viên quân sự’, Phạm Văn Đồng, người sẽ cầm đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hội nghị Fontainebleau…) đã trở thành “khách” thường trú tại ngôi nhà của ông bà ở Soisy-sous-Montmorency (cách Paris 16 km về phía bắc). Cũng trong thời gian này, bà Lucie đã sinh hạ con gái út là Elisabeth (Babette) mà Hồ Chủ tịch nhận làm cha đỡ đầu. Ngoài chuyến đi đến Hà Nội năm 1967, năm 1975, khi chiến tranh vừa chấm dứt, Raymond Aubrac đã thuyết phục được McNamara trao cho chính phủ Việt Nam toàn bộ các bản đồ các bãi mìn dọc theo “bức tường McNamara” (theo Nguyễn Ngọc Giao).
(219) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 215.
(220) Phạm Văn Đồng đã nói cụ thể với hai sứ giả của Washington: “Có hai loại vấn đề: thương lượng và giải pháp. Muốn có thương lượng, chúng tôi đứng trên lập trường nguyên tắc của chúng tôi: phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc mới có thể thương lượng. Trong quá trình thương lượng, chúng tôi biết chúng tôi phải nói gì. Mỹ hãy chuẩn bị về phía họ!”. Aubrac: “Thế nào là việc ném bom không điều kiện?”. Phạm Văn Đồng: “Tôi muốn họ ra một tuyên bố. Nhưng chúng tôi không quá khó tính”. Marcovich: “Có lẽ là một việc ngừng ném bom trên thực tế, không tuyên bố”. Phạm Văn Đồng: “Chúng tôi không khó tính về điểm này. Điều chủ yếu là ngừng không điều kiện. Chúng tôi sẽ không nói chuyên dưới sự đe doạ của bom đạn”. Marcovich nhắc lại điều mà một năm trước đó Sainteny đã nói: “Hoa Kỳ không muốn chịu mất thể diện. Kissinger đã nói với chúng tôi: làm thế nào giúp họ rút đi” (Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 218).
(221) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 228.
(222) Lưu Văn Lợi & Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 2002, trang 228-229.
(223) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 42
(224) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(225) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(226) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(227) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(228) Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
(229) Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998.
(230) Theo Vũ Kỳ: “Hai Bác cháu lại ngồi im lặng bên nhau, nghe tin tức, ca nhạc và nghe ngâm thơ Tết, chờ đón giao thừa. Thời gian trôi đi chầm chậm. Thấy vẻ Bác trầm ngâm đượm buồn… Từ ngày Bác trở về nước sau hơn ba mươi năm xa tổ quốc, có năm nào Tết đến mà Bác không đến với đồng bào và chiến sĩ đâu… Chỉ có mùa xuân này Bác phải xa tổ quốc. Bác bảo tôi: chú mở cái băng gì vui vui cho Bác nghe với. Tôi biết Bác thương nhớ nhất các cháu nhỏ nên tôi chọn một băng có nhiều bài hát thiếu nhi mở cho Bác nghe. Khi một giọng hát ngây thơ của một em bé hát bài “Bé bé bồng bông… em đi sơ tán, mai về phố Đông”, tôi thấy Bác mỉm cười. Có tiếng pháo nổ ran tiễn Đinh Mùi đón Mậu Thân. Cùng lúc, từ chiếc đài bán dẫn, lời chúc Tết của Bác Hồ vang lên sang sảng:
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta!
Tiếng Bác Hồ ngân vang. Trong căn phòng vắng chỉ có hai người”. Bài thơ trên đây được Hồ Chí Minh làm trong gần ba tháng khi đang ở Bắc Kinh và đã được thu thanh khi ông về Hà Nội hồi cuối tháng 12-1967 (Vũ Kỳ, “Bác Hồ với Tết Mậu Thân Năm Ấy”, báo Văn Nghệ số Xuân năm 1998).
(231) Đặng Kim Giang là một trong bốn chỉ huy quan trọng nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ, với vai trò chủ nhiệm cung cấp của mặt trận, ông đã đảm bảo mỗi ngày năm mươi tấn gạo cho chiến dịch. Năm 1958, ông được phong quân hàm thiếu tướng. Năm 1962, ông ra làm thứ trưởng Bộ Nông trường.
(232) Ông Nguyễn Kiến Giang, người bị bắt giam sáu năm và quản chế ba năm, nói: “Cho đến bây giờ tôi cũng không biết là tôi có tội gì nữa. Người ta bảo là tôi phản động, tay sai nước ngoài, thì cũng nghe nói thế thôi, chứ còn trên thực tế, bị giam ở xà lim mấy năm, thêm mấy năm quản chế, khoảng gần mười năm, cho đến khi trở về Hà nội với tư cách là một người công dân, tôi cũng không biết là tôi có tội gì. Cho tới nay cũng không ai nói với tôi là tôi có tội gì nữa”.
(233) Ngày 27-1-1972, Ban Chấp hành Trung ương mới ra nghị quyết tước quân hàm trung tướng của ông Nguyễn Văn Vịnh, khai trừ đảng tịch ông Vịnh, ông Ung Văn Khiêm, Bùi Công Trừng và Lê Liêm. Ngày 13-10-1977, sau khi giữ đảng tịch, giữ quân hàm thiếu tướng cho tướng Vịnh, Quyết định số 255 do chính Lê Đức Thọ ký, viết: “Đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biết Đặng Kim Giang là phần tử xấu có quan điểm chống lại Nghị quyết 9 của Đảng vẫn quan hệ trao đổi một số quan điểm sai trái về đường lối chống Mỹ, tiết lộ những tin tức cơ mật về quân sự, chính trị với Giang. Giang đã sử dụng những tin ấy để hoạt động chống Đảng và cung cấp cho người nước ngoài. Nhưng tác hại không lớn. Đồng chí Vịnh không có quan hệ về tổ chức và hành động với nhóm chống Đảng của Đặng Kim Giang và không biết Giang hoạt động chống Đảng có tổ chức như sai lầm của 3 uỷ viên Trung ương: Ung Văn Khiêm, Lê Liêm, Bùi Công Trừng”.
(234) Từ năm 1973, ông Phạm Văn Hùng là thư ký ông Võ Văn Kiệt.
(235) Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
(236) Theo ông Nguyễn Nhật Hồng, trưởng phòng B29, một phòng đặc biệt phụ trách chi viện cho miền Nam: Trong năm 1967, Trung ương cho in 10.000 hòm tiền “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”; vì số tiền này dự định phát hành trong năm 1968 nên có mật danh là “hàng 68”. Khi ấy, ở Trung ương Cục cũng đang tồn 14.000 hòm tiền “Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, mật danh là “hàng 65”. Dự kiến, tuỳ theo tình hình, giải phóng ở cấp độ nào thì dùng “hàng” ở quy mô ấy.
(237) tướng Giáp phát biểu với các tướng lĩnh làm công tác Tổng kết chiến tranh ngày 9-2-1999 - Theo tướng Lê Phi Long.
(238) Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 14, tháng 12-1967: “Muốn thắng nó, làm sập nó dữ, không phải đánh thường thường như bây giờ, mà phải chuyển qua một giai đoạn mới, giai đoạn đó là chuyển qua tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Ông giải thích: “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa… (theo) quan niệm của Lênin: khởi nghĩa ở đô thị là một cuộc cướp chính quyền, là giai đoạn đầu tiên của chiến tranh cách mạng, không có cuộc khởi nghĩa nào rồi là xong đâu, như ta làm Cách mạng Tháng Tám rồi, ta phải kháng chiến chín năm nữa”. Nhưng, ông nhấn mạnh: “Cuộc khởi nghĩa ta nói đây là một giai đoạn cuối cùng, không phải giai đoạn đầu, không phải là một cú, mà là một giai đoạn… Ta có lý luận quân sự,… có những lực lượng quân sự khá mạnh, những chủ trương lớn và những mũi nhọn khá mạnh đánh ngay vào tim nó; vùng dậy cả về quân sự, chính trị trong một thời gian. Ở đây ta có nhảy vọt lên, nó có nhảy vọt xuống, ghê gớm lắm, không lường thế nào cho hết đâu. Nếu Sài Gòn bị sập một cái, nửa triệu người, vài ba chục vạn người cầm súng cho ta đánh nó thì lắm vấn đề lớn lắm, không lường hết được” (Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008).
(239) Báo Nhân Dân số ra ngày 7-1-2008.
(240) Đại tá Tư Chu giải thích: “Theo kế hoạch chiến đấu Đợt Một Mậu Thân thì các đơn vị Biệt động có nhiệm vụ xung kích, cố giữ các mục tiêu trong vòng một giờ, sẽ có các tiểu đoàn bộ binh mũi nhọn của các phân khu tiến vào tiếp ứng để đánh chiếm toàn bộ mục tiêu, tiêu diệt cơ quan đầu não của Mỹ-Nguỵ, đồng thời có binh biến của một số đơn vị nguỵ quân, có nổi dậy của hàng vạn thanh niên và quần chúng ở các quận nội đô để giành quyền làm chủ các địa bàn, mục tiêu ta chiếm được. Trên thực tế, không có binh biến cũng như nổi dậy, bộ đội chủ lực thì có nơi không vào kịp, hoặc không vào được, chỉ có các đơn vị biệt động đánh vào 5 mục tiêu một cách đơn độc, có đơn vị phải chiến đấu cho đến người cuối cùng”.
(241) Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Sự Thật 2002, tr 39.
(242) Ở Huế: Khoảng 2:40, một tiểu đoàn đặc công người Huế, 2 trung đoàn bộ binh người miền Bắc và một tiểu đoàn hoả lực tràn vào chiếm Thành. Trong 6 ngày đầu của cuộc tấn công, Đại tá Tỉnh trưởng Thừa Thiên Phạm Văn Khoa phải trốn trên xà nhà của một bệnh viện. Quân Giải phóng đã trụ được 26 ngày và một số ngày trong khoảng thời gian này, cờ xanh - đỏ - sao vàng đã được kéo lên cột cờ cao nhất ở Huế. Nhưng, Huế đã bị tàn phá nặng nề bởi bom đạn của cả đôi bên: 14.000 thường dân chết; 24.000 dân thường bị thương, chưa kể gần 3.000 lính Sài Gòn và lính Mỹ; 627.000 người dân mất nhà mất cửa. Có nhiều người Huế đã bị CS bắt đi, bị CS thủ tiêu. Huế, đã trở thành một biểu tượng khiến cho khi nói về Mậu Thân, người dân miền Nam đã nghĩ ngay đến màu tang tóc do CS đánh chiếm Thành Huế. Ở miền Tây, theo Đại tướng Phạm Văn Trà: “Tiểu đoàn chúng tôi, ngày xuất quân với 7 đại đội đủ quân, xấp xỉ một nghìn tay súng, sau khi kết thúc đợt 1, chỉ còn trên một trăm cán bộ, chiến sĩ. Có tiểu đoàn, khi đánh vào Cần Thơ bộ đội ngồi chật cả trăm xuồng, khi ra chỉ vài chục chiếc, mỗi chiếc chở vài ba anh em. Đành rằng, trong chiến tranh, không phải lúc nào cũng lấy việc ‘đếm xác’ của hai bên trên chiến trường để kết luận sự thắng bại; nhưng để tổn thất lớn là điều chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ; đặc biệt đối với chúng tôi là những người cầm quân trên chiến trường… Tôi nhớ khi đó anh em trong đơn vị đã truyền nhau mấy câu lục bát:
Vòng cung đi dễ khó về
Đạn chen đầu đạn, bom kề hố bom;
Hay là:
Tưởng là lên lộ đi xe
Ai ngờ trở lại không ghe, không xuồng.
Chủ nhân của mấy câu lục bát ấy, một phong viên mặt trận, bị phát hiện và chịu nhận hình thức cảnh cáo”(Phạm Văn Trà, Hồi ký Đời Chiến sỹ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 142-143). Trên thực tế chiến trường, Cuộc Tổng công kích và khởi nghĩa CS đã bị nghiền nát. Tài liệu kiểm điểm của Khu uỷ Khu IX, nơi ông Võ Văn Kiệt làm Bí thư từ năm 1970, viết: Do“chăm bẵm vào khả năng giải phóng hoàn toàn”, Khu uỷ đã tập trung toàn lực, tấn công vào đầu não đô thị. Quân đội Mỹ và VNCH, nhân cơ hội ấy, tiến hành “Bình định đặc biệt”,“Bình định cấp tốc” ở vùng nông thôn, gom dân vào ấp, cán bộ đảng viên bị dạt ra khỏi dân. Quân đội VNCH đóng thêm 1000 đồn bốt. Trong số 250 xã Miền Tây Nam Bộ, cuối năm 1968, có 50 xã, đảng viên phải ly hương; 40 xã khác, chỉ còn một hoặc hai đảng viên. Các trung đoàn chủ lực cũng bị đánh dạt sâu về Trà Vinh, U Minh. Trong khi số lượng du kích sụt, tân binh lại không tuyển được ngay cả trong những “xã giải phóng”… Trong Chiến dịch Mậu Thân, ông Võ Văn Kiệt đã vào sâu tận nội thành Sài Gòn, chiều mùng Một Tết, ông đã có mặt ở một xóm nhỏ gần đình Bình Đông, Quận Tám. Tiền phương của Sài Gòn cũng nhận được những lệnh liên tiếp tập kích vào đô thị để “giành thắng lợi tối đa”. Những người trực tiếp ở chiến trường như ông đã phải chứng kiến sự hy sinh quá lớn. Ông nói: “Lúc đó tôi đau đến mức nhiều lần bật khóc”. Hơn 11 vạn quân giải phóng đã hy sinh trên toàn chiến trường, còn thương vong của dân chúng thì không thể nào tính được. Phần lớn căn cứ địa Quân Giải phóng ở nông thôn đã trở thành “đất trắng”. Chưa bao giờ quân Giải phóng ở trong tình trạng như vậy, có những sỹ quan chỉ huy CS cấp sư đoàn cũng chịu không nổi, phải ra đầu hàng chính quyền VNCH. Ngày 9-2-1999, khi nói chuyện với các tướng lĩnh làm Tổng kết chiến tranh, tướng Giáp nói: “Có đồng chí chỉ huy gửi điện cho tôi nói rõ tình hình bộ đội tan tác, ẩn nấp trong rừng mặn ngập nước ở phía Đông Nam Sài Gòn, tướng không chỉ huy được quân nữa. Ở Huế, anh Trần Văn Quang gửi tôi một bức điện dài 16 trang, xin rút. Tôi đồng ý và viết điện trả lời. Sáng hôm sau giao ban thấy bức điện vẫn để nguyên trên bàn, tôi hỏi tại sao chưa gửi thì Văn Tiến Dũng trả lời: ‘Việc này hệ trọng phải đem ra bàn bạc trong tập thể Quân uỷ đã, mình anh quyết định sao được’. May mà lúc đó ở dưới, anh em đã rút. Đồng chí Tư Chu, chỉ huy Biệt Động Sài Gòn, cũng có kể cho tôi nghe thực cảnh bộ đội sau năm 1968. Thiệt hại to lớn quá. Giá đắt quá! Về Huế thì anh Đặng Kinh, khi ấy là phó tư lệnh Mặt trận, biết quá rõ. Sau này anh ấy ra Bộ báo cáo và để lại nhiều tài liệu quan trọng. Những băn khoăn về Mậu Thân còn dai dẳng, thời gian cũng không thể che lấp được. Lịch sử đang đợi những người còn sống phải làm rõ, nhất là những người CS có chức, có quyền”.
(243) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 47
(244) Sách đã dẫn.
(245) Sách đã dẫn.
(246) Xem Phụ lục: Đánh & Đàm.
(247) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa xuân Đại thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 48-49.
(248) Sách đã dẫn, trang 54.
(249) Sách đã dẫn, trang 55.
(250) Sách đã dẫn, trang 55.
(251) Sách đã dẫn, trang 55.
(252) Sách đã dẫn, trang 55.
(253) Mật danh của Khu IX.
(254) Các tướng lĩnh cho rằng Trần Quỳnh đã bịa đặt khi viết trong Hồi ký: “Mọi việc quân sự, Lê Duẩn trực tiếp làm việc với Bộ tổng tham mưu, có khi làm việc trực tiếp với Cục tác chiến. Nơi làm việc có khi là trong Bộ Quốc phòng, có khi tại nhà riêng của Lê Duẩn, có khi tại khu nhà khách Trung ương Quảng Bá, có khi là khu nghỉ mát Đồ Sơn. Sau đó anh em ở Bộ tham mưu, Cục tác chiến làm đề án trình Quân uỷ, rồi Quân uỷ trình ra Bộ chính trị quyết định. Cách làm việc của Lê Duẩn có tính cách gia đình, không biên bản không ghi âm. Lê Duẩn nói, anh em ghi chép. Chính cách làm việc này để lại hậu quả là kẻ có dã tâm nhận ý kiến của Lê Duẩn làm của mình”.
(255) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa xuân Đại thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 67.
(256) Trần Văn Trà, Hồi ký Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm, Nhà Xuất bản Văn Nghệ TP HCM 1982.
(257) Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 493
(258) Quân lực Việt Nam Cộng hoà lúc đó ở trong tình trạng: “Không đủ để thay thế các thiết bị hư hỏng hoặc mất mát; Giảm 50 phần trăm hiệu năng của số máy bay đã hạ cánh thuộc 11 phi đội hàng đầu; Giảm 30 phần trăm sự hoạt động của các tầu biển và 82 phần trăm đối với các tầu sông; Quân nhu y tế sẽ sử dụng hết vào cuối tháng Năm năm 1975; Nhiên liệu cho lục quân sẽ cạn kiệt vào cuối tháng Tư năm 1975; Vào cuối năm tài khoá 1975, Quân đội sẽ chỉ có một phần tư số dự trữ đạn dược tối thiểu cần thiết để đối phó một cuộc tấn công lớn; Các máy bay và thiết bị mặt đất không dùng đến sẽ bị hư hỏng nhanh chóng” (Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003, trang 496).
(259) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong mùa Xuân Đại Thắng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2000, trang 93.
(260) Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành dinh trong Đại thắng Mùa Xuân, Nhà Xuất bản Chinh trị Quốc gia 2000.
(261) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 664.
(262) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 665.
(263) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2002, trang 666.
(264) Tiền thân là Mặt trận Quảng Đà, gồm Quân đoàn II CS, Quân đoàn IV CS, Sư 3 và Quân khu V CS. Ngày 16-4-1975, lực lượng của “Cánh quân Duyên Hải” đã đánh vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn III VNCH ở Phan Rang, bắt sống Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Không quân Phạm Ngọc Sang và lúc bấy giờ đã đánh vỡ tuyến phòng thủ Sài Gòn từ xa, đưa một đạo quân gần bốn vạn người, cùng với 2.500 xe pháo các loại trong đó có gần l00 xe tăng thiết giáp, 250 xe kéo pháo vào khu vực tập kết.
(265) Điện ngày 7-4-1975 của tướng Giáp gửi Lê Trọng Tấn:
“Mệnh lệnh
1- Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng Miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.
2- Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ.
Văn”.
(265) Trong cuốn Tổng tập Lê Duẩn, cả ông Lê Hữu Đức và bà Diệu Muội đều nhầm là ngày 29-4-1975.
(267) Trong chiến tranh, Cục Tác chiến là cơ quan trực tiếp báo cáo tình hình chiến trường và chuẩn bị các tài liệu, kể cả soạn thảo các nghị quyết cho Quân uỷ và Bộ Chính trị, và các bức điện ký tên các nhân vật trong Bộ Chính trị. Theo Trung tướng Cục Trưởng Tác chiến CS Lê Hữu Đức, trong suốt 55 ngày đêm của Chiến dịch Hồ Chí Minh, chỉ có bức điện ngày 9-3-1975 là do chính tay ông Lê Duẩn viết, “Tất cả những bức điện ký tên Anh Ba khác đều do cơ quan Tác chiến chúng tôi dự thảo, anh duyệt và ký tên, cơ quan Tác chiến chuyển qua Cục Cơ yếu điện đi”.
(268) Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 667.
(269) Cũng năm ấy, Phạm Hùng được cử thay thế Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn; Nguyễn Cơ Thạch chính thức làm Bộ trưởng Ngoại Giao thay thế Nguyễn Duy Trinh; Tố Hữu được cử làm Phó Thủ tướng đặc trách kinh tế.
(270) Khi ấy là uỷ viên dự khuyết Bộ chính trị.
(271) “Vụ án Chống Đảng” mà Lê Đức Thọ tiến hành được trợ lý của Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Trần Quỳnh, kể: “Đặng Kim Giang khai, linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên Giáp. Họ liên lạc với Đại sứ Tchecbakov”. Đại sứ Tchecbakov được coi là một “sĩ quan tình báo” của Liên Xô. Theo Trần Quỳnh thì đích thân Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã báo cáo với Lê Duẩn về “vai trò của Võ Nguyên Giáp trong tổ chức chống Đảng này”. Trần Quỳnh viết: “Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đề nghị kỷ luật những người cầm đầu: Khai trừ ra khỏi Đảng, cách chức, quản thúc một số, nhưng cho hưởng nguyên các chế độ đãi ngộ… Riêng về Giáp kỷ luật được đề nghị là khai trừ khỏi Bộ chính trị, Lê Duẩn không đồng ý. Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần đến sự giúp đỡ của Liên Xô trong công cuộc xây dựng Miền Bắc và nhất là trong sự nghiệp giải phóng Miền Nam. Giáp là người của Liên Xô, nếu kỷ luật Giáp sẽ động đến Liên Xô ảnh hưởng không nhỏ đến sự viện trợ của Liên Xô. Tôi đề nghị cứ để Giáp ở lại trong Bộ chính trị. Ta sẽ có cách làm việc với Giáp làm cho sự ở lại và có mặt của Giáp không gây ra những hậu quả có hại”.
(272) Chỉ có tờ Tổ quốc, cơ quan của Đảng Xã hội Việt Nam, vào dịp 7-5-1984 vẫn phát hành một số đặc biệt nói về Điện Biên Phủ, trong đó ca ngợi tài năng và, lần đầu tiên nói đến quyết định “kéo pháo ra” của tướng Giáp. Tuy tờ Tổ quốc là của Đảng Xã hội, nhưng tổng biên tập, ông Hàm Châu vẫn là một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nên việc ca ngợi tướng Giáp đã khiến ông Hàm Châu bị Ban Tuyên huấn của Đảng Cộng sản Việt Nam nhắc nhở. Theo ông Hàm Châu: Ông Phan Quang, vụ trưởng báo chí của Ban Tuyên huấn Trung ương, gọi ông lên hỏi: “Vì sao đã có chỉ thị không nhắc tên cá nhân anh Giáp mà Tổ quốc vẫn đưa?”. Chủ trương không nhắc tên Võ Nguyên Giáp trong các bài kỷ niệm ba mươi năm chiến thắng Điện Biên Phủ là một “chỉ thị miệng” chỉ được Lê Đức Thọ truyền đạt tới ba cơ quan báo chí lớn: Nhân Dân, Quân đội Nhân dân và Thông tấn xã Việt Nam. Trong cuộc gặp này, Lê Đức Thọ nói: “Từ nay đừng bao giờ nhắc đến tên cái ông tướng đội mũ phớt nữa”. Ông Hàm Châu nói: “Thậm chí, Lê Đức Thọ còn định lấy ngày thành lập đội du kích Bắc Sơn, 14-2-1941, thay vì ngày thành lập Đội tuyên truyền giải phóng quân 22-12-1944 làm ngày thành lập quân đội”. Cho dù “chỉ thị miệng” này ngay sau đó được các đồng nghiệp ở báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân truyền đi. Nhưng, về lý thì không thể kỷ luật những người không nhận được lệnh này một cách trực tiếp. Phan Quang chấp nhận giải trình của Hàm Châu. Ông Hàm Châu nói: “Thâm tâm, chính Phan Quang cũng không đồng ý với chỉ thị của Lê Đức Thọ”.
(273) Nhân sinh nhật lần thứ 75 của Tổng bí thư Lê Duẩn, báo Nhân Dân số ra ngày 7-11-1982 đăng bài “Sáng tạo, một tấm gương lớn” của Thép Mới viết về cuộc đời của Tổng bí thư Lê Duẩn. Sau khi nhắc đến Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Thép Mới coi “Đề cương cách mạng miền Nam” như một loại sách “Bình Mỹ” mà Lê Duẩn đã “thai nghén từ Biên bạch tới Sài Gòn” để sánh với sách “Bình Ngô” mà Nguyễn Trãi ngồi ở “góc thành Nam, lều một gian” viết 600 năm trước ( sic) . Dẫn lại một nhận xét về Lê Duẩn của Hoài Thanh: “Mỗi lần anh phát biểu ý kiến, chúng ta đều thấy có gì mới và sâu, soi sáng rất nhiều cho chúng ta”( sic), Thép Mới viết: “Có sức nghĩ của những con người là chỗ dựa cho mạch nghĩ của cả một thế hệ và là điểm tựa chắc chắn cho cả mai đây”. Từ năm 1984, Ban Bí thư cử một nhóm viết tiểu sử và hồi ký cho Tổng bí thư Lê Duẩn, nhóm gồm ba người: Thép Mới, Bùi Tín và Đống Ngạc, thư ký riêng của Lê Duẩn. Nhóm được ông Lê Duẩn trực tiếp kể về mình tại nhà nghỉ Hồ Tây hoặc tại Đồ Sơn. Cùng nghe có ông Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương Đảng. Đến buổi thứ 5 thì Bùi Tín xin rút. Loạt bài, Thời Thắng Mỹ (đăng 17 kỳ liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân Dân ra ngày 21-1-1985), về sau xuất hiện trên báo Nhân Dân chỉ còn đứng tên Thép Mới.
(274) Trong phần nói về cuộc tập kết năm 1955, Thép Mới viết: “Đến giờ kéo neo tàu chạy, anh Ba nắm tay anh Sáu (Lê Đức Thọ): ‘Anh ra thưa với Bác là tất cả đồng bào, đồng chí trong này ngày đêm mong Bác sống lâu, mạnh khỏe. Anh cho tôi gửi lời chào Bác, Trường Chinh và tất cả các anh ngoài đó. Tình hình này thì dễ đến mười tám, hai mươi năm nữa, anh em ta mới lại gặp nhau”. Lịch sử Nam-Bắc sau đó đã bị phân chia đúng 20 năm: 1955-1975 như… “tiên tri” của Lê Duẩn.
(275) Thép Mới, Thời Thắng Mỹ, đăng 17 kỳ liên tiếp mỗi tuần từ số báo Nhân Dân ra ngày 21-1-1985.
(276) Thép Mới, sách đã dẫn.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 8, 2014 6:52:39 GMT 9
Linh – Kiệt và món bê thui Ông Linh gặp ông Kiệt lần đầu khoảng năm 1956. Để đánh dấu sự kiện quan trọng này, ông Linh mời ông Kiệt nhậu món bê thui chấm với nước mắm gừng. Tình đồng chí, mùi bê thui, với mắm mặn gừng cay đã để lại trong ký ức ông Kiệt những ấn tượng đến tận cuối đời. Bà Bảy Huệ vợ ông Linh là người đồng hương Vĩnh Long với ông Kiệt. Vợ chồng bà coi ông Kiệt như cậu em trong nhà. Nhưng khi hai ông đã đạt đến tột đỉnh quyền uy, thì họ cư xử với nhau thế nào. Huy Đức dẫn chúng ta lần mò vào chốn thâm cung, kín cổng cao tường, nhưng vô minh, tăm tối để tìm câu trả lời trong Quyền Bính. Vò xé miền Tây Tháng 6 năm 1986, ông Linh trở thành Tổng bí thư còn ông Kiệt là phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Tháng 8 năm 1986 xảy ra vụ án Hoàng Cơ Minh, nguyên phó đề đốc tư lệnh Vùng II Duyên hải của VNCH, qua Mỹ từ năm 1975, về Thái lập căn cứ kháng chiến. Trong vụ án này có một bị cáo là Dương Văn Tư. Cimexcol là công ty khai thác gỗ bên Lào của tỉnh Minh Hải và thành phố Hồ Chí Minh. Phó giám đốc điều hành là Dương Văn Ba. Khi ông Linh lên Tổng bí thư được hơn một năm thì Dương Văn Ba bị bắt vì là anh của Dương Văn Tư, và anh Ba qua Lào lập chiến khu để em Tư đánh vào Việt Nam. Nhưng Tư sanh ở miền Bắc, và nhiều tuổi hơn Ba. Họ không có mối quan hệ huyết thống. Lại không có bằng chứng Ba qua Lào để mở chiến khu. Số phận đắng cay không buông tha Ba. Án chính trị chuyển thành án kinh tế. Hình phạt nặng nề giánh xuống đầu Ba và nhiều người khác trong ban lãnh đạo Cimexcol, mặc dù không có chứng cớ của tham nhũng hay thua lỗ. Huy Đức không dừng lại ở việc tường thuật tại tòa mà còn đưa bạn đọc đi tìm căn nguyên. Trung tướng công an Võ Viết Thanh, thứ trưởng phụ trách an ninh “không thấy có bằng chứng Cimexcol qua Lào mở chiến khu”. Lãnh đạo Cimexcol là những đồng chí của ông Kiệt ở miền Tây trước 1975. Ông Linh và ông Kiệt đang “có vấn đề”. Ông Linh đã chỉ đạo Lâm Văn Thê giám đốc công an Thành phố Hồ Chí Minh làm án. Từ trái sang phải: Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Xô, Phạm Thái Bường (Ba Bường), và Võ Văn Kiệt thời kỳ chiến tranh “giải phóng miền Nam” Việt Nam. Ảnh VNN Cả miền Tây Nam bộ cuốn vào vòng xoáy nghiệt ngã của tị hiềm. Những con người hiền hòa chân chất của dải đồng bằng châu thổ kẹt giữa muôn vàn xô đẩy của quyền lực. Bao nhiêu cuộc kiểm điểm, bao nhiêu thông tư, chỉ thị, bao nhiêu người bị kỷ luật, liên lụy, cách chức, khai trừ, bao nhiêu người bị oan sai, bao nhiêu người phải ôm hận xuống mồ. Hình ảnh của miền Lục tỉnh bị vò xé thực ra chỉ là một phiên bản hắt ra từ mối quan hệ Linh – Kiệt. “Trèo cây, múa gậy” Tháng 3 năm 1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng đột ngột qua đời. Theo Hiến pháp thì ông Kiệt sẽ lên thay cho đến khi Quốc hội bầu ra người mới. Tháng 6 cùng năm, Quốc hội nhóm họp đã bầu Đỗ Mười mặc dù rất nhiều đoàn đại biểu đề nghị ông Kiệt. Bạn đọc được coi một màn xiếc, quay cuồng, đảo điên đến ngoạn mục của ông Linh. Ngay khi Phạm Hùng vừa chết, ông Linh đi gặp cố vấn Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ, rồi giao cho Nguyễn Đức Tâm đi các tỉnh miền Bắc, Võ Chí Công đi các tỉnh miền Trung, và đích thân ông đi các tỉnh miền Nam để vận động loại ông Kiệt ra khỏi ghế thủ tướng. Không thấy Huy Đức nêu ra nội dung của cuộc gặp giữa ông Linh và hai ông cố vấn. Nhưng theo hồi ký của Đoàn Duy Thành thì Phạm Văn Đồng đánh giá Đỗ Mười là “Chỉ có phá”. Ông Đồng có lúc đã “phản ứng rất gay gắt và đã giao cho năm đồng chí cấp tướng là phải hạ anh Mười xuống”. Cũng không thấy Huy Đức nêu ra bằng chứng Bộ chính trị chọn Đỗ Mười. Khi vận động loại Võ Văn Kiệt, ông Linh đi đến đâu cũng bị phản đối, nhưng ông luôn nhân danh “Đây là quyết định của Bộ chính trị”. Ông Linh đã thao túng dư luận, thao túng Quốc hội để chọn Đỗ Mười, một người đã phá nát nền kinh tế miền Bắc sau năm 1954, phá tiếp nền kinh tế miền Nam sau 1975, có tiền sử tâm thần phân liệt, đã phải phải “trèo cây”, “múa gậy” để “hạ nhiệt”, trở thành Thủ tướng. “Cậu sẽ chết” Ông Linh nghỉ hưu vào năm 1991, nhưng những cú thôi sơn của ông nhằm vào ông Kiệt dường như không muốn nghỉ ngơi. Khi ông Kiệt đã trở thành Thủ tướng, miền Bắc thừa điện, miền Nam thì thiếu. Ông Kiệt cho xây dựng đường dây 500 kV tải điện vào Nam, thay vì bán qua Trung Quốc. Ông Linh cho là ông Kiệt “lợi dụng tiền Nhà nước để gây thanh danh cá nhân”, rồi lại dùng con bài tư pháp như ông đã từng làm để triệt hạ đối phương. Một động thái thiếu thận trọng nhưng không phạm pháp của Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải đã trở thành một bản án đầy ám muội giáng xuống đầu ông cùng ban lãnh đạo xây dựng đường dây 500 kV. Chưa đủ, ông Linh đích thân bay ra Hà Nội gặp Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao để đổi cáo trạng từ khung “cảnh cáo” thành khung có mức án ba năm tù. Vẫn chưa hài lòng, ông Linh còn can thiệp loại bỏ đợt ân xá trước Tết Nguyên đán hằng năm, để ông Hải không còn cơ hội ra tù sớm. Quay lại vụ án Cimexcol, ông Linh đã tung ra một màn ảo thuật để tòa phải xử “sơ chung thẩm” kết hợp, đưa nạn nhận vào ngõ cụt, tuyệt đường kháng án. Ở vụ án này, Huy Đức dẫn chúng ta vào một khoảng tối, phía sau vành móng ngựa. Một người bạn kể với ông Hải rằng “Vị ấy đã đồng ý tha cho tớ nhưng cậu sẽ chết”. “Vị ấy” là ông Linh. Ông Linh đã dùng quyền bính để can thiệp vào các vụ án một cách tùy tiện đến mức thối nát, nếu không nói đó là hành vi phạm pháp. Đây không phải lần đầu và cũng không phải lần cuối. Ông Linh còn làm như vậy nhiều năm sau đó để triệt hạ ông Kiêt. Không “đao to búa lớn” nhưng… Giữa năm 1995, Chính phủ mà ông Kiệt điều hành gặt hái được nhiều thành tích, uy tín của ông lên cao. Khi đó Tổng bí thư Đỗ Mười đã ở tuổi 80. Ông Kiêt trở thành một ứng cử viên nặng ký cho chức tổng bí thư vào kỳ Đại hội VIII. Điều này đã làm cho Trung Quốc, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, và đặc biệt là ông Linh trở nên quyết liệt hơn, tàn nhẫn hơn. Ông Linh tung ra trận đánh tổng lực với nhiều chiến thuật khác nhau. Bà Phan Lương Cầm. Vợ ông Kiệt là bà Phan Lương Cầm, tiến sỹ Hóa, giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội, trở thành mục tiêu cho cuộc tấn công. Bà Cầm không phải đảng viên cũng trở thành một chủ đề cho dư luận đàm tiếu. Ông Linh gọi bà là “con mẹ Giang Thanh”. Hình ảnh bà Cầm lịch lãm, duyên dáng bên chồng trong những chuyến công du nước ngoài bị mỉa mai là “gót chân Achilles” của Thủ tướng. Tấm hình bà Cầm đang mang gói quà trong một chuyến công du được tung ra cho nhiều người coi “Ông xem, nó chỉ đi để lấy quà”. Những lời đồn thổi về chuyên cơ chở bà Cầm thường mang rất nhiều hàng hóa. Ông Linh công khai tung tin bà Cầm tham nhũng. Đời tư của ông Kiệt cũng bị sách nhiễu. Ông Kiệt lấy vợ, ông Linh cho là “ẩu”, “không thèm hỏi ai”, “không chấp nhận được”. Ông Kiệt chơi tennis thì ông Linh cho là “xa rời lối sống và đạo đức cách mạng”, “tốn kém” và “học đòi”. Một ủy viên Bộ chính trị tâm sự “Ông Linh đi đâu cũng nói xấu ông Kiệt”. Một cán bộ cao cấp thì “rất buồn” khi nghe ông Linh gọi ông Kiệt là “thằng” giữa cuộc họp đông người. Khi ông Linh càng ốm nặng, ông càng lo lắng “Sáu Dân mà trở thành tổng bí thư thì gay lắm”. Ông quyết liệt hơn với bản trường ca “Tham nhũng đâu cần chống ở đâu, cứ chống ngay trong nhà Thủ tướng”. Song song với những hoạt động để triệt hạ uy tín cá nhân ông Kiệt, ông Linh tìm cách cô lập và loại ông Kiệt ra khỏi Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị. Ông Kiệt không được tham dự vào các quyết định quan trọng nữa. Đồng thời, ông Linh lôi kéo nhiều nhân vật gốc miền Tây Nam bộ để chống ông Kiệt, trong đó người dẫn đầu và lợi hại nhất là Nguyễn Hà Phan. Khi ông Phan đang làm bí thư tỉnh Hậu Giang, ông khá phóng khoáng và năng động. Ông Kiệt cất nhắc ông ra Hà Nội làm phó cho mình vào năm 1986. Chẳng bao lâu cơn thèm khát quyền lực chốn kinh thành đã thổi bay hương đồng gió nội. Phan bỏ Kiệt mà kề vai sát cánh với “lũ chim sẻ chim ri” Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức Bình, thậm thụt vào ra với đám “MA vương” Mười – Anh, và Nguyễn Văn Linh. Khi chính phủ ông Kiệt chọn Úc là đối tác thăm dò dầu khí ở mỏ Đại Hùng, ông Phan bảo “miền Nam không ai đồng tình vì bọn Úc đã đưa quân vào tàn sát đồng bào ta”. Khi ông Kiệt chủ trương cho Malaysia xây dựng sân bay Nội Bài, ông Phan đưa lý do “an ninh quốc gia”, “không cho nước ngoài đầu tư ở cửa ngõ Thủ đô”. Tháng 1 năm 1994 tại hội nghị giữa nhiệm kỳ, ông Phan đưa ra một bản thống kê mười sáu điểm chệch hướng của chính phủ mà ông Kiệt điều hành. Bữa đó, ông Phan được kết nạp vào Bộ chính trị. Tất cả những hoạt động trên đây mới làm giảm uy tín, chứ chưa thể kết liễu sự nghiệp chính trị của ông Kiệt được. Song, những đối thủ của ông Kiệt cũng không phải chờ quá lâu, khi ông công bố “Thư gởi Bộ Chính Trị”. Lá thư này được cho là do Nguyễn Trung, thư ký của ông Kiệt, chấp bút. Việc công bố lá thư vào một tình huống mà ông Kiệt đang bị bao vây bởi cánh bảo thủ, và vào một thời điểm trước đại hội khi mà các phe nhóm đang tính sổ với nhau, là một sai lầm chết người của ban tham mưu cho ông Kiệt. Đối thủ của ông Kiệt không bỏ lỡ cơ hội. “Thư gởi Bộ chính trị” được hình sự hóa. Ông Lê Hồng Hà nguyên chánh văn phòng Bộ Công an bị khám nhà, hưởng hai năm tù giam vì tội tàng trữ lá thư. Tiến sỹ Hà Sỹ Phu hưởng một năm tù giam vì tội chuyên chở lá thư. Nguyễn Kiến Giang 15 tháng tù cho hưởng án treo về tội đọc lá thư. Người chống đối lá thư này mạnh nhất là Nguyễn Hà Phan. Phan kết tội ông Kiệt là “nối giáo cho giặc”, “không vững vàng”, “chệch hướng 100%”. Thảm đỏ đã trải ra để ông Phan bước vào Phủ thủ tướng nếu như không có một vụ án “Nguyễn Hà Phan” đầy kịch tính xảy ra ngay sau đó. Lê Khả Phiêu người đập lại lá thư này rất đanh thép trên tờ “Quân đội nhân dân” đã trở thành Tổng bí thư kế nhiệm. Người ta dàn xếp để ông Linh không “đao to búa lớn” với ông Kiệt như trường hợp Trần Xuân Bách. Nhưng sự nghiệp chính trị của ông Kiệt coi như đã cáo chung. Ông Kiệt yên vị ở ghế thủ tướng cho đến khi hạ cánh không lâu sau đó. Ông Linh chiến thắng. Xuyên suốt toàn bộ “Quyền Bính” bạn đọc không thấy ông Kiệt ra đòn trả đũa. Chỉ có một tình tiết nhỏ là ông Kiệt đã chỉ ra một nhân chứng sống để lột mặt thật của Nguyễn Hà Phan, kẻ từng phản bội đồng đội trong thời gian bị bắt giam. Ban Bí thư quyết định tước hết mọi chức vụ và khai trừ ông Phan ra khỏi đảng trong vòng một buổi sáng. Ông Phan trắng tay về lại miền Tây như một tội đồ. Nhìn Phan khăn gói rời Hà thành, ông Linh tím ruột. Lúc về hưu, ông Linh thề cống hiến cho đảng đến hơi thở cuối cùng. Sự thực của viêc cống hiến trong hơn mười năm cuối đời này là ông Linh chỉ làm một việc: Mang ông Kiệt ra thui như người ta thui bê làm món nhậu. Kiếp người ngắn ngủi trầm luân. Cả hai ông giờ đang phiêu du miền cực lạc, chẳng biết có còn chút vấn vương trần thế mà nhớ tới bữa nhậu bê thui chấm với nước mắm gừng của thủa hàn vi. Cảm ơn Huy Đức đã dũng cảm vượt lên sự sợ hãi, vượt lên những cám dỗ của đời thường, vượt lên những đắm đuối, mê say, sùng bái, tụng niệm của nhiều người cầm bút cùng thế hệ. Anh đã can đảm bức phá những khuôn khổ, kìm hãm, cấm đoán, răn đe để tìm tòi, và để lại cho đời, cho lịch sử một lời nói thật. Tháng Giêng, Giáp Ngọ 2014 Trần Hồng Tâm
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 8, 2014 6:54:14 GMT 9
NGUYỄN KIẾN GIANG Hạt giống đỏ Mác-xít trở thành nhà lý luận Dân chủ tiên phong Lê Phú Khải Nhà nghiên cứu Nguyễn Kiến Giang đã từ trần ngày 2.12.2013 tại Hà Nội, thọ 83 tuổi. Lễ viếng sẽ tổ chức vào lúc 15g ngày 4.12 tại nhà tang lễ Phùng Hưng, Hà Nội. Lễ an táng được tổ chức ngay sau đó tại nghĩa trang Vĩnh Hằng, gần Bất Bạt, nơi ông đã bị giam từ năm 1967 trong vụ "xét lại chống Đảng". Để bạn đọc tìm hiểu hành trình và ứng xử của một trí thức cách mạng, bất khuất, chúng tôi xin đăng dưới đây bài viết của nhà báo Lê Phú Khải. Trong bài này, tác giả đã liệt kê các tác phẩm chính của Nguyễn Kiến Giang, chỉ thiếu một công trình quan trọng là cuốn Từ điển xã hội học (Nhà xuất bản Thế Giới, Hà Nội, 1994). Nguyên do : cũng như cuốn Cách mạng 1789 và chúng ta, Từ điển xã hội học của Nguyễn Kiến Giang đã phải "mượn" tên của Nguyễn Khắc Viện để ra mắt độc giả. Trong bài Anh Viện viết năm 1997, chúng tôi đã công bố việc này : Vài tuần trước khi từ trần (tức là mùa xuân 1997, NNG), nhân dịp có đông đủ gia đình và một số bạn thân tới thăm, được biết anh đã nói 3 điều, có thể coi như những ước nguyện cuối cùng : Một là, mong rằng Trung tâm N-T tiếp tục hoạt động vì lợi ích của thiếu nhi và thiếu niên. Hai là, mong rằng xã hội công dân Việt Nam sẽ tiếp tục tự khẳng định và triển khai, làm nền móng cho công cuộc dân chủ hoá đất nước. Điều cuối cùng, nhân dịp này, anh cũng nói rõ trong thập niên vừa qua, vì hoàn cảnh của anh Nguyễn Kiến Giang (hiện nay còn bị án treo 15 tháng tù trong vụ án Lê Hồng Hà & Hà Sĩ Phu), anh Viện đã nhận đứng tên một số tác phẩm của anh Giang (trong đó có cuốn Cách mạng 1789 và chúng ta, nxb TP. Hồ Chí Minh, 1989, Từ điển Xã hội học, nxb Thế giới 1994...).Trước khi mất, anh muốn minh xác điều này để tác quyền tinh thần được trả về cho tác giả. Nguyễn Ngọc Giao Nguyễn Kiến Giang sinh ngày 22-1-1931 ở làng Quảng Xá, xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình Nho học. Kiến Giang là tên con sông chảy qua làng ông. Kiến Giang học đến deuxième année tức năm thứ hai trung học đệ nhất cấp. 14 tuổi ông đã hoạt động trong hàng ngũ Việt Minh. 17 tuổi đã là huyện ủy viên rồi tỉnh ủy viên tỉnh Quảng Bình. Năm 1956 ra Hà Nội giữ chức Phó Giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật. Tác phẩm Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám của ông được Trường Chinh đánh giá rất cao. Ông kể: Viết xong 400 trang sách tôi gửi cho ông Trường Chinh. Ông gọi lên nói : Rất tốt ! Ông Trường Chinh chỉ sửa có một chữ và sách được in năm 1961. Chính vì thế mà năm 1962 ông được cử đi học trường Đảng Cao cấp ở Liên Xô để làm “hạt giống đỏ” cho lý luận của Đảng trong tương lai. Tháng 9-1953 Khruschov lên Tổng Bí thư, phê phán tệ sùng bái cá nhân Stalin và chủ trương các nước khác nhau về thể chế chính trị có thể chung sống hòa bình, đặt vấn đề chống chủ nghĩa cá nhân, dân chủ hóa đời sống xã hội. Ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông phê phán Liên Xô là xét lại, chủ trương phải tiêu diệt đế quốc sạch sành sanh. Tháng 12-1963 ta họp Hội nghị Trung ương 9, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng xác định lập trường Trung Quốc, không chấp nhận báo cáo chính trị của Hoàng Minh Chính ủng hộ lập trường của Liên Xô. Những người Cộng sản Việt Nam chia rẽ về tư tưởng. Kiến Giang kể với tôi : Sau khi trận Ấp Bắc ở miền Nam thắng lớn (tháng 1.1963, chú thích của Diễn Đàn), Hoàng Tùng sang Liên Xô triệu tập chúng tôi lại, nói : Mỹ thua đến nơi rồi, Liên Xô có quan hệ gì với ta thì chỉ là để “dây máu ăn phần” mà thôi! Chỉ thị từ nhà sang là: cấm tham gia mọi hoạt động mà Liên Xô tổ chức. Tôi và nhiều anh em lại nhận định khác. Liên Xô và Mỹ hòa hoãn thì Mỹ sẽ đổ quân vào Việt Nam và chiến tranh sẽ mở rộng, không có chuyện Mỹ thua ngay như ông Hoàng Tùng nói. Thư tôi viết về cho gia đình còn đó, đúng như tôi nhận định. Nguyễn Kiến Giang và tác giả Sau này tôi có đọc cuốn sách Điệp viên hoàn hảo nói về nhà tình báo chiến lược Phạm Xuân Ẩn, thấy ông ấy cũng nhận định tình hình lúc đó như Kiến Giang. Đầu năm 2007 tôi có đem cuốn sách này đến tặng ông Sáu Kiệt (sách còn mới, chưa gạch chân vào đó như cuốn Trang trại ở Pháp đã nói ở trên). Tôi nói với ông Sáu Kiệt : Cả hai nhận định giống nhau, nhưng P.X.A. thì được ca ngợi là sáng suốt; còn ở ngoài Bắc, sau đó Kiến Giang đi tù 9 năm ! Ông Sáu Kiệt nói : Ở ngoài đó các ông ấy hay bắt nhau đi tù quá ! Kiến Giang còn kể cho tôi vào ngày 20/5/2004 tại Gò Vấp, nhà con gái ông ở đường Nguyễn Văn Nghi (vì tôi có ghi chép vào sổ tay cuộc nói chuyện này nên còn nhớ rõ ngày giờ, địa điểm) : Vụ Liên Xô đưa tên lửa vào vùng biển Caribê của Cuba rồi rút ra làm cả thế giới hồi hộp, một ông trong phe Mao-ít là Nguyễn Chí Thanh đã phê phán : “Đưa vào là phiêu lưu, rút ra là đầu hàng” ! Cụ Hồ phải gõ bút chì xuống bàn nói : “Chú nói gì mà quá đáng thế!” Năm 1964 Dương Bạch Mai không phục tùng nghị quyết 9, không thi hành nghị quyết 9 nên đã phải chết ! Chính vì thế mà năm 1964, Kiến Giang và một số cán bộ đang học ở Liên Xô bị Trung ương gọi về. Những người không tán đồng NQ 9 đang ở Liên Xô lúc đó như Minh Cần, Lê Vinh Quốc, Văn Doãn, Nguyễn Lân Tuất… đã ở lại xin tỵ nạn chính trị. Kiến Giang kể : Tôi suy nghĩ mãi, ở hay về, cuối cùng tôi và Hồng Hà quyết định về. Hồng Hà và tôi được Lê Đức Thọ kêu lên gặp. Sau khi nghe Lê Đức Thọ phê phán, Hồng Hà rút khăn ra lau nước mắt. Thọ nói : Cậu đã thấy lỗi là tốt ! Anh ta được ra về và sau đó thăng quan tiến chức đến Ủy viên Trung ương. Tôi ngồi chờ đến lượt mình, nghe rõ câu chuyện hai vị nói với nhau, tôi chỉ được quyết định số phận của mình có mấy giây. Tôi đã nói với Lê Đức Thọ : Khi ở Liên Xô, tôi tưởng mình nghe nhầm, nay nghe chính đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị nói thì tôi càng thấy tôi đúng ! Thế là sau đó, tôi “đi thực tế” 3 năm từ 1964 đến 1967 ở Quảng Bình rồi Thái Bình, sau đó là đi tù 6 năm, 3 năm quản chế ! Cái giá của một câu nói thật là thế ! Chuyện “nghe nhầm” của Kiến Giang là như sau. Tại lớp học ở trường Đảng Cao cấp ở Liên Xô có nhiều học viên là đảng viên các đảng Cộng sản các nước. Lúc đó có việc Tổng Bí thư ĐCS Irak qua đời, vợ ông ta lại đang học cùng lớp với Kiến Giang và Hồng Hà. Lớp học tổ chức truy điệu ông. Theo chỉ thị từ nhà thì các học viên Việt Nam không được tham gia bất cứ hoạt động nào do Liên Xô tổ chức, nhưng Kiến Giang và Hồng Hà cứ đến dự lễ truy điệu vì “nghĩa tử là nghĩa tận” ; hơn nữa, nếu không đến thì người ta sẽ đánh giá Việt Nam thế nào? Vậy mà Lê Đức Thọ không tha vụ đó. Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương và Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Công an trực tiếp tổ chức cuộc bắt bớ đám xét lại chống Đảng năm 1967. Ngoài Hoàng Minh Chính và Kiến Giang là những nhân vật nổi cộm, còn nhiều nhân vật cao cấp khác bị bắt, trong đó có Vũ Đình Huỳnh - Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao, Đại tá Lê Trọng Nghĩa - Cục trưởng Cục 2 (Quân báo) Bộ Quốc phòng, Lê Minh Nghĩa - Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng, Nguyễn Đức Kiên - Cục trưởng Cục Tác chiến, Hoàng Thế Dũng - Tổng biên tập báo QĐND, Minh Tranh - Giám đốc NXB Sự Thật, Trần Minh Việt - Phó Bí thư kiêm Phó Chủ tịch UBND Hà Nội, v.v… Các vị Ung Văn Khiêm - Bộ trưởng Ngoại giao, Đặng Kim Giang - Thứ trưởng Bộ Nông trường, Lê Liêm - Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Nguyễn Văn Vịnh, Bùi Công Trừng… bị khai trừ Đảng. Theo nhà nghiên cứu Sophie Quinn-Judge viết trên tạp chí Journal of Cold War History tháng 11-2005 thì vụ án này có 300 người bị bắt, trong đó có 30 nhân vật cao cấp, tất cả bị giam giữ lâu và không xét xử gì cả, rồi thả dần. Kiến Giang cho biết, Lê Đức Thọ sau này thuyết phục : Các cậu đi học xa không biết tình hình trong nước. Vì sao lại có Nghị quyết 9 ? Ta đề nghị đặt tên lửa tầm trung để đánh hạm đội 7, Liên Xô không cho thì đã có vũ khí của TQ. Chỉ có đồng chí Mao Trạch Đông mới có dũng khí cách mạng và đủ trình độ lý luận để chống chủ nghĩa xét lại. Đến năm 1967 là kỷ niệm 50 năm cách mạng Tháng Mười thành công, bên ngoài ta tung hô LX, vì nếu không thì cũng không xong : 5/8/1964 Mỹ đã đánh phá miền Bắc bằng máy bay, bằng chiến tranh phá hoại ; nếu nghe TQ, nghe Đặng Tiểu Bình đoạn tuyệt hẳn với LX thì lấy vũ khí (tên lửa) đâu ra mà đánh Mỹ ? Vậy nên, bên ngoài thì Lê Duẩn tuyên bố, có hai tổ quốc : LX và VN, bên trong, năm 1967, bắt xét lại “để làm hài lòng TQ” ! Vì thế Lê Đức Thọ đã có lần nói với Kiến Giang : “Các cậu ở tù cũng là tham gia chống Mỹ cứu nước!” Nhắc lại câu này của Lê Đức Thọ, Kiến Giang ở tuổi 74, đang đau yếu cũng không nén được tức giận, ông chửi thề : “Thật bỉ ổi, ấu trĩ!” Kiến Giang nhớ rất kỹ, bắt đợt đầu là Hoàng Minh Chính ngày 27/7/1967, sau ba tháng thì bắt đợt hai Vũ Đình Huỳnh, Minh Việt… vào ngày 18/10/1967… Kiến Giang bị bắt đưa đi trại giam Bất Bạt của quân đội và bị chuyển trại ba lần, có lần giam ở trại Ba Sao. Ông kể về 5 năm bị giam trong xà lim : Có 4 mét vuông, như nhà mồ, rét lắm vì cửa sổ hướng về phía Tây, phải đứng suốt ngày, tưởng là phát điên. Tôi phải tự viết một cuốn tiểu thuyết trong đầu để khỏi phát điên, vì xin đi lao động nó không cho đi… Gia đình chỉ được lên thăm có hai lần, năm 1969 ở Bất Bạt, năm 1971 ở Ba Sao. Năm 1973 bắt đầu quản chế, 1975 quản chế ở xã Bối Khê Vũ Ẻn. Ở trong tù, năm 1968 được tin đánh Mậu Thân, tôi biết trước là sẽ thua vì Mỹ chưa yếu như các ông ấy nghĩ. Còn nếu thắng thì số phận bọn xét lại chúng tôi sẽ vô cùng đen tối… Năm 1970 tôi đã viết thư cho Lê Đức Thọ về chuyện này… Kiến Giang sở dĩ trở thành nhân vật nổi cộm trong vụ án “Xét lại chống Đảng” vì cùng với Hoàng Minh Chính ông là một nhà lý luận có kiến thức uyên bác, có tư duy sắc bén… Vì thế Lê Đức Thọ có phần nể nang, nhưng vì ông không khóc lóc van xin, không khuất phục như Hồng Hà, nên bầm dập. Ông kể : Khi Lê Duẩn lên Tổng Bí thư (chính xác hơn, là Bí thư thứ nhất, CT của Diễn Đàn), ông Trường Chinh bảo tôi sang gặp anh Ba Duẩn để xin anh ấy các bài viết, các phát biểu… đem về in thành sách. Theo ý ông Trường Chinh thì lãnh tụ phải có tác phẩm. Tôi đã nghe lời sang gặp Lê Duẩn. Ông Duẩn rất cởi mở, đưa tôi một ôm tài liệu, bảo muốn làm gì thì làm… Tôi đọc kỹ thấy ông Duẩn không hiểu gì về Chủ nghĩa Mác cả, chỉ có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa… Khi trao đổi với Lê Đức Thọ khi ông vào thăm tôi ở trong tù, tôi có nói ý đó. Thọ bảo tôi viết lại thành tài liệu đưa Thọ. Thọ về rồi, tôi suy nghĩ kỹ. Thọ nham hiểm lắm, muốn lợi dụng tôi để lập hồ sơ về Lê Duẩn, khi cần thì sử dụng. Đó là cách Thọ thường làm. Thì ra Thọ đã có ý lật Lê Duẩn từ đó. Nghĩ thế nên tôi không mắc lừa, không viết gì phê phán Lê Duẩn là dân tộc chủ nghĩa cả (!). Kiến Giang còn kể : Lần cuối cùng Lê Đức Thọ vào thăm tôi, ông ta nói : Các cậu hay đề cao trí thức, phó tiến sĩ đi học về thì tớ cho thêm 5 đồng vào lương, thế thôi ! Tôi nhìn thẳng Thọ nói : Xưa Đảng vô học vì phải đi đánh giặc, nay Đảng có chính quyền mà Đảng lại sùng bái sự vô học thì không được ! Lê Đức Thọ đứng lên ra về. Ít phút sau tay Giám thị trại giam vào hoảng hốt nói : Kỳ này thủ trưởng vào là để cho ông về, vậy là chết rồi ! Ông làm thủ trưởng phật lòng… vậy là tiếp tục tù dài !... Kiến Giang là một con người như thế, quyết liệt. Từ chỗ là một tín đồ ngoan đạo của Chủ nghĩ Mác-Lênin, sùng bái LX, đến chỗ dứt khoát từ bỏ Chủ nghĩa Cộng sản. Lần đầu tiên Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đưa ông xuống Mỹ Tho chơi với tôi vào năm 1988, bác Viện đã giới thiệu : Đây là một nhà Xô viết học ! Cậu có cần hỏi gì về LX, cứ hỏi cái đầu này… Lúc đó LX đang cải tổ. Năm 1987, tức 70 năm LX, Kiến Giang còn viết cuốn sách dày hơn 200 trang mang tựa đề Liên Xô 70 năm trên đường khai phá (NXB Phú Khánh). Đọc kỹ cuốn sách đó, tôi thấy ông còn tin tưởng, hy vọng là Đảng CSLX sẽ cải tổ thành công. Đùng một cái LX tan rã và thực tế ở LX và Đông Âu, và cả ở VN những năm sau này đã đẩy tư duy của Kiến Giang đi đến cùng. Ông đã viết tiểu luận Tôi từ bỏ CNCS như thế nào ? để công bố tư tưởng của mình. Ông trở thành một nhà lý luận đổi mới hàng đầu, có uy tín lớn với trí thức VN ở trong nước và trên thế giới. Trang web Talawas ngày 11/3/2013 đã giới thiệu học giả Nguyễn Kiến Giang cả một bài dài. Nhưng Kiến Giang không phải một học giả của những vấn đề đã được xếp trong tủ kính. Ông đứng giữa dòng sông đang chảy xiết của thời cuộc đất nước mà nghiên cứu, đề xuất, phán xét, bất chấp mọi hiểm nguy. Ngày 22/8/1996 ông lại lãnh án 15 tháng tù treo cùng với Lê Hồng Hà hai năm tù giam, Hà Sĩ Phu một năm tù giam của Toà án TP Hà Nội về tội… lợi dụng quyền tự do dân chủ để chống đối chế độ ! Chính cái hôm ông vừa lãnh án tù treo về, tôi gặp ông ở Hà Nội. Tôi hỏi : Cùng một tội, các vị kia bị tù giam, anh được cái án treo coi như… tha bổng ! Ông cười hóm hỉnh : Có lẽ người ta thấy tôi tù nhiều quá rồi, có giam nữa cũng thế thôi ! Kể từ cái ngày bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đưa ông đến chơi với tôi ở Mỹ Tho và ở lại chơi đến cả tuần lễ vào năm 1988, năm nào ra Hà Nội tôi cũng đến thăm ông ở phố Tuệ Tĩnh và sau này ở ngõ Lương Sử C gần Văn Miếu. Tôi đến để xin ý kiến ông về thời vận của đất nước ! Có lần ở 91 Tuệ Tĩnh, ông chỉ vào một hòn gạch trên nền nhà và nói : Chính tại cái hòn gạch này, tôi đã đứng để công an còng tay vào năm 1967, lúc đó cả cái nhà tập thể của Nhà xuất bản Sự Thật này họ nhìn tôi như kẻ tội phạm đáng ghét. Vậy mà bây giờ, họ chửi bới chế độ om xòm, còn tôi vẫn lặng lẽ đọc và viết… Ông đã viết 25 tác phẩm và dịch 45 cuốn sách. Ông phải dịch để kiếm sống sau bao năm tù đày. Đương nhiên sách dịch của ông phải ký các tên ba lăng nhăng để che mắt chính quyền. Hai cuốn sách in trong nước của ông là cuốn Liên Xô – 70 năm trên đường khai phá và cuốn Cách mạng 1789 (Pháp) và chúng ta… Sau khi cuốn Cách mạng 1789… ra đời, Đại sứ Pháp tại Hà Nội đã đến nhà Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện mời ông qua Pháp dự lễ kỷ niệm 200 Cách mạng Pháp (1789 – 1989) tại Paris. Bác sĩ Viện đã nói với nhân viên Sứ quán Pháp rằng người viết cuốn sách đó là Nguyễn Kiến Giang, ông chỉ cho mượn tên đề ngoài bìa sách mà thôi ! Người Pháp lại tìm đến Kiến Giang. Ông phải nói với họ rằng ông không thể đi được… dù mọi chi phí đi lại, ăn ở ông không phải lo ! Những lần ra chơi với Kiến Giang như vậy, tôi đều tặng ông những cuốn sách tôi mới in, với lời đề tặng đại loại như: Kính tặng anh Kiến Giang, một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn… Chúng tôi nhìn vào anh để sống và hy vọng cho tương lai đất nước… Ở dưới có đề rõ địa chỉ và họ tên người tặng sách. Kiến Giang bảo tôi : Cuốn sách của cậu tặng, moi (tôi) để trên bàn tiếp khách, một viên công an theo dõi moi, thường xuyên đến nhà “thăm hỏi”, đã giở ra coi. Anh ta coi đi coi lại lời đề tặng của cậu như để thuộc… để ghi vào hồ sơ của moi… Cũng vì tôi hay đến chơi Kiến Giang như thế nên đã có lần chạm trán với nhân viên an ninh và đã bị truy tìm lý lịch. Sau Tết năm 2000, tôi lại đến thăm ông. Kiến Giang bảo tôi : Hôm mùng một Tết, tướng Phạm Chuyên (Giám đốc CA Hà Nội) có đến thăm chúc Tết và cho quà. Ông ấy hỏi tôi : Anh nhận định tình hình thế nào ? Tôi trỏ lên cuốn lịch nói : Năm 2000 có ba con số 0. Phạm Chuyên đề nghị tôi nói về ba con số 0 ấy. Tôi nói : Thứ nhất là không còn đường lùi, thứ hai là không tiến lên được… Phạm Chuyên sốt ruột : Còn con số 0 thứ ba nữa ? Tôi nói : Nhưng không phải là không có lối thoát. Phạm Chuyên vỗ tay : Hay quá, tôi mời anh đến gặp đồng chí Tổng Bí thư (lúc đó là Lê Khả Phiêu – LPK) để anh phân tích về từng con số 0 một cho TBT nghe ! Tôi trả lời : Tôi không phải là thầy bói, tôi là nhà khoa học. Nếu cần thì các anh tổ chức hội thảo khoa học để tôi đến trình bày đàng hoàng. Dĩ nhiên là không có hội thảo nào sau đó. Nhưng cũng có những cuộc hội thảo kín, người ta mời Kiến Giang đến tham luận và yêu cầu ông không phổ biến rộng rãi tham luận đó. Nộp lại tham luận và nhận nhuận bút rất cao. Ông nói với tôi : Mình được mời đi tham luận là sẵn sàng… vì có nhuận bút cao cũng đỡ! Sau ngày Đổi mới, Kiến Giang được phục hồi sổ hưu. Ông đưa quyển sổ hưu cho tôi coi và chỉ tay vào chỗ có đóng dấu, nói : Cậu xem có lạ không ? Sổ hưu của tôi dấu vuông. Dấu của Đảng. Không có Nhà nước pháp quyền nào trả lương hưu với dấu vuông của Đảng cả (!) Kiến Giang là như thế, bao giờ ông cũng đi đến tận cùng mọi vấn đề, và trên hết, ông là một nhà xã hội học đúng với tên của nó. Độc lập quan sát xã hội. Tôi đã được đọc tập tiểu luận của ông trong một cuộc “hội thảo kín” như ông đã kể. Tập tiểu luận tham luận có chủ đề ‘‘bàn về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và con người mới XHCN”. Trong tập tiểu luận đó, ông đã dẫn ra tất cả những lời có dính đến hai chữ “con người” mà ông Hồ Chí Minh đã nói tới trong tất cả những gì đã được in ra từ trước đến nay. Chỉ riêng việc thống kê đầy đủ như thế đã cho thấy tính nghiêm túc khoa học trong tham luận của Kiến Giang (trả nhuận bút cao là phải!). Qua những thống kê đó, tác giả đi đến kết luận : ông Hồ coi người cán bộ, đảng viên là lõi cốt của cách mạng. Nhưng ông bác bỏ hoàn toàn khái niệm “Con người mới”. Theo ông, trong con người có cái mới và cái cũ không thể tách biệt để có “con người mới” như đã ảo tưởng ! Và, tác giả cũng bác bỏ hoàn toàn quan niệm “cán bộ là đầy tớ” của nhân dân. Theo ông, cán bộ cấp cao thì phải hưởng thụ cao và phải có cống hiến xứng đáng với hưởng thụ. Còn giữ khẩu hiệu “đầy tớ nhân dân” thì sẽ dẫn đến giả dối, đến hội nghị nói một đằng, về làm một nẻo. Còn giữ khẩu hiệu này sẽ làm mất uy tín của ông Hồ. Ông Hồ nêu khẩu hiệu này trong những điều kiện đặc biệt ; nay thời gian, không gian đã khác, phải cất nó vào quá khứ để xây dựng một xã hội công dân thực sự, một nhà nước pháp quyền thực sự. Kiến Giang bảo tôi : Bản tham luận được vỗ tay nhiệt liệt, người vỗ tay toàn là “đầy tớ” ! Kiến Giang là một nhà xã hội học thực sự trong một đất nước không hề có khoa học xã hội, chỉ có những vị giáo sư “ăn theo, nói leo” minh họa lời ông lớn, minh họa các nghị quyết của Đảng cầm quyền để vinh thân phì gia. Hãy đọc đầu đề các tập tiểu luận (chủ yếu là tự viết, tự in lấy) của ông, đủ thấy không mấy ai đặt bút viết về các đề tài “nhạy cảm” này : Đi tìm cách tiếp cận bản tính gốc người Việt, Một cuộc chiến chống lại “phi lý tính”, Nên đặt vấn đề Nho giáo như thế nào ?, Khủng hoảng và lối ra, Thử dò tìm cách tiếp cận mới đối với thế giới hiện đại, Một quan niệm về hiện đại hóa ở VN, Đời sống tâm linh và ý thức tôn giáo, Từ Duy Tân đến Đổi mới, Nhìn nhận thực trạng văn hoá VN hiện nay, Công bằng xã hội và kinh tế, Nhìn lại quá trình du nhập của chủ nghĩa Mác-Lênin vào VN, Bàn về sự lãnh đạo của Đảng, v.v… Tôi có may mắn và hạnh phúc được đọc hầu hết các tiểu luận trên của ông để lấy thêm vốn liếng hành nghề báo của mình. Một tiểu luận của ông như thế có độ dày đủ để in một cuốn sách giá trị. Nhiều tác phẩm của ông đã được bà con Việt kiều quan tâm đến tình hình nước nhà in ra và gửi về nước… tặng lại tác giả. Có lần Kiến Giang đưa tôi coi một cuốn sách in rất đẹp ở nước ngoài do chính nhân viên an ninh theo dõi ông đem đến. Anh ta hỏi : Bác đã nhận được cuốn sách này của bác chưa ? Kiến Giang bảo tôi : Mình nói với cậu công an là mình chưa nhận được và cảm ơn cậu ta. Hóa ra tác phẩm của mình được chăm sóc kỹ thế, được in mà tác giả không biết ! Có hai tiểu luận của Kiến Giang mà tôi đọc đến thuộc từng ý chính. Một là Khủng hoảng và lối ra. Trong đó Kiến Giang cho rằng cỗ xe VN mới chỉ lắp được có một bánh là kinh tế thị trường. Vì thế khi nổ máy, cỗ xe ấy chạy vòng tròn ! Nó còn thiếu ba bánh nữa phải lắp đủ để cỗ xe bốn bánh VN có thể chạy ra con đường lớn của nhân loại. Ba cái bánh còn thiếu đó là : Xã hội công dân, Nhà nước pháp quyền và Chế độ bầu cử tự do dân chủ. Kiến Giang nói một cách hài hước với tôi : Các nhà lãnh đạo VN lái xe, một chân thì đạp ga, một chân lại vội vàng đạp thắng (phanh), vừa cài số tiến lại vội vàng cài số lùi… Vì thế cỗ xe cứ nhảy tưng tưng trên đường và không biết lúc nào thì lật ! Tiểu luận thứ hai của ông, ít được nhắc đến, vô cùng bất ngờ, có nhan đề Bàn về cái chết. Khi đưa tác phẩm này cho tôi, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện nói : Nó rất uyên bác, tôi đã đọc nhiều sách đông tây mà chưa thấy tác giả nào dám bàn đến chuyện con người từ xưa đến nay đã quan niệm về cái chết như thế nào. Đáng lẽ cuốn sách như thế này phải được in vì nó không đề cập gì đến chính trị, nhưng vì là của Kiến Giang viết nên không ai dám in ! Tôi đã đọc rất kỹ tiểu luận này. Tác giả trích cả lời Khổng Tử. Khi học trò hỏi thầy Khổng : Người chết có biết gì không? Thầy trả lời: Nếu người chết mà biết thì những đứa con có hiếu sẽ chết theo bố mẹ. Nếu người chết mà không biết gì thì những đứa con bất hiếu sẽ không chôn cất bố mẹ. Nói người chết biết là bất trí, nói người chết không biết là bất nhân… Lần Kiến Giang vô Sài Gòn mà tôi gặp gần đây nhất, cũng đã 4-5 năm. Khi đó ông đi đã phải có người dìu. Ông bảo tôi và mọi người : Cuối đời ông Viện có một vết nhơ. Thấy ông nói thế, tôi ngạc nhiên quá, vì ông với ông Viện là bạn chí thân. Ông còn mượn tên ông Viện để in sách. Thấy tôi có vẻ bức xúc ông từ tốn nói : Cuối đời mà vào nghĩa trang Mai Dịch để nằm thì không phải là vết nhơ còn gì nữa ? Tôi đã đem chuyện trên nói với một nhà báo nổi tiếng, cũng là người thân cận với bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Nghe xong ông nổi nóng : Kiến Giang là tên cơ hội, nói bậy, vào Mai Dịch là sự khẳng định công lao của con người ông với đất nước ! Tôi để cho ông nguôi giận rồi từ tốn nói : Kiến Giang nói đúng. Ở Pháp được đưa thi hài vào điện Panthéon là các danh nhân, ở ta cứ ủy viên trung ương là vào Mai Dịch, nay mai anh Viện có vinh dự được nằm cạnh anh Vũ Văn Hiến, Tổng Giám đốc đài Truyền hình VN… là kẻ “đi không biết đường lại, đái không biết đường về”, chuyên nghề đi biếu xén và tham ô, con gái ông ta ăn cắp ở Thụy Điển bị bắt quả tang mà vẫn được làm MC của Đài THVN. Được nằm cạnh một con người như thế chắc ông Nguyễn Khắc Viện… mỉm cười nơi chín suối (!) Nghe tôi nói xong, ông ngồi thừ ra và chặc lưỡi : Ừ nhỉ ! Con người mặt vuông chữ điền, cao to, đi lại, ăn nói khoan thai, yêu quí bạn bè ấy… bây giờ yếu nặng, đi phải có người dìu từng bước. Và hôm nay ông đã bỏ chúng ta mà đi ! Bên tai tôi luôn văng vẳng lời ông: Bắt bọn “xét lại chống Đảng” là “cách mạng đã bắt đầu ăn thịt những đứa con của mình”… “Chúng ta không sợ lạc hậu, sợ nhất là lạc lõng giữa loài người…” Lê Phú Khải
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 28, 2014 10:57:51 GMT 9
TƯỞNG NIỆM 35 NĂM CUÔC CHIẾN BIÊN GIỚINguyễn Mạnh Trí Các bản tin tức từ quốc nội và hải ngoại về 35 năm tưởng niệm cuộc chiến Biên Giới: KỲ III BBC (20-2-2014): Thủ tướng VN nói về cuộc chiến 1979. BBC (20-2-2014): Vì sao TQ muốn quên cuộc chiến 1979? NTD.ORG (20-2-2014): Cuộc chiến Mười bảy tháng hai. ITN (20-2-2014): Lê Duẩn nói về Trung Quốc và cảnh báo âm mưu của TQ. ***** Thủ tướng VN nói về cuộc chiến 1979 BBC - Thứ năm, 20 tháng 2, 2014 Ông Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp với đại diện Mặt trận Tổ quốc Ông Nguyễn Tấn Dũng lại có phát biểu về cuộc chiến biên giới với Trung Quốc với khẳng định "Đảng, Nhà nước không bao giờ quên". Cho tới nay, ông Dũng có lẽ là ủy viên Bộ Chính trị có nhiều phát biểu được đăng tải trên báo chí nhất về cuộc chiến 1979. Các báo trong nước tường thuật hội nghị bàn về quy chế phối hợp giữa Mặt trận tổ quốc và Chính phủ hôm thứ Tư 19/2 cho hay ông Dũng đã trả lời một số kiến nghị được đưa ra trong cuộc họp. Bà Phạm Thị Trân Châu, quyền chủ nhiệm Ủy ban Tư vấn Khoa học và Giáo dục thuộc Ủy ban Trung ương MTTQ, đã đề nghị chính phủ xem xét tổ chức kỷ niệm, làm tượng đài và đưa thông tin về cuộc chiến 1979 vào sách giáo khoa. Một ý kiến khác cho rằng sự nhìn nhận về những cống hiến, hy sinh của quân và dân trong cuộc chiến biên giới còn chưa được thỏa đáng. Ông thủ tướng được dẫn lời nói: "Đảng, Nhà nước không bao giờ cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, cũng như quên công lao của đồng chí, đồng bào chiến đấu, hy sinh để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới xâm lược của Trung Quốc". Ông Nguyễn Tấn Dũng cũng cho hay Bộ Chính trị vừa qua đã tổ chức hai phiên làm việc để nghe về đề án liên quan tới sự kiện năm 1979 và vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa. Trước đó, cuối năm ngoái trong cuộc họp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, ông Dũng đã yêu cầu đưa các chủ đề cuộc chiến biên giới 1979, Hoàg Sa-Trường Sa và chủ quyền Biển Đông vào sách giáo khoa lịch sử. Cho tới nay, sách giáo khoa trong trường học gần như không nhắc tới các sự kiện như chiến tranh biên giới hay hải chiến Hoàng Sa. Báo chí Việt Nam nhiều lần đăng tin bài về các sự kiện này rồi lại gỡ xuống mà không giải thích lý do. 'Lợi ích quốc gia' Tại hội nghị với đại diện MTTQ, ông Nguyễn Tấn Dũng nói các quyết nghị của Bộ Chính trị về chiến tranh biên giới phía Bắc hay biển đảo, trong đó có về hoạt động kỷ niệm, đều phải cân nhắc kỹ. “Chúng ta làm gì cũng phải tính lợi ích cao nhất của đất nước”. "Chúng ta làm gì cũng phải tính lợi ích cao nhất của đất nước." Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Chính quyền Việt Nam lâu nay luôn tuyên bố chủ trương "giữ hòa hiếu" với Trung Quốc, nước láng giềng khổng lồ đang có ảnh hưởng to lớn tới nền kinh tế của Việt Nam. Các cuộc biểu tình bị cho là khích động tình cảm dân tộc chủ nghĩa chống Trung Quốc ở trong nước đều bị ngăn chặn và cản trở. Ngược lại, Trung Quốc cũng được cho là đã có những động thái tương tự khi năm nay không cho báo chí viết bài đưa tin về cuộc chiến tranh 1979. Một cuộc họp mặt kỷ niệm của cựu chiến binh Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây hôm thứ Hai 17/2 nhằm kỷ niệm sự kiện này đã bị giải tán. Theo đài Á châu Tự do (RFA), hơn 3.000 cựu chiến binh Trung Quốc đã tới Bình Hương, Quảng Tây nhưng chỉ làm được một buổi lễ ngắn ngủi tại cửa khẩu Hữu Nghị Quan với Việt Nam thì bị chính quyền can thiệp. Sau đó những người này đã tới nghĩa trang các tử sỹ Trung Quốc để tưởng niệm. Một cựu chiến binh nói với ban tiếng Trung của RFA: "Chúng tôi giương khẩu hiệu lên vài phút thì bị cảnh sát giật mất, họ cũng buộc chúng tôi phải rút đi ngay". Một người khác thì tỏ ra bức xúc rằng chính phủ đã không có tin bài gì trên truyền thông, chứng tỏ không có sự tôn trọng các liệt sỹ. Theo RFA, từ 2008 chính phủ Trung Quốc đã cắt trợ cấp cho cựu chiến binh và cựu sỹ quan quân đội, gây khó khăn lớn cho cuộc sống của những người này. ***** Vì sao TQ muốn quên cuộc chiến 1979? BBC - Thứ năm, 20 tháng 2, 2014 Trung Quốc vẫn xem cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam là một 'chiến thắng' Nhân dịp 35 năm chiến tranh biên giới Việt-Trung, BBC đã có cuộc phỏng vấn giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam từ Học viên Quốc phòng Úc, để tìm hiểu nguyên nhân vì sao Bắc Kinh lại muốn lãng quên cuộc chiến nước này gọi là 'chiến tranh tự vệ' mà Trung Quốc đã 'chiến thắng'. BBC: Trung Quốc đã tuyên bố cuộc chiến năm 1979 là nhằm mục đích "dạy cho Việt Nam một bài học", và một số nguồn nói quyết định giới hạn cuộc chiến trong vòng hai tuần đã được đưa ra nhiều tháng trước khi nó chính thức bùng nổ. Xét những yếu tố trên, ông đánh giá thế nào về mức độ thành công của Trung Quốc trong cuộc chiến với Việt Nam? Giáo sư Carl Thayer: Căng thẳng dọc biên giới Việt-Trung đã bắt đầu leo thang từ năm 1976 và dẫn đến kết cục là việc Trung Quốc chuẩn bị cho chiến tranh với Việt Nam. Bắc Kinh đã lên kế hoạch đánh Việt Nam từ năm 1978 nhưng sau đó đến tận giữa tháng Hai năm 1979, quyết định cuối cùng mới được đưa ra. Đặng Tiểu Bình đã có cuộc họp với các quan chức cấp cao vào ngày 16/2, một ngày trước khi nổ ra chiến tranh biên giới. Ông tuyên bố cuộc chiến sẽ được giới hạn về cả phạm vi lẫn thời gian, và lực lượng tham chiến chỉ bao gồm các lực lượng trên bộ. Đặng Tiểu Bình và các tướng lĩnh của ông ta nghĩ rằng họ có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra chỉ trong vài ngày. Điều này đã không xảy ra. Trung Quốc đã sử dụng việc chiếm được Lạng Sơn 3 tuần sau khi tiến quân qua biên giới để tuyên bố chiến thắng và đơn phương rút quân. Những mục tiêu mà Trung Quốc đề ra, trong đó có việc buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia nhằm giảm sức ép cho đồng minh Khmer Đỏ của họ, đã không thể đạt được. Việt Nam đã tiếp tục tấn công Khmer Đỏ và không rút quân khỏi Campuchia để tiếp viện cho biên giới phía Bắc. Trung Quốc cũng muốn tiêu diệt các lực lượng chính của Việt Nam ở cấp sư đoàn đang đóng gần khu vực biên giới. Tuy nhiên Việt Nam đã giữ các lực lượng chính lại phía sau và Trung Quốc đã không thể loại các đơn vị này ra khỏi vòng chiến. Việt Nam chủ yếu chỉ sử dụng dân quân và bộ đội địa phương trong suốt cuộc chiến với Trung Quốc. Một trong các mục tiêu khác của Trung Quốc là chiếm các tỉnh lớn như Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn, và phá hủy hệ thống phòng thủ cũng như cơ sở hạ tầng ở khu vực biên giới phía Bắc của Việt nam. Trung Quốc đã đạt được mục tiêu này, nhưng không phải chỉ sau vài ngày, mà là sau nhiều tuần giao tranh ác liệt và phải chịu thiệt hại nặng nề. Vũ khí quân PLA sử dụng trong chiến tranh năm 1979 không được cho là hiện đại Không ngờ được thất bại BBC: Một số ý kiến cho rằng Đặng Tiểu Bình phát động chiến tranh với Việt Nam vì ông ta muốn giữ cho quân đội bận bịu để rảnh tay giải quyết mâu thuẫn nội bộ. Ông có đồng ý với điều này? Giáo sư Carl Thayer: Trước Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 vào tháng 11-12 năm 1978, Đặng Tiểu Bình đã được phục chức và có được sự ủng hộ mạnh mẽ từ đa số trong giới lãnh đạo Trung Quốc thời bấy giờ. Đặng là người có quan điểm cứng rắn chống lại Việt Nam kể từ khi hai nước bắt đầu có xung đột về vấn đề Hoa kiều. Việc Việt Nam đưa quân vượt biên giới Tây Nam để tiến vào Campuchia tháng 12 năm 1978 có lẽ là một giọt nước tràn ly. Khi Đặng Tiểu Bình đã có thể ra lệnh Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) "dạy cho Việt Nam một bài học", điều đó cho thấy ông ta là một lãnh đạo không có đối thủ. Bên cạnh đó, Đặng Tiểu Bình cũng cho rằng Trung Quốc có thể thu về những kinh nghiệm chiến trường cần thiết từ cuộc chiến với Việt Nam. BBC: Nhiều sử gia cho rằng cuộc chiến là cách Đặng Tiểu Bình thử khả năng chiến đấu của quân PLA và nó phục vụ kế hoạch hiện đại hóa quân đội của ông ta, bởi nó làm bộc lộ nhiều điểm yếu của quân đội PLA thời bấy giờ. Ông nghĩ gì về điều này? Giáo sư Carl Thayer: Trung Quốc đã thực hiện '4 hiện đại hóa' một năm trước khi phát động chiến tranh với Việt Nam, trong đó hiện đại hóa quân sự được ưu tiên cuối cùng. Việc thử khả năng chiến đấu của quân PLA không phải là điều Đặng Tiểu Bình muốn ưu tiên hàng đầu, mà thay vào đó, ông ta muốn có một chiến thắng vang dội trước Việt Nam, và cùng một lúc, thu về những kinh nghiệm quý giá trên chiến trường. Đặng Tiểu Bình và các tướng lĩnh của ông ta không ngờ rằng quân PLA đã không đủ khả năng thực hiện 'chiến tranh nhân dân trong những điều kiện hiện đại'. Các lực lượng tham chiến của Việt Nam năm 1979 chủ yếu là dân quân và bộ đội địa phương Vì sao muốn lãng quên? BBC: Theo ông thì vì sao Trung Quốc lại muốn lãng quên một cuộc chiến mà họ gọi là 'chiến tranh tự vệ', nhất là khi họ đã tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến đó? Giáo sư Carl Thayer: Ít có quốc gia nào muốn nhớ đến thất bại của mình trong chiến tranh. Trung Quốc cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Cái khó của Trung Quốc là làm sao có thể tưởng niệm chiến tranh biên giới mà không làm dấy lên nghi vấn về tuyên bố chiến thắng của Đặng Tiểu bình. Một mặt khác, nếu nhìn lại cuộc chiến biên giới năm 1979 thì có thể thấy là chính Trung Quốc, không phải Việt Nam, là nước đi xâm lược. BBC: Cuộc chiến đã thay đổi những chính sách ngoại giao và quân sự của Trung Quốc như thế nào, thưa ông? Giáo sư Carl Thayer: Cuộc chiến biên giới là hồi chuông cảnh tỉnh đối với Bắc Kinh, buộc họ phải hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa quân PLA. Trong cuộc chiến năm 1979, Trung Quốc đã sử dụng những đợt tiến công với quân số đông đảo như thời Chiến tranh Triều Tiên. 'Chiến tranh nhân dân trong những điều kiện hiện đại' là chiến lược dùng để bảo vệ Trung Quốc trước một kẻ thù hiện đại hơn. Đó là một 'chiến tranh nhân dân' được sửa đổi để sử dụng cho việc xâm lược một nước khác. Trong 'chiến tranh nhân dân trong những điều kiện hiện đại' vào năm 1979, quân PLA đã không sử dụng những loại vũ khí đặc biệt hiện đại. Yếu tố duy nhất của 'chiến tranh nhân dân' trong cuộc chiến năm 1979 đó là việc huy động dân quân cho công tác hậu cần vào bảo vệ hậu phương. Tuy nhiên ngay cả khi đó, các đơn vị của Việt Nam cũng vẫn có thể tiến qua biên giới của Trung Quốc nhằm "phản công để tự vệ", dù họ không gây ra thiệt hại nặng nề. Quan hệ Việt-Trung đã đóng băng hơn 10 năm và trong thời gian này, Trung Quốc vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Khmer Đỏ. Chính sách ngoại giao của Trung Quốc chỉ bắt đầu thay đổi sau sự sụp đổ của Liên Xô dưới thời Gorbachev. Chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam cũng chỉ thay đổi đáng kể sau Hiệp định Hòa bình Paris năm 1991 và sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia năm 1989. ***** Cuộc chiến Mười bảy tháng hai Nguyentandung.org - Thứ năm, 20/02/2014 Tháng 8 năm 1978, nửa năm trước khi diễn ra cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979, Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng) đã được đón Tổng Bí thư Lê Duẩn xuống thăm và làm việc. Bài nói chuyện của Tổng Bí thư giàu cảm xúc, với nhiều nội dung đã làm sáng tỏ một điều: cuộc “gặp gỡ” của súng đạn trên biên giới phía bắc sẽ là điều không thể tránh khỏi. Trên thực tế, những hoạt động xâm nhập, bắt cóc, nổ súng… từ phía “bên kia” đã ngày càng dày thêm. Và cũng trên thực tế, “bên này” đã có sự chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Nhưng cuối cùng, Mười bảy tháng hai vẫn nổ ra như một bất ngờ. Tại sao ? Không ai đã có thể ngờ rằng phía Trung Quốc lại mở cuộc tiến công quy mô, tàn khốc trên một chính diện hàng trăm ki lô mét toàn tuyến biên giới như vậy. Không ai đã có thể ngờ rằng Trung Quốc lại muốn ghi tên mình vào danh sách “các đế quốc to” từng xâm chiếm Việt Nam, kể từ chiến tranh thế giới thứ Hai, với lực lượng hùng hậu 60 vạn quân. Trước đó, người ta chỉ hình dung và đặt phương án tác chiến cho các cuộc xung đột cấp chiến thuật trong một không gian hạn chế. Lý thuyết chưa được kiểm chứng cho đến lúc ấy là: Không thể có chiến tranh giữa những người anh em cùng giai cấp, cùng lý tưởng! Huống hồ đây lại là giữa Việt Nam và Trung Quốc, hai quốc gia từng là phên dậu của nhau, từng sát cánh trong cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt để giải phóng miền Nam, thống nhất nước Việt. Tất cả đã đổ vỡ một sớm một chiều. Một tình bạn thủy chung, tin cậy đã bị hắt đi không dễ gì khôi phục, dù có đắp thêm vào đấy bao nhiêu “câu chữ”. Nguyên nhân thật của việc gây ra cuộc chiến Mười bảy tháng hai chưa từng được công khai. Hãy để cho lịch sử phán xét, dù phải thêm mười, mười lăm hay năm mươi năm nữa. Điều này đâu có quan trọng, thực tế ai cũng rõ cả rồi. Vì sự kính trọng Trung Quốc, và vì quan hệ lâu dài giữa hai nước, người viết bài này đã từng không chỉ một lần nêu quan điểm về việc nên chăng hai bên có thể ngồi lại để thảo luận và có được một đồng thuận chính trị, coi sự kiện này như một tai biến lịch sử với một sự giải thích chấp nhận được cho cả hai phía như để khép dần quá khứ. Nhưng hình như người ta không muốn thế. Năm 2009, 30 năm sau Mười bảy tháng hai, đầy ắp trên các trang mạng – và cả báo viết – của Trung Quốc là những bài phấn khích cực đoan về cuộc “Phản kích tự vệ”. Người ta đánh thức cuộc chiến ấy với đầu rơi máu chảy được mô tả, kể cả hả hê chuyện tống bom, tống bộc phá giật sập một chiếc hang giết chết hàng trăm người dân vô tội vào đấy lánh nạn. Rồi sau đó, trên các phương tiện truyền thông, lúc ngấm ngầm khi bột phát, người ta “nhắc nhở” về Mười bảy tháng hai bằng giọng điệu kích động, gây hấn và thậm chí có tờ báo mỗi năm còn “sản xuất” một kịch bản chiến tranh, lúc ở trên bộ, lúc ở trên biển. Ngay cả mối quan hệ một thời “môi hở răng lạnh” (chữ của phía Trung Quốc) với nước láng giềng Việt Nam cũng bị các luận điệu ấy kích bác một cách diễu cợt, ác ý… May thay, những điều đó, dù có thể được “bật đèn xanh” lúc này hay lúc khác, cũng không phải là đại diện của dư luận và lương tri ở Trung Quốc. Một nhà ngoại giao kể rằng ông ở Bắc Kinh thời kỳ Mười bảy tháng hai. Có lần đi sửa kính, người thợ già khi biết ông là người Việt Nam liền bảo: “Tôi không hiểu những gì đang xảy ra ở biên giới, nhưng đem con em Trung Quốc đi đánh Việt Nam là không thể được…”, rồi dứt khoát không lấy tiền công. Còn câu chuyện dưới đây được kể từ Quý Châu, một tỉnh vùng cao của Trung Quốc. Một đoàn khảo sát thủy điện đến đấy, ghé vào quán ăn hẻo lánh. Khi biết trong đoàn có một số người Việt Nam, chủ quán liền bốc điện thoại gọi đi đâu đó. Rồi giải thích: Ở vùng này hầu như không thấy người Việt, ông Trưởng thôn của chúng tôi luôn ước ao được có dịp gặp họ. Trưởng thôn đến ngay tắp lự (dù ông đi lại không dễ dàng), trong quân phục Giải phóng quân chỉ có chiếc mũ với quân hiệu là mới (chắc lâu không có dịp đặt lên đầu), tay trái chống nạng, tay phải cầm một chai rượu, hỏi: “Xin lỗi, ở đây có ai từng là quân nhân không?” Bạn tôi, người kể lại câu chuyện này đứng lên. Anh chưa kịp cất lời thì Trưởng thôn đã lập tức quăng nạng qua một bên, dằn chai rượu lên bàn, hai chân – một giả, một thật – dập mạnh vào nhau, tay phải hắt một đường thẳng lên vành mũ: “Tôi đã từng tham gia chiến tranh “phản kích tự vệ”, xin nhận ở đây lời xin lỗi của chúng tôi”. Ông kể mình mất một chân vì vấp phải mìn, và thôn nhỏ này cũng có tới sáu, bảy quân nhân tử trận trong cuộc “phản kích tự vệ” ấy. Ở Quảng Tây, chúng tôi có một nhóm bạn là những chiến sĩ công binh từng sang giúp Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Từ lần đầu tiếp xúc, họ vẫn gọi là “bạn chiến đấu”, đón tiếp chân tình. Ám chỉ đến cuộc chiến Mười bảy tháng hai, có người trong số họ bảo: “Cái gì xấu vứt ở ngoài kia, không cho ngồi vào đây”. Bộ đội Việt Nam chiến đấu chống lại quân xâm lược Trung Quốc Những quan điểm tương tự cũng có ở các học giả, chuyên gia và ngay cả giới lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc. Một vị lãnh đạo từng đánh giá cuộc chiến tranh Mười bảy tháng hai là một sai lầm. Một vị gần đây còn nhìn nhận “công lao xây dựng quan hệ hữu nghị tốt đẹp với các nước láng giềng mấy chục năm qua của chúng ta chừng đã đổ hết xuống sông xuống biển”. Ông Đặng Tiểu Bình, kiến trúc sư công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc, từng nói rằng Mao Trạch Đông “đúng 7, sai 3”. Đặng Tiểu Bình cũng là kiến trúc sư của Mười bảy tháng hai, không biết liệu ông đã tự hỏi có bao nhiêu phần đúng, sai trong sự nghiệp của mình? Quy chiếu từ mục đích được tuyên bố ban đầu “Dạy cho Việt Nam một bài học”, có thể khẳng định rằng: Nhìn từ ba mươi nhăm năm sau, cuộc chiến tranh Mười bảy tháng hai thật sự là một sai lầm của những người gây ra nó. Còn cái lý do để có nó – “phản kích tự vệ” – chắc chắn là một ngụy lý. Người ta tự bào chữa rằng, phải “phản kích tự vệ” vì đã có hàng ngàn cuộc nổ súng, xâm lấn từ phía Việt Nam, điều không hề có thật. Và cũng không ai trả lời được câu hỏi mà tôi từng đặt ra: Việt Nam, một nước nhỏ, kiệt quệ sau ba mươi năm trường kỳ kháng chiến để giành được độc lập tự do liệu có còn dư sức để khiêu khích, gây chiến với một nước hùng mạnh là Trung Quốc? Hơn nữa, đấy là quốc gia đã sát cánh, có sự ủng hộ to lớn cho Việt Nam trong cả hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Nếu vin vào chuyện “vì yếu tố Campuchia” thì lịch sử đã cho thấy rõ rồi. Xong nhiệm vụ ngăn chặn nạn diệt chủng, Việt Nam giao lại quyền quản lý đất nước cho người Campuchia để bây giờ đất nước này nay cũng là “người bạn đáng tin cậy của nhân dân Trung Quốc”, như người ta hoan hỉ. Người Việt có thể không bắt bẻ những chuyện này làm gì, nhưng vấn đề đáng quan tâm hiện nay là: Người ta dường như vẫn tiếp tục một chính sách sai lầm theo kiểu Mười bảy tháng hai, bằng những đòn tâm lý, chính trị “gắp lửa bỏ tay người”, “ăn không nói có”, dựng nên những câu chuyện tưởng tượng “chống Trung Quốc” để kích động một bên, gây áp lực một bên. Và sự nhẫn nhịn liệu có thể là nguyên nhân để tha hồ “múa gậy vườn hoang”? Chính sách gây áp lực tuyệt đối không thể giúp được gì vào việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, nói chi đến việc xây dựng một quan hệ tốt đẹp như mong muốn của cả hai bên. Người Á Đông vốn chủ trương thuyết “tiểu nhân – quân tử”, chúng ta hãy là những quân tử! Việt Nam là nước nhỏ so với láng giềng, nhưng chúng ta người lớn. Biết tôn trọng, biết nhún nhường vì đại cục không đồng nghĩa với việc để người nghĩ mình ươn sợ. Có câu: “Đành để người ghét, chớ để người khinh”. Huống hồ chúng ta chính nghĩa, chúng ta có ngàn năm lịch sử sau lưng và trăm triệu Lạc Hồng trước mặt chứ, đồng bào. Tiến sĩ Vũ Cao Phan (Cố vấn Viện Chính trị và Quan hệ Quốc tế, Đại học Bình Dương. Nguyên cán bộ giảng dạy Học viện Quân sự Cấp cao (Học viện Quốc phòng-Bộ Quốc phòng.) ***** Lê Duẩn nói về Trung Quốc và cảnh báo âm mưu của TQ Lời giới thiệu: Tài liệu dưới đây được dịch từ cuốn Đằng sau tấm màn tre – Trung Quốc, Việt Nam và Thế giới ngoài châu Á (Behind the Bamboo Curtain – China, Vietnam, and the World beyond Asia), do Priscilla Roberts biên tập, Trung tâm Woodrow Wilson và Đại học Stanford xuất bản, 2006. Phần III chương 14 của cuốn sách có tiêu đề “Lê Duẩn và sự đoạn tuyệt với Trung Quốc”. Phần này gồm bài giới thiệu khá dài (14 trang, từ trang 453 đến 467) của Tiến sĩ Stein Tønnesson và bản dịch tài liệu này ra tiếng Anh của Christopher E. Goscha (20 trang, 467-486). Tiến sĩ Stein Tønnesson là học giả nghiên cứu về thời kỳ Chiến tranh lạnh, trong đó có mối quan hệ giữa Việt Nam với các cường quốc Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc trong giai đoạn này. Ông hiện đang là Giám đốc Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế, Oslo, Na uy và cũng là tác giả cuốnViệt Nam 1946: Chiến tranh đã bắt đầu ra sao, mà anh Vũ Tường đã giới thiệu trong bài điểm sách đăng trên talawas blog. Christopher E. Goscha hiện đang giảng dạy môn Lịch sử tại American University và Trường Quốc tế ở Paris. Ông là đồng Giám đốc Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris. Gần đây ông có tác phẩm đã in “Mậu dịch vùng biên giới Việt Nam với Hoa Nam thời đầu chiến tranh” (Asian Survey, 2000) và đã trình luận án về đề tài Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne. Bài giới thiệu của Stein Tønnesson có khá nhiều nhận định sắc sảo và chính xác. Rất tiếc là không đủ thời gian để dịch ra giới thiệu với các bạn, nhưng các bạn có thể tham khảo bản tiếng Anh tại địa chỉ sau: www.wilsoncenter.org/topics/pubs/New_Ev_CWAsia.pdf (trang 273-288). Lẽ ra tài liệu từ tiếng Việt, đã được dịch sang tiếng Anh, thế thì còn dịch lại ra tiếng Việt làm gì. Vấn đề là ở chỗ, như Stein Tønnesson đã nhận xét: “Cho đến giờ, rất ít tài liệu thuộc loại này được phía Việt Nam cho phép các học giả tiếp cận.” Vậy thì trong khi chờ đợi tài liệu được bạch hóa, ta dịch ra để cùng đọc, tuy không thể chính xác bằng bản gốc, nhưng cũng có thể cung cấp cho ta một số thông tin nhất định. (...) Stein Tønnesson cũng đã chỉ ra: “Chúng ta được biết, Lê Duẩn rất ít khi tự mình chấp bút và tài liệu mang phong cách khẩu ngữ (khiến cho việc dịch cực kỳ khó khăn). Rất có thể đây là bản thảo Lê Duẩn đọc cho thư ký ghi, hoặc những đoạn chi tiết do một cán bộ cấp cao dự buổi nói chuyện này ghi lại.” Xin lưu ý: – Dấu ngoặc vuông [ ] là của Christopher E. Goscha. – Chúng tôi vẫn giữ nguyên những con số của ghi chú cho phù hợp với trong sách. TBT Lê Duẩn ***** Đồng chí B nói về âm mưu chống Việt Nam của bè lũ phản động Trung Quốc Nói chung, sau khi ta đã thắng Mỹ thì không còn tên đế quốc nào dám đánh ta nữa. Chỉ có những kẻ nghĩ rằng, họ có thể đánh và dám đánh chúng ta, là bọn phản động Trung Quốc. Nhưng nhân dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn như vậy. Tôi không rõ bọn phản động Trung Quốc này còn tồn tại bao lâu nữa. Dẫu sao, chừng nào bọn chúng còn đó thì chúng sẽ tấn công ta như chúng vừa làm gần đây [vào đầu năm 1979]. Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc thì các tỉnh [Bắc Trung bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành căn cứ cho cả nước. Đó là những căn cứ vững chắc nhất, tốt nhất và mạnh nhất không gì so sánh được. Vì nếu như vùng đồng bằng [Bắc bộ] vẫn liên tục căng thẳng như vậy thì tình hình sẽ hết sức phức tạp. Hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Nếu không có nhân dân Việt Nam thì sẽ chẳng có ai dám đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam đang đánh Mỹ thì cả thế giới còn lại sợ Mỹ…(25) Mặc dầu Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên, nhưng đó chỉ vì mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ mà thôi. Sau khi chiến tranh chấm dứt [ở Triều Tiên] và áp lực chuyển sang Việt Nam, ông ta [có lẽ ám chỉ Chu Ân Lai như những đoạn tiếp theo sẽ gợi ý] nói rằng, nếu như Việt Nam tiếp tục chiến đấu thì họ sẽ phải tự lo liệu lấy. Ông ta sẽ không giúp nữa và đã gây sức ép buộc chúng ta phải ngừng đấu tranh. Khi ta ký Hiệp định Giơ ne vơ, chính Chu Ân Lai là người đã chia cắt nước ta ra làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Bắc và Nam như vậy, cũng chính ông ấy lại ép chúng ta không được đụng chạm gì đến miền Nam. Họ cấm ta vùng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa được Mỹ ủng hộ]. [Nhưng] họ đã không làm chúng ta sờn lòng. Khi tôi vẫn còn đang ở trong Nam và đã chuẩn bị phát động chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Giơ ne vơ, Mao Trạch Đông đã nói với Đảng ta rằng, chúng ta cần ép các đồng chí Lào chuyển giao ngay hai tỉnh đã giải phóng cho chính phủ Viên Chăn (26). Nếu không Mỹ sẽ tiêu diệt họ, một tình huống hết sức nguy hiểm [theo quan điểm Trung Quốc]. Việt Nam lại phải làm việc ngay lập tức với phía Mỹ [về vấn đề này]. Mao đã bắt ta phải làm như vậy và chúng ta cũng đành phải làm như vậy (27). Rồi sau khi hai tỉnh giải phóng của Lào đã được bàn giao cho Viên Chăn, bọn phản động Lào ngay lập tức bắt Hoàng thân Su-pha-nu-vông. Phía các đồng chí Lào có hai tiểu đoàn lúc ấy đang bị bao vây. Hơn nữa họ chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó một tiểu đoàn đã vượt thoát [khỏi vòng vây]. Khi đó tôi đưa ra ý kiến là phải chấp nhận cho các bạn Lào phát động chiến tranh du kích. Tôi mời phía Trung Quốc đến để thảo luận việc này với ta. Tôi nói: “Các đồng chí, nếu các anh tiếp tục gây sức ép với Lào như thế thì lực lượng của họ sẽ tan rã hoàn toàn. Bây giờ họ phải được phép tiến hành đánh du kích”. Trương Văn Thiên (28), người trước kia đã từng là Tổng Bí thư [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và có bí danh là Lạc Phủ, đã trả lời: “Vâng, thưa các đồng chí, điều các đồng chí nói là đúng. Chúng ta hãy cho phép Tiểu đoàn Lào ấy được đánh du kích”. Tôi hỏi Trương Văn Thiên ngay lập tức: “Các đồng chí, nếu các đồng chí đã cho phép Lào tiến hành chiến tranh du kích, thì đâu có gì đáng sợ nếu phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì đã làm cho các đồng chí phải sợ hãi đến nỗi các đồng chí lại ngăn cản chúng tôi?” Ông ấy [Trương Văn Thiên] trả lời: “Không có gì phải sợ cả!” Đó là điều Trương Văn Thiên đã nói. Tuy nhiên Hà Vĩ, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam khi ấy, [và] có mặt lúc đó cũng nghe thấy những điều vừa nói. Ông ta đã đánh điện về Trung Quốc [báo cáo những gì đã trao đổi giữa Lê Duẩn và Trương Văn Thiên]. Mao trả lời ngay lập tức: “Việt Nam không thể làm như vậy được [phát động chiến tranh du kích ở miền Nam]. Việt Nam nhất định phải trường kỳ mai phục!” Chúng ta quá nghèo. Làm sao ta có thể đánh Mỹ nếu như chúng ta không có Trung Quốc là hậu phương vững chắc? [Do đó], chúng ta đành nghe theo họ, có phải không? (29) Dẫu sao thì chúng ta vẫn không nhất trí. Ta bí mật tiến hành phát triển lực lượng của ta. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém đi khắp các tỉnh miền Nam, ta đã ra lệnh tổ chức lực lượng quần chúng để chống chế độ này và giành lại chính quyền [từ tay chính phủ Diệm]. Chúng ta không cần để ý đến họ [Trung Quốc]. Khi cuộc đồng khởi giành chính quyền đã bắt đầu, chúng tôi sang Trung Quốc gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình nói với tôi: “Các đồng chí, bây giờ sai lầm của các anh thành việc đã rồi, các anh chỉ nên đánh ở mức độ trung đội trở xuống.” Đấy là một kiểu ràng buộc mà họ muốn áp đặt lên ta. Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! Tôi sẽ thực hiện như vậy. Tôi sẽ chỉ đánh ở mức trung đội trở xuống”. Sau khi chúng ta đánh và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta đã chiến đấu có hiệu quả, Mao đột ngột có đường lối mới. Ông ta nói rằng trong khi Mỹ đánh nhau với ta, ông ấy sẽ mang quân đội [Trung Quốc] vào giúp ta làm đường. Mục đích chính của ông ấy là tìm hiểu tình hình Việt Nam để sau này có thể đánh ta và từ đó bành trướng xuống Đông Nam Á. Không còn lý do nào khác. Chúng ta biết vậy nhưng phải chấp nhận [việc đưa quân Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam]. Chuyện này thì cũng được. Họ quyết định đưa quân vào. Tôi chỉ yêu cầu là họ đưa người không thôi, nhưng quân đội họ vào mang cả súng ống, đạn dược. Tôi lại đành phải đồng ý. Sau đó ông ấy [Mao Trạch Đông] bắt ta tiếp nhận hai vạn quân, đến để làm đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam. Tôi từ chối. Họ vẫn liên tục yêu cầu nhưng tôi không thay đổi ý kiến. Họ bắt tôi phải cho họ vào nhưng tôi không chấp nhận. Họ tiếp tục gây áp lực nhưng tôi vẫn không đồng ý. Các đồng chí, tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy được âm mưu lâu dài của họ là muốn cướp nước ta, và âm mưu của họ xấu xa tới chừng nào. Sau khi Mỹ đưa vài trăm ngàn quân vào miền Nam, chúng ta đã tiến hành Tổng tiến công Mậu Thân 1968, buộc chúng phải xuống thang. Để đánh bại đế quốc Mỹ ta phải biết cách kéo địch xuống thang dần dần. Đó là chiến lược của ta. Chúng ta chiến đấu chống lại một kẻ địch lớn, có dân số hơn hai trăm triệu người và họ từng thống trị thế giới. Nếu ta không thể bắt họ xuống thang dần từng bước, thì ta sẽ lúng túng và không thể tiêu diệt kẻ thù được. Ta phải đánh cho chúng tê liệt ý chí để buộc chúng đến bàn đàm phán và không cho phép chúng đưa thêm quân vào. Khi đã đến lúc họ muốn đàm phán với chúng ta, Hà Vĩ viết thư cho ta nói: “Các anh không thể ngồi xuống đàm phán với Mỹ được. Các anh phải kéo quân Mỹ vào miền Bắc mà đánh chúng”. Ông ta đã gây sức ép bằng cách đó, khiến chúng ta hết sức bối rối. Đó hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Thật là mệt mỏi mỗi khi những tình huống tương tự [với Trung Quốc] lại xảy ra. Chúng ta đã quyết định rằng không thể làm theo cách đó được [về ý kiến của Hà Vĩ không nên đàm phán với Mỹ]. Ta đã ngồi xuống ở Paris. Ta đã kéo Mỹ xuống thang để đánh bại chúng. Trong khi đó Trung Quốc lại tuyên bố [với Mỹ]: “Nếu người không đụng đến ta thì ta cũng không đụng đến người. Muốn mang bao nhiêu quân vào Việt Nam, điều đó tùy theo các anh”. Trung Quốc, theo ý của họ, đã làm như vậy và ép ta làm theo. Họ đã tích cực đổi chác với Mỹ và dùng ta làm con bài để mặc cả như thế đấy. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua, ngay lập tức họ sử dụng Trung Quốc để xúc tiến việc rút quân ở miền Nam sao cho thuận lợi. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận việc này. Trước khi Nixon đến Trung Quốc, [mục tiêu chuyến đi này của ông ta] nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam theo chiều hướng có lợi cho Mỹ và giảm thiểu đến tối đa sự thất bại của họ, đồng thời cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc gần hơn về phía Mỹ, Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Châu nói với tôi: “Vào lúc này, Nixon sắp đến gặp tôi, chủ yếu là để thảo luận vấn đề Việt Nam, do đó tôi nhất định phải đến gặp đồng chí để bàn bạc.” Tôi trả lời: “Thưa đồng chí, đồng chí có thể nói bất kỳ điều gì đồng chí muốn, nhưng tôi vẫn không hiểu. Đồng chí là người Trung Quốc; tôi là người Việt Nam. Việt Nam là đất nước của [chúng] tôi, hoàn toàn không phải là của các đồng chí. Đồng chí không có quyền phát biểu [về công việc của Việt Nam], và đồng chí không có quyền thảo luận [những chuyện đó với Mỹ] (30). Hôm nay, thưa đồng chí, tôi nói riêng với đồng chí một điều, mà thậm chí tôi chưa từng nói với Bộ Chính trị của chúng tôi, rằng các đồng chí đã đặt ra một vấn đề nghiêm trọng và vì vậy tôi cần phải nói: Năm 1954, khi Việt Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ, tôi đang ở Hậu Nghĩa. Bác Hồ đánh điện cho tôi, nói rằng tôi cần phải đi Nam để tổ chức lại [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về việc này] (31). Tôi đi xe thổ mộ xuôi Nam. Dọc đường đồng bào đổ ra chào đón tôi vì họ nghĩ chúng tôi đã chiến thắng. Thật đau lòng xiết bao! Nhìn đồng bào miền Nam tôi đã khóc. Bởi vì sau đó Mỹ sẽ nhảy vào miền Nam và tàn sát đồng bào tôi một cách dã man. Vào tới nơi, tôi lập tức đánh điện cho bác Hồ yêu cầu được ở lại và không tập kết ra Bắc, để có thể tiếp tục chiến đấu mười năm nữa hoặc lâu hơn. [Tôi nói với Chu Ân Lai]: “Thưa đồng chí, đồng chí đã gây ra những khó khăn cho chúng tôi như vậy đấy [muốn nói đến vai trò của ông ta trong việc chia cắt Việt Nam tại hội nghị Giơ ne vơ năm 1954]. Đồng chí có biết thế không?” Chu Ân Lai đáp: “Tôi xin lỗi các đồng chí. Tôi đã sai. Tôi đã sai trong chuyện này [ám chỉ việc chia cắt Việt Nam tại Giơ ne vơ] (32). Sau khi Nixon đã đi thăm Trung Quốc, ông ta [Châu] lại sang Việt Nam một lần nữa để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến đấu trong Nam. Tuy nhiên tôi cũng nói ngay với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí. Chẳng bao lâu nữa họ [Mỹ] sẽ tấn công chúng tôi mạnh hơn”. Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai bên [Mỹ và Trung Quốc] đã thỏa thuận với nhau nhằm đánh ta mạnh hơn. Ông ấy [Châu] đã không phản đối quan điểm này là không có cơ sở, và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng ống đạn dược cho các đồng chí”. Rồi ông ta nói [về sự e ngại một âm mưu bí mật giữa Mỹ và Trung Quốc]: “Không có chuyện đó đâu”. Dẫu sao họ cũng đã thảo luận đánh ta mạnh hơn như thế nào, kể cả ném bom bằng B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Vấn đề rõ ràng là như vậy. Nếu Liên Xô và Trung Quốc không bất đồng với nhau thì Mỹ không thể đánh chúng ta một cách tàn bạo như chúng đã làm. Chừng nào hai nước [Trung Quốc và Liên Xô] còn xung đột thì người Mỹ sẽ không bị ngăn trở [vì sự phản đối của khối Xã hội chủ nghĩa thống nhất]. Mặc dầu Việt Nam đã có thể đoàn kết với cả hai nước Trung Quốc và Liên Xô, nhưng để làm việc này là hết sức khó khăn vì lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc rất nhiều. Thời gian đó Trung Quốc hàng năm viện trợ cho ta nửa triệu tấn lương thực, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa nói đến cả đô la nữa. Liên Xô cũng giúp ta tương tự như vậy. Nếu chúng ta không làm được điều đó [giữ gìn sự thống nhất và đoàn kết với họ] thì mọi chuyện có thể hết sức nguy hiểm. Hàng năm tôi phải sang Trung Quốc hai lần để trình bày với họ [ban lãnh đạo Trung Quốc] về các diễn biến ở trong Nam. Còn với Liên Xô, tôi không cần phải nói gì cả [về tình hình miền Nam]. Tôi chỉ nói chung chung. Khi làm việc với phía Trung Quốc, tôi phải nói rằng cả hai chúng ta đang cùng đánh Mỹ. Tôi đã đi (sang đấy) một mình. Tôi phải tham dự vào những chuyện đó. Tôi phải sang Trung Quốc và bàn bạc với họ nhiều lần như vậy với mục đích chính là thắt chặt quan hệ song phương [Trung Quốc và Việt Nam]. Chính vào lúc đó Trung Quốc ép chúng ta phải tách xa khỏi Liên Xô, cấm ta không được đi cùng với Liên Xô nữa (33). Họ làm rất căng thẳng chuyện này. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh (34), đến nói với tôi: “Đồng chí, chúng tôi sẽ giúp các anh vài tỷ (Nhân dân tệ) một năm. Các anh không được nhận gì từ Liên Xô nữa.” Tôi không chấp nhận như vậy. Tôi nói: “Không, chúng tôi nhất định phải đoàn kết và thống nhất với toàn phe Xã hội chủ nghĩa.” (35) Năm 1963, khi Nikita Khơrútxốp có sai lầm, Trung Quốc lập tức ra Cương lĩnh 25 điểm và mời Đảng ta đến và góp ý kiến. Anh Trường Chinh và tôi cùng đi với một số anh em khác. Trong khi bàn bạc, họ [Trung Quốc] lắng nghe ta chừng mười điểm gì đó, nhưng khi tới ý kiến “không xa rời phe Xã hội chủ nghĩa” (37) thì họ không nghe nữa… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về văn bản của chính tôi. Tôi xin ý kiến các đồng chí nhưng tôi không chấp nhận điểm này của các đồng chí.” Trước khi đoàn ta về nước, Mao có tiếp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi trò chuyện cùng chúng tôi và đến cuối câu chuyện ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn các đồng chí biết việc này. Tôi sẽ là Chủ tịch của 500 triệu bần nông và tôi sẽ mang một đạo quân đánh xuống Đông Nam Á.” (38) Đặng Tiểu Bình cũng ngồi đó và nói thêm: “Đó chủ yếu là vì bần nông của chúng tôi đang ở trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn!” Khi chúng tôi đã ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Anh thấy đấy, một âm mưu cướp nước ta và cả Đông Nam Á. Bây giờ chuyện đã minh bạch.” Họ dám ngang nhiên tuyên bố như vậy. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Rõ ràng là không một phút nào họ không nghĩ tới việc đánh Việt Nam! Tôi sẽ nói thêm để các đồng chí có thể thấy rõ hơn tầm quan trọng quân sự của việc này. Mao hỏi tôi: - Lào có bao nhiêu cây số vuông? Tôi trả lời: - Khoảng 200 nghìn [cây số vuông]. - Dân số của họ là bao nhiêu? [Mao hỏi] - [Tôi đáp:] Gần ba triệu. - [Mao nói:] Thế thì cũng không nhiều lắm! Tôi sẽ mang người của chúng tôi xuống đấy! - [Mao hỏi:] Thái Lan thì có bao nhiêu cây số vuông? - [Tôi trả lời:] Khoảng 500 nghìn. - Và có bao nhiêu người? [Mao hỏi] - Gần 40 triệu! [Tôi đáp] - Trời ơi! [Mao nói], tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500 nghìn cây số vuông mà có tới 90 triệu dân. Tôi sẽ lấy thêm một ít người của chúng tôi đi xuống đấy nữa [Thái Lan]! Đối với Việt Nam, họ không dám nói thẳng về việc di dân như vậy. Tuy nhiên, ông ta [Mao] nói với tôi: “Các đồng chí, có thật người Việt Nam đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên không?” Tôi nói: “Đúng.” “Thế có thật là các anh cũng đánh bại cả quân Thanh nữa phải không?” Tôi đáp: “Đúng.” Ông ta lại hỏi: “Và cả quân Minh nữa, đúng không?” Tôi trả lời: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi sẽ đánh bại cả các ông. (39) Ông có biết thế không?” Tôi đã nói với Mao như vậy đó. Ông ấy nói: “Đúng! Đúng!” Mao muốn chiếm Lào, cả nước Thái Lan… cũng như muốn chiếm toàn vùng Đông Nam Á. Mang người đến ở đó. Thật là phức tạp. Trong những năm trước [về các vấn đề có thể nảy sinh từ mối đe dọa của Trung Quốc trong những thời kỳ đó], chúng ta đã có sự chuẩn bị tích cực chứ không phải chúng ta không chuẩn bị gì. Nếu chúng ta không chuẩn bị thì tình hình vừa qua đã có thể rất nguy. Đó không phải là chuyện đơn giản. Mười năm trước tôi đã có mời anh em bên quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ đang có mâu thuẫn với nhau. Còn Trung Quốc, họ lại bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng như vậy các anh phải lập tức nghiên cứu vấn đề này. Tôi sợ bên quân đội anh em chưa hiểu nên tôi nói thêm rằng không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ phát biểu rằng chuyện này rất khó hiểu. Đúng là không dễ dàng chút nào. Nhưng tôi không thể nói cách khác được. Và tôi cũng không cho phép ai căn vặn mình. (40) Khi tôi đi Liên Xô, họ cũng rất cứng rắn với tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một hội nghị 80 đảng [Cộng sản] để ủng hộ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [hội nghị] không chỉ nhằm giúp đỡ Việt Nam mà còn dự định lên án Trung Quốc. Do đó Việt Nam đã không đi. Phía Liên Xô hỏi: “Các anh đã từ bỏ chủ nghĩa quốc tế rồi hay sao? Tại sao các anh lại làm như vậy?” Tôi đáp: “Tôi hoàn toàn không từ bỏ chủ nghĩa quốc tế. Tôi chưa hề làm như vậy. Tuy nhiên, muốn là người theo chủ nghĩa quốc tế thì trước hết phải đánh bại đế quốc Mỹ. Và nếu người ta muốn đánh Mỹ thì phải thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đi dự hội nghị này thì Trung Quốc sẽ gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho chúng tôi. Xin các đồng chí hiểu cho.” Ở Trung Quốc có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang tranh cãi. Chu Ân Lai đồng ý xây dựng cùng Liên Xô một mặt trận chống Mỹ. Một lần tôi đến Liên Xô dự lễ Quốc khánh, tôi có được đọc một bức điện của Trung Quốc gửi Liên Xô nói rằng “nếu Liên Xô bị tấn công thì Trung Quốc sẽ kề vai sát cánh cùng Liên bang Xô viết.”(41) Đó là nhờ Hiệp ước hữu nghị Xô – Trung được ký kết trước đây [tháng 2-1950]. Ngồi cạnh Chu Ân Lai tôi hỏi ông ấy: “Trong bức điện mới đây gửi Liên Xô, các đồng chí đã đồng ý cùng với Liên Xô thành lập một mặt trận, nhưng tại sao các đồng chí lại không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai đáp: “Chúng tôi có thể. Tôi đồng tình với quan điểm của đồng chí. Tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [về Việt Nam]. Bành Chân (42) cũng đang ngồi đó, nói thêm: “Ý kiến này cực kỳ đúng đắn!” Nhưng khi vấn đề được đưa ra thảo luận ở Thượng Hải, Mao nói rằng không thể được và gạt bỏ ý kiến này. Các đồng chí đã thấy vấn đề phức tạp ra sao. Mặc dầu Chu Ân Lai có bảo lưu một số ý kiến, dẫu sao ông cũng đã đồng ý thành lập một mặt trận và đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều. Chính nhờ ông mà tôi hiểu [nhiều chuyện đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì có thể rất nguy hiểm. Có lần ông ấy nói với tôi: “Tôi phải làm hết sức mình để sống sót ở đây, dùng Lý Cường (43) để tích lũy và cung cấp viện trợ cho các đồng chí.” Và thế đấy [ám chỉ Châu đã có thể dùng Lý Cường vào việc giúp đỡ Việt Nam]. Tôi hiểu rằng nếu không có Chu Ân Lai thì không thể có được sự viện trợ như vậy. Tôi thật biết ơn ông ta. Tuy nhiên cũng không đúng, nếu nói rằng những người khác trong ban lãnh đạo Trung Quốc có cùng quan điểm với Chu Ân Lai. Họ khác nhau trên nhiều phương diện. Nhưng có thể nói rằng người kiên trì nhất, người có đầu óc đại Hán và người muốn chiếm cả vùng Đông Nam Á, chính là Mao. Tất cả mọi chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay Mao. Cũng có thể nói như vậy về các nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc. Chúng ta không biết trong tương lai mọi chuyện sẽ ra sao, nhưng dẫu sao [sự thực là] họ đã tấn công ta. Trước đây Đặng Tiểu Bình đã từng làm hai việc mà giờ đây lại lật ngược hẳn lại. Đó là, khi ta thắng lợi ở miền Nam, nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên Đặng Tiểu Bình cũng vẫn cứ chúc mừng ta. Kết quả là ông ta lập tức bị những người khác coi là phần tử xét lại. Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối cùng (44), tôi là trưởng đoàn, và tôi đã gặp đoàn đại biểu Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình dẫn đầu. Khi nói tới vấn đề lãnh thổ, gồm cả thảo luận về một số hòn đảo, tôi có nói: “Hai nước chúng ta nằm cạnh nhau. Có một số khu vực trên lãnh thổ chúng tôi chưa được phân định rõ ràng. Cả hai phía chúng ta cần phải thành lập một ủy ban để xem xét vấn đề này. Thưa các đồng chí, xin hãy nhất trí với tôi [về chuyện này]. Ông ấy [Đặng] đã đồng ý, nhưng vì vậy mà sau đó ông ta lại bị các nhóm lãnh đạo khác chụp mũ xét lại tức thời. Nhưng bây giờ thì ông ấy [Đặng] điên thật rồi. Bởi vì ông ta muốn tỏ ra mình không phải là xét lại nên ông ta đã đánh Việt Nam mạnh hơn. Ông ta đã bật đèn xanh cho họ tấn công Việt Nam. Sau khi đánh bại đế quốc Mỹ, chúng ta vẫn giữ một đạo quân hơn một triệu người. Một số lãnh đạo Liên Xô đã hỏi ta: “Các đồng chí còn định đánh nhau với ai nữa mà lại vẫn duy trì một đội quân [thường trực] lớn như vậy?” Tôi đáp: “Sau này các đồng chí sẽ hiểu.” Lý do duy nhất khiến chúng ta giữ một đạo quân thường trực như vậy chính là vì Trung Quốc [mối đe dọa của họ đối với Việt Nam]. Nếu như không có [sự đe dọa đó] thì đội quân [thường trực lớn] này sẽ không còn cần thiết nữa. Đã bị tấn công gần đây trên cả hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rõ rằng] sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta không duy trì một đội quân lớn. (B) [Ý nghĩa của chữ B này trong bản gốc không được rõ] – Từ cuối Đại chiến thế giới thứ hai, tất cả đều cho rằng đế quốc Mỹ chính là tên sen đầm quốc tế. Chúng có thể xâm chiếm và đe dọa các nước khác trên thế giới. Mọi người, kể cả các cường quốc, đều sợ Mỹ. Duy chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ mà thôi. Tôi hiểu được điều này nhờ cuộc đời hoạt động của mình đã dạy tôi như vậy. Người đầu tiên sợ [Mỹ] chính là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, cả Việt Nam và Lào, rằng: “Các anh phải lập tức chuyển giao ngay hai tỉnh giải phóng của Lào cho chính quyền Viên Chăn. Nếu không thì Mỹ sẽ lấy cớ để tấn công. Thế thì hết sức nguy hiểm.” Về phía Việt Nam, chúng ta nói: “Chúng tôi sẽ đánh Mỹ để giải phóng miền Nam.” Ông ta [Mao] nói: “Các anh không được làm như vậy. Miền Nam Việt Nam cần phải trường kỳ mai phục, có thể một đời người, năm đến mười đời, thậm chí hai mươi đời nữa. Các anh không thể đánh Mỹ. Đánh nhau với Mỹ là một việc nguy hiểm.” Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến như vậy… Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiến lên và chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam sẽ không được giải phóng. Một nước chưa được giải phóng thì vẫn cứ là một nước phụ thuộc. Không có nước nào được độc lập nếu chỉ có một nửa nước được tự do. Đó là tình hình cho đến năm 1975, khi đất nước ta cuối cùng đã giành được hoàn toàn độc lập. Có độc lập thì sẽ có tự do. Tự do phải là thứ tự do cho cả nước Việt Nam… Ăng ghen đã từng nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó Liên Xô, rồi Trung Quốc và cả ta nữa cũng nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước khác nhau rất nhiều về nội dung [của chiến tranh nhân dân]. Sẽ là không đúng nếu chỉ vì anh có hàng triệu người mà anh muốn làm gì thì làm. Trung Quốc cũng nói về chiến tranh nhân dân nhưng [họ chủ trương] “địch tiến ta lùi”. Nói cách khác, phòng ngự là chủ yếu, và chiến tranh chia làm ba giai đoạn, lấy nông thôn bao vây thành thị, trong khi [chủ lực] vẫn lẩn trốn trong vùng rừng núi… Trung Quốc đã thiên về phòng ngự và rất yếu [trong Đại chiến Thế giới thứ hai]. Thậm chí, với 400 triệu dân chống lại quân đội Nhật chỉ có khoảng 300 đến 400 ngàn người, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại Nhật. (45) Tôi phải nhắc lại như vậy vì trước kia Trung Quốc đã gửi cố vấn sang ta nên một số anh em [ta] không hiểu. Họ nghĩ rằng Trung Quốc rất là tài giỏi. Nhưng họ cũng không tài giỏi lắm đâu, và vì thế ta cũng không làm theo [sự cố vấn của Trung Quốc]. (46) Năm 1952 tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc chữa bệnh. Đấy là lần đầu tiên tôi ra nước ngoài. (47) Tôi đã đánh dấu hỏi về họ [Trung Quốc] và thấy rất nhiều chuyện lạ. Những vùng [đã từng] bị quân Nhật chiếm đóng có dân cư là 50 triệu người, nhưng không có thậm chí một người du kích… Khi tôi từ Trung Quốc về, tôi gặp bác [Hồ]. Bác hỏi: - Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài có phải không? - Vâng, tôi ra nước ngoài lần đầu tiên. - Chú thấy những gì? - Tôi thấy hai chuyện: Việt Nam rất dũng cảm và họ [Trung Quốc] hoàn toàn không. Tôi hiểu điều đó từ bấy giờ. Chúng ta [người Việt Nam] khác hẳn họ. Lòng dũng cảm là đặc tính cố hữu trong từng con người Việt Nam, và do vậy chúng ta chưa từng có chiến lược thiên về phòng ngự. Mỗi người dân là một chiến sĩ. Gần đây, họ [Trung Quốc] đem vài trăm ngàn quân xâm lấn nước ta. Trên phần lớn mặt trận, ta mới sử dụng dân quân du kích và bộ đội địa phương để đánh trả. Chúng ta không thiên về phòng ngự, và do vậy họ đã thất bại. Họ không thể tiêu diệt gọn một trung đội nào của Việt Nam, còn ta diệt gọn vài trung đoàn và vài chục tiểu đoàn của họ. Đạt được điều đó vì ta có chiến lược nghiêng về tấn công. Đế quốc Mỹ đã đánh nhau với ta trong một cuộc chiến dài lâu. Họ hết sức mạnh mà vẫn thua. Nhưng ở đây có một yếu tố đặc biệt, đó là sự mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì thế], họ đã đánh ta ác liệt như vậy. Việt Nam chống Mỹ và đánh chúng quyết liệt, nhưng chúng ta cũng biết rằng Mỹ là một nước rất lớn, có khả năng huy động một đội quân mười triệu người và dùng tất cả những vũ khí tối tân nhất để đánh ta. Vì vậy chúng ta phải chiến đấu một thời gian dài để kéo chúng xuống thang. Chúng ta là người có thể làm được như vậy; Trung Quốc thì không. Khi quân Mỹ tấn công Quảng Trị, Bộ Chính trị đã ra lệnh đưa bộ đội vào ứng chiến ngay lập tức. Chúng ta không sợ. Sau đó tôi có sang Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Nó [cuộc chiến đấu ở Quảng Trị] có lẽ là độc nhất vô nhị, chưa từng có. Đời người chỉ có một [cơ hội], không hai. Không ai dám làm việc mà các đồng chí đã làm”. … Chu Ân Lai đã từng là Tổng Tham mưu trưởng. Ông dám nói và ông cũng thẳng thắn hơn. Ông nói với tôi: “Nếu tôi được biết trước cách đánh mà các đồng chí đã sử dụng thì có lẽ chúng tôi không cần đến cuộc Trường chinh.” Vạn lý Trường chinh để làm gì? Vào lúc bắt đầu cuộc Trường chinh họ có một đội quân 300 nghìn người; và khi kết thúc họ chỉ còn lại có 30 nghìn. 270 nghìn đã bị tiêu hao. Đó quả thật là ngu ngốc nếu làm theo cách ấy… [Tôi] nói như vậy để các đồng chí hiểu, chúng ta đã tiến xa hơn bao nhiêu. Sắp tới, nếu ta lại phải chiến đấu chống Trung Quốc, chúng ta nhất định thắng lợi … Dẫu sao, một sự thực là nếu như một nước khác [không phải Việt Nam] phải đánh nhau với Trung Quốc, thì chưa chắc họ có thể thắng như vậy [giống Việt Nam] được. … Nếu Trung Quốc và Liên Xô nhất trí với nhau, thì cũng chưa chắc là Mỹ sẽ dám đánh ta. Nếu như hai nước đoàn kết và cùng giúp ta, thì cũng chưa chắc rằng Mỹ sẽ dám đánh ta theo cách như chúng đã làm. Họ có thể chùn bước ngay từ đầu. Họ có thể bỏ cuộc như trong thời Tổng thống Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô tất cả cùng giúp Lào và Mỹ tức thời ký hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân sang Lào, họ chấp nhận cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia vào chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa. Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] có mâu thuẫn với nhau, phía Mỹ lại được [Trung Quốc] thông báo rằng họ có thể tiếp tục đánh Việt Nam mà không sợ gì cả. Đừng sợ [Trung Quốc trả đũa]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông nói với Mỹ: “Nếu người không đụng đến ta thì ta sẽ không đụng đến người. Các anh có thể đưa bao nhiêu quân vào miền Nam Việt Nam cũng được. Điều đó tùy theo các anh.” (48) … Chúng ta [hiện nay] tiếp giáp với một quốc gia lớn, một nước có những ý đồ bành trướng, mà nếu được thực hiện thì sẽ bắt đầu với cuộc xâm lăng Việt Nam. Như vậy, ta phải gánh vác một vai trò lịch sử nữa, khác trước. Dẫu sao, chúng ta không bao giờ thoái thác nhiệm vụ lịch sử của mình. Trước đây, Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình và lần này Việt Nam quyết tâm không cho chúng bành trướng. Việt Nam bảo vệ nền độc lập của chính mình và đồng thời cũng là bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam quyết không để cho Trung Quốc thực hiện mưu đồ bành trướng của họ. Cuộc chiến gần đây [với Trung Quốc] mới chỉ là một hiệp. Hiện nay họ vẫn đang ráo riết chuẩn bị trên nhiều chiến trường. Dù sao đi nữa, mặc họ chuẩn bị đến mức nào, Việt Nam cũng vẫn sẽ thắng… Tiến hành chiến tranh không phải là một cuộc dạo chơi trong rừng. Dùng một triệu quân để tiến hành chiến tranh chống nước khác kéo theo vô vàn khó khăn. Chỉ mới đây thôi, họ đem 500 đến 600 ngàn quân đánh chúng ta, mà họ không có đủ phương tiện vận tải để chuyên chở lương thực cho quân đội họ. Trung Quốc hiện nay có một đội quân ba triệu rưỡi người, nhưng họ phải để lại một nửa trên biên giới [Trung-Xô] nhằm phòng ngừa Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ có mang một hoặc hai triệu quân sang đánh ta, chúng ta cũng không hề sợ hãi gì cả. Chúng ta chỉ có 600 ngàn quân ứng chiến và nếu sắp tới chúng ta phải đánh với hai triệu quân, thì cũng không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ. Chúng ta không sợ vì chúng ta đã biết cách chiến đấu. Nếu họ mang vào một triệu quân thì họ cũng chỉ đặt được chân ở phía Bắc. Càng đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng châu thổ, và vào Hà Nội hoặc thậm chí vào sâu hơn nữa thì sẽ càng khó khăn. Các đồng chí, các đồng chí đã biết, bè lũ Hitler đã tấn công ác liệt như thế nào, mà khi tiến đến Leningrad chúng cũng không thể nào vào nổi. (Phải đối mặt) với những (làng mạc,) thành phố, nhân dân và công tác phòng ngự, không ai có thể thực hiện một cuộc tấn công hiệu quả chống lại từng người cư dân. Thậm chí có đánh nhau hai, ba hoặc bốn năm chúng cũng không thể nào tiến vào được. Mỗi làng xóm của chúng ta [trên biên giới phía Bắc] là như vậy. Chủ trương của ta là: Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và chúng sẽ không thể nào xâm nhập được. Tuy nhiên, sẽ không đầy đủ nếu chỉ nói đến đánh giặc ngoài tiền tuyến. Ngưới ta cũng cần phải có một đội quân hậu tập trực tiếp, hùng mạnh. Sau khi cuộc chiến vừa qua chấm dứt, chúng ta đã nhận định rằng, sắp tới, ta cần đưa thêm vài triệu người lên (các tỉnh) mặt trận phía Bắc. Nếu giặc đến từ phương Bắc, hậu phương trực tiếp của cả nước sẽ là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… Hậu phương trực tiếp để bảo vệ Thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Ta sẽ đánh bằng nhiều cách… Ta có thể dùng hai hoặc ba quân đoàn giáng cho địch một đòn quyết liệt khiến chúng choáng váng, trong khi tiếp tục bảo vệ lãnh thổ của ta. Để làm được như vậy, mỗi người lính phải là một người lính thực sự, mỗi tiểu đội phải là một tiểu đội thực sự. Vừa trải qua một trận chiến, chúng ta không được chủ quan. Chủ quan khinh địch là không đúng, nhưng thiếu tự tin thì cũng sai. Ta không chủ quan khinh địch nhưng ta cũng đồng thời tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của chúng ta. Ta cần phải có cả hai yếu tố đó. Trung Quốc hiện đang có âm mưu tấn công ta nhằm bành trướng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay người ta không thể làm gì mà che đậy giấu giếm được. Trung Quốc vừa mới gây hấn với Việt Nam có vài ngày, cả thế giới đã đồng thanh hô lớn: “Không được đụng đến Việt Nam!” Thời nay không còn giống như thời xưa nữa. Ngày xưa chỉ có ta (đối mặt) với họ [Trung Quốc]. Ngày nay cả thế giới sát cánh chặt chẽ bên nhau. Nhân loại hoàn toàn chưa bước vào giai đoạn Xã hội chủ nghĩa; thay vì thế bây giờ lại là thời mà mọi người đều mong muốn độc lập và tự do. [Thậm chí] trên những hòn đảo nhỏ, nhân dân ở đó cũng mong muốn độc lập tự do. Cả loài người hiện nay là như vậy. Điều đó rất khác với thời xưa. Khi ấy mọi người còn chưa biết rõ về những khái niệm này. Lời Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” là tư tưởng của thời đại ngày nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm đến độc lập tự do… Việt Nam là quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do. Khi bàn đánh Mỹ, anh em ta trong Bộ Chính trị đã cùng thảo luận chuyện này để cân nhắc xem ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã biểu thị quyết tâm của mình: Để đánh Mỹ chúng ta nhất định phải không sợ Mỹ. Tất cả đã đồng lòng. Trong khi tất cả đều nhất trí đánh Mỹ, để không sợ Mỹ chúng ta cũng phải không sợ Liên Xô. Mọi người đều đồng ý. Chúng ta cũng cần không sợ Trung Quốc. Mọi người đều tán thành. Nếu chúng ta không sợ ba cái (nước lớn) đó, ta có thể đánh Mỹ. Đấy là chúng tôi đã làm việc như thế nào ở Bộ Chính trị trong thời gian đó. Mặc dầu Bộ Chính trị đã họp và thảo luận như vậy và mọi người đều nhất trí đồng lòng, sau đó lại có người đã nói lại với một đồng chí những điều tôi nói. Người đồng chí đó lại chất vấn Bộ Chính trị, hỏi rằng tại sao anh Ba (49) lại nói rằng nếu chúng ta muốn đánh Mỹ thì chúng ta phải không sợ cả Trung Quốc? Tại sao anh ấy lại đặt vấn đề như vậy? (50) Lúc đó anh Nguyễn Chí Thanh, một người thường được cho rằng là có cảm tình với Trung Quốc, đứng dậy nói: “Thưa các đồng chí trong Bộ Chính trị và Bác Hồ kính mến, lời phát biểu của anh Ba là đúng. Cần phải nói như vậy [về việc cần phải không sợ Trung Quốc], bởi vì họ [Trung Quốc] đã gây khó khăn cho chúng ta trong nhiều vấn đề. Họ ngăn cản chúng ta ở đây, rồi trói tay ta ở kia. Họ không cho ta đánh…” (51) Trong khi ta đang chiến đấu trong Nam, Đặng Tiểu Bình đã quy định rằng tôi chỉ nên đánh từ mức trung đội trở xuống, và không được đánh ở mức độ lớn hơn. Ông ta [Đặng] nói: “Ở miền Nam, do các anh đã phạm sai lầm là đã phát động cuộc chiến, các anh chỉ được đánh từ cấp trung đội trở xuống, chứ không được đánh lớn hơn”. Đó là họ đã ép ta như thế nào. Chúng ta không sợ ai cả. Ta không sợ bởi vì ta có chính nghĩa. Chúng ta không sợ thậm chí các nước đàn anh. Ta cũng không sợ bạn bè ta. (52) Tất nhiên, chúng ta không sợ quân thù. Ta đã đánh chúng. Chúng ta là những con người; chúng ta không phải sợ bất kỳ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết rằng ta độc lập. Chúng ta phải có một quân đội mạnh, bởi vì nước ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt… Không thể nào khác được. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm vì ta là một nước nghèo. Ta có một đội quân mạnh, nhưng việc đó không làm chúng ta yếu đi chút nào. Đối với ta Trung Quốc có một số chủ trương: Xâm lược và chiếm đóng nước ta; làm ta suy yếu về kinh tế và làm cho đời sống của nhân dân ta khó khăn hơn. Vì những lý do đó, để chống Trung Quốc chúng ta phải, trước hết, không chỉ chiến đấu, mà còn phải tự làm cho mình mạnh lên. Để đạt được điều đó, theo quan điểm của tôi, quân đội ta không thể là một đội quân chỉ dựa vào nguồn cung cấp của nhà nước, mà còn phải là một đội quân sản xuất giỏi. Khi giặc đến họ sẽ cầm chắc tay súng. Khi không có giặc họ sẽ sản xuất mạnh mẽ. Họ sẽ là biểu tượng cao nhất và tốt nhất trong sản xuất, sẽ làm ra nhiều (của cải vật chất) hơn bất cứ ai. Tất nhiên, đấy không phải là chuyện mới lạ. (53) Hiện nay, quân đội ta đang gánh vác một sứ mệnh lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của đất nước, đồng thời bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản cách mạng Trung Quốc không thể thực hiện được thì đó chính là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm được. Việt Nam đã có năm chục triệu người. Việt Nam có Lào và Căm bốt là bạn và có địa thế hiểm trở. Việt Nam có cả phe (Xã hội chủ nghĩa) ta và cả nhân loại đứng về phiá mình. Rõ ràng là chúng ta có thể làm được việc đó. … Các đồng chí có thấy ai ở trong Đảng ta, trong nhân dân ta mà hoài nghi rằng ta sẽ thua Trung Quốc không? Không có ai, tất nhiên rồi. Nhưng chúng ta phải duy trì những quan hệ thân hữu của mình. Chúng ta không muốn sự hằn thù dân tộc. Tôi nhắc lại: Tôi nói như vậy vì không bao giờ tôi mang lòng hận thù đối với Trung Quốc. Tôi không có thứ tình cảm như vậy, dù chính họ là người đã đánh ta. Hôm nay tôi muốn các đồng chí biết rằng trên đời này người đã từng bảo vệ Trung Quốc lại chính là tôi! Đúng như vậy đó. Tại sao thế? Bởi vì trong hội nghị ở Bucharest tháng 6 năm 1960, sáu mươi đảng đã phản đối Trung Quốc nhưng chỉ có mình tôi là người đã bênh vực Trung Quốc. (54) Nhân dân Việt Nam ta là như vậy. Tôi sẽ tiếp tục nhắc lại rằng: Dù họ có đối xử tồi tệ đến đâu chăng nữa, chúng ta biết rằng nhân dân Trung Quốc là bạn ta. Về phía chúng ta, ta không mang những mặc cảm xấu xa đối với Trung Quốc. Còn về ý đồ của một số lãnh đạo [Trung Quốc] thì là chuyện khác. Chúng ta nhắc tới họ chỉ như một bè lũ mà thôi. Chúng ta không ám chỉ cả nước họ. Ta không nói nhân dân Trung Quốc xấu với ta. Ta nói rằng chỉ có bè lũ phản cách mạng Bắc Kinh là như thế. Tôi nhắc lại lần nữa ta phải tuân thủ nghiêm nhặt như vậy. Tóm lại, hãy giữ cho tình hình trong vòng kiểm soát chặt chẽ, sẵn sàng chiến đấu và không bao giờ lơi là cảnh giác. Đối với Trung Quốc ta cũng làm như vậy. Tôi tin chắc rằng trong vòng năm mươi năm nữa, hoặc thậm chí có thể một trăm năm, chủ nghĩa xã hội sẽ thành công; và khi đó thì ta sẽ không còn vấn đề gì nữa. Nhưng nó đòi hỏi thời gian. Bởi vậy chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện. Bây giờ không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng 5 năm trước tôi biết chắc rằng không có đồng chí nào lại nghĩ là Trung Quốc có thể đánh ta. Vậy mà có đấy. Đó là trường hợp vì các đồng chí ấy không có hiểu biết đầy đủ về vấn đề này. (55) Nhưng đó không phải là trường hợp xảy ra với chúng ta [Lê Duẩn và ban lãnh đạo]. (56) Chúng ta biết rằng họ sẽ đánh ta trong khoảng mười năm hoặc hơn. Do đó chúng ta không bị bất ngờ [vì cuộc tấn công tháng giêng 1979 của Trung Quốc]. Ghi chú của Christopher E. Goscha: 24-56 24. Tài liệu này được dịch từ bản sao một số trích đoạn trong bản gốc. Nó được chép lại từ bản gốc lưu trữ trong Thư viện Quân đội, Hà Nội. Christopher E. Goscha, người dịch tài liệu này (ra tiếng Anh) đã được phép hoàn toàn đầy đủ để làm việc đó. Văn bản là bài nói chuyện được cho là của “đồng chí B”. Nó có thể do chính đồng chí B viết, nhưng có nhiều khả năng hơn nó là bản đánh máy của một người nào đó dự buổi nói chuyện của “đồng chí B” (một cán bộ cao cấp hoặc một thư ký đánh máy). Trong văn bản, đồng chí B có đề cập rằng, trong những cuộc họp của Bộ Chính trị ông ta được gọi là anh Ba. Đó là bí danh mà chúng ta được biết là của Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã dùng trong Đảng Lao động Việt Nam (từ 1976 là “Đảng Cộng sản Việt Nam”). Mặc dầu tài liệu không đề ngày tháng, nhưng rõ ràng văn bản được viết trong năm 1979, sau cuộc tấn công Việt Nam của Trung Quốc. Nó được củng cố thêm bằng một tài liệu khác mang tính cáo buộc mạnh mẽ, xuất bản năm 1979 theo chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó đã liệt kê tuần tự sự phản bội của Trung Quốc và, không hoàn toàn bất ngờ, cùng đề cập đến nhiều sự kiện mà Lê Duẩn đã kể lại trong tài liệu này. Xem: Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1979). Trong phần Ghi chú này có cho thêm số trang trong bản tiếng Pháp của cùng văn kiện: Ministère des Affaires Étrangères, La vérité sur les relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années. Dịch giả xin cám ơn Thomas Engelbert, Stein Tønnesson, Nguyen Hong Thach, và hơn cả là một độc giả Việt Nam ẩn danh, đã sửa chữa và đóng góp cho nhiều ý kiến quý báu. Dịch giả xin chịu trách nhiệm về những sai sót trong bản dịch này. 25. Những dấu tỉnh lược (…) như vậy là nguyên văn trong bản gốc; những dấu tỉnh lược và nhận xét của dịch giả được đặt trong dấu ngoặc vuông: […]. 26. Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 đã cho Pathet Lao, đồng minh gần gũi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một khu vực tập kết tạm thời ở hai tỉnh (Bắc Lào) Phong xa lỳ và Sầm Nưa. Không có một nhượng địa tương tự cho Khơ me It xa la, đồng minh của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 27. Cuốn sách Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua cho biết cuộc hội đàm cấp cao về Lào diễn ra vào tháng 8 – 1961 (La vérité sur les relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années, trang 34). 28. Trương Văn Thiên là một trong những thành viên của Đoàn đại biểu Trung Quốc, người đã có mặt khi Lê Duẩn phát biểu những nhận xét này. Ông còn là Thứ trưởng Ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, là Ủy viên lâu năm trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong những năm 1950 ông ta là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị giữ trách nhiệm về liên lạc đối ngoại với các nước Xã hội chủ nghĩa. 29. Sách Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua đã miêu tả cuộc gặp gỡ như sau: “Trong một cuộc trao đổi ý kiến với những người lãnh đạo Việt Nam, Ủy viên trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trương Văn Thiên cho rằng ở miền Nam Việt Nam có thể tiến hành đánh du kích. Nhưng sau đó Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, theo chỉ thị của Bắc Kinh, đã thông báo với phía Việt Nam rằng đó không phải là ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc mà chỉ là ý kiến cá nhân. The Truth…, trang 40. (La vérité…, trang 31.) 30. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, trang 60. (La vérité…, trang 47.) 31. Lê Duẩn muốn nói đến nhiệm vụ giải thích việc tập kết cán bộ miền Nam ra Bắc. Lê Duẩn cũng cố tình lảng tránh không đề cập đến việc Trung Quốc đã giúp Việt Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954. 32. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua trang 60, đoạn phía Việt Nam đã nói với Trung Quốc tháng 11-1972: “Việt Nam là của chúng tôi; các đồng chí không được bàn với Mỹ về vấn đề Việt Nam. Các đồng chí đã nhận sai lầm năm 1954 rồi, bây giờ không nên sai lầm một lần nữa”. (La vérité…, trang 47.) 33. Một trong những thư ký của Lê Duẩn, Trần Quỳnh, gần đây đã cho lưu hành ở Việt Nam cuốn Hồi ức của ông ta, trong đó có nhiều chi tiết lý thú về đường lối của Lê Duẩn đối với sự phân liệt Trung Xô và sự chia rẽ trong (hàng ngũ cán bộ cao cấp của) Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề này trong những năm 1960. Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn, không in ngày tháng, tự xuất bản, dịch giả hiện có một bản. 34. Khang Sinh (1903-1975), một trong những chuyên viên hàng đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về an ninh quốc gia. Ông ta được Bộ Nội vụ (NKVD) Liên Xô đào tạo trong những năm 1930, và trở thành cố vấn thân cận nhất cho Mao trong việc cắt nghĩa những chính sách của Liên Xô. Khang Sinh cũng từng là Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1962, và Ủy viên Bộ Chính trị từ 1969; giữa 1973 và 1975 ông ta là Ủy viên Ban thường vụ Bộ Chính trị. 35. Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua trang 43, trong đó Việt Nam tuyên bố là Đặng Tiểu Bình đã hứa sẽ coi Việt Nam là ưu tiên số một trong vấn đề viện trợ cho nước ngoài để đổi lấy việc Việt Nam sẽ khước từ mọi viện trợ của Liên Xô. (La vérité…, trang 33.) 36. Xem “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” trang 43. (La vérité…, trang 33) và cả Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn. 37. Tháng 11-1966, Liên Xô lên án Trung Quốc đã từ bỏ đường lối Cộng sản thế giới đã được thông qua tại các Hội nghị Mascơva 1957 và 1960. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn. 38. Bộ Ngoại giao, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua cho biết Mao đã phát biểu như vậy với đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963. Trong sách đã trích dẫn lời Mao nói: “Tôi sẽ làm Chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á.” (La vérité…, trang 9). 39. Đoạn này có thể dịch (sang tiếng Anh) là “và tôi sẽ đánh bại cả các anh nữa” hoặc “tôi có thể đánh bại cả các anh”. 40. Đối với dịch giả (Christopher E. Goscha), chỗ này không được rõ là Lê Duẩn muốn nói tới ai khi dùng chữ “quân sự”. (Ngược lại, đối với người dịch ra tiếng Việt thì rõ ràng trong ngôn cảnh này ông nói là tôi mời một số anh em bên quân đội…, một cách nói thân mật, thường dùng thời đó nhưng tất nhiên hàm chỉ một số tướng tá cao cấp). 41. Đây có lẽ dựa vào lời Đại sứ Trung Quốc tại Máscơva chuyển cho phía Liên Xô nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Đồng minh và Tương trợ Trung-Xô. Đại sứ Trung Quốc Phan Tự lực đã nói với Liên Xô: “Nếu bọn đế quốc dám tấn công Liên Xô, nhân dân Trung Quốc không hề ngần ngại, sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hiệp ước và cùng với nhân dân Liên Xô vĩ đại… sẽ kề vai sát cánh chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng.” Trích từ Donald S. Zagoria, Mạc tư khoa, Bắc Kinh, Hà nội (New York: Pegasus, 1967), trang 139-140. 42. Bành Chân là Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc từ 1951 đến 1969. 43. Lý Cường là Phó Chủ tịch Ủy ban liên lạc kinh tế đối ngoại của Quốc vụ viện từ 1965 đến 1967. Giữa 1968 và 1973, ông là Thứ trưởng Bộ Ngoại thương, và từ 1973 là Bộ trưởng Ngoại thương Trung Quốc. 44. Đây muốn nói tới chuyến đi của Lê Duẩn vào tháng 11-1977. 45. Lê Duẩn quên rằng cho đến tháng 3-1945, thậm chí chỉ với số người ít hơn, Pháp đã có thể cai trị Việt Nam mà không gặp quá nhiều khó khăn. 46. Về cố vấn Trung Quốc, xin xem Qiang Zhai, Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam, 1950-1975 (Chapel Hill: Nhà xuất bản Viện đại học North Carolina, 2000), và Christopher E. Goscha, “Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt” luận án trình bày tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne, Paris, 2000, phần Trung Quốc. 47. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp Lê Duẩn thường xuyên ra miền Bắc, nhưng ông thường được cho là vẫn ở lại miền Nam thời kỳ này trong cương vị Bí thư Xứ ủy Nam kỳ, mà sau này đổi thành Trung ương cục miền Nam vào đầu năm 1950. Dịch giả cũng hoài nghi việc Lê Duẩn đi Trung Quốc năm 1952. Hồ Chí Minh thì có, nhưng Lê Duẩn thì không. 48. Về chi tiết này, xin xem chương 6 của cuốn sách này. 49. Điều này khẳng định Đồng chí B cũng chính là “Anh Ba”. Ta biết rằng Anh Ba là bí danh của Lê Duẩn, từ đó suy ra Đồng chí B cũng là Lê Duẩn. Từ những sự kiện được nói đến trong văn bản thì điều này là chắc chắn, và cuốn Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn, cũng khẳng định điều này. 50. Ở đây có thể ám chỉ Hoàng Văn Hoan. (Để có cái nhìn toàn cảnh hơn) về một quan điểm cần tranh luận, xin tham khảo thêm cuốn Giọt nước trong biển cả (Hồi ức về một cuộc cách mạng) (Bắc Kinh: Nhà xuất bản Tin Việt Nam, 1986). 51. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn. 52. Đây có lẽ muốn nói bóng gió tới Liên Xô (và khối Đông Âu). 53. Hình thức chiến tranh này đã từng có ở Trung Quốc và những nơi khác trong hoàn cảnh chiến tranh du kích. 54. Điều này đã diễn ra vào tháng 6-1960. Để biết thêm về lập trường của Lê Duẩn trong vấn đề này xin xem Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn. Sau đại hội Đảng Cộng sản Ru ma ni tháng 6-1960, Liên Xô đã tổ chức một cuộc họp tại chỗ các trưởng đoàn đại biểu những nước có mặt. Trong buổi họp đó Khơ rút xốp đã phê phán Trung Quốc nặng nề, đặc biệt là Mao, người mà ông ta cho là “giáo điều” vì những quan điểm của Mao về vấn đề chung sống hòa bình. Xem Adam B. Ulam, The Communists: The Story of Power and Lost Illusions 1948-1991 (New York: Macmillan, 1992), trang 211. 55. Dường như đây là một cái tát vào mặt Hoàng Văn Hoan mà không phải ai khác. 56. Đây có lẽ muốn nói tới những nhà lãnh đạo khác đang có mặt nghe Lê Duẩn nói chuyện, và có thể là một chỉ hiệu rằng người đồng chí thân Trung Quốc đã nói ở trên không có mặt trong buổi nói chuyện này. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn. Nguồn: Thư viện Quân đội, Hà Nội. Tài liệu do Christopher E. Goscha phát hiện và dịch sang tiếng Anh, Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris. Christopher E. Goscha đã phát hiện tài liệu này trong Thư viện Quân đội ở Hà Nội, chép tay lại và dịch ra tiếng Anh. Cũng theo Stein Tønnesson: “Văn bản không đề ngày tháng, và tên tác giả chỉ cho biết là “đồng chí B”. Dù sao, nội dung tài liệu cho ta thấy, nó được viết năm 1979, có lẽ vào quãng thời gian giữa cuộc tấn công của Trung Quốc vào Bắc Việt Nam tháng 2-1979 và thời điểm phát hành cuốn Sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam về mối quan hệ Việt – Trung ngày mồng 4 tháng 10 cùng năm. Dường như văn bản được soạn chỉ ít lâu sau quyết định ngày 15 tháng 3-1979 của Đặng Tiểu Bình ngừng cuộc tấn công trừng phạt Việt Nam và rút quân về nước, nhưng trước khi Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc tháng 7-1979.” Nếu tên tác giả chỉ ghi là “đồng chí B” thì sao lại dám khẳng định là Lê Duẩn? Bài nói chuyện của “đồng chí B” có cho ta biết rằng, trong những cuộc họp của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, ông ta được gọi là anh Ba, một bí danh mà mọi người đều biết là của Lê Duẩn. Tài liệu cũng nói nhiều đến những cuộc họp cấp cao với phía Trung Quốc trong đó có cả Mao, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, khi đó nhân vật B này thường xưng tôi và đại diện cho phía Việt Nam một cách đầy quyền uy như thế, hẳn chỉ có rất ít người. Một nhận xét khác của Stein Tønnesson là “những điều Lê Duẩn nói ra (trong năm 1979) rõ ràng mang sắc thái tức giận”, nhưng về thái độ của Lê Duẩn thì “một nét ấn tượng của tài liệu này là sự thẳng thắn, bộc trực và cách tác giả đưa vấn đề ra như là một cá nhân.” Ta đều biết vai trò và vị trí của ông trong Đảng cũng như trong các sự kiện từ khi được cử làm Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam rồi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Stein Tønnesson cũng cho rằng khi Lê Duẩn xưng tôi với Hồ Chí Minh thì đó là thái độ có phần xấc xược, nhưng người dịch không nghĩ như vậy. Nếu bạn đã đi nhiều vùng trên đất nước ta, hoặc được tiếp xúc với nhiều người từ những địa phương khác nhau tới, bạn sẽ thấy đó chỉ là một tập quán ngữ dụng của một số nơi chứ không phải là hỗn hào hay xấc xược. Hoặc cũng có đoạn, khi nói chuyện với Mao, Lê Duẩn cũng dám “ăn miếng trả miếng”, nhưng người dịch hoài nghi chuyện này, chúng ta cần phối kiểm với những tài liệu khác nữa. So với cuốn Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, công bố ngày mồng 4 tháng 10-1979, tài liệu này cũng không có nhiều điểm khác biệt, trừ một số tình tiết về cách suy nghĩ và ứng phó của phía Việt Nam. Dẫu sao, theo thiển ý của tôi, thì đây cũng là một tài liệu quý. Nó cho ta thấy việc ra đời của cuốn Sách trắng đã được chỉ đạo từ cấp cao nhất. Vì thời gian có hạn, lại dịch ngược lại từ tiếng Anh ra Việt trong khi ngôn ngữ nguồn đã là tiếng Việt, chắc chắn bản dịch còn nhiều thiếu sót. Người dịch cũng chỉ mong muốn một chữ “tín”, mà chưa dám nghĩ đến “đạt, nhã”. Mong các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến cho. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ. Nguồn : Theo talawas (
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:50:25 GMT 9
CHẢ LẼ MẤT ĐỘC LẬP TỰ CHỦ, LỆ THUỘC HỌ BÀNH?Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh Sinh thời, Hồ chủ tịch từng nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, cũng hàm nghĩa “Độc lập, tự chủ”. Thế mà từ Hội nghị Thành Đô, một mặt thì giới cầm quyền TQ áp đặt, mặt khác do lãnh đạo phía ta tự ti, tự hạ nên mất dần độc lập tự chủ. Phía TQ yêu cầu ta không nhắc đến cuộc xâm lược của họ tháng 2/1979, loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, nhà ngoại giao sắc sảo, sớm cảnh giác với chủ nghĩa bành trướng bá quyền của TQ. Trước mỗi kỳ Đại hội Đảng ở nước ta, thường có vài ba ủy viên Bộ chính trị TQ liên tiếp sang thăm để biết dự kiến bố trí nhân sự Đại hội. Họ biểu thị yên tâm với đồng chí này nắm cương vị lãnh đạo, đồng chí kia không thân thiện với TQ… Thí dụ, trong Hội nghị có người nêu đưa đồng chí Phạm Bình Minh làm Bộ trưởng Ngoại giao, thì Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nói ngay: “TQ không đồng ý”. TQ muốn vào khai thác boxit Tây Nguyên, vị trí chiến lược xung yếu của nước ta, dù chưa có ý kiến của tập thể Bộ chính trị, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã chấp nhận ngay. Họ mua rừng đầu nguồn biên giới, mua bãi biển Đà Nẵng, thuê dài hạn cảng Vũng Áng đều được. Trong các lần họp cấp cao hai bên, phía TQ đề xuất nào là: - Kết nghĩa giữa các tỉnh biên giới hai bên (ta được gì?). - Tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh của hai nước (phía ta ai sang TQ mà kinh doanh?). - Giúp nhau đào tạo cán bộ (Việt Nam lại đào tạo cán bộ cho TQ được ư? Hay là để ta gửi người sang học, để họ nhồi sọ?). - Thường xuyên giao lưu cán bộ các cấp kể cả cán bộ cấp vụ, cấp cục (để họ dễ lung lạc, mua chuộc). - Lập đường dây nóng giữa Bộ Ngoại giao và Bộ Nông nghiệp hai bên, xử lý nội bộ khi có va chạm (để ta không phản đối công khai xấu mặt họ trước thiên hạ khi họ lấn, cướp, gây hấn ở biển Đông). - Phối hợp trong các Hội nghị đa phương (để ngăn ta tố cáo sai trái của họ trong các Hội nghị ấy). - Lập khu liên hợp kinh tế biên giới (không cần thiết cho ta, họ có ý đồ lợi dụng). - Hối thúc lập Viện Khổng Tử (chả cần gì đối với ta, chủ yếu là để họ có cơ sở tuyên truyền trực tiếp vào nhân dân ta và thực hiện ý đồ “xâm lược văn hóa”). - Được trúng thầu các công trình ở nước ta dễ dàng. v.v… và v.v… Lãnh đạo phía ta đều chấp nhận. Thế là những gì TQ muốn đều được. Về phía ta, cho đến nay không kỷ niệm trận TQ xâm lược các tỉnh biên giới, tàn phá và giết hại dã man đồng bào ta kể cả cụ già, trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai; không vinh danh các liệt sĩ hi sinh đánh trả 60 vạn quân TQ xâm lược, bảo vệ tổ quốc, cũng như không vinh danh 64 cán bộ, chiến sĩ ta hi sinh trong trận TQ đánh chiếm bãi đá Gạcma thuộc quần đảo Trường Sa của chúng ta. Tháng 2/2011, tôi và một số đống chí đến đài liệt sĩ (đường Bắc Sơn) thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ nêu trên thì người ta cấm không cho vào khuôn viên đài liệt sĩ. Những người ngăn cản tưởng niệm sao lại vô cảm bạc bẽo với máu xương các liệt sĩ thế! Phải chăng trong họ không còn dòng máu Lạc Hồng?! Khi TQ cắt cáp tàu Bình Minh và Viking II của ta khảo sát trong thềm lục địa nước mình, nhân dân ta phẫn nộ biểu tình phản đối quyết liệt. Lẽ ra TQ phải tự “hạ nhiệt” thì ta lại cử đặc phái viên sang TQ có vẻ cầu hòa. Chắc là TQ tỏ ra bực mình về những cuộc biểu tình chống họ nên sau khi đặc phái viên về là các cuộc biểu tình bị đàn áp. Ta có đủ tư liệu lịch sử và pháp lý chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam sao không dám đưa vào sách giáo khoa cho con cháu biết. Sao không dám đưa ra LHQ để cho quốc tế biết, xác nhận là của Việt Nam, TQ tranh giành là không có cơ sở. TQ chỉ dựa vào cái “lưỡi bò” vô giá trị do chính quyền Quốc dân đảng tự vẽ, mưu đồ bá chiếm gần hết biển Đông trong đó có biển, đảo của nhiều nước Đông Nam Á. Lẽ ra ta phải đoàn kết đấu tranh tập thể với TQ chống lại mưu đồ “đàm phán song phương” của TQ nhằm chia rẽ các nước Đông Nam Á, thực hiện thủ đoạn “bẻ từng chiếc đũa” của họ. Gần đây, một số địa phương của nước ta mới tổ chức được một số cuộc triển lãm tư liệu và bản đồ chứng minh một cách thuyết phục Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, cũng mới tổ chức được vài cuộc hội thảo, chủ yếu là trong nước. TQ lập huyện “Tam Sa”, liên tiếp bày lắm trò hòng khẳng định chủ quyền của họ, ta cũng chỉ phản đối lấy lệ vài lần. Theo thông lệ, khi một công ty của quốc gia nào trúng thầu công trình gì đó ở một nước khác thì chỉ được đưa kỹ sư và công nhân kỹ thuật vào làm việc, còn lao động phổ thông thì phải thuê người của nước sở tại, nhưng các công ty TQ xây dựng các nhà máy điện và các công trình khác ở nước ta thì họ đưa ồ át lao động phổ thông của TQ vào không có giấy phép, vừa chiếm công ăn việc làm của lao động nước ta vừa thực hiện “di dân”, thành ra trong nước ta có thêm hàng vạn người TQ rất phức tạp cho ta, nhưng phía ta cứ để vậy không dám yêu cầu họ đưa số lao động vào trái phép về nước. Tháng 10/2013, một người dân huyện Kỳ Anh thuộc Hà Tĩnh dấu tên nói “Dân Kỳ Anh thật sự đã đánh mất mình, số người TQ tuy mới đến Kỳ Anh sống chưa bao lâu, nhưng họ đã tổ chức thành đội ngũ, băng nhóm, các ông trùm khá dữ dằn, họ sẵn sàng xử bất kỳ người Việt Nam nào đụng đến phe nhóm của họ, hầu như họ đã nắm hoàn toàn quyên lực và thế lực ở Kỳ Anh, công an Kỳ Anh vẫn hoạt động nhưng hình như họ chẳng xem ra gì bởi thế lực và tiền bạc của họ quá mạnh, hiện tại huyện Kỳ Anh giống như một tiểu khu của người TQ…”. Tại sao ta không dám xử lý triệt để, trục xuất họ đi? Tỉnh Hải Nam ra quyết định cấm đánh cá ở biển Đông (thực chất là chính quyền TW của họ). Khi có người hỏi, Lương Thanh Nghị mới biểu thị phản đối. Lẽ ra Bộ Ngoại giao phải mời Đại sứ TQ đến nhận công hàm phản đối như họ đã làm với tôi khi tôi làm Đại sứ nước ta ở TQ, khi TQ phản đối ta việc gì đó. Nhân dân Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng chuẩn bị sẵn sàng một đêm có nhiều tiết mục để kỷ niệm 40 năm TQ đánh chiếm Hoàng Sa thì đột ngột được chỉ thị phải dừng. Dư luận cho rằng do Tổng bí thư Tập Cận Bình có gọi điện qua đường “dây nóng” cho Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tình hình nêu trên cho thấy “Cái gì TQ muốn đều được, cái gì TQ không muốn thì phía ta không dám làm”. Thế chẳng phải là mất độc lập tự chủ rồi sao? Thêm nữa, trên thị trường ta thì hàng hóa TQ chiếm lĩnh hầu hết; các mặt hàng may mặc, giầy dép của ta xuất khẩu được khá thì đều phụ thuộc TQ về nguyên vật liệu; trong trao đổi hàng hóa giữa hai nước thì năm nào ta cũng bị TQ xuất siêu hàng hơn chục tỷ có khi đến 20 tỷ USD; các địa bàn xung yếu về quân sự của ta, người TQ đều đã có mặt. Đó cũng là tình hình lép vế của ta, còn TQ đã chiếm thế thượng phong. Tôi không phản đối hữu nghị giữa hai nước láng giềng, nhưng hữu nghị thì phải từ cả hai phía. TQ luôn nhắc lại “kiên trì phương châm 16 chữ, 4 tốt, lấy đại cục (?) làm trọng để buộc ta vào cỗ xe của họ. Chỉ có phía ta thực hiện hữu nghị, phía TQ chỉ nói trên mồm, còn hành đồng thì không. Đánh chiếm Hoàng Sa của ta năm 1974; huy động 60 vạn quân đánh 6 tỉnh biên giới; chiếm cao điểm 1509 trong huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang của ta; giết 64 cán bộ chiến sĩ của ta để chiếm bãi đá Gạcma; lập huyện Tam Sa và liên tục hoành hành bá đạo, bạo ngược ở biển Đông; tập trận uy hiếp ta… Đó là TQ “hữu nghị” với ta ư? Hòa bình thì ai chả muốn. Đấu tranh chính trị, ngoại giao và để cho nhân dân đấu tranh khi quyền lợi của tổ quốc bị xâm phạm đâu phải là gây chiến. Đừng quá sợ TQ đánh. Trong bối cảnh TQ đương nằm trong vòng cung bao vây của Mỹ từ Nhật Bản đến Australia và cô lập, nội bộ họ còn đầy mâu thuẫn và bất ổn, chưa phải lúc họ có thể tuy tiện gây chiến tranh. Nín nhịn quá mức (nếu không nói là nhẫn nhục) tưởng là khôn khéo để giữ được hòa bình, hòa bình mà mất độc lập tự chủ thì hòa bình có ý nghĩa gì! Khi TQ thấy rằng thời cơ thuận lợi cho họ, họ trở mặt đánh ta thì dù có van xin họ, cũng không giữ được hòa bình. Hàng triệu cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đã hi sinh, đổ biết bao xương máu mới có độc lập, tự chủ mà nay lại lệ thuộc phương Bắc, không còn độc lập tự chủ thì quá đau xót! Các liệt sĩ có linh thiêng hẳn cũng phải thét lên tiêng thét phẫn uất. Những ai làm mất độc lập tự chủ sẽ có tội với lịch sử. Phải đấu tranh chống lệ thuộc, khôi phục độc lập, tự chủ! Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh ********************************** TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH VÀ SỰ HÌNH THÀNH TỔNG CỤC II ( * ) Quanlambao Tướng Lê Đức Anh dường như không tham gia tranh luận về ý thức hệ, về kinh tế thị trường. Chủ tịch nước, theo Hiến pháp, là một chức danh không mấy thực quyền, nhưng trong thời gian giữ cương vị này, ông Lê Đức Anh đã tạo ra được một ngoại lệ. Năm 1986, khi từ Campuchia trở về thay thế Tướng Lê Trọng Tấn làm tổng tham mưu trưởng, Tướng Lê Đức Anh không ở những căn biệt thự dân sự bên ngoài mà chọn một căn nhà thuộc cụm nhà khách Bộ Quốc phòng. Đó là một căn nhà hai tầng được xây từ thời Pháp nằm trong khuôn viên Thành Hà Nội cũ. Tướng Anh thường vào ra Thành bằng cổng chính, 51B Phan Đình Phùng nhưng có thể đón khách từ cổng phụ, số 5 Hoàng Diệu. Bà Võ Thị Lê, người vợ thứ hai mà ông cưới năm 1956, sau khi tập kết ra Bắc, sống như hình với bóng với ông trên tầng hai, trong khi những người giúp việc thì ở tầng dưới hoặc các ngôi nhà nằm trong khuôn viên. Ông Lê Đức Anh sinh ngày 1-12-1920 tại Truồi, một làng quê nghèo đói bên phá Tam Giang, thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Cha ông vừa làm ruộng vừa có thêm nghề thuốc nên cuộc sống gia đình, theo ông, đỡ cực hơn mọi người. Ông học vỡ lòng ở trong làng rồi ra Huế học tiểu học. Năm mười một tuổi, ông được gửi ra nhà chị gái, có chồng đang dạy học ở thành Vinh học tiếp nhưng cũng chỉ được thêm một, vài năm. Học vấn của ông Lê Đức Anh ở mức đọc thông viết thạo. Ông Lê Đức Anh bắt đầu được “giác ngộ” thông qua những câu chuyện về “một người có tên là Nguyễn Ái Quốc” do hai người cậu ruột của ông, Lê Bá Giản và Lê Bá Dị, kể. Theo lý lịch tự khai: Lê Đức Anh chính thức tham gia cách mạng từ năm 1937 và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương vào ngày 1-5-1938. Năm 1939, khi bị đàn áp, một số đồng chí bị bắt, ông lánh vào Đà Nẵng, lên Đà Lạt, rồi đến năm 1942 thì xuống đồn điền cao su Lộc Ninh. Cuộc hôn nhân với bà Lê cùng với một số điểm không rõ ràng về thời điểm vào Đảng là hai vấn đề khiến ông Lê Đức Anh luôn bị những người từng hoạt động với ông xới lên mỗi khi quyền lực của ông được nới rộng419. Ông Lê Đức Anh gặp người vợ đầu tiên, bà Phạm Thị Anh, vào tháng 8-1945, khi ông đang là “ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách tổ chức và quân sự”420 và bà Bảy Anh đang là phó chủ tịch Hội Phụ nữ xã An Tây, huyện Bến Cát. Bà Phạm Thị Anh sinh năm 1925, con một gia đình địa chủ nhỏ ở Bình Dương. Cả mấy anh chị em đều đi theo Việt Minh, có người đang làm chủ tịch huyện, có người đang làm bí thư xã. Thời gian ấy, bà Bảy Anh chỉ mới vừa đôi mươi lại được coi là hoa khôi trong khi ông Lê Đức Anh thì bị rỗ và một bên mắt bị bệnh vảy cá. Ông Lê Đức Anh “tìm hiểu” bà bằng cách cho mượn sách và mỗi lần như thế lại kẹp vào một mảnh giấy ghi mấy chữ. Làm hậu thuẫn cho ông còn có hai tỉnh ủy viên: Tư Đang và Nguyễn Oanh421; Tư Đang khi ấy là con nuôi của gia đình bà Bảy. Nhưng, bà Bảy Anh cho rằng, việc bà chọn ông Lê Đức Anh chủ yếu vì nếu lấy ông thì bà không phải làm dâu; ông Lê Đức Anh cũng ngỏ lời đúng khi bà muốn yên bề gia thất. Cuộc hôn nhân ngay ngày đầu đã gặp sự cố: Đám cưới vừa bắt đầu thì có Tây càn, ông Lê Đức Anh đạp xe chở vợ về bên Hội Phụ nữ rồi quay lại chỉ huy chống càn. Đứa con đầu lòng của họ ra đời khi bà Bảy Anh chỉ mới có bầu bảy tháng, bà ngoại cháu đặt tên là Lê Thiếu. Vừa sinh xong lại gặp càn, y tế xã đưa lên võng gánh chạy vào rừng, đứa bé nhiễm lạnh, chết. Sau đó, Lê Đức Anh được điều về Khu 8. Năm 1950, khi xuống miền Tây thăm chồng, bà Bảy có thai đứa con thứ hai. Năm 1951, bà sinh hạ một người con gái đặt tên là Lê Xuân Hồng. Sau Hiệp định Geneva, Lê Đức Anh nằm trong số những cán bộ được đưa ra miền Bắc. Từ Bình Dương, hai mẹ con bà Bảy Anh xuống thăm chồng. Nhưng bà quyết định không tập kết ra Bắc như những người phụ nữ khác. Khi ấy, mấy anh em bà Bảy theo kháng chiến để lại một đám trẻ con lít nhít, bà không nỡ để cho cha, một người đàn ông góa vợ phải một mình chăm nom bọn trẻ. Chỉ không lâu trước đó, gia đình bà Bảy Anh đã phải mất ba anh em trai trong một vụ án oan lớn ở Bến Cát422. Lê Đức Anh ra Bắc, thoạt đầu được giao làm sư trưởng Sư đoàn 330, đóng ở Thanh Hóa; sau được điều về Bộ Tổng tham mưu làm cục phó Cục Tác chiến. Thời gian này, quân đội đang chịu cuộc “chỉnh huấn, chỉnh quân” khốc liệt do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo. Trong chi bộ của ông có hai người bị kiểm điểm nặng, ông và ông Bội Dong, vì lấy vợ thuộc thành phần tư sản, địa chủ. Cả hai sau đó đều tuyên bố “ly khai với gia đình vợ”423. Năm 1956, ông kết hôn với bà Võ Thị Lê, có chồng là một đại úy quân đội đã hy sinh và đang có một người con riêng. Năm 1957, họ có với nhau một con trai, đặt tên là Lê Mạnh Hà; năm 1959, họ sinh thêm một người con gái, cũng đặt tên là Lê Xuân Hồng. Giữa thập niên 1960, Lê Xuân Hồng lớn, người con của ông Lê Đức Anh và bà Bảy Anh, cũng được Tướng Trần Văn Trà tổ chức đưa ra miền Bắc 424. Ở Hà Nội, bà Lê làm y sỹ ở bệnh viện Hữu Nghị. Những năm ông làm bộ trưởng Quốc phòng rồi chủ tịch nước bà luôn ở bên cạnh chăm sóc ông. Đây là thời gian mà cuộc sống của ông bà được mô tả là cẩn trọng tới từng chén cơm, viên thuốc. Tổng cục II Khi nhận chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tướng Lê Đức Anh chọn người đã kế vị mình ở Campuchia, Tướng Đoàn Khuê, làm tổng tham mưu trưởng. Năm 1992, Đoàn Khuê trở thành bộ trưởng Bộ Quốc phòng và, năm 1991, một nhân vật khác cũng từng ở Quân khu IX và Bộ tư lệnh 719 với Lê Đức Anh, Tướng Lê Khả Phiêu, được đưa lên làm chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Ngoài những chức năng hiến định, ông Lê Đức Anh còn được Bộ Chính trị phân công phụ trách công tác quốc phòng, an ninh và ngoại giao. Nhưng, khi nói đến thực quyền của ông không thể không nhắc đến lực lượng tình báo quân đội mà cho dù trong thời bình, đã được ông nâng từ cấp cục lên tổng cục. Cuối năm 1986, khi Tướng Lê Trọng Tấn mất đột ngột, Lê Đức Anh thay vị trí tổng tham mưu trưởng. Chỉ huy tình báo quân đội, Tướng Phan Bình, được cho về hưu. Trung tướng Phan Bình là người kế nhiệm Đại tá Lê Trọng Nghĩa làm cục trưởng Cục II kể từ năm 1968, thời kỳ mà tình báo quân đội thực sự phục vụ cho quốc phòng. Sau khi bàn giao, Tướng Phan Bình vào Sài Gòn. Ông nghỉ tại nhà khách Cục II, số 30 Lê Quý Đôn. Đêm 13 tháng Chạp năm Bính Dần (đầu năm 1987), ông chết ở tư thế “ngã sấp trên thềm nhà trước phòng khách, ở đầu bị bắn toác một lỗ rộng”. Những thông tin không chính thức sau đó nói rằng “đồng chí Phan Bình bị bệnh tâm thần, tự sát”432. Tướng Lê Đức Anh đưa Nguyễn Như Văn, vốn là trưởng Đoàn 12, cơ quan tình báo quân đội bên cạnh Bộ tư lệnh 719 ở Campuchia lên làm cục trưởng Cục II. Đại tá Vũ Chính, người kế vị ông Tư Văn ở Đoàn 12 được đưa lên làm cục phó. Năm 1995, Cục II được nâng cấp thành Tổng cục II, Tướng Vũ Chính thay Nguyễn Như Văn nắm quyền tổng cục trưởng. Một triều đại mới của tình báo quân đội bắt đầu. Không dừng lại ở quy mô tổng cục. Dưới sự chỉ đạo của Tướng Lê Đức Anh, chủ tịch nước kiêm phó bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân sự Trung ương, Tướng Vũ Chính bắt đầu soạn thảo Pháp lệnh tình báo theo đó thay đổi gần như căn bản chức năng nhiệm vụ của cơ quan tình báo. Pháp lệnh được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua và được Chủ tịch Nông Đức Mạnh ký vào ngày 14-12-1996. Sau khi có Pháp lệnh, Tổng cục II soạn thảo một nghị định trình lên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt thừa nhận là khi nhận thấy sự bất ổn của nghị định tình báo, lẽ ra ông phải đủ can đảm để từ chối ký (Nghị định 96/CP). Nhưng, ông Kiệt giải thích: “Phần do ông Lê Đức Anh không ngừng thúc ép, phần do, theo nguyên tắc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh thì Chính phủ có chức năng phải hướng dẫn thi hành nên chín tháng sau, ngày 11-9-1997, tôi đã phải ký”. Ông Phan Văn Khải giải thích thêm: “Nghị định tình báo mở rộng quá, ông Kiệt cảm thấy bất ổn nhưng không vượt qua được”433. Từ một cơ quan trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, Pháp lệnh Tình báo đã đặt những cơ quan như Tổng cục II “dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ”. Pháp lệnh cũng biến Tổng cục II, từ một cơ quan thay vì chỉ làm chức năng chuyên trách tình báo về quân sự và thực thi các nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, trở thành một cơ quan có chức năng “tình báo” trong nội bộ, có quyền: cài người vào các địa phương, các cơ quan của Đảng, Nhà Nước, các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa và kinh tế, được phép thiết lập kênh thông tin đặc biệt với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, theo ông Nguyễn Đình Lương 434, nhiều ủy viên Bộ Chính trị nhận được những “báo cáo tình báo” của Tổng cục II do Tướng Vũ Chính trực tiếp đưa tận tay. Những báo cáo này đã từng có tác động không nhỏ đến tiến trình đàm phán. Theo ông Võ Viết Thanh: “Xem lại các báo cáo của Tổng cục II thấy, phần lớn đó là những báo cáo mang tính chất tác động vào nội bộ của lãnh đạo Việt Nam, tạo bất lợi về mặt tâm lý trong các hoạt động đối ngoại, có khuynh hướng đẩy tới sự đối đầu với Mỹ. Tôi không hiểu tại sao khi đọc những báo cáo như vậy mà Bộ Chính trị không yêu cầu chấn chỉnh”. Ông Phan Văn Khải thừa nhận: “Ông Lê Đức Anh dùng quân đội, lực lượng tình báo quân đội để tạo thế và dùng tin tình báo để gây ảnh hưởng lên cả các vấn đề nhân sự. Năm 2002, khi Nguyễn Chí Vịnh được bổ nhiệm làm tổng cục trưởng Tổng cục II thay bố vợ là Vũ Chính, tôi có dặn: anh đừng có dùng Tổng cục II vào những việc như bố vợ anh đã từng làm, Vịnh nói, cháu sẽ nghe lời chú”435. Thời Vũ Chính còn làm tổng cục trưởng, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng đã không thoát khỏi “lưới Tổng cục II” của Tướng Lê Đức Anh. ( Rút từ trong tập Bên thắng cuộc... của Huy Đức ) ******************************************* Bí mật trong căn phòng đầy phóng xạ Trung Quốc dành cho cố TBT Lê Duẩn, người đanh thép: ‘Chừng nào tôi còn ngồi đây, đừng kẻ nào mong cướp nước Việt Nam này’ By Tĩnh Tâm - June 7, 2018 Trên cương vị là Bí thư thứ nhất và sau đó là Tổng Bí thư suốt 26 năm, ông Lê Duẩn đã để lại nhiều di sản cho lịch sử Việt Nam. Có thể người ta còn tranh cãi về ông ở vài vấn đề, nhưng công lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng và thống nhất dân tộc cũng như ý chí kiên cường và tinh thần cảnh giác cao độ trong việc chống lại chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc, thì có lẽ ít người nghi ngờ… Bài học lớn về Trung QuốcTrước hiệp định Geneva, ông Lê Duẩn là người lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam. Như nhiều nhà lãnh đạo của Việt Nam khi ấy, ông thực sự tin Trung Quốc là người anh em, đồng chí thực sự của cách mạng Việt Nam. Năm 1954, Hiệp định Geneva được ký kết đã bẻ ngoặt nhận thức của ông về mối quan hệ với Trung Quốc. Nhà thơ Việt Phương, thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng kể: “Khi bàn thảo về Hiệp định Geneva, Bộ Chính trị của ta chỉ đồng ý lấy vĩ tuyến 16 là ranh giới cuối cùng của khu phi quân sự tạm thời giữa hai miền Nam – Bắc trong thời gian chờ tổng tuyển cử. Nhưng Trung Quốc với sự ảnh hưởng của mình, đã khăng khăng ép ta phải đồng ý chọn vĩ tuyến 17. Khi chúng ta bàn bạc vấn đề này với Trung Quốc, họ đã nói: “Chúng tôi là tướng ngoài mặt trận. Các đồng chí hãy để cho chúng tôi tùy cơ ứng biến”. Khi nói như thế, người Trung Quốc đã tự cho mình quyền định đoạt số phận của người Việt Nam”. Thời điểm đó, ta đã kiểm soát phần lớn vùng Nam bộ, ngoại trừ một vài đô thị nhỏ. Ở miền Bắc, ta chiến thắng vang lừng ở Điện Biên. Nhưng Trung Quốc đã bắt ta phải ký một hiệp định chia cắt đất nước – một hành động mà sau này như nhiều người nói: “người anh lớn” đã phản bội lại “người em” của mình. Sau khi hiệp định được ký, trên đường từ Bắc vào Nam, nhìn những quân dân miền Nam giơ 2 ngón tay chào nhau, vừa là biểu tượng victory – chiến thắng, vừa là lời hẹn 2 năm sau sẽ đoàn tụ, ông Lê Duẩn đã khóc. Ông hiểu, sẽ không bao giờ có tổng tuyển cử, sẽ không bao giờ chỉ là 2 năm…Rồi đây đất nước sẽ còn bị chia cắt rất lâu vì Hiệp định Geneva năm đó. Sau đó, khi chia tay Lê Đức Thọ ra Bắc tập kết, ông Lê Duẩn đã nói với người đồng chí của mình một câu rất nổi tiếng: “Anh ra nói với Bác, 20 năm nữa tôi mới được gặp Bác”. Rất trùng hợp, 20 năm sau, đất nước thống nhất. Nhưng quan trọng hơn, đó là lần ông Lê Duẩn thực sự thấy thấm thía nhất về nỗi đau chứng kiến đất nước ông đã bị người anh em Trung Quốc phản bội. Năm 1972, trong một cuộc trò chuyện với Chu Ân Lai, nhắc lại về Hiệp định Geneva, ông Lê Duẩn đã không ngần ngại lên án: “Năm đó, người Trung Quốc các anh đã bán đứng chúng tôi trên bàn đàm phán”. Dù là năm 1954 hay năm 1972 hay sau này, dù là lúc đang lãnh đạo cách mạng miền Nam hay khi đã ra Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, kể cả khi đất nước đã thống nhất, chưa một phút giây nào, TBT Lê Duẩn quên bài học đó. “Chúng ta không được phép sợ Trung Quốc” Khi còn sống, TBT Lê Duẩn luôn cho rằng, hiểu Trung Quốc là chuyện sống còn của dân tộc Việt Nam, khi mà lịch sử địa lý, trớ trêu thay đã khiến ta mãi mãi phải là láng giềng của họ. Mà để hiểu người Trung Quốc nhất định phải hiểu được những đặc tính của dân tộc Việt Nam. Đắm chìm vào trong dân tộc để hiểu cái ở ngoài dân tộc và giữ dân tộc là cách mà TBT Lê Duẩn đã làm khi ở cương vị người đứng đầu đất nước. Trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nhân danh việc chi viện, giúp đỡ chúng ta, rất nhiều lần Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ. Có lần Trung Quốc đề nghị cho chúng ta 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe của họ. Nhưng TBT Lê Duẩn không nhận bất cứ một chiếc xe nào. Có người trong Bộ Chính trị đề nghị “sao ông không nhận một vài chiếc cho người ta vui?”, nhưng TBT Lê Duẩn vẫn kiên quyết giữ lập trường của mình: “Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này”. Hẳn là vì hiểu rõ dân tộc, mà ông đã không quên rằng, Trung Quốc từng mượn đường vào đánh Chiêm Thành thời nhà Trần, rồi từng lấy cớ vào giúp vua Lê Chiêu Thống để kéo quân vào Hà Nội. Như một nhà nghiên cứu về quan hệ Việt Nam với Trung Quốc đã từng nhận xét về ông: “Với TBT Lê Duẩn, cái gì nhịn được thì nhịn, nhưng ông tuyệt đối không bao giờ nhượng bộ những điều quá đáng, nguy hại cho an ninh quốc gia”. Điều mà TBT Lê Duẩn vẫn thường cố gắng cắt nghĩa là tại sao Trung Quốc đô hộ Việt Nam 1.000 năm mà không đồng hóa được ta? Bởi 1.000 năm là quá dài, và người Trung Quốc chưa bao giờ giấu diếm tham vọng ấy suốt những thời kỳ họ cai trị Việt Nam. Trong lịch sử, nhiều dân tộc khác bị đồng hóa rất dễ dàng chỉ với vài trăm năm, nhưng sự khác biệt của người Việt Nam đã khiến dân tộc này thoát khỏi quy luật đáng sợ đó. Có rất nhiều thứ người Trung Quốc cho là chân lý, nhưng người Việt Nam không chấp nhận. Người Trung Quốc dùng đạo Khổng để giáo dục người dân. Người Trung Quốc dạy: “Tại gia tòng phụ”, nhưng người Việt Nam nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Người Trung Quốc nói “xuất giá tòng phu”, người Việt Nam lại cho rằng “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”. Và ông Lê Duẩn luôn nhìn thấy, qua những khác biệt đó người Việt Nam vừa để dạy mình, vừa thể hiện sự phản kháng với tư tưởng đó, và sâu xa hơn là phản kháng sự đồng hóa mà người Trung Quốc cố tình áp đặt lên số phận của dân tộc Việt Nam. Sự phản kháng này nằm sâu trong mầm mống tồn tại của dân tộc, khiến sức mạnh đồng hóa của người Trung Quốc không đâm thủng được. Trung Quốc ngày đó bắt người phụ nữ bó chân, nhưng người Việt Nam không bao giờ đồng ý. Với người Việt Nam, để sinh tồn thì bàn chân là phải vững chắc trên mảnh đất này. Đó là một nền tảng văn hóa vô cùng Việt Nam, tự thân người Việt Nam và nó đối chọi hoàn toàn với người Trung Quốc. Dường như, khi hiểu được truyền thống ấy và sức mạnh phản kháng ấy của dân tộc, TBT Lê Duẩn đã luôn có tự tin khi đứng trước những nhà lãnh đạo Trung Quốc, đứng trước sức mạnh của người Trung Quốc, trong rất nhiều giai đoạn thăng trầm của mối quan hệ giữa hai nước. Một lần, khi ra ngoài Bắc bàn về đấu tranh miền Nam, ông Lê Duẩn nói: “Thưa Bác, chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và không được sợ Liên Xô”. Có người trong Bộ Chính trị phản đối ý kiến đó. Nhưng ông Nguyễn Chí Thanh đã đứng lên ủng hộ: “Thưa Bác, việc anh Ba nói vậy là vô cùng cần thiết và nhất định phải như vậy chúng ta mới thắng được”. Cả Bộ Chính trị vỗ tay hoan hô ý kiến đó. Chỉ tiếc là đến giờ những văn bản họp Bộ Chính trị khi đó hầu như vẫn chưa được công bố, khiến những câu chuyện này không thực sự được biết rộng rãi trong dân chúng. Điều khiến nhiều người suy nghĩ là những năm tháng đó, trong lúc khó khăn nhất, khi mà chúng ta đang dựa vào họ, thành bại của cuộc chiến tranh phụ thuộc một phần không nhỏ vào sự ủng hộ của họ, nhưng TBT Lê Duẩn vẫn biết cách giữ được vị thế của mình với những nhà lãnh đạo Trung Quốc. Ông cũng rất khéo léo giữ được độc lập của đất nước mà vẫn khiến Trung Quốc duy trì sự ủng hộ với Việt Nam trong một giai đoạn dài. Cái ý thức “không sợ Trung Quốc” ấy có lẽ đã khiến TBT Lê Duẩn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng luôn ở thế ngang bằng với những lãnh đạo Trung Quốc như Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình. Nhưng cũng chính vì tư tưởng đó, TBT Lê Duẩn đã trở thành nhà lãnh đạo Việt Nam khiến Trung Quốc e dè, nếu không muốn nói là “gai mắt” nhất trong giai đoạn ấy. Nhà thơ Việt Phương từng kể một câu chuyện: “khi Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung Quốc, TBT Lê Duẩn có chuyến thăm Trung Quốc và ở gần nơi Bác chữa bệnh. Bác Hồ lúc đó đã bảo với ông Lê Duẩn: “Chú Ba đến ăn cơm với Bác. Chắc là họ chưa đến mức có ý định giết Bác. Bác đã rất nghi ngại việc TBT Lê Duẩn ở một mình có thể có những chuyện không hay và tìm cách giữ an toàn cho ông bằng mọi cách”. Từ năm 1976, khi ta căng thẳng với Trung Quốc, mỗi lần sang Trung Quốc, khi những người lính cận vệ của TBT Lê Duẩn đưa dụng cụ đo phóng xạ vào phòng ông kiểm tra, bao giờ độ phóng xạ cũng ở mức kịch kim. Có người lính cận vệ đã đề nghị ông đổi phòng vào ban đêm một cách bí mật. 1 năm sau đó, người lính cận vệ đó bị ung thư máu qua đời, dù trước đó rất khỏe mạnh. Đó có thể chỉ là một sự trùng hợp, nhưng cũng có thể không… Khi Trung Quốc ngày càng tráo trở và ngang ngược ở biển Đông, với tham vọng bá quyền không giấu diếm, rất nhiều người dân Việt Nam nhớ về vị TBT mà lịch sử đã nhìn nhận là người có đường lối cứng rắn nhất với Trung Quốc. Có lẽ ngày hôm nay, với vấn đề biển Đông, người Việt Nam chúng ta sẽ phải nhớ lại câu nói của cố TBT Lê Duẩn và bài học mà ông đã để lại: “Chúng ta, bằng bất cứ giá nào, cũng không được phép sợ Trung Quốc”. Theo MỘT THẾ GIỚI
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 15, 2014 5:49:05 GMT 9
Võ Văn Kiệt và Võ Văn Kẹt(Góp vài chi tiết với « Linh – Kiệt và món bê thui » của Trần Hồng Tâm trên Đàn Chim Việt) Sách « Bên thắng cuộc » của Huy Đức kể lại nhiều chuyện bí ẩn trong hàng ngũ cộng sản mà người ngoài, nhứt là người miền Nam, ít ai biết. Một số chuyện liên hệ tới giới chức miền Nam cũ trong cải tạo và vượt biên dưới thời ông Võ văn Kiệt. Tác giả kể hấp dẫn nhưng không đúng sự thật bởi chính người trong cuộc đọc qua chuyện của mình đã phải ngạc nhiên. Nhưng dầu sao « Bên thắng cuộc » vẫn có giá trị thông tin khá hơn nhiều sách khác của người cộng sản viết.Dân Nam kỳ cũng kỳ Trong lúc làm việc ở Sài Gòn, ông Kiệt được cảm tình của một số trí thức miền Nam thua cuộc. Họ chụp ông Kiệt như cái bụp dừa để bám, không phải để lội qua sông, mà để khỏi chết chìm. Ông Kiệt lúc làm Thành ủy Sài gòn đã dám mời một số trí thức miền Nam, sau thời gian học tập, giúp ông giải quyết những khó khăn kinh tế xã hội do chánh sách bao cấp theo cách quản lý xã hội chủ nghĩa gây ra để kịp tránh cho Việt Nam khỏi bị sụp đổ. Khi nghe tin trí thức miền Nam vượt biên bị bắt và ở tù, ông lập tức cho người đi lãnh ra và giữ họ làm việc với ông. Bày tỏ sự cởi mở với anh em miền Nam và niềm tin tình hình Việt Nam sẽ khả quan, ông vui vẻ nói: “Mấy anh ở lại làm việc. Năm năm nữa mà Việt Nam không khá thì tôi để mấy anh đi tự do”. Một anh thưa: “Nếu năm năm nữa mà Việt Nam không khá, thì ông ra đi, để cho tụi tui làm việc. Chớ sao tụi tui lại ra đi?” Thế là cùng cười với nhau. Người phát biểu câu này còn sống ở hải ngoại. Ở Sài Gòn trước 75, giới thương gia vải sợi đều biết ông Phạm văn Hai, biệt danh cậu Hai An Nhơn, chủ lò nhuộm. Màu đen là do ông khám phá ra từ trái mạc nưa. Màu đen của ông chế tạo rất tốt, đen nhánh, càng giặt càng đen, không phai màu. Lảnh mỹ a, vải ú đen, lụa đen,… đều nhuộm bằng màu đen mạc nưa. Sự tìm ra màu đen của ông đã tiết kiệm được cho chánh phủ Sài Gòn hằng năm một số ngoại tệ khá lớn vì khỏi nhập màu đen. Sau 75, ông giao sự nghiệp của ông cho nhà cầm quyền cộng sản để phủi tay. Nhưng họ từ chối, bảo cái gì của ông, ông cứ giữ. Cách mạng không lấy cây kim sợi chỉ của ai. Ông ở lại làm gác-gian cho kho hàng và cơ sở kỹ nghệ của ông. Những bành tơ sợi, thuốc nhuộm, bị bỏ lăn lóc ngoài sân dưới mưa nắng. Ông xót ruột, phải tự đem vào kho cất. Cán bộ Ban Khoa học cộng sản lấy hết tài liệu về nhuộm và bắt ông hướng dẫn cách thực hành, rồi đem đem ra Hà nội. Nhưng họ không áp dụng được nên phải trở vào Sài gòn gặp lại ông và yêu cầu ông ra Hà nội làm việc nhưng phải nói là do Đảng lãnh đạo mà ông thành công. Ông từ chối và nói rõ công trình đó vẫn là của ông nhưng ông cho, ai muốn sử dụng sao cũng được. Ông Hai là bạn cỡi trâu với ông Kiệt ở nhà quê Vũng Liêm. Con nhà nghèo chỉ mới đi học trường làng. Lúc vừa trưởng thành, có nhà điền chủ nhờ ông dẫn hai người con trai qua Pháp du học. Ông nhận lời. Ở Paris, có sẵn chỗ ăn, chốn ở. Ngoài công việc dẫn hai công tử đi học, ông rảnh rang. Ông đi học thêm ở Conservatoire National des Arts et Métiers, trường dành cho người lớn tuổi tới học đủ ngành nghề thực dụng tùy theo khả năng mình. Điều kiện vào học rất dễ nhưng thi lên lớp mới khó nên bằng cấp của trường có giá trị không thua nhiều trường kỹ sư có thi tuyển. Ông tốt nghiệp kỹ sư Hóa học, về Sài gòn lập lò nhuộm An Nhơn. Sau vài năm sống với cộng sản, ông quyết định tìm cách đi khỏi xứ. Ông vượt biên nhiều lần đều bị bắt và mỗi lần bị bắt, thì được ông Kiệt can thiệp thả ra. Lần sau cùng, trước khi đi, ông viết thư để lại: « Chuyến đi này là hoàn toàn do tôi quyết định. Vợ con tôi chỉ nghe lời tôi đi theo. Nếu tôi bị bắt, cứ giết tôi nhưng hãy thả gia đình tôi. » Ông bị bắt. Võ văn Kiệt một lần nữa can thiệp, và lần này, ông Kiệt nói với ông: «Tôi ký giấy cho anh đi chánh thức qua Thụy sĩ. Anh ở đây có ngày tụi nó giết anh». Khi làm thủ tục xuất cảnh, công an dằn mặt ông: «Anh tưởng chúng tôi cần những thứ ngụy như anh à? Chúng tôi xây dựng xã hội chủ nghĩa hai mươi năm nữa cũng được. Miễn là chính chúng tôi làm và thành công». Qua thời kỳ đổi mới, ông Phạm văn Hai trở về Sài Gòn gặp ông Kiệt. Ông Hai tìm hiểu về đá saphir của Việt Nam. Theo ông, Thái Lan qua mua đem về, mài lại, bán ra, hằng năm thu về 600 triệu đô-la. Ông nói với ông Kiệt là nếu để ông mua saphir và trau dồi tại Sài gòn, mỗi năm ông có thể thu về cho Việt Nam tới cả tỷ đô-la. Ông Kiệt đồng ý. Có ngay ba ngân hàng tham gia. Ông Hai trở về Los Angeles học nghề với một nhà kỹ nghệ saphir ở Los Angeles vốn là người kế nghiệp của nhà kỹ nghệ Thụy Sĩ tại Genève. Về mặt kỹ thuật, ông thành công qua vài cuộc triển lãm saphir ở Huê kỳ. Ông về Sài gòn với những viên saphir sản phẩm của ông. Ông nhận tiền ngân hàng mở Labo đào tạo một lớp chuyên viên. Khi những hột saphir bắt đầu bán ra thị trường thì cũng là lúc Đảng ra tay phát huy quyền làm chủ cơ sở của ông. Thế là ông chạy trở về Mỹ. Ông Kiệt cũng “kẹt” lắm, không làm gì giúp người bạn thời niên thiếu đầy thiện chí. Bạn bè trách ông cứ để cho bọn cộng sản gạt. Ông thản nhiên nói “Anh em biết tánh tôi mà. Tôi chỉ cần cho thấy là tôi thành công, còn ai giựt thì cứ giựt. Nhưng giựt rồi có làm được hay không? ”. Ông Võ văn Kiệt trước sau vẫn là người cộng sản mà với người cộng sản thì “áo làm sao mặc qua khỏi đầu” được? Nên người ta đặt cho ông Kiệt cái tên phù hợp với ông “Võ Văn Kẹt”. Nhờ biết giữ thế “kẹt” mà ông leo lên tới ghế Thủ tướng và sống giàu sang tới 85 tuổi với bà vợ trẻ Phan Lương Cầm, biệt danh là « Bà 10% » khi xây dựng đường dây cao thế Bắc-Nam. Bà Cầm có thời du học về môn Hóa học ở Hòa lan. Khi cưới Bà cầm, ông Kiệt đã có tuổi nên dân chúng Sài gòn hát tặng ông: « Cụ Kiệt cưới cô Cầm Cái cô Cầm cần, cụ Kiệt cóc có Cái cụ Kiệt có, cô Cầm cóc cần Vì chuyện gia đình, ông Phạm văn Hai thường qua Paris. Một hôm, tình cờ gặp lại ông TVB lúc đang bán sữa đặc có đường, ông bảo ông TVB hãy làm chả giò bán kiếm lời nhiều hơn. Ông cho bí quyết làm chả giò giữ giòn được lâu. Ông thương TVB vì lúc ở Sài gòn, ông thấy ông B là một thanh niên có tài buôn bán vải. Ông B nắm trong tay một khúc vải, vò vò rồi buông ra, có thể cho biết khá chính xác thành phần vải có bao nhiêu phần trăm coton, polyester …Từ đó ông TVB phất lên làm «vua chả giò» (cũng là vua chớ bộ !) và ngày nay cũng là Đại gia ở Sài Gòn nhờ biết cách làm ăn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vả lại ông TVB là người gốc Tàu thì chỗ nào có dưỡng khí là sống được để theo đuổi triết lý « lượm bạc cắc ». Mà bạc cắc thì xưa nay là thứ xuyên quốc gia và không có mùi, cả mùi cộng sản. Mười bốn năm trước, đang dự tính đi qua Miên tìm saphir làm nữa vì vùng có saphir lúc đó không còn dưới sự kiểm soát của Khờ-me đỏ nữa, ông đột ngột qua đời, viết thiệp chúc Noel bạn bè chưa kịp gởi đi. Không có người cộng sản khác hơn Nguyễn văn Linh, tự Mười Cúc, gần như suốt đời hoạt động trong Nam. Ông phải hiểu tâm tình người Nam hơn ai hết. Các bà già trầu Nam kỳ đều thương ông vì thấy ông chỉ có một thân một mình đi kháng chiến. Ông sống sót để leo lên tới tột đỉnh danh vọng trong hệ thống cộng sản là nhờ gáo nước, nồi cơm của đất Nam kỳ. Nhưng khi có quyền, không chỉ vô ơn bạc nghĩa theo bản chất người cộng sản, mà ông còn tìm cách ám hại, triệt tiêu những đồng chí miền Nam, như Hồ Chí Minh đã hạ Nguyễn văn Cừ giữ quyền lãnh đạo Đảng cho Miền Bắc, sát hại tất cả những người yêu nước chân chính thời kháng chiến để cướp công kháng chiến cho Đảng. Vì bản chất thật của người cộng sản là « mục tiêu ». Mục tiêu giờ đây sẽ không phải là mục tiêu của lát nữa. Tình cảm, ơn nghĩa, có trước, có sau …là những thứ sản phẩm của tư sản, không phải đạo đức cách mạng của cộng sản thứ thiệt. Tháng 3 năm 1988, Thủ tướng Phạm Hùng đột ngột qua đời. Theo Hiến pháp thì ông Kiệt sẽ lên thay cho đến khi Quốc hội bầu ra người mới. Tháng 6 cùng năm, Quốc hội nhóm họp đã bầu Đỗ Mười mặc dù rất nhiều đoàn đại biểu đề nghị ông Kiệt. Hơn nữa, ai cũng biết Đỗ Mười dốt đặc cán mai và còn mang bịnh tâm thần trầm kha, đêm từng leo lên cây bàng cạnh bệnh viện hát nghêu ngao «Ai yêu Bác Hồ hơn …. » Ông Linh cho tới lúc hấp hối vẫn hô hào hạ bệ ông Kiệt khỏi những chức vụ lãnh đạo tối cao. Giữa năm 1995, chính phủ ông Kiệt gặt hái được nhiều thành tích, uy tín của ông lên cao. Khi đó Tổng bí thư Đỗ Mười đã ở tuổi 80. Ông Kiệt trở thành một ứng cử viên nặng ký cho chức tổng bí thư vào kỳ Đại hội VIII. Điều này đã làm cho Ba Tàu Bắc Kinh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, và đặc biệt là ông Linh trở nên quyết liệt hơn, tàn nhẫn hơn đối với ông Kiệt. Ông Linh tung ra trận đánh tổng lực với nhiều chiến thuật khác nhau. Vừa triệt hạ uy tín ông Kiệt, vừa tìm cách cô lập và loại ông Kiệt ra khỏi Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị. Ông Kiệt không được tham dự vào các quyết định quan trọng nữa. Đồng thời, ông Linh lôi kéo Nguyễn Hà Phan khi Phan được ông Kiệt cất nhắc ra Hà nội làm phó cho ông năm 1986. Ở đây, Phan tưởng tương lai sẽ rộng mở cho mình nên cấu kết với nhóm bảo thủ Bắc kỳ của Ông Linh nhằm hạ bệ ông Kiệt để giựt chiếc ghế Thủ tướng. Nhờ thành tích tấn công ông Kiệt, tháng 1/1994, nhân Hội nghị giữa nhiệm kỳ, Phan được kết nạp vào Bộ Chính trị. Trước thế lực mới và âm mưu thâm độc của đối phương, ông Kiệt kỳ này sẽ thật sự bị kẹt và suy vong. Nhưng nhờ một cựu cán bộ đảng ở Cà Mau tố cáo tội lỗi của Nguyễn Hà Phan vừa cứu nguy ông, vừa giành lại chiếc ghế Thủ tướng cho cánh Nam kỳ của ông cho tới ngày nay. Võ văn Kiệt là người cộng sản đặc sệt, gốc Nam, tranh đấu gần như trọn đời ở trong Nam, hẳn phải hiểu rõ hai điều: Một, lý do di cư 54 khi cộng sản về Hà Nội, và cuộc vượt biển sau 1975 khi cộng sản Hà Nội chiếm được miền Nam. Hai, lịch sử xuyên suốt của cộng sản, đối với đối phương, là cướp đoạt chánh quyền bằng bạo lực và dối trá; đối với đồng chí, là thẳng tay hạ nhau để trèo lên. Cộng sản bạc đầu, ông Kiệt phải lao mình vào trò chơi tương quan lực lượng theo qui luật biện chứng “ai thắng ai”. Ông muốn làm Võ văn Kẹt mà! Ông Kiệt là người miền Nam, nhưng không có chất Nam kỳ thứ thiệt vì ông không phải nông dân mà cũng không phải tiểu tư sản, vì hai thứ này mới làm cho con người ta thật lòng lên đường làm kháng chiến giành độc lập dân tộc. ******************************************** Trần Đức Thảo – trở về từ quên lãngLes Lettres Françaises sẽ thực hiện một chuyên đề về Trần Đức Thảo, người được xem là nhà triết học của cả hai quốc gia Pháp và Việt Nam. Trong cuộc toạ đàm về nhà triết học Trần Đức Thảo (diễn ra tại trung tâm văn hoá Pháp - L’Espace tại Hà Nội tuần qua), với tư cách chủ toạ, nhà phê bình văn học – sân khấu Jean-Pierre Han, tổng biên tập tạp chí Les Lettres Françaises (Văn chương Pháp, ra đời năm 1941) và nhà triết học Jean-François Poirier đã thông báo một quyết định khá bất ngờ: Les Lettres Françaises sẽ thực hiện một chuyên đề về Trần Đức Thảo, người được xem là nhà triết học của cả hai quốc gia Pháp và Việt Nam. Phóng viên đã có cuộc trao đổi với hai diễn giả đang cố gắng làm hồi sinh tên tuổi của con người mà theo GS Trần Văn Giàu, là nhà triết học duy nhất của chúng ta. Vì sao nhà triết học Trần Đức Thảo của Việt Nam lại trở thành nhân vật chính trong chuyên đề triết học trên tạp chí Les Lettres Françaises, thưa ông? Jean-Pierre Han: Đối với tôi, Trần Đức Thảo là một trong những triết gia Việt Nam xuất sắc nhất. Nếu tính đến quãng thời gian tu nghiệp tại Pháp và những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp, được ấn hành tại Pháp của ông thì Trần Đức Thảo còn là một triết gia Pháp. Những phát kiến và tư tưởng của ông được các triết gia cùng thời như Jean-Paul Sartre, Louis Althusser, Jacques Derrida, Pierre Bourdieu… công nhận. Chúng tôi đã thực hiện nhiều chuyên đề về các nhà triết học này, vậy thì tại sao lại không có một chuyên đề về Trần Đức Thảo? Chuyên đề về nhà triết học Trần Đức Thảo sẽ ra mắt độc giả Pháp, không nhân một sự kiện nào cả, cũng hoàn toàn bỏ qua tiêu chí thương mại. Các bạn bảo chúng tôi táo bạo ư? Chúng tôi chấp nhận. Và thực sự hy vọng, đây sẽ là bước tạo đà cho một quá trình nghiên cứu sâu rộng về những đóng góp to lớn của Trần Đức Thảo. Tôi muốn chia sẻ một câu chuyện nằm ngoài khoa học. Đó là, dù xa Việt Nam nhiều năm, nhưng tôi vẫn nhớ, dù không rõ ràng lắm, thuở nhỏ, Trần Đức Thảo, Nguyễn Khắc Viện và nhiều trí thức khác thường xuyên ghé thăm nhà tôi, đôi khi một cách bí mật vì đó là thời kỳ chiến tranh Đông Dương. Gợi lại tác phẩm của Trần Đức Thảo trên Les Lettres Françaises, cũng là một cách để hồi tưởng kỷ niệm ấu thơ, và tìm lại quê hương Việt Nam của tôi. Những phát kiến và tư tưởng của ông được các triết gia cùng thời như Jean-Paul Sartre, Louis Althusser, Jacques Derrida, Pierre Bourdieu… công nhận. Chúng tôi đã thực hiện nhiều chuyên đề về các nhà triết học này, vậy thì tại sao lại không có một chuyên đề về Trần Đức Thảo? Jean-Pierre Han Rất khó để chấm điểm các tư tưởng của một triết gia, hoặc so sánh triết gia này với triết gia kia. Tuy nhiên, độc giả Việt Nam đều muốn biết, phát kiến nào của Trần Đức Thảo đã làm “sửng sốt” giới triết học Pháp nói chung, và hai ông nói riêng? Jean-François Poirier: Tư tưởng của Trần Đức Thảo được các đồng nghiệp cùng thế hệ khâm phục, điều đó không phải bàn cãi. Còn với riêng tôi, có hai điều ở Trần Đức Thảo gây cho tôi ấn tượng sâu sắc. Một là Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng, tác phẩm đánh dấu bước chuyển biến của ông từ hiện tượng luận sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính từ đây, rất nhiều nhà triết học Pháp đã tiếp nối Trần Đức Thảo đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác và cổ suý cho những tư tưởng của chủ nghĩa Mác. Thứ hai, ông là nhà triết học duy nhất mạo hiểm công bố kết quả nghiên cứu về nguồn gốc của ngôn ngữ, ngay trong thời điểm vấn đề này bị cho là không mang tính khoa học và nhiều thập kỷ bị giới nghiên cứu tẩy chay. Trong tác phẩm Cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức, được NXB Xã Hội (Paris) ấn hành năm 1973, ông khẳng định, nguồn gốc của ngôn ngữ là cử chỉ. Kết luận này có thể không tuyệt đối chính xác, nhưng sự dũng cảm của ông thật đáng ngưỡng mộ. Trong triết học, không có thầy, cũng không có trò, chỉ có sự đối thoại Trần Đức Thảo Đã khi nào các ông thử tìm cách lý giải, vì sao một hiện tượng như Trần Đức Thảo lại ít được biết đến, sớm bị lãng quên, tại Pháp và thậm chí ngay ở chính quê hương Việt Nam? Phải chăng là vì những tư tưởng của ông đã trở nên lỗi thời? Jean-Francois Poirier: Theo quan điểm của tôi, tư tưởng của những triết gia lớn không bao giờ lỗi thời. Tại Pháp, có một số nguyên nhân khách quan khiến cái tên Trần Đức Thảo dần bị quên lãng, chủ yếu do cuộc tranh luận về nguồn gốc của ngôn ngữ nhiều năm nay vẫn bị đóng băng. Và những tác phẩm của Trần Đức Thảo về vấn đề này, vì thế, không còn được chú ý. Tại thành phố Huế của Việt Nam, chúng tôi từng tiến hành một nghiên cứu về Trần Đức Thảo, với rất nhiều giáo sư trong lĩnh vực triết học tham dự. Tôi nhận thấy, khá nhiều người ở tuổi trung niên biết về Trần Đức Thảo. Nhưng tư tưởng và các công trình nghiên cứu của ông đúng là không phổ biến. Hay bởi như người Việt thường nói: Bụt chùa nhà không thiêng! Jean-Pierre Han: Tôi phải ngại ngùng thừa nhận, nước Pháp có khả năng quên lãng những gì không liên quan đến di sản của chính mình. Còn về phía Việt Nam thì chính các bạn phải tự trả lời câu hỏi này. Đến đây với mong muốn vừa chia sẻ, vừa tìm kiếm các tư liệu về Trần Đức Thảo. Qua buổi toạ đàm này, các ông có thêm những khám phá thú vị nào về nhà triết học của hai quốc gia Pháp, Việt? Nhà nghiên cứu triết học Jean-François Poirier (trái) và nhà phê bình văn học Jean-Pierre Han tại toạ đàm về triết gia Trần Đức Thảo (8.11, Hà Nội). Ảnh: Hương Lan Jean-Francois Poirier: Tôi cực kỳ ấn tượng với một chiêm nghiệm của Trần Đức Thảo mà nhà văn Nguyễn Đình Chính vừa kể lại tại toạ đàm: trong triết học, không có thầy, cũng không có trò, chỉ có sự đối thoại. Đó là lời nói của một hiền triết. Jean-Pierre Han: Tôi nghĩ đến việc xuất bản chuyên đề sắp tới về Trần Đức Thảo trên Les Lettres Françaises bằng tiếng Việt. Và các bạn sẽ hiểu được vì sao và bằng cách nào, Trần Đức Thảo lại được các triết gia nổi tiếng của Pháp ngưỡng mộ. Sau khi trở về Pháp, các ông sẽ có những hành động nào nhằm khơi dậy mối quan tâm về Trần Đức Thảo và các công trình nghiên cứu của ông? Jean – Francois Poirier: Hiện tại ở Pháp, các tác phẩm của Trần Đức Thảo không còn hiện diện trên các kệ sách nữa. Ngoài chuyên đề về Trần Đức Thảo trên tờ Les Lettres Françaises, tới đây, chúng tôi sẽ tìm cách tái bản cuốn sách Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng, một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Trần Đức Thảo. Ngoài ra, chúng tôi cũng sẽ tiến hành thu thập, tập hợp tất cả các tác phẩm của Trần Đức Thảo, bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, để làm thành một bộ sưu tập. Hy vọng, những nỗ lực trên sẽ có kết quả. Nhà triết học Trần Đức Thảo (1917 – 1993) được xem là một hiện tượng hiếm có. Năm 1936, ông được nhận học bổng du học tại Pháp, và sau đấy, đỗ thủ khoa kỳ thi thạc sĩ triết học của đại học Sư phạm, một trong những trường đại học danh giá nhất của Pháp bấy giờ (học vị thạc sĩ của Pháp khác hoàn toàn với bằng thạc sĩ tại Việt Nam; thạc sĩ ở Pháp là điều kiện để trở thành giáo sư đại học; đạt được học vị này khó hơn làm tiến sĩ nhiều). Trong số các nghiên cứu của ông, nổi bật nhất là hai tác phẩm “gây chấn động nước Pháp”: Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng và Cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức. Hai tác phẩm này cùng nhiều tác phẩm khác của ông đã được xuất bản tại Pháp, Mỹ, Hungary, Anh, Đức, Tây Ban Nha… Với những đóng góp to lớn của mình, Trần Đức Thảo được giới thiệu trang trọng trong cuốn Từ điển các nhà triết học, NXB Đại Học (Paris) ấn hành 1984. Năm 2000, ông được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội. Mặc dù từng rạng danh tại Pháp, nhưng trên chính quê hương Việt Nam, cái tên Trần Đức Thảo cùng những nghiên cứu có giá trị của ông lại chưa được nhiều người biết đến. Nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn “Vui mừng trước những dự định tốt đẹp của tờ Les Lettres Françaises, tôi càng nhớ lời tâm sự của anh Phạm Trọng Luật (Pháp), một trong số rất ít người Việt Nam dành nhiều tâm lực để tìm tòi, nghiên cứu về Trần Đức Thảo: “Chúng ta chỉ có mỗi một ông ấy thôi, không nghiên cứu thì thật vô lý!” Và tôi cũng đồng ý với nhận định của anh rằng nếu hiển nhiên Trần Đức Thảo chưa phải là người xây dựng trường phái thì “chắc chắn ông có tầm vóc ít nhất ngang bằng với các triết gia bản lề giữa chủ nghĩa Marx và hiện tượng học như György Lukács, Maurice Merleau-Ponty, Lucien Goldmann, Enzo Paci, Ludwig Landgrebe, Eugen Fink…, và chia sẻ với họ một quan điểm, một phong cách sống với triết lý”. Đặc biệt, theo tôi, các công trình cuối đời và còn dở dang của ông (đều chưa được dịch sang tiếng Việt!) thật sự có tiềm năng mở ra nhiều hướng suy nghĩ mới mẻ. Tôi muốn nghĩ đến ông như một người “thật sự hiểu những gì mình viết” và như một nhà nhân học triết học đầy thao thức trong truyền thống của Aristoteles và Hegel”. Dịch giả Phan Huy Đường “Khi Trần Đức Thảo mất, tôi có dự lễ hoả thiêu. Về nhà, tôi xúc động, viết một bài nhỏ ghi nhận nỗi đam mê một đời của ông, đã ảnh hưởng tâm hồn tôi. Tôi viết bằng tiếng Pháp vì tôi biết đến triết lý của ông qua tiếng Pháp. Một anh bạn thích và đã dịch sang tiếng Việt. Đây là trích đoạn: “Tình cờ, tôi được gặp ông, vài tháng trước khi ông chết. Biết ông đã từng tranh luận với Sartre, tôi hỏi ông nghĩ sao về tác phẩm Phê phán lý trí biện chứng. Ông nói: “Sartre là nhà triết học duy nhất đã đặt ra những câu hỏi đáng đặt”. Tôi lại hỏi về trước tác của ông, và nói thực là tôi thấy chúng máy móc. Ông khoát tay như muốn gạt chúng đi, và đưa cho tôi tác phẩm cuối cùng, còn dưới dạng bản nháp. Tôi hiểu ông đã lâm bệnh nặng. Căn bệnh của ông có một cái tên: Tự do...” Phó giáo sư triết học Phạm Khiêm Ích “Những kiến thức thầy Thảo truyền thụ cho chúng tôi cho đến giờ vẫn vô cùng quý giá, hữu ích trong công việc và cuộc sống. Đó là tư duy phê phán, là tinh thần phê phán không khoan nhượng. Đó cũng chính là tư tưởng lớn triết học Mác – Lênin để lại. Những tác phẩm của thầy luôn nhấn mạnh đến tính tất yếu của sự vận động, chứ không phải cái ngẫu nhiên”. Nhà văn Nguyễn Đình Chính “Lúc còn nhỏ, tôi may mắn có cơ hội theo học giáo sư Trần Đức Thảo. Có lần, ông trích dẫn một câu của Mạnh Tử: Đọc sách mà tin vào sách thì không đọc còn hơn. Đấy chính là khả năng hoài nghi của Trần Đức Thảo mà không phải ai cũng có được. Ông có rất nhiều nghiên cứu có giá trị to lớn: hiệu đính về chủ nghĩa Mác, đi tìm nguồn gốc của ngôn ngữ… Tôi đề nghị tất cả chúng ta hãy tiếp tục nghiên cứu về Trần Đức Thảo, nếu có thể thì dịch toàn bộ các tác phẩm của Trần Đức Thảo ra tiếng Việt”. Nguyễn Thị Cỏ May
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 15, 2014 5:52:15 GMT 9
Vai trò của trí thức miền Bắc sau 1975 [1] Ảnh minh hoạ. Nguồn: AFP Ung dung ta nói điều ta nghĩ Cúi ngửa theo người quyết chẳng theo Nguyễn Trãi Có hai điều cần được khai triển minh bạch ở đây. Thứ nhất chữ miền Bắc tôi dùng ở đây để chỉ chung những người cộng sản- mà gốc gác có thể ở Huế- Quảng Trị- Bình Định. Trí thức cộng sản như thế có thể để chỉ cả những trì thức trong Nam từng theo cộng sản như trường hợp Đào Hiếu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lữ Phương, Vũ Hạnh v.v.. Đó chỉ là một cách gọi cho gọn và tiện. Thứ hai chữ trí thức, tôi hiểu một cách rộng rãi, thoáng đạt mà nó thể hiện ngay trong ý nghĩa câu thơ của cụ Nguyễn Trãi: Ung dung ta nói điều ta nghĩ. Dám nói điều ta nghĩ, đó là thái độ trí thức đấy. Vì thế đối với tôi, cụ Nguyễn Trãi là một người trí thức tiêu biểu vì dám nghĩ, dám có tư tưởng, dám đặt vấn đề mà không không sợ quyền lực. Nói như thế, có nghĩa tôi đặt nhẹ các vấn đề bằng cấp, vấn đề về nghiệp vụ, về khả năng chuyên môn của người trí thức. Nó có thì càng tốt mà không có cũng được. Nói như thế cũng có nghĩa tôi coi những nhà văn như Nguyên Ngọc- Dương Thu Hương, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên là những người trí thức tiêu biểu của miền Bắc- mặc dầu trình độ nghiệp vụ chuyên môn của họ có thể chưa học hết bởi vì họ tham gia kháng chiến từ hồi còn trẻ. Điều này trên thực tế cũng đúng vì một số đông các nhà trí thức miền Bắc không có điều kiện học hỏi. Trừ một thiểu số tốt nghiệp đại học trong nước hoặc được đi học ở liên Xô hoặc các nước XHCN khác. - Trí thức hiểu theo nghĩa dân giả Đối với người dân thường thì hễ có bằng cấp là được xếp vào loại trí thức. Ngay cả bằng giả, bàng mượn, bằng mua như bây giờ. Cũng vậy, sau 1975 sự so sánh về cái được gọi là trí thức giữa hai miền chủ yếu là dựa trên trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Dư luận thường cho rằng bác sĩ ’ ngụy’ thì giỏi hơn nhiều phần so với bác sĩ ‘giải phóng’. Sự so sánh ấy đi đến độ coi một bên là bác sĩ bên kia chỉ đáng là y tá.. Người ta- theo nghĩa kẻ chiến thắng cũng như kẻ thua cuộc đều hiểu ngầm- tìm đến bác sĩ ‘Ngụy’ để chữa trị. Cái gì mang nhãn hiệu ‘Ngụy’ thì có nghĩa là tốt hơn. Từ thuốc men, quần áo, vật dụng, nhà cửa, đồ dùng, xe cộ, vật liệu, vật tư dĩ chí đến con người. Một viên thuốc Aspirine được mấy anh bộ độ vào Nam công tác, khuân vác vất vả đến rất tội nghiệp. Viên thuốc có dược liệu rất tốt, nhưng bề ngoài thì xấu xí, viên thuốc bở lắm. Lái buôn thuốc trong Nam mua cả lố giá rẻ, mang về chắc có trộn thêm bột mì, cho vào các loại máy dập tối tân. Viên thuốc nay bề ngoài trắng, cứng nhắc, bẻ không được và nay mang nhãn hiệu Aspro, bọc trong vỏ Alumium. Giá bán có thể gấp nhiều lần hơn viên Aspirine nguyên thủy. Rõ ràng người ta mua cái nhãn.Cái nhãn ấy tuy bề ngoài chẳng là gì cũng làm tụt giá những hào quang của sự chiến thắng. Nhưng quan trọng hơn cả, nó làm mở mắt nhiều người- Trong đó đặc biệt có Bùi Tín và Dương Thu Hương. Dương Thu Hương viết rằng bà đã phải khóc khi nhìn thấy đất miền Nam khác hẳn sự tuyên truyền của miền Bắc. Không kể những người như Hoàng Văn Chí, Xuân Vũ, đã phản tỉnh trước đây. Sự phản tỉnh sớm của ông Bùi Tín và bà Dương Thu Hương tôi cho là tiêu biểu nhất mở đầu cho nhiều trí thức tiến bộ khác sau này. Nhưng tôi nghĩ phải công bằng dành cho họ thời gian chuyển đổi- cần từng bước—từng giai đoạn lột xác- từng giai đoạn trăn trở- để chứng tỏ đó là thái độ can đảm và chân thực của một người trí thức. Nếu lột xác ngay có thể được hiểu đó chỉ là thái độ trở cờ- thứ chủ nghĩa cơ hội-. Điều mà nhiều người không muốn điều đó. Cho nên những người tỏ ra nghi ngờ thái độ thay đổi của bà Dương Thu Hương hay ông Bùi Tín và đòi hỏi sự thay đổi 180%- đòi hỏi sự dứt khoát quá nhanh- rồi nêu ra vấn đề thực hay giả- hoặc vội đưa ra những lời cảnh cáo- đều vội vã, chủ quan rơi vào chủ nghĩa giáo điều. Rồi tiếp theo nào là đồng hồ hai cửa sổ và hằng trăm thứ đồ dùng khác kìn kịt khuân về Bắc như những món quà quý giá nhất. Võ Văn Kiệt và giới trí thức miền Nam Đến bác sĩ, kỹ sư, chuyên viên ‘ngụy’ đều có trình độ chuyên môn bảo đảm..Ông Võ Văn Kiệt là người khôn ngoan, sáng suốt đã biết dùng ‘chất xám’ trong Nam, trong vai trò cố vấn về kinh tế mà sau này được gọi là ‘ Nhóm chiều thứ sáu’. Khi ra làm Thủ tướng , ông đã kéo hai chuyên viên miền Nam ra Bắc làm việc bên cạnh ông, trong đó có ông Lâm Võ Hoàng.[1] Trường hợp Lâm Võ Hoàng và nhóm Chiều Thứ Sáu Sau này, ông Lâm Võ Hoàng được ông Võ Văn Kiệt cho đi tham quan nước ngoài như Pháp, Canada,Ý( Rome), từ 05-01-1996 đến 12-02-1996, trong bản Tường Trình do em ông Lâm Võ Hoàng cung cấp cho tôi.. Mở đầu tờ trình, ông Lâm Võ Hoàng viết: Kính thưa anh Sáu, xin gửi đến anh Sáu ba tập sách nhỏ, tôi vừa viết xong, để đánh dấu lòng tri ân của tôi đối với một trong rất nhiều nghĩa cử có ý nghĩa nhất của anh Sáu, trong quá trình tôi có may mắn được anh Sáu tạo điều kiện tiếp tục phục vụ đất nước, trong buổi đầu, tưởng đâu ‘ tàn Đời’.[2] Xin lưu ý đến chữ Tàn Đời như một lời tri ân và cũng như một lời phê phán chế độ ấy. Qua câu chuyện ông Lâm Võ Hoàng, nhìn lại những gì xảy ra sáu 1975, tôi thấy cái sai lầm lớn nhất của chính quyền miền Bắc là tự loại trừ một ‘ Chiến lợi phẩm’ quý giá nhất của miền Nam là họ đã vứt tất cả cá chất xám miền Nam-đi cải tạo- không dùng- không tin-bỏ sọt rác-. Chiến thắng xong, họ chỉ lo cái thiển cận, cái trước mặt, lo thu góp của cải, tài sản, kho tàng, tịch thu nhà cửa, tịch thu nguyên liệu, hãng xưởng, vũ khí chất đầy xe chở về miền Bắc. Đó chỉ là một cuộc hôi của thiển cận vì đã không nghĩ đến cái vốn làm ra của ấy. Phải mất bao nhiêu công của mới đào tạo được đội ngũ trí thức ấy trong chính quyền, trong hành chánh, trong thương mại và ngay cả trong quân đội miền Nam? Và khi những thành phần này ra Hải ngoại, người ta mới hiểu đúng mức giá trị trí thức miền Nam trong việc Hội nhập ở xứ người. Huy Đức, trong sách Bên Thắng Cuộc có viết rằng: bằng cấp ở Liên Xô được cho điểm 1, ở Pháp 0,9 và ở Mỹ chỉ được 0,8. Chỉ dựa trên cơ sở chính trị, họ đánh giá sai lầm như vậy.[3] Và cũng vì thế, có những trí thức miền Nam thiện chí sẵn lòng hợp tác với chính quyền mới đều không được trọng dụng như quý ông Chu Phạm Ngọc Sơn, Châu Tâm Luân, Dương Kích Nhưỡng, Phạm Biểu Tâm, Phạm Hoàng Hộ, Trần Ngọc Ninh người trước kẻ sau đều tìm cách cuốn gói ra đi. Sự thiển cận để cho chính trị xen vào nên không lạ gì trước tình trạng xuất huyết chất xám, người ta đã điều từ miền Bắc vào một kẻ vô học tiêu biểu nhất của miền Bắc- ông Đỗ Mười-, năm 1978, ông này có nhiệm vụ cào bằng, cải tạo xã hội miền Nam như miền Bắc mà ông đã làm trước đây ở miền Bắc. Ông cho rằng: Chỉ cần 3 ngày đào tạo xong. Kỹ sư ba ngày, bác sĩ ba ngày, giáo sư ba ngày!! Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đây chỉ là một cách nói của một người ít học!! Tình trạng lo hôi của sau 1975, nó nhắc tôi nhớ đến nước Pháp của De Gaullle, sau chiến tranh thế giới thứ hai. Người Pháp lo gỡ toàn bộ trang bị máy móc nhà máy sản xuất xe hơi của Đức kìn kịt trở về Pháp. Trong khi nước Mỹ lo thu phục nhân tài- giới trí thức ưu tú hàng đầu của Đức- mời về những vị trị then chốt trong giảng dậy và nghiên cứu hàng đầu của Mỹ. - Nguyễn Trọng Văn đánh giá trí thức miền Bắc: Vô sản và vô học Cũng vì thế mà ngay cả trong lãnh vực khoa học nhân văn cũng cho thấy sự tụt hậu về nhiều mặt của trí thức miền Bắc. Sự tụt hậu so với miền Nam hẳn là có. Chương trình giáo dục của miền Nam – từ trung học, nhất là ở bậc đại học là theo chương trình của Pháp hay một phần của Mỹ-. Bằng cấp được nhận là tương đương. Nguyễn Trọng Văn- mặc dầu đi theo phe cộng sản- nhưng Nguyễn Trọng Văn vốn tính bạo nói đã nhận xét thẳng thừng: Họ chẳng những là người vô sản mà còn vô học nữa.[4] Những phát ngôn rất tùy tiện như cho rằng trí thức miền Nam ở lại theo chủ nghĩa 3N: 3 N theo giải thích của Nguyễn Trọng Văn là: Ngu, Nghèo và Nhát.[5] Một lần khác, năm 1980 trong dịp kỷ niệm 5 năm sau ‘Giải Phóng’, Nguyễn Trọng Văn có dịp đọc một tham luận về tình hình trí thức miền Nam sau 1975. Ông đã chơi chữ và dùng ba chữ Là. Thoạt đầu, trí thức miền Nam coi cách mạng Là Mình. Sau hai năm coi cách mạng chỉ còn Là Bạn. Và sau 5 năm coi cách mạng là Là Thù Nghịch.[6] Đây là một nhận xét xúc phạm đến nhiều người. Xúc phạm cả đến trí thức từ hai phía. Trí thức miền Nam có bao nhiêu người coi Cách mạng Là Mình? Sự xúc phạm như thế thường xảy ra từ hai phía. Viết ra bao giấy mực cho vừa? Nhưng tôi cũng không quên một điều là trên tờ Đất Nước, Nguyễn Trọng Văn đã lần lượt đưa lên giàn phóng tố cáo trí thức miền Nam như Nghiêm Xuân Gồng, Mai Thảo, giáo sư Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Khắc Hoạch, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Sỹ Tế mà ông gọi chung là những ảo tưởng của người cầm bút miền Nam. Riêng Trần Thái Đỉnh với những nhận xét của Nguyễn Trọng Văn có tính ác ý rõ ràng về những bài biên khảo về triết Hiện sinh của ông này. Đặc biệt có hai bài dành cho Nguyễn Văn Trung là: Triết học hiện sinh và những người cầm bút ở miền Nam trên tờ Đất Nước, số 2 và một bài: Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung, trên Bách Khoa, số 264. Chưa kể, một đánh phá có tính cách chủ định với cuốn: Phạm Duy đã chết như thế nào, Văn Mới, 1971 mà tôi đã có bài viết trả lời. Sau đó, ông còn đề cao một vài người có xu hướng theo bên kia như Nhất Hạnh, Thái Lãng, Nguyễn Tường Giang và một nhà thơ vô danh nào đó có tên Nguyễn Lê Tuân với nhan đề: Chào Mừng anh em ruột thịt. Về Nhất Hạnh, ông viết: Trước thơ văn của nhất Hạnh, những viên ‘Kim cương chói lòa cái tuyệt vời, tuyệt đúng, tuyệt đẹp’ của Sáng Tạo, Văn Nghệ, Thế Kỷ 20..trở thành những bong bóng sà phòng của trẻ con.[7] Về Nguyễn Trọng Văn, tôi xin phép được sử dụng đúng chữ của ông quen dùng. Đó là chữ Con Hoang. Ông chính là Thứ Con Hoang của Miền Nam và sau này trở thành đứa con hoang vô thừa nhận của người cộng sản. Ông là thứ Unwanted cả từ hai phía. Phía người Quốc gia lắm lúc trộm nghĩ phải coi ông như một người phản bội. Ông cứ theo cộng sản cũng được và đành chấp nhận. Nhưng theo mà chửi miền Nam thì lại là chuyện khác. Rải rác trong nhiều bài viết, ông coi miền Nam như một ổ đĩ điếm. Khi lần đầu tiên về VN, tôi đến nhà ông trong cư xá Sĩ quan Chí Hòa.. Ngay trước nhà có một khoảng trống lớn thì nay mọc lên rất nhiều quán cà phê đủ loại. Việc đầu tiên trước khi hỏi thăm nhau, tôi nói: cậu trước đây chửi miền Nam chỉ là ổ điếm thì nay trước nhà cậu không phải chỉ một ổ, mà nhiều ổ. Nhận xét ấy làm Nguyễn Trọng Văn cười- cười đến sặc sụa- cười không ngớt- sau đó cái cười trở thành như mếu. Văn chảy nước mắt. Nỗi giận hờn tự nhiên biến mất thương cho một thằng trí thức miền Nam mê muội. Nhưng rồi chứng nào vẫn tật ấy. Phía người cộng sản, họ coi ông như một thứ cò mồi giai đoạn như một thứ củi mục cần loại bỏ. Và chính ông đã tự xếp mình vào thành phần có Bốn Cái Không: - Không cộng sản: ông không vào đảng nhưng cũng không chống cộng. - Không Quốc gia, nhưng không chống đảng phái Quốc Gia - Không tôn giáo nào, nhưng không bao giờ chống tôn giáo - Không theo Mỹ, cũng không chống Mỹ.[8] Vậy thì Nguyễn Trọng Văn là ai? Đứng ở đâu trên đất nước miền Nam? Từ căn bản, cần nhìn nhận cộng sản là một điều xấu Để cho bài tham khảo này có cái lô-gic căn bản, nhờ đó giải thích, cắt nghĩa được thái độ của người trí thức miền Bắc. Xin bắt đầu bằng một tiền đề khẳng định mà tính nội hàm chứa đựng ngay cả kết luận. Tôi khẳng định bản chất của chế độ Cộng sản là một điều xấu. Có thể khẳng định le Mal est communiste. Đó là một một cái xấu không từ bên ngoài, không nhất thời, không chen lẫn điều xấu lẫn điều tốt mà là một điều xấu tự bản chất. Định đề này như một tiền đề đồng thời như một kết luận như một nguyên lý. Các trí thức miền Bắc nếu không xác định rõ được điều này thì sẽ có quan điểm mơ hồ, có những nhận định lưỡng giá hay nước đôi (Ambiguité). Như có một số vị cho rằng- trường hợp ông Lê Hiếu Đằng- : Đảng cộng sản mới đầu là lý tưởng, là tốt sau này là suy thoái..Hoặc đa số trí thức tin tưởng rằng có thể sửa sai, cải thiện cái Đảng ấy. Đó là những tư tưởng hão huyền như một cách tự dối mình. Đó có thể là phản tỉnh mà chưa phản kháng. Đó có thể là lẫn lộn giữa lý thuyết và thực tế, giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái được gọi lá quyền lợi cá nhân vá cái nhân danh quyền lợi tập thể. - Trí thức miền Bắc như vợ bé của chế độ Họ quản lý giới trí thức miền Bắc từ cái bụng lên cái đầu. Quản lý cái dạ dầy là quản lý được cái đầu của trí thức miền Bắc…Nói ra thì phiền, nhưng cái lụy của trí thức miền Bắc là bắt đầu từ cái Hộ Khẩu. Vì thế, trí thức XHCN được coi như ‘ vợ bé của chế độ’ được ve vuốt tán tỉnh, được cho ăn, cho uống mà không bao giờ chính thức cưới làm vợ. Sở dĩ chúng ta có thể đi đến một kết luận chắc nịch, cộng sản là một điều xấu bởi vì xét lịch sử cái Đảng ấy đã trở thành họa cho nhân loại chỉ sau các chế độ phong kiến và Phát Xít. Lịch sử các nước như Liên Xô và Trung Quốc dưới chế độ cộng sản là những cuộc tắm máu người dân vô tội. Con số nạn nhân lên đến hằng triệu và nhiều trục triệu. Tội ác chồng chất không thể tính hết được. Chẳng hạn, từ năm 1958 đến 1962, Mao Trạch Đông đã làm chết cả 10 triệu người. Nó là một trong những tội ác giết người tập thể lớn nhất của nhân loại.(Most deadly mass killings in human history). Bước nhảy vọt làm cho 45 triệu người dân Trung Hoa chịu đói khát, dánh đập, tù đầy đến chết với những cảnh ăn thịt trẻ con ghê rợn. Nếu ai đã có dịp đọc cuốn sách của Frank DiKotter thì sẽ thấy kinh hoàng , rởn tóc gáy. [9] Mao đã để lại nhiều câu nói thời danh như: Cách mạng không phải là một bữa tiệc. Xấu tự bản chất là một điều xấu đã trở thành một vô thức tập thể, đã trở thành da thịt của chế độ, trở thảnh máu huyết của cơ chế vận hành một cách máy móc không chuyển đổi được. Nó tạo thành bằng những tư tưởng đã khuôn đúc, đã hoàn chỉnh. (Idées toutes faites). Cho nên nó không chấp nhận bất cứ ý tưởng nào ở bên ngoài nó. Những ý kiến- những góp ý- những phản biện đều bị bỏ ngoài tai. - Cộng sản là thứ chủ nghĩa giáo điều. Đó là thứ tôn giáo mà không có tôn giáo Mà ai còn tin rằng có thể góp ý, có thể sửa sai Đảng thì đó là một ảo tưởng trí thức- tự đánh lừa mình. Họ sửa sai thì được- sửa sai nhiều lần- mỗi năm mỗi sửa- hai mưới năm ba mươi năm vẫn tiếp tục sửa-. Chẳng những thế, khác nó còn được coi là chệch hướng và tệ hại hơn nửa trở thành thù địch có thể bị thanh toán, khai trừ hoặc tù đầy. Nhưng họ lại chống lại những tham vọng sửa sai và họ quy cho cái tội: Chủ nghĩa xét lại như trường hợp Hoàng Minh Chính. Bài học Hoàng Minh Chính với tư tưởng: Chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam đã bị còng tay gây họa lây cho khoảng 200 người khác. Nhưng những người trong cuộc biết rõ rằng, chính Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đều mặc nhiên, minh nhiên ủng hộ Hoàng Minh Chính. Và nói cho cùng, bắt Hoàng Minh Chính thì đồng thời cũng phải bắt giam từ Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh đến cả Hồ Chí Minh. Cũng vì thế cộng sản là một điều xấu tự thân ( En soi)- một điều xấu phổ biến. Phổ biến tại Liên Xô, tại Trung Cộng, tại Đông Âu cũ, tại Bắc Hàn và tại Việt Nam. Gương của Bắc Hàn những ngày gần đây với những tin tức được tuồn ra bên ngoài nghe mà rùng rợn. Tại Việt Nam trước đây chỉ xấu một nửa phía Bắc. Sau 1975 cả nước nhuộm xấu. Hằng triệu người đã ngã gục. Nó đã đưa cả một dân tộc chìm đắm trong những cuộc cách mạng đẫm máu do những tính toán và những quyết định sai lầm. Nó phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác. Nếu có điều chi khác biệt giữa các nước cộng sản như Trung Hoa hay Bắc Hàn với Việt Nam là có sự khác biệt về mức độ chứ không có sự khác biệt về bản chất. Bản chất là xấu giống nhau, mức độ thì khác nhau vì ít hay nhiều. Tên của những tên đao phủ đó là Staline, Mao Trạch Đông, Fidel Castro và xin dám lần đầu nêu tên Hồ Chí Minh. Vì thế, ngay đến Hồ Chí Minh cũng phải được nhìn lại và phải được xếp chung danh sách những tên đồ tể thế giới. Không có lý do chính đáng nào để tách HCM ra khỏi danh sách ấy cả. Chế độ ấy gây ra chết chóc sinh mạng con người thì lãnh đạo phải là kẻ sát nhân. Sở dĩ điều xấu ấy vẫn tồn tại, vì nó là một điều xấu được che đậy bởi bạo lực và tuyên truyền. và không có giải pháp hoặc một cố gắng cải thiện từng phần, từng vấn đề. Đã bao nhiêu năm rồi, số phận đất nước Việt Nam đã chìm đắm trong giấc mơ cộng sản? Ta có thể nhận ra điều xấu ấy, nhưng lại không nhận ra được ai là thủ phạm - Chính vì những giải pháp ôn hòa, thỏa hiệp hoặc huyễn tượng về một chế độ cộng sản có thể cải tiến đã kéo dài sinh mệnh chính trị của cộng sản ở Việt Nam Nhiều trí thức miền Bắc đã nuôi dưỡng, vỗ béo nuôi nó trong nhiều năm nay.Nói ra không ai tin hoặc không muốn tin. Nói ra thì khó chịu, không bằng lòng. Nhưng thực tế nó là như vậy. Nhiều trí thức chân chính của miền Bắc đã tự thú như vậy: Hoàng Ngọc Hiến nói đến thứ Văn Học phải đạo. Minh Châu đã khuất bóng mỉa mai một thứ văn học Minh Họa. Lại Nguyên Ân gọi là Tao Đàn, Nguyên Ngọc gọi là Tụng Ca. Vẫn lại một Dương Thu Hương gọi: thực chất là một lớp công chức thuộc địa.[10] Ít nhiều họ là những tên lính canh của CNXH. Vì thế, ngày nay nhiều tác giả đã bàn đến cái Loyal Opposition như sẽ đề cập đến sau này. Dương Thu Hương đề cập đến cái Quy chế của sự nhầm lẫn. Phạm Thị Hoài nêu trường hợp giáo sư Chu Hảo để gián tiếp nói tới: Thái độ lạc quan vô tận của một số lớn trí thức miền Bắc. Chỉ nói tóm tắt là tội của chế độ cộng sản cũng gián tiếp- một cách nào đó- cũng là trách nhiệm của giới trí thức miền Bắc. Bởi vì im lặng là đồng lõa với tội phạm. Sự phản kháng tiêu cực của đa số thầm lặng là nguy hiểm nhất Đây là chủ đề thứ hai cần nắm vững. Chính vì giới trí thức miền Bắc đã thất bại trong việc không loại trừ được cái nguy cơ của cộng sản- không tìm ra được giải pháp thay thế- tạo ra tình trạng trì trệ và sự suy thoái đến hiện nay đã làm nảy sinh ra một số hiện tượng tiêu cực nơi phần đông dân chúng. - Nhân dân làm chủ biến thành lạm phát dân chủ Cái hiện tượng tiêu cực trong dân chúng đã phá nát cơ cấu của một xã hội dân sự trong một thể chế hành chánh lành mạnh, ổn định và trật tự. Nó đã biến một cái quyền bịa đặt trở thành sự lạm phát dân chủ. Đó là thứ chủ nghĩa mạnh ai nấy làm, mạnh nấy sống, sống chết mặc ai. Chưa bao giờ cái khẩu hiệu Nhân dân làm chủ trở thành lố bịch và tai hại như ngày này!! Trí thức miền Bắc trong tình huống hiện nay như một cái bề mặt đẹp của một tòa nhà sụp đổ. Họ trách nhiệm về sự sống còn ấy nếu cứ tiếp tục không dám nhìn thẳng vào sự thật, không có can đảm dùng cú đạp cho tòa nhà ấy sụp xuống để xây cái khác.. Đó là thân phận khó xử của nhiều người trí thức hiện nay. Bỏ thì thương, vương thì tội. Cứ nấn ná, chần chờ, viện cớ này cớ nọ để mua thời gian. Nay đã đến lúc thời gian không thuộc về họ nữa. Họ và Đảng cộng sản đã nhiều phen đồng lõa với niềm xác tín vĩ đại ngay cả trong những sai lầm của họ. Người ta đã không nhận thức được rằng cái phản ứng của đa số thầm lặng chính là nguyên nhân làm cho xã hội sa đọa nhất. Cái đa số thầm lặng mà cơ may phản biện hầu như không có thì sự phản kháng là những phản ứng tiêu cực. Điều này xem ra vô hại đối với kẻ cầm quyền, nhưng lại là những đà cản bước tiến và xói mòn xã hội. Vốn liếng xã hội dân sự mỗi ngày mỗi tiêu hào. Một người không sao- 10 người cũng không sao. Nhưng triệu người và hàng chục triệu người cùng một phản ứng tiêu cực thì sức phá hoại là không lường được. Và ngày nay, người ta mới dần hiểu được sự phản kháng này nó tai hại như thế nào. Đó là sự vô trách nhiệm toàn diện, trên toàn xã hội, trên mọi tầng lớp dân chúng, nhất là trên giới trẻ. Đó là sự thản nhiên( Indifférence) trước bất cứ tình huống nào của một con người hay một xã hội vô cảm. Nó phô diễn bằng những hành động phi nhân tính- giết người tàn bạo- giết người một cách tùy tiện vô cớ-hay bằng những cớ nhỏ nhặt không đáng kể như đi ăn trộm một con chó- . Tóm lại giết người một cách gratuit. Luật rừng để đương đầu với chế độ toàn trị. Không có sự so sánh nào nổi bật hơn là một bên thì chính quyền xử dụng luật lệ một cách vô tội vạ với bàn tay sắt. Như tù đầy, bắt bớ, hành hạ, đánh người đánh chết. Một bên dân chúng hiện nay là sài luật rừng để hành xử với nhau. Giết người vô tội vạ, cần chém là chém, cần giết là giết, cấn ăn cắp, ăn cướp là ăn cướp. Người ta đi tìm thuốc chữa, tìm đủ nguyên nhân, đổ cho giáo dục, đổ lẫn cho nhau- trước đây đổ cho tàn dư văn hóa đồi trụy Mỹ-Ngụy, nay Mỹ Ngụy không còn nữa thì đổ cho ai- trước đây đổ cho chiến tranh nay không còn chiến tranh thì đổ cho ai. Thực chất, điều xấu ấy nó nằm sẵn trong cơ cấu của cơ chế cộng sản, trong một vòng xoáy của cái Trục của điều xấu (Axe du mal)- Một cái cercle vivieux-. Một cái vòng xoáy luẩn quẩn không lối ra. Hoặc triết lý một chút thì đó là một thứ bệnh dịch hạch mà bất cứ ai cũng có thể vừa là nạn nhân, vừa là nguyên nhân của sự gây bệnh. Nhưng cái con vi trùng của bệnh dịch hạch ấy là Đảng cộng sản. Triệt tiêu, loại bỏ cái đảng ấy là triệt tiêu con vi trùng thì mọi sự trở lại tình trạng bình thường. Nguyên tắc là không sửa, không chữa mà hủy bỏ, triệt tiêu. Không ai đi chữa một con vi trùng cả. Những người lãnh đạo cộng sản đã tưởng rằng có thể dùng bạo lực cưỡng chế và yên trí rằng họ đã thành công. Thành công theo nghĩa ổn định, dẹp yên chỉ là cái nhất thời. Vì không phải lúc nào xử dụng bạo lực cũng có kết quả, vì nó là con dao hai lưỡi như kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nhưng nhiều khi phải nhiều năm sau, người ta mới nhận ra hậu quả của sức cản tiêu cực nó như thế nào.. Và đối với kẻ viết bài này thì chế độ cộng sản đã lung lay, đã có nguy cơ sụp đổ, chỉ vì những sức cản tiêu cực này.. Và nếu nói theo ngôn ngữ của giáo sư G.Chang tiên đóa rằng, nước Tàu sẽ sụp đổ trong cuốn sách The coming collapse of China (2001) Đó là sự thờ ơ của dân chúng, đó là sự bất cần, sự thiếu trách nhiệm, sự thiếu niềm tin của dân chúng.. Lãnh đạo nói, dân chúng không nghe. Đảng nói một đàng, dân chúng làm một nẻo. Càng nhiều luật lệ, càng nhiều thúc ép, càng thêm rắc rối. Đó là một cái cây đã rỗng ruột. Một bộ máy đã ì ạch, đã en panne. Đảng là một cơ cấu đã mục ruỗng. Có một con mắt của dân nhìn rõ được chân tướng của Đảng. Họ nhìn những cán bộ mất bản chất để nhận ra được cái cơ cấu Đảng mục ruỗng đó. Không phải cứ bắt giam tù, không phải cứ tống xuất, không phải cứ triệt tiêu tài sản, không phải cứ bịt mồm bịt miệng bằng những biện pháp dùi cui, bằng hệ thống công an trị thể lý là xong. Chưa bao giờ cộng sản thành công trong việc cầm tù được tư tưởng người khác. Và xin nói thẳng, họ cũng chưa bao giờ có thể cải tạo được những người tù cải tạo trước 1975. 300 ngàn người tù cải tạo sau nhiều năm cải tạo thì họ vẫn là người tù cải tạo. Chỉ có khác, trước đây là một nỗi nhục thì nay có thể là một niềm vinh dự. Điều mà Mai Thảo gọi Dương Nghiễm Mậu sau nhiều năm sống dưới chế độ cộng sản đã tạo cho mình: Một bản lĩnh chói lòa. Đã có được bao nhiêu trí thức miền Bắc có được bản lĩnh chói lòa như thế. Phải chăng đó là Dương Trung Quốc chăng? Họ chỉ đạt được một kết quả ngoài mong muốn là đào sâu thêm sự hận thù. Hận thù chồng chất. Sau nảy có muốn nói gì đi nữa- như hòa hợp hòa giải-cũng không ai nghe nữa. Thời của cộng sản nay đã chấm dứt. Nay chúng ta đang bước vào thời kỳ đồ đểu. (Còn tiếp) [1] Lâm Võ Hoàng có viết nhiều bài báo, sau in dưới dạng photocopy như cuốn: Những bài viết trên báo Công giáo và Dân Tộc. Nhóm Chuyên viên ‘ Chiều thứ sáu’. [2] Lâm Võ Hoàng, Tờ Trình Thủ tướng chính phủ, 1996 [3] Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, trang 174 [4] Đây không phải là lần thứ nhất, NTV dám ăn nói ngang ngược như thế. Trước tình trạng một số trí thức vượt biển, bỏ trốn ra nước ngoài mỗi ngày một đông. Ông Võ Văn Kiệt đã tìm cách vớt những người này khỏi cảnh tù tội.. Và trong một buổi nói chuyện với giới trí thức thành phố, ông khuyên họ không nên vượt biên. Ông nói; trong thời hạn một năm mà nếu chính quyền này không làm được gì thì sẽ để các anh tự do ra đi. Nguyễn Trọng Văn đã đứng lên phát biểu : Nếu trong vòng một năm mà không làm được gì thì chính quý vị lãnh đạo phải ra đi, chứ không phải chúng tôi..Câu nói này nếu được phát biểu trong một xã hội dân chủ thì cũng không có gì là quan trọng. Nhưng trong hoàn cảnh miền Nam lúc bấy giờ được coi là thách thức nặng nề Rất may một lần nữa, gặp ông Võ Văn Kiệt là người hiểu biết không chấp. Sau đó, Nguyễn Trọng Văn hầu như không còn cơ hội cầm bút nữa. Câu chuyện này cũng được Huy Đức viết đầy đủ trong Bên Thắng Cuộc. [5] Thuận Văn, Vài lời về lẽ công bằng và xác thực, Talawas, 30.06.2008, bài 26 [6] Nguyễn Trọng Văn. Nhưng cũng kể từ đó, Nguyễn Trọng Văn bị treo bút. Câu chuyện này cũng được Huy Đức viết đầy đu trong Bên Thắng Cuộc. [7] Nguyễn Trọng Văn, Đất Nước, số tháng 11, 1968 [8] Nguyễn Trọng Văn, Ba người ban, Talawas ngày 9-6-2008, loạt bài số 20 [9] Frank Dikotter, Mao’s great Famine, The History of China’s most devastating Catastrophem, 1958-1962, 2010 [10] Trăm hoa vẫn nở trên Quê Hương, bài viết của Thân Trọng Mẫn, tràng 29 Nguyễn Văn Lục
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 15, 2014 5:54:56 GMT 9
Vai trò của trí thức miền Bắc sau 1975 [2] Ảnh minh hoạ (internet) Lấy trí nhân mà thay cường bạo Lấy đạo nghĩa mà thắng hung tànNguyễn Trãi Tôi không có chủ tâm nhìn lại quá khứ để tự hành hạ mình và gián tiếp hành hạ người khác. Tôi cũng không có chủ tâm tìm cách phê phán hay hạ nhục những người đã có thời ở phía bên kia mà tôi đã nêu tên tuổi, đã đưa ra những sự việc trong phần bài trước. Đó chỉ là những việc cần phải nói, cần phải viết cho nhu cầu sự thật. Tôi cho rằng, ở một góc độ nào đó – một góc độ ẩn khuất mà có thể bản thân không hiểu được – ở một thời điểm nhất định trong một hoàn cảnh nhất định – họ đã tin tưởng và chọn lựa. Sự chọn lựa từ một hoàn cảnh theo ý nghĩa của J.P Sartre: Con người là con người từ một hoàn cảnh. ( L’homme-en-situation). Chính hoàn cảnh quyết định con người là thế này hay thế kia. Nói theo nghĩa đời thường thì: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Nhưng nói theo triết lý của trường phái Tự Do – nói như nhà tư tưởng F.A. Hayek – tác giả cuốn sách: The road to Serfdom(Đường về nô lệ) có thể đó là sự sai lầm chân thật của họ, dù đó là những sai lầm rất nặng nề.[1] Người ta thường nói: Đường xuống hỏa ngục thì đầy những kẻ thiện chí!! Sự đồng cảm ở đây với những người vừa kể trên của người viết bài này trở thành chân lý của đời sống. Bằng chứng là nay nhiều người trong số họ cũng ngao ngán vỡ lẽ kiểu Nguyễn Văn Trung: dấn thân vào cách mạng là một thứ đầu tư phá sản. Mà khi biết ra được thì đã trễ. Nhiều người nay khi tóc đã bạc – nhìn lại cuộc đời tranh đấu cho một lý tưởng – coi như họ đã hoang phí cả cuộc đời tuổi trẻ vào một thứ ảo tưởng như trường hợp Hồ Ngọc Nhuận, Lê Hiếu Đằng, Ngô Công Đức, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Cao Lập. Như thế, phải nhìn nhận có một thứ sai lầm chân thật. Nhà thơ Vân Hải trong truyện ngắn Người cùng làng mở đầu bằng hai câu thơ như một hối tiếc cho cả một thời: Khi biết mình ngu dại Tóc trên đầu bạc phơ.[2] Và tâm trạng hối tiếc ấy cũng được cả những người trí thức miền Bắc mà tên tuổi không thiếu như Dương Thu Hương, Vũ Thư Hiên, Bùi Tín và hằng trăm người khác không tiện liệt kê hết. Nhìn lại cảnh tượng đất nước hiện nay trong vòng mấy chục năm qua – kẻ còn chút lòng – không khỏi động não thì hóa ra không phải con người. Năm 1975, người cộng sản miền Bắc thừa hưởng một nửa phần nửa đất nước miền Nam – dù có chiến tranh – hầu như nguyên vẹn. Nó cho thấy một tiềm năng của một xã hội có triển vọng tân tiến, một xã hội dân sự có khung hình pháp lý dân chủ, tự do. Họ chỉ cần bỏ ra chút xíu cái phần còn lại là tạo dựng được một thể chế chính trị cởi mở – xây dựng trên tự do, dân chủ. Và sẽ có một nước Việt Nam ngang hàng với các nước lân bang như Đại Hàn, Singapore v.v… về mọi mặt. Họ đã không làm được. Tự hỏi vai trò người trí thức miền Bắc đã làm được gì trong khoảng thời gian ấy? 1. Họ đã làm được cái việc là phá nát miền Nam Ngồi nhìn lại cái ngày 30 tháng tư, cái ngày mà tựa đề một bài hát của người cộng sản hát nhai nhải trên đài phát thanh: Bão Nổi Lên Rồi. Quả thật đó là cơn bão đến cấp số 9 tàn phá miền Nam. Nó quét sạch trên đường đi của nó nhà cửa, tài sản vật chất, ngay cả của chìm của nổi, vốn liếng văn hóa, tinh thần tôn giáo và nhất là niềm tin và tương lai con người. Tai họa của cơn bão ấy, chúng tôi đã chịu một mình.. Không một ai dơ tay ra đỡ chúng tôi hoặc lên tiếng. Thế giới bên ngoài tạm thời bị cô lập không một ai biết điều gì đang xảy ra ở miền Nam trong những năm tháng ấy. Có lẽ chưa ai nghĩ đến điều này – và đây là lần đầu tiên được đặt ra – Những người trí thức miền Bắc, họ ở đâu, họ nghĩ gì và thái độ họ ra sao? Nói chung có thể họ vui mừng và chấp nhận chiến thắng ấy như một điều vinh dự – trong đó những năm tháng khốn khổ nay có thể được đền bù. Những biện pháp xảy ra sau đó như đánh tư sản mại bản, chiến dịch triệt tiêu văn hóa đồi trụy và nhất là chính sách phân biệt ngụy quân, ngụy quyền và chính sách tập trung cải tạo là một điều tất yếu phải xảy ra thôi. Người miền Nam nay được coi là ngụy quân ngụy quyền – họ mất cái căn cước là người quốc gia vì chủ nghĩa lý lịch. Nếu có gọi họ là người vô tổ quốc cũng không hẳn là sai. Cái tâm trạng chung là buồn và bất lực. Và cảm giác mất quê hương. Dù sau này ông Võ Văn Kiệt có nghĩ rằng sau ngày giải phóng, có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn – Câu nói đó cũng không vì thế mà thay đổi được tình thế. Câu nói đó trên thực tế cũng hoàn toàn sai. Trừ một thiểu số người đã chót theo cộng sản, số còn lại đều buồn. Tại sao lại buồn, đó là điều mà những người trí thức miền Bắc cần tìm hiểu. Sau năm 1975, nhiều bất hạnh đã xảy đến cho miền Nam nói sao cho hết. Chính vì không chịu đựng nổi liên tục ngày này qua tháng nọ – mỗi ngày mỗi hà khắc – mỗi ngày thấy sự bất công phi lý – mỗi ngày thấy tương lai vô định mà họ mang nỗi nhục ấy phải liều mình ra đi. Hành lý mang theo không phải tiền bạc mà là cái đầu – một ý chí quyết vươn lên làm lại cuộc đời – và một trái tím rướm máu. 2. Sự đối kháng của người dân miền Nam Trước sự bóc lột tận xương tủy, sự chà đạp lên phẩm giá con người một cách thô bạo nhất, thái độ dân miền Nam là gì? Suy từ thân phận của tôi ra, tôi nghĩ rằng mình như con cá nằm trong chậu, không lối thoát. Sự đối kháng của người dân miền Nam là hoàn toàn tiêu cực: sự bất lực, sự chán nản, sự ê chề, sự nhục nhã, sự chịu đựng và cuối cùng là trốn chạy, là chọn sự ra đi thay vì ở lại đối đầu. Trí thức miền Bắc thì chọn lựa thái độ chính trị con Đà Điểu. (La politique d’Autruche), quay mặt làm ngơ để cho chính quyền muốn làm gì thì làm Việc ra đi là một bước đường cùng, tìm trong cái chết một lẽ sống. Ra đi hay là chết là quyết tâm không thể sống chung. Đó là sự đối kháng quyết liệt nhất, sự phủ nhận toàn diện sự hiện hữu của chế đố ấy, sự không khoan nhượng. Cho đến bây giờ, tôi tin chắc một cách xác tín rằng – ngay những thành phần trí thức tiến bộ nhất của miền Bắc cũng như giới lãnh đạo miền Bắc chưa hiểu đầy đủ hết ý nghĩa của việc ra đi này. Phải là người trong cuộc – phải là nạn nhân của chế độ ấy mới hiểu hết được. Ngay cả những người ra đi trước 1975 và những người ra đi ở thời điểm 1979 cũng đã có khoảng cách về nhận thức và kinh nghiệm sống rồi. Xem lại những đoạn phim về hình ảnh người vượt biển với bao gian nan mới thấy hết được sự tàn bạo của kẻ tự nhận là chiến thắng. Xin ghi lại hình ảnh một trong những cảnh đau thương đó. Vụ chìm tầu ở Cát Lái. Bến Phà Cát Lái, gần Thủ Đức đã xảy ra vụ chìm tầu rất là thương tâm.. gồm gần 300 người chết đuối không thoát ra được. Đây chỉ là một vụ trong 9 vụ chìm tầu khác được chính quyền cộng sản thu tiền và cho phép ra đi công khai được gọi là: Đi bán chính thức. Việc ra đi như thế nhằm chủ yếu vào người Tàu gốc Việt. Nhưng sau này thì các cuộc ra đi bán chính thức phần lớn là người Việt Nam, mang giấy tờ giả là người Việt gốc Hoa. Sau vụ chìm tầu, phải mấy ngày sau mới trục được tầu lên và các xác chết đã phình thối. Được biết có nhiều xác chết mẹ con còn ôm dính lấy nhau không gỡ ra được. Người ta đành để như thế chôn cả hai mẹ con trong một quan tài..Tôi cũng có người bạn đồng nghiệp bị chết ở Vũng Tầu, khi xác chết trôi vào bờ thì cả người bị cá rỉa không còn nhìn ra hình dạng người nữa. Được tin này, chúng tôi cũng là người sắp trốn đi theo diện Phương Án II thấy rụng rời. Tin đồn tầu chìm này lan rộng ra khắp Sài Gòn làm nao núng không ít những người cũng sắp ra đi. Và chỉ hơn một tháng sau đó, tôi cũng ra đi như thế. Thật biết là cái chết gần kề mà như thể có động lực gì bí ẩn vẫn thúc đẩy ra đi, coi cái chết sao nhẹ thế!! Đây là những vụ buôn người không hơn không kém cũng như sau này buôn gái sang Đài Loan, Đại Hàn. Không có việc gì mà người cộng sản không làm. Tất cả những chính sách bất nhân, vô nhân đạo ấy đều được kẻ chiến thắng – ngay cả đối với thành phần trí thức tiến bộ nhất của chính quyền cộng sản – coi như những biện pháp chính đáng phải thi hành. (Mesures légitimes). Thật ra nó chỉ là Cái chính đáng của kẻ chiến thắng [3]. Họ nói không biết ngượng. Người trí thức cộng sản đề cập đến vấn đề nhận thức luận kiểu này họ gọi đó là thái độ là duy ý chí. Biết như thế mà họ vẫn nhắm mắt tin tưởng, nhắm mắt rêu rao một cách phi lý. Về điểm này, lại một lần nữa, F.A. Hayek coi đó là một thái độ khinh miệt trí thức con người. của một lớp người “chuyên nghề buôn bán qua lại các ý tưởng”.[4] Trong khoảng thời gian ít nhất 15 măm, toàn dân miền Nam chịu đựng những trù dập, những biện pháp được coi như trả thù của kẻ chiến thắng mà người ta bắt buộc phải làm như vậy và không thể làm khác được. Trong suốt những năm ấy, người ta không nhận được bất cứ tín hiệu phản kháng chính thức nào của nạn nhân cũng như của thành phần trí thức tiến bộ!! Đó là một thời gian dài một bên chịu đựng, một bên áp đặt mà không một ai nhận thức ra được sự bất công tàn bạo trong mối tương quan giữa kẻ chiến thắng và kẻ chiến bại. Sau 38 năm nhìn lại, người ta dần dần mới nhận thức rõ được đó là sự say mê điên cuồng chiến thắng, tiếp theo là sự bất lực và yếu kém trong quản lý và nhất là sự vô trách nhiệm vô giới hạn (Irresponsabilité illimitée) từ trên cao đến xuống thấp đã đưa đất nước đến bên bờ vực thẳm. Vì thế, cho đến nay không biết ai là người trực tiếp trách nhiệm về những tội ác đổ trên đầu con dân miền Nam. Từ 1975-1990, con dân miền Nam bị rơi vào tình trạng tâm sinh lý bất động co dúm lại mà không có một phản ửng nhỏ dù là tự vệ (Immobilisme convulsionnaire). Mặc cho kẻ chiến thắng bạo hành. Thế giới bên ngoài không biết đến. Trí thức, nhà văn phía bên kia im lặng đồng lõa! Đã hẳn ở bình diện cá nhân, người ta cũng còn gặp gỡ được những người cộng sản có một tấm lòng như trường hợp các ông Võ Văn Kiệt, Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ (quan tâm tới một số trí thức miền Nam đi học tập) hay Tống Văn Công (Người đã lo lắng quan tâm đến hoàn cảnh của họa sĩ Chóe sau khi đi cải tạo về)[5]. Ông cũng là người sau này, xin ra khỏi Đảng) Và muộn màng hơn nữa có các ông Bùi Tín kết án việc đi học cải tạo và Phạm Xuân Nguyên bênh vực việc cho tái xuất bản sách của Dương Nghiễm Mậu. Tôi cũng chia sẻ một cách sâu xa con người của ông Bùi Tín khi “giải phóng” xong miền Nam, ông rất hả hê vì đã trả được những món nợ các cháu con bà chị đã hy sinh tại chiến trường Huế, Quảng Trị v.v… Và ít ra ông là một trong những trí thức hiếm hoi lên tiếng công khai phê phán nhà nước trong các vụ cải tạo, vụ chèn lấn các tôn giáo v.v…[6] Nói cho cùng, họ chỉ nói lấy được. Nhắc lại một lần nữa. Họ không biết ngượng. Nói thẳng là có sự khinh miệt giữa kẻ thắng – người thua. Họ khinh miền Nam vì họ thắng. Miền Nam khinh miệt lại vì họ ngu dốt quá. 3. Giải trừ những huyền thoại về đế quốc Mỹ xâm lược và vai trò Giải Phóng miền Nam cũng như những ngữ từ có ý miệt thị. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam giữa đôi bên – ngoài võ khí giết người – ngoài việc ám sát thủ tiêu các viên chức xã ấp – ngoài việc giật mìn phá hoại cầu cống đường xe lửa, đường bộ – còn một trận chiến các danh từ. Danh từ đủ loại cỡ lớn, cỡ nhỏ đủ loại như chiến tranh xâm lược, bọn Thực dân mới, bọn lính đánh thuê, bán nước, chống Mỹ cứu nước, Giải phóng miền Nam, Mỹ-Ngụy, Mỹ-Diệm, Mỹ-Thiệu, bọn ngụy quân, ngụy quyền, thứ văn hóa phản động, đồi trụy v.v.. Tất cả được đơn giản hóa, tóm gọn đến cực kỳ như những khẩu lệnh. Nó tiêu biểu trong một tuyển tập truyện ngắn của Bảo Ninh, Hà Nội lúc không giờ: Năm 2000: ‘Chỉ một minh Tú, một tay mọt sách, nguyên sinh viên trường Tổng Hợp là không ngại rúc vào đó, ngụp lặn lục tìm trong bụi, tha về phòng một bao tải nặng chịch những cuốn tiểu thuyết chưa bị mối xông. Nhưng bởi tất cả đều rặt một nòi thối tha mục nát văn chương chống Cộng, chữ nghĩa tối tăm, mờ ám, nội dung láo toét, ít ai kiên nhẫn đọc nổi quá nửa trang, chất giấy lại không hợp để vấn thuốc và khổi thì quá nhỏ để gói bọc một thứ gì, thành thử đống sách của Tú chẳng mấy ai buồn ngó, dù rằng nó cứ vơi đi. Người ta thấy các mẩu vụn của những Chu Tử, những Xuân Vũ, những gì đó nữa quanh chỗ đựng điếu cầy và trong nhà bếp, trong nhà cầu’. Cái nhìn về miền Nam một cách xàm tấu như vậy riết nhiều người coi như sự thật, thành chân lý, thành đúng quá không cần bàn cãi nữa. Họ tuyên truyền là số một, không ai hơn họ. Họ hô hào: Nhà nhà, người người – ba đảm đang – phải hy sinh tất cả để vào giải phóng đồng bào ta trong Nam đang bị cùm kẹp bởi Mỹ -Ngụy. Cái khẩu hiệu trên nó giống và tương tự như sự nhận xét của F.A Hayek. Ông gọi là sự ngu dốt riêng đã tạo sự khôn ngoan chung[7]. Nay nó đã biến thành một thứ kiến thức vô thức tập thể – Người người nói – Nói mỗi ngày – nói mọi nơi – trong đám đông, trong học tập. Và không ai bảo ai, nó được kích động bằng những tràng pháo tay. Và chẳng may có ai nói khác đi – Đích thị kẻ đó là phản động. Đó cũng là câu chuyện được kể trước đây trong sách Quốc Văn Giáo khoa thư lớp Đồng Âu kể rằng: Có một người đi đường bị một con chó cắn và sủa mãi. Ông tức điên lên và nghĩ ra được cái kế, ông hô to: Chó dại, chó dại. Dân làng tưởng thật đã đổ xô ra và cầm gậy gộc đập chết con chó. Chúng ta nên tội nghiệp con chó hay nên tội nghiệp những người đã ngu dại nghe lời xúi bậy đập chết con chó? Cho nên cũng chẳng lấy gì làm lạ khi thấy giới trí thức miền Bắc im lặng, đồng lõa trước những biện pháp của chính quyền cộng sản ở miền Nam sau 1975 và những biện pháp ấy được coi là chính đáng vì họ quá bị tuyên truyền, bị nhồi sọ, bị bịt mắt. Sự tuyên truyền ấy ngày này qua tháng nọ biến họ có những suy nghĩ có điều kiện như một thứ phản xạ máy móc cực đơn giản và cực độ về lẽ phải trái. Ta phải, địch sai. Ta yêu nước, địch bán nước. Nói theo triết lý trong Kim Dung thì có kẻ chính, kẻ tà. Người cộng sản là bàng môn chính phái còn miền Nam là bàng môn tả đạo. Điều ấy được cũng chứng tỏ trong một bài viết của Lý Chánh Trung, ông cho rằng: Ông là một trí thức miền Nam mà sau 18 tháng học chủ thuyết Mác Xít-Lênin, mặc dầu ông đã theo học nghiêm túc, viết lách cũng không tệ lắm, tư tưởng cũng không tồi lắm, nhưng mấy lần thi chỉ đạt điểm trung bình. Chỉ có lần chót, chắc nhờ sự can thiệp của một cán bộ nào đó, tôi mới được điểm trung bình khá. Trong khi các cô sinh viên – học trò ông – cười nói: Thầy viết như thế này thì làm sao đạt điểm cao được như tụi em được, vì thầy viết theo ý thầy, còn em viết “y chang” như sách, sách viết như thế nào thì trả bài “y chang” như vậy [8]. 18 tháng theo học triết lý Mác Xít-Lênin, Lý Chánh Trung vẫn chưa thuộc bài. Phải biết nói như con vẹt. Vấn đề của chúng ta ngày hôm nay – nhất là trí thức miền Bắc – là chúng ta cần biết tẩy não, giải trừ tất cả những điều do tuyên truyền bịa đặt, do nói dối trá, do che dấu quá lâu..Và sự thật sẽ giải phóng chúng ta. Nhiều người trí thức có thể không đồng ý với tôi, nhưng đó vẫn là sự thật!! Chẳng lẽ quý vị cứ tiếp tục ăn bánh vẽ mãi sao!! _______________ [1] F.A, Hayek, The road toSerfdom Đường về nô lệ, Phạm Nguyên Tường dịch, nxb Tri thức, trang 407 [2] Vân Hải, Chuyện người cùng làng, trang 15 [3] Về điểm này, sau 4 năm sống dưới chế độ ấy, tôi nhận ra lối lý luận của người cộng sản là lối lý luận thiếu tri thức luận. Tức là thiếu phê bình-. nói huỵch tẹt là lý sự cùn. Họ nói thế nào cũng được..Trong những buổi học tập chính trị kéo dài trên cả năm trời-. Họ, những cán bộ miền Bắc, ra rả chửi chế độ tư bản bóc lột, bần cùng hóa người lao động, biến họ thành tay saivv. Họ đưa trường hợp công nhân Đại Hàn chỉ hưởng có 400 đô la- một tháng. Như vậy là bóc lột công nhân. Họ thừa biết là công nhân viên nhà nước lúc bấy giờ lương bổng được 30 đô la một tháng đã là niềm mơ ước rồ. [4] F.A. Hayek, Đường về Nô Lệ, Pham Nguyên Tường, trang 406 [5] Chóe, Nguyễn Hải Chí, Tử tội, Tủ sách Tiếng Quê Huong xuất bản. Ai chưa có dịp đọc, xin mời đọc. Chóe được ông Tống Văn Công giúp cho làm Báo Lao Động mới với nhiệm vụ trình bày tờ báo. Họa sĩ Chóe qua đời ngày 12-3-2003, sau 3 tháng sang Mỹ chữa bệnh. [6] Xem Thành Tín, Mặt Thật, Hồi ký chính trị, các trang 215-218. [7] F.A. Hayek, Đường về nô lệ, Phạm Nguyên Tường dịch, nxb Tri Thức, trang 413 [8] Lý Chánh Trung, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 13-11-1988 TRÍ THỨC VÀ GIAI CẤP Trí thức là người có học, có hiểu biết, có suy nghĩ theo nhận thức khoa học. Như vậy cũng có nghĩa trí thức vượt lên trên, hay vượt ra ngoài các giai cấp. Bởi giai cấp là gì, là các tầng lớp người đang hoạt động theo các yêu cầu kinh tế nào đó nhất định trong xã hội. Cơ sở của giai cấp, như vậy là cơ sở kinh tế mà không là gì khác. Có nghĩa, khi người ta không còn hoạt động đúng nghĩa là các thành phần kinh tế nào đó nữa, lúc đó người ta cũng đã thoát ly ra khỏi giai cấp mà đã trở thành một thứ giai tầng xã hội. Trí thức, do vậy là một giai tầng xã hội, và những người hoạt động văn hóa, xã hội nói chung, kể cả giới quản lý xã hội, cũng không thuộc giai cấp nữa, mà thuộc vào một giai tầng xã hội nào đó. Ngày xưa xã hội ta hay nói “sĩ, nông, công, thương”. Có nghĩa có ba giai cấp chính, tức giai cấp kinh tế là nông, công, thương. Sĩ thật sự là giai tầng xã hội, không phải giai cấp kinh tế theo nghĩa thực tế của nó. Như thế cũng có nghĩa trong xã hội phong kiến, vua quan, tăng lữ cũng là thứ giai tầng xã hội, không phải giai cấp kinh tế, vì họ không trực tiếp làm kinh tế, không trực tiếp sản xuất kinh tế. Điều này cũng có nghĩa giữa các giai tầng và giai cấp kinh tế có thể có sự qua lại lẫn nhau, đó chính là ý nghĩa “quan nhất thời dân vạn đợi” là như vậy. Nhưng khi Mác vận dụng quan niệm biện chứng luận của Hegel để đưa vào ý nghĩa giai cấp theo quan điểm của mình, đó là việc làm mang tính cách siêu hình hóa giai cấp, bởi vậy quan điểm “đấu tranh giai cấp” theo Mác, thực sự nó đã trở thành một quan niệm thần bí, không còn ý nghĩa xã hội, ý nghĩa kinh tế, hay ý nghĩa thực tiển nữa. Từ nó nó cũng dẫn đến quan niệm cách mạng xã hội, xây dựng xã hội mới trong tương lai của Mác hoàn toàn thành phá sản, và thực tế điều này đã được lịch sử cận và hiện đại của loài người chứng tỏ. Nhưng vì bản chất giáo điều, chủ quan, độc đoán, Mác đã nâng quan niệm của mình lên thành một quan niệm chuyên chính, dó đó nó càng ngày càng đi xa xã hội nhân văn, xã hội dân sự mà thật tình lúc đầu Mác cũng có nhắm tới. Chính quan niệm chuyên chính vô sản hay độc tài vô sản đã tự nướng mất mọi tính nhân văn trong học thuyết Mác mà ai cũng đã biết. Trí thức miền Bắc cũ do hệ thống chuyên chính đã có, chỉ biết khung theo một chiều như một thân phận tất yếu thì chẳng có gì phải nói. Bởi họ không có quyền nghiên cứu hay không có quyền nói khác các tài liệu đã có từ Liên Xô thì cũng chẳng có gì đáng trách. Nhưng các trí thức miền Nam, nhất là các dạng trí thức khuynh tả mà loạt bài ông Nguyễn Văn Lục đã phơi ra, thì quả thật rất trớ trêu và trách nhiệm cũng như lỗi lầm của họ rất lớn. Đáng lẽ ra trong điều kiện được hoàn toàn tự do nghiên cứu, các trí thức ngành khoa học xã hội nhân văn miền Nam cũ phải phát huy đúng vai trò của họ, phải nghiên cứu và phê phán chính xác học thuyết Mác để làm đầu tàu trí thức khoa học cho cả nước. Đằng này họ lại hoàn toàn làm ngược lại. Tức cũng chỉ nói theo một chiều cách đơn giản, nhẹ dạ theo kiểu khuynh tả trong cách thức làm dáng hay dạng phong trào. Và điều này sau năm 75 thì họ mới thật sự hoàn toàn choáng váng mà mỗi trường hợp rất may ông Lục đã thuật lại rất rõ ràng và cụ thể. Trong khi đó, giới trí thức trương Luật của miền Nam thì hoàn toàn khác, họ đã tỏ ra điềm tĩnh và chững chạc hơn nhiều. Có lẽ họ am hiểu nhiều về luật pháp, về kinh tế, về chính trị xã hội mà giới thuần túy văn khoa của miền Nam hầu như hoàn toàn mù tịt. Còn giới trí thức khoa học tự nhiên thì không cần nói, vì chuyên môn của họ là hoàn toàn lãnh vực cơ bản hay tự nhiên, khuynh hướng chính trị của họ là khuynh hướng cụ thể cá nhân, không cần đi vào các quan niệm sâu sắc hay nhiêu khê như các ngành khoa học có liên quan đến nhân văn hoặc xã hội. Nên nói tóm lại, sự phi trách nhiệm của giới khoa học nhân văn và xã hội miền Nam cũ là điều hết sức rất đáng trách. Có nghĩa họ đã không làm hết vai trò, không đảm nhiệm đúng vai trò trí thức quan trọng của họ đối với xã hội và cả nước, tức làm đầu tàu dư luận, hướng dẫn dư luận xã hội đúng đắn, theo chiều hướng khoa học thật sự, mà thực chất họ đã tự hạ thấp theo kiểu xu thế thời sự. Cũng có thể họ e sợ tính bạo lực như thế nào đó chăng, đây cũng là giả thiết, ngoài ra còn một giả thiết khác, là một kiểu đón gió theo cách thời trang, như Lữ Phương hay Nguyễn Trọng Văn, và một số người khác thực hiện, nhưng rất tiếc là hướng gió đã xảy ra hoàn toàn không theo họ trông đợi hay không như họ mong muốn. ĐẠI NGÀN************************************* Giải Mã Lãnh Tụ: Một Đóng Góp Quan Trọng Của Trần Đức Thảo26/06/2014 Đoàn Thanh Liêm Tài liệu tham khảo chính yếu: Trần Đức Thảo – Những Lời Trăng Trối. Tác giả: Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê. Do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ ấn hành năm 2014. Sách dày 428 trang – giấy trắng, khổ chữ 12 – bìa giấy màu vàng.* * * Ở nước ta, thì có rất nhiều vị giáo sư dậy môn Triết học từ cấp trung học lên đến cấp đại học, trong đó đặc biệt là ở miền Nam, thì có một số vị được nhiều môn sinh quý trọng vì sự uyên bác với sở học vững vàng. Nhưng chỉ duy nhất có một mình ông Trần Đức Thảo (1917 – 1993) thì mới là người được gọi là triết gia – mà lại gây được sự chú ý và nể trọng trong giới học thuật riêng tại nước Pháp. Từ thời còn trẻ lúc theo học tại trung học Albert Sarraut ở Hà nội, ông Thảo đã là một học sinh xuất sắc, rồi được học bổng qua học tại Pháp. Tại đây, ông lại thi đậu vào trường Cao đẳng Sư phạm (École Normale Supérieure ENS) là một trong những cơ sở giáo dục có danh tiếng hàng đầu của nước Pháp. Và chỉ ít năm sau đó, ông Thảo đã có bằng Thạc sĩ vào lúc chưa đày 30 tuổi. Cũng như nhiều trí thức khác ở Âu châu trong thập niên 1940 – 50, ông Thảo say mê với chủ thuyết Mác xít và coi đó là một thứ kim chỉ nam cho công cuộc cách mạng xã hội ở thế kỷ XX. Vào năm 1949 – 50, ông Thảo đã có cuộc tranh luận trên báo chí với Jean Paul Sartre là một triết gia rất nổi tiếng thời ấy. Nhưng vào năm 1951, ông Thảo đã tìm cách đi qua ngả Liên Xô, Trung Quốc để về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Và thảm thương thay, kể từ đó là bắt đầu một cuộc đời bi đát đen tối vì ông bị đày đọa, nghi kỵ theo dõi kềm kẹp liên tục cho đến lúc chết ở Paris năm 1993. Năm 1991, vào tuổi 74 ông Thảo mơi lại có dịp trở lại Paris và suốt trong 6 tháng cuối đời, ông mới kịp thổ lộ tâm sự thầm kín với vài người vốn có lòng quý trọng đối với triết gia. Và nhà báo Tri Vũ ở bên Pháp đã rất công phu nghe lại các cuốn băng ghi âm về các cuộc nói chuyện đó - để viết thành cuốn sách “Trần Đức Thảo – Những Lời Trăng Trối” mà vừa được ra mắt công chúng vào tháng 5/2014. Khác với trường hợp của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường là người đã viết cuốn Hồi ký bằng tiếng Pháp nhan đề là “Un Excommunié” (Kẻ bị khai trừ, đã có bản dịch ra Việt ngữ) – ông Thảo thì không để lại một cuốn sách nào kể lại cuộc đời đày dãy những truân chuyên sóng gió của mình trong suốt 40 năm sống dưới chế độ cộng sản. Nên ta có thể coi cuốn sách này như là một sự gửi gấm cho hậu thế biết về cuộc đời nhiều cay đắng éo le của ông vậy. Vì lý do cuốn sách này vừa được nhà báo Phan Thanh Tâm ở Minnesota viết bài giới thiệu với rất nhiều chi tiết và phổ biến vào giữa tháng 6 mới đây, nên tôi thấy không cần phải trình bày dài dòng gì thêm nữa. Mà tôi chỉ xin tập trung về một khía cạnh rất quan trọng được ghi trong Chương 12 nhan đề “Giải mã Lãnh tụ” trải dài đến 70 trang (từ trang 258 đến 328). Tôi coi đây là một đóng góp rất quan trọng của ông Trần Đức Thảo trong việc góp phần “Giải trừ Huyền thọai Hồ Chí Minh” - mà mới do Nhóm của quý vị Trần Quốc Bảo và Nguyễn Hữu Lễ phát động trong vòng 7 - 8 năm nay. Xin được trình bày vấn đề dưới các mục sau đây: I – Gặp mặt lãnh tụ. 1 – Ba lần gặp gỡ trực tiếp với vị Lãnh tụ hàng đầu Hồ Chí Minh. Ông Thảo thuật lại có đến tất cả 3 lần ông trực tiếp gặp gỡ và nói chuyện với “Ông Cụ”. Còn rất nhiều lần khác, thì ông Thảo chỉ được bố trí cho có mặt “để làm cảnh” mà thôi – do đó mà không có gì đáng nói về chuyện này. Lần thứ nhất, ông Thảo gặp gỡ và nói chuyện với ông Hồ là vào tháng 6 năm 1946 tại Pháp. Lúc đó, ông Thảo là đại diện cho khối người Đông Dương sinh sống tại Pháp. Lần thứ hai là vào cuối năm 1952, ông được bố trí để gặp lãnh tụ trong ít phút thật ngắn ngủi tại một nơi trong An Tòan Khu (ATK) ở vùng Việt Bắc. Lần thứ ba là vào năm 1964, ông được chỉ định trình bày quan điểm về chiến tranh và hòa bình trước giới lãnh đạo cao cấp tại văn phòng Phủ Chủ Tịch. Ngay sau buổi thuyết trình đó, ông Hồ có nói vài câu có phần lơ là miễn cưỡng, mà không hề bày tỏ sự nhiệt tình thân mật gì đối với ông Thảo cả. Ông thuật lại là vào mấy phút cuối bài thuyết trình của ông, thì ông cụ tỏ vẻ mặt cau có vì không đồng ý với quan điểm của thuyết trình viên đã “không theo đúng với sách lược chủ chiến” của giới lãnh đạo đảng cộng sản thời ấy. Qua 3 lần trực tiếp gặp mặt và nói chuyện với “Cụ Hồ” và qua sự quan sát về sinh họat của lãnh tụ hàng đầu này trong nhiều năm, cũng như nhờ thâu thập thêm được nhiều thông tin từ những nhân vật gần gũi thân tín với “ông cụ” - mà ông Thảo đã có những nhận xét thật là chính xác, sâu sắc về ông Hồ Chí Minh – mà tôi sẽ xin ghi lại chi tiết hơn trong mục II tiếp liền sau mục I này. 2 – Những lần gặp gỡ với các lãnh tụ Trường Chinh và Lê Duẫn. Ông Thảo cũng còn thuật lại những lần gặp gỡ trao đổi với các nhà lãnh đạo cộng sản cao cấp khác nữa, đặc biệt là các ông Trường Chinh và Lê Duẫn. Vào cuối năm 1955, ông đã có dịp trao đổi chuyện trò khá lâu với ông Trường Chinh, ông Thảo cũng thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình về khía cạnh nhân bản, nhân ái của cuộc cách mạng lý tưởng – điều này khác biệt hẳn với chủ trương xúi giục hận thù giữa các tầng lớp nhân dân như trong Cải cách Ruộng đất hiện đang diễn ra thời ấy. Ông Trường Chinh trả lời hụych tọet thế này: “…Nhân lọai có tiến bộ là nhờ có chiến tranh… Vì cách mạng luôn luôn phải là ở trong vị thế của thời chiến tranh, cách mạng phải luôn luôn cần thấy rõ thù trong, giặc ngòai để mà chiến đấu!”… Với ông Lê Duẫn, lại càng tệ hại hơn nữa. Ông Thảo kể lại: “Sau này cánh Lê Đức Thọ, Lê Duẫn thì rất gờm tôi, vì biết tôi muốn ngăn cản mở lại chiến tranh. Còn một lần gặp riêng ông Lê Duẫn, thì rồi ông ấy cũng không ưa tôi, vì lúc ấy, trong cương vị Tổng bí thư, ông ta muốn tôi chấp bút viết Hồi ký cho ông ấy. Nhưng sau khi ngồi cả tiếng đồng hồ để nghe ông ta giảng giải tư tưởng của ông, tôi đành trả lời thẳng là tôi nghe ông nói mà không hiểu gì cả! Vì thế mà sau này ông ấy cũng cay ghét tôi…” II – Giải mã Lãnh tụ. Thật ra những điều ông Thảo bộc bệch tâm sự như được ghi lại trong rất nhiều trang, đặc biệt là trong Chương 12 của cuốn sách này, thì cho đến nay cũng đã có nhiều người nói đến rồi. Nhưng cái lối phân tích cặn kẽ sâu sắc của vị triết gia đã “trải nghiệm, quan sát và nghiền ngẫm trong suốt 40 năm sống trong lòng chế độ cộng sản”, thì phải coi là rất có giá trị và có sức thuyết phục rất cao đối với phần đông người Việt chúng ta. Có thể tóm tắt lại trong mấy điểm như sau đây. 1 – Ông Hồ là một người có “cuồng vọng làm lãnh tụ”. Theo dõi hành tung “xuất quỷ nhập thần” của “ông cụ” trong mấy chục năm tại khắp nơi ở hải ngọai với hàng trăm tên và bí danh khác nhau, ta dễ có thể nhận ra được cái tham vọng của một con người đa mưu túc trí, lúc nào cũng sẵn sàng làm bất kể việc gì miễn sao đạt được mục đích của riêng mình. Rõ ràng là ông nằm lòng cái lối mưu lược bá đạo của Machiavel, chứ không hề có chủ trương vương đạo theo truyền thống luân lý nhân bản của cha ông ta. Ngay cái tên ông chọn cho mình như “Ái Quốc”, “Vương”, “Chí Minh” cũng đủ nói lên cái tham vọng vượt mức của một con người làm chính trị rồi. Xin trích một số đọan ngắn như sau: “Ông cụ” là một con người cực kỳ vị kỷ, mang mặc cảm tự tôn tuyệt đối… “Ông cụ” còn có tính đa nghi như Tào Tháo ấy…Anh phải biết là cho tới nay, những ai đã từng coi thường “Người”, từng tỏ ra ngang hàng với “Người”, thì sau đều đã vĩnh viễn bị lọai ra khỏi tầm nhìn của “Người”. Không ít người đã mất mạng, mất cả xác vì dám có ứng xử tay ngang như thế đấy… Người ta ưa kể cho nhau nghe rằng: Tạ Thu Thâu đã chết mất xác vì câu nói: “Ngòai Bắc có Cụ, trong Nam có… tôi” …! 2 – Cái “Bóng Ma Mao Trạch Đông”. Vào cuối thập niên 1920, khi bị Comintern gán cho tội theo chủ trương “quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi” và bị gạt ra rìa, thì “ông cụ” tìm cách “ôm chân Mao Trạch Đông” bằng cách tuyên thệ làm đảng viên đảng cộng sản Trung quốc và gia nhập hàng ngũ Bát Lộ Quân thuộc Giải Phóng Quân Trung Quốc. Nhờ thế, mà sau ít lâu, “ông cụ” đã trở thành một lãnh tụ vượt lên trên tất cả các cán bộ nòng cốt được đào tạo chính quy bài bản ở Liên Xô như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ v.v… Mà cũng vì thế cho nên “ông cụ” mới du nhập vào nước ta bao nhiêu tai họa phát sinh từ chủ trương sắt máu bạo ngược của cộng sản Trung quốc điển hình như các chiến dịch Chỉnh Huấn, Cải Cách Ruộng Đất v.v… Và sau này, với chuyện hôi họp lén lút ở Thành Đô vào năm 1990, các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười… đã ươn hèn quy phục giới lãnh đạo ở Bắc Kinh để mà “bán đất, nhượng biển cho Trung quốc” hầu cứu vớt đảng cộng sản đang lâm nguy của tập đòan họ. Làm như vậy, chính là họ tiếp nối cái chuyện bán nước của Hồ Chí Minh từ xưa vậy. 3 – Từ Hồ Chí Minh đến Trường Chinh, Lê Duẫn …, tất cả đều rất mực hiếu sát, hiếu chiến. Trong suốt cuốn sách, ông Thảo nhắc lại đến cả mấy chục lần về việc ông tìm cách thuyết phục giới lãnh đạo cộng sản là:”Không nên chọn chiến tranh, mà phải dồn mọi năng lực vào việc xây dựng hòa bình”. Nhưng rõ ràng là tất cả các ông lãnh tụ này đều một mực hiếu chiến, nên đã phát động cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam bằng mọi giá, bất kể đến tổn thất kinh hòang về nhân mạng, hay phải trả cái giá quá đắt là lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc và Liên Xô. Và ngày nay, dù cuộc chiến đã chấm dứt từ lâu mà xã hội chúng ta vẫn chưa làm sao có thể phục hồi lại được cái truyền thống nhân bản và nhân ái của cha ông mình. Cũng vì chủ trương nhân bản hòa ái như vậy, mà ông Thảo bị họ liệt vào “lọai có vấn đề” để mà bị theo dõi, kiềm chế và trù dập rất gắt gao – đến nỗi mà ông đã phải giả vờ như người khùng, người hề, người mất trí để tránh khỏi bị ám hại. Và cuối cùng, thì ông Thảo đã phải đanh thép kết luận rằng: Tất cả những sự tệ hại tàn ác xảy ra cho đất nước và dân tộc chúng ta, thì đều do cái học thuyết “đấu tranh giai cấp” mà ra. Và người thủ phạm gốc của tệ nạn này, đó chính là ông tổ sư Karl Marx đấy! Lời xác nhận này rất quan trọng, vì nó phát xuất từ một người trí thức có tên tuổi mà hồi còn trẻ đã có sự say mê tin tưởng vào chủ thuyết Marxist và đã dám có sự can đảm hy sinh từ bỏ cả sự nghiệp và tương lai đày hứa hẹn trên đất Pháp để về tham gia công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp từ năm 1951 lúc mới có 34 tuổi. Mà rồi sau đó 40 năm với bao điều chính bản thân mình đã tai nghe mất thấy – ông Thảo đã chứng nghiệm được sự sai lầm tột độ của lý thuyết dựa trên lòng hận thù bạo ngược của chính người khởi xướng là Karl Marx. Và ông đã có sự can đảm và lòng thành thật để công khai nói lên điều đó. * * * Từ ngày qua Pháp, ông Thảo đã cố gắng viết cho xong một cuốn sách thật nghiêm túc để nêu lên sự sai lầm tai hại của chủ thuyết Marxist - với lý luận chặt chẽ dựa trên những trải nghiệm bi đát của bản thân trong hơn 40 năm sinh sống ở Việt nam. Ông phải làm việc rất thận trọng nhằm hòan thành được một cuốn sách cho thật xứng đáng với tầm vóc của một triết gia. Nhưng tiếc thay, ông đã phải ra đi ở tuổi 76 mà chưa kịp hòan thành tác phẩm quan trọng này. Vì thế mà tác giả Tri Vũ Phan Ngọc Khuê mới lấy nhan đề cho cuốn sách ghi lại những thổ lộ tâm sự uất nén đã bao nhiêu năm của ông Thảo là: “Trần Đức Thảo – Những Lời Trăng Trối” Cuốn sách chứa đựng nhiều thông tin thật quý báu để minh họa cho lập trường nhân bản, nhân ái và tính cương trực can đảm của vị triết gia có tên tuổi trong hàng ngũ trí thức ở nước ta cũng như tại nhiều nơi trên thế giới. Người viết rất hân hạnh được giới thiệu với quý bạn đọc cuốn sách thật sự có giá trị này. Hơn nữa, sự Giải mã Lãnh tụ (Deciphering) được trình bày với nhiều chi tiết xác thực trong cuốn sách sẽ giúp ích rất nhiều cho công cuộc “Giải trừ Huyền thoại Hồ chí Minh” (Demystifying) đã được phát động từ 7 – 8 năm nay. Và cuối cùng người viết cũng xin được gửi lời cảm ơn đến tác giả Tri Vũ Phan Ngọc Khuê cũng như đến Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông vì sự cống hiến thật đáng ca ngợi này./ San Clemente, California ngày 24 tháng Sáu năm 2014 Đoàn Thanh Liêm
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 21, 2014 8:52:08 GMT 9
Trung Quốc ứng xử thế nào khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp sang thăm?Tuấn Nam - theo Trí Thức Trẻ | 20/03/2014 (Soha.vn) - "Trên xe lửa, phía Trung Quốc cố ý dọn bàn ăn cho đoàn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có một chiếc bát mẻ miệng. Thật chẳng xứng mặt nước lớn chút nào!" LTS: Từ ngàn đời nay, việc "nhìn rõ bản chất thực" của Trung Quốc luôn là một ưu tiên hàng đầu để Việt Nam có đối sách phù hợp với người láng giềng cực kỳ khó lường này. Và ít ai có thể hiểu thấu Trung Quốc hơn những cán bộ ngoại giao kỳ cựu đã từng sống giữa lòng Trung Quốc. Báo điện tử Trí thức trẻ xin giới thiệu tới Quý độc giả loạt bài đặc biệt: TIM ĐEN TRUNG QUỐC: NHỮNG CHUYỆN CHƯA BAO GIỜ KỂ CỦA CÁN BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM. Bài 1: Vị đại sứ 99 tuổi kể 3 lần làm cứng họng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Bài 2: Trung Quốc ứng xử thế nào khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp sang thăm? Từ chiếc ghế không lưng dựa đến chiếc bát mẻ miệng Tiếp câu chuyện về thời kỳ làm Đại sứ ở Trung Quốc, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kể: “Lại nói chuyện Trung Quốc với Việt Nam, năm 1976, không khí quan hệ giữa hai nước đã bắt đầu đi xuống. Phía Việt Nam cử đoàn quân sự cao cấp do đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng đầu mục đích chính là sang để cảm ơn Trung Quốc. Trước khi đi, đồng chí Giáp đã nghe Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta báo cáo tình hình, nhưng có lẽ bản báo cáo của đồng chí Hoàng Bảo Sơn lúc đó còn quá lạc quan nên đồng chí Giáp chưa tin. Khi sang đến Trung Quốc, đồng chí gọi tôi đi dạo nói chuyện riêng. Tôi báo cáo là thấy tình hình xấu đi, đồng chí Giáp cũng đồng ý như vậy. Quả thật, chuyến đó Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm tỉnh Cương Sơn (di tích cách mạng của Trung Quốc) cùng với đoàn Tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên, người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì thế, khi về đến Vũ Hán họp đoàn và nhận xét chuyến thăm, cả đoàn đều bất bình. Đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng bực. Khi ấy, ai cũng muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những đối xử không tốt đó để biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi đã góp ý: "Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì". Đoàn đồng chí Võ Nguyên Giáp đồng ý với tôi và ra về. Nhưng vẫn chưa hết, trên xe lửa, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu khi cố ý dọn ăn cho cả đoàn có cả một chiếc bát mẻ miệng. Thật chẳng xứng mặt nước lớn chút nào!”. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (Ảnh: Tuấn Nam) Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (Ảnh: Tuấn Nam) Gần đến ngày sinh nhật Bác Hồ, sứ quán ta dự định chiếu phim về Hồ Chủ tịch vào buổi tối hôm 19/5. Ta đã gửi giấy mời đến sứ quán các nước trước đó 7 ngày. Lúc đó, ở Bắc Kinh có khoảng 100 sứ quán nước ngoài. Đúng buổi chiều ngày 19/5, Trung Quốc lại điện đến tất cả các sứ quán, mời đích danh các vị đại sứ đúng 17h đến Đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh để xem triển lãm về Thủ tướng Chu Ân Lai. Theo thông lệ quốc tế, bao giờ các Đại sứ cũng phải ưu tiên đối với nước chủ nhà. Thế nên cũng chiều hôm ấy, chúng tôi phải huy động toàn lực ra làm lại giấy mời, rời buổi chiếu phim của ta sang 18h chiều tối hôm sau. Thật là vất vả với cái "trò trẻ con" của phía Trung Quốc. BÀI LIÊN QUAN Vị đại sứ 99 tuổi kể 3 lần làm cứng họng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hai lần cãi lý ở sân bay Nhớ lại chuyện cũ, đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh kể tiếp: "Một lần tôi về nước báo cáo công tác. Lúc đó, muốn về Việt Nam, phải bay từ Bắc Kinh sang Moscow rồi mới bay về được Hà Nội. Ra đến sân bay Bắc Kinh, nhân viên sân bay bắt tôi đi vào cửa kiểm tra hành lý nhưng tôi không chịu. Tôi nói rằng: “Tôi là Đại sứ, tôi được miễn trừ ngoại giao. Theo nguyên tắc quốc tế nên không ai được kiểm tra khám xét. Nếu các ngài ngăn cản không cho tôi đi, tôi sẽ họp báo tố cáo các ngài vi phạm công ước quốc tế”. Sau đó, nhân viên sân bay chạy đi đâu đó, ý chừng là đi báo cáo cấp trên. Chẳng biết cấp trên của anh ta nói gì nhưng sau đó, nhân viên sân bay đó phải mở cho tôi đi theo đường không soát hành lý. Lần khác, tôi cũng ra sân bay về nước, họ lại yêu cầu tôi đưa hành lý vào cửa kiểm soát có chiếu tia X, tôi không chịu. Họ nói đây là kiểm tra an ninh nhưng tôi biết trò cản trở đó của họ. Tôi nói luôn: “Kiểm tra gì tôi cũng không đồng ý, các người nghĩ tôi là không tặc à? Từ trước tới nay tôi chưa hề được biết có nhà ngoại giao nào làm không tặc cả. Nếu nghĩ tôi là không tặc, tại sao lại chấp nhận tôi làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền bên cạnh Chủ tịch nước các người?”. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kể tiếp: “Lúc đó, tôi nói rằng tôi nói cho các người biết, là phía Trung Quốc cũng có Sứ quán ở nước tôi, mà nguyên tắc ngoại giao là đối đẳng. Nếu các ông cố tình kiểm tra hành lý của tôi, tôi sẽ báo cáo về Chính phủ, để bên Việt Nam cũng kiểm tra hành lý của Đại sứ các ông khi xuất cảnh. Mà tôi cũng phải nói trước là nước tôi thì chưa có phương tiện kiểm tra hiện đại. Khi đó, nhân viên Việt Nam sẽ phải mời Đại sứ các người mở va ly ra cho họ kiểm tra. Nếu các ông đồng ý như vậy thì hãy làm bừa đi”. Lần đó nhân viên tại sân bay của Trung Quốc lại phải chịu lý của tôi, lại phải mời tôi đi theo cửa tự do, không kiểm tra hành lý nữa. Dạo đó, Trung Quốc còn bố trí hai chiếc ô tô con luôn luôn “chầu chực” ở hai cửa của Sứ quán ta, cán bộ sứ quán mình đi đâu nó theo đấy, ngay Đại sứ nó cũng đi theo. Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ Sứ quán ta ra, đến một đoạn đường nọ, mặc dù đồng chí Quảng (lái xe ở Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh) lái xe rất đúng luật và nghiêm chỉnh đúng luật, thế mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, nói rằng anh đã vi phạm luật giao thông, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ. Giấy tờ đủ cả! Đồng chí lái xe nói: “Tôi đi đúng luật, không vượt đèn đỏ, không lấn sang làn đường của xe khác?”. Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra cái gì để bắt bẻ nữa “Anh biết rằng, trong quan hệ ngoại giao với các nước, đã hẹn là phải đúng giờ. Nếu trễ giờ thì sẽ hoảng hết. Những sự cản trở của họ có mục đích chính và chủ yếu là làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc Đại sứ nước nào đó”, tướng Vĩnh chia sẻ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 27, 2014 10:29:01 GMT 9
Ngựa Chết Hết Chuyện?HVR Thứ Ba 18/2, trang mạng của Bộ Công an CSVN chính thức loan báo Thượng tướng Phạm Quý Ngọ, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an từ trần lúc 9 g 05 phút tối tại Bệnh viện Quân đội 108. Tin này được đưa ra chẳng bao lâu sau khi Ban Nội chính Trung ương (cơ quan quyền lực cao nhất về chống tham nhũng) úp mở nói đến ý định tạm ngưng chức của Ngọ, người đã bị Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, chính phạm vụ án Vinashin, tố cáo đích danh là đã báo tin cho y biết trước sẽ bị bắt để bỏ trốn, cũng như đã nhận của Dũng khoản hối lộ tới 500-ngàn Mỹ kim. Ngoài ra Dũng còn khai thêm rằng Ngọ đã nhận hối lộ tới 1 triệu đô la của một tư bản đỏ, Trương Mỹ Lan, ‘đại gia hàng đầu về bất động sản tại Saigon’ (em gái của cựu Phó chủ tịch nhà nước Trương Mỹ Hoa). Phạm Quý Ngọ. Nguồn: OntheNet Tin về cái chết của Ngọ, tuy đột ngột, nhưng không làm cho dư luận ngạc nhiên. Điều khiến dư luận bàn tán nhiều tới ‘cách loan tin về cái chết của Ngọ’ để đi tới nhận định rằng ‘đây là cái chết không bình thường’. Nhiều bài viết, nhiều nhà báo tự do, trang blog đã vạch ra những ‘mâu thuẫn, bất nhất’ đến độ ngờ nghệch của các bản tin trên báo (đặc biệt là tờ Petrotimes). Và vì vậy, cái chết của Phạm Quý Ngọ là nguyên nhân dẫn đến rất nhiều suy luận (hợp lý) rằng đây là cái chết bắt buộc phải có để bịt lỗ thủng đang đe dọa làm đắm chiếc thuyền CSVN. Có tin nói Phạm Quý Ngọ không phải chết vì ung thư mà là ‘bị bắn vào đầu’: Và cũng có người tin rằng Phạm Quý Ngọ chỉ … ‘chết giả’ theo kế ‘kim thiền thoát xác’ mà thôi. Nhưng Ngọ chết (nếu chết thật) cũng chưa phải là đã ‘hết chuyện’ bởi vì vì Ngọ không phải là mục tiêu duy nhất hay cuối cùng mà những thế lực, phe cánh khác nhau trong Đảng CSVN nhắm tới. * Chuyện Ngọ chết thật hay chết giả, chết vì ung thư hay bị hạ sát, bị đánh thuốc độc vv có lẽ sẽ phải còn lâu mới được phơi ra ánh sáng. Tuy nhiên chuyện Ngọ chết khiến không thể không nhớ lại biết bao cái chết bí ẩn, đột ngột, không lý do –hoặc với lý do không tin nổi- của các đảng viên cao cấp trong chế độ CSVN. Những cái chết đó, tương tự như từng xảy ra ở tất cả các nước trong thế giới Cộng Sản xưa nay, đều là hậu quả của những cuộc đấu đá thanh trừng nội bộ vì tranh giành quyền bính. Có thể kể ra những cái chết bí ẩn –gọi là đột tử – ấy như sau: Những cái chết bí ẩn. Nguồn ảnh: OntheNet Dương Bạch Mai: Đại biểu Quốc Hội, từng du học bên Pháp, Liên Xô, năm 1964 bị đột tử sau khi uống ly bia giữa 2 phiên họp Quốc Hội, trước khi đọc diễn văn phản đối xã hội kiểu trại lính của Trung Cộng. Nguyễn Chí Thanh: Đại Tướng, Ủy viên BCT, Bí thư Trung ương Cục Miền Nam kiêm Chính ủy Quân GPMN. Bị đột tử gần sáng ngày 6/7/1967. Sau bữa cơm chia tay (trước khi trở vào miền Nam lần thứ hai) với Hồ Chí Minh ở Phủ Chủ Tịch, về nhà ngay đêm hôm đó, ói ra máu chết. Đinh Bá Thi: cựu Đại sứ MTGPMN tại Paris, sau khi hoạt động tình báo tại Hoa Kỳ bị lộ (vụ Trương Đình Hùng), bị sát hại bằng một tai nạn xe hơi năm 1978 tại Phan Thiết. Chu Văn Tấn: Đại Tướng, nguyên là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong chính phủ lâm thời VNDCCH, chết bí ẩn năm 1984 vì bị cho là theo phe Hoàng Văn Hoan. Hoàng Văn Thái: Đại Tướng, Tổng TMT quân đội (thông gia với Võ Nguyên Giáp). Khi chuẩn bị thay Văn Tiến Dũng trong chức Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng thì chết đột ngột đêm rạng ngày 2/7/1986. Có tin nói, Thái bị Lê Đức Thọ thanh trừng trước kỳ Đại hội Đảng VI (15/12/1986) để chặt đứt mọi vây cánh của Giáp. Trước khi chết, Thái nói với vợ “người ta giết tôi” Lê Trọng Tấn: Đại Tướng, Tổng TMT quân đội, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng. Chết thình lình ngày 5/12/1986. Có tin nói Tấn cũng bị Lê Đức Thọ thanh toán (sau khi đã giết Hoàng Văn Thái) để dẹp tan mọi chống đối trong quân đội ngay trước ngày họp Đảng. Đinh Đức Thiện: Thượng Tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần quân đội. Họ tên thật là Phan Đình Dinh, em ruột của Lê Đức Thọ (Phan Đình Khải) và anh ruột của Mai Chí Thọ (Phan Đình Đống). Năm 1987 bị “lạc đạn” chết trong lúc đi săn, nhưng tin chính thức loan báo là vì “tai nạn giao thông”. Có tin nói, Thiện bị người con trai duy nhất (lúc nhỏ bị Thiện đánh đến mù một mắt, điếc một tai đến dở điên dở khùng) bắn chết; và đây là sự dàn xếp trả thù của những người thân tín với Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn. Phan Bình: Trung Tướng, Cục trưởng Cục Quân Báo, sau khi vừa bị Lê Đức Anh tước quyền binh, bị giết ngày 13/12/1987 tại Sài Gòn (bắn vào đầu) nhưng nhà cầm quyền nói là đương sự tự sát. (Có tin nói nhiều tướng lãnh QĐCSVN phản đối, cho rằng ông ta bị ám sát, dựa theo chứng cớ tại hiện trường và nhất là việc ông ta đã bị tước súng ngắn trước đó khiến không thể tự vệ và lại càng không thể tự sát . Chuyện chưa ngã ngũ thì một tháng sau con trai của tướng Bình, cũng là một sĩ quan cao cấp của Cục Quân Báo, bị đưa vào bệnh viện tâm thần và cũng đã … đột tử tại đó không rõ lý do.) [không tìm được ảnh]. Phạm Hùng: Thủ Tướng: chết đột ngột vì bệnh tim tại Sài Gòn, ngày 10/3/1988 khi đang tại chức. (Có giai thoại kể, khi có tin Phạm Hùng chết, trong xã hội người dân truyền tụng câu thơ -nói là của nhà thơ Bút Tre Đặng Văn Đăng – rằng, “Nghe tin đồng chí Phạm Hùng, Chết ngã lăn đùng, chưa rõ nguyên nhân” Thi Văn Tám: Thượng Tướng Công An, đặc trách tình báo gián điệp, đột tử vào ngày 12/12/2008 trong lúc khỏe mạnh và vẫn liên tục đi công tác, nhưng đến ngày 15/12/2008, các cơ quan truyền thông mới đồng loạt loan tin là chết sau một thời gian dài lâm bệnh, nhưng không nói là bệnh gì. Có rất nhiều tin đồn cho rằng bị đầu độc. Nguyễn Khắc Nghiên: Thượng Tướng, Tổng TMT Quân đội, Thứ trưởng Quốc Phòng, chết bất ngờ ngày 13/11/2010. Tin chính thức nói là ‘sau thời gian lâm bệnh hiểm nghèo’ nhưng nhiều tin nói bị sát hại trước khi diễn ra Đại hội XI của đảng CS (12/1/2011). Có tin nói Nghiên bị sát hại vì thân Giáp và vì lên tiếng phản đối việc tăng cường quyền lực của cơ quan đăc trách tình báo quân đội (Tổng Cục 2). * Thành ngữ Việt nam có câu ‘chó chết hết chuyện’. Vì thế nhiều người cho rằng, với cái chết của Phạm Quý Ngọ, cuộc điều tra về lời khai của Dương Chí Dũng nay sẽ bị xếp xó để tạm thời khép lại một giai đoạn đấu đá giữa các phe phái trong Đảng hiện nay, cụ thể là giữa một bên là Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang đối đầu với Nguyễn Tấn Dũng. Báo Thanh Niên, số ngày 19/2 loan tin “thẩm phán Trương Việt Toàn – Phó chánh tòa hình sự thành phố Hà Nội – cho biết vụ án “Làm lộ bí mật Nhà nước” sẽ phải đình chỉ. Theo thẩm phán Trương Việt Toàn, thời gian và quyết định chính thức đình chỉ vụ án “Làm lộ bí mật Nhà nước” sẽ do Cơ quan Cảnh sát điều tra thực hiện. Ông Trương Việt Toàn nói rằng trong trường hợp thượng tướng Phạm Quý Ngọ qua đời, vụ án “Làm lộ bí mật Nhà nước” sẽ đình chỉ theo Điều 107 của Bộ luật Hình sự.” Thế nhưng hiện tình đấu đá trong nội bộ ở thượng tầng Đảng và nhà nước CSVN hôm nay hoàn toàn khác xa, rất xa với tình hình Việt nam ngay cả 10 năm trước đây. Ngọ chết chưa phải là đã yên, là hết chuyện. Vì vậy có thơ rằng: Mở mắt xem kìa chúng giết nhau Giết nhau bịt mối, khỏi lộ ‘sâu’ Chưa hết, nhiều thằng đang … thấp thỏm Rình mò, soi mói đợi … thịt nhau HVR
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 9, 2014 4:14:12 GMT 9
Chuyện Một Bà Bồ Của Lê Duẩn
Nguyễn Thị Cỏ May
Hằng năm, cứ tới 30 tháng 04, người việt nam tỵ nạn, tuy nay là công dân của quốc gia nơi định cư, không quên nhắc lại ngày đau thương của dân tộc và của riêng mình. Nhắc lại hoàn cảnh nạn nhơn của cộng sản.
Ai đọc qua cũng đều thương cảm nhưng ít khi thấy nạn nhơn biểu lộ thái độ đối với người từng gây ra đau thương cho mình. Chịu đựng, bỏ qua hay mau quên ? Có lẽ chính cái thái độ ứng xử này, chín bỏ làm mười,
mà ngày nay nhiều người vốn là nạn nhơn chết sống, nhục nhả của cộng sản sau 30 tháng 04 / 1975 lại về Việt nam với những lý do không thật sự cần thiết ?
Nếu muốn làm bảng liệt kê tác giả gây ra những đau thương ấy, phải kể từ Hồ Chí Minh là tên tội phạm chống nhơn loại đầu tiên mang quốc tịch việt nam, kế tìếp là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Đỗ Mười, …Cái độc ác của Đỗ Mười là cái độc ác của tên bịnh tâm thần, không giống cái độc ác, tàn bạo, dã man của nhũng người kia. Đó là cái độc ác có tính toán, có chủ trương nhằm phục vụ cho tham vọng cướp quyền và cầm quyền. Cứ xem lại có người cộng sản thứ thiệt, thứ đặc sệt nào mà không ác ?
Riêng Lê Duẩn là người thành công thực hiện quyết tâm của Hồ Chí Minh là chiếm cho được Miền nam « dù có đốt sạch dảy Trường Sơn » đi nữa. Sau khi chiếm được Miền nam, Lê Duẩn có thêm cơ hội bộc lộ cái ác, cái tàn bạo của một tên trùm cộng sản, với bản tánh thô bạo của người ít học xứ Quảng trị.
Nhỏ không học, lớn lên vào Bộ chánh trị
Người Tây phương hiểu cộng sản theo cách của họ. Cách này có thể áp dụng cho cộng sản Đông âu và liên sô. Khi tìm hiểu cộng sản á châu, như cộng sản tàu và nhứt là cộng sản ở Việt nam, thì cách hiểu biết của tây phương không còn giá trị nữa. Họ không thể hiểu sự khác nhau giửa cộng sản tàu và cộng sản ở Vìệt nam, và càng không thể hiểu sự khác nhau giửa cộng sản nam kỳ và cộng sản bắc kỳ. Trước 75 và sau 75. Nhưng đó là việc tìm hiểu cộng sản như hiện tượng bất thường của nhơn loại. Lê Duẩn là thứ sản phẩm tinh ròng của hiện tượng thời đại này do Hồ Chí Minh đem về tròng vào cổ nhơn dân việt nam gọi là làm giải phóng dân tộc.
Ngày nay, chế độ ở Việt nam thần phục Tàu, bạo ngược với nhơn dân chỉ là sự tiếp nối cái đường lối của những người tiền nhiệm nhưng về mặt tinh vi, tỏ ra kém hơn.
Những người biết rỏ Lê Dưẩn có nhận xét: Lê Duẩn là tên thô bạo do bản chất du côn ít học. Còn Lê Đức Thọ là tên mưu sỉ, gian ác, thâm hiểm do bản chất lưu manh. Bản tánh của Lê Đức Thọ gần với Hồ Chí Minh nhiều hơn. Nhưng cả hai đều coi Hồ Chí Minh không ra gì vì chính họ mới đánh chiếm được Miền nam. Hồ Chí Minh chỉ mơ chiếm được Miền nam mà thôi.
Những người cộng sản lớn tuổi, cao cấp, phản tỉnh vì quyền lợi dân tộc, kể chuyện lại. Trước khi ban hành chế độ học tập cải tạo, cán bộ hỏi ý kiến Lê Duẩn xử lý đám « ngụy quân, ngụy quyền » như thế nào ? Lê Duẩn trả lời bàng cách đưa tay phát ngang qua cổ, tức có ý bảo đem chặt đầu hết. Nhưng Võ văn Kiệt đề nghị đem những người này đi lao động tập trung. Như vậy tránh mang tiếng « tội phạm chống nhơn loại » mà còn có lợi về mặt sản xuất phục vụ ta (theo một vị giáo sư Đại học Sài gòn, sau thời gian ngắn học tập cải tạo về làm cố vần về phát triển cho ông Kiệt lúc ông Kiệt làm Thành ủy Sài gòn, kể lại tại Paris). Cả hai chủ trương đều đem lại cái chết. Chỉ khác nhau ở cách chết mà thôi.
Chuẩn bị khai diển Đệ II Thế chiến, ngày 23 tháng 8 năm 1939, Staline ký hiệp ước bất xâm lược với Hitler, coi Pháp không còn là Đồng Minh nữa. Ở Việt nam, Toàn quyền de Catroux ra lịnh thanh trừng đảng viên cộng sản đang hoạt động. Đầu năm 1940, mật thám pháp lùng bắt được những tên cộng sản đầu nảo Nguyễn văn Cừ, Tổng Bí thư đảng, Võ Đình Hiệu, Vũ Thiên Tân và Lê Duẩn đang hội họp trong một căn nhà tại ngỏ hẻm đường Nguyễn Tấn Nghiệm, Cầu Kho, Quận II, Sài gòn. Tiếp theo là Lê Hồng Phong,Hà Huy Tập và Nguyễn thị Minh Khai bị bắt ở Hóc môn. Lúc này, Thường vụ Trung ương đảng đóng tại Miền nam với Phan Đăng Lưu, Tạ Uyên, …(1). Ngoài ra, có không ít những người chống Tây mà không phải cộng sản cũng bị bắt trong chiến dịch càn quét này của nhà cầm quyền thực dân.
Theo lịch sử đảng, cuộc Nam kỳ khởi nghĩa thất bại, nhiều đảng viên cộng sản bị Tây giết, cả Nguyễn thị Minh Khai, vì nóng vội, chưa được lịnh của Hà nội mà hành động. Trong lúc đó, theo những đảng viên am hiểu chuyện thật thì lúc bấy giờ Hồ Chí Minh chỉ điểm cho mật thám pháp lùng bố tận Hóc môn, Bà điểm bắt đám Thường vụ Trung ương này để dẹp cánh ở Nam kỳ nuôi dưởng tham vọng muốn lãnh đạo cả Hà nội.
Thường vụ Trung ương ở Nam kỳ bị Pháp tiêu diệt xong, Hồ Chí Minh liền đưa Trường Chinh lên làm Tổng Bí thư lâm thời.
Ta thấy đường lối « bắc kỳ trị » này thành hình từ đó và kéo dài cho tới sau này. Hiện tượng nổi cợm nhứt là « hy sanh gọn và đẹp » Mặt trận Giải phóng Miền nam và Chánh phủ Cộng hòa Lâm thời Miền nam Việt nam, không thèm để ý tới Hiệp định Paris 1973.
Sau khi Nhựt đảo chánh Pháp 9/3/1945, Nhóm cộng sản nam ký Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguyễn văn Tạo, Nguyễn văn Tây, Huỳnh văn Tiểng, Ngô Tấn Nhơn, Phạm Ngọc Thạch, …tưởng bở, lập Ủy Ban Hành chánh Nam bộ với ý định sẽ lập một nước Nam kỳ cộng sản dưới sự lãnh đạo của họ. Lập tức Hồ Chí Minh cho Cao Hồng Lĩnh, Hoàng Quốc Vìệt vào Nam kiểm soát tình hình, nắm lại quyền lãnh đạo kháng chiến chống Tây, đưa Trần văn Giàu và Dương Bạch Mai về Hà nôi « hưởng qui chế cô lập ».
Nhựt đầu hàng. Lê Duẩn, ra tù Côn Đảo, được Hồ Chí Minh đề cử làm Bí thư Xứ Bộ Nam kỳ. Cùng hoạt động trong Nam có cả Lê Đức Thọ. Từ đầu năm 1950, Lê Duẩn đươc đề cử Bí thư Trung ương Cục Miền nam, bao gồm Miền nam Việt nam và cả Cao-miên.
Sau 1954, Lê Duẩn bám trụ ở lại, trốn tại khu Bàn cờ, Sài gòn, tổ chức cán binh không tập kết để chờ ngày nổi dậy.
Lúc này, Lê Duẩn đi lại Hà nội-Sài gòn qua ngã Cao-miên bằng thông hành mang tên một người tàu do Bà LKD, vợ bé của Lê Duẩn, cung cấp (2).
Bà LKD
Phần trên đây để phát họa lại sơ lược tình hình ở Nam kỳ lúc mở màng Nam Bộ Kháng chiến. Chủ yếu là muôn nói thêm về Bà LKD mà tác giả Hứa Hoành viết về Lê Duẩn có đề cặp tới như một nhơn vật rất quan trọng, đóng góp lớn cho sự nghiệp của Lê Duẩn. Bà LKD là ai ? Có đúng như ông Hứa Hoành nói về bà, mô tả con người của bà ? Trong vai trò hoạt động cho Lê Duẩn xâm chiếm Miền nam, bà LKD đã làm gì ở Sài gòn cho tới ngày mất Miền nam. Sau đó, bà LKD qua Paris và làm gì nữa? …
Bà LKD được ông Hứa Hoành viết tắt bằng ba mẫu tự LKD. Tên của bà viết đầy đủ và rỏ ràng là Lai Kim Dung.
Người nam kỳ, chắc có họ hàng xa gần với Tàu nên mang họ Lai ? Bà ở một căn phố đường Trần Hưng Đạo, Chợ Quán, vừa qua khỏi đường Nguyễn Biểu. Nhắc lại cho rỏ đó là dảy phố một từng lầu nhưng đơn vị gia cư thì riêng biệt từng đơn vị một, trước kia lính pháp ở.
Bà Lai Kim Dung có tên phổ thông là Cô Năm Nhựt bổn vì bà có chồng người Nhựt bổn trong một thời gian ngắn và thôi. Lúc cuối 1960 và đầu 1970, Kai Kim Dung có một người chồng trẻ và có một đứa con trai lúc bấy giờ chừng hơn mươi tuổi, có tên tây là thằng « Be » ( Robert, Albert, … ?).
Về dung nhan, tuy bà tên Dung, nhưng không lấy gì làm đẹp lắm và người không cao quá 1,60m. Không nghe nói bà có chồng thương gia tàu giàu có.
Cũng như nhiều người việt nam khác ở Sài gòn lúc bấy giờ, bà Lai Kim Dung không có việc làm rỏ ràng để có lợi tức đều đặng mà chỉ « lấy món hàng của bên này, đem bán cho bên kia, kiếm lời ». Việc làm này kiếm sống được lúc quân đội huê kỳ và Đồng minh tới Vìệt nam đông. Nhưng lắm khi cũng bị hụt cẳng. Có lần lấy hàng đi bán, không trả tiền hàng lại cho chủ hàng là Cô Sáu ký giả ở Cầu Kho, bị Cô Sáu tới nhà đòi. Bà né tránh. Cô Sáu phải tới nhà bà khi vừa hết giới nghiêm, lúc vợ chồng còn đang ngủ, và kéo cẳng bà thức dậy đòi nợ.
Không biết đây là khổ nhục kế hay lúc bà gặp khó khăn thiệt ?
It lâu sau, bà Lai Kim Dung, sau khi trả đủ tiền cho Cô Sáu ký giả, nhờ Cô Sáu giới thiệu cho bà chủ cây xăng ở ngay đầu đường Nguyễn Cư Trinh với Trần Hưng Đạo, cạnh Rạp hát Hưng Đạo, để bà mua miếng đât chổ mủi tàu Phú Lâm cất nhà máy xay lúa. Bà Lai Kim Dung vừa đưa tiền mặt, vừa đưa vàng vòng, hột xoàng đặt cộc tiền mua đất. Từ đây, bà không thèm lui tới, gặp gở những người quen củ, cả Cô Sáu Ký giả.
Nhà máy xay lúa mộc lên đồ sộ với tên Cữu Long và bà làm Giám đốc. Lúc bấy giờ, chánh quyền ông Nguyễn văn Thiệu cấm lưu hành gạo tự do với lý do phong tỏa lương thực việt cộng. Đường bộ đi Mìền trung thường bị gián đoạn vì việt cộng phá hoại, chỉ còn đường hàng không và đường biển lưu thông mà thôi.
Thế là bà Lai Kim Dung được độc quyền phân phối gạo ra Miền trung, hợp tác với bà Sáu Huyết, cô của Tổng thống Nguyễn văn Thiêu.
Và cũng tại nhà máy Cữu Long, tinh báo mỹ bắt được Trung tá tình báo Nguyễn Công Tài, con của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Khai thác không được. Mỹ có ý định cho « nhảy dù » xuống biển, nhưng sau đó nhận lời Hà nội trao đổi với tù binh mỹ.
LKD ở Paris và chống cộng
Chỉ ít lâu sau 30/04/1975, bà Lai Kim Dung tới Paris bằng máy bay tỵ nạn cộng sản với 200kg hành lý. Bà mở một cửa hàng bán tạp hóa trên đường d’Ivry, Paris 13, tức tại con đường chánh của khu chợ tàu ngày nay. Bà tích cực tham gia hoạt động chống cộng như biểu tình, hội hè, …Bà đóng góp tiền bạc rất hậu hỉnh. Các tổ chức chống cộng ở Paris trông cậy vào bà khi muốn làm việc gì vì bà, ngoài đóng góp, còn lảnh bao chót khi thiếu tiền.
Đến lúc ông Đại tá (Vo Dai Ton) ở Úc ra quân, đi khắp thế giới vận động tinh thần đồng bào và loan báo ông sẽ về Việt nam làm kháng chiến phục quốc. Lần cuối ở Paris, tại chùa Khánh Anh, ông nói chuyện với bà con ở Paris và ông đã khóc để từ giả bà con. Làm mọi người ai cũng khóc theo ông.
Sau đó, ông tới nhà một người bạn ở Metz, thành phố miền Đông-Bắc xứ Pháp. Sáng hôm sau, người bạn đưa tới Liège, Bỉ, để ông trở về Úc, chuẩn bị lên đường phục quốc. Trời vào mùa đông, tuyết phủ trắng khắp nơi. Đại tá rất hân hoan vì lần đầu tiên trông thấy tuyết. Ông yêu cầu ngừng xe để ông bước xuống lội trong tuyết cho biết. Ông nhờ chụp cho ông vài tấm hình ông đứng trong tuyết.
Sau đó nghe tin ông bị vìệt cộng bắt trên đất Lèo và dẩn về Hà nội. Được biết ( vì nhìn thấy) ông đi tới Thái lan bằng giấy tờ của một người đồng hương với ông cùng định cư ở Úc và rất nhiệt tình ủng hộ ông.
Và ông cũng được bà Lai Kim Dung qua Thái lan đón tiếp và ủy lạo ông. Vé máy bay cho ông do bà Lai Kim Dung đài thọ.
Thời gian sau, khi Lê Duẩn chết, bà Lai Kim Dung về Hà nội dự đám ma. Lúc trở qua Paris, bà đưa hình đám ma, có bà và thăng con trai đội khăn tang, cho mọi người quen biết xem. Bà dẹp tiệm ở Paris, trở về Việt nam sanh sống luôn từ đó.
Xin đừng đặt câu hỏi tại sao ta thua, tại sao các tổ chức người việt hải ngoại ngày nay chống nhau, đánh nhau, tự nó từ từ tan rả.
Miền nam không mất, các tổ chức người Việt nam ở hải ngoại ngày nay không chửi nhau, không đánh nhau, không chia năm xẻ bảy, mới là điều bất thường !
Nguyễn thị Cỏ May
Ghi chú: (1) và (2) Hứa Hoành, Lê Duẩn “ Đ iều bí ẩn về Lê Duẩn ” trên internet
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 4, 2014 6:36:12 GMT 9
LÊ ĐỨC ANH Đặng Chí Hùng - Lê Đức Anh là một tên cai phu cao su có nhiều tội ác với những người dân lành. Đây là kẻ đã từng tiếp tay cho thực dân Pháp đánh đập nhân dân ta. Đó là tội ác không thể dung tha. Đặc biệt, Lê Đức Anh có vai trò rất quan trọng trong việc bán nước của đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó chúng ta cần phải thấy rõ được bộ mặt thật của Lê Đức Anh để nhân dân một ngày gần đây xét xử trước công luận về tội ác này. Đó chính là lẽ phải và chính nghĩa mà chúng ta phải đấu tranh vì một dân tộc Việt Nam trường tồn mãi mãi... I. Ác ôn giả danh dân lành: 1. Lý lịch hiện nay: Theo tài liệu được cung cấp trên trang chính của báo điện tử cộng sản thì Lý lịch của Lê Đức Anh như sau: “Họ và tên: Lê Đức Anh Bí danh: Sáu Nam Ngày sinh: 1920 Quê quán: xã Bàn Môn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế Ngày tham gia cách mạng: 1937 Ngày vào Đảng: 30-5-1938 Trình độ học vấn: Văn hóa lớp 7/10, Lý luận chính trị: Trường Đảng Việt Bắc, Học viện Quân sự cao cấp Liên Xô. TÓM TẮT QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC Từ 1937 đến 1945: Tham gia phong trào dân chủ ở Phú Vang, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5/1938, Chỉ huy quân đội vũ trang ở Thủ Dầu Một; Trung đội trưởng, Chính trị viên đại đội, Chính trị viên tiểu đoàn, Trung đoàn ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một, Ủy viên Ban Chấp hành cao su Nam Bộ. Từ 10/1948 đến 1950: Được cử giữ các chức vụ: Tham mưu trưởng Khu 7, Khu 8; Khu Sài Gòn-Chợ Lớn, Quân khu ủy viên. Từ 1/1951 đến 1975: Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Nam Bộ, Cục phó Cục Tác chiến, Cục phó thứ nhất Cục Quân lực, Cục trưởng Cục Quân lực, Phó Tổng tham mưu trưởng, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền, Tư lệnh Quân khu 9, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Trung tướng (1974). Từ 1975 đến 1976: Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, Tư lệnh cánh quân Tây Nam, Tư lệnh Quân khu 9, Bí thư Quân khu ủy, Đại biểu Quốc hội khóa VI. Từ 12/1976: Tại Đại hội IV được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu 7 (1978), Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thượng tướng (1980). Từ 6/1981: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Tại Đại hội V (3/1982) của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị, Đại tướng (1984). Từ tháng 2/1987 tháng 9/1992: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tại Đại hội VI (12/1986) và Đại hội VII (6/1991) được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị. Đại biểu Quốc hội khóa VIII. Từ 1992: Được Quốc hội khóa IX bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội VIII (6/1996), được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức Chủ tịch nước. Từ 12/1997: Được Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.”. Theo tài liệu dạy lịch sử tóm tắt của cộng sản Việt Nam thì tiểu sử tóm tắt của Lê Đức Anh như sau: “Lê Đức Anh (sinh 1920), nhà hoạt động quân sự, chính trị Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam; đại tướng. Quê làng Bàn Môn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tham gia cách mạng từ 1937. Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Tổ chức và phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, các đồn điền Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch (1944). Gia nhập lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam (8.1945). Thời kì 1945 - 54, đã kinh qua các chức vụ từ cấp trung đội, đại đội, tiểu đoàn, chi đội, trung đoàn, tham mưu trưởng Khu VII, Khu VIII, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, tham mưu phó rồi quyền tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Cục phó Cục Tác chiến, cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng tham mưu, phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Quân giải phóng Miền Nam (1964 - 68). Tham gia chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Jansơn Xiti (Junction City)) của Mĩ vào căn cứ của Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền ở Tây Ninh (1967); đánh vào khu vực Chợ Lớn trong cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968. Tư lệnh Quân khu IX (1969 - 74). Phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm tư lệnh cánh quân Tây Nam đánh vào Sài Gòn (1975). Từ 5.1976 đến 1978, tư lệnh Quân khu IX, tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu VII. Thành viên của Ban Lãnh đạo chuyên gia và Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (2. 1979). Tháng 12.1986 - 87, tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm phó bí thư Quân ủy Trung ương. Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992 - 97). Ủy viên Bộ Chính trị (khóa V - VIII); Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, ủy viên thường vụ Bộ Chính trị (6.1996 - 12.1997). Đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX. Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (12.1997 - 4.2001). Huân chương Sao vàng, huân chương Quân công hạng nhất, huân chương Chiến thắng hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác.” (1) Ngoài ra trên wiki tiếng Việt (có sự chấp thuận của cộng sản) thì lý lịch của Lê Đức Anh cũng không có gì khác so với bản lý lịch nêu trên. Nó chỉ có thêm 2 chi tiết chính đó là Lê Đức Anh có bí danh Sáu Nam và nhắc tới con trai là Lê Mạnh Hà, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Con trai là Lê Sỹ Hiệp, Vụ trưởng, Thư ký Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. (2) Qua 3 tài liệu của cộng sản ta có thể thấy lý lịch của Lê Đức Anh khá sạch. Nhưng sự thật có phải như thế không? Chúng ta sẽ được thấy ngay sau đây. 2. Lý lịch bất minh: Lý lịch của Lê Đức Anh đã được chính các cán bộ cộng sản đề nghị xem xét vì có nhiều bất minh. Hãy theo dõi những tài liệu dưới đây để thấy điều này. Thứ nhất, về các bản khai lý lịch của Lê Đức Anh đã cho thấy sự mâu thuẫn. Sau đây là lược trích dẫn nội dung thư của 3 tướng cộng sản Phùng Thế Tài, Lê Tự Đồng và Nguyễn Quyết như sau: Một tài liệu tháng 11-1976, khi Lê Đức Anh tham gia Đại hội 4 và được đề cử vào Ban chấp hành Trung ương. Lúc đó Lê Đức Anh là Tư lệnh Quân khu 9. Tài liệu này ghi: “- Thành phần gia đình: Trung nông; Bản thân: Viên chức - Tham gia cách mạng: 1937 - Vào Đảng: 7 - 1945 - Chính thức: 8 - 1945 Bản thân học đến năm 1937, ra dạy tư ở Phú Vang, được kết nạp Đảng vào năm 1938, nhưng chưa sinh hoạt chi bộ. Giữa năm 1939, người anh rể (Hồ Văn Nguyên) bị bắt nên mất liên lạc. Cuối năm 1939 vào Hội An, năm 1940 vào Đà Lạt - Lộc Ninh. Tháng 11 năm 1944 tiếp mối liên lạc hoạt động trong công nhân cao su. Tháng 7-1945 được giao nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa. Lấy đó làm ngày kết nạp và lấy ngày 30-8-1945 là ngày làm Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một làm ngày chính thức”. Một tài liệu nữa làm tháng 8 - 1986 trước Đại hội 6. Lúc đó Lê Đức Anh là Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp Campuchia, Ủy viên Bộ Chính trị. Trước đó Lê Đức Anh là Tư lệnh Quân khu 7. Tài liệu này ghi như sau: “- Thành phần gia đình: Trung nông - Bản thân: Công nhân - Ngày và nơi tham gia cách mạng: 1937 - Ngày nhập ngũ: Tháng 8 - 1945 - Ngày vào Đảng: 30 - 5 - 1938 - Ngày chính thức: 05 - 10 - 1938 1937: Tham gia phong trào Bình Dân ở Phú Vang, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5 năm 1938. Giữa năm 1939, địch khủng bố mất liên lạc, vào Hội An, Đà Lạt, Thủ Dầu Một làm ăn. 4-1944: Được giao các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quảng Lợi. 8-1945: Chỉ huy quân đội vũ trang Thủ Dầu Một, làm trung đội trưởng, chính trị viên đại đội, chính trị tiểu đoàn, chính trị viên chi đội 1, sau là trung đoàn 301, trung đoàn ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một”. Rõ ràng 2 bản lý lịch khai ngày vào đảng khác nhau và từ đó có 1 số vấn đề xảy ra khiến các quan chức cộng sản kỳ cựu đặt vấn đề. Phải nói rằng, trong công tác Đảng viên của cộng sản thì vấn đề Đảng tịch bất cứ thời kỳ nào cũng là vấn đề quan trọng hàng đầu. Điều lệ Đảng quy định:“Đảng viên chỉ được tính tuổi Đảng từ khi được kết nạp Đảng chính thức. Có nghĩa rằng chỉ có thể chính thức được công nhận là Đảng viên từ ngày được chi bộ chính thức kết nạp”. Trong bản tóm tắt lý lịch lần thứ nhất (tháng 11 - 1976) của Lê Đức Anh có ghi rõ: chưa sinh hoạt chi bộ. năm 1939 thì mất liên lạc. Cho dù được kết nạp dự bị năm 1938 thì cũng không thể kết nạp chính thức, vì chưa sinh hoạt chi bộ. Bản tóm tắt lý lịch này còn ghi là: “Tháng 11 - 1944 tiếp mối liên lạc hoạt động trong công nhân cao su”. Vậy, tiếp nối liên lạc hoạt động gì? Hoạt động Đảng là hoạt động với tư cách đảng viên chính thức hay đảng viên dự bị? Giả định đã tiếp mối liên lạc về Đảng thì sau đó hoặc là được kết nạp dự bị lại, hoặc là sau một thời gian thử thách được chính thức kết nạp vào Đảng. Trong tóm tắt lý lịch tháng 11-1976 không nói điều này. Xin lưu ý là từ tháng 4 - 1944 đến tháng 7 - 1945 là 1 năm 3 tháng. Lúc đó đang là cao trào cách mạng tiền khởi nghĩa, có vùng Đảng đã hoạt động bán công khai. Bản tóm tắt lý lịch tháng 11 - 1976 còn ghi là: “Tháng 7-1945 được giao nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa. Lấy đó làm ngày kết nạp và lấy ngày 30-8-1945 là ngày làm Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một làm ngày chính thức”. Việc dùng từ “lấy đó” chính là việc mập mờ kết nạp và chưa kết nạp đảng của Lê Đức Anh. Bản tóm tắt lý lịch tháng 11-1976 ghi: Thành phần là “viên chức”. Viên chức là thuộc thành phần tiểu tư sản. Được kết nạp năm 1938, nhưng không có ngày. Điều lệ Đảng cộng sản trước đây quy định: “Thời gian dự bị của những người được kết nạp Đảng thành phần tiểu tư sản là 6 tháng. Còn xuất thân thành phần công nhân thời gian dự bị là 3 tháng”. Cho nên khi khai ngày kết nạp (dự bị) là 30 - 5 - 1938 và ngày chính thức là 05-10-1938 (cách nhau 4 tháng 6 ngày thì tất nhiên kèm theo đó phải khai tụt xuống là xuất thân công nhân). Vì nếu xuất thân viên chức thì thời gian dự bị phải là 6 tháng. Rõ ràng là Lê Đức Anh khai man lý lịch. Bản tóm tắt lý lịch tháng 11 - 1976 ghi: “Tham gia Mặt trận Bình Dân, bị địch khủng bố mất liên lạc vào Nam Bộ làm ăn. Tháng 4-1944, tiếp tục hoạt động”. Như vậy là chỉ nói tham gia Mặt trận Bình Dân, không nói rõ tham gia Đảng. Chỉ nói “mất liên lạc vào Nam Bộ làm ăn. Tháng 4-1944 tiếp tục hoạt động”. Như vậy là từ năm 1939 đến tháng 4 năm 1944 làm ăn, không hoạt động gì, thời gian đó là hơn 5 năm. 5 năm không phải là thời gian ngắn. Bản tóm tắt lý lịch tháng 11-1976 như vậy, thế thì làm sao lại có thể sinh ra trong bản tóm tắt lý lịch lần 2: “ngày vào Đảng là ngày 30-5-1938, ngày chính thức là ngày 05- 10 - 1938?” Vì sao đến năm 1986 lại nhớ cụ thể ngày tháng kết nạp chính thức đến như vậy? Nếu được kết nạp chính thức rồi mà trong suốt 5 năm ấy, sao không tìm cách bắt liên lạc với Đảng? Khi vào Hội An, phong trào cách mạng ở Hội An, Duy Xuyên, Quảng Nam rất mạnh. Tổ chức Đảng và các tổ chức công khai như các hội ái hữu, các nghiệp đoàn đều hoạt động mạnh, ngay trong Sở đạc điền mà Lê Đức Anh làm thư ký cũng có tổ chức quần chúng của Đảng. Rõ ràng có sự man trá trong lý lịch của Anh. Xem nguyên văn bức thư tại: (3) Lê Đức Anh và Thủ tướng X Thứ hai, ông Năm Thi là một cộng sản kỳ cự trong bức thư gửi Lê Đức Thọ yêu cầu xác minh lý lịch và các vấn đề về Lê Đức Anh viết ngày 2 - 8 - 1986 có nói: “Đầu năm 1945, tôi (Năm Thi là Ủy viên Ban cán sự Thủ Dầu Một) được phân công đến Lộc Ninh để kiểm điểm khả năng tổ chức lực lượng Mặt trận Việt Minh... Tháng 2-1945 một tổ chức Mặt trận Việt Minh trong công nhân cao su... Ngày vào Đảng năm 1945 (của đồng chí Lê Đức Anh) do Đảng bộ Thủ Dầu Một có thể là đúng. Còn trước năm 1945, tôi (Năm Thi) chưa thấy rõ vì không có sự giới thiệu nào là một đồng chí đảng viên nằm vùng... Nhiều đồng chí chí cho rằng: đồng chí Lê Đức Anh chưa được kết nạp hoặc chưa được kết nạp chính thức. cho nên mới dùng cái từ “lấy đó làm ngày kết nạp, lấy đó làm ngày chính thức”. Vì vậy, yêu cầu thẩm tra đảng tịch đồng chí Lê Đức Anh của nhiều đồng chí lão thành cách mạng là có lý do xác đáng. Nhiều đồng chí cán bộ, đảng viên nghi vấn đồng chí Lê Đức Anh chưa được kết nạp vào Đảng là có lý do... cần phải Điều tra lý lịch ngày vào Đảng có phải là 44 hay 39?...” Như vậy rõ ràng Lê Đức Anh tự khai vào Đảng ngày 30 tháng 5 năm 1938 và chính thức ngày 05 tháng 10 năm 1938 là khai man. Thứ ba, một bức thư khác của 3 ông tướng cộng sản Phùng Thế Tài, Lê Tự Đồng và Hoàng Minh Thảo đề ngày 2/4/2001 cũng đã cho thấy Lê Đức Anh là một nhân vật bất minh ngay cả với cộng sản:“Ngoài những điểm trên, chúng tôi xin hỏi Ủy ban kiểm tra Trung ương có nghe đồn về việc Lê Đức Anh đã khai man lý lịch để nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và đã có thời kỳ làm cai phu Đồn điền. Nghe đâu đã có một đồng chí đã tố giác việc này. Thực hư ra sao chúng tôi không rõ, nhưng đây là vấn đề bảo vệ trong sạch của Đảng và cũng là sinh mệnh chính trị của đảng viên, rất mong Ủy ban kiểm tra Trung ương có xác minh, kết luận rõ ràng.”. 3. Lê Đức Anh thực chất là ai? Lê Đức Anh học tiểu học ở Huế, năm 11 tuổi ra Vinh học tiếp nhưng chỉ được một vài năm. Huy Đức viết: “Học vấn của ông Lê Đức Anh ở mức đọc thông viết thạo” (QB, tr. 103). Và con ngươi thật của Lê Đức Anh ra sao? Hãy đọc những tài liệu sau đây: Thứ nhất, hãy đọc thêm một bức thư nữa của một số vị cộng sản kỳ cựu để thấy lý lịch của Lê Đức Anh thế nào và Lê Đức Anh là ai. “Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 02 năm 2005 Kính gởi: - Bộ chính trị - Ủy ban kiểm tra trung ương đảng - Ban chấp hành trung ương đảng khóa 9 Đồng kính gởi: - Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Đ/c Lê Khả Phiêu, nguyên tổng bí thơ - Đ/c Nguyễn Đức Tâm, nguyên ủy viên bộ chính trị, trưởng ban tổ chức trung ương Chúng tôi gồm: 1. Phạm Văn Xô (Hai Xô) sinh năm 1910, vào đảng năm 1930, nguyên ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp; ủy viên thường vụ Trung ương Cục miền Nam - trưởng ban kiểm tra trung ương Cục thời chống Mỹ, nguyên ủy viên ban chấp hành trung ương đảng; ủy viên ban kiểm tra trung ương khóa 3, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh. 2. Đồng Văn Cống (Bảy Cống), trung tướng, sinh năm 1918, nguyên trung đoàn trưởng trung đoàn 99 Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp; tư lệnh quân khu 9, phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam, ủy viên quân ủy Miền thời kháng chiến chống Mỹ; tư lệnh quân khu 7, phó tổng thanh tra quân đội sau ngày đất nước thống nhất, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) sinh năm 1920, nguyên ủy viên ban cán sự đảng, ủy viên tỉnh ủy, ủy viên thường vụ tỉnh ủy Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương) từ năm 1942 đến năm 1946, chi đội trưởng chi đội I, liên trung đoàn trưởng 301-310, tư lệnh đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn (1950), bí thư đảng bộ nhà tù Côn Đảo (1953) thời kháng chiến chống Pháp; chủ nhiệm hậu cần bộ chỉ huy Miền thời chống Mỹ, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh. Có thư báo cáo và kiến nghị lên các cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng mấy điểm sau đây: Thời gian qua, nhiều cán bộ lão thành cách mạng và cựu chiến binh cao tuổi ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ đến gặp chúng tôi hỏi tình hình nội bộ đảng. Họ đưa chúng tôi xem nhiều tài liệu mà con cháu họ truy cập được từ Internet. Trong các tài liệu đó, có thư của nhiều tướng lĩnh và lão thành cách mạng gửi bộ chính trị và trung ương khóa 9, đặc biệt là thư ngày 3-1-2004 của đại tướng Võ Nguyên Giáp; các thư của thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, nguyên ủy viên trung ương đảng các khóa 5, 6, 7; của đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh, 65 tuổi đảng, nguyên cục trưởng cục tổ chức Tổng cục chính trị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, ủy viên trung ương đảng khóa 3; của đồng chí Nguyễn Tài, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên thứ trưởng bộ công an, phó chủ nhiệm ủy ban pháp luật của quốc hội khóa 8. Các bức thơ tâm huyết đó đều kiến nghị bộ chính trị phải sớm đưa ra hội nghị trung ương đảng xem xét và xử lý một loạt các vụ việc nghiêm trọng liên tiếp xảy ra trong đảng hàng chục năm qua, trong đó có vụ T4, từng được bộ chính trị khóa 8 bàn giao lại cho bộ chính trị khóa 9 và được coi là "một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng" nhưng đến nay vẫn chưa vạch mặt những kẻ cầm đầu để xử lý một cách triệt để. Những vụ việc trên, chúng tôi ít nhiều đều có nghe, có biết. Qua các thư trên, chúng tôi càng hiểu rõ hơn. Nhưng do phải chờ kết luận của trung ương, chúng tôi không thể giải thích cho những người đến hỏi. Nay xin báo cáo và cung cấp một số tư liệu để trung ương có thêm căn cứ xem xét nguồn gốc các vụ việc nói trên. Theo chúng tôi thì những vụ việc nghiêm trọng xảy ra trong hơn hai chục năm qua, từ vụ Xiêm Riệp (1983), Sáu Sứ (1991), vụ nâng Cục 2 lên thành Tổng Cục 2 với quyền hạn siêu đảng, siêu nhà nước, được hợp pháp hóa bằng pháp lệnh tình báo của quốc hội và nghị định 96/CP của chính phủ, vụ T4 (1997-1999), đến vụ nói xấu, vu khống nhằm lật đổ tổng bí thư Lê Khả Phiêu trước đại hội 9, v.v., đều có bàn tay của nhân vật từng hoạt động cách mạng và kháng chiến ở Nam Bộ mà chúng tôi đều biết rõ. Đó là nguyên cai đồn điền cao su, nguyên chủ tịch nước, nguyên cố vấn Lê Đức Anh. Vì sự trong sạch và vững mạnh của đảng, với ý thức trách nhiệm của những người cộng sản từng gắn bó với đảng và hoạt động ở Nam Bộ hơn sáu bảy chục năm qua, chúng tôi xin báo cáo với đảng một số hiểu biết về Lê Đức Anh như sau: 1. Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su như tự khai trong lý lịch mà là người phụ trách việc chế biến thực phẩm cho chủ đồn điền và các quan chức Pháp ở Lộc Ninh (chef des cooperatives) từ đầu thập kỷ 40 của thế kỷ 20, được anh chị em công nhân cao su đặt cho biệt danh là "cai lé", do chột mắt vì bệnh đậu mùa. Lê Đức Anh là người giúp việc thân cận của chủ đồn điền De Lalant (Delalande?), một sĩ quan phòng nhì của Pháp. Lương của y cao như lương của chef de camp. Năm 1955, sau khi bộ đội Nam Bộ tập kết ra miền Bắc, đồng chí Trần Văn Trà là tư lệnh kiêm chính ủy, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh là phó chính ủy, đồng chí Đồng Văn Cống làm tham mưu trưởng, Lê Đức Anh làm tham mưu phó. Thấy Lê Đức Anh không được vào đảng ủy, đ/c Đồng Văn Cống hỏi thì đ/c Vịnh trả lời: "Qua lớp chỉnh đảng ở Việt Bắc, lý lịch của Lê Đức Anh không rõ, nên không giới thiệu". Trong một lần tâm sự với Lê Đức Anh, đ/c Đồng Văn Cống hỏi: "Nghe người ta nói cậu là surveillant?". Lê Đức Anh không trả lời. Đ/c Đồng Văn Cống hỏi tiếp: "Hay cậu là 2è bureau (phòng nhì)?". Lúc ấy Lê Đức Anh mới trả lời: "Tôi làm công chức cho đồn điền". Đến Đại hội đảng lần 4 năm 1976, đ/c Đồng Văn Cống, Lê Đức Anh và Nguyễn Chánh Nam Bộ cùng dự đại hội, sinh hoạt trong đoàn quân sự. Khi xem danh sách giới thiệu vào trung ương khóa 4, thấy ghi Lê Đức Anh là công nhân cao su, đ/c Đồng Văn Cống hỏi: "Sao cậu khai là công nhân?". Lê Đức Anh ấp úng trả lời: "Họ ghi sai, tôi là công chức!". 2. Lê Đức Anh không phải là đảng viên từ năm 1938 mà từ tháng 4 năm 1945, khi ban cán sự đảng Thủ Dầu Một tuyên bố tổ chức y vào đảng và giao nhiệm vụ cho y về gây dựng cơ sở cách mạng ở đồn điền cao su Lộc Ninh trong một cuộc họp có 8 người, trong đó có đồng chí Năm Thi tham dự, vì thấy y tỏ ra hăng hái trong phong trào công nhân cao su ở Lộc Ninh sau ngày Nhật đảo chánh Pháp. Cuộc họp đó do bí thơ Văn Công Khai chủ trì bàn việc phối hợp với phe đồng minh chống phát xít Nhật theo chủ trương chung của mặt trận Việt Minh. Do man khai đảng viên từ năm 1938, nên năm 1998, Lê Đức Anh được tặng huy hiệu 60 năm tuổi đảng, được báo chí, truyền hình rầm rộ đưa tin trên cả nước! Đầu năm 2002, để tiếp tục "hợp thức hóa" đảng tịch của mình, Lê Đức Anh cho công chiếu trên đài truyền hình trung ương bộ phim tài liệu nhan đề "Đồng chí Lê Đức Anh" vào tối mùng 4 Tết. Không tìm được "nhân chứng lịch sử" nào sáng giá hơn, người ta cho xuất hiện một ông anh trong gia đình để xác nhận "Lê Đức Anh từng đậu Đíp-lôm (bằng Thành Chung) và vào đảng năm 1938!". 3. Lê Đức Anh đã hai lần để sổng toàn quyền Decoux, thống đốc Nam Kỳ Hoffen và chủ đồn điền De Lalant, sĩ quan phòng nhì của Pháp. Trong cuộc đảo chánh Nhật-Pháp ngày 9-3-1945, quân Nhật bắt được toàn quyền Pháp ở Đông Dương Decoux và thống đốc Nam Kỳ Hoffen tại Sài Gòn, sau đó giải về giam ở nhà De Lalant, chủ đồn điền cao su ở Lộc Ninh. Đ/c Năm Thi được giao nhiệm vụ dẫn một đội vũ trang lên Lộc Ninh tìm cách bắt sống hoặc tiêu diệt tiểu đội bảo vệ của Nhật, rồi tổ chức dẫn độ Decoux và đồng bọn lên Buôn Mê Thuột để đưa ra Bắc chuyển giao cho trung ương. Đ/c Năm Thi đã bàn bạc với Lê Đức Anh và nhất trí lên kế hoạch phối hợp hành động. Nhưng đêm hôm sau, y bất ngờ hủy bỏ kế hoạch, viện cớ sẽ bị quân Nhật kéo lên khủng bố, phá vỡ cơ sở cách mạng của y! Tháng 9-1945, khi chỉ huy quân Anh vào Nam vĩ tuyến 16 tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật, tướng Gracey đòi Nhật trao Decoux và đồng bọn cho quân đội Anh. Để ngăn cản việc đó, tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ trương cắt đường giao thông từ Lộc Ninh về Sài Gòn, bằng cách đốn cây cản đường từ Lộc Ninh về Hớn Quản rồi phục kích tiêu diệt lực lượng áp giải để bắt bọn Decoux, đơn vị của Lê Đức Anh đã được bổ sung thêm vũ khí để thực hiện nhiệm vụ này. Y nhận lệnh nhưng đã tránh né, cử người khác làm thay. Tên này đã lệnh cho tự vệ dỡ cây và mở đường cho bọn Nhật đưa Decoux, Hoffen và De Lalant về Sài Gòn an toàn! 4. Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, Lê Đức Anh đã bỏ chạy, không tổ chức cho lực lượng võ trang đánh trả quân Pháp tập kích vào Thuận Lợi, phá hủy một khối lượng lớn cơ sở vật chất dự trữ của miền Đông. Để chuẩn bị cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến, ta chủ trương di chuyển máy móc thiết bị, vật tư, lương thực của các đồn điền cao su và các địa phương miền Đông Nam Bộ về khu vực Thuận Lợi (Phú Riềng cũ) thuộc công ty cao su Dầu Tiếng là địa bàn ở sâu trong hậu phương ta. Trong khi quân Pháp tập kích Thuận Lợi, Lê Đức Anh và lực lượng võ trang thuộc quyền của y đang đóng trên đất Thuận Lợi nhưng đã không tổ chức chiến đấu đánh trả quân địch mà bỏ chạy dài về Cổng Xanh, chiến khu Đ. Do đó, Thuận Lợi bị quân Pháp đốt cháy toàn bộ kho tàng, nhà cửa trong ba ngày đêm liền. Nghe tin tư lệnh Nguyễn Bình sẽ xử tử mình vì tội đó, Lê Đức Anh bèn lánh mặt, đưa quân về vùng Bắc Bến Cát. (Lúc ấy, đ/c Năm Thi là ủy viên thường vụ tỉnh ủy, chi đội phó, kiêm tham mưu trưởng chi đội I Thủ Dầu Một nên biết rõ việc này). 5. Từ năm 1979 đến 1989, lãnh đạo và chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu và giúp bạn ở Campuchia, Lê Đức Anh đã phạm nhiều sai lầm về chính trị và quân sự. - Về chính trị: ngoài vụ Xiêm Riệp bắt nguồn từ chủ trương "đánh địch ngầm" do Lê Đức Thọ và Lê Đức Anh đề ra, Lê Đức Anh đã có nhiều biểu hiện và hành vi coi thường bạn, cho kiểm tra nhà ở của một số ủy viên bộ chính trị đảng nhân dân cách mạng Campuchia, bao biện làm thay, can thiệp vào công việc nội bộ, bắt bớ đảng viên của bạn khiến bạn phản ứng và nghi ngờ tình cảm quốc tế trong sáng của đảng, nhà nước và quân đội ta. - Về quân sự: đã đánh giá quá thấp kẻ địch, chủ trương "trong năm 1980, quét sạch quân địch ngoài địa hình mà trọng điểm là vùng rừng Ô-Ran, đồng thời hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ phá tan âm mưu địch dùng phần tử hai mặt lũng đoạn đảng và chính quyền của bạn". Đã chỉ đạo chiến tranh theo kiểu ăn đong, năm này chưa xong thì năm sau, kéo dài đến mười năm vẫn chưa diệt được đối thủ mà Lê Đức Anh gọi là "tàn quân" Pôn Pốt! Từ cuối năm 1979, Lê Đức Anh đề ra chủ trương "khóa chặt biên giới", "xây dựng tuyến phòng thủ biên giới" với mật danh K5 bằng cách huy động đông đảo nhân dân các địa phương nước bạn, từ rừng núi đến đồng bằng lên biên giới cùng quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội bạn chặt cây, đào hào, rải chông và căng giây thép gai nhằm ngăn chặn quân Pôn Pốt từ Thái Lan vào đất Campuchia (!). Mặc dù ta và bạn đã bỏ ra nhiều công sức và tiền của trong nhiều năm, nhưng biên giới vẫn không "khóa chặt" được, địch vẫn mở được hành lang qua biên giới vào nội địa, xây dựng được nhiều căn cứ dọc biên giới, có nơi vào sâu đến 30, 40 kilômét. Do chủ trương sai lầm của Lê Đức Anh mà hàng chục vạn cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam cũng như bộ đội và nhân dân bạn đã bỏ xác trên tuyến biên giới dài 1.200 km cũng như trong nội địa do bị địch đánh úp, do mìn và sốt rét ác tính! Mặc dù vậy, đến năm 1983, Lê Đức Anh vẫn cho rằng ở Campuchia chưa có chiến tranh, chỉ mới là những "hoạt động du kích" của "tàn quân Pôn Pốt". Chúng sẽ bị tàn lụi vào năm 1985 như nghị quyết của ban cán sự và bộ tư lệnh 719! Khi bộ phận tiền phương của cục khoa học quân sự bộ tổng tham mưu tại Campuchia đề nghị nên có sự đánh giá khách quan hơn, có sự chỉ huy chiến tranh bài bản hơn trên cơ sở nghiên cứu tính chất và đặc điểm của cuộc chiến tranh ở Campuchia để tìm ra quy luật đặc thù của nó, thì Lê Đức Anh nổi giận, ra lệnh cho cơ quan tiền phương cục khoa học quân sự gồm 10 đại tá phải rút ngay về nước, trả lại cho bộ tổng tham mưu với lý do "tinh giản biên chế ở chiến trường!". Có những sai lầm khuyết điểm như trên, nhưng Lê Đức Anh vẫn thăng tiến rất nhanh, từ ủy viên trung ương khóa 4 lọt vào bộ chính trị khóa 5 rồi tiến lên nắm chức bộ trưởng bộ quốc phòng, chủ tịch nước! 6. Trong quan hệ gia đình, Lê Đức Anh là người chồng phản bội: Ra Bắc được mấy năm, Lê Đức Anh nói với đ/c Đồng Văn Cống là sẽ xin lấy vợ khác, vì bà Bảy Anh trong Nam đã lấy chồng, lại thuộc thành phần gia đình phản động làm tay sai cho địch! Đ/c Đồng Văn Cống nói: "Hôm ở Cao Lãnh tôi thấy chị Bảy khóc rất dữ khi tiễn Anh đi tập kết; nghe nói sau đó chị về công tác ở miền Đông, căn cứ vào đâu mà anh nói Chị đi lấy chồng và theo địch? Tôi không tán thành". Nhưng rồi nhờ sự ủng hộ của Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh vẫn bỏ được vợ cũ, lấy được vợ mới. Trong lúc đó thì trong hoàn cảnh đấu tranh khốc liệt và gian khổ ở miền Nam, chị Bảy Anh vẫn một lòng kiên trung chờ đợi và tiếp tục hoạt động cách mạng, làm ủy viên tỉnh ủy Bình Dương cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng! Khi biết chuyện này, các đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Thị Định và đồng bào cán bộ miền Nam đều rất bất bình, cho Lê Đức Anh là một tên vô đạo đức! Thưa bộ chính trị và ban chấp hành trung ương đảng! Đây không phải lần đầu tiên các đảng viên Nam Bộ báo cáo với đảng những hiểu biết nói trên về Lê Đức Anh. Từ năm 1982, khi được tin Lê Đức Anh vào bộ chính trị khóa 5, đồng chí thiếu tướng Tô Ký và hai đồng chí Bảy Cống và Năm Thi bàn nhau và đã làm báo cáo gởi ủy ban kiểm tra trung ương đảng và thường vụ thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, nhưng không có hồi âm! Cuối năm 1986 đầu năm 1987, khi thấy Lê Đức Anh lại được bầu vào bộ chính trị rồi làm bộ trưởng bộ quốc phòng sau hai cái chết bất ngờ của hai đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn, đ/c Nguyễn Văn Thi lại viết thơ tay gởi trực tiếp đến các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Lê Đức Thọ nói rõ lai lịch và những hành động đáng ngờ của Lê Đức Anh trước và sau cách mạng tháng 8-1945, nhưng 18 năm qua các khóa trung ương vẫn chưa có trả lời. Đến Hội nghị trung ương 11B khóa 8 tháng 2 năm 2001, trước thủ đoạn nói xấu, vu khống quá lộ liễu của Lê Đức Anh nhằm lật đổ tổng bí thơ Lê Khả Phiêu, đồng chí Hai Xô đang làm việc ở Hà Nội biết đ/c Năm Thi từng có đơn tố giác, bèn gọi Năm Thi ra gặp các đồng chí Hai Xô, Nguyễn Đức Tâm, Mười Hương và ủy ban kiểm tra trung ương để làm rõ quá khứ của Lê Đức Anh (đ/c Đồng Văn Cống không ra Hà Nội trực tiếp báo cáo, đã phát biểu vào băng ghi âm gởi ra ủy ban kiểm tra trung ương vào đầu tháng 3 năm 2001). Trong cuộc họp đó, đ/c Nguyễn Đức Tâm xác nhận: khi làm trưởng ban tổ chức trung ương, có nhận được thơ tố giác của đ/c Năm Thi, đã báo cáo với Lê Đức Thọ nhưng được trả lời là gác lại, giải quyết sau. Thấy Lê Đức Anh được Lê Đức Thọ bảo vệ, đ/c Nguyễn Văn Linh đành phải gác qua. Cũng trong cuộc họp đó, đ/c Hai Xô phát biểu: "Nếu không chặn đứng được mưu đồ của Lê Đức Anh và đồng bọn, thì tình hình nội bộ đảng sẽ ngày càng nghiêm trọng!". Như vậy là hơn hai chục năm qua, qua nhiều lần đại hội đảng và nhiều khóa trung ương, chúng tôi đã nhiều lần nói rõ về Lê Đức Anh, nhưng mãi cho đến nay lai lịch, và các hành vi sai trái của nhân vật này vẫn chưa được xác minh và xử lý, gây tác hại nghiêm trọng đến sự trong sạch và vững mạnh, sự đoàn kết và thống nhất của đảng. Chúng tôi nhất trí với ý kiến của đại tướng Võ Nguyên Giáp là "ban chấp hành trung ương khóa 9 cần xử lý kiên quyết, dứt điểm, nghiêm minh những vụ việc tồn đọng nói trên theo đúng điều lệ của đảng, pháp luật của nhà nước, và kỷ luật của quân đội, dù người đó là ai, ở bất kỳ cương vị nào!". Chúng tôi tán thành ý kiến của các đ/c Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Nam Khánh, Nguyễn Tài v.v. là "không cho phép duy trì mãi một tổ chức siêu đảng, siêu chính phủ, không thể để Tổng Cục 2 tồn tại với quyền hạn quá rộng như nghị định 96/CP cho phép, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ tình báo quân sự trực thuộc bộ tổng tham mưu như trước đây". Không cho phép tái diễn những hành vi hãm hại người trung thực, như người ta từng vu khống, tước quân hàm và định bắt giam thượng tướng Trần Văn Trà, sau đó phải trả lại quân hàm mà không công bố; từng vu khống với ý đồ hãm hại đại tướng khai quốc công thần Võ Nguyên Giáp! Chúng tôi cho rằng: không chỉ riêng vụ T4 mà toàn bộ những vụ việc xảy ra mấy chục năm qua là những mắt xích của một vụ án chính trị nghiêm trọng nhất trong lịch sử 75 năm của đảng, có quan hệ đến sự tồn vong của đảng và đất nước. Đây không phải là "chuyện ngày xưa" của mấy vị cách mạng lão thành mà các khóa bộ chính trị và trung ương sau này không thể làm rõ được. Không! Đây là những vấn đề lịch sử quan trọng cần xác minh để soi sáng những vụ việc ngày nay. Mảnh đất Lộc Ninh và không ít nhân chứng cùng thời vẫn còn sống. Chỉ cần có trách nhiệm, có dũng khí và quyết tâm là làm được! Chúng tôi sẵn sàng có một cuộc đối chất trực diện nếu có bộ chính trị yêu cầu! Không thể vin vào lý do: "ổn định nội bộ" mà bỏ qua và che giấu việc này, vì nhiều tài liệu đã được công bố trên Internet, nên trong đảng cũng như ngoài đảng, trong nước cũng như ngoài nước, nhiều người đã biết các vụ việc xảy ra. Hồ chủ tịch nói: "Một đảng che giấu khuyết điểm sai lầm của mình là một đảng hỏng!". Bộ chính trị càng bưng bít thì càng mất uy tín, càng làm giảm lòng tin của đảng viên và quần chúng đối với trung ương. Đúng như đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh đã cảnh báo: "Đang có những làn sóng bất bình ngầm ngày càng lan rộng. Sự yên lặng hiện nay là sự yên lặng của những quả bom nổ chậm chưa đến giờ hẹn". Tình hình trong Nam cũng vậy. Kính mong bộ chính trị và ban chấp hành trung ương lắng nghe tiếng nói đầy tâm huyết của các tướng lĩnh, các cán bộ cách mạng lão thành mà quá trình hoạt động và sự đóng góp cho cách mạng đã chứng minh sự trung thành của họ. Giải quyết dứt điểm và thành công vụ án chính trị siêu nghiêm trọng này, kiên quyết loại trừ những phần tử cơ hội ra khỏi các cơ quan quyền lực của đảng và nhà nước, chấm dứt các hiện tượng cá nhân lũng đoạn là việc làm cấp thiết và cực kỳ quan trọng để chuẩn bị cho đại hội toàn quốc lần thứ 10 của đảng. Đây cũng là việc làm thiết thực kỷ niệm 75 năm ngày thành lập đảng ta! Xin gởi đến các đồng chí bộ chính trị và trung ương lời chào trân trọng và rất mong được sớm trả lời! Xin cám ơn. Phạm Văn Xô Địa chỉ: 225-18 Xô Viết nghệ Tinh, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh - Điện thoại: 8.991300 Đồng Văn Cống Địa chỉ: 774-2 Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh - Điện thoại: 8.447328 Nguyễn Văn Thi Địa chỉ: 20B88 Cư xá Nguyễn Trung Trực, đường 3-2, quận 10, TP. Hồ Chí Minh - Điện thoại: 8.655878”. Qua bức thư chúng ta thấy gì? Đó là chính cộng sản đã khẳng định Lê Đức Anh là cai cao su ác ôn chứ không phải viên chức hay công nhân. Vậy mà hắn dám giả danh người lương thiện. Đó là tội ác cần được phanh phui. Ngoài ra xung quanh con người này cũng là một sự thủ đoạn và chống phá ngay cả đồng chí của mình. Do đó nhân cách của Anh chỉ là số không tròn trĩnh. Thứ hai, để khẳng định Lê Đức Anh là cai lé đánh đập phu đồn điền cao su chúng ta cùng đọc đoạn trích sau từ báo cáo tổng cục chính trị bộ quốc phòng cộng sản năm 2005: “Việc một số nguồn tin đồng chí Lê Đức Anh đã từng có thời gian làm phu coi đồn điền cao su là có thật. Tuy nhiên sau đó đồng chí đã công khai minh bạch điều này với tổng cục chính trị, ban bí thư trung ương đảng năm 1995. Xét công lao và thành tích của đồng chí trong 2 cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc và trong suốt quá trình làm cai phu đồng chí không gây tội ác nào với nhân dân nên đảng và nước thống nhất chấm dứt mọi nghi kỵ xung quanh việc này...”. Mặc dù báo cáo là vậy. Tuy nhiên nếu đọc đầy đủ các báo cáo mật của Vũ Quốc Hùng, hay thư của Nguyễn Chính Tâm (cộng sản kỳ cựu) cho thấy Lê Đức Anh là một kẻ nhan hiểm và mưu mô đấu đá như bản thân cái gốc cai phu độc ác của mình: “Nhằm hạ bệ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trước Đại hội IX bằng việc gây sức ép nhiều mặt để yêu cầu Ban Chấp hành Trung ương phải kỷ luật Lê Khả Phiêu trước khi tổ chức Đại hội IX (bởi vì Lê Khả Phiêu đã qua mặt cả Lê Đức Anh và Đỗ Mười, có ý định giải tán Ban Cố vấn hay chọc gậy bánh xe, không muốn để cho 2 ông Thái thượng hoàng này lộng quyền đứng trên Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương để sai khiến) nên Lê Đức Anh cùng tay sai là Nguyễn Bắc Son đã tiến hành những hoạt động hết sức mờ ám, bỉ ổi, thâm độc và vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và Điều lệ Đảng. Có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó sự tác động và chỉ huy của Lê Đức Anh và Đỗ Mười đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc ngăn chặn Lê Khả Phiêu tiếp tục ứng cử chức vụ Tổng Bí thư trong Đại hội IX của Đảng. Cũng chính vì vậy mà một kẻ ba phải, thiểu năng về trí tuệ nhưng tham lam và hãnh tiến, có mác là người dân tộc thiểu số đã được Đỗ Mười và Lê Đức Anh chọn làm Tổng Bí thư để dễ bề sai khiến. Còn kẻ phản thầy Trần Đình Hoan đã được thưởng cho chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương để còn sắp xếp đệ tử của Đỗ Mười, Lê Đức Anh vào các vị trí then chốt, béo bở của bộ máy Đảng và Nhà nước; Nguyễn Khoa Điềm, đàn em thân tín của Lê Đức Anh đã được bố trí vào Bộ Chính trị để giữ chức Trưởng ban Tưởng Văn hóa Trung ương. Đáng tiếc là hình thức kỷ luật của Trung ương đối với Lê Đức Anh và Đỗ Mười là quá nhẹ (chúng tôi không rõ khiển trách hay cảnh cáo) và không được thông báo rộng rãi trong toàn Đảng để tất cả các đảng viên đều biết. Hơn nữa vấn đề man khai ngày vào Đảng của Lê Đức Anh cho đến nay vẫn chưa được kết luận chính thức. Đây không chỉ là trách nhiệm, khuyết điểm của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII mà còn là trách nhiệm nặng nề của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương khóa IX. Vì vậy vấn đề Đảng tịch của Lê Đức Anh cần được làm sáng tỏ trước khi tổ chức Đại hội X của Đảng để lấy lại lòng tin của đảng viên và các cán bộ cách mạng lão thành đối với Đảng. Điều đáng buồn hơn nữa là tên tay sai đắc lực của Lê Đức Anh là Nguyễn Bắc Son (kẻ đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và điều lệ Đảng lại được Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trần Đình Hoan đạo diễn, bố trí giữ chức Bí thư tỉnh ủy Thái Nguyên để chui tiếp vào Ban chấp hành Trung ương khóa X. Qua đó chúng ta cũng thấy là thế lực của Lê Đức Anh, Đỗ Mười đang còn khá mạnh và tư cách của Nông Đức Mạnh, Trần Đình Hoan lại quá kém. Cũng may là Hội nghị Trung ương 13 đã loại được Trần Đình Hoan, Nguyễn Chí Vịnh, Nguyệt Việt Tiến... khỏi danh sách ứng cử viên Ban chấp hành Trung ương khóa X. Hy vọng Hội nghị Trung ương 15 và Đại hội X sẽ sáng suốt hơn để loại tiếp Nguyễn Bắc Son và cả Nông Đức Mạnh (vì đã quá tuổi 65, năng lực kém, tham lam, hãnh tiến, nhu nhược, thiếu bản lĩnh quyết đoán nên đã để cho Đỗ mười và Lê Đức Anh lộng hành sai khiến, chỉ biết yêu bản thân mình và nhiều tai tiếng như các thư phản ánh và góp ý kiến của các đồng chí nguyên ủy viên Trung ương Đảng các khóa trước đây như Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, Trung tướng Nguyễn Hòa, đồng chí Lê Văn Hiển, đồng chí Nguyễn Trung Tín …, các lão thành cách mạng như đồng chí Nguyễn Văn Thi, Trần Đại Sơn …) ra khỏi danh sách mà Ban chấp hành Trung ương khóa IX giới thiệu cho Đại hội X. Nguyễn Chính Tâm Lão thành Cách mạng, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng” (4) Thứ ba, về con người Lê Đức Anh cũng là một kẻ lá mặt lá trái và cũng quen thói cộng sản đó là nói thì hay và làm thì khác. Hẳn chúng ta còn nhớ trong vụ án của anh Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng thì chính Lê Đức Anh đã nói: “Sử dụng bộ đội để cưỡng chế là tuyệt đối sai”. Nhưng cuối cùng thì Lê Đức Anh đã làm gì? Chỉ là nói mà thôi để rồi bè lũ cướp ngày của đồng chí X đưa anh Vươn vào tù trong khi Lê Đức Anh được tiếng “ vì dân”. Đó chính là bộ mặt thật của Lê Đức Anh cũng giống như nhiều ông già cộng sản “chỉ tốt, chỉ phản tình” khi hết ăn của dân được nữa. Ngoài ra, Lê Đức Anh còn là một tên tay sai hèn hạ của Lê Đức Thọ. Bằng chứng, đó là vào ngày 30/4/1975, Lê Đức Thọ hống hách ra lệnh cho Đại sứ Pháp là ông Mérillon phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Sau đó cần Pháp, thì lại sang quỵ lụy như việc vào năm 1989, sang chữa bệnh ung thư ở nhà thương quân đội Val de Grace, ở vùng Paris, năn nỉ Pháp giúp đỡ sau khi biết rõ Liên Xô sẽ sụp đổ, và thất bại trong việc năn nỉ Hoa Kỳ giúp đỡ, vì Hoa kỳ chú trọng đến Trung Cộng lúc bấy giờ. Việc năn nỉ Pháp cũng không mang đến kết quả vì Pháp cũng không có dồi dào về kinh tế và Pháp đặt điều kiện là phải dân chủ hóa chế độ. Điều kiện mà Thọ không chịu. Sau đó Lê Đức Thọ hèn hạ quay sang năn nỉ Trung Cộng. Chính Thọ đã ra lệnh cho 2 tay em của mình là Đỗ Mười và Lê Đức Anh thi hành lệnh của mình, nên mới đi đến quyết định họp với Trung Cộng ở Thành đô vào tháng 3/1990, một cuộc họp bán nước toàn diện cho Trung cộng tiếp nối ý tưởng của Hồ Chí Minh. Thứ tư, tội ác của Lê Đức Anh còn thể hiện khi hắn cùng Lê Đức Thọ chỉ đạo đánh sang cả Thái Lan vi phạm luật pháp quốc tế (Xin xem lại “Những sự thật cần phải biết - Phần 22”). Để khẳng định rõ vai trò của Lê Đức Anh trong vụ này chúng ta nên chú ý tới cuốn sách hồi ký“Cuộc chiến tranh bắt buộc” của đại tá cộng sản Nguyễn Văn Hồng. Cuốn sách có đoạn: “Tôi nhớ cũng trong mùa khô năm 1982-1983, khi tiến công một loạt các căn cứ còn lại dọc biên giới từ Ô-đa xuống Com Riêng, trung đoàn bộ binh 31 đã cho một lực lượng vượt qua biên giới Campuchia-Thái Lan, bố trí phục kích trên một con đường mòn chạy từ phía Nam lên Ô-đa-con đường này thuộc lãnh thổ Thái Lan. Trong lúc ta đang tiến công vào trận địa, thì có một toán lính theo con đường này tiến vào trận địa, anh em đã nổ súng diệt gọn toán địch. Khi tiến lên thu vũ khí, mới biết được toán địch này là lính biên phòng Thái Lan qua trang bị, phù hiệu và cấp hiệu đeo trên ve áo. Lập tức, máy bay trinh sát và máy bay C130 của không lực Thái lên quần lượn và bắn phá dọc biên giới. Chúng đã dùng súng mát 12,7 mm từ trên máy bay vãi đạn xuống đội hình của quân ta. Trước tình hình đó, các đơn vị điện lên Sở chỉ huy sư đoàn: -Có được bắn máy bay không? Đây là một tình huống ngoài dự kiến nên chưa có sự chuẩn bị trước. Chúng tôi đã báo cáo lên Sở chỉ huy Mặt trận. Hôm sau, Mặt trận tăng cường xuống cho chúng tôi mấy cơ cấu phóng A72 (loại tên lửa vác vai đi theo đội hình bộ binh). Tôi ra lệnh cho các đơn vị: -Hãy sẵn sàng! Nếu máy bay bắn vào đội hình của ta thì kiên quyết phải bắn hạ! Song do địa hình ở đây có ảnh hưởng đến tính năng kỹ thuật của loại súng hỏa tiễn này và cũng do trình độ sử dụng súng của anh em chưa tốt, nên khi có máy bay, ta bắn đến 5 quả đạn mà không đạt được kết quả. Tuy nhiên, đây cùng là lời cảnh cáo đối với nhà cầm quyền Thái Lan đã dung túng, bao che cho bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xa-ri, can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia.”. Qua đoạn trích chúng ta thấy điều gì? Đó là quân đội cộng sản đã vi phạm chủ quyền Thái, bắn chết lính Thái nhưng không xin lỗi mà còn dùng tên lửa phòng không vác vai bắn máy bay của quân đội Thái Lan. Điều đáng nói là quân của Nguyễn Văn Hồng đã xin ý kiến “trên”. Mà “trên” ở đây chính là Lê Đức Anh chỉ huy trực tiếp chiến trường Campuchia giai đoạn đó. Và quyết định đến việc đánh hay không trên đất Thái chính là một kẻ quyền thế hơn nhiều đó chính là Lê Đức Thọ. Bạn đọc có thể đọc toàn bộ cuốn sách tại trang của đội ngũ hồng vệ binh cộng sản: (5) Lê Đức Anh và “đồng chí “ Lú. II. Tham gia tích cực Bán nước: Lê Đức Anh là một tên cai phu cao su độc ác. Không những vậy nổi bật lên là tội ác bán nước cho Trung cộng một cách tích cực cùng bè đảng cộng sản. Hiện nay đã có rất nhiều tài liệu nói rõ ràng về điều đó. Thứ nhất, để vấn đề được minh bạch sáng tỏ, hãy đọc cuốn “Hồi ký Trần Quang Cơ” của ông Trần Quang Cơ, nhân chứng lịch sử giữ vai trò quan trọng trong Bộ Ngoại Giao của cộng sản Hà Nội vào thời điểm đó. Về vai trò làm đầu sai trong việc đưa nước ta vào tròng ách nô lệ giặc phương Bắc của Nguyễn Văn Linh, TBT đảng cs VN và Lê Đức Anh - đại tướng. Ông Trần Quang Cơ viết: “Ngày 5.6.90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ lòng trọng thị đối với Bắc Kinh. Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói: "Trong quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa". Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để "bàn vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội" vì "đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội... chúng âm mưu diễn biến hòa bình, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì XHCN, nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội... Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay... Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin ….Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19.6 trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán 11-13.6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Quốc (tham tán Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và Trương Đức Duy. Còn đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng vụ Trung Quốc biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6.6, anh Lê Đức Anh đã nói khá cụ thể về "giải pháp Đỏ": "Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng, danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn như thường... Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi...”. Việc bán nước cho Trung cộng còn được Trần Quang Cơ tiết lộ thông qua sự dắt mối của Vũ Xuân Vinh, ông Trần Quang Cơ viết: “Theo Hồ Càn Văn, ngày 23.5.90 Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh đã mời Tùy viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến để thông báo là TBT Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi đến Hà Nội.” Qua đây cho thấy được là Lê Đức Anh chính là một tên bán nước và nhiệt tình trong việc đưa Việt Nam thành nô lệ cho Trung cộng. Thứ hai, bên cạnh hồi ký của Trần Quang Cơ là “hồi ký” của đại sứ Trung cộng Trương Đức Duy tại Hà Nội cùng thời điểm đó. (Bản tiếng Việt của dịch giả Quốc Thanh). Trước hết là những cuộc gặp bí mật giữa Lê Đức Anh với đại sứ Tầu Trương Đức Duy và giữa TBT Nguyễn Văn Linh với Trương Đức Duy do chính sứ Tầu viết. Về vai trò làm tay sai cho giặc của Lê Đức Anh, cũng chính do đại sứ Tầu Trương Đức Duy viết: “Hơn 10 năm qua, quan hệ Trung-Việt ở trạng thái không bình thường, sứ quán không có mối liên hệ nào với người tin cậy bên Nguyễn Văn Linh, vậy thì nên thông qua con đường nào đây để yêu cầu được gặp riêng một cách ổn thỏa hơn? Tôi triệu tập ngay cuộc họp Đảng ủy mở rộng, mời mọi người bàn bạc ra mưu sách. Ý tưởng thông qua con đường Vụ đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam thì sợ sẽ không giữ được bí mật, mà cũng khó để thực hiện “gặp riêng”. Có đồng chí nêu xem có thể thông qua con đường quân đội được không? Tôi cho như thế sẽ khá là ổn thỏa, lại càng có lợi hơn cho việc bảo mật. Thế là tôi liền nghĩ tới Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh Cục trưởng Cục đối ngoại Bộ quốc phòng mà tôi khá thân thiết, từ ngày đến Việt Nam lần này, tôi đã gặp ông ta vài lần, quan hệ rất tốt, có thể thông qua ông ta để yêu cầu được gặp Đại tướng Lê Đức Anh (Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Bộ quốc phòng) thân thiết với Nguyễn Văn Linh, rồi xin Lê Đức Anh giúp đỡ bố trí cho tôi bí mật gặp Nguyễn Văn Linh. Mọi người thấy biện pháp này có thể được. Thế là tôi lập tức cho Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ chính thức với Cục trưởng Vũ Xuân Vinh. Khi gặp Cục trưởng Vũ Xuân Vinh, Tùy viên quân sự Triệu đã trịnh trọng đề xuất: “Đại sứ Trương có việc gấp và quan trọng muốn được gặp Bộ trưởng Lê Đức Anh. Xin Cục trưởng bố trí cho ngay”. Chiều hôm đó, Vũ Xuân Vinh trả lời Tùy viên quân sự Triệu rằng: “Đồng chí Đại tướng rất vui lòng được gặp đồng chí Đại sứ, 8 giờ sáng hoặc 7 giờ tối mai đều được. Đại tướng còn nói, sau này đồng chí Đại sứ có muốn gặp ông thì cứ Cục đối ngoại Bộ quốc phòng bố trí là được”. Vào 8 giờ sáng ngày 20 tháng 8, xe của tôi chạy thẳng vào Bộ quốc phòng. Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh đón đợi ở cổng tòa nhà, dẫn tôi vào phòng tiếp khách của Bộ trưởng rồi lui ra, khép chặt cửa lại. Tôi đang tiến thẳng vào thì Bộ trưởng Lê Đức Anh cũng bước vào phòng khách từ một cửa khác, khi gặp nhau Lê Đức Anh bắt tay, ôm tôi rất nhiệt tình. Tôi nói xã giao: “Thực sự được xin lỗi, mới sáng ra đã tới làm phiền đồng chí Đại tướng”. Đại tướng Lê Đức Anh mỉm cười bảo: “Đại sứ đến lúc nào tôi cũng tiếp”. Trong phòng khách ngoài hai chúng tôi ra, không có ai đi theo. Chuyện trò hàn huyên xong tôi chuyển ngay sang chủ đề chính, đầu tiên bày tỏ lãnh đạo Trung Quốc rất coi trọng mối quan hệ Trung-Việt, hiện nay tình hình quốc tế phát triển rất nhanh, thời gian không chờ đợi mình, cả hai bên cần chớp lấy thời cơ, nhanh chóng loại bỏ trở ngại là vấn đề Campuchia, từ đó thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Sau đó tôi nhắc đến lời nhắn của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã được ghi lại gửi cho tôi, tôi cảm thấy hết sức quan trọng, cho nên mong được gặp riêng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh để trực tiếp lắng nghe ý kiến của Tổng bí thư, đồng thời tôi cũng có một vài điều nữa cần nói với Tổng bí thư. Tôi nói, hiện giờ mà thông qua con đường khác sẽ có khó khăn, cho nên xin phiền đồng chí Đại tướng giúp cho. Lê Đức Anh nói rất thoải mái: “Đây quả thực là việc hết sức quan trọng, hôm nay tôi sẽ báo cáo lại yêu cầu của Đại sứ với Tổng bí thư”. Tiếp đó, Lê Đức Anh cũng nói về hai quan điểm, đại ý là: Thứ nhất, nhấn mạnh Nguyễn Văn Linh rất có tình cảm với Trung Quốc, luôn chủ trương thân thiện với Trung Quốc, từ sau khi nhậm chức Tổng bí thư vào năm 1986 đã làm rất nhiều việc để khôi phục lại mối quan hệ giữa hai nước hai Đảng. Trước tình hình thế giới phức tạp như hiện nay, việc thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước lại càng trở thành niềm mong muốn ấp ủ của ông ấy...” Và cuộc gặp giữa Trương Đức Duy và Lê Đức Anh có kết quả diễn tiến theo lời kể của Trương Đức Duy như sau: “Chiều hôm đó, Cục trưởng Vũ Xuân Vinh hẹn gặp gấp Tùy viên quân sự Triệu, nói rằng: “Theo chỉ thị của Đại tướng Lê Đức Anh, xin chuyển lời tới Đại sứ Trương. Vào 19 giờ 30 phút ngày 22, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ gặp riêng Đại sứ Trương tại phòng khách Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Cả hai bên đều không đem theo phiên dịch và thư kí. Đề nghị Đại sứ Trương đổi sang một chiếc xe nhỏ, không cắm quốc kỳ, đi vào từ cửa bên Bộ quốc phòng... Vào 9 giờ tối hôm đó, Tùy viên quân sự Triệu vừa gặp mặt trung tá Vũ Tần đã nói thẳng vào vấn đề luôn rằng Đại sứ Trương có việc hết sức gấp và quan trọng, mong được gặp ngay Đại tướng Lê Đức Anh, xin đồng chí trung tá giúp bố trí cho. Vũ Tần bảo Đại tướng tối nay tham dự Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương khóa 9 Đảng cộng sản Việt Nam, không biết lúc nào tan. Tôi sẽ đến ngay nhà ông ta xem sao. Khi Đại tướng định giờ gặp một cái là tôi sẽ gọi ngay điện thoại báo cho anh biết. Tùy viên quân sự Triệu vừa về tới sứ quán chưa được bao lâu đã nhận ngay được trả lời điện thoại của Vũ Tần: “Đúng 8 giờ sáng mai Đại tướng sẽ gặp Đại sứ Trương, địa điểm vẫn ở chỗ cũ”. Sáng ngày 29, tôi đến phòng khách Bộ trưởng Bộ quốc phòng đúng giờ. Khi gặp mặt, Đại tướng Lê Đức Anh nói một cách dí dỏm: “Trông bộ dạng Đại sứ Trương vui thế kia, chắc là đem tin tốt lành đến cho chúng tôi rồi”. Tôi nói: “Chiều tối qua, tôi nhận được chỉ thị quan trọng của Trung ương. Cho nên, hôm nay vừa mới sáng ra đã lại tới làm phiền anh rồi”. Tiếp đó, tôi thông báo lại với Đại tướng Lê Đức Anh việc Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ, xin Lê Đức Anh chuyển lời mời đồng thời bố trí cho tôi được gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh một lần nữa, để trả lời trực tiếp với đồng chí ấy. Lê Đức Anh bày tỏ: “Đây quả thực là một tin tốt lành, tôi nghe mà cảm thấy rất phấn khởi. Xin đồng chí Đại sứ cứ yên tâm, tôi sẽ báo cáo ngay với Tổng bí thư. Chuyến đi thăm lần này hết sức quan trọng, chúng tôi phải có những nỗ lực lớn nhất để chuyến đi thăm được thành công.” Sau khi cáo từ Lê Đức Anh về sứ quán được khoảng hơn 1 tiếng, Trung tá Vũ Tần ở Bộ quốc phòng Việt Nam đã hẹn với Tùy viên quân sự Triệu rằng: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ cùng với Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười gặp Đại sứ Trương vào 4 giờ chiều nay. Đại sứ có thể chính thức đề xuất yêu cầu được gặp mặt với Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam...” Trương Đức Duy (đứng giữa) đang làm nhiệm vụ phiên dịch cho Hồ và Mao chu tich (ảnh công bố trên “Pháp chế vãn báo” báo số ra ngày 19/2/2012 được báo Lịch sử Đảng Cộng sản TQ đăng lại) Qua đoạn hồi ký trên chúng ta thấy gì? Đó là Lê Đức Anh chính là kẻ muốn quy phục Trung cộng và tiếp tay cho Nguyễn Văn Linh và bộ sậu cộng sản bán nước cho giặc. Tội đó không thể tha thứ. Thứ ba, trên một bài báo của Vietnamnet (cộng sản) đã chỉ rõ vai trò kết nối bán nước của Lê Đức Anh như sau: “Sau khi ông Lê Đức Anh đi "tiền trạm" về. Từ ngày 3 đến ngày 10/11/1991, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thăm chính thức Trung Quốc. Hai bên Hội đàm, ra thông cáo chung và kí kết Hiệp định chính thức quan hệ bình thường giữ hai nước trên cơ sở 5 nguyên tắc hòa bình, đồng thời kí cả quan hệ bình thường giữa hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng.” (6) Tất nhiên là bài báo không được phép nói thẳng ra Lê Đức Anh bán nước nhưng chúng ta thấy sự thật đã rõ ràng khi Kiệt và Mười đi thăm bán nước cho Trung cộng. Và vai trò kết nối ở đây có công không nhỏ của Lê Đức Anh. Sự kiện này đã được chính báo cáo của bộ chính trị cộng sản về Lê Đức Anh như sau:” “Đồng chí Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh v.v… đã có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng khởi đầu cho mối quan hệ bẳng 16 chữ vàng và 4 tốt hiện nay. Tiếp nối truyền thống của Mao chủ tịch và Hồ chủ tịch đã xây dựng …” (6) (“Ngày 19-11-1994 Tại Hà Nội, Đỗ Mười và Lê Đức Anh tại lễ đón tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng sản, Chủ tịch nước Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Chuyến thăm kéo dài đến 22-11-1994”./ Nguồn: Trung Quốc-Việt Nam (sách ảnh) Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa biên soạn. China Intercontinental Press, 2003, tr. 26/) (7) Bức ảnh quy tụ rất nhiều gương bán nước tiêu biểu trong cái gọi là “nhà văn hóa và thể thao” của chính Lê Đức Anh. Đến đây chúng ta nhận thấy rõ vai trò bán nước cực kỳ quan trọng của Lê Đức Anh trong móc xích bán nước của cộng sản Việt Nam. III. Kết luận: Qua trường hợp của Lê Đức Anh chúng ta thấy đây là một tên cai phu cao su có nhiều tội ác với những người dân lành. Đây là kẻ đã từng tiếp tay cho thực dân Pháp đánh đập nhân dân ta. Đó là tội ác không thể dung tha. Đặc biệt, Lê Đức Anh có vai trò rất quan trọng trong việc bán nước của đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó chúng ta cần phải thấy rõ được bộ mặt thật của Lê Đức Anh để nhân dân một ngày gần đây xét xử trước công luận về tội ác này. Đó chính là lẽ phải và chính nghĩa mà chúng ta phải đấu tranh vì một dân tộc Việt Nam trường tồn mãi mãi. 22/09/2013 Đặng Chí Hùng danlambaovn.blogspot.com
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 16, 2014 9:57:58 GMT 9
Tự truyện của người từng viết tiểu sử Hồ Chí MinhTại tòa soạn báo "Sự Thật" : (từ trái) Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ Giới thiệu ÐÈN CÙ của TRẦN ÐĨNH Quý vị phải lắng nghe bài Đèn Cù. Tự mình hát lên, hát cho thấm thía vào lòng, cho những câu dân ca văng vẳng trong đầu trong khi đọc Đèn Cù của Trần Đĩnh. Khen ai khéo vẽ (ối a) đèn cù. Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh… Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh nó chạy tít mù. Đèn Cù, cũng gọi là đèn kéo quân, là một trong số đèn Trung Thu, đồ chơi cho trẻ em và cho cả người lớn. Quý vị sẽ dần dần nhìn thấy hoạt cảnh xã hội Việt Nam những hình nhân voi giấy, ngựa giấy tít mù nó chạy vòng quanh trên màn ảnh đèn cù trong hơn nửa thế kỷ. Trong đó có tác giả. Một nhân chứng, một người tham dự trong đám Voi giấy (ối a) ngựa giấy lần lần hồi tưởng lại những cảnh cùng nhau chạy vòng quanh (ối a) nó tít mù. Nhiều tác giả đã viết về xã hội miền Bắc Việt Nam dưới chế độ cộng sản, dưới dạng hồi ký, tiểu thuyết, biện thuyết và lý luận, vân vân. Đèn Cù nổi bật lên trong tủ sách đó. Nếu chưa phải là một kho chứng liệu quan trọng và đầy đủ nhất thì đây là cuốn sách đọc lý thú nhất. Rất nhiều chuyện mới nghe lần đầu. Rất nhiều chuyện cũ được nhìn dưới con mắt khác, thấy những khía cạnh chưa ai từng thấy. Quý vị sẽ cười, sẽ khóc, sẽ thắc mắc, sẽ dằn vặt, thao thức, kinh tởm, giận dữ, sót thương, khi bị cuốn theo những Voi giấy (ối a) ngựa giấy chạy quanh trong cái đèn cù. Dưới cái tựa Đèn Cù Trần Đĩnh gọi cuốn sách này là “truyện tôi.” Đọc xong thì hiểu tại sao tác giả không gọi nó là một “hồi ký” hay “tự truyện,” những loại văn quen thuộc khi người ta kể chuyện cuộc đời mình đã sống. Cuốn sách không viết theo phong cách hồi ký hay tự truyện, khi người viết có sẵn một bản đồ để viết theo, với một mục tiêu muốn đạt tới. Đây cũng không phải là tiểu thuyết, tác giả không kể những chuyện mình tưởng tượng ra. “Truyện tôi” là một thể loại văn suôi mới, Trần Đĩnh tạo ra. Mai mốt có thể sẽ không còn ai viết “truyện tôi” nữa. Mà có ai viết thì chăc chắn cũng không viết giống như Trần Đĩnh. Đèn Cù là một cuốn sách độc đáo. Trần Đĩnh vốn là một thi sĩ, loại người thích sáng tạo ngôn ngữ, bầy đặt, đùa rỡn, vui chơi với ngôn ngữ. Đẽo gọt, mài rũa, “như thiết như tha, như trác như ma,” rùng mình sảng khoái hay quằn quại đau khổ với ngôn ngữ. Trước khi gia nhập tòa soạn báo Sự Thật, ở chiến khu Việt Bắc vào năm 1949, tuổi 19, ông đã viết báo rồi. Nhưng cuốn sách này tuyệt nhiên không dùng lối văn viết báo. Nhà báo không ai mở đầu một bài bằng mấy chữ: “Viết này vất vả,” rồi chấm câu. “Lười là rõ,” lại chấm câu. Cái khí văn đó tràn suốt tác phẩm. Có thể gọi đó là Khí văn Trần Đĩnh. Cũng như chúng ta có thể nhận ra Khí văn Phùng Quán, Khí văn Thanh Tâm Tuyền, vân vân, các thi sĩ có lúc viết văn suôi. Nó riêng biệt, văn đó đúng là người, mỗi người một vẻ. Nhưng Trần Đĩnh vẫn giữ nguyên cái đức của người viết báo, là nói sự thật, kể những chuyện thật. Đọc tới đâu người ta cũng cảm thấy: Đây là những chuyện thật, sự thật được bày ra, sự thật ròng, như thịt xương còn sống, tàu lá còn xanh, như gỗ mộc không sơn phết. Những suy tư, thao thức của tác giả được trình bày riêng, bên ngoài lời kể các sự kiện. Người viết không thêm thắt tình cảm, suy tư, phê phán, như thêm mắm muối, tiêu, hành, vào cho món ăn thêm mùi vị. Như khi ông thuật lời nhà báo Tiêu Lang đã chứng kiến cảnh mấy anh du kích đặt cái xác bà Nguyễn Thị Năm vào áo quan, áo quan nhỏ quá không vừa. Mấy anh bèn đứng lên trên xác bà đẩy cho lọt xuống. “Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ.” Hay khi ông kể chuyện về họa sĩ Phan Kế An, một trong bốn năm người cùng phụ trách báo Sự Thật lúc đầu. “Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm hơn, An nói: À, cái Z. tự nhiên mang ba lô, chăn chiếu đến chỗ Ông Cụ, tớ được xua về sớm. Vài tháng sau, An lại về muộn. Hỏi vì sao thì An nói không thấy Z. đến nữa. Chắc ‘máy’ cụ yếu, giải đáp thuần túy sinh học. Không tính đến sở thích, ‘gu’ của cụ.” Trần Đĩnh cũng nhớ trong lớp học “chuẩn bị cải cách ruộng đất” tháng Bảy năm 1953, “Cụ Hồ đến giảng cách nhật, có lúc cụ đùa hô lên trong hội trường Hồ Chí Minh Muốn Nằm!” “Rồi tay chỉ vào đầu [nói]: Từ đây thì Bác già, nhưng từ đây (tay chỉ vào bụng) thì Bác trẻ.” Trần Đĩnh kể chuyện vợ nhà thơ Lê Đạt, ông bị đưa đi lao động “cải tạo” vì tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Người đàn bà mang tội là “vợ Nhân Văn” … bị “cơ quan, tập thể liên tục ép bỏ chồng” nhưng bà không bỏ. “… [N]hững đêm giá buốt Thúy diễn kịch ở Hải Phòng, Đạt từ chỗ lao động cải tạo xuống tìm vợ. Không có giấy chứng minh nhân dân, Đạt không thuê được nhà trọ, hai đứa ngồi ghế vườn hoa suốt đêm nghe còi tàu thủy hú thi với gió biển.” Một câu văn ngắn cho chúng ta sống cả một đêm dài nghe tiếng tầu thủy vang vọng trong tiếng gió hú. Tác giả đóng vai một nhân chứng, một người quan sát, chỉ thuật lại những gì mình nghe, mình thấy. Thời sau chiến tranh, báo Nhân Dân có cuộc họp năm sáu chục người “ôn lại thành tích tuyên truyền chiến tranh chống Mỹ. “Nguyễn Sinh, xưa phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói. Lại tố cáo những chiến công giả người ta gán cho Mẹ Suốt, Trần Thị Lý sông Lấp Quảng Bình. Sông đã lấp thành tên [tên Sông Lấp] mà nhà báo cứ ca ngợi cô Lý oằn lưng chèo lái… Hầu hết nghe đều cười. Tự giễu và rộng lượng. Nhưng khi Sinh nói ở Vĩnh Linh, anh đã chứng kiến nnngngg bên kia bị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi lại thấy mọi người mặt lạnh tanh.” Thêm một chuyện ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản đã nổi tiếng đóng góp nhiều vàng cùng với nhà cửa trong “Tuần Lễ Vàng” thời trước kháng chiến. Sau chiến tranh bà Lợi Quyền vẫn còn một ngôi nhà tại Hà Nội. Đầu thập niên 1980 “được ban Tuyên Huấn Trung ương đến hỏi. Chê đắt [không mua]. Đùng một hôm xe tuyên huấn chở mấy bao tải tiền đến mua, đắt cũng được. Ba ngày sau đổi tiền.” Tác giả ghi thêm: “Tố Hữu [phó thủ tướng đổi tiền], nguyên trưởng ban tuyên huấn đã hạ thời cơ tuyệt hảo …” Và ông nhắc lại bài Quốc Tế Ca hát rằng: “Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình!” Phê: “Quá giỏi!” Đèn Cù đầy rẫy những “đoạn phim” ngắn như vậy. Rất nhiều “clip” chợt hiện trên màn ảnh trong nửa phút, rồi chuyển ngay sang cảnh khác, liên tiếp chạy nhanh qua não bộ. Đoạn phim lưu đọng trong óc mình mãi mãi, trộn lẫn cùng những đoạn phim ngắn khác, không theo thứ tự thời gian, cũng không theo một dòng lý luận nào. Tất cả cho người đọc một toàn cảnh sống động về xã hội nước Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ, trước và sau khi tác giả đặt bút viết cuốn sách để đời này. Tất cả là “truyện tôi.” Nếu không có cái tôi sống, tôi quan sát, tôi rung động, tôi ghi nhớ, tôi suy nghĩ, thì không có “truyện tôi.” Trong trí não con người đời sống vốn không có trật tự, nó chợt hiện, chợt tắt, ngổn ngang, chắp nối, không xếp đặt theo không gian cũng không theo dòng thời gian đơn tuyến và trực tuyến. Đời sống thật vẫn như vậy. Đó là cảnh Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh. Cho nên phải đoc Đèn Cù như một tác phẩm nghệ thuật. Đây là một sáng tác văn nghệ. Thử tưởng tượng có một người trước khi đọc không hề biết gì về bối cảnh lịch sử ở nước Việt Nam, chưa bao giờ nghe tên những nhân vật như Nguyễn Tư Nghiêm, Văn Cao, Lê Đức Thọ, Hồng Linh, Thép Mới, Lê Trọng Nghĩa, Hồ Chí Minh, LêĐạt, Tô Hoài, Hồng Hà, vân vân; khi đọc Đèn Cù người đó cứ nghĩ đây là những nhân vật hoàn toàn do tác giả bịa ra. Giả thiết Trần Đĩnh sáng tác một cuốn truyện, sẽ thấy Đèn Cù là một thể loại tiểu thuyết mới, rất mới. Suốt cuộc đời cầm bút (ông mới tập dùng máy vi tính khi đã về già), Trần Đĩnh nói, “Tôi vẫn mong rồi có một quyển sách thật sự của tôi, của chính tôi.” Bởi vì, gần suốt cuộc đời viết, lách “tôi đã tự nguyện làm thủ phạm tàn phá trước hết vào chính ngay mình. Tôi vốn yêu viết. Nhưng đã không viết nổi. Đứa thủ phạm là tôi bắt tôi viết dưới bóng tối của Thù Hằn và Dối Trá …” Trần Đĩnh biết rất nhiều chuyện. Anh coi Trường Chinh là thầy trong nghề báo, được ông tổng biên tập báo Sự Thật dậy từng chữ khi anh nhà văn 19 tuổi mới vào trong A Tê Ka (An Toàn Khu). Anh ngủ chung lều với Lê Quang Đạo, nhiều lần phải hất tay Lê Quang Đạo ra, và nghe lời xin lỗi, “Chúng tớ ở tù lâu ngày sinh hư.” Anh ngồi sau lưng Hồ Chí Minh trong buổi lễ truy điệu Stalin chết; nhìn cảnh Tố Hữu diễn vai đau khổ ôm bức hình Stalin đặt lên ban thờ, sau nay nghĩ có lẽ ông ta khóc Stalin là khóc thật. Rồi nhìn thấy hộp thuốc lá Trung Hoa Bài Hồ Chí Minh bỏ quên trên ghế bên cạnh, anh cầm lấy mang đến tận phòng, “Dạ, thưa bác, Bác để quên ạ!” Và nhìn thấy “Mặt cụ xưng lên, đầm đìa nước mắt, hai mắt húp lại … Cụ ngơ ngẩn nhìn tôi, nhìn hộp thuốc lá như không hiểu tôi vào làm gì …” Trong lớp chỉnh huấn chuẩn bị cải cách ruộng đất năm 1953, một hôm “Cụ Hồ nói: Các chú các cô không sợ người ta kêu mình kém trí thức, ít lý luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi khôn. Chú tôi là Stalin, Mao Trạch Đông…” Trần Đĩnh chắc là người thứ nhất tiết lộ Hồ Chí Minh đã tới quan sát cuộc đấu tố đầu tiên ở Đồng Bẩm, hóa trang che bộ râu để không ai nhận ra. Và Trường Chinh thì đeo kính đen tới dự, để rút kinh nghiệm mà rèn luyện các đội cải cách đấu cho đúng tiêu chuẩn thù ghét. Xưa nay nhiều người vẫn kể rằng Hồ Chí Minh không muốn giết bà Nguyễn Thị Năm, nhưng bị cố vấn Trung Cộng ép buộc nên phải giết. Trần Đĩnh đưa ra một bài báo ngắn do Hồ Chí Minh viết kết tội đích danh bà đồng thời đả kích cả giai cấp địa chủ. Bài báo này, được dẫn chứng đầy đủ, dùng một bút hiệu, ký tắt, cho nên chỉ người bên trong tòa báo mới biết người viết là Hồ Chí Minh. Trần Đĩnh cũng là tác giả đầu tiên đã gặp cô Xuân (nhân vật đã được Vũ Thư Hiên kể trong Đêm Giữa Ban Ngày) ở trên chiến khu từ năm 1953, cô là “Con nuôi Bác.” Có lúc Trần Đĩnh đã nắm tay cô Xuân, khoe đã lấy tên cô ghép làm bút hiệu trên báo của mình, khiến cô cảm động. Ông cũng kể chuyện năm 1960 theo Hồ Chí Minh đi Móng Cái, dự mít tinh rồi “đi lượn phố, thăm trường học”. Hồ viết lên bảng một chữ Hán “nhân,” rồi hỏi: “Trây sấn mà chề” nghĩa là “Đây là chữ gì?” Ông nói bằng tiếng Khách Gia, Hakka, miền Nam gọi là tiếng Hẹ; là thổ ngữ của người gốc Hoa ở địa phương này. Tác giả thắc mắc, “tại sao đến đây Cụ đi chơi phố nhiều như thế? Khéo [cụ] đã ở đây thật?” Và có lúc đi trong phố “Cụ chỉ vào một ngôi nhà phía bên kia đường nói với tôi, đi bên cạnh: Ở nhà này ngày xưa có một chị bí thư chi bộ. Tôi ngợ ngay. Có quan hệ tình cảm gì [giữa cô đó] với Bác?” Trần Đĩnh là nhân chứng đầu tiên cho biết đã nghe Hồ Chí Minh nói thông thạo tiếng Hẹ, và đoán rằng ông đã hoạt động cùng các đảng viên cộng sản ở Móng Cái từ thời trước. Chưa có một tác giả hay một người nghiên cứu lịch sử nào biết đến chi tiết này. Độc giả sẽ không ngạc nhiên khi đọc những tình cảm thân mến của tác giả với nhân vật Hồ Chí Minh; vì đã sống rất gần gũi trong nhiều năm. Trong lần đi thăm khu gang thép Thái Nguyên, “Sau bữa cơm trưa, thấy Cụ quần áo cánh nâu đi vòng ra sau dẫy nhà tranh đến rặng chuối thay hàng rào, tôi đi theo. … Thấy tôi gần như ở ngay bên, cụ quay ngoắt lại hỏi, điếu thuốc khẽ lật bật ở môi: ‘Người ta đái cũng theo à?’ ‘Không ạ, cháu …!’ ‘Thế đứng sát vào người ta nhòm gì?’” Rồi Trần Đĩnh kể tiếp, “Chiều ấy, khoảng bốn giờ về tới chủ tịch phủ, tha thẩn ở sân chờ lấy xe đạp … bất thần chợt nhớ đến Xuân, cô con gái nuôi của Bác. Hỏi mấy người đứng tuổi nom có vẻ quen từ trên rừng. A, cô Xuân ấy hả? Lấy chồng rồi. Chồng lái xe. Nhưng chết rồi. … bị ô tô đè …” Trong chương chót, Trần Đĩnh nêu một nhận định chung về Hồ Chí Minh: Lòng trung của Hồ Chí Minh đối với Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông là vô bờ. Cho nên lòng trung với nước Việt, dân Việt vơi đi. Người thứ hai mà Trần Đĩnh có lòng cảm mến là Trường Chinh. Năm 1962 Trường Chinh đã nhờ Trần Đĩnh viết hồi ký, nhắc lại từ những ngày đi họp ở Pắc Bó năm 1941, với ý định dùng quá khứ vinh quang “phất một ngọn cờ tập hợp” phe mình. Nhưng sau tập hồi ký không dùng đến vì Trường Chinh biết mình đã thua phe cánh Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh rồi. Nhiều người cũng muốn nhờ viết, vì Trần Đĩnh nổi tiếng khi viết hồi ký cho nhiều người khác. Anh kể chuyện những người tù Côn Đảo, văn sống và khích động, như chính anh đã trải qua các gian khổ đó. Cuốn Bất Khuất (viết năm 1965) kể chuyện Nguyễn Đức Thuận, một người tù Côn Đảo tranh đấu trong tù, được đưa từ Nam ra ngoài Bắc. Lê Đức Thọ, Tố Hữu, Hoàng Tùng chủ trương dùng câu chuyện Nguyễn Đức Thuận để tuyên truyền khích động cho người dân miền Bắc ủng hộ cuộc tấn công vào miền Nam. Viết Bất Khuất, cái tên do Tố Hữu đặt, Trần Đĩnh không ký tên, tiền nhuận bút cũng nhường cho Thuận. “Vì không thích nói dối.” Nhưng khi được nghe một độc giả như Trần Dần khen thì vẫn thích: “Mày viết cái Bất Khuất ấy, tao thích cái grammaire.” Nguyên Hồng thì bậm môi, vuốt râu nói: “Mày, Trần Đĩnh à, mày có tâm hồn, mày có nghệ thuật nên mày viết cái ấy cho Thuận hay.” Một lần năm 1960 Trần Đĩnh gặp Vũ Kỳ (thư ký riêng của Hồ Chí Minh): “Vũ Kỳ bảo tôi sẽ cộng tác với anh viết hồi ký về Bác ‘khi Bác hai năm mươi.’ Viết xong bản tiểu sử chính thức, tôi (Trần Đĩnh) gửi lên cho Cụ một bản để duyệt. Cụ chữa từng trang. Có những đoạn viết ra ngoài lề: Xem lại? Hỏi lại? Bản thảo này tôi giữ.” Sau đó sách in ra, “Mừng tiểu sử chính thức đầu tiên của Hồ chủ tịch ra đời, Tố Hữu khao một bữa thịt chó thịnh soạn tại nhà” (Tố Hữu được lãnh nhuận bút 200 đồng vì có công đọc và kiểm duyệt, người viết chỉ được 400 đồng; còn “Huy Tưởng, Hoài Thanh chả [được] tẹo nào). Trần Đĩnh cũng viết hồi ký cho Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm (một trong vài ba đảng viên cộng sản Việt Nam đầu tiên). Lê Đức Thọ cũng có lúc muốn nhờ. “Cậu viết giỏi lắm, tớ rất thích. Không ở tù mà viết ý như thằng đã ở tù… Tớ sẽ nhờ cậu viết hồi ký cái đoạn tớ chuẩn bị tổng khởi nghĩa rất hay.” Và Thọ hứa hẹn sẽ đem Trần Đĩnh theo phái đoàn sang Paris đàm phán. Sau Trần Đĩnh không phải viết, “Hú vía!” Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh cũng nhờ viết hồi ký, đều từ chối. Trần Đĩnh làm việc gần với các lãnh tụ cộng sản Việt Nam từ năm 19 tuổi, cho nên biết nhiều chuyện. Như khi đến nhà Sáu Thọ, ngồi ngoài sân bên cạnh cái hầm tránh bom, thì nhận ra cái hầm này sâu 10 mét, trong khi cái hầm nhà Lê Thanh Nghị (anh đã nhiều lần xuống ẩn trong hầm này), chỉ sâu có tám mét, dù cả hai đều trong Bộ Chính Trị (vai vế mang ngau). Gần gũi họ, cho nên mới biết một cảnh trong nhà Lê Đức Thọ: Một ông tướng chào Sáu Thọ xong, bước ra về mà cứ thế đi giật lùi, đến nửa cái sân mới dám quay lưng rồi ra cổng. Nhìn mặt, thì ra Lê Đức Anh. Trần Đĩnh sống trong cái đèn cù đó, trong lòng không yên. Anh bắt đầu nẩy mối bất nhẫn trong lòng khi chứng kiến những tội ác trong cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào đảng, tin vào những động cơ tốt của các lãnh tụ. Chuyển biến tâm lý mạnh nhất phát sinh trong năm năm du học ở Bắc Kinh, sống qua thời kỳ các phong trào bước nhảy vọt, đánh hữu phái, công xã nhân dân, vân vân, từ 1955 đến 1959. Trong thư viện Đại học Bắc Kinh, một góc bày các sách cũ tiếng ngoại quốc, anh được đọc cuốn “Từ số không đến vô định” của Arthur Koestler; câu chuyện một người bị Stalin bỏ tù. Anh cũng được đọc báo Le Monde trong thư viện đại học, và biết chuyện tố cáo tội ác của Stalin trong đại hội thứ 20 đảng Cộng sản Liên xô. Nhưng ảnh hưởng quan trọng nhất là do anh sống bên người Trung Hoa, anh trực tiếp gặp nhiều sinh viên cùng tuổi, được nghe, được thấy, để biết chế độ Mao Trạch Đông giả dối, tàn bạo và coi khinh mạng sống dân chúng như thế nào. Khi Mao Trạch Đông cho phép “trăm hoa đua nở” báo Nhân Dân (Bắc Kinh) cũng đăng những bài phê phán đích đáng. Những trang bào này mở mắt anh du học sinh người Việt “được thấy trí thức Trung Quốc sôi sục chống đảng.” Quan sát thực tế, lại thấy “dân Trung Quốc khốn khổ vì đảng.” Cho nên, “Tôi bắt đầu ‘hư hỏng’ (nghi ngờ đảng) vì đã nhận ra chân tướng đại bịp. Người ta lừa bịp đại trà được là nhờ khai thác những bản năng thấp kém của con người: Sợ và tham.” Từ đó, Trần Đĩnh chống Mao, kinh tởm Mao, sau khi học xong về nước vẫn tiếp tục. Vì thế anh là đối tượng đấu tranh, của đám các đồng nghiệp thần phục Mao trong báo Nhân Dân, mà anh gọi là bọn “Mao nhều.” Kiểu như Hồng Hà, người từng nghẹn ngào nói như mếu: “Tôi xin cảm ơn Mao Chủ tịch vĩ đại đã mở mắt ra cho tôi thấy Liên xô, Kroutchev là phản bội, đầu hàng, xét lại…” Trần Đĩnh ghê sợ âm mưu lợi dụng của Mao Trạch Đông, nhắc lại nhiều lần câu ông ta nói: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ.” Chủ trương này dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Mao chấp nhận chiến tranh nguyên tử. Tại Bắc Kinh, Trần Đĩnh được hai người bạn Trung Hoa làm cho Văn Nghệ Báo tiết lộ về cuộc họp chi bộ để nghe một chỉ thị tối quan trọng. Hai anh kể, chỉ thị được ban xuống cho dân Trung Quốc thấu triệt là họ không cần phải sợ bom nguyên tử. “Vì dù Mỹ có ném xuống một nghìn quả bom nguyên tử, dẫu trái đất có bị tàn hoang đi nữa thì ít nhất cũng còn sót lại một huyện dân Trung Quốc, huyện ấy sẽ ương lại giống người trên trái đất này.” Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ. Cho nên Mao muốn phát động chiến tranh, “đánh Mỹ tới người Việt cuối cùng.” Mao cũng muốn đứng đầu phong trào cộng sản thế giới, sau khi thần tượng Stalin bị đàn em lật đổ. Lê Duẩn ngả theo chủ trương Mao; từng ca ngợi Mao Trạch Đông là “Lê Nin của thời đại ba dòng thác cách mạng châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh.” Bên trong, Lê Duẩn tạo ra vụ án “xét lại, chống đảng;” đánh vào những người bị coi là thân Liên Xô. Lần đầu chỉ đánh giằn mặt bằng phê bình, kiểm thảo. Năm sau Chu Ân Lai sang Hà Nội phổ biến tin tức Mao đánh các đồng chí lãnh tụ trong đảng của ông ta rồi, Duẩn mở chiến dịch thứ hai, tống giam hết cả đám. Giống như đem họ ra làm vật “thế chấp” để đi vay súng đạn, gạo, vải, quân trang của Mao Trạch Đông. Trần Đĩnh bị nghi ngờ, hạ tầng công tác, bị bắt giam và hỏi cung. Có lúc anh hãnh diện kéo chiếc xe hai bánh “diễu hành giữa thanh thiên bạch nhật, ở trung tâm Hà Nội, tươi tỉnh đi trình đường phố, nhận minh bạch đường hoàng mình chống đảng.” Lê Đức Thọ gọi Trần Dĩnh tới, ngồi kể tội đám xét lại cho nghe: “Vừa ở Paris về nghe an ninh nó nói cậu dính vào vụ chúng nó tớ … tiếc lắm. … Tớ đã nói là tớ mến cậu vì cậu trẻ, cậu có tài …” Đối với bên ngoài, lúc đó Nga chủ trương chung sống hòa bình với Mỹ. Lê Duẩn bám sát chủ trương của Mao, gây chiến tranh chiếm miền Nam. Theo Trần Đỉnh thì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không đồng ý, nhưng không chiếm được đa số nên chịu phục tùng. Cuộc Cách mạng Văn hóa điên đảo khiến cho Lê Duẩn lo Trung Quốc sẽ loạn lớn, sẽ tan vỡ. Duẩn quyết định phải đánh ngay, lo không còn chỗ dựa khi Mao đổ. Cho nên chuẩn bị cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Sau năm 1975, Lê Duẩn theo Nga, chống Trung Cộng, thì lại hết lời mạt sát từ Mao Trạch Đông tới Đặng Tiểu Bình. Đèn Cù đưa chúng ta vào một xã hội điên đảo, “sáng đúng, chiều sai, mai lại đúng.” Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh…. Nhưng tác giả sống với người dân ngoài phố, với giới văn nghệ, báo chí nhiều hơn là với các lãnh tụ đảng. Những đoạn phim thú vị nhất chụp cuộc sống hàng ngày; của những con người bình thường, các nhà văn, nhà báo, các cán bộ thấp, những người qua đường. Nhà báo Minh Tường từ Hà Nội, theo đoàn quân chiến thắng vào Sài Gòn. Anh tìm được đến nhà mẹ mình, bấm chuông. Bà mẹ mở cửa ra, chấp hai tay vái lạy: “Thôi, tôi xin anh, anh đi với các đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên.” Có cảnh Trần Đĩnh đứng với Tô Hoài trên lề đường nhìn toán tù binh Mỹ bị đưa diễn trên đường phố Hà Nội cho dân chửi rủa, ném đá. Khi người phi công cuối cùng qua trước mặt, bỗng Tô Hoài chạy ra với tay đấm vào mặt (đấm hụt). Tô Hoài giải thích rằng mình phải bày tỏ lập trường: “Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên?” Có đứa nào nó báo cáo mình đứng ngoài coi trong lúc “nhân dân căm thù” thì nguy. Chúng ta thấm thía nỗi thèm khát được sống với sự thật, khi nghe lời Trần Độ tâm sự, sau cuốn Nhật Ký Rồng Rắn: “Này, nói thật chứ bây giờ … hễ nghe thấy cái gì là sự thật thì trong người sướng ghê lắm ấy!” Có ai được nghe một nữ nhân viên báo Nhân Dân đã về hưu bày tỏ nỗi oán hận: “Ông cha đổ bao xương máu giành được độc lập nhưng nô lệ vẫn hoàn nô lệ!” Trần Đĩnh rất gần Lê Đạt. “Một hôm Lê Đạt bảo tôi: Nhà thơ có lẽ là người yêu nước nhất. Họ chăm lo nhất đến tiếng mẹ đẻ…. Đạt nhiều lần giục tôi viết: Tiểu thuyết về mày, gia đình mày – Tôi im lặng. Biết viết là cực kỳ cô đơn. Và quả tình tôi đã thật sự cô đơn – đúng ta là bí mật – trong bao nhiêu năm với cuốn sách này.” Sống hầu hết cuộc đời trong một xã hội mà Đảng và lãnh tụ chiếm “đặc quyền viết, đặc quyền nói;” chỉ dùng các nhà văn làm đầy tớ, “Ôi đã làm đầy tớ thì có đời thuở nào còn dám sáng tạo?” Bây giờ Trần Đĩnh đã viết. Lúc đầu, ông chỉ định viết để “tố cáo tội gây nội chiến Nam Bắc là sai lầm;” trong khi đang viết thì đổi ra “phê phán toàn diện.” “Vâng, tôi xin đối mặt với công luận đây. Tôi ăn gian nói dối thì các ông cứ việc vạch ra.” Đó là lời Trần Đĩnh, tác giả Đèn Cù. Xin mời quý vị bước vào, cùng sống với những Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh (ối a) nó tít mù. Đèn Cù là Đèn Cù hỡi! Ới ơi ơi ời, Đèn Ơi! Tháng 8/2014 Ngô Nhân Dụng
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 24, 2014 5:27:06 GMT 9
Về cái chết của trung tướng Nguyễn Bình và vai trò trách nhiệm của tướng Võ Nguyên Giáp
Cộng sản nó giết mình hôm nay Ngày mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu (Lời tâm sự của TT. Trí Quang với một đệ tử thân tín, sau 1975)
Trong những năm gần đây, để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của tướng Nguyễn Bình, đã có ít nhất hai cuốn sách viết về cuộc đời của ông để tìm hiểu một số Sự thật và Huyền Thoại liên quan đến ông. Đó là các cuốn: Trung tướng Nguyễn Bình, huyền thoại và sự thật của Nguyên Hùng. Cuốn thứ hai ít được dư luận chú ý tới với nhan đề khá nổ: Tôi giết Nguyễn Bình của Trần Kim Trúc.( một chức sắc Cao Đài). Tôi đã đọc những tài liệu trên và đều xếp vào loại không dễ sử dụng được .. Bài viết sau đây chủ yếu lấy từ nguồn tình báo của Pháp qua một vài tác giả cho thấy cách nhìn, cách đánh giá tướng Bình khác hẳn các tác giả trong nước. Chưa kể rất nhiều bài báo đủ loại liên quan đến tướng Bình. Người ta dựng nên cả một bộ phim về ông. Ngưỡi ta tổ chức một phái đoàn sang tận Campuchia đi tìm hài cốt của ông và mang về Sài gòn chôn cất. Người ta dựng tên đường cho ông trên đường phố Sài Gòn. Sau hơn 50 năm chết chôn vùi vô danh, ẩn tích trong rừng, ông được đội mồ sống lại. Sự nghiệp của ông được phục hồi. Thật là một điều kỳ lạ chết được sống lại. Sự im lặng trong suốt hơn 50 năm mang một ý ngĩa và sự dựng ông lên sau 50 năm mang một ý nghĩa khác.. Tướng Phạm Xuân Ẩn Tướng Phạm Xuân Ẩn Nay thì ông được đứng chung trong hàng ngũ những người bị đảng trù dập, bị đầy ải và bị khai trừ, được phủ những vòng hoa phúng điếu. Đó là những Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Thị Ba- người đàn bà làm giao liên, trạm thông tin giữa Ẩn và Việt Minh.. và cả Phạm Xuân Ẩn. Bà Nguyễn Thị Ba cho mãi đến năm 2006 mới được phong là người anh hùng!! Tôi trích lời TT Trí Quang tâm sự với một người đệ tử rất thân cận của ông mà không tiện nói tên- và người này đã tiết lộ cho tôi biết điều ấy- mà tôi nghĩ rằng TT. Trí Quang hẳn là một trong những người hiểu sâu sắc bản chất đểu cáng của cộng sản hơn ai hết mà rất có thể ông là một trong những nạn nhân ấy!! Ông đã từng lớn tiếng trước 1975 và ông đành im lặng 38 năm nay và chắc là cho đến lúc từ giã cõi đời- Chắc là không bao giờ ông có cơ hội lên tiếng nữa-. Gớm thay chế độ ấy đã có thể bịt mồm bịt miệng một người từng làm rung chuyển nước Mỹ. Điều gì đã khiến ông phải im lặng như thế!! Trong số những người tôi vừa nêu tên trên, tôi xin đặc biệt nhắc đến trường hợp tranh sáng tranh tối của ông Phạm Xuân Ẩn như một điển hình- vừa là nạn nhân vừa là anh hùng của người cộng sản- một người hoạt động cho cộng sản chỉ vì lòng yêu nước, nhưng có lòng nhân bản. Giống như nhiều người khác trước khi chết, ông Ẩn đã cẩn thận dặn vợ cho chôn theo ông một cái hộp chứa đựng tất cả thư từ, hình ảnh, tài liệu mang theo như một bí mật đời ông!! Ông cho chôn theo ông những hình ành, tài liệu là quyền của ông. Nhưng điều đó cho thấy một phần ông không muốn tiết lộ cuộc đời của ông, hoạt động của ông có thể ảnh hưởng tới bạn bè ông- một điều mà ông trân trọng nhất trên đời-. Người ta được biết ông Ẩn là bạn thân của rất nhiều người lãnh đạo miền Nam như Trần Văn Đôn, Dương Văn Minh, Bùi Diễm, Nguyễn Cao Kỳ, Cao Giao, Nguyễn Công Khanh và nhiều sĩ quan báo chí trẻ và nhất là bác sĩ Trần Kim Tuyến. (Ông Ẩn đã đưa được Trần Kim Tuyến dời Việt Nam vào phút chót). Ông cũng là bạn thân của các nhà báo ngoại quốc như Robert Shaplen, Stanley Karnow, Frances FitzGerald, Robert Sam Anson, David Halberstam, Henry Kamm, Neil Sheehan và ông chủ của ông là Frank McCulloch. Chưa kể những trùm mật vụ như Edward Lansdale, William Colby, Lou Conein… Larry Berman, Perfect Spy, Pham Xuan An, trang 2 và 3 Nhưng bạn thân phía bên cộng sản của ông là ai? Có được mấy người? Tin tưởng được mấy người trước khi chết? Đây là một câu hỏi và nhận xét lý thú đánh giámột cách đích thực con người và tâm tư của Phạm Xuân Ẩn. Nếu cộng sản vinh danh ông là người anh hùng. Kệ họ. Phần những người quen biết ông mà có người tôi đã gặp chỉ coi Phạm Xuân Ẩn là một người bạn tốt. Chỉ biết là lúc nào ông cũng bị cộng sản nghi ngờ, theo dõi, kiểm soát. Họ tra vấn tìm hiểu giai đoạn ông du học bên Mỹ và muốn biết xem ông làm những gì, giao thiệp với ai? Họ nghi ngờ ông còn là người của Mỹ? Vì thế họ không cho ông xuất ngoại sang Mỹ, nhà bị canh chừng, theo dõi. Làm sao không nghi ngờ được khi một trùm tình báo cộng sản tìm hết cách để đưa một tên cựu trùm tình báo ngụy trốn chạy cộng sản thì lý tưởng, ý thức hệ nào có thể chen vào giữa họ được! Cũng thế, khi Phạm Xuân Ẩn khuyên một thằng bạn trẻ- trung úy TQLC- cậu liệu tìm cách mà đi, ở đây không ở được đâu khi chúng nó vào thì lời khuyên ấy có thể xuất phát từ một người cộng sản xác tín không? Xưng hô cậu với chúng nó thì còn gì để nói nữa!! Cộng sản cũng thừa biết, nhưng đã đến lúc cần nặn ra những anh hùng như PXA, PNT thì vẫn phải làm. Cuộc chiến tranh này có những điều không dễ hiểu và không hiểu được!! Trong một buổi tiêp tân, có ông đại tá người Việt hỏi ông: Ông có phải là tướng Ẩn Không ? Ông gật đầu nhận. Một khách Mỹ cao cấp đứng cạnh đó hỏi đùa, nhưng ông là tướng ở bên nào mới được? Ông Ẩn trả lời: - Without hesitation, Ẩn answered, ‘Both sides’! The colonel looked uneasy. Just kidding, said An. In telling me this story, An concluded, You see, that is why they can’t let me out; they are still unsure who I am. Khi ông yếu mệt vì bệnh phổi, họ thăng cho ông lên hàng tướng. Nội cái việc thăng tướng cho ông là một điều khôi hài chỉ cộng sản mới làm được. Ông ấy có cần cái chức tướng đó đâu. Tôi tin chắc ông PXA hiểu cái trò chơi kệch cỡm ấy, cái vinh danh hão ấy. Ông ráng đóng nốt cái vở kịch dàn dựng mà cộng sản muốn ông đóng cho trọn vẹn. Tôi nhìn ông trong quân phục tướng rất không giống PXA, ngực đầy huy chương mà tội nghiệp cho ông trong đó có bức ảnh tướng Giáp đón tiếp ông, cạnh đó có đại tá Bùi Tín. Lúc ông chết, đám ma được cử hành với nghí lễ dành cho cấp tướng ở nhà quàn bộ Quốc Phòng. Chiêc xe hơi Renault của ông, số 51 A.29-80 nay được trưng bày tại Bảo Tàng Viện ở Hà Nội. Nhưng điều quan trọng hơn hết có lẽ là vài điều ông trối trăng lại cho Larry Berman- người viết tiểu sử ông như sau: -Nay thì họ hiểu rằng, tôi đã không làm điều gì sai lầm và tôi thì nay đã sắp chết. Tôi đã không phản bội họ. Họ đã cố gắng thuyết phục tôi thay đổi cách nói của tôi trong vòng một năm và thuyết phục thay đổi cách suy nghĩ của tôi lâu hơn nữa. Họ đã làm được gì. Họ đã không thể loại trừ hay bắn tôi. Họ nói cho tôi biết họ không thích lối nói chuyện của tôi bởi vì tôi khác người. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn không biết là có bao nhiêu tin tức tôi biết được và tôi biết như thế nào. Larry Berman, Ibid, trang 9 Henry Kissinger, À la maison Blanche, trang 715, 1968-1973 Câu nói để đời của TT Trí Quang áp dụng như bài học cho nhiều người- cho Phạm Xuân Ẩn và cho cả tướng Nguyễn Bình trong bài viết này. Tướng Nguyễn Bình ở chiến trường miền Nam Tướng Bình được đích thân tướng Giáp và Hồ Chí Minh chỉ định đưa vào Nam Bộ công tác. Thời gian là tháng 10-1945 trước khi cuộc chiến bùng nổ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào năm 2003 đã xác nhận: Chính tôi theo chỉ thị của Bác đã trực tiếp nói chuyện với tướng Bình ( lúc này là Khu trưởng duyên hải Bắc bộ, nay là khu ba) và chuyển lệnh vào miền Nam công tác. Đồng chí đã phấn khởi nhận nhiệm vụ và lên đường vào miền Nam và đã cống hiến quan trọng trong nhiệm vụ mới. Sài gòn Giải phóng, 19/3/2013 Có hai tướng khá nổi tiếng thời đó thì một là Nguyễn Sơn được gửi vào khu bốn, tướng Bình vào Nam Bộ và cả hai số phận họ sau nảy đều gặp nỗi bất hạnh. Nỗi bất hạnh ấy do cái logique dialectique của cộng sản. Đối với người cộng sản, dùng được thì dùng không dùng được thì loại trừ. Cái logique ấy chúng ta đều thấy xảy ra biết bao nhiêu cuộc thanh trừng trong nội bộ đảng Việt Nam, đảng bộ Trung Hoa và đảng bộ Liên Xô. Thanh trừng là sức mạnh của tổ chức đảng. Nguyễn Bình vào Nam muốn làm trời, một mình một cõi. Nguyễn Sơn vào khu 4 muốn biến Quảng Ngãi thành một Diên An bên Tàu thì trước sau cũng phải đi chỗ khác chơi. Một viên tướng như Nguyễn Sơn mà phải nhục nhã xin trở về Tàu thì phải hiểu đó là một cách loại trừ nhẹ nhất rồi! Tướng Nguyễn Bình là một viên tướng có cá tính và phong cách dễ nổi bật trong thời chiến tranh với: Rượu, gái và ca hát. Với ba cái đó nơi một ông tướng biên cương mà đàn em một số là thành phần trôi sông lạc chợ vì thế ông có thể được lòng các đàn em. Tướng Bình dùng đàn em, thu phục họ theo nghĩa phe đảng. Trong máu ông không có tính đảng. Trong khi tướng Giáp thấy chữ phe là thừa. Chưa kể cả ba cái món hợp khẩu vị tướng Bình ở trên xem ra đối nghịch với con người của tướng Giáp vốn khắt khe, nghiêm chỉnh và kỷ luật. Sự khai trừ có thể bắt đầu từ ban đầu, từ những chuyện nhỏ nhoi ấy. Nhưng Hồ Chí Minh đủ khôn ngoan và khéo léo hơn tướng Giáp. Ông tuyển chọn một nữ điều dưỡng- xinh đẹp đã đành là bắt buộc- lại lanh lợi và khôn ngoan- để cài vào chăm sóc Nguyễn Bình Người nữ này còn được đào luyện vững chắc chủ thuyết cộng sản để thuyết phục và uốn nắn Bình theo cộng sản. Cái kế mỹ nhân của ông Hồ xem ra thành công. Và để thưởng cho cái công trình uốn nắn ấy, ông Hồ phong cho Bình lên trung tướug năm 1948. Sài Gòn lúc Nguyễn Bình vào miền Nam thì dân chúng cũng khá đông-vào khoảng 2 triệu dân- với một thành phần dân chúng khá phức tạp. Có ngưới Pháp, người Tàu, Người Nhật. Lại thêm Việt Minh và các thành phần đảng phái, giáo phái tranh chấp nhau. Sau đây là tình hình Sài gòn trước khi Nguyễn Bình vào nhận nhiệm vụ. Trước tiên, Việt Minh cướp chính quyền trong tay Mặt Trận Quốc Gia Thông Nhất. Vì còn yếu thế nên họ tung rải truyền đơn như sau: - Việt Minh từng sát cánh bên đồng minh, đánh tây, chống Nhựt. - Đối với Nga là bạn. - Đối với Tàu như răng với môi. - Đối với Mỹ chủ trương thương mại, nên không có mộng xâm lăng - Đối với Anh, nội các Attlee mới lên nắm chánh quyền và khuynh tả .. Hồi ký Nguyễn Kỳ Nam, trang 51 Trong truyền đơn này, ta đã thấy để lộ ra cái đuôi cộng sản : Nga là bạn, Tàu như răng với môi.. Xin nhớ đây là thời điểm 1945 nhé, khi chưa có quan hệ chính thức với cả Nga và Tàu. Khi dùng chữ: Chúng ta ở trên đây là có ý ám chỉ cộng sản đệ tam mà thôi. Họ rải truyền đơn và sửa soạn cướp chính quyền ở miền Bắc cũng như trong Nam. Thật vậy, ngủ một đêm sáng ngày đồng bào Thủ đô thức dậy lấy làm ngạc nhiên trông thấy khắp nẻo đường treo đầy biểu ngữ: Chánh quyền về Việt Minh. Hỏi Việt Minh là ai, nhiều người không biết. Ai là chính quyền? Ở Nam Bộ, họ kêu gọi Thanh Niên Tiền Phong gia nhập Mặt trận Việt Minh .. Trong giai đoạn này, trước khi tướng Bình vào Nam Bộ thì Trần Văn Giàu là cán bộ cộng sản chủ chốt và cao cấp nhất. (Thủ lãnh nhóm đệ tứ cũng không còn nữa sau khi Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Ngãi). Trần Văn Giàu tự mình đứng ra tự nhận là người đứng đầu Lâm Ủy Hành Chánh, giải tán Mặt trận Quốc Gia. Ngày 23 tháng chín, một truyền đơn của cộng sản được tung ra: Ai còn ở lại Sài gòn là Việt gian, sẽ bị bắt và bị trừng trị. Sau truyền đơn này, dân chúng phải rời bỏ Sài Gòn. Trên đường về miền Tây, miền Đông, dân chúng kéo đi tản cư chặt cả đường phố. Sài gòn! Một thành phố chết. Tiếng súng nổ từng chặp, khắp đó đây. Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 80 Sau khi có tiếng súng Nam Bộ kháng chiến rồi lúc đó mới xuất hiện tướng Nguyễn Bình. Thoạt đầu, Nguyễn Bình vào Nam ở miệt Thủ Đầu Một ẩn mình xem xét tình hình, sau đó ông lộ diện, ủng hộ Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp, đảm trách ủy viên quân sự kiêm khu trưởng khu 7.. Nguyễn Bình đã chính thức gửi một lá thư tán thành và ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp trong một số báo bí mật thời đó mà nội dung nay chúng ta ghi lại được như sau: -Trong lúc nhìn thấy rõ thủ đoạn của thực dân Pháp, lợi dụng sự chia rẽ, bắt tay với bè phái này phái nọ, miễn sao cho họ quên kháng chiến mà chỉ nghĩ đến sự thù hắn không muốn cho thực dân Pháp lợi dụng nên tôi- Nguyễn Bình- đề nghị lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp. (Thật ra MTQGLH đã có sẵn trước khi Nguyễn Bình tuyên bố)Xin xem chú thích. Tại chiến khu Bà Quẹo, một đại hội đã nhóm họp ngày 20 tháng 4 năm 1946 tại bản doanh tướng Huỳnh Văn Trí (Cao Đài), có đại diện các đảng phái chính trị, tôn giáo, các cơ quan quân sự, các tấng lớp dân chúng tuyên bố thành lập Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp V.N để tiếp tục cuộc lãnh đạo kháng chiến. Trích Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 82 Danh sách các vị trong Mặt Trận Liên Hiệp gồm nhiều thành phần đảng phái, tôn giáo: Huỳnh Phú Sổ, ( Hòa Hảo), Trần Văn Lắm(VNQDĐ), Lê Văn Tý( Cao Đài), Lâm Văn Hậu, Mai Thọ Trấn, Phạm Đình Công( thay mặt Nguyễn Bình), Tướng Huỳnh Văn Trí ( tức Mười Trí Bình Xuyên), Phạm Huy Đức, Nguyễn Văn Sâm Nguyễn Bảo Toàn ( Quốc dân đảng), Nguyễn Văn Nhân, Linh mục Nguyễ Bá Sảng Nhưng không hiểu vì lý do gì sau này, chính tướng Nguyễn Bình lại muốn thủ tiêu Mặt Trận- một thủ đoạn mà nhiều người quốc gia cho là đã bị Việt Minh lừa. Trong một lá thư trao đổi nội bộ đề ngày 26 tháng 8, 1946, thơ số 210 Q.S, Nguyễn Bình viết: Sau khi Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp ra đời, Ngài cũng có tham gia nữa, Thưa Ngài, tại sao có những thông cáo thủ tiêu MTQGLH ?… Tôi rất khổ tâm, nếu đặt địa vị Ngài vào trách nhiệm của tôi, tôi dám chắc Ngài cũng không thể làm ngoài việc mà tôi đã làm.. Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 81 Ngài ở đây chỉ ai? Một cán bộ cộng sản cao cấp ở trên Nguyễn Bình!! Cho đến nay, không ai biết rõ Ngài là ai ? Không một tài liệu cộng sản chính thức của cộng sản đề cập đến vấn đề này .. Nguyễn Bình phải tuân lệnh cấp trên, nhưng là một việc làm trái lương tâm nên ông tự thú nhận: Tôi rất khổ tâm. Sau này, mỗi lần Mặt Trận có họp thì Nguyễn Bình đề cử giáo sư Phạm Thiều đại diện thay ông. Về quân sự, lúc đó tướng Bình nắm trong tay 20 chi đội trong Khu 7. Cũng trong thời gian này về mặt quân sự, với 35 ngàn binh sĩ dưới quyền, Leclerc đã bình định xong Nam Bộ. Nguyễn Bình khoanh tay nhìn trong sự bất lực. Một người xuất xứ từ miền Bắc vào Nam đã là khó. Lại còn muốn thu phục mọi quyền lực thu vào trong tay là một điều khó gấp đôi. Khó chẳng những đối với các nhóm giáo phái đã đành mà khó ngay trong nội bộ đảng? Có chỗ nào cho thấy Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thuần và Lê Duẩn tuân phục? Phần Cédille thấy Nam Bộ đã ổn định về mặt quân sự nên về mặt hành chánh lo thiết lập một chánh phủ Nam Kỳ tự trị. Về điều này, chính VNG cũng phải nhìn nhận trong nỗi bất lực về quân sự trước Pháp. Trong một chuyến tham quan phía Nam về, ông Võ Nguyên Giáp có đến gặp Bảo Đại và ở lại dùng cơm trưa với Bảo Đại đã buồn rầu thổ lộ: Chúng ta đành phải chấp nhận sự trở lại của người Pháp .. Chúng ta không còn có cách nào khác .. Ở Nam Bộ, Pháp đã phá hủy toàn bộ tổ chức của chúng ta đã xây dựng với biêt bao nhiêu khó khăn . Nay thỉ họ đã kiểm soát được tất cả .. Rồi chẳng bao lâu nữa , họ sẽ đổ bộ. Làm thế nào để chúng ta có thể chống đỡ lại họ .. Chúng ta chỉ có một số binh đội, nhưng trang bị thì còn thiếu thốn lắm. Cecil B. Currey, Victory at any cost, trang 116 Nam Bộ hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của Pháp. Phần Việt Minh, tướng Bình chỉ có 20 chi đội so với 35 .000 quân Pháp, chưa kể không được tiếp tế và trang bị vũ khí. Tướng Bình làm gì được ngoài việc ám sát và khủng bố? Cuối năm 1946, tây đánh mạnh vào chiến Khu D, bộ chỉ huy khu 7 của tướng Bình bỏ chạy. Năm 1947 tạm thời bộ chỉ huy của tướng Bình đành rút về đóng ở Đồng Tháp. Những hoạt động khủng bố, ám sát, thủ tiêu của tướng Nguyễn Bình. Có thể nói, trong cuộc chiến tranh này, cái yếu của Nguyễn Bình là không thể đương cự trực diện với Tây và đã phải rút về trú ẩn ở Đống Tháp năm 1947. Nhưng cái mạnh của Nguyễn Bình là có thể tiến hành một cuộc chiến tranh khủng bố, ám sát có một không hai trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Thời kỳ huy hoàng nhất của tướng Nguyễn Bình là vào thập niên 1950 mà ngoài Bắc thì đã chuyển hướng thành cuộc chiến tranh dàn trận với sự hậu thuẫn của Trung Quốc. Trong Nam là chiến tranh khủng bố, ngoài Bắc là chiến tranh dàn trận với nhiều chiến dịch khác nhau. Và điều này chứng tỏ tướng Nguyễn Bình đã có lúc gây khó dễ cho Pháp không ít. Và cái an bình của thành phố Sài gòn đã có lúc rơi vào sự khủng hoảng kinh hoàng do Việt Minh gây ra. Dư luận Nam Bộ nói chung lúc bấy giờ- người Việt Nam cũng như người Pháp- rất sợ tướng Bình về những hoạt động khủng bố, thủ tiêu người của tướng Bình .. Nhà báo Nguyễn Kỳ Nam viết rằng: Nói đến Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, tôi phải nói đến Nguyễn Bình mà lúc đó ai nghe đến tên Nguyễn Bình là thấy khiếp sợ rồi. Đồng bào Nam Bộ kháng chiến chống Pháp, không hề nghĩ đến cộng sản. Không cộng sản, không Việt Minh, họ cũng vẫn kháng chiến. Nguyễn Kỳ Nam, Ibid, trang 80 Thoạt đầu chính phủ Nguyễn Phan Long đã gửi một thư cho tướng Nguyễn Bình với những đề nghị tìm một giải pháp hòa bình .. Lá thư được đáp lại trên đài Tiếng Nói Nam Bộ của tướng Nguyễn Bình bằng những lời lẽ cương quyết như sau: Tất cả các bộ trưởng, công chức cũng như những bọn đầu cơ chính trị phải trả giá. Thời cơ đã đến và cuộc tấn công vào Sài Gòn sẽ xảy ra trong những ngày sắp tới .. Lời đe dọa ấy trở thành sự thật vào đầu tháng giêng, 1950, chiến thắng nằm trong tay tướng Bình. Nên nhớ đây là chiến thắng đối với chính phủ Quốc Gia chứ không phải quân đội Pháp. Ở đây không có cuộc chiến tranh dàn trận giữa những người lính, không có những cuộc nổi dậy của quân đội. Không, bởi vì nếu có một cuộc nổi dậy như vậy thì quân đội Pháp sẽ dễ dàng can thiệp và nhảy vào cuộc..và sẽ đè bẹp ngay .. Ở đây thuần túy là các cuộc khủng bố, các cuộc ám sát người- Và cứ như thế, chẳng bao lâu Việt Minh sẽ làm chủ Sài gòn .. Lực lượng kháng chiến trong bí mật dần dần xuất hiện và trở thành những người chủ tương lai của Sài Gòn .. Đấy là tất cả sách lược của tướng Nguyễn Bình theo lệnh của Hồ Chí Minh. Kết thúc chiến lược ấy là việc ám sát cò Bazin do người của tướng Nguyễn Bình. Vào ngày 28 tháng tư 1950, cò Bazin được chở vào nhà thương trong tình trạng hấp hối. Nhưng cò Bazin là ai? Theo tài liệu viết về Huỳnh Tấn Phát viết như sau về cò Bazin: - Sau này tôi mới biết đó là cò Trần Bá Thành, một tên thẩm vấn ác ôn khét tiếng ở bót Catinat. Còn thằng Tây là cò Bazin, chánh mật thám bót Catinat Sài gòn, nổi danh giết Việt Minh thời đó. Lúc này chúng cố lôi kéo mua chuộc trí thức như anh Phát nên cò Bazin ra hiệu cho tôi đến ngồi đối diện với anh. Huỳnh Tấn Phát, Cuộc đời và sự nghiệp, nhiều tác giả, trang 163 Đó là một cuộc ám sát hoàn hảo của một tay chuyên ngiệp. Y mặc một bộ complet, tay sách cặp, thong thả đến trước cửa nhà cò Bazin- lúc ấy vào khoảng 7 giờ 20 sáng-giờ mà có Bazin sắp sửa bước lên xe ô tô đi làm. Như chớp, tên mặc áo vét dở cặp lấy khẩu súng ra và khi còn cách Bazin nột thước. Y bấm cò, bắn nhiều phát. Bazin quỵ xuống .. Và sau đó kẻ ám sát chui vào một xe hơi (Traction-avant) với đồng lõa biến dạng .. Đám đông nghe tiếng súng nổ chạy toán loạn. Đó cũng là một trong những cuộc ám sát do người của tướng Nguyễn Bình thi hành. Chính tướng Bình đã ra lệnh cho đội ám sát 905 giết Bazin mà trụ sở lưu động của tướng Bình ở cách Sài gòn 8 cây số.. Tướng Bình là thứ người mà bà Nguyễn Thị Liên Hằng trong Hà Nội’s War gọi là loại du côn phong thái giang hồ.(swashbuckling). Nguyen thi Lien Hang, Hanoi’s War, trang 26 Nhóm 905 được gọi là những quyết tử quân(Volontaires de la mort). Họ được huấn luyện kỹ càng và được coi là những kẻ giết người chuyên nghiệp. Trước khi bị ám sát, Cò Bazin không phải là không biết số phận của mình. Ông chiến đấu chống Việt Minh trước hết là để bảo vệ mạng sống của chính ông. Vì hằng ngày, trên làn sóng điện phát thanh của Việt Minh ra rả mỗi ngày câu đe dọa sau đây: Bazin, ngươi sẽ phải đền tội. (Bazin, tu vas mourir) Cò Bazin hiểu rằng ông đứng đầu danh sách những kẻ mà Việt Minh muốn thủ tiêu. Những kẻ muốn ám sát ông hiện đang có mặt ở Sài gòn và ông không còn bao nhiêu thời gian để khai trừ họ và nếu không làm được thì sẽ đến lượt ông! Ông hiểu cái cái nghề cảnh Sát chìm của ông-nó là một phần đời sống của ông-. Ông nắm giữ trong tay nhiều hồ sơ của những người cộng sản . Nhưng hiện nay, cộng sản như ở khắp nơi trong Saigòn. Người của Nguyễn Bình len lỏi vào trong mọi bộ ngành chính thức của chính quyền. Họ có mặt trong mỗi khu vực, trong mỗi phố, mỗi nhà .. Những người này lấy thông tin rồi tuyên truyền và đi thu tiền bạc ỡ những tay giầu có buôn bán có máu mặt như một thứ thuế máu để đổi lấy sự an toàn của bản thân họ. Trong một thành phố có chiến tranh, những kẻ giầu có luôn là kẻ tài trợ cho nhiều phe phái. Nay Nguyễn Bình đã mang chiến tranh vào trong chính trung tâm Sài Gòn và coi việc ám sát thủ tiêu sẽ là con đường đưa tới chiến thắng, làm chủ Sài Gòn. Và theo Lucien Bodard, tướng Nguyễn Bình đang điều khiển một guồng máy giết người kinh khủng nhất giết từng người và giết hàng loạt- một thứ Ministère de la mort-. Guồng máy ấy tướng Nguyễn Bình trao trách nhiệm cho Lê Văn Linh. Trong tay Linh, y có danh sách đen những người mà y sẽ thủ tiêu. Những người làm việc cho Linh có khoảng vài trăm người được huấn luyện dưới sự huấn luyện của những kẻ đào ngũ gốc Đức. Họ sống rải rác ở Sài Giòn, không giấy tờ, không có súng ống, ăn mặc như bất cứ người nhà quê nào. Nếu bất ngờ có bị mật thám Pháp hỏi thì họ khai bất cứ tên tuổi nào mà không có cách chi tìm ra lý lịch của họ. Họ chỉ có một địa chỉ tìm đến để gặp các đồng chí và khi nhận lệnh thì được cung cấp súng đạn, lựu đạn đã được cất dấu đâu đó. Thi hành xong công tác, họ mau chóng thoát khỏi Sài Gòn về hậu cứ chờ đợi một công tác khác. Mỗi chuyến công tác bao gồm 4,5 người và những công tác ấy thường diễn ra giữa ban ngày hay ngay trong nhà nạn nhân với sự thỏa thuận đồng lõa của đầy tớ trong nhà. Công việc đã được tính toán kỹ lưỡng, điều nghiên từng chi tiết của nạn nhân. Công việc nhiều khi nhanh chóng, giản dị- chỉ chừng vài phút là xong. Và họ ra khỏi Sài Gòn như lúc họ vào Sài Gòn.. Sau cái chết của Cò Bazin. Nguyễn Bình làm chủ Sài Gòn trong hai tháng trời! Lucien Bodard, sơ tóm La guerre d’Indochine, từ trang 443-451 Ngoài những tay ám sát chuyên nghiệp, Viet Minh còn thuê cả trẻ con trong việc ném lựu đạn ..Trong vụ ném lựu đạn vào nhà hàng Cafe restaurant Paix là do hai thiếu niên 15, 16 tuổi khi bị bắt đã khai ra. Chúng được cho 20 đồng và được chỉ dẫn cách sử dụng một trái lựu đạn rồi đem thi hành với lời dọa: Không thi hành thì sẽ bị giết. Và hầu như mỗi tuần đều có xảy ra chuyện ném lựu đạn do những kẻ không chuyên nghiệp, không phải Việt Minh.. Nhiều quả lựu đạn đã không nổ.. Việc ám sát và khủng bố của tướng Nguyễn Bình thật ra nằm trong chủ trương và đường lối của cộng sản từ Hồ Chí Minh đến Võ Nguyên Giáp. Tướng Bình chỉ làm theo chỉ thị của cấp trên. Xin trích dẫn tài liệu theo chỉ thị của Hồ Chí Minh mà tác giả cuốn Tôi bỏ đảng ghi lại trong dịp Đại Hội Anh Hùng chiến sĩ thi đua năm 1952 được đón Bác Hồ đến thăm. Bác đã căn dặn như sau : Mỗi lần chú giết được Tây hoặc Việt gian thì phải viết giắt cài lên áo công bố tội trạng. Nếu muốn cho xác người chìm xuống thì các chú phải mổ bụng và bổ đôi cái bao tử thì cái xác mới chìm xuống được. Nghe kể chuyện giết người, tôi choáng váng sợ hãi, nhưng rồi cũng phải vỗ tay tán thưởng, ca ngợi thành tích các anh hùng. Những anh hùng này về sau cùngxếp vào một lớp với tôi, có tất cả là 101 sinh viên lớp chế tạo máy . Trong số 101 thì hơn phân nửa lá quân đội biệt phái. Hoang Hữu Quýnh, Tôi bỏ đảng, 1989, trang 108 Bác dặn dò kỹ càng và độc ác tàn bạo đến thế là cùng!! Trong tài liệu của Ban Biên tập Truyền thống Tây Nam Bộ, cũng xác nhận có gây khủng bố như sau : Ở Cần Thơ, có Trung đội Ngô Hồng Giỏi được trang bị đầy đủ. Một số cán bộ trở về lập ra Sát gian đoàn, chuyên làm công tác trừ gian, diệt ác tại thị xã. Tháng sáu-1946, Sát Gian đoàn dùng lựu đạn đánh vũ trường nằm trên đường Phan Đình Phùng, Cần Thơ làm chết và bị thương một số sĩ quan Pháp. Sau đó hai mật thám ác ôn bị trừng trị, khiến cho bọn tay sai gián điệp chỉ điểm cùng bọn tề gian ác rất hoang mang. Lo sợ. Ghi lai. Trong Lớn lên với đất nước, Vỵ Thanh, trang 453 Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67 Theo tác giả Hillaire du Berrier, ông này cho rằng Bình được huấn luyện tại Moscou và được chỉ dạy những phương pháp giết người. Hillaire du Berrier còn quả quyết một điều đi ngược với tài liệu phía Việt Minh: -A point to bear in mind as one stuties everything this iron-willed murderer did thereafter is that in Binh we find the perfect example of the tool of the Russians, able to say in all honesty that he was never a Communist. For Nguyen Binh to the end, never belonged to the party. It was always as a nationalist that shining, overworked word, that he worked. Hilaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 65 Sự phủ nhận một cách xác quyết tướng Bình không phải là người cộng sản của tác giả Berrier đặt những người đang ra sức thổi phồng tướng Nguyễn Bình rơi vào một trường hợp khó xử. Sự xác quyết này không phải là không có căn cứ. Tướng Bình thường hành xử một cách tự quyền-nặng óc đàn anh-đàn em, dùng người theo kiểu giang hồ, bất kể thành tích tốt xấu, pha thêm chút máu giang hồ, lưu manh cũng có làm sao chịu gò vào khuôn mẫu kỷ luật của đảng? Võ Nguyên Giáp hẳn nhiên nhận được các bá cáo bất lợi ấy về tướng Bình. Cho nên, dù có cho vào đảng thì củng chỉ là một phương thức để kiềm chế Nguyễn Bình. Vì thế, theo tác giả Nguyên Hùng, tướng Nguyễn Bình, sự thật và huyền thoại xác nhận rằng:Vũ Huy Xứng là người đã làm lễ kết nạp tướng Nguyễn Bình vào đảng vào tháng 2-1947. Và đến 25-1-1948 được phong trung tướng cùng với 8 người khác H. Berrier còn cho rằng vào năm 1944, những ngày đầu tiên khi còn hoạt động bên cạnh Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Tướng Bình đã cùng với Võ Nguyên Giáp ám sát, khủng bố những thành phần quốc gia chống Pháp mà trước đây Bình từng là đồng chí với họ thời năm 1930. Bình và tướng Giáp đả mở những cuộc thanh trừng và sát hại rất nhiều thành phần được coi là Việt Gian. Khi giết những đồng chí Quốc Dân Đảng, phải chăng Nguyễn Bình muốn trả cái thù bị đâm chột mắt khi còn bị giam ở Côn Đảo? Rõ ràng cái gợi hứng ám sát và thủ tiêu những thành phần thù địch, Nguyễn Bình bước đầu cùng đi một con đường với tướng Giáp. Tóm lược Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67 Nếu đúng như lời trích dẫn của Bernier thì phải coi tướng Giáp là một loại sát thủ có hạng và được coi là người trực tiếp chỉ huy tướng Nguyễn Bình!!!Nguyễn Bình sau khi nghe tướng Giáp lý luận, ông đã thuận theo và từ nay, ông sẽ làm theo lệnh của tướng Giáp. Anh hãy nghe đây, tướng Giáp nói với Bình: Anh là một người quốc gia thông minh. Anh phải đứng chung trong hàng ngũ của chúng tôi nếu không chúng tôi sẽ thủ tiêu những người bạn trẻ của anh. Chúng tôi phải làm như vậy bởi vì họ sau này có thể là những kẻ phản bội . Anh đã biết nếu những người này trở thành những người anh hùng? Bây giờ thì có thể họ chưa là gì, nhưng sau này thì họ sẽ đi vào lịch sử. Bởi vì họ đã làm được một số công trạng trong những năm vừa qua, họ ham muốn quyền lực. Nhưng họ lại không xứng đáng được. Và để đạt được quyền lực đó, họ chỉ có một con đường mà họ có thể làm được. Là họ sẽ cộng tác bắt tay với bọn Quốc Dân Đảng hoặc với Pháp. Họ phải bỏ đi thôi. Hillaire du Berrier, Background to Betrayal, trang 66-67 Cho nên, nhìn toàn diện các hoạt động khủng bố, ám sát ở những ngày đầu cuộc kháng chiến, ta phải coi tướng Giáp là người chủ trương như nhận xét của Robert J O’ Neill: - Tướng Võ Nguyên Giáp chịu tất cả mọi trách nhiệm trong khi Hồ Chí Minh vắng mặt về việc sát hại hằng trăm các nhà chính trị dám chống lại Việt Minh, phá hại tất cả các tổ chức nào xem ra có thể cạnh tranh với Việt Minh cũng như cấm đoán mọi tờ báo nào xuất bản mà không có sự kiểm soát của Việt Minh. Ông cũng đã thiết lập được một quân đội từ 30.000 lên 60.000 cũng như một đơn vị tự vệ từ các thường dân… Robert J O’ Neill, General Giap: Politician & Strategist, trang 44 Tại sao những cán bộ Việt Minh thời 1945 cho đến nay 2013 vẫn không đả động gì đến những vụ khủng bố, ám sát tàn bạo dành cho những thành phần đảng phái và không đảng phái, thành phần tôn giáo do sự chỉ đạo của tướng Võ Nguyên Giáp? Ông Nghiêm Kế Tổ đã ghi lại một cách chi tiết như sau: -Số nạn nhân Việt gian lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Giam cầm, đầy ải hoặc thủ tiêu? Chẳng ai biết, chẳng ai hay. Được thể dân quân du kích, Công an hay Ủy ban kháng chiến cứ việc bắt bớ thẳng tay, không thương tiếc. Tâm lý bắt Việt gian và tâm lý sợ Việt gian trong vùng Việt Minh kéo dài từ 1946 mãi đến năm 1948 mới tạm dịu sau khi xảy ra một vụ bắt Việt gian kinh thiên động địa tại Việt Bắc. Vụ Tổng kiểm soát, hay nói bằng một danh từ mới và thích hơp hơn: vụ ráp vĩ đại cả Bắc Việt lẫn Liên khu IV( nửa nước VN) đã làm cho hàng ngàn dân chúng chết oan uổng và hờn giận. Không phải riêng dân chúng bị bắt, bị tra tấn, bị thủ tiêu, ngay đến cả trong quân đội, trong đoàn thể, trong hàng ngũ cộng sản, số sĩ quan, nhân viên và đảng viên chịu cực hình cũng nhiều không kém. !! Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam Máu lửa, trang 130-131. Cho đến khi đang viết những dòng nảy, tôi vẫn không hiểu được những lệnh thủ tiêu, giết người Quốc Gia là theo lệnh của tướng Võ Nguyên Giáp- bằng cớ rõ ràng là như thề-. Nhưng dư luận phương Tây cũng như Việt Nam, hình ảnh của tướng Giáp vẫn được coi là một người anh hùng, một tướng lãnh với tài cầm quân, mặc dầu ông đã nướng không biết bao nhiêu sinh linh các chiến sĩ chết dưới quyền của ông- một đổi lấy bốn hay năm mạng người lính-. Thật không hiểu được! Trong khi tướng Bình ở Nam Bộ cũng ám sát, cũng thủ tiêu thì nhận rất nhiều tai tiếng!! Trung tướng Nguyễn Bình Trung tướng Nguyễn Bình Tướng Bình được giao trách nhiệm vào Nam bộ, ông có nhiệm vụ là hợp nhất nhiều thành phần hỗ tạp lẫn lộn trong nhóm Bình Xuyên và thống nhất các lực lượng Cao Đài, Hòa Hảo trong việc chống lại người Pháp. Sau cái chết của cò Bazin, Saigon nằm trong tay Nguyễn Bình. Và các cuộc khủng bố ấy tiếp tục kéo dài..Phố xá vắng hoe, kiều dân Pháp không dám ra ngoài đường. Rồi lần lượt nhiều Pháp kiều đã gục ngã sau Bazin như các vụ ám sát các kỹ nghệ gia chủ hãng thuốc lá- chủ đồn điền cao su- viên chức và nhà buôn. Họ bị giết trong nhà, chết ở ngoài đường, thây bị vứt ở một góc phố nào đó có tấm bảng treo ở cổ. Đó là sự khủng bố trắng gây kinh hoàng cho mọi người . Lucien Bodard, La guerre d’Indochine, tóm sơ lược từ các trang 446-464 Người Pháp hầu như bất lực trước những cuộc ám sát của Nguyễn Bình. Theo một hai người bạn lớn tuổi nhớ lại ký ức về giai đoạn đó kể lại rằng: Chỉ cần thủ một quả lựu đạn vào một rạp cine chỗ đông người, thảy trái lựu đạn rồi biến mất để lại một khung cảnh kinh hoàng người chết, người bị thương. Berrier mô tả thêm: -Binh murderd more people, with more brutality, than any Oriental since Genghis Khan, and did it as America’sprotege as well a Ho Chi Minh’s and the Russia’s..(..)No man has a right to be neutral . If he neutral, kill him.. Hillaire de Berrier, Ibid, trang 67 Hàng ngày đài tiếng nói Nam Bộ rao truyền sự hận thù và sự kinh hoàng bằng cách đọc tên những thành phần sẽ bị thù tiêu trên một danh sách có sẵn. Nhưng mọi chuyện đã mau chóng thay đổi, đem lại một không khí an bình giả tạo cho bộ mặt Sài Gòn. Phải đợi đến khi thủ tướng Trần Văn Hữu họp báo và tuyên bố giao ngành an ninh cho một viên cựu đốc Phủ Sứ, tên Tâm- người được coi là hùm xám Cai Lậy. Từ đây mọi chuyện bắt đầu đổi khác. Việc đầu tiên, Tâm làm sạch nội bộ ngành công an tìm ra một viên thứ ký là người của Việt Minh gài vào .. Mọi tin tức dù mật đến đâu đều lộ ra ngoài đều do người thư ký này bá cáo cho tướng Nguyễn Bình. Tâm khai thác, hỏi cung và khi khai thác xong, tìm ra đường giây đầu mối qua viên thư ký này xong. Tâm thẳng tay mang ra xử bắn ngay trong ngày và sau đó bất cứ một nghi ngờ nhỏ nào mà trùm Cai Lậy biết được thì cũng là nguyên cớ để lôi ra tra khảo bằng đủ loại cực hình. Phải nói sự tra tấn hoàn toàn bất nhân và bằng những hình cụ độc ác nhất!! Tâm làm việc có kế hoạch, thu được nhiều tin tức, sẵn sàng chi tiền lấy tin tức. Tâm bỏ ra 60.000 để lấy tin tức từ một người chỉ điểm chỗ ỡ ở của Lê Văn Linh. Tâm bắt giam người đó và cho biết nếu chỉ đúng thì có 60.000 ngàn, nếu chỉ sai thì chỉ có chết. Tâm sau đó đã mở cuộc vây bắt Linh. Y còn đang ngủ. Lục soát đằng sau một tủ sách mà đằng sau dấu những khẩu súng liên thanh, súng lục từng dùng để đi ám sát. Ở một phòng khác đầu đủ hồ sơ những ngưởi sẽ bị thủ tiêu với ngày giờ thi hành. Và một hồ sơ lớn đầy đủ về chính ông Tâm. bắt trọn ổ 4 người của tướng Bình mà người đứng đầu là Lê Van Linh. Lê Văn Linh được coi như cánh tay mặt của tướng Nguyễn Binh ở tại một biệt thự đường Frères-Louis. Linh bị bắt không kịp chống cự. Khám phá nhà Linh còn bắt được một Hoa Kiều bị Linh bắt giam, đòi tiền chuộc mạng với giá một triệu đồng. Ông Tầu trả công thưởng 100.000 đồng cho Tâm. Tâm lấy số tiền đó trả 60.000 cho người chỉ điểm .. Từ những người vừa bị bắt, Mai Hữu Xuân- một thứ sản phẩm của trùm mật thám Bazin từ trong huyết quản-ông trùm của mật thám- và sau này cũng là người được lệnh thanh toán anh em ông Ngô Dình Diệm năm 1963. Và ngay ngày hôm sau Mai Hữu Xuân bắt trọn ổ 40 người khác của Nguyễn Bình. 19 ngày sau, một tên trùm Việt Minh chuyên ám sát bị tóm ở một biệt thự khác, đường Luro tên Van San .. Việc bắt trọn ổ này là công khai thác, mua bán tin tức mà người Pháp gọi là: La vente des tuyaux, Kết quả mẻ lưới của Tâm-Xuân bắt được cả thẩy khoảng 100 người của tướng Bình. Kể như hệ thống khủng bố và ám sát của tướng Bình bị xóa sổ. Cũng theo nhận xét của Philip B. Davidson nhận xét về ông Tâm như sau: Cái ngưởi có thể đánh bại Bình là một người vóc dáng nhỏ thó, già, một thứ cảnh sát đã hết thời mà trước đây có tiếng là sát thủ và hùm Cai Lậy. Chỉ trong vài tuần lễ, Tâm phá sạch mạng lưới tình báo của Bình bằng cách tra tấn những tình báo viên bị bắt, Tâm bắt giam hoặc thủ tiêu những phe đảng của nguyễn Bình. Cho đến giữa năm 1950, Tâm đã có thể quét sạch bóng dáng của Bình ra khỏi Sải Gòn. Philip B. Davidson, Ibid, trang 82 Tâm không đưa những kẻ khủng bố ra tòa án VN vì các ông tòa Annam sợ không dám xử, sợ bị Việt Minh trả thù. Tâm đưa thẳng các bị can cho tòa án Tây xử. Các tòa án Tây xử theo luật có từ thời Nhật đặt ra rất khắt khe- bị can chỉ có thể rơi vào hai trường hợp: Hoặc số 76 hoặc số 83. Giữa hai số đó có sự khác biệt lớn lắm. Chẳng may rơi vào số 76 là nhận án tử hình và 83 là tù chung thân. Việt Minh qua tướng Bình đã thất bại trong cuộc chiến tranh khủng bố và phá hoại ở Sài Gòn, không phải với người Pháp mà với cặp Tâm-Xuân. Tại sao Tâm làm được việc xóa sổ người của tướng Bình? Và đã có thể phá tan hệ thống khủng bố ấy trong thời gian vài tháng? Trong khi các tổ chức đảng phái Quốc Gia như Quốc Dân Đảng, Đại Việt đã bó tay trước các cuộc tàn sát và khủng bố của tướng Giáp ở ngoài Bắc? Chính thức, tôi dựa vào tài liệu của Lucien Bodard vì tác giả có được các bút ký của tướng Nguyễn Bình viết mỗi ngày khi bị VNG gọi ra Bắc .. Đây là tài liệu khả tín do Phòng Nhì Pháp có được sau khi khám xét thi thể tướng Bình lúc bị thảm sát ở Campuchia. Những bút ký ghi lại ấy chẳng khác những di chúc để lại cho vợ ông và cho biết những âm mưu muốn triệt hạ ông. Phần tài liệu về phía Việt Nam có rất nhiều. Nhưng không dùng được vì chỉ là sách vở tuyền, che dấu sự thật, cắt xét phần bút ký của tướng Bình trên đường ra Bắc: Cho đến nay, câu hỏi đặt ra ai giết tướng Bình vẫn là một câu hỏi .. Nhà báo Bùi Tín trong một dịp trả lời phỏng vấn cũng đặt câu hỏi ai giết tướng Nguyễn Bình, trung tướng tư lệnh Nam bộ? Bảy Viễn và Bình Xuyên đối đầu với tướng Nguyễn Bình Bảy Viễn là một nhân vật huyền thoại mà cuộc đời của ông ta còn vượt hơn cả những nhân vật truyện trong các phim ở Holywood. Ông ta là kết tinh của tinh thần yêu nước và tướng cướp, kết tinh giữa cái hào hiệp và sự thanh toán dã man. Trong Bảy Viễn có cả cái tốt lẫn cái xấu, chất giang hồ hảo hán và cả lòng yêu nước. Ông chống Pháp, nhưng trấn lột những nhà giàu, bắt những kẻ giàu có đóng thuế để nuôi đám đàn em. Ông phạm nhiều tội ác như giết người, nhiều thủ đoạn trái pháp luật. Vì thế, con người huyền thoại ấy tiêu biểu cho giới giang hồ miền đất Nam Bộ. Một thứ anh chị nổi lên từ criminal background trong thời chiến. Không lạ gì, một sinh viên người Pháp, anh Pierre Debezies đã làm hẳn một luận án tiến sĩ Luật và đã đưa ra một nhận xét khá chính xác như sau về con người Bảy Viễn: Bảy Viễn chắc chắn là một khuôn mặt kỳ lạ nhất ở miền Nam Việt Nam. Làm thế nào mà một tên cướp xa lộ bị săn đuổi bởi nhà cầm quyền qua những vùng lầy ở Soài Rạp mười năm trước đây nay có thể có một địa vị như anh ta có được ngày hôm nay. Hillaire du Berrier, Ibid, trang 55 Bảy Viễn vốn chỉ là dân giang hồ, ăn cướp và từng bị án 12 năm tù ở Côn đảo. Nhưng mới thụ án được 4 năm thì Bảy Viễn đã tố chức đóng bè và trôi dật về bờ biển Phan Thiết. Sau đó lại bị tù ra Côn Đảo trong một vụ cướp. Án tù là 12 năm cộng với 8 năm chưa thi hành, nhưng ông lại vượt ngục với Mười Trí. Thành tích duy nhất là những lần vượt ngục Côn Đảo. Khi trở Bảy Viễn vượu ngục từ Côn Đảo về Sài gòn thì tình hình rất lộn xộn. Nhật cướp chính quyền, rồi đầu hàng. Bảy Viễn gặp lại Ba Dương, Maurice Thiên và cùng với Mười Trí lập bộ đội..tự nhận là Ủy viên quân sự. Ngày xưa là dân giang hồ nay nghiễm nhiên là chiến sĩ, là ủy viên quân sự dưới quyền có khoảng 100 người. Sau khi Ba Dương bị sát hại trong một cuộc càn của Pháp thì cuối cùng Bảy Viễn được Nguyễn Bình đề cử khu phó và Bảy Viễn đóng trụ ở Rừng Sác.. Theo tài liệu của Huỳnh Tấn Phát cho thấy Việt Minh có mở lớp huấn luyện cán bộ cho Bình Xuyên tại Rừng Sác- Rừng Sác là căn cứ địa và chiến khu của Bảy Viễn- : Anh Pham Ngọc Thạch cùng tôi vào Vũng Tàu và anh giao cho tôi mở lớp huấn luyện cho tân binh ở Bà Rịa, còn anh đến Phước An, Rừng Sát tìm hiểu tình hình Bình Xuyên và công tác tại đây một thời gian. Sau đó anh bảo tôi về Bình Xuyên mở lớp huấn luyện cho bộ đội của anh Ba Dương Văn Dương, Tám Mạnh và Dương Văn Hà, những cán bộ vững vàng và trung kiên. Huỳnh Tấn Phát, Ibid, trang 146 Mặc dầu Bảy Viễn nhận được nhiều hứa hẹn từ phía Nguyễn Bình như cho làm Trưởng Khu 7( hiện là khu phó), nhưng Bảy Viễn do dự yên lặng vì ông ta thích cái tự do, không chịu nằm dưới chướng của ai và làm chủ những vùng lầy bãi sậy- một thứ trùm băng đảng thu thuế cho băng đảng của mình-. Bảy Viễn có giang sơn của mình. Giang sơn nào anh hùng nấy, đúng tinh thần dân Nam Bộ; anh hùng hảo hớn.. Ngoài ra quyền lợi thu thuế khu vực Sài Gòn Chợ lớn cũng không phải nhỏ mà hai bên thường dẫm chân lên nhau. Nguyễn Bình cũng muốn nắm trọn quyền thu thuế, Bảy Viễn cũng có cơ sở, có đàn em và không muốn mất phần. Dưới tay Bảy Viển có nhiều cố vấn có học như bọn Lâm Ngọc Đường và Maurice Thiên. Lại thêm có nhà trí thức Trần Văn Ân làm cố vấn chính trị. Bọn này không đời nào để Bảy Viễn mắc vào cái bẫy của Việt Minh dăng ra qua tướng Bình .. Bọn Tài, Sang- tay sai của phỏng nhì Pháp, một loại cố vấn cũng nhất định tìm cách ngăn cản Bảy Viễn xuống Đồng Tháp nhận chức khu trưởng khu 7. Đã hơn ba năm rồi, tình trạng giữa Bảy Viễn và tướng Bình vẫn nhì nhằng và cũng xảy ra nhiều đụng chạm giữa đôi bên. Có nhiều dấu hiệu cho thấy Bảy Viễn ngả theo Tây như các giáo phái.. Bảy Viễn khai trừ cán bộ miền Bắc trong khi đó thì hai lần tướng Nguyễn Bình mưu toan ám sát Bảy Viễn bất thành .. Nhưng Bảy Viễn do cái máu lang bạt, do tự ái anh hùng hảo hớn cứ nhất quyết đi dự phiên họp do Tướng Bình mời. Bảy Viễn cẩn thận mang theo hai đại đội đi theo. Buổi họp ấy có đầy đủ chức sắc lãnh đạo của Việt Minh như Phạm Ngoc Thuần, Lê Duẩn. Thuần đã ép Bảy Viễn giải tán Bình Xuyên. Việc yêu cầu giải tán Bình Xuyên là một yêu cầu mà Bảy Viễn không thể chấp nhận được. Trước khi ra về Bảy Viễn dứt khoát: Không đời nào!! Tướng Bình nhân dịp này muốn bắt Bảy Viễn, nhưng đã bị Lê Duẩn cản nên Bảy Viễn được thong thả ra về. Trong khi đó thì hai ông Thiên và Đường- phụ tá của Bảy Viển- đã tiếp xúc với tướng De la Tour là nếu một khi Bảy Viên kéo quân về thành. De la Tour sẽ ra đón Bảy Viễn ngay cửa ngõ vào Saigòn với tất cả nghi lễ dành cho một tướng lãnh Bình Xuyên về với chính nghĩa Quốc Gia!! Từ chối hợp tác với Nguyễn Bình, Bảy Viễn còn có con đường nào khác? Nguyễn Bình đương nhiên nghi ngờ Bảy Viễn và tìm cách cho người xâm nhập vào tổ chức và phá tổ chức của Bảy Viễn. Khi biết Bảy Viễn có liên lạc với Pháp thì Nguyễn Bình muốn trừ khử Bảy Viễn. Và theo tài liệu của Hillaire du Berrier, đã có lần lấy cớ ngày sinh nhật Hồ Chí Minh, Nguyễn Bình tỏ ý muốn gặp Bảy Viễn tại bộ Tham Mưu của mình. Bảy Viễn nhận lời và mang theo 200 cận vệ dữ dằn nhất của mình để nếu cần cứu nguy và giết Nguyễn Bình khi có dấu ra lệnh. Khi vào bên trong lều, Nguyễn Bình nói với Bảy Viễn: ông phản bội chúng tôi, nhưng tôi sẵn lòng tha thứ cho ông và đặt tay lên vai Bảy Viễn và ôm ông ta. Đúng lúc ấy thị bọn đao phủ đột nhập vào lều chỉ huy định ám hại Bảy Viễn. Bọn cận vệ của Bảy Viễn can thiệp kịp thời và bảo vệ cho Bảy Viễn rút lui. Sau việc này, Bảy Viễn sai Lai Hữu Tài như một thư ký riêng đến gặp người Pháp và yêu cầu được cung câp súng đạn để dẹp Việt Minh ra khỏi khu vực. Ngay cả khi chưa nhận được sự ưng thuận của Pháp, Bảy Viễn cho đàn em thanh toán người của Nguyễn Bình tại các khu chiếm đóng của Việt Minh một cách khủng khiếp. Xác người chết trôi sông không được trình báo. Bảy Viễn được Savani cho người tiếp xúc và lien6b lạc kín đáo và họ đã có một thỏa thuận vào ngày 16-8-1948. Đến năm 1951 thì lại có thỏa thuận với Bảo Đại và được độc quyền khai thác trỏng lãnh vực: Cờ bạc, buôn thuốc phiện lậu và gái điếm. Nổi tiếng với sòng bạc Đại thế giới. Và chẳng bao lâu sau, uy tín của Bình Xuyên lên cao, Bảy Viễn trở thành một thứ Robin Hood Việt Nam. Kể từ khi Bảy Viễn nắm quyền, xe đò chạy đường Sàigon- Vũng Tàu thong thả, không bị quân của tướng Bình chặn bắt và đóng thuế. Sài gòn nói chung dưới sự quản lý của Bình Xuyên, Pháp kiều cũng như dân chúng có thể đi chơi đêm mà không sợ bị giết .. Không còn những xác người vứt bên vệ đường với án tử hình treo nơi cổ như một đe dọa những kẻ khác. Dân chúng được sống an bình trong vài năm cho đến khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm về nước.. Trước những thất bại của các tổ ám sát, tướng Bình đã liều lĩnh tổ chức các cuộc tấn công các đơn vị quân đội Pháp tại các tỉnh, nhưng đã không thành công và tướng Bình cũng đã đụng phái một viên sĩ quan Pháp- một sĩ quan đã gặt hái được nhiều thành công vì tài chỉ huy, vì kinh nghiệm chiến trường và biết lấy lòng dân quê. Đó là tướng Chanson. Binh lính Pháp đi đến đâu là làm công tác xã hội đến đấy để lấy lòng dân!! Nguyên nhân thất thất bại của tướng Nguyễn Bình ở miền Nam Tôi đã có dịp viết một bài với nhan đề: Kháng chiến Nam Bộ đi trước mà về sau. Sơn Nam cũng phản ánh một nhận xét tương tự: Phải phản ảnh tình hình Nam Bộ, kháng Pháp đi trước miền Bắc và Nam Bộ quá xa xôi, khó được cơ may gặp cụ Hồ như ở ngoài Bắc. Cần chứa đựng nỗi ray rứt độc đáo của Nam Bộ . Hồi Ký Sơn Nam, Từ U Minh đến Cần Thơ Kháng chiến khởi đầu ở Nam Bộ, đi một bước trước, vậy mà sau này- bởi vì thiếu những điều kiện khách quan đã là cớ sự cho sự thua trận trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Đây cũng là một thực tế chiến tranh mà không mấy sách vở tài liệu chiến tranh nào của miền Bắc đề cập đến điều này .. Riêng tướng Giáp qua những sách mà đại tướng đã viết ..Người đọc có cảm tưởng chiến tranh Dông Dương chỉ xảy ra luẩn quẩn tại miền Bắc và bên Lào. Một nửa phần đất phía Trung và Nam Bộ hầu như không có chiến tranh? * Yếu tố địa lý Miền Nam là một miền đất mới- khác hẳn miền Bắc về địa lý, dân số, xã hội và tôn giáo ..Nói chung đó là một xã hội mở theo nghĩa khả năng thích ứng và hội nhập rất là mạnh. Nó cũng là miền đất được thiên nhiên ưu đãi, đất rộng bao la mà người thưa. Thời Minh Mạng, người ta phải đo ruộng đất bằng Dây thay vì thước tấc. Một dây có diện tích co dãn từ 5 đến 10 mẫu ta, qua câu ca dao: Đất năm dây cò bay thẳng cánh Anh dám hỏi nàng quê quán ở đâu Sơn Nam, Đất Gia định xưa, trang 64 Miền đất Nam Bộ- miền đất mới- địa giới phân chia làng xóm lại lỏng lẻo, nhà nọ cách nhà kia xa- Mỗi đơn vị nhà cửa mang tính tự lập và không nằm trong khuôn khổ tập tục, xã hội làng xã. Dân làng phần lớn hỗn tạp, dân du nhập đủ thành phần, chẳng theo phép tắc nào cả, nếp sông trôi sông lạc chợ, ở rồi đi, đất rộng người thưa rất khó gom dân lại đễ tổ chức làng xã theo tập tục, nề nếp. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa cũng gặp trở ngại gom dân trong các ấp chiến lược và không mấy thành công. Sơn Nam trong sách của ông viết: - Dân U Minh thưa thớt, thiếu tổ chức, Cách Mạng xuống đó làm gì cho mệt, muốn vậy, phải xuất phát từ tỉnh lỵ Rạch Giá này mới có hiệu quả. . Nghĩ vậy, tôi tự hào một mình rằng đã có trình độ, đúng hay sai chưa biết. Có gì động tĩnh, chỉ lên chiếc xuồng Ba Lá, chốc lát vèo một cái là đã mất hút vào không gian vô tận . Hồi ký Sơn Nam Ibid, trang 158 Vậy thì quân ở đâu mà rải ra khắp nơi khắp chốn? Vì thế, nếu Việt Minh sống ở các vùng Cần Thơ, Vĩnh Long, Rạch Giá thì có cái ăn, nhưng không có chỗ ẩn náu an toàn. Bị Tây càn là vô phuong trốn chạy. Cho nên, muốn an toàn phải đi xuôi nữa đi sâu nữa vào vùng U Minh .. Đó cũng là căn cứ địa của Khu 9. Miền Nam chỉ có cái lợi thế địa lý khi đi sâu vào miệt phía Đông Nam Sài Gòn hay miệt Cà Mâu vì ở đấy có những loại cây tràm mọc dưới nước mà không dễ gì len lỏi vào được .. Và phải dùng thuyền nhỏ. Vì thế nó cũng trở thành nơi trú ẩn an cho các lực lượng kháng chiến miền Nam trong nhiều thập niên. Philip B. Davidson, Ibid , trang 39 Trong khi đó, làng xã miền Bắc là những đơn vị kinh tế, xã hội, tôn giáo, lịch sử, phong tục- một xã hội khép kín- bao bọc bởi lũy tre, làng nọ sát làng kia, nhà nhà san sát nhau chia ra rừng xóm như xóm trong, xóm ngoài, xóm trên, xóm dưới .. Chính ở chỗ đó dễ kiểm soát dân làng.. Khi Việt Minh về, chỉ cần mấy du kích vào làng bắt đi ông lý trưởng và vài chức sắc là nắm tóc được cả làng. Dân làng sợ hãi riu ríu nghe theo, chó không dám sủa, trẻ con không dám khóc. Kinh nghiệm cá nhân của tôi là khi Việt Minh nổi dậy, họ vào bắt ông Lý Chân-lý trưởng của làng tôi- chẳng biết ông có tội tình gì- và dẫn đi biệt tích .. Bố tôi, chỉ là một ông Trùm, chức phận nhỏ bé, không làm một điều xằng bậy gì, chỉ lo phận sự hàng xứ, lễ lạc cho họ đạo. Ông cũng bị đi tù giam ở trại Lý Bá Sơ. Chỉ có cái may là sau một năm tù, ông sống sót trở về. Nhưng nào đã hết, anh tôi du học ở ngoại quốc về- ở địa phận Hà Nội- tội tình gì bị xử án giam tù cộng chung tất cả hơn 20 năm, lên tận Cổng Trời, nằm Hỏa Lò.. Vào miền Nam đến lượt các anh rể tôi, các cháu đi cải tạo. Tính chung gia đình chúng tôi cống hiến cho cách mạng trên 100 năm tù!! Tôi vẫn tự hỏi, chúng tôi tội tình gì. Dân chúng tôi tội gì mà bị những tên đao phủ hành hạ đến như thế !! Địa lý miền Bắc với núi cao hiểm trở, rừng khắp nơi là chỗ trú ẩn an toàn cho kháng chiến .. Các trận chiến thắng có tính cách quyết định cho tướng Giáp đều xảy ở các nơi núi cao hiểm trở, như chiến thắng trong chiến dịch biên giới, chiến thắng Điện Biên Phú. 80% lãnh thổ miền Bắc là rừng, núi thay đổi từ rừng thưa đến dầy đặc. Những cánh rừng bao phủ, che đậy những hoạt động của Việt Minh ở bên dưới. Nó cũng che dấu các kho vũ khí, đạn dược. Nó cũng là những nơi ẩn lánh lý tưởng cho bộ độ với nhiều lùm cây, bụi rậm.. Vì thế, Pháp khó có thể tiến hành những cuộc tấn công hoặc lục soát mà không bị tổn thất nặng nề vì bị phục kích … Philip B. Davidson, Viet Nam at war, The History 1946-1975 Và người ta cũng nhận thấy rằng các cuộc tấn công của Việt Minh phần lớn đều phải dựa theo mùa. Đó là thời gian lý tưởng cho các cuộc hành quân ở miền Bắc từ giữa tháng 10 đến giữa tháng năm.. Thống kê cho thấy 19 cuộc tấn công vào quân đội Pháp do tướng Giáp điều động đều xảy ra trong thời gian này trên tổng số 26 cuộc tấn công. Điện Biên Phủ đã diễn ra cũng trong thời điểm này .. Tết Mậu Thân sau này cũng vậy. · Yếu tố cá tính dân miền Nam Tôi hồi tưởng lại hai biến cố cải cách ruộng đất và Nhân Văn Giai phẩm ở miền Bắc vào đầu thập niên 1950. Tôi tự hỏi làm cách nào người cộng sản đã có thể chà đạp con người, khinh rẻ nhân phẩm con người từ người nhà quê đến một người có học vấn đến như thế? Làm thế nào mà người cộng sản có thể bắt người bố gọi con dâu bằng bà và xưng con, còn cô con dâu xưng bà với bố chồng? Tôi không nói đến những thiệt hại vật chất đã đến với những người địa chủ lớn nhỏ vô tội, nhưng tôi thấy họ đã biến những người nông dân hiền lành trở thành một bọn côn đồ, bọn cướp ngày. Còn những nạn nhân như các địa chủ, các nhà văn lớn nhỏ thì sợ hãi nhút nhát như con giun, con dế, van xin, lạy lục để được tha, để được yên thân. Bây giờ thì người cộng sản tự họ lãnh cái hậu quả của những tên công an đang hành hạ người dân cả nước..Những nhà thơ, nhà văn trong nhóm Nhân Văn Giai phẩm- mặc dầu không thể không kính nể họ- vẫn thấy họ hành xử nhát sợ như những con run, con dế!! Tại sao tướng Nguyễn Bình đã có thời làm mưa làm gió ở miền Nam lại bó tay thua cuộc? Bởi vì cá tính dân miền Nam quen tự lập, quen sống nếp giang hồ, không chịu ép mình làm tôi tớ cho một người- dủ là tướng ở miền Bắc vào- cưỡi đầu cưỡi cổ-. Thật vậy, Sau 1975 thì tôi càng nhận thức một cách rõ rệt, đã nhận ra cái cá tính dân miền Nam, nó gìn giữ dân miền Nam đứng vững trên hai đôi chân của mình .. Không phải những khu vực như Dốc Mơ, Gia Kiệm, Xóm Mới là những thành trì chống Cộng vững chắc !!. Chính những nơi này –do có tổ chức, có lỷ luật trên bảo dưới nghe- lại tỏ ra dễ bảo hơn các thành phần xã hội khác. Sau 1975, người ta càng thấy rõ yếu tố cá tính người dân miền Nam đã làm ung thối các chính sách đi kinh tế mới, các buổi học tập dân phố, các chính sách đánh tư sảnvv Nếu chính sách xã hội hóa miền Nam gặp khó khăn và trở ngại là do thành phần đa số dân miền Nam rất ngang bướng, rất khó bảo. Hãy thử nhìn lại, chỉ 20 năm sau vài trăm ngàn người sĩ quan và công chức cũng như gần 300 nhà văn nhà thơ của miền Nam bị tù tội, bị đi cải tạo. Đã có bao nhiêu người tỏ ra yếu hèn viết những cuốn sách thú tội, tố cáo nhau hoặc tố cáo tội ác Mỹ Ngụy của miền Nam Việt Nam không ?Những Trần Văn Tuyên, những nhà thơ như Vũ Hoàng Chương cho đến lúc chết nào họ có nửa lời biếm nhã với miền Nam ?? Điều gì làm nên sự khác biệt giữa hai giai đoạn dưới sự thống trị của cộng sản? Nếu không phải là cá tính người dân miền Nam nói chung- Bắc 54 nói riêng và miền Nam? Cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa Xã Hội ở miền Nam là một sự thất bại hoàn toàn, nhưng nó lại có thể điều động, khuất phục hàng triệu người miền Bắc như những con cừu? Người ta còn nhớ trong buổi họp chiêu dụ Bảy Viễn, trước mặt bá quan văn võ, trước mặt tướng Nguyễn Bình, Bảy Viễn chửi và nói thẳng ông ghét người miền Bắc. Bảy Viễn đứng thẳng lên không nhìn chủ tọa mà ngó ngay Nguyễn Bình: Trước khi trả lời bốn điều thắc mắc của Khu trưởng Nguyễn Bình, tôi xin nói thẳng điều này, cá nhân Bảy Viễn không tin người Bắc, Tôi cũng không khoái mấy cha chính trị viên.. Khi mới lập bộ đội, gian khổ chết chóc thì không thấy các cha đâu, khi bộ đội thành nề nếp, có đại đội, có tiểu đoàn rồi thì các cha vác mặt tới đòi chia quyền chỉ huy..(..) Tôi không tin khu, tôi về đây không phải vì chức khu trưởng các ông dành cho tôi. Thật ra đây là kế điệu hổ ly sơn nhằm tách tôi ra khòi chiến khu Rừng Sác. Đây là hạ sách, đứa con nít cũng biết.. Nguyên Hùng, Bảy Viễn, thủ lỉnh Bình Xuyên, trang 196-197 Cái cung cách Bảy Viễn, cái ngang tàng của Bảy Viễn đối với Việt Minh cũng là điều mà dân miền Nam đáp trả lại cộng sản sau 1975. Một tính khí- một con người- một miền Nam. Phải nhìn nhận có một yếu tố nào đó làm cho người dân miền Bắc và miền Nam có hai lối ứng xử khác nhau trước bạo quyền. Tôi nghĩ đó là do cá tính con ngưởi miền Bắc khác miền Nam … Miền Bắc có nêp sống văn hóa quy củ, đã đi vào nề nêp, biết tôn trọng lễ nghi, tập tục và pháp luật nên dễ uốn mình theo kẻ cầm quyền. Đứng ở một mặt nào đó, cá tính dân miền Nam thể hiện ra qua con người Bảy Viễn. Hành xử giang hồ, dẫm đạp lên pháp luật nên coi trời bằng vung. Bảy Viễn đã sẵn sàng đối đầu với kẻ cầm quyền, chỉ sẵn sàng nói chuyện phải quấy với kẻ biết điều và nếu không được thì chẳng ngại đối đầu trước một viên tướng khét tiếng hung thần như tướng Bình? · Yếu tố tôn giáo Nhưng quan trọng hơn cả là lực lượng Bình Xuyên và hai giáo phái Cao Đài Hòa Hảo đã là những khu tự trị hầu như bất khả xâm phạm. Đó là những mẫu mực tôn giáo đến lạ lùng. Nó pha trộn các giá trị, niềm tin tín ngưỡng tôn giáo với mê tín và chính trị đến không hiểu được. Nhân vật giáo chủ được huyền hoặc đến độ coi ông Huỳnh Phú Sổ là bất tử, súng đạn bắn không chết. Vì thế khi ông bị Việt Minh ám hại, các giới chức sắc không làm thể nào giải thích về cái chết ấy cho lọt tai .. Người Tây Phương không hiểu được họ nên gọi họ một cách khinh miệt là những ông đạo khùng. Các vùng Hòa Hảo, Cao Đài và Sài Gòn –Chợ Lớn của Bình Xuyên hầu như là những khu tự trị- nội bất xuất, ngoại bất nhập-. Người Pháp không tốn một viên đạn, một tên lính mà tự nhiên bình định được phần lớn lãnh thổ miền Nam !! Chúng ta thừa biết rằng Hồ Chí Minh và tướng Giáp có ưa gì công giáo Bùi Chu-Phát Diệm- Trước cũng vậy và nay cũng vậy. Vậy mà họ vẩn giả đò nhẫn nhịn giao hảo. Nhân dịp lễ phong chức giám mục Lê Hữu Từ, Ông Hồ Chí Minh đã kéo phần lớn các bộ trong chính phủ lục tục về Phát Diệm- như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Mạnh Hà dự lễ phong chức. Màn kịch trẻ con ấy, đáng nhẽ phải có một Bảy Viễn công giáo miền Bắc vạch trần ra mới phải. Đồng thời tạm để yên cho nhóm tự trị công giáo Phát Diệm. Cả một vùng đất từ Ninh Bình nhất là Bùi Chu Phát Diệm giáp giới đến Thanh Hóa dưới quyền giám mục Lê Hữu Từ trở thành vùng trái đệm và đã cứu sống nhiều thành phần đảng phái thoát nạn. Tôi giả dụ rằng có khu tự trị Bùi Chu và Phát Diệm của công giáo rồi được tiêp nối ngay là khu tự trị của Cao Đài trải dài từ Nam Định, Phủ Lý, Hà Đông lên đến Hà Nội. Rồi từ Hà Nội là khu tự trị Bình Xuyên kéo xuống đến Hải Phòng, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hòn Gay. Và từ đó lên miền thượng du giáp ranh biên giới Việt Trung là lảnh địa khu tự trị Hòa Hảo thì có đến hai Võ Nguyên Giáp, liệu có thể làm gì được? Vai trò tôn giáo-chính trị là một sản phẩm đặc thù của miền Nam mà rất tiếc miền Bắc không có được!! · Yếu tố biên giới Nếu không có một biên giới Việt Trung-một vùng hậu cần rộng lớn là nguồn cung cấp súng đạn, lương thực và huấn luyện thì liệu chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất sẽ xảy ra như thế nào? Làm thế nào, tướng Giáp có những sư đoàn được huấn luyện đầy đủ, được trang bị đầy đủ quân trang quân dụng, được trang bị những võ khí chiến lược như đại bác 105, súng phòng không 37 ly đã làm thay đổi diện mạo trận chiến Điện Biên Phủ ngay từ lúc đầu? Philip B. Davidson đã có một nhận xét sâu sắc không thể chối cãi được rằng ( Xin trích nguyên văn), một cái lợi thế địa lý tuyệt hảo cho Việt Minh vì giáp ranh biên giới với Tàu: If the French spread out to control the countryside, they subjected themselves to defeat in small detachments. If they concentrated around the key population centers, they surrendered the rural areas to the Viet Minh. There was a fourth Vietminh advantage- the location of the Viet Bac(The Vietminh base area) adjacent to China. This factor gave them a priceless sanctuary and logistic base. The Vietbac-China sanctuary provided a source of arms and equipment, training areas, and above all, defensive locations for the organ of the Vietminh government. Philip B. Davidson Ibid,, trang 43 Biên giới Việt- Trung là một lãnh địa vô giá và lá căn cứ hậu cần cho sự chiến thắng của tướng Giáp. Và nay chúng ta cũng phải trả một cái giá vô giá về vùng biên giới này. Không biết tướng Giáp có biết điều đó không? Tất cả những yếu tố trên làm nên cái vinh quang của đại tướng Võ Nguyên Giáp thì cũng là những nguyên nhân làm nên thất bại cho tướng Bình ở vùng Nam Bộ? Việc tiếp tế hậu cần cho Nam Bộ thật vô vàn khó khăn. Sau đây là trường hợp hợp hiếm hoi giúp đỡ không phải theo nhu cầu mà tiện thể có người vô Nam Bộ nên cung cấp cho miền Nam một số tiền. Theo tài liệu trong cuốn Huỳnh Tấn Phát kể lại cho hay: Sau cùng đoàn chuẩn bị về Nam, anh Huỳnh Tấn Phát và tôi được phân công về trước, đưa một đoàn cán bộ quân chính khóa năm Trung Ương ( Khoảng 70 người) tình nguyện vào Nam . Anh Huỳnh Tấn Phát đi nhận nhiệm vụ ở Bộ Quốc Phòng giao cho anh một số tiền lớn đem về cho tướng Nguyễn Bình ở miền Đông Nam bộ .. Huỳnh Tấn Phát, Cuộc đời và sự nghiệp, trang 143 Số tiền giao cho Huỳnh Tấn Phát đưa vào Nam cho tướng Bình là bao nhiêu thì không rõ, có đủ nuôi quân trong vài tháng trời không. Về trang bị vũ khí đạn dược thì cửa ngõ duy nhất là Vũng Rô có nhiệm vụ cung cấp vũ khí không phải chì cho khu 7 mà còn cả các khu 8,9 nữa. Công việc cấp bách lúc đó là xây dựng kho chứa vũ khí, tìm ghe thuyền đưa vũ khí về Nam Bộ. Một trong các kho đó là Vũng Rô mà thủ kho là đồng chí Tất. Chính từ kho Vũng Rô này mà bà Nguyễn Thị Định nhận võ khí chi viện cho Nam Bộ . Các thuyền trưởng Trần Văn Hoài( Hoài Râu), Đặng Văn Qua, Mười Thôi cũng xuất phát từ đó đem súng đạn về cho ba khu 7,8,9. Nguyễn Bình, Huyền thoại và sự thật,, chuong 45, Ibid . Số phận hai người họ làm nên số phận hai vùng đất nước mà họ có trách nhiệm!! Hồi Ký Sơn Nam, Từ U minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9…trang 158 Hứa Hoành, Việt Minh giết Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, namkylucinh. Nếu cần phải nói thêm điều gì thì có thể nói rằng yếu tố thời gian là một trong những yếu quyết định phần thắng bại cho đôi bên. Thời gian càng kéo dài càng lợi cho VNG và bất lợi cho Pháp cũng như Mỹ sau này. Người Pháp và người Mỹ cần một chiến thắng mau lẹ. (Quick victory). Viet Minh cần một cuộc chiến tranh kéo dài (protracted war).. Cái chết của tướng Nguyễn Bình Tướng Nguyễn Bình đã mắc phải một số sai lầm không tha thứ được như: định thủ tiêu Bảy Viễn. Giết hại rất nhiều đồng đội của Bảy Viễn. Nhưng quan trọng hơn cả, ông được coi là người có trách nhiệm giết hại lãnh tụ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ. Mối hận thù ấy đến tận bây giờ, người dân Hòa Hảo vẫn chưa quên và không bao giờ tha thứ cho Việt Minh. Việc giết giáo chủ Huỳnh Phú Sổ thật ra có nhiều nguồn tin trái ngược nhau .. Ký giả Nam Đình quy cái tội ấy cho Trần Văn Giàu. Còn theo Hứa Hoành, việc giết giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là do tên Đào Công Tâm, chính trị viên của đại đội 66 (Việt Minh) chủ động hạ sát Đức Thầy vào họp, rồi ùa ra đâm loạn đả vào mọi người (tự vệ quân của Đức Thầy) khi đèn tắt. Đào Công Tâm đã hạ sát Đức thầy không phải Bửu Vinh (Theo lời kể của ông Lâm Quang Phòng, một nhân vật tên tuổi của miền Tây kháng chiến kể lại). Hứa Hoành, Việt Minh giết Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, namkyluctinh.org Lợi dụng tình trạng sâu xé nhau ấy, tướng Latour đem tiền bạc vũ khí cung cấp cho họ. Họ được coi như một vùng tự trị, được thu thuế, được tuyển quân. Cả một vùng rộng lớn nay người Pháp có thể yên tâm. Đức Phạm Công Tắc còn ngả theo Nhật, tôn phò Cường để, cung cấp tin tức cho Pháp, cho Nhật.. Việt Minh sở dĩ bị cô lập, theo Hilaire du Bernier vì đã phạm vào lỗi lầm là đã tiêu diệt Phật giáo Hòa Hảo: Aliénation of the Hoa Hao was the first of Binh’s mistakes. Hilaire du Berrier, Ibid, trang 69 Nhưng việc đổ mọi trách nhiệm lên đầu tướng Nguyễn Bình thật cũng không đúng. Theo người viết bài này, cái lỗi lầm không tha thứ được của tướng Nguyễn Bình là đã không đi cùng đường với Tổng Bộ- nói đúng ra không vừa lòng Võ Nguyên Giáp Và theo cách suy luận biện chứng của người cộng sản thì ông sẽ bị khai trừ. Khai trừ cách nào là chuyện xảy ra sau đó. Cũng vẫn theo H. Berrier thoạt tiên là khai trừ các tay chân bộ hạ của tướng Bình và được thay thế bằng những người khác từ Bắc gửi vào. Khi nhận được giấy phải ra Hà Nội, ông đã do dự trù trừ trong mấy tuần lễ rồi mới quyết định ra đi . Xin trích nguyên văn nhận xét của H. Berrier : For weeks, he stalled. At last, he started, only to be killed by the French along the way. There were those in the expeditionary corps who suspected that the tip-off which reach their hands was sent by Ho and Giap themselves. Having Binh intercepted by a French column was a more satisfactory method of execution, for the man was still an idiot to may in the South. He has spilled so much French blood there; and this, to the Viet Minh of Cochin China, was the measure of his greatness. Hillaire du Berrier, Ibid, trang 70 Việc Bảy Viễn đã từ chối không nhận chức khu trưởng khu 7, nào phải lỗi của riêng tướng Bình? Điều đó cũng là trách nhiệm của Phạm Ngọc Thuần, Lê Duẩn,, Việc sát nhập Bình Xuyên và giải tán Bình Xuyên vào lực lượng Việt Minh thì đương nhiên Bảy Viễn không bao giờ chấp nhận. Người ta còn nhớ là sau buổi họp với nhóm Việt Minh và khi về lại nơi đóng quân của mình, các quân sư của Bảy Viễn như Maurice Thiên cho rằng : Chúng nó bầy trò phong chức khu trưởng, chỉ là cái bánh vẽ to tướng. Không còn Bình Xuyên là mất tất cả. Bảy Viễn cũng đồng ý như thế và nói: Mày nói đúng. Mất danh nghĩa Bình Xuyên là mất tất cả!! Trích Nguyễn Bình, Huyền thoại và sự thật, chương 45, trongvnmilitaryhistory.net Tuy nhên, việc đổ vỡ chính trị này, tướng Nguyễn Bình vẫn là người trách nhiệm. Vì ông vẫn bị mang tiếng là một viên tướng ngoài cõi, bất chấp triều đình. Những lãnh đạo cộng sản khác như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chờ dịp này đổ hết trách nhiệm lên đầu tướng Bình ..Loại bỏ được tướng Bình thì có lợi cho họ, Lê Đức Thọ đã không ngần ngại chỉ trích tướng Bình là người bạt mạng, trọng hình thức bên ngoài. Sự loại trừ tướng Bình ra khỏi sân khấu chính trị miền Nam mở rộng chỗ cho Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng và họ là những người trực tiếp thừa hưởng cái việc ra đi của tướng Bình. Phần Hồ Chí Minh đã có lần gửi một thư với nội dung với lời trách cứ như sau: Bác tin chú (chỉ tướng Nguyễn Bình) giữ được tình đoàn kêt mới đưa tới đại thành công. Nguyễn Bình, Huyền thoại, Ibid, , chuong 50, trang 06 Chính vì bị Tổng Bộ quy trách nhiệm không thống nhất được các lực lượng Bình Xuyên và giáo phái, tướng Nguyễn Bình đã quyết định phải cử Hai Trọng( tức Lương Văn Trọng, thư ký riêng cũa tướng Nguyễn Bình) ra Bắc bá cáo tình hình quân sự Đông Nam bộ. Hai Trọng đã đi cùng với phái đoàn Trần Văn Trà bao gồm: Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Đức Thuận, linh mục Nguyễ Bá Kỉnh, Phạm Văn Cung, Trần Văn Nguyên. Ở ngoài Bắc, tướng Võ Nguyên Giáp bắt Hai Trọng viết một đề án: Cách mạng hóa bộ đội giang hồ. Trình bày trên cho thấy tướng Nguyễn Bình đã mất uy tín trước tướng Giáp, vì không giải quyết được mâu thuẫn với Bảy Viễn. Số phận ông nằm trong tay tướng Võ Nguyên Giáp. Cái sai lầm thứ hai của Nguyễn Bình là những thất bại bị loại ra khỏi Sài gòn đã khiến ông quyết định sống mái với quân đội Pháp. Thay vì tiếp tục chiến tranh du kích, ông mở những cuộc dàn trận. ( Bataille rangée), trực diện đối đầu ở khắp nơi, đánh vào các đồn bốt của Pháp trước sự kinh hoàng của binh sĩ, bất kể những thiệt hại về người. Tướng Nguyễn Bình hơn ai hết hiểu rằng các đơn vị dưới quyền ông đã kiệt lực, đã thiều thốn đủ thứ, đã không đủ mạnh, đã không đủ người, nhất là trang thiết bị quá yếu kém. Thật ra, tướng Bình đã làm một liều lĩnh lớn mà bất cứ nhà chỉ huy quân sự nào cũng phải tránh, khi ông từ bỏ lối đánh du kích để tiến hành một chiên tranh dàn trải .( Bataille rangee). Lợi thế sẽ nghiêng về phía Pháp vì họ được trang bị vũ khí, hỏa lực đầy đủ. Đó là kiểu đánh một mất một còn- nếu thắng là vinh quang. Nếu thua, thua lụn bại.. Bà Nguyễn Thị Liên Hằng cũng có cùng nhận xét dịch sơ lược như sau: - Tướng Bình đã tiến hành và trả một giá đắt trong việc sát hại những nhóm chống đối cũng như việc mở những cuộc tấn công lớn ( Large-scale attacks) chống lại lực lượng thực dân Pháp. Những cuộc tân công ở mức độ lớn như thế, nhưng lại không đem lại một kết quả quân sự nào ở miền Nam cũng như miền Nam trung bộ. Ông đã bị các thành phần trong nội bộ đảng phê phán mà họ đều thèm muốn cái sự nổi tiếng của ông. Nguyên Thi Lien Hang, Hanoi’s War, trang 27 Phải chăng vì thế tổng bộ Việt Minh đòi hỏi ông phải trả món nợ đó bằng cách khai trừ ông? Trong khi đó người Pháp đã phản công một cách đúng mức, có mặt tại những nơi cần có mặt bằng nhảy dù, bằng tầu bè, xe lội nước, băng xe cộ và để lại đằng sau họ nhiều xác chết Việt Minh không kịp chôn cất. Theo sự nhận định của Lucien Bodard trong sách của ông, có thể nói binh đội tướng Bình hoàn toàn tan rã và không bao giờ có khả năng hồi phục lại nữa. Binh đội tướng Bình phải tìm cách lẩn trốn sang vùng biên giới ráp gianh với Campuchia và lẩn vào rừng già tận mũi Cà Mâu. Tướng Chanson đã hưởng những vinh dự dành cho ông qua những cuộc tảo thanh này.. Và trong cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Nam đi trước về sau và người dân miền Nam đã sống được một cuộc sống tương đối an bình.. Kết quả là vào năm 1951, Lucien Boudard, dựa vào nhật ký mà người Pháp thu thập được một cuốn nhật ký từ xác chết của tướng Nguyễn Bình. Căn cứ vào cuốn nhật ký mỏng này mà Lucien Boudard có thể khẳng định dứt khoát: Người giết tướng Nguyễn Bình không ai khác là tướng Giáp. Theo lệnh của tướng Giáp, Nguyễn Bình đã bị chết. Theo Philip B. Davidson, việc yêu cầu tướng Bình trở ra Bắc là một bản án tử hình và mọi người liên quan đều biết rõ điều đó. Giáp thừa biết Bình đang yếu nặng và có thể sẽ không sống nổi trong cuộc hành trình đầy gian khổ này. Lê Duẩn đã chọn hai sĩ quan chính trị đi theo Bình. (xin trích nguyên văn): Le Duan’s commissars blew Binh’s brain out with a United States Army Colt.45. One of the Vietminh officer was captured by the Cambodians, and he told them that the body was that of Lt. Gen. Nguyen Binh, late Viet Minh commanders in chief in Cochi China. The Frenh officer cut off one of Binh’s hand and sent ir to Saigon, where the fingersprints were found to be those of Binh. This death came to Nguyen Binh in feverish Cambodian jungle-alone, sick, betrayed- the price of failure in the world of Giap, Ho, and Le Duan. Philip B. Davidson, Ibid, trang 82 Lucien Boudard, La guerre d’Indochine, trang 464 Cũng theo Lucien Boudard, việc thủ tiêu công khai tướng Nguyễn Bình sẻ gây xôn xao và bất nhẫn trong nội bộ quân đội của tướng Bình nên Giáp cần dàn cảnh ra một cuộc đi ra Bắc .. và tìm cách giết ông. Trước khi Nguyễn Bình lên đường ra Bắc, Lê Duẩn đã đưa cho Nguyễn Bình một lá thư của tướng Giáp nội dung như sau: - Đồng chí thân mến, đồng chí sẽ được một nhóm hộ tống gồm 30 người. Tôi giao công việc sống còn này cho đồng chí . Đồng chí sẽ sẽ đi ra Bắc xuyên qua các tỉnh ở Cam Bốt từ Kompong Cham, rồi đến Kratie1 và đ61n Strung Streng. Lá thư chấm dứt ở đó, tại sao chỉ đến Strung Streng? Nguyễn Bình biết chắc rằng mình sẽ bị giết trên tuyến đường này và mục đích của chuyến đi này. Giáp cũng biết rằng Nguyễn Bình biết mình có thể bị thủ tiêu trên đường đi. Nhưng Nguyễn Bính không có chọn lựa nào khác vẫn phải chấp nhận vì cao ngạo, vì kỷ luật đảng mà không thể phản bội. Nguyễn Bình đã cẩn thận ghi lại từng chi tiết chuyến đi này coi như một bản chúc thư. Ông không ngu dại gì để không thấy đây là cái bẫy dẫn ông đến cái chết- một cánh rừng tuyệt đối hoang dại, không có đường tiếp tế, không có căn cứ quân sự của Việt Minh mà chỉ cần cứ để rừng già làm cái công việc của nó cũng đủ chết rồi. Trong đám quân đi hộ tống, tất cả đều là người của Lê Duẩn chọn lựa. Tướng Bình tiếng là chef, nhưng có hai người ủy viên do Lê Duẩn chọn lựa mới thực sự là người chỉ huy. Sau hai tháng đi bộ thì tới gần biên giới Lào. Cái bản ghi nốt cuối cùng của tướng Nguyễn Bình ghi ngày 21 tháng 9 1951 cho hay, họ nghỉ lại một nơi gần một bản Mọi. Sau khi liên lạc thì những người này hứa cung cấp gạo .. Nhưng đợi cả ngày không có tin tức gì cho mãi đến trưa hôm sau. Và đây rõ ràng là một cuộc ám toán có chủ đích. Những người Mọi gửi điện cho Sang Saroun cách xa đó chừng 50 kilo mét . Họ phải mất nhiều giờ mới tới nơi. Biết có biến đám đi hộ tống tướng Nguyễn Bình đã bỏ chạy, nhưng trễ quá rồi. Tướng Bình bị thương không cử động được. Bất đồ có hai người mặc đồ đen nằm trong nhóm của tướng Bình thừa dịp này đã chĩa súng về phía ông và nổ cò-. Đây là hai sát thủ được chỉ định của Việt Minh. Họ đã nhận được chỉ thị nếu bị rơi vào tay quân Pháp thì phải thanh toán tướng Bình. Và đó là diễn biến xảy ra thảm kịch mà tướng Giáp mong muốn, với bao nhiêu tính toán, cân nhắc và lựa chọn của ông. Nguyễn Bình cuối cùng thật sự đã chết. Nhưng một tình cờ là tướng Chanson- một kẻ thù của tướng Bình cũng bị ám sát chết trong một lần kinh lý ở Sađéc trong một buổi lễ !! Ở xứ Nam Kỳ này chết vì một cuộc ám sát là điều thường tình. Như thế tướng Bình và tướng Chanson, cả hai kẻ thú trong trận chiến 1950 đều bị khai trừ trong khoảng cách hai ba tuần. Sau cái chết của Nguyễn Bình, lưc lượng Việt Minh của Lê Duẩn không còn gì nữa, đành ở ẩn vào bưng biền Đồng Tháp Mười. Sự khác biệt cắt nghĩa được nay chiến tranh chuyển ra Bắc vì từ nay, Võ Nguyên Giáp được chi viện đầy đủ về quân sự và huấn luyện.. Chiến tranh du kích được thay thế bằng chiến tranh trận địa .. Thử hỏi, đặt địa vị tướng Giáp vào tướng Bình, ông sẽ làm được gì hơn không, vì nguồn cung câp vũ khí rất hiếm hoi, thỉnh thoảng mới nhận được từ Vũng Rô. Trước khi kết thúc bài biên khảo này, đôi giòng sau đây trích trong nhật ký của ông nói lên tất cả những điều ông cần phải nói trước khi chết. Bác sĩ bi quan về tình trạng sức khỏe của tôi. Ông nói rằng tôi không thể đi xa được Tôi cần phải có vài tháng nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Nếu đi, tôi sẽ ngã gục vì không có thuốc men, không có một y tá để săn sóc .. Tôi bước đi rất khó khăn, vậy mà tôi phải đi bộ hàng ngàn cây số trong rừng ngàn phần nguy hiểm chết người này. Nhưng làm thế nào, tôi có thể ở lại Nam Bộ chờ bình phục? Thật là nhục nhã nếu van xin để hoãn lại chuyến đi này! Và tôi sẽ trở thành một chướng ngại làm phiền mọi người. Mỗi một lúc, tôi sẽ phải xin những người bạn cuối cùng còn sót lại, vợ con họ săn sóc. Không, tôi không muốn điều đó. Tôi cũng không muốn ẩn náu ở trong gia đình tôi. Không, tất cả những điều đó không thể được. Tôi quyết định đi mặc dầu thân xác tôi đau ốm nặng. Tôi nghĩ tới bổn phận của tôi. Tôi sẽ đi để uy tín của tôi không bị sứt mẻ nơi những người đã kính phục tôi. Nếu tôi ở lại. Họ sẽ nói rằng tôi che dấu bệnh tật và tôi không đủ can đảm vượt lên trên những tình cảm cá nhân của mình. Họ sẽ tố cáo tôi nặng tình cảm gia đình thay vì cách mạng. Vậy thì tôi phải đi. Tôi quyết định sẽ đi theo lộ trình đã được vạch ra; nhưng một vài bạn hiểu tôi, hiểu tình trạng bệnh hoạn của tôi đã không thể cầm được nước mắt. Lucien Bodard, Ibid, trang 466 Trong một phần nhật ký khác, tướng Nguyễn Bình đã có ý tưởng muốn ra hàng Bảo Đại, nhưng lại nghĩ lại hành xử như thế thì thì là một phản bội- phản bội bạn bè- phản bội lại những kẻ đã hy sinh và những người còn sống và sẽ biến thành kẻ thù của tôi. Tôi đã ở bên phía họ, tôi dành ở lại. Phần Hillaire du Berrier cũng cho rằng Tướng Bình đã chịu kiểm thảo một cách gay gắt, nhưng ba năm còn lại ở miền Nam là cơn ác mộng với ông ..Từng người một những người tay chân thân cận của ông bị bứng đi hết thay bằng những người khác cũa tổng bộ. Và cuối cùng năm 1951 ông nhận được lệnh của tổng bô Việt Minh phải lên đường ra Bắc. Trên đường đi, ông đã bị Pháp phục kích. Việc mượn bàn tay Pháp giết tướng Bình cũng là một phương pháp khai trừ hữu hiệu nhất. Hillaire du Berrier, Ibid, trang 70 Phải nhận rằng cái chết của Nguyễn Bình là một cái chết hoàn hảo. Nó vừa lòng cả hai phía. Người Pháp trả được những món nợ do tướng Bình gây ra cho những đồng đội của họ. Tổng bộ bằng lòng. VNG xoa tay vì kế hoạch khai trừ đạt mức độ hoàn hảo. Các người cộng sản Nam Bộ loại trừ được môt tên Bắc Kỳ khó chịu. Và nếu người đọc tìm hiểu cho kỹ cái suy luận biện chứng cộng sản thì biện pháp khai trừ là một biện pháp thông thường .. Chính bản thân VNG cũng từng lo ngại bị ám sát, thủ tiêu. Vị bác sĩ từng có trách nhiệm chăm lo sức khỏe cho VNG thú nhận một cách ngây thơ rằng không bao giờ đại tướng chịu uống thuốc mà không do chính tay ông đưa cho!! Vì sao thế? Đại tướng sợ bị đầu độc.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 1, 2014 9:53:05 GMT 9
Đèn Cù, xem xét cách quản lý communismHCMTôi có dịp đọc qua Đèn Cù. Cũng như nhiều người hộp thư của tôi nhận được ấn bản điện tử cuốn sách công ty Người Việt xuất bản. Tác giả quả là muốn nó đến với nhiều người đọc. Tác giả Trần Đĩnh, nếu những ai để ý đến hoặc buộc phải đọc về tiểu sử của các lãnh tụ cộng sản đều phải nghe đến. Ngòi bút của ông Trần Đĩnh đã được chế độ cẩn trọng chọn để viết tiểu sử cho lãnh tụ thứ nhất, Hồ Chí Minh. Tác giả được biết qua Đèn Cù đã là một cộng sự thân cận như hình với bóng với Hồ Chí Minh từ những ngày trên chiến khu Việt Bắc. Khả năng viết lách của Trần Đĩnh đã được trọng dụng trên mũi nhọn tuyên truyền của đảng cộng sản, từ chiến khu Việt Bắc của những năm 1945 cho đến khi nắm toàn quyền ở miền Bắc. Dưới mắt của các lãnh tụ cộng sản Trần Đĩnh đã không chỉ là một công cụ đắc lực mà còn rất trung thành. Ít nhất những chế tác tuyên truyền của ông đã chứng tỏ điều đó. Đối với cơ quan ngôn luận nòng cốt Nhân Dân, Trần Đĩnh đã đứng vào hàng những cây viết chủ lực trong những năm đầu thập niên 60 ở miền Bắc. Mãi đến mùa hè 2014 này Trần Đĩnh mới cho ra đời một cuốn sách rất khác, Đèn Cù. Như lời tự bạch sau bao nhiêu năm làm công việc của một “bồi bút” mẫn cán, nay ở tuổi 85, tác giả cảm thấy bổn phận phải có cuốn sách của riêng mình. Nó phải là một nhu cầu nói thật sau cả đời bị buộc nói dối. Cách viết của Đèn Cù có thể nói là lập dị. Nhiều độc giả đã than phiền vì khó đọc. Đèn Cù không phải là sách lịch sử, cũng không hẳn là hồi ký. Nó chỉ là “truyện tôi” như tác giả nhìn nhận, đúng hơn là những trang bút ký không mốc thời gian. Có những đoạn phải đọc kĩ mới thấy được đại ý. Nhưng cũng chính cái ánh nhập nhòe của “truyện tôi” Đèn Cù đã kích thích sự tò mò của độc giả trước những sự thật dễ bị lẫn khuất. Điều Đèn Cù phơi bày tự nhiên nhất là nó giúp ta nhận thấy rõ hơn về nguồn cơn của số phận dân tộc trong một giai đoạn lịch sự phức tạp. Hai nhân vật hiện diện đậm nét, cũng là hai tác nhân chính gây nên các cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam là Hồ Chí Minh và Lê Duẩn. Nếu cần một nhận định thì có thể kết luận ngay cả bốn cuộc chiến tranh đều không đáng có. Cần nhớ lại chiến tranh Thế giới Hai đi đến hồi kết thúc, Nhật hất cẳng Pháp ở Đông Dương năm 1945 và không lâu sau đó đầu hàng Đồng Minh đã tạo ra một khoảng trống chính trị ở Việt Nam. Chính phủ quân chủ lập hiến Bảo Đại-Trần Trọng Kim đã chớp cơ hội tuyên bố quốc gia độc lập trước thế giới. Đây đã là chính phủ đại diện có tính chính danh nhất, ít nhất đối với sự liên tục quốc gia. Vào giai đoạn này chính sách thuộc địa của Pháp đứng trước sự thoái trào, đi đến hồi cáo chung trên thế giới, không thể nào cưỡng lại khát vọng độc lập mà nhiều thế hệ người Việt Nam đã đổ cả máu để tranh đấu. Cần nhấn mạnh tính chất quan trọng của sự kiện lịch sử này: độc lập dân tộc-quốc gia được thu hồi qua con đường chính tri-ngoại giao này phải được xem là con đường lý tưởng, vì không hao tốn xương máu quốc dân. Đất nước đã có thể được bắt đầu xây dựng, phát triển từ năm 1945 khi mà nguồn lực quốc gia và cơ sở hạ tầng còn nguyên vẹn trên toàn quốc. Nhưng lịch sử bị quặt theo một hướng khác. Hồ Chí Minh về nước mang theo chủ nghĩa cộng sản đã chính thức phát động cuộc chiến tranh đầu tiên Việt-Pháp ở miền Bắc. Tại sao phải chủ trương chiến tranh khi nước nhà đã độc lập? Có phải là để thực hiện nhiệm vụ của Đệ tam Quốc tế cộng sản giao Hồ Chí Minh thi hành. Một giải thích nghe hợp lý, vì trùng hợp với các mốc thời gian hoạt động của tổ chức này. Hồ Chí Minh về nước năm 1941, năm 1943 Đệ Tam Quốc Tế giải tán nhưng năm 1947 được tái sinh và lại giải tán năm 1956 do mâu thuẫn Nga-Trung ngày càng lên cao. Nhưng đó chỉ là một mặt nổi của vấn đề. Qua những chi tiết tưởng chừng vụn vặt trong Đèn Cù, có thể thấy Hồ Chí Minh đúng hơn đã nhận thực hiện cuộc chiến tranh uỷ nhiệm của Mao Trạch Đông. Hồ Chí Minh sau lần đến Moscow năm 1924 bị đối xử ghẻ lạnh, rồi thất thế trước những nhân vật cộng sản nổi trội khác như Trần Phú, Lê Hồng Phong, đã phải sống những năm tháng sau đó rất bơ vơ, có cả khoảng thời gian dài mất tích bí ẩn sau những năm 1930. Ngay cả Hồ Chí Minh cũng không muốn nhắc đến giai đoạn này khi ủy thác cho Trần Đĩnh viết hồi ký. Con đường thăng tiến của Hồ Chí Minh chỉ được mở ra sau khi gia nhập làm đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc, và từng bước được sự chiếu cố của Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông cần một cộng sự phục tùng để phục vụ chiến lược dùng Việt Nam làm phên dậu cho Hoa Lục trước lo ngại đối với phương Tây, và Hồ Chí Minh đã là một ứng cử viên sáng giá. Với cái dù của Mao, Hồ Chí Minh đã qua mặt các đảng viên cộng sản khác để trở thành lãnh tụ cách mạng Việt Nam, và về nước năm 1941 với vị thế mới. Chi tiết năm 1949 Hồ Chí Minh phải khăn gói vượt biên giới sang gặp Mao Trạch Đông, khi họp thì thông dịch viên tùy tùng bị đẩy ra ngoài, chỉ còn một mình Hồ ngồi nói chuyện với Mao và các cận tướng bằng tiếng Hoa, chứng tỏ chuyến đi đó đơn thuần là để báo cáo công tác với thượng cấp trong đảng. Căn cứ Việt Bắc trong cuộc chiến 1945-1954 với Pháp được Trung Quốc chu cấp mọi mặt từ cây kim sợi chỉ đến các loại vũ khí đạn pháo, cả nhân lực lẫn đường lối chiến tranh. Chiến thắng Điện Biên Phủ của phe cộng sản chỉ khiến đất nước đã độc lập, thống nhất lại bị chia đôi năm 1954. Giềng mối văn hóa xã hội miền Bắc bị tàn phá tận gốc rễ qua cuộc cải cách ruộng đất “long trời lở đất” theo chỉ thị trực tiếp từ Mao. Đây cũng là thời gian văn hóa, văn học, ngôn ngữ miền Bắc du nhập nhiều độc tố từ Trung Cộng nhất. Kinh tế miền Bắc hoàn toàn kiệt quệ. Còn giải thích thế nào về quyết định cuộc chiến tranh tiến đánh miền Nam trong đó Hồ Chí Minh đã có thái độ lưỡng lự? Đây cũng là một trong những chi tiết “khó nuốt” nhất của Đèn Cù đối với nhiều người. Đã có những bài viết đả kích Đèn Cù, oái ăm, cũng bởi những chi tiết Trần Đĩnh viết về nhân vật Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó những bài viết đã dùng những chi tiết trong Đèn Cù để “giải ảo Hồ Chí Minh” thì tỏ ra lúng túng với chi tiết Hồ Chí Minh không biểu quyết trong nghị quyết đánh miền Nam này. Phải nói nếu đặt tư duy trong nhãn quan bạn thù, thiện ác thì vấn đề cốt lõi dễ bị che lấp, do đó cần phải có sự tỉnh táo như những người làm khoa học khi đứng trước các dữ kiện. Nguyên ủy cuộc chiến đánh miền Nam của phe cộng sản miền Bắc cần được rọi vào những ánh sáng mới. Cần nhấn mạnh ngay cuộc chiến Bắc-Nam là cuộc chiến của Lê Duẩn. Sau khi thâu tóm toàn bộ quyền lực từ tay Hồ Chí Minh, Lê Duẩn cần một chiến thắng vang dội hơn Điện Biên Phủ để khẳng định vị trí lãnh tụ của mình. Mao Trạch Đông thì chủ trương đẩy chiến tranh càng xa Hoa Lục càng tốt nên không muốn thấy hòa bình ở Việt Nam. Mao Trạch Đông và Lê Duẩn đã gặp nhau ở mục tiêu chiến tranh. Mao Trạch Đông vào lúc đó đã không còn thấy sự hữu hiệu ở dụng cụ Hồ Chí Minh nữa. Đây là điểm quan trọng cần giải thích xuyên suốt. Không như những người cộng sản thuộc phái chống Lê Duẩn hoặc những học giả nước ngoài dùng dữ kiện Hồ Chí Minh không biểu quyết này để tô điểm tính dân tộc chủ nghĩa trong con người Hồ Chí Minh, sự kiện Hồ Chí Minh không biểu quyết nghị quyết tiến đánh miền Nam thật ra lại nói lên bản chất con người Hồ Chí Minh rõ nhất. Nếu nói Hồ Chí Minh phục vụ cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh làm cộng cụ cho mưu đồ của Mao Trạch Đông, hay thậm chí Hồ Chí Minh đã hợp tác với tình báo Mỹ… đều đúng và đều có chứng cứ, nhưng phải nhìn xuyên suốt mới thấy Hồ Chí Minh có thể làm tất cả và tất cả đối với Hồ Chí Minh chỉ là phương tiện nhằm đạt mục tiêu danh vọng cá nhân. Đây là một loại bệnh lý danh vọng. Cần nhất mạnh ở chữ “tất cả”, Hồ Chí Minh bất chấp mọi giá trị đạo đức căn bản nhất của con người. Đặc tính nổi lên trên hết là sự nhu nhược, khom người trước quyền lực ở con người Hồ Chí Minh. Đây cũng đã điều gây nên thảm kịch cho dân tộc. Một Nguyễn Sinh Cung lớn lên thất bại trên mọi địa hạt, cả cuộc đời sống vất vưởng nên khát khao một danh vọng, đến khi ngoài tuổi 50 mới gặp được cơ hội tìm kiếm công danh ngàn vàng từ Mao Trạch Đông. Hồ Chí Minh do vậy về nước năm 1941 là để thực hiện kế hoạch của Mao, với phương tiện của Mao, nhưng xương máu là người Việt Nam. Trong mở màn chiến dịch cải cách ruộng đất “long trời lở đất” ở miền Bắc, có thể trong thâm tâm Hồ Chí Minh không muốn giết một người phụ nữ là ân nhân lớn của các lãnh tụ cộng sản như bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm, nhưng vẫn răm rắp cúi đầu viết báo vu cáo cực kỳ ác độc bà Năm là “Địa chủ ác ghê”, cải trang bịt râu đến theo dõi đấu tố, và rồi cho giết bà Năm một cách ghê rợn. Thời gian Hồ Chí Minh thực sự nắm quyền ở miền Bắc chỉ rất ngắn, đã trên dưới 70, cũng là độ tuổi mà nhu cầu hiển nhiên ở một con người suốt đời đi tìm kiếm một danh vọng cá nhân cần hưởng thành quả cách mạng. Cần phải hiểu cái tâm lý thỏa mãn ở một con người tầm thường, thiếu tài năng nay bỗng trở nên làm chủ tịch của cả một nửa nước như Hồ Chí Minh. Đứng trước một Lê Duẩn sắt máu, sắc sảo, thông minh hơn, có tài hùng biện mà chủ yếu là ngụy biện, một lần nữa Hồ Chí Minh lộ rõ bản chất nhu nhược, phục tùng. Lê Duẩn có một thời gian dài hoạt động ở miền Nam, hiểu rõ miền Nam, nhưng điều đó không ngăn cản quyết tâm giải phóng miền Nam của Lê Duẩn. Nhằm phục vụ quyết tâm chiến tranh Lê Duẩn cần biểu tượng và khẩu hiệu. Hồ Chí Minh thì quyết ôm ngôi vị cha già dân tộc, như ôm một lô độc đắc. Cũng như vụ đấu tố giết bà Nguyễn Thị Năm trước đây, Hồ Chí Minh đã bỏ phiếu trắng trong Nghị quyết 7 đánh miền Nam nhưng rồi vẫn hô hào khẩu hiệu đòi đốt cả dãy Trường Sơn đi giải phóng miền Nam là bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh lại một lần nữa cúi đầu phục tùng quyền lực, lần này là quyền lực của Lê Duẩn. Tất cả các khấu hiệu hô hào đánh miền Nam của Hồ Chí Minh đều do Lê Duẩn thao túng. Đó quả là một sự mặc cả đểu cáng, cuộc chiến thứ hai này một thảm kịch khác cho dân tộc. Hậu quả của cuộc chiến thứ hai là gì, có cần phải lập lại đầy những con số thống kê đau xót, bi thảm của dân tộc này. Còn hai cuộc chiến kế tiếp? Có thể nói Lê Duẩn là tổng bí thư của chiến tranh, hay nói Lê Duẩn cần chiến tranh để duy trì ngôi vị tổng bí thư cũng không sai. Hai cuộc chiến tranh tiếp theo vào năm 1979 với Trung Cộng ở biên giới phía bắc và với Khơ me Đỏ ở biên giới tây nam đều có nguyên nhân phát xuất từ cung cách Lê Duẩn. Cần nhớ lại bối cảnh chính trị của phe xã hội chủ nghĩa trong những năm 1960, Lê Duẩn đã lợi dụng được sự yểm trợ trên mọi phương tiện của cả hai thế lực dù đang hục hặc Trung Quốc và Liên Xô cho cuộc chiến tiến đánh miền Nam. Nhưng sự thiển cận chính trị thường đi đôi với di hại không lường. Trong khi Mao đang ra sức đánh phái hữu ở Trung Quốc, một hình thức củng cố quyền lực ngai vị, Đặng Tiểu Bình được cho thuộc phái hữu bị thanh trừng gần mất mạng, Lê Duẩn cần sự ủng hộ của Mao cũng thực hiện vụ án “Xét lại chống Đảng” như món quà cung tiến từ Việt Nam. Khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền sau khi Mao chết năm 1976 đã cần rửa hận trước một Lê Duẩn trở nên kêu căng đến vĩ cuồng. Đặng Tiểu Bình đã mở hai cuộc chiến tranh 1979 ở hai mặt trận khiến núi xương sông máu của người Việt Nam càng chất lên cao sau hai cuộc chiến 30 năm. Đặng Tiểu Bình rút quân sau khi đạt được mục tiêu chính trị. Thành tích cuộc chiến là Đặng Tiểu Bình được ban lãnh đạo chấp nhận cho tiến hành hiện đại hóa quân đội, và được hòa hoãn với Mỹ để có một thời gian dài dưỡng sức phát triển đất nước. Còn Lê Duẩn tự phụ đã đưa đất nước đi đến đường cùng, bị cô lập hoàn toàn với thế giới. Sự cùng kiệt toàn diện đã đưa đảng cộng sản Việt Nam đến tròng “Hội nghị Thành đô” lệ thuộc, nhục nhã cho đến ngày nay. Cần quay lại với những chi tiết thật khác trong Đèn Cù. Đây lại là những chi tiết về những lãnh tụ cộng sản mà nhiều người chống cộng không muốn tin đó là cũng sự thật. Họ có lý của họ. Những người chủ trương các cuộc chiến tranh tàn khốc, hơn 4 triệu người Việt Nam thiệt mạng, gia đình ly tán, nền tảng đạo đức dân tộc bị băng hoại, đất nước bị tụt hậu cả trăm năm so với nhiều nước trong khu vực thì chỉ phải là những kẻ xấu xa. Vậy tại sao Đèn Cù lại “cả gan” tả những chi tiết có thể nói là rất con người về những lãnh tụ cộng sản, điển hình như là Hồ Chí Minh và thậm chí là Lê Duẩn. Đây là những chi tiết không thể chấp nhận đối với những người chống cộng, cũng là một tâm lý rất con người trong trường hợp này. Nhưng như đã nói ở trên Trần Đĩnh chỉ có nhu cầu nói thật trong Đèn Cù. Phải cần đối diện với nó, nhưng đối diện như thế nào? Điều có thể thấy từ những chi tiết thật trong Đèn Cù về những con người như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn đó là họ phải là những người có sức truyền cảm cao. Họ đã luôn có nhiều đồng chí kiên trì bên cạnh trên một chặng đường dài, Nói ra những điều này tôi hoàn toàn không có ý xúc phạm đến những nạn nhân đã nằm xuống vì những chủ trương chiến tranh bạo liệt của Hồ Chí Minh và Lê Duẩn. Và ngay khi họ là những người có sức truyền cảm cao đi nữa, một đặc tính rất con người, thì điều đó không hề mảy may thay đổi trách nhiệm của họ trước lịch sử dân tộc. Đây cũng là những điểm khiến nhiều người lên án Đèn Cù chỉ làm vấn đề thêm tù mù, Hồ Chí Minh và Lê Duẩn đã là tội đồ dân tộc hiển nhiên rồi, cần Đèn Cù soi gì nữa?! Tôi không biết Trần Đĩnh khi viết Đèn Cù có ý định soi gì không, nhưng theo tôi tác giả đã kể lại những chi tiết một cách thực thà, đã diễn tả những cảm xúc cũng thực thà qua một tâm hồn có tài năng văn học. Còn nó có soi được gì không không phải là trách nhiệm của tác giả nữa. Đến đây tôi xin đi vào trong một lĩnh vực mới, có vẻ rất xa lạ với môn chính trị truyền thống, và nếu nó có làm độc giả nhức đầu thì tôi phải thành thật xin lỗi trước. Có lẽ một lý do khách quan khiến ít người nghiên cứu lĩnh vực này có lẽ do sự ngăn cản vô hình của hàng rào tín điều họ được nuôi dưỡng, nhưng đây là điều rất cần thiết phải tìm hiểu. Những phân tích này đơn giản nhằm hỗ trợ một ý kiến, một ý kiến mới. Thiết nghĩ mọi nỗ lực xã hội đều sẽ đi đến bế tắc nếu nó không bắt đầu bằng một ý kiến đúng. Đừng sợ ý kiến mới cần là một tâm lý có tính tập quán. Xin trình bày một cách ngắn gọn nhất có thể. Những nhà khoa học chuyên ngành thần kinh con người hàng đầu thế giới đều đi đến một kết luận rằng bộ óc con người được cấu tạo theo phương cách chúng ta không nhận thấy hiện thực một cách trực tiếp, mà chỉ nhận thấy hiện thực qua những phiên ảnh do hệ thần kinh tạo nên. Trong tác phẩm nổi tiếng “Making up the Mind: How the Brain creates our mental world”, khoa học gia chuyên ngành thần kinh hàng đầu Chris Frith cũng có kết luận rằng não bộ con người tạo nên những phiên ảnh khi tiếp cận với dữ liệu, và diễn giải những dữ liệu đó bằng vốn kinh nghiệm đã được lưu trữ trong não bộ. Tùy theo phẩm lượng của vốn kinh nghiệm được lưu trữ, khả năng diễn giải các dữ liệu sẽ làm phát sinh những hành động tương ứng. Thực tế cho thấy có những người luôn luôn chỉ tiếp nạp những dữ liệu ảo nên những hành động của họ thường không ăn nhập với thực tế, và nếu khi họ có những hành động gần với thực tế thì chỉ đơn thuần là do sự tình cờ. Chúng ta di chuyển trên đường phố gặp đèn giao thông màu đỏ thì quyết định là dừng lại, bởi vì vốn kinh nghiệm được lưu trữ trong não bộ đánh giá đó là hành động tốt nhất, như để tránh rủi ro tai nạn, hay tránh bị cảnh sát phạt chẳng hạn. Nhưng trái lại một người vị thành niên có thể có hành động không dừng lại trước đèn đỏ giao thông, vì não bộ của họ chưa tích đủ những kinh nghiệm để đánh giá đủ khả năng như là xảy ra tai nạn khi vượt đèn đỏ. Tương tự như vậy, đứng trước cùng một vấn đề thì một đứa trẻ thường không có quyết định đúng đắn như người trưởng thành. Như vậy, không như những tín điều của các tôn giáo, theo ngành khoa học thần kinh con người chỉ là một cỗ máy, dù đó là cỗ máy đã được tiến hoá siêu đẳng nhất. Nếu có Tạo Hoá tạo ra con người thì đây là cách mà Tạo Hoá tạo nên con người. Vì là một cỗ máy, con người không toàn bích, con người không thể trở thành thần thánh có quyền năng siêu nhiên, do vậy nếu có giáo hội hay đoàn thể cho rằng mình đang nắm chân lý tuyệt đối thì đó là điều không đúng. Trên hành trình hướng thiện con người chỉ có thể tiến gần đến chân lý mà thôi. Và chính điều này là sự khuyến cáo nghiêm khắc cho con người cần có sự khiêm tốn. Loài người hiện diện tình cờ và cô đơn trong thế giới tự nhiên, loài người bất kể chủng tộc đáng ra phải cần đến nhau thay vì giết nhau. Cũng vì cấu tạo của con người là như thế, hành động tốt hay xấu đều được phát sinh bắt đầu qua các dữ liệu được não bộ tiếp nhận, ở đây chúng ta có thể kết luận nguồn dữ liệu (data) đóng vai trò tác động cực kỳ quan trọng đối với sự thành hay bại của xã hội loài người. Nguồn dữ liệu có thể là dữ kiện khoa học (scientific fact), tín điều tôn giáo (religion teaching), hay học thuyết chính trị (political theory), vân vân. Loài người đi qua quá trình tiến hoá tính được khoảng trên dưới năm triệu năm, nhưng lịch sử loài người ghi chép lại được chỉ mới được khoảng trên dưới năm ngàn năm. Điều này có nghĩa là con người mới chỉ thật sự là con người mới trong một khoảng thời gian rất ngắn so với quá trình tiến hoá, khi mà não bộ con người có khả năng tổng hợp và xử lý các nguồn dữ liệu phức tạp. Cũng trong từng thời gian ấy kho kinh nghiệm của loài người đã phải đối phó với nhiều thử nghiệm, có những thử nghiệm phiêu lưu. Tuy vậy ký ức tập thể loài người vẫn còn lành lặn cho đến đầu thế kỷ 20, khi chủ nghĩa cộng sản xuất hiện. Chủ nghĩa cộng sản đã gây nhiều thiệt hại nhất cho nhân loại. Đã có quá nhiều tổng kết, nhưng cũng cần phải nhấn mạnh một con số đó là chỉ trong vòng 72 năm (1917-1989) số nạn nhân bị giết hại được ước tính là hơn 110 triệu người, bên cạnh đó là sự hủy hoại nhiều mặt đối với xã hội, để lại di hại lâu dài. Đối với người Việt Nam, trong vòng hai ngàn năm qua cho đến đầu thế kỷ 20 đã tiếp xúc với các tôn giáo như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, về mặt chính trị xã hội thì có sự hiện diện rộng khắp của chủ nghĩa Khổng Giáo. Đây là những nguồn dữ liệu dù có những mặt hạn chế nhưng đã có đóng góp lớn tạo nên đặc tính của người Việt Nam, xây nền tảng cộng đồng. Các tôn giáo khiêm tốn và lương thiện khi hứa hẹn cứu cánh nằm ở đời sau, và phương tiện đi đến là tính thiện ở con người. Chủ nghĩa Khổng Giáo tuy về mặt chính trị nhằm phục vụ nền quân chủ chuyên chế, nhưng về mặt đạo lý nó cũng đề cao thiện căn trong con người. Nhưng đến nửa đầu thế kỷ 20 dân tộc Việt Nam bị buộc tiếp xúc với nguồn dữ liệu mới, chủ nghĩa cộng sản. Đặc tính của chủ nghĩa cộng sản là sức cám dỗ lớn với những người thừa nhiệt huyết và sự sốc nổi, nhưng cũng lại là dụng cụ cho phép những tay hoạt đầu thực hiện giấc mộng lãnh tụ. Sức cám dỗ là cứu cánh thế giới đại đồng ngay trên mặt đất, nhưng phương tiện bạo lực giết chóc lại được nâng lên như một hàng đạo đức. Con người một khi xem điều ác là đạo đức thì cũng chính là lúc con người đánh mất nhân tính đã được bồi đắp qua hàng triệu năm. Con người trong chế độ cộng sản dễ bị tha hoá là vậy. Chủ nghĩa cộng sản rõ ràng là một căn bệnh ung thư của nhân loại. Bệnh ung thư một khi được phát hiện thì phản ứng y khoa tương thích là chế ngự, cách ly mầm bệnh, hoặc giải phẫu loại bỏ, tùy theo mức độ của căn bệnh và sức đề kháng của cơ thể. Căn bệnh ung thư chủ nghĩa cộng sản cũng đã được giải quyết hợp lý ở nhiều nơi trên thế giới. Nước Mỹ văn minh, chưa trải qua kinh nghiệm chủ nghĩa cộng sản cũng đã dựng đài tưởng niệm nạn nhân cộng sản (Victims of Communism Memorial) ngay tại thủ đô, như một cảnh báo nghiêm khắc cho nhân loại về sự nguy hại khôn lường của chủ nghĩa cộng sản. Có thể kể thêm những trường hợp nào. Tiêu biểu Ba Lan. Ba Lan đã lấy quyết định quản lý chủ nghĩa cộng sản bằng pháp lý không phải là tình cờ. Người Ba Lan đã hành động chữa căn bệnh ung thư và để chế ngự mầm bệnh ung thư chủ nghĩa cộng sản trong tương lai. Ba Lan hiện là nước năng động nhất, phát triển nhất so với các nước cộng sản Đông Âu cũ. Ba Lan được thế giới kính trọng. Đối với Việt Nam, vấn đề chủ nghĩa cộng sản nhức nhối hơn. Mỗi người đều có thể sờ mó được vết thương đau của chính mình. Chủ nghĩa cộng sản đã là một nguồn dữ liệu quái ác thâm nhập vào nhiều người Việt Nam, gây tang tóc cho nhiều người Việt Nam. Những nhân vật như Hồ Chí Minh và Lê Duẩn chỉ là sản phẩm. Nói cách khác, nếu không có chủ nghĩa cộng sản thì Việt Nam không có những Hồ Chí Minh hay Lê Duẩn. Nếu không có chủ nghĩa cộng sản, đất nước độc lập, thống nhất đã có thể cất cánh từ những năm 1945 sau thế chiến thứ hai. Ngày hôm nay đất nước Việt Nam đang được xếp hạng ở đâu trên bản đồ thế giới? Đó là câu hỏi cho mỗi công dân Việt Nam phải tự chất vấn thường trực khi phải đối diện với thực trạng của đất nước. Tại sao chủ nghĩa cộng sản đã chết ngay trên quê hương đã sinh ra nó, mà lại sinh sôi ở đất nước như Việt Nam? Ngày hôm nay căn bệnh ung thư chủ nghĩa cộng sản vẫn còn đang hiện diện ở Việt Nam. Dù có biến tướng, mầm bệnh vẫn còn trên một cơ thể có sức đề kháng yếu. Vấn đề không đợi được cho dân tộc này là phải có quyết định hữu hiệu đối với căn bệnh ung thư cộng sản. Nếu cần lấy thái độ, nếu cần có hành động, thì hơn ai hết, những người trong bộ máy quyền lực của đảng cộng sản phải là tiên phong. Họ đang thụ hưởng những tiện nghi vật chất thừa mứa có vấy máu của những người như bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm, một người phụ nữ hết lòng với kháng chiến mà thi hài sau khi bị giết còn bị du kích cộng sản nhảy lên dẫm đạp, cho lọt cái quan tài quá nhỏ. Những tiện nghi vật chất xa hoa họ đang thụ hưởng cũng đang vấy máu những bộ đội tuổi thanh xuân phải chết lạnh lẽo dọc đường Trường Sơn, của hơn 4 triệu con người Việt Nam hai miền đã nằm xuống oan uổng trong cuộc chiến tranh vô nghĩa. Lương tâm con người cũng có lúc thức giấc, không thể ngủ trong vô thức mãi được. Họ phải hành động gấp. Một lần cho tất cả, họ cần cởi ách, vĩnh viễn thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản, gột rửa vết chàm mà chính cha anh họ cũng phần nào đã là nạn nhân. Quan tài chủ nghĩa cộng sản phải cần được đóng đinh thật chặt. Và đối với người dân Việt Nam thì thái độ đã quá hiển nhiên, một khi họ có được quyền tự quyết. Không có dân tộc nào chịu nhiều mất mát, đổ vỡ đối với chủ nghĩa cộng sản như Việt Nam. Một nguồn dữ liệu cực độc hại. Thật khó hình dung người Việt Nam sẽ có một lựa chọn nào khác hơn là lấy quyết định quản lý chủ nghĩa cộng sản như người Ba La đã làm. Nguyễn Thiện 10-2014 Đại tướng Lê Đức Anh với vấn đề Trung Quốc và biển ĐôngLê Đức Anh với tác giả bài viết, đại tá Khuất Biên Hòa Ba lần đi Trung Quốc – Một lần ấn tượng sâu Năm 1954, ông Lê Đức Anh có mặt trong đội ngũ hàng vạn cán bộ Miền Nam tập kết ra miền Bắc theo “Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954”. Những ngày đầu, ông được giao làm Sư đoàn Trưởng Sư đoàn bộ binh 330, đóng quân ở Thanh Hóa; nhưng chỉ mấy tháng sau ông lại được điều động về Bộ tổng Tham mưu làm Phó cục trưởng Cục Tác chiến. Ông Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu Trưởng đa trực tiếp giao nhiệm vụ cho ông nghiên cứu kế hoạch phòng thủ bờ biển từ Quảng Ninh vào đến Quảng Bình. Lần đầu tiên ông đặt chân tới đất nước Trung Quốc là thời điểm giữa năm 1955; lúc đó, Bộ tổng Tham mưu cử một đoàn cán bộ đi sang Trung Quốc nghiên cứu học tập về phòng thủ bờ biển. Trong đoàn có cán bộ của hai ngành Tác chiến và Công binh, ông Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu Trưởng cử ông Lê Đức Anh, Phó cục trưởng Cục Tác chiến làm Trưởng đoàn. Lần thứ hai là vào khoảng gần cuối năm 1957, ông là thành viên trong đoàn cán bộ Bộ tổng Tham mưu do ông Văn Tiến Dũng dẫn đầu, đi sang Trung Quốc bàn về trang bị cho quân đội ta. Sang tới nơi, ông Dũng chủ động nói: “Ở miền Nam Việt Nam hôm nay, quân Mỹ-ngụy dùng xe bọc thép, máy bay trực thăng, tàu thủy, xả súng bắn giết đồng bào. Chúng tôi cần các đồng chí giúp đỡ – cho chúng tôi trung liên, đại liên và súng DKZ cho bộ đội và nhân dân chiến đấu đánh trả”. Nhưng trưởng đoàn phía Trung Quốc, tên là Thành, là Tổng tham mưu Trưởng ngồi mần thinh không nói gì. Và chuyến đi đó, họ chỉ cho ta toàn súng trường K44 bắn phát một, họ bảo để trang bị cho dân quân du kích phòng chống càn. Phải đến lần thứ ba sang Trung quốc mới thật sự gây ấn tượng mạnh mẽ đối với ông. Tháng 11 năm 1963, theo sự sắp xếp của tổ chức, ông Lê Đức Anh bí mật đi trên “Con tàu Không số” trở về chiến trường Nam Bộ, làm Tham mưu Trưởng Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam (lúc đó có mật danh là B2). Đến cuối năm 1966, ông được Trung ương gọi ra miền Bắc báo cáo tình hình chiến trường. Ngay sau đó, hai ông Văn Tiến Dũng và Lê Đức Anh được Bí thư Thứ Nhất Lê Duẩn cử đi trong đoàn cán bộ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang Trung Quốc. Từ miền Nam ra Bắc và cả khi ông đi cùng đoàn sang Trung Quốc, đều đi bằng máy bay của Hoàng gia Cam-phu-chia; vì lúc đó miền Bắc đang bị máy bay của đế quốc Mỹ ném bom phá hoại, việc đi lại rất khó khăn. Máy bay của Hoàng gia Cam-phu-chia đưa đoàn cán bộ sang Quảng Châu, rồi từ Quảng Châu đi Tô Châu để gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông. Cuộc tiếp kiến này có đại diện Chính phủ, đại diện Bộ Quốc phòng và đại diện của Bộ Ngoại thương Trung Quốc là ông Lý Cường, Thứ trưởng; phía Bộ Ngoại thương Việt Nam là ông Lý Ban, Thứ trưởng. Khi tiếp kiến, Chủ tịch Mao Trạch Đông hỏi không nhiều, rất ngắn gọn là đằng khác: “Quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam đông, tư tưởng của người dân và chiến sỹ Việt Nam thế nào?”. “Hiện nay, cách mạng ở miền Nam của các đồng chí có khó khăn gì?” Khi đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Đồng chí Lê Đức Anh mới ở miền Nam ra, hãy trả lời Mao Chủ tịch”. Ông Lê Đức Anh liền trả lời thẳng vào hai câu hỏi của Chủ tịch Mao – “Thứ nhất về tư tưởng, Mỹ vào đông vậy chứ đông hơn nữa thì bộ đội và nhân dân miền Nam cũng quyết đánh. Hai là, về khó khăn, vừa qua và hiện tại tất cả là tự lực, súng đạn tự tạo và súng trường Bá đỏ K44 sản xuất theo kiểu mẫu trước Đại chiến thế giới lần thứ nhất, có gì đánh nấy. Nhưng hiện nay có khó khăn rất lớn là xe tăng và máy bay của Mỹ rất nhiều nhưng Việt Nam thiếu vũ khí chống tăng, súng bắn máy bay và đánh tàu thủy; thiếu đô-la để mua gạo, vì từ trước đến nay cách mạng ở miền Nam Việt Nam vẫn mua gạo từ Cam phu chia và Thái Lan là chủ yếu, mà mua bên đó phải mua bằng đồng đô-la”. Nghe xong, Mao Chủ tịch liền chỉ tay vào các quan chức, những người dưới quyền ông đang có mặt: “Hãy giải quyết cho các đồng chí ở miền Nam Việt Nam súng đạn và tiền!” . Lúc đó, ông Lê Đức Anh thầm nghĩ – “ông chỉ tay và nói thế thôi, chứ cụ thể thì nếu có được thì chắc còn lâu”. Nào ngờ, xong việc, đoàn Việt Nam về liền, khi về đến Việt Nam thì cũng được tin Đảng cộng sản, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đang tích cực thực hiện chỉ đạo của Mao Chủ tịch. Và sau đó không lâu, vũ khí được chở thẳng từ Trung Quốc sang cảng Xi-ha-núc-vin; từ Xi-ha-núc-vin đưa tới Kra-chia, Công-pông-chàm rồi chở về biên giới Việt Nam rất nhanh. Tiền Đô la thì được đưa theo một “tuyến đường đặc biệt”. Khi ông Lê Đức Anh trở về Miền Nam thì đã thấy có súng, đạn và gạo – Khối lượng vật chất này đã thật sự nâng nhanh sức mạnh chiến đấu cho bộ đội và nhân dân miền Nam. Tháo ngòi nổ xung đột biên giới Việt – Trung; Từ phát kiến ý tưởng đến thực thi kế sách đưa Việt Nam thoát ra khỏi vòng xoáy xung đột của các nước lớn Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ Sáu, từ ngày 15 đến 18/12/1986. Đại hội VI là mốc son lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Tại Đại hội này, Đảng đã đề ra Đường lối Đổi mới và quyết định khởi xướng sự nghiệp Đổi mới đất nước. Đại hội đã bầu ông Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư. Đoàn đại biểu Quân đội có ba tướng: Lê Đức Anh, Nguyễn Quyết và Đoàn Khuê được bầu vào Bộ Chính trị. Sau Đại hội, Trung ương Đảng và Quốc hội đã quyết định bổ nhiệm ông Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Quốc phòng, ông Đoàn Khuê làm Tổng tham mưu Trưởng, ông Nguyễn Quyết làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Lúc này, cuộc xung đột quân sự vẫn đang diễn ra trên biên giới Việt-Trung vô cùng căng thẳng. Ngay sau đại hội, đầu năm 1987, có cuộc họp “Bộ Chính trị hẹp” tại Nhà Con rồng-Bộ Quốc phòng. Tại đây, sau hai chuyến đi thị sát trực tiếp toàn tuyến biên giới phía Bắc trở về, tướng Lê Đức Anh đã báo cáo toàn bộ tình hình biên giới phía Bắc, báo cáo những suy nghĩ của ông về Mỹ, Trung Quốc, về các nước ASEAN, liền sau đó, ông giải trình những đề xuất của mình. Ông nói: “Trên biên giới, phía bên kia họ bắc loa chửi ta và kể công, nếu bộ đội ta cứ chửi lại, bắn lại thì không làm được công tác tư tưởng. Thà rằng họ đánh sâu vào nội địa ta như Pôn Pốt đánh ta ở biên giới Tây Nam thì ta nói họ là xâm lược và ta kêu gọi chống xâm lược thì dễ. Đằng này qua thăm dò, khảo sát trực tiếp, qua tin tức và phân tích tình hình nhiều mặt, tôi thấy rằng họ không có ý đồ xâm lược, mà họ gây xung đột biên giới với ta nhằm một mục đích khác, ngoài ý đồ xâm lược. Còn Mỹ, sau thất bại chiến tranh Việt Nam, Mỹ câu kết với phản động quốc tế, dùng Pôn Pốt ở Cam-phu-chia đánh ta để trả thù, làm cho ta suy yếu và ngăn chặn sự ảnh hưởng của Việt Nam với khu vực, nhưng đến bây giờ ý đồ này cũng đã thất bại. Trong khi Mỹ chưa có chính sách gì mới đối với Việt Nam là thời cơ ta có thể tiến hành phá bao vây cấm vận. Các nước ASEAN gần đây cũng đã có sự phân hoá và thay đổi. Trước đây Lý Quang Diệu nói ta rất dữ, gần đây đã khác. Thái Lan cũng đã thay đổi, nhất là từ khi Xạt-xai Xu-ha-vẳn lên làm Thủ tướng. Có khá nhiều ban lãnh đạo của các nước ASEAN lệ thuộc Mỹ và Trung Quốc. Bây giờ ta tìm cách gia nhập vào ASEAN để nâng tinh thần độc lập tự chủ của họ lên, họ sẽ dần cảm thấy không bị lệ thuộc vào Trung Quốc và Mỹ nữa”. Nghe ông nói, mọi người rất hào hứng và tán thành, tuy nhiên cũng có ý kiến còn băn khoăn: – Liệu vào ASEAN ta có lôi kéo được họ không hay lại bị họ lôi kéo? Với lại, nếu xét ở khía cạnh kinh tế thì hiện các nước trong ASEAN đang giàu và mạnh hơn ta nhiều lần, liệu họ có chịu không? Chưa chắc họ chịu mình đâu. Tướng Lê Đức Anh nói: “Nếu chỉ vì mục đích kinh tế thì khó, vì ta đang nghèo về kinh tế. Nhưng ta có hai cái “giàu” là giàu về chính trị và về địa lý, giàu về tiềm năng con người. Ban đầu về kinh tế có thể ta chưa có thế và chưa có lợi gì; nhưng về chính trị thì ta có thế của một nước độc lập có chủ quyền, mà nền độc lập của ta không phải nói suông, cả dân tộc ta đã đổ bao nhiêu mồ hôi, xương máu và trí tuệ mới có được. Lòng tự trọng, tự tôn dân tộc thì anh nào cũng có. Ta vào thì họ sẽ có chỗ dựa về chính trị để họ vươn lên vì từ trước đến nay họ thường xuyên bị nước lớn chi phối. Họ cần ở ta là cần về chính trị trước tiên, mà ta lại có “vốn lớn” về chính trị. Trong khối ASEAN tuy có một số nước trước đây rất “căng” với ta, nhưng gần đây đã có những dấu hiệu thay đổi. Và cũng có những nước sẽ ủng hộ ta vào, những nước này từ lâu vẫn có thiện cảm với Việt Nam, từng đồng tình và ủng hộ Việt Nam chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, như Indonesia chẳng hạn. Ta sẽ đặt chân vào ASEAN từ cánh cửa của những nước như vậy. Nhưng những bước đi đầu tiên phải hết sức bí mật và thận trọng. Nếu ta không vào thì Mỹ và một số nước lớn sẽ tiếp tục phá ta, thậm chí tiếp tục dùng một số nước ASEAN để phá ta. Còn nếu ta vào được thì họ không phá được ta mà ngược lại, ta sẽ là chỗ dựa về chính trị để các nước ASEAN vươn lên”. Khi họp bàn, các thành viên của Bộ Chính trị đều nói: “Thế thì được!” Không có ai nói khác. Có người còn hứng khởi: “Như vậy có tư tưởng rồi, hệ thống rồi, được lắm!” Lúc đó ông Phạm Văn Đồng nói: “Việc này bên Ngoại giao làm là đúng chức năng rồi, mà Bộ Quốc phòng phải phối hợp; nhưng việc lớn này cả Đảng và Nhà nước cùng làm mới xong”. Ông Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao cũng nói rất hăng hái: “Bây giờ các anh cứ quyết, tôi xin làm ngay!” Ông Trường Chinh bảo: “Bộ Ngoại giao làm là tất nhiên rồi. Nhưng trước hết đề nghị anh Lê Đức Anh suy nghĩ cách làm, biện pháp cụ thể, và đề nghị giao cho anh Đức Anh làm cái đoạn “mở đầu”". Mọi người nhất trí. Tướng Lê Đức Anh nói: “Tôi xin làm “mở đầu” với Trung Quốc!”; và ông nói vui: “Có chết thì tôi xin chết trước!…”. Trong suy nghĩ, tướng Lê Đức Anh dự kiến mình sẽ mở “hai luồng thăm dò”: Một là thăm dò qua cộng đồng người Hoa kiều ở khu vực Chợ Lớn thành phố Hồ Chí Minh, vì từ xưa đến nay, nói chung cộng đồng người Hoa kiều ở các nước trên thế giới, họ có truyền thống đoàn kết bao bọc nhau rất hay, có tổ chức chặt chẽ và có sự quan hệ mật thiết với chính phủ của Trung Hoa lục địa. Bởi vậy gặp gỡ, tiếp xúc, thăm dò từ khối Hoa kiều này thì có thể “bắt mạch” được tư tưởng của Chính phủ nước họ. Hai là thăm dò qua đường Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội. Khoảng mươi ngày sau, tướng Lê Đức Anh vào gặp Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Ông Võ Trần Chí, Bí thư Thành ủy nói với Ban Hoa vận của Thành ủy tiến hành mời và gặp gỡ một số người đại diện và có uy tín trong cộng đồng bà con người Hoa của khu vực Chợ Lớn. Cuộc gặp giữa tướng Lê Đức Anh với đại diện bà con Hoa kiều đã diễn ra tại trụ sở của Thành ủy trong không khí thân tình và thẳng thắn. Có 8 Hoa kiều, cùng dự có một đồng chí đại diện Thành ủy. Mở đầu, tướng Lê Đức Anh điểm lại quá trình quan hệ hữu nghị của Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Trung Quốc-Việt Nam. Ông cũng nói có những đồng chí người gốc Việt Nam nhưng đã tham gia Giải phóng quân Trung Quốc, trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Cũng có khá nhiều người gốc Trung Quốc là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Rồi ông nói về Cộng đồng người Hoa suốt mấy chục năm qua định cư, làm ăn sinh sống tại Việt Nam đã tham gia, đóng góp vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chính ông đã trực tiếp chứng kiến có những bà mẹ người Hoa đã nuôi dấu và cứu chữa thương binh là bộ đội Giải phóng ngay tại nhà mình, bất chấp nguy hiểm, đó là những nghĩa cử cao đẹp của bà con Hoa kiều tại khu vực Chợ Lớn này…” Người Việt và người Hoa, Trung Quốc và Việt Nam, hai nước bấy lâu vẫn đoàn kết, hữu nghị là chuyện bình thường. Vừa rồi xảy ra chuyện Trung Quốc và Việt Nam lại xung khắc nhau là chuyện không bình thường. Vậy thì yêu cầu bà con người Hoa hãy góp sức mình để hàn gắn lại tình hữu nghị, để xoá bỏ cái không bình thường này đi. Tình hữu nghị Trung-Việt là truyền thống tốt đẹp và bền lâu, chúng ta cần làm cho nó bền vững và phát triển”. Khi nói lên những điều này, ông thấy họ nghe và nét mặt họ rạng rỡ, phấn chấn lắm. Nói xong, khi ông đề nghị họ phát biểu, họ nói rằng: “Từ lâu rồi chúng tôi cũng muốn như thế. Việt Nam và Trung Quốc cứ tốt như hồi xưa với nhau, giúp nhau như anh em trong nhà thì chúng tôi sung sướng lắm. Sống trên đất Việt Nam, chúng tôi cũng muốn chăm lo xây dựng gia đình và góp công xây dựng đất nước Việt Nam, quê hương thứ hai của mình …” Dịp này, Ban Đối ngoại Trung ương có chỉ đạo bộ đội ta ở một số chốt giáp đường biên đưa thuốc lá, thuốc lào sang mời bộ đội bên Trung Quốc. Họ rất phấn khởi. Khi anh em mình hỏi vì sao cứ bắn pháo sang Việt Nam thì họ chỉ lên trời, ý nói tại trên ra lệnh thì họ phải làm chứ trong lòng họ không muốn hai bên bắn nhau. Qua đó ta hiểu được phần nào của họ. Tiếp xúc với bà con Hoa kiều xong, tướng Lê Đức Anh liền trở ra Hà Nội. Khoảng nửa tháng sau, ông chỉ đạo cho Thiếu tướng Vũ Xuân Vinh, Cục trưởng cục Đối ngoại quân sự đi mời Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy đến dùng cơm với ông tại nhà khách Bộ Quốc phòng, ở số 28 phố Cửa Đông. Khi hai người, chủ và khách bắt tay nhau thì đồng chí Cục trưởng ý tứ khép cửa lại và bước ra phòng ngoài. Cuộc gặp tuy bí mật nhưng không khí thoải mái và không ai cảm thấy có gì căng thẳng. Hai người vừa ăn cơm vừa nói chuyện. Tướng Lê Đức Anh điểm lại quá trình quan hệ hữu nghị giữa hai nước và nói rằng Trung Quốc giúp Việt Nam về cách mạng nói chung, về quân sự nói riêng là rất quan trọng. Từ chiến dịch Biên Giới năm 1950, Hồ Chủ tịch lên tận nơi để chỉ đạo, Mao Chủ tịch đã cho hai đồng chí Trần Canh, Vi Quốc Thanh cùng Đoàn cố vấn Trung Quốc sang giúp đỡ bộ đội Việt Nam về cách đánh chiến dịch như thế nào. Ở Điện Biên Phủ, nếu không có lựu pháo, vũ khí đạn dược và quân trang quân dụng của Trung Quốc giúp thì Việt Nam khó giành được thắng lợi. Rồi những năm đánh Mỹ, có những đoàn cán bộ, những đoàn học sinh miền Nam được gửi ra Bắc rồi đưa sang Trung Quốc học tập. Rồi chuyện Quân đội Việt Nam hành quân vượt Thập Vạn Đại Sơn theo điện yêu cầu của đồng chí Chu Ân Lai sang đánh dẹp quân Tưởng, giải phóng vùng đất Ung-Long-Khâm để đón đại quân Nam Hạ của Giải phóng quân Trung Quốc v.v… Rồi ông khẳng định: “Đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, công lao của Việt Nam là chính nhưng là công chung của hai Đảng, hai nước. Vậy mà bây giờ tại sao lại xung đột với nhau. Việc này không phải do dân và bộ đội gây ra, mà do lãnh đạo của hai nước gây ra. Đề nghị đồng chí Đại sứ báo cáo với lãnh đạo của Trung Quốc. Tôi mới nhận chức nhưng cũng sẽ báo cáo với lãnh đạo của Việt Nam; để lãnh đạo hai nước gặp nhau giải quyết việc này”. Ông cũng kể lại với Đại sứ Trương chuyến đi với Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Tô Châu gặp Mao Chủ tịch. Khi Mao Chủ tịch hỏi có khó khăn và cần gì, ông nói rằng cần súng đạn và tiền để mua gạo, thì một tháng sau chiến trường Nam Bộ đã nhận được vũ khí và tiền … Khi nghe nói vậy thì ông thấy Đại sứ Trương mừng lắm, nét mặt phấn khởi nói rằng: “Thế thì tôi phải về nhanh để báo cáo với lãnh đạo bên tôi…” Đến đây, sứ mệnh “mở luồng” và “thăm dò” mà Bộ Chính trị tin cậy giao cho Tướng Lê Đức Anh, được xem như đã hoàn tất. Quả nhiên sau đó, trong chuyến đi thăm Singapore (tháng 7/1990), Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã “đánh tiếng” là “Sẵn sàng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam”. Thời điểm này ta cũng đã hoàn tất việc rút toàn bộ Đoàn chuyên gia và Quân tình nguyện Việt Nam ở Camphuchia về nước. Thực chất Mỹ đã thua ta tại “Ván bài Camphuchia” nhưng ở thời điểm này Mỹ không tỏ ra cay cú mà ngược lại, có phần cám ơn Việt Nam vì hai lẽ, một là đã làm tan rã chế độ diệt chủng Pôn-Pốt mà cả loài người nguyền rủa, hai là việc rút toàn bộ quân Việt Nam về nước đã có tác động tích cực trong việc Liên Xô rút quân ra khỏi Apghanistan, điều mà Mỹ rất mong muốn. Tuy nhiên những sự kiện trên là những dấu hiệu rất cơ bản để tiến tới việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, nhưng đó là sự kiện diễn ra ở cấp lãnh đạo cao nhất của hai Đảng và hai Nhà nước (Tổng Bí thư và Thủ tướng Chính phủ), là những cuộc gặp hẹp và bí mật. Bởi vậy cán bộ ở cấp dưới, nhất là ở cơ sở và bộ đội hai bên đường biên không thể biết, do đó hàng ngày trên tuyến biên giới vẫn chưa có sự thay đổi lớn theo xu hướng hoà bình hữu nghị mà vẫn duy trì không khí xung đột căng thẳng; tuy lúc này phía bên kia không còn cho quân tiến công sang, nhưng bộ đội của họ vẫn bắc các dàn loa phóng thanh chửi rủa với những lời lẽ rất tệ hại nặng nề và vẫn bắn pháo sang bên đất của ta. Nhất là ở Quảng Ninh, họ chửi và bắn pháo rất nhiều. Anh em mình nghe rát tai, tức quá thì cũng chửi lại và nạp đạn pháo bắn lại. Khi lên thị sát biên giới, tướng Lê Đức Anh nhắc nhở thì anh em thôi, không bắn, không chửi lại nữa. Ông nói với anh em: “Chừ họ chửi một, các đồng chí chửi lại mười; họ bắn một, các đồng chí bắn lại mười, cứ như thế này thì không làm được công tác tư tưởng, không giải quyết dứt điểm được tình hình”. Anh em cán bộ hỏi: “Vậy thưa Thủ trưởng, giờ ta làm gì để giải quyết được tình hình?”. Ông bảo, họ bắc loa chửi ta thì ta nhắc lại truyền thống và quá trình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước; họ bắn sang ta bằng đạn pháo, thì ta “bắn lại” bằng tình hữu nghị! Nhất định phải làm mọi cách để nối lại tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai đất nước, hai dân tộc Việt-Trung. ở cao điểm Vị Xuyên, bộ đội hai bên nhìn rất rõ nhau vì chỉ cách nhau mấy chục thước. Ông bảo anh em mang thuốc hút và diêm quẹt sang mời họ. Bên họ cũng nhiều anh em nghiện thuốc nên họ phấn khởi lắm. Bộ đội hai bên nói chuyện với nhau và cũng thôi không chửi, không bắn nhau nữa. Tại một số điểm chốt, ông bảo anh em hãy lui về phía sau một quãng. Cán bộ, chiến sỹ đều nói rằng “Nếu mình lui mà bên kia họ lên thì lo lắm!”. Ông bảo “Cứ rút đi!”. Tiếp đó, ông cho rút từng phần các đơn vị chủ lực về phía sau, về tuyến hai để đưa dân quân, bộ đội địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một. Lúc đó tâm lý chung của các “Tư lệnh chiến trường” và cán bộ chỉ huy các cấp là lo sợ, không anh nào dám cho chủ lực và các đơn vị dưới quyền mình lui xuống. Một hôm ông đến sở chỉ huy của Sư đoàn 316 thuộc Quân khu 2 ở phía dưới Phố Lu; khi tướng Vũ Lập, Tư lệnh Quân khu kéo đồng chí An là Chỉ huy trưởng Sư đoàn 316 lại gặp riêng ông và hỏi: “Báo cáo Bộ trưởng, đêm qua đồng chí An này đã báo cáo tôi cho đơn vị của đồng chí này lui xuống?!” Ông liền trả lời: “Đúng thế!”, thì tướng Vũ Lập tỏ vẻ sửng sốt, bất ngờ mà nói rằng “Vậy thì xin anh cho văn bản!” Tướng Anh liền bảo đồng chí Phi Long, Cục phó cục Tác chiến: “Viết lệnh để tôi ký liền!”. Thấy thái độ kiên quyết của ông, ông Vũ Lập liền nói vẻ xoa dịu: “Anh lệnh thì chúng tôi chấp hành, dù mệnh lệnh bằng giấy hay bằng miệng cũng chấp hành. Nhưng anh cho giấy để cơ quan còn lưu trữ.” Thực chất lúc này, đối với ý định của ông, chưa phải là điều chỉnh bố trí chiến lược, mà ông chỉ thực hiện điều chỉnh sơ bộ, vừa để cho thế phòng thủ biên giới của bộ đội ta có chiều sâu, có thế vững chắc hơn, vừa để thăm dò phía bên kia. Khi trở về Hà Nội, ông đã báo cáo hết tình hình với Bộ Chính trị. Tiếp đó, cuối tháng 7/1991, tướng Lê Đức Anh được Bộ Chính trị cử làm phái viên của Bộ Chính trị sang Trung Quốc (thực chất là “đi tiền trạm”) bàn bạc những vấn đề cụ thể việc bình thường hoá quan hệ hai nước. Cùng đi có đồng chí Hồng Hà, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương. Sáng ngày 28 bắt đầu khởi hành. Trên đường đi Bắc Kinh, các ông dừng chân ở Nam Ninh, thủ phủ Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây. Ông Triệu Phú Lâm, Bí thư Khu ủy Khu tự trị Quảng Tây và ba cán bộ của Văn phòng Khu ủy; ông Chu Thiện Khanh, Phó trưởng Ban Đối ngoại và ba cán bộ, phiên dịch của Ban Đối ngoại Trung ương Trung Quốc ra đón các ông ở sân bay Nam Ninh. Đây là lần thứ tư trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ông Lê Đưc Anh sang đất nước Trung Quốc. Dùng cơm trưa ở Quảng Tây xong, các ông đã bay luôn lên Bắc Kinh. Sáng hôm sau, 29/7, từ 9 giờ đến 12 giờ, ông Kiều Thạch, ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc làm việc với hai ông tại Đại lễ đường. Cùng dự về phía Trung Quốc còn có các ông: Chu Lương và Chu Thiện Khanh, Trưởng và Phó trưởng ban Đối ngoại Trung ương; Chu Sỹ Cầm, Trịnh Quốc Tài là Cục trưởng và Phó cục trưởng Cục 2 Châu á Ban Đối ngoại; Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam; Từ Đôn Tín, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Cuộc họp này để chuẩn bị cho cuộc hội đàm chính thức với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sau đó. Làm việc họp hành xong, đến 12 giờ 30 thì ông Kiều Thạch và các ông kể trên dự bữa cơm thân mật với hai ông tại phòng Tân Cương của Đại lễ đường. Cuộc hội đàm chính thức diễn ra tại Trung Nam Hải vào buổi chiều ngày 31/7/1991. Phía Trung Quốc do Tổng Bí thư Giang Trạch Dân làm Trưởng đoàn. Trước khi hội đàm, có ít phút gặp riêng giữa Tổng Bí thư Giang và tướng Lê Đức Anh, có hai phiên dịch của hai Ban Đối ngoại Trung ương Việt Nam và Trung Quốc. Ông Giang Trạch Dân liền nêu một vấn đề khá “hóc búa”: “Tới đây lãnh đạo cấp cao hai nước gặp nhau sẽ mở lại trang sử tốt đẹp quan hệ Trung-Việt. Nhưng có một vấn đề quan trọng phải bàn riêng, vì ra họp chung khó nói. Tôi ở địa phương mới lên làm Tổng Bí thư. Trước chưa biết, nhưng nay nghiên cứu lịch sử mới biết là Nam Sa tức Trường Sa là của Trung Quốc”. Nghe vậy, tướng Lê Đức Anh liền nói: “Tôi cũng như đồng chí, tôi ở chiến trường mới về Trung ương; khi về có dịp nghiên cứu về lịch sử, địa lý và pháp lý thì thấy Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc lãnh thổ Việt Nam. Bây giờ chúng ta nên cử các cơ quan chức năng nghiên cứu và xác định cụ thể”. Nghe vậy, ông Giang không nói gì nữa; ông cười rồi ông bảo: “Tới giờ rồi, mời đồng chí ra hội đàm!..” Theo Tướng Lê Đức Anh, nhìn chung cuộc hội đàm đạt kết quả tốt; mọi vấn đề đặt ra đều được hai bên thoả thuận, nhất trí, kể cả việc giải quyết vấn đề Campuchia. Có một điểm tốt, khác với cuộc gặp hai bên vào năm trước ở Thành Đô là phía Trung Quốc không còn lấy việc giải quyết vấn đề Campuchia làm điều kiện tiên quyết cho việc bình thường hoá quan hệ Trung-Việt nữa. Lúc đó Khơ-me đỏ đã tan, Trung Quốc cần ta đồng tình việc đưa Quốc vương Xi-ha-núc trở về Campuchia, mà thời điểm đó Xi-ha-núc đang ở Bắc Kinh. Trung Quốc cũng thấy rằng quan hệ hữu nghị với Việt Nam để phát triển là một nhu cầu của cải cách, mở cửa của họ. Khi họ gặp thái độ của ta rất phải chăng thì họ tiếp thu ngay. Họ đang có nhu cầu phát triển, ta cũng có nhu cầu bình thường hoá quan hệ để ổn định và phát triển, hơn nữa bối cảnh Quốc tế lúc này Liên Xô đã tan rã, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng sụp đổ, do đó hai nước láng giềng xã hội chủ nghĩa Trung-Việt đã gặp nhau như một tất yếu lịch sử.(1) Tiếp đó là những cuộc tiếp xúc trao đổi giữa hai Ban Đối ngoại Trung ương của hai Đảng, giữa Bộ Ngoại giao hai nước và giữa Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm với Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy. Đến tháng 11/1991, nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc- Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc- Lý Bằng, Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt dẫn đầu sang thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 5 đến ngày 10. Sau lễ đón và hội đàm, hai bên ra Thông cáo chung và ký kết Hiệp định chính thức quan hệ bình thường giữa hai nước Trung-Việt trên cơ sở 5 nguyên tắc hoà bình, đồng thời ký kết cả quan hệ bình thường giữa hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng. Lịch sử nhân loại ở những thập niên cuối thế kỷ 20 có ba “cuộc lui quân vĩ đại”- Thứ nhất là cuộc Quân đội Liên Xô rút khỏi Apghanistan; tuy không có sự xua đuổi nhưng không được người dân “đưa tiễn thắm tình”. Thứ hai là cuộc rút quân về nước trước thời hạn của Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia Việt Nam. Cả đất nước Chùa tháp rực rỡ cổng chào, cờ hoa cùng các tầng lớp nhân dân Campuchia lưu luyến đưa tiễn. Trước Hoàng cung, Quốc trưởng Nô-rô-đôm Xi-ha-núc và Vua Sãi Tếp Vông trịnh trọng quàng vòng Nguyệt quế lên cổ Đại tướng, Tổng chỉ huy Quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia Việt Nam Lê Đức Anh rồi thống thiết nói lời cảm ơn Đảng, Nhân dân và Quân tình nguyên Việt Nam đã chịu gian khổ, hy sinh, không tiếc máu xương, sức lực, trí tuệ và của cải để cứu Dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và hồi sinh Đất nước Chùa tháp từ tiêu điều xơ xác trở nên xanh tươi bền vững. Thứ ba là cuộc lui quân, chấm dứt việc đấu súng, đấu trí của hai Quân đội, hai Nhà nước, khôi phục đường biên giới hữu nghị, lập lại quan hệ bình thường giữa hai Quốc gia Việt Nam – Trung Quốc. Có thể nói, trong ba cuộc lui quân vĩ đại này, thì hai cuộc sau đều là “cuộc lui quân Đẹp!”, lui quân vô cùng ngoạn mục, mà người được giao trọng trách lớn lao, vừa thiết kế vừa tổ chức thực hiện nó, chính là Đại tướng Lê Đức Anh! Đại tá Khuất Biên Hòa
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 14, 2015 8:53:22 GMT 9
Đại tá CS Lê Trọng Nghĩa là ai?Đi tìm một câu trả lời logic: Tại sao kêu oan mà im lặng cả đời? Phan Châu Thành (Danlambao) - Mới đây, sau cái chết ngày 22/2/2015 của ông Lê Trọng Nghĩa, 93 tuổi, cựu đại tá Cục trưởng đầu tiên của Cục Quân báo quân đội “nhân dân” VN năm 1950-1951 rồi 1960-1961 (nay là Tổng cục II khét tiếng của cha con Chính-Vịnh), cựu trợ lý thân thiết (nhất?) của Võ Nguyên Giáp, và cùng Giáp là nạn nhân trung tâm của vụ án “xét lại chống đảng” năm 1968, báo chí cả ba lề (lề đỏ, lề dân và lề ngoài hay ngoài lề như BBC, RFI, VOA...) đều rộ lên với nhiều bài viết ca ngợi, thương cảm, thắc mắc về người đã mất. Ông Nghĩa chết chỉ để lại di chúc xin được khôi phục danh dự (không phải minh oan) không phải chống đảng sau 47 năm im lặng (trong đó có 9 năm tù 1968-1977). Nếu xin minh oan trong di chúc thì cũng chỉ là người chết xin minh oan, người còn sống thì 47 năm im lặng không xin, y như sếp Giáp 45 năm “bị oan” vẫn không dám lên tiếng phản đối gì, chỉ xin được xem xét lại! Vì thế, có lẽ như đại đa số người dân Việt vốn quen bị CSVN bưng bít thông tin, tôi cũng có câu hỏi: Tại sao các ông ấy kêu oan mà im lặng cả đời? Có gì đó rất không logic ở đây. Ví dụ, bản thân tít bài báo như: “Án oan và 47 năm im lặng?” đã chứa một nghịch lý lớn trong đó, khiến tôi quyết định tự đi tìm câu trả lời logic hơn cho mình. Ông Trần Đĩnh, tác giả Đèn Cù, giải thích rằng ông Nghĩa im lặng 47 năm là vì các con, mà xin minh oan trong di chúc cũng là vì các con, nghe rất có nghĩa, nhưng lại là một nghịch lý nữa. Bởi vì, nếu vì các con thì ông Nghĩa nên bảo các con vượt biên để có tương lai, rồi mình lên tiếng công bố sự thật. Đó mới là trọng nghĩa cha con. Có lúc tôi nghĩ, ông ấy im lặng thế suốt 47 năm có thể vì ông ấy quá trọng một cái nghĩa gì đó khác chăng, như tên ông vậy - Lê Trọng Nghĩa? Nhưng chính ông Nghĩa lại giải thích sự im lặng của mình như sau: “Ông Giáp mất tác động rất sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của tôi. Sự ra đi của ông Giáp là tiếng chuông rất quan trọng để nhắc nhở tôi là phải nhớ đến và làm theo tấm gương của ông suốt đời kiên trì vì nền hòa bình, độc lập của nước nhà”. Có nghĩa là ông ấy im lặng là vì làm theo ông Giáp, là vì nền hòa bình, độc lập của nước nhà! (sic!) Nhiều người đã nhảy lên tung hô ông (và Giáp) như anh hùng vì thế. Tôi thì lại thấy mùi vừa giả dối vừa hèn nhát của những người cộng sản, nên tôi không tin, và tôi đi đến một câu hỏi khác: ông ta là ai? Lê Trọng Nghĩa là ai? Tôi đã quen với việc tự nghiên cứu tiểu sử của hàng trăm nhân vật hàng đầu của cộng sản VN, từ Nguyễn Tất Thành trở đi, và tôi đã bất ngờ khi tìm hiểu tiểu sử Lê Trọng Nghĩa - nhân vật tuy rất đặc biệt nhưng tôi đã cho là không quan trọng lắm trong lịch sử đảng CSVN, chỉ trong vụ án xét lại thôi. Tôi có ba bất ngờ vì nghi vấn lớn về Lê Trọng Nghĩa, đó là thân nhân ông ta (xuất xứ vô cùng mờ ám), là vai trò của ông ta trong giai đoạn 1945 khi CS cướp chính quyền hợp pháp của ông Trần Trọng Kim (hành tung rất bí ẩn), và đó là sự nghiệp rất đặc biệt của ông từ 1945 đến 1968 (sự nghiệp rất giống Võ Nguyên Giáp). Và ba bất ngờ trên về Lê Trọng Nghĩa được bao trùm thêm bởi một bất ngờ nữa: đảng CSVN nói rất ít hay giấu rất kín mọi chi tiết về xuất xứ, thân nhân, hành tung của ông Lê Trọng Nghĩa. Sự bí ẩn này về tiểu sử cá nhân của ông Nghĩa là cực lớn, sánh ngang với tiểu sử bí ẩn của hai nhân vật tàn độc nhất được đảng CSVN cẩn thận chùi xóa kỹ càng, đó là Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn, hai đồ tể hàng đầu của đảng và công an cộng sản VN. Nhân vật bí ẩn thứ ba, không ngờ, là Lê Trọng Nghĩa?! Xuất thân vô cùng mờ ám... Trong các tài liệu lưu trữ chính thức và công khai của CSVN, chúng ta chỉ biết ông Nghĩa sinh 1922, không biết quê quán, cha mẹ, giòng tộc là ai, học hành ở đâu, vào đời, nghề nghiệp, vợ con... thế nào? Có thể nào có một kẻ nứt đất sinh ra rồi tham gia cướp chính quyền cùng đảng CSVN năm 1945 chăng? CSVN muốn chúng ta tin là có... Lê Trọng Nghĩa (LTN). Đến cái tên Lê Trọng Nghĩa cũng không phải tên khai sinh. “Lúc đầu” LTN tên là Đoàn Xuân Tín (không rõ đó có phải tên khai sinh chưa? Nếu đúng thì họ Đoàn này ở đâu?). Sau có tên Gs. Lê Ngọc, tức giáo sư Lê Ngọc? Tức LTN từng là nhà giáo, giáo sư? Dòng tiếp theo của tiểu sử chính thức của LTN là: “sinh viên khoa luật, thạo nhiều thứ tiếng” nhưng không biết trường luật nào, ở đâu, năm nào, thông thạo các thứ tiếng nào? Tàu? Pháp? Nhật? Không ai biết! Rồi Gs. Lê Ngọc có một người “thầy” tên là Lê Trọng (vì kính trọng hay tưởng như “thầy” - là tôi suy diễn thế) nên Gs. Lê Ngọc đổi tên thành Lê Trọng Nghĩa, trong đó chữ tên Nghĩa lấy từ chữ Khởi Nghĩa, có nghĩa là Khởi Nghĩa! (Chính LTN sau này đã giải thích như vậy). Như vậy, tên Lê Trọng Nghĩa xuất hiện trước khởi nghĩa 1945 của CSVN, nhưng cũng không rõ chính xác khi nào? Ông Lê Trọng là ai? Vai trò rất bí ẩn của Lê Trọng Nghĩa trong giai đoạn 1945 Mốc thời gian thứ hai và dòng chi tiết thứ ba xuất hiện trong tiểu sử LTN, sau năm sinh 1922, là 23 năm sau đó, chính xác là ngày 10/3/1945 khi LTN “bảo vệ thượng cấp, cứu Trần Đăng Ninh trốn thoát khỏi Hỏa lò”. Như vậy, ngày 10/3/1945 Trần Đăng Ninh trốn thoát, còn Lê Trọng Nghĩa chính thức xuất hiện, khai sinh... Ngay trong tháng 3/1945 LTN được thượng cấp khác là Lê Đức Thọ cử vào đảng Dân chủ. Có vài điều cần nói rõ ở đây. Vào tháng 3/1945, ngoài thượng cấp là Trần Đăng Ninh thì LTN còn có thượng cấp khác là Lê Đức Thọ - hai người này là cán bộ cao cấp của CSVN, tức LTN là người của CSVN, được CSVN cài vào tham gia đảng Dân chủ, và ngay lập tức lên đến UV Trung ương đảng Dân chủ VN, Có nghĩa là, LTN là gián điệp của CSVN trong đảng Dân chủ VN và Việt Minh. Khoảng tháng 6/1945 trong vai trò đại diện Việt Minh, LTN đã 5 lần đàm phán với chính phủ của Trần Trọng Kim và với quân đội Nhật. Ngày 20/8/1945 LTN được bổ nhiệm làm Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng (của Việt Minh mà LTN là “người của” đảng Dân chủ), nên ngày 23/8/1945 LTN bàn giao các đầu mối liên lạc với quân đội Nhật cho Võ Nguyên Giáp. (Giáp lúc đó là Bộ trưởng Nội vụ, cũng là người “ngoài đảng CSVN” trong Chính phủ Việt Minh của Hồ (làm Chủ tịch). Chỉ xuất hiện sôi động trong chưa đầy 6 tháng rồi LTN, 23 tuổi, không rõ xuất thân, lại biến mất 5 năm để đến 1950 LTN được phong chức Đại tá Cục trưởng Quân báo. Sự nghiệp rất giống Giáp: lên nhanh vọt 1 lần, dính "xét lại", và im lặng suốt đời Sự nghiệp “nhà binh” của LTN rất giống Giáp: lên nhanh, lên chức 1 lần, rồi đứng đó cả đời. Năm 1948 Giáp lên thẳng đại tướng, rồi thôi. LTN được phong Đại tá Cục trưởng Cục Quân báo đầu tiên, năm 1950, rồi cũng ở cấp đại tá đó suốt đời. Mà đó là đại lá Cục trưởng Cục Quân báo, là cục đòi hỏi kinh nghiệm và nghiệp vụ tình báo quân sự đặc biệt và quan trọng nhất trong mọi quân đội, nhất là trong chiến tranh, trong khi LTN lúc đó mới 28 tuổi. Để được thế, LTN phải là người rất có tài, được đào tạo rất tốt, và rất được thượng cấp rất tin cậy. Vậy LTN có tài do ai phát hiện? Ai đào tạo? Và ai tin cậy bổ nhiệm LTN vào vị trí trọng yếu đó? Các chi tiết này đều đến nay không rõ, chưa kiểm chứng được? Là Thọ, hay Ninh, hay Giáp hay Hồ đứng sau Nghĩa? LTN được tái bổ nhiệm Cục trưởng Cục Quân báo lần 2 năm 1960-1961, sau 9 năm là trợ lý của Giáp (1951-1960). Từ 1962 đến 1967 LTN lại là trợ tá cho Giáp lần 2, hơn 5 năm, để rồi cùng Giáp dính vào vụ án “xét lại chống đảng” của Duẩn-Thọ (và Hồ đứng sau) đạo diễn. Và cái giống Giáp cuối cùng của LTN là cùng sống lâu để mà im lặng chịu trận suốt đời, 47 năm, đến chết. Vài nghi vấn và giả thiết của tôi về Lê Trọng Nghĩa Câu hỏi đầu bài tôi đặt ra, Đại tá Lê Trọng Nghĩa là ai, tôi vẫn chưa trả lời được. Tôi chỉ có vài nghi vấn và giả thiết xin trình bày ở đây, để đợi lịch sử sẽ kiểm chứng. Nghi vấn thứ nhất, tại sao LTN là người tài, người tốt, người bị oan mà lại phải giấu tung tích xuất thân như thé? Quê hương ông ở đâu? Gia đình họ hàng ông ở đâu? Ai cho ông ăn học thành tài thế (học luật và biết nhiều ngôn ngữ) và ăn học ở đâu? Sao ông phải gắn bó chung thủy với “một người thầy” tên Lê Trọng thế đến mức lấy tên Thầy làm tên mình mà bỏ tên họ cha mẹ giòng giống? Rồi cái tên Nghĩa tưởng là lễ nghĩa, trọng nghĩa thì lại là khởi nghĩa thì khởi nghĩa là sứ mệnh ông quan tâm hơn cả lễ nghĩa, trọng nghĩa sao? Từ nghi vấn này, tôi buộc phải đưa giả thuyếtt ông là người... Tàu, thông thạo tiếng Việt, Pháp và Nhật, được tình báo Hoa Nam tuyển chọn đào tạo và cài vào Việt Nam? Năm 1945-1949 ông được Tàu cộng đào tạo để về giữ vị trí chủ chốt là cục trưởng Cục quân báo của Việt cộng. Rồi khi Tàu cộng và Hồ chọn Võ Nguyên Giáp là tổng tư lệnh quân đội Việt cộng thì LTN được cài vào làm trợ lý của Giáo, thực chất là để kiểm soát và khống chế Giáp vốn chỉ hữu danh vô thực? Nghi vấn thứ hai, tại sao LTN bị dính vào vụ án “xét lại chống đảng” vì nếu nghi vấn trên là đúng thì Duẩn Thọ phải biết LTN là người Tàu hay người của Tàu chứ? Có lẽ Duẩn Thọ biết rõ LTN là người Tàu mà làm ngơ như không biết, nhân vụ Giáp là gián điệp của “xét lại” Nga sô mà diệt luôn tay chân của Giáp (dù không hay có thân Nga, xét lại) và tay chân Tàu - một mũi tên bắn hai đích, để tăng thêm vây cánh phe Duẩn Thọ trong quân đội vốn bị Tàu và Giáp thao túng. Tương tự, ngay như giả thiết Hồ là người Tàu thì nhất định Duẩn Thọ cũng biết rõ, nhưng Duẩn Thọ dùng điều đó để không chế Hồ, vô hiệu hóa Hồ... để mặc cả với Tàu và để Duẩn toàn quyền, là số 1 thao túng tất cả ở VNCS. Và quan hệ Hồ-Duẩn trên chục năm cuối đời Hồ là như thế: Hồ chỉ là bù nhìn, Duẩn là bạo chúa thay Hồ. Nghi vấn thứ ba, tại sao nếu LTN là người gốc Tàu hay của Tàu cộng, sao Tàu cộng hay LTN không minh oan là mình không xét lại theo Nga sô như Giáp? Là vì nếu minh oan như thế thì lộ ra LTN là gián điệp Tàu còn nguy hại hơn là “xét lại” như Giáp. Vì thế, LTN đến chết vẫn không dám đề nghị minh oan, vì sợ bị lộ tung tích gốc Tàu, làm việc cho Tàu, mà chỉ xin được “phục hồi danh dự”. Như chúng ta thấy, khi mọi điều bị CSVN bưng bít hết để lộ quá nhiều điều vô lý, chúng ta có quyền và cần phải đưa ra những nghi vấn và giả thiết của mình để có câu trả lời thỏa đáng hơn, đến gần sự thật lịch sử hơn. Và câu hỏi Lê Trọng Nghĩa là ai cũng vậy, xin mời các bậc chuyên gia, sử gia về VNCS làm minh bạch ra, như những câu hỏi về Giáp đang có những lời giải làm bẽ bàng nhục nhã cho Giáp đó. Tôi tin, một ngày không xa những trò hề bịp bợm như kiểu: “tôi im lặng suốt đời vì nền hòa bình của nước nhà” của Lê Trọng Nghĩa sẽ không lừa bịp được dân Việt ta nữa. Phan Châu Thành ************************ Đối thoại giữa Lê Đức Thọ với Lê Trọng Nghĩa. Người sưu tầm Một câu chuyện lưu hành trong anh em cựu chiến binh, có thể thật một trăm phần trăm, có thể được thêm thắt dựa trên một phần sự thật nào đó, nhưng nó nói lên một nỗi đau về những vụ đàn áp chính trị, mà sự thêm thắt, nếu nó có, thì cũng luôn nghiêng về phía bênh vực lẽ phải, lên án bạo quyền. Câu chuyện là như sau. Sau khi ông Lê Trọng Nghĩa ra tù. Lê Đức Thọ cho người đưa ông đến gặp Thọ tại Ban Tổ chức Trung ương. Lê Đức Thọ mở đầu câu chuyện: - Anh có biết anh bị bắt vì tội gì không? - Thật nực cười. Đáng ra câu hỏi ấy là tôi hỏi anh, nhưng tôi có thể nói cho anh từng điểm một. Lê Trọng Nghĩa nhớ lại, hôm đó người ta triệu tập ông, nói là đi họp. Đến cuộc họp ông thấy mấy người, trong đó có Trần Quý Hai và Song Hào, nhưng không khí ghẻ lạnh. Ông giơ tay bắt, nhưng không ai chìa tay như mọi lần. Ông chợt sinh nghi. Chưa kịp kéo ghế ngồi, thì một người lạ đến tuyên bố ông bị bắt. Vừa tuyên bố, vừa chìa cho ông xem tờ Lệnh bắt, trong đó liệt kê 5 tội trạng. Với con mắt tình báo nhà nghề, ông liếc nhanh. Lê Đức Thọ hỏi dồn: - Anh chắc còn nhớ chứ? - Đương nhiên là tôi nhớ. Tội thứ nhất, các anh kết tội tôi liên lạc với tình báo Liên Xô. Anh đồng ý chứ? Lê Đức Thọ gật đầu. - Đúng. Anh nhớ chính xác. Lê Trọng Nghĩa tiếp: - Nếu đầu các anh không bị lú thì các anh là những kẻ lật lọng. Chính các anh cử tôi làm việc với tình báo Liên Xô. Lê Trọng Nghĩa ngưng một lát, và tiếp - Tội thứ hai, cung cấp thông tin nội bộ cho tình báo Liên Xô. Các anh nhầm lẫn hết rồi. Điều này tôi cũng làm theo yêu cầu của Bộ Chính trị, và tôi chỉ cung cấp những thông tin được Bộ Chính trị duyệt. Lê Trọng Nghĩa ngưng một lát như để suy nghĩ. Lê Đức Thọ hối thúc: - Anh cứ tiếp đi. - Tội thứ ba, xúi giục lãnh đạo Đảng đi theo đường lối xét lại. Các anh ngớ ngẩn rồi. Dễ thường Bộ Chính trị là lũ trẻ con hay sao mà tôi xui dại họ ăn cứt gà được? Lê Đức Thọ im, như chờ đợi. - Tội thứ tư, bàn nhau thành lập đảng riêng? Các anh dựng chuyện quá quắt. Các anh không có một chứng cứ nào, gọi là chính cương, điều lệ, tôn chỉ, tổ chức, … mà tùy tiện buộc tội người ta. - Còn tội thứ năm? - Tội thứ năm, tội này có lẽ là khôi hài nhất. Các anh kết tội tôi chỉ trỏ địa chỉ nhà Hoàng Minh Chính cho những người khác. Tôi không tưởng tượng các anh lại nói năng như lũ trẻ nít. Nhà Hoàng Minh Chính ở 26 Lý Thường Kiệt, thì cả Hà Nội ai mà chẳng biết, lại phải chờ đến chỉ điểm của Cục trưởng Cục Quân báo. N.S.T.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 14, 2015 8:59:41 GMT 9
d/c 3X lại “bóp chim” d/c Trọng lú… mạnh hơnPhan Châu Thành (Danlambao) Nhân danh chống tham nhũng để tham nhũng Khi vừa lên Tổng, Lú đã ra ngay Thông báo Kết luận số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị về việc “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” với mục tiêu chống 3X lợi dụng các đơn vị sự nghiệp công lập để bòn rút tham nhũng (viện cớ vừa phải làm kinh doanh vừa phải làm nhiệm vụ chính trị xã hội…) 3X vì thế, hơn 1 năm sau, phải miễn cưỡng ra Nghị quyết 49/NQ-CP ngày 08/9/2012 ban hành Chương trình hành động của CP thực hiện Thông báo Kết luận số 37 của Lú, chỉ để chống chế, cũng lợi dụng cho ra đời hàng loạt (trên 200) trường cao đẳng đại học tư và bán công, cho đàn em trong các Bộ KHĐT, GD ĐT, TC, XD… vơ một mớ đậm, rồi bỏ lửng Kết luận của Lú đó 3 năm nay… Trong các đơn vị sự nghiệp công thì chỉ có “xã hội hóa” giáo dục đào tạo là món mồi béo bở nhất lúc đó – vì mỗi trường tư (bản đỏ) mới luôn đi kèm hàng chục đến hàng trăm ha đất ngon lành nhất ở các thành phố trung tâm quốc gia và các vùng, nên bè lũ 3X lập tức thả câu làm toàn dân mắc câu, và từ nay cống nộp (cho con em ăn học) nuôi thêm trên 200 con bạch tuộc đỏ hút máu học sinh sinh viên (dân nghèo)… Còn “xã hội hóa” văn hóa ư, thể thao ư… làm sao đọ với Interrnet hay Facebook… mà moi tiền các lớp trẻ được? May ra thì có Mc Donnals… nhưng đó là văn hóa… đớp - mà bọn 3X là sư phụ mà McDonnals phải gọi là “cụ” rồi... Có một thứ cần xã hội hóa toàn diện thì 3X lờ tịt vì khó nhai: Y tế cộng đồng (Chỉ tập trung đi sâu phục vụ Y tế cho đảng thôi, như áp dụng tia phóng xạ chả hạn…) Nhân danh cải cách, “bóp chim”các đồng chí mình Nay Nhà nước CSVN bước vào năm 2015 với túi tiền trống rỗng và sổ nợ cao ngất do tài ăn cắp ăn cướp hạng “kinh bang tế thế” của chính phủ 3X và cả bộ máy đảng, Nhà nước (Cuộc hội, Mặt trơ (trận), đoàn thể cướp…), và sẽ còn hứa hẹn “trống rỗng và cao ngất“ hơn trong các năm 2015, 2016… tới, nên 3X lại khai thác Thông báo số 37 của Lú năm xưa còn nguyên hiệu lực - mà 3X đã tích cực có Chương trình hành động như trên… Lần này, 3X tuyên bố “đổi mới cơ chế hoạt động” của các đơn vị sự nghiệp công lập là chúng phải “hoạt động tự chủ” tức chúng phải tự kiếm ăn (tự chủ tài chính là… tự cung tự cấp, tự kiếm ăn – không bú… “con tự do” tao nữa, nghe con…). Và 3X tuyên bố áp dụng cho tất cả các bộ ngành, thực hiện ngay từ đầu 2015, không thí điểm nữa, làm thật luôn. Bộ Tài chính đã của 3X đã thực hiện chỉ thị, cát hết các khoản phải chi đó cho các bộ, và các Vụ Tài chính của 29 bộ ngành đồng loạt nhảy lên như đàn con thia lia… Nhảy dựng nhất và la to nhất lại không phải là bộ La To (La Thăng), mà là hai bộ Thể thao-Văn hóa-Du lịch và Y tế. Một, vừa nhảy vừa la vì bị bóp chim đau nhất – Bộ TT-VH-DL. Một, nhảy cẫng lên vì được “chém” (bằng giá dịch vụ) và giết (bằng thuốc dổm) dân nghèo thả dàn, nhưng không dám la to…- Bộ Y tế. Đó cũng là hai đích chính mà 3X nhằm đến để “bóp chim” Lú lần này. 3X có đến bốn lý do để bóp chim Lú mà Lú không dám kêu gì, còn phải đỏ mặt trợn mắt khọm chân lại mà khen X giỏi, X tích cực thực hiện chỉ đạo của Lú, đó là: 1)Năm 2015 chắc chăn ngân sách sẽ thiếu hụt trên 500 ngàn tỷ đồng, lấy đâu mà chi tràn lan nữa? 2) 3X có tránh nhiệm thức hiện Kết luận 37 của Lú mà X đã có Chương trình hành động từ lâu…; 3) 3X muốn/phải tách bạch làm kinh tế thị trường với nhiệm vụ chính trị xã hội (mà các đơn vị hành chính sự nghiệp công lập phải lo…) ra; và 4) Năm 2015 phải dồn ngân sách cho Đại họa 12 mà Lú đã chỉ đạo rộng khắp cả đảng phải dồn tận lực (đánh nhau cú chót, được ăn cả, ngã về mo…), không chỉ mình 3X và CP được chỉ đạo thế… 3X ra tuyệt chiêu “bóp chim” này lại là một mũi tên trúng nhiều đích, vì có thể kéo ả “Kim Tiền” hay “Kim tiêm độc” về phe mình, vì đã cứu ả vừa thoát chết, vừa có tiền mua ghế cho thêm nhiệm kỳ sau Đại họa 12, vừa có thể đánh tơi tả - bóp họng lũ quân “sự nghiệp công lập” của Lú, xưa nay vốn ăn cơm Chúa lại chỉ múa cho Vua như bộ TT-VH-DL – xem lũ “xướng ca vô loài” đó không có cơm Chúa nuôi nữa thì múa hát cho Vua thế nào?... Ngay trong Bộ TT-VH-DL đó cũng có nhiều bọn hành sĩ, tỏi sĩ (à quên: nghệ sĩ) thấy sẽ có lợi riêng hơn khi được “hoạt động tự chủ” nên đã bắt đầu nhẩy lên hoan hô Chúa anh minh, mà Lú căm lắm vẫn không làm gì được. Đó là bọn như 12 nhà hát lớn trung ương hay các viện bảo tàng Hồ, đảng, Tôn… có cơ sở vật chất to vật vã ở trung tâm các thành phố lớn luôn để không (trên 90% thời gian trong năm) và dàn nhân lực nghệ sĩ/tỏi sĩ/hành sĩ khủng… đang sống bằng ca hát thuê “chui” (cho các lễ hội văn hóa dân tộc theo đặt hàng của đảng…) nay sẽ được ca hát thuê “ưỡn mặt ra”, lại còn công khai cho thuê mặt bằng nữa chứ, đời sẽ lên hương nữa… Đó còn là hơn 2 ngàn công ty tổ chức sự kiện, sân sau của các quan đỏ “văn hóa” vốn để rút tiền lễ hội, kỷ niệm… nay sẽ chính thức được khai thác tận thu mọi cơ sở vật chất, con người khác của các văn phòng và hội trường các bộ đang rất lộng lẫy nguy nga chỉ để dành cho 1 việc: hội nghị tổng kết và phát động thi đua hàng năm… Kết gì được đây? Nói chung là, với cú “bóp chim” này 3X lại sẽ toàn thắng… Phen này, vào Đại họa 12, Lú và đảng của Lú sẽ thành lũ…pê đê hết mất, vì “cái con tự do” bị bóp nát hết trơn à? Phan Châu Thành Tổ Quốc Việt Nam - Đất Nước là trên hếtQLB Nguyên Thạch (Quanlambao) - Tác giả muốn lấy lời tựa của bài viết này để thay cho lời khẳng định của cá nhân và cũng có lẽ là của đại đa số của khối dân tộc trong tình hình hiện nay của Việt Nam cho dẫu có như thế nào đi nữa thì sự an nguy củaTổ Quốc và vấn đề tồn vong của đất nước vẫn là vấn đề quan trọng trên hết tất cả các vấn đề quan trọng.
Dưới sư bưng bít gần như tuyệt đối của một cơ chế độc tài và toàn trị, đảng CSVN luôn chủ trương che giấu mọi sự thật có liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc với lý do cố hữu nhằm để cũng cố quyền lực trong chiêu bài của cái gọi là "Bí mật quốc gia", điều đó đã khiến cho rất nhiều người bất mãn và cảm thấy mình chỉ là người đứng ngoài lề bổn phận và trách nhiệm của những công dân, từ đó cái hố ngăn cách vô hình đã tách rời dân chúng ra khỏi đảng và trở nên hai thế cực hoàn toàn ngược nhau.
Thời gian 80 năm cho miền Bắc và 80 năm cho cả nước, không ai còn lạ gì với những điều mà đảng đã nói so với những gì mà đảng đã làm. Dân gian thường ví: "Trăm nghe không bằng một thấy", Xuyên suốt thời gian, người ta đã nghe rất nhiều và cũng đã chứng kiến rất nhiều, cho nên những buổi tiệc với vô vàn bánh vẽ đã không còn sức thu hút bởi người ta đã ngán lên tận óc.
Trên chính trường, người chiến thắng là người biết nắm được lòng dân, lãnh tụ sẽ được dân chúng ủng hộ nếu lãnh tụ đó biết làm như thế nào để đáp ứng những nguyện vọng của đồng bào chớ không đi ngược lại với những gì mà dân chúng mong muốn.
Tương lai thì không ai có thể quả quyết được vì hãy còn hơi sớm, bở còn phải chờ đợi những gì thực tế và cụ thể xảy ra thì người ta mới có thể kết luận. Nhưng thời gian gần đây, có một điều mà không ai có thể phủ nhận là trang mạng Chân Dung Quyền lực đã làm được những việc thiết thực là cung cấp cho công chúng biết được nhiều "thâm cung bí sử" với nhiều tài liệu và dữ kiện khá chính xác khiến các nhân vật bị tố giác vô cùng nhức đầu và không thể nào tránh khỏi sự nhục nhã. Thành thật mà đánh giá cho những việc làm được xem là vô cùng nguy hiểm cho bất cứ ai đứng sau lưng CDQL vì những tay bị tố giác này đã được CDQL chỉ tên thẳng mặt, bất luận họ là quan chức ở cấp nào, dù là Bộ trưởng Bộ quốc phòng hay Phó thủ tướng đương kim ủy viên BCT và đang tại chức với bao quyền hành.
Tôi xin mạn phép trích dẫn một đoạn trong bài viết của tác giả Nguyễn Trung Chính đã đăng trên Dân Làm Báo như sau: "Qua hội nghị TƯ 10, kẻ thù của TBT Nguyễn Phú Trọng đã chính thức lộ diện: đó là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người đã một lần làm cho ông Trọng ngấn lệ trực tiếp (live) trên đài truyền hình, khi đòi kỷ luật ông Dũng mà không được BCHTƯ nghe theo. Biết được thóp của TBT Trọng là theo Tàu cộng, ông Dũng không từ bỏ cơ hội nào để xoáy sâu lưỡi đao vào tử huyệt này trước dư luận đảng viên và quần chúng: - Không thể đánh đổi chủ quyền quốc gia lấy tình hữu nghị viển vông; - Không có chuyện nhà anh cũng là nhà tôi. - Đầu năm 2015 ra lịnh chuẩn bị bảo vệ đất nước từ Trung ương đến làng xã địa phương; - Đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào chương trình giáo dục; - Cho Bộ trưởng Đinh La Thăng phê bình công khai nhà thầu Trung Quốc vô trách nhiệm gây ra tai nạn chết người tại công trường xây dựng ở Hà Nội (chửi con mắng cha!)... Biết TBT Nguyễn Phú Trọng bảo thủ giáo điều, Nguyễn Tấn Dũng "đốt lò" với những tuyên bố: - Người dân được làm tất cả những gì luật pháp không cấm; - Công khai đề nghị phải có luật biểu tình; - Không thể cấm thông tin trên mạng xã hội; - Tôn trọng quyền được biết của dân; - Phải thay đổi thể chế;... (1) - Ông lại còn cho đàn em là Bộ trưởng Kế hoạch/Đầu tư Bùi Quang Vinh đi rao cho những đảng viên, cán bộ và quần chúng: Kinh tế thị trường là tinh hoa nhân loại; Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm...". Cộng thêm, vừa mới đây tờ Thời báo Hoàn Cầu đã công kích bôi nhọ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là nhằm âm mưu đen tối chia rẽ nội bộ Việt Nam để dễ bề thực hiện tham vọng bành trướng lãnh thổ. Tờ báo này có lẽ đã "giật thót" khi nghe khẳng định của Thủ tướng: Quyết không đánh đổi chủ quyền lãnh thổ lấy một thứ hữu nghị viển vông nào đó, và Hoàn Cầu tìm cách bôi nhọ. Ảnh: Bloomberg. (2) Như đã nêu trên mà tựa bài đã muốn nói lên ý chính, sự độc lập về chủ quyền, sự vẹn toàn của lãnh thổ và dân tộc không lâm vào cảnh nô lệ ngoại bang là tối ưu, là quan trọng hơn cả. Đất nước còn, dân tộc còn thì ta còn tất cả, những thứ còn lại, chúng ta có thể từng bước giải quyết để đi đến những kết quả tốt nhất có thể. Không cần phải úp mở vì hiện trạng của đất nước trong bối cảnh hiện nay, chúng ta hãy lật ván bài tẩy cho tất cả cùng thấy mà không cần phải che đậy giấu diếm. Nếu những ai quá cẩn thận, một sự cẩn thận rất cần thiết thì chúng ta hãy nêu ra những "kịch bản" sau đây: 1- Giả dụ rằng ông Nguyễn Tấn Dũng được đại đa số dân quốc nội (lực lượng chính), cộng thêm một thiểu số ở hải ngoại (lực lượng trợ lực) ủng hộ ông về những chính sách "không thuộc Tàu" mà "Mật Nghị Thành Đô" đang lù lù tiến đến một cách nguy kịch, và chính bản thân ông sẽ đưa thể chế tiến dần đến Tự do, Dân chủ, Nhân quyền và Đa nguyên, Đa đảng thì những điều đó sẽ chứng minh được rằng sự nhận thức của người dân trong mọi tầng lớp của xã hội là đúng đắn và chính bản thân ông Nguyễn Tấn Dũng cũng thực hiện được những việc làm đúng đắn. Những công lao vô cùng to lớn này, ông Nguyễn Tấn Dũng rất xứng đáng cho cà dân tộc và lịch sử ca ngợi đời đời. Từ công trạng này mà toàn dân có thể châm chước cho cá nhân ông đã vi phạm những lỗi lầm "bất đắc dĩ" trong thời gian cầm nắm quyền hành, bên cạnh nếu ông Nguyễn Tấn Dũng có những cử chỉ cao đẹp nào đó rất thiết thực là tự nguyện xung vào công quỹ quốc gia những vật chất quí giá vốn không thuộc về ông thì những hành vi ấy lại cang trở nên cao thượng hơn. Ở đây xin nói thêm rằng nếu ông làm được những điều như đã nêu ra thì nó còn có nghĩa rằng ông đã đánh gục được những phe nhóm "cực đoan" với luận điệu chuyên chỉ trích và mạ lỵ khi mà những chiến thuật chưa đi vào đoạn kết của chiến lược. 2- Giả dụ rằng với sự ủng hộ của dân chúng đưa ông đến đích thành công và chiến thắng được kẻ thù ngoại bang và những đối thủ đã từng có biết bao mưu mô thâm độc để hãm hại ông, rồi ông quay lưng lại với sự ủng hộ ấy mà trở thành độc tài, gia đình trị, vẫn duy trì một chủ nghĩa sai lầm và hoang tưởng là cộng sản với thể chế toàn trị của nó thì thiết nghĩ một người như ông sẽ lường được những gì sẽ xảy ra cho ông cùng cả gia đình mà tôi không muốn viết ra đây vì nó sẽ làm ô uế chính bài viết. Song hành, nếu "kịch bản" này trở nên sự thật thì kẻ thù của ông cùng với những kẻ cực đoan sẽ rất hả hê tự đắc vì họ đã đúng và cá nhân ông cũng chẳng còn gì để đáng được tồn tại. Như đã trình bày, trên chỉ là những phát họa theo suy đoán của tác giả và có lẽ cũng là của rất nhiều người. Vì lường trước được những búa rìu của dư luận cũng như những cái nón cối qui chụp từ những kẻ cực đoan và độc tài, tác giả xin nói rõ bài viết này không hề quảng bá hay có ý "đánh bóng" cá nhân ông Nguyễn Tấn Dũng, mà chỉ đưa ra những nhận định để cùng nhau thảo luận về những gì đang xảy ra nóng bỏng hiện nay trên tinh thần Dân Chủ. Tất cả sẽ còn tùy thuộc vào những diễn tiến của tương lai. Cuộc sống sẽ có rất nhiều điều thú vị mà không ai học hết được chữ ngờ, bên cạnh vận mệnh đất nước còn có những bí ẩn, mầu nhiệm của "Thiên Cơ" khiến phải bất khả lậu. Nguyên Thạch ------------------ Chú thích: (1) danlambaovn.blogspot.fr/2015/01/chan-dung-noi-bo-quyen-luc.html (2) giaoduc.net.vn/Quoc-te/Thoi-bao-Hoan-Cau-tuyen-truyen-xuyen-tac-chia-re-lanh-dao-cap-cao-Viet-Nam-post154992.gd
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 25, 2015 7:18:42 GMT 9
Tin mật về trận hải chiến Bãi đá Gạc Ma
March 14, 2015 Trung Thuần dịch
Chiến trường Gạc Ma. Nguồn: OntheNet
Hải quân Trung Quốc… đã chi viện vô tư cho Hải quân Việt Nam, thậm chí còn trực tiếp điều quân đội tới tham gia tác chiến chống Mỹ . Vào thập niên 70, đã từng bất chấp hiểm nguy hiệp trợ cùng nhân dân miền Bắc Việt Nam rà phá bom mìn, tiến hành phản kích tự vệ trước nguy cơ tập đoàn Ngô Đình Diệm(1) của Nam Việt xâm chiếm Tây Sa.
Lời người dịch: Xin được coi đây là 1 nén hương thắp tưởng nhớ các chiến sĩ đã hi sinh
Hiện trường trận hải chiến Gạc ma. Nguồn: Hoàn cầu võng Hiện trường trận hải chiến Gạc ma. Nguồn: Hoàn cầu võng Nam Hải, truyền thông nước ngoài thường gọi là biển Nam Trung Hoa, tất cả những hòn đảo san hô nằm ở Nam Hải luôn là lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc, vùng biển này do vị trí địa lý đặc thù của nó nên cũng đã trở thành một vùng biển không yên tĩnh. Những tranh chấp Nam Hải gần đây khiến cho người ta không khỏi nhớ lại những xung đột Nam Hải trong lịch sử.
Trận hải chiến phản kích tự vệ Bãi đá Gạc Ma đối với mọi người vẫn luôn đầy những bí ẩn: Trận hải chiến ấy rốt cuộc vì sao lại xảy ra? Kết quả cuối cùng ra sao? Đã có những gợi mở nào cho việc xây dựng hải quân Trung Quốc sau này?
Đem theo những câu hỏi ấy, các phóng viên Trang mạng Hoàn Cầu là Điền Phi, Trương Gia Quân đã phỏng vấn độc quyền Thiếu tướng hải quân Trịnh Minh, cựu Bộ trưởng Bộ Kỹ thuật trang bị hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, và Thiếu tướng hải quân Trần Vĩ Văn, viên chỉ huy trên biển bên quân ta trong trận hải chiến này, để vén được bức màn bí mật của trận hải chiến ấy.
Đầu thập niên 70 của thế kỷ trước mở đầu cho những tranh chấp không dứt giữa Việt Nam với Trung Quốc Thiếu tướng Trịnh Minh khi ôn lại căn nguyên xảy trận hải chiến này đã nói rằng:
“Việc nổ ra trận hải chiến Bãi Đá Gạc Ma tuyệt đối không phải là chuyện của riêng một ngày 14 tháng 3, mà là một trận chiến dẫn đến do sự phát triển không ngừng của cục diện Nam Hải, do sự leo thang không ngừng của tình thế tranh chấp dài ngày.”
Vào thập niên 70 của thế kỷ 20, cùng với sự phát hiện thấy nguồn tài nguyên dầu khí dưới đáy Nam Hải, lợi ích kinh tế của Nam Hải ngày càng trở nên nổi trội, các nước xung quanh bắt đầu dùng vũ lực để cưỡng chiếm các đảo san hô thuộc các quần đảo ở Nam Hải với mưu đồ đưa vào lãnh thổ của mình, có những nước còn sử dụng cả đầu tư nước ngoài vào việc khai thác nguồn dầu khí dưới đáy biển. Lúc này, lãnh thổ các đảo ở Nam Sa [Tên Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa – DCVOnline] nước ta tuy đã có đường cương giới đứt đoạn đã được tuyên bố công khai, nhưng trên thực tế ngoài hòn đảo Thái Bình có chính quyền Đài Loan đóng ở đó ra, vào thập niên 70, chưa có bất cứ hòn đảo nào thậm chí là đảo san hô trong quần đảo Nam Sa được Trung Quốc chiếm cứ thực tế. Khi ấy, Trung Quốc đang ở vào thời kỳ đầu của cuộc mở cửa cải cách, đòi hỏi phải xây dựng được một môi trường hòa bình, tức vừa cần một môi trường xung quanh ổn định, lại vừa cần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, Trung Quốc phải kềm chế để tìm cách đàm phán với các nước xung quanh nhằm giải quyết sự tranh chấp những hòn đảo này. Ngặt nỗi các nước xung quanh Nam Hải, bắt đầu từ thập niên 70 của thế kỷ 20, lại liên tục dùng các thủ pháp quân sự để chiếm lĩnh một phần các hòn đảo thuộc quần đảo Nam Sa.
Hải quân Trung Quốc, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta còn đang rất khó khăn vào thập niên 50-60 của thế kỷ trước, đã chi viện vô tư cho Hải quân Việt Nam, thậm chí còn trực tiếp điều quân đội tới tham gia tác chiến chống Mỹ [DCVOnline viết nghiêng]. Vào thập niên 70, đã từng bất chấp hiểm nguy hiệp trợ cùng nhân dân miền Bắc Việt Nam rà phá bom mìn, tiến hành phản kích tự vệ trước nguy cơ tập đoàn Ngô Đình Diệm(1) của Nam Việt xâm chiếm Tây Sa [Tên Trung Quốc gọi quần đảo Hoàng Sa – DCVOnline] uy hiếp nhân dân Bắc Việt, ủng hộ mạnh mẽ cho công cuộc giải phóng thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Cho đến thời kỳ cuối thập niên 70, sự chi viện của quân ta đối với Việt Nam vẫn không hề gián đoạn.
Vào thời kỳ cuối thập niên 70, nhà cầm quyền Việt Nam, với sự xúi giục và hỗ trợ của một nước lớn nào đó, xuất phát từ dã tâm điên cuồng của chủ nghĩa bành trướng dân tộc của mình, đã vong ân bội nghĩa, liên tục tiến hành xâm phạm và gây hấn vũ trang với nước ta, xâm chiếm lãnh thổ nước ta, uy hiếp và phá hoại nghiêm trọng sự nghiệp xây dựng và nền an ninh ở khu vực biên giới nước ta. Chính phủ và lãnh đạo nước ta đã nhiều lần ra các lời khuyến cáo, cảnh cáo và phản đối, song nhà cầm quyền Việt Nam vẫn một mực bất chấp, nước ta không thể chịu đựng thêm được nữa, đã buộc phải tiến hành trận đánh phản kích tự vệ với Việt Nam. Trận đánh bắt đầu vào ngày 17 tháng 2 năm 1979, trải qua 28 ngày, quân ta tấn công Lạng Sơn…, phá hủy một lượng lớn các thiết bị quân sự ở khu vực Bắc Bộ, Việt Nam, nhằm vào các công trình của nước ta. Bộ đội tham chiến của quân ta đã rút toàn bộ về nước vào ngày 16 tháng 3 sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ trừng phạt nặng nề quân xâm lược Việt Nam.
tttt Tù binh Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979. Nguồn: flickriver.com Thắng lợi của trận phản kích tự vệ lần này đã nâng cao được danh tiếng của nước ta trong công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa bá quyền quốc tế. Nhà cầm quyền Việt Nam không hề thỏa mãn, vẫn tiếp tục quấy nhiễu và phá hoại sinh hoạt sản xuất của các cư dân vùng biên giới nước ta, tháng 5 năm 1981, bộ đội biên phòng nước ta lại một lần nữa đánh trả đập tan, tiêu diệt quân Việt Nam xâm lược ở vùng núi Pháp Khả tỉnh Quảng Tây và vùng Khấu Lâm tỉnh Vân Nam.
Bước sang thập kỷ 80, Trung Quốc từ thời kỳ động loạn của cuộc “Đại Cách mạng Văn hóa” chuyển sang thời kỳ mở cửa cải cách, các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc như Đặng Tiểu Bình, Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương… đã tăng cường mối quan tâm với vùng biển cùng biên giới biển của tổ quốc, còn đã từng đích thân tới Hải Nam, Tây Sa… để thị sát các đơn vị bộ đội có liên quan tới hạm đội Nam Hải… đã đề ra phương châm nhìn xa trông rộng “chủ quyền thuộc ta, gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác”.
Tháng 5 năm 1981, nước ta lần đầu tiên phóng tên lửa vũ trụ ra vùng biển Thái Bình Dương và đã đạt được thành công mỹ mãn. Biên đội tàu khu trục của hải quân Trung Quốc đã bảo đảm hộ tống cho hoạt động xa bờ lần này; tháng 10 năm 1982, nước ta đã phóng thành công từ dưới nước tên lửa vũ trụ bằng tàu ngầm trên biển, đánh dấu một bước phát triển mới về công nghệ của hải quân nhân dân nước ta. Khi ấy, cả nước dồn trọng tâm vào xây dựng kinh tế, biên chế quân đội phải tinh giảm, xây dựng quân đội phải nhẫn nại, hải quân nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương, đã kiên quyết chấp hành nhiệm vụ củng cố phòng thủ Tây Sa, khởi động thêm các hoạt động tuần tra mặt biển, tuần tiễu không trung và diễn tập huấn luyện trang bị quân sự ở Nam Sa. Những hành vi xâm lược của Việt Nam khi ấy đều là thừa hành chính sách bắt giữ giáo dục rồi khoan hồng phóng thích. Tháng 11-12 năm 1985, biên đội Hữu hảo Hạm thuyền Hải quân nhân dân nước ta lần đầu tiên đi thăm nước ngoài, được hợp thành từ tàu khu trục đạn đạo 132 và tàu cung cấp dầu X615, đều là tàu nội địa một trăm phần trăm. Đi qua biển Nam Trung Hoa, vào Ấn Độ Dương tới thăm 3 nước Pakistan, SriLanka và Bangladesh, trên đường trở về còn gặp biên đội tàu của Mỹ, thăm hỏi nhau và tiến hành các hoạt động giao lưu, hữu nghị trên biển. Tất cả những điều đó đều là hoạt động thể hiện trước thế giới và châu Á việc thừa hành chủ quyền của nước ta đối với các đảo ở Nam Sa cùng các vùng biển có liên quan. [DCVOnline viết nghiêng]
Việt Nam can thiệp vào việc xây dựng trạm quan trắc biển của nước ta đã khiến cho mâu thuẫn Trung-Việt càng gay gắt hơn.
Tháng 2 năm 1987, đại diện hơn 100 quốc gia và khu vực đã tới tham dự Hội nghị Thường niên Ủy ban biển lần thứ 14 tại Trụ sở UNESCO đóng tại Paris, Pháp. Ngày 21 tháng 2, các đại biểu tham dự hội nghị đã nhất trí thông qua “Chương trình liên minh quan trắc mặt biển toàn cầu”. “Chương trình liên minh quan trắc mặt biển toàn cầu” này yêu cầu phải xây dựng các trạm quan trắc biển có số hiệu đăng ký thống nhất trên mặt biển toàn cầu, đồng thời quyết định để cho các nước chịu trách nhiệm xây dựng các trạm quan trắc biển trong địa phận nước mình, mọi nguồn quan trắc trong tương lai sẽ do các nước cùng hưởng
Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc tham dự hội nghị khi ấy là Cục trưởng Cục biển Quốc gia La Ngọc Như đã tỏ ra nhạy bén khi hiểu được đây vừa là một cơ hội thỏa mãn được nhu cầu về an ninh hàng hải trên vùng biển Nam Trung Hoa rộng lớn cho các nước trên thế giới, lại vừa là cơ hội để có thể thể hiện chủ quyền đối với Nam Hải của Trung Quốc, tuy biết rằng sức mạnh kinh tế công nghệ trong nước khi ấy còn hết sức hạn chế, nhưng cũng đã vẫn chủ động đề xuất để Trung Quốc chọn địa điểm và xây dựng trạm quan trắc ở Nam Hải. Khi ấy, đại biểu của Việt Nam và Philippines cùng các đại biểu tham dự hội nghị khác đã thống nhất chấp thuận để Trung Quốc xây dựng 5 trạm quan trắc biển, trong đó xây 3 trạm ở Trung Quốc đại lục, còn ở quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa mỗi nơi xây 1 trạm. Trạm quan trắc biển ở quần đảo Nam Sa có số hiệu đăng ký là “74”.
Để bảo đảm cho việc xây dựng trạm quan trắc được tiến hành một cách thuận lợi, Quốc Vụ viện và Quân ủy Trung ương đã giao nhiệm vụ này cho hải quân. Thế là, đến tháng 5 và tháng 10 năm 1987, hải quân cùng với Cục biển Quốc gia 2 lần điều tàu đến quần đảo Nam Sa để khảo sát chọn địa điểm. Tháng 11 cùng năm, Trạm 74 được định địa điểm tại Bãi đá Vĩnh Thử [tên Trung Quốc gọi Bãi Đá Chữ Thập, Fiery Cross Reef – DCVOnline].
Cơ sở cho việc lựa chọn địa điểm này là những tích lũy có được qua công tác khảo sát và vẽ bản đồ biển suốt trong thời gian dài về Nam Hải của Hải quân Trung Quốc và ngành giao thông vận tải của nước ta, đồng thời cũng là sự biểu hiện về trách nhiệm của Trung Quốc đối với an ninh lãnh thổ biển của mình và an ninh đường biển trọng yếu của quốc tế.
Bãi đá Vĩnh Thử là một bãi đá ngầm nằm trong quần thể bãi đá Doãn Khánh [tên Trung Quốc gọi London Reefs hay Bãi đá ngầm London – DCVOnline], dài khoảng 15 hải lý, rộng khoảng 5 hải lý. Trạm quan trắc biển số 74 nằm trên Bãi đá Vĩnh Thử được hoàn thành thiết kế tháng 12 năm 1987, tháng 2 năm 1988 bắt đầu thi công. Nhiệm vụ này do hải quân đảm nhận, các bộ và ủy ban có liên quan của nhà nước, đặc biệt là Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Giao thông… đã hỗ trợ rất tích cực, khi ấy nhà nước không chỉ điều các tàu tác nghiệp công trình, mà còn cung ứng cả các loại nguyên vật liệu ra ngoài khơi xa Nam Hải, sĩ quan binh lính hải quân, trong một môi trường khốc liệt, đầy sóng gió, mặn chát, đã nhất mực không sợ khổ sợ chết khi làm việc trên quần đảo Nam Sa để hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đã được Liên Hiệp quốc quyết định.
Ngày 13 tháng 2 năm 1988, Bộ Tổng tham mưu chính thức phê chuẩn một nhóm hải quân xây dựng trạm quan trắc khí tượng biển trên quần đảo Nam Sa, xác định sẽ do căn cứ Du Lâm của hải quân thành lập bộ máy chỉ đạo. Tiếp đó, Trạm quan trắc Bãi đá Vĩnh Thử chính thức được khởi công xây dựng. Hiện trường thi công ở Bãi đá Vĩnh Thử do tàu đào đá kiểu máy xúc đào mở một đường đi trên bãi san hô rắn chắc, lại còn phải dùng bộc phá dưới nước, thứ mà hàng trăm con người áp dụng là lao động thủ công. Gần 2.000 tấn xi măng đều được các chiến sĩ hải quân vác từng bao đến hiện trường thi công, họ chuyển chúng từ trong các khoang lớn của tàu hàng bụi bay mù mịt, từ tàu lớn chuyển sang tàu nhỏ, rồi từ tàu nhỏ dỡ đưa xuống xuồng nhỏ, lại từ xuồng nhỏ vác lên bãi đá ngầm. Cứ dựa vào sức người được hợp lại từ tay, chân, vai, lưng như vậy mà đưa vật tư, nguyên vật liệu chở từ đại lục của tổ quốc tới để chuyển lên Bãi đá Vĩnh Thử một cách đầy kỳ tích.
Trải qua sự phấn đấu gian khổ tuyệt vời suốt hơn nửa năm trời, đã biến Bãi đá Vĩnh Thử thành bức thành khoa học Nam Sa, thành trạm an ninh hàng hải ở Nam Hải. Con đường biển cửa ngõ cấp ngàn tấn, với lầu quan trắc biển dài hàng trăm mét đã lấp đầy khoảng trống dự báo quan trắc khí tượng thủy văn của thế giới, cung cấp sự bảo đảm đầy khoa học cho an ninh hàng hải quốc tế. Trong khi thi công không chỉ phải chiến đấu với môi trường đầy khắc nghiệt, mà còn phải lo vật lộn với tàu thuyền máy bay do nhà cầm quyền Việt Nam ngang ngược bất chấp chỉ huy. Thiếu tướng Trịnh Minh nói:
“Điều này đã gây khó dễ quá nhiều cho đội công trình của hải quân nhân dân chúng ta.”
Công trình trên biển không lớn cũng không nhỏ này đã tiêu tốn mất thời gian hơn nửa năm trời, cuối cùng đã được hoàn thiện vào ngày 2 tháng 8 năm 1988. Ngày 3 tháng 8, Quốc vụ Viện và Quân ủy Trung ương ra thông tư biểu dương toàn thể sĩ quan binh lính đã tham gia xây dựng trạm. Việc xây dựng trạm này đã trở thành tư liệu hàng đầu chuẩn xác đáng tin cậy nhằm cung cấp cho Trung Quốc nghiên cứu về quy luật biển và quyển khí, đã cung cấp sự bảo đảm khoa học quan trọng cho việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên Nam Sa, bảo vệ sự đi lại trên đường biển Nam Sa, là một món quà quý giá của nhân dân Trung Quốc đóng góp cho thế giới.
Nhưng ngay trong thời gian nước ta tiến hành khảo sát, chọn địa điểm và chuẩn bị thi công, nhà cầm quyền Việt Nam đã đột ngột trở mặt, thay thế đại biểu nước mình từng bỏ phiếu tán thành tại Hội nghị của Ủy ban Biển, chỉ thị cho Bộ Ngoại giao của mình ra tuyên bố “phải tiến hành can thiệp việc xây dựng Trạm quan trắc biển số 74 tại quần đảo Nam Sa”. Ngay chính lúc tàu kỹ thuật của ta đang tác nghiệp, nhà cầm quyền Việt Nam đã nhiều lần điều tàu đến tiến hành trinh sát và quấy nhiễu xung quanh Bãi đá Vĩnh Thử, đồng thời âm mưu đưa người lên bãi đá ngầm để can thiệp, hủy bỏ thay thế thi công của phía ta. Sau khi hành vi của họ bị thất bại, họ đã điều binh khiển tướng, trắng trợn tới xâm chiếm một vài hòn đảo đá ngầm xung quanh Bãi đá Vĩnh Thử trong quần đảo Nam Sa của nước ta. Để bảo đảm cho việc thi công xây trạm được an toàn, từ ngày 18 tháng 1 đến ngày 14 tháng 3 năm 1988, Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc đã lần lượt vào đóng quân ở nhiều đảo đá ngầm thuộc quần đảo Nam Sa.
Trong Trận hải chiến Bãi đá Gạc Ma, hải quân Trung Quốc buộc phải phản kích 28 phút kết thúc trận chiến.
Chiến trường Gạc Ma. Nguồn: OntheNet Chiến trường Gạc Ma. Nguồn: OntheNet Sự khiêu khích của nhà cầm quyền Việt Nam đối với nhân dân Trung Quốc đã trở nên mạnh mẽ hơn trong công trình xây trạm. Chiều ngày 18 tháng 2 năm 1988, hải quân nhân dân Trung Quốc và hải quân nhân dân Việt Nam lần lượt tranh nhau đổ bộ lên Bãi đá Hoa Dương [tên Trung Quốc gọi Bãi đá Châu Viên hay Cuarteron Reef – DCVOnline], cả hai bên đều cắm quốc kỳ của nước mình để đối đầu. Cuộc đối đầu diễn ra trong 3 giờ đồng hồ, trời đổ mưa, sóng biển dâng cao, quân Việt Nam bị mưa to gió lớn, sóng biển đánh cho tơi tả, cuốn đi mất cả quốc kỳ. Sáu sĩ quan binh lính của Trung Quốc đã cố thủ trên bãi đá ngầm suốt hơn 40 giờ đồng hồ, đồng thời đã xây xong được nhà sàn. Hải quân Việt Nam tuy không dám liều mạng cưỡng chiếm các Bãi đá Vĩnh Thử và Bãi đá Hoa Dương do hải quân nhân dân Trung Quốc đang khống chế, nhưng từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 19 tháng 2, các nhân viên vũ trang của Việt Nam đã xâm chiếm 5 hòn đảo đá ngầm là Tây Tiêu [đá Tây, West (London) Reef], Vô Dặc Tiêu [?], Nhật Tích Tiêu [Đá Lát, Ladd Reef], Đại Hiện Tiêu [Đá Lớn, Discovery Great Reef], Đông Tiêu [Đá Đông, East (London) Reef ], tạo thành thế bao vây Bãi đá Vĩnh Thử.
Xét thấy tình thế hiểm nguy của cục diện, cuộc chiến có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào, Hải quân Trung Quốc đã yêu cầu tăng quân cho Nam Sa. Nhưng thực lực của Hạm đội Nam Hải khi ấy còn rất hạn chế, ngày 22 tháng 2, Hạm đội Nam Hải điều tàu hộ tống 502 thuộc biên đội 502; ngày 5 tháng 3, các tàu hộ tống 531 và 556 thuộc biên đội 531 của Hạm đội Đông Hải của hải quân vượt trùng khơi tới nơi, cộng thêm tàu của biên đội 552 đang ở Nam Sa, trên mặt biển gần Bãi đá Vĩnh Thử cũng tập trung một vài chiếc tàu của Trung Quốc. Các tàu khi ấy đều tới bãi đá phòng thủ, hòng ngăn chặn quân Việt Nam tiếp tục xâm chiếm các đảo đá ngầm của Trung Quốc và phá rối thi công ở Bãi đá Vĩnh Thử, có thể nói, binh lực của Hải quân Trung Quốc vẫn là khá phân tán.
Chiều tối ngày 13 tháng 3 năm 1988, tàu vận tải có vũ trang HQ-604 của Hải quân Việt Nam đã neo lại ở Bãi đá Gạc Ma gần Bãi đá Vĩnh Thử. Chỉ huy trên biển của hải quân nhân dân ta, Trần Vĩ Văn, liền lập tức quyết định: Điều một phân đội đổ bộ lên bãi đá ngầm, cắm quốc kỳ. Bên quân Việt nam do không nhìn thấy sự cảnh cáo lần nữa của sĩ quan binh lính đóng trên bãi đá ngầm, đã điều hơn 40 lính có trang bị vũ khí đổ bộ lên bãi đá ngầm cắm quốc kỳ, hình thành thế cục đối đầu với sĩ quan binh lính của ta đang đóng trên bãi đá ngầm.
HQ-604 ở chiến trường Gạc Ma. Nguồn: Hoàn cầu Võng HQ-604 ở chiến trường Gạc Ma. Nguồn: OntheNet Chính giữa lúc hai bên đang vật lộn giằng co với người bảo vệ cờ, một lính Việt Nam đã giương súng nhắm bắn vào lính chống tàu ngầm Trương Thanh bên quân ta, phó đội trưởng pháo binh tàu 502, Dương Chí Lượng, đưa tay trái ra túm chặt lấy báng súng của quân Việt hất lên. Súng bên quân Việt Nam nổ, cánh tay trái của Dương Chí Lượng liền bị bắn xuyên qua! Đúng 8 giờ 47 phút. Quân Việt Nam nổ phát súng đầu tiên. Bộ đội đổ bộ lên đảo thuộc hải quân Trung Quốc lập tức nổ súng bắn trả, một trận hỗn chiến trên bãi đá ngầm. Tàu HQ-604 của quân Việt Nam đã nổ súng trước, tiếp đó tàu đổ bộ HQ-505 [Ký số mới của Tàu đổ bộ Quy Nhơn HQ-504 của Hải quân VNCH, USS Bulloch County (LST-509) – DCVOnline], HQ-604 và tàu HQ-605 của bên quân Việt Nam cũng nổ súng theo. Trần Vĩ Văn ra lệnh bắn trả, tàu 502 là tàu chỉ huy bên quân ta bắn trúng tàu HQ-604 bên quân Việt Nam, chỉ trong ít phút, tàu này đã bị bắn chìm.
Cùng lúc ấy, các tàu 531, 556 của hải quân nhân dân ta cũng nhả đạn về phía tàu quân Việt Nam, hỏa pháo dồn dập mạnh mẽ lập tức bắn chìm tàu HQ-605, bắn trọng thương tàu đổ bộ HQ-505 bên quân Việt Nam. Tàu đổ bộ HQ-505 bên quân Việt Nam hoảng loạn va trúng phải rạn san hô của Quỷ Hàm Tiêu [tên Trung Quốc gọi bãi đá Cô Lin hay Collins Reef hoặc Johnson North Reef/Johnson Reef North – DCVOnline], không có cách gì di chuyển ra khỏi được. Thiếu tướng Trần Vĩ Văn nhớ lại:
“HQ-Tàu 505 là tàu có công của Việt Nam, nhà cầm quyền Việt Nam muốn giữ nó lại để làm kỷ niệm, vào ngày 16 tháng 7 năm 1989 đã điều 2 tàu kéo ra kéo chiếc tàu này, nhưng do đã bị thương quá nặng trong trận chiến ở Bãi đá Gạc Ma, nên đã bị chìm xuống biển khi đang được kéo đi.”
Cả trận hải chiến Bãi đá Gạc Ma chỉ diễn ra trong có 28 phút là tuyên bố kết thúc.
Thiếu tướng hải quân Trịnh Minh, nguyên Bộ trưởng Bộ Kỹ thuật trang bị hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Thiếu tướng hải quân Trần Vĩ Văn, viên chỉ huy trên biển bên quân ta trong trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma đang nói về trận hải chiến ấy. Ảnh: Trương Gia Quân, phóng viên nhiếp ảnh quân sự Hoàn Cầu võng. Thiếu tướng hải quân Trịnh Minh (trái), nguyên Bộ trưởng Bộ Kỹ thuật trang bị hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Thiếu tướng hải quân Trần Vĩ Văn(phải), viên chỉ huy trên biển bên quân TQ trong trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma đang nói về trận hải chiến ấy. Nguồn: Trương Gia Quân, phóng viên nhiếp ảnh quân sự Hoàn Cầu võng. Trong trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma, tàu hải quân ta tốn mất 285 phát đạn pháo 100 ly, 266 phát đạn pháo 37 ly, bắn chìm 2 tàu HQ-604 và HQ-605, bắn bị thương nặng tàu 505 của Việt Nam, tàu HQ-604 và HQ-605 của Việt Nam khi ấy là 2 tàu vận tải có vũ trang. Thiếu tướng Trần Vĩ Văn nhớ lại:
“Biên chế cho loại tàu vận tải này là 36 người, Việt Nam lại xếp trên mỗi tàu là một đại đội công binh 100 người, biên chế của tàu đổ bộ HQ-505 là trên 100 người, sau trận chiến, quân Việt Nam bị bắt sống 9 người. Bên quân Việt Nam bị thương vong hơn 300 người. Khi người lính Việt Nam đầu tiên được cứu vớt lên, lời đầu tiên của của anh ta là ‘Cảm ơn các ông đã cứu được tôi, tốt nhất là các ông đưa tôi sang Hong Kong’, tôi cho anh ta uống nước, người lính Việt Nam ấy sợ bị đầu độc, vị chính ủy tàu đã không ngần ngại uống trước một ngụm, gã tù binh này mới giằng lấy bình nước uống.”
Trong trận hải chiến này, tàu của hải quân ta toàn vẹn không bị tổn thất, chỉ có một mình Dương Chí Lượng là bị quân Việt Nam bắn bị thương. Trong trận chiến, Hải quân Trung Quốc luôn buộc phải bắn trả quân Việt Nam. Sau trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma, đồng chí Đặng Tiểu Bình, Chủ tịch Quân ủy trung ương đã ký lệnh ban thưởng.
Tàu HQ-505 ủi lên bãi biến thành một công sự khổng lồ dài tới 100 mét, rộng 18 mét án ngữ lối lên đảo Cô Lin, Trường Sa. Nguồn: OntheNet Tàu HQ-505 ủi lên bãi biến thành một công sự khổng lồ dài tới 100 mét, rộng 18 mét án ngữ lối lên đảo Cô Lin, Trường Sa. Nguồn: OntheNet Không thể đánh đồng được trình độ trang bị của Hải quân Việt Nam với của Hải quân Trung Quốc trong trận hải chiến này, có tải trọng lớn nhất trong số 3 tàu tham chiến bên quân Việt Nam khi ấy là tàu đổ bộ HQ-505, trọng lượng nước rẽ tiêu chuẩn là 1.653 tấn, trọng lượng nước rẽ chở đầy là 822 tấn. Đáng nói là tàu đổ bộ HQ-505 là tàu Trung Quốc viện trợ không hoàn lại(2) cho Việt Nam vào tháng 3 năm 1974. Trong số 3 tàu tham gia trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma của bên quân ta thì tàu 556 là tàu hộ tống đối biển, tàu 502 là tàu hộ tống cỡ 65 bắt đầu được chế tạo vào thập niên 60, tàu 531 là tàu hộ tống đạn đạo phòng không.
Khi nói về trang bị của hải quân ta, Thiếu tướng Trịnh Minh nói:
“Trang bị của tàu bên quân ta khi ấy rõ ràng là hơn hẳn bên quân Việt Nam, nhưng trang bị cho tàu tham chiến thì lại vẫn bộc lộ rõ những điểm yếu, đem lại nhiều khó khăn cho sĩ quan binh lính ở tiền tuyến. Thực ra chỉ có mỗi chiếc tàu 531 tham chiến là được chế tạo ở Thượng Hải vào cuối thập niên 60. Tuy là một chiếc tàu hộ tống đạn đạo, nhưng nó phụng sự chủ yếu là nhiệm vụ thử nghiệm trên biển của quân ta, cả máy chính, chủ pháo trên đó đều đã được trang bị sau khi đã trải qua đủ kiểu sát hạch thử nghiệm, máy chính đã quá tuổi thọ, chủ pháo cũng đã bị han gỉ nặng. Do kinh phí thiếu thốn, tàu 531 ra chiến trường khi ấy không hề được trang bị tên lửa, mà chỉ được trang bị pháo 100 ly. Do chủ pháo đã bị lão hóa, tàu 531 khi ấy vừa mới bắn xong được vài phát đã phát sinh sự cố, nên đã không bắn chìm được tàu 505 của Việt Nam. Sau trận chiến, chiếc tàu có công này đã được thưởng huân chương quân công hạng ba, sau khi nghỉ trận đã cùng với tàu 502 được đưa vào trưng bày vĩnh viễn tại Bảo tàng Hải quân ở Thanh Đảo.”
Bảo vệ an ninh biển của Trung Quốc đòi hỏi phải có chiến lược biển rõ ràng và sự hỗ trợ của lực lượng hải quân lớn mạnh.
Quân nhân tham dự trận hải chiến Gạc Ma. Nguồn: Quân nhân tham dự trận hải chiến Gạc Ma. Nguồn: Trương Gia Quân, phóng viên nhiếp ảnh quân sự Hoàn Cầu võng. Trận hải chiến lần này diễn ra chỉ vẻn vẹn có 28 phút, đồng thời với việc đánh lại quân xâm lược cũng đã để lại cho chúng ta rất nhiều gợi mở. Sau trận chiến, hải quân nhân dân ta lập tức tuân theo mệnh lệnh của cấp trên là dừng truy kích, không thu hồi những hòn đảo san hô khác mà Việt Nam khi ấy chưa cưỡng chiếm. Trải qua trận Hải chiến Bãi đá Gạc Ma, mọi người cũng đã suy ngẫm nhiều hơn đến ý thức về chủ quyền biển của Trung Quốc. Ngày nay, hơn 40 hòn đảo san hô trong quần đảo Nam Sa của ta vẫn đang bị nước khác cưỡng chiếm, trong đó Việt Nam chiếm 29 đảo san hô ở Nam Sa, về cơ bản đã khống chế được vùng biển phía tây Nam Sa. Do Nam Sa ở cách đường bờ biển của ta tương đối xa, nên đối mặt với cục diện các đảo san hô ở Nam Hải bị nước khác chiếm giữ, chúng ta phải đề ra những thử thách khắc nghiệt hơn cho năng lực tác chiến xa bờ của hải quân ta.
Phim mặt trận Gạc Ma 1988
“Bởi vì câu chuyện như thế này, có đồng chí lãnh đạo cấp cao đã lệnh là bộ đội ta không được nổ súng nếu như (Trung Quốc) đánh chiếm đảo Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa…Và sau này có một câu chuyện và tài liệu đã rõ rồi. Cho nên trong một cuộc họp của bộ chính trị, đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã đập bàn và nói: Ai ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng?” – Thiếu tướng Lê Mã Lương, cựu giám đốc bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.
Nguồn: Bản Trung văn:赤瓜礁海战秘闻. 2011-07-27 11:20:48 环球网. Bản dịch của nguyễn trung thuần Tin mật về trận hải chiến bãi đá Gạc Mma. Facebook, Nguyên Trung Thuan, March 14, 2014. DCVOnline minh họa và chú thích. (1) Hai viên tướng Trung Cộng không nhớ sử Việt Nam; chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chấm dứt ngày 2 tháng 11, 1963. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa những năm 70-75 dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. (2) Tướng Trung Cộng lại nhớ lầm, HQ-505 là ký số mới của tàu đổ bộ HQ-504 Quy Nhơn, tiền thân là USS Bulloch County (LST-509) viện trợ cho VNCH ngày 8 tháng 4 1970.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2015 9:10:58 GMT 9
Sức ép quân sự của TQ lên nền quốc phòng VN I. Chiến lược quân sự của Trung Quốc đối với Việt Nam: Mặc dù giữa hai đảng Cộng Sản cầm quyền Việt Nam và Trung Quốc có hiệp định Thành Đô làm nền tảng cho hòa bình với nhiều nhượng bộ từ phía Cộng Sản Hà Nội về mọi mặt từ lãnh thổ đến chính trị, Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng sức ép quân sự không ngừng lên Việt Nam trong thầm lặng. So với các quốc gia khác có cùng biên giới với Trung Quốc, Việt Nam là một mục tiêu mà giới quân sự Trung Quốc muốn dồn mọi nổ lực cũng như khả năng để tiêu diệt hoặc khống chế hoàn toàn nếu hoàn cảnh chính trị cho phép xảy ra cuộc giao tranh giữa hai nước Nga, Mông Cổ, Bắc Hàn, Nhật Bản, Kazakstan là những nước có chung hoặc là địa biên, hoặc là hải biên với Trung Quốc. Những nước này lại không phải là mục tiêu để giới quân sự Trung Quốc đưa ra chiến lược tấn công tiêu diệt trong kế sách quốc phòng của mình. Đối với những quốc gia này, giới quân sự Trung Quốc tập trung khả năng phòng thủ hơn là tấn công. Trong khi đó, đối với Việt Nam thì ngược lại, Trung Quốc muốn khống chế, chiếm đóng toàn bộ miền Bắc Việt Nam nếu thật sự có chiến sự xảy ra giữa hai nước. Đối với Trung Quốc, miền Bắc Việt Nam vô cùng quan trọng cho sự an toàn giao thông kinh tế xuống phương nam của Trung Quốc. Trong chuyến thăm Trung Quốc vào tháng Tư năm 2015, ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng chấp nhận cảng Hải Phòng thuộc miền Bắc Việt Nam nằm trong con đường vận chuyển kinh tế chiến lược do Trung Quốc khởi xướng mang tên là “Con Đường Tơ Lụa.” Hành động này của ông TBT Nguyễn Phú Trọng cho thấy lãnh đạo Cộng Sản Hà Nội đang bị Trung Quốc khống chế và đang cố hòa hoãn với Trung Quốc để kéo dài thời gian (buying time) suy tính xem xét mức độ an toàn chính trị nếu nhích gần hơn khi hợp tác với Hoa Kỳ về mặt quốc phòng. Giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam lúc khởi đầu, vì sai lầm quá tin tưởng vào hiệp định Thành Đô nên đã buông lỏng tiến trình hiện đại hóa quân đội, bỏ phí gần hai chục năm kể từ năm 1991, là năm mà hiệp định Thành Đô được ký kết, dẫn đến khả năng phòng thủ của Việt Nam hoàn toàn cách xa trước sức mạnh quân sự Trung Quốc, ngày một hiện đại. Nền quốc phòng của Việt Nam ngày nay phải gánh vác trách nhiệm an toàn chính trị của Đảng Cộng Sản cầm quyền trước rồi mới tới an nguy về quốc phòng nên giới quân sự của Việt Nam hiện đang bị trói chân trói tay trong khi vạch định chính sách quốc phòng để đối phó với sức ép quân sự ngày mỗi gia tăng của Trung Quốc. II. Sức Ép khống chế bầu trời Việt Nam của Không quân Trung Quốc: Bản đồ 1 dưới đây trình bày sự phân bố về không lực của Trung Quốc đã cho thấy Trung Quốc tập trung NĂM sư đoàn không kích SÁT NGAY biên giới Việt Nam- Trung Quốc từ trong lục địa ra đến ngoài đảo Hải Nam, hoàn toàn nhắm thẳng vào miền Bắc Việt Nam từ Hải Phòng, Hà Nội ra đến biên giới Cao Bằng Lạng Sơn (vòng tròn màu tím trên bản đồ1). Năm Sư Đoàn Không quân TQ tại biên giới Việt Nam Hai quốc gia Việt Nam-Trung Quốc có chung ý thức hệ chính trị độc tài Cộng Sản như nhau, lại có hiệp ước hòa bình Thành Đô làm nền tảng cho sự quy lụy của Cộng Sản Việt Nam đối với Trung Quốc và giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam hiện nay hoàn toàn không hề có một tham vọng nào đương chọi khiêu khích Trung Quốc thì việc tập trung năm sư đoàn Không quân tiêm kích như thể rõ ràng là muốn đe dọa công khai và trực tiếp đến nền quốc phòng Việt Nam. Chỉ cần nhìn về phiá tây biên giới giữa Trung Quốc và Kazakstan , một vùng đất rộng lớn như thế , không cùng ảnh huởng chính trị nhưng Trung Quốc cũng chỉ có đặt một sư đoàn không quân mà thôi, hoàn toàn không đủ khả năng phòng thủ bầu trời nếu có giao tranh và bị tấn công. Điều đó cho thấy mức quan trọng trong vị trí chiến lược của miền Bắc Việt Nam trong đường lối chính sách quốc phòng của Trung Quốc. Bắc Kinh biết quá rõ Cộng Sản Hà Nội không có ý đồ đe dọa nền an ninh quốc phòng của Trung Quốc nhưng mà vẫn tập trung năm sư đoàn không quân tiêm kích như thế ngay biên giới thì quá rõ ràng, giới quân sự Trung Quốc muốn tăng khả năng tấn công tiêu diệt và chiếm đóng Việt Nam nếu hoàn cảnh chính trị cho phép. Sự phân bổ chiến đấu cơ (CĐC) của một sư đoàn Không quân (KQ) Trung Quốc như sau: Như vậy , nếu một sư đoàn KQ Trung Quốc có khoảng 108 CĐC thì năm sư đoàn KQ Trung Quốc có tổng cộng 540 chiếc CĐC tiêm kích thuờng trực hiện diện tại biên giới Việt- Trung sẳn sàng tấn công tiêu diệt mọi khả năng phòng thủ của Việt Nam từ bầu trời. Cộng Sản Hà Nội hiện có 385 CĐC phân bổ cho cả ba miền Nam Bắc, trong đó, Hà Nội tập trung khoảng bốn phi đoàn cho tòan cõi Bắc Việt với tổng số gần khoảng 120 chiếc. Như vậy , ngay cả trong lúc cấp bách huy động toàn lực khi giao tranh , thì tổng số CĐC của Trung Quốc (540 CĐC) hiện diện ngay tại biên giới để tấn công Việt Nam trong chớp nhoáng cũng nhiều hơn số CĐC mà Việt Nam có (385 CĐC) Nếu Trung Quốc huy động thêm các sư đoàn KQ khác từ tỉnh Quảng Châu (Quangzhou trong bản đồ1) khi chiến sự xảy ra thì coi như toàn bộ miền Bắc Việt Nam, nhất là thủ đô Hà Nội hoàn toàn bị oanh kích đến tê liệt và Hà Nội mất khả năng lãnh đạo chỉ huy , dẫn đến bại trận hoàn toàn. Phân Bố Không quân của Cộng Sản Việt Nam Do đó, hơn ba trăm ngàn quân bộ binh thuờng trực phòng thủ để bảo vệ miền Bắc Việt Nam sẽ hoàn toàn bị tổn thất rất nặng do KQ Trung Quốc gây ra nếu có giao tranh vì không lực của Việt Nam hoàn toàn bị Trung Quốc khống chế và tiêu diệt. Hiện nay, hai nước Việt Nam Trung Quốc đang trong hòa bình, hữu nghị bốn tốt, mười sáu chữ vàng mà Trung Quốc lại tập trung lực lượng KQ thuờng trực đông kinh khiếp đến thế để bao vây khống chế bầu trời miền Bắc Việt Nam khi cần thiết thì rõ ràng, Trung Quốc không hề muốn nhìn thấy hòa bình mà tìm cách siết chặt sự đe dọa của mình lên Việt Nam, chờ đời một hoàn cảnh chính trị cho phép để tấn công thẳng tay vào Việt Nam. Nói một cách khác, Trung Quốc không hề từ bỏ hay che dấu ý đồ thôn tính miền Bắc Việt Nam bằng vũ lực nếu cần thiết hoặc hoàn cảnh chính trị cho phép. Điểu này cũng đồng nghĩa Cộng Sản Hà Nội hiện giờ như là một người đang bị dí súng sau lưng, bất khả kháng, chỉ có còn có cách quy lụy làm theo yêu cầu của Trung Quốc, kẻ đang dí súng sau lưng Cộng Sản Hà Nội, để tìm kiếm một sự an toàn chính trị tạm thời trước mắt. Đó cũng là lý do tại sao Cộng Sản Hà Nội bấy lâu làm ngơ, im lặng trước những đợt khiêu khích của Trung quốc đối với ngư phủ Việt Nam, cấm biểu tình chống Trung Quốc cũng như thể hiện sự bất lực vì đang bị khống chế trước những hành động hung hăn khiêu khích của Trung Quốc về quân sự. III. Sức Ép Hải quân của Trung Quốc lên nền quốc phòng Việt Nam : :Sức ép của Hải quân Trung Quốc lên nền quốc phòng Việt Nam Bản đồ trên cho thấy sức tập trung hải quân của Hạm đội Nam Hải hay còn còn gọi là China South Sea Fleet đe dọa trực tiếp vào vinh Bắc Bộ, Hải Phòng và Hà Nội. Với tổng số 31 chiếc tàu ngầm mà Trung Quốc tập trung dồn cho Hạm đội Nam Hải thì Hải quân Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn không thể chịu nổi sự công phá và phải chấp nhận thiệt hại năng, có thể dẫn đến tê liệt và hũy diệt hoàn toàn khi bị công kích bởi các tàu ngầm này. Tổng số sáu chiếc tàu ngầm mà Cộng Sản Hà Nội ráng mua từ Nga nếu đều đi vào hoạt động cũng không đủ để phòng thủ trước một bờ biển dài 3000 cây số (km) với sự tấn công áp đảo của 31 chiếc tàu ngầm này. Hiện Hải quân Cộng Sản Việt Nam chưa có chiến hạm lớn (destroyer) mà chỉ có 7 chiếc tàu tuần dương hạm Frigates là HQ9, HQ11, HQ13, HQ 15 , HQ 17 , HQ Đinh Tiên Hoàng và HQ Lý Thái Tổ. Trong khi Trung Quốc có trên 40 tuần dương hạm chưa kể 16 chiếc destroyer có công lực công phá kinh khiếp chưa kể chiếc hàng không mẫu hạm (mini-nhỏ) Thi Lang gia tăng khả năng tấn công bằng Không quân trong hải chiến cho Trung Quốc khi giao tranh với Việt Nam. Cũng xin lưu ý là ở bản đồ 1, Trung Quốc có hai sư đoàn Hải-Không quân (màu xanh trong vòng tròn tím) tức là khoảng hơn 200 CĐC nhằm tiêm kích tiêu diệt Hải quân của Cộng Sản Việt Nam khi có giao tranh. Như vậy, không những tập trung một lực lượng không quân vô cùng đông đảo tại sát biên giới Việt Trung mà đến mặt biển vịnh Bắc Bộ , Trung Quốc cũng tập trung tối đa cho sức mạnh công phá của Hạm đội Nam Hải lên Hải quân của Cộng Sản Việt Nam khiến nền quốc phòng của Việt Nam hoàn toàn lâm nguy vì mặt phòng thủ biển và hải phận bị đe dọa vô cùng nghiêm trọng. Trong lịch sử Việt Nam, mặc dù nhà Nguyễn rất hùng mạnh về bộ binh, lại được lòng dân nhưng vì mất khả năng phòng thủ ngoài biển và hải phận dẫn đến phải thúc thủ, từng bước chịu hàng người Pháp. Trước đó, triều đình Tây Sơn binh hùng thế mạnh đột nhiên phải sụp đổ vì Chúa Nguyễn Ánh đi đường biển bất ngờ đổ bộ lên Phú Xuân khiến vua tôi Quang Toãn phải bỏ kinh đô mà chạy ra Bắc Hà, chịu thế cô rồi tự vẫn. Như vậy, lịch sử Việt Nam đã cho thấy sự phòng thủ mặt biển liên hệ vô cùng quan trọng không những cho nền độc lập toàn vẹn lãnh thổ mà còn ảnh huởng đế sự tồn vong chinh trị của chế độ. Căn cứ Hải quân của Hạm đội Nam Hải Trung Quốc Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc hoàn toàn sẽ đè bẹp Hải quân Cộng Sản Hà Nội nếu có giao tranh tại vịnh Bắc Bộ và đủ khả năng để hỗ trợ một cuộc đổ bộ thẳng đánh tới Hà Nội thành công. Và nếu thực sự Trung Quốc hoàn toàn kiểm soát mặt biển lẫn bầu trời khi giao tranh xảy ra thì bộ binh của Cộng Sản Việt Nam không thể nào ngăn cản nổi một cuộc đổ bộ trực chỉ vào Hải Phòng- Hà Nội khiến toàn bộ khả năng lãnh đạo quốc phòng của Cộng Sản Việt Nam bị tê liệt dẫn đến bại trận và miền Bắc Việt Nam hoàn toàn lọt vào sự kiểm soát của Trung Quốc. Miền Bắc Việt Nam và nhất là Hà Nội thật sự đang bị bao vây bởi sức mạnh quân sự của Trung Quốc từ không phận đến hải phận mà không cách gì Cộng Sản Hà Nội có thể thoát khỏi trong tình hình trước mắt. V. Những trở ngại chính trị khi tìm kiếm một đồng minh: Cộng Sản Hà Nội hiểu rõ là mình đang bị âm thầm bao vây khống chế về Không- Hải bởi Trung Quốc làm nền quốc phòng của Việt Nam bị chao đảo, đe dọa và miền Bắc Việt Nam có nguy cơ bị thôn tín chớp nhoáng nên đang cố tìm kiếm hậu thuẫn quân sự, chính trị từ các nước khác trên thế giới. Khó khăn là những cá nhân nằm trong Bộ Chính Trị (BCT) của Đảng Cộng Sản Việt Nam điều phải có mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc thì mới có khả năng giữ vững uy thế của mình trong BCT. Việc ông ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch bị hất văng ra khỏi TW Đảng luôn là bài học ám ảnh những nhân vật chóp bu trong BCT. Cho nên, nếu ai trong BCT đứng ra thuyết phục, vận động vây cánh đi tìm đồng minh mới chống đở giải vây sức ép quân sự của Trung Quốc tức là được coi như chống lại Trung Quốc và đều sẽ gặp hung hiễm cho tương lai chính trị của mình. Điều này thể hiện rất rõ qua hàng loạt các cuộc bỏ phiếu tín nhiệm nhằm loại trừ nhau trong Đảng theo yêu cầu của Trung Quốc xảy ra suốt 18 tháng qua. Vì vậy, quá trình hợp tác với các nước khác để gia tăng sức mạnh quốc phòng cho Việt Nam bị đình trệ, chậm chạp và chỉ tiến nhanh chóng gần đây trước những nổ lực trấn an, thuyết phục không ngừng nghĩ của Hoa Kỳ đối với Cộng Sản Hà Nội trong kế sách “Nhìn về Đông Nam Á ” của tổng thống Obama. Việc Nguyễn Phú Trọng phải sang Trung quốc trước khi sang Hoa Kỳ một lần nữa cho thấy các Đảng viên chóp bu của Cộng Sản Hà Nội vẫn còn hoang mang và chưa tin tưởng vào những cam kết mà Hoa Kỳ hứa hẹn cho Cộng Sản Việt Nam, trong đó có sự an toàn chính trị cho từng cá nhân lẫn cho Đảng. Tuy nhiên , từng Đảng viên chóp bu trong BCT của Cộng Sản Hà Nội đang dần dà nhìn thấy chung cuộc số phận của mình , gia đình mình và tài sản của mình sẽ nếu để Trung Quốc kiểm soát toàn bộ đại cuộc. Đối với Cộng Sản Trung Quốc, họ vẫn không bao giờ quên cái việc Cộng Sản Hà Nội ăn cháo đá bát, phủi hết bao nhiêu công lao Cộng Sản Trung Quốc giúp đở, lại đi theo Liên Xô giúp Liên Xô chà đạp đe dọa Đảng Cộng Sản Trung Quốc tối đa trong suốt mười năm liền (1979-1989). Do đó, đối với Trung Quốc, Cộng Sản Việt Nam là bằng chứng nuôi ông tay áo và cần phải bị tiêu diệt khi Trung Quốc đã nắm được đại cuộc , thôn tính xong miền Bắc Việt Nam giống như trường hợp Mặt Trận Giải Phóng miền Nam bị Cộng Sản Bắc Việt giải thể khi dùng xong năm 1975. VI. Kết Luận: Cộng Sản Hà Nội đang bị bao vây khống chế về quốc phòng bởi Cộng Sản Trung Quốc từ hai mặt chiến lược quan trọng Không- Hải với 5 sư đoàn Không quân sát biên giới địa- hải và với Hạm Đội Nam Hải có hơn 31 chiếc tàu ngầm công phá , 16 chiến hạm destroyer và hơn 40 tuần dương hạm, cùng với Hàng Không Mẫu Hạm Thi Lang mới hạ thủy. Hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc, mang tiếng là cùng ý thức hệ Mác Lê, cùng hệ thống chính trị Cộng Sản độc quyền, cùng ca ngợi tình anh em đồng chí mà Trung Quốc lại âm thầm tập trung một lực lượng chiến lược Không-Hải lớn sát ngay biên giới địa – hải miền Bắc Việt Nam, nhắm toàn bộ hỏa lực công phá vào thủ đô Hà Nội, cảng Hải Phòng đến như vậy thì rõ ràng không phải vì Cộng Sản Việt Nam là nguy cơ đe dọa về mặt quốc phòng đối với Trung Quốc, mà hoàn toàn là vì mưu đồ khống chế thôn tính cộng sản Việt Nam trong tương lai từ phiá Trung Quốc. Cho nên, để có được sự an toàn chính trị tạm thời, Cộng Sản Hà Nội không cón cách nào khác là phải quy thuận những đòi hỏi ngày một thêm ngặt nghèo từ phía Trung Quốc từ lãnh hải biên cương , đầu tư kinh tế cũng như sự sắp xếp nhân sự lãnh đạo trong Bộ Chính Trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tuy vậy, quá trình tìm kiếm đồng minh để gia tăng sức mạnh quốc phòng cho Việt Nam cũng đang bị trì hoãn và chậm đi vì khó khăn về chính trị khi Trung Quốc đã ảnh huởng quá sâu về mặt nhân sự trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng Đơn giản, chống Trung Quốc thì Đảng Cộng Sản Việt Nam bị sụp đổ thôn tính , và các đảng viên chóp bu trong Bộ Chính Trị sẽ bị mất hết tương lai chính trị dù tương lai đó cũng chỉ là ngắn hạn và hung hiểm mong manh. Đàn Chim Việt LÊ DUẨN VÀ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI 1979Lê Duẩn sinh ngày 7 tháng 4, 1907 tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Học lực tiểu học. Họ Lê tham gia một số tổ chức chống Thực Dân Pháp trước khi tham gia đảng CS 1930. Chỉ trong một năm sau, 1931, Lê Duẩn trở thành ủy viên Tuyên Huấn, xứ ủy Bắc Kỳ. Bị bắt đày ra Côn Đảo. Ra tù, Lê Duẩn làm Bí Thư Xứ Ủy Trung Kỳ. Năm 1940, bị bắt và đày đi Côn Đảo lần nữa cho đến tháng Tám 1945. Sau thời gian làm việc bên cạnh Hồ Chí Minh tại Hà Nội, cuối năm 1946 Lê Duẩn vào Nam chỉ đạo bộ phận miền Nam của đảng CS. Năm 1957, Lê Duẩn được điều ra Bắc và từ đó đóng những vai trò quan trọng trong guồng máy lãnh đạo đảng CSVN trong chức vụ Bí Thư Thứ Nhất rồi Tổng Bí Thư cho tới khi chết ngày 10 tháng 7, 1986. Khác với các lãnh tụ CS như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan có quan hệ gần gũi với giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) và nhiều dịp sang Trung Cộng, địa bàn hoạt động của Lê Duẩn là ở miền Nam. Trong thời gian mặt trận Điện Biên Phủ không có Lê Duẩn. Khi Hiệp Định Geneva ký kết, Lê Duẩn đang ở tại tỉnh Hậu Nghĩa. Đó cũng là lúc y nhận được lịnh của Hồ Chí Minh vào thẳng miền Nam để tái lập các tổ chức CS và giải thích với họ về hiệp định Geneva. LÊ DUẨN “CHỐNG TÀU”? Lê Duẩn được biết như là lãnh tụ CS có khuynh hướng chống Tàu. Quan điểm chống Tàu của họ Lê dựa trên chủ nghĩa dân tộc cực đoan quá khích hơn là học từ kinh nghiệm quốc tế về địa lý chính trị của một “nước trái độn”. Trong bang giao quốc tế, ưu tiên tối thượng của một nước nhỏ nằm bên cạnh một nước lớn là bảo vệ cho được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, và tránh chiến tranh khi chưa đủ thế quốc tế và lực quốc nội. Khi Thổ Nhĩ Kỳ vừa được độc lập năm 1921 và bị các cường quốc Châu Âu bỏ rơi, nền dân chủ chưa đủ mạnh, Tổng thống Mustafa Kemal phải làm bạn với Vladimir Lenin để, theo lời ông, “chủ quyền của Thổ không bị thương tổn” cho đến khi bắt tay được với Mỹ, tháng 3, 1947. Các nước nhỏ tồn tại nhờ dựa vào các liên minh và các lãnh đạo sáng suốt biết liên minh nào đáng tin cậy và liên minh nào không đáng tin cậy. Các lãnh tụ CS từ Lê Duẩn trước đây cho tới Nguyễn Phú Trọng ngày nay đều không làm được điều đó vì quyền lợi của đảng và quyền lợi của dân tộc không phải lúc nào cũng đi đôi. LÊ DUẨN VÀ MAO Lê Duẩn gặp Mao Trạch Đông ba lần. Lần thứ nhất tại Vũ Hán năm 1963, lần thứ hai vào tháng tám, 1964 và lần thứ ba vào tháng 5, 1970. Sau Chiến Tranh Biên Giới 1979, Lê Duẩn, dưới bút danh “Đồng chí B” kể lại thái độ chống Tàu của ông ta trong một lần đối đáp với Mao: “Đối với Việt Nam, họ không dám nói thẳng về việc di dân như vậy. Tuy nhiên, ông ta [Mao] nói với tôi: ‘Các đồng chí, có thật người Việt Nam đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên không?’ Tôi nói: ‘Đúng.’ ‘Thế có thật là các anh cũng đánh bại cả quân Thanh nữa phải không?’ Tôi đáp: ‘Đúng.’ Ông ta lại hỏi: ‘Và cả quân Minh nữa, đúng không?’ Tôi trả lời: ‘Đúng, và cả các ông nữa. Tôi sẽ đánh bại cả các ông. Ông có biết thế không?’ Tôi đã nói với Mao như vậy đó. Ông ấy nói: ‘Đúng! Đúng!’ Mao muốn chiếm Lào, cả nước Thái Lan… cũng như muốn chiếm toàn vùng Đông Nam Á. Mang người đến ở đó. Thật là phức tạp.” (Christopher E. Goscha, Le Duan and the Break with China, bản dịch của Bùi Xuân Bách, talawas) Thái độ kiêu ngạo hay những phát biểu “nước lớn” của Lê Duẩn dù sao cũng chỉ giới hạn trong lời nói. Thực tế hành động chính trị mới là tai họa. Những biện pháp cực đoan chưa cần thiết của họ Lê như xua đuổi Hoa Kiều bên cạnh các lý do khác đã dẫn đến sự căng thẳng trong bang giao giữa CSVN và CSTQ và hậu quả là Chiến Tranh Biên Giới 1979. LÊ DUẨN VÀ ĐẶNG TIỂU BÌNH Lê Duẩn không giấu thái độ chống Tàu nhưng cũng không xem đó là một ưu tiên. Mục đích chính của Lê Duẩn là vận động phe CS quốc tế để thống nhất Việt Nam bằng súng đạn và thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa làm tiền đề cho chủ nghĩa CS trên toàn cõi Việt Nam như đã khẳng định trong đường lối của đảng. Vì mục đích CS hóa Việt Nam, Lê Duẩn sẵn sàng chấp nhận không những 100,000 quân mà ngay cả nửa triệu quân Trung Cộng được đưa sang Bắc Việt cũng không sao. Lê Duẩn khẳng định điều này trong buổi tiếp xúc với Đặng Tiểu Bình tại Bắc Kinh, tháng 4, 1966: “Lo ngại về sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam, chúng tôi muốn trình bày thật sáng tỏ và chúng tôi không có lo ngại gì về vấn đề đó. Hiện nay có hơn 100,000 quân Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng chúng tôi nghĩ bất cứ khi nào có một biến cố trầm trọng xảy ra, có thể cần tới 500,000. Sự giúp đỡ này là từ một nước hữu nghị. Chúng tôi nghĩ rằng với tư cách một nước xã hội chủ nghĩa anh em, Trung Quốc có thể làm điều đó.”( Digital History, Document 12. Zhou Enlai, Deng Xiaoping, Kang Sheng, Le Duan, Nguyen Duy Trinh, Beijing, 13 April 1966). Phát biểu của Lê Duẩn cho thấy chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam không quan trọng bằng CS hóa Việt Nam và tổ quốc không cao hơn đảng. Mặc dù có thái độ chống Tàu và tin hai nước có thể dẫn tới chiến tranh lớn, Lê Duẩn không nghĩ Đặng Tiểu Bình tấn công Việt Nam vào ngày 17 tháng 2, 1979. Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình gặp nhau tại Bắc Kinh ngày 29 tháng 9, 1975. Trong dịp này vấn đề mấy trăm ngàn quân Trung Cộng đang đóng tại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây được đặt ra. Theo Đặng Tiểu Bình, sở dĩ quân Trung Cộng với số lượng đông như thế đóng sát biên giới Việt Nam chẳng qua vì trước đây Trung Cộng đề phòng trường hợp Mỹ đổ bộ vào Bắc Việt như đã xảy ra tại Bắc Hàn. Đặng cũng nói nếu phía Việt Nam cảm thấy đó là một đe dọa, quân đội Trung Cộng sẽ rút đi. Các đơn vị quân Trung Cộng sau đó đã thật sự rút đi. (Wilson Center, Minutes Of Conversation Between Deng Xiaoping And Le Duan Beijing, 29 September 1975) Qua thái độ của Đặng Tiểu Bình và việc rút mấy trăm ngàn quân Trung Cộng khỏi hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm cho Lê Duẩn yên tâm rằng tranh chấp giữa hai nước căng thẳng nhưng chưa đạt đến bước chiến tranh với quy mô lớn. Lê Duẩn đánh giá từng cá nhân trong giới lãnh đạo Trung Cộng. Lê Duẩn không thích Mao “một người có trái tim Đại Hán không đáng tin và còn tính chiếm cả Đông Nam Á”. Họ Lê dành nhiều thiện cảm đối với Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Chu nhiệt tình với ý kiến đoàn kết phe xã hội chủ nghĩa để ủng hộ CSVN dù Mao cho đó là việc không thể làm được. Năm 1977, Lê Duẩn chia sẻ với Đại sứ Liên Sô tại Việt Nam rằng “Hoa Quốc Phong là người không hiểu chúng tôi” nhưng Đặng “đã đối xử với Việt Nam bằng sự hiểu biết sâu sắc”. Trong thời gian đó, Lê Duẩn còn hy vọng Đặng Tiểu Bình sẽ thắng cuộc đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ và nếu vậy tình hình sẽ cải thiện. Ngay cả sau Chiến Tranh Biên Giới 1979, Lê Duẩn vẫn nghĩ Đặng phát động cuộc xâm lăng chẳng qua là do áp lực của các phe nhóm khác trong nội bộ lãnh đạo đảng CSTQ và để khỏi bị kết án là xét lại chứ bản thân họ Đặng không chủ trương vậy. (Stein Tonnesson, introduction Le Duan and the Break with China, trang 275). Sự thật như cả thế giới biết ngày nay, chủ trương đánh Việt Nam là của Đặng Tiểu Bình và chính y đã chuẩn bị một cách chi tiết từng bước, từng giai đoạn, từng mặt đối nội lẫn quốc tế cho cuộc chiến xâm lăng. Các bản tin Tân Hoa Xã hằng ngày tố cáo Việt Nam khiêu khích nhiều nơi vùng biên giới, một chiến thuật tuyên truyền cổ điển trước khi bắt đầu một cuộc xâm lăng. CSVN BỊ BẤT NGỜ VỀ “THỜI GIAN VÀ QUY MÔ BINH LỰC” Tài liệu nghiên cứu của trung tâm National Foreign Assessment Center trực thuộc CIA tổng hợp vào ngày 5 tháng 3, 1979 cho thấy sự tranh chấp giữa hai nước diễn ra sau 1975 không chỉ vùng biên giới mà cả khu vực vịnh Bắc Bộ và Hoàng Sa. Phi cơ chiến đấu của Trung Cộng nhiều lần vi phạm không phận Việt Nam bất chấp sự phản đối của phía CSVN. CSVN sau nhiều lần bị khiêu khích cũng đã đưa các phi cơ chiến đấu lên để bảo vệ không phận Cao Bằng, Lạng Sơn. Dù phi công Việt Nam kinh nghiệm và phi cơ cũng hiện đại hơn nhưng kém Trung Cộng xa về số lượng, CSVN, do đó, cũng tự kiềm chế vì không muốn mở rộng xung đột sang lãnh vực không quân. (The Sino-Vietnamese Border Conflict, National Foreign Assessment Center, March, 1979) Hà Nội tiến hành xây dựng các tuyến phòng thủ dọc biên giới dài 1,285 km và lớn tiếng công khai thách thức Bắc Kinh. Giọng điệu hiếu chiến “đánh bại Thực Dân Pháp, đánh bại Đế Quốc Mỹ và sẽ đánh bại Trung Quốc” được lập đi lập lại trên các hệ thống truyền thông. Ngược lại với một CSVN kiêu căng, Trung Cộng đóng vai “yêu chuộng hòa bình” ngay cả khi Đặng Tiểu Bình tính toán từng chi tiết nhỏ trong kế hoạch chiến tranh lớn sắp diễn ra. Nhờ đóng kịch khéo léo nên dù là kẻ công khai xâm lược, ngoại trừ Liên Sô và chư hầu CS Đông Âu, không một quốc gia tự do dân chủ nào kết án Trung Cộng xâm lăng Việt Nam. Các đụng độ nhỏ dọc biên giới kéo dài cho đến ngày 13 tháng 12, 1978 và đó cũng là ngày lần đầu tiên hai chữ “trừng phạt” xuất hiện trong một bản tin chính thức của Trung Cộng. Cũng theo tài liệu của CIA, vào ngày 7 tháng Giêng, 1979, CSVN đã biết Trung Cộng tập trung các đạo quân lớn dọc biên giới. CSVN vẫn cho các động tác đó chỉ nhằm hù dọa. Một tuần lễ trước ngày Trung Cộng tấn công, một viên chức Bộ Ngoại Giao CSVN tại Hà Nội vẫn cho rằng Đặng Tiểu Bình chỉ “đánh võ mồm”. Lãnh đạo CSVN, đứng đầu là Tổng Bí Thư Lê Duẩn, nghĩ Đặng Tiểu Bình không hay ít nhất chưa đánh Việt Nam. Họ tin đến nỗi mang cả một phái đoàn quân sự hùng hậu sang Cambode trước ngày 17 tháng 2, 1979 để nhấn mạnh yếu tố quân sự trong bang giao giữa CSVN và CS Cambode. Vào tuần lễ đó, phần lớn các đại đơn vị thiện chiến của quân đội CSVN vẫn còn phối trí trong mặt trận Tây Nam. Quân đội CSVN chỉ có khoảng năm sư đoàn trải dài một phòng tuyến trên 1200 km. Tương quan giữa CSTQ và CSVN là sáu đánh một. Riêng tại mặt trận Lạng Sơn, Trung Cộng dùng chín sư đoàn để tấn công một sư đoàn chủ lực duy nhất của CSVN là sư đoàn 3. Báo New York Times, ngày 21 tháng 2, 1979, viết: “Việc ký hiệp ước quan trọng đến mức một phái đoàn do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu vẫn tiếp tục ở lại Nam Vang sau khi Trung Cộng xâm lăng Việt Nam. Ý nghĩa quân sự của hiệp ước còn được nhấn mạnh với sự hiện diện của Tướng Văn Tiến Dũng.” (New York Times, 21 tháng 2, 1979). Dương Danh Dy, cựu Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, thừa nhận: “Trong bối cảnh trên, cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu ngày 17/2/1979 do nhà cầm quyền Trung Quốc - mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình, phát động, về tổng thể không bất ngờ đối với chúng tôi, nhưng về thời gian cụ thể và nhất là về qui mô binh lực mà Trung Quốc sử dụng thì quả là không tính tới.” (Dương Danh Dy, Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979, BBC 18 Tháng 2 2009) Thái độ bình thường của Lê Duẩn trong buổi tiệc cưới của Lê Kiên Thành, con trai y, là thái độ của những lãnh tụ CS từng trải, quá quen với giết chóc. Lê Kiên Thành kể “Đặc biệt, nét mặt cha tôi rất bình thản, không hề để lộ (hoặc có thể không có) cảm giác âu lo hay căng thẳng gì” dù anh ta cũng thừa nhận “Tôi thoáng thấy sự căng thẳng trên gương mặt của những lãnh đạo đơn vị và quân chủng không quân.” (Thanh Niên 17.2.2014, Ký ức đám cưới ngày 17.2.1979 của con trai Tổng bí thư Lê Duẩn) Lý luận cho rằng Lê Duẩn tin tưởng các lực lương dân quân thuộc các tỉnh biên giới và vài sư đoàn có khả năng bảo vệ đất nước là ngụy biện. Họ chiến đấu một cách anh dũng nhưng về nhân lực và vũ khí họ không phải là đối thủ với gần nửa triệu quân chính quy Trung Cộng. Nếu Lê Duẩn đánh giá đúng đường đi nước bước của Đặng Tiểu Bình và tình báo CSVN hoạt động có hiệu quả nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng. ĐÁP ỨNG CỦA LIÊN SÔ Trong diễn văn chào đón phái đoàn Lê Duẩn tháng 9, 1975, Đặng gián tiếp kết án “chủ nghĩa bành trướng” Liên Sô, trong khi đó Lê Duẩn tiếp tục quan điểm cố hữu “xây dựng sự đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa”. Lê Duẩn và phái đoàn rời Bắc Kinh hai ngày sớm hơn dự định, không kèn trống, không có tiệc tiễn đưa, không hứa hẹn trong một thông cáo chung. Quan điểm giữa hai đảng về Liên Sô vốn khác biệt đã tạm thời gác lại trong chiến tranh nhưng trở thành sâu sắc sau khi chiến tranh chấm dứt. Khác với chuyến viếng thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn và phái đoàn thăm viếng Moscow vào tháng 10, 1975 được đón tiếp một cách trang trọng. Một kế hoạch hợp tác kinh tế giữa CSVN và Liên Sô giai đoạn 1976 đến 1980 được đề ra. Hợp tác Liên Sô và CSVN mở đường cho việc CSVN trở thành hội viên chính thức của CMIA (The Council for Mutual Economic Assistance, Hội đồng Tương trợ kinh tế), một tổ chức hợp tác kinh tế do Liên Sô chế ngự. Tháng 11, CSVN và Liên Sô ký Hiệp Ước Hữu Nghị Và Hợp Tác. Hiệp ước này dưới mắt Trung Cộng, CSVN chính thức chấp nhận làm một chư hầu phương đông của Liên Sô và CSVN từ đó được xem như là kẻ thù của Trung Cộng. Sau các hiệp ước này, viện trợ kinh tế của Liên Sô dành cho CSVN gia tăng rõ rệt. Liên Sô tham gia vào 30 đề án, với 30 phần trăm thuộc khu vực kỹ nghệ. Các công ty với sự tài trợ của Liên Sô đã sản xuất 47 phần trăm điện lực, 54 phần trăm chì, 85 phần trăm than đá, 30 phần trăm cement, 100 phần trăm các khoáng chất apatite, superphosphate, sulfuric acid và dụng cụ cơ khí. Liên Sô cũng cung cấp 2000 km đường dây điện cao thế chiếm 56 phần trăm tổng số hệ thống mạng điện của cả nước. Ngoài ra rất nhiều khoản viện trợ khác về các lãnh vực kinh tế. (Buu Hoan, Soviet Economic Aid to Vietnam, Contemporary Southeast Asia, trang 362). Nhưng ngoài các hợp tác kinh tế, trong Chiến Tranh Biên Giới Việt-Trung 1979, Liên Sô không thực thi đúng mức các điều khoản khác về quân sự và phòng thủ ghi trong Hiệp Ước Hữu Nghị Và Hợp Tác. Quân số Liên Sô đóng tại biên giới phía Bắc quá ít không đủ tạo nên một mặt trận tương đương với mặt trận biên giới Việt-Trung. Đặng Tiểu Bình đánh bạc và thắng vì không có những động binh đáng kể của Liên Sô. Trong lúc Lê Duẩn hy vọng Hiệp Ước Hữu Nghị Và Hợp Tác sẽ làm nhụt chí Đặng Tiểu Bình, các phản ứng của Liên Sô rất giới hạn và Đặng Tiểu Bình không nhụt chí. Hành động cụ thể nhất của Liên Sô là đưa một lực lượng đặc nhiệm gồm 15 tàu chiến vào Biển Đông vào ngày 8 tháng 2, 1979. Nhưng phần lớn lực lượng này chỉ nhằm thu nhặt tin tức tình báo hơn là chiến đấu. Khi chiến sự bùng nổ, các phi cơ vận tải quân sự của Liên Sô giúp chuyển vận vũ khí, đạn dược và các máy bay thám thính được gởi tới khu vực để thăm dò tin tức. Ngay ngày hôm sau, Liên Sô cho biết họ có thể thực thi các cam kết trong Hiệp Ước Hữu Nghị Và Hợp Tác. Nhưng đó chỉ là tin đe doạ nhằm thăm dò phản ứng của Trung Cộng. Năm ngày sau, 22 tháng 2, Liên Sô chính thức thông báo sẽ không can thiệp vào xung đột quân sự. (Sally W. Sstoecker, Clients and Commitments: SoViet-Vietnamese Relations 1978-1988) KẾT LUẬN Liên Sô sụp đổ tháng 12, 1991. Sau hiệp ước bí mật tại Thành Đô, CSVN quay về với cội nguồn Trung Cộng. Dòng nước đỏ trôi đi rồi lại trôi về. Tròn một chu kỳ anh em, thù hận và trở lại anh em. Khác chăng, chu kỳ đó được lót bằng thân xác, máu xương của hàng triệu tuổi trẻ Việt Nam. Thân xác họ gởi lại ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Vị Xuyên như đã gởi lại dọc Trường Sơn trước đó. Họ chết cho tổ quốc hay không tùy thuộc vào góc nhìn và trình độ nhận thức của mỗi người. Nhưng có điều chắc chắn, nếu không có ý thức hệ CS họ đã không phải chết. Thế giới đã đổi thay. Những cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng xã hội đã nâng cao nếp sống và cách suy nghĩ của con người. Những quốc gia Phi Châu cách đây không lâu điêu tàn vì nội chiến hay chịu đựng nạn đói chưa từng có như Botswana, Senegal, Tunisia nay đã trở thành những nước tự do dân chủ kiểu mẫu. Họ có lẽ vẫn còn nghèo nhưng không ai dám gọi người dân Botswana, Senegal, Tunisia là lạc hậu. Việt Nam thì khác. Việt Nam lạc hậu. Một con người không làm chủ được chính mình là lạc hậu, yếu hèn. Việt Nam thay vì bước tới cùng nhân loại lại trở về thời 1950 lệ thuộc vào Trung Cộng cả kinh tế lẫn tư tưởng. Mọi chế độ độc tài, CSVN hay CSTQ với các mâu thuẫn đối kháng bên trong mầm mống đương nhiên một ngày sẽ sụp đổ. Nhưng không ai có thể trả lời là thời điểm nào. Chúng có thể tan rã ngày mai và chúng cũng có thể lê lết suốt trăm năm. Người viết đã trình bày trong phần kết luận của bài “Hiểm họa Trung Cộng, bài học Thổ Nhĩ Kỳ”, yếu tố duy nhất và quyết định vẫn là những người Việt còn quan tâm đến tương lai Việt. Không ai sống thay hay chết thế cho mình. Chính các thành phần dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước là lực duy nhất nằm ngoài sự kiểm soát của đảng Cộng Sản và cũng là lực duy nhất có khả năng đưa Việt Nam ra khỏi bờ vực chiến tranh và đưa đất nước tới một tương lai xán lạn cho con cháu mai sau. Các thành phần dân tộc không chỉ là những người đang công khai chống đảng, những người đứng ngoài cơ chế lãnh đạo, những người không Cộng Sản mà là bất cứ ai nhận thức được manh tâm của chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng, bản chất sai lầm trong cơ chế độc tài đang thống trị Việt Nam và chọn lựa dứt khoát đứng về phía dân tộc. Thấy được con đường dân tộc phải đi và dâng hiến tình yêu cho đất nước không bao giờ quá trễ. Chọn lựa của thời đại ngày nay không chỉ là chọn lựa giữa dân chủ hay độc tài nhưng quan trọng hơn thế nữa, là mất hay còn, tồn tại hay diệt vong của một dân tộc. Hãy cùng nhau lên đường cứu nước. Trần Trung Đạo
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 9, 2015 10:09:18 GMT 9
Lich su viet nam: Giải mật vụ Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc (11/03) Tác giả : Phi Lâm Quốc Thanh Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc Lời nói đầu:
Hồ chí Minh, Hoàng Văn Hoan. Sau này là Nguyễn phú Trọng, Trương tấn Sang, Nguyễn tấn Dũng vì miếng đỉnh chung đã đang tâm bán nước Việt Nam cho quân xâm lược Trung Cộng. Hành động phản quốc của những nhân vật này đã di hại lớn lao cho sự tồn vong của dân tộc Việt Nam.
Để trả thù sự thanh lọc của đảng Cộng Sản Việt Nam đối với bản thân, ông Hoàng văn Hoan đã thản nhiên mặc cho quân Trung cộng tiến hành xâm lược năm 1979, tấn chiếm 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, thảm sát người dân và lính đã từng là đồng bào, đồng chí.
Hội Nghiên Cứu Sử Học Việt Nam tại Âu Châu hiệu đính ngày 11/03/2012.*** Mời xem phần 1 : WikiLeaks: Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng được trả 150 triệu đô la, (nguyên) Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh được 300 triệu đô la về khai thác bô-xít nhôm ở Tây Nguyên Những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150 triệu đô la. Kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời điểm của điện văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300 triệu đô la… Theo tin từ một thân hữu báo chí ở Norway (Na Uy), một điện văn trong số 250,000 mà WikiLeaks lấy được từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và đã giao cho tờ báo buổi chiều lớn nhất Na Uy là tờ Aftenposten thì có một điện văn liên quan về Việt Nam nói đến dự án khai thác bô-xít nhôm ở Tây Nguyên. Nội dung điện văn chính yếu là yêu cầu Bộ Tài Chính Hoa Kỳ giúp điều tra và xác minh một số giao dịch ngân hàng quốc tế. Cụ thể, theo điện văn này thì một nguồn tin trong giới ngân hàng Việt Nam cho biết kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời điểm của điện văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300 triệu đô la. Cũng trong điện văn này, nguồn tin từ ngân hàng Việt Nam cho biết những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150 triệu đô la. Các chuyển ngân trong phần của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng thì không đề cập đến ngân hàng nước nào. Khi Dân Làm Báo hỏi thân hữu ở Na Uy là có được tận mắt đọc điện văn này không thì thân hữu đó cho biết là tất cả 250,000 điện văn từ WikiLeaks được lưu trữ trong một căn hầm dưới đất trong một tòa nhà bình thường của báo Aftenposten và có một ủy ban đại diện báo chí, và cả chính phủ Na Uy, để tham khảo các điện văn trước khi công bố nhằm tránh nguy hiểm cho các nguồn tin cũng như tránh những nhạy cảm về chính trị, ngoại giao. Những thành viên của ủy ban này không được mang theo giấy bút, hay phương tiện sao chép gì vào phòng làm việc và chỉ có thể đọc và ghi nhớ mà thôi. Thân hữu ở Na Uy cũng cho biết là nguồn tin từ ngân hàng Việt Nam không được tiết lộ trong điện văn mà chỉ nói là một quan chức cao cấp, có khả năng biết được thông tin loại này và đã được kiểm chứng là khả tín trong quá khứ. Cũng theo thân hữu của Dân Làm Báo thì Đại sứ của Việt Nam tại Liên Hiệp Châu Âu tại Bỉ là bà Phan Thúy Thanh đã nhiều lần trực tiếp giao thiệp với Bộ Ngoại Giao Na Uy. Thân hữu của Dân Làm Báo đang tìm hiểu nội dung của các buổi làm việc ngoại giao này và có tin gì thêm sẽ thông tin sau. DLB có hỏi là khi nào thì báo Aftenposten sẽ đăng tải những điện văn này thì thân hữu cho biết là thường chỉ khoảng 10 điện văn được đăng tải một lần và phải có sự đồng ý của tất cả các thành viên của ủy ban thẩm định nội dung điện văn. Cho đến hôm nay 22/3/2011 thì vẫn chưa có quyết định nào về đăng tải. Và phần 2: Giải mật: vụ Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc Tác giả: Phi Lâm Người dịch: Quốc Thanh hoàng văn hoan hoàng văn hoan, hồ chí minh, mao trạch đông Ngày 3 tháng 12 năm 1960, Mao Trạch Đông hội kiến với Hồ Chí Minh-Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên phải là Hoàng Văn Hoan. Lãnh đạo Việt Nam Hoàng Văn Hoan “đào thoát” tới Trung Quốc năm 1979 Năm 1979, giữa hai nước Trung-Việt xảy ra một sự kiện khiến cho tập đoàn Lê Duẫn đương quyền khi ấy ở Việt Nam bị bẽ mặt, cả thế giới phải kinh ngạc. Hoàng Văn Hoan – một trong những nhà lãnh đạo lão thành của Việt Nam đã đáp phi cơ từ Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) bay tới Bắc Kinh. Cho đến tận giờ, người ta vẫn gọi việc Hoàng Văn Hoan đến Trung Quốc là “Lãnh đạo cấp cao nhất của nước ngoài đào thoát tới Trung Quốc”. Trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam có hai phái thân Xô và thân Hoa. Phái thân Hoa có Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Hoan… Sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ… thuộc phái thân Xô nắm hết quyền lực trong Đảng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã bị chết trận. Thượng tướng Chu Văn Tấn bị giam lỏng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị treo giò. Hoàng Văn Hoan lúc này trong người cảm thấy khó chịu, vùng não luôn bị đau âm ỉ, bệnh viện ở Hà Nội kiểm tra nói: bị lao phổi. Nhưng lại chữa mãi vẫn không khỏi. Ông sinh năm 1905 tại tỉnh Nghệ An (nay là tỉnh Nghệ Tĩnh[1]), Việt Nam. Tên thật là Trần Xuân Phong. Năm 1925 tham gia học lớp đào tạo thanh niên Việt Nam do Hồ Chí Minh mở ở Quảng Châu, sau đó làm công tác cách mạng ở các nước Thái Lan, Miến Điện, Campuchia… và ở Châu Âu, nói thành thạo tiếng Trung Quốc giọng Quảng Đông, viết được những bài thơ hay bằng chữ Hán. Năm 1966, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại cuộc tụ họp quần chúng ở Quảng trường Ba Đình Chính Hoàng Văn Hoan đã ý thức được rằng nếu ở lại trong nước thì không những chẳng làm được việc gì, mà bệnh của mình lại có thể còn bị nặng thêm. Ông lợi dụng dịp đi thăm nước Cộng hòa Dân chủ Đức cũ, với sự giúp sức của bạn bè và tình báo Trung Quốc, đã tới Bắc Kinh theo ngả Pakistan. Năm 1979, tại cuộc họp báo tổ chức tại Bắc Kinh Ngày thứ ba tới Bắc Kinh, kết quả kiểm tra ở Bệnh viện 301 Giải phóng quân cho thấy thực ra trong người ông có một khối u dài 6cm, rộng 5cm, được chẩn đoán là bị ung thư phổi sắp đến giai đoạn cuối. Năm 1979, tới Bắc Kinh, được đồng chí Đặng Tiểu Bình đón tiếp thịnh tình Bệnh viện 301 áp dụng phương pháp Đông Tây y kết hợp, đầu tiên tiến hành xạ trị, tiếp đó dùng các bài thuốc Đông y quý để tiến hành liệu pháp Đông y. Nằm chữa trị ở bệnh viện được hơn 1 tháng, khối u đã nhỏ lại chỉ còn dài 5cm, rộng 4cm. Khối u nhỏ lại được nhanh như vậy có thể nói là hết sức có hiệu quả. Nói chuyện với Việt kiều ở Côn Minh năm 1980 Bởi được trị liệu theo Đông Tây y kết hợp ở Bệnh viện 301, được dùng những bài thuốc Đông y vừa quý lại vừa đích thực có tác dụng kháng ung thư, cho nên Hoàng Văn Hoan đã hơn 70 tuổi vẫn sống tiếp được tới 15 năm nữa một cách đầy khỏe mạnh. Ở Thanh Đảo năm 1984 Hoàng Văn Hoan tới Trung Quốc không lâu, Việt Nam lần lượt tuyên bố hủy bỏ các chức vụ Đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…, xóa Đảng tịch Đảng cộng sản Việt Nam của ông. Ngày 26 tháng 6 năm 1980, bị chính quyền Việt Nam xử tử hình vắng mặt. Với sự nỗ lực của Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, quan hệ Trung-Việt được khôi phục. Nhất là Nguyễn Văn Linh còn cho đưa cả người nhà của Hoàng Văn Hoan sang Trung Quốc, khiến cho Hoàng Văn Hoan được đoàn tụ với gia đình vào những năm cuối đời. Tác giả đang viết: “Việt Trung hữu nghi, vạn cổ trường thanh” Còn có một giả thuyết khác, khi các nhà lãnh đạo Nguyễn Văn Linh… muốn khôi phục lại quan hệ bình thường với Trung Quốc, do qua kênh bình thường có chút khó khăn, nên con trai cả của Hoàng Văn Hoan đang làm việc tại Viện khoa học xã hội Việt Nam đã bí mật đến Sứ quán Trung Quốc để đẩy nhanh sự tiếp xúc giữa lãnh đạo hai nước. ** Mộ Hoàng Văn Hoan hình chữ nhật, sau mộ lập một tấm bia đá cao to, chính giữa bên trên có khảm bức di ảnh màu của Hoàng Văn Hoan, hai bên khắc nổi năm sinh năm mất “1905-1991”. Dưới di ảnh viết “Mộ đồng chí Hoàng Văn Hoan, nhà cách mạng lão thành Việt Nam, người bạn lâu năm được nhân dân Trung Quốc tôn kính”. Hoàng Văn Hoan (1905-1991) Lãnh đạo Đảng và chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sinh ở tỉnh Nghệ An. Năm 1926 tham gia lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh mở ở Trung Quốc, sau gia nhập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1928-1942, lần lượt hoạt động cách mạng ở Xiêm và Trung Quốc. Năm 1942, về nước triển khai đấu tranh vũ trang và tiến hành các hoạt động lập căn cứ địa. Năm 1945, được bầu làm Ủy viên trung ương, nhậm chức Bí thư Đảng ủy Khu giải phóng Việt Bắc, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 cùng năm, từng nhậm chức Thứ trưởng Bộ quốc phòng và Ủy viên chính trị toàn quốc Vệ quốc quân. Cuối năm 1946, nhậm chức Đại diện Liên khu 4 tại Chính phủ trung ương, lãnh đạo đấu tranh chống Pháp. Năm 1948, nhậm chức Đặc phái viên hải ngoại tại Chính phủ trung ương. Tháng 12 năm 1950, nhậm chức Đại sứ đầu tiên ở Trung Quốc, kiêm Đại sứ tại Triều Tiên, Mông Cổ. Tại “Đại hội 2” năm 1951 và “Đại hội 3” năm 1960 được bầu làm Ủy viên Trung ương. Hai lần, vào tháng 8 năm 1958 và tháng 9 năm 1960, được bầu làm Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng. Từ năm 1958, nhậm chức Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tháng 12 năm 1971, được bầu là Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc. Năm 1979, sau khi Việt Nam trắng trợn bài Hoa, vì phản đối tập đoàn Lê Duẩn… nên đã bị đánh và bức hại, để đấu tranh lại với những thế lực bài Hoa trong Đảng, vào tháng 7 bị bức phải rời Việt Nam gián tiếp chuyển tới Bắc Kinh, đã di cư tới Trung Quốc. Không lâu sau, Việt Nam lần lượt tuyên bố hủy bỏ các chức vụ Đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…, xóa Đảng tịch Đảng cộng sản Việt Nam của ông. Ngày 26 tháng 6 năm 1980, bị chính quyền Việt Nam xử tử hình vắng mặt. Là người bạn lâu năm của nhân dân Trung Quốc, có tình cảm sâu nặng với nhân dân Trung Quốc. Đã làm rất nhiều công việc hữu ích để phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung-Việt. Đồng thời còn là một người “thông hiểu về Trung Quốc”, có nhiều nghiên cứu về văn hóa truyền thống Trung Quốc, đã viết nhiều bài thơ, câu đối bằng tiếng Hán trong đời. Trong thời gian bệnh nặng, các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước như Dương Thượng Côn, Trần Vân, Lý Tiên Niệm… đã lần lượt đến bệnh viện thăm và an ủi động viên. Ngày 18 tháng 5 năm 1991 qua đời tại Bắc Kinh, hưởng thọ 86 tuổi. An táng tại Nghĩa trang cách mạng Bát Bảo Sơn Bắc Kinh. Tác phẩm để lại có “Hoàng Văn Hoan văn tập”. Nguồn: www.tiexue.net * Bản tiếng Việt © Việt sử ký 2012 [1] Chỗ này tác giả nhầm. Tỉnh Nghệ Tĩnh đã được tách ra lại thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh từ năm 1991.- ND.
|
|