|
Post by Can Tho on Oct 10, 2010 4:38:25 GMT 9
Đại Lược Về Quan Chế (2) Nguyễn Thị Chân Quỳnh PHẨM PHỤC - NGHI VỆ I-Trung Quốc II-Việt Nam III-Chú thích IV-Ngữ vựng ********************************************* I - TRUNG QUỐC 1- Thời Thượng cổ - Ý nghĩa của triều phục đã có từ Nghiêu (2357-2257), Thuấn (2256-2208) : Triều đình là chỗ lễ nhạc, áo mặc là văn vẻ của thân thể, phô vẻ đẹp khiến danh phận khác nhau rõ ràng, không được lấn vượt. Hoa văn :Thời Ngu Thuấn, áo trào ngũ sắc của vua quan đều có vẽ hình nhật nguyệt, tinh tú, hoa, điểu... gọi là "chương". Thiên tử dùng 12 chương (6 chương vẽ trên áo, 6 vẽ trên xiêm), bầy tôi thì 5, 7 hay 9 chương, tùy phẩm trật. Áo vua có hai con rồng, một con bay lên, một con bay xuống, áo Thượng Công chỉ có một con rồng bay xuống, đầu rồng cuốn lại nên gọi là "cổn y". "Cổn y tú" có vẽ 9 hình : 5 hình trên áo (rồng, núi, chim trĩ, lúa, chén thờ vẽ con khỉ hay con hổ), 4 hình trên xiêm (rong biển, hột gạo, phủ, phất) (1). Mầu sắc : Lã Thị Xuân Thu chép rằng thời xưa, "hành" nào đang thắng thì theo đó mà thay mầu quần áo, xe cộ. Ðời Hoàng đế hành Thổ thắng cho nên dùng mầu vàng (mầu của hành Thổ), đời Hạ Vũ, hành Mộc thắng nên đùng mầu xanh cũa hành Mộc (2). 2- Nhà Chu - Các lối y phục chế ra từ đời Hoàng đế (2698-2597) đến đời Chu (1134/22-247/2) mới hoàn bị, phân biệt kẻ quý người tiện rất phân minh : trên mặc áo, dưới mặc xiêm, có nhuộm mầu. Tước Công có "cổn miện" (áo thêu rồng và mũ) thêu 5 thứ trên áo, 4 thứ trên xiêm. Hầu, Bá có "tệ miện" (áo thêu chim trĩ và mũ) 3 thứ thêu trên áo, 4 thứ trên xiêm. Tử, Nam có "xuế miện" (áo thêu cọp, khỉ, và mũ miện) 3 thứ thêu ở áo, 2 thứ thêu ở xiêm là "phủ" và "phất". Công Khanh có "si miện" (áo gai mịn và mũ) 2 thứ thêu trên áo (phấn mễ = phấn, gạo), xiêm thêu "phủ, phất." Ðại phu có "huyền miện", áo đen, xiêm thêu "phất". "Huyền cổn" là áo bào đen thêu con rồng uốn khúc, và thêu búa mầu đen có lưỡi mầu sáng trắng (3). * Chu Vũ Ðế (1134-1116) chế "bộc đầu quan", loại mũ có bốn góc và hai cánh chuồn (4). Lễ phục của thiên tử vẽ mặt trời, trăng, sao, núi, rồng, hoa kèm theo mũ, hia. Áo - Ý nghĩa những hình vẽ, thêu, hay dệt trên áo vua quan : mặt trời, mặt trăng, sao, lấy nghĩa soi sáng núi = vững vàng rồng = biến hóa chim trĩ = văn hoa. Xiêm : tôn ri = một loài thú rất có hiếu rau tảo = sạch sẽ lửa = sáng tỏ gạo trắng = nuôi người phủ (búa) = quyết đoán phất = cân nhắc, so sánh (5). 3- Nhà Tần (255-207) : Từ thiên tử đến nhân dân đều mặc đồ trắng, sư mặc áo thâm, đạo sĩ mặc áo vàng (6). 4- Nhà Tùy (589-618): Tùy Văn Ðế (581-604) mặc áo vàng (lấy hành Thổ sắc vàng tượng trưng cho đức của vua) từ đấy sắc vàng mới là mầu áo của vua và mầu vàng, để kính vua, không ai được mặc. Thiên tử mặc sắc vàng, quý phái mặc sắc tía, bình dân mặc trắng (7). 5- Nhà Ðường (618-907) : Phẩm phục các quan văn võ : tam phẩm trở lên áo trào vàng, tía ; đai ngọc tứ phẩm áo đỏ sẫm ; đai vàng ngũ phẩm áo hồng ; đai vàng lục phẩm áo lục sẫm ; đai bạc thất phẩm áo lục nhạt ; đai bạc bát, cửu phẩm áo xanh (lam) sẫm ; đai đồng điếu thường dân áo trắng ; dây lưng nạm đồng, sắt (8). 6- Nhà Tống (960-1279) : Buổi đầu theo nhà Ðường : ai làm quan mặc áo thâm, không làm quan mặc áo trắng. Mũ - Triều phục có 3 thứ mũ : tiến hiền, điêu thiền, giải trãi. Áo -Tam phẩm trở lên mặc sắc tía ngũ phẩm trở lên mặc sắc đỏ thất phẩm trở lên mặc sắc lục cửu phẩm trở lên mặc sắc xanh (lam). Cổ áo bẻ, tay rộng, dưới có đường lan can ngang. Ðai, Hia bằng da đen. Túi : Khi mặc phẩm phục đeo vào đai cái "túi ngư đại" thêu hình con cá bằng vàng (áo mầu tía), cá bạc (áo mầu đỏ) để phân biệt cao thấp (9). 7- Nhà Minh (1368-1644) : a- Bổ tử quan văn : nhất, nhị phẩm tiên hạc (ông tiên và con hạc) và chim trĩ tam, tứ phẩm công, vân nhạn (nhạn bay trên mây) ngũ phẩm nhạn trắng (bạch nhạn) lục, thất phẩm cò và uyên ương, chim kê thốc bát, cửu phẩm chim liêu, chim thuần, chim thước, hoàng ly Ngự sử (giữ phép tắc) giải trãi (một giống thú rừng có một sừng thẳng ở giữa trán. Ðời cổ dùng nó húc người gian tà vì nó có linh tính phân biệt được người ngay kẻ gian). b- Bổ tử quan võ : Công, Hầu, Bá, Phò mã kỳ lân, bạch trạch nhất, nhị phẩm sư tử tam, tứ phẩm hổ, báo ngũ phẫm con hùng (gấu), con bi lục, thất phẩm con bưu (báo) bát, cửu phẩm hải mã (10). II - Việt Nam A- Trước thời Nguyễn Từ Lý, Trần về trước mũ áo vua quan thế nào không khảo cứu được. 1- Ngô Quyền : Sử chép : "Năm 959 Ngô Quyền xưng vương, đặt trăm quan, định phẩm phục, triều nghi" nhưng không ghi các chi tiết. 2- Nhà Ðinh : Sử chép :"Năm 975 Ðinh Tiên Hoàng định phẩm phục" nhưng cũng không có chi tiết. 3- Nhà Tiền Lê : Lê Ðại Hành lên ngôi, mặc "áo long cổn" dùng vóc đỏ, về sau áo mặc phần nhiều dùng vóc đỏ, mũ sức trân châu (11). Năm 1006, Lê Long Ðĩnh, làm Giao-chỉ quận vương, xin vua Tống cho được dát vàng cả mũ áo, vua Tống y cho. Ðặt lại quan chế, triều phục theo nhà Tống : Áo : Công khanh trở lên áo tía ngũ phẩm trở lên áo đỏ thất phẩm trở lên áo lục cửu phẩm trở lên áo xanh. Mũ : nhất, nhị phẩm mũ tiến hiền tam phẩm mũ điêu thiền tứ, lục phẩm mũ giải trãi (12). 4- Nhà Lý : Buổi đầu đại khái nhà Lý noi theo chế độ nhà Tiền Lê. Lý Thái Tông mới chế "mũ bát giác tiêu dao" bằng vàng (chưa rõ hình dáng). 1029 Vua Thái Tông định quy chế phẩm phục cho công, hầu, văn, võ : đi hia / giầy da vào chầu. Các quan phần nhiều trang sức, đeo cái túi hình con cá bằng lụa đỏ hay bằng vàng, như nhà Tống (13). 1045 Vua Thái Tông chế "xe Thái bình" dát vàng vào bồng la ngà (mui bành voi trên lưng voi) cho voi kéo. 1058 Vua Thánh Tông ngự điện Thủy-tinh, sai các quan đội "mũ phốc đầu" và đi hia mới cho vào chầu. Nghi lễ vào chầu có đủ cả mũ, hia bắt đầu từ đấy. 1124 chế lọng che mưa cán cong. * Phẩm phục đời Lý, Trần, Lê, phần nhiều theo nhà Tống, mầu tía quý nhất(cho các quan). Từ Lý Cao Tổ trở đi mới cấm dân không được mặc sắc vàng là mầu dành riêng cho thiên tử dùng. Ðời Thái Tông, cung nữ dệt được gấm vóc, bèn đem hết gấm của nhà Tống trong Nội phủ bán cho quần thần may áo, quan từ ngũ phẩm trở lên được mặc áo gấm, từ cửu phẩm trở lên được mặc áo vóc, để tỏ vua không dùng riêng. 5- Nhà Trần : Năm 1301 vua Anh Tông định : quan văn võ đều đội mũ kiểu mới là "mũ chữ đinh" mầu đen (mũ nhà Minh, coi rất thô), thuộc quan thì "mũ toàn hoa" mầu xanh như cũ (có hai vòng vàng đính hai bên). Áo xiêm lấy kích thước làm chuẩn, quan không được mặc áo tay rộng, thuộc quan không được mặc xiêm. 1302 Cho các quan văn võ, nha lại, quân lính đều đội "mũ chữ đinh" sắc đen, thêm miếng lụa mầu tía xen biếc buộc chân tóc, bỏ thừa về đằng sau để phân biệt (14). 1304 Vương hầu tóc dài đội "mũ triều thiên", tóc ngắn đội mũ trùm đầu. 1395/96 Ðịnh áo, mũ các quan : Áo : nhất phẩm mầu tía nhị phẩm mầu đại hồng (đỏ sẫm) tam phẩm mầu hoa đào tứ phẩm mầu lục ngũ phẩm đến thất phẩm mầu biếc bát phẩm đến cửu phẩm mầu xanh thường dân, người hầu, không phẩm hàm : mầu trắng. * Cấm các quan không được dùng lối tay áo rộng, chỉ được dùng kiểu hẹp. Nội thị không dùng xiêm, phải dùng váy mở / quần hai ống. Phẩm phục nhà Trần không có túi thêu hình cá mà có hốt (15). Mũ : Vương, hầu đội mũ viễn du, tôn thất đội "mũ phương thắng" mầu đen. Văn quan từ lục phẩm trở lên, tụng quan, đội "mũ cao sơn", chánh phẩm dùng mũ sắc đen, tùng phẩm sắc xanh. Ngự sử đài đội "mũ khước phi". Võ quan từ lục phẩm trở lên đội "mũ chiết xung" thất phẩm dùng "mũ thái cổ", tùng thất phẩm "mũ toàn hoa" (16). * Theo An Nam Chí Lược : a- Phẩm phục - Mũ Áo : Quốc chủ đội mũ "Bình thiên", "Quyển vân" hay "Phù dung", mặc "áo cổn y", đeo "đai Kim long", cổ áo đính là trắng hay bông trắng kết lại, khăn kết tua vàng và ngọc châu, phủ tấm vuông, tràng áo cong, tay cầm ngọc khuê. Mũ của tước Vương chia ba bậc, mũ tước Hầu chia hai bậc, Minh tự một bậc, gọi là "mão Củng thần", trên có đính con ong, con bướm bằng vàng, lớn nhỏ, nhặt thưa, tùy cấp bậc. Thân vương mặc áo tía thêu kim tuyến, tước Hầu và Minh tự thêu chim phượng, cá. Từ đại liêu ban trở xuống : "áo cổn", "mũ miễn" đều có cấp bậc, Văn ban thêm con cá vàng. Viên ngoại lang, Lang tướng : mũ miễn vàng bạc xen nhau. Lệnh thư xá đến Văn hiệu thư lang : mũ miễn bằng bạc. Các nội quan hầu cận : Thượng phẩm đội "mũ dương thường / dương đường" đính ong, bướm vàng, mặc phẩm phục ; Trung phẩm áo mũ sắc chế hơi giảm ; Hạ phẩm đội "mũ dương thường" tía, áo tía, không cầm hốt. Khăn của Thượng phẩm thường dùng nhung mầu tía xen biếc, làm 6 tua kết sau khăn, đai thắt ngang để tỏ vẻ quan quý ; Trung phẩm kết tua tía ; Hạ phẩm tua đen, khảm quanh bằng ngọc, vàng và đồi mồi, làm cho ra vẻ lạ. * Từ vương hầu đến thứ dân thường mặc xiêm mầu huyền, cổ tròn, quần lụa trắng, thích đi giầy da. Vương hầu lúc vào yết kiến quốc chủ không bịt khăn tỏ ý thân quý. Bọn chức quan, tá chức đội khăn, áo tía, thắt đai xéo, không cầm hốt, chắp tay lạy quốc chủ. Bình thường ở nhà đội khăn tầu, thường phục chuộng mầu trắng, người trong nước mặc đồ trắng cho là tiếm chế, duy phụ nữ thì không cấm về trang sức. - Ðai lưng bằng da tê hay vàng tùy phẩm trật. - Hốt bằng ngà voi (17). b- Nghi vệ (1254 ) Từ tôn thất đến ngũ phẩm đều được đi kiệu (đầu đòn chạm phượng, sơn son), đi ngựa, đi cáng, võng ; Tướng quốc đi kiệu đầu đòn chạm anh vũ, sơn then, lọng tía ; Tam phẩm trở lên dùng kiệu đầu đòn chạm mây, lọng xanh vẽ mây ; Tứ đến lục phẩm đi kiệu bình đính (mui bằng, đòn bằng đầu) ; Ngũ phẩm trở lên dùng lọng xanh ; Lục đến thất phẩm dùng lọng giấy đen ; Người theo hầu từ 100 đến 1000 (18). Quan phẩm cao hay thấp lấy số lọng mà phân biệt : khanh tướng dùng 3 lọng xanh, thấp hơn thì 2 lọng hay một lọng. Lọng tía chỉ tôn thất mới được dùng (19). 6- Nhà Hồ : Quý Ly ở Nhân thọ cung, mặc áo mầu bồ hoàng. 1404 Hán Thương cấm quan viên không được đi hia, phải đi giầy gai sống. Trước kia từ lục phẩm trở lên được đi hia. Dân thì không được dùng lụa nện tơ chín làm áo mặc (20). 7- Nhà Hậu Lê : Thái Tông mới chế mũ miện cho vua, sau không dùng nữa. 1436 cho quan võ đội "mũ cao sơn" như quan văn, trước đội "mũ chiết xung". 1437 Xe kiệu đại giá của vua : "xe Ðại lộ", xe voi, xe ngựa ; "kiệu Cửu long", "kiệu Thất long", xe bộ người kéo, cờ tiết mao, phủ việt, quạt vả, lọng ngũ phương và đội ngũ cưỡi ngựa ... 1471 Bổ tử : Công, Hầu, Bá, Phò mã bổ tử thêu hình một con cầm (chim) ; quan văn võ, chánh phẩm thêu hai con. Mây, nước, núi, hoa, cây, chỉ mầu hay kim tuyến tùy ý (21). 1472 Vua Thánh Tông mỗi khi tế lễ, khánh tiết, mặc "áo long cổn", "mũ miện" ; lễ thường triều (ngày mồng một và ngày rầm) mặc hoàng bào, đội "mũ xung thiên" (như "phác đầu" có hai cánh trỏ lên trời). 1488 Y phục tiếp sứ nhà Minh : Tất cả áo có cổ bằng gai tơ, sa, là, sắc xanh, dài cách đất 1 tấc, tay rộng 1 thước 2 tấc. Triều phục kiểu mới dài cách đất 2 tấc, tay áo rộng 1 thước 3 tấc (22). 1499- Quy chế áo xiêm theo quẻ Càn Khôn. Mùa hạ áo vải, mùa đông áo cừu. Thường triều : Từ tháng 10 trở đi dùng áo là tơ gai, tháng 2 trở đi dùng áo sa. Gập ngày trực hay mưa gió, cho mặc áo sa vải bông, gai. Ngày quốc kỵ mặc áo vải sa, không được mặc là, vóc hoa mầu, bổ tử thì mầu tối, không được dùng ngũ sắc. Công, Hầu, Bá, quan từ tam phẩm trở lên "mũ phác đầu" hai cánh bằng sa đen hơi dài và to hơn quan văn khác, không được dùng "mũ dương đường" nạm hai cánh ; các quan khác, mũ theo kiểu cũ (23). Khi tiếp sứ nhà Minh các quan được đi bít tất, hia ; trời tháng 10 rét nên được mặc áo tơ gai, không mặc áo sa. 1500 : - Bổ tử : Công, Hầu, hoàng thân kỳ lân nhất, nhị phẩm Văn : tiên hạc Võ : sư tử tam phẩm cẩm kê bạch trạch tứ phẩm công hổ ngũ phẩm vân nhạn báo lục phẩm trở xuống bạch nhạn voi. - Ðai bằng sừng con tê hoa, trang sức : Hoàng thân bằng vàng nhất, nhị phẩm bằng bạc tam phẩm đồi mồi (24). 1653 Ðịnh kiểu y phục theo thứ bậc : Văn từ chức khoa đạo, Võ từ quận công, được mặc "áo thanh cát" đều có lá phù (bổ tử) đằng sau, ngoài ra không được tiếm lạm. 8- Lê Trung Hưng a- Nghi vệ của Vua : Lễ lớn (lên ngôi, tiến tôn...) vua đội "mũ xung thiên", áo hoàng bào, đai ngọc. Thường triều thì "mũ tam sơn", áo xanh huyền. Nghi vệ : Khi lỗ bộ đại giá vua sắp ra thì trên lầu ba cửa đánh chuông trống, 4 người vút roi dẹp đường. Các cấm quân (Kim ngô vệ, Cẩm y vệ...) mũ dùng là gai đỏ (hàng quý), áo dùng vải thanh cát, một tay rộng; một tay hẹp, viền đỏ, nẹp trắng, cộng 560 người. Ðội đi đầu thì cờ nhật nguyệt, cờ ngũ phương, cờ thập nhị thần, cờ long vân, rồi đến 40 cái gậy (mạ) vàng, 40 cái kiếm (nạm) bạc, 20 con ngựa. Rồi đến 20 trấn điện tướng cầm dùi đồng, đội mũ là gai đỏ, áo gấm xanh, bổ tử thêu con voi, bít tất che đầu gối. Rồi đến 18 cái tàn vàng, búa lớn búa nhỏ bằng đồng hay sắt. Rồi đến đồng văn nhã nhạc, 1 trống cái, 1 tù và, 10 trống con, đàn sáo. Rồi đến 12 cái quạt cán ngà vẽ rồng, rồi đến 12 cái kiếm (nạm) vàng, rồi đến kiệu rồng, đội cầm gậy vàng, đội cầm cờ, đội cưỡi ngựa. Súng, giáo, đao, gươm đi hộ giá đằng trước, đằng sau là các đội Nội nhuệ, Thị tượng... từ Bình phiên tiến phát (25). b- Nghi vệ của Chúa : Chúa mặc áo bào tía, "mũ xung thiên", đai ngọc vào đại lễ (lên ngôi, tiến tôn), lễ triều hội chúa mặc áo tía, "mũ Tam sơn". Khi yết lầu Kính-thiên thì đội "mũ bình đính", mặc "áo thanh cát" mầu hỏa minh, lễ kỵ Thái miếu mặc áo thanh cát mầu hoa quỳ, lễ kỵ các vị đời gần thì "mũ bình đính", áo vải thâm (26). 1730 Nghi vệ Phủ chúa : Sân trong sân ngoài đều có 8 lá cờ, khi đi ra thì bắn trước 3 tiếng súng, khi đi ngủ cũng thế. Khi đi bầy cờ hai bên để dàn đường. Lỗ bộ phủ chúa : Cờ tiết mao của Ðại Nguyên soái thì dùng 12 tua thắt nút bằng kim tuyến, lọng hoa vẽ rồng 12 cái, lọng hoa tía 12 cái, quạt vẽ rồng 4 cái. Cờ tiết mao của Nguyên soái thì có 6 tua thắt nút bằng kim tuyến, tàn tía 6 cái, lọng đi mưa 6 cái, gậy sơn đỏ 300 cái. Từ Trung-hưng, quân cấm vệ của vua chỉ có 10 đội hiệu, mỗi khi xa giá vua đi đâu thì quân của Bình phiên mới đi phù giá xong việc lại về. Lỗ bộ ở phủ chúa tuy chưa dám ngang với vua nhưng quân lính, khí giới quá nhà vua (27). c- Thái tử - Thế tử - Hoàng Thái tử mặc áo xanh, đội "mũ dương đường", không dự ban chầu. - Vương Thế tử (con trưởng của chúa) khi chầu vua đứng đầu ban, đội "mũ dương đường", áo tía, bổ tử kỳ lân thêu kim tuyến, đai đính đá quý bịt vàng, hia tất. Chầu phủ chúa đội "mũ ô sa" kết bằng tóc, thêu chỉ đen, đột nổi, áo thanh cát có lá phù đằng sau, dây thao kép xâu hạt ngọc và sức vàng (28). d- Các quan : Phẩm phục, nghi vệ - Trịnh Căn (1705-9) định lệ : 1- Tước công (Hoàng tử, Vương tử, Tam Thái, Tam Thiếu tước quận công) : Vào chầu vua đội "mũ dương đường", đằng sau có hai cánh chuồn dát vàng, áo sắc tía, bổ tử của Tam Thái thêu kỳ lân, của Tam Thiếu thêu bạch chương bằng kim tuyến, đai bằng ngọc bịt vàng, đi hia tất. Vào phủ chúa đội "mũ ô sa", kết bằng tóc, thêu chỉ đen lồi lên, áo lam xanh có vạt che đằng sau, đai dát vàng ngọc. Nghi vệ đi đường : 1 lọng tía không có ngù rủ, vẽ mầu sắc hoa đỏ ; 1 quạt có ngù rủ, vẽ mầu sắc hoa đỏ ; 1 kiệu vuông, mặt ngoài sơn đen, đòn thếp vàng, không có ngù, lan can xung quanh kiệu dát ngà voi, mặt trong sơn son ; Yên ngựa sơn son thếp vàng ; 5 người theo hầu. Ðại triều : Vào chầu vua mặc áo sắc tía, "mũ cánh chuồn", bổ tử Tam Thái là kỳ lân, Tam Thiếu là Bạch chương bằng kim tuyến, đai ngọc dát vàng, hia tất. Vào phủ chúa : "mũ ô sa" thêu chỉ lồi lên, áo lam có vạt che đằng sau, giây lưng dát ngọc và vàng. Nghi vệ : 1 lọng xanh 1 quạt có ngù rủ, đều vẽ mầu sắc, hoa đỏ ; 1 kiệu vuông sơn đen, 2 bành vẽ sặc sỡ, đòn thếp vàng, mặt trong sơn son ; Yên ngựa sơn son thếp vàng ; Bành voi mặt ngoài sơn đen, mặt trong sơn son. 2- Thượng thư hàm Tam Thái, Tam Thiếu (nhị phẩm) vào chầu đội "mũ cánh chuồn" áo tía, bổ tử thêu tiên hạc, đai dát sừng tê bịt bạc, hia tất. Vào phủ chúa : "mũ ô sa", áo lam có vạt che đằng sau, dây lưng dát ngọc. Nghi vệ : 1 lọng ; 1 quạt mầu xanh có ngù rủ, vẽ mầu sắc hoa xanh ; 1 khăn chít đầu ; 1 kiệu vuông sơn đen, 2 bành thếp vàng, lan can sơn mầu hoa ; Ghế trên voi mặt ngoài sơn đen, trong sơn son thếp vàng ; Bành voi ngoài sơn đen, trong sơn son ; Yên ngựa mầu tía thếp vàng ; 4 người theo hầu. 3- Thị lang (tùng nhị phẩm) : Vào chầu vua đội "mũ cánh chuồn", mặc áo hồng, bổ tử thêu con gà, đai đồi mồi bịt bạc, hia tất. Vào phủ Chúa : "mũ ô sa", áo lam có vạt che đằng sau, dây lưng dát ngọc. Nghi vệ : 1 quạt xanh có ngù rủ vẽ mầu sắc hoa xanh ; 1 khăn chít ; Võng ba đòn sơn đen, đầu đòn sơn tía ; Yên ngựa sơn tía thếp vàng ; Ghế trên voi mặt ngoài sơn đen, dát vàng, trong sơn son ; Bành voi ngoài sơn đen, trong sơn tía ; 2 người theo hầu. 4- Thừa Chánh Ðại Học Sĩ, Tế tửu, Thị độc ... : Chầu vua đội "mũ cánh chuồn", Ngự sử "mũ giải trãi" ; có tước dùng áo hồng, chưa có tước áo xanh, bổ tử con công, Ngự sử con giải trãi ; đai dát đồi mồi bịt bạc ; hia tất. Vào phủ Chúa : "mũ ô sa", áo lam, dây lưng dát ngọc. 5- Tự khanh, Tư nghiệp, Học sĩ, Thị giảng... : Chầu vua đội "mũ cánh chuồn", chức Ðề hình "mũ giải trãi" ; có tước thì áo hồng, không có tước thì áo xanh hay lục, bổ tử con công, Ðề hình con giải trãi ; đai bằng gỗ kỳ lam dát thau ; hia tất. Vào phủ Chúa : "mũ ô sa", áo lam, dây lưng. Nghi vệ : võng ba đòn sơn đen ; yên ngựa sơn tía dát thau ; Ði ngoài thành thêm một lọng xanh vẽ hoa xanh, có ngù rủ ; Ghế bên ngoài sơn đen, trong tía ; Bành voi ngoài sơn đen, trong tía ; 2 người theo hầu. 6- Hàn lâm Hiệu lý, Giám sát Ngự sử... : Vào chầu vua đội "mũ cánh chuồn" ; áo hồng hay xanh, lục ; bổ tử nhạn trắng ; đai dát gỗ liên hương bịt thau ; hia tất. Vào phủ Chúa : như trên. Nghi vệ : yên ngựa sơn đen thếp thau ; đi ngoài thành 1 lọng xanh có ngù rủ ; võng ba đòn, đòn dài toàn đen ; 1 người hầu. 7- Tu soạn, Giáo thụ, Ðồng Tri phủ, Ðồng Tri huyện, Tự thừa, Tự ban... : Chầu vua đội "mũ cánh chuồn" ; áo xanh hay đen, bổ tử hình con hạc ; đai dát sừng trâu bịt thau ; hia tất. Vào phủ Chúa : "mũ ô sa", áo lam có kết bông, dây lưng. Ði ngoài thành được cưỡi ngựa, yên sơn đen thếp thau. Ðồng Tri phủ đi trong bản hạt được 1 lọng xanh có ngù rủ (29). 1720 Theo chế độ cũ các quan văn võ lớn nhỏ, lại viên, quân sĩ đều mặc áo thanh cát, đội khăn chữ đinh, không phân biệt. Nay quy định : Hoàng thân, Vương thân : Xuân, Hạ áo sa tầu ; Thu, Ðông đoạn tầu, đều mầu trầm hương (mầu gỗ trầm). Ðội "khăn mã vĩ" Xuân, Hạ ; Thu, Ðông dùng đoạn mầu huyền. Các quan từ nhất đến tam phẩm : Xuân, Hạ áo sa tầu ; Thu, Ðông đoạn tầu, đều mầu huyền. Quan văn đội "mũ lá kép" (khăn quấn nhiều tao), quan võ đội "mũ lá đơn" (quấn một tao). Tứ phẩm tựa như trên, chỉ thay sa đoạn bằng hàng ta. Nội giám đội "mũ bình đính", có 6 cạnh. Quan văn võ khi chấp sự hành lễ hoặc vào hầu Nội các : áo thanh cát, mũ sa thâm (ô sa) (30).
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 10, 2010 4:40:07 GMT 9
B - Nhà Nguyễn
1804 Ban "áo mãng bào" thêu rồng 4 móng cho bọn Nguyễn văn Trương, Phạm văn Nhân, Nguyễn Ðức Xuyên (áo của vua thêu rồng 5 móng).
* 1806 Gia-Longđịnh phẩm phục các quan văn võ :
a- Ðại triều
- Mũ :
Chánh thất phẩm trở lên : quan văn "mũ phác đầu tròn" (cánh chuồn), quan võ "mũ phác đầu vuông". Trang sức : từ chánh nhất phẩm trở lên dùng cầu vàng thêm hai hốt vàng đều cao 6 phân trước sau đềumột hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng, mặt trước đính giao long vàng vờn ngọc châu. Tùng nhất phẩm : cầu vàng thêm 2 hốt vàng cao 5 phân, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng, trước sau đính giao long vàng.
(...) Tứ phẩm cầu bạc, trước sau hoa vàng, cánh viền bọc vàng
Ngũ phẩm cầu bạc, hoa bạc
Thất phẩm hoa bạc, cánh không viền bọc...
- Áo : Ðều cổ tròn :
Trên nhất phẩm áo bào tía
Chánh nhất phẩm đến tùng tam phẩm : mãng bào xanh lục hay lam, đen, tùy tiện.
(...) Chánh tứ phẩm áo hoa bào, mầu tùy ý
Chánh ngũ phẩm dùng sa đoạn, mầu tùy ý.
- Bổ tử - Văn : mây nhạn, Võ : báo vằn, nền đều mầu đỏ ; lục phẩm : nhạn trắng hay gấu, nền đỏ ; thất phẩm : cò, nền đỏ...
- Ðai - Thân mầu hồng :
Chánh nhất phẩm trở lên trang sức bằng vàng mặt chạm con mãng 4 móng, trước sau đều một con, Văn chạm tiên hạc, Võ chạm kỳ lân.
Tùng nhất phẩm và nhị phẩm : mặt đai chạm tiên hạc hay kỳ lân, trước sau một con, ngoài ra chạm hoa.
Tam phẩm trang sức vàng không chạm.
Tứ phẩm : đồi mồi mặt trước ba miếng, hai bên hai miếng dài bọc vàng, ngoài ra bọc bạc.
(...) Chánh thất phẩm : mặt sừng đen bọc bạc.
- Xiêm :
Nhất phẩm trở lên thêu tiên hạc, kỳ lân lẫn hoa đỏ.
Nhị phẩm : tiên hạc, bạch trạch hay kỳ lân, đều hoa đỏ.
Tam phẩm : cẩm kê, sư tử, đều lẫn hoa đỏ.
Tứ phẩm : sa, đoạn xanh, lục, tùy ý, hai bên hoa tròn nền đỏ, Văn thêu con công, Võ con hổ, đều viền gấm.
Ngũ phẩm dùng sa đoạn lục xanh, hai bên thêu hoa tròn, nền đỏ thêu mây nhạn, báo vằn, đều viền gấm.
Lục phẩm : nhạn trắng và gấu.
Thất phẩm : Văn thêu cò viền lụa mầu.
- Hia tất Chánh nhất phẩm trở lên : hia sắc đen, mũi vuông, bít tất viền gấm.
b- Thường triều :
- Mũ :
Trên nhất phẩm : Văn kiểu "Văn công", trang sức bằng vàng, hai giải trang sức hoa vàng khảm hạt châu ; Võ kiểu "Hổ đầu" cầu mũ thêm hốt vàng cao 5 phân.
Tam, tứ phẩm : không hạt châu. Văn tứ phẩm mũ kiểu "Ðông Pha", Võ "mũ Xuân Thu", trước sau một hoa vàng, còn hoa và giao long đều bằng bạc.
Ngũ phẩm trang sức toàn bạc, đằng trước hai hoa, hai giao long, đằng sau một hoa, hai giao long.
Lục phẩm : trước sau một hoa, hai giao long.
Thất phẩm : Văn : "mũ Tú tài", Võ : mũ buộc giải toàn bạc, trước sau một hoa, hai giao long.
Bát phẩm : toàn bạc, trước sau một hoa.
Cửu phẩm : một hoa bạc mặt trước.
- Áo :
Tam phẩm trở lên : sa, đoạn mầu xanh, lục, đen, tùy ý, thêu hoa cũng được. Cổ chéo mầu trắng.
Tứ phẩm đến cửu phẩm : sa, đoạn mầu như trên, cổ chéo.
- Bổ tử : Nhất phẩm trở lên : nền vàng Văn : tiên hạc Võ : kỳ lân
Nhị phẩm nền vàng tiên hạc bạch trạch
Tam phẩm nền vàng cẩm kê sư tử
Tứ phẩm nền hồng công hổ
Ngũ phẩm nền hồng mây nhạn báo vằn
Lục phẩm nền hồng nhạn trắng gấu
Chánh thất phẩm nền hồng cò hổ con
Tùng thất phẩm nền xanh cò hổ con
Bát phẩm nền xanh gà lôi hải mã
Cửu phẩm nền xanh chim thuần tê ngưu. - Xiêm : Chánh thất phẩm trở lên : theo Ðại triều.
Tùng thất phẩm đến cửu phẩm : sa đoạn xanh, lục, tùy ý, viền lụa mầu, hai bên không thêu hoa tròn.
- Hia tất : Chánh thất phẩm trở lên theo Ðại triều.
Tùng thất phẩm đến cửu phẩm : hia theo phép thường, tất viền lụa mầu (31). * 1822 Thời Minh Mệnh :
Ðại triều : ngày mồng một và rầm ở điện Thái-hòa. Vua đội "mũ Cửu-long", áo bào vàng, đai ngọc.
Thường triều : ngày 5, 10, 20, 25 ở điện Cần-chính. Vua đội "khăn Cửu-long" kiểu nhà Ðường, áo tràng vạt sắc vàng kiểu nhà Minh, bổ tử thêu rồng vàng (32).
1824 Các quan nếu có tội bị giáng, cách, phải nộp trả phẩm phục được cấp.
1825 Mũ áo Cử nhân : "Mũ Tú tài" đính một hoa bạc đằng trước, một đằng sau ; "y" bằng nam sa cổ chéo giao lĩnh, lót áo lụa trắng ; "thường" ; võng cân (khăn bịt tóc) ; hia ; tất.
1833- Bài ngà: Bắt đầu cấp thẻ bài cho các quan và biền binh ở kinh qua lại Ðại-cung-môn để tiện kiểm soát :
Tam phẩm trở lên : Văn thì Lục Bộ Thượng thư, Tham tri, Thị lang, Ðô sát viện, Tả Ðô Ngự sử, Ðại lý tự khanh, Thừa-thiên phủ Phủ doãn... ; Võ thì Ngũ quân Chưởng phủ, Vũ lâm doanh, Thần sách quân, Thủy quân Thống chế, Kinh thành Ðề đốc, Phúc long hầu... bài ngà dài 1 tấc 3 phân, rộng 8 phân.
Tứ phẩm : Văn thì Lục Bộ nha Lang trung sung Nội các, Thị độc Học sĩ, Tế tửu, Tư nghiệp, Thái thường Thiếu khanh... ; Võ thì Doanh quân, Vệ quân, Kiêu kỵ Ðô úy, Vệ úy... bài ngà dài 1 tấc 1 phân, rộng 7 phân.
Ngũ phẩm trở xuống : Văn Lục Bộ Viên ngoại lang, Chủ sự, Tư vụ, Giám sát Ngự sử, Nội các Hành tẩu, Thị độc, Biên tu, Tu soạn, Thái y viện Ngự y... ; Võ thì Suất đội, Hiệu úy... thẻ dài 1 tấc, rộng 6 phân.
Văn : Lục Bộ thư lại, Thái y viện Y Chánh và Phó... Võ có biền binh... thẻ bằng sừng dài 9 phân, rộng 5 phân (33).
Riêng Thị vệ vẫn có thẻ bạc hay thẻ ngà và Cẩm y, Vũ lâm đã có áo mặc riêng để phân biệt thì không cần cấp thẻ.
1836- Nghi trượng :
Tổng đốc : được dùng 2 tán trừu mầu đỏ, 2 tán trừu mầu lục, 2 quạt vẽ bằng lĩnh tía, 1 đôi cờ bằng trừu lam vẽ con phi hổ tô mầu, 3 đôi cờ các mầu, 5 đôi gậy đốc sắt, 5 đôi nghi đao, 2 biển "Hồi Tỵ" (tránh đường quan trẩy), 2 biển "Túc tĩnh" (im lặng, nghiêm kính), 1 kiệu, 4 lọng xanh.
Tuần phủ : 1 tán trừu đỏ, 1 tán trừu lục, 2 quạt xanh, 1 đôi cờ đỏ, 1 đôi cờ lục, 3 đôi gậy đốc sắt, 4 đôi nghi đao, 1 biển "Hồi tỵ", 1 biển "Túc tĩnh", 1 kiệu, 2 lọng xanh.
Bố chánh : 2 tán lụa lục, 1 đôi cờ đỏ, 1 đôi cờ lục, 2 đôi côn quang dầu đỏ, 2 đôi đao đeo, 1 kiệu, 2 lọng xanh.
Án sát : 1 tán lụa lục, 1 đôi cờ đỏ, 1 đôi cờ lục, 2 đôi côn quang dầu đỏ, 2 đôi đao đeo, 1 kiệu, 2 lọng xanh (34).
1845 Mũ áo
a- Mũ áo Ðại triều - Văn từ lục phẩm trở lên, võ từ tam phẩm trở lên (những phẩm trật ở dưới không có áo đại trào) :
Bào : áo có hai cánh diều cứng đính hai bên sườn, phía trên thắt lưng. Mầu cổ đồng, thiên thanh, cam bích (tía) dành cho nhất phẩm và chánh nhị phẩm ; mầu quan lục dành cho tùng nhị phẩm đến lục phẩm, mầu bảo lam (sẫm), ngọc lam dành cho tam phẩm đến ngũ phẩm (mầu sắc dùng lẫn lộn, không theo đúng luật lệ).
Thường : mầu đỏ dành cho nhất, nhị phẩm ; mầu xích (hồng) dành cho tam phẩm ; mầu bảo lam cho tứ phẩm ; quan lục cho ngũ phẩm, ngọc lam cho lục phẩm, ngọc thạch cho thất phẩm.
Mũ : từ nhất phẩm đến thất phẩm, quan văn chóp tròn, quan võ chóp vuông..
Khăn để bịt tóc trước khi đội mũ (võng cân)
Ðai cốt bằng tre bọc đoạn đỏ đính 18 miếng hình vuông, tam giác hay bầu dục bằng đồng pha vàng, 3 miếng giữa bọc vàng khảm hoa một miếng vuông, hai miếng hình bầu dục, những miếng kia bọc đồi mồi, dành cho quan từ nhất phẩm đến tứ phẩm.
Hốt : ba phẩm đầu bằng ngà, phẩm dưới bằng gỗ. Hình dáng giống nhau, trang sức tùy ý.
Miệt (tất).
b- Thường triều :
Y bao giờ cũng mầu xanh lam cho cả quan văn lẫn quan võ.
* Mũ áo Trạng nguyên (Thiệu-Trị 1) :
Mũ : kết bằng tóc, mặt trước đính một hoa bằng vàng, mặt sau một hoa bằng bạc, một cầu bằng bạc, thẻ bằng vàng dát ngang, hai cánh chuồn (lưỡng sí) xung quanh viền bạc.
Bào : bằng gấm bát ti, hoa to, mầu lục.
Thường bằng đoạn dệt hoa lam.
Xiêm bằng sa, đoạn dệt hoa, mầu lam.
Bổ tử nền lụa đỏ thêu bạch nhạn (chim trĩ trắng).
Ðai bọc đoạn đỏ thẫm, đằng trước đính một miếng bằng bạc mạ vàng và hai miếng đằng sau bọc bạc, cả ba miếng đều mặt khảm đồi mồi, 7 miếng khác bọc đồng dát sừng đen.
Hốt bằng gỗ.
Hia, tất (35).
1847 Ðịnh lại kiểu mẫu bổ tử :
Nhất giáp Tiến sĩ thêu con hạc, đám mây ;
Nhị giáp Tiến sĩ chim ở nước mầu trắng ;
Tam giáp Tiến sĩ cò / chim ở nước (36).
1855- Phục dụng :
Tam phẩm trở lên : Tùy ý dùng nhiễu, đoạn, the, lĩnh, các hoa thêu đồng mầu, kiểu dệt hình mây, mãng sà, phượng ổ tròn, lân, hạc, thủy ba (sóng) đều được. Chỉ cấm dùng sắc vàng, rồng 5 ngón (dành cho vua).
Tứ, ngũ phẩm, Phủ, Huyện, Châu trở xuống không được mặc nhiễu, đoạn dệt hoa, sa dệt hình mây, mãng sà, phượng ổ tròn, lân, hạc. Cho dùng hàng Trung quốc trơn bóng, sa dệt hoa.
Lục, thất phẩm : hàng Trung quốc trơn, sa dệt hoa, hàng nam dệt hoa các kiểu.
Bát, cửu phẩm và chưa có phẩm hàm như Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân, Tú tài, Giám sinh, Tôn sinh, Ấm sinh, Chánh tổng : cho dùng hàng nam dệt hoa, sa hoa Trung quốc, chỉ cho may áo tay rộng để làm lễ phục, các hàng Trung quốc khác đều cấm. Các thứ nhiễu, sa nam mầu đỏ không được may làm xiêm (37).
CHÚ THÍCH
1- Phủ : cái búa, sống thêu mầu đen, lưỡi mầu sáng trắng, tượng trưng quyết đoán.
Phất : hình 2 chữ "kỷ" quay lưng vào nhau, ngụ ý so sánh (Kim y, Thi Kinh Quốc Phong, 429, 558).
"Phất" là hình hai chữ "dĩ" đối ngược nhau (Kinh Thi, I I, 1255-5).
2- Ngũ hành = kim, mộc, thủy, hỏa, thổ - Nguyễn Hiến Lê, Tư Mã Thiên, 135.
3- Kinh Thi, I I, 1255.
4- VÐLN, 454.
5- Thượng Thư, 40 - TQSC, 51.
6- VÐLN, 454.
7- VÐLN, 454 - TL, I I I, 283.
8- VÐLN, 205-10.
9- VÐLN, 454 - CM, I I I, 32
10- VÐLN, 211.
11- QCC, 103.
12- CM, I I I, 32 - Ngô Thì Sỹ, 102.
13- SKTT, I, 230 - Ngô Thì Sỹ, 127 - QCC, 104-6.
14- SKTT, I I, 87.
15- SKTT, I I, 197 - QCC, 107. An-Nam Chí Lược, 221-2 :"Văn ban thêm con cá vàng".
16- CM, VI, 21 ; VI I, 25 - Ngô Thì Sỹ, 171-2 - QCC, 106-7 - SKTT, I I, 197-9.
17- An Nam Chí Lược, 221-2.
18- SKTT, I I, 24.
19- QCC, 115.
20- SKTT, I I, 218 - Ngô Thì Sỹ, 279.
21- CM, XI, 7 - SKTT, I I I, 244 - QCC, 108.
22- SKTT, I I I, 296-302 - QCC, 108.
23- SKTT, IV, 18-19.
24- CM, XI I I, 7 - Lê triều hội điển.
25- QCC, 114.
26- QCC, 104.
27- QCC, 114-5.
28- QCC, 105.
29- Lê triều chiếu lịnh thiện chính, 199-249.
30- Tục biên, 78.
31- TL, I I I, 273-77.
32- TL, VI, 15.
33- TL, XI I, 127-8.
34- TL, XVI I I, 331-2.
35- BAVH, Juil-Sept 1916, theo Ðại Nam điển lệ toát yếu, 329.
36- TL, XXVI, 295.
37- TL, XXVI I I, 132-4.
NGỮ VỰNG
Áo cổn : Thời Thượng cổ ở Trung quốc gọi là "cổn y", áo thêu rồng, đầu rồng cuốn lại. Ở Việt-Nam, áo thêu rồng uốn khúc, cổ áo đính là trắng hay bông trắng kết lại, tràng áo cong (QCC, 104 - An-Nam Chí Lược, 221-2).
Áo mãng bào thêu rồng 5 móng (cho vua), 4 móng (cho quan).
Áo tấc: áo thụng lam có gợn sóng thủy ba ở gấu.
Áo tế: áo tấc lót áo trắng.
Áo thanh cát: lấy lá chàm nhuộm vải rồi đem củ nâu giã nhỏ lấy nhựa nhuộm lại, hồ qua loa, dùng chầy nện, vò kỹ rồi phơi khô gọi là "thanh cát y". Có 3 mầu : hỏa minh (mầu lửa sáng, xanh sẫm), mầu vi minh (hơi lợt), mầu quy sắc (mầu hoa quỳ, mầu sừng).
Theo Vũ Trung Tùy Bút thì thời xưa người thường và học trò mặc áo vải thâm, dân quê mặc áo vải trắng, nhưng thời Trung-hưng ai cũng mặc áo thanh cát, thứ nhất mầu hỏa minh, rồi đến vi minh, sau cùng là quy sắc, gập quốc táng xưa tất cả đều mặc mầu quy sắc, về sau ai cũng mặc quy sắc, chê hai mầu kia (VTTB, 76 - VÐLN, 455 - QCC, 108 - CM, XV, 100).
Bạch trạch : loài thú thần có tính thông linh, hiểu muôn vật, hình giống con nghê.
Bành voi: chỗ ngồi đóng trên lưng voi, có mui che.
Bào : áo có hai cánh diều cứng đính hai bên sườn phía trên thắt lưng.
Bát ty : một thứ vóc dệt bằng tơ thượng hạng, 18 sợi (Ðại Nam Ðiển Lệ, 319).
Bổ tử / Bổ phục / Lá phù : miếng vải đáp vào trước ngực hay sau lưng áo triều phục, thêu hình chim (cầm) cho quan văn, hình thú cho quan võ. 1471 Chánh phẩm thêu 2 con, tùng phẩm một con ; thời Nguyễn thì Chánh phẩm thêu một con, tùng phẩm thêu hai con.
Bộc đầu quan: (Chu) mũ có bốn góc và hai cánh chuồn. Xem "Mũ phác đầu".
Bồng la ngà : mui bành voi trên lưng voi.
Cánh diều: áo các quan có hai cánh ở cạnh sườn, trên thắt lưng (xem "Bào").
Chim thuần: một loại chim nhỏ, chim cúc (caille).
Chim trĩ: văn hoa.
Chương: áo trào ngũ sắc có vẽ nhật nguyệt, tinh tú, hoa điểu...
Ðoạn : hàng hơi bóng nhưng dầy cứng hơn lĩnh.
Gấm : hàng dệt có hoa như thêu.
Giải trãi:một giống thú rừng như con dê, có một sừng thẳng ở giữa trán, đời cổ dùng nó húc người gian tà vì nó có linh tính phân biệt được người ngay kẻ gian (CM, V, 95).
Hộ tất : cái đệm đầu gối để quỳ khỏi đau (Ðại Nam Ðiển Lệ, 319).
Hồi tỵ: Biển ra hiệu tránh đường cho quan trẩy.
Hốt : Vua quan cầm hốt trong tay nâng trước ngực lúc triều yết. Hốt của vua bằng ngọc, của chư hầu bằng ngà, của các quan bằng gỗ hay tre. Theo Kinh Lễ hốt của quan đại phu có chữ "tư đối mệnh" (phải làm hết bổn phận mình để đáp lại mệnh lệnh vua). Có chỗ nói mặt sau hốt ghi những việc cần tâu vua cho khỏi quên và có gương soi để chỉnh tề y phục khi vào chầu.
Kiệu có khi trỏ xe nhỏ có hai bánh xe, không phải riêng chỉ loại khiêng trên vai (QCC, 115, 117).
Lĩnh: hàng bóng và mỏng, như sa-tanh, thường dùng may quần / váy.
Lỗ bộ : xa giá của vua đi. Cũng có nghĩa đồ nghi vệ gồm binh khí, huy chương dùng khi quan trẩy.
Miệt: bít tất.
Mũ bình đính / Tứ phương bình đính : của quân lính bằng da, bốn bề khâu giáp lại, trên hẹp, dưới rộng, chóp phẳng, bốn góc vuông (CM, I I I, 7 - SKTT, IV, 156).
Mũ bình thiên : 4 góc có thao rơi hột bột.
Mũ chiết xung (từ đời Trần) : của quan võ từ lục phẩm trở lên.
Mũ cao sơn : (từ đời Trần) tựa như mũ viễn du nhưng không lõm, không có ống suốt, chánh phẩm dùng sắc đen, tùng phẩm sắc xanh. Cho các văn quan, tụng quan.
Mũ dương đường / dương thường : mũ ban võ khi vào chầu vua, như "mũ phác đầu" nạm hai cánh, chòm đằng sau cao lên, đính ong bướm vàng. Mũ của Hoàng Thái tử, Vương Thế tử đằng sau có hai cánh chuồn dát vàng.
Mũ đâu mâu : mũ trụ.
Mũ điêu thiền : tựa như mũ tiến hiền, có hai cầu, trang sức đính đuôi con điêu thử và con ve vàng. Dành cho quan tam phẩm các Ty và Ngự sử đài, quan ngũ phẩm của hai Sảnh.
Mũ chữ đinh: (thời Trần đến Lê vẫn còn, theo kiểu mũ nhà Minh) mầu đen, thông dụng cả quan văn võ, nha lại, chỉ phân biệt ở cái giải thắt, tức là thêm giải khăn lụa tía lẫn mầu biếc dùng để buộc chân tóc, bỏ thừa về đằng sau.
Mũ giải trãi / linh trãi : tựa như mũ tiến hiền, đính sừng con giải trãi, có hai cầu. Cho các quan từ lục phẩm đến tứ phẩm đội khi tế lễ, triều hội.
Mũ khước phi : (Trần) cao 7 tấc, bằng cật tê, bên dưới co lại. Cho Ngự sử đội.
Mũ lá đơn: khăn quấn một tao.
Mũ lá kép : khăn quấn nhiều tao.
Mũ mã vĩ: dùng lông đuôi ngựa kết lại. Cho các hoàng thân đội mùa xuân, mùa hạ.
Mũ mao dùng trong quân.
Mũ miện: cho vua dùng, mũ tế dài như cái ống (để dấu búi tóc). Ðời Chu : trên chụp kín đầu, dài một thước sáu tấc, rộng tám tấc, đằng trước tròn, sa xuống 4 tấc, đằng sau vuông, hớt lên 3 tấc. Mũ miện đi với áo cổn, trước sau đều 12 tua, mỗi tua có 12 viên ngọc, lấy dây tơ nhiều sắc để xâu ngọc. Nước ta đến Lê Thái Tông mới chế mũ miện, sau lại không dùng.
Mũ miễn (miện ?) : cho các quan, bằng vàng hay bạc, hoặc vàng bạc xen nhau. Từ đại liêu quan trở xuống, đi với áo cổn. Ðời Trần đại lễ mới dùng, lúc thường chỉ đội khăn, mặc áo tía (An-nam Chí Lược, 221).
Mũ ô sa: bằng sa mầu đen, kết bằng tóc, thêu chỉ đen lồi lên, hai cánh hơi hướng về phía trước, không được làm ngang hay lệch. Cho quan võ đội khi vào chầu chúa (QCC, 105-8 - Lê triêuchiếu lịnh... 109, 199).
Mũ phác đầu / phốc đầu / bộc đầu quan : Ðời Ðường bằng sa / the lượt như hình cái núi có dải rủ xuống, sau thấy mềm nên làm cốt bằng nan gỗ. Ban đầu 4 góc 4 tai (2 tai vểnh về phía trước, 2 vểnh về phía sau), sau làm tai ngang ra có dây thép đỡ cho cứng, như hình mũ cánh chuồn. Trang sức bằng cầu vàng hay bạc, đính hoa vàng / bạc đằng trước, đằng sau, hai cánh viền vàng bạc. Thời Trần : hai cánh bằng sa đen, hơi dài và to ; thời Nguyễn : Văn : mũ tròn, Võ : mũ vuông (TL, I I I, 273-4 - CM, I I I, 82).
Mú phương sơn (Hán) giống mũ tiến hiền. Ðời Ðường, Tống : ẩn sĩ, như Tỏ Ðông Pha, dùng.
Mũ phương thắng : (Trần) mầu đen. Cho tôn thất đội.
Mũ thái cổ: (Trần) bằng vải thâm, của người mới gia quan đội.
Mũ tiến hiền(bậc hiền tài được tiến cử) : bằng vải thâm, đằng trước cao 7 tấc, đằng sau 3 tấc, dài 8 tấc. Có 5 cầu trang sức. Cho các quan nhất, nhị phẩm đội khi tế lễ hay triều hội.
Mũ Tô Ðông Pha: mũ vuông có hai giải đằng sau (ÐN Ðiển Lệ, 327).
Mũ toàn hoa: hoa thủng, mầu xanh có hai vòng vàng đính hai bên.
Mũ trãi quan: cho quan chấp hành pháp lệnh (giải trãi giữ gìn phép tắc).
Mũ Tú tài : Thời Minh-Mệnh) có một hoa bạc đính đằng trước, một hoa đính đằng sau.
Mũ viễn du : (Trần) Mũ của vương hầu, cao 9 tấc, thân mũ đứng thẳng, đỉnh hơi lõm, vòng sắt có ống suốt ngang để tháo ra.
Mũ xung thiên : (từ Trung-hưng) như mũ phác đầu, có hai cánh trỏ lên trời, vua chúa dùng khi có lễ lớn (lên ngôi, tiến tôn, ban chiếu...).
Nhiễu: hàng tơ mỏng, mềm nhũn.
Phất : (hình hai chữ "kỷ" quay lưng lại nhau, ngụ ý so sánh, cân nhắc (theo Kim Y Phạm Lệ Oanh), song Kinh Thi lại giáng là hình hai chữ "dĩ" đối ngược nhau (xem chú thích 1).
Phủ : búa, sống thêu mầu đen, lưỡi mầu sáng trắng, tượng trưng quyết đoán.
Phủ việt: búa nhỏ (phủ), búa to (việt).
Sa : hàng mỏng như the trông suốt qua được.
Thủy ba: gợn sóng, thường viền gấu triều phục.
Thường : quần ngắn che chỗ kín, xiêm (VÐLN, 164), nhưng theo tranh vẽ của Tôn thất Sa (BAVH) thì giống cái áo, có cổ tròn.
Tiến tôn: tôn bậc dưới lên bậc trên.
Tiết mao: cờ hiệu lệnh, cán cờ trên có đầu rồng cong xuống treo những tua kết bằng lông trắng, thả chùng.
Tôn di : cái đỉnh, cái vạc (ÐN Ðiển Lệ, 321).
Triều hội : ra triều để hội triều thần.
Trừu : một loại hàng mịn hơn nhiễu.
Túc tĩnh : phải giữ yên lặng, nghiêm kính.
Tứ phương đầu cân : khăn có bốn góc vuông.
Võng cân : khăn lượt chít đầu, chỉ quấn một vòng để bịt tóc bên trong, bên ngoài đội mũ.
Xe Thái bình: (1045) xe rộng lớn, dát vàng vào bồng la ngà (mui bành voi).
Xiêm : thường được dịch là váy, hay quần ngắn, cũng có chỗ gọi là "thường".
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 19, 2010 9:03:47 GMT 9
Một góc văn học bị bỏ quên: hai nhân vật Lý Toét và Xã Xệ. Wednesday, May 12, 2004 Nguyễn Văn Lục (Kỳ 1) LTS: Bài viết dưới đây là tài liệu được công bố trên mạng lưới Talawas. Văn chương trào phúng là một thứ dị ứng, đố kỵ với cái mới quá và nhất là cái cũ mà rích. Văn chương đó gắn liền với thực tế xã hội nhất định của một thời đại. Nó phản ánh xã hội đó, nó phóng chiếu và đưa ra cái nhìn xoi mói, giễu cợt về thực tại xã hội, nhìn ra được những nét thô kệch, dị hợm đã quá đát, hoặc quá tải của một thời. Nhiều người nói nó là tấm gương phản chiếu xã hội cũng không xa lắm đâu. Nhưng nó vẫn nhằm mục đích tối hậu là vui đùa, là diễu cợt, dí dỏm hóm hỉnh. Không đạt được điều đó, nó thành thứ văn chương phê bình có dao thớt, có đâm chặt mất vui. Cái khó là ở chỗ đó. Vì thế, thời xưa Aristote đã nói một câu đáng đời: hài ước là biểu tỏ một trình độ khôn ngoan và tri thức cao. 1. Trào phúng dị ứng với cái rởm Mỗi khi cười là cười cái rởm, cái ngờ nghệch, cái khác người, cái không giống ai. Không ai lại đi cười cái bình thường. Trong cuộc sống nối tiếp cái cũ cái mới, cứ thế nối đuôi nhau, hết cũ rồi mới và mỗi lần có thay đổi tạo ra những xung đột liên tục. Ðó là vấn đề xung đột mới cũ muôn thuở. Cái mới hôm nay sẽ trở thành cái cũ ngày mai và cái cũ đó tạo cớ cho một cái mới sẽ hình thành. Nhưng khi có những người lụt đụt đi tụt hậu, hoặc bảo thủ về đời sống, về cách suy nghĩ, ăn mặc của họ khác người, lúc đó nó trở thành cái rởm và trở thành đối tượng của trào phúng. Cái rởm nhiều khi có thể tha thứ được vì là chuyện nhỏ, chuyện cá nhân, chuyện của một người. Trào phúng nhân kích nó lên, phóng to thêm, tô đậm thêm, trở thành chuyện xã hội. Bao giờ trào phúng cũng là cái quá tải của cái rởm. Nghĩa là có một nó xít ra mười. Chẳng hạn sống bên này mà ăn xong cứ xỉa răng vung vít như múa gậy. Từ chỗ xỉa răng nói quá thành múa gậy, chỗ đó là trào phúng. Nhưng mới quá đôi khi cũng trở thành quá tải, chướng mắt mọi người, cũng trở thành trào phúng. Nhớ hồi ngoài Bắc, trước 1954, tôi thấy phụ nữ nào mặc quần xa tanh hay lụa trắng để hằn cái quần lót bên trong, tự nhiên bản thân tôi đánh giá thấp về phẩm giá đạo đức người đó. Ðúng là rởm. Nhất là tóc phi dê thì đích thị là me Tây rồi. Người ta gọi giễu là “đội rế” trên đầu. Ðội rế là hài ước đấy. Vào đến trong Nam, chỗ nào cũng thấy các cô mặc quần trắng, tóc uốn quăn lại thấy đẹp, cái ống quần trắng lốp, ống rộng đến một người chui vô lọt đến ham nuốt nước bọt muốn chui vô cho rồi, lại nổi hằn cái mông lên. Lúc đó lại không cười, vì ai ai cũng mặc giống nhau. Và nghĩa là chỉ thành trò cười, dù nó rởm khi nó là thiểu số. Chẳng hiểu nếp sống xã hội thay đổi hay cái đầu tôi thay đổi. Biên giới tốt xấu, giá trị đạo đức nằm ở chỗ nào trong tôi ở hai thời kỳ mà trước là xấu, sau là tốt. Rầy rà thật. Khi người ta tiếp xúc với cái mới thì cái cũ trở thành rởm, quê mùa cổ lỗ. Cái búi tó củ hành của đàn ông vào thời 1930 trở thành cái rởm, trò cười cho thiên hạ. Hiểu thế, cũ đồng nghĩa với xấu, gàn dở hủ lậu cần bỏ. Mới đồng nghĩa với tốt, tiến bộ, đẹp, đáng theo. Chính trong cái lúc giao thời đó, lúc mới cũ còn trong vòng tranh cấp mà trào phúng có mặt. Trào phúng của Tự Lực Văn Ðoàn (TLVÐ) là nhằm bêu giễu cái cũ, cổ xúy cái mới. Cái cũ qua hình ảnh Lý Toét, Xã Xệ mà đặc điểm là thủ cựu, quê mùa, dốt nát, gàn dở, ăn mặc lôi thôi, lếch thếch. Quần ống cao, ống thấp, đi đâu cũng cắp cái ô. Cái mới được nâng cao qua hình ảnh Loan và Dũng trong Ðoạn Tuyệt, trong Nửa Chừng Xuân hay Hồn Bướm Mơ Tiên. Nhưng như trên đã nói, mới cũ là chuyện tương đối, mới đó rồi cũ đó, mới hôm nay cũ ngày mai. Cuộc sống mỗi ngày mỗi thay đổi, mới cũ đan vào nhau tạo thành những khủng hoảng tiến bộ đến độ không bao giờ có mới cũ rõ rệt. Cái rõ rệt là cái giao thời đến nỗi có thể nói thời nào cũng là giao thời cả. 2. Lý Toét Xã Xệ, biểu tượng xã hội mới cũ của một thời Ngày nay, nói đến Lý Toét, Xã Xệ nhiều người không nhớ nữa. Hoặc có còn nhớ cái tên là cùng. Bài này, xin cùng với độc giả gợi lại cả một thời, dựa vào một số hình ảnh tài liệu cũ mà tôi nuối tiếc gọi bằng một tên: Một góc văn học kể từ 1930 đến 1945 đã bị bỏ quên. Quên thật. Sách văn học sử từ Dương Quảng Hàm đến Phạm Thế Ngũ, tài liệu giáo khoa, tài liệu báo chí, gần như chẳng còn ai nhắc nhở đến thời kỳ văn học mang bóng dáng Lý Toét, Xã Xệ nữa. VỀ NGUỒN GỐC CỦA LÝ TOÉT VÀ XÃ XỆ Nhiều người có thể lầm cho rằng hai nhân vật này có mặt đầu tiên trên tờ Phong Hóa trước khi có tờ Ngày Nay của TLVÐ Không phải vậy. Tưởng thế là lầm. Hai ông có mặt trong một vở gọi là Chèo cải lương vào khoảng năm 1930. Lúc đó Lý Toét lại đóng vai ông Lý Ðình Dù. Lý Ðình Dù tức là ông lý trưởng làng Ðình Dù. Chức lý trưởng, xã trưởng chỉ thuộc tổ chức hành chánh miền Bắc mà thôi, trong Nam không có chức như thế. Ông lý trưởng đại diện trung gian giữa chính quyền cấp trên và dân làng ở dưới, dưới lý trưởng có phó lý, có mộc triện và có bọn khán thủ, trương tuần lo việc tuần phu, canh gác an ninh và đề phòng trộm cướp. Cứ như thế thì mọi việc trên làng, trên dưới một tay lý trưởng, trên đội dưới đạp. Từ việc ăn uống an ninh, nhất là thuế má, một tay lý trưởng cả. Trên là bọn chánh phó tổng đến các ông tiên chỉ, thứ chỉ. Chức xã trưởng chỉ là chức vị mà người ta có thể bỏ tiền ra mua, mua rồi thì miễn phu phen tạp dịch. Làng có đình đám thì được ngồi chiếu trên. Ðến thời Pháp thuộc thì có cải tổ hành chánh, có hội đồng xã với xã trưởng, bên cạnh có ông hương sư lo việc dạy học và ông thủ bạ lo việc sổ sách Câu hỏi đặt ra ở đây, thế thì hà cớ gì người ta lại mang ông ra làm trò giễu cợt. Thói thường dân chỉ biết có ông, thu thuế cũng ông nên cứ ông mà ghét mà oán mà thật ra ông chỉ là tà lọt cho ở trên chỉ đâu đánh đó. Ông là thiểu số so với dân làng. Không có thiểu số một bên, đa số một phía, không có trào phúng. Ông trở thành đối tượng cho người ta chê cười, đùa nghịch giễu cợt cũng như anh mõ. Cho dù thế nào đi nữa, cũng phải tìm ra một nhân vật tế thần. Chọn ông là phải, vừa được nhiều người biết và nhất là nhiều người ghét, đồng thời ông là biểu tượng cuối cùng của cái còn sót lại như cái gai cần phải nhổ. Ông chạy đi đường nào được. Không chọn ông thì chọn ai. Trong dân gian nói chung, người ta thường chỉ nói tới hai ông Lý Toét và Xã Xệ làm ta mường tượng đến Laurel, Hardy về cái vẻ bề ngoài Một anh mập phì, một anh gầy bé. Cũng đúng đấy. Nhưng thật ra, thời đó còn một nhân vật nữa mà đại đa số chúng ta đã quên, quên đứt mất. Tôi xin giúp ông đội mồ sống lại và phục hoạt danh giá cho ông. Ông là ai, thưa là ông Bang Bạnh. Trong ba người thì Bang Bạnh khốn khổ nhất, vì bị người đời ghét cay ghét đắng. Thứ nhất bởi gốc gác của ông. Theo một số người xấu mồm đồn thổi thì ông chỉ là thứ tà lọt, thứ lính canh. Nhưng ông có cái tài chỉ mình ông có được là thức khuya không buồn ngủ, hay có ngủ thì ông ngủ đứng. Ðể ông canh gác, ông vẫn đứng mà ngủ thành không anh trộm nào dám ló mặt ra. Làng nước được yên. Chỉ nhờ cái tài đó mà ông được thăng trương tuần và đến năm sau được bầu làm chánh tổng. Nào đã xong. Có lần trời mưa tầm tã kéo dài ngày này qua ngày khác đến nước sông dâng lên muốn lụt. Ông ra hộ đê cứ đứng trông mà thật ra ông vẫn ngủ. Ông sứ tình cờ đi quan sát vào lúc tờ mờ sáng vẫn thấy ông tận tụy đứng ở đó, ông sứ cảm động quá khi nhìn thấy một người chức sắc tận tụy với dân, khi về bèn tức khắc phong ông lên chức bang tá. Ông có cái tên Bang Biện từ đó. Bang Biện mà người ta gọi chệch ra Bang Bạnh thì xỏ lá quá. Người đời bắt đầu xầm xì ghen với ông, ghét ông từ đó. Ông cũng mập chả thua Xã Xệ. Nhưng người ta ghét ông nên từ cái khăn vuông đội đầu, đến ánh mắt nhìn của ông, người ta cũng xếp loại: đồ ti hí mắt lươn, giai thì trộm cướp, gái buôn chồng người. Không có cái mắt mở ti hí đó làm sao ông ngủ đứng được, làm sao ông leo lên chức bang tá được. Rồi cứ thế, miệng người đời, có một đồn mười: nào ông ăn mặc chẳng khác một ông quan, đi xem diễn binh thì trèo mẹ nó lên cột đèn cho thoải mái, chẳng giống ai. Ði tắm biển thì ông sai vác một cái ghế cao cẳng, cao đến hơn thước, ngồi chễm chệ trên đó. Dưới là đám thị dân tắm. Thật chẳng giống ai. Tắm ông không xuống biển, cứ mặc cả quần áo, rồi sai người làm xuống biển múc nước rồi ngồi trên đó giội nước kỳ cọ. Một lô cái không giống ai nữa, chướng nữa, lố nữa. Chừng ấy cái không giống ai, chừng ấy cái chỉ mình ông dám làm. Bị mang ra làm trò cười là cái chắc. Chỉ có thế mà người ta ghét cay, ghét đắng ông. Nay đã thành danh, theo thói đời, ông cũng mượn tay một anh nhà nho viết cho cái câu đối treo giữa nhà. Ông gặp một anh thâm nho xỏ lá (pince sans rire) viết tặng câu sau đây: Vạn lý trưởng thành. Câu đó đã được anh đồ nho giải nghĩa cho ông là muốn ví ông có công đức chẳng khác gì bức trường thành ở Trung Hoa bảo vệ cho dân lành khỏi giặc giã cướp bóc. Có lý lắm. Ðắc ý ông treo bức trướng lên giữa phòng khách. Có biết đâu, anh nhà nho có thêm dấu hỏi vào chữ “trường” thay vì dấu huyền. Hai chữ đó nhắc nhở cái gốc gác của ông trước đây chỉ là chân lý trưởng quèn chứ hay ho gì. Dĩ nhiên, quý vị cũng hiểu là chế Bang Bạnh cũng là để giễu những chức sắc trong chính quyền, vốn xuất thân chả ra gì nay một bước lên cao... Nhưng dù sao, cũng vẫn thấy tội nghiệp cho Bang mà còn Bạnh nữa. VAI TRÒ CỦA LÝ TOÉT XÃ XỆ TRONG VĂN CHƯƠNG TRÀO PHÚNG Kể từ khi Lý Toét đóng vai ông Lý Ðình Dù, bỗng nhiên ông trở thành nổi tiếng như một tài tử màn bạc Ông bắt đầu xuất hiện trên một số lớn báo chí miền Bắc đạo mạo như Nam Phong, Phong Hóa rồi nhất là Ngày Nay... Ðặc biệt nhất, nhiều tranh giễu của ông được dân Pháp ưa chuộng nên ông lại xuất hiện thường trực trên báo Tây nữa, mà xuất hiện ngay trang bìa. Lý Toét, Xã Xệ chễm chệ trên báo Tây. Thật là kỳ lạ. Ông Lý Toét chuyên môn chửi Tây lại được báo Tây đăng mới đáng nói chớ. Chửi mà được người ta thích, người ta mê. Cái sự nổi tiếng trong suốt mười mấy năm, báo chí đăng mỗi ngày đã hơn hẳn những Út Trà Ôn, Thành Ðược, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Khánh Ly, Thái Thanh và thêm Nguyễn Cao Kỳ nữa cộng lại. Mặc dầu Thái Thanh, Khánh Ly còn đó, tôi vẫn phải mạo muội xúc phạm đến danh tiếng của hai bà. Mặc dầu ông Nguyễn Cao Kỳ được cả trong lẫn ngoài nước nói qua nói lại. Tôi vẫn giữ lời, tôi nói không sai, nói có sách mách có chứng. Ðã có lần trong một kỳ thi, chẳng biết thi gì, tiểu học, hay tú tài, ông giám khảo đã hỏi thí sinh: Sau khi vua Lý Thái Tổ băng hà, trò cho biết ai đã lên kế vị Lý Thái Tổ. Câu hỏi có vẻ bắt bí, hơi khó, anh học trò còn đang ậm ọe thưa: Lý... Lý... Lý gì thì anh chưa nhớ ra. Ông giám khảo không kiên nhẫn, thấy bực nhưng nhắc khéo... Lý này bắt đầu bằng chữ T... Anh học trò sướng quá, phá ra cười, nhớ ra được rồi nói thật to: Thưa ... Lý Toét! Nhưng hình các ông Lý Toét thì đều có gương mặt, điệu bộ như tuồng giống nhau cả. Ðúng thế, thật ra chỉ có mình họa sĩ Mạnh Quỳnh vẽ thường xuyên cho các báo, rồi sau này, nhiều báo theo cái nét chính đó để mô phỏng hình Lý Toét Xã Xệ. Các ông được phổ biến rộng rãi đến độ không biết ai là tác giả các hình vẽ nữa. Vì báo nào cũng đua nhau vẽ hoặc thuê vẽ. Người ta thích các ông đến độ mở tờ báo là lật ra xem trước hình vẽ tếu về Lý Toét Xã Xệ. Mua báo là để mua đọc và xem hình Lý Toét và Xã Xệ chẳng khác gì bây giờ, nhiều người mở tờ báo mỗi tuần ra là xem cáo phó, xem ai chết và nhất là xem ai còn sống. Anh chết đã đành, anh sống thì muốn nhắc nhở mọi người: ta còn đây này. Ðó là nền văn học hải ngoại phúng điếu. Nói đứng đắn ra thì có thể nói, bên cạnh cái nội dung văn chương viết, có một chỗ đứng không nhỏ cho một loại hình văn học dựa trên các hình phóng họa hài ước, như sau này có họa sĩ Chóe chẳng hạn. Không có nó, tờ báo kém hấp dẫn, bớt độc giả. Nó là cần câu cơm của tờ báo. Ðồng thời nó biểu thị bộ mặt xã hội của một thời kỳ. Thời kỳ từ 1930 đến 1945. Nhìn Lý Toét, Xã Xệ là nhìn một xã hội của thời kỳ đó thu gọn lại. VỀ NỘI DUNG TRÀO PHÚNG Hình ảnh Lý Toét, Xã Xệ là hình ảnh xã hội những năm 1930-45 thu hẹp lại với hai thế giới Thế giới của xã hội cũ và mới. Hai ông là điển hình cho cái xã hội cũ đang suy thoái với những vụng về, lố bịch, buồn cười qua cái bề ngoài khăn đóng áo dài, cắp cái ô, người ốm tong teo, lưng khòm... Ðeo kính xệ xuống, râu ria mọc bừa bãi, nói nhăng nói nhít, ngớ ngẩn, nhận xét dấm da dấm dớ đến lố bịch buồn cười. Nó có cái gì quá đáng, nó có cái gì quá tải, có cái gì vượt quá cái bình thường, cái chưa chắc đã có thật ngoài đời. Nhưng đó lại là điều kiện ắt có và đủ của nghệ thuật trào phúng. Trào phúng mà như tả chân, nói thật, có cái gì nói cái đó thì ai cười cho được [1] . Vì thế, hình ảnh Lý Toét đã được kích xấu lên nhiều lần, thô kệch hóa cả con người từ hình dáng, điệu bộ, cử chỉ, tính nết. Thuộc đến đâu xin viết đến đó: Ông Lý Toét mà cắp cái ô Ði ra phố gặp lúc mưa to Có bác Xã Xệ mà muốn đi nhờ Tay thì vời vợ, miệng thét bô bô Kìa ông Lý, thục nhĩ ra sao. Gọi như thế mà chẳng xem sao Giá có cúp rượu thì đến chơi liền Ði nhờ một tý thì cứ vênh vênh Ô ông Xã thật rõ lôi thôi Ô tôi năng cụp mà bất năng xòe Năng dựng đầu hè mà bất năng treo Nội dung chê cái quê mùa của Lý Toét Theo tôi, có lẽ đây là điều mà các nhà văn, nhà báo nhắm vào Lý Toét. Họ muốn khai thác triệt để cái dốt, cái quê mùa, cái không thích ứng không theo kịp đà tiến của văn minh xã hội bấy giờ. Chê thì dễ rồi, nhưng làm thế nào chê mà vẫn thấy lố bịch buồn cười mới được. Tài là ở chỗ đó. Cái đề tài “tỉnh” với “quê” cũng là một trong những đề tài được sử dụng nhiều lần, nhiều trường hợp. “Tỉnh” đồng nghĩa với văn minh, tiến bộ, theo mới. “Quê” đồng nghĩa với chậm lụt, dốt nát. Khi người ta gọi ai là “nhà quê” là theo cái nghĩa đó.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 20, 2010 6:58:33 GMT 9
Những Câu đối Tết Hay Tết, Nghệ thuật thư pháp “Thiên tăng tuế nguyệt, niên tăng thọ Xuân mãn càng khôn, phúc mãn đường” (Trời thêm tuổi mới, năm thêm thọ Xuân khắp càn khôn, phúc khắp nhà) “Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo Ma vương đưa quỷ tới, Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước Xuân vào” (Hồ Xuân Hương) “Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa, Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà" (Nguyễn Công Trứ) “Tối ba mươi, giơ cẳng đụng cây nêu Ủa ! Tết ! Sáng mồng một, lắng tai nghe lời chúc Ồ ! Xuân !” () “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” () - Phước thâm tự hải (hạnh phúc nhiều sâu như biển) - Lộc cao như sơn (của cải nhiều cao như núi) Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân. () Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ Nhân bách hạnh hiếu vi tiên. (Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa Xuân; Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết.) Xuân tha hương, nhấp giọt rượu sầu, nhớ vòm trời đất nước ! Tết xứ người, hớp ngụm cafe đắng, thương mảnh đất quê nhà ! (Quảng Ngôn) Tân niên hạnh phúc bình an tiến Xuân nhật vinh hoa phú quý lai Nghĩa là: Năm mới hạnh phúc bình an đến Ngày Xuân vinh hoa phú quý về. Ðuột trời ngất một cây nêu, tối ba mươi ri là Tết Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mồng một rứa cũng Xuân (Nguyễn Công Trứ) Ðấp gốc cây cao, Tết đến thắp hương thơm đèn sáng, Khơi nguồn nước mát, Xuân về dâng trái ngọt hoa thơm. Tối ba mươi, nợ réo tít mù, ấy mới Tết, Sáng mồng một, rượi tràn quí tị, ái chà Xuân. Tết có cóc gì đâu, uống một vài be củ tỏi, Nợ đâm ương ra đó, nói ba bốn chuyện cà riềng. (Nguyễn Công Trứ) Ba vạn sáu ngàn ngày, góp lại chốc đà trăm bận Tết, Một năm muời hai tháng, ước chi đủ cả bốn mùa Xuân. Nực cười thay! Nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà Tết, Thôi cũng được! Rượu có, nem có, bánh chưng đều có, thừa Xuân. (Tú Xương) Ủa! Tết đến rồi đó, chẳng lẽ trơ cùi cùng tuế nguyệt, Kìa! Xuân sang đấy ư, thôi đành mở múi với giang sơn. Ngào ngạt mùi hương, dẫu tại đất người, không mất gốc, Lung linh ánh lữa, dù xa quê cũ, chẳng quên nguồn. Xuân vẫn còn dài, hướng đến tương lai vùng đất mới, Tết dù đã ngắn, quay nhìn dĩ vãng cảnh người xưa. Già trẻ gái trai đều khoái Tết, Cỏ cây hoa lá cũng mừng Xuân. Chúng nó dại vô cùng, pháo nổ đì đùng thêm mất chó, Ông đây khôn bất trị, rượu say túy lúy lại nằm mèo (Nguyễn Khuyến) Đêm 30 nghe tiếng pháo nổ... Đùng !... ờ ờ... Tết Sáng mùng 1 ra chạm niêu đánh... Cộc !... á à... Xuân Xuân tha hương, sầu thương về quê mẹ Tết xa nhà, buồn bã nhớ quê cha Tết với chả xuân, sáng mì gói tối mì gói, sợ vợ buồn ngán mà không bỏ nuốt vội để mà no Dậu rồi thì Tuất, xưa kéo cày nay kéo cày, lo chủ đuổi mệt chẳng dám ngưng làm nhanh không mất việc. Số lông vịt xác xơ, tiền chỉ mấy xu, sắm nào được gì, nên không mong tết Đời ve chai tan nát, tuổi đà dăm bó, cho có ai thèm, mới chẳng tiếc xuân. Đêm ba mươi, đếm tờ lịch, ba mươi tờ buồn xa tháng cũ Sáng mồng một, ngắm cành mai, đơn một cành vui đón năm mới. Khoai lang sùng nhúng bột… chiên, đậm đà vị mứt mốc, thẫn thờ tưởng nhớ tết quê cha Hột mít sượng lùi tro… nướng, thoang thoảng mùi chè thiu, đờ đẫn mơ màng xuân đất mẹ. Tết tha hương có bánh chưng, bánh tét sao không thấy tết Xuân viễn xứ cũng cành đào, cành mai mà chẳng gặp xuân. Trời thêm tuổi mới, người thêm thọ Xuân khắp mọi nơi, phúc khắp nhà Niên hữu tứ thời, xuân vi thủ Nhân sinh bách hạnh, hiếu vi tiên _________________ TRAN QUANG HAI Nhac si & Dân tộc nhạc học gia
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 27, 2010 5:34:31 GMT 9
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 27, 2010 5:46:26 GMT 9
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 16:21:40 GMT 9
Xướng ca vô loài Nguyễn Dư Sách vở thường nói rằng xã hội Việt Nam ngày xưa có "Sĩ, nông, công, thương". Như vậy là còn thiếu. Người ta đã cố ý không kể một hạng người là bọn xướng ca vô loài vì không biết sắp xếp bọn này vào đâu cho ổn. Xướng ca bị coi là vô loài, bị khinh rẻ không thua gì thằng mõ. Bị khinh từ năm xửa năm xưa, từ thời vua Lê Nhân Tôn (1447) xa tít. "Dân Thanh Hóa thấy vua đến, trai gái đem nhau hát rí ren ở hành tại. Tục hát rí ren một bên con trai, một bên con gái, dắt tay nhau hát, hoặc tréo chân tréo cổ nhau, gọi là cắm hoa kết hoa, thói rất là xấu. Đài quan Đồng Hanh Phát bẩm với thái uý Khả rằng: "Lối hát ấy là thói dâm tục xấu, không nên cho người hát nhảm ở trước xa giá". Khả liền sai cấm hẳn." (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư, tập 3, Khoa Học Xã Hội,1968, tr. 139). Trai gái bá vai bá cổ nhau ca hát là thói dâm tục rất xấu, cấm không được nhảm nhí trước kiệu vua. Muốn tốt đẹp, trang nghiêm thì... vào cung vua mà múa với hát! Năm 1462, vua Lê Thánh Tôn quy định rằng "Nhà phường chèo con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan, có tiếng xấu, bản thân và con cháu đều không được đi thi, nếu mang sách hay mượn người làm hộ, thì trị tội theo luật." (Đại Việt sử kí toàn thư, sđd, tr.183). Phường chèo, con hát được bỏ cùng một rọ với đám phản nghịch, ngụy quan, có tiếng xấu. Cứ đà này thì có ngày mất mạng như chơi chứ chẳng đùa. Luật lệ nghiêm khắc và vô lí của Lê Thánh Tôn đã đẩy một số người trở về làng cũ học cày cho xong, học chữ thánh hiền chỉ tổ toi cơm tốn gạo. Phường chèo, con hát bị vùi dập có lẽ chỉ vì: "Xã hội ta xưa quan niệm lũ xướng ca vô loài là một tầng lớp vô luân. Họ bị coi là vô luân không phải vì họ sa đọa, chính sự sống của họ cũng không phải là sa đọa, mà chỉ vì những vai trò của họ đóng khi xướng hát: họ bị coi là vô luân ở đây vì người con có thể đóng một vai vua và người cha đóng vai bày tôi quỳ lạy, anh em ruột có thể đóng đôi vợ chồng, và vợ chồng lại có thể đóng vai mẹ con hoặc cha con... Tất cả cái vô luân là ở đây, ở đấy luân thường đã không còn nữa, mặc dầu chỉ trong những lúc trình diễn." (Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, Khai Trí, 1969, tr. 429). Mặc dù bị vua quan và nhà nho khinh ghét, mặc dù không được đi thi để ra làm quan lớn, bọn phường chèo, con hát vẫn tiếp tục hành nghề và vẫn được nhiều người dân thường ưa thích. "Khoảng năm Cảnh Hưng, phường hát chèo bội mới pha thêm lối tuồng, cũng đóng vai trò vẽ mặt ra múa hát đùa cợt, không khác gì ở hí trường. Các nhà tang gia hay đua nhau mượn phường chèo đóng tuồng để khoe khoang.Các quan chính phủ ghét hung lễ lại dùng lẫn lộn cả cát lễ, bèn nghiêm cấm, đã hơn mười năm. Đến năm Canh Tuất (1790) lại thấy dân gian bày trò hát bội ấy. Các con nhà lương gia tử đệ có người bỏ cả chức nghiệp đi theo học hát, khăn áo dáng bộ như đàn bà, thường khi ở nhà cũng nghêu ngao tập hát chèo, trước mặt khách cũng không thẹn thò gì cả. Lại còn trò đánh bạc chọi gà sinh ra nhan nhản. Tập tục đến thế thật đáng buồn!" (Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, Văn Học, 1972, tr. 57). May thay... cơ trời vần xoay, rồi cũng đến một ngày mai sáng sủa hơn. "Lệ cũ, cứ con nhà hát xướng không được vào nhà học hiệu, thi đỗ ra làm quan. Tiếc rằng không mở rộng đường cho kẻ tuấn dị tiến thân, để thu lấy nhân tài xuất chúng. Từ khi Lộc Khê Hầu (Đào Duy Từ) là con nhà hát xướng, vì không được ra thi, mới lẻn vào giúp nhà Nguyễn ở trong Nam, bấy giờ những kẻ đương sự mới hối rằng cái cách tìm kiếm nhân tài như thế là không rộng. Nhưng cũng chưa công nhiên bãi bỏ lệ cũ. Từ khi bà Trương quốc mẫu, người Như Kinh, là kẻ hát xướng được tuyển vào cung hầu Tần Quang Vương, sinh ra Trịnh Nhân Vương (Trịnh Cương), Biện trưởng cung, người Á Lữ, sau lại đắc sủng với Nhân Vương, nên các họ về giáo phường mới được kể bằng hàng với các họ nhà lương gia. Sau này các họ nhà đại khoa hiển hoạn cũng thường có người do giòng họ hát xướng mà phát đạt lên, nên những kẻ sĩ phu cũng cùng họ giao du tự nhiên, và rồi những nhà hát xướng cũng quên hẳn thế hệ nhà mình tự đâu mà ra. Xem đó thì biết thế vận phong tục mỗi ngày một khác." (Vũ trung tuỳ bút, sđd, tr. 79-80). Phải công nhận là... mê gái cũng có cái hay! Bên trên mê gái thì bên dưới cũng được nhờ! Vua chúa một khi quen hơi đào hát thì bao nhiêu cái nhảm nhí ngày xưa bỗng chốc được dẹp qua một bên. Luật lệ được tẩy xóa. Xin cảm ơn và tuyên dương cô đào hát họ Trương! Giọng ca tiếng hát và có lẽ cả thân hình của cô đã cảm hóa được lòng người, phá bỏ được bất công. Nhờ cô mà con cháu mở mày mở mặt. Nhưng thói đời, bia miệng thì cứ trơ trơ. Mặc dù vua chúa đã thôi lấy thịt đè người, đè con hát từ lâu rồi, nhưng thành kiến xướng ca vô loài vẫn cứ bám rễ trong đầu nhiều người đến tận đầu thế kỉ 20. Mẹ và em gái Tản Đà bất đắc dĩ phải "đắp đổi tháng ngày bằng điệu phách câu ca", bị "người ta hùa cả nhau vào bài xích việc xướng ca là việc giăng hoa đĩ bợm." (Nguyễn Mạnh Bổng, 1944). Bỗng dưng xướng ca lại được tặng thêm hỗn danh đĩ bợm. Tại sao vậy? Xướng ca có liên hệ gì với đĩ à? Vậy đĩ là gì, là ai? Trong văn học, người Tàu gọi các cô làm nghề xướng ca là kĩ nữ. Kĩ nữ nguyên nghĩa chỉ là người con gái làm nghề ca xướng, múa hát. Chữ kĩ (bộ nữ) của tiếng Hán được ta đọc Nôm thành đĩ. Kĩ nữ của Tàu trở thành Con đĩ của ta. Kĩ nữ và con đĩ là hai chị em ruột. Con đĩ ngày xưa chỉ có nghĩa là người con gái làm nghề hát xướng chứ không phải là con đĩ làm nghề mại dâm như ngày nay! Thật hay đùa vậy? Xưa kia, trước khi làng mở hội cho mọi người vui chơi thì các vị chức sắc phải tổ chức tế lễ ngoài đình. Có rước phụng nghênh hồi đình (rước long kiệu từ miếu về đình) rất long trọng. Nghi trượng gồm nào cờ quạt, voi ngựa, nào bát bửu, cờ biển. Rồi đến phường đồng văn đánh trống, gõ thanh la, theo sau là mấy người con gái, đôi khi là con trai giả gái, vừa vỗ trống vừa múa hát gọi là con đĩ đánh bồng. Theo sau con đĩ đánh bồng là cờ vía, lọng vàng, lệnh kiếm, phường bát âm, long đình, kiệu thánh... và sau cùng là bô lão, chức sắc của làng. (theo Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Đồng Tháp, 1990, tr. 96-100). Xem vậy thì vai trò của con đĩ ngày xưa cũng không có gì là tệ lắm, được múa hát diễn hành trước cả long đình, kiệu thánh, các bô lão, chức sắc của làng. Nếu chỉ múa hát thôi thì chẳng có gì là xấu. Có xấu chăng là kể từ ngày các con đĩ bị giới trưởng giả, mấy ông trí thức mời về nhà hát. Chính những vị tai mắt, khoa bảng, đã mở đường hoặc tiếp tay làm biến chất, làm hư các con đĩ. Buổi hát ban đầu rất lịch thiệp. Các quan ăn uống vui chơi, các cô hầu rượu, múa hát những bài do các quan yêu cầu. Hồng Hồng Tuyết Tuyết Mới ngày nào còn chửa biết chi chi Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì Ngảnh mặt lại đã đến kỳ tơ liễu (...) (Dương Khuê, Hồng Tuyết) Những chầu hát cô đầu dần dần bị những người thiếu tư cách biến thành nơi cợt nhả, bá vai gối đùi. Nhân sinh quý thích chí Còn gì hơn hú hí với cô đầu (...) Chơi cho thủng trống tầm bông. (Trần Tế Xương, Chơi ả đào) Rồi chẳng bao lâu, buổi hát chỉ còn là cái cớ cho những trận trác táng, tằng tịu, dâm loàn. Cũng ra đĩ rạc Bấy lâu nay đã toác toạc toàng toang Chán chê rồi về đến đầu làng Toan tấp tểnh những đường tu lý (...) (Trần Tế Xương, Đĩ rạc đi tu) Con đĩ vốn chuyên nghề hát xướng dần dần trở thành gái làng chơi. Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ Trời sinh ra cũng để mà chơi Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời Chơi thủng trống long dùi âu mới thích (...) Mai sau này giỗ có văn nôm Cha đời con đĩ cầu Nôm. (Nguyễn Khuyến, Đĩ cầu Nôm) Các nhà hát tư mọc lên, lập thành xóm cô đầu. Vàng thau lẫn lộn, khó mà phân biệt được con hát thật với con gái làng chơi. Từ đây trở đi người ta đồng hóa đĩ với gái làng chơi, gọi gái làng chơi là đĩ. Sự biến chất này cũng tương tự như ý nghĩa của từ Thanh lâu (lầu xanh) và Hồng lâu (lầu hồng). Lầu xanh lúc đầu dùng để chỉ nhà sang trọng. Đến khoảng đời Đường thì được dùng để chỉ nơi ở của kĩ nữ. "Như vậy thì ngày nay Thanh Lâu không còn có nghĩa là nhà cao cửa đẹp mà chỉ có nghĩa là nhà kĩ nữ." (Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954), và cuối cùng trở thành: Lầu xanh có mụ Tú bà, Làng chơi đã trở về già hết duyên (Nguyễn Du, Kiều) Lầu xanh rõ ràng đã trở thành nơi chứa gái làng chơi, gái giang hồ. Ngảnh mặt lại lầu xanh thương những kẻ Trầm luân chưa khỏi kiếp hồng nhan (Tôn Thọ Tường, Đĩ già đi tu) Từ điển Génibrel (1898) và Gustave Hue (1937) cũng chép lầu xanh là maison de prostitution (nhà đĩ, nhà thổ). Lầu hồng xưa kia là chỗ ở của con gái nhà giàu: Đêm ngày lòng những giận lòng Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên (Kiều) Sau này lầu hồng cũng bị trở thành maison des chanteuses (nhà chứa con hát), và sau cùng là nhà chứa đĩ. Giang hồ từ thủa mười lăm, Đến năm mười chín còn nằm trông xuân, Xuân kia còn độ mấy lần, Tấm thân phơi chốn bụi trần mà thương (...) (Hoàng Ngọc Phách, Giọt lệ hồng lâu) Nhà chứa đĩ thời Tây được gọi là nhà đỏ, nhà thổ. Chữ thổ không phải là chữ Hán, cũng không phải là chữ Việt. Thổ là âm của tiếng Pháp tolérance (cũng như thổ mộ là âm của tombereau). Nhà thổ tức là maison de tolérance (nhà chứa đĩ) của Pháp. Xã hội ta thích ứng thật nhanh chóng với mọi hoàn cảnh! Vị Xuyên có Tú Xương Dở dở lại ương ương Cao lâu thường ăn quỵt Thổ đĩ lại chơi lường. Tú Xương đã nắm bắt được chuyển biến của xã hội đương thời, đưa một dịch vụ ăn khách là thổ đĩ vào văn học. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) định nghĩa "nhà chứa" là nơi nuôi gái mãi dâm, tổ chức cho gái mãi dâm hành nghề, trong xã hội cũ. Đúng ra thì phải gọi là gái mại dâm (gái bán dâm), các ông đi chơi gái thì gọi là khách mãi dâm (khách mua dâm). Nhầm lẫn người mua với người bán âu cũng là thói quen đã có từ lâu. Nhưng nếu phân biệt được chủ với khách, người cho với kẻ nhận thì vẫn hơn. Nhất là trong thời buổi nhiễu nhương có cả các cậu, các ông bán dâm cho người cùng phái. Người Hà Nội gọi các cô gái điếm thời Tây là đượi. Có người cho rằng đượi là nói trại của đười (con đười ươi, cùng họ với khỉ, tườu) vì các cô điếm đầu tóc bù xù, nửa người nửa ngợm, nửa đười ươi. Giải thích này nghe không xuôi tai vì phần đông các cô đượi đều ăn mặc hấp dẫn, son phấn, đầu tóc chải chuốt, phi dê (frisés). Có như vậy mới mong câu được khách chứ. Đầu bù tóc rối như đười ươi (mà đã có ai được thấy đầu tóc đười ươi chưa nhỉ?), thì đến tượng đồng đen, cột nhà cháy nó cũng chê, thì làm sao mà bán trôn nuôi miệng được? Có lẽ đượi chỉ là biến âm của đĩ mà thôi. Đọc trại với ý khinh bỉ và phân biệt. Đượi là me tây, đĩ là me ta. Đượi và đĩ còn có tên là gái ăn sương. Tên nghe khá lãng mạn, nói lên được nỗi vất vả lúc đêm khuya thanh vắng. Kiếm ăn chung với các cô đượi là bọn ma cô (maquereau), bọn bồi xăm (chambre). Thời Pháp còn có nhà Lục xì. Vũ Trọng Phụng viết tiểu thuyết Làm đĩ (1936) và phóng sự Lục xì (1937) nhưng tiếc rằng Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (Văn học, 1987) không đăng những truyện này nên rốt cuộc vẫn không biết Lục xì là gì. Cái phiền của tuyển tập là vậy! Người khác chọn giùm mình. Cho đọc cái gì thì đọc cái ấy! Tra tìm trong từ điển Hán, Nôm thì không thấy Lục xì. Từ điển Gustave Hue có từ Lục xì nhưng lại không giải thích, chỉ cho biết Lục xì là một từ phon. (tôi đoán phon. là viết tắt chữ phonétique, nghĩa là đọc theo âm). Nếu vậy thì Lục xì có thể là âm cuối của chữ syphilis (bệnh hoa liễu, còn gọi là giang mai, nôm na là bệnh lậu hay tim la). Nhà Lục xì là nơi khám bệnh hoa liễu cho các cô điếm thời Tây. Thực dân Pháp đem vào nước ta một loại kĩ nữ mới là vũ nữ, các cô gái nhảy, ca ve (cavalière). Gái nhảy phải biết... nhảy đầm, không cần biết hát. Các cô hành nghề tại các đăng xinh (dancing). Ông nào chồn chân muốn nhảy thì mua vé, chọn gái nhảy. Nhiều cô... làm thêm giờ phụ trội, nhảy cả tại phòng riêng. Trở lại với các nàng kĩ nữ. Chữ kĩ ban đầu còn có nghĩa, còn được dịch là ả đào, đào hát, con nữ phường chèo. Sau này được dịch thẳng là đĩ, con gái mại dâm (Đào Duy Anh), con đĩ nhà thổ (Thiều Chửu). Kĩ nữ và con đĩ, tuy là đồng hội đồng thuyền, cùng là xướng ca vô loài nhưng cũng được phân biệt đối xử. Những lúc hứng bốc lên dạt dào thì thi sĩ gọi bọn này là kĩ nữ nghe cho thanh tao, lãng mạn! Nói đến kĩ nữ là người ta liên tưởng đến những số phận long đong, lỡ làng. Một kĩ nữ gảy khúc tì bà đã làm xúc động ông tư mã Giang Châu. Một kĩ nữ lênh đênh trên sông Hương ngợp ánh trăng đã làm mềm lòng nhiều thế hệ: Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa; Vội vàng chi, trăng sáng quá, khách ơi! Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời Khách không ở, lòng em cô độc quá. Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả Tay em đây mời khách ngả đầu say, Đây rượu nồng. Và hồn của em đây Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử. ... Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt. Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi. Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi Gỡ tay vướng để theo lời gió nước. Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt. Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi Du khách đi. -Du khách đã đi rồi! (Xuân Diệu, Lời kỹ nữ) Người ta dễ thông cảm, xót thương cho số phận các nàng kĩ nữ và dửng dưng thậm chí khinh bỉ các nàng kĩ nữ nhập tịch Việt Nam, trở thành con đĩ bình dân! Thành ngữ, ca dao của ta có rất nhiều câu ám chỉ bọn gái đĩ già mồm. Sau những trận chơi cho thủng trống tầm bông, cho toác toạc toàng toang, các ông không quên núp sau lưng vợ, lên mặt đạo đức khuyên các cô làm đĩ chín phương, để một phương lấy chồng. Kẻ ít học cũng a dua nói leo vài câu vô nghĩa: Đĩ xơ đĩ xác, đĩ xạc đĩ xờ Đĩ ở trên bờ, đĩ lặn xuống ao Cũng có người thành thực hơn, ra mặt chê nhưng đúng hơn là ganh tị với đĩ : Làm đĩ có tàn, có tán, có hương án thờ vua, có chuông chùa niệm Phật. Toàn là chê, chửi, trách đĩ. Tha hồ cho sướng miệng! Ngày xưa người ta gọi trẻ con là thằng cu, cái đĩ. Cu là dương vật. Đĩ là gái làng chơi. Cu và đĩ mang nghĩa xấu, được mê tín ngày xưa dùng với mục đích để ma quỷ chê đứa bé, không ám hại nó. Ngôn ngữ hiện đại có từ kép đĩ điếm. Điếm nghĩa là cái kho, cái nhà chứa đồ. Đĩ điếm là từ kép nửa Việt nửa Hán, có nghĩa là nhà chứa đĩ hay là ổ mại dâm. Gái làng chơi có thêm tên gọi tắt là gái điếm. Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã hóa thân nàng kĩ nữ thành con đĩ, con điếm. Người xưa đồng hóa con hát với đĩ điếm và gọi bọn này là xướng ca vô loài. Năm 1945, bộ trưởng bộ Giáo Dục-Mĩ Thuật Hoàng Xuân Hãn đã làm một cuộc cách mạng văn hóa, đưa hát xướng vào chương trình bậc trung học. Hát xướng trở thành môn học bắt buộc. Xướng ca chính thức thoát khỏi cái nhục vô loài. Ngày nay nước ta có trường dạy âm nhạc, kịch, tuồng, chèo, cải lương. Đủ các bộ môn xướng ca. Nghệ sĩ xuất sắc được tặng danh hiệu, gắn huân chương. Ai dại mồm dại miệng tuyên bố xướng ca vô loài chắc sẽ bị cả triệu người tát cho vỡ mặt. Như vậy là nước ta hết đĩ rồi chăng? Hết làm sao được! Ngày nào còn các cậu, các ông lang bang, thèm của lạ thì ngày đó còn các cô, các bà làm cái nghề xưa nhất trên mặt trái đất này! Xướng ca vừa được phục hồi danh dự, được tôn vinh thì xã hội lại đẻ ra các nàng sờ nách ba (snack bar), bia ôm, mát xa (massage)... Có người mua thì có kẻ bán, còn người bán thì còn kẻ mua. Ngoạn mục thay cái đèn cù của kinh tế thị trường! Có điều lạ và bất công là phường chèo, gánh hát có cả kép hát nhưng ngôn ngữ bình dân gần như bỏ quên bọn này. Sách vở của ta chỉ đả động đến con đĩ chứ không nói đến thằng đĩ. Không biết xã hội phong kiến ngày xưa có kĩ nam không? Ngày nay thì nhiều nước có. Không những có kĩ nam mà còn có cả kĩ sư ! Ấy chết, xin đừng vội hiểu lầm là các ông các bà kĩ sư là... bậc thầy của đĩ ! Chữ kĩ (bộ thủ) của kĩ sư viết khác chữ kĩ (bộ nữ) của kĩ nữ. Kĩ sư là người có tài năng, chuyên về một kĩ thuật gì. Các cô kĩ nữ, các ông kĩ nam tân thời có tên gọi đáng yêu là ca sĩ. Sĩ này được trọng vọng hơn cả sĩ của "Sĩ, nông, công, thương". Thần tượng của vô số người. Dưới ánh đèn mờ, khói thuốc âm u, nhạc dìu dặt, mơ màng nghe các cô hát, các cô ca, các cô la, thỉnh thoảng được ngắm một cái ngoáy, một cái ưỡn thì chao ôi...xướng ca quả là sướng quá! Nguyễn Dư (Lyon, 3/2003)
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 3, 2010 16:17:51 GMT 9
Đám tang ở các nước (12/03/2010) (TNTT>) Đám tang ở Việt Nam thường có những nghi lễ khá rườm rà và ồn ào. Còn ở nước ngoài, họ tổ chức đám tang như thế nào? Nghi lễ đám tang có từ bao giờ? Có từ ít nhất 300 ngàn năm trước đây. Những bộ xương có niên đại đó được phát hiện ở hang Shanidar (Iraq), hang Pontnewydd (Xứ Wales) có phủ một lớp phấn hoa, điều đó cho thấy người chết được chôn cùng hoa và các đồ vật. Đa dạng sắc màu Từ đó, nghi lễ đám tang trên thế giới được đa dạng hóa theo sự ra đời của các nền văn minh, sự phát triển của xã hội, sự phân hóa thành các dân tộc, tôn giáo. Tôn giáo đóng vai trò lớn nhất trong việc hình thành nghi lễ đám tang: nghi lễ kiểu đạo Phật, đạo Thiên chúa, đạo Hindu, đạo Hồi... Cách thức an táng thì cũng có nhiều kiểu: địa táng, hỏa táng, kim táng, điểu táng, thiên táng, thủy táng, tượng táng, phong táng cũng dựa vào tập tục từng vùng và tôn giáo của từng dân tộc. Ví dụ, người Tây Tạng trước đây an táng người chết theo kiểu điểu táng, nghĩa là lóc thịt từ xác người chết ra để cho chim điêu ăn. Giải thích dựa vào thiên nhiên thì vùng đất này khô cằn khó đào để chôn, cây cối cũng không nhiều để làm củi thiêu xác trong khi chim điêu thì rất sẵn. Còn giải thích dựa vào tôn giáo thì người Tây Tạng quan niệm khi xác được chim ăn vào bụng và bay đi khắp nơi như vậy thì linh hồn người chết sẽ mau chóng được siêu thoát trong không trung. Ở vùng cao nguyên Scotland, người chết được chôn với một cái đĩa bằng gỗ đặt trên ngực, trên chiếc đĩa là một nắm muối và một nắm đất. Thân thể người chết sẽ bị phân hủy thành đất trong khi linh hồn người chết sẽ không bao giờ tan rã, như những hạt muối. Nhìn chung, mỗi tôn giáo, cộng đồng người như Tây Tạng hay Scotland đều có những cách giải thích rất phù hợp về nghi lễ đám tang của họ. Ý kiến... * Nhân đọc loạt bài Nghi lễ đám tang - Xem TN TT> từ 9.3.2010 Sợ nhất là những đám ma kéo dài cả tuần lễ, làm khổ lối xóm không chịu được. Nhà tôi lại có những 2 đứa trẻ con, mỗi lần trong xóm mà có đám ma thì y như rằng tôi phải bế con lên nhà ngoại ngủ cả tuần, nếu không thì 2 nhóc sẽ giật mình khóc liên tục trong đêm vì tiếng kèn nhạc đám ma cứ mở ầm ĩ từ sáng tới tận khuya, dỗ dành thế nào cũng không được. Đám ma là chuyện buồn, hãy để nó trôi qua nhanh chóng, lặng lẽ thì mới đúng chứ._Nguyễn Thị Kim (35 tuổi, Bình Thới, Q.11) Tôi cũng đã từng nghĩ đến việc viết di chúc và ghi cụ thể những chuyện nên làm, không nên làm trong đám tang của mình. Vì đã từng đi những đám tang quá lố bịch rồi nên tôi cũng không muốn mình sau khi chết cũng như vậy. Thiết nghĩ, đám tang thì chỉ cần mở những bài hát nhẹ nhàng, âm lượng vừa phải trong 1-2 ngày là được rồi, mấy nghi lễ rườm rà cũng nên được lược bỏ bớt, để đỡ tốn kém cho người sống và thanh thản nhẹ nhàng cho người chết. Trần Văn Hiếu (hieumk...@gmail.com) Hình thức an táng phổ biến nhất là địa táng nhưng hiện nay quỹ đất ngày càng thu hẹp dần, do đó hỏa táng đang dần chiếm ưu thế. Theo thống kê, năm 2005 có 99,82% người chết ở Nhật Bản được hỏa táng ở các đài hóa thân. Với những người theo đạo Hindu ở Ấn Độ thì nguyện vọng cuối cùng trong cuộc đời là được tắm nước sông Hằng, được hỏa thiêu bên bờ sông Hằng và tro cốt sau đó được rải xuống dòng sông mẹ này. Dù vậy, hỏa táng không được ủng hộ ở mọi nơi. Người Do Thái tin rằng linh hồn của người bị hỏa thiêu vĩnh viễn không bao giờ tìm được sự yên tĩnh. Những người tiến bộ trong việc bảo vệ môi trường gần đây đang cổ súy cho hình thức "an táng xanh". Họ lý luận rằng trong một nghĩa trang 6 héc-ta có chứa số gỗ đóng quan tài đủ làm 60 ngôi nhà, gần 1.500 tấn kim loại làm quan tài và 30.000 tấn bê-tông xây huyệt mộ. Số lượng chất thơm, chất bảo quản thi hài trong nghĩa trang này dồn lại được một bể bơi lớn và đó là những hóa chất gây hại cho đất, nguồn nước. Do đó, họ đề xuất "an táng xanh" với quan tài bằng giấy cạc-tông cùng vải liệm có thể phân hủy được nhằm bảo vệ hệ sinh thái và tránh lãng phí. Trong thời đại này, người phương Tây thường khoán nghi lễ đám tang của thân nhân họ cho một công ty tổ chức tang lễ chuyên nghiệp. Các nghi lễ này được làm rất bài bản, có nhạc, có thiệp, có màn hình để chiếu ảnh hay video lúc sinh thời của người quá cố. Những người ở xa không dự được đám tang thân hữu của họ thì có thể gửi thiệp chia buồn đến thân quyến người quá cố, có cả những công ty chuyên viết thiệp hoặc điếu văn. Tại một nhà tang lễ ở New York gần đây còn áp dụng công nghệ internet để cho những người ở xa viếng "live" thân hữu của họ. Ngành ăn nên làm ra Trên thế giới mỗi năm có khoảng 50 triệu người chết vì những lý do khác nhau, sang hay hèn thì hầu hết đều muốn có một nghi thức tang lễ. Vì thế, ngành công nghiệp tổ chức tang lễ ở nhiều nước là ngành rất ăn nên làm ra. Ở nhiều nước, các nghiệp đoàn tổ chức tang lễ hằng năm trao các giải thưởng cho những công ty phục vụ chu đáo nhất, cho những sáng kiến mới. Từ năm 1999, Hiệp hội tang lễ quốc tế IFA bắt đầu trao giải thưởng thường niên của họ ở nhiều hạng mục khác nhau. Công ty tang lễ lớn nhất thế giới có lẽ là Service Corporation International (SCI) có trụ sở chính ở Houston (bang Texas, Mỹ), ra đời năm 1968. Cách đây 10 năm, họ đã sở hữu 3.823 nhà tang lễ, 525 nghĩa địa, 198 đài hóa thân ở 20 quốc gia trên 5 lục địa. Năm 2006, SCI bỏ tiền sáp nhập đối thủ cạnh tranh của họ ở Mỹ là Alderwoods Group. Hiện nay, SCI có gần 15.000 nhân viên, doanh thu hằng năm gần 2,5 tỷ USD. Cổ phiếu của SCI hiện đang niêm yết trên sàn chứng khoán New York. Cách tổ chức tang lễ chuyên môn hóa này đang lan rộng ra khắp thế giới. Tất nhiên, vẫn có những nơi từ chối nó, như nhiều nước ở châu Phi chẳng hạn. Tại Kenya, 55-70% dân số kiếm dưới 1 USD/ngày nhưng họ tổ chức đám tang cho người chết kéo dài đến 5 ngày. Trong những ngày đó, gia quyến phải mổ dê, cừu đãi khách. Mỗi đám tang là một gia đình khánh kiệt, ngập trong nợ nần có khi cả đời chưa trả hết. Đó là một trong những nguyên nhân khiến châu Phi nghèo vẫn hoàn nghèo. (Nguồn: creative-funeral-ideals.com) Những đám tang đáng nhớ Đám tang tốn nhiều sinh mạng nhất: Khó có ai vượt qua Tần Thủy Hoàng, hoàng đế nổi tiếng của Trung Hoa. Theo Sử ký, con của Tần Thủy Hoàng là Nhị thế hoàng đế đã đem tất cả những người trong hậu cung không có con đem chôn cùng Tần Thủy Hoàng (số người này phải vài nghìn vì mỹ nữ của cả 6 nước bại trận thời Chiến quốc đều bị Tần Thủy Hoàng đem về cung). Ngoài ra, rất nhiều thợ xây lăng mộ Tần Thủy Hoàng cũng bị chôn sống để giữ bí mật. Đám tang đông người đưa tiễn nhất: Theo kỷ lục Guinness, đám tang của Conjeevaram Natarajan Annadurai, người đứng đầu bang Tamil Nadu (Ấn Độ) có nhiều người đưa tiễn nhất với con số15 triệu người. Annadurai qua đời ngày 3.2.1969, thời điểm mà truyền hình chưa phát triển. Đám tang có người dự đông thứ hai là của giáo chủ Iran, Ayatollah Khomeini với khoảng 12 triệu người. Khomeini qua đời ngày 3.6.1989, ông đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Hồi giáo của Iran vào năm 1979 và là người lãnh đạo tối cao của Iran về cả thần quyền và thế quyền cho đến khi qua đời. Đám tang của Giáo hoàng John Paul 2 có 4 triệu người đổ về Rome và Vatican cầu nguyện chia buồn (ảnh). Đó là con số khổng lồ cho quốc gia nhỏ nhất thế giới này. Ngoài ra còn có 8,8 triệu người theo dõi trực tiếp qua truyền hình. Umm Kulthum là người phụ nữ có đám tang đông người dự nhất. Ngày 5.2.1975, có hơn 4 triệu người đổ về Cairo tiễn đưa ca sĩ, diễn viên và nhà soạn nhạc tài hoa này. Cho đến giờ, Umm Kulthum vẫn được coi là ca sĩ xuất sắc nhất thế giới Ả Rập. Tiếp đó là đám tang của công nương Diana (6.9.1997) với hơn 3 triệu người đưa tiễn. Đám tang có người theo dõi nhiều nhất là của danh ca huyền thoại Michael Jackson (7.7.2009). Chỉ có gần 2 vạn người đưa tiễn nhưng lượng người theo dõi trực tiếp qua truyền hình lại đạt con số khổng lồ 2,5 - 3 tỷ người. Hồ Khuê
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 7:51:31 GMT 9
Trâm cài đầu của phụ nữ - Một hiện vật giàu tính văn hóa Trâm cài đầu là một vật dụng quen thuộc của người phụ nữ ở nhiều dân tộc. Nó vừa là vật dụng để giữ cho tóc gọn gàng vừa là đồ trang trí. Nhưng đối với người phụ nữ Thái đen ở Sơn La thì trâm cài đầu còn là một vật chứng trong lễ “Tẳng cẩu”( lễ búi tóc ngược lên đỉnh đầu khi đã có chồng), một nghi lễ để lại nhiều dấu ấn không phai mờ trong suốt cả cuộc đời họ.
Lễ “ Tẳng cẩu” được tổ chức tại nhà gái, trước khi làm lễ đón dâu về nhà chồng. Đây là một nghi lễ được người Thái đen hết sức coi trọng, do đó, dù gia đình giàu hay nghèo, lễ ‘ Tẳng cẩu” vẫn được chuẩn bị đầy đủ và tổ chức hết sức trang trọng . Trước ngày cưới, nhà trai chuẩn bị 1 sải piêu, 1 sải khít ,1 đôi vòng tay bạc, 1 đôi hoa tai bạc, 1 chiếc nhẫn vàng hoặc bạc, 1 trâm cài tóc, 1 chiếc gương con, 1 chiếc lược sừng và 1 lọn độn tóc đem sang nhà gái tặng cô dâu. Sáng ngày làm lễ “Tẳng cẩu”, nhà trai cử một đoàn sang nhà gái gồm 3-5 thiếu nữ trẻ đẹp, 3-5 thiếu phụ khoẻ mạnh, tháo vát, am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán và thông thạo động tác búi tóc ngược cho cô dâu mới. Phía nhà gái cũng có số người tương ứng , trong đó có 2 thiếu nữ làm phù dâu, thường là bạn thân của cô dâu. Lễ “Tẳng cẩu “ được thực hiện theo từng bước rất cụ thể, chặt chẽ và độc đáo. Trước tiên là phần gội đầu cho cô dâu mới. Vào một buổi sáng đẹp trời, khi sương đã tan, ánh mặt trời đã trải rạng rỡ trên khắp núi rừng thì tại “Ta bản’ ( bến nước của bản bên bờ suối), hai cô gái phù dâu sẽ giúp cô dâu xõa tóc và gội đầu bằng “ Nặm khảu má” ( nước ngâm gạo nếp) đựng sẵn trong ống tre nứa cùng với nước đun lá bưởi, lá xả, tre ngà, hương nhu, long não. Dưới làn nước trong mát của dòng suối, cô dâu thả tóc xuôi dòng để “xák phôm” (rũ tóc) với ý niệm để nước suối cuốn trôi đi tất cả những gì mòn cũ của ngày hôm qua để nhẹ nhàng, trong sạch bước qua một cuộc sống mới. Gội xong, cô quay tròn vồng tóc trên không để mái tóc văng hết nước, chóng khô. Sau đó, cô vấn tóc quanh đầu rồicùng chúng bạn trở về bản. Từ chân cầu thang, cô đã được đón rước và bước chậm rãi lên từng bậc thang lên nhà sàn. Đến ‘ tang chan”( ngoài sàn) cô ngồi vào giữa một hàng ghế mây, hướng về phía mặt trời mọc. Hai thiếu nữ phù dâu cùng phụ nâng chiếc khay đựng đồ trang sức do nhà trai mang sang. “ Nai cẩu”, là người được chọn để tẳng cẩu cho cô dâu đứng ở phía sau lưng cô dâu, nhẹ nhàng chải tóc rồi dùng hai tay vuốt ngược tóc từ phía sau gáy lên kèm theo lọn tóc độn và búi cuốn chặt lại từ trái sang phải hoặc ngược lại. Khi búi tóc đã hoàn chỉnh, “ Nai cẩu” khẽ nâng chiếc trâm bằng bạc xuyên búi tóc để giữ cho cẩu không thể xổ rối tung ra được và chiếc trâm bạc xinh xắn nổi bật trên nền đen óng mượt của búi tóc của cô dâu mới. Lễ “Tẳng cẩu” đã xong, “Nai cẩu” khẽ hát những lời dặn dò yêu thương và chúc mừng hạnh phúc cho tình yêu đôi lứa. Mái tóc dài, chải cho mượt Búi ngược lên thành “ Tẳng cẩu” Từ nay về sau, người đã có chồng Nước không đổi dòng, lòng không đổi hướng, con ơi. Từ đây, chiếc trâm cài đầu gắn bó với người phụ nữ Thái đen như hình với bóng. Mái tóc được “tẳng cẩu” là dấu hiệu của người phụ nữ đã có chồng, và muốn “ tẳng cẩu’ được phải có cái trâm cài đầu. Với người phụ nữ dân tộc Lự ở Bình Lư (Tam Đường, Lai Châu) thì chiếc trâm cài đầu ngoài chức năng là một vật dụng để giữ tóc, mang ý nghĩa làm đẹp, là một bộ phận của đồ trang sức của phụ nữ, trâm cài đầu còn là lễ vật của gia đình nhà trai mang sang nhà gái, tặng cô dâu trong ngày cưới. Họ cũng dùng khái niệm tẳng cẩu để chỉ các búi tóc ngược trên đỉnh đầu của người phụ nữ nhưng hoàn toàn không có ý nghĩa là dấu hiệu của người phụ nữ đã có chồng như người Thái đen.Các cô gái ở đây khoảng 14,15 tuổi là bắt đầu tẳng cẩu , bắt đầu dùng trâm cài đầu. Do tập quấn tóc từ bé nên các em có thể tự quấn tóc được mà không cần phải ai giúp. Cũng chính vì vậy mà họ không có nghi lễ tẳng cẩu như người Thái đen. Chiếc trâm cài đầu này thường do bố mẹ sắm cho con gái từ lúc nhỏ hoặc khi đến tuổi làm đẹp (14,15 tuổi, cũng là lúc các cô gái bắt đầu nhuộm răng đen). Trâm cài đầu có nhiều chất liệu, có thể là bạc, ngà, xương hoặc gỗ, thậm chí bằng lông nhím, ngày nay họ thường dùng trâm cài đầu bằng nhôm. Nhà nào khá giả thì tặng con trâm cài đầu bằng bạc, bằng ngà. Nếu nghèo khó hơn thì tặng con trâm cài đầu bằng những chất liệu rẻ tiền hơn. Còn trong ngày cưới, chiếc trâm cài đầu do gia đình nhà trai mang sang tặng cô dâu thường bằng bạc và có một sợi dây xích nhỏ bằng bạc.Trong ngày cưới, cô dâu sẽ dùng cả hai chiếc trâm cài đầu (một do bố mẹ tặng lúc nhỏ và một do nhà trai mang tặng). Sau ngày cưới, họ thường dùng chiếc trâm cài đầu do bố mẹ tặng, còn chiếc kia sang trọng hơn chỉ thường dùng khi dự đám cưới, hội hè... Những chiếc trâm cài đầu này sẽ theo họ suốt cả cuộc đời. Người già 80, 90 tuổi, tóc rụng lơ thơ cũng vẫn dùng trâm cài đầu. Cũng giống như người Lự, người Lào cũng dùng trâm cài đầu với chức năng và ý nghĩa như vậy. Tuy nhiên, trâm cài đầu của người Lào ở bản Phiêng Hào, xã Mường Khoa, huyện Than Uyên, Lai Châu còn có một điểm khác. Thay vì là một đồ dùng được bố mẹ tặng khi đến tuổi làm đẹp thì các cô gái Lào được tặng trâm cài đầu từ khi mới 1 tháng tuổi và chiếc trâm này sẽ do ông ngoại tặng cháu gái trong lễ đầy tháng. Khi đứa trẻ được một tháng tuổi, gia đình thắp hương cúng tổ tiên, lễ vật có gà, xôi và rượu và làm cơm mời họ hàng, người thân đến dự lễ đầy tháng của cháu bé và cũng là lễ đặt tên của trẻ. Nếu là bé gái thì trong lễ đặt tên cho trẻ, ông ngoại thường tặng cháu đồ trang sức như trâm cài tóc, hoa tai, vòng đeo tay. Nhà nào khá thì tặng cả 3 thứ, nhà nào không có thì tặng cháu 1, 2 thứ và thường họ tặng trâm cài tóc để sau này khi cháu lớn thì“tẳng cẩu” (tuy nhiên, với người Lào, tẳng cẩu chỉ có ý nghĩa là búi tóc ngược lên đỉnh đầu, hoàn toàn mang ý nghĩa làm đẹp của phái nữ chứ không hề có ý nghĩa như là một dấu hiệu đặc trưng cho người phụ nữ đã có chồng như “tẳng cẩu” của người Thái đen). Điểm qua 3 chiếc trâm cài đầu của phụ nữ ba dân tộc Thái, Lào, Lự mới thấy những giá trị văn hóa tộc người độc đáo và phong phú làm sao. Quả thật, chiếc trâm cài đầu của phụ nữ các dân tộc - một vật dụng quen thuộc, nhỏ bé, khiêm nhường nhưng thực sự giầu chất văn hóa.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 8:12:17 GMT 9
Giai thoại về một câu caCội Nguồn - Ảnh: Nguyễn Vĩnh Hảo Bình Định xưa là nơi đất lành chim đậu. Chuyện cách đây hơn 4 thế kỷ, có một người con nhà ca kỹ "xướng ca vô loại" ở đất làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nổi tiếng thông minh và hiếu học, vì luật lệ hà khắc của chúa Trịnh không cho phép con nhà xướng ca ứng thí khoa trường, đã quyết chí tìm đường lập thân ở xứ Đàng Trong. Sách "Trịnh - Nguyễn diễn chí" do Bảng trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm (1659-1763) soạn có viết việc này: "... bẩm tính thông minh, sáng trí, thông hiểu sự tích cổ kim, các sách ngũ kinh, chư sử, Kinh Thư không sách nào là không đọc" và khi không được dự thi "ngày đêm suy nghĩ để tìm phương kế lập thân, anh em họ hàng đều không hay biết". Con người chí lớn đó là Đào Duy Từ (1572-1634). Vào xứ Đàng Trong, ở đất Bình Định, ông chính thức cộng tác với chúa Nguyễn từ năm 1627 đến năm 1634. Với một năng lực lớn, văn võ song toàn, tài cao đức rộng, Đào Duy Từ đã giữ một vai trò lớn trong buổi đầu khai nghiệp của nhà Nguyễn Đàng Trong. Ở làng Tùng Châu, phủ Hoài Nhân (Hoài Nhơn ngày nay) tỉnh Bình Định, Đào Duy Từ được các thân hào nhân sĩ nhìn nhận. Quan Khám lý Cống quận công Trần Đức Hòa, nhân vật có tên tuổi lúc bấy giờ và là em kết nghĩa với Sãi Vương, thương yêu gả con gái cho và tiến cử lên Sãi Vương, được Vương mến phục và trọng dụng. Nhớ lại buổi đầu dừng chân ở đất này, sách trên có chép: "Một hôm Duy Từ đi qua phủ Hoài Nhân. Nơi đây địa hình phong phú tươi đẹp, phong tục hào hiệp, Duy Từ quyết chí ở lại đây tìm chỗ nương thân trong thôn ấp, chịu làm đầy tớ nhà người để tìm kế lập thân. Nhưng Duy Từ vẫn chưa tìm được nơi vừa ý, đành phải dừng chân ở quán nước nghỉ ngơi..." Một kẻ chăn trâu ở mướn mà luận bàn với các ông nho học ở làng về lẽ nho quân tử, nho tiểu nhân và kẻ chăn trâu anh hùng, kẻ chăn trâu tôi tớ... thì đâu phải là kẻ bình thường trong thiên hạ. Chuyện Đào Duy Từ rời bỏ quê hương ở Đàng Ngoài chạy vào Đàng Trong theo Chúa Nguyễn gắn liền với giai thoại một câu ca nói về mối quan hệ giữa một Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài với Đào Duy Từ ở Đàng Trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Cội nguồn - Ảnh: Nguyễn Vĩnh Hảo Giai thoại kể rằng: Sau khi Đào Duy Từ bỏ vào Đàng Trong theo Chúa Nguyễn, Trịnh Tráng sai người đưa thư và lễ vật vào Nam chiêu dụ Đào ra Bắc với mình. Đào không ra và gửi cho Chúa Trịnh bài thơ sau: Ba đồng một mớ trầu cay Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lồng như cá cắn câu Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thủa nào ra? Trịnh Tráng lại tiếp tục cho người vào gặp Đào Duy Từ một lần nữa. Ông vẫn không ra và gửi tiếp cho Chúa Trịnh hai câu sau : Có lòng xin tạ ơn lòng Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen. Trịnh Tráng tức giận bèn làm mấy câu hát nhắn với Đào: Có ai về tới Đàng Trong Nhắn nhe bố đỏ liệu trông đường về Mải tham lợi, bỏ quê quán tổ Đất nước người, dù có như không... Giai thoại là thế chẳng biết hư thực thế nào. Phải đâu Đào "mải tham lợi, bỏ quê quán tổ" mà chỉ vì Bình Định là nơi đất lành thì chim đến đậu, nơi đãi sĩ chiêu hiền, dưỡng nuôi bao tài năng văn hóa, văn học cho dân, cho nước. Câu ca bây giờ được giảng dạy ở nhà trường phổ thông lớp mười: Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay! - Ba đồng một mớ trầu cay Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không? Bây giờ em đã có chồng Như chim vào lồng như cá cắn câu Cá cắn câu biết đâu mà gỡ Chim vào lồng biết thủa nào ra? Các em có biết đâu rằng câu ca đã một thời gắn liền với mảnh đất vốn trọng sĩ, đãi hiền có bề dày văn hóa lịch lãm và thượng võ là Bình Định quê ta. Trần Xuân Toàn (Theo lebichson.org
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 8:13:46 GMT 9
Nốt nhạc thiền hòa hiếu trong quan hệ Đại Việt và Chăm Pa thời Trần Nhân Tông Sau khi dời đô ra Thăng Long thực hiện giấc mộng rồng bay, Lý Công Uẩn đưa nhà nước Ðại Việt ra trung tâm sông Hồng đối diện với người láng giềng khổng lồ phương Bắc vốn có truyền thống dựng nước đi đôi với bành trướng, và đồng thời mở rộng bờ cõi phía Nam, biến Chăm Pa thành phên dậu của mình. NỐT NHẠC THIỀN HÒA HIẾU TRONG QUAN HỆ ÐẠI VIỆT VÀ CHĂM PA THỜI TRẦN NHÂN TÔNG Phạm Ðức Dương - Giáo sư, Chủ tịch Hội Khoa học VN-ÐNÁ Sau khi dời đô ra Thăng Long thực hiện giấc mộng rồng bay, Lý Công Uẩn đưa nhà nước Ðại Việt ra trung tâm sông Hồng đối diện với người láng giềng khổng lồ phương Bắc vốn có truyền thống dựng nước đi đôi với bành trướng, và đồng thời mở rộng bờ cõi phía Nam, biến Chăm Pa thành phên dậu của mình. Do đó, chính sách đối ngoại của Ðại Việt tập trung ứng xử với các nước lân bang ở đôi đầu đất nước. Phía Bắc trở thành tiền phương, nhằm chống lại sự xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Hoa; phía Nam trở thành phên dậu, nhằm phá thế trận vu hồi quen thuộc của phương Bắc. Nhà Trần trở thành triều đại vinh quang nhất trong lịch sử Ðại Việt vì đã ba lần chiến thắng quân Nguyên - một đội quân xâm lược đã từng làm mưa làm gió khắp Á - Âu. Trong chiến công chung đó, người ta ghi nhận sự đóng góp, sự hy sinh thầm lặng của những người phụ nữ. Nhà Trần được mở đầu bằng sự nhường ngôi của nữ chúa Lý Chiêu Hoàng cho cha con Trần Cảnh. Theo đó, bố là Trần Thừa trở thành Thái Thượng Hoàng với miếu hiệu là Trần Thái Tổ, con Trần Cảnh là vua Trần Thái Tông. Phải chăng vì thế mà nhà Trần có nhiều công chúa, nhiều phu nhân được giao nhiệm vụ gánh vác việc nước, trong đó nổi lên hai công chúa được " trưng dụng" trong chính sách đối ngoại với phía Bắc và phía Nam trong hai nghịch cảnh rất khác nhau. Người thứ nhất, công chúa An Tư, con gái út vua Trần Thái Tông, em ruột Trần Thánh Tông. Năm Ất Dậu (1285), trong đợt tấn công xâm lược lần thứ hai, quân Nguyên vây hãm thành Thăng Long, vua Trần Nhân Tông cùng với Thượng Hoàng Trần Thánh Tông phải chạy ra vùng Tam Tri (Ba Chẽ). Thế nước lâm vào cảnh " nghìn cân treo sợi tóc ", nghĩa tướng Trần Bình Trọng hy sinh ở bờ sông Thiên Mạc, một số hoàng tộc hoảng loạn chạy theo giặc (Trần Kiện, Trần Lộng, Trần Ích Tắc, .). Ðể cứu nguy và có thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến, Trần Thánh Tông đã buộc phải sai người dâng em gái - công chúa An Tư, như là một vật cống nạp cho Thoát Hoan để " hoãn binh chi kê ". Ðại Việt sử ký toàn thư ghi: " Sai người đưa công chúa An Tư đến cho Thoát Hoan là có ý làm giảm bớt tai họa cho nước vậy ". Người con gái " cành vàng lá ngọc " ấy vì nợ nước đã ra đi không trở lại! Nhưng trớ trêu thay, sau chiến thắng quân Nguyên, tháng 7 - 1285, vua trở về kinh thành hân hoan khen thưởng những người có công, nhưng không một ai nhắc tới công chúa An Tư ! Người thứ hai, 16 năm sau, công chúa Huyền Trân, con gái Trần Nhân Tông được nhà vua hứa gả cho Chế Mân (Djaia Sinhavarman III), vua của vương quốc Chăm Pa. Ðại Việt sử ký toàn thư ghi: Chiến thắng quân Nguyên, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và tháng 3 năm Tân Sửu (1301), ông đã đi " vân du " sang Chiêm Thành, đến " mùa đông tháng 11 từ Chiêm Thành trở về ". Năm Bính Ngọ (1306), Trần Anh Tông thực hiện lời hứa của vua cha, đã gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân, đổi lấy hai châu - châu Ô, châu Lý làm của hồi môn. Nhà Trần đổi thành châu Thuận và châu Hóa, " sai hành khiển Ðoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân 2 châu đó ". Mùa hạ tháng 5 năm Ðinh Mùi (1307) chúa Chiêm Thành chết. Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu yêu của chúa phải vào dàn thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung mượn cớ sang viếng tang và nói với người Chiêm: " Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về rồi sẽ cùng vào dàn thiêu ". Người Chiêm nghe theo, Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về!!! Con Chế Mân là Chế Chi (Djaia Sinhavarman IV) rất căm phẫn đòi lại hai châu Thuận, châu Hóa và quan hệ Ðại Việt - Chăm Pa lại tiếp tục theo vết cũ của sự hận thù! Như chúng ta đã biết, để xây dựng các quốc gia cổ đại, người Ðông Nam Á đều tiếp nhận hai mô hình Ấn Ðộ (Chăm Pa, Angkor, .) và Trung Hoa (Ðại Việt). Mặc dù các nước đến đều có chung một cơ tầng văn hóa lúa nước Ðông Nam Á, nhưng thể chế chính trị và nền văn hóa quốc gia dân tộc lại rất khác nhau. Người Chăm Pa là cư dân biển đã có mối giao lưu tiếp xúc với văn hóa Ấn Ðộ từ rất sớm. Cho đến thế kỷ III - IV, Chăm Pa đã là một trong những quốc gia cổ bậc nhất ở Ðông Nam Á tiếp nhận mô hình văn hóa Ấn Ðô một cách sâu sắc, thông qua con đường truyền giáo. Vì thế các văn bản Ấn Ðộ (đạo pháp, luật pháp, chính pháp, .) có một vai trò đặc biệt quan trọng và các vua Chăm Pa đã áp dụng khá nguyên vẹn. Chế độ vương quyền Ấn Ðộ đã được cấp nhãn hiệu của thần quyền. Vua là hiện thân của thần tiên trên mặt đất - người bảo vệ thần dân bằng " thánh luật " tức " luật thiêng ". Vì vậy, đất nước không thể không có vua. " Ðất nước không có vua khác nào như sông có nước, rừng không có cây, đàn gia súc không người chăn ". Người Ấn Ðộ trong đời có 3 việc lớn phải làm theo trình tự : chọn vua, chọn vợ, tích lũy tài sản. Vì vậy, toàn bộ cơ cấu tổ chức chính trị - văn hóa là sự kết hợp vua - thần (vương quyền kết hợp với thần quyền) dựa trên cơ sở một xã hội đẳng cấp. Các vị vua Chăm Pa đều theo Ấn Ðộ giáo và tự coi mình có gốc thần linh, đồng nhất với các vị thần như Siva, Indra, Brahma, Kama, Krisna, Visnu(1), họ rất thông thạo kinh điển Ấn Ðộ từ kinh Vệ Ðà đến văn phạm Kyakaranna, các bài luận Kasika, các truyền thuyết Akhyana, và rất nhiệt thành với các tôn giáo. Họ tự cho mình có quyền uy tối thượng, nắm trong tay luật thiêng và xử theo nguyên tắc : kẻ nào mạnh thì thắng, kẻ nào không đủ phẩm chất làm vua thì phải rút lui theo thánh luật. Mặc dù nhà nước cổ đại Chăm Pa đã trở thành một quốc gia vững mạnh và có một nền văn hóa nổi tiếng thế giới, nhưng cũng bộc lộ những nhược điểm dẫn đến sự tiêu vong, đó là tình trạng mất ổn định về chính trị. Trong nội bộ vương quốc đó thì các triều đình thôn tính lẫn nhau, tranh giành quyền lực, các vương triều luôn luôn bị thay thế, bị hãm hại, bị chia cắt bởi các lực lượng địa phương và không thể tạo dựng một quốc gia thống nhất bền vững. Với các nước láng giềng thì hay gây hấn, chinh phạt trả thù, đặt biệt là với Ðại Việt và Chân Lạp. Cuối cùng họ bị chính kẻ thù thôn tính. Trong khi đó nhà nước Ðại Việt lại mô phỏng theo vương triều và từ chương học Trung Hoa rất khác với mô hình Ấn Ðộ. Tiếp nhận Nho giáo trên cơ tầng văn hóa bản địa Ðông Nam Á, do yêu cầu có một chính quyền vững chắc để chống ngoại xâm, nhà nước Ðại Việt đã phát triển với ba đặc điểm: • Một là, một nước quân chủ tập quyền, dựa trên chế độ tông pháp, phụ quyền, cha truyền con nối theo dòng trưởng, thuần túy dân sự, tôn giáo tách khỏi nhà nước, bộ máy cai trị được đào tạo công phu theo lối " văn trị ", không có giai cấp quý tộc ăn bám và cát cứ. Sự thống nhất quốc gia dựa trên văn hóa và chính trị. • Hai là, có ý thức đầy đủ về một quốc gia văn hiến, về vai trò nhà nước: có cương vực rõ ràng, có lịch sử được ghi chép đầy đủ, có chính quyền thống nhất, có văn hiến riêng và được coi trọng. • Ba là, một nước theo Nho giáo, rất coi trọng học vấn, lấy lễ làm gốc. Tuy nhiên, nhà nước Ðại Việt cũng mang nhiều yếu tố hạn chế. Trong quan hệ với các dân tộc ít người, hoặc các nước láng giềng nhỏ hơn, người Việt chịu ảnh hưởng khá nặng nề tư tưởng đại dân tộc (Ðại Việt) của người Hán, nên xem họ là man di, là phên dậu, buộc họ phải làm chư hầu, thuần phục và cống nạp. Vương quốc Chăm Pa trong quan hệ với nhà nước Ðại Việt gặp phải hai điều bất lợi: • Một là, người Việt là cư dân lúa nước đồng bằng châu thổ sông Hồng, thường xuyên bị sức ép về dân số. Họ phải mở mang bờ cõi theo hướng, đâu có ruộng là họ cứ đi. họ không tây tiến lên núi, cũng không đông tiến xuống biển (mặc dù họ tự nhận là con Rồng, cháu Tiên) mà chỉ còn một hướng là nam tiến. Trên con đường đi đó họ gặp Chăm Pa và tìm cách thôn tính dần. • Hai là, họ xem Chăm Pa, Chân Lạp là thuộc quốc, có lúc tự xưng mình là thiên triều, thiên tử, phong vương cho các vua Chiêm Thành như phong Chế Chí (Sinhavarman IV), lập em là Chế Ðà A Bà Niêm làm quốc vương Chăm Pa, v.v. Vì thế suốt trong chiều dài lịch sử từ thời Lý, Trần cho đến nhà Nguyễn sau này đã lấn chiếm đất Chăm Pa, mở mang bờ cõi vào phía Nam, kể cả biện pháp cắt đất chuộc vua (Chế Củ phải dâng ba châu Bố Chính, Ðịa Lý, Ma Linh, để chuộc mạng, thời Lý Thánh Tông), cắt đất làm của hồi môn (Chế Mân dâng 2 châu : châu Ô, châu Lý (tức Thuận Hóa) để cưới công chúa Huyền Trân). Vì vậy quan hệ Ðại Việt và Chăm Pa luôn luôn là đối nghịch giữa một bên chiếm đất, một bên gây gổ. Tuy nhiên Chăm Pa chỉ tấn công ra Thăng Long khi họ mạnh và Ðại Việt yếu nhằm trả đũa và tỏ rõ sức mạnh, rồi cướp bóc của cải, bắt tù binh và rút về không chiếm đất mà chỉ đòi lại đất đai đã bị mất. Theo cách giải thích của một số nhà nghiên cứu người Chăm thì quan niệm về biên giới của Chăm Pa theo biên giới quốc giáo. Ở đâu có người Chăm thì ở đó mới là đất của vương quốc Chăm Pa. Còn Ðại Việt thì rất quan tâm đến việc mở mang bờ cõi và xác định chủ quyền quốc gia trên biên giới hành chính và kèm theo đó là di dân khẩn hoang. Tuy nhiên cả hai nước đều có mối quan hệ tùy thuộc lẫn nhau và cần hợp tác với nhau để đối phó với sự xâm lược của phương Bắc, bởi vì các triều đại phong kiến Trung Hoa đều có mưu đồ thôn tính phương Nam (Ðại Việt, Chăm Pa, Chân Lạp) và thường dùng chiến lược gọng kìm với thế trận vu hồi để tiêu diệt Ðại Việt, nhất là thời đế Quốc Nguyên Mông. Ðại Việt và Chăm Pa, do đó phải liên kết với nhau chống kẻ thù chung. Trần Nhân Tông là ông vua duy nhất đã thiết lập được mối quan hệ hữu hảo với Chăm Pa, và sau chiến thắng quân Nguyên đã đi vân du trên đất nước này gần mười tháng, và hứa gả con gái là Huyền Trân công chúa cho Chế Mân để tạo lập sợi dây ràng buộc giữa hai quốc gia. Có lẽ nhà vua đã cảm nhận được hai điều tâm đắc với Chăm Pa: • Một là, họ đã cùng nhau chung lưng đấu cật để chống quân Nguyên, trong đó vua Trần Nhân Tông đã có công lớn trong chiến thắng vĩ đại này. Sau khi có thắng lợi, Trần Nhân Tông chắc muốn sang cảm ơn bạn bè và xây dựng quan hệ hòa hiếu, muốn xóa đi quan hệ xung đột giữa Ðại Việt và Chăm Pa trước đó. • Hai là, Trần Nhân Tông là một ông vua say mê đạo Phật, là người đã xây dựng nên thiền phái Trúc Lâm của Việt Nam, cho nên có thể ông rất có cảm tình với nền văn hóa Balamôn giáo và Phật giáo của nước này, thích ngao du thưởng ngoạn những thắng cảnh, những đền đài, tháp điện nổi tiếng của Chăm Pa. Vì những lẽ đó mà Trần Nhân Tông đã tạo nên được một nốt nhạc thiền hòa hiếu trong quan hệ với Chăm pa, mặc dù không phải mọi người trong triều đình đã chia sẽ với ông điều đó. Theo Ðại Việt sử ký toàn thư thì các văn sĩ trong triều ngoài nội, nhiều người mượn chuyện nhà Hán đem Chiêu Quân gả cho Hung nô làm thơ, từ bằng quốc ngữ để châm biếm việc đó. Sau này sứ thần Ngô Sĩ Liên đã bình luận như sau: " Kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê trách, song dụng ý là muốn bình yên, dân nghỉ thì còn có thể nói được. Hán Nguyên đế thì vì Hồ Hàn sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy Vương Tường mà ban cho, cũng là có cớ. Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại mệnh đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng Hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại mệnh thì có khó gì, mà lại gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau đó lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì tín ở đâu? " Lịch sử là những gì đã diễn ra, lịch sử không có " giá như " thế này, thế kia. Người đời sau chỉ có thể rút ra bài học lịch sử cho mình - và cứ như thế lịch sử sẽ được nối tiếp theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn, thành công hơn. Nếu như nhà nước Ðại Việt có được một triều Trần hiển hách với những chiến công vô cùng vĩ đại là chiến thắng đế quốc Nguyên Mông, thì nhà Trần, đặc biệt là với vua Trần Nhân Tông, đã đưa một bàn tay thứ hai giương cao ngọn cờ nhân ái, từ bi của đức Phật với phái Thiền Trúc Lâm. Giữa đôi bờ của cuộc sống thực và ảo ấy, vua Nhân Tông cũng đã biểu hiện những tình cảm tốt đẹp với người bạn láng giềng Chăm Pa, nhằm hàn gắn những vết thương lịch sử. Dù sao trong giai điệu gập ghềnh ấy của lịch sử, nốt nhạc thiền hoà hiếu cũng để lại dư âm đầy tính chất nhân bản khá quyến rũ và hấp dẫn cho người đời sau. Chú thích (1)Vua Bhadravanam I được đồng hóa với Siva dưới tên gọi Bhadesvara và được thờ ở Mỹ Sơn. Các vua thuộc thời Hoàn Vương đều ví mình với các thần như Indravarman. Tự so sánh với Vikrama (hóa thân của Visnu), nâng quả đất bằng hai tay, hay Narayama (Visnu hóa thân) nằm trên con rắn, nâng thế giới bằng bốn cánh tay. Các vua thời Ðồng Dương cũng vậy. Harivarman IV dựng bia tự ca ngợi và so sánh với các thần Krina, Kama, Brhma, Siva,. ông vua tài ba Yaya Harivarman I được bia ký gọi ông là " hình thức có thể thấy được của thần Visnu ". Tài liệu tham khảo 1. Ðại Việt sử ký toàn thư tập II, NXB KHXH, Hà Nội, 1998. 2. Ngô Văn Doanh - Văn hóa Chăm Pa, NXB VHTT, Hà Nội 1994. 3. Quỳnh Cư, Ðỗ Ðức Hưng - Các triều đại Việt Nam, NXB TN, Hà Nội, 1995. 4. A.B. Pôliacốp - Sự phục hưng của Nhà nước Ðại Việt thế kỷ X - XIV - NXB CTQG, Hà Nội 1996. 5. Viện sử - Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý, Trần, NXB KHXH, Hà Nội 1980. 6. Kính Dân - Hào khí Ðông A, tr. 9-105 - Tuyển tập, NXB VHDT, Hà Nội, 2000. 7. Hoàng Quốc Hải - Vương triều sụp đổ, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 1999. Phạm Đức Dương (Theo Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 10, 2010 2:34:57 GMT 9
Bớ ... "Thằng giặc Tề"! Nguyễn Dư Trong bộ tranh dân gian Oger, phần nói về tục lệ tang ma, có một tấm vẽ một thầy phù thuỷ (còn gọi là pháp sư hay thầy pháp) đang làm phép lúc cải táng (bốc mộ). Chiếc quan tài đã được mở nắp, trên thành có con chim đậu, bên trong còn nguyên bộ xương người. Thầy phù thuỷ, một chân đạp thành quan tài, hai tay ôm súng chĩa về phía con chim. Đặc biệt ở đầu súng có mấy sợi giây rủ lòng thòng. Tên tranh được ghi bằng ba chữ hán: Thằng dặc tề. Vô tình tên tranh lại có vấn đề! Người miền Bắc phát âm chữ dặc (hán) giống như chữ giặc (nôm), cho nên tên tranh còn có thể được đọc là Thằng giặc Tề. Hai cách đọc này, đọc theo chữ hán hay đọc theo chữ nôm, sẽ đưa đến hai cách hiểu nội dung tranh khác nhau. Hán hay nôm? Thằng giặc Tề là ai? Thằng dặc tề là gì? Thằng giặc Tề được Nguyễn Mạnh Hùng (Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ 20, Trẻ, 1990, tr. 126) giới thiệu: Ngày trước, một bộ phận dân gian tin là có "thần trùng"- tức là thần hành hạ người chết vào ngày trùng hoặc bắt những người trong gia đình có người chết vào ngày trùng cứ chết nối theo - trừ phi tìm được pháp sư cao tay ấn đuổi đi thì mới chấm dứt. Trong hình, thần trùng xuất hiện dưới dạng một con chim-và cũng gọi là "thần nanh đỏ mỏ". Con chim đỏ mỏ này từ trên không đáp xuống mồ người chết mổ thật mạnh đến nảy lửa làm cho người chết dưới mồ phải rên la. Khi ấy vị pháp sư được âm binh trợ giúp đã dùng gậy tháp đánh đuổi con chim ấy đi không cho hành hạ người đã khuất nữa. Xong, vị pháp sư phải ếm đối một lá bùa vào miệng thây ma không cho thây ma hoá thành "thần trùng" để làm hại gia đình mình nữa. Nhưng tại sao ở đây ký họa lại ghi là "Thằng giặc Tề" mà không đề là "Thần trùng"? Tục truyền đời Hán (hai thế kỷ trước công nguyên), Hàn Tín được phong là Tề Vương vì có tham vọng muốn chiếm ngai vàng nên đã bị Lữ Hậu giết chết. Tín mang hận xuống suối vàng bèn cấu kết với 12 hung thần, giết chết Hán Anh - con Lữ Hậu - để trả thù. Bị thác oan, Hán Anh bèn tố cáo với Diêm Vương về tội ác ấy của Tề Vương nên được Diêm Vương cho trở về với dương thế. "Thằng giặc Tề" đây phải chăng là Tề Vương tức Hàn Tín? (theo tư liệu của Ngô Quý Sơn) Lời giải thích nghe thật lí thú, nhất là cho những ai thích truyện phong thần, kiếm hiệp Tàu. Thực thực, hư hư, chết đi sống lại, trả ân báo oán ... Tuy thích nhưng tôi vẫn còn ngờ. Sự tích thần trùng, thần nanh đỏ mỏ của tín ngưỡng dân gian chắc nhiều người trong chúng ta đã biết. Dùng hình ảnh con chim để gián tiếp cắt nghĩa thần trùng nghe ra cũng có lí, có thể chấp nhận được. Nhưng từ thần trùng nhảy qua Hàn Tín, một nhân vật lịch sử có thật, rồi từ Hàn Tín chạy sang thằng giặc Tề, thì lối giải thích có vẻ hơi khúc mắc, vòng vo khó hiểu. Chẳng lẽ người vẽ và đặt tên tranh lại ra cho người xem tranh một câu đố hóc búa, khó hiểu như vậy? Khó hiểu ở vài điểm: 1) Chữ Thằng của tiếng Việt thường được dùng với ý khinh bỉ, để chỉ những người ở bậc dưới mình, hoặc đôi khi dùng để hạ thấp người này, tâng bốc người kia: Thằng bờm có cái quạt mo Phú ông xin đổi ba bò chín trâu ... (Ca dao) Thằng nghèo bị lép vế trước ông nhà giàu. Khoảng đầu thế kỉ 20 trở về trước, thỉnh thoảng ta bắt gặp chữ thằng trong văn thơ: Hỏi ra, sau mới biết rằng: Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ (Nguyễn Du, Kiều) Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà (Nguyễn Đình Chiểu, Than đạo) Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có (Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Chữ thằng chỉ chung đứa lưu manh, lũ phản quốc, bọn xâm lăng. Trong ngôn ngữ dân gian, thằng còn được dùng để chỉ chung trẻ con: Thằng Cuội ngồi gốc cây đa Để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời ... (Ca dao) Chàng hai má đỏ hồng Kêu với thằng tiểu đồng Mang túi thơ bầu rượu: "Mai ta vào chùa trong" ... (Nguyễn Nhược Pháp, Chùa Hương) Thằng cũng được dùng với ý miệt thị để gọi thằng mõ, một hạng người bị liệt vào hàng thấp nhất của xã hội. Cho đến những năm 1930-1940, chưa bao giờ một nhân vật lịch sử, Tàu hay ta, bị sách vở gọi là thằng. Cổ nhân kín đáo, không chửi ai một cách thô lỗ chăng? Chữ thằng- chỉ một cá nhân- mới được dùng phổ biến và công khai từ khoảng sau 1945. Ngày nay chúng ta quen tai với những tiếng gọi thằng này, thằng kia. Xét cho cùng, điều này cũng dễ hiểu, chả có gì đáng ngạc nhiên. Người ta mạt sát thằng này thằng nọ vì người ta đang đứng ở vị trí có quyền ăn nói vô tội vạ, không sợ bị trả thù. Viết hồi kí, ai cũng có thể lôi thằng này, thằng kia của quá khứ ra chửi bới tha hồ cho sướng miệng. Ở thời điểm đang xảy ra sự việc, lúc cá nằm trên thớt, có cho ăn kẹo chắc cũng chả có ai dại gì lại đi chơi trò vuốt râu hùm, khinh cụ tổng đốc này, coi thường thầy giáo kia, đùa giỡn ông tướng nọ một cách huỵch toẹt như vậy! Đầu thế kỉ 20, người dân Việt Nam còn phải chịu cảnh một cổ hai tròng, bị thực dân và phong kiến cai trị. Trẻ con cắp sách đến trường đều được học câu tiên học lễ, hậu học văn. Trong một môi trường xã hội như thế thì thiết nghĩ các nghệ nhân vẽ và khắc tranh chả có lí do hay lợi lộc gì để tự dưng vô cớ lại lôi Hàn Tín ra gọi là thằng! Mấy ai đã biết mày ngang mũi dọc của nhân vật này ra sao? Trong bộ tranh dân gian Oger, trừ 2 tấm "thằng phỗng đội nến" và "người Thổ xách đầu thằng giặc", tất cả các tranh khác từ trẻ con đến người tù, ăn trộm, ăn mày, kể cả mõ làng ... đều không thấy dùng chữ thằng! Dường như nghệ nhân tránh dùng chữ thằng thiếu trang nhã? 2) Chữ giặc (giặc giã, giặc đến nhà đàn bà phải đánh) là âm nôm của chữ hán tặc. Chữ giặc được dùng thông thường để chỉ những người từ nước khác đến trực tiếp gây chiến tranh với ta (giặc Ân, giặc Nguyên, giặc Minh, giặc Thanh, giặc Pháp, giặc Mĩ ...). Được làm vua, thua làm giặc, chữ giặc còn được thực dân, phong kiến dùng để chỉ những người, những tổ chức trong nước nổi lên chống đối họ. Xẩy nghe thế giặc đã tan Sóng êm Phúc Kiến, lửa tàn Chiết Giang (Kiều) Thành liền mong tiến bệ rồng Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời (Chinh phụ ngâm) Nhà Nguyễn gọi quân Tây Sơn là giặc Tây Sơn. Triều đình phải cử người đi dẹp giặc Phan Bá Vành, giặc Lê Văn Khôi ... Nhà nước bảo hộ phải đương đầu với giặc Cờ Đen, giặc Bãi Sậy ... Ngược lại, ta không gọi những người không đụng chạm đến ta là giặc. Trong văn chương, lịch sử Việt Nam không có giặc Đức, giặc Ấn Độ, giặc Công Gô... Nước Tề xa lắc xa lơ, mấy ai biết rõ nó nằm ở đâu, biên giới thế nào. Hàn Tín chưa bao giờ đặt chân đến nước ta, không trêu không ghẹo gì dân ta, tại sao bỗng dưng lại bị điểm mặt là Thằng giặc Tề ? Thằng giặc Tề là cái gì khác chứ không thể là Hàn Tín được! Nói cách khác, tên tranh không phải là được viết bằng chữ nôm. Vậy chúng ta hãy thử đọc tên tranh bằng chữ hán. a) Chữ Thằng (bộ mịch) nghĩa là sợi giây, sợi chỉ. Thí dụ: Xích thằng là sợi chỉ màu đỏ, cùng nghĩa như tơ hồng, chỉ hồng (điển tích Vi Cố, chỉ việc kết duyên vợ chồng). Ngày xưa, thầy phù thuỷ thường lấy chỉ ngũ sắc (năm màu) tết thành bùa, gọi là bùa chỉ, dùng để ếm trừ ma quỷ. Trong tranh, ở đầu chiếc súng có buộc mấy sợi giây, mấy sợi bùa chỉ. Chữ thằng có nghĩa là sợi bùa chỉ. b) Chữ Dặc (bộ dặc) nghĩa là bắn. Du dặc là đem binh thuyền đi tuần nã trộm giặc (Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993). Trong tranh, thầy phù thuỷ đang bắn tà ma. Suy rộng ra là thầy phù thuỷ đang điều khiển âm binh tuần nã tà ma. Chữ dặc cũng được dùng để ghi âm chữ nôm: Đưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền (Chinh phụ ngâm) Gọi là trả chút nghĩa người Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên (Kiều) Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm (hay Phan Huy Ích?), những người giỏi hán nôm, đã phân biệt giặc với dặc, viết bằng hai chữ hán khác nhau. Nghệ nhân dân gian thì vẫn còn nhầm giặc với dặc (tranh Người Thổ xách đầu thằng giặc, chữ giặc được viết bằng chữ dặc). c) Chữ Tề (bộ tề) theo Thiều Chửu còn có âm đọc và nghĩa giống chữ Trai (bộ tề) (trai giới, trai tịnh, tiếng Việt là chay, ăn chay). Trai tiếu nghĩa là sư làm đàn cầu cúng (Thiều Chửu), thầy tu lập đàn cầu đảo (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, Trường Thi, 1957). Giới bình dân gọi là làm đàn chay, làm chay. Giã giò con cò biết bay Xương sông lá lốt làm chay cho cò (Ca dao) Chữ Tề của tên tranh có lẽ đã được nghệ nhân dân gian dùng với âm Trai và được hiểu là thầy phù thuỷ làm đàn cầu cúng. Nói tóm lại, chúng ta phải đọc tên tranh là Thằng dặc trai thì mới rõ nghĩa là thầy phù thuỷ làm đàn, dùng bùa chỉ bắn đuổi tà ma. Tranh vẽ vừa diễn tả đầy đủ công việc chuyên môn của các thầy phù thuỷ, vừa trình bày được nội dung một tín ngưỡng dân gian. Tên tranh có thể hiểu một cách ngắn gọn là Phù thuỷ hoặc Pháp sư trừ tà. (Còn có thể giải thích tên tranh bằng một cách khác, cho rằng người viết chữ đã viết nhầm chữ Tể hay Tế (bộ thuỷ và chữ tề) thành chữ Tề. Chữ Tể hay Tế, có nghĩa là cứu giúp (Thiều Chửu). Thầy phù thuỷ dùng bùa trừ ma để cứu giúp người chết. Ý nghĩa cũng tương tự như trên nhưng lối giải thích này phải thừa nhận là người viết đã viết thiếu, viết sai). Nhưng cái gì biểu hiện tà ma ở trong tranh? Đó là con chim đậu trên thành quan tài. Tín ngưỡng dân gian tin rằng có ác giả ác báo. Những kẻ giết người, chết xuống âm phủ sẽ bị quỷ sứ giết. Những người hay giết súc vật, chim chóc chết xuống âm phủ sẽ bị súc vật, chim chóc báo oán, hành hạ (như cảnh trong tranh Thương tàn vật mệnh chi báo, Người giết hại súc vật bị báo oán). Thầy phù thuỷ dùng bùa bắn đuổi con chim để giải thoát người dưới âm phủ khỏi hình phạt bị chim mổ. Phải chăng hình ảnh bị chim mổ dưới âm phủ đã đẻ ra thành ngữ đồ quạ mổ hay đồ quạ đánh, một câu chửi rủa độc ác của các bà? Dần dần con quạ của đồng quê đã hoá kiếp thành thần nanh đỏ mỏ hung ác, huyền bí của mê tín dị đoan? Chúng ta có thể suy đoán ra rằng con chim đậu thành quan tài chỉ là đồ nghề của thầy phù thuỷ chứ không phải một con chim thật, tình cờ bay đến. Kinh nghiệm rút ra được từ tấm tranh Thằng dặc trai (tề) là: Nói chung, hoặc chính bản thân các nghệ nhân là dân quê, hoặc họ sống rất gần, hiểu rất rõ đời sống của dân quê, nên cách nói, cách viết của họ rất mộc mạc, đôi lúc rất ... nôm na. Chính vì thế mà từ nét vẽ đến cách đặt tên tranh, tất cả đều giản dị, bình dân, ăn khớp với nhau. Các nghệ nhân không thích (hay không có khả năng?) nói bóng gió xa xôi, không dùng những điển tích cầu kì, khó hiểu của giới nho sĩ, văn nhân, để diễn tả các sinh hoạt, phong tục của xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỉ 20. Đó cũng là đặc điểm chung của tranh dân gian Việt Nam. Nguyễn Dư (Lyon, 4/2003)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 6:37:20 GMT 9
Đại Danh Từ Tiếng Việt Vietsciences-Nguyễn Đức Hiệp, Trần Thị Vĩnh Tường (Chuyển ngữ từ bài tiếng Anh của V. U Nguyen) Những nghiên cứu về tiếng Việt hiếm khi chú trọng đến nguồn gốc và đặc tính của đại danh từ. Có lẽ vì nguồn gốc tiếng Việt vẫn còn trong vòng tranh cãi, vì thiếu một khung lý thuyết khả tín về nguồn gốc của các tự vựng, ngoài điều đã được minh thị và chấp nhận qua quy ước về sự khác biệt giữa hai loại từ ngữ, Hán-Việt và thuần Nôm. Gần đây, Nguyên [1] đề nghị một mô hình mới, dựa vào mô hình ‘Cây-và-Đất’, để giải thích về sự tiến hoá thành lập tiếng Việt, gần sát với lý thuyết về nguồn gốc người Việt. Theo mô hình ‘Cây và Đât', tiếng Việt là một hỗn hợp qua lịch sử và tiến hóa lâu dài của các thứ tiếng thuộc nhiều tộc người khác nhau. Trong mô hình này, tiếng Việt cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ cộng với khối Đa-Đảo, chồng chất và đan xen với các thứ tiếng xuất phát từ khối Bách Việt xưa ở miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt) trải qua Quảng Đông (Tây và Đông Việt) cho đến Phúc Kiến - Triều Châu (Mân Việt), Ngô (Thượng Hải-Triết Giang) và Hải Nam, v.v. hỗ trợ bằng nhóm tiếng Hẹ (Hakka, tức Hạc Việt) và Miêu-Dao (Miao-Yao hay Hmong-Mien). Trong bài này, sẽ dùng mô hình ‘Cây-và-Đất’ xem xét lại các đại từ, các kết quả thích hợp sẽ được dùng để vừa giải thích vừa chứng minh cho mô hình này trong giới hạn các ngôn ngữ kể trên. Trong các đặc điểm của đại danh từ tiếng Việt, có hai đặc tính nổi trội nhất cuả đại từ tiếng Việt: một là chúng liên hệ đến những từ nói về quan hệ gia đình hay xưng hô liên quan đến vai vế ngoài xã hội, và hai là đại từ ngôi thứ nhất số nhiều, “chúng tôi, chúng ta” dưới cả hai hình thức bao gồm và phân cách, hình thức hóa qua sự dùng từ (chúng / tụi / bọn). Hai đặc tính trên, được trình bày dưới đây, thật ra cũng thấy trong một số ngôn ngữ láng giềng hay những phương ngữ khác trên đất Việt, mà Nguyên [2] đề ra, như là những thành phần cấu tạo của ngôn ngữ Việt trong quá trình thành lập. 1. Đại từ cho ngôi thứ nhất: Tôi, ta, tớ, tui, tao… Tiếng Việt có nhiều từ dùng cho ngôi thứ nhất số ít.: Tôi, ta, tớ, tui, tao, mỗ, mình, miềnh, qua, … cùng với một loạt các ngữ vựng chỉ địa vị của người nói trong xã hội: Anh/em, chị/em, chú/cậu, con/cháu, thầy/cô, bố/mẹ,ba/ má, … Hãy xem các đại danh từ ngôi thứ nhất số ít, áp dụng cho cả nam lẫn nữ, dưới đây Tôi (and Tớ): thường có một biến dạng của Tôi là TUI - đặc biệt trong tiếng Nam bộ, theo luật hoán chuyển âm giữa <=> [ô], như trong ‘Kung-Fu’ <=> Công Phu: Quan thoại Gong/Cung (bow), Quảng Đông Ung/Ông, tùng/tong = tùng chinh/tòng chinh, thúi/thối..
Nhiều tự điển, đặc biệt vài cuốn đầu tiên, như cuốn Annamite-Portuguese-Latin của Alexandre de Rhodes [3], cho rằng ‘tôi đòi’, ‘đầy tớ’, ‘tôi tớ’, xuất phát từ Tôi và Tớ. Điều này hoàn toàn phù hợp với phát âm ngày nay trong tiếng Hẹ và Quảng Đông từ [Toi] {儓}. Phiên âm Quan Thoại cho [toi] có 2 cách: [tai-2] và [dai-4], có nghĩa ‘tôi đòi’, hay ‘đầy tớ’, rất giống với Quan thoại [tai dai]. Thật ra ’Tớ’ có âm rất gần với từ [tsut] hay [su] trong tiếng Hẹ, và [zeot] hay [syu] Quảng Đông viết là豎 hay 卒, cả hai có nghiã ‘tôi đòi’. Tuy vậy, nguồn gốc gần hơn là từ [Tub] trong tiếng Hmong có nghiã ’Tớ’, “b’ là dấu chỉ âm cao giống như với dấu sắc trong tiếng Việt. Trong tiếng Tày-Nùng, “Khỏi” tương đương với ‘Tôi” với cả hai nghĩa: Tôi và đầy tớ.
Tự điển Alexandre de Rhodes có ghi chú là ‘Tớ’ thường được dùng khi giận dữ: ‘Tớ đã làm chi ngươi’. Ngươi chỉ một người có địa vị hay quan hệ thấp hơn người phát biểu câu trên, Tớ, nói trong trạng thái giận dữ.
[tseoi] 余 trong tiếng Quảng Đông hiện nay có thể có cùng nguồn gốc với ‘Tôi’, dùng phát biểu chính thức trong quan hệ hàng ngày. Phát âm [tseoi] trong tiếng Hẹ và Ngô (Triết Giang) đọc [Y] {}, rầt gần với đại từ đơn âm cho ngôi thứ ba trong tiếng Phổ thông và tiếng Việt (coi bảng I). Để ý trong tiếng Mường, ‘Tôi’ đọc như ‘Thôi’ với âm hơi.
Mỗ: ngày nay Mỗ ít được dùng thay cho tôi như trước.. Mỗ có thể liên hệ với [mau] trong tiếng Quảng Đông. Tự điển Huình Tịnh Paulus Của [4] liệt kê某 [mou] có nghĩa là ‘min, tôi’ (I), hoặc ‘tên nọ, tên kia’ chỉ trống khi không rõ tên họ. Âm [mou] Quan thoại có nghĩa “nào đó, một vài”. Chữ kép [mo lian] 磨 练, với [mo] rầt gần với âm [mỗ] có nghĩa rèn, luyện sắt/tính tình, thường dịch qua tiếng Việt là ‘tôi luyện’, cho thấy có lúc trong quá khứ ‘Mỗ’ và ‘Tôi’ được dùng thay đổi qua lại lẫn nhau
Để ý có nhiều chữ mới được tái tạo vào thế kỷ 20, thí dụ [ma luyện] chữ này được cho rằng có nguồn gốc Hán Việt, tương đương với từ Quan Thoại [mo lian] mà không biết đến liên hệ Quảng Đông-Việt giữa ‘Tôi’ và ‘Mỗ. Trong đoạn ‘những tương đồng qua khoảng cách' trong bài [2], chúng tôi có nói về những từ ngữ giống nhau dù ở hai địa điểm rất xa nhau, Mỗ cũng gần với chữ ‘Moi’ trong tiếng Pháp.
Mình: trong tiếng Mường và vài nơi ở miền Trung, đọc là [Miềnh]. Hồi thế kỷ 17, đọc là [Mềnh] hay [Min] [3]. Mình cũng gần với [mi] 微 của Hẹ, [mei] Quảng Đông, và cả tiếng Anh [me]. Cơ bản, Mình dùng cho (thân mình) [23]. Dần dần, cách dùng thay đổi. Trong Tự điển Alexandre de Rhodes [3], Mình được cho là cách xưng hô của người có điạ vị cao hơn người kia.
Ngày nay, có vẻ như Mình được dùng cho những liên hệ thân mật. Đôi khi nó được dùng như đại danh từ ngôi thứ hai, chẳng hạn như giữa vợ chồng: Mình ơi, mình ở đâu.
Mình cũng có cùng nguồn gốc với [Ming] và [*minqu] trong tiếng Mon-Khmer.
Ta/Tao: Rất chắc chắn là cả hai ‘Ta’ và ‘Tao’ có liên hệ mật thiết với những phương ngữ trong ngữ hệ Mon-Khmer. Người Miến Điện gọi 'tôi' bằng [Tjano] hoặc [Tjama], tuỳ theo người nói là nam hay nữ. [Tjano] và [Tjama] cũng khá gần với ‘Ta‘. Chữ chính trong tiếng Champa cho đại danh từ ngôi thứ nhất là [Tahlă]. Cũng vậy, ‘Ta‘ có âm tương đương với Hẹ [Tsa] 咱 , Quảng Đông [Zaa] và [Saa] [5], Phúc Kiến [Sa] 洒, đều có nghĩa là Ta/Tao. Trong một tiểu chi Quảng Đông, [Zaa] 咱 đọc là [gau] tương ứng với âm [Câu] của Tày-Nùng chỉ ‘Ta‘ hoặc ‘Tao‘, Boong Câu = Bọn Tao.
Theo Hayes [6], ‘tao’ rất gần với tiếng Mon-Khmer [saqu]. Rất có thể ‘Tao’ là một tiếng bao gồm cả hai âm ‘Ta’ (hay Tôi) và tiếng Đa Đảo ‘Au’ cho Ta/Tao” (coi bảng I).
Qua: ‘Qua’ có thể là một đại danh từ ít được biết trong tiếng Việt, từ này thường bị hiểu lầm như là một từ Nam Bộ. Thật ra, có nhiều từ cùng gốc ở nhiều nơi cách xa nhau. Trước nhất trong tiếng Mưòng là ‘Qua’ hay ‘Wa’ cho đại danh từ ngôi thứ nhất ‘Tôi/chúng tôi/Ta‘, nhưng thông thường hơn là dùng để chỉ ‘Chúng tôi/chúng ta‘
Tương tự tiếng Phúc Kiến/Hải Nam, [gua] để chỉ ‘Tôi‘. Tiếng Nhật có vẻ hợp cả 2 “Wa” và ‘Ta’ = Watashi vào một chữ dùng cho đại danh từ ngôi thứ nhất. Và cuối cùng ‘Qua’ cũng có các từ cùng gốc trong hệ ngôn ngữ Mon-Khmer [6]: *aku, *nqua, *iqua, *inquan, vv…
Một đại danh từ ngôi thứ nhất khá phổ thông trong tiếng Việt là ‘Anh’, thường dùng khi người nói là anh lớn hay người lớn tuổi, có thể có liên hệ nguồn gốc với từ [?ənh] hay [ănh] hay [?inh] trong Mon-Khmer để chỉ ‘Tôi‘, [enh] trong tiếng Mường, ‘Ani’ trong tiếng Nhật, hay xa hơn nữa, ‘aîné’ trong tiếng Pháp.
Trong tiếng Mường, từ thường dùng cho Ta/Tao là [Ho], có cùng nguồn gốc với tiếng Phúc Kiến là [Hou] 予, Tày-Nùng là [Hây]. [Ho] Mường có cùng âm với tiếng [o] Quảng Đông, cũng là một phát âm khác của [ngo] 我 mà tiếng Phổ Thông (Trung Hoa) là [Wo] cho ‘Ta/Tao’ [15]. ‘O’ trong tiếng Việt có hai nghĩa ‘bà cô’ (aunt) hay cô gái (miss), cũng có thể từ chữ [o] này của Quảng Đông.
Nghi vấn đại danh từ để hỏi ‘AI’, (Who trong tiếng Anh) đã được bàn đến trong [1] & [2]. ‘Ai‘ có cách đọc khác là [Ngai], trong tiếng Hẹ, nghĩa là ‘Tôi’ /’Ta‘ có âm giống nhiều ngôn ngữ khác trong vùng như:
- [Ai] : Mạ ở miền Trung Việt Nam, Khả sinh sống dọc biên giới Lào-Việt
- [Atashi]: Nhật (có thể dùng cho phụ nữ)
- [Aku]: Malay
- [Au]: Maori, Tahiti và Fiji, thuộc ngữ hệ Đa Đảo
Cách đọc [Ngai] trong tiếng Hẹ có lẽ đã được chuyển biến từ ngôi thứ nhất sang ngôi thứ hai, để gọi người khác một cách kính trọng, kiểu “thưa ngài” hay ‘Your Excellency’ trong tiếng Anh. Các âm tương tự như [Ngai] trong một số phương ngữ, kể cả tiếng Mường tương đương với từ ‘người’, để chỉ một người hay loài người [19]. 2. Đại từ cho ngôi thứ hai: anh/em,chú cậu/cô dì
Đại từ ngôi thứ hai cho thấy ảnh hưởng văn hóa rất mạnh trong liên hệ bà con thân thuộc và hệ thống xưng hô theo nguyên tắc kính trọng trên dưới, in hệt như trong tiếng Môn-Khmer hay những ngôn ngữ khác trong vùng. Giống như đại danh từ Ta/Tao, có thể dùng bất cứ danh từ nào chỉ người bà con hay người khác với người nói, như đã trình bày ở trên: Anh/Em, Ông/Bà, Cô/Chú, ông Nội/ông Ngoại, bà Nội/bà Ngoại [8] v.v….
Theo Gilbert và Hang [7], tiếng Khmer có tới 17 chữ dùng cho ngôi thứ hai, tuỳ theo liên hệ gia đình, họ hàng và vị trí trong xã hội. Trong số các từ, tiếng dành cho cha là [bpaa], cho chú là [bpuu]. Cả hai tiếng Khmer và tiếng Việt giống nhau, không những về nghĩa mà còn được dùng rất rộng [2], [Bhpaa] nghĩa là cha và [Bpuu] nghĩa là ‘Chú' theo nghĩa rộng không chỉ để gọi em ruột của cha, còn chỉ một người đàn ông (có liên hệ họ hàng hay không) lớn tuổi gần bằng cha mình.
Anh trai của cha gọi là bác, có thể từ chữ ‘Ba’. Cha và Chú cũng có liên hệ như vậy, hoặc [Bpaa] và [Bpuu] như trong tiếng Khmer. Để ý Bác và Cậu rất giống với [Baak] và [Kau] trong tiếng Quảng Đông, trong khi ‘Chú’ có thể là do sự gộp chung các âm [Bpuu] Cambodia, [chek] Phuc Kien và [shu] Quan Thoai. (shu] 叔 (tương đương với ‘Thúc’ trong tiếng Nôm, và [suk] trong tiếng Quảng Đông và Hẹ.)
Vợ của Chú, gọi là ‘Thím’ tuơng đương với âm [tsim] Hẹ, và [chim] 嬸Mân Nam. ‘Cô’ bắt nguồn từ [ku] Chiết Giang, hay [kou] {姑} Phúc Kiến, trong khi ‘Dì’ laị bắt nguồn từ [yi] 姨 Quan thoại, Hẹ, Quảng Đông và Phúc Kiến . Vợ của cậu, ‘Mợ’, có nguồn gốc từ [kau-mou] [13]. Hệ xưng hô dựa vào liên hệ gia đình và vị trí trong xã hội của tiếng Việt cũng có vài sự giống nhau với các đại danh từ trong tiếng Quảng Đông cũng như tiếng Mường. Có một ngoại lệ, đó là [Nei] (Ni) Quảng Đông, hay [Da] Mường, dùng rất … thoải mái cho ngôi thứ hai, dù lớn hay nhỏ, địa vị cao hay thấp cũng đều dùng được cả.
Da ti no? Mày đi đâu?.
Da ăn chi? Anh ăn gì? [9]
Giống từ [nong] 儂trong Quan Thoại chỉ ‘Tôi‘ hay ‘anh ấy/cô ấy/nó’, và ‘Anh’ trong các tiếng thổ âm Thượng Hải, Ngô, [Da], hay [za] hoặc [ya] hoán chuyển giữa các đại danh từ ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba có thể được xem là sự hoán chuyển trong lãnh vực diễn giải trừu tượng, thường thấy ở các ngôn ngữ trong giai đoạn đầu thành hình, trong sự trộn lẫn của các ngôn ngữ hay thổ âm của các dân tộc khác nhau [10].
Đôi khi, có thay đổi của từ vựng, thí dụ ‘Da’, trong tiếng Hẹ [za] cho ngôi thứ nhất [24] và ngôi thứ ba, còn [ya] trong tiếng Việt chỉ dùng cho ngôi thứ ba (Bảng I).
Giống như [nong] 儂 trong tiếng Phổ thông cho Ta/Tao, ông ấy/bà ấy, hoặc ông/bà trong phương ngữ Thượng Hải/Ngô, sự thay đổi của [Da] hay [za] hay [ya] giữa đại danh từ ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba có thể được cho là do sự biến đổi ẩn dụ trừu tượng, thường thấy ở các ngôn ngữ trong giai đoạn thành hình, do sự pha trộn ngôn ngữ của các nhóm dân tộc.
Có lẽ các từ phổ thông nhất để gọi trong tiếng Việt, dùng để chỉ sự kình trọng là “Ông/Bà”. Ông, có hai nghĩa: Một nguời đàn ông, hay ông nội/ngoại, có liên hệ gốc với tiếng Champa [Ông], [Ù] trong tiếng Miến Điện, hay trong tiếng Thái [Ong] để tôn kính các địa vị tuyệt đối như nhà vua hay các bậc tu hành. Trái lại, Bà, để gọi Mẹ, phụ nữ trọng tuổi, hoặc tỏ sự kính trọng, ví dụ như trong [iBu] (Indonesian), [poo ying] Thai, [Ba] Miến Điện, [Bawng] Khmer, và rất nhiều phưong ngữ ở Hoa Nam có cùng âm [Pu] hay [Bu], hay thừong thấy nhất, [Bo] (ví dụ [lao bo] để gọi vợ).
Tiếng Việt cổ có đại danh từ chung cho cả nam hay nữ, [Bạu] [3] sau này biến từ thành ‘bậu bạn’ hay ‘bạn’ ngày nay dùng cho bạn bè hay người quen biết sàn sàn bằng tuổi nhau. Bạn, thật ra có liên hệ với tiếng Khmer [bouung] và Quảng Đông [pang] 朋. Từ đôi ‘Anh em’ (như trong ‘người anh em’), bắt nguồn từ tiếng Trung Hoa [xiong di] (huynh đệ), nghĩa là anh hay em ruột [8].
Một đại danh từ ngôi thứ hai dùng cho nguời kém hơn trong địa vị xã hội là ‘Mày', có thể bắt nguồn từ ‘Bây’ (Bay, [3]), vì cả hai [M] và đều là âm môi. Tự điển Alexandre de Rhodes [3] ghi chú là từ ‘Bay’ không được dùng so với từ ‘Anh em'. ‘Mày’ rất gần với ‘Mi’, có thể là biến dạng của [Mi] của tiếng Hẹ hay tiếng Việt [Min/Mình] vốn dùng để chỉ ngôi thứ nhất (Bảng I)
Về âm, EM [21], rất gần về âm với ‘Ủn’ Mường, và ‘Imoto’ Nhật cho em gái. ‘Em’ cũng có thể liên hệ với ‘Enh’ (Mường) chỉ người nam lớn tuổi hơn, hay [?ənh] trong tiếng Mon-Khmer. Về nghĩa, ‘Em’ bắt nguồn từ ‘em bé’ hay ngừoi còn trẻ, tương đưong với tiếng Thái [awn]. ‘Em’ cũng cùng gốc với [eN] trong tiếng Mân Nam (Phúc Kiến), [ei] Hán-Nhật, [er] Quan Thoại [5] [11] [12]. Chị, cùng gốc với [*tsi] hay [*ci(q)] hay [*ji(q)] trong tiếng Mon-Khmer [6], và [tsi] Ngô-Triết Giang, [chia] hay [che] trong tiếng Mân Nam (Phúc Kiến) [5].
3. Đại từ cho ngôi thứ ba: Cậu/Anh/Ông ấy, Chị/bà ấy, Nó …
Đại từ ngôi thứ ba số ít cho thấy đóng góp của các ngôn ngữ hay phương ngữ khác nhau trong quá trình hình thành tiếng Việt.
Như chúng tôi đã có dịp trình bày [2], nhiều từ có nghĩa tương tự, và sự hiện diện của một số từ kép trong hệ thống đơn âm của tiếng Việt cho thấy có thể có sự pha trộn các dân tộc và ngôn ngữ trong quá khứ. Vi dụ, động từ ‘ném' (‘To throw’) và ‘khiêng’ (‘To carry’). ‘Ném‘ có ít nhất 8 động từ tiếng Việt tương đương: Ném, Liệng, Quăng, Chọi, Đôi, Thảy, Vứt, Phóng.. mỗi từ được cho thấy có sự liên hệ với các ngôn ngữ và thổ âm khác nhau trong vùng [2]. Động từ ‘Khiêng‘ (‘To carry’ or ‘to bring’) lại cho khoảng 30 chữ khác: ẵm, bồng, bế, mang, đem, chở, đèo, tải, vác, khuân, khiêng, xách, kèm, chuyển-vận, chuyên-chở, đeo, cầm, dẫn, đái (đới), đảm, công kênh, ôm, cõng, quảy, gánh, bê, độ, cáng-đáng, tha, bưng, mang, đội, kẹp… có thể được xếp vào các nhóm dựa vào nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau. Nhiều chữ “kép” cũng rất phổ thông và bắt nguồn từ nhiều ngôn ngữ khác như: đường xá, chín muồi, thân thể, thẳng tắp, chia sẻ, tâm địa, chậm trễ,.. vv…
Để làm rõ hơn, chúng ta hãy xem hai từ kép ‘đường xá’ và‘chín muồi’. Trong ‘đường xá’ thì chữ (Đường) có xuất xứ từ [dou] và [dung] trong tiếng Quảng Đông, trong khi (xá) cùng gốc với [sala] Chiết Giang và [salan] Champa. Chín trong ‘chín muồi’ có thể là một hợp âm từ ba chữ [drih] Champa, [tsing] Quảng Đông và [chheN] Mân Nam (Phúc Kiến, Triều Châu). Tuy vậy, hai âm [tsing] và [chheN] có vẻ là một hoán chuyển về ý nghĩa: “còn xanh” = chưa chín. Trái lại, Muồi có thể đến từ chữ [hmède] Miến Điện và [momoho] Tongan. Cũng rất ngộ nghĩnh khi Muồi có vẻ liên hệ đến ‘mûr’trong tiếng Pháp ‘mûr’, và [mudirnda] trong tiếng Tamil.
Đặc tính của các ngôn ngữ láng giềng trong tiếng Việt, như đã bàn ở trên, được thấy rõ trong đại từ ngôi thứ ba số ít. Tiếng Việt đại danh từ ngôi thứ ba thường ít phân biệt giới tính, dù rằng có nhiều chữ hơn, theo thói quen, cho cánh đàn ông: hắn, kẻ, gã, y, va (ya). Tuy nhiên, khi dùng chung với ‘này/nọ, kia/ấy’, giới tính được giới thiệu rõ ràng, thí dụ như: Ông kia, Cô ấy, Bà nầy, Anh nọ …
Đại danh từ ngôi thứ ba được dùng nhiều và phổ thông nhất có lẽ là từ Nó, được dùng cho cả người (mọi giới tính) và thú vật, như chim, cá. Nó có cùng gốc với từ [Nả] Mường, [Nws] Hmong {đọc như [Neu]}, [Ne] Tongan, and [Nong] trong tiếng Hoa Phổ thông. Chữ [Nong] có thể là “tôi, anh/chị, anh ấy, chị ấy” trong tiếng Thượng Hải. Người P’u-Noi sống gần biên giới Lào-Việt, cũng dùng [No] [2] như tiếng Thượng Hải [Nong] và giống hệt âm tiếng Việt [Nó].
Hắn, có thể dùng gọi người không được mấy cảm tình hay chế nhạo. ‘Hắn’ có thể từ [Hang] 牼Quảng Đông, có nghĩa ‘đàn ông’. [Hang] rất gần với vài phương ngữ Việt như [Héng]. Hắn cũng gần với tiếng Quảng Đông [Heoi], và cũng có liên hệ với ‘Họ’, ngôi thứ ba số nhiều trong tiếng Viêt. Tiếng Muờng, trái lại, dùng ‘Ho’ (không có dấu Nặng) [16] cho Tôi/Tao. Môt tiếng Mường khác rất phổ thông để chỉ đại danh từ ngôi thứ ba là ‘Lũ’, giống như tiếng Việt ‘Bọn/Chúng’. ‘Lũ’ cũng có cùng âm với [lei] [5] 娌, tiếng Ngô (Triết Giang), có nghĩa cô ấy/cậu ấy, ph át âm nh ư [lei] trong ti ếng Qu ảng Đông [5]. Cũng là điều thú vị, vì ‘Lũ’ cũng giống âm tiếng Pháp ‘lui’, (bảng [1]), trong khi ‘Y’ và Hắn (hoặc [heoi] tiếng Quảng Đông) giống ‘Il’ trong tiếng Pháp hoặc He/Him trong tiếng Anh.
Kẻ và Gã có âm giống [Ke] và [Goat] trong tiếng Cambodian, và cùng gốc với [Kei], [Keoi] and [Gei] (其 渠) Quảng Đông. ‘Kẻ’ đồng thời cũng liên hệ với [Koj] Hmong (ngôi thứ hai) và [kow] Champa (ngôi thứ nhất). Kẻ, đọc là Ké trong tiếng Mường có âm giống [Ko ia] Rapanui (sắc dân Đa Đảo ở vùng đảo Easter Island) và [O KOya] Phúc Kiến, cùng dùng cho ngôi thứ ba ‘Ya’.
Thường Kẻ và Gã có ấy/đó đi kèm: Kẻ ấy, Gã đó. Tiếng Mường tương đương với ‘ấy’, hay ‘đấy’, là [đỉ]: Ông đấy (Việt)=> Ông đỉ (Mường); Bà ấy (Việt)=> Mễ đỉ (Mường). Xin lưu ý, âm Hỏi bên tiếng Mường là âm dấu Sắc bên tiếng Việt: đấy=> đỉ, tiếng => thiểng, nó=> nả, chúng=> chủng, đột phá=> đôt phả. Âm dấu Sắc tiếng Việt cũng tương đương với âm dấu Hỏi bên Tày-Nùng: đỏ chói => ‘đeng chỏi’ (Tày-Nùng), chúng => chủng.
Y và Va đọc là [Ya], rất phổ biến trong miền Nam. Cả hai có âm giống nhiều ngôn ngữ trong vùng. ‘Y’ từ: [yi] 伊, Quan thoại, [Y] Hẹ, Phúc Kiến, [Ee] Hải Nam, Hán- Hàn, Mon-Khmer. ‘Y’ trong Quan thoại cũng có nghĩa là ‘ấy'.
‘Va’ thật ra là chữ quốc ngữ đánh vần sai vì muốn gộp cả 3 âm [W], [V], [Y] (hoặc [By] {}) của các miền vào làm một chữ [V] duy nhất. ‘Bya’ rất thông dụng ở miền Nam, phát âm [Ya] hay [Bya] ([ba]). Phát âm [Ya] hay [ba] cho đại danh từ ngôi thứ ba tương ứng giống với [za] Hẹ, [Dia] hay [Ia], Mã Lai, [niya], Tagalog (Phi Luật Tân), [Eya], Sinhalese và [Ia], Đa đảo (Polynesian).
[Ta] 他 phổ biến nhất trong tiếng Trung Hoa theo nghĩa “bà ấy/ông ấy”, không có trong tiếng Việt, ngoại trừ ‘Tha Nhân’ với chữ ‘Tha’ thường bị tưởng lầm là chữ Hán-Việt, nhưng thật ra, có phát âm Phúc Kiến [tha], hoặc Ngô (Triết Giang) [Tha]. Tiếng Tày-Nùng có âm [Te] [14] [15], xuất phát từ [Ta] để chỉ “bà ấy/ông ấy”.
Cái, Kia, Ấy, Nầy, Nọ, Nớ: Cái thường được dùng trong tiếng Việt như mạo từ đếm [13]. Ví dụ: 1 cái bàn, 6 cái ghế…‘Cái’ thường được cho là chữ Nôm mượn từ Hán-Việt ‘Cá‘ có nguồn gốc từ tiếng Quan Thoại [Ge] 個. Thật ra, cả hai ‘Cá’ và ‘Cái’ có âm giống hệt từ tiếng Hẹ: [Ka] và [Kai], tương đương với Quan Thoại [Ge] [5] và Hán-Hàn [Kay] [5], là từ đếm bổ xung cho (này, ni) hay (nọ, kia, ấy).
Kia, Ấy, Nầy, Ni, Nọ, Nớ… đều có cùng môt âm với các phương ngữ Hoa Nam. Kia rất gần với其 [kia] Hẹ - cùng chữ giống như Kẻ và Gã. Ấy tương đương với ‘Y’ 伊, có cả hai nghĩa ‘ấy’ và ‘ông ấy/bà ấy’. (Ấy tương đương với Ái trong Tày/Nùng [15] [18]). Ấy cũng cùng âm và gốc vói Mon-Khmer [?a:y].
Nầy, Ni, Nọ, Nớ v.v... có cùng âm với nhiều từ Nam Trung Hoa mang nghĩa Nầy, Nọ. Thí dụ [nei] Quảng Đông & [ni] 呢 Hẹ nghĩa là cái này; và那 Hẹ & Quảng Đông [no], [naa] {cái kia}. Ngoài ra “Nầy (Ni)” and “Nọ (Nớ)” cũng giống như [nih] và [nuh] tiếng Cambodian cho cái này và cái kia.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 6:46:54 GMT 9
4. Đại Từ/số nhiều: Trong tiếng Việt, qui luật chung cho các đại danh từ số nhiều là thêm Chúng, Các, Bọn, vv.. vào các đại danh từ số ít tương ứng - Tôi => Chúng Tôi, Bọn Tôi, Tụi Tôi, - Anh, Chị, Bạn, Ông, Bà, Bác, Cô, Cậu => Các Anh, Các Chị, Các Bạn, Các Ông/ Quí Ông), Các Bà/Quý Bà), Các Bác, Các Cô, Các Cậu, … - Nó, Cô ấy…=> Chúng Nó, Các Cô ấy,... Đa số những đại danh từ số nhiều này có nguồn từ các tiếng thổ âm Trung quốc: (a) Quý, thường được dùng cho đại danh từ ngôi thứ hai số nhiều, để chỉ sự kính trọng. Quý với Hán tự 貴 đọc là [gwi] hay [kwui] Hẹ, [kui] Phúc Kiến, và [kwi] Hán-Hàn. Quý dùng cho ngôi thứ hai, (b) Các 各, dùng hầu như chỉ cho đại danh từ ngôi thứ hai mà thôi để chỉ ‘nhiều’, ‘mọi người‘, ‘tất cả‘, có cùng âm với tiếng Hẹ và Phúc Kiến: [kok]. (c) Bọn 幫, có nghĩa là ‘nhóm‘, từ âm Quảng Đông [bong] 幫 hay [baan] 班. Bọn rất gần với tiếng Tày-Nùng [Boong], Boong Hây = Chúng ta; Boong Câu= Chúng Tao, Boong Mầu= Chúng mày, Boong Te= Boong Mền= Chúng Nó [17]. (d) Tụi 隊: cùng âm với tiếng Hẹ [tui] có nghĩa một nhóm, thường dùng trong đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ‘Tụi tôi’. (e) Chúng 眾, có nghĩa ‘nhiều‘, ‘đám đông‘, có cùng âm với tiếng Hẹ [chung]. Trong tiếng Tày Nùng, đọc là ‘chủng’, chủng hay chũng trong tiếng Mường, và có sự liên hệ ẩn dụ với chủng 種 (phát âm giống tiếng Hẹ [chung]), có nghĩa “chủng tộc”. Còn có hai đại từ không còn thông dụng trong tiếng Việt. Chữ thứ nhất là chữ Mường ‘Tàn’, trong Tàn Miềnh= chũng thôi=chúng mình / chúng tôi. Tàn Ha= Tàn Qua= Chúng Ta, Tàn Pay= Chúng bây / chúng mầy, Tàn nả= Tàn lũ= chúng nó, chữ ‘Tàn’ trong tiếng Việt là Đàn, Đoàn hay toán, Hán-Hàn [tan], viết Hán tự là 團 [tuan], hay 嘽 [tan], có nghĩa “một nhóm” hay “nhiều”. ‘Đàn/Đoàn’ trong tiếng Việt không còn dùng để tạo ra đại danh từ số nhiều, chỉ còn giữ lại nghĩa, là “một nhóm” đứng chung trong vài danh từ khác như Đàn Chim, Đoàn Thanh Niên, Đàn Bà & Đàn Ông Chữ thứ hai là một chữ cổ, ‘Mớ’ có trong cả hai cuốn từ điển Alexandre de Rhodes và Huỳnh Tịnh Của [3] [4]: Mớ Tôi= Mớ qua= Chúng Tôi, Mớ Anh= Các Anh . ‘Mớ’ dùng cho đại từ số nhiều, dường như đã bị mất không được mang vào trong hoàn cảnh chữ quốc ngữ abc nở rộ. Và cũng như Đàn, ‘Mớ’ chỉ còn dùng trong vài văn cảnh cùng với danh từ khác: Mớ quần áo kia, Mớ tiền dành dụm, Mớ cơm còn lại... Trong bảng II trình bày về các âm tương ứng, Mớ tương đương với Quan thoại [men], (Wo-men = chúng tôi, Nimen = các anh, Tamen= chúng nó) và Hải Nam [Mui], (Gua-mui = chúng tôi, Du-mui = các anh, Y-mui= chúng nó). Đặc điểm dễ thấy nơi đại từ thứ nhất số nhiều trong tiếng Việt, là chúng có thể dùng cho cả những trường hợp bao gồm và phân cách. Bao gồm: Chúng ta, như trong tiếng nói lúc nói chuyện, bao gồm cả người nói lẫn người nghe. Trong khi Phân cách: Chúng tôi, cụ thể phân cách người nói, không bao gồm, kể đến nguời nghe. Trong tiếng Pháp tương tự dùng ‘On’ (phân cách) hay ‘Nous” (bao gồm). Tiếng Anh, thêm ‘All’ sau ‘We’ hay ‘Us’ để nhấn mạnh bao gồm: ‘Aren’t we all afraid of learning a foreign language?’ (Chúng ta đâu có sợ học sinh ngữ, phải không?) – ‘The President’s decision will affect us all for a long time.’ (‘Quyết định của tổng thống sẽ ảnh hưởng toàn thể chúng ta trong một thời gian dài.’). ‘Đại danh từ bao gồm’ trong tiếng Việt như Chúng ta, Chúng mình, Tụi mình, Bọn mình, Hai ta (2)… vv.., với Hai ta (2) có nghĩa (anh và tôi) thấy trong nhiều ngôn ngữ khác, từ Hmong đến Đa Đảo: Tahitian, Samoan, Tongan, Fiji, và Maori. Trong tiếng Quảng Đông, chữ Hai ta được viết Hán tự 喒 đọc là [zaa], rất gần với tiếng Vịệt [Ta]. Tiếng Champa, (Chúng ta) là [Khol ita] hay [Khol Trey], với ‘Khol’ tương đương với ‘Chúng’ [20]. ‘Đại từ phân cách” gồm Chúng tôi, Tụi tôi, Bọn tôi, Hai đứa tôi (2), Hai đứa này (2), vv.. Trong tiếng Champa (Tụi tôi) là [Khol Tahlă?] [20]. Trong tiếng Quan Thoại phía bắc, Chúng tôi, mới phân ra hai đại từ là [zamen] 咱 們, cho bao gồm và [women] 我 們 cho phân cách. Nên để ý là sự phân biệt giữa bao gồm và phân cách không đặc biệt thuộc vào một nhóm ngôn ngữ nào. Nó hiện hữu ở một số, không phải tất cả, trong các ngôn ngữ Altai và nhóm Quan thoại phía Bắc, chứ không ở ngôn ngữ miền Hoa Nam, và toả đến nhiều ngôn ngữ ở miền Nam và Đông Nam Á, lan đến tận một số ngôn ngữ Đa Đảo, như trình bày trong Bảng II. Thảo Luận Như đã thấy, trong tiếng Việt không đại từ nào đứng một mình mà không có liên hệ với từ của các tiếng khác. Tất cả đều có ít nhất một liên hệ với từ trong ngôn ngữ khác hoặc có nguồn gốc giữa các ngôn ngữ và thổ ngữ tạo thành tiếng Việt ngày nay. So sánh với các phương ngữ Trung Hoa, kể cả Quan thoại, đại danh từ cho ngôi thứ hai tiếng Việt - không có từ gọi chung chung như Ni/Nimen (you như trong tiếng Anh)- luôn có liên hệ gia tộc hay địa vị xã hội. Trong tiếng Việt, đại danh từ nhất là ngôi thứ nhất và thứ hai, luôn để ý đến vai vế trong gia đình hay ngoài xã hội, phản ảnh cấu trúc văn hoá sâu đậm và là di sản từ văn hóa cổ Mon-Khmer vốn không khác bao nhiêu với văn hoá của người Bách Việt ở miền mà bây-giờ-là-Nam-Trung-Hoa. Để ý là văn hóa Mon-Khmer đã hiện diện ở Trung quốc từ lâu đời, Mon-Khmer thường được biết dưới tên Địch-Khương (một trong bốn nhóm Trung Hoa gọi là Man-Di-Nhung-Địch), và truyền thuyết ghi lại vua Đại Vũ - nổi tiếng về trị thuỷ ở sông Hoàng Hà - người thành lập ra nhà Hạ, là người gốc Bách Việt, được coi là từ bộ tộc Khương [2]. Việc xử dụng rất nhiều từ Tôi hay Tớ trong tiếng Việt có thể cho ta biết là có đến hơn 51% nguời Việt xưa kia mưu sinh bằng các việc sưu dịch, vì cả hai từ Tôi hay Tớ nghĩa là người làm, ngưòi giúp việc, giống như đa số các ngôn ngữ Trung hoa. Thật sự đây là đặc thù của đại danh từ ngôi thứ nhất trong tiếng Việt so với các nhóm ngôn ngữ khác, trong bảng I và II. Vì tiếng Vịêt là một ngôn ngữ tiến hóa do sự hội nhập của nhiều ngôn ngữ trong vùng, vì thế có rất nhiều biến dạng ẩn dụ xảy ra giữa đại danh từ ngôi thứ nhất, thứ hai, và thứ ba, như thấy trong [Za] hay [Ya], [Kẻ] và các từ tương đương trong ngôn ngữ khác như [Kei], [Koj], [Kow], [Kuv], [Nó], [Nong], [Nws], vv.. Đặc điểm này từ xưa tới nay, thuờng được giải thích là những từ “vay mượn” hoặc đồng âm dị nghĩa, nhưng trong bài này, đã được chứng minh đó là hiện tượng biến dạng thay đổi ẩn dụ, trong những phối hợp cạnh tranh của các ngôn ngữ và các chuyển thể trong từ vựng, ắt có trong quá trình cấu tạo tiếng Việt. Cuối cùng, đại danh từ ‘bao gồm’ và ‘phân cách’ ‘Chúng tôi/Chúng ta’ đã được chứng minh là một điểm chung của tiếng Việt cùng các phuơng ngữ và ngôn ngữ láng giềng trong khu vực, nhất là từ những phương ngữ Đa Đảo [22]. Tham khảo và ghi chú [1] V.U. Nguyen (Nguyên Nguyên) (2007) Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (đang in). [2] V.U. Nguyen (2007) Loan Words and Metaphorical Field. (đang in). [3] Alexandre de Rhodes (1651) Dictionarium Annamiticum – Lusitanum – Latinum. Translated by: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Viện Khoa Học Xã Hội – HCM 1991. [4] Huình Tịnh Paulus Của (1895) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Imprimerie Rey, Curiol & Cie. Nhà Xuất Bản Trẻ, tái bản 1998. [5] CCDICT v5.1.1: Chinese Character Dictionary by Chineselanguage.org (1995-2006) [6] L. V. Hayes (2001) Austric Glossary - home.att.net/~lvhayes/Langling/Glossary/Glospag1/glosf019.htm[7] Richard K. Gilbert and Sovandy Hang (2004) Cambodian for Beginners. Paiboon Poomsan Publishing – Bangkok (Thailand). [8] Trong thế kỷ 20, trong nhiều khu vực ở Bắc Việt, từ ‘Bác’ được dùng thay thế cho ‘anh em’, trong khi đó ‘Cụ’, có cùng nguồn gốc với tiếng Quan thoại [gou] và Đại Hàn [kwu], được dùng rất phổ thông để gọi người lớn tuổi, bằng tuổi bố mẹ hay ông bà. Ngoại có nguồn gốc từ tiếng Quan thoại 外 [wai], và [ngoi] Hẹ. Trong khi Nội (ông nội, bà nội) lại có nguồn gốc từ Hán tự內, với phát âm hệt như [noi] Quảng Đông. Theo tự điển Trung hoa CCDICT Chinese Dictionary, [ngoi] cũng có thể chỉ những liên hệ phía ‘bên nội‘, cho thấy vết tích xưa một thời của xã hội mẫu hệ ở Trung Hoa: ngày xưa NGOẠI tức chỉ NỘI, và NỘI chỉ NGOẠI (ngày nay) [9] Nguyễn Văn Khang (editor), Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành (2002) Từ Điển Mường-Việt {Mường-Vietnamese Dictionary}. NXB Văn Hoá Dân Tộc – Hà Nội. [10] Một thí dụ khác cho thấy sự thay đổi hoán chuyển ẩn dụ là từ [Năm] có nghĩa số 6 bên tiếng Champa, nhưng lại là số 5 bên tiếng Việt. [11] Tiếng Hán-Việt từ Quan thoại [er] 兒 là ‘Nhi’ , (như trong ‘nhi đồng’) giống âm [yi] trong Quảng Đông và Hẹ. ‘Bé’ theo [5] viết như啤, là phiên âm Quảng Đông từ chữ ‘Baby’ hay ‘Bébé’. Từ Việt cho người con (hay em) nhỏ nhất trong gia đình là Út [oot], em út hay con út, trong tiếng Hẹ là [yeu], Quảng Đông là [yiu] {幺}. Nguồn gốc từ này có lẽ là từ tiếng Cambodian là [oob]. [12] Tam là một từ nữa có nghĩa gần với Em ở trên. Nghĩa chính của Tam là nhỏ tuổi, không hẳn là chỉ người em trai. Từ này chỉ còn thấy dùng trong văn học xưa, nhất là trong các tác phẩm của nhà văn/tướng Nguyễn Trãi (1380-1442) dưới triều Lê ([21]) [13] Tiếng Quảng Đông để gọi vợ của cậu là [kam] 妗, có vẻ là một từ gồm cả 2 chữ [kau] 舅 (cậu) và [maa] hay [mou]) 媽 (vợ, mẹ, hay tớ gái). Tiếng Việt ‘Mợ’ lấy âm [mou] trong chữ [kau mou] nói trên. [14] Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo – Hoàng Chí (1974) Từ Điển Tày – Nùng - Việt (Tay-Nung-Viet Dictionary). Viện Ngôn Ngữ Học [15] [Hô] trong Tày-Nùng thật ra có nghĩa ‘gã kia’, không phải ‘ta/tao’ . ‘Họ’ trong tiếng Việt, có nghĩa ‘chúng nó’ tương đương với tiềng Tày-Nùng [Hâu]. ‘Ta/tao’ trong Tày-Nùng là [Ngỏ] và ‘Anh/chị’, [Nỉ], rất gần với với Quảng Đông [Ngoh] & [Ni]. Điều này cho thấy tiếng Tày-Nùng mang ảnh hưởng Quảng Đông trước khi nhập vào Việt Nam. Chữ ‘Tay’ trong Tày-Nùng, khi tận cùng bằng [ay] cho thấy dấu vết của tiếng Mon-Khmer, có vẻ như biến dạng từ tiếng Tai, hay Thai, hay Dai. ‘Nung’ là tên một nhóm thiểu số, rất có thể từ dân Zhuang ở Quảng Tây, cũng gốc Thái. Về người Zhuang, xem Jeffrey Barlow (2005) The Zhuang: A Longitudinal Study of Their History and Their Culture. mcel.pacificu.edu/as/resources/zhuang/contents.html[16] Để ý Thái, Mường, Tày-Nùng và tiếng Việt Nam ở Nam bộ đều có 5 thinh, so với đồng bằng Bắc bộ có 6 thinh. Thinh thứ 6, Ngã, đến từ phương ngữ Thái ở Côn Minh (Vân Nam), phương ngữ này vốn không có dấu hỏi (xem [2]). [17] Để ý ‘Boong’ trong Tày-Nùng (Bọn), giống Khmer [BOuung] (bạn), cho thấy Tày Nùng giống tiếng Việt ở Nam bộ là không phân biệt âm cuối, [N] và [NH]: ‘an’ và ‘anh’, ‘tin’ and ‘tinh’, như ở đồng bằng sông Hồng, có lẽ do ảnh hưởng từ âm Phúc Kiến. [18] Ấy hoặc Ý trong tiềng Việt ở Nam bộ đôi khi được sát nhập với danh từ đi trước -thường với âm Huyền - để trở thành từ với âm Hỏi. Điều này rất là có lý vì âm Hỏi gần như tương đương với âm Huyền với âm Sắc đi sát cận sau: Thầy ấy => Thầy ý => Thẩy. Thằng ấy (đó) => Thằng ý => Thẳng. Bên ấy (đó) => Bển… [19] ‘Mwang’ (~ Mường) hay ‘Mwai’, là một từ Thái có nghĩa ‘người’ hay làng ‘Mường’. ‘Mwai’ gần với ‘Ngài’ dẫn đến ‘Người’, có chung âm với một số các phương ngữ Tây Nguyên như: Nguồn: [ngàj], Sách: [ngàj], Mày: [ngàj], Rục: [ngàj], Xơ-Đăng: [mơngê], Kơ Tua: [moi ngàj], Dêh: [ngaj], Triêng: [ngaj], Ba-Na: [ngaj] (mơ-ngaj), tiếng Hrê / Gié-Triêng: [ma ngaj]. {Trần Trí Dõi (2001) Ngôn ngữ và sự phát triển Văn Hoá Xã Hội, NXB Văn Hoá Thông Tin.} [20] Chữ Champa [Khol] có nghĩa ‘bọn’ hay ‘nhiều’ trong đại danh từ (Khol ita, Khol tahlă’, Khol nhu) tuơng đương với tiếng Hoa Phổ thông 干, đọc là [gon] trong cả hai tiếng Hẹ & Quảng Đông, và [kO] trong tiếng Ngô [21] [12] Một tiếng cổ cho ‘Em’ (em trai, em gái) là ‘tam’, được thấy là có đồng âm với [tai] Quảng Đông, [te] Phúc Kiến, và [awn] Thái để chỉ người nhỏ tuổi hơn. Hoặc gần hơn là [tiam] Hẹ 栝, trong những áng văn Nôm của Ức Trai Tiên Sinh (Nguyễn Trãi) đời Lê, người ta thấy Ức Trai rất thường dùng ‘anh tam’ thay cho ‘anh em’: "Tuy rằng bốn biển cũng là anh tam", "Núi láng giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam" {xem: www.vietmedia.com/literature/vanthisi/?ID=5 - Hoặc Quốc Âm Thi Tập} [22] Có vài chữ có gốc Đa Đảo trong tiếng Việt: (a) ‘hiu-hiu’ (gió thoảng ) => (Hau-hau) trong Rapanui /Maori), theo luật biến âm từ [iu] <=> [au], giống các phương ngữ Hoa Nam [2]. (b) Tao => Tau / Taua (Tonga / Tahiti). Mình => Mau / Maua. (c) ‘Có’; tương tự với [e-tiKO] Phúc Kiến và [‘oKu-‘iai] trong Tongan, với cấu trúc văn phạm giống nhau: Có một căn nhà= ‘Oku-‘iai ha fale (Tongan) [23] Tiếng Thái [tuai] nghĩa là ‘mình’ (thân thể). [Tuai] có âm gần với ‘Tôi’ hay ‘Tui’, và vì thế ‘Mình’ được dùng hoán chuyển qua lại với ‘Tôi’ trong giao thoa Việt-Thái. [24] Một từ cùng âm khác nghĩa với ‘Da’ trong tiếng Việt, là ‘Da’ trên thân thể.’ Khi dùng với nghĩa này, ‘Da’ giống hệt ‘Ta’ nơi tiếng Mường, và ‘Tao’ tiếng M’nong, một phụ chi của ngôn ngữ Mon-Khmer. Tóm Tắt Như đã được đề xướng và trình bày tỉ mỉ ở [2], tiếng Việt là một sự hỗn hợp tiến hóa lâu dài trong lịch sử của nhiều ngôn ngữ và phương ngữ khác nhau, với hạ tầng cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ và Đa-Đảo. Chồng chất và đan xen với lớp hạ tầng cơ bản đó là các thứ tiếng xuất phát từ khối Bách Việt xưa ở miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt) trải qua Quảng Tây, Quảng Đông (Tây và Đông Việt), Phúc Kiến - Triều Châu (Mân Việt), cho đến Ngô (Thượng Hải-Triết Giang), và Hải Nam, v.v. Và hỗ trợ bằng hai nhóm Hẹ (Hakka) và Miêu-Dao (Miao-Yao hay Hmong-Mien). Đặc tính căn bản của đại danh từ Mon-Khmer được thể hiện trong tiếng Việt là dựa trên sự liên hệ gia đình và vị trí xã hội. Đặc điểm này được kết hợp với những đại danh từ chính như Ta, Qua, Kẻ, Gã, Anh, Em, Ya, Hắn, Y, v.v... mà tất cả các ngôn ngữ trên đều có chung, nhất là ngôn ngữ Miến Điện, Champa, Mường, Tày-Nùng, Hẹ, Quảng Đông, Hmong và Đa Đảo Polynesian. Đa số, nếu không nói là tất cả, các đại từ chỉ định dùng trong các đại danh từ như Kia, Này, Ni, Nọ, Ấy, v.v... cho thấy được xuất phát từ những phương ngữ Trung Hoa và ngôn ngữ Mon-Khmer.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 5:11:14 GMT 9
NGƯỜI XƯA NÓI VỀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI Thưa chư vị, Chúng tôi xin giới thiệu ở đây bài văn làm trong kỳ thi Đình (làm tại sân triều đình) - do nhà vua ra đề bài, chấm bài, để phân hạng các tiến sĩ. Người đỗ đầu (đủ 10 phân) là Trạng nguyên. Đề bài thường hỏi về các vấn đề lớn của đất nước và về việc trị nước. Bài thi đó gọi là Sách văn đình đối. Bài văn dưới đây là sách văn đình đối đã mang lại lại danh hiệu Trạng Nguyên cho Nguyễn Trực (1417 - 1473) trong kỳ thi Đình năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo thứ 3. Nguyễn Trực là vị Trạng nguyên đầu tiên của triều Lê. Tấm bia ghi về khoa thi này là tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, được dựng năm 1484. Đề bài của vua Lê Thái Tông yêu cầu rằng: "Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mở thăm thẳm. Sao người quân từ khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy? Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét". Đấy! Lòng vua chân thành là vậy! Đời nay có theo kịp đời xưa chăng? Thí sinh trả lời rằng: "Bệ hạ muốn quân tử tiến, tiểu nhân lùi thì không gì bằng gần gũi bề tôi khí tiết, sử dụng kẻ sỹ chính trực để họ đưa vua đi đúng đường đặt (và đặt) vua vào chỗ không lầm lỗi". Rồi lại nói thẳng với nhà vua rằng: "Vua có nhân, không ai không có nhân; Vua có nghĩa, không ai không có nghĩa; Vua chân chính, không ai không chân chính. Trước hết, vua chân chính rồi cả nước sẽ bình yên". Đấy! Lời một thí sinh nói với vua như thế! Có thẳng thắn không? Người đời nay có ai đang định bước lên hoạn lộ mà nói với nguyên thủ như thế chăng? Nguyễn Trực dẫn đầu đoàn sứ bộ sang sứ nhà Minh vào năm 1444 cùng với Phó sứ Trịnh Thiết Tràng. Giữa triều đình phương Bắc, Nguyễn Trực đã hoàn thành sứ mệnh bằng kiến thức uyên bác, tài ứng đối nhạy bén, sắc sảo, sự vững vàng cứng cỏi và trên hết là ý thức tự hào dân tộc rất chính đáng của mình, khiến vua tôi nhà Minh phải kiêng nể. Năm 1457 viên sứ thần nhà Minh là Hoàng Gián sang ta. Lê Nhân Tông đã triệu Nguyễn Trực về triều để tiếp sứ Tàu. Hoàng Gián vặn vẹo đủ điều, nhưng điều nào cũng được Nguyễn Trực giảng giải phân minh, khiến cho vị “thiên sứ” nọ phải thán phục thốt lên "Quốc hữu nhân tài”(nước (Việt) có người tài). Tài năng và phẩm chất của Nguyễn Trực được Lê Thánh Tông đánh giá cao. Mặt khác, vốn rất coi trọng sự nghiệp đào tạo nhân tài, Lê Thánh Tông đã tìm thấy ở Nguyễn Trực một nhà giáo xuất sắc, mẫu mực, và cử ông làm Quốc tử giám tế tửu. Nguyễn Trực tham gia hiệu đính, phê duyệt bộ “bách khoa toàn thư” của thời ấy: Thiên Nam dư hạ tập. Gia phả ghi rằng bộ Thiên Nam dư hạ tập theo lệnh của Lê Thánh Tông, phải mang đến tận nhà để Nguyễn Trực phê duyệt mới được xuất bản.(Phần này có tham khảo tài liệu của TS. Nguyễn Công Việt). . Ôi! Người xưa của ngày xưa! Ôi! Ngày xưa của người xưa! * Bản dịch bài văn sách thi Đình của Trạng nguyên Nguyễn Trực do Hoàng Hưng dịch. Hoàng Hưng là bút danh của TS Hoàng Văn Lâu (1940 - 2003). Ông sinh năm 1940 tại Đông Hưng, Thái Bình, trong một gia đình gia giáo, trọng thi thư. Năm 1986 ông bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ về bộ sách Việt Sử cương mục tiết yếu của sử gia Đặng Xuân Bảng. Ngày 8 tháng 8 năm 2003, ông đi xe máy đèo một người bạn đi thăm một người bạn đang nằm viện và bị tai nạn giao thông, mất ngay tại chỗ, cách nhà vài trăm mét. Hưởng dương 63 tuổi. . BÀI VĂN SÁCH THI ĐÌNH CỦATRẠNG NGUYÊN NGUYỄN TRỰC Hoàng Hưng . Trong kho sách Hán Nôm có một khối lượng khá lớn văn bản ghi lại những bài văn hay của các ông nghè, ông cử làm trong các dịp thi Hội, thi Hương. Nhìn chung, loại văn thơ thi cử, làm theo một khuôn khổ gò bó, ít sáng tạo lớn. Nhưng ở một số bài văn sách, nhất là các bài văn sách nói về đường lối xây dựng đất nước đương thời lại có những giá trị sử liệu nhất định. Bài văn sách thi Đình của Trạng nguyên Nguyễn Trực làm trong dịp thi Đình năm 1442, là một luận văn xuất sắc trong thi cử thời ấy. Bài văn nói về đường lối dùng người, kiến nghị các biện pháp để “tiến cử bậc quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân”, là một tư liệu lịch sử quí có thể giúp ta tìm hiểu đường lối dùng người ở buổi đầu của nhà Lê, do vậy chúng tôi dịch và giới thiệu để bạn đọc cùng tham khảo. Nguyên bản được ghi lại trong tác phẩm Bối Khê trạng nguyên đình đối sách văn; ký hiệu: A.1225, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. [ĐỀ BÀI] Trẫm nghĩ: . Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, ngoài Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục(1) ra, không thấy còn ai nữa; Sao nhân tài khó tìm vậy! Đến Đế Nghiêu sáng suốt hiểu người là thế, mà trong triều vẫn còn lũ Tứ hung(2). Sao tiểu nhân khó biết vậy! Cái nạn Giáng thủy, cái hoạ Hoài sơn(3) dân chúng thời ấy, tai vạ thực không ít. Cổn trị thủy đến 9 năm, gây biết bao tai họa cho dân; Sao trừ bỏ tiểu nhân muộn vậy! Đời Chu được Kinh Thi ca ngợi là “kẻ sỹ đông đúc”. Văn Vuơng dựa vào họ mà dẹp yên đất nước. Nhưng đến đời Vũ Vương, chỉ còn thấy nhắc tới Thập loạn(4). Như vậy, bảo là nhân tài khó kiếm, há chẳng đúng sao? Quản Thúc, Sái Thúc phao tin đồn nhảm, khiến Chu Công phải lận đận, Vương thất suýt sụp đổ(5); sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời đại nào là không có chúng! Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển, trong khi ấy thì bọn Hãn, bọn Xảo (6) ngầm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mở thăm thẳm; bọn Ngân, bọn Sát(7) lại gian ngoan chúa ác. Sao người quân từ khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy? Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét. [BÀI LÀM] Thần trả lời: Thần nghe nói: Xưa nay, bậc thánh nhân trị nước, dẫu sự nghiệp có khác nhau, nhưng tấm lòng của họ, trước sau vẫn là một. Tiến cử người quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân, ấy là bản tâm của bậc thánh nhân trị nước. Còn như người quân tử bị lui bỏ, mà kẻ tiểu nhân được tiến cử thì đâu phải là nguyện vọng của Thánh nhân. Xem như đời Đường Ngu, đức sáng lớn lao mà không khinh suất trong việc dùng người: Đặt quan chỉ dùng người giỏi, trao việc chỉ chọn tài năng, cũng như mục đích tìm người giỏi, dùng người tài của triều ta, đều là phép dùng người quân tử, trừ bỏ tiểu nhân vậy? Hoàng thượng(8) kế thừa nghiệp lớn, trị nước giữ dân, sớm tối cầu hiền để giúp nên cơ nghiệp. Rồi lại đặt khoa thi chọn kẻ sỹ, mở rộng đường cho hiền giả tiến thân, tiến cử bọn thần ở giữa triều đình, hỏi về đạo trị nước và đạo quân tử, tiểu nhân khác biệt. Thần là kẻ ngu muội, đâu dám xét bàn trước bề trên, nhưng đã thẹn vâng chiếu sáng, dám đâu không trung thực phi bầy để đáp lại mệnh lớn của thiên tử. Thần cúi đọc lời sách vấn của Thánh thượng hỏi rằng: Trẫm nghĩ: Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, ngoài Từ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục ra không thấy còn ai nữa; Sao nhân tài khó tìm vậy! Đến Đế Nghiêu sáng suốt hiểu người là thế, mà trong nước vẫn còn lũ Tứ hung; Sao tiểu nhân khó biết vậy “Cái nạn Giáng Thủy, cái hoạ Hoài Sơn, dân chúng thời ấy, tai vạ thực không ít. Cổn trị thủy đến 9 năm, gây biết bao tai hoạ cho dân; Sao trừ bỏ tiểu nhân muộn vậy! Thần cho rằng: Trị nước lấy nhân tài làm gốc, dùng người lấy chữ tín làm đầu. Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, chỉ thấy sách ghi là “hỏi ở Tứ nhạc” “nghe ở Thập nhị mục”. Tứ nhạc là người coi chung chư hầu bốn phương. Thập nhị mục là các đầu mục của Chín châu, cùng với Vũ là Tư không, Khí là Hậu tắc, Tiết là Tư đồ, Cao Dao là Sỹ sư. Thùy là Công công, Ích là Ngu quan, Bá Di là Trật tôn, Qùy là Điển nhạc, Long là Nạp ngôn, gọi là Cửu quan. Ngoài ra thì không thấy còn ai nữa. Kinh Thư nói: Đường Ngu đặt trăm quan. Lại có chỗ ghi: Người có đức được sử dụng, kẻ có tài được trao chức, trăm quan làm khuôn phép, trăm việc đều kịp thời. Chốn miếu đường bàn bạc việc chung, nơi điện bệ lời ca vang dội. Người người đều có đức hạnh của bậc sỹ quân tử; nhà nhà đều có phong tục đẹp đáng nêu khen. Cho đến nhân tài muôn mước đều là thần dân của Hoàng đế. Như vậy, phải đâu là nhân tài khó thấy? Còn như đế Nghiêu sẵn đức văn võ thánh thần, có tài hiểu người sáng suốt nhưng trong triều vẫn còn lũ Tứ hung là bởi sao? Bởi đạo của kẻ tiểu nhân dễ tiến mà khó lui, dễ dùng mà khó bỏ. Đại gian như trung, đại nịnh như tín, chúng vào hùa kết đảng thậm chí dẫn dắt tiến cử lẫn nhau. Nhưng đâu phải Đế Nghiêu sáng suốt không biết điều đó. Xem như câu: Dùng lời nói khéo để trái mệnh vua, giả cách kính nhường để gây tội ác(9), và câu: Hỡi ôi, bỏ mệnh Tiền Vương, gây tai hoạ cho dòng họ(10) thì có thể thấy rõ điều đó. Như thế, đâu phải kẻ tiểu nhân khó biết, mà chỉ là chưa trừ bỏ sớm thôi! Nhưng đời Đường ngu, dùng phép Tam khảo(11) để bình xét công trạng của các quan. Cho nên, Nghiêu phải dùng Cổn tới 9 năm. Khi xét thấy Cổn không hoàn thành công việc rồi mới phế bỏ, chứ đâu phải là bỏ không sớm? Sau đó, Thuấn theo lệnh Nghiêu giết Cổn mà thiên hạ đều phục, như vậy, phải đâu tiểu nhân khó trừ. Xem thế thì thời Đường Ngu tuy có tiểu nhân, nhưng chúng không làm hại được công cuộc trị nước của Nghiêu Thuấn. Thần cúi đọc lời sách vấn hỏi rằng: Đời Chu được Kinh Thi ca ngợi là “kẻ sỹ đông đúc”. Văn Vương dựa vào họ mà dẹp yên đất nước. Nhưng đến đời Vũ Vương, chỉ còn thấy nhắc tới Thập loạn. Như vậy, bảo là nhân tài khó kiếm, há chẳng đúng sao! Quản Thúc, Sái Thúc phao tin đồn nhảm, khiến Chu Công phải lận đận, Vương thất suýt sụp đổ; Sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời đại nào là không có chúng. Thần nghe rằng: Văn Vương hiểu rất rõ ý nghĩa và tác dụng của đạo “Tam hữu”(12) nên nhân tài đông đảo. Đó là điều tốt đẹp của nhà Chu. Đến đời Vũ Vương, chỉ có 10 người bề tôi dẹp loạn là Chu Công Đán, Thiệu Công Thích, Thái Công Vọng, Tất Công, Vinh Công, Thái Điên, Hoằng Yên, Tản Nghi Sinh Năm Cung Quát và một người là Ấp Khương. Cho nên Khổng Tử nói “Nhân tài khó kiếm” chẳng đúng thế sao! Từ thời Đường Ngu đến lúc này là có nhiều người tài giỏi. Nhưng trong 10 người ấy, có một là đàn bà(13) còn lại chỉ có 9 người thôi. Nhưng xét kỹ phẩm chất biết dùng người hiền của Văn Vương trong bài thơ Vực phác(14) và niềm vui bồidưỡng nhân tài trong bài thơ Tinh nga(15) cùng những lời ngợi a như “ba ngàn kẻ sỹ, chỉ một tấm lòng...” thi nhân tài đời Chu không phải là không nhiều. Nói là nhân tài khó kiếm, chỉ có là không bằng thời Đường Ngu thôi, đâu phải ngoài 9 người ra, không còn ai khác. Ôi, nhân tài đông đúc như vậy, nhưng đương lúc Thành Vương mới lên ngôi, Quản Thúc, Sái Thúc là người ruột thịt trong Vương thất, ép Vũ Canh chống lại nhà Chu, nên đã phao tin để mê hoặc lòng người, khiến Thành Vương nghi ngờ Chu Công, làm cho Chu Công phải lận đận chạy về Đông Đô. Bởi lúc ấy, Vũ Vương đọc thơ nhưng vẫn chưa tỉnh ngộ. Sự nghiệp của Văn Vương, Vũ Vương như ngàn cân treo sợi tóc. Nếu như trời không nổi gió mưa sấm sét để phô bày tội ác của Tạm giám(16) để tỏ rõ công đức của Chu Công thì ai có thể thức tỉnh và phù trì Thành Vương? Tuy nói kẻ tiểu nhân gian hiểm, không thời đại nào là không có, nhưng xem câu “kẻ có tội phải chịu tội” thì cũng thấy là tội ác của bọn tiểu nhân rốt cuộc không thể thắng được người quân tử. Thần cúi đọc sách vấn của thánh thượng hỏi rẳng: Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiển mà không có một ai ứng tuyển, trong khi ấy thì bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mờ thăm thẳm; bọn Ngân, bọn Sát lại gian ngoan chúa ác... Sao người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy? Thần trộm nghĩ: Thái tổ Cao hoàng đế, theo trời mở vận, khai sáng cơ đồ; sẵn thiên tư thần vũ anh minh, là bậc chúa dựng nền ban phúc, luôn nhớ nỗi gian nan sáng nghiệp, luôn nhớ điều giữ nước khó khăn, đã nhiều phen xuống chiếu cần hiền, mong tìm được nhân tài trị nước, thế mà không có một ai ứng tuyển là bởi cớ làm sao? Ôi, một xóm nhỏ có mười gia đình, thế nào cũng có người trung tín; một mảnh vườn mươi thước, thế nào cũng có loại cỏ thơm. Huống chi cả nước rộng lớn, có ức triệu người mà lại không có lấy một người tài giỏi há sao? Thần nghĩ rằng: Tấm lòng của Thái tổ Cao hoàng đế, tức là tấm lòng sáng suốt hiểu người của vua Nghiêu, là tấm lòng khéo biết chọn người của vua Thuấn, cũng là ý đẹp gây dựng người hiền bằng mọi cách của Thành Thang, là phép hay không sót người gần, không quên kẻ xa của Vũ Vương. Bởi lo bậc hiền tài ẩn náu chốn hang cùng, nên hạ chiếu cầu hiền nhiều bận; bởi lo người tài giỏi lánh trong hàng tăng, đạo, nên đặt khoa thi để lựa chọn nhân tài. Thế mà chưa có kết quả là vì sao? Là bởi tự mình chọn người, là đạo người làm vua, nhưng tiến cử tài năng cho đất nước, lại là chức trách của bậc đại thần. Bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian ghen ghét hiền tài cất nhắc bè lũ. Bản thân chúng đã chả ra gì, thì làm sao tiến cử được nhân tài! Xem thế, dẫu Thái tổ Cao hoàng đế có nguyện vọng cầu hiền, nhưng bị bọn Hãn, Xảo che lấp hiền tài, nên không tìm được. Người xưa có câu: Ai tiến cử nhân tài, sẽ được ban thưởng mức cao nhất. Kẻ nào che lấp tài năng, phải bị trị tội nặng. Vì thế, bọn Hãn, Xảo đã không thoát khỏi sự trừng phạt của Thái tổ Cao hoàng đế. Bọn chúng cũng là lũ Tứ hung đời Ngu, lại Tam giám đời Chu đó! Nhưng dù có bọn tiểu nhân như chúng, vẫn không thể làm hỏng được công cuộc trị nước bấy giờ. Bệ hạ nối chí trị nước, giữ vững cơ đồ. Công bằng lựa chọn thẩy đều là cựu thần của Thái tổ; tỳ hư dũng mãnh, thẩy đều là nghĩa sỹ của Cao Hoàng(17). Đương buổi đầu lên ngôi, đã xuống chiếu mở khoa thi, muốn chọn nhân tài để dựng nền thịnh trị. Thế mà hiệu quả được người vẫn xa vời thăm thẳm; Chân thành cầu hiền, vẫn chưa được ai xứng đáng. Há không phải bọn Ngân, bọn Sát gian ngoan chúa ác gây nên hay sao? Thần cho rằng: Bọn Ngân, bọn Sát lừa dối bề trên, hãm hại hiền tài, lấy bọn theo mình làm giỏi, lấy bọn múa mép làm tài, mua quan bán tước, hối lộ ngang nhiên, đầy Cầm Hổ ra chân xa, bãi chức quan của Thiên Tước(18). Những việc như vậy, đâu phải vì nước tiến cử nhân tài, vì vua lựa chọn bề tôi? Do vậy mà người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết. Nhưng có thực là kẻ tiểu nhân khó biết hay không? Kìa bọn tiểu nhân Ngân, Sát, đã không thoát lưới của bệ hạ, mà quyết định sáng suốt của bệ hạ như Ngu, như Chu, như Thái tổ Cao hoàng đế, tấm lòng ưa thiện, ghét ác đều được thoả đáng mà khắp thiên hạ đều khâm phục vậy. Ôi, quân tử và tiểu nhân hoàn toàn trái ngược nhau. Đạo quân tử mạnh thì đạo tiểu nhân suy; đạo quân tử suy thì đạo tiểu nhân mạnh. Như âm với dương, như ngày với đêm không thể cùng song song vận hành; như nước với lửa, như thơm với thối, không thể cùng chứa trong một rọ. Cho nên bậc bề trên, mỗi lúc dùng người phải bình tĩnh, phải chuyển tâm, phải thử thách, phải thận trọng mới được. Thần cúi đọc lời sách vấn của thánh thượng hỏi rằng: Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, Trẫm sẽ đích thân xem xét. Thần tài năng chưa được bác cổ thông kim, dẫu hàng ngày ngu dốt, vẫn muốn được bề trên soi xét. Huống nay được dịp trình bầy, dám đâu không dốc hết hiểu biết của mình kính cẩn trả lời. Thần nghe nói: Trị nước lấy được người làm gốc, dùng người lấy sửa mình làm đầu. Truyện viết: Trị nước ở người, lấy người do mình. Lại có câu: Nghiêu Thuấn sáng suốt nhưng không biết hết mọi điều; hãy làm việc cần kíp trước; Nghiêu Thuấn nhân từ, nhưng không yêu khắp mọi người, hãy gần gũi người tài trước. Bệ hạ muốn học tập Nghiêu Thuấn thì đạo Nghiêu Thuấn còn đó; muốn học tập Thái tổ, thì phép Thái tổ còn kia. Bệ hạ muốn học Nghiêu, Thuấn, hãy quyết định đạo hiểu người, yêu dân phải làm trước, đạo dùng hiền, trừ gian phải làm kíp. Như vậy thì quân tử tiến và tiểu nhân lùi vậy. Bệ hạ muốn học Thái tổ hãy tưởng nhớ qui mô sáng nghiệp truyền dòng, phép tắc cầu hiền dùng người. Như vậy thì quân tử tiến và tiểu nhân lùi vậy. Bệ hạ muốn quân tử tiến, tiểu nhân lùi thì không gì bằng gần gũi bề tôi khí tiết, sử dụng kẻ sỹ chính trực để họ đưa vua đi đúng đường đặt vua vào chỗ không lầm lỗi. Cho nên, Mạnh Tử nói: Không thể chỉ trách cứ người mình dùng, không thể chỉ chê bai việc chính sự. Duy bậc Đại nhân mới biết sửa lỗi lầm của vua. Vua có nhân, không ai không có nhân; Vua có nghĩa, không ai không có nghĩa; Vua chân chính, không ai không chân chính. Trước hết, vua chân chính rồi cả nước sẽ bình yên(19). Thần xin bệ hạ hãy đích thân tiến cử hiền thân để bố trí ở quanh mình, như Thuấn tiến của Cao Dao mà kẻ bất nhân lìa xa. Thành Thang tiến cử Y Doãn mà trăm quan đều thuần nhất; Cao Tông được Phó Duyệt mà tâm trí mở mang: Thành Vương được Chu Công mà cậy nhờ giúp dân. Được như vậy thì chốn dân dã không sót nhân tài mà muôn cõi yên ổn, bản thân mình được hưởng mệnh trời mà triệu dân sinh sôi. cùng là sớm tối nghe lời khuyên can để giúp đức dân, kinh dinh bốn phương để giữ yên đất nước. Như thế thì lo gì quân tử không được tiến cử, tiểu nhân không bị đẩy lùi. Dẫu vậy, hãy nhớ ba điều Trí, Nhân, Dũng là đạt đức của thiên hạ. Không có Trí thì không thể hiểu người; không có Nhân thì không thể chọn người; không có Dũng thì không thể dùng người. Lấy Trí hiểu người thì có thể hiểu biết rõ ràng và đầy đủ tài năng của họ. Lấy Nhân chọn người thì không bỏ người tài khi họ cùng khốn và chọn được người hết lòng trung thành. Lấy Dũng dùng người thì tin dùng không nghi ngờ và chuyên tâm nghe hết mọi điều. Nếu có cả ba điều Trí, Nhân, Dũng này thì lẽ dùng, bỏ rõ ràng, lòng yêu, ghét chính đáng. Đó chính là ý nghĩa của câu “Chỉ có người nhân mới biết yêu người, biết ghét người” vậy. Chuyện Hãn, Xảo, Ngân, Sát đã qua rồi. Nay các quan trong triều đình, kẻ sỹ chốn dân đã thực có thể lựa chọn kỹ, sử dụng chuyên, tin cậy chắc. Lại ban phép khảo xét công trạng. Trải đủ ba kỳ khảo xét kỹ rồi mới quyết định thăng hay giáng, khen hay chê. Người nào tốt, kẻ nào xấu, người nào liêm khiết, tài giỏi, siêng năng, mẫn cán, kẻ nào ngu dốt, tham lam, lơ là, lười biếng, giữ ghế ăn hại, không đức, bất tài, gian ngoan chứa ác, đều bộc lộ rõ ràng. Như vậy thì trăm quan đông đảo, đều giữ phong cách người quân tử có đáng lo gì bọn tiểu nhân! Thần thẹn được gội ân thánh dạt dào đã mấy năm nay, ơn sâu nghĩa dầy, gượng theo kẻ sỹ, kính đối trước triều đình. Thần đau đáu tấm lòng khuyển mã, xiết bao xúc động, dám xin mạo muội thưa trước uy thần. Cúi mong bệ hạ tha thứ cho tội ngông cuồng này. HOÀNG HƯNG dịch Theo sách Chu quan thì Sách là những lời của vua phát ra, như Sách mênh, Điển sách ... Từ đời Hán trở đi, mới lấy bài văn sách để thi học trò. Có hai thể văn sách. 1. Chế sách: vua hỏi về nguồn gốc trị loạn xưa nay và điều hay điều dở của chính sự đương thời, học trò theo hiểu biết của mình mà trả lời, gọi là Đối sách. 2. Thí sách: Vua hoặc quan thay mặt vua ra đầu bài hỏi về nghĩa lý của các sách Kinh điển đạo Nho. Người làm vận dụng những điều học được mà trả lời, gọi là lối văn Xạ sách. CHÚ THÍCH (*)Nguyễn Trực (1417-1474) tự Công Dĩnh hiệu Hu Liêu, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, đạo sơn Nam, nay là người thôn Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh oai, Hà Sơn Bình, đỗ Trạng Nguyên khoa Nhâm Tuất, năm Đại Bảo thứ 3 (1442) đời vua Lê Thái Tông. (1) Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục: xem giải thích ở phần sau. (2) Tứ hung: 4 tên quan hung ác thời cổ là Hồn Đôn, Cùng Kỳ, Đào Ngột và Thao Thiết. (3) Nạm Giáng thủy, hoạ Hoài sơn: chỉ hai nạn lụt lớn xảy ra thời Nghiêu Thuấn. (4) Thập loạn: 10 người bề tôi giỏi, dẹp loạn yên dân (xem thêm phần dưới). (5) Chu Công, tên là Đán, con Chu Văn Vương làm tướng cho Vũ Vương đánh Trụ, Vũ Vương chết, Thành Vương còn nhỏ, Chu Công nhiếp chính. Quản Thúc, Sái Thúc là người tông thất, âm mưu làm phản, phao tin là Chu Công định cướp ngôi vua. Chu Công viết bài thơ cho Thành Vương, Thành Vương không tỉnh ngộ, nên phải lánh ra ở Đông Đô. (6) Hãn là Trần Nguyên Hãn, Xảo là Phạm Văn Xảo, là hai công thần khai quốc của Lê Lợi. Sau khi dẹp xong giặc Minh, hai ông bị kết tội là ngầm kết bè đảng để làm phản, cả hai đều bị giết. (7) Ngân là Lê Ngân, Sát là Lê Sát, là hai võ tướng có nhiều công lao giúp Lê Lợi khởi nghĩa và chiến thắng giặc Minh. Đến đời Thái Tông, hai ông bị kết tội là chuyên quyền; ngầm mưu làm phản và đều bị giết. (8) Hoàng thượng ở đây chỉ Lê Thái Tông, người ra bài sách vấn này yêu cầu người thi trả lời. (9) Lời của Kinh Thư. Nguyên văn: “Tĩnh ngôn duy vi, tượng cung thao thiên”. (10) Lời của Kinh Thư. Nguyên văn: “Hu hất phương mệnh, tị tộc chi loạn”. (11) Phép Tam khảo: Phương pháp khảo xét công trạng của các quan thời Nghiêu Thuấn. (12) Đạo Tam hữu: Sách Luận ngữ có câu: “Ích giả Tam hữu, Tồn giả tam hữu”, tức là gần gũi với ba loại người: Trung trực, độ lượng và hiểu biết thì có lợi, ngược lại, gần gũi với ba hạng người nhỏ nhen, nhu nhược và xiểm nịnh thì có hại. (13) Tức là bà Ấp Khương, bà hậu của Chu Vũ Vương, con gái của Thái Công Vọng, mẹ của Chu Thành Vương. (14) Vực phác: là tên một bài thơ trong phần Đại nhã của Kinh thi, ca ngợi hiền tài đông đúc. (15) Tinh nga: là gọi tắt của Tinh tinh giả nga, là tên 1 bài thơ trong phần Tiểu nhã của Kinh Thi, ca ngợi niềm vui bồi dưỡng nhân tài. (16) Tam giám: Vũ Vương diệt Ân, lập người con của Trụ là Lộc Phụ, sai ba người em là Quản Thúc, Sái Thúc và Hoắc Thúc giám sát, gọi là Tam giám. (17) Thái tổ, Cao hoàng ở đây đều chỉ Lê Lợi. Lê Lợi mất có miếu hiệu là Thái tổ Cao hòang đế. (18) Cầm Hổ tức Bùi Cầm Hổ, làm quan Ngự sử, vì mâu thuẫn với Lê Sát, bị đổi ra làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn. Thiên Tước, tức Phan Thiên Tước trước làm quan Ngự sử, sau bị đổi ra ngoài làm Chuyển vận phó sứ huyện Đa Cẩm, sau lại bị bãi chức, sung quân. (19) Đây là một đoạn trong thiên Ly Lâu thượng sách Mạnh Tử. Nguyên văn: “Nhân bất túc dữ thích dã, chính bất túc giám dã, duy đại nhân vi năng cách quân tâm chi phi; Quân nhân, mạc bất chính. Nhất chính quân nhi quốc định hỹ”. Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 1 (6)- 1989, trang 51-55.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 22, 2010 6:26:09 GMT 9
Cúng Âm Linh Cô Hồn Việc siêu độ cô hồn có thể phát xuất từ đời nhà Đường bên Trung Quốc khi ngài Huyền Trang trở về sau chuyến Tây Du, lập đàn siêu độ cho tứ sanh đang luân hồi trong lục đạo.
Khi xem chương trình đại lễ Vu Lan có phần cúng Mông Sơn Thí Thực, nhiều em trong gia đình Phật tử luận bàn với nhau, rồi đưa một em hỏi chúng tôi về xuất xứ và xin giảng giải về điển tích "Mông Sơn", bởi lẽ người hay đi chùa chỉ nghe nói cúng Mông Sơn, đương nhiên họ đã tạm hiểu rồi, nhưng sao người ta không nói cúng Tịnh Thủy để thêm ý nghĩa thanh đạm tự nhiên, hay nói "cúng thí" như ngày xưa cho dễ hiểu, mà phải dùng từ lạ lại thêm phiền?
Nhớ lại năm xưa viết về Giai Tiết Vu Lan, tôi có sơ lược về cúng Âm Linh Cô Hồn, tác tạo phước duyên, cầu âm siêu dương thái. Tôi tìm hồ sơ lưu và đọc thêm các tài liệu ngoài đời, chúng tôi viết bài bổ túc về hậu Vu Lan để cống hiến chư đồng hương, đồng đạo thưởng lãm, đồng thời đáp ứng nhu cầu học hỏi của giới trẻ rất ngộ nghĩnh kỳ thú, nhưng hàng phụ huynh lắm lúc ít quan tâm.Theo nghi lễ Á Đông, khi chiến cuộc kết thúc, kẻ được ca khúc khải hoàn thường tế lễ các bậc anh hùng đã xả thân vì quốc gia dân tộc, truy điệu các chiến sĩ trận vong và đồng bào tử nạn, chẳng hạn như Vua Quang Trung đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu (1789) đã hạ chiếu làm lễ tưởng niệm các chiến sĩ hữu công và tiến cúng cô hồn, kể cả mấy vạn quân Thanh đã thành ra oan hồn uổng tử. Vua Gia Long sau khi thống nhất sơn hà cũng thiết tràng siêu độ cho quan quân tử sĩ và những oan hồn vì chiến cuộc do ông Nguyễn Văn Thành giữ chức Tổng Trấn Bắc Thành soạn bài văn tế Tướng Sĩ Trận Vong và Cô Hồn Thập Loại bằng quốc âm là một áng văn kiệt tác trong nền quốc văn cận đại (1802). Bộ Lễ của tiền triều cũng có phần tế cô hồn vào tiết tháng 7 mà những áng văn của các danh nhân biên soạn như Phan Huy Ích nguyên là sứ thần của Tây Sơn sang thăm xã giao, đã xướng họa thi văn với vua Càn Long, được Thanh triều trọng vọng. Lúc về nước ông được gia phong Thượng Đại Phu Thị Trung Ngự Sử, hay cụ Nguyễn Du, tác giả tập Đoạn Trường Tân Thanh còn lưu lại Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh bằng chữ Nôm, được tìm thấy ở Chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh, sau này được in trong quyển "Ứng Phó Dư Biên Tổng Tập". Cụ Lê Thước cũng tìm được một bản nôm khác của soạn giả Nguyễn Tiên Điền ở Chùa Diệc miền bắc Nghệ An, cụ phiên âm sang quốc ngữ và ấn hành vào năm 1924. Năm 1926 Trần Trung Viên cho in vào tập I, trong Văn Đàn Bảo Giám và năm 1927 lại xuất hiện trên Nam Phong Tạp Chí số 178, Tạp Chí Văn Học số 2 năm 1977 cũng đăng lại bản hiệu đính của cụ Hoàng Xuân Hãn với 8 câu đầu: "Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt Gió heo may lạnh buốt xương khô Não người thay bấy chiều thu Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng Đường bạch dương, bóng chiều mang mác, Ngọn đường lê lác đác mưa sa, Làng nào lòng chẳng thiết tha, Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm!" Chư độc giả đồng hương muốn rõ Thập Loại Cô Hồn là những ai, xin vui lòng đọc tiếp: "Trong trường dạ tối tăm trời đất, Chút khôn thiêng phảng phất u minh, Thương thay Thập Loại Chúng Sinh, Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người, Hương khói đã không nơi nương tựa, Hồn mồ côi lần lữa đêm đen, Còn chi ai khá, ai hèn, Còn chi mà nói kẻ hiền, người ngụ" "Thế sự nhược đại mộng", khi thăng hoa, lúc thất bại đôi khi cũng cận kề, có ai ngờ nhà văn Phan Huy Ích, một danh sĩ lỗi lạc được trích dẫn vừa rồi và em vợ là Ngô Thời Nhiệm, nhà văn học lẫy lừng, nhà chính khách có biệt tài và nhiều sáng tạo, cả hai đều thi đỗ Tiến Sĩ từ lúc tuổi xuân, vang danh một thuở, nhưng chung cuộc với cái chết lạnh lùng đơn bạc của hai ông khác gì sự ra đi âm thầm của vị cựu Thủ Tướng tài ba Phan Huy Quát tại Sàigòn năm 1979! Người nằm xuống, thì người còn lại phải khói hương truy niệm, nhất là nhờ uy đức của Tam Bảo giải oan bạt độ cho hương linh được cao siêu tịnh giới, chứ phẩm vật tiến cúng chỉ là ý niệm của thế nhân, tưởng không cần thiết lắm, nên soạn giả viết tiếp: "Tiết đầu Thu lập đàn giải thoát, Nước Tịnh Bình rưới hạt Dương Chi, Muốn nhờ đức Phật từ bi, Giải oan cưù khổ, hồn về Tây phương." Trước đây từ phố thị đến thôn trang, đâu đâu cũng thấy có "đàn âm linh" hay "am chúng sinh", nơi tương đối hoang vu tịch mịch hoặc tại các vùng mộ địa tha ma, với tập tục hằng năm nhân dân địa phương chọn ngày thuận tiện để cùng nhau sửa chạp những mồ vô chủ và tiến cúng âm hồn. Sau phần cúng vái thì bánh quà, phẩm vật... dành cho người nghèo khó neo đơn, hay các trẻ em được tự do chung hưởng. Nhiều nơi, nhiều vùng được quân dân dấy nghĩa chống xâm lăng, nhưng việc không thành, có người tuẫn tiết, hay nhiều kẻ vong nhân! Do sự kính ngưỡng tôn vinh người hy sinh vì đại nghĩa, nên nhân dân khói hương tưởng nhớ, sau cúng vái quân binh các ngài, thành ra mỹ tục từng địa phương, như tại vùng Chợ Lớn, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, rộng ra là 6 tỉnh Nam Kỳ có tục lệ truy niệm vị anh hùng chống Pháp Trương Công Định và các nghĩa quân của ông vào mùa ông đền nợ nước năm 1864. Trong thơ ai điêù Trương Tướng Quân, cụ Đồ Chiểu viết: "Trăm nấm mộ binh, vầy lớn nhỏ. Một gò cô lũy, chống hôm mai! rồi cụ kết luận: Hay dở phải chăng trời đất biết? Một tay chống đỡ mấy năm dài? Nhà văn Nguyễn Đình Chiểu, bậc lão thành trung dũng còn lưu lại mấy bài văn tế nổi tiếng như "Văn Tế Sĩ Dân Lục Tỉnh" và "Văn Tế Vong Hồn Mộ Nghĩa". Cùng một ý nghĩa trên, tại vùng Kiên Giang, Rạch Giá có tập tục truy niệm ông Nguyễn Trung Trực và quân binh tử sĩ, đồng bào nạn vong gần thập niên 1861 - 1868 trong phong trào anh dũng chống Pháp của nhà chiến sĩ ái quốc Kiên Giang, đã hy sinh tại Rạch Giá. Mỹ tục này đã lan ra hải ngoại, nơi có đông người Kiên Giang - Rạch Giá định cự Đặc biệt ở Thừa Thiên - Huế sau khi vua Tự Đức băng hà, trong triều có phe "chủ hòa" với nhiều quan lại và nhóm hoàng thân quốc thích muốn cầu an thụ hưởng, ngược lại nhóm "chủ chiến" do vị Phụ chính đại thần kiêm Binh Bộ Thượng Thư Tôn Thất Thuyết cầm đầu, ông lo huấn luyện quân binh, thành lập đội quân "Đoàn Kết" và "Phấn Nghĩa" trong hoàng thành, lập Tân Sở ở Quảng Trị làm hậu cứ chống Pháp. Thực dân Pháp ngày càng gây áp lực với Nam Triều. Khi Trung tướng De Courcy vào hoàng thành, đòi mở cửa Ngọ Môn cho quân Pháp cùng vào là điều nhục quốc thể, buộc lòng ông Tôn Thất Thuyết tạo ra cuộc binh biến chống Pháp lúc giờ Tý ngày 23/5 năm Ất Dậu (05/7/1885). Đại sự bất thành, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến phò vua Hàm Nghi ra Tân Sở, rồi tiến về Hà Tỉnh xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi toàn dân chống Pháp. Cuộc hưng binh chống Pháp đền nợ non sông của vua Hàm Nghi, ông Tốn Thất Thuyết và quân chủ chiến có chính nghĩa, nên được nhiều nhân sĩ khắp nơi hưởng ứng. Thường những cuộc chiến chinh đương nhiên phải đổ maù, phần đông là lương dân lúc bấy giờ nghe tiếng súng ì ầm với việc động binh là mạnh ai nấy chạy không cần biết đường lối nào cả, nhất là khi quân Pháp vào hoàng thành càn quét thanh toán, lại gây ra chuyện tổn thương nhân mạng không sao kể xiết! Từ đó về sau, nhân dân Thừa Thiên - Huế có tập tục cúng Cô Hồn Tử Sĩ, kỷ niệm ngày "Kinh Thành Thất Trận Ất Dậu Niên Gian". Ở Huế có rất nhiều văn tế của giới trí thức và những bài vè trường thiên khích lệ tinh thần chống Pháp rất lâm ly tha thiết, nên nhiều người đã thuộc lòng. Ai cũng nghĩ rằng có cô hồn vất vưởng nên cần các thức ăn, đồ mặc, tiền bạc để chi tiêu... tạo ra tập tục đốt vàng mã, áo giấy tốn kém khá nhiều. Lúc Phật giáo chấn hưng, chùa chiền không cần đồ giấy cúng vong linh nữa, nên nhiều nơi đã thay vì chi tiền mua vàng mã cúng đốt vu vơ, để mua ít vải vóc, gạo bánh hay vật dụng phân cấp cho các bạn nghèo với dụng ý là cầu "âm dương đều lợi lạc". Luận bàn về việc tế tự người đã khuất, tưởng không nên nặng về "sự việc" tức là chuộng hình thức, rồi sinh ra tập tục cúng bái dị đoan mà chỉ xét về "ý nghĩa", lấy tinh thần làm căn bản là hơn. Nói rộng ra, chẳng những người Phật tử thường tỏ lòng hiếu kính với nội ngoại tôn thân, nêù có thể được họ còn thể hiện hạnh từ ái, vị tha, giúp đỡ được chút gì cho các đồng hương, đồng loại là thiết thực. Qua truyền thống Vu Lan, người Á Đông còn ghi ân các chiến sĩ trận vong, truy niệm đồng bào tử nạn, tiến cúng Thập Loại Cô Hồn như đã nói trên, tốt nhất là phần nguyện cầu để chuyển nghiệp cho nhau, do đó ta thấy phẩm vật tiến cúng Âm Linh rất đạm bạc, giản đơn, nói chung là không cần mỹ vị cao lương cho khó kiếm, mà chỉ dùng hương hoa trà quả, thêm xôi chè bánh mứt, ít cháo hoa, chén cơm trắng, tượng trưng về trai phạn nhà chùa là tốt. Việc thiết cúng Mông Sơn hay chẩn tế cô hồn với hậu ý bày tỏ chân tình với đồng loại, chứ người đã khuất bóng, thì ngũ uẩn tuồng như mất hết! Thân uẩn tức là sắc tướng không còn, thì có đâu lớn bé rộng hẹp mà ta lo may áo xống, sắm xe cộ gởi về cho hương linh? Suy ra, 3 uẩn tiếp theo tức là thô, tưởng, hành uẩn cũng không có, chỉ còn thức uẩn mịt mờ mênh mang, khiến cho linh hồn hay thần thức cảm nhận sự vui buồn, no đói hay thanh thoát, tủi hờn... là do nghiệp lực đã tạo ra từ lúc sinh tiền vậy thôi, chứ không thực hữu. Tỉ như ban ngày ta tiếp bà con từ xa đến, ăn uống vui vẻ, chuyện vãn thân thương ... sự việc ấy lắng đọng trong tiềm thức, khi gặp thuận duyên có thể tái phát trong giấc mơ với đầy đủ chương trình thứ lớp, nào là tiếp khách trong phòng sang trọng, nhận tặng phẩm đẹp, mừng vui được ăn ngon, uống trà thơm... Trong cơn mộng đẹp đó, nêù có tiếng động mạnh làm ta thức giấc, thử hỏi có còn gì chăng? Tất cả đều không thực hữu, chỉ còn chút thức uẩn cảm nhận lờ mờ, vì vậy mà có giấc mơ ta còn nhớ lâu, vài chuyện không cần thiết sẽ quên luôn. Nói cách đơn giản thì hương linh cũng vậy thôi, nêù sinh thời không gây nghiệp sát sinh, thì thần thức hòa ái tự nhiên. Không bỏn sẻn hay tham lam tiền tài vật thực, thì thức uẩn rất bình thản về vật chất. Sinh thời không tị hiềm, đố kỵ thì linh hồn luôn hỉ xả thanh cao. Bởi lẽ đó nên nói chung việc tiến cúng người đã khuất, cần thể hiện lòng thành khẩn cầu nguyện, để chư hương linh cởi bỏ phàm tâm thâm nhập Phật tánh, như kẻ lầm đường lạc lối được thiện hữu dẫn dắt đưa về hướng quang minh thật là hợp lý. Việc siêu độ cô hồn có thể phát xuất từ đời nhà Đường bên Trung Quốc khi ngài Huyền Trang trở về sau chuyến Tây Du, lập đàn siêu độ cho tứ sanh đang luân hồi trong lục đạo. Qua đời Tống, ngài Bất Khinh Tam Tạng chuyên tu Mật Giáo ở Mông Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, quán biết các cô hồn đang vất vưởng, đòi hỏi những nhu cầu cần thiết, nên Ngài vận dụng pháp lực để cung ứng và siêu độ cho họ. Việc cúng Mông Sơn thí thực tại chùa hay bạt độ chẩn tế cô hồn có thể khởi đầu từ đời nhà Tống tại Mông Sơn, Tứ Xuyên nên trong khoa nghi mệnh danh là "MÔNG SƠN THÍ THỰC", hiện nay ở các tự viện thường có bàn thờ đức Hộ Pháp Bồ Tát, ngụ ý là vọng bái các vị thiện thần, hàng phục tà ngụy, hộ trì chánh pháp lợi lạc sinh linh, đối diện với án thờ ngài Tiêu Diện Đại Sĩ, thống lĩnh chư âm linh cô hồn văn kinh thính pháp thọ cam lồ vị vào mỗi buổi chiều, là giờ ăn của ma quân ngạ quỷ, hay là sau những tiết lễ long trọng có phần Mông Sơn Thí Thực trước khi hoàn mãn, nhất là trong tiết Thu lá rụng mưa ngâu, mùa rét lạnh đến... người ta dễ chạnh lòng tưởng nhớ đến các cô hồn còn phảng phất bên chân trời góc biển mù khơi mà lập đàn tiến bạt cầu siêu, với chân tâm thành ý: "Nguyện đem công đức này, Hướng về khắp tất cả, Người còn với kẻ khuất, Đều trọn thành Phật Đạo."
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 22, 2010 6:30:41 GMT 9
THỜ CÚNG và LỄ BÁI Con người sanh ra ở đời, ắt phải có tôn ti trật tự, có trước có sau, có trên có dưới, có lớn có nhỏ, có thứ lớp giai tầng, đó là một qui luật tự nhiên, không ai có thể chối cãi, phủ nhận hay từ bỏ. Đó là một đạo lý tuyệt đối là căn bản đạo đức, là cương kỷ, nề nếp mà các Ngài Giáo Chủ đứng lên lập đạo phải lấy nó làm nền tảng, chủ đích để dạy tập con người bảo giữ nguồn gốc tôn ti trật tự, để qui định cho sự hòa hiệp sống chung, thái bình an lạc trong cõi đời. Từ đó mà vấn đề “THỜ CÚNG và LỄ BÁI” được đặt ra.Mục Lục Lời Nhà Xuất Bản Lời mở đầu Lời Phát Đoan I. VẤN ĐỀ THỜ A. Ý nghĩa thờ B. Cách thờ C. Chỗ thờ D. Giá trị nơi thờ II. VẤN ĐỀ CÚNG A. Ý nghĩa của sự cúng B. Sự khác biệt cung dưỡng và cúng dường C. Giá trị và quan mềm về sự cúng D.Vấn đề ăn E. Cách ăn của Tổ Tiên, Ông Bà G. Cách cúng H. Phụ Bản 1. Nghi cúng Ông Bà 2. Nghi thỉnh Vong III VẤN ĐỀ LỄ BÁI A. Định nghĩa B. Nghi cách và ý nghĩa Lễ Bái C. Quan mềm Lễ Bái D. Về cách lạy của Thế Gian E. Về cách lạy của Thánh Giáo G. Lợi ích của sự Lễ Bái IV. KẾT LUẬN V. CÁC KINH LUẬN THAM KHẢO LỜI NHÀ XUẤT BẢN Con người sanh ra ở đời, ắt phải có tôn ti trật tự, có trước có sau, có trên có dưới, có lớn có nhỏ, có thứ lớp giai tầng, đó là một qui luật tự nhiên, không ai có thể chối cãi, phủ nhận hay từ bỏ. Đó là một đạo lý tuyệt đối là căn bản đạo đức, là cương kỷ, nề nếp mà các Ngài Giáo Chủ đứng lên lập đạo phải lấy nó làm nền tảng, chủ đích để dạy tập con người bảo giữ nguồn gốc tôn ti trật tự, để qui định cho sự hòa hiệp sống chung, thái bình an lạc trong cõi đời. Từ đó mà vấn đề “THỜ CÚNG và LỄ BÁI” được đặt ra.
Đây là phương pháp hay phong cách giáo hóa rất quan trọng của đời sống nhân loại; cũng lại là một giáo lý tốt đẹp làm nền tảng cho sự thương yêu, thân thiện, cung kính, lễ phép với nhau trong cuộc sống. Một cung cách xử sự liên quan truyền kiếp và nối tiếp đời đời đối với loài người nói riêng và vạn vật chúng sanh nói chung. Nhất là sự liên quan truyền nối giữa kẻ còn người mất của nhân loại. Lại nữa, truyền thống và tập tục của người Á đông càng thâm thiết hệ trọng hơn, từ trong guồng máy gia đình giòng tộc đến các tổ chức Tôn giáo Tín ngưỡng tâm Linh như Khổng Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo v.v... Tác phẩm “Thờ Cúng và Lễ Bái” này do Hòa Thượng Thích Thắng Hoan, một nhà Duy Thức Học, một vị Giáo Phẩm lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ đã dày công nghiên cứu và biên soạn, làm tài liệu căn bản cho mọi giới đồng bào Phật tử Việt Nam, nhất là đồng hương tị nạn nơi đất khách quê người có quá nhiều phức tạp nhiều khê.
Đây là một Pháp Bảo cung ứng nhu cầu thiết thực cho đại đa số quần chúng Việt Nam. Là kim chỉ nam cho người Phật tử từ hạng bậc sơ cơ cho chí đến những người trí thức mà chưa hề quan tâm đến vấn đề “Thờ Cúng và Lễ Bái”, nó có một tác dụng hữu ích như thế nào cho cuộc sống mà các Ngài khai đạo đã mở đường giáo hóa nhân sanh bằng qui cũ trong sự Thờ Cúng và Lễ Bái nầy vậy.
Tác phẩm “THỜ CÚNG VÀ Lễ BÁI” đã dẫn giải, phân bày rất là khúc chiết, mạch lạc và cụ thể, sẽ giúp cho độc giả hiểu biết rõ ràng hơn tầm quan trọng của sự Thờ Cúng và Lễ Bái. Nhà Xuất Bản Nguồn Sống chúng tôi xin được hân hạnh Giới thiệu đến quí đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước; Quí đồng hương Phật tử ở rải rác khắp Năm Châu Thế giới với tác phẩm “Thờ Cúng Và Lễ Bái” nầy.
Trân trọng,
Rằm tháng Giêng năm Giáp Tuất (1994) tại San Jose, California.
Thượng Tọa Thích Giác Lượng. *** LỜI MỞ ĐẦU Thờ Cúng Và Lễ Bái là một trong những Gia Bảo tinh thần đáng quý của Tổ Tiên để lại cho con cháu kế thừa. Gia Bảo này đã được hấp thụ tinh hoa lâu đời do các Tôn Giáo bồi đắp và xây dựng. Gia đình Việt Nam có Truyền Thống, đều coi trọng và thiết lập Hương án trong nhà để chuyên trách về việc Thờ Cúng Và Lễ Bái.
Người Thờ Cúng Và Lễ Bái thì nhiều nhưng người hiểu rõ ý nghĩa và giá trị vấn đề thì lại quá hiếm. Nhất là những người Việt Nam tỵ nạn ra nước ngoài ít ai thông hiểu về ý nghĩa và giá trị của sự Thờ Cúng Và Lễ Bái. Họ cũng thiết lập bàn thờ và tổ chức nghi lễ trong nhà có tính cách giả chiến, hời hợt tạm bợ cho có lệ theo tập tục cổ truyền, nhưng việc làm của họ thiếu sự tôn kính thiêng liêng. Thành thử vấn đề Thờ Cúng Và Lễ Bái không tạo được niềm tin vững chắc cho thế hệ con cháu trẻ tuổi tân học.
Ngoài ra, lại có một số người lợi dụng niềm tin và sự hiểu biết nông cạn của đa số quần chúng trong việc Thờ Cúng Và Lễ Bái, nên họ đã manh nha khai thác tận cùng vấn đề mê tín dị đoan nhằm mục đích buôn bán làm ăn. Họ bày vẽ thêm nhiều nghi cách mơ hồ vô nghĩa, khiến cho việc Thờ Cúng Và Lễ Bái trở nên phức tạp để độc quyền tín ngưỡng. Họ vô tình làm giảm giá trị Truyền Thống Văn Hóa lâu đời của Dân Tộc về ý nghĩa Thờ Cúng Và Lễ Bái. Đã vậy lại thêm một số người Trí Thức có thành kiến, họ bôi bác và kết án, cho việc Thờ Cúng Và Lễ Bái là một hình thức hoang đường.
Những lý do trên thúc đẩy chúng tôi cho ra quyển sách: “Vấn Đề Thờ Cúng Và Lễ Bái”. Tác phẩm này không có cao vọng lột trần được toàn diện chiều sâu ý nghĩa và giá trị của vấn đề. Ở đây chúng tôi chỉ trình bày một vài quan điểm có tính cách biện minh lý giải ý nghĩa và giá trị của sự “Thờ Cúng Và Lễ Bái” qua lăng kính Phật Giáo.
Hơn nữa, sự ra đời của quyển sách “Vấn Đề Thờ Cúng Và Lễ Bái” nhằm đóng góp một phần nào trong phong trào phục hưng nền Văn Hóa Dân Tộc và tạo cơ hội phục vụ cho Cộng Đồng Việt Nam ở hải ngoại về mặt Tín Ngưỡng. Nền Văn Hóa Dân Tộc cần phải được phát huy rộng lớn và làm sáng tỏ quan điểm Truyền Thống lâu đời qua nhiều khía cạnh trong mọi lãnh vực, để làm khuôn vàng thước ngọc cho người Việt ly hương nương tựa sống còn. Quyển sách nhỏ này được gói ghém bằng một tâm nguyện khiêm tốn hầu đóng góp vào kho tàng Văn Hóa Phật Giáo và Văn Hóa Dân Tộc Việt Nam, xem như một công tác hiếm hoi, hướng trở về Nguồn, phụng sự Chánh Pháp. Tác phẩm “Vấn Đề Thờ Cúng Và Lễ Bái” nhất định còn thiếu sót nhiều về mặt hình thức cũng như nội dung. Chúng tôi kính mong các bậc cao minh chỉ bảo góp ý thêm để cho tác phẩm có giá trị và đầy đủ hơn khi tái bản.
Cẩn bút
THẮNG HOAN LỜI PHÁT ĐOAN VẤN ĐỀ THỜ CÚNG VÀ LỄ BÁI Thờ Cúng và Lễ Bái là một đạo lý Truyền Thống của Dân Tộc có từ ngàn xa, khi con người ý niệm được bổn phận. Ở thời kỳ Quân Chủ, các triều đại Vua Chúa cho Thờ Cúng và Lễ Bái là biểu tượng cao quí nhất đối với các bậc Tiền Nhân, nên đặc trách riêng một Bộ gọi là Bộ Lễ để trông coi việc này. Còn riêng về Phật Giáo, vấn đề Thờ Cúng và Lễ Bái lại càng hàm xúc bao ý nghĩa và giá trị, thể hiện được tinh thần thiêng liêng trọng đại đối với các bậc Thánh Hiền. Thế mà cho đến hôm nay ý nghĩa và giá trị vấn đề Thờ Cúng và Lễ Bái đã được bao nhiêu người thông suốt? Vì không thông suốt, đa số quần chúng thiếu sót Lễ Nghi cung cách, gây nhiều tội lỗi với các bậc bề trên. Họ không phải không muốn, nhưng không được ai chú dẫn tường tận để có đức tin. Nhằm mục đích giúp người con Phật thông suốt giá trị vấn đề trên, tôi xin trình bày ý nghĩa Thờ Cúng và Lễ Bái qua những nhận định như sau: I. VẤN ĐỀ THỜ: Trước hết là vấn đề Thờ. Thờ nghĩa là thể hiện, tỏ bày sự Tôn Kính của mình lên các Tiền Nhân, các Thánh Đức mà mình đã dâng trọn niềm tin, như thờ Phật, thờ Chúa, thờ Tổ Quốc, thờ Tổ Tiên, Ông-Bà v.v... Người con đã có Giòng Họ Tông Môn thì phải có bàn thờ Tổ Tiên. Con người có giống nòi chủng tộc thì phải có bàn thờ Tổ Quốc. Tín Đồ có Tín Ngưỡng Tôn Giáo thì phải có bàn thờ đức Giáo Chủ của mình. Ngược lại, con cái mà không có bàn thờ Tổ Tiên, Ông Bà là con bất Hiếu. Một công dân mà không có bàn thờ Tổ Quốc là kẻ bất Trung. Một tín đồ mà không có bàn thờ đức Giáo Chủ của mình là người bất Tín. Nhưng hiện nay có một số người không hiểu bảo rằng Thờ Cúng là hành động mê tín dị đoan, kém văn minh, thiếu khoa học, bởi vì những hình tượng được thờ đều bằng xi măng, hoặc bằng giấy và hương đèn đều bằng cây, bằng mạt cưa làm nên v.v... rồi tin tưởng đặt lên thờ và cho là thiêng liêng. Những hành động ấy đã không lợi ích chi, lại còn nhơ bẩn đến nhà cửa và tốn hao tiền bạc. Lời này mới nghe qua như có lý, nhưng kỳ thực xét cho kỹ thì hoàn toàn sai lầm. Sự sai lầm này được nhận định như sau: a. Hình Tượng mặc dù được xây dựng bằng giấy hay bằng xi măng hoặc hương đèn được làm nên bằng mạt cưa hay bằng gỗ đi chăng nữa, những vật thể ấy đã trở thành thiêng liêng cao quí, nhất là đã tượng trưng (Symbolizes) cho dòng họ, Tổ Tiên, Ông Bà, cho Thánh Hiền, cho chư Phật mà mình đã Tôn Thờ. Cũng như Lá Cờ của một Quốc Gia, mặc dù nó được kết bằng vải tầm thường không giá trị, nhưng nó đã được tiêu biểu cho Tổ Quốc, cho Quốc Hồn Quốc Túy của một Dân Tộc mà ngời Công Dân hay Chiến Sĩ đều phải Tôn Thờ. Một Công Dân hay Chiến Sĩ mỗi khi chào cờ không phải chào miếng vải ấy, hoặc hy sinh dưới cờ không phải chết cho miếng vải mà ở đây họ chào và chết vì Tổ Quốc, vì Hồn Thiêng đất nước đã được biểu hiện qua lá cờ. Nước Mỹ ai cũng cho là một nước Văn Minh đứng đầu trên Thế Giới về phương diện khoa học cơ giới. Thế mà họ vẫn tôn trọng ngày Hollyvine nh là một Quốc Lễ và đến ngày đó dân chúng cả nước đều được phép nghỉ để tổ chức lễ theo phong tục của họ. Chúng ta đối với ngày lễ này cho là hành động mê tín dị đoan, nhưng đối với người Mỹ, ngày lễ này là một ý nghĩa trọng đại nhất và mỗi năm cần phải đợc tổ chức linh đình không cho mất gốc. Còn ngày Lễ Tổ Tiên Ông Bà của chúng ta chính là ngày cao cả không kém của Giòng Họ Tông Môn, nhưng một số người khinh thường cho việc làm đó là hành động mê tín dị đoan thiếu Văn Minh tiến bộ rồi cho nó đi vào quên lãng. Thật là một tội lỗi nặng nề. Mỗi quốc gia đều có nền Văn Hóa riêng của họ và Văn Hóa đó được họ tìm mọi cách đề cao tuyệt đối tột đỉnh. Chúng ta cũng có nền Văn Hóa riêng của Dân Tộc ta. Chúng ta cũng phải có bổn phận phát huy nền Văn Hóa của Tổ Tiên đợc sáng tỏ thêm hơn là đi bôi bác và chà đạp lên nó để đắc tội với Tiền Nhân. b. Chúng ta thờ Tổ Tiên là để tri ân và báo ân các bậc Cha Ông đã dày công sanh trưởng cuộc đời mình. Họ đã góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo xã hội và giòng họ. Chúng ta thờ Tổ Quốc là để ghi ân và noi gương các bậc anh hùng liệt sĩ đã hy sinh cho sự sống còn của giống nòi. Chúng ta thờ Phật là để quy ngưỡng hướng về các bậc đã giác ngộ và giải thoát, nhờ các Ngài dẫn dắt chúng ta và chúng sanh vững vàng đi trên con đường Thánh Thiện. Bàn thờ Ông Bà không được thiết lập làm biểu tượng thì con cháu không biết nương vào đâu để thể hiện lòng hiếu thảo đối với Tổ Tiên và bàn thờ Phật không được an vị trang nghiêm thì đệ tử cũng chẳng biết nương tựa vào nơi nào để bộc lộ lòng tôn kính đối với bậc Thầy chứng ngộ. Khác nào trên mộ không có đặt vòng hoa tưởng niệm thì những người còn sống làm sao tỏ bày được lòng tri ân đến những kẻ đã hy sinh vì đại nghĩa. Con ngời cần phải có điểm tựa để an tâm, mặc dù điểm tựa đó bằng bất cứ hình thức nào. Chúng ta chưa phải là Thánh Nhân thì nghi lễ, cung cách Thờ Cúng và Lễ Bái rất cần thiết cho việc tu thân, giáo dục gia đình và hướng dẫn con người làm tròn bổn phận trong xã hội loài người, nhất là con người ở vào thời đại văn minh. Như vậy Thờ thế nào cho đúng nghĩa? A. Ý NGHĨA THỜ: Một khi thờ nhân vật nào đó, thì nhân vật ấy phải thể hiện được ý sống và nghĩa sống qua Vật Thể biểu tượng đợc thờ. Một Vật Thể biểu tượng cho Nhân Vật được tôn thờ phải thể hiện giá trị tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm. Một Vật Thể biểu tượng tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm sẽ trở thành Vật Linh, làm môi trường giao cảm giữa người thờ và Nhân Vật được tôn thờ. Thế nào là Tâm ân Sắc và Sắc ấn Tâm; a. TÂM ẤN SẮC: 1. Tâm: tiếng Phạn là Citta nghĩa là Tâm linh của mỗi con người. Tâm linh này vẫn hiện hữu trong con người khi xa lìa tất cả đối tượng và có khả năng xét nghiệm tư duy để quyết định mọi việc. Nói một cách khác, Tâm con người vẫn sinh hoạt suy tư trong khi tất cả đối tượng không còn hiện hữu. Trước mặt, Tâm là danh từ chung gồm Tâm Vương và Tâm Sở, là những Tâm Pháp quan hệ tương đối với Sắc Pháp. Tâm ở đây tương đương với bốn Uẩn là Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Tâm này là chỉ cho Tâm Vương một trong năm Vị (Năm Vị là: Tâm Pháp, Sắc Pháp, Tâm Sở Pháp, Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp, Vô Vi Pháp). Theo Đại Thừa Duy Thức Tông, Tâm đây chính là Tâm Thức Alaya. Tâm Thức Alaya là thể căn bản có khả năng sanh ra vạn pháp. Tâm Thức Alaya ngoài việc sanh ra vạn pháp, còn có khả năng sanh khởi Tâm Ý (Thức Mạt Na) để chấp trì vạn pháp và sanh khởi Tâm Thức Phân Ly (Ý Thức) để phân biệt vạn pháp. Tâm đây còn có nghĩa là Tinh yếu. 2. Ấn: là in vào, chứng nhận, tức là tiêu biểu hiển bày cái Đức chỗ chứng đắc nội Tâm của chư Phật. ấn còn có nghĩa là quyết định. Nhưng Ấn ở đây nghĩa là dùng Tâm in sâu vào vật nào đó và khiến cho vật đó trở thành Vật Linh (đồ vật được thể hiện sự linh cảm) biểu hiện được Phật Tâm linh cảm. 3. Tâm Ấn: theo Đại Nhật Kinh Sớ quyển 3 và Đại Nhật Kinh Sớ Diễn Áo Sao quyển 2 giải thích rằng: “Tâm Ấn là nơi tự thân thực hiện được tất cả Phật Tâm tác dụng”, nghĩa là khiến cho tất cả Phật Tâm sinh hoạt. Theo Đại Nhật Kinh Sớ quyển 5, Mục Bất Động Minh Vương giải thích: “Tâm Ấn là biểu thị vạn Đức ở trong Tâm”. Như vậy Tâm Ấn nghĩa là Tâm biểu thị vạn Đức và khiến cho Phật Tâm tác dụng chứng đắc cho Hành giả khải thỉnh. 4. Sắc: là sắc chất, tức là chỉ cho một vật nào đó hoàn toàn thuộc về vật thể được dùng làm biểu tượng để tôn thờ, như là Hình Giấy, Tượng Cốt, Ấn Dấu, Pháp Khí, Đồ Hình, lá Bùa, khăn Ấn v.v... đều là Sắc Chất. ẤN: là in sâu, tức là dùng Tâm in sâu vào vật nào đó và khiến cho nó trở thành Vật linh (đồ vật được linh cảm). 5. Tâm Ấn Sắc: nghĩa là Tâm Linh của con người in sâu vào một vật nào và khiến cho vật đó trở thành có giá trị đợc gọi là Tâm Ấn Sắc. Vật đó được Tâm Linh con người ấn vào gọi là Vật Thể, vì nó là một Vật Linh. Vật Linh là một Vật Thể biểu tượng có tánh cách linh cảm đối với con ngời. Thí dụ: Một em bé đem Tâm ấn vào cái gối nằm (Pillow) của em thì cái gối nằm đó trở thành vật linh đối với em. Em quí gối nằm nói trên như quí thân mạng của em. Gối nằm nói trên nếu như mất đi thì em đòi cha mẹ phải tìm cho được, mặc dù em đã trưởng thành và cái gối nằm kia đã rách nát. Một lá thơ của bà con ở Việt Nam gởi là một Vật Linh, nguyên vì bà con đã Ấn Tâm vào đó. Một Danh Thiếp (Card) chúc tết là một Vật Linh, nguyên vì người chúc tụng đã Ấn Tâm vào đấy. b. SẮC ẤN TÂM: Sắc Ấn Tâm: nghĩa là một Vật Thể nào được in sâu vào trong Tâm Linh của con người và hình bóng Vật Thể đó làm khởi điểm trợ duyên cho Tâm Linh con người tác dụng giao cảm bằng cách nhớ nhung, hồi tưởng, tưởng niệm gọi là Sắc Ấn Tâm. Thí dụ: Anh A nhớ quê hương, nhớ Ông Bà nhà cửa, nhớ bà con thân thuộc, nhớ bạn bè làng xóm, nhớ những hình ảnh kỷ niệm của tuổi học trò, nhớ những quá trình kinh nghiệm sống của mình v.v... Những hình ảnh nhớ nhung nói trên được gọi là Sắc Ấn Tâm. Cũng từ tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm vừa trình bày, người có tín ngưỡng phát tâm thờ Phật hoặc thờ Ông Bà trong nhà thường rước Thầy đến làm lễ an vị hầu giúp cho bàn thờ Phật hay bàn thờ Ông Bà trở thành Vật Linh để làm biểu tượng (Symbolizes) cho sự cầu nguyện. Bàn thờ Phật hay bàn thờ Ông Bà sau khi làm lễ an vị thì đã thể hiện được ý sống và nghĩa sống giữa chư Phật, chư Bồ Tát cùng với Tín Đồ, cũng như giữa Tổ Tiên Ông Bà cùng với con cháu. Tâm Linh của chư Phật, chư Bồ Tát liền cảm ứng với Tâm Linh của Tín Đồ, cũng như Tâm Linh của Tổ Tiên ông Bà liền giao tình với Tâm Linh của con cháu qua tầng số từ trường (Magnetic-field) ý sống và nghĩa sống được phát xuất từ Vật Thể biểu tượng nơi bàn thờ qua sự nguyện cầu. Trường hợp này cũng giống như Tấm Thiệp chúc Tết là một Vật Thể biểu tượng ý sống và nghĩa sống tình cảm của Tâm Linh người chúc tụng với Tâm Linh người được chúc tụng. Tấm Thiệp chúc Tết sau khi mua về được người chúc tụng Ấn Tâm vào đấy bằng cách thành tâm viết vài chữ cầu chúc trong đó hến trở thành Vật Linh, nghĩa là tấm Thiệp chúc tết này đã có chứa đựng ý sống của người chúc tụng. Người được chúc tụng sau khi tiếp nhận tấm Thiệp chúc Tết nói trên của bạn gởi, liền phát khởi Tâm Linh giao cảm nghĩa sống truyền đến người bạn chúc tụng qua từ trường (Magnetic-field) ý sống của Vật Thể (Tấm Thiệp). Tấm Thiệp chúc Tết trợ duyên này đóng vai trò vật đới chất (vật dùng làm chỗ nương tựa) cho Tâm Linh của hai người giao cảm ý sống và nghĩa sống với nhau. Duy Thức Học có dạy: “Dĩ Tâm Duyên Tâm Chân Đới Chất” là ý nghĩa của đoạn văn nói trên. Câu “Dĩ Tâm Duyên Tâm Chân Đới Chất” nghĩa là đem tâm mình duyên với tâm người qua sự nương tựa nơi Vật Thể làm khởi điểm giao cảm một cách chân thành. Bàn thờ Ông Bà nếu như không có để làm chỗ trợ duyên đới chất thì nhất định Tâm Linh của Tổ Tiên không thể giao cảm với Tâm Linh của con cháu, cũng như Tấm Thiệp chúc Tết nếu như không có đại diện thì Tâm Linh người chúc tụng không thể giao cảm đến với ngời được chúc tụng. Bàn thờ Phật cũng thế. Người Tín Đồ cầu nguyện, nếu không có bàn thờ Phật để làm biểu tượng trợ duyên thì sự linh thiêng của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền trong mười phương khó có thể cảm ứng đến với người cầu nguyện. Nhưng ở đây, một cành hoa giấy và một cành hoa sống thì cành hoa giấy chỉ có giá trị trang trí bàn thờ cho thêm sắc sảo so với một cành hoa sống. Một cành hoa sống, ngoài nhiệm vụ tô điểm làm đẹp bàn thờ lại còn có giá trị thể hiện được ý sống và nghĩa sống một cách trọn vẹn so với bông hoa giấy. Nguyên vì cành hoa tươi tự nó có từ trường (Magnetic-field) sức sống tỏa ra, trong lúc đó cành hoa giấy chỉ là một loại hoa chết. Một đôi đèn nến có giá trị hơn đôi đèn điện. Đôi đến nến, ngoài sự tiêu biểu cho ánh sáng, còn nói lên được ý sống và nghĩa sống của một Vật Thể. Đôi đèn nến biểu tượng được ý sống và nghĩa sống của một Vật Thể qua sự biến thuyên liên tục không ngừng. Nhờ sự biến thuyên liên tục không ngừng mà Vật Thể mới sống còn tồn tại. Nhưng cũng vì sự biến thuyên liên tục không ngừng này mà Vật Thể nói trên phải chết đi để chuyển sang một Vật Thể khác qua ý sống và nghĩa sống của nó kết hợp nối liền. Một Vật Thể nếu như không có ý sống và nghĩa sống tức là Vật Thể đó đã chết. Dòng nước chảy là dòng nước sống và dòng nước không chảy chính là dòng nước đã chết. Dòng nước đã chết thì không thể hiện được ý sống và nghĩa sống của dòng nước. Như vậy trên bàn thờ, chúng ta không thể không đốt hương, đốt đèn, cắm hoa tươi v.v... là những Vật Thể biểu tượng được ý sống và nghĩa sống, làm tăng thêm sự uy nghiêm, tôn kính, linh động đối với chư Phật, chư Tổ, Thánh Hiền hoặc đối với Tổ Tiên Ông Bà qua sự linh ứng biểu trưng này. Trên bàn thờ, những Hình Tượng, những nén hương, những đôi nến, những cành hoa tươi v.v... đều là những gạch nối giao cảm quan trọng giữa Tâm Linh của Ôg Bà Tổ Tiên, của chư Phật mười phương cùng với Tâm Linh của Môn Đồ Đệ Tử và của con cháu họ hàng. Nh vậy, Thờ thế nào cho phải cách? B. CÁCH THỜ: Thờ Tổ Tiên là tiêu biểu đức nhẫn nại của Ông Cha đã dày công bồi đắp cho giòng họ, cho Tông Môn một sự nghiệp tinh thần, một ý sống của con người hầu giúp con cháu đủ sức vươn lên trong xã hội và bắt chước đức tính đó để tiếp nối xây dựng thế hệ mai sau ngày càng thêm vinh hiển. Thờ Tổ Quốc là tiêu biểu gương cao quý của các bậc Tiền Nhân đã hy sinh xương máu để tài bồi Giang Sơn Cẩm Tú của chúng ta trường tồn và noi theo gương sáng đó để bảo vệ giống nòi, phồn vinh đất nước và xây dựng một cuộc sống thanh bình an lạc thật sự cho Dân Tộc, dĩ nhiên trong đó có con cháu của mình. Thờ Phật là tiêu biểu cho Trí Tuệ Giác Ngộ, cho Đức Hạnh Từ Bi, cho ý chí Dũng Mãnh của chư Phật mà chúng ta nương theo những gương cao quý này để đào luyện cho mình đầy đủ sáng suốt, đầy đủ tình thương và đầy đủ nghị lực giống như các đức Như Lai, ngõ hầu đả thông trước mọi vấn đề mê ngộ, chân giả, để khỏi bị lầm lạc và nhận thức được chân giá trị của cuộc đời, giải thoát mọi khổ đau sanh tử luân hồi. Đó là chân nghĩa của cách thờ tự mà chúng ta đã và đang theo đuổi thực hiện. C. CHỖ THỜ: Theo quan niệm Tiền Nhân, con người phải có xương sống mới đứng vững, cây cỏ phải có gốc rễ mới tồn tại thì cái nhà phải có cột chính, thường gọi là cột Cái mới hình thành. Cột chính bao giờ cũng ở giữa gọi là “Trung” để gánh vác hai mái nhà và cột hai bên gọi là cột Con, cũng gọi là cột Biên chỉ đóng vai trò phụ đỡ hai mái nhà yên đứng. Đây là nói về phương diện hình thức tổ chức. Còn về phương diện tiêu biểu, cột chính gọi là cột Trụ của cái nhà, cũng như Tổ Tiên Ông Bà cha mẹ là cột Trụ của gia đình giòng họ, có nhiệm vụ gánh vác cả sự nghiệp của Tiền Nhân và bảo tồn sự sống còn của con cháu từ khi sanh ra cho đến khi thành nhân. Thế nên người xưa, trong ba căn nhà, họ chọn căn giữa là căn Chính của cái nhà để thờ Tổ Tiên Ông Bà. Lớn hơn nữa, mỗi giòng họ như họ Trần, họ Nguyễn, họ Lê v.v... phải có nhà thờ Họ, được thiết lập riêng trong làng Họ của mình để cùng nhau thờ tự. Giả sử một gia đình nghèo khó đến mấy đi chăng nữa, dù chỉ có túp lều tranh, họ cũng chọn chỗ nào chính giữa của túp lều ấy để trang trí bàn thờ Tổ Tiên. Ngày nay theo quan niệm Tây phương, họ cho chỗ chính của cái nhà là phòng khách, vì họ không chủ trương thờ Ông Bà. Họ sống theo chủ nghĩa cá nhân, chỉ biết lấy mình mà thôi, ngoài ra không cần thiết đến ai cả, nhất là những người thân thuộc về quá khứ, cho đến tông môn của họ cũng thế. Chúng ta là người Á Châu, ý thức được huyết thống giống nòi, nhận chân được sự liên quan chặt chẽ hệ thống Tâm Linh trong quá trình chuyển hóa luân lưu, nhất định phải có bàn thờ Ông Bà trong nhà để làm điểm tựa tinh thần, mặc dù bàn thờ đó lớn hay nhỏ tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Ở nước ngoài, khi nhu cầu đời sống còn thiếu thốn, chúng ta khó chọn chỗ thờ tự đúng theo ý mình muốn. Đạo Phật chú trọng tinh thần hơn hình thức. Chúng ta thờ tự như thế nào cũng được miễn sao chỗ thờ đó thể hiện được lòng thành của mình đối với các Đấng Thiêng Liêng và những Bậc trên trước. D. GIÁ TRỊ NƠI THỜ: Chúng ta thờ tự đức Phật hay Tổ Tiên Ông Bà bằng cách nào đi chăng nữa cũng phải nói lên được giá trị thiêng liêng nơi thờ. Theo Phật Giáo chúng ta có thể đặt bàn thờ bất cứ nơi nào trong nhà, nhưng với điều kiện vị trí chỗ thờ phải được thanh tịnh và bàn thờ phải được thiết trí trang nghiêm, có thể gợi lên cho con cháu một ấn tượng Tôn Kính mỗi khi chiêm ngưỡng. Chúng ta đừng quan niệm rằng, bàn thờ như kệ đựng sách, như bàn đựng rượu v.v... bỏ lên trên đó đủ thứ tạp nhạp để phải đắc tội với các bậc Thiêng Liêng. Chúng ta có một bàn thờ rất sang trọng lộng lẫy, nhưng cứ để hương tàn khói lạnh thì càng thêm có tội với Người Trên. Chi bằng chúng ta chỉ có một bàn thờ đơn giản, nhưng được thiết trí trang nghiêm thanh tịnh và được con cháu tới lui thăm viếng mỗi ngày cũng đủ nói lên bổn phận làm người và giá trị nơi thờ. Chúng ta hằng ngày phải có nhiệm vụ chăm sóc bàn thờ cũng như chăm sóc phòng khách, và coi trọng bàn thờ như trọng bản thân, đừng tỏ thái độ khinh thường nơi thờ tự và mỗi khi chiêm bái. Để xác định một lần nữa, thờ tự không phải là một hành động mê tín dị đoan mà là Truyền Thống Văn Hóa và Tín Ngưỡng của Dân Tộc, chúng ta không thể quên được sự nghiệp của nguồn gốc Văn Hóa Đông Phương. Đó chính là một trong những biểu tượng văn minh của người Á Đông mà các nước Tây phương khó có thể tìm được giá trị Tâm Linh ấy trong cuộc sống xã hội con người. Người Phật Tử chúng ta đã hiểu được ý nghĩa, giá trị và phương cách thờ tự theo quan niệm Phật Giáo, hãy cố gắng giữ gìn Truyền Thống và thực hiện cho kỳ được việc Thờ Tự tại gia cho chu đáo, vừa lợi ích cho mình trong việc tu tạo bản thân, cải thiện hoàn cảnh và giáo dục con em sau này trờ nên Thiện Mỹ để xứng đáng là người Phật Tử trong hoàn cảnh hiện tại giữa thời đại hiện kim này.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 22, 2010 6:31:40 GMT 9
II. VẤN ĐỀ CÚNG:
Vấn đề Cúng là một nghi vấn không ít trong quảng đại quần chúng và cũng có lắm người hành động sai lệch, thành thử vô tình làm mất giá trị của sự Cúng Bái. Không gia đình Á Châu nào mà không có Cúng kỵ Tổ Tiên và cũng không Quốc Gia nào mà không có Quốc Lễ, nhưng không được bao nhiêu người hiểu rõ giá trị và ý nghĩa của sự Cúng Bái. Theo Phật Giáo, Cúng Bái có những ý nghĩa và giá trị như sau:
A. Ý NGHĨA CỦA SỰ CÚNG:
Cúng gọi đủ là “Cúng Dường”, đó là danh từ của Phật Giáo. Danh từ này được chuyển ngữ từ hai chữ “Cung Dưỡng” của tiếng Trung Hoa. Trước hết chúng ta cần hiểu hai danh từ: Cung Dưỡng và Cúng Dường.
a. Cung Dưỡng: nghĩa là cung cấp và phụng dưỡng, tức là cung ứng theo sự nhu cầu về vật chất của những kẻ thiếu thốn và nuôi dưỡng khi họ đói cơm rách áo v.v... Sự Cung Dưỡng ở đây có tánh cách bố thí với tình thương được mở rộng, giúp đỡ những phương tiện cần thiết về đời sống cho những kẻ đang cần sự hỗ trợ qua tinh thần vị tha của những người dư thừa.
b. Cúng Dường: (Tiếng Phạm là: Pùjana) nghĩa là hiến cúng và dâng lễ, tức là dâng hiến những lễ vật lên các bậc tôn kính, mong cầu ơn trên chứng minh. Cúng Dường ở đây có tánh cách chí thành, quy ngưỡng, tưởng niệm đến các Tiền Nhân, các bậc Thánh Đức thâm ân mà kẻ dưới có bổn phận tri ân và báo ân.
B. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CUNG DƯỠNG Và CÚNG DƯỜNG:
a. Cung Dưỡng: nghĩa là phụng dưỡng, chăm sóc những người hiện đang sống trên đời với tình thương sẵn có mà bổn phận làm người cần phải trang trải trong sự quan hệ sanh tồn lẫn nhau, như phụng dưỡng cha mẹ, anh chị em, phụng dưỡng đồng bào ruột thịt v.v...
Còn đối với những kẻ đã quá cố, tức là những người đã chết mất, chúng ta không dùng hai chữ “Cung Dưỡng” trong sự tế lễ để khiến mất đi lòng Tôn Kính ở đây chúng ta dùng hai chữ “CÚNG TẾ” nhằm để thể hiện lòng thành đến với họ trong sự Lễ Nghi cung cách. Cúng Tế nghĩa là đem lễ vật hiến cúng theo lễ nghi tế tự, như cúng tế tổ tiên ông bà, cúng tế Thần Thánh v.v...
b. Cúng Dường: nghĩa là tưởng niệm đến những bậc thâm ân, những Thầy chỉ đạo mà mình đã tri ân, đã quy ngưỡng với hành động Tôn Kính. Chúng ta không chỉ “Cúng Dường” cho những người hiện đang còn sống mà còn “Cúng Dường” đến cho những bậc đã quá vãng, đã qua đời. Hơn nữa, trong Phật Giáo còn gọi là Cúng Dường Tam Bảo (Cúng dường Phật, Pháp, Tăng), cúng dường Thầy Tổ, cúng dường Trai Tăng v.v...
C. GIÁ TRỊ VÀ QUAN NIỆM SỰ CÚNG:
Người Việt Nam phần đông ít ai thông suốt ý nghĩa và giá trị của sự Cúng Bái. Họ chỉ biết hành động theo tập tục cổ truyền của Ông Bà để lại mà bổn phận con cháu phải giữ gìn Gia Bảo tinh thần ấy. Đó là một điều rất tốt nhưng cũng rất tai hại cho những con cháu thiếu đức tin. Vì không hiểu ý nghĩa Cúng Bái, người kế thừa Gia Bảo Tổ Tiên không giải thích được cụ thể cho con cháu lãnh hội và còn làm lệch lạc giá trị cao quý của Truyền Thống Văn Hóa. Hơn nữa, một khi gặp phải kẻ khác xuyên tạc, họ lại xem thường và thiếu tâm thành trong sự Cúng Bái là hành động mê tín dị đoan.
Con người mỗi khi làm điều gì bị bắt buộc nếu như không hiểu ý nghĩa về việc mình đang làm thì xem như bị một hình phạt đau khổ rất lớn. Nhất là đối với những kẻ có học thức, có trình độ Văn Hóa cao, họ đòi hỏi phải hiểu tường tận và cụ thể những sự việc mà họ phải làm. Không ai có thể bắt buộc họ làm những việc mà họ không hiểu. Đúng ra, họ rất muốn học hỏi và tìm hiểu tất cả những gì có tánh cách Tín Ngưỡng và Văn Hóa, nhưng không được ai giải thích vấn đề cho rõ ràng và thực tế. Nguyên do kẻ trên trước đã không hiểu Văn Hóa và Tín Ngưỡng thì đâu thể nào giải thích cho hậu lai được thông suốt. Cũng từ đấy, một số người lầm lạc khinh thường sự Cúng Bái và tỏ thái độ thiếu Lễ Nghi cung cách với bề Trên mà thật ra họ rất cần đến sự giao cảm giữa Tâm Linh của họ với Tâm Linh của các bậc Tiền Nhân qua sự nguyện cầu. Vì lẽ không hiểu, đôi khi họ mượn duyên cớ Cúng Bái làm bình phong nhằm mục đích họp bạn ăn uống vui chơi hơn là tưởng niệm để tri ân và báo ân. Họ không thể nào tin được có Ông Bà hay Thần Thánh đến hưởng đồ Cúng Bái. Giả sử trong khi Cúng Bái, con cháu nhìn thấy được Ông Bà hay Thần Thánh hiện nguyên hình đến ăn uống giống như người sống thì lúc đó họ sẽ đau khổ cực độ vì quá hoảng sợ mà con cháu lại tưởng ma quỷ hiện và sẽ đốt nhà bỏ đi nơi khác. Nguyên do Ông Bà hay Thần Thánh không còn hình tướng giống như người sống bình thường nữa.
Trên thực tế, có những hiện tượng mà chúng ta bất lực trên lãnh vực quan sát. Chúng ta chỉ hiểu biết những hiện tượng đó trên bình diện giả thuyết để tìm đáp số cho đức tin. Chúng ta không thể nào nhìn thấy điện thể trong không gian bằng sự quan sát. Chúng ta chỉ nhìn thấy điện trên lãnh vực tác dụng. Nhưng điện tác dụng không phải là điện thể mặc dù điện tác dụng được phát sanh từ điện thể trong không gian. Hơn nữa chúng ta chỉ nhìn thấy sự vật bên ngoài bằng Ảnh Tử (Cause’s Images of Illusions) ảo giác méo mó và không thể nào nhìn thấy mọi vật đúng với giá trị và ý nghĩa của nó, nếu như không đặt quan niệm thương ghét vào. Giả như chúng ta nhìn sự vật trên quan niệm thương ghét thì thấy vạn pháp càng méo mó hơn. Chúng ta làm sao cụ thể hóa được toàn diện về phần vật lý những thế giới siêu hình theo sự mong muốn. Khác nào chúng ta nếu như có thể thì cũng chỉ hiểu biết được những chúng sanh hiện hữu trong phạm vi Thái Dương Hệ (Solar- Systems) này mà thôi và ngược lại không thể nào biết được những chúng sanh hiện hữu trong các Thái Dương Hệ khác ngoài Thế Giới chúng ta đang sống. Tại sao thế? Nguyên do chúng ta là con người hiện đang sống trong Thế Giới gọi là Ngoại Giới có hiện tướng (Thế Giới hiện hình tướng ra bên ngoài) hoàn toàn lệ thuộc vật chất thì không thể nào thấy được chúng sanh đã và đang sinh hoạt trong những Thế Giới có tánh cách Nội Giới không hiện tướng. Chúng sanh trong những Thế Giới Nội Giới không hiện tướng đều được xây dựng nên bởi Tâm Thức và chúng nó thì không bao giờ bị lệ thuộc chút nào về vật chất cả, mặc dù những Thế Giới Nội Giới vô hình này và những Thế Giới Ngoại Giới hữu hình kia rất tương quan chặt chẽ với nhau trong sự duyên sanh. Những Thế Giới Nội Giới vô hình kia nếu như không có thực chất để làm Nhân thì những Thế Giới Ngoại Giới hữu hình này nhất định không thể thành lập để làm Quả. Trường hợp đây cũng giống như Điện Thể không gian ở trạng thái không hình tướng (Trạng thái không có hiện tướng) nếu như không thật chất để làm Nhân thì Điện Dụng (Điện đã tác dụng) sấm chớp ở trạng thái có hình tướng (Trạng thái có hiện tướng) nhất định không thể phát sanh để làm Quả. Thể và Dụng, Nhân và Quả là hai trạng thái rất quan hệ với nhau một cách chặt chẽ không thể tách rời trong chiều hướng duyên sanh để thành hình vạn pháp. Chúng ta chỉ biết được vạn pháp từ nơi thành Quả, từ nơi tác dụng hiện tướng và ngược lại chúng ta không thể nào quan sát được vạn pháp ở trạng thái Nguyên Nhân cũng như ở trạng thái Thể Tĩnh không hiện tượng. Hơn nữa, con người nhìn thấy vạn pháp qua Nhãn Quang (Lenz-lights) chiếu soi. Nhãn Quang nếu như không chiếu soi thì con người không thể nhìn thấy vạn pháp. Nhưng Nhãn Quang lại bị ảnh hưởng nơi Nhãn Căn (Giác quan con mắt) cho nên chiếu soi không được tinh nhuệ. Trường hợp này cũng giống như dòng điện bị ảnh hưởng bóng đèn nên phát ra ánh sáng không được đúng độ. Vã lại, Nhãn Quang bị ràng buộc quá nhiều bởi ánh sáng mặt trời. Do đó con người không thể nhìn thấy rõ sự vật về đêm. Ngược lại, một số loài động vật như con mèo, con chó v.v... cũng nhìn thấy vạn pháp qua Nhãn Quang của chúng. Nhưng Nhãn Quang của những loài động vật nói trên không lệ thuộc bởi ánh sáng mặt trời và cũng như không bị ngăn cách bởi bóng đêm. Cho nên chúng nó có thể nhìn thấy những hiện tượng vô hình cả ngày lẫn đêm mà loài người không thể nào biết được. Nguyên do Nhãn Quang của loài người không phải là Nhãn Quang của các loài vật kia. Khác nào ánh sáng của mặt trời không phải là ánh sáng của mặt trăng. Như ánh sáng mặt trời soi vào nhà, chúng ta mới thấy được vô số vi trần bay khắp nhà xuyên qua ánh sáng. Trái lại, chúng ta nếu như không có ánh sáng mặt trời chiếu soi thì không thể nào thấy được những vi trần nói trên hiện đang bay lượn trong không gian. Như vậy, chúng ta mặc dù không nhìn thấy các chúng sanh của những Thế Giới Nội Giới ở trạng thái vô hình, nhưng đừng vội cho là chúng nó không có mặt trong vũ trụ bao la.
Vũ trụ bao la có nhiều Thế Giới thì tất nhiên cũng có nhiều loại không sanh hiện đang sinh hoạt trong đó. Các nhà Khoa Học chưa khám phá được chúng, nhất là chưa biết được chút nào về lãnh vực siêu hình. Các nhà Khoa Học chỉ biết lẩn quẩn trong Thái Dương Hệ (Solar-system) có vật chất này mà thôi và cũng chưa biết rõ tất cả Hành Tinh hiện có mặt trong không gian. Trong không gian bao la, Thế Giới này được kết hợp bởi những nguyên liệu không giống nhau như những Thế Giới khác, thành thử chúng sanh ớ Thế Giới này không thể sinh hoạt nơi những Thế Giới khác và hình tướg của họ cũng không giống nhau với các Thế Giới khác. Tương tợ như khối nước chính là Thế Giới của loài cá và không khí chính là Thế Giới loài ngời. Khối nước và không khí khác nhau cho nên loài người không phải là loài cá. Vì thế loài cá không thể sống trong Thế Giới của loài người và ngược lại, loài người cũng không thể sống được dưới nước giống như loài cá sinh hoạt.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 22, 2010 6:32:32 GMT 9
Theo Phật Giáo, vũ trụ bao la có hằng hà sa số Thế Giới, nghĩa là Thế Giới nhiều như hạt cát của sông Hằng (sông Gange), trong đó chúng rất quan hệ từng loại với nhau, đức Phật phân chia chúng thành ra ba nhóm khác nhau theo sự quan hệ nói trên. Ba nhóm Thế giới gồm có: Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới.
1 Dục Giới: là những Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó đều do ái dục cực thịnh tạo thành. Những Thế Giới này gồm có: Thế Giới loài người, Thế Giới Địa Ngục, Thế Giới Ngạ Quỷ và Thế Giới Bàng Sanh (Súc Sanh).
2. Sắc Giới: là những Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó cũng do ái dục và dục tưởng kết hợp sắc chất tạo thành. sắc Chất ở đây thuộc thanh khí của Sắc Ấm một trong năm ấm tạo thành Thân Thể và Thế Giới của Sắc Giới. Sắc Chất này không phải Trược Khí của Sắc Uẩn, một trong Năm Uẩn tạo thành Thân Thể vâ Thế Giới của Dục Giới. Sắc Uẩn thì nhơ nhớp tanh hôi. Còn Sắc Ấm thì trong suốt giống như chất pha lê.
3. Vô Sắc Giới: là những Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó chỉ do Nghiệp Thức kết thành Thân Thể và Thế Giới. Những Thế Giới này muốn thấy được phải nhờ đến Phật Nhãn mới quán thông. Mắt thịt của chúng ta không thể nào biết được họ sinh hoạt trong những Thế Giới này.
Loài người còn không thể thấy được sự sinh hoạt, cách ăn uống của các chúng sanh trong những Thế Giới Địa Ngục, Ngạ Quỷ và A Tu La v.v. . . thuộc về cõi Dục thì làm sao biết được những chúng sanh trong các cõi Vô Sắc.
Hiện tượng trong thế gian cho chúng ta nhận thức rằng, con người sinh hoạt thường lệ thuộc quá nhiều nơi ánh sáng mặt trời cũng như ánh sáng đèn cho nên không thể biết được những gì thuộc về bóng đêm, nghĩa là con người muốn nhìn thấy được sự vật phải nhờ đến ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn chiếu soi. Ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn nếu như không soi sáng thì con ngời không thể nhìn thấy được những sự vật của bóng đêm mặc dù những sự vật của bóng đêm vẫn hiện có mặt trong thế gian. Ngược lại, những chúng sanh bị lệ thuộc bóng đêm thì không thể biết được những gì của ánh sáng ban ngày, nghĩa là chúng nó chỉ nhìn thấy được những sự vật thuộc về ban đêm. Như con chim vạc, con rắn lục, con chim quốc v. v... chỉ nhìn thấy được những sự vật của bóng tối thuộc về ban đêm và chúng nó không thể nhìn thấy được những sự vật của ánh sáng thuộc về ban ngày giống như con người. Còn những chúng sanh không bị lệ thuộc bởi ánh sáng mặt trời cũng như không bị lệ thuộc bởi bóng tối thì có thể nhìn thấy những sự vật của ban ngày và những sự vật của ban đêm. Như con mèo, con chó v.v... có thể nhìn thấy những sự vật cả ngày lẫn đêm không bị ngăn cách, nghĩa là bóng tối và ánh sáng mặt trời không trở ngại cho sự sinh hoạt của chúng. Trường hợp này cũng tương tợ như loài cá sống trên đất liền thì bị chết khô và loài người sống dưới nớc thì bị chết ngạt. Ngược lại loài rùa thì sống trên bờ hay sống dưới nước đều không bị trở ngại. Sự ăn uống của những chúng sanh trong các cõi khác cũng thế.
Chúng sanh đã có sự sống thì nhất định phải có sự hưởng thụ, nghĩa là họ phải có sự ăn uống và sinh hoạt để tồn tại. Nhưng sự ăn uống của họ không giống như sự ăn uống của loài người. Sự ăn uống của họ tùy theo nghiệp quyết định.
Thí dụ: Cùng một loại Thủy Tộc chuyên sống dưới nước như nhau,có giống thích ăn thịt như là Cá Mập, có giống chuyên ăn nhớt như là Cá Nược và có giống chỉ biết ăn rong nước như là Cá Cơm v.v...
Đức Phật nói: “Chúng sanh tùy nghiệp nhi thực” nghĩa là chúng sanh do bởi nghiệp sai biệt nên ăn uống không giống nhau. Theo Phật Giáo, chúng sanh trong các cõi Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới có nhiều cách ăn. Những cách ăn của chúng sanh trong ba cõi được chia thành chín loại khác nhau, gọi là Cửu Thực. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa và giá trị chín cách ăn nói trên.
D. VẤN ĐỀ ĂN:
Ăn, tiếng Trung Hoa gọi là Thực, tiếng phạn và tiếng Pali gọi chung là ÀHÀRA, nghĩa là duy trì và nuôi dưỡng Thân Thể xác thịt của chúng sanh hoặc Pháp Thân của các Thánh Nhân để hình thái được tồn tại, để tinh thần được nẩy nở và phát triển lâu bền. Trong ba cõi, những thực vật để nuôi lớn Thân Thể xác thịt thì gọi là món ăn của thế gian. Còn những thực vật dể nuôi lớn Pháp Thân Trí Tuệ Giác Ngộ thì gọi là món ăn của xuất thế gian. Thế Gian ăn có bốn cách và Xuất Thế Gian ăn có năm cách. Bốn cách ăn của Thế Gian cộng với năm cách ăn của Xuất Thế Gian gọi chung là chín cách ăn. Trước hết chúng ta tìm hiểu bốn cách ăn của Thế Gian. Bốn cách ăn này được Kinh Tăng Nhứt A Hàm quyển 41 giải thích như sau:
Tứ Thực: (Nghĩa là bốn cách ăn của thế gian tiếng Phạn là Catvàra-àhàràh, hoặc Ahàracatuska. Tiếng Pali là Cattàro- àhàra). Bốn cách ăn này nhằm mục đích nuôi lớn Sắc Thân sanh tử trong thế gian. Bốn cách ăn của Thế Gian gồm có: Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực và Thức Thực. Hình thức bốn cách ăn được giải thích như sau:
1. ĐOẠN THỰC: (Tiếng Phạn là: Kavadim=Kàràhàra, Kavlì-kàràhàra. Tiếng Pali là: Kabalinkàràhàra). Đoạn Thực còn có tên là Đoàn Thực, Kiến Thủ Thực và còn có tên nữa là Tuy Thực. Ý nghĩa của những tên này được giải thích nh sau:
a. Đoạn Thực: nghĩa là chia lương thực ra từng đoạn, từng phần để ăn nên gọi là Đoạn Thực.
b. Đoàn Thực: nghĩa là nắm đồ ăn vo tròn đưa vào miệng để ăn nên gọi là Đoàn Thực. Đây cách ăn của người An Độ thời xưa dùng tay nắm vắt đồ ăn bóc đưa vào miệng.
c. Tuy Thực: nghĩa là vò nát đồ ăn hoặc bẻ ra từng mảnh để ăn nên gọi là Tuy Thực.
d. Kiến Thủ Thực: nghĩa là cầm lấy đồ ăn đưa vào miệng nên gọi là Kiến Thủ Thực. Bốn hình thức ăn vừa giải thích đều nằm trong ý nghĩa của Đoạn Thực được nêu ở trên. Theo Phật Học Đại Từ Điển quyển 4, Trang 3997-3998 Đoạn Thực được giải thích như sau:
ĐOẠN THỰC: nghĩa là ăn uống bằng cách lấy mùi hương, chất vị và tinh thể của xúc trần nơi sắc pháp để tươi nhuận và bổ ích cho các Căn trong thân thể nên gọi là Đoạn Thực. Đoạn Thực có hai phần: Phần Thô và Phần Tế.
a. Phần Thô: (Tiếng Phạm là Odàrika. Tiếng Pali là Olària), nghĩa là thể chất của thực vật phổ thông để ăn được nằm trong cơm, trong miến, trong cá, trong thịt.
b. Phần Tế: (Tiếng Phạm là Sùksma. Tiếng Pali là Sukhuma), nghĩa là các thứ để uống và các mùi thơm như là hương, dầu, sinh tô v.v... Nói tóm lại Đoạn Thực nghĩa là ăn bằng cách dùng tay đem đồ ăn đưa vào miệng để nuôi dưỡng Thân Thể, như loài người ăn v.v...
2. XÚC THỰC: (Tiếng Phạm là Spar-sàkàràhàra. Tiếng Pali là phassà- Kàràhàra), cũng gọi là Lạc Thực và Ôn Thực.
a. Xúc Thực: nghĩa là Khí quản cảm giác xuyên qua tinh thần làm chủ thể tức là Tâm tác dụng tiếp xúc ngoại cảnh liền sanh ra cảm giác và ý chí để bồi dưỡng và nuôi lớn Nhục Thân nên gọi là Xúc Thực. Nói cách khác, Xúc Thực nghĩa là ăn bằng cách dùng miệng thay thế tay chân tiếp xúc thẳng lương thực không qua trung gian đưa vào, như cách ăn theo kiểu heo, gà, chó v.v...
b. Lạc Thực: nghĩa là Tâm Sở xúc khi tiếp xúc trực tiếp với cảnh vật đối tượng liền phát sanh hỷ lạc ưa thích để nuôi lớn Nhục Thân nên gọi là Lạc Thực. Như người mê xem hát suốt ngày mà không cảm thấy đói.
c. Ôn Thực: nghĩa là như chim Khổng Tước, chim Anh Vũ v.v... khi sanh Trứng xong, liền đích thân trực tiếp ấp Trứng cho đến khi nào Trứng nở thành con mới thôi. Chúng ấp Trứng nhầm mục đích nuôi dưỡng sức ấm để sanh Lạc Xúc và Trứng nhờ đó mới nẩy nở thành con, nên gọi là Ôn Thực. Con người tắm rửa, mặc áo cũng gọi là Xúc Thực.
Nói tóm lại, căn cứ nơi nghiệp lực của chúng sanh mà nhận xét, Xúc Thực ở đây có nghĩa là ăn bằng cách dùng miệng tiếp xúc thẳng lương thực mà không dùng đến tay chân mang thức ăn vào miệng giống như cách ăn của loài ngời.
3. TƯ THỰC: (Tiếng Phạm là Manah-Samce=Tanàkàràhàra. Tiếng Pali là Mano-Sance=Tanàkàràhàra), cũng gọi là Tác ý Tư Thực (Ý Thực), Niệm Thực (Ý Niệm Thực), Ý Chí Thực, Nghiệp Thực, nghĩa là tác dụng của ý Chí (Tư) mong cầu cho mình được trạng thái tốt đẹp và tồn tại tức là trạng thái sanh tồn được kéo dài nên gọi là Tư Thực. Nói cách khác, Ý Thức thứ sáu đối với cảnh sở duyên liền phát khởi tư tưởng mong muốn và phát sanh Ý Niệm hy vọng các Căn (giác quan) được tiếp tục thêm lớn. Luận Thành Thật cho là “Tư nghiệp hoạt mạng”, nghĩa là do Nguyện Lực của tư tởng khiến cho Mạng Căn sinh hoạt. Còn Đại Thừa Nghĩa Chương, tiết mục Đại 44, trang 620 giải thích rằng: “Do Tư Nghiệp của quá khứ khiến Mạng Căn tiếp nối không dứt, nên gọi là Tư Thực. Như thế, tất cả chúng sanh có sanh mạng đều do tư tưởng ở quá khứ tạo nên, hoặc mang sống của họ đều do tư tưởng hiện tại tạo thành nên gọi là Tư Thực”.
4. THỨC THỰC: (Tiếng Phạm là Vi-jnànàkàràhàra. Tiếng Pali là Vinnànà- kàràhàra), nghĩa là Tâm Thức hữu lậu nương nhờ nơi Thức Alaya làm thể và ỷ lại vào thế lực của ba cách ăn ở trước để cồ thể tạo tác quả báo cho kiếp sau nhầm mục đích duy trì thân mạng của chúng sanh hữu tình không cho hư hoại, nên gọi là Thức Thực. Chúng sanh hữu tình trong các cõi Vô Sắc và Địa Ngục thường dùng cách ăn này nên gọi là Thức Thực.
Trong bốn cách ăn nói trên, Tâm Thức sinh hoạt một cách linh diệu để duy trì vạn pháp được tồn tại trong thế gian nên gọi là Thức Thực. Xúc Thực Tư Thực và Thức Thực đều thông cả ba cõi, nghĩa là chúng sanh hữu tình trong ba cõi phần nhiều sử dụng ba cách ăn này nên gọi là thông cả ba cõi. Riêng Đoạn Thực chỉ hạn cuộc trong cõi Dục, nghĩa cách ăn này chỉ dành riêng cho các chúng sanh hữu tình trong cõi Dục sử dụng nhiều hơn.
Có thể nói, Thức Thực là cách ăn bằng Tâm Thức và lương thực để cho Tâm Thức sử dụng chính là hương vị của các pháp. Riêng những người bị chết, sau khi bỏ Thân Thể xác thịt hôi tanh liền nương tựa nơi Thân Thể bằng Tâm Thức nên gọi là Thức Thân và cũng gọi là Thân Trung Ấm. Những người mang Thức Thân thì họ ăn bằng cách Thức Thực và lương thực của họ nuôi sống chính là hương vị của những đồ cúng tế mà phần đông những chúng sanh trong các cõi Đia Ngục, Ngạ Quỷ, A Tu La và cõi Trời thuộc Dục Giới đều thọ hưởng.
Như chúng ta đã biết sự ăn uống của chúng sanh hữu tình trong năm cõi (Cõi Trời, cõi Ngời, cõi Địa Ngục, cõi Ngạ Quỷ, cõi Súc Sanh) sở dĩ khác nhau chính là do bởi chúng có nhiều hình thái được sanh ra từ nơi bốn loại không giống nhau (loại sanh ra bằng trứng, loại sanh ra bằng bào thai, loại sanh ra bằng chỗ ẩm thấp và loại sanh ra bằng sự chuyển hóa từ hình tướng này sang hình tướng khác). Do đó so với các bậc Thánh Nhân, bốn loại chúng sanh nói trên đều thuộc hạng phàm phu và chúng ăn uống cũng khác với sự ăn uống của các bậc Siêu Đẳng. Bốn cách ăn này của bốn loại chúng sanh hữu tình trong năm cõi cũng gọi là Bất Tịnh Thực (Cách ăn không trong sạch).
Khác hơn bốn cách ăn của các hàng phàm phu, năm cách ăn của các bậc Thánh Nhân được gọi là Thanh Tịnh Thực (Năm cách ăn rất trong sạch) và cũng gọi là Xuất Thế Gian Thực (Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian). Đây là năm cách ăn của các đức Phật, của các vị Bồ Tát, các vị Duyên Giác và các bậc Thinh Văn thường sử dụng. Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian gồm có:
1. Thiển Duyệt Thực: nghĩa là Hành Giả dùng phương pháp Thiền để bố ích Tâm Thần, tức là những vị ấy hưởng đặng cái vui trong Thiền Định, nên gọi là Thiền Duyệt Thực.
2. Pháp Hỷ Thực: nghĩa là Hành Giả khi nghe pháp liền sanh tâm hoan hỷ, khiến tăng trưởng thiện căn và lợi ích huệ mạng, nên gọi là Pháp Hỷ Thực.
3. Nguyện Thực: nghĩa là Hành Giả vì muốn cứu độ chúng sanh đoạn trừ phiền não sớm chứng quả Bồ Đề nên phát nguyện rộng lớn duy trì bản thân để thường tu vạn hạnh, nên gọi là Nguyện.
4. Niệm Thực: nghĩa là Hành Giả sau khi an định được Tâm ý, thường ghi nhớ mãi những thiện pháp Xuất Thế mà mình đã chứng đắc không bao giờ quên, nên gọi là Niệm Thực.
5. Giải Thoát Thực: nghĩa là Hành Giả khi tu hạnh Thánh Đạo Xuất Thế của bậc Thánh Nhân đã đoạn được sự trói buộc của Nghiệp Phiền Não và không còn thọ nhận sự bức bách hay bị chi phối bởi khổ sanh tử nên gọi là Giải Thoát Thực.
Đây là danh xưng năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian. Năm cách ăn này được thiết lập là căn cứ nơi Pháp Hỷ của năng lực Thiền Định, của năng lực Chánh Nguyện, của năng lực Chánh Tư Duy làm nền tảng. Hành Giả nhờ năng lực Thiền Định, năng lực Chánh Nguyện và năng lực Chánh Tư Duy sau khi đoạn được phiền não và được học hỏi Phật Pháp liền sanh ra Pháp Hỷ. Pháp Hỷ thường nuôi dưỡng sanh mạng và bảo trì hạt giống Trí Tuệ, nên gọi là Thực.
Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian cộng chung với bốn cách ăn của Thế Gian nói trên trở thành chín cách ăn, gọi là Cửu Thực. (Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển 28 và Kinh Tăng Nhứt A Hàm, quyển 41).
E. CÁCH ĂN CỦA TỔ TIÊN ÔNG BÀ:
Thế thì Tổ Tiên, Ông Bà ăn như thế nào?
Như đã trình bày ở trên, Tổ Tiên, Ông Bà có thể ăn uống thường gọi là Hưởng Thực nghĩa là ăn bằng cách Thức Thực những hương vị của món đồ mà con cháu dâng cúng và nếu như không có món đồ dâng cúng thì làm sao có hương vị để cho Tổ Tiên, Ông Bà hưởng thực.
Sở dĩ sự hưởng thực của Ông Bà không giống như sự ăn uống của loài người, nguyên vì các vị ấy không còn mang tấm thân xác thịt như loài người và cũng không còn sống trong thế giới loài người. Họ chết, nghĩa là họ bỏ lại tấm thân xác thịt bằng chất liệu máu huyết tanh hôi của cha mẹ. Họ chỉ còn lại thân thể bằng Tâm Thức, gọi là Thức Thân và cũng gọi là Trung Ấm Thân hay Danh Thân. Đã là Thức Thân sống trong thế giới nội Tâm không hiện tướng thì sự ăn uống của họ chỉ bằng Tâm Thức nên gọi là Thức Thực và lương thực của họ sống chính là Hương Vị của vạn pháp, thường gọi là Dưỡng Khí. Thức Thân là thân thể thuộc trạng thái vô hình không thể dung chứa những vật chất thuộc hữu tình, cho nên họ không thể hưởng đồ ăn bằng vật chất giống như sự tăn uống của loài người. Đến khi nào đi đầu thai thọ thân kiếp sau, họ kết hợp với sắc chất tức là tinh cha huyết mẹ để thể hiện Thức Thân nói trên trở thành Nhục Thân hiện tướng thì chừng đó họ có thể ăn uống những vật chất vào giống như sự ăn uống của loài người. Hoặc họ sanh vào những cõi khác, ngoài Thế Giới loài người thì sẽ ăn uống theo cách của chúng sanh ở những cõi đó.
Hơn nữa, Tổ Tiên Ông Bà đã đi đầu thai vào Thế Giói nào khác từ lâu, vậy chúng ta cúng kỵ có ý nghĩa gì? Trường hợp này chúng ta cúng kỵ có hai ý nghĩa:
a. Ý nghĩa thứ nhất, chúng ta cúng kỵ nhằm mục đích tri ân và báo ân những đấng sanh thành đã từng hy sinh tạo nên chúng ta cũng như gầy dựng nên giòng họ Tông Môn của Gia Phả mình. Đồng thời chúng ta giáo dục con cháu thiêng liêng hóa Tông Đường để tiếp nối sự nghiệp hiển vinh giòng họ Nội Ngoại hai bên. Không khác nào Dân Tộc Việt Nam mỗi năm thường làm lễ kỷ niệm Quốc Tổ Hùng Vương để nhắc nhở giống nòi đừng quên cội mất nguồn. Cũng như Tín Đồ làm lễ kỷ niệm Phật Tổ hay Thánh Chúa là để hình ảnh thiêng liêng đó ăn sâu vào tâm khảm của mỗi Tông Đồ.
b. Ý nghĩa thứ hai, chúng ta cúng kỵ với giá trị là sử dụng năng lực tâm linh thành kính của mình biến hương vị lương thực hiến cúng thành dưỡng khí và chuyển dưỡng khí đó thành chất liệu dưỡng sinh để mang đến cho người mình cúng qua hệ thống tâm linh. Người mình cúng ở cõi khác tự nhiên được nhiều sự may mắn không biết từ đâu đến mà người đời thường gọi là được phước đức ông bà. Trờng hợp này cũng tương tợ như bóng đèn điện đã bể, chúng ta thay vào đó một cái quạt máy. Hình thức quạt máy hoàn toàn không phải là hình thức một bóng đèn. Giờ đây chúng ta tăng sức dòng điện cho đường giây bóng đèn cũ thì trên thực tế quạt máy tự nhiên được ảnh hưởng ngay. Người mình cúng tuy không còn là hình thức ông Bà, nhưng Tâm Linh của họ vẫn cùng một dòng Tâm Linh với Tổ Tông không khác. Chúng ta tăng năng lực cầu nguyện trên đường giây Tâm Linh dòng họ thì người mình cúng sẽ được ảnh hưởng ngay. Giá trị này cũng giống như chúng ta đánh Fax hay gọi Điện-thoại viễn liên thay vì điện tử qua hệ thống Tâm Linh rất linh diệu vô cùng, ảnh hưởng đến người mình gọi.
Tóm lại, Tổ Tiên Ông Bà và Nghiệp Lực thọ sanh vào những Thế Giới vô hình thì sự sinh hoạt ăn uống của họ chỉ bằng Thức Thực không giống như sự ăn uống của loài người và con cháu cúng dường là đem hương vị của món đồ dâng lên thành kính tưởng niệm để tri ân và báo ân. Đó là cách ăn uống của Tổ Tiên Ông Bà theo quan niệm Phật Giáo.
G. CÁCH CÚNG
Cúng phải có quy cách của cúng tế, nghĩa là cách thức cúng tế đã được quy định trong Nghi Lễ, như Nghi Lễ của Quốc Gia gọi là Quốc Cách, Nghi Lễ của Quân Đội gọi là Quân Cách, Nghi Lễ của Tôn Giáo gọi là Tôn Giáo Cách v.v...
Người kế thừa trong sự cúng bái nếu như thiếu Nghi Lễ quy cách chính là thiếu cung cách trong việc cúng tế, tức là người đó đã phạm lỗi với các bậc Thánh Hiền đáng tôn kính. Theo Kinh Di Giáo, người cúng dường trước hết sử dụng thân thể cũng như hành vi làm chủ yếu và sau đó họ sử dụng tinh thần để giao cảm. Cho nên họ phải thể hiện được hai đức tánh: Thân Cúng Dường và Tâm Cúng Dường.
a. Thân Cúng Dường: nghĩa là người cúng dường phải dâng cúng những lễ vật như đồ ẩm thực, y phục, thuốc thang v.v... lên cho Tam Bảo, cho Sư Trưởng, cho Cha Mẹ, cho Hương Linh v.v... một cách tâm thành, gọi là Thân Cúng Dường.
b. Tâm Cúng Dường: nghĩa là người cúng dường cảm thấy tâm không nhàm chán, không biết đủ, không hối tiếc và tự tại trong hành động, gọi là Tâm Cúng Dường.
Cũng từ ý nghĩa này, Quy Cách của Phật Giáo có hai phương thức cúng là Sự Cúng và Lý Cúng.
1. SỰ CÚNG:
Những lễ vật hiến cúng lên bàn thờ chính là hình thức biểu tƯợng lòng chí thành của một ngƯời con, của một Tín Đồ dâng trọn niềm tin lên Tổ Tiên Ông Bà, lên Thánh Hiền và lên Chư Phật. Họ dâng hiến lễ vật là mong nhờ Tổ Tiên Ông Bà và Thánh Hiền Chư Phật đoái tưởng ấn ký, gọi là chứng minh cho tất lòng chí thành biết ơn của kẻ dưới. Nếu như không có lễ vật biểu tượng thì không thể hiện được lòng chí thành của mình đối với những bậc thâm ân mà mình tôn kính. Cũng như nếu không có Thiệp (Card) chúc tết hoặc lời chúc tụng thì không thể nào tỏ bày được lòng thành của mình đối với người mình chúc tụng. Nhờ sự tướng (hình thức) hiển bày được nguyên lý, nhờ hình tướng hiển bày được thể tánh, nghĩa là sự tướng nếu như không có thì không thể hiện được lý tánh. Sự và Lý cũng như Tướng và Tánh đều dung thông với nhau không ngăn ngại. Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới”, nghĩa là Lý Tánh nhờ Sự Tướng được hiển bày và Sự Tướng nhờ Lý Tánh được thành hình. Sự Lý không thể rời nhau được để thành lập. Vạn pháp tuy có tướng trạng khác nhau, nhưng đều cùng chung một bản thể.
Người có lòng chí thành thì dù hột muối cắn làm hai đem dâng cúng lên bề trên cũng có giá trị và ngược lại. Người không có lòng chí thành thì mặc dù đem mâm cao cỗ đầy cũng không có ý nghĩa, đúng như câu: “Phật tức tâm, Phật chứng tại tấm lòng, tâm tức Phật lòng thành có Phật”.
2. LÝ CÚNG:
Lý Cúng Dường nghĩa là thể hiện được chân lý đã chứng nhập đem ra cúng dường, nên gọi là Lý Cúng. Kinh Phổ Hiền, Phẩm Hạnh Nguyện nói Cúng Dường có ba ý nghĩa:
a. Tài Cúng Dường: nghĩa là dùng những hoa quả, tiền của châu báu thường dùng trong thế gian đem ra cúng dường.
b. Pháp Cúng Dường: nghĩa là đem tâm Bồ Đề làm lợi ích cho mình và lợi ích cho mọi người để cúng dường.
c. Quán Hạnh Cúng Dường: nghĩa là thật hành pháp quán để nhận thấy vạn vật khắp trong ba cõi đều dung thông với nhau, tức là thật hành phương pháp quán chiếu về “Sự sự vô ngại pháp giới” của Kinh Hoa Nghiêm để cúng dường.
Kinh Thập Địa Luận, quyển 8 nói: Cúng dường có 3 cách:
a. Lợi Dưỡng Cúng Dường: nghĩa là chỉ dùng các thứ y phục, ngọa cụ v.v... để cúng dường.
b. Cung Kính Cúng Dường: nghĩa là tỏ lòng thành bằng cách dâng hương hoa, tràng phang bảo cái v.v...để cúng dường.
c Hạnh Cúng Dường: nghĩa là tiến tu đạo nghiệp về các hạnh, như Tín Hạnh, Giới Hạnh v.v... để cúng dường.
Pháp Hoa Văn Cú quyển 8 nói rằng: dùng Tam nghiệp cúng dường. Tam nghiệp cúng dường như là:
a. Thân Nghiệp Cúng Dường: nghĩa là dùng thân này chí thành lễ bái, kính ngưỡng các đức Phật, các vị Bồ Tát để cúng dường.
b. Khẩu Nghiệp Cúng Dường: nghĩa là dùng lời nói ca tụng khen ngợi công đức của các đức Phật, các vị Bồ Tát để cúng dường.
c. Ý Nghiệp Cúng Dường: nghĩa là dùng tâm ý đoan chánh tưởng niệm đến Tướng Hảo Trang Nghiêm của các đức Phật, các vị Bồ Tát để cúng dường.
Với tinh thần Lý Cúng vừa trình bày trên, chúng ta luôn luôn noi gương tốt của các bậc Tiền Nhân Thánh Đức, của Tổ Tiên Ông Bà, cố gắng ngăn ngừa các điều tội ác nguyện làm các việc phước lành, giữ gìn thân tâm cho trong sạch, trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm, để xứng đáng danh nghĩa con cháu yêu quý của dòng họ của Tông Môn, để làm gương mẫu tốt trong xã hội. Chúng ta thể hiện được tinh thần cao đẹp vừa nói trên để cúng dường lên Tổ Tiên Hiền Thánh, ngưỡng mong các bậc tôn vinh trên chứng minh vâ gia hộ, đó là ý nghĩa của Lý Cúng.
Theo quy cách của Phật Giáo, con cháu mỗi khi cúng kỵ Ông Bà hay Thánh Hiền phải hội đủ những điều kiện sau đây:
a. Phải có lòng thành kính đối với bậc trên trước mà mình cúng bái, nghĩa la không phải cúng bái với mục đích họp bạn ăn uống vui chơi.
b. Phải trang nghiêm thanh tịnh trong lúc cúng tế, nghĩa là trong lúc cúng tế không được tổ chức ca múa hát xướng như một hí trường.
c. Phải có ba chén cơm, ba chung nước thanh khiết và ba đôi đũa hoặc ba muỗng nĩa cùng với hơng đèn hoa quả v.v... Đó là điều kiện cần thiết trong khi cúng. Còn các thức ăn khác thêm bớt là tùy theo hoàn cảnh của mỗi gia chủ.
d. Tất cả con cháu trong gia đình đều phải quỳ xuống, im lặng, chắp tay hướng về bàn thờ Tổ Tiên, Thánh Hiền v.v... bày tỏ lòng chí thành. Lúc đó gia chủ đại diện nguyện hương, vái tên họ, tuổi và ngày tháng, năm tạ thế của người quá vãng (người đã chết) mà mình cúng kỵ. Trong khi cha mẹ đang cúng Ông Bà, con cháu không được đùa giỡn làm thiếu lễ nghi cung cách. Kế đến, tất cả con cháu đều chí thành đọc tụng Thần Chú Chuyển Lương Thực để Ông Bà thọ hưởng sự cúng dường. Sau cùng tất cả đều lạy ba lễ.
Đây là năm điều căn bản của con cháu mà bổn phận làm người cần phải nằm lòng trong việc kế thừa sự nghiệp gia bảo của tiền nhân. Chúng ta tại sao phải có bổn phận và lại còn hãnh diện mỗi khi tổ chức trọng đại lễ kỷ niệm Hùng Vương, Đức Thánh Trần, Tổng Thống v.v... và còn đọc tiểu sử ghi công các vị ấy một cách trang nghiêm. Ngược lại, chúng ta tại sao thiếu bổn phận và lơ là trong việc cúng bái Tổ Tiên là những bậc có công ơn lớn nhất của Tông Môn của dòng họ mình. Trong Phật Giáo, tội bất hiếu là một trong năm tội Ngũ Nghịch của Địa Ngục Vô Gián. Chúng ta mang danh là Phật Tử cần phải biết cung cách Hiếu Hạnh vừa trình bày ở trên đề ngăn ngừa đừng phạm phải.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 22, 2010 6:33:25 GMT 9
H. PHỤ BẢN:
I.- KHI CÚNG ÔNG BÀ:
Khi cúng ông Bà, con cháu phải tập họp đầy đủ trước bàn thờ Tổ Tiên và ăn mặc chỉnh tề, im lặng. Gia Chủ đại diện lên đèn va đọc thầm bài Kệ Đốt Dèn:
KỆ ĐỐT ĐÈN:
Đốt sáng đèn Tâm,
Nguyện cho chúng sanh,
Chiếu tỏa mười phương,
Tẩy trừ mê ám.
Nam Mô Nhiên Đăng Vương Bồ Tát. (3 lần)
Tiếp theo Gia Chủ đốt ba cây hương và đọc thầm Thần Chú Đốt Hương:
CHÚ ĐỐT HƯƠNG:
Tinh Hương kết vần mây thể,
Thơm khắp ba cõi mười phương,
Năm Uẩn biến thành trong sạch,
Trần ai ba độc thanh lương.
Án Phóng Ba Tra Tá Ha. (3 lần)
Tới cả con cháu đều quỳ xuống và Gia Chủ đại diện nguyện hương.
KỆ NGUYỆN HƯƠNG:
Đem tất lòng thành kính,
Nguyện kết đài Mây-hương,
Dâng lên khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Cúng Cửu Huyền Thất Tổ,
Nội Ngoại cả hai bên,
Niệm ơn trên hiển linh,
Ứng lòng Từ chứng giám,
Gia hộ đàn con cháu,
Sớm lập Đức bồi Tâm,
Khiến tỏ rạng Tông Môn,
Lưu danh thơm kim cổ.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát. (3 lần)
Kế đến cầu nguyện:
Hôm nay ngày lành tháng tốt, chính là ngày kỷ niệm (Kể tên họ, tuổi và năm, tháng, ngày, giờ tạ thế của ngời mình cúng kỵ). Để tỏ lòng tưởng niệm, nhớ nghĩa thâm ân, gia đình chúng con gồm có........... (liệt kê tên họ) thành tâm sắm sửa trai nghi, hương hoa, quả phẩm thanh khiết dâng lên, trước hết cúng dường Cửu Huyền Thất Tổ, Thất Thế Phụ Mẫu, đa sanh Phụ Mẫu, Lục Thân Quyến Thuộc, Nội Ngoại Hương Linh, trên đến Cao Tằng Tổ Khảo, dưới đến Tử Tôn Tằng Huyền, và tiếp theo cúng dường Hương Linh (Tên họ người mình cúng kỵ).
Duy nguyện, chư Hương Linh quang lâm án Tiền chứng minh công đức, gia hộ con cháu chúng con, tai chướng tiêu trừ, thân tâm hương thới, mạng vị bình an căn lành tăng trưởng, bốn mùa không còn chút tai ương, tám tiết phước lớn như đông hải. Gia đình hưng thịnh, quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, cầu chi đều nh ý, nguyện tất cả đợc tùng tâm.
Nam Mô Linh Tự Tại Bồ Tát. (3 lần)
TỤNG CHÚ CHUYỂN LƯƠNG THỰC:
Biến cơm, biến nước Chơn Ngôn thành tâm trì tụng:
1. Nam Mô Tát Phạ Đát Tha, Nga Đa Phạ Lồ Chỉ Đế, Án, Tam Bạt Ra, Tam Bạt Ra, Hồng. (3 lần)
2. Nam Mô Tố Rô Bà Da, Đát Tha Nga Đa Da, Đát Diệt Tha, Án, Tố Rô Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Ta Bà Ha. (3 lần)
3. Án, Nga Nga Nẳng Tam Bà, Phạ Phiệt Nhựt Ra, Hồng. (3 lần)
(Lạy ba lễ là xong)
II.- NGHI THỈNH VONG:
Hương Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh, Hương Linh lắng nghe, Cuộc đời dâu bể, sớm còn tối mất tợ chiêm bao, Sống gởi thác về, mau quay đầu trở lại đường xa bến cũ, Hương Linh giờ đây tỉnh ngộ, Nghe lời triệu thỉnh quang lâm, An tọa trước bạn hương án trang nghiêm, Xin chứng giám lòng thành của Gia Chủ. U Minh Giáo Chủ, Bồ Tát hiện thân, Hóa độ khắp chốn cùng nơi, Tiếp dẫn ba đường sáu nẻo, Lòng từ thương xót, Chí nguyện kiên cường: “Địa Ngục chưa hết chúng sanh, Ngài thệ không thành Phật quả. Đến khi Địa Ngục không còn, Chừng đó lên ngôi Chánh Giác”. Đại Bi Đại Nguyện Đại Thánh Đại Từ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thương vì Gia Chủ.......... (Kể tên họ con cháu) Tiếp độ Hương Linh. (Đọc tên người quá vãng), Về nơi Đạo Tràng, Chứng minh công đức.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)
Hương Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh, Hương Linh lắng nghe, Năm Uẩn giả hợp nên người, Bốn Đại duyên sanh thành vóc, Bản chất vô thường, Hình hài biến đổi, Chốn phù sinh mang thân gởi tạm, Đường tội lỗi mình lỡ tạo nên, Hôm nào còn đó, Bữa nay mất rồi, Thân cát bụi trả về cát bụi, Mượn Ấm Thân nhờ chuyển kiếp sau, Phiền não trầm luân khổ lụy, Sông mê lặn hụp triền miên, Hương Linh nên tỉnh ngộ, Thuyền Bát Nhã đợi chờ, Nơi bến Giác mau về cập bến, Nhờ Hào Quang dẫn lối soi đờng, An nhàn nơi đất Phật, Tĩnh tọa trên tòa Sen, Quan âm, Thế Chí hộ trì, Giáo chủ Di Đà thọ ký, Liền trở về đây nơi chốn dương trần, Sớm gia hộ cháu con, Quyến thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa tư công đức, Tai chớng tiêu trừ, Thân tâm hương thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai ương, Tám tiết phước lớn như đông hải, Gia dình hng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều như ý, Nguyện tất cả được tùng tâm.
Nam Mô Linh Tự Tại Bồ Tát. (3 lần)
Thiền Trà dâng cúng, Thiền Vị ba chung, Tang Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.
Hương Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thành, Hương Linh lắng nghe, Nay riêng mình, Giờ đây bụi trần phủi sạch, Còn gia quyến, âm dương hai ngã cách đôi, Tỏ lòng đạo nghĩa thâm ân, Con cháu chí thành tưởng niệm, Trước tiên dâng hiến nước Cam Lồ, Chất liệu tươi nhuận khắp mười phương, Thiền trà Pháp Nhũ, Thiền vị ngát hương, Gia chủ mong nhờ Thiền Đức, Chuyển lời triệu thỉnh Hương Linh, Khởi hành từ chốn U Minh, Nương tòa Sen về dương thế, Tĩnh tọa trước Đạo Tràng Hương án, Nghe kinh và thọ lãnh cúng dường, Do Gia Quyến chí thành dâng hiến, Xin nguyện Hương Linh (kể tên) hết lòng gia hộ cháu con, Quyến thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa tư công đức, Tai chướng tiêu trừ, Thân tâm hương thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai ương, Tám tiết phước lớn như đông hải, Gia đình hưng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều như ý, Nguyện tất cả được tùng tâm.
Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát. (3 lần)
Thiền Trà dâng cúng, Thiền Vị ba chung, Gia Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.
Hương Hoa thỉnh Nhứt Tâm triệu thỉnh, Hương Linh lắng nghe, Nương Từ Bi vô lượng, Nhờ Phật Pháp nhiệm mầu, Bao nhiêu quả phẩm Cam Lồ, Lương thực thiết đầy Hương án, Pháp nhũ mỹ vị tịnh chay, Biến khắp hư không Pháp Giới, Con cháu chí thành, Hiến dâng cúng bái, Hương Linh nghe lời triệu thỉnh, Về đây thọ lãnh cúng dường, Đó là món ăn tinh thần, Thanh tịnh huơng thơm Pháp Vị, Xin nguyện Hương Linh........(kể tên) Sớm được ấm no đầy đủ, Hết lòng gia hộ cháu con, Quyến thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa tư công đức Tai chướng tiêu trừ, Thân tâm hương thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai ương, Tám tiết phước lớn như đông hải, Gia đình hưng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều như ý, Nguyện tất cả được tùng tâm.
Nam Mô Mỹ Hương Trai Bồ Tát. (3 lần)
Thiền Trà dâng cúng, Thiền Vị ba chung, Gia Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.
TỤNG CHÚ CHUYỂN LƯƠNG THỰC: Biến cơm, biến nước Chơn Ngôn thành tâm trì tụng:
1. Nam Mô Tát Phạ Đát Tha, Nga Đa Phạ Lồ Chỉ Đế, Án, Tam Bạt Ra, Tam Bạt Ra, Hồng. (3 lần)
2. Nam Mô Tố Rô Bà Da, Đát Tha Nga Đa Da, Đát Diệt Tha, Án, Tố Rô Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Ta Bà Ha. (3 lần)
3. Án, Nga Nga Nẳng Tam Bà, Pha Phiệt Nhựt Ra, Hồng. (3 lần)
Hương Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh, Hương Linh lắng nghe, Tâm giác ngộ vốn thanh tịnh, Dứt si mê chứng quả ngay, Có thân có khổ, Có nghiệp chướng có luân hồi, Không sanh không tử, Không nghiệp chướng không đến đi, Sanh tử đến đi như giấc mộng, Cuộc đời dâu bể tợ chiêm bao. Hơng Linh đừng luyến tiếc kiếp phù sinh, Mau thoát khỏi bể khổ đau ái dục, âm Dương tuy hai đường ngăn cách, Nhưng Thể Tánh chỉ có một Pháp Thân, Mong Hương Linh được nhẹ nhàng, Sanh sang nước Cực Lạc, của đức Phật A Di Đà, Hiện đang làm Giáo Chủ, Thuyết Pháp độ chúng sanh, Hương Linh ngồi trên tòa Sen báu, Chí thành chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, Ngưỡng mong đức Phật Từ Bi, Duỗi lòng phóng quang tiếp độ , Hơng Linh siêu sanh Tịnh Độ, Chứng quả Niết Bàn Vô Dư.
Nam Mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát. (3 lần)
Tóm lại, vấn đề Cúng là một cung cách rất thiết yếu của người có Tín Ngỡng đối với Tổ Tiên, đối với Hiền Thánh mà bổn phận làm người không thể thiếu trong việc cải tiến bản thân, cũng như xây dựng xã hội an lạc thật sự về phương diện Tâm Linh. Cúng là một hành động tri ân và báo ân Tiền Nhân với mọi hình thức biểu tượng mà con người ý niệm đợc thâm ân không thể thiếu nghĩa vụ. Cúng cũng là một phương thức giáo dục con người ý thức Truyền Thống Tổ Tiên, lý tưởng Giống Nòi và Tín Ngưỡng để họ làm tròn bổn phận làm người. Nhất là ngời Phật Tử, chúng ta phải cúng, nhằm thể hiện tâm linh để bất cẩu giao cảm với chư Phật, mong nhờ Tam Bảo gia hộ cho mình được an lành trên con đường Giác Ngộ và Giải Thoát. Đây là ý nghĩa và giá trị của Cúng Dường. Ý nghĩa và giá trị Cúng Dường được trình bày qua Sự cũng như qua Lý để làm quy cách căn bản cho Phật Tử chánh tín hành trì, ngõ hầu giúp đỡ họ sớm kết duyên lành với chư Phật trong mười phương.
III.- VẤN ĐỀ LỄ BÁI:
Lễ Bái là một Đạo Nghĩa nhằm tiêu biểu ý chí tôn kính, tưởng niệm đến những ân đức sâu dày của Tổ Tiên Ông Bà, của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng và tự thân Phát nguyện tu tâm luyện trí hầu trở thành ngời hữu ích trong xã hội để làm tròn bổn phận con cháu của Tông Môn và để xứng đáng là Đệ Tử của các bậc Thánh Đức. Lễ Bái còn là một Đạo Lý có tánh cách quy hướng Chánh Giác, với mục đích diệt trừ những phiền Não sanh tử, loại bỏ tánh cống cao ngã mạn trong mỗi con người, khiến được Nhứt Tâm để thể nhập được Phật Tánh và để trở thành một vị hoàn toàn giải thoát như đức Phật. Trước hết muốn thông suốt ý nghĩa và giá trị của sự Lễ Bái, chúng ta cần phải hiểu qua thế nào là Lễ Bái.
A.- ĐỊNH NGHĨA:
a. Lễ: là những quy tắc nhứt định của cung cách qua sự đi, đứng, nói năng trong những Quan Hôn Tang Tế nhằm thể hiện sù Tôn Kính.
b. Bái: nghĩa là quỳ lạy bằng cách hạ mình xuống đất tưrớc những bậc Hiền Đức mà mình Tôn Kính.
c. Lễ Bái: tiếng Phạn là Vandana, Tàu dịch âm là Ban Đàm, còn gọi là Hòa Nam, hoặc gọi là Na Mô Tất Yết La, nghĩa là lễ nghi cung cách với hình thức cúi đầu quỳ lạy trước những bậc Tiền Nhân Thánh Đức mà mình đã đặt trọn niềm tin quy ngưỡng hướng về, như lạy chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, như lạy Cha Mẹ, Thầy Tổ v.v... Chúng ta quỳ lạy các vị đó nhằm biểu lộ đức tánh khiêm tốn và để tỏ lòng tri ân, báo ân mà bổn phận kẻ dưới hằng tạc dạ ghi tâm, ân tiên công đức. Ngoài ý nghĩa thông thường trên, theo Phật Giáo, sự Lễ Bái còn tiêu biểu nhiều ý nghĩa khác nữa, như tiêu biểu: “Chánh Quán Lễ, Phát Trí Thanh Tịnh Lễ, Thật Tướng Bình Đẳng Lễ và Biến Nhập Pháp Giới Lễ”. Ý nghĩa của những phương cách Lễ Bái này sẽ đề cập ở sau.
B.- NGHI CÁCH VÀ Ý NGHĨA LỄ BÁI:
Muốn hiểu ý Nghĩa Lễ Bái, chúng ta trước hết nên hiểu qua cách thức Lễ Bái theo mỗi Tôn Giáo cũng như mỗi Tông Phái quy định. Tổng quát chúng ta nên hiểu cách thức Lễ Bái của những Tôn Giáo và của những Tông Phái hên hệ rất gần đối với chúng ta. Giờ đây chúng ta nên hiểu cách thức Lễ Bái của Khổng Giáo và Phật Giáo chủ trương:
C.- QUAN NIỆM LÊ BÁI:
Mỗi Tôn Giáo Lễ Bái mỗi cách và mang mỗi ý nghĩa khác nhau, theo sự quy định của các Giáo Chủ làm cách nào tổ bày được tâm thành của Tín Đồ đối với những bậc Thánh Đức mà họ quy ngưỡng.
Theo Truyền Thống Việt Nam, dân tộc ta phần đông chịu ảnh hưởng sâu đậm Văn Hóa của Khổng Giáo và Phật Giáo, là hai Tôn Giáo có công rất lớn qua quá trình lịch sử xây dựng đất nước. Mỗi người dân đều chịu ảnh hởng không ít cách Lễ Bái của hai Tôn Giáo này. Thời xa Vua Chúa đã quy định rõ ràng, mỗi người dân, khi Lễ Bái Vua, Quan, Hiền Thần, Đình Miếu thì phải áp dụng theo cung cách của Khổng Giáo và khi Lễ Bái Phật Trời, Hiền Thánh, Tổ Tiên, Ông Bà v.v... thì phải áp dụng theo cung cách của Phật Giáo.
Về sau người dân bị thất truyền, không được ai chú dạy ý nghĩa và cách thức Lễ Bái cho đúng pháp. Thành thử họ chỉ biết Lễ Bái theo thói quen, hành động không đúng nghĩa và cũng không đúng chỗ. Chúng ta muốn rõ Nghi Lễ của Khổng Giáo thì nên đọc “Văn Công Thọ Mai Gia Lễ" và muốn biết Nghi Lễ của Phật Giáo thì nên am tường “Nhân Thừa Phật Học”. Cả hai rất quan hệ cho cuộc sống làm người. Sự Lễ Bái mà người Việt Nam thường áp dụng, như trên đã trình bày, đều theo Nghi Cách của Khổng Giáo và của Phật Giáo. Nghi Cách Lễ Bái khác biệt giữa Khổng Giáo và Phật Giáo được giải thích dưới đây:
1. THEO QUAN NIỆM KHỔNG GIÁO:
Cách lạy của Khổng Giáo, trước hết con người phải đứng thẳng là tiêu biểu cho cái UY của kẻ sĩ. Hai tay Cung Thủ, nghĩa là hai tay nắm lại nhau là tiêu biểu cho cái Dũng của Thánh Nhân. Trước khi lạy, hai tay Cung Thủ đa lên trán, kế đưa sang phía phải, rồi đưa sang phía trái là tiêu biểu cho Tam Tài (Trời, Đất và Người). Khi lạy, hai tay Cung Thủ chống lên đầu gối chân mặt và quỳ chân trái xuống trước là tiêu biểu cho sự Tôn Kính mà không mất tư thế cái Uy Dũng của kẻ sĩ Cúi đầu xuống đất là tiêu biểu cho sự Cung Kính những bậc mà mình đảnh lễ. Đó là Cung Cách và Ý Nghĩa tổng quát mà Khổng Giáo quan niệm.
2. THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO: Sự Lễ Bái của Phật Giáo so với sự Lễ Bái của Khổng Giáo có phần khác biệt về cung cách cũng như về ý nghĩa. Riêng về Phật Giáo, ý nghĩa và giá trị Lễ Bái được rất nhiều kinh luận đề cập đến. Theo Phật Giáo quan niệm, sự lễ bái cũng là một trong những phương pháp tu tập để diệt phiền não mà bổn phận người con Phật phải hành trì thường xuyên trong hằng ngày để được giải thoát tất cả nghiệp chướng khổ đau sanh tử và sớm chứng quả Bồ Đề Niết Bàn Tịch Tịnh. Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện quyển 4 ghi rằng: "Phật chỉ dạy các Đệ Tử phải Lễ Bái Tam Bảo và Lễ Bái các bậc Đại Tỳ Kheo”. Kinh Phạm Võng quyển hạ giải thích rằng: “Nếu có bậc Hoà Thượng, Thượng Tọa, A Xà Lê, hoặc người bạn đồng học, người đồng kiến giải người đồng hành đều phải nghinh tiếp Lễ Bái và vấn an". Luật Ngũ Phần quyển 7 ghi rằng: “Một vị Tỳ Kheo Ni một trăm tuổi, đã thọ giới Cụ Túc từ lâu cũng phải Lễ Bái một vị Tỳ Kheo Tăng mới thọ giới Cụ Túc”. Đại Đường Tây Vực Ký quyển 2 ghi rằng: “Ấn Độ có chín cách Lễ Bái được gọi là Tây Trúc Cửu Nghi”. Chín cách lễ bái nói trên được ghi nhận như sau;
1. Phát Ngôn Úy Vấn Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách mở lời vấn an.
2 . Phủ Thủ Thi Kính Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách cúi đầu tôn kính.
3. Cử Thủ Cao Ấp Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách dơ tay cao vái chào.
4. Hiệp Chưởng Bình Cung Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách chấp tay ngang bằng vái chào.
5. Khuất Tất Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách quỳ gối.
6. Trường Quy Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách quỳ nầm dài ra.
7. Thủ Tất Cứ Địa Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách hai tay và hai đầu gối quỳ sát đất.
8. Ngũ Luân Cu Khuất Lễ: nghĩa là Lễ bái bằng cách năm vóc đều cúi xuống.
9. Ngũ Thể Đầu Địa Lễ: nghĩa là Lễ Bái bầng cách năm vóc gieo xuống đất.
Ngoài ra người ấn Độ còn có nhiều cách Lễ Bái khác nhau. Theo phong tục mỗi nơi, người Tín Đồ Lễ Bái trước Tượng Phật hoặc trước Bảo Tháp có hơi khác về cung cách. Sự khác biệt về cung cách Lễ Bái được nêu cử như sau:
1. Tồn Cứ Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách đứng một chân quỳ lạy.
2. Khởi Cư Lễ: nghĩa là dùng nghi thức bước một bước Lễ một lạy.
3. Hữu Nhiễu Tam Thất Lễ: nghĩa là Lễ một lạy rồi đi nhiễu ba vòng về phía bên hữu của Phật hoặc của Bảo Tháp.
4. Tạ Lễ: nghĩa là Lễ Bái bằng cách ngồi xuống đất cúi đầu lạy, tức là lạy bằng cách ngồi v.v...
Phật Giáo Việt Nam hầu hết đều áp dụng phơng pháp “Ngũ Thể Đầu Địa Lễ” trong khi lễ bái. Đây là một phương pháp tiêu biểu ý chí Tôn Kính cao đẹp nhất trong các cung cách Lễ Bái. Khi Lễ Bái, người Phật Tử đầu tiên phải đứng ngay thẳng trước Tượng Phật cho nghiêm trang và khép hai chân sát vào nhau để lấy lại sự an tâm thanh tịnh, đồng thời kiềm thúc Tâm ý không cho chao động vọng tưởng. Ngay lúc đó, đôi mắt họ nhìn lên Tượng Phật và Tâm họ quán tưởng các tướng tốt, quán niệm những đức hạnh cao quý của đức Phật để tỏ bày nguyện vọng chân chánh của mình hầu mong Ngài chứng minh. Hai tay họ thay vì Cung Thủ (nắm lại nhau) mà ở đây phải HIỆP CHƯỞNG, nghĩa là hai tay chắp lại nhau cho khít là tiêu biểu Thức Tâm hiệp nhứt (Nhất Tâm) và để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn Tâm. Khi lạy Phật, có người để hai tay nơi ngực lạy xuống, nhưng có người đưa hai tay lên trán rồi mới lạy xuống, cách nào cũng có ý nghĩa của nó. Cách lạy để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn Tâm như đã giải thích ở trên. Còn cách lạy đa hai tay lên trán là tiêu biểu ý nghĩa tâm nguyện của mình dung thông đến chư Phật qua nhục đỉnh kế (qua Mỏ Ác, hay qua Đỉnh Đầu) và lạy theo nguyên tắc “Ngũ Thể Đầu Địa”, nghĩa là đầu, hai tay, hai đầu gối của người Lễ Bái phải đặt sát đất và họ lạy xuống với tư thế ngồi để khỏi thất lễ nơi người đứng sau. Tiếp theo họ chỏi tay phải lên mặt đất rồi quỳ hai đầu gối và ngửa hai bàn tay ra giống như đóa sen nở. Họ quán tưởng đức Phật hiện đang đứng trên đóa sen kết thành bởi hai bàn tay của họ và họ đặt trán mình vào lòng hai bàn tay như đặt đầu mình lên chân của Phật, đồng thời họ nằm mọp xuống đất để biểu hiện sự Tôn Kính với tâm thành quy ngưỡng nương tựa. Cách Lễ Bái này là tiêu biểu cho ý nghĩa “Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ” (nghĩa là đầu và mặt của mình để lên chân của Phật gọi là Quy Mạng Lễ).
Phật Giáo cho rằng, người Phật Tử ngoài sự Lễ Bái để tỏ lòng Tôn Kính các đức Phật, các vị Bồ Tát, các Hiền Thánh Tăng, còn phải tưởng niệm những ân đức cao dày của các Ngài và phát nguyện suốt đời hướng về các Ngài tiến tu đạo nghiệp để được trở thành đức Phật như quý Ngài. Người Phật Tử thật hành hạnh nguyện như trên được gọi là quy mạng lễ.
Nhân Thừa Phật Giáo có chia làm bảy cách lạy, trong đó có ba cách lạy của Thế Gian thường áp dụng và bốn cách lạy của Thánh Giáo thường hành trì về mặt sự (về mặt hình thức) cũng như về mặt lý (về mặt nội dung). Để cho Phật Tử nhận thức dễ dàng và chọn lựa tu tập cho đúng pháp, bảy cách lạy được phân tích như sau:
D. VỀ CÁCH LẠY CỦA THẾ GIAN:
Trong Thế Gian về mặt sự tướng, tức là về mặt hình thức, có ba cách lạy phổ thông mà người đời thường áp dụng. Trong ba cách lạy nói trên, có hai cách lạy mà người Phật Tử chân chánh cần phải để ý và tuyệt đối không nên áp dụng. Hai cách lạy đó là Ngã Mạn Lễ và Cầu Danh Lễ. Hai cách lạy này chính là những tật xấu không thể có nơi con người thánh thiện. Bảy cách lạy nói trên dựa theo tinh thần Kinh Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 20 được trình bày như sau:
1. Ngã Mạn Lễ: nghĩa là người lạy Phật hoặc lạy Ông, lạy Bà, lạy Tổ Tiên, vì hoàn cảnh bắt buộc phải hành lễ, nhưng thâm tâm của họ không muốn lạy, do dó họ lạy với cử chỉ ngạo nghễ, thái độ kiêu căng, không có chút nào lễ độ cung kính cả. Đầu họ lạy xuống không sát đất và họ đứng lên cúi xuống một cách cẩu thả cho qua việc. Họ vì sợ mất thể diện với bạn bè và sợ dơ bẩn quần áo quý giá của mình, nên buộc lòng phải lễ bái theo kiểu Ngã Mạn. Họ sợ bạn bè chê trách mình là kẻ bất hiếu, bất nghĩa, bất tín, bất trung, cũng như họ quý trọng quần áo và bạn bè hơn chư Phật, Ông Bà Tổ Tiên. Cách lạy đó gọi là Ngã Mạn Lễ.
2. Cầu Danh Lễ: nghĩa là người lạy vì mong cầu danh vọng, quyền tước qua sự chú ý và ngợi khen của cấp trên cũng như lấy lòng quần chúng ủng hộ. Khi có cấp trên cũng như khi có quần chúng, họ siêng năng lễ lạy để cho mọi người thấy rằng mình có đạo đức, thượng cấp nên nâng đỡ và quần chúng nên ủng hộ. Thật ra thâm tâm của họ không có chút gì tín thành cả và ngược lại, một khi không có ai, họ lại biếng nhác giải đãi trong việc lễ lạy. Như vậy họ lễ lạy vì mọi người chứ thật ra không phải lễ lạy cho chính họ. Cách lạy này gọi là Cầu Danh Lễ.
Hai cách lễ lạy vừa trình bày là hành động dối trá không thể có nơi người Đạo Đức chân chánh. Đức Phật sở dĩ nêu lên trong kinh điển nhằm mục đích chỉ dạy cho người con Phật sau này phải ngăn ngừa và người con Hiếu Hạnh phải tránh xa.
3. Thân Tâm Cung Kính Lễ: nghĩa là người lễ lạy phải thể hiện thân và tâm đều cung kính. Thân và Tâm người lễ lạy đều cung kính thì sự Lễ Bái mới có giá trị. Nói một cách khác, người lễ lạy phải chí thành cả Thân và Tâm, nghĩa là họ phải có đức tin trong sự lễ lạy thì sự cảm ứng rất dễ dàng với chư Phật, với các Thánh Hiền, với Ông Bà, Tổ Tiên. Ngược lại, Tâm người lễ lạy nếu như thiếu cung kính thì thân họ sẽ hiện ra phong cách thiếu lễ độ dễ nhìn thấy (Hữu ư trung xuất hình ư ngoại, nghĩa là Tâm ở trong như thế nào thì tướng hiện ra như thế đó). Người lễ lạy muốn cho Thân và Tâm đều cung kính thì phải theo cách lạy của Phật Giáo mà ở trên đã giải thích và phải lạy thường xuyên để cho cung cách được thuần thục. Người lễ lạy đã thuần thục thì mới có khả năng nhiếp phục Tâm loạn động của mình. Thân Tâm Cung Kính Lễ là cách lạy cơ bản của Phật Giáo về mặt sự tướng, tức là về mặt hình thức mà người xuất gia cũng như kẻ tại gia phải hành trì cho nghiêm túc. Nhờ đó họ sau này mới đủ khả năng bước vào lãnh vực Thánh Giáo Lễ của các bậc Thánh Chúng về mặt lý tánh không cảm thấy trở ngại.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 22, 2010 6:34:25 GMT 9
E. VỀ CÁCH LẠY CỦA THÁNH GIÁO:
Cách lạy của Thánh Giáo là cách lạy thuộc về lý lễ của các bậc Đại Thừa Bồ Tát thường tu tập. Những cách lạy này nhằm mục đích thể nhập Pháp Giới Tánh của chư Phật, tức là thế giới thuộc về Pháp Tánh của chư Phật an trụ và thấy thẳng được Phật Thân, tức là thấy được Pháp Thân thanh tịnh của ch Phật. Bốn cách lễ lạy của Thánh Giáo xin liệt kê như sau:
1. Chánh Quán Lễ: Chánh Quán nghĩa là quán chiếu Pháp Thân chân chánh của chư Phật hiện ra trước mặt, tức là Bồ Tát tu tập bằng cách vận dụng Thiền Quán chiếu soi Phật Thân ảnh hiện ra trước mặt để lễ lạy. Người thực hiện được cách hành lễ này phải là người đạt đến mức độ cao thâm trong phương pháp Thiền Quán. Phương pháp tu Thiền chia ra làm hai phần: CHỈ và QUÁN. Phần CHỈ tức là phần chận đứng các duyên bên ngoài lôi cuốn để được nhứt Tâm và nhờ đó dễ đi vào chánh niệm. Tâm một khi chuyên nhất và chánh niệm thì Trí Tuệ sẽ được phát sanh, thường gọi là Tâm Định.
Còn về phần QUÁN, người tu Thiền sau khi Huệ đã phát sanh liền sử dụng Huệ quán chiếu Phật Thân (tức là Pháp Thân thanh tịnh của chư Phật) và Phật Cảnh (tức là Pháp Giới của chư Phật an trụ) khiến cho tất cả đều hiện bày ra trước mặt để lễ lạy. Muốn áp dụng phương pháp CHỈ để khiến Trí Tuệ phát sanh, người tu Thiền phải thực hành ba phương pháp: Điều Thân, Điều Tức và Điều Tâm cho thuần thục. Điều Thân, Điều Tức và Điều Tâm đã thuần thục một cách tự tại thì ngay lúc đó Trí Tuệ liền phát sanh. Một khi Trí Tuệ đã được phát sanh, ngời tu tập Thiền Quán mới có thể bước sang giai đoạn hai là sử dụng Trí Tuệ để quán chiếu Phật Thân và Phật Cảnh. Đây là liệt kê tổng quát về phương pháp Thiền Quán.
2. Phát Trí Thanh Tịnh Lễ: nghĩa là người thật hành Thiền Định phải tu tập Thiền Quán cho đến khi nào Trí Tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm mà không phải Trí Tuệ phát sanh từ nơi Thức Tâm. Trí Tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm tức là Phật Trí trong bản Tâm thanh tịnh của mình đảnh lễ Pháp Thân chư Phật trong mười pháp Giới. Trí Tuệ phát sanh từ nơi Tâm Thức thuộc về Phàm Trí. Còn Trí Tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm thuộc về Thánh Trí. Phàm Trí còn bị lệ thuộc cũng như bị giới hạn bởi Căn và Trần. Trái lại Thánh Trí đã thoát ra ngoài vòng cương tỏa cả hai. Người tu tập Thiền Quán phải thấu triệt rằng: Pháp Thân chư Phật trong mười Pháp Giới đều phát sanh từ nơi Bản Tâm thanh tịnh (tức là Pháp Thân thanh tịnh của chư Phật hiện bày từ nơi Chân Tâm) và Trí Tuệ thanh tịnh của mình cũng phát sanh từ nơi Bản Tâm Thanh tịnh chung của mười Pháp Giới. Lý do đó, người lễ bái lạy một đức Phật tức là lạy tất cả chư Phật trong mời phương không ngăn ngại.
3. Thật Tướng Bình Đẳng Lễ: nghĩa là cách lễ lạy này, người tu Thiền phải dùng Trí Tuệ quán chiếu thật tướng của vạn pháp đều thể hiện một cách bình đẳng không sai biệt, không có nhân ngã bỉ thử, tức là người lễ bái không thấy có mình lạy và người để cho mình lạy. Nói một cách khác, người thật hành Thật Tướng Bình Đẳng Lễ là dùng Trí Tuệ quán chiếu thật tướng vạn pháp để nhận thấy rằng: mình và người, thể và dụng, phàm và thánh thảy đều vắng lặng không hai (đều là nhứt như). Ngài Văn Thù Bồ Tát nói: “Năng lễ Sở lễ tánh không tịch”, nghĩa là thể tánh của mình đang lạy và thể tánh của người để cho mình lạy thảy đều vắng lặng và bình đẳng.
4. Biến Nhập pháp Giới Lễ: nghĩa là người tu Thiền phải tận dụng Trí Tuệ Bát Nhã thanh tịnh của mình quán chiếu Thân và Tâm nơi chính minh biến nhập vào Pháp Giới Tánh của vạn pháp một cách dung thông, giống như Bác Sĩ sử dụng năng lượng Quang Tuyến X (X-ray) rất lớn chiếu soi vào thân thể con người và năng lượng Quang Tuyến X thấu suốt xuyên qua thân thể con người không chút ngăn ngại. Đó mới chính là lễ lạy thật sự theo phương pháp Biến Nhập pháp Giới Lễ. Pháp Giới Tánh tức là Thể Tánh của vạn pháp biến giáp khắp thế giới và thường trụ bất diệt. Pháp Giới Tánh là nơi mà chư Phật thường an trụ để hiện thân hóa độ chúng sanh. Người thực hiện được pháp quán chiếu này một cách tự tại thì người đó mới thật sự hành lễ đúng pháp chân thật.
Qua những phương cách Lễ Bái đã được trình bày ở trên, Thân Tâm Cung Kính Lễ chính là pháp môn quan trọng là điều kiện tất yếu của người hiếu nghĩa tín tâm để tỏ bày lòng tri ân và báo ân. Cách lễ lạy này cũng là phương tiện cần thiết dùng làm gạch nối giữa chư Phật và tâm linh con người qua sự nguyện cầu gia hộ. Phương pháp lễ lạy này lại còn là nền tảng căn bản cho Phật Tử trên con đường tiến tu đạo nghiệp để được chứng ngộ qua bốn cách lễ bái của Thánh Giáo. Vậy ngời Phật Tử phải nên cố gắng hành trì cho đúng pháp.
G. LỢI ÍCH CỦA SỰ LỄ BÁI:
Như trước đã trình bày, Lễ Bái ngoài ý nghĩa tỏ lòng Tôn Kính và tưởng niệm ân đức sâu dày của các bậc Tiền Nhân Thánh-Đức của Tổ Tiên dòng họ, còn là phương pháp tu tập nhằm diệt phiền não, loại bỏ tánh cống cao ngã mạn của mỗi con người nhằm mục đích quy hướng Chánh Giác để được giải thoát và giác ngộ như đức Phật. Đặc tánh Cống Cao Ngã Mạn đã sẵn có nơi mỗi con ngời. Nó châm rễ ăn sâu trong Tâm Thức con người từ vô lượng kiếp về trước. Nó gây nên nguyên nhân đau khổ sanh tử lưu chuyển trong ba cõi. Con dao bén Cống Cao Ngã Mạn chặt đứt tình thương, phá hoại tình đoàn kết và gây nên nhiều hận thù chia rẽ.
Quyển “Phật và Thánh Chúng” của Cao Hữu Đính, trang 110, Mục 18 về bi vận của thành Ca Tỳ La, do Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản ghi lại câu chuyện tại họa do tánh Cống Cao Ngã Mạn gây nên trong lịch sử ấn Độ như sau:
Nguyên từ trước khi vua Ba Tư Nặc chưa quy y Phật, nhà vua đã cho sứ giả qua Ca Tỳ La cầu hôn với giòng họ Thích Ca. Các Thân Vương của giòng họ nầy tự cao tự đại cho rằng giòng họ mình là cao quý nhất đời không nên hạ mình kết hôn với vua nước Kiều Tát La. Tuy nói huynh hoang như thế, nhng họ lại sợ uy thế của vua Ba Tư Nặc, vì Kiều Tát La bấy giờ là một cường quốc như Ma Kiệt Đà trong vùng châu thổ sông Hằng. Do đó, giòng họ Thích Ca mới dùng một Nữ Tỳ nô lệ hầu hạ trong cung tên là Mạt Lỵ (Malika), tráo thành Vương Nữ đem gả cho Ba Tư Nặc. Mạt Lỵ tuy là gái nô lệ, nhưng tư chất rất thông minh mà dáng mạo lại cực kỳ xinh đẹp, nên được vua Ba Tư Nặc sủng ái, phong làm Đệ Nhất Phu Nhân.
Mạt Lỵ phu nhân sanh con đầu lòng là Tỳ Lưu Ly (Virùdhaka) về sau mệnh danh là ác Sanh Vương. Năm Tỳ Lưu Ly lên tám, vua cha cho sang quê ngoại để luyện tập bắn cung, vì Ca Tỳ La vốn nổi tiếng về môn xạ thuật.
Bấy giờ, trong thành Ca Tỳ La mới kiến thiết xong một đại giảng đường nguy nga dành để đón tiếp Phật mỗi khi Phật về thuyết pháp. Giòng họ Thích Ca cho đây là một chốn thiêng liêng, cấm không cho kẻ ty tiện bước vào. Không dè Tỳ Lưu Ly nhân thả bộ rong chơi trong cung, lạc vào chơi cấm địa ấy, bị các Thân Vương bắt gặp, xỉ mạ không tiếc lời, bảo rằng con của gái nô lệ Mạt Lỵ đã làm ô uế Thánh Địa. Họ đuổi Tỳ Lưu Ly ra và lập tức truyền lệnh cho gia nhân cấp tốc đến bới đất cũ trong giảng đường lên rồi chở đất mới về thay thế.
Tỳ Lưu Ly nộ khí xung thiên, bèn phát lời thề độc rằng: “Khi nào lên ngôi vua, ta thề quyết tiêu diệt sạch giòng họ Thích Ca mới hả giận”.
Về sau, khi trở về Xá Vệ, Tỳ Lưu Ly ngày đêm mưu tính việc rửa hận. Một hôm, nhân vua Ba Tư Nặc cùng Mạt Lỵ xuất thành tuần thú, Tỳ ưLu Ly cùng nghịch thần Ca Lê Da Na tập hợp quân đội lại, chặt đầu thị vệ của vua cha, đoạt lấy vương miện và bảo kiếm. Nghe tin, Ba Tư Nặc hết sức kinh hoàng. Mạt Lỵ khuyên nhà vua nên tạm lánh nạn qua lưu vong bên Ca Tỳ La, chờ dịp khôi phục. Nhưng không bao lâu sau, ông chết tại bên ấy thọ 80 tuổi.
Tỳ Lưu Ly nghe tin vua cha băng hà, hạ lệnh cô lập thái tử Kỳ Đà, rồi tự tuyên bố thừa kế vương vị. Bi vận Ca Tỳ La bắt đầu.
Một hôm, nhân đại triều, Tỳ Lưu Ly truyền hỏi bá quan rằng:
Nếu có kẻ sỉ nhục Đấng Quốc Vương tôn quý của mình, khinh thị Đấng Quốc Vương ấy là con giòng hạ tiện, tội ấy các khanh nghĩ nên xử trị như thế nào?
Muôn miệng đáp trọng tội ấy đáng tru di.
Giòng họ Thích Ca tự cao tự đại, Tỳ Lưu Ly nói tiếp. Họ cho rằng ta là con của một gái nô lệ, vậy nay phải hung binh tru diệt họ.
Ba lần xuất quân, ba lần Tỳ Lưu Ly gặp Phật cản đường tìm cách ngăn trở. Nhưng đến lần thứ tư, biết rằng không ngăn đón được nữa vì nghiệp nhân quá khứ của giòng họ Thích Ca quá nặng. Phật xót xa báo trước cho A Nan hay ráng trong 7 ngày nữa thì giòng họ Thích Ca sẽ tuyệt diệt. Tự mình tạo nghiệp dữ, không cách gì cứu gỡ nỗi...
Tỳ Lưu Ly tiếp tục công hãm thành rất gấp và cuối cùng hạ được. Sau khi vào thành, y hạ lệnh bắt lính giữ thành gồm 500 người đem giết hết. Còn nhân dân trong thành ước chừng 3 vạn người kể cả già trẻ lớn bé, y bắt chôn chân xuống đất để cho voi dữ chạy qua mà chà nát. Ma Ha Na Ma nghe tin này lấy làm kinh hoàng đau xót, bèn xin với Tỳ Lưu Ly cho ông và nhân dân được chết toàn thây. Tỳ Lưu Ly mới cho đổi lệnh giết bằng voi chà ra lệnh giết bằng trầm nịch. Thế là cả thành bị lùa xuống sông cho chết đuối. Tỳ Lưu Ly lại hạ lệnh vớt xác Ma Ha Na Ma lên, bắt chặt đầu treo lên gốc cây.
Sau khi tiêu diệt giòng họ Thích Ca và sát nhập Ca Tỳ La vào lãnh thổ Kiều Tát La, Tỳ Lưu Ly cho thi hành một chính sách vô cùng bạo ngược và giết luôn anh là Thái Tử Kỳ Đà. Vì vậy đời mới gọi ông là Ác Sanh Vương. Không lâu sau, cung thành Xá Vệ bị một trận hỏa hoạn khủng khiếp, Tỳ Lưu Ly và tất cả vợ con dâu bị chết cháy trong trận hỏa hoạn nầy.
Nước Kiều Tát La dần dần suy yếu, khiến A Xà Thế sau khi quy y Phật cất quân sang đánh, chiếm được Kiều Tát La, rồi sát nhập Kiều Tát La và Ca Tỳ La vào bản đồ nước Ma Kiệt Đà.
Lịch sử ấn Độ ghi lại câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng tai họa khủng khiếp do nghiệp Cống Cao Ngã Mạn gây nên. Nghiệp Cống Cao Ngã Mạn có thể diệt vong cả một quốc gia, cả một chủng tộc. Một chủng tộc cao quý nhất là chủng tộc Sakya, chủng tộc sanh ra một vị Giáo Chủ tôn vinh nhất đương thời chính là Đức Phật Thích-ca cũng không thoát khỏi thảm họa diệt vong đó. Cống Cao Ngã Mạn là danh từ khác của tự cao tự đại, nghĩa là đặc tánh của một loại Nghiệp thích tự cho mình trên hết, cho giòng họ mình, chủng tộc mình là cao cả và lại khinh khi kẻ khác, ghép họ vào hạng thấp hèn. Nhà Duy Thức phân chia tánh Cống Cao Ngã Mạn thành hai trạng thái Tâm Lý khác nhau. Tánh Cống Cao với một danh từ là Kiêu. Tánh Ngã Mạn với một danh từ là Mạn. Theo nhà Duy Thức, tánh Cống Cao là loại tâm lý tự cao có thể hóa giải dễ dàng một khi con người giác ngộ được sự tai họa của nó. Cho nên nhà Duy Thức ghép nó thuộc về Tâm Sở Kiêu. Tâm Sở Kiêu là một trong mười Tiểu Tùy Phiền Não. Còn tánh Ngã Mạn là loại tâm lý tự đại khó có thể hóa giải, mặc dù con người đã giác ngộ được sự tai họa của nó. Cho nên nhà Duy Thức ghép nó thuộc về Tâm Sở Mạn. Tâm Sở Mạn là một trong sáu Căn Bản Phiền Não. Đặc tánh của Tâm Sở Kiêu và Tâm Sở Mạn được quyển Khảo Nghiệm Duy Thức Học cùng một Tác giả do Ban Văn Hóa Xã Hội chùa Phật Tổ Ấn Hành, trang 88-99 trình bày như sau:
1. Tâm Sở Kiêu: là kiêu căng ngạo mạn. Trạng thái Tâm Lý này thường xuất hiện mỗi khi thấy mình giàu sang, thấy mình có quyền tước, có tài năng, có sắc đẹp v.v... vợt trội hơn người khác. Những kẻ có bệnh Kiêu thích hành động kiêu cách, ngạo nghễ và nhìn mọi ngời dưới cặp mắt thấp hèn. Tất cả có sáu loại Kiêu được phân định như sau:
a. Không bệnh tật kiêu.
b. Trẻ tuổi hơn ngời kiêu.
c. Sắc đẹp kiêu.
d. Quý phái kiêu.
e. Giàu sang kiêu.
f. Học nhiều, biết nhiều kiêu.
Đặc tánh của Tâm Sở Kiêu thường thúc đẩy con người khinh khi kẻ khác, tự đề cao mình lên và cho mình là nhân vật quan trọng hơn cả. Đối xử với quần chúng, người kiêu cách hành động thiếu sự nhún nhường và thiếu sự khiêm cung lễ độ. Tâm Sở này chính là nguyên nhân sanh ra các tội lỗi. Tâm Sở này cũng làm chướng ngại và ngăn cản không cho tâm lý Không Kiêu Căng phát sanh.
Thí dụ: Ông A và ông B trước kia là bạn chí thân ở cùng quê. Lúc còn nhỏ, ông A nghèo hơn ông B và đến tá túc nhà của ông B tại Linh thành để đi học. Gia đình ông B đối xử với ông A rất đẹp. Đến khi tốt nghiệp, ông A khéo nịnh hót nên được cấp trên cân nhắc lên Sài Gòn làm quan to có nhà lầu, có xe hơi, có cổng kín tường cao. Một hôm ông B nhơn dịp lên Sài Gòn chơi, nghĩ đến tình xa bạn cũ, nên ghé thăm ông A. Ông A đã không tiếp và lại còn bảo người ở ra trả lời rằng, “Quan lớn không có quen biết với kẻ ăn xin, đừng thấy sang bắt quàng làm họ. Ông nên về đi”. Đây là giọng nói của kẻ kiêu cách, của kẻ thiếu lịch sự khiêm cung.
2. Tâm Sở Mạn: là khinh mạn, ngạo mạn. Trạng thái tâm lý này thích biểu lộ tánh khinh khi và tỏ bày cử chỉ hống hách với mọi người chung quanh. Con ngời khinh mạn thường đề cao cá nhân mình trên hết và cho mọi ngời chung quanh đều là hạng thấp hèn. Họ ỷ có tài đôi chút hoặc cậy thế lực hơn người nên xem ai không ra chi. Những thái độ của người khinh mạn thường thể hiện trong những trường hợp như:. có khi hành động bộc lộ ra ngoài và cũng có lúc dấu kín cử chỉ ngấm ngầm bên trong thân tâm. Về phía cử chỉ dấu kín ngấm ngầm bên trong thân tâm của người khinh mạn, chúng ta chỉ để ý đến thì mới nhận biết được sự ngạo mạn của họ qua cách đối xử. Tâm Sở này được phân làm sáu loại như sau:
a. Mạn: nghĩa là người có đôi chút tài năng hoặc có quyền thế nào đó liền tự hào, hãnh diện, lên mặt hiu hiu tự đắc với mọi người chung quanh, chỉ thấy mình trên hết, xem mình quan trọng hơn cả và coi ai không ra chi. Người khinh mạn thờng biểu lộ cử chỉ cao ngạo hống hách và bắt buộc mọi người chung quanh phải quan tâm đến mình. Còn đối với những kẻ tài năng và quyền thế ngang hàng mình, người khinh mạn hay ỷ lại, tự phụ và xem mình có vai vế tương đương với họ, cho nên trước công chúng, người kinh mạn giao tiếp với họ thiếu phong cách và thiếu lễ dộ.
Thí dụ 1: Ông thầy T.Q. có đôi chút tài năng được tiếng là người du học ngoại quốc lại là người đương kim một chức vụ nào đó trong Giáo Hội, rồi lên mặt cao ngạo nhìn mọi người không ra chi. Nhưng thật ra, có tiếng mà không có miếng, nghĩa là ông không có khả năng tương xứng với địa vị đương kim mặc dù họ là người du học.
Thí dụ 2: Ông T và ông H là hai người bạn thân với nhau và tài năn của hai người đều tương đơng nhau. Ông T thì may mắn hơn được phong chức là Giám Đốc của một Xí Nghiệp P.B. Một hôm, ông H vì muốn thăm ông T, nên từ Cần Thơ cồn cả lên thành phố Sài Gòn. Ông T đã không tiếp và lại còn sai nhân viên ra tiếp. Trong khi tiếp chuyện, người nhân viên tỏ thái độ bất cần trước mặt ông H. Ông H bất mãn ra về.
b. Quá mạn: nghĩa là đối với những người có tài năng và địa vị ngang hàng mình, người Quá Mạn thường lên mặt kiêu cách, tự cho mình hơn họ. Còn đối với những người có tài năng và dịa vị hơn mình, người Quá Mạn lại lên mặt khoe khoang tự cho rằng mình bằng họ.
Thí dụ 1: Cùng một địa vị ngang nhau, trớc mặt công chúng, anh X có bệnh Quá Mạn thích ra mặt thầy đời, tỏ ra mình là người lãnh đạo, tự cho mình là kẻ chỉ huy, đi cắt đặt người này, sai bảo người kia và bắt mọi ngời phải theo sự điều khiển của mình mà thật ra anh X không có nhiệm vụ chi cả.
Thí dụ 2: Thấy người khác có địa vị cao sang hơn mình, người có bệnh Quá Mạn thích khoe khoang, ưa khoác lác với mọi người rằng; Tài năng ông đó dâu có hơn tôi ông ấy nhờ gặp thời nên mới được địa vị như thế. Tôi nếu như ra lãnh đạo thì đâu có thua ông ấy.
c. Mạn Quá Mạn: nghĩa là tranh lấy phần hơn. Theo nguyên tắc, người ta thật sự đã hơn mình về khả năng cũng như đức độ Thế mà mình lại ra mặt tranh lấy phần hơn với họ và quả quyết rằng mình nhất định không thua họ. Ai khuyên can mình cũng không chịu nghe.
Thí du: Anh A và anh B tranh tài với nhau. Kết cuộc Ban Giám Khảo chấm anh A thua anh B. Nhưng anh A không chịu thua. Anh viện đủ lý do phản đối cho rằng, Ban Giám Khảo bất công, thiên vị. Anh cương quyết đấu tranh đòi hỏi anh B phải thi lại. Lúc đó mọi người đều khuyên can, nhưng anh cũng không nghe.
d. Ngã Mạn: nghĩa là ỷ mình có đôi chút tài năng và quyền thế, người bệnh Ngã Mạn thường đề cao cá nhân, tự cho mình là kẻ đáng quý hơn hết và mỗi khi giao tiếp với bất cứ ai, họ thường ra mặt khinh khi và hành động lấn áp những người chung quanh.
Thí dụ: Anh K là một nhà chánh trị có tài năng và địa vị trong xã hội, đương kim là một Nghị Sĩ trong Quốc Hội. Anh K thường hách dịch cao ngạo, tự tôn vinh mình và tự cho mình là nhân vật quan trọng trong xã hội. Anh ta nhìn mọi người dưới cặp mắt thấp hèn và cho họ không xứng đáng để anh ta làm quen. Người nào nếu như có tài năng bằng anh ta hoặc vượt bực hơn anh ta thì người đó nhứt định bị anh ta tìm mọi cách chèn ếp, lấn áp và đè đầu họ xuống không cho ngước lên.
e. Tăng thượng Mạn: nghĩa là những kẻ chưa chứng ngộ đến chỗ chân lý tuyệt đối chưa đạt được chánh đạo mà lại đi quảng cáo, đi khoe khoang, lâm ra vẻ mình đã chứng đắc để mờ mắt mọi người.
Thí dụ: Một vị tu pháp môn nào đó có chuyên nghiệp dôi chút, rồi lập dị, làm tướng, khoe khoang, dùng mọi kỷ thuật quảng cáo cho mọi người biết mình đã chứng đắc, nhằm để mê hoặc chúng sanh. Đồng thời họ chê bai các pháp khác của Phật đều sai lầm, chỉ có pháp của họ mới đúng chân lý v.v...
g. Ty Liệt Mạn: nghĩa là biết mình kém tài kém đức hơn người ta, nhưng vẫn khoe khoang với mọi ngời rằng, mình có nhiều tài nhiều đức hơn họ và chuyên đi khích bác người này, chê bai người nọ, cho tất cả không ai bằng mình.
Thí dụ: Anh G thì học lem nhem không có bằng cấp chi cả. Nhưng anh ta vẫn khoe khoang và khoác lác với mọi ngời rằng, anh có chứng chỉ này, có bằng cấp nọ, rồi anh mượn áo Cử Nhân, mượn áo Tiến Sĩ chụp hình để lòe đời. Nhưng khi vào thực tế anh chẳng làm được trò chi, bởi lẽ anh không có khả năng và trình độ chút nào cả.
Đặc tánh của Tâm Sở Mạn là nguyên nhân để sanh ra các tội lỗi và ngăn chận không cho Tâm lý Khinh An phát sanh.
Bao nhiêu bệnh Kiêu Mạn vừa trình bày đã nói lên được sự nguy hiểm của chúng trong việc điều khiển con người sinh hoạt ở mọi lãnh vực. Chúng tạo nên những nguyên nhân Chấp Ngã và Chấp Pháp kiên cố. Người tu hành muốn diệt sự chấp ngã và chấp pháp, trước tiên phải diệt những con bệnh Kiêu Mạn. Nhưng muốn diệt con bệnh Kiêu Mạn, chúng ta hằng ngày phải áp dụng phương pháp Lễ Bái một cách thuần thục. Lễ Bái là một trong những phương pháp hữu hiệu nhất cho việc hóa giải con bệnh Kiêu Mạn. Con người can đảm cúi đầu hạ mình trước kẻ khác chính là người khiêm cung nhất. Con người đó đã diệt được tánh kiêu mạn và họ không còn chấp ngã chấp pháp nữa. Theo quan niệm của Phật Giáo, mình cúi đầu đảnh lễ trước kẻ khác không phải hành động mất phẩm cách con người. Cử chỉ đó biểu lộ sự tương kính và tăng thêm sự cảm thông đối với mọi người chung quanh. Con người sợ mình không có tài năng, sợ mình không có căn bản đạo đức làm người và đừng sợ rằmg, mình cúi đầu lễ bái kẻ khác sẽ mất thể diện. Đức.Phật cho chúng ta biết: “Tất cả chúng sanh đều cồ Phật Tánh”, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Tâm Phật. Tất cả chúng sanh đã có Tâm Phật thì tất nhiên họ cũng có Thân Phật. Tâm Phật trong Tâm chúng sanh thì Thân Phật cũng ở trong Thân phàm phu của chúng sanh. Cho nên một vị Sa Môn đảnh lễ một vị Tỳ Kheo không phải đảnh lễ tấm thân ô trược (tấm thân xác thịt nhơ nhớp tanh hôi) của họ mà ở đây, vị Sa Môn phải quán tưởng rằng, đang định lễ Thân Phật thanh tịnh trong con người của vị Tỳ Kheo đó. Giá trị của sự Lễ Bái qua Tiểu Sử về vua A Dục (Asoka) được ghi lại trong giai thoại như sau: Theo sử liệu, vua A Dục (Asoka) là con của vua Tân Đầu Sa La (Bindusàra) thuộc Vương Triều Khổng Tước (Vương Triều Maurya). Vua lên ngôi khoảng sau đức Phật nhập diệt 218 năm. Vua phát tâm theo Phật Giáo khoảng sau đức Phật nhập diệt 234 năm. Vua có công lớn nhất trong việc Kiết Tập Kinh Điển Phật Giáo lần thứ III. Giai Thoại rằng, sau khi Quy Y theo Phật Giáo, vua gặp vị Sa Môn nào và bất cứ ở đâu đều cúi đầu đảnh lễ sát đất. Vị Cận Thần thấy vậy khuyên vua rằng:
- Bệ Hạ là một vị cao quý được vạn dân tôn vinh và đầu của Bệ Hạ là biểu tượng cho các bậc Thánh Đức. Bệ Hạ đừng đảnh lễ mấy Đạo Sĩ ăn xin hạ tiện làm mất thể diện của Đức Vua.
Vua A Dục không trả lời và ra lệnh vị Cận Thần đó đi bán đầu người, đồng thời sai vị Đại Thần khác đi bán đầu heo. Chiều đến vua triệu hai vị vào cung báo cáo kết quả. Trước hết vua hỏi vị Đại Thần bán đầu heo: Khanh bán đầu heo như thế nào? Vị Đại Thần bán đầu heo thưa:
- Tâu Bệ Hạ, đầu heo không đủ bán cho dân. Họ yêu cầu cung cấp thêm.
Tiếp theo vua hỏi vị Cận Thần bán đầu người.
- Còn Khanh, Khanh bán đầu ngời nh thế nào?
Vị Cận Thần bán đầu người lo sợ tái mặt, cúi đầu cúm núm thưa:
- Muôn tâu Bệ Hạ, Hạ Thần bán đầu người không được. Ai cũng đều chê không chịu mua.
Vua liền nói:
- Như vậy đầu của Trẫm đây cũng không có giá trị bằng đầu heo?
Các quần Thần đều im lặng, ngẩn người.
Vua nói tiếp:
- Các vị Sa Môn là những bậc tu hạnh ly trần thoát tục, đáng cao quý. Trẫm đây cúi đầu đảnh lễ các bậc đã thật hành những điều mà người đời không thể làm được để tỏ lòng tôn kính họ. Tại sao các Khanh cản trở Trẫm. Từ đây về sau ai cản trở không cho Trẫm đảnh lễ các vị Sa Môn sẽ bị chém đầu.
Câu tryện lịch sử ở trên nói lên ý nghĩa và giá trị của sự lễ bái trong Phật Giáo mà vua A Dục đã bày tỏ trước quần thần. Người đời thường chìm đắm trong bể ái dục khổ đau một cách đam mê không chút gì giác ngộ. Những tiền của, danh vọng, sắc dục, ăn uống, ngủ nghỉ v.v... trói buộc họ quá nặng trong vòng lẫn quẩn và thúc đẩy họ tạo thêm nhiều tội ác của nghiệp sanh tử luân hồi trong ba cõi. Họ biết đó là những điều đau khổ trước mắt, nhưng họ vẫn sa ngã và hành động không chút từ nan.
Thế mà, bậc Sa Môn là những người đã cắt ái ly gia, thoát khỏi những sự ràng buộc của thế tình, dứt bỏ ngoài thân năm điều ái dục, an nhiên tự tại trên con đường giải thoát và giác ngộ. Họ đã thoát khỏi những điều mà thế nhân không thoát khỏi và họ đã thật hành những hạnh thanh tịnh mà thế nhân không thể làm. Họ là những bậc đáng cao quý cho chúng ta lễ bái. Thế nên vua A Dục sẵn sàng đảnh lễ họ bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu mỗi khi được diện kiến.
Lợi ích của sự Lễ Bái như đã trình bày ở trước, ngoài công dụng tiêu diệt dần đần những phiền não trong mỗi con người, còn tăng trưởng Đạo Lực trong nội Tâm của người tu tập. Mình lạy người khác tức là mình lạy mình. Mình tôn vinh người khác tức là mình tôn vinh mình. Trường hợp này cũng như chúng ta học Anh Văn. Chúng ta càng đọc lớn lên chừng nào thì chúng ta càng mau thuộc chừng đó. Chúng ta càng học nhiều chừng nào thì chúng ta càng thuộc lòng nhiều và nhớ lâu chừng đó. Chúng ta càng niệm Phật nhiều chừng nào thì Phật Tâm của chúng ta càng phát triển chừng đó. Chúng ta càng lạy Phật tụng Kinh thâm hậu chừng nào thì công đức Đạo Lực trong nội Tâm của chúng ta càng nẩy nở và tăng trưởng chừng đó. Chúng ta phát ra Đạo Tâm bao nhiêu thì lúc đó chúng ta thâu vô Đạo Lực bấy nhiêu không bao giờ mất. Những công đức càng bồi dưỡng bao nhiêu thì càng phát triển bấy nhiêu không chút sai trái.
Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 24 có ghi lại những điều lợi ích của sự Lễ Bái. Kinh nói rằng: Cung kính lễ bái đức Như Lai sẽ hưởng được năm phần công đức như sau:
1. Đoan Chánh: nghĩa là ngời lễ bái thấy tướng hảo của Phật liền khởi niệm hoan hỷ và phát tâm ớc mơ mong cầu. Nhờ nhân duyên đó họ qua kiếp sau có thể hưởng được tướng mạo đoan trang tốt đẹp.
2. Hảo Thinh: nghĩa là người lễ bái xưng tụng danh hiệu đức Như Lai ba lần. Nhờ nhân duyên đó họ đời sau có thể được tiếng nói lảnh lót trong trẻo tốt đẹp.
3. Đa Tài Bảo: nghĩa là người lễ bái thường dâng hoa, đốt đèn v.v... để bố thí cúng dường các đức Như Lai. Nhờ nhân duyên đó họ đời sau hưởng được nhiều tiền của vật báu.
4. Sanh Trưởng Giả Gia: nghĩa là người lễ bái đem tâm không chấp trước, chấp tay quỳ gối, chí thành lễ Phật. Nhờ nhân duyên đó họ đời sau được sanh vào nhà giàu sang quí tộc.
5. Sanh Thiện Xứ Thiên Thượng nghĩa là nhờ công đức cung kính lễ bái các đức Như Lai, hành giả (người lễ bái) đời sau sẽ được sanh vào các cõi lành hoặc các cõi trời.
Tóm lại, Lễ Bái không phải hành động thấp hèn làm mất phẩm cách con người. Trái lại Lễ Bái chính là một đạo nghĩa của con người tiến bộ và còn là một đạo lý của Tín Đồ chân chánh. Đối với Tổ Tiên, người Hiếu Hạnh cần phải lễ bái để tỏ lòng cung kính đối với Thánh Hiền, Tín Đồ chân chánh cần phải lễ bái để thể hiện đức tính khiêm cung trong sự tu tập đạo lý giác ngộ. Lễ Bái nhầm giao cảm với bề trên, kết sợi giây tương thân trong xã hội và tạo nên chất liệu để xóa bỏ mọi dị biệt ngăn cách chia rẽ trong đoàn thể. Người con Hiếu Hạnh không thể thiếu cung cách Lễ Bái. Người Tín Đồ trung kiên và đạo đức gương mẫu không thể thiếu nghĩa vụ với nghi cách Lễ Bái này.
IV.- KẾT LUẬN:
Vấn đề thờ, cúng và lễ bái là những biểu tượng tín ngưỡng có giá trị chẳng những về phương diện hình thức và còn hữu ích không nhỏ về phương diện tâm linh. Thờ, cúng và lễ bái là nhu cầu cần thiết cho con người không thể thiếu trong việc tu tập đào luyện đạo đức làm người. Vấn đề trên chẳng những cần thiết cho cá nhân mình, cho gia đình mình trong đời này, mà hơn nữa, đây cũng là một nhu cầu hữu ích cho thế hệ con cháu mai sau. Chẳng những thế vấn đề THỜ, CÚNG và LỄ BÁI còn là một yếu tố cần thiết trong việc tạo dựng nhân lành cho cuộc đời mình ở kiếp sau. Điều này rất quan trọng kể cả hình thức lẫn nội dung, kể cả sự tướng cho đến lý tánh, để chúng ta và tất cả chúng sanh sớm giải thoát phiền não khổ đau và được an vui tự tại trong sự giác ngộ.
Thờ ở đây nhằm thể hiện sự tưởng niệm, tỏ bày lòng Tôn Kính dâng lên các bậc Tổ Tiên và các vị Thánh Đức mà mình đã gởi trọn niềm tin. Người Thờ Cúng và Lễ Bái là tự tạo điều kiện giao cảm, thiết lập điểm tựa cho Tâm Linh giữa họ với Bề Trên mỗi khi cảm thấy tâm hồn lạc lỏng mà chính họ cần đến quyền năng hỗ trợ của Tiền Nhân. Thờ ở đây còn là một hình thức giáo dục gia đình, nhắc nhở con cháu ý niệm được bổn phận làm người đối với bề trên trong sự nghiệp kế thừa Truyền Thống. Hình Thức Thờ Tự cũng tạo phương tiện cho con cháu noi gương đức hạnh của Tiền Nhân để soi sáng cõi lòng tu tâm dưỡng tánh.
Cúng ở đây nhằm tri ân sâu dầy của Tổ Tiên, của Thánh Hiền đáng kính với sự dâng hiến lễ vật quý trọng và mong cầu ơn trên chứng minh gia hộ. Ngoài ra Cúng kỵ còn tăng trưởng phước Ông Bà cho dòng họ Cháu Con và tăng trưởng Đạo Lực giải thoát cho Tín Đồ qua hệ thống Tâm Linh làm gạch nối giữa người nguyện cầu với các bậc Tiền Nhân Thánh Đức. Có thể nói Cúng Kỵ rất cần thiết cho việc giáo dục gia đình ý niệm Truyền Thống Tổ Tiên, lý tưởng Giống Nòi và làm tròn nghĩa vụ Đạo Đức con người. Muốn bồi dưỡng Tâm Linh lành mạnh, người Đạo Đức và Hiếu Nghĩa không thể không Thờ, Cúng và Lễ Bái Tổ Tiên, Chư Phật và Thánh Hiền.
Lễ Bái ở đây nhằm báo ân với cung cách quy ngưỡng, hướng về, cũng như noi gương đức hạnh cao quý và ý chí siêu thoát của các bậc Tôn Kính để tu tập. Người Lễ Bái mong cầu sau này kế thừa xứng đáng sự nghiệp của Tiền Nhân trên con đường giác ngộ và giải thoát khổ đau sanh tử. Phận làm cha mẹ cần phải giải thích cho con cháu hiểu rõ ý nghĩa và giá trị Thờ, Cúng và Lễ Bái. Con cháu nhờ đó tiếp nối sự nghiệp Thờ, Cúng và Lễ Bái của Tổ Tiên cho đúng đạo lý.
Truyền Thống Văn Hóa Việt Nam, Vấn đề Thờ, Cúng và Lễ Bái là hình ảnh linh động nhất, cao đẹp nhất, sâu đậm nhất của một Dân Tộc có hơn Bốn Ngàn Năm Văn Hiến. Hình ảnh Thờ, Cúng và Lễ Bái làm sống dậy tinh thần Hiếu Nghĩa và Đạo Đức Nhân Luân của con Lạc cháu Hồng, Việt Nam bất diệt.
CÁC KINH LUẬN THAM KHẢO
* Khảo Nghiệm Duy Thức Học, Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội xuất bản.
* Câu Xá Luận, quyển 1 và 4.
* Thuận Chánh Lý Luận, quyển 10.
* Thành Duy Thức Luận, quyển 7.
* Bánh Pháp Minh Môn Luận Sớ, quyển Thượng.
* Thành Duy Thức Luận Thuật Ký, quyển 7 Mạt.
* Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 3 và quyển 5.
* Đại Nhật Kinh Sớ Diễn áo, quyển 2.
* Phật Học Đại Từ Điển, quyển 4, Trang 3997-3998.
* Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển 8.
* Kinh Tăng Nhứt A Hàm, quyển 27 và quyển 41.
* Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ
* Kinh Di Giáo.
* Kinh Phổ Hiền, Phẩm Hạnh Nguyện.
* Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh, quyển 13.
* Kinh Thập Địa Luận, quyển 3.
* Kinh Phạm Võng, quyển Hạ
* Ma Ha Tăng Kỳ Luật, quyển 25 và quyển 27.
* Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa, quyển 18.
* Tứ Phần Luật, quyển 60.
* Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện, quyển 4.
* Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 20.
* Đại Đường Tây Vực Ký, quyển 2.
* Thích Môn Quy Kính Nghi, quyển Hạ.
* Tỳ Nại Da Tạp Sự, quyển 15.
* Đại Bảo Tích Kinh, quyển 43.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 22, 2010 6:38:37 GMT 9
Cầu siêu có phải là nghi lễ Phật giáo không?
Thế giới tình thức này không chỉ có cảnh giới con người, mà còn có các cảnh giới khác nữa, nếu tính từ dưới lên thì có: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, nhân và thiên.
Câu hỏi: Xin cho biết ý nghĩa cầu siêu thất tuần cho người qúa cố. Đó có phải là nghi lễ Phật giáo không? Tân (Ly Khanh). Trả lời: Quý Phật tử cư sĩ mến, Câu hỏi của Phật tử gồm có 2 phần, chúng tôi xin lần lượt trả lời theo thứ tự.
1. Ý nghĩa cầu siêu thất tuần cho người quá cố
Vì Phật giáo cho rằng, không phải con người chết là hết. Sau khi xác thân này hư hoại thì thần thức tuỳ theo nghiệp báo mà tái sanh vào các cõi tương ứng với nghiệp nhân mà người kia đã gieo tạo, ngoại trừ các bậc đại giác như Đức Phật, các bậc Bồ-tát, các bậc A-la-hán đã cắt đứt dòng tham ái, đã thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Thế giới tình thức này không chỉ có cảnh giới con người, mà còn có các cảnh giới khác nữa, nếu tính từ dưới lên thì có: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, nhân và thiên.
Việc cúng cầu siêu thất tuần cho người quá cố chỉ được tổ chức tại các nước theo truyền thống Bắc Phương Phật giáo. Theo Kinh Địa Tạng, phẩm thứ 8 “Chúa Tôi Xiêm La Xưng Tụng” trình bày sự kiện trong vòng 49 ngày, người chết như ngây như điếc, tâm thức không biết đường đi lối về, nên thân nhân cầu thỉnh chư Tăng, Ni vì lòng bi mẫn trì tụng tôn kinh để nhắc nhở thần thức của người mới mất. “Kính bạch đức Thế Tôn ! Kẻ nam, người nữ nơi mặt địa cầu đến lúc lâm chung, thần thức của họ tối tăm mờ mịt, chẳng biện biệt được điều lành, điều dữ, đến đỗi mắt tai không còn nghe thấy. Những người thân quyến của kẻ lâm chung hãy nên sắm sửa sự cúng-dường lớn, chuyển đọc kinh sám, niệm danh hiệu Phật, danh hiệu Bồ-tát, thì duyên lành ấy có thể giúp cho người thân đã mất lìa các nẻo ác, chúng ma, quỷ thần thảy đều lui tan” (bản dịch mới Kinh Bổn Nguyện của Bồ-tát Địa Tạng do Thầy Thích Thiện Thông dịch).
Như vậy, cúng 49 ngày thật sự có ý nghĩa chỉ đối với những người đã mất chưa quyết là được tái sanh về cảnh giới nào, hoặc đang trong trạng thái mê mê tỉnh tỉnh của thân trung ấm. Việc cúng cầu siêu như vậy có tác dụng nhắc nhở, gợi cho người quá vãng hướng tâm về các thiện sự đã làm hoặc thiết tha thực hiện những tư tưởng tốt đẹp, nhờ đó thần thức được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp hơn. Nhân tiện, xin giới thiệu đến Phật tử bài Ý Nghĩa Cầu Nguyện của đại đức Thích Viên Giác và bài Ý Nghĩa của Cầu Nguyện, Cầu An và Cầu Siêu của đại đức Thích Nhật Từ, để quý Phật tử đọc thêm, và bài Năm Hình Ảnh trước Cửa Tử của Hoà Thượng Rastrapal, do Hải Trần dịch ra tiếng Việt.
Cúng cầu siêu trong vòng 49 ngày như vậy thật sự luôn luôn cần thiết không?
Theo thiển ý của chúng tôi, các lễ cầu siêu không chỉ là lúc thân quyến cùng tưởng niệm đến người quá cố, cùng chia sẻ nỗi mất mát lớn lao, mà quan trọng còn là dịp tốt cho thân bằng quyến thuộc của người quá cố làm nhiều công đức như cúng dường Tam Bảo, hoặc bố thí cho người nghèo khổ, v.v… Trong thực tế, cũng như nhiều trường hợp trong Kinh đề cập, nhiều Tăng Ni, hoặc nam nữ cư sĩ sau khi bỏ thân này liền được sanh về các cảnh giới chư Thiên do nghiệp nhân thiện lành, hoặc lập tức bị sanh vào cảnh giới a-tu-la, ngạ quỷ, địa ngục vì những nghiệp nhân quá xấu ác. Như vậy, việc cúng cầu siêu cho người quá cố trong trường hợp này chỉ là để thể hiện lòng biết ơn hoặc lòng hiếu thảo của người còn sống đối với người đã khuất mà thôi. Tương tự, cho trường hợp cúng 49 ngày, cúng kỵ 100 ngày hoặc kỵ giỗ hàng năm của người đã khuất cũng là để bày tỏ lòng nhớ ơn hoặc nhân dịp đó làm trai cúng dường để cầu an, siêu trong gia đình, làm duyên cho con cái hoặc thân nhân đến với giáo pháp cao thượng.
Kinh Địa Tạng, phẩm thứ 7, cũng nói rõ vấn đề này, nếu người cư sĩ tại gia vì người chết mà cúng dường thì bảy phần công đức người chết chỉ hưởng một phần. Sáu phần công đức còn lại những người thân nhân tổ chức cúng dường sẽ được hưởng. Điều này rất phù hợp với tinh thần của Đạo Phật: tha lực chỉ là phần hỗ trợ, nghiệp lực của mỗi người phải tự nhận lấy, không ai có thể gánh chịu thế cho nhau được.
2. Việc cúng cầu siêu như vậy có phải là nghi lễ của Phật giáo không?
Nói một cách tổng quát, việc tổ chức cúng cầu nguyện như vậy là một trong những nghi lễ Phật giáo. Nhưng cũng xin trình bày là đạo Phật nhắm đến mục tiêu vì lợi ích cho chúng sanh, vì mục tiêu làm vơi bớt nỗi đau khổ của chúng sanh, chứ không phải vì nhu cầu cần có hình thức bày biện để làm đẹp mắt, vui tai hoặc cho dễ coi đối với xã hội. Do đó, nếu chúng ta chấp nhận chữ nghi lễ với định nghĩa là một hình thức bày tỏ lòng biết ơn, tôn kính hay thương xót nguời đã khuất thì các hình thức cúng cầu siêu như vậy thuộc về nghi lễ của Phật giáo. Cũng xin nói thêm rằng, nghi lễ của Phật giáo không phải là một tập tục của một dòng họ hay thuộc xã hội nào, không hề liên hệ đến đời sống tâm linh của người sống hoặc người đã khuất mà nghi lễ của Phật giáo xuất phát từ tinh thần độ sanh của hàng xuất gia cũng như trách nhiệm của người Phật tử tại gia. Ngoài ra, những chuyện bày biện màu mè, hình thức âm thanh sắc tướng, nhưng không liên hệ mục tiêu như đã trình bày thì không phải là nghi lễ của Phật giáo.
Mến chúc quý Phật tử đạo tâm tăng trưởng, thâm tín Phật Pháp và chuẩn bị hành trang thật tốt cho những hành trình thật xa mà ai cũng sẽ phải đi qua.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 4:53:26 GMT 9
Các Lễ Tết Cổ Truyền VN Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả). Thực tế, VN có hàng chục lễ tết cổ truyền rất ý nghĩa ở nhiều thời điểm khác nhau trong năm. Và trong từng cái Tết ấy đều chứa đựng một sự tích sâu xa, thể hiện sự giao thoa với nền văn hóa khu vực, song đã được Việt hóa một cách tự nhiên và sâu sắc. Tết Nguyên Đán Là tết lớn nhất trong năm, Tết Nguyên đán (Tết cả) vào đúng ngày Mùng một tháng Giêng - ngày đầu tiên của năm mớịTheo phong tục cổ truyền VN, Tết Nguyên đán trước hết là tết của gia đình. Trong ba ngày tết, diễn ra ba cuộc gặp gỡ lớn ngay tại mỗi nhà:Thứ nhất là cuộc "gặp gỡ" của những gia thần: Tiên sư hay Nghệ sư - vị tổ đầu tiên dạy nghề gia đình mình đang làm, Thổ công - thần giữ đất nơi mình ở và Táo quân - thần coi việc nấu ăn của mọi người trong nhà (Táo quân lên chầu trời ngày 23 tháng Chạp nhưng đến ngày 30 cũng về để "họp mặt" và chuẩn bị cho năm mới). Thứ hai là cuộc "gặp gỡ" tổ tiên, ông bà... những người đã khuất. Nhân dân quan niệm linh hồn người đã khuất cũng về với con cháu vào dịp Tết. Thứ ba là cuộc đoàn tụ của những người trong nhà. Như một thói quen linh thiêng và bền vững nhất, mỗi năm Tết đến, dù đang ở đâu, làm gì, trong hoàn cảnh nào..., hầu như ai cũng mong muốn và cố gắng trở về quây quần với gia đình. Dịp Tết Nguyên đán người ta làm bánh chưng, trồng cây nêu, đi chúc mừng nhau, mở hội, tổ chức các cuộc vui chơi thi đấu, ăn uống... rất tưng bừng. Trên các bàn thờ, ngoài lễ vật, mâm ngũ quả, bánh chưng... còn thường có một cành đào (ở miền bắc) hoặc mai (ở miền nam). Tết Nguyên đán thực sự là ngày hội ngộ lớn, ngày nhớ ơn, tạ ơn, chúc mừng, sum họp vui vẻ và thiêng liêng. Tết Khai Hạ Theo tính cách của người xưa, ngày mồng Một tháng Giêng ứng vào gà, mồng Hai - chó, mồng Ba - lợn, mồng Bốn - dê, mồng Năm - trâu, mồng Sáu - ngựa, mồng Bảy - người, mồng Tám - lúa. Trong tám ngày đầu năm, cứ ngày nào sáng sủa thì coi như giống thuộc về ngày ấy được tốt cả năm! Vì vậy, đến mồng Bảy, thấy trời tạnh ráo, quang đãng thì người ta tin cả năm mọi người sẽ gặp may mắn, hạnh phúc. Mồng Bảy hạ cây nêu, kết thúc Tết Nguyên đán cũng là lúc bắt đầu Tết Khai hạ - Tết mở đầu ngày vui để đón chào mùa xuân mới. Tết Thượng Nguyên Tết Thượng nguyên (Tết Nguyên tiêu) vào đúng Rằm tháng Giêng - ngày trăng tròn đầu tiên của năm. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa chiền vì Rằm tháng Giêng còn là ngày vía của Phật Tổ. Thành ngữ: "Lễ Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng" xuất phát từ đó. Sau khi đi chùa, mọi người về nhà họp mặt, cúng gia tiên và ăn cỗ. Tết Hàn Thực "Hàn thực" nghĩa là ăn đồ nguội. Tết này vào ngày mồng Ba tháng Ba (âm lịch). Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, công tử Trùng Nhĩ (về sau là vua Tấn Văn Công) khi gặp cảnh hoạn nạn, đói quá, được Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình nấu dâng cho ăn ! Sau mười chín năm phiêu bạt, Trùng Nhĩ lại được trở về nắm giữ Vương quyền nước Tần. Vua ban thưởng cho tất cả những người đã cùng nếm mật nằm gai, nhưng lại quên mất Tử Thôi (!). Tử Thôi cũng không oán giận gì (vì nghĩ việc giúp đỡ Trùng Nhĩ là một nghĩa vụ của kẻ bề tôi) và đưa mẹ vào sống ở núi Điền. Lúc vua nhớ ra, cho người tới mời mà không được, liền sai đốt rừng để Tử Thôi phải rạ Nhưng Tử Thôi không chịu và hai mẹ con cùng chết cháy ! Hôm ấy đúng ngày mồng năm tháng Bạ Đau xót, vua sai lập miếu thờ trên núi và đổi tên núi đó là Giới Sơn. Người quanh vùng thương Tử Thôi nên hằng năm, từ ngày mồng Ba đến ngày mồng Năm tháng Ba (ba ngày) thì kiêng đốt lửa mà chỉ ăn đồ nguội đã nấu sẵn. Từ thời Lý (1010 đến 1225) nhân dân Việt nam đã tiếp nhận tết này nhưng chỉ tổ chức vào một ngày mồng Ba tháng Ba (âm lịch), không kiêng đốt lửa và thường làm bánh trôi, bánh chay thay cho đồ nguội. Mục đích chủ yếu là để cúng gia tiên chứ ít ai rõ chuyện Giới Tử Thôi! Hiện nay, Tết này vẫn thường đậm nét ở miền bắc - nhất là các tỉnh quanh Hà Nội. Tết Thanh Minh Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
(Truyện Kiều) "Thanh minh" nghĩa là (trời) trong sáng. Nhân đó người ta đi thăm mồ mả của những người thân. Tết Thanh minh - thường vào tháng Ba âm lịch - trở thành lễ tảo mộ. Đi thăm mộ, nếu thấy cỏ rậm phát quang, đất khuyết lở thì đắp lại cho đầy..., rồi về nhà làm lễ cúng gia tiên. Tết Đoan Ngọ Tết Đoan ngọ (Tết Đoan dương) vào mồng Năm tháng Năm (âm lịch). Đây là giai đoạn chuyển mùa (từ Xuân sang Hạ) nên khí hậu có nhiều thay đổi đột ngột, dễ sinh bệnh thời khí. Ca dao có câu: Chưa ăn bánh nếp Đoan dương
Áo bông chẳng dám khinh thường cởi ra Khuất Nguyên - nhà thơ nổi tiếng, một vị trung thần nước Sở - do can ngăn vua Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn. Hôm ấy đúng ngày mồng Năm tháng Năm. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (chủ ý khiến cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên. Ở VN, ít người biết chuyện Khuất Nguyên mà chỉ coi mồng Năm tháng Năm là "Tết giết sâu bọ" - vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Mọi người dậy sớm, chỉ ăn hoa quả hoặc chè. Tuy nhiên mỗi nơi có thêm phong tục riêng, ví như ở Phủ Lý (tỉnh Hà Nam) vào ngày này con rể thường tới biếu bố vợ một con ngỗng tọ Tết Trung Nguyên Tết Trung Nguyên vào Rằm tháng Bảy. Theo sách Phật, hôm ấy là ngày vong nhân được xá tội, ngày báo hiếu cha mẹ... nên tại chùa thường làm chay chẩn tế và cầu kinh Vu lan. Còn lại các nhà thì bày cúng gia tiên, đốt vàng mã... Tết Trung Thu Tết Trung thu vào Rằm tháng Tám. Trung thu là Tết của trẻ con nhưng người lớn cũng nhân đây họp mặt, uống rượu, uống trà, ngắm trăng... Thường ban ngày người ta làm lễ cũng gia tiên, tối mới bày hoa quả, bánh kẹo, chè cháo để trẻ con vui chơi, phá cỗ, trông trăng rước đèn... Nhiều nơi còn tổ chức hát trống quân (trai gái hát đối đáp trong tiếng trống đệm nhịp). Tết Trùng Cửu Mồng Chín tháng Chín (âm lịch) là Tết Trùng cửu. Tết này bắt nguồn từ sự tích của đạo Lão. Thời Hán, có người tên gọi Hoàn Cảnh, đi học phép tiên. Một hôm thầy Phí Tràng Phòng bảo Hoàn Cảnh khuyên mỗi người trong nhà nên may một túi lụa đựng hoa cúc, rồi lên cao mà tạm trú ngụ. Quả nhiên, ngày Chín tháng Chín có lụt to, ngập hết làng mạc. Nhớ làm theo lời thầy, Hoàn Cảnh và gia đình thoát nạn. Từ xưa, nho sĩ VN đã theo lễ này, nhưng lại biến thành cuộc du ngoạn núi non, uống rượu cúc - gọi là thưởng Tết Trùng dương. Tết Trùng Thập Đây là Tết của các thầy thuốc. Theo sách Dược lễ thì đến ngày Mười tháng Mười (âm lịch) cây thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời (Xuân - Hạ - Thu - Đông), trở nên tốt nhất. ở nông thôn VN, đến ngày đó người ta thường làm bánh dày, nấu chè kho để cúng gia tiên rồi đem biếu những người thân thuộc (chứ không mấy quan tâm đến chuyện cây thuốc, thầy thuốc). Tết Hạ Nguyên Tết Hạ nguyên (Tết Cơm mới) vào Rằm hay mồng Một tháng Mười, ở nông thôn, Tết này được tổ chức rất lớn vì đây là dịp nấu cơm gạo mới của vụ vừa xong - trước để cúng tổ tiên, sau để tự thưởng công cày cấy. Tết Táo Quân Tết Táo quân vào ngày 23 tháng Chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp" lên chầu Trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm quạ Theo truyền thuyết VN, xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải bỏ nhau, mỗi người một nơi tha phương cầu thực. Sau đó, người vợ may mắn lấy được chồng giàu. Một năm, vào ngày 23 tháng Chạp, đang đốt vàng mã ngoài sân thì thấy một người ăn xin bước vào, nhận ra chính là chồng cũ nên người vợ động lòng, đem cơm gạo, tiền bạc ra chọ Người chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ. Người vợ đâm khó xử, uất ức lao vào bếp lửa, tự vẫn. Người chồng cũ đau xót, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới ân hận, lao vào lửa nốt ! Trời thấy cả ba người đều có nghĩa nên phong cho làm "vua bếp". Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà
(Ca dao) Vì tích ấy, cứ đến phiên chợ 23 tháng Chạp, mỗi gia đình thường mua 2 mũ ông, 1 mũ bà bằng giấy và 3 con cá chép làm "ngựa" (cá chép hóa rồng) để Táo quân lên chầu Trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và cá chép được mang ra thả ở ao, hồ, sông. (st)
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 6:21:24 GMT 9
Ngày tết nói chuyện mâm cúng tổ tiên Năm hết tết đến dù ai muốn mua gì, sắm gì trước sau cũng tập trung vào mâm cỗ tết. Cách nay chừng năm thập kỷ từ thành thị tới nông thôn, dù giầu dù nghèo thì cũng cúng đủ 4 ngày tết. Nhà giầu thì mâm cỗ làm đủ mười món, nhà nghèo thì cũng có cái chân giò và hương hoa thắp trọn 4 ngày tết . Có thể nói không tỉnh thành nào chuẩn bị mâm cỗ cúng tổ tiên và cúng gia tiên có lòng thành kính và kỹ lưỡng như người Hà Nội. Phong tục này được lưu truyền từ trên 2000 năm cho tới nay. Khi mâm cỗ ngày tết được hoàn tất, người ta thấy từng món ăn thể hiện đầy đủ hồn dân tộc, những món ăn sang qúy truyền thống của ông bà xưa được phục hồi, được sáng tạo, là dịp cho những ai đến dự cỗ trực tiếp tìm hiểu lịch sử cha ông từ văn hóa ăn uống và nghệ thuật nấu nướng qua mâm cỗ tết của dân tộc Việt. Không có mâm cỗ nào của người Việt Nam là không được những người làm bếp bày tỏ tình cảm trân trọng dân tộc của mình bằng kỹ năng chế biến các món ăn một cách nghiêm túc đến mức cầu kỳ như vậy. Thậm chí trong khi nấu cũng kiêng không nếm sợ bất kính với tổ tiên. Người làm bếp giỏi chỉ cần ngửi hương vị thức ăn là có thể biết được đậm nhạt. Nếu muốn thử thức ăn chín tới hay qúa mềm chỉ dùng đũa thử là biết. Khi đi chợ người mua cẩn thận từ cách chọn cây rau tươi ngon, cách lựa chọn gia cầm, ví như gà cúng giao thừa nhất thiết phải là trống hoa chưa “toòng teng” gì với bạn mái để cúng gia tiên. Nếu gia cảnh còn khiêm tốn thì lựa chọn một cái chân giò thật ngon cũng được. Gà để nấu là loại gà đã có con rồi nhưng chưa có cháu, nghĩa là chưa già, không béo qúa thì thịt mới ngọt, nấu mới mềm. Những loại rau, củ, qủa cũng được lựa chọn thật kỹ lưỡng để nấu các món hạnh nhân, món xu hào nấu nấm tôm nõn, xu hào hoặc xúp lơ xào bóng rồi những món nấu đông, măng lưỡi lợn nấu chân giò, giò thủ, nem rán, bánh chưng xanh, dưa hành bên đĩa sôi gấc màu hoa hiên rực rỡ. Cơm cúng thường được nấu từ gạo dự, bây giờ giống gạo đó đã bị mai một thì gạo tám thơm được thay thế, là những món ăn không ngán, nhìn không nhàm và … cũng không được phép ngán, không được phép nhàm chán trong ngày đầu năm. Cũng vì một niềm khát vọng nhớ mâm cỗ tết mà những người con, người cháu dù công tác hay học hành ở miền xa xôi nào, dù tàu xe khó khăn đến đâu cũng ráng thức đêm thức hôm mua được tấm vé để về dự. Cũng vì mâm cỗ cúng tổ tiên ngày tết mà không ít Việt kiều vượt xa hàng vạn dặm để về quê hương. Để được chắp tay trong khói nhang trầm, để được khấn nguyện chân thành trước bàn thở gia tiên, để được thấy những sắc màu của dân tộc mình trên mâm cỗ ngày tết. Được giao hòa trong tình cảm gia đình dưới mái ấm, bởi tình cảm ấy không thể mua được bằng đồng mỹ kim trên sứ người. Bởi chỉ có người Việt hiểu rõ hơn ai hết về chân gía trị mâm cỗ tết của người Việt Nam, mâm cỗ ngày tết không cho phép lai căng bất cứ dân tộc nào để tỏ lòng thành kính sâu sắc và thiêng liêng với tổ tiên. Sau khi cúng tổ tiên và cúng gia tiên, dự với mâm cỗ trong ngày tết, từ người lớn tuổi cho tới đứa trẻ nhỏ tuổi nhất cũng đều khoác trên mình trang phục đẹp nhất. Ngồi với mâm cỗ, mọi người sẽ được lắng nghe đầy đủ cung bậc cảm xúc của người thân, được hiểu biết mọi thông tin vui, lạ mà những thông tin đại chúng chưa biết tới. Những trận cười ròn tan, những cái dướn chân mày sửng sốt, những câu chúc mừng sự thành đạt của con, cháu, những lời dạy bảo của người trên có gía trị hơn bất cứ loại sách vở nào. Dẫu không khí ăn tết trong thời @ có dư vị khác xưa, nhưng chữ trung chữ hiếu, dạy con cháu tự lập, cần kiệm, nhẫn nại trên con đường lập nghiệp, coi trọng đạo đức để đồng thời sau này tiếp tục giáo dục lại đời sau. Chớ thấy sóng cả mà lo Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng. Là luân lý, là nếp sống đạo đức, là di sản văn hóa về lễ giáo trong gia đình giòng tộc rất giá trị đã được cộng đồng người Việt Nam lưu truyền cho tới nay. Con cháu tụ hội quanh mâm cỗ ngày tết không đơn thuần được thưởng thức miếng ngon xưa ông, bà, cha, mẹ đã từng nấu mà còn là cơ hội được chứng tỏ mình vẫn tròn chữ hiếu, không làm rơi rớt chữ lễ và không làm mai một chữ nghĩa. Dù con đường mưu sinh gập gềnh, khúc khuỷu mình vẫn không thể dừng chân, bởi dừng lại là mình sẽ lạc hậu mà mình vẫn phải tự rượt đuổi chính mình trên thương trường. Làm người hữu tử hưu danh Sống lo xứng phận, thác đành tiếng thơm. Cho nên, chính gia đình là nơi mình tìm lại chính mình. Bởi gia đình là nơi bắt đầu nguồn sống và đào tạo cho mình là con người hoàn chỉnh để trở lại phục vụ cuộc sống. Gia đình cũng là nơi giúp cho mỗi người tự hoàn thiện mình, giúp cho mình giữ được chữ thiện, chữ tâm làm gốc. Đó là nguyên nhân mà mọi thành viên trong gia đình luôn luôn trở về dưới mái ấm trong ngày tết cổ truyền để được quây quần bên mâm cơm cúng gia tiên. Người Sài Gòn ăn tết đơn giản hơn, không cầu kỳ như sứ kinh kỳ. Nhà thì kho thịt, kho có chép, chiên chả giò, chiên lạp sưởng, nem nướng, heo quay, vịt quay, bắp bò hầm thuốc bắc, bánh tét, bánh in (sôi nén khuôn). Cũng có ngũ qủa cúng gia tiên nhưng mỗi trái đều phải có ý nghĩa cầu may như : Đu đủ để quanh năm no đủ, trái xoài là có đủ xài, trái sung để mong sung túc, trái thơm là luôn được thơm tho, dưa hấu để quanh năm đỏ như son mà phải mua cả cặp đều nhau, nếu nhà ít người thì cúng một trái cũng được sao cho đủ nghĩa “Cầu – Vừa – Đủ – Xài”, mặt trước trái dưa được dán chữ Phúc hay Đại cát, Đại lợi hoặc 3 chữ Phúc Lộc Thọ bằng chữ NHO lồng vào nhau. Nhìn lên bàn thờ sẽ thấy đầy ắp ngôn ngữ tâm linh . Dù là mâm cỗ của người Hà Nội hay người Sài Gòn hoặc các tỉnh thành trong cả nước có khác nhau về hình thức nhưng vẫn biểu hiện lòng thành kính thiêng liêng dâng lên tổ tiên, để con cháu thấy đó mà nhớ đến nguồn cội ông bà mà tâm niệm với tấm lòng hiếu thảo với gia đình với mọi hành động và việc làm của mình với xã hội. Để rồi cứ luân hồi, năm hết tết đến mọi người lại trở về với mâm cỗ ngày tết thân thuộc từ hàng ngàn xưa tới nay, đã chiếm một vị trí quan trọng trong mỗi gia đình dân tộc Việt Nam Theo VOV
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 6:30:29 GMT 9
7 LOẠI CÂY KHAI VẬN NĂM MỚINăm mới sắp đến, hãy lựa chọn cây cảnh trang trí cho ngôi nhà thêm đẹp và mang đến nhiều may mắn hơn nữa cho mọi người trong gia đình. Theo quan niệm của phong thủy, một số cây cảnh có tác dụng phong thủy như hoa cúc, hoa đào, hoa lan... Trồng những loại cây đó trong nhà sẽ mang đến những điều tốt đẹp cho gia đình trong năm mới.Hoa cúc 7 loại cây khai vận may năm mới, Kinh nghiệm hay, Eva Sành điệu, cay ngay tet, cay dem may man ngay tet, cay may man, cay mang phuc loc dip tet, hoa dao ngay tet, hoa mai ngay tet, quat ngay tet, Hoa cúc là biểu tượng sự sống, tăng phúc lộc và niềm vui. Ngày Tết, người ta thường thấy xuất hiện hoa cúc trong nhà, đặc biệt là hoa cúc vàng và đỏ... Bởi vì theo phong thủy, hoa cúc là biểu tượng của sự sống, tăng thêm phúc lộc cũng như sự hoan hỉ đến nhà. Trồng những chậu cúc nhỏ hay cắm hoa cúc có thể giúp ổn định phúc khí trong nhà. Cũng lưu ý rằng, hoa cúc nên đặt nơi có nhiều ánh sáng trong nhà để sự may mắn thêm mạnh mẽ và rực rỡ. Cây quýt (quất) 7 loại cây khai vận may năm mới, Kinh nghiệm hay, Eva Sành điệu, cay ngay tet, cay dem may man ngay tet, cay may man, cay mang phuc loc dip tet, hoa dao ngay tet, hoa mai ngay tet, quat ngay tet, Quất là biểu tượng của sự khởi đầu tốt đẹp. Cây quất (hoặc quýt) tượng trưng cho sự thu hoạch và cũng là một khởi đầu tốt đẹp. Vì thế, vào đầu năm mới, ta thường thấy mỗi gia đình thường mua một cây quất (quýt) quả vàng xum xuê, lá xanh tốt với mong muốn khởi đầu một năm mới tốt đẹp, giúp gia tăng tiền tài và vận may cho các thành viên trong gia đình. Hoa mai 7 loại cây khai vận may năm mới, Kinh nghiệm hay, Eva Sành điệu, cay ngay tet, cay dem may man ngay tet, cay may man, cay mang phuc loc dip tet, hoa dao ngay tet, hoa mai ngay tet, quat ngay tet, Hoa mai tượng trưng cho sự phú quý, giàu sang. Hoa mai thích hợp với khí hậu ở miền Trung và miền Nam nước ta. Mai vàng tượng trưng cho sự phú quý, giàu sang. Trong ngày Tết, mọi người thường mua cây (hoặc cành) mai vàng nhiều lộc bởi theo quan niệm của phong thủy, hoa mai nở đúng lúc giao thừa hay sớm mùng một sẽ mang lại nhiều may mắn, thịnh vượng và hạnh phúc sẽ đến với gia đình trong năm đó. Hoa đào 7 loại cây khai vận may năm mới, Kinh nghiệm hay, Eva Sành điệu, cay ngay tet, cay dem may man ngay tet, cay may man, cay mang phuc loc dip tet, hoa dao ngay tet, hoa mai ngay tet, quat ngay tet, Hoa đào giúp xua đuổi tà ma. Nếu miền Nam chuộng hoa mai trong ngày Tết thì miền Bắc nước ta lại thường mua những cành đào để trang trí cho căn nhà vào những ngày đầu Xuân. Hoa đào không chỉ có tác dụng xua đuổi tà ma mà còn có thể mang đến nguồn sinh khí mới, giúp mọi người trong nhà luôn khỏe mạnh và bình an trong năm mới. Hoa thủy tiên 7 loại cây khai vận may năm mới, Kinh nghiệm hay, Eva Sành điệu, cay ngay tet, cay dem may man ngay tet, cay may man, cay mang phuc loc dip tet, hoa dao ngay tet, hoa mai ngay tet, quat ngay tet, Hoa thủy tiên là biểu tượng của sự cát tường. Hoa thủy tiên được xem là loài hoa thanh tao, quyền quý. Trồng hoa thủy tiên có tác dụng khử tà, mang lại cát tường như ý cũng như tăng thêm tài khí cho gia đình. Hoa thủy tiên là loại hoa rất khó trồng, hoa thường được trồng trong nước, hình dáng giống như củ hành tươi. Trước khi mua về, bạn nên tìm hiểu cách chăm sóc để cây hoa có thể sống thật lâu trong nhà. Cây sung cảnh 7 loại cây khai vận may năm mới, Kinh nghiệm hay, Eva Sành điệu, cay ngay tet, cay dem may man ngay tet, cay may man, cay mang phuc loc dip tet, hoa dao ngay tet, hoa mai ngay tet, quat ngay tet, Sung tượng trưng cho sự no đủ, sung túc. Cây sung là loại cây khá dễ trồng và dễ sống. Chọn một cây sung có dáng đẹp và nhiều quả trang trí trong nhà vào ngày Tết cũng có thể mang đến sự no đủ và nhiều điều tốt lành cho năm mới. Hoa đồng tiền 7 loại cây khai vận may năm mới, Kinh nghiệm hay, Eva Sành điệu, cay ngay tet, cay dem may man ngay tet, cay may man, cay mang phuc loc dip tet, hoa dao ngay tet, hoa mai ngay tet, quat ngay tet, Hoa đồng tiền là tài lộc, tiền tài năm mới. Cây hoa đồng tiền còn gọi là cây kim tiền. Trong những dịp đầu xuân năm mới, nếu trồng hoa hoặc cắm hoa đồng tiền sẽ mang đến nhiều tài lộc và tiền của cho gia đình. Sưu tầm
|
|